source
stringlengths 3
14.5k
| summary keyword
stringlengths 3
90
| summary
stringlengths 265
1.86k
|
---|---|---|
Nếu bạn đã từng nhận thức được rằng bạn đang mơ trước khi tỉnh dậy từ một giấc mơ, thì bạn đã trải nghiệm giấc mơ sáng suốt. Thuật ngữ giấc mơ sáng suốt được sử dụng lần đầu tiên trong một bài báo được viết bởi nhà tâm thần học người Hà Lan Frederik Willem van Eeden vào năm 1913. Van Eeden đã nghiên cứu giấc mơ của mình trong gần hai mươi năm trước khi đặt ra thuật ngữ này trong nỗ lực mô tả giấc mơ mà ở đó trí óc hoàn toàn minh mẫn. Giấc mơ sáng suốt từ lâu đã là một khái niệm được cho là chủ đề của sự mê hoặc, và cứ lặp đi lặp lại trong suốt hàng trăm năm. Lần đầu tiên được ghi nhận về giấc mơ sáng suốt có thể là vào năm 350 trước Công nguyên, trong chuyên luận của Aristotle về giấc mơ. Giấc mơ sáng suốt là một yếu tố thiết yếu của môn Mộng Du Gìa (Yoga Dream) của Phật Giáo Tây Tạng,cũng như thực hành giấc ngủ của người Hindu cổ xưa. Cả hai hình thức thực hành này khuyến khích kiểm soát giấc mơ như một con đường dẫn đến giác ngộ. Trong Mộng Du Gìa, người mơ sáng suốt có thể được khuyến khích thay đổi kích thước của các vật thể xuất hiện trong giấc mơ và loại bỏ nỗi sợ hãi trong giấc mơ bằng cách chạm vào lửa hoặc những yếu tố đe dọa khác. Trong một giấc mơ thông thường,sự ý thức, sự kiểm soát, sự tự nhận thức thường “vắng mặt”. Trong giấc mơ sáng suốt,ý thức và giấc mơ chồng chéo nhau,tạo ra cảm giác nhận thức đặc biệt trong suốt quá trình giấc ngủ. Cảm giác nhận thức này cho phép con người có thể điều khiển các sự kiện ,thực hiện các khả năng thần bí như là bay lượn,và điều khiển hành động của các nhân vật khác. Những giấc mơ sáng suốt đã là chủ đề của nhiều tranh luận cho đến năm 1978,khi các nghiên cứu về giấc ngủ bắt đầu chứng minh sự tồn tại của chúng.Nhà nghiên cứu về giấc ngủ Keith Hearne nhận ra rằng,giống như các loại giấc mơ khác,giấc mơ sáng suốt có xu hướng xảy ra trong giấc ngủ REM. Dù cho mọi cơ bắp trên cơ thể đều đang tê liệt trong giấc ngủ REM,nhưng đôi mắt thì không. Để giao tiếp trong một giấc mơ sáng suốt, một trong những đối tượng nghiên cứu của Hearne đã có thể di chuyển mắt trái và phải tám lần liên tiếp để truyền đạt nhận thức về giấc mơ của mình. Tín hiệu của anh ấy trong lúc mơ có xu hướng xảy ra vào sáng sớm cho đến khi kết thúc giai đoạn ngủ REM. Các nghiên cứu sau đó cho thấy giấc mơ sáng suốt thường xảy ra trong những khoảnh khắc kích thích đặc biệt cao, hoặc thay đổi hoạt động sóng não ở lớp ngoài của não. Sự nhận ra giấc mơ có thể xảy ra cụ thể ở vỏ não trước trán, nơi bộ nhớ làm việc, lập kế hoạch và lý luận trừu tượng xảy ra. Sự kích thích trong não có xu hướng xảy ra trong thời gian chuyển từ giai đoạn ngủ này sang giai đoạn ngủ khác, ví dụ, từ giấc ngủ không REM sang giấc ngủ REM hoặc giấc ngủ REM sang trạng thái thức. Những thay đổi về trạng thái ngủ và thức có thể được biểu thị bằng cách giảm hoặc tăng nhịp tim và nhịp thở. Mặc dù không thể biết được chính xác lý do vì sao những giấc mơ sáng suốt lại xảy ra,một số nghiên cứu cho thấy những giấc mơ thuộc loại này có thể liên quan đến giai đoạn căng thẳng và lo lắng,cũng như với các loại tính cách cụ thể. Những người có xu hướng mơ thấy giấc mơ sáng suốt có thể có nhiều khả năng đạt điểm cao trong việc tự đánh giá khả năng sáng tạo và họ thường tự nhận xét bản thân có khả năng gây ảnh hưởng đến các sự kiện hay còn được gọi là sở hữu “điểm kiểm soát nội tại” (an internal locus of control). Hoạt động của sóng Gamma trong não dường như là một tác nhân mạnh mẽ của giấc mơ sáng suốt. Trong một nghiên cứu của Đức, 27 người chưa bao giờ trải qua giấc mơ sáng suốt đã nhận được một dòng điện yếu đến thùy não trước trong giấc ngủ REM. Tần số sóng gamma kích thích giấc mơ sáng suốt ở 77% tình nguyện viên, trong khi tần số sóng não alpha, beta, delta và theta không tạo ra hiệu ứng này. Những tình nguyện viên khác không nhận được dòng điện trong quá trình nghiên cứu và không có báo cáo nào trải qua những giấc mơ sáng suốt. Sóng gamma có thể kích hoạt giấc mơ sáng suốt do mối liên hệ của chúng với ý thức và trí nhớ trong trạng thái thức.Những loại sóng não này thường không được nhìn thấy trong giấc ngủ REM và là sóng não nhanh nhất trong số 5 loại sóng có thể nhìn thấy trên máy quét não. Sóng gamma được não bộ nhận ra là do mô hình nhất quán, chặt chẽ của chúng trên EEG. Chúng thường được liên kết với xử lý thông tin cấp cao, cái nhìn sâu sắc và thư giãn. Các nghiên cứu về các nhà sư Thiền tông đã chỉ ra rằng sóng gamma tăng và đồng bộ hóa trong khi thiền, đặc biệt trong số các nhà sư là những người thực hành thiền định lâu dài. Sóng gamma xuất hiện để điều chỉnh nhận thức và ý thức, và có thể được kiểm soát thông qua đào tạo dài hạn. Mơ trong mơ khác với những giấc mơ sáng suốt ở chỗ những người nằm mơ mơ rằng họ đã tỉnh giấc và đang bước vào cuộc sống thật sự của họ,trong khi thực tế là họ vẫn còn đang ngủ. Mơ trong mơ có thể liên quan đến sự phân mảnh giấc ngủ, cũng như sự chồng chéo của trạng thái ngủ và thức. Sự phân mảnh có thể xảy ra do rối loạn giấc ngủ như ngưng thở khi ngủ hoặc hội chứng chân không yên, hoặc do một rối loạn khác đối với giấc ngủ như tiếng ồn hoặc ánh sáng. Mơ trong mơ dường như được ghi nhớ thường xuyên hơn những giấc mơ thông thường khác,và diễn ra trước khi con người thật sự tỉnh giấc vào buổi sáng. Hiện tượng mơ trong mơ có liên quan đến giấc mơ sáng suốt . Mặc dù có khá ít nghiên cứu về hiện tượng mơ trong mơ này, nhưng một cuộc khảo sát về những người mơ mộng sáng suốt cho thấy 75% người tham gia đã trải qua một sự mơ trong mơ trong ba mươi ngày qua. Nhà tâm lý học Harvard Deirdre Barrett đã nghiên cứu giấc mơ của 200 đối tượng và phát hiện ra rằng mơ trong mơ có nhiều khả năng xảy ra trước, trong hoặc sau một giấc mơ sáng suốt. Bởi vì mơ trong mơ là một giấc mơ và không bị ràng buộc bởi các giới hạn tường thuật nên có nhiều hơn một giấc mơ xảy ra ở giai đoạn mơ trong mơ. Đây được gọi là giấc mơ đôi, hay giấc mơ trong giấc mơ. Tương tự với mơ trong mơ là giấc mơ liên tục. Trong một giấc mơ liên tục,con người tin rằng họ vẫn còn thức và những sự kiện trong mơ xảy ra trong trạng thái thức giấc,nhưng thật chất là chúng xảy ra trong giấc ngủ. Bởi vì giấc mơ liên tục có xu hướng xảy ra trong giai đoạn đầu tiên của giấc ngủ khi cơ bắp chưa bị tê liệt hoàn toàn như trong giai đoạn ngủ REM,người mơ có thể phản ứng với một số phần của giấc mơ bằng cách cử động hoặc nói chuyện. Giấc mơ sáng suốt có thể được sử dụng để trị liệu, đặc biệt là những cơn ác mộng. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng giấc mơ sáng suốt kết hợp với sự mường tượng có định hướng và các kỹ thuật thư giãn có thể giúp giảm đáng kể tần suất của những cơn ác mộng. Trong các nghiên cứu này, giấc mơ sáng suốt được tạo ra thông qua việc thực hành các kỹ thuật nhận thức nhất định, chẳng hạn như đặt câu hỏi về giấc mơ khi nó đang diễn ra và cố gắng nhận ra các yếu tố đáng sợ của giấc mơ là cơn ác mộng thay vì thực tế. Những người tham gia nghiên cứu được đào tạo để thay đổi một số phần của những giấc mơ cho đến khi điều đó kết thúc. Hầu hết những người tham gia nghiên cứu đều báo cáo sự cải thiện đối với những cơn ác mộng lặp lại, một số thì báo cáo chung chung rằng giấc ngủ được cải thiện. Thật thú vị rằng mặc dù có một số người tham gia không trải nghiệm những giấc mơ sáng suốt nhưng họ cũng báo cáo sự cải thiện trong những cơn ác mộng lặp lại. Điều này có thể củng cố cho ý tưởng rằng sự luyện tập kiểm soát cơn ác mộng có thể giảm bớt tần suất và cường độ gặp ác mộng ở một số người mắc bệnh. Chứng tê liệt khi ngủ xảy ra khi tâm trí thức dậy trong giấc ngủ REM,nhưng các cơ bắp vẫn bị tê liệt bởi các chất dẫn truyền thần kinh ngăn cản hành động thoát ra khỏi giấc mơ. Bởi vì giấc mơ sáng suốt liên quan đến một mức độ ý thức trong giấc ngủ REM, một người có chứng giấc mơ sáng suốt có thể đồng thời trải qua một giai đoạn ngắn của chứng tê liệt khi ngủ. Thực hiện các kiểm tra thực tế của người Viking một cách thường xuyên trong lúc đang thức để những kiểm tra đó trở thành bản chất thứ hai và xảy ra ngày cả khi đang ngủ. Tuân thủ lịch trình ngủ đều đặn để khuyến khích giấc ngủ REM có thể diễn ra đều đặn. Giấc mơ sáng suốt cũng có thể được kích hoạt bằng cách thực hiện MILD,hoặc còn gọi là phương pháp Quy nạp trí nhớ của giấc mơ sáng suốt (Mnemonic Induction of Lucid Dream). Một nghiên cứu từ Đại học Úc Úc, Đại học Adelaide đã phác thảo thực tiễn như sau:. Khi đặt báo thức 5 tiếng sau rồi đi ngủ. Hầu hết mọi người sẽ mơ vào 2 hay 3 giờ đồng hồ trước khi tỉnh dậy. Đặt báo thức trong năm giờ đồng hồ vào chu kỳ giấc ngủ sẽ làm tăng tỉ lệ thức giấc giữa giấc mơ. Khi báo thức kêu,hãy nỗ lực gợi nhớ lại bất cứ điều gì mà bạn đã mơ được trước khi tỉnh dậy. Nếu điều đó là không thể đối với bạn,hãy nhớ đến một giấc mơ mà bạn có gần đây. Tiếp tục nằm trên giường và lặp lại cụm từ này: “lần tới khi tôi mơ,tôi sẽ nhớ là tôi đang mơ.” Tưởng tượng bản thân đang trong giấc mơ bạn vừa gợi nhớ lại.Hình dung bản thân trong quá trình ghi nhớ lại giấc mơ. Giấc mơ sáng suốt nghe có vẻ như là một điều gì đó trong tượng tượng,nhưng nghiên cứu và báo cáo về giấc mơ sáng suốt đã chứng minh rằng chúng hoàn toàn là sự thật.Những giấc mơ này đưa đến một cái nhìn “trêu ngươi” vào thế giới nằm giữa nhận thức và giấc ngủ REM, khi hoạt động của não bộ cho phép nhận thức thâm nhập vào trạng thái ngủ. Đối với nhiều người,những giấc mơ sáng suốt mang đến cảm giác quyền lực trong thời gian mà ý thức và nhận thức tạm thời “vắng mặt” .Chúng ta càng hiểu rõ hơn về giấc mơ sáng suốt thì chúng ta sẽ càng hiểu hơn về mối liên hệ giữa tâm lý thức và giấc ngủ,điều suy nghĩ sâu thẳm của chúng ta có thể trở nên dễ dàng để tiếp cận hơn.
|
Giấc mơ sáng suốt
|
Giấc mơ sáng suốt là một giấc mơ mà trong đó người mơ biết rằng mình đang mơ. Thuật ngữ này được đặt ra bởi nhà văn, bác sĩ tâm thần người Hà Lan Frederik (Willem) van Eeden (1860–1932). Trong một giấc mơ sáng suốt, người mơ có thể sử dụng một vài cấp độ trong việc kiểm soát vai trò của mình bên trong giấc mơ hoặc có thể điều khiển những kinh nghiệm tưởng tượng của mình trong môi trường mơ. Những giấc mơ sáng suốt có thể rất thực tế và sống động. Một giấc mơ sáng suốt có thể bắt đầu bằng một trong hai cách. Một Dream-initiated lucid dream (DILD) khởi đầu như một giấc mơ bình thường, và người mơ cuối cùng kết luận rằng đó là một giấc mơ, trong khi một wake-initiated lucid dream (WILD) xảy ra khi người mơ từ một trạng thái thức bình thường đi trực tiếp vào trạng thái mơ, mà không hề mất đi ý thức. Giấc mơ sáng tỏ đã được nghiên cứu cách khoa học, và sự tồn tại của nó đã được xác nhận chắc chắn.
|
Đội tuyển Olympic Người tị nạn thi đấu tại Thế vận hội Mùa hè 2016 ở Rio de Janeiro, Brasil từ ngày 5 đến ngày 21 tháng 8 năm 2016 với tư cách là các vận động viên tự do. Tháng 3 năm 2016, chủ tịch Ủy ban Thế vận hội Quốc tế IOC Thomas Bach công bố rằng Ủy ban sẽ chọn ra từ năm đến mười người tị nạn để thi đấu tại Thế vân hội Rio trong bối cảnh "cuộc khủng hoảng người tị nạn trên toàn thế giới" mà đáng chú ý nhất là ở châu Âu. Các vận động viên này được dự kiến sẽ thi đấu dưới màu cờ của Thế vận hội. Ban đầu, đội tuyển có tên gọi "Team of Refugee Olympic Athletes" Đội tuyển các vận động viên Thế vận hội người tị nạn với mã IOC là ROA, nhưng sau đó được đổi tên thành "Refugee Olympic Team" Đội tuyển Thế vận hội người tị nạn với mã IOC là ROT. Với mục đích "thể hiện tình đoàn kết với người tị nạn trên khắp thế giới", Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn đã lựa chọn Ibrahim Al-Hussein, một người tị nạn Syria đang sống tại Athens, Hy Lạp, làm người rước đuốc đi qua trại tập trung người tị nạn và nhập cư Eleonas ở thành phố này. IOC đã xác định 43 ứng cử viên tiềm năng để lựa chọn tham gia đội tuyển chính thức. Quyết định cuối cùng được dựa trên khả năng thi đấu, hoàn cảnh cá nhân và chứng nhận tình trạng tị nạn của Liên Hợp Quốc. Nhằm tài trợ cho việc tập luyện, IOC cũng đã sử dụng một quỹ 2 triệu đô la Mỹ. Sau đó các Ủy ban Thế vận hội Quốc gia NOC tiến hành lựa chọn các vận động viên là người tị nạn của nước mình và đủ tiêu chuẩn thi đấu tại Thế vận hội. Đầu tiên có ba vận động viên được xem là các ứng cử viên tiềm năng, bao gồm Yusra Mardini, một vận động viên bơi lội 17 tuổi người Syria đang sống và tập luyện tại Đức, Raheleh Asemani, một vận động viên taekwondo người Iran đang tập luyện tại Bỉ; và Popole Misenga, một vận động viên judo người Congo đang sống tại Brasil. Mardini và Asemani đã được IOC trao học bổng, riêng Asemani sau đó được nhập quốc tịch Bỉ và đã đăng ký tham gia đội tuyển quốc gia Bỉ. Các ứng cử viên khác được chọn ra từ những người tị nạn do cuộc nội chiến Syria, bao gồm Ahmad Badr Waid, Nazir Jaser và Mohamad Masoo; cũng như từ trại tị nạn Karuma tại Kenya. Ngày 3 tháng 6 năm 2016, IOC công bố danh sách đội tuyển người tị nạn chính thức sẽ thi đấu tại Thế vận hội.
|
Đội tuyển Olympic Người tị nạn tại Thế vận hội Mùa hè 2016
|
Đội tuyển Olympic người tị nạn thi đấu tại Thế vận hội Mùa hè 2016 ở Rio de Janeiro, Brasil từ ngày 5 đến ngày 21 tháng 8 năm 2016 với tư cách là các vận động viên tự do. Tháng 3 năm 2016, chủ tịch Ủy ban Thế vận hội Quốc tế (IOC) Thomas Bach công bố rằng Ủy ban sẽ chọn ra từ năm đến mười người tị nạn để thi đấu tại Thế vân hội Rio trong bối cảnh "cuộc khủng hoảng người tị nạn trên toàn thế giới" mà đáng chú ý nhất là ở châu Âu. Các vận động viên này được dự kiến sẽ thi đấu dưới màu cờ của Thế vận hội. Ban đầu, đội tuyển có tên gọi "Team of Refugee Olympic Athletes" (Đội tuyển các vận động viên Thế vận hội người tị nạn) với mã IOC là ROA, nhưng sau đó được đổi tên thành "Refugee Olympic Team" (Đội tuyển Thế vận hội người tị nạn) với mã IOC là ROT.Với mục đích "thể hiện tình đoàn kết với người tị nạn trên khắp thế giới", Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn đã lựa chọn Ibrahim Al-Hussein, một người tị nạn Syria đang sống tại Athens, Hy Lạp, làm người rước đuốc đi qua trại tập trung người tị nạn và nhập cư Eleonas ở thành phố này.
|
Bạn từng băn khoăn các hệ thống doanh nghiệp lớn có thể mở rộng được thiết kế như thế nào? Trước khi bắt đầu phát triển hệ thống quan trọng, chúng ta phải lựa chọn được kiến trúc phù hợp mà có thể đáp ứng cho chúng ta các yêu cầu chức năng và thuộc tính chất lượng mong muốn. Do đó, chúng ta nên hiểu các kiến trúc khác nhau, trước khi áp dụng vào thiết kế của chúng ta. Mẫu kiến trúc là giải pháp chung, có thể tái sử dụng cho một vấn đề phổ biến xuất hiện trong kiến trúc phần mềm và đặt trong một ngữ cảnh cụ thể. Các mẫu kiến trúc tương tự như mẫu thiết kế phần mềm nhưng có phạm vi rộng hơn. Mẫu kiến trúc này có thể được sử dụng trong các chương trình cấu trúc mà có thể được phân tách thành các nhóm gồm nhiều công việc nhỏ, mỗi nhóm ở các mức độ trừu tượng hóa cụ thể. Mỗi tầng cung cấp các dịch vụ cho các tầng kế tiếp cao hơn. Mẫu này bao gồm 2 thành phần; một server và nhiều clients. Thành phần server sẽ cung cấp các dịch vụ cho nhiều thành phần client. Các client gửi yêu cầu các dịch vụ lên servẻ và servẻ cung cấp các dịch vụ tương ứng cho các client đó. Ngoài ra, server tiếp tục lắng nghe các yêu cầu từ client. Mẫu này bao gồm 2 phần;masterandslaves. Thành phần master phân phối công việc giữa các thành phần slave giống nhau và tính toán ra kết quả cuối cùng từ các kết quả mà các slave trả về. Trong việc nhân rộng database, cơ sở dữ liệu master được coi là nguồn dữ liệu tin cậy và các cơ sở dữ liệu slave được đồng bộ với nó.Các thiết bị ngoại vi kết nối tới đường truyền bus của hệ thống máy tính (master and slave drives). Mẫu này có thể được sử dụng trong các hệ thống cấu trúc mà gồm các thủ tục và xử lý 1 luồng dữ liệu. Mỗi bước xử lý được khép kín bên trong 1 thành phần lọc (filter). Dữ liệu cần xử lý được truyền qua đường ống (pipes). Các đường ống này có thể được sử dụng cho việc buffer hoặc cho mục đích đồng bộ hóa. Các trình biên dịch. Các bộ lọc liên tục thực hiện phân tích từ vừng, parsing, phân tích ngữ nghĩa, và tiến trình tạo mã.Quy trình làm việc trong tin học sinh học. Mẫu này được sử dụng trong các hệ thống phân tán cấu trúc với các thành phần được tách rời. Các thành phần này có thể tương tác với nhau thông qua các lời gọi dịch vụ từ xa (remote service invocation). Thành phần broker chịu trách nhiệm cho việc phối hợp giao tiếp giữa các thành phần. Các server publish các năng lực của nó (các dịch vụ và các thuộc tính) cho broker. Các client yêu cầu 1 dịch vụ từ broker và broker sẽ điều hướng client tới dịch vụ phù hợp tương ứng từ bộ đăng ký của nó. Trong mẫu này, các thành phần riêng lẻ còn được gọi là các peer. Các peer có thể hoạt động giống như các client, yêu cầu các dịch vụ từ các peer khác, và cũng giống như 1 server, cung cấp các dịch vụ cho các peer khác. Một peer có thể đóng vai là 1 client hoặc như một server hoặc đóng vai trò cả 2 và nó có thể thay đổi vai trò linh động tùy theo thời điểm. Các bộ lắng nghe (listener) đăng ký nghe trên các kênh cụ thể. Các bộ lắng nghe được notify có message mới được phát hành trên kênh mà nó đã đăng ký trước đó. Mẫu này giúp chia tách các tầng trình diễn thông tin nội bộ khỏi các thông tin được biểu diễn cho và chấp nhận bởi người dùng. Nó phân tách sự phụ thuộc các thành phần và cho phép tái sử dụng code hiệu quả hơn. Kiến trúc cho các ứng dụng World Wide Web trong hầu hết các ngôn ngữ lập trình chính. Mẫu này phù hợp cho các vấn đề mà không có chiến lược giải pháp xác định đã biết. mẫu blackboard gồm 3 thành phần chính. blackboard— một bộ nhớ toàn cục có cấu trúc chứa các đối tượng từ không gian giải pháp.knowledge source— các modules đặc biệt với biểu diễn riêng của nócontrol component— lựa chọn, cấu hình và thực thi các module. Tất cả các thành phần có quyền truy cập tới blackboard. Các thành phần có thể tạo ra đối tượng dữ liệu mới và được thêm vào blackboard. Các thành phần tìm kiếm các loại dữ liệu cụ thể trên blackboard, và có thể tìm chúng theo các mẫu phù hợp với những nguồn kiến thức đang tồn tại. Mẫu này được sử dụng để thiết kế các thành phần mà thông dịch các chương trình được viết trong một ngôn ngữ chuyên dụng. Mục đích chính nó chỉ rõ cách đánh giá các dòng chương trình, được biết như các câu hoặc các công thức được viết trong ngôn ngữ cụ thể. Ý tưởng cơ bản là có 1 lớp cho từng ký hiệu ngôn ngữ. Ngôn ngữ truy vấn CSDL như SQL.Các ngôn ngữ được sử dụng để mô tả các giao thức truyền thông. Luôn được cập nhật nội dung mỗi ngày mang nhiều kiến thức bổ ích cho các bạn.
|
Kiến trúc phần mềm
|
Kiến trúc phần mềm của một chương trình máy tính hay một hệ thống tính toán là cấu trúc của các thành phần trong hệ thống đó. Kiến trúc phần mềm bao gồm các phần tử phần mềm, các thuộc tính và mối quan hệ giữa chúng. Ngoài ra, thuật ngữ "kiến trúc phần mềm" cũng đề cập đến các tài liệu kiến trúc phần mềm của một hệ thống, thuận tiện cho việc trao đổi thông tin giữa các thành viên trong một dự án. Kiến trúc phần mềm giúp việc quyết định ở mức cao trong thiết kế phần mềm dễ dàng hơn và cho phép tái sử dụng các thành phần và mẫu thiết kế của các dự án. Lĩnh vực khoa học máy tính trải qua sự kết hợp các vấn đề cùng với sự phức tạp của cấu trúc. Lúc đầu, sự phức tạp được giải quyết bởi người phát triển bằng cách lựa chọn các cấu trúc dữ liệu đúng đắn, phát triển các thuật toán và áp dụng các thuật toán để chia nhỏ các vấn đề. Thuật ngữ kiến trúc phần mềm liên quan đến sự mới mẻ của ngành công nghiệp này, nhưng nguyên tắc cơ bản của nó đã được áp dụng bởi các chuyên gia tiên phong trong ngành công nghệ phần mềm từ những năm 1980.
|
Trong bài viết số 2 này, tôi sẽ giúp bạn lột trần toàn bộ các kiến thức liên quan tới bê tông. Để từ đó thông qua những kiến thức trong bài viết này, ngay cả khi bạn không học về xây dựng hoặc học xây dựng nhưng lâu chưa động vào phần tính toán kết cấu. Thì bạn cũng có thể hiểu được bản chất của vật liệu bê tông, từ đó sớm làm chủ toàn bộ những kiến thức về tính toán kết cấu trong nghề xây dựng. Bê tông cốt thép là 1 loại vật liệu xây dựng phức hợp do bê tông và cốt thép cùng cộng tác chịu lực với nhau. Trong khi đó, cốt thép là loại vật liệu vừa có khả năng chịu kéo và vừa có khả năng chịu nén đều rất tốt. Do đó để tăng cường khả năng chịu lực của các kết cấu tham gia chịu lực, người ta đã đặt cốt thép vào trong bê tông. Và từ đó sinh ra khái niệm bê tông cốt thép. Để chứng minh khả năng chịu lực của bê tông cốt thép tốt hơn rất nhiều so với vật liệu bê tông thông thường. Người ta đã tiến hành làm thí nghiệm như sau:. Khi tăng dần tải trọng của dầm lên, ta sẽ thấy ứng suất kéo của tiết diện dầm tại mặt cắt 1-1 cũng tăng dần lên. Vết nứt này sẽ dần phát triển dài dần lên phía trên và dầm sẽ bị gãy đứt, trong khi thí nghiệm đo được ứng suất nén của bê tông còn khá nhỏ ( tức chưa tận dụng được hết khả năng chịu nén của bê tông mà dầm đã bị gãy do vùng chịu kéo của bê tông không còn khả năng chịu kéo ). Với thí nghiệm trên người ta kết luận rằng, như thế là lãng phí khả năng chịu nén của bê tông. Do đó người ta sẽ cho thêm cốt thép vào vùng chịu kéo của bê tông, để lực kéo sẽ do cốt thép chịu nhờ đó tăng khả năng chịu lực. Và khi có cốt thép đặt vào vùng chịu kéo của bê tông thì khi ứng suất chịu nén của bê tông đạt tới cường độ chịu nén của bê tông thì đồng thời ứng suất chịu kéo của cốt thép cũng đạt tới cường độ chịu kéo của cốt thép. Lực dính giữa bê tông và cốt thép. Giúp cho cấu kiện trong quá trình chịu tải, thì bê tông có thể truyền lực sang cốt thép và cốt thép cũng có thể truyền lực sang bê tông. Không có phản ứng hóa học giữa bê tông và cốt thép, đồng thời bê tông còn bao bọc cốt thép giúp bảo vệ cốt thép khỏi ăn mòn của môi trường xung quanh. Và cần lưu ý lượng xi măng cần ít nhất là 250-270kg/m3 bê tông để bê tông giữ cho cốt thép khỏi bị ăn mòn. Có hệ số giãn nở vì nhiệt gần như nhau, của bê tông hệ số giãn nở nhiệt là 0,000010 đến 0,000015. Còn của cốt thép hệ số giãn nở vì nhiệt là 0,000012. Do đó khi môi trường thay đổi trong phạm vi <100 độ C thì trong cấu kiện sẽ không xuất hiện nội ứng suất đáng kể, không làm phá hoại lực dính giữa bê tông và cốt thép. Là loại bê tông cốt thép mà cấu kiện kết cấu được thi công theo phương pháp ghép ván khuôn, đặt cốt thép và đổ bê tông ngay tại vị trí thiết kế của cấu kiện kết cấu. Là loại bê tông cốt thép mà kết cấu được phân thành những cấu kiện kết cấu riêng lẻ để có thể chế tạo tạo nhà máy hoặc sân bãi. Rồi vận chuyển tới công trường, sau đó dùng cần cẩu lắp ghép và nối chúng lại với nhau thành 1 kết cấu hoàn chỉnh tại vị trí thiết kế. Nhược điểm: Việc thi công ghép nối các cấu kiện thường khó khăn và khá tốn thép. Loại kết cấu này chỉ nên dùng khi cấu kiện kết cấu đang thi công được lặp đi lặp lại tại nhiều vị trí khác nhau trong các công trình khác nhau. Là loại bê tông cốt thép mà kết cấu được tạo thành bởi sự kết hợp giữa phương pháp lắp ghép và phương pháp bê tông toàn khối. Ưu điểm của loại bê tông cốt thép này là: Có độ cứng cao, bớt được ván khuôn, có thể bỏ được cột chống. Loại kết cấu này chỉ nên dùng khi cấu kiện kết cấu đang thi công được lặp đi lặp lại tại nhiều vị trí khác nhau trong các công trình khác nhau. Là loại bê tông cốt thép khi chế tạo cấu kiện kết cấu, cốt thép sẽ ở trạng thái không có ứng suất. Với loại bê tông cốt thép này thì ngoài nội lực suất do bê tông có ngót và giãn nở vì nhiệt thì trong cốt thép và bê tông chỉ xuất hiện ứng suất khi có tải trọng tác dụng. Là loại bê tông cốt thép trước khi chế tạo cấu kiện kết cấu, cốt thép sẽ được căng để nén vùng chịu kéo ( do tải trọng gây ra) nhằm triệt tiêu ứng suất kéo do tải trọng gây ra. Như vậy là tôi đã trình bày rất sâu cho bạn toàn bộ các kiến thức về bê tông cốt thép. Đây là những kiến thức căn bản nhưng rất quan trọng để bạn có thể đi xa hơn với những kiến thức nâng cao về tính toán kết cấu mà tôi sẽ trình bày cho bạn ở website này. P/S: Nếu chưa có thời gian ghi chép lại các kiến thức này, bạn đừng quên share về tường facebook để lưu lại khi cần nhé. Đồng thời Là nhà đào tạo có số lượng follow lớn nhất trong ngành xây dựng hiện nay, với hơn 50.000 người Follow trên các kênh khác nhau. Cũng như sở hữu hàng chục website liên quan tới lĩnh vực xây dựng. Bạn có thể ghé thăm anh ấy tại website
|
Kết cấu bê tông
|
Bê tông cốt thép (BTCT) là một loại vật liệu composite kết hợp bởi bê tông và thép, trong đó bê tông và thép cùng tham gia chịu lực. Sự kết hợp giữa bê tông và cốt thép xuất phát từ thực tế bê tông là loại vật liệu có cường độ chịu kéo thấp (chỉ bằng từ 1/20 đến 1/10 cường độ chịu nén của bê tông ), do đó hạn chế khả năng sử dụng của bê tông và gây nên lãng phí trong sử dụng vật liệu. Đặc điểm này được khắc phục bằng cách thêm vào trong bê tông những thanh cốt, thường làm từ thép, có cường độ chịu kéo cao hơn nhiều so với bê tông. Cốt, do đó thường được đặt tại những vùng chịu kéo của cấu kiện. Ngày nay cốt có thể được làm từ những loại vật liệu khác ngoài thép như polyme, sợi thủy tinh, hay các vật liệu composite khác. Kết cấu bê tông cốt thép, với cốt là các thanh thép, là loại kết cấu bê tông có cốt lâu đời và được sử dụng rộng rãi nhất trong xây dựng với đặc điểm độc đáo là biến dạng do nhiệt độ của hai loại vật liệu bê tông và cốt thép là tương đương với nhau.
|
Hai thập kỉ vừa qua đã chứng kiến sự áp dụng rộng rãi các nguyên tắc của thị trường tự do. Các quốc gia đã cải cách môi trường kinh tế bằng cách tuân theo quy luật cung cầu thay vì bàn tay vô hình của chính phủ để hình thành giá và sản lượng. Các quốc gia có nền kinh tế càng tự do càng vượt xa các nước khác trên nhiều phương diện. Năm 2006, các nước có nền tự do hóa nền kinh tếcó GNI bình quân đầu người là 29.219, gấp hơn 2 lần các nước tự do một phần và hơn 4 lần các nước gần như không có thị trường tự do. Kết quả tương tự cũng tồn tại đối với mức thu nhập, tốc độ tăng trưởng, ổn định giá, và công ăn việc làm. Hơn nữa, các báo cáo cho thấy có sự tương quan tỉ lệ thuận giữa mức độ tự do của nền kinh tế và mức tăng thu nhập cá nhân, thu nhập cho người nghèo, tuổi thọ trung bình cao hơn, tỉ lệ biết chữ lớn hơn, tỉ lệ tử vong trẻ em thấp hơn và ít tham nhũng hơn. Tóm lại, những điều này củng cố xu hướng lâu dài rằng các quốc gia ít phụ thuộc vào thuế cao, luật lệ và sự kiểm soát của chính phủ đạt được tăng trưởng kinh tế và mức sống cao nhất. Kể từ năm 1995, Quỹ Di sản (Heritage Foundation) và Nhật báo phố Wall của Hoa Kỳ đã công bố thông báo hàng năm về Chỉ số Tự do Kinh tế. Nói một cách chính thức, tự do kinh tế được định nghĩa là “sự loại bỏ những ép buộc hoặc giới hạn từ chính phủ về sản xuất, phân phối hay tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ vượt mức cần thiết đối với công dân để bảo vệ, duy trì quyền tự do. Nói cách khác, mọi người được tự do làm việc, sản xuất, tiêu dùng và đầu tư theo cách họ cho là hiệu quả nhất”. Chỉ số này đánh giá mức độ can thiệp của chính phủ vào nguyên tắc tự do chọn lựa và giải phóng doanh nghiệp vì những lý do trên cả mức cần thiết để bảo vệ tài sản, tự do, an toàn của công dân và hiệu quả thị trường. Trên thực tế, cuộc điều tra này xếp loại các quốc gia dựa trên 50 chỉ số độc lập được thiết kế theo 10 vấn đề như: Tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự do tài chính, tự do đầu tư, tự do thóat khỏi tham nhũng… Chỉ số của một yếu tố càng cao trong khoảng từ 0% đến 100%, mức độ can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế càng thấp. Năm 2006, Chỉ số Tự do Kinh tế trung bình là 60.6%, mức cao thứ 2 kể từ khi chỉ số này được đưa ra năm 1995 nhưng chỉ giảm 0.3% so với năm trước đó. Trong giai đoạn 2005-2006, trong số 155 quốc gia điều tra, 65 quốc gia có Chỉ số Tự do Kinh tế tăng nhưng chỉ số của 92 quốc gia khác đã giảm. Ngược lại, giai đoạn 2004-2005, 86 nước tự do hóa kinh tế nhiều hơn, so với 57 nước áp đặt nhiều kiểm soát từ chính phủ hơn.
|
Chỉ số tự do kinh tế
|
Chỉ số tự do kinh tế (Indices of Economic Freedom) đo lường chính sách tự do kinh doanh ở các quốc gia trên thế giới. Chỉ số tự do kinh tế đánh giá 10 yếu tố cơ bản của mỗi nền kinh tế, được công bố thường niên bởi tạp chí The Wall Street Journal và Quỹ Di sản (The Heritage Foundation) có ảnh hưởng gián tiếp đến nguyên tắc luật lệ, chính sách thuế cũng như các chính quyền. Milton Friedman và Michael Walker đến từ Viện Fraser đã tổ chức một loạt các hội nghị từ năm 1986 đến 1994 nhằm sáng tạo một định nghĩa rõ ràng về tự do kinh tế và phương pháp đánh giá. Đó là những báo cáo đầu tiên về tự do kinh tế thế giới. Gần đây hơn, Quỹ Di Sản và The Wall Street Journal đã tạo ra một chỉ số khác, tức chỉ số tự do kinh tế.
|
Người theo trường phái trọng tiền hay Người theo chủ nghĩa tiền tệ trong tiếng Anh là Monetarist. Người theo trường phái trọng tiền là những nhà kinh tế học tin rằng hiệu suất của nền kinh tế được xác định gần như hoàn toàn bởi những thay đổi trong cung tiền. Những người theo trường phái trọng tiền cho rằng sức khỏe của một nền kinh tế có thể được kiểm soát tốt nhất bằng những điều chỉnh trong nguồn cung tiền tệ bởi một cơ quan quản lí. Động lực chính của tư tưởng này là những tác động của lạm phát đến tăng trưởng hay sức khỏe nền kinh tế cùng với ý tưởng rằng kiểm soát nguồn cung tiền sẽ kiểm soát được tỉ lệ lạm phát. Cốt lõi của chủ nghĩa trọng tiền (hay chủ nghĩa tiền tệ) là một công thức của nền kinh tế. Chủ nghĩa trọng tiền cho rằng cung tiền nhân với vận tốc của tiền (tốc độ tiền được trao tay trong một nền kinh tế) sẽ bằng với chi tiêu danh nghĩa của nền kinh tế (hàng hóa và dịch vụ nhân nhân với giá cả). Dù công thức trên là hợp lí, những người theo trường phái trọng tiền cho rằng vận tốc của tiền về tổng quan là ổn định, quan điểm này gây ra nhiều tranh luận. Người theo trường phái trọng tiền nổi tiếng nhất là nhà kinh tế học Milton Friedman. Trong cuốn sách Lịch sử tiền tệ của Mỹ từ 1867 đến 1960, ông đã đưa ra các quan điểm của mình, lập luận ủng hộ chủ nghĩa trọng tiền của ông là một công cụ chống lại các tác động kinh tế của lạm phát và thiếu cung tiền là nguyên nhân dẫn đến cuộc Đại khủng hoảng. Hầu hết những người theo trường phái trọng tiền phản đối chế độ bản vị vàng do nguồn cung vàng là có hạn, điều này sẽ cản trở lượng tiền trong hệ thống và dẫn đến lạm phát. Những người theo trường phái trọng tiền tin rằng lạm phát nên được kiểm soát bởi cung tiền, không thể theo chế độ bản vị vàng trừ khi vàng được khai thác liên tục và nguồn cung của nó không bị hạn chế. Quan điểm của người theo trường phái trọng tiền được chấp nhận kể từ khi chế độ bản vị vàng sụp đổ vào năm 1972 tại Mỹ. Hơn nữa, trường phái kinh tế học Keynes thường có tư tưởng trái ngược với chủ nghĩa trọng tiền, đã không thể giải thích cách nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng khi thất nghiệp và lạm phát tăng vọt. Một mặt, trường phái Keynes cho rằng để giải quyết tỉ lệ thất nghiệp cao cần phải tái lạm phát hay gia tăng cung tiền, mặt khác khi lạm phát gia tăng, Keynes cho rằng nên giảm phát.
|
Trường phái trọng tiền
|
Trường phái trọng tiền là một trường phái tư tưởng kinh tế nhấn mạnh vai trò của chính phủ trong việc kiểm soát lượng tiền trong lưu thông. Đó là quan điểm trong kinh tế tiền tệ mà sự thay đổi trong cung tiền có ảnh hưởng lớn đến sản lượng quốc gia trong ngắn hạn và mức giá đối với thời kỳ dài hơn, mục tiêu của chính sách tiền tệ được đáp ứng tốt nhất bằng mục tiêu tốc độ tăng trưởng cung tiền. Trường phái trọng tiền hiện nay chủ yếu là liên quan đến nghiên cứu của Milton Friedman, người đã là một trong những thế hệ các nhà kinh tế chấp nhận kinh tế Keynes và sau đó chỉ trích sự dư cầu do sử dụng chính sách tài khóa (chi tiêu chính phủ) của lý thuyết Keynes. Friedman và Anna Schwartz đã viết một cuốn sách có ảnh hưởng,Lịch sử tiền tệ của Hoa Kỳ, 1867-1960, và lập luận "lạm phát luôn luôn và ở khắp mọi nơi là một hiện tượng tiền tệ." Mặc dù ông phản đối sự tồn tại của Dự trữ Liên bang, Friedman vẫn ủng hộ sự tồn tại của nó, một chính sách ngân hàng trung ương nhằm giữ cung và cầu tiền ở trạng thái cân bằng, được đo bằng tốc độ tăng trưởng trong sản xuất và nhu cầu.
|
Mọi người thường nói vui với nhau rằng khi kết hôn là như “đeo gông vào cổ”. Đó chỉ là cách nói vui của việc bạn sẽ bước vào một cuộc hôn nhân phải thực hiện mọi trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong gia đình. Có rất nhiều thay đổi trong cuộc sống, bạn phải lo toan nhiều thứ, bạn không thể “tự do”, vô tư như thời còn FA được. Vì thế để trân trọng những khoảnh khắc độc thân này mà tiệc độc thân ra đời. Tiệc độc thân là một buổi tiệc thân mật được diễn ra trước hôn lễ theo văn hóa phương Tây. Buổi tiệc dành riêng cho cô dâu hoặc chú rể với những tên thường gọi Bachelor party (tiệc độc thân dành cho chú rể), Bachelorette party, hen party (tiệc độc thân dành cho cô dâu). Những năm trở lại đây Việt Nam cũng hưởng ứng và tiếp thu văn hóa này từ phương Tây. Buổi tiệc độc thân của các cặp được nhiều cặp đôi tổ chức nhiều hơn bởi nó mang ý nghĩa riêng dành cho chính họ. Hôn nhân là cánh cửa mở ra một hành trình, một giai đoạn, một bước ngoặt có thể nói là lớn nhất trong cuộc đời mỗi người. Bạn sẽ sống với trách nhiệm, với nghĩa vụ của một người vợ/chồng để vun vén cho một gia đình sum vầy, hạnh phúc. Bởi thế, có khi một phút giây nào đó trong hôn nhân bạn sẽ thấy bị bỏ lỡ tự do, một bữa tiệc chia tay độc thân là ý tưởng hay để bạn ghi nhớ lại những phút giây tự do nhất của thời tuổi trẻ. Theo văn hóa phương Tây, bữa tiệc được tổ chức vào đêm trước đám cưới của cô dâu và chú rể. Họ sẽ mời những bạn bè thân thiết nhất, cùng làm những việc không thể làm sau khi cưới. Thông thường cô dâu và chú rể sẽ quy ước ngầm với nhau là không xuất hiện tại tiệc độc thân của vợ, chồng tương lai vì đây là thời gian hoàn toàn dành cho bạn bè. Để chia tay thời độc thân của mình, các chàng trai cô gái có thể cùng bạn bè tổ chức các hoạt động như ý muốn. Ở châu Âu họ thường chọn cách đi bar, uống rượu và đưa ra các trò chơi thử thách lòng chung thủy cho các chàng trai. Còn với các nàng, họ thường tổ chức gặp gỡ bạn bè, tâm sự và chia sẻ những lo âu của mình về cuộc sống hôn nhân. Ở Việt Nam lễ độc thân chưa được tổ chức phổ biến. Với ý nghĩa khá đặc biệt của “tiệc độc thân” thì các bạn trẻ ngày nay cũng có một bữa tiệc tương tự như vậy trước khi tổ chức đám cưới. Bữa tiệc đó không nhất thiết phải tổ chức vào đêm trước đám cưới, mà có thể tổ chức vào một dịp nào đó. Việc kết hợp tổ chức sinh nhật, liên hoan với tiệc độc thân, hoặc một chuyến du lịch cùng bè bạn cũng là cách được lựa chọn phổ biến ở nước ta. Hãy chọn cho mình cách tổ chức một bữa tiệc trước đám cưới lành mạnh và đáng nhớ. “Nhà” là địa điểm được xem là lý tưởng cho buổi tiệc đầy thân mật, ấm áp như thế này. Cô dâu hoặc chú rể có thể chọn chính nhà của mình để tạo cảm giác thân mật, gần gũi với bạn bè. Những điểm cộng khi chọn nhà là nơi diễn ra buổi tiệc đó là: Thoải mái bung xõa những ý tưởng bá đạo, đầy đủ vật dụng để có một buổi tiệc hoàn hảo mà không cần sợ thiếu, làm chủ thời gian và không gian, có thể chơi hết mình đến tận ngày hôm sau mà không lo ngại bất kì điều gì… Những lý do đó đã đủ cho bạn chọn nhà làm địa điểm tụ tập cho tiệc thân hay chưa?. Nếu chưa thì mình mách nhỏ thêm một điểm cộng dành cho cảm xúc. Một địa điểm thân mật mọi người sẽ dễ chia sẻ với nhau về cuộc sống, về kỉ niệm đã qua đối với chủ nhân buổi tiệc. Hẳn không kiềm được những giọt nước mắt, những nụ cười trong những câu chuyện chia sẻ ấy. Nếu bạn thích một không gian thoải mái hơn, mát mẻ hơn thì những bữa tiệc nhà hàng, hay ngoài trời cũng là một ý tưởng hay đây. Bạn sẽ không phải mất thời gian dọn dẹp “bãi chiến trường” sau khi bung lụa. Có những cô dâu chú rể ở cùng gia đình để tránh gây ảnh hưởng đến người thân trong gia đình những địa điểm ngoài trời cũng được ưu tiên hàng đầu. Chúng ta có thể chọn những nhà hàng với phong cách ấm cúng để tạo sự gần gũi và có nhiều không gian để làm một bộ ảnh cùng hội bạn thân. Với những cô dâu chú rể và hội bạn thân năng động chúng ta có thể cùng “chill” với nhau tại những rooftop có view đẹp. Ngoài việc chia sẻ tâm sự thì tiệc độc thân cũng là một buổi tiệc để cô dâu chú rể “quẩy” hết mình với hội bạn. Cô dâu chú rể nên chọn thực hiện buổi tiệc độc trước hôn lễ một tuần hoặc một tháng để tránh những sự cố chơi hết mình mà trễ giờ hôn lễ, hay không đủ sức cho ngày hôm sau. Không gì tuyệt vời khi cô dâu hay chú rể có một chuyến đi du lịch cùng bạn bè để cùng chúc mừng cho hôn lễ sắp đến. Không những thế, một bộ ảnh xịn sò sẽ ra đời từ buổi tiệc độc thân đặc biệt này. Một chuyến du lịch tại địa điểm lý tưởng sẽ giúp mọi người tận hưởng những ngày tháng vô tư, vui vẻ nhất bên bạn bè thân thiết. Đây còn là liều thuốc giải tỏa sự căng thẳng, hồi hộp của cô dâu/chú rể trước hôn lễ. Đặc biệt, một dịp đông đủ bạn bè thân như thế cô dâu/chú rể có thể quay những khoảnh khắc ấy và dựng một video cho hôn lễ của mình thêm phần đặc biệt. Có những thứ trên đời mà nhất định chúng ta không thể bỏ lỡ. Một trong những thứ đẹp nhất, lộng lẫy nhất chính. Chúng ta cũng từng thấy nhiều cặp đôi bật khóc khi nhìn thấy nhau trong lễ cưới. Những giọt nước mắt đầy hạnh phúc. Chắc hẳn các cặp đôi đang phân vân “nên chụp ảnh cưới phim trường hay studio”. Bài viết này của Kim Ngọc Thủy sẽ. Mã số doanh nghiệp: 0309903624 do Sở KHĐT TP.HCM cấp ngày 3/4/2010, Được sửa đổi lần thứ 2 vào 18/7/2015. Mã sốdoanh nghiệp: 0309903624 do Sở KHĐT TP.HCM cấp ngày 3/4/2010, Được sửa đổi lần thứ 2 vào 18/7/2015
|
Tiệc độc thân
|
Bữa tiệc chia tay thời độc thân hay còn gọi là tiệc độc thân là bữa tiệc được tổ chức vào đêm trước đám cưới của cô dâu và chú rể, theo đó, cô dâu, chú rể sẽ mời những bạn bè thân thiết nhất, cùng làm những việc không thể làm sau khi cưới. Thông thường các đôi uyên ương sẽ quy ước ngầm với nhau là không xuất hiện tại tiệc độc thân của vợ, chồng tương lai vì đây là thời gian hoàn toàn dành cho bạn bè. Bữa tiệc độc thân chính là dịp xả hơi, thư giãn hiếm có của cả cô dâu chú rể trước khi bước vào cuộc sống vợ chồng. Sau buổi tiệc này, cô dâu và chú rễ về cơ bản sẽ chấm dứt hoặc hạn chế tối đa những chuỗi ngày chơi bời, vui vẻ để chú tâm vào việc xây dựng, vun đắp gia đình của mình. Ngày nay, ngoài việc tổ chức lễ cưới các cô dâu chú rể còn có xu hướng tự ăn mừng để chia tay quãng đời độc thân của mình. Ở các nước phương Tây, trước ngày cưới diễn ra, cô dâu chú rể có truyền thống tự tổ chức một bữa tiệc riêng để chia tay quãng đời độc thân của mình.
|
Review phim Alpha : Người thủ lĩnh sẽ mang đến cho bạn câu chuyện giữa người và động vật: chú chó ALpha. Tình cảm giữa con người và các chú chó đã có từ rất lâu đời, bọ phim tái hiện lại nguồn ngốc quen biết giữa con người và các chú chó. Bộ phim lý giải vì sao nhiều quốc gia trên thế giới có định luật riêng về chó, những nàng girl cute thì yêu chó không rời hơn cả người. Từ vạn năm trước ở Châu Âu, thời điểm có một bộ tộc trên thảo nguyên sinh sồng. Keda Là một thiếu niên thông minh và nhân hậu trong bộ tộc, cậu là con trai của trưởng tộc. Trải qua cuộc tuyển chọn gay gắt của bộ tộc, Keda được xếp vào độihình săn bắn. Khi tham gia đi săn Keda gặp nạn bị hất văng xuống vách núi, bị thương, bị đói, mệt. Với tình trạng này cậu không thể bò lên trên vách núi được. Trong tình trạng bị thương nghiêm trọng cậu gặp được một chú chó sói: Alpha. Ban đầu, họ là kẻ thù. Alpha tấn công Keda chẳng thành, bị đánh trả rồi té ngã. Không nỡ giết Alpha, cậu bé còn cứu chú sói lạc bầy, đưa nó về hang động rồi chăm sóc và chữa trị. Có thể đây lòng thương sót với kẻ gặp hoàn cảnh như mình, tuy không phải là động vật nhưng vẫn có cảm tình. Các cảnh quay của bộ phim diễn biến của nó thực sự khá chậm chạp. Một số cảnh quay có phần thừa thải và một số cảnh khác lại diễn ra khá nhanh. Tuy nhiên, sự rề rà này phần nào đã được bù đắp bởi khung cảnh hùng vĩ trong từng khung hình của bộ phim. Đây cũng là một trong những điểm cộng “ăn tiền” của Alpha. Chưa kịp hết choáng ngợp với rừng núi hoang sơ hùng vĩ, người xem sẽ ngay lập tức hòa cùng cái lạnh buốt da của bộ tộc tiền sử, khi họ phải vượt qua những rặng băng đá trùng điệp và sắt nhọn. Phim trường cho Alpha: Người Thủ Lĩnh rộng hàng nghìn hecta. Dàn diễn viên phụ như Jóhannes Haukur Jóhannesson, Jens Hultén đều thể hiện tròn trịa vai trò. Tuy rằng, đất diễn của họ vô cùng ít ỏi. Albert Hughes là nhà làm phim nhiều năm kinh nghiệm tại Hollywood. Khởi nghiệp từ năm 1993 với tác phẩm Menace II Society, gia tài Albert sở hữu không nhiều bộ phim nhưng vẫn ghi dấu ấn bằng những cái tên nổi bật như The Book of Eli(Denzel Washington, Mila Kunis), From Hell (Johnny Depp, Heather Graham)… Dù chỉ có trong tay số vốn đầu tư tầm trung, ông vẫn dàn dựng được đại cảnh vĩ đại như thảo nguyên trải dài đến mênh mông vô tận, thế giới băng giá lạnh lẽo trắng xóa hay sa mạc cằn cỗi. Bộ phim có nhiều góc quay đẹp và sáng tạo. Nổi bật nhất là hình ảnh dữ dội khi Keda bám trụ trên vách núi cheo leo giữa con mưa xối xả hay yên bình dịu dàng hơn là khoảnh khắc cậu cùng Alpha lẳng lặng ngắm nhìn bầu trời đầy sao bên ngọn lửa ấm áp. Âm nhạc cũng là điểm cộng không nhỏ. Sự kết hợp giữa hai nhà chế tác giàu kinh nghiệm Joseph S. DeBeasi và Michael Stearns giúp những trường đoạn hào hùng, sống động trong phim thêm dâng trào cảm xúc, chạm tới trái tim khán giả. Con đường tình cảm từ kẻ thù thành bạn rồi thành tri kỷ của cặp đôi người- chó được thể hiện ngọt ngào và đậm chất nhân văn. Ngược lại, hình ảnh và màu sắc của bộ phim lại được trau chuốt cực kỳ. Từ những hiệu ứng đơn giản như đốm lửa lách tách tỏa hơi ấm trong cơn bão tuyết đang rền rĩ. Hay cơn mưa ướt át đổ ào ào trong khu rừng lạnh lẽo. Đặc biệt, chi tiết nghệ thuật gây được ấn tượng nhất trong phim nằm ở sự uyển chuyển và mượt mà của các hiệu ứng chuyển cảnh trong phim. Màu sắc nhợt nhạt, thiếu sức sống ở những phút đầu Alpha sẽ dần được “gột rửa” sau cơn mưa đầu tiên, trở nên sáng sủa và sống động hơn, đánh dấu chuyến phiêu lưu của Keda đã bắt đầu. Hay cơn bão tuyết trắng xóa che mờ sự hiện diện của bất cứ sinh vật nào lại tương phản hoàn hảo với dòng nước lạnh cóng, chảy xiết dữ dội dưới lớp băng dày đặc. Hay là cánh đồng vàng óng ả trong buổi hoàng hôn, vẻ đẹp kỳ bí của ánh sáng cực quang lan tỏa trên bầu trời. Trang phục được đầu tư cẩn thận, bạn sẽ thấy nhân vạt trong phim mặc bộ quần áo chát vải kém cỏi hay chấp vá đúng với con người vạn năm trước. Bộ phim còn đề cao tinh thần kiên cường của con người giữa tự nhiên khắt nghiệt thời cổ đại. Loài sinh vật nhỏ bé nhờ vào trí thông minh, sự can đảm và tính đoàn kết đã thành công chiến thắng nhiều bầy đàn dã thú to lớn hơn. Bộ phim không có nhiều tuyến nhân vật,câu chuyện chủ yếu xoay quanh chú chó sói Alpha và Keda . Nhưng bộ phim vẫn quấn hút, bởi nội dung và tình cảm giữa hai nhân vật truyền tải đến.
|
Alpha
|
Alpha: Người thủ lĩnh (tên gốc tiếng Anh: Alpha) là một bộ phim ra mắt năm 2018 của đạo diễn Albert Hughes, phim có sự tham gia của các diễn viên Kodi Smit-McPhee, Leonor Varela và Jens Hultén. Phim lấy bối cảnh từ 20.000 năm trước ở châu Âu tiền sử làm câu chuyện từ thù hóa bạn giữa cậu thanh niên tiền sử (do Kodi Smit-McPhee thủ vai) và một con sói cái bị thương và lạc bầy, cũng từ đây, lịch sử nhân loại hoàn toàn thay đổi khi thuần hóa được loài sói thành chó nhà. Nhân vật chính của phim là Keda, con trai tộc trưởng một bộ lạc, trong một lần đi săn thú lớn (săn bò rừng cổ đại) để có cái ăn cho bộ tộc, trong khi săn, chàng trai trẻ đã bị con bò mộng đầu đàn húc rơi xuống vách đá. Khi tỉnh dậy, chỉ còn một thân một mình, anh chàng phải chiến đấu giành lại sự sống và trở về nhà theo dấu những vì sao được xăm trên bàn tay, đồng hành cùng anh còn có Alpha là con sói cái hung dữ dần dần bị thuần hóa, hành trình của chàng trai trẻ Keda là minh chứng cho ý chí kiên cường và nghị lực của con người từ thời kỳ đầu của nền văn minh nhân loại.
|
Đại hội Thể thao Đông Nam Á hay Đông Nam Á Vận Hội (tiếng Anh: SEA Games hay South East Asian Games), là một sự kiện thể thao tổ chức hai năm một lần với sự tham gia của các vận động viên từ 11 nước khu vực Đông Nam Á hiện nay. Những môn thể thao tổ chức trong đại hội do Liên đoàn thể thao Đông Nam Á điều hành với sự giám sát của Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) và Hội đồng Olympic châu Á. Ngày 22 tháng 5 năm 1958, các nước Đông Nam Á tham dự Đại hội Thể thao châu Á lần thứ III ở Tokyo, Nhật Bản, Phó Chủ tịch Ủy ban Olympic Thái Lan khi đó là Laung Sukhumnaipradit đã đề xuất và được các nước Đông Nam Á nhất trí thành lập một tổ chức thể thao của Đông Nam Á với tên gọi ban đầu là Liên đoàn Thể thao Bán đảo Đông Nam Á (The South East Asian Peninsular Games Federation hay SEAP Games Federation). Liên đoàn Thể thao Đông Nam Á sẽ tổ chức hai năm một lần vào năm lẻ một đại hội thể thao khu vực nhằm mục đích:. Tăng cường tình hữu nghị, tình đoàn kết và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước trong khu vực ASEAN. Nâng cao không ngừng thành tích, kỹ thuật, chiến thuật các môn thể thao cho vận động viên để có cơ sở tham gia Đại hội Thể thao Á châu và Olympic. Thái Lan, Myanmar, Malaysia, Lào, Việt Nam Cộng Hòa trước đây và Campuchia (Singapore thêm vào sau đó khi tách ra khỏi Malaysia để trở thành quốc gia độc lập vào ngày 9 tháng 5, 1965) là các nước sáng lập. Các nước sáng lập đã thông qua điều lệ của Liên đoàn và bầu ra Ban chấp hành. SEAP Games đầu tiên được tổ chức tại Bangkok từ 12-17 tháng 12, 1959 với hơn 527 vận động viên và quan chức thể thao đến từ Thái Lan, Miến Điện, Malaysia, Singapore, Việt Nam và Lào tham dự trong 12 môn thể thao. Tại SEAP Games lần thứ 8 tổ chức vào năm 1975, Liên đoàn SEAP đã xem xét kết nạp thêm Indonesia và Philippines. Hai nước này chính thức được kết nạp năm 1977, cùng năm đó Liên đoàn SEAP đổi tên thành Liên đoàn Thể thao Đông Nam Á (South East Asian Games Federation, SEAGF), và sự kiện thể thao này cũng đổi tên theo thành Đại hội Thể thao Đông Nam Á. Brunei được kết nạp vào SEA Games thứ 10 tại Jakarta, Indonesia, và Đông Timor được kết nạp tại SEA Games thứ 22 tại Hà Nội, Việt Nam. Vovinam lần đầu tiên được đưa vào chương trình thi đấu chính thức của SEA Games 26 được tổ chức ở Indonesia vào năm 2011. Lần thứ 2 được đưa vào SEA Games 27 đang diễn ra tại Myanmar. Học Võ Vovinam không phải là kênh thông tin chính thức của bất kỳ tổ chức, liên đoàn, chi hội Vovinam Việt Võ Đạo nào cả. Chúng tôi hoạt động hoàn toàn độc lập. Trang blog được khởi tạo vào tháng 6 năm 2013, chạy trên nền tảng Blog mã nguồn mở WordPress.
|
Đại hội Thể thao Bán đảo Đông Nam Á 1965
|
Đại hội Thể thao Bán đảo Đông Nam Á lần thứ 3 là sự kiện thể thao đa môn được tổ chức tại Kuala Lumpur, Malaysia từ ngày 14 - 21 tháng 12 năm 1965 với 963 vận động viện thi đấu ở 14 môn thể thao. Ban đầu đại hội này dự kiến diễn ra tại Lào song nước này từ chối vì lý do khó khăn tài chính nên đăng cai đại hội được trao cho Malaysia. Đây là lần đầu tiên Malaysia đăng cai một sự kiện thể thao đa môn. Malaysia là quốc gia thứ ba đăng cai Đại hội Thể thao Bán đảo Đông Nam Á (sau này được gọi là Đại hội Thể thao Đông Nam Á) sau Thái Lan và Miến Điện. Đại hội đã được khai mạc và bế mạc bởi Quốc vương Malaysia, Ismail Nasiruddin tại sân vận động Merdeka. Hai năm về trước, đại hội dự định sẽ diễn ra tại Phnôm Pênh, Campuchia theo lượt đăng cai thứ tự bảng chữ cái (Phnôm Pênh 1963). Tuy nhiên, đại hội sau đó đã phải hủy bỏ do trong nước xảy ra xung đột nội bộ và cuộc xung đột giữa Campuchia và Thái Lan về Đền Preah Vihear đã làm cho mối quan hệ của hai nước xấu đi.
|
- Nguyên tử có khối lượng vô cùng bé, nếu tính bằng gam thì số trị quá nhỏ không tiện sử dụng. Vì lý do đó khoa học đã dùng một cách riêng để biểu thị khối lượng nguyên tử. Người ta quy ước lấy 1/12 khối lượng của nguyên tử cacbon làm đơn vị khối lượng cho nguyên tử, gọi là đơn vị cacbon. - Nguyên tử khối là khối lượng của một nguyên tử tính bằng đơn vị cacbon. - Nguyên tử có khối lượng vô cùng bé, nếu tính bằng gam thì số trị quá nhỏ không tiện sử dụng. Vì lý do đó khoa học đã dùng một cách riêng để biểu thị khối lượng nguyên tử. Người ta quy ước lấy 1/12 khối lượng của nguyên tử cacbon làm đơn vị khối lượng cho nguyên tử, gọi là đơn vị cacbon. - Nguyên tử khối là khối lượng của một nguyên tử tính bằng đơn vị cacbon. Một bình cầu chứa đầy hỗn hợp khí metan và oxi khối lượng là 75 g.Trong cùng điều kiện trên, bình nạp đầy khí metan đem cân có khối lượng 72,6 g. Bình cầu đó chứa đầy oxi đem cân có khối lượng 82,2 g. Hỏi lượng oxi trong bình chứa hh khí trên có đủ đốt cháy lượng metan trong đó không ? Tính khối lượng các chất sau phản ứng?. Hợp chất M có công thức X2Y3. Tổng số electron trong phân tử M là 50. Hiệu số proton của hai nguyên tử X và Y là 5. Xác định hai nguyên tố X, Y. Một hợp chất X tạo bởi ba nguyên tố Mg, S và O có tỉ lệ về khối lượng tương ứng là 3 : 4 : 6, biết 0,45 mol X nặng 46,8 gam. Xác định công thức hóa học của hợp chất X. Hợp chất M có công thức X2Y3. Tổng số electron trong phân tử M là 50. Hiệu số proton của hai nguyên tử X và Y là 5. Xác định hai nguyên tố X, Y. Một hợp chất X tạo bởi ba nguyên tố Mg, S và O có tỉ lệ về khối lượng tương ứng là 3 : 4 : 6, biết 0,45 mol X nặng 46,8 gam. Xác định công thức hóa học của hợp chất X. Hoà tan 5 (gam) Nacl vào 45g nước. Tính khối lượng dd sau khi pha chế?. Hoà tan 5 (gam) Nacl vào 45g nước. Tính khối lượng dd sau khi pha chế. hòa tan 11g hh gồm fe và al vừa đủ trong đ h2so4 thu được dd a và 8,96l khí ở đktc. tính khối lượng chất trong hh ban đầu ,, tính nồng độ mol h2so4 phản ứng. Bài 1: Cho 32,5 gam kim loại A(II) cho vào dung dịch HCl dư, sau phản ứng hoàn toàn thấy khối lượng dung dịch sau phản ứng nặng hơn khối lượng dung dịch ban đầu 31,5 gam. Xác định kim loại A. Từ muối (CuSO4), nước cất và những dụng cụ cần thiết, hãy tính toán và giới thiệu cách pha chế. Từ muối ăn NaCl, nước cất và những dụng cụ cần thiết, hãy tính toán và giới thiệu cách pha chế. Từ nước cất và những dụng cụ cần thiết, hãy tính toán và giới thiệu cách pha chế. Hoà tan 450g KNO3 vào 500g nước cất ở 2500C (dung dịch X). Hãy xác định khối lượng KNO3 tách ra khỏi dung dịch khi làm lạnh dung dịch X đến 200C. Cho 0,2 mol CuO tan hết trong dung dịch (H2SO4) 20% đun nóng (lượng vừa đủ). Sau đó làm nguội dung dịch đến (10^0C). Tính khối lượng tinh thể (CuSO4.5H2O) đã tách khỏi dung dịch, biết rằng độ tan của (CuSO4) ở (10^0C) là 17,4g. Khi đốt nóng, 1g magie (Mg) kết hợp được với 2,96g clo (Cl) tạo ra hợp chất magie clorua. Tìm CTHH của magie clorua, biết phân tử của hợp chất chỉ có 1 nguyên tử magie. Hòa tan hoàn toàn 33,3 gam hỗn hợp X gồm Al và Fe (có tỷ lệ số mol tương ứng là 2:3) trong dung dịch axit clo hidric (HCl) thấy thu được hỗn hợp muối Y gồm nhôm clorua (AlCl3), sắt (II) clorua (FeCl2), đồng thời thấy thoát ra V lít khí H2 ở đktc.
|
Đơn vị khối lượng nguyên tử
|
Đơn vị khối lượng nguyên tử hay dalton (ký hiệu SI: u hoặc Da), là một đơn vị đo khối lượng trong hóa học và vật lý, sử dụng đo khối lượng của các nguyên tử và phân tử. Nó được quy ước bằng một phần mười hai khối lượng của nguyên tử carbon đồng vị 12. Nguyên tử có khối lượng vô cùng nhỏ bé, nếu tính bằng gram thì số trị vô cùng nhỏ, không tiện dụng. Thí dụ, khối lượng của một nguyên tử Cacbon (C) là: 0,000 000 000 000 000 000 000 019 926 g (= 1,9926. Tại Việt Nam, người ta quy ước lấy 1/12 khối lượng của nguyên tử Cacbon làm đơn vị khối lượng cho nguyên tử, được gọi là Đơn vị Cacbon, viết tắt là đvC. Trong Hệ Đo lường Quốc tế (SI), nó được ký hiệu bằng chữ "u".
|
Theo khảo sát cá nhân, chỉ có 50% những người thuận tay trái sử dụng chuột máy tính bằng tay thuận. Tương tự, có tới 68% những người này vẫn dùng kéo và tới 74% vẫn cầm dao bằng tay phải. Ngày nay, 1/10 dân số thế giới thuận tay trái. Các chứng tích khảo cổ cho thấy điều này đã có sẵn từ 500.000 năm trước, với khoảng 10% hài cốt được tìm thấy có sự khác biệt về độ dài cánh tay và mật độ xương, các công cụ cổ đại và đồ thủ công cũng là bằng chứng cho thấy sự hiện diện của việc thuận tay trái. Có một sự thật là bạn không thể lựa chọn tay thuận và nó có thể được dự đoán trước khi sinh, dựa trên tư thế bào thai trong bụng mẹ. Theo các nhà khoa học Mỹ, những người thuận tay trái chiếm 15% dân số thế giới. Trong đó, số đàn ông thuận tay trái nhiều gấp đôi phụ nữ. Và khi kết hợp thì sao nhỉ, nếu hai người thuận tay trái kết hôn với nhau, khả năng con họ cũng thuận tay trái là 50%. Ngược lại, nếu hai người thuận tay phải kết hôn với nhau, khả năng sinh ra một “baby” tay trái chỉ là 2%. Một khả năng nữa dẫn đến việc thuận tay trái, theo các số liệu thống kê là nếu người mẹ càng già thì đứa con sinh ra sẽ càng có khả năng thuận tay trái. Những người thuận tay trái thường có nhiều tài lẻ và đặc biệt thông minh. 20% số thành viên của MENSA – tổ chức dành cho những người có IQ cao tại hơn 100 quốc gia trên thế giới – là những người thuận tay trái. Tổng thống Mỹ, Barack Obama là một trong những người thuận tay trái nổi tiếng nhất thế giới. Thêm vào đó, một nghiên cứu cũng cho thấy rằng, sau khi cùng tốt nghiệp đại học, trung bình 26% những người thuận tay trái sẽ trở nên giàu có hơn những người thuận tay phải Tiến sĩ Nick Cherbuin thuộc Trường Đại học quốc gia Australia thì cho biết, những người thuận tay trái thường có khả năng xử lý tốt và làm việc dưới điều kiện bị kích thích cao. Chính vì vậy, họ thường chơi điện tử giỏi hơn những người thuận tay phải. Theo khảo sát cá nhân, chỉ có 50% những người thuận tay trái sử dụng chuột máy tính bằng tay thuận. Tương tự, có tới 68% những người này vẫn dùng kéo và tới 74% vẫn cầm dao bằng tay phải. Một điều thú vị nữa là, những người thuận tay trái thường cực kỳ cực kỳ dễ có khả năng sẽ ghét…. sổ lò xo, cũng như dễ trở nên nghiện rượu gấp ba lần người bình thường. Các nhà tâm lý học thuộc Đại học Belfast đã chứng minh thấy rằng, mèo cái thường cào bằng móng chân phải trong khi đa số mèo đực lại thuận móng chân trái. Như vậy, không chỉ có con người mà ngay cả các loài động vật cũng có chân (hoặc tay) thuận riêng của mình đấy. Câu trả lời là nó di truyền theo tỷ lệ chứ không chắc chắn. Song sinh đồng trứng tuy cùng 1 bộ gene nhưng vẫn có thể có tay thuận khác nhau. Xác suất thuận tay phải hay trái được xác định bởi tay thuận của bố mẹ với tỷ lệ cố định đáng kinh ngạc:. Cả bố và mẹ đều thuận tay phải thì con sẽ có xác suất 10% thuận tay trái. Bố thuận tay trái, mẹ thuận tay phải thì con sẽ có xác suất 17% thuận tay trái. Mẹ thuận tay trái, bố thuận tay phải thì con sẽ có xác suất 22% thuận tay trái. Cả bố và mẹ đều thuận tay trái thì con sẽ có xác suất 25% thuận tay trái. Việc thuận tay nào sẽ có xác suất được quy định bởi bộ gene, từ đó cho thấy quá trình tiến hóa đã cố tình tạo ra phần thiểu số người thuận tay trái và duy trì tỷ lệ này qua hàng thiên niên kỷ. Rất nhiều bộ phận cơ thể chúng ta sẽ "tiêu tan" trong tương lai, và đó là.
|
Ngày Quốc tế người thuận tay trái
|
Ngày Quốc tế người thuận tay trái là một trong những ngày Quốc tế được tổ chức hàng năm vào ngày 13 tháng 8 để tôn vinh sự độc đáo và khác biệt của những người thuận tay trái. Sự kiện được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1976 bởi Dean R. Campbell, là người thành lập của Lefthanders International, Inc. Ngày Quốc tế người thuận tay trái được tạo ra để ca ngợi sự độc đáo và nâng cao sự hiểu biết về lợi ích và bất lợi của người thuận tay trái, trái ngược lại với thế giới của người thuận tay phải. Sự kiện để tôn vinh sự độc đáo và khác biệt của một tập hợp riêng biệt chiếm 7 đến 10 phần trăm của dân số thế giới. Sự kiện cũng nâng cao ý thức của dân chúng về các vấn đề liên quan tới thuận tay trái, và nó cũng là ngày quan trọng cho những đứa trẻ thuận tay trái, và cơ hội cho những người tay trái phát triển Tâm thần phân liệt. Trên thế có xấp xỉ 708 triệu người thuận tay trái. Nam có xu hướng thuận tay trái nhiều hơn nữ.
|
Công nghệ cao hiện đại đang là xu hướng tất yếu trong thời đại phát triển về khoa học – kỹ thuật như hiện nay. Áp dụng công nghệ tiên tiến nhằm đáp ứng và nâng cao sức cạnh tranh trong sản xuất công nghiệp và nông nghiệp tại nước ta. Vậy công nghệ cao là gì? Ở Việt Nam, có những ngành nào ứng dụng công nghệ hiện đại?. 2 Những ngành áp dụng công nghệ cao trong sản xuất tại nước ta2.1 Ngành nông nghiệp công nghệ cao 2.2 Lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao. Công nghệ tiên tiến, hiện đại là lĩnh vực có các công trình nghiên cứu khoa học phát triển để lĩnh hội được những tích cực từ thành tựu của xã hội hiện nay. Từ đó, các nhà khoa học, nhà sản xuất tạo ra những sản phẩm có các tính năng vượt trội, chất lượng tốt, giá trị tăng cao và thân thiện với môi trường. ” Sử dụng các sản phẩm máy sấy khô khí nén công nghệ cao tại các xí nghiệp cũng là một giải pháp về thông gió”. Các thiết bị được tạo ra đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các ngàng dịch vụ, sản xuất mới hay nâng cao lĩnh vực công nghiệp hóa, hiện đại hóa những ngành nghề hiện có. – Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về lĩnh vực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. Những sản phẩm được tạo ra từ việc tích hợp các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng. Với những tính năng vượt trội, cùng giá trị gia tăng cao và không gây ảnh hưởng tới môi trường. Từ đó, công nghệ hiện đại đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc phát triển, hiện đại hóa khối ngành sản xuất, dịch vụ đang hiện có. – Đồng thời, những hoạt động của công nghệ cao được nghiên cứu, phát triển, tìm kiếm và chuyển giao những ứng dụng công nghệ hiện đại nhất. Bên cạnh đó, việc đào tạo nguồn nhân lực ứng dụng được công nghệ tiên tiến để ươm tạo công nghệ cao. Hơn nữa, ươm tạo hệ thống các doanh nghiệp chuyên trong lĩnh vực áp dụng công nghệ cao vào sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ từ công nghệ hiện đại nhằm phát triển công nghiệp. Hiện tại, ở nước ta đang áp dụng các dự án công nghệ cao trong nhiều khối ngành như nông nghiệp, công nghiệp, y tế, chế tạo, tự đông hóa để thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Tiêu biểu nhất là ngành công nghiệp và nông nghiệp. Nền nông nghiệp công nghệ hiện đại được ứng dụng những cơ sở vật chất mới nhất nhằm tạo ra các bước đột phá về năng suất và cải thiện chất lượng nông sản. Đồng thời, nông nghiệp tiên tiến luôn đóng vai trò quan trọng trong toàn cục của nền kinh tế. Từ đó, nông sản giúp xóa đói giảm nghèo, bình ổn giá thành… để phục vụ cho người dân và xuất khẩu hiệu quả. Hiện nay, trong lĩnh vực nông nghiệp được áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất phổ biến ở các khâu tự động hóa quy trình, cơ giới các thao tác nhân giống, chăm bón, thu hoạch và chế biến. Việc áp dụng công nghệ sinh học vào sản xuất các loại giống vật nuôi và cây trồng chất lượng cao và hình thành các mô hình sản suất hiệu quả để đạt doanh thu kinh tế cao. Vì thế, việc ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp tại nước ta có bước đột phá mới và đạt được những thành tựu đáng kể trong sản xuất. Từ đó, nông nghiệp có sự đóng góp rất lớn. Nông nghiệp đã tạo ra những bước đột phá mới về số lượng, chất lượng và đa dạng chủng loại nông sản cung ứng ra thị trường không chỉ trong nước và trên thế giới. Từ những nỗ lực ban đầu của việc áp dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động sản xuất, phát triển công nghiệp trong những năm gần đây. Nhiều thành tựu về khoa học, công nghệ trên thế giới đã chuyển gian và áp dụng thành công trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, các dự án về ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất chip sinh học nhằm phục vụ chuẩn đoán và điều trị các bệnh lý trong lĩnh vực y tế. Hơn nữa, nhiều đơn vị đã tiến hành xây dựng các nhà máy xử lý chất thải từ dầu nhờn để bảo vệ môi trường. Việc sản xuất dầu gốc hiệu quả, phục vụ được trong vấn đề pha chế dầu nhờn trong nước, cùng với công nghệ được chuyển giao độc quyền từ các công ty, doanh nghiệp có uy tín trên thế giới. Xem thêm>>> Công nghệ 4.0 là gì? Cơ hội và thách thức khi hội nhập nền công nghiệp 4.0. Hơn nữa, nhà nước cũng đã có những chính sách mở đường nhằm thúc đẩy các ứng dụng công nghệ cao trong nền công nghiệp. Thông qua việc nâng cao trình độ, năng lực sản xuất về tổ chức quản lý là hướng đi đúng đắn nhất. Khi đó, hiệu quả về kinh tế được đảm bảo và phát triển bền vững của ngành công nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm của việc áp dụng công nghệ hiện đại vào các ngành chủ đạo, việc đầu tư cho công nghiệp công nghệ tiên tiến đang đòi hỏi sự thích nghi của xã hội và nguồn lực lớn. Vì thế, bài toán được đặt ra cho các doanh nghiệp cần chủ động tìm ra định hướng mới. Đồng thời, trong xã hội cần chung tay, đoàn kết, góp sức để đặt nền móng chắc chắn cho sự phát triển công nghệ. Hy vọng các doanh nghiệp áp dụng ngành công nghệ cao trong lĩnh vực sản xuất nên có những định hướng đúng đắn để thúc đẩy sự phát triển. Rất mong với những gì chúng tôi vừa mang tới sẽ giúp bạn giải đáp được câu hỏi Công nghệ cao là gì? Từ đó, đất nước phát triển giàu mạnh hơn.
|
Công nghệ cao
|
Công nghệ cao hay kỹ thuật cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, trị giá gia tăng cao và thân thiện với môi trường; đóng một vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa, công nghiệp hóa các ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. Không có sự phân định rõ ràng một loại công nghệ nào đó thuộc loại công nghệ cao dựa vào thời gian, vì vậy nên các sản phẩm được quảng cáo là công nghệ cao trong những năm 1960 hiện nay có thể sẽ được xem là công nghệ thông thường hay công nghệ thấp. Sự không rõ ràng trong định nghĩa về công nghệ cao dễ dẫn đến các doanh nghiệp, các nhà tiếp thị thường mô tả gần như toàn bộ các sản phẩm mới là công nghệ cao. Việc phát triển và ứng dụng công nghệ cao trong nền sản xuất của mỗi nước đều chiếm vị trí quan trọng.
|
Phá thai an toàn là một trong những phương pháp để loại bỏ thai nhi, chấm dứt tình trạng thai nghén do mang thai ngoài ý muốn của các chị em phụ nữ. Việc phá thai cần phải được tiến hành một cách cẩn thận nếu không sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe cũng như khả năng sinh sản của phái nữ. Để giúp chị em hiểu hơn về thủ thuật này, các chuyên gia sản phụ khoa sẽ có những chia sẻ qua bài viết dưới đây. Mời chị em và bạn đọc cùng theo dõi!. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁ THAI AN TOÀN HIỆN NAY1. Phá thai an toàn bằng thuốc2. Kỹ thuật phá thai không đau Helen Brown. ĐỊA CHỈ PHÁ THAI AN TOÀN UY TÍN NHẤT 20201. Phương pháp phá thai an toàn tiên tiến2. Máy móc, trang thiết bị y tế hiện đại3. Chi phí phá thai phù hợp. Có rất nhiều chị em vì một lý do nào đấy mang thai ngoài ý muốn và phải đi đến quyết định phá bỏ thai nhi. Việc phá thai là phương pháp để chấm dứt thai nghén, giúp chị em tránh được những lo lắng do chữa sẵn sàng trong việc làm mẹ. Phá thai tưởng chừng như đơn giản, nhưng nếu không được thực hiện kỹ càng, cẩn thận sẽ để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng. Phá thai an toàn phải được thực hiện tại những cơ sở y tế đạt chuẩn, có giấy phép hoạt động rõ ràng, với đầy đủ mọi trang thiết bị hiện đại, dụng cụ y tế phải được đảm bảo vệ sinh. Có như vậy, việc phá thai mới diễn ra được an toàn hiệu quả và hạn chế tối đa những biến chứng có thể xảy ra. Việc phá thai phải được thực trong điều kiện thai nhi đã vào tử cung, sức khỏe của người mẹ bảo đảm tốt cho quá trình thực hiện phá thai. Việc phá thai càng được thực hiện sớm, khi thai nhi còn nhỏ thì sẽ đơn giản và dễ dàng hơn so với việc để thai nhi quá lớn mới tiến hành phá thai. Điều này, sẽ ảnh hưởng đến tính mạng của sản phụ và còn ảnh hưởng đến khả năng mang thai sau này. Tùy vào độ tuổi của thai nhi mà các bác sĩ sẽ lựa chọn phương pháp phá thai an toàn và phù hợp nhất. Dưới đây sẽ là một số cách phá thai an toàn đang được áp dụng phổ biến nhất hiện nay, chị em hãy tham khảo nhé:. Việc phá thai bằng thuốc sẽ được các bác sĩ lựa chọn để phá thai khi tuổi thai từ 5-8 tuần tuổi. Các bác sĩ sẽ sử dụng thuốc cho sản phụ uống để làm bong túi thai, kích thích sự co bóp của tử cung, nhằm đẩy thai nhi ra ngoài một cách tự nhiên nhất. Để đảm bảo việc phá thai an toàn bằng thuốc mang lại hiệu quả cao thì thai phụ cần tìm đến các cơ sở y tế uy tín để thực hiện. Tại đây, các bác sĩ chuyên khoa sẽ có những hướng dẫn và chỉ định như sau:. Tiến hành thăm khám lâm sàng, kiểm tra tình trạng của thai phụ và thai nhi. Nếu đủ điều kiện bác sĩ sẽ tiến hành thực hiện phá thai bằng thuốc. Thai phụ được cho uống thuốc phá thai (viên số 1) có tác dụng làm ngưng sự phát triển của thai, túi thai sẽ từ từ bong ra khỏi thành tử cung. Sau khi uống viên số 1 nếu không có vấn đề gì bất thường thai phụ có thể về nhà. Sau 48 tiếng kể từ khi uống viên số 1, thai phụ cần quay lại địa chỉ phá thai để uống tiếp viên số 2. Thai phụ sẽ được kiểm tra và theo dõi. Thường thì sau khi uống viên số 2 khoảng 30 phút – 4 giờ bạn sẽ có cảm giác đau bụng, ra máu kèm theo máu cục. Điều đó chứng tỏ thai đang được đẩy ra ngoài. Bác sĩ sẽ theo dõi tình trạng thai phụ trong vòng từ 2 – 3 tiếng sau đó, nếu sức khỏe của thai phụ tốt và không có biểu hiện ra thì có thể về nhà để nghỉ ngơi. Phá thai bằng thuốc chỉ thực sự an toàn khi tuổi thai còn nhỏ, sức khỏe mẹ bầu bảo đảm tốt. Ngoài ra, phương pháp này sẽ không được áp dụng khi thai quá lớn dễ để lại những di chứng như sót nhau, gây ảnh hưởng tới sức khỏe và tính mạng của chị em phụ nữ. Trong một vài năm gần đây kỹ thuật điều trị đã phát triển rất nhanh, đã xuất hiện rất nhiều phương pháp nạo phá thai khác nhau. Phương thức nạo phá thai không gây đau đớn làm giảm mức độ tổn thương xuống thấp nhất, tất cả đều giúp ích rất lớn cho bệnh nhân. Hiện nay, tại Phòng Khám Đa Khoa Thủ Đô Vĩnh Phúc đã đưa vào áp dụng “Kỹ thuật phá thai không đau đớn HELEN Brown” đã giúp các bác sĩ phá thai an toàn và thành công cho rất nhiều ca bệnh. Phương pháp này được rất nhiều chị em tin tưởng bởi nó đem lại nhiều ưu thế lớn trong việc giải quyết những tổn thương ngoài ý muốn như:. Dùng kỹ thuật siêu dẫn có thể thấy để giám sát trong quá trình phẫu thuật. Trên màn hình hiển thị có thể trực tiếp nhìn thấy tình trạng bộ phận bên trong cổ tử cung, xác định vị trí túi thai, đánh dấu điểm thu hút trên lông mao. Bác sĩ sẽ nhìn màn hình để làm phẫu thuật, giúp cho cuộc phẫu thuật trở nên an toàn và dễ dàng hơn. Áp dụng kỹ thuật gây tê ngắn ở tĩnh mạch, bệnh nhân sẽ rơi vào trạng thái ngủ say trong vòng 40 giây. Thai phụ tiếp nhận phẫu thuật trong trạng thái ngủ say, giảm cảm giác sợ hãi, hơn nữa không gây đau, chảy máu ít trong khi phẫu thuật hay sau khi phẫu thuật xong, cơ thể hồi phục nhanh. Có thể thấy kỹ thuật nạo phá thai có thể hạn chế mức độ xuất hiện các tổn thương ở trong cổ tử cung và tránh cho bệnh tái phát. Sau phá thị, chị em phụ nữ vẫn giữ nguyên được chức năng sinh sản của mình. Phẫu thuật có thể hoàn thành trong một vài phút, tổn thương ít, các bạn gái sau khi phẫu thuật, kiểm tra lại trong vòng 30 phút là có thể về nhà. Do đó mà không làm ảnh hưởng đến học tập và công việc thường ngày. Trở thành sự lựa chọn được giới văn phòng và sinh viên tin cậy. Chi phí phá thai an toàn hết bao nhiêu thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó có thể kể đến một số yếu tố chính như:. Khi thai nhi càng nhỏ việc phá thai bằng thuốc sẽ được ưu tiên hơn và khi đó thì chi phí cho việc phá thai cũng sẽ ở mức vừa phải, không quá cao. Ngược lại, nếu chị em còn chần chừ trong việc phá thai, để thai nhi ngày một lớn dần thì việc phá thai sẽ khó khăn hơn, đòi hỏi phải vận dụng những phương pháp kỹ thuật hiện đại thì chi phí lúc đó sẽ cao hơn rất nhiều. Một cơ sở phá thai uy tín, có giấy phép hoạt động, có đội ngũ bác sĩ giỏi, máy móc, trang thiết bị y tế hiện đại, phương pháp phá thai tiên tiến thì sẽ có mức chi phí khá cao. Nhưng đổi lại thai phụ sẽ trải qua quá trình phá thai một cách an toàn, không đau đớn, hiệu quả cao. Còn nếu chị em vì ham rẻ mà tìm đến phá thai tại những địa chỉ kém chất lượng thì việc phá thai sẽ không được đảm bảo về chất lượng cũng như độ an toàn. Các bác sĩ tay nghề còn non kém thì việc phá thai tuy có chi phí rẻ nhưng không đảm bảo được chính xác và sự an toàn. Dễ để lại những biến chứng nguy hiểm ảnh hưởng tới sức khỏe, đặc biệt là khả năng sinh sản sau này. Chính vì vậy, việc phá thai an toàn cần phải được thực hiện bởi các y bác sĩ giỏi, có trình độ chuyên môn cao và giàu kinh nghiệm. Tuy chi phí sẽ cao hơn một chút nhưng chị em hoàn toàn có thể yên tâm về chất lượng, hiệu quả. Ngoài ra, giá cho một lần phá thai an toàn còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như: phí khám lâm sàng, phí tái khám…Để biết một cách chính xác nhất về bảng giá hay chi phí phá thai thì thai phụ cần phải đến trực tiếp các cơ sở y tế để thăm khám. Căn cứ vào tuổi thai mà bác sĩ sẽ tư vấn về phương pháp cũng như chi phí cụ thể cho lần phá thai này. Phá thai an toàn không phải tất cả các bệnh viện, phòng khám nào cũng có thể làm được việc này. Một trong những phòng khám phá thai ở Vĩnh Phúc được đông đảo chị em tin tưởng là Phòng Khám Đa Khoa Thủ Đô Vĩnh Phúc.
|
Phá thai
|
Phá thai được định nghĩa y học như thuật ngữ về một sự kết thúc thai nghén bằng cách loại bỏ hay lấy phôi hay thai nhi khỏi tử cung trước khi đến hạn sinh nở. Ở người và các giống loài khác, một sự phá thai có thể xảy ra một cách tự nhiên vì biến chứng trong quá trình mang thai, hay do cố ý gây ra. Trong trường hợp mang thai ở loài người, một sự phá thai có chủ đích có thể bị gọi là điều trị hay tùy chọn. Thuật ngữ phá thai chủ yếu nhắc tới trường hợp phá thai có chủ đích khi mang thai; những ca mất thai một cách tự nhiên thường được gọi bằng thuật ngữ sẩy thai. Phá thai, khi được thực hiện tại các quốc gia phát triển theo những quy định pháp lý khi việc này là hợp pháp, thường là một trong những thủ thuật an toàn nhất trong y tế. Tuy nhiên, những vụ phá thai không an toàn (những vụ được thực hiện bởi những người không được đào tạo thích hợp hay bên ngoài một cơ sở y tế) dẫn tới xấp xỉ 70 nghìn ca tử vong bà mẹ và 5 triệu ca khuyết tật hàng năm trên toàn thế giới.
|
Thập tự chinh là một loạt các chiến dịch quân sự được tiến hành vì lý do tôn giáo bởi nhiều quốc gia Công giáo La Mã ở Châu Âu, đặc biệt là nước Pháp và Đế quốc La Mã Thần thánh. Các cuộc thập tự chinh cụ thể để khôi phục lại kiểm soát của người Kitô giáo tới vùng Đất Thánh là các cuộc chiến tranh kéo dài trong thời gian gần 200 năm, từ năm 1095 đến năm 1291. Các chiến dịch ở Tây Ban Nha và Đông Âu được tiếp tục vào thế kỷ 15. Các cuộc thánh chiến chủ yếu của lực lượng Công giáo La Mã (diễn ra sau khi Sự ly khai Đông Tây và hầu hết xẩy ra trước Cải cách Tin lành) nhằm vào người Hồi giáo, những người đã chiếm đóng vùng Cận đông kể từ thời vương quốc Hồi giáo Rashidun, Mặc dù các chiến dịch này cũng được tiến hành để chống lại người Slav, người Balt ngoại đạo, người Do Thái, người Nga và Kitô hữu Chính Thống, người Mông Cổ, người Cathar, người Hussite, người Waldensian, nước Phổ cổ, và kẻ thù chính trị của các giáo hoàng. Phe Chính Thống giáo cũng tham gia chiến đấu chống lại lực lượng Hồi giáo trong một số cuộc thập tự chinh. Những người tham gia Thập tự chinh thường là tự nguyện và đã được cấp một lễ rửa tội tập thể. Các cuộc thập tự chinh ban đầu có mục tiêu là chiếm lại Jerusalem và Đất Thánh từ tay người Hồi giáo và các chiến dịch của họ được tiến hành để trả lời lời kêu gọi từ những người Kitô giáo của Đế quốc Byzantine để giúp họ chống lại sự bành trướng của người Seljuk Turk Hồi giáo vào vùng Anatolia. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để mô tả các chiến dịch tiếp theo được tiến hành tới tận thế kỷ 16 ở vùng lãnh thổ bên ngoài Levant, các chiến dịch này thường nhằm vào dân ngoại đạo, dị giáo và những người bị rút phép thông công bởi một tập hợp các lý do tôn giáo, kinh tế và chính trị. Sự ganh đua giữa hai quyền lực Thiên chúa giáo và Hồi giáo cũng đã dẫn đến các liên minh giữa các phe phái tôn giáo chống lại đối thủ của họ, chẳng hạn như liên minh của người Thiên chúa giáo với Vương quốc Hồi giáo Rum trong cuộc Thập tự chinh lần thứ năm. Các cuộc thập tự chinh đã tác động sâu rộng đến chính trị, kinh tế và xã hội, một số ảnh hưởng số trong đó kéo dài tới tận thời nay. Vì các cuộc xung đột nội bộ giữa các vương quốc Thiên chúa giáo và quyền lực chính trị, một số trong những cuộc thập tự chinh đã bị lệch khỏi mục tiêu ban đầu của họ, chẳng hạn như cuộc Thập tự chinh lần thứ tư, Kết quả là một cuộc bao vây được nhắm vào thành phố Constantinople và các thuộc địa của đế chế Byzantine bởi người Venice và quân Thập tự chinh. Cuộc Thập tự chinh thứ sáu là cuộc thập tự chinh đầu tiên được khởi hành mà không cần sự cho phép chính thức của Giáo hoàng. Các cuộc Thập tự chinh lần thứ bảy, thứ tám và thứ chín kết quả là người Mamluk và Hafsid đã chiến thắng, cuộc Thập tự chinh lần thứ chín đánh dấu sự kết thúc của các cuộc thập tự chinh trong vùng Trung Đông. Đất Thánh là nơi cực kỳ quan trọng đối với người Kitô giáo, vì nơi đây là nơi sinh ra, giảng đạo, bị đóng đinh và phục sinh của Chúa Giêsu thành Nazareth, Người Kitô luôn coi Chúa Giêsu như là Đấng Cứu thế hay Messiah. Đến cuối thế kỷ thứ 4, sau khi Hoàng đế La Mã Constantine chuyển đổi sang Thiên chúa giáo (năm 313) và sau đó thành lập đế quốc Byzantine sau sự phân rẽ của Đế quốc La Mã, Đất Thánh đã trở thành một khu vực chủ yếu là của người Kitô giáo. Các lễ hội tôn giáo được tiến hành cho nhiều lễ kỷ niệm và cho những sự kiện trong cuộc đời của Chúa Giê-xu tại các địa điểm quan trọng. Jerusalem nói riêng giữ một ý nghĩa quan trọng trong đạo Hồi vì nó là địa điểm để lên thiên đường của tiên tri Muhammad người mà người Hồi giáo tin là vị tiên tri quan trọng nhất của Allah và Jerusalem được xem là địa điểm thiêng liêng thứ ba trong số những địa điểm thiêng liêng nhất của người đạo Hồi. Sự hiện diện của người Hồi giáo tại Đất Thánh bắt đầu với việc người Hồi giáo xâm chiếm Syria trong thế kỷ thứ 7 dưới sự lãnh đạo của Rashidun Khalip. Chiến thắng của các đội quân Hồi giáo ngày càng tăng áp lực vào Đế quốc Byzantine Chính thống giáo Đông, người ban đầu đã tuyên bố khu vực là lãnh thổ của họ (một phần của Đế quốc Đông La Mã mà Byzantine được thừa kế) – sự kiện này cũng bao gồm cuộc tấn công cuối cùng của người Seljuk Thổ Nhĩ Kỳ. Jerusalem cũng có tầm quan trọng lịch sử với tôn giáo của người Do Thái vì nó là địa điểm của Western Wall-Bức tường phía Đông- phần cuối cùng còn lại của Đền thờ thứ hai. Người Do Thái coi Israel như là quê hương của tổ tiên của họ và đã đi thăm thành phố kể từ khi nó bị chiếm đóng bởi người La Mã và bị từ bỏ bởi người Do Thái sau cuộc nổi loạn của họ vào năm 66-73 AD. Một yếu tố khác góp phần vào sự thay đổi thái độ của phương Tây về phía phương Đông vào năm 1009, khi Quốc vương Hồi giáo al-Hakim bi-Amr Allah triều Fatimid đã ra lệnh phá hủy Nhà thờ Thánh Sepulchre. Trong năm 1039 người thừa kế ông ta sau khi yêu cầu thanh toán một khoản tiền lớn đã cho phép đế quốc Byzantine xây dựng lại nó. Người hành hương đã được phép đến vùng đất Thánh trước và sau khi Nhà thờ Sepulchre được xây dựng lại. Người Hồi giáo đã nhận ra rằng có rất nhiều của cải đến Jerusalem từ những người hành hương, vì lý do này và cả những lý do khác, sự khủng-bố nhắm vào người hành hương cuối cùng cũng dừng lại. Tuy nhiên, thiệt hại vẫn xẩy ra và bạo lực của người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk đã trở thành một phần của mối quan tâm mà lan rộng hỗ trợ cho các cuộc thập tự chinh Thiên chúa giáo trên toàn thế giới. Nguồn gốc của các cuộc thập tự chinh nằm trong sự phát triển của các nước Tây Âu trước đó trong thời Trung cổ, cũng như tình hình đang ngày một xấu đi của Đế quốc Byzantine ở phía đông gây ra bởi các làn sóng tấn công mới của người Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ. Các phân tích về Đế quốc Carolingian vào những năm cuối thế kỷ 9, kết hợp với sự ổn định tương đối của các địa phương biên giới châu Âu sau sự kiện những người Viking, Slavs và Magyar được Kitô giáo hóa, đã xảy ra việc một số lượng lớn các chiến binh có vũ trang và đầy nhiệt tình đã chiến đấu với nhau một cách không đúng chỗ ( các chiến binh dù đã được Kitô giáo hóa nhưng họ vẫn là những chiến binh và nghề nghiệp của họ chỉ là đánh giết ) và thường tiến hành khủng-bố dân chúng địa phương. Giáo Hội đã cố gắng để ngăn chặn nạn bạo lực này với các phong trào Thỏa thuận ngừng bắn và Hòa bình của Thiên Chúa, tuy đã thu được phần nào thành công nhưng các chiến binh được đào tạo luôn luôn tìm kiếm một lối thoát để phát huy các kỹ năng của họ và cơ hội để mở rộng lãnh thổ đang ngày càng trở nên kém hấp dẫn trước giới đại quý tộc. Năm 1063, Giáo hoàng Alexander II đã ban phước lành của mình để giáo dân ở Iberia tiến hành cuộc chiến tranh của họ chống lại người Hồi giáo, ông đã cấp cả một tiêu chuẩn của giáo hoàng (vexillum Sancti Petri) và một lễ rửa tội cho những người đã thiệt mạng trong trận chiến. Lời cầu khẩn của Hoàng đế Byzantine, người lúc này đang bị đe dọa bởi người Seljuk đã được lọt vào những đôi tai sẵn sàng lắng nghe. Những gì xảy ra từ năm 1074, giữa Hoàng đế Michael VII với Đức Giáo Hoàng Gregory VII và từ năm 1095 giữa Hoàng đế Alexios I Komnenos với Giáo hoàng Urban II. Một nguồn xác định trong hồ sơ của Trung Quốc Michael VII như là một người cai trị của Hy Lạp (Fulin), đã gửi một phái đoàn tới nhà Tống-Trung Quốc năm 1081. Một học giả Trung Quốc cho rằng đặc sứ này và thậm chí cả Byzantine nữa trong năm 1091 yêu cầu Trung Quốc hỗ trợ trong cuộc chiến chống lại người Thổ. Các cuộc thánh chiến là một phần lối thoát cho một niềm đạo đức tôn giáo mãnh liệt lúc này càng ngày càng tăng lên vào cuối thế kỷ 11 trong số các công dân là giáo dân ở châu Âu. Một người thập tự quân sau khi đã thề một lời thề trang trọng và nhận được một cây thánh giá từ tay của Đức Giáo Hoàng hay legate-đại diện của ông ta và được từ đó người này được coi là một “người lính của Giáo Hội”. Đây là một phần của Investiture Controversy ( sự trao quyền đầy Tranh cãi ), vốn bắt đầu khoảng năm 1075 và vẫn còn tiếp diễn đến cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Khi hai phe thuộc Investiture Controversy cố gắng để thu hút ý kiến ủng hộ của công chúng cho họ, làm cho mọi người trở nên tham gia vào một cuộc tranh cãi tôn giáo mạnh mẽ một cách cá nhân. Kết quả là họ đã đánh thức đạo đức Kitô giáo một cách mạnh mẽ và vì lợi ích cộng đồng trong các vấn đề tôn giáo, và ý thức này lại được tăng cường hơn nữa bằng các tuyên truyền về tôn giáo, mà chủ trương là Just Wa-Chỉ bằng chiến tranh ( ý nói không có thương lượng) để chiếm lại Thánh Địa từ tay người Hồi giáo. Đất Thánh bao gồm Jerusalem (nơi theo thần học Kitô giáo đã xảy ra cái chết, phục sinh và bay vào thiên đường của Chúa Giê-xu) và Antioch (thành phố đầu tiên của Giáo dân Kitô giáo). Hơn nữa, sự tha tội ( rửa tội? em ko rành lắm) là một nhân tố thúc đẩy bất kỳ người nào còn biết kính Chúa, những người đã phạm tội ác mà muốn thoát khỏi sự trừng phạt muôn đời không thể cưỡng lại của Địa ngục. Đây là một vấn đề tranh cãi nóng bỏng trong các cuộc Thánh chiến là liệu những gì được gọi là “tha tội-rửa tội” có ý nghĩa thật sự hay không ( hay bị lợi dụng). Hầu hết những người tham gia Thập tự chinh đều tin rằng bằng cách tái chiếm Jerusalem họ sẽ đi thẳng lên thiên đàng sau khi họ chết trận. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề tranh cãi xung quanh chính xác những gì các giáo hoàng đã hứa trong thời gian này. Một giả thuyết là nếu một người đã chết trong chiến đấu để lấy lại Jerusalem trong thời gian “tha tội-rửa tội” được áp dụng-> sẽ được lên thiên đàng, đây là chính xác những gì Giáo hoàng Urban II nói trong bài phát biểu của mình. Điều này có nghĩa rằng nếu quân viễn chinh đã thành công và trong trường hợp tái chiếm được Jerusalem thì những người sống sót sẽ không được xoá tội và không được lên thiên đàng ( Hoàn toàn hợp lý, Giáo hoàng ban sự xóa tội cho những người hy sinh khi tái chiếm Jerusalem-họ là người tử vì đạo và được lên thiên đàng, vậy những người không tử trận thì không được xoá tội, vậy muốn lên đó thì họ phải tự tử khi vừa mới thu được thắng lợi để được lên thiên đàng?). Nguyên nhân trực tiếp của cuộc Thập tự chinh đầu tiên là hoàng đế Byzantine Alexios I đề nghị Giáo hoàng Urban II cử lính đánh thuê đến để giúp ông chống lại người Hồi giáo lúc này đang ồ vào lãnh thổ của đế quốc Byzantine. Năm 1071, tại Trận Manzikert ( sẽ có một bài riêng về trận này) Đế chế Byzantine bị đánh bại, dẫn đến sự mất mát phần lớn vùng Tiểu Á (hiện nay là Thổ Nhĩ Kỳ) và họ chỉ còn giữ được vùng duyên hải. Mặc dù cố gắng hòa giải sau Sự ly khai Đông Tây giữa Catholic Church ( Công giaó La Mã ) ở phía tây châu Âu và Giáo hội Chính Thống phương Đông đã không thành công, hoàng đế Alexius I hy vọng cho một phản ứng tích cực từ phía Giáo hoàng Urban II và đã có nó. Khi những cuộc Thập tự chinh đầu tiên được truyền bá trong năm 1095, các hoàng tử Kitô giáo ở miền Bắc xứ Iberia đang chiến đấu ở vùng núi Galicia và Asturias, các xứ Basque và Navarre ( Basque thuộc nay TBN và Navarre nay thuộc Pháp ), đã có các thành công liên tục trong khoảng một trăm năm. Sự sụp đổ của vùng Toledo và Vương quốc León của người Moor trong năm 1085 là một chiến thắng lớn, nhưng điểm nóng chảy ( điểm thay đổi mang tính bản lề ) của phong trào Reconquista vẫn còn nằm trong tương lai. Sự mất đoàn kết của các tiểu vương Hồi giáo là một yếu tố tối cần thiết. Trong khi phong trào Reconquista ( tái chiếm các vùng đất thuộc TBN ngày nay khỏi tay người Hồi giáo) là ví dụ nổi bật nhất về phản ứng của châu Âu để chống lại các Cuộc chinh phục của người Hồi giáo, nhưng đây không phải là ví dụ duy nhất. Robert Guiscard-tay phiêu lưu người Norman đã chinh phục xứ Calabria năm 1057 và giữ được Sicily-vùng lãnh thổ truyền thống của Đế quốc Byzantine trước sự xâm lược của người Hồi giáo. Các thành bang có hải quân phát triển như Pisa, Genoa và Catalonia tất cả đều tích cực chiến đấu chống lại vương quốc Majorca của người Hồi giáo, và giải phóng được vùng bờ biển nước Ý và Catalonia khỏi các cuộc tấn công của người Hồi giáo. Trước đó rất lâu Syria, Lebanon, Palestine, Ai Cập… quê hương của Kitô giáo đã bị chinh phục bởi đội quân của người Hồi giáo. Những đêm trường lịch sử của việc mất mát những lãnh thổ nhạy cảm này vào tay một kẻ thù tôn giáo đã tạo ra một động lực mạnh mẽ để đáp ứng lời kêu gọi của hoàng đế Byzantine Alexius I về một cuộc thánh chiến để bảo vệ Thiên Chúa giáo và để tái chiếm các vùng đất bị mất bắt đầu từ Jerusalem. Đức Giáo Hoàng Gregory VII đã có những tranh cãi về các giá trị giáo lý của một cuộc thánh chiến và đổ máu nhân danh Chúa với những khó khăn trong việc giải quyết các câu hỏi phán xét việc bạo lực mang lại lợi lộc cho ai. Quan trọng hơn nữa là Đức Giáo Hoàng quan tâm đến việc các Kitô hữu hành hương đến Đất Thánh bị bức hại. Thánh Saint Augustine xứ Hippo-bản sao về mặt trí tuệ của Giáo hoàng Gregory, đã biện minh cho việc sử dụng vũ lực trong việc phục vụ Chúa Kitô trong The City of God-Thành phố của Thiên Chúa, và chỉ bằng chiến tranh của Kitô giáo mới có thể nâng cao vị thế của một nhà lãnh đạo mạnh mẽ đầy tham vọng của châu Âu, như Gregory đã nhìn nhận về chính mình. Những người miền Bắc sẽ tăng cường củng cố xung quanh Rome, và các hiệp sĩ chuyên gây rắc rối của họ có thể sẽ thấy được nghề nghiệp phù hợp với họ ( tiếp tục nghề đâm chém ở phương Đông ). Những nỗ lực trước đây của nhà thờ để ngăn chặn bạo lực, chẳng hạn như khái niệm “Hòa bình của Thiên Chúa” đã không thu được thành công như mong đợi. Về phía nam của Rome, người Norman đã cho thấy họ đáng sợ như thế nào đối với cả hai người Ả Rập (ở Sicily) và Byzantine (trên đất liền). Một quyền bá chủ của người La tinh ( phương Tây) ở các quốc gia Trung cận động sẽ cung cấp đòn bẩy trong việc giải quyết tranh chấp giữa Giáo hoàng trước uy quyền tối cao của Giáo trưởng Constantinople, việc này đã dẫn đến việc Sự ly khai lớn trong năm 1054, một rạn nứt không thể giải quyết bằng sức mạnh của người Frank. Tại Đế quốc Byzantine, điểm yếu của Hoàng đế phía Đông đã bị bộc lộ bởi sự thất bại thảm hại trong Trận Manzikert trong năm 1071, lãnh thổ châu Á của đế chế ở khu vực phía tây Anatolia và vùng xung quanh Constantinople đã thất thủ.
|
Thập tự chinh thứ năm
|
Cuộc Thập tự chinh lần thứ năm (1213-1221) là một cố gắng nhằm giành lại Jerusalem và phần còn lại của Đất Thánh bằng cách chinh phạt Triều đình Ayyubid hùng mạnh của Ai Cập. Giáo hoàng Innôcentê III và người kế nhiệm của ông, Giáo hoàng Hônôriô III đã đứng ra tổ chức một đội quân thập tự chinh do vua Andrew II của Hungary và Công tước Leopold VI của Áo, và một bước đột phá so với Jerusalem cuối cùng rời thành phố trong tay người Hồi giáo. Sau đó trong 1218, một quân đội Đức do Oliver của Cologne, và quân đội hỗn hợp của người Hà Lan, Flemish và Frisco nằm dưới sự chỉ huy của William I, Bá tước của Hà Lan đã tham gia vào cuộc thập tự chinh. Để tấn công vào vùng Damietta ở Ai Cập, họ đã liên minh với Vương quốc Hồi giáo Rum của người Seljuk ở vùng Anatolia để tấn công các thành trì của triều Ayyubids tại Syria trong một nỗ lực để giải phóng quân Thập tự chinh khỏi việc phải chiến đấu trên hai mặt trận. Sau khi chiếm được bến cảng Damietta, Quân Thập tự chinh đã hành quân về phía nam phía Cairo vào tháng 7 năm 1221, nhưng họ đã phải quay trở lại sau khi nguồn cung cấp của họ bị cạn kiệt và sự kiện này đã dẫn đến một thất bại.
