source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
GDPR là viết tắt của General Data Protection Regulation - Quy định chung về bảo mật thông tin. Quy định này yêu cầu các doanh nghiệp phải bảo mật các dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư của công dân thuộc khối EU trong các giao dịch giữa những nước thành viên EU. Nghị viện châu Âu thông qua quy định GDPR vào tháng 4/2016, thay thế cho các luật bảo mật dữ liệu đã lỗi thời từ năm 1995. GDPR được sử dụng đồng bộ trên khắp 28 thành viên EU. Và dĩ nhiên, tiêu chuẩn cho GDPR không hề đơn giản, đòi hỏi các doanh nghiệp phải bỏ thời gian và công sức để nghiên cứu, đáp ứng và thực hiện. Quá trình tuân thủ GDPR sẽ đem đến không ít vấn đề cho đội ngũ bảo mật của các doanh nghiệp. Chẳng hạn, những yếu tố cấu thành nên thuật ngữ "thông tin định danh các nhân" của GDPR rộng hơn rất nhiều, bao gồm cả địa chỉ IP cá nhân hoặc cookies data. Dĩ nhiên, có rất nhiều yêu cầu trong GDPR không liên quan trực tiếp đến việc bảo mật thông tin. Tuy nhiên các thay đổi về hệ thống và quy trình sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến các hệ thống và giao thức bảo mật hiện có. Vì các yêu cầu và lo ngại về quyền riêng tư mà GDPR ra đời. Trước khi GDPR ra đời, Liên minh châu Âu đã có nhiều quy định nghiêm ngặt về việc các công ty sử dụng dữ liệu cá nhân của công dân, chẳng hạn Chỉ thị Bảo vệ Dữ liệu năm 1995. Tuy nhiên khi internet trở thành một môi trường kinh doanh sôi động như hiện nay, thì Chỉ thị này đã lỗi thời, không đáp ứng những yêu cầu về cách lưu trữ, thu thập và giao dịch dữ liệu như hiện nay. Công dân ở các quốc gia EU và Hoa Kỳ rất lo ngại vấn đề rò rỉ thông tin cá nhân, đặc biệt những thông tin liên quan đến tài chính và ngân hàng. Trong một cuộc khảo sát 7500 công dân từ các nước Pháp, Đức, Ý, Anh và Hoa Kỳ, có đến 62% người tham gia cho biết nếu bị lộ thông tin cá nhân, họ sẽ đổ lỗi cho các công ty, thay vì các hacker. Chính vì quan niệm này, nhiều người khi đăng ký các dịch vụ online thường khai báo thông tin giả để tránh bị lộ hoặc bán lại thông tin. Không chỉ vậy, nhiều người cho biết sẽ tẩy chay các công ty có những hành động tiết lộ thông tin cá nhân, cũng như ủng hộ những nơi thực hiện nghiêm túc các biện pháp bảo mật. Tất cả các công ty lưu trữ hoặc sở hữu thông tin cá nhân của công dân EU. Cụ thể hơn, các công ty cần tuân thủ GDPR nếu:. - Ít hơn 250 lao động nhưng, nhưng quá trình xử lý dữ liệu ảnh hưởng đến quyền và tự do của chủ thể dữ liệu, hoặc bao gồm một số loại dữ liệu cá nhân nhạy cảm. Với GDPR, trách nhiệm của bên kiểm soát dữ liệu (đơn vị sở hữu dữ liệu) và bên xử lý dữ liệu (đơn vị bên ngoài giúp quản lý dữ liệu) ngang bằng nhau. Nếu bên xử lý dữ liệu không tuân thủ GDPR, tức là doanh nghiệp của bạn cũng không tuân thủ. Không chỉ vậy, bất kỳ một tổ chức nào trong chuỗi quản lý dữ liệu cũng sẽ bị liên đới nếu một mắt xích (một đơn vị) không thực hiện đúng GDPR. Ngoài ra, các đơn vị cần phổ biến cho khách hàng quyền lợi của họ trong GDPR. Hay nói cách khác, trong các thỏa thuận/hợp đồng (mới hoặc làm mới) với những bên xử lý dữ liệu (chẳng hạn công ty dịch vụ điện toán đám mây, SaaS,.) và với khách hàng, đơn vị của bạn cần nêu rõ quyền hạn và trách nhiệm. Không chỉ vậy, các vấn đề như quá trình quản lý và bảo vệ dữ liệu, hoặc cách thức báo cáo sai phạm cũng cần được đề cập. GDPR còn đòi hỏi các lãnh đạo, bộ phận IT và bộ phận bảo mật thông tin thấu hiểu cách thức lưu trữ và xử lý dữ liệu, đưa ra các quy trình báo cáo thống nhất, chẳng hạn dữ liệu nào cần thiết cho doanh nghiệp, dữ liệu cần được lưu trữ ở đâu, dữ liệu được xuất ra bên ngoài như thế nào. Không chỉ vậy, GDPR còn thay đổi tư duy của doanh nghiệp đối với dữ liệu. Trước đây, rất nhiều doanh nghiệp xem dữ liệu là tài sản riêng. Thế nhưng hiện nay, "các tài sản riêng" này còn buộc doanh nghiệp phải có trách nhiệm pháp lý nhất định. Dĩ nhiên, nếu không tuân thủ GDPR, công ty của bạn sẽ phải chịu những khoản phạt nhất định từ EU. Tính đến 29/5/2020, EU đã xử phạt 282 trường hợp, trong đó lớn nhất là Google với mức phạt 50 triệu Euro (hơn 1300 tỷ VNĐ)
Quy định bảo vệ dữ liệu chung
Quy định bảo vệ dữ liệu chung (GDPR) (EU) 2016/679 là quy định của luật EU về bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư cho tất cả các cá nhân trong Liên minh châu Âu và Khu vực kinh tế châu Âu. Nó cũng đề cập đến việc xuất dữ liệu cá nhân bên ngoài EU và EEA. GDPR nhằm mục đích chủ yếu để cung cấp cho kiểm soát cho công dân và cư dân trên dữ liệu cá nhân của họ và đơn giản hóa môi trường pháp lý cho kinh doanh quốc tế bằng cách thống nhất các quy định trong EU. Quy định này cò tên đầy đủ là "Quy định (EU) 2016/679 của Nghị viện Châu Âu và của Hội đồng Châu Âu ngày 27 tháng 4 năm 2016 về bảo vệ thể nhân liên quan đến việc xử lý dữ liệu cá nhân, về việc giao thông dữ liệu tự do và về việc bãi bỏ Chỉ thị 95/46 / EC" và có hiệu lực từ ngày 25/05/2018. Thay thế Chỉ thị bảo vệ dữ liệu 95/46 / EC, quy định này bao gồm các quy định và yêu cầu liên quan đến việc xử lý thông tin nhận dạng cá nhân của các đối tượng dữ liệu trong Liên minh châu Âu và áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp, bất kể vị trí nào.
Trị liệu hệ thống gia đình là gì? Mỗi cá nhân được sinh ra đều có một lịch sự phát triển liên quan đến bản thân và gia đình của mình. Ngày nay đa số nhà tâm lý học không còn xem cá nhân một cách riêng biệt mà cho rằng những triệu chứng rối nhiễu tâm lý là biểu hiện rối loạn có thể một trong những nguyên nhân xuất phát từ chính gia đình. Cho nên các nhà tâm lý thường vận dụng nhiều phương pháp tư vấn, can thiệp và trị liệu do việc đào tạo xuất phát từ nhiều quan điểm, nhiều nguồn khác nhau. Một trong những phương pháp đó là trị liệu hệ thống (thérapie systemique). Việc thiết lập chân dung tâm lý của cá nhân và gia đình giúp ta có cái nhìn tổng hợp về cuộc sống của một người, những đặc trưng tâm lý cũng như hoàn cảnh cụ thể mà người đó đang sống. Từ đó, giúp ta có cách thức tiếp cận và giúp đỡ một cách phù hợp hơn. Khái niệm về gia đình có rất nhiều định nghĩa khác nhau, tuy nhiên, trong bài viết này thì khái niệm về gia đình được định nghĩa như sau: Theo truyền thống, gia đình được định nghĩa như là một nhóm người, có cùng quan hệ dòng máu hoặc cùng huyết thống và cùng cư trú. Định nghĩa này được mở rộng bao gồm những người có cùng cảm nhận về một gia đình tương lai, hoà hợp bởi hôn nhân, dòng máu, cư trú và người làm con nuôi. Học thuyết hệ thống được bắt nguồn và vận dụng trong nhiều lĩnh vực, cơ khí hay tin học, sinh học hay kinh tế xã hội. Một hệ thống được định nghĩa là một tổng thể phức hợp gồm nhiều yếu tố liên quan với nhau. Và mỗi biến động trong một yếu tố nào đó đều tác động lên những yếu tố khác và cũng có thể tác động lên toàn bộ hệ thống. Một hệ thống gồm nhiều tiểu hệ thống, đồng thời lại là một bộ phận của một hệ thống khác lớn hơn. Có những hệ thống khép kín, không trao đổi với xung quanh và cũng có những hệ thống mở. Hệ thống khép kín chỉ gặp trong ngành vật lý, còn các hệ thống sinh học hay xã hội đa phần là hệ thống mở. Một hệ thống không chỉ là một tập hợp gồm nhiều bộ phận khác nhau, mà là một tổng thể có những đặc tính không hoàn toàn do những đặc trưng của các bộ phận khác cộng lại. Mối liên quan ở đây không phải đơn tuyến một chiều, mà các yếu tố tác động lẫn nhau theo những mối liên quan chằng chịt đặc biệt là mối liên hệ tác động qua lại theo mạch phản hồi (feedback–rétroaction). Sơ đồ nhân quả đơn tuyến (linear causality) theo đường thẳng A. Những tác động qua lại giữa các bộ phận tạo ra một thế nhất định. Mỗi sự kiện gây ra một tác động đồng thời cũng gây ra những phản ứng ngược lại tạo ra xu thế lập lại trạng thái cân bằng nội tại (homeostasis). Tuy nhiên mọi hệ thống lành mạnh vẫn giữ được bản sắc trong lúc tạo ra những thay đổi cơ cấu để thích nghi với những biến động của môi trường. Có những hệ thống linh hoạt có khả năng điều chỉnh những mối quan hệ bên trong và bên ngoài một cách dễ dàng để tồn tại lâu dài. Có những hệ thống cứng nhắc khi gặp biến động mạnh trong môi trường thì không giữ được cân bằng dễ bị tan rã. Hệ thống nào cũng có một bờ rào, một đường biên giới phân cách với môi trường chung quanh, có qui định đầu vào và đầu ra, cụ thể hoá mối liên quan giữa hệ thống và môi trường, đồng thời được bố cục theo những cơ cấu và hoạt động theo cơ chế nhất định. Những hệ thống khép kín sẽ mất dần năng lượng dẫn tới tiêu vong (entropie), còn những hệ thống mở có khả năng tiếp nhận năng lượng từ bên ngoài tồn tại lâu dài. Nhờ có sự liên quan với nhau mà những hệ thống tồn tại được nhưng cũng vì vậy gây ra rối loạn cho nó. Theo phương pháp Decartes cần phân chia những sự vật phức tạp thành những yếu tố đơn giản. Còn trong quan điểm hệ thống lại cần nhìn thấy hết tính phức tạp của sự vật. Gia đình như một hệ thống mở, gồm nhiều thành viên với những mối liên hệ qua lại chằng chịt. Những tác động qua lại này nhằm duy trì sự cân bằng của hệ thống gia đình. Trong nội bộ gia đình, những mối tình cảm, lòng ham, xung năng, và quan hệ uy quyền tạo ra những luồng thông tin truyền dẫn giữa những thành viên. Mỗi gia đình tạo ra một mối liên quan riêng tuỳ thuộc vào văn hóa xã hội, lịch sử và những tính chất riêng của gia đình đó. Những mối liên quan này có thể linh hoạt hoặc cứng nhắc giữa các thành viên với nhau, giữa các tiểu hệ thống bên trong gia đình, và giữa gia đình với các hệ thống lớn hơn bên ngoài (làng xóm, phố phường…) mà ranh giới giữa gia đình và bên ngoài có thể bịt kín hay mở rộng. Gia đình là một giao diện (interface) giữa cá nhân và xã hội, là một thể chế thiết yếu làm trung gian giữa mục tiêu sinh lý và văn hoá xã hội trong sự hình thành nhân cách. Ranh giới giữa các thành viên với nhau cũng như giữa gia đình và môi trường chung quanh là một vấn đề rất quan trọng. Bản thân cơ cấu gia đình không phức tạp lắm, nhưng mỗi thành viên là một tiểu hệ phức tạp, và phức tạp hơn nữa là một hệ thống lớn xã hội xung quanh. Sự ảnh hưởng lẫn nhau trong gia đình đi theo một vòng cung phản hồi của mối quan hệ nhân quả mà trong đó những sự kiện đơn lẻ được quan niệm vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả, và có sự tác động hỗ tương giữa các sự kiện với nhau. Gia đình bao gồm nhiều tiểu hệ thống phụ thuộc lẫn nhau, mỗi tiểu hệ thống thực hiện những chức năng đặc biệt để duy trì bản thân tiểu hệ thống và bảo vệ duy trì cả hệ thống như một tổng thể. Mỗi cá nhân cũng là một tiểu hệ thống bên trong gia đình. Cá nhân có liên hệ về mặt chức năng và thứ bậc với các tiểu hệ thống và các cá nhân thành viên khác trong gia đình. Tiểu hệ thống có thể được thành lập dựa trên các thứ bậc (như vợ chồng, anh chị em…), hoặc theo chức năng (cha mẹ, ông bà, con cái…), hoặc theo phái tính (mẹ và các con gái…). Vì gia đình cũng là một hệ thống có sự tương tác, phụ thuộc và tác động qua lại giữa các thành viên. Nếu một cá nhân bị đau ốm thì không chỉ tác động đến tâm lý, tình cảm của cá nhân đó, mà còn tác động đến các thành viên khác trong gia đình. Khi một cá nhân trong gia đình bị bệnh có thể giúp gia đình thay đổi và sự thay đổi này sẽ tác động đến tất cả những thành viên theo hướng tích cực hay tiêu cực. Do đó, các nhà tâm lý phải tìm hiểu xem gia đình đó thuộc vào loại hệ thống nào – đóng (closed) hay mở (open), xa cách (disengaged) hay không gắn bó (enmeshed); tìm hiểu sự phản hồi (feedback) trong gia đình; những ranh giới (boundaries) chức năng phân chia theo vai trò; và các qui tắc (rules) trong gia đình. Hệ thống đóng (closed) có nghĩa là gia đình đó không giao tiếp tốt với nhau hoặc giao tiếp hạn chế với người trong gia đình và ngoài xã hội, lẩn tránh giải quyết vấn đề, tạo ra bức tường ngăn cách giữa gia đình với cộng đồng xã hội, không tin tưởng hay không nhờ sự hỗ trợ từ bên ngoài. Cha mẹ thường chăm sóc, bảo bọc, nuông chiều con quá mức và luôn tự hào rằng con mình là con ngoan trò giỏi. Hệ thống mở (open) giống như cơ thể sinh học và xã hội. Hệ thống này giúp cho các thành viên trong gia đình vừa có tính tự chủ vừa có tính phụ thuộc, cùng có cơ chế duy trì sự ổn định bản sắc trong gia đình, nhưng linh hoạt để thích nghi và có khả năng tự thay đổi với môi trường xung quanh. Đây là sự thăng bằng trong gia đình được duy trì qua sự phản hồi (feedback), ranh giới (boundaries), và quy tắc (rules). Phản hồi: Phản hồi tích cực làm gia tăng khả năng thay đổi, tăng khả năng tự điều chỉnh, tăng khả năng tổ chức và phát triển. Trái lại, phản hồi không tích cực thì sẽ làm cho cá nhân nản chí, làm giảm nhiệt huyết, làm giảm khả năng thay đổi và giảm khả năng tự điều chỉnh. Ranh giới: Gia đình là một hệ thống, trong gia đình bao gồm nhiều tiểu hệ thống phụ thuộc lẫn nhau, mỗi tiểu hệ thống là một cá nhân thực hiện những chức năng riêng để duy trì bản thân và bảo vệ cả hệ thống như một tổng thể thống nhất. Tiểu hệ thống có thể được hình thành dựa trên các thứ bậc, như cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, hoặc theo giới như: cha và con trai, mẹ và con gái…. Các tiểu hệ thống được phân chia bằng những ranh giới. Ranh giới bảo vệ tiểu hệ thống và đồng thời cho phép tác động qua lại giữa các tiểu hệ thống. Giữa các thành viên trong gia đình luôn tồn tại những ranh giới, việc ranh giới đó là gì thì phải do chính các thành viên trong gia đình xây dựng. Tùy thuộc vào các giai đoạn phát triển của gia đình (giai đoạn có con nhỏ, giai đoạn có con vị thành niên.), các ranh giới có thể di chuyển ở trạng thái cứng nhắc, hay lỏng lẻo, hay uyển chuyển. Thông thường bệnh lý của một cá nhân có thể bị khởi phát khi gia đình có những ranh giới cứng nhắc. Trái lại, nếu gia đình có những ranh giới lỏng lẻo thì có thể gia đình bị rơi vào trạng thái hỗn loạn. Những trạng thái quá xa cách, hỗn độn nếu xảy ra thường xuyên và không có chiều hướng thay đổi thì sẽ hình thành nên những vấn đề của gia đình. Lúc đó, gia đình đi gặp nhà tham vấn với sự căng thẳng ngày càng gia tăng. Qui tắc: là những qui định chung cho phép cá nhân thực hiện những nhiệm vụ trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài vấn đề huyết thống hay luật định, cá nhân trong gia đình còn bị chi phối bới những qui tắc, thứ bậc, cùng với nhưng vai trò của từng thành viên trong gia đình. Có những qui tắc được công khai (phân chia công việc nhà, vợ làm gì, chồng làm gì…) nhưng ngược lại có những qui tắc ngầm hay bất thành văn. Gia đình lành mạnh sẽ có những qui tắc cơ bản chung, nhất quán, rõ ràng, và có thể uyển chuyển thích nghi với sự thay đổi. Ngoài ra, mỗi thành viên trong gia đình có một số vai trò, mà vai trò này liên kết các vị thế và chức năng của người ấy trong gia đình. Vai trò có thể theo vị trí, thứ bậc trong gia đình như: bố mẹ, con cái, anh chị em …. Vai trò có thể theo chức năng mà thành viên đảm nhận như nạn nhân (victim), người chịu tội thay (scapegoat), hoặc thánh tử đạo (martyr), v.v… Theo quan điểm hệ thống tất cả những hành vi (ví dụ: vai trò, những triệu chứng và những hình thức giao tiếp) đều có một ý nghĩa. Sự lành mạnh gia đình có thể được đánh giá dựa trên các yếu tố: không có triệu chứng rối loạn chức năng được vận hành tốt và gia đình thích ứng được với sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội. Hoặc gia đình lành mạnh là bao gồm những cá nhân lành mạnh. Sự lành mạnh có thể thấy được qua các bình diện sức khoẻ thể chất, tinh thần, bối cảnh sống, dinh dưỡng, cảm xúc, trí năng và các mối quan hệ. Các thành tố chức năng ấy ở mỗi thành viên lại tạo nên cảm nhận về bản thân của riêng người ấy. Và tất cả những cảm nhận về bản thân của các thành viên sẻ góp phần tạo nên sự lành mạnh chung cho cả hệ thống gia đình.
Trị liệu gia đình
Trị liệu gia đình, còn được gọi là trị liệu cặp vợ chồng và gia đình, trị liệu hôn nhân và gia đình, trị liệu hệ thống gia đình và tư vấn gia đình, là một nhánh của tâm lý trị liệu làm việc với các gia đình và các cặp vợ chồng trong mối quan hệ mật thiết để nuôi dưỡng sự thay đổi và phát triển. Nó có xu hướng xem sự thay đổi về hệ thống tương tác giữa các thành viên trong gia đình. Các trường phái trị liệu gia đình khác nhau đều có chung một niềm tin rằng, bất kể nguồn gốc của vấn đề, và bất kể khách hàng coi đó là vấn đề "cá nhân" hay "gia đình", liên quan đến các gia đình trong các giải pháp thường mang lại lợi ích cho khách hàng. Việc tham gia của các gia đình thường được thực hiện bằng cách tham gia trực tiếp vào các buổi trị liệu. Do đó, các kỹ năng của nhà trị liệu gia đình bao gồm khả năng tác động đến các cuộc trò chuyện theo cách tạo xúc tác cho sức mạnh, trí tuệ và sự hỗ trợ của một hệ thống rộng lớn hơn.
Người Nhện: Xa Nhà là bộ phim chiếu rạp hấp dẫn kể về thời gian Hậu chiến Vô Cực. Trở lại trường học, cậu nhóc Peter Parker cùng các người bạn bị cuốn vào rắc rối mới với Nick Fury cùng nhân vật bí ẩn có tên Mysterio trong chuyến đi du lịch đến Châu Âu. Sở cảnh sát Miami có một đội ngũ ưu tú mới tên là AMMO. Họ được giao nhiệm vụ hạ gục một thủ lĩnh băng đảng ma túy tên là Armando, một kẻ giết người máu lạnh với bản tính hung ác. Một cựu đặc vụ ưu tú(do Jason Statham thủ vai) nhận thực hiện một nhiệm vụ kép: giải cứu một cô bé người Trung Quốc bị Hội Tam Hoàng bắt cóc và tìm một giải pháp an toàn để đánh lừa Mafia Nga, Hội Tam Hoàng và cả những quan chức tham nhũng của New York. Sau vụ khủng bố kinh hoàng 11/9 tại Mỹ, nhóm bộ binh 12 người thuộc Lực Lượng Đặc Biệt được cử đến Afghanistan để tham gia vào trận đánh tiêu diệt Taliban và các đồng minh AlQueda. Trong quá trình điều tra những hành vi tội phạm của Drake, Eddie Brook vô tình nhiễm phải Symbiote vào cơ thể. Anh bắt đầu sở hữu những siêu năng lực và nhân cách tàn bạo của Venom. Bộ phim khoa học viễn tưởng Trở Về Trái Đất có sự tham gia của cha con nhà Smith là Will Smith và Jaden Smith. Phim kể về anh chàng trẻ tuổi Kitai Raige cùng cha mình là Cypher đang đi trên chiếc phi thuyền thì bị gặp nạn và mắc kẹt ở Trái Đất hoang vu, nơi mà cách đây hơn một thiên niên kỷ loài người đã di tản để tránh cơn đại hồng thủy. Đặc vụ Áo Đen là những người hùng thầm lặng bảo vệ Trái Đất khỏi những hiểm họa. Họ phải đối mặt với mối đe dọa: truy tìm điệp viên hai mang ẩn mình trong tổ chức Men In Black. Đặc Vụ Áo Đen phần 2 tiếp tục khi đặc vụ K đã bị xóa kí ức do đã nghỉ hưu. Vì bảo vệ trái đất khỏi lâm nguy, đặc vụ J đã mang đặc vụ K quay lại tổ chức. Năm 2065, Trái đất có nguy cơ bị hủy diệt. Một ngôi sao băng đã va chạm với hành tinh xanh mở đầu cho cuộc đổ bộ hàng triệu sinh vật ngoài vũ trụ xuống Trái đất. Những cánh đồng và thành phố bị tàn phá nặng nề bởi những kẻ dã thú. Được chuyển thể từ truyện tranh cùng tên của Marvel, với kinh phí 175 triệu USD, đây là một trong những bộ phim siêu anh hùng hoành tráng nhất 2017. Darius Stone, chàng điệp viên XXX được Gibbons đưa ra khỏi lao tù trong một cuộc vượt ngục táo bạo để thực hiện một nhiệm vụ quan trọng. Thiện Ác Đối Đầu 2 diễn ra ngay sau các sự kiện của phần đầu tiên. Phim kể về Robert Mccall (Denzel Washington), một cựu CIA được cho rằng đã chết khi tham gia một nhiệm vụ trước đây. Anh từ bỏ quá khứ bạo lực để bắt đầu cuộc sống bình dị, lúc này đang chuyển sang làm tài xế chạy Lyft. Đồng thời thường xuyên giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh xung quanh với sự hỗ trợ của đặc vụ Susan Plummer (Melissa Leo) - đồng nghiệp, bạn thân và là người duy nhất biết anh còn sống sót. Tên cướp ngân hàng vì lỡ yêu và muốn sống cuộc đời lương thiện với một cô gái mà chấp nhận nộp mình cho FBI, nhưng anh đã sai khi tiết lộ khoản tiền cướp được năm xưa. Parker, tay trộm chuyên nghiệp luôn có nguyên tắc: không hại người vô tội và không trộm của người nghèo. Trong 1 phi vụ lớn bị những kẻ thân tín hãm hại, anh lập kế hoạch trả thù. Bloodshot vốn là một cựu binh mang tên Ray Garrison. Không may hy sinh trong lúc ra trận, anh được tập đoàn RST hồi sinh với một thân phận và siêu năng lực hoàn toàn khác biệt. Câu chuyện bắt đầu sau cái chết của Boss Suchart, một ông chủ trại voi đầy quyền lực. Những tên sát thủ đã cố tình ngụy tạo những chứng cứ giả để đổ tội cho Kham khi anh vô tình xuất hiện tại hiện trường vụ án mạng. Phim điện ảnh phiêu lưu kỳ ảo hài hước của Trung Quốc năm 2017 do Từ Khắc đạo diễn và Châu Tinh Trì đảm nhiệm phần biên kịch và sản xuất. Thế nhưng, Vee không ngờ mình lại trở thành nạn nhân của một trò chơi tàn ác khi mọi hành động của cô bị điều khiển bởi một cộng đồng mạng ẩn danh - "Watchers". Không Thể Rời Mắt là câu chuyện ấm lòng về hai chị em Thúy Ngân và Jack, tuy bên ngoài châm chọc nhau nhưng lại hết lòng bảo vệ nhau. Ma Tốc Độ kể về Johnny - một tay lái mô tô siêu hạng ký một bản khế ước với tử thần để cứu mạng cha mình. Nam Hán Sơn Thành xoay quanh cuộc binh biến Bính Tý Hồ loạn đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cục diện kinh tế, chính trị của triều đại Joseon. Lật Mặt 1 kể về Khải, người may mắn có 3 viên kim cương quý nhưng lại bị truy sát, Khải lên kế hoạch để trốn chạy một cách ngoạn mục. Immortals là câu chuyện cuộc chiến giữa các vị thần trên đỉnh Olympia và những thần dân Hy Lạp chống lại cuộc xâm lược của đế chế Hyperion (Mickey Rourke). Một đội quân khát máu đã tiến vào Hy Lạp tàn sát không thương tiếc dân lành chỉ với một mục đích là tìm một loại vũ khí chết người để tiêu diệt và chiếm lĩnh toàn thế giới. Khi số phận của nhân loại thực sự bị đe dọa Zeus vị thần tối cao trên đỉnh Olympia đã chọn Theseus (Cavill) phải lãnh đạo nhân dân chống lại Hyperion.
Siêu nhân cái bang
Siêu nhân cái bang (tựa gốc: Hancock) là một phim siêu anh hùng hài của Mỹ năm 2008 do Peter Berg đạo diễn và có sự tham gia của Will Smith, Charlize Theron và Jason Bateman. Nội dung phim xoay quanh một siêu anh hùng vigilante John Hancock (Smith) từ Los Angeles thường xuyên có những hành động liều lĩnh gây thiệt hại cho thành phố hàng triệu USD. Cuối cùng, một nạn nhân mà anh cứu được là Ray Embrey (Bateman) đã thay đổi nhiệm vụ của Hancock để khiến hình ảnh của anh trước công chúng tốt hơn. John Hancock là một người đàn ông sở hữu siêu năng lực, bao gồm khả năng bay, cơ thể siêu bền và sức mạnh phi thường. Thời gian sống ở Los Angeles, Hancock thường đi cứu người như một siêu anh hùng nhưng luôn bị người dân chửi bới và căm ghét vì anh có tính tình ngang ngược và cách hành động cẩu thả, gây ra nhiều thiệt hại. Một ngày nọ, Hancock giải cứu Ray Embrey, một chuyên gia quan hệ công chúng, thoát khỏi đường ray khi đoàn tàu đang đến. Để trả ơn việc Hancock cứu mạng mình, Ray đề nghị giúp Hancock cải thiện hình ảnh của anh trước công chúng.
(i) "SEOM" có nghĩa là Hội nghị các Quan chức Kinh tế Cao cấp ASEAN. này và Hiệp định khung phù hợp với Điều III của Hiệp định GATT 1994. Nhằm mục đích này, các quy định của. liệt kê phải từng bước được cắt giảm và, tùy từng trường hợp, loại bỏ phù hợp với Điều khoản này. Các dòng thuế thuộc lịch trình cắt giảm và xóa bỏ thuế quan theo Hiệp định này sẽ bao gồm tất cả các dòng. Danh mục thông thường: Đối với các dòng thuế do các Bên tự đưa vào Danh mục thông thường của mình,. thuế quy định trong Phụ lục 1 của Hiệp định, nhằm đạt được các hạn mức nêu tại Phụ lục 1. Theo Phụ lục 1 và Phụ lục 2 của Hiệp định này, tất cả các cam kết của các Bên trong Điều khoản này sẽ được. Các Bên tham gia Hiệp định này có thể sửa đổi hoặc rút lại bất kỳ một nhân nhượng nào mà Bên đó đã dành. cho Bên khác theo Hiệp định này thông qua đàm phán và thoả thuận với Bên được hưởng nhân nhượng đó. Nội dung các cuộc đàm phán và thoả thuận nêu trên có thể bao gồm các quy định về điều chỉnh đền bù đối. với các sản phẩm khác. Trong các cuộc đàm phán và thỏa thuận đó, các Bên liên quan sẽ phải đưa ra mức nhân. nhân nhượng quy định tại Hiệp định này trước khi các cuộc đàm phán và thoả thuận nêu trên diễn ra. Theo các quy định trong Hiệp định này và trong bất kỳ thoả thuận nào mà các Bên có thể đạt được trong. Các quy định của các Hiệp định Đa phương WTO về thương mại hàng hoá không được nêu cụ thể hoặc sửa. Mỗi Bên cam kết không duy trì bất cứ hạn chế định lượng nào trong bất kỳ thời gian nào trừ trường hợp được. Các Bên sẽ xác định các hàng rào phi thuế quan (ngoài các hạn chế định lượng) để xóa bỏ ngay sau Hiệp định. này có hiệu lực. Khung thời gian để xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan này phải được tất cả các Bên nhất trí. Các Bên sẽ công bố các thông tin về các hạn chế định lượng của mình ngay sau khi Hiệp định này được thực. 1.Mỗi Bên là thành viên của WTO vẫn duy trì các quyền và nghĩa vụ theo Điều 19 của Hiệp định GATT 1994 và. Một Bên sẽ có quyền áp dụng biện pháp tự vệ trong ACFTA đối với một mặt hàng trong giai đoạn chuyển đổi. đối với mặt hàng đó. Giai đoạn chuyển đổi của một mặt hàng sẽ bắt đầu từ ngày Hiệp định này có hiệu lực và sẽ. kết thúc trong 5 năm kể từ ngày hoàn thành việc cắt giảm/loại bỏ thuế quan đối với sản phẩm đó. 3.Trong trường hợp do nghĩa vụ của một Bên, bao gồm nghĩa vụ nhân nhượng thuế quan trong Chương trình. phẩm đó, Bên nhập khẩu sẽ được tự do áp dụng các biện pháp tự vệ trong ACFTA. Khi một biện pháp tự vệ trong ACFTA được áp dụng, Bên áp dụng biện pháp tự vệ có thể tăng thuế suất của. 5.Bất kỳ một biện pháp tự vệ nào trong ACFTA cũng có thể được duy trì trong một giai đoạn ban đầu lên tới 3. năm và có thể kéo dài không quá 1 năm. Bất kể thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ trong ACFTA đối với một sản. phẩm là bao lâu, biện pháp tự vệ đó sẽ chấm dứt khi giai đoạn chuyển đổi của sản phẩm đó kết thúc. 6.Khi vận dụng các biện pháp tự vệ ACFTA, các Bên sẽ áp dụng các nguyên tắc về vận dụng các biện pháp tự vệ. Điều 5, và Điều 9, 13 và 14 của Hiệp định WTO về Các biện pháp tự vệ. Theo đó, tất cả các quy định khác của. Một biện pháp tự vệ trong ACFTA không được áp dụng đối với một sản phẩm có xuất xứ từ một Bên nếu tỷ lệ. Để được bồi thường đối với một biện pháp tự vệ ACFTA theo Điều 8 của Hiệp định WTO về Các biện pháp. tương đương của các nhân nhượng trước khi hoãn các nhân nhượng tương đương. Bất kỳ thủ tục nào do các cơ. Khi một Bên chấm dứt việc áp dụng một biện pháp tự vệ ACFTA đối với một sản phẩm, thuế suất áp dụng đối. Tất cả các tài liệu và trao đổi chính thức tiến hành giữa các Bên và với cơ quan đề cập đến trong đoạn 12 liên. quan đến bất kỳ biện pháp tự vệ trong ACFTA sẽ được làm thành văn bản và viết bằng tiếng Anh. Khi áp dụng các biện pháp tự vệ theo ACFTA, một Bên sẽ không đồng thời áp dụng các biện pháp tự vệ của. Để thực hiện Điều khoản này, bất kỳ dẫn chiếu nào đến “Hội đồng Thương mại Hàng hoá” hoặc “Ủy ban về. để xử lý một cách phù hợp. Cơ chế này sẽ được thay thế bởi một cơ quan thường trực khi cơ quan đó được thành
Hiệp định thương mại
Hiệp định/ thỏa thuận thương mại (còn được gọi là hiệp ước thương mại) là một hiệp định hoặc thỏa thuận thuế, thuế quan và thương mại rộng rãi thường bao gồm bảo lãnh đầu tư. Nó tồn tại khi hai hoặc nhiều quốc gia đồng ý về các điều khoản giúp họ giao dịch với nhau. Các hiệp định thương mại phổ biến nhất là các loại hình thương mại tự do và ưu đãi được ký kết nhằm giảm (hoặc loại bỏ) thuế quan, hạn ngạch và các hạn chế thương mại khác đối với các mặt hàng được giao dịch giữa các bên ký kết. Logic của các hiệp định thương mại chính thức là họ phác thảo những gì được thỏa thuận và các hình phạt cho sự sai lệch so với các quy tắc được đặt ra trong thỏa thuận. Do đó, các hiệp định thương mại làm cho sự hiểu lầm ít có khả năng xảy ra hơn, và tạo niềm tin cho cả hai bên rằng gian lận sẽ bị trừng phạt; điều này làm tăng khả năng hợp tác lâu dài. Một tổ chức quốc tế, chẳng hạn như IMF, có thể khuyến khích hợp tác hơn nữa bằng cách giám sát việc tuân thủ các thỏa thuận và báo cáo các nước thứ ba về các vi phạm.
Chủ nghĩa tân tự do (neo-liberalism), còn được biết đến với tên gọi “chủ nghĩa tự do thể chế” (institutional liberalism), là một dòng nghiên cứu quan trọng trong các lý thuyết quan hệ quốc tế. Chủ nghĩa tân tự do ra đời trong những năm 1980, khi hợp tác giữa các quốc gia trở thành xu thế chủ đạo của chính trị quốc tế. Khác với trường phái tự do cổ điển tập trung vào câu hỏi chiến tranh hay hòa bình, chủ đề chính của chủ nghĩa tân tự do là các thể chế, định chế, quy tắc, luật pháp quốc tế và sự tương tác của các yếu tố này với lựa chọn chính sách của mỗi nhà nước. Cùng chia sẻ giả định về một thế giới “vô chính phủ”, tức là không có một quyền lực vượt trội nào đóng vai trò “siêu nhà nước” để điều phối, tổ chức và chế tài quan hệ giữa các quốc gia, chủ nghĩa tân tự do đặt ra câu hỏi: tại sao các quốc gia lại đồng ý tổ chức và tham gia vào các thể chế quốc tế? Chúng ta biết rằng, việc gia nhập một tổ chức đồng nghĩa nhà nước phần nào phải chấp nhận từ bỏ một phần chủ quyền quốc gia và giới hạn khuôn khổ hành động của mình. Tại sao các nước lại đồng ý giao nạp chủ quyền của mình – khi không có một sức mạnh nào ép buộc – để theo đuổi con đường hợp tác quốc tế?. Để trả lời câu hỏi trên, các tác giả theo trường phái tân tự do đưa ra nhiều lập luận. Một trong những điểm quan trọng nhất là các chính phủ phải trả một cái giá cao hơn rất nhiều nếu không tham gia, hoặc quyết định tham gia trễ hơn vào hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong khuôn khổ các thể chế quốc tế. Cơ sở lý thuyết cho lập luận này được mô phỏng qua lý thuyết trò chơi, với ví dụ điển hình là trò chơi “thế lưỡng nan của tù nhân”. Bài học từ trò chơi này cho thấy, cũng như những người tù trong trò chơi, các quốc gia cũng thường lâm vào các huống lưỡng nan trong quan hệ quốc tế liên quan đến vấn đề có nên tham gia hợp tác với các quốc gia khác hay không. Theo đó, nếu các quốc gia tự giải quyết vấn đề một cách đơn phương có thể giữ lại chủ quyền tuyệt đối, nhưng hiệu quả công việc sẽ thấp hơn hoặc phí tổn bỏ ra cũng sẽ cao hơn rất nhiều trong trường hợp chấp nhận cùng các quốc gia khác thực hiện hợp tác. Ngược lại, nếu chấp nhận giới hạn phần nào chủ quyền hành động, các quốc gia có thể thúc đẩy hiệu năng công việc và giảm phí tổn gánh chịu một mình trong việc giải quyết vấn đề. Chính vì vậy để theo đuổi hợp tác quốc tế, các quốc gia cần chú trọng đạt được lợi phần tuyệt đối thay vì lợi phần tương đối như các nhà hiện thực đề nghị. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là làm sao có thể biết được rằng các quốc gia khác cũng sẽ hành động tương tự và tham gia hợp tác. Theo các nhà tân tự do, vấn đề này có thể được khắc phục thông qua việc hình thành các thể chế (institutions) và định chế (regimes) nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế. Thể chế hay các định chế đa phương – theo lập luận của một trong những tác giả đại diện chủ nghĩa tân tự do là Robert Keohane – có thể cung cấp thông tin cho các bên tham gia hợp tác, góp phần giảm tình trạng “thông tin bất đối xứng”, qua đó giúp các bên phần nào hiểu rõ nhau hơn và có thể xây dựng các kỳ vọng về hành vi của nhau. Mặt khác, các thể chế quốc tế cũng giúp giảm chi phí giao dịch trong quá trình giải quyết các vấn đề chung. Cuối cùng, các thể chế cũng giúp tạo ra một khuôn khổ mang tính pháp lý để điểu chỉnh hành vi của mỗi chủ thể tham gia trong chính trị quốc tế. Cần nhắc lại rằng, một trong những giả định quan trọng nhất của lý thuyết quan hệ quốc tế là nền chính trị thế giới không tồn tại một quyền lực siêu quốc gia với vai trò tương tự như nhà nước trong nền chính trị đối nội của các quốc gia. Chính vì vậy, việc hình thành, theo đuổi và giải quyết công việc thông qua các thể chế hay luật quốc pháp tế là một cách tiếp cận giúp tiến tới mô hình quản trị toàn cầu. Việc hình thành các thể chế quốc tế cũng thể hiện mong muốn của cộng đồng thế giới trong việc tạo ra một khung ứng xử cho các mối quan hệ quốc tế, với nền tảng là pháp luật quốc tế và các chuẩn tắc thay vì sức mạnh hay vũ lực. Chủ nghĩa tân tự do và những lập luận dựa trên dòng tư tưởng này là đối tượng phê bình và phản biện của nhiều học thuyết quan hệ quốc tế khác từ những năm 1980 đến nay. Đáng kể nhất là cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa tân hiện thực được biết đến với tên gọi “Neo-Neo-Debate”. Hai học thuyết này bất đồng với nhau trên nhiều khía cạnh, từ tác động của tình trạng vô chính phủ, hiệu năng của các thể chế quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề, đến các ưu tiên và mục tiêu theo đuổi (lợi phần tuyệt đối và tương đối) của các quốc gia. Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
Chủ nghĩa tự do mới
Chủ nghĩa tân cổ điển hay chủ nghĩa tự do mới / chủ nghĩa tân tự do là sự hồi sinh của thế kỷ 20 của những ý tưởng thế kỷ 19 gắn liền với Chủ nghĩa tự do kinh tế laissez-faire và Chủ nghĩa tư bản thị trường tự do. Nó thường liên quan đến các chính sách tự do hóa kinh tế bao gồm tư nhân hóa, bãi bỏ quy định, toàn cầu hóa, thương mại tự do, thắt lưng buộc bụng và giảm chi tiêu của chính phủ nhằm tăng vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế và xã hội; tuy nhiên, các đặc điểm xác định của Chủ nghĩa tân cổ điển trong cả suy nghĩ và thực tiễn đã là chủ đề của cuộc tranh luận học thuật đáng kể. Chủ nghĩa tự do mới tạo thành một sự dịch chuyển mô hình khỏi sự đồng thuận của Keynes sau chiến tranh kéo dài từ năm 1945 đến năm 1980. Những người nói tiếng Anh đã sử dụng thuật ngữ "Chủ nghĩa tân cổ điển" từ đầu thế kỷ 20 với những ý nghĩa khác nhau, nhưng nó trở nên phổ biến hơn theo nghĩa hiện tại vào những năm 1970 và 1980, được các học giả sử dụng trong nhiều ngành khoa học xã hội cũng như bởi các nhà phê bình.
Marketing (Tiếp thị) là gì? Marketing Mix là gì? 4P trong Marketing là gì? Tại sao SEO Could Menu cung cấp dịch vụ SEO hay bất kỳ một công ty khác cung cấp sản phẩm, dịch vụ gì cũng nên áp dụng tốt mô hình 4P? Và sao để sử dụng 4P tạo nên một chiến lược marketing thành công?Để trả lời các câu hỏi marketing trên, nhiều nhà tiếp thị đã học được khi họ bắt đầu trong ngành là: đặt đúng sản phẩm vào đúng nơi, đúng giá, vào đúng thời điểm. Vậy hãy cùng tìm hiểu về vấn đề này. Marketing Mix (hay Tiếp thị hỗn hợp) là một cụm từ chung được sử dụng để mô tả các loại lựa chọn khác nhau mà tổ chức phải thực hiện trong toàn bộ quá trình đưa một sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường. Trong đó 4P là một cách nổi tiếng nhất để xác định hỗn hợp tiếp thị, được EJ McCarthy thể hiện lần đầu tiên vào năm 1960 trong cuốn sách của ông. Tiếp thị hỗn hợp còn được gọi là 4P của tiếp thị. Nó đề cập đến bốn yếu tố chính của chiến lược marketing: sản phẩm, giá cả, địa điểm và khuyến mãi. Những yếu tố này hướng dẫn các sáng kiến tiếp thị, từ ngữ và định vị cho một sản phẩm hoặc thương hiệu. Để phát triển Marketing Mix, nên cần phải suy nghĩ về cách có thể định vị thương hiệu của mình giữa các đối thủ cạnh tranh. Phần quan trọng nhất của việc suy nghĩ về Marketing Mix hay 4P trong marketing là hiểu khách hàng, đối thủ cạnh tranh và công ty của mình. Cần xem xét đánh giá sản phẩm và cách quảng bá cho sản phẩm đó. 4P trong Marketing là một mô hình để nâng cao các thành phần của "Marketing Mix hoặc Tiếp thị hỗn hợp", bao gồm 4 yếu tố cơ bản: Product (Sản phẩm), Price (Giá cả), Place (Địa điểm), Promotion (Quảng cáo), đó là cách bạn đưa một sản phẩm hoặc dịch vụ mới ra thị trường, đáp ứng nhu cầu hoặc nhu cầu cụ thể của khách hàng. 4P nhằm giúp các nhà tiếp thị xem xét mọi thứ về sản phẩm hoặc dịch vụ khi họ quyết định cách tiếp thị phù hợp cho doanh nghiệp của mình. Khung tiếp thị 4P sẽ giúp doanh nghiệp biết được đối thủ cạnh tranh đang làm gì và khách hàng muốn gì ở bạn. Từ đó trả lời các câu hỏi về sản phẩm, giá cả, địa điểm và quảng cáo sản phẩm hoặc dịch vụ tương ứng như:. Hay suy nghĩ và xem xét chính xác những gì bạn đang bán. Nó có phải là một sản phẩm cụ thể? Hay nó là một dịch vụ? Sau đó, khi bạn xác định sản phẩm, hãy nghĩ xem sản phẩm có giải quyết được vấn đề nhu cầu gì cho khách hàng. Đánh giá sản phẩm của mình khác gì với các sản phẩm cạnh tranh khác. Những tính năng nào là duy nhất cho sản phẩm của bạn?. Nó dành cho ai? Các chủ doanh nghiệp, quản lý, các nhà tiếp thị muốn đẩy mạnh chiến dịch marketing công ty đến với khách hàng. Khi nói đến giá cả, phải cân nhắc xem sẽ tính phí bao nhiêu cho khách hàng đối với sản phẩm hoặc dịch vụ của mình. Tất nhiên, cần phải tạo ra lợi nhuận. Khi đưa ra chiến lược định giá, cũng cần phải suy nghĩ về những gì đối thủ cạnh tranh đang tính phí cho cùng một sản phẩm hoặc dịch vụ và khách hàng sẵn sàng chỉ trả bao nhiêu? Bạn cũng có thể nghĩ về những chiết khấu hoặc ưu đãi mà bạn có thể sử dụng trong hoạt động tiếp thị của mình. Khi nói đến địa điểm, có nghĩa là vị trí thực tế của công ty bạn, nhưng cũng có thể được xác định là bất kỳ nơi nào bạn bán sản phẩm/dịch vụ của mình, kể cả trực tuyến. Địa điểm là nơi bạn tiếp thị và phân phối sản phẩm của mình. Hãy nhớ rằng không phải nơi nào cũng có ý nghĩa thuận lợi đối với mọi sản phẩm. Điều quan trọng là chọn đúng địa điểm để tiếp thị sản phẩm của bạn và gặp gỡ khách hàng của bạn ở nơi họ đang ở. Hãy nghĩ về các kênh phân phối và cửa hàng bạn có thể sử dụng để bán sản phẩm của mình. Hãy tiếp thị sản phẩm của mình trên tất cả các kênh khác nhau phù hợp với công ty của bạn. Đây là lúc bạn nghĩ cách công bố và quảng cáo sản phẩm/dịch vụ của mình. Ngoài ra, sẽ thảo luận về thông điệp, nhận thức thương hiệu và các chiến lược tìm kiếm khách hàng tiềm năng . Mục tiêu của việc quảng cáo một sản phẩm là tiết lộ cho người tiêu dùng lý do tại sao họ cần nó và tại sao họ nên trả một mức giá nhất định cho nó.
Marketing hỗn hợp
Marketing hỗn hợp là một khái niệm cơ bản trong lĩnh vực marketing (đồng thời được biết đến như là 4P), là tập hợp các công cụ tiếp thị được doanh nghiệp sử dụng để đạt được trọng tâm tiếp thị trong thị trường mục tiêu. Thuật ngữ lần lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1953 khi Neil Borden, là chủ tịch của hiệp hội Marketing Hoa Kỳ lấy ý tưởng công thức thêm một bước nữa và đặt ra thuật ngữ Marketing hỗn hợp. Một nhà tiếp thị nổi tiếng, E. Jerome McCarthy, đề nghị phân loại theo 4P năm 1960, mà nay đã được sử dụng rộng rãi. Khái niệm 4P được giải thích phần lớn trong sách giáo khoa về marketing và trong các lớp học. Tiếp thị hỗn hợp (Marketing Mix) là tập hợp các công cụ tiếp thị được doanh nghiệp sử dụng để đạt được trọng tâm tiếp thị trong thị trường mục tiêu. Product (Sản phẩm): Một đối tượng hữu hình hoặc một dịch vụ vô hình đó là khối lượng sản xuất hoặc sản xuất trên quy mô lớn với một khối lượng cụ thể của đơn vị. Sản phẩm vô hình là dịch vụ như ngành du lịch và các ngành công nghiệp khách sạn hoặc mã số các sản phẩm như nạp điện thoại di động và tín dụng.
Những làng quê vùng châu thổ Bắc bộ xưa kia, người dân sống quần tụ với nhau trong một không gian khép kín gọi là làng, chỉ để một hoặc hai lối ra vào và cổng làng được quy định là giới hạn giao lưu giữa làng này với làng kia. Cổng làng bắt đầu mở vào buổi sáng để dân làng đi làm, và khép lại vào mỗi buổi tối, sau khi người dân trong làng đã trở về nhà. Trải qua năm tháng, cổng làng không chỉ là nơi phân địa giới của làng, mà đã trở thành biểu tượng văn hóa của làng quê. Bên cạnh cây đa, giếng nước, sân đình, cổng làng mang một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần người Việt. Cổng làng gắn liền với sự hình thành và phát triển của làng. Dù to hay nhỏ, có thể xây bằng gạch hoặc bằng đá, chiếc cổng làng thể hiện cho một nếp làng bề thế, thể hiện cả cốt cách của ngôi làng, của những người dân trong làng. Ở đồng bằng Bắc bộ, hầu như ở đâu có làng thì ở đó có cổng làng. Các vùng nông thôn gắn liền với sản xuất lúa nước như Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Hà Tây cũ… là những vùng có nhiều cổng làng được xây bề thế. Tất cả những cái hay cái đẹp, đôi khi là những điều răn dạy, nhắc nhở cũng được viết thành câu đối khắc trước cổng, cổng làng vì thế trở thành một phần của văn hóa làng. Dù chưa đi vào trong làng, chưa đặt chân tới sân đình, đứng trước cổng làng, nhiều người cũng có thể cảm nhận được phần nào cốt cách của làng, tư chất của những người dân. Cũng vì thế mà cổng làng phải dễ được nhận biết ngay từ bên ngoài. Theo quan niệm truyền thống, bên cạnh cây đa, giếng nước, sân đình, cổng làng vốn có ý nghĩa như một sự chào đón của người địa phương dành cho khách thập phương. Nhiều người dân của làng dù đi đâu xa, bao nhiêu năm trở về vẫn có thể nhìn thấy cổng làng sừng sững đứng đó, vẫn cảm nhận được những gì thân quen ấm áp của quê nhà. Phía sau cánh cổng làng chính là sự kết nối cộng đồng gia tộc làng xã, là những nét chung về phong tục, tập quán, văn hoá riêng biệt, không hòa lẫn vào nhau. Thông thường, kiến trúc của cổng làng không cầu kỳ, phô trương, mà chỉ nhằm khẳng định chỗ đứng của mình trong khoảng không gian làng quê vùng đồng bằng Bắc bộ, trong đó giới hạn của nó chỉ mang tính chất tượng trưng. Mỗi một cổng làng Việt Nam đều có những nét kiến trúc riêng làm tâm điểm trong cái không gian của con đường làng, lũy tre xanh, cây đa, giếng nước và những cánh đồng lúa chín…. Cổng làng được dùng như một quy ước không gian hơn là một giới hạn địa lý của làng, nhưng tác dụng của nó lại như cửa của một ngôi nhà, làng không cổng cũng như nhà không có cửa. Nó như một dấu hiệu đánh dấu mốc trong và ngoài của không gian làng, đó là một phần của văn hóa làng. Kiểu đánh dấu này luôn tồn tại trong tâm thức người Việt. Cổng làng như một nghi thức trong cấu trúc môi trường làng. Có cổng thì ở sát rìa làng, có cổng thì ở tít đầu đường, chỗ giao với đường lớn với làng. Vẻ đẹp của cổng làng gắn với nền văn minh lúa nước, phần nhiều mang tính phác họa, gợi nên những ước vọng của cộng đồng từ đời này qua đời khác, nơi như có dáng đứng của cha, của mẹ mỗi lần đón, tiễn con, nơi mà người ta có thể tìm về sau những mỏi mệt của bộn bề công việc. Cổng làng có vị trí quan trọng trong đời sống thực và đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Bởi lẽ, dù đô thị hóa đến đâu, nhiều nhà cao tầng hay biệt thự, nét riêng của làng khó có thể mất đi được. Ngày nay, khi cuộc sống đã thay đổi, kèm theo đó là quá trình đô thị hóa nhanh chóng ở một số vùng quê, nhiều chiếc cổng làng đã bị phá bỏ để thay vào đó là những con đường rải nhựa, những nhà cửa đua nhau mọc san sát. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, dù đã phá bỏ hầu hết các công trình xưa thì những chiếc cổng làng vẫn còn được lưu giữ như một giá trị văn hóa, một biểu tượng của ngôi làng. Trên con phố Gia Thượng (Ngọc Thụy, Long Biên, Hà Nội), mới được xây dựng, người đi đường dễ bắt gặp một chiếc cổng làng vẫn sừng sững trên vỉa hè. Không nhiều người biết được lịch sử của chiếc cổng, chỉ biết rằng nó đã tồn tại từ rất lâu rồi. Ông Nguyễn Ngọc Trúc (89 tuổi ở Gia Thượng, Long Biên) cho biết, từ khi về làm rể ở làng đến nay đã gần 70 năm, ngày ấy chiếc cổng làng đã có rồi. Dù không sinh ra ở làng nhưng ông cảm thấy gắn bó với chiếc cổng của ngôi làng. Ông nhớ lại, xưa kia hai bên cổng làng là những hàng tre cao vút, bên cạnh còn có một cái giếng nước là nơi cung cấp nước sinh hoạt cho cả làng. Chỗ giếng nước đã bị lấp bây giờ chính là nơi con đường rộng thênh thang với tên gọi phố Gia Thượng. Dù vậy, chiếc cổng vẫn còn được giữ lại, như một phần của nét văn hóa của làng quê nơi đây được người dân gìn giữ. Phía trước cổng làng Gia Thượng có đề “Gia Thượng thôn” bên trên, hai bên dưới còn có câu “Đại đạo chi hành”, có ý nhắn nhủ người làng cứ đường lớn mà đi. Bên phải “Trí tuệ Lạc Hồng khai tự mẫu”, “Tâm linh siêu việt phóng càn khôn”. Phía sau: “Nhân nghĩa ân tình tâm đức trọng”, “Tổ quốc vạn xuân hành đại đạo”, “Căn nguyên đạo pháp tấu hòa an”, “Hương thôn bách tính tạo anh hùng”. Đây đều là những điều nhắc nhở cũng như những truyền thống tốt đẹp của ngôi làng được chuyển hóa thành câu đối viết trên cổng để người làng dù có đi đâu cũng nhớ đến, từ đó cũng góp phần hình thành nên nhân cách của mỗi người./.
Cổng làng
Cổng làng là một loại công trình kiến trúc có tính cách phòng thủ nhưng sang thời hiện đại thì phần lớn nặng phần tượng trưng với giá trị lịch sử hoặc mỹ thuật. Cổng làng là sản phẩm kiến trúc cổ của người Việt. Cổng làng phân chia phần đất thổ cư (đất làm nhà ở, vườn) và phần đất canh tác (đất trồng lúa, trồng khoai, hoa màu). Người sống thì sống sau cái cổng làng, người chết thì chôn bên ngoài cổng làng. Cổng làng có vị trí rất quan trọng trong đời sống thực và đời sống tâm linh của con người.
Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam được thành lập từ những năm 1987, trực thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Bảo tàng có chức năng nghiên cứu, lưu giữ bảo quản, trưng bày những di sản vật thể, phi vật thể về lịch sử, văn hóa của phụ nữ Việt Nam, Hội LHPN Việt Nam; đồng thời là trung tâm giao lưu văn hóa của phụ nữ Việt Nam và phụ nữ quốc tế vì mục tiêu Bình đẳng, Phát triển và Hoà Bình. Từ khi khánh thành năm 1995, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam đã trưng bày thành công rất nhiều triển lãm phục vụ hàng trăm nghìn khách trong nước và quốc tế mỗi năm. Bảo tàng cũng đã phát triển một bộ sưu tập hơn 25.000 tài liệu hiện vật liên quan đến phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh hệ thống trưng bày thường xuyên, Bảo tàng còn tổ chức nhiều cuộc trưng bày chuyên đề với phương pháp tiếp cận mới là nhân học xã hội, phản ánh sự phát triển và thay đổi của xã hội đương đại bằng các dự án hướng tới nhiều nhóm đối tượng khác nhau, đặc biệt là những phụ nữ, trẻ em bị thiệt thòi, yếu thế. Với mong muốn đưa bảo tàng đến gần hơn với công chúng, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam tiếp tục đa dạng hoá nhiều hoạt động giáo dục và chương trình công chúng, tăng cường các hoạt động truyền thông để công chúng có cơ hội tiếp cận nhiều hơn. Và với những nỗ lực không ngừng trong việc đổi mới nội dung, chất lượng, hình ảnh của bảo tàng để đem đến những trải nghiệm đặc biệt cho công chúng trong và ngoài nước. Năm 2012, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam vinh dự được nhận bằng chứng nhận “Một trong những điểm du lịch đáng đến nhất Hà Nội năm 2012” do khách hàng TripAdvisor – website du lịch uy tín và lớn nhất thế giới bầu chọn. Năm 2013, TripAdvisor tiếp tục bầu chọn Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam vào top 25 bảo tàng hấp dẫn nhất châu Á. Với thông điệp “Chuyến tham quan đáng giá – những câu chuyện xúc động” là những gì mà TripAdvisor muốn chuyển đến độc giả khi miêu tả về Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam.
Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam
Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam nằm ở số 36 phố Lý Thường Kiệt, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, gần trung tâm hồ Hoàn Kiếm và khu phố cổ. Bảo tàng này được dành riêng cho phụ nữ Việt Nam. Bảo tàng mở cửa phục vụ công chúng từ năm 1995 và chỉnh sửa lại hệ thống trưng bày thường xuyên từ 2006 - 2010 nhằm tôn vinh phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh hệ thống trưng bày thường xuyên, Bảo tàng còn tổ chức nhiều cuộc trưng bày chuyên đề với phương pháp tiếp cận mới là nhân học xã hội, phản ánh sự phát triển và thay đổi của xã hội đương đại bằng các dự án hướng tới nhiều nhóm đối tượng khác nhau, đặc biệt là những phụ nữ, trẻ em bị thiệt thòi, yếu thế. Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam được thành lập năm 1987, trực thuộc Hội LHPN Việt Nam với chức năng nghiên cứu, lưu giữ bảo quản, trưng bày những di sản vật thể, phi vật thể về lịch sử, văn hóa của phụ nữ Việt Nam. Từ khi khánh thành năm 1995, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam đã trưng bày thành công rất nhiều triển lãm phục vụ hàng trăm nghìn khách trong nước và quốc tế mỗi năm.
Nuôi dạy con cái hoặc làm cha mẹ là quá trình thúc đẩy và hỗ trợ sự phát triển về thể chất, cảm xúc, xã hội và trí tuệ của trẻ từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành. Nuôi dạy con cái đề cập đến những rắc rối của việc nuôi dạy một đứa trẻ và không chỉ dành riêng cho mối quan hệ cha mẹ sinh học. Người chăm sóc phổ biến nhất trong việc nuôi dạy con cái là cha hoặc mẹ, hoặc cả hai, cha mẹ ruột của đứa trẻ đang được đề cập, mặc dù người thay thế có thể là anh chị em ruột, cha mẹ kế, ông bà, người giám hộ hợp pháp, dì, chú hoặc thành viên khác trong gia đình, hoặc một người bạn của gia đình. Chính phủ và xã hội cũng có thể có một vai trò trong việc nuôi dạy trẻ em. Trong nhiều trường hợp, trẻ mồ côi hoặc bị bỏ rơi nhận được sự chăm sóc của cha mẹ từ các mối quan hệ không phải cha mẹ hoặc không có quan hệ huyết thống. Những người khác có thể được nhận nuôi, lớn lên trong sự chăm sóc nuôi dưỡng, hoặc được đưa vào trại trẻ mồ côi. Kỹ năng làm cha mẹ khác nhau, và cha mẹ hoặc người thay thế có kỹ năng làm cha mẹ tốt có thể được gọi là cha mẹ tốt. Phong cách làm cha mẹ thay đổi theo khoảng thời gian lịch sử, chủng tộc / sắc tộc, tầng lớp xã hội và các đặc điểm xã hội khác. Ngoài ra, nghiên cứu hỗ trợ rằng lịch sử của cha mẹ cả về các chấp trước về chất lượng khác nhau cũng như tâm lý của cha mẹ, đặc biệt là sau những trải nghiệm bất lợi, có thể ảnh hưởng mạnh đến sự nhạy cảm của cha mẹ và kết quả của con cái. Tầng lớp xã hội, sự giàu có, văn hóa và thu nhập có tác động rất mạnh mẽ đến những phương pháp nuôi dạy con cái mà cha mẹ sử dụng. Các giá trị văn hóa đóng một vai trò quan trọng trong cách cha mẹ nuôi dạy con cái họ. Tuy nhiên, việc nuôi dạy con cái luôn phát triển; khi thời đại, tập tục văn hóa, chuẩn mực xã hội và truyền thống thay đổi. Trong tâm lý học, lý thuyết đầu tư của cha mẹ cho thấy rằng sự khác biệt cơ bản giữa nam và nữ trong đầu tư của cha mẹ có ý nghĩa thích nghi lớn và dẫn đến sự khác biệt về giới trong xu hướng và sở thích giao phối. Tầng lớp xã hội của một gia đình đóng một vai trò lớn trong các cơ hội và nguồn lực sẽ có sẵn cho một đứa trẻ. Trẻ em ở tầng lớp lao động thường lớn lên trong tình trạng bất lợi với việc đi học, cộng đồng và mức độ quan tâm của phụ huynh so với những người thuộc tầng lớp trung lưu hoặc thượng lưu . Ngoài ra, các gia đình thuộc tầng lớp lao động thấp hơn không có được mạng lưới mà tầng lớp trung lưu và thượng lưu thực hiện thông qua các thành viên gia đình, bạn bè và các cá nhân hoặc nhóm cộng đồng cũng như các chuyên gia hoặc chuyên gia khác nhau. Một phong cách làm cha mẹ là biểu thị của khí hậu cảm xúc tổng thể trong nhà. Nhà tâm lý học phát triển Diana Baumrind đã xác định ba phong cách nuôi dạy con chính trong sự phát triển sớm của trẻ: độc tài, ra lệnh và cho phép (chiều chuộng). Số kiểu nuôi dạy con này sau đó đã được mở rộng thành bốn, để bao gồm một kiểu: không quan tâm. Một mặt, bốn phong cách này liên quan đến sự kết hợp giữa chấp nhận và đáp ứng, và lần lượt, liên quan đến nhu cầu và kiểm soát. Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng cách nuôi dạy con cái có liên quan đáng kể đến sức khỏe và tinh thần sau này của trẻ. Cụ thể, nuôi dạy con cái có thẩm quyền liên quan tích cực đến sức khỏe tâm thần và sự hài lòng với cuộc sống, và nuôi dạy con cái độc đoán có liên quan tiêu cực đến các biến số này. Với cách nuôi dạy con cái độc tài và chiều chuộng ở hai đầu đối diện của phổ dạy con, hầu hết các mô hình nuôi dạy con hiện đại thông thường rơi vào đâu đó ở giữa.
Nuôi dạy con cái
Nuôi dạy con cái hoặc làm cha mẹ là quá trình thúc đẩy và hỗ trợ sự phát triển về thể chất, cảm xúc, xã hội và trí tuệ của trẻ từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành. Nuôi dạy con cái đề cập đến những rắc rối của việc nuôi dạy một đứa trẻ và không chỉ dành riêng cho mối quan hệ cha mẹ sinh học. Người chăm sóc phổ biến nhất trong việc nuôi dạy con cái là cha hoặc mẹ, hoặc cả hai, cha mẹ ruột của đứa trẻ đang được đề cập, mặc dù người thay thế có thể là anh chị em ruột, cha mẹ kế, ông bà, người giám hộ hợp pháp, dì, chú hoặc thành viên khác trong gia đình, hoặc một người bạn của gia đình. Chính phủ và xã hội cũng có thể có một vai trò trong việc nuôi dạy trẻ em. Trong nhiều trường hợp, trẻ mồ côi hoặc bị bỏ rơi nhận được sự chăm sóc của cha mẹ từ các mối quan hệ không phải cha mẹ hoặc không có quan hệ huyết thống. Những người khác có thể được nhận nuôi, lớn lên trong sự chăm sóc nuôi dưỡng, hoặc được đưa vào trại trẻ mồ côi.
Hồi giáo Shia được dựa theo kinh Quran và thông điệp của nhà tiên tri Muhammad chứng thực trong hadith được ghi nhận bởi Shia, và các quyển sách được coi là thiêng liêng đối với Shia (Nahj al-Balagha). Ngược lại với các dòng Hồi giáo khác, Shia tin rằng chỉ có Chúa trời có quyền chọn người đại diện để bảo vệ Hồi Giáo, Quran và sharia. Do đó, Shia xem Ali, con trai nuôi của Muhammad, được xem là người được kính trọng và được bổ nhiệm thiêng liêng, là người kế thừa hơp pháp của Muhammad, và là Imam đầu tiên. Trong nhiều thế kỷ sau khi Muhammad chết, Shia đã mở rộng học thuyết “Imami” này đối với gia đình Muhammad, Ahl al-Bayt (“the People of the House”), và những cá nhân nhất định trong số hậu duệ của ông, được gọi là Imams, những người mà họ tin rằng có quyền về tinh thần và chính trị trong cộng đồng, không thể sai lầm, và những đặc điểm gần như thần thánh khác. Mặc dù có vô số phân nhánh của Shia, Hồi giáo Shia hiện đại được chia thành 3 nhóm chính: Twelver, Ismaili và Zaidiyyah. Twelver Shia (Ithnā’ashariyyah) là chi nhánh lớn nhất của Hồi giáo Shia, và từ Shia thường được dùng ngầm định để chỉ Twelvers Shia. Tính đến năm 2009 người Hồi giáo Shia chiếm 10-13% dân số Hồi giáo trên thế giới, người Shia gồm 11-14% dân số Hồi giáo ở khu vực Trung Đông-Bắc Phi, và từ 68% đến 80% của người Shia sinh sống ở bốn nước: Iran, Pakistan, Ấn Độ và Iraq. Từ Shia có nghĩa là “giáo phái” hay “phe”. Các từ số nhiều là شيع, và số ít là شائع, Shaih, từ được Winston Churchill sử dụng trong một cuộc thảo luận về các hình thức tôn giáo của Iraq ngày nay. Hiện nay, từ Shia dùng để chỉ những người Hồi giáo tin vào sự lãnh đạo của cộng đồng thời hậu Muhammad thuộc về Ali và những người kế nhiệm ông. Nawbakhti cho rằng Shia dùng để chỉ một nhóm người Hồi giáo mà tại thời điểm Mohammad và sau đó coi Ali là Imam và Caliph. Al-Shahrastani cho rằng Shia đề cập đến những người tin rằng Ali được Mohammad chỉ định như là người thừa kế, Imam và Caliph. Người Hồi giáo Shia tin rằng chỉ là một vị tiên tri được Thiên Chúa chỉ định, chỉ có Chúa mới có đặc quyền bổ nhiệm người kế vị tiên tri của mình. Họ tin rằng Thiên Chúa đã chọn Ali là người kế nhiệm của Muhammad, làm khalip đầu tiên (Khalifa, người đứng đầu nhà nước) của đạo Hồi. Những người Hồi giáo Shia tin rằng, Mohammad chỉ định Ali làm người kế nhiệm theo lệnh của Thiên Chúa. Ali là em họ đầu tiên của Muhammad và là người thân cận nhất của ông. Sau cuộc hành hương chia tay, Muhammad đã ra lệnh tập hợp người Hồi giáo tại hồ Khumm và đó là nơi người Hồi giáo Shia tin rằng Muhammad đề cử Ali là người kế nhiệm ông. Buổi diễn thuyết tại hồ Khumm được thuật lại vào ngày 18 của Dhu al-Hijjah 10 AH theo lịch Hồi giáo (10 tháng 3 632 AD) tại một nơi gọi là Ghadir Khumm, nằm gần thành phố al-Juhfah, Ả Rập Xê Út, trong đó Muhammad nói:. Hãy suy ngẫm Kinh Qur’an và hiểu chất thơ của nó. Hãy nhìn vào những câu rõ ràng và không chạy theo các đoạn không rõ ràng, vì ngoài Allah, không ai có thể giải thích cho bạn những cảnh báo của nó và bí ẩn của nó, cũng không phải bất cứ ai phải làm rõ những ý nghĩa của nó, hơn là so với việc mà tôi đã nắm tay Thiên Chúa, đặt nó bên cạnh bản thân mình, đấng tối cao mà tôi thông báo cho bạn rằng bất cứ ai đi theo tôi (Mawla )), thì Ali cũng là chủ của người đó (Mawla); và Ali là Ibn Abi Talib của tôi, anh trai của tôi, người thi hành ý muốn của tôi (Wasiyyi), người được bổ nhiệm làm người giám hộ và người lãnh đạo của bạn do Allah hùng mạnh gửi xuống cho tôi. Theo thống kê, 10-20% tín đồ Hồi giáo là người theo Shi’a, đến 200 triệu tín đồ Hồi giáo Shi’a trên toàn cầu năm 2009. Họ sống chủ yếu ở các quốc gia Iran, Iraq, Azerbaijan và Bahrain Họ chiếm 36,3% toàn bộ dân số địa phương và 38,6% dân số theo đạo Hồi ở Trung Đông. Hồi giáo Shia chiếm 30% dân số Lebanon, hơn 45% dân số Yemen, 30%-40% cư dân Kuwait (không có con số về những người không phải cư dân Kuwait), hơn 20% ở Thổ Nhĩ Kỳ, 10–20% dân số Pakistan, và 10-19% dân số Afghanistan. Ước tính số công dân Shia vào khoảng 2 – 4 triệu, chiếm khoảng 15% dân số địa phương. Các cộng đồng Shia đáng kể ở các vùng ven biển của Tây Sumatra và Aceh ở Indonesia (xem Tabuik). Sự hiện diện của người theo Shia là không đáng kể ở Đông Nam Á, nơi mà người theo đạo Hồi chủ yếu là Sunni. Cộng đồng Shia thiểu số đáng kể có mặt ờ Nigeria, hình thành kỷ nguyên hiện đại chuyển đổi thành phong trào Shia tập trung quanh các bang Kano và Sokoto. cũng có những cộng đồng dân cư nhỏ của các dòng Shia khác nhau, chủ yếu là những người di cư từ Nam Á trong thời kỳ thuộc địa như Khoja. Theo người Hồi giáo Shia, một trong những tồn tại trong việc ước tính dân số người Shia là trừ khi Shia hình thành một cộng đồng thiểu số đáng kể ở các quốc gia Hồi Giáo, toàn bộ dân số thường chỉ liệt kê là Sunni. Tuy nhiên, việc tính loại trừ là không đúng thực chất, và không chính xác đối với kích thức của mỗi dòng. Ví dụ, 1926 sự trỗi dây của Nhà Saud ở Ả Rập tạo ra phân biệt đối xử với Shia. Lịch sử quan hệ giữa Sunni-Shia từng diễn ra bạo lực, kể từ khi sự phát triển cạnh tranh của hai nhánh này. Quân sự được thành lập và giữ quyền kiểm soát chính phủ Umayyad, nhiều lãnh đạo Sunni đã đàn áp Shia như là mối đe dọa về cả quyền lực chính trị và tôn giáo. Các lãnh tụ Sunni dưới Umayyad tìm cách cách ly nhóm thiểu số Shia, và sau đó Abbasid trở mặt với đồng minh Shia của họ và cầm tù, đàn áp, và giết họ. Sự đàn áp Shia diễn ra trong suốt lịch sử của người đồng tôn giáo Sunni từng được thể hiện qua các tàn bạo và diệt chủng. Chiếm chỉ khoảng 10–15% toàn dân số Hồi giáo, như Shia vẫn là cộng đồng chịu thiệt thòi cho đến ngày nay tại nhiều quốc gia đa số là người Hồi giáo Sunni Ả Rập mà không có quyền hành tôn giáo và tổ chức của họ. Vào nhiều thời điểm khác nhau các nhóm Shia phải đối mặt với sự đàn áp. Theo Jalal Al-e-Ahmad, “Sultan Selim I đã thực hiện những điều này không lâu sau khi ông thông báo giết hại một người Shiite sẽ có thưởng như giết chết 70 người Công giáo.” Năm 1801, quân đội Al Saud-Wahhabi đã tấn công và sa thải Karbala, một đền thờ Shia ở miền đông Iraq thờ cái chết của Husayn. Tháng 3 năm 2011, chính phủ Malaysia đã tuyên bố Shia là “tà giáo” và cấm họ thúc đẩy niềm tin của họ đối với các người Hồi giáo khác, nhưng để họ tự do thực hiện niềm tin của họ.
Hồi giáo Shia
Hồi giáo Shia (tiếng Ả Rập: شيعة‎ Shī‘ah, thường đọc là Shi a), là giáo phái lớn thứ hai của đạo Hồi, sau Hồi giáo Sunni. "Shia" là tên rút gọn của một thành ngữ lịch sử Shī‘atu ‘Alī (شيعة علي), nghĩa là người theo Ali, con rể của Muhammad, người được người Shia tin là người kế tục Muhammad. Hồi giáo Shia được dựa theo kinh Quran và thông điệp của nhà tiên tri Muhammad chứng thực trong hadith được ghi nhận bởi Shia, và các quyển sách được coi là thiêng liêng đối với Shia (Nahj al-Balagha). Ngược lại với các dòng Hồi giáo khác, Shia tin rằng chỉ có Chúa trời có quyền chọn người đại diện để bảo vệ Hồi Giáo, Quran và sharia. Do đó, Shia xem Ali, con trai nuôi của Muhammad, được xem là người được kính trọng và được bổ nhiệm thiêng liêng, là người kế thừa hơp pháp của Muhammad, và là Imam đầu tiên. Trong nhiều thế kỷ sau khi Muhammad chết, Shia đã mở rộng học thuyết "Imami" này đối với gia đình Muhammad, Ahl al-Bayt ("the People of the House"), và những cá nhân nhất định trong số hậu duệ của ông, được gọi là Imams, những người mà họ tin rằng có quyền về tinh thần và chính trị trong cộng đồng, không thể sai lầm, và những đặc điểm gần như thần thánh khác.
Chỉ số vượt khó trong tiếng anh là Adversity Quotient, viết tắt là AQ, là chỉ số đo khả năng đối xử hay quản lý nghịch cảnh, khó khăn và căng thẳng. AQ được coi là một trong những chỉ số định lượng các phẩm chất tạo nên thành công của con người bên cạnh chỉ số thông minh IQ và chỉ số cảm xúc EQ. AQ được coi là một trong những chỉ số định lượng các phẩm chất tạo nên thành công của con người bên cạnh chỉ số IQ và EQ. Đã từ lâu, người ta luôn tìm kiếm người tài dựa trên chỉ số IQ vì tin rằng người có IQ cao sẽ có xác suất thành công cao hơn những người khác. Thế nhưng, các nghiên cứu khoa học lại cho thấy: 25% số người thành công là có chỉ số IQ cao hơn trung bình. Vậy, chỉ số thông minh IQ không giải thích được sự thành công vượt trội của 75% số người còn lại. “Chỉ số thông minh cảm xúc EQ mới là yếu tố quyết định sự thành công trong cuộc sống và công việc của mỗi chúng ta”. “Rất nhiều người tốt về cảm xúc, đẹp về nhân cách (có chỉ số EQ cao) nhưng họ vẫn không thành công về công việc và phải trải qua không ít bất hạnh trong cuộc sống.”. Tác giả Paul G.Stoltz cuốn sách “A.Q Chỉ Số Vượt Khó – Biến Khó Khăn Thành Cơ Hội” nói rằng:. “Người tốt vẫn có thể là người không bền lòng theo đuổi mục đích. Dù biết đó là mục đích cao đẹp nhưng họ không đủ can trường để đi tới. Bởi vì, bao giờ cũng vậy, mục đích cao đẹp luôn đi kèm với những thử thách cực kỳ khó mà chỉ ai dám vượt khó mới có thể tới đích”. Những người có chỉ số AQ thấp thường dễ xúc động và dễ buông xuôi trước nhiều vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Còn những người có chỉ số AQ cao sẽ ít đầu hàng và dễ trở thành lãnh đạo trong tương lai hơn. Xã hội ngày nay có rất nhiều vấn đề và thách thức mà mọi người thường xuyên phải đối mặt và giải quyết. Nếu chỉ số vượt khó của bản thân không cao thì bạn dễ dàng bỏ cuộc và khó thành công trong cuộc đời này. Paul G.Stoltz đã chia ra 3 dạng người dựa trên cách thức họ đối diện với những khó khăn, thử thách trong cuộc đời. Kết quả khảo sát từ hơn 150.000 lãnh đạo doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau trên thế giới như sau:. Là những người dễ buông xuôi, dễ nản chí và dễ dàng từ bỏ việc theo đuổi 1 công việc, dự định hay mục đích sống cao đẹp khi gặp khó khăn. Và, kết quả thường là đứt gánh giữa đường, nhận thất bại hoặc kết quả không như ý. Là những người chịu khó, chăm chỉ làm việc, có ý thức phấn đấu, rèn luyện bản thân và ý chí quyết tâm. Họ thường làm nhiều thứ khác nhau để đạt tới 1 mức độ nhất định nào đó. Tuy nhiên, họ lại dễ hài lòng và thoả hiệp với bản thân vì thấy như vậy là đủ. Họ luôn học hỏi, rèn luyện bản thân, nỗ lực cố gắng để đạt tới mức độ tốt nhất có thể trong khả năng của họ. Họ cũng thường là kiểu người không chấp nhận 1 tình thế có sẵn, sẽ cố gắng tìm cách xoay xở để cải thiện nó tốt hơn. Có 3 dạng người dựa trên cách thức họ đối diện với những khó khăn, thử thách trong cuộc đời. Chỉ số vượt khó AQ có thể đo mức độ hoài bão, nỗ lực, sự sáng tạo, năng lượng, sức khoẻ lý tính, xúc cảm và hạnh phúc của một người. Ông cho rằng chỉ số đo khả năng vượt qua những điều kiện khó khăn là yếu tố lớn nhất trong những phẩm chất tạo nên bản lĩnh và thành công cho mỗi người. Chỉ số vượt khó AQ chính là chỉ số quyết định sự thành công của một người. May mắn thay, chỉ số AQ là đại lượng có thể cải thiện và nâng cấp nhờ quá trình rèn luyện. Chỉ số vượt khó AQ chính là chỉ số quyết định sự thành công của một người. Chỉ số vượt khó AQ là một loại trí tuệ rất đáng tự hào mà tất cả mọi người trên thế giới đã và đang sở hữu. Tuy nhiên, không phải ai cũng đủ kiến thức để khám phá ra và đủ niềm tin và kiên trì để tự rèn luyện. Hiểu rõ mọi điều về bản thân mình đặc biệt là khám phá cụ thể thông tin về chỉ số vượt khó AQ, chỉ số thông minh IQ, chỉ số cảm xúc EQ, … ngay từ trong hệ gen của chính mình. Để từ đấy, bạn sẽ được đội ngũ chuyên viên tư vấn nhằm cải thiện và nâng cao các chỉ số trên qua luyện tập, giúp bạn đạt được những thành công vượt trội trong cuộc sống. Nội dung chínhChỉ số vượt khó là gì?IQ, EQ hay AQ, đâu mới là chỉ số quyết định thành. Tầm nhìn và sứ mệnh của chúng tôi chỉ có thể đạt được khi tất cả cán bộ công nhân viên của CircleDNA gắn chặt cuộc sống và công việc của mình với những giá trị gắn liền với đạo đức, trách nhiệm với con người, xã hội và môi trường.
Chỉ số vượt khó
Chỉ số vượt khó (hay còn gọi là chỉ số nghịch cảnh, tiếng Anh: adversity quotient, viết tắt AQ) là điểm số đo lường khả năng của một người đối phó với những nghịch cảnh trong cuộc sống của mình. Theo W Hidayat, AQ cũng có ảnh hưởng đến khả năng hiểu toán học của học sinh. Do đó, người ta thường gọi là khả năng phục hồi khoa học. Thuật ngữ này được Paul Stoltz đặt ra vào năm 1997 trong cuốn sách Adversity Quotient: Turning Obstacles Into Opportunities. Để định lượng chỉ số nghịch cảnh, Stoltz đã phát triển một phương pháp đánh giá được gọi là Hồ sơ Phản ứng với Nghịch cảnh (ARP). Chỉ số AQ là một trong những chỉ số có thể xảy ra về sự thành công trong cuộc sống của một người và cũng chủ yếu hữu ích để dự đoán thái độ tâm lý, căng thẳng tinh thần, sự kiên trì, tuổi thọ, học tập và phản hồi đối với các thay đổi trong môi trường.
Chủ nghĩa vị chủng văn hóa và thuyết tương đối văn hóaTrong một nền văn hóa tồn tại nhiều tiểu văn hóa và trên Trái Đất của chúng ta lại có rất nhiều nền văn hóa. Văn hóa không chỉ là cơ sở đối với nhận thức của con người về thế giới mà còn đối với vấn đề đánh giá đúng, sai; tốt, xấu.Do vậy một vấn đề đương nhiên phải đặt ra là cá nhân đánh giá và phản ứng trước những mẫu văn hóa khác biệt thậm chí rất khác biệt với mẫu văn hóa của mình như thế nào. Các nhà xã hội học phân biệt hai cách ứng xử đối với những mẫu văn hóa khác:Chủ nghĩa vị chủng (hay còn gọi là chủ nghĩa duy chủng tộc, chủ nghĩa duy dân tộc, tiếng Anh: ethno-centrism): là thông lệ đánh giá văn hóa khác bằng tiêu chuẩn văn hóa của chính mình. Khuynh hướng vị chủng là do một cá nhân đã gắn bó mật thiết với các yếu tố văn hóa của mình. Tuy nhiên điều này tạo ra sự đánh giá bất công hoặc sai lệch một mẫu văn hóa khác bởi lẽ những gì được đánh giá có ý nghĩa khác nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Chủ nghĩa vị chủng cũng có hai chiều, nếu một cá nhân đánh giá một nền văn hóa, một mẫu văn hóa khác theo cách tiêu cực thì ngược lại, cá nhân đó cũng có thể bị đánh giá như thế. Các nhà xã hội học, nhân chủng học thường có quan điểm phản đối thuyết vị chủng vì đó là cách phản ứng tiêu cực và bất công, sai lệch đối với những nền văn hóa, mẫu văn hóa khác nhau.Thuyết tương đối văn hóa (tiếng Anh: cultural relativism): là thông lệ đánh giá văn hóa khác bằng tiêu chuẩn của chính nó hay một cách nói khác là đánh giá văn hóa khác trong cảnh quan văn hóa của chính nó. Đánh giá theo cách này có thể hạn chế hoặc loại trừ được những bất công, sai lệch cũng như phản ứng tiêu cực trước văn hóa khác biệt nhưng lại là thái độ khó đạt được. Muốn đánh giá văn hóa khác bằng tiêu chuẩn của chính bản thân nó, cá nhân phải hiểu được giá trị, tiêu chuẩn của văn hóa khác cũng như không bị lệ thuộc bởi những giá trị, tiêu chuẩn của nền văn hóa của chính mình. Thuyết này cũng nhấn mạnh rằng các bối cảnh xã hội khác nhau làm nảy sinh các giá trị và tiêu chuẩn khác nhau. Tuy vậy, điều này không có nghĩa là chúng ta chấp nhận một cách không điều kiện các mẫu văn hóa khác mà đánh giá một cách không định kiến hoặc thiên vị trong bối cảnh văn hóa của chúng. Thuyết tương đối văn hóa đang được hỗ trợ bởi sự phát triển của công nghệ, truyền thông khiến cho sự phổ biến văn hóa nhanh chóng hơn cũng như nhu cầu tìm hiểu văn hóa khác tăng lên. Một trường hợp của thuyết tương đối văn hóa là chủ nghĩa duy ngoại (xeno-centrism), đó là sự tin rằng những gì (sản phẩm, kiểu cách, ý tưởng.) thuộc về nền văn hóa của bản thân mình đều ở dưới tầm so với những thứ tương tự nhưng ở nền văn hóa mà nó phát tích. Ví dụ: người Mỹ tin rằng đồ điện tử của họ không tốt bằng của Nhật bản, người Việt nam tin rằng dầu gội đầu sản xuất tại Việt nam không tốt bằng của châu Âu mặc dù cũng do chính hãng đó sản xuất.Mô hình lý thuyết nghiên cứu văn hóaCó hai mô hình xã hội học chính được sử dụng để nghiên cứu văn hóa:Mô hình cấu trúc chức năng: dựa trên quan điểm coi văn hóa như một hệ thống hợp nhất cao và tương đối ổn định qua thời gian. Trong hệ thống này, mỗi yếu tố hay đặc điểm văn hóa được hiểu theo nghĩa sự đóng góp chức năng đối với hoạt động và duy trì văn hóa nói chung. Nhìn chung, mô hình này chú trọng tính ổn định của văn hóa và coi các giá trị là nền tảng của hệ thống văn hóa. Trong một chừng mực nào đó, thuyết cấu trúc chức năng dẫn đến chủ nghĩa duy tâm triết học, coi các quan điểm về giá trị là cơ sở thực tại của con người. Mô hình này cho rằng hệ thống văn hóa phải được sắp xếp để có thể đáp ứng nhu cầu của con người và vì thế nên phải có nhiều điểm chung dẫn đến tính phổ biến văn hóa. Đồng thời có nhiều cách đáp ứng các nhu cầu của con người nên các nền văn hóa trên thế giới trở nên đa dạng. Hạn chế của mô hình cấu trúc chức năng là khuynh hướng đề cao các mẫu văn hóa thống trị của một xã hội mà ít chú ý đến tính đa dạng văn hóa trong đó, đặc biệt là trong trường hợp khác biệt văn hóa xuất phát từ sự bất công xã hội.Mô hình mâu thuẫn xã hội: mô hình này xem xét văn hóa không chỉ là một hệ thống hợp nhất cao mà còn tính đến các mâu thuẫn xã hội do sự bất bình đẳng giữa các nhóm trong xã hội tạo ra. Mô hình này không coi một số giá trị văn hóa như là đương nhiên phải chấp nhận mà có phê phán tại sao những giá trị ấy đang tồn tại. Các nhà xã hội học áp dụng mô hình này, nhất là những ai chịu ảnh hưởng của Karl Marx, lập luận rằng giá trị bản thân chúng do các yếu tố văn hóa khác định hình - nhất là hệ thống sản xuất của một nền văn hóa. Theo nghĩa này, mô hình mâu thuẫn xã hội liên quan đến học thuyết chủ nghĩa duy vật triết học. Mô hình duy vật này tương phản với thuyết duy tâm của mô hình cấu trúc chức năng. Mô hình mâu thuẫn xã hội có ưu điểm là cho thấy một hệ thống văn hóa không đề cập đến nhu cầu của các thành viên một cách bình đẳng với nhau và cho thấy các yếu tố văn hóa dùng để duy trì sự thống trị của nhóm người này đối với nhóm người khác. Một hậu quả của sự bất bình đẳng này là hệ thống văn hóa tạo ra tác động thúc đẩy sự thay đổi. Hạn chế của mô hình mâu thuẫn xã hội là nhấn mạnh đến sự chia rẽ văn hóa, ít chú ý đến các biện pháp trong đó mô hình văn hóa hợp nhất mọi thành viên trong xã hội. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc áp dụng cả hai mô hình mâu thuẫn xã hội và cấu trúc chức năng để hiểu biết văn hóa đầy đủ hơn.Ngoài ra còn có hai mô hình lý thuyết khác được sử dụng để phân tích văn hóa trong đó nhấn mạnh văn hóa được hình thành trong thế giới tự nhiên vì thế được gọi là phân tích văn hóa theo chủ nghĩa tự nhiên:Mô hình sinh thái học văn hóa: mô hình này tìm hiểu mối tương quan giữa văn hóa và môi trường tự nhiên, một bổ sung cho cái mà mô hình mâu thuẫn xã hội cũng như cấu trúc chức năng ít coi trọng. Nó đưa ra các liên kết giữa những mẫu văn hóa với giới hạn mà con người gặp phải trong môi trường tự nhiên ví dụ như đặc điểm khí hậu, tính khả dụng của nước, lương thực và các tài nguyên thiên nhiên khác. Tuy vậy mô hình có hạn chế ở chỗ môi trường tự nhiên hiếm khi định hình các mẫu văn hóa một cách trực tiếp mà văn hóa và tự nhiên tương tác với nhau. Mặt khác, các yếu tố văn hóa liên kết với tự nhiên một cách rất không đồng đều về mức độ.Mô hình sinh vật xã hội học: là mô hình lý thuyết tìm cách giải thích các mẫu văn hóa như là kết quả của các nguyên nhân sinh học. Mô hình này được phát triển trên cơ sở thuyết tiến hóa của Charles Darwin áp dụng cho loài người. Mặc dù mô hình này có thể cung cấp những hiểu biết sâu sắc về cội nguồn sinh học của một số mẫu văn hóa, nhất là tính phổ biến văn hóa nhưng nó hiện nay nó đang bị hoài nghi và gây ra nhiều tranh cãi. Trong lịch sử, thực tế sinh học đã bị lạm dụng để biện minh cho việc một chủng tộc nào đó phải được đặt ở vị trí cao hơn trong xã hội như Đức Quốc xã đã làm. Chính vì thế mô hình sinh vật học xã hội bị hoài nghi sẽ dẫn đến việc thực hiện điều tương tự. Ngoài ra mô hình này cũng dễ dẫn đến những thành kiến về giới tính mặc dù thành kiến về giới tính không chỉ dựa trên sự khác nhau sinh học giữa nam và nữ mà đúng hơn là dựa trên sự khẳng định rằng nam dù sao đi nữa cũng tốt hơn hay có giá trị hơn nữa.Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn. Trong một nền văn hóa tồn tại nhiều tiểu văn hóa và trên Trái Đất của chúng ta lại có rất nhiều nền văn hóa. Văn hóa không chỉ là cơ sở đối với nhận thức của con người về thế giới mà còn đối với vấn đề đánh giá đúng, sai; tốt, xấu.Do vậy một vấn đề đương nhiên phải đặt ra là cá nhân đánh giá và phản ứng trước những mẫu văn hóa khác biệt thậm chí rất khác biệt với mẫu văn hóa của mình như thế nào. Các nhà xã hội học phân biệt hai cách ứng xử đối với những mẫu văn hóa khác:Chủ nghĩa vị chủng (hay còn gọi là chủ nghĩa duy chủng tộc, chủ nghĩa duy dân tộc, tiếng Anh: ethno-centrism): là thông lệ đánh giá văn hóa khác bằng tiêu chuẩn văn hóa của chính mình. Khuynh hướng vị chủng là do một cá nhân đã gắn bó mật thiết với các yếu tố văn hóa của mình. Tuy nhiên điều này tạo ra sự đánh giá bất công hoặc sai lệch một mẫu văn hóa khác bởi lẽ những gì được đánh giá có ý nghĩa khác nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Chủ nghĩa vị chủng cũng có hai chiều, nếu một cá nhân đánh giá một nền văn hóa, một mẫu văn hóa khác theo cách tiêu cực thì ngược lại, cá nhân đó cũng có thể bị đánh giá như thế. Các nhà xã hội học, nhân chủng học thường có quan điểm phản đối thuyết vị chủng vì đó là cách phản ứng tiêu cực và bất công, sai lệch đối với những nền văn hóa, mẫu văn hóa khác nhau.Thuyết tương đối văn hóa (tiếng Anh: cultural relativism): là thông lệ đánh giá văn hóa khác bằng tiêu chuẩn của chính nó hay một cách nói khác là đánh giá văn hóa khác trong cảnh quan văn hóa của chính nó. Đánh giá theo cách này có thể hạn chế hoặc loại trừ được những bất công, sai lệch cũng như phản ứng tiêu cực trước văn hóa khác biệt nhưng lại là thái độ khó đạt được. Muốn đánh giá văn hóa khác bằng tiêu chuẩn của chính bản thân nó, cá nhân phải hiểu được giá trị, tiêu chuẩn của văn hóa khác cũng như không bị lệ thuộc bởi những giá trị, tiêu chuẩn của nền văn hóa của chính mình. Thuyết này cũng nhấn mạnh rằng các bối cảnh xã hội khác nhau làm nảy sinh các giá trị và tiêu chuẩn khác nhau. Tuy vậy, điều này không có nghĩa là chúng ta chấp nhận một cách không điều kiện các mẫu văn hóa khác mà đánh giá một cách không định kiến hoặc thiên vị trong bối cảnh văn hóa của chúng. Thuyết tương đối văn hóa đang được hỗ trợ bởi sự phát triển của công nghệ, truyền thông khiến cho sự phổ biến văn hóa nhanh chóng hơn cũng như nhu cầu tìm hiểu văn hóa khác tăng lên. Một trường hợp của thuyết tương đối văn hóa là chủ nghĩa duy ngoại (xeno-centrism), đó là sự tin rằng những gì (sản phẩm, kiểu cách, ý tưởng.) thuộc về nền văn hóa của bản thân mình đều ở dưới tầm so với những thứ tương tự nhưng ở nền văn hóa mà nó phát tích. Ví dụ: người Mỹ tin rằng đồ điện tử của họ không tốt bằng của Nhật bản, người Việt nam tin rằng dầu gội đầu sản xuất tại Việt nam không tốt bằng của châu Âu mặc dù cũng do chính hãng đó sản xuất.Mô hình lý thuyết nghiên cứu văn hóaCó hai mô hình xã hội học chính được sử dụng để nghiên cứu văn hóa:Mô hình cấu trúc chức năng: dựa trên quan điểm coi văn hóa như một hệ thống hợp nhất cao và tương đối ổn định qua thời gian. Trong hệ thống này, mỗi yếu tố hay đặc điểm văn hóa được hiểu theo nghĩa sự đóng góp chức năng đối với hoạt động và duy trì văn hóa nói chung. Nhìn chung, mô hình này chú trọng tính ổn định của văn hóa và coi các giá trị là nền tảng của hệ thống văn hóa. Trong một chừng mực nào đó, thuyết cấu trúc chức năng dẫn đến chủ nghĩa duy tâm triết học, coi các quan điểm về giá trị là cơ sở thực tại của con người. Mô hình này cho rằng hệ thống văn hóa phải được sắp xếp để có thể đáp ứng nhu cầu của con người và vì thế nên phải có nhiều điểm chung dẫn đến tính phổ biến văn hóa. Đồng thời có nhiều cách đáp ứng các nhu cầu của con người nên các nền văn hóa trên thế giới trở nên đa dạng. Hạn chế của mô hình cấu trúc chức năng là khuynh hướng đề cao các mẫu văn hóa thống trị của một xã hội mà ít chú ý đến tính đa dạng văn hóa trong đó, đặc biệt là trong trường hợp khác biệt văn hóa xuất phát từ sự bất công xã hội.Mô hình mâu thuẫn xã hội: mô hình này xem xét văn hóa không chỉ là một hệ thống hợp nhất cao mà còn tính đến các mâu thuẫn xã hội do sự bất bình đẳng giữa các nhóm trong xã hội tạo ra. Mô hình này không coi một số giá trị văn hóa như là đương nhiên phải chấp nhận mà có phê phán tại sao những giá trị ấy đang tồn tại. Các nhà xã hội học áp dụng mô hình này, nhất là những ai chịu ảnh hưởng của Karl Marx, lập luận rằng giá trị bản thân chúng do các yếu tố văn hóa khác định hình - nhất là hệ thống sản xuất của một nền văn hóa. Theo nghĩa này, mô hình mâu thuẫn xã hội liên quan đến học thuyết chủ nghĩa duy vật triết học. Mô hình duy vật này tương phản với thuyết duy tâm của mô hình cấu trúc chức năng. Mô hình mâu thuẫn xã hội có ưu điểm là cho thấy một hệ thống văn hóa không đề cập đến nhu cầu của các thành viên một cách bình đẳng với nhau và cho thấy các yếu tố văn hóa dùng để duy trì sự thống trị của nhóm người này đối với nhóm người khác. Một hậu quả của sự bất bình đẳng này là hệ thống văn hóa tạo ra tác động thúc đẩy sự thay đổi. Hạn chế của mô hình mâu thuẫn xã hội là nhấn mạnh đến sự chia rẽ văn hóa, ít chú ý đến các biện pháp trong đó mô hình văn hóa hợp nhất mọi thành viên trong xã hội. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc áp dụng cả hai mô hình mâu thuẫn xã hội và cấu trúc chức năng để hiểu biết văn hóa đầy đủ hơn.Ngoài ra còn có hai mô hình lý thuyết khác được sử dụng để phân tích văn hóa trong đó nhấn mạnh văn hóa được hình thành trong thế giới tự nhiên vì thế được gọi là phân tích văn hóa theo chủ nghĩa tự nhiên:Mô hình sinh thái học văn hóa: mô hình này tìm hiểu mối tương quan giữa văn hóa và môi trường tự nhiên, một bổ sung cho cái mà mô hình mâu thuẫn xã hội cũng như cấu trúc chức năng ít coi trọng. Nó đưa ra các liên kết giữa những mẫu văn hóa với giới hạn mà con người gặp phải trong môi trường tự nhiên ví dụ như đặc điểm khí hậu, tính khả dụng của nước, lương thực và các tài nguyên thiên nhiên khác.
Văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trong cuộc sống hằng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh. Các "trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận. Vì thế chúng ta nói một người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa. Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con người . Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật chất. Văn hóa liên kết với sự tiến hóa sinh học của loài người và nó là sản phẩm của người thông minh (Homo sapiens).
Công nghệ phần mềm trở thành khái niệm phổ biến trong thời đại công nghệ bùng nổ mạnh như vũ bão hiện nay. Nhiều bạn trẻ cũng lựa chọn học ngành công nghệ thông tin bởi đam mê và mong muốn có được mức lương hàng mơ ước trong tương lai. Vậy thực sự ngành đó là gì? Có nên học không? Học có khó không? Ra trường sẽ làm gì? Tất cả băn khoăn trên sẽ được giải đáp ngay trong bài viết của chúng tôi dưới đây. Công nghệ phần mềm (hay còn được gọi kỹ thuật phần mềm). Đó là những khái niệm trong ngành công nghệ thông tin, có sự liên quan mật thiết tới các khía cạnh của quá trình sản xuất phần mềm. Công nghệ được áp dụng một cách có hệ thống cho sự phát triển, sử dụng cũng như để bảo trì các phần mềm hệ thống. Công nghệ phần mềm được xem là một bộ phận của quy trình công nghệ hệ thống, có liên quan tới sự phát triển của các ứng dụng, hạ tầng, cơ sở dữ liệu và điều khiển hệ thống. Các kỹ sư phần mềm luôn phải tuân thủ quy định của hệ thống, tổ chức trong công việc cũng như khi sử dụng kỹ thuật, công cụ phù hợp với từng vấn đề, tài nguyên sẵn có. Khác với khoa học máy tính, công nghệ phần mềm không chỉ đề cập tới lý thuyết và các vấn đề cơ bản, mà nó còn tập trung vào hoạt động xây dựng chế tạo ra các sản phẩm phần mềm hữu ích với con người. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành kỹ thuật phần mềm đã vượt xa hơn hẳn những lý thuyết khoa học máy tính tích góp nhỏ giọt. Một điều dễ nhầm lẫn nữa là công nghệ phần mềm và công nghệ hệ thống. Trên thực tế, công nghệ hệ thống (kỹ nghệ hệ thống) lại liên quan tất cả khía cạnh của quá trình phát triển hệ thống dựa trên máy tính bao gồm: từ phần cứng, phần mềm, công nghệ xử lý,…. Có thể thấy, công nghệ phần mềm chỉ là một phần của công nghệ hệ thống, có liên quan tới việc phát triển hạ tầng phần mềm (software infrastructure), điều khiển, ứng dụng và các cơ sở dữ liệu hệ trong hệ thống. Kỹ sư phần mềm sẽ là người tạo ra những phần mềm, chương trình hoặc ứng dụng phần mềm. Còn kỹ sư hệ thống phải thực hiện công việc đặc tả hệ thống, thiết kế kiến trúc hệ thống, tích hợp và triển khai. Xã hội phát triển, kỹ thuật phần mềm trở thành một nghề hot được yêu thích hơn cả. Chạy theo thời gian, các công nghệ ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng phổ biến, kéo theo đó nhu cầu về việc làm, thu nhập và cánh cửa tương lai rộng mở với người học kỹ thuật phần mềm chỉ tăng chứ không giảm. Đó cũng là lý do khiến cho nhiều người yêu thích và lựa chọn ngành học kỹ thuật phần mềm/ứng dụng phần mềm. Công nghệ phần mềm là 1 trong 5 ngành hot nhất hiện nay. Với tính ứng dụng cao, nhu cầu thị trường lớn và không có dấu hiệu hạ nhiệt. Hầu hết cuộc sống thực tế xoay quanh chúng ta đều vẫn đang bị chi phối bởi các phần mềm, điển hình như: các phần mềm ứng dụng trên máy tính, điện thoại (word, excel, phần mềm quản lý công việc, quản lý trường học,…phần mềm thiết kế, phần mềm chụp- chỉnh sửa ảnh, mạng xã hội,…). Việc theo học, phát triển với công việc trong ngành công nghệ sẽ mở ra tương lai tươi sáng, tiềm năng dồi dào. Ngành công nghệ phần mềm được ứng dụng ở mọi lĩnh vực, khía cạnh trong cuộc sống. Bạn dễ dàng tìm được công việc ở bất kỳ lĩnh vực nào. Và nếu bạn là một lập trình viên giỏi, cơ hội việc làm và thăng tiến không giới hạn. Không chỉ trong nước mà còn có cơ hội sang quốc gia khác học tập, làm việc. Thậm chí, bạn không cần phải làm thuê, tự lập nhóm, làm freelancer hoặc thành lập công ty phần mềm riêng nếu bạn có đủ năng lực. Mức lương ngành công nghệ phần mềm cũng cực kỳ hấp dẫn, từ 8 – 50 triệu, thậm chí hơn tùy vào khả năng kinh nghiệm, cách thức làm việc. Do đó, bạn sẽ không cần lo lắng về cơ hội việc làm với thu nhập khi lựa chọn theo học ngành công nghệ phần mềm. Ngành kỹ thuật phần mềm đào tạo những kiến thức liên quan tới quy trình phát triển phần mềm chuyên nghiệp, tạo ra sản phẩm phần mềm chất lượng cao, đáp ứng tốt nhu cầu nghiệp vụ cụ thể trong nền sản xuất của xã hội. Kỹ sư phần mềm sẽ thực hiện mô tả, lập trình để máy tính từng bước thay thế con người trong điều khiển thiết bị phần cứng, tự động hóa các quy trình,, thao tác con người trong công việc, hoạt động, giải trí. Với sự hỗ trợ của phần mềm, con người được giải phóng khỏi công việc thủ công, tốn thời gian và nhàm chán, tối ưu sai sót, tối đa hiệu quả. Khi học, học viên sẽ được trang bị đầy đủ các kiến thức chuyên sâu về ngành công nghệ phần mềm. Bao gồm: quy trình phát triển phần mềm, ứng dụng phần mềm, hỗ trợ phát triển phần mềm khác. Cùng với đó, sinh viên cũng được trau dồi kỹ năng: thu thập, phân tích, thiết kế, lập trình, kiểm thử, vận hành, bảo trì các phần mềm đúng chuẩn. Thuật ngữ thì có vẻ khó hiểu, nhưng khi tiến hành học tập, bạn sẽ thấy chúng không khó như bạn tưởng. Vẫn biết rằng, mỗi ngành học sẽ có những khó khăn khác nhau, và suy nghĩ, trải nghiệm của từng người trong việc học cũng có sự khác biệt. Người học không ngừng học tập, cố gắng để chinh phục những mục tiêu cao hơn thì khó khăn mấy cũng khó thể vượt qua. Và việc học không còn quá khó khăn, bạn nên trang bị tốt cho mình:. Với những người chưa học, hết vẫn còn băn khoăn công việc của mình sau này. Bạn sẽ có rất nhiều lựa chọn vị trí việc làm khác nhau và có khả năng làm trong các khu công nghệ phần mềm. Dưới đây là một số công việc bạn có thể làm khi theo học chuyên ngành về công nghệ thông tin này:. UX designer: Vị trí này được nhiều người học xong ưa chuộng. UX designer hiểu được những thứ người dùng sử dụng, mô tả phần mềm tạo ra sẽ có sự tham gia của thành phần nào, tiếp cận ra sao. Ngoài ra, họ cũng sẽ mô tả được về giao diện, màn hình,… Người làm vị trí này thường có tính kiên nhẫn, tỉ mỉ, khả năng tưởng tượng phong phú. Kỹ sư thiết kế phần mềm: Việc thiết kế luôn đòi hỏi hiểu biết chuyên sâu về lập trình, product development, server. Do đó, thường công việc này sẽ được kiểm nghiệm bởi CTO hoặc Tech Lead. Ngoài ra, để làm công việc này, người học cần có khả năng giải quyết vấn đề ngắn – dài hạn, có trí tưởng tượng phong phú, hình dung tốt, giải quyết linh hoạt và nhanh nhạy với từng vấn đề. Như vậy, đòi hỏi người ở vị trí này phải hiểu được hai thứ tiếng: kỹ thuật – phi kỹ thuật. Họ cần biết mô tả được team dưới ngôn ngữ kỹ thuật, nghĩ ra hướng đi cho dự án, biết phân tích, đánh giá nhu cầu của các thành phần liên quan. Ngành công nghệ phần mềm không những hạ nhiệt mà ngày một rầm rộ, sầm uất hơn. Nếu bạn không chạy theo xu hướng, khó mà đứng vững được. Bởi vậy, nếu có đam mê, định hướng nghề nghiệp rõ ràng, hãy theo học chăm chỉ. Bạn sẽ nhanh chóng có thành công đối với ngành học này. Cũng như nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác, công nghệ được ứng dụng nhiều nhằm đem tới hiệu quả, năng suất cao. Trong đó có cả lĩnh vực phẫu thuật thẩm mỹ và làm đẹp. Vậy hiện có những công nghệ trong phẫu thuật thẩm mỹ nào tiêu biểu? Cùng tìm hiểu chi tiết trong. Chú trọng đầu tư vào mảng digital marketing đang được ưu tiên trong ngân sách đầu tư của doanh nghiệp, bên cạnh marketing truyền thống. Thực tế, digital marketing là cách thức tiếp thị sản phẩm bằng cách sử dụng một hay nhiều phương tiện kỹ thuật số trên mạng Internet. Chúng tôi xin tổng. Quản lý dự án thực hiện hiệu quả là yêu cầu quan trọng bởi nó đảm bảo giúp quá trình hoàn thành công việc được thực hiện tốt như yêu cầu. Với phần mềm hỗ trợ thích hợp, có thể thực hiện theo đúng quy trình sẽ giúp công việc được hoàn thành tốt như
Công nghệ phần mềm
Công Nghệ phần mềm (tiếng Anh: software engineering) là sự áp dụng một cách tiếp cận có hệ thống, có kỷ luật, và định lượng được cho việc phát triển, sử dụng và bảo trì phần mềm. Ngành học kỹ sư phần mềm bao trùm kiến thức, các công cụ, và các phương pháp cho việc định nghĩa yêu cầu phần mềm, và thực hiện các tác vụ thiết kế, xây dựng, kiểm thử (software testing), và bảo trì phần mềm. Kỹ sư phần mềm còn sử dụng kiến thức của các lĩnh vực như kỹ thuật máy tính, khoa học máy tính, quản lý, toán học, quản lý dự án, quản lý chất lượng, công thái học phần mềm (software ergonomics), và kỹ sư hệ thống (systems engineering). Khi máy tính chưa xuất hiện, thì việc lập trình chưa có khó khăn gì cả. Khi mới xuất hiện một vài chiếc máy tính chức năng kém thì việc lập trình bắt đầu gặp một vài khó khăn nho nhỏ. Giờ đây khi chúng ta có những chiếc máy tính khổng lồ thì những khó khăn ấy trở nên vô cùng lớn. Như vậy ngành công nghiệp điện tử không giải quyết khó khăn nào cả mà họ chỉ tạo thêm ra những khó khăn mới.
