id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19853582
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mar%C3%ADa%20Cristina%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha%20%281854%29
|
María Cristina của Tây Ban Nha (1854)
|
María Cristina của Tây Ban Nha (Madrid, 5 tháng 1 năm 1854 – Madrid, 8 tháng 1 năm 1854) là con gái của Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha và Phối vương Francisco de Asís của Tây Ban Nha. Là con gái của quân chủ Tây Ban Nha, María Cristina được hưởng tước hiệu Infanta của Tây Ban Nha.
Tiểu sử
María Cristina được sinh ra tại Cung điện Vương thất Madrid vào ngày 5 tháng 1 năm 1854, tám năm sau khi cha mẹ của Vương nữ kết hôn. Người bác họ của Vương nữ, Carlo Ludovico, từng là Công tước xứ Parma cho đến năm 1849, đã có mặt khi Vương nữ chào đời. María Cristina là người con thứ tư và là con gái thứ hai của Isabel II của Tây Ban Nha và Francisco de Asís của Tây Ban Nha. Isabel và Francisco là anh em họ theo cả họ cha lẫn mẹ, vì cả hai đều là cháu của Carlos IV của Tây Ban Nha và María Luisa của Parma, cũng như của Francesco I của Hai Sicilie và María Isabel của Tây Ban Nha. Vương nữ được đặt tên là María Cristina để vinh danh bà ngoại là Maria Cristina của Hai Sicilie, góa phụ của Fernando VII của Tây Ban Nha và từng là nhiếp chính trong khi Isabel II chưa đủ tuổi để tự cai trị từ năm 1833 đến năm 1840. Trước đó, Isabel II và Francisco đã có hai con trai là Luis Fernando và Fernando Francisco, lần lượt được sinh ra vào năm 1849 và 1850 và một con gái là Isabel được sinh ra vào năm 1851. Mối quan hệ quá gần về mặt huyết thống Vương thất lúc bấy giờ có thể là nguyên nhân khiến María Cristina không có sức khỏe tốt và là lý do tại sao Vương nữ qua đời vào ngày 8 tháng 1 năm 1854, khi chỉ được ba ngày tuổi. Trong những năm tiếp theo, Isabel II sinh thêm được nhiều người con, trong số đó gồm có Alfonso XII, Pilar, Paz và Eulalia của Tây Ban Nha.
Thi thể của Vương nữ được chôn cất tại Pantéon de Infantes của Tu viện San Lorenzo de El Escorial, trong căn phòng thứ sáu, nơi được gọi là lăng mộ của trẻ sơ sinh với dòng văn bia rằng:
Gia phả
Tham khảo
Vương nữ Tây Ban Nha
Vương tộc Borbón (Tây Ban Nha)
Vương nữ
Sinh năm 1854
Mất năm 1854
|
19853583
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Margarita%20Teresa%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha
|
Margarita Teresa của Tây Ban Nha
|
Margarita Teresa của Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: Margarita Teresa de España, tiếng Đức: Margarethe Theresia von Spanien; tiếng Anh: Margaret Theresa of Spain; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3 năm 1673), là Vương nữ Tây Ban Nha, chị gái của Carlos II của Tây Ban Nha, Quốc vương Tây Ban Nha cuối cùng của Vương tộc Habsburgo và là Hoàng hậu La Mã Thần thánh, Vương hậu Hungary và Bohemia thông qua cuộc hôn nhân với Leopold I của Thánh chế La Mã. Margarita Teresa là nhân vật trung tâm trong bức tranh nổi tiếng Las Meninas của Diego Velázquez và là chủ đề trong nhiều bức tranh sau này của ông.
Những năm đầu đời
Margarita Teresa sinh ngày 12 tháng 7 năm 1651 tại Madrid, là con đầu lòng của Felipe IV của Tây Ban Nha và Maria Anna của Áo. Vốn có quan hệ bác cháu, Maria Anna nhỏ hơn chồng 29 tuổi.
Ông bà nội của Margarita là Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo. Ông bà ngoại của Vương nữ là Ferdinand III của Thánh chế La Mã và María Ana của Tây Ban Nha, con gái của ông bà nội Vương nữ.
Cuộc hôn nhân của cha mẹ Margarita Teresa hoàn toàn được dàn xếp vì lý do chính trị, chủ yếu là sinh ra người thừa kế nam mới cho ngai vàng Tây Ban Nha sau khi Baltasar Carlos của Tây Ban Nha qua đời vào năm 1646. Ngoài Baltasar Carlos, người con duy nhất còn sống trong cuộc hôn nhân đầu tiên của Felipe IV là Vương nữ María Teresa, sau này trở thành vợ của Louis XIV của Pháp. Sau khi Margarita chào đời, từ năm 1655 đến năm 1661, bốn người con nữa (một gái và ba trai) được sinh ra từ cuộc hôn nhân giữa Felipe IV và Maria Anna, nhưng chỉ có một người sống sót là Carlos II của Tây Ban Nha.
Mặc dù cha mẹ là họ hàng gần, Margarita không có biểu hiện các vấn đề về sức khỏe và dị tật nghiêm trọng như em trai Carlos. Thời thơ ấu, Margarita Teresa từng bị bệnh nặng nhưng vẫn qua khỏi. Theo ghi nhận đương thời, Margarita có vẻ ngoài cuốn hút và tính cách sôi nổi. Bố mẹ và bạn bè thân thiết gọi Vương nữ là "thiên thần nhỏ". Margarita Teresa lớn lên trong gian phòng riêng của Vương hậu ở Vương thất Alcazar của Madrid, được bao quanh bởi nhiều thị nữ và người hầu. Vương nữ rất thích kẹo và luôn giấu chúng khỏi các bác sĩ có nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe răng miệng cho Margarita Teresa. Cả cha và ông ngoại của Margarita Teresa đều vô cùng yêu thương Vương nữ. Trong những bức thư cá nhân của Felipe IV, Quốc vương đã gọi con gái là "niềm vui của ta". Margarita Teresa được hướng dẫn những quy tắc lễ nghi nghiêm ngặt của triều đình Madrid và nhận được một nền giáo dục tốt.
Đính ước và hôn nhân
Vào nửa sau của những năm 1650, tại triều đình Viên, nhu cầu về một cuộc hôn nhân khác giữa hai nhánh Tây Ban Nha và Áo của Hoàng tộc Habsburg được đưa ra bàn luận. Liên minh giữa hai bên là cần thiết để củng cố vị thế của cả hai quốc gia, đặc biệt là chống lại Vương quốc Pháp. Ban đầu, Vương nữ María Teresa, con gái lớn của Felipe IV, được đề xuất kết hôn với người thừa kế của Thánh chế La Mã là Đại vương công Leopold Ignaz. Nhưng vào năm 1660 và theo các điều khoản của Hiệp ước Pyrenees, María Teresa kết hôn với Quốc vương Pháp Louis XIV. Theo thỏa thuận hôn nhân, María Teresa phải từ bỏ quyền kế vị ngai vàng Tây Ban Nha để đổi lấy một khoản tiền lớn như một phần hồi môn, tuy nhiên số tiền này không bao giờ được chi trả.
Đã có đề nghị về một cuộc hôn nhân giữa Margarita Teresa và Hoàng đế Leopold I (là cậu cũng như là anh họ bên nội của Vương nữ - cha mẹ của Leopold I chính là María Ana của Tây Ban Nha và Ferdinand III của Thánh chế La Mã, tức ông bà ngoại của Margarita Teresa). Tuy nhiên, triều đình Madrid do dự trong việc đồng ý với đề nghị này, vì Vương nữ có thể thừa kế vương miện Tây Ban Nha nếu em trai Carlos qua đời. Bá tước xứ Fuensaldaña, đại sứ Tây Ban Nha tại Pháp, đã đề nghị gả Margarita cho Charles II của Anh. Tuy nhiên, Quốc vương Felipe IV bác bỏ ý tưởng này, trả lời rằng Quốc vương Anh nên tìm vợ ở Pháp.
Vào tháng 10 năm 1662, tân Đại sứ Hoàng gia ở Tây Ban Nha, Bá tước Franz Eusebius xứ Pötting, bắt đầu một trong những nhiệm vụ ngoại giao chính là tổ chức hôn lễ giữa Vương nữ và Hoàng đế. Các cuộc đàm phán của phía Tây Ban Nha do Ramiro Núñez de Guzmán, Công tước xứ Medina de las Torres lo liệu. Vào ngày 6 tháng 4 năm 1663, lễ đính hôn giữa Margarita Teresa và Leopold I cuối cùng được công bố và thỏa thuận hôn nhân được ký kết vào ngày 18 tháng 12. Trước lễ cưới chính thức (theo phong tục, phải diễn ra ở Viên), một bức chân dung khác của Vương nữ được gửi đến để Hoàng đế biết mặt cô dâu của mình.
Ngày 17 tháng 9 năm 1665, Quốc vương Felipe IV qua đời. Trong di chúc của mình, Felipe IV không đề cập đến việc hứa hôn của Margarita Teresa; trên thực tế, dựa trên bối cảnh mà tài liệu được để lại cho thấy rằng vị Quốc vương quá cố vẫn do dự gả con gái cho người họ hàng bên Áo vì Felipe IV muốn tìm cách đảm bảo quyền của con gái với tư cách là người cai trị tiềm năng của Vương quyền Tây Ban Nha trong trường hợp con trai Carlos qua đời:
Maria Anna của Áo, hiện là Thái hậu và là Nhiếp chính của vương quốc đã thay mặt cho con trai Carlos II trì hoãn đám cưới của con gái. Cuộc hôn nhân chỉ được đồng ý sau những nỗ lực ngoại giao căng thẳng từ phía Hoàng đế. Ngày 25 tháng 4 năm 1666, lễ cưới ủy nhiệm cuối cùng đã được tổ chức tại Madrid, trong buổi lễ không chỉ có sự tham dự của Thái hậu Maria Anna, Quốc vương Carlos II và đại sứ Hoàng gia mà còn có cả giới quý tộc địa phương; chú rể được đại diện bởi Antonio de la Cerda, Công tước thứ 7 xứ Medinaceli.
Ngày 28 tháng 4 năm 1666, Margarita Teresa di chuyển từ Madrid đến Viên cùng với đoàn tùy tùng riêng của mình. Vương nữ nghỉ chân vài ngày tại Dénia trước khi lên tàu của hạm đội Vương thất Tây Ban Nha vào ngày 16 tháng 7, lần lượt được hộ tống bởi các tàu của Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta và Đại công quốc Toscana. Sau một khoảng thời gian ngắn để dừng chân ở Barcelona vì Margarita gặp một số vấn đề về sức khỏe, đoàn tàu đi đến cảng Finale Ligure và đến nơi vào ngày 20 tháng 8. Ở đó, Margarita Teresa được Luis Guzman Ponce de Leon, Thống đốc Milano tiếp đón. Đoàn xe rời Finale vào ngày 1 tháng 9 và đến Milano mười ngày sau đó, mặc dù lễ nhập cảnh chính thức phải đến ngày 15 tháng 9 mới được tổ chức. Sau khi dành gần như toàn bộ tháng 9 ở Milano, Vương nữ tiếp tục hành trình qua Venezia và đến Trento vào đầu tháng 10. Tại mỗi điểm dừng chân, Margarita đều nhận được những lễ chào mừng vinh danh Vương nữ. Ngày 8 tháng 10, đoàn tùy tùng Tây Ban Nha đã đến thành phố Roveredo, nơi người đứng đầu đoàn tùy tùng của Margarita Teresa là Francisco Fernández de la Cueva, Công tước thứ 8 xứ Alburquerque đã chính thức Vương nữ cho Thân vương Ferdinand Joseph xứ Dietrichstein và Bá tước Ernst Adalbert xứ Harrach, Thân vương Giám mục xứ Trent, đại diện của Leopold I. Vào ngày 20 tháng 10, đoàn tùy tùng mới của Áo rời Roveredo, băng qua sông Tirol, qua Carinthia và Styria và đến vào ngày 25 tháng 11 tại quận Schottwien, cách Viên 12 dặm, nơi Hoàng đế đến để đón cô dâu.
Hoàng hậu La Mã thần thánh và Vương hậu Đức
Margarita Teresa chính thức đến Viên vào ngày 5 tháng 12 năm 1666 và Ll cưới chính thức được cử hành bảy ngày sau đó. Lễ hội mừng nhân dịp hôn lễ là một trong những lễ hội lộng lẫy nhất trong thời kỳ Baroque, và kéo dài gần hai năm.
Hoàng đế Leopold I ra lệnh xây dựng một nhà hát ngoài trời gần Burggarten ngày nay, với sức chứa 5.000 người. Nhân dịp sinh nhật của Margarita vào tháng 7 năm 1668, nhà hát đã tổ chức buổi ra mắt vở opera Il pomo d'oro (Quả táo vàng). Vở opera được sáng tác bởi Antonio Cesti, vở opera được người đương thời gọi là "vở kịch của thế kỷ" do tính hoành tráng và chi phí đầu tư cho vở opera. Một năm trước đó, Leopold I đã tổ chức một buổi biểu diễn múa ba lê kết hợp cưỡi ngựa và đích thân cưỡi ngựa Speranza của mình. Do hỗ trợ từ kỹ thuật, vở ballet đã tạo cho khán giả cảm giác như ngựa và xe ngựa đang lơ lửng trên không.
Bất chấp sự chênh lệch về tuổi tác, ngoại hình kém hấp dẫn của Leopold I và vấn đề sức khỏe của Margarita Teresa, theo ghi nhận đương thời, hai vợ chồng đã có một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Hoàng hậu luôn gọi chồng mình là "Cậu" (tiếng Đức: Onkel), và Leopold I gọi vợ là "Gretl" (từ viết tắt tên tiếng Đức của Margarita là Margarethe). Cặp đôi có nhiều sở thích chung, đặc biệt là về nghệ thuật và âm nhạc.
Trong sáu năm chung sống, Margarita Teresa sinh được bốn người con, trong đó chỉ có một người sống qua tuổi ấu thơ:
Ferdinand Wenceslaus Joseph Michael Eleazar (28 tháng 9 năm 1667 – 13 tháng 1 năm 1668), Đại vương công Áo.
Maria Antonia Josepha Benedicta Rosalia Petronella (18 tháng 1 năm 1669 – 24 tháng 12 năm 1692), Nữ Đại vương công Áo, được thừa hưởng quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha của mẹ, kết hôn với Maximilian II xứ Bayern và là mẹ của Joseph Ferdinand của Bayern.
Johann Leopold (sinh và mất ngày 20 tháng 2 năm 1670), Đại vương công Áo.
Maria Anna Josepha Antonia Apollonia Scholastica (9 tháng 2 năm 1672 – 23 tháng 2 năm 1672), Nữ Đại vương công Áo.
Margarita Teresa được cho là đã thúc đẩy chồng trục xuất người Do Thái khỏi Viên vì tin rằng họ phải chịu trách nhiệm về cái chết của con mình. Trong lễ kỷ niệm Corpus Christi năm 1670, Hoàng đế đã ra lệnh phá hủy Hội đường của người Do Thái ở Viên và một nhà thờ được xây dựng trên địa điểm này theo lệnh của Leopold I.
Ngay cả sau khi kết hôn, Margarita Teresa vẫn giữ phong tục và lối sống Tây Ban Nha của mình. Hoàng hậu hầu như chỉ được bao quanh bởi đoàn tùy tùng bản địa của cô (bao gồm các thư ký, cha giải tội và bác sĩ), Hoàng hậu yêu thích nền âm nhạc và ba lê của văn hóa Tây Ban Nha và hầu như ít học được tiếng Đức.
Qua đời
Sức khỏe trở nên suy yếu do sáu lần mang thai trong sáu năm (bao gồm bốn lần sinh con thành công và hai lần sảy thai) và bốn tháng sau lần mang thai thứ bảy, Margarita qua đời vào ngày 12 tháng 3 năm 1673, ở tuổi 21. Hoàng hậu được chôn cất tại Hầm mộ Hoàng gia ở Viên. Chỉ bốn tháng sau, Leopold I - mặc dù rất đau buồn trước cái chết của "Margareta duy nhất" - đã tái hôn với Claudia Felicitas của Áo, Nữ Đại vương công Áo thuộc nhánh Tirol của Hoàng tộc Habsburg.
Sau cái chết của Margarita Teresa, quyền kế vị ngai vàng Tây Ban Nha của Hoàng hậu được chuyển giao người con gái duy nhất còn sống là Maria Antonia Josepha của Áo. Sau cái chết của Maria Antonia vào năm 1692, con trai của Maria Antonia là Joseph Ferdinand của Bayern được coi là người thừa kế của ngai vàng Tây Ban Nha. Sau cái chết của Joseph Ferdinand vào năm 1699, quyền thừa kế ngai vàng bị tranh chấp bởi cả Hoàng đế Leopold I và Louis XIV của Pháp, con rể của Felipe IV của Tây Ban Nha, dẫn đến Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Kết quả sự thiết lập nhánh Tây Ban Nha của Vương tộc Bourbon với Quốc vương Felipe V, cháu nội của María Teresa của Tây Ban Nha, chị gái của Margarita Teresa.
Hình tượng trong nghệ thuật
Không lâu trước khi Margarita chào đời, họa sĩ Diego Velázquez đã trở lại triều đình Madrid. Từ năm 1653 đến năm 1659, Vương nữ là đối tượng của một loạt các bức chân dung. Ba trong số bức chân dung - Infanta Margarita Teresa trong Bộ váy Hồng (1660), Infanta Margarita trong Bộ váy Trắng và Bạc (1656) và Infanta Margarita Teresa trong Bộ váy Xanh (1659) được gửi đến triều đình Viên và hiện được trưng bày trong Bảo tàng Kunsthistorisches. Trong những bức tranh cuối cùng về Vương nữ thuở 8 tuổi do Velázquez thực hiện, có thể thấy thái độ trưởng thành và trang trọng hơn của Margarita do cuộc hôn nhân sắp tới của Vương nữ với Hoàng đế.
Bức tranh nổi tiếng nhất của Velazquez trong loạt tranh chân dung của Margarita Teresa là Las Meninas (1656), hiện ở Bảo tàng Prado thuộc Madrid. Trong đó, họa sĩ đã vẽ Vương nữ 5 tuổi trong phòng vẽ của mình khi đang vẽ chân dung cha mẹ Vương nữ. Xung quanh Margarita là các thị nữ cùng các cận thần khác, nhưng đôi mắt của Margarita lại hướng về cha mẹ và có thể thấy ảnh phản chiếu của Quốc vương và Vương hậu ở tấm gương trên tường. Bức tranh này là nguồn cảm hứng cho Picasso và ông đã tạo ra hơn 40 biến thể của tác phẩm vào năm 1957.
Tác phẩm Infanta Margarita Teresa trong Bộ váy Hồng (1660), trước đây được ghi nhận là của Velázquez, hiện được coi là một trong những kiệt tác của con rể Velázquez là Juan Bautista Martínez del Mazo. Martínez del Mazo cũng là tác giả của bức "Chân dung Infanta Margarita trong tang phục" (1666), trong đó Margarita được vẽ chân dung ngay sau cái chết của cha và trước khi diễn ra đám cưới. Cả hai bức tranh cũng được đưa vào bộ sưu tập của Bảo tàng Prado. Danh tính tác giả của bức "Chân dung Infanta Margarita" (1655) được trưng bày tại Viện bảo tàng Louvre hiện vẫn còn bị các nhà nghiên cứu nghi ngờ.
Hầu hết những bức chân dung của Margarita Teresa khi trưởng thành, được họa bởi một số họa sĩ châu Âu, được lưu giữ trong bộ sưu tập của Bảo tàng Kunsthistorisches ở Viên, ttrong số đó là "Bức chân dung toàn thân của Infanta Margarita Teresa, Hoàng hậu" (1665) của Gerard Du Chateau và "Chân dung Hoàng hậu Margarita Teresa trong trang phục sân khấu" (1667) của Jan Thomas van Ieperen. Một trong những bức chân dung cuối cùng của Margarita Teresa là "Chân dung Hoàng hậu Margarita Teresa và con gái Maria Antonia" (khoảng năm 1670) của Jan Thomas van Ieperen, hiện đang trưng bày ở Hofburg, trong đó Hoàng hậu được phác họa cùng đứa con sống qua tuổi ấu thơ duy nhất. Nhiều bản sao chân dung của Margarita Teresa cũng được bảo quản và hiện được trưng bày trong các bộ sưu tập của các bảo tàng trên khắp thế giới.
Gia phả
<center>
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Andics, Hellmut, Die Frauen der Habsburger (Vienna: Jugend und Volk, 1985). In German.
Beutler, Gigi, Die Kaisergruft (Vienna, 2001). In German.
Hamann, Brigitte, Die Habsburger: Ein Biografisches Lexicon (Munich: Piper, 1988). In German.
Ingrao, Charles W., Editor and author, In Quest and Crisis: Emperor Joseph I and the Habsburg Monarchy, Hardcover: 278 pages, Purdue University Press (1 June 1979), in English, ,
Ingrao, Charles W., The Habsburg Monarchy, 1618–1815 (New Approaches to European History) [Paperback], # Paperback: 288 pages, Cambridge University Press; 2 edition (2 October 2000), in English, ,
Kann, Robert A., A History of the Habsburg Empire, 1526–1918, Paperback, 661 pages, University of California Press, edition (26 November 1980), in English .
Kann, Robert A., The Peoples of the Eastern Habsburg Lands, 1526–1918 (History of East Central Europe), [Hardcover],# 464 pages, Univ of Washington Press, (July 1984), in English, ,
Magosci, Paul Robert, ´´Historical Atlas of Central Europe (History of East Central Europe, Vol. 1, 1), Paperback: 288 pages, University of Washington Press, in English, Revised Exp edition (October 2002), ,
Olivan Santaliestra, Laura, "My sister is growing up very healthy and beautiful, she loves me" – The Childhood of the Infantas Maria Teresa and Margarita Maria at Court'', pp. 165–185 in: Grace E. Coolidge – The Formation of the Child in Early Modern Spain, Farnham: Ashgate Publishing 2014,
Wheatcroft, Andrew, "The Habsburgs, Embodiyng Empire" [Paperback], 416 pages, Penguin Books, (Non-Classics) (1 May 1997), in English, ,
Liên kết ngoài
Infanta Margarita Teresa trong Bộ váy Xanh tại Bảo tàng Kunsthistorisches, Viên
|-
|-
|-
Vương nữ Tây Ban Nha
Hoàng nữ Áo
Vương nữ
Hoàng hậu La Mã Thần thánh
Vương hậu Hungary
Vương hậu Bohemia
Hoàng hậu
Vương hậu
Người Tây Ban Nha thế kỷ 17
Người Áo thế kỷ 17
Sản phụ tử vong
Bài Wikipedia trích dẫn từ Encyclopaedia Britannica 1911 với dẫn chiếu từ Wikisource
Nguồn CS1 tiếng Đức (de)
Sinh năm 1651
Mất năm 1673
|
19853585
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mar%C3%ADa%20de%20la%20Concepci%C3%B3n%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha
|
María de la Concepción của Tây Ban Nha
|
María de la Concepción Francisca de Asís của Tây Ban Nha (Madrid, 26 tháng 12 năm 1859 - Madrid, 21 tháng 10 năm 1861), con gái của Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha và Phối vương Francisco de Asís của Tây Ban Nha. Là con gái của một quân chủ Tây Ban Nha, María de la Conception được nhận tước hiệu Infanta của Tây Ban Nha.
Tiểu sử
María de la Concepción được sinh ra tại Cung điện Vương thất Madrid, là người con thứ tám và con gái thứ tư của Isabel II của Tây Ban Nha và Francisco de Asís của Tây Ban Nha. Vương nữ được rửa tội vào ngày 27 tháng 12 năm 1859 tại nhà nguyện của Cung điện Oriente, cha mẹ đỡ đầu của Vương nữ là María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha và Antoine của Pháp.
Vài tháng sau khi em gái María del Pilar ra đời, María de la Concepción đã qua đời vào ngày 21 tháng 10 năm 1861. Vương nữ được chôn cất trong Pantéon de Infantes thuộc Tu viện San Lorenzo de El Escorial, trong phòng mộ thứ sáu, nơi được gọi là lăng mộ của trẻ sơ sinh với dòng văn bia rằng:
Huân chương
Ngày 27 tháng 12 năm 1859: Bậc Dame của Huân chương Vương hậu María Luisa.
Gia phả
Tham khảo
Vương nữ Tây Ban Nha
Vương tộc Borbón (Tây Ban Nha)
Vương nữ
Sinh năm 1859
Mất năm 1861
|
19853586
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mar%C3%ADa%20Ana%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha
|
María Ana của Tây Ban Nha
|
María Ana của Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: María Ana de España, tiếng Đức: Maria Anna von Spanien; tiếng Anh: Maria Anna of Spain; 18 tháng 8 năm 1606 – 13 tháng 5 năm 1646) là Vương nữ Tây Ban Nha và là Hoàng hậu La Mã Thần thánh, Vương hậu Hungary và Bohemia thông qua cuộc hôn nhân với Ferdinand III của Thánh chế La Mã. María Ana từng nhiều lần đảm nhiệm vai trò nhiếp chính trong thời gian chồng vắng mặt, đặc biệt là khi Ferdinand III ở Bohemia năm 1645.
Là con gái của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo, trước khi kết hôn với Ferdinand III, María Ana được coi là người vợ tiềm năng của Charles I của Anh (bấy giờ là Thân vương xứ Wales). Sự kiện này được biết đến trong lịch sử gọi là "Hôn ước Tây Ban Nha" (the Spanish match), đã gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị trong nội bộ Vương quốc Anh và Scotland. Tại triều đình Viên, María Ana tiếp tục thể hiện văn hóa Tây Ban Nha bản địa của mình, từ quần áo đến âm nhạc và cũng thúc đẩy việc thắt chặt mối quan hệ giữa nhánh Đế quốc và nhánh Tây Ban Nha của Hoàng tộc Habsburg.
Những năm đầu đời
María Ana của Tây Ban Nha sinh ra tại Cung điện El Escorial, gần Madrid, vào ngày 18 tháng 8 năm 1606, là con thứ tư và là con gái thứ ba của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo, Nữ Đại vương công Áo thuộc nhánh Nội Áo của Hoàng tộc Habsburg. Trong số bảy anh chị em của María Ana, chỉ có bốn người sống qua tuổi ấu thơ: Ana (sau này là vợ của Louis XIII của Pháp), Felipe IV của Tây Ban Nha, Carlos (qua đời khi còn trẻ vào năm 1632) và Fernando (sau này là Hồng y-Infante và Thống đốc của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha). Cha mẹ của María Ana, tức là Felipe III và Margarete có quan hệ họ hàng gần và có rất nhiều liên hệ với nhau thông qua hôn nhân của tổ tiên: thông qua cha của Felipe III, Felipe III chính là anh họ của Margarete và thông qua mẹ của Quốc vương, Felipe III là cháu gọi cô lẫn dì của Margarete. Ngoài ra, thông qua Margarete cũng là em họ của Felipe III thông qua mẹ. María Ana được rửa tội vào ngày 8 tháng 9, ngày Lễ sinh nhật của Đức Maria và được đỡ đầu bởi chị gái Ana và Francisco de Sandoval y Rojas, Công tước thứ 1 xứ Lerma.
Đính hôn
Ngay từ khi còn nhỏ, María Ana đã có một vai trò quan trọng trong các dự tính hôn nhân của Felipe III. Ở tuổi thiếu niên, Vương nữ được hứa hôn với Đại vương công Johann Karl, con trai cả và là người thừa kế của Ferdinand II của Thánh chế La Mã và người vợ đầu là Maria Anna xứ Bayern và cũng là anh họ của Vương nữ. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân không diễn ra vì Johann Karl đã qua đời vào năm 1618.
Năm 1622, Quốc vương James I của Anh nhận được lời đề nghị gả María Ana từ Felipe IV của Tây Ban Nha, anh trai của María Ana để thắt chặt mối quan hệ giữa hai quốc gia thông qua cuộc hôn nhân giữa Vương tử Charles, Thân vương xứ Wales và Infanta María Ana. Bản thân James I mong rằng cuộc hôn nhân giữa Charles và María Ana sẽ khiến Tây Ban Nha trao trả lại vùng Pfalz cho vợ chồng con gái Elizabeth. Phía Luân Đôn và Madrid bắt đầu có những hoạt động đàm phán tích cực. Cuộc hôn nhân tiềm năng giữa Thân vương xứ Wales và Infanta Tây Ban Nha được biết đến trong lịch sử với cái tên "Hôn ước Tây Ban Nha" (The Spanish match) và gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ ở cả Anh và Scotland. Năm 1623, Thân vương xứ Wales cùng với George Villiers, Công tước thứ 1 xứ Buckingham, đến thăm Madrid để gặp nàng dâu sắp cưới. Tuy nhiên, María Ana thà vào tu viện còn hơn là kết hôn với tín hữu Kháng Cách và Charles sẽ không cải sang Công giáo. Cuối cùng, cuộc hôn nhân không diễn ra vì lý do chính trị cũng như vì sự miễn cưỡng của vị tân vương của Tây Ban Nha trong việc thiết lập hôn nhân với Vương tộc Stuart dù bên Anh đã chấp nhận một hiệp ước rất có lợi cho phía Tây Ban Nha. Charles sau cùng đã kết hôn với một người Công giáo sùng đạo là Henriette Marie của Pháp thuộc Vương tộc Bourbon.
Hôn nhân
Cuối năm 1626, María Ana đính hôn với Đại vương công Ferdinand, em trai của vị hôn phu đầu tiên của Vương nữ và là trữ quân mới của Hoàng đế Ferdinand II. Lễ đính hôn chính thức diễn ra trước một loạt cuộc đàm phán được tiến hành vào năm 1625. Cùng năm đó, Ferdinand lên ngôi Quốc vương Hungary, và năm 1627, Ferdinand trở thành Quốc vương Bohemia. Nội dung của các cuộc đàm phán là về cuộc sống của María Ana tại triều đình của người chồng tương lai. Bất chấp mong muốn của Ferdinand rằng cha giải tội của María Ana sẽ là Tu sĩ Dòng Tên Ambrosio de Peñalosa, Diego Quiroga là người được bổ nhiệm. Theo thỏa thuận hôn nhân được hai bên ký kết vào năm 1628 có ghi rằng María Ana có thể giữ quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha, nhưng chị gái của Vương nữ là Ana, người kết hôn với Louis XIII của Pháp năm 1615, thì buộc phải từ bỏ quyền thừa kế.
Tháng 12 năm 1629, María Ana rời Madrid đến Viên, tròn ba năm sau khi đính hôn và gần năm năm sau khi lời hỏi cưới lần đầu được đề xuất. Chuyến hành trình phải mất hơn một năm mới hoàn thành. Trên đường đi bằng đường biển ở Genova, đã có sự cố phát sinh do một trận dịch hạch bùng phát ở Bán đảo Ý. Vì lý do đó, đoàn người không thể dừng lại ở Bologna, nơi Hồng y Antonio Barberini, cháu trai của Giáo hoàng Urbanô VIII, đang đợi Vương nữ đến để trao Hoa hồng Vàng. Đoàn người chuyển đến Napoli và María Ana đã nhận được Hoa hồng Vàng tại đây. Infanta sau đó di chuyển qua Lãnh địa Giáo hoàng sau khi Vương nữ thực hiện chuyến hành hương đến Vương cung Thánh đường Thánh Casa. Trong đoạn hành trình đó, María Ana được tầng lớp quý tộc ở Roma tháp tùng, dẫn đầu bởi một người cháu khác của Giáo hoàng Urbanô VIII là Taddeo Barberini, Thân vương xứ Palestrina. Ngày 26 tháng 1 năm 1631, Vương nữ đến Trieste và gặp Đại vương công Leopold Wilhelm của Áo, em chồng tương lai của mình. Ngay ngày hôm đó, María Ana kết hôn với Quốc vương Ferdinand của Hungary và Bohemia theo phương thức ủy nhiệm, với người đại diện cho Ferdinand là Leopold Wilhelm. Sau hôn lễ, Leopold Wilhelm hộ tống María Ana đến Viên.
Trước hôn lễ chính thức, vì không tin tưởng vào những bức chân dung trước đó mà mình đã nhìn thấy về ngoại hình của Vương nữ, Ferdinand đã bí mật gặp mặt cô dâu của mình. Ngài Oberhofmeister (tạm dịch: quản sự) yêu cầu được diện kiến María Ana. Trong chuyến thăm, Ferdinand đi cùng với một số quý tộc. Bị ấn tượng bởi vẻ đẹp của Vương nữ, Ferdinand ngay lập tức tiết lộ danh tính và bắt chuyện với María Ana bằng tiếng Tây Ban Nha. Tình yêu và sự tôn trọng mà vị Ferdinand dành cho vợ kéo dài trong suốt cuộc hôn nhân của hai người. Ferdinand một lòng với María Ana và không bao giờ có con ngoại hôn.
Ngày 20 tháng 2 năm 1631, tại Viên, María Ana kết hôn với Quốc vương Ferdinand của Hungary và Bohemia. Lễ hội mừng lễ cưới của hai người kéo dài một tháng. Cuộc hôn nhân được mô tả là hòa hợp. María Ana được miêu tả là người vui tính, thân thiện và thông minh, tân Vương hậu đã xoa dịu tính cách u sầu của Ferdinand.
Hoàng hậu La Mã Thần thánh và Vương hậu Đức
María Ana đến triều đình Viên với thời trang, kịch sân khấu, khiêu vũ và âm nhạc mang phong cách Tây Ban Nha (bao gồm cả tiếng guitar đầu tiên). Với tư cách là vợ của người thừa kế, María Ana duy trì mối quan hệ tốt đẹp với tất cả các thành viên trong gia đình chồng, nhưng Vương nữ có mối quan hệ phức tạp với mẹ kế của Ferdinand là Hoàng thái hậu Eleonora Gonzaga, người chỉ lớn hơn María Ana tám tuổi, chủ yếu là do sự cạnh tranh giữa hai người trong việc giành ảnh hưởng tại triều đình. María Ana cũng dành nhiều sự quan tâm cho nghệ thuật, đặc biệt là hội họa. Vương nữ đã sưu tầm các tác phẩm của các họa sĩ người Ý, Tây Ban Nha và Flemish cuối thời kỳ Phục hưng và đầu thời kỳ Baroque.
Tại Regensburg, ngày 22 tháng 12 năm 1636, Ferdinand được bầu làm Quốc vương La Mã Đức, và một tuần sau, Ferdinand được Tổng giám mục Mainz trao Vương miện. María Ana đăng cơ với tư cách là Vương hậu Đức một tháng sau đó, vào ngày 21 tháng 1 năm 1637. Sau cái chết của cha vào ngày 15 tháng 2 năm 1637, Ferdinand trở thành tân Hoàng đế La Mã Thần thánh với đế hiệu Ferdinand III và cũng trở thành Quốc vương cai trị Hungary và Bohemia. María Ana do đó cũng trở thành Hoàng hậu La Mã Thần thánh và Vương hậu thực sự của Hungary và Bohemia. Lễ đăng cơ của María với tư cách là Vương hậu Hungary được cử hành tại Pressburg.
María Ana tham gia chính trị với tư cách là cố vấn cho chồng, là người hòa giải giữa Hoàng đế và họ hàng bên Tây Ban Nha. Dù luôn bảo vệ quyền lợi của chồng nhưng María Ana cũng không quên quyền lợi của các anh trai là Quốc vương Felipe IV và Hồng y-Infante Fernando. Tại triều đình của mình, chủ yếu bao gồm người Tây Ban Nha, khách viếng thăm thường là đại sứ Tây Ban Nha và các nhà ngoại giao khác. Trong thời gian vắng mặt tại triều đình ở Viên, Hoàng đế đã bổ nhiệm vợ làm nhiếp chính, chẳng hạn như vào năm 1645, trong Chiến tranh Ba mươi năm, khi Ferdinand III đang ở Vương quốc Bohemia.
Qua đời
Vào tháng 3 năm 1645 María Ana và các con rời khỏi Linz vì sự đổ bộ của quân đội Thụy Điển Kháng Cách và chuyển đến Viên. Đến tháng 4, quân Thụy Điển chuẩn bị vượt sông Danube và đe dọa chiếm đóng thành phố. Hoàng thất do đó tạm thời chạy trốn đến Graz. Sau khi trở về Viên, María Ana và gia đình lại buộc phải chuyển đến Linz vì bệnh dịch. Lần mang thai thứ sáu của María Ana được ghi nhận vào tháng 1 năm 1646. Bốn tháng sau, vào ngày 12 tháng 5, tại lâu đài Linz, María Ana đột nhiên cảm thấy sốt, chảy nhiều máu và qua đời vào sáng hôm sau. Đứa trẻ trong bụng của María Ana được mổ lấy ra và được đặt tên là Maria nhưng chỉ sống được vài giờ. Ngày 24 tháng 5, cả hai mẹ con được đặt trong cùng một quan tài, được chuyển đến Viên và chôn cất trong Hầm mộ Hoàng gia, nơi chứa sẵn quan tài chứa hài cốt của hai người con trai đã qua đời trước đó của María Ana. Đoàn tang lễ được tháp tùng bởi đại sứ Tây Ban Nha và các thị nữ của Hoàng hậu. Rất đau buồn trước cái chết của vợ con, Hoàng đế không thể đến dự tang lễ. Tuy nhiên, sau khi trở về Viên vào cuối tháng 8, Ferdinand III cũng đã bày tỏ lòng kính trọng đối với hài cốt của vợ, và vào tháng 9, Ferdinand III tuyên bố lễ đính hôn của con gái lớn Maria Anna với Baltasar Carlos của Tây Ban Nha, Thân vương xứ Asturias. Tuy nhiên, Vương tử đã qua đời chỉ một tháng sau đó. Các thành viên trong hộ gia (household) của cố Hoàng hậu, những người đa theo María Ana từ Tây Ban Nha, gồm có cha giải tội và các thị nữ, đã sống tại triều đình Viên thêm vài năm sau khi Hoàng hậu qua đời.
Con cái
María Ana và Ferdinand III có sáu người con:
Ferdinand IV (8 tháng 9 năm 1633 – 9 tháng 7 năm 1654), Quốc vương La Mã Đức, Hungary và Bohemia.
Maria Anna (22 tháng 12 năm 1634 – 16 tháng 5 năm 1696), Vương hậu Tây Ban Nha.
Philipp August (15 tháng 7 năm 1637 – 22 tháng 6 năm 1639), Đại vương công Áo.
Maximilian Thomas (21 tháng 12 năm 1638 – 29 tháng 6 năm 1639), Đại vương công Áo.
Leopold I (9 tháng 6 năm 1640 – 5 tháng 5 năm 1705), Hoàng đế Thánh chế La Mã.
Maria (sinh và mất ngày 13 tháng 5 năm 1646), Nữ Đại vương công Áo.
Hình tượng trong nghệ thuật
Claire Jowitt xem nhân vật Vương nữ Donusa trong vở kịch The Renegado năm 1624 của Philip Massinger như một câu chuyện ngụ ngôn về thỏa thuận hôn nhân bất thành của María Ana.
Năm 1634, nhà thơ kiêm viết kịch người Tây Ban Nha là Pedro Calderón de la Barca, để vinh danh chiến thắng của quân Tây Ban Nha và Áo trước quân Thụy Điển trong trận Nördlingen, đã dựng một buổi biểu diễn ở Madrid trong đó María Ana, cùng chồng là một trong số các diễn viên.
Ngoại trừ một vài bức chân dung của María Ana khi còn nhỏ thì hầu hết đều nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Kunsthistorisches ở Viên. Bức chân dung đầu tiên được họa bởi Juan Pantoja de la Cruz, khi Vương nữ được một tuổi. Bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Portland bao gồm một bức chân dung của María Ana trong những năm 1630, được họa bởi Felipe Diriksen. Một bức chân dung khác của Infanta María Ana, bấy giờ là Vương hậu Hungary và Bohemia được Diego Velázquez, họa sĩ cung đình Madrid thực hiện và hiện là một phần trong bộ sưu tập của Bảo tàng Prado. Các bức chân dung của Hoàng hậu do Frans Luycx (họa sĩ tại cung đình Viên), Bartolomé González y Serrano, Rodrigo de Villandrando, Justus Sustermans, Juan van der Hamen và các họa sĩ vô danh khác thực hiện được lưu giữ trong bộ sưu tập của Bảo tàng Kunsthistorisches, Bảo tàng Prado, phòng trưng bày của Cung điện Esterházy ở Eisenstadt và Bảo tàng Fesch ở Ajaccio.
Gia phả
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Liên kết ngoài
Worldroots.com
Vương nữ Tây Ban Nha
Vương nữ Bồ Đào Nha
Hoàng nữ Áo
Vương nữ
Hoàng hậu La Mã Thần thánh
Vương hậu Hungary
Vương hậu Bohemia
Hoàng hậu
Vương hậu
Sinh năm 1606
Mất năm 1646
Sản phụ tử vong
Nguồn CS1 tiếng Đức (de)
Bài viết có văn bản tiếng Tây Ban Nha
|
19853592
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20%E2%80%93%20%C4%90%C3%B4i%20N%E1%BB%AF
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Đôi Nữ
|
Nội dung biểu diễn đôi nữ bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 diễn ra từ ngày 6 đến ngày 7 tháng 10 năm 2023 tại Nhà thi đấu thể thao dưới nước của Trung tâm thể thao Olympic Hàng Châu.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00)
Kết quả
Chú thích
FR — Dự bị trong nội dung free
RR — Dự bị trong nội dung technical và free
TR — Dự bị trong nội dung technical
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2022
Đôi Nữ
|
19853594
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%91uu%20Savi
|
Ñuu Savi
|
Ñuu Savi (tiếng Mixtec: "dân mưa") là khu đô thị tự trị thuộc bang Guerrero, México. Ñuu Savi cách thủ phủ bang Chilpancingo về phía đông nam. Khu đô thị được hình thành từ Ayutla de los Libres theo phê duyệt năm 2021 và có hiệu lực từ ngày 21 tháng 5 năm 2022.
Địa lý
Khu đô thị Ñuu Savi nằm ở vùng Costa Chica phía đông bang Guerrero, phía bắc giáp Acatepec, phía đông giáp San Luis Acatlán, phía nam giáp Cuautepec và phía tây giáp Ayutla de los Libres. Khu đô thị này có diện tích .
Ñuu Savi có khí hậu ôn đới ẩm, nhiều mưa vào hè. Nhiệt độ trung bình dao động từ , và lượng mưa trung bình hàng năm là từ .
Lịch sử
Thủ phủ Coapinola của Ñuu Savi là nơi định cư lâu đời nhất trong khu vực và từng là trung tâm của chính quyền địa phương Mixtec. Năm 1487, Đế quốc Mexica kiểm soát khu vực này và được sáp nhập vào tỉnh Ayotlán (Ayutla ngày nay) trên ranh giới với Yopitzinco của dân Yope.
Dân Mixtec tại Ayutla bị gạt ra lề xã hội đã khiến họ thức tỉnh chính trị và muốn tự trị. Thập niên 1970, nhà hoạt động địa phương như Hilario Ramírez Morales thúc đẩy việc này nhưng bị ám sát năm 1981. Phong trào dấy lên từ cuộc nổi dậy Zapatista năm 1994 dẫn đến việc chính quyền México báo trả, kể cả việc cưỡng bức triệt sản, hay quân đội México xử tử 11 thủ lĩnh bản địa ở El Charco năm 1998. Từ năm 2012, tình hình an ninh được cải thiện khi dân địa phương thành lập nhóm tự vệ riêng mình liên kết với .
Năm 2018, quyền tự trị gần hơn hết khi Ayutla trở thành khu đô thị đầu tiên ở Guerrero tổ chức các cuộc bầu cử phi đảng phái theo luật tục. Sau khi lấy thêm ý kiến dân địa phương, ngày 31 tháng 8 năm 2021, cơ quan lập pháp bang Guerrero phê duyệt thành lập đô thị Ñuu Savi bao gồm các cộng đồng dân Mixtec của Ayutla de los Libres. Việc thành lập được thể hiện qua bản sửa đổi hiến pháp bang được thông qua ngày 13 tháng 1 năm 2022 và có hiệu lực ngày 21 tháng 5 năm 2022.
Hành chính
Ñuu Savi sẽ tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên với tư cách là một khu đô thị tự trị độc lập vào năm 2024. Một chính quyền lâm thời được chỉ định vào tháng 8 năm 2023, do thị trưởng Donaciano Morales Porfirio đứng đầu. Chính quyền khu đô thị San Nicolás bao gồm một chủ tịch, một ủy viên hội đồng (tiếng Tây Ban Nha: síndico) và sáu ủy viên (regidores).
Nhân khẩu học
Trong Điều tra dân số México năm 2020, các địa phương bao gồm khu đô thị Ñuu Savi hiện nay có dân số 11.099 người. Thủ phủ Coapinola có 387 cư dân. Các địa phương đông dân nhất là Ahuacachahue 1.505 người và La Concordia 1.125 người.
Kinh tế và hạ tầng
Ñuu Savi là một trong những khu đô thị nghèo nhất bang Guerrero. Không có bệnh viện, chỉ có giáo dục tiểu học và telesecundaria (từ xa). Nền kinh tế địa phương dựa vào nông nghiệp tự cung tự cấp với cây trồng chính là ngô, đậu và mía.
Tham khảo
Khởi đầu năm 2022 ở México
Đô thị bang Guerrero
Nguồn CS1 tiếng Tây Ban Nha (es)
Tọa độ trên Wikidata
|
19853610
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/VCS%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202024
|
VCS mùa giải 2024
|
VCS mùa giải 2024 là mùa giải thứ 12 của Vietnam Championship Series (VCS), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của Việt Nam dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Mùa Xuân và Mùa Hè. Giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu vào ngày 20 tháng 1 năm 2024.
Những thay đổi
Các đội
MGN Box Esports đã đổi tên đội Liên Minh Huyền Thoại của mình thành MGN Blue Esports để bước vào mùa giải 2024.Saigon Buffalo đã đổi tên đội Liên Minh Huyền Thoại của mình thành Vikings Esports để bước vào mùa giải 2024.
Giải đấu
Ngày 15 tháng 3 năm 2024, ban tổ chức giải đấu VCS cùng Riot Games đã đưa ra thông báo tạm hoãn các trận đấu diễn ra trong ngày 15, 16, 17 tháng 3 thuộc tuần 8 giải Mùa Xuân do diễn biến bất ngờ ảnh hưởng đến quá trình thi đấu.
