source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
Pháp (tiếng Phạn: dharma, tiếng Pali: Dhamma, tiếng Hán: fă 法 ) là một danh từ rắc rối, khó sử dụng cho đúng nghĩa; tuy vậy, Pháp là một trong những thuật ngữ quan trọng và thiết yếu nhất trong Phật Giáo. Pháp có nhiều nghĩa khác nhau. Bài viết này nhằm tổng hợp các bài viết, những định nghĩa về Pháp từ các từ điển Phật giáo khác nhau, nhằm giúp cho bạn đọc có thêm lợi ích khi thực hành và đọc tụng kinh điển mà bắt gặp từ Pháp. Pháp: Dhamma (pali), Dharma (sanskrit – Phạn ngữ), Doctrine Pháp là một danh từ rắc rối, khó sử dụng cho đúng nghĩa; tuy vậy, pháp là một trong những thuật ngữ quan trọng và thiết yếu nhất trong Phật Giáo. Pháp có nhiều nghĩa:. b) Thứ hai, pháp được dùng với nghĩa “hiện hữu,” hay “hữu thể,” “đối tượng,” hay “sự vật.”. d) Thứ tư, có khi pháp được dùng theo cách bao hàm nhất, gồm tất cả những nghĩa lý vừa kể, nên chúng ta không thể dịch ra được. Trong trường hợp nầy cách tốt nhất là cứ để nguyên gốc chứ không dịch ra ngoại ngữ. 3) Luật vũ trụ hay trật tự mà thế giới chúng ta phải phục tòng. Theo đạo Phật, đây là luật “Luân Hồi Nhân Quả”. 4) Hiện Tượng: —Mọi hiện tượng, sự vật và biểu hiện của hiện thực. Mọi hiện tượng đều chịu chung luật nhân quả, bao gồm cả cốt tủy giáo pháp Phật giáo. 6) Dharma (sanskrit)—Đạt Ma—Đàm Ma—Đàm Vô—Giáo pháp của Phật hay những lời Phật dạy – Con đường hiểu và thương mà Đức Phật đã dạy—Phật dạy: “Những ai thấy được pháp là thấy được Phật.” Vạn vật được chia làm hai loại: vật chất và tinh thần; chất liệu là vật chất, không phải vật chất là tinh thần, là tâm. a) Dharma là cái được nắm giữ hay lý tưởng nếu chúng ta giới hạn ý nghĩa của nó trong những tác vụ tâm lý mà thôi. Trình độ của lý tưởng nầy sẽ sai biệt tùy theo sự tiếp nhận của mỗi cá thể khác nhau. Ở Đức Phật, nó là sự toàn giác hay viên mãn trí (Bodhi):. 11) Theo phái Trung Quán, chữ Pháp trong Phật Giáo có nhiều ý nghĩa. Nghĩa rộng nhất thì nó là năng lực tinh thần, phi nhân cách bên trong và đằng sau tất cả mọi sự vật. Trong đạo Phật và triết học Phật giáo, chữ Pháp gồm có bốn nghĩa. a) Pháp có nghĩa là thực tại tối hậu. Nó vừa siêu việt vừa ở bên trong thế giới, và cũng là luật chi phối thế giới. d) Pháp có nghĩa là thành tố của sự sinh tồn. Khi dùng theo nghĩa nầy thì thường được dùng cho số nhiều. 1- Bất kỳ vật hay việc gì, dú lớn hay nhỏ, hữu hình hay vô hình, tốt hay xấu, hữu vi hay vô vi, chơn thật hay hư vọng, những nguyên tắc hay luật chung của tôn giáo hay vũ trụ, đều gọi chung là pháp. – Thời Chánh pháp: lúc Phật nhập diệt cho đến 500 năm sau, nhờ ảnh hưởng thần lực của Phật nên người tu dễ đắc đạo. – Thời Tượng pháp: kéo dài 1000 năm kễ từ sau 500 sau khi Phật nhập diệt. Pháp còn tương tợ chứ không phải là chánh, dù khó nhưng cũng có nhiều người đắc đạo. – Thời Mạt Pháp: từ 1500 năm sau khi Phật nhập diệt trở về sau, thời kỳ này kéo dài 1000 năm. Người tu sanh giaỉi đãi, sa ngã, ít người tinh tấn, ít người thành đạo. Pháp có 5 thứ: – giáo pháp (pháp để dạy) – hạnh pháp (pháp để hành) – – chứng pháp (pháp tu đắc) – nhiếp pháp (pháp giữ lấy) – thọ pháp (pháp lãnh thọ). Trong kinh điển Phật giáo, danh từ Pháp được sử dụng trong rất nhiều trường hợp và ý nghĩa cũng không đồng nhất. Nói 1 cách tổng quát thì Pháp có 2 định nghĩa là nhậm trì tự tính, quĩ sinh vật giải. Nhậm trì tự tính: Tất cả sự vật, hiện tượng luôn giữ gìn bản tính riêng của chúng, không thay đổi. Quĩ sinh vật giải: Tất cả sự vật đều duy trì tự tính riêng biệt của chúng, như những khuôn mẫu khiến người ta dựa vào đó làm căn cứ mà hiểu 1 hiện tượng nhất định. Nói theo nghĩa Nhậm trì tự tính thì Pháp là chỉ cho tất cả cái tồn tại có đầy đủ tự tính, bản chất riêng biệt; nói theo nghĩa Quĩ sinh vật giải thì Pháp chỉ cho những tiêu chuẩn của sự nhận thức, như qui phạm, pháp tắc, đạo lí, giáo lí, giáo thuyết, chân lí, thiện hành v.v…. Tóm lại, Pháp chỉ chung cho hết thảy mọi sự vật, mọi hiện tượng – cụ thể hay trừu tượng – có tự tính, bản chất riêng biệt làm căn cứ, khuôn mẫu khiến người ta nhìn vào là có thể nhận thức và lí giải được. Chỉ cho cảnh sở duyên(đối tượng phân biệt) của thức thứ 6(ý thức), cũng gọi Pháp xứ (Phạm: Dharmàyatana) hoặc Pháp giới (Phạm: Dharma-dhàtu). Tiếng dùng trong Nhân minh. Hàm ý tính chất, thuộc tính. Trong Nhân minh, danh từ sau (hậu trần) của Tông (mệnh đề) gọi là Pháp (thuộc tính); danh từ trước(tiền trần)của Tông gọi là Hữu pháp (có thuộc tính). Như lập Tông: Âm thanh là vô thường, thì vô thường (Pháp) là thuộc tính của âm thanh (Hữu pháp). Chữ dharma vốn xuất phát từ tiếng Ấn Độ, ngữ căn dhr, có nghĩa là “nắm giữ”, đặc biệt là nắm giữ tính năng hoạt động của con người. Thuật ngữ nầy có nhiều nghĩa:. Thuộc tính, phẩm chất, đặc tính, cấu trúc cơ bản. Ý nghĩa nầy của thuật ngữ thường được dùng trong các luận giải của Du-già hành tông(hay Duy thức tông), liệt kê tất cả kinh nghiệm thế gian thành 100 pháp hoặc 100 cấu trúc cơ bản. Thực tế các pháp không tồn tại trên cơ sở tự tính nầy hàng Nhị thừa không thể nào nhận thức được, nhưng là một đối tượng quán sát đặc biệt của hàng bồ-tát. Không nhận thức được tính không của các cấu trúc cơ bản là điều rất quan trọng cho sở tri chướng. Trong Luận lý học, pháp là tiền đề hay là đối tượng của một sự kiện. Tín ngưỡng tôn giáo; 8. Tiêu chuẩn để nhận thức về chân lí, về luật tắc;. Thuộc tính, phẩm chất, đặc tính, cấu trúc cơ bản. Ý nghĩa nầy của thuật ngữ thường được dùng trong các luận giải của Du-già hành tông, liệt kê tất cả kinh nghiệm thế gian thành 100 pháp hoặc 100 cấu trúc cơ bản. Thực tế các pháp không tồn tại trên cơ sở tự tính nầy hàng Nhị thừa không thể nào nhận thức được, nhưng là một đối tượng quán sát đặc biệt của hàng Bồ Tát. Không nhận thức được tính không của các cấu trúc cơ bản là điều rất quan trọng cho sở tri chướng. Trong Luận lí học, là tiền đề hay là đối tượng của một động từ. Pháp – Tất cả sự vật hữu hình gọi là sắc pháp, vô hình gọi là tâm pháp, có thể tánh gọi là hữu pháp, không thể tánh gọi là vô pháp. Các pháp sắc, tâm, hữu, vô, gọi chung là Pháp giới.
Pháp (tôn giáo)
dhamma), cũng được dịch theo âm Hán-Việt là Đạt-ma (zh. Chữ dharma vốn xuất phát từ tiếng Phạn, ngữ căn √dhṛ, có nghĩa là "nắm giữ", đặc biệt là nắm giữ tính năng hoạt động của con người. Thuộc tính, phẩm chất, đặc tính, cấu trúc cơ bản. Ý nghĩa này của thuật ngữ thường được dùng trong các luận giải của Du-già hành tông, liệt kê tất cả kinh nghiệm thế gian thành 100 pháp hoặc 100 cấu trúc cơ bản. Họ cho rằng, các pháp không tồn tại trên cơ sở tự tính này hàng Nhị thừa không thể nào nhận thức được, nhưng là một đối tượng quán sát đặc biệt của hàng Bồ Tát. Không nhận thức được tính không của các cấu trúc cơ bản là điều rất quan trọng cho sở tri chướng. Trong luận lý học, là tiền đề hay là đối tượng của một động từ. Tổng quát lại, người ta có thể hiểu Pháp là "tất cả những gì có đặc tính của nó - không khiến ta lầm với cái khác - có những khuôn khổ riêng của nó để nó làm phát sinh trong đầu óc ta một khái niệm về nó" (nhậm trì tự tính, quỹ sinh vật giải 任持自性、軌生物解).
Niềm tin vào phép lạ của những dự đoán và những người có thể kể tất cả mọi thứ về bạn (tâm linh, chiêm tinh, cọ) - là một nhu cầu không thể thiếu của hầu hết mọi người. Một người luôn luôn quan tâm đến vận mệnh của chính mình: anh ấy đã sinh ra cái gì, những đặc điểm và tài năng bẩm sinh sẽ giúp anh ta nhận ra bản thân mình. Một cái nhìn đằng sau tấm màn che bí ẩn của tương lai là kinh ngạc. Hiệu ứng Barnum-Forer - tác động của sự xác nhận chủ quan - là hiện tượng tâm lý xã hội được đặt tên theo thông dịch viên nổi tiếng, nghệ sĩ xiếc F. Barnum, người đã giải trí với khán giả Mỹ bằng nhiều trò lừa đảo khác nhau. Ông đã đề xuất thuật ngữ Barnum - Paul E.Mil, tác giả của bài kiểm tra tính cách đa yếu tố (MMPI). F. Barnum tin rằng có rất nhiều đơn giản trên thế giới, và tất cả mọi người có thể được cung cấp một cái gì đó. B. Forer đã đưa ra hiện tượng này bằng thực nghiệm. Bertram Forer năm 1948 đã chỉ thị cho một nhóm người thực hiện các xét nghiệm, và sau đó người thử nghiệm giải phóng chúng trong khi xử lý các kết quả, nhưng không có chế biến. Đối với những người mới đến, Forer phân phối cùng một kết quả mô tả của người đó, lấy từ tạp chí chiêm tinh. Hiệu ứng Forer trong trường hợp này làm việc trên các khía cạnh tích cực trong mô tả. Điểm số 5 điểm được coi là hoàn toàn phù hợp với mô tả kết quả kiểm tra. Điểm trung bình trong số các môn học là 4,26. Mọi người tìm cách biết vận mệnh của họ và cho điều này họ đi đến tâm linh, thầy bói. Đối với một số người, nó chỉ là giải trí, những người khác cũng sợ bước bước mà không đọc tử vi. Về cơ bản, đây là những cá nhân đáng lo ngại, người mà tương lai là mơ hồ. Một trong những yếu tố quan trọng của niềm tin vào sự thật của mô tả là "phổ biến" hoặc "phổ biến" của một chuyên gia (nhà chiêm tinh, nhà tâm lý học giả). Hiệu quả của Barnum trong tâm lý học là một ví dụ về thực tế là nó chỉ hoạt động trên các dự đoán tích cực và nó được sử dụng tích cực bởi các chuyên gia trong các lĩnh vực như:. Hiệu ứng của chiêm tinh học Barnum đã tích cực và được sử dụng từ lâu để mô tả các dấu hiệu của hoàng đạo. Đối với ngày hôm nay - nó được coi là một tiêu chuẩn hàng ngày để thực hiện một tử vi natal cho chính mình và những người thân yêu của bạn với một nhà chiêm tinh chuyên nghiệp. Giá trị của một tử vi - chi phí cao của một dịch vụ / tính cách của một chuyên gia / thuật ngữ cụ thể (hành tinh trong ngôi nhà thứ bảy, vv) - làm tăng mức độ tự tin của người dân trong số tử vi độc đáo được biên soạn, tự nhiên hình thành các sự kiện vốn có trong đó và có xu hướng trở thành hiện thực. Hiệu quả của Barnum hoặc ảnh hưởng của sự xác nhận chủ quan thể hiện đầy đủ, với sự hiện diện và sự tham gia của nhiều yếu tố. Các nhà tâm lý học (R. Hyman, P. Mil, R. Stagner, R. Treveten, R. Petty và T. Brock) đã nghiên cứu hiện tượng này, xác định các điểm hỗ trợ quan trọng nhất của hiệu ứng:
Hiệu ứng Barnum
Hiệu ứng Barnum (hiệu ứng Forer, hiệu ứng Barnum – Forer) là hiện tượng các cá nhân đánh giá cao những mô tả riêng về tính cách họ, nhưng thực ra lại không cụ thể và đúng với nhiều người. Hiệu ứng này có thể giải thích một phần nguyên nhân gây ra sự phổ biến của những niềm tin và hành vi huyền bí như chiêm tinh, bói toán, xem tướng và một số bài kiểm tra tính cách. Những tay lừa đảo chuyên nghiệp thường lợi dụng hiệu ứng này để thuyết phục các nạn nhân rằng trước mặt họ là những người có tài năng huyền bí. Vì những lời tự nhận này không rõ ràng, nạn nhân sẽ tự giải nghĩa, từ đó "cá nhân" hoá các nhận định. Ngoài ra, người ta cũng dễ chấp nhận các đánh giá tiêu cực về bản thân hơn nếu cho rằng người đánh giá là chuyên gia lớn. Nhà tâm lý học Paul Meehl là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Hiệu ứng Barnum", trong bài tiểu luận Wanted - A Good Cookbook của mình. Ông dùng cụm từ này vì thấy có sự tương đồng giữa những nhận định tính cách mơ hồ trong các bài kiểm tra tâm lý "giả thành công" và những màn trình diễn của Phineas Barnum.
Trong một ngôn ngữ, các thành phần cấu tạo nên một câu văn đều rất quan trọng. Bài viết hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu một thành phần đó là Tân ngữ, vậy Tân ngữ là gì? Cách sử dụng tân ngữ như thế nào là hợp lý. Nối chủ ngư ở cột bên trái và tân ngử ở cột bên phải sao cho phù hợp. (Sắp xếp lại câu. Viết câu trả lời của bạn trên các dòng bên dưới các từ bị xáo trộn). Tân ngữ hay túc từ là thành phần thuộc vị ngữ trong câu. Tân ngữ thường đi sau động từ, liên từ hoặc giới từ, biểu đạt ý nghĩ của người hoặc vật chịu sự tác động của động từ giới từ đứng trước nó hoặc biểu đạt mối liên kết giữ các tân ngữ với nhau thông qua liên từ. Trong một câu có thể có một hoặc nhiều tân ngữ, nó có thể nằm ở giữa câu hoặc cuối câu, có thể là một từ hoặc một cụm từ. Tân ngữ gián tiếp là tân ngữ chỉ đồ vật hoặc người mà hành động xảy ra đối với (hoặc dành cho) đồ vật hoặc người đó. Tân ngữ gián tiếp có thể đứng sau tân ngữ trực tiếp ngăn cách bởi một giới từ hoặc cũng có thể đứng trước tân ngữ trực tiếp mà không có giới từ. Giới từ thường dùng ở đây là for và to. (Không bao giờ nói với mọi người làm thế nào để làm việc. Nói cho họ biết phải làm gì, và họ sẽ làm bạn ngạc nhiên với sự khéo léo của họ. Tân ngữ trực tiếp là người hoặc vật đầu tiên nhận tác động của hành động. Chú ý: Không phải bất cứ động từ nào trong tiếng Anh cũng đòi hỏi tân ngữ đứng sau nó là một danh từ. Một số động từ yêu cầu tân ngữ đằng sau nó là một động từ khác. (Paula Poundstone) (Tôi không có tài khoản ngân hàng, vì tôi không biết tên thời con gái của mẹ tôi. Như vậy chúng ta đã cùng tìm hiểu Tân ngữ là gì – cách sử dụng tân ngữ. Ngoài ra chúng tôi cũng có hàng loạt các ví dụ để các bạn tham khảo. Chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía quý độc giả, các bạn học sinh và quý thầy cô giáo. Học một ngôn ngữ mới là trở thành một con người mới. Ngôn ngữ là nguồn sống của tâm hồn, là nguyên liệu cho tư duy và là sự thể hiện của tư duy phát triển.
Tân ngữ
Tân ngữ hay túc từ là thành phần thuộc vị ngữ trong câu. Tân ngữ thường đi sau động từ, liên từ hoặc giới từ, biểu đạt ý nghĩ của người hoặc vật chịu sự tác động của động từ, giới từ đứng trước nó hoặc biểu đạt mối liên kết giữa các tân ngữ với nhau thông qua liên từ. Trong một câu có thể có một hoặc nhiều tân ngữ, nó có thể nằm ở giữa câu hoặc cuối câu, có thể là một từ hoặc một cụm từ.
Kế hoạch kinh doanh là một tài liệu mô tả một doanh nghiệp, sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp, cách doanh nghiệp kiếm tiền, đội ngũ lãnh đạo, . Mọi người thường bắt tay vào công cuộc kinh doanh của mình với những ý tưởng kinh doanh mới mẻ, độc đáo và quan trọng nhất là tính khả thi cao. Tuy nhiên, để hiện thực hóa ý tưởng kinh doanh cần một bản kế hoạch kinh doanh bài bản. Bởi nó giúp công việc kinh doanh của doanh nghiệp nâng lên tầm cao mới và thỏa sức sáng tạo nhưng hoàn toàn không lo ngại bị lạc khỏi lĩnh vực trọng tâm cốt lõi của doanh nghiệp. Kế hoạch kinh doanh là một tài liệu mô tả một doanh nghiệp, sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp, cách doanh nghiệp kiếm (hoặc sẽ kiếm được) tiền, đội ngũ lãnh đạo và nhân viên, tài chính, mô hình hoạt động và nhiều chi tiết khác cần thiết cho sự thành công của doanh nghiệp. Kế hoạch kinh doanh khởi nghiệp dành cho doanh nghiệp mới bắt tay vào kinh doanh. Nó bao quát các thông tin chi tiết về sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp. Chuỗi cung ứng và đội ngũ quản lý. Kế hoạch kinh doanh nội bộ: Liên quan đến một đối tượng mục tiêu cụ thể cho một bộ phận của doanh nghiệp, chẳng hạn như nhóm tiếp thị. Kế hoạch này được lập ra để kiểm tra tình hình hiện tại của nhóm, những gì họ cần để đưa nó lên cấp độ tiếp theo, chi phí và lợi nhuận tiềm năng. Điều này có thể bao gồm chi phí tiếp thị, quảng cáo và nâng cấp. Kế hoạch kinh doanh chiến lược: Có đặc điểm dài hạn thường là 5 năm. Nó xoay quanh những yếu tố như tầm nhìn, sứ mệnh doanh nghiệp. Các mục tiêu cần đạt và phương án để đạt được mục tiêu đó. Nó thường được tóm tắt trong mục tiêu chung của công ty. Kế hoạch kinh doanh khả thi: Là một giải pháp nhanh chóng hay kế hoạch dự phòng để biến một hoạt động kinh doanh sản sinh lợi nhuận nhanh chóng để doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường. Điều này có thể được mô tả là nhắm mục tiêu đến một nhóm nhân khẩu học nhất định hoặc đầu tư một số tiền nhất định để kế hoạch được thực hiện. Các nhà đầu tư dựa vào kế hoạch kinh doanh để đánh giá tính khả thi của một doanh nghiệp trước khi cấp vốn. Đó là lý do tại sao kế hoạch kinh doanh thường gắn liền với việc vay vốn. Dễ dàng truyền đạt dễ nhất tầm nhìn cho những người mới khi bước vào công ty. Giúp cho nhân viên xây dựng niềm tin vào công việc kinh doanh. Có nhiều cuộc thi lập kế hoạch kinh doanh cung cấp các giải thưởng như cố vấn, trợ cấp hoặc vốn đầu tư. Để tìm các cuộc thi có liên quan trong ngành và khu vực của bạn, hãy thử sử dụng Google “cạnh tranh kế hoạch kinh doanh + ” và “cạnh tranh kế hoạch kinh doanh + .”. Nếu doanh nghiệp đang tìm kiếm một cách có cấu trúc để trình bày suy nghĩ và ý tưởng của mình cũng như chia sẻ những ý tưởng đó với những người có thể có tác động lớn đến thành công của bạn, thì một kế hoạch kinh doanh là một điểm khởi đầu tuyệt vời. Ví dụ: Một doanh nghiệp có kiến thức uyên thâm về nền tảng tiếp thị nhưng không sở hữu nhiều kinh nghiệm về điều hành doanh nghiệp thương mại điện tử trong các khâu như tài chính, sản xuất. Lúc này, việc lập kế hoạch kinh doanh giúp họ xác định được những vấn đề yếu kém và nâng cao thế mạnh cho doanh nghiệp. Bắt tay vào lập kế hoạch kinh doanh nhiều người thường bối rối vì không biết nên đưa vào những gì sẽ phù hợp. Cho nên, dù là đã từng lập kế hoạch kinh doanh thất bại hay mới bắt tay vào lập thì cũng đều cần lưu ý!. Kế hoạch kinh doanh càng chi tiết thì càng dễ dàng triển khai các kế hoạch đó mà không có chỗ sai sót. Trong khi viết một kế hoạch kinh doanh nên tập trung vào tăng trưởng kinh doanh. Một kế hoạch kinh doanh không có bất kỳ giới hạn nào về số lượng từ có thể đưa vào nó, nhưng hãy đối mặt với nó, không ai muốn đọc một cuốn tiểu thuyết dựa trên doanh nghiệp của bạn. Nếu đang tìm kiếm các nhà đầu tư, một kế hoạch kinh doanh dài sẽ khiến họ "e ngại" hơn là quan tâm. Mặc dù nó cần phải chi tiết, nhưng nó phải toàn diện. Hai mươi đến ba mươi trang là độ dài lý tưởng cho một kế hoạch kinh doanh. Bản tóm tắt điều hành - phần được coi là quan trọng nhất và khuyến khích không nên quá một trang. Trong phần này cần có các thông tin chi tiết như sau!. Mô tả sản phẩm và sự khác biệt. Bạn bán gì, và tại sao nó khác biệt?. Chiến lược tiếp thị. Bạn có kế hoạch tiếp cận khách hàng của mình như thế nào?. Tình trạng tài chính hiện tại. Doanh thu hiện tại bạn kiếm được là bao nhiêu?. Trạng thái tài chính dự kiến. Bạn thấy trước thu nhập của doanh thu là bao nhiêu?. Phần này trong kế hoạch kinh doanh của bạn nên trả lời hai câu hỏi cơ bản: Bạn là ai và bạn định làm gì? Trả lời những câu hỏi này cung cấp phần giới thiệu về lý do tại sao bạn kinh doanh, tại sao bạn khác biệt, bạn sẽ làm gì cho mình và tại sao bạn là một người đầu tư tốt. Làm rõ những chi tiết này vẫn là một bài tập hữu ích, ngay cả khi bạn là người duy nhất xem chúng. Đây là cơ hội để đưa ra giấy một số khía cạnh vô hình hơn của doanh nghiệp của bạn, như các nguyên tắc, lý tưởng và triết lý văn hóa của bạn. Phân tích thị trường là yếu tố sống còn để quyết định khởi đầu của doanh nghiệp thành công hay không. Nhất là các thị trường ngách có lợi thế cạnh tranh khốc liệt cần lưu tâm. Nếu chọn thị trường sai sẽ dẫn đến chật vật vô kể trong hoạt động buôn bán. Phân tích thị trường trong kế hoạch kinh doanh cho dù không có ý định cho ai khác đọc nó thì cũng đều cần phải làm. Ở công đoạn này, doanh nghiệp sẽ phân tích độ lớn ước tính của thị trường, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường và tổng quan về bối cảnh cạnh tranh. Việc phân tích kỹ sẽ thuyết phục được các nhà đầu tư tin tưởng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp cũng như có "nước đi đúng đắn trong phân phối sản phẩm/dịch vụ. Có bao nhiêu khách hàng sẽ cần sản phẩm/dịch vụ bạn cung cấp. Để ước tính được những con số này không phải là dễ. Doanh nghiệp phải nắm bắt được các thông tin càng cụ thể càng tốt thông qua!. Dữ liệu khách hàng cũng như theo dõi xu hướng trong những năm tới. Ví dụ, bạn bán sản phẩm về tập thể dục phải nắm bắt tổng quan xu hướng về thành viên đến phòng tập trong những năm tới tăng lên hay suy giảm,. Thị trường có thể đầy biến động. Tuy nhiên, hầu hết các chuyên gia nghiên cứu thị trường đưa ra những dự đoán về xu hướng kinh doanh dựa trên dữ liệu họ thu thập được thì hầu như đều rất đúng. Nơi doanh nghiệp thảo luận về lý do tại sao doanh nghiệp của bạn tốt hơn các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường và cách bạn thu hút sự chú ý của khách hàng để chiếm thị phần lớn. Có ba yếu tố tổng quát mà bạn có thể sử dụng để tạo sự khác biệt cho doanh nghiệp khi đối mặt với sự cạnh tranh:. Điểm nhấn của sản phẩm/dịch vụ cung cấp. Đó có thể là dẫn đầu về sự thông minh, dẫn đầu về tiện ích hay sáng tạo, thẩm mỹ. Một phần không thể thiếu trong kế hoạch kinh doanh của bạn nên nói về vai trò của nhân viên và đội ngũ quản lý của bạn trong việc giúp doanh nghiệp của bạn đạt được vị trí mà bạn mong muốn. Điều này cần có một mô tả chi tiết về mọi cá nhân chịu trách nhiệm và liên quan đến doanh nghiệp. Nếu bạn có một nhóm quản lý, hãy sử dụng sơ đồ tổ chức để hiển thị cấu trúc nội bộ của công ty bạn, bao gồm vai trò, trách nhiệm và mối quan hệ giữa những người trong biểu đồ của bạn. Truyền đạt cách mỗi người sẽ đóng góp vào sự thành công của công ty khởi nghiệp của bạn. Hoạt động kinh doanh và tiếp thị luôn có sự phối hợp "ăn ý" với nhau. Trong kế hoạch kinh doanh cần phải có Marketing plan - cách tiếp thị sản phẩm/dịch vụ/thương hiệu như thế nào ở hiện tại và tầm nhìn trong tương lai. Phân phối các chiến lược sao cho phù hợp với khách hàng mục tiêu. Logistics và vận hành là quy trình công việc doanh nghiệp sẽ thực hiện để biến ý tưởng của mình thành hiện thực. Nếu doanh nghiệp đang viết một kế hoạch kinh doanh cho mục đích lập kế hoạch của riêng mình, đây vẫn là một phần quan trọng cần xem xét, mặc dù bạn có thể không cần phải bao gồm mức độ chi tiết như khi doanh nghiệp đang đi tìm nguồn vốn đầu tư. Công tác hậu cần thực sự rất quan trọng. Nó giúp doanh nghiệp nắm bắt tường tận về chuỗi cung ứng và lên kế hoạch dự phòng khi không chắc chắn. Một kế hoạch khả thi là một giải pháp nhanh chóng hoặc một kế hoạch dự phòng để biến một hoạt động kinh doanh thành lợi nhuận một cách nhanh chóng để doanh nghiệp duy trì trên thị trường. Điều này có thể được mô tả là nhắm mục tiêu đến một nhóm nhân khẩu học nhất định hoặc đầu tư một số tiền nhất định để kế hoạch được thực hiện. Mức độ chi tiết được yêu cầu trong kế hoạch tài chính của bạn sẽ phụ thuộc vào đối tượng và mục tiêu của bạn, nhưng thông thường bạn sẽ muốn bao gồm ba quan điểm chính về tài chính của mình: báo cáo thu nhập, bảng cân đối kế toán và báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Nó cũng có thể thích hợp để bao gồm các dự báo tài chính. Trình bày kế hoạch kinh doanh cũng là một nghệ thuật. Trình bày đúng cách sẽ tăng mức độ tin cậy và hiệu quả cao. Nếu doanh nghiệp đang sở hữu kế hoạch kinh doanh chất lượng thì có thể trình bày dựa trên những yếu tố sau!. Nhận khách hàng tiềm năng & giới thiệu - Mạng lưới phù hợp đóng một vai trò quan trọng trong thành công kinh doanh của bạn. Khi trình bày kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, hãy cố gắng trình bày kế hoạch đó với những người bạn đã được giới thiệu và là một phần của mạng lưới. Nghiên cứu mục tiêu - Trước khi tiếp cận nhà đầu tư, hãy hiểu họ càng nhiều càng tốt. Có một điểm chung để nói chuyện và đã có sẵn một con số trong đầu khi gặp nhà đầu tư khiến mọi thứ trở nên dễ dàng hơn. Đưa ra lời chào hàng - Trước khi trực tiếp gặp gỡ ai đó, hãy chuẩn bị sẵn một email chi tiết hoặc một bản thuyết trình bằng giọng nói để thu hút họ về kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Chia nhỏ một chút thông tin, vừa đủ để khiến họ bị lôi cuốn, nhưng hãy để lại một chút không gian cho sự tò mò để họ sẽ háo hức muốn tìm hiểu thêm về doanh nghiệp. Như vậy, với những hướng dẫn như trên doanh nghiệp có thể lập được kế hoạch kinh doanh cơ bản. Kế hoạch kinh doanh cần bài bản và khoa học. Với một ý tưởng kinh doanh tồi tệ, thiếu dự báo tài chính, kế hoạch dự phòng,.thì khó có thể thành công được. Nếu bạn có thắc mắc gì, có thể gửi yêu cầu cho chúng tôi, và chúng tôi sẽ liên lạc lại với bạn sớm nhất có thể .