Khu kinh tế đặc biệt hay đặc khu kinh tế trong tiếng Anh gọi là: Special economic zone - SEZ. Đặc khu kinh tế là một khu vực trong một quốc gia tuân theo các qui định kinh tế riêng, khác với các khu vực khác của cùng một quốc gia. Các qui định của SEZ có xu hướng thuận lợi cho đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Các đơn vị hoạt động trong vùng thường sẽ được hưởng những ưu đãi về thuế. Khu kinh tế đặc biệt chỉ là một cụm danh từ chung để chỉ nhiều khu kinh tế có những tính chất đặc biệt hơn so với các khu vực khác. Có thể có một số cách tiếp cận khác về khu kinh tế đặc biệt như sau:. - Thứ nhất, “Khu kinh tế đặc biệt là một vùng đặc biệt có ranh giới địa lí xác định do cơ quan trung ương công bố công khai, được thành lập theo luật qui định”. “Khu kinh tế tự do và các kho hàng tự do là các hệ thống chế độ thuế, trong đó hàng hóa nước ngoài được lưu kho và sử dụng trong ranh giới các vùng lãnh thổ hay khu nhà xác định mà không chịu thuế quan, các sắc thuế cũng như không phải áp dụng các biện pháp chính sách kinh tế đối với các hàng hóa nêu trên và hàng hóa được lưu kho, sử dụng theo các điều kiện áp dụng cho hàng hóa xuất khẩu theo qui định của chế độ hải quan hàng xuất khẩu và theo trình tự qui định bởi Luật Thuế”. Hay có thể hiểu: Khu kinh tế đặc biệt là một vùng lãnh thổ có ranh giới xác định, ở đó mọi hoạt động sản xuất kinh doanh được áp dụng theo qui định của pháp luật khác hơn so với vùng lãnh thổ quốc gia còn lại”. Hay “một không gian kinh tế cụ thể có môi trường đầu tư, kinh doanh “thoáng hơn” những qui định chung áp dụng ở cấp độ toàn nền kinh tế quốc dân. - Thứ ba, khu kinh tế đặc biệt là vùng sinh thái kinh tế (Ecozones) với ý nghĩa là tạo ra một vùng đòi hỏi phải phát triển cân bằng sinh thái giữa nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch và vui chơi. Đây là một vùng lãnh thổ được xác định với cách thức quản lí hay hành chính đơn giản và tách biệt về các thủ tục hải quan (thường là khu vực tự do) với thủ tục hoạt động sản xuất kinh doanh được sắp xếp hợp lí và được cung cấp những điều kiện tự do hơn, hiệu quả hơn so với các vùng còn lại (ví dụ điều kiện đầu tư; thương mại, hải quan, thuế).
Đặc khu kinh tế
Đặc khu kinh tế, hay khu kinh tế đặc biệt (SEZ) là một khu vực được luật kinh doanh và thương mại khác với phần còn lại của đất nước. Các SEZ nằm trong biên giới quốc gia và mục tiêu bao gồm tăng cán cân thương mại, việc làm, tăng đầu tư, tạo việc làm và quản trị hiệu quả. Để khuyến khích các doanh nghiệp thành lập trong khu vực, các chính sách tài chính được đưa ra. Những chính sách này thường bao gồm đầu tư, thuế, giao dịch, hạn ngạch, hải quan và quy định lao động. Ngoài ra, các công ty có thể được cung cấp các ngày lễ thuế, khi thành lập chính họ trong một khu vực, họ được cấp một khoảng thời gian đánh thuế thấp hơn. Việc tạo ra các đặc khu kinh tế của nước sở tại có thể được thúc đẩy bởi mong muốn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Lợi ích mà một công ty đạt được khi ở trong một khu kinh tế đặc biệt có thể có nghĩa là nó có thể sản xuất và kinh doanh hàng hóa với giá thấp hơn, nhằm mục đích cạnh tranh toàn cầu.
Trên lá cờ của Uzbekistan có hình trăng lưỡi liềm, biểu tượng quen thuộc trên quốc kỳ của nhiều quốc gia Hồi giáo. Uzbekistan từng là thành viên của Liên bang Xô Viết, đã tuyên bố độc lập ngày 31/8/1991. Một lá quốc kỳ mới được đưa ra để thay thế lá quốc kỳ cũ của Cộng hòa XHCN Xô viết Uzbekistan (giống quốc kỳ Liên Xô cũ, nền màu đỏ, có hình sao và búa liềm trên góc trái nhưng có thêm vạch xanh nằm ngang ở giữa). Ngày 18/11/1991, tại phiên họp bất thường lần thứ 7 của Hội đồng Tối cao Uzbekistan, mẫu quốc kỳ của Cộng hòa Uzbekistan đã được chính thức phê duyệt. Quốc kỳ Uzbekistan có hình chữ nhật, chia làm ba phần bằng nhau theo chiều ngang, với các màu lần lượt từ trên xuống là xanh da trời, trắng và xanh lá cây. Ở góc bên trái phần màu xanh da trời có hình trăng lưỡi liềm và 12 ngôi sao xếp thành ba hàng, thứ tự lần lượt mỗi hàng là ba, bốn và năm ngôi sao. Ba phần của quốc kỳ Uzbekistan được phân chia với nhau bằng những dải màu đỏ mảnh hơn. Theo thông tin trên web của Đại sứ quán Uzbekistan tại Mỹ, lá quốc kỳ này là biểu tượng cho lịch sử của đất nước, thể hiện truyền thống dân tộc của Uzbekistan. Màu xanh da trời tượng trưng cho bầu trời và nước, là nguồn gốc của cuộc sống. Đây cũng là màu trên lá cờ của của hoàng đế Amir Timur, hay còn gọi là Tamerlane, vị anh hùng vĩ đại nhất trong lịch sử Uzbekistan, người đã đánh bại Đế chế Ottoman hùng mạnh vào thế kỷ 14. Dải sọc trắng ở giữa lá cờ biểu tượng của hòa bình, đạo đức và tinh thần trong sạch. Theo trang Advantour, màu trắng cũng là biểu tượng trong câu nói tiếng Uzbek thông thường "Ok yu", có nghĩa là "đi trong hòa bình". Dải màu xanh lá cây tượng trưng cho thiên nhiên, kỷ nguyên mới và đồng thời biểu tượng cho đạo Hồi. Bên cạnh đó, màu này cũng mang ý nghĩa bảo vệ thiên nhiên, hài hòa với phong trào Hòa bình xanh đang thịnh hành trên thế giới. Các sọc phân cách mảnh hơn màu đỏ tượng trưng cho năng lượng sống còn trong cơ thể, đồng thời thể hiện sự kết nối tư tưởng tinh khiết và cao quý của con người với bầu trời và trái đất. Mặt trăng lưỡi liềm là biểu tượng truyền thống lịch sử của Uzbekistan, cũng là biểu tượng cho sự tái lập của nước cộng hòa độc lập. Hình ảnh này là biểu tượng quen thuộc trên quốc kỳ của nhiều quốc gia Hồi giáo, như quốc gia láng giềng Turkmenistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Malaysia, Pakistan… Hồi giáo là tôn giáo chiếm trên 90% dân số Uzbekistan. Mười hai ngôi sao biểu tượng cho 12 tỉnh của đất nước và cũng đại diện cho 12 cung hoàng đạo hay tháng trong năm theo lịch mặt trời, bắt nguồn từ lễ Navruz - lễ đầu năm của cộng đồng người vùng Tiểu Á. Số 12 cũng đồng thời thể hiện 12 nguyên tắc nền móng trong quản lý nhà nước của Uzbekistan.
Quốc kỳ Uzbekistan
Quốc kỳ Uzbekistan (tiếng Uzbek: Oʻzbekiston davlat bayrogʻi) là lá cờ được phê duyệt tại phiên họp thứ VII của Hội đồng Tối cao Uzbekistan vào ngày 18 tháng 11 năm 1991. Quốc kỳ của Cộng hòa Uzbekistan đã được chính thức phê duyệt tại phiên họp bất thường VII của Hội đồng Tối cao Uzbekistan vào ngày 18 tháng 11 năm 1991. Quốc kỳ và biểu tượng đã miêu tả về lịch sử của Uzbekistan, thể hiện truyền thống dân tộc của Uzbekistan. Màu xanh da trời trên cùng của lá cờ là biểu tượng của bầu trời và của cuộc sống. Đó là hình ảnh tượng trưng cho tấm lòng, trí tuệ, lòng trung thực và vinh quang. Màu trắng tượng trưng cho hòa bình thánh thiện, hài hòa về ánh sáng Mặt Trời và ánh sáng từ vũ trụ. Xanh lá cây là thiên nhiên đổi mới. Trong một vài quốc gia, nó là biểu tượng của niềm hi vọng, tuổi trẻ và niềm vui. Viền đỏ ngăn cách giữa vạch xanh da trời và xanh lục là máu tượng trưng cho sức mạnh của cuộc sống. Mặt Trăng màu trắng là truyền thống lịch sử của Uzbekistan.
“Diamonds” là một bài hát được thu âm bởi nữ ca sĩ người Barbados Rihanna, và đồng thời cũng là đĩa đơn đầu tiên từ album phòng thu thứ bảy của cô, Unapologetic (2012). “Diamonds” được ra mắt vào ngày 26 tháng 9 năm 2012 trong chương trình chào buổi sáng Elvis Duran and the Morning Show và được phát hành kỹ thuật số vào ngày tiếp theo. Hãng ghi âm Def Jam đã gửi bài hát tới đài phát thanh đương đại của Mỹ vào ngày 2 tháng 10 năm 2012. Về phần nhạc, “Diamonds” là một bài hát thuộc thể loại pop ballad với chút ảnh hưởng của nhạc điện tử và soul. Bài hát có chủ đề về những mối quan hệ không lành mạnh, một chủ đề đã từng xuất hiện trong nhiều đĩa đơn trước đó của Rihanna. “Diamonds” nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ các nhà phê bình, một số người khen ngợi định hướng âm nhạc mới mẻ của Rihanna, trong khi một số người khác lại chỉ trích về việc sản xuất bài hát. “Diamonds” đã giành được ngôi vị quán quân trên bảng xếp hạng của mười tám quốc gia, trong đó có Anh, Áo, Canada, Đức, Na Uy, Pháp và Phần Lan, đồng thời cũng lọt được vào Top 10 trên bảng xếp hạng của hơn ba mươi quốc gia khác. “Diamonds” cũng đã dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ, trở thành đã đơn thứ mười hai của cô giành được ngôi vị này, giúp cho cô sánh ngang với Madonna và The Supremes ở vị trí thứ năm trong số những nghệ sĩ đạt được nhiều đĩa đơn quán quân nhất trên bảng xếp hạng này. Thêm vào đó, “Diamonds” cũng đạt được ngôi vị quán quân trên bảng xếp hạng Hot Dance Club Songs và Hot R&B/Hip Hop Songs của Mỹ, và vị trí á quân trên bảng xếp hạng Pop Songs. Video âm nhạc của bài hát được đạo diễn bởi người cộng tác lâu năm của Rihanna, Anthony Mandler, mô tả Rihanna trong bốn yếu tố: đất, không khí, nước và lửa. Trong video có khá nhiều cảnh quay “mơ mộng” và “kì lạ” về Rihanna như cảnh cô nằm một mình giữa một vùng biển sâu, điên cuồng chạy trốn khỏi một chiếc xe trên một tuyến đường cao tốc vắng vẻ, ở trên một sa mạc với một con ngựa đang chạy tự do hay đứng giữa một trận chiến đường phố. Video đã nhận được nhiều ý kiến tích cực từ các nhà phê bình, ca ngợi về các hình ảnh đã được sử dụng trong video. Có nhiều nhận xét cho rằng trong suốt video, cánh tay nhiều hình xăm của người đàn ông mà tay Rihanna nắm lấy trông khá giống với cánh tay của nam ca sĩ Chris Brown. “Diamonds” được quảng bá với các buổi biểu diễn trực tiếp trên cả hai bờ Đại Tây Dương, bao gồm cả trong chương trình Saturday Night Live và Victoria’s Secret Fashion Show tại Mỹ, đồng thời tại chương trình The X Factor mùa thứ chín tại Anh. Bản phối khí chính thức của “Diamonds”, có thêm phần rap của Kanye West, được phát hành ở Mỹ vào ngày 16 tháng 11 năm 2012. Năm 2012, nhạc sĩ và nhà sản xuất người Mỹ Benny Blanco đã bàn bạc với cặp đôi sản xuất người Na Uy StarGate trong phòng thu tại Thành phố New York để tạo ra những sản phẩm mới, trong đó có một bài hát dành cho Rihanna. Theo Blanco, họ bước vào phòng thu với ý tưởng về một bài hát mà “Kanye có thể thêm được phần Rap”. Họ thực hiện bản thu âm này đầu tiên, dựa theo nhịp điệu của bài hát. Trong một cuộc phỏng vấn với The New York Times, Mikkel S. Eriksen từ StarGate tiết lộ rằng Blanco đã lấy đi một đoạn hát của anh, thay đổi âm thanh điện tử và làm cho nó “bẩn hơn”. Sau đó, anh đã sử dụng âm sắc, cùng với phần mềm âm thanh để tạo ra những dòng nhạc đệm ma quái. Eriksen cũng miêu tả phong cách âm nhạc Blanco là “phi chính thống, anh ta gần như không bao giờ sử dụng keyboard mà toàn đưa những đoạn nhạc mẫu khác vào và thay đổi chúng đến một mức độ hoàn chỉnh của bài hát”. Ca sĩ-người viết bài hát người Úc Sia sau đó đã tham gia cùng với họ và sáng tác phần lời cho “Diamonds”. Sau khi bài hát được hoàn thành, họ muốn dành nó cho Rihanna, tuy nhiên, Blanco khá hoài nghi về phản ứng của cô đối với bài hát do nhịp điệu chậm rãi của nó. Sau khi StarGate chơi thử cho cô nghe, họ đã gọi cho Blanco từ Luân Đôn và nói với anh rằng cô thích bài hát này, “Cô ấy đã khá bất ngờ. Cô đã thử nó khoảng bảy lần liên tiếp. Đấy là bài hát mà cô ấy thích nhất”. Anh cũng nói rõ thêm rằng họ vẫn phải hoàn thành việc hòa âm và master bài hát với giọng hát của Rihanna vào những ngày cuối cùng trước khi phát hành, mà theo anh khá là “điên rồ và tuyệt vời”. Ngày 12 tháng 9 năm 2012, Def Jam France thông báo qua Twitter rằng Rihanna sẽ phát hành một đĩa đơn mới vào tuần lễ tiếp theo và album phòng thu thứ bảy của cô dự kiến sẽ được phát hành vào tháng 11 năm 2012. Tuy nhiên, câu tweet đã nhanh chóng bị xóa đi và thay vào đó là một câu khác rõ ràng hơn rằng “thông tin chi tiết sẽ xuất hiện vào ngày mai, thứ năm, ngày 13 tháng 9”. Ngay sau buổi biểu diễn của cô tại lễ hội âm nhạc iHeartRadio vào tháng 9 năm 2012, Rihanna tiết lộ rằng đĩa đơn của cô, “Diamonds”, sẽ được phát hành cũng tháng. Cô mô tả đây là một bài hát “hạnh phúc và lập dị hơn là sôi động”, và nói rõ thêm rằng, “Nó khá thoải mái nhưng nó là hy vọng. Đó là một bản ghi âm đã… mang lại cho tôi một cảm giác tuyệt vời khi tôi nghe nó. Lời bài hát tràn đầy niềm hy vọng và sự tích cực, nhưng đó là tình yêu”. Bìa đĩa đơn của bài hát đã được tiết lộ vào ngày 24 tháng 9 năm 2012, với hình ảnh Rihanna đang quấn những viên kim cương trong một mảnh giấy hút cần sa. Ngày 26 tháng 9 năm 2012, Rihanna đã đăng tải đầy đủ lời bài hát dưới định dạng PDF trên trang web chính thức của cô, Rihanna7.com. “Diamonds” được ra mắt cùng ngày trên chương trình chào buổi sáng Elvis Duran and the Morning Show và được phát hành kỹ thuật số vào cùng ngày. Ở Anh, bài hát được phát hành trên iTunes vào ngày 30 tháng 9 năm 2012. Def Jam Recordings gửi đĩa đơn này đến các đài phát thanh Mỹ vào ngày 2 tháng 10 năm 2012. Rihanna biểu diễn bài hát “Diamonds” lần đầu tiên tại chương trình thời trang Victoria’s Secret Fashion Show vào ngày 7 tháng 11 năm 2012. Tại buổi biểu diễn cô mặc một bộ đồ lót màu đen, vớ màu đen và một đôi bốt cao cổ. Chương trình được phát sóng trên kênh CBS vào ngày 4 tháng 12 năm 2012. Ngày 10 tháng 11 năm 2012, Rihanna biểu diễn bài hát trong chương trình Saturday Night Live. Sam Lansky từ Idolator đã ca ngợi buổi biểu diễn này và cho rằng “lời hát chứa đầy xúc cảm nổi bật”, tuy nhiên, anh lại chỉ trích phông nền của buổi biểu diễn và gọi nó là “ảo giác về màn hình chờ của Windows 95”. Joe Reid từ tap chí New York cũng hoan nghênh buổi biểu diễn của cô, gọi nó là “phần đáng nhớ nhất của chương trình” và là “đĩa đơn hay nhất trong một thời gian dài”, và anh cũng đã có một cái nhìn khả quan hơn về phông nền kỹ thuật số của buổi diễn, mô tả nó “kì lạ một cách công khai” và “khá đáng yêu”. Tess Lynch từ Grantland.com cũng đã rất ấn tượng với màn trình diễn trên Saturday Night Live của cô, cho rằng Rihanna là “một giọng hát tuyệt vời” và rằng phông nền của buổi diễn là một “cảnh tượng mạnh mẽ và… điên khùng” khiến người xem phải “choáng váng một cách tích cực”, đồng thời anh đồng ý với kết luận của người dẫn chương trình, Anne Hathaway, rằng Rihanna chính là “một nữ thần”. “Diamonds” có mặt trong danh sách biểu diễn của chuyến lưu diễn quảng bá 777 Tour (2012) của Rihanna, đồng thời cũng là một trong những bài hát cuối cùng trong danh sách biểu diễn của chuyển lưu diễn Diamonds World Tour (2013). Ngày 25 tháng 1 năm 2012, Rihanna biểu diễn bài hát tại mùa thứ 9 của chương trình The X Factor tại Anh. Tại buổi biểu diễn, cô ca sĩ mặc một chiếc váy màu đen biểu diễn trên một bục sân khấu hình vuông. Đến đoạn điệp khúc đầu tiên, hiệu ứng nước phun xuất hiện xung quanh cô, ở bên ngoài sân khấu, và đến đoạn điệp khúc cuối cùng, các tia nước tập trung vào bục biểu diễn làm ướt cô. Tại đây cô xuất hiện với một chiếc kính râm và mặc quần da. Rihanna cũng biểu diễn bài hát trong tập cuối cùng của chương trình The Voice Mỹ mùa thứ ba, tại buổi biểu diễn cô đeo một bộ móng vuốt dài bằng kim loại. Vào ngày 5 tháng 11 năm 2012, CD cho đĩa đơn này được phát hành tại Đức; ngoài “Diamonds”, CD còn bao gồm phiên bản The Bimbo Jones Vocal Remix của bài hát. Ngày 18 tháng 12 năm 2012, tám phiên bản remix của bài hát đã được phát hành dưới định dạng EP kỹ thuật số. Vào ngày 8 tháng 10 năm 2012, ca sĩ-người viết bài hát và cũng là thí sinh chương trình X Factor người Anh Misha B đã thu âm một bản acoustic ngắn hát lại bài hát “Diamonds”. Ca sĩ-người viết bài hát người Anh Taio Cruz cũng đăng tải một video hát lại bài hát này lên trang YouTube cá nhân của anh, bản hát lại có sử dụng hiệu ứng chỉnh sửa âm thanh khá nặng. Jessie Ware biểu diễn một phiên bản jazz nhẹ của bài hát trực tiếp trong phòng chờ của đài BBC Radio 1. Sia Furler, người sáng tác ra “Diamonds”, thì rút gọn lại bài hát thành một phiên bản đơn giản hơn. Ngày 15 tháng 11 năm 2012, ca sĩ-người viết bài hát người Mỹ Zola Jesus cũng thu âm một phiên bản hát lại của “Diamonds”. Ngày 27 tháng 11 và 29 tháng 11 năm 2012, ban nhạc Jonas Brothers đã hát lại bài hát ở buổi diểu diễn đầu tiên và thứ ba tại Los Angeles nằm trong 2012/2013 World Tour. Conor Maynard cũng hát lại bài hát trong chuyến lưu diễn của anh tại Anh, và bản hát lại này cũng được phát hành trong EP Animal của anh. Thí sinh Diamond White biểu diễn “Diamonds” ở một trong số các buổi diễn tại mùa thứ hai của The X Factor Mỹ. Trước đó anh cũng đã góp phần rap của mình vào bản remix của hai đĩa đơn “We Found Love” và “Where Have You Been”, tuy nhiên đó không phải là các bản remix chính thức. Ngày 16 tháng 11 năm 2012, bản remix chính thức của “Diamonds” vớii sự góp giọng của rapper Kanye West, bắt đầu từ đoạn đầu của bài hát, đã được phát hành kỹ thuật số trên SoundCloud và iTunes. Một cây bút khác từ MTV, Rapfix, đã nhận xét rằng West đã thêm vào “một số hương vị cổ điển” cho bài hát. Ngày 4 tháng 12 năm 2012, một bản remix khác với sự góp giọng của rapper người Mỹ Eve đã được tuồn lên mạng. Liên đoàn Công nghiệp âm nhạc Ý.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết) Chọn “2013” trong bảng chọn “Anno”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Single rồi nhấn Search
Diamonds (bài hát của Rihanna)
"Diamonds" là một bài hát được thu âm bởi nữ ca sĩ người Barbados Rihanna, và đồng thời cũng là đĩa đơn đầu tiên từ album phòng thu thứ bảy của cô, Unapologetic (2012). Bài hát được sáng tác bởi Sia Furler, Benjamin "Benny Blanco" Levin, Mikkel S. Eriksen, Tor Erik Hermansen và được sản xuất bởi Blanco và đội sản xuất StarGate. "Diamonds" được ra mắt vào ngày 26 tháng 9 năm 2012 trong chương trình chào buổi sáng Elvis Duran and the Morning Show và được phát hành kỹ thuật số vào ngày tiếp theo. Hãng ghi âm Def Jam đã gửi bài hát tới đài phát thanh đương đại của Mỹ vào ngày 2 tháng 10 năm 2012. Về phần nhạc, "Diamonds" là một bài hát thuộc thể loại pop ballad với chút ảnh hưởng của nhạc điện tử và soul. Bài hát có chủ đề về những mối quan hệ không lành mạnh, một chủ đề đã từng xuất hiện trong nhiều đĩa đơn trước đó của Rihanna. "Diamonds" nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ các nhà phê bình, một số người khen ngợi định hướng âm nhạc mới mẻ của Rihanna, trong khi một số người khác lại chỉ trích về việc sản xuất bài hát.
Khoa học, văn hóa, giáo dục, tâm lý, thể thao và một lối sống lành mạnh. các nguồn gốc của Olmec Nó nằm ở khu vực trung nam của Mexico. Lãnh thổ mà họ định cư chiếm từ sông Papaloapan, ở bang Veracruz hiện tại, đến đầm phá Terminos, trong Tabasco hiện tại. Người Olmec được coi là nền văn minh Mesoamerican đầu tiên. Sự hiện diện của nó trong đất Mexico có thể được ước tính trong thời kỳ Trung cổ, giữa 1500 a. C. đến 500 a. C. Người Olmec là nguồn gốc của tất cả các nền văn minh khác sau này: Maya, Aztec, Toltec, trong số những người khác. Di sản văn hóa của ông vẫn còn hiện diện ở Mỹ; Từ Jalisco đến Costa Rica bạn có thể thấy ngày nay vẫn còn những sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu nhất của ông. Cần lưu ý rằng về bản chất của các tương tác sớm và trung đại, người ta cho rằng trên thực tế, nền văn minh Olmec chưa bao giờ tồn tại như một thực thể thống nhất. Thay vào đó, giới tinh hoa rất đặc biệt không liên quan đến các trang viên thiếu năng lực, sau năm 1100-1000 trước Công nguyên, bắt đầu chia sẻ một số yếu tố của một hệ thống biểu tượng chung. Tương tự như vậy, các nền văn hóa này độc lập trong quá trình tiến hóa chính trị, hệ thống sinh tồn, gốm sứ và sắc tộc của họ (Demomon 1989). Theo nghĩa này, nền văn minh Olmec sẽ không bao giờ tồn tại. Mặc dù người Olmec còn rất sớm, nhưng chúng không xuất hiện từ nơi nào giống như nấm ở vùng vịnh đầm lầy. Nhiều điều cơ bản của Olmec, như xã hội phân cấp, gốm sứ, sản xuất nông nghiệp, kiến trúc và điêu khắc hoành tráng, trò chơi bóng, việc sử dụng Jade và Obsidian bị hạn chế, trong số những hàng hóa hiếm và kỳ lạ khác, đã tồn tại ở những người trước đó của thời kỳ hình thành. Có thể những điều này đã xảy ra ở khu vực Olmec, nhưng hiện tại ở Nam Thái Bình Dương, và cửa Guatemala và nước láng giềng Chiapas, một khu vực được gọi là El Soconusco, được ghi chép lại rất rõ (Blake 1991, Blake et al., 1995). Ở khu vực Đông Nam của Guatemala, có bằng chứng về nghề nghiệp từ thời cổ đại. Địa điểm lâu đời nhất là Chiquihuitán. Một nghiên cứu so sánh các loại gốm là công cụ được các nhà khảo cổ sử dụng nhiều nhất để xác định mối quan hệ giữa bát Olmec Style, Pacific Slopes, Guatemala, Có lẽ, các khu vực khác nhau của Sôcôla, vì vậy điều chúng tôi kiểm tra đầu tiên là. Theo Thomas Lee thuộc Tổ chức Khảo cổ Thế giới Mới, đồ gốm cổ nhất được tìm thấy ở San Lorenzo, không nghi ngờ gì là tiền đề của nó trong Giai đoạn Ocós, bờ biển Thái Bình Dương của Guatemala, ở những nơi như Ujuxte, El Mesak, La Blanca, Ocós và Chiến thắng (Thomas 1983 Coe và Diehl 1980, Lowe 1977). Hơn nữa, Lee chỉ ra rằng đồ gốm đen có bờ trắng, chung cho cả hai khu vực, đã được công nhận là một đặc điểm của những người sống ở Nam Thái Bình Dương của Mesoamerica. Thật thú vị, Pierre Agrinier, cũng thuộc Tổ chức Khảo cổ Thế giới Mới, lưu ý rằng đồ gốm sớm nhất của Giai đoạn Ocós, cho đến nay là loại tinh xảo nhất được tìm thấy ở bất kỳ nơi nào trong Mesicleerica, trong khi đó của San Lorenzo đại diện cho sự bắt chước ít hơn tốt (Agrinier 1983; Cox và Diehl 1980). Vì vậy, mặc dù những người chịu trách nhiệm sản xuất gốm sứ, không di cư từ Thái Bình Dương đến khu vực đô thị Olmeca, rõ ràng kiến thức về phong cách và kỹ thuật, đến từ khu vực Thái Bình Dương này. Coe và Diehl (1980) gọi gốm sớm nhất của San Lorenzo là "Một phiên bản của lĩnh vực giai đoạn Ocós phức tạp hơn nhiều của Soconusco Guatemala". Nói chung, niên đại của Tiền cổ điển có xu hướng xác nhận cái đã được tìm thấy ở Mexico và được đề xuất bởi các thành viên của Tổ chức Khảo cổ học của Thế giới Mới. Một sự tiến hóa dần dần giữa các giai đoạn Barra, Locona, Ocós, Cuadros, Jocotal và Conchas rõ ràng cả về phong cách gốm sứ và mức độ phức tạp về văn hóa. Không có bằng chứng nào về El Mesak về một "sự xâm nhập" của Olmec trong các nền văn hóa sơ khai, như một số nhà khảo cổ học đã đề xuất. Ngược lại, các bằng chứng có xu hướng xác nhận các khẳng định của Hatch, Love và những người khác rằng biểu tượng, tượng nhỏ và đồ gốm của Olmec không có niên đại sớm hơn 900 trước Công nguyên, vào đầu giai đoạn Conchas (Hatch 1986, Love 1986, Shook và Nở 1979). Vì Cuadros và Jocotal bằng gốm rộng rãi không thể hiện bất kỳ đặc điểm chẩn đoán nào đối với tương tác Olmec. Các bức tượng nhỏ theo phong cách Olmec đã được tìm thấy độc quyền ở các cấp độ của pha Conchas. Có vẻ như sự tham gia vào hệ thống biểu tượng Olmec xảy ra khi khu vực quản lý để phát triển mức độ nổi bật độc lập của trụ sở cao. Sau đó, biểu tượng và hệ thống biểu tượng Olmec được thêm vào kho của các tài liệu văn hóa có nguồn gốc địa phương. Một nguồn chẩn đoán văn hóa khác được trích dẫn bởi các nhà khảo cổ học như Ferdon (1953) và Miles (1965, 237-275) là sự tiến hóa của Điêu khắc đá ở Mesoamerica. Không giống như gốm, đá không thể được xác định niên đại. Mặc dù cái gọi là Barrigones của bờ biển Thái Bình Dương của Guatemala, đặc biệt là những vùng Monte Alto, Chocolá và Takalik Abaj, có thể không cũ như Graham giả định (2000 trước Công nguyên, Graham 1979), không có nghi ngờ gì về những ví dụ cổ xưa nhất của điêu khắc là từ khu vực này của Mesoamerica, đặc biệt là Guatemala. Chính tại khu vực này, nguyên liệu thô, bao gồm đá granit và đá bazan đã có sẵn cho công việc của họ, không giống như khu vực đô thị Olmeca, phải đưa nó từ tu viện đến khoảng 60 đến 80 km. Trên thực tế, rất có khả năng loài báo đốm khảm serpentine nổi tiếng, từ La Venta, được tạo ra từ một nguồn ở Thái Bình Dương gần Niltepec, cách đó hơn 200 km về phía nam. Khoảng 1200 tấn đá xanh phải được vận chuyển qua Isthmus để nhận ra nó. Tất cả dọc theo sườn núi của Sierra Madre, từ Arriaga ở phía bắc đến Guatemala ở phía nam, là những tảng đá granit lớn và tròn có thể là nguồn cảm hứng cho những người đứng đầu khổng lồ của khu vực Vịnh. Rõ ràng, khu vực bờ biển Nam Thái Bình Dương của Mesoamerica không chỉ cung cấp nguyên liệu thô mà còn là một truyền thống nghệ thuật điêu khắc trên đá, không giống như khu vực vịnh, nơi thiếu nguyên liệu tốt, khó có thể tưởng tượng sự phát triển của nó mà không có ảnh hưởng bên ngoài. Ngôn ngữ là một trong những yếu tố tốt nhất để truy tìm các nền văn hóa, chúng ta có thể suy ra rằng Olmec là ai, một số ý tưởng về nguồn gốc của chúng có thể được tìm thấy bằng cách xác định nhánh ngôn ngữ mà chúng thuộc về. Hầu hết các nhà ngôn ngữ học đã chấp nhận rằng các ngôn ngữ Maya được sử dụng dọc theo cả hai bờ biển kể từ Công thức sơ khai (khoảng năm 2000 trước Công nguyên). Do đó, nhiều nhà khảo cổ học, trong đó có Jiménez Moreno, Thompson, Coe và Bernal, tin rằng người Olmec nói một ngôn ngữ Maya. Lee (1983) đưa ra quan sát, rằng không có một nhà ngôn ngữ học nào nói rằng người Olmec đã nói Maya. Trong bối cảnh này, thật thú vị khi lưu ý rằng Swadesh (1953) đã hẹn hò với một người nói tiếng Maya ở vùng Vịnh khoảng 3200 năm trước, (khoảng năm 1300 B.C.), đồng ý với sự ra đời của San Lorenzo ở miền nam Veracruz. Dường như có điều gì đó đã xảy ra trong những người nói tiếng Maya, khiến người dân từ phía tây và tây bắc trở thành Huastecas và những người Maya còn lại từ vùng đất thấp Petén. Đối với một sự thay đổi như thế này để phân tách một cách hiệu quả một dân số nhỏ, sự ảnh hưởng và di cư liên tục từ phía nam qua Eo biển Te đi bộ là đáng tin cậy hơn một cuộc chiến tranh hoặc một cuộc xâm lược bằng đường biển, từ phía bắc. Trong một thời gian, các nhà ngôn ngữ học đã nhận ra sự tương đồng của bốn ngôn ngữ của miền nam Mesoamerica, nhưng bộ phận địa chính trị hiện tại của nó đã làm phức tạp việc tái cấu trúc các mô hình ngôn ngữ trong khu vực này. Người Olmec là tiền thân của nhóm dân cư ở các trung tâm đô thị. Đó là sự định cư ban đầu, xuất hiện vào đầu nền văn minh này. Nó nằm ở bang Veracruz hiện tại, trong lưu vực sông Coatzacoalcos. Tại đây đã phát sinh những biểu hiện nghệ thuật đầu tiên điển hình của Olmecs (tác phẩm điêu khắc và các yếu tố kiến trúc đặc trưng), đã bị phá hủy trong cuộc cướp bóc mà địa điểm này phải chịu vào khoảng năm 900 trước Công nguyên. Nhiều tác phẩm điêu khắc đã được chuyển đến một trung tâm đô thị khác xuất hiện sau đó, được gọi là La Venta. Sự liên quan lịch sử chính của nó bắt nguồn từ việc là một trung tâm giáo phái hoặc nghi lễ. Trong khu vực bạn vẫn có thể thấy những cái đầu khổng lồ, ngai vàng và Kim tự tháp vĩ đại, có lẽ là cái đầu tiên được dựng lên ở Mexico. La Venta không còn là một trung tâm tham chiếu trong thế giới Olmec vào khoảng năm 400 trước Công nguyên. C., và sau đó sự suy giảm của nó bắt đầu. Đó là trung tâm đô thị cuối cùng để phát triển. Có vài dấu tích của trung tâm này. Điều này là do việc sử dụng rộng rãi các vật liệu mỏng manh và ngắn hạn để xây dựng các ngôi nhà, chẳng hạn như trái đất và adobe. Một số đóng góp nổi bật nhất của văn hóa Olmec, sau này sẽ tồn tại hoặc phát triển trong các nền văn hóa sau này, là viết, lịch và la bàn, tôn giáo và các biểu hiện nghệ thuật. Người ta tin rằng Olmec có thể là nền văn minh phương Tây đầu tiên phát triển hệ thống chữ viết. Tất nhiên, đó là một loại chữ viết tượng hình, từ đó được tìm thấy dấu tích được giải mã bởi các nhà ngôn ngữ học đã thiết lập sự tồn tại của một âm tiết. La bàn như một công cụ định hướng có thể đã được sử dụng bởi Olmecs vào khoảng năm 1000 trước Công nguyên. C., theo các thử nghiệm cổ xưa được thực hiện với carbon 14 trong các vật thể tìm thấy trên mặt đất. Lịch đếm dài và việc sử dụng số 0 làm yếu tố trung tính cũng được quy cho nền văn minh này. Người Olmec thực hành các nghi lễ khác nhau và thậm chí hy sinh cho mục đích tôn giáo. Họ là những người đa thần và nhiều vị thần của họ có liên quan đến nông nghiệp, nguồn sinh hoạt của họ. Báo đốm là chủ đề chính của sự thờ phượng. Olmec được coi là một tôn giáo rất phức tạp chưa được giải mã đầy đủ. Đặc trưng nhất là những cái đầu khổng lồ được xây dựng bằng đá bazan, được cho là đại diện cho những người cai trị của họ. Tổng cộng, mười bảy trong số các di tích này được tính trong khu vực từng là nơi sinh sống của Olmec. Họ cũng đã tìm thấy các tác phẩm làm từ đá quý và đại diện động vật khác. "Thần thoại Mesoamerican: Hướng dẫn về các vị thần, anh hùng, nghi lễ và tín ngưỡng của Mexico và Trung Mỹ". Trong lịch sử nghệ thuật tiền Columbus: Các bài đọc được chọn (Alana Cordy-Collins, chủ biên): 7-22. 1989 Olmec Diffusion: Một góc nhìn điêu khắc từ Thái Bình Dương Guatemala. Theo quan điểm khu vực về Olmec (Robert J. Sharer và. Xã hội sớm ở Bờ biển phía Nam Guatemala. Trong II Hội nghị chuyên đề điều tra khảo cổ ở Guatemala, 1988 (do J.P. Bảo tàng Khảo cổ học và Dân tộc học Quốc gia, Guatemala.
Văn minh Olmec
Olmec là nền văn minh lớn đầu tiên của Mexico, sau một thời gian phát triển tại Soconusco. Họ sống trong các vùng đất thấp nhiệt đới tại miền trung nam Mexico, trong các khu vực mà ngày nay là các bang Veracus và Tabasco. Đã có giả thuyết cho rằng người Olmec bắt nguồn một phần từ nước láng giềng Mokaya hoặc Mixe-Zoque. Olmec phát triển mạnh sau thời kỳ tiền cổ đại tại Trung Bộ châu Mỹ, thời kỳ hình thành có niên đại sớm nhất là năm 1500 TCN tới năm 400 TCN. Nền văn hóa trước Olmec đã phát triển mạnh ở khu vực này từ khoảng năm 2500 TCN, nhưng năm 1600-1500 trước công nguyên, văn hóa Olmec sớm đã xuất hiện, tập trung vào các vùng đất của San Lorenzo Tenochtitlán (thuật ngữ gọi chung cho ba trung tâm hành hương Olmec ở bang Veracruz, Mexico, được tìm thấy gần ngôi làng của San Lorenzo Tenochtitlan và Portero Nuevo), gần bờ biển phía đông nam Veracus. Họ là nền văn minh Trung Mỹ đầu tiên và tạo nền móng căn bản cho các nền văn minh khác sau đó. Trong số những cái "nhất" khác, Olmec đã thực hành nghi lễ trích máu và chơi các trò chơi bóng Trung Mỹ, điểm nổi bật của gần như tất cả các xã hội Trung Mỹ sau đó.
(PLO)- Quan hệ tình dục trước hôn nhân là cách để hai bên cảm nhận sự tương đồng về thể xác. Nhưng quan trọng bạn có "sẵn sàng" khi quan hệ. Đó là những chia sẻ của Thạc sỹ Trần Hoàng Khánh Vân, Phó Chủ tich Hội Liên hiệp các tổ chức hữu nghị TP.CHM tại Tọa đàm "Bí mật sáng thứ 7" lần thứ 2 do Đại học Luật TPHCM tổ chức vào sáng ngày 16-3.Bạn đang xem: Tình dục trước hôn nhân. Với câu hỏi "quan hệ tình dục trước hôn nhân, nên hay không nên?" được bà đặt ra đã làm không khí tranh luận trong buổi tọa đàm thêm sôi nổi. Phần đông các sinh viên đều cho rằng không nên vì những quan niệm truyền thống luôn coi trọng trinh tiết của nữ giới. Mặc khác, quan hệ trước hôn nhân sẽ gây nên nhiều hệ lụy như mang thai, mắc các bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục. Song, vẫn có ý kiến cho rằng việc quan hệ trước hôn nhân không hoàn toàn có hại, vì mỗi ngày càng tiến bộ và cách nghĩ về chuyện này cần thoáng hơn, đặc biệt khi hai người yêu nhau thì việc xảy ra quan hệ là không khó hiểu và cũng không xấu xa như quan niệm xưa cũ. Còn theo Thạc sỹ Trần Hoàng Khánh Vân quan hệ trước hôn nhân nên hay không nên đều dựa trên nền tảng của tình yêu, tức hai người yêu nhau cần có khoảng thời gian tìm hiểu kỹ về tính cách, đạo đức của đối phương trước khi nghĩ đến có hay không quan hệ trước hôn nhân. Nếu xuất phát từ tình yêu cả hai bên sẽ có đủ trách nhiệm với nhau, sẽ biết cách để bảo vệ cho nhau. Chia sẻ thêm, bà Khánh Vân cho rằng quan hệ tình dục trước hôn nhân là một bước “sống thử” trước khi đặt bút đăng ký kết hôn, hai bên phải tìm hiểu nhau thật kỹ lưỡng, thậm chí cả trong "chuyện ấy", để kiểm tra về mức độ hòa hợp của nhau. Nếu đôi lứa nào yêu nhau thật sự, muốn hòa hợp hoàn toàn trong tình yêu, trong khi đủ khả năng kiềm chế, đủ kỹ năng phòng ngừa hậu quả, đặc biệt là cả hai bên đều hoàn toàn đồng thuận và hạnh phúc để đến với nhau hết mình thì việc đến với nhau đó là quyền của hai bên. Tuy nhiên, nếu một bên bị cưỡng ép, hoặc để lại hậu quả về mặt thể chất hoặc danh dự, hoặc để lại vết thương tâm hồn vì sự ruồng bỏ, tạo nên thói quen dễ dãi thì hành động đó rất đáng để lên án. "Công tâm mà nói, hạnh phúc đến từ tình yêu, nhưng trục trặc trong tình dục cũng là một vấn đề nghiêm trọng và có thể gây đổ vỡ hạnh phúc. Bản chất của việc quan hệ tình dục trước hôn nhân thật sự là không xấu, xấu hay không là ở lý do của hành động ấy, là ở hậu quả hay hiệu quả mà nó mang đến. Đều cần cân nhắc là họ có đủ sẵn sàng về tâm lý, kiến thức tự bảo vệ bản thân, bảo vệ bạn tình khi quan hệ tình dục hay không?. Đến tham dự tọa đàm với chuyên đề "Kỹ năng phòng vệ cho sinh viên", Trung tá Nguyễn Đào Minh Huy - Phòng Cảnh sát hình sự Công an TP.HCM đã mang đến cho các sinh viên những bài học bổ ích về cách tự vệ trước những tình huống bị xâm hại. Mặc khác, Trung tá Nguyễn Đào Minh Huy đã hướng dẫn các sinh viên các phương pháp tự vệ cần thiết nếu rơi vào trường hợp bắt buộc tấn công lại đối tượng xâm hại, đặc biệt trong trường hợp xâm hại tình dục ở nữ giới. Ở một góc độ khác, ông cho rằng các bạn sinh viên nên có ý thức để tự bảo vệ bản thân trước nguy cơ bị xâm hại đến từ các chiêu trò lừa đảo trên mạng. Và cũng không nên khoe tài sản hay có những hình ảnh gợi cảm quá đà trên mạng xã hội, lẫn ngoài đời thực để tránh tự biến bản thân "miếng mồi" cho đối tượng xấu. Vơi lại, nói về việc quan hệ tình dục trước hôn nhân, nhiều người thường nói là sẽ thiệt thòi cho phụ nữ. Đừng sợ hãi, đừng gò ép bản thân vào bất cứ khuôn phép nào. Hãy sẵn sàng đón nhận những điều mới lạ chưa từng biết, những giây phút hạnh phúc và thậm chí cả những rủi ro. Hãy luôn nhớ rằng, bạn không sai và biết rõ đang làm gì với cuộc đời của mình. Chỉ cần giữ bản thân thoải mái, tâm trí bạn sẽ luôn đủ tỉnh táo và khôn ngoan để không phải băn khoăn và lo lắng bất cứ điều gì trước, trong và sau khi quan hệ. Nếu là lần đầu tiên, một buổi cafe tâm sự - chia sẻ cùng cô bạn thân “dày dặn kinh nghiệm” hay một cuộc nói chuyện giãi bày với người yêu nhất định sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo cho tinh thần của bạn. Sự thật là chúng ta sẽ chẳng làm tốt điều gì nếu không tường tận về nó. Tình dục cũng vậy, đừng bao giờ quên hay ngó lơ việc tìm hiểu những vấn đề có thể gặp phải và bí kíp để “cuộc yêu” thêm hoàn mỹ bởi đã xưa rồi cái thời chỉ đàn ông mới biết cưỡi ngựa bắn cung, phụ nữ bây giờ hoàn toàn có thể là người cầm cương chắc chắn nếu có kiến thức tốt về “bộ môn” này!. Sự phát triển của công nghệ và y học hiện đại hỗ trợ bạn rất nhiều trong việc này. Nếu không muốn gặp những hậu quả như: mang thai ngoài ý muốn, lây nhiễm bệnh tật,. hãy nghiên cứu và áp dụng các biện pháp như sử dụng bao cao su đúng cách, các loại thuốc bổ trợ,.để bản thân luôn an toàn. Chúng ta không ai giống hệt nhau. Vì vậy, hãy luôn chắc chắn rằng đâu là biện pháp tốt nhất, hoàn hảo nhất với cơ thể của bạn. Đừng quên nói chuyện cùng “anh ấy” để chọn lựa cách hợp lý cho cả hai. Hãy đảm bảo hai bạn đã có thời gian tìm hiểu kĩ về nhau và cùng chung ý định xây dựng một gia đình nhỏ hạnh phúc. Người đó, ngoài thương yêu bạn còn phải là một chàng trai khỏe mạnh, không có bất cứ vấn đề nào về sức khỏe tình dục. Nếu có thể, hai bạn nên cùng tiến hành khám tổng quát - vừa kiểm tra định kỳ cho bản thân, vừa giúp bạn chắc chắn hơn về người đàn ông của mình.
Tình dục trước hôn nhân
Tình dục trước hôn nhân là quan hệ tình dục của những cặp tình nhân trước khi kết hôn. Về mặt lịch sử, tình dục trước hôn nhân là một vấn đề đạo đức bị cho là cấm kị tại nhiều nền văn hóa và bị coi tội lỗi theo các nền tôn giáo lớn, nhưng kể từ cuộc Cách mạng tình dục những năm 1960, nó đã được chấp nhận rộng rãi ở phương Tây. Ở châu Âu vào thời tiền trung cổ nếu có quan hệ tình dục trước hôn nhân hay ngoài hôn nhân (bị cho là gian dâm) thì có thể bị tử hình hoặc bị phạt tiền. Ngày nay, việc quan hệ tình dục trước hôn nhân vẫn bị coi là trái luân lý theo nhiều hệ phái Kitô giáo. Nếu trước khi làm hôn thú mà đã có bầu thì đám cưới đó thường xảy ra một cách thầm lặng. Đa số dân chúng thời đó là tá điền. Họ phải được địa chủ cho phép và phải trả một số tiền thì mới được làm hôn thú. Không được điền chủ cho phép thì họ không được làm đám cưới. Để một cuộc hôn nhân không thể xảy ra ngoài ý muốn của địa chủ, những người độc thân bị cấm có quan hệ tình dục với nhau.
Trong lớp học dành cho những học sinh có điểm số kém nhất, một cậu bé "học sinh cá biệt thần thánh" cùng những người bạn cố gắng chứng minh "điểm số không phải là tất cả". Thể loại: Hài Hước, Tâm Lý - Lãng Mạn, Khoa Học - Viễn Tưởng, Hành Động, Ecchi, Harem. Enterbrain đã phát hành tập tập đầu tiên vào ngày 29 tháng 1 năm 2007 đến ngày 30 tháng 11 năm 2013 với nhãn Famitsu Bunko. Hãng phim Silver Link đã thực hiện chuyển thể anime của light novel và phát sóng tại Nhật Bản từ 7/1/2010 đến 31/3/2010 với 13 tập. Baka to Test to Shoukanjuu cũng được chuyển thể sang manga. Câu chuyện kể về nhóm bạn lớp F gồm những học sinh "nguy hiểm nhưng cứ tỏ ra mình ngu" học trong lớp học xập xệ, cơ sở vật chất kém cỏi. Họ quyết định vùng lên, chiến đấu để mong giành được cơ sở vật chất tốt hơn của các lớp A, B, C, D, E. Và hơn hết, họ muốn chứng tỏ một điều: điểm số không phải là tất cả. Và cách để họ quyết đấu là bằng những trận ESB, tạm hiểu là những trận đấu bằng Linh Thú của mỗi người. Không còn từ gì để mô tả hắn ngoài từ “baka” (ngu ngốc). Cậu được mệnh danh là “Học sinh cá biệt thần thánh” với cái đầu chỉ khá hơn một đứa trẻ con một chút. Himeji Mizuki: một nữ sinh dễ thương, xinh xắn nhưng sức khỏe yếu và nấu ăn cực dở. Vì sức khỏe yếu nên cô bé đã không thể làm bài thi và bị xếp xuống lớp dành cho những thành phần cá biệt của trường. Shimada Minami: một nữ sinh sống ở Đức. Cô chuyển về Nhật Bản từ năm cấp 2 và đã trở thành bạn thân của hội bạn Akihisa. Vì cô không giỏi tiếng Nhật nên cô đã làm bài thi điểm thấp và học lớp F. Sakamoto Yuuji: lớp trưởng và cũng là một thần đồng. Sau này, suy nghĩ của cậu đã thay đổi. Cậu muốn chứng tỏ với mọi người rằng điểm số không phải là tất cả. Những kẻ ngu ngốc cũng có những thế mạnh mà những người thông minh không có được. Ai nhìn cậu cũng nghĩ cậu là con gái. Lý do là vì cậu là em trai song sinh với chị gái học lớp A nên nhìn mặt cậu giống con gái. Vì vậy mà cậu thường gặp rắc rối với việc ăn mặc, sinh hoạt cá nhân. Tsuchiya Kouta: một tên biến thái luôn giữ máy ảnh trong người. Cậu luôn săn đón những tấm hình nóng bỏng nhất vào những khoảnh khắc sơ hở của các cô gái. Nhưng chỉ vì không kìm chế được cảm xúc, cậu luôn xịt máu mũi ra hàng lít mỗi khi nhìn con gái trong trạng thái thiếu vải. Cô luôn luôn giám sát Yuuji 24/24 và sẵn sàng lấy kìm chích điện dí vào Yuuji để bắt cậu nghe lời cô. Tất nhiên, khi Yuuji lại gần những cô gái khác, thậm chí là có tin nhắn khả nghi với con trai, cô cũng tra khảo cậu. Bộ phim nói về cuộc sống học đường của họ với đủ các tình huống dở khóc dở cười. Akihisa phải hẹn hò với Mizuki và Minami với một cái ví rỗng. Yuuji phải đối phó với cô vợ tự xưng Shouko hay Hideyoshi được thế giới công nhận là một giới tính riêng với phòng thay đồ, nhà tắm nước nóng riêng mang tên mình. Những tình huống hài hước, xịt máu mũi như vòi nước đã trở thành biểu tượng của phim. Học viện Fumizuki có một phương pháp giảng dạy khá mang tính công nghệ và thực tiễn. Đó là những trận đấu Linh Thú. Linh Thú là phiên bản thu nhỏ của chủ nhân chúng. Giáo viên có thể tạo ra một vùng không gian để học sinh triệu hồi Linh Thú. Sức mạnh của Linh Thú tương ứng với số điểm bài kiểm tra của học sinh trong môn học đó. Mỗi học sinh có một môn học thế mạnh riêng. Vì vậy, để có lợi thế, học sinh sẽ phải triệu hồi trong vùng không gian của giáo viên đúng môn mình giỏi. Ví dụ như Tsuchiya Kouta giỏi Thể dục, vậy cậu sẽ phải triệu hồi trong vùng không gian của thầy Thể dục tạo nên. Từ đó, chiến thuật thi đấu của các lớp với nhau sẽ phong phú hơn. Bộ phim rất hấp dẫn với những cảnh hài hước dễ thương. “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”, học sinh luôn có những màn quậy phá, đùa giỡn khiến giáo viên phải vất vả chạy theo bắt phạt. Và những trận chiến Linh Thú để giành trang thiết bị mang đầy tính chiến thuật và hài hước là điểm nhấn lớn nhất của phim. Những cảnh ecchi xịt máu mũi khiến bất kỳ ai xem phim cũng phải cười nghiêng ngả. Những khoảnh khắc tình yêu học đường làm cho người xem nhớ lại thời ngồi trên ghế nhà trường của mình. Âm nhạc là điểm cộng tiếp theo của phim. Bài hát mở đầu Perfect-area Complete rất dễ thương. Hình ảnh các nhân vật cũng được vẽ mang phong cách trong sáng của lứa tuổi học trò. Những Linh Thú giống như phiên bản chibi của các nhân vật càng thêm phần dễ thương cho bộ phim. Baka to Test to Shoukanjuu là một bộ phim học đường rất hay, xứng đáng để cho các bạn đón xem. Một thông tin khác là trên trang Anime News Network vào ngày 1/7/2015, Baka to Test có thể là light novel sẽ được chuyển thể thành anime trong thời gian tới . Chúng ta có thể hy vọng vào phần 3 của bộ phim sẽ được ra mắt. Còn bây giờ, hãy cùng tham gia những buổi học của những tên ngốc và làm bài kiểm tra nào!
Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi
Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi (tiếng Nhật: バカとテストと召喚獣 Hepburn: Baka to Test to Shōkanjū) là loạt light novel được viết bởi Inoue Kenji và minh họa bởi Haga Yui. Light novel được phát hành thẳng thành các tập chứ không phát hành trên tạp chí, Enterbrain đã phát hành tập tập đầu tiên vào ngày 29 tháng 1 năm 2007 đến ngày 30 tháng 11 năm 2013 với nhãn Famitsu Bunko. Tại Việt Nam, Light novel được cấp phép bản quyền cho IPM dưới tựa đề chính thức "Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi".Loạt tiểu thuyết cũng được chuyển thể thành manga với ba loạt. Loạt thứ nhất có cùng tên với tiểu thuyết do Mattaku Mosuke minh họa và đăng trên tạp chí Shōnen Ace từ ngày 25 tháng 4 năm 2009. Loạt thứ hai có tựa Baka to Test to Shōkanjū ja cũng đăng trên tạp chí Shōnen Ace từ năm 2009. Loạt thứ ba có tựa Baka to Test to Shōkanjū Spinout! Sore ga Bokura no Nichijō do namo thực hiện và đăng trên tạp chí Famitsu Comic Clear. Silver Link cũng đã thực hiện chuyển thể anime của tiểu thuyết và phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 07 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 2010 với 13 tập.
Dịch nghĩa là Đối pháp (zh. Mang nghĩa là Thắng pháp hoặc là Vô tỉ pháp (zh. 無比法), vì nó vượt (abhi) trên các Pháp (dharma), giải thích Trí huệ. A-tì-đạt-ma là tạng thứ ba trong Tam tạng. Tạng này chứa đựng các bài giảng của đức Phật và các đệ tử với các bài phân tích về Tâm và hiện tượng của tâm, hiện tượng pháp các pháp. A-tì-đạt-ma là gốc của Tiểu thừa lẫn Đại thừa, xem như được thành hình giữa thế kỷ 3 TCN và thế kỷ 3. Lần kết tập cuối cùng của A-tì-đạt-ma là khoảng giữa năm 400 và 450. Có nhiều dạng A-tì-đạt-ma như dạng của Thượng toạ bộ (pi. theravāda), của Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivāda)… A-tì-đạt-ma là gốc của mọi trường phái và người ta dùng nó để luận giảng các bài Kinh (sa. dhammasaṅgaṇi): nói về các tâm pháp, sắp xếp theo từng cách thiền định khác nhau và các pháp bên ngoài, sắp xếp theo nhóm;. kathāvatthu): nêu 219 quan điểm được tranh luận nhiều nhất và đóng góp nhiều cho nền triết lý Phật giáo;. A-tì-đạt-ma của Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. vasubandhu) là người tổng hợp. A-tì-đạt-ma này cũng bao gồm bảy bộ khác nhau, cụ thể là:. saṅgītiparyāya): bao gồm những bài giảng theo hệ thống số, tương tự như Tăng chi bộ kinh;. prajñaptiśāstra): trình bày dưới dạng Kệ những bằng chứng cho những sự việc siêu nhiên, thần bí;. vijñānakāya): nói về các vấn đề nhận thức. Có vài chương nói về những điểm tranh luận giống Luận sự (pi. prakaraṇa): bao gồm cách xác định những thành phần được giảng dạy và sự phân loại của chúng;. Phát trí luận (zh. jñānaprasthāna): xử lý những khía cạnh tâm lý của Phật pháp như Tuỳ miên (zh.
A-tì-đạt-ma-câu-xá luận
abhidharmakośa-śāstra), thường được gọi tắt là Câu-xá luận, có nghĩa là "Báu vật của A-tì-đạt-ma", tên khác là Thông minh luận (zh. 通明論), là bộ luận quan trọng của Phật học, được Thế Thân (sa. vasubandhu) soạn vào thế kỉ thứ 5 sau Công nguyên tại Kashmir. Luận gồm có hai phần: sưu tập khoảng 600 kệ A-tì-đạt-ma câu-xá luận bản tụng (sa. abhidharmakośakārikā) và A-tì-đạt-ma câu-xá luận thích (sa. abhidharmakośa-bhāṣya), bình giải về những câu kệ đó. Ngày nay người ta còn giữ bản tiếng Hán và tiếng Tây Tạng của luận này, đó là những tác phẩm đầy đủ nhất để trả lời các câu hỏi về kinh điển. A-tì-đạt-ma-câu-xá luận phản ánh sự tiếp nối của giáo lý từ Tiểu thừa đến Đại thừa và cũng là tác phẩm nền tảng của các tông phái Phật giáo Trung Quốc, đóng góp phần chính trong việc truyền bá và phát triển đạo Phật nơi này. indriyanirdeśa): nói về cái dụng của chư phápHai phẩm trên nói về thể và dụng chung cho Hữu lậu (zh. sāśrava, tức là còn bị Ô nhiễm) và Vô lậu (zh. anuśayanirdeśa)Các điểm 3, 4 và 5 nói về Hữu lậu, trong đó 3. là Quả (zh.
Nguyên nhân dẫn đến rối loạn nhân cách chống đối xã hội2.1 2.1. Nguyên nhân nào gây bệnh ASPD2.2 2.2. Ai có nguy cơ cao bị rối loạn nhân cách dạng chống đối xã hội. Ai có nguy cơ cao bị rối loạn nhân cách dạng chống đối xã hội. Các triệu chứng biểu hiện rối loạn nhân cách dạng chống đối xã hội thường gặp3.1 3.1. Các dấu hiệu điển hình của ASPD3.2 3.2. Các triệu chứng phân biệt3.3 3.3. Điều kiện chẩn đoán một người mắc bệnh. Rối loạn nhân cách chống đối xã hội nguy hiểm thế nào và tiên lượng điều trị. Rối loạn nhân cách chống đối xã hội được gọi tắt là ASPD. Đây thuộc một dạng trong nhóm bệnh rối loạn nhân cách không bình thường. Bệnh thường xuất hiện các biểu hiện không thích ứng với các nguyên tắc liên quan pháp luật và đạo đức xã hội. Rối loạn nhân cách dạng chống đối xã hội là nhóm bệnh rối loạn không bình thường của nhân cách (Nguồn: wikihow.com). Nhân cách vốn được hình thành trong suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của mỗi con người. Hiểu một cách đơn giản, nhân cách được hình thành từ nhỏ, sau đó dưới tác động của môi trường hay yếu tố di truyền nhân cách được phát triển cao hơn. Nguyên nhân dẫn đến bệnh rối loạn nhân cách chống đối xã hội hiện nay vẫn chưa được công bố rõ ràng. Tuy nhiên các yếu tố di truyền và gia đình, khiếm khuyết phát triển hệ thần kinh giao cảm, tổn thương não do bệnh lý, tai nạn, khiếm khuyết trong phát triển tâm hồn tính cách được xem là nguyên nhân điển hình dẫn đến bệnh ASPD. Nhiều thống kê chỉ ra rằng tỉ lệ mắc bệnh rối loạn nhân cách chống đối xã hội ở nam giới thường cao hơn nữ giới. Nhất là những người có các hành vi bạo lực ở tù hay lạm dụng nhiều chất gây nghiện, rượu được ghi nhận dễ mắc hội chứng chống đối xã hội. Bạn có thể tham khảo địa chỉ bệnh viện thăm khám tổng quát tốt nhất tại Hà Nội để kịp thời phát hiện và điều trị bệnh hiệu quả. Tỉ lệ người mắc bệnh ASPD ở nam giới thường cao hơn so với nữ giới (Nguồn: genk.vn). Biết về các dấu hiệu điển hình của bệnh ASPD sẽ giúp bạn chủ động phòng tránh hiệu quả. Những người mắc bệnh rối loạn nhân cách dạng chống đối xã hội sẽ coi thường và xâm phạm quyền lợi hợp pháp. Chính vì là bệnh không bình thường của nhân cách, người mắc bệnh sẽ thường xuyên vi phạm pháp luật: xuất hiện hành vi lừa đảo, phạm tội, có tiền sử nhiều lần bị bắt giữ, buôn bán ma túy trái phép… Những dấu hiệu này sẽ có biểu hiện từ tuổi thiếu niên và tiếp tục diễn biến đến khi trưởng thành. Bao gồm cả những trường hợp phóng hỏa, đối xử ác với động vật và gây ra khó khăn cho người khác. Vì thế, để ngăn chặn bệnh ngay từ thời ấu thơ, bố mẹ nên quan tâm và chia sẻ với con cái của mình nhiều hơn. Hãy thường xuyên chia sẻ, trò chuyện để hiểu con hơn hay thường xuyên cho bé tham gia các hoạt động vui chơi giải trí hòa nhập cộng đồng…. Hơn hết, triệu chứng của bệnh rối loạn nhân cách chống đối xã hội còn thể hiện qua những xung đột/hành động bốc đồng mà không nghĩ đến các hậu quả của mình gây ra. Người bị bệnh ASPD luôn có xu hướng gây hấn, cáu bẳn dẫn đến hành vi hành hung cơ thể người khác. Đặc biệt, người bệnh rối loạn chống đối xã hội thường gặp khó khăn trong việc cảm thông và hiểu người khác. Đa phần họ sẽ không thể tự mình nhận ra những suy nghĩ, cảm xúc và động lực của người khác. Ngược lại họ sẽ thể hiện sự thờ ơ và thiếu quan tâm. Một trong những đặc điểm điển hình của bệnh ASPD là không biết hối hận về hành vi phá hoại của mình với người khác và cộng đồng. Để đạt được mục đích của mình họ thường nói dối và lừa gạt người khác. Bệnh rối loạn nhân cách dạng chống đối xã hội bắt đầu từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành. Những đứa trẻ mắc bệnh này thường bộc phát sự tức giận, đối xử ác với động vật và hay bắt nạt các bạn đồng trang lứa. Riêng với người trưởng thành, bệnh rối loạn này sẽ hủy hoại cả bản thân và những người xung quanh. Bệnh rối loạn chống đối xã hội có thể điều khiển người bệnh gây ra những hành vi liều lĩnh, gây nguy hiểm cho người khác và cộng đồng. Đa phần người bệnh sẽ không cảm thấy ân hận hay hối cải trước những hành động của mình gây ra. Có 4 điều kiện điển hình chẩn đoán một người bình thường đang mắc bệnh rối loạn nhân cách dạng chống đối xã hội. Thứ nhất, người bệnh coi thường và xuất hiện hành động xâm phạm quyền lợi tha nhân (các biểu hiện vi phạm quy định pháp luật, gây hấn, lừa dối, coi thường pháp luật… sẽ xuất hiện sớm từ khoảng 15 tuổi). Thứ hai, có các hành vi đối kháng với người khác và xã hội. Thứ ba, có các rối loạn liên quan đến ma túy. Thứ tư, chậm phát triển về tâm thần. Rối loạn nhân cách chống đối xã hội gây ra nhiều nguy hiểm cho người bệnh, người xung quanh và cho cả xã hội. Có những trường hợp người bệnh đến khi trưởng thành đã cải thiện về tính cách, suy nghĩ. Tuy nhiên đa phần người bệnh sẽ vướng vào nghiện ngập, phạm pháp, gây hấn, xung đột…. Việc trị liệu cho người bị bệnh rối loạn về nhân cách chống đối xã hội gặp rất nhiều khó khăn. Phương pháp phổ biến nhất hiện nay là nhận thức hành vi của người bệnh thông qua tạo áp lực từ pháp luật, sự trừng trị về các hành động sai trái, phạm pháp. Người mắc bệnh ASPD thường có biểu hiện gây hấn, xung đột với người khác (Nguồn: danongblog.com). Thực tế cho thấy hiện tại chưa có bất kỳ cách điều trị hiệu quả nào cho người bệnh rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Cách duy nhất là cách li họ ra khỏi đời sống xã hội. Mục đích chính của phương pháp điều trị này giảm thiểu tối đa số lần vi phạm pháp luật của họ với người khác và cộng đồng. Với một số trường hợp có thể áp dụng phương pháp chữa trị nhận thức – hành vi cho người bệnh. Tuy nhiên cách này đòi hỏi cần có thời gian liên tục để giúp người bệnh nhận thức về hành vi nguy hiểm, việc làm sai trái của họ. Theo nhiều khuyến cáo, những người bị bệnh ASPD thường không thể kiểm soát được tâm lý, hành vi của mình. Do đó, nếu phát hiện ra những dấu hiệu của người bị bệnh rối loạn nhân cách dạng chống đối xã hội, tốt nhất là không nên tiếp xúc với họ. Bởi chỉ có công an và pháp luật mới có thể trừng trị được họ. Vậy nên việc đăng ký kiểm tra sức khỏe tổng quát tại các bệnh viện uy tín rất cần thiết để phát hiện bệnh và đưa ra các cách điều trị kịp thời. Hy vọng thông qua bài viết đã giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về bệnh rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Thường xuyên theo dõi website của Blog Docco để cập nhật nhiều thông tin hữu ích nhất!. DOCCO.VN là blog cá nhân được tạo ra nhằm mục đích chia sẻ những thủ thuật, kinh nghiệm dùng máy tính, laptop Windows, MacOS cho tất cả mọi người. Phương châm của Docco Blog là chia sẻ không giới hạn, biết gì chia sẻ nấy về những kiến thức bổ ích nhất liên quan đến hệ điều hành Windows.
Rối loạn nhân cách chống xã hội
Rối loạn nhân cách chống xã hội (tiếng Anh: Antisocial personality disorder, hay viết tắt là ASPD) là một trạng thái không bình thường của nhân cách biểu hiện chủ yếu bằng sự khó hoặc không thích ứng thường xuyên với các quy tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Đây là một dạng trong nhóm bệnh rối loạn nhân cách. Không quá ngạc nhiên khi các nghiên cứu chỉ ra rằng rối loạn nhân cách chống xã hội có tỷ lệ cao ở tù nhân (những người thường có hành vi bạo lực), tương tự như vậy người lạm dụng rượu và các chất gây nghiện cũng được ghi nhận là có nhiều khả năng mắc hơn so với cộng đồng. Trong suốt thế kỷ trước các nhà nghiên cứu và các bác sĩ lâm sàng đã sử dụng các nhiều thuật ngữ đa dạng để miêu tả ASPD chẳng hạn như bệnh xã hội (sociopathy), đạo đức suy đồi (moral insanity). Kraepelin và Schneider thì dùng từ bệnh nhân cách (psychopathy) để chỉ loại rối loạn này, tuy nhiên về sau thuật ngữ trên bị áp dụng một cách quá rộng rãi để chỉ tất cả các loại rối loạn nhân cách.
Nghịch lý ông nội lần đầu tiên được miêu tả bởi nhà khoa học giả tưởng René Barjavel trong quyển sách Le Voyageur Imprudent (nhà du hành khinh suất) xuất bản năm 1943. Nội dung của nghịch lý này là: “Có một người đàn ông du hành thời gian về quá khứ và giết ông nội mình trước khi ông mình cưới bà nội. Kết quả là cha của anh ta sẽ không được sinh ra, điều đó dẫn tới người đàn ông đó sẽ không bao giờ được ra đời thì sao anh có thể du hành về quá khứ. Nhưng nếu anh không về quá khứ để giết ông nội mình thì ông nội anh phải còn sống và điều đó nghĩa là anh vẫn được ra đời và có thể vượt thời gian để giết ông nội mình”. Hai tình trạng trên đã phủ nhận sự tồn tại của cả hai trường hợp, đây là một loại của logic nghịch lý. Lý thuyết nghịch lý ông nội là một minh chứng bác bỏ khả năng du hành thời gian về quá khứ. Tuy nhiên, đã có một số phương pháp dùng để giải mã câu đố này đã được công bố, như là lý thuyết thời gian bất khả đổi nghĩa là tất cả mọi thứ trong thế gian đều đã sắp đặt không ai có thể thay đổi gì hết hoặc là khái niệm vũ trụ là một khoảng thời gian và không gian song song. Một nghịch lý có liên quan là Nghịch lý Hitler hoặc Nghịch lý vụ ám sát Hitler. Nghịch lý Hitler này được thấy trong các thể loại khoa học giả tưởng, khi một người hùng vai chính du hành về quá khứ để giết chết Hitler trước khi Hitler tạo nên chiến tranh thế giới hai. Nếu như chiến tranh thế giới thứ hai chưa từng xảy ra thì lý do quay về quá khứ để giết Hitler cũng sẽ không hề tồn tại. Trong nghịch lý Achilles và rùa, Achilles chạy đua với rùa. Ví dụ Achilles chấp rùa một đoạn 100 mét. Nếu chúng ta giả sử rằng mỗi tay đua đều bắt đầu chạy với một tốc độ không đổi (Achilles chạy rất nhanh và rùa rất chậm), thì sau một thời gian hữu hạn, Achilles sẽ chạy được 100 mét, tức anh ta đã đến được điểm xuất phát của con rùa. Nhưng trong thời gian này, con rùa cũng đã chạy được một quãng đường ngắn, ví dụ 10 mét. Sau đó Achilles lại tốn một khoảng thời gian nữa để chạy đến điểm cách 10 mét ấy, mà trong thời gian đó thì con rùa lại tiến xa hơn một chút nữa, và cứ như thế mãi. Vì vậy, bất cứ khi nào Achilles đến một vị trí mà con rùa đã đến, thì con rùa lại cách đó một đoạn. Bởi vì số lượng các điểm Achilles phải đến được mà con rùa đã đi qua là vô hạn, do đó anh ta không bao giờ có thể bắt kịp được con rùa. Trên thực tế, điều này thật vô lý vì nếu bạn chạy đua với 1 con rùa thì bạn rõ ràng có thể vượt nó một cách dễ dàng nhưng nếu suy luận theo cách “hại não” của nghịch lý này thì rõ ràng, bạn không bao giờ có thể vượt nó. “Trong một cuộc chạy đua, người chạy nhanh nhất không bao giờ có thể bắt kịp được kẻ chậm nhất. Kể từ khi xuất phát, người đuổi theo trước hết phải đến được điểm mà kẻ bị đuổi bắt đầu chạy. Do đó, kẻ chạy chậm hơn luôn dẫn đầu.” – theo lời ghi lại của Aristotle. Nghịch lý Ngày hành quyết bất ngờ là một trong những nghịch lý logic đã làm vô số các nhà bác học từ cổ chí kim đau đầu vì sự khó hiểu của nghịch lý này. Nội dung nghịch lý như sau: Tại một phiên tòa, thẩm phán ra phán quyết đối với người tử tù rằng anh ta sẽ bị treo cổ vào giữa trưa một ngày thường (từ thứ Hai đến thứ Sáu) trong tuần sau. Ngày hành quyết sẽ là một bất ngờ đối với người tử tù và anh ta chỉ có thể biết được khi cai ngục đến gõ cửa buồng ngay trước giờ ra pháp trường. Được tạo ra bởi người thợ mộc già Mister Geppetto trong một ngôi làng nhỏ của Ý, chú rối gỗ Pinocchio mơ ước trở thành một cậu bé bằng xương bằng thịt. Cậu thường hay nói dối và bịa đặt ra những câu chuyện vì nhiều lý do khác nhau, mỗi khi cậu bé nói dối, mũi cậu sẽ dài ra. Vậy trong trường hợp này, khi cậu nói “Mũi của cháu sẽ dài ra ngay bây giờ”, nếu mũi dài ra nghĩa là cậu bé đã nói thật như vậy mũi sẽ không dài ra. Nếu mũi không dài ra, nghĩa là Pinocchio nói dối, như vậy mũi lại dài ra. Và như thế vòng luẩn quẩn cứ lập đi lập lại. Về cơ bản Zeno cho rằng mọi vật không chuyển động . Trong nghịch lý mũi tên, Zeno nói rõ rằng để chuyển động xảy ra, thì đối tượng phải thay đổi vị trí mà nó chiếm giữ. Ông đã đưa ra ví dụ về một mũi tên đang bay. Ông lập luận rằng trong bất kỳ một khoảnh khắc (thời điểm) nào đó thì mũi tên không di chuyển đến vùng không gian nó đang chiếm, và cũng không di chuyển đến vùng không gian mà nó không chiếm. Nó không thể đang di chuyển đến nơi mà nó không chiếm, bởi vì thời gian không trôi để nó di chuyển đến đó, nó cũng không thể đang di chuyển đến nơi nó đang chiếm, bởi vì nó đã đứng đó rồi. Nói một cách khác thì tại mỗi khoảnh khắc của thời gian, không có chuyển động xảy ra. Nếu mọi vật đều bất động trong mỗi khoảnh khắc, và thời gian hoàn toàn là bao gồm các khoảnh khắc, thì chuyển động là không thể xảy ra. "Nếu tất cả mọi thứ đều chiếm một khoảng không gian khi nó đứng yên, và nếu khi nó chuyển động thì nó cũng chiếm một khoảng không gian như thế tại bất cứ thời điểm nào, do đó mũi tên đang bay là bất động". - theo lời ghi lại của Aristotle
Nghịch lý ông nội
Nghịch lý ông nội là một vấn đề trong nghịch lý của du hành thời gian, hay hiểu đơn giản là vấn đề không thể hiểu hoặc không có cách giải, lần đầu tiên được miêu tả (miêu tả đúng như khái niệm hiện nay) bởi nhà khoa học giả tưởng René Barjavel trong quyển sách Le Voyageur Imprudent (Nhà du hành khinh suất) xuất bản năm 1943. Tuy nhiên, những vấn đề tương tự (thậm chí còn phức tạp hơn) đã được miêu tả sớm hơn, ví dụ điển hình tiểu thuyết By His Bootstraps của Robert A. Heinlein. Điều nghịch lý ở đây là: Có một người đàn ông du hành thời gian về quá khứ và giết ông nội mình trước khi ông mình cưới bà nội. Kết quả là cha của anh ta sẽ không được sinh ra, điều đó dẫn tới người đàn ông đó sẽ không bao giờ được ra đời thì làm sao anh ta có thể du hành về quá khứ. Nhưng nếu anh không về quá khứ để giết ông nội mình thì ông nội anh phải còn sống và điều đó nghĩa là anh vẫn được ra đời và có thể vượt thời gian để giết ông nội mình.
Trong nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, các phương pháp định lượng là điều tra thực nghiệm có hệ thống các hiện tượng quan sát được qua số liệu thống kê, toán học hoặc số hoặc kỹ thuật vi tính. Mục tiêu của nghiên cứu định lượng là sử dụng mô hình toán học, lý thuyết hoặc các giả thuyết liên quan đến hiện trường thực tế. Trong nghiên cứu định lượng quá trình đo lường khá quan trọng, vì nó cung cấp các kết nối cơ bản giữa quan sát thực nghiệm và số liệu cụ thể qua các mối quan hệ định lượng. Nếu xét về các ví dụ về nghiên cứu định lượng, thì đó chính là số liệu trong nghiên cứu định lượng là bất kỳ dữ liệu ở dạng số như số liệu thống kê, tỷ lệ phần trăm, v.v…. Mục đích của nghiên cứu định lượng là đo lường, kiểm tra sự liên quan giữa các biến số dưới dạng thống kê. Đây là phương pháp dùng để tổng quát hóa kết quả nghiên cứu thông qua phân phối mẫu đại diện. Đôi nghi các biến số cơ bản có tính chất định tính, chúng ta cần lượng hóa biến số để thực hiện nghiên cứu định lượng. Các phương pháp thu thập dữ liệu trong nghiên cứu định lượng có thể là cân, đo, sử dụng bảng câu hỏi có cấu trúc để phỏng vấn, ghi chép, tập hợp dữ liệu. Phương pháp này giúp kiểm soát thử nghiệm hoặc thao tác các biến độc lập nhằm đo lường ảnh hưởng của nó lên một biến phụ thuộc. Phương pháp đặt câu hỏi đặt câu hỏi cho một nhóm người trực tiếp, qua điện thoại hoặc trực tuyến. Bạn có thể dùng bảng câu hỏi với thang điểm phù hợp để đánh giá về vấn đề đang nghiên cứu. Ví dụ bạn phân tích trải nghiệm của những sinh viên quốc tế về sốc văn hóa, bạn có thể phát bảng câu hỏi cho họ rồi thực hiện khảo sát. Đây là phương pháp xác định sự xuất hiện của mối quan tâm về đối tượng và theo dõi nó trong bối cảnh tự nhiên để tìm hiểu và phân tích nó. Ví dụ, để nghiên cứu sự tham gia vào lớp học đại học, bạn ngồi trên lớp để quan sát họ, đếm và ghi lại mức độ phổ biến của các hành vi chủ động và thụ động của sinh viên từ các nhóm lớp khác nhau. Sau khi dữ liệu được thu thập, bạn có thể cần phải xử lý nó trước khi nó có thể được phân tích. Ví dụ, dữ liệu khảo sát và thử nghiệm có thể cần được chuyển đổi từ từ sang số. Sau đó, để phân tích dữ liệu của mình, bạn có thể sử dụng thống kê mô tả và hoặc suy luận để trả lời các câu hỏi nghiên cứu của mình. Thống kê mô tả sẽ cung cấp cho bạn bản tóm tắt dữ liệu của bạn và bao gồm các thước đo về giá trị trung bình và độ biến thiên. Bạn cũng có thể sử dụng đồ thị, biểu đồ phân tán và bảng tần suất để trực quan hóa dữ liệu của mình và kiểm tra bất kỳ xu hướng hoặc ngoại lệ nào. Sử dụng thống kê suy luận, bạn có thể đưa ra dự đoán hoặc khái quát dựa trên dữ liệu của mình. Bạn có thể kiểm tra giả thuyết của mình hoặc sử dụng dữ liệu mẫu để ước tính tham số tổng thể. Hiện tại Luận Văn Việt đang cung cấp viết thuê luận văn thạc sĩ, cao học có hỗ trợ chạy định lượng. Nếu bạn gặp khó khăn trong quá trình làm luận văn cần phân tích định lượng, đừng ngần ngại liên hệ ngay với chúng tôi để được đội ngũ chuyên gia hỗ trợ một cách tốt nhất. Có tính khái quát cao, độ tin cậy và tính đại diện của kết quả nghiên cứu định lượng khá cao. Mất ít thời gian hơn để quản lý quá trình khảo sát. Bạn có thể tận dụng công nghệ để thực hiện nghiên cứu này, đôi khi câu trả lời chỉ cần thu thập được bằng một cú nhấp chuột. Mang tính khách quan vì các dữ liệu định lượng có thể được giải thích bằng phân tích thống kê dựa trên các nguyên tắc toán học nên phương pháp định lượng được coi là khá khoa học và hợp lý. Quá trình phân tích nhanh hơn: Có thể tận dụng các phần mềm phân tích để giúp phân tích, xử lý lượng lớn dữ liệu một cách nhanh chóng và chính xác, đồng thời giảm khả năng bị lỗi kỹ thuật. Chi phí cao: Vì nhu cầu tổng quát hóa lượng mẫu nghiên cứu lớn, nên chi phí thực hiện một đề tài nghiên cứu với phương pháp định lượng sẽ rất cao. Tác động của ngoại cảnh đến câu trả lời của đáp viên: Có nhiều yếu tố ngoại cảnh tác động đến đối tượng được nghiên cứu, nên đôi khi câu trả lời sẽ không chính xác đúng như ứng viên muốn trả lời. Đôi lúc ứng viên sẽ trả lời nhầm ý mà người hỏi muốn hỏi, vì hầu hết nghiên cứu định lượng người phỏng vấn không thể can thiệp để giải thích hay giải thích cho ứng viên được. SPSS là bộ chương trình có giao diện giữa người và máy, cho phép người dùng chọn các lệnh muốn thực hiện khi sử dụng các menu thả xuống, chọn những thủ tục cần thiết, chọn biến phân tích và bấm OK, máy sẽ cho ra kết quả trên màn hình ngay lập tức. SPSS là phần mềm có giao diện đơn giản giúp người dùng dễ dàng tạo ra các đồ thị, tùy ý hiệu chỉnh đồ thị và hoàn thiện chúng. Khả năng xử lý của SPSS đối với các vấn đề ước lượng phức tạp còn kém, dẫn đến khó đưa ra sai số đối với các ước lượng này. Stata là sự kết hợp của “statistics” và “data”, là một phần mềm được phát triển từ năm 1985. Stata cung cấp một hệ thống quản lý dữ liệu và khả năng phân tích thống kê với giao diện đồ hoạ thân thiện bao gồm trình đơn mô tả và các hộp thoại đơn giản. Stata là một bộ chương trình được sử dụng trong các phân tích định lượng và thống kê. Nó sử dụng các lệnh trực tiếp, có thể nhập mỗi lệnh ở một thời điểm để thực hiện, hoặc có thể soạn thảo nhiều lệnh thành một bộ chương trình cho một nhiệm vụ và thực hiện đồng thời chúng. Phần mềm AMOS là một công cụ hữu ích trong việc thực hiện phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính(SEM), phân tích CFA, kiểm định SEM, phân tích Bootstrap, phân tích đa nhóm, phân tích tác động của biến điều tiết, biến trung gian. Một ưu điểm lớn của AMOS là nó thể hiện các phân tích và chỉ số dưới dạng hình ảnh đồ họa. Phần mềm này rất phù hợp cho các bài nghiên cứu có sử dụng dữ liệu khảo sát thuộc ngành quản trị kinh doanh, kế toán, tài chính, ngân hàng, kinh tế phát triển,…. Nếu muốn đánh giá tổng thể một mô hình gồm nhiều ước lượng hồi quy, tương quan… AMOS là lựa chọn số một. Tuy nhiên nếu mô hình đơn giản, chỉ có một biến phụ thuộc, không có biến trung gian thì dùng SPSS là đủ để đánh giá. Dù là bạn chọn nghiên cứu định lượng hay định tính cho bài luận, bài nghiên cứu khoa học của mình đi nữa, thì nó cũng sẽ hữu ích ở một số trường hợp và không có hiệu quả ở một số trường hợp. Cùng xem bảng dưới đây để phân biệt được sự khác biệt giữa định lượng và định tính là gì?. Như vậy, qua bài phân tích chia sẻ trên mà Luận Văn Việt gửi đến bên trên, bạn đã hiểu được định lượng là gì rồi đúng không? Chúng tôi hy vọng rằng với những kiến thức bổ ích ấy, là hành trang vững chắc cho bạn thực hiện các đề tài nghiên cứu tiếp theo và đạt được kết quả cao nhất. Hiện tại tôi đang đảm nhiệm vị trí Content Leader tại Luận Văn Việt. Tất cả các nội dung đăng tải trên website của Luận Văn Việt đều được tôi kiểm duyệt và lên kế hoạch nội dung. Tôi rất yêu thích việc viết lách ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Và đến nay thì tôi đã có hơn 5 năm kinh nghiệm viết bài. Chúng tôi chuyên nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn sẽ giúp bạn hoàn thành đề tài của mình.
Nghiên cứu định lượng
Trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, nghiên cứu định lượng là điều tra thực nghiệm có hệ thống về các hiện tượng quan sát được qua số liệu thống kê, toán học hoặc số hoặc kỹ thuật vi tính. Mục tiêu của nghiên cứu định lượng là phát triển và sử dụng mô hình toán học, lý thuyết hoặc các giả thuyết liên quan tới các hiện tượng. Quá trình đo lường là trung tâm của nghiên cứu định lượng bởi vì nó cung cấp các kết nối cơ bản giữa quan sát thực nghiệm và biểu thức toán học của các mối quan hệ định lượng. Số liệu định lượng là bất kỳ dữ liệu ở dạng số như số liệu thống kê, tỷ lệ phần trăm, v.v. Trong điều kiện thường, điều này có nghĩa là các nhà nghiên cứu định lượng yêu cầu một câu hỏi cụ thể và thu thập một mẫu dữ liệu số từ hiện tượng quan sát hay từ nghiên cứu người tham gia trả lời các câu hỏi. Các nhà nghiên cứu phân tích các dữ liệu với sự giúp đỡ của các số liệu thống kê. Các nhà nghiên cứu hy vọng con số sẽ mang lại một kết quả không thiên vị mà có thể được khái quát hóa cho một số lượng dân số lớn hơn.
Ngày nay, xuất hiện nhiều hình ảnh ô vuông bên trong có ký tự lạ chồng chéo trên các biển quảng cáo bên đường; hoặc những lá thư mời cũng có chứa các ô vuông kỳ lạ này. Đó là QR Code hay còn gọi là mã QR. Nó xuất hiện phổ biến khắp nơi; gần như là phương thức nhận diện chủ yếu cho các ứng dụng của smartphone ngày nay. Vậy mã QR Code là gì? Có những vấn đề nào cần biết về mã QR? Một số thông tin cơ bản sau sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về loại mã vạch này. 5 Làm thế nào để tạo mã QR Code?5.1 Tạo trực tuyến5.2 Tạo bằng phần mềm điện thoại. 6 Làm thế nào để quét mã QR Code?6.1 Trên hệ điều hành IOS6.2 Trên hệ điều hành Android6.3 Khác. 8 Lợi ích của việc sử dụng mã QR là gì?8.1 Không cần thiết bị đặc biệt8.2 Nhanh chóng, dễ sử dụng8.3 An toàn cao. QR Code, viết tắt của Quick response code (Mã phản hồi nhanh) hay còn gọi là mã vạch ma trận (matrix-barcode) là dạng mã vạch hai chiều (2D). Mã này được đọc bởi máy đọc mã vạch hay smartphone với ứng dụng để quét mã vạch. Mã QR được tạo ra bởi Denso Wave của Nhật Bản vào năm 1994. Hình dạng bao gồm các điểm đen và ô vuông nằm trong ô vuông mẫu trên nền trắng. QR Code có thể được đọc nhanh hơn, tiết kiệm thời gian và không gian so với các loại mã vạch truyền thống. Một mã QR có thể chứa đựng thông tin một địa chỉ web (URL), thời gian diễn ra một sự kiện, thông tin liên hệ, SMS, địa chỉ email, nội dung ký tự văn bản hay thậm chí là thông tin định vị vị trí địa lý. Tùy thuộc thiết bị đọc mã QR mà bạn dùng khi quét, nó sẽ dẫn bạn tới một trang web, số điện thoại, tin nhắn…. Mã QR và mã vạch truyền thống đều được dùng để theo dõi, quản lý sản phẩm trong kinh doanh. Điểm khác biệt là lượng dữ liệu chúng nắm giữ hay chia sẻ. Các mã vạch truyền thống có các đường vạch thẳng dài một chiều và chỉ có thể lưu giữ 20 số chữ số. Trong khi các mã QR có thể lưu giữ thông tin hàng ngàn ký tự chữ số. Mã QR nắm giữ nhiều thông tin hơn, tính chất dễ dùng sẽ giúp ích rất nhiều cho doanh nghiệp nhỏ. Mã QR tĩnh lưu trữ các thông tin trực tiếp qua hình thức văn bản dẫn thẳng đến trang web mà không thông qua các liên kết thứ cấp. Do đó thông tin hoặc liên kết không thể được thay đổi hoặc chỉnh sửa. Bạn phải tạo ra code tĩnh mới mỗi lần muốn cập nhật. Code tĩnh rất phù hợp cho những người muốn tạo mã chứa thông tin vĩnh viễn như: nhóm máu, ngày sinh, tên…. Liên kết chính của mã QR code có thể được thay đổi và cập nhật thông tin mà không cần can thiệp vào code. Khi quét mã, QR động sẽ tự chuyển hướng đến máy chủ, nơi tương tác giữa hình ảnh đến thông tin cụ thể trong một cơ sở dữ liệu. Mã QR động tiện lợi ở chỗ chỉ cần tạo một lần, doanh nghiệp có thể thay đổi và cập nhật tin tức mới nhất về sản phẩm của mình. Lưu trữ URL: sử dụng điện thoại để đọc QR Code để lấy URL, và tự động mở web trên trình duyệt. Sử dụng tại siêu thị, nhà hàng, khách sạn, hội thảo, thuyết trình, concert…: người tham gia có thể sử dụng QR Code thay cho Business Card của mình. Sử dụng trong chương trình marketing: dần thay thế các quảng cáo dưới hình thức phát tờ rơi. QR Code sẽ đính kèm thông tin thương hiệu trên các ấn phẩm, bảng hiệu, bảng quảng cáo, billboard. Mã QR còn được dùng để tạo sự khác biệt trong chữ ký email; trên những món quà, tạo đặc biệt và bất ngờ cho người nhận. Làm cho người nhận thấy tò mò về nội dung của QR Code đính kèm. Có rất nhiều cách để tạo mã QR Code. Chúng ta có thể tạo trực tuyến hoặc tạo bằng phần mềm trên điện thoại. Tạo trực tuyếnTạo mã QR trực tuyến bằng các phần mềm trên trang web. Chỉ cần nhập thông tin vào các mục sẵn có và trang web sẽ đưa ra kết quả là các mã QR. Tạo mã QR trực tuyến bằng các phần mềm trên trang web. Chỉ cần nhập thông tin vào các mục sẵn có và trang web sẽ đưa ra kết quả là các mã QR. Tạo bằng phần mềm điện thoạiBạn có thể tạo mã QR qua phần mềm QR Droid Code Scanner. Phần mềm này có cả trên Android và IOS. Bạn có thể tạo mã QR qua phần mềm QR Droid Code Scanner. Phần mềm này có cả trên Android và IOS. Để quét mã QR, trước tiên cần có ứng dụng máy quét trên smartphone. Các ứng dụng này có thể được tải xuống miễn phí trong cửa hàng ứng dụng. Sau khi cài đặt, khởi động ứng dụng, đưa ống kính camera sau của smartphone/tablet về phía mã QR để máy nhận dạng. Nếu mã có thể đọc được, địa chỉ hoặc hành động được mã hóa sẽ được truy cập tự động. Ngoài ra, hiện nay có rất nhiều ứng dụng đã tích hợp sẵn tính năng quét mã QR. Phổ biến như Zalo đã được tích hợp quét mã QR nhanh chóng. Hoặc trên Chrome của Google cũng đã tích hợp thêm phần quét mã QR rất hữu ích cho người dùng. Mã QR code có nhiều ưu điểm hơn so với mã vạch truyền thống. Do đặc tính linh hoạt, độ tin cậy cao và dễ sử dụng, và tiết kiệm chi phí. Do đó, mã QR ngày càng phổ biến trên thị trường. Sau đây là một vài ưu điểm nổi trội trong số rất nhiều ưu điểm của mã QR Code:. Dung lượng cao – lưu trữ nhiều dữ liệu hơn, cho phép lưu trữ nội dung thực, không chỉ các ID hoặc tham chiếu. Yêu cầu ít không gian hơn – Lấy cùng một dữ liệu được lưu trữ trên một diện tích bề mặt nhỏ hơn nhiều. Khả năng chống bụi, thiệt hại – Chúng vẫn có thể đọc được ngay cả khi bị hư hỏng. Có thể đọc được từ bất kỳ hướng nào – Có thể quét mã QR từ mọi góc độ, không yêu cầu căn chỉnh theo hướng của mã. Cấu trúc phụ thêm – Dữ liệu có thể được chia thành nhiều mã khi quét có thể được kết hợp để tái tạo lại nội dung gốc. Một trong những thách thức khi thanh toán di động là tìm giải pháp hoạt động tương thích giữa các thiết bị với nhau. Phương thức thanh toán bằng mã QR giúp khắc phục thử thách này, vì tất cả những gì bạn cần để quét mã QR chỉ camera có sẵn trên điện thoại. Sử dụng mã QR không cần nhập thông tin tài khoản, số thẻ hay số tài khoản giống như các phương thức thanh toán khác. Chỉ cần quét mã QR, nhập số tiền thanh toán, giao dịch sẽ hoàn thành nhanh gọn trong vài giây. So với việc mang theo cả xấp tiền mặt, hay thẻ ngân hàng, thẻ tín dụng. Thì lưu trữ thông tin thanh toán trên điện thoại an toàn hơn nhiều. Và sử dụng mã QR Code thanh toán là tuyệt đối an toàn. Với hai lớp bảo mật cùng định dạng đặc biệt của mã QR (theo tiêu chuẩn toàn cầu của EMVCo quốc tế); khách hàng sẽ hoàn toàn an tâm khi giao dịch thanh toán bằng QR code. Mã QR Code đang dần trở nên phổ biến trong kinh doanh ngày nay. Chúng cung cấp một lượng lớn thông tin đáng tin cậy, nhanh chóng, không hề tốn kém cho khách hàng và đối tác của bạn. QR code chắc chắn sẽ là xu hướng của tương lai. Hướng đến thanh toán nhanh chóng trong thời đại công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay. Trên đây, ADV đã cung cấp những thông tin về mã QR cho các bạn. Nếu bạn còn thắc mắc, có thể liên hệ công ty ADV chúng tôi. Chúng tôi sẽ luôn lắng nghe và tư vấn cho bạn tốt nhất. Phương châm làm việc của ADV Solutions là làm việc có trách nhiệm trong từng dự án và nỗ lực từng ngày để hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ, đội ngũ nhân viên.
Mã QR
Mã QR hay mã hai chiều là một mã vạch ma trận (hay mã vạch hai chiều, mã phản hồi nhanh) được phát triển bởi công ty Denso Wave (Nhật Bản) vào năm 1994. Chữ "QR" xuất phát từ "Quick Response", trong tiếng Anh có nghĩa là đáp ứng nhanh hay xử lí nhanh, vì người tạo ra nó có ý định cho phép mã được giải mã ở tốc độ cao. Các mã QR được sử dụng phổ biến nhất ở Nhật Bản, Trung Quốc, và hiện là loại mã hai chiều thông dụng nhất ở Nhật Bản. Mặc dù lúc đầu mã QR được dùng để theo dõi các bộ phận trong sản xuất xe hơi, hiện nay nó được dùng trong quản lý kiểm kê ở nhiều ngành khác nhau. Gần đây hơn, phần mềm đọc mã QR đã được cài vào điện thoại di động có gắn camera (camera phone) ở Nhật. Điều này đưa đến các ứng dụng mới và đa dạng hướng về người tiêu dùng, nhằm làm nhẹ nhàng việc nhập dữ liệu vào điện thoại di động, vốn không hấp dẫn mấy. Mã QR cũng được thêm vào danh thiếp, làm đơn giản đi rất nhiều việc nhập dữ kiện cá nhân của người mới quen vào sổ địa chỉ trên điện thoại di động.
Dịch vụ công là gì? Khái niệm, Phân loại dịch vụ công hiện nay. Chia sẻ Khái quát về dịch vụ công trình bày tổng quan về dịch vụ công trực tuyến cấp huyện, trong đó nêu ra các khái nhiệm có liên quan đến dịch vụ công trực tuyến như dịch vụ công, dịch vụ hành chính công, Chính phủ điện tử, dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ công trực tuyến cấp huyện…. Ngoài ra, còn rất nhiều bài luận văn thạc sĩ ngành quản lý công được Luận văn Panda chọc lọc, nhằm hỗ trợ các bạn học viên tham khảo được tốt hơn. Các bạn có thể tham khảo những bài luận văn thạc sĩ quản lý công tại đây. Khái niệm dịch vụ công ở tiếng Anh là Public Service và tiếng Pháp là Service publique. Theo đó, dịch vụ (service) nghĩa là phục vụ. Công (Public – tiếng Anh, Phublique – tiếng Pháp) nghĩa là việc chung do nhà nước thực hiện một cách công khai, minh bạch. Có thể thấy rằng khái niệm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, chúng đều có tính chất chung là nhằm phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã hội. Ngay cả khi nhà nước chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thì nhà nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này và khắc phục các bất cập của thị trường. Từ những tính chất trên đây, “dịch vụ công” được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, dịch vụ công là những hàng hoá, dịch vụ mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. Theo đó, dịch vụ công là tất cả những hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vốn có của Chính phủ, bao gồm từ các hoạt động ban hành chính sách, pháp luật, toà án… cho đến những hoạt động y tế, giáo dục, giao thông công cộng. Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hoá, dịch vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của các tổ chức và công dân mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. Tại Việt Nam, khái niệm dịch vụ công được hiểu là những dịch vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm, phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân không vì mục tiêu lợi nhuận. Là hàng hóa, dịch vụ do nhà nước chịu trách nhiệm tổ chức cung ứng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (cấp vốn, ủy quyền hay trao cho những ưu đãi để các tổ chức xã hội hoặc tư nhân thực hiện, nhưng nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm). Phục vụ trực tiếp cho nhu cầu, lợi ích cơ bản, thiết yếu của các tổ chức và công dân. Khi sử dụng dịch vụ, người dân có được các lợi ích trực tiếp đáp ứng nhu cầu thiết thực của mình. Những lợi ích này là cơ bản, thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển của mỗi người, mỗi tổ chức. Không vì mục tiêu lợi nhuận. Nguyên tắc không nhằm mục tiêu lợi nhuận có ý nghĩa là các tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ công được quyền thu các khoản lợi nhuận nhất định, nhưng không phải thuần túy theo quan hệ thị trường, tức là không thu lợi nhuận tối đa mà chịu sự quản lý, điều tiết của nhà nước và phải lấy mục tiêu phục vụ là chính. Các nguồn lợi thu được sau khi trừ chi phí và trả lương cho người làm việc, về cơ bản được dùng để mở rộng dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ chứ không được đem chia cho các thành viên của tổ chức cung ứng dịch vụ đó. Dịch vụ hành chính công: Đây là những dịch vụ phục vụ cho mọi người dân, nhà nước phục vụ các quyền của người dân, có trách nhiệm cung cấp các giấy tờ hành chính, tư pháp theo quy định của pháp luật.Phạm vị dịch vụ hành chính công bao gồm các hoạt động thực thi các chính sách, pháp luật nói chung và việc bảo đảm các quyền và nghĩa vụ có tính pháp lý của các tổ chức và công dân như: cấp giấy phép xây dựng, giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, xác minh hộ tịch, hộ khẩu, bổ trợ tư pháp, thu thuế, hải quan…. Dịch vụ sự nghiệp công: Là loại dịch vụ cung cấp các hàng hóa dịch vụ về giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khỏe, văn hóa và tinh thần…do các tổ chức sự nghiệp cung ứng, không thu tiền hoặc có thu một phần nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận. Dịch vụ công ích: là hoạt động cung cấp các hàng hóa dịch vụ có tính chất kinh tế đáp ứng nhu cầu vật chất thiết yếu cho sinh hoạt của người dân, nó gắn liền với việc cung ứng của các cơ sở hạ tầng kỹ thuật cơ bản. Để hỗ trợ các bạn học viên dễ dàng hơn trong việc tham khảo giá viết thuê luận văn thạc sĩ quản lý công, và quy trình viết thuê luận văn thạc sĩ. Các bạn có thể tham khảo bảng giá viết thuê luận văn thạc sĩ tại đây. Dịch vụ hành chính công cấp huyện ở luận văn này được tiếp cận theo cách hiểu của Nghị định số 43/2011/NĐ-CP, tức là tiếp cận dịch vụ hành chính công dưới góc độ những dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước, do cơ quan nhà nước thực hiện, đồng thời “mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân”. Dịch vụ hành chính công ở cấp huyện là những dịch vụ liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện, do các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ở cấp huyện thực hiện nhằm cung cấp cho các tổ chức, cá nhân các loại giấy tờ pháp lý. Các dịch vụ hành chính công tại cấp huyện gắn liền với các loại thủ tục hành chính được thực hiện tại cấp huyện. Hiện nay, ở nước ta dịch vụ hành chính công được thực hiện tại cấp huyện được đánh giá là nhiều nhất. Như vậy, phạm vi của dịch vụ hành chính công cấp huyện được thực hiện tại nước ta hiện nay là rất rộng, bao trùm hầu hết các hoạt động kinh tế – xã hội của người dân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những lĩnh vực hiện đang được cung cấp dịch vụ hành chính công cấp huyện bao gồm: Tư pháp, tài nguyên môi trường, lao động – thương binh và xã hội, xây dựng, nông nghiệp và phát triển nông thông, giáo dục và đào tạo, nội vụ, văn hóa, tài chính – thương mại, y tế. Trong mỗi lĩnh vực kể trên cũng có thể chia ra nhiều lĩnh vực nhỏ tác động đến từng nhóm đối tượng với các yêu cầu quản lý cụ thể. Các dịch vụ hành chính công cấp huyện có số lượng người dân sử dụng lớn nhất trong 3 cấp tỉnh, huyện, xã. Số lượng loại dịch vụ hành chính công cũng như các yếu tố bên trong của thủ tục hành chính không ổn định, thường thay đổi sau quá trình rà soát, sửa đổi, thay thế, bãi bỏ, bổ sung của các cơ quan có thẩm quyền để phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. Cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện không có quyền điều chỉnh, thay đổi các thủ tục hành chính cấp huyện, đồng nghĩa với việc những cơ quan này chỉ là đơn vị chấp hành các thủ tục được cơ quan cấp trên ban hành. Tóm lại, dịch vụ hành chính công cấp huyện là loại hình dịch vụ công có số lượng lớn thủ tục hành chính, cung ứng cho lượng lớn các đối tượng trong xã hội và tương đối ổn định. Đây là những dịch vụ có có tác động lớn đến nhất đến số đông người dân, doanh nghiệp trong một địa phương
Dịch vụ công
Dịch vụ công hay dịch vụ công cộng là một dịch vụ nhằm phục vụ tất cả các thành viên của cộng đồng. Nó thường được chính phủ cung cấp cho những người sống trong phạm vi quyền hạn, trực tiếp (thông qua khu vực công) hoặc bằng cách cung cấp tài chính cho các dịch vụ. Thuật ngữ này được liên kết với một sự đồng thuận xã hội (thường được thể hiện thông qua các cuộc bầu cử dân chủ) rằng một số dịch vụ nên có sẵn cho tất cả mọi người, bất kể thu nhập, khả năng thể chất hoặc năng lực trí tuệ của họ. Ngay cả khi các dịch vụ công không được cung cấp công khai cũng không được tài trợ công khai, vì lý do xã hội và chính trị, chúng thường phải tuân theo quy định vượt ra ngoài việc áp dụng cho hầu hết các thành phần kinh tế. Chính sách công khi được thực hiện vì lợi ích và động lực của công chúng có thể cung cấp các dịch vụ công cộng. Dịch vụ công cộng cũng là một khóa học có thể được học tại một trường cao đẳng hoặc đại học.