Ngày 18 tháng 3 năm 2024, ban tổ chức giải đấu VCS cùng Riot Games đã đưa ra thông báo:
Hủy bỏ tất cả các trận đấu còn lại của vòng bảng.
Kết quả của các trận đấu diễn ra trong ngày 14 tháng 3 không được tính.
Bảng xếp hạng của vòng bảng được tính theo kết quả đến hết tuần thi đấu thứ 7 (hết ngày 10 tháng 3), và thứ hạng này cũng được dùng để xác định các đội tuyển tham gia vòng loại trực tiếp.
Vòng loại trực tiếp sẽ được hoãn cho đến khi có thông báo tiếp theo.
Thể thức
Vòng bảng
8 đội tham gia thi đấu.
Thi đấu theo thể thức vòng tròn 2 lượt tính điểm.
Tất cả các trận đấu đều là Bo3.
6 đội có thành tích tốt nhất đủ điều kiện vào vòng loại trực tiếp.
Cách thức chọn bên (áp dụng cho cả Vòng bảng và Vòng loại trực tiếp) :
Đối với ván đấu đầu tiên, đội "Chủ nhà" sẽ được quyền chọn bên.
Từ ván đấu thứ 2, đội thua được quyền chọn bên.
Đối với các ván đấu quyết định (ván 3 với Bo3, ván 5 với Bo5 khi 2 đội có tỷ số hoà), đội chọn bên sẽ được xác định thông qua chiến thắng trong trận đấu 1vs1.
Vòng loại trực tiếp
6 đội tham gia thi đấu.
Thi đấu theo thể thức nhánh thắng nhánh thua.
Tất cả các trận đấu đều là Bo5.
Các đội hạt giống số 1 và 2 lọt vào vòng 2, trong khi các đội hạt giống số 3, 4, 5 và 6 thi đấu với nhau tại vòng 1.
Đội hạt giống số 1 được quyền chọn một trong hai đội thắng tại vòng 1 để thi đấu ở vòng 2, trong khi đội hạt giống số 2 phải thi đấu với đội còn lại.
Giải thăng hạng Mùa Xuân
Giải thăng hạng Mùa Xuân diễn ra từ ngày 13 đến ngày 18 tháng 11 năm 2023. 6 đội chơi tổng cộng 15 trận theo thể thức vòng tròn 1 lượt và tất cả các trận đấu vòng bảng được thi đấu theo thể thức Bo3. 4 đội đứng đầu vòng bảng lọt vào vòng loại trực tiếp, tất cả các trận đấu vòng loại trực tiếp được thi đấu theo thể thức Bo5. 2 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp sẽ thăng hạng lên thi đấu VCS Mùa Xuân 2024.
Vòng bảng
Vòng loại trực tiếp
Giải Mùa Xuân
Vòng bảng giải Mùa Xuân sẽ diễn ra từ ngày 20 tháng 1 năm 2024. 8 đội tham gia thi đấu và tất cả các trận đấu vòng bảng sẽ được thi đấu theo thể thức Bo3. Sáu đội dẫn đầu vòng bảng sẽ tiến vào vòng loại trực tiếp. Hai đội đứng cuối vòng bảng sẽ phải tham gia vòng thăng hạng Mùa Hè 2024. Đội đứng đầu vòng loại trực tiếp giải Mùa Xuân đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2024.
Vòng bảng
Vòng loại trực tiếp
Tham khảo
Liên Minh Huyền Thoại năm 2024
|
19853611
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sea%20Fox%20%28SS-402%29
|
USS Sea Fox (SS-402)
|
USS Sea Fox (SS-402) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một loài trong họ Cá nhám đuôi dài. Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II và thực hiện được bốn chuyến tuần tra khi xung đột chấm dứt. Nó được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IIA để tiếp tục phục vụ trong các cuộc Chiến tranh Lạnh, Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam. Con tàu được chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ năm 1970 để tiếp tục hoạt động như là chiếc TCG Burakreis (S335) cho đến năm 1996; con tàu sau cùng bị tháo dỡ để làm nguồn phụ tùng. Sea Fox được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm bốn Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động tại Việt Nam.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Sea Fox được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 2 tháng 11, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 3, 1944, cùng lúc với tàu ngầm chị em , và được đỡ đầu bởi bà Robert N. Robertson. Nó được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 13 tháng 6, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Roy Craig Klinker.
Lịch sử hoạt động
1944
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện ngoài khơi vùng biển New England, Sea Fox khởi hành từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London để đi sang khu vực Thái Bình Dương ngang qua kênh đào Panama, và đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 11 tháng 9. Gia nhập Đội tàu ngầm 282, nó tiếp tục được huấn luyện và chuẩn bị tại vùng biển Hawaii.
Chuyến tuần tra thứ nhất
Lên đường vào ngày 4 tháng 10 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, Sea Fox đi đến khu vực tuần tra tại các quần đảo Bonin và quần đảo Volcano vào ngày 16 tháng 10. Nó làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu hỗ trợ cho hoạt động không kích của máy bay ném bom B-24 Liberator Không lực xuống Iwo Jima. Vào ngày 26 tháng 10, nó tấn công và gây hư hại cho một tàu buôn, rồi chuyển sang tuần tra tại khu vực quần đảo Ryūkyū. Đến ngày 8 tháng 11, với bốn đợt tấn công và 11 quả ngư lôi, trong đó nhiều quả chạy loạn xạ, nó phá hủy một tàu chở hàng nhỏ. Nó rời khu vực tuần tra vào ngày 15 tháng 11 và về đến căn cứ Majuro tại quần đảo Marshall vào ngày 24 tháng 11 để được tái trang bị.
1945
Chuyến tuần tra thứ hai
Trong chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 20 tháng 12, 1944 đến ngày 5 tháng 2, 1945, Sea Fox quay lại khu vực quần đảo Ryūkyū cùng Đội đặc nhiệm 17.19, một đội tấn công phối hợp ("Bầy sói") vốn bao gồm các tàu ngầm và . Trên đường đi đến Saipan để tiếp thêm nhiên liệu, nó đã cứu vớt đội bay của một chiếc B-24 Liberator bị bắn rơi. Nó rời khu vực quần đảo Mariana vào ngày 28 tháng 12 và đi đến khu vực tuần tra vào ngày 1 tháng 1, 1945. Đến ngày 10 tháng 1, nó phát hiện mục tiêu là một đoàn tàu vận tải, nhưng hai đợt tấn công không mang lại kết quả. Tàu ngầm đồng đội Puffer, dựa vào báo cáo mục tiêu của Sea Fox, đã tiếp tục tấn công và đánh chìm được Tàu phòng vệ duyên hải số 42.
Chuyến tuần tra thứ ba
Trong chuyến tuần tra thứ ba từ ngày 8 tháng 3 đến ngày 6 tháng 5, Sea Fox hoạt động trong khu vực biển Đông và phía Nam Đài Loan. Nó đã sáu lần phát hiện mục tiêu, nhưng chỉ có thể tấn công một đoàn tàu vận tải bao gồm ba tàu buôn và bốn tàu hộ tống, và gây hư hại cho một tàu chở hàng vào sáng ngày 1 tháng 4. Cùng ngày hôm đó, tàu ngầm đã vô tình đánh chìm tàu chở hành khách Awa Maru, vốn đang vận chuyển hàng tiếp liệu Chữ thập đỏ cho các trại tù binh Đồng Minh. Đến ngày 2 tháng 4, Sea Fox cùng các tàu ngầm khác được lệnh đi đến hiện trường để cứu vớt người sống sót. Nó không tìm thấy người nào nhưng đã thu thập những hiện vật trôi nổi trên biển để làm chứng cứ cho việc điều tra sự kiện trên. Nó rời khu vực tuần tra Đài Loan trong đêm 16-17 tháng 4, đi với tốc độ chậm do trục trặc cánh lái mũi, về đến khu vực Mariana vào ngày 26 tháng 4 và đến Trân Châu Cảng vào ngày 6 tháng 5.
Chuyến tuần tra thứ tư
Sau khi được sửa chữa và tiếp liệu kéo dài mất một tháng, Sea Fox lên đường vào ngày 7 tháng 6 cho chuyến tuần tra cuối cùng trong chiến tranh. Thuần túy làm nhiệm vụ tìm kiếm và cứu giúp hỗ trợ các phi vụ ném bom, nó đã cứu vớt chín phi công tại khu vực đảo Marcus và thêm một người nữa tại quần đảo Nanpō trước khi kết thúc chuyến tuần tra tại căn cứ Midway vào ngày 29 tháng 7. Chiếc tàu ngầm vừa hoàn tất việc tái trang bị khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột.
1945 – 1970
Quay trở về Trân Châu Cảng trong hai tuần, Sea Fox lên đường để phục vụ cùng Hải đội Tàu ngầm 5 đặt căn cứ tại vịnh Subic, Philippines. Nó lên đường vào ngày 12 tháng 1, 1946 để quay trở về Hoa Kỳ, về đến San Francisco, California vào ngày 2 tháng 2. Sau khi được đại tu cho đến giữa tháng 5, nó đi đến Trân Châu Cảng để gia nhập Đội tàu ngầm 52 để hoạt động thường lệ tại khu vực Hawaii. Cho đến hết 1940 con tàu đã ba lần được phái đi phục vụ tại Viễn Đông vào các năm 1946, 1948 và 1949. Con tàu được điều sang Đội tàu ngầm 13 cho đến tháng 1, 1950 khi nó được điều sang Đội tàu ngầm 12.
Sau khi cuộc Chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào tháng 6, 1950, Sea Fox gia tăng tần suất huấn luyện ngư lôi, rải mìn, tác xạ và chống tàu ngầm. Khởi hành vào ngày 2 tháng 9, 1951 cho lượt phục vụ tại khu vực Tây Thái Bình Dương, nó hỗ trợ cho hoạt động tác chiến của lực lượng Liên Hiệp Quốc tại bán đảo Triều Tiên khi tham gia huấn luyện chống tàu ngầm và tuần tra trong biển Nhật Bản. Quay trở về Trân Châu Cảng vào tháng 3, 1952, nó tiếp nối hoạt động thường lệ tại khu vực Hawaii cho đến ngày 15 tháng 10, khi con tàu xuất biên chế tại Xưởng hải quân Mare Island để được hiện đại hóa trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY IIA), giúp cải thiện đáng kể tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động.
Hoàn tất việc nâng cấp, Sea Fox tái biên chế trở lại vào ngày 5 tháng 6, 1953 và quay trở lại Trân Châu Cảng vào ngày 1 tháng 8, được điều về Đội tàu ngầm 71. Nó được thuyên chuyển sang Đội tàu ngầm 33 đặt căn cứ tại San Diego từ ngày 1 tháng 7, 1955, đảm trách vai trò soái hạm của đơn vị này và tiếp tục hoạt động thường lệ tại vùng biển Nam California. Trong năm 1965, nó có lượt phục vụ kéo dài sáu tháng cùng Đệ Thất hạm đội tại khu vực Tây Thái Bình Dương, rồi từ đó cho đến năm 1969, nó luân phiên những hoạt động thường lệ từ căn cứ San Diego với những lượt phục vụ cùng Đệ Thất hạm đội tại khu vực Tây Thái Bình Dương. Từ năm 1964 các hoạt động tại Viễn Đông bao gồm việc hỗ trợ các hoạt động của lực lượng Đồng Minh tại Nam Việt Nam.
Vào tháng 11, 1970, Sea Fox được cho là không còn phù hợp để tiếp tục phục vụ. Nó được cho xuất biên chế đồng thời rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 14 tháng 12, 1970.
TCG Burakreis (S 335)
Sea Fox được bán cho Thổ Nhĩ Kỳ tại Xưởng hải quân San Francisco vào ngày 14 tháng 12, 1970, và được đổi tên thành TCG Burakreis (S 335), đặt theo tên Đô đốc Ottoman Burak Reis (?-1499). Sau khi thực hành chống tàu ngầm ngoài khơi San Diego, con tàu lên đường vào ngày 9 tháng 4, 1971 để quay trở về Thổ Nhĩ Kỳ. Nó nhập biên chế cùng Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 8 tháng 8, 1971 và phục vụ cho đến khi xuất biên chế vào ngày 1 tháng 7, 1996. Con tàu được sử dụng làm nguồn phụ tùng thay thế và sau cùng bị tháo dỡ vào năm 2003.
Phần thưởng
Sea Fox được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm bốn Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động tại Việt Nam.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-402 Sea Fox
USS Sea Fox website
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Triều Tiên
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu ngầm trong Chiến tranh Việt Nam
Tàu được Hải quân Hoa Kỳ chuyển cho Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ
Tàu ngầm của Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ
Tàu thủy năm 1944
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II
|
19853613
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Atule%20%28SS-403%29
|
USS Atule (SS-403)
|
USS Atule (SS-403/AGSS-403) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá ngân. Nó đã phục vụ trong giai đoạn sau của Thế Chiến II, thực hiện được bốn chuyến tuần tra và đánh chìm sáu tàu Nhật Bản, bao gồm một tàu khu trục cũ, với tổng tải trọng 33.379 tấn. Sau khi xung đột kết thúc, nó tiếp tục hoạt động rồi được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IA, và đã phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1970. Con tàu được chuyển giao cho Peru và hoạt động như là chiếc BAP Pacocha (SS-48) cho đến khi bị đắm do tai nạn va chạm với một tàu đánh cá vào ngày 26 tháng 8, 1988. Atule được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Atule được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 25 tháng 11, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 6 tháng 3, 1944, được đỡ đầu bởi cô Elizabeth Louise Kauffman, con gái Chuẩn đô đốc James L. Kauffman, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 6, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân John Howard Maurer.
Lịch sử hoạt động
1944
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi New England, Atule khởi hành từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London để hướng sang khu vực Thái Bình Dương. Sau chặng dừng 15 ngày để huấn luyện tại Key West, Florida, nó băng qua kênh đào Panama và cùng tàu ngầm hướng đến quần đảo Hawaii và đi đến Trân Châu Cảng. Con tàu được sửa chữa và huấn luyện cho đến tháng 10.
Chuyến tuần tra thứ nhất
Rời Trân Châu Cảng vào ngày 9 tháng 10 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, Atule hoạt động trong thành phần một đội tấn công phối hợp ("Bầy sói") biệt danh "Clarey's Crushers", vốn bao gồm các tàu ngầm và Jallao, và dưới quyền chỉ huy chung của Trung tá Bernard Clarey, hạm trưởng Pintado. "Bầy sói" đi đến Tanapag Harbor, Saipan vào ngày 21 tháng 10 để tiếp thêm nhiên liệu, rồi lên đường vào ngày hôm sau. Đơn vị lập chiến công đầu vào ngày 25 tháng 10, khi Jallao đánh chìm tàu tuần dương hạng nhẹ Tama, vốn đã bị hư hại sau Trận chiến ngoài khơi mũi Engaño. Các tàu ngầm dành thêm hai ngày truy lùng phần còn lại của hạm đội Nhật Bản rút lui sau trận Hải chiến vịnh Leyte, rồi hướng đến khu vực tuần tra tại eo biển Luzon và biển Đông.
Sau nữa đêm ngày 1 tháng 11, trong eo biển Ba Sĩ với hoàn cảnh mưa giông và biển động, Atule phát hiện qua radar một tàu vận tải được các tàu vũ trang hộ tống. Nó tấn công với hai đợt phóng ngư lôi, và bốn quả trúng đích đã khiến tàu biển chở hành khách Asama Maru (16.975 tấn) đắm lúc 04 giờ 46 phút tại tọa độ ; 98 thủy thủ, 21 pháo thủ cùng 355 hành khách đã thiệt mạng cùng con tàu. Các tàu hộ tống đã phản công với chín quả mìn sâu được thả xuống nhưng không thể gây hư hại cho chiếc tàu ngầm. Sau đó "Bầy sói" tiếp tục tuần tra trong biển Đông trên tuyến hàng hải giữa Hong Kong và Manila. Khi Jallao phát hiện một đoàn tàu 5 chiếc di chuyển nhanh ở tốc độ vào ngày 3 tháng 11, Atule không thể tiếp cận để tấn công, nhưng Pintado đã kịp phóng ngư lôi nhắm vào một mục tiêu mà nó cho là một tàu chở dầu lớn, nhưng tàu khu trục Akikaze đã lọt vào giữa đường đi quả ngư lôi nên nổ tung và đắm.
Trong biển Đông về phía Tây Nam Cao Hùng, Đài Loan, sau nữa đêm ngày 20 tháng 11, Atule phát hiện qua radar một mục tiêu di chuyển chậm nhưng bị che khuất bởi mưa giông. Đến 05 giờ 00 hình dáng mục tiêu nổi bật trên nền trời, nên chiếc tàu ngầm phóng một loạt bốn quả ngư lôi tấn công, và một quả trúng kích đã khiến Tàu quét mìn số 38 (630 tấn) bị đắm chỉ trong vòng ba phút tại tọa độ . Đến ngày 24 tháng 11, trong eo biển Luzon khoảng về phía Bắc mũi Engaño, nó phát hiện qua kính tiềm vọng một tàu vận tải được ba tàu vũ trang hộ tống di chuyển về phía Nam hướng đến đảo Sabtang. Chiếc tàu ngầm trồi lên mặt nước và đi đến vị trí tấn công, nó phóng sáu quả ngư lôi phía mũi và thêm hai quả ngư lôi phía đuôi vào các mục tiêu chồng lấp, đánh trúng hai mục tiêu với hai quả ngư lôi trúng đích mỗi chiếc, khiến Tàu tuần tra số 38 (800 tấn), nguyên là tàu khu trục cũ Yomogi, nổ tung và chìm ngay với tổn thất nhân mạng toàn bộ. Tàu vận tải Manju Maru (7.266 tấn) sau đó đắm lúc 05 giờ 16 phút tại cùng tọa độ ; 24 thủy thủ và khoảng 700 binh lính trên tàu đã thiệt mạng.
Vào ngày 27 tháng 11, Atule phát hiện qua radar một tàu thả neo tại vùng biển giữa các đảo Dequey và Ivuhos; chiếc tàu ngầm tiếp cận từ phía Bắc đảo Dequey và từ khoảng cách đã phóng một loạt bốn quả ngư lôi khiến mục tiêu nổ tung và đắm hơn một giờ sau đó. Tuy nhiên tài liệu thu được từ phía Nhật Bản sau chiến tranh không thể xác nhận chiến công này. Nó rút lui khỏi khu vực tuần tra vào ngày 28 tháng 11, về đến căn cứ Majuro tại quần đảo Marshall vào ngày 11 tháng 12, nơi nó được bảo trì cặp bên mạn tàu tiếp liệu tàu ngầm . Nó cũng thực hành huấn luyện phối hợp tác chiến cùng các tàu ngầm , và Jallao.
1945
Chuyến tuần tra thứ hai
Khởi hành vào ngày 6 tháng 1, 1945 cho chuyến tuần tra thứ hai, Atule hoạt động trong thành phần "Bầy sói" "Underwood's Urchins" vốn bao gồm các tàu ngầm Spadefish, Pompon và Jallao, do Trung tá Jải quân Gordon W. Underwood, hạm trưởng Spadefish chỉ huy. Nó được tiếp nhiên liệu cặp bên mạn tàu tiếp liệu tàu ngầm tại Tanapag Harbor, Saipan, rồi hoạt động tìm kiếm và giải cứu trước khi cùng các tàu ngầm Spadefish, và tiếp tục đi sang khu vực tuần tra tại biển Hoàng Hải. Vào xế chiều ngày 24 tháng 1, nó phát hiện một mục tiêu qua kính tiềm vọng lẫn khuất trong mưa giông, và theo dõi đối tượng bằng radar rồi tấn công bằng ngư lôi lúc trời tối, khiến tàu chở hàng Taiman Maru Number 1 (6.888 tấn) vỡ làm đôi và đắm tại tọa độ
Atule tiếp tục tuần tra khu vực phía Bắc Hoàng Hải, rồi tại vùng biển giữa Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên. Nó bắt gặp mục tiêu vào ngày 28 tháng 1, nhưng không thể tấn công ở vùng nước nông và sự xuất hiện của tàu tuần tra đối phương. Chiếc tàu ngầm đã phá hủy 23 quả thủy lôi trôi nổi trên biển trước khi rời khu vực vào ngày 22 tháng 2 để quay về Tanapag Harbor, Saipan, nơi nó được bảo trì cặp bên mạn tàu tiếp liệu tàu ngầm Fulton vào ngày 28 tháng 2, rồi tiếp tục đi đến căn cứ Midway vào ngày 7 tháng 3, nơi con tàu được sửa chữa cặp bên mạn tàu tiếp liệu tàu ngầm .
Chuyến tuần tra thứ ba
Khởi hành từ Midway vào ngày 2 tháng 4, Atule hướng đến Apra Harbor, Guam. Sau một ngày tiếp nhiên liệu cặp bên mạn tàu tiếp liệu tàu ngầm , nó lên đường vào ngày 12 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ ba tại eo biển Bungo, nơi tàu ngầm canh phòng lối ra vào phía Đông và Atule ở phía Tây. Phần lớn thời gian chuyến tuần tra được dành cho nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu và phá hủy thủy lôi. Nó bắt gặp một tàu ngầm đối phương vào ngày 4 tháng 5, nhưng không thể tiếp cận mục tiêu, rồi sang ngày hôm sau đã chỉ điểm cho một máy bay ném bom B-29 Superfortress đối đầu hai máy bay đối phương. Một máy bay Nhật Bản bị bắn rơi, và chiếc tàu ngầm đã cứu vớt viên phi công bị bỏng nặng. Chuyến tuần tra kết thúc tại Trân Châu Cảng vào ngày 30 tháng 5, nơi nó được bảo trì cặp bên mạn tàu tiếp liệu tàu ngầm trong ba tuần.
Chuyến tuần tra thứ tư
Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong chiến tranh, Atule xuất phát từ Trân Châu Cảng vào ngày 3 tháng 7, đi đến khu vực hoạt động tìm kiếm và giải cứu tại quần đảo Nanpō, và sau đó đến khu vực phía Đông đảo Honshū để phối hợp hoạt động cùng Gato và . Vào ngày 12 tháng 8, tại khu vực ngoài khơi đảo Hokkaido, nó bắt gặp hai mục tiêu di chuyển dọc bờ biển nhưng không thể tấn công do ở vùng nước nông và tầm nhìn kém. Di chuyển đến khu vực ngoài khơi Urakawa, lúc 01 giờ 00 ngày hôm sau, nó tấn công với loạt sáu quả ngư lôi vào hai mục tiêu chồng lấp, khiến Tàu phòng vệ duyên hải số 6 (800 tấn) nổ tung và đắm ở vị trí giữa mũi Erimo và Muroman, tại tọa độ ; toàn bộ 196 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu đều thiệt mạng. Mục tiêu thứ hai, Tàu phòng vệ duyên hải số 16, cũng trúng ngư lôi và bị hư hại nhưng biến mất khỏi màn hình radar chiếc tàu ngầm và thoát được. Hai ngày sau đó Nhật Bản chấp nhận đầu hàng giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột, nên chiếc tàu ngầm lên đường quay trở về Trân Châu Cảng, đến nơi vào ngày 25 tháng 8. Nó lên đường vào ngày 30 tháng 8 để đi sang vùng bờ Đông, đến New London, Connecticut ngang qua kênh đào Panama.
1946 - 1947
Tại Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London, Atule được điều về Hải đội Tàu ngầm 2 và tham gia hoạt động huấn luyện cho Trường Tàu ngầm Hạm đội tại đây. Con tàu tham gia những lễ hội nhân ngày Hải quân tại Washington, D.C., trước khi đi đến Xưởng hải quân Portsmouth tại Maine, nơi nó được đại tu cho đến ngày 3 tháng 2, 1946. Nó khởi hành vào ngày 4 tháng 7, đi đến vùng biển Bắc Cực lạnh giá để tham gia vào Chiến dịch Nanook, hỗ trợ xây dựng các trạm quan trắc thời tiết tại khu vực này và giúp phát triển chiến thuật hoạt động tàu ngầm tại vùng cực. Cùng với các tàu hải quân , , , và tàu tuần duyên , nó đã vận chuyển nhân sự và tiếp liệu, trinh sát thời tiết, huấn luyện và thu thập thông tin thời tiết tại vùng cực. Trong một chuyến đi, con tàu đã đi đến 79 độ 11 phút vĩ độ Bắc, một kỷ lục đối với Hải quân Hoa Kỳ. Rời Thule, Greenland vào ngày 29 tháng 7, nó có chặng dừng tại Halifax, Nova Scotia trước khi về đến New London vào cuối tháng 8.
Đi đến Philadelphia, Pennsylvania vào ngày 27 tháng 2, 1947, Atule được đại tu để chuẩn bị ngừng hoạt động. Nó được cho xuất biên chế vào ngày 8 tháng 9, 1947, và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương, neo đậu tại New London.
1951 - 1970
Sau khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào tháng 6, 1950, Atule được huy động trở lại và kéo đến Xưởng hải quân Portsmouth tại Kittery, Maine, nơi nó được tái kích hoạt đồng thời hiện đại hóa trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY IA). Với một tháp chỉ huy suôn thẳng hơn và trang bị ống hơi cho phép sử dụng động cơ diesel ở độ sâu kính tiềm vọng, con tàu được cải thiện đáng kể tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động. Nó được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 8 tháng 3, 1951, và gia nhập Hải đội Tàu ngầm 8 tại New London.
Phần thưởng
Atule được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm sáu tàu Nhật Bản, bao gồm một tàu khu trục cũ, với tổng tải trọng 33.379 tấn.
Tham khảo
Ghi chú
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-403
USS Atule website
Kill Record: USS Atule
John Bryan Rushing Jr - U.S.S. Atule crewman reminisces (45 minute video)
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu được Hải quân Hoa Kỳ chuyển cho Hải quân Peru
Tàu ngầm của Hải quân Peru
Tàu bị đắm do tai nạn
Xác tàu đắm tại Thái Bình Dương
Sự cố hàng hải năm 1988
Tàu thủy năm 1944
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Tàu đắm ở Thái Bình Dương
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II
|
19853620
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20B%C3%B4ng%20Sen%20cho%20quay%20phim%20xu%E1%BA%A5t%20s%E1%BA%AFc
|
Giải Bông Sen cho quay phim xuất sắc
|
Giải Quay phim xuất sắc là một phần nằm trong một số hạng mục trao thưởng của Liên hoan phim Việt Nam, trao cho cá nhân các nhà quay phim hay đạo diễn hình ảnh của những tác phẩm tham dự Liên hoan. Giải thưởng này này bắt đầu từ kỳ Liên hoan phim lần thứ 2 với hai hạng mục Phim thời sự – tài liệu – khoa học và Phim truyện nhựa. Sau đó giải thưởng này có thêm trong hạng mục Phim thiếu nhi hay Phim hoạt hình. Từ kỳ Liên hoan phim lần thứ 10 đến Liên hoan phim lần thứ 19 có thêm giải Quay phim xuất sắc trong hạng mục Phim video. Đến kỳ Liên hoan phim lần thứ 15 – năm 2007 – giải Quay phim xuất sắc trong hạng mục Phim hoạt hình được thay thế bởi các giải dành cho họa sĩ.
Tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 14 diễn ra năm 2004, ban tổ chức có thêm giải Kỹ thuật xuất sắc dành cho các hạng mục, nhằm khuyến khích các nhà quay phim phát huy tài năng.
Danh sách nhận giải
Kỷ lục nhận giải
Phim thiếu nhi / Phim hoạt hình : Nguyễn Thủy Hằng (5 lần)
Phim truyện nhựa / điện ảnh: Lý Thái Dũng, Nguyễn K'Linh đều có 4 lần giành giải Quay phim xuất sắc, riêng Lý Thái Dũng có thêm một giải Kỹ thuật xuất sắc.
Phim tài liệu – khoa học: Lương Đức, Nguyễn Thước, Lê Mạnh Thích (cùng 3 lần)
Phim video: Trịnh Quang Tùng (2 lần)
Đạt giải nhiều hạng mục: Phi Tiến Sơn (phim video, phim thiếu nhi, phim điện ảnh)
Thập niên 1970
Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 1 năm 1970 chưa có hình thức trao giải cho cá nhân.
Thập niên 1980
Thập niên 1990
Thập niên 2000
Thập niên 2010
Thập niên 2020
Tham khảo
|
19853623
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Glyptoparus%20delicatulus
|
Glyptoparus delicatulus
|
Glyptoparus delicatulus là loài cá biển duy nhất thuộc chi Glyptoparus trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1959.
Từ nguyên
Tên chi được ghép bởi hai âm tiết: glyptó (γλυπτό trong tiếng Hy Lạp cổ đại; “điêu khắc”) và hậu tố parous trong tiếng Latinh (“sản xuất; sinh ra”), không rõ hàm ý, có lẽ chỉ đến mào thịt trên đỉnh đầu của cá đực loài này (ở cá cái thấp và kém phát triển). Tính từ định danh delicatulus trong tiếng Latinh có nghĩa là “rất mảnh mai”, cũng không rõ hàm ý điều gì, có lẽ là kích thước nhỏ bé của chúng.
Phân bố và môi trường sống
Từ Đông Phi, G. delicatulus có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Australes, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu và quần đảo Ogasawara, xa về phía nam đến bãi cạn Rowley và rạn san hô Great Barrier (Úc). Ở Việt Nam, G. delicatulus được ghi nhận tại cù lao Câu (Bình Thuận).
G. delicatulus sống trên các rạn san hô chết phủ thảm tảo, hoặc khu vực hỗn hợp san hô lẫn cát trong đầm phá, độ sâu đến ít nhất là 14 m.
Mô tả
Tổng chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở G. delicatulus là 5 cm.
Số gai vây lưng: 12; Số tia vây lưng: 16–17; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 18–19.
Sinh thái
Trứng của G. delicatulus có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ.
Tham khảo
D
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Kenya
Cá Mozambique
Cá Seychelles
Cá Réunion
Cá Maldives
Cá Việt Nam
Cá Nhật Bản
Cá Fiji
Cá Tonga
Động vật được mô tả năm 1959
|
19853632
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kamiichi%2C%20Toyama
|
Kamiichi, Toyama
|
là thị trấn thuộc huyện Nakaniikawa, tỉnh Toyama, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 19.351 người và mật độ dân số là 82 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 236,7 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Toyama
Toyama
Namerikawa
Uozu
Kurobe
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Toyama
|
19853633
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shosanbetsu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Shosanbetsu, Hokkaidō
|
là ngôi làng thuộc huyện Tomamae, phó tỉnh Rumoi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 1.080 người và mật độ dân số là 3,9 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 279,5 km2.
Tham khảo
Làng của Hokkaidō
|
19853634
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa%20xu%C3%A2n%20ca
|
Hoa xuân ca
|
Hoa xuân ca là một chương trình đại nhạc hội do Đài truyền hình Việt Nam sản xuất với sự tài trợ của VPBank, được phát sóng vào lúc 20 giờ tối ngày 28 hoặc 29 Tết hằng năm trên các kênh sóng của VTV từ năm 2023 đến nay.
Nội dung
Hoa xuân ca lan tỏa những cảm xúc thiêng liêng, khơi gợi niềm nỗi thương của mỗi người khi hướng về quê hương và tình thân gia đình trong dịp Tết. Đại nhạc hội là thời điểm bùng nổ của âm thanh, màu sắc, vũ đạo và nhiều phương thức trình diễn đều tập trung vào Tết.
Sản xuất
Tên gọi của chương trình được lựa chọn dựa theo tựa đề của bài hát cùng tên của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Mùa đầu tiên (2023)
Mùa đầu tiên của chương trình do Trần Thanh Phương làm đạo diễn âm nhạc, Phạm Hoàng Nam và Trần Anh Phương làm đạo diễn sân khấu, cùng với sự xuất hiện của các ca sĩ Mỹ Tâm, Trần Thu Hà, Đen Vâu, Tùng Dương, Thu Minh, Hồ Ngọc Hà, Soobin Hoàng Sơn, Phan Mạnh Quỳnh, Hoàng Thùy Linh, Uyên Linh, Văn Mai Hương, Ngọc Mai, Hà Lê, Bùi Lan Hương, Lân Nhã, Phương Mỹ Chi... Quốc Khánh và Jennifer Phạm là người dẫn chương trình mùa đầu tiên. Mùa đầu tiên của chương trình được phát sóng vào lúc 20 giờ 10 phút ngày 20 tháng 1 năm 2023 (tức ngày 29 tháng Chạp năm Nhâm Dần) trên các kênh VTV1 và VTV3.
Mùa thứ hai (2024)
Mùa thứ hai của chương trình có chủ đề "Hành trình trở về". Chương trình ghi hình liên tục trong 6 ngày cùng với 100 thành viên trong ekip, 23 ca khúc và hơn 30 nghệ sĩ tham dự chương trình. Sân khấu của chương trình được đầu tư quy mô, hoành tráng mang đậm sắc màu dân gian đương đại; được thiết kế bởi năm con đường cùng dẫn đến sân khấu trung tâm truyền đi thông điệp mọi ngả đường đều kết nối con người Việt trở về ngôi nhà thân thương của mình. Chương trình có sự góp mặt của các nghệ sĩ nổi tiếng như Kim Tử Long, Hồ Ngọc Hà, Mỹ Tâm, Trần Thu Hà, Đen Vâu, Tùng Dương, Thu Phương, Issac, Phan Mạnh Quỳnh, Tăng Duy Tân, Phương Mỹ Chi, Văn Mai Hương, Uyên Linh, Hồ Quỳnh Hương, Hoàng Thùy Linh, Hòa Minzy, Hoàng Hải, Mono, Binz... Quốc Khánh và Thụy Vân là người dẫn chương trình mùa thứ hai. VPBank là nhà tài trợ chính cho chương trình. Khi được tham gia dẫn dắt chương trình, Thụy Vân từng nói:
Trước khi vào phần trình diễn của mình, nữ ca sĩ Hồ Ngọc Hà đã phải cắt phăng chiếc váy bạc triệu của mình đến 2 lần để có thể thoải mái trình diễn. Mùa 2 của chương trình được phát sóng vào lúc 20 giờ 10 phút ngày 8 tháng 2 năm 2024 (tức ngày 29 tháng Chạp năm Quý Mão) trên VTV1, VTV3, VTV8, VTV9 và VTV Cần Thơ.
Chủ đề của chương trình
2024: Hành trình trở về
Nhà tài trợ
Clear (Unilever Việt Nam) (2023)
VPBank (2024)
Giải thưởng
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hoa xuân ca trên YouTube
Hoa xuân ca trên Facebook
Chương trình truyền hình
Chương trình truyền hình Việt Nam
|
19853645
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1ch%20m%E1%BA%A1ng%20Th%C3%A1ng%20T%C3%A1m%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Cách mạng Tháng Tám (định hướng)
|
Trong tiếng Việt, Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đánh đổ ách thống trị của thực dân và chế độ quân chủ, giành độc lập tự do. Ngoài ra, Cách mạng Tháng Tám còn đựoc lấy làm:
Quảng trường Cách mạng Tháng Tám nằm ở trước mặt Nhà hát lớn Hà Nội, thuộc phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
Đường Cách Mạng Tháng Tám: một tuyến đường trục huyết mạch trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, nối từ ngã sáu Phù Đổng (Quận 1) đến ngã tư Bảy Hiền (quận Tân Bình)
|
19853647
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mustafa%20Suleyman
|
Mustafa Suleyman
|
Mustafa Suleyman (sinh tháng 8/1984) là một nhà nghiên cứu người Anh chuyên về trí tuệ nhân tạo và là một doanh nhân. Suleyman là người đồng sáng lập và đứng đầu về mảng AI trong công ty trí tuệ nhân tạo DeepMind, một công ty được điều hành dưới trướng Google. Sau khi rời DeepMind vào năm 2022, Suleyman mở công ty khởi nghiệp trí tuệ nhân tạo Inflection AI.
Những năm đầu đời và học vấn
Bố của Suleyman là một tài xế người Syria và mẹ của ông là một y tá người Anh. Suleyman sống với bố mẹ và hai em trai ở Caledonian, khu Islington, London, Anh..
Ông học ở trường Tiểu học Thornhill - một trường công tại Islington. Sau đó ông chuyển trường và tiếp tục học tại trường tiểu học Queen Elizabeth's School - một trường sinh có tiếng tại Barnet. Trong khoảng thời gian đó, ông đã gặp Demis Hassabis - nhà đồng sáng lập của DeepMind thông qua em trai của Demiss, cũng là bạn thân của ông. Suleyman từng chia sẻ rằng ông và Hassabis đã từng thảo luận về cách tạo ra ảnh hưởng tích cực trên toàn thế giới. Suleyman sau đó theo học tại trường Đại học Mansfield ở Oxford trước khi nghỉ học vào năm 19 tuổi.
Sự Nghiệp
Sự Nghiệp
Sau khi bỏ học vào năm 19 tuổi, Suleyman cùng với người bạn đại học Mohammed Mamdani đã thành lập Muslim Youth Helpline một đường dây nóng tư vấn cho các bạn trẻ vị thành niên theo Đạo Hồi. Sau một khoảng thời gian, tổ chức này đã trở thành một trong những dịch vụ hỗ trợ sức khỏe tinh thần lớn nhất cho người theo Đạo Hồi tại Anh.
Sau khi thành lập Muslim Youth Helpline, Suleyman làm sĩ quan cảnh sát về nhân quyền cho Ken Livingstone - thị trưởng của London. Sau đó, ông tạo ra Reo Partners - một công ty tư vấn sử dụng phương pháp giải quyết mâu thuẫn để nhận định được các khó khăn xã hội. Với tư cách là nhà đàm phán và cố vấn viên, Suleyman đã làm việc cho một tệp khách hàng khá lớn như Liên hợp Quốc, chính phủ Hà Lan và Quỹ quốc tế Bảo vệ thiên nhiên.
Sự nghiệp ở DeepMind ở Google
Suleyman đồng sáng lập ra công ty trí tuệ nhân tạo DeepMind và giữ chức vụ giám đốc sản xuất tại đây. Công ty nhanh chóng chiếm được vị thế tiên phong trong lĩnh vực AI và được tài trợ bởi Founders Fund, Elon Musk and Scott Banister, và những người khác.
Năm 2014, DeepMind được Google mua lại với giá 400 triệu bảng Anh và trở thành thương vụ mua bán lớn nhất tại Châu Âu tại thời điểm đó. Suleyman trở thành người đứng đầu trong mảng AI của DeepMind, chịu trách nhiệm đưa các công nghệ của DeepMind vào sản phẩm của Google.
Vào tháng 2/2016, Suleyman cho ra mắt DeepMind Health tại tổ chức Royal Society of Medicine. DeepMind Health xây dựng công nghệ hỗ trợ bác sĩ cho Dịch vụ Sức Khỏe quốc tế (NHS) và các đối tác khác nhằm phát triển các dịch vụ y tế ở tuyến đầu. Dưới trướng của Suleyman, DeepMind cũng phát triển các nghiên cứu hợp tác với nhiều tổ chức sức khỏe ở Anh như bệnh viện mắt Moorfields Eye Hospital NHS Foundation Trust.
Năm 2016, Suleyman đã nỗ lực đưa thuật toán của Deepmind vào trung tâm dữ liệu của Google để làm giảm mức năng lượng cần thiết cho quá trình làm mát. Thuật toán DeepMind đã đánh giá hàng tỷ phương án vận hành cho người điều khiển trung tâm và đưa ra các đề xuất dựa trên mức năng lượng tiêu hao được dự đoán. Thuật toán còn phát hiện ra một phương pháp mới để làm mát trung tâm điều khiển, giúp giảm 40% lượng năng sử dụng để làm mát, và cải thiện 15% hiệu năng sử dụng tổng năng lượng của trung tâm dữ liệu.
Vào tháng 8/2019, Suleyman buộc phải rời công ty sau các cáo buộc chèn ép nhân viên. Công ty đã thuê một luật sư ngoài để điều tra vụ việc, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn thì Suleyman rời DeepMind và gia nhập công ty mẹ Google với chức vị Phó Chủ tịch. Ban lãnh đạo đã gửi thông báo đến toàn bộ nhân viên trong DeepMind về những gì xảy ra. Theo Tờ Báo Insider về các chi tiết của vụ việc, "cách lãnh đạo của Suleyman không hề đạt chuẩn như kỳ vọng.
Sự nghiệp sau khi rời DeepMind
Kể từ tháng 6/2019, Suleyman làm việc trong ban quản trị của The Economist Group - công ty xuất bản tờ báo Economist. Vào tháng 12/2019, Suleyman thông báo rằng ông sẽ rời DeepMind để gia nhập vào Google.
Inflection AI
Suleyman rời Google vào tháng 1/2022 và làm việc với tư cách là đối tác liên doanh cho Greylock partner Tháng 3/2022, ông cùng với Reid Hoffman sáng lập ra Inflection AI - một mô hình AI tiên phong trong giới trí tuệ nhân tạo. Inflection AI được phát triển với mục đích tạo ra các AI có thể giúp con người "giao tiếp" với máy tính. Công ty không chỉ tuyển dụng những nhân viên cũ của Google và Meta mà còn huy động được 225 triệu USD trong lần gọi vốn đầu tiên.
Năm 2023, Inflection AI cho ra mắt chatbot đàm thoại tên Pi với trí tuệ riêng biệt. Pi "có thể nhớ được những cuộc hội thoại trước đó và dường như có thể nắm bắt tâm lý người dùng sau một khoảng thời gian. Suleyman cho biết mục tiêu lâu dài của Chatbot Pi là trở thành một "nhà quản lý số" được thiết kế chủ yếu để đối thoại với người dùng, đặt ra câu hỏi và hỗ trợ về mặt cảm xúc cho người dùng.
Quan điểm về "Hành vi đạo đức của AI"
Suleyman luôn đưa ra những quan điểm tiêu biểu trong các cuộc tranh luận về đạo đức của AI Ông cũng đã nêu lên quan điểm của mình về vai trò quan trọng của các doanh nghiệp, chính phủ và xã hội trong việc thúc đẩy các công ty công nghệ phải có trách nhiệm với sản phẩm của mình. Ông cũng khuyến khích việc đưa ra các giải pháp công nghệ để các nhà lãnh đạo doanh nghiệp ưu tiên trách nhiệm xã hội bên cạnh những công việc được giao. Khi vẫn làm ở DeepMind, Suleyman đã thành lập một đơn vị nghiên cứu các tác động của AI đến thế giới thực nhằm giúp các nhà công nghệ áp dụng những kết quả này vào thực tế.
Suleyman cũng là đồng chủ tịch sáng lập Partnership on AI một tổ chức bao gồm các đại diện đến từ Amazon, Apple, DeepMind, Meta, Google, IBM, và Microsoft. Tổ chức này nghiên cứu và xây dựng các phương pháp vận hành tốt nhất cho công nghệ AI, nâng cao hiểu biết của mọi người về AI. Partnership on AI hoạt động như một nền tảng mở để thảo luận về AI cũng như các tác động của AI lên con người và xã hội. Hội đồng quản trị của Partnership on AI cũng bình đẳng về số lượng của các thành viên thuộc tổ chức thương mại và phi lợi nhuận.
Vào tháng 9/2023, Suleyman cùng với nhà nghiên cứu Michael Bhaskar cho ra mắt cuốn sách The Coming Wave. Cuốn sách viết về những rủi ro khó tránh khỏi của AI và công nghệ sinh học tổng hợp, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm ngăn chặn những rủi ro này. The Coming Wave được đề cử trong danh sách Giải thưởng the 2023 Financial Times Business Book of the Year Award - một giải thưởng thường niên được trao cho cuốn sách kinh doanh hay nhất của năm. Và trong tháng 2/2024, cuốn sách The Coming Wave được Công ty Cổ Phần Xuất bản Khoa học và Giáo dục Thời Đại (TIMES) chuyển thể sang phiên bản tiếng Việt với tựa đề Sóng Thần Công Nghệ
Đời sống các nhân và thành tựu
Năm 2017, Suleyman sống tại Peckham với vợ sắp cưới. Theo tờ báo Business Insider Suleyman theo cánh tả chính trị. Năm 2023, ông được TIME bầu chọn vào danh sách 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực AI
Mục lục tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1984
Nhân viên Google
Nhân vật còn sống
|
19853651
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20Oscar%20l%E1%BA%A7n%20th%E1%BB%A9%2096
|
Giải Oscar lần thứ 96
|
Lễ trao giải Oscar lần thứ 96 là lễ trao giải thường niên do Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh tổ chức, nhằm tôn vinh những tác phẩm điện ảnh xuất sắc nhất năm 2023. Buổi lễ được diễn ra tại Nhà hát Dolby ở Hollywood, Los Angeles, California vào ngày 10 tháng 3 năm 2024, do Hamish Hamilton làm đạo diễn và được phát sóng trên truyền hình tại Mỹ bởi đài ABC, đồng thời cũng được lên sóng tại Việt Nam vào ngày 11 tháng 3 năm 2024 trên K+. Jimmy Kimmel tiếp tục là người dẫn chương trình tổng thể của buổi lễ, đánh dấu đây là lần thứ tư mà Kimmel làm nguời dẫn chương trình cho giải Oscar, sau các buổi lễ lần thứ 89, lần thứ 90 và lần thứ 95.
Các đề cử chính thức đã được công bố vào ngày 23 tháng 1 năm 2024. Oppenheimer dẫn đầu danh sách với 13 đề cử, theo sau là Poor Things với 11 đề cử và Vầng trăng máu với 10 đề cử. Oppenheimer chung cuộc đã giành được bảy hạng mục lớn, bao gồm Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất, trong khi Poor Things giành bốn hạng mục và The Zone of Interest giành hai hạng mục. Những tác phẩm khác đều mang về một hạng mục chung cuộc bao gồm American Fiction, Kỳ án trên đồi tuyết, Barbie, Thiếu niên và chim diệc, Godzilla Minus One, The Holdovers và 20 Days in Mariupol. Buổi lễ đã thu hút 19,5 triệu người xem tại Mỹ, qua đó trở thành chương trình trao giải được xem nhiều nhất kể từ năm 2020.