|
Văn miếu Xích Đằng là một di tích quan trọng trong quần thể di tích Phố Hiến. Được xây dựng từ cuối thời Lê thế kỷ 17 (khoảng năm 1701), được trùng tu lớn vào năm 1839 (năm Minh Mệnh thế 20) Văn miếu Xích Đằng vẫn giữ được nguyên vẹn kiến trúc cổ. Khuôn viên của Văn Miếu rộng 6000 m2 bao gồm các công trình kiến trúc: Tam quan, lầu chuông, lầu khánh, hai dải vũ, khu chính của Văn miếu và khu tháp thờ. Tam quan Văn miếu được xây dựng theo kiến trúc “chồng diêm hai tầng tám mái”. Đây là công trình kiến trúc đặc sắc vẫn giữ được nguyên vẹn từ khi xây dựng và tam quan được lấy làm biểu tượng của tỉnh Hưng Yên. Từ tam quan đi vào là sân Văn miếu và tòa chính. Sân Văn miếu trước kia đây là nơi diễn ra các kì thi hương. Hai bên sân là lầu chuông và lầu khánh. Lầu chuông có treo quả chuông đồng đúc năm Gia Long tam niên (1804) và lầu khánh bên trong treo một chiếc khánh đá được dựng năm Gia Long nhị niên (1803). Tiếp đến là hai dải vũ, được xây theo kiến trúc 5 gian, xưa kia là nơi các quan để cỗ kiệu sửa soạn mũ áo trước khi vào lễ Khổng Tử, nay là nơi trưng bày những hình ảnh về giáo dục và du lịch tỉnh Hưng Yên. Tòa chính được xây theo kiến trúc kiểu chữ Tam, gồm ba tòa: Tiền tế, trung từ và hậu cung. Bên trong tòa chính là nơi thờ Khổng Tử, nhà giáo Chu Văn An, các vị thánh hiền nho giáo và là nơi dựng 9 tấm bia đánh ghi danh các vị học sĩ đỗ đạt cao. Bàn thờ Không Tử, người sáng lập ra đạo Nho, cùng các học trò giỏi của ông là: Mạnh Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Nhan Tử. Bên cạnh thờ Khổng Tử, Văn miếu còn thờ Chu Văn An, một thầy giáo tài năng đức độ thời Trần, người được lịch sử tôn vinh là “ông tổ đạo Nho của nước Nam ta”. Hai bức tượng đồng lấy mẫu tượng từ Văn Miếu Quốc Tử Giám và được cung tiến năm 2003. Mảnh đất Phố Hiến xưa không chỉ phát triển về kinh tế, mà giáo dục cũng rất khởi sắc. Bằng chứng được ghi lại trên 9 tấm bia đá trong Văn miếu. Hơn 200 vị khoa bảng được vinh danh trên bia đá. Trong số đó, có học vị cao nhất có thể kể đến Trạng nguyên Tống Trân (người thôn An Cầu, huyện Phù Cừ,) đời Trần. Và chức vụ cao nhất là Lê Như Hổ, quận công triều Mạc… Những tấm bia đá được dựng hai bên tòa chính này cũng là một trong những hiện vật quý giá nhất mà Văn miếu Xích Đằng còn giữ lại. Người dân ở làng Xích Đằng kể lại, Văn miếu được xây dựng trên một ngôi chùa cổ có tên Tứ Tuyệt Đường Tự, ngôi chùa được xây dựng bởi Thiền sư Minh Châu Thượng Hải, và Tứ Nguyệt Đường tự cũng là một trung tâm văn hóa giáo dục, liên tục đào tạo những thế hệ Thiền sư danh tiếng, nhằm phục hưng dòng thiền Trúc Lâm. Hiện nay bên trong khuôn viên văn miếu vẫn còn lại ngôi tháp của Thiền tháp tăng Thông Viên-Hiển Mật (đệ tử của Thiền sư Minh Châu), ngôi tháp của Thiền sư Minh Châu Thượng Hải nằm gần đó, trong khuôn viển của nhà dân. Văn miếu Xích Đằng xưa có hai mùa lễ hội, trọng hội là ngày 10 tháng 2 và 10 tháng 8. Cứ vào các ngày trọng hội, các vị nho học và quan đầu tỉnh phải đến Văn miếu tế lễ để thể hiện nề nếp nho phong, tôn sư trọng đạo làm gương cho con cháu, cầu mong sự nghiệp giáo dục ngày càng tiến bộ. Ngày nay, hàng năm vào dịp mùng 4, mùng 5 Tết Văn miếu lại tổ chức lễ hội với các hoạt động như hát ca trù, cho chữ đầu xuân.
|
Văn miếu Xích Đằng
|
Văn miếu Xích Đằng hay còn gọi là Văn miếu Hưng Yên là một di tích quan trọng trong quần thể di tích Phố Hiến. Văn miếu Xích Đằng là văn miếu thuộc hàng tỉnh, được xây dựng vào khoảng năm 1701, hiện tại thuộc địa phận thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Văn miếu thờ Khổng Tử người sáng lập đạo Nho và thờ Vạn thế sư biểu Chu Văn An - nhà sư phạm tài năng đức độ thời Trần. Xưa kia, Văn Miếu là nơi tổ chức các cuộc thi Hương và sát hạch thí sinh đi dự kì thi Hương. Vào mỗi dịp xuân thu nhị kỳ, nơi đây còn tổ chức tế lễ. Chủ tế là các quan đầu tỉnh cùng chức sắc, nho sinh. Nơi đây cũng thường xuyên tổ chức các cuộc thi bình văn, thơ của nho sĩ yêu nước. Văn miếu Xích Đằng có tên như vậy vì được xây dựng trên đất làng Xích Đằng, xưa kia là văn miếu của trấn Sơn Nam căn cứ vào khánh, chuông còn lại ở văn miếu. Hệ thống quần thể di tích Văn miếu Xích Đằng đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử năm 1992.
|
Thư viện công cộng là thư viện mà công chúng có thể truy cập và thường được tài trợ từ các nguồn công cộng, chẳng hạn như thuế. Nó được điều hành bởi thủ thư và nhân viên thư viện, mà cũng là công chức. Có năm đặc điểm cơ bản được chia sẻ bởi các thư viện công cộng: chúng thường được thuế tài trợ (thường là địa phương, mặc dù bất kỳ cấp chính phủ nào cũng có thể và có thể đóng góp); chúng được điều hành bởi một hội đồng để phục vụ lợi ích công cộng; chúng được mở cho tất cả mọi người và mọi thành viên trong cộng đồng đều có thể truy cập vào kho sách; chúng hoàn toàn tự nguyện ở chỗ không ai bị buộc phải sử dụng các dịch vụ được cung cấp; và chúng cung cấp các dịch vụ cơ bản miễn phí. Thư viện công cộng tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới và thường được coi là một phần thiết yếu để có một lượng dân số có học thức và biết chữ. Thư viện công cộng khác với thư viện nghiên cứu, thư viện trường học và các thư viện đặc biệt khác ở chỗ nhiệm vụ của các thư viện công cộng là phục vụ nhu cầu thông tin chung của công chúng hơn là nhu cầu của một trường, tổ chức hoặc một cộng đồng nghiên cứu cụ thể. Thư viện công cộng cũng cung cấp các dịch vụ miễn phí như thời gian kể chuyện ở trường mầm non để khuyến khích trẻ biết chữ sớm, khu vực học tập và làm việc yên tĩnh cho học sinh và các chuyên gia hoặc các câu lạc bộ sách để khuyến khích sự đánh giá cao về văn học ở người lớn. Thư viện công cộng thường cho phép người dùng mượn sách và các tài liệu khác, tức là tạm thời lấy sách ra khỏi thư viện; chúng cũng có các bộ sưu tập tham chiếu không lưu hành và cung cấp truy cập Internet và máy tính cho khách hàng. Đỉnh cao phát triển trong nhiều thế kỷ với tiến bộ trong báo in, nhà xuất bản, giấy, mực, xuất bản và phân phối, kết hợp với tầng lớp trung lưu hướng thông tin ngày càng phát triển, tăng cường hoạt động thương mại và tiêu dùng, ý tưởng cấp tiến mới, tăng dân số lớn và cao hơn tỷ lệ biết chữ đã tạo ra thư viện công cộng với hình thức như ngày nay. Cho phép mọi người đều được đọc sách không phải là mới. Người La Mã đã tạo ra các cuộn giấy trong các phòng khô dành cho các khách quen của nhà tắm, và đã cố gắng thành công để thiết lập các thư viện trong đế chế của họ. Vào giữa thế kỷ 19, sự thúc đẩy tạo ra các thư viện công cộng thực sự, được trả tiền lấy từ tiền thuế và được nhà nước điều hành đã có được hỗ trợ lớn. Chính trong những năm xung đột giai cấp và khủng bố kinh tế, phong trào thư viện công cộng đã quét qua nước Anh, khi giới tinh hoa tiến bộ của quốc gia nhận ra rằng ánh sáng của năng lượng văn hóa và trí tuệ đang thiếu thốn trong cuộc sống của người dân. Các thư viện công cộng thường được bắt đầu bằng việc quyên góp, hoặc được trao lại cho các giáo xứ, nhà thờ, trường học hoặc thị trấn. Các thư viện xã hội và tổ chức này đã hình thành nên cơ sở của nhiều bộ sưu tập sách của thư viện công cộng và học thuật ngày nay. Các thư viện cho mượn sách cũng tính phí đăng ký, tuy nhiên các khoản phí được đặt để lôi kéo khách hàng quen của họ, cung cấp đăng ký trên cơ sở hàng năm, hàng quý hoặc hàng tháng mà không mong muốn người đăng ký mua cổ phần trong thư viện lưu hành. Điều này đã giúp những khách hàng quen không đủ khả năng mua sách, có thể mượn sách để đọc và sau đó trả lại sách. Điều này cũng tạo ra một nhu cầu phổ biến hơn, vì chi phí mua sách ngày càng tăng và nhiều sách được sao chép. Các thư viện cho mượn sách rất phổ biến, thư viện đầu tiên được thành lập vào năm 1725, tại thị trấn Edinbrough, Scotland của Allan Ramsay. Các thư viện cho mượn sách không phải là các tổ chức cho mượn độc quyền và thường cung cấp một nơi cho các hình thức hoạt động thương mại khác, có thể có hoặc không liên quan đến in ấn. Điều này là cần thiết bởi vì các thư viện lưu hành đã không tạo ra đủ tiền thông qua phí thuê bao được thu thập từ những người vay. Là một liên doanh thương mại, điều quan trọng là phải xem xét các yếu tố đóng góp như các hàng hóa hoặc dịch vụ khác có sẵn cho các khách thuê bao. Thư viện Malatestiana (tiếng Ý: Biblioteca Malatestiana), còn được gọi là Thư viện Malatesta Novello, là một thư viện công cộng có từ năm 1452 tại Cesena, Emilia-Romagna (Ý). Đó là thư viện công dân châu Âu đầu tiên, tức là thuộc về Công xã và mở cửa cho mọi người. Công việc xây dựng được Matteo Nuti của Fano (một học giả của Leon Battista Alberti) chịu trách nhiệm và kéo dài từ 1447 đến 1452. Thomas Bodley thành lập Thư viện Bodleian vào năm 1602 như một thư viện công cộng ban đầu. Nhà sử học Yahya ibn Said al-Antaki (mất năm 1066) đã báo cáo rằng Fatimid Caliph Al-Hakim bi-Amr Allah (996-1021) tài trợ cho các thư viện và mở cửa cho công chúng, nơi mà bất kỳ ai, ngay cả những giáo dân đơn giản, đều có thể chọn bất kỳ cuốn sách nào họ muốn và được họ sao chép miễn phí cho họ bởi những người ghi chép công khai, miễn phí. Tuy nhiên, cũng như nhiều quyết định khác của ông, Al-Hakim sau đó đã ra lệnh đảo ngược chính sách này. Ở Cesena, Ý, thư viện công cộng do cộng đồng điều hành đầu tiên, Thư viện Malatestiana, được thành lập năm 1447, cung cấp cả văn bản thế tục và tôn giáo bằng tiếng Latin, tiếng Hy Lạp và tiếng Do Thái, và hoàn toàn mở cửa cho tất cả mọi người. Một thư viện ban đầu khác cho phép tiếp cận công chúng là Kalendars hoặc KalWikiies, một nhóm anh em giáo sĩ và giáo dân gắn bó với Nhà thờ All-Hallowen hoặc All Saints ở Bristol, Anh. Các hồ sơ cho thấy vào năm 1464, một điều khoản đã được lập cho một thư viện được dựng lên trong nhà của Kalendars, và tham khảo được thực hiện theo một chứng thư của ngày đó theo đó “được chỉ định rằng tất cả những ai muốn vào vì mục đích hướng dẫn sẽ có “quyền truy cập và giải lao miễn phí” vào những giờ giấc nhất định “. Trong những năm đầu của thế kỷ 17, nhiều thư viện trong trường đại học và thị trấn nổi tiếng được thành lập ở Anh. Thư viện thành phố Norwich được thành lập vào năm 1608 (sáu năm sau khi Thomas Bodley thành lập Thư viện Bodleian, mở cửa cho “toàn bộ nền cộng hòa của những người có học”) và Thư viện Chetham ở Manchester, nơi tự nhận là thư viện công cộng lâu đời nhất ở Thế giới nói tiếng Anh, mở cửa năm 1653. Claude Sallier, nhà triết học và nhà thờ người Pháp, đã vận hành một hình thức thư viện công cộng đầu tiên ở thị trấn Saulieu từ 1737 đến 1750. Ông mong muốn làm cho văn hóa và học tập có thể tiếp cận được với tất cả mọi người. Thư viện mở cửa cho công chúng và thực sự là thư viện công cộng đầu tiên của Ba Lan, lớn nhất ở Ba Lan và là một trong những thư viện công cộng sớm nhất ở châu Âu. Trong Thời kỳ Khai Sáng vào đầu thế kỷ 18, các thư viện ngày càng trở nên công khai và các thư viện cho mượn thường xuyên hơn. Thế kỷ 18 chứng kiến sự chuyển đổi từ các thư viện địa phương khép kín sang các thư viện cho vay. Trước thời điểm này, các thư viện công cộng có tính chất đơn sắc và các thư viện thường xuyên xâu chuỗi sách của họ vào bàn làm việc. Thư viện cũng không được công khai cho tất cả công chúng. Năm 1790, Đạo luật Thư viện Công cộng sẽ không được thông qua trong sáu mươi bảy năm nữa. Bảo tàng Anh được thành lập năm 1751 và có một thư viện chứa hơn 50.000 cuốn sách. Mặc dù Bảo tàng Anh tồn tại vào thời điểm này và chứa hơn 50.000 cuốn sách, thư viện quốc gia này không mở cửa cho công chúng, hoặc thậm chí cho phần lớn người dân. Truy cập vào Bảo tàng phụ thuộc vào việc chờ đến lượt, đôi khi có thời gian chờ đợi từ ba đến bốn tuần. Hơn nữa, thư viện không được mở để tìm sách. Khi đến lượt vào thư viện đã được cấp, người đọc được đưa đi tham quan thư viện. Nhiều độc giả phàn nàn rằng chuyến đi tham quan này quá ngắn. Tương tự, Bibliotheque du Roi ở Paris yêu cầu các vị khách tiềm năng phải được sàng lọc cẩn thận, và ngay cả sau khi quy định này được đáp ứng, thư viện chỉ mở hai ngày mỗi tuần và chỉ để xem huy chương và các bản khắc, chứ không phải xem sách. Vào năm 1820, Thư viện Trung ương Bang, Kerala bắt đầu hoạt động ở Trivandrum, Ấn Độ, đây không chỉ là thư viện công cộng đầu tiên của Ấn Độ mà còn là tổ chức đầu tiên như vậy bên ngoài châu Âu. Tuy nhiên, đã có một mạng lưới cung cấp thư viện trên cơ sở tư nhân hoặc tổ chức. Các thư viện đăng ký, cả tư nhân và thương mại, đã cung cấp cho tầng lớp trung lưu đến thượng lưu với nhiều loại sách với mức phí vừa phải. Sự gia tăng của văn học thế tục tại thời điểm này đã khuyến khích sự lan rộng của các thư viện cho vay, đặc biệt là các thư viện đăng ký thương mại. Thư viện đăng ký thương mại bắt đầu khi các nhà sách bắt đầu thuê thêm các bản sao sách vào giữa thế kỷ 18. Steven Fischer ước tính rằng vào năm 1790, có “khoảng sáu trăm thư viện cho thuê và cho vay, với lượng khách hàng khoảng năm mươi ngàn”. Giữa thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 18 chứng kiến một dịch bệnh ảo của việc đọc của nữ giới khi tiểu thuyết ngày càng trở nên phổ biến. Tiểu thuyết, trong khi bị xã hội coi thường, là cực kỳ phổ biến. Ở Anh, có nhiều người than thở về “những cuốn sách tục tĩu và bậy bạ” và sự phản đối của họ đối với các thư viện cho mượn sách, vẫn còn tồn tại trong thế kỷ 19. Tuy nhiên, nhiều cơ sở phải lưu hành nhiều lần số lượng tiểu thuyết như bất kỳ thể loại nào khác. Năm 1797, Thomas Wilson đã viết trong Sử dụng các thư viện lưu hành: “Hãy xem xét, để một thư viện lưu hành thành công, bộ sưu tập sách phải chứa 70% sách hư cấu”. Tuy nhiên, tỷ lệ phần trăm tổng thể của tiểu thuyết chủ yếu phụ thuộc vào chủ sở hữu của thư viện lưu hành. Trong khi một số thư viện lưu hành gần như chứa hoàn toàn tiểu thuyết, những thư viện khác có ít hơn 10% bộ sưu tập tổng thể của họ dưới dạng tiểu thuyết. Khởi đầu trung bình quốc gia của thế kỷ 20 có tỷ lệ tiểu thuyết chiếm khoảng 20% tổng số sách. Tiểu thuyết đa dạng từ các loại sách khác theo nhiều cách. Họ được đọc chủ yếu để thưởng thức thay vì để nghiên cứu. Họ không cung cấp kiến thức hàn lâm hoặc hướng dẫn tâm linh; do đó chúng được đọc nhanh và ít hơn rất nhiều lần so với những cuốn sách khác. Đây là những cuốn sách hoàn hảo cho các thư viện thuê bao thương mại để cho khách mượn. Vì sách được đọc để thưởng thức thuần túy hơn là cho công việc học thuật, nên sách cần phải trở nên rẻ hơn và nhỏ hơn. Các ấn bản duodecimo nhỏ của sách được ưa thích hơn các phiên bản folio lớn. Các phiên bản Folio đã được đọc tại bàn làm việc, trong khi các phiên bản duodecimo nhỏ có thể dễ dàng đọc như bìa mềm ngày nay. Nhà báo người Pháp, Louis-Sébastien Mercier đã viết rằng các cuốn sách cũng được tách thành nhiều phần để độc giả có thể thuê một phần của cuốn sách trong vài giờ thay vì cả ngày. Điều này cho phép nhiều độc giả có thể có quyền truy cập vào cùng một tác phẩm cùng một lúc, làm cho nó có lợi hơn cho các thư viện lưu hành. Giống như bìa mềm ngày nay, nhiều tiểu thuyết trong các thư viện lưu hành không bị ràng buộc. Vào thời kỳ này, nhiều người đã chọn đóng sách bằng da. Nhiều thư viện lưu hành đã bỏ qua quá trình này. Thư viện lưu hành không phải là trong kinh doanh bảo quản sách; chủ sở hữu của họ muốn cho mượn sách nhiều lần nhất có thể. Các thư viện lưu hành đã mở ra một cách đọc hoàn toàn mới. Đọc sách không còn đơn giản là một sự theo đuổi học thuật hay một nỗ lực để có được sự hướng dẫn tâm linh. Đọc sách trở thành một hoạt động xã hội. Nhiều thư viện lưu hành đã được gắn vào các cửa hàng xay xát hoặc nông nghiệp. Thư viện phục vụ để làm nơi trao đổi trong xã hội và gặp gỡ bạn bè như các cửa hàng cà phê ngày hôm nay. Một yếu tố khác trong sự phát triển của các thư viện thuê bao là chi phí sách ngày càng tăng. Trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ, đặc biệt, giá thực tế đã tăng gấp đôi, do đó, một tác phẩm tứ tấu có giá một guinea, một shtavo 10 shilling hoặc 12 shilling, và một duodecimo có giá 4 shilling trên mỗi tập. Ngoài ra, giá cả, sách rất khó mua ngoài Luân Đôn, vì các nhà sách địa phương không đủ khả năng để mang các cổ phiếu lớn. Các thư viện thương mại, vì chúng thường được liên kết với các nhà bán sách và cũng vì họ có số lượng khách hàng quen nhiều hơn nên có thể tích lũy số lượng sách lớn hơn. Thư viện công cộng Hoa Kỳ được cho là có một bộ sưu tập khoảng 52.000 tập – nhiều gấp đôi so với bất kỳ thư viện đăng ký riêng nào ở nước này trong thời kỳ đó. Các thư viện này, vì chúng hoạt động như một doanh nghiệp, cũng cho mượn sách cho những người không đăng ký trên hệ thống. Bất chấp sự tồn tại của các thư viện đăng ký này, chúng chỉ có thể truy cập được mặc dù ai có thể trả phí và cho những người có thời gian đọc vào ban ngày.
|
Thư viện Bodleian
|
Thư viện Bodleian () là thư viện chính của đại học Oxford, một trong các thư viện lâu đời nhất ở châu Âu và ở Anh và là thư viện lớn thứ 2 với hơn 12 triệu đầu sách chỉ sau thư viện Anh. Theo Đạo luật Lưu chiểu Thư viện 2003, đây là một trong sáu thư viện lưu chiểu cho các tác phẩm được xuất bản tại Vương quốc Anh và theo Luật Ailen, nó có quyền yêu cầu một bản sao của mỗi cuốn sách được xuất bản tại Cộng hòa Ireland. Được các học giả Oxford gọi là "Bodley" hay "Bod", nó hoạt động chủ yếu như một thư viện để tham khảo và nói chung, các tài liệu không được rút khỏi các phòng đọc. Vào năm 2000, một số thư viện trong Đại học Oxford đã được tập hợp lại cho các mục đích hành chính dưới sự bảo trợ ban đầu được gọi là Dịch vụ Thư viện Đại học Oxford (OULS), và từ năm 2010 là Thư viện Bodleian, trong đó Thư viện Bodleian là thành viên lớn nhất. Tất cả các trường đại học của Đại học Oxford đều có thư viện riêng, một số đó đã được thành lập trước cả Bodleian và tất cả đều độc lập hoàn toàn với Bodleian.
|
Người khuyết tật là người có một hay có nhiều khiếm khuyết trên cơ thể hoặc tinh thần, những khiếm khuyết ấy ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng vận động hay trí tuệ người mắc bệnh. Người khuyết tật (còn có cách gọi khác là người tàn tật) là những người thiếu, mất một phần cơ thể hay trí tuệ, họ rất khó khăn trong quá trình vận động, những người không có khả năng tự vận động trong các hoạt động hằng ngày khi vận động và các sinh hoạt cá nhân cần có sự giúp đỡ của người khác. Họ là người có một hay có nhiều khiếm khuyết trên cơ thể hoặc tinh thần, những khiếm khuyết ấy ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng vận động hay trí tuệ người mắc bệnh. Những khiếm khuyết đó gây ra những suy giảm đáng kể và ảnh hưởng lâu dài đến đời sống của họ. Sự suy yếu về thể trạng hay trí tuệ của người khuyết tật sẽ làm giảm khả năng vận động, giảm khả năng tư duy vè nhận thức. Đến năm 2010, Quốc hội Việt Nam đã chính thức sử dụng cụm từ người khuyết tật thay cho tàn tật trong các bộ luật ban hành có liên quan. Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Người khuyết tật có những đặc điểm cơ bản là nhóm thiểu số lớn nhất thế giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất. Khuyết tật vận động là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển. Khuyết tật nghe, nói là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói. Khuyết tật nhìn là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường. Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường. Khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc. Khuyết tật khác là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp được quy định tại các Khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này. Kết luận: Có các dạng khuyến tật như sau: Khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ,…mỗi dạng tật khác nhau sẽ có những đặc điểm khác nhau. Những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn. Là nhưng người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc. Để có thể xác định được mức độ khuyết tật của mỗi người khuyết tật thì cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật cụ thể. Hội đồng xác định mức độ khuyết tật căn cứ vào quy định tại Điều 2, Điều 3 Nghị định này và quan sát trực tiếp người khuyết tật thông qua thực hiện hoạt động đơn giản phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày, sử dụng bộ câu hỏi theo tiêu chí về y tế, xã hội và phương pháp khác theo quy định để xác định mức độ khuyết tật, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều này. Hội đồng giám định y khoa xác định, kết luận về dạng tật và mức độ khuyết tật đối với trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 15 Luật Người khuyết tật. Người khuyết tật đã có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về khả năng tự phục vụ, mức độ suy giảm khả năng lao động trước ngày Nghị định này có hiệu lực thì Hội đồng xác định mức độ khuyết tật căn cứ kết luận của Hội đồng giám định y khoa để xác định mức độ khuyết tật như sau:. c) Người khuyết tật nhẹ khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận có khả năng tự phục vụ sinh hoạt hoặc suy giảm khả năng lao động dưới 61%. Trường hợp văn bản của Hội đồng giám định y khoa trước ngày Nghị định này có hiệu lực kết luận chưa rõ về khả năng tự phục vụ, mức độ suy giảm khả năng lao động thì Hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện việc xác định mức độ khuyết tật cho người khuyết tật theo quy định tại Khoản 1 Điều này. Ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí thực hiện việc xác định mức độ khuyết tật và cấp Giấy xác nhận khuyết tật theo phân cấp quản lý ngân sách nhà nước. Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn về kinh phí quy định tại khoản 5 Điều này. Chỉ có những cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật mới có thẩm quyền để xác định được mức độ khuyết tật của người khuyết tật để được hưởng những chính sách, những ưu đãi theo quy định.
|
Người khuyết tật
|
Người khuyết tật là người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần mà vì thế gây ra suy giảm đáng kể và lâu dài đến khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày. Theo DDA (Disability Discrimination Act – Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật do Quốc hội Anh ban hành), khi xét về mặt thời gian tác động thì khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài mà ít hơn 12 tháng bình thường không được coi là khuyết tật, trừ phi là bị tái đi tái lại, một số người có khiếm khuyết kéo dài hơn một năm thì vẫn ở trong diện của DDA, cả khi họ sẽ được phục hồi hoàn toàn . Còn Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA - Americans with Disabilities Act of 1990) định nghĩa người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống. Cũng theo ADA những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng) .
|
Tính đến nay, Đại học Công nghệ Điện tử Quế Lâm hình thành và hoạt động đã hơn 50 năm. Có thể nói, trong hơn nửa thế kỷ, trường đã có nhiều đóng góp to lớn cho nền Giáo dục, nghiên cứu Khoa học, Điện tử của Trung Quốc. Đại học Công nghệ Điện tử Quế Lâm (Guilin University of Electronic Technology) nằm ở Quế Lâm, một thành phố nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh. Bên cạnh đó, đây cũng là thành phố lịch sử và văn hóa nổi tiếng ở Trung Quốc. Trường cũng là một trong những trường đại học trọng điểm của tỉnh Quảng Tây, cũng như Trung Quốc. Năm 1980, nó được Hội đồng Nhà nước chấp thuận thành lập Đại học Công nghệ Điện tử Quế Lâm. Năm 2006, trường được đổi tên thành Đại học Công nghiệp Điện tử Quế Lâm. Năm 2000, hệ thống quản lý đã được chuyển đổi thành một công trình chung giữa chính quyền trung ương và địa phương. Năm 2017, trường được mệnh danh là “Khu văn minh quốc gia” đầu tiên và giành được vinh dự là trường đại học duy nhất ở Quảng Tây được phong danh hiệu này. Tổng diện tích của trường là 4.153 mẫu. Thư viện của trường có diện tích xây dựng hơn 45.000 m2. Trường có các khu trường sở:. Guilin University of Electronic Technology có một bộ sưu tập 2,1058 triệu sách giấy, 1.524 tạp chí giấy, 2,68 triệu sách điện tử, 90 cơ sở dữ liệu học thuật Trung Quốc và nước ngoài chất lượng cao, cùng với đó là 34.172 tạp chí. Trường đang cung cấp 73 chương trình đại học và 18 chương trình đào tạo cao học. Trường đã giành được 6 giải thưởng giảng dạy quốc gia cho giáo dục đại học. Trường có đội ngũ nhân viên hơn 3.100 người. Đội ngũ giảng dạy bao gồm những giảng viên xuất sắc hội tụ trên khắp đất nước. Trường Đại học Công nghiệp Điện tử Quế Lâm có sinh viên toàn thời gian hơn 41.000 người. Đại học Công nghiệp Điện tử Quế Lâm là một trường đại học giáo dục dành cho các kỹ sư xuất sắc của Bộ Giáo dục. Đây là trường đại học thực hiện Chương trình “Thí nghiệm Sáng tạo Sinh viên Đại học Quốc gia”. Đồng thời, đây là một trường mẫu mực để cải cách giảng dạy tiếng Anh hệ đại học của Bộ Giáo dục. Chính vì vậy, với cơ sở hạ tầng tiên tiến, Guilin University of Electronic Technology đủ tiêu chuẩn để đào tạo cán bộ, kỹ sư cấp cao cho Trung Quốc và thế giới. Trường có mối quan hệ quốc tế sâu rộng với hơn 80 trường đại học và tổ chức học thuật ở các quốc gia khắp Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Đại Dương và Châu Phi. Trường đã chọn các giáo viên trẻ xuất sắc và sinh viên xuất sắc mỗi năm để đến thăm, trao đổi nghiên cứu, giảng dạy với các trường đại học ở nước ngoài. Hiện tại, trường còn có các chương trình trao đổi và hợp tác Trung – Anh và Trung – Ireland. Dựa trên tình hình chung, chi phí học tập tại Đại học Công nghiệp Điện tử Quế Lâm tương đối thấp và phù hợp với du học sinh quốc tế. Ký túc xá dành cho sinh viên quốc tế của trường rất tiện nghi. Phòng cung cấp nước nóng, máy giặt, TV, DVD, điện thoại, phòng tắm riêng, máy lạnh, truy cập máy tính, v.v…. Trong khuôn viên ký túc xá có phòng khám, bưu điện, siêu thị, ngân hàng, căn-tin, sân thể thao, phòng tập thể dục và các cơ sở dịch vụ khác. Trường Đại học Công nghiệp Điện tử Quế Lâm là một cơ sở đào tạo cho “Học bổng Chính phủ Trung Quốc”, “Học bổng Con đường tơ lụa” của Bộ Giáo dục và “Học bổng Chính phủ Quảng Tây cho sinh viên quốc tế của các nước ASEAN”. Chương trình học bổng này được cung cấp bởi Chính phủ Trung Quốc và Bộ Giáo dục Trung Quốc. Chỉ những trường nằm trong danh sách trường trọng điểm quốc gia mới được nhận học bổng này. Chương trình học bổng này cũng là tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đào tạo của trường. Chương trình học bổng này còn có một giải thưởng dành cho sinh viên xuất sắc trị giá 15.000 NDT/sinh viên. Ngày nay, Đại học Công nghiệp Điện tử Quế Lâm hoạt động theo định hướng “Trung thực và Tận tâm”. Với mục đích chính là tạo ra sự mới mẻ, giảng dạy trên tinh thần chăm chỉ và tự lực, trường đang cố gắng thúc đẩy xây dựng các ngành học hạng nhất, trở thành trường đại học hạng nhất. Đại học Công nghiệp Điện tử Quế Lâm đang phấn đấu cho mục tiêu đầy tham vọng của một trường đại học cấp cao trong và ngoài nước.
|
Đại học Công nghiệp Điện tử Quế Lâm
|
Đại học Công nghiệp Điện tử Quế Lâm (viết tắt: GUET; tiếng Hoa: 桂林电子科技大学; Pinyin: Guilin Dianzi Keji Daxue) là một trường đại học công lập tại thành phố Quế Lâm, Quảng Tây, Trung Quốc. Trường có các khu trường sở: Cơ sở Đông, Cơ sở Tây và Cơ sở Yaoshan. Trường được thành lập năm 1960 và đã phát triển với các chuyên ngành đào tạo chính là Kỹ thuật Cơ khí, Quản trị Kinh doanh, Luật và Giáo dục. Trường hiện có 10 bộ môn và 39 chương trình đào tạo đại học, 18 chương trình đào tạo cao học và có sinh viên đến từ nhiều nước trên thế giới.
|
Nghệ thuật trừu tượng là một trong những trường phái nghệ thuật tiêu biểu của thế giới. Các tác phẩm nghệ thuật trừu tượng sẽ đạt được hai giá trị: Giá trị bên trong của tư duy người họa sĩ, và giá trị khám phá tư duy của chính người thưởng lãm. Vậy nghệ thuật trừu tượng là gì? Ý nghĩa của tranh nghệ thuật trừu tượng? Các xu hướng nghệ thuật trừu tượng? Cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây cùng Dinh Phong Art. Nghệ thuật Trừu tượng hay Trường phái Ấn tượng trừu tượng là một trong những trường phái nghệ thuật tiêu biểu của thế giới. Nghệ thuật trừu tượng còn có các tên gọi khác như: Nghệ thuật phi hình thể, nghệ thuật phi vật thể và nghệ thuật không trình diễn, nhưng tóm lại đều chỉ chung một đối tượng. Nghệ thuật trừu tượng ra đời vào đầu thế kỷ XX. Cho đến nay, trường phái này vẫn là một trường phái lớn trong nghệ thuật và được coi là đỉnh cao nghệ thuật ở thế kỷ XX. Người đánh dấu sự ra đời của trường phái này là Wassily Kandinsky, với bức tranh đầu tiên được hoàn thành vào năm 1910. Nghệ thuật trừu tượng sử dụng ngôn ngữ thị giác từ những hình dạng, khuôn mẫu, màu sắc và đường nét để tạo nên một tác phẩm có thể tồn tại độc lập ở một mức nào đó. Những hình ảnh của nghệ thuật trừu tượng đều bị biến dạng, méo mó theo một cách phóng đại lên hoặc tối giản đi nhưng chúng ta vẫn có thể nhận ra được nhờ “những tham khảo có thực từ thế giới” của chính bức tranh đó. Nghệ thuật trừu tượng được hiểu rằng đó là một cách biểu hiện không chính xác về một dạng vật chất hay một vật thể gì đó. Người họa sĩ vẽ tranh nghệ thuật trừu tượng chọn một vật thể rồi diễn tả chúng một cách giản lược hay phóng đại chúng lên. Màu sắc của bức tranh sẽ là tiếng nói trực tiếp như nói lên tâm tư, tình cảm của người nghệ sĩ không thông qua trung gian của lý trí mà tranh trừu tượng là điển hình. Là hình thức nghệ thuật phản ánh phù hợp với những ý tưởng siêu hình, tình trạng vô định của tâm thức. Vì thế, vẽ trừu tượng không hề đơn giản, không phải ai cũng vẽ được. Và “nghệ thuật trừu tượng cho phép con người nhìn thấy trong tâm trí mình thứ mà họ không thể thấy được bằng mắt thường”. Nghệ thuật trừu tượng xuất hiện từ đầu thế kỷ XX với nhiều tác phẩm nổi tiếng trên thế giới với màu sắc, bố cục không rõ ràng, không theo một nguyên tắc hay quy chuẩn nào. Nhưng, tranh trừu tượng thực sự thu hút người xem bởi cảm nhận được tranh nghệ thuật trừu tượng sẽ không ai giống nhau, nó tùy vào khả năng và óc sáng tạo của riêng từng người xem. Nghệ thuật là một trong những thứ thiên biến vạn hóa và tùy theo cảm nhận của mỗi người về nó. Tranh trừu tượng đòi hỏi người thưởng thức phải huy động nhiều đến trực giác, sự sâu lắng của tâm hồn khi đứng trước nó. Hay nói một cách đơn giản tranh trừu tượng phá bỏ mọi quy luật trong mỹ thuật. Ý nghĩa của tranh trừu tượng không thể nhìn bằng mắt thường để soi các chi tiết ảnh để hiểu mà phải dùng bằng tâm, tĩnh tâm và đặt mình vào tranh khi đó bạn sẽ hiểu được ý nghĩa của những bức tranh trừu tượng đẹp. Cũng giống người ta thưởng thức nó như bản nhạc không lời mà không đòi hỏi phải hiểu nó đang thể hiện mô tả, kể lể về chủ đề gì. Có rất nhiều ý tưởng sáng tạo của nghệ thuật tường trừu tượng. Nhưng có 2 xu hướng nghệ thuật trừu tượng song song là trừu tượng hình học và trừu tượng trữ tình. Nghệ thuật trừu tượng hình học là một hình thức nghệ thuật trừu tượng dựa trên việc sử dụng những hình dạng hình học, sắc màu, nhằm truyền đạt cảm xúc theo cách trực tiếp hơn. Mặc dù xu hướng này đã được phổ biến rộng rãi bởi các họa sỹ tiên phong vào đầu thế kỷ 20, nhưng các họa tiết tương tự đã được dùng trong nghệ thuật và trang trí trong thời cổ đại. Một số trào lưu mang trong nó tinh thần trừu tượng hình học như chủ nghĩa xây dựng (constructivism), De Stijl, chủ nghĩa tia sáng (rayonism), chủ nghĩa tối thượng (suprematism). Không giống trừu tượng hình học, xu hướng trừu tượng trữ tình không chỉ không biểu hiện sự tồn tại của thế giới “thấy” mà còn thậm chí không sử dụng những hình khối rõ ràng. Mỗi họa sĩ tự tạo ra cho mình một ngôn ngữ riêng. Sự thể hiện cảm xúc và tính cách của người họa sĩ mà không hề bị ép buộc vào bất kì một lý thuyết hay quy tắc nào. Vì vậy, những tác phẩm trừu tượng trữ tình thường tạo ra cho chúng ta cảm giác tự do hơn. Đây chính là xu hướng đại diện cho giai đoạn trước Thế chiến thứ 2 và người sáng tạo ra trường phái trừu tượng, trong đó có trừu tượng trữ tình, Wassily Kandinsky. Hiện nay, nghệ thuật trừu tượng nói chung và tranh trừu tượng được nhiều người yêu thích vì đem lại cho người xem những trải nghiệm mới lạ.
|
Nghệ thuật trừu tượng
|
Nghệ thuật Trừu tượng là trào lưu hội họa đầu thế kỷ 20, vào những năm 1910 đến 1914. Nghệ thuật trừu tượng sử dụng ngôn ngữ thị giác từ những hình dạng, khuôn mẫu, màu sắc và đường nét để tạo nên một sáng tác có thể tồn tại độc lập, ở một mức nào đó, với những tham khảo có thực từ thế giới. Nghệ thuật phương Tây, từ thời Phục hưng đến giữa thế kỷ 19, được đặt nền móng bởi logic của phối cảnh và nỗ lực để tái tạo một ảo ảnh về thế giới thực tại. Nghệ thuật của các nền mỹ thuật khác ngoài châu Âu thì lại dễ tiếp cận và cho thấy những cách khác để mô tả trải nghiệm thị giác tới họa sĩ. Vào cuối thế kỷ 19 nhiều họa sĩ cảm thấy cần phải tạo ra một loại hình mỹ thuật mới đặt giữa những thay đổi quan trọng xảy ra trong công nghệ, khoa học và triết học. Mỗi họa sĩ có các nguồn khác nhau để tạo nên lý thuyết của mình và tranh luận, cũng như phản ánh mối quan tâm đến xã hội và tri thức trên tất cả các lĩnh vực của văn hoá phương Tây tại thời điểm đó.
|
Quang phổ của ánh sáng phát ra từ đèn deuteri, cho thấy một phần riêng biệt (các đỉnh sắc nét cao) và một phần liên tục (thay đổi trơn tru giữa các đỉnh). Các đỉnh và thung lũng nhỏ hơn có thể là do sai số đo thay vì các vạch quang phổ rời rạc. Trong vật lý, quang phổ liên tục thường có nghĩa là một tập hợp các giá trị có thể đạt được đối với một số đại lượng vật lý (như năng lượng hoặc bước sóng) được mô tả tốt nhất là một khoảng của các số thực, trái ngược với quang phổ rời rạc, một tập hợp các giá trị có thể đạt được rời rạc theo nghĩa toán học, nơi có một khoảng cách rõ ràng giữa mỗi giá trị và giá trị tiếp theo. Ví dụ cổ điển về phổ liên tục, xuất phát từ tên gọi, là một phần của quang phổ phát xạ phát ra từ các nguyên tử hydro bị kích thích do các electron tự do liên kết với ion hydro và phát ra photon, được lan truyền trơn tru trên một phạm vi bước sóng rộng, trái ngược với các vạch rời rạc do các electron rơi từ trạng thái lượng tử bị ràng buộc xuống trạng thái năng lượng thấp hơn. Như trong ví dụ cổ điển đó, thuật ngữ này thường được sử dụng khi phạm vi giá trị của một đại lượng vật lý có thể có cả phần liên tục và phần rời rạc, cho dù cùng một lúc hoặc trong các tình huống khác nhau. Trong các hệ lượng tử, quang phổ liên tục (như trong bremsstrahlung và bức xạ nhiệt) thường liên quan đến các hạt tự do, chẳng hạn như các nguyên tử trong khí, electron trong chùm electron hoặc electron dải dẫn điện trong kim loại. Cụ thể, vị trí và động lượng của hạt tự do có quang phổ liên tục, nhưng khi hạt bị giới hạn trong một không gian hạn chế, quang phổ của nó trở nên rời rạc. Thông thường, một quang phổ liên tục có thể chỉ là một mô hình thuận tiện cho một quang phổ rời rạc mà các giá trị của nó quá gần để phân biệt, như trong các phonon trong một tinh thể.
|
Quang phổ rời rạc
|
Một đại lượng vật lý được cho là có quang phổ rời rạc nếu nó chỉ lấy các giá trị riêng biệt, với các khoảng cách giữa một giá trị và giá trị tiếp theo. Ví dụ cổ điển về quang phổ rời rạc (trong đó thuật ngữ được sử dụng lần đầu tiên) là tập hợp đặc trưng của các vạch quang phổ rời rạc nhìn thấy trong phổ phát xạ và phổ hấp thụ của các nguyên tử cô lập của một nguyên tố hóa học, chỉ hấp thụ và phát ra ánh sáng ở các bước sóng cụ thể. Kỹ thuật quang phổ học dựa trên hiện tượng này. Quang phổ rời rạc trái ngược với quang phổ liên tục cũng thấy trong các thí nghiệm như vậy, ví dụ như trong phát xạ nhiệt, bức xạ synchrotron và nhiều hiện tượng tạo ra ánh sáng khác. Quang phổ rời rạc được nhìn thấy trong nhiều hiện tượng khác, chẳng hạn như dây rung, sóng vi ba trong khoang kim loại, sóng âm trong một ngôi sao dao động và cộng hưởng trong vật lý hạt năng lượng cao. Hiện tượng chung của quang phổ rời rạc trong các hệ vật lý có thể được mô hình hóa bằng các công cụ giải tích hàm, đặc biệt bằng cách phân tích phổ của toán tử tuyến tính hoạt động trên một không gian hàm.
|
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc nói chung và di sản văn hóa tộc người thiểu số nói riêng là nhiệm vụ quan trọng để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tây Bắc là khu vực có nhiều tộc người thiểu số với nền văn hóa đa dạng, là một nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Việc bảo tồn, phát huy nguồn di sản đặc biệt này để phát triển đã đạt được nhiều kết quả nhưng còn nhiều hạn chế, bất cập. Từ đánh giá những kết quả cũng như hạn chế, bài viết đưa ra một số kiến nghị để bảo tồn, phát huy tốt hơn di sản văn hóa tộc người thiểu số vùng Tây Bắc. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tộc người. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng khẳng định: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa”(1). Mục tiêu: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”(2) và “Xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế. vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(3) được Đại hội XII của Đảng đề ra, tiếp tục thể hiện quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập. Nhờ đó, văn hoá từng bước trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xác định các nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện, trong đó có nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. Theo đó, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc là nhiệm vụ then chốt của chiến lược phát triển văn hóa. Các nhiệm vụ cụ thể là: (1) Tập trung điều tra toàn diện, nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và văn hóa phi vật thể; các loại hình nghệ thuật cổ truyền đặc sắc, văn hóa dân gian của từng địa phương, từng vùng văn hóa, từng vùng dân tộc; nghề thủ công truyền thống, lễ hội tiêu biểu, kho tàng Hán Nôm. Kết hợp phải hài hòa việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch bền vững; (2) Điều tra, sưu tầm, xây dựng ngân hàng dữ liệu về văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể tiêu biểu; (3) Đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để bảo quản, giữ gìn lâu dài tài liệu, hiện vật tại các bảo tàng, cơ quan lưu trữ tư liệu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật ở trung ương và địa phương; (4) Thực hiện các hình thức tôn vinh các nghệ sĩ, nghệ nhân tiêu biểu và cơ chế chính sách để các nghệ nhân phổ biến, truyền dạy nghề cho các thế hệ(4). Việc bảo tồn phải gắn với công tác đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững. “Tộc người là một cộng đồng người được hình thành trong lịch sử, mang ba tiêu chuẩn chủ yếu sau đây: cùng chung tiếng nói; cùng có chung một ý thức tự giác tộc người biểu hiện ở tên tự gọi chung; có những yếu tố văn hóa thống nhất.”(5). Trong đó, văn hóa tộc người là tổng thể các yếu tố văn hóa mang tính đặc thù tộc người, nó thực hiện chức năng cố kết tộc người và phân biệt tộc người này với tộc người kia. Trong văn hoá tộc người, các yếu tố đầu tiên được nhận diện là ngôn ngữ, trang phục, các tín ngưỡng và nghi lễ, vốn văn học dân gian, tri thức dân gian về tự nhiên xã hội, về bản thân con người và tri thức sản xuất, khẩu vị ăn uống, tâm lý dân tộc(6). Nói cách khác, văn hóa tộc người là “những khía cạnh tiêu biểu của tộc người đó tạo nên những nét khác biệt với văn hóa các tộc người khác”(7). Văn hóa tộc người là một bộ phận, là cơ sở hình thành của văn hóa dân tộc vì mỗi quốc gia dân tộc (nation) có nhiều tộc người (ethnic). Trong đó, có một tộc người chiếm đa số và nhiều tộc người thiểu số. Văn hóa tộc người thiểu số trong nhiều trường hợp và nhiều điều kiện bị lãng quên, mai một hoặc không được tôn trọng. Do đó, “Nếu coi thống nhất của văn hóa từ đa dạng, thì muốn củng cố sự thống nhất ấy, phải trên cơ sở bảo tồn và phát triển tính đa dạng của văn hóa, mà ở đây thể hiện rõ nhất là đa dạng văn hóa tộc người và văn hóa địa phương (văn hóa vùng). Sẽ không có sự thống nhất văn hóa nào vững chắc và lành mạnh lại dựa trên cơ sở thuần nhất hóa hay đơn nhất hóa văn hóa”(8). Nói cách khác, văn hóa các tộc người cần được đối xử công bằng dựa trên cơ sở đa dạng văn hóa vì mục tiêu phát triển bền vững. Để thực hiện được mục tiêu đó, một số nhiệm vụ cần làm là: (i) Chấp nhận đa dạng văn hóa; (ii) Giữ gìn ngôn ngữ tộc người; (iii) Giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người; (iv) Ý thức tự giác tộc người; (v) Văn hóa góp phần phát triển kinh tế - xã hội(9). Thực trạng bảo tồn và phát huy văn hóa tộc người thiểu số vùng Tây Bắc hiện nay. Với vị trí địa lý tiếp giáp với hai nước là Lào và Trung Quốc, đường biên giới dài, Tây Bắc là một vùng biên cương, là “phên dậu” với vị trí chiến lược, thường xuyên phải đương đầu với các thế lực xâm lược. Tây Bắc là địa bàn sinh sống của 30 dân tộc, thuộc 3 ngữ hệ khác nhau(10). Các tộc người có khi sống tập trung thành từng thôn, bản, có khi rải rác, đan xen, cộng cư nhưng vẫn tạo thành nhiều vùng tộc người với các thôn bản còn lưu giữ được các giá trị văn hóa đặc sắc, với những tiềm năng to lớn. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 1877/QĐ-BVHTTDL ngày 8-6-2015 công nhận Tây Bắc có 7 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Trong đó, Sơn La có 2 di sản: Lễ Hết Chá của người Thái, xã Đông Sang, huyện Mộc Châu và Nghệ thuật Xòe Thái tỉnh Sơn La; Điện Biên có 3 di sản: Lễ Kin pang then của người Thái trắng (thị xã Mường Lay), Tết Nào pê chầu của người Mông đen (xã Mường Đăng, huyện Mường Ẳng), Lễ hội Đền Hoàng Công Chất (xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên); Lai Châu có 1 di sản: Nghệ thuật Xòe Thái (tỉnh Lai Châu); Yên Bái có 1 di sản: Nghệ thuật Xòe Thái (Mường Lò, thị xã Nghĩa Lộ). Thời gian qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, việc bảo tồn và khai thác di sản văn hóa vùng Tây Bắc phục vụ mục tiêu phát triển bền vững có nhiều kết quả tốt đẹp. Một là, cấp ủy và chính quyền các cấp vùng Tây Bắc đã quán triệt, cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc thành các kế hoạch, chương trình hành động cụ thể. Các địa phương đã ban hành các nghị quyết, đề án về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, chỉ đạo các ngành chức năng nghiên cứu xây dựng các đề tài, đề án, trong đó đặc biệt chú trọng đến phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, như: Nghị quyết số 02/NQ-TU, ngày 28-6-2016 của Tỉnh ủy Lai Châu về giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lai Châu giai đoạn 2016-2020; Đề tài khoa học của Ban Dân vận Tỉnh ủy Lai Châu về “Nghiên cứu tập tục tín ngưỡng của dân tộc vùng cao và các giải pháp bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”; Đề tài của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lai Châu về “Giải pháp bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc Mông, góp phần ổn định đời sống vật chất, đời sống tinh thần của đồng bào trên địa bàn tỉnh Lai Châu”; Đề án của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lai Châu về kiểm kê lập danh mục bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống 13 dân tộc trên địa bàn tỉnh; Đề tài Sưu tầm và xuất bản thành ấn phẩm sáng tác của cộng đồng các dân tộc tỉnh Điện Biên (văn học dân gian và văn học viết), Đề án về kiểm kê di sản văn hóa các tộc người thiểu số tỉnh Điện Biên, Đề án giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Lai Châu. Nhìn chung, các đề án, đề tài về cơ bản đã thực hiện được công tác kiểm kê, đánh giá hiện trạng di sản văn hóa vật thể, phi vật thể trên địa bàn, thực hiện việc sưu tầm để bảo lưu văn hóa, văn học dân gian các tộc người nơi đây. Hai là, công tác bảo tồn, khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể các dân tộc đã được các địa phương quan tâm thực hiện, đạt được những kết quả quan trọng. Đến nay, Lai Châu sưu tầm trên 31 nghìn hiện vật, trong đó có gần 1.900 hiện vật văn hóa dân tộc; kiểm kê lập danh mục di sản văn hóa phi vật thể 13 dân tộc cư trú thành cộng đồng; phối hợp tổ chức mở được 13 lớp truyền dạy văn hóa phi vật thể các dân tộc. Sưu tầm, bảo tồn tri thức dân gian của hai dân tộc (Dao và Hà Nhì); 6 làn điệu dân ca, dân vũ của các dân tộc: Thái, Si La, Lự, Mông, Hà Nhì, Dao; phục dựng 16 lễ hội của các dân tộc, đồng thời hằng năm duy trì tổ chức 40 lễ, lễ hội(11). Trong năm 2020, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch lựa chọn 7 lễ hội truyền thống các dân tộc thiểu số cần được phục dựng, bảo tồn. Trong đó, có 5 lễ hội vùng Tây Bắc, gồm: Lễ hội truyền thống dân tộc Lào, tỉnh Điện Biên; Lễ hội truyền thống dân tộc La Chí, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang; Lễ hội truyền thống dân tộc Nùng, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang; Lễ hội truyền thống dân tộc Thái, tỉnh Yên Bái; Lễ hội truyền thống dân tộc Shi La, tỉnh Lai Châu. Ba là, các cấp ủy và chính quyền địa phương đã quan tâm, chú trọng khai thác vốn văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số, được cụ thể hóa bằng việc tổ chức các chương trình biểu diễn nghệ thuật, các hội thi, hội diễn, liên hoan nghệ thuật quần chúng. Đến nay toàn tỉnh Lai Châu có trên 1 nghìn đội văn nghệ, trong đó có 665 đội hoạt động thường xuyên và hiệu quả. Hầu hết các địa phương trong tỉnh duy trì tốt việc tổ chức ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc trong các dịp lễ, tết, nhiều địa phương tổ chức vào dịp Quốc khánh 2-9 hằng năm(12). Ở Điện Biên, các sắc màu văn hóa tộc người cũng được chú trọng khai thác và phát triển trong các chương trình biểu diễn nghệ thuật quần chúng và đỉnh cao là lễ hội hoa ban, bắt đầu tổ chức thường niên từ tháng 3 năm 2016 tại thành phố Điện Biên Phủ. Một là, các giải pháp còn chưa được tiến hành đồng bộ và triệt để, vì thế hiệu quả của giải pháp chưa cao. Tuy các cấp ủy, chính quyền đã có nhận thức đúng đắn về vai trò của việc bảo tồn, phát triển văn hóa truyền thống các dân tộc nhưng một bộ phận nhân dân và các cấp ủy, chính quyền còn chưa có nhận thức đầy đủ, dẫn đến tình trạng mức độ quan tâm còn thấp, hiệu quả chưa cao. Trong đó, công tác tuyên truyền trong nhân dân, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số về bảo tồn di sản văn hóa chưa được chú trọng. Một số nội dung cần bảo tồn gấp, như: ngôn ngữ, sáng tác văn học dân gian, tri thức bản địa của các dân tộc chưa được quan tâm toàn diện, dẫn đến hiệu quả bảo tồn còn thấp. Vùng người Lào, người Khơ Mú ở Pa Thơm, Mường Lói, Phu Luông (huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên), vùng người Mông (Phình Sáng, Tuần Giáo, Điện Biên); vùng người Thái ở Chiềng Mai (Mai Sơn, Sơn La) hay vùng người Giáy ở xã San Thàng (thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu) khi được hỏi về lịch sử tộc người, lịch sử địa bàn cư trú hay các thực hành văn hóa tộc người đều không đưa ra được những câu trả lời thỏa đáng(13). Hai là, chưa khai thác tốt di sản văn hóa tộc người trong phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa được xem như một nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, là một nguồn vốn trong các chiến lược phát triển. Các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, văn hóa tộc người. đã trở thành những nguồn lực quan trọng trong kinh tế du lịch, như: Sa Pa, bản Lác. Tuy nhiên, việc thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc còn thiếu sự “vào cuộc” của các bên tham gia: nhà quản lý, chủ dự án, chuyên gia và cộng đồng được hưởng lợi hoặc bị thiệt thòi từ dự án. Tình trạng bản sắc văn hóa dân tộc Tây Bắc của nhiều tộc người bị mai một nghiêm trọng. Các dân tộc ít người nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me như: Kháng, Mảng, Khơ Mú… đang có nguy cơ bị “Thái hóa”.
|
Bảo tồn và phục hồi di sản văn hóa
|
Bảo tồn và phục hồi di sản văn hóa tập trung vào việc bảo vệ và chăm sóc di sản văn hóa vật thể, bao gồm các tác phẩm nghệ thuật, kiến trúc, khảo cổ học và các bộ sưu tập bảo tàng. Các hoạt động bảo tồn bao gồm bảo tồn phòng ngừa, kiểm tra, tài liệu, nghiên cứu, điều trị và giáo dục. Lĩnh vực này được liên minh chặt chẽ với khoa học bảo tồn, các cơ quan lưu trữ và đăng ký di sản. Bảo tồn di sản văn hóa liên quan đến bảo vệ và phục hồi bằng cách sử dụng "bất kỳ phương pháp nào chứng minh hiệu quả trong việc giữ tài sản đó càng gần với điều kiện ban đầu của nó càng lâu càng tốt". Bảo tồn di sản văn hóa thường gắn liền với các bộ sưu tập nghệ thuật và bảo tàng và liên quan đến việc chăm sóc và quản lý bộ sưu tập thông qua theo dõi, kiểm tra, tài liệu, triển lãm, lưu trữ, bảo tồn phòng ngừa và phục hồi. Phạm vi đã mở rộng từ bảo tồn nghệ thuật, liên quan đến bảo vệ và chăm sóc tác phẩm nghệ thuật và kiến trúc, đến bảo tồn di sản văn hóa, bao gồm cả bảo vệ và chăm sóc một loạt các tác phẩm văn hóa và lịch sử khác.
|
LTE là thuật ngữ có tên tiếng Anh là “Long Term Evolution” được hiểu nôm na là “ Tiến hóa dài hạn”. LTE không được xem là một công nghệ mạng. Thay vào đó LTE chỉ là một tiêu chuẩn công nghệ được cải tiến từ các chuẩn GSM.UMTS. Nói cụ thể hơn, LTE là chuẩn cận với công nghệ mạng 4G. Khi thiết bị điện thoại di động của bạn được kết nối với LTE thì sẽ có biểu tượng như 4G ở góc màn hình. Hiện tại chuẩn công nghệ LTE gây ấn tượng người dùng với dung lượng và tốc độ mạng cao và mạnh. Khác với những khái niệm LTE là gì, cái tên 4G thực ra là tên viết tắt của Fourth-Generation. 4G là công nghệ truyền thông không dây và các tiêu chuẩn thiết lập cho kết nối 4G được Tổ chức kết nối mạng thế giới ITU-R được ban hành vào tháng 3 năm 2008, đòi hỏi tất cả các dịch vụ được mô tả là 4G phải tuân thủ đúng một loạt các tiêu chuẩn về đường truyền tốc độ và kết nối. Từ smartphone đến các trạm phát mạng 4G có kết nối cực kỳ ổn định, mạng 4G sẽ cho phép bạn truyền tải dữ liệu với tốc độ tối đa tới 1 hay 1.5 Gb/giây. Hiện tại, các quốc gia khác đã áp dụng công nghệ mạng 4G từ khá lâu, Việt Nam chúng ta cũng đã từng từ triển khai mạng 4G tại các thành phố lớn và kết quả thu được hết sức khả quan. Trên các phần cứng của các điện thoại smartphone hiện nay, hầu hết chúng đều ghi là "hỗ trợ mạng 3G" hoặc "4G LTE" chứ ít khi xuất hiện dòng chữ "4G" riêng biệt. Để hiểu hơn về mạng 4G LTE là gì thì bạn nên biết rằng. Khi một kết nối có truyền tải dữ liệu với tốc độ lên tới 1 hay 1.5 Gb/giây mới được xem là mạng 4G. Vậy nên hiện tại chưa có một thiết bị mạng hay một chiếc smartphone nào đạt được tốc độ truyền tải như vậy. Điều này đã làm các nhà mạng phải gắn thêm chữ "LTE" để giúp người dùng hiểu rằng đây chưa phải là một công nghệ chuẩn 4G, thay vào đó chỉ là một chuẩn tiệm cận công nghệ mạng thứ tư. Nhiều người dùng không biết mạng LTE là gì nên có không ít ý kiến người dùng cho rằng LTE chính là mạng 4G. Nhất là khi biểu tượng hiển thị của LTE cùng giống 4G nên càng nhiều người đồng tình quan điểm ấy tuy nhiên Mạng 4G với 4G LTE hoàn toàn khác nhau. Với mạng LTE 4G nó sẽ có tốc độ truyền tải dữ liệu nhanh hơn mạng 3G gấp nhiều lần nhưng nếu nói về độ đạt được tốc độ để truyền tải dữ liệu chuẩn như mạng 4G thì vẫn chưa tới. Nói một cách dễ hiểu nhất về mạng LTE là gì thì chính là dịch vụ có tốc độ truyền tải dữ liệu trung gian, đứng giữa 3G với 4G. Cuối năm 2016 và đầu 2017 đồng loạt các nhà mạng đều cung cấp cho người dùng di động mạng 4G. Có khá nhiều người đặt câu hỏi, băn khoăn không biết nên sử dụng mạng LTE 4G hay là 4G. Bạn có thế sử dụng cả hai, bởi nhà mạng đều cung cấp cả 2. Mạng LTE sẽ giúp các bạn có những trải nghiệm hoàn hảo khi mà 4G chưa đạt được điều kiện lý tưởng và trong tương lai LTE 4G hữa hẹn còn mang đến nhiều trải nghiệm mới mẻ, có những bước đột phá đầy ý nghĩa trong danh sách các dịch vụ mạng ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, 4G lại cho thấy hạn chế khi đòi hỏi hạ tầng cao. Do đó theo nhiều ý kiến thì LTE chính là một chuẩn công nghệ cho phép người dùng trải nghiệm tốt. Cụ thể danh sách các nhà mạng viễn thông triển khai LTE tại Việt Nam bao gồm là:. Đặc biệt các nhà mạng Việt Nam chỉ mới thử nghiệm ở hai mức băng thông. Để sử dụng được mạng 4G LTE thì điện thoại bạn phải được hỗ trợ mạng này, Hầu hết ngày nay những smartphone cao cấp từ LG, Sony hay Samsung đều hỗ trợ LTE 4G. Do đó, bạn cần đọc rõ thông số kỹ thuật của thiết bị, hoặc hỏi nhân viên bán hàng tìm kiếm giúp bạn trước khi quyết định mua. Bên cạnh đó nhà mạng tại Việt Nam phải cung cấp dịch vụ LTE 4G. Hiện cả 3 nhà mạng lớn tại nước ta như Viettel, Mobifone và Vinaphone đều đã bắt đầu cung cấp dịch vụ này. Bạn chỉ cần đến các điểm cung cấp dịch vụ của hãng, yêu cầu đổi sang SIM 4G và đăng ký gói cước là có thể sử dụng. Hiện nay các cơ quan quản lý thị trường đã cho phép các hãng smarpthone dùng 4G LTE để nhằm quảng bá với người dùng như là một mạng 4G thực thụ. Nhưng dù sao đi nữa với 4G LTE thì việc truyền tải dữ liệu giữa các thiết bị thông minh với nhau thông qua mạng kết nối này đã có cải thiện đáng kể so với thời mạng GPRS. Hy vọng bài viết trên sẽ giúp bạn hiểu hơn phần nào về LTE. Dạ em chào anh Tuấn ạ, Dạ hiện Vsmart Joy 3 2/32Gb là 4G LTE Cat 6 ạ. Dạ em chào anh Tuấn ạ, Dạ hiện bên em chưa có hàng Nokia 5,1plus nên chưa có thông tin chính xác ạ. Trợ Giá Mùa Dịch Toàn Bộ Giảm Đến 70% + Mua Online Giảm Thêm 120.000đ + Miễn Phí Giao Hàng.
|
LTE (viễn thông)
|
LTE (viết tắt của cụm từ Long Term Evolution, có nghĩa là Tiến hóa dài hạn), công nghệ này được coi như công nghệ di động thế hệ thứ 4 (4G, nhưng thực chất LTE cung cấp tốc độ thấp hơn nhiều so với một mạng 4G thực sự). 4G LTE là một chuẩn cho truyền thông không dây tốc độ dữ liệu cao dành cho điện thoại di động và các thiết bị đầu cuối dữ liệu. Nó dựa trên các công nghệ mạng GSM/EDGE và UMTS/HSPA, LTE nhờ sử dụng các kỹ thuật điều chế mới và một loạt các giải pháp công nghệ khác như lập lịch phụ thuộc kênh và thích nghi tốc độ dữ liệu, kỹ thuật đa anten để tăng dung lượng và tốc độ dữ liệu. Các tiêu chuẩn của LTE được tổ chức 3GPP (Dự án đối tác thế hệ thứ 3) ban hành và được quy định trong một loạt các chỉ tiêu kỹ thuật của Phiên bản 8 (Release 8), với những cải tiến nhỏ được mô tả trong Phiên bản 9. Dịch vụ LTE thương mại đầu tiên trên thế giới được hãng TeliaSonera giới thiệu ở Oslo và Stockholm vào ngày 14/12/2009.
|
Blockchain là chủ đề đang vô cùng nóng trên toàn cầu hiện nay. Nó cùng với Bitcoin và tiền kỹ thuật số trở thành đề tài bàn luận trên rất nhiều mặt báo và trong những cuộc trò chuyện của mọi người. Tuy nhiên, khi nói về blockchain vẫn còn nhiều tranh cãi. Có người lo lắng rằng Bitcoin có thể chỉ là bong bóng, nhiều người cho rằng công nghệ phía sau nó là một sự đột phá, và công nghệ ấy sẽ tiếp tục con đường của mình cho đến khi được chấp nhận và tích hợp với Internet. Thậm chí, Jamie Dimon, CEO của JP Morgan, người đã gay gắt phản đối Bitcoin và gây ra nhiều lo lắng cho cộng đồng tiền kỹ thuật số cũng đã đồng ý rằng, công nghệ DLT (công nghệ sổ cái phân tán - distributed ledger technology) có tiềm năng rất lớn để thay đổi ngành tài chính và các ngành khác. Hơn nữa, JP Morgan cùng với nhiều ngân hàng đã tiến hành kiểm tra blockchain cho những trường hợp sử dụng khác nhau trong thực tế. Lưu ý: Bài viết rất nhiều từ và hơi hại não, hãy uống một cốc nước và để đầu óc thật thoải mái trước khi bạn sẵn sàng tìm hiểu về công nghệ blockchain này. Blockchain là một sổ cái kỹ thuật số được phân chia hay dễ hiểu hơn là cơ sở dữ liệu trong một mạng. Sổ cái được chia sẻ cho những người tham gia vào mạng lưới. Điều này cho thấy rằng trong toàn bộ hệ thống không phải chỉ có một vị trí duy nhất, một tài liệu có thể làm căn cứ đáng tin (authority) duy nhất, vì những lần sao chép cùng một phiên bản sổ cái được đặt ở nhiều nơi. Tất cả các bản sao này được cập nhật khi dữ liệu hoặc giao dịch mới được ghi vào blockchain thông qua sự đồng thuận của tất cả mọi người tham gia. Người đào có trách nhiệm phê duyệt các giao dịch và giám sát mạng bằng cách giải quyết các công thức tinh vi với sự trợ giúp của máy tính. Nó là một hệ thống ngang hàng P2P, loại bỏ tất cả mọi khâu trung gian, làm tăng cường an ninh, minh bạch và sự ổn định cũng như giảm thiểu chi phí và lỗi do con người gây ra. Bằng cách cho phép phân phối các thông tin kỹ thuật số nhưng không được sao chép, công nghệ blockchain đã tạo ra xương sống cho một loại hình Internet mới. Trong cuốn sách Blockchain Revolution (2016), Don & Alex Tapscott đã nhận định rằng: "Blockchain là một sổ cái kỹ thuật số không thể bị phá hỏng của các giao dịch kinh tế, có thể được lập trình để ghi lại không chỉ những giao dịch tài chính mà có thể ghi lại tất cả mọi thứ có giá trị". Công nghệ blockchain có lẽ là phát minh tốt nhất từ chính Internet. Nó cho phép trao đổi giá trị mà không cần sự tin tưởng hoặc chứng cứ làm tin. Hãy tưởng tượng bạn và tôi đặt cược 50 cho thời tiết ngày mai ở San Francisco. Tôi đặt cược trời sẽ nắng, bạn cược là mưa. Hôm nay chúng ta có ba tùy chọn để quản lý giao dịch này:. Chúng ta có thể tin tưởng lẫn nhau. Mưa hoặc nắng, người thua sẽ trả 50 đô la cho người chiến thắng. Nếu chúng ta là bạn, đây có thể là một cách hay để đặt cược. Tuy nhiên, dù là bạn bè hay người lạ thì vẫn không thể dễ dàng trả tiền cho người kia. Chúng ta có thể biến tiền cược thành một hợp đồng. Với một hợp đồng tại chỗ, cả hai bên sẽ dễ phải trả tiền hơn, tuy nhiên, nếu một trong hai người quyết định không trả, người chiến thắng sẽ phải trả thêm tiền để trang trải chi phí pháp lý và bản án có thể mất một thời gian dài. Đặc biệt với một lượng tiền mặt nhỏ, điều này dường như không phải là cách tối ưu để quản lý giao dịch. Chúng ta có thể nhờ đến một bên thứ ba trung lập. Mỗi người trong chúng ta đưa 50 đô la cho một người thứ ba, cô ấy sẽ đưa tổng số tiền cho người chiến thắng. Nhưng, cô ấy cũng có thể bỏ trốn với tất cả số tiền. Vì vậy, chúng ta sẽ chọn một trong hai lựa chọn đầu tiên: tin tưởng hoặc hợp đồng. Cả sự tin tưởng và hợp đồng đều không phải là giải pháp tối ưu. Chúng ta không thể tin tưởng vào người lạ và thực thi hợp đồng đòi hỏi thời gian và tiền bạc. Công nghệ blockchain là thú vị vì nó cung cấp cho chúng ta lựa chọn thứ ba, an toàn, nhanh chóng và rẻ tiền. Blockchain cho phép viết một vài dòng code, chương trình chạy trên blockchain, mà cả hai chúng ta gửi 50 đô la vào đó. Chương trình này sẽ giữ 100 đô la an toàn và kiểm tra thời tiết ngày mai một cách tự động trên nhiều nguồn dữ liệu. Nắng hoặc mưa, nó sẽ tự động chuyển toàn bộ số tiền cho người chiến thắng. Mỗi bên có thể kiểm tra hợp đồng logic, và vì nó đang chạy trên blockchain nên nó không thể thay đổi hoặc ngừng lại. Nỗ lực này có thể là quá cao đối với một giao dịch 50 đô la, nhưng hãy tưởng tượng khi bán nhà hoặc công ty. Mục tiêu của phần này là để giải thích cách blockchain hoạt động mà không thảo luận về các chi tiết kỹ thuật sâu, nhưng đủ để bạn có một ý tưởng chung về logic và cơ chế cơ bản. Ứng dụng được biết đến và thảo luận nhiều nhất của công nghệ blockchain chính là Bitcoin. Một loại tiền tệ số có thể được sử dụng để trao đổi sản phẩm và dịch vụ, giống như đồng đô la Mỹ (USD), Euro (EUR), đồng (Việt Nam) và các loại tiền tệ quốc gia khác. Hãy sử dụng ứng dụng đầu tiên của công nghệ blockchain này để tìm hiểu cách hoạt động của nó. Một Bitcoin là một đơn vị tiền tệ kỹ thuật số của Bitcoin, giống như đô la, bản thân nó không có giá trị. Nó có giá trị vì chúng ta đồng ý trao đổi hàng hóa, dịch vụ để đổi lấy một lượng tiền lớn hơn dưới dự kiểm soát của chúng ta và chúng ta tin rằng người khác cũng sẽ làm như vậy. Để theo dõi lượng Bitcoin mỗi người trong chúng ta sở hữu, blockchain sử dụng một sổ cái - file kỹ thuật số - theo dõi tất cả các giao dịch của Bitcoin. File này không được lưu trữ trên máy chủ tập trung, giống như ngân hàng hay trung tâm dữ liệu. Nó được phân tán trên toàn thế giới thông qua mạng máy tính, vừa lưu trữ dữ liệu, vừa thực hiện tính toán. Mỗi máy tính đại diện cho một nút của mạng blockchain và có một bản sao của file sổ cái. Nếu David muốn gửi Bitcoin cho Sandra, anh ta sẽ phát một tin nhắn tới mạng nói rằng số lượng Bitcoin trong tài khoản của anh ta sẽ giảm xuống 5 BTC, và số tiền của tài khoản Sandra sẽ tăng lên theo cùng số lượng. Mỗi nút trong mạng sẽ nhận được thông báo và áp dụng giao dịch yêu cầu vào bản sao của sổ cái, do đó cập nhật số dư tài khoản. Trong hệ thống ngân hàng, chúng ta chỉ biết các giao dịch và số dư tài khoản của riêng mình, trên blockchain mọi người có thể thấy mọi giao dịch khác của người khác. Trong khi bạn có thể tin tưởng vào ngân hàng của mình, mạng Bitcoin sẽ được phân phối và nếu có vấn đề gì đó không có sự trợ giúp để gọi hoặc bất cứ ai để kiện. Hệ thống blockchain được thiết kế theo cách mà không cần sự tin tưởng, độ an toàn và độ tin cậy thu được thông qua các chức năng toán học đặc biệt và code. Để có thể thực hiện các giao dịch trên blockchain, bạn cần một ví, một chương trình cho phép bạn lưu trữ và trao đổi Bitcoin. Vì chỉ có bạn mới có thể chi tiêu được Bitcoin của mình, mỗi chiếc ví được bảo vệ bởi một phương pháp mật mã đặc biệt, sử dụng một cặp khóa riêng biệt khác nhau nhưng có kết nối: một khoá riêng tư (private) và công khai (public). Nếu một thông điệp được mã hoá bằng khóa công khai cụ thể, chỉ chủ nhân của khóa riêng tư đã ghép nối mới có thể giải mã và đọc tin nhắn. Mặt khác, nếu bạn mã hóa tin nhắn bằng khóa cá nhân của bạn, chỉ có thể sử dụng khóa công khai được ghép nối để giải mã nó. Khi David muốn gửi Bitcoin, anh ta cần phát một tin nhắn được mã hóa bằng khoá riêng của ví của anh ta, vì vậy anh ta và chỉ có anh ta mới có thể sử dụng Bitcoin mà anh ta sở hữu, vì David là người duy nhất biết chìa khóa riêng của anh ta cần để mở ví của mình. Mỗi nút trong mạng có thể kiểm tra chéo yêu cầu giao dịch đến từ David bằng cách giải mã thông báo yêu cầu giao dịch với khóa công khai của ví của anh ta. Khi mã hóa yêu cầu giao dịch với khóa riêng tư của ví của bạn, bạn sẽ tạo ra một chữ ký số được sử dụng bởi các máy tính trong mạng blockchain để kiểm tra lại nguồn và tính xác thực của giao dịch. Chữ ký số là một chuỗi văn bản, là kết quả của việc kết hợp yêu cầu giao dịch và khóa riêng tư của bạn, vì vậy nó không thể được sử dụng cho các giao dịch khác. Nếu bạn thay đổi một ký tự trong thông báo yêu cầu giao dịch, chữ ký số sẽ thay đổi, do đó không kẻ tấn công tiềm ẩn nào có thể thay đổi yêu cầu giao dịch của bạn hoặc thay đổi lượng Bitcoin bạn đang gửi. Để gửi Bitcoin, bạn cần phải chứng minh rằng mình sở hữu khóa riêng của một ví cụ thể, vì cần sử dụng nó để mã hóa thông báo yêu cầu giao dịch. Lưu ý rằng, bạn chỉ phát thông báo sau khi nó đã được mã hóa, nên không bao giờ phải tiết lộ khóa riêng. Mỗi nút trong blockchain đang giữ một bản sao của sổ cái. Vì vậy, làm thế nào một nút biết số dư tài khoản của bạn là bao nhiêu? Hệ thống blockchain không theo dõi các số dư tài khoản, nó chỉ ghi lại từng giao dịch được yêu cầu. Sổ sách trên thực tế không theo dõi số dư, nó chỉ theo dõi mọi giao dịch được phát đi trong mạng Bitcoin. Để biết số dư trong ví của bạn, bạn cần phải phân tích và xác minh tất cả các giao dịch đã từng diễn ra trên toàn bộ mạng kết nối với ví của mình. Xác minh số dư này được thực hiện nhờ liên kết đến các giao dịch trước đó. Để gửi 10 Bitcoin cho John, Mary phải tạo yêu cầu giao dịch bao gồm các liên kết tới các giao dịch đến (số tiền nhận được) trước đó có tổng số dư bằng hoặc vượt quá 10 Bitcoin. Các liên kết này được gọi là đầu vào, các nút trong mạng sẽ xác minh rằng tổng số tiền của các giao dịch này bằng hoặc vượt quá 10 Bitcoin và các đầu vào này chưa được chi tiêu. Trên thực tế, mỗi lần bạn tham chiếu các đầu vào trong một giao dịch được xem là không hợp lệ trong bất kỳ giao dịch nào trong tương lai. Tất cả được thực hiện tự động trong ví của Mary và kiểm tra lại bởi các nút mạng Bitcoin, cô ấy chỉ gửi một giao dịch 10 BTC đến ví của John sử dụng khóa công khai của anh ấy. Vậy, làm thế nào hệ thống có thể tin tưởng giao dịch đầu vào và xem xét chúng có giá trị? Nó kiểm tra tất cả các giao dịch trước đó có tương quan với ví bạn sử dụng để gửi Bitcoin thông qua các tham chiếu và đầu vào. Để đơn giản hóa và đẩy nhanh quá trình xác minh, một bản ghi đặc biệt về các giao dịch không được sử dụng sẽ được giữ bởi các nút mạng. Nhờ kiểm tra bảo mật này, bạn không thể tiêu gấp đôi số Bitcoin nhận được. Tất cả các code để thực hiện giao dịch trên mạng Bitcoin là mã nguồn mở, điều này có nghĩa là bất cứ ai có máy tính xách tay và một kết nối Internet đều có thể thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, nếu có một lỗi trong code được sử dụng để phát thông báo yêu cầu giao dịch, Bitcoin liên quan sẽ bị mất vĩnh viễn. Hãy nhớ rằng vì mạng được phân phối, nên không có dịch vụ hỗ trợ khách hàng nào để gọi cũng như bất cứ ai có thể giúp bạn khôi phục lại giao dịch bị mất hoặc mật khẩu ví bạn đã quên. Vì lý do này, nếu bạn quan tâm đến giao dịch trên mạng Bitcoin, bạn nên sử dụng mã nguồn mở và phiên bản chính thức của phần mềm ví Bitcoin (chẳng hạn như Bitcoin Core) và để lưu mật khẩu của ví của bạn hoặc khóa riêng tư vào kho lưu trữ rất an toàn. Công nghệ blockchain giải quyết các vấn đề về bảo mật và sự tin tưởng theo một số cách. Đầu tiên, các block (khối) mới luôn được lưu trữ tuyến tính và theo thứ tự thời gian. Nghĩa là, chúng luôn được thêm vào “phần cuối” của blockchain. Nếu nhìn vào blockchain của Bitcoin, bạn sẽ thấy rằng mỗi block có một vị trí trên chuỗi, được gọi là “chiều cao”. Tính đến tháng 11 năm 2020, cho đến nay chiều cao của block đã đạt 656.197. Sau khi một block đã được thêm vào cuối blockchain, rất khó để quay lại và thay đổi nội dung của block, trừ khi được đa số đồng thuận. Đó là bởi vì mỗi block chứa hàm hash riêng của nó, cùng với hàm hash của block trước nó, cũng như timestamp (dấu thời gian) đã đề cập trước đó. Hash code được tạo ra bởi một hàm toán học biến thông tin kỹ thuật số thành một chuỗi số và chữ cái. Nếu thông tin đó được chỉnh sửa theo bất kỳ cách nào, hash code cũng sẽ thay đổi. Đây là lý do tại sao điều đó quan trọng đối với bảo mật. Giả sử một tin tặc muốn thay đổi blockchain và đánh cắp Bitcoin từ những người khác. Nếu chúng thay đổi bản sao duy nhất của mình, bản sao đó sẽ không còn khớp với bản sao của người khác nữa. Khi mọi người khác tham chiếu chéo các bản sao của họ với nhau, họ sẽ thấy bản sao này khác biệt và phiên bản chuỗi của hacker đó sẽ bị loại bỏ vì được coi là bất hợp pháp.
|
Blockchain
|
Blockchain (chuỗi khối), tên ban đầu block chain là một cơ sở dữ liệu phân cấp lưu trữ thông tin trong các khối thông tin được liên kết với nhau bằng mã hóa và mở rộng theo thời gian. Mỗi khối thông tin đều chứa thông tin về thời gian khởi tạo và được liên kết tới khối trước đó, kèm một mã thời gian và dữ liệu giao dịch. Blockchain được thiết kế để chống lại việc thay đổi của dữ liệu: Một khi dữ liệu đã được mạng lưới chấp nhận thì sẽ không có cách nào thay đổi được nó. Blockchain được đảm bảo nhờ cách thiết kế sử dụng hệ thống tính toán phân cấp với khả năng chịu lỗi byzantine cao. Nhờ thế nên Blockchain có thể đạt được sự đồng thuận phân cấp. Vì vậy Blockchain phù hợp để ghi lại những sự kiện, hồ sơ y tế, xử lý giao dịch, công chứng, danh tính và chứng minh nguồn gốc. Việc này có tiềm năng giúp xóa bỏ các hậu quả lớn khi dữ liệu bị thay đổi trong bối cảnh thương mại toàn cầu. Blockchain lần đầu tiên được phát minh và thiết kế bới Satoshi Nakamoto vào năm 2008 và được hiện thực hóa vào năm sau đó như là một phần cốt lõi của Bitcoin, khi công nghệ blockchain đóng vai trò như là một cuốn sổ cái cho tất cả các giao dịch.
|
Trong khi có một số vấn đề với IRR, MIRR giải quyết hai trong số chúng. Thứ nhất, IRR giả định rằng dòng tiền dương tạm thời được tái đầu tư tại cùng một tỷ lệ lợi nhuận của dự án tạo ra chúng . Điều này thường là một kịch bản không thực tế và tình hình nhiều khả năng là các quỹ sẽ được tái đầu tư với tốc độ gần với chi phí vốn của công ty hơn. IRR do đó thường cho một bức tranh quá mức lạc quan của các dự án được nghiên cứu. Nói chung để so sánh các dự án một cách tốt hơn, chi phí vốn bình quân gia quyền nên được sử dụng để tái đầu tư dòng chảy tiền mặt tạm thời. Thứ hai, có thể tìm thấy nhiều hơn 1 IRR cho các dự án với các dòng tiền dương và âm xen kẽ, dẫn đến sự nhầm lẫn và mơ hồ. MIRR tìm thấy chỉ có một giá trị. ở đây n là số lượng thời gian bằng nhau ở cuối của dòng tiền xảy ra (không phải là số của dòng tiền), PV là giá trị hiện tại (tại đầu của thời kỳ đầu tiên), FV là giá trị tương lai (ở cuối của thời kỳ cuối cùng). Công thức cộng thêm dòng tiền âm sau khi chiết khấu chúng về thời gian T0 bằng cách sử dụng chi phí vốn bên ngoài, thêm các dòng tiền dương bao gồm cả tiền thu được tái đầu tư theo tỷ lệ tái đầu tư bên ngoài đối với giai đoạn cuối cùng, và sau đó làm việc ra những gì tỷ lệ lợi nhuận sẽ gây ra độ lớn của dòng tiền âm giảm giá tại thời gian T0 có tương đương với giá trị tương lai của dòng tiền dương tại thời kỳ cuối cùng. Các ứng dụng bảng tính, chẳng hạn như Microsoft Excel, đã sẵn có chức năng để tính toán MIRR. Trong trường hợp này, câu trả lời là 25,48% (các nghiệm khác đối với phương trình này là -593,16% và -132,32%, nhưng chúng sẽ không được coi là các IRR có nghĩa). Để tính toán MIRR, chúng ta sẽ giả định một tỷ lệ tài chính là 10% và tỷ lệ tái đầu tư là 12%. Đầu tiên, chúng ta tính giá trị hiện tại của dòng tiền âm (chiết khấu theo tỷ lệ tài chính):. Giống như tỷ lệ hoàn vốn nội bộ, tỉ lệ hoàn vốn nội bộ sửa đổi có thể không được sử dụng một cách hợp lệ để xếp hạng thứ tự dự án có các quy mô khác nhau, bởi vì một dự án lớn hơn với một tỷ lệ hoàn vốn nội bộ thay đổi nhỏ hơn có thể có giá trị hiện tại cao hơn. Tuy nhiên, có tồn tại các biến thể của tỷ lệ hoàn vốn nội bộ sửa đổi có thể được sử dụng cho những so sánh như vậy. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
|
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ
|
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR) là một tỉ lệ lợi nhuận được sử dụng trong lập ngân sách vốn để đo lường và so sánh các lợi nhuận đầu tư. Nó cũng được gọi là tỷ lệ hoàn vốn dòng tiền chiết khấu (DCFROR) hoặc tỷ lệ hoàn vốn (ROR) Trong bối cảnh tiết kiệm và cho vay IRR còn được gọi là lãi suất hiệu quả. Thuật ngữ "nội bộ" đề cập đến thực tế tính toán của nó không kết hợp các yếu tố môi trường (ví dụ, lãi suất hoặc lạm phát). Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ trên một đầu tư hoặc dự án là "tỷ lệ hoàn vốn kết hợp hiệu quả hàng năm" hoặc "tỷ lệ hoàn vốn" làm cho giá trị hiện tại ròng của tất cả các dòng tiền (cả dương và âm) từ một đầu tư cụ thể bằng không. Cụ thể hơn, IRR của một khoản đầu tư là tỉ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại ròng của các chi phí (dòng tiền âm) đầu tư bằng giá trị hiện tại ròng của các lợi ích (dòng tiền dương) đầu tư. Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ thường được sử dụng để đánh giá mức độ cần thiết của đầu tư hoặc dự án.
|
Timothée Chalamet sẽ đóng vai người anh hùng trẻ tuổi Paul Atreides trong Dune: Hành Tinh Cát. Nữ diễn viên Zendaya vào vai người yêu của Paul, một người phụ nữ bí ẩn với đôi mắt xanh rực rỡ tên Chani. Stilgar là thủ lĩnh của những người bản địa (được gọi là Fremen) do Javier Bardem thủ vai. Charlotte Rampling vào vai người mẹ đáng kính của một nhóm phụ nữ được gọi là Bene Gesserit, người có thể đọc và điều khiển tâm trí. Mẹ của Paul cũng là một phần của Bene Gesserit. Sharon Duncan-Brewster đóng vai một nhà sinh thái học, trung lập và cố gắng giữ hòa bình tên Liet Kynes. Dune: Hành Tinh Cát lấy bối cảnh một thời rất xa trong tương lai và diễn ra trong hơn một nghìn năm, chạm đến những vấn đề cốt tử như: sự sống còn của loài người, sự tiến hóa, sinh thái, và sự giao thoa giữa tôn giáo, chính trị và quyền lực. Paul Atreides lớn lên trong một gia đình quý tộc trên hành tinh Caladan. Nhưng khi cha của Paul là Công tước Leto Atreides chấp nhận công việc giám sát hành tinh sa mạc nguy hiểm Arrakis (được gọi là Dune), mọi thứ trong cuộc đời Paul thay đổi. Leto dẫn vợ, con trai Paul và các cố vấn của ông đến Arrakis. Arrakis là nơi duy nhất có chứa một loại “chất” vô cùng quý giá trong vũ trụ được gọi là “gia vị”. Đó là một loại thuốc cực mạnh có thể kéo dài tuổi thọ con người và cung cấp sức mạnh kiểm soát tâm trí siêu phàm. Loại “gia vị” này cho phép những người du hành giữa các thiên hà di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Tuy nhiên, việc thăng chức này là một cái bẫy. Công tước Leto cuối cùng phải đụng độ với gia tộc tội phạm hùng mạnh được biết đến với cái tên Nhà Harkonnen, dẫn đầu bởi Nam tước Vladimir quái dị. Bất chấp mọi khó khăn, Công tước Leto tiếp tục nhiệm vụ của mình trong hoạt động khai thác “gia vị”. Nhưng rồi sự hiện diện của những con sâu cát ăn thịt người khổng lồ khiến mọi thứ trở nên vô cùng nguy hiểm. “Là một hành trình huyền thoại và đầy cảm xúc của một anh hùng, Dune kể câu chuyện về Paul Atreides, một chàng trai trẻ tài ba được sinh ra với sứ mệnh vĩ đại nằm ngoài tầm hiểu biết của chính anh, người phải du hành đến hành tinh nguy hiểm nhất vũ trụ để đảm bảo tương lai của gia đình và người dân của anh ấy.”. “Khi các thế lực tàn độc bùng nổ xung đột tranh giành sự độc quyền nguồn tài nguyên quý giá nhất – một thứ “gia vị” có khả năng kích hoạt tiềm năng lớn nhất của nhân loại – chỉ những người chiến thắng nỗi sợ hãi mới có thể sống sót.”. Bản thân bộ phim năm 1984 của đạo diễn David Lynch với sự tham gia của Kyle MacLachlan trong vai Paul Atreides khi ra mắt đã gây nhiều tranh cãi. Dune: Hành Tinh Cát phiên bản mới sẽ không phải là bản làm lại mà là một tác phẩm hoàn toàn khác, với mối liên hệ chặt chẽ hơn với tiểu thuyết gốc. “Khi tôi xem bộ phim chuyển thể của Lynch, tôi đã rất ấn tượng, nhưng đó không phải là điều tôi mơ ước, vì vậy tôi đang cố gắng thực hiện bộ phim theo cách của mình,” Villeneuve nói trong một cuộc phỏng vấn năm 2017. “Tôi sẽ quay trở lại với nội dung cuốn sách và những hình ảnh xuất hiện trong đầu khi tôi đọc chúng.”. Những người hâm mộ tiểu thuyết Dune của nhà văn Frank Herbert, luôn đặt ra câu hỏi làm thế nào đạo diễn Denis Villeneuve chuyển thể toàn bộ câu chuyện lớn từ sách gói gọn trong một bộ phim. Thật chất điều này từng gây ra nhiều tranh cãi trong phiên bản 1984 của đạo diễn David Lynch. Tuy nhiên nhà biên kịch Eric Roth, một người bạn và là cộng sự của Denis Villeneuve trong Arrival, mới đây đã dành cho bộ phim nhiều lời khen, thậm chí còn so sánh bộ phim với bộ ba được yêu thích Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn của Peter Jackson. Ngoài ra Eric Roth còn xác nhận điều mà mọi người luôn lo lắng, đó là Dune: Hành Tinh Cát sẽ chỉ tập trung vào nửa đầu của cuốn sách: “tôi đã xem bộ phim, nó khá nhiều sự kiện ở nửa đầu.”. Lên kế hoạch nhượng quyền thương mại khi bạn không biết phần đầu tiên sẽ được nhận như thế nào là một trò chơi mạo hiểm và tất nhiên, có thể dẫn đến việc Dune: Hành Tinh Cát trở nên dở dang. Tuy nhiên với việc là một người vô cùng yêu thích tác phẩm, Denis Villeneuve sẽ có cái nhìn riêng của mình dành cho bộ phim. Legendary Pictures đã mua bản quyền Dune vào năm 2016. là nhà phát hành với đạo diễn là Denis Villeneuve – người được biết đến qua các phim Arrival và Blade Runner 2049. Nhà sáng tạo ngôn ngữ của Game of Thrones là David Peterson tham gia vào phát triển ngôn ngữ cho phim. Dune: Hành Tinh Cát, của đạo diễn Denis Villeneuve thông báo sẽ dời ngày phát hành từ 1 tháng 10 sang ngày 22 tháng 10 năm 2021, trên HBO Max và tại các rạp chiếu phim. Theo một số nguồn tin thì, lý do cho chuyện này nhằm tạo khoảng cách với bộ phim bom tấn No Time to Die, khởi chiếu vào ngày 8 tháng 10. Như vậy ngày phát hành của Dune: Hành Tinh Cát sẽ trùng với Last Night In Soho của Edgar Wright và The French Dispatch của Wes Anderson.
|
Dune
|
Dune: Hành tinh cát (tựa gốc tiếng Anh: Dune) là phim điện ảnh sử thi khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 2021 do Denis Villeneuve đạo diễn, với phần kịch bản do Jon Spaihts, Villeneuve và Eric Roth đảm nhiệm. Đây là phần phim đầu tiên trong kế hoạch chuyển thể hai phần từ cuốn tiểu thuyết Xứ Cát của cố nhà văn Frank Herbert xuất bản lần đầu năm 1965, với nội dung bao quát khoảng nửa đầu của cuốn sách. Lấy bối cảnh ở tương lai xa, phim theo chân chàng trai Paul Atreides khi Gia tộc Atreides của cậu bị đẩy vào cuộc chiến tranh giành hành tinh sa mạc Arrakis. Phim có sự tham gia diễn xuất của Timothée Chalamet, Rebecca Ferguson, Oscar Isaac, Josh Brolin, Stellan Skarsgård, Dave Bautista, Stephen McKinley Henderson, Zendaya, David Dastmalchian, Trương Chấn, Sharon Duncan-Brewster, Charlotte Rampling, Jason Momoa và Javier Bardem. Dune: Hành tinh cát là bản chuyển thể thứ ba của Xứ Cát sau bộ phim năm 1984 của David Lynch – một tác phẩm thất bại cả về mặt thương mại lẫn chuyên môn – và loạt phim ngắn năm 2000 của John Harrison. Sau nỗ lực không thành của hãng Paramount Pictures trong việc sản xuất một phiên bản chuyển thể mới, Legendary Entertainment đã mua lại bản quyền điện ảnh và truyền hình của Xứ Cát vào năm 2016, với Villeneuve ký hợp đồng đảm nhiệm vai trò đạo diễn vào tháng 2 năm 2017.
|
Quy định của pháp luật về thành viên hợp danh, thành viên góp vốn của loại hình công ty hợp danh. Thành viên của công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp 2014. Công ty hợp danh là doanh nghiệp nhà nước mà trong đó phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (thành viên hợp danh). Tuy nhiên, bên cạnh thành viên hợp danh thì công ty hợp danh còn có thể có thành viên góp vốn. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 thì: công ty hợp danh phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Theo đó, thành viên hợp danh theo Luật doanh nghiệp 2014 chỉ có thể là cá nhân; trong một số trường hợp đặc biệt thành viên hợp danh phải có chứng chỉ hành nghề hoặc bằng cấp nghiệp vụ nhất định (chẳng hạn công ty hoạt động trong các ngành nghề như dịch vụ pháp lý, khám chữa bệnh, dược phẩm…). “Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; người đang chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định, liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng.”. Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty, tiến hành các hoạt động nhân danh công ty đồng thời phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với các nghĩa vụ của công ty. Theo Điều 176 Luật doanh nghiệp thành viên hợp danh có quyền như một chủ công ty thực sự, chịu trách nhiệm vô hạn khi thực hiện các hoạt động nhân danh công ty. Thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty kể từ khi đăng ký vào danh sách thành viên công ty, bất kể thành viên có tham gia trực tiếp vào các hoạt động phát sinh trách nhiệm ấy hay không trừ trường hợp thành viên đó và các thành viên còn lại có thỏa thuận khác (Theo Khoản 3 Điều 181 Luật doanh nghiệp 2014). Ngay cả khi chấm dứt tư cách thành viên công ty hợp danh thì trong thời hạn hai năm thành viên hợp danh vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công ty đã phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành viên (Theo Khoản 5 điều 180 Luật doanh nghiệp 2014). Xuất phát từ vai trò quan trọng của thành viên hợp danh cùng chế độ trách nhiệm vô hạn của loại thành viên này mà pháp luật đã quy định một số hạn chế đối với quyền thành viên hợp danh đó là:. “Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại. Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác. Như vậy, thành viên hợp danh có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại cũng như hoạt động của công ty hợp danh. Điều này lý giải việc thay đổi thành viên hợp danh phải tuân theo quy định khắt khe của pháp luật . Công ty hợp danh muốn tiếp nhận thành viên hợp danh mới phải được ít nhất ¾ tổng số thành viên hợp danh chấp nhận nếu điều lệ công ty không có quy định khác. Theo Điều 180 Luật doanh nghiệp, tư cách thành viên chấm dứt trong các trường hợp sau:. Trước đây thành viên hợp danh muốn rút khỏi công ty rất hạn chế và khó khăn vì loại thành viên này có vai trò quan trọng trong trong công ty hợp danh và việc rút ra này kéo theo sự thay đổi về cơ cấu, tổ chức nhân sự cũng như thay đổi bộ máy quản lý điều hành của công ty hợp danh. Quy định như vậy gây khó khăn cho các thành viên hợp danh trong việc thay đổi môi trường đầu tư kinh doanh, họ không được linh hoạt trong việc thay đổi, chuyển hướng đầu tư mô hình có lợi. Luật doanh nghiệp 2014 đã cho phép thành viên hợp danh được quyền tự nguyện rút vốn song việc tự nguyện rút vốn của thành viên hợp danh cũng chỉ được coi là hợp lệ khi có ít nhất ¾ tổng số thành viên hợp danh chấp thuận nếu điều lệ công ty không có quy định khác. Trường họp này người thừa kế của thành viên hợp danh bị chết hoặc bị tòa án tuyên bố là chết được hưởng phần giá trị tài sản của công ty sau khi đã trừ đi phần nợ thuộc trách nhiệm của người đó. Người thừa kế có thể trở thành thành viên hợp danh nếu được hội đồng thành viên đồng ý. Khi thành viên hợp danh bị tòa án tuyên bố mất tích thì đương nhiên tư cách thành viên hợp danh của thành viên đó bị chấm dứt. Thành viên hợp danh là người quản lý công ty nên khi bị hạn chế hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì tư cách thành viên đó phải chấm dứt. Trong trường hợp này phần vốn góp của thành viên đó được hoàn trả công bằng và thỏa đáng. Các trường hợp bị khai trừ thành viên hợp danh được quy định tại khoản 3 Điều 180 Luật doanh nghiệp 2014; nếu điều lệ công ty không quy định thì thành viên hợp danh bị khai trừ khi được sự chấp thuận của ít nhất ¾ tổng số thành viên hợp danh. Nghiên cứu và phân tích một số vấn đề cơ bản về thành viên hợp danh cho thấy thành viên hợp danh có vai trò quan trọng, có quyền quản lý và thực hiện một số hoạt động kinh doanh nhân danh công ty, đồng thời với quyền hạn đó là chế độ trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với nghĩa vụ của công ty hợp danh. Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật doanh nghiệp thì thành viên này có thể là cá nhân, pháp nhân trừ những trường hợp thuộc Khoản 2 Điều 18 thì không được góp vốn vào doanh nghiệp nói chung và công ty hợp danh nói riêng. Do tính chất và vai trò của loại thành viên này trong công ty hợp danh, theo quy định của pháp luật hiện hành thì thành viên góp vốn không có yêu cầu gì ngoài yêu cầu về vốn; thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn góp vào công ty. Có thể nói rằng một khi các thành viên này góp đủ phần vốn góp là họ hết trách nhiệm,các chủ nợ không có quyền đòi nợ một cách trực tiếp đối với các thành viên này. Do tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn nên các thành viên góp vốn vào công ty hợp danh không có quyền tham gia, điều hành, quản lý công ty hoặc nhân danh công ty. Điều này nhằm tránh cho bên thứ ba khi giao dịch với công ty có thể bị ngộ nhận về tư cách thành viên góp vốn lầm tưởng rằng thành viên này cũng là một thành viên hợp danh có trách nhiệm vô hạn đối với nghĩa vụ của công ty. Mặt khác, thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty vì phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty hợp danh bằng cả tài sản của mình trong khi thực tế nếu để thành viên góp vốn can thiệp vào công việc quản lý, điều hành công ty thì rất có thể thành viên hợp danh phải chịu ảnh hưởng của thành viên góp vốn. Như vậy, hoạt động của công ty có thể có thể sẽ bị các thành viên này thao túng, các thành viên hợp danh không có quyền gì mà ngược lại họ phải chịu trách nhiệm trên cả tài sản của mình. Tuy nhiên quy định này của pháp luật cũng có một bất cập đó là trong trường hợp cần phải ký kết một loại hợp đồng có ý nghĩa sống còn đối với công ty nhưng chỉ có thành viên góp vốn mới có thể nhân danh công ty ký kết hợp đồng mà thành viên này không có quyền này nên đã bỏ lỡ một cơ hội làm ăn và công ty bị phá sản. Vì vậy, nên chăng Luật doanh nghiệp cần quy định thêm “thành viên góp vốn có thể nhân danh công ty trong một số trường hợp đặc biệt nếu được các thành viên hợp danh đồng ý”. Ngoài ra, các thành viên góp vốn còn được chia lợi nhuận và được chia giá trị tài sản còn lại của công ty khi công ty giải thể theo tỷ lệ quy định tại điều lệ công ty. Khác với thành viên hợp danh trong công ty thành viên góp vốn có quyền tự do hơn trong việc chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người khác và cũng kể từ thời điểm chuyển nhượng phần vốn góp này tư cách thành viên góp vốn trong công ty cũng chấm dứt. Thông thường sự ra đi của thành viên hợp danh là lý do giải thể của công ty nhưng nếu thành viên góp vốn ra khỏi công ty thì công ty vẫn hoạt động bình thường. Tăng vốn điều lệ công ty hợp danh. Quy định về tăng vốn điều lệ công ty hợp danh theo quy định Luật doanh nghiệp 2014. Sáp nhập công ty hợp danh và thành lập trường đại học. Quy định về việc sáp nhập doanh nghiệp. Quyền của thành viên hợp danh trong tổ chức, quản lý công ty hợp danh. Thành viên công ty hợp danh có quyền lợi, trách nhiệm như thế nào trong tổ chức công ty?. Quy chế về vốn trong công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp 2014. Quy đinh về vốn, góp vốn, sử dụng vốn góp, quản lý vốn góp trong loại hình công ty hợp danh theo quy định mới nhất năm 2021?. Ba tôi muốn tặng cho tôi một căn nhà và quyền sử dụng đất trên mảnh đất 100 m2. Căn nhà này đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đứng tên ba tôi. Thủ tục tặng cho như thế nào?. Xây dựng hệ thống thông tin về nhà ở, thị trường bất động sản. Thông tin về nhà ở, thị trường bất động sản được xây dựng thống nhất. Quy định về diện tích tối thiểu nhà chung cư thương mại. Quy hoạch nhà chung cư.
|
Công ty hợp danh
|
Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Tư cách pháp nhân: Công ty hợp danh có kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Phát hành chứng khoán: Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. thị trường dưới hình thức phát hành các chứng khoán (công cụ nợ).
|
Đó là một trong những chủ đề được hỏi thường xuyên đến mức bạn không thể cho phép mình không biết. Trong series này mình cùng nhau tìm hiểu những khái niệm và các đặc điểm tính chất của OOP nhé. Lập trình hướng đối tượng (Object Oriented Programming, viết tắt: OOP) là một kỹ thuật lập trình cho phép lập trình viên tạo ra các đối tượng trong code trừu tượng hóa các đối tượng thực tế trong cuộc sống. Nói đến đây có thể các bạn chưa hiểu để mình giải thích rõ hơn:. Đối tượng (Object) có thể là con người, điện thoại, máy tính, yasuo, leesin . và điểm chung là đều gồm 2 thành phần chính là:. Khi một đối tượng có những đặc tính như nhau sẽ được gom lại thành một lớp đối tượng (class) và cũng sẽ có 2 thành phần là thuộc tính và phương thức. Lớp (class) cũng có thể được dùng để định nghĩa một kiểu dữ liệu mới. Và đối tượng (object) có thể là các dòng máy như Asus, Acer, Lenovo, Thinkpad, . đều mang đặc tính của lớp máy vi tính. Nếu như trước đây chúng ta lập trình với hướng thủ tục thì sẽ chia thành các hàm để xử lý, thì giờ đây khi sử dụng hướng đối tượng thì chúng ta sẽ chia thành các đối tượng để xử lý. Vì lập trình hướng đối tượng ra đời sau nên nó khắc phục được tất cả các điểm yếu của các phương pháp lập trình trước đó. Cụ thể nó có các ưu điểm sau:. Tính đóng gói (Encapsulation): Tính chất này không cho phép người dùng trực tiếp tác động đến dữ liệu bên trong đối tượng mà phải thông qua các phương thức mà đối tượng cung cấp. Tính chất này đảm bảo tính toàn vẹn của đối tượng. Trong đoạn code trên tính đóng gói được thể hiện qua các thuộc tính mausac, chieudai, chieurong và phương thức input(), output() vào trong class mayvitinh. Tính kế thừa (Inheritance): Kế thừa, tái sử dụng phương thức, thuộc tính của lớp cơ sở và lớp kế thừa được gọi là lớp con, nó sẽ thừa hưởng những gì lớp cha có và cho phép. Thay vì sao chép những thuộc tính này, ta nên đặt chúng vào một lớp chung gọi là lớp cha – trong trường hợp này là mayvitinh và có những lớp con mayAsus, mayAcer kế thừa từ nó, tạo ra một mối quan hệ cha/con. Tính đa hình (Polymorphism): Tính đa hình cho phép các chức năng (method) khác nhau được thực thi khác nhau trên các đối tượng khác nhau. Ví dụ như class mayvitinh ở trên, mỗi một dòng máy đều kế thừa từ lớp cha mayvitinh nhưng được chạy với một hệ điều hành khác nhau, mayAsus thì được chạy với hệ điều hành Windows, còn mayMacbook sẽ được chạy với hệ diều hành MacOs. Tính trừu tượng(Abstraction): Tập trung vào cốt lõi của đối tượng, bỏ qua những thứ không liên quan và không quan trọng. Đây chỉ là những khái niệm cơ bản các bạn cần nắm đề chuẩn bị cho những part sau. Cụ thể mình sẽ tìm hiểu rõ hơn về từng tính chất của lập trình hướng đối tượng. Các bạn nhớ đón xem và góp ý để những bài sau tốt hơn nhé. Khi làm việc với C, vấn đề sẽ xảy ra khi bạn dùng các collection này để lưu trữ kiểu dữ liệu nguyên thủy(int, double,.) vì khi đó sẽ xảy ra quá trình boxing/unboxing. Xin chào các bạn chắc hẳn các bạn đã quen thuộc với trò chơi xếp hình cổ điển, trong bài viết này mình sẽ hướng dẫn các bạn làm trò chơi này bằng ngôn ngữ Java nhé. Trò chơi sudoku đòi hỏi ta sự nhanh nhạy nhưng vẫn phải đảm bảo tính chính xác và cẩn thận. Hôm nay minh sẽ hướng dẫn các bạn lập trình game sudoku nhé. Có rất nhiều vai trò khác tham gia vào phát triển web. Nhưng hầu hết, thường sẽ có hai loại lập trình viên: một cho front end và một cho backend.
|
Hàm tạo (lập trình hướng đối tượng)
|
Trong lập trình hướng đối tượng dựa trên lớp, hàm tạo (tiếng Anh: constructor, viết tắt: ctor) trong một lớp là một kiểu chương trình con đặc biệt được dùng để tạo ra đối tượng. Nó chuẩn bị đối tượng mới để sử dụng, thường chấp nhận các đối số mà hàm tạo dùng để thiết lập các biến thành viên bắt buộc. Một hàm tạo có vẻ giống như là phương thức thực thể, nhưng nó khác phương thức vì nó không có kiểu trả về rõ ràng, nó không được kế thừa ngầm và nó thường có các quy tắc khác nhau để chỉ định tầm vực. Hàm tạo thường có tên giống với lớp được khai báo. Chúng có nhiệm vụ khởi tạo thành viên dữ liệu của đối tượng và thiết lập bất biến của lớp, thất bại nếu bất biến không hợp lệ. Một hàm tạo được viết tốt sẽ cho kết quả đối tượng với trạng thái hợp lệ. Đối tượng bất biến phải được khởi tạo trong hàm tạo. Các lập trình viên cũng hay dùng thuật ngữ hàm tạo để chỉ một trong những thẻ đóng gói dữ liệu trong một kiểu dữ liệu đại số.