Tađêô Lê Hữu Từ (1897–1967) là một giám mục Công giáo của Việt Nam, với khẩu hiệu giám mục là “Tiếng kêu trong hoang địa” (Vox Clamantis Mt 3:3). Ông từng là Giám mục Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm, được xem là người thành lập và lãnh đạo lực lượng Tự vệ Công giáo chống Cộng tại Bùi Chu – Phát Diệm trong giai đoạn 1950–1954. Ông cũng được xem là lãnh đạo tinh thần của những người Công giáo di cư vào miền Nam trong suốt giai đoạn 1954–1967. Giám mục Lê Hữu Từ sinh ngày 28 tháng 10 năm 1897 tại Di Loan, nay thuộc thị trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tổng giáo phận Huế Một số tài liệu khác cho rằng là ngày 29 tháng 10 hoặc ngày 27 tháng 10. Cha là ông Lê Hữu Ý, thường gọi là “ông Trùm Ý”, do đảm nhiệm chức danh Trùm trong ban điều hành giáo phận, mẹ là bà Inê Dưỡng. Gia đình ông có 10 anh chị em, gồm tám nam và hai nữ, trong đó có hai người sớm qua đời. Trong số các người này, ngoài Lê Hữu Từ sau là giám mục, còn có 2 linh mục và 2 nữ tu. Tất cả những giáo sĩ và tu sĩ là anh em Lê Hữu Từ đều thuộc Tổng giáo phận Huế. Do có thói nghịch ngợm, song thân không đánh giá cao khả năng tu trì của cậu bé Từ so với những người con khác. Tháng 9 năm 1911, cậu bé Lê Hữu Từ bắt đầu con đường tu học bằng việc theo học ở Tiểu chủng viện An Ninh (Cửa Tùng), Quảng Trị. Mười năm sau đó, tháng 9 năm 1921, chủng sinh Từ tiếp tục theo học tại Đại chủng viện Phú Xuân, Huế. Chủng sinh Từ lần lượt được lãnh nhận các nghi thức như cắt tóc, bốn chức nhỏ và chức năm, chức sáu trong giai đoạn từ năm 1922 đến năm 1926. Sau khi lãnh nhận chức Phó tế, ngoài dự đoán của gia đình là Lê Hữu Từ trở thành linh mục triều, thuộc Địa phận Huế, Phó tế Từ quyết định gia nhập dòng Phước Sơn, tọa lạc phía Tây Bắc Huế. Đây là dòng khổ tu và các tu sĩ tự lực mưu sinh. Ngày 15 tháng 9 năm 1928, Lê Hữu Từ gia nhập Dòng Xitô Phước Sơn tại núi Phước, Huế bằng nghi thức nhận áo dòng, trở thành thỉnh sinh của dòng. Ngày 23 tháng 12 năm 1928, phó tế Lê Hữu Từ được truyền chức linh mục bởi giám mục chủ phong Marcou Thành, giám mục Địa phận Phát Diệm, thay thế giám mục Allys của Địa phận Huế gặp vấn đề về thị lực. Hơn một năm sau khi được truyền chức linh mục, ông chính thức cử hành nghi thức khấn dòng Xitô và nhận tên thánh thứ hai là Anselmô năm 1930. Năm 1931, ông chính thức giữ vai trò phụ trách Nhà Tập (Tập sư nhà tập). Từ năm 1933, Phước Sơn chính thức sáp nhập vào dòng Xitô, Lê Hữu Từ được chọn làm đan viện phó (bề trên II). Ông cũng kiêm nhiệm vai trò Tập sư nhà tập trong giai đoạn này. Ông thực hiện nghi thức vĩnh khấn ngày 20 tháng 8 năm 1933. Đầu năm 1936, giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng gửi thư xin Bề trên Dòng Xitô Phước Sơn lập chi dòng trong địa phận Phát Diệm. Nhận lời giám mục Tòng, ngày 12 tháng 7 cùng năm, Hội dòng Phước Sơn bầu chọn linh mục Lê Hữu Từ làm bề trên tiên khởi với mục đích dẫn đoàn sáng lập dòng tu khổ hạnh Châu Sơn tại Nho Quan, Ninh Bình. Ngày 8 tháng 9 năm 1936, ông chính thức nhận nhiệm vụ Bề trên Dòng Xitô Châu Sơn. Khi đặt chân đến vùng Châu Sơn còn hoang sơ, linh mục Từ chỉ mang theo hành lý là một cây thánh giá, một tràng hạt, 12 đồng bạc Việt Nam và đồng hành có 12 tu sĩ. Nhóm tu sĩ này đã cải tạo tự nhiên để tiến đến nghi lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng thánh đường Xitô Nho Quan giữa tháng 2 năm 1937. Cùng sống đời sống khổ tu, Đan viện trưởng Lê Hữu Từ cũng không ngoại lệ, ông cũng lao động cực nhọc, thường đi chân đất chỉ trừ lúc cử hành thánh lễ Công giáo (đi dép). Năm 1944, một số tu sĩ đầu tiên của dòng mới thực hiện nghi thức tuyên khấn. Giám mục Địa phận Phát Diệm Gioan Maria Phan Đình Phùng đến chủ sự nghi lễ và qua đời tại tu viện. Việc chọn lựa tân giám mục địa phận được giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng, Giám quản Địa phận gấp rút tiến hành. Nhận thấy linh mục Lê Hữu Từ thông thạo về địa phận với kinh nghiệm 10 năm và là người đứng đầu dòng Xitô, giám mục Tòng đã tiến cử linh mục Từ lên Tòa Thánh. Ngày 11 tháng 7 năm 1945, linh mục Lê Hữu Từ được Giáo hoàng Piô XII bổ nhiệm làm Giám mục Hiệu tòa Daphnusia với chức vị Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm. Nhận được tin bổ nhiệm ngày 19 tháng 7, giám mục tân cử cùng một thầy tháp tùng đi xe đạp 800 km vào Huế gặp Khâm sứ Tòa Thánh Antoine Drapier. Sau khi trở về đan viện, giám mục tân cử đã đón phái đoàn chúc mừng từ giáo phận Phát Diệm, gồm ba linh mục. Họ đã bàn thảo về chương trình lễ tấn phong, vốn đã ấn định ngày 29 tháng 10 cùng năm. Giám mục Lê Hữu Từ chỉ mời các giám mục người Việt tham gia lễ tấn phong. Khi vị phụ phong là Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục bị mật thám Pháp cản trở tham dự lễ, Giám mục Từ đã từ chối Giám mục Địa phận Hải Phòng (người ngoại quốc) đến tham dự và làm phụ phong trong nghi thức truyền chức. Lễ tấn phong được cử hành vào ngày 28 hoặc 29 tháng 10 cùng năm tại Nhà thờ chính tòa Phát Diệm, với phần nghi thức truyền chức do chủ phong là giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng và phụ phong là giám mục Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn, giám mục Địa phận Bùi Chu. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử phái đoàn đến dự lễ và chúc mừng. Phái đoàn gồm các ông Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Huy Liệu và cựu hoàng Bảo Đại. Hiện diện trong lễ tấn phong còn có Thượng toạ Thích Trí Dũng và Đại đức Thích Tâm Châu. Phái đoàn chính phủ trao thư chúc mừng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tân Giám mục Lê Hữu Từ, trong thư có đoạn:. Nhân ngày tấn phong Giám mục của Giám mục Lê Hữu Từ (28 tháng 10 năm 1945), các linh mục Tổng Đại diện và các đại biểu là giáo dân ở các địa phận miền Bắc và miền Trung Việt Nam tiến hành họp hội nghị thành lập Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam với châm ngôn: Thiên Chúa và Tổ Quốc. Suốt trong gần một thập niên trực tiếp quản lý địa phận Phát Diệm, Giám mục Lê Hữu Từ không bao giờ cho đóng cửa các chủng viện và không hạn chế những người muốn đi theo con đường tu trì trong các hội dòng. Tính đến năm 1953, Giám mục Từ đã truyền chức 43 linh mục, đại chủng sinh tăng từ 40 lên 80. Trong thời kỳ này, có khi Đại chủng viện Phát Diệm trở thành nơi đào tạo các chủng sinh từ các địa phận (hạt Đại diện Tông Tòa) khác như Hưng Hóa, Thanh Hoá, Hà Nội và Kon Tum. Ông phát triển Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm và thống nhất các chi nhánh Dòng Mến Thánh Giá trên lãnh thổ Việt Nam. Trong hoàn cảnh khó khăn, giám mục Từ vẫn tổ chức các hoạt động tôn giáo: đi kinh lý, giảng tĩnh tâm, tuần đại phúc và quan tâm trò chuyện với giáo dân. Ông tổ chức cách trọng thể việc rước tượng Đức Mẹ Fatima tại Địa phận. Tổng cộng, ông đã viết 90 thư luân lưu cho giáo dân. Ngoài các vấn đề thuần túy tôn giáo, ông cho thành lập trại tiếp cư, hỗ trợ đồng bào không phân biệt tôn giáo là nạn nhân chiến tranh. Ngày 25 tháng 1 năm 1946, chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Hồ Chí Minh đến thăm Phát Diệm và đề nghị giám mục Lê Hữu Từ đảm nhận chức Cố vấn Tối cao cho chính phủ. Hồ Chí Minh nhiều lần gọi ông là “người bạn thân thiết”, “người bạn quý mến”… Ông thường thư từ với Hồ chủ tịch và cộng tác với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa khi cử linh mục đi uý lạo đồng bào miền Nam Trung Bộ đầu năm 1949. Ông cũng được ghi nhận đã cho huy động giáo dân phá cầu Trì Chính để cản đường quân Pháp hành quân năm 1949. Thư chung ngày 23 tháng 3 năm 1947, Lê Hữu Từ kêu gọi giáo sĩ Công giáo đoàn kết chống Pháp: “Các cha biết rằng, một vài người cộng tác của chúng ta và nhiều giáo dân đã bị bắt và giam giữ nhiều ngày, vì họ bị nghi ngờ là đảng viên của các đảng phái chống chính phủ. Nhiều người bị bắt do ông Huệ, một thày giảng của địa phận Thanh Hoá ẩn núp trong địa phận chúng ta, tung ra những tin đồn lung tung và thậm chí mạo danh tôi để đánh lừa dân chúng. Các cha đừng để nó tự do qua lại trong các họ đạo của mình và nếu phát hiện thì hãy bắt và nạp giải cho tôi. Kẻ nào tiếp tục liên hệ với ông ấy, hoặc che giấu nó, thì đừng phân bua rằng mình vô tội khi bị cảnh sát làm khó dễ. Hơn bao giờ hết, toàn dân phải một lòng đoàn kết, chiến đấu chống lại bọn xâm lược. Hãy để vấn đề đảng phái sang một bên, đừng bận tâm tới. Tôi đã nói đi nói lại nhiều lần với các cha, lần này nữa, tôi xin các cha hãy nghe lời tôi”. Khi Pháp tái chiếm Đông Dương, chính phủ Việt Minh dời lên Việt Bắc. Dưới sự kích động của người Pháp, cùng với sự quá khích của dân chúng, một số cuộc xung đột đã nổ ra giữa lương dân và giáo dân. Để xoa dịu những xung đột và tránh những ảnh hưởng bất lợi, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư cũng như gửi các đặc phái viên để giải quyết xung đột, cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của Giám mục Lê Hữu Từ cũng như giới Công giáo. Trong cùng một thư đó, giám mục đã bảo các linh mục chớ nói đến chính trị trong các nhà thờ và cũng hãy cảnh giác đối với những người lạ mặt thường lảng vảng vào các xứ đạo để thám thính hay tuyên truyền ủng hộ Pháp. Ông gọi đó là những tên phản quốc. Ông liên tục chỉ đạo mở rộng các đội vũ trang, từ những trung đội “Vệ sĩ Công giáo” (1946), thành “Đoàn Cựu chiến binh Công giáo” (1947), rồi các đoàn “Dũng sĩ Công giáo” (1948)… Giáo khu Phát Diệm được tổ chức thành 3 khu quân sự là khu Phát Diệm, khu Phúc Nhạc và khu Gia Khánh, Gia Viễn, Nho Quan. Tất cả đều được đặt dưới quyền chỉ huy chung của “Tổng bộ Tự vệ Công giáo”, do linh mục Hoàng Quỳnh làm Tổng chỉ huy. Từ tháng 11 năm 1948, sau khi Giám mục Bùi Chu là Giuse Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn qua đời, Tòa Thánh chỉ định ông kiêm Giám quản Tông tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Bùi Chu. Ảnh hưởng và tổ chức của ông tiếp tục lan ra đến Bùi Chu. Cả một khu vực Bùi Chu – Phát Diệm trở thành khu tự trị Công giáo với 40 vạn giáo dân, dưới sự cai quản của ông, ngoài quyền kiểm soát của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thư ngày 25 tháng 1 năm 1949, Giám mục Lê Hữu Từ lên án Pháp: “Quân lính Pháp, với một sự dã man tột độ, đã phá huỷ tất cả, không trừ một thứ gì, kể cả nhà thờ. Trong vòng một năm, gần 300 nhà thờ đã bị bom đánh phá”. Ông đã bị Pháp xếp vào hàng ngũ là loại người “có đầu óc quốc gia hơn hết” và là “linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp”. Chính vì vậy, thực dân Pháp dùng cách chia rẽ giám mục Từ với khả năng kháng chiến. Thư chung ngày 20 tháng 10 cùng năm, Giám mục Lê Hữu Từ bác bỏ thông từ từ hãng truyền thông AFP cho rằng cuộc hành quân của Pháp được tiến hành vì chính quyền Bảo Đại nhận được lời đề nghị của Giám mục Lê Hữu Từ. Ông tuyên bố: “Tôi không bao giờ có ý nghĩ xin bọn lính Pháp can thiệp” và “Tôi chưa hề có quan hệ với Chính phủ Bảo Đại.”. Lập trường của Giám mục Lê Hữu Từ là chống cả Pháp lẫn Việt Minh. Tuy vậy, do Việt Minh là tổ chức đang cầm quyền kháng chiến chống Pháp, người Công giáo “phải lựa chọn những gì mình không muốn lựa chọn”, theo tác giả linh mục Trương Bá Cần, viết trên báo Công giáo và Dân tộc. Sự chuyển hướng của Giám mục Lê Hữu Từ, theo Tiến sĩ Nguyễn Huy Thông là kết quả của “sự đối đầu loại trừ nhau của vấn đề ý thức hệ mà cả đạo và đời lúc này chưa dễ vượt qua”. Có thể thấy rõ qua câu nói của ông này với Chủ tịch Hồ Chí Minh khi gặp nhau ở Phát Diệm đầu năm 1946: “Tôi và dân Công giáo Phát Diệm đoàn kết và triệt để ủng hộ Cụ trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập tự do cho Tổ quốc nhưng nếu Cụ là cộng sản thì tôi chống Cụ từ giờ phút này”. Ngày 30 tháng 6 năm 1954, Giám mục Từ cùng với 143 linh mục và 80.000 giáo dân Phát Diệm thực hiện cuộc di cư vào Nam. Một sĩ quan Việt Minh trẻ là Vũ Ngọc Nhạ đã giúp đỡ ông trong việc tổ chức di cư này. Cuối tháng 6 năm 1954, làn sóng di cư từ Phát Diệm khởi sự. Giám mục Lê Hữu Từ cho tập trung giáo dân địa phận thành từng khối nhằm hỗ trợ lẫn nhau và cho họ định cư tại các vùng Bình Xuyên, Gia Kiệm, Phương Lâm, Bảo Lộc, Cần Thơ. Ông cho xây dựng tiểu chủng viện tại Phú Nhuận, Dòng Mến Thánh Giá tại Gò Vấp ngay sau khi di cư để tiếp tục các chương trình mục vụ. Thập niên 1960, Giám mục Từ cho xây nhà hưu dưỡng Phát Diệm tại Gò Vấp và xây dựng cơ sở tại Roma nhằm tạo phương tiện tài chính để giúp đỡ địa phận Phát Diệm. Tại miền Nam Việt Nam, giám mục Lê Hữu Từ hỗ trợ giáo dân và linh mục tìm kiếm nơi định cư. Sau khi tình hình ổn định, ông cho mở lại các hoạt động sinh hoạt tôn giáo. Vài năm sau đó, giám mục Từ được Hội đồng Giám mục miền Nam cử giữ chức Giám đốc Trung tâm Công giáo Việt Nam mới thành lập và làm Tổng Tuyên úy Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Ông giữ các chức vụ này trong thời gian ngắn trước khi tham gia Công đồng Vatican II. Trong thời gian tham gia Công đồng, ông sinh sống tại trụ sở Phát Diệm tại Rôma, kiến thiết phát triển cơ sở mà sau này là Foyer Phát Diệm.
Tađêô Lê Hữu Từ
Tađêô Lê Hữu Từ (1897–1967) là một giám mục Công giáo của Việt Nam, với khẩu hiệu giám mục là "Tiếng kêu trong hoang địa" (Vox Clamantis Mt 3:3). Ông từng là Giám mục Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm, được xem là người thành lập và lãnh đạo lực lượng Tự vệ Công giáo chống Cộng tại Bùi Chu – Phát Diệm trong giai đoạn 1950–1954. Ông cũng được xem là lãnh đạo tinh thần của những người Công giáo di cư vào miền Nam trong suốt giai đoạn 1954–1967. Giám mục Lê Hữu Từ sinh ngày 28 tháng 10 năm 1897 tại Di Loan, nay thuộc thị trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị Một số tài liệu khác cho rằng là ngày 29 tháng 10 hoặc ngày 27 tháng 10. Lê Hữu Từ sinh trưởng trong một gia đình Công giáo với tên thánh là Tađêô (Tadeus hoặc Thaddaeus). Cha là ông Lê Hữu Ý, thường gọi là "ông Trùm Ý", do đảm nhiệm chức danh Trùm trong ban điều hành giáo phận, mẹ là bà Inê Dưỡng. Gia đình ông có 10 anh chị em, gồm tám nam và hai nữ, trong đó có hai người sớm qua đời.
Khái niệm nhân khẩu học được hiểu theo hướng như sau: Nhân khẩu học chính là một phân ngành nhỏ của xã hội học được tao ra nhằm mục đích nghiên cứu thống kê về số cá thể của một loài, đặc biệt trong đó có loài người. Bản chất của nhân khẩu học là mọ ọt ngành khoa học mà có thẻ áp dụng chung cho bất kỳ quần thể dân số nào dựa trên sự thay đổi về mặt không gian và thời gian dẫn đến sự khác biệt nhất định về đặc điểm, tính chất của các nhân khẩu đó về số lượng sinh, tử, già hóa và cái chết. việc phân tích nhân khẩu học bao gồm các công việc phân tích theo các phạm trù sau: Phạm vi, sự phân bố dân cư, sự thay đổi về mặt không gian và thời gian cũng như cấu trúc của các nhân khẩu đó. Bên cạnh đó, tiêu chí để phân tích cũng là một vấn đề đáng được quan tâm ở đây để dựa trên các tiêu chí như: Giáo dục, quốc tịch, tôn giáo, dân tộc. Người nghiên cứu tìm kiếm, hay cụ thể là trong thực tế đối với ngành kinh doanh họ có thể dễ dàng phân loại, hạng khách hàng là các đối tượng nhân khẩu học của họ từ đó có những hướng phát triển dự án mới phù hợp với thị hiếu khách hàng dựa vào việc phân tích và thống kê nhân khẩu học. Nhân khẩu học cũng là một phương tiện cho thấy sự phát triển của dân số theo thời gian đã có sự thay đổi như thế nào. Qua đó cũng cho ta thấy được mối quan hệ giữa nhân khẩu học trong quá trình kinh tế ,văn hóa xã hội, sinh học có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến dân số. Từ những khái niệm thông tin về nhân khẩu học như trên ta có thể biết được các thông tin về không chỉ số lượng, đặc điểm, trình độ, tính chất, cấp bậc, sở thích của các đối tượng được khai thác thông tin từ những thống kê trong nhân khẩu học. Thêm vào đó, hiểu theo nghĩa rộng hơn thông qua nhân khẩu học bạn cũng thế biết được tỷ suất sinh, tử, và tỷ suất di cư của dân số trong một vùng, đất nước, hay thậm chí là thế giới. Dựa theo khoa học xã hội và khoa học tự nhiên mà ta có thể hiểu khái niệm định tính như sau: Định lượng là một phương pháp khoa học nghiên cứu dựa trên những điều tra thực nghiệm qua những điều quan sát được bằng các con số thống kê và tính toán một cách có hệ thống hoặc dựa trên các kỹ thuật máy tính. Nếu phương pháp định lượng trả lời cho câu hỏi bao nhiêu? Thì phương pháp định tính này lại đi trả lời cho câu hỏi tại sao? Điều này có nghĩa dựa và tính chất đặc điểm của con người sau đó dựa và số lượng được hỗ trợ từ phương pháp định lượng ta có thể dễ dàng đưa ra phương hướng cụ thể để giải quyết vấn đề một cách triệt để nhất có thể. - Phương pháp nghiên cứu về sự tương tác xã hội đối với môi trường sống của các đối tượng nhân khẩu người mà sống trong chính nền văn hóa của họ để xem sự hiểu biết về chính nơi họ sinh sống và văn hóa của họ như thế nào cũng là một ví dụ điển hình cho phương pháp này. - Phương pháp mô tả chủ quan về một sự kiện hay một sự vật hiện tượng. Bằng cách này có thể biết góc nhìn cá nhân của một người về một sự vật hiện tượng nào đó. Qua đó cũng nói nên được cá tính hay tính cách của họ một phần nào đó. - Phương pháp lựa chọn phạm vi nghiên cứu một con người cí thể thông qua nghề nghiệp ,đạo đức, từ đó có thể đưa ra được các đánh giá về các giá trị mà họ cống hiến cho một lĩnh vực cụ thể nào đó. Hay nói cách khác đây chính là phương pháp định tính thông qua cách làm việc của một người. - Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển, nền tảng, điều kiện phát triển của một cá thể trong quá khứ cho đến hiện tại. - Sử dụng kinh nghiệm cá nhân đã có và áp dụng trong quá khứ để có thể áp dụng với môi trường hay tình huống trong hiện tại một cách tốt nhất. đây là một phương pháp nghiên cứu theo kiểu truyền thống để thu thập thông tin về một con người với các thông tin như văn hóa xã hội bằng nhiều cách khác nhau trong đó có hỏi đáp, phỏng vấn, quan sát để dựa vào đó có thể đánh giá định tính được một người nào đó. Từ 3 phương pháp cơ bản trên ta có thể thấy được sự bao quát trong quá trình đi nghiên cứu nhân khẩu học từ việc thống kê các số liệu, đến định hình cả tính cách thông qua rất nhiều các phương pháp nhánh nhỏ khác nhau trong đó mà ta có thể đưa ra được kết luận về các đặc điểm tính cách, tính chất, nguyên nhân hình thành của không chỉ phần nhỏ cá nhân mà còn đôi với phần lớn dân số. Thông qua việc đi tìm hiểu về các phương pháp này mà ta cũng có thể thấy được tầm quan trọng của nghiên cứu nhân khẩu học không chỉ trong một đời sống xã hội mà nó còn có ảnh hưởng nhất định đến ngành nghề của một con người nói riêng và chính vì thế đây cũng là một dữ liệu quan trọng trong việc khai thác, tạo dựng mối quan hệ và tìm kiếm nguồn khách hàng nói riêng trong kinh doanh hay trong marketing. Và đó cũng chính là nội dung của phần tiếp theo trong bài. Nhân khẩu học như một danh bạ mà trong đó bạn có thể phân tích được số lượng các khách hàng với mục đích, sở thích, điều kiện kinh tế, hoàn cảnh, thị thiếu,.ra sao? Thông qua các phương pháp phân tích nhân khẩu học như trên một cách rất rõ ràng cụ thể như trên. Lấy một ví dụ điển hình khi bạn vào một cửa hàng mua quần áo giờ đây hầu như bất cứ một cửa hàng nào họ cũng xin thông tin cá nhân khách hàng với nhiều mục đích khác nhau trong đó có mục đích thống kế khách hàng và phân tích nhu cầu khách hàng để từ đó xác định được các phương hướng để nhập các mặt hàng có xu hướng bán chạy theo số đông sở thích của khách hàng. Hay nói cách khách đó là một kiểu “bắt trend” chạy theo xu hướng đám đông để kinh doanh thu về lợi nhuận. Thông qua các thông tin cá nhân của khách hàng để họ có thể gửi các tin nhắn quảng cáo chương trình khuyến mại đến tận tay người tiêu dùng để cập nhập thông tin một cách chuẩn xác nhanh, gọn, nhẹ. Đó chẳng phải là họ đang áp dụng phương pháp phân tích nhân khẩu học vào trong marketing – quảng bá sản phẩm trong kinh doanh hay sao?. Hay trong việc kinh doanh khách sạn nhà hàng cũng là một ví dụ minh chứng rất rõ ràng cho việc áp dụng nhân khẩu học vào đây. Cụ thể, ở các nước Á Đông việc chọn mặt gửi vàng hay xem trọng phong thủy trong kinh doanh trong đó có Việt Nam. Trong thực tế, để việc kinh doanh trở nên thuận thiện hơn, đặc biệt là việc kinh doanh khách sạn nhà hàng một công việc rất cần đến nguồn khách hàng và dịch vụ phát triển. “Đất lành chim đậu” là câu mà ta đã nghe rất nhiều những việc áp dụng nó thế nào để có được một kết quả như mong đợi thì chưa chắc ai cũng làm được. Chính vì thế mà việc áp dụng cho việc phân tích nhân khẩu học cho việc chọn nơi kinh doanh khách sạn nhà hàng là vô cùng quan trọng. Việc xác định được đối tượng khách hàng cần phục vụ thông qua các yếu tố như: Thu nhập, độ tuổi, tín ngưỡng,tôn giáo, dân tộc, tình trạng hôn nhân và gia đình sẽ cho bạn được một kết quả rằng đối tượng khách bạn hướng đến là người như thế nào. Quá đó bạn cũng biết được thời gian khi cao điểm và thấp điểm của các đối tượng đó. Hơn thế nữa nếu khách sạn hay nhà hàng của bạn đáp ứng được nhiều hơn các yêu cầu của thị hiếu đám đông thì tất nhiên lượng bạn cũng có thể điều hành, duy trì được một lượng khách ổn định, từ đó tạo ra lợi nhuận cũng như thu nhập ổn định cho cae khách sạn và các nhân viên làm việc trong đó. Vì vậy một lần nữa ta có thể khẳng định được vai trò của nhân khẩu học trong đời sống xã hội, và đặc biệt là trong các lĩnh vực như kinh doanh, thương mại và dịch vụ là điều vô cùng cần thiết. Đây cũng là một hình thức thu thập thông tin, dữ liệu người dùng thông qua các trang mạng xã hội như Facebook, Instagram, Twitter,…Tất cả các trang mạng xã hội này đều thu thập thông tin người dùng một cách rất chi tiết như tên, tuổi, quê quán, ngày, tháng, năm sinh, trường học, nơi làm việc,… và chính thông qua các trang mạng này chúng ta cũng có thể biết được không chỉ là các con số thống kê về nhân khẩu học mà còn đặc điểm tính các và các xu hướng của người dùng. Ngoài giải trí ra, dựa vào các dữ liệu đó các nhà kinh doanh cũng có thẻ quản lý, kiểm soát được nhân viên bằng cách này hay cách khác. Hay thậm chí đây cũng là nơi để các nhà kinh doanh phân tích nhân khẩu học dựa trên dữ liệu mạng xã hội của khách hàng. Nhân khẩu học là gì? ý nghĩa của nhân khẩu học đối với đời sống xã hội là gì? các bạn đã tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đầu bài chưa. Nếu vẫn còn đang thắc mắc ở một điểm bất kỳ nào đó thì hãy đọc lại bài viết này một cách kỹ càng hơn để hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề nhe! Xin chân thành cảm ơn bạn đọc đã quan tâm theo dõi bài viết này và hãy tiếp tục ủng hộ các bài viết mới nhất của timviec365.vn nhé!
Nhân khẩu học
Nhân khẩu học là khoa học nghiên cứu thống kê về số cá thể 1 loài, đặc biệt là dân số loài người. Đây là một ngành khoa học chung có thể áp dụng cho bất cứ một quần thể dân số nào mà có sự thay đổi đổi theo thời gian và không gian. Nó bao gồm những nghiên cứu về kích thước, cấu trúc và sự phân bố của những quần thể dân số này, những thay đổi về không gian và thời gian để đáp ứng với sự sinh đẻ, di cư, già hóa và cái chết. Phân tích nhân khẩu học có thể thể áp dụng cho toàn bộ xã hội hoặc cho các nhóm được xác định bởi các tiêu chí như giáo dục, quốc tịch, tôn giáo và dân tộc. Nhân khẩu học có thể được xem như là một phân ngành của xã hội học mặc dù có một số khoa nhân khẩu học riêng biệt. Đối tượng của nhân khẩu học thường là đo lường tiến trình phát triển của dân số, tuy nhiên những nghiên cứu rộng hơn về nhân khẩu học cũng bao gồm sự phân tích mối quan hệ giữa những quá trình kinh tế, xã hội, văn hoá, di truyền và sinh học có ảnh hưởng đến dân số.
Tiểu đường là một trong ba bệnh (ung thư, tim mạch, đái tháo đường) không truyền nhiễm có tốc độ phát triển nhanh nhất hiện nay. Căn bệnh này là sát thủ đe dọa sức khỏe mọi người bởi những diễn biến thầm lặng của nó. Theo thời gian, tiểu đường gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như các biến chứng tại mắt, tim mạch, thận, thần kinh. Trong đó, biến chứng bệnh võng mạc tiểu đường tại mắt rất đáng lưu tâm bởi nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng nhìn của người bệnh. Vậy “bệnh võng mạc tiểu đường là gì? Nguyên nhân, triệu chứng và cách khắc phục ra sao?”, Chúng ta cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây nhé. Võng mạc là các lớp sợi thần kinh của mắt, có vai trò tiếp nhận ánh sáng, hình ảnh mắt thu nhận được đến não, và ngược lại truyền hình ảnh mà não phân tích được đến mắt, trong đó hoàng điểm là quan trọng nhất cho hình ảnh tinh tế nhất. Võng mạc tiểu đường là bệnh lý tại võng mạc gây ra do bệnh lý đái tháo đường. Bệnh võng mạc tiểu đường xảy ra hầu hết ở các trường hợp đái tháo đường tiến triển sau 10-15 năm. Nguy cơ bị bệnh võng mạc đái tháo đường phụ thuộc vào nhiều yếu tố: thời gian bị đái tháo đường, khả năng kiểm soát đường máu và các yếu tố khác như cao huyết áp, tăng lipid máu, bệnh thận, phụ nữ có thai, các phẫu thuật trong nhãn cầu. Nguyên nhân gây ra bệnh võng mạc tiểu đường ở bệnh nhân tiểu đường chính là do nồng độ glucose trong máu (đường huyết) quá cao trong thời gian dài, gây ra các tổn thương mạch máu. Tại mắt, các mao mạch võng mạc bị tổn thương, dẫn đến tăng tính thấm thành mạch, thoát huyết tương vào võng mạc gây phù nề. Khi mao mạch bị phá hủy gây tắc và làm thiếu máu võng mạc, khi đó cơ thể phản ứng bằng cách tiết ra các yếu tố kích thích sự phát triển các mạch máu mới (tân mạch) để nuôi dưỡng những vùng võng mạc này. Tuy nhiên những mạch máu này mỏng manh dễ vỡ gây ra các biến chứng xuất huyết dịch kính, xơ hóa gây co kéo bong võng mạc. Khi mắc bệnh võng mạc tiểu đường, ở giai đoạn đầu, hầu như không có triệu chứng gì mặc dù các tổn thương trên võng mạc đã khá nặng nề. Chỉ cho đến khi bệnh trở nặng, hoặc nhận thấy có vấn đề về tầm nhìn, người bệnh mới chú ý đến bệnh. Chính vì vậy, người bệnh đái tháo đường cần hết sức lưu ý những thay đổi nhỏ của mắt, bởi đây có thể là dấu hiệu cảnh báo bạn đã mắc bệnh võng mạc tiểu đường:. Theo thống kê, nhìn chung sau 15 năm bị đái tháo đường, 2% bệnh nhân sẽ bị mù, 10% bệnh nhân thị lực kém. Bệnh võng mạc đái tháo đường là nguyên nhân gây mù thường gặp nhất ở bệnh nhân tiểu đường độ tuổi 20-65 tuổi. Bệnh võng mạc tiểu đường gây ra sự tăng sinh các tân mạch bất thường cùng với tình trạng co thắt các mô xơ xung quanh có thể gây co kéo võng mạc, tổn thương nặng võng mạc, rách hoặc bong võng mạc dẫn đến mù lòa. Một hậu quả khác thường gặp là gây nên thể bệnh glôcôm tân mạch, đau nhức trường diễn, cực kỳ khó điều trị. Bệnh võng mạc tiểu đường rất nguy hiểm, bởi vậy việc áp dụng các biện pháp xử trí điều trị bệnh sớm có vai trò quan trọng trong ngăn ngừa bệnh tiến triển. Khám đáy mắt định kỳ ít nhất 1 năm 1 lần: Trong giai đoạn sớm của bệnh có khi bệnh nhân chưa nhìn mờ hoặc nhìn mờ ít nhưng đã có những tổn thương ở võng mạc. Do đó khi bị tiểu đường người bệnh nên đi khám mắt định kỳ theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa đáy mắt. Trong giai đoạn nặng hơn (tăng sinh) thì bệnh nhân phải được điều trị bằng laser, quang đông võng mạc toàn bộ hoặc phải được chích thuốc để làm giảm tăng sinh và giảm phù nề. Việc điều trị ở những giai đoạn khác nhau tùy theo giai đoạn bệnh và phải được chẩn đoán để chích thuốc mỗi tháng hoặc laser toàn bộ võng mạc. Chú ý những dấu hiệu khác thường ở mắt để báo với bác sĩ điều trị của bạn. Thực hiện tốt chế độ dinh dưỡng, vận động hợp lý để ổn định lượng đường trong máu và ổn định huyết áp sẽ làm chậm sự tiến triển của bệnh võng mạc đái tháo đường. Đặc biệt, người bệnh tiểu đường nên bổ sung thêm các nguyên tố vi lượng (Magie, Selen, Chrom, Kẽm) bởi đây chính là chìa khóa quan trọng nhất trong việc ngăn ngừa và hạn chế các biến chứng bệnh tiểu đường tiến triển. Magie: Đây là nguyên tố vi lượng tham gia vào quá trình tạo glycogen của cơ và gan từ glucose máu. Tham gia vào sự phân hủy glucose, acid béo và các acid amin trong quá trình chuyển hóa năng lượng. Đóng vai trò quan trọng trong tổng hợp lipid và protein giúp hỗ trợ quá trình tạo xương, đảm bảo tính bền vững trong dẫn truyền và sự co cơ. Có tác dụng điều hòa hàm lượng đường trong máu, ổn định huyết áp. Selen: Nghiên cứu khoa học được thực hiện tại khoa sinh học đại học AnKaRa Thổ Nhĩ Kỳ đã chỉ ra rằng Selen có tác dụng giúp kiểm soát đường huyết, ngăn chặn các biến chứng trên tim, thận, tiểu cầu. Chrome: Đây là thành phần có vai trò quan trọng trong chuyển hóa đường, chất béo, phối hợp và làm tăng hoạt tính của insulin, giúp ổn định đường huyết, hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường và tăng huyết áp. Kẽm: Đây là nguyên tố có tác dụng giúp giảm đường huyết, tăng độ nhạy insulin ở bệnh nhân tiểu đường, hạn chế các biến chứng trên tim mạch, võng mạc, thần kinh trung ương. Các nguyên tố vi lượng Magie, Selen, Chrom, Kẽm có trong nhiều loại thực phẩm. Vì vậy mà bệnh nhân tiểu đường có thể bổ sung các thực phẩm chứa các nguyên tố vi lượng này trong chế độ ăn. Tuy nhiên, không phải lúc nào chế độ ăn của bạn cũng đảm bảo đầy đủ được dưỡng chất. Hơn nữa nhiều loại vi chất như Chrome nếu chỉ cung cấp qua chế độ ăn thì không đủ, thường ít hơn 20% so với nhu cầu thực tế của cơ thể. Lượng chrom đưa vào không đủ cộng với quá trình lão hóa, béo phì, chế độ ăn thiếu protein, mang thai, phẫu thuật, uống nhiều rượu bia, bệnh tật, nhiễm virus …lại càng làm cơ thể thiếu hụt chrome quá mức. Tuổi càng cao thì lượng chrom dự trữ trong cơ thể càng giảm, ở tuổi 70 thì lượng chrome trong cơ thể chỉ còn một nửa so với tuổi thanh niên, do đó nhu cầu bổ sung chrom hàng ngày là rất quan trọng. Chính vì vậy mà người bệnh đái tháo đường nên sử dụng kèm các sản phẩm thuận tiện từ thảo dược thiên nhiên có khả năng bổ sung các nguyên tố vi lượng mà vẫn giúp ổn định đường huyết. Hiện nay trên thị trường chỉ có duy nhất sản phẩm BoniDiabet là có chứa các nguyên tố vi lượng trên trong thành phần, đồng thời BoniDiabet cũng bổ sung thêm các thảo dược kinh điển cho bệnh tiểu đường như dây thìa canh, hạt methi, lô hội, quế… và alpha lipoic acid. Nhờ vậy mà BoniDiabet có tác dụng toàn diện, giúp hỗ trợ hạ và ổn định đường huyết đồng thời ngăn ngừa biến chứng tiểu đường, bảo vệ các mao mạch mắt, hạn chế biến chứng bệnh võng mạc tiểu đường. Trong 10 năm BoniDiabet có mặt ở Việt Nam, 5 triệu bệnh nhân đã đồng hành cùng BoniDiabet trong cuộc chiến với bệnh tiểu đường. Dưới đây là chia sẻ của một số bệnh nhân đã và đang sử dụng BoniDiabet:. “Tôi bị tiểu đường 4 năm, đường huyết 12mmol/l. Dùng 2 viên thuốc tây mỗi ngày tôi bị mệt, tê bì chân tay, mờ mắt. Sau khi dùng thêm BoniDiabet, đường huyết của tôi còn 6.0mmol/l, sau 4 tháng tôi đã hết hẳn những triệu chứng tê bì chân tay và mờ mắt. Người tôi rất khỏe mạnh, vận động đi lại bình thường, tới nay tôi chỉ còn dùng có 2 viên BoniDiabet và đã giảm được nửa liều thuốc tây mà đường huyết vẫn luôn là 6.0 mmol/l, không xuất hiện bất kỳ biến chứng nào nữa.”. “Tôi phát hiện tiểu đường cách đây 2 năm, người thường xuyên mệt mỏi, hốc hác, xanh xao, sụt 4 cân trong 2 tháng, đường huyết lên tới 10,6 mmol/l. Tôi dùng thuốc Tây nhưng đường huyết lên xuống thất thường, khi lên 8,9 mmol/l lúc xuống có 4,5 mmol/l. Và thời gian ngắn sau tôi đã bị biến chứng tiểu đường là mờ mắt và tê bì tay chân, ngứa ngáy khắp người. Tôi uống ngày 4 viên BoniDiabet chia 2 lần cùng Diamicron. Thấy dùng BoniDiabet người khỏe hơn nên tôi giảm liều uống có 2 viên BoniDiabet kèm 1 viên Diamicron thôi, thế mà đi đo lại đường huyết vẫn chỉ 5.6 mmol/l. Sau khoảng 3 tháng các triệu chứng tay chân tê bì, mắt mờ hay ngứa khắp người đều đồng loạt giảm rõ ràng, so với trước đây giảm cũng được 80-90% rồi. BoniDiabet tốt thế này chắc chắn tôi sẽ kiên trì dùng đều đặn”. Bệnh võng mạc tiểu đường là một biến chứng có xu hướng gia tăng nhanh ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Tuy là nguyên nhân hàng đầu gây ra mù lòa do đái nhưng ở giai đoạn đầu bệnh thường có ít triệu chứng, cho đến khi phát hiện thì thị lực đã giảm nhiều. Để hạn chế biến chứng này, người bệnh đái tháo đường cần thường xuyên đi khám mắt định kỳ và kiểm soát đường huyết tốt để ngăn ngừa biến chứng bệnh võng mạc tiểu đường tiến triển.
Bệnh võng mạc tiểu đường
Bệnh võng mạc tiểu đường, bệnh võng mạc đái tháo đường hay Bệnh lý võng mạc do đường huyết cao (tiếng Anh: Diabetic retinopathy, hay diabetic eye disease) là tên gọi chung của những bệnh lý trong đó tổn thương xảy ra ở võng mạc bởi căn bệnh tiểu đường và một nguyên nhân hàng đầu dẫn đến mù lòa. Nó ảnh hưởng đến 80% người bị tiểu đường trong khoảng 20 năm hoặc nhiều hơn. Ít nhất 90% trường hợp mới có thể thuyên giảm nếu nhận được sự điều trị và theo dõi mắt đúng cách. Nếu một người mắc bệnh tiểu đường càng lâu, nguy cơ phát triển bệnh võng mạc tiểu đường càng cao. Mỗi năm ở Hoa Kỳ, bệnh võng mạc tiểu đường chiếm 12% trong tất cả các ca mù lòa mới. Nó cũng là nguyên nhân chính dẫn đến mù lòa đối với những người từ 20 đến 64 tuổi.
Lập pháp trong mối tương quan khác nhau sẽ mang nghĩa khác nhau. Cơ quan lập pháp là một trong ba cơ quan trọng yếu thực hiện quyền lực của nhà nước, cơ quan này được nhà nước giao nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện chức năng lập pháp của nhà nước. Một nhà nước để thực hiện được những chính sách mình đề ra, thực hiện duy trì trật tự xã hội theo khuôn mẫu định sẵn, thì cần có hệ thống luật pháp thống nhất, là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước. Để hiểu rõ hơn về lập pháp là gì? Cơ quan lập pháp là gì? Quý vị hãy theo dõi những nội dung chúng tôi chia sẻ dưới đây. Lập pháp là một trong những chức năng vô cùng quan trọng của nhà nước, lập pháp được thực hiện bởi các cơ quan chuyên trách, thực hiện nghiên cứu soạn thảo hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với chủ trương hoạt động của nhà nước. – Lập pháp được hiểu là việc các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, thực hiện nghiên cứu soạn thảo ra Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật và sửa đổi văn bản pháp luật. Việc thực hiện soạn thảo và ban hành Hiến pháp và các văn bản pháp luật phải tuân theo trình tự nghiêm ngặt, chặt chẽ, đảm bảo các đạo luật trong Hiến pháp có thể thực thi trong thực tế. Các văn bản luật dưới Hiến pháp chỉ quy định cụ thể trong các lĩnh vực, tuân theo tinh thần của Hiến pháp không được trái với quy định của Hiến pháp. Các nhà làm luật sẽ tuân theo tinh thần trên để thực hiện soạn thảo sao cho phù hợp với cơ chế hoạt động của nhà nước, mục tiêu nhà nước muốn hướng tới, đảm bảo cho việc thực thi pháp luật. – Lập pháp còn được hiểu theo nghĩa là việc các cơ quan thực hiện nghiên cứu soạn thảo và ban hành ra văn bản pháp luật, thực hiện sửa đổi luật. Theo khái niệm này lập pháp được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, không bao gồm việc soạn thảo ban hành ra Hiếp pháp mà chỉ thực hiện soạn thảo ban hành các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp. Nhằm hiểu rõ hơn về lập pháp là gì? Cơ quan lập pháp là gì? quý khách hàng đừng bỏ lỡ những chia sẻ tiếp theo về cơ quan lập pháp của chúng tôi dưới đây. Khái niệm quyền lập pháp (quyền làm luật) cần được phân biệt với khái niệm quyền soạn thảo luật. Pháp luật cho phép một đạo luật có thể được rất nhiều chủ thể khác nhau soạn thảo và trình lên Quốc hội. Trong thực tế nước ta, đa số các đạo luật đều do Chính phủ soạn thảo, một số ít được thực hiện bởi các chủ thể khác như Hội Luật gia, Hội Liên hiệp phụ nữ, Mặt Trận tổ quốc…Như vậy, chủ thể có quyền lập pháp không nhất thiết là chủ thể soạn thảo luật. Khi bàn đến quyền lập pháp của Quốc hội thì cũng cần xem xét khái niệm lập pháp ủy quyền. Đây là trường hợp Quốc hội ủy quyền cho Chính Phủ và các cơ quan nhà nước khác như Tòa án, Viện Kiểm sát hoặc trong một số trường hợp là các tổ chức chính trị – xã hội… ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong đa số các trường hợp, các đạo luật đều có quy định về việc Quốc hội trao quyền cho các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là Chính phủ ban hành các văn bản pháp quy hành chính để chi tiết hóa nội dung các đạo luật đó. Cơ quan lập pháp là một trong ba cơ quan trọng yếu thực hiện quyền lực của nhà nước, cơ quan này được nhà nước giao nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện chức năng lập pháp của nhà nước. Cơ quan lập pháp ở mỗi mô hình nhà nước thì cơ quan nắm giữ quyền lập pháp khác nhau, mang tên gọi khác nhau. Cơ quan lập pháp phổ biến với các quốc gia trên thế giới là nghị viện và quốc hội. Nước ta hiện nay cơ quan lập pháp thuộc về quốc hội, thực hiện lập hiến và lập pháp. Do quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, thể hiện quyền lực nhà nước, nên việc quốc hội thực hiện ban hành các văn bản quy phạm pháp luật sẽ có giá trị pháp lý cao và bắt buộc toàn dân phải thực hiện. Việc thực hiện quyền lập pháp ban hành và sửa đối Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp phải được thực hiện tuân theo trình tự nghiêm ngặt, chặt chẽ theo từng công đoạn. Công bố văn bản trên các phương tiện thông tin truyền thông, phổ biến rộng rãi đến mọi người. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chức năng thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. Hiến pháp không quy định cho Quốc hội có chức năng đại diện. Tuy nhiên, câu hỏi của bạn không chỉ ra rõ ràng đó là đại diện trong lĩnh vực nào, hình thức đại diện gì nên chúng tôi chỉ trả lời trên cơ sở quy định trong Hiến pháp. Những chia sẻ trên đây về lập pháp là gì? Cơ quan lập pháp là gì? mong rằng sẽ là thông tin hữu ích đối với quý vị. Mọi thắc mắc cần hỗ trợ, giải đáp hãy liên hệ chúng tôi qua số điện thoại 19006557 để được thông tin cụ thể nhất.
Lập pháp
Cơ quan lập pháp là kiểu hội đồng thảo luận đại diện có quyền thông qua các luật. Đây là một trong ba cơ quan chính gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp của thể chế chính trị tam quyền phân lập. Lập pháp có nhiều tên gọi khác nhau, phổ biến nhất là nghị viện và quốc hội (lưỡng viện), mặc dù những tên này có nhiều nghĩa đặc trưng khác nữa. Trong hệ thống nghị viện của chính phủ, cơ quan lập pháp là cơ quan tối cao chính thức và chỉ định cơ quan hành pháp. Ở hệ thống tổng thống, cơ quan lập pháp được xem là phân nhánh quyền lực tương đương và độc lập với cơ quan hành pháp. Ngoài việc ban hành luật ra, cơ quan lập pháp còn có quyền tăng thuế, thông qua ngân sách và các khoản chi tiêu khác.
Chòm sao Xà Phu (tiếng Hán: 蛇夫; tiếng Latinh: Ophiuchus, /ɒfiˈjuːkəs/) là một trong 48 chòm sao Ptolemy và cũng là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh người chăn rắn hay được gọi là “Xà Phu”. Chòm sao lớn này có diện tích 948 độ vuông, nằm trên cả hai nửa thiên cầu, xếp ở vị trí thứ 11 trong danh sách các chòm sao theo diện tích. Chòm sao này nằm trên hoàng đạo, giữa chòm sao Thiên Yết và Nhân Mã. Ở Bắc Bán cầu, chòm sao này có thể quan sát được vào mùa hè. Xà Phu còn là chòm sao đặc biệt vì nó nằm giữa và chia chòm sao Cự Xà ra. thành hai phần riêng biệt: đuôi Cự Xà (tiếng Anh:Serpens Cauda) và đầu Cự Xà (tiếng Anh:Serpens Caput). Ophiuchus là một trong mười ba chòm sao đi qua đường Hoàng đạo. Do đó, đôi khi nó cũng được cho là biểu tượng (dấu hiệu) thứ 13 của hoàng đạo. Tuy nhiên, điều này là do sự nhầm lẫn giữa một biểu tượng chiêm tinh học với một chòm sao. Các biểu tượng hoàng đạo là một nhóm gồm mười hai chòm sao nằm trên mặt phẳng hoàng đạo, vì vậy mỗi biểu tượng kéo dài 30° thiên kinh độ (kinh độ của thiên cầu), xấp xỉ độ dài quãng đường mà Mặt trời di chuyển được trong một tháng, và trong truyền thống phương Tây, đều phù hợp với các mùa để điểm phân tháng ba hằng năm luôn luôn rơi vào ranh giới giữa Song Ngư và Bạch Dương. Mặt khác, một chòm sao không đồng đều về kích thước và ranh giới được dựa trên vị trí của các ngôi sao trong mỗi chòm sao hoàng đạo. Trong chiêm tinh học phương Tây, chòm sao Bảo Bình như một ví dụ, phần lớn tọa độ của nó tương ứng với vị trí của Song Ngư. Tương tự như vậy, chòm sao Ophiuchus chiếm phần lớn (29 tháng 11 – 18 tháng 12) của Nhân Mã (23 tháng mười một – 21 tháng 12). Sự khác biệt này là do thực tế là thời điểm trong năm mà mặt trời đi qua vị trí của một chòm sao hoàng đạo đã dần dần thay đổi (vì tuế sai của điểm phân) qua nhiều thế kỷ từ khi người Hy Lạp hay người Babylon ban đầu đã phát hiện ra các chòm sao hoàng đạo. Không có bằng chứng nào cho thấy chòm sao được biết đến trước thời kỳ cổ đại Hy Lạp. Trong thiên văn Babylon, một chòm sao được gọi là Sitting God (“Thần Ngồi”) dường như đã được xếp nằm trong khu vực chung mà sau này là chòm sao Ophiuchus. Những quan sát và ghi nhận Ophiuchus trong thực tế có thể đã bắt nguồn từ từ chòm sao cổ đại của Babylon này, biểu tượng đại diện cho Nirah, một con rắn thần hình dạng người, đôi khi được miêu tả với một nửa trên là con người và nửa còn lại là con rắn, thường là ở phần chân. Sao Barnard, sao có chuyển động riêng lớn nhất Một số ngôi sao sáng khác thuộc chòm sao bao gồm β Ophiuchi, Cebalrai và λ Ophiuchi, hay còn gọi là Marfik (“Khuỷu tay”). Tân tinh nhiều lần, RS Oph. Bùng sáng của RS Oph được ghi nhận trong các năm 1898, 1933, 1958, 1967, 1985 với cấp sao biểu kiến cực đại 4,3m
Xà Phu (chiêm tinh)
Ophiuchus (⛎) () đôi khi được sử dụng trong chiêm tinh học là dấu hiệu thứ mười ba ngoài mười hai dấu hiệu của Hoàng đạo nhiệt đới, vì chòm sao Ophiuchus cùng tên (tiếng Hy Lạp: Ὀφιοῦχος, "Serpent-bearer") theo quy định của IAU 1930, ranh giới của chòm sao này nằm phía sau Mặt Trời, hay nói cách khác, Mặt Trời đi qua chòm sao này trong khoảng thời gian từ 30 tháng 11 đến 17 tháng 12. Ý tưởng này dường như có nguồn gốc từ năm 1970 với đề nghị rằng Hoàng đạo bao gồm 14 dấu hiệu (bao gồm cả Cetus xem như là một dấu hiệu). Hoàng đạo gồm 13 dấu hiệu đã được đề xuất bởi Walter Berg và Mark Yazaki vào năm 1995, và đạt được phổ biến nhất định ở Nhật Bản, nơi Ophiuchus được biết đến với tên gọi là Hebitsukai-Za (tiếng Nhật: へ び つ か い 座?, "The Serpent Bearer").Trong thiên văn và chiêm tinh học nhiệt đới (bao gồm cả dấu hiệu mặt trời chiêm tinh học) một cung Hoàng đạo với 12 dấu hiệu được xác định dựa vào việc chia đường hoàng đạo thành 12 phần bằng nhau chứ không phải là ranh giới chòm sao theo IAU.
Năm 2002, Jason Statham từng nổi lên nhờ vai diễn đóng cặp cùng nữ diễn viên Đài Loan Thư Kỳ trong Người vận chuyển 1, lần này tham gia vào bộ phim bom tấn đóng cùng nữ diễn viên trung quốc Lý Băng Băng trong Cá Mập Siêu Bạo Chúa. Là sự hợp tác giữa điện ảnh Mỹ và trung quốc, đây chính là bộ phim về cá mập có kinh phí đầu tư lớn nhất từ trước tới nay, lên tới 130 triệu USD, nhờ đó phim mang tới nhiều cảnh quay cực kỳ mãn nhãn cùng kỹ xảo đỉnh cao. Cá Mập Siêu Bạo Chúa là một sự khác biệt so với phong cách chúng ta thường thấy ở Jason Statham, không còn là những màn một mình độc chiến với tần suất cao của sau nam mà thay vào đó phim có nhiều đoạn lời thoại hơn, có nhiều cảnh cảm động hơn, đan xen vẫn có những tình tiết giật gân. Bên cạnh đó, chúng ta phải kể tới vai diễn của Lý Băng Băng, dù ở tuổi 45 nhưng cô vẫn cho thấy sự trẻ trung xinh đẹp vượt thời gian của mình, diễn xuất của người đẹp đến từ trung quốc là không phải bàn cãi. Năm năm trước, thợ lặn chuyên nghiệp trên biển và Thuyền trưởng Hải quân Jonas Taylor đã gặp phải một mối nguy hiểm chưa được biết đến trong vùng lõm chưa được khám phá của Rãnh Mariana khiến anh ta buộc phải từ bỏ nhiệm vụ và bỏ rơi một nửa những đồng đội của mình. Mặc dù sự cố bi thảm khiến anh ta bị sa thải, nhưng điều cuối cùng khiến anh ta phải trả giá chính là cả sự nghiệp, cuộc hôn nhân và bất kỳ vinh quang nào của anh ta là những tuyên bố không được ủng hộ và hoài nghi của anh ta về những gì đã gây ra nó – một cuộc tấn công vào tàu của anh ta bởi một con cá mập bạo chúa, dài tới 70 feet , được cho là đã tuyệt chủng trong hơn một triệu năm. Nhưng khi một chiếc tàu lặn nằm chìm và bị vô hiệu hóa dưới đáy đại dương, mang theo người vợ cũ của anh ta trong nhóm trên tàu, anh ta mới là người nhận được cuộc gọi. Cho dù là một phát súng để chuộc lỗi hay một nhiệm vụ tự sát, Jonas phải đối mặt với nỗi sợ hãi và mạo hiểm mạng sống của chính mình và tính mạng của những người bị mắc kẹt bên dưới vì một câu hỏi duy nhất rằng liệu Carcharodon Megalodon có phải là động vật ăn thịt biển lớn nhất từng tồn tại và nó đang đi săn người?
Cá mập siêu bạo chúa
Cá mập siêu bạo chúa (tựa tiếng Anh: The Meg) là một bộ phim kinh dị - khoa học viễn tưởng Mỹ năm 2018 của đạo diễn Jon Turteltaub, nội dung phim dựa trên cuốn tiểu thuyết Meg: A Novel of Deep Terror của nhà văn Steve Alten lần đầu xuất bản vào năm 1997. Phim có sự tham gia của dàn diễn viên Jason Statham, Lý Băng Băng, Rainn Wilson, Ruby Rose, Winston Chao, và Cliff Curtis. Phim kể về sự hoành hành của một con cá mập Megalodon khổng lồ gây nên nỗi kinh hoàng trên bãi biển, đây là một dự án có kinh phí sản xuất lên đến 150 triệu USD. Người cứu hộ Jonas Taylor đang cố gắng cứu một số nhà khoa học trong một tàu ngầm hạt nhân bị hư hỏng khi anh thấy thân tàu bị đâm bởi một sinh vật khổng lồ. Hai người bạn thân của anh bị mắc kẹt trong cửa sập, Taylor buộc phải bỏ chạy vì nhận ra rằng cố gắng giải cứu họ sẽ khiến tất cả mọi người thiệt mạng, khiến anh buộc phải ngắt kết nối cửa với con tàu. Một lúc sau, chiếc tàu ngầm hạt nhân nổ tung.
Phân tích hội thoại được ra đời vào những năm 1960 và 1970, dựa trên nền tảng tư tưởng về bộ môn phương pháp dân dã (ethnomethodology) của Harold Garfinkel và quan điểm về trật tự tương tác của Erving Goffman. Người được xem là cha đẻ của CA là nhà xã hội học Harvey Sacks và hai cộng sự gần gũi của ông là Emanuel Schegloff and Gail Jefferson. Ngày nay, CA là một phương pháp được sử dụng trong xã hội học, nhân học, ngôn ngữ học, tâm lý học. Nó đặc biệt ảnh hưởng đến ngôn ngữ học xã hội tương tác, phân tích diễn ngôn và tâm lý học diễn ngôn. Nó cũng khác biệt với phân tích diễn ngôn ở tiêu điểm và phương pháp. Tiêu điểm của CA là các tiến trình liên quan đến tương tác xã hội chứ không bao gốm các văn bản viết. Phương pháp của nó là hướng đến việc xác định các phương pháp và cách thức mà những người tham gia tương tác sử dụng và dựa vào đó để tạo ra phần đóng góp của mình trong cuộc thoại và nhận ra những đóng góp của người khác. Phân tích hội thoại là một phương pháp phân tích do tư liệu quy định. Nói cách khác, từ tư liệu, người nghiên cứu bắt đầu thẩm định, phân tích và tìm ra những mô hình phân tích. Tư liệu của CA là từ các cuộc hội thoại tự nhiên được ghi âm hay ghi hình lại. Tuyệt nhiên, CA không sử dụng các tư liệu mang tính chất nhân tạo như tác phẩm văn học hay các văn bản viết. Từ các đoạn ghi âm hay ghi hình, người nghiên cứu sẽ tiến hành việc phiên chuyển một cách chi tiết nhất thông qua một hệ thống ký hiệu quy ước. Kế đó, người nghiên cứu sẽ vận dụng phương pháp phân tích quy nạp từ tư liệu để tìm ra những mẫu lặp lại trong tương tác. Dựa trên phân tích đó, nhà nghiên cứu sẽ phát triển các quy tắc hoặc mô hình để giải thích về sự xuất hiện của các mẫu. Đơn vị cơ bản trong CA là lượt lời (turn). Việc kiểm soát lượt lời (turn-taking) là một trong những tổ chức cơ bản của hội thoại. Theo các nhà phân tích hội thoại thì hệ thống nắm giữ lượt lời có hai thành tố cơ bản: thành tố cấu thành lượt lời (turn constructional component, viết tắt là TCC) và thành tố phân phối lượt lời (turn allocational component). CA không cho rằng kiểm soát lượt lời là phổ quát. Tuy nhiên, nghiên cứu trong nhiều ngôn ngữ cho thấy rằng việc kiểm soát lượt lời đều hiện diện. Thành tố cấu thành lượt lời miêu tả các đơn vị cơ bản từ đó, lượt lời được tạo ra. Những đơn vị cơ bản này được gọi là đơn vị cấu thành lượt lời (TCU). TCU gồm có các cấp độ: từ, cú, mệnh đề, câu. Thành tố phân phối lượt lời mô tả diễn tiến của việc kiểm soát lượt lời trong hội thoại. Quy tắc về phân phối lượt lời được áp dụng ở đây, gồm có 3 bước cơ bản: người đang nói sẽ lựa chọn người nói kế tiếp, người nói kế tiếp sẽ tự lựa chọn mình thành người nói kế tiếp, hoặc người đang nói sẽ tiếp tục.
Phân tích hội thoại
Phân tích hội thoại (tiếng Anh là Conversation analysis, thường được viết tắt là CA) là một hướng tiếp cận nghiên cứu tương tác trong xã hội, quan tâm đến các tình huống giao tiếp bằng lời và phi lời trong cuộc sống thường nhật. Như tên gọi của nó chỉ ra, phân tích hội thoại tập trung vào việc phân tích các cuộc nói chuyện ngẫu nhiên, tuy nhiên, cũng có rất nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực này thu nhận tư liệu từ các bối cảnh mang tính quy phạm như các cuộc tương tác giữa bác sĩ và bệnh nhân, giữa giáo viên và học sinh, giữa thẩm phán, luật sư và bị cáo trong các phiên tòa hoặc các cuộc phỏng vấn trên báo đài. Do đó, thuật ngữ "phân tích hội thoại" có vẻ như không còn đúng nữa. Tuy nhiên, nó vẫn tiếp tục được sử dụng với tư cách là một thuật ngữ để chỉ một cách tiếp cận riêng và thành công khi phân tích tương tác xã hội. Phân tích hội thoại được ra đời vào những năm 1960 và 1970, dựa trên nền tảng tư tưởng về bộ môn phương pháp dân dã (ethnomethodology) của Harold Garfinkel và quan điểm về trật tự tương tác của Erving Goffman.
Cuốn sách giải thích vì sao các nền văn minh Á – Âu (bao gồm cả Bắc Phi) lại tồn tại được, cũng như đã chinh phục các nền văn minh khác, cùng lúc ông bác bỏ các lý thuyết về sự thống trị của các nền văn minh Á –Âu dựa trên trí tuệ, đạo đức hay ưu thế di truyền. Jared Diamond lập luận rằng, sự khác biệt về quyền lực và công nghệ giữa các xã hội loài người có nguồn gốc từ sự khác biệt về môi trường, trong đó sự khác biệt này được khuếch đại không ngường. Qua đó, ông giải thích tại sao Tây Âu, chứ không phải các nền văn minh khác trong thế giới Á – Âu như Trung Quốc, lại trở thành các thế lực thống trị. Mục đích của cuốn sách này là cung cấp một lược sử về tất cả mọi người trong khoảng 13.000 năm trở lại đây. Câu hỏi đã khiến tôi viết ra cuốn sách này là: tại sao lịch sử đã diễn ra trên mỗi châu lục một khác? Nếu như câu hỏi này lập tức khiến bạn nhún vai cho rằng bạn sắp phải đọc một luận văn phân biệt chủng tộc thì, xin thưa, không phải vậy. Như bạn sẽ thấy, những lời đáp cho câu hỏi này tuyệt không bao hàm những sự khác biệt về chủng tộc. Cuốn sách này tập trung truy tìm những lý giải tối hậu và đẩy lùi chuỗi nhân quả lịch sử càng xa bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Jared Mason Diamond sinh năm 1937, là Giáo sư Địa lý học tại Đại học Los Angeles (Mỹ). Ông đã nhận được rất nhiều giải thưởng danh giá, như: Huy chương Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ, Giải thưởng Tyler về Thành tựu Môi trường, Giải thưởng Cosmos của Nhật Bản, Học bổng Quỹ MacArthur, giải thưởng Lewis Thomas do trường Đại học Rockefeller trao tặng. Một cuốn sách giúp cho chúng ta mở rộng tầm mắt, biết hơn nhiều về lịch sử con người, giờ đây chẳng còn bị bó hẹp ở phương tây khi bàn về lịch sử cận đại, hay các vùng đất cổ quen thuộc ở thời cổ đại,… Chúng ta sẽ được tìm hiểu về những nơi vốn xưa này chẳng được nhắc đến nhiều là bao như Đông Nam Á, Châu Đại Dương, và các đảo trên Thái Bình Dương. Và ông cũng cho chúng ta biết thêm những vấn đề chưa bao giờ hết nóng như: môi trường, biến đổi khí hậu, quan hệ giữa các nước trên thế giới,…. “Người ta nhầm tưởng rằng địa lý có nghĩa là quyết định luận về môi trường, và rằng các nước nghèo bị nguyền rủa phải nghèo đói, rằng họ nên im lặng…và chịu chết. Nhưng không, Tri thức là Sức mạnh. Nếu họ biết vì sao họ nghèo đói, họ có thể dùng tri thức đó để trở nên thịnh vượng.” (Jared Diamond). “Súng, Vi Trùng và Thép” mang lại cho tôi một khối lượng tri thức khổng lồ về loài người và quá trình phát triển đi lên của loài người và xã hội loài người, rất độc đáo, mới là và tràn đầy lí thú. Lật từng trang giấy, tôi như là được xem lại những băng hình sống động, toàn cảnh của thế giới, và cứ thế từng trang giấy trôi qua, một thế giới muôn hình muôn vẻ lại dần dà bước tới hiện tại. Với một người thích khám phá lịch sử như tôi hay tri thức khoa học nói chung, thì thật sự “Súng, Vi Trùng và Thép” của Jared Diamond còn hơn cả đáng đọc, nó còn đáng để suy ngẫm khi bạn gấp lại cuốn sách này. Chính Yuval Harari đã nói rằng cuốn sách trên của Jared Diamond là nguồn cảm hứng để ông sáng tác ra cuốn sách “Sapiens: Lược sử về loài người” nổi tiếng, quả không sai. Sau khi chúng ta đọc cuốn sách ấy, hừng hực trong tim ta, có gì đó muốn thôi thúc chúng ta tìm hiểu thêm, đọc thêm và khám phá thêm một lịch sử trường kì của nhân loại. Nếu ta đi sâu vào những quan điểm của ông trong cuốn sách này, thì sẽ thấy ông đã đưa ra thật lắm những quan điểm, chính kiến mạnh mẽ của bản thân. Những vấn đề luôn được ông “bóc tách”, “mổ xẻ” một cách tường tận và cách ông lý giải từng vấn đề mới thật sư là tinh tế. Nhưng như thế đấy, cuốn này thực sư rất khó đọc bởi bạn phải dừng lại nhiều lần, để quan sát và thấm nhuần kĩ tư tưởng của tác giả. Thật sư, cuốn này có rất nhiều ý kiến trái chiều xung quanh, trên hết bạn đọc cuốn này hãy nhìn với một ánh mắt khách quan, bạn sẽ cảm nhận được chiều sâu và sức hấp dẫn của nó. Tuy cuốn sách này nói cho cùng là về lịch sử và tiền sử, song chủ đề của nó không chỉ có giá trị hàn lâm mà còn có tầm quan trọng to lớn về thực tiễn và chính trị. Lịch sử những tương tác giữa các dân tộc khác nhau chính là cái đã định hình thế giới hiện đại thông qua sự chinh phục, bệnh truyền nhiễm và diệt chủng. Các xung đột đó tạo ra những ảnh hưởng lâu dài mà sau nhiều thế kỷ vẫn chưa thôi tác động, vẫn đang tích cực tiếp diễn ở một số khu vực nhiều vấn đề nhất của thế giới ngày nay. Chiasemoi.com nới chia sẻ tài liệu học tập, tài liệu ôn thi và các loại đề thi Miễn Phí cho mọi người.
Súng, Vi trùng và Thép
Súng, Vi trùng và Thép (tiếng Anh: Guns, Germs, and Steel, tên đầy đủ là: Guns, Germs, and Steel: The Fates of Human Societies/Súng, Vi trùng và Thép: Định mệnh của các xã hội loài người) là một cuốn sách của tác giả Jared Diamond xuất bản vào năm 1997, đây cuốn sách khoa học phổ thông thứ hai và nổi tiếng nhất của ông, cuốn sách này trở thành cuốn sách bán chạy nhất trên thế giới, được dịch ra 33 thứ tiếng và nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có một giải Pulitzer, một giải thưởng Sách Khoa học Aventis và giải thưởng Khoa học Phi Beta Kappa năm 1997. Một bộ phim tài liệu truyền hình nhiều tập dựa trên cuốn sách đã được Hiệp hội Địa lý Quốc gia sản xuất vào năm 2005. Tác phẩm nêu lên câu hỏi tại sao người Á-Âu đã chinh phục và thay thế người Mỹ bản địa, người Úc và người châu Phi, thay vì ngược lại. Trong cuốn sách này lập luận rằng kết quả này không phải do lợi thế sinh học của bản thân các dân tộc Á-Âu mà thay vào đó là các đặc trưng của lục địa Á-Âu, nhất là sự đa dạng cao độ của các loài thực vật và động vật hoang dã phù hợp với việc thuần hóa và trục chính Đông/Tây của nó đã giúp cho sự lây lan những loài động vật thuần hóa, con người và công nghệ cho khoảng cách dài với rất ít thay đổi theo vĩ tuyến, tác giả cho rằng thấy tầm quan trọng của việc cùng vĩ độ như là yếu tố quyết định cho khí hậu, điều kiện sinh trưởng, để từ đó việc phát tán dễ dàng hơn.
Ở nam giới, tinh dịch là một hỗn hợp xuất hiện khi quan hệ tình dục/ thủ dâm. Thế nhưng, có bao giờ anh em có thắc mắc rằng tinh dịch là gì không? Như thế nào là tinh dịch bình thường, màu sắc và mùi vị của tinh dịch ra sao? Tất cả những câu hỏi này sẽ được các bác sĩ phòng khám nam khoa 52 Nguyễn Trãi giải đáp trong bài viết dưới đây. Tinh dịch là một thuật ngữ y học dùng để chỉ chất dịch được các bộ phận thuốc hệ niệu dục của nam giới sản xuất và phóng ra bên ngoài khi nam giới đạt khoái cảm tình dục (bao gồm cả quan hệ tình dục thực sự và thủ dâm). Tinh dịch là một hỗn hợp có chứa tinh trùng –nhân tố sinh sản ở nam giới, chúng được phóng ra từ ống dẫn tinh qua niệu đạo và ra bên ngoài khi nam giới quan hệ tình dục/ thủ dâm có đạt được cực khoái. Tinh dịch dịch bao gồm các chất dịch nhờn ở niệu đạo, dịch ở ống dẫn tinh, tuyến tiền liệt và túi tinh. Chúng tạo ra môi trường cho tinh trùng sống và di động để có thể gặp được trứng và thực hiện quá trình giao hợp. Do đó, cũng như tinh trùng, tinh dịch đóng vai trò quan trọng với sinh lý, sinh sản ở nam giới. Thông thường khi quan hệ tình dục/ thủ dâm đạt được khoái cảm và xuất tinh nam giới sẽ thấy một lượng dịch lỏng được xuất ra bên ngoài. Tuy nhiên, có người quan sát, có người không quan sát nên chắc hẳn có nhiều nam giới không biết đặc điểm của tinh trùng như thế nào. Theo chia sẻ của các chuyên gia nam học, tinh dịch có những đặc điểm nổi bật như sau:. Tinh dịch ở nam giới có màu trắng sữa như nước gạo, hoặc hơi ngà ngà ở trạng thái bình thường. Tuy nhiên, nếu như nam giới đang gặp các vấn đề ở cơ quan sinh dục, ống dẫn tinh, tinh hoàn –mào tinh hoàn, tuyến tiền liệt,…thì màu sắc tinh dịch có sự khác biệt như màu vàng đục, vàng xanh, màu hồng, thậm chí là lẫn máu. Màu sắc của tinh dịch được quan sát bằng mắt thường, và thường thì khi thủ dâm hoặc xuất tinh ngoài âm đạo, sử dụng bao cao su thì nam giới mới có thể quan sát chính xác màu của tinh dịch được. Nếu quan sát màu sắc tinh dịch thông qua giao hợp bình thường, chất dịch chảy ra từ âm đạo của nữ giới thì không chính xác. Mỗi lần xuất tinh, nam giới thường xuất ra bên ngoài từ 3-5ml tinh dịch, và đây là số lượng tinh dịch bình thường ở một nam giới. Nếu như một lần xuất tinh ở nam giới mà lượng tinh dịch xuất ra bên ngoài trên 7ml được xem là nhiều, và điều này cũng không tốt vì nó có thể làm cho mật độ tinh trùng bên trong tinh dịch ít đi. Nếu như mỗi lần xuất tinh mà lượng tinh dịch dưới 2ml thì được xem là tinh dịch quá ít, mà tinh dịch quá ít cũng khiến có tinh trùng ít có thể dễ gây hiếm muộn ở nam giới. Việc đo số lượng tinh dịch ở nam giới có thể được tiến hành chính xác thông qua việc làm xét nghiệm tinh dịch đồ. Bản thân nam giới không thể tự mình biết được mỗi lần xuất tinh ở bản thân mình là bao nhiêu ml. Nam giới cũng không nên đoán già đoán non rồi sinh ra lo lắng. Tinh dịch là một chất dịch đặc, sau khi xuất tinh chúng có thể ở dạng hơi đặc sánh lại và sau đó chừng 15 -20 phút chúng có thể biến thành chất lỏng. Nếu như nam giới sau khi xuất tinh khoảng 30 phút mà tinh dịch không hóa lỏng thì đó cũng là dấu hiệu bất bình thường cần phải đi khám sớm. Bạn có bao giờ thắc mắc tinh dịch có thành phần như thế nào, câu trả lời hết sức đơn giản, tinh dịch có thành phần bao gồm các loại hạt chất như đường, muối khoáng, vitamin, hormone sinh dục, protein và axit amin, một số chất khác. Tinh dịch là một hợp chất của quá trình sinh lý bình thường ở nam giới. Tuy nhiên, nam giới trong quá trình sinh hoạt cũng nên chú ý theo dõi để phát hiện một số bệnh lý thông qua màu sắc, tính chất của tinh dịch. Bởi tinh dịch có chứa tinh trùng nên những bất thường ở tinh dịch cũng có thể đe dọa đến khả năng sinh sản ở nam giới. Một số bệnh thường gặp ở tinh dịch bao gồm:. Tinh dịch vón cục: Đây là một bệnh lý thường gặp nằm nhóm trong bệnh lý rối loạn xuất tinh ở nam giới. Chúng biểu hiện bằng tình trạng sau khi quan hệ nam giới thấy xuất tinh nhưng thay vì tinh dịch ở dạng đặc như bình thường thì lại thấy những hạt nhỏ màu trắng, dùng tay bóp có thể thấy mịn như bột. Nguyên nhân có thể do nam giới đang bị viêm ống dẫn tinh khiến “xác” tinh trùng chết đọng lại, hoặc môi trường tinh dịch thay đổi khiến các chất có trong tinh dịch phản ứng hóa học kết tủa gây ra tình trạng này. Khi tinh dịch vón cục khiến cho tinh trùng bị chết đi, không thể gặp được trứng nên nam giới có nguy cơ sẽ bị vô sinh. Xuất tinh ra máu: đây cũng là một bệnh thuộc nhóm bệnh rối loạn xuất tinh biểu hiện bằng tình trạng tinh dịch có màu hồng hoặc đỏ, nam giới có thể quan sát khi xuất tinh ngoài âm đạo, sử dụng bao cao su (cân phân biệt với tình trạng tinh dịch có lẫn máu). Nguyên nhân có thể nam giới đang bị viêm nhiễm tại đường dẫn tinh (túi tinh, ống dẫn tinh, tinh hoàn, niệu đạo,…), các bệnh tuyến tiền liệt, rối loạn đông máu. Đây cũng là một bệnh nguy hiểm liên quan đến tinh dịch mà nam giới không nên chủ quan. Như vậy, tinh dịch ở nam giới là một hỗn hợp kết quả của quá trình giao hợp/thủ dâm và xuất tinh ở nam giới. Có rất nhiều nam giới bị vô sinh do những bất thường ở tinh dịch, chính vì thế nam giới cần chủ động theo dõi để phát hiện sớm, chữa trị kịp thời. Đây là nơi hội tụ của các chuyên gia nam học hàng đầu, với các thiết bị y tế tân tiến, dịch vụ y tế chất lượng cao, nơi bảo vệ sức khỏe nam khoa mà nam giới nên lưu ý để có thể tìm đến khi có các bất thường về sức khỏe, sinh lý nam giới. Khoa Nguyễn tốt nghiệp bác sĩ chuyên ngành y đa khoa, Đại học Y Hà Nội, là người tâm huyết với các diện bệnh về nam khoa, phụ khoa, bệnh xã hội,. Với mong muốn mang lại sức khỏe trọn vẹn cho mọi người, Khoa Nguyễn sẽ cung cấp đầy đủ kiến thức về sức khỏe sinh sản đến cho mọi người dưới sự cố vấn của các tiến sĩ, bác sĩ y khoa đầu ngành. Ăn gì để cô bé có mùi thơm là điều chị em sẽ luôn muốn tìm hiểu. Bởi lẽ một “cô bé” thơm tho sẽ khiến cho chàng mê mệt. Vá màng trinh có đau không là câu hỏi mà nhiều chị em phụ nữ đặt ra khi quan tâm tới thủ thuật này. Vậy thì thủ thuật này như
Tinh dịch
Tinh dịch là chất dịch màu trắng đục (thick white fluid) chứa tinh trùng. Tinh dịch được phóng ra từ cửa niệu đạo của dương vật thường vào lúc con đực đạt cực khoái khi giao phối. Đôi khi cũng được phóng ra khi không có hoạt động tình dục như mộng tinh hoặc thủ dâm. Ở trạng thái bình thường, tinh dịch đậm đặc và có màu trắng hoặc màu vàng nhạt. Tinh dịch màu vàng nhạt là do trong thời gian dài không có xuất tinh, tinh dịch biến đổi về màu sắc và có sự kết dính. Ngoài một phần nhỏ các chất nhờn từ niệu đạo, 10% dung dịch tinh dịch là từ ống dẫn tinh, 30% từ tuyến tiền liệt và 60% từ túi tinh (seminal vesicles). Dung dịch trong túi tinh đẩy tinh trùng và "rửa sạch" ống dẫn tinh trong giai đoạn xuất tinh.
Viêm tuyến tiền liệt là tình trạng nhiễm trùng tại vị trí tuyến tiền liệt nguyên nhân do vi khuẩn hoặc không do vi khuẩn. Bệnh thường xảy ra ở nam giới độ tuổi trung niên với biểu hiện cấp tính hoặc mãn tính. Bệnh viêm tuyến tiền liệt ở nam không gây nguy hiểm đến tính mạng nhưng nếu không phát hiện và điều trị kịp thời có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, gây các biến chứng nghiêm trọng như vô sinh, hiếm muộn. Nguyên nhân gây viêm tuyến tiền liệt là gì? Thực tế viêm tuyến tiền liệt thường xuất hiện sau nhiễm trùng ngược dòng của viêm niệu đạo, viêm mào tinh hoàn hoặc các vị trí lân cận vùng trực tràng. Vi khuẩn gây bệnh chủ yếu là các vi khuẩn gram (-) đường tiêu hóa và sinh dục tiết niệu như Ecoli. Ngoài ra có thể gặp các vi khuẩn không điển hình khác như Chlamydia, lậu, giang mai…. Quan hệ tình dục không điều độ: nam giới quan hệ tình dục với tần số cao trong thời gian ngắn dẫn tới rối loạn xuất tinh gây sung huyết và giãn nở tuyến tiền liệt quá mức. Triệu chứng toàn thân: mệt mỏi, sốt, ớn lạnh, đau mình mẩy, đau nhiều vùng bẹn, thắt lưng, đặc biệt vị trí giữa bìu và xương mu. Triệu chứng kích thích: tiểu buốt, nước tiểu có thể có máu, tiểu nhiều lần (>10 lần/ban ngày), tiểu đêm (2-4 lần/đêm). Triệu chứng tắc nghẽn: tiểu rắt, tiểu khó, tiểu ngắt quãng, tia nước tiểu yếu. Rối loạn chức năng tình dục: đau buốt khi xuất tinh, rối loạn co cứng của dương vật. Ảnh hưởng quan hệ tình dục: giảm ham muốn, rối loạn cương dương, rối loạn xuất tinh. Vô sinh: viêm tuyến tiền liệt mãn tính ảnh hưởng đến chức năng sản xuất tinh dịch và chất lượng tinh trùng. Biểu hiện tương tự như viêm tuyến tiền liệt mãn tính. Tuy nhiên khi xét nghiệm nước tiểu và tinh dịch sẽ không phát hiện thấy vi khuẩn, thường chỉ thấy các tế bào mủ. Vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục hàng ngày, đặc biệt trước và sau quan hệ tình dục. Không ăn thức ăn cay, nóng, hạn chế rượu, bia, thuốc lá và chất kích thích. Ăn nhiều rau xanh và trái cây. Không ngồi lâu, nên ngồi trên đệm lót để giảm áp lực lên tuyến tiền liệt. Thực hiện các biện pháp bảo hộ khi đạp xe thời gian dài để giảm áp lực lên tuyến tiền liệt. Khi bị viêm tuyến tiền liệt nên uống nhiều nước và đi lại vận động nhiều. Chẩn đoán viêm tuyến tiền liệt dựa vào triệu chứng và thăm khám lâm sàng của bác sỹ. Sử dụng các kháng sinh nhạy cảm với vi khuẩn gây bệnh. Tùy thuộc vào mức độ viêm mà sử dụng kháng sinh đường tiêm hay đường uống, điều trị ngoại trú hay nội trú. Viêm tuyến tiền liệt mãn tính cần sử dụng kháng sinh kéo dài hơn.
Viêm tiền liệt tuyến
Viêm tiền liệt tuyến hay viêm tuyến tiền liệt là một dạng viêm nhiễm tại bộ phận tuyến tiền liệt và thường biểu hiện dưới hai dạng cấp tính và mạn tính với một số triệu chứng tiêu biểu như đi tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu đau, kèm theo sốt. viêm tuyến tiền liệt mạn tính biểu hiện chủ yếu là cảm giác khó chịu vùng bụng dưới, tinh hoàn, đau vùng dưới thắt lưng, tiểu nhiều lần. Tuyến tiền liệt là một tuyến đặc biệt chỉ có ở nam giới, kích thước và hình dạng như hạt của quả hồ đào nằm phía dưới bàng quang bao quanh đoạn đầu của niệu đạo. Khi mới sinh, kích thước tuyến tiền liệt của một bé trai chỉ bằng hạt đỗ. Tuyến này lớn dần theo thời gian và phát triển tăng vọt vào tuổi dậy thì. Cho đến 20 tuổi tuyến tiền liệt đạt đến kích thước của người lớn. Chức năng chính của tuyến tiền liệt là sản xuất tinh dịch, giúp cho việc nuôi dưỡng, vận chuyển tinh trùng đồng thời có chức năng giúp kiểm soát nước tiểu và sản xuất một số chất có trong tinh dịch.
Những phim truyền hình hay nhất của TVB bạn có thể kể? Bao la vùng trời, Long Hổ Môn, Người trong giang hồ, Bằng chứng thép, Hồ Sơ Trinh Sát… Và một trong những phim TVB thuộc thể loại cung đấu hay nhất không thể không nhắc đến Thâm Cung Nội Chiến. Có lẽ Thâm cung nội chiến là phim gây ấn tượng mạnh mẽ nhất trong thể loại cung đấu. Trước khi Diên Hi Công Lược, Như Ý Truyện, Chân Hoàn Truyện… ra đời. Ra mắt công chúng vào năm 2004, phim Thâm Cung Nội Chiến gồm 30 tập, thời lượng mỗi tập phim 45 phút. Đây là phim duy nhất quy tụ đủ mặt 4 hoa đán của đài TVB thời bấy giờ:. Cho đến nay, Thâm Cung nội chiến là một trong số những phim đạt rating cao nhất TVB.Trong năm 2004, bộ phim này là bộ phim truyền hình hay nhất của TVB. Phim vẫn gây được tiếng vang mãi những năm về sau. Và được coi là một trong những phim cung đấu phải xem cho đến nay. Ngày nay những câu chuyện đấu đá trong văn phòng cũng khốc liệt và đầy đổ máu. Lấy chuyện cung đấu ngày xưa, mỹ nữ giành ân sủng của Hoàng Thượng mà không từ thủ đoạn. Phim Thâm Cung Nội Chiến gây được sự đồng cảm rất lớn với đối tượng khán giả là nhân viên văn phòng. Khó ai ngờ được Thâm Cung Nội Chiến chính là một âm mưu lớn của biên kịch Châu Húc Minh. Vốn dĩ người xem chỉ đang xem câu chuyện hậu cung nhưng thực chất là nói đến một giai đoạn lịch sử nhiều biến động trong đời vua thứ 7 nhà Thanh. Điều này khá khác biệt so với các phim cung đấu khác vốn chỉ vay mượn thời điểm lịch sử để kể câu chuyện nữ nhi. Những câu chuyện trong Thâm cung nội chiến còn là cuộc chiến của các quan lại trong triều đình. Những vụ án ẩn khúc đem xét xử lại liên quan đến Hòa Thân… Hay câu chuyện quân phản nghịch tấn công vào thành…. Nhờ đó, khán giả có thể dễ dàng nắm bắt tâm lý nhân vật và cảm thấy gần gũi hơn. Không chỉ có một kịch bản hay và khác biệt, TVB đặc biệt chú ý đến dự án Thâm cung đại chiến. Có lẽ vì đây là tác phẩm cung đấu đầu tiên của TVB cũng là đầu tiên trong lịch sử phim Trung Quốc. Đoàn phim được quay ngoại cảnh thật tại Tử Cấm Thành (Bắc Kinh), Hoành Điếm (Chiết Giang). Phục trang cầu kỳ, đúng thời điểm lịch sử và đúng với motif từng nhân vật. Phim cung đấu Trung Quốc hay nhất – Thâm Cung Đại Chiến diễn ra vào thời nhà Thanh – vị vua Gia Khánh. Vua Gia Khánh đau đầu vì quân của Thiên Lý Giáo có âm mưu tạo phản. Thêm nữa là Bạch Liên Giáo. Trong nội bộ triều đình các nạn tham ô, thuốc phiện càng làm chuyện chính sự khó khăn. Hậu cung của Gia Khánh rối ren ngay từ khi ông mới lên ngôi. Hoàng hậu luôn có âm mưu soán vị những kẻ mà Gia Khánh đang ân sủng. Các phi tần đều tìm cách tiếp cận ông vua đa tình và chiếm lấy sự đắc sủng nhằm củng cố quyền lực của bản thân. Phim truyền hình thâm cung đại chiến là tác phẩm hiếm hoi có kịch bản hay và tiên phong đến như vậy. Phim cung đấu nhưng không hề mang tính chất chia nhân vật chính – phụ, cũng không thực sự có góc nhìn chính – tà phân minh. Những màn cung đấu không hẳn vì thăng tiến của bản thân. Có những người chỉ đơn thuần là phải trả thù như An Xuyến. Những người khác vì bị hại hết lần này đến lần khác phải tự vệ. Mỹ nhân trong hậu cung đạt được những thứ phù phiếm họ đánh đổi mọi giá. Để rồi nhận ra mình lại rất cần sự quan tâm yêu thương chân thành là đủ. Người sau cùng được sống sót và thoát khỏi Tử Cấm Thành lại lãnh kết cục bơ vơ, đơn độc. Nhĩ Thuần vốn là cô em gái đi cùng chị sau khi cha mẹ chết. Được Từ Vạn Điền thu nạp làm nghĩa nữ, nuôi nấng và giáo dưỡng để tìm cách tiến cung trục lợi. Sau đó cô vô tình bị lạc chị và mãi đến khi vào cung. Từng bước một, Nhĩ Thuần dùng nhiều tâm cơ khó lường leo lên Thuần Quý nhân. Cô tráo thuốc để làm đối thủ là Ngọc Doanh liên tục ngã bệnh, không thể tiếp cận Hoàng Thượng. Nhĩ Thuần tuy vậy nhưng rất hiếu thảo với nghĩa phụ và luôn đau đáu tìm chị gái. Cô sa vào lưới tình với Tôn Bạch Dương, tạo thành mối tình tay ba với Ngọc Doanh. Từ nhỏ Ngọc Doanh luôn mang thân phận thấp hèn là con của vợ lẽ. Và bị đối xử tệ bạc. Khi vào cung, cô từng bị Nhĩ Thuần kết thân rồi hãm hại nặng nề. Sau đó, nhờ người hầu An Xuyến, cô được Hoàng Thượng để mắt đến và cho phép thị tẩm. Được một khoảng thời gian thì An Xuyến phản bội cô tìm cách tiếp cận hoàng thượng. Cô lại mất đi một người thân thiết. Ngọc Doanh đi lên bằng sự gian trá và chờ đợi cơ hội. Mục đích của Ngọc Doanh luôn vì gia đình và thể diện bản thân, muốn mẹ cô được nở mày nở mặt. Nhưng trong lòng luôn có sự cô độc và yếu đuổi phải che giấu. Chính người đàn ông tốt Tôn Bạch Dương đã đến yêu thương và che chở cho cô vô điều kiện. Tuy vậy, cô luôn tìm cách lợi dụng anh. Khi Thuần Quý Phi mang thai, cô cũng khiến anh làm cô có thai để tiến thân. Nhân vật thú vị nhất hậu cung, được ví như hình mẫu của Nguỵ Anh Lạc sau này trong Diên Hi Công Lược. Cô là cung nữ thông minh bậc nhất, nhưng không hề có tham vọng. Xinh đẹp, được việc cho các quý nhân và hoàng hậu. Nhưng cô chỉ mong được xuất cung về quê với bà. Ước mơ nhỏ nhoi của cô khi vào chốn cung cấm cũng vô tình bị chà đạp để giữ cô ở lại như một quân cờ. Căm thù Hoàng hậu đến xương tủy, cô nghe theo Như Phi phải trở thành phúc tấn được Hoàng thượng sủng ái để khiến Hoàng hậu sống không bằng chết. Những tập cuối phim, cô cũng tìm cách trốn thoát khỏi cung cấm. Nhưng không may mắn, cô chết do tên bay đạn lạc. Ngoài những nhân vật như Thuần phi – Hoa Phi – An Phi, chúng ta còn bắt gặp rất nhiều thân phận sống đau khổ trong cung. Như Hoàng Hậu, Như Phi, Phúc Phi và những quan lại như Khổng Võ và Tôn Bạch Dương. Thâm cung nội chiến là một tượng đài cung đấu trong dòng phim cung đấu trung quốc. Lưu tên, email và trang web của tôi trong trình duyệt này cho lần tiếp theo tôi nhận xét.
Thâm cung nội chiến (phim truyền hình)
Thâm Cung Nội Chiến, tên gốc là Kim Chi Dục Nghiệt (tiếng Trung: 金枝慾孽, tiếng Anh: War and Beauty) là một bộ phim truyền hình khởi chiếu lần đầu trên TVB Jade từ 23 tháng 8 đến 2 tháng 10 năm 2004, bao gồm 30 tập phim. Đây là bộ phim duy nhất từ trước đến giờ của TVB có tới bốn nữ diễn viên từng dành giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất của TVB Anniversary Awards là Lê Tư, Đặng Tụy Văn, Trương Khả Di, Xa Thi Mạn. Ngoài ra phim còn có sự tham gia của hai nam diễn viên chính Lâm Bảo Di và Trần Hào và cả hai đều đã từng dành giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Đây là bộ phim đầu tiên trên thế giới về cung đấu thời phong kiến Trung Quốc và là một tượng đài của dòng phim này. Bộ phim lấy bối cảnh ở Tử Cấm Thành, vào thời nhà Thanh ở Trung Quốc trong những năm trị vì sau này của hoàng đế Gia Khánh. Phim tập trung vào cuộc tranh giành quyền lực giữa các phi tần bằng cách giành lấy sự ân sủng của Hoàng đế và loại bỏ đối thủ, với sự tha hóa, âm mưu và lừa dối là những vũ khí chính được sử dụng.
Đa dạng sinh học là sự phong phú của nhiều nhiều dạng, loài và những biến dị di truyền của mọi sinh vật trong đời sống tự nhiên, sự đa dạng và phong phú này được chia làm nhiều cấp độ tổ chức sinh giới tính chất là với những dạng HST của môi trường thiên nhiên trên trái đất. Thuật ngữ đa dạng sinh học cũng bao trùm mức độ biến đối của thế giới tự nhiên trong đó những sinh vật là đơn vị cấu thành. Thế nào là đa dạng sinh học? Đa dạng sinh học là kể cả nhiều dạng và cá thể của những loài song song với những biến dị di truyền của thế giới sinh vật, cũng như nhiều dạng của những cấp độ tổ chức sinh giới nhất là dưới dạng HST ở mọi môi trường thiên nhiên trái đất, khái niệm này cũng kể cả cả những mức độ biến đổi trong thế giới tự nhiên mà đơn vị cấu thành là những sinh vật. Trong đó những giá trị lợi ích của đa dạng sinh học kể cả sự đa dạng và tính khác biệt của những loài sinh vật sống kể cả cả những phức HST được tồn tại trong đó. Ngoài ra tính đa dạng của sinh học rất được quy ước ở một số lượng xác định với nhiều đối tượng người dùng khác nhau, tính giá trị rất được thể hiện ở tần số xác định của chúng, và đươc biểu trưng bằng nhiều cấp độ khác nhau chính và chúng có những chuyển biến từ phức tạp đến những cấu trúc hóa học là cơ sở phân tử của thế giới di truyền. Chúng ta cũng có thể tìm hiểu thêm về tính đa dạng và phong phú của chúng trên thế giới hay cụ thể hơn là tại Việt Nam. Tìm hiểu về khái niệm đa dạng sinh học là gì chúng ta có thể tìm hiểu thêm về thực trạng chung trên thế giới hiện nay, trong đó có 3 thực trạng cũng là 3 mối lo chính được xác định tính tới thời gian hiện tại trước nguy cơ về đa dạng sinh vật đang bị giảm dưới mức tin cậy. Song song với đó về tình hình mất đa dạng sinh học trên thế giới đấy là sự biến mất của khoảng 45% chủng loại cũng như habitat của những chủng loại này từ nay cho đến thời gian năm 2020 nếu như xu thế về đa dạng sinh học không được đảo ngược lại trong khoảng thời gian hướng đến tương lai. Tìm hiểu về những nguyên nhất gây mất đa dạng sinh học thực vật là gì cho đến động vật đấy là việc chúng ta phải đương đầu với nguy cơ mất đi khoảng 15% động thực vật, trong đó những đầm lầy hiện nay đã suy giảm chỉ còn một nửa. Đây thực sự là con số đáng báo động khi muốn tìm hướng khắc phục sự mất đa dạng sinh học là gì, tính chất sự sụt giảm của những loài chim và động vật có vú xảy ra mạnh mẽ ở khu vực châu phi hiện nay có thể đang gặp phải nguy cơ đã và đang bị tuyệt chủng. Như vậy với tình hình chung về đa dạng sinh học thế giới đang phải đương đầu với nhiều nguy cơ mất đa dạng giống loài từ thực vật cho đến động vật ở những châu lục khác nhau tính tới thời gian hiện tại và trong tương lai. Theo số liệu được đưa ra trong những nghiên giúp gần đây của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) thì 7.291 trong tổng số 47.677 loài trên thế giới đang bị đe dọa tuyệt chủng, kể cả 21% động vật có vú, 30% động vật lưỡng cư, 35% động vật không xương sống và 70% loài thực vật. Cụ thể hơn là Việt Nam, sự suy giảm đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng đang có những tiến triển gây bất lợi trong tương lai và nhiệm vụ cần làm của chúng ta đấy là nhìn vào những thực tiễn này để thâu tóm tình hình.
Sinh học bảo tồn
Sinh học bảo tồn (Conservation biology) là việc nghiên cứu khoa học về bản chất và đa dạng sinh học của Trái Đất với mục đích bảo vệ các loài, môi trường sống của chúng và cả hệ sinh thái khỏi việc bị xóa bỏ hoặc xâm phạm quá mức về tương tác sinh học. Đây là vấn đề có liên quan mật thiết giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, cũng như việc thực hiện quản lý tài nguyên thiên nhiên. Sinh học bảo tồn đi liền với hệ sinh thái trong nghiên cứu sự phát tán, di cư, ảnh hưởng quy mô dân số, suy thoái trong giao phối cận huyết, và số lượng tối thiểu của các loài quý hiếm hoặc đang bị đe dọa. Để hiểu rõ hơn về sự khôi phục sinh thái của các loài động thực vật bản địa, các nhà sinh học bảo tồn nghiên cứu cả môi trường sống trong cùng loài và khác loài, đây là những yếu tố ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới sự tồn tại của một loài. Sinh học bảo tồn có vai trò quan trọng trong việc duy trì, biến mất hoặc phục hồi đa dạng sinh học và khoa học trong việc duy trì quá trình tiến hóa gây ra sự di truyền, dân số, các loài, và đa dạng hệ sinh thái.
2 Đặc điểm, cấu tạo các loại pin phổ biến hiện nay2.1 Pin Cmos là gì?2.2 Pin Li ion là gì? 2.3 Pin Lipo là gì?2.4 Pin Mặt Trời là gì? 2.5 Pin điện hóa là gì?2.6 Pin nhiên liệu là gì? 2.7 Pin sạc dự phòng là gì?2.8 Pin khô là gì?2.9 Pin Alkaline là gì?2.10 Cell pin laptop là gì?2.11 Pin 4 Cell là gì?2.12 Pin OEM là gì?. Pin là một dạng năng lượng biến đổi từ năng lượng hóa học thành năng lượng điện. Pin là món đồ được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày như dùng trong các loại đèn pin chiếu sáng, đồ điện tử… cũng như trong ứng dụng công nghệ, máy móc…. Do nhu cầu sử dụng ngày càng nhiều chính vì vậy mà trên thị trường hiện nay có khá nhiều các loại pin khác nhau. Song có thể chia các loại pin thành hai dạng cơ bản khác nhau là pin sơ cấp và pin thứ cấp. Nếu như pin sơ cấp là các loại pin chỉ được sử dụng 1 lần sau đó bỏ đi và không còn hoạt động được nữa thì pin thứ cấp cho phép bạn có thể nạp được năng lượng điện và sử dụng trong thời gian dài. Cách nhận biết đơn giản các loại pin sạc và pin thường đơn giản và thường được nhiều người ứng dụng chính là quan sát kĩ trên bao bì cũng như bề mặt vỏ ngoài của pin. Bạn sẽ thấy ở bề mặt vỏ ngoài này ký hiệu pin sạc được hay không rồi từ đó sử dụng sao cho thích hợp. Các loại pin sạc thường có giá thành cao hơn so với các dòng pin dùng 1 lần. Sau khi sử dụng một thời gian dài chắc hẳn bạn cũng sẽ thắc mắc và muốn biết xem pin còn bao nhiêu dung lượng đúng không nào, nhất là đối với các dòng pin sạc như pin điện thoại hay pin dự phòng. Chính vì vậy trong bài viết “Pin là gì” hôm nay chúng mình sẽ giúp bạn cách tính dung lượng pin chính xác, đơn giản nhất:. Bắt đầu thực hiện sạc lại cho thiết bị đến khi thấy báo hết pin. Để kiểm tra dung lượng của pin điện thoại hay pin sạc dự phòng bạn có thể sử dụng các ứng dụng trên điện thoại. Đèn pin là một loại đèn hoạt động bằng các loại pin. Thông thường, đèn pin chiếu sáng sẽ có kích thước nhỏ gọn hơn so với các loại đèn như đèn học, đèn tuýp… Bên cạnh các dòng đèn pin sử dụng bóng đèn sợi đốt thì hiện nay trên thị trường có rất nhiều các dòng đèn pin led siêu sáng giúp tiết kiệm năng lượng điện và có khả năng chiếu sáng tốt hơn. Đèn pin thường sử dụng 2 loại pin nhỏ chính là pin AA và pin AAA. Pin AA hay còn được biết đến là pin tiểu hay còn gọi là pin 2A. Các loại pin tiểu này có thể tồn tại dưới dạng pin sạc được hoặc pin dùng lần. Pin AA thường có chiều dài khoảng 49.2mm đến 50.5mm, đầu cực (+) có chiều cao tối thiểu 1mm và cực (-) thì bằng phẳng, trọng lượng 23g. : Pin AAAhay còn được biết đến với tên gọi là pin đũa. Pin AAA có kích thước 44.5mm chiều dài, trọng lượng 11.5g. Dung lượng của pin AAA thường ít hơn so với các loại pin AA. Pin AAA cũng có 2 loại chính: pin dùng 1 lần và pin sạc điện. Pin Cmos hay còn được biết đến là pin CR2032. là một loại pin cung cấp điện cho con chip sử dụng trên board mạch chủ của máy tính để bàn giúp cho máy tính có thể lưu trữ được một vài thông tin khi bị ngắt nguồn điện. Pin Cmos thường có kích thước rất nhỏ và được gắn trực tiếp trên main để cung cấp năng lượng cho con chip hoạt động. Pin Li-ion là một loại pin Lithium Ion, được cấu tạo gồm các chất điện phân đóng vai trò như môi trường di chuyển giữa 2 cực âm và dương của pin. Ưu điểm của loại pin Lithium là gì mà chúng được sử dụng nhiều hiện nay? Điểm nổi bật của loại pin này chính là chúng có kích thước nhỏ nhưng lại có dung lượng cao và có thể sử dụng trong thời gian dài hơn so với các loại pin hiện nay. Pin Lipo hay còn được biết đến với tên gọi khác là pin Lithium Polymer (pin Li Polymer). Điểm khác biệt của pin Li-ion với pin Lithium Polymer là gì? Pin Lipo không sử dụng chất điện phân dạng lỏng như pin Li-ion chúng sử dụng chất điện phân dạng polymer khô kẹp giữa cực dương và cực âm của pin cho phép trao đổi các ion. Pin Mặt trời hay còn được biết đến với tên gọi khác là pin năng lượng Mặt trời hay pin quang điện. Pin Mặt trời bao gồm nhiều các tế bào qung điện khác nhau có chứa trên bề mặt một số lượng lớn cảm biến ánh sáng, sau đó chuyển đổi quá trình biển đổi năng lượng ánh sáng của mặt trời tỏa ra thành năng lượng điện. Tuy nhiên, hiệu điện thế hay cường độ của loại pin này sẽ phụ thuộc bởi lượng ánh sáng chiếu lên chúng. Do vậy vào buổi tối thì các thiết bị sử dụng pin năng lượng Mặt trời sẽ không hoạt động. Pin điện hóa hay Pin quang điện hóa là hệ điện hóa có khả năng tích trữ năng lượng mặt trời để tạo thành hóa năng sau đó tái sử dụng. Pin quang điện hóa thường có cấu tạo 2 phần: hệ quang điện phân và hệ pin điện hóa thông thường. Pin nhiên liệu là loại pin biến đổi năng lượng hóa học của nhiên liệu trở thành điện năng. Chính vì vậy mà loại pin nhiên liệu này thường rất thân thiện với môi trường, tuy nhiên giá của các loại pin này thường rất cao. Pin dự phòng là một món đồ có khả năng tích trữ được nguồn điện cho phép bạn sạc các thiết bị điện tử mà không cần sử dụng ổ cắm điện. Điều mà bạn cần quan tâm khi mua pin sạc dự phòng chính là xem xem dung lượng pin Mah là gì? hay còn gọi là pin Mah là gì? Đây là một con số biểu hiện được khả năng trữ điện của các viên pin nhỏ. Pin khô là một loại pin thường được sử dụng cho các loại thiết bị điện tử cầm tay. Pin khô sử dụng một tấm chất điện ly có độ ẩm vừa vừa phải giúp dòng điện chạy qua. Cấu tạo của pin khô thường là anode kẽm, một cathode carbon ở dạng một cột ở giữa pin, amoni clorua dưới dạng một hỗn hợp bên cạnh anode bằng kẽm. Pin 18650 là một loại pin được sử dụng chất liệu Lithium Lion. Sở dĩ có tên gọi là pin 18650 là dựa trên kích thước của chúng. Nhìn vào tên gọi có thể dễ dàng biết được đây là loại pin có kích thước đường kính là 180 mm và chiều dài là 650 mm. Cấu tạo của pin 18650 thường rất đơn giản, có điện áp khoảng chừng 3,7V. Khi sử dụng cho các dòng đèn pin siêu sáng cầm tay bạn sẽ phải dùng ít nhất là 2 cục pin, còn với sạc dự phòng thì phải dùng 3 pin. Pin Alkaline là loại pin được cấu tạo từ Magan Oxit (MnO2), chất Kiềm (KOH) và Kẽm. Đây là loại pin thường được sử dụng trong nhiều thiết bị điện tử như máy ảnh, mic âm thanh… Pin Alkaline có cả các dòng pin tiểu sạc được và cả các dòng pin dùng 1 lần. Khi mua laptop bạn sẽ thấy có rất nhiều các loại pin laptop khác nhau như 3 Cell, 4 Cell, 6 Cell… Vậy Cell pin là gì? Cell pin laptop là một cục pin li-ion được ghép lại với nhau. Mỗi Cell pin là 1 cục pin có điện thế 3,6 – 3,7V dung lượng 2200-2600mAh, kiểu dáng hình trụ với kích thước đường kính 18mm và chiều cao 65mm. Chai pin là gì? Chai pin là hiện tượng pin có dấu hiệu không còn được như ban đầu. Sau khi sạc đầy nhưng chỉ sử dụng 1 thời gian là hết nhưng khi sạc thì chỉ cần khoảng hơn 10 phút thì máy báo pin đã đầy. Pin 4 Cell là loại pin nhỏ với dung lượng pin ở mức 8800 mAh đến 9200mAh. Các dòng lap top sử dụng loại pin này sẽ có thể sử dụng trong khoảng từ 2-3 giờ đồng hồ. Pin OEM được viết tắt bởi “Original Equipment Manufacturer”. Có thể hiểu Pin OEM là một loại pin chính hãng của nhà sản xuất. Ưu điểm của các loại pin này chính là có cấu tạo và thiết kế tương tự với pin gốc, có bảo hành của nhà sản xuất tuy nhiên chúng thường có giá thành rất cao so với pin các loại khác.
Pin điện
Pin (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp pile), còn được viết theo tiếng Anh là "battery", là một hoặc nhiều pin điện hóa (electrochemical cell) biến đổi năng lượng hóa học thành năng lượng điện. Từ khi được sáng chế lần đầu ("pin Volta") năm 1800 bởi Alessandro Volta, pin đã trở thành nguồn năng lượng thông dụng cho nhiều đồ vật trong gia đình cũng như cho các ứng dụng công nghiệp. Theo ước lượng năm 2005, công nghiệp sản xuất pin mang lại doanh thu 48 tỷ USD mỗi năm, với tốc độ tăng trưởng 6% trên năm. Có hai loại pin: pin sơ cấp (pin dùng 1 lần), được thiết kế để sử dụng 1 lần sau đó vứt đi, và pin thứ cấp (pin nạp được), được thiết kế để nạp được nhiều lần. Các pin cỡ nhỏ được sản xuất cho các thiết bị tiêu thụ ít năng lượng như đồng hồ đeo tay; những pin lớn có thể cung cấp năng lượng cho các thiết bị di động như laptop. Ngoài ra còn có pin khoai tây, pin chanh, pin cảm ứng từ điện cho dòng điện miễn phí với hiệu suất cực cao mà không cần phải sạc.
Phong trào phản chiến trong Chiến tranh Việt Nam là các phong trào phản đối sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Phong trào diễn ra tại Việt Nam, Mỹ, Liên Xô và nhiều nước trên thế giới, bắt đầu vào năm 1964. Nhiều cuộc biểu tình tại Mỹ đã bị đàn áp bằng bạo lực. Tại Mỹ, khi chiến tranh Việt Nam tiếp tục leo thang, sự mất trật tự công cộng đã tăng lên và nhiều nhóm khác nhau được hình thành hoặc tham gia vào phong trào này. Các cuộc biểu tình đã thừa hưởng thanh thế từ phong trào Dân quyền, vốn tổ chức để phản đối luật phân biệt chủng tộc. Phong trào Dân quyền đã xây dựng 1 nền tảng lý thuyết, cơ sở để phát triển phong trào chống chiến tranh. Các cuộc biểu tình được hâm nóng bởi sự mọc lên của nhiều tờ báo độc lập còn được gọi là "báo chui" và các lễ hội, chương trình văn nghệ như Woodstock và Grateful Dead, đã thu hút những người trẻ trong việc tìm kiếm sự đoàn kết của những người cùng thế hệ. Phong trào này đã báo cáo và giúp định hình cuộc tranh luận gay gắt và phân cực, chủ yếu ở Hoa Kỳ, trong nửa cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 về cách chấm dứt chiến tranh. Trong những năm 1960, có rất nhiều bất ổn về công việc trong các trường đại học khi sinh viên ngày càng tham gia Phong trào Quyền Công dân, Chủ nghĩa Feminist Thứ hai và Phong trào chống chiến tranh. Doug McAdam giải thích thành công của việc vận động quần chúng các tình nguyện viên cho Tự do Mùa Hè về "Tính sẵn có của Tiểu sử", nơi các cá nhân phải có một mức độ tự do về kinh tế, xã hội và tâm lý để có thể tham gia vào các phong trào xã hội quy mô lớn. Giải thích này cũng có thể được áp dụng cho Phong trào Chiến tranh vì nó xảy ra cùng thời gian và cùng các yếu tố tiểu sử được áp dụng cho những người biểu tình chống chiến tranh ở đại học. Năm 2007, David Meyers cũng giải thích làm thế nào khái niệm về hiệu quả cá nhân ảnh hưởng đến việc vận động quần chúng. Ví dụ, theo luận án của Meyers, xem xét rằng sự giàu có của Hoa Kỳ tăng mạnh sau Thế chiến 2. Vào thời điểm này, Mỹ là một siêu cường và có được sự giàu có tuyệt vời sau 30 năm trầm cảm, chiến tranh và hy sinh. Benjamin T. Harrison 2000 lập luận rằng sự giàu có sau Thế chiến II đã tạo ra giai đoạn cho thế hệ phản kháng trong những năm 1960. Luận điểm trung tâm của ông là Chiến tranh Thế giới và Đại khủng hoảng đã tạo ra 1thế hệ "từ chối tuân thủ các giá trị chính thống của Hoa Kỳ dẫn tới sự xuất hiện của người Hippies và sự đối kháng. Phong trào chống chiến tranh đã trở thành một phần của phong trào phản kháng lớn hơn so với các giá trị và thái độ Mỹ truyền thống. Meyers 2007 đã bác bỏ tuyên bố này trong lập luận của mình rằng "đặc quyền tương đối thích thú với giáo dục và khẳng định rằng họ có thể tin tưởng rằng họ có thể tạo ra sự khác biệt." Do các yếu tố hiện tại về sự giàu có, sự sẵn có tiểu sử được định nghĩa trong các lĩnh vực xã hội học của chủ nghĩa hoạt động như việc thiếu các hạn chế về các mối quan hệ xã hội có thể làm gia tăng hậu quả của việc tham gia vào một phong trào xã hội quận, hoạt động chính trị gia tăng đáng kể trong các trường đại học. Số tuyển sinh đại học đạt 9 triệu vào cuối những năm 1960. Các trường cao đẳng và đại học ở Hoa Kỳ có nhiều sinh viên hơn bao giờ hết, và các trường này thường cố gắng hạn chế hành vi của học sinh để duy trì trật tự trong các trường. Để chống lại điều này, nhiều sinh viên đại học trở nên tích cực trong các nguyên nhân thúc đẩy tự do ngôn luận, đầu vào của sinh viên trong chương trình giảng dạy, và chấm dứt những hạn chế xã hội cổ xưa. Sinh viên tham gia phong trào chống chiến tranh bởi vì họ không muốn chiến đấu trong một cuộc nội chiến nước ngoài mà họ tin rằng không quan tâm đến họ hoặc vì họ đã phản đối về mặt đạo đức đối với tất cả chiến tranh. Những người khác không thích chiến tranh vì nó chuyển hướng kinh phí và sự chú ý ra khỏi các vấn đề trong sự phát triển Trí tuệ của Hoa Kỳ và đạt được một quan điểm tự do trong trường đại học khiến nhiều học sinh trở nên tích cực trong phong trào chống chiến tranh. Một nét hấp dẫn khác của phong trào phản đối là sự kiện đó là một sự kiện xã hội phổ biến. Như một sinh viên cho biết, những cuộc biểu tình chống chiến tranh là những nơi "được đặt, lên cao, và lắng nghe một số tảng đá lớn". Hầu hết các tổ chức chống lại sinh viên đều có cơ sở hoặc tại trường vì họ dễ dàng tổ chức và tham gia hơn các nhóm quốc gia. Các cuộc biểu tình chống chiến tranh phổ biến cho các sinh viên đại học đã cố gắng cắt đứt mối quan hệ giữa máy chiến tranh và các trường đại học thông qua việc đốt cháy các lá thư dự thảo, phản đối các trường đại học nâng cấp các bản thảo và phản đối các hội chợ việc làm về quân đội và công nghệ Dow Chemical trong khuôn viên. Từ 1969-1970, những người phản đối học sinh đã tấn công 197 tòa nhà của ROTC tại các trường đại học. Các cuộc biểu tình đã tăng lên sau vụ bắn súng của tiểu bang Kent, củng cố ngày càng nhiều sinh viên. Mặc dù các phương tiện truyền thông thường miêu tả phong trào chống lại học sinh hiếu chiến và phổ biến rộng rãi, chỉ có 10% trong số 2500 trường cao đẳng Hoa Kỳ đã có những cuộc biểu tình bạo lực trong suốt những năm chiến tranh ở Việt Nam. Vào đầu những năm 1970, hầu hết các phong trào phản kháng của sinh viên đã chết vì cuộc tổng tấn công của Tổng thống Nixon, cuộc suy thoái kinh tế và sự vỡ mộng với sự bất lực của phong trào chống chiến tranh. Nhiều nghệ sĩ trong những năm 1960 và 1970 phản đối chiến tranh và sử dụng sự sáng tạo và sự nghiệp của họ để phản đối rõ ràng cuộc chiến. Các nhà văn và nhà thơ chống lại sự tham gia của chiến tranh bao gồm Allen Ginsberg, Denise Levertov, Robert Duncan và Robert Bly. Các tác phẩm của họ thường kết hợp hình ảnh dựa trên các sự kiện bi thảm của chiến tranh cũng như sự chênh lệch giữa cuộc sống ở Việt Nam và cuộc sống ở Hoa Kỳ. Các nghệ sỹ thị giác Ronald Haeberle, Peter Saul và Nancy Spero, trong số những thứ khác, sử dụng thiết bị chiến tranh, như súng và máy bay trực thăng, trong các tác phẩm của họ trong khi kết hợp các nhân vật chính trị và chiến tranh quan trọng, miêu tả chính xác quốc gia chịu trách nhiệm về bạo lực. Các nhà làm phim như Lenny Lipton, Jerry Abrams, Peter Gessner, và David Ringo đã tạo ra các bộ phim tài liệu có các cảnh quay thực tế từ cuộc chiến tranh chống chiến tranh nhằm nâng cao nhận thức về chiến tranh và phong trào đối lập đa dạng. Các nhà viết kịch như Frank OHara, Sam Shepard, Robert Lowell, Megan Terry, Grant Duay và Kenneth Bernard sử dụng sân khấu như một phương tiện để miêu tả suy nghĩ của họ về Chiến tranh Việt Nam, thường xuyên châm biếm vai trò của Mỹ trên thế giới và đặt cạnh nhau những hậu quả khủng khiếp của chiến tranh với những cảnh bình thường của cuộc sống. Bất kể những nghệ sĩ trung bình, chống chiến tranh đều trải rộng từ những kẻ hòa bình đến những gốc tự do bạo lực và khiến cho người Mỹ suy nghĩ nhiều hơn về cuộc chiến. Nghệ thuật như phe đối lập chiến tranh khá phổ biến trong những năm đầu của chiến tranh, nhưng nhanh chóng biến mất vì hoạt động chính trị trở thành cách phổ biến và dễ thấy nhất của cuộc chiến. Phụ nữ là một bộ phận lớn của phong trào chống chiến tranh, mặc dù họ đôi khi bị xuống hạng thứ hai trong các tổ chức hoặc phải đối mặt với chủ nghĩa tình dục trong các nhóm đối lập. Một số lãnh đạo của các nhóm chống chiến tranh xem phụ nữ như các đối tượng quan hệ tình dục hoặc thư ký, các nhà tư tưởng không thực tế những người có thể đóng góp tích cực và hữu hình với các mục tiêu của nhóm, hoặc tin rằng phụ nữ có thể không thật sự hiểu và tham gia phong trào phản chiến vì họ không bị ảnh hưởng bởi bản thảo. Phụ nữ tham gia vào các nhóm đối lập không thích chủ nghĩa lãng mạn của bạo lực của cả chiến tranh và phong trào chống chiến tranh phổ biến giữa những người biểu tình chống chiến tranh nam. Bất chấp sự bất bình đẳng, việc tham gia vào các nhóm chống chiến tranh đã cho phép phụ nữ có được kinh nghiệm trong việc tổ chức các cuộc biểu tình và đưa ra những lời hùng biện chiến lược hiệu quả. Những kỹ năng mới này kết hợp với sự không thích của họ về chủ nghĩa tính dục trong phong trào phản đối khiến nhiều phụ nữ phải tách ra khỏi phong trào chống chiến tranh chủ đạo và tạo ra hoặc gia nhập các nhóm chống lại phụ nữ, như là Mẹ cho Hòa bình, Liên đoàn Quốc tế vì hòa bình và Tự do của phụ nữ WILPF và Phụ nữ Hòa bình WSP, còn được gọi là Women For Peace. Nữ quân nhân phục vụ tại Việt Nam tham gia phong trào chống chiến tranh, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bộ máy quan liêu quân sự được thành lập bằng cách viết bài cho các tờ báo chống chiến tranh và chống ma túy. Các bà mẹ và các thế hệ lớn tuổi của phụ nữ tham gia phong trào phản kháng, như những người ủng hộ hoà bình và người dân phản đối những ảnh hưởng của chiến tranh và dự thảo về thế hệ thanh niên. Những phụ nữ này nhìn thấy dự thảo là một trong những phần không thích nhất của máy chiến tranh và đã tìm cách làm suy yếu bản thân chiến tranh thông qua việc phá hoại dự thảo. WILPF và WSP thường tổ chức các trung tâm tư vấn dự thảo miễn phí để đưa cho thanh niên những phương pháp hợp pháp và bất hợp pháp để phản đối dự thảo. Các thành viên của WSP đã xuất hiện tại Nhà Trắng mỗi Chủ nhật trong 8 năm từ 11 đến 1 cho một buổi cầu nguyện hòa bình. Những nhóm chống lại phụ nữ như vậy thường dựa vào chủ nghĩa nữ tính, hình ảnh phụ nữ là người chăm sóc ôn hòa của thế giới, thể hiện và hoàn thành mục đích của họ. Chính phủ thường thấy phụ nữ trung niên tham gia vào các tổ chức như các thành viên nguy hiểm nhất của phong trào phản đối vì họ là những công dân bình thường huy động một cách nhanh chóng và hiệu quả. Nhiều phụ nữ ở Hoa Kỳ đồng tình với thường dân Việt Nam bị ảnh hưởng bởi chiến tranh và tham gia phong trào phản kháng. Họ đã phản đối việc sử dụng napan, một loại vũ khí thạch cao dễ cháy được tạo ra bởi Công ty Hóa chất Dow và được sử dụng làm vũ khí trong chiến tranh, bằng cách tẩy chay Saran Wrap, một sản phẩm khác của công ty. Đối mặt với nạn phân biệt chủng tộc đôi khi được tìm thấy trong phong trào chống chiến tranh, và phong trào dân quyền, một số phụ nữ đã tạo ra các tổ chức riêng để thiết lập sự bình đẳng thật sự của giới tính. Trong phong trào chống chiến tranh, phụ nữ trẻ muốn thay đổi triệt để hơn và giảm sự chấp nhận vai trò giới tính xã hội so với các nhà hoạt động nữ cao tuổi Nhà hoạt động nữ quyền trong phong trào phản chiến là tiền đề dẫn tới sự hình thành của Phong trào giải phóng phụ nữ thành lập bình đẳng thật sự cho phụ nữ Mỹ trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống. Số người ủng hộ cuộc chiến đã giảm dần khi cuộc chiến diễn ra trong suốt những năm 1960 và đầu thập niên 1970. William L. Lunch và Peter W. Sperlich đã sưu tầm ý kiến công chúng để xem thử mức độ ủng hộ cuộc chiến từ năm 1965-1971. "Theo như sự leo thang từ khi chúng ta tham chiến ở Việt Nam, bạn có nghĩ nước Mỹ đã phạm sai lầm khi gửi quân đến Việt Nam?". Họ đã ghi lại kết quả sau:
Phong trào phản chiến trong Chiến tranh Việt Nam
Phong trào phản chiến trong Chiến tranh Việt Nam là các phong trào phản đối sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Phong trào diễn ra tại Việt Nam, Mỹ, Liên Xô và nhiều nước trên thế giới, bắt đầu vào năm 1964. Nhiều cuộc biểu tình tại Mỹ đã bị đàn áp bằng bạo lực. Tại Mỹ, khi chiến tranh Việt Nam tiếp tục leo thang, sự mất trật tự công cộng đã tăng lên và nhiều nhóm khác nhau được hình thành hoặc tham gia vào phong trào này. Các cuộc biểu tình đã thừa hưởng thanh thế từ phong trào Dân quyền, vốn tổ chức để phản đối luật phân biệt chủng tộc. Phong trào Dân quyền đã xây dựng 1 nền tảng lý thuyết, cơ sở để phát triển phong trào chống chiến tranh. Các cuộc biểu tình được hâm nóng bởi sự mọc lên của nhiều tờ báo độc lập (còn được gọi là "báo chui") và các lễ hội, chương trình văn nghệ như Woodstock và Grateful Dead, đã thu hút những người trẻ trong việc tìm kiếm sự đoàn kết của những người cùng thế hệ. Phong trào này đã báo cáo và giúp định hình cuộc tranh luận gay gắt và phân cực, chủ yếu ở Hoa Kỳ, trong nửa cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 về cách chấm dứt chiến tranh.