Trong các sự kiện liên quan trước buổi lễ, Viện Hàn lâm đã tổ chức lễ trao giải Governor vào ngày 9 tháng 1 năm 2024 tại phòng khiêu vũ Ray Dolby ở Ovation Hollywood, do John Mulaney làm người chủ trì. Đến ngày 23 tháng 2 năm 2024, giải Oscar cho khoa học kỹ thuật được tổ chức tại Bảo tàng Hàn lâm về Nghệ thuật điện ảnh (Academy Museum of Motion Pictures) ở Los Angeles, do Natasha Lyonne làm người chủ trì kiêm người trao giải của buổi lễ. Một buổi phát trực tiếp của ngôn ngữ ký hiệu Mỹ có video của các phiên dịch viên đã được phát trên trang YouTube của Viện Hàn lâm.
Đề cử và đoạt giải
Giải thưởng chính
Người chiến thắng được liệt kê lên đầu hàng, được đánh dấu bằng in đậm và biểu thị bằng biểu tượng dấu thập kép (‡).
Giải Governor
Viện Hàn lâm đã tổ chức buổi lễ trao giải Governor vào ngày 9 tháng 1 năm 2024, do John Mulaney làm người dẫn chương trình. Các giải thưởng được trao cho những người sau đây trong buổi lễ:
Giải Oscar danh dự
Angela Bassett
Mel Brooks
Carol Littleton
Giải thưởng nhân đạo Jean Hersholt
Michelle Satter
Phim có nhiều chiến thắng và đề cử
Những người trao giải và trình diễn
Dưới đây là danh sách những nghệ sĩ tham gia lễ trao giải với tư cách là những người trao giải và những người trình diễn các tiết mục.
Thông tin buổi lễ
Ngày 17 tháng 10 năm 2023, Raj Kapoor và Katy Mullan được công bố là những giám đốc sản xuất, với Hamish Hamilton làm đạo diễn của buổi lễ; trong đó Mullan là giám đốc sản xuất của công ty sản xuất chương trình Done and Dusted của Hamilton. Ngày 15 tháng 11 cùng năm, Jimmy Kimmel được công bố là người dẫn chương trình của buổi lễ, đánh dấu đây là năm thứ hai liên tiếp và là lần thứ tư tổng thể trong lịch sử ông làm người dẫn chương trình của giải Oscar.
Ngày 30 tháng 11 năm 2023, ABC và Viện Hàn lâm thông báo rằng buổi lễ sẽ được tổ chức sớm hơn một tiếng, bắt đầu vào lúc 4 giờ chiều theo giờ PT (7 giờ tối theo giờ ET), qua đó cho phép các chương trình phát sóng trong nửa tiếng vào khung giờ vàng sau khi kết thúc buổi lễ. Trong khi đó, ABC cũng cho biết rằng một tập phim mới của Abbott Elementary sẽ được phát sóng sau buổi lễ, dự kiến phát sóng vào lúc 7 giờ 30 phút tối theo giờ PT (10 giờ 30 phút tối theo giờ ET). Với sự thay đổi này, buổi preshow (chương trình thảm đỏ trước buổi lễ) sẽ giảm xuống còn nửa tiếng.
Ngày 29 tháng 1 năm 2024, nghệ sĩ hài và phát thanh viên người Anh Amelia Dimoldenbergngười dẫn chương trình cho chương trình phỏng vấn trên YouTube Chicken Shop Dateđược công bố là đại sứ truyền thông và phóng viên thảm đỏ của buổi lễ. Dimoldenberg đã tham gia vào nhiều sự kiện của mùa giải Oscar lần này, bao gồm bữa tiệc chiêu đãi của những người được đề cử giải Oscar, nơi cô tham dự một buổi sản xuất video của Viện Hàn lâm với những người được đề cử. Bên cạnh việc phỏng vấn những người được đề cử và những tài năng khác có mặt trên thảm đỏ của giải Oscar, cô cũng sẽ tham gia vào chương trình "Oscars 96 Behind the Scenes Tour" (Chuyến tham quan hậu trường của giải Oscar lần thứ 96).
Bắt đầu vào ngày 26 tháng 2 năm 2024, những người công bố trao giải đã được công bố trong một loạt các nhóm. Trong khi đó, những người trình diễn tiết mục được công bố vào ngày 28 tháng 2 năm 2024, mặc dù tiết mục trình diễn "I'm Just Ken" của Ryan Gosling trong bộ phim Barbie đã được tờ Variety đưa tin cách đây hai ngày. Sau khi nhóm người công bố trao giải đầu tiên được xướng tên, tờ The Hollywood Reporter được biết rằng Viện Hàn lâm sẽ khôi phục hình thức công bố trao giải phổ biến trước đây được sử dụng trong buổi lễ trao giải lần thứ 81, trong đó năm diễn viên từng đoạt giải Oscar cho vai chính và vai phụ đều cùng nhau lên sân khấu để giới thiệu những người được đề cử hiện tại trong các hạng mục tương ứng của họ.
Nhà thiết kế sản xuất Alana Billingsley và Misty Buckley đã thiết kế một sân khấu "hấp dẫn, đầy màu sắc và thân mật" trong suốt chín tháng. Theo Billingsley và Buckley, họ lấy cảm hứng từ những không gian đương đại, nơi mọi người có thể "gặp gỡ, trao đổi, sáng tạo. Giống như một quảng trường thời hiện đại". Bối cảnh sân khấu đã sử dụng lớp "thạch cao mềm" được hoàn thiện, "màu trắng ấm áp và tông màu kết hợp toàn bộ thiết kế lại với nhau". Kapoor muốn sân khấu có cảm giác "đắm chìm và đổi mới, và đôi khi chúng tôi cũng muốn nó có cảm giác thân mật hơn. Tôi nghĩ khi bạn bước vào nhà hát và khi bạn nhìn thấy nó, nó có cảm giác rất ấm áp và bao bọc cũng như các cử chỉ thật mềm mại. Nó giống như một cái ôm, vì màn hình và [cấu trúc] có hình dạng đường cong đáng yêu này như thế nào. Đó là cách mà chúng tôi muốn mọi người cảm nhận". Xuyên suốt buổi lễ, sân khấu sẽ được thay đổi thiết kế một cách tinh tế để tôn vinh những người được đề cử; trong đó, các hạng mục về kịch bản sẽ bao gồm hình ảnh của những chiếc máy đánh chữ thật, trong khi hạng mục Thiết kế phục trang đẹp nhất sẽ giới thiệu hình ảnh của một số trang phục được đề cử.
Các quy tắc đa dạng
Đây sẽ là năm đầu tiên mà các quy tắc đa dạng cho hạng mục Phim hay nhất trở thành bắt buộc. Tháng 6 năm 2020, theo sáng kiến Academy Aperture 2025, Viện Hàn lâm đã thiết lập một tập hợp các tiêu chuẩn đại diện và bao gồm mà một bộ phim sẽ được yêu cầu để đáp ứng để cạnh tranh trong thể loại. Đối với các giải Oscar lần thứ 94 và lần thứ 95 (những bộ phim được phát hành vào năm 2021 và 2022), các nhà làm phim chỉ được yêu cầu phải gửi một biểu mẫu "Tiêu chuẩn hòa nhập của Viện hàn lâm" (Academy Inclusion Standards) một cách bí mật chỉ với mục đích cung cấp dữ liệu. Có bốn tiêu chuẩn chung, trong đó một bộ phim phải đáp ứng hai tiêu chuẩn để được xem xét cho hạng mục Phim hay nhất, bao gồm: (a) "sự trình bày, chủ đề và câu chuyện trên màn ảnh"; (b) "đội ngũ lãnh đạo và dự án sáng tạo"; (c) "sự tiếp cận và cơ hội của ngành"; và (d) "phát triển đối tượng".
Theo như lời giải thích của Alissa Wilkinson trên tạp chí Vox vào năm 2020, các tiêu chuẩn "về cơ bản được chia thành hai nhóm lớn: các tiêu chuẩn thúc đẩy sự đại diện toàn diện hơn và các tiêu chuẩn thúc đẩy việc làm toàn diện hơn". Các tiêu chuẩn này nhằm mục đích cung cấp cơ hội việc làm lớn hơn cho các nhóm chủng tộc và dân tộc "ít đại diện", phụ nữ, những người thuộc cộng đồng LGBTQ+ và những người khuyết tật về nhận thức hoặc thể chất, nhưng không tính những người bị mắc các bệnh khuyết tật trí tuệ như rối loạn phổ tự kỷ.
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Oscars Channel trên YouTube (do Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh điều hành)
Lễ trao giải Oscar
Hoa Kỳ năm 2024
Giải thưởng điện ảnh năm 2023
Giải thưởng Hoa Kỳ năm 2024
Los Angeles năm 2024
|
19853657
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Akamatsu%20Ry%C5%8Dko
|
Akamatsu Ryōko
|
(24 tháng 8 năm 1929 - 7 tháng 2 năm 2024) là cựu chính khách người Nhật Bản. Trước đây bà từng học tại Đại học Tokyo và giữ chức vụ làm Bộ trưởng Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản từ ngày 9 tháng 8 năm 1993 đến ngày 30 tháng 6 năm 1994.
Tham khảo
Sinh năm 1929
Mất năm 2024
Cựu sinh viên Đại học Tokyo
Bộ trưởng Giáo dục Nhật Bản
Nữ chính khách Nhật Bản thế kỷ 20
Chính khách Nhật Bản thế kỷ 20
Chính khách từ Ōsaka
Đại sứ Nhật Bản tại Uruguay
Nữ bộ trưởng Nhật Bản
|
19853664
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Doodh%20pati%20chai
|
Doodh pati chai
|
Doodh pati chai () là một loại thức uống làm từ
trà, có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ, được tiêu thụ ở Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Afghanistan và Nepal. Trong đó, sữa cùng với đường được đun sôi với trà. Doodh pati chai khác với saada chai ở chỗ nó chỉ sử dụng sữa (trái ngược với nước) và trà. Loại trà này khá phổ biến ở Nam Á. Nó đắt hơn một chút so với saada chai thông thường.
Từ nguyên
Trong nhiều ngữ chi Ấn-Arya, chai hoặc cha là từ để chỉ trà. Điều này xuất phát từ tiếng Ba Tư (chay), bắt nguồn từ từ tiếng Trung có nghĩa là trà (). Doodh có nghĩa là sữa và pati có nghĩa là lá. Vì vậy, thuật ngữ Doodh pati chai có nghĩa đen là sữa và lá trà.
Chuẩn bị
Một phương pháp chuẩn bị là cho nước vào nồi và đun sôi cùng với nhiều loại gia vị khác nhau như thảo quả xanh, gừng, bạch đậu khấu đen, quế, tiêu đen, đinh hương đen, thì là, nhục đậu khấu, bột gừng khô, cũng như nghệ tây ở tầng lớp thượng lưu đến trung lưu. Khi nước và gia vị sôi, người ta cho trà vào. Hỗn hợp này sau đó được để lại để ủ. Sau đó, sữa nguyên kem được thêm vào hỗn hợp rồi hầm trong thời gian dài cho ngấm. Đường thường được thêm vào tùy theo khẩu vị của mỗi người. Sau khi khuấy kỹ ở nhiệt độ thấp, dụng cụ lọc trà được sử dụng trước khi phục vụ chai. Nó thường được rót vào cốc nhưng một số người thích uống theo cách cổ điển hơn là từ mép đĩa.
Tiêu dùng
Doodh pati chai được tiêu thụ chủ yếu ở miền bắc Ấn Độ và Pakistan, nơi nó được luộc cùng với bạch đậu khấu, gừng và nhiều loại gia vị khác. Thông thường, nó có sẵn ở các dhaba ven đường và chaiwala ở các góc phố, nhưng phổ biến nhất là được chuẩn bị tại nhà, mặc dù ít hơn so với loại bằng nước. Nó chủ yếu được tiêu thụ ở miền Bắc Ấn Độ và Pakistan, mặc dù thỉnh thoảng nó cũng được tiêu thụ ở Nepal và Bangladesh và đã lan rộng đến cả Trung Đông do sự phổ biến của nó.
Doodh pati cũng thường được phục vụ ở các quán dhaba và chaiwala ven đường trên khắp Nam Á. Chúng cũng được tiêu thụ trong thời gian rảnh rỗi sau một ngày bận rộn.
Xem thêm
Ẩm thực Ấn Độ
Ẩm thực Bangladesh
Ẩm thực Pakistan
Tham khảo
Ẩm thực Ấn Độ
Ẩm thực Bangladesh
Ẩm thực Pakistan
Trà hỗn hợp
Trà sữa
Thức uống
Trà
|
19853667
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alfie%20Whiteman
|
Alfie Whiteman
|
Alfie Malik Whiteman (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Tottenham Hotspur tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Sự nghiệp thi đấu
Tottenham
Whiteman gia nhập học viện của câu lạc bộ Tottenham Hotspur vào năm 2015. Vào năm 2019, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ có thời hạn đến năm 2022.
Vào ngày 26 tháng 11 năm 2020, Whiteman được tung vào sân thay cho Joe Hart ở phút thứ 82, trong trận thắng 4-0 trước Ludogorets Razgrad ở UEFA Europa League.
Cho mượn tại Degerfors
Vào ngày 12 tháng 8 năm 2021, Whiteman gia nhập câu lạc bộ Degerfors tại Allsvenskan dưới dạng cho mượn trong phần còn lại của mùa giải 2021. Anh trở lại Tottenham sau khi mùa giải kết thúc vào tháng 12 năm 2021. Whiteman tiếp tục được cho mượn tại Degerfors vào tháng 2 năm 2022, và trở lại Tottenham vào tháng 12 năm 2022.
Quay trở lại Tottenham
Vào ngày 22 tháng 2 năm 2023, có thông báo rằng Whiteman đã gia hạn hợp đồng với Tottenham đến năm 2025.
Sự nghiệp quốc tế
Whiteman có ông ngoại là người Pakistan nên đủ điều kiện đại diện cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Pakistan.
Đời tư
Whiteman theo học tại trường Park View School ở Tottenham.
Thống kê sự nghiệp
Tham khảo
Sinh năm 1998
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Cầu thủ bóng đá Anh ở nước ngoài
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Tottenham Hotspur F.C.
Cầu thủ bóng đá Degerfors IF
Cầu thủ bóng đá Allsvenskan
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thụy Điển
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
|
19853677
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nagaoka%20Keiko
|
Nagaoka Keiko
|
là chính khách người Nhật Bản. Trước đây, bà từng giữ chức vụ làm Bộ trưởng Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ từ ngày 10 tháng 8 năm 2022 đến ngày 13 tháng 9 năm 2023.
Tham khảo
Sinh năm 1953
Nhân vật còn sống
Người Shibuya
Chính khách Tōkyō
Cựu sinh viên đại học Gakushuin
Hạ nghị sĩ Nhật Bản
Chính khách Đảng Dân chủ Tự do (Nhật Bản)
Nữ chính khách Nhật Bản thế kỷ 21
|
19853683
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20Th%E1%BB%9D%20Ti%E1%BB%87c%20C%C6%B0%E1%BB%9Bi%20Gi%C3%A0y%20Cao%20G%C3%B3t
|
Nhà Thờ Tiệc Cưới Giày Cao Gót
|
Nhà Thờ Tiệc Cưới Giày Cao Gót () là một tòa nhà hình giày cao gót ở thị trấn Bố Đại, Gia Nghĩa, Đài Loan. Được quản lý bởi Cục Quản lý Khu thắng cảnh quốc gia Bờ biển Tây Nam
Lịch sử
Việc xây dựng được hoàn thành vào ngày 10 tháng 1 năm 2016 và được đưa vào thử nghiệm vào tháng 2 năm 2016. Công trình chính thức khai trương vào ngày 23 tháng 7 năm 2016 Cuối năm đó, nhà thờ đã nhận được chứng nhận Kỷ lục Guinness thế giới là công trình hình giày cao gót lớn nhất thế giới. Vào năm 2017, Cục Du lịch Đài Loan đã lên kế hoạch nâng cấp cơ sở vật chất xung quanh nhà thờ và triển khai một loạt chương trình khuyến mãi cho nhà thờ.
Kiến trúc
Công trình có hình dáng giống chiếc giày cao gót, cao 17,76 m, rộng 11,91 m và dài 25,16 m. Công trình bao gồm hơn 300 mảnh kính màu xanh lam.
Sự kiện
Công trình này nổi tiếng vì được sử dụng làm địa điểm tổ chức đám cưới. Mặc dù được gọi một cách thông tục là 'nhà thờ', nhưng địa điểm này không được thánh hiến và không có chức năng tôn giáo.
Xem thêm
Danh sách các điểm du lịch ở Đài Loan
Tham khảo
Khởi đầu năm 2016 ở Đài Loan
Công trình xây dựng huyện Gia Nghĩa
Nhà nguyện lễ cưới
|
19853684
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stephanie%20Del%20Valle
|
Stephanie Del Valle
|
Stephanie Del Valle Díaz (sinh ngày 30 tháng 12 năm 1996) là một nhạc sĩ và người mẫu đến từ Puerto Rico. Cô đăng quang Hoa hậu Thế giới 2016 và là người thứ hai đến từ Puerto Rico đoạt danh hiệu này, sau Wilnelia Merced tại Hoa hậu Thế giới 1975.
Sự nghiệp
Del Valle theo học Đại học Pace ở Thành phố New York, nơi cô đang học luật và truyền thông. Trước khi tham gia các cuộc thi sắc đẹp, Del Valle là nàng thơ của nhà thiết kế thời trang người Puerto Rico Carlos Alberto. Cô nói được ba thứ tiếng; Tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh và tiếng Pháp.
Các cuộc thi sắc đẹp
Hoa hậu Thế giới Puerto Rico 2016
Del Valle đã thi đấu tại Hoa hậu Thế giới Puerto Rico vào năm 2016, đại diện cho thành phố Toa Baja. Cuối cùng, cô đã giành được danh hiệu Hoa hậu Thế giới Puerto Rico 2016 và được trao vương miện bởi người đoạt danh hiệu tiền nhiệm Keysi Marie Vargas Vélez. Cô cũng từng đoạt giải Tài năng trong cuộc thi.
Hoa hậu Thế giới 2016
Cô đại diện cho Puerto Rico tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2016 được tổ chức tại Oxon Hill, Maryland, Hoa Kỳ. Cô lọt vào Top 21 vòng thi Hoa hậu Tài năng. Trong đêm chung kết, Del Valle, với tư cách là một trong Top 5 thí sinh lọt vào vòng chung kết, đã được hỏi - "Nếu bạn có cơ hội thay đổi điều gì đó về thế giới, đó sẽ là gì?" Cô ấy trả lời:
Cuối cùng, cô đã được trao vương miện Hoa hậu Thế giới 2016 tại sự kiện này bởi Hoa hậu Thế giới 2015, Mireia Lalaguna của Tây Ban Nha. Đây là lần thứ hai Puerto Rico giành vương miện Hoa hậu Thế giới, sau Wilnelia Merced, Hoa hậu Thế giới 1975.
Tham khảo
Hoa hậu Puerto Rico
|
19853690
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20%E2%80%93%20%C4%90%E1%BB%93ng%20%C4%91%E1%BB%99i%20N%E1%BB%AF
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Đồng đội Nữ
|
Nội dung biểu diễn đồng đội nữ, bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 10 năm 2023 tại Nhà thi đấu thể thao dưới nước của Trung tâm thể thao Olympic Hàng Châu.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00)
Kết quả
Nguồn:
Chú thích
R - Dự bị nhưng không tham dự bất kỳ nội dung nào
Tham khảo
Đồng đội Nữ
|
19853691
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202018
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 được tổ chức tại Sân vận động thể thao dưới nước Gelora Bung Karno, Khu liên hợp thể thao Gelora Bung Karno, Jakarta, Indonesia từ ngày 27 tháng 8 đến ngày 29 tháng 8 năm 2018.
Chỉ có các nội dung dành cho nữ được tổ chức trong hai nội dung thi đấu. Trung Quốc một lần nữa "thống trị" giải đấu khi giành cả hai huy chương vàng trước Nhật Bản. Trong khi đó Nhật Bản xếp hạng hai và giành hai huy chương bạc.
Lịch thi đấu
Quốc gia tham dự
Tổng cộng 94 vận động viên đến từ 11 quốc gia tranh tài môn bơi nghệ thuật tại Đại hội thể thao châu Á 2018:
Danh sách huy chương
Bảng tổng sắp huy chương
Liên kết ngoài
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018
Official Result Book – Artistic Swimming
Tham khảo
2018
Môn thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 2018
Đại hội Thể thao châu Á
Giải đấu thể thao dưới nước quốc tế tổ chức bởi Indonesia
|
19853701
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202018%20%E2%80%93%20%C4%90%C3%B4i%20N%E1%BB%AF
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 – Đôi Nữ
|
Nội dung biểu diễn đôi nữ bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 diễn ra từ ngày 27 đến ngày 28 tháng 8 năm 2018 tại Sân vận động thể thao dưới nước Gelora Bung Karno.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ miền Tây Indonesia (UTC+07:00)
Kết quả
Chú thích
FR — Dự bị trong nội dung free
RR — Dự bị trong nội dung technical và free
TR — Dự bị trong nội dung technical
Liên kết ngoài
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018
Artistic Swimming - Women's Duets | Asian Games 2018 Jakarta Palembang
Tham khảo
Đôi Nữ
|
19853703
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202018%20%E2%80%93%20%C4%90%E1%BB%93ng%20%C4%91%E1%BB%99i%20N%E1%BB%AF
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 – Đồng đội Nữ
|
Nội dung biểu diễn đồng đội nữ, bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 diễn ra vào ngày 29 tháng 8 năm 2018 tại Sân vận động thể thao dưới nước Gelora Bung Karno.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ miền Tây Indonesia (UTC+07:00)
Kết quả
Chú thích
FR — Dự bị trong nội dung free
RR — Dự bị trong nội dung technical và free
TR — Dự bị trong nội dung technical
Liên kết ngoài
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018
Tham khảo
Đồng đội Nữ
|
19853706
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kaijuu%208-gou
|
Kaijuu 8-gou
|
là một loạt shōnen manga do họa sĩ Matsumoto Naoya sáng tác và minh họa. Manga được đăng lần đầu trên tạp chí Shōnen Jump+ từ tháng 7 năm 2020, và sau đó được Shūeisha tổng hợp và phát hành thành 11 tập tankōbon tính đến tháng 12 năm 2023. Câu chuyện kể về Hibino Kafka, một người đàn ông sau khi vô tình ăn phải kaiju đã có được khả năng biến thành loài đó và bây giờ Kafka phải học cách sử dụng sức mạnh của mình trong khi cố gắng hết sức để vượt qua kỳ thi lần cuối cũng như để thực hiện lời hứa mà anh đã hứa với một người bạn từ thuở nhỏ.
Tham khảo
Ghi chú
Chú thích
Thư mục
Một nghiên cứu chỉ ra điểm khác biệt của Monster #8 đối với những bộ shōnen manga khác.
Một bài đánh giá của Kadokawa về bộ manga.
Liên kết ngoài
(anime)
Manga dài tập
Shōnen manga
Manga năm 2020
Manga năm 2024
Anime năm 2024
Anime dài tập dựa trên manga
Anime truyền hình dài tập sắp phát sóng
Truyện tranh mạng Nhật Bản
Production I.G
Manga Shūeisha
Manga Viz Media
Tiểu thuyết Viz Media
Kaiju
Jump J-Books
Anime Crunchyroll
Toho Animation
Kịch bản truyền hình của Ōkouchi Ichirō
Anime và manga khoa học giả tưởng
Anime và manga phiêu lưu
Chương trình của TV Tokyo
Biến đổi hình dạng trong tác phẩm giả tưởng
Truyện tranh mạng bản in
Manga phát hành bởi IPM
Anime truyền hình dài tập năm 2024
|
19853708
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/PCS%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202024
|
PCS mùa giải 2024
|
PCS mùa giải 2024 là mùa giải thứ 5 của Pacific Championship Series (PCS), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của khu vực Thái Bình Dương dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Mùa Xuân và Mùa Hè. Giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu vào ngày 19 tháng 1 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 7 tháng 4 năm 2024.
Thể thức
Vòng bảng
Có tổng cộng 2 vòng :
Vòng 1
8 đội tham gia thi đấu.
Thi đấu theo thể thức vòng tròn 1 lượt.
Tất cả các trận đấu đều là Bo3.
Cả 8 đội đều lọt vào vòng 2.
Vòng 2
Thi đấu theo thể thức vòng tròn 1 lượt.
Tất cả các trận đấu đều là Bo3.
Kết quả vòng 1 được giữ nguyên, chuyển tiếp sang vòng 2.
8 đội tham gia thi đấu được chia thành 2 bảng đấu, mỗi bảng 4 đội:
4 đội đứng đầu vòng 1 sẽ được xếp vào bảng Đối đầu (Contender group):
Cả 4 đội đều lọt vào vòng loại trực tiếp, trong đó 2 đội đứng đầu bảng sẽ lọt vào vòng 2 của vòng loại trực tiếp, 2 đội còn lại sẽ lọt vào vòng 1 của vòng loại trực tiếp.
4 đội còn lại sẽ được xếp vào bảng Đột phá (Breakout group):
2 đội đứng đầu bảng sẽ lọt vào vòng 1 của vòng loại trực tiếp.
Vòng loại trực tiếp
Thi đấu theo thể thức nhánh thắng nhánh thua.
Tất cả các trận đấu đều là Bo5.
11 đội tham gia thi đấu, bao gồm:
6 đội PCS.
3 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp LJL giải mùa xuân.
2 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp LCO giải mùa xuân.
8 đội xuất phát từ vòng 1, trong khi đó 3 đội còn lại lọt thẳng vào vòng 2:
2 đội đứng đầu bảng Đối đầu (Contender group) của PCS.
1 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp LJL giải mùa xuân.
Giải Mùa Xuân
Vòng bảng giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu từ ngày 19 tháng 1 năm 2024. 8 đội sẽ chơi tổng cộng 40 trận và tất cả các trận đấu vòng bảng sẽ được thi đấu theo thể thức Bo3. Sáu đội dẫn đầu vòng 2 vòng bảng sẽ tiến vào vòng loại trực tiếp cùng với các đại diện đến từ LJL và LCO, diễn ra từ ngày 11 tháng 3 đến ngày 7 tháng 4 năm 2024 . Đội đứng đầu vòng loại trực tiếp Giải Mùa Xuân đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2024.
Vòng bảng
Vòng 1
Vòng 2
Bảng Đối đầu
Bảng Đột phá
Vòng loại trực tiếp
Vòng 1
Bảng A
Bảng B
Vòng Cơ hội cuối cùng - LCQ
Vòng 2
Tham khảo
Liên Minh Huyền Thoại năm 2024
|
19853711
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Virgil%20K.%20Meroney
|
Virgil K. Meroney
|
Virgil Kersh Meroney II (16 tháng 2 năm 1921 – 27 tháng 6 năm 1980) là một đại tá Không quân Hoa Kỳ. Trong Thế chiến II, ông là phi công ách với 9 chiến công khi điều khiển chiếc P-47 Thunderbolt, khiến ông trở thành phi công xuất sắc P-47 duy nhất trong Liên đoàn chiến đấu số 352. Ông bị bắn hạ rồi bị bắt làm tù binh trước khi vượt ngục thành công. Ông từng thực hiện các nhiệm vụ trong Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam trước khi giải ngũ khỏi không quân vào năm 1970.
Đầu đời
Meroney sinh ngày 16 tháng 2 năm 1921, ở Pine Bluff, Arkansas.
Binh nghiệp
Vào tháng 5 năm 1937, ông gia nhập Lực lượng Vệ binh Quốc gia Arkansas và được lệnh nhập ngũ vào tháng 5 năm 1940. Năm 1941, ông kết hôn với Mildred Louise, nhũ danh Duckett (1921–2009). Họ có hai con trai: Virgil III và Douglas.
Vào ngày 27 tháng 3 năm 1942, ông tham gia khóa huấn luyện bay của Không lực Lục quân Hoa Kỳ và nhận phù hiệu phi công. Vào ngày 30 tháng 10 năm 1942, ông được sắc phong hàm thiếu úy tại Luke Field ở Arizona.
Thế chiến II
Vào tháng 12 năm 1942, Meroney được cử đến Westover Field ở Massachusetts, ông được chỉ định vào Phi đoàn chiến đấu số 487 trong Liên đoàn chiến đấu số 352 và vào tháng 1 năm 1943, ông hoàn thành khóa huấn luyện trong chiếc P-47 Thunderbolt. Vào tháng 6 năm 1943, Liên đoàn số 352 đổ bộ lên Vương quốc Anh và được chỉ định đến Không quân Hoàng gia Bodney ở Watton, Norfolk. Điều khiển những chiếc P-47 trong chiến đấu, Meroney đã bắn hạ chiếc máy bay Đức đầu tiên và chia chiến công khác với một đồng đội phi công chiến đấu vào ngày 1 tháng 12 năm 1943.
Meroney lập chiến công thứ hai vào ngày 4 tháng 12 năm 1943, cùng với chiến công chung. Ông bắn hạ chiếc máy bay Đức thứ tư vào ngày 29 tháng 1 năm 1944 và vào ngày 30 tháng 1, ông bắn hạ chiếc máy bay Đức thứ năm, trở thành phi công ách đầu tiên trong Liên đoàn chiến đấu số 352.
Meroney tiếp tục lập chiến công. Vào ngày 8 tháng 3, trong khi hộ tống các máy bay ném bom Mỹ rút lui sau nhiệm vụ ném bom trên Berlin, phi đội của Meroney đã giao chiến với ba chiếc Bf 109 do phi công Đức chỉ huy đang cố gắng tấn công các máy bay ném bom. Khi Mietusch tấn công các máy bay ném bom từ phía sau, ông đã bắn hạ được một trong những chiếc B-17 nhưng đáp lại bị Meroney bắn hạ, buộc Mietusch phải nhảy dù thoát khỏi chiếc máy bay, và công nhận Meroney với chiến công thứ tám. Vào ngày 16 tháng 3, ông bắn hạ chiếc máy bay Đức thứ 9, đây là chiến công cuối cùng của ông trong chiến tranh. Vào tháng 4 năm 1944, Liên đoàn số 352 chuyển sang chiếc P-51 Mustang. Vào ngày 8 tháng 4 năm 1944, khi oanh tạc một sân bay Đức, Meroney bị hỏa lực phòng không bắn hạ và ông nhảy thoát ra khỏi chiếc P-51 bị hư hỏng. Ông bị quân Đức bắt và bị giam làm tù binh cho đến tháng 4 năm 1945, khi ông vượt ngục và tìm cách liên lạc với Quân đội Hoa Kỳ đang tiến về sông Rhein.
Trong Thế chiến II, Meroney được công nhận đã bắn phá hủy 9 máy bay quân địch cộng thêm 2 chiến công chung và 1 chiếc bị hư hại. Vì những thành tích của mình trong chiến tranh, ông được trao Ngôi sao Bạc, 5 Huân chương Thập tự Phi hành Xuất sắc và 4 Huân chương Không quân. Khi phục vụ trong Liên đoàn số 352, chiếc P-47 được đặt theo tên vợ ông, mang tên "Sweet Louise".
Chiến tranh Lạnh
Sau khi trở về Hoa Kỳ, từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 1 năm 1946 Meroney là người hướng dẫn bay tại Luke Field và tiếp tục phục vụ trong Không quân Hoa Kỳ mới thành lập. Từ năm 1950, ông chỉ huy Phi đoàn hộ tống chiến đấu số 561 của Liên đoàn hộ tống chiến đấu số 12 và dẫn đầu đơn vị này đến Anh từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1951. Ông sau đó được chỉ định vào Phi đoàn thử nghiệm số 1211 tại Kwajalein từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1952, nơi ông tham gia nhiệm vụ lấy mẫu sau vụ thử hạt nhân Operation Ivy.
Từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1953, ông được chỉ định đến Nhật Bản, nơi ông điều khiển các chiếc F-84 Thunderjet tham chiến trong những tháng cuối cùng của Chiến tranh Triều Tiên. Meroney đảm nhận nhiều cương vị chỉ huy và tham mưu trong 15 năm tiếp theo. Năm 1968, trong Chiến tranh Việt Nam, ông được chỉ định vào Không đoàn chiến thuật số 8 tại Căn cứ Không quân Hoàng gia Thái Lan Ubon, ông giữ chức Phó Tư lệnh Tác chiến và kế tiếp là Phó Tư lệnh, điều khiển chiếc F-4 Phantom II trong các nhiệm vụ chiến đấu. Ông thực hiện 141 nhiệm vụ chiến đấu và đã thực hiện hai nhiệm vụ chiến đấu cùng con trai mình là Virgil III, trước khi con trai ông tử trận vào ngày 1 tháng 3 năm 1969, sau khi máy bay của ông bị hỏa lực phòng không bắn hạ trong một nhiệm vụ không kích vào ban đêm phá hủy mục tiêu quân địch ở tỉnh Khammuane, Lào.
Meroney trở về Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1969 và được chỉ định vào sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Không quân Chiến thuật tại Căn cứ Không quân Langley ở Virginia, nơi ông giữ chức vụ Phụ tá Viên trưởng An toàn và sau đó là Viên trưởng An toàn trước khi giải ngũ khỏi không quân vào ngày 31 tháng 12 năm 1970.
Qua đời
Meroney qua đời vì bệnh ung thư vào ngày 27 tháng 6 năm 1980, ở tuổi 59. Ông được an táng tại Nghĩa trang Graceland ở Pine Bluff.
Chiến công
Nguồn: Air Force Historical Study 85: USAF Credits for the Destruction of Enemy Aircraft, World War II
Huân chương
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Phi công Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai
Phi công Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam
Tù nhân chiến tranh bị Đức giam giữ trong Thế chiến thứ hai
|
19853712
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Spikefish%20%28SS-404%29
|
USS Spikefish (SS-404)
|
USS Spikefish (SS-404/AGSS-404) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên họ Cá cờ. Nó đã phục vụ trong giai đoạn sau của Thế Chiến II, thực hiện được bốn chuyến tuần tra và đánh chìm một tàu ngầm Nhật Bản tải trọng 1.660 tấn. Sau khi xung đột chấm dứt, nó tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1963. Con tàu cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu ngoài khơi Long Island vào năm 1964. Spikefish được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Spikefish được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 29 tháng 1, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 26 tháng 4, 1944, được đỡ đầu bởi bà Harvey W. Moore, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 30 tháng 6, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Nicholas John Nicholas.
Lịch sử hoạt động
1944
Sau khi hoàn tất việc trang bị vào ngày 31 tháng 7, 1944, Spikefish chạy thử máy huấn luyện tại các vùng biển ngoài khơi Portsmouth và New London. Nó khởi hành từ Portsmouth vào ngày 16 tháng 9 để đi sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương ngang qua kênh đào Panama và đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 23 tháng 10.
Chuyến tuần tra thứ nhất
Lên đường vào ngày 15 tháng 11 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, Spikefish hoạt động tại khu vực quần đảo Kuril và biển Okhotsk. Nó không bắt gặp mục tiêu nào có giá trị, nên kết thúc chuyến tuần tra tại căn cứ Midway vào ngày 1 tháng 1, 1945.
1945
Chuyến tuần tra thứ hai
Spikefish khởi hành từ Midway vào ngày 26 tháng 1, 1945 cho chuyến tuần tra thứ hai tại khu vực quần đảo Ryūkyū. Vào ngày 24 tháng 2, nó phát hiện một đoàn tàu bao gồm sáu tàu buôn được bốn tàu vũ trang hộ tống. Nó phóng một loạt sáu quả ngư lôi nhắm vào hai chiếc tàu buôn, và ghi nhận được ba tiếng nổ. Nó không thể xác nhận kết quả đợt tấn công, vì phải lặn sâu để né tránh đợt phản công với 80 quả mìn sâu do các tàu hộ tống thả xuống trong suốt bốn giờ tiếp theo. Nó phát hiện một đoàn tàu vận tải khác vào ngày 5 tháng 3, nhưng loạt sáu quả ngư lôi phóng ra không có kết quả, và tiếp tục chịu đựng mìn sâu phản công. Nó kết thúc chuyến tuần tra vào ngày hôm sau và về đến Trân Châu Cảng vào ngày 19 tháng 3.
Chuyến tuần tra thứ ba
Một tháng sau đó, dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng mới, Trung tá Hải quân Robert R. Managhan, Spikefish cùng với tàu ngầm lên đường hướng đến Guam. Sau khi được tiếp thêm nhiên liệu, nó độc lập khởi hành vảo ngày 3 tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ ba tại khu vực bờ biển phía Đông Đài Loan để làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu. Phát hiện một tàu đối phương trong đêm 14 tháng 5, nó phóng một loạt bốn quả ngư lôi tấn công, nhưng tất cả đều bị trượt. Đến ngày 29 tháng 5, chiếc tàu ngầm được lệnh tuần tra gần quần đảo Sakishima để hỗ trợ cho hoạt động không kích của tàu sân bay tại khu vực. Vào ngày 5 tháng 6, nó sử dụng hải pháo 5-inch bắn phá sân bay Miyara trên đảo Ishigaki và hoạt động tìm kiếm và giải cứu hỗ trợ các tàu sân bay hạm đội. Hai ngày sau đó, nó cứu vớt một phi công bị rơi khi cất cánh từ tàu sân bay hộ tống . Nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về Guam vào ngày 13 tháng 6.
Chuyến tuần tra thứ tư
Khởi hành từ Guam vào ngày 8 tháng 7 cho chuyến tuần tra cuối cùng trong chiến tranh, Spikefish tuần tra trong khu vực Hoàng Hải và ngoài khơi Thượng Hải để làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu. Vào ngày 24 tháng 7, nó bắn phá một trạm radar trên một đảo dọc bờ biển Trung Quốc. Sau nữa đêm ngày 11 tháng 8, nó trông thấy một tàu chở hàng nhỏ đang đứng yên trên biển, nhưng không rõ nhận dạng. Đợi đến sáng, nó xác định mục tiêu là tàu đối phương và phá hủy bằng hải pháo, ba người sống sót bị bắt lên tàu.
Trong đêm 13 tháng 8, tại một vị trí khoảng về phía Đông Nam Thượng Hải, Spikefish phát hiện qua radar một tàu ngầm di chuyển trên mặt nước, và bắt đầu theo dõi. Sau khoảng một giờ, mục tiêu lặn xuống và biến mất khỏi màn hình radar cho đến sáng hôm sau lúc 07 giờ 00. Phát hiện trở lại mục tiêu và nhận dạng kiểu dáng đúng là một tàu ngầm Nhật Bản, Spikefish phóng một loạt sáu quả ngư lôi tấn công, và hai quả trúng đích đã khiến tàu ngầm Nhật I-373 (1.660 tấn) nổ tung và đắm tại tọa độ ; một thủy thủ Nhật Bản duy nhất sống sót được Spikefish bắt làm tù binh. I-373 trở thành tàu ngầm Nhật Bản cuối cùng bị đánh chìm trong chiến tranh.
1946 - 1963
Sau khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột, Spikefish giải các tù binh bắt giữ được đến Saipan vào ngày 21 tháng 8, rồi tiếp tục quay trở về Trân Châu Cảng. Đến ngày 6 tháng 9, nó cùng tàu ngầm lên đường quay trở về vùng bờ Đông Hoa Kỳ, băng qua kênh đào Panama vào ngày 23 tháng 9, và về đến Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London vào ngày 29 tháng 9. Nó được đại tu tại Xưởng hải quân Portsmouth từ ngày đến ngày 1 tháng 11, 1945 đến ngày 15 tháng 2, 1946, và khi quay trở về cảng nhà mới New London nó được điều về Hải đội Tàu ngầm 2, phục vụ huấn luyện cho Trường Tàu ngầm Hạm đội.
Spikefish tiếp tục phục vụ dọc theo vùng bờ Đông. Nó trải qua đợt đại tu từ ngày 7 tháng 4 đến ngày 22 tháng 9, 1947 trước khi có chuyến đi đến vùng biển Bermuda từ ngày 25 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10, 1947. Con tàu lại được đại tu tại Xưởng hải quân Philadelphia từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 8 tháng 7, 1948, rồi trong những năm tiếp theo đã thực hiện các chuyến đi huấn luyện từ New London dọc theo vùng bờ Đông đến Bermuda và Nova Scotia. Vào ngày 30 tháng 4, 1955, nó cùng tàu ngầm lên đường cho một lượt phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại khu vực Địa Trung Hải, và sau khi quay trở về New London vào ngày 8 tháng 10, nó tiếp nối vai trò huấn luyện dọc theo vùng bờ Đông cho đến đầu năm 1963. Vào ngày 18 tháng 3, 1960, Spikefish trở thành tàu ngầm Hoa Kỳ đầu tiên đạt mốc kỷ lục 10.000 lần lặn.
Spikefish được xếp lại lớp như một "tàu ngầm phụ trợ" và mang ký hiệu lườn mới AGSS-404 vào năm 1962. Nó được cho xuất biên chế tại Key West, Florida vào ngày 2 tháng 4, 1963, rồi được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 5, 1963. Con tàu bị đánh chìm như một mục tiêu ngoài khơi Long Island, New York vào tháng 8, 1964.
Phần thưởng
Spikefish được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm một tàu ngầm Nhật Bản tải trọng 1.660 tấn.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-404
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu bị đánh chìm như mục tiêu
Xác tàu đắm ngoài khơi bờ biển tiểu bang New York
Sự cố hàng hải năm 1964
Tàu thủy năm 1944
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II
|
19853714
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sea%20Owl%20%28SS-405%29
|
USS Sea Owl (SS-405)
|
USS Sea Owl (SS-405/AGSS-405) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên họ Cá vây tròn. Nó đã phục vụ trong giai đoạn sau của Thế Chiến II, thực hiện được ba chuyến tuần tra, đánh chìm hai tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 1.689 tấn. Sau khi xung đột chấm dứt con tàu vẫn hoạt động trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, được trang bị ống hơi trong Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY), và đã phục vụ cho đến năm 1969. Nó cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1971. Sea Owl được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Sea Owl được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 7 tháng 2, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 5, 1944, được đỡ đầu bởi bà Thomas L. Gatch, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 7, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Carter Lowe Bennett.
Lịch sử hoạt động
1944
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại các vùng biển ngoài khơi Portsmouth, New Hampshire, và New London, Connecticut, Sea Owl lên đường đi sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó băng qua kênh đào Panama và đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 23 tháng 10, 1944.
Chuyến tuần tra thứ nhất
Lên đường vào ngày 19 tháng 11 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh tại khu vực biển Hoa Đông, Sea Owl hoạt động trong thành phần một đội tấn công phối hợp ("Bầy sói") vốn bao gồm các tàu ngầm và . Nó mang theo các kiểu ngư lôi thử nghiệm Mark 18 vận hành bằng điện và Mark 27 dẫn đường bằng dò âm thụ động. Sau ba tuần tìm kiếm mục tiêu, nó đánh chìm mục tiêu đầu tiên là một tàu hộ tống bằng một quả Mark 27, rồi tiếp theo theo dõi một tàu hộ tống thứ hai, đánh trúng một quả Mark 27 và kết liễu mục tiêu bằng một quả Mark 18 từ khoảng cách . Đây là thành tích đầu tiên trong tác chiến của cả hai kiểu vũ khí mới này, và chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra tại căn cứ Guam vào ngày 15 tháng 1, 1945.
1945
Chuyến tuần tra thứ hai
Trong chuyến tuần tra thứ hai, Sea Owl phối hợp hoạt động cùng "Bầy sói" bao gồm các tàu ngầm Piranha và để tuần tra tại khu vực eo biển Luzon và biển Đông. Vào sáng ngày 18 tháng 4, được thông tin tình báo vô tuyến từ Trân Châu Cảng chỉ dẫn, nó bắt gặp qua radar một tàu ngầm đối phương ở vị trí về phía Tây Bắc đảo Wake, và bắt đầu truy đuổi. Tàu ngầm đối phương cặp vào Wake để chất dỡ hàng tiếp liệu, và Sea Owl phóng một loạt ba quả ngư lôi tấn công từ khoảng cách , một quả đánh trúng cầu tàu còn hai quả kia trượt mục tiêu. Sea Owl chính thức được ghi công đã đánh chìm một tàu ngầm, Ro-46 hoặc Ro-56. Nhưng cả hai chiếc Ro-46 và Ro-56 đều đã bị đánh chìm tại vùng biển Okinawa vào nữa đầu tháng 4, 1945, và chúng chưa từng đi sang khu vực Wake. Tàu ngầm bị Sea Owl tấn công vào ngày 18 tháng 4 là chiếc I-372, nhưng nó đã lặn xuống ẩn náu và sống sót qua đợt tấn công này. Sea Owl kết thúc chuyến tuần tra tại căn cứ Midway vào ngày 21 tháng 4.
Chuyến tuần tra thứ ba
Lên đường vào ngày 20 tháng 5 cho chuyến tuần tra cuối cùng trong chiến tranh, Sea Owl phối hợp hoạt động cùng "Bầy sói" bao gồm các tàu ngầm Puffer và . Họ hoạt động trong cả hai vai trò tìm kiếm và giải cứu lẫn tuần tra trong khu vực Hoàng Hải và biển Hoa Đông. Trong eo biển Tsushima về phía Đông Nam Mokpo, Triều Tiên vào ngày 9 tháng 6, nó phóng một loạt sáu quả ngư lôi tấn công một tàu tuần tra Nhật lúc 04 giờ 55 phút. Một quả trúng vào hầm đạn đã khiến Tàu phòng vệ duyên hải số 41 (800 tấn) nổ tung và đắm tại tọa độ ; toàn bộ 173 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu đều tử trận. Các tàu hộ tống khác phản công với 84 quả mìn sâu được thả xuống trong suốt 14 giờ tiếp theo, nhưng không gây hư hại cho chiếc tàu ngầm.
Bốn ngày sau đó, Sea Owl dùng hải pháo tấn công và phá hủy một thuyền buồm bốn cột buồm chất đầy gạo, rồi bắt giữ hai tù binh chiến tranh. Đến ngày 2 tháng 7, sau khi di chuyển hết tốc độ một khoảng cách trong đêm tối, nó giải cứu sáu thành viên một đội bay bị bắn rơi trên biển. Nó kết thúc chuyến tuần tra và đang ở lại Trân Châu Cảng khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột.