Kế hoạch kinh doanh
Kế hoạch kinh doanh là một kế hoạch mô tả quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian. Nó đánh giá việc kinh doanh đã có kết quả như thế nào và tìm kiếm những triển vọng để phát triển và thành công trong tương lai. Nhìn chung, kế hoạch kinh doanh phải được thiết kế một cách đặc biệt để thu hút các nhà đầu tư cũng như để cung cấp chi tiết những việc cần phải làm của doanh nghiệp. Do đó, trong bản kế hoạch này cẩn phải nói rõ và nêu bật được mục tiêu, mục đích, chiến lược và ý nghĩa của các hoạt động của doanh nghiệp. Xây dựng một bản đề cương về thị trường tham gia, bao gồm chi tiết về khách hàng tiềm năng và đối thủ cạnh tranh. Trong đó cần xác định việc sản xuất và cung cấp sản phẩm hay dịch vụ gì. Khách hàng là ai, đối tượng nào, khách hàng tiềm năng là ai, tạo dựng khách hàng tiềm năng như thế nào. Nguồn lực tài chính được huy động như thế nào. Xây dựng nột bảng biểu nội dung trong đó các yếu tố phải được phân tích rõ ràng như: dữ liệu thông dụng và dữ liệu chính xác, những lời tuyên bố, nhận xét, nhận định.
Cộng hòa Nhân dân Hungary (Magyar Népköztársaság) là quốc hiệu chính thức của nước Hungary xã hội chủ nghĩa từ năm 1949 đến năm 1989, do Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Hungary lãnh đạo với sự hỗ trợ của Liên Xô. Áo (Österreich), tên chính thức là Cộng hòa Áo (Republik Österreich), là một cộng hòa liên bang và quốc gia không giáp biển với hơn 8,7 triệu người dân tại Trung Âu. Đức Quốc Xã, còn gọi là Đệ Tam Đế chế hay Đế chế Thứ ba (Drittes Reich), là nước Đức trong thời kỳ 1933-1945 đặt dưới một chế độ độc tài chịu sự kiểm soát của Adolf Hitler và Đảng Quốc xã (NSDAP). Bức tường Berlin (Berliner Mauer) từng được Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là "Tường thành bảo vệ chống phát xít" (tiếng Đức: Antifaschistischer Schutzwall) và bị người dân Cộng hoà Liên bang Đức gọi là "Bức tường ô nhục" là một phần của biên giới nội địa nước Đức và đã chia cắt phần Tây Berlin với phần phía Đông của thành phố và với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin từ ngày 13 tháng 8 năm 1961 đến ngày 9 tháng 11 năm 1989. Budapest là thủ đô và thành phố đông dân nhất của Hungary, và một trong những thành phố lớn nhất trong Liên minh Châu Âu. Máy xúc, khai thác mỏ than lộ thiên Công nghiệp nặng là lĩnh vực công nghiệp sử dụng nhiều tư bản, đối ngược với công nghiệp nhẹ là lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Cộng hoà Nhân dân Ba Lan (tiếng Ba Lan: Polska Rzeczpospolita Ludowa) là tên gọi chính thức của Ba Lan từ năm 1952 tới năm 1989, khi Ba Lan còn theo chủ nghĩa cộng sản và là thành viên của Khối Warszawa. Chủ nghĩa cộng sản (cụm từ có nguồn gốc từ tiếng Trung 共產主義 cộng sản chủ nghĩa) là một hình thái kinh tế xã hội và hệ tư tưởng chính trị ủng hộ việc thiết lập xã hội phi nhà nước, không giai cấp, tự do, bình đẳng, dựa trên sự sở hữu chung và điều khiển chung đối với các phương tiện sản xuất nói chung. Chủ nghĩa Marx-Lenin là thuật ngữ chính trị để chỉ học thuyết do Karl Marx và Friedrich Engels sáng lập và được Vladimir Ilyich Lenin phát triển, được coi là ý thức hệ chính thức của Liên Xô từ giữa thập niên 1920. Mặt trước tờ tiền giấy mệnh giá 20.000 Forint (mệnh giá lớn nhất) phát hành năm 1999. Nhân vật được vẽ trong tờ tiền này là Ferenc Deák. Forint là đơn vị tiền tệ của Hungary. Trong tiếng Việt, Giáo hội là thuật ngữ Hán-Việt để chỉ phương thức tổ chức bộ máy của một tôn giáo có chức sắc và giáo lý được công nhận ("giáo" là tôn giáo, "hội" là hội đoàn, hội nhóm), nhưng thông thường được áp dụng cho Kitô giáo, Phật giáo. Hồng Quân là cách gọi vắn tắt của Hồng quân Công Nông (tiếng Nga: Рабоче-крестьянская Красная армия; dạng ký tự Latin: Raboche-krestyanskaya Krasnaya armiya, viết tất: RKKA), tên gọi chính thức của Lục quân và Không quân Liên Xô. Hoa Kỳ, còn gọi là Mỹ, tên gọi đầy đủ là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ hoặc Hợp chúng quốc Mỹ (tiếng Anh: United States of America viết tắt là U.S. hoặc USA), là một cộng hòa lập hiến liên bang gồm 50 tiểu bang và 1 đặc khu liên bang. Imre Nagy (7 tháng 6 năm 1896 – 16 tháng 6 năm 1958) là một chính trị gia cộng sản Hungary mà đã được chọn làm thủ tướng Hungary trong hai lần. Iosif Vissarionovich Stalin (thường gọi tắt là Stalin) (21/12/1879 – 5/3/1953) là lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920 cho đến khi qua đời năm 1953. Josip Broz Tito (Tiếng Serbia: Јосип Броз Тито, (7 hay 25 tháng 5 năm 1892 – 4 tháng 5 năm 1980) là nhà cách mạng và chính khách người Nam Tư. Ông là tổng thư ký và sau đó là chủ tịch của Liên đoàn Những người Cộng sản Nam Tư (từ năm 1939 đến năm 1980), tham gia và lãnh đạo kháng chiến dân Nam Tư trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau cuộc chiến ông lên giữ quyền thủ tướng (1945–63) và sau đó lên chức tổng thống (1953–80) của Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư. Từ năm 1943 cho đến khi ông mất, Tito còn giữ cấp bậc Nguyên soái, tổng chỉ huy quân đội Nhân dân Nam Tư (JNA). Tito là người sáng lập quốc gia Nam Tư thứ nhì, tồn tại từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến năm 1991. Mặc dù là một trong những thành viên ban đầu của Cominform, Tito là người đầu tiên và duy nhất có khả năng chống lại điều khiển của Liên Xô. Nam Tư do đó thuộc Phong trào không liên kết, không chống nhưng cũng không ngả theo phe nào trong hai phe đối đầu của Chiến tranh lạnh. Bản đồ Khối phía đông 1948-1989 Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, thuật ngữ Khối phía đông (hay Khối Xô Viết) đã được dùng để chỉ Liên Xô và các đồng minh của mình ở Trung và Đông Âu (Bulgaria, Tiệp Khắc, Đông Đức, Hungary, Ba Lan, România, và - đến đầu thập niên 1960 - Albania). Liên Xô, tên đầy đủ là Liên bang các nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết (r, viết tắt: СССР; Union of Soviet Socialist Republics, viết tắt: USSR) là một cựu quốc gia có lãnh thổ chiếm phần lớn châu Âu và châu Á, tồn tại từ 30 tháng 12 năm 1922 cho đến khi chính thức giải thể vào ngày 25 tháng 12 năm 1991. Mebibyte là một bội số của đơn vị byte trong đo lường khối lượng thông tin số. Chân dung Thủ tướng Rákosi Mátyás Rákosi Mátyás (9 tháng 3 năm 1892- 5 tháng 2 năm 1971), tên khai sinh là Mátyás Rosenfeld, là một nhà chính trị, nhà hoạt động cách mạng theo Chủ nghĩa Cộng sản Hungary, sinh ra ở vùng đất mà ngày nay là Serbia. Tây Ban Nha (España), gọi chính thức là Vương quốc Tây Ban Nha, là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía tây nam châu Âu. Trong kinh tế học, tổng sản phẩm nội địa, tức tổng sản phẩm quốc nội hay GDP (viết tắt của Gross Domestic Product) là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ nhất định (thường là quốc gia) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Tiếng Hungary (magyar nyelv) là một ngôn ngữ chính thức của Hungrary và một trong 24 ngôn ngữ chính thức của Liên minh châu Âu. Tiệp Khắc (tiếng Séc: Československo, tiếng Slovak: Česko-Slovensko/trước 1990 Československo, tiếng Đức: Tschechoslowakei), còn gọi tắt là Tiệp (nhất là trong khẩu ngữ), là một nhà nước có chủ quyền tại Trung Âu tồn tại từ tháng 10 năm 1918, khi nó tuyên bố độc lập khỏi Đế quốc Áo-Hung, cho tới năm 1992. Chân dung nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Sergeyevich Khrushchyov Về tệ nạn sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó (tiếng Nga:О культе личности и его последствиях), thường được biết là Diễn văn bí mật hoặc Báo cáo của Khrushchyov về Stalin, là bài báo cáo trước Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 ngày 25 tháng 2 năm 1956 của nhà lãnh đạo Xô Viết Nikita Sergeyevich Khrushchyov mà trong đó ông đã phê phán những hành động được thực hiện dưới chế độ của Stalin, đặc biệt là những vụ thanh trừng các lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô và quân đội, trong khi vẫn ra vẻ ủng hộ lý tưởng cộng sản bằng việc viện dẫn chủ nghĩa Lenin. Ngày 18 tháng 4 là ngày thứ 108 trong mỗi năm dương lịch thường (ngày thứ 109 trong mỗi năm nhuận). 1919 (số La Mã: MCMXIX) là một năm thường bắt đầu vào thứ Tư trong lịch Gregory. 1947 (số La Mã: MCMXLVII) là một năm thường bắt đầu vào thứ Tư trong lịch Gregory. 1949 (số La Mã: MCMXLIX) là một năm thường bắt đầu vào thứ Bảy trong lịch Gregory. Theo lịch Gregory, năm 1989 (số La Mã: MCMLXXXIX) là một năm bắt đầu từ ngày Chủ nhật. Unionpedia là một bản đồ khái niệm hoặc mạng ngữ nghĩa tổ chức như một bách khoa toàn thư hay từ điển. Nó đưa ra một định nghĩa ngắn gọn của từng khái niệm và mối quan hệ của mình. Đây là một bản đồ tinh thần trực tuyến khổng lồ mà phục vụ như một cơ sở cho các sơ đồ khái niệm. Đó là miễn phí để sử dụng và mỗi bài viết hoặc tài liệu có thể được tải về. giấy tờ, báo cáo, dự án, ý tưởng, tài liệu, khảo sát, tổng kết, hoặc luận án.
Cộng hòa Nhân dân Hungary
Cộng hòa Nhân dân Hungary (tiếng Hungary: Magyar Népköztársaság) là quốc hiệu chính thức của nước Hungary xã hội chủ nghĩa từ năm 1949 đến năm 1989, do Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Hungary lãnh đạo với sự hỗ trợ của Liên Xô. Thể chế này tồn tại cho đến năm 1989, khi các lực lượng đối lập buộc đảng cầm quyền phải từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Nhà nước này tự xem mình là chế độ kế thừa của Cộng hòa Xô viết Hungary được thành lập vào năm 1919. Nhà lãnh đạo mới của Hungary là Mátyás Rákosi yêu cầu các đồng chí trong Đảng Nhân dân Lao động Hungary phải hoàn toàn phục tùng ông. Đối thủ cạnh tranh quyền lực chính của Mátyás Rákosi là László Rajk, người này khi đó đang là Ngoại trưởng Hungary. Rajk bị bắt giữ và phái viên NKVD của Stalin phối hợp cùng Tổng Bí thư Hungary Rákosi và công an mật ÁVH để sắp xếp phiên tòa mang tính hình thức dành cho Rajk. Trong phiên tòa vào tháng 9 năm 1949, Rajk buộc phải nhận tội, nói rằng ông là tay sai của Miklós Horthy, Leon Trotsky, Josip Broz Tito và chủ nghĩa đế quốc phương Tây.
Hash hay còn gọi là hàm băm là một trong những phần quan trọng nhất của công nghệ giữ an toàn cho mạng lưới Bitcoin. Nó được lý giải là một hàm chuyển đổi đầu vào của các chữ cái và con số thành đầu ra được mã hóa với độ dài cố định. Hàm băm được tạo bằng thuật toán và vô cùng cần thiết đối với khi người khi quản lý blockchain trong tiền điện tử. Ngoài khái niệm trên còn có rất nhiều định nghĩa hàm hash là gì? Cùng chúng tôi khám phá nhé!. Hash hay còn được gọi là hashing là hàm chuyển đổi 1 giá trị sang giá trị khác. Thực tế việc băm dữ liệu là điều vô cùng phổ biến trong khoa học máy tính và được sử dụng cho rất nhiều mục đích khác nhau. Trong đó có mật mã (cryptography), nén (compression), lập chỉ mục cho dữ liệu (data indexing) hay tạo tổng kiểm tra (checksum generation). Trong các hình thức tấn công mạng, xâm nhập vào máy tính nếu không mã hóa dữ liệu tốt thì dữ liệu của bạn sẽ bị mất. Tuy nhiên, trojan horse là gì khi đây là một mối đe dọa rất đáng sợ thực tế hiện nay. Hashing phù hợp với cryptography bởi nó che dấu dữ liệu gốc với một giá trị khác rất tốt. Một hàm hash có thể được sử dụng để tạo ra 1 giá trị chỉ có thể được giải mã bằng cách tìm kiếm giá trị từ bảng băm (hash table). Bảng này có thể là một mảng, cơ sở dữ liệu hoặc cấu trúc dữ liệu khác. Còn cryptographic hash tốt chính là không thể đảo ngược thiết kế. Do các giá trị băm thường nhỏ hơn bản gốc, điều này giúp tạo ra các giá trị băm trùng lắp. Chúng gọi là va chạm (collisions) và xảy ra khi các giá trị giống nhau được tạo ra từ những dữ liệu nguồn khác nhau. Các collisions sẽ được giải quyết bằng cách sử dụng nhiều hàm hash hoặc tạo ra 1 overflow table khi những giá trị băm trùng lặp xảy ra. Các collisions có thể được tránh khi bạn sử dụng giá trị hàm băm lớn. Phần lớn mọi người đều biết hàm hash lấy 1 phần dữ liệu và biến nó trở thành 1 chuỗi các chữ cái và số. Tuy nhiên đặc điểm chính của hash value là gì thì chưa hẳn tất cả mọi người đều biết. Một biến dữ liệu sẽ luôn cho ra cùng 1 kết quả tìm kiếm. Gần như người dùng không thể đảo ngược giao dịch và tìm thấy dữ liệu gốc. Điều này cũng có nghĩa là các hàm băm có thể được dùng để xác định rằng ai đó sở hữu 1 phần dữ liệu mà không tiết lộ chúng. Theo một cách nào đó, hash giống có tác dụng như 1 loại khóa kỹ thuật số. Hashing ứng dụng rộng rãi trong việc tìm kiếm, truy xuất dữ liệu trên database có kích thước lớn. Bên cạnh đó, nó còn có tác dụng làm giảm chi phí tính toán trong tập hợp dữ liệu lớn. Hash còn được sử dụng để tạo checksums và xác thực tính toàn vẹn của tệp. Checksum là 1 giá trị nhỏ được tạo dựng trên các bit trong cùng 1 tệp hoặc khối dữ liệu cụ thể như disk image. Khi chức năng kiểm tra được chạy trên 1 bản sao của tệp (ví dụ như tệp được tải xuống từ mạng Internet). Nó sẽ tạo ra 1 giá trị băm giống y như tệp gốc. Nếu như tập tin không tạo ra cùng 1 checksum thì đồng nghĩa với việc một tập tin đã được thay đổi. Các giá trị hash có thể được dùng để ánh xạ dữ liệu tới các nhóm riêng lẻ trong 1 bảng băm. Tương ứng với mỗi nhóm sẽ có 1 địa chỉ IP duy nhất giống như chức năng của 1 con trỏ tới dữ liệu gốc. Điều này giúp tạp ra một chỉ số nhỏ hơn đáng kể so với dữ liệu gốc cho phép những giá trị được tìm kiếm và truy cập một cách hiệu quả hơn. Hàm hash lấy 1 phần dữ liệu và xáo trộn nó theo các cách phức tạp đến mức việc đảo ngược chúng trong thực tế gần như là không thể. Hàm băm biến đoạn dữ liệu thành mã nhị phân chỉ gồm 2 số 1 và O. Sau đó chia các con số thành nhiều phần và liên tục áp dụng 1 hàm tính toán. Kết quả cuối cùng thông thường sẽ là một chuỗi gồm 64 ký tự gồm các chữ và số. Khi có một ai đó cố gắng đảo ngược quy trình và tạo ra số lượng kết quả tăng theo cấp số nhân. Điều này tương tự như việc bạn đang cố gắng tìm ra 1 con đường qua kính vạn hoa. Để một máy tính hack nó thì đòi hỏi phải có khả năng tính toán nhiều phép tính hơn mức cần thiết mới có thể đảo ngược được hàm băm. Một giao dịch Bitcoin nếu muốn hoạt động cần phải được ký theo cách mà người dùng có thể truy cập công khai và không bị tiết lộ chữ ký. Nếu như không tuân thủ các quy định về Private và public key thì nó có thể bị trùng lặp với rất nhiều chữ ký khác. Điều này cũng có nghĩa là ai đó không có private key thì không thể tạo ra public key để ký. Các Private key được nhân lên bằng cách sử dụng đường cong elip để tạo ra public key sau đó phải trải qua 2 hàm băm khác. Vì vậy, nếu như một người nào đó không thể thực hiện giao dịch Bitcoin mà không phá vỡ 2 hàm băm và mật mã của đường cong elip. Đây cũng có thể lý do giải thích tại sao Bitcoin có thể bị hack. CRC32 bao gồm 8 ký tự dựa theo thuật toán Cyclic Redundancy Check. Ưu điểm của loại hash này đó là tính toán nhanh và độ dài ngắn. MD5 có độ dài 32 ký tự, sử dụng thuật toán Message Digest. Hiện nay loại hash này dduocj sử dụng khá phổ biến bởi tính chính xác cao và không có quá nhiều thao tác xử lý. SHA-1 gồm có 40 kí tự, sử dụng thuật toán Secure Hash Algorithm vô cùng chính xác. Tuy nhiên thời gian tính toán của SHA-1 lại khá lâu. Tương ứng với mỗi 1 đầu vào ngẫu nhiên, hashing phải tạo ra được 1 giá trị băm tương ứng. Không thể dịch ngược lại từ giá trị băm quay trở về chuỗi các ký tự ban đầu. Nhìn chung thì hàm hash sản xuất ra các giá trị băm ngẫu nhiên giúp nâng cáo tính an toàn và bảo mật trong liên lạc. Ngoài ra, băm còn được ứng dụng rộng rãi trong việc tìm kiếm dữ liệu và là thuật toán vô cùng hữu ích trong Encryption. Bên cạnh đó, hashing cò được sử dụng để lưu mật khẩu, xác định tính toàn vẹn dữ liệu, thiết kế đồ họa máy tính, điện tử, viễn thông,. Hash được dùng cho mật mã bởi nó che dấu dữ liệu gốc với 1 giá trị khác. Hàm băm có thể tạo ra một giá trị mà người dùng chỉ có thể giải mã bằng cách tra cứu từ bảng băm. Một hàm hash mật mã tốt là không thể đảo ngược. Tương ứng với các loại nén khác nhau, ví dụ như việc nén phương tiện và ảnh bị mất dữ liệu (lossy) có thể kết hợp hàm băm để giảm kích thước cho các file. Bằng cách băm dữ liệu thành các giá trị nhỏ hơn, file phương tiện có thể được nén thành các phần nhỏ hơn. Kiểu hash một chiều này không thể bị đảo ngược nhưng nó có thể tạo dữ liệu gần bằng dữ liệu gốc nhưng có yêu cầu về dung lượng đĩa ít hơn. Là người đam mê máy tính ngoài việc tìm hiểu về Hash thì vấn đề Port là gì và nó có quan trọng không cũng là điều mà bạn cần quan tâm khi sử dụng hệ thống mạng máy tính. Hàm hash cũng được sử dụng để lập chỉ mục dữ liệu. Giá trị băm có thể được dùng để ánh xạ dữ liệu vào từng bucket trong một bảng băm. Mỗi bucker này có một địa chỉ IP duy nhất đóng vai trò như con trỏ tới dữ liệu gốc. Điều này đồng nghĩa với việc tạo 1 chỉ mục nhỏ hơn nhiều so với dữ liệu gốc cho phép giá trị được tìm kiếm cũng như truy cập được an toàn và hiệu quả hơn. Để giữ cho mạng lưới Bitcoin hoạt động một cách công bằng cho những người tham gia để tự kiếm cho mình quyền tạo khối tiếp theo. Sân chơi này sử dụng 1 cuộc đua khả năng tính toán được bắt đầu lại mỗi khi một khối được xuất bản. Nếu như muốn giành chiến thắng trong cuộc đua đó, mỗi người cần khai thác thu thập 1 tập hợp các giao dịch bao gồm 1 tham chiếu đến khối trước đó. Tiếp theo sử dụng nó như một phần dữ liệu để đưa vào hàm băm. Kết quả hàm hash bắt đầu bằng một số không nhất định tùy thuộc vào độ khó hiện tại của mạng. Nếu như các khối trong blockchain không được liên kết, hacker có thể lợi dụng điều này để chèn một block giả mạo. Hệ thống Bitcoin tránh điều này bằng cách liên kết từng khối với các khối trước đó bằng cách sử dụng 1 con trỏ băm (hash pointer). Một con trỏ băm là kết quả được thực hiện từ việc băm khối trước đó trong chuỗi. Điều này đồng nghĩa với việc bất kỳ ai cũng có thể kiểm tra xem các giao dịch trong khối có được tiếp tục từ những giao dịch trước hay không. Quá trình này đảm bảo toàn bộ chuỗi dữ liệu là hợp pháp và không có một khối nào được thêm vào bởi 1 công cụ khai thác chứa mã độc. Lúc này, mọi lịch sử 1 đồng coin có thể được giữ nguyên từ khi nó được khai thác. Trong thời kỳ công nghệ thông tin ngày càng phát triển như hiện nay thì không có gì là không thể hack. Tuy nhiên hàm băm thì lại rất khó hack, người dùng sẽ phải mất hàng triệu hoặc hàng tỷ năm mới có thể hack 1 hàm băm. Về lý thuyết thì người dùng có thể phá vỡ các hàm băm được sử dụng bởi Bitcoin phơi bày nó. Nhưng thực tế các nhà phát triển lại tìm mọi cách để quản lý bảo mật mạng và ngăn chặn việc phá vỡ này. Vì vậy, người dùng hoàn toàn có thể yên tâm khi sử dụng hàm băm để mã hóa dữ liệu. Chắc hẳn những chia sẻ trên đây của chúng tôi, các bạn đã phần nào hiểu được hash là gì? Ứng dụng của hàm băm trong mạng lưới Bitcoin. Nếu như có bất kỳ thắc mắc nào liên quan tới hàm băm hay hosting Vietnam, tên miền, VPS,. đừng quên theo dõi các bài viết tiếp sau của BKHost nhé!