Israel tấn công dữ dội Dải Gaza hôm 14.5 bằng pháo binh, xe tăng và chiến đấu cơ. Sáng ngày 14.5 vừa qua, quân đội Israel (IDF) đã tập kết một lượng lớn xe tăng dọc biên giới Dải Gaza, huy động 9.000 quân dự bị, dẫn đến nguy cơ về một cuộc chiến trên bộ sớm muộn sẽ xảy ra, giống như chiến dịch quân sự cách đây 7 năm. Ngày 8.7.2014, Israel phát động chiến dịch quân sự đẫm máu nhất nhằm vào Dải Gaza trong lịch sử hiện đại. Cuộc chiến kéo dài 7 tuần khiến 2.251 người Palestine thiệt mạng và gần 11.000 người bị thương. Phía Israel thông báo tổn thất 67 binh sĩ và 6 dân thường, cùng hơn 500 người khác bị thương. Chiến dịch trên bộ được Israel phát động sau khi hai thế lực lớn nhất ở Palestine là Fatah và Hamas thành lập chính phủ thống nhất vào đầu tháng 6.2014. Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu cảnh báo Palestine phải lựa chọn giữa hòa bình với Hamas hoặc với Israel, do lo ngại những phe phái chính trị Palestine có thể hòa giải và thống nhất mục tiêu chống lại Israel. Ngày 12.6.2014, ba thanh niên Israel định cư tại khu Bờ Tây mất tích. Israel cáo buộc Hamas đã bắt cóc những người này, dù không đưa ra bằng chứng. Ông Netanyahu cũng cho rằng, đây là dấu hiệu cho thấy Israel không thể ủng hộ quan hệ thống nhất giữa các phe phái của người Palestine. Ilan Pappé, một nhà sử học Israel, nói động cơ của vụ bắt cóc là do quân đội Israel từng sát hại hai thiếu niên Palestine vào tháng 5.2014. Kết quả là Israel mở đợt truy quét dữ dội nhằm vào Hamas ở khu Bờ Tây. 11 người Palestine đã thiệt mạng trong đợt truy quét và hàng chục người khác bị thương. Tính đến ngày 2.7.2014, quân đội Israel đã bắt giữ hàng trăm người bị tình nghi có liên quan đến Hamas. Cùng ngày, Mohammed Abu Khdeir, thiếu niên Palestine 16 tuổi sống ở Đông Jerusalem, bị các phần tử cực đoan Israel bắt cóc và thiêu sống, dẫn tới những cuộc biểu tình quy mô lớn. Quân đội Israel phản ứng cứng rắn bằng cách không kích Dải Gaza. Các phe phái Palestine đáp trả bằng những đợt phóng rocket. Cuộc đàm phán ngừng bắn giữa hai bên đổ vỡ do Israel không chấp nhận các điều kiện từ Hamas. Ngày 7.7, quân đội Israel thông báo phát động chiến dịch Vành đai Bảo vệ (Protective Edge) nhằm vào Dải Gaza. 48 giờ sau khi phát động chiến dịch, các chiến đấu cơ Israel đã ném 400 tấn bom xuống Gaza. Trong 7 tuần giao tranh, quân đội Israel đã thực hiện 6.000 cuộc không kích vào vùng lãnh thổ ven biển rộng 365km2. Giao tranh dữ dội khiến 500.000 người Palestine mất nhà cửa và khoảng 300.000 cư dân phải lánh vào các trường học. Nguồn điện cho các bệnh viện cũng bị cắt, khiến hàng nghìn người không được chăm sóc y tế. Hamas đáp trả bằng cách phóng rocket về phía lãnh thổ Israel, nhưng không gây thiệt hại đáng kể vì đây là vũ khí không có hệ thống dẫn đường chính xác. Hamas luôn tuyên bố lực lượng này chỉ nhắm vào các mục tiêu quân sự của Israel. Trong khi đó, Israel bị cộng đồng quốc tế lên án vì dùng vũ khí dẫn đường tấn công nhiều mục tiêu dân sự. Israel cho rằng các tay súng Hamas trú ẩn trong nhà dân, trong các trường học và bệnh viện. Quân đội Israel yêu cầu toàn bộ người dân Gaza sơ tán trong phạm vi 3km tính từ biên giới. Bộ binh Israel cũng tiến vào Dải Gaza, tập trung truy quét nơi ẩn náu của các tay súng Hamas, bao gồm các đường hầm mà Hamas gọi là “nguồn sống ở Gaza”. Hamas giải thích, mạng lưới đường hầm giúp vận chuyển nhu yếu phẩm nhân đạo cho cư dân bị bao vây tại Gaza. Các binh sĩ Israel dưới sự yểm trợ của pháo binh và không quân, phá hủy ít nhất 32 đường hầm của Hamas ở Gaza. Trước sức ép từ cộng đồng quốc tế, cũng như nhận thấy không thể đánh bại hoàn toàn được Hamas, Israel đã rút quân khỏi Dải Gaza vào ngày 3.8.2014. Một tuần sau, lệnh ngừng bắn kéo dài ba ngày được thực thi với sự trung gian hòa giải của Ai Cập. Israel và Hamas đồng ý chấm dứt giao tranh vào ngày 26.8.2014. Cuộc chiến Gaza năm 2014 để lại hậu quả nghiêm trọng cho khoảng 2 triệu cư dân Palestine sống tại Dải Gaza. 2.251 người Palestine đã thiệt mạng và 11.000 người khác bị thương. Ít nhất 20.000 công trình đã bị phá hủy hoàn toàn, 89.000 căn nhà bị hư hại trong các đợt không kích và pháo kích của Israel. Ước tính cần tới 6 tỉ USD để có thể tái thiết Dải Gaza trong 20 năm. Tổn thất kinh tế bên phía Israel ước tính lên tới 2,5 tỉ USD và GDP giảm 0,4% do hàng ngàn người dân phải sơ tán vì rocket phóng từ Gaza. Kết thúc giao tranh đẫm máu, cả Israel và Hamas đều tuyên bố chiến thắng. Israel tuyên bố đạt mục đích quân sự khi làm suy yếu Hamas. Quân đội Israel dường như đã đánh lừa Phong trào Hồi giáo Hamas về một cuộc tấn công trên bộ như những gì từng xảy.
Chiến dịch Vành đai Bảo vệ
Chiến dịch Vành đai Bảo vệ là một chiến dịch quân sự do Lực lượng Phòng vệ Israel tiến hành ở Dải Gaza của Palestine, khai hỏa vào ngày 08 tháng 7 năm 2014. Chiến dịch được tiến hành sau một sự leo thang trước đó giữa Israel và Hamas. Trong quá trình tìm kiếm ba thanh thiếu niên Israel bị bắt cóc và bị sát hại vào tháng 6 năm 2014, quân đội Israel đã giết chết 10 người Palestine, làm bị thương 130 và bố ráp 500-600 cá nhân Hamas liên quan trong một phần của Chiến dịch Người bảo vệ Anh em. Đáp trả lại, Hamas gia tăng các cuộc tấn công rocket vào Israel. Đến ngày 7 tháng 7, 100 quả rocket đã được bắn từ Gaza vào lãnh thổ Israel, hướng tới Beersheba, Ashdod, Ofakim, Ashkelon, và Netivot và Israel đã công kích Dải Gaza. Trong đêm đó, Israel tấn công 50 mục tiêu ở Dải Gaza, và ngày 8 tháng 7, các chiến binh Palestine ở Gaza đã bắn hơn 140 quả rocket trong vòng 24 giờ vào Israel, xa về phía bắc Hadera, ngoài Tel Aviv. Hệ thống phòng thủ chống tên lửa Vòm Sắt của Israel đã chặn được 30 quả rocket.
Bên cạnh nguyệt thực, nhật thực cũng là một trong những hiện tượng thiên văn thú vị có thể quan sát được từ Trái Đất, nhận được sự quan tâm của nhiều người. Hiện tượng nhật thực thường xảy ra khi Mặt Trăng che khuất một phần hay hoàn toàn Mặt Trời. Điều này diễn ra khi Mặt Trời, Mặt Trăng, Trái Đất phải nằm trên một đường thẳng hoặc gần thẳng đồng thời Mặt Trăng đi qua giữa Mặt Trời và Trái Đất. Hiện tượng này diễn ra khi Mặt Trăng ở quanh cận điểm quỹ đạo, che khuất hoàn toàn Mặt Trời, khi đó các vùng bóng tối và bóng nửa tối sẽ hình thành trên bề mặt Trái Đất. Để có thể quan sát được nhật thực toàn phần, người xem phải đứng ở trên đường di chuyển của vùng bóng tối của Mặt Trăng. Những người đứng ở vùng bóng nửa tối chỉ quan sát được hiện tượng nhật thực một phần. Hiện tượng này diễn ra khi Mặt Trăng chỉ che khuất một phần đĩa Mặt Trời và hình thành vùng bóng nửa tối ở trên bề mặt Trái Đất. Hiện tượng thiên văn thú vị này xảy ra khi đĩa của Mặt Trăng che khuất trung tâm của đĩa Mặt Trời, chỉ có các phần rìa bên ngoài của Mặt Trời bị lộ ra. Lúc này, chúng ta quan sát sẽ thấy vùng rìa ngoài của Mặt Trời có hình dạng như một chiếc nhẫn. Chỉ khi Mặt Trăng ở quanh viễn điểm quỹ đạo thì mới có thể xảy ra hiện tượng nhật thực hình khuyên. Nhật thực lai xảy ra khi hiện tượng nhật thực hình khuyên chuyển thành nhật thực toàn phần. Hiện tượng này rất hiếm khi xảy ra. Phát hiện UGC 2885, thiên hà xoắn ốc khổng lồ, lớn hơn dải Ngân hà 2,5 lần
Nhật thực
Nhật thực là hiện tượng xảy ra khi Mặt Trăng đi qua giữa Trái Đất và Mặt Trời trên cùng một đường thẳng và quan sát từ Trái Đất, lúc đó Mặt Trăng che khuất hoàn toàn hay một phần Mặt Trời. Điều này chỉ có thể xảy ra tại thời điểm trăng non khi nhìn từ Trái Đất, lúc Mặt Trời bị Mặt Trăng che khuất và bóng của Mặt Trăng phủ lên Trái Đất. Trong lúc nhật thực toàn phần, đĩa Mặt Trời bị che khuất hoàn toàn. Với nhật thực một phần hoặc hình khuyên, đĩa Mặt Trời chỉ bị che khuất một phần. Nếu Mặt Trăng có quỹ đạo tròn hoàn hảo, gần hơn Trái Đất một chút, và trong cùng mặt phẳng quỹ đạo, sẽ có nhật thực toàn phần xảy ra mỗi lần trong một tháng. Tuy nhiên, quỹ đạo của Mặt Trăng nghiêng hơn 5° so với mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời (xem mặt phẳng hoàng đạo), do vậy bóng của Mặt Trăng lúc trăng non thường không chiếu lên Trái Đất. Để hiện tượng nhật thực cũng như nguyệt thực xảy ra, Mặt Trăng phải đi qua mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất.
Chân lý là gì? Các đặc tính cơ bản và tiêu chuẩn của chân lý? Chân lý có vai trò gì đối với thực tiễn? Đây là câu hỏi nhiều ngươi quan tâm, để giải đáp được mời các bạn tham khảo nội dung bài viết. Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lênin, khái niệm chân lý dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn. Ví dụ, hiểu biết sau đây là một chân lý: “không phải mặt trời xoay quanh trái đất mà là ngược lại, trái đất xoay quanh mặt trời”. Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể. + Tính khách quan của chân lý là nói: tính phù hợp nữa tri thức và thực tại khách quan; không phụ thuộc ý chí chủ quan. Ví dụ, sự phù hợp giữa quan niệm “quả đất có hình cầu chứ không phải hình vuông” là phù hợp với thực tế khách quan; nó không phụ thuộc vào quan niệm truyền thống đã từng có hàng nghìn năm trước thời Phục hưng. + Tính cụ thể của chân lý là nói: tính có điều kiện của mỗi tri thức, phản ánh sự vật trong các điều kiện xác định không gian, thời gian, góc độ phản ánh,…). + Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý là nói: mỗi chân lý chỉ tuyệt đối đúng trong một giới hạn nhất dịnh, còn ngoài giới hạn đó thì nó có thể không đúng; mặt khác, mỗi chân lý, trong điều kiện xác định, nó mới chỉ phản ánh được một phần thực tại khách quan. Ví dụ, trong giới hạn mặt phẳng (có độ cong bằng 0) thì tổng các góc trong của tam giác tuyệt đối bằng 2 vuông (tính tuyệt đối), nhưng nếu điều kiện đó thay đổi đi (có độ cong khác 0) thì định lý đó không còn đúng nữa (tính tương đối), nó cần phải được bổ sung bằng định lý mới (sự phát triển quá trình nhận thức dần tới chân lý đầy đủ hơn – tức chân lý tuyệt đối). Chân lý tương đối là chân lý chưa phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan; còn chân lý tuyệt đối là chân lý phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan. Theo nghĩa đó, chân lý tuyệt đối chính là tổng số của chân lý tương đối xét trong quá trình phát triển của nhận thức nhân loại. Ví dụ, hai khẳng định sau đây đều là chân lý, nhưng chỉ là chân lý tương đối: (1) Bản chất của ánh sáng có đặc tính sóng; (2) Bản chất của ánh sáng có đặc tính hạt. Trên cơ sở hai chân lý đó có thể tiến tới một khẳng định đầy đủ hơn: ánh sáng mang bản chất lưỡng tính là sóng và hạt. Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn. Đó là các hoạt động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội, đồng thời cũng qua đó con người thực hiện một cách tự giác hay không tự giác quá trình hoàn thiện và phát triển chính bản thân mình. Chính quá trình này đã làm phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức của con người. Thế nhưng hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quantrong chính hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ biện chứng trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn. Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận thức con ngưòi cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, phải coi chân lý cũng là một quá trình. Đồng thời, phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội. Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào trong các hoạt động kinh tế – xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt động đó về thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý khoa học trong thực tiễn hiện nay. Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của Allavida.org.
Chân lý
Chân lý là khái niệm để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn. Nói cách khác chân lý là thực tại được nhận thức một cách đúng đắn. Tóm lại chân lý là một sự thật của loài người luôn luôn đúng và tồn tại mãi mãi theo thời gian. Tuy nhiên tri thức của con người ở một thời điểm chỉ tiệm cận chân lý chứ không phải là chân lý. Quá trình phát triển của tri thức là một quá trình tiến đến gần chân lý hơn. Sự tồn tại của chân lý và khả năng nhận thức của con người đạt đến chân lý là những vấn đề cơ bản của nhận thức luận. Theo Platon và Aristoteles, những ý kiến được coi là "đúng" khi nào ý kiến đó khẳng định điều gì "có" thì thực sự "có", khẳng định "không có" thì thực sự là "không có". Còn ý kiến sẽ "sai" khi mà nêu ra "có" nhưng thực sự "không có" hoặc nêu "không có" trong khi thực sự là "có". Khi ý kiến "đúng" thì nó phải phù hợp với phương cách của sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên hay thực tại.
Bài viết được viết bởi Bác sĩ Lê Thị Thanh Thủy - Bác sĩ Kiểm soát nhiễm khuẩn, bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City. Tạo miễn dịch cộng đồng bằng cách lây truyền tự nhiên không phải là chiến lược và lựa chọn đúng đắn đối với bệnh COVID-19. Miễn dịch cộng động không thể áp dụng đối với tất cả bệnh tật, mà chỉ có hiệu quả với các bệnh có tính lây truyền cao, có nghĩa là truyền từ người này sang người khác. Miễn dịch cộng đồng (Community immunity/herd immunity) là một hình thức bảo vệ gián tiếp cộng đồng trước bệnh truyền nhiễm khi có một tỷ lệ lớn dân cư có miễn dịch với loại vi sinh vật lây nhiễm. Khi một số lượng nhất định dân số có miễn dịch, chu trình lây nhiễm dễ bị phá vỡ, làm cho sự lây lan của bệnh dừng hoặc chậm lại, nguy cơ những người không có miễn dịch tiếp xúc phơi nhiễm với nguồn lây càng nhỏ. Có thể tạo miễn dịch cá thể thông qua sự lây nhiễm tự nhiên hay bằng cách nhân tạo như tiêm chủng. Một số cá nhân không thể phát triển khả năng miễn dịch sau khi tiêm chủng hoặc lý do y tế không thể tiêm chủng (ví dụ: trẻ sơ sinh quá nhỏ). Khi có một số lượng lớn dân cư trong cộng đồng có miễn dịch thì đó là hàng rào bảo vệ cho số ít đối tượng không có miễn dịch. Tuy nhiên, vào tháng 3/2020, khi nước Ý có 300.000 người mắc COVID-19 đã tạo gánh nặng cho hệ thống y tế của nước này, đặc biệt vùng tâm dịch như Lombardy. Thiếu máy thở, thiếu giường bệnh hồi sức đã khiến các bác sĩ và điều dưỡng Ý phải đưa ra “lựa chọn khó khăn” để tập trung cho người bệnh có cơ hội phục hồi cao hơn. Tháng 5/2020, khoảng 0,5% dân số Mỹ nhiễm COVID-19, các bệnh viện Hoa Kỳ đã báo cáo trình trạng thiếu phương tiện quan trong chăm sóc người bệnh nặng bao gồm máy thở và phương tiện phòng hộ cho nhân viên y tế. Số lượng người mắc bệnh tăng nhanh và chuỗi cung ứng toàn cầu bị cắt đứt do đại dịch COVID-19 là những nguyên nhân tạo nên gánh nặng cho các cơ sở y tế. Ngoài ra, tổ chức Unicef ước tính sẽ có thêm 6.000 trẻ em có nguy cơ tử vong mỗi ngày từ các nguyên nhân có thể phòng tránh được trong 6 tháng tới, khi đại dịch COVID-19 tiếp tục đặt gánh nặng lên hệ thống y tế và gián đoạn các dịch vụ khác. Kháng thể và mức độ bền vững của kháng thể cũng ảnh hưởng đến miễn dịch cộng đồng. Khả năng miễn dịch lâu dài của COVID-19 vẫn đang là vấn đề nghi vấn. Các nghiên cứu ban đầu cho thấy kháng thể kháng SARS-CoV-2 không kéo dài như đối với các chủng corona khác. Kháng thể IgG trên người bệnh nhiễm SARS-CoV-1 tăng cao sau 4 tuần nhiễm bệnh và duy trì trong 2 năm. Kháng thể kháng MERS-CoV kéo dài trong 6 tháng. Đối với SARS-CoV-2, một nghiên cứu của Anh phát hiện ra rằng các kháng thể chống lại virus này có thể bắt đầu giảm trong khoảng thời gian từ 20 đến 30 ngày sau khi khởi phát các triệu chứng mắc COVID-19. Một nghiên cứu của Trung Quốc cho thấy mức độ kháng thể ở những bệnh nhân đã khỏi bệnh COVID-19 giảm mạnh trong vòng hai đến ba tháng sau khi mắc bệnh. Nếu khả năng miễn dịch tự nhiên chỉ tồn tại trong thời gian ngắn sẽ không đủ ổn định để bảo vệ cộng đồng. Tóm lại, miễn dịch tự nhiên không bền vững và gánh nặng y tế do COVID-19 gây ra là những lý do không thể tạo miễn dịch cộng đồng tự nhiên đối SARS-CoV-2. Vì vậy, các nhà khoa học đang đẩy nhanh công cuộc tìm kiếm vắc-xin để nhằm kiểm soát đại dịch COVID-19 một cách chủ động và an toàn hơn. Để chẩn đoán bệnh hợp bào hô hấp người ta thường sử dụng xét nghiệm RSV với bệnh phẩm là dịch mũi, dịch tỵ hầu hoặc dịch rửa vùng mũi hầu. Hiện nay có 2 phương pháp để chẩn đoán . Không chỉ với trẻ nhỏ mà người lớn cũng là đối tượng có nguy cơ mắc bệnh thuỷ đậu, nhất là giai đoạn dịch hàng năm. Bệnh thuỷ đậu ở người lớn nếu không điều trị tốt cũng có thể . Trẻ sinh non có phổi kém phát triển và hệ miễn dịch chưa phát triển đầy đủ, là một yếu tố góp phần làm tăng nguy cơ nhiễm RSV và các biến chứng tim phổi. Các biến thể mới của virus xuất hiện là điều thường thấy, bao gồm cả coronavirus mới. Khi virus nhân lên trong tế bào và tạo ra các bản sao sẽ sinh ra các biến đổi di truyền so với . Ngoài chùm ca bệnh 5 người ở Hà Nam và 1 ca ở TP. HCM, hiện có thêm 3 ca (Hà Nội và Hưng Yên) lây nhiễm trong cộng đồng, nâng tổng số bệnh nhân nhiễm Covid-19 đến thời điểm .
Miễn dịch cộng đồng
Miễn dịch cộng đồng (còn được gọi là miễn dịch bầy đàn, miễn dịch dân số, hay miễn dịch xã hội) là một hình thức bảo vệ gián tiếp chống bệnh truyền nhiễm diễn ra khi một tỷ lệ lớn dân cư đã trở nên miễn dịch với một loại vi khuẩn lây nhiễm, bởi đó tạo nên một lớp bảo vệ cho những người không miễn dịch. Trong một lượng dân số người bất kì khi có một số lượng lớn cá thể miễn dịch, chu trình lây nhiễm dễ bị phá vỡ, làm cho sự lây lan của bệnh dừng hoặc chậm lại. Tỷ lệ cá thể có miễn dịch trong một cộng đồng càng lớn, thì khả năng những người không có miễn dịch tiếp xúc phơi nhiễm với cá thể nguồn lây càng nhỏ. Miễn dịch cá thể có thể có được thông qua sau khi hồi phục từ một lây nhiễm tự nhiên hay bằng cách nhân tạo như tiêm chủng. Một số người không thể mang miễn dịch do các lý do y tế khác nhau và trong nhóm này miễn dịch cộng đồng là một phương pháp bảo vệ quan trọng. Một khi một ngưỡng tỷ lệ nào đó đạt được, miễn dịch cộng đồng dần dần loại bỏ một bệnh khỏi một dân số.
Bộ phim đó là một phần tuổi thơ của mình và Sinbad là người hùng đầu tiên của mình nha (không phải superman, spiderman, hay ironman nha). Mình còn nhớ rõ cái lần đầu tiên xem phim Sinbad là vào khỏang 5h chiều một ngày mưa khi mình 10 tuổi (năm 1998), và vừa đi thi English về. Lon ton chạy về nhà, ngó lên màn hình thì chỉ còn kịp thấy phần cuối thôi. Lúc đó Sinbad đang thả tay Vincenzo rơi xuống vực (cái lão biến người thành tượng đấy). Ấn tượng đầu tiên của mình về Sinbad….”trời ơi, người đâu mà tài giỏi lại đẹp trai như thế! Không giỏi đánh kiếm thì cũng giỏi bay nhảy, lại có tài leo dây quăng người, chưa kể là còn khả năng lãnh đạo…”. Đấy, thế là thôi rồi. Y như rằng hôm sau lọ mọ bật TV lên, quyết tâm coi lại tòan tập và…kể từ đó bắt đầu canh giờ mỗi chiều để gặp chàng thủy thủ đẹp trai và đội thủy thủ dũng cảm nhưng cũng rất là hài của anh. Điều thu hút mình ở phim này là vẻ đẹp nghiêng thùng đổ gánh của Sinbad (Zen Gesner, và mình cũng bổ sung thêm là trong mắt mình thì anh Zen chỉ lung linh trong phim Sinbad thôi, còn lại các vai khác của ảnh mình hòan tòan không có ấn tượng), và điểm thứ hai khiến mình dán mắt vào màn hình mỗi ngày dĩ nhiên là chuyện tình của Sinbad và Maeve (à ha! Hiểu cái nick mình đang sử dụng là ở đâu ra rồi hen!). Gọi là “chuyện tình” thì cũng hơi quá, vì cả hai đã chính thức yêu nhau bao giờ đâu. Nhưng trong những cái liếc đầy ghen tuông, những ánh mắt quan tâm, những câu hờn mát mẻ, những trận cãi nhau vì lý do không đâu, những cuộc chiến sinh tử cùng nhau… cả hai dần đã đánh mất trái tim về tay đối phương. Motif yêu nhau lắm cắn nhau đau thường xuyên được sử dụng trong phim truyền hình nên cũng chẳng lạ gì. Mình thì mình không tin cái chuyện ghét nhau rồi yêu nhau đâu, nhưng trong một vài trường hợp… mình có thể chấp nhận chuyện đó. Sinbad và Maeve là một ngọai lệ.Bạn đang xem: Những cuộc phiêu lưu của sinbad phần 3. Tập phim yêu thích nhất của mình là The Village vanishes. Trong tập này, Maeve và thủy thủ đòan cùng những dân làng bị con ma cà rồng bắt đưa về thế giới bên kia. Chỉ mỗi Sinbad là còn sống sót và anh chàng đã lập ra kế họach A (lẫn B) để cứu mọi người. Khi được cứu thoát thì không biết vì cảm kích hay vì không kiềm chế được bản thân nên nàng phù thủy tóc đỏ nhào tới hun chàng thuyền trưởng say đắm và dĩ nhiên anh chàng nhiệt tình đáp trả. Ở cuối tập phim, đạo diễn còn tặng không cho fans một cảnh Maeve nổi thói ghen tuông với Cassandra khi nàng này cảm kích Sinbad cũng bằng một cái hun khác và anh chàng thì phân bua “I’ve had better kisses… and recently, I might add” (anh đã có những nụ hôn còn hơn thế nữa, và cũng chỉ mới đây thôi). Ngoài ra còn những đọan yêu thích khác của mình là lúc Sinbad bị thu nhỏ và Maeve phải cứu Sinbad. Chàng thì cằn nhằn nàng pháp thuật kém, còn nàng thì bĩu môi dỗi… “ừ, cứ ở đó mà sống đời con rệp đi!”. Hai bạn này nhắng đến nỗi vợ của bác Dim Dim đã phải cảm thán “hai người cãi nhau cứ như một cặp vợ chồng già”. Lại còn cảnh ở tập 1 khi Sinbad khuyến khích Maeve dùng quả cầu lửa để diệt con Golem trong khi biết rõ cô nàng chỉ đang tập sự. Kết quả là chàng dùng một thủ đọan…ahèm…cũng khá là bẩn để kích cô nàng bắn trúng vào Golem bằng cách… vỗ mông nàng. Dĩ nhiên chàng được cám ơn bằng một cái liếc xéo “đồ vô lại!”. Còn nhiều còn nhiều nữa nhưng mình chỉ kể nhiêu đó thôi (như là cảnh Sinbad làm rớt trái táo đang cắn dở vì trông thấy Maeve dịu dàng thướt tha đẹp lộng lẫy trong chiếc váy dài, cảnh Sinbad lo cho Maeve khi con cừu lớn tất công Dermott, cảnh Sinbad muốn nhận anh là người yêu cô khi Maeve gắt ‘anh là cái gì của em chứ?’, cảnh Sinbad và Maeve xém khóa môi nhau khi cả hai sắp lên đường đánh trận nếu không phải vì Firouz cắt ngang và…và….mà thôi, lan man rồi, đừng để ý… Bạn nào mà hỏi nữa là mình tiếp tục kể đó.). Theo nguồn tin từ các diễn viên thì thật ra Sinbad rất yêu Maeve nhưng vì anh đã đánh mất Lea (người bạn gái đầu tiên) vào tay biển xanh năm 8 tuổi nên Sinbad không còn dám yêu nữa. Maeve, tương tự, vì chống lại Rumina nên đã hại Dermott, vốn là anh trai của cô bị biến thành kiếp chim diều hâu (và lời nguyền này chỉ có thể hóa giải một khi Maeve giết được Rumina). Maeve, cũng như Sinbad, rất sợ sẽ làm tổn thương người mình yêu nên cả hai không dám tiến xa hơn mức tình bạn. Cũng vì lý do đó mà Sinbad sẽ phải nuối tiếc trong nhiều năm sau khi Maeve bị rơi xuống biển và mất tích. Phần 2, do Jacqueline Colline (diễn viên đóng vai Maeve) có xung đột với đòan làm phim nên nhân vật của cô bắt buộc bị rời bỏ cuộc chơi. Người ta thay cô nàng phù thủy tóc đỏ, người phải sống từng ngày cố quên đi quá khứ đau thương bằng một nàng phù thủy tóc đen, người ngày qua ngày luôn muốn tìm về quá khứ đã mất. Tương tự, trong khi Bryn luôn muốn nhớ ra mình là ai thì chàng thuyền trưởng lại như đang quên mất bản thân mình là ai. Sinbad mất Maeve như mất đi linh hồn. Anh liên tiếp đi qua nhiều bến cảng, nhiều làng mạc để tìm cô. Anh vùi quên trong những bóng hồng và những cơn say khát máu. Sinbad trong phần 2 phong trần hơn và ra dáng hải tặc hơn. Anh không còn cái vẻ hồn nhiên, vô tư của một cậu bé mắt xanh như màu nước biển, tóc vàng mượt như lụa và lúm đồng tiền cười ngất ngây hồn. Anh ra tay cũng mạnh bạo hơn, không chỉ đánh xỉu như phần 1 mà Sinbad còn nhiều lần đâm kiếm chém người. Anh cư xử thô bạo và ánh mắt trống rỗng vô hồn. Đã có nhiều fans trung thành của bộ phim tỏ ra thất vọng với tạo hình mới của Sinbad cũng như hành động của anh trong phần 2 nên đã nghĩ ra cách giải thích rằng thuyền trưởng vì đánh mất Maeve, một nửa linh hồn của anh nên mới thay đổi như thế. Ngòai ra, Bryn chưa bao giờ thành công ở vị trí thay thế Maeve. Cô không có phép thuật, cô nhỏ bé, cô răm rắp nghe lời Sinbad dù anh có quyết định sai. Khác với Bryn, Maeve là một cô nàng rực lửa, luôn ưỡn vai sáng ngang hàng cùng Sinbad và luôn có chính kiến riêng của mình, cô không vì Sinbad là thuyền trưởng mà để anh ra lệnh, nắm giữ vận mệnh của cô. Cá tính đó mới chính là thứ chiếm được trái tim của thuyền trưởng và bao người hâm mộ. Thuyền trưởng cần một cô gái có thể giữ anh lại và nhắc nhở khi anh đi trật đường, anh không cần một cô nàng ngoan hiền dạ dạ vâng vâng bất cứ điều gì anh sai bảo. Điều duy nhất làm mình thấy an ủi trong suốt 22 tập phim của phần 2 là ở tập cuối, trong giây phút sinh tử, Sinbad đã chứng tỏ rằng anh vẫn chưa quên cô và vị trí của cô trong lòng anh vẫn chưa hề thay đổi. Có lẽ anh không nhắc đến tên cô vì nó quá đau, và gợi lại những ký ức vui đẹp của một ngày đã xa…. Vì những lý do khách quan đó, chuyện tình của Sinbad và Maeve vẫn không thể có một kết thúc cổ tích. Phim dừng khi anh vẫn chưa tìm ra cô, khi anh vẫn còn rong ruổi trên những chuyến hải hành dài và không biết ngày trở về. Biết bao fanfics đã ra đời kể về sự hội ngộ của Maeve và Sinbad bởi vì trong lòng người hâm mộ, tình yêu đó vẫn còn tồn tại trong họ. Khỏang cách xa cắt núi sông sẽ chỉ là thử thách của thiên nhiên dành cho chân tình. Vì thế, hãy cứ tin rằng một ngày nào đó, Sinbad sẽ tìm được Maeve. Sinbad sẽ kết hôn với Maeve và cùng nhau họ lại phiêu lưu trên những chuyến hành trình mới. Tuy phần 3 không có, Zen và Jacqueline cũng đã già theo năm tháng, nhưng biết đâu chừng một ngày kia trong tương lai sẽ có một hãng phim nào đó tuyển lại diễn viên và dựng lại bộ phim Những cuộc phiêu lưu của Sinbad để mang đến cho người hâm mộ chúng ta một cái kết hòan hảo. Biết đâu được, đó là chuyện của tương lai. Nhưng hãy cứ tin một ngày nào đó, ngọn sóng sẽ đưa Sinbad và Maeve tìm về nhau, một ngày nào đó con đường ta đi sẽ giao nhau.
Những cuộc phiêu lưu của Sinbad
Những cuộc phiêu lưu của Sinbad (tựa gốc: The Adventures of Sinbad) là một loạt phim truyền hình nổi tiếng và ăn khách của Canada phát sóng từ năm 1996 đến năm 1998. Bộ phim xoay quanh ý tưởng của câu chuyện cùng tên về thuyền trưởng Sinbad và các thủy thủ đoàn. Những cuộc phiêu lưu trong phim chính là những câu chuyện kể trong Nghìn lẻ một đêm. Phim do Ed Naha xây dựng và được ghi hình tại nam Ontario, Canada và tại Cape Town, Nam Phi. Những bộ phim đương thời tương tự gồm có Anh hùng Hercules (trình chiếu trên VTV3 năm 2004) và Xena: Nữ chúa chiến tranh. Bộ phim đã gây được tiến vang lớn khi lần đầu tiên ra mắt trên sóng truyền hình HTV7. Sau đó, nó nhận được phản hồi từ hàng triệu khán giả yêu cầu phát sóng lại nhiều lần tương tự như bộ phim Hoàn Châu công chúa. Đó là một chuyến phiêu lưu đầy mạo hiểm với những pha hành động và những màn phép thuật trên vùng đất thần thoại Trung Đông, gần vịnh Ba Tư. Qua từng tập phim, người xem được theo dõi hành trình Sinbad và các anh em trên con tàu tên Nomad, khởi hành từ Baghdad đi chu du khắp thế giới để phiêu lưu và tìm kiếm châu báu.
Như tên gọi của nó, bộ điều khiển thường được sử dụng trong các hoạt động điều khiển của các thiết bị, máy móc và hệ thống máy của một hệ thống. Vậy bộ điều khiển được hiểu như thế nào? Một số loại điều khiển và tác dụng của các bộ điều khiển ấy như thế nào?. Bộ điều khiển là một thiết bị giám sát và tác động vào các điều kiện làm việc của một hệ động học cho trước. Các điều kiện làm việc đặc trưng cho các biến đầu ra của hệ thống được tác động bởi việc điều chỉnh các biến đầu vào đã biết. Vòng hở: Điều khiển vòng hở có thể tránh được sự chậm chạp của điều khiển phản hồi. Ở điều khiển vòng hở các nhiễu được đo lường và tính toán trước khi chúng có thời gian để tác động vào hệ thống. Tuy nhiên, tác động của nhiễu lên hệ thống phải được dự đoán chính xác, và không được có bất kỳ nhiễu nào không đo lường được. Phản hồi: Điều khiển phản hồi thường cho kết quả trong các giai đoạn trung gian nơi các biến điều khiển không ở điểm đặt mong muốn, gây ra phản ứng chậm khi phản hồi lại bộ điều khiển để điều chỉnh kịp thời. Bộ điều khiển có chức năng là giao tiếp với bộ điều hành, thông qua các số liệu thu thấp được tiến hành điều chỉnh các thiết bị máy móc theo chế độ hoạt động đã được cài đặt từ trước. Bộ điều khiển tự động thu thập, xử lý thông tin và tác động lên hệ thống để đáp ứng các hoạt động của hệ thống theo yêu cầu. Điều khiển tự động là quá trình điều khiển mà không cần sự tác động của con người. Bộ điều khiển tạo các tín hiệu điều khiển giúp các lệnh được thực hiện một cách tuần tự. Bộ điều khiển tiếp nhận tín hiệu, số liệu từ đó đưa ra phán đoán và phương pháp thích hợp nhất để giải quyết vấn đề thông qua các lập trình có sẵn cho máy trong từng tình huống khác nhau. PID là sự kết hợp của 3 bộ điều khiển: tỉ lệ, tích phân và vi phân, có khả năng điều chỉnh sai số thấp nhất có thể, tăng tốc độ đáp ứng, giảm độ vọt lố, hạn chế sự dao động. Bộ điều khiển PID hay chỉ đơn giản là PID là một kỹ thuật điều khiển quá trình tham gia vào các hành động xử lý về “tỉ lệ, tích phân và vi phân“. P: là phương pháp điều chỉnh tỉ lệ, tạo ra tín hiệu điều chỉnh tỉ lệ với sai lệch đầu vào theo thời gian lấy mẫu. I: là tích phân của sai lệch theo thời gian lấy mẫu. Điều khiển tích phân điều khiển sao cho độ sai lệch giảm về 0. Từ đó, biết được tổng sai số tức thời theo thời gian hay sai số tích lũy trong quá khứ. Thời gian càng nhỏ tác động điều chỉnh tích phân càng mạnh, độ lệch càng nhỏ. D: là vi phân của sai lệch. Tốc độ tỉ vệ với sai lệch, thời gian càng lớn thì phạm vi điều chỉnh vi phân càng mạnh, tương ứng với bộ điều chỉnh đáp ứng với thay đổi đầu vào càng nhanh. PI ( Proportinal and Integral Controller) gọi là bộ điều khiển tỉ lệ và tích phân. Bộ điều khiển logic khả trình (Programmable Logic Controller hay PLC) hay còn gọi là bộ điều khiển lập trình, là thiết bị điều khiển lập trình được (khả trình) cho phép thực hiện linh hoạt các thuật toán điều khiển logic thông qua một ngôn ngữ lập trình. Người sử dụng có thể lập trình để thực hiện một loạt trình tự các sự kiện. Các sự kiện này được kích hoạt bởi tác nhân kích thích (ngõ vào) tác động vào PLC hoặc qua các hoạt động có trễ như thời gian định thì hay các sự kiện được đếm. PLC dùng để thay thế các mạch relay (rơ le) trong thực tế. PLC hoạt động theo phương thức quét các trạng thái trên đầu ra và đầu vào. Khi có sự thay đổi ở đầu vào thì đầu ra sẽ thay đổi theo. Bộ điều khiển máy (MCU), thường được gắn cố định, có nghĩa là tất cả các chức năng của máy đều được liên kết bởi các yếu tố điện tử vật lý được tích hợp trong bộ điều khiển. Mặt khác, máy tính trên bo mạch có bộ nhớ, có nghĩa là các chức năng của máy được mã hóa vào máy tính tại thời điểm sản xuất và chúng sẽ không bị xóa khi tắt máy. Bộ xử lý trung tâm (CPU) là bộ não của MCU quản lý các thành phần khác, dựa trên phần mềm có trong bộ nhớ chính (RAM). Phần điều khiển lấy các lệnh và dữ liệu từ bộ nhớ và tạo tín hiệu để kích hoạt các thành phần khác, nghĩa là, nó sắp xếp, tọa độ và điều chỉnh tất cả các hoạt động của máy tính MCU. Điều khiển từ xa hay diêu khống cụ (remote controller) là thành phần của một thiết bị điện tử, thường là TV, đầu đĩa, máy hát, máy điều hòa, quạt… và được sử dụng để điều khiển chúng từ một khoảng cách ngắn không qua dây dẫn. Điều khiển từ xa đã liên tục được phát triển và nâng cấp trong những năm gần đây và hiện có thêm kết nối Bluetooth, cảm biến chuyển động và chức năng điều khiển bằng giọng nói. Điều khiển từ xa thường sử dụng tia hồng ngoại giúp người dùng ra lệnh cho thiết bị chính thông qua một số nút nhấn để thay đổi các thiết lập khác nhau. Trong thực tế, tất cả các chức năng của đa số các thiết bị điện tử hiện nay đều có thể được điều chỉnh thông qua điều khiển từ xa, trong khi các nút trên thiết bị chính chỉ có một số ít các nút chính thiết yếu. Vi điều khiển là một máy tính được tích hợp trên một chip, nó thường được sử dụng để điều khiển các thiết bị điện tử. Vi điều khiển, thực chất, là một hệ thống bao gồm một vi xử lý có hiệu suất đủ dùng và giá thành thấp (khác với các bộ vi xử lý đa năng dùng trong máy tính) kết hợp với các khối ngoại vi như bộ nhớ, các module vào/ra, các module biến đổi số sang tương tự và tương tự sang số,…. Ở máy tính thì các module thường được xây dựng bởi các chip và mạch ngoài. Trên là thông tin về bộ điều khiển và một số loại điều khiển. Cảm ơn các bạn đã theo dõi!. Công ty cổ phần Máy & Thiết bị Miền Bắc Việt Nam: Với gần 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực máy phát điện, chúng tôi cam kết mang tới quý khách hàng dịch vụ tốt nhất.
Điều khiển thông minh
Điều khiển thông minh là một lớp các kỹ thuật điều khiển sử dụng các phương pháp tính toán trí tuệ nhân tạo khác nhau như mạng nơ-ron nhân tạo (neural networks), xác suất Bayes, logic mờ, học máy, thuật toán tiến hóa và các giải thuật di truyền. Tác nhân thông minh (Nhận thức/ Điều khiển ý thức)Các Kỹ thuật điều khiển mới được tạo ra liên tục khi các mô hình hành vi thông minh mới được tạo ra và phương pháp tính toán được phát triển để hỗ trợ chúng. Mạng nơ-ron nhân tạo đã được sử dụng để giải nhiều bài toán trong hầu hết mọi lĩnh vực của khoa học và công nghệ. Điều khiểnNgười ta đã chứng minh rằng một mạng tiến với các hàm kích hoạt phi tuyến, liên tục và khả vi có khả năng xấp xỉ phổ quát. Các mạng hồi quy cũng đã được sử dụng để nhận dạng hệ thống. Nhất định, một tập các cặp dữ liệu đầu vào-đầu ra, nhận dạng hệ thống nhằm mục đích hình thành một ánh xạ giữa các cặp dữ liệu. Một mạng lưới như vậy được cho là sẽ nắm bắt được động học của một hệ thống.
Nếu mình nói “Hakuna Matata” với bạn, chắc chắn bạn sẽ bắt đầu nghĩ ngay đến bộ phim nổi tiếng Vua sư tử (Lion king). Tuổi thơ của mình gắn liền với bộ phim hoạt hình này, và nhớ rõ hình ảnh nhân vật chú sư tử nhỏ Simba, sau khi mất cha đã chạy trốn khỏi người chú Scar và gặp Timon và Pumbaa, những người đã dạy cậu ấy triết lý sống của họ. Mặc dù cụm từ Hakuna Matata chỉ trở nên phổ biến trên toàn thế giới vào năm 1994 nhờ bộ phim hoạt hình của Disney, nhưng sự thật là cụm từ này đã có nguồn gốc từ rất lâu trước đó. Hôm nay mình muốn nói với bạn về Hakuna Matata như một triết lý sống mà bạn cũng có thể ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày của mình. Cách đối mặt với ngày này qua ngày khác đơn giản hơn rất nhiều và đối với mình, điều đó giúp bản thân hạnh phúc hơn. Bộ phim hoạt hình Vua sư tử đã lưu lại trong tâm trí của nhiều người trên khắp thế giới, ngoài sự hài hước và đáng yêu của những nhân vật thì các giai điệu vui tươi trong tác phẩm cũng để lại không ít ấn tượng với người xem. Hakuna Matata, bài hát mà Simba bé nhỏ hát cùng với Timon và Pumbaa, là bài hát được mọi người nhớ nhất vì nó biểu thị sự hạnh phúc. Tuy nhiên, cụm từ này là một cách diễn đạt từ tiếng Swahili – ngôn ngữ được sử dụng ở các nước Đông Phi (đặc biệt là ở Kenya và Tanzania) được hiểu là ‘sống và hạnh phúc‘ (dịch sát nghĩa đen là ‘Không có vấn đề’ hoặc ‘Không bận tâm’). Trong tiếng Swahili, từ “hakuna” có nghĩa là “không có gì cả” và “matata” có nghĩa là “vấn đề” hoặc “mối quan tâm”. Từ bản dịch theo nghĩa đen này có câu nói nổi tiếng “sống và hạnh phúc” trong Vua sư tử. Ở Kenya, người ta rất hay nghe thấy ‘Hakuna Matata’ giữa nhịp sống hối hả trên phố. Bạn đi chợ và mọi thứ bạn đã mua rơi xuống đất vì chiếc túi bị vỡ … Hakuna Matata. Hôm đó là một ngày đánh cá tồi tệ và những chiếc thuyền trở về gần như không có gì để bán… Hakuna Matata. Đó không phải là sự thờ ơ hay thiếu nhạy cảm, mà là một cách xoa dịu những ‘cú đánh’ từ cuộc sống để chúng dễ chịu hơn, chấp nhận những thất bại (dù nhỏ hay lớn) như một phần của sự tồn tại của chúng ta. Cuộc sống của mình đơn giản hơn rất nhiều và (gần như) không có những lo lắng vô cớ. Không phải lúc nào mình cũng có thể trung thành với triết lý mà mình vô cùng ngưỡng mộ đó. Cuộc sống hiện đại có quá nhiều cám dỗ, nhiều mối bận tâm đôi lúc khiến mình đánh mất sự kiểm soát. Tuy nhiên, mình không hoàn hảo và bạn cũng vậy. Nhưng bằng cách áp dụng tinh thần Hakuna Matata, mình đã dần loại bỏ được nhiều phiền muộn, biết tập trung vào những điều hạnh phúc dù giản đơn và giúp cuộc sống ngày một ý nghĩa hơn. Nhân đây mình cũng giới thiệu đến bạn một quyển sách bản thân mình rất thích, và học được nhiều bài học quý giá: Nghệ thuật tinh tế của việc đếch quan tâm. Có thể nhìn thấy sự tương đồng giữa tinh thần Hakuna Matata và thông điệp tác giả Mark Manson muốn truyền đạt.
Vua sư tử
Vua sư tử (tiếng Anh: The Lion King) là phim hoạt hình thứ 32 của hãng hoạt hình Walt Disney, công chiếu vào năm 1994. Bộ phim đã nhận được rất nhiều lời khen ngợi về cốt truyện, nội dung giàu tính triết lý và âm nhạc, nhận được 92% đánh giá tích cực trên trang web phê bình điện ảnh Rotten Tomatoes. Bộ phim đạt được thành công to lớn về mặt doanh thu và hiện đứng thứ 14 trong danh sách các bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại với 952 triệu USD (2011). Nó vẫn là bộ phim hoạt hình vẽ tay truyền thống có doanh thu cao nhất, cũng là bộ phim hoạt hình có doanh thu cao thứ hai trong lịch sử, sau Câu chuyện đồ chơi 3 (một bộ phim hoạt hình vi tính 3D). Lấy bối cảnh thiên nhiên hoang dã của Phi Châu, bộ phim đã xây dựng nên cả một xã hội có tổ chức của thế giới loài vật. Trong xã hội ấy cũng có những mâu thuẫn, cũng có tranh chấp và có cả tình yêu như thế giới loài người. Nhân vật chính của Vua sư tử là chú sư tử con Simba, con trai của Mufasa, vị vua đang thống trị thế giới hoang dã ở đây.
Nhiều khán giả trên khắp thế giới hẳn không còn xa lạ gì với cái tên Sam Mendes qua boom tấn Skyfall trong loạt điệp viên 007 nổi tiếng của điện ảnh thế giới, ngoài vai trò của một nhà sản xuất tài ba thì ông cũng là một đạo diễn lừng danh mà ngay từ tác phẩm đầu tay ông đã khẳng định được mình, bộ phim Vẻ Đẹp Mỹ đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới, tựa phim chỉ có kinh phí 15 triệu USD nhưng đã thu về 350 triệu USD và giành tới 5 giải Oscar. American Beauty được ra mắt vào năm 1999 và phát hành bởi hãng DreamWorks, kịch bản được viết bởi Alan Ball với câu chuyện được chuyển từ kịch sang phim qua nhiều lần chỉnh sửa, mọi thứ trở nên vô cùng hoàn hảo nhờ vào sự nhào lặn khéo léo của Mendes để rồi giúp phim thành công ngoài sự mong đợi. Nội dung của phim Vẻ Đẹp Mỹ xoay quanh một nhân viên văn phòng có tên là Lester Burnham (Kevin Spacey) đang bị một cuộc khủng hoảng giữa cuộc sống có ảnh hưởng đến cuộc sống của các thành viên trong gia đình, khi mà vợ của ông tên là Carolyn vốn là một người rất thực dụng và ghê gớm đến không thể chịu đựng được, và cô con gái tuổi teen nổi loạn tên là Jane thì lại rất ghét anh. Carolyn là một người môi giới bất động sản khá có tài nhưng lại không ổn về tính cách, tuy nhiên cô lại phản bội chồng mình khi mà phải lòng một nhân viên BĐS khác vốn là đối thủ của cô tên là Buddy Kane. Trong khi đó cô con gái Jane thì dường như phải lòng cậu bạn hàng xóm kỳ lạ nhà kế bên tên làRicky Fitts,là người một loại thuốc đại lý / tài liệu đã và đang sống dưới một mái nhà cai trị bởi một cha rất nghiêm ngặt biển và một người mẹ không nói nên lời. cuộc khủng hoảng giữa cuộc sống của Lester khiến anh thay đổi đáng kể cuộc sống của mình khi ông bỏ công việc của mình và làm việc tại một nhà hàng thức ăn nhanh. Mọi sự việc bắt đầu trở nên rắc rối khi mà Lester nảy sinh tình cảm với một cô gái ít tuổi hơn rất nhiều, đó chính là một người bạn trong đội cổ vũ của Jane tên là Angela, vốn là một người khoe khoang về hiểu biết tình dục của mình mỗi cuối tuần. Tuy nhiên Jane lại biết rằng cô nàng vẫn con trinh trắng, anh ta thậm chí còn bị cô nàng quyến rũ, đó chắc chắn là điều mà anh mong muốn trong tình trạng không mấy tốt đẹp này. Nhưng liệu cuộc tình này rồi sẽ đi tới đâu?
Vẻ đẹp Mỹ (phim 1999)
Vẻ đẹp Mỹ (tựa gốc: American Beauty) là một bộ phim chính kịch của Hoa Kỳ công chiếu năm 1999, do Alan Ball viết kịch bản và là tác phẩm đạo diễn đầu tay của Sam Mendes. Nam diễn viên Kevin Spacey thủ vai Lester Burnham, một nhân viên văn phòng gặp phải khủng hoảng ở lứa tuổi trung niên khi nảy sinh tình cảm với bạn thân của cô con gái thiếu niên của mình, Angela Hayes (Mena Suvari). Annette Bening góp mặt trong vai người vợ thực dụng của Lester, trong khi Thora Birch vào vai đứa con gái bất an của họ, Jane. Wes Bentley, Chris Cooper và Allison Janney cũng tham gia diễn xuất trong phim. Các nhà học thuật nhìn nhận phim là tác phẩm trào phúng ám chỉ đến quan niệm về cái đẹp và sự thỏa mãn bản thân của tầng lớp trung lưu Hoa Kỳ; phân tích tập trung vào các khía cạnh lãng mạn và tình cảm loạn luân, tình dục, cái đẹp, chủ nghĩa duy vật, sự tự giải thoát và chuộc lỗi của bản thân. Ball bắt đầu chắp bút cho Vẻ đẹp Mỹ dưới dạng một vở diễn vào đầu thập niên 1990, lấy bối cảnh một phần từ những dư âm xung quanh phiên tòa xét xử của Amy Fisher vào năm 1992.
Salamis là 1 trong những trận hải chiến lớn nhất thế giới tính cho đến nay, quy mô của nó làm cho cả Quân sự hiện đại phải kính nể. Đó là trận chiến giữa các thành bang Hy Lạp và đế quốc Ba Tư hùng mạnh vào năm 480 TCN. Với quyết tâm dùng vũ lực để đàn áp các chư hầu cứng đầu như Athens, đế quốc Ba Tư chuẩn bị đến hơn 1200 tàu chiến, tuy bị mất 1/3 số đó do gặp bão biển nhưng họ vẫn còn đến hơn 800 tàu trước khi cuộc chiến khởi tranh. Trong khi đó, bên phía đối diện, Hy Lạp chỉ có 370 tàu, chưa bằng 1 nửa so với Ba Tư. Cụ thể năm 491 TCN, Darius đại đế cử sứ giả đến các thành bang Hy Lạp đòi tiến cống "đất và nước" với hàm ý quy thuận Ba Tư. Hầu như tất cả điều khiếp sợ trước sức mạnh quân sự mà chấp nhận gật đầu, chỉ ngoại trừ Athens và Sparta, ở đây các sứ giả lần lượt bị xử tử và đạp xuống giếng, đồng nghĩa với việc sẽ có 1 cuộc chiến lớn. Năm sau, Darius gửi 1 đội quân tới thăm dò nhưng bị những người con của Athens tiêu diệt tại trận Marathon lịch sử. Từ đó, ông ta cho xây dựng 1 đội quân khổng lồ từ con người tới khí tài, vật chất để quyết tâm khuất phục toàn Hy Lạp. Sau nhiều biến cố, con trai của Darius là Xerxes đã dẫn đội quân khổng lồ của Ba Tư đi chinh phục kẻ thù. Nhận ra sự nguy hiểm đó, bên phía Athens cũng ráo riết củng cố lực lượng, chuẩn bị cho trận chiến kinh hoàng sắp tới với Ba Tư. Trước sức ép đáng sợ từ đế quốc Ba Tư, các thành bang đã phải kết hợp lại tạo thành liên minh Hy Lạp để cùng nhau chống lại kẻ thù. Sau 2 trận thua đáng tiếc tại Thermoplylae và Artemisium, lãnh đạo của Athens là Themistocles đã thả 1 vài nô lệ đến chỗ quân Ba Tư để cung cấp thông tin sai lệch. Trúng kế của chính trị gia Hy Lạp, quân Ba Tư quyết tiến đến dứt điểm đối thủ trong trận đánh cuối tại Salamis mà không hề hay biết đây là nơi mà Hy Lạp đã chuẩn bị vô cùng kỹ lưỡng. Không tự nhiên mà quân Hy Lạp chọn Salamis làm chiến địa cho trận đánh cuối cùng, địa hình có phần chật hẹp kết hợp với không gian được chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ triệt tiêu đi ưu thế về số lượng của đoàn thuyền chiến Ba Tư. Theo như Themistocles là: "trận đánh trong khoảng chật hẹp như vậy sẽ tạo lợi thế cho chúng ta". Khi trận chiến vừa bắt đầu, quân Ba Tư tiếp cận đối thủ tại eo biển Salamis, chính không gian chật hẹp nơi đây đã phá vỡ tính kỷ luật của hạm đội dù cho trước đó họ đã chuẩn bị kỹ. Ở bên kia chiến tuyến, quân Hy Lạp không vội vàng tấn công ngay mà quay ngược thuyền, giả vờ bỏ chạy để lôi kéo quân địch. Đến thời gian thích hợp, 1 chiếc tàu bên phía Đồng Minh lao như tên bắn vào chiến thuyền lớn nhất của Ba Tư, rồi lần lượt toàn bộ Hy Lạp theo sau tấn công vào đội hình đang rối loạn của quân địch. Thông thường, các tàu chiến thời này có mũi nhọn ở phía trước nên khi đâm trực diện, sẽ tăng cao khả năng đánh chìm tàu đối phương, trong trường hợp không đạt mục đích, quân lính 2 bên sẽ nhảy sang thuyền của nhau để đánh tay đôi. Trong khi Ba Tư có ưu thế về thuyền chiến nên chỉ trang bị vũ khí nhẹ thì quân Hy Lạp được chuẩn bị đầy đủ vũ trang cho cuộc chiến. Cũng chính điều này giúp họ đẩy lùi được đợt tấn công đầu tiên của kẻ địch,. Trong eo biển chật hẹp, những xác thuyền của đợt tấn công đầu tiên lại biến thành chướng ngại vật, cản trở đường tiến công của các hạm đội phía sau. Không những thế, Ariabignes, đô đốc nhận trách nhiệm 1 cánh quân và cũng là em trai của Xerxes đã bị giết khiến cho quân Ba Tư ngày càng trở nên rối loạn vì thiếu người lãnh đạo. Các chiến thuyền của Ba Tư ngoài những chiếc bị tiêu diệt, cái thì mắc cạn, cái thì bỏ chạy khiến cho sĩ khí ban đầu sụt giảm nặng nề. Dường như đế quốc Ba Tư không gượng dậy nổi sau cú đánh phủ đầu quá nặng của Hy Lạp, hạm đội bắt đầu rút lui về phía Phalerum nhưng tiếp tục bị đánh tơi bời bởi quân phục kích khi đang cố gắng rời khỏi eo biển. Thất bại thê thảm tại Salamis, quân Ba Tư chỉ còn hơn 300 chiến thuyền, nghĩa là họ đã mất hơn 1 nửa tổng số thuyền khi mới bắt đầu trận chiến, tổn thất quá nặng nề cho đế quốc mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Với danh tiếng là trận hải chiến có ý nghĩa bậc nhất lịch sử cổ đại, Salamis chính là bước ngoặt trong mối quan hệ giữa Hy Lạp và Ba Tư. Sau trận này, toàn bộ Hy Lạp trở nên an toàn hơn trước sự uy hiếp của kẻ thù. Ngược lại, thất bại đó đã giáng 1 đòn nặng nề vào tinh thần cũng như vật chất của quân đội Ba Tư. Tại các trận chiến lớn khác, quân Hy Lạp cũng tự tin hơn khi rời bỏ thế phòng thủ như tại trận Plataea hay Mycale về sau. Giới sử gia cổ đại cũng như bây giờ cho rằng, trận Salamis đã làm đảo lộn sự phát triển của thế giới Hy Lạp cổ lẫn văn minh phương Tây; cũng như nó làm giảm nghiêm trọng sức mạnh to lớn của đế quốc Ba Tư, khiến họ từ bỏ ý định chinh phục Hy Lạp. Giới khoa học Ấn Độ phát hiện hiện tượng hiếm về các thiên hà(06.45am 28-08-2021). Yếu tố cần thiết giúp các loài di cư thích ứng với biến đổi khí hậu(07.25am 26-08-2021). Nhiều người nước ngoài tại TP.HCM vui mừng vì được tiêm vaccine COVID-19 và hỗ trợ lương thực
Trận Salamis
Trận Salamis (tiếng Hy Lạp cổ: Ναυμαχία τῆς Σαλαμῖνος, Naumachia tēs Salaminos), là một trận hải chiến giữa các thành bang Hy Lạp và đế quốc Ba Tư vào năm 480 TCN ở một eo biển giữa Piraeus và đảo Salamis, một hòn đảo ở vịnh Saron gần Athena. Trận đánh đánh dấu đỉnh điểm của cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Đế quốc Ba Tư vừa mới bắt đầu vào mùa xuân năm đó. Một nhóm lính Hy Lạp nhỏ đã chốt ở đèo Thermoplylae để ngăn chặn bước tiến của Ba Tư, trong khi hải quân Đông minh (chủ yếu là tàu Athena) giao chiến với hải quân Ba Tư ở eo biển Artemisium nằm gần đó. Ở trận Thermopylae, nhóm quân chặn hậu Hy Lạp bị tiêu diệt hoàn toàn còn hải quân Hy Lạp cũng phải hứng chịu tổn thất nặng nề trong trận Artemisium và phải rút lui sau khi nhận được tin từ Thermopylae. Thất bại này cho phép quân Ba Tư chiếm đóng các xứ Boeotia và Attica. Quân Đồng minh chuẩn bị cho việc phòng thủ eo đất Corinth trong khi hải quân phải rút ra gần đảo Salamis. Mặc dù bị quân Ba Tư áp đảo về số lượng nhưng tướng Themistocles của Athena đã thuyết phục được quân Đồng minh Hy Lạp giao chiến với hạm đội Ba Tư một lần nữa, với hy vọng rằng một chiến thắng sẽ chấp dứt các cuộc hành quân bằng đường thủy nhằm vào Peloponessus.
Vào ngày năm 1521, sau một cuộc bao vây kéo dài ba tháng, lực lượng Tây Ban Nha dưới quyền của Hernán Cortés đã chiếm được Tenochtitlán, thủ đô của Đế chế Aztec. Lính của Cortés đã san bằng thành phố và bắt giữ Cuauhtemoc, Hoàng đế Aztec. Thành Tenochtitlán được lập vào năm 1325 bởi một bộ tộc săn bắn và hái lượm lang thang trên các hòn đảo ở Hồ Texcoco, nay là khu vực gần Thành phố Mexico. Chỉ trong vòng một thế kỷ, nền văn minh này đã phát triển thành Đế chế Aztec, phần lớn là nhờ hệ thống nông nghiệp tiên tiến. Họ sớm thống trị miền trung Mexico và khi Hoàng đế Montezuma II lên ngôi vào năm 1502 thì đạt đến thời kỳ hưng thịnh nhất, mở rộng hơn về phía nam, đến tận Nicaragua ngày nay. Vào thời điểm đó, đế chế được bảo vệ chủ yếu bởi sức mạnh quân sự của người Aztec, và Montezuma II bắt đầu thiết lập một bộ máy quan liêu, thành lập ra các tỉnh để cống nộp về thủ đô Tenochtitlán. Các bộ tộc bị chinh phục đã phẫn nộ trước những yêu cầu của người Aztec, đòi hỏi vật cống nạp cũng như các nạn nhân để hiến tế cho tôn giáo, nhưng quân đội Aztec đã dẹp yên quân nổi loạn. Trong khi đó, Hernán Cortés, một quý tộc trẻ tuổi gốc Tây Ban Nha, đã đến Hispaniola ở Tây Ấn vào năm 1504. Năm 1511, ông giương buồm cùng Diego Velázquez đến chinh phục Cuba và hai lần được bầu làm thị trưởng của Santiago, thủ đô của Hispaniola. Năm 1518, ông được bổ nhiệm làm chỉ huy một đoàn thám hiểm Tây Ban Nha mới đến lục địa Mỹ. Velázquez, thống đốc Cuba, sau đó đã hủy bỏ sứ mệnh này, và Cortés đã lên đường mà không được phép. Ông đã đến bờ biển Yucatán và vào tháng 03/1519 thì đến Tabasco ở Vịnh Campeche của Mexico, với 500 binh sĩ, 100 thủy thủ và 16 con ngựa. Tại đây, ông đã chiến thắng người da đỏ địa phương và được trao cho một nữ nô lệ, Malinche – tên thánh là Marina – người trở thành tình nhân của ông và sau đó sinh cho ông một đứa con trai. Cô biết cả tiếng Maya và Aztec nên đã giữ vai trò phiên dịch viên. Đoàn thám hiểm sau đó tiến lên bờ biển Mexico, nơi Cortés lập thành Veracruz, chủ yếu với mục đích giúp bản thân được dân thuộc địa bầu làm đại tướng, do đó gạt bỏ quyền lực của Velázquez và khiến Cortés chỉ còn phải chịu trách nhiệm trước vua Charles V của Tây Ban Nha. Tại Veracruz, Cortés huấn luyện quân đội và sau đó đốt cháy tàu của mình để đảm bảo mọi người trung thành với kế hoạch chinh phục. Hay tin xung đột chính trị xảy ra ở Đế chế Aztec, Cortés liền đưa quân vào nội địa Mexico. Trên đường đến Tenochtitlán, ông đụng độ với các bộ tộc da đỏ địa phương, nhưng nhiều người trong số này, bao gồm cả xứ Tlaxcala, đã trở thành đồng minh của ông sau khi biết về kế hoạch chinh phục những kẻ thống trị Aztec đáng ghét của họ. Nghe tin Cortés đang tiến đến gần, mang theo những con ngựa đáng sợ và loạt vũ khí tinh vi, Montezuma II đã cố gắng tìm cách mua chuộc, nhưng Cortés không dễ từ bỏ. Ngày 08/11/1519, quân Tây Ban Nha cùng 1.000 chiến binh Tlaxcaltec đã được phép vào Tenochtitlán mà không bị cản trở. Montezuma ngờ rằng đoàn quân này là sứ giả của thần Quetzalcatl, người mà theo lời tiên tri sẽ trở về từ phương đông trong năm “Một Cây Sậy”, tức năm 1519 theo lịch Aztec. Người Tây Ban Nha được chào đón trong vinh dự, và Cortés mau chóng nắm bắt cơ hội, bắt Montezuma làm con tin để có thể cai trị đế chế thông qua ông. Người tình Marina đã đóng vai trò to lớn trong nỗ lực này và đã thành công trong việc thuyết phục Montezuma hợp tác. Mùa xuân năm 1520, Cortés biết được sự xuất hiện của một lực lượng Tây Ban Nha từ Cuba, do Pánfilo Narvez lãnh đạo, được Velázquez phái đi để tước quyền chỉ huy của Cortés. Ông dẫn quân đội của mình ra khỏi Tenochtitlán để đối đầu, bỏ lại một đơn vị đồn trú gồm 80 người Tây Ban Nha và vài trăm người Tlaxcaltecs để cai trị thành phố. Cortés đánh bại Narvez và sáp nhập lính của Narvez vào quân đội của mình. Khi trở lại Tenochtitlán vào tháng 6, ông thấy quân đồn trú đang bị bao vây bởi người Aztec, những kẻ đã nổi dậy sau khi cấp dưới mà Cortés giao giữ quyền chỉ huy thành phố đã tàn sát một số thủ lĩnh Aztec, và dân chúng cũng trên bờ vực nổi dậy. Ngày 30/06, do áp lực và thiếu thốn lương thực, Cortés và quân đội của mình đã chiến đấu để thoát khỏi thủ đô với cái giá rất đắt. Được người Tây Ban Nha gọi là La Noche Triste, hay Đêm của Nỗi buồn, nhiều người lính đã chết đuối ở hồ Texcoco khi con tàu chở họ và kho báu của người Aztec mà Cortés thu giữ bị đắm. Montezuma đã bị giết trong cuộc chiến – theo ghi chép về Aztec của người Tây Ban Nha cũng như các ghi chép về Tây Ban Nha của một nhóm người Aztec phẫn nộ với việc Montezuma đầu hàng ngoại tộc. Trên đường rút lui, người Tây Ban Nha đã đánh bại một đội quân Aztec lớn tại Otumba và sau đó gặp lại các đồng minh Tlaxcaltec của họ. Tháng 05/1521, Cortés trở lại Tenochtitlán, và sau một cuộc bao vây kéo dài ba tháng, thành phố cuối cùng cũng đầu hàng. Chiến thắng này đánh dấu sự sụp đổ của Đế chế Aztec. Cuauhtámoc, người kế vị Cuitláhuac, với tư cách là Hoàng đế, bị bắt làm tù binh và sau đó bị xử tử, và Cortés trở thành người cai trị cả một đế chế Mexico rộng lớn. Nhà chinh phục Tây Ban Nha đã dẫn đầu một cuộc thám hiểm tới Honduras năm 1524 và năm 1528 trở về Tây Ban Nha để gặp nhà vua. Charles đã phong tước Hầu cho ông (Marqués del Valle) nhưng từ chối phong cho ông chức thống đốc vì những cuộc cãi vã của ông với Velázquez và những người khác. Năm 1530, ông trở về Mexico, bấy giờ được gọi là Tây Ban Nha Mới (New Spain), và chứng kiến đất nước trong tình trạng hỗn loạn. Sau khi khôi phục trật tự, ông quyết định nghỉ hưu, trở về khu nhà của mình ở phía nam Thành phố Mexico và tham gia các chuyến thám hiểm hàng hải từ bờ biển Thái Bình Dương. Năm 1540, ông trở lại Tây Ban Nha nhưng bị hoàng gia bỏ rơi. Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
Tây Ban Nha chinh phục Đế quốc Aztec
Cuộc chinh phục Đế quốc Aztec của Tây Ban Nha, còn gọi là Cuộc chinh phạt Mexico hay Chiến tranh Aztec-Tây Ban Nha (1519-1521) là một trong những sự kiện quan trọng nhất của quá trình thuộc địa hóa châu Mỹ của Tây Ban Nha. Còn nhiều sử liệu sót lại từ thế kỷ XVI của các bên trong cuộc chiến: từ các conquistador, các đồng minh bản địa của Tây Ban Nha, kể cả người Aztec bị đánh bại. Sự kiện lịch sử này không đơn thuần là cuộc tranh giành quyền lực giữa một nhóm nhỏ người Tây Ban Nha với súng, ngựa và thép chống lại Đế quốc Aztec, mà còn phải kể đến động cơ chính trị của các thành bang uất ức người Aztec rất phức tạp, chia bè kết phái với người Tây Ban Nha để lật đổ nhà nước Aztec. Các kẻ thù của đế quốc Aztec đã hợp lực lại để đánh bại người Mexica tại trận vây hãm Tenochtitlan sau 2 năm chiến tranh. Đối với Tây Ban Nha, cuộc viễn chinh Mexico là một phần của kế hoạch thuộc địa hóa Tân Thế giới sau 25 năm định cư lâu dài quanh vùng biển Caribê.
Là chứng rối loạn cảm xúc theo mùa, có xu hướng nghiêm trọng vào mùa thu và mùa đông, giảm đi vào mùa xuân và mùa hè. Bệnh thường xảy ra phổ biến ở người trong độ tuổi từ 18 – 30, thường lên quan đến vấn đề di truyền. Trầm cảm theo mùa hay SAD là chứng rối loạn cảm xúc theo mùa, có biểu hiện bệnh theo chu kỳ, thường nghiêm trọng vào mùa thu và mùa đông, giảm đi hay có thể hồi phục như một người bình thường vào mùa xuân và mùa hè. Do đó, chứng bệnh này còn được gọi với cái tên khác là trầm cảm mùa đông. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp lại bị trầm cảm vào mùa xân và mùa hè, các triệu chứng cũng mờ nhạt dần vào mùa thu và mùa đông. Các nghiên cứu cho thấy rằng, trầm cảm theo mùa có tỷ lệ xuất hiện ở nữ giới cao hơn nam giớI gấp 4 lần. Có khoảng ⅓ bệnh nhân có triệu chứng trầm cảm kèm theo biểu hiện rối loạn tâm trạng. Ngoài ra, một số tài liệu cũng chỉ ra rằng, mức độ bệnh của nam giới thường nặng hơn nữ giới. Độ tuổi mắc bệnh phổ biến là những người nằm trong khoảng từ 18 – 30 tuổi. Theo nghiên cứu của các chuyên gia, sự thay đổi ánh sáng khác nhau giữa các mùa, kèm theo các cảm xúc của từng mùa là nguyên nhân chính gây ra căn bệnh này. Do đó, bệnh thường xảy ra ở những người sống trong môi trường có sự thay đổi ánh sáng rõ rệt theo mùa hoặc ở những khu vực có ít ánh sáng. Như đã đề cập, các triệu chứng của bệnh trầm cảm theo mùa có xu hướng xuất hiện theo chu kỳ, thường nghiêm trọng vào mùa thu và mùa đông, giảm đi vào mùa xuân và mùa hè hoặc ngược lại. Các triệu chứng của SAD cũng tương tự với bệnh trầm cảm thông thường. Dù là trầm cảm theo mùa nào thì đều có các triệu chứng như buồn bã, tuyệt vọng, thiếu năng lượng, mất tập trung, thèm ngủ, thay đổi cân nặng, thay đổi khẩu vị. Rối loạn trầm cảm theo mùa ngược được nhận định là một dạng rối loạn lưỡng cực với các triệu chứng đặc trưng như nói nhanh, dễ kích động, hạn chế suy nghĩ. Người bệnh thường có các biểu hiện như:. Theo các nghiên cứu, trầm cảm theo mùa do nhiều nguyên nhân gây ra và được tác động bởi nhiều yếu tố. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng này là do sự thay đổi thất thường của ánh sáng, thời tiết trong mỗi mùa. Chính sự thiếu ánh sáng này đã gây ra hàng loạt sự thay đổi trong cơ thể của người bệnh. Trầm cảm theo mùa thường liên quan đến vấn đề di truyền ở mắt, làm bệnh nhân mẫn cảm hơn với ánh sáng. Ngoài ra, một nguyên nhân khác khiến nhiều người dễ mắc SAD là vấn đề về giấc ngủ. Nồng độ Serotonin: Đây là một chất có tác dụng ổn định cảm xúc, điều hoà thần kinh; vai trò của serotonin là dẫn truyền thần kinh, nó ảnh hưởng trực tiếp đến cảm xúc của mỗi người. Khi có sự thay đổi của ánh sáng theo mùa, serotonin trong cơ thể cũng thay đổi theo dẫn đến việc hình thành các triệu chứng của bệnh trầm cảm. Nồng độ Melatonin: Có thể bạn đã biết, thói quen đi ngủ hàng ngày cũng phụ thuộc vào ánh sáng, đây cũng là lý do mùa vào mùa hè chúng ta thường ngủ muộn, còn mùa đông thì ngủ sớm hơn bình thường. Hơn nữa, vào mùa thu và mùa đông, ánh sáng ban ngày cũng yếu đi rất nhiều, điều này làm suy giảm nồng độ melatonin trong cơ thể và làm ảnh hưởng đến cảm xúc từ đó gây ra các triệu chứng trầm cảm theo mùa. Nhịp sinh học: Nhịp sinh học của cơ thể thay đổi do vào mùa đông và mùa thu, ánh sáng mặt trời giảm đi rõ rệt, lúc này cơ thể người bệnh dễ bị rối loạn khả năng nhận biết tạm thời, không biết nên ngủ hay nên thức dẫn đến khởi phát các triệu chứng trầm cảm. Di truyền: Bệnh có thể di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, những gia đình có ông bà hoặc ba mẹ mắc trầm cảm thì con cũng có nguy cơ gặp phải tình trạng này. Trầm cảm theo mùa còn liên quan đến vấn đề di truyền ở mắt, khi người bệnh mẫn cảm với ánh sáng. Tuổi tác: Những người trẻ tuổi, nằm trong độ tuổi từ 18 – 30 có nguy cơ mắc trầm cảm theo mùa cao hơn nguời cao tuổi. Giới tính: Như đã đề cập, tỷ lệ mắc trầm cảm theo mùa ở nữ giới cao gấp 4 lần nam giới. Thế nhưng nếu nam giới mắc trầm cảm theo mùa thì sẽ có các triệu chứng, biểu hiện bệnh nghiêm trọng hơn nữ giới rất nhiều. Ánh sáng ít: Sự thay đổi rõ rệt của ánh sáng theo mùa hoặc những khu vực xa xích đạo dễ bị trầm cảm theo mùa hơn những đối tượng khác. Những người sống ở các quốc gia có ánh sáng mặt trời vào mùa đông yếu sẽ dễ bị . Người đang mắc trầm cảm: Những người đang bị rối loạn lưỡng cực hoặc có tiền sử mắc trầm cảm là những đối tượng có nguy cơ bị trầm cảm theo mùa hơn những người khác. Hơn nữa, triệu chứng trầm cảm theo mùa ở người từng bị trầm cảm cũng nghiêm trọng hơn. Trầm cảm là trạng thái bi quan, chán nản, buồn bã, tuyệt vọng, dễ mệt mỏi, không quan tâm đến bất kỳ vấn đề gì trong cuộc sống. Trầm cảm theo mùa cũng giống như các dạng trầm cảm khác, cần được sớm phát hiện và điều trị kịp thời. Nếu người bệnh chủ quan, lơ là với các biểu hiện bất thường của chính bản thân mình, bệnh sẽ chuyển biến nặng, đem đến những hậu quả nặng nề, khó lường. Hơn nữa, việc điều trị bệnh cũng sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Hay bị rơi vào trạng thái cô lập, hay bi quan, tuyệt vọng, suy nghĩ tiêu cực, có kết hoạch hoặc ý định tự tử, đôi khi sẽ tìm đến cái chết để giải thoát. Trầm cảm theo mùa là một trong 13 thể trầm cảm, bệnh lý nguy hiểm có xu hướng gia tăng ở người trẻ hiện nay. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), cứ 40 giây trên thế giới lại có 1 người tự tử do trầm cảm. Ở Việt nam có khoảng 30% dân số bị rối loạn tâm thần và có khoảng 25% tỷ lêj trầm cảm. Số người tự tử do trầm cảm của nước ta rất cao, có khoảng từ 36.000 – 40.000 tự tự do trầm cảm mỗi năm. Trầm cảm không hiếm gặp, có thể xác định qua các triệu chứng đặc trưng của bệnh. Ngay khi nghi ngờ bản thân mắc trầm cảm, có các triệu chứng của bệnh thì tốt nhất bạn nên tìm đến sự trợ giúp của các bác sĩ. Sau khi thăm khám và đánh giá sơ bộ, các bác sĩ sẽ xác định bạn có bị trầm cảm hay không qua các kiểm tra như:. Bài test đánh giá tâm thần: Bài test này giúp kiểm tra các dấu hiệu của bệnh qua cảm xúc, suy nghĩ, hành vi, lời nói. Bạn sẽ thực hiện bằng cách điền câu trả lời vào bản câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn. Đánh giá thể chất: Trong quá trình thăm khám, bác sĩ sẽ kiểm tra các vấn đề sức khoẻ, thể chất, trạng thái tâm lý của bạn bằng những câu hỏi chuyên môn. Đồng thời việc đánh giá thể chất còn giúp kiểm tra xem bạn có mắc bệnh lý nên nào chưa được phát hiện hay không, từ đó phán đoán các nguyên nhân có thể gây trầm cảm của bạn. Xét nghiệm: Các xét nghiệm như xét nghiệm tuyến giáp, xét nghiệm máu… cũng được chỉ định để kiểm tra sức khoẻ và xem xét các yếu tố gây trầm cảm cho người bệnh. Để xác định bản thân có bị trầm cảm hay không, bạn hãy hỏi người thân, bạn bè xem mình có những biểu hiện hành vi như thế nào, có khác thường hay không. Theo các chuyên gia tâm lý, để biết chính xác một người có bị trầm cảm theo mùa hay không thì phải theo dõi hành vi của người bệnh trong 2 năm liên tiếp. Tuy nhiên, nếu có các dấu hiệu của trầm cảm thì tốt nhất nên thăm khám để kịp thời chẩn đoán và có biện pháp điều trị kịp thời. Trầm cảm theo mùa là bệnh có thể khắc phục được, bệnh có thể điều trị theo nhiều cách như dùng thuốc, liệu pháp ánh sáng, tâm lý trị liệu hoặc thay đổi cách sống. Tuỳ vào mức độ trầm cảm từ nhẹ, vừa đến nặng mà sau khi thăm khám bác sĩ sẽ chỉ định sử dụng loại thuốc điều trị phù hợp. Thuốc chống trầm cảm phải được sử dụng theo chỉ định của bác sĩ cho đến khi triệu chứng của bệnh biến mất. Tuyệt đối không tự ý dùng thuốc hay tăng giảm liều lượng hoặc tự ý ngưng thuốc mà chưa có sự đồng ý của bác sĩ. Một số thuốc chống trầm cảm thường được sử dụng hiện nay là fluoxetine, bupropion, venlafaxine, sertraline, paroxetin… Tuy nhiên, dùng thuốc chống trầm cảm không phải là phương pháp tối ưu, đa phần ở giai đoạn nhẹ và vừa người bệnh sẽ được điều trị bằng liệu pháp tâm lý hoặc ánh sáng trị liệu. Nếu không đáp ứng sẽ kết hợp dùng thuốc, tuy nhiên, người bệnh sẽ phải thử sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau để tìm được loại phù hợp với tình trạng bệnh và cơ địa của mình. Như đã đề cập, trầm cảm theo mùa là bệnh lý liên quan chủ yếu đến cường độ ánh sáng theo mùa và giấc ngủ của người bệnh. Do đó, để điều trị thì biện pháp tối ưu, được đánh giá cao về hiệu quả cũng như mức độ an toàn cho người bệnh là ứng dụng liệu pháp ánh sáng. Khi được điều trị bằng phương pháp này, người bệnh sẽ phải ngồi trước thiết bị chiếu sáng khoảng 45 phút. Nguồn sáng này khá rực rỡ, tương đồng với ánh sáng tự nhiên ngoài trời. Liệu pháp này giúp tác động lên các chất hoá học trong não bộ, làm thay đổi trạng thái tâm lý của người bệnh. Liệu pháp ánh sáng thường được tiến hành vào buổi sáng, tuy nhiên, để đạt được hiệu quả tốt nhất, người bệnh nên thường xuyên tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Nên tránh ngồi trước thiết bị chiếu sáng vào buổi tối để tránh tình trạng khó ngủ, mất ngủ, ngủ không sâu giấc. Tâm lý trị liệu không chỉ là phương pháp điều trị cho trầm cảm theo mùa mà còn phù hợp với mọi căn bệnh có liên quan đến vấn đề về tâm lý. Phương pháp này được các chuyên gia khuyến khích sử dụng, là cách giúp người bệnh tháo gỡ khúc mắc trong lòng, từ đó thoát khỏi những suy nghĩ tiêu cực bi quan. Đồng thời, nó còn giúp người bệnh học cách đối diện và vượt qua nỗi sợ tâm lý của bản thân. Thông thường, các biểu hiện của bệnh SAD hay bắt đầu từ cuối tháng 9 và có xu hướng nghiêm trọng hơn vào mùa đông. Do đó, bạn nên cố gắn thường xuyên vận động vào thời điểm này để tránh các vấn đề có liên quan đến trầm cảm như tăng cân.
Trầm cảm theo mùa
Trầm cảm theo mùa (tiếng Anh: seasonal affective disorder – SAD; winter depression) hay rối loạn cảm xúc theo mùa là một rối loạn khí sắc thường xảy ra vào mùa đông và thu. Thông thường sẽ phục hồi trở lại vào mùa xuân hoặc hè. Bệnh có nhiều đặc điểm chung với trầm cảm như thường xuyên cảm thấy buồn phiền do vậy dễ bị nhầm lẫn với căn bệnh này, đặc điểm khác biệt lớn là trầm cảm theo mùa có tính chất chu kỳ rõ rệt và khi qua khỏi mùa bị ảnh hưởng người mắc lại có sức khỏe tâm lý như bình thường. Trầm cảm theo mùa được cho là có nguyên nhân từ sự thay đổi lượng ánh sáng giữa các mùa.
Trả lời: Nói cách đơn giản, chủ nghĩa hậu hiện đại là một triết lý khẳng định rằng không có chân lý khách quan hay tuyệt đối, đặc biệt trong vấn đề tôn giáo và tâm linh. Khi đối diện với chân lý nói về sự có thật của Chúa và các thực hành tôn giáo, quan điểm của chủ nghĩa hậu hiện đại được thể hiện qua phát biểu “điều đó có thể đúng với anh, nhưng không đúng với tôi.” Trong khi câu trả lời đó có thể hoàn toàn phù hợp khi nói về các món ăn yêu thích hay sở thích nghệ thuật, cách suy nghĩ như vậy rất nguy hiểm khi áp dụng vào các vấn đề của thực tại bởi vì nó nhầm lẫn vấn đề của quan điểm cá nhân với vấn đề của chân lý. Cụm từ “chủ nghĩa hậu hiện đại” có nghĩa đen là “sau chủ nghĩa hiện đại” và được dùng trong triết học để chỉ về thời kỳ hiện tại sau thời hiện đại. Chủ nghĩa hậu hiện đại là một phản ứng (hay có thể nói một cách phù hợp hơn, một phản ứng thất vọng) tới thất bại trong các hứa hẹn của chủ nghĩa hiện đại về việc chỉ dùng lý trí của con người có thể làm cho loài người tốt hơn và khiến thế giới trở nên một nơi tốt đẹp hơn. Bởi vì chủ nghĩa hiện đại tin rằng sự tuyệt đối thật sư tồn tại, chủ nghĩa hậu hiện đại tìm cách sửa lại cho “đúng” bằng việc trước hết loại bỏ chân lý tuyệt đối và khiến mọi thứ (kể cả khoa học thực nghiệm và tôn giáo) trở nên tương đối với niềm tin và mong muốn của cá nhân. Các nguy hiểm của chủ nghĩa hậu hiện đại có thể xem như một vòng xoắn ốc đi xuống bắt đầu với việc chối bỏ chân lý tuyệt đối, dẫn đến sau đó mất đi sự phân biệt trong các vấn đề tôn giáo và niềm tin, và kết cục lại ở triết lý đa tôn giáo nói rằng không có niềm tin hay tôn giáo nào tuyệt đối đúng và do đó không ai có thể nói rằng tôn giáo của anh ta hay cô ta là đúng và của người khác là sai. Lập trường về chân lý tương đối của chủ nghĩa hậu hiện đại là kết quả của nhiều giai đoạn của quan điểm triết học. Từ Augustine tới Phong Trào Cải Cách, các phương diện tri thức của văn minh Phương Tây và khái niệm về chân lý chịu ảnh hưởng lớn bởi các nhà thần học. Nhưng, bắt đầu với Thời Phục Hưng thế kỷ 14 tới 17, các nhà tư tưởng bắt đầu đưa con người lên vị trí trung tâm của thực tại. Nếu chúng ta nhìn các giai đoạn lịch sử như một cây gia phả, thì thời Phục Hưng sẽ là bà của chủ nghĩa hậu hiện đại và phong trào Khai Sáng là mẹ. Tư tưởng “tôi tư duy, nên tôi tồn tại” của Đề-các chính là hiện thân của sự khởi đầu của thời kỳ này. Chúa không còn là trung tâm của chân lý – mà là con người. Thời Khai Sáng là một sự áp đặt hoàn toàn mô hình khoa học lý luận vào mọi khía cạnh của chân lý. Nó nói rằng chỉ có dữ liệu khoa học mới có thể được hiểu, được định nghĩa và được biện giải một cách khách quan. Chân lý liên quan đến tôn giáo bị loại bỏ. Nhà triết học nổi tiếng đóng góp vào ý tưởng về chân lý tương đối là nhà triết học người Phổ Immanuel Kant với tác phẩm Phê Phán Lý Tính Thuần Tuý vào năm 1781. Kant lập luận rằng tri thức xác thực về Chúa không thể có được, vì thế ông đề ra sự phân biệt giữa tri thức “thực tế” và “đức tin”. Theo, Kant, “Thực tế không có gì liên quan đến tôn giáo.” Hệ quả là các vấn đề tâm linh được gán vào địa phận của ý kiến cá nhân, và chỉ có khoa học thực nghiệm được quyền nói về chân lý. Mặc dù chủ nghĩa hiện đại tin vào sự tuyệt đối của khoa học, mạc khải đặc biệt của Chúa (Kinh Thánh) bị loại ra khỏi địa phận của chân lý và xác thực. Tiếp đó chủ nghĩa hiện đại đi lên chủ nghĩa hậu hiện đại và dẫn tới các tư tưởng của Frederick Nietzsche. Được coi như một vị hộ thần (thánh bảo hộ) của triết học hậu hiện đại, Nietzsche giữ quan niệm về “phối cảnh luận”, nói rằng tất cả mọi tri thức (kể cả khoa học) là vấn đề của quan điểm và cách nhìn. Nhiều nhà triết học khác cũng xây dựng lý thuyết dựa vào công trình của Nietzsche (một vài ví dụ, Foucault, Rorty, và Lyotard) cũng cùng quan điểm với Nietzsche về sự chối bỏ Chúa và tôn giáo nói chung. Họ chối bỏ mọi bằng chứng của chân lý tuyệt đối, hoặc như Lyotard nói, sự chối bỏ này là một siêu tự sự (một sự thật vượt qua tất cả con người và văn hoá). Cuộc chiến triết học với chân lý khách quan này dẫn đến con người của chủ nghĩa hậu hiện đại hoàn toàn đối nghịch với mọi tuyên bố về sự tuyệt đối. Một cách tự nhiên, cách suy nghĩ như vậy chối bỏ tất cả những gì được nói là chân lý không thể sai, Kinh Thánh là một trong số đó. Nhà thần học vĩ đại Thomas Aquinas nói rằng, “Nhiệm vụ của nhà triết học là tìm ra cách phân biệt mọi sự.” Điều Aquinas muốn nói ở đây là chân lý phụ thuộc vào khả năng nhận biết- khả năng có thể phân biệt được “cái này” và “cái kia” trong vương quốc của tri thức. Tuy nhiên, nếu chân lý khách quan và tuyệt đối không tồn tại, mọi thứ sẽ trở thành vấn đề của cách nhìn cá nhân. Đối với các nhà tư tưởng hậu hiện đại, tác giả của một quyển sách không có được sự diễn giải chính xác của chính tác phẩm của anh ta; mà là độc giả sẽ quyết định quyển sách nói về điều gì- đây là quá trình giải cấu trúc. Và nếu có nhiều độc giả (và một giả), sẽ có nhiều cách diễn giải hợp lý. Tình huống hỗn loạn này khiến cho không thể có thể có được cách phân biệt có ý nghĩa và cố định về các cách diễn giải khác nhau bởi vì không có một chuẩn mực nào có thể dùng được. Điều này đặc biệt xảy ra với các vấn đề của đức tin và tôn giáo. Cố gắng để có được sự nhận biết trong vấn đề tôn giáo cũng vô nghĩa như là lập luận rằng sô-cô-la có vị ngon hơn va-ni-la. Chủ nghĩa hậu hiện đại nói rằng không thể quyết định một cách khách quan về các tuyên ngôn về chân lý đối lập nhau. Nếu chân lý tuyệt đối không tồn tại, và nếu không có cách nào có được một cách nhận biết ý nghĩa đúng/sai giữa các đức tin và tôn giáo, thì lẽ tự nhiên dẫn đến kết luận rằng mọi niềm tin phải được coi như hợp lý như nhau. Thuật ngữ đúng cho kết quả này của chủ nghĩa hậu hiện đại là “chủ nghĩa đa nguyên triết học“. Với chủ nghĩa đa nguyên, không một tôn giáo nào có quyền nói rằng mình đúng và các niềm tin đối ngược khác là sai, hoặc là kém hơn. Với những người ủng hộ triết học tôn giáo đa nguyên, không có gì là dị giáo, ngoại trừ quan điểm rằng có sự dị giáo. Carson nhấn mạnh về mối lo ngại của tin lành truyền thống về những gì có thể coi là nguy hiểm của chủ nghĩa đa nguyên: “Trong những lúc tỉnh táo nhất, tôi đôi khi lo ngại rằng những mặt xấu của thứ mà tôi gọi là chủ nghĩa đa nguyên triết học chính là mối nguy hiểm nhất cho Phúc âm kể từ Thuyết Ngộ Đạo (Trí Huệ Phái) trong thế kỷ thứ 2.”. Các nguy hiểm ngày càng lớn của chủ nghĩa hậu hiện đại – chân lý tương đối, mất đi sự nhận biết, và triết học đa nguyên – mang những mối nguy cho Cơ Đốc Giáo bởi vì chúng chối bỏ Lời Chúa như một điều gì đó không có thẩm quyền thật sự trên con người và không thể chứng minh sự đúng đắng trong một thế giới của các tôn giáo khác nhau. Vậy câu trả lời của Cơ Đốc Giáo với thử thách này là gì?. Cơ Đốc giáo tuyên xưng là đúng tuyệt đối, đó là sự phân biệt giữa các vấn đề về đúng sai (và cả về chân lý và sự giả dối thuộc linh), và đúng khi nói về Chúa cũng như bất cứ điều trái ngược nào của các tôn giáo khác đều là sai. Lập trường này gây ra những chê trách về “sự kiêu ngạo” và “sự thiếu dung hoà” từ chủ nghĩa hậu hiện đại. Tuy nhiên, sự thật không phải là vấn đề của quan điểm hay sở thích, và khi được xem xét kỹ lưỡng, nền tảng của chủ nghĩa hậu hiện đại nhanh chóng sụp đổ, cho thấy rằng những tuyên xưng của Cơ Đốc giáo là đáng tin và đáng thuyết phục. Trước nhất, Cơ Đốc Giáo nói rằng chân lý tuyệt đối tồn tại. Trên thực tế, Chúa Giê-su nói rõ rằng Ngài được gửi tới để làm một điều: “để làm chứng cho sự thật” (Giăng 18:37). Chủ nghĩa hậu hiện đại nói rằng không có chân lý nào có thể khẳng định, tuy nhiên lập luận này đối nghịch với chính nó – vì nó khẳng định một chân lý: rằng không có chân lý nào có thể khẳng định. Điều này có nghĩa là chủ nghĩa hậu hiện đại tin vào chân lý tuyệt đối. Các nhà triết học của chủ nghĩa này viết về những điều họ muốn độc giả coi như chân lý. Một cách đơn giản, một giáo sư nói rằng, “Khi ai đó nói rằng không có gì là chân lý cả, điều đó đồng nghĩa với việc họ muốn bạn không tin vào điều họ nói. Vì thế bạn đừng tin.”. Thứ hai, Cơ Đốc Giáo phân biệt rõ giữa niềm tin cơ đốc và các niềm tin khác. Cũng cần phải hiểu rằng những người nói rằng không có sự phân biệt nào có ý nghĩa chính là đang cố gắng tạo ra sự phân biệt. Họ cố gắng chỉ ra sự khác biệt giữa điều họ tin là đúng (rằng không có sự phân biệt) và điều Cơ Đốc Nhân coi là chân lý. Các tác giả của trường phái hậu hiện đại mong muốn độc giả của họ công nhận những kết luận họ viết là đúng và cố gắng thay đổi những ai muốn diễn giải tác phẩm của họ theo ý khác. Một lần nữa, lập luận và triết lý của họ tự mâu thuẫn bởi khi họ nôn nóng phân biệt về sự khác biệt giữa những điều họ coi là đúng và những điều họ xem là sai. Cuối cùng, Cơ Đốc giáo đúng khi nói về tình trạng hư mất của con người trước Chúa, về sự chết thế của Đấng Christ cho loài người sa ngã, và sự ngăn cách giữa Chúa và những ai chọn không chấp nhận những điều Chúa nói về tội lỗi và sự cần thiết của ăn năn. Khi Phao-lô chất vấn với các triết gia thuộc trường phái Khoái Lạc và trường phái Khắc Kỷ ở A-rê-ô-pa-gu, ông nói rằng, “Ðức Chúa Trời đã bỏ qua thời kỳ mông muội (ngu dại) đó, nhưng bây giờ Ngài truyền rằng mọi người ở mọi nơi phải ăn năn” (Công Vụ 17:30). Tuyên ngôn của Phao-lô không phải là “điều này đúng với tôi, nhưng có thể không đúng với bạn”; nhưng nó là một mạng lệnh riêng biệt và toàn thể (nó là, một siêu tự sự) từ Chúa đến cho tất cả mọi người. Bất cứ nhà hậu hiện đại nào nói rằng Phao-lô sai, là phạm phải nguyên tắc đa nguyên của chính anh ta, rằng không có niềm tin hay tôn giáo nào là sai. Một lần nữa, người theo chủ nghĩa hậu hiện đại mâu thuẫn với quan điểm của chính nó về việc mọi tôn giáo đều đúng như nhau. Cũng giống như không có gì là ngạo mạn khi thầy giáo dạy toán khẳng định rằng 2+2=4 hay người thợ khoá khẳng định rằng chỉ có một chìa sẽ vừa với khoá cửa, không có gì là kiêu ngạo với Cơ Đốc nhân khi chống lại cách suy nghĩa của các nhà hậu hiện đại và khẳng định rằng Cơ Đốc giáo là đúng và những gì trái ngược lại là sai. Chân lý tuyệt đối quả thật tồn tại, và cũng tồn tại những hệ quả cho sự sai trật. Trong khi đa nguyên có thể phù hợp khi áp dụng vào sở thích ăn uống, nó không phù hợp khi áp dụng vào vấn đề thuộc về chân lý. Cơ Đốc nhân nên rao ra lẽ thật của Chúa bằng tình yêu và hỏi các nhà hậu hiện đại tức giận với các tuyên ngôn đặc quyền của Cơ Đốc giáo, “Phải chăng bây giờ tôi đã trở thành kẻ thù của anh chị em, vì tôi đã nói với anh chị em sự thật?” (Ga-la-ti 4:16).
Triết học hậu hiện đại
Triết học hậu hiện đại là một trào lưu triết học phát sinh vào nửa sau của thế kỷ 20 như là một phản ứng phê phán đối với các giả định được cho là hiện diện trong các ý tưởng triết học hiện đại liên quan đến văn hóa, bản sắc, lịch sử hoặc ngôn ngữ được phát triển trong thời kỳ Khai sáng của thế kỷ 18. Các nhà tư tưởng hậu hiện đại đã phát triển các khái niệm như sự khác biệt, sự lặp lại, dấu vết và siêu thực tế để lật đổ " những câu chuyện lớn ", sự bất ổn của sự tồn tại và sự chắc chắn nhận thức. Triết học hậu hiện đại đặt câu hỏi về tầm quan trọng của các mối quan hệ quyền lực, cá nhân hóa và diễn ngôn trong việc "xây dựng" sự thật và quan điểm thế giới. Nhiều nhà hậu hiện đại dường như phủ nhận rằng một thực tại khách quan tồn tại, và dường như phủ nhận rằng có những giá trị đạo đức khách quan. Jean-François Lyotard định nghĩa hậu hiện đại triết học trong The Postmodern Condition, viết "Đơn giản hóa đến cùng cực, tôi xác định hậu hiện đại như sự ngờ vực về phía siêu tường thuật."
Nhân vật chức năng (tiếng Nga : personaj – maska) còn gọi là nhân vật “mặt nạ”. Nhân vật có các đặc điểm, phẩm chất cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối, không có đời sống nội tâm, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng trong truyện và trong việc phản ánh đời sống. Nhân vật đồng nhất với vai trò mà nó đóng trong tác phẩm. Nhân vật chức năng là một hiện tượng lịch sử. Trong thời cổ đại và trung đại, trọng tâm của văn học chủ yếu dồn vào sự kiện và xung đột chú không phải con người. Cho nên hầu hết các nhân vật của văn học cổ đại và trung đại, đặc biệt là nhân vật trong sáng tác truyền miệng, đều là những nhân vật chức năng. Chẳng hạn, trong truyện cổ tích, các anh hùng xuất hiện là để giết trăn tinh, yêu quái, phù thủy, cứu người đẹp; còn công chúa và vua cha thường bị nạn, được cứu và cuối cùng công chúa trở thành phần thưởng cho anh hùng. Thần tiên, ông Bụt xuất hiện để an ủi, cho phép màu, thử lòng tốt và ban hạnh phúc. Kẻ địch thủ chuyên làm ác, hại người nhưng sau bị trừng trị. Hạt nhân của loại truyện nhân vật chức năng là các vai trò và chức năng mà chúng thực hiện trong truyện và trong việc phản ánh hiện thực. Do đặc điểm ấy mà chúng dễ trở thành cái tượng trưng trong đời sống tinh thần và được hình thức hóa trong sáng tác. Chẳng hạn, trong tuồng cổ, vai trung bao giờ cũng cương trực, thực hiện đạo lý, vai nịnh phản trắc, gièm pha, hãm hại người tốt. Các nhân vật như chàng ngốc, thằng Cuội, mụ phù thủy, quái vật, người đẹp, anh hùng trong truyện cổ tích đều có ý nghĩa tượng trưng như vậy. Trong văn học từ thời Phục hưng, nhân vật chức năng thường là nhân vật thực hiện chức năng một chiều, hoặc có bề ngoài không đổi che đậy một cái gì khác ở bên trong. Chẳng hạn như nhiều nhân vật trong tiểu thuyết của Huy-gô, Đốt-xtôi-ép-xki.
Nhân vật
Một nhân vật (đôi khi được gọi là một nhân vật hư cấu) là một người hoặc đối tượng trong một câu chuyện kể (như tiểu thuyết, vở kịch, phim truyền hình, phim hoặc trò chơi video). Nhân vật có thể là hoàn toàn hư cấu hoặc dựa trên một người thực, trong trường hợp đó có thể phân biệt một nhân vật "hư cấu" so với "thực". Nhân vật, đặc biệt khi được diễn viên trong nhà hát hoặc rạp chiếu phim, là việc "mô phỏng một con người". Trong văn học, các nhân vật hướng dẫn người đọc thông qua các câu chuyện của họ, giúp họ hiểu được cốt truyện và chủ đề cần suy ngẫm. Từ cuối thế kỷ 18, cụm từ "sống với nhân vật" đã được sử dụng để mô tả một sự nhập vai hiệu quả của một diễn viên. Từ thế kỷ 19, nghệ thuật tạo hình nhân vật, được thực hiện bởi các diễn viên hoặc nhà văn, đã được gọi là nhân vật hóa. Một nhân vật đại diện cho một giai cấp hoặc một nhóm người cụ thể được gọi là một loại nhân vật. Các loại nhân vật này bao gồm cả các nhân vật kinh doanh chứng khoán và các loại được cá nhân hóa đầy đủ hơn.