1945 – 1951
Sau khi quay trở về Hoa Kỳ vào tháng 9, Sea Owl được điều động gia nhập Hạm đội Đại Tây Dương và đặt căn cứ tại Balboa thuộc vùng kênh đào Panama trong thành phần Hải đội Tàu ngầm 6. Từ tháng 10, 1946 đến tháng 3, 1947, nó thực hiện chuyến đi dọc bờ biển Nam Mỹ, và tham gia cùng đồng đội Hải đội Tàu ngầm 6 để tập trận ngoài khơi đảo Culebra tại Tây Ấn. Sau đó nó hỗ trợ cho việc huấn luyện chống tàu ngầm tại vịnh Guantánamo, Cuba và Key West, Florida.
Sau một lượt đại tu tại Xưởng hải quân Philadelphia từ tháng 9, 1947 đến tháng 1, 1948, Sea Owl tiến hành huấn luyện ôn tập tại vùng biển Caribe trước khi tiếp tục nhiệm vụ tại căn cứ Balboa từ ngày 12 tháng 1. Chiếc tàu ngầm hoạt động tại khu vực kênh đào và vùng biển Caribe trong các hoạt động huấn luyện và tập trận hạm đội. Đi đến Xưởng hải quân Portsmouth vào ngày 27 tháng 6, 1949, con tàu được đại tu thường lệ cho đến tháng 10, rồi được điều sang Hải đội Tàu ngầm 8 đặt căn cứ tại New London, Connecticut. Trong hai năm tiếp theo, nó tiếp tục hoạt động dọc theo bờ biển Đại Tây Dương, tham gia huấn luyện và tập trận hạm đội.
1951 – 1961
Trong đợt hiện đại hóa GUPPY tiến hành tại Xưởng hải quân Philadelphia từ tháng 4 đến tháng 8, 1951, Sea Owl được trang bị ống hơi, giúp cải thiện đáng kể tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động. Vào đầu năm 1953, nó được đại tu tại Xưởng hải quân Charleston ở South Carolina, và sau khi hoàn tất đã đi đến New London, và sau đó sang khu vực Caribe để tham gia cuộc Tập trận Springboard. Khi quay trở lại New London vào tháng 3, nó lên đường cho một lượt phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại khu vực Địa Trung Hải. Nó đã tham gia cuộc Tập trận Keystone và viếng thăm Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ trong chuyến đi kéo dài ba tháng này.
Quay trở về New London vào tháng 8, 1954, trong hai năm tiếp theo Sea Owl tiếp tục vai trò huấn luyện cho học viên trường tàu ngầm và hải quân dự bị dọc bờ biển Đại Tây Dương và khu vực Caribe. Nó tham gia những nhiệm vụ đặc biệt vào năm 1956 và 1957, quay trở lại New London cho đến ngày 1 tháng 9, rồi tham gia các cuộc Tập trận Fishplay và Strikeback của Khối NATO tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Nó quay trở lại New London vào tháng 10. Đến tháng 4 và tháng 5, 1958, nó lại tham gia cuộc Tập trận New Broom của Khối NATO. Sang đầu năm 1959, sau đợt đại tu kéo dài năm tháng, chiếc tàu ngầm lại tham gia một cuộc Tập trận Fishplay khác của Khối NATO; rồi sang năm 1960 đã có một lượt phục vụ thứ hai cùng Đệ Lục hạm đội tại khu vực Địa Trung Hải. Con tàu được bảo trì vào đầu năm 1961, rồi lên đường vào ngày 6 tháng 3 cho một lượt phục vụ thứ ba cùng Đệ Lục hạm đội tại khu vực Địa Trung Hải. Khi quay trở về, nó được đại tu tại Xưởng hải quân Portsmouth.
1962 – 1969
Phần thưởng
Sea Owl được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm hai tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 1.689 tấn.
Tham khảo
Ghi chú
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-405
www.USSSeaOwl.com
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu thủy năm 1944
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II
|
19853716
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%8Bnh%20Ng%E1%BB%8Dc%20Quy%C3%AAn
|
Trịnh Ngọc Quyên
|
Trịnh Ngọc Quyên (sinh năm 1969) là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện An ninh nhân dân.
Sự nghiệp
Thiếu tướng Trịnh Ngọc Quyên sinh năm 1969, quê ở huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Ông là Phó Giáo sư, tiến sĩ chuyên ngành Khoa học An ninh.
Trong quá trình công tác ông từng là Cục phó - Thư ký Thứ trưởng Bộ Công an. Vào tháng 3 năm 2013, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Giám đốc Công an tỉnh Quảng Ninh. Đến năm 2018, ông tiếp tục được bổ nhiệm lại chức vụ Phó Giám đốc Công an Quảng Ninh.
Năm 2016, ông được công nhận chức danh Phó giáo sư.
Ông được Bộ Công an điều động và bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Công an tỉnh Bình Dương từ ngày 1 tháng 4 năm 2019.
Ngày 28 tháng 4 năm 2023, ông được bổ nhiệm chức vụ Giám đốc Học viện An ninh nhân dân thay ông Lê Văn Thắng từ ngày 1 tháng 5 năm 2023.
Tháng 7 năm 2023, Ông được Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng thăng cấp bậc hàm Thiếu tướng.
Lịch sử thụ phong cấp bậc hàm
Tham khảo
Sinh năm 1969
Nhân vật còn sống
Giám đốc Học viện An ninh nhân dân
Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam
|
19853725
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20tr%C3%B2%20ch%C6%A1i%20Hugo
|
Danh sách trò chơi Hugo
|
Nhượng quyền truyền thông Hugo bao gồm nhiều trò chơi điện tử dựa trên hoặc lấy cảm hứng từ trò chơi truyền hình tương tác cùng tên ban đầu được phát triển bởi Đan Mạch ITE Media của Đan Mạch. Hàng chục trò chơi thuộc nhiều thể loại khác nhau đã được phát hành quốc tế trên nhiều nền tảng khác nhau kể từ năm 1990 và đã bán được hơn 10 triệu bản tính đến năm 2008.
Dòng Hugo cổ điển
Từ năm 1992 đến năm 2000, ITE Media đã chuyển thể chương trình truyền hình cổ điển Hugo của họ thành hàng chục bộ sưu tập các kịch bản khác nhau cho một số nền tảng máy tính và console. Chúng cũng được sắp xếp lại cho một số bản tái phát hành Classic Hugo trong những năm 2000.
Dòng Hugo: Jungle Island
Một số trò chơi điện tử chuyển thể từ trò chơi truyền hình cùng tên đã được ITE Media phát triển và phát hành vào đầu những năm 2000.
Dòng Agent Hugo
Loạt trò chơi Agent Hugo là phần khởi động lại theo chủ đề nhại lại James Bond của loạt Hugo do ITE Media phát triển và phát hành. Bản gốc Agent Hugo chỉ được phát hành ở Châu Âu vào năm 2005, tiếp theo là Agent Hugo: Roborumble (2006), Agent Hugo: Lemoon Twist (2007) và Agent Hugo: Hula Holiday (2008). Không giống như các trò chơi Hugo cổ điển, các trò chơi trong loạt này không phải là sự tổng hợp các kịch bản đơn giản từ chương trình truyền hình mà là các trò chơi hành động bắn súng góc nhìn người thứ ba hoàn chỉnh tương tự như một số trò chơi Hugo độc lập trước đó.
Các trò chơi Hugo khác của ITE
Skærmtrolden Hugo
Trò chơi Hugo đầu tiên dựa trên chương trình truyền hình gốc Hugo Eleva2ren được phát triển bởi Thomas Villadsen và Uffe Jakobsen cho SilverRock Productions (sau này là Interactive Television Entertainment và ITE Media). Skærmtrolden Hugo ban đầu được phát hành cho máy tính Commodore 64 và Amiga trước Giáng sinh năm 1990 và trên toàn thế giới (như Hugo trong phiên bản tiếng Anh) vào năm 1991, và sau đó được chuyển sang PC DOS ngay sau đó. Trò chơi diễn ra tại một mỏ vàng cũ đầy rẫy những nguy hiểm, mà Hugo phải điều hướng để tìm phòng chứa kho báu. Cơ chế chơi của Skærmtrolden Hugo rất đơn giản và việc hoàn thành toàn bộ trò chơi có thể mất chưa đầy mười phút. Skærmtrolden Hugo đã trở thành trò chơi bán chạy nhất ở Đan Mạch với 30.000 bản được bán ra trong chiến dịch Giáng sinh.
Hugo: Winter Games
Một bộ sưu tập các trò chơi nhỏ có chủ đề Giáng sinh được xuất bản năm 1997 cho PC. Còn được gọi là Hugo: PC Calendar hoặc Chirstmas CD-ROM, Trò chơi ban đầu được phát hành ở Đan Mạch với tên gọi Hugo i Sneen (Hugo in the Snow). Trong đó, Scylla đã đặt một lời nguyền lên Làng Giáng sinh của ông già Noel và người duy nhất có thể ngăn cản lời nguyền này là Hugo. Bằng cách hoàn thành 24 trò chơi nhỏ khác nhau đại diện cho mỗi ngày của tháng 12 trước đêm Giáng sinh, tên quỷ lùn phải hóa giải bùa chú của Scylla và cuối cùng đối đầu và đóng băng cô ta.
Hugo Saves Christmas
Một bộ sưu tập các trò chơi nhỏ có chủ đề Giáng sinh được xuất bản cho PC vào năm 1998. Trong trò chơi, Hugo lại đến để ngăn chặn âm mưu mới nhất của Scylla nhằm phá hoại đêm Giáng sinh của trẻ em khắp nơi. Lần này, anh phải giải cứu ông già Noel khỏi bị giam cầm trong nơi ở của chính Scylla, Lâu đài Đầu lâu, và giành lại toàn bộ nơi này cho ông già Noel bằng cách thay thế chủ đề đen tối của nó bằng đồ trang trí Giáng sinh và cuối cùng đánh bại Scylla. Còn được gọi là Hugo: PC Calendar, trò chơi được phát hành ở Đan Mạch với tên gọi Hugo Redder Julen , ở Đức với tên Hugo rettet das Weihnachtsfest , ở Argentina với tên Hugo salva la Navidad và ở Nga với tên Кузя спасает Рождество. Đã được phát hành lại như một phần của Trollbox 1 (đi kèm cùng với Hugo 5 và Stinky & Biber) vào năm 2000.
Hugo: The Magic Oak
Một bộ sưu tập các minigame về giáo dục được phát hành cho PC vào năm 1999. Đây là trò chơi đầu tiên có sự tham gia của con trai sơ sinh của Hugo là Rat trong vai nhân vật chính khi phép thuật của Scylla đưa cậu vào sâu trong Rừng Quỷ, từ đó người chơi phải hướng dẫn cậu trở về với gia đình. Nó còn được gọi là Hugo: Learn & Play, cũng tương tự như Hugo: The Enchanted Egg ở Đan Mạch, Hugo: Tajemný Les ở Cộng hòa Séc, Hugo: Taikatammi ở Phần Lan, Hugo: The Magic Oak ở Argentina, Hugo: Die Zaubereiche ở Đức, Hugo: Zaczarrowany Dąb ở Ba Lan, Hugo: The Magic Monkey ở Thổ Nhĩ Kỳ và Кузя и его друзья: Волшебное дерево ở Nga.
Scylla's Revenge
Trong bộ sưu tập minigame trên PC này, mụ phù thủy đáng ghét Scylla đã trở lại một lần nữa trong bối cảnh Giáng sinh, nhưng lần này, mụ cố gắng loại bỏ ông già Noel và tất cả các yêu tinh mãi mãi. Cô sử dụng một câu thần chú độc ác nhốt tất cả họ trong những khối băng và giờ họ có nguy cơ bị đóng băng bên trong trừ khi Hugo có thể cứu họ kịp thời. Trò chơi được phát hành ở Đan Mạch với tên gọi Hugo: Afskylias Hævn, và cũng được phát hành ở Đức với tên gọi Hugo Wintergames 3 , ở Ba Lan với tên Hugo: Christmas Adventure , và ở Nga với tên Кузя: Новый год ( Kuzya/Hugo: New Year ).
Hugo in the Hut
Một trò chơi năm 2000 cho PC.
Hugo: Quest for the Sunstones
Hugo: Black Diamond Fever
Hugo: New Year
Ban đầu có tựa đề Kuzya: New Year, trò chơi điện tử nền tảng 2D của Nga dành cho Windows này được ITE và MediaHouse phát hành vào năm 2001.
Hugo: The Bewitched Rollercoaster
Trong bộ sưu tập minigame trên PC năm 2001 này, Scylla đã phá hủy nguồn điện tại công viên giải trí nhằm phá hỏng khoảng thời gian vui vẻ của bọn trẻ. Con trai của Hugo, Rat và con ruồi Buzzy bắt tay vào một cuộc tìm kiếm xuyên thời gian và không gian (bao gồm Ai Cập cổ đại, miền Tây hoang dã, thời kỳ đồ đá, thời Trung cổ và La Mã cổ đại) để tìm những món đồ có thể giúp họ sửa chữa tàu lượn siêu tốc và giúp Hugo trả thù Scylla. Có tựa đề là Hugo: Den Forheksede Rutschebane / Hugo: Leg Og Lær 3 ở Đan Mạch, Hugo: Taikavuoristorata ở Phần Lan, Hugo: Die verhexte Achterbahn ở Đức, Hugo: Zaklęta Kolejka ở Ba Lan và Кузька: Путешественник во времени (Kuzya/Hugo: Người du hành thời gian) ở Nga.
Hugo: The Magic Journey
Trong trò chơi giáo dục PC năm 2001 này, con gái của Hugo thực hiện hành trình tìm kiếm kho báu mà tổ tiên cô đã đánh mất khi họ bị Scylla tấn công nhiều thế kỷ trước. Nó có tựa đề là Hugo: Den Magiske Rejse/Hugo: Leg Og Lær 2 ở Đan Mạch, Hugo: Cesta kolem světa (Around the World) ở Séc, Hugo: Fantastische Welt ở Đức, Hugo Taikamatka ở Phần Lan, Hugo: Magiczna podróż ở Ba Lan, Hugo Sihirli Yolculuk ở Thổ Nhĩ Kỳ và Кузя и его друзья: Большое путешествие (Kuzya/Hugo and His Fiends: A Great Trip) ở Nga. Trò chơi bị một số người ở Thổ Nhĩ Kỳ coi là tai tiếng do nó mô tả đất nước này.
Hugo: The Secrets of the Forest
Trong trò chơi giáo dục trên PC năm 2002 tổng hợp 8 minigame, Scylla biến một lớp trẻ em thỏ thành đá trong khi cô tìm kiếm trong rừng một loại nấm quý hiếm mà cô cần cho phép thuật của mình. Sử dụng cuộn giấy mà Scylla đánh rơi, con gái của Hugo là Ruth cần thu thập các nguyên liệu để tạo ra thuốc giải độc cho bùa chú tà ác. Nó cũng có tựa đề là Hugo: Den Magiske Trylledrik/Hugo: Leg Og Lær 4 ở Đan Mạch, Hugo Taikajuoma ở Phần Lan, Hugo: Der magische Zaubertrank ở Đức, Hugo: Magiczny napój ở Ba Lan, Hugo: Ormanın Büyüsü ở Thổ Nhĩ Kỳ và Magiczny Elixir ở Nga.
Hugo: The Forces of Nature
Một trò chơi giáo dục được phát hành cho PC vào năm 2002. Trong trò chơi này, Scylla đã rời khỏi hang ổ của mình để đến đại hội các phù thủy, để lại Don Croco một mình với cuốn sách bùa chú của mình. Kết quả là phép thuật bùng phát gây ra hàng loạt thảm họa thiên nhiên trên hòn đảo nơi người Kikurian sinh sống. Hugo phải đứng lên chống lại các thế lực tự nhiên và cuối cùng là chiến đấu với Scylla đang quay trở lại. Có tựa đề Hugo: Naturens Kræfter/Hugo: Leg Og Lær 6 ở Đan Mạch, Hugo: Sila prírody ở Cộng hòa Séc, Hugo ja luonnonvoimat ở Phần Lan, Hugo im Bann der Element ở Đức, Hugo: Naturkrafterna ở Ba Lan, Hugo: Naturkrafterna ở Thụy Điển, Hugo: Doğanın Güçleri ở Thổ Nhĩ Kỳ và Силы природы ở Nga.
Hugo: Heroes of the Savannah
Một trò chơi giáo dục năm 2002 dành cho PC.
Hugo and the Animals of the Ocean
Một trò chơi giáo dục năm 2002 dành cho PC.
Hugo in Space
Trong trò chơi PC mang tính giáo dục năm 2002 này, Scylla và đội quân tay sai của cô du hành vào vũ trụ để tìm kiếm một tiểu hành tinh nằm ở phía bên kia của Sao Diêm Vương. Lõi của nó bao gồm toàn bộ những viên kim cương đen quý hiếm sẽ khiến cô mạnh mẽ hơn vô cùng và biến tất cả các sinh vật trong rừng quỷ lùn thành nô lệ của cô. Hugo, lúc đó đang có kỳ nghỉ cùng gia đình trong không gian, một lần nữa họ phải lên đường ngăn chặn âm mưu của cô, vì họ cần phải hoàn thành năm nhiệm vụ trên Hệ Mặt trời. để thu thập đủ nhiên liệu tàu vũ trụ để chiến đấu vượt qua hạm đội không gian của Scylla để đến căn cứ khai thác của cô ấy cho nổ tung nó cùng với tiểu hành tinh, sau đó họ đuổi theo tàu vũ trụ của Scylla để phá hủy nó trước khi cô có thể quay trở lại Trái Đất. được phát hành với tên Hugo På Rumfart/Hugo: Leg Og Lær 8 ở Đan Mạch, Hugo Avaruudessa ở Phần Lan, Hugo im Weltraum ở Đức, ở Ba Lan và Кузя в космосе ở Nga.
Hugo: The Evil Mirror
Hugo Frog Fighter
Một trò chơi năm 2002 dành cho PlayStation, tương tự như phiên bản nâng cao của Frogger.
Hugo: Smakkaball
Được phát hành cho PC vào năm 2003. Hugo tham gia một giải đấu thể thao đấu trường "smakkaball" cùng với gia đình, bạn bè và thậm chí cả kẻ thù truyền kiếp của mình. Được phát hành ở Nga với tên gọi Кузя: Троллебол (Kuzya: Trolloboi).
Hugo: Bukkazoom!
Hugo: Runamukka
Một trò chơi hành động từ trên xuống trên PC năm 2004.
Hugo: Cannon Cruise
Hugo: Penguin Battle
Phát hành năm 2005 cho PC. Trong trò chơi này, Scylla sử dụng phép thuật nhân bản để thành lập một đội quân chim cánh cụt độc ác dẫn đầu bởi các bản sao của chính cô và cố gắng đóng băng toàn bộ thế giới để chinh phục nó. Hugo đang lái chiếc "hugocopter" của mình phải làm tan băng và khôi phục nó, đồng thời ngăn chặn Scylla một lần nữa bằng cách tiêu diệt tất cả các bản sao. Có tựa đề là Hugo: Schlacht im ewigen Eis (Battle in Eternal Ice) ở Đức, Hugo: Bitwa Pingwinów ở Ba Lan và Кузя спасает лето (Hugo/Kuzya Saves Summer) ở Nga.
Các trò chơi Hugo của các hãng khác
Hugo (1994, Game Boy) Hugo cho Game Boy được Laguna Video Games phát hành dưới dạng tựa rất khác so với loạt phim những năm 1990, mặc dù có cùng tựa. Trò chơi thực chất là sự chuyển đổi từ Crazy Castle 2 của Kemco. Trong cốt chuyện của trò chơi, vợ của Hugo là Hugolina bị bắt cóc bởi Horned King, người cai trị lâu đài Arbarus (trong một cốt chuyện đang phát triển thông thường hơn của trò chơi, Hugolina đã bị kẻ thù không đội trời chung của Hugo - phù thủy Scylla, giam giữ trong lâu đài), và Hugo phải giải thoát cho cô và đánh bại Nhà vua.
Hugo: New Year 2
Ban đầu có tựa đề Кузя: Новый год 2, đây là trò chơi nền tảng 2D được phát triển bởi NDS Đan Mạch và được MediaHouse phát hành cho Windows vào năm 2001.
Hugo: Magic in the Troll Woods
Ban đầu có tựa là Hugo: Magi i Troldeskoven ở Đan Mạch (Hugo - Zauberei im Trollwald ở Đức, Hugo: Magi i Trollskogen ở Thụy Điển). Trò chơi nền tảng này được phát triển bởi Attractive Games và được Krea Medie phát hành vào năm 2009 cho PS2, Wii, Windows và Nintendo DS. Đây là phần khởi động lại hoàn toàn của loạt trò chơi, trong đó có một nhân vật quỷ lùn Hugo khác với tư cách là một phù thủy tập sự ở một thế giới khác.
Hugo Troldeakademiet: Den Forsvundne Kæmpe
Một trò chơi platform năm 2010 do Krea Medie phát hành cho Nintendo DS ở Đan Mạch, bên cạnh phiên bản tiếng Thụy Điển có tựa đề Hugo: Den Försvunna Jätten. Đây là phần tiếp theo đầu tiên của Hugo: Magic in the Troll Woods.
Hugo Troldeakademiet: Kampen om Krystalkortet
Còn được gọi là Hugo: The Jacket on the Crystal Map, đây là một trò chơi năm 2010 do Krea Media phát hành cho Nintendo DS và là phần thứ ba trong loạt trò chơi khởi động lại bị hủy bỏ của họ.
Hugo: Game Factory
Ban đầu có tựa đề là Hugo Spielewerkstatt (các tựa khác bao gồm Hugo: Fabryka Gier ở Ba Lan), đây là một trình tạo trò chơi nền tảng 2D đơn giản được phát triển bởi Krea Medie và được UIG Entertainment phát hành lần đầu vào tháng 12 năm 2010.
Hugo: The Adventure with English
Một trò chơi điện tử mang tính giáo dục dành cho Windows ban đầu được MediaHouse phát hành ở Nga. Một phiên bản tiếng Ba Lan được Cenega phát hành với tên gọi Hugo: Przygoda z angielskim.
Hugo: The Adventure with English 2
Một trò chơi điện tử giáo dục của Nga dành cho Windows do MediaHouse phát hành.
Hugo: De Första Tecknen
Một trò chơi điện tử của Thụy Điển được Krea Medie phát hành cho Windows vào năm 2010 (Hugo: First Signs ở Phần Lan).
Hugo: Utmaningen i Tornet
Một trò chơi platform của Thụy Điển được Krea Medie phát hành cho Windows vào năm 2010 (Hugo: Tornin Arvoitus ở Phần Lan).
Hugo Retro Mania
Hugo Troll Race
Hugo World
Một trò chơi quản lý làng freemium do Hugo Games phát hành và ra mắt chính thức vào năm 2014. Trò chơi lấy bối cảnh trong vũ trụ Hugo truyền thống và các nhân vật kinh điển như vợ của Hugo là Hugolina và các con của họ quay trở lại cùng với Scylla và người bạn đồng hành của cô là Don Croco. Được cập nhật lần cuối vào năm 2017 và ngừng sản xuất vào năm 2023.
Hugo Troll Wars
Một trò chơi chiến lược thời gian thực/phòng thủ tháp trực tuyến theo phong cách Clash of Clans được Hugo Games phát hành cho nhiều nền tảng khác nhau, bao gồm Kindle, Android, iOS, Windows và Facebook, đồng thời ra mắt lần đầu cho các thiết bị iOS vào năm 2013. Trò chơi lấy bối cảnh trong vũ trụ Hugo thay thế, nơi người chơi đóng vai trò là một chỉ huy cho Hugo - Vua quỷ lùn hoặc kẻ thù truyền kiếp của anh là Scylla - Nữ hoàng phù thủy độc ác trong cuộc xung đột vĩnh cửu giữa hai bên. Còn có thêm chế độ nhiều người chơi PvP và các yếu tố xã hội. Được cập nhật lần cuối vào năm 2015 và ngừng hoạt động vào năm 2023.
Ronaldo & Hugo: Superstar Skaters
Một trò chơi di động endless runner miễn phí được phát triển bởi Fuzzy-Frog Games và được Hugo Games phát hành cho Android và iOS, có sự góp mặt của ngôi sao bóng đá Cristiano Ronaldo.
Hugo Flower Flush
Một trò chơi điện tử ghép ô do Hugo Games phát hành và ra mắt thử nghiệm cho iOS và Android vào năm 2015. In it, Hugo and Hugolina must collect find the rare Enchanted Flowers before Scylla can use them as ingredients for an evil spell.
Hugo Troll Race 2: Rail Rush
Phần tiếp theo của Hugo Troll Race ban đầu, một trò chơi endless runner được phát triển bởi Fuzzy-Frog Games và được 5th Planet Games phát hành vào năm 2016 cho Android và iOS. Trong bản sao này của Subway Surfers, người chơi điều khiển Hugo hoặc Hugolina cố gắng giải cứu người kia khỏi bị bắt cóc. Hai giai đoạn xen kẽ liên tục của trò chơi trong đó con quỷ lùn được chọn hoặc lái xe chở mìn để đuổi theo Scylla đang bay bằng chổi, hoặc chạy trốn khỏi mụ phù thủy để đánh bại mụ ta bằng một bùa chú làm chệch hướng thành công.
Hugo Adventure: The Mystery Islands
Ban đầu được công bố là Hugo Mystery Island.
Hugo (2016)
Một trò chơi slot trực tuyến được phát triển bởi 5th Planet Games và được Play'n GO phát hành vào ngày 16 tháng 8 năm 2016. Like Hugo Retro Mania, Giống như Hugo Retro Mania'', trò chơi dựa trên các kịch bản minigame "Labyrinth" và phần cuối "Ropes" từ chương trình truyền hình gốc và một số trò chơi cổ điển.
Hugo 2 (2018)
Một trò chơi slot trực tuyến được phát triển bởi 5th Planet Games và được Play'n GO phát hành vào ngày 16 tháng 8 năm 2016. Nó là sự chuyển thể từ kịch bản "Ice Cave" từ chương trình truyền hình và một số trò chơi cổ điển.
Hugo Goal
Một trò chơi slot trực tuyến được phát triển bởi 5th Planet Games và được Play'n GO phát hành vào ngày 31 tháng 5 năm 2018.
Hugo's Adventure
Trò chơi slot trực tuyến được phát triển bởi 5th Planet Games và được Play'n GO phát hành vào ngày 5 tháng 9 năm 2019.
Hugo Carts
Một trò chơi va chạm trực tuyến nhiều người chơi do Spearhead Studios phát triển và FunFair Games phát hành với sự hợp tác của chủ sở hữu bản quyền 5th Planet Games vào ngày 29 tháng 9 năm 2022.
Hugo: Up & Away
Một trò chơi va chạm trực tuyến nhiều người chơi do Spearhead Studios phát triển và FunFair Games phát hành với sự hợp tác của chủ sở hữu bản quyền 5th Planet Games vào ngày 29 tháng 9 năm 2022.
Hugo Legacy
Một trò chơi slot trực tuyến được Play'n GO phát hành vào ngày 10 tháng 8 năm 2023.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hugo Games
HugoNet (đã lưu trữ)
Bukkazoom (đã lưu trữ)
Runamukka (đã lưu trữ)
Smakkaball (đã lưu trữ)
Danish listing of Hugo games
Game finder by platform
Danh sách trò chơi điện tử theo loạt
|
19853727
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20h%C3%B3a%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%90%C3%B4ng
|
Văn hóa phương Đông
|
Văn hóa phương Đông (Eastern culture) hay còn gọi là Văn minh phương Đông (Eastern civilization) là một thuật ngữ bao trùm chỉ về di sản văn hóa đa dạng của những yếu tố về chuẩn mực xã hội, giá trị đạo đức, phong tục truyền thống, hệ thống tín ngưỡng, hệ thống chính trị, văn vật và kỹ nghệ của thế giới phương Đông. Mặc dù không có thuật ngữ "văn hóa phương Đông" đơn lẻ và tổng quát, nhưng có các nhóm nhỏ trong nội hàm đó, chẳng hạn như các quốc gia ở Đông Á, Đông Nam Á hoặc Nam Á, cũng như tính nguyên hợp trong các khu vực văn hóa này. Chúng bao gồm sự truyền bá của tôn giáo phương Đông chẳng hạn như Phật giáo hoặc Ấn Độ giáo, việc sử dụng phổ biến Hán tự hoặc Phạn văn trong các văn bản chính danh, các gốc rễ ngôn ngữ, sự kết hợp của các món ăn trong ẩm thực và truyền thống xã hội, cùng nhiều điều khác.
Tổng quan
Phương Đông với tư cách là một khu vực địa lý (phía Đông), không rõ ràng và không được xác định cụ thể. Thông thường hơn, hệ tư tưởng của cư dân một quốc gia sẽ được sử dụng để phân loại nó thành một xã hội phương Đông. Có một số bất đồng về việc những quốc gia nào nên hoặc không nên được đưa vào danh mục này và vào thời điểm nào. Nhiều phần của Đế quốc Đông La Mã (Byzantine) được coi là khác biệt với thế giới phương Tây và do đó được hầu hết các học giả gán cho đế chế này là phương Đông. Đế quốc Byzantine chủ yếu bị ảnh hưởng bởi các tập quán phương Đông do sự gần gũi và tương đồng về văn hóa với Iran và Bán đảo Ả Rập, do đó thiếu các đặc điểm được coi là "văn hóa phương Tây". Cả các tác giả Đông và Tây Âu thường coi Byzantium là một tập hợp các ý tưởng tôn giáo, chính trị và triết học trái ngược với các ý tưởng của phương Tây. Rất khó để xác định cá nhân nào phù hợp với loại nào, và sự tương phản Đông-Tây đôi khi bị chỉ trích là thuyết tương đối và tùy tiện.
Chủ nghĩa toàn cầu đã truyền bá tư tưởng và giá trị phương Tây rộng rãi đến mức hầu hết các nền văn hóa hiện đại, ở một mức độ nào đó, đều bị ảnh hưởng từ các khía cạnh của văn hóa phương Đông. Hình mẫu quan điểm về "phương Đông" (Occidentalism) đã được gắn nhãn là Chủ nghĩa phương Đông (Orientalism), song song với thuyết huyền bí—thuật ngữ chỉ các quan điểm rập khuôn thế kỷ XIX về "phương Tây". Khi người châu Âu (người Tây phương) khám phá ra thế giới rộng lớn hơn, các khái niệm cũ đã được điều chỉnh. Khu vực trước đây được coi là Phương Đông ("phía Đông") đã trở thành Cận Đông khi lợi ích của các cường quốc châu Âu can thiệp vào Nhật Bản ở thời kỳ Minh Trị và Trung Quốc vào thời nhà Thanh lần đầu tiên vào thế kỷ XIX. do đó, Chiến tranh Trung-Nhật năm 1894–1895 xảy ra ở Viễn Đông trong khi những rắc rối xung quanh sự suy tàn của Đế chế Ottoman đồng thời xảy ra ở Cận Đông. Nhà khảo cổ học người Anh D.G. Hogarth xuất bản cuốn The Nearer East vào năm 1902, giúp xác định thuật ngữ và phạm vi của nó, bao gồm Albania, Montenegro, miền nam Serbia và Bulgaria, Hy Lạp, Ai Cập, tất cả vùng đất Đế quốc Ottoman, toàn bộ Bán đảo Ả Rập và các phần phía Tây của Iran. Thuật ngữ Trung Đông trong giữa thế kỷ XIX bao gồm lãnh thổ phía đông của Đế quốc Ottoman, nhưng phía Tây Trung Quốc—Đại Ấn Độ và Đại Ba Tư—hiện được sử dụng đồng nghĩa với "Cận Đông" trong hầu hết các ngôn ngữ.
Gia đình có tầm quan trọng rất lớn trong văn hóa phương Đông nơi họ dạy con cái về việc gia đình là nơi che chở chúng và là cội nguồn gốc gác tạo nên bản sắc của chúng như thế nào. Cha mẹ mong đợi sự gắn kết từ con cái của họ. Cha mẹ đặt ra luật lệ, gia quy (có câu: "phép có phép nước, gia có gia quy") và con cái phải tuân theo nề nếp phép tắc đó và đây được gọi là sự hiếu thảo, sự kính trọng đối với cha mẹ và lễ phép với người lớn tuổi, và nó là một khái niệm bắt nguồn từ Trung Quốc với đức tính chữ Hiếu (孝) từ những lời thuyết dạy trong Nho giáo. Trẻ em được cho là có khả năng tự chủ nên khó thể hiện cảm xúc. Giới trẻ phương Đông cũng phải thể hiện sự cung kính lễ phép thông qua cử chỉ và cung cách nói chuyện lễ độ. Theo truyền thống, con cái phải chăm sóc cha mẹ khi chúng lớn lên. Người con trai (đặc biệt là con trai trưởng/con cả/anh hai) được mong đợi sẽ ở lại gia đình để coi sóc hương hỏa, mồ mả của gia đình dòng tộc, trong khi con gái sẽ phải được gả đi để sống với gia đình nhà chồng. Trong văn hóa Trung Quốc, trẻ em đôi khi phải chăm sóc phụng dưỡng người lớn tuổi (cao niên/赡养), và ở nhiều cộng đồng hải ngoại khác nhau, người ta có thể thấy trẻ em Trung Quốc sống với ông bà cha mẹ.
Chú thích
Văn hóa
Phương Đông
|
19853729
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn%20Avdiivka
|
Trận Avdiivka
|
Trận Avdiivka bao gồm các trận đánh diễn ra tại Avdiivka bao gồm:
Trận Avdiivka (2017): Trận đánh giữa Ukraina và lực lượng Donbass do Nga hậu thuẫn vào năm 2017, kết quả là hai bên hòa nhau, và Ukraina vẫn giữ được thị trấn Avdiivka.
Trận Avdiivka (2022–2024): Trận đánh ác liệt giữa quân độ Nga và quân đội Ukraina diễn ra trong thời gian năm 2022 đến năm 2024, kết quả, trong năm 2024, quân Nga đã tiến chiếm được Avdiivka (dù thế cục vẫn chưa ngã ngũ).
|
19853734
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i%20M%C3%B9a%20h%C3%A8%202008%20%E2%80%93%20V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Nam%20khu%20v%E1%BB%B1c%20ch%C3%A2u%20%C3%81%20%28V%C3%B2ng%201%29
|
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2008 – Vòng loại Nam khu vực châu Á (Vòng 1)
|
Vòng thứ nhất của vòng loại môn Bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2008 khu vực châu Á được diễn ra trong hai ngày, 7 tháng 2 năm 2007 cho các trận đấu lượt đi và ngày 14 tháng 2 năm 2007 cho các trận lượt về. 20 đội tham dự được chia thành 10 cặp đấu, thi đấu theo thể thức loại trực tiếp hai lượt trận, chọn ra 10 đội thắng vào vòng kế tiếp cùng với 14 đội xếp hạng cao hơn được miễn đấu ở vòng loại này.
Bốc thăm
10 trong số 20 đội được xếp hạt giống trên cơ sở thứ hạng tại vòng loại khu vực và vòng chung kết của môn bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2004. Lễ bốc thăm cho vòng loại thứ nhất được tổ chức vào ngày 6 tháng 9 năm 2006 tại trụ sở AFC ở Kuala Lumpur, Malaysia.
Các trận đấu
1 Trận lượt đi bị hủy do Afghanistan gặp khó khăn về tài chính dẫn đến việc không thể sang Việt Nam thi đấu, và lo ngại về an ninh. FIFA đã quyết định thay đổi lịch thi đấu của trận đấu và tổ chức lại trong một lượt trận duy nhất, vào ngày 14 tháng 2 năm 2007.
2 Bỏ cuộc
Lượt đi
Jordan mặc định vào vòng 2 do Kyrgyzstan bỏ cuộc.
Lượt về
Hồng Kông thắng với tổng tý số 3–1.
Việt Nam thắng với tổng tý số 2-0.
Indonesia thắng với tổng tý số 1–0.
Pakistan thắng với tổng tý số 5–3.
Thái Lan thắng với tổng tý số 6–1.
Yemen thắng với tổng tỷ số 3–2 .
Úc thắng với tổng tỷ số 12–0.
Uzbekistan thắng với tổng tý số 6–1.
Tổng tỷ số là 2–2. Ấn Độ thắng ở loạt sút luân lưu.
Cầu thủ ghi bàn
Xem thêm
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2004 – Vòng loại nam khu vực châu Á (Vòng 1)
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2012 – Vòng loại nam khu vực châu Á (Vòng 1)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Vòng loại Thế vận hội Bắc Kinh 2008 trên trang RSSSF
Vòng loại bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2008
Vòng loại bóng đá Thế vận hội Mùa hè
Bóng đá châu Á năm 2007
|
19853739
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20Th%E1%BB%8B%20Nhi%20Y%E1%BA%BFn
|
Trần Thị Nhi Yến
|
Trần Thị Nhi Yến (sinh ngày 9 tháng 7 năm 2005) là một vận động viên điền kinh người Việt Nam. Trần Thị Nhi Yến đang là nhà vô địch quốc gia các cự ly 100m và 200m và được đánh giá là một trong những tài năng trẻ triển vọng nhất của làng điền kinh Việt Nam ở các cự ly ngắn.
Sự nghiệp
Trần Thị Nhi Yến bắt đầu được giới chuyên môn chú ý từ Đại hội thể thao toàn quốc 2022. Cô gái chưa đầy 18 tuổi đã mang về 1 tấm huy chương vàng (cự ly 100m) và 1 tấm huy chương bạc (cự ly 200m) cho đoàn thể thao tỉnh Long An. Thành tích này giúp cho Nhi Yến được chọn vào đội tuyển điền kinh Việt Nam thi đấu các giải quốc tế là Sea Games 32 ở Campuchia và giải vô địch điền kinh châu Á 2023 ở Thái Lan.
Ngay ở giải đấu quốc tế đầu tiên của mình là Sea Games 32, Trần Thị Nhi Yến đã đóng góp cho đoàn thể thao Việt Nam 1 tấm huy chương bạc (200m) và 1 tấm huy chương đồng (100m). Ở giải vô địch điền kinh châu Á, mặc dù không giành được huy chương, nhưng chỉ việc giành được suất thi đấu chung kết cự ly 100m của Nhi Yến vẫn được đánh giá là thành tích xuất sắc vượt mong đợi, trong hoàn cảnh cô không có sự chuẩn bị tốt nhất do còn phải dành thời gian cho việc học.
Đến cuối năm 2023, Trần Thị Nhi Yến tiếp tục thi đấu cho đoàn thể thao Long An ở giải điền kinh vô địch quốc gia 2023. Đây là giải đấu mà Nhi Yến đã thống trị các cự ly 100m và 200m, mang về 2 tấm huy chương vàng duy nhất mà đoàn thể thao Long An giành được ở giải đấu này.
Thành tích nổi bật
Huy chương vàng cự ly 100m Đại hội thể thao toàn quốc 2022
Huy chương vàng cự ly 100m Giải vô địch điền kinh quốc gia 2023
Huy chương vàng cự ly 200m Giải vô địch điền kinh quốc gia 2023
Huy chương đồng cự ly 100m Sea Games 32
Huy chương bạc cự ly 200m Sea Games 32
Tham khảo
Nữ vận động viên điền kinh Việt Nam
Người Long An
|
19853747
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD%20Th%C3%A1i%20D%C5%A9ng
|
Lý Thái Dũng
|
Lý Thái Dũng (sinh năm 1964) là nhà quay phim, đạo diễn hình ảnh Việt Nam. Ông từng giành 4 giải Quay phim xuất sắc tại các kỳ Liên hoan phim Việt Nam và 3 giải cùng hạng mục này tại các Giải Cánh diều.
Tiểu sử
Lý Thái Dũng sinh ngày 14 tháng 2 năm 1964 tại Hà Nội, bố ông là đạo diễn điện ảnh Lý Thái Bảo (1929–1992). Thái Dũng và các anh chị em từng đi sơ tán ở xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây sau đó chuyển về sinh sống tại khu tập thể Kim Liên. Được tiếp xúc với các nghệ sĩ điện ảnh cùng với việc bố ông là một đạo diễn, Lý Thái Dũng cũng muốn trở thành đạo diễn điện ảnh nhưng theo lời khuyên của bố, ông đã theo học ngành quay phim.
Sự nghiệp
Năm 1981, Lý Thái Dũng là sinh viên lớp quay phim khóa đầu tiên của trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, ông tốt nghiệp năm 1986, bộ phim tốt nghiệp mà Thái Dũng thực hiện cũng được ghi hình tại cùng địa điểm nơi bố ông từng làm phim tốt nghiệp. Sau khi ra trường, ông nhận công tác tại Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương rồi Công ty Dịch vụ và hợp tác sản xuất phim – Secofilm. Năm 1991 và 1992, ông tham gia hai đoàn làm phim của Pháp và Úc khi họ thực hiện hai bộ phim điện ảnh về Việt Nam là Điện Biên Phủ và Cạm bẫy. Từ năm 1993, Lý Thái Dũng làm việc tại Hãng phim truyện Việt Nam; năm 1995, ông thực hiện bộ phim truyện đầu tay Sự huyền diệu của tình yêu. Bộ phim Dã tràng se cát Biển Đông của đạo diễn Nguyễn Khánh Dư được xem là thành công đầu tiên với Lý Thái Dũng khi bộ này giành được giải B của Hội Điện ảnh Việt Nam năm 1995. Năm 1998, ông Thực tập tại trường Đại học Điện ảnh La Femis – Pháp và trường Đại học Điện ảnh HFF – Postdam, Đức. Năm 2000, phim ngắn và cũng là đề án tốt nghiệp của Bùi Thạc Chuyên là Cuốc xe đêm do Lý Thái Dũng là quay phim chính, giành được giải 3 tại hạng mục Cinéfondation của Liên hoan phim Cannes. Ngay sau đó, Lý Thái Dũng có được giải Quay phim xuất sắc đầu tiên trong sự nghiệp với bộ phim Thung lũng hoang vắng tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 13. Ông tiếp tục giành được giải Kỹ thuật xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 14 với phim Hàng xóm, và có được giải Quay phim xuất sắc thứ hai tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 15 với Vũ điệu tử thần.
Tốt nghiệp khóa học ngắn về làm phim Kỹ thuật số tại Đại học Nam California năm 2004. Lý Thái Dũng là nhà quay phim Việt Nam đầu tiên quay phim cho kênh National Geographic, với Chợ tình ở thung lũng mây. Năm 2008, Bùi Thạc Chuyên và Lý Thái Dũng tiếp tục hợp tác với bộ phim điện ảnh Chơi vơi, với bộ phim này Bùi Thạc Chuyên nhận được giải Đạo diễn xuất sắc còn Lý Thái Dũng nhận được giải Quay phim xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 16. Lý Thái Dũng cũng giành thêm giải Quay phim xuất sắc tại Giải Cánh diều 2009 cùng với đề Đạo diễn hình ảnh xuất sắc tại The 4 Asian Film Awards tại Hồng Kông năm 2010. Năm 2010, Lý Thái Dũng làm Phó đạo diễn bộ phim Cánh đồng bất tận do Nguyễn Phan Quang Bình đạo diễn chính, bộ phim thu hái được một số giải thưởng trong nước.
Năm 2013, ông là thành viên Ban Giám khảo Liên hoan phim Việt toàn cầu San Francisco. Năm 2016, Lý Thái Dũng bỏ cương vị Phó Giám đốc Hãng phim truyện Việt Nam về làm giảng viên tại trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội. Trước đấy, ông đã có kinh nghiệm giảng dạy hơn 20 năm. Ông hiện tại là Phó Trưởng khoa Nghệ thuật Điện ảnh của trường.
Năm 2016, Lý Thái Dũng tham gia quay hai bộ phim điện ảnh Đảo của dân ngụ cư và Cha cõng con. Năm 2017 với bộ phim Đảo của dân ngụ cư, Lý Thái Dũng giành giải Quay phim xuất sắc Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 20 và Giải Cánh diều 2017, cùng giải Đạo diễn hình ảnh xuất sắc tại Liên hoan phim quốc tế ASEAN 2017. Dù không gặt hái được giải thưởng trong nước nhưng Cha cõng con đã giúp Lý Thái Dũng có được ba giải cho Quay phim xuất sắc tại Liên hoan phim quốc tế Barcelona Planet và Liên hoan phim quốc tế Arizona lần thứ 26, Liên hoan phim quốc tế Milano, Liên hoan phim độc lập Hoa Kỳ lần thứ 6.
Năm 2016, Lý Thái Dũng được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Năm 2017, ông cùng hai đạo diễn hình ảnh Bob Nguyễn và K'Linh thành lập Sài Gòn Cinematographers, một hiệp hội dành riêng cho các nhà quay phim. Năm 2018, Lý Thái Dũng là thành viên Ban giám khảo hạng mục Phim ngắn tại Liên hoan phim quốc tế Hà Nội lần thứ 5. Tính đền năm 2022 này, ông đã thực hiện được 22 phim điện ảnh cùng hơn 300 tập phim tài liệu và phim truyền hình. Năm 2023, Lý Thái Dũng là thành viên Ban giám khảo Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 41.
Tác phẩm
Giải thưởng và đề cử
Ghi chú
Tham khảo
Sinh năm 1964
Nhân vật còn sống
Người Hà Nội
Đạo diễn điện ảnh Việt Nam
Nhà quay phim Việt Nam
Nghệ sĩ nhân dân Việt Nam
Phim và người giành giải Cánh diều
Phim và người giành giải Liên hoan phim Việt Nam
|
19853752
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3nh%20s%C3%A1t%20Ho%C3%A0ng%20gia%20Malaysia
|
Cảnh sát Hoàng gia Malaysia
|
Cảnh sát Hoàng gia Malaysia hay Công an Hoàng gia Brunei (tiếng Mã Lai: Polis Diraja Malaysia (PDRM), tiếng Anh: Royal Malaysia Police (RPM)), gọi tắt là Công an Malaysia, là lực lượng cảnh sát liên bang và quốc gia mặc đồng phục (chủ yếu) ở Malaysia. Lực lượng này là một tổ chức tập trung và trụ sở chính đặt tại Bukit Aman, Kuala Lumpur. Lực lượng cảnh sát được lãnh đạo bởi Tổng thanh tra công an, tính đến ngày 23 tháng 6 năm 2023, là Razarudin Husain.
Hiến pháp, kiểm soát, tuyển dụng, tuyển dụng, tài trợ, kỷ luật, nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng cảnh sát được quy định và điều chỉnh bởi Đạo luật Cảnh sát năm 1967.