Hàm băm
Hàm băm (tiếng Anh: hash function) là giải thuật nhằm sinh ra các giá trị băm tương ứng với mỗi khối dữ liệu (có thể là một chuỗi ký tự, một đối tượng trong lập trình hướng đối tượng, v.v.). Giá trị băm đóng vai gần như một khóa để phân biệt các khối dữ liệu, tuy nhiên, người ta chấp nhận hiện tượng trùng khóa hay còn gọi là đụng độ và cố gắng cải thiện giải thuật để giảm thiểu sự đụng độ đó. Hàm băm thường được dùng trong bảng băm nhằm giảm chi phí tính toán khi tìm một khối dữ liệu trong một tập hợp (nhờ việc so sánh các giá trị băm nhanh hơn việc so sánh những khối dữ liệu có kích thước lớn). Vì tính thông dụng của bảng băm, ngày nay, đa số ngôn ngữ lập trình đều cung cấp thư viện ứng dụng bảng băm, thường gọi là thư viện collection trong đó có các vấn đề như: tập hợp (collection), danh sách (list), bảng(table), ánh xạ (mapping), từ điển (dictionary)). Thông thường, các lập trình viên chỉ cần viết hàm băm cho các đối tượng nhằm tích hợp với thư viện bảng băm đã được xây dựng sẵn.
Nếu đã phát chán với những con ma sặc mùi kỹ xảo, những hình ảnh công nghệ dựng trên máy tính không cảm xúc trong các bộ phim kinh dị thường thấy thì hãy lựa chọn Sinh nhật chết chóc (Happy Death Day) để trải nghiệm những cảm giác hoàn toàn mới. Có thể khẳng định một điều, Sinh nhật chết chóc thực sự là một quân bài mới lạ và độc đáo của xưởng phim Blumhouse nhằm khẳng định vị trí của mình trên thị trường phim kinh dị thế giới. Mười năm trước, Blumhouse từng khiến người mộ điệu toàn thế giới phải trầm trồ với siêu phẩm kinh dị Paranormal Activity. Hàng loạt những tựa phim sau đó của hãng cũng thường trực trong tâm trí khán giả như The Purge, Sinister hay Ouija, đưa tên tuổi hãng lên một tầm cao mới. Sang đến năm 2017, Blumhouse quyết định không chỉ dừng lại ở những màn hù doạ giật mình (jumscare), gây rợn tóc gáy mà còn phải đặt ra một thử thách mới nhằm xoáy sâu vào tâm lý và nỗi sợ thật sự bên trong mỗi con người. Bằng chứng là hai bộ phim kinh dị Split và Get out đã thành công gây nên ấn tượng cực mạnh, chạm trúng vào cảm xúc người xem và được giới phê bình đánh giá cao về mặt nội dung. Cùng năm này, Sinh nhật chết chóc được ra mắt đúng vào dịp Halloween cũng đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng cho mình. Với doanh thu lên đến 26 triệu đô, bộ phim vinh dự dẫn đầu phòng vé Bắc Mỹ chỉ sau ba ngày công chiếu. Trong Sinh nhật chết chóc, người xem không hề nhìn thấy những hình ảnh quá ghê rợn và cũng không có nhiều máu me. Nét độc đáo lẫn sáng tạo của phim nằm ở phần kịch bản không đụng hàng, xoay quanh một ngày trong cuộc đời cô sinh viên Tree (Jessica Rothe thủ vai). Từ cảnh buổi sáng khi cô thức dậy trong phòng kí túc xá của anh bạn cô chẳng nhớ nổi tên, cho đến những diễn biến trong ngày như bình thường và khi đêm xuống, cô bị một kẻ mặc đồ đen đeo mặt nạ em bé đâm chết. Điều đặc biệt là ngày hôm đó cũng đồng thời chính là ngày sinh nhật Tree và cô cứ rơi vào những thước phim bị tua ngược trở lại. Mọi thứ đều diễn ra y hệt như nhau mà kết quả cuối cùng bao giờ cô cũng bị đâm chết rồi vòng lặp lại trở về như cũ. Tuy nhiên Tree không phải là một người dễ bị chơi như vậy, cô quyết tâm tìm ra kẻ giết nguời và chấm dứt vòng lặp thời gian triền miên này. Tree tận dụng những lần lặp tiếp theo để truy tìm hung thủ giết mình, theo dõi những người bạn học đáng nghi ngờ và bị giết mỗi lần như vậy. Cô tỉnh lại trong bệnh viện, cơ thể cô cho thấy sự hồi phục những chấn thương nhiều lần từ những cái chết trước đó. Phim đánh vào nỗi sợ của phần đông mọi người đó là cái chết mà còn là bị giết, lặp đi lặp lại bằng rất nhiều cách. Xuyên suốt mạch phim còn có sự xuất hiện của Carter Davis (Israel Broussard thủ vai), bạn cùng lớp đồng thời là chủ căn phòng nơi Tree tỉnh dậy vào buổi sáng ngày sinh nhật của mình. Vai trò của nhân vật này cũng đóng góp một phần không hề nhỏ trong việc giúp đỡ Tree. Israel Broussard đã thành công thể hiện hình ảnh một anh chàng nhân hậu và nhạy bén, cùng với đó là những sở thích lành mạnh và một nụ cười luôn thường trực trên môi. Vốn dĩ kiểu phim với thời gian lặp lại một ngày không phải là điều gì quá mới, nó còn dễ bị rối và khiến bộ phim trở nên nhàm chán. Sinh nhật chết chóc thành công nhờ những sáng tạo trong thay đổi tình huống, phát triển nhân vật và tung những gợi ý nút thắt nút mở cho vụ án. Ngoài việc nghĩ ra được mấy kiểu chết cổ điển nhưng hiệu quả thì đạo diễn Christopher B.Landon còn rất biết thay đổi không khí trong phim đúng lúc, không bao giờ quá khủng khiếp hay kéo dài những sướt mướt quá lâu. Mỗi khi người xem ngưng lại một chút suy nghĩ của mình cho rằng mọi thứ cứ tiếp diễn như vậy thì phim lập tức xoay ngược 180 độ, không để cho họ có thời gian thấy chán hay nghĩ tới những điểm thiếu logic của phim nữa. Kinh phí sản xuất giới hạn trong năm triệu đô thực sự là thách thức đối với đội ngũ sản xuất của Sinh nhật chết chóc. Câu hỏi được đặt ra về cách thay đổi bối cảnh môi trường học đường vốn dĩ đã rất quen thuộc. Mọi chi tiết từ không gian, ánh sáng cho đến âm nhạc đều được khai thác và tận dụng triệt để nhằm mang đến khán giả trải nghiệm thú vị về một bộ phim độc đáo thuộc thể loại slasher – Giết người hàng loạt kết hợp với phong cách vòng lặp thời gian kinh điển của Groundhog Day những năm chín mươi. Địa điểm được lựa chọn để tái hiện ngôi trường mà Tree đang theo học là Đại học Loyola ở New Orleans, bang Louisiana. Khung cảnh trong căn phòng Tree gặp ác mộng cũng được xây dựng rất độc đáo và không kém phần công phu. Thiết kế sản xuất của phim, ông De Stefano khẳng định sự thân thiện của Loyola thực sự là lựa chọn tốt nhất và đoàn làm phim có thể tận dụng mọi cơ sở hạ tầng ở đây để làm nên một không gian phản ánh chân thực cuộc sống của các sinh viên trong phim. Tuy Sinh nhật chết chóc vẫn còn đâu đó những hạt sạn mà một người khó tính của dòng phim kinh dị có thể phát hiện ra được nhưng chính nhờ phong cách kể chuyện thu hút và nhịp điệu nhanh đã giúp che giấu tốt các khuyết điểm, khiến nó trở thành phần không đáng kể. Nhân vật chính của phim, Theresa Tree Gelbman được xây dựng không phải theo kiểu nữ chính truyền thống quá giỏi bị người đời ganh ghét hoặc là ngoan hiền, tốt bụng đến mức ngốc nghếch để người khác bắt nạt. Tree là một cô gái hết sức đời thường, thẳng thắn và thuộc tuýp thanh niên ăn chơi chính hiệu. Tree sẵn sàng sưng sỉa vởi những cậu trai mê mình, coi thường những đứa con gái không ngầu như mình và giả bộ thân thiết với những đứa giỏi bằng mình. Ở Tree hội tụ đủ mọi yếu tố của một cô gái xấu tính nhưng điều đó không có nghĩa là cô đáng bị chết, bởi lẽ cô không phạm pháp hay gây nên tội lỗi gì. Diễn biến phim càng đi sâu thì người xem mới càng thấy được Tree thực sự là một cô gái như thế nào. Lúc cần mạnh mẽ thì cô nàng rất mạnh mẽ, sẵn sàng đánh trả lại những kẻ dám động đến mình nhưng cũng có những lúc cô trải lòng và thể hiện ra bản chất là một con người rất tình cảm và biết suy nghĩ. Sau hàng loạt những nhân vật nữ chính phảng phất những nét tính cách như nhau thì cô nàng Tree của Sinh nhật chết chóc thật sự đã tạo nên một bước đột phá lớn. Không thể phủ nhận tài năng của Jessica Rothe, cô hoàn thành vô cùng trọn vẹn vai diễn của mình. Từng biểu cảm trên gương mặt, sự thay đổi tâm lý và trưởng thành trong suy nghĩ của nhân vật Tree là sức cuốn hút đặc biệt của bộ phim, được Jessica lột tả theo phong cách của riêng cô, góp phần tạo nên một hình mẫu nhân vật đa dạng và có chiều sâu. Điểm đặc biệt tiếp theo cần phải kể đến là cách quay phim táo bạo, giúp khai thác nhiều sắc thái thời gian duy nhất, riêng biệt trong Sinh nhật chết chóc. Với việc Tree sẽ phải sống đi sống lại vào cái ngày mà cô bị giết, đạo diễn Christopher Landon đã bàn bạc cụ thể với quay phim Oliver để mỗi ngày trong vòng lặp thời gian đó sẽ có một sắc thái khác nhau. Christopher Landon đã quyết định sẽ bắt đầu bộ phim với việc để máy quay di chuyển rất nhẹ nhàng, ổn định nhưng khi vòng lặp thời gian tiến triển và Tree thức dậy vào ngày mới, máy quay sẽ rung lắc mỗi lúc một nhiều hơn. Bên cạnh việc bố trí cho chuyển động máy quay, Christopher Landon cũng nhận thấy sự cần thiết của việc sử dụng màu sắc để khắc hoạ những thay đổi diễn ra mỗi ngày. Vào ngày đầu tiên, mọi thứ thật rạng rỡ nhưng rồi tất cả đều trở nên xám xịt theo từng diễn biến xảy đến trong phim. Khán giả đang được sống trong cơn ác mộng của Tree, vì thế đạo diễn muốn sử dụng màu sắc để phản ánh lại bầu không khí tồi tệ đó. Để tăng hiệu quả trong việc miêu tả những ngày khác nhau của Tree với một chuỗi vòng lặp thời gian kỳ quái, phần nhạc nền sử dụng cũng rất được đội ngũ sản xuất quan tâm. Sau khi xem qua những thước phim đầu tiên của Sinh nhật chết chóc, nhạc sỹ McCreary đã biết chính xác mình phải làm gì để làm nên phần nhạc nền theo đúng yêu cầu. Vào mỗi ngày trong vòng lặp thời gian, âm nhạc cũng lặp đi lặp lại nhưng sẽ thay đổi về mặt tiết tấu để gợi lên trong lòng người xem cảm giác căng thẳng và ngột ngạt. Có thể nói, chính nhờ những sự chăm chút tỉ mỉ đến từng chi tiết trong phim của đạo diễn Christopher Landon đã góp phần không nhỏ làm nên sự thành công của Sinh nhật chết chóc. Có lẽ vì vậy mà hãng phim Blumhouse đã quyết định sản xuất tiếp phần hai, được ra mắt vào năm 2019 và vẫn giữ nguyên tựa phim Sinh nhật chết chóc 2. Mặc dù đã công chiếu được một thời gian nhưng Sinh nhật chết chóc vẫn xứng đáng là một bộ phim kinh dị cực đáng xem, dành cho những ai đang tìm kiếm một nội dung độc đáo trên nền kịch bản vô cùng xuất sắc của dòng phim đầy ám ảnh này.
Sinh nhật chết chóc
Sinh nhật chết chóc (tựa tiếng Anh: Happy Death Day) là một bộ phim kinh dị bạo lực Mỹ do Christopher B. Landon đạo diễn và Scott Lobdell viết kịch bản. Hai diễn viên chính là Jessica Rothe và Israel Broussard. Bộ phim được sản xuất bởi Jason Blum thông qua hãng phim Blumhouse Productions của ông. Phim kể về một cô sinh viên đại học bị giết vào ngày sinh nhật của cô, và sau đó cô bắt đầu hồi tưởng lại ngày qua ngày; vào thời điểm đó, cô đặt ra cách ngăn chặn cái chết của mình và tìm ra kẻ giết người. Bộ phim được phát hành vào thứ sáu ngày 13 tháng 10 năm 2017, bởi hãng Universal Pictures. Phim đã nhận được những bình luận tích cực, với những người phê bình cho rằng phim thú vị trong khi thừa nhận tiền đề quen thuộc, cũng như ca ngợi màn diễn xuất của Rothe, và mô tả phim như Groundhog Day giao thoa Scream. Đặc biệt trong phim có sử dụng một ca khúc nhạc trẻ Việt Nam mang tên "Số nhọ", do nhạc sĩ Huỳnh Hiền Năng sáng tác và nhóm nhạc Lip B thể hiện.
Rối loạn lưỡng cực là bệnh tâm lý thường gặp trong xã hội hiện đại với biểu hiện dễ dàng thay đổi tâm trạng rõ rệt. Bài viết sau sẽ cung cấp một cái nhìn toàn vẹn về căn bệnh này cũng như triệu chứng và cách điều trị nó. Rối loạn lưỡng cực (Bipolar disorders – RLLC), hay còn gọi là rối loạn hưng – trầm cảm, là tình trạng tâm thần thay đổi bất thường. Tâm trạng của người bệnh có thể đột ngột hưng cảm (tăng động, kích động) hoặc trầm cảm một cách không kiểm soát. Khi người bệnh chán nản, họ có thể cảm thấy tuyệt vọng, trầm uất, chán nản và mất hứng thú trong các hoạt động thường ngày. Khi tâm trạng người bệnh ở trạng thái hưng cảm, họ sẽ cảm thấy đầy hưng phấn và tràn đầy năng lượng. Trạng thái thay đổi tâm lý đột ngột này thường xuất hiện vài lần trong năm hoặc thậm chí nếu nặng hơn là vài lần trong tuần, ảnh hưởng đến giấc ngủ, hành vi, khả năng tập trung của người bệnh. Trong rối loạn lưỡng cực, các giai đoạn trạng thái tâm trạng không theo một khuôn mẫu nhất định. Mức độ nghiêm trọng của nó khác nhau từ người này sang người khác và cũng có thể thay đổi theo thời gian mà trở nên nghiêm trọng hơn hoặc ít nghiêm trọng hơn. Dựa vào các đặc điểm khác như thời gian, chu kỳ và mức độ cảm xúc, bệnh được chia làm 3 loại: loại I, II và Cyclothymia. Bệnh nhân trải qua cả 2 mức độ trạng thái cảm xúc của bệnh là hưng phấn và trầm cảm một cách rõ rệt. Thời gian diễn tiến của cả 2 giai đoạn này tương đối bằng nhau. Người bệnh có thời gian trầm cảm lâu hơn và thường xuyên hơn so với loại I, còn cảm xúc lúc hưng phấn chỉ ở mức nhẹ, không biểu hiện rõ rệt. Đây là loại RLLC nguy hiểm với tỉ lệ người tự tử hoặc có ý định tự sát cao nhất. Đây là dạng hưng – trầm cảm nhẹ nhất. Các biểu hiện thay đổi về cảm xúc, hành vi của người bệnh không rõ ràng, khó phát hiện. Thậm chí, người mắc khó cảm nhận rõ cảm giác thực sự hưng phấn hay trầm cảm. Nhưng chứng Cyclothymia có thể tiến triển thành RLLC loại I hoặc II (tỉ lệ 15% – 50%). Bệnh cần được chẩn đoán và điều trị bởi bác sĩ có chuyên môn (bác sĩ tâm thần). Việc điều trị bệnh cần một liệu pháp lâu dài, mục tiêu kiểm soát các triệu chứng của bệnh. Tuỳ vào mức độ và biểu hiện bệnh, có thể sử dụng một hoặc kết hợp nhiều phương pháp:. Thông thường, các bệnh nhân sẽ được điều trị bằng thuốc đầu tiên để kiểm soát các triệu chứng của bệnh. Chống trầm cảm: Bác sĩ có thể kê thuốc này để giúp người bệnh trong giai đoạn trầm cảm. Thuốc chống loạn thần – trầm cảm: Symbax là thuốc kết hợp giữa thuốc chống trầm cảm fluoxetine và thuốc chống loạn thần olanzapine. Thuốc điều trị rối loạn lo âu: Benzodiazepine giúp điều trị các triệu chứng lo âu và cải thiện giấc ngủ, nhưng thuốc thường chỉ được sử dụng trong thời gian ngắn. Người bệnh cần được điều trị lâu dài ngay cả khi các triệu chứng của bệnh đã đỡ. Những người bỏ qua đợt điều trị lâu dài này có tỉ lệ tái phát bệnh rất cao. Cai rượu, bia: Nếu người bệnh đang nghiện cồn hoặc các chất kích thích cũng cần có các biện pháp như sử dụng thuốc điều trị lạm dụng rượu, bia. Nhập viện cần thiết ở những bệnh nhân không kiểm soát được hành vi của mình, có ý nghĩa tự tử, làm hại bản thân hoặc những người xung quanh. Tiếp nhận điều trị tâm thần ở bệnh viện có thể làm ổn định lại trạng thái của người bệnh, ở trạng thái hưng cảm hoặc trầm cảm. Rối loạn lưỡng cực là căn bệnh phức tạp và gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên đời sống của người bệnh. Biện pháp điều trị được ưu tiên hàng đầu là sử dụng thuốc và tư vấn. Ngoài ra, người bệnh còn cần thêm sự trợ giúp của những người thân xung quanh và giáo dục để kiểm soát hành vi. Bệnh viện Tâm thần Hà Nội là một trong những bệnh viện hạng I chuyên về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ tâm thần cho người dân TP. Hà Nội cũng như của các tỉnh phía Bắc. Cùng YouMed tìm hiểu hình thức khám bệnh tại đây nhé!. Từ đó đến nay, HON đã thực hiện chứng nhận cho các trang web y tế uy tín hàng đầu thế giới như WebMD, Mayo Clinic… Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ (US National Library of Medicine – NLM) gợi ý chứng nhận “HONcode” là một trong những cơ sở để xác định sự tin cậy của một trang tin chuyên về y tế. YouMed đã phải tuân thủ nghiêm ngặt 8 tiêu chí để có thể được HON chứng nhận. 2 tiêu chí nổi bật nhất là tất cả bài viết đều được dẫn nguồn chính thống và được viết bởi 100% Bác sĩ, Dược sĩ. Chính đều này tạo nên điểm khác biệt giữa YouMed và các trang web khác.
Rối loạn lưỡng cực
Rối loạn lưỡng cực (tiếng Anh: bipolar disorder), từng được gọi là bệnh hưng trầm cảm (tiếng Anh: manic depression), là một bệnh tâm thần có đặc trưng là các giai đoạn trầm cảm đi kèm với các giai đoạn tâm trạng hưng phấn ở mức bất thường kéo dài từ nhiều ngày đến nhiều tuần. Nếu tâm trạng người bệnh hưng phấn ở mức nghiêm trọng hoặc có liên hệ với loạn thần thì giai đoạn đó được gọi là hưng cảm; nếu tâm trạng người bệnh hưng phấn ở mức nhẹ hơn thì giai đoạn đó được gọi là hưng cảm nhẹ. Trong các giai đoạn hưng cảm, người bệnh có những hành vi hoặc cảm xúc hưng phấn, vui vẻ hoặc cáu bẳn một cách bất thường, và thường đưa ra những quyết định bộc phát mà không quan tâm đến hậu quả. Người bệnh cũng thường cảm thấy ít buồn ngủ hơn bình thường trong các giai đoạn hưng cảm. Trong các giai đoạn trầm cảm, người bệnh có thể khóc, có cái nhìn tiêu cực về cuộc sống và gặp khó khăn trong việc nhìn thẳng vào mắt người khác. Người mắc rối loạn lưỡng cực có nguy cơ tự sát cao; trong vòng 20 năm, 6% người bệnh tử vong vì tự sát, trong khi 30–40% người bệnh có hành vi tự hại.
Nguyên âm đôi trong tiếng Việt là một trong những khái niệm cơ bản mà hầu hết ai khi học tiếng Việt cũng cần phải biết. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người nhầm lẫn giữa những nguyên âm đôi này, đặc biệt là học sinh. Vì thế bài viết dưới đây chúng tôi sẽ giải thích cho người học một cách dễ hiểu nhất. Nguyên âm đôi là gì? Đó là sự kết hợp của hai nguyên âm kế nhau trong cùng một âm tiết. Về cơ bản, nguyên âm đôi là một nguyên âm với mục đích sử dụng lưỡi hoặc những cơ quan nói khác có thể di chuyển linh hoạt trong khi phát âm nguyên âm. Nguyên âm đôi được phân biệt với nguyên âm đơn, khi mà lưỡi và cơ quan nói khác sẽ ở nguyên tại vị trí và âm tiết chỉ gồm một âm vị nguyên âm duy nhất. Tuy nhận định là thế nhưng tình trạng này vẫn còn là một vấn đề khó đối với giáo viên và học sinh. Do đó, sau khi nghiên cứu website tiengvietonline.comvn đã tìm ra một số khó khăn, hướng khắc phục như sau:. Giữa phát âm nguyên âm đôi và viết không có sự đồng nhất vì thế học sinh dễ nhầm lẫn trong viết chính tả. Vd: Đọc là /ưa – nờ – ươn/ viết là ư – ơ – n hoặc phát âm là / u – yên – uyên/ viết là u – y – ê – n = uyên. Trong 3 nguyên âm đôi, phần nhiều học sinh chưa thể phân biệt được tiếng có âm cuối hay không có âm cuối hay tiếng có âm đệm. Theo như tiengvietonline.com.vn thì lỗi nhiều là do ở viết chính tả. Đối tượng học sinh là lớp 1, lúc này các em nhận thức còn kém nên để truyền thụ được nội dung dạy này với học sinh là một vấn đề hết sức khó khăn đối với người dạy. Khi phát âm người dạy phải kéo dài để cho học sinh được nghe rõ nguyên âm đó có chứa hai con chữ. Hướng giải quyết sự nhầm lẫn này bằng cách cho học sinh thực hành trên bảng con các tiếng có hai cách viết khác nhau. Bạn nào viết sai thì cho bạn đó nhắc lại luật chính về nguyên âm đôi /iê/ và sau đó cho cả lớp nhắc lại. Giáo viên cũng cần phải chú ý tới việc học sinh viết dấu thanh khí tiếng có âm cuối và tiếng không có âm cuối. Một khi trong tiếng có âm cuối thì dấu thanh được đặt ở phía bên trên hoặc ở phía dưới con chữ thứ hai ghi nguyên âm đôi. Khi không xuất hiện âm cuối dấu thanh được đặt ở con chữ thứ nhất ghi nguyên âm đôi. Ngoài ra, có thể hướng dẫn cho người học nắm chắc, ghi nhớ luật chính tả về nguyên âm đôi /iê/ bằng nhiều hình thức như đọc theo 4 mức độ, đọc nối tiếp. Có âm đệm nhưng lại không chứa âm cuối: iê được ghi bằng ya – khuya. Theo như website tiengvietonline chia sẻ thì người dạy phải vận dụng linh hoạt những phương pháp và hình thức dạy học, phù hợp với từng đối tượng học mình đang phụ trách. Người dạy phải thực hiện đúng quy trình 4 việc dạy đúng và không được sơ sài việc nào. Phải nghiên cứu thiết kế để giảng dạy ở mẫu vần. Để giúp cho người học nắm chắc nguyên âm đôi trong tiếng Việt thì trước khi giới thiệu nên chú ý tạo ra một tình huống chính tả, từ đó giúp cho HS nhận xét, rút ra được cách học và ghi nhớ. Để có thể truyền đạt lại kiến thức nguyên âm đôi thì giáo viên cần phải vận dụng linh hoạt, phù hợp các hình thức tổ chức dạy học trong từng tiết. Hơn nữa, sử dụng một vài phương pháp giảng dạy như: Phương pháp làm mẫu, phương pháp phân tích, phương pháp hỏi đáp, phương pháp trực quan… kết hợp cùng với nhiều hình thức dạy học nhóm, lớp, cá nhân…. Giáo viên yêu cầu người học thực hành và rèn luyện những kỹ năng đọc, viết từ căn bản cho tới cao. Để thực hiện được điều này người dạy chỉ nhiệt tình giảng dạy thôi là không đủ mà còn phải vận dụng sự linh hoạt các phương pháp được truyền đạt bên trên và cả hình thức dạy học, để như thế học sinh sẽ có tâm trạng muốn học hơn. Khi dạy nguyên âm đôi cần phải đi liền với cấu trúc ngữ âm của tiếng. Thường xuyên nhắc lại luật chính tả cho người học khi đọc và viết tiếng có chứa nguyên âm đôi. Ở trên lớp cần treo một bảng ghi nhớ về luật chính tả nguyên âm đôi đặt ở nơi mà người học hoàn toàn có thể quan sát, để mỗi ngày nhắc nhở các em và giúp cho các em ghi nhớ nguyên âm đôi một cách hiệu quả nhất. Trong quá trình giảng dạy cần phải phân hóa đối tượng người học để có phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với từng đối tượng đang theo học. Thường xuyên tham khảo các tài liệu trong và ngoài chương trình, học hỏi kiến thức từ đồng nghiệp để nâng cao trình độ, hình thức và để đúc rút ra được phương pháp giảng dạy phù hợp, hiệu quả nhất. Như vậy sau khi tìm hiểu về nguyên âm đôi trong tiếng Việt bên trên, các phương pháp, cũng như cách dạy tốt, hiệu quả bên trên sẽ giúp cho người dạy truyền đạt được những kiến thức về nguyên âm đôi tới người học nhanh chóng và cũng như nắm bắt chắc chắn nhất.