3 Đặc điểm nổi bật, ưu điểm của C Sharp3.1 C Sharp là ngôn ngữ đơn giản3.2 Ngôn ngữ đa nền tảng3.3 Ngôn ngữ an toàn và hiệu quả3.4 C Sharp là ngôn ngữ hiện đại thông dụng, ít từ khóa và dễ hiểu3.5 C Sharp là ngôn ngữ lập trình thuần hướng đối tượng3.6 C là ngôn ngữ mạnh mẽ3.7 C Sharp là ngôn ngữ ít từ khóa. 3.4 C Sharp là ngôn ngữ hiện đại thông dụng, ít từ khóa và dễ hiểu. C sharp hay còn được biết đến với tên gọi ngắn gọn hơn là C được sản xuất bởi Microsoft nhằm mang lại sự tiện lợi, dễ dàng hơn cho người sử dụng (lập trình viên). Đây là ngôn ngữ dạng chung, phổ thông được thiết kế để phát triển ứng dụng trên nền tảng Microsoft và cần có .NET framework trên Windows để hoạt động. Ngôn ngữ C có thể được xem là một sự kết hợp giữa C và C++. Nó tận dụng những yếu tố tốt nhất của 2 ngôn ngữ trên để tạo ra một ngôn ngữ có tính hiện đại hơn. Từ đó phát huy tối đa được ưu điểm của hai ngôn ngữ này. Mặc dù .NET framework cũng hỗ trợ một số ngôn ngữ mã hóa khác. Với khả năng vượt trội của mình, C có thể được sử dụng để lập trình ra bất kỳ ứng dụng nào. Tuy nhiên, thế mạnh nhất của nó chính là lập trình, phát triển các ứng dụng web, hiện ngày một phổ biến trên cả nền tảng di động. C được thiết kế cho Common Language Infrastructure (CLI), bao gồm Executable Code và Runtime Environment, cho phép chúng ta sử dụng các ngôn ngữ high-level đa dạng trên các nền tảng và cấu trúc máy tính khác nhau. C với sự hỗ trợ mạnh mẽ của .NET Framework giúp cho việc tạo một ứng dụng Windows Forms hay WPF (Windows Presentation Foundation), . trở nên rất dễ dàng hơn. Ngôn ngữ C đã phát triển nhanh chóng, nhờ sự hậu thuẫn từ tên tuổi của Microsoft. Ngôn ngữ này đã đạt được một số lượng người sử dụng đông đảo. Và tới hiện nay, nó đã trở thành một trong những ngôn ngữ lập trình phổ biến nhất trên thế giới. C được thiết kế chủ yếu bởi Anders Hejlsberg một kiến trúc sư phần mềm nổi tiếng với các sản phẩm như: Turbo Pascal, Delphi, J++, WFC. Trong năm 2000, Microsoft muốn phát triển một ngôn ngữ lập trình có thể hoạt động trong nền tảng của bộ khung .NET và họ đã thành công. Đó chính là ngôn ngữ C. Điều này cũng lý giải tại sao ngôn ngữ C sharp là chỉ chạy được trên nền Windows và có cài .NET Framework. Tuy nhiên với những ứng dụng lớn của nó thì nhược điểm này không phải vấn đề quá lớn. Chỉ sau một thời gian cho ra mắt, ngôn ngữ này đã trở nên nổi tiếng. Và hiện nay, nó đang được nằm trong top 10 ngôn ngữ lập trình hàng đầu trên thế giới. Từ những ngày đầu ra mắt thì C Sharp đã nhanh chóng có được chỗ đứng và lượng người dùng sử dụng nó rất cao. Sở dĩ ngôn ngữ lập trình C Sharp này lại được ưa chuộng đến vậy là do nó có các ưu điểm, đặc điểm đặc trưng và tính năng vượt trội như sau:. Ngôn ngữ này sử dụng khá đơn giản. Nếu như bạn đã sử dụng quen các ngôn ngữ như C hay C++ hoặc thậm chí là Java thì việc dùng C Sharp cũng khá giống. C loại bỏ một vài sự phức tạp của những ngôn ngữ như Java và c++, bao gồm việc loại bỏ những macro, những template, đa kế thừa, và lớp cơ sở ảo. C nó là ngôn ngữ lập trình đa nền tảng. Chúng ta có thể xây dựng các ứng dụng .NET được triển khai trên các nền tảng Windows, Linux và Mac. C là một ngôn ngữ an toàn và hiệu quả. Ngôn ngữ C không cho phép chuyển đổi các kiểu dữ liệu có thể dẫn đến mất dữ liệu hoặc những vấn đề khác. C giúp các nhà phát triển viết code an toàn. C cũng tập trung vào việc viết code một cách hiệu quả. Nó có chứa đầy đủ các đặc tính cần có. Những khái niệm mới mẻ, mơ hồ về lập trình mà các bạn được học như xử lý ngoại lệ, những kiểu dữ liệu mở rộng, bảo mật mã nguồn đều sẽ được trang bị ngay trong C Sharp. Kiểm soát và xử lý ngoại lệ exception: Đoạn mã bị lỗi sẽ không được thực thi. C sử dụng giới hạn những từ khóa. Phần lớn các từ khóa được dùng để mô tả thông tin. Nhiều người nghĩ rằng một ngôn ngữ có nhiều từ khóa thì sẽ mạnh hơn. Điều này không phải sự thật, ít nhất là trong trường hợp ngôn ngữ C. Ngoài ra, còn một số lý do làm C là ngôn ngữ lập trình được sử dụng rộng rãi như:. C Sharp có cấu trúc ngôn ngữ giống với ngôn ngữ truyền thống. Vì vậy, người dùng cũng khá dễ dàng tiếp cận và học nhanh với C. C Sharp chính là một phần của .NET Framework, nên được sự chống lưng khá lớn đến từ bộ phận này. C Sharp được phát triển dựa trên nền tảng Java, C++ nên mang nhiều ưu điểm của các ngôn ngữ đó. Ngoài ra, ngôn ngữ này cùng còn nhược điểm đó là: Nhược điểm lớn nhất của C là chỉ chạy trên nền Windows và có cài .NET Framework. Thao tác đối với phần cứng yếu hơn so với ngôn ngữ khác, hầu hết phải dựa vào windows. Ngôn ngữ lập trình được dự định là một ngôn ngữ đơn giản, hiện đại, hướng đến nhiều mục đích sử dụng khác nhau, và là một ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng. C sẽ được sử dụng để phát triển các thành phần của phần mềm, ứng dụng theo hướng thích hợp cho việc triển khai trong các môi trường phân tán. Ngôn ngữ này sẽ được thiết kế để phù hợp với việc viết các ứng dụng cho cả hai hệ thống: hosted và nhúng. Những phần mềm với quy mô lớn, đến phần mềm có các chức năng đơn giản. Ngôn ngữ đáp ứng các nguyên tắc của ngành kỹ thuật phần mềm như kiểm tra chặt chẽ kiểu dữ liệu, kiểm tra giới hạn mảng, phát hiện các trường hợp sử dụng các biến chưa có dữ liệu, tự động thu gom rác. Tính mạnh mẽ, sự bền bỉ, và năng suất của việc lập trình là vô cùng quan trọng đối với ngôn ngữ này. Trong C có nhiều tính năng tương đối dễ học. Vì C là một ngôn ngữ cấp cao, trong đó nhiều tác vụ được xem là phức tạp nhất đã được đúc kết lại. Chính vì vậy lập trình viên không cần phải quá lo lắng khi tìm hiểu về ngôn ngữ này. Ví dụ: việc quản lý bộ nhớ không còn là trách nhiệm của người dùng nữa và sẽ được trình thu gom rác trong .NET xử lý. Mặc dù cú pháp của C sharp nhất quán và logic hơn trong C++. Nhưng vẫn còn rất nhiều điều ở C cần tìm hiểu và học hỏi. C là một ngôn ngữ khá phức tạp và để có thể thành thạo được nó bạn có thể sẽ mất nhiều thời gian hơn so với các ngôn ngữ đơn giản như Python. Lập trình viên sẽ cần phải tìm hiểu về một lượng code đáng kể để tạo các chương trình nâng cao. Chính vì vậy mà có thể là trở ngại cho một số người dùng mới. ASP.NET viết bằng C. -Chạy nhanh hơn (đặc tính của .NET) -Mã ASP.NET ko còn là mới hỗn độn. -Hỗ trợ mạnh trong quá trình xây dựng App Web. .NET runtime sẽ phổ biến và được cài trong máy client. -Việc cài đặt App C như là tái phân phối các thành phần .NET -Nhiều App thương mại sẽ được cài đặt bằng C. Ứng dụng Console là ứng dụng có giao diện text, chỉ xử lý nhập xuất trên màn hình Console, tương tự với các ứng dụng DOS ngày trước. Các ứng dụng Console thường đơn giản, chúng ta có thể dễ dàng tạo chương trình hiển thị kết xuất trên màn hình. Do đó, những ví dụ ngắn gọn ta thường sử dụng dạng chương trình Console để thể hiện. Là ứng dụng được hiển thị với giao diện đồ họa. Chúng ta chỉ cần thực hiện kéo và thả các điều khiển (control) lên cửa sổ Form. Ở môi trường .NET cung cấp công nghệ ASP.NET giúp xây dựng những trang Web động, đẹp mắt. Để tạo ra một trang ASP.NET, người lập trình sử dụng ngôn ngữ biên dịch như C. Để đơn giản hóa quá trình xây dựng giao diện người dùng cho trang Web, .NET giới thiệu công nghệ Webform. Việc tạo ra các Web control tương tự như khi chúng ta xây dựng ứng dụng trên Window Form. Hiện nay, theo thống kê có hơn 100 nghìn ứng dụng quản lý được viết bằng C. Các ứng dụng như: ứng dụng quản lý nhân sự, quản lý nhà hàng, quản lý thư viện, quán cà phê… Ngôn ngữ này còn được sử dụng để xây dựng, phát triển các ứng dụng và game trên desktop của Windows. Và nó cũng ngày càng trở nên phổ biến cho việc phát triển ứng dụng website. Từ đó có thể thấy rằng ngôn ngữ C đang được ứng dụng rất nhiều. Chính sự phổ biến này đã tạo ra hơn 17.000 công việc lập trình C. Thêm vào đó với mức lương trung bình từ 700-2000 một tháng. Đây sẽ là một ngôn ngữ kiếm bội tiền cho những người học và đam mê với nó. Vì vậy bạn hãy thử sức với ngôn ngữ này. Có thể lập trình C sharp sẽ tạo ra một cơ hội lớn thay đổi cuộc sống của bạn. Bạn có thể đăng kí khóa học lập trình tại unica ngay bây giờ để được giảm tới 40% học phí, link đăng kí tại đây.
C Sharp (ngôn ngữ lập trình)
C (C Sharp, đọc là "xi-sáp") là một ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng đa năng, mạnh mẽ được phát triển bởi Microsoft, C là phần khởi đầu cho kế hoạch .NET của họ. Tên của ngôn ngữ bao gồm ký tự thăng theo Microsoft nhưng theo ECMA là C , chỉ bao gồm dấu số thường. Microsoft phát triển C dựa trên C++ và Java. C được miêu tả là ngôn ngữ có được sự cân bằng giữa C++, Visual Basic, Delphi và Java. C được thiết kế chủ yếu bởi Anders Hejlsberg kiến trúc sư phần mềm nổi tiếng với các sản phẩm Turbo Pascal, Delphi, J++, WFC. Phiên bản gần đây nhất là 9.0, được phát hành vào năm 2020 cùng với Visual Studio 2019 phiên bản 16.8. Cái tên "C sharp" được lấy cảm hứng từ ký hiệu âm nhạc, trong đó một dấu thăng sau nốt nhạc " " nghĩa là một nốt được chơi cao hơn nửa cung. Điều này tương tự như trường hợp đặt tên của ngôn ngữ của C++, trong đó "++" chỉ ra rằng giá trị của một biến nên được tăng lên 1. Biểu tượng cũng giống với bốn ký tự "+" (trong một lưới 2x2), ngụ ý rằng ngôn ngữ là một phiên bản tăng cường của C++ (gấp đôi C++).
Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp là đội bóng nổi tiếng trên thế giới. Nếu bạn yêu thích đội tuyển Pháp, cùng theo dõi bài viết dưới đây nhé!. Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp là đội tuyển bóng đá đại diện cho nước Pháp tại các giải đấu quốc tế và là một trong những đội đã vô địch World Cup, với 2 lần vào các năm 1998 và 2018 bên cạnh 2 chức vô địch Châu Âu. Châu Âu vào các năm 1984 và 2000, đội tuyển Pháp đã vô địch Thế vận hội Olympic một lần tại Los Angeles vào năm 1984 và Cúp Liên đoàn các châu lục hai lần liên tiếp vào các năm 2001 và 2003. Pháp là một trong bốn đội châu Âu tham dự World Cup đầu tiên vào năm 1930. Cô cũng là một trong tám đội giành được danh hiệu cao quý nhất thế giới. Những chú khỉ đột này cũng đã mang về 2 chức vô địch Châu Âu và 2 Cúp Liên đoàn (2001, 2003). Đội tuyển Pháp cùng với Brazil và Argentina là 3 đội giành được 3 chức vô địch bóng đá nam lớn nhất trong hệ thống FIFA: World Cup, Olympic (HCV), Confederations Cup. Pháp đã vượt qua những khó khăn ban đầu trong thế kỷ trước để xây dựng một đội bóng ổn định và thành công. 3 thế hệ vàng vĩ đại của đội là những năm 1950, 1980 và 1990 với nhiều danh hiệu lớn. Năm 1984, đội tuyển Pháp vô địch dưới sự dẫn dắt của vua phá lưới Michel Platini và gây chấn động tại Euro 1984. Kể từ năm 1998, đội tuyển Pháp thường chọn sân Stade de France ở ngoại ô Paris làm sân nhà. Đối thủ không đội trời chung của đội bóng này là nước láng giềng Ý, nhưng họ cũng từng đối đầu với Bỉ, Anh trong những ngày đầu và Đức trong những năm 1980. => Bongdawap.com trân trọng gửi đến bạn nhận định bóng đá wap, soi kèo bóng đá, tip bóng đá miễn phí, nhận định của chuyên gia về các giải đấu chuyên nghiệp. Đội tuyển bóng đá Pháp là đại diện duy nhất của đất nước hình lục lăng góp mặt ở tất cả các giải đấu quốc tế. Đây là một trong những đội tuyển quốc gia được đánh giá cao về thực lực trong quá khứ và hiện tại của bóng đá thế giới. Sự ra đời của đội tuyển bóng đá Pháp gắn liền với sự ra đời của Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) vào năm 1904. Kể từ đó, các trận đấu quốc tế được diễn ra dưới sự chỉ đạo của FIFA. Trước năm 1904 cũng có một số trận đấu với những cầu thủ giỏi nhất của Pháp, chủ yếu là dưới tiêu đề Union des Sociétés françaises de sports sportslétiques – USFSA. Đội tuyển Pháp đã vô địch World Cup hai lần vào các năm 1998 và 2018. Chức vô địch đầu tiên của những chú gà trống được tổ chức trên sân nhà của chính họ. Trước khi giành chức vô địch World Cup lần đầu tiên trong lịch sử, đội tuyển Pháp đã gặp khủng hoảng nhân sự khi tạm thời không thể cạnh tranh chức vô địch. Tuy nhiên, khi huyền thoại bóng đá Pháp Zidane nổi lên, tài năng của ông đã đưa Pháp lên đỉnh thế giới. Hai năm sau, dưới sự dẫn dắt của vị thuyền trưởng này, Pháp đã lập kỷ lục khi lên ngôi đương kim vô địch thế giới. Hai mươi năm sau, những thế hệ bóng đá Pháp nối tiếp nhau mang về vinh quang cho đất nước. Thế hệ này hứa hẹn nhiều thành công rực rỡ hơn nữa trong những năm tới. Ngoài 2 chức vô địch Euro, Pháp còn giành được 2 Cúp Liên đoàn và 1 chức Vô địch bóng đá Olympic. Pháp là đất nước được nhiều người biết đến với tháp Eiffel và những dòng sông thơ mộng. Tuy nhiên, khi nhắc đến đội tuyển Pháp, người hâm mộ lại nhắc đến cái tên những chú gà trống Gô Loa. Ai đã từng đi du lịch Pháp chắc chắn sẽ bắt gặp rất nhiều hình ảnh những chú gà Goloa xuất hiện trên các tháp canh, nhà thờ. Đây là những con gà tượng trưng cho tôn giáo, niềm tin và hy vọng của người dân. Ngoài ra, hình ảnh này còn gắn liền với sự đại diện của nền cộng hòa. Những chú gà trống này luôn gáy đúng giờ và luôn mang đến sự quả cảm cho biểu tượng của bóng đá Pháp. Điều này nhắc nhở các cầu thủ của họ phải là những chiến binh và không chùn bước trước khó khăn.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp
Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp (tiếng Pháp: Équipe de France de football) là đội bóng đá đại diện Pháp tham dự các giải đấu quốc tế và nằm trong số những đội tuyển đã vô địch thế giới, với 2 lần vào các năm 1998 và 2018 bên cạnh hai lần vô địch châu Âu vào các năm 1984 và 2000 và một lần vô địch UEFA Nations League vào năm 2021. Ngoài ra, đội tuyển Pháp đã vô địch Olympic 1 lần vào năm 1984 tại Los Angeles và FIFA Confederations Cup hai lần liên tiếp các năm 2001 và 2003. Pháp thường thi đấu các trận đấu sân nhà tại Stade de France ở Saint-Denis, Île-de-France. Pháp là một trong 4 đội châu Âu tham dự kỳ World Cup đầu tiên tổ chức năm 1930 và là một trong 8 đội bóng từng bước lên ngôi vị cao nhất của bóng đá thế giới. Trong phòng truyền thống của đội còn có 2 chức vô địch châu Âu và cộng thêm 2 chức vô địch Confederation Cup các năm 2001 và 2003. Đội cùng với tuyển Argentina và tuyển Brasil là 3 đội tuyển giành được 3 chức vô địch bóng đá nam quan trọng nhất trong hệ thống thi đấu của FIFA bao gồm World Cup, Cúp Liên đoàn các châu lục và Huy chương vàng Thế vận hội.
Môi trường Hồi Giáo giáo đã thúc đẩy sự xuất hiện của một loại hình nghệ thuật đặc sắc. Đó chính là nghệ thuật thư pháp Hồi Giáo. Thư pháp theo cách hiểu đơn giản là nghệ thuật viết chữ đẹp. Thư pháp Hồi Giáo là phép viết chữ của người Arab được nâng lên thành một nghệ thuật, là phương tiện để biểu hiện cái tâm, cái khí của người dùng bút. Sự phối hợp giữa hình ảnh và ý nghĩa đã tạo ra ý nghĩa ẩn dụ, đây cũng chính là những tấm mạng phủ lên các tác phẩm nghệ thuật Hồi Giáo nói chung và nghệ thuật thư pháp nói riêng. Thư pháp Hồi Giáo là một nghệ thuật, các tác phẩm thư pháp vừa mang mục đích thoả mãn nhu cầu về cái đẹp của con người vừa mang mục đích phục vụ cho tôn giáo. Người nghệ sĩ viết thư pháp để trang trí trong các thánh đường, các vòm cầu nguyện,… Nghệ thuật thư pháp còn xuất hiện trong các sách – sách thánh, kinh Qu’ran, sách văn học nghệ thuật và các vật trang trí trong đời sống thế tục như: trang trí trong các ngôi nhà, các toà lâu đài. Đó là những bức thư pháp được viết lên tường, trên các miếng gạch men; các đồ dùng trong thánh đường hay trong nhà như: cây đèn, hay các loại gốm men xanh,…. Mỗi bức thư pháp là một sáng tạo nghệ thuật của những người nghệ sĩ. Ta có thể thấy được ở thời đại bấy giờ với những chất liệu và kĩ thuật nhất định người nghệ sĩ đã viết nên những câu kinh Qu’ran bằng màu vàng của kim loại vàng, kết hợp với những màu sắc khác như màu bạc hay màu xanh,… đã làm cho những trang kinh trở thành một tác phẩm nghệ thuật chân chính chứ không chỉ là vật để ghi lại những điều răng dạy của thượng đế Allah. Mỗi bức thư pháp là một là một sự bí ẩn ẩn chứa đằng sau những tấm mạng. Chúng ta khi thưởng thức những tác phẩm nghệ thuật này cũng như đang thực hiện động tác vén mạng, Thượng đế ẩn sau bảy mươi tấm mạng của ánh sáng và bóng tối, nên càng vén ta càng thấy sự bí ẩn là vô cùng vô tận. Nghệ thuật thư pháp Hồi Giáo đã đạt tới đỉnh cao khi những người nghệ sĩ không chỉ viết thư pháp trên giấy mà họ còn viết lên trên các công trình kiến trúc, các vật dụng sinh hoạt. Để đem chữ viết trang trí lên các bức tường là một điều không phải đơn giản, không phải ai cũng có thể làm được, các nghệ sĩ vừa bảo lưu những điều răng dạy của Allah vừa là những người học tập sự sáng tạo của Allah trong việc biến tấu những chữ viết thành những đường nét hài hoà tinh tế để trang trí trong các thánh đường. Nhờ vậy mà không khí trong các thánh đường trở nên thiêng liêng hơn, đầy ý nghĩa hơn, các bức tường không còn trở nên đơn điệu nữa, do đó thu hút các giáo dân gắn bó và tôn kính tôn giáo của họ hơn, thánh đường đã trở thành nơi chứa đựng cái đẹp, mà con người thì luôn yêu cái đẹp là vướn tới cái đẹp. Ngoài ra, những bức thư pháp được viết trên gạch men, được dùng để trang trí trong nhà còn mang ý nghĩa Hạnh phúc và may mắn là những đồng hành tuyệt vời. Những đồ vật khi được viết những nét chữ Arab thiêng liêng lên đó sẽ rất có giá trị và rất được trân trọng. Những dòng chữ đó có thể là những câu trích trong kinh Qu’ran hay cũng có thể là những câu thơ trữ tình,…. Nghệ thuật thư pháp Hồi Giáo là một đỉnh cao trong nền thư pháp thế giới, bên cạnh đó một số nghệ thuật thư pháp khác cũng rất phát triển như: thư pháp của người Trung Quốc, thư pháp Tiếng Việt, thư đạo Nhật Bản,… Trong đó thư pháp của người Trung Quốc được khá nhiều người biết đến nhất. Trong quá trình sáng tạo chữ viết của mình người Trung Hoa đã bắt đầu chú trọng vào phép viết chữ, từ những chữ viết được viết trên lụa (chữ lệ), những chữ được khắc trên tre, nứa, trên chuông hoặc những kim loại bằng đồng (chữ kim), cho đến chữ triện và chữ hiện đại như ngày nay, đó là một quá trình rất dài và kì công. Thư pháp được xem là linh hồn của mỹ thuật Trung Hoa, viết thư pháp là một loại hình nghệ thuật có tính tổng hợp cao, là nghệ thuật biểu hiện tâm hồn của tác giả, người ta còn có câu nét chữ nết người cũng từ việc viết chữ mà xác định được tâm tính của người viết. Vì vậy mà viết chữ cũng được xem là nghệ thuật. Thư pháp Trung Hoa chủ yếu xuất hiện trong các sách vở, các câu đối treo trong nhà, những dòng chữ đề thơ trong các bức tranh, cây quạt hay các vật dụng sinh hoạt thế tục khác. Khác với thư pháp Hồi Giáo, người Trung Hoa viết thư pháp không chịu sự chi phối của yếu tố tôn giáo và cũng không nhằm mục đích chính là phục vụ cho tôn giáo. Họ xem viết chữ là một thú giải trí tao nhã của những bậc tài danh, viết thư pháp còn là một trong những cách để rèn luyện tính kiên nhẫn, giữ tâm tính ôn hoà. Nghệ thuật thư pháp chữ Quốc ngữ xuất hiện muộn hơn, tuy nhiên vẫn được chú trọng, người Việt coi việc viết chữ và cho chữ là một điều rất thiêng liêng, việc viết thư pháp cũng chịu không ít ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa nên có nhiều nét tương đồng với thư pháp của người Trung Quốc. Hay nghệ thuật thư đạo của Nhật Bản cũng là một đặc sắc thư pháp đáng chú ý. Ở Nhật Bản khiếu thẩm mĩ luôn dựa vào sự giản dị kết hợp với tính trầm tư mặc tưởng của Thiên Đạo và tinh thần võ sĩ đạo đã làm cho nghệ thuật thư pháp phát triển thành một phong cách rất đặc biệt. Các bức thư pháp không chỉ đơn giản là tác phẩm nghệ thuật mà nó còn là sự phối hợp hài hoà với tinh hoa Thiên Đạo Nhật Bản. Với đặc điểm này, thư pháp còn mang ý nghĩa truyền tải nội dung tâm pháp. Người Hồi Giáo giáo coi nghệ thuật viết chữ là chức năng cao quý, một môn khoa học ưu việt và chiếm số lượng lớn lực lượng sáng tác lẫn người thưởng thức. Khu Di Tích Khảo Cổ Gobustan sở hữu hơn 6.000 bản khắc đá có niên đại từ 5.000 – 40.000 năm – phản ánh cuộc sống, văn hóa thời tiền sử. Con đường tơ lụa huyền thoại nối liền Trung Hoa rộng lớn với vùng Tây Á kỳ bí, gắn liền với hàng ngàn câu chuyện truyền thuyết Nghìn Lẻ Một Đêm màu nhiệm; không đơn thuần chỉ là huyết mạch thông thương buôn bán của những “thương nhân lạc đà”, mà còn là một hành trình văn hóa, tôn giáo đa dạng được hòa trộn. Con đường tơ lụa xứng đáng là con đường vĩ đại nhất trong lịch sử loài người. Môi trường Hồi Giáo đã thúc đẩy sự xuất hiện của một loại hình nghệ thuật đặc sắc, đó chính là nghệ thuật thư pháp Hồi Giáo. Sự phối hợp giữa hình ảnh và ý nghĩa đã tạo ra ý nghĩa ẩn dụ, đây cũng chính là những tấm mạng phủ lên các tác phẩm nghệ thuật Hồi Giáo nói chung và nghệ thuật thư pháp nói riêng. Nếu như trên mặt đất sư tử được coi là chúa tể, dưới đại dương có cá mập thì trên không trung, loài chim đại bàng được xem như chúa tể săn mồi dũng mãnh nhất. Việc thuần hóa một chú chim đại bàng được xem như nghệ thuật mà người huấn luyện phải đổ nhiều tâm sức, sự nhẫn nại và kỳ công chăm sóc. Có những giấc mơ từ lâu đã đi vào tiềm thức của những người du mục Kazakhstan là được chinh phục những con đại đại bàng dũng mãnh nhất. Đó là hình ảnh kiêu hùng của những người đàn ông tay mang theo đại bàng cưỡi ngựa lao vun vút trên thảo nguyên mênh mông khắc nghiệt. Nowruz là tên gọi tết cổ truyền của người Kazakhstan , đây là một trong những lễ hội lớn nhất của cư dân vùng Trung Á. Hằng năm cứ vào khoảng ngày 22 tháng 02 người dân nơi đây lại tất bật chuẩn bị cho những nghi thức chào đón năm mới. Nowruz là một lễ hội truyền thống có nguồn gốc từ hàng trăm năm của người Hồi giáo. Đường cứ đi thì thành. Người sống lâu thì hình thành văn hóa. Trải qua một quá trình nhiều thay đổi, vùng đất Kazakhstan đầy bí ẩn với thiên nhiên kỳ thú cùng cuộc sống du mục độc đáo đã tạo cho đất nước, cho mảnh đất nơi đây một nền văn hóa đa dạng và đậm đà màu sắc. Chợ Green Bazzar là nơi hội tụ sản phẩm của nhiều dân tộc và các mặt hàng từ khắp nơi tên thế giới. Là một khu chợ vùng Trung Á nơi đây không có sự đa dạng về các loại rau, nhưng lại vô cùng phong phú các mặt hàng về thịt, sữa và đặc biệt là các loại hạt. Một khi đã đặt chân đến thành phố táo Almaty thì bạn nên ghé thăm công viên Panfilov nếu không đó sẽ là điều bạn nuối tiếc nhất trong hành trình. Bước vào công viên này, bạn sẽ nhận ra ngay vẻ đẹp cổ điển, nên thơ của nó. Từ một vùng đất trống được thiết kế quy hoạch một cách hợp lý đã trở thành một trong những thành phố phát triển nhanh nhất thế giới. Thủ đô Astana nơi được mệnh danh là Dubai của vùng Trung Á, thành phố có những công trình kiến trúc hiện đại mang đậm chất văn hóa khu vực và chứa đựng những ý thú vị. Shymbulak Ski là khu resort 5* với nhiều dịch vụ giải trí mùa đông hấp dẫn. Vào tháng 12 cho đến tháng 4 hằng năm chính là khoảng thời gian thích hợp nhất để đến trượt tuyết. Đến với khu trượt tuyết Shymbulak du khách có thể tự mình tham gia những hoạt động giải trí thú vị. Trải nghiệm cảm giác lao vút cùng những ván trượt hay những chiếc xe trượt tuyết, nghe tiếng réo của gió vun vút bên tai. Những người du mục Kazakhstan đã và đang sống một cuộc sống như thế từ bao đời nay. Họ chăn thả ngựa và cừu trên những đồng cỏ bát ngát, cho đến khi những thảo nguyên không còn đủ cỏ cho gia súc cũng chính là lúc những nhóm người du mục đi tìm những vùng đất mới tốt tươi hơn. Trải nghiệm cuộc sống du mục, đến với xứ sở của người Kazakhstan, bạn sẽ được cưỡi ngựa trên thảo nguyên, nằm đọc sách thư thái hay đi theo những đoàn chăn gia súc. Đến thành phố Almaty bạn không thể nào bỏ qua những chuyến du ngoạn đến bộ ba hộ tuyệt tác thiên nhiên của đất nước Kazakhstan.
Thư pháp Hồi giáo
Thư pháp Hồi giáo là loại hình nghệ thuật sử dụng chữ viết tay trong các ngôn ngữ sử dụng bảng chữ cái Ả Rập hay các bảng chữ cái có nguồn gốc Ả Rập. Nó bao gồm thư pháp Ả Rập, Ba Tư, Ottoman, Afghanistan, Pakistan và Ấn Độ. Thư pháp được biết đến trong tiếng Ả Rập là khatt Arabi (خط عربي‎) có nghĩa là đường nét, thiết kế Ả Rập. Quá trình phát triển của Thư pháp Hồi giáo gắn bó chặt chẽ với Kinh Qur an, các chương và các đoạn được trích dẫn từ Qur an là nguồn tư liệu phổ biến nhất được Thư pháp Hồi giáo dựa vào. Mặc dù việc dùng hội hoạ để miêu tả người và động vật không bị Qur an cấm đoán dứt khoát, các bức hoạ theo truyền thống bị giới hạn trong các sách vở Hồi giáo để ngăn ngừa sự sùng bái thần tượng. Trong thế giới cổ đại, các hoạ sĩ thường vượt qua các rào cản luật pháp bằng cách dùng cách dòng chữ nhỏ li ti để tạo nên đường nét và hình ảnh. Thư pháp trong xã hội Hồi giáo vừa là loại hình nghệ thuật có giá trị, vừa phù hợp với đạo đức tôn giáo.
Chiến tranh ủy nhiệm là loại hình chiến tranh được tiến hành bằng cách thông qua lực lượng của một hoặc nhiều nước khác, hay các tác nhân phi nhà nước (còn gọi là chiến tranh qua tay người khác). Loại hình chiến tranh này đang được một số nước, đứng đầu là Mỹ coi trọng sử dụng để can dự vào các cuộc xung đột nhằm đạt mục tiêu chiến lược mà không sử dụng lực lượng trực tiếp tham chiến. Trong lịch sử chiến tranh thế giới, CTUN có mầm mống từ rất sớm. Tuy nhiên, đến thế kỷ XX, nó mới trở thành một loại hình chiến tranh có tính phổ biến. Điển hình, trong những năm đầu của Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, Mỹ tuyên bố trung lập, nhưng đã cung cấp vũ khí, trang bị (VKTB) ồ ạt cho quân đồng minh nhằm thực hiện mục đích can thiệp vào các sự kiện tại châu Âu theo hướng có lợi cho Mỹ. Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Mỹ vẫn theo đuổi chiến lược tương tự cho đến năm 1941. Từ năm 1950, loại hình CTUN được định hình rõ nét hơn thông qua những quan điểm, học thuyết (tiêu biểu là “Học thuyết Tru-man”1) và được Mỹ áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới, mang đến những hệ lụy vô cùng nguy hiểm, phức tạp. “Học thuyết Tru-man” đã đề cập những nội dung cơ bản của CTUN, với các phương thức tiến hành là: bảo đảm quân sự (bảo đảm hậu cần, chỉ huy kiểm soát, vận tải, bảo dưỡng, cấp dưỡng và hỗ trợ kỹ thuật); cố vấn quân sự (huấn luyện, truyền đạt kinh nghiệm); viện trợ quân sự (cung cấp VKTB quân sự); bảo đảm an ninh (bảo vệ, bảo đảm an toàn cho các cá nhân lãnh đạo của lực lượng được ủy nhiệm), v.v. Thực tiễn từ sau những năm 1950 đến nay, đã diễn ra nhiều cuộc CTUN do chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ tiến hành. Điển hình là Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ (1961 - 1965) trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, với công thức “Cố vấn Mỹ + vũ khí Mỹ + Quân đội ngụy quyền Sài Gòn”. Thời gian gần đây, loại hình CTUN được Mỹ và các nước phương Tây sử dụng phổ biến hơn (nhất là trong các cuộc xung đột ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi), nhằm mở rộng lợi ích của họ tại các khu vực này nhưng không sử dụng lực lượng quân đội trực tiếp tham chiến. Theo đó, Mỹ đã cung cấp VKTB, hậu cần, tài chính, tin tức tình báo,. cho lực lượng đối lập ở một loạt các quốc gia để lật đổ chế độ đương nhiệm. Tại Xô-ma-li, Mỹ đã tiến hành chiến dịch chống lại lực lượng du kích Hồi giáo An-sa-báp thông qua các hoạt động tình báo, huấn luyện cho các đặc vụ người Xô-ma-li, sử dụng chính những người châu Phi để tiến hành CTUN hoàn toàn theo cách cổ điển. Bên cạnh đó, cũng có trường hợp Mỹ tiến hành CTUN song song với can thiệp quân sự trực tiếp, như: Chiến dịch lật đổ Tổng thống Ca-đa-phi của Li-bi năm 2011. Tại Xy-ri, quốc gia đang phải đối mặt với một cuộc CTUN kể từ khi nội chiến bùng nổ, các nhóm nổi dậy được Mỹ, phương Tây và một số nước A-rập viện trợ VKTB, tài chính,. để chống lại chính quyền của Tổng thống Ba-sa An Át-xát. Đây được xem như một ví dụ điển hình về CTUN thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Mới đây nhất, ngày 11-9-2014, tổng thống Mỹ B.Ô-ba-ma đã công bố Chiến lược toàn diện làm suy yếu và tiêu diệt hoàn toàn IS (Nhóm Nhà nước Hồi giáo tự xưng ở Xy-ri và I-rắc); trong đó, nội dung cốt lõi của Chiến lược là tăng cường hoạt động quân sự và hỗ trợ các lực lượng đối đầu với IS trên bộ (Quân đội I-rắc và lực lượng người Cuốc). Theo nhận định của các chuyên gia nước ngoài, hiện nay, khu vực châu Phi được xem là nơi triển khai CTUN hàng đầu của Mỹ. Nghiên cứu cho thấy, các cuộc CTUN là một trong những hình thái mới của chiến tranh xâm lược. Nó được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, song tựu trung có thể rút ra bốn hình thức cơ bản: cung cấp nhân lực, VKTB, tài chính và phương tiện phi quân sự (sức mạnh mềm). Trên thực tế, các nước “ủy nhiệm” có thể sử dụng một hay kết hợp các hình thức trên để hỗ trợ lực lượng “thế thân” cho họ trong cuộc chiến; trong đó, cung cấp VKTB cho lực lượng “được ủy nhiệm” là phổ biến nhất. Ngoài ra, các nước “ủy nhiệm” còn cung cấp thông tin tình báo, hỗ trợ lực lượng “được ủy nhiệm” xây dựng kế hoạch tác chiến, tiến hành chiến tranh thông tin, tâm lý nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín và làm suy yếu sức mạnh chính trị, tinh thần của nước đối tượng tiến hành CTUN, v.v. Từ thực tiễn có thể rút ra một số điều kiện cơ bản để dẫn tới CTUN. Thứ nhất, tình hình nội bộ quốc gia xuất hiện những mâu thuẫn không điều hòa được, đặc biệt là giữa nhân dân và chính quyền. Chính quyền đương nhiệm yếu kém, xử lý không tốt các vấn đề nổi cộm, nhạy cảm hoặc mắc sai lầm nghiêm trọng trong đối phó với biểu tình, bạo loạn. Các thế lực bên ngoài lợi dụng, kích động biểu tình biến thành bạo loạn chính trị, thậm chí là bạo loạn có vũ trang, gây ra thương vong lớn, tạo cớ “can thiệp nhân đạo”, ủng hộ, viện trợ cho lực lượng đối lập gây bạo loạn. Thứ hai, một bộ phận quan chức trong chính quyền “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cùng với lực lượng biểu tình hình thành lực lượng vũ trang đối lập, đối trọng với chính quyền. Trong khi đó, chính quyền đương nhiệm chưa coi trọng đúng mức đến xây dựng lực lượng vũ trang hoặc không có khả năng xây dựng lực lượng này đủ mạnh để bảo vệ đất nước, bảo vệ chính quyền, dẫn tới mất quyền kiểm soát, không trấn áp được biểu tình, bạo loạn có vũ trang do phe đối lập tổ chức. Thứ ba, lực lượng đối lập được nước ngoài hà hơi tiếp sức, chỉ đạo, hậu thuẫn, viện trợ tài chính, VKTB, gây ra nội chiến. Đây là cơ sở chủ yếu để bạo loạn chính trị quy mô lớn phát triển thành CTUN. Thứ tư, các thế lực bên ngoài tiến hành can thiệp quân sự hạn chế để hỗ trợ lực lượng đối lập. Can thiệp quân sự từ bên ngoài là mục tiêu chính yếu của các nước đế quốc gây CTUN. Trên thực tế, việc can thiệp từ bên ngoài hiện nay có đặc điểm mới, diễn ra phức tạp với nhiều hình thức và cấp độ khác nhau, trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, văn hóa, kinh tế, quân sự và ngoại giao; trong đó, can thiệp quân sự giữ vai trò quyết định. Mục đích chủ yếu của hoạt động can thiệp từ bên ngoài nhằm làm suy yếu đối phương về kinh tế, cô lập về chính trị và ngoại giao; trực tiếp chi viện cho lực lượng đối lập về quân sự, nhất là chi viện hỏa lực đường không; khi cần thiết và có điều kiện có thể can thiệp trực tiếp bằng các lực lượng đặc nhiệm, thậm chí bằng cả lực lượng tiến công trên bộ. Đây là những nấc thang cao nhất, nguy hiểm và quyết định nhất của CTUN. Có thể nói, CTUN liên quan mật thiết đến chiến lược “Diễn biến hòa bình”, một thuộc tính quan trọng trong chiến lược của chủ nghĩa đế quốc, nhằm đạt “mục tiêu kép” (bảo vệ hay mở rộng lợi ích tại các khu vực trên thế giới; giảm thiểu tổn thất, thương vong, chi phí tài chính và giải quyết hậu quả chiến tranh) thông qua phương thức chiến tranh gián tiếp. Trong bối cảnh hiện nay, CTUN đã có bước phát triển mới cả về phương thức, thủ đoạn tiến hành, quy mô lực lượng, đã và đang tạo ra mối nguy hiểm cho nhiều quốc gia, dân tộc, nhất là các quốc gia có vị trí địa chiến lược, không cùng lợi ích, không chịu đi theo quỹ đạo của Mỹ và các nước phương Tây. Trong tương lai, loại hình chiến tranh này sẽ được Mỹ và các nước phương Tây vận dụng phổ biến hơn thay thế cho các kiểu can thiệp trực tiếp vừa tốn kém lại nhiều rủi ro, đúng như học giả Mỹ Phi-líp Bóp-bít - chuyên gia về chiến tranh tại Đại học Prin-xe-tô (Mỹ) - kết luận: “Trong tương lai, việc sử dụng các lực lượng quân sự ủy nhiệm sẽ thay thế cho các đội quân thường trực tốn kém và có thể giúp kiểm soát thực địa tốt mà không cần hy sinh nhiều tính mạng của người Mỹ như khi triển khai lực lượng đến thực địa”. Hiện nay, nguy cơ phải đối đầu với CTUN là một thực tế cần quan tâm đối với mỗi quốc gia khi chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bằng nhiều thủ đoạn thâm hiểm. Nhận diện rõ nguy cơ và để chủ động phòng ngừa có hiệu quả CTUN cần coi trọng một số giải pháp chủ yếu sau:. Một là, chú trọng xây dựng, phát triển đất nước ngay từ trong thời bình, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; đồng thời, chăm lo xây dựng quân đội vững mạnh, trung thành với chế độ, sẵn sàng bảo vệ vững chắc tổ quốc trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Hai là, nắm chắc và dự báo chính xác tình hình, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hòa bình”, nhất là âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch, ngăn ngừa và loại trừ mầm mống ý đồ can thiệp từ bên ngoài có thể dẫn tới một cuộc CTUN. Ba là, tăng cường mọi mặt tiềm lực của đất nước. Trong đó, tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển bền vững gắn với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh, không để bị cô lập hoặc phụ thuộc vào nước ngoài. Bởi từ chỗ phụ thuộc về kinh tế sẽ dễ dẫn tới phụ thuộc về chính trị, khi đó sẽ khó giữ được sự ổn định đất nước và đây sẽ là điều kiện, thời cơ thuận lợi để các thế lực thù địch tạo cớ can thiệp. Bốn là, thực hiện chiến lược đối ngoại khôn khéo, hiệu quả, nhằm xây dựng, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. Đây là nội dung cần đặc biệt quan tâm khi xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng; đối thoại, hợp tác, xây dựng và tạo sự tin cậy lẫn nhau đang là xu thế chủ đạo trên thế giới. Theo đó, cần thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích của mỗi quốc gia và tuân thủ luật pháp quốc tế. Trong công tác đối ngoại coi trọng giải quyết hài hòa mối quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, bạn bè truyền thống và các nước lớn, đối tác quan trọng; xử lý đúng mối quan hệ “đối tác”, “đối tượng” trên từng lĩnh vực cụ thể, tránh để bị cô lập, đối đầu. Năm là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ động phòng ngừa, ngăn chặn với linh hoạt, khôn khéo xử lý mầm mống của CTUN. Vấn đề quan trọng là, tuyệt đối không mơ hồ mất cảnh giác, coi nhẹ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; nâng cao năng lực quản lý của chính quyền đối với mọi mặt đời sống xã hội, nhất là đối với các vấn đề nhạy cảm, phức tạp, như: dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, v.v. Trên cơ sở đó, tích cực chuẩn bị chu đáo về lực lượng, thế trận, có biện pháp xử lý đúng đắn, kịp thời những vấn đề bức xúc trong xã hội không để nổi cộm kéo dài, tạo các “điểm nóng” căng thẳng dẫn đến bùng phát biểu tình, bạo loạn trên diện rộng. Trường hợp xảy ra bạo loạn, cần phát huy sức mạnh tổng hợp, linh hoạt, khôn khéo, kiên quyết xử lý không để lan rộng, hình thành lực lượng đối lập, bạo loạn vũ trang. Cùng với đó, có các biện pháp ngăn chặn không để các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp, gây ra “nội chiến” và chuyển thành CTUN. Quá trình thực hiện, kết hợp chặt chẽ công tác tuyên truyền, giác ngộ quần chúng với quản lý chặt chẽ các phương tiện truyền thông, định hướng dư luận, phân hóa kẻ thù với sử dụng các biện pháp mạnh, kiên quyết, vô hiệu hóa bọn cầm đầu, nhanh chóng ổn định tình hình, không để kẻ địch bên ngoài tạo cớ can thiệp vũ trang. 1 - Tài liệu do Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ xây dựng mang mật danh “NSC-68” được Tổng thống Mỹ Tru-man ký năm 1950.
Chiến tranh ủy nhiệm
Chiến tranh ủy nhiệm là một cuộc xung đột vũ trang giữa hai quốc gia hoặc các chủ thể phi quốc gia hoạt động vì sự xúi giục hoặc nhân danh trung lập các bên khác không liên quan trực tiếp đến chiến sự. Để một cuộc xung đột được coi là một cuộc chiến ủy nhiệm, phải có mối quan hệ trực tiếp, lâu dài giữa các tác nhân bên ngoài và những người hiếu chiến có liên quan. Mối quan hệ đã nói ở trên thường có các hình thức tài trợ, huấn luyện quân sự, vũ khí hoặc các hình thức hỗ trợ vật chất khác giúp các bên duy trì nỗ lực cho cuộc chiến tranh của mình. Trong thời cổ đại và thời Trung cổ, nhiều lực lượng ủy nhiệm phi quốc gia là các lực lượng bên ngoài đã được xâm nhập vào một cuộc xung đột trong nước và liên kết với một lực lượng hiếu chiến nhằm có được ảnh hưởng và tăng thêm các lợi ích của chính họ trong khu vực. Các lực lượng ủy nhiệm có thể được đưa vào do một thế lực bên ngoài hoặc địa phương và thường được sử dụng dưới dạng quân đội bất thường nhằm đạt được mục tiêu của nhà tài trợ trong khu vực tranh chấp.
Tâm lý học lâm sàng (TLHLS) là một chuyên ngành độc lập của tâm lý học. Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội, đặc biệt là nhu cầu chăm sóc sức khỏe tinh thần của con người ngày càng được nâng cao thì tâm lý học lâm sàng lại càng được chú ý. Thuật ngữ “lâm sàng” bắt nguồn từ “cliné” trong tiếng Hy Lạp (“clinical” trong tiếng Anh hay “clinique” trong tiếng Pháp) có nghĩa là “giường”. Thuật ngữ này được sử dụng từ lâu trong lĩnh vực Y khoa, dùng để chỉ sự thăm khám của bác sĩ tại giường bệnh. Sự thăm khám này sẽ giúp cho bác sĩ có được chẩn đoán và phác đồ điều trị cho bệnh nhân hiệu quả nhất. Thuật ngữ tâm lý học lâm sàng (Clinical Psychology) là sự kết hợp của “Psychology” – tâm lý học với “clinical” – “giường”. Khi dịch ra tiếng Việt, để cho thuật ngữ mang tính khoa học các nhà phiên dịch lựa chọn cách phiên âm Hán Việt nên gọi “lâm sàng” thay cho “giường”. Tâm lý học lâm sàng ra đời tại Pháp vào những năm 1907 của thế kỷ XX bởi Witmer chịu ảnh hưởng của Y học và Triết học. Trải qua một lịch sử xây dựng và phát triển lâu dài cho đến nay, chuyên ngành này được công nhận như một chuyên ngành khoa học độc lập của tâm lý học trên toàn thế giới. Đặc biệt, thuật ngữ này còn được sử dụng để gọi tên cho một nghề – “nhà tâm lý học lâm sàng” (clinical psychologist) ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức v.v…. Philippe Pinel (1745-1824): Pinel được xem như người khai sinh ra tâm lý học lâm sàng. Ông là nhà tâm lý học đã đưa các yếu tố lâm sàng và nhân văn vào Tâm thần học, ông chứng minh rằng để giúp bệnh nhân khỏi bệnh, thay vì xem họ như người loạn trí, các cán bộ y tế cần xem họ như những người cần được trợ giúp, từ đó can thiệp dựa trên sự thấu hiểu và quan tâm nhằm giúp đỡ và khiến bệnh nhân cảm thấy dễ chịu. Phương pháp lâm sàng đầu tiên mà Philippe PINEL phác họa là phương pháp dựa vào sự quan sát bệnh nhân. Theo ông, các bác sỹ phải dùng TLHLS để chữa các bệnh tâm thần. Ông chú ý phân tích và quan sát các trường hợp lâm sàng của từng cá nhân cụ thể để tìm hiểu sâu hơn về bệnh lý học. Lightner Witmer(1867-1956): Năm 1896, nhà tâm lý học người Mỹ Lightner Witmer là người đầu tiên giới thiệu các thuật ngữ TLHLS và phương pháp lâm sàng. Ông thành lập Phòng khám tâm lý (Psychological Clinic) đầu tiên trên thế giới tại Pennsylvania. Phòng khám này chuyên chăm sóc và chữa trị cho trẻ em có vấn đề về sức khỏe tinh thần. Sigmund Freud (1856-1939): Freud chỉ dùng từ tâm lý học lâm sàng có một lần duy nhất trong bức thư gửi đến Fliess (1858-1928) vào năm 1899. Ông không nhắc đến khái niệm này vì theo ông, TLHLS phụ thuộc trực tiếp vào sự quan sát bệnh nhân, trong khi dù rằng có dựa trên lâm sàng (ở khía cạnh tiếp cận trực tiếp với bệnh nhân), Phân tâm học mời gọi sự lắng nghe của vô thức để suy đoán các triệu chứng. Freud là người có ảnh hưởng nhiều đến các học thuyết lâm sàng và các kỹ thuật trị liệu. Ngày nay, nhiều nhà tâm lý lâm sàng vẫn tham khảo Phân tâm học. Mặc dù ra đời từ đầu thế kỷ XX song nhà tâm lý lâm sàng vẫn chỉ là một chuyên ngành “ngoài lề” tại Pháp. Cho đến sau Chiến Tranh thế giới lần thứ 2 tức là khoảng gần 50 năm sau đó TLHLS mới thực sự được bành trướng. Năm 1949 Daniel Lagache (1903 -1972) triết gia, bác sĩ tâm thần và nhà phân tâm người Pháp, là người đầu tiên đưa ra một định nghĩa riêng biệt cho tâm lý học lâm sàng, nhằm đưa khái niệm này thoát ra khỏi các quy luật về tâm thần học và tâm bệnh học. Định nghĩa của Lagache đã bóc tách chuyên ngành TLHLS một cách hoàn hảo mà vẫn giữ nguyên giá trị của nó cho tới tận ngày nay. Ông coi nhiệm vụ của TLHLS là “nghiên cứu sâu các trường hợp cá thể”. Nói rõ hơn, mục tiêu của TLHLS là nghiên cứu một cách bài bản và tỉ mỉ về các quá trình tâm trí của từng chủ thể từ các hành vi cá nhân và các vấn đề tâm lý của con người. Bao gồm sự kế thừa, sự chín muồi, các điều kiện tâm lý và bệnh lý, tiểu sử cuộc đời… Qua đó, tiếp cận (nghiên cứu)một cách toàn diện chủ thể (các khía cạnh như trí tuệ, tình cảm, sinh học, xã hội, hành vi của chức năng tâm lý của chủ thể trong tương quan nền văn hóa, tầng lớn xã hội hay cuộc đời) trong một tình huống cụ thể bằng các phương pháp chuyên biệt. Lagache phân biệt hai loại phương pháp lâm sàng, loại thứ nhất dựa trên sự quan sát cá nhân và cách ứng xử khi tiếp xúc. Loại thứ hai dùng đến trắc nghiệm và thang đo. Từ đó, các nhà tâm lý học lâm sàng có thể tìm hiểu, dự báo và đưa ra phác đồ trị liệu cũng như hỗ trợ sự thích nghi và phát triển của chủ thể. TLHLS ngày nay đặt nền móng của mình trên Tâm bệnh học cũng như trên các quan niệm từ Phân tâm học. Từ “pathologie”(bệnh học) xuất phát từ tiếng Hy Lạp, “pathos” có nghĩa là đau đớn, bệnh hoạn và “logos” có nghĩa là khoa học. Ví dụ, có thể kể đến các rối loạn tâm lý học như rối loạn khí sắc (trầm cảm), rối loạn lo âu (stress và ám sợ) hoặc rối loạn giấc ngủ (mất ngủ). Tâm bệnh học dựa vào sự hiểu biết cá thể bình thường để hiểu sự vận hành của các cá thể bị bệnh. Nó hướng đến việc đánh giá, chẩn đoán và đưa ra phác đồ trị liệu. Phương pháp của tâm bệnh học gắn với điều tra cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng đó. Tâm bệnh học luôn coi khách thể nghiên cứu của mình như những đối tượng không ngừng phát triển và biến đổi. TLHLS nới rộng biên độ ra khỏi sự nghiên cứu duy nhất các hành vi bệnh học, tâm lý học lâm sàng cũng nghiên cứu các hành vi bình thường như khó khăn trong nghề nghiệp, sự đau buồn vì mất người thân…. Toàn bộ các kỹ thuật được dùng trong phạm vi thực hành của nhà lâm sàng. Những công cụ lâm sàng bao gồm nghiên cứu trường hợp cụ thể, quan sát, trò chuyện, trắc nghiệm và các thang đo. Nghiên cứu trường hợp cụ thể: là để cho thân chủ thể hiện bản thân mình, đồng thời khuyến khích hoặc động viên thân chủ dễ dàng bộc lộ bản thân. Từ đó nhà tâm lý lâm sàng mới có thể hiểu về con người, hoàn cảnh cũng như các khó khăn mà chủ thể đang gặp phải. Từ đó, đưa ra những định hướng cho thân chủ vượt qua vấn đề của họ. Trò chuyện: Công việc của nhà tâm lý là để cho chủ thể nói, rồi lắng nghe, thăm dò và đưa ra các phản hồi với chủ thể. Từ đó, nhà tâm lý lâm sàng có thể biểu tượng hóa vấn đề của chủ thể, các cơ chế phòng vệ, cách thức chủ thể thường dùng để giải quyết xung đột… nhằm đưa ra gợi ý và định hướng tốt nhất cho chủ thể. Các trắc nghiệm và thang đo: là các công cụ được chuẩn hóa để đánh giá các hiện tượng tâm lý cụ thể của chủ thể. Có nhiều trắc nghiệm khác nhau, nhìn chung được chia thành 2 loại chính là Các trắc nghiệm nhận thức (IQ) và Các trắc nghiệm nhân cách (EQ). Quan sát: là phương pháp giúp nhà tâm lý ghi nhận các yếu tố quan trọng trong giao tiếp ứng xử của chủ thể đồng thời cho phép đối chiếu các thông tin này và giải thích chúng trên cơ sở tiểu sử và hoàn cảnh sống hiện tại, trong mỗi khoảng khắc cụ thể của chủ thể. (Quan sát là một công cụ hỗ trợ quan trọng của trò chuyện lâm sàng). Đầu tiên, để hiểu biết một cách khách quan về các hoạt động tâm lý của thân chủ thì nhà tâm lý cần sử dụng mô hình lý thuyết đa yếu tố. Theo đó, nhà tâm lý sẽ có thể tham khảo nhiều mô hình từ Phân tâm học, Nhận thức hành vi hay Hệ thống gia đình và cả các yếu tốt sinh học thần kinh. để có thể giải thích toàn bộ ứng xử hay hành vi của thân chủ. Thứ hai, nhà tâm lý khi thực hành tâm lý học lâm sàng phải mang tính khoa học và được phổ biến rộng rãi. Từ đánh giá; can thiệp tâm lý hay áp dụng các liệu pháp tâm lý phải được phổ biến tại nhiều nơi và trong nhiều môi trường nghề nghiệp khác nhau như bệnh viện, trường học, trại cai nghiện…. Thứ ba, có thể nói nghiên cứu chính là nền tảng của tâm lý học lâm sàng. Bởi trên thực tế các lý thuyết, mô hình, phương pháp được sử dụng trong TLHLS đều xuất phát từ nghiên cứu. (Các phương pháp nghiên cứu mà các nhà tâm lý học sử dụng trong TLHLS phải là những phương pháp chuyên biệt của lâm sàng bao gồm: kỹ thuật quan sát, trò chuyện, trắc nghiệm phóng chiếu…). Đổi lại quá trình thực hành sẽ giúp cho việc nghiên cứu tiến triển và đưa ra được các mô hình mới hiệu quả, chính xác và có tính thích nghi tốt hơn. Thứ tư, về phía nhà tâm lý lâm sàng, xét về chuyên môn họ phải có trình độ và được đào tạo bài bản về mặt lý thuyết và thực hành tối thiểu từ bậc đại học trở lên. Đây là yêu cầu cơ bản cho nhà tâm lý lâm sàng tại Pháp và nhiều nước trên thế giới. Ngoài ra, một nhà tâm lý lâm sàng chỉ được công nhận khi họ sở hữu bằng thạc sỹ thực hành chuyên biệt về tâm lý học lâm sàng. Họ làm việc thông qua các phương pháp lâm sàng, thực hành thường xuyên và không ngừng tự học hỏi, tự đào tạo bản thân cũng như không ngừng trao đổi, tham khảo các đồng nghiệp. Trên thực tế, công việc của nhà tâm lý lâm sàng và bác sĩ tâm thần đều có chung một mục đích là giúp đỡ con người để họ có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Cả hai công việc này đều mang lại giá trị nhân văn to lớn đối với nhân loại. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận kỹ hơn thì công việc của nhà tâm lý lâm sàng và bác sĩ tâm thần là hoàn toàn khác nhau bởi họ chăm sóc 2 khía cạnh sức khỏe khác nhau của con người đó chính là sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần. Một bác sĩ chuyên ngành về tâm thần học có thể kê thuốc nhằm tắc động đến sinh học của não để cải thiện hành vi tâm lý của bệnh nhân. Cụ thể: một bác sĩ tâm thần sẽ tiến hành thăm khám y khoa cho bệnh nhân thông qua phương pháp tiếp cận trực tiếp vào cơ thể của người bệnh. Với các nghiệp vụ chuyên môn như kiểm tra, sờ, nắn, gõ, nghe bằng ống nghe, dụng cụ tai mũi họng hoặc các xét nghiệm lâm sàng.
Tâm lý học lâm sàng
Tâm lý học lâm sàng là một tích hợp của khoa học, lý thuyết, và kiến thức lâm sàng với mục đích tìm hiểu, ngăn ngừa và giảm các căng thẳng tâm lý hay rối loạn chức năng và thúc đẩy hạnh phúc chủ quan và sự phát triển của cá nhân. Trọng tâm của thực hành môn này là đánh giá tâm lý, xây dựng công thức lâm sàng và tâm lý trị liệu, mặc dù các nhà tâm lý học lâm sàng cũng tham gia nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn, làm chứng pháp y, và phát triển và quản lý chương trình. Ở nhiều nước, tâm lý học lâm sàng là một nghề y tế được điều chỉnh. Lĩnh vực này thường được coi là đã bắt đầu vào năm 1896 với việc mở phòng khám tâm lý đầu tiên tại Đại học Pennsylvania bởi Lightner Witmer. Trong nửa đầu thế kỷ 20, tâm lý học lâm sàng tập trung vào đánh giá tâm lý, ít chú ý đến điều trị. Điều này đã thay đổi sau những năm 1940 khi Thế chiến II dẫn đến nhu cầu tăng số lượng bác sĩ lâm sàng được đào tạo.
Sáng 17/8: F0 trong cộng đồng TP.HCM có dấu hiệu tăng; Hà Nội công bố thời gian tựu trường, sớm nhất ngày 1/9. Khoa học & Công nghệCông nghệKhoa học huyền bíKhoa học thường thứcTin tức Siberia tìm thấy hài cốt sư tử con nguyên vẹn từ 28.000 năm trước. NEW YORK – Hàng năm, Đoàn Nghệ thuật Thần Vận biểu diễn trên các sân khấu danh tiếng tại hơn 100 thành phố ở 20 quốc gia trên thế giới. Bốn nhóm lưu diễn mang đến cho khán giả những huyền thoại và sự kiện lịch sử sống động từ 5,000 năm văn minh Trung Hoa. Nổi bật là những giá trị đạo đức cốt lõi, sự từ bi, niềm tin vào thiên đạo đã duy trì xã hội Trung Hoa hàng ngàn năm nhưng ngày nay đã không còn tồn tại nữa. Trung tâm của biểu diễn Thần Vận là múa cổ điển Trung Quốc, một trong những hệ thống kỹ thuật múa biểu cảm và sinh động bậc nhất trên thế giới. Các vũ công hòa cùng với dàn nhạc Đông và Tây được phối hợp tinh hoàn hảo, cùng với hiệu ứng kỹ thuật sân khấu đưa khán giả quay về không gian mỹ lệ cổ kính từ thời xa xưa. Mỗi năm khi biểu diễn có trụ sở ở New York này được thực hiện ở Lincoln Center, bầu không khí ở đây khiến người ta cảm thấy như được trở về mái ấm. Vào ngày 18 tháng 1, Thần Vận đã kết thúc 12 show biểu diễn ở nhà hát David H.Koch, thu hút nhiều khán giả mới và cũ. Thời báo Đại Kỷ Nguyên đã đi theo các buổi biểu diễn và ghi lại những cảm nhận của khán giả trong trương trình biểu diễn hoàn-toàn-mới của năm nay. Thời báo Đại Kỷ Nguyên coi Biểu diễn nghệ thuật Thần Vận là sự kiện văn hóa đương đại quan trọng. Chúng tôi tự hào đã ghi nhận lại được phản hồi khán giả kể từ khi khai sinh Thần Vận từ năm 2006. Bạn có thể xem các bài phỏng vấn đầy đủ ở đây. “Tôi nghĩ việc kết hợp các yếu tố Đông và Tây rất hiệu quả. Tôi rất thích… Tôi hoàn toàn tin tưởng vào sức mạnh của nghệ thuật sẽ đem mọi người đến với nhau, giúp đỡ mọi người vượt qua sự khác biệt, những rào cản” – David Eaton, nguyên giám đốc âm nhạc, Giàn nhạc Giao hưởng New York. “Chỉ một điều thôi: thật là tuyệt vời khi trải nghiệm ở đây! Ý tôi là, những câu chuyện thật thú ví, những vũ điệu cực kỳ điêu luyện, và trang phục thì tuyệt đẹp.” – Stewart F. Lane, người từng sáu lần đoạt giải Tony Award. “ Màu sắc và thiết kế thật xuất sắc… Đó là sự bình yên, một điều không thể thấy ở New York. Bạn biết không, chúng ta cần điều đó.” – Suzanne Pemberton, họa sĩ. “Họ (các vũ công) chuyển động nhẹ nhàng như lướt trên không!… Thật là quá tuyệt khi có buổi biểu diễn này ở New York.” – Lorraine Kessler, nhà môi giới nghệ thuật. “Tôi đã nghe các nhạc cụ, một số chúng là lần đầu tiên tôi thưởng thức, một trải nghiệm mở mang tầm mắt.” — Mehmet Gulay, phó chủ tịch tập đoàn Gulaylar. “Kỹ năng và tài năng trên sân khấu khiến người ta sững sờ. Cảm xúc chúng khơi lên thực sự khó mà tin nổi.” – Contessa Brewer, người dẫn chương trình hãng WNBC. “Nền tảng nghệ thuật và nền tảng của toàn bộ show diễn – bạn có thể ứng dụng cho văn hóa Phương Tây, văn hóa Trung Đông, Châu Phi, văn hóa Nga, hay Trung Quốc – nó là cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác. Tôi tin rằng cái thiện luôn chiến thắng.” – Efe Kababulut, Tổng giám đốc hãng nội thất cao cấp Lazzoni. Các điểm biểu diễn sắp tới của thần vận là ở Hollywood, Boston, Baltimore, và New Orleans. Có 8.652 ca mới; Hỗ trợ hơn 8,8 tỷ đồng thử nghiệm lâm sàng COVIVAC, vắcxin ‘made in VN’ thứ 2. Thêm 368 bệnh nhân COVID-19 tại 15 tỉnh, thành tử vong; TP.HCM: F0 trong cộng đồng có dấu hiệu tăng
Đoàn nghệ thuật Thần Vận
Đoàn Nghệ thuật Thần Vận là một đoàn biểu diễn nghệ thuật và giải trí được thành lập tại thành phố New York và có trụ sở tại Cuddebackville, Quận Cam, New York, ở Thung lũng Hudson. Họ biểu diễn múa cổ điển Trung Quốc, múa dân tộc và dân gian, và múa theo câu chuyện, với dàn nhạc giao hưởng và biểu diễn solo. "Thần Vận" còn được hiểu là "vẻ đẹp điệu múa của các thiên thần".Đoàn Nghệ thuật Thần Vận được các học viên Pháp Luân Công tại Hoa Kỳ thành lập vào năm 2006, với sứ mệnh là phục hồi "Tinh hoa văn hóa 5000 năm của Trung Hoa", họ tuyên bố rằng tinh hoa này gần như bị phá hủy kể từ khi cuộc Cách mạng Văn hóa được Đảng Cộng sản Trung Quốc khởi xướng. Đoàn bao gồm ba nhóm biểu diễn nghệ thuật: Đoàn New York, Đoàn Lưu diễn, và Đoàn quốc tế, với tổng số hơn 200 người biểu diễn. Trong bảy tháng một năm, Đoàn Nghệ thuật Thần Vận đi tua biểu diễn đến hơn 130 thành phố trên khắp châu Âu, Bắc Mỹ, châu Đại Dương và châu Á. Chương trình của Thần Vận được biểu diễn ở nhều nhà hát hàng đầu thế giới, bao gồm Lincoln Center for the Performing Arts ở New York, Royal Festival Hall ở London, Kennedy Center Washington DC, Palais de Congrès.
Nhà nước Ai Cập cổ đại là một trong những nhà nước ra đời sớm nhất ở lưu vực sông Nin vùng đông bắc châu Phi. Nền văn minh Ai Cập cổ đại là một trong những nền văn minh cổ xưa nhất và rực rỡ nhất của nhân loại. Đặc điểm của kiến trúc Ai Cập là công trình có quy mô lớn, kích thước đồ sộ, nặng nề và thần bí. Trước khi nhắc đến sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc Ai Cập cổ đại, phải nói đến sự khéo tay trong nghề làm đá của những người thợ giỏi trong xã hội Ai Cập cổ đại. Vật liệu đá trong xã hội Ai Cập có nhiều loại: đá vôi, đá sa thạch, đá đen, đá thạch anh, đá hoa cương, đá minh ngọc… Kinh nghiệm xây dựng thủy lợi trên hai bờ sông Nin giúp cho người dân Ai Cập phát minh ra máy nâng và vận chuyển, biết cách tổ chức lao động cho hàng vạn người một lúc. Mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt của công trình kiến trúc được dùng với thước đo. Việc sử dụng dụng cụ như rìu, búa và thước thủy chuẩn cũng rất chuyên nghiệp. Người Ai Cập cổ đại có tục lệ ướp xác, tạo thành các “mummy” và chôn chúng trong những ngôi mộ đồ sộ là Mastaba và Kim tự tháp. Mastaba là lăng mộ của tầng lớp quý tộc, là một khối xây bằng đá, có mặt cắt hình thang, mặt bằng hình chữ nhật. Trong Mastaba có ba phòng: sảnh, phòng tế lễ và phòng thờ (nơi đặt tượng người chết). Từ mặt trên của Mastaba người ta đào một giếng hình tròn hoặc hình vuông, sâu đến khoảng 30 m. Đáy giếng thông sang một hành lang rồi đến phòng mai táng (nơi để quan tài). Sau khi chôn người chết, giếng được lấp kín. Ở Ai Cập còn tìm thấy nhiều nơi có dấu vết của các khu vực có Masataba như khu lăng mộ vua chúa ở Memphis, xây dựng ở vương triều thứ ba, khoảng thế kỷ 18 trước Công nguyên. Loại hình kiến trúc này là nguồn gốc ban đầu của các Kim tự tháp. Một trong những Kim tự tháp lớn xuất hiện đầu tiên là Kim tự tháp Djoser. Nó có đáy hình chữ nhật, hai cạnh dài 126 m và 106 m, cao 60 m, có 6 bậc, các tầng thu nhỏ về phía trên. Công trình này do Imhotep chỉ đạo xây dựng. Ông là một vị quan đầu triều của nhà vua vương triều thứ 3, năm 2770 trước Công nguyên. Ngoài Kim tự tháp này còn có Kim tự tháp ở Meidum và ở Dashur là những loại có ba bậc cấp. Sau này, chúng được nghiên cứu và phát triển thành Kim tự tháp trơn, tiêu biểu nhất là quần thể Kim tự tháp ở Giza. Quần thể này bao gồm ba Kim tự tháp lớn, một con nhân sư Sphinx, 6 Kim tự tháp nhỏ, một số đền đài và 400 Mastaba. Ba Kim tự tháp trên là: Kim tự tháp Kheops (hay Kim tự tháp lớn tại Giza), Kim tự tháp Khephren và Kim tự tháp Mykerinos. Các Kim tự tháp này mang tên các nhà vua của Vương triều thứ 4; các kim tự tháp nhỏ hơn là của các hoàng hậu cùng thời. Vật liệu xây dựng tháp là đá vôi được khai thác tại chỗ, bên ngoài được phủ lớp đá vôi trắng nhẵn bóng, lấy từ các mỏ đá ở Tourah, trên hữu ngạng sông Nin, lớp phủ này ngày nay đã bị tróc mất. Những đền thờ Ai Cập cổ đại dùng để thờ thần Mặt Trời. Thờ thần Mặt Trời cũng chính là thờ vua. Đền thờ thường có một cái cửa lớn, đường bệ và phù hợp với tính chất của các nghi lễ tôn giáo. Phần quan trọng thứ hai của đền là khu vực nội bộ của đại điện. Đây là nơi vua tiếp nhận sự sùng bái của một số người nên không gian được tổ chức sao cho u uẩn, kín đáo, mang tính thần bí. Đôi khi, đền còn được bao quanh bởi bức tường thành, ở đây có trổ một cửa gọi là tiền tháp môn (propylon), sau đó là một con đường lát đá, rộng 34 m, dài khoảng 140 m, hai bên đặt những con Sphinx, tiếp đến là các tháp bia, tượng vua và tháp môn. Vào khoảng thế kỷ 17 TCN, nhiều loại hình nhà ở được thấy ở thành Telel Amarna. Có ba loại nhà chính sau:. Nhà ở ba gian, vật liệu xây dựng là lau sậy và đất sét, mái bằng. Loại lâu đài, dinh thự có ao cá, vườn cây phía trước, vật liệu dùng cột gỗ, tường gạch, dầm gỗ, mái bằng và trong nhà có trang trí tranh tường. Các cung điện của nhà vua có quy mô lớn, nhấn mạnh trục dọc, bên trong các phòng có nhiều cột, ngoài trục dọc còn có thể có trục phụ. Gỗ làm cung điện, Ai Cập không có mà được vận chuyển từ Syria tới. Các thức cột được mô phỏng theo hình tượng con người và các loài cây (chà là, sồi, bao báp,…). Các loại thức có:. Thức Hathor, xuất hiện từ thời Trung vương quốc, bốn phía đầu cột là mặt nữ Thần tình yêu Hathor, diện hình đa giác 6-8-16 mặt. Đầu cột là tấm đá vuông, trên đó là đá đầu cột, tiếp trên là tường đầu cột,…
Kiến trúc Ai Cập cổ đại
Nhà nước Ai Cập cổ đại là một trong những nhà nước ra đời sớm nhất ở lưu vực sông Nin vùng đông bắc châu Phi. Nền văn minh Ai Cập cổ đại là một trong những nền văn minh cổ xưa nhất và rực rỡ nhất của nhân loại. Đặc điểm của kiến trúc Ai Cập là công trình có quy mô lớn, kích thước đồ sộ, nặng nề và thần bí. Trước khi nhắc đến sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc Ai Cập cổ đại, phải nói đến sự khéo tay trong nghề làm đá của những người thợ giỏi trong xã hội Ai Cập cổ đại. Vật liệu đá trong xã hội Ai Cập có nhiều loại: đá vôi, đá sa thạch, đá đen, đá thạch anh, đá hoa cương, đá minh ngọc. Kinh nghiệm xây dựng thủy lợi trên hai bờ sông Nin giúp cho người dân Ai Cập phát minh ra máy nâng và vận chuyển, biết cách tổ chức lao động cho hàng vạn người một lúc. Mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt của công trình kiến trúc được dùng với thước đo. Việc sử dụng dụng cụ như rìu, búa và thước thủy chuẩn cũng rất chuyên nghiệp.
Theo định nghĩa của các nhà khoa hoc, rối loạn lo âu là nỗi sợ quá mức của con người đối với một thứ gì đó mà khi phải đối mặt nó, chúng ta thường bị hoảng loạn và sợ hãi đến ngất đi. Chắc hẳn các bạn đã quá quen thuộc với căn bệnh mang tên sợ độ cao hay sợ nước, thế nhưng đó chưa phải là tất cả. Có những hội chứng mà đến cả các chuyên gia cũng không thể lí giải được và là cơn ác mộng đối với những người mắc phải. Dưới đây là 10 nỗi ám ảnh tưởng như chỉ có trên phim nhưng hoá ra lại tồn tại thật ở trên đời. Những bức ảnh có nhiều lỗ tụ lại ở một nơi cũng có thể làm người ta rùng mình. Tuy hội chứng sợ lỗ là căn bệnh chưa được Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ công nhận bởi nó chưa đủ tiêu chuẩn để được coi là bệnh, nhưng có rất nhiều người cho biết họ thực sự cảm thấy sợ hãi trước những cái lỗ. Người bệnh có thể cảm thấy rợn sống lưng, nổi da gà, chóng mặt, buồn nôn khi nhìn vào những tấm hình có lỗ nhỏ li ti như tổ ong, bát sen, các lỗ trên thân cây. Theo các nhà nghiên cứu, nguyên nhân của chứng bệnh này là do não bộ bị quá tải. Bởi lẽ hình ảnh thủng lỗ chỗ có kết cấu phức tạp nên khiến cho phần não chịu trách nhiệm phân tích thông tin thị giác gặp khó khăn. Để xử lý được thông tin, não cần có nhiều oxy hơn nhưng như vậy sẽ khiến não bộ bị quá tải. Do vậy, cơ thể phản ứng bằng các cảm giác như chóng mặt, buồn nôn để buộc người nhìn không nhìn nữa. Những người mắc hội chứng này thường hay né tránh những nơi đông đúc, các sự kiện xã hội, thậm chí còn tự cô lập bản thân với cả gia đình và bạn bè do lo sợ người khác sẽ nhìn thấy những khuyết điểm trên hình thể của họ. Nỗi ám ảnh thường trực của căn bệnh này chính là vẻ bề ngoài, có thể vì chiếc mũi quá to, hay tại đôi mắt quá nhỏ. Bệnh nhân luôn tự tưởng tượng về những điểm xấu xí trên cơ thể của mình hoặc phóng đại nó lên một cách quá đà. Nhiều người đã nhờ tới sự can thiệp của dao kéo để có vẻ ngoài đẹp hơn, nhưng với căn bệnh họ mắc phải, có làm thế nào cũng không bao giờ là đủ. Bởi vậy mới dẫn đến những trường hợp tự tử bởi trong họ luôn tồn tại một nỗi sợ vô hình nào đó. Theo cuốn sách chuyên tiết lộ những điều bí ẩn Khải Huyền, số 6 = 7-1. Số 7 là biểu tượng sự hoàn hảo, vì thế, 7-1 = 6 là biểu tượng của sự không hoàn hảo. Số 6 lặp lại 3 lần tạo thành 666 cho thấy Con Thú hoàn toàn không có sự hoàn hảo. Nó sẽ thất bại hoàn toàn và phải lãnh án phạt. Được nhìn nhận tiêu cực giống như số 13, số 666 được nhiều người mê tín cho rằng nó là con số của quái vật của quỷ dữ. Do vậy, nhiều người không muốn đặt số nhà là 666 hoặc thậm chí họ không muốn sinh con vào ngày 6/6/06. Chỉ cần làm khác đi so với hoạt động hàng ngày, họ cũng thấy sợ hãi. Đây là nỗi ám ảnh của những người sợ làm điều mới, họ không muốn phá vỡ những thói quen hay khuôn khổ hàng ngày. Chỉ một thay đổi nhỏ trong sinh hoạt cũng có thể làm họ thấy sợ hãi. Chứng bệnh này thường hay gặp ở động vật và trẻ em. Đặc biệt đối với trẻ em, hội chứng sợ những món ăn mới cũng rất thường gặp. Nguyên nhân có thể do gen di truyền, do tâm lý bất ổn, do môi trường hoặc do sợ vị đắng. Chỉ là một bộ râu mà cũng trở thành nỗi ám ảnh của người khác. Hội chứng sợ râu thường xảy ra với những cậu bé ở tuổi dậy thì. Người mắc hội chứng này thường không dám nhìn, sờ vào râu của mình hoặc của người khác. Một mặt, bởi có vài nhà lãnh đạo chính trị không có cái nhìn thiện cảm với râu và cho rằng những người để râu trông rất khả nghi. Mặt khác, nó cũng có liên quan đến tôn giáo, bởi có tôn giáo yêu cầu cạo râu trong khi lại có những tôn giáo cấm cạo râu. Chính vì vậy càng khiến cho nhiều người mắc hội chứng sợ râu kì lạ này. Những con rối hoạt động như người thật khiến cho nhiều trẻ em sợ hãi. Bởi vì con rối là thứ đồ chơi của trẻ em, do vậy hầu hết những người mắc căn bệnh này đều là trẻ em. Mặc dù chỉ là đồ chơi nhưng bọn trẻ thường tin rằng con rối là đồ vật sống và có chuyển động thật sự. Một trong những nguyên nhân gây ra chứng bệnh này có thể là do cơn ác mộng khủng khiếp về những con rối giết người. Bệnh nhân hay cảm thấy chóng mặt, ngất xỉu hoặc thậm chí là trốn đi khi nhìn thấy những con rối. Đôi khi, họ cũng cảm thấy bất hạnh hoặc cảm thấy người lạnh đột ngột nữa. Nhiều người được chẩn đoán mắc hội chứng này sau khi xảy ra một vài vụ nổ hạt nhân ở Nhật Bản. Hội chứng sợ phóng xạ như sợ ma là một triệu chứng bệnh lý và tâm lý được gọi là radiophobia. Tia phóng xạ là tia không thể nhìn thấy, không thể ngửi thấy, không thể nghe thấy vậy mà lại gây ra ung thư, chết chóc, giống như bị ma bắt. Phần lớn bệnh nhân của hội chứng này là những người ít hiểu biết về chụp X quang, hoặc căn bệnh này là hậu quả của việc đã từng bị chấn thương. Chính điều này đã khiến cho những người đó thường có những nỗi sợ không cần thiết hoặc không hợp lý về tia phóng xạ hay X quang. Họ cảm giác có thể tiếp xúc với thế giới tâm linh qua một tấm gương. Người mắc chứng sợ gương thường có cảm giác lo sợ quá mức và cho rằng mình nhìn thấy ma mặc dù biết đó là cảm giác thật vô lý. Sự sợ hãi của họ thường bắt nguồn từ sự mê tín dị đoan hoặc bị ám ảnh từ những bộ phim kinh dị. Nhiều người không dám nhìn vào gương mỗi khi trời tối vì họ thường tưởng tượng sẽ có gì đó chui từ gương ra hay sẽ bị một bàn tay nào đó lôi vào trong. Ngoài ra, có người còn sợ rằng gương vỡ sẽ mang lại điều xui xẻo. Do vậy mà họ sợ hãi và hạn chế tiếp xúc với gương ít nhất có thể. Có những người sợ tất cả các màu, có người lại chỉ sợ một màu duy nhất. Những người mắc chứng sợ màu sắc thường tự cô lập bản thân chỉ thích sống trong môi trường càng ít màu càng tốt. Nguyên nhân gây ra căn bệnh này có thể xuất phát từ một biến cố trong quá khứ, do cơ địa y học hoặc do một số bệnh về tâm thần. Ngoài ra, có những bệnh nhân chỉ sợ một màu nhất định như sợ màu trắng hay sợ màu đỏ. Họ sẽ cố gắng tránh xa màu sắc đó bằng mọi giá. Trong đó, sợ màu đỏ cũng đồng nghĩa với việc sợ máu. May mắn là hội chứng này hoàn toàn có thể được chữa khỏi nếu kết hợp các phương pháp điều trị tự nhiên và liệu pháp hợp lý. Bệnh nhân sẽ rất sợ hãi nếu buộc phải làm hoạt động vệ sinh cá nhân. Đây là chứng bệnh thường gặp ở phụ nữ và trẻ em, những người có tâm lý không ổn định hoặc đã quá quen với môi trường sống bẩn thỉu, ô nhiễm. Bệnh nhân thường hoảng sợ, thở dốc khi phải làm vệ sinh cá nhân như rửa tay, tắm giặt, gội đầu. và họ sẽ tìm đủ mọi cách để tránh xa những hoạt động này. Tuy nhiên, bởi vấn đề vệ sinh cá nhân luôn được đề cao nên bệnh nhân khi mắc chứng bệnh này thường cảm thấy rất xấu hổ. Bên cạnh đó, hội chứng này khác với bệnh sợ nước, vì người bệnh sẵn sàng đụng vào nước để làm việc khác miễn là không phải để vệ sinh cơ thể. TP.HCM tiếp tục điều chỉnh quy định về đi đường, áp dụng từ ngày mai 29/8. Để tạo thuận lợi hơn cho hoạt động lưu thông nhằm thực hiện công vụ, Công an TP.HCM đã có một số điều chỉnh và được áp dụng từ ngày mai 29/8. Tối qua (ngày 27/8), cả dàn sao Việt đã đồng lòng hướng về ca sĩ Phi Nhung để cầu mong đồng nghiệp tai qua nạn khỏi vì tình trạng sức khoẻ diễn biến nặng do nhiễm Covid-19. Đến đêm cùng ngày, cư dân mạng không khỏi xôn xao khi Khánh Thi đã bất ngờ livestream và có loạt hành động lạ, ôm mặt khóc. Bức ảnh muốn xoá nhất cuộc đời Triệu Vy: Trái ngược với hình tượng "Én nhỏ" trong lòng công chúng . Thư ký của CEO khu du lịch Đại Nam có phát biểu gây ngỡ ngàng: Đại Nam hết tiền đóng tiền điện nên . Nguyên Phó Hiệu trưởng ĐH Bách Khoa TP.HCM phân tích, so sánh hoạt động từ thiện của bà Phương Hằng . Bức ảnh muốn xoá nhất cuộc đời Triệu Vy: Trái ngược với hình tượng "Én nhỏ" trong lòng công chúng . Thư ký của CEO khu du lịch Đại Nam có phát biểu gây ngỡ ngàng: Đại Nam hết tiền đóng tiền điện nên . Nguyên Phó Hiệu trưởng ĐH Bách Khoa TP.HCM phân tích, so sánh hoạt động từ thiện của bà Phương Hằng . Khánh Thi liên tục có động thái lạ gần đây: Để chế độ "độc thân", đăng status tiêu cực, chi tiết về . Nhiệt Ba đã thoát nhưng màn thanh trừng vẫn tiếp tục: Triệu Lệ Dĩnh "lên thớt", một tiểu Hoa có dấu . Nhiều nghệ sĩ đăng tải status vĩnh biệt Phi Nhung khiến khán giả hoang mang, đại diện nữ ca sĩ phản . Khánh Thi livestream giữa đêm với màn hình tối đen, liên tục ho, khóc nức nở và nói những câu tiêu . Khánh Thi liên tục có động thái lạ gần đây: Để chế độ "độc thân", đăng status tiêu cực, chi tiết về . Nhiệt Ba đã thoát nhưng màn thanh trừng vẫn tiếp tục: Triệu Lệ Dĩnh "lên thớt", một tiểu Hoa có dấu . Nhiều nghệ sĩ đăng tải status vĩnh biệt Phi Nhung khiến khán giả hoang mang, đại diện nữ ca sĩ phản . Khánh Thi livestream giữa đêm với màn hình tối đen, liên tục ho, khóc nức nở và nói những câu tiêu . Phóng to 10 lần bức tranh đơn giản trong Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc, chuyên gia giật mình: Tác .
Hội chứng lo sợ khi không có điện thoại
Hội chứng lo sợ khi không có điện thoại, có tên khoa học là Nomophobia, là tên của một sự ám ảnh liên quan đến việc không có điện thoại di động. Tuy nhiên, có nhiều lập luận cho rằng từ "ám ảnh" bị sử dụng sai và trong đa số trường hợp nó là một hình thức rối loạn lo âu thay vì ám ảnh. Mặc dù hội chứng lo sợ khi không có điện thoại không xuất hiện trong Cẩm nang chẩn đoán và thống kê hiện tại của Rối loạn tâm thần, Ấn bản lần thứ năm (DSM-5), nó đã được đề xuất là một dạng "ám ảnh cụ thể", dựa trên các định nghĩa được đưa ra trong DSM-IV. Theo Bianchi và Philips (2005) hội chứng này là các yếu tố tâm lý liên quan đến việc sử dụng quá mức điện thoại di động. Điều này có thể bao gồm lòng tự trọng thấp (khi cá nhân tìm kiếm sự bảo đảm sử dụng điện thoại di động theo những cách không thích hợp) và tính cách hướng ngoại (khi các cá nhân xã hội tự nhiên sử dụng điện thoại di động quá mức). Hội chứng lo sợ khi không có điện thoại có thể được gây ra bởi rối loạn tâm thần tiềm ẩn và có khả năng những người mắc phải hội chứng này liên quan đến các hội chứng bao gồm ám ảnh xã hội hoặc rối loạn lo âu xã hội, lo âu xã hội, và rối loạn hoảng loạn.
Phương pháp nghiên cứu định tính là một dạng nghiên cứu thường sử dụng để thăm dò, tìm hiểu ý kiến, quan điểm nhằm tìm ra insight các vấn đề. Ngoài ra, phương pháp này còn có thể được sử dụng để phát hiện các xu hướng của khách hàng trong tương lai. Những phương thức thu thập dữ liệu của nghiên cứu định tính khá đa dạng và thường không có một cấu trúc cụ thể như nghiên cứu định lượng. Một số phương pháp có thể kể đến như focus group, phỏng vấn cá nhân và quan sát. Mẫu của phương pháp này thường nhỏ và được lựa chọn kỹ hơn. Nghiên cứu định tính thường tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách tự nhiên nhất, nhằm đảm bảo những hành vi, ý kiến, quan điểm mà đối tượng nghiên cứu đưa ra sẽ khách quan và chính xác nhất. Nghiên cứu định tính thường trả lời câu hỏi “như thế nào” và “tại sao” về một hiện tượng, hành vi,… Ví dụ điển hình như phương pháp phỏng vấn cá nhân, người phỏng vấn sẽ đặt những câu hỏi mở để người trả lời có thể thoải mái đưa ra những quan điểm của mình, qua đó có thể thu thập được những thông tin đa dạng, thậm chí chưa bao giờ nghĩ tới. Nghiên cứu định tính đòi hỏi sự sáng tạo và linh hoạt. Những nhà nghiên cứu không thể chỉ dựa vào những dữ liệu thô thu được từ cuộc khảo sát để viết báo cáo, hoặc đưa ra kết luận. Rất nhiều phương pháp và kỹ thuật phân tích cần được sử dụng để giải mã những dữ liệu này, như:. Đây là một phương pháp quy nạp cung cấp một quy trình để thu thập, tổng hợp, phân tích và khái niệm hóa dữ liệu định tính cho mục đích xây dựng lý thuyết. Phân tích theo chủ đề là một trong những hình thức phân tích phổ biến nhất trong nghiên cứu định tính, được đánh giá là phương pháp phân tích linh hoạt bởi nó cho phép linh hoạt lựa chọn khung lý thuyết. Tuỳ vào từng phần hay từng chủ đề, nhà nghiên cứu có thể áp dụng bất kỳ lý thuyết nào. Thông qua tính linh hoạt này, phân tích theo chủ đề cho phép mô tả dữ liệu phong phú, chi tiết và phức tạp hơn. Phân tích biện luận bao gồm nói chuyện và tương tác trực tiếp hoặc thông qua hình ảnh, biểu tượng và tài liệu để giải thích cách thức và ý nghĩa của những hành vi thu thập được. Vấn đề được nhìn nhận dưới góc nhìn của người trong cuộc: Việc người nghiên cứu đóng vai trò quan trọng sẽ giúp ta tìm hiểu rõ hơn những vấn đề mà nghiên cứu định lượng dễ bị bỏ qua. Nghiên cứu định tính giúp làm rõ được các yếu tố về hành vi, thái độ của đối tượng nghiên cứu. Vì nghiên cứu định tính sử dụng các phương pháp nghiên cứu không cấu trúc nên tính linh hoạt rất cao. Thời gian tiến hành một dự án nghiên cứu định tính thường ngắn hơn và tốn ít chi phí hơn so với nghiên cứu định lượng. Hạn chế về độ tin cậy của kết quả nghiên cứu: Vì những vấn đề liên quan đến chi phí và thời gian nên việc thiết kế một nghiên cứu định tính không thể có mẫu quy mô lớn và kết quả của nghiên cứu định tính mang rất nhiều tính chủ quan. Thời gian cần thiết để thu thập và phân tích dữ liệu cho một lần nghiên cứu định tính khá dài và khó khăn. Thời gian trung bình của một cuộc khảo sát định tính thường kéo dài khoảng 30’, điều này có thể khiến cho đáp viên cảm thấy không thoải mái và chán nản. Thường người nghiên cứu phải nắm rõ về lĩnh vực nghiên cứu cũng như các kỹ thuật đào sâu, phân tích để thu được những thông tin chính xác, có giá trị nhất và không làm cho người khảo sát cảm thấy khó chịu. Vì mang tính chủ quan nên việc khái quát hóa kết quả nghiên cứu lên tổng thể bị hạn chế.Tình minh bạch của nghiên cứu định tính thấp hơn nghiên cứu định lượng ví dụ đối với một số vấn đề nhạy cảm, nhà nghiên cứu sẽ giữ kín danh tính của người trả lời. Phương pháp nghiên cứu định lượng là việc thu thập, phân tích thông tin trên cơ sở các số liệu thu được từ thị trường. Mục đích của việc nghiên cứu định lượng là đưa ra các kết luận thị trường thông qua việc sử dụng các phương pháp thống kê để xử lý dữ liệu và số liệu. Nghiên cứu định lượng phù hợp trong nghiên cứu về thái độ, ý kiến, hành vi của người được khảo sát. Các kết quả định lượng từ một nhóm mẫu sẽ được tổng quát hóa lên một tổng thể mẫu lớn hơn. Nghiên cứu định lượng thường được gắn liền với việc dựa vào các lý thuyết, suy luận để lượng hóa, đo lường các yếu tố nghiên cứu, kiểm tra mối tương quan giữa các biến dưới dạng số đo và thống kê. Sử dụng kỹ thuật thống kê để tóm tắt dữ liệu, mô tả các mẫu, mối quan hệ và kết nối các biến số với nhau, từ đó hình thành báo cáo với các thông tin hữu ích, dễ xem giúp đưa ra quyết định chính xác hơn. Có hai loại gồm:. Gồm các phương pháp liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán và mô tả để phản ánh một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu. Gồm các phương pháp ước lượng, phân tích mối liên hệ giữa các hiện tượng nghiên cứu, dự đoán hoặc ra quyết định trên cơ sở thu thập thông tin từ kết quả quan sát mẫu. Tính khách quan khoa học: Dữ liệu định lượng có thể được giải thích bằng phân tích thống kê và vì thống kê dựa trên các nguyên tắc toán học, nên phương pháp định lượng được xem là phương pháp khoa học và hợp lý. Vì thế nghiên cứu định lượng hoàn toàn phù hợp để kiểm định các giả thiết được đặt ra. Độ tin cậy cao của kết quả nghiên cứu, tính đại diện cao nên kết quả nghiên cứu định lượng có thể khái quát hóa lên cho tổng thể mẫu. Phân tích nhanh chóng: Các phần mềm phân tích giúp việc xử lý lượng lớn dữ liệu một cách nhanh chóng và chính xác. Hạn chế đến mức thấp những lỗi kỹ thuật có thể phát sinh do yếu tố con người trong xử lý số liệu. Nghiên cứu định lượng không làm rõ được hiện tượng về con người (nghiên cứu hành vi). Yếu tố chủ quan của người khảo sát: Nhà nghiên cứu có thể bỏ lỡ các chi tiết giá trị của cuộc khảo sát nếu quá tập trung vào việc kiểm định các giả thiết đặt ra. Sự khác nhau trong cách hiểu các câu hỏi: Xảy ra khi đối tượng phỏng vấn không hiểu câu hỏi đặt ra như ý định của nhà nghiên cứu mà lại hiểu khác đi và trả lời theo cách hiểu của họ. Đối với nghiên cứu định lượng, phần lớn các hình thức nghiên cứu người phỏng vấn không có khả năng can thiệp, giải thích hay làm rõ các câu hỏi cho người trả lời. Những sai số do ngữ cảnh có thể ảnh hưởng đến nội dung cuộc khảo sát. Phương pháp nghiên cứu định lượng giả định rằng hành vi và thái độ của con người không thay đổi theo ngữ cảnh. Tuy nhiên, câu trả lời của đối tượng có thể thay đổi phụ thuộc vào những ngữ cảnh khác nhau. Nghiên cứu định lượng sử dụng các phương pháp nghiên cứu phức tạp hơn định tính vì thế sẽ tốn nhiều thời gian hơn để thiết kế quy trình nghiên cứu. Vì cần mẫu lớn để có thể khái quát hoá cho tổng thể nên chi phí để thực hiện một nghiên cứu định lượng thường rất lớn, lớn hơn nhiều so với nghiên cứu định tính. Dữ liệu của nghiên cứu định tính thường không thể đếm được, nó là những chuỗi văn bản, video, hình ảnh,… Trong khi đó, dữ liệu của nghiên cứu định lượng lại có thể đo đếm được. Một ví dụ đơn giản: Các các câu trả lời cho câu hỏi mở “Đâu là kiểu chào hỏi phổ biến nhất trong email?” là dữ liệu định tính với nhiều nội dung trả lời khác nhau, chúng ta có thể phân loại các dạng câu chào hỏi thành các nhóm và đo lường tần suất xuất hiện của các nhóm đó, vậy là bạn đã có thể biến dữ liệu định tính thành định lượng rồi. Dữ liệu định lượng có thể giúp bạn trả lời câu hỏi người tiêu dùng làm gì, còn dữ liệu định tính sẽ giúp giải đáp tại sao họ làm vậy. Hãy xét một ví dụ khác: Nếu bạn đo lường hành vi của người dùng trên một trang web, bạn có thể biết rằng 25% số người đã nhấp vào nút A, sau đó là một nút B,… Điều đó rất cần thiết và ta có thể chạy thử nghiệm phân tách (A/B Testing) để thử các phiên bản khác nhau của trang web để xem liệu bạn có thể thay đổi hành vi của mọi người hay không. Nghiên cứu định tính thường tập trung nhiều hơn vào góc độ con người – mọi người đang nghĩ gì và cảm thấy gì? Điều gì khiến họ làm thế? Thái độ của họ sẽ ra sao?… Và bạn có thể nhận được nhiều thông tin phong phú, sâu sắc hơn so với dữ liệu định lượng, bởi vì bạn thực sự có thể hiểu được những suy nghĩ đằng sau hành động đó và có thể điều chỉnh luồn hành vi một cách tự nhiên và chính xác. Vì vậy, nếu muốn cải thiện trải nghiệm trên trang web của một người nào đó thì có lẽ bạn nên quan sát dữ liệu định lượng của mình để xem mọi người đang làm gì và sau đó bạn sẽ thực hiện một số nghiên cứu định tính để tìm hiểu lý do tại sao họ lại làm như thế. Trong nghiên cứu thị trường, nên cân nhắc sử dụng cả hai phương pháp định tính và định lượng để có được những kết quả có giá trị nhất. Để có được câu trả lời hoàn hảo nhất về hành vi, thái độ của khách hàng và lý do của những hành vi đó, từ đó kết quả nghiên cứu có thể góp phần tạo nên những quyết định quản trị có tính chính xác cao hơn. 1.3 Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp nghiên cứu định tính1.3.1 Ưu điểm1.3.2 Nhược điểm. 2 Phương pháp nghiên cứu định lượng2.1 Nghiên cứu định lượng là gì? 2.2 Kỹ thuật phân tích dữ liệu định lượng2.2.1 Thống kê mô tả (Descriptive statistics)2.2.2 Thống kê suy luận (Inferential statistics) 2.3 Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp nghiên cứu định lượng2.3.1 Ưu điểm2.3.2 Nhược điểm. 2.2 Kỹ thuật phân tích dữ liệu định lượng2.2.1 Thống kê mô tả (Descriptive statistics)2.2.2 Thống kê suy luận (Inferential statistics). 2.3 Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp nghiên cứu định lượng2.3.1 Ưu điểm2.3.2 Nhược điểm
Nghiên cứu định tính
Nghiên cứu định tính là một phương pháp điều tra được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, không chỉ trong các ngành khoa học truyền thống mà còn trong nghiên cứu thị trường và các bối cảnh khác. Nghiên cứu định tính nhằm mục đích thu thập một sự hiểu biết sâu sắc về hành vi con người và lý do ảnh hưởng đến hành vi này. Các phương pháp định tính điều tra lý do tại sao và làm thế nào trong việc ra quyết định, không chỉ trả lời các câu hỏi cái gì, ở đâu, khi nào. Do đó, các mẫu nhỏ tập trung thường được sử dụng nhiều hơn hàng loạt mẫu lớn. Trong quan điểm thông thường, phương pháp định tính chỉ cung cấp thông tin trong những trường hợp đặc biệt được nghiên cứu, và bất cứ các kết luận tổng quát nào chỉ là các mệnh đề (xác nhận thông tin). Phương pháp định lượng sau đó có thể được sử dụng để tìm kiếm sự hỗ trợ thực nghiệm cho giả thuyết nghiên cứu này. Trong những năm 1900, một số nhà nghiên cứu bác bỏ chủ nghĩa thực chứng, những quan niệm lý thuyết rằng có một thế giới khách quan mà chúng ta có thể thu thập dữ liệu từ việc "xác minh" dữ liệu này thông qua thực nghiệm.
Sân vận động Juventus được khởi công xây dựng vào ngày 1 tháng 3 năm 2009 trên nền đất của sân Delle Alpi vốn là sân nhà cũ của câu lạc bộ Juvestus và Torino. Sân vận động Juventus được chính thức được đưa vào sử dụng từ mùa giải 2011-2012. Bên cạnh đó, câu lạc bộ Juventus có trận đấu đầu tiên sân này vào ngày 8 tháng 5 năm 2011, qua trận đấu giao hữu với câu lạc bộ Notts Country. Trận đấu chính thức đầu tiên của Juventus trên sân mới diễn ra vào ngày 11 tháng 5 cũng trong năm 2011. Đặc biệt, trong 100 trận đấu đầu tiên trên sân Juventus, “Bà Đầm Già” chỉ để thua duy nhất 3 trận đấu trong giải quốc nội. Bên cạnh là địa điểm tổ chức các trận đấu của câu lạc bộ bóng đá Juventus, sân vận động Allianz cũng được Liên đoàn bóng đá Italia sử dụng cho các trận đấu của đội tuyển quốc gia nước này. Đặc biệt, năm 2012 sân vận động Juventus còn là nơi tổ chức sự kiện Stadium Business Awards với sự tham gia của hàng ngàn người. Sân vận động Juventus được xây dựng theo mô hình tiêu chuẩn dành cho các sân vận động hiện đại ở Châu Âu. Đặc biệt, sân vận động đã được UEFA xếp hạng 4 sao tiêu chuẩn thế giới. Đặc biệt, đội ngũ kiến trúc sư của Juventus Stadium gồm Hernando Suarez, Gino Zavanella và Giorgetto Giugiaro đã tài tình tận dụng tối đa những nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn để đưa vào sân vận động. Được biết, nguồn năng lượng chính trong sân Juventus tận dung tối đa nguồn năng lượng mặt trời, bên cạnh đó sân cũng sử dụng việc tái tạo nước mưa, giảm thiểu tối đa rủi ro hỏa hoạn cũng như hiệu ứng nhà kính. Có thể nói, sân vận động Juventus là một trong số ít sân vận động trên thế giới sử dụng các công nghệ thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, sân Juventus cũng áp dụng hệ thống công nghệ và công tác bảo trì sân tương tự với các sân vận động khác được tập đoàn Allianz tài trợ trên thế giới như Allianz Arena (Đức), Allianz Riviera (Pháp), hay Allianz Field (Hoa Kỳ). Sân thường xuyên được thay cỏ sau 2 đến 3 ngày, cỏ trên sân phải đạt chiều cao tiêu chuẩn 23cm. Đặc biệt, sân vận động Juventus sẽ tận dụng tối đa nguồn nước mưa tích trữ được để phục vụ cho công tác phun nước, và chăm sóc cỏ. Điều này được Liên đoàn bóng đá Châu Âu đánh giá rất cao vì sẽ bảo vệ môi trường và tiết kiệm nguồn tài nguyên nước sạch tối đa. Đi cùng với thành công của câu lạc bộ Juventus tại đấu trường quốc nội, cũng như trên đấu trường Châu Âu. Sân vận động Juventus đã trở thành một điểm đến lý tưởng dành cho người hâm mộ bóng đá. Theo báo cáo năm 2016 của câu lạc bộ Juventus, sau 5 năm chính thức mở sân Allianz đã phục vụ tổng cộng 5 triệu lượt cổ động viên đến xem bóng đá. Số lượng cổ động viên trên đã giúp câu lạc bộ Juventus thu về khoảng 200 triệu Euro tiền doanh thu bán vé. Đặc biệt, sau khi câu lạc bộ Juventus có sự phục vụ của siêu sao Cristiano Ronaldo mùa hè năm 2018, đội bóng càng trở nên ‘hot’ hơn và được nhiều người hâm mộ bóng đá quan tâm. Theo ESPN năm 2018, ngay sau thời điểm siêu sao Cristiano Ronaldo cập bến sân vận động Juventus, toàn bộ vé vào sân xem bóng đá của “Bà Đầm Già” mùa 2018-2029 đã được bán hết chỉ sau 1-2 ngày. Bên cạnh sức hút bởi thành tích thi đấu của câu lạc bộ Juventus với những ngôi sao bóng đá hàng đầu thế giới, người hâm mộ còn bị mê hoặc bởi các dịch vụ tiện ích bên trong sân Juventus. Chính những dịch vụ đạt cấp độ 4 sao thế giới tại sân vận động, các cổ động viên luôn được tạo điều kiện thoải mái nhất để thưởng thức những trận đấu bóng đá đỉnh cao. Ngoài ra, sự thành công của mô hình dịch vụ trong sân vận động Juventus đã được các câu lạc bộ khác tại Italia học hỏi và áp dụng. Qua đó, giải đấu Serie A đã trở thành một trong 5 giải đấu hàng đầu thế giới, luôn được rất nhiều người hâm mộ bóng đá quan tâm. Từ tháng 7 năm 2017, sân vận động Juventus đã được chính thức đổi tên thành sân vận động Allianz theo tên của nhà tài trợ là tập đoàn tài chính Allianz của Đức. Kể từ kh được chính thức đưa vào sử dụng, sân Juventus đã được chọn là nơi tổ chức trận chung kết UEFA Europa League năm 2014. Bên cạnh đó, Juventus Stadium là nơi được chọn để tổ chức lễ trao giải Stadium Business Awards tháng 5 năm 2012. Trong tương lai, vào năm 2022 sân Allianz cũng đã được chọn để tổ chức trận chung kết UEFA Women’s Champions League 2022. Thông qua bài viết này, chúng tôi đã gửi đến cho các bạn độc giả những thông tin chi tiết về sân vận động Juventus, một trong những sân vận động đẹp nhất tại Italia. Bên cạnh đó, hy vọng những thông tin chúng tôi chia sẻ trong bài viết này sẽ giúp các bạn có thêm những kiến thức thú vị xoay cảnh đại bản doanh của câu lạc bộ Juventus, một trong những câu lạc bộ hàng đầu tại “Xứ sở Mỳ Ống”.
Sân vận động Juventus
Sân vận động Juventus, được biết đến với lý do tài trợ là Sân vận động Allianz kể từ tháng 7 năm 2017, đôi khi được gọi đơn giản ở Ý là the Stadium (tiếng Ý: Lo Stadium), là một sân vận động bóng đá toàn chỗ ngồi ở quận Vallette của Torino, Ý. Đây là sân nhà của Juventus F.C. Sân vận động được xây dựng trên nền đất của sân nhà cũ của Juventus và Torino, Sân vận động Alpi. Đây là sân vận động bóng đá hiện đại đầu tiên của Ý thuộc sở hữu của câu lạc bộ, và là một trong bốn sân vận động được UEFA xếp hạng 4, hạng cao nhất trong Quy chuẩn Cơ sở hạ tầng Sân vận động của UEFA, cùng với Sân vận động Giuseppe Meazza, Sân vận động Olimpico và Sân vận động Olympic Grande Torino. Sân được khánh thành vào đầu mùa giải 2011-12 và với sức chứa 41.507 khán giả, đây là sân vận động bóng đá lớn thứ sáu ở Ý về sức chứa. Sân cũng là sân vận động lớn nhất ở Piemonte. Juventus chơi trận đầu tiên trên sân vận động vào ngày 8 tháng 9 năm 2011 với câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp lâu đời nhất thế giới Notts County, trong một trận giao hữu kết thúc với tỷ số 1–1; Luca Toni ghi bàn thắng đầu tiên.
Là một trong những chương trình hàng đầu hỗ trợ sinh viên và các các nhân, tổ chức có cơ hội học tập và nghiên cứu nhằm phát triển các kỹ năng và mở mang kiến thức. Chương trình Erasmus đang thu hút rất nhiều đối tượng tham gia, không chỉ là cơ hội trải nghiệm tốt mà nó còn là một chương trình tiên phong trong giáo dục. Việc học tập và tham gia các chương trình Erasmus sẽ dễ dàng hơn bao giờ hết với các thông tin dưới đây của chúng tôi. Erasmus là chương trình được Liên minh Châu Âu thành lập vào những năm 1987. Với mục đích tạo điều kiện cho sinh viên được học tập và có những trải nghiệm học tập quý giá. Sinh viên sẽ nhận được những lợi ích từ chương trình Erasmus, cho phép học tập tại các trường nằm trong khối Châu Âu trong một khoảng thời gian nhất định. Sinh viên Erasmus được lựa chọn học tập nhiều khóa học đa dạng, nhưng hầu hết sẽ tập trung vào ngôn ngữ nhằm hoà nhập và làm việc tốt hơn trong môi trường quốc tế. Chương trình học bổng Erasmus còn giúp sinh viên trải nghiệm môi trường giáo dục quốc tế, với Hệ thống Chuyển đổi Tín chỉ Châu âu cho phép các bằng cấp của sinh viên ở nước ngoài đều được công nhận. Đã có hơn 5000 học viện và tổ chức tham gia chương trình Erasmus trên khắp 37 quốc gia nhằm mang đến cơ hội học tập cho sinh viên. Kể từ năm 1987 đã có hơn 6 triệu sinh viên là thành viên của Chương trình Erasmus. Erasmus hoạt động trên cơ sở cung cấp các chương trình trao đổi miễn phí dành cho sinh viên đủ điều kiện, giữa các trường đại học và học viện. Mỗi chương trình có thể kéo dài từ 3 tháng cho tới 1 năm. Với nhiều trải nghiệm hấp dẫn,. Erasmus Mundus là một chương trình nhằm mang đến có hội cho sinh viên không thuộc Châu Âu có cơ hội trải nghiệm và học tập, và do Ủy ban Châu Âu đảm nhiệm. Erasmus + 2014-2020: đây là chương trình được đầu tư với nguồn vốn lớn dành cho giáo dục và huấn luyện thanh thiếu niên, thể thao. Bao gồm các chương trình học suốt đời và 5 chương trình hoạt động chung quốc tế. Nếu Erasmus chỉ dành riêng cho các sinh viên Châu Âu thì Erasmus Mundus chính là cơ hội dành cho các cá nhân và tập thể trên khắp thế giới. Đây là chương trình học dành cho sinh viên đã có bằng Thạc Sĩ. Với hơn 50 ngành học đa dạng mà sinh viên có thể lựa chọn, các khóa học được cung cấp bởi Hiệp hội các trường Đại học Châu Âu. Một số ngành tiêu biểu như Nông nghiệp và Thú y, Kỹ sư, Sản xuất và Xây dựng, Sức khỏe và Phúc lợi. Học bổng sẽ bao gồm tất cả chi phi: học phí, phòng thí nghiệm, thư viện, bảo hiểm và bất cứ chi phí phát sinh liên quan tới việc học của bạn. Nó còn bao gồm chi phí đi lại và hỗ trợ sinh hoạt hàng tháng cho tới khi kết thúc chương trình học. Tổng giá trị học bổng tuỳ thuộc vào chương trình học và quốc tịch của sinh viên (sinh viên ngoài khu vực Châu Âu sẽ nhận được học bổng lớn hơn). Đối với các trường đối tác, tối thiểu sẽ là 75%. Được đặt theo tên của hai nhà khoa học người Ba Lan và Pháp, ho từng đạt được giải Nobel về chất phóng xạ. Học bổng này được tạo ra nhằm mang tới những cơ hội nghiên cứu không giới hạn về quốc và các lĩnh vực. Đây là học bổng mang tới nhiều cơ hội học tập và nghiên cứu. Các ứng viên đủ điều kiện có thể đăng ký học bổng. Đây là cơ hội dành cho các nhà kinh doanh có cơ hội tiếp cận các kỹ năng quản lý và điều hành doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời mở rộng cơ hội hợp tác và kinh doanh với các công ty đa quốc gia. Việc học tập ở nước ngoài là rất tốn kém, do đó Erasmus+ Masters Loans được thành lập nhằm hỗ trợ về mặt tài chính cho sinh viên đang muốn hoàn thiện các khóa học Thạc sĩ quốc tế. Nếu bạn đang tìm kiếm cơ hội để trải nghiệm các kỹ năng và các chương trình cao học tại các quốc gia khác sau khi kết thúc chương trình đại học thì Erasmus+ Mobility Grant chính là một trong những lựa chọn hàng đầu. Bạn sẽ nhận được các khoản tài trợ để tham gia các chương trình học ngắn hạn ( ví dụ như một học kỳ) hoặc tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn. Nó sẽ giúp bạn có được những kiến thức quý giá cũng như có được một hồ sơ hoàn hảo cho công việc tương lai, và cũng nhận được những đánh giá cao với các kinh nghiệm thực tiễn. Danh riêng có các nước thành viên và các nước nằm trong chương trình Erasmus. Sinh viên sẽ có cơ hội học các chương trình sau đại học trong thời hạn 3 đến 12 tháng. Cung cấp các chương trình thực tập và trải nghiệm tại các công ty hàng đầu liên quan tới ngành học. Nhờ đó bạn sẽ tiếp thu được những kinh nghiệm thực tế và trau dồi bản thân hơn nữa. Chương trình cũng chỉ dành riêng cho sinh viên các nước thành viên hoặc thuộc chương trình Erasmus. Phần lớn các chương trình thuộc Erasmus+ Mobility Grant sẽ bao gồm các quốc gia nằm trong chương trình chứ không phải tất cả quốc gia thành viên. Vậy nên bạn cần đọc kỹ thông tin để lựa chọn các chương trình phù hợp với mình. Đặc biệt là các sinh viên hệ sau đại học và muốn học lên các chương trình Thạc Sĩ. Một ưu điểm nữa đó là chương trình này cho phép bạn tích lũy trong quá trình học lên Thạc Sĩ, dù cho chương trình bạn tham gia là một khóa học ngắn hạn hay chăng nữa. Để đăng ký bạn có thể đăng ký online hoặc đăng ký trực tiếp tại trường hoặc các văn phòng quốc tế phụ trách. Chỉ những ứng viên hội tụ đủ yếu tố và các điều kiện cần thiết mới được tham gia chương trình Erasmus+ Mobility Grant. Bạn cần chuẩn bị tốt các thông tin và hồ sơ, cũng như đảm bảo hoàn tất chương trình Thạc Sĩ, đồng thời thể hiện và đánh giá được tầm quan trọng của chương trình học này. Bạn có thể nhấn vào mục “Erasmus+” và lựa chọn các chương trình phù hợp. Bước 3: Lựa chọn những chương trình phù hợp: Bạn cần cân nhắc tới các yếu tố về yêu cầu và điều kiện của các chương trình Erasmus bao gồm: trình độ học vấn, ngoại ngữ, kỹ năng,…Theo quy định thì 75% học bổng sẽ được trao cho sinh viên các nước thành viên, tuy nhiên sinh viên quốc tế sẽ nhận được học bổng lớn hơn do các chi phí đi lại và sinh hoạt. Bước 4: Giới hạn số lượng chương trình đăng ký: Sau khi đã có cho mình được những chương trình ưng ý, bạn sẽ giới hạn lại số lượng khoảng 3 chương trình trở xuống, vì nếu đăng ký nhiều hơn 3, bạn có thể bị từ chối đăng ký. Thông thường các chương trình sẽ yêu cầu điền form online, lúc này bạn chỉ cần nhấn vào đường link đăng ký và điền đầy đủ thông tin.