RMP liên tục hợp tác với các lực lượng cảnh sát (công an) trên toàn thế giới, bao gồm cả sáu quốc gia láng giềng mà Malaysia có chung biên giới với: Công an Quốc gia Indonesia, Công an Quốc gia Philippines, Công an Hoàng gia Brunei, Công an Hoàng gia Thái Lan, Công an Singapore và Công an nhân dân Việt Nam.
Hiện có hơn 130.000 sĩ quan tuyên thệ trực thuộc Cảnh sát Hoàng gia Malaysia. RMP thường hợp tác chặt chẽ với các cơ quan thực thi pháp luật khác trong nước như cục hải quan, cục nhập cư, cơ quan thực thi hàng hải và nhiều cơ quan khác.
Cảnh sát theo quốc gia
Tham khảo
Liên kết ngoài
Văn phòng Trung ương Quốc gia của Interpol
Khởi đầu năm 1807 ở Mã Lai thuộc Anh
Cơ quan chính phủ thành lập năm 1807
Bộ Nội vụ (Malaysia)
|
19853753
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bakuage%20Sentai%20Boonboomger
|
Bakuage Sentai Boonboomger
|
, dịch là Chiến đội Bộc thượng Boonboomger, là một bộ phim truyền hình Tokusatsu của Nhật Bản và là phần thứ 48 trong Series Super Sentai của Toei Company và đồng thời cũng là phần phim thứ năm được sản xuất trong Thời kỳ Reiwa-Lệnh Hòa. Bộ phim được phát sóng vào ngày 3 tháng 3 năm 2024, cùng với Kamen Rider Gotchard trong Super Hero Time, tiếp nối tập cuối của Ohsama Sentai King-Ohger.
Đây là series Super Sentai thứ sáu không có chiến binh màu vàng và là bộ phim thứ 5 về chủ đề xe hơi (sau Turboranger, Carranger,Go-onger và Kiramager). Về sự xuất trận, 3 thành viên gồm Bun Red, Bun Blue và Bun Pink xuất hiện với tư cách 1 nhóm 3 chiến binh liên tưởng đến các nhóm Sentai đời đầu như Sun Vulcan, Liveman, Hurricaneger, Abaranger, Gekiranger, Go-onger, Go-Busters và Kaitou Sentai Lupinranger VS Keisatsu Sentai Patranger xuất trận với 3 thành viên đầu tiên trong nhóm chiến đội.
Phim sẽ được cộng đồng mạng Việt Nam phụ đề tiếng Việt với tên gọi Chiến đội Quái xế trong thời gian sắp tới.
Sản xuất
Nhãn hiệu của bộ phim đã được Toei đăng ký vào ngày 1 tháng 9 năm 2023. Một áp phích đầy đủ đã được tiết lộ vào ngày 22 tháng 12 năm 2023, có Bun Red, Blue và Pink. Hình ảnh teaser thứ hai được phát hành vào ngày 21 tháng 1 năm 2024, tiết lộ Bun Black và Bun Orange cùng với ba chiến binh Boonboomgers đầu tiên . Vào ngày 28 tháng 1 năm 2024, Toei thông báo rằng một cuộc họp báo sẽ được tổ chức để thảo luận về bộ phim và tiết lộ dàn diễn viên, diễn ra vào ngày 18 tháng 2 năm 2024 và do Miyajima Sakura chủ trì.
Cốt truyện
Taiya Hando là người chuyển phát nhanh và lãnh đạo của một nhóm giao hàng tự do có cổ phần cao, Boomboomgers, cùng với ba cá nhân khác: Ishiro Meita, Jou Akuse và Genba Bureki. Thành viên mới nhất được bổ sung vào đội là Mira Shifuto, cô con gái căng thẳng của một gia đình giàu có, người đã dính líu đến họ sau khi họ giải cứu cô khỏi cuộc hôn nhân sắp đặt với một Yakuza. Nhóm được hỗ trợ bởi Bundorio Bunderas, một dạng sống máy ngoài hành tinh và bạn của Taiya, người đã giúp anh phát triển kho vũ khí Boonboomger để hỗ trợ công việc của họ và chuẩn bị cho cuộc đối đầu sắp xảy ra với Hashiriyans, một nhóm tội phạm từ ngoài vũ trụ. Những người Hashirian cuối cùng cũng đến Trái đất, và kể từ đó, những Boonboomgers cân bằng cuộc sống của họ giữa việc hoàn thành các nhiệm vụ từ một số khách hàng, từ những người bình thường đến chính phủ và ngăn chặn kế hoạch chiếm lấy hành tinh của Hashiriyans.
Nhân vật
Các chiến binh Boonboomger
Các thành viên sử dụng Boonboom Changer giống như đồng hồ tốc độ (ブンブンチェンジャー, Bunbun Chenjā) , thường được gắn vào tay của họ để biến hình. Tay cầm Boonboom (ブンブンハンドル, Bunbun Handoru ) có thể chuyển đổi giữa Chế độ Tay cầm giống như vô lăng (ハンドルモード, Handoru Mōdo) , Chế độ Súng giống cờ lê (ガンモード, Gan Mōdo ) và Chế độ Rod giống tua vít (ロッドモード, Roddo Mōdo) .
là một người yêu xe hơi và làm công việc giao hàng. Anh là người biến hình thành
là một chàng trai trẻ lạnh lùng hỗ trợ Taiya với tư cách "người cung cấp thông tin". Ishirō làm công việc điệp viên tự do với mạng lưới rộng khắp thế giới. Anh là người biến hình thành
là một cô gái trong sáng, hay tò mò và là niềm.vui cho cả đội. Mira thường làm việc với tư cách là nhân viên bán thời gian tại nhiều cửa hàng. Cô là người biến hình thành
là một sĩ quan cảnh sát cực kỳ nghiêm túc với ước mơ trở thành anh hùng. Anh là người biến hình thành
là một tay "thu mua" luôn bất ngờ xuất hiện với khẩu hiệu "Hình như cô/cậu đang gặp vấn đề phải không?" Tuy chưa rõ lai lịch nhưng Taiya vẫn rất tin tưởng anh. Anh có thể biến hình thành
Tập phim
Mỗi tập được gọi là một "bakuage" (バクアゲ)
Phim điện ảnh
Nhạc phim
Nhạc mở đầu
"Bakuage Sentai Boonboomger" (爆上戦隊ブンブンジャー, Bakuage Sentai Bunbunjā )
Nghệ sĩ: Endo Masaaki
Nhạc kết thúc
"Kotsukotsu-Pon-Pon" (コツコツ-PON-PON )
Ca sĩ: Bundorio Bunderas (Matsumoto Rika)
Diễn viên
Handou Taiya/Bun Red: Iuchi Haruhi
Meita Ishirou/Bun Blue: Hayama Yuki
Shifuto Mira/Bun Pink: Suzuki Miu
Akuse Jou/Bun Black: Saito Ryu
Bureki Genba/Bun Orange: Soma Satoru
Bundorio Bunderas (Lồng tiếng): Matsumoto Rika
Dekotorade (Lồng tiếng): Suwabe Jun'ichi
Itaasha (Lồng tiếng): Mizuki Nana
Yeiyei Yaruka (Lồng tiếng): Morohoshi Sumire
Tham khảo
Liên kết ngoài
tại TV Asahi
tại Toei Company
Super Sentai
Phim truyền hình Nhật Bản
Tokusatsu
Phim truyền hình năm 2024
Phim truyền hình Nhật Bản ra mắt năm 2024
Chương trình truyền hình kỳ ảo Nhật Bản
|
19853756
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202014%20%E2%80%93%20%C4%90%C3%B4i%20N%E1%BB%AF
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2014 – Đôi Nữ
|
Nội dung biểu diễn đôi nữ bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2014 ở Incheon, Hàn Quốc. Nội dung thi đấu này diễn ra vào ngày 20 tháng 9 năm 2014 tại Trung tâm thể thao dưới nước Munhak Park Tae-hwan.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Hàn Quốc (UTC+09:00)
Kết quả
Chú thích
FR — Dự bị trong nội dung free
RR — Dự bị trong nội dung technical và free
TR — Dự bị trong nội dung technical
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Tham khảo
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2014
|
19853758
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/F.C.%20Arouca
|
F.C. Arouca
|
Futebol Clube de Arouca () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Arouca, một thị trấn và đô thị ở Vùng đô thị Porto, Vùng Bắc của Bồ Đào Nha và tỉnh Aveiro. Được thành lập vào năm 1951, câu lạc bộ thi đấu ở Primeira Liga, tổ chức các trận sân nhà tại sân vận động Thành phố Arouca, với sức chứa 5.000 chỗ ngồi.
Lịch sử
Danh hiệu
Cầu thủ
Đội hình hiện tại
Cho mượn
Ban huấn luyện
Tham khảo
Liên kết ngoài
Câu lạc bộ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha
|
19853759
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20d%E1%BB%8Bch%20mi%E1%BB%81n%20%C4%90%C3%B4ng%20Ukraina
|
Chiến dịch miền Đông Ukraina
|
Chiến dịch miền Đông Ukraina (Eastern Ukraine campaign) là hướng giao tranh trong chiến dịch Nga xâm lược Ukraina năm 2022 và việc Ukraina giáng trả các đợt tấn công của quân đội Nga. Chiến cuộc diễn ra tại miền Đông Ukraina gồm các tỉnh Donetsk (Đô-nhét), Luhansk (Lu-gan) và Kharkiv (Khắc-cốp) là địa điểm của mặt trận trong Nga xâm lược Ukraina đang diễn ra. Trận chiến Donbas là một đợt tấn công lớn ở mặt trận phía đông diễn ra vào giữa năm 2022 là trọng tâm trong chiến dịch này suốt năm 2022. Đến đỉnh điểm của cuộc tấn công vào tháng 7 năm 2022, lực lượng Nga và các đồng minh ly khai của Nga đã chiếm được các thành phố Sievierodonetsk (Si-vơ-rô-đô-nhét), Lysychansk (Ly-sy-chan), Rubizhne (Ru-bi-zin) và Izium. Tuy nhiên, vào đầu tháng 9 năm 2022, Ukraina đã đã phát động một cuộc phản công lớn ở phía đông và đã chiếm lại các thành phố Izium, Balakliia, Kupiansk (Ku-pi-an), Sviatohirsk và thành phố chiến lược Lyman. Cuộc phản công bị đình trệ ở phía đông sông Oskil và hiện chiến dịch Luhansk là một chiến dịch ở phía đông tỉnh Kharkiv và phía tây tỉnh Luhansk do Nga gấp rút tổ chức để kiềm chế đà tiến của Ukraina vẫn tiếp tục kể từ thời điểm diễn ra.
Vào mùa đông năm 2022-2023, lực lượng Nga tập trung đánh chiếm thành phố Bakhmut, phá hủy phần lớn thành phố trong trận Bakhmut ác liệt, một trong những trận chiến đẫm máu nhất. Nga tuyên bố đã chiếm được hoàn toàn Bakhmut vào tháng 5 năm 2023, bất chấp các cuộc phản công của Ukraina vẫn diễn ra ở ngoại ô thành phố Bakhmut. Vào tháng 6 năm 2023, Ukraine phát động một cuộc phản công quy mô lớn trên toàn bộ tiền tuyến, chiếm giữ các vị trí của Nga dọc theo ngoại ô Bakhmut và ở phía tây nam tỉnh Donetsk. Tuy nhiên, đến tháng 11 năm 2023, cuộc phản công phần lớn đã bị đình trệ ở phía đông và Nga bắt đầu phản công để chiếm lại lãnh thổ, giành quyền kiểm soát Avdiivka (Áp-đíp-ka) sau trận trận Avdiivka (2022–2024) khốc liệt và thị trấn Marinka sau trận Marinka (2022-2023) ở chiến trường tỉnh Donetsk trước tháng 2 năm 2024.
Sau Avdiivka
Cuộc tấn công của quân Nga trên mặt trận Bakhmut tiếp tục kéo dài đến tháng 1 năm 2024, họ từ từ đẩy áp lực về phía tây theo hướng Chasiv Yar (Cha-síp-ya) với các cuộc đụng độ đang diễn ra xoay quanh Bohdanivka (Bô-đa-níp-ka) cũng như dọc theo trục Ivanivske (I-va-nép-skê)-Andriivka (An-Đri-íp-ka)-Klishchiivka (Klít-chíp-ka). Tướng Oleksandr Syrskyi cho biết lực lượng Nga sử dụng máy bay không người lái cảm tử kamikaze và tác chiến điện tử cùng với các nhóm tấn công được pháo binh hỗ trợ để xuyên thủng hệ thống phòng thủ của Ukraina trên mặt trận Bakhmut.
Vào ngày 20 tháng 1 năm 2024, người phát ngôn Ukrainea là Đại tá Oleksandr Shtupun tuyên bố rằng Nga đang tập trung các hoạt động tấn công ở Donetsk (Đô-nhét) vào Avdiivka và Novomykhailivka (Nô-vô-my-kha-líp-ka), đồng thời ông cho biết thêm rằng các cuộc tấn công mặt đất của Nga chủ yếu đựa vào bộ binh với lực lượng rất đông đảo nhưng xe bọc thép hỗ trợ thì hạn chế. Theo Oleksandr Shtupun, lực lượng Nga đã tiến hành 592 cuộc tấn công bằng pháo binh và tiến hành 3 cuộc tấn công tên lửa vào mặt trận Donetsk trong 24 giờ qua trong ngày 20 tháng 1 năm 2024. Vào cuối tháng 1 đến đầu tháng 2 năm 2024, các lực lượng Nga đã chọc thủng tuyến phòng thủ của Ukraina ở Avdiivka và bắt đầu đánh sườn và bao vây quân của Lữ đoàn cơ giới 110, khiến Ukraina phải rút lui và dẫn đến việc quân Nga chiếm giữ thành phố kiên cố này.
Quân Nga tiếp tục đà tiến về phía tây Avdiivka và được cho là đã chiếm được Lastochkyne (Lát-tốc-ki-nê), Stepove (Stép-pô-vê) và Sieverne (Si-vê-nê) vào cùng ngày 27 tháng 2 năm 2024. Các cuộc đụng độ cũng tiếp tục xảy ra ở Novomykhailivka (Nô-vô-mi-kha-líp-ka) với việc Nga tuyên bố đã chiếm được Pobieda (Pô-pi-ê-đa) vào ngày 22 tháng 2 năm 2024 đe dọa thêm mạn sườn phía bắc của Novomykhailivka và mở rộng ranh giới vùng đệm phía nam Marinka. Đồng thời với các hoạt động tấn công trên trục Avdiivka và Marinka, lực lượng Nga vẫn đang tập trung nỗ lực vào hướng Bohdanivka-Chasiv Yar dọc theo đường cao tốc O0506 và qua Bohdanivka, phía bắc và đông bắc Ivanivske, và xung quanh Klishchiivka để vượt qua các cao điểm phía bắc và tây bắc về khu định cư, theo nhà quan sát quân sự Ukraina Kostyantyn Mashovets. Vào ngày 21 và ngày 23 tháng 2 năm 2024, các nguồn tin của Nga cho biết quân đội Nga, bao gồm các đơn vị của Sư đoàn Dù cận vệ số 98 đã tiến vào vùng ngoại ô phía đông của Ivanivske và dần tiến tới con phố Sadova trong bối cảnh các cuộc đụng độ gay gắt.
Chú thích
Nga xâm lược Ukraina 2022
Cuộc tấn công miền Đông Ukraina
|
19853760
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i%20M%C3%B9a%20h%C3%A8%202008%20%E2%80%93%20V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Nam%20khu%20v%E1%BB%B1c%20ch%C3%A2u%20%C3%81%20%28V%C3%B2ng%202%29
|
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2008 – Vòng loại Nam khu vực châu Á (Vòng 2)
|
|top_scorer= Hamad Al-Enezi (8 bàn)|prevseason=2004|nextseason=2012}}Các trận đấu thuộc vòng thứ hai của vòng loại môn Bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2008 khu vực châu Á đã diễn ra từ ngày 28 tháng 2 đến ngày 6 tháng 6 năm 2007. Mười đội thắng từ vòng 1 cùng với mười bốn đội khác được bốc thăm thành 6 bảng 4 đội, thi đấu theo thể thức vòng tròn hai lượt tính điểm để xác định hai đội đứng đầu mỗi bảng đi tiếp vào vòng loại thứ ba.
Hạt giống
Các đội tuyển lọt vào vòng loại thứ hai được xếp hạt giống dựa trên thành tích của họ tại vòng chung kết và vòng loại khu vực của kỳ Thế vận hội Mùa hè 2004. Lễ bốc thăm cho vòng loại thứ hai được tổ chức vào ngày 16 tháng 9 năm 2006 tại trụ sở AFC ở Kuala Lumpur, Malaysia.
(*) Tại thời điểm bốc thăm, đội đi tiếp vào vòng loại thứ hai vẫn chưa được xác định.
Các bảng đấu
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Trận đấu bị hủy do bão Gonu.
Bảng D
Bảng E
Ấn Độ được xử thắng sau khi Thái Lan bị phát hiện sử dụng một cầu thủ không hợp lệ.
Bảng F
Cầu thủ ghi bàn
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của Vòng loại Olympic AFC
Vòng loại Thế vận hội Bắc Kinh 2008 trên trang RSSSF
Vòng loại bóng đá Thế vận hội Mùa hè
Vòng loại bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2008
Bóng đá châu Á năm 2007
|
19853762
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20d%E1%BB%8Bch%20mi%E1%BB%81n%20Nam%20Ukraina
|
Chiến dịch miền Nam Ukraina
|
Chiến dịch miền Nam Ukraina (Southern Ukraine campaign) là một mặt trận đang diễn ra trong Nga xâm lược Ukraina, bắt đầu vào ngày 24 tháng 2 năm 2022. Xuất phát từ căn cứ ở Crimea, Lực lượng vũ trang Nga đã tấn công Kherson Oblast, Mykolaiv Oblast và Zaporizhzhia Oblast ở miền Nam Ukraina, chiến đấu ác liệt với Lực lượng vũ trang Ukraina. cả hai đã đưa đến một chiến cuộc dằng co, tiêu hao trong cuộc chiến kéo dài này.
Diễn biến
Ngay sau khi Tổng thống Nga Vladimir Putin công bố một chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraina, Không quân Nga bắt đầu phóng tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo vào các mục tiêu ở một số thành phố ở Ukraina ở Kherson Oblast. Với sự hỗ trợ trên không, Lực lượng vũ trang Nga sau đó đã tiến vào Kherson Oblast qua các khu vực của Crimea được Nga sáp nhập vào năm 2014. Hải quân Nga đã phong tỏa Biển Đen để ngăn Ukraine hỗ trợ các đơn vị nằm gần Kherson Oblast, đồng thời hạn chế thương mại thương mại và dòng hàng hóa tiếp vận đến miền nam Ukraina. Các lực lượng từ cuộc tấn công miền nam Nga đã hợp lực với các lực lượng từ chiến dịch miền Đông Ukraina để cùng nhau bao vây và bắn phá thành phố Mariupol ở Donetsk Oblast, đã thất thủ sau nhiều tháng bị bao vây trong trận chiến cuối cùng tại nhà máy thép Azovstal.
Đến sáng ngày 25 tháng 2 năm 2022, quân Nga đã bao vây và chiếm được Nova Kakhovka. Kênh đào Bắc Crimea đã được thông tắc, xóa bỏ tình trạng tắc nghẽn nước đến Crimea trong thời gian dài sau khi Nga sáp nhập bán đảo này vào năm 2014. Giao tranh bắt đầu lan vào Zaporizhzhia Oblast khi lực lượng Nga di chuyển qua phía đông nam Kherson Oblast về phía Melitopol, sau đó đã đầu hàng quân Nga đang tiến công sau một cuộc giao tranh nhỏ trong trận Melitopol. Cuối ngày, quân Nga đã chiếm được cầu Antonovskiy. Lực lượng Ukraina phản công tại Melitopol để giành lại quyền kiểm soát. Vào ngày 26 tháng 2 năm 2022, theo thị trưởng Kherson Ihor Kolykhaiev, một cuộc không kích của Ukraina đã buộc người Nga phải rút lui khỏi Kherson, để lại thành phố dưới sự kiểm soát của Ukraina.
Sau đó, quân Nga chiếm Kherson vào tháng 3 năm 2022, sau đó lực lượng Nga nhanh chóng tiến đến vùng ngoại ô Mykolaiv, thiết lập mặt trận ổn định cho đến khi Ukraina tấn công vào tháng 8 năm 2022. Các lực lượng Ukraina đã chiếm lại toàn bộ lãnh thổ ở phía tây và phía bắc sông Dnieper, và mặt trận lại ổn định trở lại ngay phía nam Kherson vào tháng 11 năm 2022. Kherson, thủ phủ duy nhất của Oblast bị Nga chiếm được sau đó cuộc xâm lược năm 2022 này đến đây đã được giải phóng vào ngày 11 tháng 11 năm 2022., truyền thông phương Tây loan tin về cuộc chào đón từ đám đông người Ukraina hô vang khẩu hiệu Slava Ukraini! (Vinh quang cho Ukraina) và "Vinh quang cho ZSU" (Lực lượng vũ trang Ukraina), họ còn tung hứng các binh sĩ và hân hoan vẫy cờ Ukraina.
Chú thích
Nga xâm lược Ukraina 2022
|
19853765
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Balzac%20v%C3%A0%20c%C3%B4%20th%E1%BB%A3%20may%20Trung%20Hoa%20%28phim%29
|
Balzac và cô thợ may Trung Hoa (phim)
|
Balzac và cô thợ may Trung Hoa (; ) là một bộ phim chính kịch lãng mạn Pháp–Trung năm 2002 với lời thoại bằng phương ngữ Tứ Xuyên do Đới Tư Kiệt đạo diễn với sự tham gia của Châu Tấn, Trần Khôn và Lưu Diệp. Phim được công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Cannes 2002 vào ngày 16 tháng 5.
Dựa trên cuốn tiểu thuyết bán tự truyện cùng tên năm 2000 của Đới, bộ phim xoay quanh hai chàng trai trẻ người Trung Quốc xuất thân từ giai cấp tư sản bị đưa đến một ngôi làng hẻo lánh ở tỉnh Tứ Xuyên để cải tạo ba năm trong Cách mạng Văn hóa. Cả hai đều yêu một cô gái địa phương xinh đẹp, cháu gái của một thợ may già và được mọi người biết đến với danh xưng "Cô thợ may". Trong những năm bị áp bức tinh thần đó, cả ba tìm thấy niềm an ủi và giải thoát trong bộ sưu tập tiểu thuyết dịch bị cấm của các tác giả phương Tây, trong đó họ yêu thích nhà văn Balzac. Bộ phim khám phá các chủ đề về tuổi trẻ, tình yêu và tự do trong thời kỳ đen tối ở Trung Quốc.
Nội dung
Bộ phim lấy bối cảnh từ năm 1971 đến năm 1974, trong giai đoạn sau của Cách mạng Văn hóa Trung Quốc. Hai chàng trai thành phố ở độ tuổi cuối thiếu niên, Lạc Minh (do Trần Khôn thủ vai) và Mã Kiếm Linh (Lưu Diệp thủ vai), đang trên đường đến một ngôi làng hẻo lánh ở tỉnh miền núi Tứ Xuyên để cải tạo. Khi đến nơi, hai anh chàng bị Trưởng làng (Vương Song Bảo), trưởng làng thẩm vấn về "lý lịch phản động" trước sự chứng kiến của những người dân làng khác. Cha của Lạc hóa ra là một nha sĩ đã từng lắp răng giả cho Tưởng Giới Thạch, trong khi cha của Mã là một bác sĩ. Cảnh sát trưởng cũng kiểm tra hành lý của hai anh và đốt một cuốn sách dạy nấu ăn mà ông ta cho là tư sản. Ông ta định ném cây vĩ cầm của Mã vào lửa thì bị Lạc chặn lại, nói dối rằng bản Divertimento KV 334 Mã của Mozart chơi là một "bài hát miền núi" có tựa đề Mozart đang nghĩ đến Mao Chủ tịch.
Hai anh chàng được cấp một căn nhà và ngay lập tức tham gia lao động cùng người dân địa phương, bao gồm vận chuyển những thùng chất thải của người dùng làm phân bón cũng như làm việc trong mỏ than. Một ngày nọ, một cô gái trẻ, cháu gái của một thợ may ở làng bên cạnh và được mọi người gọi là Cô thợ may (Châu Tấn), đến cùng ông nội để nghe Mã chơi violin. Lạc và Mã kết bạn với Cô thợ may và nhanh chóng cả hai đều yêu cô ấy. Cô gái mù chữ nhưng khao khát kiến thức và các chàng trai thề sẽ giúp cô thay đổi, lên kế hoạch đánh cắp chiếc vali chứa đầy tiểu thuyết phương Tây dịch bị cấm của Tứ Nhãn (Vương Hoành Vĩ), một anh chàng khác đang được cải tạo trong làng nhưng nhất định phải quay lại thành phố. Lạc bắt đầu đọc cho Cô thợ may nghe mỗi ngày, bao gồm cả sách của Stendhal, Kipling và Dostoevsky. Nhưng tác giả mà cô yêu thích nhất lại là Balzac.
Cô thợ may sớm phải lòng Lạc. Một ngày nọ, khi Lạc lên thành phố trong kỳ nghỉ phép hai tháng để thăm người cha ốm yếu, cô nói với anh rằng cô có một vấn đề nhưng không nói rõ hơn. Sau đó, cô tâm sự với Mã rằng cô đang mang thai, nhưng luật hạn chế dân số cấm kết hôn trước 25 tuổi và phá thai là bất hợp pháp nếu không có giấy đăng ký kết hôn. Mã đi đến thành phố để tìm một bác sĩ phụ khoa quen biết cha anh và cầu xin sự giúp đỡ của người này. Bác sĩ phụ khoa cảm động và đồng ý đến làng để thực hiện một ca phá thai bí mật. Khi Lạc trở về, cuộc sống lại tiếp tục như trước.
Tuy nhiên, một ngày nọ, Cô thợ may, giờ đã hoàn toàn thay đổi bởi những tư tưởng mới mà Lạc và Mã đã giới thiệu cho cô, đột ngột quyết định rời làng để tìm kiếm "một cuộc sống mới", bất chấp lời cầu xin từ ông nội cô và Lạc. Sau đó, vào năm 1974, Lạc và Mã đều trở lại thành phố. Lạc sau đó trở thành giáo sư tại một viện nha khoa ở Thượng Hải, trong khi Mã chuyển đến Pháp và trở thành một nghệ sĩ violin chuyên nghiệp. Vào cuối những năm 1990, khi biết tin việc xây dựng đập Tam Hiệp sẽ sớm làm ngập lụt ngôi làng mà anh đã ở đó ba năm, Mã quay trở lại với hy vọng tìm được Cô thợ may một lần nữa. Tuy nhiên, những nỗ lực của anh đều vô ích và anh chỉ mang về một đoạn video ghi lại cảnh làng và người dân, trong đó có cả vị trưởng làng hiện đã già. Khi Mã gặp lại người bạn cũ Lạc ở Thượng Hải, người sau thú nhận nỗ lực tìm kiếm Cô thợ may ở Thâm Quyến và Hồng Kông đã thất bại trước đó. Bộ phim kết thúc bằng một đoạn tin tức về những thị trấn, làng mạc bị ngập lụt và cảnh cả ba người quay về những năm tháng tuổi trẻ cũng chìm trong nước.
Phân vai
Châu Tấn vai Cô thợ may, một cô thôn nữ xinh đẹp và mù chữ, cháu gái một thợ may
Lưu Diệp vai Mã Kiếm Linh, một cậu bé thành thị xuất thân tư sản được gửi đến một ngôi làng hẻo lánh để cải tạo trong Cách mạng Văn hóa
Trần Khôn trong vai Lạc Minh, chàng trai cùng hoàn cảnh với Mã, bạn thân của Mã và là người yêu của Cô thợ may
Vương Song Bảo vai Trưởng làng
Vương Hoành Vĩ trong vai Tứ Nhãn, một cậu bé có hoàn cảnh tương tự như Mã và Lạc, người có vẻ hết lòng đón nhận những lời dạy của Mao.
Giải thưởng và đề cử
Quả cầu vàng, 2003
Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất (được đề cử)
Liên hoan phim quốc tế Istanbul, 2003
Hoa Tulip Vàng (được đề cử)
Liên hoan phim Kim Mã, 2003
Kịch bản chuyển thể hay nhất (được đề cử)
Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông, 2004
Phim châu Á hay nhất (được đề cử)
Sản xuất và đón nhận
Đới Tư Kiệt vừa là nhà văn, tác giả của tiểu thuyết cùng tên vừa là đạo diễn của bộ phim. Trên đà thành công của cuốn tiểu thuyết, Đới Tư Kiệt viết kịch bản và tự mình đạo diễn bộ phim cùng tên. Ông đã chọn Châu Tấn đóng vai cô thợ may và khen ngợi nữ diễn viên có vẻ đẹp thuần khiết. Trần Khôn được chọn vào vai Lạc trong phim và được khen ngợi là phong trần hơn so với nhân vật thanh niên tuổi ngoài 20. Đới Tư Kiệt đã từng trải qua cuộc "tự cải tạo" từ 1971-1974 trong Cách mạng Văn hoá. Đây cũng là bối cảnh và hoàn cảnh của nhân vật mà ông đã viết trong tiểu thuyết cũng như khi làm đạo diễn phim. Ông phát biếu: “Làm một bộ phim khó gấp ngàn lần so với khi viết một quyển sách".
Phim được nhận định là sự giao thoa văn hóa giữa Pháp và Trung Quốc. Phim được đánh giá cao qua diễn xuất của các diễn viên, đặc biệt là Châu Tấn. Cô được xem là "thiên tài diễn xuất", được ca ngợi về sắc đẹp.
Phát hành
Balzac và cô thợ may Trung Hoa được phát hành trên DVD vào ngày 29 tháng 11 năm 2005 tại Hoa Kỳ và được phân phối bởi Empire Pictures. Dù rằng được đề cử nhiều giải thưởng nhưng bộ phim vẫn không được công chiếu ở Trung Quốc.
Xem thêm
Cách mạng văn hóa Trung Quốc
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim năm 2002
Bài viết có chữ Hán giản thể
Bài viết có chữ Hán phồn thể
Phim lấy bối cảnh ở thập niên 1970
|
19853767
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20d%E1%BB%8Bch%20Luhansk
|
Chiến dịch Luhansk
|
Chiến dịch Luhansk (Luhansk Oblast campaign) là chiến dịch của Nga phát động tại tỉnh Luhansk nhằm kiềm chế đà tiến công của Ukraina trong cuộc phản công quy mô lớn ở khu vực Đông Bắc vào tháng 9 năm 2022 đã lấy lại lãnh thổ rộng lớn bị Nga chiếm đóng. Kể từ ngày 19 tháng 9 năm 2022, một chiến dịch quân sự đã diễn ra dọc theo tiền tuyến dài 60 km ở các khu vực phía tây của Luhansk Oblast và các khu vực viễn đông của Kharkiv Oblast trong bối cảnh Nga xâm lược Ukraina. Chiến dịch này còn được gọi là Phòng tuyến Svatove–Kreminna hoặc Phòng tuyến Kupiansk–Svatove–Kreminna–Bilohorivka sau các khu định cư lớn dọc theo mặt trận được thiết lập, chiến dịch bắt đầu một ngày sau khi Quân đội Ukraina tái chiếm thành phố Lyman gần đó trong cuộc phản công chớp nhoáng ở miền Bắc trong năm 2022, sau đó tiền tuyến bị đóng băng trong vài tháng tiếp theo.
Diễn biến
Với sự sụp đổ của Lysychansk và vùng ngoại ô phía tây của nó vào tháng 7 năm 2022, quân Nga và nhà nước bù nhìn Cộng hòa nhân dân Luhansk lần đầu tiên tuyên bố toàn quyền kiểm soát Luhansk Oblast coi như đã đạt được mục tiêu chiến dịch của Nga. Bilohorivka trở thành một trong những khu định cư cuối cùng ở vùng Luhansk nằm dưới sự kiểm soát của Nga. Tuy nhiên, trong cuộc phản công Kharkiv năm 2022, vào ngày 19 tháng 9 năm 2022, quân Nga buộc phải rời khỏi Bilohorivka, lại bắt đầu giao tranh ác liệt để giành ngôi làng. Những thành tựu này đã giúp Ukraine lấy lại được "thế đứng chân trong khu vực". Kreminna là một thành phố có tính chiến lược cao trong chiến tranh. Nếu Ukraine chiếm lại Kreminna và Svatove gần đó, điều đó có thể cho phép các lực lượng Ukraina tiến hành chiến dịch chiếm lại các thành phố công nghiệp quan trọng Sievierodonetsk và Lysychansk mà trước đó họ đã mất vào mùa hè năm 2022.
Vào ngày 2 tháng 10 năm 2022, lực lượng Ukraine bắt đầu bắn phá dữ dội các vị trí của Nga ở Kreminna, tiến xa tới xa lộ R-66. Ngày hôm sau, quân đội Ukraine đã vượt qua được một đoạn đường cao tốc giữa Chervonopopivka và Pishchane, mặc dù đã bị lực lượng Nga đẩy lùi. Theo người đứng đầu Cơ quan quản lý quân sự khu vực Luhansk là Serhiy Haidai, để chống lại các bước tiến của Ukraina, các lực lượng Nga đã khai thác tất cả các con đường tiếp cận Kreminna và Svatove. Từ ngày 2 đến ngày 13 tháng 10 năm 2022, quân đội Ukraine đã chiếm lại 14 thị trấn và làng mạc, bao gồm Borova, dọc theo biên giới Kharkiv-Luhansk. Lực lượng Ukraine cũng tiến về phía Chervonopopivka trên đường cao tốc Svatove-Kreminna, mặc dù họ đã bị đẩy lui khỏi vị trí vào ngày 5 tháng 10 năm 2022. Hai ngôi làng nữa được quân Ukraine chiếm lại vào ngày 24 tháng 10 năm 2022.
Trong cuộc phản công năm 2023 của Ukraina, trong đó các lực lượng Nga đã ở các vị trí phòng thủ dọc theo phần lớn tiền tuyến, phòng tuyến Svatove–Kreminna là một trong những nơi duy nhất mà họ vẫn đang bị tấn công. Từ ngày 19 đến ngày 20 tháng 6 năm 2023, lực lượng Nga tăng cường các hoạt động tấn công trên tuyến Svatove-Kreminna, đặc biệt là theo hướng Kupiansk và phía tây Kreminna (ở khu rừng Kreminna). Lực lượng Nga đã giành được nhiều thắng lợi ở khu vực Kupiansk vào ngày 19 tháng 6 năm 2023. Lực lượng Ukraine tiến hành phản công vào ngày 21 tháng 6 năm 2023 với mục đích làm suy yếu tiềm năng tấn công của nỗ lực của Nga nhưng không có kết quả rõ rệt. Vào ngày 7 tháng 9 năm 2023, các đơn vị của Cơ quan Biên phòng Nhà nước Ukraina đã tiến vào các khu định cư Topoli và Stroivka, kéo cờ Ukraina trên các tòa nhà hành chính của khu định cư. Các khu định cư, gần biên giới với Nga, đã bị quân đội Nga bỏ hoang kể từ cuộc phản công Kharkiv năm 2022, nhưng các lực lượng Ukraina đã không thể giải phóng các khu định cư do sự kiểm soát của pháo binh Nga trong khu vực khiến chúng rơi vào tình trạng "vùng xám" vì không bên nào kiểm soát được những địa điểm đó.
Chú thích
Nga xâm lược Ukraina 2022
Cuộc tấn công miền Đông Ukraina
|
19853772
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i%20M%C3%B9a%20h%C3%A8%202008%20%E2%80%93%20V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Nam%20khu%20v%E1%BB%B1c%20ch%C3%A2u%20%C3%81%20%28V%C3%B2ng%203%29
|
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2008 – Vòng loại Nam khu vực châu Á (Vòng 3)
|
Các trận đấu thuộc vòng thứ ba của vòng loại môn Bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2008 khu vực châu Á đã diễn ra từ ngày 22 tháng 8 đến ngày 21 tháng 11 năm 2007. Mười hai đội thắng từ vòng 2 được bốc thăm thành ba bảng bốn đội, thi đấu theo thể thức vòng tròn hai lượt tính điểm như vòng trước. Đội đứng đầu mỗi bảng sẽ giành quyền tham dự vòng chung kết tại Bắc Kinh.
Vòng loại này đã chúng kiến Úc, Hàn Quốc và Nhật Bản giành vị trí dẫn đầu ở ba bảng, qua đó trở thành các đại diện của châu Á tham dự nội dung bóng đá nam tại Thế vận hội.
Hạt giống
Các đội tuyển lọt vào vòng loại thứ ba được xếp hạt giống dựa trên thành tích của họ tại vòng chung kết và vòng loại khu vực của kỳ Thế vận hội Mùa hè 2004. Với việc lọt vào giải bóng đá nam tại kỳ Thế vận hội lần trước, Nhật Bản, Hàn Quốc và Iraq là ba đội được chọn làm hạt giống ở ba bảng và được xếp vào nhóm A tại buổi lễ bốc thăm. Lễ bốc thăm cho vòng loại thứ ba được tổ chức vào lúc 15:00 (UTC+8) ngày 14 tháng 6 năm 2007 tại trụ sở AFC ở Kuala Lumpur, Malaysia.
Lịch thi đấu
Lịch thi đấu cho mỗi lượt đấu như sau.
Các bảng đấu
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Cầu thủ ghi bàn
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của Vòng loại Olympic AFC
Vòng loại Thế vận hội Bắc Kinh 2008 trên trang RSSSF
Vòng loại bóng đá Thế vận hội Mùa hè
Vòng loại bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2008
Bóng đá châu Á năm 2007
|
19853774
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202014%20%E2%80%93%20%C4%90%E1%BB%93ng%20%C4%91%E1%BB%99i%20N%E1%BB%AF
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2014 – Đồng đội Nữ
|
Nội dung biểu diễn đồng đội nữ bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2014 ở Incheon, Hàn Quốc. Nội dung thi đấu này diễn ra từ ngày 21 đến ngày 22 tháng 9 năm 2014 tại Trung tâm thể thao dưới nước Munhak Park Tae-hwan.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Hàn Quốc (UTC+09:00)
Kết quả
Chú thích
FR — Dự bị trong nội dung free
RR — Dự bị trong nội dung technical và free
TR — Dự bị trong nội dung technical
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Tham khảo
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2014
|
19853776
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shiraoka%2C%20Saitama
|
Shiraoka, Saitama
|
là thành phố thuộc tỉnh Saitama, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thành phố là 52.214 người và mật độ dân số là 2.100 người/km2. Tổng diện tích thành phố là 24,93 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Saitama
Kasukabe
Saitama
Kuki
Hasuda
Miyoshi
Tham khảo
Thành phố tỉnh Saitama
|
19853779
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20t%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Syria%202014
|
Bầu cử tổng thống Syria 2014
|
Bầu cử tổng thống Syria 2014 () được tổ chức vào ngày 3 tháng 6 năm 2014 tại Syria. Đây là cuộc bầu cử tổng thống lần đầu tiên kể từ khi Đảng Ba'ath cầm quyền vào năm 1963 và đất nước xảy ra nội chiến vào năm 2011. Tổng thống Bashar al-Assad giành tuyệt đối với tỷ lệ 92,20% phiếu bầu, hai ứng cử viên còn lại là Hassan al-Nouri và Maher Hajjar lần lượt giành 4,47% và 3,33% phiếu bầu. Với kết quả trên, Bashar al-Assad tái đắc cử nhiệm kỳ tổng thống lần thứ ba và nhậm chức tổng thống vào ngày 16 tháng 7 năm 2014.
Kết quả
Tham khảo
Syria năm 2014
Bầu cử năm 2014
Bầu cử ở châu Á năm 2014
Sự kiện tháng 6 năm 2014 ở châu Á
Bầu cử tổng thống Syria
Chính trị Syria thập niên 2010
|
19853783
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20d%E1%BB%8Bch%20Donbas%20%282022%29
|
Chiến dịch Donbas (2022)
|
Trận Donbas hay Mặt trận Donbas hay Chiến dịch Donbas là một chuỗi các cuộc tấn công quân sự nằm trong chiến dịch miền Đông Ukraina khi Nga xâm lược Ukraina. Cuộc tấn công bắt đầu vào ngày 18 tháng 4 năm 2022 giữa các lực lượng vũ trang của Nga và Ukraina để giành quyền kiểm soát khu vực Donbas. Các nhà phân tích quân sự coi chiến dịch này là giai đoạn chiến lược thứ hai của chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga, sau cuộc tấn công ba mũi nhọn giáp công đầu tiên của Nga vào Ukraina với chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh kiểu hành tiến đã bị phá sản. Chiến lược của Nga khi chuyển hướng mở mặt trận này là bao vây quân đội Ukraina ở Donbas và sáp nhập toàn bộ vùng Donetsk và Luhansk vào các quốc gia ly khai được Nga hậu thuẫn là Cộng hòa Nhân dân Donetsk (DPR) và Cộng hòa nhân dân Luhansk (LPR). được xem là mục tiêu của chiến dịch quân sự đặc biệt.
Phía Nga tuyên bố đã kiểm soát được 55% tỉnh Donetsk vào ngày 23 tháng 6 năm 2022. và toàn bộ tỉnh Luhansk trước ngày 3 tháng 7 năm 2022, với việc lực lượng Nga và quân ly khai kiểm soát các thành phố Mariupol, Sievierodonetsk, Lysychansk, Rubizhne, và nhiều nơi khác (thực tế Nga chỉ chiếm được 95% tỉnh Luhansk). Đà tiến công của Nga bị chặn đứng vào tháng 9 năm 2022 và một số thành tựu quân sự đã bị đổi chiều sau khi Ukraina phát động cuộc phản công Kharkiv với việc lực lượng Ukraina phát động của phản công chớp nhoáng cấp tốc chiếm lại các thành phố chiến Lyman và Sviatohirsk ở vùng Donetsk và Bilohorivka ở Luhansk., việc Nga để mất thành phố chiến lược Lyman vào tay Ukraina đã tạo nên sự giận giữ và chỉ trích từ chính giới và công chúng Nga lúc đó. Nhưng cuộc phản công thần tốc của Ukraina cũng bị khựng lại ở phía đông sông Oskil và đến tháng 11 năm 2022, các cuộc tấn công của Nga được tiếp tục nối nại khi Nga mở Chiến dịch Luhansk và khởi động lại chiến dịch miền Đông Ukraina tại tỉnh Donetsk.
Diễn biến
Nga thắng thế
Trong diễn biến của cuộc chiến này thì sau các cuộc tấn công liên tục, đến ngày 23 tháng 6 năm 2022, Nga đã đột phá hoàn toàn ở phía nam, chiếm Toshkivka và đạt được những lợi ích lớn ở phía nam Lysychansk. Lực lượng Nga đã chiếm được Loskutivka, Myrna Dolyna, Rai-Oleksandrivka (quận Severodonetsk) và Pidlisne (quận Severodonetsk) tất cả diễn ra vào ngày 22 tháng 6 năm 2022. Vào ngày 2-3 tháng 7 năm 2022, Nga và lực lượng ly khai LPR tuyên bố đã chiếm và kiểm soát Lysychansk, tuy nhiên các quan chức Ukraina, bao gồm cả tổng thống Volodymyr Zelenskyy, vẫn chưa chính thức thừa nhận việc chiếm được thành phố chiến lược, chỉ nói rằng đang có những cuộc đụng độ ác liệt trong thành phố. Bộ Quốc phòng Nga tuyên bố đã chiếm được và đang trong quá trình giải phóng nhiều khu định cư ở ngoại ô Lysychansk, bao gồm Verkhniokamianka, Zolotarivka, Bilohorivka, Novodruzhesk, Maloriazantseve và Bila Hora. Với sự thất thủ của Lysychansk và vùng ngoại ô phía tây, Nga và Cộng hòa Nhân dân Luhansk lần đầu tiên tuyên bố kiểm soát hoàn toàn Luhansk Oblast, đạt được mục tiêu của chiến dịch do Nga lãnh đạo. Nga còn tăng cường pháo kích của Nga vào Sloviansk trong ngày 3 tháng 7 năm 2022.
Nga tạm dừng
Sau khi chiếm hoàn toàn và chiếm đóng tỉnh Luhansk, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ra lệnh cho bộ trưởng quốc phòng Sergei Shoigu tiếp tục cuộc tấn công ở Donbas theo kế hoạch, đồng thời nói thêm rằng các đơn vị chiến đấu trên mặt trận Luhansk "chắc chắn nên nghỉ ngơi và tăng cường lực lượng và năng lực chiến đấu". Theo Viện Nghiên cứu Chiến tranh, các lực lượng Nga không đưa ra tuyên bố hay đánh giá nào về việc giành được lãnh thổ "lần đầu tiên sau 133 ngày chiến tranh" và cho rằng Nga có thể đang "tạm dừng hoạt động" để nghỉ ngơi và tập hợp lại lực lượng trước một cuộc tấn công vì đã lên kế hoạch tấn công mới. Bộ Quốc phòng Vương quốc Anh dự đoán thành phố Siversk sẽ là mục tiêu chiến thuật trước mắt cho cuộc tấn công mới của Nga. Một cuộc họp báo tình báo của Bộ Quốc phòng Anh vào ngày 4 tháng 7 năm 2022 cho biết các lực lượng Nga "gần như chắc chắn" sẽ chuyển sang chiếm phần còn lại của Donetsk, khoảng 55% trong số đó là đã nằm dưới sự kiểm soát của lực lượng ly khai thân Nga và Cộng hòa Nhân dân Donetsk (DPR). Bộ Quốc phòng Anh dự đoán cuộc giao tranh ở Donetsk sẽ tiếp tục là "máy nghiền thịt và tiêu hao", điển hình là các đợt pháo kích ồ ạt san bằng các thị trấn và thành phố trong bối cảnh tiến bộ trên bộ chậm chạp ì ạch.