Nguyên âm đôi
Một nguyên âm đôi là sự kết hợp của hai nguyên âm kế nhau trong cùng một âm tiết. Về cơ bản, nguyên âm đôi là một nguyên âm với hai mục tiêu khác nhau, như thế để lưỡi (và/hoặc các cơ quan nói khác) có thể di chuyển trong khi phát âm nguyên âm. Ví dụ, trong nhiều phương ngữ của tiếng Anh, cụm từ no highway cowboys có năm nguyên âm đôi khác nhau, nằm tương ứng trong năm âm tiết. Nguyên âm đôi được phân biệt với nguyên âm đơn, khi mà lưỡi và cơ quan nói khác không di chuyển và âm tiết chỉ gồm một âm vị nguyên âm duy nhất. Ví dụ, trong tiếng Việt, từ lý gồm một nguyên âm đơn với một thanh điệu (phát âm tiếng Việt: ), trong tiếng Anh, từ ah phát âm là một nguyên âm đơn dài (), còn ow được phát âm như nguyên âm đôi () trong hầu hết phương ngữ. Khi hai nguyên âm đứng cạnh nhau trong hai âm tiết khác nhau—ví dụ, trong từ re-elect tiếng Anh—thì ta có một khoảng dừng, không phải nguyên âm đôi. Nguyên âm đôi thường được tạo ra từ việc các nguyên âm đơn "hòa" vào nhau khi nói nhanh trong đối thoại.
Mặc dù cáp quang hiện nay đã thay thế cáp đồng trục trong việc truyền tín hiệu Internet, nhưng không vì thế mà cáp đồng trục mất đi vị thế của mình, nó thực sự còn được sử dụng trong đời sống với rất nhiều lợi ích với giá thành cực rẻ. Trong bài viết này chúng ta hãy cùng tìm hiểu về cấu tạo của cáp đồng trục cũng như một số loại phổ biến thường dùng hiện nay. Khi bạn đã nắm được thế nào là cáp đồng trục có thể dễ dàng lựa chọn sử dụng nó hoặc cáp quang để phục vụ nhu cầu sử dụng tốt nhất với giá thành hợp lý. Cáp đồng trục (Coaxial cable) thường được sử dụng bởi các nhà khai thác cáp, các công ty điện thoại và các nhà cung cấp dịch vụ internet để truyền tải dữ liệu, video và liên lạc trên toàn thế giới. Nó đã xuất hiện từ lâu như một công nghệ (từ đầu thế kỷ 20) và có nhiều ưu điểm để truyền tải dữ liệu chính xác, ổn định và đáng tin cậy. Nó cũng có những hạn chế mà trong một số trường hợp phải thay thế bằng cáp quang, cáp xoắn đôi hay đôi khi là tín hiệu không dây. Chìa khóa thành công của cáp đồng trục là thiết kế được bảo vệ chắc chắn, cho phép lõi đồng của cáp truyền dữ liệu nhanh chóng, không bị nhiễu hoặc hư hại do các yếu tố môi trường. RG là viết tắt của "radio guide". Chúng đôi khi còn được gọi là cáp RF, viết tắt của tần số vô tuyến. Hầu hết cáp đồng trục không thuộc công nghiệp hiện được gọi là RG-6, nhưng người lắp đặt có thể sử dụng cáp dày hơn như RG-11. Hầu hết các đầu nối của cáp đồng trục là đầu nối loại F, một số phần cứng sử dụng đầu nối loại N. Một số kiểu của đầu nối loại F dành cho cáp RG-6:. Cáp đồng trục có ruột dẫn bên trong được bao bọc bởi một lớp cách điện, xung quanh là lớp vỏ bọc dẫn điện. Nhiều loại còn có thêm một lớp bảo vệ bên ngoài cách điện. Bạn có thể theo dõi hình ảnh dưới đây minh họa cấu tạo của cáp đồng trục điển hình. Tín hiệu điện chạy qua dây dẫn ở trung tâm. Liên kết dây dẫn trung tâm - một lớp polyme bao bọc ngăn chặn độ ẩm. Chất điện môi - một lớp polyetylen bao bọc kín giúp ổn định cơ học cho cáp đồng trục. Dây dẫn bên ngoài đầu tiên - tấm chắn bằng bằng nhôm polymer alfin liên kết chặt chẽ với lõi điện môi. Dây dẫn bên ngoài thứ hai - lớp “nhôm-polyme-nhôm” được bổ sung theo cấu trúc ba và bốn lá chắn để tăng cường hơn nữa sự cách biệt của lá chắn HF trước và sau khi uốn. Dây dẫn bên ngoài thứ ba - một lớp “nhôm-polyme-nhôm” được bổ sung tăng cường hơn nữa sự tách biệt của lá chắn HF trước và sau khi uốn. Dây dẫn thứ tư bên ngoài - được bện bằng nhôm 34 hoặc thép không gỉ 36 AWG. Bổ sung để tăng cường khả năng bảo vệ của lá chắn LF trong môi trường nhiễu RF khắc nghiệt. Indoor and aerial - vật liệu chống thấm nước loại bỏ sự xâm nhập của hơi ẩm vào kết cấu cáp. Jacket - một lớp áo khoác bên ngoài giúp dây cáp chống lại tia UV bằng polyetylen (PE) hoặc polyvinyl clorua chống cháy (PVC). Giúp bảo vệ lõi của dây cáp trong quá trình lắp đặt và tăng tuổi thọ. Integral messenger - một bộ phận hỗ trợ của cáp đồng trục, thường là dây thép carbon, mạ kẽm được gắn vào mà vẫn có thể tách rời. Cáp đồng trục có thể được lắp đặt bên cạnh các vật kim loại mà không bị nhiễu điện như các loại đường truyền khác. Nhược điểm chính của việc sử dụng cáp đồng trục là lỗi cáp đơn lẻ và tốc độ truyền tín hiệu thấp hơn nhiều so với cáp quang. Có hai loại cáp đồng trục chính thường có trở kháng 75 Ohm (Ω) và 50 Ohm. Cáp 75 Ohm chủ yếu được sử dụng truyền tín hiệu video, trong khi cáp 50 Ohm có xu hướng được sử dụng để truyền tải dữ liệu và truyền thông không dây. Trong cáp đồng trục, Ohm dùng để chỉ trở kháng: là đơn vị đo điện trở trong cáp đối với năng lượng của dòng điện. Cáp đồng trục RF được sử dụng để mang tín hiệu tần số vô tuyến. Chúng là cáp đầu vào tiêu chuẩn trên TV và có một chân cắm duy nhất vào cổng RF trên thiết bị. Cáp RG-6 có dây dẫn lớn hơn nên cho chất lượng tín hiệu tốt hơn. Chúng có lớp cách điện điện môi dày hơn và được làm bằng một loại chất liệu đặc biệt cho phép xử lý tín hiệu mức GHz hiệu quả hơn. Vì loại cáp này mỏng nên nó cũng có thể dễ dàng lắp đặt vào tường hoặc trần nhà. RG-59 là một loại cáp phổ biến tương tự như RG-6 nhưng nó có ruột dẫn ở giữa mỏng hơn. Điều này làm nó trở thành một lựa chọn tốt cho các đường dây ngắn và truyền tần số thấp. Cáp RG-11 có thể dễ dàng nhận biết vì có đường kính dày hơn các loại cáp đồng trục khác, điều này có thể gây khó khăn khi đi dây và thiết đặt đường truyền. Tuy nhiên nó đem lại chất lượng đường truyền ổn định hơn nhờ có mức suy hao thấp hơn RG-6 hoặc RG-59, đồng thời có thể truyền tải dữ liệu với khoảng cách xa hơn. Cáp đồng trục chất lượng kém có thể ảnh hưởng đến việc thu sóng TV, vì vậy điều quan trọng là phải chọn loại cáp tốt nhất. Cáp đồng trục được thiết kế truyền hình thường có điện trở 75 Ohm và RG-6 là loại lý tưởng nhất cho tín hiệu hình ảnh TV. Loại cáp này cung cấp đường truyền tốt hơn hẳn những loại khác nhờ đường kính rộng của nó, tạo ra nhiều không gian hơn để truyền tín hiệu. Cáp RG-11 hoàn hảo trong việc truyền tín hiệu hình ảnh - video HD tốc độ cao. Vì tín hiệu internet chạy ở tần số cao hơn so với video truyền thống nên cáp đồng trục RG-6 được thiết kế để đáp ứng yêu cầu này. Nó có dây dẫn lớn hơn, mang lại chất lượng tín hiệu tốt và lớp cách điện điện môi dày. Cáp RG-6 cũng được chế tạo với lớp che chắn có chất liệu đặc biệt giúp truyền tín hiệu mức GHz hiệu quả hơn. Cáp đồng trục RG-59 là loại tốt nhất cho hệ thống camera quan sát nhưng RG-6 cũng có thể thay thế. RG-6 truyền được tín hiệu ở khoảng cách xa hơn RG-59 mà không bị suy giảm tín hiệu video, tuy nhiên đó là một loại cáp dày, chắc hơn nên không thuận tiện khi đi dây cũng thiết đặt camera giám sát. Các loại cáp đồng trục phổ biến nhất để truyền tải tín hiệu video là RG-59 và RG-6. Trong khi RG-59 là cáp tiêu chuẩn công nghiệp thì RG-6 lại cho kết quả tốt hơn khi truyền tín hiệu video kỹ thuật số. Đầu nối cáp đồng trục được sử dụng để kết nối cáp với các thiết bị khác và duy trì độ ổn định của đường truyền. Có hai kiểu kết nối riêng biệt được gọi là male và female. Đầu nối male có chốt kim loại nhô ra khỏi tâm và đầu nối female có lỗ lõm để tiếp nhận chân. Đầu nối đồng trục của Bayonet Neil-Concelman (BNC) được sử dụng để kết nối hoặc ngắt kết nối nhanh trong thiết bị RF, thiết bị đo kiểm, radio, truyền hình và tín hiệu video. Đầu nối Neill-Concelman (TNC) có ren là các sản phẩm nhỏ, chịu được thời tiết khắc nghiệt, hoạt động lên đến 12GHz. Chúng thường được sử dụng trong kết nối điện thoại di động và RF / ăng-ten. Đầu nối 7/16 DIN (Deutsches Institut für Normung) là đầu nối RF có ren được sử dụng để kết nối cáp đồng trục. Loại đầu nối này chủ yếu được sử dụng cho các ứng dụng yêu cầu khả năng chống nước, vì chúng rất chắc chắn và bền. Đặc biệt hữu ích cho các trạm gốc và hệ thống liên lạc quảng bá. Đầu nối QMA là đầu nối tần số vô tuyến đồng trục. Chúng như một hàng rào che chắn trong các ứng dụng điện và có các cơ chế bật nhanh. Chúng lý tưởng cho các thiết lập công nghiệp và truyền thông. Đầu nối đồng trục micro (MCX) lý tưởng cho các môi trường bị hạn chế về kích thước hoặc không gian. Các đầu nối này cũng có thiết kế khớp nối nhanh để dễ dàng lắp đặt. Đầu nối Radio Corporation of America (RCA), còn được gọi là đầu nối cinch, được sử dụng rộng rãi để truyền tín hiệu âm thanh và video. Cả hai loại cáp này đều có thể sử dụng để truyền tải video, âm thanh và các dạng dữ liệu khác, cả hai đều đem lại cho bạn những lợi thế và bất lợi khác nhau trong việc thiết lập mạng. Cáp quang cũng có thể mang nhiều thông tin và tốc độ nhanh hơn, nhưng cùng với đó thì giá thành cũng đắt hơn đáng kể. Vì thế cáp quang không thường xuyên được sử dụng ở khu dân cư và tiêu dùng so với cáp đồng trục. Bởi vì cáp quang có tốc độ truyền dữ liệu nhanh hơn cáp đồng trục nên chúng được sử dụng tốt nhất cho các mạng chuyên nghiệp, chẳng hạn như các mạng trong khuôn viên doanh nghiệp hoặc trường đại học. Cáp đồng trục dễ lắp đặt và rất bền. Nếu bạn đang làm việc trên một hệ thống mạng nhỏ tại nhà hoặc sử dụng mạng truyền dữ liệu dung lượng trung bình, tốt nhất bạn nên sử dụng cáp đồng trục. Bài viết tới đây là kết thúc, mình tin rằng giờ đây bạn đã có được tất cả thông tin về cáp đồng trục cần tìm. Nếu thấy bài viết hữu ích, đừng quên chia sẻ nó tới bạn bè hay đồng nghiệp để cùng nâng cao kiến thức về CNTT nhé!. Ngày nay các doanh nghiệp ngày càng phát triển. Vấn đề về quản lý, lưu…. Blog chia sẻ kiến thức công nghệ, đánh giá sản phẩm công nghệ như điện thoại, máy tính, ứng dụng và game.
Cáp đồng trục
Cáp đồng trục (Coaxial) là loại cáp điện với một lõi dẫn điện được bọc lại bởi một lớp điện môi không dẫn điện, chung quanh quấn thêm một lớp bện kim loại, ngoài cùng lại có vỏ bọc cách điện. Từ đồng trục đến từ việc tất cả các lớp cáp đều dùng chung một trục hình học. Cáp đồng trục được nhà toán học và kỹ sư người Anh Oliver Heaviside phát minh, bằng sáng chế được cấp năm 1881. Cáp đồng trục thường dùng làm đường truyền cho tín hiệu vô tuyến. Ứng dụng của nó bao gồm các đường cấp giữa thiết bị thu phát sóng vô tuyến và ăng ten của chúng, các kết nối mạng máy tính, và làm cáp truyền hình. Một ưu điểm của cáp đồng trục là tín hiệu số truyền trên cáp chỉ tồn tại bên trong lõi cáp. Nhờ đó người ta có thể lắp cáp bên cạnh các vật liệu kim loại mà không sợ thất thoát năng lượng thường xảy ra với các loại cáp cũ hơn. Tín hiệu trong cáp đồng trục cũng không bị gây nhiễu từ các nguồn bên ngoài. Cáp đồng trục theo lý thuyết có độ suy hao 200m nhưng trong thực tế là 50m.
Mèo là thú cưng được nhiều người ưa thích và lựa chọn nuôi dưỡng. Nhưng hầu như mọi người chỉ thường chú ý đến vẻ đẹp bên ngoài hoặc giá bán hay là cách chăm sóc. Ít ai chú ý đến tuổi thọ của mèo trung bình là bao nhiêu. Vì thế hôm nay, Chợ Tốt Thú Cưng muốn chia sẻ với mọi người về thông tin tuổi thọ của mèo cũng như cách tính tuổi mèo đơn giản. Cho đến nay, thông tin chi tiết về tuổi thọ của mèo tương đối ít ỏi. Một số nghiên cứu đã tìm hiểu về vấn đề này và đã đưa ra các con số ước tính, tuổi thọ trung bình của mèo trong các nghiên cứu này dao động từ 13 đến 17 năm. Với một giá trị tuổi trung bình rơi vào khoảng mốc 15 năm. Tuổi thọ tối đa của mèo được ước tính khoảng từ 22 đến 30 năm. Trọng lượng của một con mèo càng lớn, thì tuổi thọ trung bình của nó càng thấp. Mèo cái đã được chứng minh có tuổi thọ cao hơn mèo đực, trong khi mèo thuần chủng có tuổi thọ thấp hơn mèo bị triệt sản và mèo lai. Hiện đang giữ kỷ lục Guinness về tuổi thọ của mèo là chú mèo có tên Nutmeg nước Anh. Chú mèo này đã sống được 32 năm, tương đương 144 tuổi. Ngoài ra tuổi của mèo còn phụ thuộc vào từng giống mèo và cách chăm sóc mèo của mỗi người. Nếu chăm sóc tốt và bài bản, chú mèo của bạn có thể sống tận 32 năm như kỷ lục đã được xác nhận. 5 – 12 ngày: là giai đoạn mèo mở mắt và tập thích nghi với môi trường sống. 15 – 20 ngày: mèo có thể đi, trườn khắp nhà và bắt đầu khám phá mọi thứ. Ngoài 6 tuần tuổi: mèo con cai sữa mẹ và ăn các thức ăn dành riêng cho mèo. Chơi đùa ở trên cao như leo trèo và đi chơi xa hơn. Trên 1 năm: mèo có dấu hiệu của động dục và bắt đầu chu kỳ sinh con. Nếu không muốn mèo sinh sản thì bạn có thể triệt sản để mèo khỏe mạnh, tránh các bệnh liên quan đến đường sinh dục. 6 – 8 năm: mèo bắt đầu già và chậm chạp hơn. Có trường hợp bị mắc bệnh béo phì hay răng dần ố vàng. Trên 12 năm: mèo có dấu hiệu loạng choạng và yếu hơn hẳn, ăn ít và cần cho mèo ăn những thức ăn dễ tiêu. 15 – 16 năm: đây là giới hạn trung bình của mèo. Thời điểm này mèo dễ mắc các bệnh về tim, gan,… sức khỏe cực kỳ yếu. Cho mèo vận động thường xuyên là cách để kiểm soát được cân nặng của mèo, giảm thiểu được những bệnh về tim mạch hay tiểu đường, làm tăng tuổi thọ. Tiêm phòng đầy đủ cho mèo cưng. Ngăn ngừa một số bệnh do virus gây ra – tác nhân gây ra nhiều trường hợp tử vong ở mèo. Cần cung cấp chế độ dinh dưỡng phù hợp theo từng giai đoạn phát triển của mèo. Chọn các loại thức ăn cho mèo có đủ dinh dưỡng, duy trì được sức khỏe lâu dài, bền bỉ. Mèo là loài rất thích được quan tâm, chăm sóc, vuốt ve và thích làm nũng với chủ nhân. Vì thế, đừng bỏ qua chi tiết nhỏ nhặt này nếu muốn chú mèo của mình có một tuổi thọ cao nhé. Bài viết trên là những chia sẻ tất cả về tuổi thọ của mèo, cách tính tuổi mèo ra sao. Bên cạnh đó là những bí quyết giúp bạn gia tăng tuổi thọ của mèo qua việc chăm sóc hằng ngày. Chúc bạn thành công!
Tuổi thọ của mèo
Cho đến nay, thông tin đáng tin cậy về tuổi thọ của mèo nhà rất đa dạng và tương đối ít ỏi. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã tìm hiểu về vấn đề này và đã đưa ra các con số ước tính đáng chú ý. Ước tính tuổi thọ trung bình của mèo trong các nghiên cứu này dao động từ 13 đến 17 năm, với một giá trị tuổi trung bình rơi vào khoảng mốc 15 năm. Ít nhất một nghiên cứu tìm thấy giá trị tuổi thọ trung bình là 14 năm và một phần tư tương ứng nằm trong phạm vi từ 9 đến 17 năm. Tuổi thọ tối đa được ước tính ở các giá trị dao động từ 22 đến 30 năm mặc dù đã có những tuyên bố chưa xác minh của các cá thể mèo chết ở lứa tuổi trên 30 năm. Mèo cái đã được chứng minh có tuổi thọ cao hơn mèo đực, trong khi mèo bị triệt sản và mèo lai đã được chứng minh có tuổi thọ cao hơn mèo thuần chủng. Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng trọng lượng của một con mèo càng lớn, thì tuổi thọ trung bình của nó càng thấp.
Các bạn học sinh đang tìm hiểu về số chính phương, kiến thức quan trọng trong chương trình Toán học. Học Toán không đơn giản khi người học cần sự tư duy, suy luận logic để hiểu hơn về các con số và những bài toán. Trong kiến thức lần này, chúng tôi xin giới thiệu với các bạn về số chính phương là gì? Tính chất và đặc điểm số chính phương. Mời các bạn học sinh cùng theo dõi bên dưới. Số chính phương hay số hình vuông là số tự nhiên có căn bậc 2 của số tự nhiên. Nói một cách dễ hiểu hơn số chính phương là lũy thừa bậc 2 của 1 số tự nhiên nào đó. Số chính phương có đặc điểm là số không âm. Hay số chính phương có căn bậc hai là một số nguyên. Dựa trên khái niệm về số chính phương bên trên. Bạn có thể tìm ra dấu hiệu nhận biết. Sau đây là các dấu hiệu cơ bản về số chính phương. – Dựa vào hàng đơn vị: hàng đơn vị của số chính phương 0, 1, 4, 5, 6, 9. Trong trường hợp hàng đơn vị là các con số còn lại có nghĩa không phải là số chính phương. – Phân tích một số chính phương ra thừa số nguyên tố thu được thừa số là lũy thừa của số nguyên tố với số mũ chẵn. – Số chính phương hàng đơn vị không bao giờ là 2, 3, 7, 8, như vậy số chính phương có chữ số tận cùng là 0, 1, 4, 5, 6, 9. – Số chính phương chia cho 3 không dư 2, số chính phương chia cho 4 không dư 2 hoặc 3, số chính phương lẻ khi trường hợp chia 8 dư 1. Thông thường học sinh sẽ thực hành bài toán chứng minh n là số chính phương hoặc chứng minh n không phải là số chính phương. – Áp dụng tính chất: nếu 2 số tự nhiên a và b nguyên tố cùng nhau có tích là số chính phương thì a và b là các số chính phương. – Chứng minh N ở hàng đơn vị hoặc tận cùng 2 3 7 8 hoặc N tận cùng là 2k + 1 chữ số 0. – Xem số dư, khi dùng N chia cho các số là 3 hoặc 4, 5, 8 ,…Ví dụ số N chia 3 dư 2 hoặc chia 4 dư 2 => số N không phải là số chính phương. – Chứng minh số N nằm ở vị trí giữa hai số chính phương liên tiếp. Từ đặc điểm của số chính phương, học sinh dễ dàng đưa ra các ví dụ minh họa về số này. Dưới đây là các ví dụ tham khảo về số chính phương dành cho các bạn chưa biết. Như vậy các bạn đã hiểu được số chính phương là gì đúng không nào? Đặc điểm cùng với một số ví dụ cơ bản về số chính phương cực kỳ dễ hiểu dành cho học sinh. Nhận biết số chính phương giúp học sinh hiểu bài và giải bài tập hiệu quả hơn.
Số chính phương
Số chính phương hay còn gọi là số hình vuông là số tự nhiên có căn bậc hai là một số tự nhiên, hay nói cách khác, số chính phương bằng bình phương (lũy thừa bậc 2) của một số tự nhiên. Số chính phương biểu thị diện tích của một hình vuông có chiều dài cạnh bằng số tự nhiên. Số chính phương không bao giờ tận cùng là 2, 3, 7, 8, chỉ có chữ số tận cùng là 0, 1, 4, 5, 6, 9. Khi phân tích một số chính phương ra thừa số nguyên tố ta được các thừa số là lũy thừa của số nguyên tố với số mũ chẵn. Số chính phương chia cho 3 không bao giờ có số dư là 2; chia cho 4 không bao giờ dư 2 hoặc 3; số chính phương khi chia 8 luôn dư 0 hoặc 1 hoặc 4. Công thức để tính hiệu của hai số chính phương: a2-b2=(a-b)(a+b). Số ước nguyên dương của số chính phương là một số lẻ. Số chính phương chia hết cho số nguyên tố p thì chia hết cho p2. Tất cả các số chính phương có thể viết thành dãy tổng của các số lẻ tăng dần từ 1: 1; 1 + 3; 1 + 3 + 5; 1 + 3 + 5 + 7; 1 + 3 + 5 + 7 + 9;.v.