|
Có bao nhiêu loại AI?Loại 1: Công nghệ AI phản ứng.Loại 2: Công nghệ AI với bộ nhớ hạn chếLoại 3: Lý thuyết trí tuệ nhân tạoLoại 4: Tự nhận thức. Trong cuộc triển lãm công nghệ IFA 2018 vừa diễn ra tại Berlin (Đức), các hãng sản xuất công nghệ hàng đầu thế giới như Samsung, LG, Sony,… đã đầu tư và sáng tạo cho ra các sản phẩm tăng trải nghiệm người dùng với trí tuệ nhân tạo AI như loạt TV BRAVIA, Family Hub của Samsung; loạt thiết bị gia dụng cao cấp LG Signature của LG; chú chó robot AIBO của Sony và rất nhiều các thiết bị khác từ gia dụng, điện tử cho đến y học của các hãng điện tử trên thế giới đều chú trọng cho sự phát triển của trí tuệ nhân tạo. Trí tuệ nhân tạo hay trí thông minh nhân tạo (Artificial intelligence – viết tắt là AI) là một ngành thuộc lĩnh vực khoa học máy tính (Computer science). Là trí tuệ do con người lập trình tạo nên với mục tiêu giúp máy tính có thể tự động hóa các hành vi thông minh như con người. Trí tuệ nhân tạo khác với việc lập trình logic trong các ngôn ngữ lập trình là ở việc ứng dụng các hệ thống học máy (machine learning) để mô phỏng trí tuệ của con người trong các xử lý mà con người làm tốt hơn máy tính. Tuy rằng trí thông minh nhân tạo có nghĩa rộng như là trí thông minh trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng, nó là một trong những ngành trọng yếu của tin học. Trí thông minh nhân tạo liên quan đến cách cư xử, sự học hỏi và khả năng thích ứng thông minh của máy móc. Công nghệ AI phản ứng có khả năng phân tích những động thái khả thi nhất của chính mình và của đối thủ, từ đó, đưa ra được giải pháp tối ưu nhất. Một ví dụ điển hình của công nghệ AI phản ứng là Deep Blue. Đây là một chương trình chơi cờ vua tự động, được tạo ra bởi IBM, với khả năng xác định các nước cờ đồng thời dự đoán những bước đi tiếp theo của đối thủ. Thông qua đó, Deep Blue đưa ra những nước đi thích hợp nhất. Đặc điểm của công nghệ AI với bộ nhớ hạn chế là khả năng sử dụng những kinh nghiệm trong quá khứ để đưa ra những quyết định trong tương lai. Công nghệ AI này thường kết hợp với cảm biến môi trường xung quanh nhằm mục đích dự đoán những trường hợp có thể xảy ra và đưa ra quyết định tốt nhất cho thiết bị. Ví dụ như đối với xe không người lái, nhiều cảm biến được trang bị xung quanh xe và ở đầu xe để tính toán khoảng cách với các xe phía trước, công nghệ AI sẽ dự đoán khả năng xảy ra va chạm, từ đó điều chỉnh tốc độ xe phù hợp để giữ an toàn cho xe. Công nghệ AI này có thể học hỏi cũng như tự suy nghĩ, sau đó áp dụng những gì học được để thực hiện một việc cụ thể. Hiện nay, công nghệ AI này vẫn chưa trở thành một phương án khả thi. Công nghệ AI này có khả năng tự nhận thức về bản thân, có ý thức và hành xử như con người. Thậm chí, chúng còn có thể bộc lộ cảm xúc cũng như hiểu được những cảm xúc của con người. Đây được xem là bước phát triển cao nhất của công nghệ AI và đến thời điểm hiện tại, công nghệ này vẫn chưa khả thi. Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trên những phương tiện vận tải tự lái, điển hình là ô tô. Sự ứng dụng này góp phần mang lại lợi ích kinh tế cao hơn nhờ khả năng cắt giảm chi phí cũng như hạn chế những tai nạn nguy hiểm đến tính mạng. Vào năm 2016, Otto, hãng phát triển xe tự lái thuộc Uber đã vận chuyển thành công 50.000 lon bia Budweisers bằng xe tự lái trên quãng đường dài 193 km. Theo dự đoán của công ty tư vấn công nghệ thông tin Gartner, trong tương lai, những chiếc xe có thể kết nối với nhau thông qua Wifi để đưa ra những lộ trình vận tải tốt nhất. Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng để xây dựng những quy trình sản xuất tối ưu hơn. Công nghệ AI có khả năng phân tích cao, làm cơ sở định hướng cho việc ra quyết định trong sản xuất. Ứng dụng tiêu biểu của trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực y tế là máy bay thiết bị bay không người lái được sử dụng trong những trường hợp cứu hộ khẩn cấp. Thiết bị bay không người lái có tốc độ nhanh hơn xe chuyên dụng đến 40% và vô cùng thích hợp để sử dụng ở những nơi có địa hình hiểm trở. Sự ra đời của trí tuệ nhân tạo giúp tạo ra những thay đổi lớn trong lĩnh vực giáo dục. Các hoạt động giáo dục như chấm điểm hay dạy kèm học sinh có thể được tự động hóa nhờ công nghệ AI. Nhiều trò chơi, phần mềm giáo dục ra đời đáp ứng nhu cầu cụ thể của từng học sinh, giúp học sinh cải thiện tình hình học tập theo tốc độ riêng của mình. Trí tuệ nhân tạo còn có thể chỉ ra những vấn đề mà các khóa học cần phải cải thiện. Chẳng hạn như khi nhiều học sinh được phát hiện là gửi đáp án sai cho bài tập, hệ thống sẽ thông báo cho giáo viên đồng thời gửi thông điệp đến học sinh để chỉnh sửa đáp án phù hợp. Công nghệ AI còn có khả năng theo dõi sự tiến bộ của học sinh và thông báo đến giáo viên khi phát hiện ra vấn đề đối với kết quả học tập của học sinh. Hơn nữa, sinh viên còn có thể học hỏi từ bất cứ nơi nào trên thế giới thông qua việc sử dụng những phần mềm có hỗ trợ AI. Công nghệ AI cũng cung cấp dữ liệu nhằm giúp sinh viên lựa chọn được những khóa học tốt nhất cho mình. Đối với lĩnh vực truyền thông, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo góp phần làm thay đổi cách thức tiếp cận đối với khách hàng mục tiêu. Nhờ những ưu điểm của công nghệ AI, các công ty có thể cung cấp quảng cáo vào đúng thời điểm, đúng khách hàng tiềm năng, dựa trên việc phân tích các đặc điểm về nhân khẩu học, thói quen hoạt động trực tuyến và những nội dung mà khách hàng thường xem trên quảng cáo. Công nghệ AI giúp ngành dịch vụ hoạt động tối ưu hơn và góp phần mang đến những trải nghiệm mới mẻ hơn và tốt hơn cho khách hàng. Thông qua việc thu thập và phân tích dữ liệu, công nghệ AI có thể nắm bắt thông tin về hành vi sử dụng dịch vụ của khách hàng, từ đó mang lại những giải pháp phù hợp với nhu cầu của từng khách hàng.
|
Trí tuệ nhân tạo
|
Trong khoa học máy tính, trí tuệ nhân tạo hay AI (tiếng Anh: artificial intelligence), đôi khi được gọi là trí thông minh nhân tạo, là trí thông minh được thể hiện bằng máy móc, trái ngược với trí thông minh tự nhiên của con người. Thông thường, thuật ngữ "trí tuệ nhân tạo" thường được sử dụng để mô tả các máy móc (hoặc máy tính) có khả năng bắt chước các chức năng "nhận thức" mà con người thường phải liên kết với tâm trí, như "học tập" và "giải quyết vấn đề".Khi máy móc ngày càng tăng khả năng, các nhiệm vụ được coi là cần "trí thông minh" thường bị loại bỏ khỏi định nghĩa về AI, một hiện tượng được gọi là hiệu ứng AI. Một câu châm ngôn trong Định lý của Tesler nói rằng "AI là bất cứ điều gì chưa được thực hiện." Ví dụ, nhận dạng ký tự quang học thường bị loại trừ khỏi những thứ được coi là AI, đã trở thành một công nghệ thông thường. khả năng máy hiện đại thường được phân loại như AI bao gồm thành công hiểu lời nói của con người, cạnh tranh ở mức cao nhất trong trò chơi chiến lược (chẳng hạn như cờ vua và Go), xe hoạt động độc lập, định tuyến thông minh trong mạng phân phối nội dung, và mô phỏng quân sự.
|
Chắc hẳn nhiều người không còn quá xa lạ với hai thuật ngữ dòng điện xoay chiều (AC) và dòng điện 1 chiều (DC) bởi 2 dòng điện này được sử dụng rất nhiều trong đời sống. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người chưa biết AC là gì? DC là gì?, nó được ứng dụng trong cuộc sống như thế nào và sự khác nhau của 2 dòng điện này ra sao. Bài viết hôm nay của Palada.vn sẽ giúp bạn giải đáp tất cả các vấn đề này. Dòng điện một chiều có tên tiếng Anh là Direct Current, được ký hiệu là DC. Hiểu một cách đơn giản thì dòng điện một chiều là dòng điện chạy theo một hướng cố định. Cường độ của nó có thể giảm hoặc tăng nhưng không thể thay đổi chiều. Vậy dòng điện một chiều thì tần số bằng bao nhiêu? Câu trả lời là dòng điện 1 chiều có tần số bằng 0. Do dòng điện này không đổi chiều, nó là một đường thẳng. Chúng ta có thể bắt gặp điện một chiều trong các thiết bị như: sạc điện thoại, pin, bình ắc quy,… Đối với điện DC thì trên thiết bị chứa điện này sẽ có ký hiệu âm (-) và dương (+). Điện một chiều được tạo ra từ nguồn pin, năng lượng mặt trời, ắc quy. Hiện nay, để đo dòng điện một chiều, chúng ta dùng ampe kìm. Và cách đo dòng điện 1 chiều bằng ampe kìm như sau. Để đo được dòng điện, ta chỉ cần kẹp ampe kìm vào đoạn dây mà dòng điện chạy qua. Sau đó các thông số của dòng điện sẽ hiện lên. Tuy nhiên, khi sử dụng ampe kìm, người dùng cần lưu ý: mắc chốt (+) của ampe kìm về phía cực dương của nguồn điện; điều chỉnh kim đúng vạch 0; không mắc trực tiếp 2 chốt của ampe kìm vào 2 cực của nguồn điện; đặt mắt đọc đúng vị trí. Còn dòng điện xoay chiều AC thì được viết tắt của từ Alternating Current. Có nghĩa là dòng điện có chiều và độ lớn biến đổi theo thời gian và có chu kỳ nhất định. Hiểu đơn giản thì chính là dòng điện xoay chiều trong mạch sẽ chạy theo một chiều và sau đó có thể chạy theo chiều ngược lại và nó cứ liên tục đổi chiều như vậy. Khi nói đến AC ta thường nhắc đến: chu kỳ và tần số. Hiện nay, các thiết bị sử dụng điện xoay chiều AC đều là các thiết bị điện gia dụng như: Máy lạnh, máy giặt, tủ lạnh, tivi, bếp điện, bóng đèn huỳnh quang,. Để có thể hoạt động, dòng điện này cần có động cơ. Vậy động cơ điện AC là gì? Động cơ điện AC là động cơ điện xoay chiều hoạt động với dòng điện xoay chiều. Nó gồm có hai phần chính là Stator và Rotor. Qua những nội dung trên, chắc hẳn bạn đọc cũng đã hiểu rõ dòng điện xoay chiều AC và dòng điện một chiều DC và thấy được sự khác biệt giữa chúng. Để hiểu rõ hơn về sự khác nhau của chúng, ta hãy cùng tìm hiểu thông qua bảng sau. Để biến đổi điện một chiều thành điện xoay chiều hoặc biến đổi điện xoay chiều thành một chiều người ta sử dụng máy biến tần hay còn được gọi là inverter. Dòng điện một chiều sẽ truyền vào cuộn dây sơ cấp của máy biến áp hình tròn, thông qua một đĩa quay hình tròn với các kết nối phức tạp khác. Khi đĩa quay, dòng điện một chiều liên tục chuyển hướng và được dẫn tới cuộn sơ cấp thông qua dây dẫn và máy biến áp sẽ nhận được dòng điện xoay chiều thay vì dòng điện một chiều như ban đầu. Đây chính là bước chuyển tiếp quan trọng trong máy biến áp với cuộn dây thứ cấp có nhiều vòng dây hơn cuộn sơ cấp. Điều này là do số vòng dây quấn trong cuộn thứ cấp có nhiệm vụ làm tăng mức điện áp dòng điện AC tại đầu ra, khiến chúng lớn hơn so với mức điện áp của dòng điện AC tại đầu vào ban đầu. Không chỉ vậy, tốc độ quay của đĩa sẽ điều chỉnh tần sóng của dòng AC tại đầu ra. Máy biến tần inverter hiện nay được ứng dụng nhiều trong ngành công nghiệp điện mặt trời. Thiết bị chuyển đổi dòng điện 1 chiều thành xoay chiều để hòa với lưới điện quốc gia, đồng thời cung cấp điện cho các tải tiêu thụ. Hiện nay, dòng điện xoay chiều được sử dụng phổ biến hơn dòng điện một chiều. Điều này là do điện xoay chiều có thể tăng hoặc giảm điện áp dễ dàng nhờ vào máy biến áp. Nhờ vậy nó giảm được hao phí khi truyền tải điện năng đi xa. Thứ hai, khi lắp đặt các thiết bị điện xoay chiều dễ dàng hơn thiết bị điện một chiều vì không cần phải lắp đúng cực dương cực âm; chỉ cần đúng điện áp định mức là được. Thứ ba, máy phát điện xoay chiều có cấu tạo đơn giản hơn máy phát điện một chiều và khi cần người dùng vẫn có thể chuyển đổi điện xoay chiều thành dòng điện một chiều nhờ hệ thống mạch chỉnh lưu. Trong thực tế hiện nay, để phát huy hiệu quả kinh tế, tạo ra từ trường mạnh và tiết kiệm dây dẫn thì người dùng sử dụng hệ thống điện xoay chiều 3 pha rất nhiều. Dòng điện xoay chiều 3 pha là gì?. Đây là dòng điện sử dụng trong gia đình, được lấy một pha của lưới điện 3 pha nên có một dây nóng và một dây trung hòa. Trụ sở: Tòa nhà A14, Ngách 3/10 Đường Liên cơ, Q. Nam Từ Liêm, TP Hà Nội
|
Điện một chiều
|
Khái niệm Một chiều trong kỹ thuật điện là để nói đến dòng chuyển dời đồng hướng của các hạt mang điện trong môi trường dẫn điện, như dây dẫn. Điện một chiều thường được viết tắt là 1C (một chiều) hay DC (theo viết tắt tiếng Anh: "Direct Current"). Dòng điện một chiều được tạo ra năm 1800 từ pin Volta của nhà vật lý học người Ý Alessandro Volta. Bản chất của việc dòng điện di chuyển đã không được tìm ra. Nhà vật lý học người Pháp André-Marie Ampère phỏng đoán rằng dòng điện đi theo một hướng từ dương tới âm. Khi nhà chế tạo dụng cụ người Pháp Hippolyte Pixii xây máy phát điện một chiều đầu tiên năm 1832, ông phát hiện ra rằng khi nam châm được sử dụng đi qua các vòng dây mỗi nửa vòng, nó đã đảo chiều dòng điện, tạo ra Điện xoay chiều. Từ gợi ý của Ampère, Pixii sau đó đã thêm bộ phận chuyển mạch để tạo ra dòng điện một chiều.
|
"Hồ Thiên Nga", "Cinderella", "Don Quixote". là những tác phẩm ballet có sức sống, được yêu thích trên mọi sân khấu vũ kịch thế giới. Nhắc tới nghệ thuật ballet, nhiều người nghĩ ngay tới vở Hồ Thiên Nga. Phần âm nhạc được viết khoảng năm 1875 - 1876 bởi nhà soạn nhạc Pyotr Ilyich Tchaikovsky. Đã có nhiều phiên bản Hồ Thiên Nga khác nhau, nhưng hầu hết các tác phẩm đều dựa trên bản năm 1895 của hai biên đạo Marius Petipa và Lev Ivanov. Vở ballet mẫu mực kể về câu chuyện tình yêu của công chúa Odette (người bị phù thủy biến thành thiên nga vào ban ngày, và trở thành người vào ban đêm) với hoàng tử Siegfried. Đằng sau những vũ điệu bay bổng, lãng mạn là triết lý về thề nguyện và hẹn ước, cái tốt đẹp chiến thắng cái xấu xa, sự hữu hạn và vô hạn của cuộc sống. Vẫn là một tác phẩm của nhà soạn nhạc thiên tài Tchaikovsky, Người đẹp ngủ trong rừng ra mắt năm 1890. Tác phẩm dựa trên truyện cùng tên của nhà văn Charles Perrault. Nghệ sĩ Marius Petipa viết lời (libretto) và biên đạo. Vở diễn hoành tráng, với sự tham gia của lượng lớn vũ công, chỉ tính riêng trích đoạn "điệu valse với các vòng hoa" ở hồi I đã phải huy động tới 150 diễn viên múa. Lúc mới ra mắt, tác phẩm bị giới phê bình tẩy chay với lý lẽ nhạc của Tchaikovsky khó để múa. Trái lại, công chúng đón nhận vở diễn nồng nhiệt. Tới nay, tác phẩm vẫn được coi là vở ballet nổi tiếng. Bản thân nhà soạn nhạc Tchaikovsky luôn coi Người đẹp ngủ trong rừng là tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng hay nhất của mình. Tchaikopsky coi "Người đẹp ngủ trong rừng" là tác phẩm nhạc vũ kịch hay nhất của mình. Giselle còn có tên khác là The Wilis, là vở ballet hai màn do Adolphe Adam soạn nhạc, Jean Coralli và Jules Perrot biên đạo. Kịch bản được viết dựa trên ý tưởng từ một bài thơ của Victor Hugo. Tác phẩm ra mắt năm 1842 tại Paris. Vở vũ kịch khắc họa nàng Giselle - một cô nàng trẻ trung, xinh đẹp yêu thích khiêu vũ. Nàng đem lòng yêu một người đàn ông quý tộc mà không hề biết anh ta đã đính ước với người khác. Đau khổ, Giselle đã tự vẫn. The Wilis là một nhóm gồm các linh hồn nữ định giết người đàn ông quý tộc, nhưng tình yêu của linh hồn Giselle đã cứu anh thoát án tử hình. Tuyệt phẩm ballet là sự kết hợp của nhà soạn nhạc thiên tài Tchaikovsky và hai bậc thầy biên đạo: Marius Petipa, Lev Ivanov. Kẹp hạt dẻ ra mắt năm 1892 tại Nga, ban đầu chưa mấy thành công, nhưng vẫn có sức sống nhờ phần âm nhạc ấn tượng của Tchaikovsky. Tới những năm 1960, vở múa được hoàn thiện, và trở nên nổi tiếng. Tác phẩm được coi là "siêu phẩm ballet" mỗi mùa Noel. Ngày nay, các đoàn ballet tại Mỹ có tới 40% thu nhập nhờ biểu diễn Kẹp hạt dẻ vào dịp Giáng sinh. "Kẹp hạt dẻ" là vũ khúc được trình diễn nhiều nhất trong đêm Giáng sinh. Tác phẩm của nhà soạn nhạc Sergei Prokofiev, ra mắt những năm 1900 qua phần biên đạo của Rostislav Zakharov. Dù có nhiều phiên bản khác nhau, song nội dung các vở Cinderella đều dựa trên truyện cổ tích Cô bé lọ lem. Cinderella được đánh giá cao bởi âm nhạc đẹp, vũ đạo dí dỏm và lãng mạn. Vở ballet xuất hiện lần đầu năm 1614 tại Pháp, dựa trên tiểu thuyết Don Quixote nhà quý tộc tài ba xứ Mancha. Nhiều phiên bản khác nhau của Don Quixote đã được dàn dựng, trong đó phổ biến nhất là tác phẩm do Marius Petipa biên đạo. Nội dung tác phẩm trung thành với cốt truyện của nhà văn Cervantes. Trong vở vũ kịch này, nhân vật chính Don Quixote không phải là trọng tâm. Những màn múa đẹp nhất thường được thể hiện bởi cặp nhân vật phụ là Kitri và Basilio. Vũ điệu của Don Quixote sống động, quyến rũ, mang đậm phong cách Tây Ban Nha. Dựa trên kịch của William Shakespeare, vở ballet có phần âm nhạc được soạn bởi Sergei Prokofiev, biên đọa Leonid Lavrovsky. Tác phẩm được dựng năm 1935, công diễn bản hoàn thiện những năm 1938 tại Czech. Tới 1940, tác phẩm mới được diễn ở Nga vở trở nên nổi tiếng. Romeo và Juliet trung thành với cốt truyện của William Shakespeare, tái hiện bi kịch tình yêu thông qua những vũ điệu bay bổng. Ra mắt năm 1877 - giai đoạn mà ballet đi vào thời kỳ lãng mạn, La Bayadere được dàn dựng bởi Marius Petipa, phần âm nhạc của Ludwig Minkus. Nội dung tác phẩm kể câu chuyện tình vĩnh cửu giữa vũ nữ Ấn Độ Nikiya và chiến binh điển trai Solor. Brahmin là tay sỹ quan cao cấp đem lòng yêu Nikiya, bởi thế anh ta sắp xếp một lễ cưới cho Solor với công chúa. Bi kịch tình yêu, sự báo thù diễn ra từ đó. Qua bao thăng trầm, La Bayadere luôn được yêu thích bởi "màn múa trắng", trong đó 32 phụ nữ mặc đồ trắng với những động tác nhún nhảy tinh tế theo hàng. Màn múa này trở thành một vũ đạo được sử dụng trong nhiều vở ballet. Màn "múa trắng" trong "La Bayadere" được sử dụng như một vũ đạo trong nhiều vở ballet. Nàng tiên gió là một trong những vở ballet lãng mạn cổ xưa nhất còn được diễn tới ngày nay. Tác phẩm ra mắt năm 1832 tại Pháp, được biên đạo Filippo Taglioni sáng tạo như một món quà cho cô con gái Marie. Nhằm nhấn mạnh sự mỏng manh của nhân vật, Taglioni đã khai thác tối đa các kỹ thuật nhảy múa bằng ngón chân. Vở ballet truyền cảm hứng từ phong cách, kỹ thuật múa, trang phục cho nhiều tác phẩm cùng thời. Năm 1836, Nàng tiên gió được nhóm múa Danish August Bournonville dàn dựng lại với phần âm nhạc của Herman Severin Lovenskiold. Tác phẩm ra mắt năm 1870 tại Pháp. Biên đạo Marius Petipa sau đó đã dựng lại Coppelia vào cuối thế kỷ 19, phiên bản này vẫn được biểu diễn cho tới ngày nay. Vở múa có tiết tấu nhẹ nhàng, giai điệu vui vẻ, kể về trò cúp bắt tinh nghịch của đôi bạn Franz và Swanhilda. Tác phẩm thường thu hút trẻ em bởi những tạo hình xinh xắn. Coppelia là tác phẩm đầu tiên đưa con rối, búp bê lên sân khấu ballet.
|
Người đẹp ngủ trong rừng (ballet)
|
Người đẹp ngủ trong rừng hay Người đẹp say ngủ (tiếng Nga: спящая красавица ) là vở ballet nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Nga Pyotr Ilyich Tchaikovsky. Vở ballet này gồm 3 màn và có đoạn mở đầu. Người viết lời cho vở ballet này là Petipa và Vsevoloysky. Họ dựa theo một câu chuyện cổ tích của Charles Perrault. Ngoài việc viết lời ra, Petipa còn là biên đạo múa cho tác phẩm. Tác phẩm được sáng tác trong 2 năm, 1888-1889, được trình diễn lần đầu tiên tại thành phố Sankt Peterburg vào năm 1890. Đây là một trong những vở ballet hay nhất của Tchaikovsky và là một trong những vở ballet nổi tiếng nhất của âm nhạc cổ điển.
|
Thu khí trước khi đốtQuá trình này tách CO2 từ nhiên liệu bằng cách kết hợp nó với khí hoặc hơi nước để đốt cháy và lưu giữ luồng CO2 đã được tách ra.Hiện nay người ta thường dùng công nghệ cải hóa khí tự nhiên bằng hơi nước, trong đó hơi nước được sử dụng để tách hydro từ khí tự nhiên.Tuy nhiên, nếu không có quy định ràng buộc về pháp lý hoặc hỗ trợ về tài chính thì các nhà máy sẽ không áp dụng các biện pháp thu hồi CO2 trước khi đốt trong hệ thống năng lượng của mình. Một số ý kiến cho rằng tách khí CO2 trước khi đốt là yêu cầu kỹ thuật cần thiết cho quá trình chuyển hóa than thành nhiên liệu lỏng nhờ các phản ứng hóa học. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ, bản thân quá trình chuyển hóa than đá thành nhiên liệu lỏng cũng thải CO2, và các sản phẩm nhiên liệu lỏng khi cháy cũng là nguồn sinh khí CO2.Kỹ thuật thu hồi khí trước khi đốt ứng dụng trong công nghệ sản xuất nhiên liệu lỏng từ than đá sẽ làm giảm tổng lượng CO2 thải ra, mặc dù sau đó chất khí này vẫn là sản phẩm tất yếu khi các loại nhiên liệu lỏng được tiêu thụ trong vận tải hoặc phát điện.Thu khí nhờ đốt nhiên liệu bằng oxyỞ quá trình này, oxy sẽ được dùng làm khí đốt để thải ra một hỗn hợp khí với thành phần chủ yếu là CO2 và nước dễ dàng phân tách, sau đó CO2 có thể được nén, vận chuyển và lưu trữ.Kỹ thuật này hiện vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, một phần là vì nhiệt độ cháy của oxy tinh khiết (khoảng 3.500oC) là quá cao đối với nhiên liệu của các nhà máy phát điện thông thường. Vận chuyển CO2Một số giải pháp vận chuyển CO2 đã được vận dụng trong thực tế, tuy nhiên, hầu hết mới chỉ được áp dụng ở quy mô nhỏ.Dùng đường ống là phương pháp vận chuyển khí CO2 phổ biến nhất tại Hoa Kỳ. Hiện nay, có hơn 5.800 km đường ống vận chuyển khí CO2 ở nước này, chủ yếu để phục vụ các khu khai thác dầu khí.Tương tự như vận chuyển sản phẩm dầu mỏ và khí thiên nhiên, đường ống vận chuyển khí CO2 đòi hỏi chú trọng đến thiết kế, giám sát rò rỉ và bảo vệ đường ống khỏi áp lực cao, đặc biệt đối với đoạn ống đi qua khu dân cư.Tàu biển có thể được dùng để vận chuyển CO2 ở khoảng cách xa hay sang nước khác. Trên thế giới, các loại chất đốt hoá lỏng tự nhiên, propan và butan thường được vận chuyển bằng tàu biển tải trọng lớn.Các loại phương tiện vận tải đường bộ cũng có thể sử dụng để vận chuyển khí CO2 nhưng phương án này không kinh tế nếu triển khai hoạt động CCS trên quy mô lớn.Chi phí cho vận chuyển bằng đường ống dao động tùy thuộc vào giá thành xây dựng, phí vận hành, bảo trì, quản lý và các khoản phí khác. Đối với loại hình vận chuyển này, lưu lượng và khoảng cách vận chuyển là những yếu tố chủ yếu để xác định chi phí. Ngoài ra còn phải tính đến vị trí địa lý của đường ống (ở trên bờ hay ngoài khơi) và mức độ tắc nghẽn lưu thông dọc tuyến đường vận chuyển (có gặp núi, sông lớn và có đi qua vùng băng tuyết bao phủ hay không).Chi phí vận chuyển hàng hải hiện mới chỉ được ước tính vì trên thực tế vẫn chưa có hệ thống vận tải khí CO2 quy mô lớn (cỡ hàng triệu tấn CO2/năm) nào hoạt động. Đối với những khoảng cách xa hơn 1.000km và lưu lượng nhỏ hơn vài triệu tấn CO2/năm thì chi phí vận chuyển hàng hải có thể thấp hơn vận chuyển bằng đường ống. Đá khô là CO2 ở dạng rắn. Chúng được tạo thành từ khí CO2 trong quá trình sản xuất công nghiệp. Khi khí CO2 được nén ở áp suất ca. Lưu trữ đá khô trong một thùng chứa cách nhiệt. Không lưu trữ băng trong một thùng là hoàn toàn kín. Khi thay đổi băng CO2 (carbon dioxide) khí, nó. Một mẹo nhỏ giúp bạn có thể dễ dàng khắc phục những chỗ móp méo trên vỏ xe ôtô đồng thời giúp bạn tiết kiệm một khoản tiền tương đối cũng như thời . Làm sạch bằng đá khô là một phương pháp vệ sinh cách mạng mà nó sử dụng những viên đá khô (CO2 ở dạng rắn) làm nguyên liệu để bắn vào bề mặt cần là. Nhiều nước trên thế giới hiện đang đầu tư vào các công nghệ tận dụng khí thải CO2 trong các lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng. và công nghiệp chế tạo.
|
Thu hồi và lưu trữ carbon
|
Thu hồi và lưu trữ carbon (Carbon capture and storage) (hoặc thu hồi và cô lập carbon hoặc kiểm soát và cô lập carbon ) là quá trình thu giữ carbon dioxide thải ra (CO2) thường là từ các nguồn điểm lớn, chẳng hạn như nhà máy xi măng hoặc nhà máy điện sinh khối, vận chuyển nó đến nơi lưu trữ và gửi nó ở nơi nó sẽ không đi vào khí quyển, thông thường là sự hình thành địa chất dưới lòng đất. Mục đích là để ngăn chặn việc phát hành một lượng lớn CO2 vào bầu không khí từ ngành công nghiệp nặng. Nó là một phương tiện tiềm năng để giảm thiểu sự đóng góp cho sự nóng lên toàn cầu và axit hóa đại dương của lượng khí thải carbon dioxide từ công nghiệp và sưởi ấm. Mặc dù CO2 đã được tiêm vào các thành kiến tạo địa chất trong nhiều thập kỷ cho các mục đích khác nhau, bao gồm tăng cường thu hồi dầu, việc lưu trữ lâu dài của CO2 là một khái niệm tương đối mới. Bẫy không khí trực tiếp là một loại CCS mà lấy CO2 từ không khí xung quanh chứ không phải là một nguồn điểm.
|
Châu Phi được biết đến như một lục địa của các bộ lạc và chủ đề về sắc tộc ở châu Phi là một trong những điều hấp dẫn du khách nhất. Là một lục địa rộng lớn có thể được chia thành nhiều khu vực, với khoảng 3.000 bộ lạc và 2.000 ngôn ngữ và thổ ngữ, châu Phi có sức cuốn hút ở mọi nơi. Dưới đây là một số bộ lạc ấn tượng nhất về lịch sử và lối sống. Người Tuareg là một bộ tộc lớn của sắc tộc Berber, chiếm giữ những khu vực rộng lớn của sa mạc Sahara. Là những người chăn nuôi du mục, họ di chuyển liên tục để tìm kiếm thức ăn và nước uống. Do đó, họ được tìm thấy ở các quốc gia Địa Trung Hải như Libya và Algeria cũng như các quốc gia trong khu vực được gọi là Sahel, trên ranh giới phía nam của Sahara, chẳng hạn như Niger. Người Bedouin là những người du mục gốc Ả Rập sống ở Đông Bắc châu Phi nhưng họ cũng sống rải rác rộng khắp Iraq và Bán đảo Ả Rập. Cái tên bắt nguồn từ tiếng Ả Rập “badawi” có nghĩa là cư dân trên sa mạc. Phần lớn người thuộc bộ lạc này theo đạo Hồi, họ sống bằng nghề chăn dê và lạc đà. Người Dogon là một nhánh của nhóm ngôn ngữ Niger-Congo, một bộ tộc có từ 400.000 đến 800.000 người. Họ sống trong những ngôi làng ở vị trí phòng thủ tốt trên Cao nguyên Trung tâm của Mali và Burkina Faso. Người ta cho rằng, ban đầu, họ đến từ phía bắc để tránh bị Hồi giáo hóa và cuộc sống của họ xoay quanh tôn giáo truyền thống của bộ lạc, mặc dù một số hiện nay là người Hồi giáo và những người khác theo đạo Thiên chúa. Nổi tiếng về nghệ thuật và kiến thức thiên văn, người Dogon tồn tại bằng cách trồng trọt và chăn nuôi. Người Yoruba hầu như chỉ sống ở Tây Nam Nigeria (chiếm 21% dân số) với số lượng hơn 40 triệu người, do đó, họ được coi là bộ tộc lớn nhất ở toàn bộ Tây Phi. Khu vực trung tâm rộng lớn của Lagos chủ yếu là người Yoruba với cách ăn mặc và lối sống khá hiện đại, người ta chỉ có thể phân biệt được họ bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên, ở các thị trấn nông thôn khác trong vùng Yoruba rộng lớn, nhiều người vẫn sống cuộc sống tự cung tự cấp theo truyền thống từ xa xưa. Với dân số khoảng 9 triệu, người Ashanti của Ghana có ngôn ngữ riêng, mặc dù ngôn ngữ thuộc địa, tiếng Anh được phổ biến ở các thành phố lớn. Tôn giáo của họ liên quan đến siêu nhiên và tâm linh cùng với tổ tiên rất quan trọng trong đời sống gia đình. Những khía cạnh đó được thể hiện rõ ràng hơn ở các vùng nông thôn cách xa thủ đô Accra của Ghana. Dân tộc Pygmy được biết đến nhiều nhất là người Mbenga sống ở lưu vực Tây Congo. Có hàng chục nhóm người lùn khác nhau với nhóm Mbenga nói tiếng Bantu và Ubangian. Họ là những người săn bắn, hái lượm phụ thuộc phần lớn vào những gì rừng có thể cung cấp. Họ trao đổi với hàng xóm để lấy những thứ khác mà họ cần. Rất khó để xác định những con số chính xác nhưng những nghiên cứu gần nhất cho thấy khoảng nửa triệu người sống trong rừng nhiệt đới Congo. Thung lũng Omo của Ethiopia là một địa điểm hấp dẫn. Hamer là một bộ tộc sống trong thung lũng màu mỡ này, nơi hoạt động chính của họ là chăm sóc gia súc và còn được biết đến với nghi lễ nhảy bò. Ethiopia đang thu hút lượng khách du lịch ngày càng tăng và những điểm thu hút chính của nó là các bộ lạc ở thung lũng phía nam này. Có lẽ nổi tiếng nhất ở Đông Phi là bộ tộc Maasai. Bộ lạc này phần lớn sống ở Kenya và khu vực họ sinh sống rất gần nhiều công viên nổi tiếng ở Đông Phi, điều này có nghĩa là họ đã tiếp xúc nhiều với khách du lịch nước ngoài. Là một phần của Nhóm Dân tộc Nilotic, họ nói tiếng Maa và số lượng của họ đang tăng lên gần 900.000 người. Bộ lạc Hadzabe ở Tanzania là những người du mục đích thực cuối cùng, những người săn bắn hái lượm ở Đông Phi. Họ săn bắn bằng cung tên trong khi những người phụ nữ tìm kiếm các loại quả và trái cây ăn được. Những khách du lịch có tinh thần phiêu lưu thực sự có thể đi du lịch cùng họ như một trải nghiệm văn hóa. Thường được biết đến với cái tên Bushmen of the Kalahari, San đã phát triển các kỹ năng để săn bắn và tồn tại trong một vùng đất sa mạc dường như hoàn toàn cằn cỗi. Kỹ năng bám sát con mồi của họ nổi tiếng, thành công của họ với cung tên và mũi tên tẩm độc đều rất ấn tượng. Người San được tìm thấy trên khắp Nam Phi ở các nước như Botswana, Angola và Zimbabwe. Có sự khác biệt đáng kể về ngôn ngữ trên lãnh thổ rộng lớn của họ, nhưng kỹ năng sinh tồn tốt là đặc điểm chung của tất cả mọi người. Số lượng người Zulus ngày nay là khoảng 10 triệu và họ là một bộ tộc chiến binh hùng mạnh với Vương quốc của Shaka vào đầu thế kỷ 19. Ngôn ngữ của họ là một trong những ngôn ngữ chính thức của Nam Phi và khu vực sinh sống chủ yếu tại KwaZulu-Natal ở Nam Phi. Bộ lạc nhỏ này sống ở Bắc Namibia và lên tới con số khoảng 50.000 người, cuộc sống là bán du mục, với những người di chuyển tìm kiếm chăn thả gia súc của họ. Ngôn ngữ của họ được xếp vào nhóm Bantu. Chuyển đổi số đi đôi với tài chính số, tiền tệ kỹ thuật số. Nhanh chân lên tân h. Thật tuyệt, yêu công ty, yêu nơi làm việc và con người THP. Luôn tạo cho mọi nhâ. Bài viết hay quá. Thấm nhuần các giá trị cốt lõi công ty! Chúc em sẽ bước lên vị. Bài viết của bạn làm khơi dậy tinh thần khát vọng. Tôi nghĩ vấn đề, công việc gì
|
Người Tuareg
|
Người Tuareg (còn được gọi Twareg hay Touareg; Amazigh: Imuhagh hay Itargiyen) là một dân tộc mục đồng du cư Berber. Họ là những người sinh sống chủ yếu ở nội địa Sahara của Bắc Phi. Dân tộc này tự gọi tùy người là Kel Tamasheq hay Kel Tamajaq ("người nói Tamasheq"), Imuhagh, Imazaghan, Imashaghen ("người tự do"), hoặc Kel Tagelmust, tức là "người đeo mạng che mặt".Nguồn gốc và ngữ nghĩa của tên Twareg được tranh luận từ lâu, nhiều từ nguyên được đề xuất, nhưng hình như Twārəg bắt nguồn từ số nhiều đứt (broken plural) của Tārgi, tên này xưa có nghĩa là "dân cư Targa", tên Tuareg của vùng Libya thường được gọi Fezzan. Targa trong tiếng Berber có nghĩa "kênh đào".Ngay nay, phần lớn người Tuareg sống ở Tây Phi. Có nhà lịch sử cho rằng họ từ từ chuyển về phía nam trong hai thiên niên kỷ trước đây. Trước đây họ là du cư ở khắp Sahara, nhưng trong thế kỷ 20 và 21 có nhiều xung đột với chính phủ và dân tộc ở gần về quá tải dân số và quyền tự trị. Người Tuareg lấy họ mẹ nhưng không theo chế độ mẫu hệ.
|
Cuộc đàn áp Pháp Luân Công đề cập đến chiến dịch được khởi xướng bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với các học viên Pháp Luân Công kể từ tháng 7 năm 1999, nhằm mục tiêu loại bỏ môn tập này khỏi nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa. Theo Tổ chức Ân xá Quốc tế, nó bao gồm một chiến dịch tuyên truyền nhiều mặt. một chương trình cưỡng bức chuyển hóa tư tưởng và cải tạo giáo dục, và một loạt những biện pháp cưỡng chế ngoài vòng pháp luật như bắt giữ tùy tiện, cưỡng bức lao động, tra tấn thể xác. Pháp Luân Công là một môn khí công kết hợp các bài tập di chuyển chậm và thiền với một triết lý luân lý tập trung vào các nguyên lý chân, thiện, nhẫn. Người sáng lập môn phái này là Lý Hồng Chí, người đã giới thiệu nó cho công chúng vào tháng 5 năm 1992 tại Trường Xuân, Cát Lâm. Sau một giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng vào những năm 90, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phát động chiến dịch “tiêu diệt” Pháp Luân Công vào ngày 20 tháng 7 năm 1999. Một cơ quan ngoài hiến pháp có tên là Văn phòng 6-10 đã được tạo ra để thực hiện chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công. Chính quyền huy động bộ máy truyền thông nhà nước, tư pháp, cảnh sát, quân đội, hệ thống giáo dục, gia đình và nơi làm việc chống lại tổ chức này. Chiến dịch này được thúc đẩy bằng việc tuyên truyền rộng rãi thông qua truyền hình, báo chí, đài phát thanh và internet. Có những báo cáo về việc tra tấn có hệ thống, cầm tù bất hợp pháp, lao động cưỡng bức, thu hoạch nội tạng và các biện pháp lăng mạ tâm thần, với mục đích rõ ràng là ép buộc các học viên phải từ bỏ lòng tin vào Pháp Luân Công. Lý Hồng Chí giới thiệu Pháp Luân Công cho công chúng vào ngày 13 tháng 5 năm 1992, tại Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm. Vài tháng sau, vào tháng 9 năm 1992, Pháp Luân Công đã được thừa nhận là một môn phái khí công dưới sự quản lý của Hội nghiên cứu khoa học Khí công Trung Quốc của nhà nước (HNKKT). Lý đã được công nhận là một bậc thầy khí công, và được phép dạy thực hành khí công của mình trên toàn quốc. Giống như nhiều thầy khí công vào thời điểm đó, Lý đi du lịch vòng quanh các thành phố lớn ở Trung Quốc 1992-1994 để dạy thực hành Pháp Luân Công. Ông đã được trao tặng một số giải thưởng của các tổ chức chính phủ Trung Quốc. Theo David Ownby, Giáo sư Lịch sử và Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á tại Đại học Montréal, Lý Hồng Chí đã trở thành một “ngôi sao vụt sáng của phong trào khí công”, và Pháp Luân Công đã được chính phủ chấp nhận như là một phương tiện hiệu quả của việc giảm chi phí chăm sóc sức khỏe, thúc đẩy văn hóa Trung Quốc, và nâng cao đạo đức cộng đồng. Trong tháng 12 năm 1992, Lý và một số học viên Pháp Luân Công tham gia Hội chợ triển lãm y tế châu Á tại Bắc Kinh, nơi ông được báo cáo “đã nhận được khen ngợi nhiều nhất tại hội chợ, và đạt được kết quả điều trị rất tốt,” theo Ban tổ chức của hội chợ Sự kiện này đã khẳng định danh tiếng của Lý, và các báo cáo về công năng chữa bệnh của Pháp Luân Công trên báo chí bắt đầu lan rộng. Năm 1993, một ấn phẩm của Bộ Công an Trung Quốc khen ngợi Lý Hồng Chí đã “phát huy đức tính chống tội phạm truyền thống của người Trung Quốc trong việc bảo vệ trật tự an ninh xã hội, và trong việc thúc đẩy sự ngay thẳng trong xã hội.”. Năm 1995, chính quyền Trung Quốc bắt đầu tiếp cận Pháp Luân Công để củng cố cơ cấu tổ chức của nó và ràng buộc quan hệ của nó với các tổ chức Đảng và nhà nước. Ủy ban quốc gia Thể thao Trung Quốc, Bộ Y tế Cộng đồng, và Hội nghiên cứu khoa học Khí công Trung Quốc (HNKKT) đã tìm gặp Lý để cùng nhau thành lập một hiệp hội Pháp Luân Công. Lý đã từ chối. Cùng năm đó, HNKKT ban hành một quy định mới buộc các tất cả các giáo phái khí công phải thành lập một chi nhánh Đảng bộ Đảng Cộng sản. Lý một lần nữa từ chối. Căng thẳng tiếp tục leo thang giữa Lý và HNKKT vào năm 1996. Trong khi đối mặt với sự phổ biến ngày càng tăng của Pháp Luân Công-phần lớn là do học phí thấp của nó-các thầy khí công khác cạnh tranh với Lý cáo buộc Lý đã phá giá. Theo Schechter, Hiệp hội khí công đã yêu cầu Lý tăng học phí, nhưng Lý đã nhấn mạnh nhu cầu các bài giảng của mình phải được cung cấp miễn phí. Trong tháng 3 năm 1996, do bất đồng gia tăng, Pháp Luân Công đã rút khỏi HNKKT, sau đó nó đã hoạt động không phụ thuộc vào một hiệp hội chính thức nào của nhà nước Trung Quốc. Đại diện của Pháp Luân Công đã cố gắng để đăng ký Pháp Luân Công với các cơ quan khác của chính phủ, nhưng đã bị từ chối. Lý Hồng Chí và Pháp Luân Công kể từ đó đã đứng ngoài các mối quan hệ cá nhân và giao dịch tài chính với nhà nước, vốn là tiêu chí đảm bảo cho các thầy dạy khí công và các tổ chức khí công của họ có thể tìm được một chỗ đứng trong hệ thống nhà nước Trung Quốc, và được nhà nước này bảo vệ. Việc Pháp Luân Công rút lui khỏi tổ chức HNKKT của nhà nước xảy ra đồng thời với một sự thay đổi lớn hơn trong thái độ của chính phủ đối với môn khí công. Khi những người gièm pha khí công trong chính phủ ngày càng có ảnh hưởng nhiều hơn, chính quyền bắt đầu cố gắng kiềm chế sự phát triển và ảnh hưởng của các môn phái khí công, trong đó có một số môn phái đã có hàng chục triệu học viên. Vào giữa những năm 1990, truyền thông nhà nước bắt đầu xuất bản các bài báo chỉ trích khí công. Ban đầu Pháp Luân Công được nhà nước bảo vệ không bị làn sóng chỉ trích tấn công, nhưng sau khi rút khỏi HNKKT vào tháng 3 năm 1996, Pháp Luân Công đã không được bảo vệ nữa. Vào ngày 17 tháng 6 năm 1996, Quang Minh nhật báo, một tờ báo nhà nước có ảnh hưởng lớn đã xuất bản một bài bút chiến chống lại Pháp Luân Công, trong đó Chuyển Pháp Luân, tác phẩm trung tâm của môn phái này, được mô tả như một ví dụ của “mê tín thời phong kiến.” Tác giả viết rằng lịch sử của nhân loại là một “cuộc đấu tranh giữa khoa học và mê tín dị đoan”, và kêu gọi các nhà xuất bản Trung Quốc không in “sách giả khoa học của kẻ lừa đảo.” Bài báo đã được ít nhất hơn hai mươi tờ báo khác trên toàn Trung Quốc cùng hưởng ứng. Ngay sau đó, vào ngày 24 tháng 7, Ban Tuyên giáo Trung ương cấm tất cả các ấn phẩm sách của Pháp Luân Công (mặc dù lệnh cấm đã không được thực thi một cách nhất quán). Hiệp hội Phật giáo do Nhà nước Trung Quốc quản lý cũng bắt đầu đưa ra những lời chỉ trích Pháp Luân Công, kêu gọi Phật tử không tham gia tập luyện nó. Các sự kiện xảy ra này là một thách thức quan trọng đối với học viên Pháp Luân Công, và các học viên của tổ chức này đã không hề xem nhẹ. Hàng ngàn người theo Pháp Luân Công đã viết thư cho Quang Minh nhật báo và HNKKT, khiếu nại chống lại các biện pháp trừng phạt, tuyên bố rằng họ đã vi phạm chỉ thị “Ba Không” của Hồ Diệu Bang về việc cấm các phương tiện truyền thông khuyến khích hoặc chỉ trích khí công. Trong một động thái phản đối khác, các học viên Pháp Luân Công đã tổ chức các cuộc biểu tình hòa bình bên ngoài phương tiện truyền thông địa phương hoặc cơ quan chính phủ để yêu cầu rút lại những bài báo đã viết về Pháp Luân Công mà họ coi là không công bằng. Lý Hồng Chí tuyên bố rằng phản ứng của các học viên đối với chỉ trích đã cho thấy cái tâm của họ và “sẽ loại bỏ các đệ tử giả mạo để giữ lại những đệ tử thật sự”. Ông cũng nói rõ rằng việc công khai bảo vệ Pháp Luân Công là một hành động công chính và là một khía cạnh quan trọng của việc tu luyện Pháp Luân Công. Các cuộc bút chiến chống lại Pháp Luân Công là một phần của một phong trào lớn chống lại các tổ chức khí công bằng phương tiện truyền thông của nhà nước. Mặc dù Pháp Luân Công không phải là mục tiêu duy nhất của những lời chỉ trích trên các phương tiện truyền thông, cũng không phải là môn phái khí công duy nhất phản đối nhà nước, phản ứng của Pháp Luân Công là phản ứng có đông người tham gia nhất và kiên định nhất. Nhiều cuộc biểu tình của Pháp Luân Công chống lại việc mô tả tiêu cực về Pháp Luân Công trên các phương tiện thông tin đã thành công, kết quả là một số tờ báo đã rút lại một số bài báo chỉ trích môn phái này. Điều này góp phần củng cố niềm tin của các học viên rằng những chỉ trích truyền thông đối với Pháp Luân Công là sai hoặc phóng đại, và lập trường của họ là đúng đắn. Vào cuối thập niên 90, mối quan hệ giữa Pháp Luân Công và Chính phủ Trung quốc càng trở nên căng thẳng. Vào năm 1999, ước tính số lượng người tập Pháp Luân Công khoảng 70 triệu người, trở thành một nhóm xã hội dân sự lớn nhất trong lịch sử của Trung Quốc. Vào cuối những năm 1990, mối quan hệ của Đảng Cộng sản đối với phong trào Pháp Luân Công đang phát triển ngày càng trở nên căng thẳng. Các báo cáo về phân biệt đối xử và giám sát của Cục Công an với các học viên đã gia tăng chóng mặt, và các học viên Pháp Luân Công cũng thường xuyên tổ chức các cuộc biểu tình ngồi để phản ứng lại các bài báo trên các phương tiện truyền thông mà họ coi là không công bằng. Các báo cáo điều tra mâu thuẫn nhau, được một bên là Bộ Công an và một bên là Ủy ban Thể thao Nhà nước do Kiều Thạch đưa ra, đã làm những bất đồng giữa giới tinh hoa của Trung Quốc về cách đối xử với Pháp Luân Công ngày càng tăng. Vào tháng 4 năm 1999, một bài báo chỉ trích Pháp Luân Công đã được công bố trên tạp chí Độc giả Thanh niên của Đại học Sư phạm Thiên Tân. Bài báo này được nhà vật lý Hà Tộ Hưu viết ra. Như Porter và Gutmann đã chỉ ra, Hà Tộ Hưu là người thân của thành viên Bộ Chính trị, Bí thư Bộ Công an La Cán. Bài viết này coi khí công nói chung và Pháp Luân Công nói riêng là mê tín dị đoan và có hại cho thanh thiếu niên. Các học viên Pháp Luân Công phản ứng bằng cách bao vây văn phòng của tờ báo và yêu cầu rút lại bài báo. Không giống như các trường hợp trước đây với việc phản đối thành công của học viên Pháp Luân Công, vào ngày 22 tháng 4, cuộc biểu tình tại Thiên Tân đã bị phá vỡ với sự xuất hiện của 300 cảnh sát chống bạo động. Một số học viên đã bị đánh đập, và 45 người đã bị bắt. Các học viên Pháp Luân Công khác được bảo rằng, nếu họ muốn phản đối nữa, họ cần phải đưa vấn đề này lên với Bộ Công an và đến Bắc Kinh để kháng cáo. Cộng đồng Pháp Luân Công đã phản ứng bằng cách huy động hội viên một cách nhanh chóng. Vào sáng ngày 25 tháng 4, 10.000 học viên đã tụ tập gần trung tâm văn phòng khiếu nại để yêu cầu chấm dứt việc sách nhiễu leo thang chống lại Pháp Luân Công, và yêu cầu thả các học viên ở Thiên Tân. Theo Benjamin Penny, các học viên đã tìm cách yêu cầu ban lãnh đạo Trung Quốc bằng cách tiếp cận họ và, “mặc dù rất nhẹ nhàng và lịch sự, thể hiện rõ ràng rằng họ sẽ không chấp nhận bị đối xử tồi tệ như vậy nữa.” Nhà báo Ethan Gutmann đã viết rằng nhân viên an ninh đã chờ sẵn, và dồn các học viên vào phố Fuyou ở mặt trước của văn phòng chính phủ tại Trung Nam Hải. Họ ngồi lặng lẽ trên vỉa hè xung quanh Trung Nam Hải. Năm đại diện của Pháp Luân Công có cuộc gặp với Thủ tướng Chu Dung Cơ và các quan chức cấp cao khác để thương lượng một giải pháp. Các đại diện của Pháp Luân Công đã được đảm bảo rằng chế độ luôn hỗ trợ các bài tập vật lý để cải thiện sức khỏe và không coi các học viên Pháp Luân Công là những người chống chính phủ. Đạt được thỏa thuận này, đám đông học viên Pháp Luân Công biểu tình đã giải tán. Tổng Bí thư Đảng Giang Trạch Dân được thông báo từ Ủy viên Bộ Chính trị La Cán, và được báo cáo ông đã tức giận vì sự táo bạo của cuộc biểu tình, lớn nhất kể từ khi cuộc biểu tình Thiên An Môn mười năm trước đó. Giang kêu gọi phải hành động kiên quyết để ngăn chặn Pháp Luân Công, và đã chỉ trích Thủ tướng Chu vì “quá mềm” trong việc xử lý tình hình. Buổi tối hôm đó, Giang viết một bức thư nêu rõ ý muốn của mình là muốn Pháp Luân Công “bị tiêu diệt”. Trong thư, Giang bày tỏ sự lo ngại về quy mô và mức độ phổ biến của Pháp Luân Công, và đặc biệt là về số lượng lớn các thành viên cấp cao của Đảng Cộng sản cũng đồng thời là các học viên Pháp Luân Công. Ông cũng gợi ý rằng những triết lý đạo đức của Pháp Luân Công là đi ngược lại với các giá trị vô thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, và do đó tạo thành một hình thức cạnh tranh về ý thức hệ. Pháp Luân Công cho rằng Giang Trạch Dân phải chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định đàn áp Pháp Luân Công này. Peerman trích dẫn các lý do như sự ghen tỵ cá nhân đối với Lý Hồng Chí (còn đang nghi ngờ); Saich chỉ ra sự giận dữ của Giang là do sự hấp dẫn trên quy mô rộng rãi của Pháp Luân Công, và cuộc đấu tranh tư tưởng là nguyên nhân cho sự đàn áp sau đó.
|
Cuộc đàn áp Pháp Luân Công
|
Cuộc đàn áp Pháp Luân Công đề cập đến chiến dịch được khởi xướng bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với các học viên Pháp Luân Công kể từ tháng 7 năm 1999, nhằm mục tiêu loại bỏ môn tập này khỏi nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa. Theo Tổ chức Ân xá Quốc tế, nó bao gồm một chiến dịch tuyên truyền nhiều mặt. một chương trình cưỡng bức chuyển hóa tư tưởng và cải tạo giáo dục, và một loạt những biện pháp cưỡng chế ngoài vòng pháp luật như bắt giữ tùy tiện, cưỡng bức lao động, tra tấn thể xácPháp Luân Công là một môn khí công kết hợp các bài tập di chuyển chậm và thiền với một triết lý luân lý tập trung vào các nguyên lý chân, thiện, nhẫn. Người sáng lập môn phái này là Lý Hồng Chí, người đã giới thiệu nó cho công chúng vào tháng 5 năm 1992 tại Trường Xuân, Cát Lâm. Sau một giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng vào những năm 90, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phát động chiến dịch "tiêu diệt" Pháp Luân Công vào ngày 20 tháng 7 năm 1999. Một cơ quan ngoài hiến pháp có tên là Văn phòng 6-10 đã được tạo ra để thực hiện chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công.
|
Bên cạnh các hình thức đấu giá truyền thống (đấu giá trực tiếp tại nơi tổ chức đấu giá), hiện nay hình thức đấu giá trực tuyến cũng dần trở nên phổ biến. c) Có phương án, giải pháp kỹ thuật bảo đảm vận hành an toàn hệ thống kỹ thuật Trang thông tin điện tử đấu giá trực tuyến. đ) Hiển thị mức giá cao nhất được hệ thống đấu giá trực tuyến ghi nhận 30 giây một lần để những người tham gia đấu giá có thể xem được. – Bảo mật về tài khoản truy cập, thông tin về người tham gia đấu giá và các thông tin khác theo quy định của pháp luật. – Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có tài sản, người tham gia đấu giá và cá nhân, tổ chức có liên quan. – Tổ chức đấu giá tài sản đăng tải Quy chế cuộc đấu giá trên Trang thông tin điện tử đấu giá trực tuyến. – Khi đăng ký tham gia đấu giá, người tham gia đấu giá được cấp một tài khoản truy cập; được hướng dẫn về cách sử dụng tài khoản, cách trả giá và các nội dung cần thiết khác trên Trang thông tin điện tử đấu giá trực tuyến để thực hiện việc đấu giá trực tuyến. – Người tham gia đấu giá sử dụng tài khoản của mình và thực hiện việc trả giá theo phương thức đấu giá, thời điểm bắt đầu tiến hành đấu giá và thời điểm kết thúc đấu giá, bước giá đã được công bố. b) Trường hợp việc trả giá được thực hiện bằng phương thức đặt giá xuống thì người trúng đấu giá là người đầu tiên chấp nhận mức giá khởi điểm hoặc giá đã giảm được hệ thống thông tin đấu giá trực tuyến ghi nhận. – Đấu giá viên được tổ chức đấu giá tài sản chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện cuộc đấu giá trực tuyến căn cứ kết quả xác định người trúng đấu giá, công bố người trúng đấu giá trên hệ thống đấu giá trực tuyến ngay sau khi cuộc đấu giá kết thúc. – Kết quả cuộc đấu giá trực tuyến được đăng công khai trên hệ thống đấu giá trực tuyến và được gửi vào địa chỉ điện tử của người tham gia đấu giá đã đăng ký với tổ chức đấu giá tài sản ngay sau khi công bố người trúng đấu giá trên hệ thống đấu giá trực tuyến.
|
Đấu giá trực tuyến
|
Đấu giá trực tuyến là cách cho phép người tham gia đấu giá các sản phẩm hoặc các dịch vụ thông qua Internet. Khi nói đến đấu giá trực tuyến là chúng ta nghĩ ngay đến eBay, website đấu giá trực tuyến lớn nhất trên thế giới hiện nay. Giống như hầu hết các công ty đấu giá, eBay không trực tiếp bán hàng của chính mình mà chỉ giúp cho các thành viên liệt kê và trưng bày sản phẩm của họ, đấu giá các sản phẩm và thanh toán chúng. Nó hoạt động giống như là một nơi họp chợ cho các thành viên hoặc các doanh nghiệp sử dụng để đấu giá các sản phẩm và dịch vụ. Có một vài loại hình thức đấu giá trên mạng đang hiện hữu như: đấu giá kiểu Anh, giá khởi điểm sẽ được đặt ở mức thấp và sau đó được nâng lên bới các ngưới tham giá đấu giá tiếp theo; đấu giá Hà Lan, đồng thời nhiều món hàng giống nhau sẽ được đưa lên sàn đấu giá, tất cả những người đấu giá thắng sẽ trả cùng một giá – giá cao nhất mà tất cả các món hàng đó được bán (treasury bills là một ví dụ cho kiểu đấu giá này).
|
Nhà thờ Hạnh Thông Tây là một nhà thờ Công giáo ở thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Nhà thờ tọa lạc tại số 53/7 đường Quang Trung, phường 11, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Thời đầu, có gia đình ông Đốc phủ Ca và một vài người giàu có trong làng Hạnh Thông Tây xin gia nhập đạo. Dần dần, khoảng 400 người ngoại giáo có của cải và nhà cửa trong làng đến xin học đạo. Vì nơi đây là khu vực ngoại thành, dân cư chủ yếu là người nghèo nên họ đạo chưa có nơi tụ họp, giảng dạy. Sau này, một số người khá giả trong làng đã hiến tặng ngôi đình của họ mà dựng lên ngôi nhà nguyện đầu tiên của họ đạo Hạnh Thông Tây. Trong khoảng một thời gian dài cuối thế kỷ 19, nhà thờ không có linh mục ở cùng giáo dân nên số lượng giáo dân bị giảm dần. Khi cha Phêrô Nguyễn Phước Chính được bổ nhiệm làm Cha sở đầu tiên vào năm 1898, họ đạo Hạnh Thông Tây chỉ có một miếng đất, chung quanh là nơi cho các bổn đạo ở. Cha Phêrô Chính đã xin phép các quan chức địa phương cho xây cất nhà thờ mới trên mảnh đất này đồng thời xây cất nhà xứ và trường học xung quanh. Năm 1921, thời linh mục Matthêu Hồ Tấn Đức làm Cha sở, nhà thờ Hạnh Thông Tây mới được xây dựng trên ba thửa đất rộng 2,1 mẫu của ông Giuse Hồ Văn Chua hiến cho nhà thờ trước đó. Toàn bộ chi phí xây cất đều được vợ chồng ông Denis Lê Phát An tự nguyện đóng góp. Ban đầu tháp chuông có hình tháp nhọn, nhưng vì đây là vùng có nhiều máy bay quân sự bay qua nên cơ sở Hàng không Đông Dương đã xin cho hạ thấp tháp chuông nhà thờ Hạnh Thông Tây theo văn thư đề ngày 29/10/1953. Từ đó, tháp chuông có hình vuông như hiện nay. Năm 2010, giáo xứ khánh thành Nhà sinh hoạt Phụng vụ – Giáo lý (còn gọi là Nhà thờ phụ) ngay bên cạnh nhà thờ chính để phục vụ cho việc giảng dạy giáo lý cho trẻ em và các mục đích công vụ khác. Ngày 24 tháng 9 năm 2020, Đức cha Giuse Nguyễn Năng – Tổng Giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh cùng với toàn thể giáo dân trong giáo xứ đã làm lễ Khánh thành Nhà sinh hoạt giáo lý và mục vụ giáo xứ Hạnh Thông Tây. Nhà thờ được ông Lê Phát An giao cho nhà thầu Baader thiết kế và thi công. Tuy nhiên sau một thời gian thi công, ông Denis Lê Phát An hủy hợp đồng cũ với nhà thầu Baader và hợp tác với nhà thầu Lamorte để tiếp tục công trình cho đến khi hoàn thành. Thay vì kiểu kiến trúc Romanesque và kiến trúc Gothic khá phổ biến như nhiều nhà thờ khác, nhà thờ Hạnh Thông Tây được xây dựng theo phong cách kiến trúc Byzantine ở châu Âu. Nhà thờ có chiều dài 40 mét, chiều rộng 14 mét, trần cao 16 mét, chiều cao vòm 20 mét. Ban đầu tháp chuông có hình tháp nhọn cao 30 mét nhưng từ năm 1952 giảm xuống còn 19,5 mét vì lý do an ninh hàng không. Do thánh bổn mạng của nhà thờ vốn là thánh Giuse, còn ông Lê Phát An có thánh quan thầy là thánh Denis, nên giáo xứ đã quyết định xây thêm tượng thánh Denis ở ngay trước nhà thờ, phía trên cửa vào để tỏ lòng biết ơn đối với ông. Trần nhà thờ có hình vòm cung, phết nhũ vàng. Trên cùng là tranh khảm theo phong cách Byzantine mô tả cảnh Chúa Giêsu đang hấp hối trên Thập Giá. Trần nhà thờ còn có tranh ghép đá mosaic có hình của các vị thánh khác như: thánh Antôn thành Padova, các thánh nữ là thánh Anna, thánh Maria Mađalêna, thánh Veronica, thánh Lucia, thánh Cecilia, thánh Agnes, thánh Claira, thánh Gioanna xứ Arc,…. Ngoài ra, nhà thờ còn có hai mộ tượng của vợ chồng ông Lê Phát An nằm đối diện nhau ở hai bên cánh nhà thờ. Đặc biệt hai pho tượng mang đậm tính “Nam Bộ”. Trước mộ ông Denis Lê Phát An có tượng người vợ mặc áo dài cầm bó hoa quỳ gối ôm choàng lấy bia mộ. Ngược lại, trước mộ của bà Anna Trần Thị Thơ thì có tượng người chồng đang quỳ cầu nguyện và thương tiếc. Cả hai bức tượng đều được điêu khắc vô cùng sống động và chi tiết. Hai bức tượng này được khắc trên đá cẩm thạch trắng còn phần bia mộ bằng đá hoa cương. Trên bia mộ cũng có ghi tên kiến trúc sư người Pháp Paul Ducuing và nhà điêu khắc người Pháp A. Contenay thực hiện. “Khánh thành nhà Sinh hoạt Giáo lý và kỷ niệm 160 năm thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây”.
|
Nhà thờ Hạnh Thông Tây
|
Nhà thờ Hạnh Thông Tây là một nhà thờ Công giáo ở thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Nhà thờ tọa lạc tại số 53/7 đường Quang Trung, phường 11, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Họ đạo Hạnh Thông Tây được giám mục Puginier thành lập năm 1861. Thời đầu, có gia đình ông Đốc phủ Ca và một vài người giàu có trong làng Hạnh Thông Tây xin gia nhập đạo. Dần dần, khoảng 400 người ngoại giáo có của cải và nhà cửa trong làng đến xin học đạo. Vì nơi đây là khu vực ngoại thành, dân cư chủ yếu là người nghèo nên họ đạo chưa có nơi tụ họp, giảng dạy. Sau này, một số người khá giả trong làng đã hiến tặng ngôi đình của họ mà dựng lên ngôi nhà nguyện đầu tiên của họ đạo Hạnh Thông Tây. Trong khoảng một thời gian dài cuối thế kỷ 19, nhà thờ không có linh mục ở cùng giáo dân nên số lượng giáo dân bị giảm dần. Khi cha Phêrô Nguyễn Phước Chính được bổ nhiệm làm Cha sở đầu tiên vào năm 1898, họ đạo Hạnh Thông Tây chỉ có một miếng đất, chung quanh là nơi cho các bổn đạo ở.
|
Ở phương Đông, sự khỏa thân cũng có xuất hiện trong nghệ thuật, và thực tế nó đã xuất hiện từ thời kỳ còn rất xa xưa chứ không phải là mới có. Nhưng sự khỏa thân đó không hề được truyền ra công chúng. Còn ở phương Tây, sự khỏa thân xuất hiện rất nhiều trong hội họa. Dù có cách nhìn nhận về nghệ thuật và văn hóa khác nhau, nhưng rốt cục, sự khỏa thân trong nghệ thuật phương Đông và phương Tây ở thời kỳ đỉnh cao đều mang một hàm nghĩa thiêng liêng và chân chính. Khác với nghệ thuật phương Tây, hầu hết các tác phẩm nghệ thuật phương Đông đều không chứa đựng yếu tố khỏa thân hay bán khỏa thân. Đây là sự khác biệt về văn hóa và cách nhìn nhận nghệ thuật. Ở phương Tây, những bức tranh Phục Hưng vươn đến sự chính xác cao trong việc mô tả thân thể người, từ đường nét, tỉ lệ, sự biến đổi cơ bắp, v.v. Hàm ý của sự khỏa thân trong hội họa phương Tây thực sự là hướng tới cái đẹp. Và cái đẹp đó là gì? Ở thời điểm đỉnh cao nhất của thời kỳ Phục Hưng, “hoàn mỹ” chính là yếu tố khiến nghệ thuật phục hưng có biểu đạt thế giới của Chư Thần. Những vị nam Thần và nữ Thần khỏa thân, bán khỏa thân không phải là hiếm gặp trong hội họa phương Tây. Chính vì vậy, người phương Tây thời xưa đã quen với sự khỏa thân trong nghệ thuật và điều đó không hề mang yếu tố khêu gợi hay kích động dục vọng. Tất nhiên, nghệ thuật phương Tây hiện đại đã xuống dốc, không hề làm được tới điểm này, và đã vô tình khiến sự khỏa thân trở thành một phương tiện để bộc lộ dục vọng từ phía phụ diện của nhân tính. Ở phương Đông, tại một số nền văn minh nơi Nho giáo thịnh trị, sự khỏa thân cũng có xuất hiện trong nghệ thuật, và thực tế nó đã xuất hiện từ thời kỳ còn rất xa xưa chứ không phải là mới có. Nhưng sự khỏa thân đó không hề được truyền ra công chúng. Các bức tranh Trung Hoa thời xưa đều không hề mang yếu tố khỏa thân, một phần là vì giá trị đạo đức của người Trung Hoa xưa nghiêm khắc hơn đối với vấn đề dục vọng. Vậy chúng ta hãy lấy nền văn minh được cho là lâu đời nhất ở phương Đông (trải dài liên tục 5.000 năm) là nền văn minh Trung Hoa làm ví dụ. Sự khỏa thân trong nghệ thuật Trung Hoa xuất hiện ở đâu và khi nào?. Tại một vùng sa mạc rộng lớn phía Tây Bắc Trung Quốc, có một ốc đảo nhỏ hình một chiếc lá, cách thành phố Đôn Hoàng 25 km về phía Tây Nam. Đây là nơi những bức bích họa trên tường nổi tiếng thế giới được tìm thấy tại hang đá Mạc Cao, hay còn gọi là Thiên Phật Động – Một hệ thống gồm nhiều ngôi đền với các công trình chạm khắc trong đá, các bức tượng điêu khắc, và những bức bích họa. Nơi đây lưu giữ tổng cộng 7.000 hang động, 492 ngôi đền, 45.000m² bích họa, 50.000 kinh sách và thư tịch, 2.415 pho tượng. Nếu trải các bức bích họa Thiên Phật Động ra liên tiếp nhau, người ta sẽ có một hành lang dài 25 km. Thiên Phật Động được bắt đầu xây dựng vào năm 366 và đạt đến thời kỳ hoàng kim vào thời đại nhà Đường (618-907), nhưng phải đến nhà Nguyên (1279-1368) thì nói mới được hoàn thành toàn bộ. Công trình này đã được xây dựng trải dài suốt 10 triều đại Trung Hoa. Chính vì thế, người ta gọi Thiên Phật Động là một kỳ quan có một không hai của thế giới, là đỉnh cao của nghệ thuật trong tín ngưỡng phương Đông. Các bức bích họa Đôn Hoàng có chủ đề chính là về tín ngưỡng Phật gia, với những câu chuyện về Phật Pháp, về Thần, quỷ, thiên giới, các truyền thuyết, niềm tin luân hồi, v.v. Và điều đặc biệt là, người ta thấy sự xuất hiện của những tiên nữ bán khỏa thân. Có thể nói đây là một điều nằm ngoài sức tưởng tượng của rất nhiều người phương Đông. Thứ nhất là, người ta luôn tin rằng nghệ thuật phương Đông chân chính thời bấy giờ không có yếu tố khỏa thân. Thứ hai là, chuẩn mực đạo đức phương Đông thời bấy giờ lấy Nho gia làm chủ, nên càng không chấp nhận yếu tố khỏa thân. Thứ ba là, với đạo Phật, sự khỏa thân lại càng là một điều đại kỵ. Vậy tại sao lại có sự xuất hiện của những thiên nữ bán khỏa thân ở Thiên Phật Động, nơi tập trung tín ngưỡng tâm linh của một nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ nhất phương Đông?. Về mặt tín ngưỡng, các thiên nữ bán khỏa thân được vẽ trong những bức bích họa Đôn Hoàng được gọi là các Phi Thiên. Tương truyền rằng, các Phi Thiên sẽ xuất hiện khi có những sự việc vô cùng thù thắng xảy ra trên thiên giới hay dưới nhân gian, bởi vì họ là những tiên nữ phụ trách về nghi lễ, biểu hiện sự hân hoan của Thiên thượng. Chỉ khi có một vị Phật giảng Pháp, truyền đạo, hay một người tu luyện chứng đắc được quả vị và viên mãn, thì các Phi Thiên mới tới: có Phi Thiên trải hoa, có Phi Thiên tấu nhạc, có Phi Thiên bay lượn nhảy múa. Phi Thiên là những tiên nữ phụ trách về nghi lễ, biểu hiện sự hân hoan của Thiên Thượng. Trong tín ngưỡng Phật gia, việc sáng tác nghệ thuật thời đó không phải là một việc làm bừa bãi. Người tu luyện Phật Pháp cũng không hề tùy tiện tưởng tượng ra thế giới của Chư Thần Phật mà vẽ nên một bức bích họa. Các bức bích họa Đôn Hoàng là tác phẩm của những cao tăng thời xưa, trong khi đả tọa tu luyện tình cờ chứng kiến được cảnh tượng thù thắng nơi Thiên giới, muốn lưu giữ lại ký ức đó cho hậu nhân, mới vẽ nên những cảnh tượng như vậy. Vậy nên, các Phi thiên của phương Đông có thể thực sự là có trang phục bán khỏa thân. Phi Thiên nhảy múa bên dưới đài sen của các vị Phật và Bồ Tát. Phật giáo có giảng về kết cấu của vũ trụ trên quan điểm các chiều không gian, và cho rằng trong tam giới có nhiều tầng trời với những cách phân chia khác nhau. Các khái niệm như 9 tầng trời, hay 33 tầng trời đều xuất phát từ kết cấu phức tạp của các chiều không gian trong tam giới. Cũng có một cách phân chia khác cho tam giới trong Phật gia là: Dục giới; Sắc giới; và Vô sắc giới. Sắc giới thì không còn có dục, còn Vô sắc giới thì cả sắc cũng không còn. Cách phân chia này có hàm nghĩa rằng ở những tầng trời cao hơn thì sắc và dục đều không tồn tại. Con người là có sắc tâm và dục vọng, nhưng Thiên thượng không hề có điều đó. Tiêu chuẩn về trang phục cũng từ đó mà có thay đổi. Đó chính là lý do vì sao các Phi thiên của phương Đông lại có trang phục bán khỏa thân. Vậy tại sao nghệ thuật này lại không được truyền ra công chúng? Bởi vì con người ta là có dục vọng, nên những bức tranh khỏa thân có thể dẫn khởi ác tâm của con người mà bất kính với Thần linh. Chính vì thế, bán khỏa thân trong nghệ thuật phương Đông không hề được truyền ra bên ngoài, mà chỉ tồn tại ở những nơi linh thiêng. Các cao tăng thời xưa khi tu luyện đến một trình độ nhất định cũng không còn dục vọng và sắc tâm nữa, nên khi ngắm nhìn các bức bích họa thì chỉ nảy lên cái tâm kính ngưỡng trước cảnh tượng thiên giới mà thôi. Vấn đề sắc dục cũng từng xuất hiện ở Mật Tông của Phật giáo Tây Tạng. Thời đó Mật Tông không hề được truyền ra công chúng vì môn này có giảng vấn đề “nam nữ song tu”, có thể gây rối loạn chuẩn mực đạo đức và khơi gợi dục vọng của con người. Nguyên chữ Mật (密) vốn có hàm nghĩa là không để lộ, không cho người ngoài cuộc biết tới. Chính vì thế, những gì được truyền ra dưới danh nghĩa Mật Tông đều không được đầy đủ. Quay lại vấn đề khỏa thân trong nghệ thuật, chúng ta có thể thấy rằng, sự khỏa thân trong nghệ thuật phương Tây mang hàm nghĩa hướng đến sự hoàn mỹ mà biểu lộ Chư Thần; còn sự khỏa thân trong nghệ thuật phương Đông lại được giới hạn ở chốn linh thiêng, dành cho những người tu luyện đã đoạn dứt khỏi sắc dục. Những Phi Thiên trên các bức bích họa Đôn Hoàng, những tiên nữ phụ trách về nghệ thuật chốn Thiên thượng, dường như đang ngầm nói với chúng ta rằng: Nhân loại cần nhìn nhận lại sự khỏa thân trong nghệ thuật. Bởi vì ý nghĩa của nó chính là một biểu hiện của con người hướng đến Chư Thần, chính là: Nghệ Thuật ngợi ca Chư Thần
|
Nghệ thuật khỏa thân
|
Khỏa thân là một truyền thống trong nghệ thuật phương Tây, và đã được sử dụng để thể hiện lý tưởng về vẻ đẹp nam và nữ và các phẩm chất khác của con người. Đó là mối bận tâm trung tâm của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, và sau một thời gian nửa ngủ đông ở thời Trung cổ đã trở lại vị trí trung tâm trong nghệ thuật phương Tây với thời Phục hưng. Các vận động viên, vũ công và chiến binh được miêu tả để thể hiện năng lượng và cuộc sống của con người, và những người khỏa thân trong nhiều tư thế khác nhau có thể thể hiện những cảm xúc cơ bản hoặc phức tạp như các pathos. Ở một khía cạnh nào đó, khỏa thân là một tác phẩm mỹ thuật có chủ đề chính là cơ thể con người không mặc quần áo, tạo thành một thể loại nghệ thuật chủ đề, giống như phong cảnh và tĩnh vật. Những nhân vật không mặc quần áo cũng thường đóng một vai trò trong các loại hình nghệ thuật khác, chẳng hạn như tranh lịch sử, bao gồm nghệ thuật ngụ ngôn và tôn giáo, chân dung hoặc nghệ thuật trang trí.
|
Theo đó, 3 đề án đặc khu kinh tế đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chọn trình lên Quốc hội vào cuối năm chính là Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang). Với 3 cái tên này, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã trả lời hãng Reuters: “Chúng sẽ tạo nên một sức hút cực lớn, các khoản đầu tư sẽ bùng nổ trong năm tới”. Từ thập niên 1980 cho đến nay, những Thâm Quyến, Hải Nam, Hạ Môn…chính là động lực biến Trung Quốc từ một nước thuộc thế giới thế ba thành một trong những nền kinh tế mạnh mẽ của thế giới. Giờ đây, Việt Nam cũng đang hy vọng những đặc khu kinh tế (Special Economic Zones – SEZ) sẽ là những ‘cây đũa thần’ nâng tầm Việt Nam ngang hàng những quốc gia phát triển trong khu vực. Trước hết cần nhấn mạnh rằng ở Việt Nam, khái niệm cũng như sự tồn tại thực sự của một SEZ – một đặc khu kinh tế là vẫn chưa có. Chúng ta mới chỉ có 18 ‘khu kinh tế’ ven biển – với định nghĩa về ‘khu kinh tế’ được ghi trong Nghị định số 29 của Chính phủ năm 2008 là ‘khu vực có không gian kinh tế riêng biệt, với môi trường đầu tư kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư’. Để thúc đẩy hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy mô hình ‘đặc khu kinh tế’ của nước ngoài, chọn ra một số địa điểm trong nước đang có các khu kinh tế hoạt động để áp dụng. Vì thế, có thể coi SEZ như là một mô hình ‘nâng cao’ so với những ‘khu kinh tế’ vốn vẫn đang được ưu đãi để phát triển trong gần chục năm qua, dù ít dù nhiều, tại Việt Nam. Trong 3 địa danh, Phú Quốc nơi duy nhất có khu kinh tế nằm trong nhóm 6 khu kinh tế được Chính phủ ưu tiên hàng đầu cho đến năm 2020 (cùng với Đình Vũ – Cát Hải, Nghi Sơn, Vũng Áng, Chu Lai và Dung Quất). So sánh tương quan của 3 khu kinh tế được chọn để đặt SEZ, Phú Quốc cũng là địa phương đang được đầu tư mạnh mẽ nhất. Trở thành khu kinh tế vào năm 2013, cho đến đầu năm nay, Phú Quốc đã đón tổng cộng 16,7 tỉ USD vốn đầu tư, xếp thứ 4 trong số những địa phương được đầu tư mạnh mẽ nhất. Diện mạo của Phú Quốc cũng đã thay đổi chóng mặt. Nếu như cách đây 3 năm, Phú Quốc chưa có một phòng khách sạn 5 sao nào, thì cho đến bây giờ chỉ riêng Vingroup đã cung cấp 6.000 phòng. Ngoài Vingroup, có nhiều đại gia bất động sản khác cũng đổ ‘tiền tấn’ vào Phú Quốc như SunGroup, CEO Group, Notovel, Marriott…Các tập đoàn này có thể giúp Phú Quốc nâng tổng số phòng nghỉ dưỡng lên 8.000 phòng, nhiều hơn bất kỳ một địa phương nào trên cả nước như Hà Nội, TP.HCM, Nha Trang, Đà Nẵng. Nói đi cũng cần nói lại, làn sóng đầu tư bùng nổ vào Phú Quốc có nguyên nhân chính từ Quyết định 1255 quy hoạch Phú Quốc trở thành SEZ vào năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, có thể nói Phú Quốc đã đi trước một bước trong tiến trình xây dựng những SEZ ở Việt Nam. Vân Phong là một khu kinh tế nằm ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Trong số 3 địa danh, Vân Phong là nơi được Chính phủ lựa chọn để ưu tiên phát triển sớm nhất. Khu này được thành lập từ năm 2006 với mục tiêu sẽ trở thành hạt nhân tăng trưởng kinh tế, trung tâm đô thị, công nghiệp, dịch vụ, du lịch của khu vực Nam Trung Bộ. Trong buổi làm việc với Phó thủ tướng Trương Hòa Bình hồi tháng 3, ông Hoàng Đình Phi – Trưởng Ban Quản lý Khu kinh tế Vân Phong đã trình bày tổng quan về tiềm năng, lợi thế của việc xây dựng đặc khu tại khu vực Bắc Vân Phong; mục tiêu, định hướng, các cơ chế chính sách đặc thù, mô hình chính quyền để xây dựng đặc khu hành chính – kinh tế Bắc Vân Phong trở thành một trung tâm dịch vụ-du lịch lớn, hiện đại có casino mang tầm khu vực và thế giới. Theo quy hoạch, Bắc Vân Phong sẽ lấy khu cảng trung chuyển container quốc tế làm chủ đạo. Ở đây có một khu phi thuế quan (thương mại tự do) và một khu thuế quan. Giữa hai khu là tường rào ngăn cách. Trong đó, khu phi thuế quan từng được quan tâm phát triển bao gồm khu cảng trung chuyển container quốc tế, khu hậu cần cảng và khu trung tâm thương mại – tài chính. Còn khu thuế quan gồm khu cảng trung chuyển dầu, cảng chuyên dùng, cảng tổng hợp, khu du lịch, khu công nghiệp, khu dân cư đô thị và khu hành chính. Cái tên Vân Đồn cho đến bây giờ vẫn làm người ta nhớ đến những hào quang trong lịch sử hơn là những chi tiết thực tại. Vốn là một vùng biển mở, dễ tiếp nhận tàu nước ngoài, Vân Đồn bắt đầu trở thành thương cảng kể từ thời Lý. Trải qua thời gian, vị trí địa lý quan trọng của Vân Đồn được chứng minh khi nơi đây là một trong những thương cảng sầm uất bậc nhất miền Bắc. Từ đó, khu kinh tế Vân Đồn được thành lập vào giữa năm 2007 cũng với mục tiêu trở thành một trung tâm du lịch sinh thái biển đảo, đồng thời cũng là trung tâm hàng không, đầu mối giao thương quốc tế để thúc đẩy phát triển kinh tế ở Quảng Ninh. Khu kinh tế Vân Đồn bao gồm một khu phi thuế quan (khu thương mại tự do ) ở cạnh cảng Vạn Hoa và một khu thuế quan. Phục vụ giao thông cho Khu kinh tế Vân Đồn có Cảng Vạn Hoa và Sân bay quốc tế Vân Đồn . Ngày 18/2/2009, Chính phủ phê duyệt chính thức quy hoạch chung Khu kinh tế Vân Đồn đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030. Cho đến mới đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đồng ý để Vân Đồn trở thành một SEZ, cùng với Phú Quốc và Bắc Vân Phong. Phú Quốc, Bắc Vân Phong và Vân Đồn sẽ được ưu đãi những gì về chính sách? Đó trước tiên là các chính sách ưu đãi thuế: Khi nhập, xuất hàng vào, ra các đặc khu kinh tế, người nhập, xuất khẩu sẽ được linh hoạt áp dụng các mức thuế, thậm chí có khi còn được miễn thuế 100%. Đồng thời, thuế giá trị gia tăng sẽ có ở mức 0%; hoặc thậm chí người, công ty nộp sẽ không phải chịu thuế này. Thuế tiêu thụ đặc biệt cũng sẽ không còn tồn tại trong các đặc khu kinh tế nữa. Đối với cá nhân, thuế thu nhập cá nhân sẽ được miễn và giảm trong một thời gian nhất định. Đối với doanh nghiệp, sẽ chỉ phải chịu thuế 10% trong thời gian 30 năm, miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo kể từ khi doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế. Riêng đối với thu nhập từ dự án đầu tư – kinh doanh bất động sản thì mức thuế suất ưu đãi sẽ chỉ còn 17%. Tiền tệ là một ưu đãi rất nổi trội dành cho các đặc khu kinh tế. Các doanh nghiệp trong đặc khu sẽ được cho phép thiết lập thể chế tiền tệ, ngân hàng riêng nhằm đa dạng hóa các loại hình giao dịch phù hợp thông lệ quốc tế. Bên cạnh tiền đồng Việt Nam lưu hành thì các đặc khu kinh tế sẽ thậm chí được phép sử dụng một số đồng tiền tự do chuyển đổi khác. Về đất đai thì căn cứ vào ngành, nghề đầu tư và quy mô dự án đầu tư, chính sách sẽ cho phép những thời hạn cho thuê đất riêng, với thời hạn tối đa lên đến 99 năm. Thời gian miễn, giảm tiền thuê và áp dụng mức giá thuê đất và mặt nước cũng sẽ ưu đãi hơn so với quy định của pháp luật về đất đai hiện hành. Cuối cùng, luật về đặc khu kinh tế cho phép miễn thị thực với thời gian tạm trú không quá 30 ngày, Luật cũng cho phép doanh nghiệp được kinh doanh casino, cho phép doanh nghiệp thuê tư vấn quốc tế. Mới đây Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xin ý kiến các bộ ngành về danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (đặc khu kinh tế). Theo đó Bộ đề nghị giữ lại 69 ngành, nghề thật sự đáp ứng yêu cầu về an ninh quốc phòng, trật tự xã hội và sức khoẻ cộng đồng,giảm đáng kể so với con số 243 cho phạm vi cả nước. Theo những kịch bản được vẽ nên, 3 đặc khu kinh tế sẽ mang lại những nguồn lợi lớn cho địa phương và cho tổng thể kinh tế Việt Nam. Những tính toán đầu tiên cho thấy người dân ở 3 SEZ có thể đạt mức thu nhập lên đến 12.000 USD – 13.000 USD/năm, tương đương 23 triệu đồng – 25 triệu đồng/tháng. Tại Vân Đồn, người ta ước tính Nhà nước sẽ thu được khoảng 1,9 tỷ USD từ thuế và phí, 2,1 tỷ USD từ các nguồn thu từ đất. Đồng thời, các doanh nghiệp sẽ tạo giá trị gia tăng khoảng 9,7 tỷ USD trong giai đoạn 2021-2030. Đặc khu Bắc Vân Phong cũng dự kiến sẽ đem lại khoảng 1,2 tỷ USD từ thuế và phí, 1 tỷ USD từ các nguồn thu từ đất, các DN tạo giá trị gia tăng khoảng 10 tỷ USD trong giai đoạn 2017 -2030. Tạo ra những thay đổi lớn lao nhất phải kể đến Phú Quốc. Theo tính toán thì tại đây, Nhà nước sẽ thu được khoảng 3,3 tỷ USD từ thuế và phí và các nguồn thu từ đất. Các doanh nghiệp sẽ tạo giá trị gia tăng khoảng 19 tỷ USD trong giai đoạn 2017 -2030. Với những con số này, mức đóng góp GRDP của Phú Quốc vào GRDP của Kiên Giang sẽ lên đến mức ‘đầu tàu’ là 22% vào năm 2020 và 27% vào năm 2030. Đồng thời, khi du lịch Phú Quốc phát triển, thì hòn đảo này có thể đạt tới mức 12.000 phòng khách sạn 5 sao vào năm 2020. Điều này biến Phú Quốc trở thành một thành phố du lịch nghỉ dưỡng có quy mô hàng đầu khu vực.
|
Đặc khu kinh tế
|
Đặc khu kinh tế, hay khu kinh tế đặc biệt (SEZ) là một khu vực được luật kinh doanh và thương mại khác với phần còn lại của đất nước. Các SEZ nằm trong biên giới quốc gia và mục tiêu bao gồm tăng cán cân thương mại, việc làm, tăng đầu tư, tạo việc làm và quản trị hiệu quả. Để khuyến khích các doanh nghiệp thành lập trong khu vực, các chính sách tài chính được đưa ra. Những chính sách này thường bao gồm đầu tư, thuế, giao dịch, hạn ngạch, hải quan và quy định lao động. Ngoài ra, các công ty có thể được cung cấp các ngày lễ thuế, khi thành lập chính họ trong một khu vực, họ được cấp một khoảng thời gian đánh thuế thấp hơn. Việc tạo ra các đặc khu kinh tế của nước sở tại có thể được thúc đẩy bởi mong muốn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Lợi ích mà một công ty đạt được khi ở trong một khu kinh tế đặc biệt có thể có nghĩa là nó có thể sản xuất và kinh doanh hàng hóa với giá thấp hơn, nhằm mục đích cạnh tranh toàn cầu.
|
Tất cả tế bào và cơ quan trong cơ thể con người đều cần nước để hoạt động một cách bình thường. Do đó, chúng ta cần liên tục bổ sung nước bị mất khỏi cơ thể qua đường mồ hôi, nước tiểu và hơi thở. Không uống đủ nước có thể khiến cơ thể gặp phải những triệu chứng như mệt mỏi, chóng mặt hay chuột rút. Ngược lại, uống quá nhiều nước cũng có thể gây ra một triệu chứng nghiêm trọng được gọi là ngộ độc nước. Ngộ độc nước, hay còn gọi là nhiễm độc nước, là sự gián đoạn chức năng của não do uống quá nhiều nước (1). Nước có thể làm loãng chất điện giải trong máu, đặc biệt là natri. Khi nồng độ natri giảm xuống dưới mức 135 mmol/L sẽ xảy ra chứng hyponatremia (hạ natri huyết). Khi nồng độ natri giảm do lượng nước tiêu thụ quá mức, dịch tế bào chuyển từ bên ngoài vào bên trong tế bào khiến chúng sưng lên (2). Nếu điều này xảy ra với tế bào não, nó có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Kết luận: Ngộ độc nước là hậu quả của việc uống nước quá nhiều. Lượng nước dư thừa gây loãng lượng natri trong máu, làm cho chất dịch di chuyển vào bên trong tế bào khiến chúng sưng lên. Tế bào não bị sưng làm tăng áp lực bên trong sọ não. Áp lực này gây ra các triệu chứng đầu tiên của ngộ độc nước, bao gồm:. Sự dư thừa dịch trong não được gọi là chứng phù não, có thể ảnh hưởng đến thân não và gây rối loạn chức năng hệ thần kinh trung ương. Trong trường hợp nặng, ngộ độc nước có thể gây co giật, tổn thương não, hôn mê và thậm chí tử vong (1). Kết luận: Uống quá nhiều nước làm tăng áp lực bên trong sọ não. Gây ra nhiều triệu chứng khác nhau và thậm chí gây tử vong trong trường hợp nặng. Mặc dù tai nạn do ngộ độc nước thường rất khó xảy ra, tuy nhiên vẫn có trường hợp tử vong bởi nguyên nhân này. Một báo cáo về 17 quân nhân bị ngộ độc nước được phát hiện trong trình trạng thiếu natri trong máu. Nồng độ natri trong máu của họ dao động từ 115 đến 130 mmol/L, trong khi phạm vi bình thường là 135-145 mmol/L (4). Một báo cáo khác về trường hợp ba người lính tử vong trong tình trạng hạ natri huyết và phù não. Những trường hợp này đều là kết quả của việc uống 10-20 lít nước chỉ trong vài giờ (5). Các triệu chứng của hạ natri huyết có thể bị hiểu sai như triệu chứng mất nước. Một người lính do bị chẩn đoán sai triệu chứng mất nước và sốc nhiệt đã chết vì ngộ độc nước do uống nước quá nhiều (3). Tình trạng ngộ độc nước cũng xảy ra trong các môn thể thao, đặc biệt là các môn đòi hỏi sức chịu đựng. Việc thừa nước rất phổ biến trong các hoạt động này như là một phương pháp để tránh mất nước. Do đó, tình trạng hạ natri huyết thường xuyên xảy ra trong các sự kiện thể thao lớn (6, 7). Tại giải Marathon Boston năm 2002, 13% số người tham gia có triệu chứng hạ natri trong máu. Trong đó 0.06% trường hợp rất nặng, với nồng độ natri dưới 120 mmol/L (8). Đáng tiếc là đã có một vài trường hợp dẫn đến tử vong do ngộ độc nước ở những sự kiện thể thao này. Trường hợp xảy ra với một vận động viên sau khi chạy marathon. Việc kiểm tra cho thấy nồng độ natri của người này thấp hơn 130 mmol/L. Anh ta bị tràn dịch não (úng thủy) và thoát vị não, dẫn đến tử vong sau đó (9). Uống quá nhiều nước cũng xảy ra với trường hợp các bệnh nhân tâm thần, đặc biệt là tâm thần phân liệt (10, 11, 12). Một nghiên cứu về 27 bệnh nhân tâm thần phân liệt đã chết trẻ cho thấy 5 người trong số họ tử vong do tự gây ra ngộ độc nước (13). Kết luận: Ngộ độc nước xảy ra phổ biến nhất ở quân nhân, vận động viên các môn thể thao cần sức chịu bền và bệnh nhân tâm thần phân liệt. Các trường hợp tử vong do hạ natri huyết thường được báo cáo ở nhóm người này. Việc dư thừa và ngộ độc nước xảy ra khi bạn uống lượng nước nhiều hơn mức thận có thể thoát ra bằng đường nước tiểu. Nhưng lượng nước không phải là yếu tố duy nhất. Khoảng thời gian uống nước cũng được tính. Bạn sẽ có nguy cơ cao bị ngộ độc nước nếu uống quá nhiều nước trong một khoảng thời gian ngắn. Nguy cơ sẽ giảm xuống nếu bạn cũng uống cùng một lượng tương tự nhưng trong khoảng thời gian lâu hơn. Các triệu chứng hạ natri huyết có thể xảy ra nếu bạn tiêu thụ 3-4 lít nước trong một khoảng thời gian ngắn (14). Thận của bạn có thể thải khoảng 20-28 lít nước mỗi ngày, nhưng nó không thể thải hơn 0.8-1 lít nước mỗi giờ (14, 15). Do đó, để tránh các triệu chứng hạ natri máu, bạn không nên uống nhiều hơn trung bình 0.8-1.0 lít nước mỗi giờ (14). Đã có nhiều báo cáo về các trường hợp bị ngộ độc nước với nguyên nhân là do uống lượng nước quá nhiều trong khoảng thời gian ngắn. Ví dụ, một báo cáo miêu tả các quân nhân có biểu hiện của triệu chứng ngộ độc nước sau khi uống 1.8 lít nước mỗi giờ (4). Một báo cáo khác cho thấy các biểu hiện của hạ natri huyết khi lượng nước tiêu thụ khoảng 10-20 lít chỉ trong vài giờ (5). Trường hợp ngộ độc nước và hạ natri huyết kéo dài cũng xảy ra với một nam tù nhân 22 tuổi khỏe mạnh sau khi anh này uống 6 lít nước chỉ trong vòng 3 giờ (1). Cuối cùng là một bé gái 9 tuổi đã uống khoảng 3,6 lít nước trong 1-2 giờ có biểu hiện bị ngộ độc nước (14). Kết luận: Thận có khả năng thải ra tới 28 lít chất lỏng mỗi ngày. Tuy nhiên, chúng không thể thải ra nhiều hơn 1 lít mỗi giờ. Vì vậy, uống nhiều nước hơn lượng đó không phải là một ý hay. Không có số liệu cụ thể nào cho việc bạn cần phải uống bao nhiêu nước mỗi ngày. Nó tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Để xác định lượng nước bạn cần, hãy xem xét trọng lượng cơ thể, mức độ hoạt động thể lực và khí hậu. Viện Y học (IOM) đề xuất lượng nước uống cần thiết mỗi ngày cho nam giới là 3,7 lít, trong khi đó ở phụ nữ là 2,7 lít. Tuy nhiên, những khuyến cáo này đã bao gồm lượng nước từ thức ăn và đồ uống (16). Một số người vẫn áp dụng nguyên tắc 8 x 8, trong đó khuyên uống tám cốc nước trọng lượng 8 ounce mỗi ngày. Tuy nhiên, nguyên tắc này đa phần là tự sáng tạo và không dựa trên nghiên cứu (17, 18). Nguyên tắc ‘ngón tay cái’ là hãy lắng nghe cơ thể và uống khi bạn cảm thấy khát. Làm vậy cũng đủ để luôn duy trì lượng nước tốt cho cơ thể. Tuy nhiên, nguyên tắc này không áp dụng cho một vài trường hợp đặc biệt. Các vận động viên, người lớn tuổi và phụ nữ có thai sẽ cần uống nhiều nước hơn bình thường.
|
Ngộ độc nước
|
Ngộ độc nước, hay nhiễm độc nước hay hạ natri máu, là một sự xáo trộn về chức năng não có khả năng gây tử vong, xảy ra khi các cân bằng điện giải trong cơ thể bị xáo trộn bởi sự tăng hydrat. Trong điều kiện bình thường, việc uống nước một lượng quá nhiều là đặc biệt hiếm. Gần như tất cả các ca tử vong liên quan đến ngộ độc nước ở người bình thường đều hoặc là từ các cuộc thi uống nước mà trong đó người chơi sẽ uống một lượng nước lớn càng nhiều càng tốt, hoặc từ những lần tập thể dục cường độ cao sau đó uống quá nhiều nước. Ngoài ra, trấn nước, một hình thức tra tấn mà nạn nhân bị trói chặt và bị dội nước vào mặt làm ngạt thở và hít nước vào phổi, cũng có thể gây ra ngộ độc nước. Nước, giống như bất kỳ chất nào khác, có thể được coi là một chất độc khi dùng quá nhiều trong một thời gian nhất định. Ngộ độc nước chủ yếu xảy ra khi nước được đưa vào mà không cho cơ thể các chất dinh dưỡng thích hợp phù hợp.
|
Tóm tắt: Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương là một vấn đề mới được đề cập ở nước ta. Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định: Trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy đinh rõ ràng, còn nhiều hạn chế, và xác định nhiệm vụ: bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình. Bài viết tập trung luận giải một số khía cạnh lý luận, pháp lý và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương. Trách nhiệm giải trình (TNGT) là thuật ngữ được tiếp cận theo nhiều phương diện khác nhau. Về nguồn gốc, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, khái niệm trách nhiệm giải trình có nguồn gốc từ tiếng Anglo – Norman, ban đầu rất gần với thuật ngữ “accounting” với nghĩa là sổ sách kế toán “bookkeeping”. Trải qua nhiều thế kỷ, thuật ngữ này được coi là cơ sở của hệ thống quản lý công bằng, vô tư khách quan, không chỉ là trách nhiệm của người dân đối với hoàng gia hay đối với nhà nước mà ngược lại, nhà nước cũng có trách nhiệm với dân chúng. Đến những năm 80 của thế kỷ XX, cùng với làn sóng quản lý công mới từ nước Anh, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu và thực hành quản trị tốt. Chính vì lý do ngôn ngữ này nên tồn tại rất nhiều cách hiểu về trách nhiệm giải trình. Dưới góc độ quản trị tốt, khái niệm trách nhiệm giải trình gồm 02 thành tố: khả năng giải đáp, là việc yêu cầu các công chức phải có khả năng giải đáp theo định kỳ những vấn đề liên quan đến việc họ đã sử dụng thẩm quyền của mình như thế nào, những nguồn lực được sử dụng vào đâu, với các nguồn lực đó đã đạt được kết quả gì và việc chịu trách nhiệm hậu quả xảy ra, đó là nhu cầu về việc phải dự đoán được những hậu quả. Báo cáo chỉ số quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) năm 2011 đã đưa ra khái niệm về trách nhiệm giải trình. Theo đó, trách nhiệm giải trình là một khái niệm có những cách diễn giải và dịch thuật khác nhau, và rất khó để khẳng định xem nó được thực thi như thế nào? Nói ngắn gọn, khái niệm trách nhiệm giải trình cơ bản là đảm bảo cho người dân, nhà nước và các tổ chức ngoài nhà nước có cả khung pháp lý lẫn khả năng buộc các cơ quan và cán bộ nhà nước phải giải trình về những gì họ làm hoặc không làm khi thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình. Khi xem xét trách nhiệm giải trình là một hoạt động của nhà nước, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng: trách nhiệm giải trình là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và chịu trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. Như vậy, trách nhiệm giải trình có thể được thực hiện bởi các cơ quan lập pháp, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp. Ở Việt Nam, dưới góc độ phòng chống tham nhũng, trách nhiệm giải trình được xem là việc các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền chủ động hoặc theo yêu cầu thực hiện cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về quyền, nghĩa vụ, về quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và trách nhiệm của mình đối với kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ đó trước người dân, xã hội và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Những phân tích nêu trên cho thấy, trách nhiệm giải trình thể hiện hai phương diện cơ bản: Một là trách nhiệm báo cáo, trình bày, cung cấp, giải thích một vấn đề/nội dung nào đó thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của một chủ thể nhất định. Trách nhiệm này có thể do chủ thể giải trình chủ động thực hiện hoặc khi có yêu cầu của chủ thể có thẩm quyền yêu cầu giải trình. Hai là việc xác định trách nhiệm của chủ thể đối với vấn đề/nội dung đã báo cáo, trình bày, cung cấp giải thích thuộc nhiệm vụ, thẩm quyền. Hai phương diện này thống nhất trong một chỉnh thể, không thể xem xét một cách biệt lập, bởi lẽ, trách nhiệm giải trình phải là sự kết hợp giữa hai yếu tố: sự giải trình và sự chịu trách nhiệm. Việc chịu trách nhiệm phải dựa trên những căn cứ nhất định – chủ thể chịu trách nhiệm phải giải trình, ngược lại, chỉ giải trình mà không chịu trách nhiệm hoặc không kèm theo chế tài nào thì sự giải trình đó không còn đầy đủ ý nghĩa. Chính quyền địa phương (CQĐP) là khái niệm còn có những cách hiểu khác nhau, phổ quát nhất có thể hiểu, chính quyền địa phương là thuật ngữ được sử dụng để chỉ những thiết chế nhà nước, có tư cách quyền lực công, được thành lập để quản lý điều hành mọi mặt đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên một đơn vị hành chính – lãnh thổ của một quốc gia. Như vậy, có thể hiểu, chính quyền địa phương là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước thống nhất, bao gồm hệ thống cơ quan đại diện và cơ quan hành chính được thành lập ra để thực hiện chức năng quản lý trong một phạm vi địa giới hành chính lãnh thổ nhất định. Cũng như bất cứ cơ quan nhà nước nào, các cơ quan của chính quyền địa phương có trách nhiệm giải trình. Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương là trách nhiệm của các cơ quan công quyền ở địa phương trong việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và chịu hệ quả pháp lý về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. i) Chủ thể thực hiện là các cơ quan nhà nước ở địa phương được giao những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Đó là cơ quan dân cử và cơ quan hành chính ở địa phương. Chủ thể thực hiện giải trình có thể là người đứng đầu cơ quan dân cử, cơ quan hành chính, hay người đại diện cho các cơ quan nhà nước ở địa phương. Trong trường hợp cụ thể, có thể là cá nhân trong tổ chức liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. ii) Chủ thể yêu cầu chính quyền địa phương thực hiện việc giải trình rất đa dạng. Đó có thể là cơ quan nhà nước cấp trên, cơ quan nhà nước cùng cấp, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, cơ quan tư pháp, cơ quan truyền thông đại chúng, người dân địa phương…. iii) Nội dung giải trình liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, thực chất là việc tổ chức thực hiện và kết quả thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền đã được pháp luật quy định. iv) Trách nhiệm giải trình được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau: cung cấp thông tin, giải thích, báo cáo, trả lời chất vấn, giám sát, giải trình, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, đối thoại, họp báo…Tùy thuộc vào phương thức giải trình mà chính quyền địa phương giải trình theo cách thức khác nhau. Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương tập trung vào việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của chính quyền địa phương được pháp luật quy định, ngoại trừ các nội dung có liên quan đến bí mật quốc gia hoặc những trường hợp không thuộc phạm vi giải trình. Tương ứng với từng nội dung giải trình, chủ thể giải trình và chủ thể yêu cầu giải trình có các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Nội dung giải trình của chính quyền địa phương ở các quốc gia là khác nhau, vì nó phụ thuộc vào cách thức tổ chức quyền lực nhà nước ở địa phương, nguyên tắc phân định thẩm quyền được áp dụng…và sự cụ thể hóa của pháp luật. Đối với Việt Nam, nội dung giải trình của chính quyền địa phương là những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền được pháp luật quy định, ngoài ra, còn phải giải trình về nguồn gốc tài sản, thu nhập xuất phát từ yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng. Trọng tâm nội dung giải trình của chính quyền địa phương là việc tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định (Khoản 1, Điều 112 Hiến pháp năm 2013). Thực tiễn cho thấy, ở hầu hết các quốc gia, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ngày càng được mở rộng, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự quản ngày càng cao, do đó, chính quyền địa phương và cá nhân có thẩm quyền phải thực hiện trách nhiệm giải trình đối với các nội dung thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình là yêu cầu cấp thiết luôn được đặt ra. Sự thay đổi về nội dung giải trình của chính quyền địa phương, cùng với xu hướng dân chủ hóa trong xã hội ngày càng cao…đòi hỏi cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương cần có cách tiếp cận mới, theo đó, tăng cường trách nhiệm giải trình đối với các chủ thể bên ngoài, đặc biệt là đối với Nhân dân cần được xác lập một cách khoa học hơn. Ứng với các kênh giải trình khác nhau sẽ hình thành các phương thức giải trình tương ứng, các phương thức giải trình của chính quyền địa phương rất đa dạng và có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động của chính quyền địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định. Đa số các quốc gia đều xem trách nhiệm giải trình gắn liền với quyền của công dân được cung cấp thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước. Do đó, hầu hết các quốc gia đều khẳng định quyền này của công dân trong Hiến pháp và cụ thể hóa nó bằng các văn bản luật. i) Các quy định của pháp luật chủ yếu hướng đến việc xem trách nhiệm giải trình là trách nhiệm giải thích việc thực thi nhiệm vụ, công vụ hay các vấn đề liên quan đến trách nhiệm quản lý của mình khi được yêu cầu. Tuy nhiên, trên thực tế, nội dung về trách nhiệm giải trình rộng hơn, không chỉ thực hiện khi có yêu cầu, mà còn được thực hiện ngay cả khi không có yều cầu, nhưng chủ thể thấy đó là việc làm cần thiết để tìm kiếm sự ủng hộ, đồng thuận về những vấn đề đã, đang, sẽ được thực hiện, bảo đảm tính khả thi của các quyết định hay việc làm của mình trên thực tế…Trong một số trường hợp, giải trình không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền của một chủ thể nào đó được phát biểu, nói lên ý kiến, giải thích cho việc làm của mình là đúng đắn, hợp pháp. Do đó, trách nhiệm giải trình trước hết phải dựa trên “nhu cầu” thấy “cần” phải giải thích của cá nhân người có trách nhiệm, không chỉ là thực hiện do quy định của pháp luật. ii) Các quy định hiện hành chủ yếu đề cập và nhấn mạnh đến trách nhiệm tuân thủ các quy định về thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trách nhiệm được giao, trong khi đó, cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình gắn với trách nhiệm thực hiện hiệu quả công việc lại chưa được pháp luật đề cập đến. Trong bối cảnh hiện nay, khi yêu cầu dân chủ trong đời sống xã hội ngày càng cao, sự chủ động tham gia của người dân vào hoạt động quản lý nhà nước ngày càng sâu rộng, trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương cần phải gắn với trách nhiệm thực hiện công việc một cách có hiệu quả, thỏa mãn ngày càng tốt hơn sự hài lòng của người dân. iii) trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương được quy định tản mạn trong nhiều văn bản luật và dưới luật khác nhau, điều này đã tạo khó khăn trong quá trình nhận thức, năm bắt các quy định của pháp luật về trách nhiệm giải trình đối với các chủ thể, đặc biệt là quá trình tổ chức thực hiện và xác định trách nhiệm của các bên. i) Hoàn thiện các quy định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015. – Khoản 1 và khoản 2 Điều 112 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận thẩm quyền riêng của địa phương. Đây là thẩm quyền riêng biệt, độc lập so với thẩm quyền của các cơ quan nhà nước cấp trên và thừa nhận khả năng phân cấp, phân quyền cho mỗi địa phương. Tuy nhiên, các quy định về phân quyền, phân cấp, ủy quyền trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 mới dừng lại quy định ở nguyên tắc chung, cần tiếp tục được cụ thể hóa, theo đó: Nghiên cứu sửa đổi điểm c, khoản 2, Điều 11 về thẩm quyền giải quyết vấn đề phân quyền thuộc phạm vi từ hai đơn vị hành chính trở lên. Bởi lẽ, khoản 1 Điều 12 của Luật đã quy định việc phân quyền cho mỗi cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong các luật, nên chính quyền địa phương không có thẩm quyền giải quyết vấn đề này, chỉ luật mới có thể xác định và thay đổi thẩm quyền đã được phân quyền, nếu không quy định rõ vấn đề này sẽ dẫn đến mâu thuẫn trong chính các quy định của Luật;
|
Trách nhiệm giải trình
|
Trong đạo đức và quản trị, trách nhiệm giải trình, (tiếng Anh: accountability,có nguồn gốc Latin là accomptare (giải thích)), là trách nhiệm giải thích việc thực thi nhiệm vụ, công vụ hay những vấn đề liên quan đến trách nhiệm quản lý của mình khi được yêu cầu. Là một khía cạnh trong ngành quản trị, nó là trung tâm của các cuộc thảo luận liên quan đến các vấn đề trong khu vực công, các bối cảnh phi lợi nhuận và tư nhân (doanh nghiệp) và cá nhân. Trong vai trò lãnh đạo, trách nhiệm giải trình là sự ghi nhận và giả định về trách nhiệm đối với hành động, sản phẩm, quyết định và chính sách bao gồm cả việc quản lý, quản trị, và thực hiện trong phạm vi vai trò hay vị trí việc làm, bao gồm nghĩa vụ báo cáo, giải thích và chịu trách nhiệm về hậu quả. Trong quản trị, nó thường được mô tả như là một mối quan hệ giải trình giữa các cá nhân, ví dụ "A có trách nhiệm giải trình đối với B khi A có nghĩa vụ thông báo cho B (trong quá khứ hay tương lai) về hành động và quyết định của A, để biện minh cho chúng, và phải chịu hình phạt trong trường hợp có hành vi sai trái".