Thống đốc Luhansk của Ukraina, ông Serhiy Haidai cho biết ông dự kiến các thành phố Donetsk như Sloviansk và Bakhmut sẽ sớm hứng chịu cuộc tấn công nặng nề của Nga và cho biết cả hai thành phố này ngày càng bị pháo kích. Tương tự như báo cáo của tình báo Anh, người Ukraine dự đoán người Nga sẽ tiến về phía tây dọc theo đường cao tốc Bakhmut-Lysychansk. Vào ngày 11 tháng 7, Tổng thống Zelenskyy bác bỏ quan điểm cho rằng phía Nga đang "tạm dừng hoạt động", với lý do tiếp tục có các cuộc pháo kích, không kích chết người và các báo cáo liên tục về việc quân đội Ukraine "đẩy lùi" nhiều cuộc tấn công khác nhau của Nga. Zelenskyy nhấn mạnh rằng 34 cuộc không kích của Nga trong 24 giờ qua không phải là dấu hiệu cho thấy "tạm dừng hoạt động". Vào ngày 16 tháng 7, Bộ Quốc phòng Nga thông báo rằng việc tạm dừng hoạt động đã kết thúc.
Nga tái khởi động
Đến ngày 17 tháng 7 năm 2022, lực lượng Nga đã kiểm soát 55% tỉnh Donetsk. Thứ trưởng Bộ Thông tin Cộng hòa Nhân dân Donetsk (DPR) là Daniil Bezsonov tuyên bố vào ngày 25 tháng 7 năm 2022 rằng DPR dự kiến sẽ chiếm được toàn bộ tỉnh Donetsk vào cuối tháng 8 năm 2022. Nhiều nguồn tin của Nga và phương Tây trước đó đã đưa tin rằng Nga dự định tổ chức trưng cầu dân ý ở các khu vực bị chiếm đóng vào nửa đầu tháng 9 năm 2022, có thể vào khoảng ngày 11 tháng 9 năm 2022, là ngày bỏ phiếu thống nhất ở Liên bang Nga. Vào ngày 21 tháng 7 năm 2022, Bộ Quốc phòng Anh cảnh báo rằng người Nga đang tiếp cận Nhà máy điện Vuhlehirska, nhà máy điện lớn thứ hai ở Ukraine và đang cố gắng tạo ra một bước đột phá ở đó. Vào ngày 25 tháng 7 năm 2022, lực lượng Nga đã giành được quyền kiểm soát Berestove. Một đại diện của LPR đã đăng đoạn video về lính đánh thuê Wagner trước biển hiệu lối vào Novoluhanske lên mạng, cho thấy rằng quân đội Nga đã tiến vào thị trấn nằm cách ngoại ô Bakhmut khoảng 25km về phía đông nam.
Một số nguồn tin Nga cũng cho rằng lực lượng Nga đã chiếm được nhà máy điện Vuhlehirska, nằm ở rìa phía bắc của Novoluhanske và đang tích cực giải tỏa nó, trong khi Bộ Tổng tham mưu Ukraine báo cáo rằng quân Nga chỉ đạt được "thành công một phần" trên mặt trận đó. Các nguồn tin thân Nga cho biết lính đánh thuê Wagner đã tham gia tấn công nhà máy điện và giao tranh kéo dài vài ngày trước khi nhà máy được kiểm soát hoàn toàn vào ngày 26 tháng 7 năm 2022. ISW cho rằng quân đội Ukraina có thể đã tiến hành "rút quân có kiểm soát" từ khu vực hồ chứa Vuhlehirska về phía tây bắc về phía Semyhirya. Một quan chức Ukraina xác nhận việc chiếm giữ nhà máy điện vào ngày 27 tháng 7 năm 2022 Vào ngày 26 tháng 7, Bộ Tổng tham mưu Ukraine tuyên bố rằng lực lượng Nga đang chiến đấu tại làng Semyhirya, phía tây nhà máy điện Vuhlehirska. Vào ngày 27 tháng 7, đoạn video được định vị địa lý được đăng trực tuyến cho thấy lính đánh thuê Wagner đã đến được Klynove, trong khi kênh Telegram thân Nga Readovka tuyên bố rằng các lực lượng Nga đã thiết lập quyền kiểm soát Pokrovske (thuộc khu vực Bakhmut).
Bị chặn đứng
Vào ngày 28 tháng 7 năm 2022, Bộ Tổng tham mưu Ukraina cho biết quân Nga đã giành được những lợi ích nhỏ gần Soledar và Vershyna và tiếp tục các cuộc tấn công vào Avdiivka và Pisky. Ukraina cáo buộc quân đội Nga mặc đồng phục Ukraina trong các cuộc tấn công trên bộ của họ. Quân đội Ukraina tuyên bố đã vô hiệu hóa 270 quân Nga và lực lượng thân Nga, đồng thời phá hủy 7 xe tăng vào ngày 28 tháng 7 năm 2022, đồng thời họ đã đẩy lùi thành công mọi cuộc tấn công vào mặt trận Soledar-Vershnya và Avdiivka-Pisky. bốn cứ điểm phòng thủ vững chắc này này liên thủ chặn đứng đà tiến của quân Nga khiến họ không thể tiến thêm. Tuy nhiên, phe ly khai tuyên bố lực lượng Nga và DPR ở khu vực Avdiivka đã đạt được những bước tiến đáng kể về phía bắc và phía đông thành phố. Vào ngày 1 tháng 8 năm 2022, Bộ Quốc phòng Anh cho biết Nga đã đạt được tiến bộ chậm chạp trên trục Bakhmut trong các cuộc tấn công hàng ngày trong 4 ngày qua. Thống đốc Luhansk Serhiy Haidai cáo buộc rằng các lực lượng Nga đang cố gắng tuyển mộ và huy động cư dân tại các thành phố do LPR kiểm soát như Alchevsk. Vào ngày 2 tháng 8 năm 2022, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu tuyên bố rằng các lực lượng Nga đã chiếm được sáu khu định cư tiền tuyến trong những ngày gần đây: Berestove, Pokrovske, Novoluhanske, Semyhiria, Hryhorivka và Stryapivka. Cùng ngày, lực lượng Nga đã chiếm được các vị trí của Ukraine xung quanh mỏ than Butivka, phía tây nam Avdiivka, đánh bật các vị trí của Ukraine đã được trấn giữ ở đó từ năm 2015. Bộ Tổng tham mưu Ukraine cũng tuyên bố rằng các lực lượng Nga đã "thành công một phần" dọc theo Vidrodzhennia-Kodema cách Bakhmut khoảng 20km về phía đông nam.
Vào ngày 5 tháng 8 năm 2022, các nguồn tin Nga cho rằng quân đội Nga đang tích cực chiến đấu tại nhà máy thạch cao Knauf Gips Donbas ở ngoại ô phía đông nam của Soledar. Trong khi đó, chính quyền ly khai tuyên bố rằng các lữ đoàn DPR độc lập và lực lượng của Tập đoàn Wagner đã nắm quyền kiểm soát một nửa Marinka, nhưng phía Ukraine cho biết các cuộc tấn công vào Marinka đã không thành công. Đoạn phim định vị địa lý do quân đội DPR đăng tải cũng cho thấy Travneve có thể đã bị bắt vào ngày này. Vào ngày 6 tháng 8 năm 2022, cảnh quay chiến đấu xác nhận rằng lực lượng Nga đã tiến vào vùng ngoại ô phía đông của Marinka. Vào ngày 7 tháng 8 năm 2022, lực lượng Nga xuyên thủng hệ thống phòng thủ của Pisky và tiến đến trung tâm khu định cư. Russian sources claimed the villages of Volodymyrivka and Stryapivka, located southeast of Soledar, were captured by 9 August. Vào ngày 10 tháng 8 năm 2022, DPR tuyên bố đã chiếm được Hladosove, phía tây Travneve. Vào ngày 11 tháng 8 năm 2022, các nguồn tin của Nga và DPR tuyên bố rằng khoảng 90% Pisky đã bị bị chiếm giữ, và cảnh quay chiến đấu có chủ đích cho thấy người Nga đang bắn phá ngôi làng bằng pháo nhiệt áp TOS-1. ISW đánh giá rằng Pisky đã bị quân Nga chiếm giữ vào ngày 24 tháng 8 năm 2022. Các lực lượng Nga và đồng minh được cho là đã chiếm được Kodema vào ngày 6 tháng 9 năm 2022.
Ukraina phản công
Một số chiến quả của cuộc tấn công đã bị xóa sạch vào tháng 9 năm 2022, sau khi Ukraina phát động cuộc phản công Kharkiv năm 2022 và chiếm lại Bilohorivka, một ngôi làng gần Lysychansk ở tỉnh Luhansk và các thành phố của Lyman và Sviatohirsk ở vùng Donetsk. Các nhà phân tích quân sự Rob Lee và Michael Kofman đã viết rằng "Những thành công của Ukraina ở cuộc phản công tại Kherson và Kharkiv phần lớn là kết quả của những tổn thất mà họ gây ra cho quân đội Nga trong mặt trận Donbas ở mùa xuân và đầu mùa hè." Bất chấp việc Nga giành được lãnh thổ, tuy nhiên, họ gọi kết quả của cuộc tấn công Donbas là một "chiến thắng kiểu Pyrros" đối với Nga, với lý do những tác động tiêu cực lâu dài đến khả năng của Nga trong việc dàn trải và căng sức ra giữ lãnh thổ đã giành được trong cuộc tấn công và cuộc chiến tổng thể nói chung. Cụ thể, Nga đã chi một lượng lớn nhân lực và đạn pháo để chiếm lãnh thổ ở Donbas, phía rằng Nga đã bù đắp tổn thất về nhân lực và đạn pháo bằng cách tăng cường huy động quân số để bù vào, và việc pháo binh của Nga nã vào Bakhmut vào tháng 12 năm 2022 với chỉ có mức độ giới hạn là kết quả của nguồn lực bị cạn kiệt trong cuộc tấn công Donbas. Cuộc phản công ở Kharkov của Ukraina phần lớn bị chặn lại khi lực lượng mặt đất của họ tiếp cận phòng tuyến Svatove–Kreminna và buộc phải quay lại vị trí hiện tại trên mặt trận này vào tháng 11 đến tháng 12 năm 2022.ref></ref> Vào đầu tháng 11 năm 2022, Nga đã phát động chiến dịch miền Đông Ukraina (Chiến dịch mùa đông đầu tiên của Nga (tháng 11 năm 2022–tháng 5 năm 2023) với những cuộc tấn công mới ở phía bắc và phía nam tỉnh Donetsk, đặc biệt là trên đường tiếp cận Bakhmut. Hiện nay Nga và Ukraina đang đưa nhau vào một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài không có hồi kết gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên.
Chú thích
Nga xâm lược Ukraina 2022
Cuộc tấn công miền Đông Ukraina
|
19853786
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adela%20mazzolella
|
Adela mazzolella
|
Adela mazzolella là một loài bướm đêm trong họ Adelidae. Loài này được tìm thấy ở Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Áo, Ý, Cộng hòa Séc, Slovakia, Ba Lan, Hungary, România, Hy Lạp, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ.
Sải cánh của loài này dài từ 10–12 mm.
Ấu trùng của loài này ăn địa y.
Tham khảo
Bướm đêm được mô tả năm 1801
Adela
Bướm đêm châu Âu
Bướm đêm châu Á
|
19853796
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Synanthedon%20melliniformis
|
Synanthedon melliniformis
|
Synanthedon melliniformis là một loài bướm đêm trong họ Sesiidae. Loài này được tìm thấy ở Pháp, Ý, Áo, Slovenia, Croatia, Bosna và Hercegovina, Serbia và Montenegro, Bulgaria, Hungary và Slovakia.
Sải cánh của loài này dài từ 17–19 mm.
Ấu trùng loài này ăn Salix alba, Populus nigra and Populus alba.
Tham khảo
Bướm đêm được mô tả năm 1801
Synanthedon
Bướm đêm châu Âu
Nhóm loài do Jakob Heinrich Laspeyres đặt tên
|
19853800
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gelechia%20hippophaella
|
Gelechia hippophaella
|
Gelechia hippophaella là một loài bướm đêm trong họ Gelechiidae. Loài này được tìm thấy từ Fennoscandia tới Pyrénées, Ý và România và từ Đảo Anh tới Ukraina.
Tham khảo
Bướm đêm được mô tả năm 1802
Gelechia
Bướm đêm châu Âu
|
19853806
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4%20V%C4%83n%20%C4%90%E1%BB%B1c
|
Tô Văn Đực
|
Tô Văn Đực (sinh 1942) là một sĩ quan công binh nổi tiếng của Quân đội nhân dân Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương lần 2. Ông có tên gọi khác là "Út Đực" với bí danh "Mười Đức" khi đang phục vụ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Tô Văn Đực được mệnh danh "anh hùng mìn gạt" nhờ sáng chế và sự cống hiến của mình trong lực lượng công binh Bộ Tư Lệnh Miền.
Tiểu sử
Tô Văn Đực sinh năm 1942 tại ấp Xóm Bưng, xã Nhuận Đức, quận Củ Chi, tỉnh Gia Định (Nam Kỳ thuộc Pháp); là con út (thứ 9) trong một gia đình tá điền. Vì hoàn cảnh nghèo khó, mồ côi mẹ, Út không thể học lên cấp 3 và phải bỏ học lang bạt từ quê nhà sang các tỉnh Sông Bé, Đồng Nai làm thuê, thường hành nghề hàn tôn và sửa chữa xe đạp. Đến năm 1962, phong trào Đồng Khởi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã lan rộng khắp vùng Củ Chi, Út quay về quê nhà xin gia nhập đội du kích xã Nhuận Đức. Ban đầu Út không trực tiếp chiến đấu mà được phân công chế tạo, sửa chữa khí tài chiến tranh ở xưởng công binh của xã đội Nhuận Đức - Quân Giải phóng, lúc đó chỉ là một nhà xưởng thô sơ.
Anh thay tên gọi Út Đực bằng bí danh "Mười Đức" khi hoạt động trong đơn vị. Anh liên tiếp sáng chế, cống hiến các loại vũ khí, phương tiện, kĩ thuật chiến đấu giúp Quân Giải phóng khắc phục được tình trạng thiếu vũ khí hạng nặng. Anh tham gia chiến đấu trong hàng ngũ bộ đội Miền và phối hợp cùng lực lượng du kích xã, đạt được nhiều danh hiệu Dũng Sĩ do cấp trên trao tặng, cùng với danh hiệu Anh hùng được phong năm 1967.
Sau những khó khăn lớn của chiến dịch Mậu Thân ở Gia Định, Mười Đức quay về xã đội công tác trong công binh xưởng với vai trò bộ đội tỉnh.
Do sức khỏe giảm sút từ những vết thương trong chiến tranh, năm 1992 ông về hưu với quân hàm trung tá.
Binh nghiệp
Tháng 2 năm 1962, Tô Văn Đực - Mười Đức tham gia dân quân xã đội Nhuận Đức, tổ công binh của ông có vai trò sửa chữa súng các loại để cung cấp cho lực lượng du kích xã chống lại các trận càn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Các loại súng chủ yếu gồm carbin, K54, colt 12 li. Đến đầu năm 1965 xe bọc thép xuất hiện nhiều trong các trận càn, ông nghiên cứu và tái sáng chế các loại mìn, bẫy bằng thuốc nổ TNT chống lại xe cơ giới, xe tăng. Khi có vũ khí hạng nặng trong tay, đơn vị của Tô Văn Đực tham gia chiến đấu, phá hỏng 13 xe M.113, bắn hạ được 32 binh sĩ đối phương. Ông được gia nhập lực lượng công binh của tỉnh đội Gia Định.Năm 1965, ở ấp Cây Quéo, Không lực Việt Nam Cộng hòa thả xuống đây 13 quả bom cỡ lớn, nhưng sai kỹ thuật và không phát nổ, khiến người dân hoang mang không dám canh tác. Xung quanh khu vực này là địa bàn do MTDPGP kiểm soát. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa chây ì không giải quyết hiện trường. Lực lượng bộ đội địa phương Củ Chi đã khai thác được một lượng lớn thuốc nổ để chuẩn bị vũ khí đương đầu với Kỵ binh Hoa Kỳ.Đầu năm 1966, sự tham chiến của quân đội Hoa Kỳ gây khó khăn lớn cho Quân Giải phóng, đặc biệt trong trận càn Crimpt (1966) làm sập cục bộ một số chiến hào, địa đạo ở Củ Chi và khiến đội du kích tê liệt. Mười Đức chọn phương án giữ gìn số khí tài ít ỏi của đơn vị, hạn chế đối đầu với cơ giới, và tập trung nghiên cứu, chế ra các loại mìn chống tăng bằng thuốc nổ dựa trên hiểu biết sẵn của mình. Nhưng vì cần sản xuất nhiều, công xưởng của Mười Đức thiếu thuốc nổ trầm trọng. Số chất nổ cạy được trong các loại bom bi lép hoặc đạn lép thậm chí không đủ cung ứng cho việc thử nghiệm, vì vậy hoạt động chiến đấu của lực lượng Quân Giải phóng ở đây tạm ngừng.Năm 1966, Không lực Hoa Kỳ thả xuống khu vực Bàu Trăn 6 quả bom cỡ lớn, mỗi quả 200 pound và cũng không phát nổ. Mười Đức liều lĩnh dẫn một tổ bộ đội công binh đến khám phá hiện trường, phán đoán loại bom và nguyên nhân lỗi, sau đó anh dùng tay không cạy hết các kíp nổ. Nhờ số thuốc nổ khổng lồ trong các quả bom này, đơn vị công binh có thêm nguyên liệu dự trữ để nghiên cứu mìn chống cơ giới.Anh cải tiến mìn thô sơ, sao chép nguyên lý của mẫu "mìn kiền" Liên Xô viện trợ cho Quân Khu 7, thử nghiệm bước đầu phá hỏng được một vài xe cơ giới của địch. Sau vài lần thực nghiệm thất bại, Mười Đức cải tiến cấu trúc loại mìn này sao cho công tắc phát nổ có thể ngụy trang thành cành cây, hoạt động theo nguyên lý "cứ gạt ngang là nổ". Vỏ mìn làm bằng lon sữa, kíp nổ vẫn là bom bi lép (rác thải của QLVNCH), sử dụng chất nổ làm từ thuốc nổ TNT. Cành cây đóng vai trò công tắc có thể ngụy trang dễ dàng, nối liền với chốt khai hỏa bên trong thân quả mìn, khi cành cây bị gạt ngang sẽ tác động vào công tắc kích quả bom bi mồi nổ trước, rồi đốt cháy thuốc nổ bên trong để tạo sức công phá. Loại mìn này có thể dễ dàng sản xuất hàng loạt ở các xưởng quân giới dưới địa đạo, dễ dàng cài đặt ở bất cứ địa hình nào và có sức công phá đủ để làm hư hỏng M.113
Đây là loại mìn thô sơ, dễ dàng qua mặt được các thiết bị dò mìn, hỗ trợ tốt cho việc cài bẫy để phục kích các đoàn xe cơ giới (GMC, M113) nối đuôi. Khi xe đầu đoàn bị hư hỏng sẽ làm cả đoàn xe chững lại, sau đó các tổ du kích QGP mai phục sẵn sẽ tập kích bất ngờ rồi rút quân, gây thiệt hại lớn cho các cuộc càn quét của kỵ binh Hoa Kỳ.
Danh tiếng Mười Đức lẫy lừng khắp chiến khu nhờ loại mìn này. Mười Đức còn tham gia chiến đấu, cùng đơn vị lập nhiều chiến công, đạt được cả 2 danh hiệu: Dũng sĩ diệt cơ giới, Dũng sĩ diệt Mỹ.
Năm 1967, Mười Đức được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong kỳ đại hội chiến sĩ thi đua cùng 4 huân chương các loại, 17/9/1967.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, ông giữ vai trò trung đoàn phó - chủ nhiệm kỹ thuật, Trung đoàn Gia Định.
Sau chiến tranh, ông công tác ở cục kỹ thuật - QK7, chức vụ Phó chủ nhiệm kỹ thuật quân khu 7 và về hưu năm 1992 với quân hàm trung tá.
Đời tư
Ông kết hôn với một phụ nữ trong lực lượng Công An Nhân Dân. Khi rời quân ngũ, ông chỉ tham gia Hội Cựu chiến binh và cống hiến cho viện bảo tàng Củ Chi kho quân giới năm xưa ông dùng để chiến đấu.
Đài VTV và nhiều kênh truyền hình quân đội đã mời ông tham gia phỏng vấn, kể chuyện chiến tranh.
Trong một lần phỏng vấn vào năm 2022, ông từng bộc bạch:Lứa tuổi của tôi sinh năm 1942, hoặc 43-44... coi như vùng này chết hết rồi không còn ai. Nói chung mình sống sót như vậy là mừng lắm rồi, thì sự cô đơn mình cũng có nghĩ đến rồi, nhưng vẫn tự an ủi và tiếp tục sống mà thôi. Bạn bè mình chết hết rồi, người chết đâu đòi hỏi được gì đâu, mình được hưởng công lao của họ, mình phải đóng góp cho ngày hôm nay, mình thấy rất hạnh phúc.
Nguồn tham khảo
Báo Pháp luật Tp HCM.
VTV.
Củ Chi ký sự - 2001, tác giả Diệp Hồng Phương.
|
19853826
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acria%20emarginella
|
Acria emarginella
|
Acria emarginella là một loài bướm đêm trong họ Depressariidae. Loài này được Edward Donovan mô tả lần đầu năm 1804. Loài này được tìm thấy ở Trung Quốc (Hà Nam, Tứ Xuyên, Thiên Tân, Chiết Giang), Sri Lanka, Ấn Độ và Nhật Bản.
Sải cánh của loài này dài từ 19–23 mm.
Tham khảo
Bướm đêm được mô tả năm 1804
Acria
Bướm đêm châu Á
|
19853831
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chamaesphecia%20chalciformis
|
Chamaesphecia chalciformis
|
Chamaesphecia chalciformis là một loài bướm đêm trong họ Sesiidae. Loài này được tìm thấy ở Ý, Áo, Slovakia, Bán đảo Balkan, Ukraine, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Đông và phía bắc Iran.
Ấu trùng của loài này ăn Origanum vulgare.
Tham khảo
Bướm đêm được mô tả năm 1804
Chamaesphecia
Bướm đêm châu Âu
Côn trùng Thổ Nhĩ Kỳ
|
19853836
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bamseom
|
Bamseom
|
Đảo Bamseom (Tiếng Hàn: 밤섬) hay Yuldo (Tiếng Hàn: 율도) là một hòn đảo ở giữa sông Hán nằm giữa Yeouido-dong, Yeongdeungpo-gu và Dangin-dong, Mapo-gu, Seoul và có cầu Seogang đi qua đảo. Đảo nổi tiếng là điểm đến của các loài chim di cư. Nó được chỉ định là 'khu bảo tồn hệ sinh thái' vào ngày 10 tháng 8 năm 1999.
Lịch sử
Quần đảo này có người sinh sống cho đến khi cầu Seogang được xây dựng trên đó. Hầu hết cư dân Bamseom thời Joseon đều là thợ đóng tàu.
Ngày 10 tháng 2 năm 1968, Bamseom được kích nổ nhằm mục đích thu gom đống đổ nát cần thiết cho việc xây dựng bờ kè phát triển Yeouido, và hòn đảo được chia thành thượng Bamseom và Hạ Bamseom.
Hệ sinh thái
Thực vật
194 loài thực vật, bao gồm liễu, ngải cứu, cỏ mật (Phalaris arundinacea), sậy (Phragmites australis) và cỏ bạc (Miscanthus sacchariflorus).
Chim
77 loài chim, bao gồm vạc, vịt cổ xanh, vịt má trắng (Anas zonorhyncha), trĩ đỏ, khướu mỏ dẹt bé và chim ác là
41 loài chim núi, 15 loài chim nước và vịt, 3 loài hải âu, 4 loài diệc, diệc, sáo, ...
Hình ảnh
Chú thích
Tài liệu tham khảo
조선의 또 다른 해방구, OhmyNews 1.7.2008
Công viên ở Seoul
|
19853837
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20b%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20n%C4%83m%202024
|
Danh sách bầu cử năm 2024
|
Dưới đây là danh sách bầu cử diễn ra trong năm 2024.
Châu Á
Tháng 4-5: Tổng tuyển cử Ấn Độ 2024.
7 tháng 2: Bầu cử tổng thống Azerbaijan 2024.
7 tháng 1: Tổng tuyển cử Bangladesh 2024.
Tháng 3: Bầu cử Hội đồng Nhân dân Tối cao Triều Tiên 2024.
9 tháng 1: Bầu cử Quốc hội Bhutan 2023-24 (vòng 2).
25 tháng 2: Bầu cử Thượng viện Campuchia 2024.
10 tháng 4: Bầu cử lập pháp Hàn Quốc 2024.
14 tháng 2: Tổng tuyển cử Indonesia 2024.
27 tháng 11:
Bầu cử thống đốc Jakarta 2024.
Bầu cử địa phương Indonesia 2024.
1 tháng 3: Bầu cử lập pháp Iran 2024.
17 tháng 3: Bầu cử Quốc hội Maldives 2024.
28 tháng 6: Bầu cử Quốc hội Mông Cổ 2024.
Bầu cử Quốc hội Nam Ossetia 2024.
8 tháng 2:
Tổng tuyển cử Pakistan 2024.
Bầu cử thủ hiến Sindh 2024.
Bầu cử thủ hiến Balochistan 2024.
Bầu cử thủ hiến Khyber Pakhtunkhwa 2024.
Bầu cử thủ hiến Punjab 2024.
3 tháng 3: Bầu cử Thượng viện Pakistan 2024.
9 tháng 3: Bầu cử tổng thống Pakistan 2024.
Bầu cử tổng thống Sri Lanka 2024.
Bầu cử Quốc hội Syria 2024.
13 tháng 2:
Bầu cử tổng thống Đài Loan 2024.
Bầu cử lập pháp Đài Loan 2024.
Châu Âu
Bầu cử lập pháp Áo 2024.
Bầu cử thống đốc Steiermark 2024.
Bầu cử thống đốc Vorarlberg 2024.
25 tháng 2: Bầu cử Quốc hội Belarus 2024.
9 tháng 6:
Bầu cử liên bang Bỉ 2024.
Bầu cử khu vực Bỉ 2024.
13 tháng 10: Bầu cử địa phương Bỉ 2024.
6 tháng 10: Bầu cử địa phương Bosna và Hercegovina 2024.
Bầu cử khu vực Cộng hòa Séc 2024.
Bầu cử nghị viện Croatia 2024.
Bầu cử tổng thống Croatia 2024.
1 tháng 9:
Bầu cử thủ hiến Sachsen 2024.
Bầu cử thủ hiến Thüringen 2024.
22 tháng 9: Bầu cử thủ hiến Brandenburg 2024.
Bầu cử Nghị viện Gruzia 2024.
Bầu cử tổng thống Gruzia 2024.
7 tháng 6: Bầu cử địa phương Hungary 2024.
1 tháng 6: Bầu cử tổng thống Iceland 2024.
Bầu cử địa phương Ireland 2024.
Bầu cử Nghị viện châu Âu 2024.
12 tháng 5: Bầu cử tổng thống Litva 2024.
Bầu cử Nghị viện Litva 2024.
8 tháng 6: Bầu cử địa phương Malta 2024.
Bầu cử tổng thống Moldova 2024.
28 tháng 1 (vòng 1) và 11 tháng 2 (vòng 2): Bầu cử tổng thống Phần Lan 2024.
Bầu cử địa phương Cộng hòa Síp 2024.
8-9 tháng 6: Bầu cử địa phương Ý 2024.
Châu Đại Dương
Châu Mỹ
5 tháng 11: Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2024.
5 tháng 5: Tổng tuyển cử Panama 2024.
Châu Phi
Bầu cử tổng thống Algérie 2024.
Tổng tuyển cử Botswana 2024.
14 tháng 1: Bầu cử tổng thống Comoros 2024.
7 tháng 12: Tổng tuyển cử Ghana 2024.
22 tháng 6: Bầu cử tổng thống Mauritanie 2024.
30 tháng 11: Tổng tuyển cử Mauritius 2024.
9 tháng 10: Tổng tuyển cử Mozamnique 2024.
Tổng tuyển cử Namibia 2024.
29 tháng 5: Tổng tuyển cử Nam Phi 2024.
Tổng tuyển cử Nam Sudan 2024.
15 tháng 7: Tổng tuyển cử Rwanda 2024.
15 tháng 12: Bầu cử tổng thống Senegal 2024.
13 tháng 11: Bầu cử tổng thống Somaliland 2024.
Bầu cử tổng thống Tchad 2024.
Bầu cử Quốc hội Tchad 2024.
13 tháng 4: Bầu cử Quốc hội Togo 2024.
Bầu cử tổng thống Tunisia 2024.
Chú thích và tham khảo
Chú thích
Tham khảo
Bầu cử năm 2024
Bầu cử thập niên 2020
Danh sách liên quan đến năm 2024
|
19853838
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/LJL%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202024
|
LJL mùa giải 2024
|
LJL mùa giải 2024 là mùa giải thứ 11 của League of Legends Japan League (LJL), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của Nhật Bản dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Mùa Xuân và Mùa Hè. Giải Mùa Xuân bắt đầu vào ngày 20 tháng 1 và kết thúc với trận chung kết vào ngày 3 tháng 3 năm 2024.
Những thay đổi
Các đội
Giải đấu được cơ cấu lại thành giải đấu 6 đội sau khi đội FENNEL giải thể. 2 đội AXIZ và Crest Gaming Act sát nhập vào thành 1 đội mới mang tên AXIZ CREST.Burning Core đã đổi tên đội Liên Minh Huyền Thoại của mình thành Burning Core Toyama để bước vào mùa giải 2024.
Gia nhập hệ sinh thái PCS
Theo thông báo từ Riot Games, LJL sẽ gia nhập hệ sinh thái PCS từ mùa giải năm 2024. Các đội LJL sẽ tiếp tục thi đấu mùa giải quốc nội tại Nhật Bản. Sau đó, 3 đội đứng đầu LJL sẽ thi đấu vòng loại trực tiếp của PCS cùng với các đội đến từ PCS và LCO.
Trước LJL, LCO cũng gia nhập hệ sinh thái PCS năm 2023. Đây là một phần trong chiến lược nhiều năm nhằm củng cố hệ sinh thái thể thao điện tử bộ môn Liên Minh Huyền Thoại tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Riot.
Thể thức
Vòng bảng
6 đội tham gia thi đấu.
Thi đấu theo thể thức vòng tròn 2 lượt.
Tất cả các trận đấu đều là Bo2 tính điểm:
Thắng được 3 điểm.
Thua không được điểm.
Hoà được 1 điểm.
4 đội có thành tích tốt nhất đủ điều kiện vào vòng loại trực tiếp.
Vòng loại trực tiếp
4 đội tham gia thi đấu.
Thi đấu theo thể thức loại trực tiếp.
Tất cả các trận đấu đều là Bo5.
Ba đội đứng đầu sẽ tham gia vòng loại trực tiếp PCS.
Giải Mùa Xuân
Vòng bảng giải Mùa Xuân sẽ diễn ra từ ngày 20 tháng 1 đến ngày 18 tháng 2 năm 2024. 6 đội sẽ chơi tổng cộng 30 trận và tất cả các trận đấu vòng bảng sẽ được thi đấu theo thể thức Bo2. Bốn đội dẫn đầu vòng bảng sẽ tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 24 tháng 2 đến ngày 3 tháng 3 năm 2024. Ba đội đứng đầu vòng loại trực tiếp đủ điều kiện tham dự vòng loại trực tiếp PCS.
Vòng bảng
Vòng loại trực tiếp
Tham khảo
Liên Minh Huyền Thoại năm 2024
|
19853844
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cathy%20Linh%20Che
|
Cathy Linh Che
|
Cathy Linh Che là nhà thơ người Mỹ gốc Việt đến từ Los Angeles. Cô đoạt giải Thơ Kundiman, Giải Sách Đầu tiên Norma Farber từ Hội Thơ ca Hoa Kỳ, và Giải Sách Thơ Hay nhất từ Hiệp hội Nghiên cứu Người Mỹ gốc Á dành cho thi phẩm Split.
Thân thế
Cathy Linh Che từng theo học Trường Đại học Reed và Đại học New York rồi sau thi đậu lấy bằng Cử nhân Khoa học xã hội và Thạc sĩ Mỹ thuật. Trong một cuộc phỏng vấn do Trường Đại học Emerson thực hiện, Che nói, "Tôi lớn lên ở Highland Park trong một cộng đồng người nhập cư gốc Á và Latin thuộc tầng lớp lao động. Vì vậy, mặc dù có rất nhiều xung đột giữa tôi và bố mẹ, nhưng đó là điều mà mọi người xung quanh tôi đều đã trải qua nên tôi chưa bao giờ cảm thấy khác biệt hay cô đơn cho đến khi vào đại học".
Năm 2018, cô góp phần giúp tổ chức dự án "Because We Come From Everything" của Kundiman. Cô còn tham gia vào dự án kỹ thuật số "Poetics of Haunting" do Jane Wong phụ trách.
Văn nghiệp
Khi được hỏi trong một cuộc phỏng vấn tại Trường Đại học Emerson về điều gì đã đưa Cathy Linh Che đến với thơ ca, Che trả lời rằng:
"Tôi phải nói là chính bố mẹ tôi đã đưa tôi đến với thơ ca. Dù cả hai người chẳng có ai là nhà thơ cả, nhưng quá trình trưởng thành của tôi tràn ngập những câu chuyện của họ. Khi ngồi vào bàn ăn, bố mẹ tôi thường kể cho tôi nghe về cuộc đời của họ trong Chiến tranh Việt Nam, thời gian ở trại tị nạn, những năm đầu tiên mà họ đặt chân đến Mỹ. Khi tôi bắt đầu viết, tiếng nói của họ đòi hỏi phải được nói ra. Tôi không thể không coi câu chuyện của họ về cơ bản là một phần câu chuyện của chính tôi".
Che hiện là Giám đốc điều hành tại Kundiman.
Thi phẩm được công nhận nhiều nhất của Che đến từ cuốn sách thơ mang tên Split, "chứa đựng những bài thơ nói về tác động tâm lý, tình dục và lạm dụng của chiến tranh".
Giải thưởng
Trong suốt sự nghiệp làm thơ của Cathy Linh Che, một số giải thưởng gắn liền với tên tuổi của cô, như Giải Thơ Kundiman, Giải Sách Đầu tiên Norma Farber của Hội Thơ ca Hoa Kỳ, và Giải Sách Thơ Hay nhất của Hiệp hội Nghiên cứu Người Mỹ gốc Á.
Thi phẩm
Split, Alice James Books, 2014.
Hair : poems: a collection of cuts and ties, Reed College, 2002.
Split, Chestertown, Maryland: Literary House Press, 2016.
Tuyển tập
Laren McClung; Yusef Komunyakaa (eds) Inheriting the war : poetry and prose by descendants of Vietnam veterans and refugees, New York : W.W. Norton & Company, 2018. ,
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nhân vật còn sống
Nhà thơ Los Angeles
Nữ nhà thơ Mỹ
Người Mỹ gốc Việt
Nữ giới Mỹ thế kỷ 21
Cựu sinh viên Đại học New York
Cựu sinh viên Trường Đại học Reed
|
19853850
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/The%20Elm-Chanted%20Forest
|
The Elm-Chanted Forest
|
The Elm-Chanted Forest (tiếng Croatia: Čudesna šuma) là một bộ phim hoạt hình âm nhạc Croatia-Mỹ sản xuất năm 1986; ở Mỹ, nó còn được biết tới với tên Fantasy Forest. Đây là bộ phim dài đầu tiên do Milan Blažeković làm đạo diễn và cũng là bộ phim hoạt hình đầu tiên được sản xuất tại Croatia và Nam Tư.
Nội dung
Bộ phim diễn ra trong một khu rừng đầy mê hoặc, nơi một cây du ma thuật ban cho họ phép thuật đầy niềm vui và lòng can đảm, một ngày nọ, có một mối đe dọa trong khu rừng do một vị vua tên là King Cactus và đội quân sinh vật gai của ông ta gây ra, Vua xương rồng trả thù. và muốn phá hủy khu rừng thành một sa mạc rộng lớn, tất cả các loài động vật đều bị sốc và gặp nguy hiểm, nhưng vẫn còn hy vọng, bởi họa sĩ Peter Palet đã dành thời gian đến thăm khu rừng huyền diệu để vẽ các loài động vật và nghệ thuật thiên nhiên dưới Phép thuật Olm, Khi Peter bất ngờ chợp mắt dưới gốc cây du, sau giấc ngủ, anh phát hiện ra rằng mình có thể giao tiếp với sức mạnh của mình và nói chuyện với tất cả cư dân trong rừng, anh cũng phải hợp lực để bảo vệ khu rừng khỏi Vua xương rồng.
Diễn xuất
tiếng Croatia
Vili Matula
Josip Bobi Marotti
Ivo Rogulja
Ljubo Kapor
Emil Glad
Nada Rocco
Sven Lasta
Đurđa Ivezić
Veronika Durbešić
Mladen Vasary
Drago Krča
Adam Vedernjak
Slavica Fila
Lena Politeo
Richard Simonelli
Anh ngữ
Lauren Shanahan
Eric Needham
Edward Eyrich
Carroll Rue
Fred P. Sharkey
Mark Surkin
Simon Hefter
Anna Tornhill
Paul Powers
David Spelvin
David Earls
Charles Forrest
Chris Helmer
Francesca Picchi
Sản xuất
The Elm-Chanted Forest là bộ phim được hợp tác sản xuất giữa hãng Croatia Film có trụ sở tại Zagreb và hãng Fantasy Forest Films, Inc. có trụ sở tại Thành phố New York. Bộ phim do Doro Vlado Hreljanovic đạo diễn. Milan Blažeković là người thiết kế các nhân vật trong phim đồng thời làm đạo diễn phần hoạt ảnh. Kịch bản bộ phim do Fred P. Sharkey viết dựa trên cuốn sách gốc của tác giả Suncana Skrinjaric. Phần âm nhạc của bộ phim do Dennis Leogrande sáng tác và được thể hiện bởi dàn nhạc giao hưởng New Zagreb. Nét chủ đạo của nhân vật Fifi do Arsen Dedić tạo ra. Phần hoạt hình được sản xuất nội bộ bởi Croatia Film, với đội ngũ hoạt ảnh gồm Blažeković, Leo Fabiani, Turido Paus, Vjekoslav Radilovic, Elizabeth Abramovic, Zvonimir Delac và Vladimir Hrs. Bản tiếng Anh được ghi tại phim trường August Films ở Thành phố New York do Peter Fernandez làm đạo diễn. Các diễn viên trong phiên bản tiếng Anh của phim là David Earls, Edward Eyrich, Charles Forrest, Simon Hefter, Chris Helmer, Eric Needham, Francesca Picchi, Paul Powers, Carroll Rue, Lauren Shanahan, Fred P. Sharkey, David Spelvin, Mark Surkin và Anna Tornhill. Đoạn điệp khúc của phần cuối "Time and Again" được Pro Arte Chorale có trụ sở tại Thành phố New York cung cấp.
Phát hành
Tại Mỹ, The Elm-Chanted Forest được công chiếu trên kênh HBO vào ngày 11 tháng 11 năm 1986, và thương hiệu Just for Kids của Celebrity Home Entertainment đã phát hành The Elm-Chanted Forest trên băng VHS và Beta vào ngày 4 tháng 1 năm 1989. Ngoài ra, phần tiếp theo của bộ phim, The Magician's Hat (Čarobnjakov šešir), phát hành năm 1990, bị các nhà phát hành Mỹ từ chối vì cho rằng phim chứa hình ảnh bạo lực, và chỉ được phát hành tại quê nhà.
Vào năm 1999, Image Entertainment đã phát hành đĩa DVD chỉ cho bộ phim đầu tiên. Đến nay, đây là lần duy nhất mà nó xuất hiện trên DVD ở Mỹ vì những bản sao này hiện đã hết bản in, khiến chúng trở nên cực kỳ khan hiếm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Một đoạn trong phim
Phim năm 1986
Phim Croatia
Phim Nam Tư
Phim viễn tưởng
Phim hoạt hình
Phim tự nhiên
|
19853858
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sea%20Poacher%20%28SS-406%29
|
USS Sea Poacher (SS-406)
|
USS Sea Poacher (SS-406/AGSS-406) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một loài trong ho cá biển Agonidae. Nó đã phục vụ trong giai đoạn sau của Thế Chiến II, thực hiện được bốn chuyến tuần tra và đã phá hủy một số tàu nhỏ đối phương. Sau khi xung đột chấm dứt, nó tiếp tục hoạt động rồi được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IA, và đã phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1970. Con tàu được chuyển giao cho Peru và hoạt động như là chiếc BAP La Pedrera (S-49) cho đến năm 1995; số phận sau đó của con tàu không rõ. Sea Poacher được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Sea Poacher được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 23 tháng 2, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 5, 1944, được đỡ đầu bởi bà J. H. Spiller, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 31 tháng 7, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Francis Michael Gambacorta.
Lịch sử hoạt động
1944 - 1945
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại các vùng biển ngoài khơi Portsmouth, New Hampshire, và New London, Connecticut, Sea Poacher lên đường đi sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó băng qua kênh đào Panama và đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 25 tháng 10, 1944.
Hai chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh của Sea Poacher không mang lại kết quả, nhưng đến chuyến thứ ba tiến hành tại khu vực quần đảo Kuril, vào ngày 15 tháng 5, nó đã dùng hải pháo đánh chìm hai tàu chở hàng nhỏ Lục quân Ume Maru số 56 (100 tấn) và Fukumo Maru (20 tấn) tại tọa độ .
Trong chuyến tuần tra thứ tư từ ngày 27 tháng 6, Sea Poacher hoạt động trong thành phần một đội tấn công phối hợp ("Bầy sói") vốn bao gồm các tàu ngầm , , và , để làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu hỗ trợ hoạt động không kích ngoài khơi các đảo Hokkaidō và Honshū. Nó đánh chìm hai tàu nhỏ bằng hải pháo trong ngày 20 tháng 7, rồi ba ngày sau đó đã đánh chìm chiếc Kiri Maru số 2 (334 tấn) bằng hải pháo ngoài khơi bờ biển Honshū, tại tọa độ . Sau đó từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 7, nó tiếp tục phá hủy thêm ba tàu nhỏ bằng hải pháo dọc bờ biển Honshū và trong eo biển Tsugaru. Trong hoạt động tác chiến sau cùng, ba thủy thủ bị thương khi một khẩu pháo Oerlikon 20 mm phát nổ, buộc con tàu phải kết thúc sớm chuyến tuần tra để đưa thương binh về căn cứ Midway.
Sea Poacher đang được tái trang bị tại Trân Châu Cảng khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột.
1946 – 1974
Từ năm 1946 đến năm 1949, Sea Poacher đặt căn cứ tại Balboa, Panama trong thành phần Hải đội Tàu ngầm 6, và tham gia huấn luyện và tập trận chống tàu ngầm. Nó được điều đến Key West, Florida và thuyên chuyển sang Hải đội Tàu ngầm 4 vào ngày 1 tháng 6, 1949. Vào năm 1951, tại Xưởng hải quân Charleston, nó là tàu ngầm đầu tiên được hiện đại hóa trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY IA), giúp cải thiện đáng kể tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động.
Trong thời gian còn lại của quãng đời phục vụ, Sea Poacher hầu như hoạt động tại khu vực Key West và vùng biển Caribe, phối hợp cùng các đơn vị thuộc Hạm đội Đại Tây Dương, tham gia các cuộc tập trận trong khuôn khổ Khối NATO, cùng những lượt phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải. Đang khi hoạt động tại khu vực Key West vào ngày 10 tháng 7, 1952, nó đã giải cứu một khinh khí cầu gặp trục trặc đang trôi nổi trên biển; nó kéo chiếc khinh khí cầu vượt quãng đường để quay trở về Căn cứ Không lực Hải quân Boca Chica, Florida. Vào tháng 7, 1959, nó được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 12, tiếp tục đặt căn cứ tại Key West. Vào mùa Thu năm 1962, nó được bố trí cùng các đơn vị khác thuộc Hạm đội Đại Tây Dương để phong tỏa Cuba do vụ Khủng hoảng tên lửa Cuba.
Vào năm 1969, Sea Poacher được phái sang vùng biển Bắc Đại Tây Dương để tham gia tập trận chống tàu ngầm cùng các đơn vị hải quân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, kéo dài gần bốn tháng. Khi quay trở về Key West, nó tiếp tục hoạt động huấn luyện tại vùng biển Caribe cho đến ngày 20 tháng 10, khi nó đi đến Xưởng hải quân Philadelphia để chuẩn bị ngừng hoạt động. Nó được xếp lại lớp như một "tàu ngầm phụ trợ" và mang ký hiệu lườn mới AGSS-406 vào ngày 1 tháng 11, 1969, rồi được cho xuất biên chế vào ngày 15 tháng 11, 1969, và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương, neo đậu tại Philadelphia, Pennsylvania. Nó được xếp lại lớp và quay trở lại ký hiệu lườn cũ vào ngày 30 tháng 6, 1971. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 8, 1973, và con tàu được bán cho Peru vào ngày 1 tháng 7, 1974.
BAP La Pedrera (S-49)
Được chuyển giao trong khuôn khổ Chương trình viện trợ quân sự, con tàu nhập biên chế cùng Hải quân Peru như là chiếc BAP Pabellón de Pica (S-49), nhưng chỉ vài tuần sau đó lại đổi tên thành La Pedrera. Chiếc tàu ngầm ngừng hoạt động vào năm 1995, và chuyển sang sử dụng như một tàu huấn luyện cố định. Số phận sau cùng của con tàu không rõ.
Phần thưởng
Sea Poacher được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-406
seapoacher.com: USS Sea Poacher Association Official Website
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu được Hải quân Hoa Kỳ chuyển cho Hải quân Peru
Tàu ngầm của Hải quân Peru
Tàu thủy năm 1944
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II
|
19853860
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sea%20Robin%20%28SS-407%29
|
USS Sea Robin (SS-407)
|
USS Sea Robin (SS-407) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một phân họ trong họ Cá chào mào. Nó đã phục vụ trong giai đoạn sau của Thế Chiến II, thực hiện được ba chuyến tuần tra, đánh chìm được sáu tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 13.472 tấn. Sau khi xung đột chấm dứt, nó tiếp tục hoạt động rồi được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IA, và đã phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1970. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1971. Sea Robin được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Sea Robin được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 1 tháng 3, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 25 tháng 5, 1944, được đỡ đầu bởi bà Homer Ambrose, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 7 tháng 8, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Paul Cecil Stimson.