Các nhóm tin khoa học đã lúng túng với những câu chuyện về năng suất 2 kiloton, thiết bị tổng hợp thủy ngân đỏ của Nga, về mặt lý thuyết là sở hữu của những kẻ khủng bố. Điều này, tất nhiên, nhắc nhở câu hỏi: Thủy ngân đỏ là gì? Câu trả lời cho câu hỏi này phụ thuộc phần lớn vào người mà bạn yêu cầu. Thủy ngân đỏ có thật không? Hoàn toàn, nhưng các định nghĩa khác nhau. Nếu bạn đã hỏi tôi trước khi tôi đã làm một chút nghiên cứu Internet, tôi sẽ đưa cho bạn câu trả lời cinnabar / vermillion tiêu chuẩn. Theo tôi hiểu, định nghĩa này bắt nguồn từ giá cao bất thường được chỉ huy và trả cho một chất gọi là thủy ngân đỏ, được sản xuất ở Nga. Giá ( 200-300K / kg) và các hạn chế thương mại phù hợp với vật liệu hạt nhân thay vì cinnabar. Tìm kiếm thêm thông tin? Đây là một câu trả lời cho người đọc sâu sắc đối với Câu Hỏi Thường Gặp này, được viết bởi Wm.
Thủy ngân đỏ
Thủy ngân đỏ được coi là một chất có thành phần không chắc chắn được sử dụng trong việc tạo ra vũ khí hạt nhân, cũng như một loạt các hệ thống vũ khí không liên quan. Do sự bí mật lớn xung quanh việc phát triển và sản xuất vũ khí hạt nhân, không có bằng chứng nào cho thấy thủy ngân đỏ tồn tại. Tuy nhiên, tất cả các mẫu được cho là "thủy ngân đỏ" được phân tích trong các tài liệu công khai đã được chứng minh là các chất đỏ phổ biến, thường không được các nhà sản xuất vũ khí quan tâm. Do đó, thủy ngân đỏ được coi là một trò lừa bịp, được thực hiện bởi các nghệ sĩ lừa đảo, những người tìm cách lợi dụng những người mua cả tin trên thị trường chợ đen để mua vũ khí. Đã có báo cáo về "thủy ngân đỏ" trên thị trường chợ đen quốc tế kể từ năm 1979, nhưng trò lừa bịp này dường như phổ biến nhất vào đầu những năm 1990, với giá chào bán lên tới 1,8 triệu đô la cho mỗi kg. Các tài liệu tham khảo về thủy ngân đỏ xuất hiện lần đầu tiên trong các nguồn truyền thông lớn của Liên Xô và phương Tây vào cuối những năm 1980.
Ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam là tên gọi ba ngôn ngữ ký hiệu được phát triển bởi các cộng đồng khiếm thính tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, và Hải Phòng ở Việt Nam. Các ngôn ngữ này trực thuộc một khu vực cũng bao gồm các ngôn ngữ ký hiệu của Lào và Thái Lan, nhưng người ta chưa biết các ngôn ngữ này có liên quan với nhau. Các ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam đã chịu ảnh hưởng từ ngôn ngữ ký hiệu Pháp. Các ngôn ngữ ký hiệu Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội dùng chung vào khoảng 58% từ vựng cơ bản, trong khi các ngôn ngữ TPHCM và Hải Phòng dùng chung vào khoảng 54% từ vựng cơ bản. Từ những năm 2000, Việt Nam bắt đầu triển khai những nỗ lực của mình nhằm hoàn thiện và hệ thống hóa ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam. Các câu lạc bộ, nhóm dạy, và sinh hoạt ngôn ngữ ký hiệu bắt đầu hình thành và nở rộ. Một số tài liệu khá công phu xuất hiện như: bộ 3 tập Ký hiệu cho người điếc Việt Nam, từ điển ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam, v.v.
Ngôn ngữ ký hiệu
Ngôn ngữ ký hiệu hay ngôn ngữ dấu hiệu, thủ ngữ là ngôn ngữ dùng những biểu hiện của bàn tay thay cho âm thanh của tiếng nói. Ngôn ngữ ký hiệu do người khiếm thính tạo ra nhằm giúp họ có thể giao tiếp với nhau trong cộng đồng của mình và tiếp thu tri thức của xã hội. Aristotle, triết gia của Hy Lạp, tuyên bố "Người điếc không thể giáo dục được. Nếu không nghe được, con người không thể học được". Geronimo Cardano, nhà vật lý học người Padua, tuyên bố người điếc có thể học tập thông qua giao tiếp bằng ký hiệu. Thế kỷ 181755: Charles-Michel de l Épée (người Pháp) do một cơ hội đưa đến, cha được gặp và dạy cho 2 cô bé sinh đôi bị điếc. Từ việc dạy này, cha đã nãy sinh ý tưởng thành lập trường dạy cho những người điếc. Đây là trường công đầu tiên dành cho người điếc. Cha đã hệ thống lại những dấu hiệu mà người điếc ở Pháp đã dùng và sử dụng những dấu hiệu này theo ngữ pháp của Tiếng Pháp để dạy cho học sinh điếc. Tại Leipzig, Đức, Samuel Heinicke, trường công lập đầu tiên dành cho người điếc không chỉ sử dụng ngôn ngữ ký hiệu mà còn dùng phương pháp nói và đọc khẩu hình (speech-reading) – tiên phong cho việc dùng tất cả các phương pháp để giao tiếp tối ưu (dùng tất cả các biện pháp giao tiếp có thể: ngôn ngữ ký hiệu, cử chỉ, đánh vần bằng ký hiệu, đọc khẩu hình, nói, trợ thính, đọc, viết và tranh vẽ).
Áp lực cuộc sống khiến số người bị bệnh rối loạn lưỡng cực ngày càng tăng. Người mắc chứng bệnh này khi thì chán nản, tuyệt vọng trong các hoạt động thường ngày, khi thì hưng phấn, phấn khích. Rối loạn lưỡng cực là chứng bệnh rối loạn tâm thần hay còn gọi là rối loạn hưng - trầm cảm, tình trạng tâm thần thay đổi thất thường khiến tâm trạng có thể đột ngột hưng phấn như phấn khích quá hoặc tăng động, nhiều lúc lại rơi vào trạng thái trầm cảm. Bệnh rối loạn lưỡng cực có tính chất chu kỳ, xen kẽ giữa trầm cảm và hưng phấn. Sự thất thường của trạng thái tâm lý người bệnh thường xuất hiện vài lần trong năm hoặc có thể nhiều lần trong tuần. Khi ở trạng thái trầm cảm: người bệnh cảm thấy buồn chán, mệt mỏi, hay khóc không rõ lý do, tinh thần trì trệ. Bệnh rối loạn lưỡng cực sẽ xảy ra theo chu kỳ. Tâm trạng của người bệnh cũng sẽ thay đổi theo ngày, theo tuần, theo tháng hoặc theo mùa. Khi có bất cứ dấu hiệu nào của bệnh, cần đến ngay các cơ sở y tế uy tín để được sự tư vấn và điều trị của các chuyên gia y tế. Để điều trị hiệu quả, cần chẩn đoán chính xác rối loạn lưỡng cực. Việc phân biệt rối loạn lưỡng cực và trầm cảm, đặc biệt là trầm cảm của rối loạn lưỡng cực là rất cần thiết vì 2 bệnh này khác nhau về di truyền, gốc lâm sàng, kết quả, và điều trị. Bệnh nhân bị rối loạn lưỡng cực sẽ rất khó để chẩn đoán nếu bệnh nhân có biểu hiện trầm cảm và không có những biểu hiện hưng cảm hoặc phấn khích. Rối loạn lưỡng cực là nhóm các bệnh lý khá nặng nề. Tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong cao hơn bệnh trầm cảm. Các bệnh nhân rối loạn lưỡng cực cần được thăm khám tại các cơ sở y tế. Sau khi được khám lâm sàng, bác sĩ sẽ chẩn đoán bệnh rối loạn lưỡng cực. Bên cạnh đó, người bệnh có thể được yêu cầu làm các xét nghiệm máu, hoặc các xét nghiệm khác để chắc chắn người bệnh có những triệu chứng đang mắc không phải là do một bệnh lý nào khác gây ra. Khi có kết quả, các bác sĩ sẽ chỉ định thuốc chứa lithium để giúp người bệnh cân bằng cảm xúc. Thêm vào đó, người bệnh sẽ được theo dõi liên tục trong thời gian dài để ngăn ngừa tái phát rối loạn lưỡng cực hưng cảm hoặc trạng thái trầm cảm. Người bệnh sẽ có thể phải uống lithium suốt đời nếu bệnh trở nặng. Bên cạnh đó, bác sĩ sẽ dùng các liệu pháp tâm lý để giúp người bệnh điều trị rối loạn hành và cách kiểm soát suy nghĩ của bản thân. Người bị bệnh rối loạn lưỡng cực cần có chế độ sinh hoạt hợp lý: ngủ đủ giấc và cố định theo giờ, không mặc cảm tự ti với xã hội, tham gia các hoạt động xã hội, tránh xa các chất kích thích như cà phê, bia , rượu. Phòng khám Tâm lý - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Times City là một trong những địa chỉ uy tín hàng đầu trong việc điều trị các vấn đề tâm lý, sức khỏe tâm thần. Đội ngũ y bác sĩ tại phòng khám đều có chuyên môn cao, nhiều người là giảng viên bộ môn tâm thần tại trường Đại học Y Hà Nội, có khả năng triển khai các trắc nghiệm tâm lý, liệu pháp tâm lý chuyên sâu, hỗ trợ đắc lực cho việc điều trị bệnh. Phòng khám có hệ thống trang thiết bị hiện đại, cơ sở vật chất hàng đầu cả nước sẽ mang đến dịch vụ tốt nhất cho bệnh nhân, tăng hiệu quả điều trị. Thuốc Valproic Acid Syrup được sử dụng để điều trị rối loạn co giật, giai đoạn hưng cảm của rối loạn lưỡng cực và để ngăn ngừa chứng đau nửa đầu. Nếu bạn đang mang thai, không dùng axit valproic . Thuốc Surmontil được sử dụng trong điều trị trầm cảm. Nó có thể giúp cải thiện tâm trạng, mang đến cảm giác hạnh phúc và hỗ trợ bạn tận hưởng cuộc sống hàng ngày tốt hơn. Phản ứng của thuốc . Thuốc Geodon được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cấp phép để điều trị tâm thần phân liệt cũng như chứng hưng cảm cấp tính và một số trạng thái hỗn hợp liên quan . Thuốc Celexa được sử dụng và có hiệu quả ở nhiều nước trên thế giới. Vì thế loại thuốc chữa trầm cảm này hiện đang được rất nhiều người lựa chọn. Vậy để thuốc đạt được hiệu quả tốt, trước .
Rối loạn lưỡng cực
Rối loạn lưỡng cực (tiếng Anh: bipolar disorder), từng được gọi là bệnh hưng trầm cảm (tiếng Anh: manic depression), là một bệnh tâm thần có đặc trưng là các giai đoạn trầm cảm đi kèm với các giai đoạn tâm trạng hưng phấn ở mức bất thường kéo dài từ nhiều ngày đến nhiều tuần. Nếu tâm trạng người bệnh hưng phấn ở mức nghiêm trọng hoặc có liên hệ với loạn thần thì giai đoạn đó được gọi là hưng cảm; nếu tâm trạng người bệnh hưng phấn ở mức nhẹ hơn thì giai đoạn đó được gọi là hưng cảm nhẹ. Trong các giai đoạn hưng cảm, người bệnh có những hành vi hoặc cảm xúc hưng phấn, vui vẻ hoặc cáu bẳn một cách bất thường, và thường đưa ra những quyết định bộc phát mà không quan tâm đến hậu quả. Người bệnh cũng thường cảm thấy ít buồn ngủ hơn bình thường trong các giai đoạn hưng cảm. Trong các giai đoạn trầm cảm, người bệnh có thể khóc, có cái nhìn tiêu cực về cuộc sống và gặp khó khăn trong việc nhìn thẳng vào mắt người khác. Người mắc rối loạn lưỡng cực có nguy cơ tự sát cao; trong vòng 20 năm, 6% người bệnh tử vong vì tự sát, trong khi 30–40% người bệnh có hành vi tự hại.
Bệnh trầm cảm là rối loạn tâm trạng gây ra cảm giác buồn bã và mất mát. Bệnh được chia làm nhiều mức độ khác nhau, trong đó bệnh trầm cảm mức độ nhẹ có thể được nhận biết sớm để kịp thời cải thiện và ngăn ngừa bệnh tiến triển. Bệnh trầm cảm (Depression), là bệnh rối loạn tâm trạng thường gặp. Người bệnh thường có tâm trạng buồn bã, có hoặc không kèm theo triệu chứng hay khóc. Không có động lực, giảm hứng thú trong mọi việc, kể cả những hoạt động nằm trong sở thích trước đây. Trầm cảm ảnh hưởng đến cảm giác, suy nghĩ, hành xử của người bệnh, khiến cho người bệnh có thể gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, hay các vấn đề về thể chất và tinh thần. Bệnh trầm cảm phổ biến đến mức, có đến 80% dân số trên thế giới từng bị trầm cảm vào một lúc nào đó trong cuộc đời mình.Tần suất nguy cơ mắc bệnh trầm cảm trong suốt cuộc đời là 15 - 25%. Bệnh có thể gặp ở bất kỳ độ tuổi nào và thường phổ biến hơn ở nữ giới hơn nam giới. Hội chứng này có tỷ lệ cao ở những người ly thân, ly dị, thất nghiệp. Trầm cảm là bệnh, cần được quan tâm và điều trị. Ở bệnh nhân trầm cảm nhẹ, bệnh nhân có thể chưa cần phải dùng đến thuốc và tình trạng không quá nguy hiểm. Nhưng trên hết, người bệnh cần nhận được sự quan tâm của gia đình và người thân và cả bác sĩ để hỗ trợ khắc phục tình trạng này, bởi lẽ, trầm cảm có thể tồi tệ hơn rất nhiều nếu không được điều trị. Bệnh trầm cảm mức độ nhẹ sẽ không có tất cả các triệu chứng của bệnh trầm cảm nói chung. Để được chẩn đoán có mắc bệnh trầm cảm hay không phải có ít nhất một trong hai triệu chứng của bệnh trầm cảm cốt lõi đó là:. Không có động lực, giảm hứng thú trong mọi việc, kể cả những hoạt động nằm trong sở thích trước đây. Khó khăn trong việc tập trung hoặc trong giải quyết các vấn đề đơn giản hàng ngày. Dựa vào những triệu chứng đó người ta phân loại trầm cảm nhẹ gồm 1 triệu chứng chính và có ít hơn 4 triệu chứng liên quan. Những người trầm cảm nhẹ có thể khỏi bệnh mà không cần dùng thuốc, theo thời gian, các triệu chứng có xu hướng tự lắng xuống. Sang chấn tâm lý hay còn gọi là stress chính là một nguyên nhân lớn gây bệnh trầm cảm. Người bệnh có thể bị tác động từ bên ngoài như bị sốc tâm lý, mâu thuẫn gia đình bạn bè, căng thẳng trong công việc hoặc trong cuộc sống. Các chất gây nghiện như rượu, thuốc lá, ma túy. đều có đặc điểm chung là gây kích thích, sảng khoái hưng phấn tạm thời. Sau đó các chất này khiến cho hệ thần kinh bị ảnh hưởng lớn, khiến người bệnh dễ đi vào trạng thái trầm cảm, cơ thể mệt mỏi, trí lực giảm sút, ức chế. Bệnh nhân từng bị ảnh hưởng bởi những chấn thương, viêm não hay u não. có nguy cơ cao bị mắc bệnh trầm cảm do cấu trúc não bị tổn thương. Người bệnh có dấu hiệu rối loạn về tâm trạng, khả năng chịu đựng stress kém, chỉ cần một chút căng thẳng nhỏ cũng sẽ gây ra các rối loạn về cảm xúc. Trầm cảm gây ra rất nhiều nguy hại cho người mắc phải, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người bệnh, cũng là yếu tố khiến cho các bệnh lý khác trở nên trầm trọng, phức tạp hơn như: Tim mạch, dạ dày, tuyến giáp. Nếu một khi gặp những tình trạng như trên thì không nên chủ quan, bởi trầm cảm cho dù ở mức độ nhẹ cũng cần có phương pháp điều trị. Nhiều bệnh nhân vì ngại ngùng, hay vì nghĩ tự mình có thể chịu đựng được khiến cho tình trạng ngày càng tệ hơn. Vì cuộc sống cũng như hạnh phúc của bản thân mình và những người xung quanh, bạn không nên làm thế. Một phương pháp điều trị tốt, một người bác sĩ hỗ trợ, sự chia sẻ của người thân có thể giúp bạn vượt qua trầm cảm nhẹ dễ dàng hơn nhiều. Phòng khám Tâm lý - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City có chức năng khám, tư vấn, điều trị ngoại trú các vấn đề tâm lý, sức khỏe tâm thần. Với trang thiết bị hiện đại cùng với đội ngũ bác sĩ chuyên môn cao, phòng khám Tâm lý - Bệnh viện đa khoa Quốc Tế Vinmec Times City có khả năng triển khai các trắc nghiệm tâm lý, liệu pháp tâm lý chuyên sâu phục vụ công tác khám chữa bệnh. Phòng khám Tâm lý hiện đang hợp tác với các giáo sư, chuyên gia hàng đầu của trường Đại học Y Hà Nội, các bệnh viện tuyến đầu trong cả nước và trên quốc tế để chẩn đoán và điều trị nhằm mang lại hiệu quả khám chữa bệnh tốt nhất. Bệnh Alzheimer dần dần làm suy giảm trí nhớ và khả năng nhận thức của một người, và thường dẫn đến chứng sa sút trí tuệ. Giữa những nỗ lực tìm kiếm các phương pháp điều trị mới cho căn . Cho em hỏi bệnh nhân 80 tuổi sâu phẫu thuật tim có triệu chứng mê sảng và rối loạn nhận thức có phải do tác dụng phụ của thuốc gây mê hay không? Nếu đúng do nguyên . Chào bác sĩ, em trai cháu năm nay 12 tuổi, hồi trước có bị tai nạn giao thông lúc 8 tuổi và chấn thương sọ não, phải khâu ở đầu 14 mũi. Tai biến mạch máu não (hay còn gọi là Đột quỵ não) là một trong những tình trạng bệnh lý khá phổ biến hiện nay. Đây được xem là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong, hoặc nếu có cứu . Từ ngày 03 - 06/07/2019, Vinmec đã cử bác sĩ tham gia chương trình đào tạo về Đột quỵ và rối loạn nhận thức được tổ chức tại Hồng Kông. Khoá đào tạo đã giúp bác sĩ nâng cao kỹ .
Trầm cảm
Rối loạn trầm cảm (MDD, Major Depressive Disorder) hay trầm cảm là một chứng rối loạn tâm thần phổ biến. Các triệu chứng của căn bệnh bao gồm: tâm trạng buồn bã kéo dài ít nhất hai tuần liên tiếp, lòng tự trọng thấp, mất hứng thú với các hoạt động bệnh nhân từng cảm thấy thú vị, hay các hoạt động bình thường cũng dần trở nên khó khăn với bệnh nhân, cảm thấy uể oải thiếu năng lượng, đau nhưng không rõ nguyên nhân. Có thể thỉnh thoảng những người mắc bệnh trầm cảm còn ảo tưởng hoặc gặp ảo giác. Các triệu chứng của căn bệnh có thể cách vài năm mới gặp, hoặc gần như luôn xuất hiện. Trầm cảm nặng thì nỗi buồn sẽ kéo dài hơn, và những việc vốn là một phần bình thường của cuộc sống bỗng trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra khi mắc bệnh, cảm xúc của bệnh nhân sẽ trở nên bất thường. Việc chẩn đoán rối loạn trầm cảm chủ yếu dựa trên trải nghiệm mà bệnh nhân gặp qua vì vậy sẽ kiểm tra tình trạng tâm thần. Không có xét nghiệm trong phòng thí nghiệm, nhưng có thể thực hiện kiểm tra để loại trừ các tình trạng thể chất có thể gây ra các triệu chứng tương tự.
Hội chứng Tourette có tên gọi đầy đủ là hội chứng Gilles de la Tourette là một bệnh lý liên quan đến hệ thần kinh. Bệnh này thường gặp ở trẻ nhỏ đến người trưởng thành trong giai đoạn từ 2 - 15 tuổi. Khi mắc hội chứng này, trẻ có thể có các biểu hiện như co giật một hoặc toàn thân không kiểm soát được. Hội chứng Tourette không nguy hiểm đến tính mạng, yêu nhiên bệnh này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và trí tuệ của trẻ. Theo thống kê thì những người đã từng bị mắc hội chứng này có tuổi thọ thấp hơn người bình thường. Đối tượng có nguy cơ mắc hội chứng Tourette nhiều nhất là những người có tiền sử gia đình từng mắc bệnh hoặc rối loạn co giật. Ngoài ra, nam giới là đối tượng dễ mắc hội chứng Tourette nhiều hơn nữ giới gấp 4 lần. Các bác sĩ cho biết, các triệu chứng của Tourette thường rất khó nhận biết, việc này khiến người lớn rất khó phát hiện được cho tới khi chúng có biểu hiện cụ thể. Nếu trẻ có nhiều biểu hiện cụ thể dưới đây thì khả năng cao con đã bị hội chứng Tourette:. Ngoài ra, y học còn chia hội chứng Tourette ra làm 2 loại là đơn giản và phức tạp. Trong đó hội chứng Tourette đơn giản là vấn đề bệnh chỉ lặp đi lặp lại trong một nhóm cơ nhất định, còn phức tạp thì chuyển động khối hợp trên nhiều nhóm cơ. Hội chứng Tourette có khả năng thay đổi theo thời gian, tức là nó có thể phát triển nặng hơn ở tuổi dậy thì và giảm dần khi trẻ bước qua tuổi trưởng thành. Trong trường hợp trẻ bị mắc các bệnh khác thì hội chứng Tourette có thể trầm trọng hơn. Trẻ bị Tourette sẽ cảm thấy ngứa ngáy, khó chịu, mệt mỏi, căng thẳng, nếu cố gắng kiềm chế không cho nó xảy ra thì nó có thể bùng nổ một loạt. Trong tổng số người bị hội chứng Tourette thì có 1/3 trong số đó phải mang triệu chứng đến cuối đời, còn lại hầu hết là giảm nhẹ khi trẻ lớn. Hiện tại, y học chưa thể phát hiện được nguyên nhân chính dẫn đến hội chứng Tourette. Chỉ có thể xác định được hội chứng này có liên quan đến cấu trúc, hoạt động chức năng của các hạch cơ sở trong não bộ (bộ phận điều chỉnh các vận động của cơ thể ở não). Một số khác thì cho rằng nguyên nhân gây ra bệnh này có thể do di truyền. Nếu trong nhà từng có người bị hội chứng Tourette thì khả năng con cháu bị cũng khá cao. Chưa có xét nghiệm cụ thể nào để xác minh chính xác hội chứng Tourette mà chỉ có thể dựa vào tiên sử bệnh cũng như triệu chứng đang mắc phải. Các bác sĩ sẽ tiến hành kiểm tra thêm qua các xét nghiệm như máu, chụp CT cấu trúc não, chụp MRI. Ngay khi xác định được trẻ bị mắc hội chứng Tourette, gia đình cần đưa con tới bệnh viện để được điều trị sớm nhất có thể. Các bác sĩ sẽ tiến hành liệu pháp đảo ngược hành vi hay còn gọi là phương pháp hướng sự chú ý sang nơi khác. Việc này cần được kiên trì áp dụng lâu dài và gia đình phải thường xuyên theo dõi các biểu hiện bất thường của con. Các loại thảo dược thiên nhiên mà các nhà khoa học khuyên sử dụng đối với những người bị hội chứng Tourette là sử dụng cây an tức hương và tinh chất cây câu đằng. Hai loại thảo dược này có tác dụng rất tốt trong việc trấn tính, ổn định hoạt động của não bộ, giảm biểu hiện của co giật và hành vi bất thường. Đối với những bệnh nhân có hội chứng nhẹ thì có thể không cần sử dụng đến liệu trình điều trị hoặc thuốc. Hi vọng với những thông tin mà chúng mình chia sẻ ở trên, các bạn sẽ có những thông tin chi tiết về hội chứng Tourette cũng như những phương pháp điều trị tốt nhất hiện nay. Đừng bỏ lỡ bất cứ bài viết nào của Khỏe là hạnh phúc để chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp. Khoelahanhphuc.vn là trang tin tức chuyên về sức khỏe, đời sống gia đình. Mọi thông tin về sản phẩm sức khỏe tại đây được cung cấp với mục đích tham khảo, vui lòng sử dụng các sản phẩm dưới sự hướng dẫn của nhân viên y tế hoặc các chuyên gia!
Hội chứng Tourette
Hội chứng Tourette (còn được gọi Hội chứng Gilles de la Tourette, viết tắt GTS hay TS) là hội chứng thần kinh được thừa hưởng bắt đầu xuất hiện khi còn rất trẻ, được nhận ra do nhiều tật máy giật vận động và ít nhất một tật phát âm; những tật này thường có lúc tăng lên có lúc giảm xuống, và có thể được kiểm soát tạm thời. Hội chứng Tourette là một phần của các bệnh giật ở cơ thể, bao gồm những tật tạm thời và có thể thay đổi sang tật khác, tạm thời xảy ra và kết thúc, và kéo dài khó bỏ. Hội chứng này từng được coi hiếm và kỳ lạ, người ta thường nghĩ đến tật kêu bậy bạ hay kêu những câu không hợp với hoàn cảnh (coprolalia). Tuy nhiên, triệu chứng này chỉ xuất hiện trong ít người bị Hội chứng Tourette. Ngày nay, hội chứng này không còn coi là bệnh hiếm, nhưng có lúc nó không được nhận ra đúng vì nhiều trường hợp bị phân loại là trường hợp nhẹ và một số tật máy giật giảm dần ở hầu hết các trẻ em khi vào tuổi thanh niên (12 - 18 tuổi).