Chương trình Erasmus
Chương trình Erasmus (European Community Action Scheme for the Mobility of University Students) Là một chương trình trao đổi sinh viên của Liên minh Âu Châu được thành lập vào năm 1987. Trước đó Ủy ban châu Âu cũng đã hỗ trợ một chương trình thí nghiệm trao đổi sinh viên trong 6 năm trời. Chương trình này được đặt tên theo nhà triết gia người Hà Lan Desiderius Erasmus của Rotterdam, được biết tới như là một đối thủ của chủ nghĩa Giáo điều, đã từng sống và làm việc ở nhiều nơi tại Âu Châu để mở mang kiến thức và trí tuệ. Chương trình này dựa trên những chương trình trao đổi sinh viên trong các năm 1981–1986, và mặc dầu nó được hình thành chỉ một thời gian ngắn trước khi bắt đầu khóa học đại học 1987-1988, 3,244 sinh viến đã có thể tham dự trong năm đầu tiên. Vào năm 2006, trên 150,000 sinh viên, khoảng gần 1% số sinh viên của Âu Châu, đã tham dự. Số giảng viên tại đại học thì cao hơn, chiếm khoảng 1.9% số giảng viên, hay 20,877 người. Sau hơn 20 năm, trên 2 triệu sinh viên đã hưởng lợi từ học bổng Erasmus, và Ủy ban Âu Châu dự định đạt tới con số 3 triệu vào năm 2012.
Nghĩa trang Montparnasse (tiếng Pháp: Cimetière du Montparnasse ) là một nghĩa trang ở khu Montparnasse của Paris , thuộc quận 14 của thành phố . Nghĩa trang rộng khoảng 47 mẫu Anh và là nghĩa trang lớn thứ hai ở Paris. Nghĩa trang có hơn 35.000 ngôi mộ và khoảng một nghìn người được chôn cất ở đây mỗi năm. Nghĩa trang có 35.000 mảnh đất và là nơi an nghỉ của nhiều cá nhân bao gồm các nhân vật chính trị, triết gia, nghệ sĩ, diễn viên và nhà văn. Ngoài ra, trong nghĩa trang, người ta có thể tìm thấy một số ngôi mộ tưởng niệm những người đã chết trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ trong cuộc bao vây Paris (1870–1871) và Công xã Paris (1871). Nghĩa trang được thành lập vào đầu thế kỷ 19 ở phía nam của thành phố. Đồng thời có các nghĩa trang nằm ngoài giới hạn thành phố: Nghĩa trang Passy ở phía tây, Nghĩa trang Montmartre ở phía bắc, và Nghĩa trang Père Lachaise ở phía đông. Vào thế kỷ 16, những con đường giao nhau giữa Vavin và Raspail là những khu vực đổ đá vụn và đá từ các mỏ đá gần đó. Điều này đã tạo ra một ngọn đồi nhân tạo và là nơi "mont" có tên là Montparnasse. Học sinh vào thời điểm đó sẽ tụ tập trên đồi để vui chơi và tham gia các điệu nhảy ngoài trời. Vào thế kỷ 17, vị trí tương lai của nghĩa trang bao gồm ba trang trại thuộc bệnh viện Hôtel-Dieu và một điền trang của Anh em Bác ái (frères de la Charité). Trong thời gian này, các nhà sư đã xây dựng một cối xay gió mà ngày nay vẫn còn nhìn thấy, trừ những cánh buồm của nó. Trong cuộc Cách mạng Pháp , đất đai và nhà thờ đã bị tịch thu và nghĩa trang trở thành tài sản của chính phủ. Lúc này, bất cứ ai chết tại bệnh viện và chưa xác định được thi thể đều được chôn cất tại đây. Vào thế kỷ 19, các nghĩa trang đã bị cấm ở Paris do lo ngại về sức khỏe. Một số nghĩa trang mới bên ngoài khuôn viên thủ đô đã thay thế tất cả các nghĩa trang bên trong Paris: Nghĩa trang Montmartre ở phía bắc, Nghĩa trang Père Lachaise ở phía đông và Nghĩa trang Montparnasse ở phía nam. Montparnasse cũng như Père Lachaise và Montmartre đã thay thế Cimetière des Innocents (những người được chôn cất ở đây đã được chuyển đến Hầm mộ ). Trong thời gian này, thành phố Paris đã sử dụng khu đất và khu đất xung quanh để tạo ra một nghĩa trang chôn cất những người sống ở Bờ Trái của thành phố. Trước đây, những cư dân này được chôn cất tại nghĩa trang Sainte-Catherine và ở làng Vaugirard. Nghĩa trang tại Montparnasse ban đầu được gọi là Le Cimetière du Sud (Nghĩa trang miền Nam) và chính thức mở cửa vào ngày 25 tháng 7 năm 1824. Kể từ khi mở cửa, hơn 300.000 người đã được chôn cất tại Montparnasse. Lối vào chính của nghĩa trang nằm ở phía bắc của Đại lộ Edgar Quinet gần Edgar Quinet (Paris Métro) . Nghĩa trang được chia làm hai phần bởi Rue Émile Richard. Phần nhỏ thường được gọi là nghĩa trang nhỏ ( petit cimetière ) và phần lớn là nghĩa trang lớn ( grand cimetière ). Phía tây đường Émile-Richard được chia thành 21 sư đoàn và phía đông đường Émile-Richard nghĩa trang được chia thành 8 sư đoàn được đánh số từ 22 đến 30 (không có sư đoàn 23). Với 47 mẫu Anh, Montparnasse là một không gian xanh rộng lớn bên trong giới hạn thành phố Paris. Trong nghĩa trang, người ta có thể tìm thấy nhiều loại cây bao gồm cây bồ đề, cây chùa Nhật Bản, cây thuja, cây phong, cây tần bì và cây lá kim. Vì có nhiều người đáng chú ý được chôn cất ở đó, nó là một điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng. Vào năm 2016, công trình vĩnh viễn CAUSSE đã được lắp đặt trong khu bảo tồn của Nghĩa trang Montparnasse ở Paris. Một nhà khoa học nổi tiếng người Pháp đã đặt một ngôi mộ từ kỹ sư nghệ sĩ Milène Guermont . Công trình này là một khối bê tông hiệu suất cực cao và sợi quang học gồm 12 mặt để hiện thực hóa tế bào khử nhân điện tử do khách hàng phát minh. Tác phẩm điêu khắc này tương tác với môi trường: khi một cá thể hoặc một con chim đi ngang qua, một trong những điểm ánh sáng của nó có thể tắt hoặc sáng lên. Tác phẩm này có một số đỉnh núi đề cập đến các ngọn núi quê hương của ủy viên. Nghĩa trang Montparnasse là nơi yên nghỉ của nhiều tầng lớp trí thức và nghệ thuật của Pháp và những người đã quảng bá tác phẩm của các tác giả và nghệ sĩ. Có những ngôi mộ của những người nước ngoài đã biến nước Pháp thành quê hương cũng như tượng đài cảnh sát và lính cứu hỏa thiệt mạng trong khi thi hành công vụ. Nghĩa trang có một số ngôi mộ tôn giáo. Phía bắc bùng binh là lăng mộ dành cho các linh mục không có gia đình. Rosalie Rendu , thành viên của hội các tông đồ, có một lăng mộ cá nhân ở sư đoàn 14 luôn được trang hoàng lộng lẫy. Rendu đã được phong chân phước vào năm 2003 bởi nhà thờ Công giáo . Sư đoàn 5 và 30 đã từng là những vòng vây của người Do Thái và có nhiều ngôi mộ của người Do Thái. Adolphe Crémieux , luật sư và chính trị gia người Pháp, đã nhập quốc tịch cho người Do Thái ở Algeria do Pháp cai trị vào năm 1870. Alfred Dreyfus , một người Do Thái người Pháp, được chôn cất ở phía nam nghĩa trang và nổi tiếng vì vụ Dreyfus mang tên ông. Ông bị buộc tội oan và bị xét xử vì tội phản quốc, một sự kiện gây chia rẽ nước Pháp. Charles Baudelaire , nhà thơ Pháp và tác giả của cuốn Les Fleurs du Mal (Những bông hoa ác quỷ), được chôn cất tại sư đoàn 6, nhưng cũng có một bia mộ cho ông (giữa sư đoàn 26 và 27). Du khách để lại nhiều món quà trên khu mộ của anh ấy, từ hoa, vé tàu điện ngầm cho đến cải bắp. Gainsbourg được coi là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của nền âm nhạc đại chúng Pháp và là một ca sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ piano, nhà soạn phim, nhà thơ, họa sĩ, nhà biên kịch, nhà văn, diễn viên và đạo diễn người Pháp. Có thể nhận ra ngôi mộ của Marguerite Duras nhờ một cái chậu và đĩa đựng đầy những cây bút được trồng. Duras chuyển đến Đông Dương khi còn nhỏ cùng cha mẹ, nhưng được gửi trở lại Pháp trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu. Tiểu thuyết gia, nhà viết kịch, nhà biên kịch, nhà viết tiểu luận và nhà làm phim thử nghiệm, cô đã nhận được đề cử cho Kịch bản gốc xuất sắc nhất tại Lễ trao giải Oscar cho kịch bản của cô trong bộ phim Hiroshima Mon Amour (Hiroshima My Love). Pierre-Joseph Proudhon , người đầu tiên tự nhận mình là một người theo chủ nghĩa vô chính phủ, cũng được chôn cất tại đây. Ngôi mộ của Jacques Lisfranc nằm ở sư đoàn 13. Ông bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một bác sĩ phẫu thuật trong Chiến dịch Đức năm 1813 . Lisfranc đã truyền bá kiến thức của mình về giải phẫu các khớp bàn chân và sử dụng kiến thức này để điều trị cho nhiều bệnh nhân. Nhiều thế hệ trong một gia đình có thể được chôn cất tại Montparnasse. Trong sư đoàn 14 là ba thế hệ của gia đình Deschanel đều phục vụ trong nền cộng hòa thứ ba : Émile Deschanel , Paul Deschanel và Paul-Louis Deschanel. Cơ thể của họ yên nghỉ dưới câu trích dẫn, "On nemporte en mourant que ce que lon a donné" (Chúng ta chỉ có thể nhận lấy cái chết những gì chúng ta đã cho đi). Nghĩa trang không có tượng đài dành riêng cho những người đã chết trong Thế chiến thứ nhất. Để có danh sách đầy đủ các cá nhân được chôn cất tại Montparnasse, hãy xem phần "Xem thêm" bên dưới. Ranh giới của nghĩa trang được xác định là rue Froidevaux ở phía nam, rue Victor-Schœlcher ở phía đông, đại lộ Edgar-Quinet ở phía bắc và rue de la Gaîté ở phía tây. Tuy nhiên, lối vào chính của nghĩa trang là trên Đại lộ Edgar Quinet dẫn đến nghĩa trang lớn. Có những lối vào nhỏ hơn vào cả các nghĩa trang lớn và nhỏ trên Rue Émile Richard (gần giao lộ với cả Đại lộ Raspail và Đại lộ Edgar Quinet). Thông tin và trợ giúp trong việc tham quan nghĩa trang Montparnasse bằng tiếng Anh.
Nghĩa trang Montparnasse
Nghĩa trang Montparnasse (tiếng Pháp: Cimetière du Montparnasse) là một trong các nghĩa trang lớn và nổi tiếng của Paris. Ban đầu, tại Montparnasse có ba trang trại lớn. Đến thế kỷ 17 thì khu đất này trở thành khu lăng mộ riêng của các tu sĩ thuộc dòng tu Saint-Jean-de-Dieu. Từ đầu thế kỉ 19, một loạt nghĩa trang mới đã được thành lập tại ngoại vi Paris, đó là Nghĩa trang Montmartre ở phía bắc, Nghĩa trang Passy ở phía tây và Nghĩa trang Père-Lachaise ở phía đông. Tỉnh trưởng tỉnh (préfecture) Seine là Nicolas Frochot đã mua lại khu đất của các tu sĩ ở Montparnasse để mở nghĩa trang thứ 4 ở phía Đông Paris. Lễ chôn cất đầu tiên ở đây là vào ngày 25 tháng 7 năm 1824. Bên trong nghĩa trang vẫn còn giữ được một trong rất nhiều cối xay bột của quận Montsouris và Montparnasse trước kia. Hiện nay, với diện tích 19 ha, đứng thứ hai trong các nghĩa trang của Paris sau Père Lachaise, nghĩa trang Montparnasse là một trong những không gia xanh quan trọng của thành phố. Người ta đã thống kê có khoảng 1.200 cây chủ yếu gồm: cây đoạn, cây hòe, trắc bách diệp, phong, cây tần bì và thông.
Ông là hoàng tử nhỏ tuổi nhất của Lương Vũ Đế, và được giao cai quản khu vực này là Tứ Xuyên và Trùng Khánh. Năm 552, tin rằng được Trời định làm hoàng đế, Tiêu Kỉ đã xưng đế và tiến về phía đông để cố gắng đoạt lấy ngôi vị. Năm 553, quân Tây Ngụy đã tấn công lãnh địa của Tiêu Kỉ, còn quân viễn chinh của Tiêu Kỉ đã thất bại trước quân của thất huynh Nguyên Đế, bản thân Tiêu Kỉ chết trong trận chiến. Tiêu Kỉ sinh năm 508, là hoàng thử thứ tám và nhỏ tuổi nhất của Lương Vũ Đế. Mẹ của ông là Cát tu dung. Khi còn thơ ấu, ông được đánh giá là hiếu học, và văn phong của ông được đánh giá là thanh tao và không quá hào nhoáng. Năm 514, Lương Vũ Đế phong Tiêu Kỉ là Vũ Lăng vương, Khi đã đến tuổi thiếu niên, Tiêu Kỉ nhiều lần được thăng chức vào các vị trí quan trọng do là hoàng tử được phụ hoàng sủng ái. Trong lúc phụng sự tại Ích châu, Tiêu Kỉ đã tạo ra sự phát triển lớn về kinh tế và cũng mở mang lãnh thổ của Lương vào sâu trong các lãnh địa của tộc man di. Dưới sự quản lý của ông, Ích châu trở nên thịnh vượng và hùng mạnh về quân sự và kinh tế. Năm 548, phản tướng Hầu Cảnh tiến hành bao vây kinh thành Kiến Khang, nhiều thứ sử các châu đã cử quân đến Kiến Khang để giúp giải vây cho kinh thành. Tuy nhiên, Tiêu Kỉ ban đầu đã không có bất kỳ hành động nào. Sau khi Kiến Khang thất thủ và Lương Vũ Đế qua đời vào năm 549, Tiêu Kỉ đã hành động vào mùa xuân năm 550 khi phái thế tử Tiêu Viên Chiêu (蕭圓照) dẫn theo 3 vạn quân đi cứu viện. Tiêu Kỉ tuyên bố rằng ông nguyện để đội quân này hành động theo lệnh của hoàng huynh là Tương Đông vương Tiêu Dịch- khi đó trở thành người lãnh đạo các châu. Do lo ngại trước ý định thực sự của Tiêu Kỉ, Tiêu Dịch đã phong cho Tiêu Viên Chiếu làm thứ sử của Tín châu (信州, nay thuộc đông bộ Trùng Khánh) và lệnh cho Tiêu Viên Chiếu dừng quân tại Bạch Đế thành (thủ phủ của Tín châu) và không tiến thêm nữa. Vào mùa hè năm 550, hòa thượng Tôn Thiên Anh (孫天英) đã phát động một cuộc khởi nghĩa nông dân và tấn công Thành Đô (成都, nay thuộc Thành Đô, Tứ Xuyên), thủ phủ của Ích châu. Tiêu Kỉ dã giao chiến với Tôn Thiên Anh và giết chết người này. Vào mùa thu năm 550, người dân Lê châu (黎州, nay gần tương ứng với Quảng Nguyên, Tứ Xuyên) — một châu nhỏ và nằm trong lãnh địa của Tiêu Kỉ— đã nổi dậy và đánh đuổi Lê châu thứ sử Trương Bôn (張賁). Bộ tướng Dương Pháp Sâm (楊法琛) đã dẫn quân tiến vào Lê châu, ông ta đã xúi giục hai gia tộc lớn của Lê châu là họ Vương và họ Giả thỉnh cầu Tiêu Kỉ cho phép Dương Pháp Sâm làm thứ sử. Đáp lại, Dương Pháp Sâm dâng vùng đất đang chiếm giữ cho Tây Ngụy. Vào mùa đông năm 550, Tiêu Kỉ đã đưa quân rời khỏi Thành Đô và tiến về phía đông theo Trường Giang. Tiêu Dịch nghi ngờ về mục đích của Tiêu Kỉ nên đã viết một lá thư để ngăn ông lại, ghi rằng, “Người dân Ba Thục dũng cảm song dữ tợn, họ dễ dàng trở nên xúc động và khó kiểm soát. Ta cần đệ dõi theo bọn họ, để ta có thể tiêu diệt tên giặc .” Tiêu Dịch cũng lưu ý: “Xét theo địa lý, đệ và ta giống như Lưu Bị và Tôn Quyền, và chúng ta nên thỏa mãn với lãnh địa của mình. Dựa vào quan hệ huyết thống, chúng ta có thể giống như nước Lỗ và nước Vệ, và có thể tiếp tục giao thiệp.” Có lẽ để phản ứng lại với thư của Tiêu Dịch, Tiêu Kỉ đã trở về Thành Đô. Trong khi đó, Tiêu Kỉ phái các bộ tướng Dương Can Vận (楊乾運) và Tiều Yêm (譙淹) đi đánh Dương Pháp Sâm. Vào mùa xuân năm 551, Dương Can Vận đã đánh bại được Dương Pháp Sâm, đánh bật và buộc người này phải chạy trốn, song Dương Can Vận sau đó đã thoái quân trong khi chưa bắt được Dương Pháp Sâm. Vào mùa hè năm 551, một sự kiện đã khiến mối quan hệ giữa Tiêu Dịch và Tiêu Kỉ trở nên căng thẳng hơn. Nhi tử của Tiêu Kỉ là Giang An hầu Tiêu Viên Chính (蕭圓正) giữ chức thái thú của Tây Dương quận (nay gần tương ứng với Hoàng Cương, Hồ Bắc), nhận được sự ủng hộ rất lớn từ người dân, quân của Tiêu Viên Chính có tới 10 vạn tráng sĩ. Tiêu Dịch trở nên nghi ngờ và đã ban cho chất tôn hàm tướng. Tiêu Dịch đã từ chối gặp chất tôn song phái Nam Bình vương Tiêu Khác (蕭恪) đến đãi tiệc và trút say Tiêu Viên Chính. Sau đó, Tiêu Dịch tiến hành quản thúc Tiêu Viên Chính trong phủ của mình và đoạt lấy đội quân của Tiêu Viên Chính; khiến Tiêu Kỉ phẫn nộ. Tiêu Tuần không đồng ý với quyết định, cho rằng hành động này không có lý do, song không nhận được phản hồi của Tiêu Dịch. Trong khi đó, thượng trụ Vũ Văn Thái của Tây Ngụy đã cùng với bộ tướng là Đạt Hề Vũ (達奚武) và Vương Hùng (王雄) đã tiến hành một cuộc tấn công theo hai hướng nhắm vào Nam Trịnh. Tiêu Tuần đã phái ký thất tham quân Lưu Phan (劉璠) đi cầu viện Tiêu Kỉ, Tiêu Kỉ đã phái Dương Can Vận đến hỗ trợ Tiêu Tuần. Sau khi hay tin Giản Văn Đế qua đời và Hầu Cảnh trở thành “Đại Hán hoàng đế”, Tiêu Dịch mặc dù đã khước từ thỉnh cầu xưng đế song lại bắt đầu cho sản xuất các xe và trang phục chỉ dành cho hoàng đế. Vào mùa xuân năm 552, sau khi hay tin Tiêu Dịch tấn công Hầu Cảnh (song không biết tướng Vương Tăng Biện của Tiêu Dịch khi đó đã đánh bại Hầu Cảnh và chiếm Kiến Khang), Tiêu Kỉ đã bình “thất huynh của ta là một văn sĩ, Làm sao huynh ấy có thể thành công về quân sự?” Vào thời điểm đó, do thấy hoa nở từ các cột trụ trong phủ, và tin rằng đây là một dấu hiện được thần thánh phù trợ, Tiêu Kỉ đã xưng đế. Khi các thuộc hạ là Vương Tăng Lược (王僧略, huynh đệ của Vương Tăn Biện) và Từ Phanh (徐怦) phản đối hành động này, ông đã giết chết họ. Hành động này của ông đã khiến cho Tiêu Huy (蕭撝)– người được Tiêu Kỉ phong là Tần quận vương—thở dài và nhận xét rằng việc giết người tài giỏi là dấu hiệu của tai họa sắp xảy đến. Trong khi đó, Tiêu Kỉ cũng triệu Lưu Phan đến, có ý định biến Lưu Phan làm người của mình, song Lưu Phan đã từ chối và cương quyết đòi trở về với Tiêu Tuần, Tiêu Kỉ cuối cùng đã nhượng bộ. (Ngay sau đó, Nam Trịnh đã rơi vào tay Vũ Văn Thái.) Tiêu Kỉ đã phong Tiêu Viên Chiếu làm thái tử và phong những nhi tử khác của ông làm vương. Tiêu Viên Chiếu ở Bạch Đế thành đã cố ý thông tin sai cho cha rằng quân của Tiêu Dịch đang bị quân của Hầu Cảnh đánh bại. Do đó, Tiêu Dịch đã hành quân từ Thành Đô nhằm đối đầu với Hầu Cảnh. Đáp lại, Tiêu Dịch đã cho khắc hình Tiêu Kỉ vào một bảng gỗ, và đích thân đóng đinh vào để nguyền rủa Tiêu Kỉ. Tiêu Dịch cũng phái các tù binh nguyên là quân của Hầu Cảnh đến chỗ Tiêu Dịch để thể hiện rằng Hầu Cảnh đã bị đánh bại. Tuy nhiên, Tiêu Viên Chiếu đã bắt các sứ giả và tù nhân của Tiêu Dịch và tiếp tục cung cấp cho cha mình các thông tin sai, vì thế Tiêu Kỉ đã cho tăng tốc hành quân. Tiêu Dịch lo sợ trước khả năng của Tiêu Kỉ nên đã thỉnh cầu Tây Ngụy tấn công Tiêu Kỉ từ phía sau. Vũ Văn Thái cho rằng có thể đoạt lấy Ích châu nên đã phái Uất Trì Huýnh đem quân đánh Ích châu. Cả Dương Pháp Sâm và Dương Can Vận đều hàng Tây Ngụy, và Uất Trì Huýnh nhanh chóng tiến đến Thành Đô và bao vây thành. Tiêu Kỉ đã phái Tiều Yêm quay trở về Kiến Khang để cố giải vây, và nay thì ông đã nhận thức được rằng Hầu Cảnh đã bị tiêu diệt. Ông quở trách Tiêu Viên Chiếu, song vẫn quyết định tiến về phía đông để tấn công Tiêu Dịch (nay đã xưng đế, tức Nguyên Đế), bất chấp ý nguyện quay trở về Thành Đô để cứu viện của binh sĩ. Ban đầu, Tiêu Kỉ đã thắng được bộ tướng Lục Pháp Hòa (陸法和) của Tiêu Dịch, và ông đánh xuyên qua Tam Hiệp. Tiêu Dịch đã viết thư cho Tiêu Kỉ, đề xuất hòa bình và hứa để Tiêu Kỉ tiếp tục giữ Ba Thục và có quyền hành động giống như đế vương tại đó. Tuy nhiên, Tiêu Kỉ đã từ chối, song đến khi hay tin Thành Đô có nguy cơ thất thủ và bị quân của Tiêu Dịch ngăn cản, Tiêu Kỉ đã cố gắng chấp thuận hòa bình. Tuy nhiên, vào lúc này, Tiêu Dịch đã nhận thức được các khó khăn của Tiêu Kỉ, do đó đã từ chối hòa bình. Tuy nhiên, bất chấp việc đang ở trong tình thế khó khăn, Tiêu Kỉ đã từ chối phân phát khối tài sản đáng kể của ông cho binh lính để khuyến khích họ chiến đấu, kết quả là nhuệ khí của họ suy giảm. Vào mùa hè năm 553, các bộ tướng của Tiêu Dịch là Vương Lâm, Tạ Đáp Nhân (謝答仁), và Nhâm Ước (任約), đã đánh bại hậu quân của Tiêu Kỉ và cắt đứt đường rút lui của ông, buộc Tiêu Kỉ phải tiếp tục tiến về phía đông. Bộ tướng khác của Tiêu Dịch là Phàn Mãnh (樊猛) đã tiêu diệt đội quân còn lại của Tiêu Kỉ và bao vây thuyền của ông để ngăn ông trốn thoát. Tiêu Dịch đã phái một mật chỉ cho Phàn Mãnh: “Nếu người đó vẫn còn sống, sẽ không có thắng lợi.” Do đó, Phàn Mãn đã lên tàu của Tiêu Kỉ, Tiêu Kỉ đã ném một túi vàng vào Phàn Mãnh, hét lên “Hãy để ta thuê ngươi với số vàng này — đưa ta đến chỗ thất huynh của ta.” Phàn Mãnh đáp lại: “Làm thế nào mà ngươi có thể gặp được Thánh thượng? Nếu ta giết ngươi, số vàng này sẽ đi về đâu?”. Phàn Mãnh tiến gần đến chỗ Tiêu Kỉ và giết chết ông. Tiêu Viên Mãn (蕭圓滿) đã cố bảo vệ cha cho đến lúc cuối, và cũng bị giết. Sau khi Tiêu Viên Chính từ chối tự sát, Tiêu Dịch đã bỏ đói Tiêu Viên Chính đến chết, và bắt giữ các nhi tử còn lại của Tiêu Kỉ. Tiêu Dịch cắt bỏ dòng của Tiêu Kỉ ra khỏi hoàng thất, và cải tính của Tiêu Kỉ thành Thao Thiết (饕餮, nghĩa là “tham ăn”).
Lương Vũ Đế
Lương Vũ Đế (chữ Hán: 梁武帝; 464 – 549), tên húy là Tiêu Diễn (蕭衍), tự là Thúc Đạt (叔達), tên khi còn nhỏ Luyện Nhi (練兒), là vị Hoàng đế khai quốc của triều Lương thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Thời kỳ ông trị vì là một trong những giai đoạn ổn định nhất và thịnh vượng nhất của Nam triều. Vũ Đế đã cho mở các trường học và mở rộng các kỳ thi khoa cử, yêu cầu con trai của các quý tộc phải học tập. Ông cũng ham đọc sách, sáng tác thơ và bảo trợ cho nghệ thuật phát triển. Mặc dù triều đình lấy Nho giáo làm chủ đạo, song ông tin theo Phật giáo và bị thu hút trước nhiều phong tục Ấn Độ. Ông đã ngăn cấm hiến tế động vật và chống lại việc hành hình. Ông được cho là đã tiếp thu nhiều châm ngôn Phật giáo trong thời gian trị vì, do vậy có biệt danh là Bồ Tát Hoàng đế (菩薩皇帝). Vào cuối thời gian trị vì của mình, ông đã phải trả giá đắt do có quan điểm quá khoan dung đối với các thành viên trong hoàng tộc và nạn hủ bại của các quan lại, cũng như thiếu cống hiến cho quốc gia.
Thành phố của Chúa (City Of God) là phim tâm lý xã hội của Brazil phát hành năm 2003. Phim Thành phố của Chúa dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng tên xuất bản năm 1997 dựa trên những sự kiện có thật của Paulo Lins. Bộ phim đã nhận được 4 đề cử cho Oscar 2004 và đứng thứ 7 trong danh sách 100 phim hay nhất của điện ảnh thế giới theo bình chọn của tạp chí Empire năm 2010. Bộ phim Thành phố của Chúa đã tái hiện lại sự phát triển của băng nhóm tội phạm khét tiếng tại khu ổ chuột Rio de Janeiro. Tại đây cảnh sát rất ít khi lui tới và người dân khó có thể sống vượt qua tuổi 20 bởi vấn nạn súng đạn, lạm dụng trẻ em kinh doanh vũ khí, ma túy cùng nhiều tệ nạn xã hội khác nhau. Giữa cuộc sống đầy áp ực của tội ác và bạo lực đó, một cậu bé yếu đuối và sợ hãi đã có thể nhìn thấy những điều hoàn toàn khác dưới con mắt của một nghệ sĩ. Những tham vọng cùng sự dũng cảm cậu bé đó đã lớn lên và trở thành một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp để đến với thế giới với một niềm hân hoan, đam mê đáng ngưỡng mộ.
Thành phố của Chúa (phim 2002)
Thành phố của Chúa (tiếng Bồ Đào Nha: Cidade de Deus) là bộ phim tội phạm Brazil 2002 đạo diễn bởi Fernando Meirelles và Kátia Lund, phát hành ở nước nhà năm 2002 và trên quốc tế năm 2003. Bráulio Mantovani lấy cảm hứng từ tiểu thuyết cùng tên năm 1997 của Paulo Lins, nhưng cốt truyện dựa trên những sự kiện có thật. Bộ phim tái hiện sự phát triển của tội phạm có tổ chức trong vùng ngoại ô Cidade de Deus của Rio de Janeiro, từ cuối thập niên 1960 đến đầu những năm 1980, với đoạn cuối của phim tập trung vào cuộc chiến giữa ông trùm ma túy Li l Zé và tên tội phạm Knockout Ned. Tagline của bộ phim là "Nếu bạn chạy, con quái vật sẽ bắt bạn; nếu bạn ở, con quái vật nuốt chửng bạn". Dàn diễn viên tham gia gồm có Alexandre Rodrigues, Leandro Firmino da Hora, Phellipe Haagensen, Douglas Silva, Alice Braga, và Seu Jorge. Hầu hết các diễn viên là cư dân của những favela (khu ổ chuột) như Vidigal và chính Cidade de Deus. Bộ phim nhận được sự ca ngợi nồng nhiệt từ giới phê bình và được đề cử cho giải Oscar năm 2004 trong bốn hạng mục: Quay phim (César Charlone), Đạo diễn (Meirelles), Dựng phim (Daniel Rezende), và Kịch bản chuyển thể (Mantovani).
"Delicate" là một bài hát của nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Hoa Kỳ Taylor Swift, nằm trong album phòng thu thứ sáu của cô, Reputation (2017). Nó được phát hành vào 12 Tháng Ba năm 2018, và là đĩa đơn thứ sáu từ album. "Delicate" có thời lượng ba phút năm mươi hai giây, và có nhịp độ là 95 nhịp mỗi phút. Swift thể hiện bài hát ở khóa Đô trưởng trong một quãng giọng từ G3 đến A4. Đây là một "bản tình ca trên nền nhạc pop-điện tử". Nữ ca sĩ đã sử dụng một bộ chỉnh sửa âm để tạo ra một vài âm thanh "đầy cảm xúc" và "dễ bị tổn thương" cho bài hát. Cô giải thích về cảm hứng sáng tác bài hát đến từ "chuyện gì sẽ xảy ra khi bạn gặp một ai đó, người mà bạn thực sự muốn trở thành một phần trong cuộc đời bạn, và rồi sau đó bạn bắt đầu lo lắng suy nghĩ về những gì mà người đó đã nghe về bạn trước khi gặp bạn". Zach Schonfeld từ Newsweek gọi bài hát là "khoảnh khắc yếu đuối đầu tiên từ album", và nó đã thành công bởi "bài hát đã lột bỏ đi vẻ hiên ngang và những âm thanh EDM chói tai của những bài hát mở đầu". Trong một những xét tích cực khác, Roisin O Connor từ The Independent nói rằng "Taylor Swift đã viết một vài bài hát chân thực và thẳng thắn nhất về cô", và "Delicate là một trong những ví dụ rõ ràng nhất về điều đó". Rob Sheffield từ The Rolling Stone gọi đây là bài hát hay nhất năm 2017, bài hát cũng nằm trong danh sách 17 Ca khúc nhạc Pop hay nhất năm 2017 của tạp chí Vanity Fair. Video âm nhạc cho "Delicate" được trình chiếu vào ngày 11 Tháng Ba năm 2018 tại Lễ trao giải iHeartRadio Music Awards 2018, sau khi Swift nhận giải thưởng cho hạng mục "Nữ nghệ sĩ của năm". Được đạo diễn bởi Joseph Kahn, video được ghi hình tại các địa điểm khác nhau xung quanh Los Angeles, bao gồm Khách sạn Millennium Biltmore, Đường số 7/Nhà ga trung tâm Metro, Nhà hát Los Angeles, gần Tòa án St. Vincent, và Quán bar Golden Gophe. Video đã nhận được 13 triệu lượt xem trực tuyến sau 24 giờ đầu tiên phát hành. Tính đến tháng 3 năm 2020, video được có hơn 400 triệu lượt xem trên YouTube.
Delicate (bài hát của Taylor Swift)
"Delicate" là một bài hát của nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Hoa Kỳ Taylor Swift, nằm trong album phòng thu thứ sáu của cô, Reputation (2017). Nó được phát hành vào 12 Tháng Ba năm 2018, và là đĩa đơn thứ sáu từ album. Swift đã viết bài hát cùng với nhà sản xuất Max Martin và Shellback.
Trả góp là một phương thức cho vay tiền mà các kỳ trả nợ gốc và lãi trùng nhau trong đó số tiền trả nợ của mỗi kỳ là bằng nhau theo thỏa thuận của hai bên và số lãi được tính dựa trên số dư của nợ gốc và thời hạn thực tế của kỳ hạn trả nợ. Thông thường, kỳ hạn trả góp sẽ là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính của người vay. Trả góp thường áp dụng trong việc cho vay tiêu dùng, mua những tài sản có giá trị lớn như là nhà đất, ô tô, . Đối với hình thức mua hàng trả góp bằng thẻ tín dụng, khách hàng cần phải có thẻ tín dụng đảm bảo các điều kiện như là thẻ tín dụng phải hợp lệ, hạn sử dụng của thẻ tín dụng phải dài hơn thời gian muốn trả góp, hạn mức của thẻ tín dụng phải lớn hơn hoặc bằng số tiền cần trả góp, thẻ tín dụng phải nằm trong danh sách những thẻ mà cửa hàng chấp nhận. Đối với hình thức mua hàng trả góp qua công ty tài chính, người mua phải là công dân trong độ tuổi 18 - 60 (tính theo ngày, tháng, năm sinh trên chứng minh thư nhân dân hay thẻ căn cước), có chứng minh thư nhân dân hay thẻ căn cước vẫn còn hạn sử dụng, thẻ lương và sổ hộ khẩu. Tuần trước, tôi và chồng tôi đã đến cửa hàng xe ô tô để mua chiếc xe mà anh ấy mơ ước. Chúng tôi đã mua nó theo hình thức trả góp. Mua hàng trả góp là một hình thức mua hàng mà người mua không cần phải trả toàn bộ chi phí của món hàng trong một lần. Thay vào đó, họ chỉ cần thanh toán một phần của món hàng và phần còn lại (bao gồm cả lãi suất) sẽ được thanh toán dần dần theo kỳ hạn. Hiện nay, vay trả góp là một phương thức tài trợ tiêu dùng được ưa chuộng cho những mặt hàng có giá trị lớn như nhà cửa, xe hơi và thiết bị điện tử. Người cho vay thường ủng hộ khách hàng vay trả góp vì nó giúp cung cấp một dòng tiền ổn định cho nhà phát hành nợ trong suốt vòng đời của khoản vay với các khoản thanh toán định kỳ trên lịch biểu chi trả dần. Hợp đồng trả góp là giấy tờ pháp lý về việc vay vốn hay có thể hiểu là một thỏa thuận được pháp luật bảo vệ giữa người vay vốn với bên cho vay.
Trả góp
Trả góp là phương thức cho vay tiền mà các kỳ trả nợ gốc và lãi trùng nhau. Số tiền trả nợ của mỗi kỳ là bằng nhau theo thỏa thuận (hợp đồng) và số lãi được tính dựa trên số dư nợ gốc và thời hạn thực tế của kỳ hạn trả nợ. Thông thường, kỳ hạn trả nợ là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm, tùy thuộc vào nhu cầu, khả năng tài chính trả trước và khả năng tài chính trả định kỳ. Trả góp còn áp dụng trong việc cho vay tiêu dùng, mua tài sản giá trị lớn (nhà đất, xe hơi.). Lãi suất cho vay trả góp thường do bên cho vay và bên vay tự thỏa thuận. Ví dụ một trường hợp: Một người vay 10 triệu tiền với lãi suất 20%. Như vậy nợ gốc là 10 triệu đồng + nợ lãi là 2 triệu đồng = tổng nợ gốc lãi là 12 triệu đồng. Nếu phân bổ thành 6 kỳ hạn trả, mỗi kỳ là 2 tháng thì số tiền trả nợ mỗi kỳ là 2 triệu đồng.
Kinh tế học chuẩn tắc (hay còn gọi là Kinh tế học lý thuyết) (Tiếng Anh: Normative economics) là một nhánh kinh tế học chuyên phán xét . Kinh tế học là gì. Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự chọn lựa của con người trong việc sử dụng những nguồn lực có giới hạn để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Kinh tế học thực chứng là gì? Sự khác biệt giữa kinh tế học thực. Kinh tế học thực chứng là gì? Kinh tế học thực chứng (Positive economics) là phương pháp nghiên cứu kinh tế đòi hỏi mọi thứ đều được phải chứng minh, kiểm nghiệm chứ không tìm cách nhận định là sự vật phải hay nên như thế nào. Phân tích thực chứng có khuynh hướng tìm kiếm cách mô tả khách quan về các sự kiện hay quá trình trong đời sống kinh tế. Động cơ của phép phân tích thực chứng là cắt nghĩa, lý giải và dự đoán về các quá trình hay sự kiện kinh tế này. bài tập cá nhân kinh tế . nhà kinh t h c v t ra ngoài c c sự ph n t ch thu n t y c a kinh t h c th c ch ng, h sẽ chuy n qua địa h t c a kinh t h c chu . Kinh tế học chuẩn tắc là một nhánh kinh tế học chuyên phán xét xem nền kinh tế phải như thế nào hoặc phải có chính sách kinh tế . Kinh tế học chuẩn tắc là gì? Kinh tế học chuẩn tắc (normative economics) là các phân tích kinh tế đưa ra những quyết định hoặc nhận định về cái cần phải và nên có chứ không phải cái hiện có. Sự khác nhau giữa Kinh tế học thực chứng và Kinh tế học chuẩn tắc. Trong nghiên cứu Kinh tế học, cần phân biệt giữa Kinh tế học chuẩn tắc và Kinh tế học thực chứng. Mục tiêu của Kinh tế học thực chứng là phân tích xem xã hội ra quyết định như thế nào về tiêu dùng, sản xuất và trao đổi hàng hóa. Bài 1: Tổng quan về kinh tế học và kinh tế học vi mô ECO101Bai1v2.3014106226 1 0 Nội dung Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận. Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học cũng nghiên cứu cách thức xã hội quản lý các nguồn tài nguyên (nguồn lực) khan hiếm của nó.
Kinh tế học chuẩn tắc
Kinh tế học chuẩn tắc (hay còn gọi là Kinh tế học lý thuyết) (Tiếng Anh: Normative economics) là một nhánh kinh tế học chuyên phán xét xem nền kinh tế phải như thế nào hoặc phải có chính sách kinh tế gì để đạt được một mục tiêu đáng có. Kinh tế học chuẩn tắc chú ý tới sự đáng có của những mặt nhất định của nền kinh tế. Nó nhấn mạnh sự cần thiết có các chính sách kinh tế. Chú ý là kinh tế học chuẩn tắc (phải như thế nào) khác với kinh tế học thực chứng (như thế nào). Tuy nhiên, việc phán xét các giá trị chuẩn tắc đòi hỏi phải có những điều kiện (giả thiết), và khi điều kiện thay đổi thì giá trị cũng thay đổi.
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác, hiện nay khái niệm quyền nhân thân được quy định tại khoản 1 Điều 25 Bộ luật dân sự năm 2015. Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được người đại diện theo pháp luật của người này đồng ý theo quy định của Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan hoặc theo quyết định của Tòa án. Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự đồng ý của vợ, chồng hoặc con thành niên của người đó; trường hợp không có những người này thì phải được sự đồng ý của cha, mẹ của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết, trừ trường hợp Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan quy định khác. Quyền nhân thân là quyền của cá nhân đối với các giá trị nhân thân của mình được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân như quyền xác định dân tộc, quyền xác định lại giới tính, chuyển đổi giới tính, quyền kết hôn, quyền ly hôn, quyền nhận nuôi con nuôi…. Mục 2 Chương 3 BLDS năm 2015 quy định về quyền nhân thân đã giới hạn phạm vi chủ thể của quyền nhân thân được quy định trong Mục 2 này chỉ bao gồm quyền nhân thân của cá nhân mà không quy định về quyền nhân thân của pháp nhân. Trong khoa học pháp lý cũng như trên thực tế, thuật ngữ quyền nhân thân thường bị nhầm lẫn với khái niệm giá trị nhân thân. Giá trị nhân thân là những giá trị tinh thần gắn liền với cá nhân, có từ khi cá nhân sinh ra và không phải mọi giá trị nhân thân đều được xác định là quyền nhân thân mà chỉ những giá trị nhân thân được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ thông qua việc luật hóa thì mới được coi là quyền nhân thân. Có rất nhiều các cách thức khác nhau để phân loại quyền nhân thân, trong đó, cách thức phân loại quyền nhân thân phổ biến là dựa vào đối tượng của quyền nhân thân. Theo cách thức phân loại này, quyền nhân thân được phân thành 5 nhóm sau đây:. 1/ Nhóm các quyền cá biệt hoá chủ thể. Ví dụ: Quyền xác định dân tộc; quyền xác định lại giới tính;. 2/ Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân. Ví dụ: Quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người;. 3/ Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể. Ví dụ: Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư;. 4/ Nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của cá nhân. Ví dụ: Quyền kết hôn; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; quyền li hôn;. 5/ Nhóm các quyền đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Ví dụ: Quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm. – Quyền nhân thân gắn liền với mỗi chủ thể nhất định và về nguyên tắc quyền không thể chuyển giao cho các chủ thể khác. Tuy nhiên, trong một số trường hợp luật định thì quyền nhân thân có thể dịch chuyển được. Ví dụ: Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 ghi nhận quyền công bố tác phẩm của các tác giả các tác phẩm, các đối tượng sở hữu công nghiệp có thể được chuyển giao chủ thể khác mà không phải trong mọi trường hợp tác giả là người công bố;. – Quyền nhân thân không xác định được bằng tiền, quyền nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương nên không thể trao đổi ngang giá. Trong trường hợp, quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm (như xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân…) thì chủ thể chịu trách nhiệm phải bồi thường cho cá nhân một khoản tiền. Bản chất của khoản tiền này là nhằm bù đắp những mất mát, tổn thất đã gây ra cho người bị thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm… mà không phải là việc quy đổi quyền nhân thân bị xâm phạm ra tiền. Cá nhân tự thực hiện các hành vi để xác lập, thực hiện các quan hệ nhân thân cho chính mình. Tuy nhiên, đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của những người này phải được người đại diện theo pháp luật của người này đồng ý hoặc theo quyết định của Tòa án. Ví dụ: Trẻ sơ sinh được cha mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh. Quy định này xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích chính đáng của các cá nhân khi mà khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của họ không được đầy đủ. Đối với người bị tuyên bố mất tích, người bị tuyên bố là đã chết, việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân phải được sự đồng ý của vợ, chồng hoặc con đã thành niên của người đó hoặc của cha, mẹ của họ. Những cá nhân bị tuyên bố mất tích hoặc bị tuyên bố là đã chết thì năng lực chủ thể của họ bị tạm dừng hoặc chấm dứt nên những vấn đề liên quan đến nhân thân của những người này không thể được thực hiện thông qua người đại diện giống như những cá nhân không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (quan hệ đại diện xác lập với những người còn sống). Bởi vậy, người thân thích trong gia đình sẽ là người quyết định vấn đề xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của các cá nhân này. So với Điều 24 BLDS năm 2005, khoản 2 Điều 25 BLDS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định về phương thức xác lập, thực hiện quyền nhân thân cho một số chủ thể vì lý do năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ (người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) hoặc vì lý do tư cách chủ thể bị tạm dừng hoặc chấm dứt (người bị tuyên bố mất tích, người bị tuyên bố là đã chết) mà không thể trực tiếp xác lập, thực hiện các quan hệ nhân thân liên quan đến chính mình. Đây là một điểm bổ sung cần thiết, phù hợp của BLDS năm 2015 và sự bổ sung này đã khắc phục được lỗ hổng của Điều 24 BLDS năm 2005. Bên cạnh nội dung mới, có tính chất tích cực thì Điều luật này cũng còn có sự hạn chế khi khoản 1 Điều 25 đưa ra khái niệm về quyền nhân thân nhưng chưa bao quát đầy đủ các đặc điểm của quyền này như quyền nhân thân là quyền không trị giá được thành tiền.
Nhân quyền
Nhân quyền (hay quyền con người; tiếng Anh: human rights) là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc, nhân quyền là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, Thomas Jefferson đã đưa ra một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập chính phủ dân chủ. Các chính phủ trong thể chế dân chủ không ban phát các quyền tự do cơ bản mà Jefferson đã nêu, mà chính các chính phủ đó để bảo vệ các quyền tự do đó – các quyền mà mọi cá nhân "hiển nhiên có" do sự tồn tại của mình. Như vậy, có thể khái quát, quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế.
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Để tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, cần đáp ứng các điều kiện sau đây: Có tính nguyên gốc và tính sáng tạo; Tác phẩm phải được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định. Về nội dung quyền tác giả được bảo hộ bao gồm quyền nhân thân và quyền về tài sản cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả đó. 5 Nội dung, giới hạn quyền, thời hạn bảo hộ quyền tác giả5.1 Nội dung và giới hạn quyền tác giả5.2 Thời hạn bảo hộ quyền tác giả. Quyền tác giả (hay tác quyền hoặc bản quyền) là thuật ngữ rất phổ biến trên thực tế và thường được hiểu là quyền độc quyền của tác giả cho tác phẩm của người này. Vậy theo quy định của pháp luật, quyền tác giả là gì? Cơ chế bảo hộ quyền tác giả được quy định như thế nào?. Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Theo đó, quyền tác giả chính là quyền của chủ thể được coi là tác giả đối với sản phẩm do chính bản thân mình sáng tạo ra hoặc sở hữu tác phẩm đó. Vậy, đối tượng của quyền tác giả là gì? Có phải mọi tác phẩm đều được bảo hộ quyền tác giả không?. Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào. Tác phẩm ở đây có nhiều loại, có thể là tác phẩm nguyên gốc, tác phẩm phái sinh hoặc tác phẩm đã công bố. Như vậy, quyền tác giả được dùng để bảo vệ các tác phẩm mang tính sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa để không bị vi phạm bản quyền, chẳng hạn như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm này. Khi quyền tác giả được bảo hộ, Cục Bản quyền tác giả sẽ cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, thiết lập bản quyền cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm đó. Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện d­ưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất l­ượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay ch­ưa công bố, đã đăng ký hay ch­ưa đăng ký. Có thể thấy, quyền tác giả phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm đó được ra đời và được tác giả thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định. Chỉ cần sản phẩm đó được lưu lại dưới bất kỳ hình thức, phương tiện, ngôn ngữ nào, dù đã được công bố hay chưa công bố, đã được đăng ký hay chưa được đăng ký thì đều phát sinh quyền tác giả. Như vậy, sự xuất hiện của tác phẩm chính là căn cứ phát sinh quyền tác giả và quyền này cần được tôn trọng, bảo vệ. Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 thì tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm sẽ được bảo hộ quyền tác giả. Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều 37 đến Điều 42 của Luật này. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại khoản 1 Điều này gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Quyền tác giả hay tác quyền hoặc bản quyền là độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Để tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, cần đáp ứng các điều kiện sau đây:. Có tính nguyên gốc và tính sáng tạo. Tính nguyên gốc và sáng tạo thể hiện ở tác phẩm đó được tạo ra một cách độc lập và không sao chép từ bất kỳ một tác phẩm nào khác. Việc bảo hộ quyền tác giả chỉ áp dụng với tác phẩm được tạo ra với sự mới mẻ và nguyên gốc, không phải tái bản hay vay mượn từ khác tác phẩm khác. Tác phẩm phải được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định. Sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học chỉ được công nhận là tác phẩm nếu được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định. Chẳng hạn như tác phẩm thơ, truyện được thể hiện trên giấy, tác phẩm điện ảnh dưới dạng những thước phim,… Việc ghi lại tác phẩm dưới hình thức nhất định nào đó là cơ sở để bảo hộ quyền tác giả cho tác phẩm này. Khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ quy định cụ thể về các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Theo đó, tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:. Các tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để tạo ra tác phẩm phái sinh đó. Về nội dung quyền tác giả, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định bao gồm quyền nhân thân và quyền về tài sản cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả đó. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Theo quy định này, các quyền nhân thân bao gồm: quyền đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến tác phẩm của mình; bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho phép người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền nhân thân đối với tác phẩm mà mình sáng tạo gồm: đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, cho phép hoặc không cho phép người khác sửa đổi nội dung của tác phẩm. Chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả có các quyền nhân thân đối với tác phẩm gồm: công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến tác phẩm thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp giữa tác giả và chủ sở hữu có thỏa thuận khác; cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm thuộc quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp giữa tác giả và chủ sở hữu có thoả thuận khác. Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Các quyền về tài sản nêu trên do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định. Các tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền về nhân thân nêu trên thì phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả. Quyền tác giả được bảo hộ trong thời gian bao lâu? Đây là thắc mắc của rất nhiều người, đặc biệt là tác giả, chủ sở hữu của tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả, theo đó mỗi loại quyền lại có thời hạn bảo hộ khác nhau. Các quyền nhân thân như đặt tên cho tác phẩm, đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng, bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả sẽ được bảo hộ vô thời hạn. Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình, nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn được tính từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả được xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này;. Thời hạn bảo hộ chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả. Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này. Tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định tại Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Đối với mỗi chủ thể là cá nhân hoặc tổ chức khác nhau thì phạm vi quyền tác giả lại khác nhau, có thể có một, một số hoặc toàn bộ quyền tác giả theo quy định của pháp luật. Giảng viên khoa pháp luật kinh tế – trường Đại học Luật Hà Nội. Tốt nghiệp Thạc sĩ Luật Đại học Duke (Hoa Kỳ), có nhiều kinh nghiệm làm việc tại các công ty luật lớn trên thế giới.
Quyền tác giả
Quyền tác giả hay tác quyền là bản quyền hoặc độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm) không, ví dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm này. (intellectual property) và vì thế là đặt việc bảo vệ sở hữu vật chất và sở hữu trí tuệ song đôi với nhau, thế nhưng khái niệm này đang được tranh cãi gay gắt. Quyền tác giả không cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi giữ lại ít nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất.
Năm 1999, shark Linh tốt nghiệp ngành Quản trị kinh doanh tổng hợp tại Đại học Nam California 1.1. Năm 2 tuổi, bà và mẹ sang Mỹ định cư. Được biết quan điểm của Shark Thái Vân Linh về những gì giới trẻ Việt nên làm ở tuổi 20, cũng tương đồng với quan điểm của tỷ phú Jack Ma. Thái Vân Linh (sinh năm 1977) là một doanh nhân Việt Nam. Thái Vân Linh có chồng là Kevin Yee – CMO (Chief Marketing Officer) của công ty giải trí đa phương tiện POPS Worldwide và một người con gái. Linh Thái có hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, tiếp thị và vận hành. Mỗi tháng, Thái Vân Linh sẽ lựa chọn một cuốn sách yêu thích và chia sẻ với câu lạc bộ sách của mình trên Fonos. Bà hiện là nhà đầu tư, nhà cố vấn hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp. Stay Healthy Cùng Thái Vân Linh là chuỗi hoạt động hướng đến cộng đồng với các nội dung về y khoa và sức khỏe thường thức mà bạn có thể dễ dàng theo dõi, tham gia để cập nhật thêm kiến thức hữu ích cho mình và gia đình. Fonos sẽ mang cuốn sách ấy đến bạn thông qua định dạng sách nói sống động. Năm 2012, Thái Vân Linh thái văn linh kết hôn.
Thái Vân Linh
Thái Vân Linh (sinh năm 1977) là một doanh nhân Việt Nam. Bà hiện là nhà đầu tư, nhà cố vấn hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp. Bà được biết đến là một trong bốn nhà đầu tư chính của chương trình truyền hình thực tế nổi tiếng Thương vụ bạc tỷ với tên gọi là Shark Linh. Vào ngày 18 tháng 10 năm 2018, Thái Vân Linh là diễn giả Women s Summit 2018 của Forbes. Bà sinh ngày 10 tháng 4 năm 1977 tại Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2 tuổi, bà và mẹ sang Mỹ định cư. Sau đó bà ở với mẹ, ba nuôi và sau này có thêm một cô em gái. Năm 2008, Thái Vân Linh bỏ công việc với mức lương cao và sự đãi ngộ tốt tại một ngân hàng tư vấn, phân tích tài chính cho doanh nghiệp của Mỹ để trở về Việt Nam. Năm 2012, bà từng làm Giám đốc cho quỹ DFJ VinaCapital. Cũng trong năm 2012, bà lập ra một start-up có tên là The One Couture chuyên về may váy cưới theo số đo và thiết kế của cô dâu. Năm 2015, Thái Vân Linh là CEO và founder của start-up Rita Phil chuyên thiết kế và sản xuất chân váy theo số đo.
Tại cuộc họp thượng đỉnh đầu tiên ở Cairo năm 1964, Liên đoàn Ả Rập đã khởi xướng việc thành lập một tổ chức đại diện cho người dân Palestine. Các Hội đồng Dân tộc Palestine đã triệu tập ở Jerusalem vào ngày 28 tháng 5 năm 1964. Sau khi kết thúc buổi làm việc, PLO được thành lập vào ngày 2 tháng sáu năm 1964. nó đặt mục tiêu sẽ là "giải phóng Palestine " thông qua cuộc đấu tranh vũ trang. Hệ tư tưởng của PLO được hình thành vào năm thành lập, 1964, trong Hiệp ước Quốc gia Palestine . Tài liệu này là một tuyên bố mang tính chiến đấu chống chủ nghĩa Zionist nhằm mục đích "khôi phục quê hương Palestine". Nó không liên quan đến tôn giáo. Năm 1968, Điều lệ được thay thế bằng một phiên bản sửa đổi toàn diện. Cho đến năm 1993, lựa chọn duy nhất được khuyến khích là đấu tranh vũ trang. Từ khi ký kết Hiệp định Oslo, đàm phán và ngoại giao trở thành chính sách chính thức duy nhất. Vào tháng 4 năm 1996, một số lượng lớn các bài báo không phù hợp với Hiệp định Oslo , đã bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần. Cốt lõi của hệ tư tưởng PLO là niềm tin rằng những người theo chủ nghĩa Zionist đã trục xuất người Palestine khỏi Palestine một cách vô cớ và thành lập một nhà nước Do Thái tại chỗ với lý do có quan hệ lịch sử và quan hệ Do Thái với Palestine. PLO yêu cầu những người tị nạn Palestine được phép trở về nhà của họ. Điều này được thể hiện trong Giao ước Quốc gia:. Điều 2 của Hiến chương nói rằng "Palestine, với các ranh giới mà nó có được trong thời kỳ ủy trị của Anh , là một đơn vị lãnh thổ không thể chia cắt", có nghĩa là không có chỗ cho một nhà nước Do Thái. Bài báo này đã được điều chỉnh vào năm 1996 để đáp ứng Hiệp định Oslo. Điều 20 nêu rõ: " Tuyên bố Balfour , Ủy quyền cho Palestine, và mọi thứ dựa trên chúng, đều bị coi là vô hiệu. Những tuyên bố về mối quan hệ lịch sử hoặc tôn giáo của người Do Thái với Palestine không phù hợp với thực tế lịch sử và quan niệm thực sự về những gì tạo thành nhà nước. Do Thái giáo, là một tôn giáo, không phải là một quốc gia độc lập. Người Do Thái cũng không tạo thành một quốc gia duy nhất với một bản sắc của riêng mình; họ là công dân của các tiểu bang mà họ thuộc về ″. Bài báo này đã bị vô hiệu hóa vào năm 1996. Điều 3 viết: "Người dân Ả Rập Palestine có quyền hợp pháp đối với quê hương của họ và có quyền tự định đoạt số phận của mình sau khi hoàn thành giải phóng đất nước theo nguyện vọng và hoàn toàn theo ý muốn của họ". PLO đã luôn dán nhãn người Palestine là người Ả Rập. Đây là một hệ quả tự nhiên của thực tế là PLO là một nhánh của Liên đoàn Ả Rập . Nó cũng có một yếu tố chiến thuật, để giữ được sự hậu thuẫn của các quốc gia Ả Rập. Trong những năm qua, bản sắc Ả Rập vẫn là bản chất đã nêu của Nhà nước Palestine. Nó là một tham chiếu đến "Nhà nước Ả Rập" được hình dung trong Kế hoạch phân vùng của Liên hợp quốc . PLO và phe thống trị của nó, Fatah, thường tương phản với các phe có khuynh hướng tôn giáo hơn như Hamas và Hội thánh chiến Hồi giáo Palestine (PIJ). Tuy nhiên, tất cả đều đại diện cho dân số chủ yếu là người Hồi giáo. Trên thực tế, toàn bộ dân số của Lãnh thổ là người Hồi giáo, hầu hết trong số họ là người Sunni. Chỉ khoảng 50.000 (khoảng 1%) trong số 4,6 triệu người Palestine ở các vùng lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng (OPT) là người Palestine theo đạo Thiên chúa . Hiến chương Quốc gia không có đề cập đến tôn giáo. Dưới thời Tổng thống Arafat, Chính quyền Palestine do Fatah thống trị đã thông qua Luật Cơ bản sửa đổi năm 2003, trong đó quy định Hồi giáo là tôn giáo chính thức duy nhất ở Palestine và các nguyên tắc của sharia Hồi giáo là nguồn luật chính. Dự thảo Hiến pháp, chưa bao giờ thành hiện thực, có các điều khoản tương tự. Vào thời điểm đó, Hội đồng Lập pháp Palestine (PLC), cơ quan lập pháp đơn viện của Chính quyền Quốc gia Palestine , được bầu bởi các cư dân Palestine trên các lãnh thổ Palestine ở Bờ Tây và Dải Gaza , không bao gồm một Hamas nào. Dự thảo Hiến pháp được xây dựng bởi "Ủy ban Hiến pháp", được chỉ định với sự chấp thuận của PLO. PLO kết hợp một loạt các hệ tư tưởng thế tục nói chung của các phong trào Palestine khác nhau "cam kết đấu tranh cho độc lập và giải phóng Palestine," do đó có tên gọi của tổ chức này. Nó chính thức là một tổ chức ô bao gồm "nhiều tổ chức của phong trào kháng chiến, các đảng phái chính trị và các tổ chức quần chúng." Ngay từ đầu, PLO được thiết kế như một chính phủ lưu vong, với một quốc hội, Hội đồng Quốc gia Palestine (PNC), được người dân Palestine chọn làm cơ quan quyền lực cao nhất trong PLO, và một chính phủ hành pháp (EC). , được bầu bởi PNC. Tuy nhiên, trên thực tế, tổ chức này là một tổ chức có thứ bậc với đặc điểm giống như quân đội, cần thiết cho chức năng của nó như một tổ chức giải phóng, "giải phóng Palestine". Bên cạnh Hiến chương Quốc gia Palestine , mô tả tư tưởng của PLO, một hiến pháp, có tên là "Luật cơ bản", đã được thông qua, quy định cấu trúc bên trong của tổ chức và đại diện của người dân Palestine. Dự thảo Hiến pháp được soạn thảo vào năm 1963, nhằm cai trị PLO cho đến khi cuộc tổng tuyển cử tự do giữa tất cả người Palestine ở tất cả các quốc gia mà họ cư trú có thể được tổ chức. Hiến pháp được sửa đổi vào năm 1968. Các Hội đồng Dân tộc Palestine có 740 thành viên và Ban Chấp hành hoặc EXCO có 18 thành viên. Các Hội đồng Palestine Trung ương hoặc CC hoặc PCC, được thành lập bởi các PNC vào năm 1973, là cơ quan thứ hai lãnh đạo của PLO. CC hoạt động như một cơ quan trung gian giữa PNC và EC. CC đưa ra các quyết định chính sách khi PNC không có trong phiên họp, hoạt động như một liên kết giữa PNC và PLO-EC. CC do PNC bầu ra và do diễn giả PNC chủ trì. PNC đóng vai trò là quốc hội cho tất cả người Palestine trong và ngoài Lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng, bao gồm cả Jerusalem. PLO được điều chỉnh nội bộ bởi "Luật cơ bản", trong đó mô tả quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan của PLO. Ahmad Shukeiri là Chủ tịch đầu tiên của Ủy ban điều hành PLO từ năm 1964 đến năm 1967. Năm 1967, ông được thay thế bởi Yahia Hammuda. Yasser Arafat đảm nhiệm chức vụ này từ năm 1969 cho đến khi ông qua đời vào năm 2004. Ông được kế vị bởi Mahmoud Abbas (còn được gọi là Abu Mazen). Theo một tài liệu nội bộ của PLO, PNC hiện tại vẫn hoạt động nếu các cuộc bầu cử không thể thực hiện được. Trong trường hợp không có bầu cử, hầu hết các thành viên của PNC được chỉ định bởi ủy ban điều hành. Tài liệu nói thêm rằng "PNC đại diện cho tất cả các thành phần của cộng đồng người Palestine trên toàn thế giới, bao gồm nhiều tổ chức của phong trào kháng chiến, các đảng phái chính trị, các tổ chức bình dân và các cá nhân độc lập và các nhân vật từ mọi thành phần của cuộc sống, bao gồm cả trí thức, các nhà lãnh đạo tôn giáo và doanh nhân". Tính đến năm 2015, đã không có cuộc bầu cử nào trong nhiều năm, không cho PNC, cũng không cho EC, PCC hay Chủ tịch Nhà nước Palestine . Ban chấp hành chính thức có 18 thành viên, bao gồm cả Chủ tịch, nhưng trong những năm qua nhiều ghế trống trong Ban chấp hành vẫn trống. Hơn nữa, Hamas , đại diện lớn nhất của cư dân trên Lãnh thổ Palestine cùng với Fatah , hoàn toàn không có đại diện trong PLO. Kết quả của cuộc bầu cử quốc hội cuối cùng cho PLC , được tổ chức tại các Vùng lãnh thổ vào năm 2006, với Hamas là người chiến thắng lớn trong khi thậm chí không phải là thành viên của PLO, "nhấn mạnh sự thiếu rõ ràng của lãnh đạo PLO", theo PASSIA . Tuy nhiên, các thành viên được bầu chọn cá nhân của PLC đại diện cho Hamas, mặc nhiên là thành viên của PNC. Trong quá khứ, tư cách đại diện của PLO thường bị thách thức. Ví dụ, nó đã bị nghi ngờ vào năm 2011 bởi một nhóm luật sư, luật gia và học giả pháp lý người Palestine, do thiếu các cuộc bầu cử. Họ đặt câu hỏi về tính hợp pháp của PLO trong việc thay đổi địa vị và vai trò của Tổ chức đối với địa vị của họ trong LHQ. Họ yêu cầu bầu cử ngay lập tức và trực tiếp vào Hội đồng Quốc gia Palestine để "kích hoạt các thể chế PLO đại diện nhằm duy trì, củng cố và tăng cường quyền đại diện hợp pháp hiệu quả của người dân Palestine nói chung", trước khi thay đổi địa vị trong LHQ. Hiệp định Oslo 1993–1995 đã cố tình tách người Palestine trong Lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng khỏi PLO và người Palestine lưu vong bằng cách thành lập Chính quyền Palestine (PA) cho các Lãnh thổ. Một quốc hội và chính phủ riêng biệt được thành lập. Mặc dù nhiều người trong PLO phản đối các Thỏa thuận Oslo, ủy ban điều hành và Hội đồng Trung ương đã chấp thuận các Thỏa thuận. Nó đánh dấu sự khởi đầu của sự suy thoái của PLO, khi PA lên thay thế PLO với tư cách là thể chế chính trị hàng đầu của Palestine. Các phe phái chính trị trong PLO phản đối quá trình Oslo đã bị gạt ra ngoài lề. PLO đã vượt qua sự chia rẽ bằng cách hợp nhất quyền lực trong PLO và PA vào một cá nhân, Yasser Arafat . Năm 2002, Arafat giữ các chức năng Chủ tịch của PLO / Ủy ban điều hành; Chủ tịch Fatah , phe thống trị trong PLO; cũng như Chủ tịch Chính quyền Quốc gia Palestine . Ông cũng kiểm soát Lực lượng An ninh Quốc gia Palestine . Chỉ trong thời kỳ Chính phủ PA do Hamas lãnh đạo trong giai đoạn 2006-2007, PLO mới hoạt động trở lại. Sau khi Hamas tiếp quản Gaza vào năm 2007, Abbas đã ban hành sắc lệnh đình chỉ PLC và một số phần của Luật Cơ bản của Palestine , đồng thời bổ nhiệm Salam Fayyad làm thủ tướng. Vào ngày 4 tháng 2 năm 1969, người sáng lập Fatah, Arafat, được bầu làm Chủ tịch PLO tại Cairo . Kể từ đó, Fatah là nhân tố chi phối trong PLO, vẫn tiếp tục diễn ra vào năm 2015. Dưới áp lực từ cộng đồng quốc tế do Israel và Hoa Kỳ lãnh đạo, và từ bên trong đảng của ông Fatah, Arafat đã chuyển giao một phần quyền lực tập trung mạnh mẽ của mình vào năm 2003, gây ra căng thẳng mạnh mẽ trong giới lãnh đạo Palestine. Arafat đã bổ nhiệm Mahmoud Abbas làm thủ tướng, nhưng điều này dẫn đến tranh chấp về việc chuyển giao nhiệm vụ và trách nhiệm. Abbas được Mỹ và cộng đồng quốc tế ủng hộ mạnh mẽ, vì ông được cho là sẵn sàng nhượng bộ sâu rộng hơn cho Israel. Trong khi Arafat đã giữ lại hầu hết quyền lực của mình và cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ Fatah vẫn tiếp diễn, giới lãnh đạo bị chỉ trích vì tham nhũng và chuyên quyền. Sau cái chết của Arafat , Abbas ngày càng có được sức mạnh độc quyền trong cả PLO và PA cũng như ở Fatah, cho đến khi anh có được sức mạnh tương tự như Arafat đã nắm giữ trước đó. Abbas bị chỉ trích vì sự cai trị chuyên quyền và từ chối chia sẻ quyền lực và kế hoạch với những người Palestine khác. Trong trường hợp không có quốc hội và Hành pháp hoạt động, ông thậm chí bắt đầu ban hành luật của riêng mình. Đại diện cấp cao của phe Fatah của Abbas và cựu Bộ trưởng phụ trách các vấn đề tù nhân của Fatah , Sufian Abu Zaida , phàn nàn rằng Abbas tự bổ nhiệm mình làm chánh án và công tố viên, chế nhạo hệ thống tư pháp Palestine. Đã xuất hiện các báo cáo về nạn tham nhũng và chế độ chuyên chế lan rộng trong Chính quyền Palestine. Chỉ có Gaza do Hamas cai trị là có quốc hội hoạt động ít nhiều. Với việc một quốc hội và Hành pháp không còn tồn tại trên thực tế , Mahmoud Abbas ngày càng giành được quyền lực độc quyền trong cả PLO và PA , cũng như ở Fatah . Sau thông báo vào tháng 8 năm 2015 về việc Abbas từ chức Chủ tịch Ủy ban điều hành và 9 thành viên khác, nhiều người Palestine coi động thái này chỉ là một nỗ lực thay thế một số thành viên trong ủy ban điều hành, hoặc buộc phải tổ chức một cuộc họp của PNC. và vẫn tiếp tục công việc của họ cho đến khi PNC quyết định chấp nhận hay từ chối đơn từ chức của họ. Gặp phải sự chỉ trích dữ dội của nhiều phe phái Palestine, một phiên họp của PNC, những người đã phải thông qua các đơn từ chức, đã bị hoãn lại vô thời hạn. Tổ chức Giải phóng Palestine được Liên đoàn Ả Rập công nhận là " đại diện hợp pháp và duy nhất của nhân dân Palestine", và được Liên hợp quốc coi là "đại diện của nhân dân Palestine". PLO được Hoa Kỳ chỉ định là một tổ chức khủng bố vào năm 1987, nhưng vào năm 1988, sự từ bỏ của tổng thống đã được ban hành, cho phép liên hệ với tổ chức này. Phần lớn phần còn lại của thế giới công nhận PLO là đại diện hợp pháp của người dân Palestine từ giữa những năm 1970 trở đi (sau khi PLO được gia nhập LHQ với tư cách quan sát viên.). Năm 1993, chủ tịch PLO Yasser Arafat công nhận Nhà nước Israel trong một lá thư chính thức gửi thủ tướng Yitzhak Rabin . Đáp lại lá thư của Arafat, Israel quyết định sửa đổi lập trường của mình đối với PLO và công nhận tổ chức này là đại diện của người dân Palestine . Điều này dẫn đến việc ký kết Hiệp định Oslo vào năm 1993. Đại hội đồng Liên hợp quốc đã công nhận PLO là "đại diện của nhân dân Palestine" trong Nghị quyết 3210 và Nghị quyết 3236, đồng thời trao quy chế quan sát viên của PLO vào ngày 22 tháng 11 năm 1974 trong Nghị quyết 3237. Ngày 12 tháng 1 năm 1976, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã bỏ phiếu 11– 1 với 3 phiếu trắng để cho phép Tổ chức Giải phóng Palestine tham gia vào cuộc tranh luận của Hội đồng Bảo an mà không có quyền biểu quyết, một đặc quyền thường bị hạn chế đối với các quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Nó được thừa nhận là thành viên đầy đủ của nhóm Châu Á vào ngày 2 tháng 4 năm 1986. Sau Tuyên ngôn Độc lập của Palestine , cơ quan đại diện của PLO được đổi tên thành Palestine. Vào ngày 7 tháng 7 năm 1998, quy chế này đã được mở rộng để cho phép tham gia vào các cuộc tranh luận của Đại hội đồng, mặc dù không phải bỏ phiếu. Khi Tổng thống Mahmoud Abbas nộp đơn xin gia nhập Liên hợp quốc , vào tháng 9 năm 2011, các luật sư, luật gia và học giả pháp lý người Palestine bày tỏ quan ngại về sự thay đổi địa vị của Palestine tại LHQ (từ năm 1988 được chỉ định là "Palestine" thay cho "Tổ chức Giải phóng Palestine ") có thể có tác động tiêu cực đến vị trí hợp pháp của người dân Palestine. Họ cảnh báo về nguy cơ chia cắt, nơi mà Nhà nước Palestine sẽ đại diện cho những người trong LHQ và PLO đại diện cho những người bên ngoài LHQ, sau đó bao gồm cả những người Palestine lưu vong, nơi người tị nạn chiếm hơn một nửa dân số Palestine.
Tổ chức Giải phóng Palestine
Tổ chức Giải phóng Palestine (tiếng Anh Palestine Liberation Organisation, viết tắt là PLO; tiếng Ả Rập: منظمة التحرير الفلسطينية, Munazzamat al-Tahrir al-Filastiniyyah hay Munazzamat al-Tahrir al-Filastiniyyah) là một tổ chức chính trị và bán quân sự được Liên đoàn Ả Rập xem là "đại diện hợp pháp của nhân dân Palestine" kể từ tháng 10 năm 1974. Được thành lập bởi Liên đoàn Ả Rập năm 1964, mục tiêu của tổ chức này là tiêu diệt Nhà nước Israel thông qua đấu tranh. Tổ chức này ban đầu được chính phủ Ai Cập kiểm soát phần lớn. Hiến chương ban đầu của PLO nhấn mạnh đến việc tiêu diệt Israel cũng như một quyền trở về và quyền tự quyết của những người Ả Rập Palestine trong quá trình Jordan chiếm Bờ Tây và Ai Cập chiếm đóng Dải Gaza. Tư cách quốc gia của Palestine đã không được đề cập dù sau này PLO đã chọn ý tưởng về một nhà nước độc lập nằm giữa sông Jordan và Địa Trung Hải. Gần đây, PLO đã chính thức chọn một giải pháp hai nhà nước Palestine và Israel tồn tại bên cạnh nhau tùy thuộc vào các điều khoản như Đông Jerusalem sẽ là thủ đô của Nhà nước Palestine và quyền trở về của người Palestine mặc dù nhiều nhà lãnh đạo Palestine, bao gồm Yasser Arafat và Faisal Husseini, đã tuyên bố mục tiêu của họ vẫn là "giải phóng" toàn bộ Palestine.
Theo định nghĩa của các nhà khoa hoc, rối loạn lo âu là nỗi sợ quá mức của con người đối với một thứ gì đó mà khi phải đối mặt nó, chúng ta thường bị hoảng loạn và sợ hãi đến ngất đi. Chắc hẳn các bạn đã quá quen thuộc với căn bệnh mang tên sợ độ cao hay sợ nước, thế nhưng đó chưa phải là tất cả. Có những hội chứng mà đến cả các chuyên gia cũng không thể lí giải được và là cơn ác mộng đối với những người mắc phải. Dưới đây là 10 nỗi ám ảnh tưởng như chỉ có trên phim nhưng hoá ra lại tồn tại thật ở trên đời. Những bức ảnh có nhiều lỗ tụ lại ở một nơi cũng có thể làm người ta rùng mình. Tuy hội chứng sợ lỗ là căn bệnh chưa được Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ công nhận bởi nó chưa đủ tiêu chuẩn để được coi là bệnh, nhưng có rất nhiều người cho biết họ thực sự cảm thấy sợ hãi trước những cái lỗ. Người bệnh có thể cảm thấy rợn sống lưng, nổi da gà, chóng mặt, buồn nôn khi nhìn vào những tấm hình có lỗ nhỏ li ti như tổ ong, bát sen, các lỗ trên thân cây. Theo các nhà nghiên cứu, nguyên nhân của chứng bệnh này là do não bộ bị quá tải. Bởi lẽ hình ảnh thủng lỗ chỗ có kết cấu phức tạp nên khiến cho phần não chịu trách nhiệm phân tích thông tin thị giác gặp khó khăn. Để xử lý được thông tin, não cần có nhiều oxy hơn nhưng như vậy sẽ khiến não bộ bị quá tải. Do vậy, cơ thể phản ứng bằng các cảm giác như chóng mặt, buồn nôn để buộc người nhìn không nhìn nữa. Những người mắc hội chứng này thường hay né tránh những nơi đông đúc, các sự kiện xã hội, thậm chí còn tự cô lập bản thân với cả gia đình và bạn bè do lo sợ người khác sẽ nhìn thấy những khuyết điểm trên hình thể của họ. Nỗi ám ảnh thường trực của căn bệnh này chính là vẻ bề ngoài, có thể vì chiếc mũi quá to, hay tại đôi mắt quá nhỏ. Bệnh nhân luôn tự tưởng tượng về những điểm xấu xí trên cơ thể của mình hoặc phóng đại nó lên một cách quá đà. Nhiều người đã nhờ tới sự can thiệp của dao kéo để có vẻ ngoài đẹp hơn, nhưng với căn bệnh họ mắc phải, có làm thế nào cũng không bao giờ là đủ. Bởi vậy mới dẫn đến những trường hợp tự tử bởi trong họ luôn tồn tại một nỗi sợ vô hình nào đó. Theo cuốn sách chuyên tiết lộ những điều bí ẩn Khải Huyền, số 6 = 7-1. Số 7 là biểu tượng sự hoàn hảo, vì thế, 7-1 = 6 là biểu tượng của sự không hoàn hảo. Số 6 lặp lại 3 lần tạo thành 666 cho thấy Con Thú hoàn toàn không có sự hoàn hảo. Nó sẽ thất bại hoàn toàn và phải lãnh án phạt. Được nhìn nhận tiêu cực giống như số 13, số 666 được nhiều người mê tín cho rằng nó là con số của quái vật của quỷ dữ. Do vậy, nhiều người không muốn đặt số nhà là 666 hoặc thậm chí họ không muốn sinh con vào ngày 6/6/06. Chỉ cần làm khác đi so với hoạt động hàng ngày, họ cũng thấy sợ hãi. Đây là nỗi ám ảnh của những người sợ làm điều mới, họ không muốn phá vỡ những thói quen hay khuôn khổ hàng ngày. Chỉ một thay đổi nhỏ trong sinh hoạt cũng có thể làm họ thấy sợ hãi. Chứng bệnh này thường hay gặp ở động vật và trẻ em. Đặc biệt đối với trẻ em, hội chứng sợ những món ăn mới cũng rất thường gặp. Nguyên nhân có thể do gen di truyền, do tâm lý bất ổn, do môi trường hoặc do sợ vị đắng. Chỉ là một bộ râu mà cũng trở thành nỗi ám ảnh của người khác. Hội chứng sợ râu thường xảy ra với những cậu bé ở tuổi dậy thì. Người mắc hội chứng này thường không dám nhìn, sờ vào râu của mình hoặc của người khác. Một mặt, bởi có vài nhà lãnh đạo chính trị không có cái nhìn thiện cảm với râu và cho rằng những người để râu trông rất khả nghi. Mặt khác, nó cũng có liên quan đến tôn giáo, bởi có tôn giáo yêu cầu cạo râu trong khi lại có những tôn giáo cấm cạo râu. Chính vì vậy càng khiến cho nhiều người mắc hội chứng sợ râu kì lạ này. Những con rối hoạt động như người thật khiến cho nhiều trẻ em sợ hãi. Bởi vì con rối là thứ đồ chơi của trẻ em, do vậy hầu hết những người mắc căn bệnh này đều là trẻ em. Mặc dù chỉ là đồ chơi nhưng bọn trẻ thường tin rằng con rối là đồ vật sống và có chuyển động thật sự. Một trong những nguyên nhân gây ra chứng bệnh này có thể là do cơn ác mộng khủng khiếp về những con rối giết người. Bệnh nhân hay cảm thấy chóng mặt, ngất xỉu hoặc thậm chí là trốn đi khi nhìn thấy những con rối. Đôi khi, họ cũng cảm thấy bất hạnh hoặc cảm thấy người lạnh đột ngột nữa. Nhiều người được chẩn đoán mắc hội chứng này sau khi xảy ra một vài vụ nổ hạt nhân ở Nhật Bản. Hội chứng sợ phóng xạ như sợ ma là một triệu chứng bệnh lý và tâm lý được gọi là radiophobia. Tia phóng xạ là tia không thể nhìn thấy, không thể ngửi thấy, không thể nghe thấy vậy mà lại gây ra ung thư, chết chóc, giống như bị ma bắt. Phần lớn bệnh nhân của hội chứng này là những người ít hiểu biết về chụp X quang, hoặc căn bệnh này là hậu quả của việc đã từng bị chấn thương. Chính điều này đã khiến cho những người đó thường có những nỗi sợ không cần thiết hoặc không hợp lý về tia phóng xạ hay X quang. Họ cảm giác có thể tiếp xúc với thế giới tâm linh qua một tấm gương. Người mắc chứng sợ gương thường có cảm giác lo sợ quá mức và cho rằng mình nhìn thấy ma mặc dù biết đó là cảm giác thật vô lý. Sự sợ hãi của họ thường bắt nguồn từ sự mê tín dị đoan hoặc bị ám ảnh từ những bộ phim kinh dị. Nhiều người không dám nhìn vào gương mỗi khi trời tối vì họ thường tưởng tượng sẽ có gì đó chui từ gương ra hay sẽ bị một bàn tay nào đó lôi vào trong. Ngoài ra, có người còn sợ rằng gương vỡ sẽ mang lại điều xui xẻo. Do vậy mà họ sợ hãi và hạn chế tiếp xúc với gương ít nhất có thể. Có những người sợ tất cả các màu, có người lại chỉ sợ một màu duy nhất. Những người mắc chứng sợ màu sắc thường tự cô lập bản thân chỉ thích sống trong môi trường càng ít màu càng tốt. Nguyên nhân gây ra căn bệnh này có thể xuất phát từ một biến cố trong quá khứ, do cơ địa y học hoặc do một số bệnh về tâm thần. Ngoài ra, có những bệnh nhân chỉ sợ một màu nhất định như sợ màu trắng hay sợ màu đỏ. Họ sẽ cố gắng tránh xa màu sắc đó bằng mọi giá. Trong đó, sợ màu đỏ cũng đồng nghĩa với việc sợ máu. May mắn là hội chứng này hoàn toàn có thể được chữa khỏi nếu kết hợp các phương pháp điều trị tự nhiên và liệu pháp hợp lý. Bệnh nhân sẽ rất sợ hãi nếu buộc phải làm hoạt động vệ sinh cá nhân. Đây là chứng bệnh thường gặp ở phụ nữ và trẻ em, những người có tâm lý không ổn định hoặc đã quá quen với môi trường sống bẩn thỉu, ô nhiễm. Bệnh nhân thường hoảng sợ, thở dốc khi phải làm vệ sinh cá nhân như rửa tay, tắm giặt, gội đầu. và họ sẽ tìm đủ mọi cách để tránh xa những hoạt động này. Tuy nhiên, bởi vấn đề vệ sinh cá nhân luôn được đề cao nên bệnh nhân khi mắc chứng bệnh này thường cảm thấy rất xấu hổ. Bên cạnh đó, hội chứng này khác với bệnh sợ nước, vì người bệnh sẵn sàng đụng vào nước để làm việc khác miễn là không phải để vệ sinh cơ thể. TP.HCM cũng mong Chính phủ ưu tiên vắc-xin cho thành phố và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam để sớm đạt độ bao phủ theo quy định. Giữa đêm, TT Thuý Nga chính thức thông báo tình hình mới nhất của Phi Nhung, nói gì về loạt tin đồn . Vụ thầy lang chữa hiếm muộn bằng cách "quan hệ" với bệnh nhân: Cả dòng họ bàng hoàng, ông bà nội . Giảng viên không bao giờ chịu bật camera khi dạy online, đến một ngày bật nhầm sinh viên mới sững . Giữa đêm, TT Thuý Nga chính thức thông báo tình hình mới nhất của Phi Nhung, nói gì về loạt tin đồn . Vụ thầy lang chữa hiếm muộn bằng cách "quan hệ" với bệnh nhân: Cả dòng họ bàng hoàng, ông bà nội . Giảng viên không bao giờ chịu bật camera khi dạy online, đến một ngày bật nhầm sinh viên mới sững . Cô gái Tây Ninh phát hiện ung thư ở tuổi 28: Hối hận vì từng nhậu nhẹt liên tục, đổ bệnh mới thấy . Ra vườn sầu riêng kiểm tra, nông dân phát hiện quả đã bị đục khoét gần hết: Biết được "thủ phạm" . Hot: Phương Oanh Next Top khiến giới thời trang nước nhà tự hào khi trình diễn cho nhà mốt đình đám . Cô gái Tây Ninh phát hiện ung thư ở tuổi 28: Hối hận vì từng nhậu nhẹt liên tục, đổ bệnh mới thấy . Ra vườn sầu riêng kiểm tra, nông dân phát hiện quả đã bị đục khoét gần hết: Biết được "thủ phạm" . Hot: Phương Oanh Next Top khiến giới thời trang nước nhà tự hào khi trình diễn cho nhà mốt đình đám . Cựu CEO ngân hàng cắt cụt tai, mũi, xẻ lưỡi và chuẩn bị cắt nốt của quý để biến thành "người rồng . Không muốn ngồi tù vì tội hiếp dâm, gã đàn ông chấp nhận yêu cầu "phục vụ" 2000 phụ nữ trong làng . "Hố địa ngục" bị người dân tránh xa vì nghi ma ám, các nhà khoa học vào khám phá mới ngỡ ngàng vì .
Hội chứng sợ những cây cầu
Hội chứng sợ những cây cầu, có tên khoa học là Gephyrophobia, là một loại rối loạn lo âu hoặc ám ảnh cụ thể đặc trưng bởi sự sợ hãi của những cây cầu. Kết quả là, người mắc phải hội chứng sợ những cây cầu có thể tránh các tuyến đường sẽ đưa họ qua cầu. Một số giải thích có thể có của hội chứng này là nỗi sợ hãi lái xe khi qua khỏi hoặc đi trên những cây cầu, nỗi sợ hãi của một cơn gió thổi một cây cầu, nỗi sợ hãi về tính toàn vẹn cấu trúc của cây cầu, hoặc nỗi sợ rằng cây cầu sẽ sụp đổ nếu họ cố gắng để vượt qua nó. Nỗi sợ hãi này trùng lặp với hội chứng sợ độ cao vì hội chứng sợ những cây cầu có xu hướng trở nên trầm trọng hơn trong những cây cầu cao so với những cái gần sát mặt nước / mặt đất bên dưới. Tiến sĩ Michael Liebowitz, người sáng lập Phòng khám Rối Loạn Lo âu tại Viện Tâm thần Bang New York, nói, "Nó không phải là một loại ám ảnh cô lập, bởi nó thường là một phần của các loại ám ảnh tổng quát hơn.
Hội chứng Asperger là một trong năm rối loạn thuộc nhóm Rối loạn phát triển lan tỏa, được chính thức thêm vào Cẩm Nang Số Liệu và Chẩn Đoán các Rối Loạn Tâm Thần DSM-IV vào năm 1994. Rối loạn này mô tả những người có biểu hiện tự kỷ chức năng cao (tự kỷ dạng nhẹ). Hội chứng Asperger đã chính thức bị loại bỏ khỏi Cẩm nang DSM bản lần V vào năm 2013. Hiện nay, những người có triệu chứng của Hội chứng này được chẩn đoán là mắc rối loạn phổ tự kỷ cấp độ 1 (mặc dù tên ban đầu của chứng bệnh này vẫn được sử dụng rộng rãi bởi nhiều người không chuyên trong lĩnh vực y tế và cộng đồng). Hội chứng Asperger khá khác biệt với các rối loạn phổ tự kỷ khác vì nó thường được chẩn đoán ở thanh thiếu niên và người trưởng thành, thay vì đối tượng trẻ nhỏ. Nhiều trẻ có biểu hiện tự kỷ chức năng cao đạt các cột mốc phát triển đầu tiên một cách ngoạn mục – Tức là khi chúng tới một độ tuổi nhất định thì chúng sẽ có khả năng kiểm soát các mối quan hệ xã hội, thực hiện các cuộc hội thoại phức tạp hoặc vượt qua những thử thách về giác quan (thường thì trẻ khoảng độ tuổi lên 3, nhưng cũng có nhiều trẻ muộn hơn rất nhiều.). “Đặc trưng cốt yếu của Rối loạn Asperger là sự hư hại nghiêm trọng và kéo dài các mối tương tác xã hội…và sự phát triển của các hành vi, mối quan tâm và các hoạt động mang tính giới hạn, lặp đi lặp lại… Sự xáo động do bệnh phải gây ra sự hư hại đáng kể từ góc độ lâm sàng, gây ảnh hưởng lên đời sống xã hội, công ăn việc làm và các khía cạnh quan trọng khác trong vận hành chức năng cơ thể. Không giống với Rối loạn Tự kỷ, ở bệnh lý này không có sự xuất hiện của sự trì trệ hay sai lệch gì đáng kể trong khả năng lĩnh hội ngôn ngữ (vd, những từ đơn không âm gió sẽ xuất hiện trong các cuộc hội thoại khi trẻ 2 tuổi và những cụm từ giao tiếp thanh thoát và tự nhiên hơn sẽ xuất hiện ở trẻ 3 tuổi)… mặc dù vậy những vấn đề hơi khó nhận biết rõ ràng khác trong giao tiếp vẫn có thể bị ảnh hưởng nhất định (ví dụ như các đoạn hội thoại đòi hỏi sự tương tác qua lại). Mặc dù chẩn đoán nghe có vẻ có khác biệt nhưng sự thật là – theo nhà chuyên gia về hội chứng Asperger BS. Tony Attwood – “sự khác biệt giữa tự kỷ dạng chức năng cao và hội chứng Assperger chủ yếu chỉ là cách đánh vần gọi tên.”. Sự tương đồng này đặc biệt thấy rõ khi trẻ trưởng thành và những khác biệt về khả năng ngôn ngữ vào độ tuổi lên 3 trở nên không còn mấy quan trọng. Đến khi người mắc hội chứng Asperger hay tự kỷ dạng chức năng cao bước sang tuổi thanh thiếu niên, sự khác biệt dần trở nên mờ nhạt, vì vậy nên việc phân biêt chẩn đoán của 2 căn bệnh này là rất khó. Hans Asperger là một nhà tâm lý nhi khoa tại Vienna, ông đã làm việc với một nhóm những bé trai, tất cả đều có sự khác biệt trong phát triển. Mặc dù chúng đều rất thông minh và có kỹ năng ngôn ngữ bình thường nhưng ở chúng vẫn xuất hiện một loạt các triệu chứng liên quan đến tự kỷ. Thế chiến thứ hai diễn ra khiến công trình của Asperger bị đình trệ trong nhiều năm. Khi được thực hiện lại vào cuối những năm 1980, nó thu hút khá nhiều sự chú ý. Ngày nay, hội chứng Asperger – mặc dù không còn là nhóm phân loại chẩn đoán chính thức – vẫn còn hiện hữu trong những bài báo thu hút nhiều người đọc. Hầu hết những người mắc tự kỷ dạng chức năng cao không gặp vấn đề gì trong giao tiếp căn bản và họ có thể khá thông minh và nhiều khả năng hay ho. Vấn đề xuất hiện ở những người bị chẩn đoán mắc Hội chứng Asperger (tự kỷ mức 1) bao gồm:. – Khó khăn trong kỹ năng giao tiếp và tương tác xã hội (khả năng “đọc vị” ngôn ngữ cơ thể, hiểu được lối nói châm chọc, mỉa mai, v.v…). – Nhạy cảm với tiếng ồn, ánh sánh mạnh và những tác nhân kích thích giác quan khác. Cần lưu ý rằng những người mắc tự kỷ dạng chức năng cao không thiếu cảm xúc và có thể khá đồng cảm với người khác. Trong thực tế, họ đôi lúc còn có thể cực kỳ cảm xúc, nhạy cảm và dễ vui, buồn, giận, nhiệt huyết, v.v…. Tuy nhiên, khó khăn sẽ xuất hiện khi người bệnh đang rơi vào trạng thái cực hạn của phổ tự kỷ, họ chống đối lại các mong đợi hoặc quy ước phức tạp của xã hội, những thứ đòi hỏi kỹ năng tư duy xã hội ở mức cao. Mặc dù những biểu hiện trên xuất hiện ở rất nhiều người nhưng bạn cần lưu ý lại rằng một người có những đặc điểm mô tả ở trên nhưng vẫn có thể vận hành cuộc sống thường ngày một cách thoải mái thì sẽ không bị chẩn đoán mắc Hội chứng Asperger. Nói một cách khác, nhiều người có một vài hoặc tất cả các triệu chứng của hội chứng này nhưng họ vẫn có thể kiểm soát mọi thứ, vẫn đi học và đi làm bình thường, tương tác thích hợp với những người xung quanh và chăm sóc tất cả các nhu cầu hằng ngày của bản thân, thì những người này không bị chẩn đoán mắc căn bệnh này. Không bàn đến chuyện giờ ta không chẩn đoán mắc hội chứng Asperger nữa thì liệu bạn hay ai đó bạn biết có những triệu chứng tương tự và đáp ứng đủ tiêu chuẩn chẩn đoán dành cho rối loạn phổ tự kỷ? Chắc chắn là có thể, và một số bài tự kiểm tra đã được xây dựng để giúp ta quyết định xem có nên tìm đến bác sĩ để được chẩn đoán chính thức hay không. – Tôi gặp khó khăn trong việc xác định những suy nghĩ và cảm nhận của người khác. – Tôi có thể tập trung vào một số thức nhất định trong những khoảng thời gian rất dài. – Mọi người thường nói tôi thô lỗ thậm chí ngay cả khi tôi không có ý định như vậy. – Tôi làm một số việc nhất định lặp đi lặp lại, cứng nhắc không linh hoạt. Nếu bạn có nhiều câu trả lời “có” cho bộ câu hỏi này về bản thân bạn hay người thân, đó có th một ca mắc hội chứng Asperger/ hay rối loạn phổ tự ký mức độ 1 chưa được chẩn đoán. (Đương nhiên là bạn vẫn cần đến bác sĩ để có được kết luận chính thức). Đối với một số thanh thiếu niên và người trưởng thành, bạn sẽ cảm thấy cực kỳ nhẹ nhõm: Những vấn đề gây rắc rối lâu dài trong cuộc sống nay đã được chỉ mặt đặt tên. Từ đây mọi công tác hỗ trợ, điều trị và hỗ trợ từ phía cộng đồng cũng được rộng mở hơn. Tại Hoa Kỳ, những người có kinh nghiệm chuyên về chẩn đoán tự kỷ chức năng cao bao gồm các nhà tâm lý học, bác sĩ tâm thần và những bác sĩ thuộc các ngành có liên quan khác. Những người này cũng có thể giúp đề xuất những liệu pháp như huấn luyện kỹ năng xã hội, liệu pháp phát triển ngôn ngữ, liệu pháp nghề nghiệp, v.v… Họ cũng có thể đề xuất cho bạn những nguồn hỗ trợ tại địa phương và những nhóm tự lực. Và bạn cũng cần biết rằng bạn không bắt buộc phải làm gì cả đối với Hội chứng Asperger. Trong thực tế, nhiều người trưởng thành cảm thấy là một người mắc bệnh Asperger lại rất đáng tự hào. Đây là những người độc nhất, thường rất thành công và đơn giản… họ chỉ là chính mình. Đây là trang tổng hợp, dịch và hiệu đính các tài liệu về ngành tâm lý học, nhằm chia sẻ kiến thức cập nhật và đa dạng về ngành học lý thú này cho những cá nhân quan tâm.
Hội chứng Asperger
Hội chứng Asperger (tiếng Anh: Asperger syndrome (AS), hay Asperger s) là một rối loạn phát triển thần kinh đặc trưng bởi những khó khăn đáng kể trong tương tác xã hội và giao tiếp phi ngôn ngữ, cùng với các kiểu hành vi và sở thích bị hạn chế và lặp đi lặp lại. Đây là một chứng rối loạn phổ tự kỷ (ASD) nhưng khác với các ASD khác bởi ngôn ngữ và trí thông minh tương đối không bị suy giảm. Mặc dù không cần thiết để chẩn đoán, nhưng sự vụng về về thể chất và cách sử dụng ngôn ngữ bất thường là phổ biến. Các dấu hiệu thường bắt đầu trước hai tuổi và thường kéo dài trong suốt cuộc đời của một người. Nguyên nhân chính xác của Asperger là không rõ. Mặc dù phần lớn là do di truyền, nhưng di truyền cơ bản vẫn chưa được xác định một cách chính xác. Các yếu tố môi trường cũng được cho là có vai trò nhất định. Hình ảnh chụp não không xác định được tình trạng cơ bản phổ biến. Vào năm 2013, chẩn đoán Asperger s đã bị xóa khỏi Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê về Rối loạn Tâm thần (DSM-5), với các triệu chứng hiện được bao gồm trong rối loạn phổ tự kỷ cùng với chứng tự kỷ và rối loạn phát triển lan tỏa không được nêu rõ (PDD-NOS).
Được thành lập vào năm 1972 và mở cửa vào năm 1978, bảo tàng trực thuộc Bộ Môi trường và Rừng của Chính phủ Ấn Độ. Bảo tàng vẫn còn tồn tại cho tới ngày 26 tháng 4 năm 2016, một đám cháy thiêu rụi toàn bộ viện bảo tàng và những bộ sưu tập. Sứ mệnh của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia New Delhi là thúc đẩy giáo dục môi trường, không chỉ ở khu vực thủ đô mà còn ở những khu vực khác của Ấn Độ; cung cấp các nguồn tài nguyên và dụng cụ giảng dạy cho các trường học và cho những chương trình giảng dạy về môi trường; phối hợp thực hiện các dự án lịch sử tự nhiên với các cơ quan, tổ chức khác trong nước và quốc tế; tiến hành nghiên cứu lịch sử tự nhiên. Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia New Delhi được thành lập vào năm 1972 như một phần của lễ kỷ niệm 25 năm ngày Ấn Độ độc lập. Indira Gandhi, sau đó là Thủ tướng của Ấn Độ đã phát biểu rằng Ấn Độ cần một viện bảo tàng “để nâng cao nhận thức về môi trường”. Sau nhiều năm phát triển và tổ chức triển lãm, viện bảo tàng đã chính thức mở cửa đón du khách từ ngày Môi trường Thế giới (5 tháng 6) năm 1978. Sau một báo cáo tiêu cực từ chính phủ năm 2012 về tình trạng bảo trì nghèo nàn của tòa nhà, những kế hoạch di dời bảo tàng đến một tòa nhà màu xanh lá cây trị giá 250 triệu ₹ ở Bhairon Marg đã được thực hiện. Địa điểm mới của bảo tàng là nơi “gần Công viên Động vật, Bảo tàng Thủ công mỹ nghệ Quốc gia Ấn Độ, Purana Qila và Trung tâm Khoa học Quốc gia Ấn Độ”. Sáng sớm ngày 26 tháng 4 năm 2016, một đám cháy lớn đã diễn ra ở bảo tàng và thiêu rụi toàn bộ những bộ sưu tập. Ngọn lửa bắt đầu bùng phát từ 1 giờ 30 sáng ở tầng thứ sáu của tòa nhà Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ (FICCI), là nơi đặt bảo tàng, ngọn lửa thậm chí lan đến tầng 2 và thiêu rụi toàn bộ trước khi lực lượng cứu hỏa có mặt để dập tắt đám cháy. Báo cáo cho rằng hệ thống chữa cháy tự động của tòa nhà đã không hoạt động. Một hóa thạch có niên đại 160 triệu năm của loài khủng long chân thằn lằn, một bộ sưu tập da thú nổi tiếng của người độn xác thú Van Ingen & Van Ingen là một phần những bộ sưu tập của bảo tàng. Khoảng 200 lính cứu hỏa và 35 xe chữa cháy đã được huy động đến để dập tắt đám cháy trong thời gian ba tiếng rưỡi. Sáu người bị mắc kẹt trong đám cháy và đã được đưa đến bệnh viện gần nhất đển cấp cứu vì bị ngạt khói. Nguyên nhân của đám cháy vẫn chưa rõ. Nhiều người cho rằng đám cháy được lan nhanh do những mẫu vật của bảo tàng vì hầu hết các vật trưng bày được đặt trên khung giá bằng gỗ. Triển lãm tại bảo tàng tập trung vào thực vật và động vật cùng sự giàu có khoáng sản của Ấn Độ và được chia thành bốn phòng trưng bày chính: “Cell: Đơn vị cơ bản của sự sống”, “Sự bảo tồn”, “Giới thiệu về Lịch sử Tự nhiên” và “Sinh thái học”. Bảo tàng có bộ sưu tập các bộ phim về động vật hoang dã, hệ sinh thái, môi trường và sự bảo tồn; các mẫu sinh vật quý hiếm như các loài bò sát và hóa thạch khủng long cùng những động vật cùng thời; những phòng trưng bày về nguồn gốc và sự tiến hóa của sự sống, sự bảo tồn thiên nhiên, chuỗi thực phẩm trong tự nhiên của thực vật và động vật. Bảo tàng còn có phòng Khám phá và phòng Hoạt động được thiết kế dành cho trẻ em. Bảo tàng tổ chức các chuyến tham quan và có thiết bị tìm hiểu dành riêng cho người khuyết tật.
Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Hoa Kỳ
Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Hoa Kỳ (tiếng Anh: National Museum of Natural History) là một bảo tàng lịch sử tự nhiên do Viện Smithsonian quản lý, đặt ở Trung tâm Mua sắm Quốc gia (National Mall) ở Washington, D.C., Hoa Kỳ. Bảo tàng được tự do thăm viếng và mở cửa 364 ngày một năm. Năm 2016, có 7,1 triệu du khách, là bảo tàng được viếng thăm thứ tư trên thế giới và là bảo tàng lịch sử tự nhiên được truy cập nhiều nhất trên thế giới. Khai trương năm 1910, bảo tàng của National Mall là một trong những tòa nhà Smithsonian đầu tiên được xây dựng độc quyền để giữ các bộ sưu tập quốc gia và các cơ sở nghiên cứu . Tòa nhà chính có diện tích khoảng 140.000 m2 với diện tích 30.200 m2 của khu triển lãm và không gian công cộng, và nhà ở cho trên 1.000 nhân viên. Bộ sưu tập của bảo tàng chứa hơn 126 triệu mẫu vật gồm thực vật, động vật, hóa thạch, khoáng vật, đá, thiên thạch, di cốt người và các hiện vật văn hoá của con người. Năm 2016, lần thứ hai được thăm viếng nhất của tất cả các viện bảo tàng Smithsonian.
Witchcraft là một tín ngưỡng thực hành pháp thuật dân gian cổ xưa được truyền miệng trong cộng đồng. Witchcraft được xem như là loại hình pháp thuật được sử dụng bởi tầng lớp nông dân, nó khác biệt với những loại pháp thuật được sử dụng bởi những vua chúa pháp sư quyền cao chức trọng trong một cộng đồng và tổ chức lễ hiến sinh. Modern Witchcraft theo khía cạnh tôn giáo thì thường được gọi là Wicca, nghĩa là người thực hành có thờ Bổn Tôn theo Animism, và những cái “crafts” trong Witchcraft được định nghĩa như là “spells”. Còn đối với Ancient Witchcraft thì nó chỉ đơn giản chỉ là một dạng thực hành pháp thuật và được liệt vào danh sách Folklore. Con người ta không cần thờ phượng thần linh để có thể thực hành Witchcraft. Công cụ trong Modern Witchcraft được vay mượn bởi hệ thống pháp thuật của Hội Bình Minh Ánh Kim gồm 4 pháp cụ cơ bản đại diện cho 4 yếu tố thiêng liêng theo thuật giả kim gồm Wand, Cup, Pentacle và Sword. Còn đối với Ancient Witchcraft thì con người ta có thể sử dụng bất cứ thứ gì để thực hành Witchcraft, thường là bùn đất, que củi, sỏi đá…. Đông – Tây hay một vùng đất dù “văn minh” hay “chưa văn minh” đều có Tâm Linh riêng của họ. Ở Việt Nam cũng có phong tục thờ các Thần như Thần Sông, Thần Núi, Thần Lửa, Thần Rừng… Trong dân giang vẫn còn lưu truyền các mẹo trị bệnh, linh phương cầu an, giải nạn…. Không có một trường học chính thức nào dạy ma thuật, phép phù thủy hoặc cách sử dụng thần chú, vì vậy những phù thủy tập sự và người “ngoại đạo” thường khó biết được đâu là thật, đâu là giả. Trở thành phù thủy là một hành trình dài mang tính cá nhân với sự nghiên cứu, tìm tòi, với tính kiên nhẫn và học hỏi không ngừng (nói một cách nghiêm túc, nhiều phù thủy chỉ có 20% là phép thuật, còn lại 80% là sự quan sát). Tùy vào ý thích của mỗi người, có nhiều trường phái tư duy và các truyền thống khác nhau mà bạn có thể thấy thú vị hoặc thích hợp hơn với mình. Một số trường phái phép thuật phổ biến bao gồm:. Wicca và thuật phù thủy “xanh” lưu hành phổ biến ở Mỹ và thường xoay quanh thuyết Gaia, những câu thần chú dựa vào thiên nhiên, và thiền định. Những phù thủy Wicca đầu tiên là các môn đồ của Gerald Gardner, một học giả người Anh nghiên cứu về phép thuật trong thế kỷ 20, tác giả của những tư tưởng và tác phẩm được phổ biến vào những năm 1950 và 1960. Nếu bạn có hứng thú với các quả cầu pha lê, sử dụng các loại thảo mộc, các nghi lễ và các loại tinh dầu thì phong cách này là phù hợp với bạn. Tân ngoại giáo và tôn giáo của các tu sĩ Xen-tơ cổ xưa, hoặc các phép thuật khác lưu truyền từ đời trước thường chú trọng lịch sử và truyền thống, đặc biệt là thực hành theo các mùa và theo đúng trình tự hành lễ. Nếu bạn muốn quay trở về với nguồn phép thuật “truyền thống”, các trường phái này sẽ phù hợp với bạn. Các thuật phù thủy địa phương và bí truyền như Santeria, Stregheria, Fari, Pharmakos và các phép thuật dựa trên các nền văn hóa khác cũng khá phổ biến, tùy vào vùng bạn sinh sống và nền văn hóa truyền thống của bạn. Nếu có sự kết nối mạnh mẽ với một nơi nào đó, bạn hãy tìm hiểu về các phép thuật ở địa phương nơi bạn đang sống. Nhớ rằng có một số tôn giáo/tập quán mang tính khép kín. Một nền văn hóa hoặc tôn giáo được xem là “khép kín” khi bạn buộc phải sinh ra trong cộng đồng hoặc được thụ giáo một cách chính thức mới có thể trở thành một phần của đức tin đó và được quyền tham gia các nghi lễ tâm linh của họ. Những ví dụ tiêu biểu cho các tôn giáo kiểu này là Ấn Độ giáo và nhiều tôn giáo đa dạng khác của các thổ dân châu Mỹ. Tôn giáo Wicca dưới hình thức truyền thống cũng được xem là khép kín do tính chất huyền bí và sự cần thiết phải có nghi lễ thụ giáo chính thức gia nhập tổ chức của các phù thủy. (Trái lại, Neo-Wicca là một nhánh khác cởi mở hơn nhiều, họ đón nhận các phù thủy riêng lẻ, không đòi hỏi nghi lễ thụ giáo chính thức mà chỉ cần tuân theo các nguyên tắc và cách thực hành của các phù thủy Wicca). Cách tốt nhất để nhận biết một nền văn hóa khép kín là hỏi một người thuộc cộng đồng văn hóa đó. Nhìn chung, cũng như nhiều mặt khác trong cuộc sống, tốt nhất là bạn nên xin phép trước khi đón nhận một điều nào đó huyền bí hoặc không quen thuộc với mình. Thuật phù thủy cổ xưa không liên quan đến bất cứ tôn giáo, triết lý hoặc hệ thống đức tin nào. Tất cả mọi người thuộc mọi tôn giáo (hoặc không theo tôn giáo nào) đều có thể thực hành thuật phù thủy cổ xưa. Phép thuật là dành cho mọi người. Không ai bị cấm đoán thực hành phép thuật. Có một số người thích đóng vai trò của người gác cổng, nhưng sự thực là những người khác không hề có ảnh hưởng đến niềm tin và con đường của bạn, bất kể họ có nói gì chăng nữa. Có các phù thủy theo thuyết vô thần, phù thủy Thiên Chúa giáo, phù thủy Do Thái giáo, phù thủy Lucifer, phù thủy Wicca, phù thủy theo thuyết bất khả tri. Người duy nhất có thể quyết định trường phái nào thích hợp nhất với bạn là chính bạn. THẦY NHÃ LÝ SỐ: Đoán thế cục - Giải sự việc. Sinh ra đã có số Trời định. Vận do Ta quyết. Địa lợi mở đường đạt cuộc sống thịnh vượng. Hóa Giải Tuyệt Mệnh – Khi một cặp đôi có ý định gắn kết cuộc sống của mình cả đời lại với nhau. Họ thường quan tâm tới việc tuổi tác cung mệnh của họ có vướng vào cung tuyệt mệnh hay không? Phần đa, họ đều không muốn tuổi tác của họ rơi vào cung tuyệt…. Hóa Giải Trạch Vận cần lưu ý những việc sau. Bài viết dành cho những bạn có kiến thức cơ bản về về Phong Thủy. Hi vọng sẽ giúp bạn tự tay bố trí, lựa chọn cho mình một căn nhà phù hợp. Thầy và đội nhóm đang tiến hành nghiên cứu các Bí Thuật Cổ Xưa để chứng nghiệm cập nhật kinh nghiệm ứng dụng phù hợp thời hiện đại.