Lịch sử hoạt động
1944
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại các vùng biển ngoài khơi Portsmouth, New Hampshire, và New London, Connecticut, Sea Robin lên đường đi sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó đi đến vùng kênh đào Panama vào ngày 12 tháng 10, 1944, và gặp phải sự cố bị một tàu buôn Scandinavia bắn nhầm khi cho rằng nó là một tàu ngầm U-boat Đức Quốc Xã; may mắn là chiếc tàu ngầm ở ngoài tầm bắn và không bị hư hại. Nó đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 5 tháng 11.
1945
Chuyến tuần tra thứ nhất
Sau sáu ngày ở lại cảng, Sea Robin lên đường hướng đến khu vực eo biển Luzon cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Vào ngày 6 tháng 1, 1945, ở vị trí khoảng về phía Đông Bắc đảo Hải Nam, trong một đợt tấn công ban đêm được radar hỗ trợ, nó đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu chở dầu Tarakan Maru (5.135 tấn) tại tọa độ ; 12 thành viên thủy thủ đoàn đã mất tích cùng con tàu. Trong phần còn lại của chuyến tuần tra, chiếc tàu ngầm chỉ bắt gặp thủy lôi trôi nổi trên biển. Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay về căn cứ tại Fremantle, Australia vào ngày 29 tháng 1.
Chuyến tuần tra thứ hai
Trong chuyến tuần tra tiếp theo, đang khi hoạt động trong biển Java ở phía Bắc Surabaya vào ngày 3 tháng 3, lúc 20 giờ 00, Sea Robin cơ động né tránh một tàu hộ tống Nhật Bản và phóng một loạt bốn quả ngư lôi. Một quả trúng đích đã đánh chìm tàu chở hàng Suiten Maru (2.500 tấn) tại tọa độ ; 32 thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng cùng con tàu.
Sang ngày hôm sau, Sea Robin bắt gặp một đoàn tàu vận tải chuyển quân bao gồm hai tàu chở hàng, một pháo hạm được cải biến cùng nhiều tàu hộ tống. Một loạt ba quả ngư lôi phóng ra lúc 22 giờ 34 phút đã đánh trúng pháo hạm Manyo Maru (2.904 tấn) khiến nó đắm tại vị trí về phía Đông đảo Bawean, tại tọa độ . Sau khi né tránh đợt phản công của các tàu hộ tống, nhiều giờ sau đó nó lại đi đến vị trí tấn công, phóng một loạt ba quả ngư lôi và tiếp tục đánh chìm Shoyu Maru (853 tấn) tại tọa độ . Chiếc tàu ngầm phóng tiếp một loạt ba quả ngư lôi vào các tàu còn lại, nhưng mục tiêu cơ động né tránh được. Trong nỗ lực tiếp theo, Sea Robin tấn công từ khoảng cách , và một quả trúng đích đã khiến tàu rải lưới Nagara Maru (856 tấn) vỡ làm đôi và đắm ở vị trí về phía Đông Bắc Borneo, tại tọa độ . Đợt phản công của các tàu hộ tống và máy bay tuần tra đối phương kéo dài trong suốt 24 giờ tiếp theo, nhưng chiếc tàu ngầm thoát được và đi đến căn cứ tại vịnh Subic, Philippines vào ngày 15 tháng 3 để bổ sung ngư lôi.
Rời vịnh Subic vào ngày 19 tháng 3 để tiếp tục chuyến tuần tra, Sea Robin hướng sang biển Đông để hoạt động tại khu vực ngoài khơi đảo Hải Nam. Vào ngày 23 tháng 3, nó cứu vớt một phi công bị bắn rơi xuống biển. Đến ngày 30 tháng 3, nó lọt vào giữa đội hình sáu tàu khu trục Nhật Bản và đã phóng một loạt ba quả ngư lôi tấn công chiếc dẫn đầu, nhưng mục tiêu đổi hướng nên bị trượt. Một tàu khu trục thứ hai tiếp cận và phản công trong suốt 20 phút bằng mìn sâu, chiếc tàu ngầm lẫn tránh được và lại tấn công với loạt sáu quả ngư lôi nhưng không trúng đích. Đến ngày 8 tháng 4, nó đánh chìm hai tàu đánh cá nhỏ bằng hải pháo và bắt giữ ba tù binh chiến tranh. Sang ngày hôm sau nó vớt thêm mười người từ một tàu đánh cá khác bị máy bay Đồng Minh đánh chìm. Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra tại Trân Châu Cảng vào ngày 29 tháng 4.
Chuyến tuần tra thứ ba
Sea Robin rời Trân Châu Cảng vào ngày 1 tháng 6 cho chuyến tuần tra cuối cùng trong chiến tranh tại khu vực Hoàng Hải và biển Hoa Đông, nó chủ yếu làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu hỗ trợ cho các chiến dịch không kích của máy bay ném bom B-29 Superfortress Không lực. Vào ngày 26 tháng 6, con tàu đang ở vị trí khoảng về phía Tây Nam Aogashima thuộc quần đảo Nanpō, tại tọa độ , khi một lô bom từ một chiếc B-29 bị phóng bỏ xuống biển chỉ cách con tàu . Chiếc tàu ngầm không bị hư hại qua sự cố này.
Vào ngày 9 tháng 7, Sea Robin đánh chìm một tàu tuần tra nhỏ và bắt giữ một tù binh chiến tranh. Sang ngày hôm sau, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu chở hàng Sakishima Maru (1.224 tấn) tại tọa độ . Không lâu sau đó, trong khi tìm cách tiêu diệt một thuyền buồm, nó bị máy bay tuần tra đối phương phát hiện, và hai quả bom đã ném xuống gần con tàu đã làm hư hại phần mũi tàu. Do không được phát hiện kịp thời, mũi tàu bị biến dạng đã khiến ngư lôi phóng ra đi chệch hướng trượt khỏi mục tiêu. Nó tiếp tục phá hủy nhiều tàu đánh cá nhỏ trước khi kết thúc chuyến tuần tra.
Khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột, Sea Robin đang neo đậu tại căn cứ Midway. Nó lên đường quay trở về Hoa Kỳ ngang qua Trân Châu Cảng, băng qua kênh đàp Panama vào ngày 20 tháng 9, và về đến Galveston, Texas bốn ngày sau đó.
1945 – 1951
Sau chiến tranh Sea Robin phục vụ cùng Hải đội Tàu ngầm 6 đặt căn cứ tại Balboa, Panama. Vào ngày 15 tháng 5, 1947, nó thực hiện chuyến tuần tra mô phỏng vòng quanh lục địa Nam Mỹ kéo dài một tháng rưỡi, trở thành chiếc tàu ngầm Hoa Kỳ đầu tiên vòng qua mũi Horn. Trong năm 1948 nó tập trận và huấn luyện tại khu vực Balboa và Key West, Florida, rồi được đại tu tại Xưởng hải quân Philadelphia.
Đến ngày 20 tháng 8, 1949, Sea Robin được điều sang Hải đội Tàu ngầm 8 và chuyển cảng nhà đến Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London. Nó khởi hành từ New London vào ngày 23 tháng 2, 1950 để tham gia cuộc Tập trận Portex phối hợp giữa Lục quân, Hải quân và Không quân tại vùng biển Caribe, cho đến ngày 23 tháng 3. Từ tháng 9 đến tháng 11, chiếc tàu ngầm được phái sang phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải.
1951 – 1955
Vào năm 1951, Sea Robin được hiện đại hóa trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY IA), giúp cải thiện đáng kể tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động. Trong tháng 1 và tháng 2, 1952, nó tham gia cuộc Tập trận Micowex tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương nhằm thử nghiệm quy trình và thiết bị hoạt động trong điều kiện giá lạnh dưới sự giám sát của Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân New London. Sau nó nó quay lại vùng biển ấm để tham gia cuộc Tập trận Pacex tại khu vực Caribe.
Vào ngày 30 tháng 8, 1954, Sea Robin khởi hành cho một chuyến đi huấn luyện kéo dài sáu tuần vượt qua vòng Bắc Cực, có các chặng dừng tại Glasgow, Scotland và Belfast, Bắc Ireland. Đến ngày 4 tháng 1, 1955, nó lên đường tham gia cuộc Tập trận Springboard kéo dài sáu tuần tại vùng biển Caribe, rồi đến tháng 9 lại tham gia cuộc Tập trận New Broom IV trong khuôn khổ Khối NATO, viếng thăm Saint John, New Brunswick trên đường quay trở về New London.
1956 – 1970
Phần thưởng
Sea Robin được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm sáu tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 13.472 26.085 tấn.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-407
USS Sea Robin website
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Sự cố bắn nhầm trong Thế Chiến II
Sự cố hàng hải năm 1945
Tàu thủy năm 1944
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Sự cố quân ta bắn quân mình trong Thế chiến thứ hai
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II
|
19853872
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cha%20c%C3%B5ng%20con
|
Cha cõng con
|
Cha cõng con (tựa tiếng Anh: Father and son) là bộ phim điện ảnh độc lập, thể loại gia đình của điện ảnh Việt Nam được phát hành vào tháng 4 năm 2017. Bộ phim được đạo diễn Lương Đình Dũng chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của ông viết năm 1995. Kịch bản chuyển thể bởi Bùi Kim Quy.
Nội dung
Người đàn ông tên Mộc sống cảnh gà trống nuôi con, hai cha con phải vật lộn với cuộc sống đơn sơ cùng sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Những lần tránh lũ cùng cha, Cá lại có thêm bạn mới, bị hấp dẫn bởi các câu chuyện về thành phố với những tòa nhà trọc trời và những thứ hiện đại qua lời kể của chú Mù.
Khi biết Cá mắc bệnh nặng, Mộc đã phải tìm đủ cách chạy chữa.
Phân vai
Ngô Thế Quân vai Mộc (ông bố)
Đỗ Trọng Tấn vai Cá
NSND Trần Hạnh vai Ông lão
Hà Văn Hiếu vai Chú Mù
Sản xuất
Kịch bản
Cha cõng con chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên viết năm 1995 bởi Lương Đình Dũng, khi anh còn là công nhân Nhà máy xi măng Tuyên Quang. Bắt đầu thực hiện chuyển thể từ năm 2007, đến năm 2010, Lương Đình Dũng tham gia khóa đào tạo về biên kịch do Pilar Alessandra giảng dạy tại Việt Nam. Đình Dũng đưa kịch bản Cha cõng con cho Alessandra nhờ cô góp ý, sau đó được Alessandra biên tập lại hoàn toàn miễn phí.
Diễn viên
Ngoài diễn viên Trần Hạnh thì hầu hết các diễn viên khác đều là không chuyên, diễn viên chính Ngô Thế Quân cũng mới chỉ tham gia hai bộ phim là Thời xa vắng và Chuyện của Pao. Bộ phim có sự tham gia của các em nhỏ mồ côi của Làng trẻ SOS Việt Trì và hai bệnh nhi ung thư, và đô vật Hà Văn Hiếu. Trước đó hai nhân vật chính là cha con Mộc và Cá được quay thử với diễn viên Nguyễn Viết Sơn và bé Thanh Anh. Sau 4 năm chuẩn bị, bé Thanh Anh đã lớn và không phù hợp với nhân vật Cá, Lương Đình Dũng đã đi rất nhiều nơi để tìm diễn viên nhí thay thế, cuối cùng cậu bé Đỗ Trọng Tấn của Làng trẻ SOS đã được chọn.
Hậu trường
Để có những cảnh quay đẹp, đoàn làm phim đã quyết định bấm máy vào mùa mưa bão ở miền Bắc Việt Nam, bối cảnh chính được chọn tại Bắc Mê – Hà Giang. Các cảnh mưa bão trong phim hầu hết là cảnh thật. Có nhiều cảnh quay đoàn làm phim đã phải di chuyển đến Tuyên Quang, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đạo diễn hình ảnh Lý Thái Dũng đã sử dụng đến công nghệ flycam, trong quá trình bấm máy, đoàn phim đã hai lần bị thiệt hại về flycam.
Âm nhạc trong phim do nhà soạn nhạc Lee Dong-june – người từng thành cống với Điều kì diệu ở phòng giam số 7 và Mật danh IRIS – đảm nhận. Thời gian hậu kỳ âm nhạc mất khoảng 2 tháng. Thời gian để hậu kỳ cả bộ phim mất 1 năm và 13 ngày.
Sản xuất
Cha cõng con bắt đầu sản xuất từ tháng 7 năm 2013 nhưng vì các bối cảnh dàn dựng của đoàn phim bị bão lũ phá hỏng, phải dựng lại từ đầu nên việc sản xuất bị gián đoạn đến tháng 7 năm 2015 mới được tiếp tục và đến tháng 9 mới hoàn tất. Thời gian quay bộ phim hết gần 4 tháng, Lương Đình Dũng cho rằng vì anh quá kỹ tính trong khâu sản xuất cũng là lí do khiến thời gian làm phim bị kéo dài hơn dự tính. Khi đã quay xong nhưng trong quá trình dựng phim, hậu kỳ chưa thấy ưng ý, vị đạo diễn lại đưa cả đoàn trở lại Hà Giang quay thêm.
Phát hành
Ngày 18 tháng 6 năm 2015, Cha và con có buổi họp báo ra mắt. Các phân đoạn được dựng thành 70 đến 80 phiên bản phim hoàn chỉnh và chốt được bản dựng cuối cùng vào ngày 28 tháng 3 năm 2016 và hoàn thành hậu kỳ vào ngày 13 tháng 11 cùng năm.
Bộ phim được phát hành bởi cụm rạp Lotte Cinema, ngày 13 tháng 3 năm 2017 teaser trailer dài 90 giây của phim được công bố. Cha cõng con được phát hành từ ngày 5 tháng 4 năm 2017.<ref>{{Chú thích web|url=https://vnexpress.net/thien-nhien-tuoi-dep-va-khac-nghiet-trong-phim-cha-cong-con-3559276.html|tựa đề=Thiên nhiên tươi đẹp và khắc nghiệt trong phim Cha cõng con'|tác giả=Ân Nguyễn|họ=|ngày=2017-3-22|website=VnExpress|ngôn ngữ=vi|url-status=live|ngày truy cập=2024-02-18|archive-date=2022-12-18|archive-url=https://web.archive.org/web/20221218144917/https://vnexpress.net/thien-nhien-tuoi-dep-va-khac-nghiet-trong-phim-cha-cong-con-3559276.html}}</ref> Bộ phim được trình chiếu tại các rạp phim trong 37 ngày, với doanh thu trên 13 tỉ VNĐ. Sang đầu tháng 7 năm 2017, bộ phim được phát hành lần 2 và lần trình chiếu lưu động từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2017 cho các khán giả trẻ tuổi.
Từ tháng 2 năm 2020, bộ phim được phát hành tại Ả Rập Xê Út, khởi đầu với buổi ra mắt tại The King Abdulaziz Center for World Culture – Ithra.
Đánh giá
Trong khi bộ phim nhận được đề nghị phát hành ở nước ngoài và những lời mời tham dự các liên hoan phim, thì tại Việt Nam các đơn vị phát hành trong nước cho rằng bộ phim kém hấp dẫn, họ cho rằng phim thiếu yếu tố bạo lực, kinh dị, những hành động kịch tính, cảnh nóng nên đã từ chối phát hành.
Ban giám khảo Giải Cánh diều 2016 cho rằng bộ phim không có những điểm thắt - mở, kịch tính như các phim thông thường, tình tiết phim chậm, nhẹ nhàng và dễ đoán.
Tác giả Nam Phú – báo Tia Sáng: bộ phim vừa có được cái nhìn riêng, tinh tế của đạo diễn, nhưng mặt khác, nó vẫn đi theo lối làm phim “có cảnh quay đẹp” đã thành khuôn mòn rất cần phải xem xét lại của điện ảnh Việt mươi năm qua.
Tác giả Phạm Hoa - Thời báo Ngân hàng: Trên thực tế, “Cha cõng con” là phim nghệ thuật khá kén người xem và chưa hẳn phù hợp với số đông, đồng thời cũng không hẳn thuận góc nhìn của giới chuyên môn.
Đón nhận
Thất bại với các giải thưởng trong nước
Tại Giải Cánh diều 2016, Cha cõng con tham gia đề cử ở hạng mục Phim điện ảnh với Diễn viên nam chính xuất sắc, Đạo diễn xuất sắc và Phim điện ảnh xuất sắc. Kết quả bộ phim chỉ giành được bằng khen của ban tổ chức, đạo diễn Lương Đình Dũng cảm thấy kết quả không công bằng nên đã lập tức trả lại bằng khen cho Ban tổ chức. Vị đạo diễn cho rằng cách thực hiện mới mẻ của bộ phim khiến Ban giám khảo không cảm nhận hết cái hay của nó. Ông Trần Luân Kim, đại diện ban giám khảo giải Cánh Diều 2016 cho biết, Cha cõng con không nhận được giải Vàng hay Bạc vì bộ phim chưa có nhiều đột phá, cách thể hiện chưa thực sự đổi mới.
Sức hấp dẫn của bộ phim cũng gây ra những nhận định trái chiều. Ngay sau động thái trả lại giải thưởng của Lương Đình Dũng thì tạp chí Thế giới điện ảnh đã có bài phê phán: “Đạo diễn thì hư, phim thì dở” và kết bằng câu “cha nào con nấy” gây bức xúc cho dư luận.
Mặc dù vậy, sau khi tham gia các giải quốc tế trong năm 2017, sang năm 2018 bộ phim Cha cõng con đã giành được giải Bông sen Bạc hạng mục Phim điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 20 cùng với bộ phim Cô hầu gái. Biên kịch Bùi Kim Quy và đạo diễn Lương Đình Dũng cùng giành giải Biên kịch xuất sắc tại Liên hoan phim lần này.
Chiến thắng tại các giải quốc tế
Đầu năm 2017, Cha cõng con được chọn tranh hạng mục Phim truyện xuất sắc giải Remi Award, tại Liên hoan phim quốc tế Houston lần thứ 50 ở Texas, Mỹ. Đây là một giải thưởng vinh danh những tác phẩm hư cấu của các nhà làm phim độc lập. Sau đó, bộ phim được tham gia Liên hoan phim Quốc tế Boston lần thứ 15.
Trước khi tham gia Giải Cánh diều 2016, tác phẩm đã giành giải "Phim truyện xuất sắc" ở liên hoan phim độc lập Canadian Diversity Film Festival 2016 và giải "Quay phim xuất sắc" dành cho Lý Thái Dũng ở liên hoan Barcelona Planet 2016.Cha cõng con được chọn đại diện điện ảnh Việt Nam tham gia hạng mục Phim nước ngoài hay nhất tại Giải Oscar lần thứ 90 nhưng không lọt vào vòng đề cử.
Năm 2017, Cha cõng con'' được chọn chiếu và tranh giải tại Liên hoan phim như Liên hoan phim Quốc Tế Julien Dubuque lần thứ 6 và Liên hoan phim quốc tế Arizona tại bang Iowa, Mỹ. Liên hoan phim Châu Á Thái Bình Dương Los Angeles lần thứ 33, Liên Hoan phim Châu Á Thái Bình Dương Châu Mỹ La Tinh lần thứ 17, Liên hoan phim quốc tế Ấn Độ lần thứ 48, Liên hoan phim Milano lần thứ 17, Liên hoan phim Tallinn Black Nights, Liên hoan phim quốc tế ReelHeart...
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim năm 2017
Phim Việt Nam
Phim tiếng Việt
Phim dựa theo tác phẩm của nhà văn
Phim lấy bối cảnh ở Việt Nam
Phim quay tại Việt Nam
Phim lãng mạn thập niên 2010
Phim giành giải Bông sen bạc
|
19853873
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93i%20h%C6%B0%C6%A1ng%20v%C3%A0ng
|
Hồi hương vàng
|
Hồi hương vàng (Gold repatriation) đề cập đến kế hoạch của nhiều chính phủ khác nhau để mang số vàng được cất giữ bên ngoài quê hương về nước. Nhiều quốc gia sử dụng kho dự trữ ngoại hối ở nước ngoài để cất giữ và bảo quản an toàn một phần lượng vàng dự trữ (Kim lượng) của mình, phổ biến là dự trữ dưới dạng thỏi vàng. Năm 2014, một số nước châu Âu xuất hiện trào lưu trả lại số vàng cất giữ ở nước ngoài về nước chủ sở hữu. Ngân hàng trung ương Hà Lan đã giảm tỷ lệ vàng do Cục Dự trữ Liên bang New York nắm giữ từ 51% xuống 31%, Chính phủ Áo và Bỉ đã xem xét lại khả năng thực hiện các biện pháp tương tự.
Tình hình
Vào tháng 1 năm 2013, Deutsche Bundesbank (Ngân hàng trung ương Đức) đã công bố kế hoạch hồi hương 300 tấn trong số 1.500 tấn dự trữ từ Mỹ và 374 tấn từ Pháp vào năm 2020, để dự trữ (1.695,3 tấn) lượng dự trữ chính thức của mình ở Frankfurt. Vào năm 2014, 122,5 tấn vàng dự trữ của Hà Lan đã được trả về Amsterdam từ New York, nơi chúng được cất giữ trong một kho tiền của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York; De Nederlandsche Bank, ngân hàng trung ương Hà Lan, nói rằng họ "cảm thấy rằng trong thời kỳ khủng hoảng tài chính, tốt hơn hết là nên cầm vàng trong tay". Song song đó, Hà Lan tiếp tục dự trữ vàng ở New York, Ottawa và Luân Đôn.
Trước năm 2012, Ngân hàng Trung ương Venezuela (Banco Central de Venezuela/BCV), nắm giữ khoảng 211 tấn trong số 365 tấn vàng dự trữ tại các ngân hàng Mỹ, Châu Âu và Canada. Tuy nhiên, vào tháng 1 năm 2012, Venezuela đã hoàn tất việc vận chuyển 160 tấn vàng miếng (trị giá khoảng 9 tỷ USD) về nước. Hoạt động này được Tổng thống Hugo Chávez ra lệnh vào tháng 8 năm 2011 và được Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Nelson Merentes giám sát. Đầu tháng 11 năm 2018, Ngân hàng Anh ở Luân Đôn đã từ chối việc cho rút 14 tấn vàng thuộc sở hữu của BCV theo yêu cầu của các quan chức hàng đầu của Hoa Kỳ, bao gồm Ngoại trưởng Mike Pompeo và Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ John R. Bolton, người đã vận động các đối tác Vương quốc Anh của Mỹ để giúp cắt đứt liên hệ của Chính phủ Venezuela khỏi khối tài sản ở nước ngoài của họ.
Chú thích
Vàng
Tiêu chuẩn vàng
Ngành ngân hàng
|
19853876
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A9ng%20ch%E1%BB%89%20v%C3%A0ng
|
Chứng chỉ vàng
|
Chứng chỉ vàng (Gold certificate) ở Hoa Kỳ được Bộ Ngân khố Hoa Kỳ phát hành dưới dạng tiền đại diện (Representative money) từ năm 1865 đến năm 1933. Trong khi Hoa Kỳ tuân theo chế độ bản vị vàng, các chứng chỉ này được đưa ra một cách thuận tiện hơn để người ta thuận tiện trong việc thanh toán bằng vàng hơn việc sử dụng tiền xu trong hoạt động thanh toán. Sau này, quyền sở hữu chung của công chúng đối với chứng chỉ vàng đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật vào năm 1933 và kể từ đó chúng chỉ được cung cấp cho Ngân hàng Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Bank), với chứng chỉ ghi sổ thay thế cho dạng giấy.
Giấy chứng nhận vàng (Chứng chỉ vàng) lần đầu tiên được cấp phép theo Đạo luật Tiền tệ hợp pháp năm 1863 của Hoa Kỳ, nhưng chúng dường như không được in ấn phát hành cho đến năm 1865. Để thúc đẩy dòng vàng chảy vào Kho bạc và duy trì tín dụng của chính phủ Mỷ, tiền giấy không thể được sử dụng để trả thuế hải quan hoặc lãi cho khoản nợ liên bang. Thay vào đó, chứng chỉ vàng, đại diện cho tiền được giữ trong Kho bạc, được cung cấp cho những mục đích đó. Tiền giấy, như tiền pháp định (Legal tender) được sử dụng cho hầu hết các mục đích, là loại tiền giấy thống trị cho đến năm 1879 nhưng được chấp nhận với giá chiết khấu so với chứng chỉ vàng. Sau năm 1879, chính phủ bắt đầu mua lại Giấy bạc Hoa Kỳ theo mệnh giá bằng vàng, đưa chúng ngang hàng với giấy chứng nhận vàng.
Việc đổi giấy chứng nhận vàng lấy vàng đồng xu đã được kết thúc từ lời Tuyên bố của Tổng thống (ngày 6 tháng 3 năm 1933) và Sắc lệnh hành pháp 6073 (ngày 10 tháng 3 năm 1933). Vào ngày 5 tháng 4 năm 1933, Lệnh điều hành 6102 được ban hành yêu cầu tất cả mọi người ở Hoa Kỳ phải giao nộp (với một số ngoại lệ hạn chế) tất cả đồng xu vàng, thỏi vàng và chứng chỉ vàng cho Cục Dự trữ Liên bang trước ngày 1 tháng 5 năm 1933. Theo lệnh của Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ ngày 28 tháng 12 năm 1933, việc sở hữu tư nhân chứng chỉ vàng bị tuyên bố là bất hợp pháp. Các hạn chế về quyền sở hữu tư nhân đối với chứng chỉ vàng đã bị Bộ trưởng Tài chính Douglas Dillon thu hồi có hiệu lực từ ngày 24 tháng 4 năm 1964, chủ yếu để cho phép các nhà sưu tập sở hữu vàng hợp pháp; tuy nhiên, chứng chỉ vàng không còn có thể đổi thành vàng mà thay vào đó có thể đổi theo mệnh giá lấy các đồng xu và tiền tệ khác của Hoa Kỳ được chỉ định là tiền tệ hợp pháp (ví dụ: Trái phiếu Dự trữ Liên bang và Trái phiếu Hoa Kỳ).
Chú thích
Vàng
|
19853879
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stygia%20australis
|
Stygia australis
|
Stygia australis là một loài bướm đêm thuộc họ Cossidae. Loài này được tìm thấy ở Pháp, Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Ấu trùng của loài này ăn rễ của các loài thuộc chi Echium.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lepiforum.de
Bướm đêm được mô tả năm 1804
Stygia
Bướm đêm châu Âu
Nhóm loài do Pierre André Latreille đặt tên
Bướm đêm Châu Âu
|
19853883
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Parahypopta%20caestrum
|
Parahypopta caestrum
|
Parahypopta caestrum là một loài bướm đêm thuộc họ Cossidae. Loài này được được tìm thấy ở Bán đảo Iberia và ở Pháp, Ý, Áo, Cộng hòa Séc, Slovakia, Hungary, trên Bán đảo Balkan, cũng như ở Jordan, Israel, Syria, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, tây nam Nga và Kazakhstan.
Sải cánh của loài này dài từ 28–40 mm.
Ấu trùng của loài này ăn Asparagus officinalis, Asparagus maritime, Asparagus tenuifolis, Asparagus albus, Asparagus acutifolis, và Celtis australis.
Phân loài
Parahypopta caestrum caestrum
Parahypopta caestrum caucasica (Grum-Grshimailo, 1902) (Kavkaz, Ngoại Kavkaz)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lepiforum.de
Bướm đêm được mô tả năm 1804
Parahypopta
Bướm đêm châu Âu
Côn trùng Thổ Nhĩ Kỳ
Nhóm loài do Jacob Hübner đặt tên
|
19853919
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/San%20Nicol%C3%A1s%2C%20Guerrero
|
San Nicolás, Guerrero
|
San Nicolás là khu đô thị tự trị thuộc bang Guerrero, México. Khu đô thị cách thủ phủ bang Chilpancingo về phía đông nam. Tên gọi bắt nguồn từ thánh bảo hộ Nicola thành Tolentino viết bằng tiếng Tây Ban Nha. Khu đô thị được hình thành từ Cuajinicuilapa theo phê duyệt năm 2021 và chính thức có hiệu lực ngày 21 tháng 5 năm 2022.
Địa lý
Khu đô thị tự trị San Nicolás nằm trên vùng Costa Chica phía đông nam bang Guerrero; phía tây, bắc và đông giáp Cuajinicuilapa, phía đông nam giáp Oaxacan khu Santiago Tapextla còn phía tây nam giáp Thái Bình Dương. Tổng diện tích . Bờ biển Thái Bình Dương tại đây là nơi quan trọng cho rùa da làm ổ và được bảo tồn thành khu Ramsar Playa Tortuguera Tierra Colorada.
San Nicolás có khí hậu ôn đới ẩm, nhiều mưa vào hè. Nhiệt độ trung bình dao động từ và lượng mưa trung bình hàng năm dao động trong khoảng .
Lịch sử
San Nicolás ngày nay nằm trên lãnh thổ tỉnh Quahuitlán trước đây, nơi dân bản địa nói tiếng Quahteca hoặc Cuahuiteca, có thể là một phương ngữ Mixtec. Tututepec cai trị Quahuitlán đến khoảng năm 1497 thì bị Đế quốc Mexica đánh chiếm. Năm 1522, Pedro de Alvarado chinh phục vùng này cho Tây Ban Nha. Đến năm 1548, khu vực này là encomienda ban thưởng cho Tristán de Luna y Arellano. Cuối thế kỷ 16, các trùm chủ trại gia súc Tây đưa cả người tự do lẫn nô lệ da đen và mulatto đến đây, đó là tổ tiên của phần lớn cư dân San Nicolás ngày nay.
Năm 2004, cư dân San Nicolás và phụ cận bắt đầu ý tưởng tách khỏi Cuajinicuilapa để thành lập khu đô thị tự trị mới, chủ yếu do vấn đề thiếu thốn nguồn lực để phát triển. Ngày 31 tháng 8 năm 2021, cơ quan lập pháp bang Guerrero phê chuẩn việc thành lập khu đô thị San Nicolás gồm 10 địa phương thuộc Cuajinicuilapa khi ấy. Bản sửa đổi hiến pháp bang liên quan đến việc thành lập khu đô thị được thông qua ngày 13 tháng 1 năm 2022 và có hiệu lực ngày 21 tháng 5 năm 2022.
Hành chính
San Nicolás sẽ tổ chức bầu cử lần đầu tiên với tư cách là khu đô thị độc lập năm 2024. Chính quyền khu đô thị San Nicolás gồm một chủ tịch, một ủy viên hội đồng (tiếng Tây Ban Nha: síndico) và sáu ủy viên (regidores).
Nhân khẩu học và văn hóa
Trong Điều tra dân số México năm 2020, các địa phương gồm khu đô thị San Nicolás hiện nay có dân số 6.984 người. Thủ phủ là thành phố cùng tên San Nicolás ghi nhận dân số 3.249 người. Các địa phương đông dân nhất tiếp theo là La Pitahaya 1.583 người và Punta Maldonado 848 người.
Giống như Cuajinicuilapa bên cạnh, San Nicolás đã được các cơ quan văn hóa, học giả và nhà báo xác định là trung tâm văn hóa México Phi ở Costa Chica của Guerrero. Tuy nhiên, cư dân San Nicolás tự nhận mình là moreno (người Anh-điêng bản địa da đen) và khước từ các tên gọi như "da đen", "Afromexican" hay "Afromestizo". Kể từ cuối thập niên 1990, một lượng đáng kể dân San Nicolás chuyển đến sống tại Winston-Salem, Greensboro và Charlotte ở Bắc Carolina.
Kinh tế
Kinh tế San Nicolás dựa trên nông nghiệp quy mô nhỏ: nông dân trồng ngô để ăn, vừng và trái cây (ví dụ xoài, đu đủ và dưa hấu) để bán thị trường địa phương. Dân ven biển phụ thuộc nhiều vào nghề chài lưới.
Tham khảo
Đọc thêm
Khởi đầu năm 2022 ở México
Đô thị bang Guerrero
Nguồn CS1 tiếng Tây Ban Nha (es)
Tọa độ trên Wikidata
|
19853921
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/August%2C%20Tuy%E1%BB%83n%20h%E1%BA%A7u%20x%E1%BB%A9%20Sachsen
|
August, Tuyển hầu xứ Sachsen
|
Tuyển đế hầu August xứ Sachsen (31 tháng 7 năm 1526 – 11 tháng 2 năm 1586) là Tuyển hầu xứ Sachsen từ năm 1533 đến khi qua đời vào năm 1586, và là tuyển đế hầu đời thứ 2 đến từ dòng Albertine thuộc nhánh thứ của triều đại Wettin, trước khi anh trai của ông là Công tước Moritz chiếm được Tuyển hầu Sachsen thì quyền này thuộc về dòng Ernestine, nhánh trưởng của triều đại Wettin.
Vì anh trai của ông, Tuyển đế hầu Moritz không có con trai thừa tự, nên sau cái chết của anh trai vào năm 1533, August tiếp nhận quyền Tuyển hầu xứ Sachsen và tất cả các tuyển đế hầu xứ Sachsen cho đến khi Đế chế La Mã Thần thánh xụp đổ vào năm 1806 đều là hậu duệ của ông, tương tự đó, tất cả các vị quân chủ của Vương quốc Sachsen cũng đều là hậu duệ của ông.
Đầu đời
August sinh ra ở Freiberg, là con út và là con trai thứ ba (nhưng thứ hai còn sống) của Heinrich IV, Công tước xứ Sachsen và Catherine xứ Mecklenburg. Do đó, ông thuộc chi nhánh Albertine của Nhà Wettin. Lớn lên theo đạo Tin Lành, ông nhận được nền giáo dục tốt và theo học tại Đại học Leipzig.
Khi Công tước Heinrich IV qua đời vào năm 1541, ông để lại di chút chia đều đất đai cho hai con trai của mình; nhưng vì di chúc của ông trái với Luật Albertine nên nó đã không được thực hiện, và quyền công tước gần như được chuyển giao nguyên vẹn cho con trai lớn của ông, Công tử Moritz. Tuy nhiên, August vẫn giữ mối quan hệ thân thiện với anh trai mình và thực hiện các kế hoạch tiến thân về mặt chính trị, ông đã dành một thời gian tại triều đình của Hoàng đế Ferdinand I của Thánh chế La Mã, ở Viên.
Năm 1544, Moritz thoả thuận được với Hoàng đế để bảo đảm việc bổ nhiệm em trai mình làm quản lý Giáo phận Merseburg; nhưng August rất ngông cuồng và sớm bị buộc phải quay trở lại triều đình Sachsen ở Dresden. August đã hỗ trợ anh trai mình trong cuộc chiến của Liên minh Schmalkaldic, và trong chính sách mà đỉnh điểm là việc chuyển giao Tuyển hầu xứ Sachsen từ Johann Friedrich, người đứng đầu dòng Ernestine, cho Công tử Moritz, người đứng đầu chi nhánh Albertine.
Hôn nhân và hậu duệ
Tại Torgau vào ngày 7 tháng 10 năm 1548, August kết hôn với Vương nữ Anna, con gái của Vua Christian III của Đan Mạch và Dorothea xứ Sachsen-Lauenburg. Họ đến cư trú tại Weissenfels (Weißenfels). Hai vợ chồng có 15 người con:
John Henry (s. Weissenfels, 5 tháng 5 năm 1550 – d. Weissenfels, 12 tháng 11 năm 1550).
Eleonore (s. Wolkenstein, 2 tháng 5 năm 1551 – d. Wolkenstein, 24 tháng 4 năm 1553).
Elisabeth (sn. Wolkenstein, 18 tháng 10 năm 1552 – mất ở Heidelberg, 2 tháng 4 năm 1590), kết hôn ngày 4 tháng 6 năm 1570 với Bá tước Johann Casimir xứ Pfalz-Simmern; họ ly hôn vào năm 1589.
Alexander (sinh Dresden, 21 tháng 2 năm 1554 – mất Dresden, 8 tháng 10 năm 1565), Tuyển hầu tử kế vị của Sachsen.
Magnus (sinh Dresden, 24 tháng 9 năm 1555 – mất Dresden, 6 tháng 11 năm 1558).
Joachim (sinh Dresden, 3 tháng 5 năm 1557 – mất Dresden, 21 tháng 11 năm 1557).
Hector (sinh Dresden, 7 tháng 10 năm 1558 – mất Dresden, 4 tháng 4 năm 1560).
Christian I (s. Dresden, 29 tháng 10 năm 1560 – d. Dresden, 25 tháng 9 năm 1591), người kế vị cha mình làm Tuyển hầu xứ Sachsen.
Marie (s. Torgau, 8 tháng 3 năm 1562 – d. Torgau, 6 tháng 1 năm 1566).
Dorothea (sinh Dresden, 4 tháng 10 năm 1563 – mất Wolfenbüttel, 13 tháng 2 năm 1587), kết hôn vào ngày 26 tháng 9 năm 1585 với Công tước Heinrich Julius xứ Brunswick-Wolfenbüttel.
Amalie (sinh Dresden, 28 tháng 1 năm 1565 – mất Dresden, 2 tháng 7 năm 1565).
Anna (sinh Dresden, 16 tháng 11 năm 1567 – mất ở Veste Coburg, ngày 27 tháng 1 năm 1613), kết hôn vào ngày 16 tháng 1 năm 1586 với Công tước Johann Casimir, Công tước xứ Sachsen-Coburg-Eisenach; họ ly hôn vào năm 1593.
August (sinh Dresden, 23 tháng 10 năm 1569 – mất Dresden, 12 tháng 2 năm 1570).
Adolf (sinh Stolpen, 8 tháng 8 năm 1571 – mất Dresden, 12 tháng 3 năm 1572).
Friedrich (s. Annaberg, 18 tháng 6 năm 1575 – d. Annaberg, 24 tháng 1 năm 1577).
Ngay sau khi kết hôn, August mong muốn có một cơ sở hoành tráng hơn. Kết quả là Tuyển đế hầu Moritz đã cung cấp nhiều sự hào phóng hơn cho em trai mình, người giữ vai trò Nhiếp chính của Sachsen vào năm 1552 trong thời gian anh trai văn mặt. August đang có chuyến thăm Đan Mạch thì Moritz qua đời vào tháng 7 năm 1553 mà không có con trai thừa từ, nên Augut trở thành Tuyển hầu xứ Sachsen.
Cai trị Tuyển hầu xứ Sachsen
Mối quan tâm đầu tiên của August khi tiếp nhận ngôi tuyển đế hầu xứ Sachsen là đạt được thỏa thuận với cựu tuyển đế hầu Johann Friedrich của dòng Ernestine và củng cố vị trí tuyển đế hầu của chính mình. Những điều này được bảo đảm bằng một hiệp ước được ký kết tại Naumburg vào tháng 2 năm 1554, để đổi lấy việc được cấp lãnh thổ Altenburg và các vùng đất khác, Johann Friedrich đã công nhận August là Tuyển hầu xứ Sachsen, vì thế, đây được xem là dấu mốc hợp pháp hoá ngôi tuyển đế hầu của dòng Albertine.
Tuy nhiên, August liên tục bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi rằng dòng Ernestines sẽ cố gắng tước đoạt phẩm giá này của ông, và chính sách nội trị và ngoại giao của August ở cả Sachsen và rộng hơn là Đế chế La Mã Thần thánh đều bị nhuốm màu bởi nỗi sợ hãi này. Trong chính trị đế quốc, August hành động dựa trên hai nguyên tắc chính: (1) vun đắp tình hữu nghị với các nhà cai trị Habsburg và (2) duy trì hòa bình giữa các phe phái tôn giáo. Chính sách này có thể bắt nguồn từ sự góp phần của ông trong việc đưa ra Hòa ước Tôn giáo Augsburg năm 1555, hành vi quanh co của ông trong Đại hội Đế chế ở Augsburg 11 năm sau, và việc ông miễn cưỡng đoạn tuyệt hoàn toàn với những người theo chủ nghĩa Calvin. Chính sách hòa bình tôn giáo của ông cũng được thúc đẩy bởi cuộc hôn nhân mà ông đã đàm phán giữa cháu gái Công nữ Anna và Willem Trầm lặng Thân vương xứ Oranje theo Công giáo lúc bấy giờ, vào thời điểm đó là một trong những chư hầu chính của Nhà Habsburg ở Hà Lan, vào năm 1561.
Chỉ trong một lần duy nhất August đã dao động lòng trung thành với Nhà Habsburg, đó là năm 1568, một cuộc hôn nhân được sắp xếp giữa Johann Casimir, con trai của Friedrich III, Tuyển hầu xứ Pfalz, và Công nữ Elisabeth, con gái riêng của August. Trong một thời gian, có vẻ như ông sẽ hỗ trợ con rể của mình trong nỗ lực hỗ trợ những cư dân đang nổi dậy ở Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. August cũng bắt đầu liên lạc với người Huguenot; tuy nhiên, ác cảm của ông với những rắc rối của nước ngoài chiếm ưu thế, và tình bạn chớm nở với Tuyển hầu xứ Pfalz nhanh chóng nhường chỗ cho sự chán ghét nghiêm trọng. Mặc dù là một người theo đạo Tin Lành vững vàng, nhưng August đã hy vọng có lúc đoàn kết được những người theo đạo Tin Lành. Ông liên tục kêu gọi họ xem xét sự cần thiết của việc không gây xúc phạm cho đối thủ của mình, và ông ủng hộ phong trào loại bỏ điều khoản trong Hòa ước Augsburg liên quan đến bảo lưu giáo hội, điều này gây khó chịu cho nhiều người theo đạo Tin Lành. Tuy nhiên, sự tiết chế của ông đã ngăn cản ông tham gia cùng những người đã chuẩn bị thực hiện các biện pháp mạnh mẽ để đạt được mục đích này, và ông từ chối gây nguy hiểm cho những nhượng bộ đã giành được.
Chính sách tôn giáo
Sự thù địch giữa dòng Albertine và dòng Ernestine đã khiến August gặp rắc rối nghiêm trọng. Một nhà truyền giáo tên là Matthias Flacius giữ một vị trí có ảnh hưởng ở công tước Sachsen, và rao dạy một hình thức Chủ nghĩa Lutheran khác với hình thức được dạy ở Tuyển hầu xứ Sachsen. Sự vi phạm này càng mở rộng khi Flacius bắt đầu thực hiện các cuộc tấn công cá nhân vào August, để tiên tri về sự sụp đổ nhanh chóng của ông và kích động con trai của Cựu tuyển đế hầu là Johann Friedrich II, Công tước xứ Sachsen nỗ lực khôi phục lại vị trí chính đáng của mình. Liên kết với Flacius là một hiệp sĩ, Wilhelm von Grumbach, người không chỉ dừng lại với những phát ngôn, ông ấy đã xâm nhập vào Tuyển hầu xứ Sacshen và tìm kiếm sự trợ giúp của các thế lực nước ngoài trong kế hoạch phế truất August. Sau một thời gian trì hoãn, Grumbach và người bảo vệ của ông, Johann Friedrich II, bị đặt dưới lệnh cấm của hoàng gia, và August được giao nhiệm vụ hành quyết. Chiến dịch của ông năm 1567 diễn ra ngắn gọn và thành công. Johann Friedrich đầu hàng và trải qua thời gian ở tù cho đến khi qua đời vào năm 1595; Grumbach bị bắt và xử tử; và vị trí tuyển đế hầu được đảm bảo khá an toàn. Hình thức của chủ nghĩa Luther được giảng dạy tại Tuyển hầu xứ Sachsen là của Philip Melanchthon, và nhiều linh mục cũng như tín đồ của nó, chẳng hạn như Caspar Peucer và Johann Stössel, sau này được gọi là những người theo Chủ nghĩa Crypto-Calvin, được tuyển đế hầu ưa chuộng. Những người theo chủ nghĩa Crypto-Calvin tự tin rằng họ sẽ có thể đưa August đến vị trí Calvin hóa của họ bằng cách thuyết phục August rằng trên thực tế họ chỉ là những người Luther trung thành, trong khi thực tế họ đang làm việc để giới thiệu những quan điểm của người theo chủ nghĩa Calvin về Bữa Tiệc Thánh của Chúa và học thuyết về tiền định tại Đại học Wittenberg.
August lúc đầu đã bị lừa. Được vợ ông thúc đẩy, vấn đề lên đến đỉnh điểm vào năm 1574, khi những bức thư được phát hiện, trong khi tiết lộ hy vọng đưa August theo chủ nghĩa Calvin, lại gây ra một số lời chê bai đối với tuyển đế hầu và vợ ông. August ra lệnh bắt giữ các thủ lĩnh của Crypto-Calvinist, tra tấn và bỏ tù họ. Ông đã khôi phục chủ nghĩa Luther đích thực cho Sachsen và bắt đầu nỗ lực tìm cách mang lại sự thống nhất giữa những người theo đạo Tin Lành bằng cách bắt đầu một quá trình dẫn đến việc xuất bản Sách Hòa hợp (Book of Concord) của Luther vào năm 1580. August đích thân tài trợ cho việc xuất bản Sách Hòa hợp, một cuốn sách chứa đựng nhiều Lời tuyên xưng đức tin của người Luther, được ký bởi hơn 8.100 mục sư và giáo sư và gần 30 vùng lãnh thổ, nhà nước và thành phố ở Đức. Hình thức nghiêm ngặt này của chủ nghĩa Luther được tuyên bố ràng buộc đối với tất cả cư dân của Sachsen, và nhiều người đã bị trục xuất khỏi đất nước. Tuy nhiên, sự thay đổi ở Sachsen không tạo ra sự khác biệt nào đối với thái độ của August đối với các vấn đề đế quốc. Năm 1576, ông phản đối đề xuất của các Thân vương theo đạo Tin Lành về việc tài trợ cho cuộc chiến chống lại Đế quốc Ottoman với điều kiện bãi bỏ điều khoản liên quan đến sự bảo lưu của giáo hội, và ông tiếp tục ủng hộ Nhà Habsburg.
Mở rộng lãnh thổ
Phần lớn thời gian cai trị của August được dành cho việc mở rộng lãnh thổ của mình. Năm 1573, ông trở thành người giám hộ cho hai con trai của Johann Wilhelm, công tước xứ Sachsen-Weimar, và với tư cách này ông có thể bổ sung một phần Bá quốc Henneberg vào Tuyển hầu xứ Sachsen. Khả năng kiểm soát tài chính của ông cho phép ông lợi dụng sự nghèo khó của những người hàng xóm, và bằng cách này ông đã bảo đảm được Vogtland và Bá quốc Mansfeld nằm dưới quyền kiểm soát của mình. Năm 1555, ông bổ nhiệm một trong những người được đề cử vào vị trí Giám mục vương quyền xứ Meissen, năm 1561 ông bảo đảm việc bầu con trai mình là Alexander làm Giám mục vương quyền xứ Merseburg, và ba năm sau làm Giám mục vương quyền xứ Naumburg; và khi Giám mục vương quyền này qua đời vào năm 1565, các giáo phận này nằm dưới sự cai trị trực tiếp của August.