Như đã được cập nhật một chút trong phần trước, “trà đạo” là một phần yếu tố trong văn hóa Nhật Bản và được biết đến với tên gọi khác là “Cha-no-yu”. Trà đạo Nhật Bản là một phong cách được lãnh đạo sử dụng cho khách hàng, và bao hàm nhiều quy tắc khác nhau, từ cách phục vụ trà, đến cách uống và cách thể hiện sự biết ơn đến người pha trà. Như vậy, Trà đạo có thể được xem là một nền văn hóa chứa tinh thần hiếu khách và sự vui vẻ, cầu kỳ trong chế độ thực hiện của người Nhật. Người ta cho rằng trà được đưa từ Trung Quốc vào Nhật Bản từ thời Nara đến thời Heian. Vào đầu thời gian, trà là một loại thực phẩm có giá trị cao, và chỉ được thưởng thức bởi các tầng đặc biệt trong xã hội như nhà sư hoặc các gia đình quý tộc. Sau đó, một Thiền sư tên là Eisai đã đến Trung Hoa để nghiên cứu về Thiền tông. Tại đây, ông đã nhận thấy những công dụng tuyệt vời của trà và khi về lại Nhật Bản, ông đã viết cuốn “Khiết trà dưỡng sinh ký (Kissa-youjoukiー喫茶養生記)” để giải thích về tác dụng của trà. Đây là cuốn sách nghiên cứu về trà đầu tiên của Nhật Bản. Sau đó, từ cuối thời kỳ Kamakura đến thời đại Nam-Bắc-Triều, một ngôi chùa với điểm nhấn chính là vườn trà đã được xây dựng. Các quán trà được xây dựng như một nơi giao lưu trao đổi giữa mọi người với nhau, từ các nhà sư đến tầng lớp binh sĩ, và mọi người thường hay chơi những trò chơi như Sen-chaー闘茶, một loại trò chơi bao gồm việc uống trà và phỏng đoán về nơi lá trà được thu hái, chế biến. Sự trân trọng đặc biệt mà shogun Yoshimitsu Ashikagaー足利義満 dành cho trà Uji (Uji-chaー宇治茶) đã được thừa hưởng đến thời của thời của shogun Toyotomi Hideyoshiー豊臣秀吉. Bằng cách này, trà Uji càng được tăng giá trị lên nhiều lần. Vào nửa sau của thế kỷ 15, nghệ nhân trà Murata Jukouー村田珠光 đã tạo ra “Wabi-chaー侘茶”. Điều này đã được các nghệ nhân như Takeno Jououー武野紹鴎 và Sen-no-rikyuー千利休 tiếp quản, và cuối cùng, trải qua nhiều năm, nghệ thuật trà đạo “Cha-no-yu” đã được hình thành. “Cha-no-yu” được coi là một lễ nghi chính thức của xã hội samurai trong thời Edo. Mặt khác, trà dành cho những người dân bình thường cũng được ra đời trong khoảng thời gian này. Trong khi những người giàu có thích trà xanh (matcha), những người bình thường sẽ uống “Senji-chaー煎じ茶”, được đun sôi từ lá trà thô. Tuy nhiên, vào năm 1738, một bước ngoặt xuất hiện trong phương thức sản xuất đã được phát triển bởi Nagatani Souen, người được coi là cha đẻ của Sen-cha. Phương thức pha chế một loại trà có mùi thơm nhẹ nhàng và một màu xanh mơn mởn của Nagatani đã khiến những cư dân Edo không khỏi trầm trồ. “Quy trình Uji” được tạo ra ở đây chính là tổ tiên xa xưa của trà Nhật Bản hiện tại. Kể từ đó, thông qua việc phát triển mạnh các phương pháp sản xuất và các hệ thống phân phối, văn hóa trà ngày càng được nhân rộng. Vào thời cận đại, người Nhật Bản có thể dễ dàng mua trà đóng trong can ở các máy bán hàng tự động. So với hình thức trên, việc pha trà trong ấm dường như được xem là tốn thời gian và phiền phức với một số người, nên thị trường trà xanh đã lâm vào khủng hoảng. Vào thời điểm đó, các công ty sản xuất thực phẩm đã liên tục nghiên cứu về việc biến trà thành một loại thức uống thông dụng. Từ năm 1985 là năm của những loại trà đóng lon đến những năm 1990, các công ty đó đã tiến hành bày bán loại trà xanh đóng trong chai nhựa PET. Dựa trên phương pháp chế biến lá trà, trà Nhật Bản được chia thành 3 loại là “trà không lên men (fuhakkou-chaー不発酵茶)”, “trà bán lên men (hanhakkou-chaー半発酵茶)”, và “trà lên men (hakkou-chaー発酵茶)”. Trong số đó, trà chưa lên men đặc biệt phổ biến. Trà không lên men có một điểm đặc trưng là lá trà sẽ ngừng lên men ngay sau khi được hái, khiến lá trà luôn giữ một màu xanh tươi mới. Theo cách chia này, “trà xanh (ryoku-chaー緑茶)” phổ biến nhất ở Nhật Bản thuộc loại trà chưa lên men. Các bạn có thể tham khảo thêm về các đại diện của trà xanh được tóm tắt dưới đây. Sen-cha là một loại trà xanh nổi tiếng chiếm khoảng 85% lượng sử dụng trà của người Nhật Bản. Đây là một loại trà dễ uống với vị thanh mát và được yêu thích bởi cả già lẫn trẻ, cả nam lẫn nữ ở Nhật. Gyokuro là một loại trà có khả năng chặn ánh sáng mặt trời ở một giai đoạn sinh trưởng nhất định khiến lượng theanine, thành phần umami của trà, tăng lên. Bằng cách làm như vậy, lá trà trở nên ngọt đậm hơn. Ít đắng hơn Sen-cha, nó đem đến cho người thưởng thức một hương vị đậm đà đặc trưng. Ban-cha là một loại Sen-cha có thời gian thu hái trễ hơn mức thông thường. Bằng việc tắm mình trong cái nắng của mùa hè, hương vị của lá trà sẽ trở nên đắng hơn. Houji-cha là một loại Sen-cha hoặc Ban-cha được rang trên lửa lớn. Đây là một loại trà có hương thơm đặc trưng và vị thanh dễ uống. Genmai-cha là một loại Sen-cha hoặc Ban-cha được trộn cùng với gạo rang (tức gạo chưa bóc vỏ lụa). Trà Genmai-cha đem đến một hương vị cân bằng giữa gạo rang và trà Sen-cha nên có vị ngon rất riêng biệt. Ngoài ra, trà xanh Nhật Bản còn bao gồm rất nhiều loại khác như Tamaryoku-chaー玉緑茶 hay matchaー抹茶. Đối với trà lên men, Hồng trà (Kouchaー紅茶) là một đại diện tiêu biểu, trong khi trà Ô-long đại diện cho nhóm trà bán lên men. Tiếp theo, bạn sẽ được học thêm về cách pha trà Nhật Bản đúng cách. Nếu bạn nghĩ rằng việc pha trà chỉ đơn giản là chế nước sôi rồi ngồi đợi thì bạn đã sai hoàn toàn. Việc pha trà sai cách sẽ dẫn đến mùi vị trà thay đổi hoàn toàn. Vì vậy, hãy chú ý và học hỏi thêm về cách pha chế trà thông qua bài viết này nhé. Để pha trà ngon, bạn cần biết lượng lá trà, lượng nước nóng, nhiệt độ và thời gian lắng đọng. Dưới đây sẽ là lượng tham khảo pha trà cho 1 người. Nếu bạn định làm nhiều hơn thì hãy nhân lượng tham khảo trên với số người tương ứng. Tiếp theo, hãy kiểm tra những điểm quan trọng giúp trà trở nên ngon hơn. Bạn có thể tham khảo 4 điểm quan trọng đó ở dưới đây. Không đổ nước nóng trực tiếp từ ấm nước, mà hãy cho vào ấm trà sau khi đã làm nguội bằng tách trà. Bằng cách này, bạn có thể làm tăng thêm vị ngon và mùi thơm cho trà lên nhiều lần. Thêm lá trà vào trong ấm và đổ nước nóng ở nhiệt độ thích hợp. Sau đó đợi cho đến khi lá trà nở ra trong khoảng từ 20 đến 30 giây. Sau khoảng thời gian đó, hãy rót một tách trà vào một tách trà. Trà lúc đầu có thể hơi loãng nhưng sau đó nó sẽ dần có màu đậm hơn. Khi rót trà cho nhiều người cùng thưởng thức, hãy rót từ từ vào từng tách trà để làm cho nồng độ trà trở nên đồng đều hơn. Sau khi đã mở hộp trà hoặc túi trà, hãy chuyển số trà đó sang hộp kín (như hộp trà bằng thiếc) và bảo quản ở nơi tối và mát. Độ tươi của lá trà rất quan trọng đối với trà, và chính vì vậy những loại trà đắt tiền càng trở nên nhạy cảm với môi trường xung quanh hơn. Do đó, bạn nên uống thật nhanh sau khi đã mở gói trà. Trong trường hợp chưa mở, bạn có thể đặt gói trà đó vào ngăn mát tủ lạnh. Nhưng nếu bạn muốn bảo quản chúng trong 1 thời gian dài hơn, tủ đông sẽ là một lựa chọn sáng suốt.
Trà đạo Nhật Bản
Trà đạo, tiếng Nhật: sadō (茶道), được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức trà trong văn hóa Nhật Bản, Trà đạo được phát triển từ khoảng cuối thế kỷ 12. Theo truyền thuyết của Nhật Bản, vào khoảng thời gian đó, có vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà. Từ đó, dần dần công dụng giúp thư giãn lẫn tính hấp dẫn đặc biệt của hương vị trà đã thu hút rất nhiều người dân Nhật đến với thú uống trà. Họ đã kết hợp thú uống trà với tinh thần Thiền của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo (chado, 茶道), một sản phẩm đặc sắc thuần Nhật. Từ việc đơn giản uống trà, chuyển sang cách pha và uống trà, rồi nghi thức thưởng thức trà cho đến khi đúc kết thành trà đạo, đây là một tiến trình không ngừng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn hướng tới đó là cải biến tục uống trà du nhập từ ngoại quốc trở thành một tôn giáo trong nghệ thuật sống của chính dân tộc mình, một đạo lý với ý nghĩa đích thực của từ này.
Nếu bóng vượt qua đường biên ngang khi chạm vào các cầu thủ của đội phòng ngự bao gồm cả thủ môn thì đội tấn công sẽ được hưởng một quả đá phạt góc. Khi thực hiện một quả phạt góc, nếu như bóng bay thẳng vào cầu môn mà không chạm vào bất kỳ một cầu thủ nào thì sẽ vẫn được công nhận là bàn thắng. Hầu hết tất cả các trường hợp đá phạt góc đều do các trợ lý của trọng tài quyết định bằng cách phất là cờ trên tay và chỉ vào cùng phạt góc ở trên sân thi đấu. Khi trọng tài chỉ cờ vào vòng cung đá phạt góc cũng sẽ xác định phần sân thực hiện quả đá phạt góc đó. Khi thực hiện quả phạt góc, các cầu thủ sẽ không được di chuyển cột cờ góc. Ngay sau khi bóng được đá hoặc di chuyển sẽ được tính là bóng sống. Bóng sẽ được đặt ở trong cung đá phạt góc và ở gần vị trí cột cờ góc nhất. Cầu thủ ở đội tấn công chính là người sẽ thực hiện đá phạt góc. Cầu thủ thực hiện quả đá phạt góc sẽ không được chạm vào bóng lần thứ 2 khi bóng chưa chạm vào chân của một cầu thủ nào khác. Cầu thủ của đội phòng thủ sẽ cần phải đứng cách xa bóng một khoảng cách tối thiểu là 9m15 cho đến khi bóng được đưa vào cuộc. Khi thực hiện đá phạt góc, mỗi đội đều cần phải có những chiến thuật riêng. Cụ thể những chiến thuật của mỗi đội là:. Khi thực hiện đá phạt góc, chiến thuật tấn công sẽ được chia thành: Chuyền bóng dài phối hợp tấn công, dứt điểm thẳng vào khung thành, chuyền bóng ngắn phối hợp tấn công. Sút thẳng vào khung thành khi thực hiện đá phạt góc, các cầu thủ sẽ sút bóng trực tiếp vào khung thành của đối phương. Nếu muốn làm được điều này, cầu thủ thực hiện đá phạt góc sẽ cần phải có kỹ thuật tốt. Bên cạnh đó, các cầu thủ khác cùng cần phải tiếp tục triển khai đội hình tấn công để có thể đánh thọc sườn và tiếp ứng đánh lạc hướng các cầu thủ phòng ngự, đồng thời cũng cần phải chuẩn bị tinh thần đề phối hợp tấn công kịp thời nếu như bóng không vào lưới. Đường chuyền dài phối hợp tấn công thường được sử dụng trong trường hợp đội hình thi đấu sở hữu một cầu thủ có kỹ thuật xử lý quả phạt góc và các cầu thủ tấn công có kỹ thuật tranh chấp bóng trên không tốt. Thường thì bóng sẽ rơi ở 3 khu vực là sát cột dọc gần, vị trí khu vực giữa chấm phạt đền và đường khung thành hoặc sát cột dọc xa. Nếu muốn triển khai chiến thuật này một cách tốt nhất thì các cầu thủ sẽ cần phải có tư duy chiến thuật, biết các lựa chọn vị trí đúng thời điểm bóng rơi để có thể thực hiện cú đánh đầu một cách chính xác nhất. Các cầu thủ sẽ cần phải có sự phân công rõ ràng về nhiệm vụ cùng với chức năng cụ thể của từng người ở trên sân. Chiến thuật chuyền ngắn kết hợp với tấn công sẽ dễ dàng thực hiện bằng sự phối hợp đơn giản và rất thuần thục với khoảng 2-3 cầu thủ đứng ở gần vị trí thực hiện phạt góc để có thể lật được bóng từ khu vực đường biên vào trung lộ hoặc có thể dẫn bóng dọc theo đường biên ngang sau đó chuyền bóng vào trung lộ. Các đội bóng thường sử dụng chiến thuật tấn công này khi các cầu thủ đối phương đều tập trung ở phía trước khu vực khung thành trong khi các cầu thủ tấn công không có khả năng đánh đầu tốt hoặc không thể thực hiện những đường chuyền dài với độ chính xác cao do ngược chiều gió, bóng nặng, mặt sân lầy lội…. Nếu đội tấn công được hưởng một quả phạt góc thì các cầu thủ ở đội phòng thủ sẽ chỉ để duy nhất một tiền đạo đứng ở khu vực giữa sân và các cầu thủ khác sẽ đều lui về phòng ngự. Đối với những cầu thủ sở hữu chiều cao và có khả năng đánh đầu tốt cần phải kèm chặt những cầu thủ tương ứng của đội đối phương hoặc trấn giữ ở những vị trí quan trọng phía trước cầu môn. Đồng thời, những cầu thủ khác sẽ cần phải phân chia nhau để kèm cầu thủ của phe tấn công, thủ môn sẽ phải đứng ở vị trí đường khung thành và luôn sẵn sàng lao ra bắt bóng bất kỳ lúc nào, một hậu vệ sẽ phải đứng ở vị trí sát cột dọc để đề phòng đối phương sút bóng vào vị trí này.
Phạt góc (bóng đá)
Quả phạt góc là một hình thức bắt đầu lại trận đấu trong bóng đá. Nó được phát minh ra lần đầu tiên tại Sheffield trong bộ luật Sheffield năm 1867. Quả phạt góc được thông qua bởi Liên đoàn bóng đá Anh vào ngày 17 tháng 2 năm 1872. Một quả phạt góc được trao cho đội tấn công khi quả bóng đã hoàn toàn vượt qua hẳn đường biên ngang trên sân phía ngoài khung cầu môn, dù ở mặt đất hay trên không do người chạm bóng cuối cùng là cầu thủ đội phòng ngự (kể cả thủ môn). Từ quả đá phạt góc, nếu bóng được đá vào cầu môn, bàn thắng sẽ được tính. Trong phần lớn các trường hợp, trợ lý trọng tài là người thông báo một quả phạt góc sẽ được thực hiện bằng cách sử dụng lá cờ của mình chỉ vào cung đá phạt góc (vòng cung mỗi góc sân) ở phần sân phía bên họ. Tuy vậy phần sân mà quả phạt góc sẽ được thực hiện chỉ xác định khi trọng tài chỉ vào cung đá phạt góc liên quan.
Lucifer ấn tượng bởi vẻ ngoài, tài trí, sức mạnh và vị trí của hắn, đến nỗi hắn khao khát danh dự và vinh quang vốn chỉ thuộc về Chúa. Niềm kiêu hãnh này đại diện cho khởi đầu của tội lỗi trong vũ trụ, trước khi Adam và Eva phạm tội. Cùng GiaiNgo đọc tiếp những diễn biến gây cấn và hấp dẫn về câu chuyện và Lucifer là ai nhé!. Lucifer là thiên thần đầu tiên theo quan niệm của Cơ Đốc giáo; và cũng là thiên thần đẹp đẽ nhất, hắn luôn luôn tin tưởng và yêu Chúa, nhưng lại ghét con người. Vì sự ngạo mạn của mình, Lucifer cảm thấy xúc phạm khi Chúa buộc hắn và các thiên thần phải cúi đầu và phục vụ trước loài người. Cùng với hơn mười bốn ngàn thiên thần sa ngã, hắn đứng lên chống lại Chúa. Người Do Thái đã đưa quan niệm này đi xa hơn, rằng Lucifer chỉ ngưỡng mộ Chúa nên hắn từ chối yêu thích bất cứ tạo vật nào khác, và Cain chính là con của Lucifer với Eve. Lucifer là một trong bảy hoàng tử địa ngục, tương đương với tội Kiêu Ngạo. Ở nhiều phiên bản khác nhau. Những con quỷ khác và tội danh của chúng có thể thay đổi, ngoại trừ Lucifer. Vì tội lỗi kiêu ngạo của mình mà Lucifer đã rơi ra khỏi ân sủng của Chúa, bị đày đọa xuống địa ngục. Lucifer là thiên thần bậc cao, với 3 đôi cánh biểu tượng của quyền lực và quyền hạn. Lucifer đã có năng khiếu với khả năng sáng tạo, để biểu hiện vật chất và năng lượng ra từ hư không cùng năng lực hồi phục, tái tạo…. Không có câu Kinh Thánh nào khẳng định rằng “Lucifer là Satan”. Nhưng sau sự xem xét của nhiều phân đoạn KT đã cho ta thấy Lucifer không ai khác ngoài Satan. Sự sa ngã của Lucifer miêu tả trong Ê-sai 14:12 dường như giống với điều mà Chúa Jesus nhắc đến trong Luca 10:18: “Ta đã thấy quỷ Satan từ trời sa xuống như chớp”. Cũng có một sự sa ngã tương tự khác được miêu tả trong Ê-xê-chi-ên 28. Ê-sai 14:12-18 miêu tả sự sa ngã khỏi thiên đường của một kẻ mang tên “Lucifer” cái tên với ý nghĩa “ngôi sao buổi sớm”, “con trai của sáng sớm,” “sao mai”,”ngôi sao tỏa sáng”. Những mô tả về người được nhắc đến này cho chúng ta thấy đó không ai khác ngoài Satan. Chúng ta cũng biết từ chính lời Chúa Giê-su trong Lu-ca 10 rằng Sa-tan ngã xuống từ trời. Vì thế, khi Ê-sai đề cập đến Lucifer (trong tiếng Do Thái phiên âm là helel) bị chặt xuống đất (Ê-sai 14:12), đó không thể là ai khác ngoài Satan. Lý do cho sự sa ngã này được tìm thấy ở đoạn 13 và 14: ” Ngươi vẫn bụng bảo dạ rằng, Ta sẽ lên trời, sẽ nhắc ngai ta lên trên các ngôi sao Đức Chúa Trời. Ta sẽ ngồi trên núi hội về cuối cùng phương bắc. Ta sẽ lên trên cao những đám mây, làm ra mình bằng Đấng-Rất-Cao”. Đây luôn là ham muốn của Satan-trở thành Chúa-và đó cũng là điều cám dỗ mà hắn đã sử dụng trong vườn Ê-đen để khiến Ê-va không tuân lệnh Chúa: “Ngươi sẽ như Đức Chúa Trời” (Sáng-thế-ký 3:5). Ê-xê-chi-ên 28 là một phân đoạn khác được cho rằng đề cập đến Lucifer/ Satan. Mặc dù được khởi đầu bởi việc Ê-xê-chi-ên được Chúa phán “Hãy làm một bài ca thương về vua Ty-rơ” (câu 12), vị vua biểu tượng cho sự độc ác, nó cũng sớm trở nên rõ ràng rằng đoạn Kinh Thánh này cũng đang đề cập tới sức mạnh đằng sau của vị vua – chính là Satan. Câu 13 chép rằng ông ta đã từng ở “Ê-đen, vườn của Đức Chúa Trời”. Rõ ràng vua Ty-rơ chưa bao giờ ở trong vườn Ê-đen. Câu 14 nói “Ngươi là một chê-ru-bim được xức dầu đương che phủ, ta đã lập ngươi lên”. Chắc chắn Lucifer/ Satan đã từng giữ vị trí canh gác các thiên thần trên thiên đường ngươi đã đi dạo giữa các hòn ngọc sáng như lửa, như thể một món trang sức bích ngọc trong ngần quý giá được nhắc đến trong các đoạn miêu tả về thiên đường (Xuất Ê-dip-tô ký 24:10, Khải huyền 21:18-21). Vì vua Ty-rơ cũng chưa từng được thấy trên thiên đường, do đó ở đây chỉ có thể là đang nhắc đến Lucifer. Phần còn lại của đoạn Kinh Thánh miêu tả lý do tại sao hắn bị đuổi khỏi thiên đường. Vì sự đẹp đẽ của mình, lòng hắn trở lên kiêu ngạo và sự khôn ngoan của hắn do vậy bị hư mất (Ê-xê-chi-ên 28:17). Kiêu ngạo về sự hoàn hảo, trí khôn ngoan, và vẻ đẹp (câu 12) trở thành nguồn gốc của sự sa ngã, và Chúa đã xô hắn xuống đất (câu 17). Điều này cũng đã được làm chứng bởi Chúa Giê-su trên thiên đường trước khi Ngài giáng thế (Luca 10:18). Tóm lại, Lucifer bị đuổi khỏi thiên đường vì tội kiêu ngạo và vì ham muốn được làm Chúa của hắn. Chúa Jesus đã đề cập đến việc thấy Satan bị đẩy khỏi thiên đường. Vì thế, chúng ta có thể kết luận rằng Lucifer và Satan là một và giống nhau. Dựa vào đâu để nói những câu sau đề cập đến sự sụp đổ của Lucifer? Trong khi 10 câu đầu tiên trong chương này nói về kẻ cai trị Ty-rơ – người bị kết án vì tự xưng là một vị thần mặc dù ông chỉ là một con người. Nhiều học giả tin rằng có một thế lực cai trị Ty-rơ, vua thực sự của Ty-rơ là Satan, vì chính hắn là người chống Chúa đến cùng và chính hắn hành động thông qua vua thành phố Ty-rơ. Một số người cho rằng những câu này thực sự đang nói với một vị vua loài người, người được Satan trao quyền. Có lẽ vị vua lịch sử của Ty-rơ là một công cụ của Satan, thậm chí là đã bị hắn mê hoặc. Khi mô tả về vị vua này, Ê-xê-chi-ên cũng cho chúng ta thoáng nhìn về sinh vật siêu phàm – Satan, kẻ đang điều khiển hoặc dụ dỗ vua Ty-rơ. Có những sự thật về vị “vua” này, mà không thể hiện ở một vị vua loài người. Chẳng hạn, nhà vua được miêu tả là có bản chất khác với con người (“Chê-ru-bim”, câu 14); hắn có một vị trí khác với con người (“Đường-lối ngươi trọn-vẹn từ ngày ngươi được dựng nên”, câu 15); hắn ở một cõi khác với con người (câu 13,14); hắn lãnh một bản án khác với con người (hắn bị ném ra khỏi núi Chúa và bị ném xuống đất, câu 16); và hắn được mô tả là “tốt đẹp trọn vẹn” – dường như không phù hợp với một người bình thường (câu 12). Theo sách Sáng thế, Thiên Chúa đã tạo ra hai dạng thụ tạo đặc biệt đó là Thiên Thần và Con Người. Thiên Thần mang tính thiêng liêng nhưng lại không có thân xác, còn con người thì là thụ tạo bình thường có thân xác nhưng lại bình thường. Tuy nhiên Chúa lại yêu thương con người hơn tất cả mọi thứ khác. Theo kinh thánh Thiên Chúa với con người là không có giới hạn. Ngài đặt con người vào vườn Địa Đàng, cai quản các bạn vật, ăn ở sung túc. Điều đặc biệt hơn cả đó là Thiên Chúa muốn các Thiên Thần hậu hạ con người, chăm sóc, quả giáo và bảo vệ khỏi mọi nguy hiểm. Cũng chúng vì điều đó mà một số Thiên Thần đã phản đối mệnh lệnh của Thiên Chúa. Vì học cho rằng con người phàm tục không đáng để bận tâm, Thiên Thần vốn cao quý hơn con người. Lucifer đứng đầu nhóm Thiên Thần đứng lên phản đối Thiên chúa gây nên cuộc chiến lớn nhất trên Thiên Đàng với các Thiên Thần được dẫn đầu bởi Michael Gabriel, Raphael, Uriel, Selaphiel, Jegudiel, và Barachiel và 260 triệu Thiên Thần khác. Với sự ngạo mạn, Lucifer đã đưa ra lời tuyên chiến. Với quyền lực mà chúa đã, Michael cùng các Thiên Thần trung thành đã nhanh chóng chiến thắng phe Lucifer. Sau cuộc chiến Michael đã đặt tên mới cho Lucifer là Satan, Lucifer cùng với những Thiên Thần sa ngã bị đuổi khỏi Thiên Đàng xem như một sự trừng phạt. Mẹ của Lucifer là The Goddess, một trong hai người đồng sáng tạo ra vũ trụ, mẹ của các thiên thần và vợ cũ của Chúa. The Goddess bị Chúa đày xuống Địa ngục từ Thiên đàng do lòng căm thù loài người ngày càng gia tăng. Có thể thấy, hình tượng Lucifer cũng như cuộc chiến giữa Thánh Sứ và Đại Sứ ngày nay đã vượt ra khỏi Kinh Thánh và trở thành nguồn cảm hứng cho vô số tác phẩm độc đáo, thú vị. Bài viết trên đã cho người độc hiểu rõ hơn Lucifer là ai và các vị thần trong chuyện. Hãy theo dõi GiaiNgo để cập nhật tin tức hay và mới mỗi ngày nhé!. GiaiNgo là trang blog chuyên chia sẻ các thông tin liên quan đến Là ai? ở mọi góc cạnh khác nhau trong cuộc sống.