|
Ngày nay, việc sử dụng thuốc kích dục của phái nữ có xu hướng gia tăng và trở nên vô cùng phổ biến. Nguyên nhân chính là không phải chị em nào cũng có đời sống tình dục lý tưởng và đảm bảo chất lượng. Việc dùng thuốc kích dục được xem là nhu cầu bình thường và đảm bảo an toàn nếu sử dụng đúng cách. Tuy nhiên, bạn đã biết đến những loại thuốc kích dục nữ chất lượng và uy tín chưa? Nếu chưa thì hãy cùng tìm hiểu TOP 3 loại thuốc phổ biến nhất hiện nay trong bài viết dưới đây nhé!. Hiện nay có rất nhiều chị em phụ nữ không tìm được ham muốn trong chuyện ấy. Họ cảm thấy cơ thể luôn trong trạng thái mệt mỏi, căng thẳng, stress kéo dài và mất dần hứng thú. Nguyên nhân của việc này có thể là do tuổi tác, thay đổi nội tiết tố hoặc áp lực công việc,…. Thuốc kích dục nữ hiểu đơn giản là một sản phẩm giúp tăng cường ham muốn ở nữ trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, không phải tất cả các loạithuốc kích dụcđược bán trên thị trường hiện nay đều là hàng chính hãng và mang lại hiệu quả cho người sử dụng. Tác dụng cơ bản nhất củathuốc kích dục nữđó là giúp chị em xuất hiện cảm giác hứng thú với việc quan hệ tình dục. Khi được nạp vào cơ thể, các hoạt chất có trong thuốc kích thích đến các dây thần kinh. Từ đó tạo sự hưng phấn và dễ dàng đạt cực khoái khi quan hệ tình dục. Một số loại thuốc đặc trị khác còn giúp tăng nồng độ nội tiết tố estrogen tự nhiên trong cơ thểđể các chị em duy trì được sức hấp dẫn, vóc dáng quyến rũ và trẻ trung của mình. Nếu bạn đang có nhu cầu mua và sử dụng thuốc kích dục nữ thì cần tìm hiểu kỹ về những thông tin cơ bản. Bởi vì một số loại thuốc kích dục nữ hiện nay nếu không sử dụng đúng cách có thể gây ra những tác dụng phụ không mong muốn. Vì vậy nên tốt nhất các chị em hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa nhé!. Phụ nữ có nên dùng thuốc kích dục không là thắc mắc chung của nhiều người hiện nay. Đặc biệt là với tâm lý tự ti, ngại ngùng, không dám chia sẻ của các chị em. Tuy nhiên, câu trả lời ở đây là hoàn toàn có thể. Việc sử dụng thuốc kích dục chỉ là một trong những giải pháp tăng cường ham muốn và nâng cao chất lượng đời sống giường chiếu mà thôi. Tác dụng chính của loại thuốc này là làm gia tăng ham muốn tình dục ở phái nữ. Sau khi dùng, cơ thể bạn sẽ liên tục có cảm giác nóng ran, bứt rứt và ngay lập tức cần được đối phương phải đáp ứng ngay. Chị em cũng sẽ chủ động đòi hỏi trong tình dục cao như vậy cũng có tác dụng kích thích đối phương, cùng nhau đạt đến khoái cảm cao nhất. Đây là điều vô cùng tuyệt vời mà bất cứ cặp đôi nào hướng đến. Khi nhu cầu của phái nữ tăng cao thì kéo theo đó là việc nam giới bị thu hút ngay trên giường. Nhu cầu tình dục cũng nhờ đó mà được thỏa mãn. Vì vậy nên sử dụng thuốc kích dục nữ một cách khoa học cũng là phương pháp hiệu quả để nhiều chị em giữ gìn hạnh phúc hôn nhân. Hơn thế nữa, việc sử dụng thuốc kích dục nữ còn có nhiều công dụng khác. Có thể kể đến đó là kích thích cơ thể sản sinh ra nội tiết tố estrogen tự nhiên. Estrogen là chìa khóa duy trì tuổi thanh xuân, cơ thể nóng bỏng và gợi cảm của chị em phụ nữ. Tuy nhiên, bạn cũng không nên quá lạm dụng các loại thuốc kích dục nữ. Đây chỉ là những dòng sản phẩm mang tính hỗ trợ mà thôi. Do đó, nếu sử dụng lâu dài sẽ khiến cơ thể nhờn thuốc hoặc quá phụ thuộc vào các thành phần có trong thuốc. Như vậy vô cùng nguy hiểm. Thuốc kích dục nữ hiện nay đang được phân phối nhiều trên thị trường hiện nay. Bạn có thể dễ dàng tìm mua vì đây chỉ đơn giản là một phương pháp giúp đáp ứng nhu cầu của bản thân mà thôi. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách chọn mua được những sản phẩm thuốc kích dục nữ chất lượng và đảm bảo an toàn.Bạn nên dựa vào những tiêu chí sau để chọn mua được những loại thuốc tốt nhất nhé!. Nguồn gốc xuất xứ rõ ràng: Nguồn gốc xuất xứ được xem là tiêu chí hàng đầu bạn phải quan tâm khi tham khảo bất kỳ một sản phẩm nào. Thuốc kích dục nữ phải được sản xuất bởi những công ty hoặc thương hiệu lớn và được cấp phép lưu hành trên thị trường. Thành phần tự nhiên: Tiếp theo là về thành phần, thuốc kích dục nữ phải đảm bảo chiết xuất từ những thành phần tự nhiên, lành tính và không gây tác dụng phụ. Như vậy chị em mới có thể yên tâm sử dụng lâu dài được. Giá cá hợp lý: Thu nhập của người Việt Nam hiện nay vẫn chưa quá cao. Do đó, việc cân nhắc chi phí mua thuốc kích dục nữ là điều vô cùng quan trọng. Bạn cần lựa chọn những sản phẩm có giá cả vừa phải và hợp túi tiền của mình. Đánh giá của khách hàng: Cuối cùng đó là những đánh giá của khách hàng đã từng sử dụng qua loại thuốc kích dục đó. Đây đều là những nhận xét mang tính khách quan và có độ chính xác cao. Do đó, chị em cần tham khảo ký vấn đề này trước khi chọn mua một loại sản phẩm nào nhé!. Trên thị trường có hàng trăm loại thuốc kích dục dành cho nữ khác nhau được điều chế từ dạng nén, dạng bột, dạng lỏng hoặc dạng viên. Dưới đây là TOP 3 loại thuốc phổ biến nhất:. Sản phẩm đầu tiên được giới thiệu đó là thuốc kích dục nữ D10. Đây được xem là dòng thuốc quốc dân giúp nâng cao đời sống tình dục của chị em phụ nữ và được nhiều người tin tưởng sử dụng. Khi đi vào cơ thể, các thành phần trong thuốc kích dục nữ D10 sẽ có tác dụng trong việc tạo ra cảm giác hứng thú, hưng phấn và ham muốn. Từ đó, nàng sẽ chủ động trong tình dục. Hơn thế nữa, bạn sẽ cảm thấy sức khỏe ngày càng tốt hơn, bản thân luôn mong muốn quan hệ ngay lập tức để giải toả. Để bào chế ra thuốc kích dục D10, các nhà nghiên cứu đã phải tiến hành rất nhiều thử nghiệm trên nhiều người khác nhau. Vì thế sản phẩm có công dụng vượt trội và đảm bảo cho hiệu quả 100% trên nhiều quốc gia, đặc biệt là với cơ địa người Việt Nam. D10 là thuốc kích dục nữ đảm bảo chất lượng và an toàn tuyệt đối. Chị em cũng có thể tin tưởng sử dụng vì đây không phải là chất gây nghiện. Vì vậy sẽ khôngkích thích cơ thể giống như heroin, ma túy đá hoặc các loại ma túy tổng hợp khác. Do đó, bạn có thể hoàn toàn yên tâm sản phẩm D10 không làm ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người dùng. D10 thuốc kích dục nữ cho hiệu quả bậc nhất hiện nay. Sản phẩm có xuất xứ từ Nga và được bào chế dưới dạng lỏng với dung tích mỗi chai là 10ml, vô cùng nhỏ gọn và tiện lợi. Bạn có thể mang đi du lịch hoặc công tác xa để dùng mỗi ngày. Thuốc kích dục nữ D10 đem đến sự hài lòng tuyệt đối cho người dùng bởi tác dụng siêu nhanh và đây là thuốc kích dục nữ cực mạnh. Chỉ sau 5 – 10 phút sử dụng, cơ thể của chị em phụ nữ sẽ lập tức nóng ran và chỉ muốn làm tình ngay lập tức để thỏa mãn. Ngoài ra, dòng sản phẩm này còn có tác dụng giúp âm đạo co bóp liên tục. Nhờ vậy, việc quan hệ của các cặp đôi sẽ trở nên trơn tru, thuận tiện hơn rất nhiều nhờ lượng chất nhờn tiết ra. Cuộc yêu của bạn cũng vì thế mà được kéo dài và đạt chất lượng hơn rất nhiều. Các cặp đôi sẽ cảm nhận được sự sung sướng đến cực đỉnh mà không hề có một chút đau đớn nào!. Ưu điểm của D10 còn là sự riêng tư tuyệt đối cho người sử dụng., Đây là thuốc không màu, không mùi, không vị. Do đó, chị em có thể dễ dàng sử dụng ở bất kỳ trường hợp nào mà không cần lo lắng người khác phát hiện ra. Cách sử dụng thuốc D10 cũng khá đơn giản. Loại thuốc này ở dạng lỏng nên bạn có thể pha thuốc chung với tất cả các loại nước uống khác để dùng trực tiếp. Tuy nhiên, cần tránh sử dụng nước chanh và hạn chế pha quá loãng nhé!. Mỗi chai thuốc kích dục nữ D10 có dung tích 10ml. Chị em nên chia dùng từ 5 đến 6 lần để đạt hiệu quả lý tưởng nhất. Thời gian dùng sản phẩm là trước khi quan hệ khoảng 15 – 20 phút. Một thời gian ngắn sau, chị em sẽ thấy thuốc bắt đầu phát huy tác dụng, nhiệt độ cơ thể tăng nhanh, cảm giác nóng ran, bứt rứt và chỉ muốn làm tình ngay lập tức. Một sản phẩm khác khá phổ biến hiện nay đó là thuốc kích dục nữ Sex Philter. Đây được xem là thương hiệu mới ra mắt trên thị trường hiện nay nhưng đã thu hút được không ít sự quan tâm của khách hàng, đặc biệt là các chị em phụ nữ. Thuốc kích dục cho nữ dạng nước SexPhilterlà một trong những sản phẩm dành cho nữ giới với các thành phần lành tính. Đây còn là thuốc dạng không màu, không mùi nên vô cùng tiện lợi. Bạn có thể tìm mua SexPhilter ở nhiều nhà thuốc trên thị trường. Thuốc kích dục nữ Sex Philter được sản xuất ở dạng nước với dung tích 5ml và có nguồn gốc từ Mỹ. Chính vì vậy nên về Việt Nam, loại thuốc này đã xuất sắc vượt qua những kiểm định khắt khe của Bộ Y Tế, đạt chứng nhận an toàn của Bộ Y tế cấp phép. Do vậy nên chị em hoàn toàn an tâm khi sử dụng. Ưu điểm đầu tiên phải kể đến của thuốc kích dục nữ Sex Philter đó là cho tác dụng cực mạnh chỉ sau 5 – 10 phút. Vì vậy nên nhu cầu của bạn sẽ nhanh chóng được đáp ứng, cuộc yêu sẽ vô cùng thăng hoa. Ngoài ra, bạn cũng không cần lo lắng về vấn đề khô hạn. Sản phẩm này cũng hỗ trợ người dùng quan hệ không mệt mỏi nhờ dịch nhờn tiết ra liên tục, giúp các cặp đôi tận hưởng những khoảnh khắc tuyệt vời và đáng nhớ!. Cách dùng hiệu quả là chị em tiến hành pha từ 2 – 3ml thuốc vào một ly nước ấm. Lưu ý, bạn chỉ nên pha với một lượng nước nhất định để tránh tình trạng thuốc bị loãng và không phát huy được hiệu quả. Với Sex Filter, bạn tuyệt đối không được pha chung với nước chanh hay bất kỳ loại rượu có độ cồn cao khác. Thuốc kích dục nữ sex philter đang được bán tại shop Condom Việt với giá 250.000 VNĐ/chai 5ml. Nhiều nghiên cứu cho rằng, tỷ lệ phụ nữ mắc các chứng bệnh về rối loạn tình dục hay thường xuyên quan hệ nhưng không cảm thấy thỏa mãn là rất cao.Đây là tình trạng khá phổ biến và nhiều người đã tìm đến thuốc kích dục nữ. Một trong những sản phẩm được ưa chuộng hiện nay đó chính là thuốc kích dục nữ Lady – Era. Đây được xem là dòng thuốc đang bán rất chạy ở thị trường Việt Nam. Đa số các chị em phụ nữ sau khi sử dụng đều ưa thích và nhận xét tích cực về các công dụng tuyệt vời mà nó mang lại. Thuốc kích dục nữ Lady – Era thuộc nhóm những chất kích thích nhẹ cơ thể có nguồn gốc xuất xứ từ Mỹ. Sản phẩm đã được chứng nhận an toàn cho người sử dụng và được phép lưu hành hợp pháp trên thị trường Việt Nam. Sau khi dùng khoảng 20 – 30 phút, các tinh chất trong thuốc bắt đầu ngấm vào cơ thể và phát huy tác dụng. Chị em sẽ cảm thấy cơ thể nóng bỏng, hưng phấn hơn trong chuyện ấy. Thời gian làm tình có thể kéo dài lên đến 1 – 2 giờ đồng hồ.Thật tuyệt vời đúng không nào?. Đặc biệt, Lady – Era còn được nhiều chuyên gia khuyên dùng khi có tác dụng kích thích cơ thể sản sinh nội tiết tố nữ một cách tự nhiên. Các nàng sẽ cảm thấy da dẻ căng bóng, hồng hảo, giảm tình trạng khô hạn và luôn yêu đời. Mỗi vỉ thuốc Lady – Era sẽ bao gồm 4 viên nén màu hồng.Chị em chỉ cần cho 1 viên vào nước ngọt hoặc nước lọc để uống trực tiếp là được. Thời gian lý tưởng là 30 phút trước khi làm tình. Lưu ý, bạn nên để thuốc Lady – Era tan tầm 7 – 10 phút rồi mới uống để đạt tác dụng tốt nhất.Tuy nhiên, nếu chị em có cơ địa yếu, nhạy cảm thì chỉ cần sử dụng ½ viên thuốc là được. Dùng Lady – Era quá liều sẽ gây tình trạng kích ứng không mong muốn. Thuốc kích dục nữ Laddy Era đang được bán tại shop Condom Việt với giá 550.000 VNĐ vỉ x 4 viên. Hiện nay, có rất nhiều người sử dụng thuốc kích dục nữ và xem đây là phương pháp hữu hiệu, cho hiệu quả cao. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách sử dụng sản phẩm này đúng cách và an toàn. Như vậy khiến cho việc dùng thuốc không đạt hiệu quả như ý muốn và thậm chí là gây phản tác dụng vô cùng nguy hiểm. Trước khi có ý định sử dụng bất kỳ một loại thuốc kích dục dành cho nữ nào, bạn cần đi khám để biết rõ được tình trạng mà bản thân đang gặp phải.
|
Thuốc kích dục
|
Thuốc kích dục là một chất làm tăng ham muốn tình dục, khoái cảm tình dục hoặc hành vi tình dục. Các chất kích dục từ nhiều loại thực vật, gia vị, thực phẩm và hóa chất tổng hợp. Do đó, chúng có thể được phân loại theo tính chất hóa học của chúng (tức là các chất tự nhiên và không tự nhiên). Thuốc kích dục tự nhiên như rượu được phân loại thành các chất có nguồn gốc từ thực vật và không có nguồn gốc thực vật. Thuốc kích dục không tự nhiên như thuốc lắc được phân loại là những loại được sản xuất để bắt chước một chất tự nhiên. Thuốc kích dục cũng có thể được phân loại theo loại hiệu ứng của chúng (ví dụ, tâm lý hoặc sinh lý). Thuốc kích dục có chứa các đặc tính gây ảo giác như Bufo cóc có tác dụng tâm lý đối với một người có thể làm tăng ham muốn tình dục và khoái cảm tình dục. Thuốc kích thích tình dục có chứa các đặc tính thư giãn cơ trơn như yohimbine có tác dụng sinh lý đối với một người có thể ảnh hưởng đến mức độ hormone và tăng lưu lượng máu.
|
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một tổ chức liên minh quân sự và chính trị, dân tộc chủ nghĩa cánh tả, hoạt động chống chính quyền Việt Nam Cộng hòavà sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Đây là tổ chức kế thừa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Mặt trận của cả nước từ Bắc đến Nam) ở miền Nam (thừa nhận sau năm 1975) nhưng Việt Nam Cộng hòa được sự hỗ trợ của Mỹ không thi hành Hiệp định Geneva về Việt Nam, làm trở ngại cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Vì vậy trong phong trào Đồng khởi ở miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam ra đời. Chủ trương của Mặt trận là: “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ; thành lập một chính quyền liên minh dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.”. Tổ chức này được thành lập dưới sự hậu thuẫn và được hỗ trợ tài chính, thiết bị và nhân sự bởi nhiều bộ phận dân cư tại miền Nam Việt Nam cũng như của chính phủ và quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước khi chính thể Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thành lập, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tồn tại như một chính thể và Ủy ban Trung ương hoạt động như là một chính phủ lâm thời, đại diện cho các vùng thuộc quyền kiểm soát, quản lý các vùng do Mặt trận quản lý. Thực chất đây là một tổ chức được thành lập theo yêu cầu chiến tranh của Đảng Lao động Việt Nam và những người có lập trường thân cộng sản nhằm tạo vị thế chính trị cho phong trào đấu tranh chống Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, đồng thời quản lý các vùng đất do họ quản lý có được kể từ sau phong trào đồng khởi. Mặt trận liên tục tổ chức, lãnh đạo các hoạt động chống chính phủ Việt Nam Cộng hòa, chống lại sự can thiệp của Mỹ và các đồng minh. Để thực hiện mục đích đó, Quân Giải phóng Miền Nam đã được thành lập ngày 15 tháng 2 năm 1961, do Trung ương cục miền Nam lãnh đạo, sau đó gia nhập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Quân Giải phóng Miền Namđã thực hiện chiến tranh du kích chống lại chính quyền Sài Gòn, với chi viện về vũ khí và người từ miền Bắc. Trước 1975, Mặt trận này tuyên bố là tổ chức độc lập với Miền Bắc, nhưng không độc lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi đó tuyên bố chủ quyền trên cả nước cho đến khi Cộng hòa Miền nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền ở miền Nam năm 1969. Từ 31 tháng 1 năm 1977, tổ chức này sát nhập hoàn toàn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngày nay Nhà nước Việt Nam khẳng định Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cũng như các mặt trận trước đó và sau này là các tổ chức chính trị – xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện các nhiệm vụ đoàn kết toàn dân dưới lá cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam để đạt mục tiêu chính trị do Đảng đề ra. Tuy nhiên trước đây sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và các tổ chức tương tự không công khai với đối phương (nhưng có công khai với đối tượng trong thành phần cách mạng hay cảm tình cách mạng), do mặt trận mang ý nghĩa là một liên minh chính trị gồm nhiều thành phần. Trong các chiến dịch Tố Cộng của mình năm 1956, Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm đã phổ biến cụm từ Việt Cộng để chỉ những người “Cộng sản Việt Nam”. Sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được thành lập, nhiều người Nam Việt Nam cũng gọi những người tham gia Mặt trận bằng cụm từ này. Khi quân Mỹ vào Nam Việt Nam, họ cũng chịu ảnh hưởng của cách gọi này và gọi một cách ngắn gọn là VC (viết tắt từ “Việt Cộng” và đọc theotiếng Anh là “vi-xi”), hoặc biến tấu đi thành Victor Charlie (nguyên nhân là do hai chữ cái V và C lần lượt được phát âm là Victor và Charlie theo bảng mẫu tự ngữ âm của NATO). Theo nhận định của người Mỹ, theo Hiệp định Genève, 190.000 quân của Quân đội viễn chinh Pháp, và 900.000 thường dân di chuyển từ miền Bắc Việt Nam để vào miền Nam Việt Nam; hơn 100.000 binh lính Việt Minh và dân thường di chuyển từ Nam ra Bắc. Với chính quyền Ngô Đình Diệm, việc một số lượng lớn người vào Nam là một thành công lớn, coi như bằng chứng phản kháng chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bằng chứng thuyết phục được người Mỹ, thứ hai lực lượng này sẽ hỗ trợ cho chính quyền của ông. Sau đó những người di cư nhận được viện trợ của Mỹ còn cao hơn dân bản địa (100 USD, cao hơn thu nhập bình quân hàng năm của người miền Nam). Hiệp định Genève dẫn đến Việt Nam tạm thời bị phân chia thành hai vùng tập trung quân sự. Miền Bắc đặt dưới sự kiểm soát của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại miền Nam, với sự hậu thuẫn của người Mỹ, Thủ tướng Ngô Đình Diệm của chính phủ Quốc gia Việt Namđã thực hiện cuộc trưng cầu dân ý để phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính thểViệt Nam Cộng hòa. Theo nhận định của Mỹ, Ngô Đình Diệm trong một thời gian ngắn đã làm được nhiều hơn mong đợi, lên nắm quyền trong vòng 10 tháng vượt qua các cuộc đảo chính, ổn định tình hình, thành lập một nhà nước có chủ quyền vào năm 1955 được 36 quốc gia công nhận, soạn thảo một hiến pháp mới, và mở rộng kiểm soát Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tới các khu vực được Việt Minh kiểm soát trong suốt Chiến tranh Đông Dương… Theo ước tính của Pháp, vào năm 1954, Việt Minh kiểm soát 60% – 90% nông thôn miền Nam Việt Nam. Tháng 1-1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố tẩy chay bầu cử Hiệp định Genève, với lý do ông đưa ra là không thể có bầu cử tự do tại miền Bắc được cai trị bởi “nhà nước cảnh sát”. Ông không loại trừ khả năng thống nhất đất nước trong hòa bình và dân chủ với điều kiện bầu cử không có sự cưỡng ép hay đe dọa cử tri. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhiều lần đã cố gắng đề nghị Chính phủ Việt Nam Cộng hoà trong tháng 7 năm 1955, tháng 5 và tháng 6 năm 1956, 1958, tháng 7 năm 1959, và tháng 7 năm 1960, đề xuất tham vấn đàm phán “các cuộc bầu cử tự do chung bằng cách bỏ phiếu kín” và tự do hóa quan hệ Bắc-Nam nói chung. Chính phủ Việt Nam Cộng hoà hoặc từ chối, hoặc im lặng. Chính phủ Mỹ cũng cho rằng so với thời những nguồn tin khác nhau chỉ ra cho Tổng thống Mỹ Eisenhower thấy 80% dân chúng sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh, thì sẽ được rút ngắn lại, do ông Ngô Đình Diệm đã đạt được một số thành công, trong khi Miền Bắc đang gặp nhiều khó khăn do khan hiếm lương thực và mất uy tín sau cải cách ruộng đất được tướng Giáp thừa nhận (dẫn đến một cuộc bạo động của nông dân Công giáo tháng 11 năm 1956). Tuy nhiên sự thật các cải cách của ông kéo theo các biện pháp áp bức. Ông nắm quyền khi mà ngoài Sài Gòn và các vùng phụ cận, miền Nam Việt Nam được phân chia thành các vùng đất do Việt Minh kiểm soát và lãnh địa các giáo phái “thần quyền” như Cao Đài và Hòa Hảo. Ông chống lại bất đồng chính kiến, và đòi hỏi lòng trung thành tuyệt đối cá nhân với các quan chức hàng đầu. Tài liệu của Mỹ cũng cho biết Ngô Đình Diệm là một người Công giáo bảo thủ. Ngô Đình Diệm lúc đầu đã được chào đón nồng nhiệt trong một số người từng là thành viên Việt Minh. Nhưng chương trình cải cách điền địa của ông thất bại và dừng lại năm 1959. Trong tháng 6 năm 1956, Ngô Đình Diệm hủy bỏ cuộc bầu cử hội đồng làng, có vẻ như vì lo ngại rằng một số lượng lớn Việt Minh có thể giành chiến thắng, thay vào đó là các các quan chức Chính phủ bổ nhiệm, là người miền Bắc, Công giáo hoặc thân cận. Năm 1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tiết lộ rằng khoảng 15.000-20.000 người cộng sản đã bị giam giữ trong các “trại tập trung chính trị”, trong khi Devillers đưa ra con số 50.000. Tháng ba năm 1958, sau một bài xã luận “ăn da”, chính phủ Ngô Đình Diệm đóng cửa các tờ báo lớn nhất ở Sài Gòn. Mùa xuân năm 1960, một nhóm các nhà lãnh đạo chủ nghĩa dân tộc không cộng sản đến với nhau – ban hành Tuyên Ngôn Caravelle, một cuộc biểu tình bất bình chống chế độ Ngô Đình Diệm. Chính sách của Ngô Đình Diệm hầu như đảm bảo rằng những thách thức chính trị với ông ta sẽ bị liệt nằm ngoài luật pháp. Cuối cùng, những nổi lên từ các nguồn truyền thống quyền lực ở miền Nam Việt Nam – lực lượng vũ trang, các giáo phái tôn giáo, và nông dân vũ trang. Đến năm 1958, khoảng 1/3 tỉnh trưởng là sĩ quan quân đội, đến năm 1960, đã tăng lên đến gần 2/3; 1962, 7/8 của tất cả các tỉnh đã được lãnh đạo bởi các sĩ quan. Ông lập luận các mối đe dọa từ những người cộng sản để biện minh cho sự tập trung của mình về an ninh nội bộ. Người Mỹ cũng nhận thức được sự yếu kém của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Theo nhận định của người Mỹ, Mỹ cũng thấy được sự vỡ mộng “đặc biệt là ở các tầng lớp có học”, sự”bất mãn trong các sĩ quan quân đội”, “nỗ lực của chế độ bảo đảm an ninh nội bộ khi cho rằng một chính phủ độc tài là cần thiết để xử lý các vấn đề của đất nước sẽ dẫn đến một áp lực liên tục của các yếu tố đối lập tiềm năng”, “trong một khoảng thời gian dài, sự tích tụ bất bình giữa các nhóm khác nhau và các cá nhân có thể dẫn đến sự phát triển của phong trào đối kháng quốc gia”… Mỹ thấy cần ủng hộ việc thành lập một chính phủ mới ở miền Nam Việt Nam, không phân biệt thành phần. Hội đồng an ninh quốc gia của Mỹ đưa ra quan điểm “Hỗ trợ miễn phí Việt Nam để phát triển một chính phủ mạnh mẽ, ổn định, và hiến pháp để cho phép Việt Nam Tự Do, để khẳng định một sự tương phản ngày càng hấp dẫn đối với các điều kiện trong vùng Cộng sản hiện nay”. Từ năm tài chính 1946 – năm tài chính 1961, Việt Nam đứng thứ ba bảng xếp hạng nước ngoài NATO được Mỹ hỗ trợ, và trên toàn thế giới xếp thứ bảy. 75% viện trợ kinh tế của Mỹ cung cấp trong cùng thời kỳ đã đi vào ngân sách quân sự của Chính phủ Việt Nam, và nhiều dự án ngoài quân sự đã lọt vào chi tiêu phục vụ quân sự. Tuy nhiên can thiệp của Mỹ ngày càng tăng vào chính phủ Việt Nam Cộng hòa dẫn đến việc Tổng thống Ngô Đình Diệm lên tiếng phản đối. Chính tất cả những điều này đã kích thích các phong trào đấu tranh hòa bình đòi thống nhất đất nước của dân chúng ở miền Nam. Tuy nhiên, tất cả đều bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa đàn áp, nhất là những người Cộng sản và Việt Minh cũ còn ở lại miền Nam, những người mà Tổng thống Ngô Đình Diệm cho là đối thủ tiềm tàng nguy hiểm nhất. Bị đàn áp, những người cộng sản miền Nam cùng với những đồng minh của mình tập hợp và tổ chức ra có một số tổ chức vũ trang, bán vũ trang để chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa một cách tự phát. Từ giữa 1957, những người cộng sản miền Nam đã áp dụng chiến thuật du kích phù hợp học thuyết quân sự Mao – Giáp. Ngoài ra thì sự phân chia đất nước khiến cho nhiều gia đình phân ly, những người có tinh thần dân tộc cũng bất bình.
|
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
|
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (phía Việt Nam Cộng hòa và nhiều tài liệu phương Tây gọi là Việt Cộng) là một tổ chức liên minh chính trị, dân tộc chủ nghĩa cánh tả, hoạt động chống lại sự can thiệp của Hoa Kỳ và các đồng minh (Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Úc, Hàn Quốc.) trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Đây là tổ chức được thành lập theo đường lối của Đảng Lao động Việt Nam tại Đại hội III với phương châm liên minh những người miền Nam có mục tiêu đấu tranh chống Mỹ và chính phủ Việt Nam Cộng hòa, thực hiện đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước Việt Nam. Năm 1969, mặt trận này và Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam thành lập chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại Nam Việt Nam. Mặt trận nhận được sự viện trợ và giúp đỡ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chịu sự lãnh đạo linh hoạt của Đảng Lao động Việt Nam. Đây là tổ chức kế thừa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Mặt trận của cả nước từ Bắc đến Nam) ở miền Nam (công nhận bởi các tài liệu sau năm 1975) nhằm chống lại Hoa Kỳ và chế độ Việt Nam Cộng hoà ở miền Nam Việt Nam, ra đời trong phong trào Đồng khởi của người dân ở miền Nam Chủ trương của Mặt trận là: "Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ; thành lập một chính quyền liên minh dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.
|
Hong KongNam diễn viên Châu Nhuận Phát sẽ nhận bằng tiến sĩ danh dự của Đại học Baptist trong lễ trao bằng dự kiến vào ngày 7/8. Đại học Baptist, Hong Kong quyết định trao bằng tiến sĩ danh dự cho Châu Nhuận Phát nhằm ghi nhận những thành tựu nghề nghiệp và những đóng góp quan trọng của anh cho nền điện ảnh Hong Kong cũng như toàn cầu. Theo HKet, sau buổi nhận bằng, Châu Nhuận Phát sẽ tham gia một buổi trò chuyện với các sinh viên và cựu sinh viên để chia sẻ về sự nghiệp diễn xuất với họ. Trước đó, năm 1999, nam diễn viên từng được Học viện Nghệ thuật Biểu diễn Hong Kong trao tặng bằng viện sĩ danh dự vào năm 1999. Anh còn bằng tiến sĩ văn học danh dự của Đại học Thành phố Hong Kong năm 2001. Đây là lần thứ ba anh được trao danh hiệu danh dự tại Hong Kong. Là ngôi sao có tầm ảnh hưởng tại Hong Kong, sự nghiệp, đạo đức của Châu Nhuận nhận được sự kính trọng của mọi người. Sống một cuộc sống giản dị và hạnh phúc, Châu Nhuận Phát có kế hoạch quyên góp tài sản trị giá khoảng 700 triệu USD của mình cho quỹ từ thiện. Châu Nhuận Phát sinh ra ở đảo Lamma, Hong Kong, có mẹ là một phụ nữ quét dọn kiêm nông dân trồng rau, trong khi cha làm việc trên một tàu chở dầu của công ty dầu Shell. Nam diễn viên gạo cội lớn lên trong một cộng đồng nông dân nghèo, nhà thậm chí không có điện. Anh thường thức dậy vào sáng sớm để giúp mẹ bán thạch thảo mộc và bánh pudding trà Hakka trên đường phố. Những buổi chiều, anh đi làm đồng. Gia đình nam diễn viên chuyển đến Kowloon khi anh lên 10. Năm 17 tuổi, anh rời trường học để phụ giúp gia đình bằng những công việc lặt vặt, bao gồm nhân viên phục vụ, đưa thư, nhân viên bán máy ảnh và lái xe taxi. Cuộc sống của Châu Nhuận Phát bắt đầu thay đổi sau khi anh vô tình đọc được một quảng cáo trên báo, sau đó nộp đơn xin làm diễn viên kiêm thực tập sinh tại TVB. Châu Nhuận Phát đã ký hợp đồng 3 năm với hãng phim và bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của mình. Nhờ thế, anh trở thành gương mặt được yêu thích trong nhiều tác phẩm điện ảnh, truyền hình nội địa và xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Hoạt động trong lĩnh vực điện ảnh hơn bốn thập kỷ, Châu Nhuận Phát được biết đến nhiều nhất ở châu Á nhờ sự hợp tác với nhà làm phim Ngô Vũ Sâm trong các bộ phim thuộc thể loại võ thuật anh hùng như Anh hùng bản sắc, Điệp huyết song hùng, hay ở phương Tây với Ngọa hổ tàng long. Với khối tài sản kếch xù thu được nhờ sự nghiệp lẫy lừng, Châu Nhuận Phát được cho là có thừa điều kiện sống một lối sống xa hoa, bao gồm những chiếc xe hơi đắt tiền và những dinh thự lộng lẫy. Tuy nhiên, thay vào đó, Châu Nhuận Phát tỏ ra khá tiết kiệm. Anh thường chọn phương tiện công cộng để di chuyển và làm từ thiện hơn là tiêu tiền cho bản thân. Nam diễn viên từng tiết lộ chỉ tiêu khoảng 100 USD một tháng cho bản thân. Anh đã sử dụng điện thoại Nokia thế hệ đầu tiên của mình hơn 17 năm, trước khi chuyển sang điện thoại thông minh cách đây 2 năm, chỉ vì chiếc Nokia cũ ngừng hoạt động. Không bao giờ phô trương, Châu Nhuận Phát thường đi mua sắm tại các cửa hàng giảm giá. Anh bày tỏ: "Tôi không mặc quần áo cho người khác. Chỉ cần tôi thấy thoải mái là được rồi". Nam diễn viên dành thời gian rảnh rỗi để tham gia những hoạt động lành mạnh như đi bộ đường dài và chạy bộ. Khi ai đó nhận ra anh và đề nghị chụp hình chung, anh sẽ vui vẻ dừng lại và tạo dáng trước ống kính. Bày tỏ rằng tiền không phải là nguồn gốc của sự viên mãn, Châu Nhuận Phát từng nói: "Ước mơ của tôi là trở thành một người hạnh phúc và bình thường. Điều khó nhất trong cuộc sống không phải là bạn kiếm được bao nhiêu tiền, mà là làm thế nào để giữ một suy nghĩ thanh thản và sống một cuộc sống đơn giản và vô tư". Tài tử Châu Nhuận Phát được biết đến với Bến Thượng Hải, Tiếu Ngạo Giang Hồ, Thần bài. Ngôi sao võ thuật Hong Kong cũng tham gia nhiều phim của Hollywood và tạo được danh tiếng tầm thế giới. Trong cuộc sống đời thường, Châu Nhuận Phát nổi tiếng là người con trai hiếu thảo, một người sống bình dị, tốt bụng. Châu Nhuận Phát có hai đời vợ. Người vợ đầu là Dư An An - một diễn viên của đài ATV, hai người ở bên nhau 9 tháng đã ly dị. Nhiều năm chung sống, cặp đôi không có con cái. Trần Oải Liên từng một lần có thai nhưng sảy ở tháng cuối cùng, khiến bà không nguôi ám ảnh và đau khổ tới tận bây giờ.
|
Châu Nhuận Phát
|
Châu Nhuận Phát (sinh ngày 18 tháng 5 năm 1955) là một nam diễn viên người Hồng Kông, được biết đến khi hợp tác với đạo diễn Ngô Vũ Sâm trong các bộ phim hành động xã hội đen như Anh hùng bản sắc, Điệp huyết song hùng, và Lạt thủ thần thám, và ở phương Tây với các vai Lý Mộ Bạch trong Ngọa hổ tàng long và Sao Feng (Khiếu Phong) trong Cướp biển vùng Caribbean 3: Nơi tận cùng thế giới. Ông chủ yếu đóng phim chính kịch,và đã giành được ba Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông cho Nam diễn viên xuất sắc nhất và hai Giải Kim Mã cho Nam diễn viên xuất sắc nhất ở Đài Loan. Châu Nhuận Phát sinh ra tại Hồng Kông trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Khi còn nhỏ ông thường phải dậy sớm để giúp mẹ bán đồ điểm tâm trên phố rồi buổi chiều ông lại phải ra đồng làm việc. Năm ông 10 tuổi thì cả gia đình chuyển đến Cửu Long. Năm 17 tuổi, Châu Nhuận Phát phải bỏ học để giúp đỡ gia đình bằng nhiều công việc khác nhau như trực khách sạn, đưa thư, bán máy ảnh và tài xế taxi.
|
Trong chương trình sinh học lớp 6, bài học cây một lá mầm và hai lá mầm là một phần rất quan trọng giúp các bạn nhận biết được các nhóm thực vật trong tự nhiên. Để giúp các bạn hiểu rõ hơn về chủ đề này, DINHNGHIA.VN đã tổng hợp những kiến thức cơ bản về cây một lá mầm và hai lá mầm. Hãy tham khảo để truy tìm lời giải cho các câu hỏi thường gặp trong bài học này nhé!. Để trả lời các câu hỏi về cây một lá mầm và hai lá mầm, trước hết hãy tìm hiểu về các đặc điểm nhận biết của nó. Sau đây là tóm tắt phần lý thuyết về cây một lá mầm và hai lá mầm. Cây một lá mầm là một nhóm các thực vật có hoa chứa một lá mầm trong phôi, đây là loài thực vật phổ biến nhất, chiếm phần lớn trên Trái Đất. Hiện nay, người ta ước tính có khoảng 50.000-60.000 loài trong nhóm thực vật này. Cây hai lá mầm là tên gọi cho một nhóm thực vật có hoa ở cấp độ lớp mà hạt, cây hai lá mầm chứa hai lá trong phôi gọi là hai lá mầm. Để hiểu rõ hơn về cây một lá mầm và hai lá mầm, thì hãy tìm hiểu và trả lời một số câu hỏi về kiến thức của bài học này nhé. Cây phượng là cây mấy lá mầm? – Theo quan sát bằng mắt thường thì chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng rễ của cây phượng là rễ cọc, lá có gân hình mạng, hoa có từ 4 đến 5 cánh. Như vậy, cây phượng là cây hai lá mầm. Giữa cây một lá mầm và hai lá mầm cây lúa thuộc nhóm nào? – Thân cây lúa là thân cỏ, gân lá hình song song và là một loại cây có rễ chùm. Như vậy,cây lúa là cây một lá mầm. Cây bưởi là cây mấy lá mầm? – Các dấu hiệu để nhận biết cây một lá mầm và hai lá mầm ở cây bưởi là hoa (hoa bưởi có 5 cánh), lá bưởi có gân hình mạng, rễ cọc. Như vậy, cây bưởi là cây hai lá mầm. Như vậy, việc phân biệt cây một lá mầm và hai lá mầm không hề khó, phần lớn có thể dựa vào mắt thường để nhận biết. Hy vọng, với bài viết trên đây sẽ cung cấp cho bạn những thông tin bổ ích về bài học cây một lá mầm và hai lá mầm. Nếu có thắc mắc gì, hãy để lại câu hỏi ở phần bình luận để DINHNGHIA.VN hỗ trợ giải đáp cho bạn nhé.
|
Thực vật hai lá mầm
|
Thực vật hai lá mầm (Magnoliopsida) là tên gọi cho một nhóm thực vật có hoa ở cấp độ lớp mà hạt thông thường chứa hai lá trong phôi hay hai lá mầm. Có khoảng 199.350 loài trong nhóm này . Thực vật có hoa mà không phải là thực vật hai lá mầm thì thuộc thực vật một lá mầm, thông thường có một lá mầm. Hiện nay nhờ các nghiên cứu của APG người ta chấp nhận rằng thực vật một lá mầm đã tiến hóa từ trong thực vật hai lá mầm, cũng như thực vật hai lá mầm tạo thành một nhóm cận ngành. Điều này có nghĩa là thực vật hai lá mầm sẽ không còn được coi là một nhóm "tốt", và tên gọi "thực vật hai lá mầm" (dicotyledons hay dicots) sẽ không còn được sử dụng nữa, ít nhất là trong ngữ cảnh phân loại học. Tuy nhiên, phần chủ yếu của thực vật hai lá mầm cũ sẽ tạo thành nhóm đơn ngành được gọi là thực vật hai lá mầm thật sự (eudicots) hay ba đường xoi (tricolpates) của phấn hoa. Chúng có thể phân biệt với tất cả các loài thực vật có hoa còn lại nhờ cấu trúc phấn hoa của chúng.
|
Bài viết được viết bởi các bác sĩ khoa Nội Ung bướu, Trung tâm Ung bướu - Xạ trị, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City. Hóa trị liệu là một trong những vũ khí chính để điều trị bệnh ung thư cùng với phẫu thuật, xạ trị, nội tiết, miễn dịch, sinh học. Chỉ định hóa trị phụ thuộc vào loại bệnh lý ung thư, giai đoạn bệnh, mục đích điều trị. Dưới đây là một số nội dung cơ bản để độc giả có thêm thông tin về hóa trị trong điều trị ung thư. Làm giảm bớt kích thước u tạo thuận lợi cho phẫu thuật hoặc xạ trị. Diệt các tế bào mức vi thể sau khi khối u được phẫu thuật lấy bỏ (còn được gọi là điều trị bổ trợ), điều trị bổ trợ này có thể giúp đề phòng bệnh tái phát. Hóa trị bổ trợ: Hóa trị liệu nhằm diệt nốt các tế bào còn sót lại trong cơ thể sau khi khối u đã được phẫu thuật lấy bỏ, giúp đề phòng bệnh tái phát. Hóa trị tân bổ trợ: được sử dụng trước phẫu thuật nhằm làm giảm bớt kích thước u, bệnh nhân tránh được một phẫu thuật cắt bỏ quá rộng rãi. Hóa trị tấn công: chủ yếu được sử dụng trong các phác đồ điều trị bệnh ung thư máu cấp, dành cho giai đoạn điều trị tấn công. Hóa trị củng cố: một khi hóa trị tấn công trước đó đã đạt được sự thoái lui của bệnh, hóa trị củng cố nhằm giữ thành quả đó. Hóa trị duy trì: thường được sử dụng với liều thấp hơn nhằm kéo dài thời gian lui bệnh. Là những thuốc có thể hấp thu ở dạ dày hoặc dưới lưỡi. Chúng được bảo vệ bằng một lớp màng để rồi sẽ bị phá vỡ bởi dịch tiêu hóa trong dạ dày. Có một số thuốc được bao bọc bởi một chất liệu đặc biệt giúp việc giải phóng thuốc diễn ra từ từ, nhằm đạt được hiệu quả kéo dài, cho phép khoảng cách giữa hai lần uống thuốc cách xa nhau. Các thuốc chống nôn hay được sử dụng theo cách này và nhờ đó tránh được tình trạng mất thuốc khi bệnh nhân bị nôn. Không thể dùng theo đường uống: bởi thuốc sẽ bị dịch tiêu hóa trong dạ dày làm mất tác dụng. Một số thuốc khác lớp màng dạ dày và ruột không thể hấp thu và sẽ bị đào thải qua phân hoặc nước tiểu mà không phát huy được tác dụng. Một số thuốc thô ráp, xù xì có thể làm xước niêm mạc dạ dày. Một số thuốc khác vừa có thể dùng đường uống, vừa có thể dùng đường tiêm tĩnh mạch. Dùng loại kim tiêm ngắn giống như khi tiêm insulin cho bệnh tiểu đường. Với loại kim tiêm này, sau khi tiêm thuốc được đưa vào khoảng giữa da và cơ mà không đi quá sâu vào lớp cơ. Cách dùng này thường được sử dụng cho các thuốc dạng sản phẩm sinh học. Đối với bệnh nhân có số lượng tiểu cầu thấp, cách tiêm này sẽ giúp người bệnh ít bị chảy máu hơn so với cách tiêm bắp. Thuốc được đưa sâu vào lớp cơ với kim tiêm có kích thước lớn hơn đường dưới da giúp thuốc thấm sâu vào tổ chức cơ. Đường dùng này giúp thuốc được hấp thụ nhanh hơn đường uống nhưng chậm hơn đường dưới da, dưới lưỡi và đường tiêm tĩnh mạch. Hầu hết các thuốc hóa chất lại không dùng đường này bởi vì thành phần hóa học của thuốc không cho phép. Đường dùng này nên tránh những bệnh nhân bị hạ tiểu cầu vì dễ có biến chứng chảy máu. Cho phép thuốc được hấp thu rất nhanh vào tuần hoàn máu và đi vào khắp cơ thể. Đây là đường dùng phổ biến nhất cho các thuốc hóa chất bởi vì hầu hết các thuốc hóa chất đều dễ dàng được hấp thu vào máu. Thuốc có thể được truyền tĩnh mạch kéo dài trong vài giờ, vài ngày, thậm chí vài tuần. Có thể dùng các “ túi” đựng thuốc với một chiếc van đặc biệt giúp kiểm soát lượng thuốc nhỏ đi vào cơ thể, được đưa trực tiếp vào cơ thể qua tĩnh mạch hoặc qua các catheter luồn vào tĩnh mạch, những catheter này có thể lưu giữ ven từ vài phút đến vài giờ, thậm chí vài tuần. “ Buồng tiêm truyền” được chế tạo bằng những chất liệu đặc biệt, được luồn vào tĩnh mạch và đặt dưới da và có thể lưu giữ trong nhiều năm. Màng bụng: dẫn thuốc vào khoang bụng, vùng xung quanh các cơ quan nội tạng nhưng lại không vào trong lòng dạ dày hay bất kỳ một cơ quan nào khác. Hiệu quả tại chỗ cao và đỡ độc cho cơ thể. Bàng quang: nên khuyên NB thay đổi tư thế khi làm kỹ thuật này để thuốc có thể láng đều các phía và nhịn đi tiểu ít nhất là 2 giờ. Áp dụng cho ung thư bàng quang giai đoạn bề mặt, thể nông sau khi khối u đã được cắt bỏ. Màng phổi: được đưa vào màng phổi, khoang giữa phổi nhằm kiểm soát dịch màng phổi ác tính trong trường hợp dịch màng phổi quá nhiều gây chèn ép, khó thở. Kỹ thuật này có thể giúp màng phổi bị xơ hóa hoặc viêm dính, mang tính chất điều trị triệu chứng. Thuốc được dùng tại chỗ: như dạng kem bôi trực tiếp vào vùng tổn thương trong bệnh ung thư da. Tuy vậy hiệu quả của phương pháp này còn hạn chế. Thuốc được đưa vào qua động mạch: lựa chọn các động mạch nuôi dưỡng khối u để đưa thuốc trực tiếp vào đó. Dựa vào tỷ lệ đáp ứng của từng phác đồ hứa hẹn mang lại kết quả điều trị cao nhất qua các nghiên cứu. Thí dụ một bệnh UT ở vào GD III khi được ĐT bằng phác đồ A sẽ cho tỷ lệ đáp ứng là 70%. Điều đó có nghĩa là cứ 100 bệnh nhân điều trị sẽ có 70 người đạt được lùi bệnh và 30 người không đạt được lùi bệnh hoặc đạt rất ít. Ngoài ra còn dựa vào khoảng thời gian bệnh ổn định từ lần điều trị trước (thí dụ lần này vào vi bệnh tái phát hay di căn sau 1 năm, 2 năm.). Có thể tại thời điểm này, phác đồ đã chọn là tốt nhất nhưng về sau nó lại không còn phù hợp với bệnh nhân đó nữa,. Dựa vào sức khỏe bệnh nhân: Hóa trị có nhiều độc tính nên sức khỏe của mỗi bệnh nhân cần cân nhắc kỹ trước khi quyết định. Một số phác đồ mạnh không thích hợp cho những bệnh nhân tuổi cao, có nhiều bệnh đi kèm. Luôn phải cân nhắc giữa cái lợi của việc điều trị bệnh ung thư với cái hại mà hóa trị có thể gây ra cho người bệnh. Đôi khi chỉ có thể chỉ định đơn trị liệu thay cho các phác đồ đa hóa chất. Đặt chất lượng sống của bệnh nhân lên hàng đầu. Rất nhiều yếu tố quyết định thời gian điều trị chẳng hạn như loại bệnh ung thư, giai đoạn bệnh, loại thuốc hóa chất, thời gian cần có để sức khỏe hồi phục sau mỗi lần điều trị. Nhìn chung hóa trị thường được chia thành từng chu kỳ (hay còn gọi là từng đợt). Giữa các chu kỳ bệnh nhân sẽ có một khoảng nghỉ. Khoảng nghỉ này được quy định rất chặt chẽ cho từng phác đồ và được rút ra từ các nghiên cứu sao cho các tế bào lành của cơ thể đủ thời gian hồi phục những các tế bào ung thư lại chưa trỗi dậy. Số chu kỳ hóa trị: tùy vào mục đích điều trị. Thí dụ khi mục đích điều trị là triệt để, hỗ trợ sau khi khối u đã được lấy bỏ, thường kéo dài từ 4-6 tháng như trong ung thư vú, đại tràng, tinh hoàn. Trong bệnh Hodgkin hay u lympho không Hodgkin, ung thư máu, đôi khi việc điều trị cần kéo dài hàng năm. Đáp ứng hoàn toàn: tất cả các tổn thương đều biến mất, không còn dấu hiệu gì của bệnh. Chỉ số sinh học trong giới hạn bình thường (nếu trước đó có tăng cao). Đáp ứng một phần: khối u nhỏ lại một phần (thường trên 50% kích thước ban đầu). Các chỉ điểm sinh học (nếu có) có thể xuống thấp nhưng bệnh vẫn còn tồn tại. Bệnh ổn định: khối u không thoái lui nhưng cũng không phát triển thêm, bệnh ổn định. Chỉ điểm sinh học (nếu có) thường không tăng, giữ nguyên hoặc giảm không đáng kể. Bệnh tiến triển: Khối u tăng lên về kích thước hoặc xuất hiện thêm khối u ở vị trí khác. Chỉ điểm sinh học (nếu có) tăng cao. Hiện nay đã có rất nhiều những tiến bộ và nhiều thuốc mới được nghiên cứu, phát minh như liệu pháp miễn dịch điều trị, các thuốc kháng thể đơn dòng, thuốc nhắm đích.nhưng hóa trị vẫn giữ vai trò rất quan trọng trong chiến lược điều trị. Ung thư phổi có hai loại chính là ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi tế bào không nhỏ. Ung thư phổi tế bào không nhỏ chiếm đến 84% trong tất cả các chẩn đoán ung thư . Một trong những tác dụng phụ của quá trình điều trị ung thư ban đầu có thể gặp là hội chứng ly giải khối u. Hội chứng ly giải u rất nguy hiểm vì có thể làm tổn thương các . Mỗi người đều có một mùi cơ thể riêng biệt (BO), có thể dễ chịu hoặc phảng phất, nhưng khi nghĩ đến mùi cơ thể, chúng ta thường nghĩ đến một mùi khó chịu. Những thay đổi về mùi cơ .
|
Hóa trị liệu
|
Hóa trị liệu (tiếng Anh: Chemotherapy; viết tắt chemo) là một phương pháp điều trị ung thư sử dụng một hoặc nhiều thuốc kháng ung thư - gây độc tế bào. Đây là một phần của phác đồ trị liệu ung thư chuẩn. Hóa trị liệu có thể trị khỏi hẳn ung thư hoặc giảm bớt và kéo dài sự sống cho bệnh nhân. Hóa trị liệu thường phối hợp với các phương pháp điều trị ung thư khác, như xạ trị, phẫu thuật, nhiệt trị. Các thuốc hóa trị cũng được sử dụng điều trị các bệnh khác, như viêm cứng khớp đốt sống, bệnh đa xơ cứng, bệnh Crohn, bệnh vẩy nến, psoriatic arthritis, systemic lupus erythematosus, viêm khớp dạng thấp, và bệnh xơ cứng bì. Các thuốc hóa trị liệu tiêu diệt các tế bào sinh trưởng nhanh, đây là đặc tính điển hình của tế bào ung thư. Nhưng cũng vì vậy các thuốc này cũng gây hại đến các tế bào bình thường có chu kỳ sinh trưởng nhanh như: tế bào ở tủy xương, hệ tiêu hóa, nang tóc. Do đó gây ra các phản ứng phụ như: suy tủy (giảm sản xuất các tế bào máu), viêm niêm mạc (viêm trên đường tiêu hóa), và rụng tóc.
|
Vắc xin Nanocovax muốn được cấp phép cần dựa trên những bằng chứng khách quan, minh bạch, khoa học được Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Quốc gia và Hội đồng tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc thông qua. Nên yêu cầu nhân viên tiêm vắc xin ngừa COVID-19 hay không là câu hỏi đặt ra đối với các công ty vận hành và chủ nhà hàng ở Mỹ, trong bối cảnh ngành này đang đối mặt với tình trạng thiếu nhân lực trầm trọng. Các hình thức lừa đảo khi mua sắm trực tuyến nở rộ, đặc biệt trong giai đoạn giãn cách xã hội để phòng chống dịch bệnh. Ngày mai (29/8), Hội đồng sẽ tổ chức cuộc họp nhằm xem xét hồ sơ xin cấp phép cho hai loại vắc xin COVID-19, trong đó có vắc xin Nanocovax của Việt Nam. Để học sinh có thể sớm trở lại trường học trong bối cảnh dịch COVID-19, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) kiến nghị Thủ tướng xem xét ưu tiên tiêm vắc xin cho học sinh. Trước diễn biến phức tạp của đợt bùng phát dịch COVID-19 thứ tư, cổ phiếu dược tiếp tục dậy sóng khi tăng trần hàng loạt trong phiên 27/8. DonaCoop, doanh nghiệp mô hình hợp tác xã tại tỉnh Đồng Nai vừa được phép mua 15 triệu liều vắc xin nhằm cung cấp cho một số tỉnh phía Nam. Việc có thể chi hàng nghìn tỷ đồng để mua vắc xin đã đặt ra dấu hỏi về tiềm lực của doanh nghiệp này. Trong hai ngày 26 và 27/8, Việt Nam đã nhận thêm ba lô vắc xin AstraZeneca với tổng số 1.845.300 liều. Trong đó, 403.000 liều vắc xin do Chính phủ Australia viện trợ và 1.442.300 thuộc hợp đồng đặt mua trước 30 triệu liều giữa AstraZeneca và VNVC. Hiện tại giá của vắc xin COVID-19, Pfizer và Moderna cao nhất lên tới 37 USD/liều. Trong khi đó, mỗi liều vắc xin do Oxford/AstraZeneca phát triển hiện chỉ có giá khoảng 3 USD. Điều này là nhờ vào bà Sarah Gilbert, nhà khoa học tại Đại học Oxford, người đã nghiên cứu ra loại vắc xin này. Công ty Donacoop (Đồng Nai) cho biết đã đặt mua 15 triệu liều vắc xin Pfizer và bên bán cam kết giao chậm nhất vào giữa tháng 9 năm nay. Hơn 3/4 trong số 1 triệu liều vắc xin Pfizer do chính phủ Mỹ viện trợ đã về đến Việt Nam trong hai ngày qua, ở cả Hà Nội và TP HCM. Thế giới có thể thiệt hại hơn 2.300 tỷ USD vì chậm tiêm vắc xin ngừa COVID-19. Tiến độ chậm trễ trong việc triển khai tiêm vắc xin ngừa COVID-19 sẽ khiến nền kinh tế toàn cầu thiệt hại hơn 2.300 tỷ USD. Ngày 23/8, Cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) đã cấp phép đầy đủ cho vắc xin ngừa COVID-19 của hãng dược phẩm Pfizer/BioNTech, quyết định được chờ đợi nhằm đẩy nhanh quá trình tiêm chủng ở Mỹ. Việt Nam cùng nhiều quốc gia châu Á khác đang tích cực phát triển vắc xin nội để hạn chế phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài. Trong khi Việt Nam có hai ứng cử viên sáng giá là Nanocovax và Covivac thì Nhật Bản đang nghiên cứu 4 loại, Thái Lan thử nghiệm hai loại. Cập nhật thông tin mới nhất về vắc-xin covid-19 tại các nước trên thế giới. Tình hình sản xuất vắc xin ở các nước phát triển như Nga, Mỹ, Trung Quốc,. "Kết quả nghiên cứu cho thấy tất cả các tình nguyện viên có phản ứng miễn dịch rõ ràng sau khi tiêm vắc xin", kênh truyền hình Zvezda của Bộ Quốc phòng Nga đưa tin. Phản ứng miễn dịch là một dạng phản ứng bên trong cơ thể sống nhằm mục đích chống lại các yếu tố xâm nhập từ bên ngoài. Kênh truyền hình Zvezda cho biết các tình nguyện viên đã được kiểm tra y tế lần cuối vào đầu ngày 3/8 tại Bệnh viện Lâm sàng Quân sự Chính của Bộ Quốc phòng Nga. Tham gia quá trình này còn có Trung tâm Nghiên cứu Dịch tễ và Vi trùng học Quốc gia Nga. Vào ngày thứ 42 sau đợt tiêm chủng đầu tiên, các tình nguyện viên đã quay lại bệnh viện và trải qua một cuộc kiểm tra cùng chẩn đoán y khoa chuyên sâu. Theo kênh truyền hình Zvezda, dữ liệu hiện có cho thấy mức độ an toàn và khả năng dung nạp tốt của vắc xin. Hôm 29/7, Phó Thủ tướng Nga Tatyana Golikova cho biết đây là một trong hai loại vắc xin ngừa COVID-19 "hứa hẹn nhất của Nga". Bà Golikova cho hay việc đăng kí vắc xin dự kiến diễn ra trong tháng 8 và sản xuất có thể bắt đầu từ tháng 9. Loại vắc xin còn lại - do Trung tâm Nghiên cứu Virus học và Công nghệ Sinh học Vektor của Nga phát triển, được cho là sẽ đăng kí vào tháng 9 và bắt đầu sản xuất hàng loạt từ tháng 10, Phó Thủ tướng Golikova cho hay. Hôm 1/8, Bộ trưởng Bộ Y tế Nga Mikhail Murashko cho biết Nga đang chuẩn bị cho một chiến dịch tiêm chủng hàng loạt vào tháng 10. Theo cập nhật từ Đại học Johns Hopkins tính đến chiều ngày 4/8, Nga đã công bố 859.762 ca dương tính với COVID-19 và 14.327 ca tử vong.
|
Vắc-xin COVID-19
|
Vắc xin COVID-19 là vắc-xin nhằm cung cấp khả năng miễn dịch thu được chống lại coronavirus 2 với hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng (SARS‑CoV‑2), loại vi rút gây ra bệnh coronavirus 2019 (COVID‑19). Trước đại dịch COVID-19, một nhóm kiến thức đã được thiết lập đã tồn tại về cấu trúc và chức năng của coronavirus gây ra các bệnh như hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng (SARS) và hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS). Các kiến thức này đã thúc đẩy sự phát triển của các công nghệ vắc xin khác nhau vào đầu năm 2020. Vào ngày 10 tháng 1 năm 2020, dữ liệu trình tự di truyền SARS-CoV-2 được chia sẻ thông qua GISAID, và vào ngày 19 tháng 3 năm 2020, ngành công nghiệp dược phẩm toàn cầu đã công bố một cam kết cơ bản nhằm giải quyết bệnh COVID-19. Vắc xin COVID-19 được công nhận rộng rãi vì vai trò của chúng trong việc giảm sự lây lan, mức độ nghiêm trọng và tử vong do COVID-19 gây ra. Trong các thử nghiệm Giai đoạn III, một số vắc xin COVID-19 đã chứng minh hiệu quả cao tới 95% trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng COVID-19 có triệu chứng.
|
Chủ nghĩa phát xít là gì? Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa phát xít do đâu? Trong suy nghĩ của mọi người, chủ nghĩa phát xít từ xưa đến nay là một chủ nghĩa cực đoan, độc tài, chuyên chế. Nó gây nguy hại cho cả dân tộc, thậm chí là cả thế giới. Đặc biệt chủ nghĩa phát xít Đức đã gây ra Chiến tranh thế giới lần thứ II. Đồng thời nó là nguyên nhân gây nên cái chết cho 40 triệu người trên thế giới. Tuy nhiên đó chỉ là những điều bạn học được từ trong sách vở. Liệu bạn có thực sự hiểu rõ về chủ nghĩa phát xít ở Đức hay chưa. Hãy theo dõi bài viết này để tìm câu trả lời cho mình nhé!. Theo định nghĩa trong chương trình giáo dục tại nước ta thì Chủ nghĩa phát xít là “hình thức chuyên chính của tư bản chủ nghĩa, là lực lượng đế quốc phản động nhất, hiếu chiến nhất, có chủ trương thủ tiêu mọi quyền tự do cơ bản của con người, khủng bố, đàn áp tàn bạo nhân dân, gây chiến tranh xâm lược để thống trị thế giới”. Vẫn còn rất nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề và bản chất tự nhiên của chủ nghĩa này. Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản nhất thì Chủ nghĩa phát xít là một hệ tư tưởng chính trị và các quan điểm về một nhà nước chuyên chế mang tính chất quân phiệt, độc tài và toàn trị. Nó đối lập với chủ nghĩa tự, đối lập với những quan điểm về một nhà nước dân chủ. Mùa hè năm 1920, cờ Đức Quốc Xã ra đời. Cờ có nền đỏ, một vòng tròn trắng và ở giữa là một chữ “Vạn” (Swastika) màu đen. Với Hitler thì đây là biểu tượng cho sự thắng lợi của cuộc chiến đấu vì thế giới mới. Nhưng sau những tội ác mà Hitler đã tạo ra thì Swastika trở thành biểu tượng của quỷ dữ. Nó cũng thể hiện sự tàn bạo, gắn liền với tội ác của chủ nghĩa phát xít trong lịch sử loài người. Dù trước đó trong lịch sử không hề có một biểu tượng nào đại diện toàn bộ chủ nghĩa phát xít. Nhiều người cho rằng Hitler lấy chữ Vạn của Phật giáo làm biểu tượng cho lá cờ của chủ nghĩa phát xít. Nhưng sự thật là không có sự liên hệ nào giữa chữ Vạn trong Phật giáo và chữ thập ngoặc của chủ nghĩa phát xít cả, tuy rằng cả hai biểu tượng này giống nhau. Chữ Vạn trong Phật giáo là một trong ba mươi tướng tốt của Đức Phật. Nó thường nằm ngay trước ngực của Ngài. Nó biểu thị công đức vô lượng của Đức Phật. Ở chính giữa tượng trưng cho Trung Đạo, có ý nghĩa giác ngộ vẹn toàn. Còn chữ Vạn của chủ nghĩa phát xít lấy từ chữ Vạn (Swastika) là biểu tượng đặc trưng của người Aryan – một dân tộc mà Hitler luôn khẳng định là nguồn gốc cổ xưa của người Đức, là dân tộc thượng đẳng nhất. Đó là lý do Hilter chọn biểu tượng của người Aryan là Swastika làm biểu tượng trong cờ phát xít Đức. Các xu hướng chính trị bạo lực cực đoan ở các nước tư bản phương Tây xuất hiện sau cuộc tổng khủng hoảng kinh tế, xã hội giai đoạn 1929 – 1933, được cho là tiền thân của chủ nghĩa phát xít. Cuộc khủng hoảng kinh tế này đã đẩy tuyệt đại đa số dân chúng ở Tây Âu và Bắc Mỹ vào tình cảnh vô cùng khốn đốn. Xã hội rơi vào tình trạng mất an ninh nghiệm trọng do lạm dụng bạo lực. Đặc biệt là bắt đầu thịnh hành các xu hướng, phong trào bạo lực xã hội. Phong trảo tạo ra bởi giới trẻ vô nghề nghiệp. Khi họ thất vọng trước cuộc sống hiện tại và bi quan mất đi định hướng về tương lai. Tình trạng này bao trùm toàn bộ các nước tư bản phát triển thời bấy giờ. Khi đó một trong những con đường chính phủ phương Tây đặt hy vọng vào là tăng cường chạy đua vũ trang. Họ quân phiệt hóa nền kinh tế và toàn bộ thể chế chính trị xã hội. Vì thế đây được cho là nguyên nhân chính ra đời chủ nghĩa phát xít. Chủ nghĩa phát xít là chủ nghĩa độc tài luôn cho rằng mình là ưu việt nhất và có quyền sinh sát để trên toàn thế giới chỉ còn lại chủng người ưu việt nhất. Đây có thể coi là bước cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc. Phát xít chủ tương kiểm soát kinh tế, văn hóa, độc đảng và đàn áp. Chúng sẵn sàng sử dụng vũ lực và chiến tranh trong mọi quan hệ quốc tế hay quốc nội. Vì thế nhắc đến chủ nghĩa phát xít thì chiến tranh là một điều không thể tránh khỏi. Chủ nghĩa quân phiệt là trào lưu tư tưởng của một chính phủ chủ trương tăng cường sức mạnh quân sự một cách quá mức để đòi hỏi quyền lợi của quốc gia. Chủ nghĩa này sử dụng bạo động như một vũ khí cho chính trị. Và cũng luôn là yếu tố quan trọng của những ý thức hệ đế quốc, hay các quốc gia chuyên xâm lược trong suốt lịch sử loài người. Chủ nghĩa quân phiệt không đồng nghĩa với chủ nghĩa phát xít. Nó chỉ là một yếu tố cấu thành nên chủ nghĩa phát xít bên cạnh các yếu tố như chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa toàn trị, chủ nghĩa chuyên chế,…. Trên thế giới có 3 nước phát xít lớn. 3 nước là nguyên nhân gây ra bao thương vong trong Chiến tranh thế giới thứ 2. Đó chính là Đức Quốc xã, Ý và Đế quốc Nhật Bản. Ba nước này hợp thành khối Trục. Mục tiêu của khối trục đẩy mạnh các hoạt động quân sự và gây chiến tranh xâm lược ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Đức Quốc xã: Chế độ phát xít của nước Đức được đặt dưới sự kiểm soát của Adolf Hitler và Đảng Quốc xã. Phát xít Đức là một nhà nước phát xít toàn trị, cai quản gần như mọi mặt của cuộc sống. Nét đặc trưng nổi bật nhất của nhà nước phát xít này là vấn đề phân biệt chủng tộc. Đặc biệt là bài trừ Do Thái, trong đó tàn bạo nhất có cuộc diệt chủng Holocaust. Phát xít Ý: Chế độ phát xít của Ý thì nằm dưới quyền thống trị của đảng Phát xít do Benito Mussolini lãnh đạo từ năm 1922 đến 1943. Chủ nghĩa phát xít này được xem là hình mẫu cho các hình thức chủ nghĩa phát xít khác. Chính sách độc tài của Ý tuy không tàn bạo bằng hệ thống của Hitler. Nhưng hệ thống đàn áp cũng đã khủng bố, hãm hại và thủ tiêu cả chục ngàn người chống đối. Đế quốc Nhật Bản: Là một quốc gia dân tộc trong lịch sử Nhật Bản tồn tại từ năm 1868 đến năm 1947. Tức là chỉ tồn tại đến sau khi Thế chiến thứ 2 kết thúc. Trong cuộc chiến này Phát xít Nhật đồng ý liên minh quân sự với Đức và Ý với mục đích là bành trướng thế lực của mình ở châu Á. Trong suốt giai đoạn tồn tại thì các chính sách độc tài của Đế quốc Nhật Bản cũng tàn bạo không kém gì hai nước phát xít Đức và Ý. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đức chìm trong khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Chính phủ Đức đã đưa ra một chính sách sai lầm đó là in ồ ạt tiền để trả nợ. Hậu quả dẫn tới là siêu lạm phát khiến giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng cao. Nền kinh tế rơi vào tình trạng hỗn loạn, các cuộc bạo động diễn ra triền miên. Đúng lúc nó sự kiện thị trường chứng khoán ở Mỹ sụp đổ vào ngày 24 tháng 10 năm 1929. Sự kiện này càng khiến cho nước Đức lao đao. Chính thời điểm đó, Đảng Quốc xã đã đứng lên hứa hẹn về một chính quyền trung ương mạnh mẽ. Đảng hứa có thể làm tăng thêm không gian sống cho dân tộc Đức. Đồng thời họ cam kết tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế và tạo ra việc làm. Từ đó Đức Quốc xã trở thành đảng kế tục thay cho Đảng Công dân Đức đang nắm quyền lúc đó. Chế độ Quốc xã lên nắm quyền, báo hiệu cho chủ nghĩa phát xít bành trướng tại Đức. Đức Quốc xã dưới sự dẫn dắt của Adolf Hitler đã gây ra rất nhiều tội ác trong lịch sử. Trong đó có tội ác diệt chủng. Ta không thể không nhắc đến việc tàn sát nhằm tiêu diệt những người chúng cho là “hạ đẳng”. Mặc dù họ không phải là đối tượng chiến tranh. Trong giai đoạn từ 1941 đến 1945, người Do Thái đã bị sát hại một cách có hệ thống bởi Đức quốc xã cùng bè phát. Đó là một cuộc diệt chủng có quy mô lớn hàng đầu trong lịch sử. Nó là một phần của chương trình hành động tổng thể hơn mà chế độ Quốc xã thực hiện. Đó là đàn áp, tiêu diệt những nhóm sắc tộc và chính trị đối lập tại châu Âu. Cuộc diệt chủng khiến khoảng 6 triệu người Do Thái thiệt mạng được cho là tội ác lớn nhất của Đức Quốc xã. Chủ nghĩa phát xít Đức còn là một trong những nguyên nhân gây ra Thế chiến thứ II. Năm 1938 Quốc xã xâm chiếm Áo. Và tới 1939 Tiệp Khắc cũng rơi vào tay phát xít Đức. Hitler đã tiến hành xâm lược Ba Lan vào tháng 9 năm 1939. Đây là sự kiện mở màn chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Đến năm 1940, Đức cùng Phe trục đã chinh phạt gần hết châu Âu và đe dọa xâm lược nước Anh. Với sự thắng thế của phe Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa phát xít Đức dần lung lay và sụp đổ. Ngày 30 tháng 4, Hồng quân Liên Xô tiến gần Phủ Thủ tướng. Hitler và vợ quyết định cùng nhau tự sát trong Führerbunker. Từ 4 đến 8 tháng 5 quân lính có vũ trang còn lại của Đức đầu hàng vô điều kiện. Văn kiện đầu hàng của Đức được ký vào ngày 7 tháng 5. Sự kiện này đánh dấu hồi kết cho chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Nó cũng thể hiện cho sự sụp đổ của chủ nghĩa phát xít Đức. Ngày nay đâu đó trên thế giới đã “mọc” ra một xu hướng được gọi là phát xít mới. Đây là một mầm mống mới đủ nguy hiểm khiến dư luận nhiều lần phải cảnh báo. Ngày 18/4, một nhóm người theo chủ nghĩa phát xít mới tuần hành rầm rộ ở thành phố Odessa – Ukraine. Mục đích tuần hành để tưởng niệm cựu thủ lĩnh nhóm dân tộc cực đoan Ukraine “Máu và danh dự”. Tiếp đó, ngày 2/5, hàng trăm người theo chủ nghĩa phát xít mới đã tuần hành và đụng độ cũng ở Odessa với các nhà hoạt động địa phương ủng hộ liên bang hóa Ukraine. Kết quả là khiến hàng chục người thiệt mạng. Những Đảng theo chủ nghĩa phát xít mới như Cánh hữu hay Svoboda hiện còn có mặt trong thành phần quốc hội của Ukraine. Ở Thụy Điển, một báo cáo của tổ chức chống phân biệt chủng tộc Expo công bố cuối tháng 3/2015 cho biết hoạt động của các tổ chức phát xít mới ở nước này đã được tăng cường đáng kể. Số hoạt động tuyên truyền phát xít mới trong năm 2014 đã tăng gần gấp đôi, nhiều chưa từng có. Phần lớn các hoạt động này là để phát tờ rơi, dán hình về chủ nghĩa phát xít. Ở Đức, một nhóm theo chủ nghĩa phát xít mới National Socialist Underground (NSU). 6 năm qua nhóm đã thực hiện một loạt vụ ám sát khắp nước Đức. Các vụ ám sát này đều mang mang động cơ sắc tộc. Địa điểm các vụ ám sát tạo thành logo của nhóm trên bản đồ. Những điều này đưa đến cảnh báo về xu hướng “phục sinh” tư tưởng của Hitler ở một số khu vực châu Âu. Đồng thời dấy lên các báo động về mầm mống chủ nghĩa phát xít mới. Từ đó nó đe dọa đến nền hòa bình thế giới. Có thể nói, chủ nghĩa phát xít nói chung và chủ nghĩa phát xít Đức nói chung. Và nó là mối nguy hại gây nên nhiều hậu họa khôn lường cho toàn thế giới. Nếu bạn là một du học sinh Đức, bạn cần tìm hiểu về chủ nghĩa phát xít để có những hiểu biết nhất định về lý thuyết chính trị này.
|
Chống phát xít
|
Chống phát xít là sự đối lập với các hệ tư tưởng, nhóm và các cá nhân theo chủ nghĩa phát xít. Phong trào chống phát xít bắt đầu ở một vài nước châu Âu vào những năm 1920, và cuối cùng lan sang các nước khác trên thế giới. Đó là thời điểm quan trọng nhất trong thời gian ngắn trước và trong Thế chiến II, nơi các cường quốc phe phát xít bị nhiều quốc gia thành lập phe Đồng minh trong Thế chiến II và hàng chục phong trào kháng chiến trên toàn thế giới. Chống chủ nghĩa phát xít là một yếu tố của các phong trào nắm giữ nhiều vị trí chính trị khác nhau, bao gồm quan điểm dân chủ xã hội, dân tộc, tự do, bảo thủ, Cộng sản, Marxist, đoàn viên công đoàn, vô chính phủ, xã hội chủ nghĩa, hòa bình và trung dung. Với sự phát triển và lan rộng của Chủ nghĩa phát xít Ý, tức là chủ nghĩa phát xít nguyên thủy, hệ tư tưởng của Đảng Phát xít Quốc gia đã gặp phải sự phản đối ngày càng mạnh mẽ của những người Cộng sản và xã hội chủ nghĩa Ý.
|
Thẩm thấu ngược là gì? Thẩm thấu nghe có vẻ phức tạp, nhưng nó thực sự là một quá trình tự nhiên. Bạn có thể quan sát trong tự nhiên khi rễ cây hấp thụ nước và khoáng chất từ đất và cách thận lấy nước từ máu. Thẩm thấu ngược sử dụng màng hoặc bộ lọc bán thấm. Nước được đẩy qua màng với áp lực để giữ các tạp chất trở lại và cho nước sạch hơn chảy qua. Kích thước lỗ lọc là 0,0001 micron, có nghĩa là màng lọc thẩm thấu ngược rất hiệu quả trong việc loại bỏ vi khuẩn, chẳng hạn như salmonella và virus, bao gồm Viêm gan A, norovirus và rotavirus, và động vật nguyên sinh, như giardia. Những thứ này có thể gây hại cho trẻ sơ sinh và người già nếu chúng được tìm thấy với số lượng lớn trong nước. Màng thẩm thấu ngược là màng bán thấm cho phép các phân tử nước đi qua nhưng không phải là phần lớn các muối hòa tan, chất hữu cơ, vi khuẩn và pyrogens. Tuy nhiên, bạn cần đẩy nước qua màng thẩm thấu ngược bằng cách tạo áp suất lớn hơn áp suất thẩm thấu tự nhiên để khử muối (khử khoáng hoặc khử ion) trong quá trình, cho phép nước tinh khiết đi qua trong khi giữ lại phần lớn chất gây ô nhiễm. Trong nước có thể chứa chì, nitrat và nitrit và có tổng lượng chất rắn hòa tan cao. Vấn đề với một lượng lớn chất rắn hòa tan là nó có thể gây ra tình trạng bị sỏi thận. Nước mang thêm natri, cũng có thể gây suy nhược cho những người có điều kiện y tế nhất định. Quá trình lọc RO làm giảm các chất gây ô nhiễm để tạo ra nước sạch. Nước thẩm thấu ngược có vị ngon hơn - Không có các hóa chất trong nước, nó sẽ ngon hơn. Nước thẩm thấu ngược thường được tìm thấy là tốt hơn nước chỉ đơn giản là từ vòi. Nước ngọt tươi mát và thỏa mãn hơn nhiều so với khác. Quá trình thẩm thấu ngược chủ yếu được sử dụng để loại bỏ các hạt và các tạp chất khác trong nước. Điều này có nghĩa là tất cả những hóa chất gây hại như chì và thậm chí là asen đều được loại bỏ khỏi nước. Thậm chí một số ký sinh trùng được lọc từ nước, có thể bảo vệ bạn. Nếu nước của bạn chứa nhiều thứ có thể gây hại, hệ thống thẩm thấu ngược có thể phù hợp với bạn. Việc sử dụng năng lượng của các hệ thống thẩm thấu ngược tương đối thấp so với các hệ thống tương tự khác. Đây là sản phẩm lý tưởng cho những người cần sử dụng ít năng lượng nhất có thể. Tiết kiệm không gian và có thể mở rộng - Có được một hệ thống thẩm thấu ngược có thể là một cách để tiết kiệm không gian tùy thuộc vào nơi bạn muốn đặt nó.Việc bảo trì thường yêu cầu sáu tháng một lần hoặc lâu hơn, hệ thống thẩm thấu ngược khá đơn giản để chăm sóc. Thay thế bộ lọc là một trong số ít những việc mà bạn phải quan tâm. Có nhiều bộ lọc trong máy lọc RO - thẩm thấu ngược, bạn có thể chọn bao nhiêu bộ lọc bạn muốn và tùy chỉnh sự lựa chọn của bạn cho phù hợp với nhu cầu của bạn. Nói tóm lại, giai đoạn đầu là bộ lọc thô sẽ loại bỏ các hạt như bụi và phù sa. Tiếp theo, một bộ lọc carbon loại bỏ clo và mùi vị khó chịu, cũng như nhiều hóa chất khác. Một lần nữa, nó đi qua bộ lọc carbon trước khi qua màng lọc thẩm thấu ngược. Nước được đẩy qua bộ lọc mịn để loại bỏ hầu hết các tạp chất còn lại. Ba giai đoạn tiếp theo liên quan đến việc giữ cho nước sạch, kiềm hóa và bộ lọc UV tiêu diệt vi khuẩn và vi rút. Đây là những lợi ích chính của việc có một thiết bị máy lọc nước, cây lọc nước sử dụng màng thẩm thấu ngược. Tiết kiệm tiền, không gian và thời gian là tất cả những điều hấp dẫn sẽ được cung cấp từ một trong những hệ thống này. Không chỉ vậy, nó cũng sẽ ngon hơn và tốt hơn cho sức khỏe của bạn. *Lưu ý: Các sản phẩm lõi lọc sau khi thay nên được xả đúng nơi quy định, thùng rác dành cho nhựa tái sinh.
|
Thẩm thấu ngược
|
Thẩm thấu ngược (tiếng Anh gọi là reverse osmosis, viết tắt R.O.) là một quy trình công nghệ dùng để sản xuất nước sạch cho dân dụng. Thẩm thấu ngược bao gồm một quá trình làm sạch nước ban đầu được phát triển để khử muối có trong nước biển. Ý tưởng tạo ra quá trình này là làm cho nước biển có thể sử dụng được cho các hoạt động của cuộc sống như uống, giặt giũ, tái chế và thậm chí là sản xuất năng lượng. Quá trình này đã rất thành công và nó hoạt động một cách hiệu quả trong việc loại bỏ muối và các khoáng chất biển khác ra khỏi nước biển. Các nhà máy xử lý nước và các hệ thống thiết bị làm sạch đã sử dụng nhiều quá trình thẩm thấu ngược để lọc sạch và làm thanh khiết nước. Theo Hiệp Hội Khử Muối Quốc tế International Desalination Association-IDA, có hơn 1300 nhà máy nước đang vận hành thành công với công nghệ thẩm thấu ngược. Nước đã được làm sạch được sử dụng cho các mục đích công nghiệp cũng như sản xuất nước đóng chai.
|
Như chúng ta đã biết, đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông là quy định bắt buộc cần phải tuân thủ. Với mục đích nhằm đảm bảo an toàn cho bản thân cũng như góp phần giữ gìn trật tự đô thị. Song, thị trường hiện nay có quá nhiều mẫu mã, chủng loại mũ bảo hiểm khác nhau. Vậy đâu là chiếc mũ bảo hiểm tốt, phù hợp mà bạn đang tìm kiếm? Câu trả lời của chúng tôi chính là dòng mũ bảo hiểm 3/4 được đông đảo người dân yêu thích hiện nay. Mũ bảo hiểm 3/4 còn được biết đến với tên gọi khác là Open-Face. Là dòng mũ bảo hiểm cho tác dụng bảo vệ 3/4 phần đầu của người sử dụng, gồm có: Phần sau ót, phần đỉnh đầu cùng hai bên tai. Mặc dù sở hữu thiết kế đặc trưng ôm sát đầu, vậy nhưng mũ bảo hiểm 3/4 vẫn cho bạn cảm giác thoải mái, thông thoáng khi đội chứ không hề bí bách. Bên cạnh đó, nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng cao của người tiêu dùng mà các mẫu mũ bảo hiểm 3/4 hiện nay có nhiều kiểu dáng, màu sắc phong phú. Đồng thời sản phẩm còn được kèm theo khá nhiều phụ kiện khi mua như kính…. Giữa vô vàn những thương hiệu, mẫu mã mũ bảo hiểm 3/4 đầu, làm thế nào để chọn được sản phẩm phù hợp với bản thân? Những tiêu chí lựa chọn sau sẽ giúp bạn có được câu trả lời chính xác và hoàn chỉnh. Để chọn được một chiếc mũ bảo hiểm 3/4 đảm bảo chất lượng và độ an toàn cao thì tiêu chí đầu tiên bạn cần chú ý chính là chất liệu các bộ phận đạt chuẩn an toàn. Cụ thể, vỏ mũ nên ưu tiên làm từ chất liệu nguyên sinh, có khả năng chịu lực hay va chạm tốt. Ruột mũ nên làm từ chất liệu xốp để tránh những tác động mạnh, bảo vệ đầu…. Mỗi người khác nhau sẽ có các kích thước vòng đầu khác nhau. Vì thế, khi chọn mũ bảo hiểm 3/4 bạn cần lưu ý về đối tượng sử dụng mũ để chọn mua được sản phẩm phù hợp, tránh bị lỏng hoặc quá chật đầu. Hiện nay, các loại mũ bảo hiểm 3/4 đều được phân chia theo 3 loại kích thước chủ yếu là: mũ người lớn, mũ cho trẻ em từ 6 đến 15 tuổi và mũ cho trẻ dưới 6 tuổi. Khối lượng mũ bảo hiểm 3/4 là yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sử dụng của khách hàng, Bạn không nên chọn sản phẩm vượt quá chỉ số trọng lượng quy định đề ra. Có thể dựa vào những định mức khối lượng mũ bảo hiểm chuẩn nhất để chọn, cụ thể: Đối với mũ 3/4 thông thường khối lượng phải bé hơn 1.5 kg. Cuối cùng, khi chọn mũ bảo hiểm 3/4 bạn nên chọn sản phẩm của những thương hiệu lớn, có tên tuổi như Andes, Yohe, Napoli….Về giá thành thì nên tùy theo khả năng tài chính và nhu cầu dùng để chọn được sản phẩm phù hợp nhất nhé. Khi đã nắm được những tiêu chí quan trọng cùng kinh nghiệm chọn mua mũ bảo hiểm 3/4 đầu rồi thì còn chờ gì mà không tham khảo top 5 sản phẩm hàng đầu sau. Đây là dòng sản phẩm cao cấp bán chạy hàng đầu của thương hiệu này cũng như nhận được sự tán thưởng của nhiều khách hàng. Với trọng lượng tương đối nặng khoảng 0,8kg cùng với kích cỡ size XL. Mũ bảo hiểm Andes 382 Luxury cực kỳ phù hợp với những người to con và có vòng đầu lớn khoảng 56 đến 60 cm. Về chất liệu, mũ được làm từ nhựa ABS nguyên sinh chịu lực và chống va đập khá hiệu quả, giúp bảo vệ an toàn cho người dùng. Ngoài ra, sản phẩm là một sự kết hợp hoàn hảo khi sở hữu những đường nét cổ điển pha trộn với phong cách hiện đại. Logo mũ được làm bằng decal khá đơn giản và có thể tháo rời. Phía trong mũ bảo hiểm 3/4 Andes này là mút xốp sử dụng nhựa EVS cho tác dụng hấp thụ nhựa khá tốt. Hơn nữa còn có khả năng bám dính chắc chắn vào phần vỏ để tạo nên một hệ kết cấu khung cứng cáp và ôm lấy toàn bộ đầu của bạn, đồng thời vẫn tạo nên sự thoải mái khi đội. Đặc biệt, mũ bảo hiểm Andes 382 Luxury còn giúp bạn khắc phục được sự đau, nhức mỏi tai nhờ phần ốp tai mỏng gọn và miếng vải lót cho khả năng kháng khuẩn khử mùi cực kỳ hiệu quả. Là dòng mũ bảo hiểm 3/4 Carbon được đánh giá top đầu thị trường hiện nay, Bulldog Heli Carbon mang đậm chất cổ điển nhưng vẫn có chút hiện đại phá cách. Các chi tiết được trau chuốt tỉ mỉ đến từng chi tiết, đặc biệt là làm được từ chất liệu mới sợi Carbon, nhờ đó giúp nón cực kỳ nhẹ lại rất an toàn. Hơn nữa, vỏ mũ chất liệu Carbon cực nhẹ chỉ khoảng 80% công đoạn ép vỏ mũ là làm thủ công. Đặc biệt là khi sản xuất phải xếp từng tấm carbon thật đều thành nhiều lớp, cùng với một số loại hạt nhựa, than chì và phủ lên bề mặt rồi mới ép nhiệt. Mũ bảo hiểm 3/4 Bulldog Heli Carbon tương đối nhẹ, khi đội thoải mái cho nên người dùng có thể tập trung lái xe mà không phải lo các động tác khó chịu, nặng cổ… Dây viền của mũ có màu đen được dán thủ công rất tỉ mỉ, nhờ đó mang lại vẻ đẹp sang trọng, trau chuốt đến từng chi tiết cho sản phẩm. Phầm đuôi mũ được thiết kế đơn giản hơn, thiết kế này dễ dàng lắp các loại kính dây cũng như giữ dây kính tiện lợi, thao tác nhanh chóng. Phần vải lót được làm bằng chất liệu cao cấp có khả năng kháng khuẩn tự nhiên hạn. Cho tác dụng hạn chế gây mùi, có thể tháo rời dễ dàng và vệ sinh, thay lót. Đặc biệt các nút đồng Bulldog trên mũ được thiết kế tinh tế, bắt cố định bằng ốc và có thể tháo dễ dàng. Sở hữu kiểu dáng trang nhã, thiết kế lồng nón có thể tháo rời cùng với nhiều màu sắc bắt mắt. Sản phẩm có phần vỏ được làm bằng chất liệu nhựa ABS nguyên sinh bền chắc. Đây là loại nhựa tinh khiết chưa qua sử dụng, đồng thời được sử dụng cho các sản phẩm tiêu chuẩn an toàn cao trong lĩnh vực bị y tế, dược phẩm….để cho độ bền cao và chịu va đập tốt. Mũ còn có phần đệm bảo vệ má và mặt khỏi những chấn thương trong trường hợp xảy ra tai nạn. Thiết kế phần đệm lót bên trong mũ bảo hiểm Royal M20C còn có lớp vải kháng khuẩn, chống ẩm rất tốt, mang tới việc bảo vệ chiếc sản phẩm khỏi mùi hôi và ẩm mốc. Vải mũ nhiều màu sắc nhờ đó giúp sản phẩm trông sang trọng và nổi bật hơn. Bên cạnh đó, Royal M20 là dòng mũ bảo hiểm 3/4 đầu kết hợp giữ sự cổ điển của dáng nón và sự hiện đại với màu sắc mũ – dây viền và vải lót sáng. Tạo nên sự đồng bộ tạo để cho ra một sản phẩm thu hút người dùng trẻ, hướng đến sự năng động của những người theo chủ nghĩa “ di chuyển” đam mê phượt. Đây là dòng mũ bảo hiểm 3/4 nữ được yêu thích nhất hiện nay, hơn nữa sản phẩm cũng có thể dùng cho cả nam giới cực kỳ tiện lợi. Thiết kế sản phẩm là kiểu dáng hiện đại, sành điệu, có nhiều màu sắc khác nhau cho bạn lựa chọn theo ý muốn. Trọng lượng sản phẩm khá nhẹ, được phân tán đều cho nên có thể tạo cảm giác dễ chịu khi đội. Hơn nữa, mũ còn rất mềm, không gây bí bách hay nóng nực dù đã đội lâu nhờ vào hệ thống lỗ thoáng khí cao cấp. Phần vỏ mũ được làm từ nhựa ABS cao cấp, cho khả năng chịu lực rất tốt, chịu nhiệt cao để có độ bền ưu việt. Sản phẩm còn trang bị mút xốp lót bên trong được làm bằng chất liệu cao cấp. Nhờ đó vừa đảm bảo an toàn cho người dùng lại vừa tạo cảm giác thoải mái cho bạn khi đội. Phần vải lót và các dây nón cũng đều được làm bằng chất liệu cao cấp, cho nên có khả năng kháng khuẩn tốt, đảm bảo được sự an toàn với làn da, cho cảm giác rất dễ chịu và thoáng mát. Thiết kế bắt trend với chong chóng gắn trên đỉnh đầu phù hợp với các bạn trẻ, có thể tháo ra nếu muốn. Napoli N039 là model mũ bảo hiểm 3/4 đầu mang kiểu dáng trẻ trung và thiết kế năng động đậm chất thể thao của các anh em dân phượt chuyên nghiệp. Sản phẩm có vỏ ngoài sử dụng chất liệu nhựa ABS nguyên sinh cao cấp, mang tới độ bền bỉ và cứng cáp. Kết hợp với phần mút phía trong bám dính để tạo ra sự vừa vặn, một kết cấu cực kỳ chắc chắn cho phép ôm sát vòng đầu. Đồng thời góp phần bảo vệ vùng đầu cực kỳ tốt, tránh va đập nếu chẳng may xảy ra những tai nạn mong muốn. Thiết kế mũ bảo hiểm 3/4 Napoli này theo nguyên tắc triệt tiêu lực, nhờ vậy giúp giảm trọng lượng mũ để bạn cảm thấy thoải mái khi đội. Phía trong mũ được may nhiều sợi dù, cho phép giảm xung lực mạnh từ bên ngoài khi tác động vào đầu. Trọng lượng mũ bảo hiểm Napoli cũng được phân tán đều cho nên không gây cảm giác nặng hay đau đầu, cực kỳ thoáng mát. Sản phẩm có kích cỡ size đa dạng, phù hợp với nhiều kích thước vòng đầu. Sản phẩm Napoli N099 còn được dán tem kiểm định chất lượng chuẩn Quatest 3 cùng với logo in ở phần sau để bạn có thể yên tâm sử dụng. Nhu cầu sử dụng mũ bảo hiểm chưa bao giờ giảm xuống mà ngày càng có xu hướng tăng cao. Do đó, một chiếc mũ bảo hiểm 3/4 vừa thời trang lại an toàn chính là sự lựa chọn hoàn hảo dành cho bạn. Vậy còn chờ gì mà không tham khảo nhanh top 5 mũ bảo hiểm 3/4 đầu trên đây để có những lựa chọn đúng đắn. PhongReviews là Website 1 về đánh giá và xếp hạng sản phẩm đúng, chuẩn và tốt nhất. PhongReviews giúp bạn tìm được món đồ phù hợp, đảm bảo, giá cả phải chăng!
|
Mũ bảo hiểm
|
Mũ bảo hiểm là vật dụng nhằm mục đích bảo vệ phần đầu của người đội khi có va đập lúc đua xe đạp, đi xe máy, ô tô, cưỡi ngựa. (với nghĩa này, ở Việt Nam, người ta gọi bóng gió là "nồi cơm điện"). Tuy nhiên, theo nghĩa rộng hơn, mũ bảo hiểm còn chỉ đến những loại mũ sắt, mũ cối trong quân đội, các loại mũ bảo vệ người chơi thể thao (bóng bầu dục, bóng chày, khúc côn cầu, trượt tuyết.) hay các loại mũ bảo hộ lao động (xây dựng, khai mỏ.). Theo truyền thống, mũ bảo hiểm không được làm bằng kim loại mà bằng nhựa tổng hợp như ABS,HDPE nhưng những thập niên gần đây, chất liệu được gia cường bằng sợi carbon để có độ bền cao và nhẹ hơn. Sự thúc đẩy mạnh mẽ phong trào, thậm chí bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi điều khiển các phương tiện hai bánh đã từng là đề tài tranh luận nóng bỏng của nhiều người và những nhà khoa học trong thập niên 1990. Đến nay, nhiều quốc gia đã áp dụng luật này. Lịch sử ghi nhận mũ bảo hiểm (MBH) xuất hiện cùng thời với chiến tranh.
|
Hội nghị về Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc - UNCTAD (United Nations Conference on trade and Development) là Tổ chức đa quốc gia được thành lập năm 1965 để đại diện cho lợi ích kinh tế của các nước đang phát triển và thúc đẩy việc thực hiện những ý tưởng về một trật tự thế giới mới. UNCTAD hiện có 194 thành viên quốc gia và vùng lãnh thổ, đặt trụ sở tại Genève, Thụy Sĩ. UNCTAD được coi là tổ chức kinh tế thương mại lớn nhất thuộc hệ thống Liên Hiệp quốc. Hoạt động chính của UNCTAD là tổ chức nhiều cuộc hội nghị, bốn năm một lần, tập trung vào 3 lĩnh vực mà các nước đang phát triển đặc biệt quan tâm:. Xuất khẩu và sản phẩm chế biến : UNCTAD tìm cách thương lượng về việc mở cửa thị trường của các nước phát triển để các nước đang phát triển có thể xuất khẩu sản phẩm chế biến sang các nước này mà không phải chịu thuế quan và hạn ngạch. Mục tiêu ở đây là đạt được những nhượng bộ rộng rãi hơn so với Hiệp định cung về Mậu dịch và Thuế quan. Xuất khẩu nguyên liệu: UNCTAD góp phần thúc đẩy sự mở rộng các hiệp định về hàng hóa quốc tế nhăm ổn định giá xuất khẩu của sản phẩm sơ chế với mục đích giúp các nước đang phát triển có được nguồn thu ngoại tệ và thu nhập ổn định. Viện trợ kinh tế: UNCTAD tìm cách đảm bảo nguồn tài chính lớn hơn để hỗ trợ cho các nước đang phát triển và hối thúc các nước phát triển chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển. Cho đến nay, UNTCAD chỉ đạt được một phần rất nhỏ trong mục tiêu của mình, chủ yếu là vì các nước phát triển không sẵn sàng ủng hộ toàn diện các sáng kiến của UNTCAD, đặc biệt từ khi tình hình kinh tế trở nên khó khăn sau cú sốc giá đầu vào năm 1973.
|
Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển
|
Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển, viết tắt là UNCTAD (United Nations Conference on Trade and Development, hay Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hợp Quốc), được thành lập năm 1964 theo nghị quyết 1995 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. UNCTAD hiện có 194 thành viên quốc gia và vùng lãnh thổ, đặt trụ sở tại Genève, Thụy Sĩ. UNCTAD được coi là tổ chức kinh tế thương mại lớn nhất thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc. Mục đích của UNCTAD là thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung và thương mại nói riêng của tất cả các nước thành viên, nhất là các nước đang phát triển.
|
Nghệ thuật Romanesque là nghệ thuật của châu Âu từ khoảng năm 1000 sau Công nguyên cho đến sự nổi lên của phong cách Gothic vào thế kỷ 12, hoặc muộn hơn, tùy thuộc vào khu vực. Thời kỳ trước đó được gọi là thời kỳ Tiền Romanesque. Thuật ngữ này được phát minh bởi các nhà sử học nghệ thuật thế kỷ 19, đặc biệt là đối với kiến trúc Romanesque, nó vẫn giữ lại nhiều đặc điểm cơ bản của phong cách kiến trúc La Mã – đáng chú ý nhất là vòm có đầu tròn, cũng như vòm thùng, đỉnh và trang trí bằng lá acanthus – nhưng cũng đã phát triển nhiều đặc điểm rất khác nhau. Ở miền Nam nước Pháp, Tây Ban Nha và Ý có một sự liên tục về kiến trúc với Hậu Cổ xưa, nhưng phong cách Romanesque là phong cách đầu tiên lan rộng trên toàn bộ Châu Âu Công giáo, từ Sicily đến Scandinavia. Nghệ thuật Romanesque cũng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi nghệ thuật Byzantine, đặc biệt là trong hội họa, và bởi năng lượng chống cổ điển của việc trang trí nghệ thuật Insular của Quần đảo Anh. Từ những yếu tố này đã tạo nên một phong cách sáng tạo và mạch lạc cao. Bên ngoài kiến trúc Romanesque, nghệ thuật của thời kỳ gồm đặc những đặc trưng của một phong cách mạnh mẽ trong cả điêu khắc và hội họa. Sau này các mô hình biểu tượng Byzantine trở nên phổ biến nhất trong các nhà thờ, vẫn là Chúa Kitô trong Uy nghi, Sự phán xét cuối cùng và các cảnh trong Cuộc đời của Chúa Kitô. Các bản thảo được trang trí xa hoa nhất trong thời kỳ này là kinh thánh và thánh vịnh. Sự độc đáo tương tự cũng được áp dụng cho các đầu cột: thường được chạm khắc hoàn chỉnh với một số hình. Cây thánh giá lớn bằng gỗ là một sự đổi mới của Đức vào đầu thời kỳ này, cũng như những bức tượng đứng tự do của Madonna được đăng quang. Phù điêu cao là phương thức điêu khắc chủ đạo trong thời kỳ này. Màu sắc rất nổi bật và chủ yếu là màu chính. Trong thế kỷ 21: những màu sắc này chỉ có thể được nhìn thấy ở độ sáng ban đầu của chúng trong kính màu và một vài bản thảo được bảo quản tốt. Kính màu đã trở nên được sử dụng rộng rãi, mặc dù đáng buồn sau đó kính mày còn sót lại rất ít. Trong một phát minh của thời kỳ này, các mái vòm của các cổng chính của nhà thờ được chạm khắc với các đồ án hoành tráng, thường là Chúa Kitô trong Bệ hạ hoặc Sự phán xét cuối cùng, nhưng được đối xử tự do hơn các phiên bản sơn, vì không có mô hình Byzantine tương đương. Các bố cục thường có ít chiều sâu, và cần sắp xếp linh hoạt để có thể tạo thành hình dạng của các chữ cái đầu trong lịch sử, các chữ cái cột, và các mái che nhà thờ; sự chặt chẽ giữa một khung bao quanh khép kín. Trong bối cảnh Châu Âu ngày càng phát triển thịnh vượng, và tác phẩm nghệ thuật nguyên bản có chất lượng cao vượt xa những đặc tính vốn có từ trước của nó, vì nó chủ yếu ở thời Carolingian và Ottonian, dành cho hoàng gia và các tu viện. Các tu viện tiếp tục đóng vai trò cực kỳ quan trọng, đặc biệt là những tu viện thuộc các trật tự mới của chủ nghĩa bành trướng trong thời kỳ này, Xitô, Cluniac và Carthusian, trải rộng khắp châu Âu. Hầu hết các thợ xây và thợ kim hoàn bây giờ đã là giáo dân, và những họa sĩ giáo dân như Master Hugo dường như đã chiếm đa số vào cuối thời kỳ này. Không còn nghi ngờ gì nữa, hình tượng của công trình nhà thờ của họ đã đến với sự tham vấn của các cố vấn giáo sĩ. Những đồ vật quý giá trên có trong các kiến trúc có địa vị rất cao trong thời kỳ đó, có lẽ còn hơn cả tranh vẽ. Đồ kim loại, bao gồm cả trang trí bằng men, trở nên rất tinh xảo. Nhiều đền thờ vĩ đại được làm để lưu giữ các di tích đã tồn tại, trong đó nổi tiếng nhất là Đền thờ Ba vị Vua tại Nhà thờ Cologne của Nicholas of Verdun và những người khác (khoảng 1180–1225). Các tượng thờ lớn và mặt tiền bàn thờ được xây dựng xung quanh một khung gỗ, nhưng các tráp nhỏ hơn đều bằng kim loại và tráng men. Một vài món đồ thế tục, chẳng hạn như hộp đựng gương, đồ trang sức và móc cài vẫn còn sót lại, nhưng chắc chắn những thứ này không đại diện cho số lượng đồ kim loại tốt thuộc sở hữu của giới quý tộc. Aquamanile: một vật chứa nước để rửa, dường như đã được du nhập vào châu Âu vào thế kỷ 11. Với sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã, truyền thống chạm khắc các tác phẩm lớn bằng đá và điêu khắc các nhân vật bằng đồng đã biến mất. Một số tác phẩm điêu khắc có kích thước như người thật rõ ràng đã được thực hiện bằng vữa hoặc thạch cao. Tác phẩm điêu khắc lớn còn sót lại nổi tiếng nhất của Châu Âu – Proto-Romanesque là Cây Thánh giá bằng gỗ có kích thước như người thật được Tổng giám mục Gero của Cologne ủy quyền vào khoảng năm 960–965, dường như là nguyên mẫu và đã trở thành hình tượng phổ biến. Sau đó, chúng được dựng trên một thanh xà bên dưới vòm cuốn, được gọi bằng tiếng Anh là rood, từ thế kỷ thứ mười hai cùng với các hình của Đức Trinh Nữ Maria và Thánh sử Gioan ở hai bên. Trong suốt thế kỷ 11 và 12, nghệ thuật điêu khắc tượng hình hồi sinh mạnh mẽ, và các bức phù điêu kiến trúc là dấu ấn của thời kỳ La Mã sau này. Tác phẩm điêu khắc tượng hình dựa trên hai nguồn khác, cụ thể là ánh sáng bản thảo và tác phẩm điêu khắc quy mô nhỏ bằng ngà voi và kim loại. Các phù điêu rộng lớn được điêu khắc trên các nhà thờ Armenia và Syriac được một số ý kiến nhận định đó có thể là một trong những ảnh hưởng quan trọng. Hầu hết các tác phẩm điêu khắc theo phong cách Romanesque đều là chủ đề tượng hình và kinh thánh. Rất nhiều chủ đề được tìm thấy trên các thủ đô bao gồm các cảnh về Sự Sáng tạo và Sự sụp đổ của Con người, các tập phim về cuộc đời của Chúa Giê-su Christ, những cảnh trước cái chết và sự phục sinh của ngài, chẳng hạn như Giô-na và Cá voi và Đa-ni-ên trong bầy sư tử ‘ den. Nhiều cảnh giáng sinh xảy ra, chủ đề về Ba vị vua được đặc biệt yêu thích. Các tu viện của Tu viện Santo Domingo de Silos ở miền Bắc Tây Ban Nha. Moissac là những ví dụ điển hình còn tồn tại hoàn chỉnh, cũng như các tác phẩm điêu khắc trên nhiều phông chữ Tournai được tìm thấy trong các nhà thờ ở miền nam nước Anh, Pháp và Bỉ. Khởi đầu của điêu khắc Gothic thường có niên đại muộn hơn một chút với việc chạm khắc hình xung quanh Cổng thông tin Hoàng gia tại Nhà thờ Chartres, Pháp, 1150–1155. Phong cách điêu khắc lan truyền nhanh chóng từ Chartres, vượt qua cả kiến trúc Gothic mới. Trên thực tế, nhiều nhà thờ của thời kỳ La Mã cuối thời kỳ xây dựng sau khi xây dựng tại Saint-Denis. Một số trường phái đã nhận định bản thảo được chiếu sáng thời kỳ đầu của Romanesque: “Trường phái Channel” ở Anh và miền Bắc nước Pháp chịu ảnh hưởng nặng nề của nghệ thuật Anglo-Saxon muộn, trong khi ở miền Nam nước Pháp, phong cách phụ thuộc nhiều hơn vào ảnh hưởng của Iberia, và ở Đức và Các quốc gia kém phát triển, phong cách Ottonian tiếp tục phát triển, và cùng với phong cách Byzantine, ảnh hưởng đến Ý. Vào thế kỷ 12 đã có những tác động qua lại giữa tất cả những thứ này, mặc dù tính đặc trưng của từng khu vực vẫn còn. Các bề mặt tường lớn và những mái vòm cong của thời kỳ Romanesque đã tạo nên điểm nhấn cho trang trí tranh tường. Thật không may, nhiều bức tranh tường ban đầu này đã bị phá hủy do ẩm ướt hoặc các bức tường đã được thay mới và sơn lại. Ở Anh, Pháp và Hà Lan, những bức tranh như vậy đã bị phá hủy một cách đồng loạt hoặc bị quét vôi trắng trong các đợt biểu tình của các phong trào. Ở Catalonia (Tây Ban Nha), đã có một chiến dịch cứu những bức tranh tường như vậy vào đầu thế kỷ 20 (tính đến năm 1907) bằng cách gỡ bỏ chúng và chuyển đến bảo quản an toàn ở Barcelona, dẫn đến bộ sưu tập ngoạn mục tại Bảo tàng Nghệ thuật Quốc gia Catalonia. Ở các quốc gia khác, họ đã phải hứng chịu chiến tranh, bị bỏ rơi và thay đổi thời trang. Kiểu thêu Romanesque được biết đến nhiều nhất từ Tấm thảm Bayeux, nhưng nhiều tác phẩm được gia công chặt chẽ hơn của Opus Anglicanum (“tác phẩm tiếng Anh” – được coi là tốt nhất ở phương Tây) và các phong cách khác vẫn tồn tại, chủ yếu là lễ phục nhà thờ. Những chiếc kính màu thời trung cổ được biết đến là lâu đời nhất xuất hiện từ thế kỷ thứ 10. Những hình còn nguyên vẹn sớm nhất là năm cửa sổ nhà tiên tri ở Augsburg, có niên đại từ cuối thế kỷ 11. Tại các Nhà thờ Le Mans, Canterbury và Chartres, và Saint-Denis, một số tấm bảng của thế kỷ 12 vẫn còn tồn tại. Đây là nhà thờ hành hương, trung tâm của một tu viện thịnh vượng, tiêu biểu cho phong cách Romanesque. Hai tòa tháp đối xứng tạo khung cho mặt tiền phía tây, những bức tường đá của chúng được hỗ trợ bởi những trụ cầu nhô ra làm tăng hiệu ứng thẳng đứng. Một vòm tròn với một khung hình tam giác bao quanh cổng thông tin, nơi đặt một cột lớn của Sự phán xét cuối cùng của Chúa Kitô, do đó chào đón khách hành hương với một lời khuyên và cảnh báo. Sự hùng vĩ của cổng được nâng cao bởi hai vòm tròn, hai bên và vòm ở tầng trên với mái che phía trên hai cửa sổ.
|
Nghệ thuật Romanesque
|
Nghệ thuật Romanesque là nghệ thuật của châu Âu từ khoảng năm 1000 cho đến sự phát triển của phong cách kiến trúc Gothic trong thế kỷ 12, hoặc muộn hơn, tùy thuộc vào khu vực. Thời kỳ trước được gọi là thời kỳ tiền La Mã. Thuật ngữ này được phát minh bởi các nhà sử học nghệ thuật thế kỷ 19, đặc biệt là kiến trúc Romanesque, vẫn giữ được nhiều đặc điểm cơ bản của phong cách kiến trúc La Mã - đáng chú ý nhất là vòm đầu tròn, nhưng cũng có vòm thùng, mai, và trang trí lá cây - nhưng cũng đã phát triển nhiều đặc điểm rất khác nhau. Ở miền Nam nước Pháp, Tây Ban Nha và Ý có sự tiếp nối về kiến trúc với thời kỳ hậu Cổ đại, nhưng phong cách La Mã là phong cách đầu tiên lan rộng ra toàn bộ châu Âu theo Công giáo, từ Sicily đến Scandinavia. Nghệ thuật La Mã cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ nghệ thuật Byzantine, đặc biệt là trong hội họa và bởi năng lượng phản cổ điển của việc trang trí nghệ thuật Hiberno-Saxon của Quần đảo Anh. Từ những yếu tố này đã tạo ra một phong cách rất sáng tạo và mạch lạc.