Cuộc hôn nhân thứ hai và cái chết
Vào ngày 1 tháng 10 năm 1585, Tuyển hầu phu nhân Anna qua đời. Ba tháng sau, vào ngày 3 tháng 1 năm 1586, tại thành phố Dessau, August kết hôn lần thứ hai với Thân vương nữ Agnes Hedwig, con gái của Joachim Ernst, Thân vương xứ Anhalt. Cô dâu mới 13 tuổi; chú rể gần 60 tuổi. Trong đêm tân hôn, bà đã yêu cầu tuyển đế hầu August trả tự do cho Caspar Peucer. August qua đời một tháng sau cuộc hôn nhân mới và được chôn cất tại Nhà thờ Freiberg. Con trai duy nhất còn sống của August là Tuyển hầu thế tử Christian đã lên kế vị ông.
Viết và sưu tầm
August đã viết một tác phẩm nhỏ về nông nghiệp có tựa đề Künstlich Obstund Gartenbüchlein. Ông nổi tiếng với nhiều bộ sưu tập khác nhau, bao gồm bộ sưu tập vũ khí Bắc Âu, các bức tranh và một bộ sưu tập công cụ phong phú. Năm 1560, ông thành lập Dresden Kunstkammer, tiền thân của Staatliche Kunstsammlungen Dresden ngày nay. Một trong những tài sản của ông, một chiếc máy cơ khí phức tạp tự động và đồng hồ có tên là Mechanical Galleon hiện đang ở Bảo tàng Anh. Món đồ trang trí bàn này phát được nhạc, cho biết thời gian và hiển thị hình ảnh August cùng sáu tuyển đế hầu khác đang diễu hành trước Hoàng đế La Mã Thần thánh.
Tổ tiên
Tham khảo
Nguồn
This cites:
C. W. Böttiger and T. Flathe, Geschichte Sachsens, Band ii. (Gotha, 1870)
M. Ritter, Deutsche Geschichte im Zeitalter der Gegenreformation, Band i. (Stuttgart, 1890)
R. Calinich, Kampf und Untergang des Melanchthonismus in Kursachsen (Leipzig, 1866)
J. Falke, Geschichte des Kurfürsten August in volkswirtschaftlicher Beziehung (Leipzig, 1868)
J. Janssen, Geschichte des Deutschen Volkes seit dem Ausgang des Mittelalters (Freiburg, 1885–1894)
W. Wenck, Kurfürst Moritz und Herzog August (Leipzig, 1874)
Liên kết ngoài
Biography from the Institut für Sächsische Geschichte und Volkskunde e.V.
The Wire-drawing Bench of Elector Augustus of Saxony: Machine-tool and Work of Art
The Decoration on the Wire-drawing Bench of Elector Augustus of Saxony
MA Dissertation about the Wire-drawing Bench of Elector Augustus of Saxony
Tuyển hầu xứ Sachsen
Công tử Sachsen
Vương tộc Wettin
Sinh năm 1526
Mất năm 1586
Thợ săn Đức
Dòng Albertine
Quân vương Tin Lành
|
19853924
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202010
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2010
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 được tổ chức tại Trung tâm thể thao dưới nước Phật Sơn, Phật Sơn, Trung Quốc từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 11 năm 2010. Chỉ có các nội dung thi đấu dành cho nữ được tổ chức trong giải đấu. Trung Quốc thống trị giải đấu khi giành cả ba huy chương vàng trước Nhật Bản với ba huy chương bạc.
Lịch thi đấu
Quốc gia tham dự
Tổng cộng 69 vận động viên từ 9 quốc gia tranh tài ở bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2010:
Danh sách huy chương
Bảng tổng sắp huy chương
Liên kết ngoài
Hội đồng Olympic châu Á
Tham khảo
Kết quả
2010
Môn thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 2010
Đại hội Thể thao châu Á
|
19853929
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abantiades%20labyrinthicus
|
Abantiades labyrinthicus
|
Abantiades labyrinthicus là một bướm đêm thuộc họ Hepialidae. Đây là loài đặc hữu của Úc, được tìm thấy ở Lãnh thổ Thủ đô Úc, New South Wales, Queensland, Tasmania và Victoria.
Sải cánh của loài này dài khoảng 100 mm đối với con đực và khoảng 160 mm đối với con cái. Cánh trước có màu nâu với hai vệt sáng bạc.
Ấu trùng của loài này sống dưới lòng đất và ăn rễ của nhiều loại cây khác nhau, có thể bao gồm các loài thuộc chi Eucalyptus.
Tham khảo
Bướm đêm được mô tả năm 1805
Abantiades
Bướm đêm Úc
|
19853932
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202010%20%E2%80%93%20%C4%90%C3%B4i%20N%E1%BB%AF
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 – Đôi Nữ
|
Nội dung biểu diễn đôi nữ bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 tại Quảng Châu, Trung Quốc, đã diễn ra tại Trung tâm thể thao dưới nước Phật Sơn vào ngày 19 tháng 11.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00)
Kết quả
Chú thích
FR — Dự bị trong nội dung free
RR — Dự bị trong nội dung technical và free
TR — Dự bị trong nội dung technical
Liên kết ngoài
Synchronized swimming Official Report
Tham khảo
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2010
|
19853933
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aenetus%20ligniveren
|
Aenetus ligniveren
|
Aenetus ligniveren là một loài bướm đêm thuộc họ Hepialidae. Loài này có ở miền nam Queensland tới Tasmania.
Sải cánh của loài này dài 50 mm đối với con đực và 70 mm đối với con cái. Con đực trưởng thành có cánh trước màu xanh lá cây với nhiều sọc trắng, chéo. Cánh sau có màu xám nhạt sáng bóng. Con cái có cánh màu nâu với các mảng màu xanh lá cây trên cánh trước.
Thức ăn của ấu trung là các loài thuộc các chi Acacia, Acmena, Callistemon, Dodonaea, Eucalyptus, Lantana, Leptospermum, Lophostemon, Malus, Melaleuca, Olearia, Pomaderris, Prostanthera và Rubus.
Tham khảo
Xem thêm
Aenetus eximia
Bướm đêm được mô tả năm 1805
Aenetus
|
19853935
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Desert%20Inn
|
Desert Inn
|
Desert Inn, hay còn gọi là D.I., là một khách sạn và sòng bạc nổi tiếng trên Dải Las Vegas ở Paradise, Nevada, hoạt động từ ngày 24 tháng 4 năm 1950 đến ngày 28 tháng 8 năm 2000. Desert Inn được ghi nhận là khu nghỉ dưỡng thứ năm xuất hiện trên dải Las Vegas.
Desert Inn mở cửa với 300 phòng nghỉ sang trọng và nhà hàng "Sky Room". Nơi đây từng sở hữu vị trí ngắm cảnh cao nhất trên dải Las Vegas Strip, cùng sòng bài rộng 223 mét vuông, một trong những sòng bài lớn nhất Nevada thời bấy giờ.
Lịch sử
Tên ban đầu của khách sạn là Wilbur Clark's Desert Inn. Khách sạn Desert Inn chính thức khai trương vào ngày 24 tháng 4 năm 1950. Lễ khai trương kéo dài hai ngày và được quảng bá rầm rộ trên toàn quốc, thu hút sự chú ý của giới truyền thông và công chúng. Khách sạn Desert Inn đã mời các nhà báo từ tất cả các tờ báo và tạp chí lớn, thậm chí chi trả 5.700 USD để đài thọ vé máy bay cho họ, thể hiện sự đầu tư và mong muốn tạo tiếng vang lớn cho sự kiện này.
Desert Inn được ví như biểu tượng cho sự xa hoa và tráng lệ của Las Vegas trong những năm đầu thập niên 50. Nơi đây đã từng tiếp đón những vị khách như Công tước và Nữ công tước xứ Windsor, Winston Churchill, Adlai Stevenson, Thượng nghị sĩ John F. Kennedy, và cựu Tổng thống Harry S Truman.
Giữa thập niên 1940 và đầu thập niên 1950, thành phố Las Vegas và Phòng Thương mại địa phương đã thực hiện chiến dịch quảng bá độc đáo để thu hút du khách: biến Las Vegas thành "Thành phố Nguyên tử". Desert Inn tổ chức những "tiệc bom" nổi tiếng tại Sky Room. Du khách có thể vừa thưởng thức "Cocktail Nguyên tử", vừa chiêm ngưỡng các vụ thử nghiệm hạt nhân từ khoảng cách an toàn.
Năm 1993, Kerkorian bán khu nghỉ dưỡng với giá 160 triệu USD cho tập đoàn ITT Sheraton. Sau khi đổi chủ, khu nghỉ dưỡng được đổi tên thành Sheraton Desert Inn. Vào tháng 5 năm 1994, ITT Sheraton công bố kế hoạch xây dựng một khu nghỉ dưỡng trị giá 750 triệu USD mang tên "Vương quốc sa mạc Sheraton". Khu nghỉ dưỡng này sẽ có quy mô lớn với 3.500 phòng và được xây dựng liền kề với sòng bài Sheraton Desert Inn hiện có. Khi ITT Sheraton mua lại Caesars World vào tháng 12 năm 1994, kế hoạch xây dựng khu nghỉ mát mới đã bị đình chỉ. Năm 1997, ITT Sheraton bỏ ra 200 triệu đô la để tân trang tháp Augusta và tháp St. Andrews, đồng thời xây dựng thêm tháp Palms. Khu nghỉ mát được đặt lại tên cũ - The Desert Inn, không còn sử dụng tên Sheraton, và được đưa vào chuổi Khách sạn Sang trọng (Luxury Collection) của ITT Sheraton. Không lâu sau đó, ITT Sheraton được bán cho Starwood vào năm sau.
Do thua lỗ, Starwood đã nhanh chóng rao bán The Desert Inn. Vào ngày 19 tháng 5 năm 1999, họ ký hợp đồng bán khu nghỉ dưỡng cho Sun International Hotels Ltd. với giá 275 triệu USD. Tuy nhiên, thương vụ này đổ bể vào tháng 3 năm sau. Cũng trong năm 1999, Sheffield Enterprises Inc., đơn vị quản lý tài sản của Sinatra và Rat Pack, đã khởi kiện Desert Inn vì vi phạm quyền sử dụng tên và hình ảnh của Sinatra trong quảng cáo và bán hàng. Họ cho rằng Desert Inn đã vi phạm quyền lợi khi sử dụng những cụm từ như "Frank", "Ol' Blue Eyes", "Chủ tịch Hội đồng quản trị" và "The Rat Pack" mà không có sự cho phép.
Năm 2000 đánh dấu 50 năm thành lập Desert Inn. Khu nghỉ dưỡng đã tổ chức một lễ kỷ niệm kéo dài một tuần. Ngày 27 tháng 4, Steve Wynn đã mua lại Desert Inn từ Starwood với giá 270 triệu USD. Ông đóng cửa khu nghỉ dưỡng vào lúc 2 giờ sáng ngày 28 tháng 8 năm 2000.
Vào ngày 23 tháng 10 năm 2001, Tháp Augusta, tòa nhà nằm ở cực nam của Desert Inn, đã bị phá hủy, để nhường chỗ cho một khu nghỉ dưỡng lớn mà Steve Wynn dự định xây dựng. Dự án mới ban đầu được đặt tên là Le Rêve, nhưng sau đó được đổi tên thành Wynn Las Vegas khi chính thức khai trương.
Phim và truyền hình
Phim "11 tên cướp thế kỷ" (tựa gốc: Ocean's 11) có một số cảnh quay tại khách sạn Desert Inn. Nơi đây là một trong năm khách sạn ở Las Vegas mà nhóm nhân vật do Frank Sinatra, Dean Martin và các diễn viên khác thực hiện vụ cướp vào đêm Giao thừa trong phim. Trong số các chủ đề được đề cập đến trong bộ phim F for Fake của Orson Welles, có vụ bê bối tiểu sử giả mạo về Howard Hughes; đồng thời, nơi ở của vị tỷ phú tại Desert Inn cũng được Welles khắc họa rõ nét. Trong bộ phim hài "Lost in America" (1985), nhân vật Linda Howard do Julie Hagerty thủ vai đã đánh mất toàn bộ "tổ ấm" của hai vợ chồng tại sòng bạc Desert Inn. Khách sạn Desert Inn đã đi vào lịch sử điện ảnh với phân cảnh mở đầu của bộ phim "Sister Act 2: Back in the Habit" (1993), quay tại Grand Ballroom. Những thước phim cuối cùng ghi lại hoạt động thương mại của Desert Inn xuất hiện trong "Rush Hour 2" (2001), ngay trước khi công trình bị phá hủy. Trong bộ phim này, khách sạn được cải tạo thành "Red Dragon" - một sòng bạc mang phong cách châu Á.
Khách sạn Desert Inn thường xuyên xuất hiện trên màn ảnh nhỏ, trở thành bối cảnh chính cho loạt phim truyền hình "Vega$" chiếu trên kênh ABC từ năm 1978 đến 1981. Không chỉ vậy, khán giả thập niên 80 còn bắt gặp hình ảnh của khách sạn, bao gồm cả Căn hộ Tổng thống sang trọng, trong bộ phim đình đám "Dynasty" của nhà sản xuất Aaron Spelling. Còn trong series truyền hình "Remington Steele" của đài NBC, tập 60 lấy bối cảnh Las Vegas đã quay nhiều cảnh của Desert Inn.
Chú thích
Las Vegas Strip
Khách sạn sòng bạc
Dải Las Vegas
|
19853936
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cryptophasa%20albacosta
|
Cryptophasa albacosta
|
Cryptophasa albacosta, the small fruit tree borer, là một loài bướm đêm thuộc họ Xyloryctidae. Loài này được mô tả bởi John Lewin vào năm 1805, và được phát hiện ở Úc, tại các bang New South Wales, Queensland, South Australia, Tasmania và Victoria.
Ấu trùng ăn Banksia serrata, Macadamia integrifolia, Ceratopetalum gummiferum, Callicoma serratifolia, cũng như các loài Tamarix, dương, mơ và mận.
Tham khảo
Cryptophasa
Bướm đêm được mô tả năm 1805
|
19853937
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cryptoptila%20australana
|
Cryptoptila australana
|
Cryptoptila australana là một loài bướm đêm thuộc họ Tortricidae. Loài này có ở Úc, được tìm thấy tại các bang Queensland, New South Wales, Lãnh thổ Thủ đô Úc và Victoria.
Sải cánh của loài này dài khoảng 30 mm. Con trưởng thành có cánh màu xám với những vệt màu nâu gỉ.
Ấu trùng ăn Polyscias sambucifolia. Chúng có màu xanh nâu sẫm với những đốm cam và lông trắng. Chúng đạt chiều dài khoảng 30 mm. Sự thành nhộng diễn ra trong ổ ấu trùng.
Tham khảo
Bướm đêm được mô tả năm 1805
Cryptoptila
Archipini
|
19853939
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Endoxyla%20nebulosa
|
Endoxyla nebulosa
|
Endoxyla nebulosa là một loài bướm đêm thuộc họ Cossidae. Loài này được tìm thấy tại bang New South Wales, Úc.
Tham khảo
Endoxyla
Bướm đêm được mô tả năm 1805
|
19853942
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Manulea%20replana
|
Manulea replana
|
Manulea replana, là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae. Loài này được tìm thấy ở Úc (gồm các bang New South Wales, Queensland và Tasmania).
Sải cánh của loài này dài khoảng 30 mm. Con trưởng thành có màu nâu với một đường màu vàng dọc theo mép cánh trước và cánh sau có màu vàng với viền đen.
Tham khảo
Bướm đêm được mô tả năm 1805
Manulea (chi bướm)
|
19853943
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202010%20%E2%80%93%20%C4%90%E1%BB%93ng%20%C4%91%E1%BB%99i%20N%E1%BB%AF
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 – Đồng đội Nữ
|
Nội dung biểu diễn đồng đội nữ bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 tại Quảng Châu, Trung Quốc, đã diễn ra tại Trung tâm thể thao dưới nước Phật Sơn vào ngày 20 tháng 11.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00)
Kết quả
Chú thích
FR — Dự bị trong nội dung free
RR — Dự bị trong nội dung technical và free
TR — Dự bị trong nội dung technical
Liên kết ngoài
Synchronized swimming Official Report
Tham khảo
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2010
|
19853944
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pexicopia%20malvella
|
Pexicopia malvella
|
Pexicopia malvella là một loài bướm đêm thuộc họ Gelechiidae. Loài này được mô tả bởi Jacob Hübner vào năm 1805. Loài này được tìm thấy ở hầu khắpchâu Âu.
Sải cánh của loài này dài từ 17–20 mm.
Ấu trùng ăn phần bên trong hạt của các loài thuộc chi Malva, Althaea officinalis và Alcea rosea. Loài này sống qua mùa đông trong kén được xây bên trong hạt.
Tham khảo
Bướm đêm được mô tả năm 1805
Pexicopia
|
19853946
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ao%20no%20Hako
|
Ao no Hako
|
hay Blue Box là manga hài lãng mạn và thể thao được viết kịch bản và minh họa bởi Miura Koji. Bộ truyện được đăng dài kỳ trên tạp chí shōnen Weekly Shōnen Jump của Shueisha từ tháng 4 năm 2021. Đến tháng 3 năm 2024, các chương của bộ truyện đã được tổng hợp thành 14 tập tankōbon. Bộ truyện được chuyển thể thành series anime truyền hình do Telecom Animation Film và TMS Entertainment phối hợp sản xuất.
Tóm tắt
Bộ truyện tập trung vào Inomata Taiki, một học sinh tại trường cấp 2 và cấp 3 Eimei. Cậu là thành viên của đội tuyển cầu lông nam. Mỗi buổi sáng, cậu tập luyện cùng với nữ sinh lớp trên và là người mà cậu thầm thích Kano Chinatsu của đội tuyển bóng rổ nữ. Đột nhiên, Chinatsu chuyển đến sống cùng với gia đình của Taiki khi bố mẹ cô rời Nhật Bản để đi công tác ở nước ngoài. Với việc sống chung với Chinatsu, Taiki đặt mục tiêu từ từ tiến tới lấy lòng cô bé trong khi cả hai đều hướng đến việc được tham dự giải vô địch toàn quốc.
Nhân vật
Phương tiện truyền thông
Truyện
Được viết kịch bản và minh họa bởi Miura Koji, Ao no Hako được đăng dài kỳ trên tạp chí shōnen Weekly Shōnen Jump của Shueisha từ ngày tháng 4 năm 2021. Các chương của bộ truyện được tổng hợp thành các tập tankōbon riêng lẻ. Tập đầu tiên của truyện được phát hành vào ngày 4 tháng 8 năm 2021. Tính đến ngày 4 tháng 3 năm 2024, 14 tập đã được phát hành.
Vào ngày 3 tháng 8 năm 2020, phiên bản one-shot của Ao no Hako được xuất bản trên Weekly Shōnen Jump.
Blue Box đã được mua bản quyền xuất bản ở Bắc Mỹ song song với thời điểm phát hành tại Nhật Bản. Các chương của bộ truyện được Viz Media phát hành dưới dạng kỹ thuật số trên trang web Shonen Jump. Shueisha cũng phát hành bộ truyện phiên bản chuyển ngữ tiếng Anh miễn phí trên ứng dụng và trang web Manga Plus. Vào tháng 2 năm 2022, Viz Media thông báo rằng họ đã cấp phép xuất bản bộ truyện dưới dạng in, phát hành tập truyện đầu tiên vào ngày 1 tháng 11 cùng năm. Manga cũng được mua bản quyền ở Indonesia bởi Elex Media Komputindo.
Tập truyện
Danh sách các chương truyện chưa đóng thành tập tankōbon
Các chương truyện dưới đây chưa được xuất bản thành tập tankōbon.
Anime
Series anime truyền hình chuyển thể của bộ truyện được công bố trong số thứ 51 của Weekly Shōnen Jump năm 2023 vào ngày 20 tháng 11. Series được TMS Entertainment lên kế hoạch và sản xuất và hoạt họa bởi Telecom Animation Film.
Đón nhận
Phổ biến
Vào tháng 8 năm 2021, tập đầu tiên của bộ truyện có doanh số 170.000 trong vòng chưa đầy một tuần sau khi phát hành.
Vào tháng 6 năm 2021, Ao no Hako được đề cử cho giải thưởng Tsugi ni kuru Manga Taishō lần thứ 7 ở hạng mục Manga in hay nhất. Dù chỉ đứng thứ 8 trong số 50 đề cử, nhưng bộ truyện đã giành được Giải thưởng Toàn cầu. Bộ truyện xếp thứ 4 trong "Danh sách Truyện tranh được nhân viên nhà sách trên toàn quốc đề xuất" năm 2022.
Đánh giá chuyên môn
Anthony Gramuglia của Comic Book Resources (CBR) nhận xét rằng "Ao no Hako là một câu chuyện tình yêu về sự kết nối giữa người với người. Bộ truyện được vẽ rất đẹp, đôi khi có cảm giác thuộc thể loại shoujo manga hơn là thể loại shōnen điển hình. Nếu Ao no Hako vẫn tiếp diễn, truyện có thể sẽ trở nên nghiêm túc hơn và xuất hiện trong mục lãng mạn của Shōnen Jump. Timothy Donohoo của CBR đã so sánh Blue Box với Witch Watch của Shinohara Kenta và Sekimen Shinaide Sekime-san! của Tokita Shigure do cả hai bộ truyện trên đều có bối cảnh và khía cạnh lãng mạn tương tự như Blue Box.
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết thêm
Manga Viz Media
Anime truyền hình dài tập sắp phát sóng
TMS Entertainment
Manga Shūeisha
Shōnen manga
Anime và manga chủ đề học đường
Anime và manga hài lãng mạn
Anime dài tập dựa trên manga
Nguồn CS1 tiếng Nhật (ja)
Nguồn CS1 có chữ Nhật (ja)
Bài viết có văn bản tiếng Nhật
Manga năm 2021
|
19853949
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BB%B1%20b%C3%A1o%20th%E1%BB%8B%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20ch%E1%BB%A9ng%20kho%C3%A1n
|
Dự báo thị trường chứng khoán
|
Dự báo thị trường chứng khoán hay Dự đoán thị trường chứng khoán (Stock market prediction) là hành động cố gắng xác định giá trị tương lai của một công ty cổ phiếu hoặc công cụ tài chính khác được giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán. Việc nhận định, dự đoán thành công giá trị tương lai của một cổ phiếu (giá cổ phiếu) có thể mang lại lợi nhuận đáng kể cho nhà đầu tư. Giả thuyết thị trường hiệu quả gợi ý rằng giá cổ phiếu phản ánh tất cả thông tin hiện hữu và bất kỳ thay đổi giá nào không dựa trên thông tin mới được tiết lộ, do đó vốn không thể đoán định trước được. Những ý kiến khác không đồng ý và những người có quan điểm này sở hữu vô số phương pháp và công nghệ được cho là cho phép họ thu được thông tin về giá trong tương lai. Các nhà phân tích cơ bản quan tâm đến công ty làm cơ sở nền tảng cho cổ phiếu đó (chứng khoán cơ sở). Họ đánh giá hiệu quả hoạt động trong quá khứ của công ty cũng như độ tin cậy của mã chứng khoán (tài chính, kế toán) của công ty đó. Nhiều tỷ lệ hiệu suất được tạo ra để hỗ trợ nhà phân tích cơ bản đánh giá tính hợp lệ của một cổ phiếu, chẳng hạn như Tỷ số P/E. Warren Buffett có lẽ là nhà phân tích cơ bản nổi tiếng nhất. Ông sử dụng tỷ lệ vốn hóa thị trường-tương quan-GDP tổng thể để biểu thị giá trị tương đối của thị trường chứng khoán nói chung, do đó tỷ lệ này được gọi là "Chỉ số Buffett" (Buffett indicator).
Phương pháp
Phân tích cơ bản
Phân tích cơ bản (Fundamental analysis) trên thị trường chứng khoán với mục tiêu cố gắng đạt được là tìm ra giá trị thực của một cổ phiếu, sau đó có thể so sánh với giá trị mà nó đang được giao dịch trên thị trường chứng khoán và từ đó tìm hiểu xem cổ phiếu trên thị trường có bị định giá thấp hay không. Việc tìm ra giá trị thực có thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau với nguyên tắc cơ bản giống nhau. Nguyên tắc là một công ty có giá trị bằng tất cả lợi nhuận trong tương lai của nó cộng lại. Những khoản lợi nhuận trong tương lai này cũng phải được chiết khấu về giá trị hiện tại của chúng. Nguyên tắc này phù hợp với lý thuyết cho rằng kinh doanh chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có gì khác. Ngược lại với phân tích kỹ thuật, phân tích cơ bản được coi là một chiến lược dài hạn hơn. Phân tích cơ bản được xây dựng dựa trên niềm tin rằng xã hội loài người cần vốn để đạt được tiến bộ và nếu một công ty hoạt động tốt, công ty đó sẽ được thưởng thêm vốn và dẫn đến giá cổ phiếu tăng vọt. Phân tích cơ bản được các nhà quản lý quỹ sử dụng rộng rãi vì nó hợp lý, khách quan nhất và được thực hiện từ những thông tin có sẵn công khai như phân tích báo cáo tài chính. Một ý nghĩa khác của phân tích cơ bản là phân tích công ty từ dưới lên, nó đề cập đến phân tích từ trên xuống từ phân tích đầu tiên về nền kinh tế toàn cầu, tiếp theo là phân tích quốc gia, sau đó là phân tích ngành và cuối cùng là phân tích cấp độ công ty.
Phân tích kỹ thuật
Phân tích kỹ thuật (Technical analysis) là một phương pháp phân tích để phân tích và dự báo hướng của giá thông qua nghiên cứu dữ liệu thị trường trong quá khứ (lịch sử giao dịch), chủ yếu là biến động giá và khối lượng giao dịch. Hiệu quả của phân tích kỹ thuật bị tranh cãi bởi giả thuyết thị trường hiệu quả, trong đó giả thiết rằng giá thị trường chứng khoán về cơ bản là không thể đoán trước được, và nghiên cứu xem liệu phân tích kỹ thuật có mang lại lợi ích gì hay không đã tạo ra nhiều kết quả khác nhau. Các nhà phân tích kỹ thuật hoặc tác giả vẽ biểu đồ thường ít quan tâm đến bất kỳ nguyên tắc cơ bản nào của công ty. Họ tìm cách xác định khả năng biến động giá cổ phiếu trong tương lai chủ yếu dựa trên xu hướng của giá trong quá khứ (một dạng phân tích chuỗi thời gian). Các kỹ thuật được sử dụng như trung bình di chuyển theo cấp số nhân (EMA), bộ dao động, mức hỗ trợ và kháng cự hoặc các chỉ báo động lượng và khối lượng. Phân tích kỹ thuật được sử dụng nhiều hơn cho các chiến lược ngắn hạn hơn là các chiến lược dài hạn. Và do đó, nó phổ biến hơn nhiều trên thị trường hàng hóa và ngoại hối, nơi các nhà giao dịch tập trung vào biến động giá ngắn hạn. Có một số giả định cơ bản được sử dụng trong phân tích này, đầu tiên là mọi thứ quan trọng về một công ty đều đã được định giá vào cổ phiếu, mặt khác là giá di chuyển theo xu hướng và cuối cùng là lịch sử (về giá) có xu hướng lặp lại, chủ yếu là do tâm lý thị trường.
Chú thích
Tham khảo
Graham, B. The Intelligent Investor HarperCollins; Rev Ed edition, 2003.
Lo, A.W. and Mackinlay, A.C. A Non-Random Walk Down Wall Street 5th Ed. Princeton University Press, 2002.
Azoff, E.M. Neural Network Time Series Forecasting of Financial Markets John Wiley and Sons Ltd, 1994.
Christoffersen, P.F. and F.X. Diebold. Financial asset returns, direction-of-change forecasting, and volatility dynamics. Management Science, 2006. 52(8): p. 1273-1287
Thị trường chứng khoán
|
19853951
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%A3p%20%C4%91%E1%BB%93ng%20k%E1%BB%B3%20h%E1%BA%A1n
|
Hợp đồng kỳ hạn
|
Hợp đồng kỳ hạn (Forward contract) là một hợp đồng không chuẩn hóa (Non-standardized) giữa hai bên để mua hoặc bán một tài sản tại một thời điểm xác định trong tương lai với mức giá được thỏa thuận tại thời điểm ký kết hợp đồng. Hợp đồng kỳ hạn được phân nhóm là một loại công cụ phái sinh. Luật Chứng khoán Việt Nam năm 2019 đã giải thích thuật ngữ về hợp đồng kỳ hạn: "Hợp đồng kỳ hạn là loại chứng khoán phái sinh giao dịch thỏa thuận, xác nhận cam kết giữa các bên về việc mua hoặc bán số lượng tài sản cơ sở nhất định theo mức giá đã được xác định vào ngày đã xác định trong tương lai".
Đặc điểm
Đây là một thỏa thuận trong đó một người mua và người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá xác định trước. Đặc điểm của hợp đồng kỳ hạn bao gồm:
Giá cả và khối lượng giao dịch được xác định trước, nhưng thực hiện hợp đồng vào một thời điểm trong tương lai
Chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự thỏa thuận với nhau dựa trên những ước tính mang tính cá nhân
Khi có sự thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên không thực hiện hợp đồng.
Bên đồng ý mua tài sản cơ bản trong tương lai giả định vị thế mua và bên đồng ý bán tài sản trong tương lai giả định vị thế bán. Giá thỏa thuận được gọi là giá giao hàng, bằng giá kỳ hạn tại thời điểm ký kết hợp đồng. Giá của công cụ cơ bản, dưới bất kỳ hình thức nào, được thanh toán trước khi quyền kiểm soát công cụ thay đổi. Đây là một trong nhiều hình thức lệnh mua/bán trong đó ngày và giờ giao dịch không giống với ngày giá trị nơi chứng khoán được trao đổi. Hợp đồng kỳ hạn, giống như các loại chứng khoán phái sinh khác, có thể được sử dụng để dự phòng rủi ro (thường là rủi ro tiền tệ hoặc tỷ giá hối đoái), như một phương tiện đầu cơ hoặc để cho phép một bên tận dụng lợi thế của chất lượng của công cụ cơ bản nhạy cảm với thời gian.
Chú thích
Tham khảo
John C. Hull (2000), Options, Futures and Other Derivatives, Prentice-Hall.
Abraham Lioui & Patrice Poncet (March 30, 2005), Dynamic Asset Allocation with Forwards and Futures, Springer
Keith Redhead (31 October 1996), Financial Derivatives: An Introduction to Futures, Forwards, Options and Swaps, Prentice-Hall
Allaz, B. and Vila, J.-L., Cournot competition, futures markets and efficiency, Journal of Economic Theory 59,297-308.
Understanding Derivatives: Markets and Infrastructure Federal Reserve Bank of Chicago, Financial Markets Group
Forward Contract Definition - Investopedia
Chứng khoán
|
19853952
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/G%C3%A2y%20qu%E1%BB%B9
|
Gây quỹ
|
Gây quỹ (Fundraising) là quá trình tìm kiếm và thu nhận các khoản đóng góp tài chính (quyên góp) tự nguyện bằng cách thu hút sự tham gia của các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức từ thiện hoặc cơ quan chính phủ. Mặc dù việc gây quỹ thường đề cập đến nỗ lực thu thập tiền cho tổ chức phi lợi nhuận (NPO), nhưng đôi khi nó được dùng để chỉ việc xác định và kêu gọi các nhà đầu tư hoặc các nguồn vốn khác từ doanh nghiệp vì lợi nhuận, các nhà tài trợ, các nhà hảo tâm, các "Mạnh Thường Quân". Theo truyền thống, việc gây quỹ chủ yếu bao gồm việc yêu cầu quyên góp thông qua gây quỹ trực tiếp, chẳng hạn như gõ cửa xin tài trợ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các hình thức mới như gây quỹ trực tuyến hoặc gây quỹ cấp cơ sở đã xuất hiện.
Đại cương
Một số nỗ lực gây quỹ đáng kể nhất ở Hoa Kỳ được thực hiện từ các trường cao đẳng và đại học. Thông thường, chương trình gây quỹ hay còn gọi là chương trình "phát triển"/"tiến bộ", tạo nên sự khác biệt giữa việc kêu gọi quỹ hàng năm và các chiến dịch lớn. Hầu hết các tổ chức đều sử dụng các cán bộ phát triển chuyên môn để tiến hành kêu gọi gây quỹ cấp cao cho toàn bộ tổ chức hoặc từng trường cao đẳng và khoa (ví dụ: Trường Nghệ thuật, Trường Toán, Trường Khoa học, cũng như các tổ chức trong khuôn viên trường như thể thao và các thư viện). Số người tham gia, thường xuyên tham gia các hoạt động "gây quỹ" như vậy sẽ rất khác nhau tùy thuộc vào quy mô của tổ chức mà họ tài trợ Mặc dù ở nhiều nơi trên thế giới, các đài truyền hình công cộng hoàn toàn được chính phủ tài trợ, nhưng có nhiều quốc gia nơi một số quỹ phải đến từ sự đóng góp của công chúng.
Các kỹ thuật tiếp thị trực tiếp đã được áp dụng trong khu vực phi lợi nhuận để phục vụ cho việc gây quỹ. Sự liên kết giữa các phương pháp tiếp thị trực tiếp với việc gây quỹ được cho là đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hiệp hội áp dụng nó vào giữa những năm 1970. Kết quả thu được thông qua việc sử dụng rộng rãi các kỹ thuật tiếp thị trực tiếp đã thu hút sự quan tâm ngày càng tăng từ các hiệp hội. Trong khi chỉ có vài chục người sử dụng các kênh tiếp thị trực tiếp lớn vào năm 1975 thì ngày nay đã có hàng trăm người sử dụng chúng phổ biến. Trong trường hợp các hiệp hội, tiếp thị trực tiếp nâng cao tính ẩn danh và sự riêng tư của các khoản quyên góp, nhưng nó cũng có thể đóng vai trò là công cụ để phát triển khả năng quảng bá tiếp thị và xây dựng hình ảnh, chẳng hạn như các tổ chức phi chính phủ ở Nigeria. Nhiều hiệp hội đã chuyển việc gây quỹ một lần của họ thành các khoản quyên góp rút tiền tự động noi theo gương "Bác sĩ không biên giới". Quá trình này tương tự như kết quả của một hình thức gây quỹ khác được giới thiệu ở Pháp vào đầu thế kỷ 21 là phương pháp "gây quỹ đường phố". Việc gây quỹ đường phố bao gồm việc tuyển dụng các nhà tài trợ mới ở những nơi công cộng, tiếp cận họ để giới thiệu hiệp hội và đề xuất hỗ trợ cho các hoạt động của hiệp hội thông qua các khoản quyên góp rút tiền tự động được đảm bảo. Không giống như việc gây quỹ truyền thống, nó không thu tiền mặt hoặc séc mà thường là sự hứa hẹn quyên góp. Việc gây quỹ đường phố nhằm mục đích thiết lập một cuộc đối thoại, tạo sự kết nối với các nhà tài trợ với sự gắn bó dài lâu.
Chú thích
Tài chính
Kinh tế học tài chính
Từ thiện
|
19853965
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%E1%BA%BFn%20Sawankhalok
|
Tuyến Sawankhalok
|
Tuyến Sawankhalok là một tuyến đường sắt nhánh tách từ Tuyến Chiang Mai chính tại nút giao Ban Dara, và kết thúc tại Sawankhalok. Có 3 nhà ga trên tuyến này: nút giao Ban Dara, Khlong Maphlap, Sawankhalok.
Lịch sử
Timeline
Dịch vụ
Ga
Xem thêm
Tuyến Chiang Mai chính
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tuyến Sawankhalok tại Rot Fai Thai Dot Com
Sawankhalok
Tỉnh Sukhothai
|
19853973
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%BAng%20tay
|
Búng tay
|
Búng tay là hành động tạo ra âm thanh bằng ngón tay. Về cơ bản, được thực hiện bằng cách tạo lực căng giữa ngón cái và ngón khác (ngón giữa, ngón trỏ hay ngón áp út), sau đó di chuyển mạnh ngón xuống dưới để chạm vào lòng bàn tay với tốc độ cao.
Một nghiên cứu của Học viện Công nghệ Georgia vào năm 2021 đã phân tích tiếng búng tay và phát hiện ra rằng một âm thanh búng tay nhất định có thể nghe được diễn ra chỉ trong bảy mili giây. Để tham khảo, hành động chớp mắt diễn ra trong 150 mili giây.
Tham khảo
Cử chỉ tay
Bài viết có chứa video clip
|
19853975
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nakaniikawa%2C%20Toyama
|
Nakaniikawa, Toyama
|
là huyện thuộc tỉnh Toyama, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của huyện là 47.275 người và mật độ dân số là 86 người/km2. Tổng diện tích của huyện là 547,5 km2.
Tham khảo
Huyện của Toyama
|
19853981
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Valorant%20Champions%20Tour%202022%3A%20Giai%20%C4%91o%E1%BA%A1n%201%20Masters
|
Valorant Champions Tour 2022: Giai đoạn 1 Masters
|
Valorant Champions Tour 2022 (VCT): Giai đoạn 1 Masters, còn được gọi là Valorant Masters Reykjavík 2022, là một giải đấu quốc tế được tổ chức bởi Riot Games cho bộ môn thể thao điện tử Valorant, và là một phần của Valorant Champions Tour mùa giải 2022. Giải đấu diễn ra từ ngày 10 đến 24 tháng 04 năm 2022 tại Reykjavík, Iceland. Thành phố trước đây cũng đã đăng cai tổ chức Masters Reykjavík 2021.
Địa điểm
Reykjavík là thành phố được chọn để đăng cai tổ chức giải đấu. Tất cả các trận đấu được thi đấu tại Laugardalshöll mà không có khán giả.
Thể thức
Giải đấu
Các đội vô địch giải đấu Challengers giai đoạn 1 của các khu vực Châu Á-Thái Bình Dương; và Bắc Mỹ đều được trực tiếp lọt vào tứ kết nhánh thắng. Khu vực nào trong hai khu vực Mỹ Latinh và Brazil giành chiến thắng trong vòng loại trực tiếp Nam Mỹ (trận đấu giữa hai đội á quân Challengers của 2 khu vực) sẽ giành quyền vào tứ kết cho đội thắng Challengers của họ. Tám đội còn lại được xếp hạt giống vào vòng bảng theo thể thức GSL và được chia thành hai bảng bốn đội.
Giải đấu này có 12 đội được chia như bên dưới:
Đội tuyển tham dự
FunPlus Phoenix ban đầu đủ điều kiện tham gia Masters Giai đoạn 1 sau khi chiến thắng Challengers Giai đoạn 1 EMEA năm 2022; tuy nhiên, do hạn chế đi lại do xung đột Nga-Ukraina gây ra, họ không thể tham dự và buộc phải rút lui khỏi giải đấu. Riot sau đó đã quyết định thay thế họ bằng Team Liquid làm đại diện thứ ba của EMEA. Với điều này, đội vẫn được thưởng 25.000$ và 200 điểm, tương đương với vị trí thứ tám - vị trí thấp nhất mà họ có thể giành được tại giải đấu.
Á quân Challengers Brazil Ninjas in Pyjamas đã thắng Á quân Challengers Mỹ Latinh Leviatán tại vòng loại trực tiếp Nam Mỹ, dẫn đến vị trí của Nam Mỹ ở vòng loại trực tiếp được trao cho đội vô địch Challengers Brazil LOUD thay cho đội vô địch Challengers Mỹ Latinh KRÜ Esports.
Bản đồ
Danh sách 7 bản đồ thi đấu:
Ascent
Bind
Breeze
Fracture
Haven
Icebox
Split
Vòng bảng
8 đội được chia thành 2 bảng, mỗi bảng 4 đội thi đấu theo thể thức loại kép GSL. Hai đội từ khu vực EMEA không được xếp vào cùng một bảng.
Các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo3.
Hai đội đứng đầu mỗi bảng lọt vào vòng loại trực tiếp.
Bảng A
Bảng B
Vòng loại trực tiếp
4 đội hạt giống và 4 đội lọt vào vòng loại trực tiếp sẽ thi đấu theo thể thức nhánh thắng nhánh thua.
Các trận đấu được thi đấu theo thể thức , ngoại trừ chung kết nhánh thua và chung kết tổng được thi đấu theo thể thức .
Các đội trong cùng một bảng tại vòng bảng sẽ không thể cùng một nhánh ở nhánh thắng, nghĩa là họ không thể đấu với nhau cho đến chung kết nhánh thắng (nếu cả hai không xuống nhánh thua).
Các đội cùng nhánh ở nhánh thắng sẽ không thể cùng một nhánh ở nhánh thua nếu cả hai đều thua, nghĩa là họ không thể đấu với nhau cho đến bán kết nhánh thua.
Thứ hạng
Nguồn:
Tham khảo
Chú thích
Giải đấu Valorant
Giải đấu Valorant 2022
Giải đấu trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất
Giải đấu trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất 2022
|
19853983
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aedoea
|
Aedoea
|
Aedoea là một chi bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae. Chi này chỉ có một loài duy nhất, Aedoea decreta, được phát hiện ở Borneo và Úc.
Than khảo
Natural History Museum Lepidoptera generic names catalog
Arctiinae
Chi bướm đêm đơn loài
Bướm đêm Indonesia
Bướm đêm Úc
|
19853985
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Agylla%20%28b%C6%B0%E1%BB%9Bm%20%C4%91%C3%AAm%29
|
Agylla (bướm đêm)
|
Agylla, tên gọi cũ là Churinga, là một chi bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae. Chi này được khởi xướng bởi Francis Walker vào năm 1854.
Loài
Agylla argentea (Walker, 1863)
Agylla argentifera (Walker, 1866)
Agylla asakurana (Matsumura, 1931)
Agylla auraria (Dognin, 1892)
Agylla barbicosta Hampson, 1900
Agylla barbipalpia Schaus, 1899
Agylla beema (Moore, [1866])
Agylla corcovada (Schaus, 1894)
Agylla dentifera Hampson, 1900
Agylla dognini Hampson, 1900
Agylla fasciculata Walker, 1854
Agylla flavitincta Dognin, 1899
Agylla foyi (Dognin, 1894)
Agylla gigas (Heylaerts, 1891)
Agylla hermanilla (Dognin, 1894)
Agylla involuta Hampson, 1900
Agylla maasseni (Dognin, 1894)
Agylla marcata (Schaus, 1894)
Agylla marginata (Druce, 1885)
Agylla metaxantha (Hampson, 1895)
Agylla nivea (Walker, 1856)
Agylla nochiza (Dognin, 1894)
Agylla nubens (Schaus, 1899)
Agylla obliquisigna Schaus, 1899
Agylla pallens (Hampson, 1894)
Agylla perpensa (Schaus, 1894)
Agylla polysemata Schaus, 1899
Agylla postfusca (Hampson, 1894)
Agylla prasena (Moore, 1859)
Agylla pulchristriata Kishida, 1984
Agylla rotunda Hampson, 1900
Agylla semirufa (Hampson, 1896)
Agylla separata (Schaus, 1894)
Agylla septentrionalis Barnes & McDunnough, 1911
Agylla sericea (Druce, 1885)
Agylla sinensis (Leech, 1899)
Agylla strigula Hampson, 1900
Agylla tobera (Dognin, 1894)
Agylla tolteca (Schaus, 1889)
Agylla tumidicosta Hampson, 1900
Agylla umbrifera (Felder, 1874)
Agylla umbrosa (Dognin, 1894)
Agylla venosa (Schaus, 1894)
Agylla virago Rothschild, 1913
Agylla vittata (Leech, 1899)
Agylla zopisa (Dognin, 1894)
Agylla zucarina (Dognin, 1894)
Tham khảo
Lithosiina
|
19853986
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Agylla%20pulchristriata
|
Agylla pulchristriata
|
Agylla pulchristriata là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae được mô tả lần đầu bởi Yasunori Kishida năm 1984. Loài này được phát hiện ở Đài Loan.
Tham khảo
Bướm đêm được mô tả năm 1984
pulchristriata
Bướm đêm Đài Loan
|
19853989
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Agylla%20asakurana
|
Agylla asakurana
|
Agylla asakurana là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae. Loài này được mô tả lần đầu bởi Matsumura Shōnen vào năm 1931. Loài này được tìm thấy ở Đài Loan.
Tham khảo
Bướm đêm được mô tả năm 1931
asakurana
Bướm đêm Đài Loan
|
19853990
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Apaidia
|
Apaidia
|
Apaidia là một chi bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae. Chi này được đề xuất bởi George Hampson vào năm 1900.
Loài
Apaidia barbarica Legrand, 1939
Apaidia mesogona (Godart, 1822)
Apaidia rufeola (Rambur, 1832)
Tham khảo
|
19853991
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Areva%20%28b%C6%B0%E1%BB%9Bm%20%C4%91%C3%AAm%29
|
Areva (bướm đêm)
|
Areva là một chi bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae.
Loài
Areva albogrisea Rothschild, 1912
Areva laticilia Walker, 1854
Areva subfulgens Schaus, 1896
Areva trigemmis Hübner, 1827
Tham khảo
Natural History Museum Lepidoptera generic names catalog
|
19853992
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Asiapistosia
|
Asiapistosia
|
Asiapistosia là một chi bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae.
Hầu hết các loài thuộc chi này từng được xếp vào chi Eilema.
Loài
Asiapistosia subnigra (Leech, 1899)
Asiapistosia stigma (C.L. Fang, 2000)
Tham khảo
Asiapistosia
|
19853993
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Asiapistosia%20stigma
|
Asiapistosia stigma
|
Asiapistosia stigma là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae được mô tả lần đầu bởi Cheng-Lai Fang năm 2000. Loài này được tìm thấy ở các tỉnh Trung Quốc, bao gồm Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Hồ Bắc và Quảng Đông.
Tham khảo
Liên kết ngoài
, 2000: Fauna Sinica. Insecta. 19. Lepidoptera. Arctiidae. Beijing: Science Press, 590 p., 20 pl. (In Chinese).
Bướm đêm được mô tả năm 2000
Asiapistosia
Bướm đêm châu Á
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.