Thiên thần sa ngã
Trong các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, thiên thần sa ngã là những thiên thần bị trục xuất khỏi thiên đàng. Thuật ngữ "thiên thần sa ngã", tuy theo nghĩa đen không xuất hiện trong Kinh Thánh cũng như trong các thánh thư tôn giáo Abraham khác, nhưng được dùng để mô tả những thiên thần lầm đường lạc lối hay những thiên thần bị đuổi khỏi thiên đàng. Những thiên thần như vậy thường cám dỗ con người phạm tội, chống lại Thiên Chúa. Khái niệm thiên thần sa ngã bắt nguồn từ Sách Hê-nóc, một nguỵ điển của người Do Thái, hay từ giả thuyết rằng "các con trai của Đức Chúa Trời" (בני האלוהים) được đề cập trong Sáng Thế Ký 6:1–4 là những thiên thần. Trong giai đoạn ngay trước khi Tân Ước được biên soạn nên, một số giáo phái Do Thái giáo và nhiều Giáo phụ Ki-tô giáo đã đồng nhất hoá "các con trai của Đức Chúa Trời" được đề cập trong Sáng Thế Ký 6:1–4 với các thiên thần sa ngã. Kể từ sau thế kỷ 3, các rabbi Do Thái giáo và chức sắc Ki-tô giáo đã bác bỏ các kinh thư Hê-nóc và quan niệm về những người khổng lồ được sinh ra như kết quả của mối quan hệ bất chính giữa thiên thần và phụ nữ phàm trần.
Rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học khiến người bệnh không thể đi ngủ và tỉnh giấc theo đúng đồng hồ sinh học bình thường. Điều này gây ra rất nhiều hệ lụy cho sức khỏe, khiến người bệnh mệt mỏi, kém tỉnh táo, sức khỏe cũng sa sút nhiều. Do đó cần nhanh chóng tiến hành điều trị để hạn chế tối đa những biến chứng nguy hiểm của bệnh. Nhịp sinh học hay Biorhythm được hiểu đơn giản là một chu kỳ bình thường của cơ thể có liên quan trực tiếp đến sức khỏe tinh thần và thể chất của mỗi người. Tức là khi đảm bảo đáp ứng đủ chu trình sinh học này thì cũng là thời điểm giúp cơ thể khỏe mạnh nhất. Nếu nhịp sinh học bị rối loạn là dấu hiệu cho thấy sức khỏe đang gặp vấn đề và cần nhanh chóng tiến hành điều trị. Lấy cột mốc cho nhịp sinh học bình thường của giấc ngủ là đi ngủ lúc 10-11 giờ và thức dậy lúc 6-7 sáng. Tất nhiên bạn vẫn có thể xê dịch thời điểm này nhưng khi có nhu cầu thì bạn vẫn có thể đi ngủ hay thức dậy đúng thời điểm như trên. Nếu bạn cảm thấy không thể có cảm giác buồn ngủ, không thể ngủ trong các thời điểm 10- 11h trong thời gian dài thì rất có thể bạn đang bị rối loạn giấc ngủ. Rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học (Circadian rhythm sleep disorders) cũng là một dạng rối loạn giấc ngủ thường gặp. Theo đó người bệnh không thể đi ngủ vào giờ ngủ bình thường và không thể thức dậy theo đúng nhịp sinh học của giấc ngủ. Chẳng hạn như bạn thường ngủ vào lúc 2- 3 h sáng thay vì 11 đêm và cũng chỉ có thể tỉnh giấc vào 10-11 giờ sáng hoặc muộn hơn thay vì 6- 7h sáng như bình thường. Rất nhiều người thường nhầm lẫn giữa mất ngủ và rối loạn giấc ngủ. Tuy nhiên ở người mất ngủ chỉ cần đưa họ về ngủ đúng giờ là dần có thể cải thiện. Trong khi đó với người bị rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học hầu như không có cảm giác buồn ngủ vào thời điểm cần ngủ, giờ ngủ trái ngược hoàn toàn so với quy luật thông thường. Hội chứng pha sớm: thường có đặc trưng bởi tình trạng ru giấc ngủ và thức dậy diễn ra sớm hơn sớm. Chẳng hạn như người bệnh thức 2-3 giờ sáng và có xu hướng buồn ngủ sớm hơn, bắt đầu từ ngay buổi chiều. Tình trạng này thường xuất hiện chủ yếu ở nhóm người lớn tuổi. Hội chứng nhịp ngày đêm dài: người mắc hội chứng này thường có sự khác biệt về thời gian ngủ khoảng 1 giờ mỗi ngày. Đồng hồ sinh học của họ quy định giờ ngủ và thức dậy muộn hơn bình thường, chẳng hạn đi ngủ lúc 1h sáng và tỉnh giấc lúc 9-10 h trưa. Tình trạng này khiến hiện tượng giai đoạn ru giấc ngủ ngày càng trễ. Người bệnh có thể mắc chứng mất ngủ cả đêm đồng thời xuất hiện trạng thái ngủ gà ban ngày. Hội chứng pha trễ: Người bệnh gặp khó khăn khi đi ngủ sớm nên thường có triệu chứng ngủ gà vào buổi sáng. Thay đổi múi giờ: Tình trạng này thường xuất hiện trên những người đi du lịch hay dii chuyển đến một vùng đất khác và chưa thể quen với nhịp sống sinh học mới. Theo đó các giai đoạn mất ngủ sẽ di chuyển về phía đông đồng thời thức dậy sớm khi di chuyển vế phía tây. Người bệnh cảm thấy rất mệt mỏi, ngủ gà và kèm theo cả sự rối loạn khí sắc. Tuy nhiên hầu hết các rối loạn này thường xuất hiện khá ngắn hạn, khi người bệnh đã dần quen với nhịp sống mới thì các dấu hiệu cũng được cải thiện. Rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học có thể gây ra rất nhiều vấn đề bất thường cho sức khỏe và tinh thần kèm theo nên cần điều trị càng sớm càng tốt. Nếu mất ngủ xuất hiện chủ yếu do lối sống sinh hoạt trước đó kém lành mạnh, căng thẳng quá mức thì nguyên nhân gây rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học lại liên quan đến sự bất thường của melatonin trong cơ thể. Đây cũng là yếu tố giúp phân biệt hai bệnh lý này khi làm các xét nghiệm kiểm tra. Theo đó hormone melatonin còn được gọi là hormone ban đêm rất cần thiết cho một giấc ngủ chất lượng. Nó được tiết ra thông qua tuyến tùng chủ yếu vào buổi đêm và ít hơn vào ban ngày, đồng thời bị ức chế bởi ánh sáng theo cảm nhận của võng mạc. Thường melatonin bắt đầu được tiết ra từ 9h đêm và đạt đỉnh điểm vào khoảng 2h sáng. Do đó vào lúc 9h bạn thường cảm thấy bắt đầu buồn ngủ và 2h là thời điểm ngủ sâu nhất. Melatonin được coi là máy tạo nhịp sinh học chính trong cơ thể, đảm nhiệm vai trò thiết lập nhịp điệu của cơ thể, giúp ổn định hoạt động của não cũng như điều hòa giấc ngủ tự nhiên của con người. Hormone này giúp đồng quá nội tiết tố để đúng với chu kỳ sáng-tối của môi trường bên ngoài. Vì thế những bất thường tại đây sẽ khiến cho giấc ngủ gặp rắc rối, không thể sinh hoạt như bình thường. Những nguyên nhân khiến cơ thể tiết ít hormone Melatonin có thể do rối loạn chức năng tuyến tùng do tích tụ nhiều canxi dẫn đến vôi hóa cơ quan này. Ngoài ra, ung thư, tăng trưởng về kích thước tuyến tùng bất thường cũng là tác nhân gây rối loạn tại đây và gây ra các vấn đề bất thường cho giấc ngủ. Mặt khác việc lạm dụng các thiết bị công nghệ như máy tính, điện thoại cũng khiến mắt nhầm tưởng đây là ánh sáng xanh ( ánh sáng tự nhiên trong mặt trời). Khi não bộ tiếp nhận và cho rằng đây là ánh sáng xanh sẽ hạn chế việc tiết melatonin lại khiến người bệnh không thể nào cảm nhận được cơn buồn ngủ. Bất cứ sự bất thường nào của nhịp sinh học cũng gây ra rất nhiều ảnh hưởng cho sức khỏe. Đặc biệt giấc ngủ đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp năng lượng cho cơ thể, hồi phục lại những năng lượng đã mất trong suốt ngày dài. Trong khoảng thời gian từ 1- 2 giờ sáng giờ sáng giúp đào thải độc cho cơ thể, 1-4h cũng là thời điểm tái tạo máu. Vì vậy việc không được ngủ trong thời điểm này sẽ khiến các hoạt động trên không được đảm bảo thực hiện tốt nhất khiến cơ thể suy yếu và tăng nguy cơ mắc nhiều bệnh tật. Bên cạnh đó khi không được ngủ đủ vào ngày hôm trước khiến người bệnh ngày hôm sau luôn trong trạng thái uể oải mệt mỏi. Đặc biệt với những người phải đi làm, do nhịp đồng hồ sinh học muộn hơn bình thường nên việc dậy sớm khiến họ luôn trong tình trạng ngáp ngủ, không thể tập trung tỉnh táo làm việc như những người khác và làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc. Tăng nguy cơ ung thư như ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt hay ung thư đại trực tràng. Ngoài ra nếu có liên quan đến những nguy cơ do rối loạn tuyến tùng cũng có thể gây ra rất nhiều vấn đề cho sức khỏe nên người bệnh cần đi khám càng sớm càng tốt. Khi thấy tình trạng rối loạn giấc ngủ kéo dài, tốt nhất người bệnh nên đến các bệnh viên uy tín để được kiểm tra và xác định chính xác tình trạng bệnh. Qua đó mới có thể đưa ra hướng điều trị phù hợp với từng tình trạng, nguyên nhân gây bệnh. Hầu hết với các tình trạng mất ngủ hay rối loạn giấc ngủ, bác sĩ thường chỉ định một số loại thuốc giúp bổ sung melatonin để kích thích cơn buồn ngủ cho người bệnh. Ngoài ra tùy từng tình trạng sức khỏe, bác sĩ cũng chỉ định các loại thuốc điều trị riêng, người bệnh cần trao đổi với bác sĩ chỉ tiết hơn để được chỉ định phù hợp. Sau khi giấc ngủ đã dần quay trở lại nhịp sinh học bình thường, khả năng tiết melatonin đã ổn định, liều dùng thuốc sẽ giảm dần và ngưng. Tuy nhiên đa phần các loại thuốc điều trị trên thường kèm theo rất nhiều tác dụng phụ nên người bệnh tuyệt đối không nên cải thiện nhiều. Đảm bảo tuyệt đối liều dùng theo đúng chỉ định của bác sĩ, không tự ý tăng hay giảm liều đều có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe. Nếu nguyên nhân gây mất ngủ có liên quan đến sự rối loạn của não bộ trong quá trình nhận diện ánh sáng xanh thì hướng điều trị tốt nhất chính là hạn chế tối đa việc tiếp xúc với các thiết bị công nghệ. Hãy để mắt nghỉ ngơi trước khi đi ngủ từ 30- 1 tiếng để não bộ được thư giãn và hoạt động bình thường trở lại. Nếu cảm thấy chưa buồn ngủ, bạn có thể đọc sách hay nghe một bản nhạc nhẹ hoặc làm một việc gì đó để kích thích cơ buôn ngủ. Luyện tập bài tập cho mắt sẽ là liệu pháp vừa giảm mỏi mắt vừa kích thích cơn buồn ngủ đến sớm hơn. Thật khó để những người đang bị rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học có thể nhanh chóng trở về giấc ngủ bình thường, tuy nhiên bạn có thể từng bước cân bằng lại nhịp sống. Hãy đảm bảo cân đi ngủ đúng giờ ngay cả sau thời điểm bạn đã dừng thuốc trước đó để tạo thành một thói quen khiến cứ đến thời điểm đó là cơ thể thấy buồn ngủ. Với giai đoạn nhẹ, bạn có thể sử dụng một số phương pháp đơn giản giúp kích thích giấc ngủ đến sớm hơn. Chẳng hạn như uống một tách trà saffron, ngồi thiền hay thử một vài liệu pháp thư giãn chẳng hạn. Một số cách đơn giản để bạn có thể cảm thấy buồn ngủ sớm hơn như sau. Trong thời gian đầu việc thay đổi lại hoàn toàn nhịp sống và giấc ngủ có thể khiến người bệnh chưa quen, đôi khi mệt mỏi hơn do cần phải dậy sớm. Tuy nhiên nếu kiên trì duy trì lối sống trong 3- 5 ngày cơ thể sẽ dần quen và bạn không còn cảm thấy mệt mỏi, thậm chí thấy cơ thể tràn đầy năng lượng hơn hẳn. Rất nhiều người có những công việc về đêm bắt buộc phải tiếp xúc với ánh sáng xanh thì nên làm thế nào để cải thiện bệnh? Câu trả lời chính là sử dụng những loại kính chống ánh sáng xanh đặc biệt để làm giảm các tác động từ chúng, tránh những nhầm lẫn từ bộ não đồng thời giúp bảo vệ đôi mắt tốt hơn. Hiện nay hầu hết những loại kính cận hay kính không độ đều có những loại giúp chống ánh sáng xanh. Dù mức giá có cao hơn so với các loại tròng kính thông thường tuy nhiên hiệu quả trong việc bảo vệ não bộ của bạn lại tốt hơn rất nhiều nên bạn có thể tham khảo sử dụng các sản phẩm này. Bạn có thể sử dụng những loại kính lọc ánh sáng xanh bằng đây là công nghệ Blue Control (kiểm soát ánh sáng xanh) để loại bỏ các ánh sáng xanh có mức sóng 380-410nm có hại cho mắt và bộ não. Với một số trường hợp rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học, bác sĩ cũng có thể yêu cầu tiến hành trị liệu tâm lý để điều chỉnh hành vi của bộ não nhằm quay trở về với nhịp sống bình thường. Việc điều trị tâm lý đặc biệt hiệu quả với những người có các vấn đề về tâm lý như trầm cảm hay rối loạn lo âu để nhanh chóng cải thiện bệnh. Rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học có thể gây ra rất nhiều vấn đề cho sức khỏe nên cần nhanh chóng tiến hành điều trị. Mỗi người nên bắt đầu thay đổi chế độ sống lành mạnh hơn, hạn chế lạm dụng các đồ điện tử quá nhiều để đem đến một chất lượng giấc ngủ tuyệt vời nhất.
Rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học
Rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học (CRSD) theo (tiếng Anh: Circadian rhythm sleep disorders), một rối loạn về giấc ngủ, ảnh hưởng (trong số các quá trình khác của cơ thể) thời gian ngủ. Những người bị rối loạn giấc ngủ theo nhịp sinh học không thể đi ngủ và thức dậy vào những thời điểm thường cần thiết cho công việc và trường học cũng như nhu cầu xã hội. Họ thường có thể ngủ đủ giấc nếu được phép ngủ và thức giấc vào những thời điểm theo "đồng hồ cơ thể". Chất lượng giấc ngủ của họ thường là bình thường trừ khi họ cũng có rối loạn giấc ngủ khác. Con người, giống như hầu hết các sinh vật khác, có nhịp sinh học khác nhau. Nhịp điệu sinh học hàng ngày, thường được gọi là đồng hồ cơ thể hoặc đồng hồ sinh học, điều khiển các quá trình tái diễn hàng ngày, ví dụ: nhiệt độ cơ thể, sự tỉnh táo, và sự bài tiết hormone cũng như thời gian ngủ. Do đồng hồ sinh học, buồn ngủ không tăng liên tục trong suốt cả ngày; sự đòi hỏi của một người và khả năng đi ngủ bị ảnh hưởng cả bởi khoảng thời gian kể từ khi người đó thức giấc từ một giấc ngủ đầy đủ và nhịp điệu sinh học hàng ngày nội bộ.
Đặc khu kinh tế là tên gọi chung cho các khu kinh tế mở, tự do được nhiều quốc gia áp dụng. Vậy Đặc khu kinh tế là gì ? Cùng boozeman.shop tìm hiểu qua bài viết dưới đây.Bạn đang xem: Luật đặc khu kinh tế là gì. Đặc khu, hay khu kinh tế đặc biệt (tiếng Anh: Special Economic Zones – SEZ) là một khu vực được luật kinh doanh và thương mại khác với phần còn lại của đất nước. Các SEZ nằm trong biên giới quốc gia và mục tiêu bao gồm tăng cán cân thương mại, việc làm, tăng đầu tư, tạo việc làm và quản trị hiệu quả. Để khuyến khích các doanh nghiệp thành lập trong khu vực, các chính sách tài chính được đưa ra. Những chính sách này thường bao gồm đầu tư, thuế, giao dịch, hạn ngạch, hải quan và quy định lao động. Ngoài ra, các công ty có thể được cung cấp các ngày lễ thuế, khi thành lập chính họ trong một khu vực, họ được cấp một khoảng thời gian đánh thuế thấp hơn. Định nghĩa của Đặc khu được xác định bởi từng quốc gia. Theo Ngân hàng Thế giới năm 2008, đặc khu kinh tế hiện đại thường bao gồm “khu vực giới hạn về mặt địa lý, thường được bảo đảm về mặt vật lý (có rào chắn); quản lý hoặc điều hành duy nhất; quản lý hoặc quản trị đơn lẻ; đủ điều kiện nhận trợ cấp dựa trên vị trí thực tế trong khu vực; khu vực hải quan riêng biệt (lợi ích miễn thuế) và các thủ tục hợp lý.”. Nói một cách đơn giản, mô hình đặc khu kinh tế được sử dụng để nói về các khu vực kinh tế mà tại đó, các công ty, doanh nghiệp được hưởng các chính sách miễn thuế hoặc bị đánh thuế nhẹ nhằm khuyến khích hoạt động kinh tế. Đặc khu kinh tế của nước sở tại được tạo ra để có thể được thúc đẩy bởi mong muốn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Lợi ích mà các công ty đạt được khi nằm trong một Đặc khu là nó có thể sản xuất và kinh doanh hàng hóa với giá thấp hơn do chính sách ưu đãi thuế, nhằm mục đích cạnh tranh toàn cầu. Dự án đặc khu là quan điểm định hướng của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam về việc xây dựng các đặc khu hành chính – kinh tế gồm Đặc khu kinh tế Vân Đồn , Đặc khu kinh tế Bắc Vân Phong và Đặc khu kinh tế Phú Quốc để thu hút đầu tư. Chính phủ đã chỉ đạo soạn thảo dự án Luật đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt trình Quốc hội xem xét 18 đặc khu của Việt Nam . Các đặc khu mới trong dự án này có cơ chế chính sách quản lý riêng nhằm tạo thuận lợi cho những nhà đầu tư nước ngoài và dự luật này cũng cho phép họ có thể thuê đất thời hạn lên đến 99 năm. 3 đặc khu kinh tế của Việt Nam bao gồm Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc dự kiến sẽ tạo nên một sức hút cực lớn với những nhà đầu tư trong và ngoài nước. Ngày 22 tháng 5 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ra quyết định số 31/2013/QĐ-TTg về việc xây dựng Khu kinh tế Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Khu kinh tế Phú Quốc chính thức được ra đời khi quyết định này có hiệu lực từ ngày 10 tháng 7 năm 2013. Theo tổng quy hoạch tới năm 2030 sửa đổi, Phú Quốc sẽ có 3 khu đô thị lớn, với 2 khu du lịch phức hợp, 15 khu du lịch sinh thái và 5 sân gold. Dự kiến, Phú Quốc sẽ phát triển thành đặc khu kinh tế vào năm 2020. Đặc khu kinh tế Vân Đồn được thành lập vào năm 2007 là một khu kinh tế ở miền Bắc Việt Nam. Với mục tiêu phát triển thành một trung tâm sinh thái biển đảo chất lượng cao và tiện ích cao cấp. Đồng thời là trung tâm hàng không, cửa ngõ giao thương quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tỉnh Quảng Ninh. Khu đặc khu kinh tế Vân Đồn bao gồm một khu phi thuế quan và một khu thuế quan có diện tích rộng 2.200 km2 trong ấy diện tích đất là 551,33 km2, lãnh hải rộng 1620km2. Đặc khu Bắc Vân Phong được thành lập năm 2006 với mục tiêu trở thành một hạt nhân tăng trưởng kinh tế, trung tâm đô thị, du lịch, dịch vụ, công nghiệp của khu vực Nam Trung Bộ. Đây là đặc khu kinh tế tổng hợp lấy khu cảng trung chuyển hàng quốc tế làm chủ đạo. Có một khu phi quan thuế và một khu thế quan ngăn cách nhau bằng tường rào. Đặc khu kinh tế Bắc Vân Phong có diện tích hơn 1500km2 với phần biển rộng hơn 800km2. Với lợi thế là cảng nước sâu Đầm Môn có thể tiếp nhận tàu 200.000 DWT ra vào dễ dàng, giao thông tiện dụng do nằm trên giao lộ Bắc Nam và tây nguyên.
Khu kinh tế tự do
Khu kinh tế tự do (FEZ), lãnh thổ kinh tế tự do (FETs) hay khu vực tự do (FZ) là một lớp đặc khu kinh tế (SEZ) được chỉ định bởi chính quyền thương mại (commerce administrations) và giao dịch (trade) của các quốc gia khác nhau. Đây cũng là tên gọi chung cho các khu kinh tế được thành lập trong một quốc gia nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước bằng các biện pháp khuyến khích đặc biệt. Thuật ngữ này được sử dụng để nói về các khu vực kinh tế tại đó các công ty bị đánh thuế rất nhẹ hoặc không bị đánh thuế nhằm khuyến khích hoạt động kinh tế. Các quy tắc về thuế cho các khu này được từng quốc gia xác định. Hiệp định WTO về Trợ cấp và Biện pháp đối kháng (SCM) có nội dung về các điều kiện và lợi ích của các khu kinh tế tự do. Một số khu kinh tế đặc biệt được gọi là các cảng tự do. Đôi khi, trước đây chúng được ưu đãi với các quy định hải quan thuận lợi như cảng Trieste hoàn toàn miễn phí. Trong những năm gần đây, hệ thống cảng tự do đã bị buộc tội tạo điều kiện cho tội phạm nghệ thuật quốc tế, cho phép các tác phẩm nghệ thuật bị đánh cắp vẫn không bị phát hiện do nằm trong kho lưu trữ trong nhiều thập kỷ.
Luật Doanh nghiệp năm 2020 có hiệu lực từ ngày 1/1/2021 với một số điểm sửa đổi liên quan đến nhóm doanh nghiệp nhà nước sẽ tác động không nhỏ đến đại bộ phận doanh nghiệp thuộc nhóm này, nổi bật trong số đó thay đổi định nghĩa doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, cũng cần phân biệt doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước. Để làm rõ các vấn đề trên, Công ty Luật Thái An với đội ngũ luật sư nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp luật và giải quyết tranh chấp kinh doanh, đầu tư, thương mại… sẽ chia sẻ một số kiến thức tới bạn đọc trong bài viết dưới đây về quản trị doanh nghiệp. Cơ sở pháp lý điều chỉnh doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước. Doanh nghiệp có vốn nhà nướca) Khái niệm Doanh nghiệp có vốn nhà nướcb) Hình thức tổ chức Doanh nghiệp có vốn nhà nước. Doanh nghiệp nhà nướca) Khái niệm Doanh nghiệp nhà nướcb) Hình thức tổ chức Doanh nghiệp nhà nước. Tóm lược ý kiến tư vấn về vấn đề doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước. Doanh nghiệp có vốn nhà nước là những doanh nghiệp có nhà nước là một thành viên hoặc một cổ đông nắm giữ một tỷ lệ phần vốn góp nhất định. Nhà nước có thể là chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp hoặc đồng sở hữu với các cá nhân, tổ chức khác.Tùy thuộc vào tỷ lệ vốn góp của Nhà nước trong doanh nghiệp mà quyền hạn và nghĩa vụ của Nhà nước với doanh nghiệp cũng khác nhau. Vốn nhà nước góp tại doanh nghiệp được hiểu là bao gồm các loại vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tiếp nhận có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; vốn từ quỹ đầu tư phát triển tại doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn khác được Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Đầu tư bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ đang hoạt động. Đầu tư bổ sung vốn nhà nước để tiếp tục duy trì tỷ lệ cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Đầu tư vốn nhà nước để mua lại một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp có vốn nhà nước là doanh nghiệp mà ở đó nhà nước là một chủ đầu tư, một cổ đông nắm giữ phần vốn góp từ 0% đến 100% vốn điều lệ. Nhà nước có thể là chủ sở hữu duy nhất hoặc đồng sở hữu đối với các tổ chức, cá nhân khác. Phụ thuộc vào phần vốn góp của nhà nước là dưới 50%, trên 50% hay 100% vốn điều lệ mà quyền và nghĩa vụ của nhà nước với doanh nghiệp cũng sẽ khác nhau. Doanh nghiệp có vốn nhà nước có thể được tổ chức và hoạt động theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty cổ phần. Trong đó Nhà nước đóng vai trò làm chủ sở hữu duy nhất hoặc một thành viên, cổ đông bình đẳng có quyền lợi, nghĩa vụ phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp như các thành viên khác của doanh nghiệp. Thực tế thì khái niệm doanh nghiệp nhà nước từng được thay đổi nhiều lần trong lịch sử, chủ yếu là các thay đổi về tỷ lệ vốn sở hữu để xác định doanh nghiệp nhà nước. Theo quy định tại Khoản 11 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 thì. “Doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại Điều 88 của Luật này”. Như vậy pháp luật hiện hành xác định rõ ràng doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp có chủ sở hữu lớn nhất là Nhà nước (theo Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ). Vốn Nhà nước tại doanh nghiệp bao gồm vốn từ ngân sách Nhà nước, vốn tiếp nhận có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước; vốn từ quỹ đầu tư phát triển tại doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn khác được Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Vốn của Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp khác là vốn Nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do cơ quan đại diện chủ sở hữu làm chủ sở hữu phần vốn góp. Từ đó ta có thể thấy khái niệm “Doanh nghiệp có vốn nhà nước” sẽ rộng hơn và bao hàm khái niệm “Doanh nghiệp nhà nước”. Hay nói cách khác doanh nghiệp nhà nước là một loại của doanh nghiệp có vốn nhà nước. Loại doanh nghiệp này đặc biệt ở chỗ Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết nên có quyền nắm giữ quyền kiểm soát, quản lý, vận hành hoạt động của doanh nghiệp cao hơn bất cứ thành viên hay cổ đông nào trong doanh nghiệp. Các thành viên trong doanh nghiệp nhà nước ngoài những điều kiện như doanh nghiệp thông thường còn phải đáp ứng thêm một số điều kiện riêng biệt để tránh nạn tham ô, lạm quyền, gây tổn thất cho Nhà nước. Công ty TNHH một thành viên là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, trừ doanh nghiệp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này. Công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. So với Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp Nhà nước thường được cho là kém hiệu quả và lợi nhuận thấp hơn. Trong khi các công ty tư nhân chi tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông, Doanh nghiệp Nhà nước thường phải chịu trách nhiệm của xã hội, hoạt động vì lợi ích của người dân, được thành lập để đối phó với những thất bại của nền kinh tế. Điều đó dẫn đến việc các Doanh nghiệp Nhà nước không hướng đến và cũng không cần cố gắng tối đa hóa lợi nhuận như các doanh nghiệp tư nhân. Công ty nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp Nhà nước. Công ty nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập, tổng công ty nhà nước.