Thuật phù thủy
Thuật phù thủy (Tiếng Anh: witchcraft, witchery, hoặc spellcraft), hay vu thuật (giản thể: 巫术; phồn thể: 巫術; bính âm: Wūshù), là việc thực hành và niềm tin vào, kỹ năng phép thuật và khả năng có thể được thực hiện một cá nhân hoặc nhóm tập thể. Thuật phù thủy là một khái niệm phức tạp mà các văn hóa và xã hội khác nhau; do đó, rất khó để xác định với độ chính xác và giả định xuyên văn hóa về ý nghĩa hoặc ý nghĩa của thuật ngữ nên được áp dụng một cách thận trọng. Thuật phù thủy thường chiếm một vai trò trong tôn giáo, bói toán hoặc y dược, và thường xuất hiện trong các xã hội và các nhóm có khuôn khổ văn hóa bao gồm một thế giới huyền diệu. Mặc dù thuật phù thủy có thể thường xuyên chia sẻ chung các khái niệm liên quan như ma thuật, những điều huyền bí, mê tín dị đoan, gọi hồn, ma nhập, Saman giáo, chữa bệnh, tâm linh, tôn thờ thiên nhiên và huyền bí, nó thường được coi là khác biệt so với những khi kiểm tra bởi các nhà xã hội học và nhân chủng học.
Hươu nai là con vật hiện diện trong nhiều nền văn hóa trên thế giới. Với bản tính là loài vật nhút nhát, hễ có tiếng động là bỏ chạy, khi nghe có tiếng động lạ thì nhớn nhác, hoảng hốt, sợ sệt, hươu nai cũng có hình dáng đặc biệt, bốn chân thon và dài, trên thân điểm những đốm lông nhỏ đẹp, hình thể đáng yêu, cho nên những loài hươu nai (đặc biệt là nai tơ, nai vàng) là biểu tượng cho sự nhút nhát, thơ ngây, nó cũng biểu hiện cho phúc lộc và còn là đối tượng bị săn đuổi. Hươu nai là những loài động vật có vú nhai lại thuộc họ Hươu nai gồm nhiều loại hươu, nai, hoẵng, mang, mển, tuần lộc. Con đực của hầu hết các loài hươu nai trừ loài hươu nước ở Trung Quốc và tuần lộc cái đều có sừng mọc và rụng theo năm. Nhiều loài hươu nai đang bị đe dọa vì bị săn bắn quá mức để lấy thịt nai, nhung hươu, gạc hươu và các sản phẩm khác. Môi trường sống thích hợp của chúng là trảng cỏ, rừng thưa có nhiều cây, cỏ non… Ban ngày nai thường tìm nơi nên tĩnh, kín đáo và an toàn để ngủ, nghỉ… ban đêm tìm kiếm thức ăn và những hoạt động khác. Trong tự nhiên, hươu nai là con mồi ưa thích của hổ, sói, sói lửa, gấu và nhiều loại dã thú khác, đây cũng là loài vật nhanh nhẹn, nhạy cảm và có bản tính nhát sợ trong tự nhiên. Nhiều loài hươu nai cũng được con người nuôi nhốt vì giá trị kinh tế. Trong văn hóa Trung Quốc, hươu cũng giữ một vị trí quan trọng. Truyền thuyết Trung Quốc kể rằng, loài hươu được sinh ra từ ánh hào quang của viên ngọc quý, nó có cơ duyên mang lại vạn điều tốt lành. Thiên lộc là một loài hươu có tuổi thọ khá cao, trên thân có nhiều đốm hoa ngũ sắc. Chỉ khi đấng quân vương trong thiên hạ trị nước bằng hiếu đạo thì loài hươu này mới xuất hiện. Còn có một loại hươu khác gọi là bạch lộc (hươu trắng) cũng là loại thú tượng trưng cho sự cát tường, thường cũng xuất hiện cùng bậc tiên nhân. Hươu trắng có thể sống tốt hơn một nghìn năm. Khi sống được khoảng 500 tuổi, màu lông của hươu dần chuyển sang màu trắng, trở thành hươu trắng. Tương truyền, cuối đời, Lão Tử đã cưỡi trên một con hươu trắng (Bạch lộc) đi về phương nào chẳng rõ. Khi đấng quân vương ổn định được nền chính trị cuộc sống trăm dân an lành tất hươu trắng xuất hiện. Người Trung Quốc thường lấy dùng từ đuổi hươu (trục lộc) để nói về sự tranh giành trong thiên hạ (Trục lộc Trung Nguyên). Hươu trở thành vật tượng trưng cho cơ đồ. Việc săn hươu là ám chỉ của hoạt động tranh đoạt thiên hạ ở Trung Quốc (Trục lộc Trung Nguyên) xuất phát từ điển tích chém rắn, đuổi hươu của Lưu Bang, cũng đồng thời được nhắc đến trong tác phẩm Lộc đỉnh ký của nhà văn Kim Dung. Chữ "鹿" (lộc- hươu nai) và chữ "禄" (lộc- phúc lộc) đồng âm, do vậy hươu được xem là tượng trưng cho phúc lộc. Trong một số bức tranh cát tường thường vẽ 100 cái đầu hươu, gọi là Bách lộc. Khi vẽ con hươu và con Dơi cạnh nhau thể hiện phúc lộc song toàn vẽ con hươu và hãi chữ Phúc- Thọ biểu thị ý nghĩa Phúc- Lộc- Thọ. Hươu cũng là vật tượng trưng cho sự trường thọ. Do vậy, trong các bức tranh chúc thọ truyền thống thường vẽ con hươu cùng Thọ tinh. Loài hươu Elaphurus davidianus ở Trung Quốc là loài vật làm nền tảng cho sinh vật Tứ Bất Tượng (bốn điểm không giống) là thú cưỡi của Khương Tử Nha, sừng giống hươu nhưng không phải hươu, mặt giống ngựa nhưng không phải ngựa, tiếng kêu giống bò nhưng không phải bò, đuôi giống lừa nhưng không phải lừa. Người Trung Quốc còn có thành ngữ Chỉ hươu nói ngựa kể về câu chuyện ở Trung Quốc, sau khi Lý Tư bị giết, Tần Nhị Thế phong Triệu Cao làm Trung thừa tướng, tước An Vũ hầu, nằm hết quốc chính. Từ đó ông có mưu đồ làm loạn xưng vương, nhưng sợ lòng người không phục, bèn nghĩ cách thử lòng. Tháng 8 năm 207 TCN, ông cho người dắt con hươu đi qua dâng lên Nhị Thế và bảo đó là con ngựa. Nhị Thế cho rằng nó là con hươu nhưng nhiều đại thần đều hùa theo nói là ngựa, chỉ có một số ít không chịu, khẳng định là hươu nhưng không đáng kể. Nhị Thế tưởng là ngựa thật, nghĩ mình loạn óc, bèn vào Vọng Di cung trai giới. Còn những người nói thật đều bị Triệu Cao để bụng trả thù. Trong văn hóa đại chúng Trung Quốc, hươu là biểu tượng cho một cuộc sống lâu dài và khả năng chịu đựng tốt, là biểu tượng của sự may mắn và trường thọ. Cách đọc tiếng hươu trong tiếng Trung Quốc cũng gần giống vỡi cách đọc của từ thu nhập. Chính vì vậy, loại động vật này cũng là biểu tượng của sự sung túc, giàu có. Trong nghệ thuật Trung Quốc, hươu cũng thường gắn liền với các chức quan tòa án, biểu tượng của sự công bằng, lẽ phải, danh tiếng và sự nghiệp thành công. Ở Việt Nam, con nai tượng trưng cho tính hiền lành, nhút nhát và thơ ngây. Những câu từ lóng như nai tơ (hay nai tơ ngơ ngác) dùng để ví von về những người thiếu sự trải nghiệm, nhất là trong chuyện tình dục Bên cạnh đó câu ví von: Cáo già giả dạng nai tơ hay cụm từ giả nai hay con nai ngơ ngác dùng để ám chỉ những kẻ lão luyện từng trải, sành sõi nhưng làm ra vẻ thơ ngây trong trắng. Tuy nhiên, người miền núi thì có thành ngữ Nghịch như hươu như nai và hay ví về người hư hỏng vì hươu nai là loài thú rừng hay phá hoại mùa màng, giẫm nát lúa ngô. Người Việt Nam cũng có thành ngữ vẽ đường cho hươu chạy ý chỉ đến việc bày vẽ cho người khác làm những việc không tốt. Gần đây, cụm từ này được dùng nhiều trên các phương tiện truyền thông khi đề cập đến các vấn đề liên quan đến tính dục như giáo dục giới tính, quan hệ tình dục trước hôn nhân, sống thử. Trong văn học có tác phẩm Con nai đen của nhà văn Nguyễn Đình Thi đã nhanh chóng được công chúng yêu mến văn nghệ thời ấy đón nhận. Trong truyền thuyết của người Khuyển Nhung có kể lại sự kiện Mục Vương dự tính việc chinh phạt Khuyển Nhung, Sái công Mưu Phụ can gián nhưng Mục Vương không nghe, sau ra quân thảo phạt, giành được chiến thắng bất ngờ, bắt sống năm vua Khuyển Nhung, đoạt được bốn con sói trắng và bốn con hươu trắng. Có một truyền thuyết gắn với tên gọi của hồ là những người đàn ông đến từ thế giới khác đã đi xuống từ thiên đường để vui chơi với hươu trắng. Ở Lào, Hươu Rucervus Schomburgki được cho là biểu tượng sức mạnh của ma thuật và chữa bệnh. Chúng bị tìm kiếm, săn bắn bởi những kẻ buôn bán thuốc lang băm. Hươu xuất hiện trong thần thoại Hy Lạp và gắn liền với nữ thần Artemis và con hươu đồi Ceryneian. Khi còn trẻ, nữ thần Artemis đã tìm thấy được một đàn hươu lạ ở gần núi Parrhasia. Chúng có năm con, to hơn cả bò mộng và có những đôi sừng bằng vàng. Artemis muốn bắt giữ đàn hươu đó để thắng vào cỗ xe vàng của mình. Thế nhưng, con hươu thứ năm đã chạy thoát được và trở thành con hươu núi Cerynaea (Ceryneian Hind), tượng trưng cho nữ thần Artemis tại nơi ấy và trở thành con vật cưng của nữ thần từ đó. Cũng có những dị bản khác nói rằng nữ thần Artemis đã nhận được con hươu từ một tiên nữ Pleiad tên là Taygete như một quà tặng vì đã có lần giúp cho tiên nữ ấy. Con nai ở Cerynaea cũng được nhắc đến trong 12 kỳ công của Heracles, Kỳ công thứ ba là đi bắt con nai ở núi Cerynaea, đó là một con nai cái. Con vật chạy nhanh này có đôi gạc bằng vàng, và là vật sở hữu của Artemis, nữ thần săn bắn, vì thế Heracles không dám làm nó bị thương. Chàng săn tìm nó trọn một năm trời trước khi đuổi được nó chạy xuống bên bờ của sông Ladon ở Arcadia. Nhắm kỹ mục tiêu, Heracles phóng phi tiêu ngay giữa gân và xương hai chân trước con vật, làm cho nó gục xuống và chảy rất nhiều máu. Thần Artemis không hài lòng về việc này, nhưng Heracles đã khéo léo chuyển cơn phẫn nộ của thần bằng cách đổ trách nhiệm sang người ra lệnh cho chàng là Eurystheus. Sau đó Heracles xin được một cây gậy 7 màu. Hươu trắng là một sinh vật trong truyền thuyết của nhiều nền văn hóa trong lịch sử. Trong truyền thuyết, nhiều người tin rằng nếu giết hươu trắng thì tai nạn sẽ giáng xuống đầu họ. Người Celts cổ xưa tin rằng hươu trắng là sứ giả mang thông điệp từ một thế giới khác và những ai bắt gặp loài linh vật này sẽ được thay đổi cuộc sống vĩnh viễn. Hình tượng con Tuần lộc (hươu tuyết) gắn liền với ông già Nô-en, đàn tuần lộc là vật kéo xe chở ông già Nô-en đi phát quà cho các em thiếu nhi. bên ngoài lãnh thổ của nó, tuần lộc cũng được biết đến nhiều do huyền thoại Mỹ phổ biến, có thể có nguồn gốc vào đầu thế kỷ XIX, trong đó xe trượt tuyết của ông già Noel được kéo bởi tuần lộc bay, một yếu tố thế tục phổ biến của lễ Giáng sinh. Có bộ phim Chú nai Bambi (tên gốc: Bambi) là một phim hoạt hình thứ năm của hãng hoạt hình Walt Disney vào năm 1942, dựa vào truyện cùng tên của Felix Salten. Bộ phim được phát hành lại vào những năm 1947, 1957, 1966, 1975, 1982 và 1988. Phiên bản video gia đình đầu tiên của bộ phim, ở định dạng VHS, ra mắt vào 1989 và 1997. Một phiên bản DVD gồm bản master lại của phim và một đĩa gồm các phần đính kèm, được phát hành vào ngày 1 tháng 3 năm 2005. Hiện nay bộ phim đang được nằm trong "Disney Vault". Phần tiếp theo của bộ phim, Bambi II, đã được sản xuất để phát hành thẳng dưới dạng đĩa hình năm 2006. Nhà văn Andreas Steinhöfel (sinh năm 1962), là nhà văn người Đức chuyên viết sách cho thiếu nhi và độc giả trẻ tuổi, ông viết cuốn Chú Nai sừng tấm và Ông già Noel là một câu chuyện thú vị về ông già Noel và chú nai sừng tấm. Câu chuyện kể về một chú nai sừng tấm không được chính thức kéo cỗ xe chở quà của ông già Noel, mà chú chỉ được chạy thử để kiểm tra xem cỗ xe có chạy tốt không, rồi nhường việc kéo cỗ xe chở đầy quà đó trong đêm Giáng sinh cho đám tuần lộc. Lộc pín được đề cập đến trong điện ảnh vào năm 1996 qua diễn xuất của diễn viên Steven Seagal phim The Glimmer Man, trong cảnh Seagal và Keenan Wayans đột nhập một cửa hàng thảo dược Trung Quốc. Pín hươu cũng được đề cập trong một tập phim năm 2009 của bộ Văn phòng "Double Date" khi nhân vật Dwight sửa lại nhận xét của Michael gọi về kích thích tình dục: "Bạn đang nghĩ đến việc pín hươu"-Dwight trả lời. Trong mùa giải thứ 1 tập 5 của The League, Ruxin và Taco đi đến khu phố Tàu để mua ba loại rượi pín (rượu tam pín) liên quan đến việc truyền miệng của lộc pín, dương vật chó, ngẫu pín và rắn. Tuy nhiên thực sự rượu tam pín có một sự hợp nhất một pín con chó và lộc pín. Anh sẽ bình luận về việc mở gần đây của một nhà hàng phục vụ lộc pín cùng với những thú ẩm thực kỳ lạ khác. Từ điển thành ngữ tục ngữ ca dao Việt Nam (quyển hạ). Vẽ đường cho hươu chạy: Nghĩa bóng câu này ám chỉ đến hạng người dại dột, tự phơi bày tất cả những sự khôn ngoan hiểu biết cho kẻ khác biết, để rồi họ phản trắc lại hại mình. Hoặc bày mưu tính kế cho kẻ khác thủ lợi bất chính, mà tội lỗi thì mình phải gánh chịu. “"Con Nai đen" của Nguyễn Đình Thi và "Vua hươu" của Carlo Gozzi”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2015. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015. “Địa danh Đồng Nai mang tên động vật và thực vật, Góc học tập, Đông Phương, Đại Học Lạc Hồng”. Truy cập 3 tháng 6 năm 2014. “Câu chuyện chú Nai sừng tấm mùa Giáng sinh”. Báo Điện tử Tiền Phong. Truy cập 3 tháng 6 năm 2014.
Hình tượng hươu nai trong văn hóa
Hươu nai là con vật hiện diện trong nhiều nền văn hóa trên thế giới. Với bản tính là loài vật nhút nhát, hễ có tiếng động là bỏ chạy, khi nghe có tiếng động lạ thì nhớn nhác, hoảng hốt, sợ sệt, hươu nai cũng có hình dáng đặc biệt, bốn chân thon và dài, trên thân điểm những đốm lông nhỏ đẹp, hình thể đáng yêu, cho nên những loài hươu nai (đặc biệt là nai tơ, nai vàng) là biểu tượng cho sự nhút nhát, thơ ngây, nó cũng biểu hiện cho phúc lộc và còn là đối tượng bị săn đuổi. Hươu nai là những loài động vật có vú nhai lại thuộc họ Hươu nai gồm nhiều loại hươu, nai, hoẵng, mang, mển, tuần lộc. Con đực của hầu hết các loài hươu nai trừ loài hươu nước ở Trung Quốc và tuần lộc cái đều có sừng mọc và rụng theo năm. Nhiều loài hươu nai đang bị đe dọa vì bị săn bắn quá mức để lấy thịt nai, nhung hươu, gạc hươu và các sản phẩm khác. Môi trường sống thích hợp của chúng là trảng cỏ, rừng thưa có nhiều cây, cỏ non… Ban ngày nai thường tìm nơi nên tĩnh, kín đáo và an toàn để ngủ, nghỉ… ban đêm tìm kiếm thức ăn và những hoạt động khác.
Các nguồn năng lượng tái tạo là nguồn cung cấp năng lượng sạch bền vững, bao gồm ánh sáng mặt trời, nguồn nước và gió. Bằng cách sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo này để tạo ra điện hoặc sưởi ấm ngôi nhà của chúng ta và sử dụng nước nóng, chúng ta sẽ giảm lượng carbon thải vào khí quyển và sẽ không bao giờ phải lo lắng về việc nguồn cung cấp cạn kiệt – điều này không thể xảy ra đối với nhiên liệu hóa thạch như than đá, khí đốt và dầu mỏ. Tự tạo ra điện năng lượng mặt trời, hệ thống sưởi hoặc nước nóng bằng năng lượng tái tạo miễn phí nghe có vẻ hấp dẫn và có một số hệ thống cho phép bạn làm điều đó. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tiết lộ 5 nguồn năng lượng tái tạo tốt nhất và cách bạn có thể sử dụng chúng để cung cấp điện cho ngôi nhà của mình. 3 Năng lượng tái tạo có những lợi ích gì?3.1 Lợi ích của năng lượng mặt trời:3.2 Những lợi ích năng lượng gió3.3 Những lợi ích thủy điện3.4 Những lợi ích của địa nhiệt3.5 Những lợi ích của Hydrogen3.6 Những lợi ích của sinh khối. 5 Năng lượng tái tạo ở Việt Nam: Cơ hội hiện tại và triển vọng tương lai5.1 Cung và cầu:5.1.1 Cung cấp5.1.2 Nhu cầu5.2 Năng lượng tái tạo – hiện trạng và tiềm năng5.3 Chính phủ đặt mục tiêu 2020-2030 cho nhu cầu năng lượng của mình5.4 Đầu tư vào năng lượng tái tạo5.4.1 Hệ mặt trời5.4.2 Gió5.5 Thách thức của nhà đầu tư5.6 Biểu giá FIT:5.7 Cân nhắc đầu tư5.8 Tương lai về năng lượng tái tạo tươi sáng nhưng cần phải làm nhiều hơn nữa. 5.8 Tương lai về năng lượng tái tạo tươi sáng nhưng cần phải làm nhiều hơn nữa. So với các nhiên liệu hóa thạch, chẳng hạn như dầu mỏ, than đá và khí đốt tự nhiên, tất cả đều có nguồn cung hạn chế, thì các nguồn năng lượng tái tạo sẽ không bao giờ cạn kiệt và cũng thân thiện với môi trường hơn nhiều. Chuyển sang sử dụng nguồn năng lượng tái tạo có thể giúp bạn giảm hóa đơn tiền điện, tăng giá bất động sản và giảm lượng khí thải carbon… Khi bạn nghe đến thuật ngữ ‘năng lượng thay thế’, nó thường đề cập đến các nguồn năng lượng tái tạo. Nó có nghĩa là các nguồn năng lượng thay thế cho các nguồn không bền vững được sử dụng phổ biến nhất – như than đá. Có nhiều loại năng lượng tái tạo và nhiều quốc gia dựa vào sự kết hợp của các loại năng lượng này để cung cấp năng lượng sạch. Dưới đây là danh sách các loại chính được sử dụng phổ biến nhất hiện nay:. Bây giờ chúng ta hãy xem xét từng nguồn năng lượng này một cách chi tiết hơn. Có hai loại hệ thống năng lượng mặt trời chính thu năng lượng từ mặt trời để sử dụng trong nhà của bạn: điện mặt trời và nhiệt mặt trời. Điện mặt trời sử dụng các tế bào quang điện để thu nhận và chuyển đổi ánh sáng mặt trời thành điện năng. Nhiệt mặt trời sử dụng một bộ thu chứa đầy chất lỏng được làm nóng bởi mặt trời và sau đó được vận chuyển đến bể chứa nước nóng, nơi nó làm nóng nước. Ánh sáng mặt trời là một trong những nguồn năng lượng dồi dào nhất trên hành tinh của chúng ta. Lượng năng lượng mặt trời truyền đến bề mặt trái đất trong một giờ nhiều hơn tổng nhu cầu năng lượng của hành tinh trong cả năm. Mặc dù nghe có vẻ giống như một nguồn năng lượng tái tạo hoàn hảo, nhưng lượng năng lượng mặt trời chúng ta có thể sử dụng thay đổi tùy theo thời gian trong ngày và mùa trong năm cũng như vị trí địa lý. Gió là một nguồn năng lượng sạch dồi dào. Các trang trại điện gió ngày càng trở nên nhiều. Quá trình này liên quan đến việc sử dụng các tuabin lớn để thu nhận động năng của gió và biến nó thành điện năng. Các tuabin này thường được tìm thấy trong các nhóm được gọi là trang trại gió. Đây là nơi năng lượng được tạo ra từ sự chuyển động của nước. Có nhiều hình thức sản xuất thủy điện bao gồm sử dụng sóng, thủy triều, đập hoặc tuabin dưới nước. Là một nguồn năng lượng tái tạo, thủy điện là một trong những nguồn phát triển thương mại nhất. Bằng cách xây dựng một con đập hoặc rào chắn, một hồ chứa lớn có thể được sử dụng để tạo ra một dòng nước có kiểm soát để chạy tuabin, tạo ra điện. Nguồn năng lượng này thường đáng tin cậy hơn so với năng lượng mặt trời hoặc năng lượng gió (đặc biệt nếu đó là thủy triều thay vì sông) và cũng cho phép lưu trữ điện để sử dụng khi nhu cầu đạt đến đỉnh điểm. Sinh khối là một thuật ngữ khá rộng và bao gồm năng lượng được sản xuất từ các vật liệu tự nhiên đã hoặc đang sống. Điều này có thể bao gồm gỗ, chất thải thực phẩm, chất thải động vật và nhiều loại khác. Nói chung, năng lượng được tạo ra bằng cách đốt vật liệu để tạo ra nhiệt, nhưng vẫn tồn tại các phương pháp khác như thu thập và sử dụng khí mêtan từ các bãi chôn lấp. Nguồn năng lượng này là nhiệt tự nhiên có trong trái đất. Hơi nước và hơi ấm được tạo ra trong các bể chứa dưới bề mặt trái đất có thể được sử dụng để làm nóng nước hoặc sản xuất điện. Hydro cần được kết hợp với các nguyên tố khác, chẳng hạn như oxy để tạo ra nước vì nó không tự nhiên xuất hiện ở dạng khí. Khi hydro được tách khỏi một nguyên tố khác, nó có thể được sử dụng cho cả nhiên liệu và điện. Một trong những lợi ích của năng lượng mặt trời là về mặt chức năng, ánh sáng mặt trời là vô tận. Với công nghệ, nguồn cung cấp năng lượng mặt trời là vô hạn, có nghĩa là nó có thể khiến nhiên liệu hóa thạch trở nên lỗi thời. Dựa vào năng lượng mặt trời thay vì nhiên liệu hóa thạch cũng giúp chúng ta cải thiện sức khỏe cộng đồng và điều kiện môi trường. Về lâu dài, năng lượng này cũng có thể loại bỏ chi phí điện và trong ngắn hạn, giảm hóa đơn tiền điện của bạn. Nhiều địa phương hiện cũng khuyến khích đầu tư vào điện mặt trời. Là nguồn năng lượng sạch, không gây ô nhiễm không khí như các dạng khác. Năng lượng gió không tạo ra carbon dioxide hoặc giải phóng bất kỳ sản phẩm độc hại nào có thể gây suy thoái môi trường hoặc ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người như khói bụi, mưa axit hoặc các loại khí giữ nhiệt khác. Đầu tư vào công nghệ năng lượng gió cũng có thể mở ra con đường mới cho việc làm và đào tạo việc làm, vì các tuabin ở các trang trại cần được bảo dưỡng và bảo trì để tiếp tục hoạt động. Năng lượng thủy điện rất linh hoạt và có thể được tạo ra bằng cách sử dụng cả các dự án quy mô lớn và các dự án quy mô nhỏ như tuabin dưới nước và các đập thấp hơn trên các sông và suối nhỏ. Thủy điện không tạo ra ô nhiễm, và do đó là một lựa chọn thân thiện hơn nhiều cho môi trường của chúng ta. Năng lượng địa nhiệt không phổ biến như các loại nguồn khác, nhưng nó có tiềm năng cung cấp năng lượng đáng kể. Vì nó có thể được xây dựng dưới lòng đất nên nó để lại rất ít dấu vết trên đất liền. Năng lượng địa nhiệt được bổ sung một cách tự nhiên và do đó không có nguy cơ cạn kiệt. Hydro có thể được sử dụng làm nhiên liệu đốt sạch, dẫn đến ít ô nhiễm hơn và môi trường trong sạch hơn. Nó cũng có thể được sử dụng cho các tế bào nhiên liệu tương tự như pin và có thể được sử dụng để cung cấp năng lượng cho động cơ điện. Việc sử dụng sinh khối trong sản xuất năng lượng tạo ra carbon dioxide được đưa vào không khí, nhưng quá trình tái sinh của thực vật tiêu thụ cùng một lượng carbon dioxide, được cho là tạo ra một bầu không khí cân bằng. Sinh khối có thể được sử dụng theo một số cách khác nhau trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, không chỉ cho mục đích sử dụng cá nhân mà còn cho các doanh nghiệp. Các nguồn năng lượng tái tạo hoàn toàn bền vững – có nghĩa là chúng sẽ không bao giờ cạn kiệt. Thật không may, chúng tôi hiện không sử dụng chúng với tiềm năng đầy đủ của chúng. Thay vào đó, chúng ta đang đốt nhiên liệu hóa thạch như khí đốt tự nhiên, dầu mỏ và than đá. Đây không phải là nguồn năng lượng tái tạo vì chúng thải carbon vào khí quyển và chỉ có một nguồn cung hữu hạn – nguồn cung dự kiến sẽ cạn kiệt trong vòng 40 năm. Nhiên liệu hóa thạch không phải là nguồn năng lượng tái tạo vì chúng không phải là vô hạn. Thêm vào đó, chúng thải carbon dioxide vào bầu khí quyển của chúng ta, góp phần làm thay đổi khí hậu và nóng lên toàn cầu. Lĩnh vực năng lượng tái tạo của Việt Nam là một trong những ngành sôi động nhất ở Đông Nam Á, mang lại cơ hội lớn cho các nhà đầu tư. Với nhu cầu điện được dự báo sẽ tiếp tục tăng, chính phủ đã thực hiện một số chính sách để đảm bảo Việt Nam đang đi đúng hướng để đáp ứng nhu cầu. Các nhà đầu tư quan tâm đến thị trường này nên xem xét lĩnh vực năng lượng tái tạo và lập kế hoạch dài hạn để đảm bảo khả năng tồn tại. Việt Nam là một trong những thị trường điện năng hiệu quả nhất ở Đông Nam Á, được thúc đẩy bởi các nguồn tài nguyên chi phí thấp như thủy điện và than, đã đạt được khoảng 99% điện khí hóa với chi phí tương đối thấp so với các nước láng giềng. Với nhu cầu điện được dự báo sẽ tăng 8% hàng năm cho đến năm 2025, chính phủ đang tiến tới phát triển các nguồn năng lượng tái tạo để đảm bảo an ninh năng lượng và giải quyết nhu cầu điện ngày càng tăng. Các nguồn năng lượng ở Việt Nam rất đa dạng, từ than, dầu, khí đốt tự nhiên, thủy điện và năng lượng tái tạo. Tổng công suất lắp đặt tính đến tháng 11/2018 là 47.750MW. Theo Báo cáo thường niên Điện lực Việt Nam năm 2018, thủy điện và nhiệt điện than dẫn đầu trong số các nguồn phát điện, sau đó là khí và năng lượng tái tạo. Với sự phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa kinh tế, nhu cầu năng lượng được dự đoán sẽ tăng trên 8% mỗi năm trong giai đoạn 2021-2030. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, Việt Nam cần 96.500MW vào năm 2025 và 129.500MW vào năm 2030. Để làm được như vậy, nước này cần tăng công suất lắp đặt thêm 6.000MW – 7.000MW hàng năm. Đối với lĩnh vực năng lượng tái tạo, khoản tài trợ cần thiết sẽ vào khoảng 23,7 tỷ USD vào năm 2030. Để sử dụng năng lượng hiệu quả, sẽ cần thêm 1,5 – 3,6 tỷ USD trong cùng thời kỳ, theo một báo cáo của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc. Hiện tại, thủy điện chiếm thị phần lớn nhất trong số tất cả các nguồn năng lượng tái tạo, tiếp theo là gió và sinh khối. Các công nghệ năng lượng mặt trời, khí sinh học và chất thải thành năng lượng đang phát triển chậm trong khi năng lượng địa nhiệt và năng lượng thủy triều đang ở giai đoạn rất sớm. Chính phủ đặt mục tiêu tăng sản lượng điện sản xuất từ các nguồn tái tạo từ khoảng 58 tỷ kWh vào năm 2015 lên 101 tỷ kWh vào năm 2020 và 186 tỷ kWh vào năm 2030. Năm 2016, Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển điện lực quốc gia điều chỉnh (“QHĐ VII”) cho giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030. QHĐ VIII tiếp theo dự kiến sẽ được công bố vào năm 2020. Quy hoạch PDP VII đặt mục tiêu tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo lên khoảng 7% vào năm 2020 và trên 10% vào năm 2030 và giảm sử dụng điện than nhập khẩu để đảm bảo an ninh năng lượng, giảm thiểu biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và xã hội bền vững phát triển kinh tế. Mặc dù không có giới hạn sở hữu nước ngoài trong ngành, các dự án PPP theo hình thức hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT) thường được ưu tiên hơn do được Chính phủ bảo lãnh và khuyến khích. Mặc dù đầu tư nước ngoài và trong nước đang gia tăng trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, nhưng cần phải làm nhiều hơn nữa để giảm bớt lo ngại của các nhà đầu tư. FIT ở Việt Nam là một trong những nước thấp nhất trên thế giới. Tập đoàn Điện lực Nhà nước Việt Nam (EVN) mua toàn bộ điện năng từ các dự án tái tạo. Các mức giá điện đang được thiết lập cho các dự án sinh khối, gió và điện mặt trời. Việt Nam sẽ cần khoảng 10 tỷ đô la Mỹ mỗi năm từ nay đến năm 2030 để bắt kịp với nhu cầu ngày càng tăng. Với yêu cầu vốn cao như vậy, chính phủ đã cho phép 100% vốn nước ngoài sở hữu các công ty Việt Nam trong lĩnh vực năng lượng. Nhà đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn các hình thức đầu tư được phép; Công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài, liên doanh, đối tác công tư (PPP) theo hình thức hợp đồng BOT.
Năng lượng bền vững
Năng lượng bền vững là loại năng lượng được tiêu thụ với tỷ lệ không đáng kể so với nguồn cung của nó và với những ảnh hưởng phụ có thể quản lý được, đặc biệt là những ảnh hưởng về môi trường. Một định nghĩa phổ biến khác của năng lượng bền vững là, năng lượng bền vững là một hệ thống năng lượng phục vụ nhu cầu của hiện tại mà không làm hại tới việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Nguyên tắc chủ đạo cho sự bền vững này chính là phát triển bền vững, bao gồm bốn lĩnh vực kết nối lẫn nhau: sinh thái, kinh tế, chính trị và văn hóa. Khoa học bền vững là ngành khoa học nghiên cứu sự phát triển bền vững và môi trường. Công nghệ đẩy mạnh ngành năng lượng bền vững bao gồm các nguồn năng lượng tái tạo như thủy điện, năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió, năng lượng sóng, năng lượng địa nhiệt, năng lượng sinh học, năng lượng thủy triều và cả những công nghệ được thiết kế để cải thiện hiệu quả của năng lượng. Giá đã giảm nhiều trong các năm, và vẫn tiếp tục xuống thấp.
Không gian trong Vũ trụ là vô cùng rộng lớn và bao la. Các nhà khoa học luôn ra sức tìm kiếm hành tinh mới và những gì liên quan tới Vũ trụ. Ngay cả Hệ Mặt Trời (Thái Dương Hệ) rất lớn. Nhưng vẫn nằm trong Vũ trụ. Vì thế các bạn có thể tưởng tượng được Vũ trụ rộng lớn biết nhường nào. Để biết được có bao nhiêu hành tinh trong Vũ trụ. Đầu tiên ta cần tìm hiểu Vũ trụ là gì và hành tinh là gì. Những vật thể xung quanh đó có gì. Rất có thể những con số mà con người đã nghiên cứu được về Vũ trụ thì chỉ bằng một phần nhỏ thôi đấy. Hệ Mặt Trời có tất cả bao nhiêu hành tinh2.1 Hệ Mặt Trời mất bao lâu để quay quanh các Thiên Hà2.2 Dải Ngân Hà. Vũ trụ là một khoảng rộng lớn. Bao gồm các hành tinh và các dải ngân hà. Hố đen cũng là một phần của Vũ trụ. Nó có thể hút mọi thứ gần đó vào bên trong. Và bên trong của hố đen Vũ trụ thì không một ai biết có gì trong đó. Được hình thành từ vụ nổ Vũ trụ Big Bang. Nên Vũ trụ hiện nay ngày mở rộng. Các vì sao, hành tinh, những Thiên Hà đều nằm trong Vũ trụ. Vũ trụ được hình thành cách đây hơn 13 tỷ năm nhờ vụ nổ Big Bang. Và nó cũng hầu như là không thể đo đạc hay tính toán được. Các nhà nghiên cứu hiện nay cũng khó quan sát được hết các Thiên Hà có trong Vũ trụ. Vũ trụ có thể có ba hình dạng được phỏng đoán. Trong đó bao gồm: Hình cầu, hình nón, hình phẳng. Theo dấu tích của thời gian thì Vũ trụ đang ngày càng dãn nở. Vì thế càng nhiều vật thể được tạo nên bởi các bụi Thiên Hà. Hệ Mặt Trời hay còn gọi là Thái Dương Hệ hiện nay được các nhà nghiên cứu tìm thấy là có 8 hành tinh. Tất cả chúng đều là một phần nhỏ trong Vũ trụ to lớn. Thứ tự các hành tinh lần lực là Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất, Sao Hỏa, Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương, Sao Hải Vương. Và còn một hành tinh nữa đang trong danh sách chờ để có mặt trong Hệ Mặt Trời đó là sao Diêm Vương. Sao Thủy: là một hành tinh đứng đầu trong Hệ Mặt Trời nếu xét về vị trí, nó được bao phủ bởi một mặt toàn là băng và mặt còn lại thì bị Mặt Trời đốt cháy. Trái Đất: cái tên khác là Địa Cầu và loài người đang sống ở bề mặt Trái Đất, nó nằm ở vị trí thứ 3 trong Thái Dương Hệ vì thế Trái Đất nhận được sự ưu ái hơn so với các hành tinh khác. Thành phần chính của bề mặt Trái Đất là nước nên mới xuất hiện sự sống ở đây. Sao Hỏa: là hành tinh duy nhất được các nhà khoa học tìm hiểu về sự sống. Bởi vì nó có những tính chất giống như Trái Đất chúng ta. Chắc hẳn có rất nhiều người vẫn còn thắc mắc về câu hỏi có bao nhiêu hành tinh trong Vũ trụ. Nhưng trước tiên hãy cùng cập nhật các thông tin hữu ích dưới đây trước nhé. Trái Đất chúng ta sẽ quay quanh Mặt Trời và được tính bằng vòng/ngày. Nhưng đối với một Hệ rộng lớn thì Hệ Mặt Trời sẽ quay một vòng quanh Dải Ngân Hà. Và mất khoảng 250 triệu năm. Quả là một con số không thể tưởng tượng nỗi. Nó đi qua biết bao thế hệ con người. Và từ lúc Hệ Mặt Trời được hình thành thì chúng ta đã quay được khoảng 20 vòng quanh Dải Ngân Hà. Dải Ngân Hà là một phần nằm trong Vũ trụ. Nó được tập hợp bởi nhiều Thiên Hà để tạo ra một dải dài. Trung bình thì độ rộng của nó rơi vào khoản 100 nghìn năm ánh sáng. Dải Ngân Hà chưa các Ngân Hà và trong các Ngân Hà đó có các hành tinh khác nhau. Và theo nghiên cứu được từ các nhà thiên văn học thì ước lượng có khoảng hơn 160 triệu hành tinh trong Dải Ngân Hà. Con người chúng ta đang sống trong một Thiên Hà có tên là Sola. Câu hỏi có bao nhiêu hành tinh trong Vũ trụ là một vấn đề mà các nhà thiên văn học cũng đang tự hỏi. Bởi vì với sức mạnh của công nghệ hiện nay thì chưa biết được tổng cộng bao nhiêu có bao nhiêu hành tinh trong Vũ trụ này. Một điều có thể gây sốc đó là có thể con người chúng ta chỉ đã tìm ra khoảng ít hơn 1% các hành tinh trong Vũ trụ. Riêng Hệ Mặt Trời chúng ta là có tất cả 8 hành tinh. Thiên Hà thì có biết bao nhiêu là Hệ khác. Thêm vào đó, Vũ trụ được gia tăng kích thước qua thời gian nên số Thiên Hà trong đó cũng tăng theo. Nếu tính toán theo suy luận và các số liệu nghiên cứu được thì có khoảng hơn 4 ngàn 8 trăm nghìn tỷ hành tinh. Vì chỉ là suy luận theo logic của các nhà thiên văn học nên cũng không thể biết hết được. Trên đây, là những thông tin, kiến thức thêm về Vũ trụ rộng lớn và các bạn cũng có thể hiểu được có bao nhiêu hành tinh trong Vũ trụ này. Hãy tìm hiểu thật kỹ những kiến thức về Vũ trụ vì nó rất thú vị. Những thiết kế mang phong cách phóng khoáng, cá tính nhưng vẫn tôn lên sự trưởng thành, chững chạc của phái mạnh. Tạo nên một điếm nhấn mới trong màu sắc thời trang của chính bạn. Chúng tôi luôn trân trọng và mong đợi nhận được mọi ý kiến đóng góp từ khách hàng để có thể nâng cấp trải nghiệm dịch vụ và sản phẩm tốt hơn nữa. Mã số doanh nghiệp: 0316099570. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hồ Chí Minh cấp lần đầu ngày 2020-01-09.
Hành tinh
Hành tinh là thiên thể quay xung quanh một ngôi sao hay một tàn tích sao, có đủ khối lượng để nó có hình cầu hoặc hình gần cầu do chính lực hấp dẫn của nó gây nên, có khối lượng dưới khối lượng giới hạn để có thể diễn ra phản ứng hợp hạch (phản ứng nhiệt hạch) của deuterium, và đã hút sạch miền lân cận quanh nó như các vi thể hành tinh. Hệ Mặt Trời có tám hành tinh, xếp theo thứ tự khoảng cách từ gần nhất cho đến xa nhất so với mặt trời là Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất, Sao Hỏa, Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương, Sao Hải Vương (Sao Diêm Vương từng được xếp vào nhóm này nhưng hiện tại bị loại ra do không đáp ứng được tiêu chí ba trong định nghĩa của IAU 2006). Từ năm 1992, hàng trăm hành tinh quay xung quanh ngôi sao khác ("hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời" hay "hành tinh ngoại hệ") trong Ngân Hà đã được khám phá. Tính đến ngày 1 tháng 9 năm 2021, đã phát hiện được 4.831 hành tinh ngoài hệ Mặt Trời, có kích thước từ các hành tinh khí khổng lồ lớn hơn Sao Mộc cho đến kích thước của các hành tinh đá, với 3.572 hệ hành tinh (bao gồm 795 hệ đa hành tinh).
Peter Đại Đế (Peter Alekseevich Romanov) (1672 – 1725) sinh tại Moskva năm 1672, là hoàng tử của Nga Hoàng Aleksey Mikhailovich; từ năm 1682 – Peter ông trở thành là Nga Hoàng, và đích thân trị vì nước Nga vào năm 1689. Rồi trở thành Hoàng đế đầu tiên của nước Nga vào năm 1721. Peter Đại Đế là một vị vua ưu tú, một nhà chính trị đại tài và là một nhân vật quân sự xuất xắc, một người chỉ huy và một nhà ngoại giao đầy tài năng; ông là người sáng lập lên quân đội và hải quân chính quy của nước Nga. Khi mới còn nhỏ, ông đã tự học tại nhà. Khi trưởng thành, ông trở thành một người giàu nghị lực, có sức bền bỉ và cứng rắn đáng thuyết phục, ông liên tục học hỏi trong suốt cả đời mình, để lĩnh hội được những kiến thức và kỹ năng mới, trong tri thức của mọi tầng lớp xã hội khác nhau. Ông đặc biệt chú ý đến lĩnh vực khoa học quân sự và hải quân. Năm thứ 80 của thế kỷ XX, ông đã thành lập một đội quân với tên gọi ” Trung đoàn Poteshny” (trung đoàn này gồm chỉ toàn những chiến sĩ nhí) Trung đoàn này về sau đã trở thành một khuôn mẫu của lực lượng Cận vệ Nga. Từ năm 1688 đến năm 1693, ông tự đã đi theo học ngành đóng tàu tại Hồ Plescheevo. Trong những năm 1697-1698 ông đã vượt qua thành công khóa học kỹ thuật pháo binh ở Konigsberg, và tự nguyện làm thợ mộc tại một xưởng đóng tàu ở Amsterdam, rồi học về lý thuyết đóng tàu ở Anh. Ông đã đưa ra nhiều thay đổi, và cải cách cực kỳ quan trọng, ví dụ như thành lập thượng nghị viện, thành lập binh chủng hải quân Nga: ban hành sắc lệnh nghĩa vụ quân sự; thành lập quân đội và hải quân chính quy. Peter Đại Đế đặc biệt chú tâm và thậm chí còn bị ám ảnh về lĩnh vực kỹ thuật hải quân. Trong những năm 1697-1698 ông không chỉ theo học đóng tàu ở Amsterdam, mà còn đến làm việc tại một xưởng đóng tàu rèn giũa và gặt hái những kỹ năng thiết thực cần thiết. Sau khi tốt nghiệp khóa học đóng tàu và chiến lược hải quân ở Anh. Khi quay trở về Nga, ông lập tức đứng ra chỉ đạo phương pháp đóng cho binh chủng hải quân Nga, cũng như cho một số pháo đài biển. Ông tích cực tham gia trong những công cuộc thành lập đội thương thuyền quốc gia, và sự phát triển thực tiễn trong ngành hàng hải của nước Nga. Hơn 200 hãng luyện kim được thành lập trong thời gian trị vì của Peter Đại Đế, nước Nga dẫn đầu thế giới về sản lượng luyện gang thép, vấn đề này đã giúp đáp ứng đủ nhu cầu về sự tăng trưởng trong ngành công nghiệp, quân đội và hàng hải. Hơn nữa, Peter Đại Đế còn cho thành lập các nhà máy và xưởng dệt vải. Với mục đích giáo dục và đào tạo sĩ quan hải quân, Peter Đại Đế đã cho thành lập trường khoa học toán và hàng hải ở Moskva (1701), và học viện hải quân tại Saint-Petersburg (1715). Ngoài ra, ông còn tổ chức rất nhiều đoàn thám hiểm địa chất, để khám phá những vùng biển đông bắc. Trong suốt thời gian trị vì của mình, Peter Đại Đế đã bộc lộ là một người có trí tuệ chuyên môn sâu sắc vể bổn phận và những thách thức đang nằm phía trước của nước Nga. Ông đã đưa ra những cải cách then chốt, nhằm vượt qua khoảng cách khổng lồ giữa nước Nga và những quốc gia đã phát triển khá cao khác ở châu Âu, cũng như sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên của nước Nga một cách bền vững. Peter Đại Đế đã hỗ trợ bằng mọi cách, để tăng trưởng liên tục nền kinh tế quốc gia, và ngành xây dựng sản lượng kinh doanh, cũng như củng cố tiềm năng quốc phòng. Peter Đại Đế đã động viên phát triển nền công nghiệp, và dệt vải nội địa; các phương tiện truyền thông; ngành thương mại trong và ngoài nước, sự tăng trưởng trong văn hóa, chính trị của nước Nga, chuyển đổi chúng trở thành quyền lực lớn mạnh nhất. Trong khi cải cách cơ cấu chính phủ, Peter Đại Đế đã thiết lập được cho nước Nga có một sự tập trung kiên cố nhất. Như một nhân vật quân sự xuất sắc, Peter Đại Đế đã xếp trong hàng ngũ những người được đào tạo cao nhất, những người sáng lập có tài năng nhất trong các lực lượng vũ trang, và trong những chỉ huy quân sự và hải quân ở trong nước Nga cũng như trong lịch sử thế giới của thế kỷ XVII. Sự nghiệp chủ yếu cả đời ông, là củng cố vững chắc sức mạnh quân sự của nước Nga, và tăng cường vai trò của nước Nga trên đấu trường quốc tế. Ông còn tiếp tục khởi động cuộc chiến với Thổ vào năm 1686, tiến hành những cuộc chiến dài lâu để nước Nga được thông thương đến các vùng biển Bắc và Nam. Kết quả của cuộc chiến Azov (1695-1696), quân đội Nga đã đánh chiếm được pháo đài Azov, do đó, đã cho phép nước Nga có một vị trí vững chắc trên bờ biển Azov. Dưới sự chỉ huy của Peter Đại Đế, nước Nga đã giành được thắng lợi trong cuộc chiến đẫm máu Phía Bắc 1700-1721, và giành được quyền đi vào biển Baltic, với lợi thế này, nước Nga đã có thể thiết lập những mối quan hệ trực tiếp với các quốc gia châu Âu. Trận đánh trên bộ huyền thoại và nổi tiếng nhất, là một trận đánh trong cuộc chiến Phía Bắc, trận đánh này đã đi sâu vào lịch sử, đó là trận đánh Potlavskaya vào năm 1709, khi đó quân đội Nga dưới sự chỉ huy tài ba của Peter Đại Đế, đã tiêu diệt và phá hủy hoàn toàn đội quân củaThụy Điển do nhà vua Charles XII chỉ huy, sau khi bị thất bại hoàn toàn vua Charles XII cùng với thủ lĩnh Côdắc phản quốc Mazepa đã trốn sang đế quốc Osman. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc chiến Phía Bắc, nước Nga đã trở thành một trong những cường quốc hùng mạnh nhất ở châu Âu. Sau chiến dịch Ba Tư 1722-1723, nước Nga lại chiếm sở hữu các bờ biển phía tây của vùng biển Caspian cùng hai thành phố Derbent và Baku. Dưới quyền của Peter Đại Đế, quân đội và hải quân Nga đã thành lập đều hoàn toàn đạt được những hiệu quả to lớn nhất, có nghĩa là, quân đội được tách thành các trung đoàn, lữ đoàn, sư đoàn, trong khi đó thì hải quân – được chia thành các liên đội, sư đoàn, chi đội tàu chiến; một trung đoàn kỵ binh hỗn hợp được thành lập. Nền móng tổ chức của các lực lượng vũ trang là sắc lệnh nghĩa vụ quân sự dân sự, nghĩa vụ quân sự của giới quý tộc được ban hành vào năm 1705. Với mục đích quản lý và kiểm soát quân đội trên chiến trường, một vị trí tổng tư lệnh (đại nguyên soái – Tướng) được phong cấp; Hàm cấp này tương đương với cấp tổng đô đốc trong hải quân. Một hội đồng quân sự với sở chỉ huy mặt trận được thành lập. Quan tâm nhiều đến lĩnh vực hiện đại hóa khoa học kỹ thuật trong quân đội và hải quân, Peter Đại Đế không chỉ khuyến khích phát triển và đóng những con tàu hiện đại, các loại vũ khí và đạn dược pháo binh có hiệu lực nhất, mà còn thiết lập lên một hệ thống dàn trận có cơ sở trong hạm đội Nga trên các vùng biển Azov, biển Baltic, và biển Caspian. Một số lượng lớn thuyền mái chèo, và thuyền buồm được đóng mới. Lực lượng hải quân được thành lập trong thời trị vì của Peter Đại Đế, tiến hành thực hiện nhiều chiến dịch quân sự rất mạnh, để cùng phối hợp với các chiến dịch của lực lượng lục quân. Trong thời kỳ Peter Đại Đế, bộ binh cũng bắt đầu được trang bị súng hỏa mai và lưỡi lê tự chế. Trong thời gian 1701-1719, Peter Đại Đế đã cho mở các trường kỹ thuật, trường pháo binh, trường hàng hải, cùng với các học viện hải quân ở Moskva và Saint-Petersburg. Ông con cho ban hành các cấp bậc trong quân đội, và các loại huân huy chương. Peter Đại Đế là người sáng lập ra trường hải quân Nga, tại mái trường này đã từng hun đúc ra các vị tướng lĩnh huyền thoại như P.A. Kế hoạch chiến lược và những tư duy sâu rộng của Peter Đại Đế, đã đi trước sự phát triển trong tương lai của đất nước ông. Chiến lược của ông thực sự lỗi lạc, thậm trí còn có tính hung hăng, nhằm đập tan hoặc tiêu diệt quân thù. Sự khôn ngoan và tài năng của ông, đã tập hợp được quần hùng và các loại vũ khí trên các phương diện chính, và đã đập tan mọi thế lực quân thù trong dự kiến. Những chiến thắng trong các trận đánh, đã thu được thất cả sự phối hợp tác chiến trong các lực lượng quân đội. Một thất bại của quân thù, là sẽ có mưu đồ có quy mô nữa tiếp theo. Trong khi vây hãm một pháo đài, là cần phải có sự cân nhắc để mở đợt thọc sâu thần tốc hoặc một trận tấn công, sau khi đã có sự chuẩn bị kỹ về kỹ thuật và những trận oanh tạc dữ dội (phương pháp như vậy đã được áp dụng trong trận đánh chiếm Noteburg vào năm 1702, và Narva cũng như Derpt năm 1704… ) Những trận đánh trong các chiến dịch quân sự, đều có những sự điều khiển hành quân đầy sáng tạo và táo bạo. Theo chiếu chỉ của Peter, để bảo đảm vấn đề bảo vệ biên giới nước Nga có hiệu quả, vào đâu thế kỷ XVIII, những tuyến công sự kéo dài dọc bờ biển, những pháo đài, những căn cứ hải quân (Pháo đài Peter và Paul Fortress, Kronshtadt, Revel, Taganrog…) được bắt đầu xây dựng hàng loạt. Duy trì và nhân rộng giá trị truyền thống quân sự, và những điểm đặc trưng có một không hai trong nghệ thuật chiến tranh của nước Nga, Peter Đại Đế còn chú ý cả đến những thành tựu và đổi mới trong khoa học thực tiễn quân sự của châu Âu, phân tích tỉ mỉ những khả năng của họ, để áp dụng và hiệu chỉnh trên thực tế cho nước Nga. Như một nhà ngoại giao, Peter Đại Đế tỏ ra có sự am hiểu thực sự sâu rộng về chính sách ngoại giao và những mục đích của nước Nga, ông có khả năng giành được lợi nhuận cả về vị thế lẫn thỏa hiệp. Do vậy ông thường đứng ra điều đình và ký kết những hiệp ước cũng như thỏa thuận quốc tế. Trong những chuyến công cán của mình đến các quốc gia bắc Âu, với danh nghĩa là một thành viên của tổng lãnh sự vào năm 1697-1698, ông đã tạo điệu kiện cho sự thành lập khối liên minh phía bắc chống Thụy Điển được thuận lợi, khối liên minh này chính thức được thành lập vào năm 1699. Tài ngoại giao của Peter, đã làm cho những mâu thuẫn tồn tại giữa các cường quốc châu Âu, được đi sang những chiều hướng có hiệu quả nhất, ngăn chặn Anh quốc có rắp tâm phá hoại những cuộc đàm phán hòa bình giữa Nga và Thụy Điển, những cuộc đàm phán được bắt đầu từ năm 1719 và kết thúc với sự ký kết hiệp ước hòa bình Nishtadt vào năm 1721. Trong thời gian trị vì của Peter Đại Đế, quân đội và hải quân Nga đã giành được một số chiến thắng lịch sử như: Trận đánh Poltava (1709); trận đánh gần Gangut (1714), trận Grenham (1720) và những trận khác. Tất cả những trận đánh đó, đã đưa nước Nga trở thành một cường quốc. Ông được an táng tại thánh đường Peter và Paul ở pháo đài Peter và Paul. Ông đã đi vào lịch sử nước Nga với danh nghĩa một nhà lãnh tụ quốc gia xuất xắc, một nhà lãnh đạo quân sự ưu tú, một người mà có cảm nhận và thấu hiểu mọi nhiệm vụ phải phát triển và những sự cần thiết mà nước Nga đang phải đối mặt trong thời kỳ đó, ông đã công đóng góp cực kỳ to lớn để nước Nga trở thành một cường quốc.
Chiến tranh Nga–Ba Tư (1722–1723)
Chiến tranh Nga-Ba Tư giai đoạn 1722-1723, được sử sách nước Nga chép là Chiến dịch Ba Tư của vua Pyotr Đại đế, là một cuộc chiến tranh giữa Nga và Ba Tư (Iran), một cuộc chiến bị kích hoạt từ tham vọng của Nga hoàng trong việc mở rộng ảnh hưởng của Nga ở biển Caspi và khu vực Nam Kavkaz và để ngăn chặn đối thủ của Nga, Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ giành được các lãnh thổ trong khu vực trong bối cảnh Safavid Ba Tư đang suy tàn. Trước khi tiến hành chiến dịch, Peter I của Nga đã đảm bảo một liên minh với vua Gruzia Vakhtang VI của Kartli và với Catholicos của Armenia Asdvadzadur. Những nhà cầm quyền theo Công giáo này lúc đó đang tìm kiếm trợ giúp của Nga trong cuộc đấu tranh của họ chống lại hai thế lực cường quốc bành trướng Hồi giáo - Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư. Trong tháng 7 năm 1722, quân đội Nga và người Cossack với quân số khoảng 22.000, đã lên các tàu chiến mới được đóng Flotilla Caspi do đô đốc Fyodor Apraksin chỉ huy, xuất phát từ Astrakhan. Sau đó đã có thêm khoảng 22.000 kỵ binh và bộ binh Cossack từ Tsaritsyn.
Xu hướng học viên theo học chuyên ngành đào tạo Cử nhân Quản trị Kinh Doanh tại các trường đào tạo quốc tế ngày càng nhiều. Vậy bạn có từng thắc mắc bằng Cử nhân Quản trị Kinh Doanh là gì và vì sao người ta chọn học ngành này nhiều đến như vậy?. Ngành học Quản trị Kinh Doanh là một ngành học thuộc lĩnh vực Kinh Doanh, thường cung cấp cho học viên các kiến thức và kỹ năng về nghiên cứu, quản lý và điều hành công ty hoặc tổ chức. Các môn học liên quan đến ngành Quản trị Kinh Doanh bao gồm Marketing, Tài Chính, Kế Toán, Quản Trị và một số môn học chuyên ngành khác. Bên cạnh các môn chuyên ngành, thông thường các chương trình đào tạo chuyên ngành này còn trang bị thêm các kiến thức và kỹ năng liên quan đến lĩnh vực Kinh Doanh và Kinh Tế nói chung để đảm bảo các học viên có thể nhìn nhận các vấn đề quản lý và điều hành tổ chức từ nhiều khía cạnh khác nhau. Bằng cử nhân Quản trị Kinh Doanh hay còn có tên gọi tiếng Anh là Bachelor of Business Administration (BBA) là một bằng chứng nhận cử nhân được cấp sau khi sinh viên đã hoàn thành các yêu cầu về chuyên ngành Quản trị Kinh Doanh tại các trường Đại học được công nhận. Thông thường, chương trình BBA sẽ diễn ra trong vòng 3 đến 4 năm. – Chuyên ngành Quản trị Kinh Doanh rất phổ biến và được đề cao tại các nước phát triển bởi ngoài các kiến thức và kỹ năng chuyên môn, tham gia các chương trình đào tạo lĩnh vực này còn tạo nhiều điều kiện để các cá nhân có thể giao lưu và tạo dựng mối quan hệ với các nhà quản lý, lãnh đạo kinh doanh khắp nơi. – Đây là chuyên ngành có thể ứng dụng rộng rãi ở rất nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau không chỉ liên quan đến các công việc kinh doanh hay công tác tại các doanh nghiệp. – Không chỉ đây là cơ hội cho các sinh viên được làm việc tại các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp có hợp tác nước ngoài, mà còn vì tỉ lệ du học tại các nước phát triển dành cho chuyên ngành này là rất cao. – Các trường đào tạo liên kết quốc tế hiện nay tạo ra rất nhiều cơ hội về học bổng BBA hay cao hơn nữa là MBA, giúp học viên tiết kiệm được chi phí hiệu quả đồng thời lấy bằng chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế. Xu hướng học bằng cử nhân Quản trị Kinh Doanh hiện nay tại Việt Nam cũng trở nên rất được ưa chuộng. Một số trường Đại học hàng đầu về đào tạo và quản lý các lĩnh vực Kinh tế và Kinh doanh tại thành phố Hồ Chí Minh như trường Đại học Kinh tế thành phố HCM, Đại học Ngoại Thương… cho ra đời nhiều trường đào tạo quốc tế góp phần đáp ứng được nhu cầu tìm kiếm các chương trình cử nhân quốc tế và thạc sỹ quốc tế về ngành Quản trị Kinh Doanh nói riêng và lĩnh vực Kinh doanh nói chung của học viên. Trong số đó, hiện Viện Đào tạo quốc tế ISB – đơn vị trực thuộc trường Đại học quốc tế thành phố HCM hiện đang là một trong những trường đào tạo bằng cử nhân Quản trị Kinh Doanh nổi bật được nhiều học viên lựa chọn. Dưới đây là một số thông tin tuyển sinh về chương trình đào tạo Quản trị Kinh doanh BBA 2+2 tại ISB:. – Đây là chương trình hợp tác đào tạo giữa trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và trường Đại học Solbridge – ngôi trường được thành lập và hoạt động kể từ năm 2007, trực thuộc trường Đại học Woosong của Hàn Quốc và được mệnh danh là cái nôi của những nhà lãnh đạo châu Á tương lai. – Chương trình trang bị những kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực kinh doanh theo tiêu chuẩn đào tạo quốc tế với đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm và chuyên môn cao đến từ những trường Đại học hàng đầu như Harvard, Massachuset, California, Cornell và một số trường khác. – Thời gian đào tạo: 4 năm. Ở giai đoạn 1 (2 năm), học viên học tập tại trường Đại học Kinh tế HCM và Viện Đào tạo quốc tế ISB các môn đại cương gồm 16 môn học. Ở giai đoạn 2 (2 năm), học viên sau khi đạt yêu cầu về các môn đại cương tại ISB – UEH và trình độ tiếng Anh học thuật (tương đương IELTS 5.5) thì sẽ học tập các môn chuyên ngành tại trường Đại học SolBridge – Woosong ở Hàn Quốc. – Điều kiện xét tuyển: Học sinh đã tốt nghiệp Trung học phổ thông và có bằng từ IELTS 5.0 trở lên. Đối với điều kiện về tiếng Anh, ứng viên chưa có chứng chỉ IELTS như đã yêu cầu thì có thể tham dự bài kiểm tra anh văn đầu vào của chương trình với hai phần thi gồm phần Đọc Hiều và phần Phỏng Vấn. – Chương trình tạo nhiều cơ hội học bổng cho sinh viên từ 30 % đến 100 % cho các sinh viên đạt điều kiện. Tìm hiểu thông tin về học bổng về chương trình BBA 2+2 và các chương trình cử nhân kinh doanh khác tại đây. Bài viết trên vừa chia sẻ một số thông tin về đào tạo bằng cử nhân Quản trị kinh doanh và giới thiệu chương trình cử nhân tại Viện Đào tạo quốc tế ISB tại địa bàn thành phố HCM. Mong rằng các bạn có thể tìm thấy khóa học mình yêu thích. Học tiếng Anh khi còn bé giúp bé dễ tiếp thu và phát triển vốn hiểu biết về ngôn ngữ khác ngoài tiếng mẹ đẻ. Học Tiếng Anh Từ Bé chia sẻ các bí quyết giúp bé học tiếng Anh tốt cho mẹ.
Cử nhân quản trị kinh doanh
Cử nhân quản trị kinh doanh (tiếng Anh: Bachelor of Business Administration) là bằng cử nhân về chuyên ngành quản trị kinh doanh. Quản trị kinh doanh là hành vi quản trị quá trình kinh doanh để duy trì, phát triển công việc kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm việc cân nhắc, tạo ra hệ thống, quy trình và tối đa hóa "hiệu suất", "quản lý hoạt động kinh doanh" bằng quá trình tư duy và ra quyết định của nhà quản lý. Trong hầu hết các trường đại học, trình độ này được trao sau khi một sinh viên sau bốn năm học toàn thời gian (120 giờ tín chỉ) về một trong các lĩnh vực sẽ kể dưới đây. Chương trình BBA thường bao gồm các khóa học kinh doanh nói chung và các khóa học nâng cao các nội dung cụ thể. Các bằng cấp tương tự và có thể thay thế cho bằng BBA là Cử nhân Khoa học Quản trị Kinh doanh (BSBA), và Cử nhân Quản lý Khoa học (BMS).
Lực ly tâm là gì? Ứng dụng của lực ly tâm ra sao? Đó là thắc mắc của khá nhiều bạn đọc khi nghe nhắc đến loại lực này. Và trong bài viết ngày hôm nay, chúng tôi sẽ giúp các bạn giải đáp những thắc mắc đó. Cùng chúng tôi tìm hiểu ngay nhé. Lực ly tâm là một lực quán tính, xuất hiện ở trên mọi vật khi chúng nằm yên trong hệ quy chiếu quay so với một hệ quy chiếu quán tính. Đây là hệ quả của trường gia tốc, xuất hiện trong hệ quy chiếu phi quán tính, cụ thể là hệ quy chiếu quay. Chúng ta cũng có thể hiểu rằng, lực ly tâm chính là phản lực của lực hướng tâm tác động vào vật đang chuyển động theo một đường cong với thành phần lực vuông góc với vận tốc, làm đổi hướng vận tốc. Nhờ đó, vật được giữ nằm cân bằng trong hệ quy chiếu quay. Theo định luật 1 Newton, trong hệ quy chiếu quán tính, khi không có lực gì tác động vào các vật thể thì chúng sẽ giữ chuyển động thẳng đều. Tuy nhiên, chuyển động thẳng đều này lại lệch so với chuyển động quay của hệ quy chiếu quay. Ví dụ như một người ngồi trong xe ô tô đang đổi hướng, nếu không có lực ma sát giữa người với ghế thì người này sẽ tiếp tục đi thẳng, còn ô tô và ghế đổi hướng. Người này sẽ bị dịch chuyển một cách tương đối và lệch khỏi ghế. Nhìn vào trong hệ quy chiếu quay, các vật thể ban đầu vốn chuyển động thẳng đều trong hệ quy chiếu quán tính sẽ bị đẩy ra theo phương xuyên tâm quay và lực đẩy vật ra chính là lực ly tâm. - Tách phân tử và đồng vị: Máy ly tâm tốc độ cực cao và máy siêu ly tâm quay với tốc độ cao đến mức chúng có thể tách được các phân tử có khối lượng khác nhau, thậm chí là đồng vị của nguyên tử. Loại máy này được ứng dụng trong các nghiên cứu khoa học và chế tạo nhiên liệu hạt nhân, vũ khí hạt nhân. Ví dụ như loại máy ly tâm khí có thể được dùng để làm giàu uranium. Khi máy hoạt động, các đồng vị nặng sẽ bị kéo ra ngoài nhiều hơn các đồng vị nhẹ. - Cô lập các thành phần của chất lỏng và huyền phù không có khả năng phân hủy, cụ thể là tách các thành phần máu, cô lập ADN và làm sạch các mẫu hóa chất. Trong phòng thí nghiệm, loại máy ly tâm được sử dụng cũng có tốc độ quay cao và chúng có kích thước đa dạng, có thể là loại lớn đặt trên sàn hoặc loại nhỏ đặt trên bàn. Loại máy ly tâm phòng thí nghiệm có 1 rotor với các lỗ khoan góc dùng để giữ các ống mẫu. Do các ống mẫu được cố định ở một góc và lực ly tâm tác dụng trong mặt phẳng nằm ngang nên các hạt sẽ di chuyển một khoảng rất nhỏ trước khi va vào thành ống. Nhờ đó mà các vật liệu dày đặc sẽ trượt xuống. - Mô phỏng trọng lực cao: Các loại máy ly tâm lớn có thể được sử dụng để mô phỏng trọng lực cao. Chúng thường có kích thước bằng một căn phòng hoặc một tòa nhà. Loại máy này được sử dụng để đào tạo phi công thử nghiệm và tiến hành các nghiên cứu khoa học liên quan đến trọng lực. Ngoài ra, nó cũng được dùng làm trò chơi trong công viên giải trí. - Các loại máy ly tâm công nghiệp được dùng để tách các thành phần của chất keo như kem và bơ từ sữa hoặc dùng trong sản xuất hóa chất, làm sạch chất rắn từ dung dịch khoan, làm khô vật liệu và loại bỏ bùn trong xử lý nước thải. - Tách chất lỏng khỏi vật/chất rắn: Trong cuộc sống hàng ngày, lực ly tâm cũng được ứng dụng cho rất nhiều loại máy, điển hình là máy giặt. Máy giặt sử dụng lực ly tâm trong chu kỳ vắt để tách nước khỏi quần áo, chăn ga,…đồ giặt. Hay như các loại máy dùng để làm khô rau sau khi rửa. Máy ly tâm là thiết bị thực hiện quá trình phân ly dựa trên trường lực ly tâm để tách riêng hỗn hợp của 2 pha rắn – lỏng hoặc lỏng – lỏng thành các cấu tử riêng biệt. Hiểu hơn giản thì máy ly tâm là thiết bị dựa vào lực ly tâm để tách các pha rắn khỏi pha lỏng, dựa vào kích thước các hạt và mật độ khác nhau giữa chúng. Máy ly tâm được theo tên loại lực mà nó ứng dụng, đó là lực ly tâm - lực ảo kéo các vật thể quay ra ngoài. Lực ly tâm trái ngược với lực hướng tâm – lực vật lý thực có tác dụng kéo các vật quay vào trong. Ví dụ như khi quay một xô nước, nếu tốc độ quay đủ nhanh thì nước sẽ được kéo vào trong và không bị tràn ra ngoài. Nếu xô chứa đầy hỗn hợp của cát và nước thì khi quay, nó sẽ tạo ra sự ly tâm. Theo nguyên lý lắng, cả nước và cát trong xô sẽ bị hút ra phía mép ngoài của xô. Các hạt cát dày đặc sẽ lắng xuống đáy xô còn các phân tử nước do có trọng lượng nhẹ hơn sẽ bị dịch chuyển về phía tâm. Vậy là chúng tôi đã giúp các bạn giải đáp được lực ly tâm là gì cũng như ứng dụng của lực ly tâm. Hy vọng đây sẽ là những thông tin hữu ích đối với các bạn. GPDKKD: 0108580557 do Sở KH & ĐT TP Hà Nội cấp ngày 10/01/2019. Là doanh nghiệp hàng đầu chuyên cung cấp Hóa chất, thiết bị và dụng cụ phòng thí nghiệm. Chúng tôi cam kết đem đến những sản phẩm chất lượng với mức giá TỐT NHẤT trên thị trường.
Lực ly tâm
Lực li tâm là một lực quán tính xuất hiện trên mọi vật nằm yên trong hệ quy chiếu quay so với một hệ quy chiếu quán tính. Nó là hệ quả của trường gia tốc, xuất hiện trong hệ quy chiếu phi quán tính mà trong trường hợp này là hệ quy chiếu quay. Chúng ta cảm thấy lực này khi ngồi trong xe ô tô đang đổi hướng, hay chơi trò cảm giác mạnh như xe lao tốc độ ở công viên. Lực này được ứng dụng để tạo nên một trường gia tốc giúp phân loại các thành phần trong hỗn hợp vật chất, như máy phân tích ly tâm hay để vắt quần áo trong máy giặt. Trong hệ quy chiếu, khi không có lực gì tác động vào các vật thể, chúng giữ chuyển động thẳng đều, theo định luật 1 Newton. Tuy nhiên chuyển động thẳng đều này lệch với chuyển động quay của hệ quy chiếu quay. Ví dụ về một người ngồi trong xe ô tô đang đổi hướng: nếu không có lực ma sát giữa người và ghế, người sẽ tiếp tục đi thẳng, còn ô tô và ghế đổi hướng. Người bị dịch chuyển, một cách tương đối, lệch khỏi ghế.
Hàng tỉ người trên thế giới sử dụng các loại dịch vụ mạng xã hội như Facebook để giữ liên lạc với bạn bè và gia đình. Nhưng vào ngày 20 tháng 7, 2021, Tổng thống Joe Biden đã trách mắng việc do dự tiêm chủng ngừa COVID-19 là tại Facebook, bảo rằng Facebook đã để cho thông tin sai phạm xung quanh chủng ngừa COVID-19 lộng hành trên diễn đàn của mạng xã hội này. “Thông tin này đang giết người. Thông tin này là không đúng,” ông nói. “Tôi hi vọng rằng Facebook… sẽ làm gì đó về vấn đề thông tin sai phạm, thông tin sai phạm về chủng ngừa tràn lan này.”. Lời tuyên bố của Biden về việc Facebook đang dần trở thành trung tâm cho thông tin sai phạm về COVID-19 là ĐÚNG. Facebook cũng đồng ý rằng thông tin sai phạm rất phổ biến trên diễn đàn của họ. Để hiểu được cách thông tin sai phạm phát tán trên các diễn đàn mạng xã hội như Facebook, người dùng nên biết cách các mạng xã hội sử dụng thông tin của họ và kiếm hàng tỉ đô-la mỗi năm ra sao và cách họ điều khiển thông tin được chiếu cho người dùng trên các diễn đàn này xem bằng cách nào. Tuy nhiên, người dùng cần hiểu cách các mạng xã hội sử dụng thông tin cá nhân của họ để kiếm hàng tỉ đô-la mỗi năm ra sao, việc này ảnh hưởng đến loại nội dung mà họ nhìn thấy trên các nền tảng này như thế nào, và liên quan gì đến việc phát tán thông tin sai lệch. Bài viết này sẽ tập trung vào Facebook, mạng xã hội lớn và có ảnh hưởng nhất hành tinh cho tới hiện nay, cũng như cách vận hành tương tự như những dịch vụ trực tuyến khác, ví dụ như YouTube. Facebook kiếm tiền thông qua quảng cáo. Facebook làm việc này vô cùng hiệu quả nhờ vào cấu trúc của nó. Khi người dùng đăng kí tài khoản Facebook, họ cung cấp thông tin cá nhân của bản thân và sau đó, các hoạt động của họ trên Facebook được dùng để tạo ra một bức tranh hoàn chỉnh hơn về chính người dùng và các sở thích của họ. Thông tin này sau đó sẽ được cung cấp cho các nhà quảng cáo. Chẳng hạn, nếu người dùng nói họ thích xe hơi, các công ty xe hơi sẽ trả tiền cho Facebook để hiển thị quảng cáo liên quan đến xe hơi cho người dùng. Facebook sử dụng mọi khía cạnh về bản thân mà người dùng chia sẻ để quyết định xem người dùng sẽ nhìn thấy loại quảng cáo nào, bao gồm phân tích về các hình ảnh mà người dùng đã tải lên mạng. Ví dụ, Facebook có thể xác định vóc dáng và kiểu tóc của người dùng qua hình ảnh được tải lên mạng và từ đó điều khiển các kiểu quảng cáo đến người dùng. Một số quảng cáo còn có thể sử dụng hình đại diện của người dùng mà không cần báo trước. Nếu Facebook chỉ đăngquảng cáo, các thành viên sẽ rời bỏ rất nhanh chóng. Vì vậy, Facebook phải hiển thị các nội dung khiến người dùng để họ tiếp tục ở lại. Các nội dung này bao gồm các bài viết từ bạn bè và gia đình, từ các nhóm mà người dùng theo dõi, và từ các nguồn báo chí và trang mạng khác. Thông tin này được điều chỉnh theo sở thích của người dùng thông qua cái gọi là “thuật toán”. Thuật toán là một tập hợp các hành động được tự động hóa để phản ứng với thông tin. Ví dụ như đèn giao thông hoạt động dựa trên các thuật toán sử dụng số lượng xe hơi ở mỗi đèn và giới hạn tốc độ của từng đường để làm cho giao thông di chuyển trôi chảy và an toàn hết sức có thể. Các thuật toán lựa chọn những gì người dùng thấy trên trang Facebook cá nhân chủ yếu dùng công nghệ máy học để quyết định hiển thị nội dung gì cho người dùng mà không cần nhiều sự can thiệp của con người. Ví dụ, nếu người dùng “thích” những hình ảnh đi biển của bạn bè, Facebook sẽ hiển thịnhiều nội dungvà quảng cáo liên quan đến biển hơn. Bất cứ thông tin nào mà người dùng đưa cho Facebook sẽ được dùng để quyết định nội dung mà người dùng sẽ nhìn thấy ngay sau đó. Thông tin này bao gồm bài viết, hình ảnh, và hành động“thích” của người dùng. Nó cũng bao gồm cả tốc độ lướt qua thông tin của người dùng trên trang Facebook News Feed (trang Cung cấp Thông tin Facebook) và những gì người dùng đọc mà không “thích” hay bình luận. Một điều quan trọng là trang Cung cấp Thông tin Facebook của mỗi người dùng là độc nhất. Các bài viết, thứ tự sắp đặt bài viết, và những gì người dùng không nhìn thấy đều bị điều khiển bởi một hệ thống được thiết kế để khiến người dùng truy cập Facebook càng nhiều càng tốt. Trong thời đại Internet, bất cứ ai cũng có thể lập ra một trang web và tạo ra những thuyết âm mưu, để rồi chia sẻ trên Facebook. Chẳng hạn, người dùng đang lướt Facebook và bấm vào một liên kết đến trang web không khả tín nói rằng COVID-19 là không có thật. Thuật toán Facebook sẽ nhận ra rằng người dùng đang xem thông tin này và sẽ đưa thêm các bài viết khác cùng nói rằng COVID-19 là không có thật. Dù Facebook mới đây đã xóa 18 triệu bài viết không chính xác về COVID-19 khỏi mạng xã hội này, tin giả vẫn là một vấn nạn. Bởi thông tin sai lệch được tạo ra để thu hút sự chú ý và gây ra sợ hãi, người dùng sẽ “thích” và chia sẻ thông tin này để bảo vệ và thông báo cho người thân. Vì thuật toán khuyến khích việc “thích” và chia sẻ bài viết, những bài viết này được Facebook ưu tiên phát tán rộng rãi, để một bài viết có thể được hàng nghìn hay hàng triệu người xem – dù cho những bài viết này truyền bá thông tinsai lệch. Hầu hết những người dùng chia sẻ thông tin sai lệch trên mạng làm vậy mà không hề hay biết. Theo một nghiên cứu của tạp chí Misinformation Review do trường Kennedy thuộc Đại học Harvard xuất bản, “những báo cáo sai lệch phát tán nhanh hơn những thông tin chính xác” chính vì những thông tin này đánh vào nỗi sợ hãi của mỗi người. Trung tâm An ninh mạng của Đại học New York cũng đưa ra kết luận tương tự. Facebook đã nộp nhiều đơn cấp phép bằng sáng chế cho công nghệ thuật toán và danh sách các bằng sáng chế này có thể trị giá tới hàng tỉ đô-la cho Facebook. YouTube cũng có thuật toán tương tự, để giới thiệu cho người dùng những video giống với video họ vừa xem. Ví dụ, người dùng bấm vào một video trên YouTube về thuyết âm mưu QAnon, YouTube sẽ gửi cho người dùng thêm nhiều video về QAnon. Người dùng cũng nên biết rằng có rất nhiều thành phần cực đoan bạo lực đã được phát hiện trong các nhóm cá nhân trên Facebook. Dù các nhóm cá nhân có ích, những nhóm này khó bị theo dõi và đảm bảo trật tự. Các quản trị viên trong nhóm nắm toàn bộ quyền điều khiển những bài viết nào được đăng và những ai được tham gia. Vì dậy, thông tin sai lệch lan truyền dễ dàng hơn trong các nhóm trên Facebook. Các diễn đàn như Facebook đã tạo ra cơ hội có một không hai cho những người lạ mặt tương tác với nhau. Nhưng hiện có rất nhiều những thành phần xấu, từ những cá nhân đơn lẻ đến những tổ chức chính phủ thù địch, muốn sử dụng Facebook để điều khiển người Mỹ. Đôi khi những ảnh hưởng này tương đối nhỏ, ví dụ như việc khiến người ta trả giá đắt cho một sản phẩm không sử dụng được. Tuy nhiên, nó cũng có thể bao gồm những thông tin sai về y tế công cộng khiếnnước Mỹ suy yếu. Tin giả cũng mang lại lợi thuận, như chính Facebook cho biết: “Những kẻ chuyên phát tán tin rác này kiếm tiền bằng cách giả mạo các tòa soạn báo chính thức và đăng các bài viết giả tạo để người dùng truy cập vào trang mạng đầy rẫy quảng cáo của họ.” Một báo cáo của Center for Countering Digital Hate (Trung tâm Chống Thù địch Kỹ thuật) số cho thấy rằng rất nhiều các kẻ phát tán thông tin sai lệch về COVID-19 làm vậy để kiếm tiền từ việc bán những sản phẩm y tế chưa qua kiểm định để chống COVID-19. Facebook cho biết họ xóa hàng tỉ tài khoản giả mạo mỗi năm và đã phát hiện ra các chiến dịch phát tán thông tin sai lệch từ 50 quốc gia khác nhau trên mạng xã hội này. Đầu tiên, hãy đề cao cảnh giác. Lí do tại sao thông tin sai lệch được truyền đi dễ dàng trên Facebook là tại vì chúng chạm vào cảm xúc của chúng ta, dựa theo Hội Tâm lý học về Tính cách và Xã hội. Vậy nếu bạn gặp một bài viết khiến bạn sợ hãi hay giận dữ, hãy hít thở sâu. Hãy tự hỏi ai là người đưa ra tuyên bố này? Có phải người này là một chuyên gia có danh tiếng? Họ đưa ra những bằng chứng gì? Đã có những hãng tin tức nào nói về việc này chưa? Đề cao cảnh giác và không để cảm xúc điều khiển sẽ khiến người dùng không bị lừa bởi thông tin sai lệch. Hãy nhớ, một việc không hiển nhiên đúng chỉ vì có người trên mạng nói vậy. Thứ hai, bạn nên kiểm tra lại cài đặt quyền riêng tư trên Facebook và đảm bảo rằng bạn biết rõ ai có quyền đọc bài viết của họ. Có rất nhiều gợi ý từ các nguồn tin đáng tin cậy giúp người dùng điều chỉnh quyền riêng tư để bạn vẫn có thể chia sẻ bài viết cho bạn bè và gia đình nhưng hạn chế được những gì người lạ có thể nhìn thấy. Ví dụ, bất kì thông tin nào được đăng dưới chế độ “công khai” trên Facebook có thể được dùng cho các chiến dịch quảng cáo toàn quốc mà không cần thông qua hay thông báo cho người dùng. Nếu như có những bài viết hay hình ảnh trên Facebook mà bạn không muốn chia sẻ nữa thì bạn nên xóa chúng. Ảnh đại diện trên Facebook của người dùng được hiển nhiên coi là thông tin công khai nên nếu như người dùng không muốn hình này được chia sẻ cho người lạ xem thì họ nên gỡ bỏ nó hoặc thay đổi cài đặt quyền riêng tư. Điều quan trọng nhất là người dùng nên tiếp cận mạng xã hội như là một phần trong một “chế độ dinh dưỡng” thông tin đa dạng và cân bằng, bao gồm việc tự thân nghiên cứu và đọc tin từ các nguồn đáng tin cậy cũng như trò chuyện với bạn bè và gia đình ngoài đời. Cập nhật dữ liệu mới nhất về các trường hợp lây nhiễm coronavirus trên bảng theo dõi COVID-19 song ngữ của chúng tôi. Việt Kiểm Tin là một chương trình của PIVOT, Hội Người Mỹ Gốc Việt Cấp Tiến.
Thông tin sai lệch
Thông tin sai lệch là thông tin có nội dung sai hoặc không chính xác. Ví dụ về thông tin sai lệch bao gồm tin đồn sai lệch, lăng mạ và chơi khăm, trong khi các ví dụ về thông tin sai lệch có chủ ý hơn bao gồm nội dung độc hại như trò lừa bịp, tấn công giả mạo và tuyên truyền thông qua truyền thông. Tin tức chế giễu hoặc châm biếm cũng có thể trở thành thông tin sai lệch nếu nó được coi là nghiêm trọng bởi sự vô ý và lan truyền như thể đó là sự thật. Các thuật ngữ "thông tin sai lệch" và "thông tin sai trái" có liên quan đến thuật ngữ "Tin giả",u được một số học giả định nghĩa là thông tin bịa đặt bắt chước nội dung phương tiện truyền thông cùng dạng nhưng khác biệt trong quá trình tổ chức hoặc ý đồ phát tán. Lịch sử của thông tin sai lệch, cùng với thông tin sai trái và tuyên truyền, là một phần của lịch sử truyền thông đại chúng. Những ví dụ ban đầu được trích dẫn trong một bài báo năm 2017 của Robert Darnton là những lời lăng mạ và bôi nhọ giữa các đối thủ chính trị ở Hoàng gia và Phục hưng Ý dưới dạng "pasquinades, ẩn danh và câu thơ dí dỏm được đặt tên cho quảng trường Pasquino và" bức tượng biết nói" tại Rome, và ở Pháp trước cách mạng là "canards", hoặc các bản in rộng rãi đôi khi có cả một bản khắc để giúp thuyết phục độc giả nghiêm túc tin vào những câu chuyện hoang đường của họ.
Kích thước nhà để xe ô tô bao nhiêu là đủ? câu hỏi tưởng như chuyện rất nhỏ, nhưng thực tế đó là việc không hề nhỏ và dễ dàng không phải ai cũng biết. Việc sở hữu một ngôi nhà đẹp ưng ý đã khó việc lựa chọn kích thước gara để xe ô tô chuẩn để bảo quản tài sản và phương tiện của gia đình ăn khớp với khối kiến trúc ngôi nhà tạo được mối liên kết và giữ được nét thẩm mỹ cho ngôi nhà của mình. Sở hữu những chiếc xe máy là điều hết sức bình thường của nhiều gia đình, nhưng kích thước nhà để xe máy thì không chiếm nhiều diện tích cho lắm, nhiều gia đình còn sở hữu những chiếc xe ô tô hạng sang không chỉ 1 chiếc mà đến 2-3 chiếc. Vậy làm thế nào để bảo quản được tài sản và những chiếc “xế hộp” vô cùng đắt đỏ này!. kích thước nhà để xe ô tô là bao nhiêu? để đảm bảo cho sự sự an toàn của xế mà lại không bị xước xát va quệt. Những chiếc xe ô tô không chỉ là phương tiện đi lại để đưa đón con cái những lúc thời tiết mưa nắng hay là để đi về quê và đi du lịch cũng rất thuận tiện. Ngoài ra, phương tiện hay được mọi người đánh giá về mức độ kinh tế để đánh giá được đánh giá về mặt điều kiện kinh tế để đón con cái những lúc thời tiết mưa gió nắng nôi hay đi du lịch, về quê cũng rất thuận tiện. Một khách hàng ở Hà Nội có đặt câu hỏi kích thước nhà để xe ô tô như thế nào là hợp lý? cho công ty siêu thị nhà mẫu chúng tôi xin trả lời câu hỏi của bạn đọc như sau. Khi mà điều kiện nhà ở các khu đô thị chật hẹp, những nhà phân lô, cũng cần phải có sự tính toán, thiết kế gara ôtô sao cho hợp lý, đảm bảo an toàn, thuận tiện là điều cần thiết. Kích thước nhà để xe ô tô cần phải tính toán kỹ lưỡng phù hợp với được thiết kế ấn tượng đồng nghĩa với việc không gian gara đó được tận dụng hết. Tùy theo ý muốn của mỗi cá nhân, bạn cần xem xét thật kỹ lưỡng gara nhà mình trước khi bắt tay vào thiết kế các giá chứa đồ ở những không gian thừa. Cách thiết kế sẽ liên quan đến việc bạn quyết định xem mục đích dùng không gian còn thừa của gara để làm gì, làm phân xưởng mini sửa chữa ô tô, làm khu vực uống nước lúc rảnh rỗi, làm nơi tập luyện âm nhạc hay chỉ đơn thuần là làm nơi chứa những đồ đạc lâu ngày không dùng đến trong nhà. Diện tích của gara phụ thuộc kích thước nhà để xe ô tô p loại ô tô mà bạn đang sử dụng và số lượng xe của nó. Với xe bốn chỗ loại nhỏ, gara phải đảm bảo kích thước chiều dài từ 3,5m và chiều rộng 5m- 5,5m để thuận tiện cho việc để xe vào. Và ngoài ôtô ta còn tính đến xe máy vì mỗi gia đình thường kèm thêm sử dụng xe máy. Diện tích của một xe máy khoảng 1,5x2m, tùy số lượng xe máy cần để trong gara mà cộng thêm vào diện tích cần có để bố trí cho gara. Cửa của gara đảm bảo thấp nhất là 2m để không bị va chạm. Phụ thuộc vào kích thước và số lượng xe. Gara ôtô kích thước tối thiểu phải là 3m x 5m đối với xe 4 chỗ loại nhỏ, như xe New Morning, hoặc 3m x 5,5m đối với xe 4 chỗ thân dài như xe Honda Civic, Ford Focus. Tuy nhiên, vì một gara không chỉ để một ôtô, mà còn để thêm xe máy, xe đạp, hoặc có thể chứa thêm 2-3 ôtô, nên diện tích lớn hơn quy định tối thiểu kể trên thì sử dụng mới thuận tiện. Lựa chọn kích thước gara để xe ô tô phải ở lối ra vào chính của ngôi nhà. Lưu ý, đường đi của xe khi ra vào gara phải hạn chế uốn lượn hoặc độ cao của nền nhà xe không được dốc quá so với mặt đường, mặt ngõ hoặc cắt ngang lối đi bộ của ngôi nhà. Đối với nhà ở thành phố, nếu điều kiện chiều ngang và chiều sâu nhà không lớn, nên bố trí cửa gara mở trực tiếp với mặt phố, có được lối vào nhà riêng mà không phải đi qua gara là tốt nhất. Kích thước nhà để xe ô tô nhiều gia đình thiết kế gara để xe ở dưới tầng hầm, ở ngoài sân, hay nhà có mái hiên… đối với nhà để xe thường chỉ nên thiết kế đơn giản để giảm thiểu chi phí bằng cách: tường và trần trát phẳng, sử dụng loại sơn dễ lau chùi, chống bám bẩn, chống nóng. Sàn nhà để xe ô tô nên sử dụng vật liệu có khả năng chống mài mòn có nhám để chống trơn và đá xẻ tự nhiên dễ cọ rửa… có sẵn trên thị trường, thường mặt sàn sử dụng loại đá lát có độ cứng và chịu lực tốt. Nên thiết kế hệ thống cấp thoát nước trong để phục vụ cho việc rửa xe và cọ rửa sàn nhà. Điều này rất tiện lợi, cho dù bạn không có thói quen rửa xe ở nhà. Ngoài vòi nước, có thể bố trí thêm chậu rửa tay. Hệ thống thoát nước sàn tốt sẽ làm cho gara. -Với gara ôtô, bộ đồ nghề là những món đồ không thể thiếu. Các tủ đồ nghề cho gara được thiết kế các dạng treo, đẩy với bánh xe, tủ chuyên dụng nhiều ngăn kéo, nhưng cần phải tránh xa tầm với của trẻ em. –Kích thước nhà để xe ô tô phải cài hệ thống báo khói và báo cháy cũng khá quan trọng vì gara thường là nơi dễ cháy nổ. Không nên nổ máy xe khi cửa Gara vẫn đóng. -Nên thiết kế hệ thống cấp thoát nước trong gara để phục vụ cho việc rửa xe. Điều này rất tiện lợi mặc dù bạn không có thói quen rửa xe ở nhà. Ngoài vòi nước có thể bố trí thêm chậu rửa tay một hệ thống thoát nước sàn tốt sẽ làm cho gara của bạn luôn sạch sẽ và khô ráo. Xem thêm cách bố trí nhà để xe của mẫu nhà 3 tầng đơn giản. -Thiết kế nhà để xe ô tô tốt nhất nên sử dụng ánh sáng tự nhiên qua các cửa sổ và khe thoáng trên tường, hoặc cửa sổ mái. Nên sử dụng bóng đèn neon hoặc đèn compact để đủ sáng và tiết kiệm điện. Kích thước nhà để xe ô tô yếu tố thông gió trong gara là rất quan trọng. Ngoài cửa thông gió tự nhiên, nên bố trí thêm quạt thông gió để hút và làm bay mùi khói xe và mùi xăng dầu để đảm bảo sức khỏe cho các thành viên trong gia đình. -Không nên vứt đồ đạc lung tung trong gara và luôn nhớ để các vật dụng về vị trí cũ sau khi dùng. Dọn vệ sinh để vứt bỏ thứ hư hỏng và giữ cho gara để xe một cách sạch sẽ. Hơn nữa, kích thước nhà để xe ô tô bạn và gia đình nên cất giữ các dụng cụ, phụ tùng bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa. Bố trí và bảo vệ chúng bằng giá treo, thùng và hộp chứa không thấm nước. Với mỗi thùng, giá treo đồ, hộp hay cánh tủ bạn nên dán nhãn riêng và ghi chú rõ ràng các loại dụng cụ tránh nhầm lẫn hư hỏng đến xế cưng của mình. Nhìn chung để sở hữu được xe ô tô là các gia đình phải có điều kiện, nhưng không phải những ai chưa có xe ô tô lại không dự trù khả năng sau này sẽ mua xe thì vấn đề chọn kích thước nhà để xe ô tô sẽ là một thiếu sót. Nhà tôi đường vào phía trước rộng 3.6 sân rộng trung bình 1,5 h. hỏi xem công ty có đưa xe vào trong nhà được không.
Nhà để xe
Nhà để xe hay nơi để xe, hay còn gọi thông dụng là ga ra, ga-ra, hay garage, là một phần của một căn nhà hay một tòa nhà, hoặc được xây dựng, thiết kế bố trí hoặc tận dụng diện tích để sử dụng làm nơi giữ xe (xe cá nhân). Cần phân biệt thuật ngữ này với bãi đậu xe dùng để chỉ những sân bãi có diện tích lớn dùng để đáp ứng cho nhu cầu đậu xe, giữ xe với mục đích công cộng và có thể có thu phí. Những nhà ở Anh và ở Mỹ thường có một nhà để xe có một nhà để xe được xây dựng trong tòa nhà chính.
Các tên của Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant đã được chủ đề của cuộc tranh luận và tranh cãi kể từ năm 2013. Bản dịch theo nghĩa đen của tên trước đây của họ đã dẫn đến sự nhầm lẫn, dẫn đến cả ISIS và ISIL , hai từ viết tắt dựa trên các bản dịch nghĩa đen khác nhau của tên sang tiếng Anh . Ngoài ra, một từ viết tắt có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập, Daesh hoặc Daish hoặc Dāiš đã đạt được sức hút vượt xa các khu vực nói tiếng Ả Rập trên thế giới. Cuối cùng, tên hiện tại của nhóm đã gây ra tranh cãi do bản dịch tiếng Anh của nó là Nhà nước Hồi giáo (IS) và kết quả là cả hai từ viết tắt trước đây vẫn được sử dụng rộng rãi hoặc một định nghĩa thường được thêm vào tên IS, chẳng hạn như "tự phong Trạng thái Islāmic ”. Bắt nguồn từ Iraq, nhóm này đã trải qua nhiều lần thay đổi tên trước đó , và từ năm 2006 được gọi là Nhà nước Hồi giáo Iraq (ISI), một cái tên đã không đạt được bất kỳ lực kéo nào, vì nhóm đã không giành được hoặc nắm giữ bất kỳ lãnh thổ quan trọng nào như ISI, và do đó, sự nhầm lẫn phổ biến về những gì được gọi là chúng hầu như không có. Xung đột bắt đầu khi nhóm này giành được thêm lãnh thổ và đổi tên thành ad-Dawlah al-Islāmiyah fī l-ʿIrāq wa-sh-Shām vào tháng 4 năm 2013 khi mở rộng sang Syria. Sau đó, nó được đổi thành ad-Dawlah al-Islāmiyah vào tháng 6 năm 2014 như một phần của mong muốn thiết lập lại một caliphate . Cách hiển thị tên Ả Rập trong tiếng Anh khác nhau, do bản dịch không chính xác. Trong tiếng Ả Rập nó được gọi là Daesh có nghĩa là D dawlat = bang trong tiếng Anh, A hoặc I = Iraq, e = and, SH = al-Sham , một thuật ngữ chỉ một khu vực bao gồm Syria và Lebanon. Việc sử dụng song song cả ISIS và ISIL làm từ viết tắt bắt nguồn từ sự không chắc chắn trong cách dịch từ tiếng Ả Rập "ash-Shām" (hoặc "al-Sham") trong tên tháng 4 năm 2013 của nhóm, có thể được dịch khác nhau là " Levant " , " Greater Syria ", " Syria " hoặc thậm chí " Damascus ". Điều này dẫn đến các bản dịch được sử dụng rộng rãi của "Nhà nước Hồi giáo ở Iraq và Levant", "Nhà nước Hồi giáo ở Iraq và Syria" hoặc "Nhà nước Hồi giáo ở Iraq và al-Sham". ". Theo BBC, vì cả "Levant" và "Syria" đều không phản ánh ý nghĩa có thể có của từ al-Sham trong tiếng Ả Rập của nhóm, "các chuyên gia khác nhau đã nói rằng không nên dịch từ al-Sham" (khi kết xuất tên dạng dài). Theo nhà báo người Mỹ gốc Syria Hassan Hassan , nếu thuật ngữ Levant là ý nghĩa dự định, từ tiếng Ả Rập sẽ là "Bilad al-Sham", trong khi ý nghĩa nhiều khả năng của Greater Syria vẫn dẫn đến từ viết tắt ISIS. Trái ngược với những khó khăn trong việc dịch tên cũ của nhóm, theo The Guardian , tên năm 2014 của nhóm "gần đủ" dịch theo nghĩa đen là "Nhà nước Hồi giáo", tuy nhiên vẫn còn một khó khăn còn lại vì điều này không nắm bắt được ý nghĩa thực sự của tiếng Ả Rập, gần với khái niệm tôn giáo về một cộng đồng Hồi giáo thống nhất ( ummah ) theo luật Sharia , trái ngược với khái niệm phương Tây về bộ máy nhà nước quan liêu. Phản ánh mong muốn xây dựng một caliphate, nhóm cũng tự gọi mình là "al-Dawlah", có nghĩa đơn giản là "Nhà nước". Những người Syria sống dưới sự kiểm soát của nhóm gọi họ là "al-tanẓīm", tiếng Ả Rập có nghĩa là "tổ chức". Phản ánh nguồn gốc của nhóm là một nhóm phản bội, những người ủng hộ Al-Qāidah gọi nhóm đơn giản là "nhóm của al-Baġdādī". Trong khi "Daesh" không có nghĩa nào khác trong tiếng Ả Rập, nó rất giống với từ دعس ( Daes ) trong tiếng Ả Rập , có nghĩa là "kẻ đè bẹp (hoặc giẫm nát) thứ gì đó dưới chân". Nó cũng giống từ tiếng Ả Rập داحس ( Dāhis ), khởi đầu của داحس والغبراء ( Dāhis wal-Ghabrā , hoặc "Felon và bụi"), dùng để chỉ khái niệm Hồi giáo về Jahiliyyah và có thể là được dịch một cách lỏng lẻo là "kẻ gieo rắc mối bất hòa". Cả hai từ rõ ràng đều mang hàm ý tiêu cực trong văn hóa Ả Rập, làm suy yếu tuyên bố của nhóm về việc đã hồi sinh Caliphate, dẫn đến việc nhóm phản đối nó như một cái tên đáng ghét . Một lý do khác cho sự phản đối là sự hiếm hoi của các từ viết tắt trong tiếng Ả Rập, đặc biệt là những từ không có nghĩa. Ví dụ: "Liên hợp quốc" luôn được dịch trực tiếp bằng tiếng Ả Rập, không có từ viết tắt tương đương "UN". " Fatah " và " Hamas " là từ viết tắt nhưng chúng cũng là những từ tiếng Ả Rập theo đúng nghĩa của chúng (có nghĩa tương ứng là "Conquest" và "Zeal"). Tuy nhiên, "Daesh" không chỉ là một từ viết tắt mà còn vô nghĩa về mặt ngữ âm trong tiếng Ả Rập, làm giảm tính hợp pháp của tên và bằng cách mở rộng nhóm mà nó thuộc về. Tuy nhiên, theo đại sứ Anh tại Iraq phát biểu vào tháng 1 năm 2015, Daesh đã trở thành một từ tiếng Ả Rập theo đúng nghĩa của nó, với số nhiều - dawaish ( دواعش ) - có nghĩa là "những kẻ cố chấp áp đặt quan điểm của họ lên người khác". Đến cuối năm, thuật ngữ số nhiều được sử dụng rộng rãi ở Trung Đông. Theo báo cáo của Associate Press , người dân Mosul ở Iraq đã nói với điều kiện giấu tên, bản thân nhóm này chỉ muốn được gọi bằng tên đầy đủ của mình, Nhà nước Hồi giáo, coi từ viết tắt Daesh là thiếu tôn trọng, đi xa hơn là đe dọa cắt lưỡi của bất kỳ ai sử dụng nó ở nơi công cộng. Theo The Week , các chuyên gia cho rằng mục đích chính của nhóm là đảm bảo việc sử dụng duy nhất những cái tên ngụ ý nhà nước và đức tin Hồi giáo, cho mục đích tuyên truyền . Theo chỉ huy người Mỹ của phái bộ Mỹ tại Iraq và Syria, Trung tướng James L. Terry , các đối tác của liên quân Ả Rập tin tưởng mạnh mẽ rằng Mỹ nên tránh gọi kẻ thù là ISIL và thay vào đó sử dụng Daesh, để tránh mang lại tính hợp pháp. mục tiêu của nhóm. Hầu hết các cửa hàng tiếng Anh ban đầu sử dụng ISIS, trong khi việc sử dụng ISIL sau đó đã tăng lên. Việc sử dụng ISIS đặc biệt phổ biến hơn ISIL trên các phương tiện truyền thông của Anh. Có ý kiến cho rằng ISIS đã được giữ lại đơn giản vì nó cuốn theo lưỡi của những người nói tiếng Anh, những người quen thuộc với nó thông qua nghĩa khác của nó là tên của một nữ thần Ai Cập . Việc nhóm này sử dụng tên Nhà nước Hồi giáo đã dẫn đến tranh cãi do suy luận rằng nó đại diện cho đức tin Hồi giáo hoặc là một quốc gia có chủ quyền , dẫn đến việc các cửa hàng chọn giữ lại các từ viết tắt ISIS hoặc ISIL, hoặc sử dụng các định nghĩa cho tên mới. Bất chấp sự phản đối, việc sử dụng tên gọi Nhà nước Hồi giáo ưa thích của nhóm mà không có đủ điều kiện cũng đã lan rộng. Các Liên Hiệp Quốc thường dùng để chỉ nhóm như ISIL. Cựu Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon cũng đã sử dụng "Phi-Nhà nước Hồi giáo". Chính phủ của các quốc gia Ả Rập ban đầu đã chấp nhận Daesh và đã tiếp tục sử dụng nó thay vì IS. Cách tiếp cận của chính phủ Israel cũng giống như các quốc gia Ả Rập. Các chính phủ Anh ban đầu sử dụng ISIL, nhưng thông qua Daesh trên 02 tháng 12 năm 2015. Các chính phủ Pháp đã thông qua Daech (phiên âm tiếng Pháp của Daesh ) so với tên Pháp trước đó, EIIL (LEtat islamique en Irak et au Levant), trong đó nêu tên khác "làm mờ ranh giới giữa Hồi giáo, người Hồi giáo và người Hồi giáo" . Các chính phủ Úc dưới thời Thủ tướng Tony Abbott đã thông qua Daesh vào tháng giêng năm 2015. Các chính phủ Hoa Kỳ được Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIL) như tên gọi chính của nhóm, hãy tin "Levant" là bản dịch chính xác hơn. Điều này nhằm tách nhóm khỏi Mặt trận al-Nusrah (ANF), do sự rạn nứt giữa hai nhóm. Tuy nhiên, cách sử dụng không nhất quán, với ISIS, ISIL, Nhà nước Hồi giáo và Daesh đều được sử dụng khác nhau, cả trong nước và nước ngoài, với thuật ngữ chính xác được chọn dựa trên đối tượng, nhận thấy sự cần thiết phải nhất quán và công chúng Mỹ đã quen thuộc hơn với ISIL, đồng thời phục vụ các đối tác gắn bó hơn với Daesh. Vào tháng 2 năm 2017, Lầu Năm Góc đã thông qua tên viết tắt ISIS khi đề cập đến nhóm. Một phát ngôn viên của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Canada nói với Power & Politics vào tháng 12 năm 2014, "Cho dù được gọi là Daesh, ISIL hay ISIS, Canada và liên minh đều đồng ý rằng nhóm khủng bố tàn ác này là mối đe dọa đối với khu vực và toàn thế giới. là lý do tại sao Canada đã công bố một số biện pháp được thiết kế để chống lại sự tàn bạo của ISIL và giúp đỡ các nạn nhân của nhóm khủng bố man rợ này. ". Các hãng thông tấn AP ban đầu chọn sử dụng ISIL, tin Levant là bản dịch chính xác nhất. Sau khi đổi tên thành IS, nó đã chuyển sang đề cập đến "nhóm Nhà nước Hồi giáo". Hướng dẫn của AP được nhiều tổ chức truyền thông sử dụng. Ban đầu, BBC News chọn gọi nó là "nhóm Nhà nước Hồi giáo", "cái gọi là Nhà nước Hồi giáo", hoặc "Nhà nước Hồi giáo tự phong", rút gọn nó thành IS trong những lần đề cập sau đó. Đối mặt với những lời chỉ trích từ các chính trị gia, nó đã đứng trước quyết định, cho rằng Daesh là đáng khinh và rằng cách tiếp cận của nó là cần thiết để duy trì sự công bằng. NPR sử dụng "Nhà nước Hồi giáo" với việc sử dụng tùy chọn các vòng loại trong trường hợp đầu tiên, sau đó là ISIS. USA Today "xác định nhóm này là Nhà nước Hồi giáo, nhóm chiến binh Nhà nước Hồi giáo, hoặc nhóm cực đoan Nhà nước Hồi giáo.". New York Times sử dụng "Nhà nước Hồi giáo", chọn giải thích nó theo ngữ cảnh. The Guardian , và tờ báo chị em của nó là The Observer , sử dụng "Nhà nước Hồi giáo" lúc đầu được đề cập và "ISIS" sau đó. (Nó không viết hoa từ viết tắt). Nó chọn "ISIS" thay vì "ISIL" như thông thường trên các phương tiện truyền thông Anh. Vào tháng 9 năm 2014, họ đang xem xét chuyển sang "IS", nhưng đến tháng 4 năm 2016 đã không làm như vậy, mà thay vào đó sử dụng ISIS. Sau khi đổi tên, ban đầu nó chuyển thành "Nhà nước Hồi giáo (ISIS)", và sau đó là IS. Các hãng thông tấn của Iran như Press TV thuộc sở hữu nhà nước sử dụng tên "Daesh Takfiri" (xem Iran và ISIL ). Financial Times đã chọn gắn bó với ISIS ngay cả sau khi nhóm đổi tên. Một số tờ báo do Metro International xuất bản, chẳng hạn như ấn bản Toronto lấy nguồn từ Toronto Star sử dụng "Daesh". Nhiều tờ báo, chẳng hạn như The Age sử dụng thành ngữ "cái gọi là Nhà nước Hồi giáo". Một số nhà bình luận trên các phương tiện truyền thông đã gợi ý rằng cuộc tranh luận về cái gì gọi là nhóm là rất ít quan trọng so với sự cần thiết phải thực sự ngăn chặn chúng. Viết cho The Washington Post , Amanda Bennett đưa cuộc tranh luận về ý nghĩa của các từ ít hơn, nhưng những gì họ truyền đạt, trái ngược với mong muốn của chính trị gia là để nhóm được nhìn nhận dưới góc độ tiêu cực, với truyền thống trong giới báo chí và học thuật là sử dụng các tổ chức được ưu tiên riêng. tên, kèm theo giải thích nếu có sự nhầm lẫn hoặc mâu thuẫn với các nghĩa khác. Viết trên tờ The Independent , trợ lý tổng thư ký của Hội đồng Hồi giáo Anh, Miqdaad Versi , lập luận rằng daesh thích hợp hơn để cho phép nhóm có thể sử dụng tên ưa thích của mình, chỉ ra rằng có nhiều mâu thuẫn khác nhau trong việc lựa chọn của BBC và các kênh truyền thông khác. để dịch tên của các nhóm khác và chỉ ra rằng Boko Haram cũng là một cái tên không chính thức. Về vấn đề truyền thống báo chí sử dụng những cái tên dễ nhận biết, Stephen Pritchard của The Guardian đã chuyển lời rằng bài báo của họ không thành công khi ban đầu họ sử dụng "The Brotherhood", bản dịch thô tiếng Anh để chỉ nhóm Al-Qaeda ít được biết đến trong sự bùng nổ của các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 , trước khi nhanh chóng loại bỏ nó vì tên tiếng Ả Rập đã đạt được sức hút, mặc dù nó là thương hiệu được họ chọn.
Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant
Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (tiếng Ả Rập: الدولة الإسلامية في العراق والشام‎, chuyển tự: ad-Dawlah al-Islāmiyah fī l-ʿIrāq wa-sh-Shām, viết tắt: Da ish hoặc Daesh, viết tắt theo tiếng Anh: ISIL); còn được biết đến với tên gọi Nhà nước Hồi giáo Iraq và Syria (ISIS) hay Nhà nước Hồi giáo (IS) – là một nhóm chiến binh Jihad, gồm các tay súng Hồi giáo cực đoan dòng Sunni cầm đầu các hoạt động không được công nhận ở Iraq và Syria. Trong tình trạng tự xưng và không được công nhận là một nhà nước độc lập, tổ chức này tuyên bố lãnh thổ của chúng bao gồm Iraq và Syria, với dự định tuyên bố lãnh thổ trong tương lai bao trùm cả khu vực Levant – tức cả Liban, Israel, Jordan, Syria, Síp và nam Thổ Nhĩ Kỳ. Tổ chức này tự xưng là Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIL) vào ngày 29 tháng 6 năm 2014 đã tuyên bố thành lập một Khalifah (nhà nước Hồi giáo) trên lãnh thổ chiếm đóng của mình, Người lãnh đạo Abu Bakr al-Baghdadi tự cho mình là một Khalip. Tuy nhiên ở các nước Hồi giáo khác, tổ chức này hầu như không được chấp nhận là một Nhà nước có chủ quyền.
Định mệnh anh yêu em (Tiếng Anh: Fated to love you; chữ Hán phồn thể:命中註定我愛你; chứ Hán giản thể: 命中注定我爱你; Bính âm: Mìngzhòng zhùdìng wǒ ài nǐ; Hán Việt: Mệnh trung chú định ngã ái nhĩ) còn được gọi là Đêm định mệnh là một bộ phim hài lãng mạn Đài Loan với sự tham gia của diễn viên Trần Kiều Ân và Nguyễn Kinh Thiên, phát sóng lần đầu vào ngày 16 tháng 3 năm 2008. Kể từ khi phát sóng, liên tục đạt được xếp hạng tốt, chính thức phá vỡ sự xếp hạng của phim giữ kỉ lục trước đó “Hoàng tử Ếch” từ tập 11, với điểm 8,13. Ở Việt Nam, bộ phim được phát sóng rộng rãi trên toàn lãnh thổ với tên gọi “Định mệnh anh yêu em” hay “Đêm Định Mệnh“. Do sự thành công của bộ phim này, bộ phim tính đến hiện nay đã được quốc gia là Hàn Quốc, Thái Lan và Trung Quốc được mua bản quyền để chuyển thể. Năm 2014, bộ phim làm lại phiên bản Hàn Quốc với sự tham gia của Jang Na-ra & Jang Hyuk, cặp đôi này tái ngộ sau phim cơn sốt Cô gái thông minh năm 2002. Bộ phim đã đạt thỏa thuận bản quyền bán sang Trung Quốc với số tiền là 120.000 USD (~2,56 tỉ đồng) cho mỗi tập. Mặc dù tập đầu rating còn thấp nhưng sau đó đã được cải thiện, vì vậy bộ phim đã chạm mức rating cao nhất là 14,7%. Ngoài ra bộ phim còn đạt được nhiều giải thưởng và đề cử danh giá như:. Năm 2016, phiên bản Thái Lan chuyển thể lại phim này với tên khác là “You’re destiny” (Em là định mệnh của anh) với sự tham gia của Esther Supreeleela & Sukrit Wisedkaew trên kênh One 31, phim phát sóng từ ngày 04/09/2017, bộ phim đạt được nhiều phản hồi tích cực cũng như thu hút các khán giả trên các diễn đàn, cộng đồng mạng đặc biệt là Trung Quốc và Việt Nam. Năm 2020, bộ phim được làm lại bằng phiên bản Trung Quốc với tên gọi là “Em là định mệnh của anh” (你是我的命中注定), hai nhân vật chính thủ vai bởi Lương Khiết & Hình Chiêu Lâm trên nền tảng mạng xã hội Tencent Video (We TV – 腾讯视频).
Định mệnh anh yêu em
Định mệnh anh yêu em (Tiếng Anh: Fated to Love You; chữ Hán phồn thể:命中註定我愛你; chứ Hán giản thể: 命中注定我爱你; Bính âm: Mìngzhòng zhùdìng wǒ ài nǐ; Hán Việt: Mệnh trung chú định ngã ái nhĩ) hay còn được gọi là Đêm định mệnh là một bộ phim hài lãng mạn Đài Loan với sự tham gia của diễn viên Trần Kiều Ân và Nguyễn Kinh Thiên, phát sóng lần đầu vào ngày 16 tháng 3 năm 2008. Kể từ khi phát sóng, liên tục đạt được xếp hạng tốt, chính thức phá vỡ sự xếp hạng của phim giữ kỉ lục trước đó "Hoàng tử Ếch" từ tập 11, với điểm 8,13. Do sự thành công của bộ phim này, bộ phim tính đến hiện nay đã được 4 quốc gia là Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản và Trung Quốc được mua bản quyền để chuyển thể. Định Mệnh Anh Yêu Em xoay quanh chuyện tình yêu giữa Trần Hân Di và Kỷ Tồn Hy với những tình tiết dở khóc dở cười nhưng cũng không ké với những tình tiết dở khóc dở cười nhưng cũng không kém phần cảm động. Nếu như cô nàng Hân Di là một cô gái trong sáng, chất phát và bình dị thì anh chàng Kỷ Tồn Hy lại là một chàng công tử đào hoa.
Đây là loại thiết bị lưu trữ dạng đĩa với chất liệu Polyvinyl clorua, một chất liệu còn được gọi là sơn cánh kiến. Đĩa than là kiểu hình thức đồng bộ các tín hiệu âm thanh để lưu trữ và được ghi theo từng rãnh vòng tròn dập nổi không giống nhau trên bề mặt đĩa. Thông thường đĩa than được người ta phân loại theo bán kính của đĩa, đo bằng inch. Ví dụ đĩa 12”,7”, 10”… Ngoài ra, đĩa còn được phân loại theo chất lượng của âm thanh hay số lượng kênh âm thanh hoặc tốc độ quay…. Đĩa than chính là một phát minh vĩ đại của công nghệ lưu trữ âm thanh còn được sử dụng phổ biến đến cuối thế 20. Ngày nay những quán café cổ điển nếu bạn biết cách tìm có thể bắt gặp những căn phòng nghe nhạc cổ điển bằng đĩa than và loa đồng, đem lại cảnh quan và âm than rất thực của những năm thế kỷ 19, 20. Đến khi đĩa CD ra đời đã khiến cho đĩa than hạn chế xuất hiện hơn từ những năm 1991. Nhưng những năm đầu của thế kỷ 21 người ta vẫn có nhu cầu rất lớn trong sử dụng đĩa than, vì thế mà 3.5 triệu đĩa đã được mua tại Mỹ những năm 2009, con số khá ấn tượng. Đĩa than thông thường được sử dụng cho các DJ và các đài phát thanh. Nếu một người thực sự biết thưởng thức âm nhạc thì sẽ không thể quên được chất lượng âm thanh khi nghe nhạc từ loại đĩa này. Lấy đĩa ra khỏi vỏ sau đó nhẹ nhàng đặt lên bàn máy quay, gạt kim chạm trên đĩa rồi từng giai điệu bắt đầu vang lên, thư giãn, giản dị. Nghe nhạc trên đĩa than quả thực đã chạm vào trái tim rất nhiều tín đồ âm nhạc cổ điển. Đĩa than hoàn toàn không hề độc hại và khi cho vào máy phát nhạc, kim đọc sẽ chạm vào đĩa va vào các rãnh trên bề mặt đĩa phát ra âm thanh. Chính vì những cầu kỳ trong cách nghe nhạc này đã hút hồn biết bao nhiêu người không chỉ quá khứ mà còn hiện tại. Đĩa than là một dạng đĩa lưu trữ âm thanh đem lại chất lượng âm thanh khi phát nhạc rất tốt, chính vì thế mà các bạn trẻ hiện nay đam mê âm nhạc rất quan tâm tới loại đĩa này. Những quán cafe cổ điển hiện nay đã tận dụng khá tốt việc này khi đem đến những khúc nhạc đĩa than cho khách hàng thưởng thức.
Đĩa than
Đĩa than (tiếng Anh là gramophone, phonograph, vinyl, thậm chí còn được gọi tắt là record) là một hình thức đồng bộ tín hiệu âm thanh vào lưu trữ dạng đĩa chất liệu Polyvinyl chloride (trước đây là sơn cánh kiến) và được ghi theo từng rãnh với độ dập nổi khác nhau. Các đường rãnh được đọc từ vòng lớn nhất cho tới tâm của chiếc đĩa. Đĩa than thường được phân loại theo đường kính, đo bằng đơn vị inch (12", 10", 7"), tốc độ quay (16⅔, 33⅓, 45, 78 vòng/phút) và độ dài tương ứng dung lượng (LP – long playing 33⅓ vòng/phút, SP – 78 vòng/phút, EP – 12" đĩa đơn hoặc extended play, 33 hoặc 45 vòng/phút); ngoài ra còn theo chất lượng âm thanh (high-fidelity, orthophonic, full-range, v.v.) và số lượng kênh âm thanh (mono, stereo, quad, v.v.). Đĩa than là lưu trữ âm thanh chính yếu cho tới tận cuối của thế kỷ 20, thay thế cho lưu trữ âm thanh dạng ống kể từ những năm 1920. Cho tới thập niên 1980, lưu trữ kỹ thuật số, đặc biệt với sự ra đời của CD, chiếm ưu thế trên thị trường, và đĩa than bớt xuất hiện kể từ năm 1991.
Ngày Quốc tế Lao động được xem là ngày tưởng niệm phong trào của người lao động trên toàn thế giới vào thế kỷ XIX. Tại Việt Nam, nó cũng được sử dụng để đánh dấu sự hình thành của bước trổi dậy của những người lao động thông qua những cuộc biểu dương lực lượng của giới lao động do các tổ chức công đoàn ở nhiều thành thị tổ chức. Tuy nhiên, hiện nay nhiều người không còn quan tâm đến ý nghĩa sâu xa của ngày lễ ấy mà chỉ xem đó là một ngày nghỉ việc cần phải có hàng năm. Họ có thể không tham dự bất cứ sự kiện nào do các tổ chức công đoàn tổ chức, chỉ dành thời gian trong ngày lễ này để nghỉ ngơi tại nhà hay du ngoạn đây đó. Tổ chức ăn uống ở gia đình, đi dạo hay cắm trại ngoài trời, đi mua sắm trở thành những cách đón mừng phổ biến trong ngày lễ này. Năm 1886, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago, Đại hội Liên đoàn Lao động Mỹ thông qua nghị quyết nêu rõ: “…Từ ngày 1/5/1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ”. Sở dĩ ngày 1/5 được chọn bởi đây là ngày bắt đầu một năm kế toán tại hầu hết các nhà máy, xí nghiệp ở Mỹ. Vào ngày này, hợp đồng mới giữa thợ và chủ sẽ được ký. Giới chủ tư bản có thể biết trước quyết định của công nhân mà không thể kiếm cớ chối từ. Ngày 1/5/1886, do yêu cầu của công nhân không được đáp ứng một cách đầy đủ, giới công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago. Khoảng 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức mit-tinh, biểu tình trên thành phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!” Cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia. Ngày 1/5 được xem là ngày mừng thắng lợi đã đạt được, nêu quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ mới và biểu lộ tình đoàn kết với những người lao động các nước khác. Ngày 1/5 cũng là ngày biểu dương cho lực lượng lao động, đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội. Ngày nay, Ngày Quốc tế Lao động 1/5 là ngày hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta, ngày đoàn kết giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Xin chào các bạn! Tôi là Nguyễn Dung sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Tôi rất thích sưu tầm những sản phẩm hữu ích như: Lịch âm dương, Lịch Vạn Niên, Ngày nghỉ lễ, Ngày kỉ niệm, Xem bói, Xem tử vi, Giải mã giấc mơ. Ngày Thương binh liệt sĩ (27/7) là một ngày lễ kỉ niệm được tổ chức hàng năm nhằm tri ân công lao của những người thương binh, liệt sĩ trong cuộc chiến giành độc lập, bảo vệ tổ quốc. Là một biểu hiện của truyền thống uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa qua đó tuyên truyền, giáo dục
Ngày Quốc tế Lao động
Ngày Quốc tế Lao động hay ngày 1 tháng 5 là ngày lễ kỷ niệm của phong trào công nhân quốc tế và của người lao động vào ngày 1 tháng 5 hằng năm, tại nhiều quốc gia trên thế giới, thường có các cuộc biểu tình trên đường phố của hàng triệu người lao động và các tổ chức công đoàn của họ. Vào ngày này, các phong trào cộng sản, cánh tả, các tổ chức theo chủ nghĩa vô chính phủ cùng với các công đoàn liên minh thực hiện các cuộc tuần hành trên đường phố, yêu cầu mở rộng các quyền lao động và an sinh xã hội. Năm 1886, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago, Đại hội Liên đoàn Lao động Mỹ thông qua nghị quyết nêu rõ: ".Từ ngày 1/5/1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ". Sở dĩ ngày 1/5 được chọn bởi đây là ngày bắt đầu một năm kế toán tại hầu hết các nhà máy, xí nghiệp ở Mỹ. Vào ngày này, hợp đồng mới giữa thợ và chủ sẽ được ký. Giới chủ tư bản có thể biết trước quyết định của công nhân mà không thể kiếm cớ chối từ.
Những khoản đầu tư lớn của Trung Quốc vào châu Phi, hay còn gọi là ‘ngoại giao bẫy nợ’, đã khiến Trung Quốc nắm giữ một vai trò quan trọng ở châu Phi. Theo Đại học Johns Hopkins của Mỹ, 20 năm qua, Trung Quốc đã cho các quốc gia và công ty châu Phi vay khoảng 150 tỷ USD. Các khoản cho vay đã có động lực sau kế hoạch đầu tư ào ạt vào cơ sở hạ tầng ở nước ngoài của Trung Quốc đưa ra vào năm 2013 theo dự án Con đường tơ lụa mới. Sau đó, các khoản vay được cho là đã bắt đầu chậm lại cách đây 3 năm khi giá cả hàng hóa giảm và tiếp tục giảm trong thời gian đại dịch Covid-19. James Barnett, nhà nghiên cứu tại Viện Hudson ở Washington, cho biết mặc dù các khoản vay không tăng nhanh nữa nhưng nhiều nước đã vay “nhiều đến mức thành vấn đề”. Các số liệu dựa trên hồ sơ tổng hợp từ tổ chức Jubilee Debt của Anh, theo đó, Trung Quốc chiếm từ 18 đến 24% các khoản tín dụng cho châu Phi trong giai đoạn 2006-2017, ngang bằng với tổng mức cho vay của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), ở mức 20%. Theo Harvard Business Review, năm cao điểm nhất 2016, Trung Quốc chiếm gần nửa tổng số các khoản vay mà các nước châu Phi tiếp nhận. Con số này thậm chí có thể cao hơn, vì có tới 50% các khoản cho vay của Trung Quốc dành cho các nước đang phát triển không được báo cáo. Zambia đã tạm ngừng thanh toán các khoản vay của mình trong hai tuần, trong khi Kenya ngày 23/11 đã yêu cầu IMF hỗ trợ. Angola và Ethiopia cùng các nước khác gặp khó khăn với các khoản vay, trong đó Trung Quốc nắm giữ một phần lớn. Ông James Barnett nhận định, châu Phi nợ Trung Quốc ban đầu không phải do Trung Quốc cho vay mạnh tay, mà là do châu Phi gặp khó khăn trong việc vay vốn quốc tế mà nguyên nhân là do Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) không ưu tiên châu Phi như cách Trung Quốc làm. "Bạn có thể nói về ngoại giao bẫy nợ nhưng không sẵn sàng đặt tiền lên bàn. Nó đẩy châu Phi thậm chí gần hơn với Trung Quốc", ông James Barnett nhấn mạnh. Các khoản vay lớn của Trung Quốc đã giúp những gã khổng lồ như Huawei và ZTE có vị trí thống trị ở châu Phi. Với việc nâng cấp mạng di động của châu Phi lên 5G, ZTE đang dẫn đầu với mức giá rất cạnh tranh. Có một mối lo ngại có thể xảy ra là các mạng này sẽ mở cửa hậu, những con ngựa thành Troy, cho Trung Quốc. Barnett chỉ rõ, Luật An ninh mạng của Trung Quốc từ năm 2017 buộc các công ty phải tiết lộ thông tin. Có những đồn đoán nghi ngờ rằng Huawei đã giúp chính phủ Uganda do thám phe đối lập chính trị. Trung Quốc cũng đã xây dựng một căn cứ quân sự ở Djibouti, một quốc gia nhỏ trên Biển Đỏ có hơn 2/3 các khoản vay là của Trung Quốc. Theo ông James Barnett, Trung Quốc muốn bảo vệ lợi ích của mình ở châu Phi bởi có ít nhất 2 triệu người Trung Quốc sống trên lục địa này. Tuy nhiên, các khoản đầu tư có thể khiến Bắc Kinh càng dễ bị nghi hoặc hơn. Trong khi đó, EU và Mỹ muốn làm chậm lại sự ảnh hưởng của Trung Quốc tại châu Phi. Ông James Barnett cho biết: "Chính quyền Tổng thống Trump đã nói về việc hỗ trợ hàng tỷ USD để ngăn chặn bước tiến của Huawei và ZTE ở các nước đang phát triển. Mỹ không có công ty mạng riêng nhưng đang cố gắng kêu gọi các nước châu Phi chuyển sang Ericsson và Nokia". Tuy nhiên, Trung Quốc đã nhanh chân có một khởi đầu thuận lợi trong lĩnh vực này. Ước tính, Bắc Kinh đã bán được 65% tổng số điện thoại di động ở châu Phi, trong khi Huawei thống trị cả mạng di động và băng thông rộng di động. Vài tỷ USD là không đủ để ngăn cản bước tiến của Trung Quốc. Nếu các công ty phương Tây muốn vào châu Phi, họ phải chuẩn bị làm việc lâu dài. Vẫn theo ông James Barnett, châu Phi là một trong những nền kinh tế đang phát triển nhanh trên thế giới. Về mặt nhân khẩu học, châu lục này ước tính sẽ có 2 tỷ dân vào năm 2050. Đó là một dân số trẻ với nhu cầu ngày càng tăng của mạng lưới và bí quyết công nghệ. Chuyên gia về châu Phi Peter Stein lý giải cho đối tác thương mại song phương lớn nhất châu Phi của Trung Quốc rằng: "Phần lớn có lẽ là do loại hàng hóa và dịch vụ mà Trung Quốc chào mời đáp ứng tốt hơn, nhất là về giá cả so với chào mời của châu Âu và Mỹ.". Về sức mạnh của Huawei, ông Peter Stein nói rằng, có những sản phẩm có giá trị tốt và là cơ hội tuyệt vời để chào mời khách hàng châu Phi những cơ hội tài chính tốt với sự hỗ trợ của chính phủ Trung Quốc đằng sau. Ông Peter Stein tin rằng các khoản đầu tư lớn của Trung Quốc vào châu Phi không hẳn là tiêu cực. Trên phương diện lợi ích, ông Peter Stein phân tích: "Tất nhiên, Trung Quốc có thể thực hiện hành vi tống tiền chính trị sau khi xây dựng cảng và sân bay nhưng tôi không thấy họ đã làm như vậy. Các khoản vay làm cho một số quốc gia bị tổn thương nhưng khi họ gặp vấn đề, Trung Quốc đã nới hạn dài hơn và tự do phân bổ". Ông Peter Stein tin rằng Trung Quốc cũng đang tìm kiếm một đồng minh chính trị trong quan hệ quốc tế, khi quan hệ với các nước láng giềng ngày càng trở nên phức tạp. Trung Quốc cũng đã thuyết phục tất cả các nước châu Phi ngoại trừ vương quốc nhỏ Eswatini ở miền nam châu Phi chấm dứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan.
Ngoại giao bẫy nợ
Ngoại giao bẫy nợ là một thuật ngữ được sử dụng như lời chỉ trích chính sách ngoại giao của chính phủ Trung Quốc. Những lời chỉ trích tuyên bố Trung Quốc cố tình mở rộng tín dụng quá mức cho một quốc gia con nợ khác với ý định lấy lại bằng các nhượng bộ kinh tế hoặc chính trị từ quốc gia con nợ khi họ không thể thực hiện nghĩa vụ nợ của mình (thường là cho vay dựa trên tài sản, với tài sản bao gồm cả cơ sở hạ tầng). Các điều kiện của các khoản vay thường không được công khai và tiền vay thường được sử dụng để trả cho các nhà thầu từ quốc gia chủ nợ. Thuật ngữ ngoại giao bẫy nợ được đặt ra sau khi đầu tư nước ngoài của Trung Quốc gia tăng ở các nước khác. Gần đây các nhà phân tích trên các phương tiện truyền thông tiếng Anh thường tham khảo thuật ngữ liên quan đến chính sách đối ngoại của Trung Quốc, đặc biệt là dưới thời ông Tập Cận Bình, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc kể từ năm 2012. Tập đã mở rộng viện trợ nước ngoài của Trung Quốc, đầu tư cơ sở hạ tầng, tham gia vào lĩnh vực năng lượng và kết nối với nhau.
Không bao lâu sau phát minh của Roentgen về các tia mang tên của chính ông, vào năm 1896 Becquerel đã tìm ra hiện tượng phóng xạ tự nhiên khi quan sát thấy muối uran và những hợp chất của nó có sức đâm xuyên khá mạnh và tính phát ra những tia không nhìn thấy được. Vào năm 1902 Curie tìm ra đồng vị phóng xạ Radium. Năm 1932 người ta xác nhận sự tồn tại của neutron và nhận ra rằng khi dùng neutrron bắn phá các hạt nhân khác thì sẽ thu được các hạt nhân phóng xạ mới. Vậy hiện tượng phóng xạ là gì? Hiện tượng hạt nhân nguyên tử biến đổi để từ đó trở thành một hạt nhân nguyên tử khác hoặc ở trong một trạng thái năng lượng khác gọi là hiện tượng phóng xạ. Trong quá trình biến đổi đó nếu hạt nhân phát ra những tia có năng lượng lớn thì gọi là các tia phóng xạ hay còn gọi là bức xạ hạt nhân. Phóng xạ là hiện tượng hạt nhân tự phóng ra những bức xạ gọi là tia phóng xạ và biến đổi thành các hạt nhân khác. Phóng xạ có khả năng phá hủy cơ thể rất mạnh ở cấp độ tế bào, nó sẽ làm hư hại phân tử AND. Các tế bào có AND nếu bị hư hại thì sẽ chết đi hoặc diễn ra quá trình sửa chữa. Khi đó trong quá trình sửa chữa tự nhiên cũng có thể xảy ra những sai lầm, điều đó dẫn đến sự hình thành của các tế bào ung thư. Ở các cấp độ khác nhau thì cơ thể của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng khác nhau, dù ít hay nhiều. Mức độ tác hại phụ thuộc phần lớn vào thời gian tiếp xúc và cường độ của phóng xạ. Khi con người bị tác động bởi các bức xạ ion ở mức thấp thì việc gây tác hại không thể nhận biết ngay được. Chính vì vậy mà phải sau một thời gian chứng bệnh mới biểu hiện. Tuy nhiên nếu chiếu lên cơ thể một liều lượng quá lớn so với mức giới hạn tối đa cho phép thì chỉ khoảng sau 7 – 10 ngày thì tình hình bệnh trạng đã xuất hiện rõ. Đối với những người thường xuyên tiếp xúc với các bức xạ ion thì nguy hiểm nhất là dẫn đến ung thư. Đối với tuyến giáp: Có thể gây ra bệnh cường giáp, ung thư tuyến giáp. Huyết học và miễn dịch: Số lượng tế bào lympho của máu sẽ giảm đi, từ đó cơ thể sẽ dễ bị nhiễm trùng hơn. Thần kinh: Bức xạ giết chết các tế bào thần kinh và các mạch máu nhỏ, từ đó có thể gây co giật và thậm chí là chết ngay lập tức. Tim mạch: Làm hủy hoại trực tiếp đến các mạch máu nhỏ, có thể gây suy tim và có thể dẫn đến tử vong. Tủy xương: Ảnh hưởng trực tiếp tới tủy xương nơi có vai trò sản xuất ra các tế bào máu dẫn tới nguy cơ mắc các căn bệnh khó chữa như máu trắng, ung thư máu. Thông thường thì bệnh bức xạ cấp tính có biểu hiện khi tiếp xúc phóng xạ với một liều lượng lớn trong khoảng một thời gian ngắn. Nếu tiếp xúc lâu dài thì tình trạng này cũng xảy ra. Sau một thời gian sử dụng, bạn có thể gặp phải tình trạng máy bơm nước bị cháy. Vậy nguyên nhân của hiện tượng máy bơm bị cháy là gì? Liệu có cách nào sử dụng để giảm thiết hiện tượng này không? Bài viết này sẽ giúp khách hàng nhận biết và tìm hướng. Máy đo độ dày là một sản phẩm còn khá mới lạ với người dùng. Nhằm giúp khách hàng có những kiến thức cần thiết để sử dụng thiết bị hiệu quả, thietbikythuat sẽ giúp bạn hiểu máy đo độ dày là gì? Chúng có cấu tạo và tính ứng dụng thực tế trong thực. Que đo nhiệt độ thực phẩm có nhiều ứng dụng trong việc xác định chất lượng và tình trạng của các mặt hàng rau, củ quả hiện nay. Chúng được sử dụng trong gia đình và cả các cơ sở chế biến, bảo quản nông sản. Bài viết này sẽ giúp bạn hiểu que đo. Trước khi bắt đầu tìm hiểu cấu tạo của Thyristor, tôi muốn các bạn hiểu một cách đơn giản nhất . Thyristor còn gọi là linh kiện SCR hay Thyristor SCR chính là một Đi-ốt (Diode) có điều khiển. Tức là nó hoạt động chả khác gì diode, chỉ khác là có thêm một. Định nghĩa cảm biến siêu âm là gì? Định nghĩa tổng quan Cảm biến siêu âm là một thiết bị cảm biến hoạt động dựa trên sóng siêu âm. Sóng siêu âm được định nghĩa là loại sóng tần số cao vượt ngưỡng nghe thấy của con người. Ví dụ trong tự nhiên, một số. Cách chọn mua cảm biến nhiệt độ như thế nào? Khi chọn mua cần lưu ý những điều gì? Cách xác định nhu cầu trước khi chọn mua ? Bài viết dưới đây sẽ trình bày ngắn gọn và đơn giản các vấn đề trên. Các bạn củng theo dõi nhé Pt100 là gì?. Hiện tại có nhiều thiết bị đo lưu lượng theo nhiều cách. Vậy thì những thiết bị nào thông dụng nhất trên thị trường? Và vì sao nó lại được các doanh nghiệp, nhà máy lựa chọn nhiều nhất? Ứng dụng của các thiết bị đo lưu lượng cụ thể trong lĩnh vực nào?. Cảm biến đo mức nước HLM-25S là một thiết bị đo mức nước dựa vào nguyên lý chênh lệch áp suất hay còn gọi là Hydrotatic Level Meter của hãng Dinel. Cảm biến sẽ được thả chìm trong nước và nằm dưới đáy bể, sông, suối, hồ hay các bồn chứa nước.
Phóng xạ
Phóng xạ hay phóng xạ hạt nhân là hiện tượng một số hạt nhân nguyên tử không bền tự biến đổi và phát ra các bức xạ hạt nhân (thường được gọi là các tia phóng xạ). Các nguyên tử có tính phóng xạ gọi là các đồng vị phóng xạ, còn các nguyên tử không phóng xạ gọi là các đồng vị bền. Các nguyên tố hóa học chỉ gồm các đồng vị phóng xạ (không có đồng vị bền) gọi là nguyên tố phóng xạ. Một vật chất chứa các hạt nhân không bền được coi là chất phóng xạ. Ba trong số các loại phân rã phổ biến nhất là phân rã alpha, phân rã beta và phân rã gamma, tất cả đều liên quan đến việc phát ra một hoặc nhiều hạt hoặc photon. Lực yếu là cơ chế gây ra phân rã beta. Phân rã phóng xạ là một quá trình ngẫu nhiên ở cấp độ các nguyên tử đơn lẻ. Theo lý thuyết lượng tử, không thể dự đoán khi nào một nguyên tử cụ thể sẽ phân rã, bất kể nguyên tử đó đã tồn tại bao lâu. Tuy nhiên, đối với một số lượng đáng kể các nguyên tử giống hệt nhau, tốc độ phân rã tổng thể có thể được biểu thị dưới dạng hằng số phân rã hoặc chu kỳ bán rã.
Đó là một câu hỏi không dễ trả lời, vì thật khó có thể tóm gọn “Thiền” chỉ một câu nói hay một lý thuyết thuần túy. Xin gửi đến những ai quan tâm đến Tâm linh như một phần quan trọng trong cuộc sống của mình một bài luận về Thiền Phật Giáo. Hy vọng qua bài luận này bạn đọc sẽ hiểu sâu hơn về cốt tủy Phật Giáo khi bàn về “Giác ngộ Tự Tánh” qua tác phẩm “Pháp Bảo Đàn Kinh” của Lục Tổ Huệ Năng, kèm theo những giải nghĩa trong bộ “Thiền Luận” của Giáo Sư Thiền học Daisetz Teitaro Suzuki. Ở phần phản tỉnh cá nhân, tôi sẽ bàn thêm mối tương quan giữa Thiền và Kitô giáo như một phần để đối thoại và hiểu nhau hơn trong đời sống tâm linh nói chung. Chắc hẳn với chút nghiên cứu quá giới hạn không thể đáp ứng hết lời giải đáp cho mọi vấn đề và cũng xin lượng thứ nếu có điều gì không đồng với quan điểm đức tin nơi mỗi người. Do vậy, ước mong bạn đọc khi tham khảo bài này cần vượt qua những câu chữ, không nên chú trọng quá để lấy kiến thức hay để tranh luận. Nhưng cách nào đó là để hiểu hơn và rút tỉa những điều bổ ích liên quan đến đời sống nội tâm cá nhân mỗi người; từ đó cảm thấy vui, tôn trọng nhau hơn khi nhận ra rằng chúng ta dù khác nhau về văn hóa và cách tiếp cận Tâm linh nhưng vẫn đi trên một Đường Đạo. (Xin click vào các con số trong ngoặc vuông để xem chú thích ở phía dưới và click lại các con số ở chú thích để trở lại đọc tiếp.). Dường như thời đại nào cũng vậy, cuộc sống được gắn liền với “cuộc truy tìm hạnh phúc” phát xuất từ khát khao thẳm sâu trong thâm tâm mỗi con người. Ai cũng muốn mình được hạnh phúc cách này cách khác dù là phải đánh đổi tất cả. Dầu vậy, không có từ nào mà lại mông lung cho bằng hai chữ “hạnh phúc”. Hạnh phúc thật đa dạng nên mỗi người sẽ tự tìm cho mình những loại hạnh phúc khác nhau; đó có thể là tiền bạc, vật chất, danh vọng, địa vị, sắc đẹp… Có người chú ý đến những sở thích hay sở trường khả năng riêng của mình. Cũng có người cho rằng sức khỏe thể xác là quý hơn cả, có người lại hướng đến hạnh phúc trong đời sống trí thức, tinh thần hay tâm linh. Hạnh phúc như thế sẽ có nhiều thang bậc khác nhau nhưng phần lớn ai cũng cho rằng: điều họ đang tìm kiếm thì mới là hạnh phúc hơn cả!. Như vậy thì ai đúng ai sai, ai hạnh phúc hơn ai, ai mới là có hạnh phúc thật sự và hạnh phúc đích thực là gì? Thật ra, hai chữ “hạnh phúc” không có một định nghĩa chung bằng câu chữ và không có một triết thuyết nào có thể diễn đạt hết con đường đạt đến hạnh phúc! Điều có thể xác định lại là: hạnh phúc thật hay không là tự ở nơi tâm hồn mỗi người cảm nhận. Nhiều người tin rằng Thiền là một công cụ dẫn đến một công năng kỳ diệu cho cuộc sống và làm cho họ được giải thoát khỏi đau khổ và mang lại sự hạnh phúc đích thật. Đó là một câu hỏi không dễ trả lời, vì thật khó có thể tóm gọn “Thiền” chỉ một câu nói hay một lý thuyết thuần túy. Thế nhưng, chắc hẳn đó phải là một thực tại tâm linh không phải ‘với tới’ chỉ bằng lý trí hay kiến thức luận lý. Dùng lý trí để nói về Thiền cũng là một thiển cận rồi! Khi tìm hiểu về Thiền, bài luận này chỉ muốn đụng chạm đến những khái niệm cơ bản và ngắm thử con đường mà Thiền muốn nhắm tới thôi. Còn Thiền thật sự là gì thì hãy để “Thiền” tự nói với mỗi người trong tâm hồn. Nói đến Thiền ở Ấn Độ là nói đến phương pháp tu luyện cổ truyền có từ thuở ban sơ của Ấn Độ Giáo và Phật Giáo sau đó. Dhyana hay Tịnh Lự là chỉ việc trầm tư về một Chân lý, một Triết lý hoặc một Đạo đến chỗ triệt ngộ, in sâu trong nội thức. Tu Thiền là phải đến chỗ thanh vắng, xa cảnh náo nhiệt loạn động thì mới mong có sự giải thoát. Phật Thích Ca cũng là một trong những người đi tìm sự giải thoát trong Thiền như thế. Vì lẽ đó, có người khi nói đến “Thiền” là nghĩ ngay đến việc ngồi Thiền, ngồi làm sao để giữ mình trong tĩnh lặng, không còn bị chi phối bởi điều gì nữa. Cuộc sống xã hội điên đảo nên càng ngày càng có nhiều người đến với Thiền và họ hy vọng sẽ gặp được sự thinh lặng nội tâm và coi đó là niềm hạnh phúc thật sự. Cũng có người ngồi Thiền để gìn giữ sức khỏe trong việc luyện Thiên Khí Năng, Khí Công, Nhân Điện, Yoga… hay luyện một công phu phi thường nào đó có ích cho mình và giúp ích cho mọi người. Nhiều người khác cho Thiền là một thực tại tâm linh huyền bí nên họ sử dụng Thiền như một phương tiện để tu hành đạt chánh quả trong nhiều tôn giáo đặc biệt là Phật Giáo. Nói cho cùng, “Thiền” được xem như là một phương tiện để đạt một mục đích hay công năng siêu vượt nào đó. Vì cách hành Thiền khác nhau nên mỗi người sẽ quan niệm khác nhau về Thiền. Không có một định nghĩa xác đáng cho tất cả vì Thiền cũng chỉ là phương tiện mà thôi. Điểm nhắm chính là làm sao đạt được điều mỗi người mong muốn hay nhắm tới. Trong giới hạn của bài luận này, người viết chỉ chú ý đến Thiền của Tổ Huệ Năng (637-713) thuộc Tông Phật Giáo Tối Thượng Thừa ở Trung Hoa. Đây là tông phái Thiền được coi là “cốt tủy” của Phật Giáo vì được truyền từ Tâm của Phật Thích Ca (623-543 TCN) (gọi là Truyền Tâm Ấn) khi Người đạt quả Giác Ngộ dưới gốc Bồ Đề. Huệ Năng là Tổ thứ 33 tính từ Phật Thích Ca, cũng là Tổ thứ 6 kể từ khi Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma (?-529) mang Thiền từ Ấn Độ truyền qua Trung Hoa (520). Huệ Năng được xem là Tổ khai sáng Thiền Trung Hoa. Mặc dù tinh thần Thiền tông vẫn là một nhưng hình thức Thiền của Huệ Năng lại hoàn toàn Trung Hoa vì được diễn đạt theo kinh nghiệm đặc nét riêng, đầy sáng tạo của tâm hồn thực tế con người Trung Hoa. Và cũng từ Huệ Năng, Thiền trở thành một Tông phái cực thịnh vào thời nhà Đường và các thời sau đó. Huệ Năng (637-713) sinh ra trong một gia đình nghèo ít học làm nghề bán củi, cha mất sớm nên ông ở với mẹ. Một lần trong khi đi giao củi cho khách, Huệ Năng vô tình nghe một người tụng Kinh Kim Cương thì tự nhiên được khai ngộ. Huệ Năng hỏi ra thì biết người đang tụng lấy Kinh này từ Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn (601-674); sau đó Huệ Năng tìm cách đến thọ giáo Ngũ Tổ. Qua cuộc đối đáp, Ngũ Tổ biết được Huệ Năng đã có căn cơ đi vào cốt tủy của Thiền Môn. Mặc dù suốt ngày chỉ lo việc giã gạo ở nhà sau nhưng Huệ Năng đã đi vào được tinh yếu của Thiền và đạt Đại Ngộ trước tất cả mọi người. Ngũ Tổ biết căn cơ của Huệ Năng nhưng không công khai cho mọi người biết điều đó. Về sau, Tổ chỉ âm thầm Truyền Y Bát (là vật làm tin) cho Huệ Năng làm tổ thứ 6 của Thiền Tông. Huệ Năng trốn về phương Nam ẩn tích một thời gian lâu, sau đó lại ra thuyết về Pháp Đốn Ngộ Tự Tánh . Có nhiều đồ đệ sau khi được Huệ Năng khai ngộ đã kế tục Pháp Đốn ngộ của sư. Cuộc đời và Pháp Đốn Giáo của sư Huệ Năng được một đệ tử là Thần Hội viết lại trong cuốn “Pháp Bảo Đàn Kinh” . Nội dung bài viết này phần lớn xoay quanh những ý chính trong cuốn Pháp Bảo Đàn Kinh này, kèm theo những giải nghĩa trong bộ“Thiền Luận” của Giáo Sư Thiền học Daisetz Teitaro Suzuki. Theo Huệ Năng, Thiền là “Thấy Tánh” . Đó là hai chữ tinh yếu nhất trong dòng khai diễn của đạo Thiền. Thiền kết tinh tại đó, và “nhờ đó ta biết cố gắng của ta phải hướng về đâu, và bằng cách nào ta có thể hình dung nó trong tâm thức”. Thật ra, hai chữ này cũng đã được Bồ Đề Đạt Ma dùng đến, nhưng phải đến Huệ Năng mới “nắm trọn tinh nghĩa và in mạnh trọn vẹn ý nghĩa trong tâm thức người nghe cách dứt khoát không sao lầm lẫn được” so với các tông phái khác. Yếu chỉ này lần đầu tiên được Huệ Năng tuyên xướng cho pháp sư Ấn Tông khi sư nói rằng: “Chỉ luận Thấy Tánh, chẳng luận Thiền định hay giải thoát.”. “Tánh” hay còn gọi là “Thực tại Tự Tánh” nghĩa là gì? Tại sao Huệ Năng xem việc “Thấy Tánh” hay “Giác ngộ Tự Tánh” là yếu chỉ của Thiền? Bằng cách nào để đạt đến sự Giác ngộ thực tại đó? Tất cả những gì bài luận này nhắm tới chỉ nhằm triển khai các khái niệm ấy. “Tự Tánh” hay “Giác ngộ Tự Tánh” là một đề tài không dễ để luận bàn vì đó là một thực tại tâm linh. Trong giới hạn của mình, người viết cũng chỉ là một người nghiên cứu để trình bày lại những gì mình đọc được và cảm nhận được từ các tài liệu liên quan chứ không phải trên tư cách của một Thiền sư hay người đã chứng ngộ được điều gì!. Trước hết, “Tánh” (Tính) về mặt ngữ nghĩa là chỉ về cái bản thể, yếu lý, linh hồn, hoặc cái bẩm sinh ở con người , người Việt hay gọi là “Lương tâm”. Từ mà chính Huệ Năng hay dùng là “Bổn lai diện mục” tức là “Khuôn mặt ngàn đời” trước sau không thay đổi. Tánh “vốn tự đủ, chẳng lay động, chẳng sinh chẳng diệt” nơi mỗi người nên cũng được gọi là “Tự Tánh”, “Chân Như”, hay “Phật Tánh”. Tánh thể hiện về mặt trí gọi là “Bát Nhã”, đó là “Trí Bát Nhã” hay “Trí Huệ”. Tánh là một ánh sáng phát xuất từ bên trong nội tâm nên gọi là“Ánh Sáng Tự Tâm”. Việc thấy Tánh cũng mở ra một nhãn quan mới gọi là mở “Con Mắt Trí Huệ”. “Tự Tánh” mặc dù với nhiều tên gọi khác nhau nhưng đều chỉ về một Thực tại Siêu Việt đã có sẵn trong mỗi người từ muôn đời. Huệ Năng nhiều lần nhắc nhở đồ chúng và môn đồ của mình: “Tâm ta tự có Phật, Tự Phật là chơn Phật… Các ngươi tự tâm là Phật, chớ hồ nghi nữa.”
Huệ Năng
Đại sư Huệ Năng (Năng, zh. enō), 638-713, là một vị Thiền sư vĩ đại trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa. Sư kế tiếp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, trở thành vị Tổ thứ 6 của Thiền Tông Trung Quốc. Trước Huệ Năng, Thiền còn mang nặng ảnh hưởng Ấn Độ nhưng đến đời Sư, Thiền bắt đầu có những đặc điểm riêng của Trung Quốc. Vì vậy mà có người cho rằng sư mới thật sự là người Tổ khai sáng dòng Thiền tại đây. Huệ Năng không chính thức truyền y bát cho ai, nên sau đó không còn ai chính thức là truyền nhân. Tuy nhiên sư có nhiều học trò xuất sắc. Môn đệ chính là Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng là hai vị Thiền sư dẫn đầu hầu như toàn bộ các dòng Thiền về sau. Sư được coi là người sáng lập Thiền Đốn Ngộ (Thiền Nam Tông)- với chủ trương đạt giác ngộ trực tiếp, nhanh chóng. Sư tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là "Kinh", một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật Thích-ca, đó là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất sâu xa về thiền.
Dù không phải người chơi game thường xuyên, có lẽ bạn cũng từng nghe tới tựa game Pubg. Vậy PUBG là gì mà khiến giới trẻ “điên đảo” vì nó đến vậy?. PUBG – một game vừa được chính thức phát hành vào tháng 4 năm 2017. Tựa game đã vượt qua rất nhiều kỷ lục số lượng người chơi trong giai đoạn truy cập sớm. PUBG là viết tắt của cụm PLAYERUNKNOWN’S BATTLEGROUNDS, có nghĩa là chiến trường trường của người vô danh. PUBG là game bắn súng mang tính cạnh tranh sống còn. Tựa game này được phát triển và phát hành bởi PUBG Corp – một chi nhánh của công ty phát hành game Bluehole của Hàn Quốc, cùng với sự hợp tác của Brendan Greene (PLAYERUNKNOWN) với tư cách là Giám đốc Sáng tạo. Trên thực tế, trò chơi này được phát triển dựa trên những nguyên mẫu đã từng được Brendan phát triển trước đó. Cảm hứng cho PUBG đã được lấy từ bộ phim năm 2000 Battle Royale và mở rộng thành một trò chơi độc lập dưới sự chỉ đạo nghệ thuật của Greene. PUBG là trò chươi sống còn quy mô lớn, nơi mà người chơi đấu tranh để được là người còn sống cuối cùng. Game hành động này có thể cho tối đa một trăm người chơi chiến đấu trong một trận chiến hoàng gia. Người chơi có thể chọn để chơi solo, hoặc tham gia một nhóm nhỏ tối đa bốn người. Trong cả hai trường hợp, người cuối cùng hoặc đội cuối cùng còn lại sẽ thắng trận đấu. Câu trả lời cho PUBG là gì cũng khiến người chơi có hình dung cơ bản về tựa game này. Bối cảnh game đỉnh cao cũng là một phần lí do mà các gamer đang mê mẩn trò chơi hành động này. Chiến trường của kẻ vô danh diễn ra các hòn đảo khác nhau, nhưng hòn đảo chính của BATTLEGROUNDS được gọi là Erangel. Một hòn đảo bị bỏ hoang ở Nga, nơi chiếm đóng quân đội đã kiểm soát hòn đảo. Quân đội đã thử nghiệm các thí nghiệm hóa/sinh học trên quần đảo, sau cuộc tấn công kháng chiến vào một cơ sở sinh học, hòn đảo này phải bị bỏ hoang. PUBG là gì và cách chơi PUBG như thế nào? Là một game hành động nhập vai, PUBG không phải là một game dễ chơi. Nếu ai đã từng chơi CS hay Truy kích có lẽ sẽ dễ dàng trở thành cao thủ trong trò chơi này hơn cả. Bởi bắn súng là kỹ năng sống còn khi chơi PUBG. Mỗi trận đấu bắt đầu với hàng loạt người chơi nhảy dù từ máy bay xuống khu vực bản đồ có diện tích khoảng 8×8 km. Bạn bắt đầu trò chơi mà không có thiết bị nào ngoại trừ việc lựa chọn quần áo, vốn không ảnh hưởng đến lối chơi. Khi đã tiếp đất, bạn có thể tìm kiếm các tòa nhà và đến các địa điểm để tìm kiếm vũ khí, xe cộ, áo giáp, quần áo và các thiết bị khác. Mức độ tốt kém của thiết bị tùy thuộc vào mức độ khó dễ của các khu vực. Trung bình, một lượt chơi chỉ kéo dài không quá 30 phút. Khi hoàn thành mỗi vòng đấu, bạn sẽ kiếm được tiền trong trò chơi dựa trên thời gian bạn sống sót bao lâu, số người bạn đã giết và số sát thương bạn đã tạo ra cho những người chơi khác. PUBG là gì và thông tin cơ bản về PUBG đã được trình bày như trên. Các gamer có thể tải PUBG thử trải nghiệm trò chơi hành động hấp dẫn này.
Trò chơi hành động nhập vai
Trò chơi hành động nhập vai (viết tắt là RPG hành động hoặc ARPG) là một nhánh con của trò chơi điện tử kết hợp các yếu tố cốt lõi từ cả thể loại hành động và nhập vai. Thể loại trò chơi này nhấn mạnh vào chiến đấuthời gian thực, nghĩa là người chơi có quyền điều khiển trực tiếp các nhân vật thay vì chiến đấu theo lượt hoặc chọn menu-chiến đấu, trong khi vẫn tập trung vào thông số của nhân vật để tính toán sức mạnh và khả năng. Những trò chơi này thường sử dụng hệ thống chiến đấu của trò chơi hành động, tương tự như hack and slash hoặc bắn súng. Trò chơi hành động nhập vai cũng có thể kết hợp với trò chơi hành động phiêu lưu, như hệ thống nhiệm vụ và cơ chếRPG, hoặctrò chơi nhập vai trực tuyến nhiều người chơi (MMORPG) với hệ thống chiến đấu thời gian thực. Allgame liệt kê các trò chơi phát hành trước năm 1984 sau đây là game RPG hành động: Temple of Apshai (1979) và phần tiếp theo của nó là Gateway to Apshai (1983), Beneath the Pyramids trên Apple II (1980), Bokosuka Wars (1983), và Sword of Fargoal (1983).
Trịnh Công Sơn là một trong những nhạc sĩ gạo cội, rất nổi tiếng tại Việt Nam. Âm nhạc của ông mang trong mình thiên hướng hoài niệm, chứa đựng nhiều tâm sự, nhiều nỗi trăn trở về cuộc đời. Cho đến nay nhiều bản nhạc Trịnh dù được sáng tác từ cách đây rất lâu nhưng vẫn còn nguyên giá trị. Bài viết này hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của vị nhạc sĩ tài hoa nhưng cuộc đời đầy trắc trở này. Trong nền âm nhạc Việt, Trịnh Công Sơn là cái tên vô cùng đặc biệt. Ông được người đời thán phục với những bản nhạc tình ca đi cùng năm tháng. Nhạc Trịnh mang tính hoài niệm, khác biệt hoàn toàn do với các dòng nhạc khác trên thị trường. Dưới đây là một vài nét về tiểu sử của vị nhạc sĩ tài hoa này. Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tài hoa người Huế. Ông sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939 tại Daklak. Cha mẹ của ông đều là người Huế, quê quán làng Minh Hương, xã Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Cha của Trịnh Công Sơn vốn là một doanh nhân với tấm lòng yêu nước tha thiết. Ông tên là Trịnh Xuân Thanh, sở hữu một cửa hàng kinh doanh lớn tại trung tâm Thành phố Huế. Bà được nhắc đến trong rất nhiều nhạc phẩm của ông. Khi còn là thiếu nữ, bà Quỳnh là hoa khôi trường Đồng Khánh. Bà là người phụ nữ dịu dàng nhân hậu, lại thông minh, uyên bác. Chính vì thế đã có rất nhiều người đem lòng si mê, muốn lấy về làm vợ. Tuy được sinh ra trong một gia đình khá giả, nhưng tuổi thơ của nhạc sĩ tài hoa không mấy suôn sẻ. Cha ông vì tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp nên nhiều lần bị địch bắt, bị tra tấn vô cùng dã man. Nhạc sĩ họ Trịnh từng chia sẻ ông đã từng có cơ hội vào thăm cha, hình ảnh cha bị tra tấn, máu me đầy người suốt đời ông không bao giờ có thể quên được. Sự nghiệp học hành của Trịnh Công Sơn không giống với những người bình thường khác. Ông từng chia sẻ bản thân đã chuyển trường đến 16 lần chỉ vì cha tham gia hoạt động chống Pháp. Đến nhà ở cũng không cố định, chuyển đi đâu thì theo học trường ở địa phương đó. Năm 1943, khi gia đình Trịnh Công Sơn về Huế sinh sống, ông được theo học tại trường Lycee Francais. Hiện nay chính là trường tiểu học Lê Lợi. Thời đại học, nhạc sĩ tài hoa thi đỗ trường Providence nay là trường Đại Học Khoa Học Huế. Ông từng vào Sài Gòn để học trường Lycée Jean Jacques Rousseau, hiện tại là trường Lê Quý Đôn và tốt nghiệp tú tài tại đây. Trịnh Công Sơn xuất phát điểm là công tử trong một gia đình khá giả nhưng số phận lại rất nghiệt ngã. Ông trải qua rất nhiều biến cố trong cuộc đời, từ mất cha cho đến công việc kinh doanh lụn bại. Tất cả đã khiến chàng trai trẻ trở thành người trầm tính, sống nội tâm, đau đáu sự đời. Dưới đây là những biến cố quan trọng trong cuộc đời của Trịnh Công Sơn. Sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết thành công, Pháp rút quân khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, cũng chính lúc này, gia đình Trịnh Công Sơn phải đối diện với nỗi mất mát vô cùng to lớn. Cha ông qua đời vì tai nạn giao thông để lại niềm tiếc thương vô hạn cho những người ở lại. Lúc bấy giờ, nhạc sĩ họ Trịnh mới chỉ 16 tuổi. Mẹ ông đang mang bầu con gái út được 4 tháng. Mất mát này đã trở thành nỗi ám ảnh trong cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn. Năm lên 18 tuổi, nhạc sĩ họ Trịnh gặp một tai nạn rất nghiêm trọng. Đầu hè năm 1957, hai anh em Trịnh Công Sơn và Trịnh Quang Hà tập võ để thi lên đai. Quang Hà tung cú đá về phía Trịnh Công Sơn thì bất ngờ bị trượt ngã lên người anh trai. Sức nặng của Quang Hà kèm theo cú đá chưa được thực hiện thành công đá giáng một lực mạnh lên ngực cố nhạc sĩ. Ông gục ngã và thổ huyết, nằm liệt giường gần hai năm. Trong năm đầu tiên, ông không thể tự ăn uống được, chỉ có thể nằm một chỗ. Đến năm thứ hai, sức khỏe khá hơn, ông dồn hết thời gian vào đọc sách. Cũng chính trong thời gian nằm bệnh, cơ duyên đến với âm nhạc của Trịnh Công Sơn bén rễ hứa hẹn mang đến rất nhiều tác phẩm ấn tượng. Sau khi cha qua đời, kinh tế gia đình vẫn giữ được ổn định khi cửa hàng kinh doanh xe đạp trên phố vẫn đắt hàng. Nhưng trong một lần mẹ ông là bà Lê Thị Quỳnh mở tủ lấy tiền quên đóng lại, toàn bộ số tiền vàng trong tủ đã bị người thợ làm việc cho gia đình ăn cắp. Việc kinh doanh trở nên khó khăn, cuộc sống trong nhà chật vật khi không có tiền, con cả bệnh tật, con thứ đang tuổi ăn học. Bà Lê Thị Quỳnh đã bán nhà và chuyển đi chỗ khác sinh sống. Trịnh Công Sơn rơi vào tình trạng cô đơn và tự học guitar để tìm vui. Ông sáng tác nên ca khúc “Ướt mi” khiến gia đình và bạn bè bất ngờ về khả năng âm nhạc đặc biệt của mình. Vì kinh tế gia đình không cho phép, sau khi khỏi bệnh và tốt nghiệp tú tài, Trịnh Công Sơn học ở Trường Sư Phạm và Kỹ Thuật Quy Nhơn. Ông được chọn làm trưởng ban văn nghệ, thỏa mãn niềm đam mê âm nhạc của mình. Cũng chính thời gian này, những tác phẩm “kinh điển” như Dã Tràng Ca, Nhìn Những Mùa Thu Đi, Biển Nhớ, Nắng Thủy Tinh… ra đời. Trong đó, Dã Tràng Ca được chọn là bài mở màn cho chương trình văn nghệ. Sau khi tốt nghiệp, ông được điều về thành phố Bảo Lộc dạy tiểu học. Ông nhận thấy cô ca sĩ có chất giọng rất phù hợp với những sáng tác của mình nên ngỏ ý mời hợp tác. Nhưng Khánh Ly đã từ chối. Ông đành trở về với nghề giáo và sáng tác thêm nhiều ca khúc mới mẻ. Trong những năm tháng này, một mối tình đẹp đẽ chớm nở giữa Trịnh Công Sơn và Dao Ánh. Ông đã tự tay gửi khoảng 300 bức thư tình về Huế cho người thương cùng rất nhiều ca khúc như Còn Tuổi Nào Cho Em, Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng, Mưa Hồng…. Mùa hè năm 1967, Trịnh Công Sơn gặp lại Khánh Ly. Cả hai đã kết hợp với nhau trở thành một cặp đôi huyền thoại ăn ý trong âm nhạc. Tên tuổi của cả hai nhanh chóng nổi lên như một hiện tượng. Âm nhạc Trịnh Công Sơn dần trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với tầng lớp sinh viên, tri thức. Nhạc sĩ họ Trịnh liên tiếp sáng tác thêm tập ca khúc Da Vàng (1967), Kinh Việt Nam (1968), Ta Phải Thấy Mặt Trời (1969) và Phụ Khúc Da Vàng (1972). Trịnh Công Sơn từng bước trở thành nhạc sĩ gạo cội hàng đầu của nền âm nhạc nước nhà. Đến nay âm nhạc của ông vẫn còn nguyên giá trị với thời gian. Trong cuộc đời của mình, Trịnh Công Sơn đã nhận được nhiều giải thưởng đáng giá. Giải thưởng Đĩa Vàng ở Nhật Bản năm 1972 qua ca khúc “Ngủ đi con” thể hiện bởi ca sĩ Khánh Ly. Năm 1979, ca khúc này trở thành bản hit tại Nhật Bản khi hãng đĩa Nippon Columbia mời ca sĩ Khánh Ly thu băng. Giải nhất cuộc thi “Hai mươi năm sau” nhờ vài bài hát “Hai mươi mùa nắng lạ”. Giải nhất cuộc thi “Những bài hát hay nhất sau 10 năm chiến tranh” nhờ ca khúc “Em ở nông trường, em ra biên giới”. Năm 1997, các bài hát “Sóng về đâu”, “Ta đã thấy gì hôm nay”, “Xin trả nợ người” và “Em đi bỏ lại con đường” đoạt giải thưởng lớn do Hội Nhạc Sĩ bình chọn. Trong cuộc đời của mình, Trịnh Công Sơn đã sáng tác nên rất nhiều ca khúc khác nhau. Giai điệu nhạc Trịnh luôn thổn thức và đẹp đẽ đến lạ. Nếu là một người đam mê âm nhạc Trịnh Công Sơn, bạn nhất định không được bỏ qua các bài viết dưới đây. Ca khúc Một cõi đi về nằm trong album Hát cho những người ở lại là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của nhạc sĩ này. Bài hát sở hữu giai điệu nhẹ nhàng, ca từ trong sáng mà sâu lắng. Bài hát mang ý nghĩa về kiếp nhân sinh, về cõi luân hồi trong cuộc đời mỗi con người. Cho đến nay đã có rất nhiều ca sĩ thể hiện bài hát này nhưng xuất sắc nhất vẫn là ca sĩ Khánh Ly. Ca khúc tiếp theo mang tên Xin trả nợ người. Ca khúc này nằm trong album Trịnh Công Sơn – Một Thời Để Nhớ phát hành năm 2002. Đây là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất được thể hiện rất thành công bởi ca sĩ Khánh Ly. Ca khúc liên quan đến mối tình đặc biệt giữa ông và Dao Ánh. Sinh thời, Trịnh Công Sơn đã từng siêu lòng trước vẻ đẹp của cô gái xứ Huế Dao Ánh. Tuy nhiên, mối tình này cũng không đi đến kết cục tốt đẹp và vẫn còn dang dở. Bài hát là lời chấm dứt cho mối tình tươi đẹp, chấm dứt cho những chuỗi ngày tương tư của Trịnh Công Sơn. Họ không thể nên duyên vợ chồng nhưng tình nghĩa thì vẫn còn. Ngày gặp lại sau 20 năm xa cách, Dao Ánh đã ly dị chồng còn Trịnh Công Sơn lúc này trở thành nhạc sĩ có tiếng được người đời ngợi ca. Trong những sáng tác của mình, có rất nhiều ca khúc Trịnh Công Sơn đã viết để dành riêng cho Dao Ánh. Trong đó không thể không nhắc đến bài Tình Xa thuộc album Hát Cho Quê Hương Việt Nam 3. Bài hát là nỗi niềm của chàng trai trẻ về tình yêu về những yêu thương chưa thành, về mối quan tâm đặc biệt với người con gái đến từ xứ Huế. Trịnh Công Sơn thừa nhận ông từng gửi cho Dao Ánh hơn 300 lá thư tình. Nhưng cuối cùng tình yêu không thành, Dao Ánh sang Mỹ học tập và lập gia đình, để lại chàng trai với mối si tình, trăn trở. Thời bấy giờ, âm nhạc Trịnh Công Sơn không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn rất được yêu thích tại Nhật Bản. Ca khúc Diễm xưa trong album Hát Cho Quê Hương Việt Nam 3 đã được chọn làm nhạc của một bộ phim chủ đề gia đình Nhật Bản. Tên ca khúc cũng được đổi thành Utsukushii mukashi. Bài hát là đoạn hồi ức về tình duyên của cố nhạc sĩ với người con gái năm xưa. Từng giai điệu nhẹ nhàng, tha thiết gợi lại quãng thời gian vô cùng tươi đẹp của tuổi trẻ. Qua đó thể hiện tâm tư nhớ mong, khắc khoải của người nghệ sĩ trong tình yêu. Ca khúc tiếp theo mà chúng tôi muốn giới thiệu đến bạn trong danh sách này đó chính là Ngủ đi con nằm trong album Hát Cho Quê Hương Việt Nam 1. Bài hát sáng tác trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt, nhân dân sống trong cảnh lầm than với sự đàn áp của đế quốc Mỹ. Từng ca từ của bài hát đã thể hiện một cách rõ nét tính chất khốc liệt của cuộc chiến. Bài hát thể hiện nỗi đau dân tộc, nỗi lo lắng của những người làm cha mẹ khi không thể bảo vệ con cái một cách chu toàn. Với giai điệu day dứt, nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, bài hát thể hiện nỗi đau của dân tộc trong thời kỳ bom rơi đạn lạc. Trịnh Công Sơn là một trong những nhạc sĩ tài năng bậc nhất của nền âm nhạc Việt Nam. Âm nhạc của ông mang đến nét sâu lắng và da diết trong tâm hồn, bất kỳ ai nghe được cũng sẽ cảm thấy vô cùng thổn thức. Người nhạc sĩ tài hoa ấy đã không còn nhưng tên tuổi và những sáng tác của ông vẫn trường tồn cùng thời gian. Hiện tại, nhạc Trịnh vẫn là thứ âm nhạc trong trẻo, đặc biệt nhất, không thể xóa nhòa trong văn hóa người Việt.
Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn (28 tháng 2 năm 1939 – 1 tháng 4 năm 2001) là một nam nhạc sĩ người Việt Nam. Ông được coi là một trong những nhạc sĩ lớn nhất của Tân nhạc Việt Nam với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Hiện nay chưa có thống kê chính xác về số tác phẩm để lại của ông (ước đoán con số không dưới 600 ca khúc). Tuy nhiên số ca khúc của ông được biết đến rộng rãi là 236 ca khúc (cả lời và nhạc). Nhạc của Trịnh Công Sơn được nhiều ca sĩ thể hiện, nhưng thành công hơn cả là Khánh Ly, danh ca gắn liền tên tuổi với hàng trăm ca khúc của ông. Ngoài ra, ông còn được xem là một nhà thơ, một họa sĩ, một diễn viên và một ca sĩ (ông từng biểu diễn một số bài hát do chính mình sáng tác). Ông nguyên quán ở làng Minh Hương, xã Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lúc nhỏ ông theo học các trường Lycée Français và Providence ở Huế, sau vào Sài Gòn theo học triết học trường Tây Lycée Jean Jacques Rousseau và tốt nghiệp tú tài tại đây.
Những câu hỏi như EDI là gì? hoặc trao đổi dữ liệu điện tử EDI là gì? là những câu hỏi thường gặp hiện nay của các bạn làm về lĩnh vực công nghệ thông tin. Chúng tôi xin trích vài viết giới thiệu về EDi từ wikipedia giới thiệu đến các bạn. Trao đổi dữ liệu điện tử EDI là sự truyền thông tin từ máy tính gửi đến máy tính nhận bằng phương tiện điện tử, trong đó có sử dụng một số định dạng chuẩn nhất định nào đó. Theo Luật thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp quốc, việc trao đổi dữ liệu điện tử được định nghĩa như sau: "Trao đổi dữ liệu điện tử EDI là việc chuyển giao thông tin từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác bằng phương tiện điện tử, có sử dụng một tiêu chuẩn đã được thỏa thuận để cấu trúc thông tin". Trao đổi dữ liệu điện tử EDI là hình thức thương mại điện tử đầu tiên được sử dụng trong doanh nghiệp, và đã tồn tại nhiều năm trước đây, trước khi chúng ta nói tới thuật ngữ thương mại điện tử. Cho đến nay EDI vẫn là các giao dịch quan trọng bậc nhất trong thương mại điện tử B2B. Các dữ liệu giao dịch trong giao dịch thương mại điện tử B2B bao gồm các thông tin được chứa đựng trong các hoá đơn, phiếu đặt hàng, yêu cầu báo giá, vận đơn và báo cáo nhận hàng. Với EDI, các hóa đơn, đơn đặt hàng, vận đơn, yêu cầu báo giá, báo cáo nhận hàng và các tài liệu kinh doanh điện tử khác có thể được xử lý trực tiếp từ máy tính của các công ty phát hành để công ty tiếp nhận, với khoản tiết kiệm lớn trong thời gian, chi phí và tránh được nhiều sai sót thường gặp của truyền thông truyền thống trên giấy. Các tiêu chuẩn EDI đang được phổ biến và ứng dụng trong doanh nghiệp như các tiêu chuẩn của Liên hợp quốc hoặc tiêu chuẩn quốc tế: ANSI ASC X12, EDIFACT (hay UN/ EDIFACT), XML, TXT, . Các tiêu chuẩn EDI ra đời đầu tiên của Hoa Kỳ về việc vận chuyển hàng hóa do Ủy ban phối hợp dữ liệu giao thông vận tải (TDCC) đưa ra. Sau đó, chuẩn EDI được áp dụng trong một số ngành công nghiệp dựa trên nhu cầu cá nhân của ngành công nghiệp đó, bao gồm: WINS áp dụng cho công nghiệp kho bãi, VICS dùng cho ngành bán lẻ ở Mỹ và TRADACOMS bán lẻ ở Châu Âu, ngành công nghiệp hàng hải DISH, AIAG công nghiệp ô tô ở Mỹ hay Odette công nghiệp ô tô của Châu Âu,. Sau đó, các ứng dụng EDI là trưởng thành hơn. Vì đối tượng của hoạt động kinh doanh thường không được giới hạn trong một ngành công nghiệp duy nhất, do vậy vào năm 1979, Viện Tiêu chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ (ANSI) dựa theo tiêu chuẩn của TDCC và tham khảo tiêu chuẩn công nghiệp EDI khác cho ra đời tiêu chuẩn ANSI ASC X12. Mặt khác, châu Âu cũng phát triển tích hợp các tiêu chuẩn EDI vào đầu năm 1980 đề xuất TDI (tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu thương mại) và GTDI (Hướng dẫn cho trao đổi dữ liệu thương mại). Vì rất nhiều các doanh nghiệp tham gia vào thị trường quốc tế và trao đổi dữ liệu điện tử từ nhiều nước khác nhau nên phát sinh nhu cầu mở rộng EDI trên một cơ sở toàn cầu. Do đó, năm 1987, Liên hợp quốc đã cung cấp một tập tiêu chuẩn quốc tế EDIFACT (hay UN/ EDIFACT). Nó thực chất là tổ hợp của các tiêu chuẩn Hoa Kỳ ASC X12 với các tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu thương mại (TDI) được phát triển ở Anh và được dùng khắp Châu Âu. Do đó, Liên hợp quốc đã cung cấp một tập tiêu chuẩn quốc tế dưới sự quản lí chung của nhóm thực hiện trao đổi dữ liệu điện tử trong Hành chính, Thương mại và Vận tải của Liên hợp quốc (UN/CEFACT) thuộc Uỷ ban Kinh tế Liên hợp quốc về Châu Âu (UN/USE). Việc phát triển tiêu chuẩn EDI quốc tế EDIFACT (hay UN/ EDIFACT) được 2 tổ chức đó là ISO và tổ chức UN/CEFACT rất quan tâm. Hai tổ chức này đã hợp tác và phân công cùng xây dựng EDIFACT. Việc xây dựng các chuẩn, đăng kí thông điệp được tổ chức UN/USE chịu trách nhiệm, còn cú pháp và từ điển dữ liệu được thực hiện bởi tổ chức ISO. Tên gọi tắt EDIFACT được UN/USE công nhận vào năm 1987 và áp dụng theo những quy tắc cú pháp EDIFACT để đệ trình ISO. Và tổ chức ISO đã chấp nhận cú pháp của EDIFACT và cú pháp này trở thành một tiêu chuẩn quốc tế, được công bố rộng rãi. Chuẩn EDI được xây dựng và phát triển năm 1982 và đưa vào sử dụng năm 1985. Một bộ chuẩn EDI là một khung hướng dẫn cho các định dạng dữ liệu thống nhất dùng để tạo những phiên bản điện tử đọc được bằng máy tính thay thế cho tài liệu giấy truyền thống. - UN / EDIFACT là tiêu chuẩn quốc tế được Liên hợp quốc công bố, được sử dụng trong hầu hết các quốc gia bên ngoài Bắc Mỹ, gồm những lĩnh vực thương mại và giao thông vận tải. Một số các tập con của các tiêu chuẩn UN / EDIFACT:. TRADACOMS là tiêu chuẩn được phát triển bởi GS1 Anh là chiếm ưu thế trong thương mại bán lẻ của Anh. VDA chuẩn được sử dụng trong ngành công nghiệp ô tô châu Âu chủ yếu ở Đức. Trong đó, chuẩn EDIFACT (UN/ EDIFACT) và chuẩn ANSI ASC X12 là 2 chuẩn được sử dụng thông dụng nhất. Để ứng dụng quy trình EDI thì giữa các doanh nghiệp đối tác với nhau thì cần phải yêu cầu những bên tham gia cần phải tích hợp hệ thống EDI. Các bên đối tác tham gia sẽ gửi và nhận dữ liệu điện tử dưới dạng chuẩn EDI. Và hiện nay thông thường sử dụng dạng chuẩn là UN/EDIFACT. Bên gửi chuẩn bị tài liệu điện tử để gửi đi: Những dữ liệu điện tử của bên gửi sẽ được mã hóa dưới dạng chuẩn EDI dựa vào hệ thống phần mềm của họ trước khi gửi đi để đảm bảo an toàn, bảo mật dữ liệu khi truyền tải. Dịch dữ liệu để truyền tải: Từ bộ chuyển đổi của EDI, phong bì EDI cho dữ liệu modern cần truyền tải để chuẩn bị truyền dữ liệu thông qua các phương tiện điện tử. Dịch dữ liệu truyền tới: Tại đây với hệ thống phần mềm của mình, phía bên nhận dữ liệu điện tử truyền tới sẽ tiến hành dịch các dữ liệu mà phía bên gửi gửi tới thông qua bộ hệ thống phần mềm của họ dựa theo các chuẩn EDI đã được quy định. Xử lí dữ liệu điện tử nhận được: Dữ liệu sau khi được dịch sẽ được chuyển đến hệ thống điện tử để xử lý. Khi hoạt động, EDI sẽ rút thông tin từ những hoạt động hay lưu trữ của công ty và truyền tải thông tin dưới dạng máy tính đọc được qua các thiết bị viễn thông hoặc qua đường dây điện thoại. Ở phía bên nhận, dữ liệu có thể chuyển trực tiếp vào hệ thống máy tính của đối tác (bên nhận) và được xử lý hoàn toàn tự động với các ứng dụng nội bộ tại đây. Các chi phí liên quan đến giấy, in ấn, sao chép, lưu trữ hồ sơ, bưu chính và thu hồi tài liệu đều giảm hoặc loại bỏ khi bạn chuyển sang giao dịch EDI giúp giảm đi các chi phí giao dịch cho việc trao đổi thông tin, chi phí giấy tờ, thư tín. lợi ích củ EDI là có thể tăng tốc độ chu kỳ kinh doanh của các doanh nghiệp. Các giao dịch hối đoái trong vài phút thay vì ngày hay vài tuần thời gian chờ đợi từ các dịch vụ bưu chính thông thường. Cải thiện chất lượng thông tin, cung cấp thông tin một cách chính xác do giảm các lỗi sai sót vì nhập lại số liệu một cách thủ công nhiều lần. Sử dụng EDI có thể làm giảm thời gian chu chuyển dòng tiền mặt, cải thiện các giao dịch kinh doanh và các mối quan hệ với đối tác, khách hàng. Hệ thống lưu trữ của EDI giúp chắc chắn rằng văn bản đã được giao đến đối tác và có thể theo dõi lộ trình, đường đi của hàng hóa trong từng giai đoạn. Tự động hoá các công việc trên giấy cho phép nhân viên để tập trung vào các nhiệm vụ có giá trị cao hơn và cung cấp cho họ những công cụ để làm việc hiệu quả hơn. Lợi ích của trao đổi dữ liệu điện tử EDI là giúp giảm thiểu công sức của nhân viên và giúp hạn chế những chậm trễ hay sai lỗi thường đi kèm trong việc xử lý chứng từ bằng tay. Xử lý nhanh chóng các tài liệu kinh doanh một cách chính xác, giảm bớt tình trạng sai sót trong đơn đặt hàng, hóa đơn,… giúp giảm đi các trường hợp bồi thường, bị hủy bỏ đơn đặt hàng do sai lỗi. Tự động hoá việc trao đổi dữ liệu giữa các ứng dụng qua một chuỗi cung ứng có thể đảm bảo rằng dữ liệu kinh doanh quan trọng được gửi về thời gian và có thể được theo dõi trong thời gian thực. Người bán được hưởng lợi từ việc cải thiện dòng tiền và giảm chu kỳ dòng vận chuyển tiền mặt. Chu trình giao dịch thương mại nhanh hơn, giúp đáp ứng nhu cầu khách hàng hiệu quả hơn. Tạo cơ hội thúc đẩy các hoạt động cung cấp và sản xuất nhằm tăng khả năng cạnh tranh. EDI cho phép khả năng hiển thị thời gian thực vào trạng thái giao dịch. Điều này sẽ cho phép doanh nghiệp đưa ra quyết định nhanh hơn để đáp ứng với sự thay đổi nhu cầu của thị trường, cho phép doanh nghiệp áp dụng một mô hình kinh doanh theo nhu cầu chứ không phải là một nguồn cung cấp định hướng. Rút ngắn thời gian giao hàng, cải tiến sản phẩm và phân phối sản phẩm mới. Thúc đẩy trách nhiệm xã hội và phát triển bền vững bằng cách thay thế các quy trình dựa trên giấy tờ bằng các quy trình điện tử. EDI là cần thiết để vận chuyển các dữ liệu cần thiết từ máy tính gửi qua các điểm trung gian bất kỳ tới máy tính nhận. Dựa trên giao thức Internet, có những tiêu chuẩn truyền thông ngoài việc vận chuyển dữ liệu còn có các tiêu chuẩn về mã hóa, xác thực và nén. Các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Cách đăng ký nhận hỗ trợ từ Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia. - Tư vấn ứng dụng cho smartphone và máy tính bảng, tư vấn ứng dụng vận tải thông minh, thực tế ảo, game mobile,. - Tư vấn các hệ thống theo mô hình kinh tế chia sẻ như Uber, Grab, ứng dụng giúp việc,. - Tư vấn và xây dựng mạng xã hội, tư vấn giải pháp CNTT cho doanh nghiệp, startup,. - Tư vấn ứng dụng cho smartphone và máy tính bảng, tư vấn ứng dụng vận tải thông minh, thực tế ảo, game mobile,. - Tư vấn các hệ thống theo mô hình kinh tế chia sẻ như Uber, Grab, ứng dụng giúp việc,. - Tư vấn và xây dựng mạng xã hội, tư vấn giải pháp CNTT cho doanh nghiệp, startup,. Các nền tảng công nghệ hỗ trợ cho KHỞI NGHIỆP và CHUYỂN ĐỔI SỐ tiết kiệm, hiệu quả,.
Trao đổi dữ liệu điện tử
Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange - EDI) là sự truyền thông tin từ máy tính gửi đến máy tính nhận bằng phương tiện điện tử, trong đó có sử dụng một số định dạng chuẩn nhất định nào đó. Theo Luật thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp quốc, việc trao đổi dữ liệu điện tử được định nghĩa như sau: "Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) là việc chuyển giao thông tin từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác bằng phương tiện điện tử, có sử dụng một tiêu chuẩn đã được thỏa thuận để cấu trúc thông tin".EDI là hình thức thương mại điện tử đầu tiên được sử dụng trong doanh nghiệp, và đã tồn tại nhiều năm trước đây, trước khi chúng ta nói tới thuật ngữ thương mại điện tử. Cho đến nay EDI vẫn là các giao dịch quan trọng bậc nhất trong thương mại điện tử B2B. Các dữ liệu giao dịch trong giao dịch B2B bao gồm các thông tin được chứa đựng trong các hoá đơn, phiếu đặt hàng, yêu cầu báo giá, vận đơn và báo cáo nhận hàng.
Nguyệt thực là một hiện tượng thiên văn kỳ thú của vũ trụ mà con người có thể quan sát được từ Trái Đất. Vậy nguyệt thực là gì? Khi nào xảy ra nguyệt thực? Sự khác nhau giữa nguyệt thực và nhật thức là gì? Những thông tin chia sẻ trong bài viết dưới đây của thegioimay.org sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về hiện tượng này nhé!. Nguyệt thực xuất hiện từ rất lâu và có khá nhiều huyền thoại khác nhau để giải thích về hiện tượng nguyệt thực. Với người Ai Cập cổ đại, họ cho rằng nguyệt thực xuất hiện là do mặt trăng bị một con lợn nái khổng lồ nuốt chửng trong thời gian ngắn. Một số nền văn hóa khác xem nguyệt thực là việc mặt trăng bị các động vật khác nuốt chửng. Điền hình như người Maya truyền thống cho rằng mặt trăng bị nuốt chửng bởi con báo đốm Mỹ. Người Trung Quốc xưa cho rằng nó bị con cóc ba chân “ăn mất”. Ở Việt Nam, chúng ta cũng có một huyền thoại về nguyệt thực gắn liền với sự tích “Gấu ăn mặt trăng”. Tuy nhiên, đó chỉ là những huyền thoại do con người sáng tạo và tưởng tượng ra. Thực tế, nguyệt thực là một hiện tượng thiên văn học, xảy ra khi mặt tăng đi vào hình chóp bóng của trái đất và nằm ở phía đối diện với mặt trời. Mặt trăng không thể tự phát ra ánh sáng được mà chúng ta nhìn thấy mặt trăng là do nó phản xạ lại ánh sáng của mặt trời chiếu đến từ bề mặt. Vì vậy, nguyệt thực sẽ xuất hiện khi mặt trăng – trái đất – mặt trời nằm thẳng hàng nhau hoặc xấp xỉ thẳng hàng nhau và trái đất nằm ở giữa. Khi đó, mặt trăng bị trái đất che khuất nên không thể nhận được ánh sáng từ mặt trời để phản xạ lại. Chiếu theo quỹ đạo dịch chuyển của mặt trăng, nguyệt thực chỉ xảy ra vào những ngày trăng tròn, hay còn gọi là trăng rằm Âm lịch. Đó cũng là lý do giải thích vì sao nguyệt thực thường xảy ra vào đêm rằm. Mỗi năm sẽ có tối thiểu là hai lần nguyệt thực và hai lần nguyệt thực. Tùy vào từng năm, con số này có thể lớn hơn nhưng không bao giờ vượt quá 8 lần/ năm. Nguyệt thực được chia làm 3 loại chính là: toàn phần, một phần và nửa tối. Đây là hiện tượng được nhiều người trông đợi bởi nó có một vẻ đẹp hoàn hảo và sức hút đặc biệt. Hiện tượng này xảy ra khi mặt trăng di chuyển vào vùng tối của trái đất. Khi đó, mặt trăng – trái đất – mặt trời cùng nằm trên một thường thẳng và mặt trăng bị trái đất che lấp hoàn toàn. Khi nguyệt thực xảy ra, chỉ có các tia có bước sóng dài như tia màu đỏ của mặt trời mới có thể chiếu được tới mặt trăng. Còn những tia có bước sóng ngắn không thể chiếu được đến do sự tán xạ Rayleigh. Do vậy, mặt trăng chỉ có thể phản xạ lại ánh sáng đỏ này. Khi quan sát từ mặt đất, ta thấy mặt trăng có màu tối đỏ, gọi là hiện tượng nguyệt thực đỏ, hay chính là hiện tượng trăng má.u. Nguyệt thực toàn phần diễn ra trong thời gian tối đa là 104 phút (trường hợp này thường hay tái diễn lại). Nguyệt thực một phần xảy ra khi mặt trời – trái đất – mặt trăng cùng nằm trên một đường gần thẳng. Lúc này, mặt trăng đã bị trái đất che khuất một phần, ánh trăng mờ hẳn đi và có thể thấy được bóng màu đỏ sẫm hoặc màu đen của trái đất đang che mặt trăng. Nguyệt thực một phần thường xảy ra trước và sau khi nguyệt thực toàn phần xuất hiện và kéo dài trong khoảng 6 giờ. Xảy ra khi mặt trăng di chuyển vào vùng bóng nửa tối của trái đất. Khi đó ánh sáng của mặt trăng sẽ mờ và tối. Nguyệt thực nửa tối rất khó để quan sát nếu không có sự hỗ trợ của các thiết bị quan sát thiên văn. Nhật thực và nguyệt thực đều là những hiện tượng thiên nhiên kỳ thú của vũ trụ. Cả hai hiện tượng này đều xảy ra khi mặt trăng, mặt trời và trái đất cùng nằm trên một đường thẳng. Tuy nhiên, vị trí của mặt trời, mặt trăng và trái đất trong hai hiện tượng trên có sự khác biệt. Cụ thể như sau:. Nhật thực xảy ra khi mặt trời, mặt trăng và trái đất cùng nằm trên một đường thẳng hoặc gần thẳng hàng nhau. Lúc này, mặt trăng sẽ nằm giữa mặt trời và trái đất nên mặt trăng bị phủ một phần hoặc toàn bộ ánh sáng mặt trời chiếu lên trái đất. Từ đó, dẫn đến hiện tượng “trời tối giữa ban ngày”, hay là nhật thực. Nguyệt thực lại xảy khi trái đất, mặt trời và mặt trăng cùng nằm trên một đường thẳng và trái đất nằm ở giữa. Mặt trăng chỉ phản xạ lại ánh sáng mặt trời mà không có khả năng tự phát sáng. Vì vậy, khi trái đất nằm ở giữa đã che khuất toàn bộ ánh sáng mặt trời chiếu lên mặt trăng. Từ đó, hiện tượng nguyệt thực xuất hiện. Tùy thuộc vào vị trí của mặt trăng, mặt trời và trái đất mà nguyệt thực và nhật thực được chia thành nhiều loại khác nhau. Cụ thể như sau:. Nhật thực toàn phần: Xảy ra khi mặt trời, mặt trăng, trái đất cùng nằm thẳng hàng trên một đường thẳng. Mặt trăng ở rất gần trái đất nên nó che phủ toàn bộ mặt trời. Nhật thực một phần: Xảy ra khi mặt trời, mặt trăng, trái đất không hoàn toàn nằm thẳng hàng trên một đường thẳng. Khi đó, mặt trăng chỉ có thể che khuất một phần của mặt trời. Nhật thực hình khuyên: Xảy ra khi mặt trời, mặt trăng, trái đất cùng nằm trên một đường thẳng nhưng do mặt trăng ở vị trí khá xa so với trái đất nên nó không có khả năng che hết toàn bộ mặt trời mà chỉ tạo thành một chấm tròn màu đen ở giữa. Nguyệt thực cũng được chia thành 3 loại là: Toàn phần, một phần và nửa tối. Nội dung cụ thể của từng loại nguyệt thực chúng tôi đã chia sẻ rất rõ ở phần “Các loại nguyệt thực”. Nhật thực thường xảy ra ít nhất là 2 lần và tối đa là 5 lần trong một năm. Trong khi đó, nguyệt thực chỉ xảy ra khoảng từ 1 – 2 lần/ năm. Trong vòng 5 năm sẽ có 1 năm không xuất hiện nguyệt thực. Lịch sử thiên văn học ghi nhận chưa năm nào xảy ra 8 lần nguyệt thực và nhật thực. Hơn nữa, nguyệt thực thường ít xuất hiện hơn nhưng có thể dễ dàng quan sát được bằng mắt thường bởi hình ảnh nguyệt thực thường mờ hơn nhiều so với hình ảnh thực của mặt trăng. Vì vậy, chúng ta có thể nhìn nguyệt thực mà không cần sự hỗ trợ của bất kỳ dụng cụ thiên văn nào. Bên cạnh đó, nguyệt thực thường kéo dài trong vài giờ nên đủ thời gian để chúng ta có thể chiêm ngưỡng trọn vẻ đẹp của nó. Trong khi đó, nhật thực chỉ kéo dài trong vài phút. Hy vọng với những chia sẻ trên sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hiện tượng nguyệt thực là gì, sự khác nhau giữa nguyệt thực và nhật thực. Nếu bạn có thông tin chia sẻ thêm về hiện tượng thiên nhiên kỳ thú này, hãy để lại thông tin bằng cách comment vào dưới bài nhé! Chúng tôi luôn sẵn sàng đón nhận những kiến thức mới từ độc giả để hoàn thiện thêm cho bài viết!
Nhật thực
Nhật thực là hiện tượng xảy ra khi Mặt Trăng đi qua giữa Trái Đất và Mặt Trời trên cùng một đường thẳng và quan sát từ Trái Đất, lúc đó Mặt Trăng che khuất hoàn toàn hay một phần Mặt Trời. Điều này chỉ có thể xảy ra tại thời điểm trăng non khi nhìn từ Trái Đất, lúc Mặt Trời bị Mặt Trăng che khuất và bóng của Mặt Trăng phủ lên Trái Đất. Trong lúc nhật thực toàn phần, đĩa Mặt Trời bị che khuất hoàn toàn. Với nhật thực một phần hoặc hình khuyên, đĩa Mặt Trời chỉ bị che khuất một phần. Nếu Mặt Trăng có quỹ đạo tròn hoàn hảo, gần hơn Trái Đất một chút, và trong cùng mặt phẳng quỹ đạo, sẽ có nhật thực toàn phần xảy ra mỗi lần trong một tháng. Tuy nhiên, quỹ đạo của Mặt Trăng nghiêng hơn 5° so với mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời (xem mặt phẳng hoàng đạo), do vậy bóng của Mặt Trăng lúc trăng non thường không chiếu lên Trái Đất. Để hiện tượng nhật thực cũng như nguyệt thực xảy ra, Mặt Trăng phải đi qua mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất.
Công nghệ hàn vảy là gì? Hàn vảy là phương pháp nối các chi tiết kim loại hoặc hợp kim ở trạng thái rắn nhờ một kim loại trung gian gọi là vảy hàn (kim loại có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn kim loại chi tiết hàn). Sự hình thành mối hàn ở đây chủ yếu dựa vào quá trình hòa tan và khuếch tán của vảy hàn (do vảy hàn chảy) vào kim loại vật hàn ở chỗ nối cho đến khi vảy hàn đông đặc. – Do không gây ra sự thay đổi thành phần hóa học của kim loại vật hàn, vùng ảnh hưởng nhiệt không có, do vậy vật hàn không bị biến dạng. – Có thể hàn được kết cấu phức tạp mà các phương pháp hàn khác khó thực hiện được. Vảy hàn và thuốc hàn là các yếu tố quan trọng trong hàn vảy, vảy hàn thường là những kim loại hoặc hợp kim có khả năng khuếch tán và liên kết với các kim loại khác. Vảy hàn: Tùy thuộc vào hình dáng của vật hàn, kim loại của vật hàn mà có nhiều loại vảy hàn. Nếu căn cứ vào nhiệt độ nóng chảy của vảy hàn có thể chia ra làm hai nhóm sau:. – Vảy hàn mềm: có nhiệt độ thấp hơn 450oC, có độ cứng nhỏ, tính chất cơ học thấp. Loại vảy hàn này dùng để hàn các chi tiết chịu lực nhỏ, làm việc trong điều kiện nhiệt độ thấp. – Vảy hàn cứng có nhiệt độ nóng chảy tương đối cao (>500oC) thường từ 720 – 900oC. Vảy hàn này có độ cứng và độ bền cơ học tương đối cao. Vảy hàn cứng dùng để hàn các chi tiết chịu lực lớn. Ví dụ trong chế tạo máy, dùng vảy hàn cứng để hàn mảnh hợp kim cứng lên thân dao bằng thép kết cấu …. Thuốc hàn là vật liệu hàn cần thiết để làm sạch mối hàn và thúc đẩy quá trình hòa tan và khuếch tán của vảy hàn vào kim loại cơ bản. Tùy thuộc loại vảy hàn mà sử dụng thuốc hàn khác nhau. Để giảm ứng suất nhiệt xuất hiện trong miếng hợp kim cứng, khi hàn thường dùng miếng đệm bằng thép ít cacbon hoặc hợp kim pecmalôi. Việc sử dụng miếng đệm này rất có tác dụng, nhất là khi hàn các hợp kim cứng titan-vonfram vàtitan-tantan-vofram. Mục lục1 Các mác Đồng Hợp Kim1.0.1 Tính chất cơ học của hợp kim đồng
Hàn (công nghệ)
Trong công nghệ chế tạo cơ khí, hàn là danh từ chỉ một quá trình dùng để liên kết các chi tiết (kết cấu) hoặc đắp phủ lên bề mặt vật liệu (kim loại hoặc phi kim) để tạo nên một lớp bề mặt có tính năng đáp ứng yêu cầu sử dụng. Hàn là quá trình công nghệ để nối các chi tiết với nhau thành liên kết không tháo rời được mang tính liên tục ở phạm vi nguyên tử hoặc phân tử, bằng cách đưa chỗ nối tới trạng thái nóng chảy, thông qua việc sử dụng một trong hai yếu tố là nhiệt và áp lực, hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó. Khi hàn, có thể sử dụng hoặc không sử dụng vật liệu phụ bổ sung. Hàn gió đá (còn gọi là Hàn khí): Hàn gió (Oxy) đá (Acetylen hay gas)(gas welding).Phương pháp này sử dụng các khí trên để gia nhiệt cho chi tiết hàn đạt tới trạng thái nóng chảy và liên kết với nhau. Khi hàn có thể dùng vật liệu để điền thêm (filler rod) vào vị trí hàn hoặc không. Hàn hồ quang điện (arc welding), gọi tắt là Hàn điện hay Hàn que.
Các bảng tuần hoàn là một sự sắp xếp bảng của nguyên tố hóa học bằng cách tăng số nguyên tử hiển thị các yếu tố để người ta có thể thấy xu hướng trong tài sản của họ . Các nhà khoa học Nga Dmitri Mendeleev thường được ghi nhận với phát minh ra bảng tuần hoàn (1869) mà từ đó các bảng hiện đại có nguồn gốc. Mặc dù bảng Mendeleev của lệnh các yếu tố theo tăng trọng lượng nguyên tử chứ không phải là số nguyên tử, bảng mình minh họa xu hướng lặp đi lặp lại hoặc chu kỳ trong các thuộc tính nguyên tố. Bảng tuần hoàn là một sự sắp xếp bảng của các yếu tố hóa học được bố trí bằng cách tăng số lượng nguyên tử và các nhóm yếu tố theo tính chất định kỳ. Bảy hàng của bảng tuần hoàn được gọi là giai đoạn. Các hàng được sắp xếp sao cho kim loại đang ở phía bên trái của bảng và phi kim đang ở phía bên phải. Các cột được gọi là nhóm. Nhóm chứa các thành phần có tính chất tương tự. Cấu trúc của bảng tuần hoàn làm cho nó có thể nhìn thấy mối quan hệ giữa các yếu tố tại aa nhanh chóng và dự đoán tính chất của các yếu tố quen thuộc, mới được phát hiện, hoặc chưa được khám phá. Có bảy hàng của bảng tuần hoàn, được gọi là thời kỳ . Yếu tố số nguyên tử tăng di chuyển từ trái sang phải qua một thời kỳ. Các yếu tố về phía bên trái của một khoảng thời gian là kim loại, trong khi những người ở phía bên phải là phi kim. Các cột của các yếu tố được gọi là nhóm hoặc gia đình . Nhóm được đánh số từ 1 (kim loại kiềm) đến 18 (khí trơ). Các yếu tố trong một nhóm hiển thị một mô hình với bán kính sự tôn trọng nguyên tử, độ âm điện và năng lượng ion hóa. Bán kính nguyên tử tăng di chuyển xuống một nhóm, như các yếu tố liên tiếp đạt được một mức năng lượng electron. Độ âm điện giảm di chuyển xuống một nhóm vì thêm một vỏ electron đẩy các electron hóa trị thêm từ hạt nhân. Di chuyển xuống một nhóm, các yếu tố có năng lượng ion hóa liên tục thấp hơn bởi vì nó trở nên dễ dàng để loại bỏ một electron từ vỏ ngoài cùng. Khối là các phần của bảng tuần hoàn mà chỉ ra subshell electron ngoài cùng của nguyên tử. Các s-block bao gồm hai nhóm đầu tiên (các kim loại kiềm và đất kiềm), hydro, và heli. Các p-block bao gồm các nhóm từ 13 đến 18. Các d-block bao gồm các nhóm từ 3 đến 12, đó là kim loại chuyển tiếp. Các e-block bao gồm hai giai đoạn dưới phần chính của bảng tuần hoàn (các nguyên tố nhóm Lantan và actinides). Ba loại chính của các yếu tố là kim loại, á kim hoặc semimetals, và phi kim. nhân vật kim loại cao nhất ở góc bên trái phía dưới của bảng tuần hoàn, trong khi các yếu tố phi kim loại nhất là ở góc trên. Phần lớn các nguyên tố hóa học là kim loại. Kim loại có xu hướng lấp lánh (kim loại ánh), cứng, dẫn điện, và khả năng hình thành các hợp kim. Phi kim có xu hướng mềm mại, màu, cách điện, và khả năng hình thành các hợp chất với kim loại. Á kim hiển thị thuộc tính trung gian giữa những kim loại và phi kim. Về phía bên phải của bảng tuần hoàn, quá trình chuyển đổi kim loại thành phi kim. Có một cầu thang hình-bắt đầu thô tại boron và trải qua silicon, germanium, asen, antimon, tellurium, và polonium-đó xác định các á kim. Tuy nhiên, các nhà hóa học ngày càng phân loại các yếu tố khác như á kim, bao gồm carbon, phốt pho, gali, và những người khác. Dmitri Mendeleev và Lothar Meyer đã xuất bản một cách độc lập bảng tuần hoàn vào năm 1869 và năm 1870, tương ứng. Tuy nhiên, Meyer đã công bố một phiên bản trước đó vào năm 1864. Cả hai Mendeleev và Meyer tổ chức các yếu tố bằng cách tăng trọng lượng nguyên tử và các yếu tố tổ chức theo đặc điểm lặp đi lặp lại. Một số bảng khác trước đây được sản xuất. Antoine Lavoisier tổ chức các yếu tố vào kim loại, phi kim, và các loại khí trong năm 1789. Năm 1862, Alexandre-Emile Béguyer de Chancourtois công bố một bảng tuần hoàn gọi là xoắn chất hóa học hoặc vít. Bảng này có lẽ là người đầu tiên tổ chức các yếu tố theo các thuộc tính định kỳ. “Trọng lượng nguyên tử của các nguyên tố năm 2013 (Báo cáo kỹ thuật IUPAC)”. Tinh khiết và Hóa học Ứng dụng . Các bảng tuần hoàn là một sự sắp xếp bảng của nguyên tố hóa học bằng cách tăng số nguyên tử hiển thị các yếu tố để người ta có thể thấy xu hướng trong tài sản của họ . Các nhà khoa học Nga Dmitri Mendeleev thường được ghi nhận với phát minh ra bảng tuần hoàn (1869) mà từ đó các bảng hiện đại có nguồn gốc. Mặc dù bảng Mendeleev của lệnh các yếu tố theo tăng trọng lượng nguyên tử chứ không phải là số nguyên tử, bảng mình minh họa xu hướng lặp đi lặp lại hoặc chu kỳ trong các thuộc tính nguyên tố. Bảng tuần hoàn là một sự sắp xếp bảng của các yếu tố hóa học được bố trí bằng cách tăng số lượng nguyên tử và các nhóm yếu tố theo tính chất định kỳ. Bảy hàng của bảng tuần hoàn được gọi là giai đoạn. Các hàng được sắp xếp sao cho kim loại đang ở phía bên trái của bảng và phi kim đang ở phía bên phải. Các cột được gọi là nhóm. Nhóm chứa các thành phần có tính chất tương tự. Cấu trúc của bảng tuần hoàn làm cho nó có thể nhìn thấy mối quan hệ giữa các yếu tố tại aa nhanh chóng và dự đoán tính chất của các yếu tố quen thuộc, mới được phát hiện, hoặc chưa được khám phá. Có bảy hàng của bảng tuần hoàn, được gọi là thời kỳ . Yếu tố số nguyên tử tăng di chuyển từ trái sang phải qua một thời kỳ. Các yếu tố về phía bên trái của một khoảng thời gian là kim loại, trong khi những người ở phía bên phải là phi kim. Các cột của các yếu tố được gọi là nhóm hoặc gia đình . Nhóm được đánh số từ 1 (kim loại kiềm) đến 18 (khí trơ). Các yếu tố trong một nhóm hiển thị một mô hình với bán kính sự tôn trọng nguyên tử, độ âm điện và năng lượng ion hóa. Bán kính nguyên tử tăng di chuyển xuống một nhóm, như các yếu tố liên tiếp đạt được một mức năng lượng electron. Độ âm điện giảm di chuyển xuống một nhóm vì thêm một vỏ electron đẩy các electron hóa trị thêm từ hạt nhân. Di chuyển xuống một nhóm, các yếu tố có năng lượng ion hóa liên tục thấp hơn bởi vì nó trở nên dễ dàng để loại bỏ một electron từ vỏ ngoài cùng. Khối là các phần của bảng tuần hoàn mà chỉ ra subshell electron ngoài cùng của nguyên tử. Các s-block bao gồm hai nhóm đầu tiên (các kim loại kiềm và đất kiềm), hydro, và heli. Các p-block bao gồm các nhóm từ 13 đến 18. Các d-block bao gồm các nhóm từ 3 đến 12, đó là kim loại chuyển tiếp. Các e-block bao gồm hai giai đoạn dưới phần chính của bảng tuần hoàn (các nguyên tố nhóm Lantan và actinides). Ba loại chính của các yếu tố là kim loại, á kim hoặc semimetals, và phi kim. nhân vật kim loại cao nhất ở góc bên trái phía dưới của bảng tuần hoàn, trong khi các yếu tố phi kim loại nhất là ở góc trên. Phần lớn các nguyên tố hóa học là kim loại. Kim loại có xu hướng lấp lánh (kim loại ánh), cứng, dẫn điện, và khả năng hình thành các hợp kim. Phi kim có xu hướng mềm mại, màu, cách điện, và khả năng hình thành các hợp chất với kim loại. Á kim hiển thị thuộc tính trung gian giữa những kim loại và phi kim. Về phía bên phải của bảng tuần hoàn, quá trình chuyển đổi kim loại thành phi kim. Có một cầu thang hình-bắt đầu thô tại boron và trải qua silicon, germanium, asen, antimon, tellurium, và polonium-đó xác định các á kim. Tuy nhiên, các nhà hóa học ngày càng phân loại các yếu tố khác như á kim, bao gồm carbon, phốt pho, gali, và những người khác. Dmitri Mendeleev và Lothar Meyer đã xuất bản một cách độc lập bảng tuần hoàn vào năm 1869 và năm 1870, tương ứng. Tuy nhiên, Meyer đã công bố một phiên bản trước đó vào năm 1864. Cả hai Mendeleev và Meyer tổ chức các yếu tố bằng cách tăng trọng lượng nguyên tử và các yếu tố tổ chức theo đặc điểm lặp đi lặp lại. Một số bảng khác trước đây được sản xuất. Antoine Lavoisier tổ chức các yếu tố vào kim loại, phi kim, và các loại khí trong năm 1789. Năm 1862, Alexandre-Emile Béguyer de Chancourtois công bố một bảng tuần hoàn gọi là xoắn chất hóa học hoặc vít. Bảng này có lẽ là người đầu tiên tổ chức các yếu tố theo các thuộc tính định kỳ. “Trọng lượng nguyên tử của các nguyên tố năm 2013 (Báo cáo kỹ thuật IUPAC)”. Tinh khiết và Hóa học Ứng dụng .
Bảng tuần hoàn
Bảng tuần hoàn (tên đầy đủ là Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, còn được biết với tên Bảng tuần hoàn Mendeleev), là một phương pháp liệt kê các nguyên tố hóa học thành dạng bảng, dựa trên số hiệu nguyên tử (số proton trong hạt nhân), cấu hình electron và các tính chất hóa học tuần hoàn của chúng. Các nguyên tố được biểu diễn theo trật tự số hiệu nguyên tử tăng dần, thường liệt kê cùng với ký hiệu hóa học trong mỗi ô. Dạng tiêu chuẩn của bảng gồm các nguyên tố được sắp xếp thành 18 cột và 7 dòng, với hai dòng kép nằm riêng nằm bên dưới cùng. Các hàng trong bảng gọi là các chu kỳ, trong khi các cột gọi là các nhóm, một số có tên riêng như halogen hoặc khí hiếm. Bởi vì theo định nghĩa một bảng tuần hoàn thể hiện những xu hướng tuần hoàn, bất kỳ bảng dưới dạng nào cũng có thể dùng để suy ra mối quan hệ giữa các tính chất của nguyên tố và tiên đoán tính chất của những nguyên tố mới, chưa được khám phá hoặc chưa tổng hợp được.
Truyện ngụ ngôn là gì? Có lẽ chúng ta đã không còn nhớ rõ khái niệm này đã từng học tại môn ngữ văn hồi cấp 2 rồi. Bây giờ chúng ta sẽ lược qua đôi nét về thể loại văn học này qua bài viết sau nhé!. Nội dung truyện ngụ ngôn1. Truyện ngụ ngôn có nội dung đả kích giai cấp thống trị.2. Truyện ngụ ngôn phê phán thói hư tật xấu con người3. Truyện ngụ ngôn mang tính triết lý, quan niệm nhân sinh. Truyện ngụ ngôn là truyện dân gian được kể bằng văn vần hoặc văn xuôi, mang tính giáo dục. Dùng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ các loài vật, con người nhằm nêu lên luân lý, triết lý và quan niệm nhân sinh hoặc là để phơi bày, phúng dụ về những thói hư thật xấu, thực tế xã hội nhằm răn dạy, khuyên nhủ con người . Đều là thể loại truyện ngụ ngôn nhưng ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực có tên gọi hoàn toàn khác nhau. Ở Nga truyện ngụ ngôn được gọi là Basnia, còn ở Pháp lại gọi là Fable. Truyện ngụ ngôn ra đời khá là lâu, theo như nghiên cứu các nhà sử học thì nó đã xuất hiện thời cổ đại tại các nền văn hóa của các dân tộc như Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp, Ai Cập… Trong cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, con người thường quan sát tìm hiểu các con vật, nhận thấy một số đặc tính tiêu biểu rồi gán ghép với tính cách con người. Con người thường dùng những câu chuyện về loài vật để nói về chính mình, từ đó truyện ngụ ngôn ra đời. Truyện ngụ ngôn tại Việt Nam cũng ảnh hưởng một phần lớn bởi truyện ngụ ngôn Trung Quốc. Nhân dân thường dùng những hình tượng cụ thể, gần gũi, tiêu biểu rồi đem ẩn dụ, ví von nhằm diễn đạt cái trừu tượng. Truyện ngụ ngôn thường ngắn gọn, đơn giản nên có thể lưu truyền bằng văn nói lẫn văn viết. Tại các hình thái xã hội, giai cấp thống trị luôn có những kẻ lợi dụng quyền thế để chà đạp, bóc lột, cướp của hại người. Nhân dân dùng truyện ngụ ngôn làm vũ khí đấu tranh, đả kích thói ngang ngược, hách dịch của tầng lớp thống trị. Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, ông cha ta đã đúc rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm thực tiễn. Họ mượn truyện ngụ ngôn để truyền tải đó nhằm khuyên răn con người sống cần phải có tình đoàn kết ( Câu chuyện bó đũa), bản thân phải có chính kiến và lập trường ( Đẽo cày giữa đường), sự kiên trì và sáng tạo ( Con quạ và cái bình bước). Đa phần các tác phẩm truyện ngụ ngôn đều lấy hình tượng của các con thú, gia súc… cùng với đó là những đặc điểm của chúng như cáo thì ranh mãnh, thỏ thường nhút nhát… Để phúng dụ những tồn tại của xã hội hiện thực, để châm biếm, chế diễu thói xấu con người. Những câu chuyện thường hay mang tính hài hước buồn cười được tạo dựng bởi nhân vật và sự kiện đơn giản. Kết cấu truyện ngụ ngôn thường ngắn, tình tiết không phức tạp gắn liền với hiện thực đời sống, mọi người đều dẽ nhớ, dễ tiếp thu hơn so với rất nhiều thể loại văn học khác. Tuy phần nội dung mang tính giải trí, nhưng phần ý nghĩa được ẩn chứa trong cốt truyện cần người đọc tự rút ra. Đó là những bài học lý lẽ, đạo đức, những chiêm nghiệm về cuộc đời, quan niệm nhân sinh. Giá trị mà truyện ngụ ngôn đem lại cho kho tàng văn học dân gian rất lớn bởi nó quá chân thực đời thường, tuy câu chuyện ngắn nhưng ý nghĩa lại thấm thía, lắng đọng, sâu xa. Đọc truyện ngụ ngôn hay đem lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá để nâng cao nhân cách, đạo đức, và những kinh nghiệm sâu sắc cho bản thân.
Ngụ ngôn
Ngụ ngôn là một thể loại của văn học giáo huấn, mang nội dung đạo đức,giáo dục có hình thức thơ hoặc văn xuôi tương đối ngắn, sử dụng phúng dụ như một nguyên tắc tổ chức tác phẩm. Ngụ ngôn là một trong những thể loại tự sự cổ xưa nhất, ở olklore của mọi dân tộc đều có thơ hoặc truyện ngụ ngôn. Ngụ ngôn xuất hiện trước công nguyên trong kho tàng văn hóa các dân tộc như Hy Lạp, Ấn Độ, Ai Cập, Trung Hoa. và xa xưa nhất có thể tính đến là những tác phẩm ngụ ngôn nửa thực nửa truyền thuyết tương truyền do Ezop sáng tác, có tầm ảnh hưởng sâu rộng sang cả vùng Trung Đông rồi ngược về phương Tây với Panchatantra của Ấn Độ thế kỷ 3 trước công nguyên, Calila và Dimna thế kỷ 8 ở Syria, Arab; Stefanit và Ichnilat ở Byzance và Nga v.v. Một dòng khác tiếp tục tồn tại ở đế chế La Mã, vùng Tây Âu thời trung đại với Romul bằng tiếng Latinh, Isopette bằng tiếng Pháp, và cận đại với ngụ ngôn J. La Fontaine, K. F. Hellert, T. de Iriarte, L. Holberg, I. Krasicki v.v.).
Lực lượng sản xuất là cụm từ dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người. Trong đời sống hàng ngày chúng ta vẫn hay nghe tới khái niệm lực lượng sản xuất, nhưng không phải ai cũng hiểu được rõ bản chất của lực lượng sản xuất là gì? Theo nhà kinh tế – chính trị học cổ điển của Anh, William Petty thì: “Bất cứ xã hội nào không thể chỉ có người lao động. Một lực lượng để sản xuất ra của cải phải bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất”. Chính vì vậy những yếu tố đó đã tạo thành cái gọi là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất đóng một vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, Quý khách hàng đừng bỏ lỡ bài viết với chủ đề Lực lượng sản xuất là gì? dưới đây của Luật Hoàng Phi. Lực lượng sản xuất là cụm từ dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ,… của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò phản ánh căn bản trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và kỹ năng lao động và tư liệu sản xuất. Quá trình sản xuất, công cụ lao động cũng tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất, tư liệu sản xuất được hoàn thiện nhằm đạt năng suất lao động cao. Có thể thấy yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con người. Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như ngày nay đã biến đổi to lớn trong nền sản xuất và đời sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất nó hoàn toàn có thể coi là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất sẽ gồm có tư liệu sản xuất, trong đó công cụ sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên của con người và người lao động và năng lực sáng tạo là một yếu tố đặc biệt quan trọng. Ngoài giải đáp câu hỏi lực lượng sản xuất là gì? thì một vấn đề luôn được nhắc cùng với lực lượng sản xuất đó là quan hệ sản xuất. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được hiểu là mối quan hệ biện chứng tạo thành quá trình sản xuất hiện thực của xã hội. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cũng là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong đó vai trò quyết định thuộc về lực lượng sản xuất, còn quan hệ sản xuất giữ vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Đây được coi như yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội. Điều này được thể hiện ở chỗ quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; vì quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất còn lực lượng sản xuất được coi là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình này. Quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất nên luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động. Sự tác động này có thể diễn ra một cách tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng và nhu cầu khách quan của sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn cần được giải quyết để thúc đẩy sự tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất và sức lao động mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó quan trọng nhất là sức lao động. Tư liệu sản xuất bao gồm công cụ lao động và đối tượng lao động .Trong đó,trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người,là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Bất cứ xã hội nào không thể chỉ có người lao động. Một lực lượng để sản xuất ra của cải phải gồm có người lao động và tư liệu sản xuất. Do đó hai yếu tố này tạo thành cái gọi là lực lượng sản xuất. Ngày nay khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Có thể nói,khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Lực lượng sản xuất phản ánh mối quan hệ và tác động của con người với tự nhiên.