|
Phía trước nhà là khoảnh sân vườn chỉ khoảng 20m2 nhưng khá nên thơ với chiếc cầu nhỏ bắc qua một hồ nhỏ tung tăng cá trắng, đỏ, vàng… khác hẳn những ồn ào náo nhiệt của đường phố bên ngoài. Phòng khách của GS.TS Mô trang hoàng nhiều tranh tượng đậm dấu ấn dân tộc Việt Nam, phảng phất đây đó màu sắc Nhật Bản với thanh gươm võ sĩ đạo và các vật trang trí thường thấy ở Nhật. Bên tách trà đàm đạo, ông đã nói nhiều chuyện về quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Sinh năm 1936 tại Hải Phòng, năm nay, GS. TS Đặng Lương Mô đã ở tuổi 70. Trông ông vẫn khỏe mạnh và rất tinh tường, nhất là khi ông trò chuyện, bàn luận về các vấn đề khoa học, vấn đề phát triển đất nước. GS Mô đã được nhận bằng tiến sĩ khoa học công nghệ từ năm 1968 tại Nhật. Hiện nay, ông có rất nhiều công việc phải làm như xây dựng Trung tâm Nghiên cứu & đào tạo vi mạch (ICDREC) tại ĐH Quốc gia TPHCM; thu hút đầu tư về vi mạch cho Khu Công nghệ cao TPHCM và gấp rút chuẩn bị cho việc ra mắt Câu lạc bộ Khoa học kỹ thuật Việt kiều TPHCM vào cuối năm 2005. Theo ông, tuy CLB còn ở giai đoạn vận động thành lập nhưng đã có hơn 100 trí thức Việt kiều đăng ký tham gia. Đã có đơn đặt hàng từ tỉnh Long An về việc làm trắng bột khoai mỡ xuất sang Nhật và đã có 3 nhóm Việt kiều Australia, Nhật và Pháp nhận thực hiện công trình này. Bột khoai mỡ từ Long An xuất sang Nhật hiện nay vẫn còn màu trắng ngà chứ không trắng tinh như bột xuất từ Trung Quốc nên chưa được thị trường Nhật ưa chuộng. Nếu có thể làm trắng hơn nữa thì cơ hội sản xuất, chế biến và xuất khẩu bột khoai mỡ sang Nhật sẽ gia tăng. Ông cho biết, sau khi CLB đi vào hoạt động sẽ có nhiều trung tâm chuyển giao công nghệ với mô hình như Trung tâm Nghiên cứu &ø đào tạo vi mạch được thành lập, tạo cơ hội chuyển giao chất xám, công nghệ cho các thế hệ trẻ của Việt Nam, nhằm mục đích đón đầu và hội nhập với trình độ khoa học công nghệ thế giới. Trong bộn bề công việc vừa nêu trên, ông còn đang chuẩn bị cho phát hành một cuốn sách về vi mạch mang tên “Mô hình MOSFET trong SPICE.” Đây là cuốn sách được ông biên dịch từ sách giáo khoa Mỹ và sẽ là tài liệu quý báu cho việc nghiên cứu vi mạch. Trước đây, ông còn dịch thơ cổ Việt Nam sang Nhật ngữ và dịch các tác phẩm Nhật ngữ sang Việt ngữ, nhằm giới thiệu Việt Nam với độc giả Nhật Bản và Nhật Bản với độc giả Việt Nam. Năm 1998, ông đã dịch và cho xuất bản tại Nhật Bản danh tác “Bích Câu Kỳ Ngộ”. Ở Nhật, cuốn sách của ông là cơ sở để sáng tác một vở nhạc kịch opêra tựa là Kigu (tiếng Nhật nghĩa là Kỳ Ngộ), đã được trình diễn tại Hà Nội năm 1998. Năm 2000, ông lại cho in danh tác “Bích Câu Kỳ Ngộ” dưới dạng song ngữ Việt - Nhật do Nhà Xuất bản Giáo dục TPHCM xuất bản, với phần chú giải rất kỹ nhằm phục vụ cho cả độc giả Việt Nam và Nhật Bản. Năm 2004, cuốn sách “Mười hai người lập ra nước Nhật” do ông dịch từ một tác phẩm Nhật ngữ nổi tiếng đã được Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội xuất bản. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ, từ năm 1968 đến năm 1971, ông là chuyên viên nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Trung ương Toshiba Nhật Bản. Sau đó ông về nước giảng dạy tại ĐH Khoa học Sài Gòn (nay là ĐH Khoa học Tự nhiên TPHCM). Cùng khoảng thời gian này, ông còn giảng dạy tại Học viện quốc gia Kỹ thuật (nay là Trường ĐH Bách khoa TPHCM) với chức danh giám đốc trường điện (tương đương chủ nhiệm khoa điện ngày nay). Đến năm 1973, ông được đề bạt là Viện trưởng Học viện quốc gia kỹ thuật (tương đương với chức danh Hiệu trưởng ĐHBK). Năm 1976, ông trở lại nước Nhật tiếp tục công việc làm chuyên viên nghiên cứu cao cấp của Viện Nghiên cứu Trung ương Toshiba Nhật Bản. Năm 2002, ông về nước với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé cho đất nước. Ngay sau khi về nước, ông đã tham gia việc giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu cao học tại ĐH Bách khoa TPHCM; làm Ủy viên Hội đồng Khoa học Phòng Thí nghiệm Công nghệ Nano, cố vấn cho giám đốc ĐH Quốc gia TPHCM; Ủy viên Hội đồng Khoa học Khu Công nghệ cao TPHCM. Gần đây, ông nhận chức Trưởng ban vận động thành lập Câu lạc bộ Khoa học kỹ thuật Việt kiều với mong muốn làm cầu nối cho trí thức Việt kiều đóng góp chất xám phục vụ đất nước. Ông đã có hơn 300 công trình nghiên cứu và hơn 10 bằng phát minh, sáng chế. Nhiều công trình nghiên cứu của ông đã được trích đăng hoặc trích dẫn trong các sách nghiên cứu xuất bản tại Mỹ, nhất là sách giáo khoa sử dụng tại các đại học Mỹ. Với những thành tựu đó, GS.TS Đặng Lương Mô đã làm rạng danh người Việt Nam trên lĩnh vực khoa học của thế giới. Ôâng đã được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học New York từ năm 1992. Ông còn là hội viên thượng cấp của Hội Kỹ sư điện - điện tử - tin học (IEEE, Mỹ). Tại Nhật, với các cống hiến khoa học tại Viện Nghiên cứu Trung ương Toshiba, ĐH Hosei, ông đã được 2 nơi này trao bằng khen về những đóng góp xuất sắc. Trong những tháng năm ở nước ngoài, ông vẫn luôn hướng về đất nước và đã có những đóng góp về cả 2 mặt: đào tạo nhân tài và tư vấn khoa học công nghệ. Ngay từ năm 1989, ông đã vận động các trường ĐH, các quỹ ở Nhật tài trợ, giúp các giảng viên của Trường ĐH Bách khoa TPHCM và ĐH Khoa học Tự nhiên TPHCM sang Nhật tu nghiệp; thành lập và trang bị Phòng thí nghiệm mô phỏng và thiết kế vi mạch tại Khoa điện - Điện tử, ĐH Bách khoa TPHCM. Ông còn là cầu nối cho ĐH Hosei, Nhật và ĐH Bách khoa TPHCM ký kết hợp tác có hiệu lực từ năm 1998 với nội dung: hàng năm, ĐH Hosei sẽ cung cấp chi phí cư trú, sinh hoạt cho cán bộ giảng dạy của ĐH Bách khoa sang nghiên cứu sinh ở ĐH Hosei trong một năm. Đã có 30 cán bộ giảng dạy của ĐH Bách khoa được sang Nhật trong khuôn khổ hiệp định này. Đáng quý hơn, hàng năm, ông đều trích một phần lương hưu của mình để cấp học bổng cho sinh viên giỏi nhưng gặp khó khăn. 4 năm qua, ông đã cấp tổng cộng 8 suất học bổng như vậy, trị giá 16 triệu đồng. Từ năm học 2005 - 2006, ông đã vận động Tập đoàn Toshiba cấp cho ĐH Quốc gia Hà Nội và ĐH Quốc gia TPHCM, mỗi năm mỗi trường một số học bổng sau đại học trị giá 16 ngàn USD. Với những đóng góp không mệt mỏi của GS.TS Đặng Lương Mô, năm 2003, ông đã nhận bằng khen của UBND TPHCM tặng cho kiều bào có công; Huy chương Vì sự nghiệp các hội khoa học kỹ thuật và Giải thưởng Vinh danh nước Việt dành cho những kiều bào Việt Nam đã làm vinh danh nước Việt trên thế giới (năm 2004). Gần đây, tại Đại hội thi đua yêu nước TPHCM năm 2005 (tổ chức ngày 11-6-2005), ông đã nhận được bằng khen của UBND TPHCM. Sức làm việc, sự cống hiến cho khoa học cho quê hương của GS TS Đặng Lương Mô thật đáng khâm phục. Tháo gỡ rào chắn ở TP.HCM: tháo chướng ngại vật và tâm lý nặng nề cho người dân. TTO - Thông tin các hàng rào bằng thép gai, ghế đá, giàn giáo. làm rào chắn ở các tuyến đường, con hẻm, chốt kiểm soát tại TP.HCM sẽ được tháo dỡ từ nay đến ngày 30-9, người dân bày tỏ sự phấn khởi sau nhiều ngày đường sá bị ngăn cách. TP.HCM kiến nghị Thủ tướng cho phép áp dụng quy định riêng để mở cửa kinh tế. TTO - Với điều kiện đặc thù, TP.HCM kiến nghị Thủ tướng xem xét cho phép TP.HCM áp dụng quy định riêng do Thủ tướng quyết định để có thể mở cửa nền kinh tế. TTO - Phương án lưu thông giữa TP.HCM và các tỉnh, đi lại trong TP để áp dụng từ ngày 1-10 đang được Sở Giao thông vận tải lấy ý kiến. Nhiều băn khoăn đặt ra: người lao động quay lại TP.HCM bằng cách nào, thông tin cho xe cá nhân ra sao.?. Đi lại và ra vào TP.HCM sau ngày 1-10: Xe gắn máy thì sao? Chưa tiêm vắc xin như thế nào?. TTO - Phương án lưu thông giữa TP.HCM và các tỉnh, đi lại trong TP để áp dụng từ ngày 1-10 đang được Sở Giao thông vận tải lấy ý kiến. Nhiều băn khoăn đặt ra: người lao động quay lại TP.HCM bằng cách nào, thông tin cho xe cá nhân ra sao.?. TTO - Đại diện êkip của ca sĩ Phi Nhung cho biết ca sĩ vẫn đang được điều trị tích cực tại Bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM. TTO - Tính từ ngày 26-5, thời điểm phát hiện ca COVID-19 từ ổ dịch là nhóm truyền giáo, hôm nay, TP.HCM đã đi qua tròn 4 tháng chống dịch. Cùng nhìn lại đợt dịch này tại TP.HCM để ghi nhớ 4 tháng đặc biệt, không thể nào quên.
|
Đặng Lương Mô
|
Đặng Lương Mô (sinh năm 1936 tại Kiến An, Hải Phòng) là nhà khoa học người Việt có uy tín trong lĩnh vực vi mạch trên thế giới. Phần lớn cuộc đời ông sống và làm việc tại Nhật Bản. Năm 2002, ông trở về Việt Nam và định cư tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kể từ khi về nước, Giáo sư - Tiến sĩ Đặng Lương Mô được coi là nhà khoa học đi tiên phong trong việc phát triển ngành công nghệ vi mạch tại Việt Nam trong những năm qua. Ông hiện là cố vấn cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch (ICDREC) trực thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đồng thời là cố vấn Giám đốc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Trong sự nghiệp của mình, ông đã có hơn 300 công trình nghiên cứu và 13 bằng phát minh sáng chế được công nhận tại các nước có nền khoa học công nghệ phát triển. Đặng Lương Mô sinh năm 1936 tại Kiến An, Hải Phòng trong một gia đình trung lưu. Sau khi hoàn thành bậc trung học tại miền Bắc, ông theo gia đình di cư vào Sài Gòn lập nghiệp.
|
– Khái niệm “quan hệ xã hội” vốn được dùng trong triết học, nó chỉ mối quan hệ giữa người và người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. – Cũng có thể hiểu quan hệ xã hội là quan hệ bền vững ổn định của các chủ thể hành động. Các quan hệ này được hình thành trên những tương tác xã hội ổn định, lặp đi lặp lại…. Quan hệ xã hội không tách rời khỏi hành động xã hội và tương tác xã hội. Hành động xã hội tạo ra tương tác xã hội, tương tác xã hội lặp đi lặp lại tạo ra quan hệ xã hội. Hành động xã hội và tương tác xã hội tạo ra mức độ nông, sâu, bền vững, kém bền vững của các mối quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội được xác lập sẽ chi phối hành động xã hội và tương tác xã hội. Các mối quan hệ xã hội chằng chịt tạo ra một mạng lưới tương đối ổn định, mạng lưới quan hệ xã hội tạo ra cơ cấu xã hội. + Quan hệ xã hội sơ cấp (mang ít tính xã hội hơn, chủ yếu là quan hệ tình cảm) và quan hệ xã hội thứ cấp (quan hệ mang tính xã hội). + Dựa vào những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, người ta phân chia thành các loại hình: quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ văn hoá xã hội. + Dựa vào vị thế xã hội của các cá nhân, người ta chia thành quan hệ người cùng vị thế và quan hệ của những người khác vị thế (quan cấp trên và cấp dưới, trung ương với địa phương). + Dựa vào tính chất của các kiểu quan hệ, người ta có thể chia thành quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần. Xét cho cùng sự sản xuất ra của cải vật chất chính là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Do đó, trong các công trình nghiên cứu về xã hội, về xã hội học theo quan điểm Mácxít, người ta xem quan hệ kinh tế là quan trọng nhất chi phối và quyết định các mối quan hệ khác. Quan hệ sản xuất luôn luôn có vai trò quyết định tính chất các quan hệ xã hội khác như quan hệ văn hoá, quan hệ chính trị, tư tưởng, quan hệ pháp luật. Nghiên cứu các vấn đề xã hội phải nắm được sự phụ thuộc ấy của mọi quan hệ xã hội với quan hệ sản xuất mới có cơ sở để giải thích tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại.
|
Quan hệ xã hội
|
Quan hệ xã hội (tiếng Anh: Social relation) là những quan hệ giữa người với người được hình thành trong quá trình hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, v.v. Mọi sự vật và hiện tượng trong xã hội đều có những mối liên hệ với nhau. Nhưng không phải mối liên hệ nào cũng là quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội được hình thành từ tương tác xã hội. Những tương tác này không phải là ngẫu nhiên, mà thường phải có mục đích, có hoạch định. Những tương tác này phải có xu hướng lặp lại, ổn định và tạo lập ra một mô hình tương tác. Nói cách khác, các chủ thể hành động trong mô hình tương tác này phải đạt được một mức độ tự động hóa nhất định nào đó. Tức là họ thực hiện gần như không có ý thức, như thói quen. Hai cá nhân ngẫu nhiên gặp nhau ở sân bay, nhà hàng hoặc rạp hát, v.v. dù có chào hỏi, trao đổi, trò chuyện lần đó; nhưng lần gặp sau lại không nhận ra nhau, hoặc không tiếp tục chào hỏi, trao đổi, trò chuyện thì giữa họ chưa thể coi là có mối quan hệ xã hội.
|
Trò chơi cờ tư lệnh là một bộ môn cờ trí tuệ được rất nhiều người yêu thích. Các quy tắc cơ bản trong cờ tư lệnh khá đơn giản, cách chơi cũng không có gì phức tạp. Nếu bạn đang tò mò về trò chơi này thì hãy cùng xem qua bài viết dưới đây nhé!. Đây là ván cờ được chơi giữa hai người chơi. Một bên sẽ lấy quân đỏ và một bên sẽ lấy quân xanh, họ sẽ tìm ra những chiến thuật, cách chơi phù hợp để đấu lại đối phương trên bàn cờ và giành được chiến thắng. Và mục tiêu ở đây là làm thất bại cũng như phá hủy các thế cờ mà đối thủ của mình đưa ra. Trò chơi này có thể chơi được từ già cho đến trẻ, những ai yêu mến và cảm thấy thích thú khi chơi cờ tư lệnh thì đều có thể tham gia chơi hết. Đặc biệt, nó còn giúp cho chúng ta rèn luyện tinh thần minh mẫn, sự sáng tạo, tinh tế và hoạt bát, nhanh nhẹn hơn trong cuộc sống. Hơn nữa, còn làm cho bản thân biết cách sắp xếp và đưa ra những chiêu thức nào đó để tấn công, phòng thủ đối phương. Trong các quy tắc cơ bản trong cờ tư lệnh thì việc cho quân cờ di chuyển và ăn là một luật lệ khá quan trọng và ăn cũng cần phải biết mỗi khi chơi. Công binh, xao xa, hay bộ binh, dân quân tóc dài có quyền được đi ngang, dọc, chéo, tiến, lùi tất cả mọi hướng trên bàn cờ theo từng đoạn. Và chúng có thể đứng ngay tại chỗ ăn mục tiêu ở trên biển nằm cách xa một đoạn. Quân xe tăng ăn theo hướng dọc, thẳng, ngang tại trục cách một hai đoạn. Mục đích là ăn trên biển và theo quy định nhưng được phép đứng ngay tại chỗ và không cần thế chỗ khi ăn xong. Quân pháo binh dưới đất có thể đi thẳng ngang dọc và chéo trên trục tung khoảng một đến 3 đoạn và được ăn vượt khối chắn.Tên lửa phòng không được phép ăn quân trên mặt đất cũng như trên không ở vành đai hỏa lực theo trục và chéo 45 độ. Máy bay có thể đi ăn thảng hoặc chéo 45 độ với quân của đối thủ một tới bốn đoạn. Được quyền bay vượt rào chắn. Trong các quy tắc cơ bản trong cờ tư lệnh thì vượt sông có hai đoạn và mọi phương tiện đều có thể đi qua được. Ngoài hai vị trí này thì còn lại sẽ là mực nước sâu, xe tăng, quân dân tóc dai, tư lệnh, công binh được đi qua. Còn tên lửa, cao xạ, pháo binh nếu không muốn di chuyển cơ động qua đoạn này thì phải đi phía sau công binh mới đảm bảo được an toàn. Tuy nhiên, khi ăn quân của đối thủ ở bên kia sông thì được quyền di chuyển qua bất kỳ một vị nào ở sông. Mỗi bên cờ sẽ có hai cộng sự và chúng là chỉ huy của cờ tư lệnh. Cộng sự không ăn quân của đối phương được và cũng không cơ động một chút nào. Xe tăng, công binh, máy bay hay pháo binh,…có thể phá cộng sự để tiêu diệt và hạ gục tư lệnh. Cao xạ sẽ tạo ra vùng cấm ở trên không thành hình tròn có chiều dài bán kính là một đoạn thẳng. Đối với tên lửa phòng không thì được tạo từ vùng cấm có hình tròn ở cự ly bán kính là hai đoạn. Tại góc chéo 45 độ thì hỏa lực sẽ chỉ phát tác dụng trong một đoạn ngắn. Cờ tư lệnh không nhất định phải nằm trong hầm của chỉ huy mà vẫn có thể ở bên ngoài. Tư lệnh được phép thoát khỏi hầm, sang bên của đối phương để chỉ đạo hoặc tham gia chiếu lệnh vẫn được. Đặc biệt, tư lệnh tuyệt đối không thể mặt đối mặt với tư lệnh của đối phương được. Khi di chuyển trên trục tư lệnh đi không hạn chế, làm sao mà không để mắc vào vật cản và ăn quân từng đoạn của đối phương là được. Trong đây quân nào có điều kiện trực tiếp chiếu cờ tư lệnh của đối thủ thì bắt buộc tư lệnh phải chạy quân, quân đó được phong là anh hùng. Về khoảng cách ăn hay điểm số của quân anh hùng đều được cộng 10 điểm. Nếu chơi theo thời gian từ 10 cho đến 15 phút thì trong giờ nghỉ giải lao, ván cờ sẽ kết thúc khi đến giờ quy định và thắng thua được xác định theo điểm số. Đối với các cuộc thi lớn thì được tính thắng thua bằng cách chơi 3 hoặc 5 ván và cũng tính theo điểm, khi bạn không kết thúc. Còn khi chơi mà không tính thời gian thì thắng thua sẽ được quyết định theo số điểm mà mỗi bên ăn được.
|
Cờ tư lệnh
|
Cờ tư lệnh (tên tiếng Anh: commander chess) là một loại trò chơi dùng bàn cờ, do Đại tá, nhà văn Nguyễn Quý Hải người Việt Nam sáng tạo ra. Về luật chơi và hình thức chơi thì loại cờ này có thể phù hợp với mọi lứa tuổi. Cờ Tư lệnh đã đăng ký bản quyền và được Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam chính thức công nhận ngày 16 tháng 11 năm 2010. Đã từ lâu Việt Nam đã có một môn cờ dân gian, gọi là cờ súy hay cờ quân sự. Bàn cờ súy giống như bàn cờ tướng, mang dấu ấn của trái đất vuông trong quan niệm cổ. Quân cờ có các quân không theo quân binh chủng, mà nặng theo cấp bậc địa vị từ úy, đến tá, tướng. Đại tướng cao nhất ăn được từ thượng tướng trở xuống đến tá và úy. Lối chơi truyền thống của cờ súy là chơi cờ úp bằng tấm bìa gấp. Các quân ăn nhau theo phán đoán và may rủi. Có thể rút ra bốn nhược điểm cơ bản của môn cờ này.
|
Cây dây leo là những cây thường có thân cây hóa gỗ, mọc trên đất và leo lên cây hoặc các cấu trúc dọc khác. Cây dây leo không phải là một nhóm cây được xếp cùng họ hàng với nhau, mà chỉ có cùng một dạng phát triển lối sống tương tự của các loài thuộc các họ khác nhau. Cây dây leo được phân biệt làm nhiều loại: Một số cây leo dùng ngọn cuốn quanh một cây nào đó. Hướng quay phụ thuộc vào di truyền, tùy thuộc vào nhóm có họ hàng với nhau. Calystegia sepium, Phaseolus vulgaris (đậu que) quay theo hướng bên trái. Dioscorea communis, hoa bia quấn theo hướng bên phải. Cây dây leo thoát khỏi sự thiếu ánh sáng gần mặt đất mà không cần phải tạo ra một thân cây to. Chúng không phải thực vật ký sinh, vì vậy chúng không lấy chất dinh dưỡng hoặc nước từ cây mang nó. Tuy nhiên, cây đó có thể bị ảnh hưởng do bị lấy đi bớt ánh sáng ở trên cùng, bởi sự cạnh tranh về nước và dinh dưỡng ở vùng gốc hoặc bởi trọng lượng của cây dây leo, đặc biệt là khi cây gánh đỡ đó đã bị suy yếu do bệnh tật. Do sự phong phú của các cây dây leo như vậy trong rừng nhiệt đới, chúng có thể chiếm khoảng một nửa diện tích lá. Nhiều cây dây leo trong rừng mưa nhiệt đới tạo ra rễ khí sinh. Cây dây leo đặc biệt phong phú trong rừng mưa nhiệt đới. Những cây bản địa ở Trung Âu chẳng hạn như là Nho, hoa bia, dây thường xuân, một số loại quả mâm xôi, các cây thuộc chi hoa ông lão và chi Kim ngân. Nhiều người chọn trồng cây dây leo với nhiều mục đích khác nhau. Một số công dụng của cây dây leo như sau:. Hoa quý: là những giống cây hoa leo đẹp độc đáo có nguồn gốc từ nước ngoài được nhiệt đới hoá ổn định với khí hậu Việt Nam. Hoa phổ thông: là những giống cây hoa leo có nguồn gốc tại đất nước Việt Nam ta, được lưu truyền qua nhiều đời và được trồng khá nhiều và phổ biến từ nông thôn tới thành thị. Chúng dễ tìm, giá cả phải chăng và sức sống cũng khoẻ hơn rất nhiều. Mùa ra hoa: Đây là đặc điểm được nhiều người yêu hoa chú ý nhất. Có những loài cây leo, hoa leo chỉ cho hoa, cho quả 1 vài tháng trong năm nhưng có những loài cây dây leo lại có khả năng cho hoa quanh năm. Tốc độ leo: tốc độ leo chính là tốc độ phát triển và che phủ nhanh hay chậm của một cây hoa dây leo. Điều này rất quan trọng nếu bạn đang cần gấp một giàn cây leo xanh mát để che nắng hè oi ả. Bình thường: Cần chăm sóc một chút (bón phân, tưới nước,… để cây phát triển tốt hơn), cây dễ sống. Cẩn thận: Cần chú ý chăm sóc, bón phân, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh,… Nếu không chăm cẩn thận cây sẽ phát triển chậm, không ra hoa hay chết. Ứng dụng: là ứng dụng trang trí của cây leo. Với cây hoa dây leo các bạn có thể làm giàn cho chúng leo, cho leo bờ tường, hàng rào, cổng vòm hoặc tạo dáng bonsai với những cây hoa leo thân gỗ với mục đích che nắng, chắn bụi, trang trí.
|
Cây dây leo
|
Cây dây leo là những cây thường có thân cây hóa gỗ, mọc trên đất và leo lên cây hoặc các cấu trúc dọc khác. Cây dây leo không phải là một nhóm cây được xếp cùng họ hàng với nhau, mà chỉ có cùng một dạng phát triển lối sống tương tự của các loài thuộc các họ khác nhau. Cây dây leo được phân biệt làm nhiều loại: Một số cây leo dùng ngọn cuốn quanh một cây nào đó. Hướng quay là di truyền đã được định sẵn, tùy thuộc vào nhóm có họ hàng với nhau. Calystegia sepium, Phaseolus vulgaris (đậu que) quấn theo hướng bên trái. Dioscorea communis, hoa bia quấn theo hướng bên phải. Có cây dùng bộ phận tua cuốn (biến từ mầm hoặc lá cây) để bám như cây gấc, Passiflora edulis. Có cây dùng rễ để bám như dây thường xuân, Đăng tiêu hoặc chân bám (ví dụ như các cây thuộc chi Trinh đằng). Các cây không có bộ phận bám thì vươn ra mọi phía, nhờ các mầm có lông, móc hoặc gai để ngăn không bị rơi xuống. Các nguyên tắc này có thể thấy ở các loài như hoa hồng hay quả mâm xôi.
|
Chủ nghĩa phát xít là gì? Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa phát xít do đâu? Trong suy nghĩ của mọi người, chủ nghĩa phát xít từ xưa đến nay là một chủ nghĩa cực đoan, độc tài, chuyên chế. Nó gây nguy hại cho cả dân tộc, thậm chí là cả thế giới. Đặc biệt chủ nghĩa phát xít Đức đã gây ra Chiến tranh thế giới lần thứ II. Đồng thời nó là nguyên nhân gây nên cái chết cho 40 triệu người trên thế giới. Tuy nhiên đó chỉ là những điều bạn học được từ trong sách vở. Liệu bạn có thực sự hiểu rõ về chủ nghĩa phát xít ở Đức hay chưa. Hãy theo dõi bài viết này để tìm câu trả lời cho mình nhé!. Theo định nghĩa trong chương trình giáo dục tại nước ta thì Chủ nghĩa phát xít là “hình thức chuyên chính của tư bản chủ nghĩa, là lực lượng đế quốc phản động nhất, hiếu chiến nhất, có chủ trương thủ tiêu mọi quyền tự do cơ bản của con người, khủng bố, đàn áp tàn bạo nhân dân, gây chiến tranh xâm lược để thống trị thế giới”. Vẫn còn rất nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề và bản chất tự nhiên của chủ nghĩa này. Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản nhất thì Chủ nghĩa phát xít là một hệ tư tưởng chính trị và các quan điểm về một nhà nước chuyên chế mang tính chất quân phiệt, độc tài và toàn trị. Nó đối lập với chủ nghĩa tự, đối lập với những quan điểm về một nhà nước dân chủ. Mùa hè năm 1920, cờ Đức Quốc Xã ra đời. Cờ có nền đỏ, một vòng tròn trắng và ở giữa là một chữ “Vạn” (Swastika) màu đen. Với Hitler thì đây là biểu tượng cho sự thắng lợi của cuộc chiến đấu vì thế giới mới. Nhưng sau những tội ác mà Hitler đã tạo ra thì Swastika trở thành biểu tượng của quỷ dữ. Nó cũng thể hiện sự tàn bạo, gắn liền với tội ác của chủ nghĩa phát xít trong lịch sử loài người. Dù trước đó trong lịch sử không hề có một biểu tượng nào đại diện toàn bộ chủ nghĩa phát xít. Nhiều người cho rằng Hitler lấy chữ Vạn của Phật giáo làm biểu tượng cho lá cờ của chủ nghĩa phát xít. Nhưng sự thật là không có sự liên hệ nào giữa chữ Vạn trong Phật giáo và chữ thập ngoặc của chủ nghĩa phát xít cả, tuy rằng cả hai biểu tượng này giống nhau. Chữ Vạn trong Phật giáo là một trong ba mươi tướng tốt của Đức Phật. Nó thường nằm ngay trước ngực của Ngài. Nó biểu thị công đức vô lượng của Đức Phật. Ở chính giữa tượng trưng cho Trung Đạo, có ý nghĩa giác ngộ vẹn toàn. Còn chữ Vạn của chủ nghĩa phát xít lấy từ chữ Vạn (Swastika) là biểu tượng đặc trưng của người Aryan – một dân tộc mà Hitler luôn khẳng định là nguồn gốc cổ xưa của người Đức, là dân tộc thượng đẳng nhất. Đó là lý do Hilter chọn biểu tượng của người Aryan là Swastika làm biểu tượng trong cờ phát xít Đức. Các xu hướng chính trị bạo lực cực đoan ở các nước tư bản phương Tây xuất hiện sau cuộc tổng khủng hoảng kinh tế, xã hội giai đoạn 1929 – 1933, được cho là tiền thân của chủ nghĩa phát xít. Cuộc khủng hoảng kinh tế này đã đẩy tuyệt đại đa số dân chúng ở Tây Âu và Bắc Mỹ vào tình cảnh vô cùng khốn đốn. Xã hội rơi vào tình trạng mất an ninh nghiệm trọng do lạm dụng bạo lực. Đặc biệt là bắt đầu thịnh hành các xu hướng, phong trào bạo lực xã hội. Phong trảo tạo ra bởi giới trẻ vô nghề nghiệp. Khi họ thất vọng trước cuộc sống hiện tại và bi quan mất đi định hướng về tương lai. Tình trạng này bao trùm toàn bộ các nước tư bản phát triển thời bấy giờ. Khi đó một trong những con đường chính phủ phương Tây đặt hy vọng vào là tăng cường chạy đua vũ trang. Họ quân phiệt hóa nền kinh tế và toàn bộ thể chế chính trị xã hội. Vì thế đây được cho là nguyên nhân chính ra đời chủ nghĩa phát xít. Chủ nghĩa phát xít là chủ nghĩa độc tài luôn cho rằng mình là ưu việt nhất và có quyền sinh sát để trên toàn thế giới chỉ còn lại chủng người ưu việt nhất. Đây có thể coi là bước cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc. Phát xít chủ tương kiểm soát kinh tế, văn hóa, độc đảng và đàn áp. Chúng sẵn sàng sử dụng vũ lực và chiến tranh trong mọi quan hệ quốc tế hay quốc nội. Vì thế nhắc đến chủ nghĩa phát xít thì chiến tranh là một điều không thể tránh khỏi. Chủ nghĩa quân phiệt là trào lưu tư tưởng của một chính phủ chủ trương tăng cường sức mạnh quân sự một cách quá mức để đòi hỏi quyền lợi của quốc gia. Chủ nghĩa này sử dụng bạo động như một vũ khí cho chính trị. Và cũng luôn là yếu tố quan trọng của những ý thức hệ đế quốc, hay các quốc gia chuyên xâm lược trong suốt lịch sử loài người. Chủ nghĩa quân phiệt không đồng nghĩa với chủ nghĩa phát xít. Nó chỉ là một yếu tố cấu thành nên chủ nghĩa phát xít bên cạnh các yếu tố như chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa toàn trị, chủ nghĩa chuyên chế,…. Trên thế giới có 3 nước phát xít lớn. 3 nước là nguyên nhân gây ra bao thương vong trong Chiến tranh thế giới thứ 2. Đó chính là Đức Quốc xã, Ý và Đế quốc Nhật Bản. Ba nước này hợp thành khối Trục. Mục tiêu của khối trục đẩy mạnh các hoạt động quân sự và gây chiến tranh xâm lược ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Đức Quốc xã: Chế độ phát xít của nước Đức được đặt dưới sự kiểm soát của Adolf Hitler và Đảng Quốc xã. Phát xít Đức là một nhà nước phát xít toàn trị, cai quản gần như mọi mặt của cuộc sống. Nét đặc trưng nổi bật nhất của nhà nước phát xít này là vấn đề phân biệt chủng tộc. Đặc biệt là bài trừ Do Thái, trong đó tàn bạo nhất có cuộc diệt chủng Holocaust. Phát xít Ý: Chế độ phát xít của Ý thì nằm dưới quyền thống trị của đảng Phát xít do Benito Mussolini lãnh đạo từ năm 1922 đến 1943. Chủ nghĩa phát xít này được xem là hình mẫu cho các hình thức chủ nghĩa phát xít khác. Chính sách độc tài của Ý tuy không tàn bạo bằng hệ thống của Hitler. Nhưng hệ thống đàn áp cũng đã khủng bố, hãm hại và thủ tiêu cả chục ngàn người chống đối. Đế quốc Nhật Bản: Là một quốc gia dân tộc trong lịch sử Nhật Bản tồn tại từ năm 1868 đến năm 1947. Tức là chỉ tồn tại đến sau khi Thế chiến thứ 2 kết thúc. Trong cuộc chiến này Phát xít Nhật đồng ý liên minh quân sự với Đức và Ý với mục đích là bành trướng thế lực của mình ở châu Á. Trong suốt giai đoạn tồn tại thì các chính sách độc tài của Đế quốc Nhật Bản cũng tàn bạo không kém gì hai nước phát xít Đức và Ý. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đức chìm trong khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Chính phủ Đức đã đưa ra một chính sách sai lầm đó là in ồ ạt tiền để trả nợ. Hậu quả dẫn tới là siêu lạm phát khiến giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng cao. Nền kinh tế rơi vào tình trạng hỗn loạn, các cuộc bạo động diễn ra triền miên. Đúng lúc nó sự kiện thị trường chứng khoán ở Mỹ sụp đổ vào ngày 24 tháng 10 năm 1929. Sự kiện này càng khiến cho nước Đức lao đao. Chính thời điểm đó, Đảng Quốc xã đã đứng lên hứa hẹn về một chính quyền trung ương mạnh mẽ. Đảng hứa có thể làm tăng thêm không gian sống cho dân tộc Đức. Đồng thời họ cam kết tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế và tạo ra việc làm. Từ đó Đức Quốc xã trở thành đảng kế tục thay cho Đảng Công dân Đức đang nắm quyền lúc đó. Chế độ Quốc xã lên nắm quyền, báo hiệu cho chủ nghĩa phát xít bành trướng tại Đức. Đức Quốc xã dưới sự dẫn dắt của Adolf Hitler đã gây ra rất nhiều tội ác trong lịch sử. Trong đó có tội ác diệt chủng. Ta không thể không nhắc đến việc tàn sát nhằm tiêu diệt những người chúng cho là “hạ đẳng”. Mặc dù họ không phải là đối tượng chiến tranh. Trong giai đoạn từ 1941 đến 1945, người Do Thái đã bị sát hại một cách có hệ thống bởi Đức quốc xã cùng bè phát. Đó là một cuộc diệt chủng có quy mô lớn hàng đầu trong lịch sử. Nó là một phần của chương trình hành động tổng thể hơn mà chế độ Quốc xã thực hiện. Đó là đàn áp, tiêu diệt những nhóm sắc tộc và chính trị đối lập tại châu Âu. Cuộc diệt chủng khiến khoảng 6 triệu người Do Thái thiệt mạng được cho là tội ác lớn nhất của Đức Quốc xã. Chủ nghĩa phát xít Đức còn là một trong những nguyên nhân gây ra Thế chiến thứ II. Năm 1938 Quốc xã xâm chiếm Áo. Và tới 1939 Tiệp Khắc cũng rơi vào tay phát xít Đức. Hitler đã tiến hành xâm lược Ba Lan vào tháng 9 năm 1939. Đây là sự kiện mở màn chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Đến năm 1940, Đức cùng Phe trục đã chinh phạt gần hết châu Âu và đe dọa xâm lược nước Anh. Với sự thắng thế của phe Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa phát xít Đức dần lung lay và sụp đổ. Ngày 30 tháng 4, Hồng quân Liên Xô tiến gần Phủ Thủ tướng. Hitler và vợ quyết định cùng nhau tự sát trong Führerbunker. Từ 4 đến 8 tháng 5 quân lính có vũ trang còn lại của Đức đầu hàng vô điều kiện. Văn kiện đầu hàng của Đức được ký vào ngày 7 tháng 5. Sự kiện này đánh dấu hồi kết cho chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Nó cũng thể hiện cho sự sụp đổ của chủ nghĩa phát xít Đức. Ngày nay đâu đó trên thế giới đã “mọc” ra một xu hướng được gọi là phát xít mới. Đây là một mầm mống mới đủ nguy hiểm khiến dư luận nhiều lần phải cảnh báo. Ngày 18/4, một nhóm người theo chủ nghĩa phát xít mới tuần hành rầm rộ ở thành phố Odessa – Ukraine. Mục đích tuần hành để tưởng niệm cựu thủ lĩnh nhóm dân tộc cực đoan Ukraine “Máu và danh dự”. Tiếp đó, ngày 2/5, hàng trăm người theo chủ nghĩa phát xít mới đã tuần hành và đụng độ cũng ở Odessa với các nhà hoạt động địa phương ủng hộ liên bang hóa Ukraine. Kết quả là khiến hàng chục người thiệt mạng. Những Đảng theo chủ nghĩa phát xít mới như Cánh hữu hay Svoboda hiện còn có mặt trong thành phần quốc hội của Ukraine. Ở Thụy Điển, một báo cáo của tổ chức chống phân biệt chủng tộc Expo công bố cuối tháng 3/2015 cho biết hoạt động của các tổ chức phát xít mới ở nước này đã được tăng cường đáng kể. Số hoạt động tuyên truyền phát xít mới trong năm 2014 đã tăng gần gấp đôi, nhiều chưa từng có. Phần lớn các hoạt động này là để phát tờ rơi, dán hình về chủ nghĩa phát xít. Ở Đức, một nhóm theo chủ nghĩa phát xít mới National Socialist Underground (NSU). 6 năm qua nhóm đã thực hiện một loạt vụ ám sát khắp nước Đức. Các vụ ám sát này đều mang mang động cơ sắc tộc. Địa điểm các vụ ám sát tạo thành logo của nhóm trên bản đồ. Những điều này đưa đến cảnh báo về xu hướng “phục sinh” tư tưởng của Hitler ở một số khu vực châu Âu. Đồng thời dấy lên các báo động về mầm mống chủ nghĩa phát xít mới. Từ đó nó đe dọa đến nền hòa bình thế giới. Có thể nói, chủ nghĩa phát xít nói chung và chủ nghĩa phát xít Đức nói chung. Và nó là mối nguy hại gây nên nhiều hậu họa khôn lường cho toàn thế giới. Nếu bạn là một du học sinh Đức, bạn cần tìm hiểu về chủ nghĩa phát xít để có những hiểu biết nhất định về lý thuyết chính trị này.
|
Chủ nghĩa phát xít
|
Chủ nghĩa phát xít là một hệ tư tưởng chính trị và phong trào chính trị cực hữu đặc trưng bởi sức mạnh độc tài, cưỡng chế, đàn áp đối lập, và sự đoàn kết mạnh mẽ giữa xã hội và kinh tế, nổi bật nhất là ở châu Âu vào đầu thế kỷ 20. Số đông trong đó, muốn đưa quốc gia lên trên về lịch sử, văn hóa, sinh học độc nhất, tất cả là nhờ vào động lực của lòng trung thành, và muốn tạo nên 1 cộng đồng chung của quốc gia được huy động. Rất nhiều đặc điểm được quy cho chủ nghĩa phát xít bởi nhiều học giả khác nhau, nhưng những yếu tố sau thường được xem như cấu thành: chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa độc tài quân sự, chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa hợp tác, chủ nghĩa toàn trị, chủ nghĩa chuyên chế, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chống lại chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa Cộng sản. Có rất nhiều tranh cãi giữa các học giả về bản chất của chủ nghĩa phát xít và những loại phong trào chính trị và những chính phủ mà có thể bị gọi là phát xít.
|
Vườn treo Babylon (cũng được gọi là Vườn treo Semiramis) và những bức tường của Babylon (Iraq hiện nay) từng được coi là một trong Bảy kỳ quan của thế giới. Chúng được cho là do vua Nebuchadnezzar II xây dựng nên từ khoảng năm 600 TCN. Vườn treo được ghi chép lại rất nhiều trong các tài liệu của các nhà sử học Hy Lạp như Strabo và Diodorus Siculus, nhưng mặc khác lại có ít bằng chứng về sự hiện diện của chúng. Trên thực tế, không hề có bản ghi chép nào của người Babylonia về sự tồn tại của những chiếc vườn như vậy. Một số (chi tiết) bằng chứng thu thập được khi khai quật cung điện tại Babylon thể hiện, nhưng không hoàn toàn chứng minh được nó giống những miêu tả. Một số trường phái tư tưởng qua nhiều thời kỳ có thể đã nhầm lẫn vị trí của nó với những vườn đã tồn tại ở Nineveh và việc phát hiện những phiến đá chứng minh cho sự tồn tại của nó đã được tìm ra. Những đoạn văn trên những phiến đá đó miêu tả khả năng sử dụng một thứ gì đó tương tự như một máy bơm kiểu đinh vít của Archimedes để đưa nước lên độ cao cần thiết. Vườn treo có thể không thực sự là "treo" theo nghĩa là nó được treo lên bằng các loại dây. Tên của nó bắt nguồn từ việc dịch không chính xác từ kremastos trong tiếng Hy Lạp hay từ pensilis trong tiếng La tinh, vốn không chỉ mang nghĩa là "treo” mà là "nhô ra ở trên," như trường hợp một sân thượng hay một ban công. Gọi là Vườn Treo vì vườn ở trên cao gồm 4 tầng xây dựng bằng đá thành một tháp hơi giống loại Zicgurát là tháp giật cấp rất phổ biến trong kiến trúc Lưỡng Hà. Tầng dưới cùng của vườn là một hình vuông kích thước 246m x 246m - nằm trên một hệ thống cột 25 x 25 chiếc. Tầng thứ hai là một hình vuông 21 x 21 cột, tầng ba 17 x 17 cột tầng trên cùng 13 x 13 cột với kích thước 123m x 123m. Trên mỗi bậc giật cấp là một vườn phẳng được xây dựng bằng các khối đá dài 5m rộng 1,2m đặt trên các tường dày. Trên các tấm đá này phủ một lớp lau sậy trộn nhựa đường, lớp đá lát hai lớp gạch nung, trên lớp này là một tấm chì để nước khỏi thấm xuống tầng dưới. Nhà địa lý Hy Lạp Strabo, người đã miêu tả những vườn đó vào thế kỷ thứ nhất TCN đã viết: “Nó gồm những ban công xây hình vòm, cái nọ chồng trên cái kia, và tựa trên các cột hình khối. (Nó) Có những chỗ lõm vào và được đổ đất vào đó để trồng được những cây lớn. Các cột, vòm, và các sân thượng được xây dựng bằng gạch nung và nhựa đường.”. Vườn treo được ghi chép lại rất nhiều trong các tài liệu của các nhà sử học Hy Lạp như Strabo và Diodorus Siculus, nhưng mặc khác lại có ít bằng chứng về sự hiện diện của chúng. Trên thực tế, không hề có bản ghi chép nào của người Babylonia về sự tồn tại của những chiếc vườn như vậy. Một số (chi tiết) bằng chứng thu thập được khi khai quật cung điện tại Babylon thể hiện, nhưng không hoàn toàn chứng minh được nó giống những miêu tả. Một số trường phái tư tưởng qua nhiều thời kỳ có thể đã nhầm lẫn vị trí của nó với những vườn đã tồn tại ở Nineveh và việc phát hiện những phiến đá chứng minh cho sự tồn tại của nó đã được tìm ra. Những đoạn văn trên những phiến đá đó miêu tả khả năng sử dụng một thứ gì đó tương tự như một máy bơm kiểu đinh vít của Archimedes để đưa nước lên độ cao cần thiết. Vườn treo có thể không thực sự là "treo" theo nghĩa là nó được treo lên bằng các loại dây. Tên của nó bắt nguồn từ việc dịch không chính xác từ kremastos trong tiếng Hy Lạp hay từ pensilis trong tiếng La tinh, vốn không chỉ mang nghĩa là "treo” mà là "nhô ra ở trên," như trường hợp một sân thượng hay một ban công. Gọi là Vườn Treo vì vườn ở trên cao gồm 4 tầng xây dựng bằng đá thành một tháp hơi giống loại Zicgurát là tháp giật cấp rất phổ biến trong kiến trúc Lưỡng Hà. Tầng dưới cùng của vườn là một hình vuông kích thước 246m x 246m - nằm trên một hệ thống cột 25 x 25 chiếc. Tầng thứ hai là một hình vuông 21 x 21 cột, tầng ba 17 x 17 cột tầng trên cùng 13 x 13 cột với kích thước 123m x 123m. Trên mỗi bậc giật cấp là một vườn phẳng được xây dựng bằng các khối đá dài 5m rộng 1,2m đặt trên các tường dày. Trên các tấm đá này phủ một lớp lau sậy trộn nhựa đường, lớp đá lát hai lớp gạch nung, trên lớp này là một tấm chì để nước khỏi thấm xuống tầng dưới. Nhà địa lý Hy Lạp Strabo, người đã miêu tả những vườn đó vào thế kỷ thứ nhất TCN đã viết: “Nó gồm những ban công xây hình vòm, cái nọ chồng trên cái kia, và tựa trên các cột hình khối. (Nó) Có những chỗ lõm vào và được đổ đất vào đó để trồng được những cây lớn. Các cột, vòm, và các sân thượng được xây dựng bằng gạch nung và nhựa đường.”
|
Vườn treo Babylon
|
Vườn Treo Babylon là một trong Bảy kỳ quan thế giới cố đại được nhắc đến trong văn hóa Hy Lạp cổ đại. Nó được ca ngợi là một thành tựu nổi bật về kỹ thuật xây dựng với một chuỗi vườn bậc thang, có đủ các loại cây, cây bụi và cây leo đa dạng, tạo nên một ngọn núi xanh lớn được đắp bởi gạch bùn. Vườn treo được cho là được xây dựng tại thành phố cổ đại Babylon, gần thành phố Hillah tỉnh Babil, Iraq ngày nay. Tên của nó được lấy nguồn gốc từ chữ Hy Lạp kremastós (κρεμαστός có nghĩa là "treo qua"), dùng để chỉ những cây cối được trồng trên một cấu trúc trên cao như là ban công hay sân thượng. Theo một truyền thuyết, vườn treo nằm kế bên một cung điện rất lớn được biết đến với cái tên Kì quan của nhân loại, được xây dựng bởi Nebuchadnezzar II thời Tân Babylon (trị vì 605- 562 TCN), dành tặng cho vợ của mình, Amytis người Media, để làm bà khuây khỏa nỗi nhớ quê hương, nơi vốn có những ngọn đồi và thung lũng xanh tươi. Điều này được ghi chép lại bởi một tu sĩ người Babylon, Berossus, vào khoảng 290 TCN, sau này được dẫn lại bởi Josephus.
|
Rubella (hay sởi Đức) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus gây nên, khả năng lây lan cao nên có thể bùng phát thành dịch. Tất cả những người chưa có miễn dịch với Rubella đều có nguy cơ mắc bệnh, trong đó, trẻ em và thanh thiếu niên là những nhóm đối tượng có nguy cơ cao. Bài viết dưới đây về bệnh Rubella (sởi Đức) được sự tư vấn của ThS.BS Bùi Ngọc An Pha, Cố vấn chuyên môn Hệ thống Trung tâm tiêm chủng cho Trẻ em và Người lớn VNVC. Rubella còn được gọi là sởi Đức hoặc Sởi 3 ngày, là một bệnh truyền nhiễm do virus gây ra. Mặc dù Rubella và Sởi có chung một số đặc điểm như là phát ban đỏ, nhưng Rubella được gây ra bởi một loại virus hoàn toàn khác với bệnh Sởi thông thường. Rubella nằm trong nhóm bệnh có chỉ số lây nhiễm cao nhất – lên đến 80% ở những người chưa từng có miễn dịch. Dịch bệnh Rubella có tính chu kỳ, trung bình khoảng 7 đến 8 năm, có khi dài hơn. Tại khu vực miền Bắc nước ta, bệnh thường phát triển mạnh ở các tháng mùa Đông – Xuân, còn tại miền Nam bệnh có thể gặp quanh năm. Mặc dù nhiễm virus Rubella thường gây sốt nhẹ và phát ban ở trẻ em và người lớn, tuy nhiên, điều đáng lo ngại là nếu phụ nữ mang thai nhiễm virus Rubella trong thai kỳ, đặc biệt là trong 3 tháng đầu, có thể dẫn đến sẩy thai, thai chết lưu, sinh non hoặc trẻ sơ sinh bị dị tật bẩm sinh, được gọi là hội chứng Rubella bẩm sinh (CRS). Nguyên nhân gây bệnh Rubella là do Rubella virus, thuộc họ Togaviridae. Cho đến nay chỉ có 1 týp huyết thanh của virus Rubella được phát hiện và người là ổ chứa duy nhất của chủng virus này. Vì vậy, người đang mắc bệnh Rubella là nguồn truyền nhiễm duy nhất. Virus Rubella có đường kính từ 45 – 75 nm, bao ngoài bằng lipid và trên bề mặt có gai glycoprotein. Virus Rubella bất hoạt bởi nhiệt độ cao và các loại dung dịch sát khuẩn thông thường. Tùy thuộc vào nhiệt độ và độ ẩm không khí, virus có thể tồn tại trong trại thái gây bệnh ngoài môi trường từ một đến vài giờ. Những khu vực đông người như trường học, bệnh viện, nhà máy,… là môi trường lây bệnh thường gặp nhất. Sau khi xâm nhập vào cơ thể, virus Rubella nhân lên trong các tế bào đường hô hấp, lan đến các hạt lympho rồi vào đường máu. Sau khi nhiễm hoặc tiêm vắc xin phòng bệnh Rubella, cơ thể sẽ có miễn dịch bền vững và bảo vệ trọn đời. Giống như Sởi hay các bệnh lây truyền qua đường hô hấp, bệnh Rubella lây truyền khi người lành hít phải những giọt nước bọt của người mang mầm bệnh phát tán vào không khí khi hắt hơi, ho, hay nói chuyện. Ngoài ra, Rubella cũng có khả năng lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết mũi hoặc cổ họng của người bị nhiễm bệnh. Virus Rubella có khả năng lây truyền cao nhất vào giai đoạn phát ban. Tuy nhiên, bệnh có thể lây nhiễm từ 1 tuần trước khi phát ban và 1 tuần sau khi phát ban. Phụ nữ mang thai có thể lây truyền virus Rubella cho con thông qua nhau thai. Tùy thuộc vào nhiễm virus trong giai đoạn nào của thai kỳ sẽ có những ảnh hưởng khác nhau lên thai nhi. Ở trẻ bị hội chứng Rubella bẩm sinh có thể lây truyền virus trong khoảng thời gian 1 năm hoặc lâu hơn. Dịch tiết từ đường hô hấp và nước tiểu trẻ sơ sinh mắc bệnh Rubella bẩm sinh chứa lượng lớn virus trong nhiều tháng. Vì vậy bệnh Rubella bẩm sinh có thể lây truyền từ trẻ cho những người xung quanh chăm sóc trẻ. Có 3 giai đoạn phát triển của bệnh Rubella: giai đoạn ủ bệnh, giai đoạn phát bệnh và giai đoạn lui bệnh. Sau khi xâm nhập vào cơ thể, virus Rubella thường có thời gian ủ bệnh từ 12 – 23 ngày (trung bình từ 16 – 18 ngày). Ở giai đoạn này, người bệnh đã nhiễm virus Rubella nhưng chưa có biểu hiện bệnh. Ở giai đoạn phát bệnh, người bệnh Rubella thường có 3 triệu chứng điển hình là sốt và phát ban. Bệnh nhân Rubella thường sốt nhẹ khoảng 38 độ C đi kèm các triệu chứng nhức đầu, đau họng, chảy mũi trong, một số trường hợp bị đỏ mắt, xuất hiện từ 1 tới 4 ngày. Sau khi người bệnh phát ban thì triệu chứng sốt thuyên giảm. Phát ban là dấu hiệu đặc trưng nhất ở bệnh nhân Rubella. Ban đầu, ban thường mọc trên đầu, mặt rồi dần dần lan khắp toàn thân không theo quy luật trong vòng 24 giờ. Nốt ban Rubella có hình tròn hoặc bầu dục, ban nhỏ giống ban sởi nổi thành từng mảng hoặc riêng lẻ, có đường kính từ 1 – 2mm. Trong một số trường hợp, hạch có thể nổi ở vùng bẹn, cổ, xương chẩm. Hạch thường nổi trước khi phát ban và tồn tại vài ngày sau khi ban lặn hết. Ngoài ra, đối với người lớn (phổ biến hơn ở phụ nữ) khi bị nhiễm bệnh, có thể bị viêm khớp và các cơn đau khớp thường kéo dài từ 3 đến 10 ngày. Một khi bị nhiễm bệnh, virus lây lan khắp cơ thể bệnh nhân trong khoảng 5 – 7 ngày. Các triệu chứng thường xuất hiện 2 đến 3 tuần sau khi bệnh nhân tiếp xúc với mầm bệnh. Khi lui bệnh, người bệnh hết sốt, ban lặn nhanh không theo quy luật và không để lại dấu vết trên da, thường sau 1 tuần hạch sẽ trở về bình thường. Bệnh thường có diễn biến lành tính và nhẹ hơn Sởi, ít khi xảy ra tình trạng bội nhiễm. Bệnh Rubella hầu như ít có nguy cơ tử vong nhưng vẫn có thể dẫn đến những biến chứng không thể xem thường như viêm não – màng não, viêm rễ thần kinh, sưng khớp và đặc biệt nguy hiểm ở phụ nữ mang thai. Người lớn hoặc trẻ em đều có nguy cơ mắc bệnh Rubella. Nhưng ở một số đối tượng, nguy cơ mắc bệnh Rubella cao hơn những người khác như:. Người đi đến những quốc gia khác, đặc biệt là những nơi đang thịnh hành dịch Rubella. Rubella theo tiếng Latin có nghĩa là “chấm đỏ”, nên có thể thấy dấu hiệu đặc trưng nhất có thể nhận thấy ở người bệnh Rubella là những ban đỏ xuất hiện từ 14 đến 21 ngày sau khi virus Rubella đi vào cơ thể. Ở thể Rubella điển hình, những dấu hiệu bệnh thường nhẹ và lành tính, tỷ lệ tử vong và biến chứng thấp. Bệnh nhân thể Rubella điển hình thường sốt nhẹ, biểu hiện ban đỏ, có các dấu hiệu ở cơ quan bạch huyết. Ngoài dấu hiệu điển hình là ban đỏ xuất hiện đầu tiên ở mặt, cổ và lan khắp toàn thân, người bệnh Rubella còn thường gặp tổn thương bạch huyết ở vùng sau tai, vùng chẩm, cổ sau. Ở người lớn mắc bệnh Rubella thường sốt và phát ban nhiều hơn, kèm theo các biểu hiện điển hình là mệt mỏi, biếng ăn, đau khớp. Ở thể Rubella bẩm sinh, phụ nữ khi mang thai mắc bệnh Rubella rất dễ bị sảy thai, đẻ non, gây dị tật bẩm sinh cho thai nhi. Ba biến chứng thường gặp nhất ở trẻ mắc Rubella bẩm sinh là đục thủy tinh thể, thiểu năng tim và điếc bẩm sinh. Các biểu hiện của biến chứng có thể đơn thuần hay phối hợp, tổn thương có thể mang tính tạm thời hoặc vĩnh viễn. Thông thường, bệnh Rubella rất dễ bị nhầm lẫn với Sởi do có nhiều triệu chứng giống nhau. Để có thể phân biệt được hai căn bệnh này, bạn có thể dựa vào một số điểm đặc trưng sau. Phát ban nổi rõ thành từng đốm, lành vẫn có thể để lại dấu vết. Có giai đoạn tiền triệu chứng đặc trưng với các biểu hiện như sốt, chảy nước mũi, ho khan, viêm kết mạc. Để chẩn đoán chính xác bệnh Rubella, ngoài dựa vào các triệu chứng lâm sàng, dịch tễ, các bác sĩ còn thực hiện một số phương pháp chẩn đoán như: ELISA tìm kháng thể chuyên biệt, HI (Hemagglutination inhibition) – ức chế ngưng kết hồng cầu, IHA (Indirect Hemagglutination) – ngưng kết hồng cầu thụ động, LA (Latex Agglutination) – ngưng kết Latex, xét nghiệm miễn dịch định lượng IgM và IgG. Trong các phương các xét nghiệm trên, việc chẩn đoán bệnh Rubella chủ yếu dựa trên xét nghiệm miễn dịch định lượng IgM và IgG. IgM và IgG là hai loại kháng thể trong máu được sản xuất bởi hệ thống miễn dịch để đáp ứng virus Rubella. Kháng thể này xuất hiện trong máu khi người bệnh tiếp xúc với virus Rubella, tăng lên và đạt đỉnh điểm trong khoảng 7 – 10 ngày sau nhiễm trùng. Kháng thể IgG xuất hiện muộn hơn IgM nhưng tồn tại suốt đời trong cơ thể để đề phòng sự tái nhiễm virus Rubella. Biến chứng của bệnh Rubella thường gặp ở người lớn nhiều hơn ở trẻ em.
|
Sởi Đức
|
Sởi Đức (tiếng Anh: German measles hay rubella) là một bệnh truyền nhiễm rất dễ lây do virus rubella gây ra, và sau khi mắc bệnh sẽ để lại một miễn dịch suốt đời. Virus Rubella chỉ gây bệnh cho người và thường là ở trẻ em. Điển hình của bệnh là xuất hiện các nốt ban đỏ (phát ban) ngoài da, có thể kèm theo sốt và sưng hạch bạch huyết. Thai phụ nhiễm virus Rubella trong thời gian mang thai có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như sẩy thai, thai chết lưu và dị tật bẩm sinh. Hiện nay đã có Vắc-xin phòng ngừa bệnh sởi Đức. Tên rubella đôi khi bị nhầm lẫn với từ rubeola là một từ khác có nghĩa là bệnh sởi được dùng ở các nước nói tiếng Anh, tuy nhiên 2 bệnh này không liên quan gì với nhau. Ở một số nước Châu Âu khác như Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, rubella và rubeola là từ đồng nghĩa, nhưng rubeola không phải là tên gọi khác của bệnh sởi. Rubella còn được gọi là bệnh sởi Đức vì căn bệnh này lần đầu tiên được mô tả bởi các bác sĩ người Đức ở giữa thế kỷ thứ mười tám.
|
Ngày nay, chúng ta nghe rất nhiều đến trí tuệ cảm xúc (EQ), vai trò quan trọng của cảm xúc được đa phần mọi người quan tâm và trở thành yếu tố quan trọng không thể phủ nhận trong lối sống của mỗi chúng ta. Có rất nhiều cảm xúc mà một con người có thể trải nghiệm. Rất nhiều như vậy, làm thế nào chúng ta có thể nhận diện những “dòng nước hỗn loạn” của cảm xúc, mà không bị tràn đầy, mất kiểm soát? Trong khi thật khó để hiểu được tất cả cảm xúc khác nhau. Đặc biệt khi tâm trí chúng ta trong tình trạng căng thẳng, bị rơi vào phản ứng chiến đấu hoặc chạy trốn (fight or fly). Khi đó, các cảm xúc xuất hiện một cách mãnh liệt, tâm trí không thể duy trì sự tỉnh táo và khả năng kiểm soát nữa. Lúc đó, những gì chúng ta biết về cảm xúc của mình và phản ứng cảm xúc phù hợp đặt biệt hữu ích. Cảm xúc là một trạng thái trải nghiệm tích cực hoặc tiêu cực có liên quan đến các vận hành của hệ thống thể lý và tâm lý tạo ra những thay đổi về sinh lý, hành vi và suy nghĩ của một người hoặc con vật. Từ đó, 2 nhà Tâm lý học Don Hockenbury và Sandra E. Hockenbury, mô tả cảm xúc được cấu thành bởi ba thành phần cấu tạo nên gồm:. Ngoài việc cố gắng xác định trí tuệ cảm xúc là gì, các nhà nghiên cứu cảm xúc cũng cố gắng xác định và phân loại các cảm xúc khác nhau. Các nghiên cứu tâm lý và hiểu biết về cảm xúc cũng đã thay đổi qua thời gian:. Năm 1972, nhà tâm lý học Paul Eckman cho rằng có sáu cảm xúc cơ bản phổ biến khắp các nền văn hóa của con người: sợ hãi, ghê tởm, giận dữ, bất ngờ, hạnh phúc và buồn bã. Năm 1999, ông đã mở rộng danh sách này để bao gồm một số cảm xúc cơ bản khác, bao gồm bối rối, phấn khích, khinh miệt, xấu hổ, tự hào, hài lòng và vui chơi. Vào những năm 1980, Robert Plutchik đã giới thiệu một hệ thống phân loại cảm xúc khác được gọi là “bánh xe cảm xúc”. Các cảm xúc cơ bản được xây dựng trên các cập đối lập, và cường độ được thể hiện qua độ đậm nhạt của màu sắc. Mô hình này còn chứng minh cách các cảm xúc khác nhau có thể được kết hợp hoặc trộn lẫn với nhau, giống như cách một họa sĩ trộn các màu cơ bản để tạo ra các màu khác. Câu hỏi về nguồn gốc của trí tuệ ảm xúc được cha đẻ của thuyết tiến hóa, Charles Darwin lý giải: Cảm xúc tiến hóa để cho phép con người và động vật sống thích nghi, sống sót và sinh sản. Tình yêu sự vui thú giúp con người tìm kiếm bạn tình và sinh sản. Sự sợ hãi buộc con người phải chiến đấu hoặc chạy trốn khỏi kích thích mang lại nguy hiểm. Vì vậy, cảm xúc tồn tại giúp chúng ta thích nghi và sinh tồn. Cảm xúc thúc đẩy con người phản ứng kịp thời trước các kích thích ngoài môi trường, giúp nâng cao cơ hội sống sót. Một lý giải khác của James – Lange cho rằng: Khi gặp một kích thích từ bên ngoài môi trường, dẫn đến một phản ứng sinh lý bên trong cơ thể. Lúc này, cảm xúc của bạn sẽ xuất hiện phụ thuộc vào cách bạn diễn giải những phản ứng sinh lý đó. Ví dụ, giả sử khi bạn đi trong khu rừng và nhìn thấy một con thú nguy hiểm. Bạn bắt đầu run rẩy, tim bạn bắt đầu đập nhanh. James – Lange cho rằng ở tình huống đó, bạn sẽ diễn giải những phản ứng sinh lý của mình và đưa ra kết luận rằng bạn đang sợ hãi (“Tôi đang run rẩy, vì vậy tôi sợ hãi”). Theo học thuyết này, bạn không run rẩy vì bạn sợ, thay vào đó, bạn cảm thấy sợ hãi vì mình đang run rẩy. Việc đi tìm một nguồn gốc bản chất nhất của cảm xúc vẫn là nhiệm vụ các nhà khoa học đang theo đuổi. Cho đến hiện tại, vẫn chưa có một kết luận chắc chắn, nhưng chúng ta không thể phủ nhận rằng, mỗi lý giải được đề xuất và sử dụng nó đều có ý nghĩa giúp chúng ta hiểu các góc nhìn khác nhau của cảm xúc. Trang tin y tế YouMed chỉ sử dụng các nguồn tham khảo có độ uy tín cao, các tổ chức y dược, học thuật chính thống, tài liệu từ các cơ quan chính phủ để hỗ trợ các thông tin trong bài viết của chúng tôi. Tìm hiểu về Quy trình biên tập để hiểu rõ hơn cách chúng tôi đảm bảo nội dung luôn chính xác, minh bạch và tin cậy. Từ đó đến nay, HON đã thực hiện chứng nhận cho các trang web y tế uy tín hàng đầu thế giới như WebMD, Mayo Clinic… Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ (US National Library of Medicine – NLM) gợi ý chứng nhận “HONcode” là một trong những cơ sở để xác định sự tin cậy của một trang tin chuyên về y tế. YouMed đã phải tuân thủ nghiêm ngặt 8 tiêu chí để có thể được HON chứng nhận. 2 tiêu chí nổi bật nhất là tất cả bài viết đều được dẫn nguồn chính thống và được viết bởi 100% Bác sĩ, Dược sĩ. Chính đều này tạo nên điểm khác biệt giữa YouMed và các trang web khác.
|
Cảm xúc
|
Cảm xúc là một trạng thái sinh học liên quan đến hệ thần kinh đưa vào bởi những thay đổi sinh lý thần kinh khác nhau như gắn liền với những suy nghĩ, cảm xúc, phản ứng hành vi và mức độ của niềm vui hay không vui. Hiện tại không có sự đồng thuận khoa học về một định nghĩa chung về cảm xúc. Cảm xúc thường đan xen vào nhau với tâm trạng, tính khí, cá tính, sáng tạo và động lực. Nghiên cứu về cảm xúc đã tăng đáng kể trong hai thập kỷ qua với nhiều lĩnh vực đóng góp bao gồm tâm lý học, khoa học thần kinh, khoa học thần kinh ảnh hưởng, nội tiết học, y học, lịch sử, xã hội học cảm xúc và khoa học máy tính. Nhiều lý thuyết cố gắng giải thích nguồn gốc, sinh học thần kinh, kinh nghiệm và chức năng của cảm xúc chỉ thúc đẩy nghiên cứu mạnh mẽ hơn về chủ đề này. Các lĩnh vực nghiên cứu hiện nay trong khái niệm cảm xúc bao gồm phát triển các tài liệu kích thích và khơi gợi cảm xúc. Ngoài ra, scan PET và scan fMRI giúp nghiên cứu các quá trình hình ảnh tình cảm trong não.
|
Nam Hoa kinh (南華經) hay còn gọi Nam Hoa chân kinh (南華真經) là cuốn sách triết học nổi tiếng thường được cho là của Trang Chu thời Chiến Quốc viết. Cuốn sách ngoài giá trị triết lý còn có giá trị nghệ thuật rất cao, được Kim Thánh Thán liệt vào hạng nhất trong lục tài tử thư của Trung Quốc. Theo truyền thuyết, Nam Hoa kinh được Trang Châu viết khi ông vào ở ẩn tại núi Nam Hoa thuộc nước Tống thời xưa. Nhưng theo các nhà nghiên cứu, ngoại trừ Nội thiên, phần lớn sách Nam Hoa (tạp thiên, ngoại thiên) không phải do Trang tử viết mà là của hậu thế thêm vào. Sách được viết vào lúc nào, không ai nói chắc vì chính Trang tử cũng không ai chắc là sinh mất vào năm nào. Đây là chương tối quan trọng trong toàn bộ tác phẩm, diễn đạt tư tưởng thái thậm vô vi của Trang Châu qua lời văn rất hàm súc, uyển chuyển ý tứ thoáng đạt và trí tưởng tượng hùng hậu. Nội thiên được nhiều người tin là của Trang tử viết nhất, gồm 7 thiên có tựa đề:. Tiêu dao du: Nghĩa là thảnh thơi tự tại, phần này văn chương rất bay bổng. Mượn hình ảnh con chim Bằng, con cá Côn để ví cái sự tự tại mà người ta nên hướng tới. Theo Vương Tiên Khiêm: “tiêu dao tự tại là siêu thoát ra ngoài thế vật, theo lý thiên nhiên”. Theo Quách Tượng, thì tiêu dao theo quan niệm của Trang là “Vật tuy lớn nhỏ khác nhau (…) nhưng mỗi loài cứ theo thiên tính của mình, làm theo khả năng của mình”. Học giả Nguyễn Hiến Lê viết sách bình chú cho đoạn này, ghi ra ba điều kiện của sự tiêu dao tự tại:. Tuy nhiều nhà kiến giải bằng nhiều cách khác nhau, thậm chí phản bác, song đa số đều cho rằng đoạn này có văn chương đẹp nhất. Đoạn văn sau đây rất nổi tiếng trong Tiêu dao du, được viết với trí tưởng tượng hùng hậu không một văn gia cùng thời nào sánh kịp:. Tề vật luận: Nghĩa là luận về sự bình đẳng của vạn vật. Thiên gồm nhiều bài luận triết có giá trị, được nhiều người cho là quan trọng và là thiên huyền diệu nhất trong nội thiên. Theo Trang tử, muốn đạt tới sự Tiêu dao du thì phải xem vạn vật bình đẳng, xem rộng ra sẽ thấy sống chết như nhau, giàu nghèo không khác, xấu đẹp cũng vậy… Từ đó sẽ thấy tham sống, tham giàu, tham đẹp… là sai, vì mỗi hoàn cảnh, mỗi vật có một giá trị riêng của nó, tất cả đều nằm trong Đạo. Trang tử còn nói lên sự vô ích của tranh luận trong đoạn văn thứ 12: hai người tranh luận, đều tự cho mình là phải, vậy tranh luận làm gì ? Mời người thứ ba đến lại càng làm cho sự việc thêm khó giải quyết nữa, vì người thứ ba cũng sử dụng quan điểm riêng của mình để phân phải trái. Càng tranh biện càng làm cho chân lý mờ tối, vì thành kiến: “Đạo bị thành kiến nhỏ nhen che lấp, lời nói bị sự hoa mỹ phù phiếm che lấp“. Ông đưa ra quan điểm nói về sự ngang hàng của vạn vật, chỉ tại thành kiến mà sinh ra những đánh giá, phán xét khác nhau; một vật vô dụng ở chỗ này nhưng hữu dụng ở chỗ khác, nơi này thấy xấu nhưng nơi kia thấy đẹp. Tề vật luận cũng có thể hiểu là thái độ trung lập, khách quan, không bị định kiến chi phối khi nhận thức mà Trang tử muốn hướng đến. Chỉ có từ bỏ hết mọi định kiến người ta mới nhận thức đúng đắn thế giới khách quan. Khi đã vứt bỏ hết định kiến hay còn gọi là chấp thủ thì con người được giải thoát để sống ung dung, tự tại. Triết lý của Trang tử cũng tương tự với triết lý Phật giáo về sự phá chấp. Trong phần Tề vật luận có bài cuối cùng thường được người sau gọi là Mộng hồ điệp, hay Trang Chu mộng hồ điệp là một đoạn văn nổi tiếng kim cổ. Câu “Không biết Chu chiêm bao là bướm hay bướm chiêm bao là Chu” (不知周之夢為胡蝶與?) rất thú vị, với lẽ “Bướm chiêm bao là Châu” thì cả cuộc đời phức tạp chỉ nằm trong một giấc mơ của con bướm mà thôi. Ngoại thiên phần lớn là chuyện ngụ ngôn nhằm diễn lại các ý của phần nội thiên. Theo nhiều người thì phần này không do Trang tử viết mà là của các đệ tử theo tư tưởng Lão – Trang thêm vào. Ngoại thiên gồm 15 thiên có tựa đề: Biền mẫu, Mã đề, Khứ cự, Tại hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tính, Thu thủy, Chí lạc, Đạt sinh, Sơn mộc, Điền tử phương, Tri bắc du. Đây là một chương không quan trọng, lời văn nhiều phần thô kệch được cho là của nhiều hạng thêm vào. Gồm 11 thiên: Canh tang sở, Từ vô quỷ, Tắc dương, Ngoại vật, Ngụ ngôn, Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ, Liệt ngự khấu, Thiên hạ. Bản chú thích của Tư Mã Bưu, 21 quyển, 52 thiên: Nội thiên có 7, Ngoại thiên có 28 và Tạp thiên có 14, Giải thuyết có 3 thiên. Bản chú nầy hiện nay đã thất lạc, chưa tìm ra. Bản chú của Thôi Soạn, 10 quyển 27 thiên gồm: Nội thiên có 7, Ngoại thiên có 20. Quyển sách nầy cũng đã mất. Bản chú của Hướng Tú, 20 quyển 26 thiên, không có Tạp thiên. Bản nầy cũng đã mất. Bản chú của Quách Tượng, 33 quyển 33 thiên. Nội thiên có 7, Ngoại thiên có 15, Tạp thiên có 11. Bản nầy hiện còn nhưng sửa lại còn 10 quyển. Trang Tử, Nam Hoa Kinh, tựa, tổng luận và lời giải của Lâm Tây Trọng, bản dịch và lời bàn của Nhượng Tống, Hà Nội: Nhà xuất bản Tân Việt, 1944; tái bản: Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2001. Nguyễn Văn Dương dịch, Sài Gòn: Ban Tu thư Viện Đại học Vạn Hạnh, 1968; tái bản: Hà Nội: Nhà xuất bản Thanh Niên, 1999
|
Nam Hoa kinh
|
Trang Tử, hay còn được biết đến rộng rãi hơn trong tiếng Việt với tên gọi Nam Hoa kinh, là một tác phẩm triết học, văn học Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc (476–221 TCN) thường được cho là do Trang Chu viết. Tác phẩm chứa đựng nhiều điển tích và ngụ ngôn diễn đạt tư tưởng thái thậm vô vi của Đạo gia. Nam Hoa kinh cùng với Đạo đức kinh là hai tác phẩm quan trọng nhất của Đạo giáo. Nam Hoa kinh là một tập hợp các giai thoại, ngụ ngôn, trọng ngôn và chi ngôn được thể hiện bằng thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Các giai thoại và ngụ ngôn trong Nam Hoa kinh trình bày quan điểm tư tưởng triết lí nhân sinh, cũng như cách nhìn nhận của con người về thị phi, thiện ác, sinh tử và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trong khi các triết gia Trung Quốc khác thường chú trọng tới vấn đề luân thường đạo lý hay trách nhiệm của mỗi cá nhân thì Trang Chu lại đề cao sự vô vi, hướng con người tới cảnh giới tiêu diêu tự tại để đắc Đạo.
|
Viêm dạ dày ruột là bệnh lý tiêu hóa phổ biến, gây ảnh hưởng trực tiếp đến dạ dày, niêm mạc ruột của con người. Trong bài viết này, chuyên gia tiêu hóa, lương y Đặng Thị Nhân Tâm sẽ cung cấp những thông tin bổ ích như: triệu chứng, nguyên nhân gây bệnh cũng như phác đồ điều trị bệnh hiệu quả nhất. “Viêm dạ dày ruột là một loại nhiễm trùng đường tiêu hóa. Nguyên nhân trực tiếp gây bệnh đó là virus Rota thuộc họ Reoviridae. Loại virus này thường tấn công vào những nhóm đối tượng có hệ miễn dịch kém, đặc biệt là người già và trẻ nhỏ”. Ngoài ra, lương y còn cho biết thêm, khi loại virus này xâm nhập vào cơ thể con người sẽ gây ra triệu chứng sốt kéo dài, tiêu chảy, đau bụng, đau đầu. Co thắt dạ dày: virus tấn công niêm mạc dạ dày, gây viêm loét. Từ đó người bệnh sẽ phải chịu đựng những cơn đau co bóp dạ dày. Cơ thể mất nước trầm trọng: Bệnh lý gây tiêu chảy kéo dài khiến người bệnh mất nước và chất điện giải nhanh chóng. Tình trạng này tiếp diễn có thể dẫn đến suy thận, thậm chí tử vong. Sốt kéo dài: Bệnh nhân sẽ sốt đột ngột trên 38 độ C. Biến chứng này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trí não người bệnh. Ung thư dạ dày: Tế bào dạ dày bị viêm loét, thậm chí là hoại tử nếu không được chữa trị dứt điểm. Bên cạnh đó, bệnh còn được chia thành nhiều dạng bệnh khác nhau. Mỗi dạng đều có biểu hiện và cách điều trị riêng biệt người bệnh nên chú ý. Sau đây lương y Nhân Tâm sẽ giúp người bệnh hiểu rõ về các dạng bệnh viêm dạ dày ruột. Từ đó tìm ra phác đồ điều trị bệnh hiệu quả, dứt điểm. Bệnh viêm dạ dày ruột cấp là tình trạng bị viêm niêm mạc ruột, thường do nhiễm trùng gây ra. Các virus, vi khuẩn lây lan qua thực phẩm, nguồn nước bị ô nhiễm, tiếp xúc với người bệnh. Nếu không được chữa trị kịp thời bệnh có thể kéo dài khiến cơ thể người bệnh mất sức, suy nhược cơ thể trầm trọng. Bệnh lý này xảy ra khi các tế bào thay đổi hình thái và cấu trúc khác với nguyên bản. Chuyển sản ruột thường xảy ra ở dạ dày gây nên viêm dạ dày mãn tính chuyển sản ruột. Đồng thời thay đổi hình thái và cấu trúc của các tế bào trong dạ dày. Viêm dạ dày mãn tính chuyển sản ruột được xem là dấu hiệu tiền ung thư. Bệnh lý này thường xuất hiện ở người bệnh trào ngược dạ dày, viêm loét dạ dày HP…. Lương y Nhân Tâm nhấn mạnh, viêm dạ dày chuyển sản ruột không có dấu hiệu điển hình. Người bệnh khi mắc các vấn đề nghiêm trọng về dạ dày cần làm xét nghiệm sinh thiết để sàng lọc và chẩn đoán. Bên cạnh người lớn, trẻ nhỏ cũng là đối tượng đặc biệt dễ mắc bệnh lý này. Vì vậy, bố mẹ nên hiểu rõ về đầu bệnh ở trẻ em. Từ đó, tìm được phác đồ điều trị bệnh hiệu quả cho con. Trẻ em có sức đề kháng kém và hệ tiêu hóa chưa phát triển toàn diện. Vì vậy, đây là đối tượng dễ bị virus Rota nhóm B tấn công gây nên bệnh lý viêm dạ dày ruột cấp. Khi có những biểu hiện trên bố mẹ hãy đưa con đến thăm khám ngay tại các cơ sở y tế để điều trị dứt điểm bệnh. Tuyệt đối không để tình trạng mất nước, tiêu chảy kéo dài, tránh ảnh hưởng đến sự phát triển trí não của trẻ. Bệnh lý viêm dạ dày đường ruột có những chuyển biến phức tạp và nguy hiểm đối với cả người lớn và trẻ em. Vì vậy, khi phát hiện triệu chứng, người bệnh hãy nhanh chóng điều trị để tránh trường hợp xấu nhất xảy ra. Điều trị bệnh lý được chia làm 2 phác đồ riêng biệt dành cho người lớn và trẻ nhỏ. Điều trị viêm dạ dày ruột cấp ở trẻ nhỏ khá khó khăn. Bởi lẽ, trẻ em là đối tượng không nên sử dụng thuốc kháng sinh. Theo lương y Nhân Tâm, điều trị bằng phương pháp bảo tồn giúp khắc phục triệu chứng bệnh ở trẻ nhỏ. Thực đơn ăn uống khoa học: Bổ sung các chất dinh dưỡng cần thiết cho trẻ trong quá trình điều trị. Lưu ý bố mẹ chỉ nên cho trẻ em thức ăn dạng lỏng Điều này hỗ trợ hệ tiêu hóa hoạt động tốt hơn. Nếu điều trị bằng phương pháp bảo tồn vẫn không khắc phục được triệu chứng bệnh lý, bố mẹ nên sớm nhờ sự giúp đỡ của bác sĩ chuyên khoa. Lưu ý: Khi điều trị bằng thuốc tân dược người bệnh sẽ gặp một số tác dụng phụ như đau đầu, buồn nôn, chóng mặt, nhờn thuốc… Vì vậy, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng. Bên cạnh thuốc Tây y, thuốc Đông y cũng là phương pháp điều trị được nhiều người bệnh tin dùng. Từ xa xưa, ông cha ta đã tìm ra nhiều vị thảo dược tự nhiên có thành phần dược chất đặc trị viêm dạ dày ruột hiệu quả. Một trong những thảo dược quý hiếm phải kể đến:. Đông y có hiệu quả điều trị bệnh toàn diện. Thuốc không tác dụng phụ, an toàn, lành tính, dùng cho nhiều đối tượng bệnh. Vì vậy người bệnh có thể hoàn toàn yên tâm sử dụng lâu dài. Tuy nhiên trong thời kỳ hiện đại ngày nay, việc mất công đun sắc khiến nhiều người ngại không muốn sử dụng Đông y. Để khắc phục nhược điểm đó, các chuyên gia hàng đầu về Y học cổ truyền đã cất công nghiên cứu và ứng dụng công nghệ hiện đại để điều chế nên những bài thuốc tối ưu. Một trong những công trình nghiên cứu được công nhận và đạt hiệu quả chữa bệnh cao là Sơ Can Bình Vị Tán của Thuốc Dân Tộc. Công thức điều chế là sự tổng hòa kết hợp của hơn 10 bài thuốc cổ phương. Thuốc được sắc sẵn và có dạng cao nên thuận tiện cho người sử dụng. Với ưu điểm về dược liệu sạch, chọn lọc từ vùng chuyên canh, đây là giải pháp thích hợp cho tất cả mọi lứa tuổi. Bài thuốc có thể kết hợp trong nhiều liệu trình điều trị đau dạ dày. Bài thuốc được đánh giá là “giải pháp vàng” trong điều trị các chứng về dạ dày, trong đó có viêm dạ dày ruột. Với mục đích giới thiệu đến cho tất cả người bệnh thêm một giải pháp an toàn để lựa chọn, chương trình VTV2 Vì sức khỏe người Việt đã mời Thạc sĩ, bác sĩ Tuyết Lan (Nguyên trưởng khoa khám bệnh – bệnh viện Y học cổ truyền Trung Ương) đến và chia sẻ về cách dùng Đông y để chữa các bệnh về dạ dày. Trong đó có viêm dạ dày ruột. Chương trình có sự tham gia của NSND Trần Nhượng. Ông là một trong những bệnh nhân đau dạ dày mãn tính lâu năm, điều trị nhiều bằng Tây y nhiều nhưng không khỏi. Trong chương trình, bác sĩ Tuyết Lan đã chỉ ra cơ chế tác động để triệt để bệnh từ gốc. Đồng thời hướng dẫn phác đồ điều trị dạ dày bằng Sơ Can Bình Vị Tán cho người bệnh tham khảo. Thông qua chương trình, rất nhiều người đã biết và tìm đến bác sĩ Tuyết Lan để nhờ tư vấn. Cũng nhờ đó, rất nhiều người bệnh đã khỏi các cơn đau và chấm dứt viêm dạ dày ruột, lấy lại cuộc sống vui vẻ hạnh phúc vốn có. Trong đó có cả NSND Trần Nhượng và nhiều người bệnh đau dạ dày mãn tính lâu năm. Chữa từ căn nguyên, loại bỏ và tiêu diệt Hp – nguyên nhân chính gây bệnh để bệnh khỏi triệt để. Thảo dược điều trị kết hợp thảo dược phục hồi, vừa chữa bệnh, vừa bồi bổ cơ thể và phục hồi sức khỏe toàn diện. Cơ chế tác động 3 trong 1 là giải pháp hiện đại tối ưu giúp rút ngắn thời gian so với Đông y truyền thống. Sau 7 – 10 ngày, các triệu chứng cơn đau giảm dần, tình trạng viêm sưng được ức chế. Bài thuốc được giới chuyên môn đánh giá cao và nhận được nhiều phản hồi rất tích cực từ người dân. Đồng thời là sự quan tâm của báo chí nhờ những hiệu quả “thần kỳ” mà nó mang lại. Rất nhiều bài báo đã đăng tin về trung tâm và bài thuốc. Từ đó mở ra cơ hội chữa khỏi đau dạ dày và bệnh viêm dạ dày ruột cho hàng ngàn bà con trên khắp mọi miền đất nước. Báo VTC: Sự thật về hiệu quả chữa bệnh tại trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thuốc Dân Tộc. Người đưa tin: Tác dụng thần kỳ của bài thuốc Sơ Can Bình Vị Tán chữa bệnh dạ dày. Với điều trị viêm dạ dày ruột, bên cạnh phương pháp điều trị bệnh hiệu quả, người bệnh cũng nên chú ý đến thực đơn ăn uống khoa học để khắc phục nhanh triệu chứng khó chịu. Chăm sóc bệnh nhân viêm dạ dày là vấn đề được nhiều người bệnh quan tâm. Dưới đây, lương y Nhân Tâm sẽ giới thiệu đến bạn đọc thực đơn ăn uống tốt dành cho người bệnh viêm dạ dày ruột:. Tinh bột: Cơm, cháo, bánh mì, khoai… Là những thực phẩm giúp ngăn acid dạ dày dư thừa, giảm tình trạng trào ngược. Protein: Thịt, cá, dầu omega-3…giúp làm lành nhanh vết viêm loét, hạn những cơn đau dạ dày. Chất xơ và vitamin: Người bệnh trào ngược dạ dày nên bổ sung nhiều rau, củ mềm. Chúng sẽ giúp thúc đẩy hệ tiêu hóa hoạt động tốt hơn. 30.000 bài viết về bệnh, thuốc, thảo dược, thai kỳ, bí quyết sống khỏe mỗi ngày.
|
Viêm dạ dày ruột
|
Viêm dạ dày ruột hoặc tiêu chảy nhiễm trùng (tiếng Anh: gastroenteritis) là một tình trạng viêm nhiễm đường tiêu hóa liên quan đến cả dạ dày và ruột non. Nó gây ra hỗn hợp vừa tiêu chảy, nôn mửa, đau bụng và chuột rút. Hệ quả là sốt, thiếu năng lượng và mất nước có thể xảy ra, và có thể kéo dài ít hơn 2 tuần. Viêm dạ dày ruột đã được gọi là viêm dạ dày và virus dạ dày. Mặc dù không liên quan đến cúm, nó cũng đã được gọi nhầm là cúm dạ dày và bệnh cúm dạ dày. Viêm dạ dày ruột thường do virus gây ra. Tuy nhiên, vi khuẩn, ký sinh trùng và nấm cũng có thể gây viêm dạ dày ruột. Ở trẻ em, virus rota là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra bệnh nặng. Ở người lớn, norovirus và Campylobacter là những nguyên nhân phổ biến. Ăn thực phẩm chế biến không đúng cách, uống nước bị ô nhiễm hoặc tiếp xúc gần với người bị nhiễm bệnh có thể lây bệnh. Việc điều trị nói chung là giống nhau khi có hoặc không có chẩn đoán xác định, vì vậy thường không cần xét nghiệm để xác nhận.
|
Khi một trong các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận trong hợp đồng thì có thể phải bồi thường thiệt hại cho bên còn lại. Tuy nhiên, pháp luật vẫn quy định một số trường hợp ngoại lệ, một trong số đó là sự kiện bất khả kháng. Vậy, sự kiện bất khả kháng là gì? Dịch bệnh có phải sự kiện bất khả kháng?. Điều khoản về bất khả kháng là một trong những điều khoản phổ biến trong hợp đồng, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên khi ký kết hợp đồng. Sự kiện bất khả kháng được Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Có thể hiểu sự kiện bất khả kháng là những sự kiện, tình huống bất thường ngoài tầm kiểm soát của các bên, như chiến tranh, đình công, nổi loạn, tội phạm, thiên tai (như lũ lụt, động đất, phun trào núi lửa),… xảy ra, và việc đó ngăn cản một hay các bên của hợp đồng trong việc hoàn thành bổn phận và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Vì vậy, bên không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng do sự kiện bất khả kháng thì sẽ được miễn trách nhiệm pháp lý như bồi thường thiệt hại…. Quy định pháp luật là như vậy, nhưng trên thực tế để xem xét một sự kiện có phải sự kiện bất khả kháng không thì rất khó định nghĩa rõ. Chưa có một văn bản pháp luật chính thức nào quy định cụ thể về các trường hợp bất khả kháng, nhiều quan điểm của các nhà lập pháp và hành pháp cho rằng sự kiện bất khả kháng bao gồm nhưng không giới hạn các trường hợp thiên tai, động đất, hỏa hoạn, chiến tranh, đình công, bạo loạn, thay đổi chính sách pháp luật của nước sở tại, thay đổi chính quyền…. Theo đó, sự kiện bất khả kháng nằm ngoài ý chí chủ quan của các bên và các bên không thể dự đoán trước, cũng như không thể tránh và ngăn chặn được, dẫn đến không thể thực hiện hoặc không thể thực hiện đúng hoặc đầy đủ nghĩa vụ theo thỏa thuận đã giao kết. Trong trường hợp gặp sự kiện bất khả kháng, bên vi phạm có thể được miễn trách nhiệm bồi thường, phạt vi phạm, hoặc được giảm trừ giá trị hợp đồng phải bồi thường theo thỏa thuận của các bên và theo pháp luật quốc gia quy định. Impediment (n): sự vật hoặc hiện tượng làm đình trệ hoặc chấm dứt một hoạt động. Trong văn cảnh liên quan đến sự kiện bất khả kháng thì “impediment” được hiểu là một hiện tượng khách quan làm cản trở việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Hậu quả của sự kiện đó không thể khắc phục được mặc dù áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Như vậy, chỉ khi đáp ứng các điều kiện nêu trên thì một sự kiện mới được xem là bất khả kháng và là căn cứ để miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm. Tuy nhiên, bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng cần phải chứng minh bản thân đã nỗ lực dùng những biện pháp cần thiết và trong khả năng cho phép ngăn cản hậu quả do sự kiện này gây ra. Đồng thời, bên bị ảnh hưởng cần chủ động thông báo cho bên kia biết về sự kiện bất khả kháng để không biết mất quyền miễn trách nhiệm. Thông thường, trong hợp đồng sẽ có điều khoản thỏa thuận về sự kiện bất khả kháng và kèm theo là thỏa thuận về thông báo trong trường hợp xảy ra sự kiện này và hậu quả của việc không thông báo. Ví dụ như mất quyền được miễn trách nhiệm hoặc kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng. Do đó, để bảo vệ quyền lợi của mình, bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng nên:. Văn bản, giấy tờ có giá trị chứng minh sự kiện bất khả kháng có xảy ra trên thực tế do cơ quan, nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Nhìn chung quyền xác nhận sự kiện bất khả kháng thường do Phòng thương mại và công nghiệp thực hiện. Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Theo đó, dịch bệnh nói chung và dịch bệnh Covid-19 nói riêng được coi là sự kiện bất khả kháng nếu đáp ứng được 3 yếu tố: Xảy ra một cách khách quan; Không thể lường trước được; Không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến hết sức phức tạp, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành, chỉ đạo quyết liệt các biện pháp đồng bộ nhằm phòng ngừa, ngăn chặn dịch với phương châm “chống dịch như chống giặc”. Bên cạnh những kết quả rất đáng ghi nhận về công tác phòng, chống Covid-19, phải nhìn nhận rằng, dịch bệnh đã làm ảnh hưởng rõ nét đến đời sống kinh tế-xã hội, nhất là lĩnh vực giao thông vận tải, dịch vụ, du lịch, sản xuất, lưu thông hàng hóa, xuất nhập khẩu…. Bên cạnh đó, ngày 29/01/2020, tại Quyết định 219/QĐ-BYT, Bộ Y tế đã bổ sung bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rus Corona gây ra (có tên gọi là Covid-19) vào danh mục các bệnh truyền nhiễm nhóm A. Theo đó, các bệnh truyền nhiễm nhóm A theo Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 gồm những bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm, có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh. Theo tình hình hiện nay, dịch bệnh Covid-19 có mức độ lây lan nhanh, thuộc trường hợp khẩn cấp toàn cầu. Trong tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp hiện tại thì việc cơ quan chức năng đưa ra Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 31/3/2020 về thực hiện cấp bách các biện pháp phòng, chống dịch yêu cầu người dân, các cơ quan tổ chức tránh tiếp xúc, tụ tập và ra ngoài trong vòng 15 ngày trừ trừ các trường hợp thật sự cần thiết. Như vậy, dịch bệnh được coi là đáp ứng quy định về yếu tố khách quan và không thể lường trước được bởi đã có Chỉ thị của cơ quan quản lý nhà nước buộc tất cả mọi người phải tuận theo. Từ đó khả năng dẫn đến yếu tố thứ ba là “ Không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép” là hoàn toàn có thể xảy ra khi có thể chứng minh được là không thể khắc phục được tình hình mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và trong khả năng của mình. Xét về mặt pháp lý, dịch bệnh là sự kiện khách quan, không thể lường trước. Nếu những hậu quả xảy ra dù trước đó đã dùng mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn không thể khắc phục được thì hoàn toàn có thể coi dịch bệnh Covid-19 là sự kiện bất khả kháng. Khi có sự kiện bất khả kháng xẩy ra và hậu quả là nghĩa hợp đồng không được thực hiện hoặc không được thực hiện đúng hoặc đầy đủ, thì các bên sẽ ứng xử như thế nào, cần được các bên đưa vào điều khoản bất khả kháng trong hợp đồng. Thực tiễn hiện nay có ba phương pháp xây dựng điều khoản bất khả kháng. Theo phương pháp này, các bên sẽ đưa ra một định nghĩa khái quát về sự kiện bất khả kháng. Trong một bản hợp đồng có điều khoản bất khả kháng như sau: “Một bên không thể thực hiện được nghĩa vụ trong Hợp đồng này do sự kiện bất khả kháng là sự kiện xẩy ra sau thời điểm ký kết hợp đồng này, mà các bên không có khả năng dự đoán, kiểm soát và ngăn chặn, sẽ được miễn trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ…” Quy định này rất chung chung, mơ hồ và gây khó khăn cho việc diễn giải. Tranh chấp sẽ xẩy ra, cơ quan tài phán cũng sẽ chỉ giải thích theo tinh thần của luật và ý kiến của các bên, nhiều khi sự giải thích không đạt được sự chính xác. Đây là phương pháp mà nhiều thương gia dày dạn kinh nghiệm thích áp dụng. Theo phương pháp này, các bên sẽ liệt kê trong điều khoản bất khả kháng một loạt các sự kiện cho phép bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng sẽ được miễn trách nhiệm hoặc kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng. Ưu điểm của cách tiếp cận này là rõ ràng, cụ thể, các bên sẽ không phải mất thời gian tranh cãi, giải thích, chỉ cần thuộc đúng trường hợp được liệt kê trong điều khoản này là bên bị ảnh hưởng sẽ được miễn trách nhiệm. Tuy nhiên, một nhược điểm của các tiếp cận này là dù có kinh nghiệm phong phú đến đâu, các bên cũng không thể lường trước được các tình huống xẩy ra trong thực tế. Và, dù rằng tình huống đó có đầy đủ đặc điểm của một sự kiện bất khả kháng nhưng bên bị ảnh hưởng không được miễn trách nhiệm. Ví dụ, nếu áp dụng điều khoản trên, một trận “bão” xẩy ra đã làm tốc mái và hư hỏng nặng nhà máy của bên bán làm cho bên bán không thể tập kết và giao hàng đúng hạn hợp đồng. Trong trường hợp này “bão” đã bị bỏ sót khỏi điều khoản bất khả kháng nên bên bán có thể không được miễn trách nhiệm. Đây là phương pháp kết hợp cả hai phương pháp trên. Phương pháp này phần nào khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp trên và được sử dụng rộng rãi trong thực tiễn hợp đồng. Quy định như trên sẽ giúp các bên có được những tình huống cụ thể được coi là sự kiện bất khả kháng, đồng thời dự tính được những sự kiện khác có thể xẩy ra làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng. Nói tóm lại, sự kiện bất khả kháng là một thuật ngữ rất quen thuộc với các thương gia. Tuy nhiên để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình các thương gia cần chú trọng đến kỹ thuật soạn thảo cũng như cách thức vận dụng chúng trong thực tế. Việc soạn thảo điều khoản bất khả kháng, cần có sự tham gia của các chuyên gia giỏi về lĩnh vực liên quan của hợp đồng để có thể phán đoán được tối đa các sự kiện có thể xẩy ra ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng, để tránh việc phải sử dụng đến sự giải thích mà nhiều khi khó có thể được sự chính xác tuyệt đối.
|
Bất khả kháng
|
Bất khả kháng hay điều kiện bất khả kháng (từ tiếng Pháp: force majeure để chỉ "hiệu lực/sức mạnh lớn hơn") là một điều khoản phổ biến trong các hợp đồng, về cơ bản để giải phóng một hay các bên ra khỏi các trách nhiệm pháp lý hay các bổn phận khi các sự kiện hay tình huống bất thường ngoài tầm kiểm soát của các bên, như chiến tranh, đình công, nổi loạn, tội phạm, thiên tai (như lũ lụt, động đất, phun trào núi lửa), địch họa v.v xảy ra, và việc đó ngăn cản một hay các bên của hợp đồng trong việc hoàn thành bổn phận và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Tuy nhiên, bất khả kháng không nhằm mục tiêu bào chữa cho các sơ suất hay hành vi phi pháp của các bên, chẳng hạn như việc không thực hiện nghĩa vụ là do các hậu quả thông thường và tự nhiên của các sức mạnh bên ngoài (ví dụ một trận mưa đã được dự báo làm ngừng một sự kiện diễn ra ngoài trời), hay khi các hoàn cảnh can thiệp vào việc thực thi hợp đồng đã được dự tính một cách rõ ràng.
|
Ông Vũ Quang Hội sinh năm 1963 tại Thái Bình. Cha của ông Hội là ông Vũ Quang Huy người đã biến thương hiệu nước khoáng Vital của Thái Bình thành một thương hiệu nổi tiếng. Năm 70 tuổi, ông Vũ Quang Huy về quê xây nhà, ở ẩn, làm việc thiện, để lại Công ty TNHH Sản xuất kinh doanh Xuất nhập khẩu Bình Minh (Bitexco) cho các con, trong đó nắm trọng trách là Vũ Quang Hội. Tốt nghiệp bằng kỹ sư chế tạo máy của Trường ĐH Nông nghiệp 1 Hà Nội, nhưng ông Hội lại “bén duyên” với lĩnh vực xây dựng, bất động sản. Ông Vũ Quang Hội hiện là Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Tập đoàn Bitexco. Năm 2002, khi ông Hội cùng vợ đứng trên tầng thượng của Tòa nhà Chrysler ở Thành phố New York, một suy nghĩ hiện lên trong đầu: “Chrysler Building không phải là tòa nhà cao nhất, nhưng chưa bao giờ bị lu mờ hay lãng quên vì nó là niềm tự hào của người New York. Mình sẽ xây dựng một tòa tháp để người Việt Nam tự hào, như người New York có Chrysler Building, hay người Malaysia tự hào có tòa tháp đôi Petronas”. Từ đó, ông Hội ấp ủ mơ ước đưa Việt Nam hiện diện trên bản đồ kiến trúc thế giới bằng chính công trình của mình, một đóa sen thanh thoát vươn lên bầu trời TP.HCM. Khi ý tưởng xây dựng một tòa nhà cao nhất Việt Nam được tiết lộ, cả giới địa ốc, bất động sản không khỏi ngạc nhiên, xen lẫn nghi ngờ. Trước đây, chưa người Việt Nam nào có đủ tiềm lực tài chính, kinh nghiệm để xây dựng những tòa nhà vượt chiều cao 40 tầng. Hầu hết các dự án cao tầng ở Việt nam thời điểm đó đều do nhà đầu tư nước ngoài triển khai. Để thực hiện khát vọng này, ông buộc phải bỏ thêm hàng trăm triệu USD, giảm 30% diện tích sử dụng. Hàng chục chuyên gia giỏi các nước đã tụ họp để cùng ông tính toán. Và kết quả, ngày 31/10/2010, Tháp Tài chính Bitexco, công trình đẳng cấp thế giới cao 262 m được khánh thành. Tháp Tài chính Bitexco Financial Tower, với kiến trúc và tiện nghi đẳng cấp, là biểu tượng của sự phát triển kinh tế và thịnh vượng không chỉ của TP.HCM, mà còn của cả Việt Nam. Tòa tháp 68 tầng này còn được hãng truyền thông CNN (Mỹ) bình chọn là “một trong 25 tòa nhà chọc trời trên thế giới mang tính biểu tượng về xây dựng”, sánh ngang với tháp Empire States Building ở New York hay Petronas Twin Towers ở Malaysia. Tháp Tài chính Bitexco được coi là biểu tượng của sự phát triển kinh tế và thịnh vượng không chỉ của TP.HCM, mà còn của cả Việt Nam. Dưới bàn tay chèo lái của ông Vũ Quang Hội, Bitexco hiện đã trở thành một tập đoàn đa ngành với các dự án kinh doanh trải rộng trong nhiều lĩnh vực, từ phát triển bất động sản, cơ sở hạ tầng, đến năng lượng thủy điện, sản xuất hàng tiêu dùng, thương mại, khai thác và thăm dò khoáng sản. Bên cạnh đó, tập đoàn này cũng đang dần đạt đến các tiêu chuẩn quốc tế về quản trị doanh nghiệp. Dù thị trường thay đổi, khẩu vị nhà đầu tư thay đổi, Bitexco đã tiên phong và luôn trung thành với phân khúc riêng: cao cấp. Bên cạnh tòa tháp chọc trời Bitexco Financial Tower, Tập đoàn của ông Vũ Quang Hội còn là nhà đầu tư xây dựng tòa nhà văn phòng Bitexco đứng kế cận ở số 19 Nguyễn Huệ; khu The Manor trên đường Nguyễn Hữu Cảnh, một trong những tòa tháp chung cư cao cấp đầu tiên tại TP. HCM. Tại Hà Nội, ngoài khu nhà ở, văn phòng và thương mại cao cấp The Manor, The Garden, Bitexco còn là chủ của khách sạn JW Marriott Hà Nội với thiết kế đặc biệt hình con rồng nằm trên một quả đồi bên cạnh Trung tâm Hội nghị Quốc gia; Bên cạnh đó là dự án khu đô thị hiện đại Bitexco Central Park tại quận Hoàng Mai về phía Nam thủ đô… Mỗi công trình ông Hội đều mong muốn trở thành tuyệt tác kiến trúc, một biểu tượng văn hóa của vùng đất mà Tập đoàn đặt chân đến. Không như phần đông doanh nghiệp tư nhân lớn của Việt Nam, Bitexco đứng ngoài cơn bão chứng khoán một thập kỷ qua, trong khi cá nhân ông Vũ Quang Hội cũng vắng tên trong mọi danh sách người giàu. Ông chọn cho mình cách ứng xử khá bặt thiệp nhưng lặng lẽ, hầu như không xuất hiện trên báo chí, hầu như tránh xa mọi giải thưởng và danh hiệu… Nhưng, với những dự án đã và đang được triển khai, ông xứng đáng nhận được từ các doanh nhân khác sự ngưỡng mộ. Chia sẻ triết lý kinh doanh là, ông Hội cho rằng thời điểm này là lúc nghĩa vụ chính trị – nghĩa vụ đóng góp cho đất nước bằng suy nghĩ và hành động tích cực, phải đặt lên hàng đầu. Tâm niệm về cuộc đời, ông Hội chia sẻ: “Tôi dạy các con tôi rằng, ai cũng đi một chuyến tàu cuộc đời và cũng xuống ga cuối cùng. Cuối cùng, anh để lại giá trị gì cho đời?”. Là sinh viên (SV) nhưng Hằng hiếm đến trường; sống xa hoa. Sự bất minh về tài sản và lối sống xa xỉ hay khoe trên mạng phần nào tố cô gái mới 21 tuổi thực chất điều hành đường dây ma túy. Trong 24 giờ qua, Quảng Bình ghi nhận thêm 24 ca nhiễm COVID-19; thêm 68 ca khỏi bệnh. Do đồng baht giảm giá, giá gạo 5% tấm của Thái Lan giảm xuống 380-386 USD/tấn vào ngày 23/9, mức thấp nhất kể từ tháng 3/2019. Nhà đầu tư (NĐT) nên hạn chế giao dịch ngắn hạn, đồng thời tích lũy cổ phiếu có triển vọng tích cực cho đầu tư dài hạn. Bitcoin và loạt tiền điện tử hàng đầu tiếp tục giảm giá mạnh sau lệnh cấm giao dịch tiền điện tử của Trung Quốc.
|
Vũ Quang Hội
|
Vũ Quang Hội, sinh năm 1963 tại làng Mẹo, Thái Phương, Hưng Hà, Thái Bình, là một doanh nhân Việt Nam. Ông là chủ tịch tập đoàn Bitexco, chủ đầu tư dự án Tòa nhà Bitexco Financial, tòa nhà cao thứ hai ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Tập đoàn Bitexco là một tập đoàn đa ngành hoạt động trong các lĩnh vực bất động sản, thủy điện, xây dựng, khai khoáng. Ông Vũ Quang Hội sinh năm 1963 tại làng Mẹo, tức làng Phương La, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống làm kinh doanh. Cha ông Hội, ông Vũ Quang Huy, bắt đầu với nghề dệt, rồi chuyển sang kinh doanh nước khoáng. Ông Huy chính là người khởi nghiệp và xây dựng thương hiệu nước khoáng Vital khá nổi tiếng của tỉnh Thái Bình. Ông Huy cũng thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh, tức tập đoàn Bitexco. Năm 70 tuổi, ông Huy về hưu và để lại công ty cho các con, trong đó ông Hội đóng vai trò chủ chốt. Năm 1984, 21 tuổi, ông Hội theo học ở Đại học Nông nghiệp 1, Hà Nội.
|
Giữ gìn hòa bình bao gồm các hoạt động nhằm tạo điều kiện ủng hộ hòa bình lâu dài. Nghiên cứu thường thấy rằng việc gìn giữ hòa bình làm giảm các cái chết dân thường và tại chiến trường, cũng như giảm nguy cơ tạo thành chiến tranh mới. Trong nhóm các chính phủ và tổ chức của Liên Hợp Quốc (LHQ), có một sự hiểu biết chung rằng ở cấp độ quốc tế, các nhân viên gìn giữ hòa bình giám sát và quan sát các tiến trình hòa bình ở các khu vực sau xung đột, và có thể hỗ trợ các cựu chiến binh thực hiện các cam kết hòa bình mà họ đã thực hiện. Sự hỗ trợ như vậy có thể có nhiều hình thức, bao gồm các biện pháp xây dựng lòng tin, sắp xếp chia sẻ quyền lực, hỗ trợ bầu cử, củng cố luật pháp và phát triển kinh tế và xã hội. Theo đó, lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc (thường được gọi là Mũ nồi xanh vì đội mũ hoặc mũ bảo hiểm màu xanh nhạt) có thể bao gồm binh lính, sĩ quan cảnh sát và nhân viên dân sự. Liên Hợp Quốc không phải là tổ chức duy nhất thực hiện các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình. Lực lượng Hòa bình Bất bạo động là một tổ chức phi chính phủ được coi là có chuyên môn về hòa bình chung bởi các tình nguyện viên hoặc nhà hoạt động phi chính phủ. Theo luật pháp quốc tế, những người gìn giữ hòa bình là những người không tham chiến do lập trường trung lập của họ trong cuộc xung đột giữa hai hoặc nhiều bên hiếu chiến (cùng mức độ với nhân viên trung lập và tài sản bên ngoài nhiệm vụ gìn giữ hòa bình) và luôn được bảo vệ khỏi các cuộc tấn công. Có một loạt các loại hoạt động bao gồm trong gìn giữ hòa bình. Trong cuốn sách của Fortna Giữ gìn hòa bình có thật không?, ví dụ, cô phân biệt bốn loại hoạt động gìn giữ hòa bình. Điều quan trọng, các loại nhiệm vụ này và cách chúng được tiến hành bị ảnh hưởng nặng nề bởi nhiệm vụ mà chúng được ủy quyền. Ba trong bốn loại của Fortna là các nhiệm vụ dựa trên sự đồng ý, tức là các nhiệm vụ được gọi là ” Chương VI “, với loại thứ tư là Nhiệm vụ ” Chương VII “. Các nhiệm vụ của Chương VI dựa trên sự đồng ý, do đó họ cần có sự đồng ý của các phe phái hiếu chiến có liên quan để hoạt động. Nếu họ mất sự đồng ý đó, những người gìn giữ hòa bình sẽ bị buộc phải rút. Ngược lại, các nhiệm vụ của Chương VII không yêu cầu sự đồng thuận, mặc dù họ có thể có nó. Nếu mất sự đồng thuận tại bất kỳ thời điểm nào, các nhiệm vụ của Chương VII sẽ không được yêu cầu rút lại. Các nhiệm vụ quan sát bao gồm các đội ngũ quan sát viên quân sự hoặc dân sự được giao nhiệm vụ theo dõi ngừng bắn, rút quân hoặc các điều kiện khác được nêu trong một thỏa thuận ngừng bắn. Họ thường không vũ trang và chủ yếu được giao nhiệm vụ quan sát và báo cáo về những gì đang diễn ra. Vì vậy, họ không có khả năng hoặc nhiệm vụ can thiệp nên một trong hai bên phải từ bỏ thỏa thuận. Ví dụ về các nhiệm vụ quan sát bao gồm UNAVEM II ở Angola vào năm 1991 và MINURSO ở Tây Sahara. Các nhiệm vụ xen kẽ, còn được gọi là gìn giữ hòa bình truyền thống, là đội ngũ lớn hơn của các đội quân vũ trang nhẹ có nghĩa là một bộ đệm giữa các phe phái hiếu chiến sau hậu quả của một cuộc xung đột. Do đó, chúng đóng vai trò là vùng đệm giữa hai bên và có thể theo dõi và báo cáo về sự tuân thủ của một trong hai bên liên quan đến các tham số được thiết lập trong một thỏa thuận ngừng bắn nhất định. Các nhiệm vụ đa chiều được thực hiện bởi các nhân viên quân đội và cảnh sát, trong đó họ cố gắng thực hiện các khu định cư mạnh mẽ và toàn diện. Họ không chỉ đóng vai trò quan sát viên, hoặc đóng vai trò can thiệp, mà họ còn tham gia vào các nhiệm vụ đa chiều hơn như giám sát bầu cử, cải cách lực lượng cảnh sát và an ninh, xây dựng thể chế, phát triển kinh tế, v.v. Ví dụ bao gồm UNTAG ở Namibia, ONUSAL ở El Salvador và ONUMOZ ở Mozambique. Nhiệm vụ thực thi hòa bình là các nhiệm vụ của Chương VII và không giống như các nhiệm vụ của Chương VI trước đó, chúng không cần có sự đồng ý của các bên hiếu chiến. Đây là những hoạt động đa chiều bao gồm cả nhân viên dân sự và quân sự. Lực lượng quân sự có quy mô đáng kể và được trang bị khá đầy đủ theo tiêu chuẩn gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc. Họ được ủy nhiệm sử dụng vũ lực cho các mục đích ngoài mục đích tự vệ. Trong Chiến tranh Lạnh, việc gìn giữ hòa bình chủ yếu là xen kẽ trong tự nhiên, do đó được gọi là gìn giữ hòa bình truyền thống. Các nhân viên gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc đã được triển khai sau hậu quả của xung đột giữa các bang để phục vụ như một bộ đệm giữa các phe phái hiếu chiến và đảm bảo tuân thủ các điều khoản của một thỏa thuận hòa bình được thiết lập. Các nhiệm vụ được dựa trên sự đồng ý và thường xuyên hơn là nhiệm vụ quan sát không được vũ trang, đó là trường hợp của UNTSO ở Trung Đông và UNCIP ở Ấn Độ và Pakistan. Những nhiệm vụ khác có vũ trang, chẳng hạn như UNEF-I, được thành lập trong cuộc khủng hoảng Suez. Họ đã thành công lớn trong vai trò này. Trong kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh, Liên Hợp Quốc đã thực hiện một cách tiếp cận đa sắc thái hơn, đa chiều hơn đối với gìn giữ hòa bình. Năm 1992, sau hậu quả của Chiến tranh Lạnh, sau đó, Tổng thư ký Boutros Boutros-Ghali đã đưa ra một báo cáo mô tả chi tiết các khái niệm đầy tham vọng của ông cho Liên Hợp Quốc và gìn giữ hòa bình. Báo cáo có tiêu đề Một chương trình nghị sự vì hòa bình đã mô tả một loạt các biện pháp đa diện và liên kết với nhau mà ông hy vọng sẽ dẫn đến việc sử dụng hiệu quả LHQ trong vai trò của mình trong chính trị quốc tế sau Chiến tranh Lạnh. Điều này bao gồm việc sử dụng ngoại giao phòng ngừa, thực thi hòa bình, hòa bình, gìn giữ hòa bình và tái thiết sau xung đột.
|
Gìn giữ hòa bình
|
Giữ gìn hòa bình bao gồm các hoạt động nhằm tạo điều kiện ủng hộ hòa bình lâu dài. Nghiên cứu thường thấy rằng việc gìn giữ hòa bình làm giảm các cái chết dân thường và tại chiến trường, cũng như giảm nguy cơ tạo thành chiến tranh mới. Trong nhóm các chính phủ và tổ chức của Liên Hợp Quốc (LHQ), có một sự hiểu biết chung rằng ở cấp độ quốc tế, các nhân viên gìn giữ hòa bình giám sát và quan sát các tiến trình hòa bình ở các khu vực sau xung đột, và có thể hỗ trợ các cựu chiến binh thực hiện các cam kết hòa bình mà họ đã thực hiện. Sự hỗ trợ như vậy có thể có nhiều hình thức, bao gồm các biện pháp xây dựng lòng tin, sắp xếp chia sẻ quyền lực, hỗ trợ bầu cử, củng cố luật pháp và phát triển kinh tế và xã hội. Theo đó, lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc (thường được gọi là Mũ nồi xanh vì đội mũ hoặc mũ bảo hiểm màu xanh nhạt) có thể bao gồm binh lính, sĩ quan cảnh sát và nhân viên dân sự.
|
Ý nghĩa tranh trừu tượng nghệ thuật: Tranh Trừu tượng là trào lưu hội họa đầu thế kỷ 20, vào những năm 1910 đến 1914. Tranh trừu tượng sử dụng ngôn ngữ thị giác từ những hình dạng, khuôn mẫu, màu sắc và đường nét để tạo nên một sáng tác có thể tồn tại độc lập, ở một mức nào đó, với những tham khảo có thực từ thế giới. Tranh phương Tây, từ thời Phục hưng đến giữa thế kỷ 19, được đặt nền móng bởi logic của phối cảnh và nỗ lực để tái tạo một ảo ảnh về thế giới thực tại. Tranh của các nền mỹ thuật khác ngoài châu Âu thì lại dễ tiếp cận và cho thấy những cách khác để mô tả trải nghiệm thị giác tới họa sĩ. Vào cuối thế kỷ 19 nhiều họa sĩ cảm thấy cần phải tạo ra một loại hình mỹ thuật mới đặt giữa những thay đổi quan trọng xảy ra trong công nghệ, khoa học và triết học. Mỗi họa sĩ có các nguồn khác nhau để tạo nên lý thuyết của mình và tranh luận, cũng như phản ánh mối quan tâm đến xã hội và tri thức trên tất cả các lĩnh vực của văn hoá phương Tây tại thời điểm đó. Tranh trừu tượng, Tranh phi hình thể, Tranh phi vật thể, và Tranh không trình diễn là các thuật ngữ không quá tách biệt. Chúng khá tương tự nhau, nhưng có lẽ không thực sự giống nhau. Trừu tượng cho thấy một bước chuyển khởi đầu từ thực tế trong mô tả hình ảnh của mỹ thuật. Sự trừu tượng tồn tại trong một chuỗi liên tục. Ngay cả Tranh nhằm đạt được mức độ cao nhất cũng có thể được coi là trừu tượng, ít nhất là theo lý thuyết, vì sự thể hiện hoàn hảo là không thể nắm bắt. Tác phẩm Tranh có thể tự do, những thay đổi ví dụ như màu sắc và hình thức rõ ràng, có thể nói là trừu tượng một phần. Trừu tượng hoàn toàn là không có dấu vết của bất kỳ tham khảo thực tế nào có thể nhận biết được. Ví dụ, trong trừu tượng hình học, người ta không thể tìm thấy các tham chiếu đến các thực thể tự nhiên. Tranh hình tượng và Tranh trừu tượng tổng thể giống như hai mặt của đồng xu, chúng loại trừ lẫn nhau. Nhưng lối vẽ hình tượng và cụ tượng (hay tả thực) Tranh thường vẫn chứa một phần trừu tượng. Cả hai lối vẽ: trừu tượng hình học và trừu tượng trữ tình (lyrical abstraction) đều thuộc trừu tượng hoàn toàn. Có rất nhiều phong trào Tranh thể hiện sự trừu tượng một phần có thể kể đến là trường phái dã thú, trong đó màu sắc được làm nổi bật và cố ý biến đổi so với thực tế, và trường phái lập thể - thay đổi táo bạo hình thức của các vật thể được miêu tả
|
Nghệ thuật trừu tượng
|
Nghệ thuật Trừu tượng là trào lưu hội họa đầu thế kỷ 20, vào những năm 1910 đến 1914. Nghệ thuật trừu tượng sử dụng ngôn ngữ thị giác từ những hình dạng, khuôn mẫu, màu sắc và đường nét để tạo nên một sáng tác có thể tồn tại độc lập, ở một mức nào đó, với những tham khảo có thực từ thế giới. Nghệ thuật phương Tây, từ thời Phục hưng đến giữa thế kỷ 19, được đặt nền móng bởi logic của phối cảnh và nỗ lực để tái tạo một ảo ảnh về thế giới thực tại. Nghệ thuật của các nền mỹ thuật khác ngoài châu Âu thì lại dễ tiếp cận và cho thấy những cách khác để mô tả trải nghiệm thị giác tới họa sĩ. Vào cuối thế kỷ 19 nhiều họa sĩ cảm thấy cần phải tạo ra một loại hình mỹ thuật mới đặt giữa những thay đổi quan trọng xảy ra trong công nghệ, khoa học và triết học. Mỗi họa sĩ có các nguồn khác nhau để tạo nên lý thuyết của mình và tranh luận, cũng như phản ánh mối quan tâm đến xã hội và tri thức trên tất cả các lĩnh vực của văn hoá phương Tây tại thời điểm đó.
|
Bán đảo nằm ngay về phía nam của đất liền của Ukraina và về phía tây của miền Kuban thuộc Nga. Bán đảo Krym nằm giữa hai biển Azov và biển Đen và được nối với đất liền của Ukraina theo eo đất Perekop. Về hành chính, bán đảo này là một chủ thể liên bang Nga trong cuộc Khủng hoảng Krym 2014 khi Nga sáp nhập lãnh thổ này sau cuộc trưng cầu dân ý của cư dân trên bán đảo từ Ukraina. Lãnh thổ Krym bị chiếm đóng nhiều lần trong lịch sử. Nối tiếp chúng là Hãn quốc Krym và Đế quốc Ottoman vào thế kỷ 15-18 và Đế quốc Nga vào thế kỷ 18-20. Ngày 19 tháng 2 năm 1954, Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao của Liên Xô ban hành sắc lệnh cắt tỉnh Krym chuyển cho Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina. Việc chuyển giao này được miêu tả là một “món quà”, kỉ niệm cột mốc 300 năm Ukraina trở thành một phần của Đế quốc Nga. Trước đây, Cộng hòa Tự trị Krym chiếm phần lớn bán đảo; một vùng nhỏ ở phía tây nam là thành phố Sevastopol với địa vị pháp lý đặc biệt ở Ukraina, còn một vùng ở phía bắc mũi đất Arabat của bán đảo là thuộc tỉnh Kherson, Ukraina. Mũi đất Arabat nằm phía đông bắc Krym, chia tách hệ thống vùng đầm phá cạn ngập mặn Sivash với biển Azov. Sau khi Liên Xô tan rã, vấn đề chủ quyền tại Krym trở thành mâu thuẫn giữa Nga và Ucraina. Ukraina căn cứ vào quyết định của Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao năm 1954 để cho rằng Krym thuộc chủ quyền của mình. Phía Nga thì lập luận rằng Krym đã thuộc về Nga từ thế kỷ 18, chỉ tách khỏi Nga từ năm 1954, do Nhà nước Liên Xô đã tan rã nên Nga không có nghĩa vụ phải chấp nhận việc cắt Krym cho Ukraina. Đầu năm 2014, sau vụ Khủng hoảng Krym và Trưng cầu dân ý Krym, người dân Cộng hòa Tự trị Krym và thành phố Sevastopol đã đi bỏ phiếu để quyết định về vấn đề chủ quyền tại vùng này. 95,5% phiếu bầu đồng ý thống nhất Krym vào nước Nga, 3,5% lựa chọn Krym là một phần của Ukraina và 1% số phiếu không hợp lệ (tuy nhiên theo nhiều nguồn tin phương Tây có bằng chứng cho rằng, phần trăm số phiếu đã được phía Nga chủ động sắp xếp trước). Theo kết quả này, Cộng hòa Tự trị Krym tuyên bố ly khai khỏi Ukraina và sáp nhập vào Nga, được Nga đồng ý. Hiện Nga xem Krym là chủ thể liên bang thuộc nước này, gọi là Cộng hòa Krym. Tuy nhiên, chỉ Nga và 10 thành viên Liên Hợp Quốc công nhận chủ quyền của Nga, trong khi hơn 100 nước khác vẫn công nhận chủ quyền của Ukraina đối với lãnh thổ này. Qırım được phiên âm ra tiếng Nga thành Krym và ra tiếng Việt thành “Crưm”. Bán đảo Krym nằm tại bờ bắc biển Đen và bờ tây biển Azov, phía bắc giáp tỉnh Kherson của Ukraina. Cộng hòa Tự trị Krym (cộng hòa tự trị của Ukraina) và Cộng hòa Krym (chủ thể liên bang của Nga) chỉ chiếm phần lớn diện tích bán đảo chứ không phải toàn bộ. Krym nối liền với đất liền bởi eo đất Perekop rộng 5–7 km. Mũi đông là bán đảo Kerch nằm đối diện với bán đảo Taman của Nga. Giữa hai bán đảo Kerch và Taman là eo biển Kerch rộng 3–13 km, vốn là thủy đạo nối thông biển Đen với biển Azov. Xét về phương diện địa lý, bán đảo Krym nói chung thường được chia làm ba đới: thảo nguyên, núi non và bờ biển phía nam. Chạy dọc bờ biển đông nam của Krym là dãy núi Krym, phía trong lại có một dãy núi nữa chạy song song. 75% phần diện tích còn lại của Krym là các thảo nguyên nửa khô hạn, có địa hình dốc thoải từ chân dãy núi Krym xuống hướng tây bắc. Thác nước Uchan-su ở sườn nam của dãy Krym là thác nước cao nhất. Dải bờ biển hẹp phía ngoài dãy Krym có phong cảnh thiên nhiên tươi xanh, là nơi tọa lạc của nhiều làng mạc của người Tatar Krym, các thánh đường Hồi giáo, cung điện của hoàng gia và quý tộc Nga, các lâu đài trung cổ và Hy Lạp cổ, các vườn nho và vườn cây ăn quả. Phần lớn Krym có khí hậu ôn đới lục địa, riêng vùng bờ biển đông nam có khí hậu cận nhiệt đới. Nhiệt độ khu vực sâu trong đất liền vào mùa hè có thể lên mức 28 °C (bình quân vào tháng 7), trong khi nhiệt độ mùa đông có thể xuống mức -0,3 °C (bình quân tháng 1), riêng nhiệt độ của bờ biển phía nam vào mùa đông thì có phần cao hơn (4 °C, bình quân tháng 1). Krym ít mưa, trung bình mỗi năm chỉ mưa 400 mm. Nhờ đặc điểm khí hậu như vậy mà dải bờ biển phía nam Krym là nơi thu hút nhiều du khách Nga và Ukraina đến tắm biển và sưởi nắng. Các ngành chính của nền kinh tế Crimea là nông nghiệp và đánh bắt sò, ngọc trai, du lịch và cảng. Các nhà máy công nghiệp nằm phần lớn ở vùng duyên hải phía nam (Eupatoria, Sevastopol, Feodosia, Kerch), một số vùng phía bắc (Armiansk, Krasnoperekopsk,…), ngoài khu vực trung tâm, chủ yếu là Simferopol okrug và vùng phía đông ở Thành phố Nizhnegorsk. Các thành phố công nghiệp quan trọng bao gồm Dzhankoi, có kết nối đường sắt chính, Krasnoperekopsk và Armiansk,…. Thời tiết Địa Trung Hải tuyệt đẹp ở Crimea khiến bán đảo này là một điểm du lịch nổi tiếng với người Ukraine và người Nga, nhất là Yalta, nơi các nhà lãnh đạo Liên Xô, Mỹ và Anh đã gặp nhau sau Chiến tranh thế giới thứ hai để thảo luận về tương lai của châu Âu và thế giới. Trước khi sáp nhập vào Nga, Crimea chiếm 3% GDP Ukraine, với 60% tổng giá trị sản phẩm quốc nội là từ dịch vụ. Nông nghiệp cũng có vai trò quan trọng trên bán đảo, với lúa mì, ngô và hướng dương là các nông sản chính. Nước tưới được cung cấp qua một kênh đào từ sông Dnieper của Ukraine. Ngoài ra trên bán đảo còn có các nhà máy hóa chất và mỏ quặng sắt ở Kerch. Ukraine có hai kho dự trự ngũ cốc lớn ở Crimea, tại Kerch và Sevastopol. Theo UkrAgroConsult, các kho này xuất khẩu 1,6 triệu tấn ngũ cốc trong năm 2013, chiếm 6,6% tổng sản lượng ngũ cốc xuất khẩu của Ukraine. Ở bờ biển phía nam Crimea là thành phố cảng Sevastopol, cảng nhà của hạm đội Biển Đen Nga với hàng nghìn quân Nga đồn trú. Sevastopol sẽ mở thêm đường cho Nga ra Địa Trung Hải. Sau khi Nga sáp nhập Crimea vào đầu năm 2014 và các lệnh trừng phạt liên tiếp nhắm vào Crimea, ngành du lịch đã chịu tổn thất lớn trong hai năm. Luồng khách du lịch giảm 35% trong nửa đầu năm 2014 so với cùng kỳ năm 2013. Lượng khách du lịch đạt kỷ lục vào năm 2012 là 6,1 triệu lượt. Theo chính quyền Nga, lượng khách đã giảm xuống còn 3,8 triệu vào năm 2014 và tăng trở lại lên 5,6 triệu vào năm 2016. Các ngành công nghiệp quan trọng nhất ở Crimea bao gồm sản xuất thực phẩm, lĩnh vực hóa chất, kỹ thuật cơ khí, gia công kim loại và các ngành sản xuất nhiên liệu. Sáu mươi phần trăm thị trường ngành thuộc về sản xuất thực phẩm. Có tổng số 291 xí nghiệp công nghiệp lớn và 1002 xí nghiệp kinh doanh nhỏ.
|
Bán đảo Krym
|
Bán đảo Krym hay Crưm (tiếng Ukraina: Кримський півострів, tiếng Nga: Крымский полуостров, tiếng Tatar Krym: Qırım yarımadası, tiếng Hy Lạp cổ: Κιμμερία/Ταυρική, chuyển tự Kimmería/Taurikḗ) là một bán đảo lớn ở châu Âu được nước bao bọc gần như hoàn toàn. Bán đảo nằm ngay về phía nam của đất liền của Ukraina và về phía tây của miền Kuban thuộc Nga. Bán đảo Krym nằm giữa hai biển Azov và biển Đen và được nối với đất liền của Ukraina theo eo đất Perekop. Về hành chính, bán đảo này là một chủ thể liên bang Nga trong cuộc Khủng hoảng Krym 2014 khi Nga sáp nhập lãnh thổ này sau cuộc trưng cầu dân ý của cư dân trên bán đảo từ Ukraina. Tuy nhiên nhiều nước không công nhận sự sáp nhập này và coi bán đảo vẫn thuộc chủ quyền của Ukraine. Lãnh thổ Krym bị chiếm đóng nhiều lần trong lịch sử. Các sắc dân như Kimmeri, Hy Lạp, Scythia, Goth, Hung, Bulgar, Khazar, quốc gia Rus Kiev, Đế quốc Đông La Mã của người Hy Lạp, Kim Trướng hãn quốc của người Tatar và người Mông Cổ đều từng có thời gian kiểm soát Krym.
|
Thuốc ngủ là gì? Thuốc ngủ để làm gì & đối tượng nào nên sử dụng? THUỐC MÊ MINH HẢI chuyên cung cấp các loại thuốc ngủ, thuốc hỗ trợ sinh lý cao cấp, chính hãng, tư vấn tận tình, giới thiệu sản phẩm hiệu quả cho từng trường hợp khác nhau. Thuốc ngủ không phải là một loại thuốc gì quá xa lạ với tất cả mọi người, chắc hẳn rằng ai cũng đã từng được nghe nhắc đến. Tuy nhiên để hiểu rõ và tường tận về tác dụng của loại thuốc này thì không phải ai cũng biết, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu thêm một số thông tin về thuốc ngủ trong bài viết này. Thuốc ngủ là một khái niệm chung dùng để chỉ các loại thuốc an thần và thuốc để điều trị bệnh mất ngủ. Thuốc điều trị mất ngủ sẽ giúp người dùng dễ chìm vào giấc ngủ hơn, ngủ sâu giấc và thời gian ngủ cũng kéo dài hơn. Trong khi đó các loại thuốc an thần có tác dụng chính là giúp giảm stress, căng thẳng, cảm giác bồn chồn, lo âu trong cuộc sống. Một số loại thuốc ngủ an toàn sẽ có nguồn gốc thảo dược như long nhãn, tâm sen, bình vôi, tam thất, sen lá, linh chi, trinh nữ… Và cũng có những loại thuốc ngủ được điều chế theo kiểu Tây y với các thành phần như codein (an thần, giảm đau); clozapine (gây ngủ mạnh); doxepin (an thần, chống trầm cảm)… Tùy thuộc vào thể trạng và biểu hiện mất ngủ riêng của mỗi người mà sẽ có cách sử dụng thuốc điều trị cho phù hợp. Yếu tố quan trọng là bạn nên đến gặp bác sĩ để được khám đúng bệnh, kê đơn đúng thuốc nếu như gặp phải tình trạng mất ngủ. Từ những thông tin nêu ở trên thì chúng ta cũng đã phần nào biết được thuốc ngủ để làm gì rồi. Đó chính là hỗ trợ điều trị, cải thiện giấc ngủ cho những người bị thiếu ngủ, mất ngủ, stress, căng thẳng lo âu, gặp cú sốc về tinh thần nghiêm trọng trong cuộc sống… Nếu tình trạng nhẹ thì có thể sử dụng thuốc có nguồn gốc thảo dược nhưng nếu có những biểu hiện nặng thì nên uống thuốc kế đơn của bác sĩ. Những người nên dùng thuốc ngủ là những bệnh nhân có được sự chỉ định dùng thuốc của bác sĩ. Hy vọng rằng những thông tin mà chúng tôi vừa cung cấp ở trên đã giúp ích được cho những ai đang tìm hiểu về thuốc ngủ là gì? Cần lưu ý là thuốc ngủ cũng như bất cứ loại thuốc nào khác, không được quá lạm dụng hoặc dùng sai cách sẽ có thể gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng. Tốt nhất là bạn nên hỏi ý kiến các chuyên gia hoặc bác sĩ trước khi dùng thuốc ngủ. Hãy liên hệ ngay với THUỐC MÊ MINH HẢI nếu như bạn có bất cứ thắc mắc và băn khoăn gì trong việc tìm mua cũng như sử dụng thuốc ngủ. Chúng tôi hiện đang phân phối các sản phẩm chính hãng, cao cấp cho thị trường Việt, cam kết về hiệu quả và nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, không phải hàng trôi nổi, kém chất lượng. Nhân viên của shop thuốc mê THUỐC MÊ MINH HẢI sẽ hướng dẫn tận tình, chi tiết liều lượng sử dụng thuốc phù hợp cho từng trường hợp khác nhau, đảm bảo không gây tác dụng phụ và có cả thuốc nước, thuốc viên, thuốc dạng xịt để khách hàng lựa chọn. Thuốc Mê Minh Hải là một trong những nhà thuốc nổi tiếng với những loại thuốc mê được phân phối chính hãng từ các nhãn hiệu thuốc uy tín trên thế giới. Mua thuốc ngủ tại Thuốc Mê Minh Hải bạn sẽ được sự tư vấn tận tình về tình trạng bệnh cũng như loại thuốc phù hợp và cách dùng thuốc đúng liều lượng để mang lại hiệu quả tốt nhất.
|
Thuốc ngủ
|
Thuốc ngủ là một loại thuốc thần kinh có chức năng chính là gây ngủ và được sử dụng trong điều trị chứng mất ngủ (mất ngủ) hoặc gây mê phẫu thuật. Nhóm này có liên quan đến thuốc an thần. Trong khi thuật ngữ thuốc an thần mô tả các loại thuốc phục vụ để làm dịu hoặc giảm bớt lo lắng, thì thuật ngữ thôi miên thường mô tả các loại thuốc có mục đích chính là bắt đầu, duy trì hoặc kéo dài giấc ngủ. Bởi vì hai chức năng này thường xuyên trùng lặp và bởi vì các loại thuốc trong nhóm này thường tạo ra các tác dụng phụ thuộc vào liều (từ giải phẫu đến mất ý thức) nên chúng thường được gọi chung là thuốc an thần - thuốc ngủ. Thuốc ngủ thường được kê đơn cho chứng mất ngủ và các rối loạn giấc ngủ khác, với hơn 95% bệnh nhân mất ngủ được kê đơn thuốc ngủ ở một số quốc gia. Nhiều loại thuốc thôi miên hình thành thói quen và do nhiều yếu tố gây rối loạn giấc ngủ của con người, bác sĩ có thể đề nghị thay đổi môi trường trước và trong khi ngủ, vệ sinh giấc ngủ tốt hơn, tránh dùng caffeine hoặc các chất kích thích khác hoặc hành vi các biện pháp can thiệp như liệu pháp hành vi nhận thức đối với chứng mất ngủ (CBT-I) trước khi kê đơn thuốc cho giấc ngủ.
|
Cán cân thương mại thuộc một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế – Balance of payment. Đồng thời còn đóng vai trò vô cùng quan trọng dù là ở bất kỳ quốc gia nào. Và để có thể tìm hiểu rõ hơn và biết rõ cán cân thương mại là gì thì hãy tham khảo ngay bài viết dưới đây nhé. Cán cân thương mại (balance of trade) là mức chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá (X-M) hay còn gọi là xuất khẩu ròng (NX). Khi mà mức chênh lệch đó lớn hơn 0 thì cán cân thương mại có thặng dư. Còn ngược lại khi mức chênh lệch giữa xuất và nhập khẩu là nhỏ hơn 0 thì cán cân thương mại sẽ có thâm hụt. Và khi mức chênh lệch về vị trí bằng 0 thì cán cân thương mại sẽ ở trạng thái cân bằng. Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc là thặng dư thương mại. Khi mà cán cân thương mại có thặng dư, thì tỉ số giữa xuất khẩu ròng và thặng dư thương mại mang giá trị dương. Còn khi cán cân thương mại có thâm hụt thì tỉ số xuất khẩu ròng và thặng dư thương mại mang giá trị âm. Và có thể gọi là thâm hụt thương mại. Và những khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/ thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế thì thường rộng hơn trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ. Vấn đề xuất nhập khẩu luôn là vấn đề được quan tâm tại bất kỳ quốc gia nào, bởi đó đôi khi sẽ là nguồn thu nhập chính của địa phương trong quốc gia và góp phần vào thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Điều mà các nước quan tâm đến cán cân thương mại là vì cán cân thương mại có sức ảnh hưởng tới sản lượng trong nước (xuất khẩu ròng là thành tố của GDP), ảnh hưởng đến việc làm và cán cân đối ngoại. Và cán cân thương mại ở đây như là một yếu tố giúp cho các quốc gia nhìn ra được những thay đổi trong việc xuất nhập khẩu và thấy được mức độ chênh lệch trong các thời gian cụ thể. Cán cân thương mại góp phần thể hiện sự cung cầu tiền tệ của một đất nước, sự thay đổi hối đoái của đồng nội tệ trên đồng ngoại tệ. Tức có nghĩa rằng cán cân thương mại có thể sẽ nói lên được khả năng cạnh tranh của một quốc gia trên thị trường quốc tế. Ngoài ra thì nhờ vào tình hình của cán cân thương mại sẽ giúp chúng ta đưa ra được kết luận về tình trạng cán cân vãng lai, đồng thời thì nó cũng gây ảnh hưởng lên nền kinh tế vĩ mô. Vì thế mà bất kì một quốc gia nào cũng cần phải sử dụng đến cán cân thương mại mới có thể đưa ra được các chính sách và những phương án thích hợp và hiệu quả để đảm bảo được nền kinh tế vĩ mô của quốc gia đó. Ngoài ra thì cán cân thương mại còn là thể hiện mức đầu tư, thu nhập và tiết kiệm của một quốc gia trên cán cân thanh toán. Nếu như khi cán cân thương mại có thâm thụt thì có nghĩa là quốc gia đó đã chi nhiều hơn là thu, tiết kiệm cũng như ít hơn đầu tư. Cũng nhờ đó mà có thể đưa ra được những chính sách để có thể cải thiện tốt hơn và nhằm đảm bảo nền kinh tế phát triển ổn định, lâu dài. Những yếu tố gây ảnh hưởng đến cán cân thương mại là tỷ giá hối đoái, chính sách tài chính, nhập khẩu, xuất khẩu. Đây là yếu tố quan trọng đối với các quốc gia và có ảnh hưởng lên cán cân thương mại khá rõ ràng. Khi mà tỷ giá đồng tiền tại một quốc gia mà tăng thì giá cả của hàng nhập khẩu cũng sẽ theo đó mà rẻ hơn. Trong khi giá hàng hóa xuất khẩu thì lại có xu hướng ngược lại, trở nên đắt hơn so với hàng nước ngoài. Điều này sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu, thuận lợi cho nhập khẩu và ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu ròng. Còn với trường hợp tỷ giá đồng nội tệ giảm thì xuất khẩu sẽ có lợi thế, còn nhập khẩu sẽ gặp bất lợi và làm cho xuất khẩu ròng tăng lên. Nhập khẩu sẽ có xu hướng tăng khi mà GDP tăng và thậm chí còn tăng nhanh hơn. Ngoài GDP ra thì nhập khẩu còn phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Vì nếu mà giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Do xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Vì thế mà nó chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Cũng do thế mà trong mô hình kinh tế, người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định. Khi mà đầu tư tăng cao sẽ khiến cho chính sách tiền tệ nới lỏng, điều này sẽ làm giảm lãi suất trong nước từ đó làm tăng đầu tư trong nước. Với mức tiết kiệm thấp thì đồng nghĩa với việc người dân sẽ có mức tiết kiệm thấp. Ngoài ra thì việc tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán và bất động sản đều sẽ làm cho người dân có cảm giác giàu hơn do đó mà sẽ làm tăng tiêu dùng và giảm tiết kiệm. Lạm phát tăng cao cũng sẽ phần nào tác động mạnh mẽ lên cán cân thương mại. Trên thực tế thì khi mà tỷ giá đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu cũng sẽ trở nên rẻ hơn. Còn đối với hàng giá xuất khẩu thì sẽ lại đắt hơn đối với hàng hóa và dịch vụ nước khác. Và đây cũng được coi là một quy luật hết sức tự nhiên. Việc thâm hụt ngân sách cũng chính là việc thâm hụt cán cân vãng lai. Ở Việt Nam, tình trạng thâm hụt cán cân thương mại là do nước ta đang tập trung theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong những năm qua. Đồng thời suy thoái kinh tế cũng đã khiến cho chính phủ tăng chi ngân sách để có thể đảm bảo thực hiện được mục tiêu. Ngoài ra thì nguyên nhân nữa đó là do các dự án đầu tư tràn lan nhưng lại không thu được hiệu quả. Ở Việt Nam, thì cơ cấu hàng hóa cũng được coi là vấn đề thương mại tạo thương mại (tăng tỉ lệ xuất khẩu cũng đồng thời với tăng tỉ lệ nhập khẩu, 2/3 giá trị xuất khẩu là nguyên liệu nhập khẩu) và năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong nước còn thấp. Bên cạnh đó nước ta còn chưa gia nhập hoàn toàn vào chuỗi giá trị trong khu vực mà chỉ đóng vai trò là nơi lắp ráp. Việt Nam cũng đã và đang bắt đầu thực hiện theo chính sách giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết trong thỏa thuận thương mại khu vực và trong WTO. VayTaiChinh.vn là website tư vấn và hỗ trợ các giải pháp tài chính trực tuyến 24/7, nhằm hỗ trợ cho các nhu cầu tài chính đột xuất của bạn.
|
Cán cân thương mại
|
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.
|
Có thể nói, kem che khuyết điểm là loại mỹ phẩm không thể thiếu trong túi xách của những bạn là tín đồ makeup. Những vết thâm mụn, mụn đỏ, tàn nhang, quầng thâm mắt,. sẽ được giấu đi nhanh chóng chỉ sau một nốt nhạc với kem che khuyết điểm. Và thay vào đó sẽ là lớp nền mịn màng không tì vết. Tất cả câu trả lời sẽ có trong bài viết dưới đây, hãy cùng Zicxa.com tìm hiểu ngay bạn nhé!. Kem che khuyết điểm là dòng mỹ phẩm chăm sóc da với khả năng che đi những điểm xấu trên gương mặt của bạn như nếp nhăn, lỗ chân lông to, mụn, thâm mụn, mụn đỏ, sẹo,. Xét về bảng thành phần, kem che khuyết điểm có nhiều điểm tương đồng với kem nền. Tuy nhiên kem che khuyết điểm sẽ có độ phủ rộng và tối ưu hơn nhiều so với kem nền. Trên thực tế, kem che khuyết đi và kem nền luôn đi chung với nhau như một cặp đôi không thể thiếu nếu bạn muốn có một lớp trang điểm hoàn hảo. Kem che khuyết điểm sẽ giấu đi những phần khuyết điểm xấu trên gương mặt của bạn (mụn, nếp nhăn, lỗ chân lông to,.) cho lớp nền mịn màng không tì vết. Sử dụng kem che khuyết điểm cho môi sẽ giúp hiệu ứng màu lên chuẩn hơn và lì hơn. Kem che khuyết điểm có thể linh động thành kem tạo khối nhờ vào 2 bảng màu sáng và tối. Kem che khuyết điểm dạng lỏng còn giúp làm dày lớp mascara, cho đôi mắt sâu và đẹp hơn. Khả năng linh động trong cách dùng của kem che khuyết điểm sẽ giúp bạn tiết kiệm chi phí hơn rất nhiều (chẳng hạn như kem che khuyết điểm kiêm kem chống nắng, kiêm kem nền, kiêm tạo khối,.). Do nhu cầu của các tín đồ làm đẹp là vô hạn. Bởi vậy dòng sản phẩm kem che khuyết điểm cũng liên tục được cải tiến nhằm đáp ứng mong muốn của thị trường hiện nay. Một là, kem che khuyết điểm dạng lỏng: Loại này thường được đính kèm cọ để dễ tán và thao tác trên da hơn. Hai là, kem che khuyết điểm dạng bút: Loại này giống như một chiếc bút chì, dùng để che khuyết điểm ở những vùng có chi tiết nhỏ. Ba là, kem che khuyết điểm dạng thỏi: Loại này thường có kết cấu kem dày và độ che phủ cao. Bốn là, kem che khuyết điểm dạng nén: Loại này là sự kết hợp giữa dạng thỏi và dạng lỏng. Có kết cấu kem mềm mịn và được nén trong từng hũ nhỏ (nhìn giống hộp phấn). Năm là, dạng phấn nước: Loại này sẽ cho lớp nền tự nhiên và mỏng nhẹ, tuy nhiên giá thành hơi cao. Ngoài ra, thị trường kem che khuyết điểm còn được phân theo mức độ che phủ. Ví dụ như sản phẩm chuyên để che mụn, sản phẩm chuyên để che quầng thâm, sản phẩm chuyên để che lỗ chân lông to và nếp nhăn,. Nhiều bạn cho rằng việc chọn kem che khuyết điểm là nên chọn theo đúng tone da tự nhiên của mình. Trên thực tế nhận định này đúng nhưng chưa đủ. Những vùng da bị thâm như thâm mụn, quầng thâm mắt, da không đều màu nên ưu tiên kem che khuyết điểm màu cam, vàng. Những vùng da bị sưng phù, thâm tím nhẹ, nên ưu tiên kem che khuyết điểm tone màu hồng. Hiện nay, kem che khuyết điểm có 2 kết cấu chính là dạng kem lỏng (hoặc lỏng sệt) và kem đặc (hoặc đặc hơn nữa là kem nén). Với những sản phẩm ở dạng lỏng thì khả năng che khuyết điểm sẽ thấp hơn. Tuy nhiên không gây cảm giác bí da hay kích ứng. Đặc biệt phù hợp với các bạn da dầu hay da bị mụn, da nhạy cảm. Với những sản phẩm ở dạng kem đặc thì khả năng che khuyết điểm sẽ cao hơn. Tuy nhiên có thể gây bí da, bên cạnh đó đòi hỏi công tác làm sạch tỉ mỉ để tránh bị lên mụn. Đặc biệt phù hợp cho những bạn da nào da thường hay da hỗn hợp. Kem che khuyết điểm có độ che phủ và độ bám màu tốt sẽ giúp bạn hạn chế việc phải dặm nhiều lớp lên gương mặt (làm mặt bị nặng và hằm bí). Trong bài viết này, chúng tôi sẽ review rõ ràng khả năng che phủ của từng sản phẩm để bạn đọc có cái nhìn tổng quan hơn. Qua đó đưa ra những lựa chọn phù hợp. Bạn nên ưu tiên các sản phẩm kem che khuyết điểm được tích hợp nhiều công dụng làm đẹp khác như: chống nắng, kem nền, tạo khối,. Việc này sẽ giúp da của bạn thông thoáng hơn và không bị cảm giác nặng nề do sử dụng quá nhiều loại mỹ phẩm. Đây là tiêu chí cuối cùng và cũng là tiêu chí rất quan trọng mà bạn không nên bỏ qua. Như bạn cũng thấy, những sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, thương hiệu uy tín luôn mang đến cảm giác an tâm cho chúng ta khi tiếp cận và lựa chọn. Để giúp bạn có cái nhìn tổng quan hơn về dòng sản phẩm này, hãy cùng Zicxa.com tìm hiểu chi tiết qua mục Review kem che khuyết điểm ngay sau đây. Kem che khuyết điểm Nars Radiant Creamy được bào chế từ bảng thành phần có mức độ an toàn cao, nói KHÔNG với Paraben, Alcohol và hương liệu nhân tạo. Sản phẩm được ứng dụng công nghệ khuếch tán ánh sáng. Dạng kem đặc, độ phủ rộng, có thể che tốt cả mụn đỏ, quầng thâm, đốm mụn,. Chất kem không bị bở, có thể dặm nhiều lớp để tăng mức độ che phủ. Tốc độ khô khá nhanh nên cần chú ý thao tác từng vùng trên da và thao tác nhanh để tránh kem bệt lại. Với thiết kế của sản phẩm, khi dùng đến cuối lọ sẽ hơi khó để lấy kem. Kem che khuyết điểm Dermacol vừa che khuyết điểm trên da, vừa có khả năng chống nắng với SPF 30. Có khả năng chống nước tốt, không bị xuống tone khi tham gia các hoạt động dưới nước lên đến 18 giờ. Kem che khuyết điểm Maybelline Better Skin là sự kết hợp 2 trong 1 giữa công thức bào chế chứa thành phần Hyaluronic Acid, Vitamin C và tập hợp các chất chống oxy hóa. Sản phẩm có kết cấu kem lỏng, mỏng nhẹ và dễ dàng thao tác trên da. Có thể sử dụng kem che khuyết điểm Maybelline Better Skin làm kem lót mắt. Thiết kế dạng thỏi với đầu cọ tiện dụng, hợp vệ sinh khi chấm kem lên da. Có thể gây hiện tượng “mốc” da với những bạn da khô, nên dưỡng ẩm từ trước để tránh hiện tượng này. Khả năng che khuyết điểm chưa cao với những vết thâm mụn, mụn đỏ,. do chất kem lỏng. Đối tượng sử dụng: Da thường, da dầu, da hỗn hợp thiên dầu, da nhạy cảm, da mụn. Dimethicone, Isododecane, Glycerin, Lycium Barbarum Fruit Extract có khả năng dưỡng ẩm cho vùng da quanh mắt, đồng thời cải thiện quầng thâm ở bọng mắt chỉ sau 2 tháng sử dụng. Chất kem lỏng, độ phủ cao, apply lên da cảm giác vô cùng mỏng mịn và dễ tiệp vào màu da tự nhiên. Độ bám tốt, phù hợp với những hoạt động ngoài trời đổ nhiều mồ hôi. Kem che khuyết điểm Maybelline Fit Me có mức độ an toàn cao, phù hợp với những bạn da mụn và da nhạy cảm. Thương hiệu: M.A.C (Thương hiệu được mệnh danh là một trong những “Ông hoàng của giới mỹ phẩm”). Kem che khuyết điểm Mac Studio Finish Concealer được bào chế từ các hạt Nano, ascorbyl palmitate, tocopherol, PVP/hexadecene copolymer, polybutene,… cùng nhiều dưỡng chất và vitamin dưỡng da, đảm bảo an toàn cho làn da của người dùng. Thiết kế dạng hũ nhỏ gọn, độc đáo với phần nắp trong suốt, dễ dàng quan sát bên trong. Độ che phủ cao, có thể che hoàn hảo các vết thâm mụn, sẹo do mụn, quầng thâm mắt,. Kem che khuyết điểm Mac Studio Finish Concealer tích hợp khả năng chống nắng với chỉ số SPF 35. Dạng hũ dễ gây mất vệ sinh và nhiễm bẩn trong quá trình sử dụng. Kết cấu kem: Sản phẩm có 2 đầu, một đầu dạng kem lỏng, một đầu dạng kem đặc thỏi. Kem che khuyết điểm The Face Shop TFS Concealer có mức độ an toàn cao và không gây kích ứng nhờ bảng thành phần được chiết xuất chủ yếu từ thiên nhiên như: trà xanh, đậu bắp, hoa cúc, lá hương thảo, chanh, hạt quinoa, húng tấy hoa nhài. Kem che khuyết điểm The Face Shop TFS Concealer với 2 đầu tiện lợi, một đầu được nén như thỏi son với chất kem đặc mịn, một đầu dạng lỏng kèm cọ để tán. Khả năng che khuyết điểm tốt với các đốm mụn, thâm, tàn nhang, da không đều màu. Với các vết mụn đỏ thì tạm ổn. Khả năng bám chưa tối ưu với những bạn da dầu, nên có thêm kem nền để hiệu quả bám tốt hơn. Đối tượng sử dụng: Mọi loại da, đặc biệt là những bạn da dầu, da mụn.
|
Kem che khuyết điểm
|
Kem che khuyết điểm hoặc chất điều chỉnh màu là một loại mỹ phẩm được sử dụng để che giấu quầng thâm, các đốm tuổi, lỗ chân lông lớn và các vết nhăn nhỏ khác có thể nhìn được trên da. Nó cũng tương tự như kem nền, nhưng dày hơn và được sử dụng để che giấu các sắc tố khác nhau bằng cách hòa lẫn điểm không hoàn hảo vào trong tông màu da xung quanh. Cả kem che khuyết điểm và kem nền thường dùng để làn da đồng đều hơn về màu sắc. Hai loại mỹ phẩm này khác nhau trong các loại kem che khuyết điểm có màu sắc đậm hơn, mặc dù kem che khuyết điểm và kem nền đều có sẵn phạm vi mờ đục rộng lớn. Kem che khuyết điểm có thể dùng một mình hoặc với kem nền. Nó có dạng khác nhau từ dạng lỏng đến dạng phấn. Kem che khuyết điểm thương mại đầu tiên là Erace của Max Factor, tung ra năm 1954. Trang điểm ngụy trang là một dạng chất màu đậm hơn nhiều của kem che khuyết điểm. Nó được sử dụng để che vết đổi màu da nghiêm trọng như vết bớt, vết sẹo và bạch biến.
|
Việc làm này nhằm đảm bảo quyền lợi và tài sản cho người dân; đồng thời kiểm soát chặt chẽ các hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. DHLaw tìm hiểu để biết và có những biện pháp bảo vệ tài sản, quyền lợi tốt nhất khi tham gia chơi hụi. Chơi hụi có 2 loại chủ yếu là chơi không có lãi và chơi có lãi. Chơi không lãi thì đến cuối kỳ hụi, mỗi thành viên tham gia sẽ rút ra một số tiền bằng nhau. Đây giống như một dạng bỏ ống heo tiết kiệm. Loại còn lại là chơi có lãi và cũng là hình thức được nhiều người tham gia nhất. Bởi cách chơi này đánh vào lòng tham của người tham gia với mức lãi suất cao; thậm chí có lúc lãi suất lên đến hơn 20%. Hình thức chơi hụi có lãi này gần giống như gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng nhưng có mức lãi suất cao hơn hẳn. Và nếu người chơi rút hụi sớm thì sẽ phải đóng tiền hụi cộng lãi cho kỳ tiếp theo. Nhưng nếu chọn cách rút cuối kỳ thì người chơi sẽ nhận được một khoản tiền khá lớn gồm cả gốc lẫn lãi của dây hụi. Với số tiền hấp dẫn như trên, càng ngày càng có nhiều người tham gia vào và đường dây hụi sẽ càng lớn hơn. - Việc tổ chức hụi phải tuân thủ các nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử. - Mọi cam kết, thỏa thuận khi chơi hụi phải hợp pháp, không vi phạm đạo đức xã hội. - Việc chơi hụi phải hoàn toàn dựa trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. - Việc chơi hụi được xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ một cách thiện chí, trung thực và không gây ảnh hưởng đến lợi ích của cộng đồng. - Việc tổ chức hụi nhằm mục đích tương trợ lẫn nhau giữa những người tham gia. - Không được tổ chức hụi với mục đích lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm. - Không được huy động vốn bất hợp pháp hoặc các hành vi trái pháp luật khác. Việc thỏa thuận khi chơi hụi phải được lập thành văn bản rõ ràng, có chữ ký xác nhận của các bên. Và nên thực hiện công chứng, chứng thực để đảm bảo giá trị pháp lý cao hơn khi xảy ra tranh chấp. Khi các thỏa thuận, cam kết được những thành viên tham gia chơi hụi sửa đổi, bổ sung thì cũng phải lập văn bản sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều này. Như đã nói ở trên, chơi hụi là một cách tiết kiệm tài sản của nhiều cá nhân. Và chơi hụi có lãi suất là hình thức gửi tiền tiết kiệm tín chấp với mong muốn hưởng được một khoản lời kha khá. - Đứt dây hụi hay bể hụi. Bởi vì việc chơi hụi là do nhiều người cùng tham gia đóng góp tài sản theo định kỳ. Nhưng nếu một người ngừng góp thì lập tức những người sau cũng sẽ không góp nữa vì sợ không thu lại tiền được. Việc bể hụi này khiến cho những thành viên chưa được "hốt hụi" sẽ mất trắng tài sản đã đóng góp trước đó. Tình trạng chủ hụi ôm tiền của các thành viên bỏ trốn đang ngày càng diễn ra nhiều hơn khiến người chơi lâm vào cảnh khốn đốn, nợ nần. Việc bị giựt hụi chủ yếu do ngay từ đầu chủ hụi đã có ý định lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của người chơi. Và thường chủ hụi sẽ tạo ra các dây hụi hay con hụi "ma" nhằm tạo lòng tin với người chơi. Hoạt động bán hụi là hình thức các chủ hụi tạo ra những đường dây hụi "khống" và bán lại cho những người đang cần gom hụi chót để lấy tiền. Mức giá rao bán sẽ thấp hơn rất nhiều so với mức hụi chót thu được mà chủ hụi nêu ra. Thật ra, về bản chất ban đầu thì chơi hụi nhằm mục đích tương trợ về vốn giữa những người sinh sống trong một cộng đồng. Nhưng do lòng tham của nhiều người mà hoạt động này bị biến chất; lợi dụng để kinh doanh tín dụng đen hoặc lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. - Khi tham gia phải làm văn bản nêu rõ các nội dung theo quy định pháp luật và nên buộc chủ hụi công chứng, chứng nhận rõ ràng. - Nên mở một tài khoản ngân hàng để kiểm soát việc giao dịch tiền hụi. - Không tham gia các dây hụi trên 20% lãi suất vì rủi ro bị giựt hụi, thành viên "ma" là rất cao. - Tìm hiểu kỹ thông tin về đường dây hụi, thành viên tham gia và chủ hụi. - Dây hụi bị bể, chủ hụi trả chậm hoặc không có khả năng trả tiền cho người chơi thì sẽ bị xử lý theo hình thức vi phạm Luật Dân sự. - Ngoài ra, nếu chủ hụi giựt hụi, bỏ trốn thì sẽ bị xử lý theo Luật Hình sự về tội cố tình lợi dụng tín nhiệm để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Và một điều đáng buồn là trong hầu hết các trường hợp bị bể hụi hoặc giật hụi; các thành viên tham gia rất khó để được trả lại tiền. Vì chủ hụi thường không còn khả năng chi trả mới tuyên bố vỡ hụi. Hoặc chủ hụi sau khi bỏ trốn đã dùng số tài sản chiếm đoạt được đem đi tiêu xài hết. DHLaw có đội ngũ luật sư đất đai giỏi, chuyên tư vấn và xử lý các hồ sơ khó về nhà đất tại TPHCM. Nhằm giúp những cặp vợ chồng hiếm con muộn hoặc không thể có con biết cách xin nhận con nuôi Luật DHLaw xin cung cấp. Hợp tác kinh doanh có sự tham gia của đối tác là cá nhân, pháp nhân nước ngoài (Hợp đồng BCC với đối tác nước. DHLaw tự hào là công ty luật nổi tiếng ở tại TPHCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận.
|
Chơi hụi
|
Chơi hụi (tên khác: họ, hội, biêu, phường, huê) gọi chung là họ, là một hình thức huy động vốn trong dân gian Việt Nam và thường do phụ nữ thực hiện. Đây là hình thức trái ngược với trả góp. Trước đây, việc chơi hụi chưa được pháp luật Việt Nam thừa nhận và bảo vệ quyền lợi nhưng kể từ năm 2006 đã có nghị định 144/2006/NĐ-CP quy định hướng dẫn về họ. Chơi hụi giống hình thức bỏ ống tiết kiệm nhưng giúp các con hụi có cơ hội nhận trước tổng số tiền mình định tiết kiệm nhanh hơn. Và khi đã nhận được tiền hụi, người đó trở về giống hình thức trả góp. Bể hụi: Khi chủ hụi đã thu hụi của các con hụi, đến kì mở hụi mà không chi trả cho người được hốt hụi thì được coi là bể hụi. Giật hụi: Tới kì mở hụi mà không tìm ra chủ hụi, thì gọi là giật hụi.
|
Chiều chủ nhật không rong ruổi ngoài đường, mình ở nhà, chọn xem “Mùi đu đủ xanh” mà chị H. và Th. đã có lần chia sẻ. Xem phim rồi thấy đời trong veo lạ kỳ. “Mùi đu đủ xanh” là bộ phim đầu tay của đạo diễn Trần Anh Hùng được trình chiếu tại liên hoan phim Cannes (5/1993) và đã từng được đề cử giải Oscar cho hạng mục phim ngoại ngữ xuất sắc. Phim là câu chuyện về cuộc đời của Mùi – cô bé quê lên Sài Gòn làm người giúp việc cho một gia đình bán vải những năm 1950. Trong hơn mười năm đi ở, em đã chứng kiến và kinh qua những thăng trầm của chính mình và của những người xung quanh em. “Mùi đu đủ xanh” cho chúng ta cái nhìn rất thực về cảnh sinh hoạt đời thường của người Sài Gòn những năm 50-60, đưa ta vào chuyến “phiêu lưu” khám phá thế giới tâm hồn của con người Việt Nam và trên hết là truyền tải thông điệp về một lối sống rất an nhiên tự tại của Mùi. Trong gia đình nơi Mùi ở, bà chủ là trụ cột chính về kinh tế lẫn tinh thần cho cả nhà nhưng chồng bà lại là người đàn ông chỉ biết ăn chơi, lấy tiền của vợ đi hoang khi thích và luôn đắm chìm trong đàn hát từ sau cái chết của cô con gái tên Tố. Ông bà chủ có ba người con trai: Trung là con trai lớn đi đi về về ít khi ăn cơm nhà; Lãm là đứa thứ có tâm hồn nhạy cảm, thích đọc sách và hay an ủi người mẹ của mình; đứa út nhỏ tuổi hơn Mùi là một thằng cu con rất nghịch ngợm hay bày trò phá cô nhưng nó lại thương ba vô cùng. Trong nhà còn có bà nội – người suốt ngày chỉ nhốt mình ở tầng trên tụng kinh niệm Phật, bà giúp việc già ở cùng Mùi, Khuyến – một nhạc sĩ, bạn của Trung và là người làm Mùi có những rung động đầu tiên, ông Thuận – người đàn ông chẳng biết từ đâu tới theo đuổi bà nội 7 năm trời chỉ dám “đứng nhìn từ xa”. Mười năm Mùi đã ở đó và chứng kiến cuộc sống không hạnh phúc của gia đình bà chủ, từ chuyện ông hững hờ với bà, bỏ đi mang theo hết tiền bạc hay người mẹ chồng chỉ biết quở mắng “cô là vợ mà không biết mang lại hạnh phúc cho chồng” đến cả cách những đứa con trai thể hiện nỗi buồn (đứa thì chọc phá người khác, đứa trút lên những con kiến, đứa thì ăn bờ ăn bụi ngoài đường chẳng chịu về). Sau đó người chồng chết, Trung lấy vợ rồi cũng để vợ cán đán việc buôn bán trong nhà, anh giống bố lại chìm vào âm nhạc; bà chủ thay mẹ chồng lên tầng trên tụng kinh niệm Phật, Lãm đến vùng đất yên tĩnh viết sách, còn Mùi được chuyển sang ở nhà Khuyến – người bạn của Trung năm xưa để làm người giúp việc. Tại đây hai người đã nảy sinh tình cảm, Mùi trở thành vợ của Khuyến. Tất cả các tình tiết đó được sắp xếp bằng những nhịp rất chậm và trầm, có gì đó kiềm nén chứ không nổ ra những xung đột, mâu thuẫn kịch tính như bình thường trong các bộ phim vẫn có. 104 phút phim là những giây phút rất lạ, giống như mọi thứ chậm lại: bước chân của nhân vật, cảnh thiên nhiên, hơi thở nụ cười của Mùi, thậm chí phim cũng có rất ít lời thoại để khán giả có thể cảm nhận trọn vẹn “nhịp sống” của “Mùi đu đủ xanh”, một điều gì đó rất “thiền” và rất “tịnh” (nhưng không “tĩnh”). Là trung tâm của phim, hơn ai hết em chứng kiến hết tất cả những gì diễn ra xung quanh mình nhưng em không nói gì nhiều, em chỉ im lặng, mỉm cười và làm thật tốt công việc. Mùi có một tâm hồn trong trẻo đến thánh thiện thể hiện qua đôi mắt đen láy luôn mở to nhìn ngắm vạn vật, khuôn miệng xinh xắn luôn mỉm cười, giọng nói nhẹ nhàng và hầu như nói rất ít, chỉ cười thôi. Mùi làm gì cũng khoan thai, chậm rãi và chú tâm đến kinh ngạc Nhìn cách em xào rau hay cắt đu đủ xanh có thể thấy em đã dành trọn tâm trí của mình vào việc làm, rất tỉnh thức, rất “thiền”. Chỉ có điều, Mùi không hề hay biết rằng mình đã rất vô thường như vậy, em cứ hồn nhiên để là em thôi. Mùi không nói nhiều nhưng ở bên cạnh em người ta dịu đi những vết thương bên trong. Bà chủ nguôi ngoai nỗi đau mất con, bà giúp việc già có người để chăm sóc, Khuyến từ cõi nhạc xa xôi trở về đời thực,.tất cả đều diễn ra từ từ, nhẹ nhàng, thấm dần chứ không đột ngột, vội vã. Mùi cứ luôn ở đó, lặng lẽ sống và mang lại niềm vui cho những người xung quanh em. Đúng với cái tên “Mùi” của mình, em tồn tại như một mùi hương bên đời, đã nghe một lần là nhớ, ngày nào cũng ở bên nhưng vì quá thân thuộc nên đôi khi bị quên lãng, cho đến khi bừng tỉnh, hương bay ngào ngạt. Bên cạnh đó, tình yêu mến vạn vật của Mùi cũng là một nét đặc sắc trong tâm hồn em vốn cũng là đặc trưng của người Việt Nam. Em nâng niu chú dế, em chơi đùa cùng ếch, em hít hà hương thơm của đu đủ khi vừa cắt, em chạm nhẹ vào hạt đu đủ non, em hiền lành với nước khi rửa tay hoặc tắm. Một điều lạ là các cảnh quay Mùi và nước khá nhiều, mình đã có lần bàn về hình ảnh nước nhưng cơ bản nó là sự thanh lọc, thanh thoát. Có lẽ Mùi cũng vậy thôi, cũng như nước mát lành vậy. Từ đầu đến cuối Mùi luôn mặc bộ đồ bà ba truyền thống, mặc yếm khi tắm, từ điệu bộ đến hành động đều rất truyền thống, rất Việt. Bỏ qua việcdiễn viên phát âm sai, còn lại nhân vật Mùi được xây dựng rất đẹp. Đu đủ xanh xuất hiện ba lần trong phim, mỗi lần đu đủ xanh xuất hiện là cuộc đời Mùi sang trang. Lần đầu tiên đu đủ xanh xuất hiện là buổi sáng đầu tiên ở nhà bà chủ, bà giúp việc già cắt quả đu đủ làm cơm. Từ lúc đó, Mùi được sống trong tình yêu thương của bà, của chủ nhà và cùng gia chủ trải qua nhiều câu chuyện khác. Một cách nào đó, gia đình bán vải cũng là gia đình của Mùi. Lúc đu đủ được cắt xuống, Mùi đã đứng hít hà thương thơm của nó rồi mỉm cười nhìn giọt mủ rỉ xuống. Mình chưa ngửi mùi đó bao giờ, nhìn Mùi ngửi mình nghĩ “chắc là nó tinh khôi lắm”. Lần thứ hai là khi ông chủ bỏ đi hoang, Mùi cắt đu đủ xuống để nấu ăn. Lúc còn dư, em tò mò bổ dọc nó ra rồi thích thú nhìn những hạt non màu trắng, nhẹ nhàng dùng tay chạm nhẹ vào đó rồi mỉm cười. Mùi luôn như vậy, mở lòng với mọi thứ. Lần cuối cùng đu đủ xanh xuất hiện là khi Mùi nấu cơm cho chồng (Khuyến), lúc này cô đã tìm được bến đỗ cho mình. Tại sao lại là đu đủ mà không phải là loai trái khác? Phải chăng “đu đủ” là ngầm ý nói về cuộc sống “tri túc” – biết đủ của Mùi? Em chưa bao giờ đòi hỏi, chưa bao giờ lấy làm buồn với những “thiếu thốn”, cũng không phản ứng với đau khổ, em “biết đủ” với cuộc sống của mình và cứ sống thôi. Bà chủ trong “Mùi đu đủ xanh” là mẫu mực của người phụ nữ Việt Nam vất vả lo toan chuyện buôn bán lẫn chuyện gia đình, bà nhẫn nhịn và hy sinh chưa bao giờ làm điều không phải với chồng con. Tuy vậy cuộc đời của bà thật bất hạnh “có chồng hờ hững cũng như không”, lại phải gồng mình lên tỏ ra vui vẻ với 3 cậu con trai, im lặng chịu đựng với những lần chồng lấy tiền đi chơi, kể cả khi người chồng trở về bệnh tật bà vẫn thu xếp bán hết đồ trong nhà để có tiền chạy chữa, còn thuê hát xướng về cho chồng nghe lúc châm cứu. Hình ảnh của bà chủ làm mình liên tưởng đến người phụ nữ trong “Trăng nơi đáy giếng”, cũng tần tảo, cũng khổ cực, cũng hy sinh, cũng chịu đựng, vì cũng đều là phụ nữ với nhau. Chẳng những vậy bà phải chịu sự xỉ vả của người mẹ chồng miệng thì “nam mô” nhưng ghim ghút “con tôi khổ vì lấy cô” và nhất là nỗi buồn mât đứa con gái, . Bởi vậy nên bà thương Mùi tha thiết, thương đến vỡ òa cất thành tiếng “lại đây con của mẹ” khi Mùi sang nhà Khuyến. Điều mình ấn tượng nhất chính là chi tiết bà phát hiện ra chồng bỏ đi, mở chiếc hộp đựng tiền thấy trống không liền đóng lại, rồi…im lặng. “Im lặng” có nghĩa là không phải kháng, là chấp nhận nó như một lẽ bình thường, nhiều khi tự hỏi phụ nữ lấy chồng khổ vậy lấy làm gì không biết?. Người thứ hai mình ấn tượng là Lãm – thằng con trai thứ hai trong nhà. Nó là một đứa trẻ nhạy cảm, nó biết chuyện mẹ mình bị bà nội trách cứ, biết chuyện ba đi hoang và nó thương mẹ vô cùng. Chính nó đã không nhắc gì về ba để mẹ không buồn, uống chén nước mắm “ra oai” với thằng em út để dỗ nó ráng ăn mặn vì nhà thiếu tiền mua đồ ăn, nó cũng là người quát em “im đi” đừng nhắc đến ba rồi sau đó ngồi khóc bên mẹ, cũng chính nó đưa tay ra vô về an ủi mẹ khi ba nó mất. Lãm cũng là hiện thân của tình yêu thương, nhưng tình yêu thương của nó không tinh khiết như Mùi mà tình cảm đó xuất phát từ khổ đau. Sau đó Lãm trở thành nhà văn, lại viết nên những trang đời. Trung – người con trai cả cho mình sự thấm thía về bài học “nhân – quả”. Thực ra nhân vật này mình không để ý lắm, mình thích Lãm hơn (chắc tại mình bị ấn tượng với con trai nhạy cảm và biết quan tâm hè hè) nhưng nghĩ lại Trung cũng là một mắt xích quan trọng của câu chuyện. Sau khi ông chồng chết, ở gần cuối phim Trung trưởng thành và lấy vợ, người vợ đó cán đán công việc buôn bán trong nhà và ngồi than thở với chồng “dạo này ế ẩm”. Đáp lại lời vợ, Trung chỉ lơ đễnh nghe rồi tập trung vào cây đàn. Rùng mình, mình thấy hình ảnh người bố đã khuất của Trung hiện về trong Trung. Lại một nghiệp mới được tạo, người khuất rồi nhưng “quả” còn đó. Cậu con út nghịch ngợm, mang lại tiếng cười thú vị cho người xem trong suốt tiết tấu chậm và trầm của phim. Chú bé luôn bày trò để làm Mùi khổ, mà thực ra là do cậu bé thiếu thốn sự quan tâm quá nên mới như vậy để được chú ý. Dẫu sao thì trong những mối dây đời đó cậu cũng là một nạn nhân. Cô người yêu của Khuyến – một cô gái thông minh, tràn đầy năng lượng và hiện đại; mỗi tội cô không phù hợp với Khuyến. Khuyến là nhạc sĩ, anh sống ở cõi của nhạc. Sự hào hứng, nhiệt huyết của cô không đủ để chạm được đến Khuyến mà chỉ có sự thân thương, bình an của Mùi mới đánh động đến anh như cách một mùi hương lan tỏa trong không khí. Dẫu vậy, khi đã tát Mùi và đập vài cái bình, cô đã nhẹ nhàng rút lui mà không oán trách, âu cũng là một nét hành xử rất nhân văn. Khuyến là mối tình đầu của Mùi lúc bé, lại một lần nữa, chữ “duyên” chữ “phận” đã gắn kết họ lại với nhau, “duyên phận” cũng là thứ người Việt rất tin. Mình thích nhìn Khuyến dạy Mùi học, nhìn dễ thương vô cùng, và cả bình yên nữa. Có những sự sắp đặt ngẫu nhiên rất đáng yêu…. Chung quy lại, “Mùi đu đủ xanh” rất phù hợp cho một buổi chiều cuối tuần cần được bình an. Bỏ qua khuyến điểm lớn nhất là giọng diễn viên không chuẩn “Việt” thì còn lại về nội dung, âm thanh, nhất là quay phim đều không thể chê vào đâu được. Có cảm giác như tạm dừng phim bất kỳ giây nào cũng có thể chụp lại được một hình ảnh vô cùng đẹp vậy đó. Cá nhân mình thích Mùi lúc bé hơn, có lẽ vì nhìn em lúc nhỏ hồn nhiên hơn, cô Mùi lúc lớn không có được đôi mắt trong trẻo mà được mỗi khuôn miệng cười hiền thôi. 58 – Ghi chép từ buổi tọa đàm sách “Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản” (J.P.
|
Mùi đu đủ xanh
|
Mùi đu đủ xanh (tiếng Pháp: L Odeur de la papaye verte; tiếng Anh: The Scent of Green Papaya) là phim điện ảnh nói tiếng Việt năm 1993, được sản xuất tại Pháp của đạo diễn nổi tiếng người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng, có sự tham gia của Trần Nữ Yên Khê, Lư Mẫn San và Trương Thị Lộc. Bộ phim đã đoạt giải camera vàng tại Liên hoan phim Cannes 1993, một giải César cho phim đầu tay hay nhất và được đề cử cho giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 66, giúp nó trở thành bộ phim nói tiếng Việt đầu tiên và duy nhất cho đến nay từng nhận được đề cử Oscar. Mùi đu đủ xanh là bộ phim đầu tay của Trần Anh Hùng và có sự tham gia của vợ anh, nữ diễn viên Trần Nữ Yên Khê. Phim cũng là sự hợp tác đầu tiên của vị đạo diễn họ Trần với nhà soạn nhạc người Việt Tôn Thất Tiết, người sau này cũng viết nhạc cho hai bộ phim khác của Trần Anh Hùng là Xích lô và Mùa hè chiều thẳng đứng.
|
Vải lanh có thể hấp thụ tới độ ẩm tới 20% trọng lượng nhưng vẫn khô ráo khi chạm vào, bảo vệ làn da tránh khỏi tia UV và tia cực tím. Điều gì đã tạo nên sự kỳ diệu này?. Vải lanh là loại vải được làm chủ yếu từ vỏ, xơ và sợi cây lanh thiên nhiên. Chất lượng lanh ở Tây Âu được cho là tốt nhất thế giới. Tuy có nhiều điểm tương đồng với bông nhưng vải lanh thường được làm từ thân cây thay vì các quả nang mọc xung quanh hạt bông. Thực tế, bằng chứng về sự xuất hiện của lanh ở thời tiền sử khá ít hỏi nhưng dường như các dân tộc ỏ thời kỳ đồ đá mới tại châu Âu đã sản xuất hàng lanh khoảng 36000 năm trước. Từ đó, chất liệu này được coi là mặt hàng dệt lâu đời nhất, thậm chí là thời điểm ra đời của nó có thể diễn ra sớm hơn rất nhiều so với những di tích cổ xưa còn xót lại. Các bằng chứng lịch sử được tiếp tục tìm thấy ở những ngôi nhà cổ ven bờ hồ Thụy Sĩ khoảng 10.000 năm trước. Theo các nhà khoa học, vải lanh xuất hiện lần đầu tiên tại Mesopotamia vào thời cổ đại. Khi đó, loại vải này được sử dụng chủ yếu trong giới thống trị. Khác với đất nước này, việc sử dụng vải lanh ở Ai Cập lại phổ biến trong nhiều tầng lớp. Khí hậu khắc nghiệt nơi đây đòi hỏi trang phục cần có tác dụng chống lại sức nóng của ánh sáng mặt trời và có khả năng làm mát cơ thể nhanh chóng. Màu trắng tự nhiên của vải lanh cùng độ thông thoáng khiến chúng nhanh chóng được phổ biến và trở thành mặt hàng giá trị nhất ở Ai Cập. Đôi khi, chất liệu này được người Ai Cập sử dụng như một thứ tiền tệ. Loại vải này còn được dùng để làm tấm vải liệm và bọc xác ướp. Nhiều xác ướp của bọ hung, mèo được tìm thấy ở ngôi mộ Ai Cập 4500 năm tuổi có sự xuất hiện của chất liệu này. Bên cạnh đó, người Hy Lạp cũng sử dụng vải lanh để may quần áo và đồ gia dụng, sau đó người Phoenicia đã mang chúng đến Tây Âu. Tuy nhiên,nhiều ghi chép lịch sử cho thấy không có bất kỳ sự nỗ lực phát triển vải lanh nào giữa các cộng đồng nông nghiệp châu Âu cho tới thế kỷ 12 sau công nguyên. Một thời gian sau, Ireland đã vươn lên trở thành trung tâm sản xuất vải lanh ở châu Âu và thị trấn Belfast được biết tới với cái tên “Linenopolis” nhờ vào nền thương mại phát triển. Vải lanh vẫn tiếp tục được phổ biến trong suốt thời kỳ thuộc địa. Tới khi việc sản xuất bông trở nên dễ dàng với giá thành rẻ hơn, vai trò thống trị của vải lanh trong thị trường hàng dệt may ở châu Âu dần bị giảm sút. Ngày nay, nguồn vải lanh cao cấp thường có nguồn gốc từ các quốc gia như Ý, Bỉ, Ấn Độ, Ba Lan,. Chúng không còn thịnh hành do quy trình sản xuất tốn quá nhiều công sức và thời gian sản xuất. Thực chất, việc sản xuất ban đầu đã gây khó khăn không ít cho các thợ thủ công từ hàng ngàn năm trước, trong khi thác thức mà các nhà sản xuất dây chuyền hiện đại gặp phải khác xa, loại vải này cực khó sản xuất với giá thành sản xuất đắt đỏ. Vải lanh được cấu tạo từ sợi cenllulose được tìm thấy ở thân cây lanh bao gồm gỗ, sậy và một phần ở vỏ ngoài. Sau khoảng 100 ngày nuôi trồng, người ta có thể bắt đầu thu hoạch lanh. Chúng thường được trồng vào thời điểm mát mẻ để tránh chết do nắng nóng. Hiện nay, hạt lanh thường được gieo trồng bằng máy. Thuốc diệt cỏ và khâu làm đất giúp ngăn chặn hiệu quả sự sinh trưởng của cỏ dại, hạn chế tối đa trường hợp giảm năng suất ở cây lanh. Khi cây lanh có thân màu vàng, hạt nâu, chúng đã sẵn sàng để được thu hoạch. Công đoạn này có thể tiến hành bằng tay theo phương thức nhổm, cắt sát đất hoặc bằng máy. Sau khi thu hoạch, nguyên liệu được mang đi giầm tại ruộng, trong bể hoặc bồn chứa để loại bỏ chất pectin gắn kết các sợi lanh. Cách giầm hóa chất có thể được sử dụng để đẩy nhanh hiệu suất nhưng không có lợi cho môi trường. Cây lanh tiếp tục được tách cuống xơ bên ngoài ra khỏi phần gỗ mềm bên trong. Quá trình này được gọi là xáo trộn. Chỉ một sai sót nhỏ cũng có thể phá hỏng cấu trúc sợi lanh. Sau đó, thân cây bị phân hủy, phân tách cách sợi bên ngoài và sợi bên trong có thể sử dụng được. Để phá vỡ chúng, thân lanh được đưa qua các con lăn để nghiền nát, các mái chèo xoay được dùng để loại bỏ các sợi bền ngoài thân cây. Khi các sợi được tác xong, chúng sẽ được chải thành các sợi mỏng. Khâu xe sợi lanh có thể được thực hiện bằng máy kéo sợi thủ công dùng chân. Các nhà sản xuất sợi lạnh hiện đại chủ yếu sử dụng máy công nghiệp cho công đoạn này. Để kéo sợi, các sợi sẽ được đi qua máy trải sợi, những sợi ngắn được bỏ ra và giữ lại các sợi mềm và dài. Sau khi đi qua khung kéo, sợi lanh được cuộn trên suốt chỉ. Để đảm bảo sợi lanh không bị rơi ra, quy trình này cần được thực hiện trong điều kiện ẩm ướt, sợi được đưa qua bể nước nóng để đảm bảo sự kết dính. Tiếp đến, nhà sản xuất sẽ làm khô sợi thành phẩm và cuộn lên các ống chỉ. Các sợi lanh được mang dệt thành vải rồi đem tẩy trắng, nhuộm màu và phủ bóng. Khâu kiểm tra đảm bảo chất lượng đồng bộ trên từng thành phẩm, phát hiện cũng như tìm ra nguyên nhân lỗi kỹ thuật. Cuối cùng, vải lanh sẽ được chuyển sang khâu thiết kế hoặc đem đi tiêu thụ. Chất liệu vải lanh có độ bền vượt trội, không xảy ra tình trạng sờn rách, giãn chạy sau thời gian sử dụng. Điều kiện vệ sinh của vải không quá cầu kỳ, bạn có thể giặt bằng tay hoặc bằng máy, sử dụng bàn là nhưng vẫn giữ được chất lượng ban đầu. Cảm giác mềm mại, thoáng mát là ấn tượng đầu tiên của tất cả đối tượng tiêu dùng về vải lanh. Chất liệu không quá bó, mỏng vừa phải tạo độ rũ tự nhiên. Người mặc sẽ có không bị đáu rát, khó chịu tại nơi tiếp xúc. Sau mỗi lần giặt, vải sẽ càng trở nên mềm hơn. Đặc tính thấm hút và thoát hơi ẩm đều xuất hiện trên dòng vải này. Người dùng không có cảm giác bí hơi, nóng bức nhất là trong những ngày hè. Trong những ngày nồm ẩm, vải cũng rất nhanh khô, hạn chế mùi hôi khó ngửi. Đặc tính kháng khuẩn tự nhiên được lưu giữ trọn vẹn trong quá trình sản xuất. Sản phẩm lanh khá dễ dùng, khâu bảo quản đơn giản, chống bọ và côn trùng xâm nhập. Độ bóng vừa phải cũng góp phần giảm thiểu bụi bẩn bám trên mặt vải. Vải lanh có độ bóng tự nhiên đẹp mắt, thay đổi theo từng góc nhìn người thưởng thức. Màu sắc vải có thể đổi từ trắng ngà, màu vàng, nâu hoặc xám. Mặt vải có độ xoăn, nhám từ cứng, thô sang mềm mịn. Vì vậy, vải rất dễ thiết kế, phù hợp với nhiều kiểu dáng, độ tuổi. Vải lanh có nguồn gốc tự nhiên, tự phân hủy sau khi không sử dụng. Vì vậy, mối quan tâm về môi trường chủ yếu liên quan tới quá trình sản xuất. Thông thường, axit kiềm hoặc axit oxalic được sử dụng để tách sợi lanh có nồng độ thấp, trong khi đó hóa chất trong cây lanh được chứng minh là nhanh và hiệu quả hơn. Quy trình canh tác công nghiệp khiến nhiều người lo ngại tới sự xói món của đất, ảnh hưởng tới vùng hoang dã. Nhìn chung, vải lanh là loại vải ít gây hại cho môi trường nhất. Tỉ lệ tái chế rác thải sau sản xuất là rất cao. Các phân tử cấu thành có thể tái hấp thu vào môi trường chỉ trong vài năm thay vì hàng thế kỷ như sợi tổng hợp. Vải lanh có độ đàn hồi khá kém, không co giãn dẫn đến tình trạng hình thành các nếp nhăn. Chúng có thể xuất hiện liên tục ở cùng một vị trí trên cổ áo, viền trang phục hay những khu vực mà bàn là làm nhăn đi đi qua. Xu hướng đứt chỉ lanh có thể hình thành từ đó. Tuy có độ bền cao, vải lanh vẫn phải là phẳng liên tục. Các điểm gút nhỏ hay còn gọi là “slubs” thường hiện diện ngẫu nhiên theo chiều dọc của vải lanh. Các điển này từng được xem là khiếm khuyết khiến chất lượng giám sút. Với dòng vải lanh hiện đại, các nhà tạo mẫu đã lợi dụng chúng để tạo ra sự phá cách thú vị cho sản phẩm trang trí nội thất. Thực chất, chúng không ảnh hưởng quá nhiều tới sự toàn vẹn giá trị và tính năng của vải lanh. Loại vải này được dệt rất công phu và tinh tế. Vải thường được dệt trên các khung dệt jacquard để tạo hiệu ứng như thêu. Vải lanh Damask không được ứng dụng phổ biến trong các mặt hàng trang trí thay vì thiết kế hàng may mặc thường nhật. Loại vải lanh này thường được dùng để làm khăn lau bát, khăn bông và khăn lau tay. Kỹ thuật dệt tương đối lỏng, độ bền cao giúp chúng có thể dễ dàng thực hiện công việc mà không ảnh hưởng tới chất lượng. Chất liệu này có khả năng thấm hút cao tuy nhiên lại kém bền nhất. Nó thường sử dụng để làm tã và băng vệ sinh có thể tái dụng. Nhờ vào độ mềm mại, loại vải lanh này thường được sử dụng để làm quần áo. Vải lanh tấm thường có số lượng sợi cao hơn so với các dạng vải lanh khác. Trang phục vải lanh được đặc biệt yêu thích trong những ngày hè. Vải rất thích hợp để tạo ra các kiểu đầm xòe, dáng suông, áo sơ mi, đồ ở nhà,. Tránh sử dụng chất liệu này để may các đồ bó sát. Nhờ vào ưu điểm nổi bật, vải lanh còn được sử dụng chủ yếu trong các sản phẩm như khăn trải bàn, khăn ăn, áo bọc đệm sofa, tấm phủ nền, chăn ga gối,. Trong quá khứ, vải lanh từng được sử dụng để làm bìa sách, áo giáp và lá chăn. Vải bọc gây bida thường sử dụng vải lanh xứ Ireland. Đồng thời, loại giấy từ vải lanh cũng được ưa chuộng. Nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng vải lanh và bông theo tỉ lệ 1/3 để sản xuất tiền giấy. Vải lanh được biết đến là xơ dệt tự nhiên bền chắc nhất trên thế giới. Độ bền của nó đôi khi được sử dụng trong sản xuất tiền giấy để gia tăng sự dẻo dai. Nó dày hơn sợi cotton rất nhiều và hầu như đều rất dài. Điều này cũng góp phần kéo dài tuổi thọ cho sản phẩm. Ngược lại, độ bền của bông lại đạt được thông qua việc liên kết các xơ nhỏ thành sợi lớn hơn và dệt thành vải. Vải lanh mang đầy đủ đặc tính tự nhiên của cây lanh. Chúng được nhận xét là giòn hơn bông và chỉ trở nên dẻo dai khi đã qua xử lý. Mặc dù giữ được kết cấu nguyên thủy hơn so với cotton, nó vẫn đạt được độ bóng, mượt cao. Thực tế, các loại vải tự nhiên đều rất dễ nhăn. Chất nhựa lignan tự nhiên trong sợi lanh chính là nguyên nhân khiến sợi thô cứng và dễ nhăn. Thông qua quá trình xử lý và sử dụng, các nếp nhăn này sẽ trở nên mịn màng hơn rất nhiều. Trái lại, cây bông bao gồm các cụm sợi siêu mịn gọi là bolls. Chúng rất mềm và có độ đàn hồi vừa đủ. Chính điều này đã tạo nên sự mềm mại của vải cotton mà không có bất kỳ sợi thực vật nào có thể mang tới cảm giác thoải mái này ngay từ lần chạm tay đầu tiên. Khi sờ vào, lanh thô hơn sợi bông do sợi thô hơn. Chẳng hạn, drap cotton rất mềm ngay khi mới mở bao bì, cảm giác này có thể kéo dài khoảng 5 năm. Với drap lanh, nó trở nên mềm mại sau vài lần giặt, bền lâu hơn khoảng 30 năm. Mọi loại sợi tự nhiên đều có khả năng thấm hút tuyệt vời. Trước khi tiếp xúc trực tiếp hơi nước, vải lanh có thể tăng độ ẩm lên tới 20%. Vì vậy, nó được mệnh danh là sợi bấc tự nhiên. Đồng thời, lanh cũng trở nên bền chắc hơn khi bị ướt. Đặc tính tự nhiên giúp tăng cường khả năng ngăn chặn sự phát triển của vi sinh vật có hại. Nhờ đó, vải lanh được ứng dụng rất nhiều trong sản xuất khăn tay và khăn tắm. Đặc tính này cũng thể hiện khá vượt trội ở vải bông. Cotton sẽ hấp thụ hơn 25% trọng lượng của mình trong nước. Sự tương tác tuyệt vời giữa lanh và bông với cơ thể đã góp phần tạo nên sự thoải mái cho người sử dụng, thích hợp cho trang phục trong nhà. Cả cotton và lanh đều thoáng khí nhưng đặc tính này của cotton phụ thuộc nhiều vào cách dệt hơn là bản thân sợi. Một số loại dệt từ cotton như denim dày và bí hơn. Ngược lại, sợi lanh rỗng nên không khí, nước dễ lưu thông hơn. Vải lanh thường có nhiều lỗ rỗng cho phép không khí và hơi ẩm lưu thông tự do. Khi nhiệt độ thấp hơn, bạn có thể sử dụng chăn lanh để giữ nhiệt và hơi ấm từ cơ thể. Tính chất cách điện cũng là điểm cộng hoàn hảo của dòng vải này. Cũng giống vải lanh, chăn cotton phù hợp với 4 mùa, đem tới cảm giác thoải mái cho người tiều dùng. Kết cấu đặc biệt giữ cho sản phẩm luôn thoáng mát, khô ráo. Trong mùa đông, chăn bông được gia tăng thêm lớp ruột để ổn định thân nhiệt tốt hơn. Từ xa xưa, vải lanh được cho là có công dụng chữa bệnh, giảm các căn bệnh ngoài da như viêm khớp, viêm da từ chống căng thẳng tới việc đảm bảo giấc ngủ ngon hơn. Nhìn chung, bông và vải lanh đều là chất liệu lâu đời trên thế giới. Người Ai Cập trước đây đã sử dụng vải lanh để làm tiền tệ. Việc sử dụng cây lanh được cho là đã có từ khoảng 8000 năm trước Công nguyên. Trong khi đó, bông đã được biết tới từ thời tiền sử. Các chứng cứ từ thời đồ đá mới khoảng 6500-2500 trước Công nguyên đã cho thấy điều này. Phơi vải lanh ở nơi thoáng mát, khô ráo, sạch sẽ, tránh ánh nắng trực tiếp của mặt trời.
|
Vải lanh
|
Vải lanh là một loại vải được làm từ sợi của cây lanh (Linum usitatissimum). Việc sản xuất vải lanh mất nhiều công sức nhưng đây là loại vải rất có giá trị, được ưa chuộng để may quần áo do sự mát mẻ và thoải mái trong thời tiết nóng. Vải lanh là một trong những loại vải lâu đời nhất trên thế giới, bắt nguồn từ hàng ngàn năm trước. Những mẩu rơm, hạt, sợi, chỉ, và nhiều loại vải khác có nguồn gốc từ khoảng năm 8000 trước Công nguyên đã được tìm thấy tại những nơi có người ở quanh các hồ nước ở Thụy Sĩ. Những sợi lanh nhuộm được tìm thấy trong một hang đá thời tiền sử ở Gruzia đã củng cố giả thiết rằng việc sử dụng vải lanh được dệt từ cây lanh dại đã bắt đầu cách đây hơn 30.000 năm. Vải lanh đôi khi được dùng làm tiền tệ ở Ai Cập cổ đại. Những xác ướp Ai Cập được quấn trong vải lanh bởi vì nó được xem là một biểu tượng của ánh sánh và sự tinh khiết, và cũng để phô trương sự giàu có. Một số loại vải lanh này được dệt bằng cách quay tơ, vào thời đó có chất lượng rất tốt.
|
Tử Cấm Thành là gì? Nếu đã là một tín đồ của phim “cung đấu” thì chắc hẳn các bạn đã không còn xa lạ gì với ba từ “tử cấm thành” cung điện lớn nhất còn tồn tại hiện nay. Vậy hôm nay hãy cùng mình tìm hiểu cung điện Tử Cấm Thành và Tử Cấm Thành có gì khác với những bộ phim mà chúng ta đã từng xem không nhé. Tử Cấm Thành là gì ? Các bạn đã sẵn sáng chưa hôm nay công ty GVS sẽ đưa các bạn đến với cung điện lớn nhất thế giới hiện nay với hàng trăm bí ẩn của lịch sử phong kiến Trung Quốc. Nằm ở quận Đông Thành, Bắc Kinh ngày nay là một khu phức hợp cung điện với được gọi là Tử Cấm Thành. Đây chính là cung điện lớn nhất thế giới hiện nay với tổng diện tích lên đến 720.000 m2. Tử Cấm Thành nằm ở trung tâm của Hoàng Thành Bắc Kinh xưa được xây dựng dưới thời nhà Minh của Trung Quốc. Là nơi biểu trưng cho sự quyền lực tuyệt đối và xa hoa của các hoàng đế ngày xưa với 980 tòa nhà và được cho là có đến 9.999 phòng tất cả. Đây vừa là nơi ở của nhà vua và gia đình vừa là trung tâm nghi lễ và chính trị của chính quyền phong kiến Trung Quốc trong suốt 500 năm dưới thời nhà Thanh và nhà Minh. Hiện nay Tử Cấm Thành trở thành di tích lịch sử được UNESCO công nhận trở thành nơi thu hút hàng triệu lượt khách thăm quan mỗi năm với nhiều giá trị về lịch sử. Tử Cấm Thành ngày nay cũng bao gồm bảo tàng Cố Cung với nhiều báu vật quốc gia. Tử Cấm Thành xây dựng năm nào? Theo như thông tin mà visa GVS tìm hiểu được thì Tử Cấm Thành được khởi công xây dựng vào tháng 7 năm 1904 dưới thời vua Vĩnh Lạc của nhà Minh sau khi ông lật đổ cháu mình và trở thành Hoàng Đế. Những người chịu trách nhiệm xây dựng chính khi đó là Công bộ thị lang Ngô Trung, Hình bộ thị lang Trương Tư, kiến trúc sư Thái Tín và hàng trăm, hàng nghìn những công nhân và nghệ nhân trong các lĩnh vực có liên quan. Cuối cùng sau 14 năm xây dựng vất vả với hơn một triệu nhân công Tử Cấm Thành gần như đã hoàn thành vào tháng 12 năm 1420. Sau đó do nguyên liệu nhiều phần bằng gỗ nên Tử Cấm Thành nhiều lần bị tổn hại do sét đánh hoặc cháy và phải xây lại một số chỗ như vào năm 1440, 1561 và 1627. Trong suốt thời gian từ 1420 đến 1644 Tử Cấm Thành là Tử Cấm Thành là trung tâm trính trị của vương triều nhà Minh. Tháng 4 năm Sấm Vương Lý Tự Thành đánh bại nhà Minh chiếm lấy Bắc Kinh tuy nhiên ngay sau đó ông bị quân Thanh đánh vào, trước khi bỏ chạy ông đã cho đốt tử cấm thành gây tổn hại rất lớn. Sau khi nhà Thành làm chủ toàn bộ Trung Hoa đã cho xây dựng lại Tử Cấm Thành dần dần dưới thời vua Thuận Trị. Đến năm 1863 vua Khang Hi của nhà Thanh bắt đầu cho xây dựng lại toàn bộ các công trình. Và đến năm 1735 Càn Long đế đã cho xây dựng thêm và sửa chữa Tử Cấm Thành trên quy mô lớn suốt 60 năm trị vì. Những năm 1860 trở đi nhà Thanh suy yếu trầm trọng và đến năm 1912 khi hoàng đế cuối cùng của Trung Hoa, Phổ Nghi thoái vị, Tử Cấm Thành đã kết thúc nhiệm vụ là trung tâm chính trị của mình. Năm 1925 bảo tàng Cố Cung được thành lập ngay trong Tử Cấm Thành làm nơi lưu giữ những bảo vật quốc gia. Trong thời kỳ cách mạng văn hóa Tử Cấm Thành lại một lần nữa bị Hồng vệ binh phá hoại và may mắn được bảo vệ bơi thủ tướng Chu Ân Lai. Đa số mái của các cung điện đều được lợp bằng ngói lưu ly màu vàng tượng trưng cho sự thống trị và tôn quý. Còn tường của Tử Cấm Thành đều được sơn màu đỏ, vào thời đố ngoài hoàng cung ra chỉ có phủ vương gia mới được sơn màu đỏ, đó là màu biểu trưng cho sự may mắn và cao quý. Khoảng 1 triệu hiện vật trong Tử Cấm Thành được coi là di sản quốc gia của Trung Quốc và nằm dưới sự bảo vệ của chính phủ. Một trong những kiến trúc sư xây dựng Tử Cấm Thành là một thái giám người Việt Nam tên là Nguyễn An. Phần móng của Tử Cấm Thành được lát các phiến đá dày 3m để tránh có kẻ xăm nhập từ bên dưới. Tử Cấm Thành gắn liền với số 9 là con số gắn liền với hoàng đế trong quan niệm về số học của người Trung Quốc. Có tất cả 9.999 phòng, trên nóc cung điện trang trí 9 hình thú, trên cửa thì gắn 81 chiếc núm đinh (9 hàng ngang và 9 hàng dọc). Tuy đã mở cửa đón khách từ rất lâu nhưng cho đến hiện nay vẫn còn một khu vực vẫn còn là bí ẩn đối với đa số chúng ta đó là Vườn Càn Long. Dự kiến Vườn Càn Long sẽ được mở cửa trong tương lai gần. Thật là thú vị ! Mong rằng qua bài viết này các bạn đã biết rõ hơn về Tử Cấm Thành là gì ? không còn chỉ là cung điện nơi ở của nhà vua và các phi tần như trong phim nữa nhé. Truy cập ngay xin visa đi nước ngoài để có thêm những thông tin bổ ích về đất nước Trung Hoa và làm visa Trung Quốc nhé
|
Tử Cấm Thành
|
Tử Cấm Thành (tiếng Trung: 紫禁城; bính âm: Zǐjìnchéng) là một khu phức hợp cung điện ở khu Đông Thành thuộc Bắc Kinh, Trung Quốc, với tổng diện tích 720.000 mét vuông (180 mẫu). Dù là khu phức hợp cung điện lớn nhất thế giới, nhưng tại Trung Quốc, vẫn có các công trình hoàng gia khác vượt xa Tử Cấm Thành về quy mô, cụ thể là Trung Nam Hải rộng 6,1 km2 (1.500 mẫu Anh) nằm ngay phía tây Tử Cấm Thành, Di Hòa Viên rộng 2,9 km2 ở quận Hải Điến, Bắc Kinh và Tị Thử Sơn Trang rộng 5,6 km2 (1.400 mẫu Anh) ở Thừa Đức, Hà Bắc. Tử Cấm Thành nằm ở trung tâm Hoàng Thành Bắc Kinh, còn Hoàng Thành thì được xây dựng xung quanh khu phức hợp cung điện. Bao bọc Tử Cấm Thành là nhiều khu vườn và đền đài hoàng gia sang trọng. Trong đó có Công viên Trung Sơn rộng 54 mẫu, Đền thờ Tiên đế, Công viên Bắc Hải rộng 171 mẫu và Công viên Cảnh Sơn rộng 57 mẫu. Ngày nay, Tử Cấm Thành bao gồm Bảo tàng Cố cung, từng là hoàng cung và nơi cư trú mùa đông của các Hoàng đế Trung Hoa từ thời nhà Minh (bắt đầu từ Vĩnh Lạc Đế) tới cuối thời nhà Thanh, từ năm 1420 đến năm 1924.
|
Thủy điện là nguồn điện được tạo từ năng lượng nước và được sản xuất tại 150 quốc gia, với khu vực châu Á, Thái Bình Dương tạo ra 33 phần trăm thủy điện toàn cầu trong năm 2013. Thông báo: Tổng khai giảng khoá học online tiếng Anh, Hàn, Hoa, Nhật, tương tác trực tiếp với giáo viên 100%, học phí 360.000đ/tháng, liên hệ: 0902 516 288 cô Mai >> Chi tiết. Trong năm 2015, thủy điện đã tạo ra 16,6 phần trăm tổng lượng điện của thế giới và 70 phần trăm tổng số điện tái tạo và dự kiến sẽ tăng khoảng 3,1 phần trăm mỗi năm trong 25 năm tới. Chi phí thủy điện tương đối thấp, làm cho nó trở thành một nguồn điện tái tạo cạnh tranh. Trạm thủy điện không tiêu thụ nước, không giống như các nhà máy than hoặc khí đốt. Thủy điện đã được sử dụng từ thời cổ đại để xay bột và thực hiện các nhiệm vụ khác. Vào giữa những năm 1770, kỹ sư người Pháp Bernard Forest de Bélidor đã xuất bản Architecture HydAFique, mô tả các máy thủy lực trục dọc và trục ngang. Vào đầu thế kỷ 20, nhiều nhà máy thủy điện nhỏ đã được xây dựng bởi các công ty thương mại ở vùng núi gần khu vực đô thị. Đối với đập và hồ chứa, đây cũng là một nguồn điện linh hoạt, vì lượng điện do trạm sản xuất có thể thay đổi lên hoặc xuống rất nhanh, chỉ trong vài giây để thích ứng với nhu cầu năng lượng thay đổi. Khi một tổ hợp thủy điện được xây dựng, dự án không tạo ra chất thải trực tiếp và nó thường có mức sản lượng khí nhà kính thấp hơn đáng kể so với các nhà máy điện quang và các nhà máy năng lượng chạy bằng nhiên liệu hóa thạch. Bài viết thủy điện là gì được tổng hợp bởi giáo viên trung tâm tiếng Anh SGV.
|
Thủy điện
|
Thủy điện là nguồn điện có được từ năng lượng nước. Đa số năng lượng thủy điện có được từ thế năng của nước được tích tại các đập nước làm quay một tuốc bin nước và máy phát điện. Kiểu ít được biết đến hơn là sử dụng năng lượng động lực của nước hay các nguồn nước không bị tích bằng các đập nước như năng lượng thuỷ triều. Thủy điện là nguồn năng lượng tái tạo. Năng lượng lấy được từ nước phụ thuộc không chỉ vào thể tích mà cả vào sự khác biệt về độ cao giữa nguồn và dòng chảy ra. Sự khác biệt về độ cao được gọi là áp suất. Lượng năng lượng tiềm tàng trong nước tỷ lệ với áp suất. Để có được áp suất cao nhất, nước cung cấp cho một turbine nước có thể được cho chảy qua một ống lớn gọi là ống dẫn nước có áp (penstock). Ngoài nhiều mục đích phục vụ cho các mạng lưới điện công cộng, một số dự án thủy điện được xây dựng cho những mục đích thương mại tư nhân. Ví dụ, việc sản xuất nhôm đòi hỏi tiêu hao một lượng điện lớn, vì thế thông thường bên cạnh nhà máy nhôm luôn có các công trình thủy điện phục vụ riêng cho chúng.
|
Bát Tràng đã sản xuất được ấm trà Tử Sa huyền thoại. Thật vậy ấm tử sa Bát tràng được người nghệ nhân chế tác trực tiếp tại làng nghề gốm cổ truyền Bát Tràng, nên có thể yên tâm về nguồn gốc và không còn dư độc tố Chì độ an toàn khi sử dụng, có nhiều chủng loại khác nhau với giá ấm tử sa Bát tràng thành từ vài trăm ngàn đến hàng triệu đồng / bộ mà chất lượng không thua kém gì ấm tử sa Nghi Hưng. Đất đạt yêu cầu làm ấm Tử Sa phải chịu được nhiệt độ nung cao đến 1.200C. Ấm trà tử sa Bát tràng vừa tung ra thị trường đã nhanh chóng được người tiêu dùng ưa chuộng bởi chất liệu mới lạ, hình khối tinh xảo, đặc biệt càng dùng càng bóng nhờ loại đất độc đáo, ấm trà Tử Sa Bát Tràng có nhiều chủng loại khác nhau với giá thành từ vài trăm ngàn đến hàng triệu đồng /bộ mà chất lượng không thua kém gì ở Giang Tô. Nói đến ấm tử sa là nói đến một loại ấm pha trà làm bằng đất nung ở nhiệt độ cao, không tráng men. Gọi là tử sa vì nó thường có màu tím, xuất phát từ vùng Giang Tô, Trung Quốc. Rất đa dạng kề kích thước và kiểu dáng. Có rất nhiều những kiểu ấm cầu kỳ hoa mỹ như giả gốc cây, con thú, lá cây, hoa quả… Nhưng nó chỉ thích hợp để sưu tập và trưng bày. Những ấm pha trà tốt nhất thường có hình dáng đơn giản, dễ thao tác, thành ấm đồng đều, giúp ổn định và cân bằng nhiệt độ trong ấm. Ấm tử sa pha ngon hơn ấm trà gốm sứ: Các khoáng chất thường làm giảm độ gắt, khô của nước trà, giúp nước trà mềm và hương dịu, giúp cải thiện đáng kể hương vị của trà khi so với các ấm trà gốm sứ hay thuỷ tinh. Ấm tử sa gia tăng hương vị cho trà bằng cách cung cấp và tích tụ khoáng thích hợp trong mỗi lần pha trà. Ấm tử sa hấp dẫn những người uống trà bằng vẻ đẹp trầm, kiểu dáng phong phú và lịch sử lâu đời, cũng như những hiệu quả kỳ diệu khi pha trà, và cả những tranh cãi liên miên về giá trị của nó. Kích thước: Nhìn chung ấm trà tử sa thường nhỏ theo phong cách Công Phu Trà. Có nhiều kích cỡ từ 75ml đến 225ml và lớn hơn. Với cỡ chén phổ biến là 50ml, một ấm trà cỡ 100ml đến 175ml sẽ rất phù hợp cho các bạn mới bắt đầu (dành cho 2-4 người cùng uống). Dáng ấm: Các dáng ấm khác nhau giúp các loại lá trà khác nhau nở ra theo cách phù hợp để tối ưu hoá diện tích tiếp xúc với nước khi pha trà. Dáng ấm chia làm 2 loại: dáng cao và dáng thấp. Dáng ấm cao thích hợp với trà xanh,trà ô long hay trà phổ nhĩ. Dáng thấp thích hợp với Thiết quan âm, đại hồng bào hay hồng trà. Nhiệt độ nung: Cao lửa và thấp lửa. Ấm cao lửa thường cứng hơn, thành ấm mỏng, tản nhiệt nhanh, lỗ khí nhỏ thích hợp cho trà xanh và ô long. Ấm thấp lửa thường xốp, thành ấm dầy, giữ nhiệt tốt, thích hợp cho trà đen và phổ nhĩ. Đất nung cao lửa thường thiên về màu đỏ, đất nung thấp lửa thiên về màu nâu. Phương pháp chế tạo: Có 3 phương pháp: Một là làm thủ công hoàn toàn: các thành phần của ấm được làm rời sau đó ráp lại với nhau bằng các phương pháp truyền thống. Hai là làm bán thủ công: các ấm thành phần ấm được đúc sẵn và ráp lại bằng phương pháp thủ công. Phương pháp thứ 3 là khuôn đúc: toàn bộ ấm được đúc từ các khuôn ép. Chất đất: Ở Nghi Hưng có 2 loại đất làm ấm trà: tử sa “đá” và tử sa “bùn”. Tử sa “đá” làm từ đất sét đá, có độ xốp và thành phần khoáng đặc biệt, cho chất lượng cao, có nhiều màu tự nhiên (nên còn gọi là tử sa thuần). Tử sa làm từ đất bùn nhão gọi là tử sa “bùn”, thường chỉ có màu trắng, phổ biến hơn. Trên thực tế thị trường thường có 3 loại “ấm tử sa”: Đất tử sa Nghi Hưng thuần, đất trộn (kết hợp vừa đất Nghi Hưng, không phải Nghi Hưng, kể cả đất nhân tạo), và đất nhân tạo: có màu sắc phong phú và có thể trộn với các loại đất “tự nhiên”. 5 màu đất phổ biến: hồng nê, tử nê, lục nê, hoàng nê, hắc nê (và loại đất hiếm: chu nê). Ấm tử sa Bát tràng được người nghệ nhân chế tác trực tiếp tại làng nghề gốm cổ truyền Bát Tràng, nên có thể yên tâm về nguồn gốc và không còn dư độc tố Chì độ an toàn khi sử dụng. Những do quá trình vận chuyển bụi đất, nên hãy chắc chắn rằng bạn phải xử lý sạch sẽ trước khi dùng một cái ấm mới mua về. Rửa bằng nước nóng. Chà kỹ ấm bằng bàn trải đánh răng với kem đánh răng, cả bên trong và bên ngoài ấm. Đun sôi ấm 30 phút: nhớ lót đáy ấm và quấn vải nắp ấp để bảo vệ ấm khỏi va đập khi nước sôi, đảm bảo nước ngập ấm và nắp ấm. Tuỳ chọn –Luyện ấm: như một người “chuyên nghiệp” luyện ấm, bạn có thể làm thêm như sau: Tiếp tục cho ấm vào nồi đun sôi trở lại, mở nắp ấm và cho vào khoảng 3 muỗng loại trà bạn dự định pha với ấm này. Tắt bếp, đậy nắp ấm và hãm trong 30 phút, sau đó đổ hết bã trà và rửa sạch bằng nước ấm. Lặp lại một lần nữa để tăng thêm hương vị trà vào bề mặt ấm trà. Luôn đổ tràn nước qua miệng ấm khi pha trà, và lau khô ấm bằng vải mềm sẽ làm ấm trà mau chóng có lớp cao trà bóng sáng. Khi bạn muốn đổi loại trà khác thích hợp hơn cho ấm trà, hãy làm lại các bước trước khi sử dụng ấm ở phần trên.
|
Ấm trà
|
Ấm trà là một cái ấm dùng để ngâm lá trà hoặc hỗn hợp thảo dược trong nước nóng. Trà có thể được đựng trong túi lọc hoặc ở dạng lỏng, trong trường hợp cần lọc trà, người ta ngâm lá trà trong nước trà cho đến khi trà được rót ra. Ấm trà thường có nắp mở ở đầu ấm, nơi người ta bỏ trà và nước vào, có tay cầm và vòi để rót trà. Một vài ấm trà còn có bộ lọc gắn liền ở miệng vòi. Một lỗ nhỏ trên nắp được khoét giúp cho không khí có thể vào trong ấm tránh tình trạng vòi ấm bị nhỏ giọt và dễ dàng rót nước trà (cân bằng áp suất không khí trong và ngoài ấm). Thời nay, ấm ủ nóng trà được sử dụng để ngâm trà tốt hơn hoặc để tránh trà nguội nhanh chóng khi để ngoài môi trường.
|
Nhà hát Opera Sydney ra đời trước xuất phát từ nhu cầu về một địa điểm rộng lớn để tổ chức cho các chương trình kịch và biểu diễn âm nhạc quy mô. Vào thời điểm đó - thập nhiên 40, chưa có một nhà hát nào đáp ứng được nhu cầu này. Sau khi được đưa ra bàn bạc, các lãnh đạo bang New South Wales đã đưa ra quyết định cho xây dựng một nhà hát lớn và có quy mô. Thống đốc bang đã tổ chức cuộc thi tìm kiếm thiết kế để tìm ra bản thiết kế phù hợp nhẩt cho nhà hát. Cuối cùng, bản thiết kế của kiến trúc sư người Đan Mạch, Jorn Utzon đã được lựa chọn trong số 233 bản thiết kế dự thi của nhiều kiến trúc sư đến từ 30 quốc gia. Công trình bắt đầu khởi công xây dựng vào tháng 3 năm 1953. Quá trình xây dựng được chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn 1 xây dựng phần bục của nhà hát (từ 1959 đến 1963), giai đoạn 2 xây dựng phần hệ thống mái hình vỏ sò bên ngoài (từ 1963 đến 1967) và giai đoạn 3 xây dựng những phần cơ bản khác và nội thất bên trong nhà hát (từ 1967 đến 1973). Trong quá trình xây dựng, công trình gặp phải rất nhiều khó khăn nhưng cuối cùng cũng đã hoàn thành vào năm 1973 sao gần 20 năm xây dựng. Nhà hát Opera Sydney ở Úc được thiết kế với ý tưởng hết sức đặc biệt. Hình ảnh khiến người ra nhớ ngay đến nhà hát Opera Sydney đó là hình dạng con sò hay những cánh buồm no gió ra khơi. Sở dĩ tác giả lựa chọn hình ảnh này cho thiết kế của nhà hát là bởi vì ông muốn thể hiện hình tượng của chiếc thuyền buồm lịch sử với những cánh buồm trắng lộng bay trong gió đã đưa vị thuyền trường huyền thoại Jame Cook mới khám phá bao vùng đất mới. Chính Jame Cook là người đã có công khám phá ra nhiều vùng đất mới của nước Úc. Nhà hát Opera Sydney nằm trên Bennelong Point (ban đầu được gọi là Cattle Point), một khu đất ở phía nam của bến cảng ngay phía đông của Cầu Cảng Sydney. Nó được đặt tên theo Bennelong, một trong hai người thổ dân (người đàn ông khác được đặt tên là Colebee), là người liên lạc giữa những người định cư Anh đầu tiên của Úc và dân địa phương. Nhà hát Opera Sydney có tổng diện tích là 1,8 ha vvới chiều dài là 183m và chiều rộng là 120m. Tòa nhà được cố định bởi chân móng gồm 580 tấn bê tông đào sâu 25m dưới mực nước biển. Phần mái của nhà hát được lợp bằng 1.056 triệu viên gạch màu trắng và màu kem được sản xuất tại Thụy Điển, mặc dù nhìn từ xa, những viên gạch này đều chỉ có màu trắng. Mái ngói có đặc điểm tự làm sạch, tuy nhiên vẫn có một hệ thống bảo dưỡng và thay thế thường xuyên và được thiết kế để gió biển có thể luồn vào bên trong. Nhà hát Opera Sydney nước Úc có 5 khu nhà hát, 5 studio tập diễn, 2 sảnh chính, 4 nhà hàng, 6 quán bar và một số cửa hàng lưu niệm. Nội thất tòa nhà bao gồm đá granite hồng khai thác ở Tarana, New South Wales, gỗ và gỗ dán được cấp từ New South Wales. Các nhà hát có hình một loạt các con sò được biểu trưng bằng cách cắt ra thành các bán cầu. Sảnh hòa nhạc và nhà hát nhạc kịch được đặt ở 2 nhóm vỏ sò lớn nhất, các nhà hát khác nằm ở các nhóm vỏ sò khác. Chỗ ngồi nhà hát Opera House là một trong nhiều câu chuyện chưa được nhiều người biết đến. Từ những tháng đầu tiên của mình trong công việc, Peter Hall đã thừa nhận rằng thiết kế chỗ ngồi là điều không thể thiếu trong thiết kế nội thất của khán phòng và làm tăng thêm trải nghiệm của du khách về tòa nhà. Trong bốn năm tiếp theo, ông đã cố gắng thuyết phục các nhà lãnh đạo về tâm quan trọng của việc thiết kế chỗ ngồi. Ông đã rẩt kiên trì, bất chấp những lời chỉ trích về chi phí vượt quá mức cho phép thông qua việc sửa đổi thiết kế và mô hình thử nghiệm nguyên mẫu. Tuy có rất nhiều biến cố trong quá trình xây dựng nội thất bên trong của nhà hát nhưng cho đến ngày nay, các ghế khán phòng Nhà hát Opera là một minh chứng cho kỹ năng thiết kế và phán xét của Hall, sự quan tâm của ông đối với tòa nhà của Utzon. Nó cũng là một động lực cho việc cải thiện những mẫu ghế hội trường để giúp người ngồi có được những trải nghiệm tốt hơn. Một vài những thông tin mà chúng tôi cung cấp có thể chưa miêu tả đầy đủ về nhà hát Opera Sydney nhưng cũng giúp bạn có được cái nhìn cơ bản nhất về nhà hát này. Hơn 10 năm kinh nghiệm trong thiết kế và thi công nội thất, Nội thất hội trường Đức Khang chuyên sản xuất và cung cấp các sản phẩm nội thất: bàn hội trường, ghế hội trường, vách ngăn hội trường. chất lượng cao, tiết kiệm thời gian và tiền bạc. noithathoitruong.vn- Nội thất hội trường cao cấp veneer.com.vn - Nội thất gỗ tự nhiên Veneer thietkevanphong.top - Thiết kế nội thất văn phòng đẳng cấp
|
Nhà hát opera
|
Nhà hát opera hay nhà hát là một loại công trình kiến trúc được xây dựng nhằm phục vụ cho các buổi biểu diễn opera. Nhà hát thường bao gồm những bộ phận cấu thành như: sân khấu biểu diễn, vị trí dành cho một dàn nhạc (hay còn gọi là hốc dàn nhạc), chỗ ngồi dành cho khán giả và khu vực hậu đài để thay phục trang cũng như chuẩn bị sân khấu. Một số nhà hát chỉ chuyên phục vụ biểu diễn opera như đúng tên gọi, một số nhà hát khác lại là bộ phận của trung tâm biểu diễn nghệ thuật lớn hơn. Ngày nay, từ "nhà hát" có thể được sử dụng để chỉ các trung tâm biểu diễn quy mô lớn chứ không giới hạn ở opera. Nhà hát opera công cộng đầu tiên là Teatro San Cassiano tại Venice, được khai trương vào năm 1637. Dòng nhạc opera vốn đã phổ biến ở Ý qua nhiều thế kỷ, cả trong giới thường dân và giới thượng lưu, vì vậy mà không khó để giải thích cho số lượng lớn các nhà hát opera hoạt động tại đất nước này. Một vài các nhà hát nổi tiếng khác như Teatro Massimo ở Palermo (lớn nhất ở Ý), Teatro di San Carlo ở Naples (nhà hát opera lâu đời nhất thế giới) và Teatro La Scala ở Milan.
|
Giản Dao trở về thành phố Đồng trong kì nghỉ năm mới, cô nhận công việc làm phiên dịch tài liệu cho một người đàn ông trong biệt thự lạnh lẽo trên đồi. Dù em gái khuyên ngăn nhưng cô vẫn tiếp tục công việc dịch tài liệu về những vụ án giết người cho vị chủ nhà, giúp anh ta phá án. Cô và Bạc Cận Ngôn - chủ nhân căn nhà đó, hoàn thành xong vụ án đầu tiên, bắt được kẻ tội phạm trong vụ án "Cỗ máy giết người" Cô về lại thành phố nơi cô đang học, xin việc vào một công ty bình thường dù cho Bạc Cận Ngôn muốn cô ở lại làm việc cùng anh. Công ty mà Giản Dao vào làm chính là công ty do chị gái của Bạc Cận Ngôn làm chủ tịch. Anh vào cùng làm công ty đó với tư cách sếp của cô để phá một vụ án tự sát của nhân viên. Sau vụ án đó cùng những lời dụ dỗ của Bạc Cận Ngôn, Giản Dao về làm trợ lí lại cho anh. Một vụ án nữa được hai người nhanh chóng giải quyết nhưng nó lại liên quan tới tên ăn thịt người Hoa tươi khét tiếng. Người "thầy" của tên ăn thịt người Hoa tươi số một - kẻ đã từng bắt và tra tấn Bạc Cận Ngôn - mong muốn anh có thể về làm đồng phạm với hắn vì hắn tưởng rằng anh là một người đa nhân cách. Hắn bắt cóc và tra tấn Giản Dao, ép cô phải viết bức di thư gửi cho anh. Bạc Cận Ngôn cuối cùng cũng có thể tiếp cận với hắn ta với "nhân cách thứ hai" để cứu Giản Dao và bắt hắn ta ra đầu thú nhưng hắn ta đã tự tử trước khi bị bắt. Lym KHÔNG tóm tắt lại hết các vụ án trong truyện, mong là các bạn có thể tự đọc và cảm nhận. Truyện có 5 vụ án: Cỗ máy giết người, Vụ tự sát của nhân viên văn phòng, Nữ sinh trên núi, Vụ án diệt môn và cuối cùng là Tạ Hàm - "thầy" của tên ăn thịt người Hoa tươi số một. Đây là truyện trinh thám - ngôn tình đầu tiên mình đọc. Bạc tự kỉ có cách phá án rất ung dung tự tại mà kiểu gì cũng bắt đúng tội phạm. IQ (chỉ số thông minh) thì cao chót vót mà EQ (chỉ số tình cảm) thì tìm mãi cũng chẳng thấy. Giản Dao thông minh, tuy cách phá án và suy luận không thể bằng Bạc tự kỉ nhưng dù sao thì chị cũng không xuất thân từ ngành tâm lí tội phạm học, như thế là cũng tạm được rồi. Ngoài ra thì trong truyện còn có Trầm Mặc - rùa của Bạc Cận Ngôn - mà lúc yêu thương thì anh âu yếm nó như đúng rồi lúc bực mình thì ném nó không thương tiếc. Trong truyện còn có một vài chi tiết khá là kinh dị, tuy không kéo dài suốt câu chuyện nhưng cũng khiến người đọc rùng mình. Ví dụ như gương mặt bị rạch nát bươm, rướm máu của cô nữ sinh trên đỉnh núi sau trường. Hay là cỗ máy giết người, một lần cắt có thể chặt đứt cơ thể ra làm sáu mảnh. Hoặc đó là hình ảnh tấm lưng đầy máu, cơ thể đầy vết cắt của Bạc Cận Ngôn khi bị tên ăn thịt người Hoa tươi tra tấn. Tất cả đều tạo thành một bức tranh đầy bi thương, nhuốm màu tang tóc. Nếu các bạn không muốn đọc truyện thì có thể xem phim, hai diễn viên chính của phim là Hoắc Kiến Hoa - Bạc Cận Ngôn và Mã Tư Thuần - Giản Dao. Theo mình thì diễn xuất của diễn viên không quá tệ, nội dung kịch bản tạm ổn nhưng không đặc sắc bằng truyện. Là phim chuyển thể thì thực lòng mình chưa thấy có tác phẩm nào hay lắm ngoại trừ The Hunger Game. Bên cạnh đó thì phim còn bị lược bỏ đi vụ án diệt môn nữa. Chưa kể đến việc phim khá khác với truyện, trong phim thì Lận Y Dương - hôn phu của chị gái Bạc Cận Ngôn - mới là người đứng đằng sau mọi việc, kẻ ám ảnh về những tác phẩm điêu khắc và là người "dạy dỗ" Tạ Hàm. Vụ án diệt môn bị cắt nhưng vụ án truy bắt Tạ Hàm lại kéo dài tận 5 tập khiến người đọc khá chán nản. Lym thì vẫn khuyên là các bạn nên đọc truyện rồi sau đó xem phim thì tốt hơn. Nam chính của chúng ta, Bạc Cận Ngôn, là một chuyên gia phân tích tâm lý tội phạm, phó giáo sư đại học Maryland ở Mỹ, đặc biệt được Bộ Công An mời về nước với quân hàm Cảnh đốc cấp I. Đây là nam chính siêu sạch trong truyền thuyết mà các chị em vẫn hằng mong ước, và cũng không nghi ngờ gì, tính tình của giáo sư Bạc cũng biến thái theo cấp số nhân như tài năng của anh ta. Bạc Cận Ngôn, có lẽ là một người trên cả lập dị, đặc điểm đặc trưng ở những thiên tài. Anh thích mặc áo sơ mi trắng, một bộ comple đen, sạch sẽ, phẳng phiu, chỉnh tề, và đương nhiên, không thể thiếu chiếc khẩu trang y tế. Ngoại hình Bạc Cận Ngôn cũng khác người, nhưng là đặc biệt đẹp trai, là kiểu mà chị em sắc nữ vẫn gọi hai tiếng tha thiết “Đại thần!”. Đại thần không thích nói nhiều, nhưng một khi đã mở miệng thì đều làm cho người ta cứng họng, trong suy nghĩ của Giản Dao, là cô “không thèm chấp” cái EQ gần bằng 0 của anh. Đại thần đặc biệt thích ăn cá, nhưng với trình độ câu cá cộng thêm tính cách không kiên nhẫn của anh ta thì không mấy khi đi câu thu được thành quả. Nhưng rồi Giản Dao xuất hiện với khả năng câu cá xuất thần, đối với Bạc Cận Ngôn mà nói, thật sự là một món lợi từ trên trời rơi xuống. Đi kèm với niềm đam mê đặc biệt với cá là khả năng lăn lộn trong bếp vô cùng xuất thần của anh. Đối với công việc, Bạc Cận Ngôn luôn cầu toàn, anh không giấu sự kiêu ngạo về khả năng và IQ lên đến 180 của mình, tuyên bố bản thân chỉ đảm nhận những vụ giết người hàng loạt hung bạo biến thái nhất. Thế nhưng trong tình yêu, rất tiếc, Đại thần chỉ là một kẻ mới vào nghề, là loại hình nam chính siêu sạch đặc trưng của tiểu thuyết Đinh Mặc, đương nhiên cũng là thể loại chị em sắc nữ điên đảo nhất. Chương trình PR cho zai Bạc đến đây là kết thúc. Xin cảm ơn các chị em đã quan tâm và chào mừng các chị em sẵn sàng lọt hố ~( ̄▽ ̄)~( ̄▽ ̄)~. Nói đến tiểu thuyết trinh thám của Đinh Mặc thì không thể thiếu những vụ án đặc sắc đựng dựng lên từ những vụ án có thật. Ngòi bút của Đinh Mặc đậm chất hành động, thường là những câu văn ngắn, rõ ràng rất thích hợp để tạo nên một không khí gì đó rùng rợn và quái dị. Những vụ án trong truyện là những vụ án như vậy. Bạc Cận Ngôn đã triệt để phá những vụ án này bằng cách phác họa chân dung tội phạm một cách thần kì. Có lẽ nhiều người cho rằng cách Bạc Cận Ngôn suy nghĩ và phác họa tâm lý cực kì chủ quan, nhưng rõ ràng không phải như vậy. Bạc Cận Ngôn phân tích dựa vào logic và những gì anh nhìn thấy được ở hiện trường vụ án. Tất cả những gì hung thủ để lại trên thi thể nạn nhân là bức chân dung phác họa hung thủ hoàn hảo nhất!. Thế nhưng, tại sao Bạc Cận Ngôn lại hiểu chúng đến vậy? Nghi vấn này cứ quanh quẩn trong đầu mình mỗi khi phá xong mỗi vụ án. Phải chăng Đinh Mặc đã quá chủ quan khi xây dựng một nam chính thiên tài đến mức vô lý như vậy? Thế nhưng khi tôi đọc xong truyện, câu trả lời đã quá rõ ràng. Vụ án thứ nhất về kẻ bắt cóc giết trẻ em hàng loạt kết thúc chóng vánh cứ như chỉ là một bài tập đơn giản của Bạc Cận Ngôn ở trường, thế nhưng một bức màn bí mật khác lại được mở ra. “Hắn” dường như còn thông minh và xảo quyệt hơn cả Tommy, là trụ cột tinh thần của Tommy! Trải qua vụ án mưu sát ở công ty của Doãn Tư Kỳ, vụ án giết người ở trường trung học số 79, vụ án diệt môn, chân dung của tên tội phạm nguy hiểm nhất đã dần dần lộ diện. Tên tội phạm đầu tiên, Tôn Dũng. Hắn tưởng tượng mình là một “Cỗ máy giết người” và thực hiện hành vi man rợ bắt cóc rồi dùng cỗ máy giết người chém nạn nhân cho đến chết. Đằng sau một tên tội phạm hoang tưởng biến thái như vậy, lại là một mảnh đời bất hạnh. Tôn Dũng bị mắc bệnh hiểm nghèo, lại không có gia đình người thân, tính tình trầm mặc không giao thiệp với người ngoài… hắn cô lập bản thân với xã hội và dần dần hình thành tâm lí hoang tưởng và biến thái. Chương Thành, tên tội phạm tàn bạo trong vụ án diệt môn hóa ra là người mắc bệnh tâm thần bị người thân ruồng bỏ. Hắn giết gần chục mạng người bằng những hành động hung bạo nhất, cắt lìa cổ, phá hủy bộ phận sinh dục của nạn nhân trong tình trạng hoang tưởng nạn nhân chính là kẻ thù giết anh trai của mình. “Hắn” – Tạ Hàm, tên tội phạm ăn thịt người hoa tươi đứng đằng sau Tommy cũng là một kẻ biến thái không kém, hắn hoang tưởng mình có thể định đoạt sống chết của người khác, hắn hành hạ nạn nhân bằng những hành động ghê tởm nhất như lột da, cắt thịt, hành hạ tâm lí. Tâm lí biến thái đó hình thành từ những chướng ngại tâm lí lúc còn nhỏ, ăn sâu trong tiềm thức hắn cho đến khi trưởng thành. Hầu hết những tên tội phạm biến thái ấy đều có một điểm chung: tâm thần không ổn định và nhận cú sốc tâm lý ngay từ thuở thơ ấu. Từ đó chúng sinh ra những suy nghĩ biến thái, tâm lí hoang tưởng, hay thậm chí là thù hận xã hội. Ai có thể hiểu rõ những tên tội phạm hung hiểm tàn ác ấy? Đáp án thật đơn giản,một là đồng loại, hai là những người đã từng trải qua những điều tương tự như thế. Bạc Cận Ngôn hiểu rõ tâm lí bọn tội phạm biến thái không chỉ vì anh là bậc thầy trong ngành phân tích tâm lí tội phạm. Đinh Mặc đưa ra lời giải thích bằng một sự giả định thật thật giả giả: trong con người Bạc Cận Ngôn có hai nhân cách: Simon và Allen. Allen là đồng loại của Tạ Hàm, hắn thức tỉnh khi Simon bị Tommy bắt cóc và hành hạ tàn bạo trong nửa năm trời, và hắn cũng là người cộng sự mà Tạ Hàm hi vọng nhất. Đánh thức Allen, giết chết Simon, công lí sẽ mất đi một thần thám Simon, hắn sẽ có thêm một người cộng sự thiên tài Allen, đó là mục đích cuối cùng của Tạ Hàm khi tiếp cận Bạc Cận Ngôn. Sau khi chơi đùa với những vụ án đơn giản, đúng như Tạ Hàm nghĩ, Simon quả là không làm hắn thất vọng, chơi đùa cũng đã đủ, hắn quyết định ra tay. Hắn bắt Giản Dao, vì hắn biết, đây là người con gái duy nhất có thể giết chết Simon và đánh thức Allen. Thế nhưng bọn chúng đã nhầm. Trong quá khứ cũng nhầm và hiện tại lại thêm một lần nhẫm lẫn. Nếu Allen thực sự tồn tại, thì hắn chính là hiện thân của sự thấu hiểu tội ác cùng bọn tội phạm đến tưởng như là đồng loại của chúng trong con người Bạc Cận Ngôn. Còn nếu trên đời này hoàn toàn không có một Allen, thì quả thực đây là một sự ngụy trang hoàn hảo và một cái bẫy quá tài tình của Simon. Simon, có thể anh đã trải qua thời kì tăm tối nhất, đã có lúc bị tra tấn bởi những ý nghĩ và hạnh động xiên xẹo biến thái đến tột cùng, đã có lúc tổn thương vô cùng khi sự thiện lương xuất phát từ con tim bị người khác gạt bỏ. Thế nhưng, gần ba mươi năm trong cuộc đời anh là Simon, sau này anh cũng sẽ vẫn là Simon, Allen – thực sự hắn tồn tại hay không không còn quan trọng, vì nếu giả sự thật sự có một Allen trên đời, thì hắn sẽ hoàn toàn ngủ yên trong ý thức kiên định vững vàng của anh. Còn Giản Dao, anh tin tưởng cô, cô là một người con gái thông minh và dũng cảm. Cô sẽ tin tưởng anh, yêu thương anh mà sống sót. Cuộc đời anh từ nay sẽ có Giản Dao, thiên thần, ánh sáng trong cuộc đời anh. Anh sẽ không để con ác quỷ ấy trỗi dậy một lần nữa. Anh là Simon, và anh sẽ cứu Giản Dao!. Với sự hợp tác của FBI, thiên tài IT An Nham và những chuyên gia khác, một kế hoạch hoàn hảo đã được lên kế hoạch. Simon đóng giả Allen và cứu người anh yêu trở về. Câu chuyện khép lại, nhưng cuộc chiến giữa thiện và ác không bao giờ kết thúc, hành trình của Bạc Cận Ngôn, Giản Dao và nhiều nhiều người khác – chuyễn hành trình phơi bày sự thật và đi tìm công lý đó sẽ vẫn còn tiếp tục. Thật ra trong mỗi con người đều có hai nhân cách – thiện và ác. Thế nhưng chọn con người nào, chọn cách sống ra sao đều tùy thuộc vào bản thân mỗi con người. Bạc Cận Ngôn đã chọn Simon và quãng đời hạnh phúc sau này với người con gái anh yêu nhất nhưng Tạ Hàm đã chọn làm “đứa con của quỷ”. Khép lại cuốn sách, câu nói của Bạc Cận Ngôn cứ âm vang trong đầu tôi…. Mọi tội phạm đều được sản sinh từ mặt trái của xã hội. Nếu như xã hội tốt đẹp hơn, phải chăng chúng sẽ có một kết cục khác?
|
Hãy nhắm mắt khi anh đến
|
Hãy nhắm mắt khi anh đến (tiếng Trung: 他来了,请闭眼, tiếng Anh: Love Me, If You Dare) là một bộ phim truyền hình Trung Quốc năm 2015 được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của Đinh Mặc, xuất bản vào tháng 7 năm 2014. Bộ phim được sản xuất bởi Khổng Sanh và Hầu Hồng Lượng, với kịch bản của Hải Dương. Bộ phim có sự góp mặt của Hoắc Kiến Hoa, Mã Tư Thuần, Trương Lỗ Nhất, Vương Khải và Doãn Chính. Bộ phim đã được phát sóng đồng thời trên Sohu và Dragon TV từ ngày 15 tháng 10 năm 2015 đến ngày 4 tháng 1 năm 2016. Bộ phim được đánh giá cao về cách phát triển nội dung và nhân vật, được cho 9.7 trên 10 trên viki.com với một số lượng lớn người theo dõi ở nước ngoài. Được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết ăn khách cùng tên của nhà văn Đinh Mặc, Hãy Nhắm Mắt Khi Anh Đến nhận được sự quan tâm vô cùng lớn từ cả phía khán giả lẫn độc giả. Bộ phim xoay quanh nhân vật Bạc Cận Ngôn (Hoắc Kiến Hoa) – một chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý tội phạm, phó giáo sư đại học Maryland ở Mỹ.
|
Trong thời Trung Cổ, Vương quốc Ba Lan và Đại Công Quốc Lithuania có chung một kẻ thù chính — đó là Hội Hiệp sĩ Teuton. Một trong những trận đánh quan trọng nhất giữa hai lực lượng diễn ra vào ngày 15 tháng 7 năm 1410. Vào buổi sáng, hai đội quân dàn đội hình đối diện nhau trên môt cánh đồng. Một bên được dẫn dắt bởi Đại Pháp Quan của Hội Hiệp sĩ Teuton là Urlich von Jungingen. Phía bên kia chiến tuyến là liên quân giữa Vương quốc Ba Lan và Công Quốc Lithuania được dẫn dắt bởi Vua Władysław Jagiełło và em trai ông Vytautas. Trận đánh diễn ra chỉ trong vài giờ, nhưng thiệt hại vô số nhân mạng. Tới cuối ngày, trên cánh đồng đã tràn ngập xác chết. Khi so sánh tổn thất giữa hai bên, nhiều sử gia cho rằng Hội Hiệp sĩ Teuton mất khoảng 200 tới 400 hiệp sĩ và 8000 lính bộ binh, trong khi phía liên quân mất khoảng 4000 tới 5000 lính. Trận đánh còn được biết tới với tên gọi Trận Tannenberg lần thứ nhứt hay Trận Žalgiris. Đó là kết quả sau nhiều năm xảy ra xung đột giữa các bên. Hội Hiệp sĩ Teuton tới vương quốc Phổ vào năm 1230. Họ chinh phục nhiều vùng lãnh thổ của Phổ, trong đó có lãnh thổ của Vương quốc Ba Lan và Đại Công Quốc Lithuania. Cuộc chiến với Hội Hiệp sĩ Teuton bắt đầu từ năm 1409 với cuộc nổi dậy ở vùng Samogitia thuộc sở hữu của Hội Hiệp sĩ Teuton, khởi đầu bởi lực lượng của Vytautas. Khi cuộc xung đột nổ ra, Jungingen yêu cầu Vua Ba Lan đứng ngoài và không hỗ trợ cho Lithuania. Jagiełło từ chối, nên Đại Pháp Quan quyết định tấn công Ba Lan. Nỗ lực đàm phán với Hội Hiệp sĩ thất bại, vì vậy cả hai bên đều chuẩn bị cho trận chiến. Liên quân Ba Lan — Lithuania chuẩn bị chiến lược sẵn sàng vào cuối năm 1409. Tuy nhiên, các bước hành động của Hội Hiệp sĩ Teuton cuối cùng đã chuyển trận chiến sang chiến trường gần Grunwald. Trận đánh bắt đầu từ một sự cố về ngoại giao. Theo Jan Długosz, thị thần của Hồng Y Cracow đã viết về trận đánh này 60 năm sau rằng: “Mikolaj, phó tể tướng của Vương quốc Ba Lan, sau khi nhận được lệnh của hoàng gia, đi tới các đội tiếp tế, và cùng nhà vua đội mũ sắt và hành quân ra trận. Đột nhiên, hai sứ giả đòi diện kiến, dẫn đầu dưới sự bảo vệ của các hiệp sĩ Ba Lan để đàm phán tránh một cuộc xâm lược. Một trong số họ, được Hoàng đế La Mã gởi tới, có một huy hiệu hình con đại bàng đen trên nền vàng, và người kia, được Công tước Szczecin gởi tới, có một con ưng sư đỏ trên nền trắng. Họ tiến ra khỏi đội quân của kẻ thù đang vây quanh, mang theo những thanh gươm không tra vào vỏ trong tay, yêu cầu được gặp nhà vua. Đại Pháp Quan Ulrich nước Phổ đã gởi chúng cho Vua Władysław, đồng thời đưa ra thêm một mệnh lệnh kiêu ngạo để kích động nhà vua, khiến ông tức tốc tập trung hàng ngũ và lao vào trận chiến”. Không thể nào tính được số chiến binh tham gia trận đánh ở cả hai bên. Tuy nhiên, nhiều sử gia đưa ý kiến rằng có thể lên tới 2 vạn 1000 người bên phía Hội Hiệp sĩ Teuton và khoảng 2 vạn 9000 người bên phía liên quân Ba Lan-Lithuania. Đại Pháp Quan của Hội Hiệp sĩ Teuton thiệt mạng trong trận đánh và được chôn cất tại Lâu Đài Marienburg. Trận đánh trở thành một trong số những trận chiến quan trọng nhất ở khu vực này. Trận Grunwald là một trong những ý tưởng nghệ thuật phổ biến nhất lịch sử Ba Lan. Nó trở thành biểu tượng cho lòng dũng cảm và khúc khải hoàn của người Ba Lan. Sau trận đánh, đội quân tiến tới dưới chân Lâu đài Marienburg. Cuộc bao vây Marienburg diễn ra từ ngày 25 tháng 7 tới ngày 19 tháng 9 năm 1410, và chỉ kết thúc khi lực lượng liên quân Ba Lan-Lithuania tổn thất quá nhiều. Giờ đây, Lâu đài Marienburg là lâu đài bằng gạch thời Trung Cổ lớn nhất thế giới và là Di Sản được UNESCO công nhận. Mỗi năm, người dân Ba Lan đều tổ chức tái diễn lại trận đánh gần Grunwald này. Đây là sự kiện lớn nhất có liên quan tới lịch sử Ba Lan trong suốt mùa hè. Một sự kiện tương tự như vậy được tổ chức gần Marienburg vài ngày sau. Đôi khi Đại Pháp Quan của Hội Hiệp sĩ Teuton ở Vienna, Áo, được mời làm khách mời chính cho sự kiện. Một viện bảo tàng tưởng niệm trận đánh được mở ra ở chiến trường cũ và các nhà nghiên cứu vẫn đang tìm kiếm mộ của các chiến binh. Một ngôi mộ đã được phát hiện gần một nhà nguyện nằm trên cánh đồng. Tuy nhiên, nhiều bí mật của trận chiến vẫn đang chờ được khai quật.
|
Hiệp sĩ Teuton
|
Dòng Huynh đệ Nhà Teuton Thánh Mẫu tại Jerusalem (tên chính thức tiếng Latinh: Ordo domus Sanctæ Mariæ Theutonicorum Hierosolymitanorum; tiếng Đức: Orden der Brüder vom Deutschen Haus St. Mariens in Jerusalem), thường gọi tắt Huynh đệ Teuton (Deutscher Orden, Deutschherrenorden hay Deutschritterorden) là một giáo binh đoàn gốc Đức thời Trung Cổ được thành lập vào cuối thế kỷ 12 ở Acre, vùng Levant với mục đích trợ giúp các Kitô hữu hành hương tới Thánh Địa và thiết lập các bệnh xá. Trong suốt thời kỳ Trung Cổ, đây là một Giáo binh đoàn Thập tự chinh, gồm những hiệp sĩ mặc áo choàng trắng với chữ thập đen, còn ngày nay là một dòng tu Công giáo thuần túy tôn giáo, trụ sở đặt tại thành Viên, nước Áo. Thành viên của giáo đoàn được gọi là Hiệp sĩ Teuton hoặc Hiệp sĩ dòng German. Giáo đoàn Trung cổ này đã đóng một vai trò đặc biệt ở vùng Trung Đông, quản lý thuế cảng ở Acre. Sau khi lực lượng Cơ đốc giáo bị đánh bại ở Trung Đông, Giáo binh đoàn dời về Transilvania vào năm 1211 để họp binh với quân Hungary chống lại dân Cuman.
|
“Điều tệ hại duy nhất là người không có sức khỏe thì chẳng bao giờ có danh vọng” trích trong Tình Yêu thời thổ tả của Gabriel García Márquez. Cuốn sách tôi đọc do Nguyễn Trung Đức chuyển ngữ. Ảnh cuốn sách tôi chụp sáng nay: – Con thuyền đi rồi về của Florentino và Fermina được chuẩn bị cách đây năm mươi ba năm bảy tháng mười một ngày. Nếu được hỏi việc đi và về này đến bao giờ? Florentino trả lời: Suốt cả cuộc đời. Tr: “Theo kinh nghiệm đơn thuần dù đó là kinh nghiệm không có cơ sở khoa học, thì phần lớn những bệnh hiểm nghèo dẫn đến cái chết đều có mùi của nó.” Trang 82. Trong một trang giữa “Tình yêu thời thổ tả” của G.G. Marquez nhà văn người Colombia tôi đọc lên câu này: “Trong niềm vui thanh thản của cuộc sống đơn lẻ, các bà quả phụ phát hiện ra rằng cách sống đáng giá hơn cả là cách sống thỏa mãn mọi yêu cầu của cơ thể, ăn khi thấy đói, yêu không cần phải giấu giếm, ngủ không phải giả vờ để trốn chạy các cuộc làm tình với người chồng chính thức.” Tôi bận lòng mãi với hai chữ “bà góa” cũng vì nhiều vấn đề liên quan tới cô bạn già của tôi. Rồi tôi lại đọc: “Những người đàn bà đã cưới chồng sẽ hạnh phúc biết bao sau cái chết của chồng mình” thì quả thật tôi đã cười chảy cả nước mắt… Vì cái cách ông viết về ái tình trong cuốn sách này, nó khiến tôi tò mò để đọc và vô tình để hiểu tính chất “con” trong con người bằng cái cách thật là đặc biệt. Thế là tôi vào blog viết linh tinh về cuốn sách. Thời thổ tả là thời mà ý thức cuộc sống cộng đồng chưa phát triển, việc ăn uống giữ gìn vệ sinh môi trường kém và về tính chất lây lan gây tử vong của bệnh rất đáng sợ. Có con số thống kê mà tôi đọc được rằng vào năm 1991, bệnh lây lan đến các nước Nam Mỹ như Colombia, Peru… số người chết lên đến hơn 12.000 người. Bệnh tả chủ yếu truyền qua nguồn thức ăn hoặc nguồn nước bị nhiễm khuẩn. Thời gian bệnh tả hoành hành, nó đã biến thành dịch ở mọi nơi thì khi nói về nó người ta tỏ rõ sự bất an, và những nhà khoa học không ngừng tìm cách đẩy lùi căn bệnh. Marquez viết về một cuộc tình xảy ra ở thời bệnh thổ tả đang lây lan mạnh ở vùng biển Caribe, thế thì các nhân vật yêu nhau thời ấy chắc cũng giống đôi lứa nào đó đang yêu nhau thời bệnh ung thư ngày nay, tôi tự hình dung như vậy để đi tìm sự cảm thông cho những cảm xúc của tình yêu. Tôi nhớ đến tác phẩm Ambre Kiếp Hồng Nhan của nữ văn sỹ Kathleen Winsor. Bà kể về tình yêu của cô gái tên Ambre ở thế kỷ 17 tại nước Anh. Một cô gái mồ côi – đã dùng nhan sắc và sự quyến rũ của mình để tồn tại trong xã hội đa dạng lúc bấy giờ. Một trong những sự kiện khiến cho câu chuyện mang hơi thở thật của bối cảnh là trận dịch hạch kinh hoàng tại London. Tôi nhớ đến Ambre để nói với mình rằng nhân vật Florentino Ariza trong “Tình yêu thời thổ tả” có chút gì đó rất giống nhau, và cái cách yêu của họ rất vị nhân sinh rất hồn nhiên. Thế nên tôi không ví dụ linh tinh nữa mà tôi đoan chắc rằng G.G. Marquez đã cảm thấy mối tình của Florentino Ariza rất bất an, nó khiến ông phải liên tục biện dẫn bằng căn bệnh dịch tả để làm điểm nhấn. Và chính cái “thời thổ tả” ấy đã khiến cho cái hậu của cuộc tình là hai người yêu nhau cùng nhau lên một con thuyền giăng lá cờ vàng, lá cờ biểu tượng có người bị thổ tả, chạy lui chạy tới trên con sông không bến đậu. Và vì Gabriel García Márquez là người đàn ông nên ông đã cho nhân vật của mình bị người đàn bà có con nhỏ phá “Tân” khi Florentino Ariza đang lênh đênh trên con thuyền “đi tìm sự lãng quên”, chuyện thật khôi hài nhưng nó nhắc tôi nhớ rằng tác giả có cái lý của mình. Yếu tố ngôn tình ở đây cũng gồm ba nhân vật và không ai làm người thứ ba của ai, thế nhưng cái cách yêu trong hôn nhân và cái cách yêu bền bỉ của Florentino Ariza thì quả thật chỉ có “Tình yêu thời thổ tả” mới có. Và bằng giọng văn kể truyện thật lơ đãng kiểu như nó thế đấy nên tôi kể thế đấy, Marquez đã mở một bức màn nhỏ cho độc giả nhìn vào nội tâm của người đàn ông khi họ đang yêu mãnh liệt, tình yêu đó đã đau khổ đến mức không thể lấy gì để bù đắp, và tình yêu đó nó như một Thiên Thần đã gãy cánh. Các nhân vật trong “Tình Yêu thời thổ tả” gồm Florentino Ariza, bác sĩ Juvenal Urbino và cô Fermina Daza. Bối cảnh là vùng biển Caribe thời bờ biển có cái mùi khăn khẳn của các loại rác thải, xã hội vẫn còn nhiều cuộc chiến tranh giữa các phe dân chủ hoặc phái bảo hoàng. Con thuyền di chuyển nhờ vào củi đốt, mọi người liên lạc với nhau bằng điện báo và trên phố là các xe do lừa kéo. – Florentino Ariza là một thanh niên, gia thế trung bình, con ngoại hôn của một ông thương gia tàu thủy. Anh chàng không mấy đẹp trai nhưng rất mơ mộng, thích làm thơ, viết nhạc, biết chơi vĩ cầm đủ để quyến rũ cô gái anh ta si mê. Năm mười tám tuổi anh ta yêu cô gái rất đẹp tên là Fermina Daza. Anh chàng tính tình lãng mạn thường hay đọc sách ái tình có giá vài hào bán trên các vỉa hè. Ban đầu anh làm một điện báo viên rồi đến quản lý một con thuyền trong hãng tàu thủy Caribe, về sau anh chính thức làm chủ một hãng tàu. – Bác sĩ Juvennal Urbino vừa du học ở Pháp về, có người cha cũng làm bác sĩ và ông ấy chết vì bệnh thổ tả do lòng tận tụy của mình. Bác sĩ Urbino đẹp trai có gia thế quý tộc và địa vị trong thành phố là niềm vinh hạnh cho người được làm thân. Lần đến khám bệnh cho cô gái tưởng mình bị bệnh tả bác sĩ đã bị hơi thở thanh xuân của Fermina làm xao động. – Fermina Daza cô gái có nét đẹp dịu dàng, tâm hồn nhạy cảm. Cô yêu Florentino khi tuổi vừa chớm dậy thì. Có người cha là tay mua bán chợ trời và tính tình ranh ma, ông ta có đôi mắt lác và tiếng ngáy ngủ dữ tợn. Mẹ mất khi cô 6 tuổi và cô bé Fermina chịu nhiều ảnh hưởng tình cảm của bà cô ruột của mình. Và chính bà cô này làm cầu nối cho tình yêu của Florentino và Fermina. Sau khi phát hiện những lá thư tình của chàng trai gởi cho con gái mình ông bố đã nổi giận, ông đuổi cô em ruột của mình về quê. Đem con gái đi xa khỏi thành phố một thời gian dài với niềm hy vọng, cô sẽ hiểu và thức thời hơn cái xã hội mà sau này cô sẽ làm chủ. Quên mối tình với anh chàng khố rách con ngoại hôn mà cô bị bà cô già ngu ngốc huyễn hoặc. Với ba nhân vật và gia cảnh như thế thì Florentino thất tình là điều hiển nhiên. Sau đám cưới rầm rộ của bác sĩ Urbino và cô Fermina thì người đi tìm lãng quên này tưởng rằng sẽ quên hết và câu chuyện sẽ kết thúc, thế nhưng “Tình Yêu thời thổ tả” bây giờ mới chính thức được bắt đầu. Với sự cảm thông trìu mến của tác giả dành cho mối tình nồng nàn bị cắt đứt đầy vô lý, ông gọi nỗi thất tình của Florentino là một tình yêu hết sức ngây thơ và nhất thời đến mức chỉ là một kí ức để làm mủi lòng người mà thôi. Và cách nào đó ông để nhân vật của mình tìm lãng quên bằng các cuộc chung đụng xác thịt với nhiều người đàn bà, cụ thể là 622 cuộc dan díu đầy nhục cảm. Và sau mỗi cuộc tình tạm bợ chỉ còn đọng lại mối tình sâu nặng nhất của tình yêu ban đầu và ông gọi từ mỹ miều “mối tình còn trinh”. Qủa thật tác giả quá tự tin khi đem mổ xẻ mối tình si của anh chàng Florentino và điều này đem đến cho tôi nhiều thú vị bất ngờ. Ban đầu tôi chỉ tính gõ đôi điều tôi thích trong câu chuyện “Tình yêu thời thổ tả”, nhưng đến lúc này tôi đã sa đà vào cái thứ lan man của một bài viết cảm nhận. Tóm lược một chút thì tôi thấy với đôi điều hấp dẫp, tuy khó tin nhưng cuốn sách đã mang lại một lời giải thích dễ hiểu về tâm lý của con người khi đối mặt với ái tình. Tình yêu và sex là hai thứ xoa dịu tâm hồn cô đơn và chính nó làm cho cuộc sống thêm ý nghĩa, rồi cũng chính vì sex tác giả lại nhắc nhở rằng hãy coi chừng với nỗi cô đơn vì sớm muộn gì thì nó cũng nuốt chửng bọn họ sau khi nhục dục đã được thỏa. Và tôi rất thích cái kết của “Tình yêu thời thổ tả”, ở độ tuổi thất thập cổ lai hy hai con người yêu nhau trở lại bằng sự rung động của mối tình đầu. Cuộc tình ấy bị thành kiến và định kiến bao vây và họ cũng phải đương đầu bằng cuộc trốn chạy lãng mạn, y như tính cách của anh chàng Florentino. Anh đã trông chờ một bà góa gần hết cuộc đời. Tôi lên mạng và thấy rằng truyện có chuyển thể thành phim và đây là poster của phim. Dành khi rảnh tôi sẽ xem phim =D. P/s: Tôi đọc bài viết rất thích này ở blog bạn, tôi cũng muốn bạn bè của tôi đọc được nên xin dẫn đường link. Tình yêu thời thổ tả blog: Chuyện bâng quơ. “Rồi tôi lại đọc: “Những người đàn bà đã cưới chồng sẽ hạnh phúc biết bao sau cái chết của chồng mình” thì quả thật tôi đã cười chảy cả nước mắt…” Mình tin là có ít nhiều sự thật trong câu nhận xét này. Hãy so sánh nó với truyện ngắn “Câu chuyện (xảy ra trong) một giờ” của Kate Chopin. Như cỏ mùa thu, ngọt say trong nắng chiều buông thõng, ướt sương trong mê mải ráng chiều. "Chẳng phải để trở thành nhà văn mà người ta phải viết. Viết là để lặng lẽ trở về với tình yêu thiếu vắng trong tất cả tình yêu” - C. Bobin. Nếu tình yêu trở thành cây táo trong vườn địa đàng. Anh có bằng lòng yên lặng nhìn nó tàn lụi?
|
Tình yêu thời thổ tả
|
Tình yêu thời thổ tả (tiếng Tây Ban Nha: El amor en los tiempos del cólera) là một tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Colombia Gabriel Garcia Marquez. Tình yêu thời thổ tả là câu chuyện tình say đắm giữa một người đàn ông tên Florentino Ariza - con một bà bán hàng vặt, với một người phụ nữ tên Fermina Daza - con một nhà buôn hãnh tiến, giàu có mới phất nhờ ăn cắp và gian lận. Khi mới lớn lên, họ yêu nhau nồng nàn nhưng không lấy được nhau vì họ quá trẻ, không có kinh nghiệm sống cũng như nghị lực lớn để chiến thắng quan niệm môn đăng hộ đối trong hôn nhân. Hơn năm mươi năm, họ sống xa mặt nhưng không cách lòng với bao sóng gió cuộc đời. Fermina Daza nhẫn nhục sống làm vợ - một thứ đồ trang sức và một nàng hầu - của bác sĩ Juvenal Urbino, một thân hào đầy thế lực của giới thượng lưu. Florentino Ariza vì thất tình nên một mặt lao vào làm giàu bằng mọi thủ đoạn, cả tốt lẫn tàn nhẫn, để trở thành chủ hãng tàu thủy như điều ông ta mong ước và mặt khác, để thỏa mãn nhục dục, ông ta lao vào "chơi gái" đủ mọi hạng: gái chưa chồng, gái muộn chồng, gái chê chồng và chồng chê, gái nạ dòng và cả gái tơ, nhưng không lúc nào không mơ tới Fermina Daza và chỉ chờ ngày Juvenal Urbino chết để nối lại quan hệ với nàng.
|
Truyện kinh dị Mỹ: Tận thế là mùa thứ tám của serie phim truyền hình kinh dị ngắn American Horror Story được công bố ngày 12 tháng 1 năm 2017 và trước đó được biết đến dưới tên trên phim trường là Phóng xạ. Tựa đề tận thế được chính thức công bố tại San Diego Comic Con ngày 19 tháng 7 năm 2018. Tháng 10 năm 2016, Murphy cho biết một mùa phim kết nối (crossover) giữa Nhà sát nhân và Hội phù thủy đang được thực hiện. Mặc dù tháng 1 năm 2018, ông cho biết mùa thứ chín sẽ là mùa phim crossover; nhưng kế hoạch đã thay đổi khi Murphy bất ngờ công bố vào tháng 6 rằng mùa thứ tám sẽ là mùa kết nối giữa Nhà sát nhân và Hội phù thủy. Phim ra mắt ngày 12 tháng 9 năm 2018 với tổng cộng mười tập. Con trai của quỷ Satan, Michael Langdon (Nhà sát nhân), đã trải qua khoảng thời gian niên thiếu khó khăn vì không tìm được mục đích sống cũng như lúng túng trước năng lực Hắc ám của mình. Sau khi giết hại nhiều sinh vật sống trong đời và bị ruồng bỏ, cậu được thu nạp vào trường nam sinh Hawthorne dành cho các pháp sư dưới danh nghĩa một pháp sư thần đồng với sức mạnh vô biên. Khao khát có được một Alpha có sức mạnh ngang ngửa phù thủy tối cao để chấm dứt thời đại thống trị của các phù thủy nữ. Các pháp sư đã phớt lờ sự thật rằng Michael không đơn giản chỉ là pháp sư và quyết tâm hậu thuẫn cậu lên ngôi phù thủy tối cao. Trước quyền năng quá lớn của Michael, phù thủy tối cao Cordelia Goode (Hội phù thủy) đi bước lùi khi cho Michael thi đỗ kỳ thi bảy kỳ quan và âm thầm gầy dựng lực lượng nhằm đánh úp Michael. Khi Langdon liên kết được với giáo hội Satan và hội kín Illuminati. Chúng cùng nhau thảm sát toán bộ phù thủy và pháp sư và mang hàng trăm quả bom nguyên tử san phẳng địa cầu. Toàn bộ hy vọng của nhân loại dồn hết lên vai Mallory, nữ phù thủy Tối cao mới cùng thần chú du hành thời gian quyết tâm giết chết Michael Langdon từ trong trứng nước. Ngoài ra, tại sự kiện tiền-Emmy của Hội kín, Ryan Murphy cho biết sẽ có ba vai chính là người thuộc chủng tộc thiểu số, điều này về sau không còn chính xác. Anjelica Huston, chị gái của Danny Huston (vai Sát nhân người Rìu trong Hội phù thủy), cũng đang được Ryan Murphy ngỏ ý mời tham gia. Ngày 12 tháng 1 năm, 2017, muà thứ 8 chính thức được lên lịch chiếu trong năm 2018. Ngày 5 tháng 1 năm 2018, nhà sản xuất Ryan Murphy công bố mùa phim sẽ diễn ra trong tương lai, cụ thể vào ngày 6 tháng 4, thì nội dung được cho biết sẽ xảy ra trong mười tám tháng so với hiện tại và sẽ có tông truyện giống với Nhà thương điên và Hội phù thủy. Phim bấm máy ngày 16 tháng 6 năm 2018. Ngày 1 tháng 10 năm năm 2017, gương mặt quen thuộc Sarah Paulson công bố sẽ trở lại với mùa tám và nhân vật của cô sẽ đeo các dụng cụ nha khoa. Ngày 4 tháng 4 năm 2018, minh tinh Joan Collins tham gia với trong vai bà của nhân vật của Evan Peters và Peters sẽ thủ vai một thợ làm tóc hài hước. Sau công bố bất ngờ của Murphy rằng mùa thứ tám sẽ là mùa kết nối giữa Nhà sát nhân và Hội phù thủy, Joan Collins vẫn tiếp tục tham gia. American Horror Story: Apocalypse nhận được các phê bình khả quan từ giới phê bình. Trang đánh giá Rotten Tomatoes cho tỷ lệ tán thưởng là 89% với điểm rating 8.07/10, trên 27 nhận xét. Trên trang Metacritic, mùa phim đạt 63 trên 100, tức một sự tiếp nhận ” tương đối khả quan “. Ngoài ra, tại sự kiện tiền-Emmy của Hội kín, Ryan Murphy cho biết sẽ có ba vai chính là người thuộc chủng tộc thiểu số, điều này về sau không còn chính xác. Anjelica Huston, chị gái của Danny Huston (vai Sát nhân người Rìu trong Hội phù thủy), cũng đang được Ryan Murphy ngỏ ý mời tham gia. Ngày 12 tháng 1 năm, 2017, muà thứ 8 chính thức được lên lịch chiếu trong năm 2018. Ngày 5 tháng 1 năm 2018, nhà sản xuất Ryan Murphy công bố mùa phim sẽ diễn ra trong tương lai, cụ thể vào ngày 6 tháng 4, thì nội dung được cho biết sẽ xảy ra trong mười tám tháng so với hiện tại và sẽ có tông truyện giống với Nhà thương điên và Hội phù thủy. Phim bấm máy ngày 16 tháng 6 năm 2018. Ngày 1 tháng 10 năm năm 2017, gương mặt quen thuộc Sarah Paulson công bố sẽ trở lại với mùa tám và nhân vật của cô sẽ đeo các dụng cụ nha khoa. Ngày 4 tháng 4 năm 2018, minh tinh Joan Collins tham gia với trong vai bà của nhân vật của Evan Peters và Peters sẽ thủ vai một thợ làm tóc hài hước. Sau công bố bất ngờ của Murphy rằng mùa thứ tám sẽ là mùa kết nối giữa Nhà sát nhân và Hội phù thủy, Joan Collins vẫn tiếp tục tham gia. American Horror Story: Apocalypse nhận được các phê bình khả quan từ giới phê bình. Trang đánh giá Rotten Tomatoes cho tỷ lệ tán thưởng là 89% với điểm rating 8.07/10, trên 27 nhận xét. Trên trang Metacritic, mùa phim đạt 63 trên 100, tức một sự tiếp nhận ” tương đối khả quan “.
|
Truyện kinh dị Mỹ
|
Truyện kinh dị Mỹ: Hội phù thủy (tựa gốc: American Horror Story - Coven) là mùa thứ ba của loạt phim kinh dị truyền ngắn American Horror Story của kênh FX. Mùa phim ra mắt ngày 9 tháng 10 năm 2013 và kết thúc ngày 29 tháng 1 năm 2014. Nội dung phim xảy ra năm 2013, tại New Orleans, và xoay quanh một hội phù thủy Salem cố gắng sống còn giữa vòng vây kẻ thù. Nội dung có các đoạn tiền truyện từ các thập niên 1830, 1910 và 1970. Các diễn viên trở lại tham gia từ mùa trước bao gồm: Robin Bartlett, Frances Conroy, Jessica Lange, Sarah Paulson, Evan Peters, và Lily Rabe. Taissa Farmiga, Jamie Brewer, Denis O Hare, và Alexandra Breckenridge cũng trở lại tham gia. Như các phần trước, Hội phù thủy nhận được nhiều sự phản hồi tích cực, và rating rất mạnh, với tập mở màn đạt 5.54 triệu lượt xem. Mùa phim nhận 17 đề cử Emmy, bao gồm Giải Primetime Emmy cho phim truyền hình ngắn xuất sắc nhất và năm đề cử diễn xuất cho Jessica Lange, Sarah Paulson, Angela Bassett, Frances Conroy, và Kathy Bates, với Lange và Kathy Bates gìanh chiến thắng.
|
Được thành lập từ năm 1451, Đại học Glasgow là một trong 4 trường đại học lâu đời và ưu tín nhất Vương Quốc Anh, chỉ xếp sau Đại học Cambridge, Đại học Oxford và Đại học St Andrew. Nằm tại thành phố lớn nhất của Scotland, nhà trường là 1 trong 100 trường đại học hàng đầu thế giới và hiện đang có khoảng 20,000 sinh viên tới từ hơn 140 quốc gia khác nhau đang theo học tạo nên một môi trường đa văn hóa cho sinh viên. Glasgow cũng là thành viên của Russell Group gồm các đại học nghiên cứu danh tiếng của Vương quốc Anh. Không những vậy, Glasgow còn là điểm đến lý tưởng cho sinh viên quốc tế bởi nơi đây nổi tiếng là trung tâm văn hóa của Scotland. Thành phố với những bảo tàng, phòng tranh hấp dẫn, đồng thời còn là nơi sở hữu những công trình kiến trúc kiểu mẫu. Với lịch sử lâu đời, phương pháp tiếp cận kiến thức hiện đại, cơ sở vật chất hàng đầu thế giới, mức độ hài lòng sinh viên luôn ở mức cao cũng như các hoạt động ngoại khóa mạnh là những điểm chính thu hút các bạn sinh viên bản địa và sinh viên quốc tế đến với trường. Sau khi tốt nghiệp, các bạn sinh viên đều được trang bị những kỹ năng và kiến thức nền tảng để có một tương lai nghề nghiệp chắc chắn. Trường cung cấp hơn 600 khóa học cho sinh viên lựa chọn. Sinh viên cũng có thể tìm kiếm hàng trăm cơ hội thực tập từ Trung tâm thực tập của trường. – Thành viên sáng lập Universitas 21, một tổ chức quốc tế của các trường đại học trên thế giới nhằm chuẩn hóa hệ thống giáo dục đại học thế giới. – 95.9% sinh viên tốt nghiệp tìm được việc làm hoặc học lên cao trong vòng 12 tháng sau khi ra trường. – Năm 2018, trường đã được Good University Guide trao tặng giải thưởng Trường Đại học Scotland của Năm. – Cơ sở vật chất hiện đại. Các phòng học được trang bị theo tiêu chuẩn quốc tế, cơ sở dành cho các hoạt động ngoại khóa cũng được đầu tư theo tiêu chuẩn quốc tế. Dự kiến tới năm 2017, trường sẽ đưa tổng cộng 20,5 triệu bảng đầu tư vào cơ sở chất. – Thư viện lớn nhất Châu Âu với hơn 2 triệu đầu sách khác nhau, 30,000 đầu báo điện tử (e-journal). Đây là kho tàng kiến thức phong phú cho các bạn sinh viên có thể tham khảo. – Hệ thống cựu sinh viên lớn, đây là nguồn thông tin và nguồn cung cấp việc làm cao. Gần 120,000 người trên 160 quốc gia trên thế giới. Đây chắc chắn là những đầu mối contact giúp bạn kiếm được việc làm rất tốt. – Các cựu sinh viên nổi tiếng tiêu biểu như: James Watt, cha đẻ của động cơ hơi nước, đặt nền móng cho cuộc Cách mạng Công nghiệp của Anh trên thế giới. William Thomson, cha đẻ của hệ thống điện tín và la bàn hàng hải hiện của thế giới. Ngoài ra, nơi đây đã sản sinh ra 7 người đã đoạt giải Nobel trên thế giới. Bậc Thạc sĩ: Học bổng từ £500 – £10.000 (xét dựa trên hồ sơ và bài luận xin học bổng từ 400 – 750 từ)
|
Đại học Glasgow
|
Viện Đại học Glasgow hay Đại học Glasgow (tên tiếng Anh: University of Glasgow; tiếng Gaelic: Oilthigh Ghlaschu) là viện đại học lớn nhất của thành phố Glasgow, Scotland (Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland), được thành lập năm 1451. Viện Đại học Glasgow là một trong những cơ sở đào tạo và nghiên cứu danh tiếng ở Vương quốc Anh cũng như trên thế giới (xếp thứ 73 theo xếp hạng của Times năm 2008 ) (thứ 24 ở Châu Âu và 11 ở Vương quốc Anh ) là viện đại học cổ thứ tư ở Vương quốc Anh (sau Viện Đại học Cambridge, Viện Đại học Oxford, Viện Đại học St Andrews) và là viện đại học cổ thứ hai ở Scotland. Năm 2007, Viện Đại học Glasgow được bình chọn là viện đại học tốt nhất Scotland của năm. Khuôn viên chính của viện đại học hiện nay nằm ở đồi Gilmorehill, nằm ở phía tây (West End) của thành phố Glasgow, ngoài ra còn nhiều cơ sở khác ví dụ như ở Loch Lomond, ở Crichton Campus (Dumfries, Glasgow), High Street. Viện Đại học Glasgow được thành lập năm 1451 theo sắc lệnh của Giáo hoàng Nicholas V, với đề xuất của vua James II của Scotland, cho phép viện trưởng danh dự đầu tiên, giám mục William Turnbull thành lập trường trên cơ sở ở High Street, thêm trường vào trong kuôn viên nhà thờ của thành phố.
|
Trong tâm lý học lâm sàng có nhiều phương pháp can thiệp khác nhau để điều trị các vấn đề tâm lý và làm tăng sự hạnh phúc của con người. Trong bài viết Tâm lý-Trực tuyến này, Trị liệu hành vi nhận thức: nó là gì và sử dụng những kỹ thuật gì, chúng tôi sẽ tập trung vào điều trị hành vi nhận thức, chúng tôi sẽ giải thích nó là gì, nó được sử dụng như thế nào, ai nên áp dụng nó và chúng tôi sẽ tóm tắt các kỹ thuật tâm lý nhận thức hành vi được sử dụng phổ biến nhất nói chung và đặc biệt để điều trị trầm cảm và lo lắng. Chúng ta cũng sẽ thấy sự khác biệt giữa liệu pháp nhận thức, liệu pháp hành vi và liệu pháp nhận thức. Dòng nhận thức hành vi là một tập hợp các lý thuyết và kỹ thuật thiết lập một hệ thống trị liệu tâm lý. Do đó, liệu pháp nhận thức hành vi là một hình thức trị liệu tâm lý. Trị liệu hành vi nhận thức (CBT) dựa trên mối quan hệ giữa suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác và hành vi thể chất. Tất cả các khu vực này được kết nối với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Bởi ví dụ: bạn đang đối mặt với tình huống bị đình chỉ thi. Bạn có thể nghĩ:. "Tôi đã đình chỉ một kỳ thi, lần sau tôi sẽ phải cố gắng hơn nữa.". Sau khi suy nghĩ 1 chắc chắn sẽ đến một cảm xúc buồn, thất vọng và cam chịu. Suy nghĩ và cảm xúc như vậy sẽ dẫn đến một trạng thái mất bình tĩnh và miễn cưỡng. Từ đó tình trạng, hành động, chắc chắn, sẽ không nghiên cứu. Kết quả là, tình huống có thể sẽ được lặp lại một lần nữa. Mặt khác, sau khi suy nghĩ 2, có thể có một cảm xúc buồn bã nhất định nhưng chấp nhận và hy vọng. Suy nghĩ và cảm xúc như vậy sẽ dẫn đến một trạng thái động lực và ý chí để nỗ lực. Trạng thái đó thúc đẩy hành động học tập, do đó, xác suất vượt qua kỳ thi tiếp theo sẽ lớn hơn. Khác ví dụ nó có thể là của một người nghĩ rằng anh ta không thể chạy 10 km. Hành vi có thể không làm điều đó hoặc nó có thể đang cố gắng. Trong trường hợp cố gắng và đạt được nó, sự thay đổi hành vi sẽ ảnh hưởng đến việc xem xét suy nghĩ. Với các ví dụ trước chúng ta có thể thấy rằng, trong cùng một tình huống, suy nghĩ, trạng thái cảm xúc và hành vi là khác nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. các liệu pháp nhận thức hành vi can thiệp ở cấp độ nhận thức, đó là, trong những suy nghĩ, và cũng trong hành vi, đó là, trong các hành động được thực hiện. Nó bao gồm việc thay đổi cách suy nghĩ, thay thế những suy nghĩ dựa trên niềm tin phi lý và những biến dạng nhận thức bằng những suy nghĩ khách quan và thích nghi hơn. Cũng như chuyển đổi các hành vi ít hữu ích thành các hành vi có lợi. Liệu pháp hành vi nhận thức tập trung vào hiện tại và tương lai trước mắt, thường không tìm hiểu về quá khứ. Việc sử dụng liệu pháp tâm lý hành vi nhận thức đã phát triển rất nhiều như một hệ thống trị liệu trong việc thực hiện tâm lý học và tâm thần học. Hiện nay, các can thiệp nhận thức - hành vi Họ có một sự chấp nhận tuyệt vời và hiệu quả của họ đã được công nhận bởi các nghiên cứu thực nghiệm và của các tác giả như Albert Ellis và Aroon Beck. Các quy trình và kỹ thuật của nó đã được nghiên cứu với các phương pháp thử nghiệm nghiêm ngặt, do đó Nó là một liệu pháp khoa học. Cơ sở khoa học của nó không đảm bảo thành công tuyệt đối, nhưng đảm bảo hiệu quả của nó nói chung. Ở nơi đầu tiên nó là một hình thức can thiệp tâm lý, nhưng nó có thể được áp dụng trong nhiều lĩnh vực và cho các vấn đề khác nhau. Nó đã được chứng minh rằng liệu pháp hành vi nhận thức là hữu ích trong điều trị sau đây rối loạn tâm lý:. Trong bối cảnh tâm lý học lâm sàng, liệu pháp nhận thức hành vi nên được được thực hiện bởi một chuyên gia được công nhận, với các chứng nhận và chứng nhận tương ứng. Trị liệu có thể được thực hiện riêng lẻ hoặc theo nhóm. Về thời gian trị liệu, nó không được coi là một liệu pháp dài, nhưng hoàn toàn ngược lại. Số phiên trung bình có thể khác nhau giữa 15 và 20 buổi, trong khoảng thời gian từ 30 đến 60 phút có thể là hàng tuần hoặc hai tuần một lần. Chúng tôi đề nghị rằng vào đầu các phiên nên được hàng tuần để được cách nhau sau. Mặt khác, trị liệu phải được áp dụng trong một không gian vật lý được chuẩn bị cho nó và hoàn toàn bí mật. Cả chế độ áp dụng, thời gian và hiệu quả sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm mức độ phức tạp của vấn đề do bệnh nhân trình bày, sự liên quan của bệnh nhân và sự hợp tác nhận được từ môi trường của họ. Liệu pháp nhận thức hành vi thu thập các phần của liệu pháp nhận thức và các phần của liệu pháp hành vi. Sự khác biệt chính giữa hai là cách tiếp cận lý thuyết về sự khởi hành, nếu đó là nhận thức hoặc là hành vi. Trong khi đó, cách tiếp cận nhận thức - hành vi dựa trên mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi. Trên thực tế, nguyên tắc cơ bản của nó là các khía cạnh nhận thức, tình cảm và hành vi có liên quan và sự thay đổi ở một trong các bên sẽ ảnh hưởng đến các bên khác. Liệu pháp nhận thức bắt đầu từ quan điểm tiêm bắp và là tập trung vào nhận thức. Nó dựa trên tiền đề rằng việc giải thích hành vi được tìm thấy trong các quá trình nhận thức và suy nghĩ. Liệu pháp nhận thức can thiệp vào suy nghĩ, xác định và thay thế những suy nghĩ và niềm tin bị bóp méo bằng những diễn giải linh hoạt, thích ứng và chức năng khác. Trong trị liệu hành vi, việc giải thích hành vi mà một người trình bày dựa trên môi trường, về ảnh hưởng của môi trường. Do đó, các kỹ thuật trị liệu hành vi tập trung vào sửa đổi hành vi maladaptive và học các hành vi mới có nhiều chức năng hơn, theo cách này, thay đổi cảm xúc và suy nghĩ. Các kỹ thuật của liệu pháp nhận thức hành vi là những kỹ thuật đã được khoa học chứng minh là có hiệu quả nhất trong tâm lý học lâm sàng. Những kỹ thuật này tập trung vào việc sửa đổi suy nghĩ và hành vi bằng cách học những cách suy nghĩ mới và hành động thích ứng hơn. Kỹ thuật trị liệu hành vi nhận thức tập trung vào hiện tại, mặc dù mục tiêu của nó là tiếp thu thói quen và kỹ năng mang lại hạnh phúc và chất lượng cuộc sống cao hơn và tồn tại theo thời gian. Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý dựa trên tiền đề rằng đau khổ cảm xúc là do sự giải thích của một người về một tình huống và không phải của tình hình. Mục tiêu của liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý là người đó đạt được sự thay đổi các kiểu suy nghĩ để thay đổi cách giải thích tình huống. Đó là, ông tiếp tục đánh giá các tình huống với kết luận dựa trên thực tế chứ không dựa trên các giả định chủ quan. TREC tuân theo sơ đồ sau:. C. Những cảm xúc nảy sinh từ việc giải thích tình huống. Nếu giải thích là tiêu cực, chắc chắn cảm xúc là khó chịu. D. Câu hỏi về tính hợp lệ của việc giải thích tình huống thông qua thảo luận về những suy nghĩ phi lý. E. Thay đổi thuận lợi trong cảm xúc sau khi nhận thức về nhận thức phi lý. Hiểu những biến dạng nhận thức là gì, đó là những suy nghĩ tiêu cực và phi lý ảnh hưởng đến tâm trạng và hành vi. Ghi lại những suy nghĩ: chỉ ra tình huống bạn đang gặp phải, ý nghĩ xuất hiện, cảm xúc và hành vi. Phân tích suy nghĩ. Hãy tự hỏi nếu suy nghĩ đó là đúng và phân tích hợp lý về nó. các Câu hỏi xã hội: tự đặt câu hỏi như "¿Những gì tôi nghĩ là hoàn toàn đúng? "Hoặc"¿Tôi có bằng chứng gì về nó?. Kiểm tra các tiện ích suy nghĩ: "¿Liệu suy nghĩ này có giúp ích gì không? "Hoặc" Ưu và nhược điểm của suy nghĩ ". Vào trong trường hợp xấu nhất: hãy tự hỏi mình "¿Điều gì sẽ xảy ra nếu .? "Hoặc"¿Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là gì?. Kiểm tra bằng hành động. Kiểm tra nếu những gì tôi nghĩ đã xảy ra. Ví dụ, nếu suy nghĩ phi lý là "Tôi nói tôi hỏi trong lớp họ sẽ nghĩ tôi ngu ngốc và họ sẽ cười tôi", đó là về việc hỏi trong lớp và kiểm tra xem điều đó có xảy ra không. Kỹ thuật tiếp xúc dựa trên hiệu quả của nó Nguyên tắc tập sự, đã chỉ ra rằng tiếp xúc nhiều lần một kích thích tạo ra một phản ứng nhỏ hơn mỗi lần theo chủ đề Ví dụ, nếu một ngày bạn nhìn thấy một con nhện, cơ thể bạn sẽ phản ứng vì hệ thống báo động sẽ kích hoạt. Tuy nhiên, nếu mỗi ngày nhìn thấy một con nhện và nó không có hậu quả, thì mỗi lần giải thích về nguy hiểm sẽ thấp hơn và do đó phản ứng tâm sinh lý ít hơn. Kỹ thuật này được chỉ định đặc biệt cho các vấn đề lo lắng, sợ hãi và ám ảnh và hành vi tránh né. Triển lãm phải có một kế hoạch và hỗ trợ được cung cấp bởi một chuyên gia. Các loại tiếp xúc là: triển lãm trực tiếp hoặc triển lãm một cách tượng trưng thông qua trí tưởng tượng hoặc các thiết bị công nghệ của thực tế ảo. Giải mẫn cảm một cách có hệ thống cũng nhằm mục đích làm giảm phản ứng tâm sinh lý đối với các kích thích gây mê. Phần đầu tiên bao gồm phá vỡ tình hình điều đó tạo ra sự kích hoạt nỗi sợ hãi hoặc lo lắng trong những phần nhỏ và phân cấp chúng từ ít nhất đến đáng sợ nhất. Ví dụ, với nỗi sợ nói trước công chúng, chúng ta có thể đặt, bước đầu tiên, tình huống nói một vài câu trước một người hoàn toàn tin tưởng; Bước thứ hai, hãy nói 2 phút trước hai người đáng tin cậy; Bước thứ ba, hãy thực hiện bài phát biểu dài 4 phút trước một số người thân hoặc người đáng tin cậy. Và cứ như vậy cho đến khi bạn đạt đến tình huống đáng sợ nhất. Chúng tôi đề nghị phân cấp giải mẫn cảm bao gồm từ 20 đến 50 giai đoạn. Tiếp theo, đó là về đối mặt với các tình huống theo hệ thống phân cấp này, chỉ định của nhà tâm lý học và áp dụng các kỹ thuật thư giãn. Hơi thở và thư giãn cơ thể là những khía cạnh cơ bản để học cách quản lý các khía cạnh sinh lý của các phản ứng cảm xúc. Một số ví dụ về kỹ thuật thở và thư giãn là:. các Thở cơ hoành: Bao gồm học tập để thực hiện thở có ý thức bằng cách sử dụng cơ hoành. Hơi thở này cho phép đưa không khí đến khu vực thấp hơn của phổi, đảm bảo sự hấp thụ oxy tốt hơn và kích hoạt phản ứng thư giãn của cơ thể. các thư giãn cơ bắp tiến bộ: nó bao gồm học cách thư giãn tất cả các cơ của cơ thể. Đó là về nhận thức về sự căng cơ và học cách thư giãn thông qua đào tạo. Mục tiêu của kỹ thuật thư giãn cơ tiến bộ là biến nó thành thói quen mà chúng ta có thể sử dụng trong các tình huống căng thẳng. Một trong những cách nổi tiếng và hiệu quả nhất là thư giãn cơ bắp tiến bộ của Jacobson. Các kỹ thuật điều hòa hoạt động của sửa đổi hành vi Họ cho phép có được các hành vi mới, tăng các hành vi và giảm hoặc loại bỏ các hành vi. Chúng rất hiệu quả. Họ dựa trên cách học điều hòa thông qua việc sử dụng cốt thép. Trong bài viết này, chúng tôi giải thích điều hòa hoạt động là gì và cách thức hoạt động với các ví dụ. Kỹ thuật mô hình là một kỹ thuật hành vi bao gồm có được các hành vi thông qua học tập gián tiếp hoặc bắt chước. Họ học hoặc sửa đổi hành vi bằng cách quan sát hành vi của người khác và hậu quả mà họ đòi hỏi. Nó bao gồm 3 bước chính:. Đào tạo các kỹ năng xã hội nhằm cải thiện chất lượng mối quan hệ giữa các cá nhân, để giảm bớt sự khó chịu trong mối quan hệ với người khác và nhận được tất cả các lợi ích của xã hội. Đó là về học tập các chiến lược hành vi cho phép thiết lập các mối quan hệ xã hội một cách hiệu quả. Trong số các thủ tục tiếp thu và duy trì các kỹ năng xã hội là:. Trầm cảm được xác định bởi một tập hợp các triệu chứng nhận thức, tình cảm và hành vi. Nó được đặc trưng chủ yếu bởi những suy nghĩ tiêu cực về bản thân, về môi trường và về tương lai. Có những rối loạn trầm cảm khác nhau được thu thập trong DSM-V với các tiêu chí và đặc điểm tương ứng của chúng, tôi cảm thấy rối loạn trầm cảm phổ biến nhất. Trầm cảm là một rối loạn vô hiệu hóa ảnh hưởng đến nhiều người, do đó, rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để điều trị.
|
Liệu pháp hành vi nhận thức
|
Trị liệu hành vi nhận thức hoặc Liệu pháp hành vi nhận thức (cognitive behavioral therapy-CBT) là một can thiệp tâm lý xã hội nhằm cải thiện sức khỏe tâm thần. CBT tập trung vào thách thức và thay đổi những biến dạng nhận thức không có ích (ví dụ như suy nghĩ, niềm tin và thái độ) và hành vi, cải thiện điều tiết cảm xúc, và phát triển các chiến lược đối phó cá nhân nhằm giải quyết các vấn đề hiện tại. Ban đầu, nó được thiết kế để điều trị trầm cảm, nhưng việc sử dụng nó đã được mở rộng để bao gồm điều trị một số tình trạng sức khỏe tâm thần, bao gồm cả lo lắng. Mô hình CBT dựa trên sự kết hợp của các nguyên tắc cơ bản từ tâm lý học hành vi và nhận thức. Nó khác với các cách tiếp cận lịch sử đối với tâm lý trị liệu, chẳng hạn như phương pháp phân tâm học, nơi nhà trị liệu tìm kiếm ý nghĩa vô thức đằng sau các hành vi và sau đó hình thành một chẩn đoán. Thay vào đó, CBT là một hình thức trị liệu "tập trung vào vấn đề" và "định hướng hành động", nghĩa là nó được sử dụng để điều trị các vấn đề cụ thể liên quan đến rối loạn tâm thần được chẩn đoán.
|
Ngàn năm áo mũ là một nghiên cứu công phu và đầy tham vọng của Trần Quang Đức: dựng lại bức tranh trang phục Việt Nam trong cung đình và ngoài dân gian trong khoảng một nghìn năm từ thời Lý đến thời Nguyễn (1009-1945). Trang phục cung đình luôn được quy định nghiêm ngặt và có nhiều đổi thay qua các triều đại. Ngàn năm áo mũ lý giải nguyên do và phân tích mức độ mô phỏng trang phục Trung Hoa trong quy chế trang phục của các triều đại Việt Nam, mô tả chi tiết, tỉ mỉ nhiều dạng trang phục như bộ Tế phục Cổn Miện uy nghi của các vị hoàng đế, các bộ Triều phục, Thường phục Lương quan, Củng Thần, Ô Sa, Bổ phục trang trọng của bá quan, hay Lễ phục Vĩ Địch, Phượng quan lộng lẫy của hoàng hậu v.v. Trong khi đó trang phục dân gian không biến động nhiều, phổ biến là kiểu áo giao lĩnh, tứ thân, hay lối ăn mặc cởi trần đóng khố của đàn ông và yếm, váy giản tiện của đàn bà tồn tại qua hàng trăm năm lịch sử. Sự kiện vua Minh Mạng cấm “quần không đáy” là một biến cố lớn lao, để rồi chiếc áo dài năm thân đi vào đời sống dân gian và bây giờ trở thành trang phục quan trọng bậc nhất của người Việt. Có thể nói, Ngàn năm áo mũ bù đắp phần nào vào khoảng trống mênh mông của lịch sử trang phục Việt Nam nói riêng, lịch sử văn hóa Việt Nam nói chung. Cùng với những ý nghĩa chính trị, xã hội sâu rộng, đây thực sự là một nghiên cứu quan trọng và có giá trị lâu dài. Nhắc đến Trần Quang Đức người ta thường nhắc đến những tác phẩm dịch của anh như một nét chấm phá trong bức chân dung về nhà nghiên cứu trẻ: Trà kinh (2008), Chuyện tình giai nhân (2011), Trường An loạn (2012), “Sử ký” (2014). Tuy nhiên, chính người dịch lại không mấy tự hào về điều này, anh bảo: Đó chẳng qua là cách “lấy ngắn nuôi dài”, dịch sách để nuôi viết sách. Trần Quang Đức hiện là nhà nghiên cứu tự do. Cũng mới đây anh đã quyết định mở lớp Hán nôm vỡ lòng, với mục đích giúp cho bạn trẻ yêu thêm, hiểu thêm về tiếng Việt. Cám ơn bạn nhiều. Mong cái file prc quá, nếu có hình thì càng hay. Lần trước mua không kịp nên hết mất tiu. Chân thành cảm ơn bạn. Mình cũng rất mong muốn có điều kiện sẽ sử dụng sách giấy cho quyển sách này. Lưu ý Cuốn này cực kỳ đáng mua in màu giấy đẹp, xứng đáng đến từng đồng một. Theo quan điểm cá nhân nên có trên tủ sách. Hội sách CV Thống Nhất đang bán có 180k thôi. Chờ cuốn này mãi. Hôm nọ vào Phương Nam thấy giá hơi chát nên đành ngậm ngùi đi về . Thank bạn nhiều nhé. Tôi xem thử thì thấy file PDF này ngoài bảng mã UNICODE còn có bảng mã BK HCM2 và VNI nữa. Hình như trong file PDF này, thứ tự trang bị đảo lộn? Bị trùng nhau phải không các bạn ơi?Click to expand. Những cuốn như thế này, có nhiều hình ảnh và trình bày công phu thì nên coi sách giấy hoặc PDF chứ PRC không phù hợp cho chế bản tỉ mỉ thế này. Những cuốn như thế này, có nhiều hình ảnh và trình bày công phu thì nên coi sách giấy hoặc PDF chứ PRC không phù hợp cho chế bản tỉ mỉ thế này.Click to expand. Sau khi ngâm rất kỹ cuốn này mình rút ra là giá trị của nó 50 % ở minh họa, nhiều đoạn trong sách mà không nhìn hình minh họa thì đọc chả hiểu gì, tất cả các bản sách điện tử đều không trình bày rõ hoặc đủ nét các minh họa đâu. Nên mình thành thật khuyên các bạn đi mua nó thì hơn. Cứ yên tâm là cuốn này đáng đọc lắm, cung cấp lượng hiểu biết khổng lồ, một số có thể gây "sốc" cho ai chưa biết. Mình xén lại cuốn này thành trang đơn cho dễ đọc trên máy tính và ipad. Xin gởi các bạn
|
Ngàn năm áo mũ
|
Ngàn năm áo mũ với tiêu đề Lịch sử trang phục Việt Nam giai đoạn 1009 - 1945, là tên một cuốn sách khảo cứu về trang phục của người Việt Nam phát hành năm 2013, dày hơn 400 trang, Nhà xuất bản Thế giới và Công ty Nhã Nam phát hành, là kết quả sau "ba năm lao động trí óc" của tác giả Trần Quang Đức. Ngàn năm áo mũ giải thích các kiểu dáng và quy chế các loại áo mũ được sử dụng trong cung đình và dân gian Việt Nam trong giai đoạn từ 1009 - 1945, trải dài từ thời Lý tới thời Trần, Lê sơ, Lê trung hưng, Tây Sơn và cuối cùng là thời Nguyễn. Thứ nhất, về trang phục cung đình, khảo cứu lý giải nguyên do và phân tích mức độ mô phỏng trang phục Trung Hoa trong quy chế trang phục của các triều đại Việt Nam, mô tả chi tiết nhiều dạng trang phục như bộ Tế phục áo Cổn mũ Miện của các vị hoàng đế, các bộ Triều phục, Thường phục Lương quan, Củng Thần, Ô Sa, Bổ phục của bá quan hay Lễ phục Vĩ Địch, Phượng quan của hoàng hậu.
|
Trận Dybbøl, còn được gọi là Trận Düppel, là một trận đánh quyết định trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai (1864), đã diễn ra vào ngày 18 tháng 4 năm 1864, tại Dybbøl (Schleswig, Đan Mạch). Dưới quyền chỉ huy của Hoàng thân Friedrich Karl, quân đội Phổ vốn đã tiến hành phong tỏa Dybbøl vào ngày 30 tháng 3, họ thiết lập đường hào ngang thứ nhất. Đến ngày 18 tháng 4, các lực lượng của Phổ đã đánh chiếm tuyến phòng ngự cứng rắn của quân đội Đan Mạch (dưới quyền tổng chỉ huy của viên tướng George Daniel Gerlach) tại Dybbøl và đè bẹp hệ thống phòng ngự chính ở vùng Schleswig trong vòng 6 tiếng đồng hồ. Thắng lợi quyết định của người Phổ trong trận chiến ở Dybbøl đã gây ra cho phía Đan Mạch những thiệt hại nặng nề, trong số đó có một tướng lĩnh cùng với nhiều tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội tử trận, bị thương hay bị bắt làm tù binh. Song, mặc dù lính bắn súng trường của Đan Mạch được trang bị yếu hơn so với quân đội của đối phương, quân Phổ cũng chịu thiệt hại không nhỏ trong những đợt tấn công trực diện của mình. Với sự thất thủ của Dybbøl, quân đội đồng minh Áo – Phổ coi như là đã làm chủ được xứ Schleswig từ tay Đan Mạch. Trận Dybbøl cũng khơi dậy chủ nghĩa yêu nước tại Phổ và các bang Đức khác, góp phần tạo điều kiện cho Phổ tiến hành công cuộc thống nhất nước Đức. Sau khi rút khỏi các vị trí phòng ngự ở Dannervike về Dybbøl, quân đội Đan Mạch đã tiến hành phòng ngự các đồn lẻ, đồng thời thiết lập vị trí ở khu vực phía trước. Vào ngày 17 tháng 2 năm 1864, quân đội Phổ bắt đầu tiến công Dybbøl và trong vòng mấy tuần sau, quân Đan Mạch với bất lợi về mặt quân số đã bị đánh bật. Sau khi một cuộc phản công của quân Đan Mạch vào ngày 17 tháng 3 bị bẻ gãy, quân Phổ đã bắt đầu cuộc vây hãm Dybbøl. Mặc dù quân Đan Mạch không ngừng pháo kích để cho quân Phổ không thể xây dựng các khẩu đội pháo, điều này tỏ ra vô tách dụng. Hàng tuần, pháo binh Phổ với hỏa lực khủng khiếp đã dã nát hệ thống phòng ngự của Đan Mạch, trong khi lực lượng bộ binh Phổ đến gần các vị trí của quân Đan Mạch. Quân Đan Mạch không thể chống nổi, dù một cuộc công kích của quân Phổ bị đẩy lùi. Đến ngày 18 tháng 4, với quân số áp đảo, Phổ đã khỏi đầu một đợt tấn công đại quy mô nhằm vào phòng tuyến của Đan Mạch: trong khi các lực lượng Phổ tấn công như vũ bão vào Dybbøl, toàn bộ các khẩu pháo của họ khai hỏa ác liệt, trong khi Đan Mạch chỉ còn có vài khẩu pháo. Để hỗ trợ cho quân Đan Mạch, chiến hạm bọc sắt Rolf-Krake đã chạy vào vịnh Vemmingbund, nhưng khi chiến hạm đi qua các khẩu đội pháo của Phổ, 2 quả đạn pháo từ phía Phổ đã gây cho chiến hạm hư hại kèm theo thương vong lớn. Chiến hạm bị buộc phải rút lui. Quân Đan Mạch đã tổ chức kháng cự bằng mọi gía, nhưng không thể giành thắng lợi. Từ pháo đài này đến pháo đài kia, ưu thế vượt trội về quân số của Phổ đã hạ đo ván quân Đan Mạch. Tiếp theo đó, quân đội Phổ từng bước đẩy bật quân đội Đan Mạch ra ngoài các tuyến phòng ngự của mình, buộc quân Đan Mạch phải triệt binh đến Alsen với trật tự tốt. Tại Alsen, quân Đan Mạch không thể xả hơi được bao lâu vì phải phá hủy các ngọn cầu mà họ đã vượt qua. Rất nhiều quân Đan Mạch bị giết và bị thương trong trận Dybbøl, gồm cả tướng du Platt, người bị bắn chết khi đang hô hào quân sĩ của đội hậu quân vốn đang rút lui. Về phía mình, quân đội Phổ chịu thiệt hại tương đối nhẹ. Trong khi trận chiến cho thấy các lực lượng của Phổ đã đáp ứng được kỳ vọng của nhà vua Wilhelm I dành cho họ, trận đánh cũng thể hiện tinh thầng chiến đấu của quân Đan Mạch vốn chịu thiệt thòi về quân số. Mặc dù vậy, đây được xem là ngày bi thảm nhất trong lịch sử Đan Mạch. Đến thời điểm này, các hoạt động quân sự bị tạm ngừng do các cường quốc khác ở châu Âu đã triệu tập Hội nghị Luân Đôn để tìm cách giải quyết tình hình Đan Mạch mà không đổ máu, nhưng thất bại. Người Phổ liền tiếp tục các chiến dịch của mình, với Friedrich Karl là người tổng chỉ huy mới. Họ lại giành thắng lợi, buộc Đan Mạch phải yêu cầu một thỏa ước ngừng bắn và khởi đầu các cuộc đàm phán hòa bình. Trận chiến Dybbøl được xem là bước đầu trong tiến trình phát triển của Phổ trong giai đoạn này, trước trận Königgrätz (1866) và trận Sedan (1870).
|
Trận Königgrätz
|
Trận Königgrätz, còn gọi là Trận Sadowa hay Trận Sadová theo tiếng Tiệp Khắc, là trận đánh then chốt của cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, diễn ra vào ngày 3 tháng 7 năm 1866, và chấm dứt bằng việc quân đội Phổ do Vua Wilhelm I và Tổng tham mưu trưởng Helmuth von Moltke chỉ huy đánh bại hoàn toàn liên quân Áo-Sachsen do tướng Ludwig von Benedeck chỉ huy. Với quy mô vượt mức trận Leipzig năm 1813, đây được xem là cuộc đọ sức lớn nhất của các lực lượng quân sự trong thế giới phương Tây trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, với quy mô vượt mức trận Leipzig năm 1813. Kết quả trận này đã xác định hoàn toàn phần thắng của Phổ trong cuộc chiến, dù đây là diều trái ngược với dự đoán của đa số dư luận trước chiến tranh. Trận Königgrätz còn được giới sử học đánh giá là một kiệt tác chiến trận khẳng định ưu thế vượt trội về tổ chức và trang bị của quân đội Phổ so với các nước khắc ở Bắc Đức. Trận đánh xuất phát từ một kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu Phổ, đứng đầu là Moltke, nhằm huy động ba tập đoàn quân lớn hành quân độc lập từ nhiều hướng, tập kết về Königgrätz để bao vây, tiêu diệt quân đội Áo-Sachsen.
|
Trong cuộc sống, sang chấn tâm lý có thể xảy ra với bất kỳ ai, và tác động của những sang chấn tâm lý thực sự rất khó để lường trước đối với sức khỏe thể chất cũng như tinh thần của con người. Vì vậy đừng bỏ lỡ những chia sẻ dưới đây của Thanhbinhpsy để hiểu hơn về sang chấn là gì, sang chấn tâm lý là gì , những loại sang chấn, các yếu tố nguy cơ và hướng giải quyết để giúp ích cho chính bạn và những người xung quanh nhé. Sang chấn tâm lý (sang chấn hoặc chấn thương tâm lý) là những tình huống mà hầu hết mọi người cảm thấy căng thẳng (stressful), đó là các yếu tố sang chấn (stressor). Trong nghiên cứu của mình, Elliot và Eisdorfer đã giới thiệu và định rõ đặc điểm của những yếu tố sang chấn này. Cụ thể là năm loại yếu tố sang chấn sau đây sẽ giúp bạn hiểu được sang chấn là gì. Yếu tố sang chấn tâm lý này liên quan đến những thách thức thực nghiệm như là nói trước công chúng. Có những người luôn bị ảnh hưởng hoặc gặp vấn đề khi diễn thuyết hoặc trình bày quan điểm trước đám đông. Họ sợ hãi, mất kiểm soát, ra mồ hôi tay, tim đập nhanh và rơi vào trạng thái khó kiểm soát. Đa phần những người trưởng thành đều đã trải qua trạng thái chấn động tâm lý này. Điển hình như thi cử, và những công việc liên quan đến việc đối đầu với những thách thức ngắn hạn trong đời sống thực tế. Sau thời gian ngắn hoặc sau khi sự kiện kết thúc, tâm lý con người sẽ trở lại trạng thái bình thường. Trong trải nghiệm chấn động tâm lý ở quá khứ hoặc hiện tại, khi xuất hiện một sự kiện khó quên ảnh hưởng tới tâm lý như việc mất đi người thân, chia tay, ly hôn, hoặc chứng kiến thảm họa thiên nhiên, bộ não sẽ ghi nhớ một chuỗi các hình ảnh liên quan. Cá nhân bị ảnh hưởng bởi những sự kiện này nhận thức được rằng sau một khoảng thời gian vấn đề sẽ được khắc phục theo cách nào đó nhưng không biết chắc là trong bao lâu. Yếu tố sang chấn tâm lý này thường xuất hiện trong cuộc sống một người và buộc người đó phải xây dựng và suy nghĩ về vai trò xã hội của mình. Một đặc điểm khác của loại sang trấn tâm lý này là tính ổn định và kéo dài, người gặp vấn đề không biết khi nào thách thức sẽ chấm dứt và có thể phải chuẩn bị tinh thần rằng nó sẽ không bao giờ kết thúc. Ví dụ như chấn thương gây tàn tật cơ thể, sang chấn do phát hiện bệnh khó chữa như ung thư. Là trải nghiệm đã xảy ra trong quá khứ nhưng để lại sang chấn trong trí nhớ của bệnh nhân. Những ký ức này có khả năng gây thay đổi chức năng nhận thức và cảm xúc kéo dài khiến họ sợ hãi mỗi khi nghĩ tới. Ví dụ: bị lạm dụng tình dục khi còn nhỏ, là nạn nhân của bạo lực học đường, chứng kiến cái chết của thú cưng, hoặc bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, bệnh dịch. Khi có một trải nghiệm đau thương, con người sẽ cảm thấy dễ dàng hơn khi trốn tránh mọi thứ gợi nhắc về sự việc đó. Họ có những biểu hiện như: Xa lánh mọi người, địa diểm hoặc những đồ vật gợi nhắc tới sự kiện; Tự làm bản thân bị phân tâm thay vì nghĩ về điều mà bạn vừa trải qua; Từ chối nghĩ về tình huống và không muốn nói về vấn đề đó. Tuy nhiên, theo các chuyên gia tâm lý học, việc đối mặt với những kí ức mới thật sự là cách lành mạnh nhất để xử lý sự đau buồn và hạn chế ảnh hưởng của sang chấn tâm lý tới cuộc sống. Một số người mắc sang chấn tâm lý thường phản ứng với sự kiện đau buồn bằng cách phủ nhận nó. Họ có thể cư xử hoàn toàn bình thường, như thể cuộc sống của họ chưa từng gặp biến cố đó trước đây. Đó là hình thức phản vệ của cơ thể khi đối mặt với vấn đề. Tâm trí họ sẽ cách ly kí ức và thông tin về sự cố đó để bảo vệ cơ thể khỏi đau đớn và tránh tổn thương về mặt tinh thần. Ví dụ một người mẹ có thể phủ nhận việc con trai của mình đã qua đời bằng cách tiếp tục trò chuyện với ảnh của cậu bé đó hoặc với búp bê thay vì chấp nhận thực tế. Các bác sỹ chuyên khoa và các chuyên gia tâm lý trị liệu có thể giúp bệnh nhân xác định mức độ và nguyên nhân nguồn gốc của bệnh. Từ đó nhanh chóng tìm ra phương pháp điều trị phù hợp nhất với từng đối tượng cụ thể. Liệu pháp tâm lý kết hợp với luyện tập dưới dạng điều trị tiếp xúc những chấn động tâm lý. Chẳng hạn như bệnh nhân sẽ được trò chuyện nhiều hơn về sự cố đã trải qua và học cách đối mặt với thực tế thay vì trốn tránh. Đây là cách chữa bệnh sang chấn tâm lý khá hiệu quả. Việc được trò chuyện và chia sẻ là cách hữu hiệu giúp bệnh nhân nhanh chóng quay trở lại trạng thái ổn định và vượt qua sang chấn tâm lý một cách hiệu quả. Đây là liệu pháp đắc lực trong việc điều trị các triệu chứng của sang chấn tâm lý cũng như giúp đỡ người bệnh giải quyết nhiều vấn đề mà họ gặp phải khi tiếp xúc với áp lực trong cuộc sống hoặc công việc mà họ phải đối mặt hàng ngày. Mình là Selena Thanh Bình - Founder của dịch vụ tư vấn/tham vấn tâm lý Thanh Bình Psy. Mình xây dựng website này để mang đến cho các bạn những góc nhìn đúng đắn nhất và hiện đại nhất về tâm lý học. Ngoài ra, dịch vụ tham vấn tâm lý của Thanh Bình Psy sẵn sàng hỗ trợ bạn 24/7!
|
Chấn thương tâm lý
|
Chấn thương tâm lý là tổn thương cho tâm trí xảy ra do một sự kiện nào đó. Chấn thương thường là kết quả của sự căng thẳng quá mức vượt quá khả năng của một người để đối phó hoặc tích hợp những cảm xúc liên quan đến trải nghiệm đó. Chấn thương có thể là kết quả của một trải nghiệm nào đó duy nhất hoặc các sự kiện tái diễn của việc bị quá tải cảm xúc mà có thể được duy trì trong vài ngày đến nhiều năm hoặc thậm chí cả đời khi người đó phải vật lộn để đối phó với các tình huống trước mắt,cuối cùng dẫn đến hậu quả tiêu cực nghiêm trọng và lâu dài. Bởi vì chấn thương tâm lý là khác nhau giữa các cá nhân,theo kinh nghiệm chủ quan của họ,mọi người sẽ phản ứng với các sự kiện chấn thương tương tự theo cách khác nhau. Nói cách khác,không phải tất cả những người trải qua một sự kiện chấn thương tiềm tàng sẽ thực sự trở thành chấn thương tâm lý. Tuy nhiên, một số người có thể bị rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) sau khi tiếp xúc với một sự kiện chấn thương lớn.
|
Các đoạn văn đánh dấu ‘Th.’ trong sách này đại diện cho kinh điển truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ (Theravāda). Văn hiến thánh điển của Thượng tọa bộ được bảo tồn trong ngôn ngữ Pāli, theo hình thái hiện tại của nó không thể hoàn toàn đồng nhất với bất kỳ ngôn ngữ nói cổ xưa nào của Ấn- độ, dù rằng nó có nhiều đặc điểm ngôn ngữ chung với nhóm các ngôn ngữ Indo-Arya cổ, cả trong văn học lẫn khẩu ngữ, và có các đặc điểm chính yếu của các thứ tiếng Prākrit Trung Ấn (Phạn văn hỗn chủng). Nó duy nhất chỉ được tiếp nhận bởi các Phật giáo đồ thuộc phái Thượng tọa bộ để bảo tồn những gì mà họ xác định là Phật ngôn, rồi sau đó được gọi là ‘Pāli’, có lẽ vì đây là ngôn ngữ của các kinh điển có thẩm quyền cao nhất, do pāli có nghĩa là ‘văn bản’ hay ‘kinh điển’. Với tín đồ Phật giáo Thượng tọa bộ, Thánh điển Pāli được xem là cơ sở thẩm quyền cho các giáo lý cũng như các giới luật Phật chế được tuân thủ trong đời sống xuất gia của cộng đồng tăng ni tự nhận là thuộc hệ Thượng tọa bộ. Thánh điển Pāli gồm ba kho lớn hay tạng, gọi là piṭaka, nguyên nghĩa là ‘giỏ’, và do đó cũng được gọi là ‘Ba tạng’ (Pāli. Tripiṭaka), từ ngữ cũng được dùng bởi các bộ phái sơ kỳ khác chỉ cho tập đại thành kinh điển của mình. Luật tạng (Vinaya-piṭaka): tập đại thành kỷ luật tu đạo, chủ yếu do chính Đức Phật ban hành, cùng với các học xứ cá nhân, và các pháp tắc thường hành trong tăng viện để đảm bảo sự chuyên nhất đối với các mục tiêu của chúng tăng ni, cũng như để đảm bảo cho chúng đệ tử sống chung hòa hiệp nhằm tạo thuận duyên cho thành tựu mục đích của đời sống phạm hạnh. Tạng này cũng có một ít các tài liệu về truyện tích và giáo lý. Kinh tạng (Sutta-piṭaka): tập đại thành các ‘pháp thoại’, truyền tải những lời dạy của Phật và các đại đệ tử, được thuyết trong nhiều dịp khác nhau. Tạng được tổ chức thành năm bộ gọi là nikāya:. Tương Ưng Bộ (Saṃyutta-nikāya), hay ‘bộ liên hệ theo chủ đề’ gồm 7,762 Kinh, tập hợp thành 56 chủ đề liên hệ gọi là tương ưng (saṃyutta) (5 tập);. Tăng Chi Bộ (Aṅguttara-nikāya), hay ‘bộ tăng số’ gồm 9,550 bài, tập hợp các kinh theo số mục của mỗi pháp (từ một đến mười một) mà các bài kinh nói đến (5 tập);. Tiểu Bộ (Khuddaka-nikāya), hay ‘bộ nhỏ’ gồm 15 bộ kinh tạp lục được phân thành 20 tập, nhiều kinh thuộc thể loại thi kệ, chứa đựng những tài liệu sớm nhất lẫn muộn nhất của Thánh điển. 15 bộ kinh này gồm:. b) Pháp Cú (Dhammapada), hay ‘các thi kệ về Pháp’, một tập hợp nổi tiếng gồm 423 thi kệ súc tích, đại bộ phận có nội dung đạo đức. Được phiên dịch nhiều lần sang các ngôn ngữ phương Tây phản ánh tính phổ cập của kinh này;. j) Bổn Sanh (Jātaka), tập hợp gồm 547 ‘chuyện bổn sanh’ về các tiền thân của đức Phật, với mục đích minh họa các mặt đạo đức và phẩm chất anh hùng của vị Bồ-tát (bodhisatta) đang tu tập – chuyện đầy đủ được kể trong chú giải, dựa trên các bài kệ thuộc phần Thánh điển, cả thảy gồm 6 tập – trong khi đây là bộ phận tương đối muộn trong Thánh điển, có lẽ thâu nạp nhiều truyện tích dân gian Ấn-độ. Các chuyện này rất phổ biến và thường được sử dụng trong các bài kinh;. o) Sở Hành Tạng (Cariyā-piṭaka), ‘giỏ chứa về sở hành’, về sở hành của Phật Gotama trong các đời trước, tăng trưởng ‘các pháp ba-la-mật (toàn hảo)’ của một Bồ-tát (bodhisatta) khi Ngài hành hoạt hướng đến Phật quả. (q và r) Tạng Thích (Peṭakopadesa), ‘Diễn giải tạng’, và Dẫn Đạo Luận (Nettippakaraṇa), ‘hướng dẫn’, đều được quy cho Kaccāna Thera và nhắm đến các chú giải sư. – A-tì-đàm tạng (Abhidhamma-piṭaka): tập hợp ‘những lời dạy cao hơn’, là một hệ văn hiến học thuật chủ yếu trích lục và hệ thống hóa các giáo lý quan yếu của kinh (sutta) vận dụng phân tích chi ly về kinh nghiệm nhân bản, một tập hợp các pháp hoặc các quá trình cơ bản phi tình, gồm cả về sắc và tâm. Tạng này bảy bộ, trong đó bộ Pháp Tập (Dhammasaṅgaṇi), Phân Biệt (Vibhaṅga), Giới Luận (Dhātukathā) và Song Luận (Yamaka) được dành cho việc phân tích và phân loại các pháp, bộ Nhân Thi Thiết (Puggalapaññatti) để phân loại các hạng người theo phẩm chất giới đức và tu đức, và bộ cuối mà cũng dày nhất, Phát- thú (Paṭṭhāna), để cho thấy các pháp được phân tích và phân loại duyên nhau như thế nào mà sanh khởi. Bộ thứ năm (Luận Sự – Kathāvatthu), luận thuật bác bỏ các quan điểm của Phật giáo phi Thượng tọa bộ, có thể đây là luận tăng bổ cuối cùng cho tạng A-tỳ-đàm. Không giống như tạng Kinh, tất cả các luận thư trong tạng này đều có ngôn ngữ và phong cách mang tính chuyên môn cao.
|
Thượng tọa bộ
|
Phật giáo Thượng tọa bộ, hay Phật giáo Theravada, là một trong 3 truyền thống lớn của Phật giáo hiện đại. Khởi nguồn từ Ấn Độ, Phật giáo Thượng tọa bộ được hình thành và phát triển đầu tiên ở Sri Lanka, sau đó được truyền bá rộng rãi tại nhiều quốc gia ở vùng Đông Nam Á. Được cho là nhánh Phật giáo bảo tồn nhiều tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Thượng tọa bộ ngày nay có hơn 150 triệu tín đồ trên toàn thế giới, không chỉ giữ vai trò như quốc giáo tại một số quốc gia như Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia. mà còn hồi sinh tại Ấn Độ, quê hương của Phật giáo, cũng như bắt đầu bén rễ ở phương TâyThuật ngữ "Thượng tọa bộ" trong tiếng Việt là được phiên âm Hán-Việt từ danh xưng Shàngzuò Bù (tiếng Trung: 上座部) trong tiếng Trung Quốc. Nó bắt nguồn từ những ghi chép của các du tăng Trung Quốc đến Ấn Độ vào thế kỷ thứ VII là Huyền Trang và Nghĩa Tịnh khi nhắc đến các trường phái Phật giáo ở Sri Lanka. Nhiều tài liệu tiếng Việt còn sử dụng các danh xưng không hoàn toàn chính xác là Phật giáo Nam truyền, Phật giáo Nam tông hay Phật giáo Nguyên thủy để chỉ Phật giáo Thượng tọa bộ.
|
Chu kỳ kinh nguyệt là một phần của cơ thể phụ nữ khỏe mạnh và là cách để cơ thể chuẩn bị cho việc mang thai mỗi tháng. Do đó, nắm rõ cách thức hoạt động của chu kỳ kinh nguyệt là điều quan trọng trong việc cố gắng mang thai hoặc tránh thai. Mỗi tháng bắt đầu từ độ tuổi dậy thì cơ thể người phụ nữ trải qua một số thay đổi để sẵn sàng cho việc mang thai và sinh con. Các thay đổi về hormone, buồng trứng, tử cung trong cơ thể này được gọi là chu kỳ kinh nguyệt. Trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt, một quả trứng được phát triển và giải phóng khỏi buồng trứng. Lúc này niêm mạc tử cung tích tụ, dày lên để chuẩn bị cho quá trình hình thành bào thai. Nếu việc mang thai không xảy ra, niêm mạc tử cung sẽ bong trong chu kỳ kinh. Sau đó, niêm mạc tử cung kết hợp với một ít máu, trứng không được thụ tinh và chất dịch, thoát ra cơ thể, tạo thành kinh nguyệt. Chu kỳ kinh ở mỗi phụ nữ là không giống nhau, tuy nhiên hầu hết phụ nữ có chu kỳ kinh tử 21 – 35 ngày, với chu kỳ trung bình khoảng 28 ngày. Chu kỳ kinh nguyệt trung bình là khoảng 28 ngày. Tuy nhiên một số người có thể có chu kỳ kinh nguyệt tử 21 – 35 ngày. Bên cạnh đó, các khoảng thời gian xa nhau hoặc gần nhau hơn không phải lúc nào cũng liên quan đến các vấn đề nghiêm trọng. Theo các chuyên gia, chu kỳ kinh nguyệt được tính từ ngày đầu tiên hành kinh cho đến ngày thấy kinh nguyệt tiếp theo. Để xác định chu kỳ kinh nguyệt, bạn nên chú ý quan sát trong 3 – 4 tháng để ghi nhận số ngày trong chu kỳ và số ngày hành kinh. Bên cạnh đó, số ngày trong chu kỳ có thể chênh lệch nhau, tuy nhiên không được lệch nhau nhiều quá. Số ngày chênh lệch cao được gọi là rối loạn kinh nguyệt hoặc kinh nguyệt không đều. Thông thường, chu kỳ kinh nguyệt kéo dài 21 – 35 ngày và có thể lệch 3 – 5 ngày với thời gian hành kinh từ 3 – 7 ngày. Việc nắm rõ chu kỳ kinh nguyệt và ngày bắt đầu chu kỳ kinh là một cách phổ biến có thể tính thời điểm rụng trứng. Điều này có thể hỗ trợ quá trình tránh thai hoặc thời điểm mang thai. Chu kỳ kinh bình thường được chia thành 4 giai đoạn. Trong mỗi giai đoạn, cơ thể có sự thay đổi khác nhau để chuẩn bị cho việc mang thai và sinh con. Cụ thể các giai đoạn bao gồm:. Giai đoạn kinh nguyệt là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ kinh và bắt đầu vào ngày đầu tiên bạn nhìn thấy máu kinh nguyệt. Giai đoạn kinh nguyệt hay còn gọi là giai đoạn hành kinh, bắt đầu nếu trứng từ chu kỳ trước không được thụ tinh và quá trình mang thai không xảy ra. Điều này khiến nồng độ hormone estrogen và progesterone giảm xuống. Khi không mang thai, lớp niêm mạc tử cung dày lên để chuẩn bị cho quá trình hình thành bào thai không cần thiết nữa. Do đó, lớp niêm mạc tử cung sẽ bong ra và rời khỏi cơ thể thông qua âm đạo. Trong giai đoạn hành kinh, trứng sẽ được giải phóng kết hợp với máu, chất nhầy, niêm mạc tử cung và hình thành kinh nguyệt. Trung bình phụ nữ có giai đoạn hành kinh kéo dài từ 3 – 7 ngày. Tuy nhiên, một số phụ nữ có thể có chu kỳ ngắn hoặc dài hơn những người khác. Giai đoạn nang trứng bắt đầu vào ngày đầu tiên của chu kỳ kinh nguyệt (trùng lặp với giai đoạn hành kinh) và kết thúc khi rụng trứng. Giai đoạn nang trứng bắt đầu khi vùng dưới đồi gửi tín hiệu đến tuyến yên để giải phóng hormone kích thích nang trứng. Hormone này kích thích buồng trứng của bạn để sản xuất khoảng 5 – 20 túi nhỏ, được gọi là nang. Mỗi nang chứa một quả trứng chưa trưởng thành. Chỉ có một trứng khỏe mạnh nhất sẽ trưởng thành, tuy nhiên đôi khi một số phụ nữ có thể có hai quả trứng khỏe mạnh trưởng thành. Số lượng trứng không được trưởng thành của các nang sẽ được tái hấp thu vào cơ thể. Các nang trứng trưởng thành sẽ gây thay đổi nồng độ estrogen và làm dày niêm mạc tử cung. Điều này tạo ra một môi trường giàu chất dinh dưỡng để chuẩn bị cho quá trình thụ thai và hình thành bào thai. Giai đoạn nang trứng trung bình kéo dài khoảng 16 ngày. Tuy nhiên ở một số phụ nữ giai đoạn này có thể dao động từ 11 – 27 ngày, tùy thuộc vào chu kỳ kinh. Ở giai đoạn nang trứng, cơ thể tiết ra một lượng estrogen lớn. Nồng độ estrogen cao có thể kích hoạt tuyến yên tiết ra hormone luteinizing (LH) và bắt đầu giai đoạn rụng trứng. Quá trình rụng trứng bắt đầu khi buồng trứng giải phóng một quả trứng trưởng thành. Trứng sẽ di chuyển về phía ống dẫn trứng, đến tử cung và được thụ tinh bởi tinh trùng. Giai đoạn rụng trứng và giai đoạn duy nhất trong chu kỳ kinh nguyệt mà bạn có thể mang thai. Các dấu hiệu rụng trứng có thể bao gồm nhiệt độ cơ thể tăng nhẹ hoặc tiết các chất dịch âm đạo dày hơn và có kết cấu như lòng trắng trứng. Quá trình rụng trứng xảy ra vào khoảng ngày thứ 14 của chu kỳ nếu bạn có chu kỳ kinh nguyệt 28 ngày. Khả năng mang thai kéo dài 24 giờ. Sau khoảng thời gian này, nếu trứng không được thụ tinh, trứng sẽ chết hoặc tan ra bên trong cơ thể. Bên cạnh đó, tinh trùng có thể sống đến năm ngày bên trong cơ thể người phụ nữ. Do đó, một người phụ nữ quan hệ tình dục nhiều lần trong 5 ngày trước khi rụng trứng, quá trình thụ thai có thể xảy ra. Giai đoạn hoàng thể bắt đầu sau khi nang trứng giải phóng trứng. Trong giai đoạn này, cơ thể giải phóng hormone, chủ yếu là progesterone và một số estrogen. Sự gia tăng nồng độ hormone này giữ cho niêm mạc tử cung dày lên và sẵn sàng cho quá trình thụ tinh tiếp theo. Nếu quá trình thụ tinh xảy ra, cơ thể sẽ sản xuất gonadotropin để tạo thành màng đệm. Lúc này nếu xét nghiệm hormone sẽ phát hiện dấu hiệu mang thai. Bên cạnh đó, hormone gonadotropin giúp duy trì hoàng thể và giữ cho niêm mạc tử cung dày để đảm bảo an toàn cho bào thai. Nếu bạn không mang thai, hoàng thể sẽ co lại và bị tái hấp thu vào cơ thể. Điều này dẫn đến giảm nồng độ estrogen và progesterone, dẫn đến chu kỳ kinh nguyệt mới. Lúc này lớp niêm mạc tử cung không cần thiết nữa và bị bong ra, kết hợp với máu, trứng, các chất dịch để tạo thành kinh nguyệt. Để theo dõi chu kỳ kinh nguyệt bạn có thể ghi lại ngày bắt đầu chi kỳ và theo dõi các thay đổi trong chu kỳ liên tục từ 3 – 4 tháng. Nếu cần theo dõi chu kỳ kinh cho các mục đích tránh thai, mang thai hoặc các vấn đề sức khỏe khác, bạn có thể lưu ý một số vấn đề như:. Ghi lại thời gian hành kinh, ngày đầu và ngày cuối của chu kỳ. Điều này giúp bạn xác định tính đồng nhất của mỗi chu kỳ kinh. Lưu lượng máu và dòng chảy của kinh nguyệt nặng hoặc nhẹ hơn các chu kỳ khác có thể là dấu hiệu cho các thay đổi hoặc vấn đề trong cơ thể. Chảy máu bất thường, bao gồm ra máu giữa các chu kỳ kinh hoặc có hai chu kỳ kinh trong một tháng. Đau đớn bao gồm đau bụng kinh, đau lưng hoặc các cơn đau khác trong cơ thể. Các thay đổi khác trong chu kỳ kinh nguyệt bao gồm tâm trạng, hành vi, thói quen, sở thích. Theo dõi chu kỳ kinh và ghi lại các dấu hiệu liên quan có thể giúp bác sĩ chẩn đoán các vấn đề liên quan (nếu có). Mỗi chu kỳ kinh nguyệt ở mỗi phụ nữ là khác nhau. Một số phụ nữ có thể có kinh nguyệt vào cùng một thời điểm mỗi tháng, tuy nhiên một số khác có thể bị rối loạn kinh nguyệt. Một số người có thể có lưu lượng máu tương tự nhau trong khi một số khác có thể chảy nhiều máu hoặc gặp tình trạng rong kinh. Kinh nguyệt cũng có thể thay đổi tại một số thời điểm nhất định trong đời, bao gồm thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh. Theo dõi chu kỳ kinh nguyệt là cách tốt nhất để xác định các vấn đề và có cách giải quyết kịp lúc. Biện pháp kiểm soát sinh sản thể ảnh hưởng đến chu kỳ kinh. Thuốc tránh thai có thể khiến chu kỳ kinh nhẹ hơn trong khi các biện pháp tránh thai nội tiết có thể khiến bạn bị ra máu giữa chu kỳ kinh. Đôi khi một số loại thuốc kiểm soát sinh sản có thể khiến bạn không có chu kỳ kinh nguyệt trong một thời gian. Mang thai có thể khiến chu kỳ kinh dừng lại hoàn toàn. Mất kinh nguyệt là dấu hiệu đầu tiên và rõ ràng nhất cho thấy bạn đang mang thai. Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) có thể gây mất cân bằng nội tiết tố và ngăn cản trứng phát triển trong các nang trứng. Điều này dẫn đến kinh nguyệt không đều hoặc mất kinh. Suy buồng trứng sớm là tình trạng mất chức năng buồng trứng ở phụ nữ trước 40 tuổi. Phụ nữ bị suy giảm buồng trứng sớm (còn được gọi là suy buồng trứng nguyên phát) thường có chu kỳ kinh không đều hoặc mất kinh trong vài tháng. Bệnh viêm vùng chậu là tình trạng nhiễm trùng cơ quan sinh dục nữ, thường liên quan đến các bệnh lý lây qua đường tình dục. Các dấu hiệu nhận biết phổ biến bao gồm kinh nguyệt không đều và đau khi quan hệ tình dục. U xơ tử cung là những tăng trưởng lành tính, không ung thư bên trong tử cung. Các khối u xơ có thể khiến chu kỳ kinh kéo dài với lưu lượng máu nhiều hơn bình thường. Rối loạn ăn uống bao gồm chán ăn, chứng cuồng ăn và các dạng rối loạn ăn uống khác có thể gây gián đoạn chu kỳ kinh nguyệt hoặc khiến chu kỳ kinh dừng lại. Nếu chu kỳ kinh của bạn không đều, trễ kinh, chu kỳ kéo dài hoặc lưu lượng máu nặng, bạn nên đến bệnh viện để được chẩn đoán và điều trị phù hợp. Mỗi phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt khác nhau, kéo dài từ 21 – 35 ngày. Điều quan trọng là xác định và làm quen với chu kỳ của bản thân, bao gồm số ngày hành kinh và các triệu chứng liên quan. Đôi khi các thay đổi trong chu kỳ kinh có thể là dấu hiệu của các bệnh lý cần điều trị y tế. Do đó, theo dõi chu kỳ và thông báo với bác sĩ để được hướng dẫn cụ thể. 30.000 bài viết về bệnh, thuốc, thảo dược, thai kỳ, bí quyết sống khỏe mỗi ngày.
|
Chu kỳ kinh nguyệt
|
Bài này viết về khía cạnh sinh học của chu kì sinh dục nữ ở người. Về thông tin chi tiết hơn, xem kinh nguyệt ở người, kinh nguyệt ở thú. Chu kỳ kinh nguyệt (hay thời gian hành kinh) là sự biến đổi tự nhiên thường xuyên xảy ra trong hệ sinh dục nữ (cụ thể là tử cung và buồng trứng) cần thiết cho quá trình mang thai và sinh sản. Theo định nghĩa khác, chu kỳ kinh nguyệt là sự biến đổi về cấu trúc, chức năng của niêm mạc tử cung dẫn tới sự chảy máu có chu kỳ ở niêm mạc tử cung dưới tác dụng của các hormone tuyến yên và buồng trứng. Chu kỳ này là cần thiết cho việc sản xuất noãn bào và chuẩn bị tử cung để mang thai. Chu kỳ kinh nguyệt xảy ra do sự tăng giảm của nồng độ hormone estrogen, dẫn đến sự dày lên của niêm mạc tử cung và sự phát triển của noãn (cần thiết cho quá trình mang thai). Noãn được phóng thích từ buồng trứng vào khoảng ngày thứ 14 trong chu kỳ; niêm mạc tử cung dày lên cung cấp chất dinh dưỡng cho phôi sau khi làm tổ.
|
Sóng địa chấn (Seismic wave) là dạng sóng cơ học chứa năng lượng phát sinh từ nguồn chấn động trong đất như động đất, núi lửa, nổ, đập, rung,… và truyền qua các lớp của Trái Đất. Khi dao động nhỏ không gây biến dạng môi trường thì nó là sóng đàn hồi (elastic wave). Những nguồn tự nhiên hay nhân tạo không kiểm soát thì tạo ra sóng biên độ nhỏ thường được gọi là vi địa chấn (microtremor) hay rung chấn môi trường (ambient vibration). Các nguồn chấn động tạo ra các loại sóng khác nhau với tốc độ truyền khác nhau. Sóng có thể lan truyền trên mặt thoáng của thạch quyển – thủy quyển, hoặc xuống dưới sâu. Khi gặp một ranh giới địa chấn thì xảy ra sự khúc xạ hoặc phản xạ của sóng địa chấn, và điều này được sử dụng trong Địa vật lý để nghiên cứu cấu trúc của phần bên trong của Trái Đất. Vật lý Địa cầu sử dụng các quan sát ở Trạm quan sát địa chấn bằng địa chấn kế (seismometer) hoặc gia tốc kế (accelerometer), đo đạc cường độ và sự khác nhau về thời gian truyền các loại sóng để xác định vị trí và cường độ nguồn của chấn tâm (hypocenter), cũng như để nghiên cứu cấu trúc trong lòng Trái Đất. Địa vật lý thăm dò sử dụng nguồn phát sóng nhỏ và thu nhận sóng bằng các đầu thu sóng địa chấn (geophone) hay đầu thu sóng địa chấn trong nước (hydrophone) và ghi bằng máy ghi địa chấn (seismograph) hoặc máy ghi chuyên dụng khác, để điều tra cấu trúc nông bên dưới mặt đất mặt nước, phục vụ các dạng khảo sát địa chất và tìm kiếm khoáng sản. Sự khác nhau về cách thức lan truyền, đặc trưng dao động của phần tử môi trường,… dẫn đến việc phân chia ra các loại sóng địa chấn. Sự khác biệt lớn nhất là giữa sóng khối (Body waves) và sóng mặt (Surface waves). Sóng khối lan truyền qua phần bên trong của Trái Đất. Sóng mặt lan truyền trên bề mặt, là mặt tiếp giáp giữa các pha của vật chất là rắn-không khí, nước-không khí, và rắn-lỏng. Chuyển động hạt môi trường của sóng mặt lớn hơn của sóng khối, do đó khi động đất thì sóng trên bề mặt có xu hướng gây ra nhiều thiệt hại. Những nghiên cứu về sóng địa chấn cũng được áp dụng cho địa chấn trên các hành tinh (Asteroseismology). Sóng khối (Body waves) truyền qua phần bên trong của Trái Đất. Nó tạo ra đường tia sóng (raypath) khúc xạ do các thay đổi mật độ và modul (độ cứng) ở phần bên trong của Trái Đất. Mật độ và modul thay đổi tùy theo nhiệt độ, thành phần, và pha của vật chất. Hiệu ứng này tương tự như sự khúc xạ của sóng ánh sáng. Sóng sơ cấp (Primary waves) hay sóng P, sóng dọc, sóng nén là sóng có phương dao động của hạt môi trường xảy ra dọc theo phương truyền. Sóng P là sóng áp suất, truyền nhanh hơn sóng khác. Trong quan sát động đất nó đến trạm địa chấn đầu tiên, nên có tên là sơ cấp (Primary). Sóng này có thể đi qua loại vật liệu bất kỳ, gồm cả chất lỏng, khí, và có thể truyền nhanh gần gấp đôi so với tốc độ của sóng S. Tốc độ truyền sóng dọc Vp xác định theo công thức:. Trong không khí và nước, chúng có dạng sóng âm thanh. Tốc độ lan truyền sóng P là 330 m/s trong không khí, 1450 m/s trong nước, khoảng 5000 m/s trong đá granit, trên 8000 m/s trong quyển manti và lõi. Trong địa vật lý thăm dò quen dùng thuật ngữ sóng dọc để chỉ sóng P. Sóng thứ cấp (Secondary waves) hay sóng ngang (Tranverse waves), sóng cắt (shear wave), sóng S, là sóng có phương dao động của hạt môi trường ngang theo phương truyền. Sóng S truyền chậm hơn sóng P, giá trị thường cỡ 60% tốc độ sóng P ở cùng môi trường đó. Trong quan sát động đất nó đến trạm địa chấn sau sóng P, nên có tên là thứ cấp (Secondary). Sóng S chỉ truyền trong chất rắn hoặc thể vô định hình gần rắn, không truyền qua chất lỏng và khí. Tốc độ truyền sóng ngang Vs xác định theo công thức:. Trong địa vật lý thăm dò thường dùng thuật ngữ sóng ngang để chỉ sóng S. Trong những đo đạc nhất định còn phân biệt sóng theo phương dao động:. Sóng mặt (Surface waves) lan truyền trên bề mặt, là mặt tiếp giáp giữa các pha của vật chất là rắn-không khí, nước-không khí, và rắn-lỏng. Bùn nhão phủ trên đá cứng có thể xem là gần lỏng và sóng mặt xuất hiện ở mặt đá cứng. Sóng mặt lan truyền chậm hơn sóng khối (P và S), và dao động của hạt môi trường có dạng phức tạp, nhưng biên độ giảm dần theo độ sâu. Trong trận động đất mạnh, sóng mặt có thể có biên độ của một vài cm, và là sóng gây phá hủy. Sóng Rayleigh, còn gọi là rung cuộn mặt đất (Ground roll), là sóng mặt lan truyền có gợn sóng tương tự như sóng trên mặt nước (chú ý rằng, tuy nhiên ở sóng mặt nước các chuyển động hạt ở tầng nước nông là ngược dòng và lực khôi phục là lực hấp dẫn, còn trong Rayleigh và sóng địa chấn khác thì lực khôi phục là lực đàn hồi). Sự tồn tại của các sóng này được John William Strutt, Lord Rayleigh, dự báo vào năm 1885, và sau đó đặt theo tên ông. Sóng truyền chậm hơn sóng khối, vào khoảng 90% tốc độ sóng S cho môi trường đàn hồi đồng nhất điển hình. Trong môi trường phân lớp (như lớp vỏ và lớp manti trên) tốc độ sóng Rayleigh phụ thuộc vào tần số và bước sóng. Sóng Love là sóng mặt ngang phân cực ngang (sóng SH), chỉ xuất hiện trong môi trường nừa không gian vô hạn bị phủ bởi một lớp có bề dày hữu hạn. Chúng được đặt tên theo nhà toán học người Anh A.E.H. Love, người tạo ra một mô hình toán học của sóng năm 1911. Sóng lan nhanh hơn sóng Rayleigh một chút, vào khoảng 90% tốc độ sóng S, và có biên độ lớn nhất. Sóng Stoneley là một loại sóng Rayleigh biên độ lớn lan truyền dọc theo ranh giới rắn-lỏng, hoặc trong điều kiện cụ thể có thể lan truyền dọc theo ranh giới rắn-rắn. Chúng có thể được tạo ra dọc theo thành hố khoan chứa đầy dung dịch khoan, và là nguồn nhiễu đồng bộ chính trong Địa chấn mặt cắt thẳng đứng (Vertical Seismic Profiling, VSP), cũng như tạo thành phần tần số thấp của nguồn trong phép đo âm thanh hố khoan (sonic logging). Phương trình sóng Stoneley lần đầu tiên được Robert Stoneley ở Đại học Cambridge đưa ra. Mật độ các loại đá tăng dần vào tâm Trái Đất, dẫn đến tốc độ truyền sóng tăng dần. Theo định luật Snell tại các ranh giới xảy ra khúc xạ sóng, còn trong lớp thì tia sóng cong. Khi một trận động đất xảy ra, ở gần tâm chấn có thể ghi lại cả hai sóng P và sóng S, nhưng ở khoảng cách lớn không còn phát hiện các tần số cao của sóng S đầu tiên. Vì rằng sóng ngang không thể truyền qua chất lỏng, hiện tượng này là bằng chứng ban đầu, và đến nay các quan sát đủ xác lập rằng Trái Đất có lõi ngoài lỏng, như R. D. Oldham đã chứng minh. Các quan sát địa chấn như vậy cũng xác định rằng Mặt Trăng có một lõi rắn, mặc dù các nghiên cứu trắc địa gần đây lại cho ra lõi vẫn là nóng chảy.
|
Sóng địa chấn
|
Sóng địa chấn (Seismic wave) là dạng sóng cơ học chứa năng lượng phát sinh từ nguồn chấn động trong đất như động đất, núi lửa, nổ, đập, rung,. và truyền qua các lớp của Trái Đất. Khi dao động nhỏ không gây biến dạng môi trường thì nó là sóng đàn hồi (elastic wave). Những nguồn tự nhiên hay nhân tạo không kiểm soát thì tạo ra sóng biên độ nhỏ thường được gọi là vi địa chấn (microtremor) hay rung chấn môi trường (ambient vibration). Tốc độ truyền của sóng phụ thuộc vào mật độ và độ đàn hồi của môi trường, có xu hướng tăng theo độ sâu. Tốc độ sóng dọc P thay đổi từ 0,33 km/s trong không khí, 0,3 - 1,5 km/s ở lớp trên mặt đất, 1,45 km/s trong nước, 1,5 – 8 km/s ở vỏ Trái Đất đến 13 km/s ở quyển manti. Các nguồn chấn động tạo ra các loại sóng khác nhau với tốc độ truyền khác nhau. Sóng có thể lan truyền trên mặt thoáng của thạch quyển - thủy quyển, hoặc xuống dưới sâu. Khi gặp một ranh giới địa chấn thì xảy ra sự khúc xạ hoặc phản xạ của sóng địa chấn, và điều này được sử dụng trong Địa vật lý để nghiên cứu cấu trúc của phần bên trong của Trái Đất.
|
Quyền lực được hình thành với hai yếu tố là quyền và lực, trong đó quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng được làm được đòi hỏi những điều do địa vị hay chức vụ mà làm được và lực là sức mạnh. Ngay từ khi loài người xuất hiện cũng gắn liền với sự ra đời của thuật ngữ “quyền lực”. Quyền lực xuất hiện là yếu tố khách quan của tổ chức và hoạt động xã hội khi sự phát triển đạt đến một mức độ nhất định. Quyền lực là quyền lực đoạt một công việc quan trọng về mặt chính trị và sức mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền ấy, Quyền lực được hình thành với hai yếu tố là quyền và lực, trong đó quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng được làm được đòi hỏi những điều do địa vị hay chức vụ mà làm được và lực là sức mạnh. Như vậy, quyền lực đó là sức mạnh được thừa nhận của chủ thể này đối với chủ thể khác phải thực hiện theo ý chí của mình. Hay nói cách khác quyền lực là khả năng áp đặt ý chí của một cá nhân, tổ chức, công động lên một cá nhân, tổ chức, công đồng khác. Trong bất kỳ hình thái kinh tế – xã hội nào cũng có quyền lực. Quyền lực bản thân nó ban đầu mang tính tự nhiên, được hình thành từ những bản năng mang tính sinh vật trong quá trình đấu tranh để sinh tồn và phát triển. Sau này, do nhu cầu của việc quản lý và kiểm soát các hoạt động chung để phối hợp các thành viên trong xã hội với nhau mà quyền lực tiếp tục nảy sinh theo những cách khác nhau. Giống như sự ảnh hưởng, quyền lực không phải là cái hữu hình mà nó phản ánh mối quan hệ liên nhân cách đó là quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo và quan hệ liên nhóm là quan hệ của người lãnh đạo với tập thể hoặc liên quốc gia là quan hệ của các cơ quan nhà nước đối với người dân. Quyền lực là tiền bạc có thể hiểu quyền lực là biện pháp để đạt được của cải và sự phục vụ. Trong hoạt động của cộng đồng, quyền lực là nhân tố hàng tố hàng đầu bảo đảm cho sự phát triển và bảo vệ cuộc sống của cộng đồng. Ở phạm vi quốc tế quyền lực là phương tiện để các quốc gia bảo vệ lợi ích của họ một cách tối đa trong hệ thống thế giới. Trong xã hội loài người quyền lực là một trong những yếu tố xuất hiện và tồn tại song hành với sự ra đời và phát triển của xã hội loài người, khi loài người xuất hiện thì đó cũng là lúc quyền lực xuất hiện. Niềm tin con người về quyền lực lại dựa trên cơ sở suy nghĩ con người. Điều này thể hiện cả hai từ phía người lãnh đạo người nắm quyền lực và người bị lãnh đạo những người chịu sự chi phối của quyền lực. Quyền lực là khả năng làm cho người khác phục tùng, làm theo ý chí của mình, vì vậy, ai là người nắm giữ quyền lực có một ý nghĩa rất đặc biệt. Người nắm giữ quyền lực thường là người đứng đầu của một tổ chức, một thế lực, một cộng đồng… Trong đấu tranh sinh tồn, sự tạo lập quyền lực nhằm tạo ra vị thế cho người đứng đầu lãnh đạo trong tổ chức lao động sản xuất, chiến đấu và sinh hoạt. Sự cạnh tranh ở đây lại diễn ra giữa cộng đồng này với cộng đồng khác mà nếu như công đồng nào yếu thế thì có thể trở thành kẻ phục tùng mệnh lệnh của cộng đồng kia và bị cộng đồng đó kiểm soát và điều chỉnh. Chính vì lẽ đó mà người đứng đầu cộng đồng phải là người giành được niềm tin tuyệt đối của cộng đồng. Mệnh lệnh của người đứng đầu được phát ra nhân danh cả cộng đồng và việc tuân theo mệnh lệnh ấy không chỉ vì lợi ích của cộng đồng mà vì lợi ích của chính bản thân của mỗi thành viên thực hiện mệnh lệnh ấy. Đó có thể là do sự chuyển giao, sự liên kết…mà có. Chuyển giao quyền lực thường hay diễn ra trong quan hệ huyết thống. Ví dụ trong xã hội phong kiến, Vua là người nắm trong tay quyền lực lãnh đạo đất nước, mọi người dân trong xã hội bắt buộc phải phục tùng mệnh lệnh của vua, đến thời điểm vua không thể lãnh đạo đất nước nữa, sẽ truyền ngôi lại cho người khác, thông thường thì những người nối ngôi là con của vua, sẽ thay cha mình lên nắm quyền lãnh đạo đất nước. Chế độ chuyển giao quyền lực theo kiểu cha truyền con nối khá phổ biến sau này cũng có khi có kết quả tốt nhưng phần lớn có kết cục không tốt. Kiểu chuyển giao quyền lực này không mang tính tự nhiên nên sự tha hóa của nó diễn ra khá nhanh. Sự sụp đổ của các vương triều trong lịch sử là một minh chứng cho điều này. Ngày nay, khi xã hội ngày càng hiện đại, trình độ dân trí được nâng cao, nền dân chủ ngày càng trở nên hoàn thiện, đối tượng của quyền lực cũng đồng thời cũng là chủ thể của quyền lực, đôi tượng của quyền lực cũng chính là người trao quyền và cũng là người kiểm soát quyền lực. Ví dụ như ở nước ta, Hiến pháp thừa nhận nhân dân là người nắm quyền, là trung tâm của quyền lực nhà nước. Nhân dân trao quyền cho các cơ quan nhà nước, các cơ quan này đại diện nhân dân nắm quyền lãnh đạo đất nước, vì nhân dân và vì sự phát triển của đất nước. Và các cơ quan này phải chịu sự giám sát chặt chẽ từ nhân dân.
|
Quyền lực
|
Quyền lực, được miêu tả theo khía cạnh khoa học xã hội, một mặt là khả năng gây ảnh hưởng của một người hoặc một nhóm người đến hành vi và suy nghĩ của các cá nhân, nhóm người khác với ý nghĩa là "quyền lực"; mặt khác, nó đại diện cho 1 vị trí của cá nhân hoặc nhóm người, là khả năng đạt được mục tiêu xác định một cách đơn phương, không chịu sự kiểm soát, áp đặt, hay phải đáp ứng các điều kiện và đòi hỏi của các cá nhân hoặc nhóm người khác (vd: quyền con người). Vế sau được hiểu theo tính pháp lý với ý nghĩa là "thẩm quyền", "quyền lợi" của các cá nhân và nhóm người tham gia vào một hệ thống xã hội được bảo trợ bởi một nền tảng pháp luật đã được xây dựng và đưa ra dựa theo các tiêu chí cụ thể, đặc biệt là dựa trên các thỏa thuận và cam kết của những chủ thể tham gia trong xã hội (khế ước xã hội). Quyền lực xác định phạm vi, giới hạn của các "khả năng hành động, gây ảnh hưởng" cả về thể chất lẫn tinh thần của một người hoặc một nhóm người.
|
Dàn dựng lại một vở vũ kịch của thiên tài âm nhạc thế giới Tchaikovsky là điều không phải nghệ sĩ nào cũng dám làm. Đặc biệt là "Người đẹp ngủ trong rừng" - vở vũ kịch được coi là đẹp nhất, lãng mạn nhất trong thế giới của ballet. NSƯT Đàm Hàn Giang đã quyết định chinh phục thử thách này, với tham vọng mang ballet đến với đông đảo công chúng thủ đô. Sau đêm diễn thành công vào ngày 13.01, vũ kịch "Người đẹp ngủ trong rừng" sẽ tiếp tục có cuộc hành trình chinh phục công chúng thủ đô vào đêm mai (20.01), ngay trong những ngày cuối cùng của năm mới. Tiếng vang của đêm diễn đầu tiên đã khiến lần đầu tiên, một đêm diễn ballet được bàn tán nhiều trên các diễn đàn nghệ thuật của thủ đô. Là khán giả của đêm diễn đầu tiên, NSND Lan Hương cho biết, bà thán phục trước sức sáng tạo của các nghệ sĩ, cũng như chăm chỉ và nỗ lực của hơn 130 em nhỏ. "Từ ánh sáng, giai điệu, khung cảnh sân khấu tới các động tác của những diễn viên đều như hòa nhập làm một. Nó khiến người xem như đang lạc trong giấc mơ của mình vậy". Trong đêm diễn ngày 20.01, MC Mạc Anh Thư sẽ dẫn dắt chương trinh, với 2 phần biểu diễn và vinh danh. Gala hứa hẹn sẽ tiếp tục khiến người xem chìm vào thế giới cổ tích giàu chất thơ, chất nhạc. Và có lẽ, điều quan trọng hơn cả là vũ kịch này đã mang nghệ thuật hàn lâm tới gần công chúng Việt Nam hơn, đặc biệt là thế hệ trẻ. Sự tiếp cận với những không gian văn hóa đẳng cấp là điều cần thiết để các em định hình phông văn hóa cho mình. "Người đẹp ngủ trong rừng" (The Sleeping Beauty) là vở ballet nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Nga Pyotr Ilyich Tchaikovsky. Vở ballet này bao gồm 3 màn. Đây là một trong những vở ballet hay nhất của Tchaikovsky và là một trong những vở ballet nổi tiếng nhất của âm nhạc cổ điển. Vũ kịch "Người đẹp ngủ trong rừng" là bản tuyên ngôn lãng mạn về tình yêu bất chấp thời gian và những lời nguyền, dưới âm nhạc và các điệu vũ ballet, câu truyện về nàng công chúa ngủ trăm năm được đánh thức bởi một nụ hôn thêm phần cổ điển, sang trọng.
|
Người đẹp ngủ trong rừng (ballet)
|
Người đẹp ngủ trong rừng hay Người đẹp say ngủ (tiếng Nga: спящая красавица ) là vở ballet nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Nga Pyotr Ilyich Tchaikovsky. Vở ballet này gồm 3 màn và có đoạn mở đầu. Người viết lời cho vở ballet này là Petipa và Vsevoloysky. Họ dựa theo một câu chuyện cổ tích của Charles Perrault. Ngoài việc viết lời ra, Petipa còn là biên đạo múa cho tác phẩm. Tác phẩm được sáng tác trong 2 năm, 1888-1889, được trình diễn lần đầu tiên tại thành phố Sankt Peterburg vào năm 1890. Đây là một trong những vở ballet hay nhất của Tchaikovsky và là một trong những vở ballet nổi tiếng nhất của âm nhạc cổ điển.
|
Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi (tiếng Nhật: バカとテストと召喚獣 Hepburn: Baka to Test to Shōkanjū) là loạt light novel được viết bởi Inoue Kenji và minh họa bởi Haga Yui. Light novel được phát hành thẳng thành các tập chứ không phát hành trên tạp chí, Enterbrain đã phát hành tập tập đầu tiên vào ngày 29 tháng 1 năm 2007 đến ngày 30 tháng 11 năm 2013 với nhãn Famitsu Bunko. Tại Việt Nam, Light novel được cấp phép bản quyền cho IPM dưới tựa đề chính thức “Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi“. Loạt tiểu thuyết cũng được chuyển thể thành manga với ba loạt. Loạt thứ nhất có cùng tên với tiểu thuyết do Mattaku Mosuke minh họa và đăng trên tạp chí Shōnen Ace từ ngày 25 tháng 4 năm 2009. Loạt thứ hai có tựa Baka to Test to Shōkanjū ja cũng đăng trên tạp chí Shōnen Ace từ năm 2009. Loạt thứ ba có tựa Baka to Test to Shōkanjū Spinout! Silver Link cũng đã thực hiện chuyển thể anime của tiểu thuyết và phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 07 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 2010 với 13 tập. Hai tập OVA có tựa Baka to Test to Shoukanjuu ~Matsuri~ đã được phát hành sau đó trong tháng 2 và 3 năm 2011. Bộ anime thứ hai có tựa Baka to Test to Shōkanjū Ni! cũng đã được thực hiện và phát sóng từ ngày 08 tháng 7 đến ngày 30 tháng 9 năm 2011 cũng với 13 tập. Cốt truyện xoay quanh nhân vật Yoshii Akihisa và những người bạn của cậu. Akihisa rất ngốc nhưng lại nhập học tại học viện Fumizuki- nơi mà điểm số là tất cả. Đạt được thành tích tốt sẽ được học trong một môi trường với các trang thiết bị hiện đại. Ngược lại, nếu thành tích quá kém thì sẽ phải học trong một môi trường với các trang thiết bị tồi tàn, kém chất lượng. Tại ngôi trường này, còn có một điểm đặc biệt là các học viên có thể triệu tập linh thú của mình, linh thú sở hữu sức mạnh và sức chịu đựng dựa trên điểm số mà các học viên đạt được. Các lớp có thể thách đấu và chiến đấu với nhau bằng linh thú, nếu lớp kém hơn thắng lớp giỏi hơn thì lớp kém hơn nhận được trang thiết bị tương đương với lớp bị thua. Ngược lại, lớp bị thua sẽ phải đổi lấy trang thiết bị của lớp kém như là một hình phạt. Akihisa học tại lớp F- nơi mà tập hợp những học sinh yếu kém nhất và cũng không kém phần lập dị. Vì một lý do khá là “đen tối”, Akihisa phát động đấu linh thú giữa các lớp để giành được trang thiết bị học tập tối ưu hơn. Loạt light novel ”Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi” này được viết bởi Inoue Kenji và minh họa bởi Haga Yui. Loạt tiểu thuyết này được phát hành thẳng thành các tập chứ không phát hành trên tạp chí, Enterbrain đã phát hành tập tập đầu tiên vào ngày 29 tháng 1 năm 2007 và tập cuối vào ngày 30 tháng 3 năm 2015 với nhãn Famitsu Bunko loạt tiểu thuyết có tổng cộng 18 tập với 12 tập mang cốt truyện chính và 6 tập ngoại truyện (3.5, 6.5, 7.5, 9.5,10.5 và 12.5). Sharp Point Press đã đăng ký để phát hành loạt tiểu thuyết này tại Đài Loan. Còn ở Việt Nam được IPM mua bản quyền và đã phát hành 11 tập và 5 ngoại truyện. Loạt tiểu thuyết cũng được chuyển thể thành manga với ba loạt. Loạt thứ nhất có cùng tên với tiểu thuyết do Mattaku Mosuke minh họa và đăng trên tạp chí dành cho shōnen là Shōnen Ace của Kadokawa Shoten từ ngày 25 tháng 4 năm 2009. Các chương sau đó được tập hợp lại và phát hành thành các tankōbon, tính đến ngày 26 tháng 7 năm 2014 có đã có 11 tập được phát hành. Kadokawa Media đã đăng ký bản quyền để phát hành tại Đài Loan. Loạt thứ hai có tựa Baka to Test to Shōkanjū Dya (バカとテストと召喚獣ぢゃ) do KOIZUMI thực hiện cũng đăng trên tạp chí Shōnen Ace từ ngày 26 tháng 12 năm 2009 đến ngày 26 tháng 11 năm 2013. Loạt manga này mang phong cách 4 hình và là ngoại truyện với cốt truyện chính. Các chương sau đó đã được tập hợp lại và phát hành thành 4 tankōbon. JManga đã đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của loạt manga này để tiến hành phân phối trực tuyến tại thị trường Bắc Mỹ. Loạt thứ ba có tựa Baka to Test to Shōkanjū Spinout! それが僕らの日常。) do namo thực hiện và cũng là ngoại truyện, loạt manga đã đăng trực tuyến trên trang mạng Famitsu Comic Clear của Enterbrain từ ngày 30 tháng 10 năm 2009 đến ngày 22 tháng 6 năm 2012. Enterbrain sau đó cũng tập hợp các chương lại và phát hành thành 6 tankōbon. Geneon Entertaiment đã phát hành hai drama CD trước khi các bộ anime được thực hiện. Một phát hành vào ngày 23 tháng 5 và một vào ngày 19 tháng 12 năm 2008. Vì loạt drama CD này được thực hiện trước khi các bộ anime thực hiện nên diễn viên lồng tiếng cho các nhân vật khác với anime. Silver Link đã chuyển thể loạt tiểu thuyết thành anime với sự đạo diễn của Ōnuma Shin và đã phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 07 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 2010 với 13 tập. Kênh Animax Asia đã phát sóng bộ anime này trên hệ thống của mình tại Đông Nam Á và Nam Á. Funimation Entertainment đã đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của bộ anime để phát trực tuyến trên hệ thống của mình cũng như phân phối tại thị trường Bắc Mỹ, Madman Entertainment phân phối tại Úc và New Zealand và Proware Multimedia International đăng ký phân phối tại Đài Loan. Hai tập OVA có tựa Baka to Test to Shōkanjū ~Matsuri~ (バカとテストと召喚獣 ~祭~) đã được phát hành dưới phiên bản DVD/BD vào ngày 23 tháng 2 và ngày 23 tháng 3 năm 2011. Kênh Animax Asia cũng đã phát sóng bộ anime này trên hệ thống của mình tại Đông Nam Á và Nam Á. Funimation Entertainment đã đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của bộ anime để tiến hành phân phối tại thị trường Bắc Mỹ, Madman Entertainment phân phối tại Úc và New Zealand còn Proware Multimedia International tiếp tục đăng ký phân phối tại Đài Loan. và phát sóng từ ngày 08 tháng 7 đến ngày 30 tháng 9 năm 2011 cũng với 13 tập. Kênh Animax Asia đã phát sóng bộ anime này trên hệ thống của mình tại Đông Nam Á và Nam Á. Funimation Entertainment cũng đã đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của bộ anime để tiến hành phân phối tại thị trường Bắc Mỹ, Manga Entertainment thì đăng ký bản quyền để phát hành tại vương quốc Anh và Madman Entertainment tiến hành phân phối tại Úc và New Zealand. Bộ anime đầu có ba bài hát chủ đề, một mở đầu và hai kết thúc. do Asō Natsuko trình bày, đĩa đơn chứa bài hát này đã được phát hành vào ngày 27 tháng 1 năm 2010. Bài hát kết thúc đầu của là bài Baka・Go・Home (バカ・ゴー・ホーム) do milktub trình bày được dùng cho hầu hết các tập của bộ anime, đĩa đơn chứa bài hát này được phát hành vào ngày 10 tháng 2 năm 2010. Bài hát kết thúc thứ hai được dùng từ tập 7 đến tập 9 có tựa Hare Tokidoki Egao (晴れときどき笑顔) do Harada Hitomi, Mizuhashi Kaori, Katou Emiri và Isomura Tomomi trình bày, bài hát này đã được phát hành trong album chứa các bản nhạc dùng trong bộ anime vào ngày 24 tháng 3 năm 2010. Có hai album chứa các bài hát do các nhân vật trình bày đã được phát hành, một có tựa Character Song Mini Album phát hành vào ngày 24 tháng 2 năm 2010 và một có tựa Washi to Song to Engeki Tamashii phát hành vào ngày 06 tháng 3 năm 2010. Hai tập OVA có hai bài hát chủ đề, một mở đầu và một kết thúc. Bài hát mở đầu có là bài Renai Kōjō Committee (恋愛向上committee) do Asō Natsuko trình bày, bài hát kết thúc là bài Getsuyō wa Kirai (月曜はキライ) do milktub trình bày, hai đĩa đơn chứa hai bài hát này đã được phát hành vào ngày 09 tháng 3 năm 2011. Bộ anime thứ hai có hai bài hát chủ đề, một mở đầu và một kết thúc. do Larval Stage Plannning trình bày, đĩa đơn chứa bài hát đã phát hành vào ngày 27 tháng 7 năm 2011 với hai phiên bản giới hạn và bình thường, phiên bản giới hạn có đính kèm một đĩa chứa đoạn phim trình bày nhạc phẩm. Bài hát kết thúc có tên Eureka Baby (エウレカベイビー) do Asō Natsuko trình bày, đĩa đơn chứa bài hát đã phát hành vào ngày 20 tháng 7 năm 2011. Album chứa các bản nhạc dùng trong bộ anime đã phát hành vào ngày 10 tháng 10 năm 2011. Ngoài ra còn có 2 đĩa đơn và 2 album chứa các bài hát do các nhân vật trình cũng như một đĩa đơn chứa bài hát phụ của bộ anime cũng đã phát hành.
|
Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi
|
Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi (tiếng Nhật: バカとテストと召喚獣 Hepburn: Baka to Test to Shōkanjū) là loạt light novel được viết bởi Inoue Kenji và minh họa bởi Haga Yui. Light novel được phát hành thẳng thành các tập chứ không phát hành trên tạp chí, Enterbrain đã phát hành tập tập đầu tiên vào ngày 29 tháng 1 năm 2007 đến ngày 30 tháng 11 năm 2013 với nhãn Famitsu Bunko. Tại Việt Nam, Light novel được cấp phép bản quyền cho IPM dưới tựa đề chính thức "Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi".Loạt tiểu thuyết cũng được chuyển thể thành manga với ba loạt. Loạt thứ nhất có cùng tên với tiểu thuyết do Mattaku Mosuke minh họa và đăng trên tạp chí Shōnen Ace từ ngày 25 tháng 4 năm 2009. Loạt thứ hai có tựa Baka to Test to Shōkanjū ja cũng đăng trên tạp chí Shōnen Ace từ năm 2009. Loạt thứ ba có tựa Baka to Test to Shōkanjū Spinout! Sore ga Bokura no Nichijō do namo thực hiện và đăng trên tạp chí Famitsu Comic Clear. Silver Link cũng đã thực hiện chuyển thể anime của tiểu thuyết và phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 07 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 2010 với 13 tập.
|
Tam Quốc Diễn Nghĩa chính là một trong những bộ phim kinh điển nhất của điện ảnh trung quốc từ trước tới nay, nó chỉ được biết tới ít hơn duy nhất siêu phẩm Tây Du Ký phát hành hồi năm 1986, trong khi kinh phí dành cho Tam Quốc Diễn Nghĩa là rất lớn bởi chỉ tính riêng thời gian để quay phim cũng đã mất tới 4 năm cùng dàn diễn viên tham gia lên tới con số 1000, còn chưa kể tới hàng vạn diễn viên phụ thuộc lực lượng giải phóng quân trung quốc. Được chuyển thể từ bộ tiểu thuyết kinh điển cùng tên của nhà văn La Quán Trung, Tam Quốc Diễn Nghĩa sản xuất bởi đài truyền hình trung ương trung quốc, như một cách để mang tới những câu chuyện lịch sử tới khán giả trên khắp cả nước, sự thành công của phim còn giúp lịch sử trung quốc được hàng triệu khán giả trên khắp châu Á thuộc làu làu. Năm 1994, dù khi này trung quốc đang rất nổi tiếng với bộ Tây Du Ký nhưng mặt bằng chung là điện ảnh đại lục đang rất yếu, kém xa so với điện ảnh Hong Kong và Đài Loan, tuy nhiên Tam Quốc Diễn Nghĩa là lời khẳng định rằng chỉ cần làm hết sức mình thì cái gì cũng có thể tốt, phim ảnh cũng không phải là một ngoại lệ. Trong khi đó, lúc này điện ảnh trung quốc rất hạn chế về kỹ xảo nên tất cả những cảnh quay chiến trận trong phim đều là cảnh thực, kinh phí lớn đã giúp đạo diễn mang đến cho người xem những cảnh quay hoành tráng, chân thực mà ngay cả bây giờ cũng khó có phim nào làm được. Lấy bối cảnh lịch sử Trung Quốc thời Tam Quốc, nội dung của phim xoay quanh số phận của những nhân vật lịch sử nổi tiếng như Tào Tháo, Lưu Bị, Gia Cát Lượng cùng các trận đánh khốc liệt có quy mô lớn như Trận Xích Bích, Trận Hào Đình. Phim được xây dựng tuyệt đối trung thành với nguyên tác tiểu thuyết, coi triều Thục Hán là chính thống, Lưu Bị là vị hoàng đế chân chính, Tào Tháo và nhà Tào Ngụy là phản nghịch.
|
Tam quốc diễn nghĩa (phim truyền hình 1994)
|
Tam quốc diễn nghĩa (giản thể: 三国演义; bính âm: Sān Guó Yǎn Yì) là một bộ phim truyền hình của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc phát sóng lần đầu năm 1994. Đây là chuyển thể truyền hình từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn La Quán Trung, tác phẩm kinh điển được coi là một trong Tứ đại danh tác của Trung Quốc. Lấy bối cảnh lịch sử Trung Quốc thời Tam Quốc, 84 tập phim Tam quốc diễn nghĩa đã mô tả lại số phận của những nhân vật lịch sử nổi tiếng như Tào Tháo, Lưu Bị, Gia Cát Lượng cùng các trận đánh khốc liệt có quy mô lớn như Trận Xích Bích, Trận Hào Đình. Phim được đông đảo khán giả yêu thích và đã giành Giải Kim Ưng cho phim truyền hình Trung Quốc hay nhất năm 1995. Ở thời điểm năm 1994, đây là bộ phim truyền hình có kinh phí đầu tư lớn nhất Trung Quốc với dàn diễn viên lên tới 1000 người chưa kể hàng vạn diễn viên phụ thuộc lực lượng Giải phóng quân Trung Quốc. Tất cả những cảnh quay chiến trận đều là cảnh thực (do khi đó chưa có kỹ xảo vi tính).
|
Chính sách môi trường là các ý định và phương hướng chung của tổ chức liên quan đến kết quả họat động môi trường do lãnh đạo cao nhất chính thức tuyên bố. Chính sách môi trường tạo ra khuôn khổ cho hành động và việc thiếp lập các mục tiêu và chỉ tiêu môi trường.Chính sách môi trường phải :- Phù hợp với bản chất, quy mô và tác động môi trường của các hoạt động, sản phẩm và dịch vụ của tổ chức.- Có cam kết cải tiến liên tục và ngăn ngừa ô nhiễm.- Cam kết tuân thủ các quy định và luật môi trường và các yêu cầu khác mà tổ chức tán thành .- Đưa ra khuôn khổ để thiết lập và xem xét các mục tiêu và chỉ tiêu môi trường.- Được lập thành văn bản, thực hiện- Duy trì phổ biến cho toàn bộ công nhân viên hoặc những người nhân danh tổ chức- Sẵn có cho cộng đồng.Ba yếu tố chính của cam kết :- Phòng ngừa ô nhiễm- Cải tiến liên tục- Phù hợp với pháp luậtCam kết :Sự thành công của EMS phụ thuộc vào sự cam kết của tất cả các cấp và các phòng ban chức năng, đặc biệt là sự cam kết của lãnh đạo cấp cao. Hướng chuyển đổi hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 sang ISO 9001:2015.
|
Chính sách môi trường
|
Chính sách môi trường là cam kết của một tổ chức hoặc chính phủ đối với luật pháp, quy định và các cơ chế chính sách khác liên quan đến các vấn đề môi trường. Những vấn đề này thường bao gồm ô nhiễm không khí và nước, quản lý chất thải, quản lý hệ sinh thái, duy trì đa dạng sinh học, quản lý tài nguyên thiên nhiên, động vật hoang dã và các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Ví dụ, liên quan đến chính sách môi trường, việc thực hiện chính sách định hướng năng lượng sinh thái ở cấp độ toàn cầu để giải quyết các vấn đề về sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu có thể được giải quyết. Các chính sách liên quan đến năng lượng hoặc quy định các chất độc hại bao gồm thuốc trừ sâu và nhiều loại chất thải công nghiệp là một phần trong chủ đề của chính sách môi trường. Chính sách này có thể được thực hiện một cách có chủ đích để tác động đến các hoạt động của con người và do đó ngăn ngừa các tác động không mong muốn đến môi trường lý sinh và tài nguyên thiên nhiên, cũng như để đảm bảo rằng những thay đổi trong môi trường không gây ra những ảnh hưởng không thể chấp nhận được đối với con người.
|
Trong kinh doanh, việc lựa chọn được đối tác phù hợp nhằm xây dựng mối quan hệ hợp tác tốt đẹp và lâu bền là điều mà doanh nghiệp nào cũng muốn hướng tới. Vậy đối tác trong kinh doanh là gì? Giữa đối tác và khách hàng được phân biệt thế nào?. Đối tác là mối quan hệ làm việc giữa 2 cá nhân, tổ chức trở lên, cùng xây dựng, tham gia, chia sẻ một loại hoạt động để hướng tới mục đích chung. Đối tác trong kinh doanh là một thực thể thương mại (cá nhân hoặc tổ chức) đặt mối quan hệ liên minh với doanh nghiệp nhằm vào một mục đích nhất định trong kinh doanh. Mối quan hệ này thường được ràng buộc bởi hợp đồng với các điều khoản trách nhiệm, quyền lợi rõ ràng của các bên tham gia. Hiểu về đối tác trong kinh doanh giúp bạn có được định hướng và những tiêu chí đặt ra nhằm lựa chọn mối quan hệ hợp tác phù hợp, đóng góp cho sự phát triển của doanh nghiệp. Đối tác chiến lược trong kinh doanh là mối liên kết giữa hai doanh nghiệp, thường được giao kết bởi các hợp đồng kinh doanh có pháp lý rõ ràng, cùng thực hiện hướng tới mục tiêu kinh doanh chung. Khi hai doanh nghiệp là đối tác chiến lược của nhau, họ sẽ cùng nhau phát triển một lĩnh vực nào đó. Ví dụ như mối quan hệ giữa các doanh nghiệp thương mại, họ sẽ cùng quảng cáo, tiếp thị để cùng tạo nên một thương hiệu sản phẩm. Mối quan hệ giữa một công ty sản xuất, chuyên cung cấp kỹ thuật, sản xuất hợp tác với một doanh nghiệp quy mô nhỏ để tạo ra một sản phẩm chuyên ngành mới. Đối tác tiềm năng là các đối tác phù hợp với mục đích hợp tác của doanh nghiệp, hiện tại chưa hợp tác nhưng trong tương lai nếu cơ hội hợp tác đến thì sẽ tạo nên nhiều lợi thế cho cả hai bên. Trong một số trường hợp, sự hợp tác không chỉ đơn thuần là trong kinh doanh mà còn bao gồm nhiều khía cạnh. Như sự hợp tác, quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia, việc hợp tác được phân định từ thấp đến cao bao gồm:. Đây là sự hợp tác liên quan đến chính trị, an ninh của một quốc gia. Trong kinh doanh, thương mại và sản xuất, khách hàng là cá nhân hay tổ chức nhận hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm hoặc một ý tưởng có được từ người bán, nhà cung cấp hoặc nhà phân phối thông qua giao dịch tài chính, trao đổi bằng tiền hoặc một số tài sản có giá trị thanh khoản khác. Có thể thấy, Khách hàng là người trả tiền cho dịch vụ hoặc sản phẩm. Đối tác sẽ không trả tiền cho sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp, mà đối tác là mối quan hệ chia sẻ, cùng đạt được mục đích và thành công của 2 bên. Các đối tác trong quan hệ hợp tác làm việc cùng nhau để giúp nhau đạt được mục tiêu chung, như cùng có lợi từ tài chính, thương hiệu hoặc thậm chí nâng cao các đề xuất kinh doanh tổng thể. Một đối tác trở thành khách hàng ngay khi đối tác đó phải trả tiền khi tham gia vào quan hệ đối tác nhằm đạt được mục đích thỏa mãn nhu cầu. Vì vậy, nếu một đối tác quyết định tính phí đối tác kia khi đang hợp tác, thì mối quan hệ đó sẽ trở thành khách hàng - nhà cung cấp và không còn là quan hệ hợp tác hướng tới mục đích chung nữa. Để tìm và lựa chọn được đối tác phù hợp trong kinh doanh, CRIF D&B Việt Nam giúp bạn có cái nhìn đánh giá tổng quan nhanh nhất về một doanh nghiệp cùng các thông số về sức mạnh tài chính, giúp bạn nhanh chóng có được các đối tác tiềm năng để cùng phát triển vì lợi ích chung. Sáng 13/9: Gần 374.600 bệnh nhân COVID-19 đã khỏi; ca nghi mắc tại "tỉnh xanh" Cao Bằng âm tính với SARS-CoV-2 - (13/09/2021)
|
Đối tác kinh doanh
|
Đối tác kinh doanh (Business partner) hay đối tác làm ăn hay thường gọi gọn là đối tác là một thực thể thương mại (cá nhân hoặc tổ chức) đặt mối quan hệ liên minh, liên doanh, hợp tác với doanh nghiệp nhằm vào một mục đích nhất định trong kinh doanh. Mối quan hệ này thường được ràng buộc bởi hợp đồng với các điều khoản trách nhiệm, quyền lợi rõ ràng của các bên tham gia. Đối tác trong kinh doanh của một doanh nghiệp có thể là một hoặc nhiều đối tượng như khách hàng, nhà cung cấp chính, kênh trung gian (như đại lý hay cửa hàng nhượng quyền), nhà cung cấp các dịch vụ bổ sung. Hợp tác kinh doanh với một đối tác nào đó là một trong những cách thức hiệu quả và rất phổ biến để phát triển hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
|
Khoa học, văn hóa, giáo dục, tâm lý, thể thao và một lối sống lành mạnh. các Nghệ thuật gothic Đó là một phong cách nghệ thuật thời trung cổ phát triển ở phía bắc nước Pháp vào thế kỷ thứ 12, dẫn đầu bởi sự phát triển của kiến trúc Gothic. Ngoài ra, nó được đặc trưng như một nghệ thuật phát triển từ Romanesque và tồn tại đến cuối thế kỷ XVI ở một số khu vực của châu Âu. Kiến trúc và nghệ thuật nhỏ như hội họa và điêu khắc gothic đã tìm cách lan rộng và phát triển ở Tây và Trung Âu trong thời trung cổ. Thuật ngữ "Gothic" được đặt ra bởi các nhà văn cổ điển người Ý thời Phục hưng, người đã gán phát minh này cho các bộ lạc gothic man rợ đã phá hủy Đế chế La Mã và văn hóa cổ điển của nó. Trên thực tế, Gothic đối với họ đồng nghĩa với "sự xấu xí phi cổ điển". Giống như nghệ thuật La Mã, nghệ thuật Gô-tích được đặc trưng như một nghệ thuật tôn giáo Kitô giáo và Thánh Mẫu tuyệt vời; có thể được quan sát trong các tác phẩm điêu khắc, tranh vẽ và thậm chí trong bản chất biểu tượng của kính màu gothic của thánh đường. 1 Nguồn gốc và lịch sử1.1 Khủng hoảng thời trung cổ1.2 Những phát triển đầu tiên của nghệ thuật Gothic. 2 Đặc điểm2.1 Chủ đề Kitô giáo2.2 Điểm tương đồng và khác biệt của nghệ thuật Romanesque2.3 Tầm quan trọng của ánh sáng đối với nghệ thuật Gothic. 3 Kiến trúc 3.1 Kiến trúc gothic sớm 3.2 Kiến trúc của Alto Gótico3,33.4 Tu viện Hoàng gia Saint Denis. Khi đế chế La Mã sụp đổ vào năm 475 sau Công nguyên C, các bộ lạc người Đức, hoặc người Goth, đã hấp thụ những gì còn lại của đế chế cũ. Tuy nhiên, những bộ lạc này không được đặc trưng bởi sự thống nhất của họ; mặt khác, họ đã chiến đấu với nhau. Nỗi sợ hãi khiến thương mại dừng lại, sự khuếch tán của văn hóa và làm giảm tiến trình văn hóa, bắt đầu từ thời kỳ tăm tối. Nỗi sợ hãi ngày càng tăng khiến xã hội trì trệ và ngừng đi lại, dẫn đến hậu quả là sự xuất hiện của xã hội thời trung cổ và phong kiến. Trong giai đoạn này của thời Trung cổ, các công nhân chịu trách nhiệm canh tác đất đai, trong khi các lãnh chúa cung cấp cho họ sự bảo vệ để đáp lại, vì các khu vực của công nhân thường không an toàn. Chủ nghĩa tối nghĩa thời trung cổ được đặc trưng là thời kỳ lạc hậu, với sự trì trệ trí tuệ dữ dội. Vì lý do này, việc xây dựng các lâu đài lớn bắt đầu, cuối cùng đã tạo ra kiến trúc Gothic, được gọi là bởi các bộ lạc man rợ. Nghệ thuật gothic xuất hiện ở Pháp, vào đầu thế kỷ thứ 12, với Nhà thờ Tu viện Saint Denis được xây dựng bởi Giáo hội Giáo hội Pháp. Phong cách lan rộng khắp châu Âu từ kiến trúc, điêu khắc hoành tráng và cá nhân, đến nghệ thuật dệt, hội họa, kính màu và các bản thảo được chiếu sáng. Người ta cho rằng các đơn đặt hàng của tu viện (đặc biệt là người Xitô và người nhiệt tình) là những người xây dựng quan trọng đã truyền bá phong cách và phát triển các biến thể trên khắp châu Âu. Một phần lớn của nghệ thuật Gothic trong thời kỳ này thuộc loại tôn giáo, theo thứ tự của nhà thờ hoặc theo giáo dân. Loại hình nghệ thuật này được đặc trưng bằng cách phản ánh niềm tin về các sự kiện của Cựu Ước và Tân Ước. Vì lý do đó, người ta nói rằng Gothic là sự phát triển của nghệ thuật La Mã ở châu Âu. Nhiều nghệ sĩ và kiến trúc sư thời đó phàn nàn về các phong cách man rợ mới đang nổi lên. Bởi vì điều này, từ "gothic" được gán là từ đồng nghĩa của những gì được coi là lộn xộn, quái dị và man rợ. Nghệ thuật gothic là một phong cách tôn giáo độc quyền. Giáo hội La Mã có một sức nặng lớn trong sự phát triển của phong cách nghệ thuật này. Nó không chỉ truyền cảm hứng cho công chúng và các nhà lãnh đạo thế tục của nó, mà còn thiết lập mối liên hệ giữa tôn giáo và nghệ thuật. Thời kỳ gothic trùng hợp với sự xuất hiện lớn của lòng sùng kính đối với Đức Trinh Nữ Maria, nơi nghệ thuật thị giác đóng vai trò cơ bản. Những hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria được phát triển từ nghệ thuật Byzantine, thông qua Lễ đăng quang của Trinh nữ, nhưng với nhiều đặc điểm của con người và thực tế hơn nhiều. Các chủ đề như chu kỳ của cuộc đời trinh nữ rất phổ biến trong nghệ thuật Gothic. Triển lãm về những cảnh Chúa Kitô và những đau khổ của ông rất phổ biến; triển lãm tranh và điêu khắc của Chúa Giêsu Kitô đã được thực hiện, nói chung là thể hiện vết thương của niềm đam mê của ông như một từ đồng nghĩa với sự cứu chuộc của con người, bên cạnh các vị thánh và thiên thần xuất hiện trong nghệ thuật gothic của các nhà thờ. Nghệ thuật La Mã là phong cách nghệ thuật tiền thân của nghệ thuật Gothic, cũng được đặc trưng bởi tính tôn giáo sâu sắc, được đại diện bởi các thánh đường nằm trong suốt chiều dài và chiều rộng của lục địa châu Âu. Mặt khác, kiến trúc Gô-loa đã tái tạo những thánh đường biểu tượng đầy ánh sáng với chiều cao tuyệt vời như những đặc điểm chính và khác biệt của nghệ thuật La Mã. Mặt khác, trong các nghệ thuật nhỏ, như hội họa và điêu khắc, chúng gần như tách biệt hoàn toàn với kiến trúc La Mã; không chỉ vì sự khác biệt trong phong cách, mà còn vì sự tiến hóa đặc biệt của nó. Nó cũng đáp ứng tính liên tục của các yếu tố nhất định: tu viện vẫn là tổ chức hàng đầu chỉ khác nhau về các chi tiết nhất định và thích nghi với các ý tưởng mới về nghệ thuật. Nhà máy của các nhà thờ theo kiến trúc Gô-tích tiếp tục là cây thập tự Latinh như những cây La Mã với một lối đi hướng về phía đông. Sự khác biệt nằm ở sự kết hợp của transept; một gian giữa trung tâm ngắn bổ sung trong một kế hoạch chéo Latin, cũng như hải quân, nhà nguyện và xe cứu thương. Nghệ thuật gothic nhấn mạnh mục tiêu giải phóng con người khỏi bóng tối và tội lỗi để đưa anh ta đến gần hơn với ánh sáng. Các tòa nhà Kitô giáo mới muốn mời gọi con người thực hiện các giá trị tôn giáo của thời đại. Vì lý do đó, các kỹ thuật xây dựng theo kiến trúc Gô-tích được đặc trưng bởi sự kết hợp ánh sáng bên trong các nhà thờ. Đối với xã hội thời đó, Thiên Chúa đồng nghĩa với sự giác ngộ ánh sáng và nghệ thuật. Theo nghĩa này, ánh sáng là vật lý và không được định hình quá nhiều bởi các bức tranh; đó là sự mô phỏng ánh sáng thần thánh đến từ thiên đàng để chiếu sáng khuôn mặt của các tín hữu. Thông qua việc tạo ra các cửa sổ kính màu, hoa hồng và trò chơi màu sắc nổi bật, nó đã được biến thành một không gian phi thực tế và mang tính biểu tượng. Tu viện Hoàng gia Saint Denis, nằm ở Pháp, được chào đón với kiến trúc Gothic đặc trưng bởi vương miện của nhà nguyện và cửa sổ kính màu mà các nhà xây dựng muốn bắt chước trong suốt thế kỷ. Trong giai đoạn này, chúng tôi muốn tiếp tục với mô hình của các nhà thờ La Mã cũ, nhưng với một số thay đổi nhất định như phần mở rộng trang nhã, chuỗi nhà nguyện và cửa sổ phát sáng phổ biến của kiến trúc Gothic. Một tính năng quan trọng khác là cái gọi là "hầm xương"; phù hợp bởi sự vượt qua của hai hầm thùng nhọn. Tất cả các vòm đều có vương miện của họ ở cùng một mức độ, một kỳ công mà các kiến trúc sư La Mã không thể đạt được. Nửa thế kỷ sau khi hình thành kiến trúc Gothic, năm 1194, một trận hỏa hoạn lớn đã phá hủy cả thành phố Chartres ở Pháp và nhà thờ chính tòa của nó. Phần duy nhất của nhà thờ có thể tự cứu mình là hầm mộ, tháp phía tây và Cổng thông tin Hoàng gia. Từ đó, họ nghĩ về sự tái cấu trúc của nó khi quan sát rằng quần áo của trinh nữ trong hầm mộ vẫn còn nguyên vẹn. Nhà thờ mới của Chartres được coi là công trình đầu tiên mang phong cách kiến trúc Gô tích cao. Dấu ấn của phong cách kiến trúc gothic cao là việc sử dụng các trụ cao và loại bỏ các bức tường La Mã. Mặt khác, độ cao mới của gian giữa ba bên theo phong cách kiến trúc Gothic có một phòng giải trí, một triforium và các cửa sổ lớn. Với kết quả này, anh ta đã xoay sở để đi vào ánh sáng nhiều hơn so với các công trình kiến trúc Gothic ban đầu. Suger là một vị trụ trì, chính khách và nhà sử học người Pháp sinh năm 1081, được biết đến là người bảo trợ đầu tiên của kiến trúc Gothic và là người có công trong việc phổ biến phong cách. Theo một số tài liệu tham khảo, Suger là người thân tín của các vị vua Pháp Luis VI và Luis VII, lý do tại sao họ quyết định giao phó cho anh ta, vào khoảng năm 1137, việc tái thiết Nhà thờ lớn Saint Denis; một nhà thờ tang lễ cho các quốc vương Pháp. Suger bắt đầu với việc tái thiết mặt tiền Carolingian và thiết kế một cái khác thành tiếng vang của Arch of Constantine La Mã với sự phân chia thành ba phần, ngoài các cổng lớn để giảm bớt tắc nghẽn. Mặt khác, anh ấy đã thiết kế một dàn hợp xướng, trong đó anh ấy đặt các cửa sổ kính màu với mục đích mang ánh sáng vào bên trong. Ngoài ra, ông còn thiết kế vòm nhọn và vòm vòm. Tu viện Hoàng gia Saint Denis là một nhà thờ thời trung cổ nằm ở ngoại ô phía bắc Paris. Nhà thờ có một tầm quan trọng lịch sử và kiến trúc; dàn hợp xướng của nó, được hoàn thành vào năm 1144, cho thấy việc sử dụng đầu tiên các yếu tố của kiến trúc Gothic. Nó được biết đến là ngôi đền đầu tiên được xây dựng theo phong cách kiến trúc Gô-tích do bàn tay của Suger nổi tiếng, cũng như là nơi chôn cất của chế độ quân chủ Pháp. Nhờ ngôi đền này, các cửa sổ kính màu đã được giới thiệu về nghệ thuật Gothic, cho phép tiếp cận với ánh sáng tự nhiên, gây hiệu ứng hình ảnh khi đi qua các màu sắc nổi bật của kính. Hội họa gothic được đặc trưng bởi sự cứng nhắc, đơn giản và trong một số trường hợp là các hình thức tự nhiên. Nó bắt đầu được sử dụng để trang trí bàn thờ (bảng trang trí phía sau bàn thờ), hầu hết với các cảnh và hình vẽ từ Tân Ước, niềm đam mê của Chúa Kitô và Đức Trinh Nữ Maria. Màu vàng được sử dụng làm nền của các bức tranh với trang trí tinh tế với các chi tiết tỉ mỉ. Sau đó, các bức tranh đã thay đổi chủ đề của họ thành ít tôn giáo hơn và hào hiệp hơn với các sự kiện lịch sử. Ngoài ra, các chủ đề tôn giáo và thế tục được thể hiện trong các bản thảo được chiếu sáng với các phong cách đặc trưng của Gothic. Việc sử dụng kính diễn ra ở châu Âu do các tác phẩm nghệ thuật được làm bằng vật liệu này, ngoài ra chúng còn được sử dụng trong các phần mở rộng lớn, như cửa sổ hoa hồng và cửa sổ. Để sơn kính sử dụng sơn đen, màu sáng và sau đó, việc sử dụng màu vàng tăng lên. Duccio Buônunsegna là một trong những họa sĩ người Ý vĩ đại nhất thời Trung cổ và là người sáng lập trường Siena. Nghệ thuật của Duccio dựa trên truyền thống Italo-Byzantine, được cải cách bởi một sự tiến hóa cổ điển, với một linh đạo mới mang phong cách kiến trúc Gothic. Công trình lớn nhất trong tất cả các tác phẩm của ông là bàn thờ của nhà thờ Siena, được gọi là "Maestà". Phong cách của Duccio tương tự như nghệ thuật Byzantine, với nền vàng và cảnh tôn giáo quen thuộc. Họa sĩ gothic người Ý đã chinh phục được phương tiện này nhờ vào sự chính xác và tinh tế của nó. Maestà là một bàn thờ bao gồm một loạt các bức tranh cá nhân do thành phố Siena ủy thác cho nghệ sĩ người Ý Duccio, giữa năm 1308 và 1311 nằm trong Nhà thờ Siena, Ý. Các tấm mặt trước tạo nên một Trinh nữ vĩ đại với một đứa trẻ được bao quanh bởi các vị thánh và thiên thần, cũng như một cảnh trong thời thơ ấu của Chúa Kitô với các tiên tri. Tác phẩm điêu khắc gothic được liên kết chặt chẽ với kiến trúc để sử dụng để trang trí bên ngoài của các thánh đường. Các tác phẩm điêu khắc gothic đầu tiên là những bức tượng bằng đá của các vị thánh, của Sagrada Familia và được sử dụng để trang trí các cửa của nhà thờ lớn. Trong thế kỷ 12 và đầu thế kỷ 13, các tác phẩm điêu khắc trở nên thoải mái và tự nhiên hơn trong cách đối xử của họ, so với điêu khắc La Mã. Mặc dù tác phẩm điêu khắc vẫn giữ được sự hoành tráng của Romanesque, họ có khuôn mặt và hình dáng cá nhân, cũng như cử chỉ tự nhiên cho thấy sự cân bằng cổ điển cho thấy nhận thức về các mô hình La Mã cổ đại. Vào thế kỷ thứ mười bốn, điêu khắc gothic trở nên tinh tế, thanh lịch và tinh tế hơn. Nó lan rộng khắp châu Âu và được gọi là "phong cách gothic quốc tế". Veit Stoss là một trong những nhà điêu khắc và chạm khắc lớn nhất và nổi tiếng nhất của Đức thế kỷ XVI và đặc trưng của kiến trúc Gô-tích muộn. Phong cách của ông nhấn mạnh các mầm bệnh và cảm xúc, được hỗ trợ bởi một tác phẩm điêu luyện của màn cửa sóng. Stoss được biết đến vì đã làm bàn thờ trong Vương cung thánh đường St. Mary ở Krakow, Ba Lan; một bàn thờ uy nghi được chạm khắc trên gỗ và sơn giữa những năm 1477 và 1489. Tác phẩm điêu khắc của kiến trúc Gô-tích muộn, hay Quốc tế Gô-tích, cho thấy một sự điều tiết lớn hơn. Sự rõ ràng về thành phần của nó vượt xa sự hoành tráng, mặc dù Stoss đã tạo ra những tác phẩm điêu khắc lớn bằng gỗ sơn. Mary ở Krakow, Ba Lan, theo phong cách kiến trúc Gothic chủ yếu được biết đến với bàn thờ bằng gỗ được vẽ bởi Veit Stoss của Đức vào cuối thế kỷ 15. Tác phẩm điêu khắc bao gồm một bộ ba được chạm khắc trên gỗ và được biết đến là một trong những đồ thờ lớn nhất trên thế giới. Nó cao khoảng 13 mét và rộng 11 mét khi các tấm của bộ ba hoàn toàn mở. Các nhân vật thực tế được điêu khắc cao khoảng 2,7 mét và mỗi bức được chạm khắc từ một thân cây chanh. Khi các tấm được đóng lại, mười hai cảnh cuộc đời của Chúa Giêsu và Mary được hiển thị.
|
Nghệ thuật Gothic
|
Nghệ thuật Gothic (Gô-tích; tiếng Anh:Gothic art) là một phong trào nghệ thuật phát triển theo nghệ thuật Rôman ở Pháp vào thế kỷ 12, phát triển cùng lúc với kiến trúc Gothic. Nghệ thuật Gothic đã nhanh chóng lan rộng ra khắp Tây Âu, gần như toàn bộ phía bắc dãy núi Anpơ, nhưng lại không gây ảnh hưởng nhiều đến các phong cách cổ điển của Ý. Ở nhiều nơi, đặc biệt là Đức, nghệ thuật Gothic vẫn tiếp tục được sử dụng tại thế kỷ 16, trước khi sáp nhập vào nghệ thuật Phục Hưng. Các thành phần chính trong nghệ thuật Gothic bao gồm điêu khắc, hội họa, thủy tinh vẽ, bích họa và trang trí bản thảo. Việc dễ dàng nhận ra sự thay đổi từ nghệ thuật Gothic đến nghệ thuật Phục Hưng hay ngược lại là đặc trưng được sử dụng để xác định rõ thời đại nghệ thuật này. Những tác phẩm Gothic đầu tiên là những bức tượng điêu khắc, trên tường tại các tu viện hay các thánh đường. Các bức tượng của người đạo Cơ-đốc thường phản ánh các câu chuyện trong kinh thánh. Bức tượng đức mẹ Mary là một ví dụ điển hình, từ một bức tượng mang tính hình tượng đã chuyển sang một bức tượng mang rõ hình hài của một người mẹ nhân hậu, tay bồng đứa con và thể hiện sự trong sáng, tinh tế của người phụ nữ quý phái.
|
Để hiểu rõ hơn về lợi nhuận biên là gì và cách tính lợi nhuận biên, bạn có thể tham khảo bài viết dưới đây. Lợi nhuận biên là một trong những tỷ suất sinh lời thường được sử dụng để đánh giá mức độ lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh dưới dạng phần trăm. Nói một cách đơn giản, đó là con số phần trăm cho biết doanh nghiệp đã tạo ra bao nhiêu lợi nhuận cho mỗi đơn vị doanh thu. Ví dụ: nếu một công ty cho rằng họ đã đạt được lợi nhuận biên 35% trong quý trước, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đó có thu nhập ròng là 350 đồng cho mỗi 1000 đồng doanh thu được tạo ra. Có một số loại tỷ suất lợi nhuận. Tuy nhiên, trong sử dụng hàng ngày, các loại văn bản, giấy tờ hay báo cáo thường nhắc đến lợi nhuận ròng. Đây là lợi nhuận cuối cùng của doanh nghiệp sau khi trừ đi tất cả các loại chi phí từ nhân công, giá vốn hàng hóa, chi phí cố định, một lần và các loại thuế. - Lợi nhuận biên đo lường mức độ mà một công ty hoặc một hoạt động kinh doanh kiếm tiền, về cơ bản bằng cách chia thu nhập cho doanh thu. - Được biểu thị dưới dạng phần trăm, tỷ suất lợi nhuận cho biết có bao nhiêu lợi nhuận đã được tạo ra cho mỗi doanh thu bán hàng. - Mặc dù có một số loại tỷ suất lợi nhuận, nhưng tỷ suất lợi nhuận quan trọng và thường được sử dụng nhất là tỷ suất lợi nhuận ròng, lợi nhuận cuối cùng của một công ty sau khi tất cả các khoản chi phí khác, bao gồm thuế và các khoản lẻ, đã được loại bỏ khỏi doanh thu. - Lợi nhuận biên được các nhà đầu tư và doanh nghiệp sử dụng làm chỉ số về sức khỏe tài chính, kỹ năng quản lý và tiềm năng tăng trưởng của công ty. - Vì tỷ suất lợi nhuận điển hình thay đổi theo lĩnh vực ngành, nên cần thận trọng khi so sánh các số liệu của các doanh nghiệp khác nhau. Bạn đã hiểu lợi nhuận biên là gì nhưng làm cách nào để tính? Có hai loại biên lợi nhuận được các doanh nghiệp áp dụng, đó là biên lợi nhuận gộp và biên lợi nhuận ròng. Lợi nhuận biên gộp cho thấy tỷ suất lợi nhuận thu về của một doanh nghiệp từ chi phí kinh doanh hoặc giá vốn hàng hóa. Con số này thể hiện khả năng của doanh nghiệp trong việc sử dụng lao động hoặc vật tư hàng hóa. Điều này có nghĩa là với mỗi ngàn đồng mà công ty X tạo ra trong doanh thu, công ty đã tạo ra 38 đồng lợi nhuận gộp trước khi các chi phí kinh doanh khác được thanh toán. Biên lợi nhuận ròng là tỷ lệ phần trăm doanh thu của một doanh nghiệp còn lại sau khi trừ đi tất cả các chi phí trên tổng doanh thu, chia cho doanh thu thuần. Lợi nhuận biên ròng 21% chỉ ra rằng cứ mỗi ngàn đồng công ty X tạo ra trong doanh thu, công ty giữ lại 0,21 đồng lợi nhuận. Lợi nhuận biên cao hơn luôn là mong muốn vì nó có nghĩa là công ty tạo ra nhiều lợi nhuận hơn từ việc bán hàng của mình. Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận có thể thay đổi theo ngành. Các công ty tăng trưởng có thể có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với các công ty bán lẻ, nhưng các nhà bán lẻ lại tạo ra lợi nhuận biên thấp hơn với khối lượng bán hàng cao hơn. Một công ty có thể có lợi nhuận biên ròng âm. Tỷ suất lợi nhuận ròng âm xảy ra khi một công ty bị lỗ trong quý hoặc năm. Tuy nhiên, khoản lỗ đó có thể chỉ là một vấn đề tạm thời đối với công ty. Nguyên nhân dẫn đến thua lỗ có thể là do chi phí lao động và nguyên vật liệu tăng, thời kỳ suy thoái kinh tế và sự ra đời của các công cụ công nghệ đột phá có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty. “Lợi nhuận biên đánh giá mức độ sinh lợi của một công ty, được tính bằng cách lấy tổng thu nhập chia cho doanh thu.”. Biên lợi nhuận có thể hỗ trợ các công ty trong việc tạo ra các chiến lược định giá cho sản phẩm hoặc dịch vụ. Các công ty định giá dựa trên chi phí để sản xuất sản phẩm của họ và số lợi nhuận mà họ đang cố gắng tạo ra. Ví dụ, các cửa hàng bán lẻ muốn có lợi nhuận biên gộp 50% để trang trải chi phí phân phối cộng với lợi tức đầu tư. Biên độ đó được gọi là giá cơ bản. Mỗi đơn vị tham gia vào quá trình đưa một sản phẩm lên kệ sẽ tăng gấp đôi giá, dẫn đến các nhà bán lẻ đạt tỷ suất lợi nhuận gộp 50% để trang trải chi phí. Hi vọng các thông tin về lợi nhuận biên là gì và công thức tính lợi nhuận biên trên đây sẽ giúp bạn có thêm nhiều kiến thức hữu ích.
|
Biên lợi nhuận gộp
|
Biên lợi nhuận gộp hay Tỷ suất lợi nhuận gộp là chênh lệch giữa doanh thu và giá vốn hàng bán (COGS) chia cho doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận gộp được biểu thị dưới dạng phần trăm. Nói chung, nó được tính bằng giá bán của một mặt hàng, trừ chi phí bán hàng (ví dụ: chi phí sản xuất hoặc mua lại, không bao gồm chi phí cố định gián tiếp như chi phí văn phòng, tiền thuê nhà hoặc chi phí hành chính). Tỷ suất lợi nhuận gộp thường được sử dụng thay thế cho Lợi nhuận gộp, nhưng các điều khoản khác nhau. Khi nói về một số tiền, về mặt kỹ thuật là chính xác khi sử dụng thuật ngữ Lợi nhuận gộp; khi đề cập đến tỷ lệ phần trăm hoặc tỷ lệ, việc sử dụng Biên lợi nhuận gộp là chính xác. Nói cách khác, Biên lợi nhuận gộp là một giá trị phần trăm, trong khi Lợi nhuận gộp là một giá trị tiền tệ. Biên lợi nhuận gộp là một loại biên lợi nhuận, cụ thể là một dạng lợi nhuận chia cho doanh thu thuần: ví dụ: tỷ suất lợi nhuận gộp (lợi nhuận); biên lợi nhuận (lợi nhuận) hoạt động; tỷ suất lợi nhuận ròng (lợi nhuận); v.v.
|
Nhã Phương hiện đang là một trong những diễn viên nữ được khán giả trẻ yêu mến và được đạo diễn gửi gắm nhiều vai nặng ký. Sau khi phủ sóng thời gian khá dài trên sóng truyền hình quốc gia với vai Linh trong bộ phim hợp tác với Hàn Quốc Tuổi Thanh Xuân, Nhã Phương tiếp tục tham gia một dự án khác mang tên Khúc Hát Mặt Trời - bộ phim hợp tác với Nhật Bản. Để đạt được thành công như này hôm nay, nữ diễn viên trẻ - bắt đầu bằng cái danh hot girl - đã trải qua một quá trình phấn đấu dài. Sinh ngày 10/6/1990, Cô đến từ Đắk Lắk. Nhã Phương xuất thân là một sinh viên trường ĐH Sân khấu Điện ảnh và từng tham gia rất nhiều những bộ phim lớn nhỏ khác nhau. Tuy nhiên, sau phim ngắn “Xin lỗi anh chỉ là thằng bán bánh giò” thì Nhã Phương mới được đông đảo giới trẻ và khán giả biết đến. Thừa thắng xông lên, Nhã Phương tiếp tục gây sốt với các tác phẩm như “Tuổi thanh xuân”, “Quả tim máu”… đặc biệt là vai diễn cô chị Thêu trong “Vừa đi vừa khóc” đã đưa tên tuổi Nhã Phương trở thành một trong những diễn viên trẻ tài năng của điện ảnh Việt. Không nổi tiếng bằng nghề bán bánh tráng thực ngoài đời như cô gái xứ Đà Lạt, Nabi Nhã Phương “bỗng dưng nổi” với vai diễn bán bánh tráng trong phim ngắn tốt nghiệp của cậu bạn sinh viên với tựa đề “Xin lỗi, anh chỉ là thằng bán bánh giò!”. Đây là đỉnh điểm đẩy Nhã Phương trở nên nổi tiếng hơn bao giờ hết. Với vai người yêu của cậu bạn bán bánh giò, cốt truyện đơn giản, bằng chất diễn thật cảm xúc và tạo hình ngây thơ, giản dị, Nhã Phương đã tạo được sự yêu mến của cộng đồng mạng. Từ đây, mở ra nhiều cơ hội trong lĩnh vực điện ảnh của cô nàng. Trước khi trở nên nổi tiếng như ngày hôm nay, ít ai biết Nhã Phương đã sở hữu gia tài đóng phim không hề nhỏ từ phim điện ảnh đến phim truyền hình. Các phim Nhã Phương tham gia có thể kể đến Những Thiên Thần Áo Trắng, Hoàng Tử Xấu Trai, Hoa Nắng, Trường Nội Trú…. Góp mặt trong những bộ phim truyền hình này, Nhã Phương đóng vai đúng với lứa tuổi cô lúc bấy giờ - một học sinh. Tuy chỉ là những vai nhỏ, nhưng Nhã Phương cũng đã thể hiện được tiềm năng diễn xuất của mình. Thời điểm đó, Nhã Phương diễn cảnh khóc đã rất có hồn. Sau đó, cô tham gia hai bộ phim với tuýp nhân vật khác hẳn với những vai trước đó. Một là quận chúa trong Anh Chàng Vượt Thời Gian và một là cô gái miền biển ngây thơ, trong sáng trong Cát Nóng. Hai phim này đều xếp vào hàng “thảm họa” nhưng diễn xuất của Nhã Phương vẫn được công nhận. Dù tham gia nhiều phim như vậy nhưng phải mãi đến khi tham gia phim ngắn Xin Lỗi, Anh Chỉ Là Thằng Bán Bánh Giò, Nhã Phương mới thực sự trở nên nổi tiếng. Cô vào vai cô gái bán bánh tráng, có một tình yêu đẹp và buồn với chàng trai bán bánh giò. Ngay sau khi Xin Lỗi, Anh Chỉ Là Thằng Bán Bánh Giò được tung lên mạng, sức hút và sự lan truyền của bộ phim có lẽ cũng khiến chính Nhã Phương kinh ngạc. Cô được người xem ưu ái gọi với cái tên “hot girl bánh tráng” và từ một diễn viên không mấy tiếng tăm, Nhã Phương nổi tiếng và có thêm nhiều người hâm mộ. Tuy nhiên, thành công này cũng bắt nguồn từ diễn xuất chân thực, cảm động của Nhã Phương trong phim. Sau Xin Lỗi, Anh Chỉ Là Thằng Bán Bánh Giò, Nhã Phương cứ thế thẳng tiến trong sự nghiệp diễn xuất của mình. Cô liên tiếp gặt hái thành công khi tham gia Vừa Đi Vừa Khóc và Quả Tim Máu. Ở phim truyền hình Vừa Đi Vừa Khóc, Nhã Phương vào vai Thêu - cô gái đanh đá, mê trai điên cuồng, luôn bám theo trai (Minh Hằng) để chăm sóc. Nhã Phương đã thể hiện một Thêu lém lỉnh, hài hước, đôi lúc lại rất vô duyên khiến khán giả vô cùng thích thú. Có những giai đoạn, vai Thêu của Nhã Phương còn nổi bật hơn cả cặp nhân vật chính. Nhã Phương nhận lời tham gia phim kinh dị Quả Tim Máu, Nhã Phương chứng tỏ cô đã trưởng thành trong diễn xuất. Có thể nói, đây là vai diễn nặng ký nhất của Nhã Phương từ trước tới giờ. Bởi vai diễn này không nhí nhảnh và tươi vui như dạng vai quen thuộc của cô, Quả Tim Máu đòi hỏi Nhã Phương phải diễn có chiều sâu hơn. Và một lần nữa, Nhã Phương lại thành công với khả năng diễn xuất của mình. Trước khi trở nên nổi tiếng như ngày hôm nay, ít ai biết Nhã Phương đã sở hữu gia tài đóng phim không hề nhỏ từ phim điện ảnh đến phim truyền hình. Các phim Nhã Phương tham gia có thể kể đến Những Thiên Thần Áo Trắng, Hoàng Tử Xấu Trai, Hoa Nắng, Trường Nội Trú…. Góp mặt trong những bộ phim truyền hình này, Nhã Phương đóng vai đúng với lứa tuổi cô lúc bấy giờ - một học sinh. Tuy chỉ là những vai nhỏ, nhưng Nhã Phương cũng đã thể hiện được tiềm năng diễn xuất của mình. Thời điểm đó, Nhã Phương diễn cảnh khóc đã rất có hồn. Sau đó, cô tham gia hai bộ phim với tuýp nhân vật khác hẳn với những vai trước đó. Một là quận chúa trong Anh Chàng Vượt Thời Gian và một là cô gái miền biển ngây thơ, trong sáng trong Cát Nóng. Hai phim này đều xếp vào hàng “thảm họa” nhưng diễn xuất của Nhã Phương vẫn được công nhận. Dù tham gia nhiều phim như vậy nhưng phải mãi đến khi tham gia phim ngắn Xin Lỗi, Anh Chỉ Là Thằng Bán Bánh Giò, Nhã Phương mới thực sự trở nên nổi tiếng. Cô vào vai cô gái bán bánh tráng, có một tình yêu đẹp và buồn với chàng trai bán bánh giò. Ngay sau khi Xin Lỗi, Anh Chỉ Là Thằng Bán Bánh Giò được tung lên mạng, sức hút và sự lan truyền của bộ phim có lẽ cũng khiến chính Nhã Phương kinh ngạc. Cô được người xem ưu ái gọi với cái tên “hot girl bánh tráng” và từ một diễn viên không mấy tiếng tăm, Nhã Phương nổi tiếng và có thêm nhiều người hâm mộ. Tuy nhiên, thành công này cũng bắt nguồn từ diễn xuất chân thực, cảm động của Nhã Phương trong phim. Sau Xin Lỗi, Anh Chỉ Là Thằng Bán Bánh Giò, Nhã Phương cứ thế thẳng tiến trong sự nghiệp diễn xuất của mình. Cô liên tiếp gặt hái thành công khi tham gia Vừa Đi Vừa Khóc và Quả Tim Máu. Ở phim truyền hình Vừa Đi Vừa Khóc, Nhã Phương vào vai Thêu - cô gái đanh đá, mê trai điên cuồng, luôn bám theo trai (Minh Hằng) để chăm sóc. Nhã Phương đã thể hiện một Thêu lém lỉnh, hài hước, đôi lúc lại rất vô duyên khiến khán giả vô cùng thích thú. Có những giai đoạn, vai Thêu của Nhã Phương còn nổi bật hơn cả cặp nhân vật chính. Nhã Phương nhận lời tham gia phim kinh dị Quả Tim Máu, Nhã Phương chứng tỏ cô đã trưởng thành trong diễn xuất. Có thể nói, đây là vai diễn nặng ký nhất của Nhã Phương từ trước tới giờ. Bởi vai diễn này không nhí nhảnh và tươi vui như dạng vai quen thuộc của cô, Quả Tim Máu đòi hỏi Nhã Phương phải diễn có chiều sâu hơn. Và một lần nữa, Nhã Phương lại thành công với khả năng diễn xuất của mình.
|
Nhã Phương (diễn viên)
|
Trần Thị Nhã Phương (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1990) nổi tiếng với nghệ danh Nhã Phương hay Nabi Nhã Phương, là một nữ diễn viên điện ảnh - truyền hình người Việt Nam. Nhã Phương sinh ngày 20 tháng 5 năm 1990 tại Đắk Lắk. Cô là cựu sinh viên của Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2009, khi vừa mới bước chân vào làng giải trí, Nhã Phương đã nhận được ngay các vai diễn trong các bộ phim Những thiên thần áo trắng, Hoàng tử xấu trai, Hoa nắng, Trường nội trú,… Khi góp mặt trong những bộ phim truyền hình này, Nhã Phương đóng các vai diễn đúng với lứa tuổi của cô lúc bấy giờ - một học sinh. Tuy chỉ là những vai nhỏ, cô đã thể hiện được tiềm năng diễn xuất của mình và được đánh giá cao ở những phân cảnh nội tâm. Sau đó, cô tham gia hai bộ phim với típ nhân vật khác hẳn với những vai trước đó. Năm 2011, cô thủ vai Quận chúa Thương Thương trong Anh chàng vượt thời gian. Bộ phim này tuy không được công chúng đánh giá cao nhưng vẫn giúp Nhã Phương nâng tầm diễn xuất của mình.
|
Phần nhiều nguồn đều đc update thông tin từ các nguồn website lớn khác nên có thể vài phần khó hiểu. Anh ấy đã được nhận Đảng Cộng sản Việt Nam Ngày 27 tháng 1 năm 1987, chính thức là ngày 27 tháng 1 năm 1988. Anh ấy đã được nhận vào Đảng cộng sản việt nam ngày 27/01/1987, chính thức ngày 27/01/1988. * Quy định “Nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng” được “đặt dưới sự chủ trì của Đảng Cộng sản Việt Nam”(Điều 4);* Chỉ định “nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng” là “dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản việt nam”(Điều 4);Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục độc chiếm quyền lực và trừng phạt những kẻ dám thách thức vị trí của họ.Đảng cộng sản việt nam tiếp tục độc chiếm quyền lực và trừng phạt bất kỳ ai thách thức quyền lực của mình.“Khi nào Đảng Cộng sản Việt Nam Cần sự ủng hộ của nông dân, đảng này kêu gọi ‘người cày có ruộng’, ông Adams nói.“Khi nào Đảng cộng sản việt nam Adams cho biết cần sự hỗ trợ của nông dân, họ chủ trương rằng ‘nông dân phải có đất đai’.Đảng này có nguồn gốc từ Đảng Cộng sản Đông Dương do Hồ Chí Minh thành lập năm 1930 (xem Đảng Cộng sản Việt Nam).Đảng có nguồn gốc từ Đảng Cộng sản Đông Dương do Hồ Chí Minh thành lập năm 1930 (xem Đảng Cộng sản Việt Nam).Vì các bài báo trực tuyến chỉ trích các chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, bà đã bị khai trừ khỏi Đảng và bị mất chức vào năm 2006.Bởi vì những báo cáo này và những lời chỉ trích trên web về các chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, bà bị khai trừ Đảng và mất việc vào năm 2006.Ông xuất thân trong một gia đình ưu tú với nhiều đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam và lão thành cách mạng.Anh ấy đến từ một gia đình ưu tú bao gồm các thành viên cấp cao của Đảng cộng sản việt nam và các vị lão thành cách mạng.Anh ấy đã được nhận Đảng Cộng sản Việt Nam 19 tháng 10 năm 1967, và trở thành đảng viên chính thức từ ngày 19 tháng 10 năm 1968 tại Tiệp Khắc.Anh ấy đã được nhận vào Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 19 tháng 10 năm 1967, và trở thành thành viên chính thức vào ngày 19 tháng 10 năm 1968 tại Tiệp Khắc.Theo luật hình sự Việt Nam, chỉ trích chính phủ hoặc Đảng Cộng sản Việt Nam có thể bị coi là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia.Theo luật hình sự Việt Nam, chỉ trích chính phủ hoặc Đảng cộng sản việt nam có thể được coi là một mối đe dọa an ninh quốc gia.Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo tất cả các tổ chức công và sử dụng các tổ chức này để duy trì quyền lực của mình.Đảng cộng sản việt nam độc quyền lãnh đạo tất cả các tổ chức công và sử dụng chúng để duy trì quyền lực của mình.Các nhà lãnh đạo và hầu hết các thành viên của chủ nghĩa Trotsky ở Việt Nam đã Đảng Cộng sản Việt Nam bị phá hủy từ tháng 10 năm 1945.Các nhà lãnh đạo Trotskyist Việt Nam và hầu hết các thành viên của nó đã bị tiêu diệt bởi Đảng Cộng sản Việt Nam từ đầu tháng 9-1945. Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) độc quyền lãnh đạo tất cả các tổ chức công và sử dụng các tổ chức này để duy trì quyền lực của mình.Đảng cộng sản việt nam (ĐCSVN) độc quyền lãnh đạo tất cả các tổ chức công và sử dụng chúng để duy trì quyền lực của mình.Chính phủ nghiêm cấm tất cả các đảng phái chính trị, công đoàn và các tổ chức nhân quyền hoạt động độc lập với nhà nước hoặc Đảng Cộng sản Việt Nam.Chính phủ cấm tất cả các đảng phái chính trị, công đoàn và tổ chức nhân quyền độc lập với chính phủ hoặc Đảng cộng sản việt nam.Đảng Cộng sản Việt Nam kiểm soát tất cả các tổ chức chính trị – xã hội và sử dụng các tổ chức này để duy trì vị trí cầm quyền của mình.Các Đảng cộng sản việt nam kiểm soát tất cả các tổ chức công và sử dụng chúng để duy trì quyền lực.Đảng Cộng sản Việt Nam kiểm soát tất cả các tổ chức chính trị – xã hội và sử dụng các tổ chức này để duy trì vị trí cầm quyền của mình.Các Đảng cộng sản việt nam kiểm soát tất cả các tổ chức công và sử dụng chúng để duy trì quyền lực.Chúng tôi hoan nghênh Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách giáo dục toàn diện và mong muốn đóng góp vào việc thực hiện nó.Chung tôi hoan nghênh của ĐCSVN Nghị quyết về đổi mới toàn diện Giáo dục và rất mong được hỗ trợ thực hiện.Truyền thông nhà nước cũng cáo buộc họ “kêu gọi và xúi giục mọi người đứng lên biểu tình chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. ”Các phương tiện truyền thông nhà nước cáo buộc hai người “kêu gọi và kích động mọi người biểu tình chống lại đảng cộng sản của Việt Nam và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. ”Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trì một nhà nước độc đảng, hạn chế nghiêm ngặt các quyền tự do cơ bản, và trừng phạt những kẻ bất đồng chính kiến.Đảng cộng sản của Việt Nam chủ trì một nhà nước độc đảng hạn chế nghiêm trọng các quyền tự do cơ bản và trừng phạt những người bất đồng chính kiến.Nghị định 88 (2003) đặt các hiệp hội, có hiệu lực, phụ thuộc vào các bộ của chính phủ hoặc Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự quản lý chặt chẽ của chính phủ.Nghị định 88 quy định sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ đối với các hiệp hội, hoạt động hiệu quả với tư cách là cơ quan của các bộ chính phủ hoặc Đảng cộng sản việt nam.Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tăng cường công tác tuyên truyền đẩy mạnh việc học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các tầng lớp nhân dân.Các tòa án là Đảng Cộng sản Việt Nam Giới lãnh đạo đã trừng phạt nhiều người vì tham gia các nhóm chính trị hoặc nhân quyền bằng các bản án tù nặng nề.Đảng cộng sản việt nam–kiểm soát các tòa án đã trừng phạt nhiều người vì tham gia nhân quyền hoặc các nhóm chính trị bằng những bản án tù khắc nghiệt.Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động và mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản việt nam xác định chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động và mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
|
Đảng Cộng sản Việt Nam
|
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phép hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức hiện nay, Đảng là đại diện của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Trong ngữ cảnh không chính thức cũng dùng từ "Đảng" (hoặc "Đảng ta") để nói về Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ quan cao nhất của Đảng là Đại hội Đại biểu toàn quốc, nơi sẽ bầu ra Ban Chấp hành Trung ương. Giữa các kỳ Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan tối cao quyết định các vấn đề của Đảng. Sau Đại hội, Trung ương sẽ bầu ra Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương và bầu một Ủy viên Bộ Chính trị làm Tổng Bí thư. Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do chỉ thị của Đông Phương Bộ (là một bộ phận của Đệ Tam Quốc tế) yêu cầu Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt).
|
Sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2020, trong đó Joe Biden thắng cử, Donald Trump đương nhiệm khi đó , cũng như chiến dịch tranh cử và những người thân cận của ông, đã theo đuổi một nỗ lực quyết liệt và chưa từng có để từ chối và lật ngược cuộc bầu cử. Các nỗ lực nhằm lật ngược cuộc bầu cử được mô tả là một nỗ lực đảo chính và thực hiện " lời nói dối lớn .". Chiến dịch Trump và các đồng minh đã đệ trình ít nhất 63 vụ kiện trong và sau Ngày bầu cử, thua tất cả trừ một vụ nhỏ sau đó đã bị Tòa án Tối cao Pennsylvania lật lại . Ông và các đồng minh của mình khuyến khích các quan chức ở các bang có kết quả sát sao, đặc biệt là những bang mà Biden thắng, bỏ phiếu bầu hợp pháp và thách thức quy trình chứng nhận phiếu bầu. Trump đã gây áp lực buộc ngoại trưởng Georgia phải "tìm" 11.780 phiếu bầu cần thiết để đảm bảo chiến thắng của ông tại bang trong một cuộc điện đàm vào đầu tháng 1 năm 2021, và liên tục thúc giục Thống đốc Georgia Brian Kemp triệu tập một cuộc đặc biệt. phiên họp của cơ quan lập pháp để lật ngược chiến thắng được chứng nhận của Biden trong tiểu bang; Trump đã đưa ra lời cầu xin tương tự với Chủ tịch Hạ viện Pennsylvania sau khi chiến thắng của Biden đã được chứng nhận ở bang đó. Trump cũng gây áp lực buộc Bộ Tư pháp thách thức kết quả bầu cử. Trước và sau cuộc bầu cử, Trump tuyên bố kỳ vọng của mình rằng Tòa án Tối cao sẽ quyết định kết quả và sau cuộc bầu cử, đội ngũ pháp lý của ông đã tìm cách đưa một vụ kiện ra trước Tòa án, nơi các thẩm phán bảo thủ chiếm đa số 6-3, với ba trong số các thẩm phán đã được bổ nhiệm bởi Trump. Cựu cố vấn an ninh quốc gia của Trump, Michael Flynn , người được ân xá ngay sau cuộc bầu cử, đã kêu gọi tổng thống đình chỉ Hiến pháp , bịt miệng báo chí và tổ chức một cuộc bầu cử mới dưới sự giám sát của quân đội. Trump có tiền sử tuyên bố gian lận bầu cử, bao gồm cả các cuộc bầu cử mà ông không tranh cử. Sau cuộc bầu cử tổng thống năm 2012 , trong đó tổng thống đương nhiệm Barack Obama tái đắc cử trước Mitt Romney , Trump đã tweet rằng "Đại cử tri đoàn là một thảm họa cho một nền dân chủ", rằng cuộc bầu cử là một "hoàn toàn giả tạo", và Hoa Kỳ "không phải là một nền dân chủ". Trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Cộng hòa năm 2016 , sau khi Trump thua Ted Cruz trong cuộc họp kín của Đảng Cộng hòa ở Iowa , Trump đã tuyên bố rằng Cruz đã "lừa đảo" và "đánh cắp" các cuộc họp kín của Iowa. Trump kêu gọi lặp lại các cuộc họp kín ở Iowa, hoặc tuyên bố chiến thắng của Cruz là vô hiệu. Trump cuối cùng đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử nhưng lại mất phiếu phổ thông . Anh ta tiếp tục tuyên bố, mà không cần bằng chứng, rằng anh ta đã giành được số phiếu phổ thông "nếu bạn trừ đi hàng triệu người đã bỏ phiếu bất hợp pháp.". Trong chiến dịch tranh cử, Trump đã chỉ ra trong các bài đăng , cuộc phỏng vấn và bài phát biểu trên Twitter rằng ông có thể từ chối công nhận kết quả của cuộc bầu cử nếu ông bị đánh bại; Trump đã đề xuất sai rằng cuộc bầu cử sẽ được dàn dựng để chống lại ông ta. Vào tháng 7 năm 2020, Trump từ chối nói liệu ông có chấp nhận kết quả hay không, nói với người dẫn chương trình Fox News Chris Wallace rằng "Tôi phải xem. Không, tôi sẽ không chỉ nói có. Tôi sẽ không nói không. " Trump liên tục tuyên bố rằng "cách duy nhất" mà ông có thể thua là nếu cuộc bầu cử bị "gian lận" và liên tục từ chối cam kết chuyển đổi quyền lực một cách hòa bình sau cuộc bầu cử. Trump cũng tấn công bỏ phiếu qua thư trong suốt chiến dịch, tuyên bố sai rằng hoạt động này có tỷ lệ gian lận cao. Tại một thời điểm, Trump nói: "Chúng tôi sẽ xem điều gì sẽ xảy ra . Hãy loại bỏ các lá phiếu và bạn sẽ có một cuộc bầu cử rất yên bình - sẽ không có sự chuyển giao, thành thật mà nói. Sẽ có một sự tiếp nối. " Các tuyên bố của Trump đã được mô tả là một mối đe dọa "làm thay đổi trật tự hiến pháp". Vào tháng 9 năm 2020, Giám đốc FBI Christopher A. Wray , một người được Trump bổ nhiệm, đã tuyên thệ làm chứng rằng FBI "chưa từng thấy, trong lịch sử, bất kỳ loại nỗ lực gian lận cử tri quốc gia phối hợp nào trong một cuộc bầu cử lớn, cho dù đó là qua đường bưu điện hay bằng cách khác . ". Một số nghị sĩ Cộng hòa khẳng định rằng họ cam kết thực hiện một quá trình chuyển giao quyền lực có trật tự và hòa bình, nhưng họ từ chối chỉ trích Trump về những bình luận của ông. Vào ngày 24 tháng 9, Thượng viện nhất trí thông qua một nghị quyết khẳng định cam kết của Thượng viện đối với việc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình. Trump cũng tuyên bố rằng ông mong đợi Tòa án Tối cao sẽ quyết định cuộc bầu cử và ông muốn đa số bảo thủ trong trường hợp có tranh chấp bầu cử, nhắc lại cam kết của ông là nhanh chóng thiết lập công lý thứ chín sau cái chết của Ruth Bader Ginsburg . Vào năm 2020, những lo ngại đã dấy lên về việc chấp nhận kết quả bầu cử vào ngày 8 tháng 10, khi Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Mike Lee đã tweet "Chúng tôi không phải là một nền dân chủ" và "Dân chủ không phải là mục tiêu; tự do, hòa bình và thịnh vượng (sic) là . Chúng tôi muốn điều kiện của con người phát triển. Nền dân chủ xếp hạng có thể cản trở điều đó. ". Sau khi các tổ chức thông tấn lớn nhất trí tuyên bố Biden là Tổng thống đắc cử vào ngày 7 tháng 11, Trump từ chối chấp nhận thất bại của mình, tuyên bố "cuộc bầu cử này còn lâu mới kết thúc" và cáo buộc gian lận bầu cử mà không cung cấp bằng chứng. Ông chỉ ra rằng ông sẽ tiếp tục các thách thức pháp lý ở các bang quan trọng, nhưng hầu hết các thách thức đã bị tòa án bác bỏ. Nhóm pháp lý của ông, do Rudy Giuliani lãnh đạo , đã đưa ra nhiều khẳng định sai lầm và không có cơ sở xoay quanh một âm mưu của cộng sản quốc tế, các máy bỏ phiếu gian lận và gian lận địa điểm bỏ phiếu để tuyên bố rằng cuộc bầu cử đã bị đánh cắp từ tay Trump. Trump đã chặn các quan chức chính phủ hợp tác trong quá trình chuyển đổi tổng thống sang Joe Biden . Bộ trưởng Tư pháp William Barr đã ủy quyền cho Bộ Tư pháp bắt đầu điều tra "nếu có những cáo buộc rõ ràng và đáng tin cậy về những bất thường mà nếu đúng, có khả năng ảnh hưởng đến kết quả của một cuộc bầu cử liên bang ở một Tiểu bang riêng lẻ.". Một cuộc thăm dò của Economist / YouGov được tiến hành vào ngày 15–17 tháng 11 năm 2020, cho thấy gần như tất cả những người ủng hộ Trump (88%) khẳng định rằng cuộc bầu cử của Biden là bất hợp pháp, rằng các lá phiếu gửi qua thư đã bị thao túng để ủng hộ Biden (91%), phiếu bầu đã được bỏ bởi những người nhập cư không đủ điều kiện bỏ phiếu (89%), và nói chung là có sự gian lận cử tri (89%). Theo một cuộc thăm dò của CNBC / Change Research được thực hiện vào ngày 16–19 tháng 11, chỉ 3% những người ủng hộ Trump tuyên bố rằng chiến thắng của Biden là chính đáng. 73% cử tri Trump coi Trump là người chiến thắng trong cuộc bầu cử, 66% trong số họ nói rằng Trump không bao giờ nên nhượng bộ cuộc bầu cử và 31% nói rằng Trump nên chống lại kết quả cho đến khi các bang chứng nhận kết quả. Stop the Steal là một chiến dịch và phong trào phản đối cực hữu và bảo thủ ở Hoa Kỳ thúc đẩy thuyết âm mưu giả mạo cho rằng gian lận bầu cử phổ biến đã xảy ra trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020 để phủ nhận chiến thắng của Tổng thống đương nhiệm Donald Trump so với cựu phó chủ tịch Joe Biden. Trump và những người ủng hộ ông đã khẳng định, không có bằng chứng, rằng ông là người chiến thắng trong cuộc bầu cử, và việc gian lận cử tri và kiểm phiếu quy mô lớn đã diễn ra ở một số bang xoay vòng . Một cuộc khảo sát của New York Times về các quan chức bầu cử tiểu bang không tìm thấy bằng chứng về gian lận đáng kể trong cuộc bỏ phiếu, Bộ Tư pháp cũng như Bộ Tư pháp , và hàng chục vụ kiện của Trump và những người ủy nhiệm của ông nhằm thách thức kết quả bỏ phiếu ở một số tiểu bang đã thất bại. "Stop the Steal" được thành lập bởi quan chức chính trị Đảng Cộng hòa Roger Stone vào năm 2016. Một nhóm Facebook với tên đó đã được thành lập trong quá trình kiểm phiếu năm 2020 bởi nhóm ủng hộ Trump "Women for America First" và Tea Party. nhà hoạt động phong trào Amy Kremer . Facebook đã xóa nhóm vào ngày 5 tháng 11, mô tả nhóm này là "được tổ chức xung quanh việc ủy quyền quá trình bầu cử". Nó được cho là đã thêm 1.000 thành viên mới cứ sau 10 giây với 360.000 người theo dõi trước khi Facebook đóng cửa. Tất cả các nhóm "Stop the Steal" sau đó đã bị người điều hành Facebook xóa bỏ vì các cuộc thảo luận của họ về bạo lực cực đoan, kích động bạo lực và các mối đe dọa khác, tất cả đều vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng của Facebook. Một số nhóm "Stop the Steal" được thành lập bởi những người cực đoan cánh hữu sau khi Trump đăng các dòng tweet trên Twitter khuyến khích những người ủng hộ ông "Stop the Count". Một số cuộc biểu tình này bao gồm các thành viên của các nhóm cực đoan như Three Percenters , Proud Boys và Oath Keepers , mà CNN đưa tin là một minh họa cho những người theo dõi các nhóm như vậy, về "sự mỏng dần của ranh giới giữa cánh hữu và những kẻ cực đoan cực hữu. ” Một biến thể của thuyết âm mưu là quan điểm cho rằng nhà tài trợ tự do tỷ phú George Soros đã "đánh cắp cuộc bầu cử". Tại Michigan vào ngày 7 tháng 12 năm 2020, những người biểu tình "Ngăn chặn việc ăn cắp" đã tụ tập bên ngoài nhà riêng của Ngoại trưởng Michigan Jocelyn Benson để hét lên những lời tục tĩu và hô biến những lời nói đe dọa thành những kẻ ác ý. Chiến thắng tại Michigan của Tổng thống đắc cử Joe Biden với 154.000 phiếu bầu đã được Ủy ban Canvassers bang Michigan chính thức chứng nhận vào tháng 11. Vào thứ Bảy, ngày 12 tháng 12 năm 2020, các cuộc biểu tình sau bầu cử đã được tổ chức tại Washington, DC, trong đó ít nhất chín người đã được các công nhân của DC Fire và EMS vận chuyển khỏi cuộc biểu tình để điều trị trong bệnh viện. Trong số những người bị thương có 4 người bị vết đâm và được cho là đang trong tình trạng nguy kịch. Hai cảnh sát bị thương không nguy hiểm đến tính mạng, hai người khác bị thương nhẹ. Thêm 33 người bị bắt, trong đó có một người bị bắt vì hành hung bằng vũ khí nguy hiểm. Trước đó trong ngày, các nhóm lớn người biểu tình và phản đối đã tụ tập bên ngoài Tòa án Tối cao và Freedom Plaza. Mặc dù các cuộc ẩu đả nhỏ nổ ra theo định kỳ, nhưng nhìn chung các cuộc biểu tình chủ yếu diễn ra trong hòa bình. Hầu hết những người tham gia đều không đeo mặt nạ, bất chấp đại dịch COVID-19 đang diễn ra . Mặc dù Donald Trump là nguồn gốc của những thuyết âm mưu này, những tuyên bố này cũng được thúc đẩy và mở rộng bởi các tổ chức tin tức cực hữu như One America News Network (OANN), Newsmax , The Gateway Pundit , cũng như Sean Hannity và Fox khác. Bình luận viên tin tức . Những nỗ lực của Facebook và các mạng xã hội chính thống khác để hạn chế các nhóm lan truyền các tuyên bố bầu cử sai lệch đã dẫn đến sự phổ biến của Parler , một trang web mạng xã hội thay thế theo khuynh hướng cực hữu đã thu hút những người ủng hộ Stop the Steal. Parler sau đó đã ngoại tuyến sau khi Amazon Web Services rút lại hỗ trợ cho ứng dụng. Vào ngày 11 tháng 1 năm 2021, Facebook thông báo rằng họ sẽ xóa nội dung có chứa cụm từ "ngăn chặn hành vi ăn cắp" khỏi Facebook và Instagram. Vào ngày 12 tháng 1, Twitter thông báo rằng họ đã đình chỉ 70.000 tài khoản mà họ cho rằng "chia sẻ nội dung có hại do QAnon liên kết trên quy mô lớn". Đến tháng 3 năm 2021, các tổ chức liên quan đến phong trào Ngăn chặn việc ăn cắp, bao gồm cả Proud Boys và Phong trào Boogaloo , đã chuyển phần lớn nỗ lực của họ sang việc truyền bá thông tin sai lệch về vắc xin COVID-19 như một cách làm suy giảm uy tín của chính phủ. Vào ngày 7 tháng 4 năm 2021, Tòa án Quận Minnesota của Hoa Kỳ đã buộc tội thành viên tự xưng của Boogaloo Bois, Michael Paul Dahlager, 27 tuổi đến từ St. Cloud, Minnesota , với hành vi chế biến trái phép một khẩu súng máy. Dahlager đã đến Đại hội Bang Minnesota ở Saint Paul vào ngày 12 tháng 12 năm 2020, cuộc biểu tình "Ngăn chặn kẻ trộm", nơi anh ta dò tìm các vị trí và số lượng của cơ quan thực thi pháp luật. Dahlager đã thảo luận với những người cung cấp thông tin mật về việc anh ta sẵn sàng giết các thành viên thực thi pháp luật và kích động các cuộc nổi dậy bạo lực chống lại chính phủ. Kể từ tháng 6 năm 2021, Trump tiếp tục lặp lại thuyết âm mưu rằng cuộc bầu cử đã bị "đánh cắp"; đặc biệt tập trung vào nỗ lực của các thành viên Đảng Cộng hòa tại Thượng viện Arizona để kiểm tra kết quả cuộc bầu cử ở Hạt Maricopa và vụ kiện tranh chấp kết quả cuộc bầu cử ở Georgia. Những nỗ lực của các thành viên Đảng Cộng hòa Arizona để kiểm tra kết quả đã thu hút sự chú ý và ủng hộ của một số chính trị gia Đảng Cộng hòa, bao gồm Marjorie Taylor Greene , Matt Gaetz , và cựu tổng thống. Trump đã đưa ra giả thuyết sai lầm rằng ông sẽ được "phục hồi" làm tổng thống vào tháng 8 năm 2021, tuy nhiên không có cơ chế hiến pháp nào để phục hồi tổng thống sau khi kết quả của một cuộc bầu cử được Quốc hội chứng nhận. Sau khi kết quả kiểm phiếu cho thấy Biden chiến thắng, Trump đã tham gia vào cái được gọi là "thanh trừng sau bầu cử", sa thải hoặc buộc thôi việc ít nhất một chục quan chức và thay thế họ bằng những người trung thành. Bộ trưởng Quốc phòng Mark Esper bị sa thải qua tweet vào ngày 9 tháng 11. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Joseph D. Kernan và Quyền Thứ trưởng Bộ Chính sách James H. Anderson đã từ chức để phản đối hoặc bị buộc thôi việc. Nhà Trắng tìm cách tìm hiểu tên của những người được bổ nhiệm chính trị đã hoan nghênh Anderson khi ông ra đi, để họ có thể bị sa thải. Chánh văn phòng DOD, Jen Stewart, đã được thay thế bởi một nhân viên cũ cho Đại diện Devin Nunes . Vào ngày 30 tháng 11, Christopher P. Maier, người đứng đầu Lực lượng Đặc nhiệm Đánh bại ISIS của Lầu Năm Góc, bị lật đổ và lực lượng đặc nhiệm bị giải tán; một quan chức Nhà Trắng nói với ông rằng Hoa Kỳ đã thắng trong cuộc chiến chống Nhà nước Hồi giáo, vì vậy lực lượng đặc nhiệm không cần thiết nữa.
|
Nỗ lực lật ngược cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2020
|
Nỗ lực nhằm lật ngược cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2020 là một loạt các hành động được thực hiện bởi Tổng thống Donald Trump và các đồng minh của ông nhằm đảo ngược kết quả của cuộc bầu cử trong đó người thách thức Trump, Joe Biden, đã thắng thế. Donald Trump - Tổng thống đương nhiệm, cũng như chiến dịch tranh cử tổng thống và những người thân cận của ông, đã theo đuổi một nỗ lực quyết liệt, chưa từng có nhằm phủ nhận và lật ngược kết quả. Những nỗ lực nhằm lật ngược cuộc bầu cử đã được một số hãng tin mô tả là một âm mưu đảo chính. Trump và các đồng minh của ông đã nhiều lần tuyên bố rằng cuộc bầu cử đã bị đánh cắp thông qua một âm mưu cộng sản quốc tế, máy bỏ phiếu gian lận và gian lận địa điểm bỏ phiếu. Các cáo buộc gian lận đã bị nhiều thẩm phán tiểu bang và liên bang, quan chức bầu cử tiểu bang và địa phương, các thống đốc, bộ Tư pháp và An ninh Nội địa, và Đại cử tri đoàn bác bỏ. Hầu hết các nghị sĩ Cộng hòa từ chối công nhận chiến thắng của Biden cho đến giữa tháng 12, sau khi những nỗ lực của đảng Cộng hòa nhằm lật ngược kết quả bầu cử thất bại, và sau khi cuộc bỏ phiếu của Cử tri đoàn diễn ra, chính thức hóa chiến thắng của Biden.
|
David Armstrong-Jones, 58 tuổi, con của em gái Nữ hoàng Elizabeth II, chuẩn bị ly hôn vợ sau 27 năm chung sống. Ông kết hôn với Serena, 49 tuổi, năm 1993 và có hai người con, Charles, 20 tuổi và Margarita, 17 tuổi. "Bá tước và nữ bá tước xứ Snowdon đồng ý rằng cuộc hôn nhân của họ đã đi đến hồi kết và họ sẽ ly hôn. Họ đề nghị báo chí tôn trọng quyền riêng tư của họ và gia đình", người phát ngôn của Armstrong-Jones và Serena cho biết hôm 17/2. Armstrong-Jones là người kế vị ngai vàng thứ 21 của hoàng gia Anh. Ông cũng là người kế vị đầu tiên không phải hậu duệ trực tiếp của Nữ hoàng. Bá tước được biết đến là nhà sản xuất đồ nội thất có tiếng và ông chủ công ty đấu giá lâu đời Christie. Bá tước xứ Snowdon David Armstrong-Jones (phải) và vợ trong một sự kiện ở London ngày 29/1/2019. Thông tin vợ chồng Armstrong-Jones chia tay xuất hiện chưa đầy một tuần sau khi cháu ngoại lớn nhất của Nữ hoàng, Peter Phillips, tuyên bố ly thân vợ và sẽ sớm ly hôn. Phillips, 42 tuổi và người vợ Canada, Autumn cho biết sẽ chia sẻ quyền nuôi hai con gái và vẫn sống ở Gloucestershire, tây nam nước Anh. Phillips, người kế vị ngai vàng thứ 15 là con trai cả của Công chúa Anne, con gái Nữ hoàng, với người chồng đầu tiên Mark Phillips. Những cuộc hôn nhân liên tiếp đổ vỡ của các thành viên hoàng gia Anh được cho là gây sức ép không nhỏ lên Điện Buckingham. Tháng trước, vợ chồng Công tước xứ Sussex Harry và Meghan đã xin rút khỏi các nhiệm vụ hoàng gia với mong muốn độc lập về tài chính và chuyển đến sống ở Bắc Mỹ. Hoàng tử Andrew, con trai thứ hai của Nữ hoàng, cũng xin rút khỏi các nhiệm vụ hoàng gia tháng 11 năm ngoái, sau những bê bối trong quan hệ của ông với tỷ phú ấu dâm Mỹ Jeffrey Epstein, người đã tự sát trong nhà tù ở New York.
|
Công chúa Margaret, Bá tước phu nhân xứ Snowdon
|
Công chúa Margaret, Bá tước phu nhân xứ Snowdon (Margaret Rose; 21 tháng 8 năm 1930 – 9 tháng 2 năm 2002) là con gái út của Quốc vương George VI và Vương hậu Elizabeth của Anh, và là người em ruột duy nhất của Nữ vương Elizabeth II. Bà đã dành phần lớn thời thơ ấu của mình với cha mẹ và chị gái. Cuộc sống của bà thay đổi đáng kể vào năm 6 tuổi, khi người bác của bà, Quốc vương Edward VIII, thoái vị để kết hôn với Wallis Simpson. Cha của Margaret sau đó trở thành Quốc vương, và chị gái của bà trở thành người kế vị, với Margaret đứng thứ hai trong danh sách kế vị ngai vàng. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, hai chị em sống ở Lâu đài Windsor bất chấp những lời đề nghị di tản họ đến Canada. Trong những năm chiến tranh, bà được coi là còn quá trẻ để thực hiện bất kỳ nhiệm vụ chính thức nào và thay vào đó, bà tiếp tục đi học. Sau chiến tranh, Margaret trở thành một trong những nhân vật nổi tiếng nhất thế giới, nổi tiếng với lối sống hào hoa và những mối tình lãng mạn nổi tiếng.
|
Wikipedia định nghĩa ái tử thi (còn gọi là hội chứng yêu xác chết, tên khoa học là Necrophilia) là hội chứng bị hấp dẫn bởi xác chết. Khi người thân (người vợ, người chồng hay cha mẹ hoặc con cái) trong gia đình qua đời, bệnh nhân ái tử thi vẫn muốn giữ lại xác người đó và chăm sóc như khi họ còn sống. Theo các chuyên gia tâm thần, những trường hợp ái tử thi đều được cho là bị mắc các triệu chứng rối loạn tâm thần. Họ thường nghĩ rằng những người thân của mình chỉ chết về phần xác chứ không chết về phần hồn. Họ tin rằng linh hồn của người chết vẫn còn sống và vẫn cảm nhận được những việc người sống làm với họ. Nhà tâm lý học, bác sĩ thần kinh nổi tiếng người Áo là Sigmund Freud từng viết trong bài "Mourning and Melancholia" (1917) mô tả hai dạng hội chứng necrophilia. Dạng thứ nhất gọi là inhibited necrophilia (ái tử thi kiềm chế) và dạng thứ hai là morbid necrophilia (bệnh ái tử thi). Dạng thứ nhất có thể xem là “nhẹ” (pseudonecrophilia), mà theo đó, người mắc chứng này có xu hướng lưu luyến chồng/vợ mới qua đời, muốn ngủ chung, âu yếm với xác người quá cố. Dạng thứ hai nặng hơn và được xem là bệnh, vì người mắc bệnh có xu hướng quan hệ tình dục với tử thi, thậm chí có hành động được xem là ác dâm như cắn xé, ngấu nghiến với thân xác người quá cố. Họ muốn giữ một người bạn đời, có thể là bạn tình, trong tình trạng không kháng cự (68%), muốn sum họp với người tình cũ (21%), vì lý do dục tính (15%) và để tránh cảm giác cô đơn (15%). Những bệnh nhân ái tử thi thường có hội chứng gần giống nhau, đó là những biểu hiện khá bất thường như bí mật giữ lại xác người chết hay đào huyệt của người mà họ yêu rồi mang hài cốt về nhà để ngủ chung với những lý do của riêng họ. Các chuyên gia tâm thần nhận thấy, các trường hợp ái tử thi thường có triệu chứng rối loạn tâm thần, một số mắc bệnh động kinh hoặc có những rối loạn cá tính trong cuộc sống. Một số ca bệnh có rối loạn nhân cách ngay từ lúc mới lớn. Giới nghiên cứu tâm thần cho rằng, ái tử thi là một “phương tiện” giúp cho bệnh nhân vượt qua sự mất mát về tình yêu, giống như là một cơ chế lấy lại quân bình tâm lý trong cuộc sống. Mặc dù, hành động của một số người mắc hội chứng ái tử thi có thể xuất phát từ tình yêu nhưng cách họ thể hiện chẳng những không phù hợp với quy ước xã hội mà còn có thể gây ô nhiễm môi trường, có hại đến sức khỏe của chính họ. Trường hợp điển hình đầu tiên là vào thập niên 1930 ở Florida (Mỹ), bác sĩ Carl von Cassel điều trị một bệnh nhân trẻ đẹp mắc bệnh lao tên là Maria Elena Oyoz. Bác sĩ Carl von Cassel yêu bệnh nhân này tha thiết, nhất định tìm mọi cách để cứu sống người yêu nhưng ông thất bại và bệnh nhân qua đời. Sau khi chôn cất, bác sĩ Carl von Cassel lập tức bốc mộ và cho đúc một khuôn mặt giống y như mặt của người quá cố, với ý định giữ nét đẹp đó vĩnh viễn. Còn thi thể thì để trong một lăng, cao hơn mặt đất ở nghĩa trang. Ông đến thăm mộ người yêu mỗi ngày, nhưng sau khi thấy người chung quanh để ý đến những chuyến đi khác thường đó, ông quyết định dời thi thể về nhà, cho mặc áo cưới và đặt mặt nạ trên khuôn mặt của người quá cố. Ông còn bao bọc thi thể bằng sáp pha với nước hoa để giữ thịt và xương không bị tan rã. Hết năm này sang năm khác, ông phải giữ xương gắn liền nhau bằng những cọng dây đàn piano và hằng ngày phải dùng sáp và nước hoa mới. Người bác sĩ này thậm chí làm cả tóc giả để giữ cho thi thể được tự nhiên. Nhưng mặc cho bao nhiêu nỗ lực giữ thi thể, ông không thể nào xóa được mùi hôi thối và láng giềng bắt đầu phàn nàn. Điều lạ lùng là ông vẫn viết thư tình cho người quá cố. Sau này, khi gia đình Maria Elena phát hiện, họ rất giận dữ và thưa ra tòa. Tòa án ra lệnh ông phải giao trả thi thể của Maria Elena cho gia đình để an táng ở một địa điểm bí mật. Trường hợp điển hình thứ hai, năm 1955, một thanh niên tên là Tim Bayes, sống ở vùng ngoại ô thành phố Bari, Italia, đã ở trong nhà mồ của người yêu mình hơn 2 ngày liền. Kể từ khi người yêu được chôn cất, Tim bí mật đào một cái huyệt nhỏ bên cạnh mộ của Mary. Hằng đêm, người thanh niên này thường xuyên ra nghĩa trang để ngủ cùng cô. Sau này, giới điều tra còn tìm thấy những vật dụng như radio, giấy học sinh, nho khô, hạt lúa mạch và một ít bánh bích quy vụn ở trong cái huyệt nhỏ này. Tuy nhiên, dường như bị hấp dẫn bởi cái xác của Mary, sau 3 năm lén lút ngủ cùng cô ở cái huyệt nhỏ bên cạnh, Tim quyết định đánh cắp xác của cô và mang về nhà. Về sau, khi bị phát hiện, người thanh niên này chỉ biết ôm di ảnh của người và khóc ngất. Trường hợp điển hình thứ ba, là một trường hợp khá trầm trọng về hội chứng ái tử thi của người đàn ông tên là John Price ở Anh. Sau khi người vợ đầu của ông qua đời, ông tái giá. Nhưng thi thể người vợ quá cố được ông ướp và giữ cùng một giường với người vợ mới. Sau khi người vợ thứ hai qua đời, ông cũng ướp xác và giữ thi thể bà trong cùng một giường. Đến bà vợ thứ ba thì bà này không chấp nhận thói quen dị hợm đó, nhưng ông vẫn ngủ với hai thi thể kia cho đến ngày ông qua đời. Trường hợp điển hình thứ tư, vào năm 2011, cảnh sát Nga đã bắt giữ một người đàn ông tên Anatoly Moskvin, 45 tuổi, một nhà sử học địa phương, để làm rõ sở thích quái dị của ông ta: Đánh cắp và cất giấu thi thể của 26 phụ nữ đã chết trong nhà mình. Anatoly Moskvin khai với cảnh sát rằng, ông đã lấy hơn 20 thi thể của phụ nữ từ nghĩa địa trong thành phố để phục vụ cho sở thích riêng không thể giải thích được của ông. Mặc dù, câu chuyện ái tử thi của những trường hợp kể trên nghe khá dị thường nhưng bản thân những "bệnh nhân" này ngoài đời phần lớn là những người rất bình thường, nhẹ nhàng và dễ mến. Chiều 28/8, Bộ Y tế thông tin chính thức về cuộc họp khẩn cấp của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh quốc gia ngày 22/8, xem xét kết quả giữa kỳ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3a ứng viên vắc xin Nanocovax.
|
Ái tử thi
|
Ái tử thi (tên khoa học: Necrophilia) là hội chứng bị hấp dẫn bởi xác chết. Khi người thân (người vợ, người chồng hay thậm chí cả là mẹ hoặc con cái) trong gia đình qua đời, bệnh nhân "ái tử thi" vẫn muốn giữ lại xác người đó và chăm sóc như khi họ còn sống. Bệnh được chia làm 2 dạng: ái tử thi kiềm chế và bệnh ái tử thi. Ở dạng nhẹ, người bệnh chỉ biểu hiện ở mức mong muốn giữ lại người quá cố để âu yếm, chăm sóc hoặc ngủ chung với xác người thân trong suốt thời gian dài của những người có sức khỏe tâm thần và niềm tin tôn giáo đặc biệt. Còn dạng nặng hơn được xem là bệnh vì người mắc bệnh có thể quan hệ với cả người đã chết và thậm chí thực hiện cả những hành động như cấu xé, ngấu nghiến thân xác người chết. Theo các chuyên gia tâm thần, những trường hợp "ái tử thi" đều được cho là bị mắc các triệu chứng rối loạn tâm thần. Họ thường nghĩ rằng những người thân của mình chỉ chết về phần xác chứ không chết về phần hồn.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.