Ngày 23/9/2020, tại Lakselv (Na Uy), Bộ trưởng Quốc phòng 3 nước Phần Lan, Na Uy và Thụy Điển đã ký Tuyên bố về ý định (Statement of Intent - SOI) thông báo về hợp tác quân sự rộng lớn hơn, xác định mục tiêu chung của ba nước là tăng cường hợp tác quốc phòng ở High North thông qua các cuộc tập trận chung và "có thể và sẵn sàng tiến hành các hoạt động trong khủng hoảng và xung đột nếu được quyết định như vậy". Các Bộ trưởng nhất trí cuộc khủng hoảng có thể xảy ra tiếp theo sẽ không chỉ ảnh hưởng đến một, mà tất cả các quốc gia Bắc Âu. Do đó, điều rất quan trọng là cần hợp tác trên nhiều cấp độ. Đặc biệt, trong giai đoạn cạnh tranh mạnh mẽ giữa các cường quốc, hành xử một nước nhỏ là rất khó - theo Bộ trưởng Quốc phòng Na Uy. Bộ trưởng Quốc phòng Phần Lan gọi Thụy Điển và Na Uy là "đối tác tự nhiên". Theo SOI, để cải thiện khả năng tương tác và sẵn sàng hỗ trợ quân sự cho nhau, 3 nước sẽ thực hiện các bước chuẩn bị cần thiết, nhằm nâng cao khả năng phòng thủ và ngăn chặn hành động xâm lược. SOI lưu ý, đây không phải là "một cam kết ràng buộc pháp lý theo luật quốc gia hoặc quốc tế" và không "thay thế hoặc làm mất hiệu lực của bất kỳ thỏa thuận quốc phòng, thỏa thuận hoặc biên bản ghi nhớ hiện có nào giữa các bên tham gia". Bộ trưởng Quốc phòng Phần Lan lưu ý trong thông cáo báo chí rằng, hợp tác quốc phòng 3 nước hỗ trợ các mục tiêu của Hợp tác Quốc phòng Bắc Âu (Nordic Defence Cooperation - NORDEFCO) để cùng phối hợp trong điều kiện "xung đột, khủng hoảng hoặc hòa bình". Bắc Âu là một trong những khu vực hội nhập nhất thế giới. Các quốc gia Bắc Âu có chung một lịch sử lâu đời, mô hình kinh tế và xã hội tương tự nhau, quan hệ hợp tác quân sự giữa các nước Bắc Âu đang hoạt động tốt. Thực tế địa lý và chiến lược quân sự cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục sự hợp tác này. Trong những năm qua, các nước Bắc Âu luôn tìm ra những cách thực tế và linh hoạt để hợp tác, cho phép hợp tác quốc phòng xuất hiện và phát triển bất chấp các liên kết an ninh khác nhau giữa họ. Họ đã hợp tác thành công qua các cuộc tập trận như Tập trận Thử thách Bắc Cực (Arctic Challenge Exercise), Ứng phó Giá lạnh (Cold Response), Huấn luyện xuyên Biên giới (Cross Border Training), Gió phương Bắc (Northern Wind) . Bộ trưởng Quốc phòng Phần Lan nói sự hợp tác 3 bên bổ sung cho quan hệ hợp tác hiện tại giữa Phần Lan và Thụy Điển, và hợp tác song phương giữa Phần Lan và Na Uy. Vị Bộ trưởng này nói với Hãng thông tấn Phần Lan STT rằng, thỏa thuận 3 bên không làm thay đổi mối quan hệ của Phần Lan hoặc Thụy Điển với NATO (Phần Lan và Thụy Điển là các đối tác hợp tác tăng cường, còn Na Uy là một thành viên của NATO). Được biết, các lực lượng vũ trang Na Uy trong thời bình có quân số 23.250 người, bao gồm cả quân nhân và dân viên dân sự, nếu tính cả lính nghĩa vụ và cận vệ được huy động toàn bộ, thì con số sẽ tăng lên 63.250 người. Thụy Điển có 22.500 quân nhân tại ngũ và khoảng 35.000 quân dự bị. Phần Lan có khoảng 8.000 quân nhân và 25.000 lính nghĩa vụ, nhưng có 900.000 quân dự bị. Năm 2018, một tầm nhìn mới NORDEFCO đã được ký kết. Mục tiêu chỉ đạo của nó là các nước Bắc Âu sẽ cải thiện khả năng quốc phòng và hợp tác trong hòa bình, khủng hoảng và xung đột. Giới chức quân sự các nước sẽ có những cuộc thảo luận dựa trên những lo ngại về an ninh chung trong khu vực, nhằm điều phối các kế hoạch hoạt động quốc gia hiện tại và tương lai. Để thực hiện mục tiêu này, 3 nước sẽ thành lập một nhóm hoạch định chiến lược; các cuộc tập trận và diễn tập sẽ tổ chức để hỗ trợ. Một kết quả có thể đạt được từ sự hợp tác tăng cường này là lập kế hoạch phối hợp hoạt động trong các khu vực cùng quan tâm, ví dụ như các vùng phía bắc Phần Lan, Na Uy và Thụy Điển. Trên tinh thần hợp tác Bắc Âu, Đan Mạch và Iceland sẽ được thông báo thường xuyên khi hợp tác diễn ra. Trước tình hình an ninh phức tạp, sự hợp tác và đoàn kết giữa các quốc gia có chung chí hướng là điều tối quan trọng. 3 nước cam kết đoàn kết, sát cánh cùng nhau đương đầu với những thách thức và với trách nhiệm duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực. Hiệp ước quân sự mới được Bộ trưởng Quốc phòng Thụy Điển mô tả là sẽ gửi một "tín hiệu rõ ràng gửi tới Nga" - nước mà ông nhận thấy là một mối đe dọa hiện hữu. Theo ông này, Nga đầu tư rất nhiều vào quân đội và thiết bị quân sự; tình hình hiện nay giống như thời Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, ông bác bỏ ý kiến cho rằng động thái này sẽ đưa Thụy Điển trung lập trong lịch sử xích lại gần NATO hơn. Vào tháng 8, Thụy Điển đã khởi xướng "hành động sẵn sàng cao" ở khu vực biển Baltic, và Bộ trưởng Quốc phòng nước này cũng mô tả đó là một tín hiệu gửi đến Nga, mặc dù quân đội của Thụy Điển đánh giá khả năng xảy ra một cuộc tấn công nhằm vào nước này là "thấp". Thụy Điển không liên kết thường xuyên thực hiện các cuộc tập trận với các đối tác NATO, bao gồm các cuộc tập trận ở Đông Âu dọc theo biên giới phía tây của Nga. Cái gọi là "mối đe dọa từ Nga" đã nhiều lần được sử dụng để biện minh cho việc xây dựng tiềm lực quân sự đang diễn ra, bao gồm việc tái quân sự hóa đảo Gotland chiến lược và chi tiêu quân sự tăng đột biến. Quan hệ song phương Nga-Na Uy, mặc dù theo truyền thống tốt đẹp, trong những năm gần đây đã bị suy yếu bởi các cáo buộc gián điệp có đi có lại, sự ngờ vực lẫn nhau và các động thái nâng cao sức mạnh quân sự. Cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Na Uy Sverre Diesen đã có một phát biểu đáng lưu ý, theo đó, quan niệm quốc phòng mới là sai sót về mặt logic, điều này khiến thỏa thuận bất lực trước một mối đe dọa có thể. Finnmark là vùng lãnh thổ giáp với vùng Murmansk của Nga - là nơi mà cho đến gần đây, Na Uy đã tránh bố trí một nhóm quân lớn. Theo Diesen, để tạo ra một tình huống xung đột có thể kích hoạt quân tiếp viện của đồng minh trợ giúp lực lượng mặt đất ở Finnmark, các lực lượng này phải rất lớn và ở cách xa Finnmark về phía trước - điều mâu thuẫn với học thuyết quân sự hiện nay là hạn chế sự hiện diện quân sự có thể làm phát sinh căng thẳng, và hoàn toàn phi logic./. VOV.VN - Nếu thành hiện thực, một liên minh quân sự kiểu NATO ở Arab sẽ giúp giảm thiểu tối đa những thiệt hại về an ninh tại khu vực. VOV.VN - Bộ trưởng Quốc phòng Shoigu nhấn mạnh, có sự gia tăng các hoạt động do thám và các chuyến bay huấn luyện để “kiểm tra” hệ thống phòng không của Nga.
Liên minh quân sự
Liên minh quân sự là một thỏa thuận quốc tế liên quan đến an ninh quốc gia, khi các bên ký kết đồng ý bảo vệ và hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp khủng hoảng chưa được xác định trước. Các liên minh quân sự khác với các liên minh, vì các liên minh được hình thành cho một cuộc khủng hoảng đã được biết đến. Các liên minh quân sự có thể được phân loại thành các hiệp ước quốc phòng, các hiệp ước không xâm lược và các bên tham gia. Các liên minh quân sự có liên quan đến các hệ thống an ninh tập thể nhưng có thể khác nhau về bản chất. Một bản ghi nhớ đầu những năm 1950 từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã giải thích sự khác biệt bằng cách nói rằng các liên minh trong lịch sử "được thiết kế để thúc đẩy lợi ích quốc gia tương ứng của các bên và cung cấp cho hành động quân sự chung nếu một trong các bên theo đuổi về những mục tiêu như vậy đã tham gia vào chiến tranh ". Trong khi một thỏa thuận an ninh tập thể "không nhằm vào ai, nó chỉ nhằm chống lại sự xâm lược.
Câu hỏi về con quái vật khổng lồ với hình thù của một loài bò sát gớm ghiếc có hơi thở chứa đầy chất phóng xạ hạt nhân luôn gắn liền trong tâm tưởng nhiều khán giả, những người yêu thích nhân vật “gớm ghiếc” này qua những bộ phim, game, truyện tranh và ngay cả tiểu thuyết. Godzilla là một con quái vật khổng lồ không có thật ra mắt lần đầu trong bộ phim Godzilla năm 1954 (còn gọi là Godzilla đầu tiên). Bộ phim mô tả con quái vật là “một sinh vật tiến hóa từ một sinh vật biển cổ đại trở thành một động vật trên cạn vì bị ảnh hưởng từ môi trường sống dưới nước sâu khi các nước thử nghiệm bom hydro rất nhiều lần tại đây”. Rất có thể một cặp cha Khỉ đột và mẹ Cá voi đã “tạo ra” ra Godzilla. Từ Kaiju trong tiếng Nhật có nghĩa là “Quái thú”. Xuất hiện từ những năm 50 của thế kỷ trước, dòng phim Kaiju đã trở thành một tượng đài điện ảnh ở Nhật Bản, motif thông thường là một con quái vật khổng lồ tấn công các thành phố (thường thì là Tokyo). Lũ Kaiju này là những động vật bị nhiễm phóng xạ hạt nhân hoặc là chúng đại diện cho các vị thần của Nhật Bản thời hiện đại. Dần dần để thay đổi thị hiếu khán giả, các Kaiju được cho đối đối đầu với nhau, hoặc Kaiju trở về phê chính diện để đi tiêu diệt kẻ xấu. 1 là “Daikaiju” (Đại quái thú) là những sinh vật khổng lồ to như Godzilla vậy, chúng chỉ tung một đòn là cả một quận thành phố bị phá hủy. Loại thứ 2 có tên Kaijin – nghĩa là quái nhân, cũng là quái vật nhưng có kĩnh thước bằng con người. Thế nhưng trong các dòng phim quái vật thì các Daikaiju nổi tiếng hơn và từ “Kaiju” từ đây để nói về những con Daikaiju là chính. Godzilla là nhân vật lâu đời trải qua nhiều thời kỳ nên có nhiều biến đổi hình dáng, kích thước và nguồn gốc khác nhau. Thời gian đầu vào năm 1950, hãng TOHO đưa ra loạt series Godzilla được xem là một loại sinh vật thời tiền sử “ngủ dậy” từ những thử nghiệm hạt nhân. Trong loạt phim thời Heisei (Bình Thành, thời Thượng hoàng Akihito trị vì), Godzilla là một loại khủng long tiền sử được gọi là Godzillasaurus, còn sống sót vào những năm 1940 ở Quần đảo Marshall. Những người du hành thời gian từ tương lai đã đưa Godzillasaurus đến biển Bering, chỉ để nó tiếp xúc với bức xạ từ tàu ngầm Nga và trở thành Godzilla, vào những năm 1970. Tuy nhiên, xác của Godzilla vốn không bị phân hủy mà được nuôi dưỡng từ cõi chết bởi linh hồn người chết trong Thế chiến II, để trừng phạt Nhật Bản vì những tội lỗi của nó. Trong suốt thời kỳ Showa (Chiêu Hòa, thời Thượng hoàng Hirohito trị vì) và Millennium series (năm 1999 – 2004) thì Godzilla là 1 dạng sinh vật bò sát thời tiền sử sống trung gian giữa đất liền và biển cả; rút lui sâu dưới lòng biển sau đại họa kỷ Phấn Trắng và được đánh thức bởi thử nghiệm bom hydro của Mỹ. Đa phần, Godzilla thời Showa đều được coi là anh hùng, nhưng ở thời kỳ Heisei thì lại đa phần được cho là nhân vật phản diện. Đến Shin Godzilla năm 2016 của Toho, nó vẫn được coi như một nhân vật phản diện. Tuy nhiên, ở MonsterVerse thì Godzilla lại được miêu tả như một Đấng Cứu Thế của tự nhiên, thanh trừng những con Kaiju (quái thú khổng lồ) đe dọa đến sự tồn vong của hành tinh tươi đẹp này, như ta đã thấy ở bộ phim năm 2014 của Mỹ. Mặt khác, các bộ phim Mỹ thường được ghép với tên của đạo diễn và người hâm mộ Nhật Bản gọi bộ phim năm 1998 là ‘Phiên bản Emmerich’ (thường được gọi là ‘Eme-goji’) và bộ phim năm 2014 là ‘Phiên bản Gareth’ ( thường được gọi là ‘Gyare-goji’.) Đã có tổng cộng 31 bộ phim Godzilla, bao gồm cả các bộ phim của Mỹ được tạo ra. Trong Godzilla (1998) – phiên bản Hollywood của “ông trùm phim về thảm hoa, thiên tai” Roland Emmerich, con quái vật này là 1 sinh vật bò sát bị dính phóng xạ biến thành. Với kỹ thuật CGI hiện đại, Godzilla này xây dựng hình ảnh như loài khủng long bạo chúa với chiếc cổ dài, móng vuốt to bản, cùng hình thể thon gọn. Điều này khiến bộ phim của người Mỹ vấp phải nhiều chỉ trích đến từ các fan ruột của thương hiệu Godzilla. “Vua của các loài quái vật” trong bộ phim này đơn giản chỉ là một loài thằn lằn bị đột biến, bị dụ bởi cá chết và hành động theo bản năng, chạy trốn trước vũ khí đạn dược của loài người. Tồi tệ hơn cả, Godzilla có thể bị giết chết bởi bom đạn chứ không còn là chúa tể hùng mạnh bất khả chiến bại nữa. Sau này, Toho đã tuyên bố sẽ gọi nó dưới cái tên “Zilla” bởi theo họ, đây là một phiên bản của Mỹ và dường như họ đang muốn chối bỏ sự tồn tại của con quái vật “hồn Mỹ da Nhật” này. Vậy Godzilla là gì khi thuộc thuộc vũ trụ MonsterVerse vào lúc này? Phiên bản 2014 của hãng Warner Bros. và Legendary Pictures đã cho chúng ta một Godzilla mới lạ – một sinh vật bò sát lưỡng cư cổ xưa thời kỷ Permi, trước cả thời khủng long. Theo bộ truyện Godzilla: Awakening, thời tiền sử, nó đã sống bằng cách ăn bức xạ bên bề mặt Trái Đất, và khi môi trường Trái Đất không còn thích hợp thì nó đã đi vào trạng thái ngủ đông, ăn bức xạ địa nhiệt tự nhiên từ lõi hành tinh. Thỉnh thoảng, Godzilla vẫn xuất hiện ở nhiều điểm khác nhau trong lịch sử loài người, truyền cảm hứng cho thần thoại của một số nền văn hóa. Năm 1954, nó đã được đánh thức bởi 1 chiếc tàu ngầm hạt nhân của Mỹ. Tuy có nhiều điểm khác nhau trong nguồn gốc và sự phát triển, nhưng nhìn chung thì Godzilla đều hướng cho con người nhớ đến nỗi đau và hậu quả của vũ khí hạt nhân, là lời nhắc con người từ bỏ chiến tranh và chung tay bảo vệ môi trường tự nhiên. Để tạo nên hình dạng nguyên bản của Godzilla, Giám đốc Nghệ thuật Akira Watanabe đã kết hợp các hình dạng của Tyrannosaurus, Iguanodon, Stegosaurus và cá sấu thành một tập hợp hoàn chỉnh. Thông thường, Godzilla có hình dạng giống 1 con khủng long với tư thế đứng thẳng, da có vảy, có đôi tay cơ bắp nhưng ngắn cũn cỡn, có một cái đuôi dài và hàng vây răng cưa dọc theo lưng, đuôi, với một đôi mắt nhíu lại. Ngày nay, do đặc tính là 1 sinh vật bò sát lưỡng cư, Godzilla sở hữu hệ thống mang để hô hấp được ở môi trường nước. Sự phát triển về mặt kích thước qua các phần phim của Godzilla là 1 điều khá thú vị, khi Godzilla có xu hướng… ngày càng to lớn hơn theo thời gian. Năm 1954, Godzilla có chiều cao khiêm tốn nhất là 50m, cỡ 1 tòa nhà chọc trời của Nhật thời đó. Sau đó, đến thời Heisei thì Godzilla đã đạt chiều cao tới mức hơn 100m, tức hơn gấp đôi thời điểm nó xuất hiện ban đầu. Đến năm 2016 trong phim Shin Godzilla, nó đã có chiều cao kỉ lục là 118m. Trước đó, Godzilla được miêu tả là có cân nặng từ 20.000 đến 60.000 tấn. Tuy phiên ở vũ trụ MonsterVerse, trong bản Godzilla (2014), Godzilla đã được thu nhỏ lại là 108m, nhưng sức nặng 90.000 tấn đã biến nó thành Godzilla khủng nhất so với mọi phiên bản. Nhiều fan đã trêu đùa rằng Godzilla ở phiên bản này là 1 con quái thú đẹp trai béo phì, nhưng thực thế, trong phim Godzilla: King Of The Monsters thì chiều cao của nó còn có thể sẽ còn cao hơn nữa. Kẻ thù của Godzilla có rất nhiều, đa số đều là những con Kaiju khổng lồ khác. Godzilla và chúng đã tạo nên rất nhiều cuộc chiến kinh thiên động địa, và rõ ràng chúng cho ta thấy rằng: Con người chỉ đang sống nhờ trong thế giới của chúng mà thôi. Trong phần phim Chúa Tể Godzilla, hàng loạt những cái tên sau sẽ được tái xuất:. Không chỉ vậy, một sinh vật đã quá quen thuộc với khán giả trên màn ảnh rộng sẽ trở thành đối thủ tương lai của Godzilla, đó là King Kong. Hai quái vật này đã từng có cuộc chạm trán trong bộ phim King Kong vs. Godzilla vào năm 1962 với sự hạn chế về mặt hình ảnh, công nghệ. Bởi vậy, các fan của MonsterVerse sẽ vô cùng háo hức với phiên bản Kong vs Godzilla hiên đại, dự kiến trình làng trên toàn thế giới trong năm 2020. Bằng cách tạo ra một vụ nổ hạt nhân trong cơ thể, Godzilla có thể phóng ra 1 chùm tia năng lượng plasma từ miệng, và trong phim điện ảnh Shin Godzilla (2016) thì nó còn có thể phóng năng lượng bằng gai lưng và đuôi. Atomic Breath của Godzilla trong hầu hết các phiên bản đều thể hiện được một sức mạnh cực kỳ đáng sợ, màu sắc khá đa dạng, thường thấy dưới hình thức là chùm sáng dày, màu xanh neon. Tuy nhiên, phiên bản Godzilla của MonsterVerse có chút khác biệt với những phiên bản khác. Khi dùng Atomic Breath, thay vì tất cả gai lưng đều sáng lên như ở các phiên bản của TOHO, thì Godzilla 2014 chỉ có hàng gai lưng ở giữa là sáng lên mà thôi. Điều này đồng nghĩa với việc có thể Godzilla trong MonsterVerse sẽ sở hữu phiên bản Atomic Breath mạnh hơn. Chúng ta hoàn toàn có thể hi vọng rằng sẽ được chiêm ngưỡng phiên bản tối thượng này trong Godzilla: King of Monsters khi Godzilla sẽ phải dùng hết khả năng để hạ gục King Ghidorah. Là một biến thể mạnh mẽ hơn của Atomic Breath, Spiral Atomic Ray chỉ có thể được bắn ra khi Godzilla bị căng thẳng cực độ hoặc đã hấp thụ một lượng năng lượng đáng kể, có hình dạng là một chùm tia màu đỏ được bọc trong một vòng xoắn điện màu vàng và có sức mạnh để tiêu diệt hoàn toàn những kẻ thù mạnh nhất, như Super-Mechagodzilla 2, SpaceGodzilla, Destoroyah và Keizer Ghidorah. Godzilla có thể giải phóng sóng xung kích của năng lượng hạt nhân từ toàn bộ cơ thể nó. Tuyệt chiêu này rất hữu ích khi nó bị bao vây bởi nhiều kẻ địch cùng lúc. Chúa Tể Godzilla hứa hẹn làm bùng nổ các phòng chiếu trên toàn thế giới trong mùa Hè này khi dự kiến khởi chiếu vào ngày 31.05.2019 với sự tham gia của “dàn sao” Hollywood như Millie Bobby Brown, Kyle Chandler, Vera Farmiga, Sally Hawkins, Ken Watanabe, và “bóng hồng Trung Quốc” Chương Tử Di.
Chúa tể Godzilla
Chúa tể Godzilla (tiếng Anh: Godzilla: King of the Monsters) là một bộ phim quái vật 2019 của Mỹ do Michael Dougherty đạo diễn và đồng sáng tác. Nó là phần phim tiếp theo của Godzilla (2014) và sẽ là bộ phim thứ 35 của thương hiệu Godzilla, bộ phim thứ ba trong MonsterVerse của Legendary và phim Godzilla thứ ba được sản xuất hoàn toàn bởi một studio Hollywood . Phim có sự tham gia của Kyle Chandler, Vera Farmiga, Millie Bobby Brown, Bradley Whitford, Sally Hawkins, Charles Dance, Thomas Middleditch, O Shea Jackson Jr., Ken Watanabe và Chương Tử Di. Đây là một trong những bộ phim cuối cùng của Yoshimitsu Banno với tư cách là nhà sản xuất điều hành, khi ông qua đời vào ngày 7 tháng 5 năm 2017. Phần tiếp theo được bật đèn xanh trong cuối tuần khai mạc của Godzilla, với đạo diễn ban đầu là Gareth Edwards dự kiến sẽ trở lại. Sau khi Edwards rời khỏi dự án vào tháng 5 năm 2016, Dougherty, người được thuê vào tháng 10 năm 2016 để viết lại kịch bản với Zach Shields, đã được công bố là đạo diễn vào tháng 1 năm 2017.
Là ngôn ngữ dùng để diễn tả thuật toán sao cho máy tính hiểu và thực hiện được. - Ngôn ngữ máy : Các lệnh được mã hóa bằng các kí hiệu 0 – 1. Chương trình được viết trên ngôn ngữ máy có thể được nạp vào bộ nhớ và thực hiện ngay. - Hợp ngữ: sử dụng các từ viết tắt tiếng Anh để diễn tả câu lệnh. - Ngôn ngữ bậc cao : Các lệnh được mã hóa bằng một ngôn ngữ gần với ngôn ngữ Tiếng Anh. Chương trình viết trên ngôn ngữ bậc cao phải được chuyển đổi thành chương trình trên ngôn ngữ máy mới có thể thực hiện được. Phải sử dụng một chương trình dịch để chuyển đổi. Lập trình bằng ngôn ngữ bậc cao dễ viết hơn vì các lệnh được mã hóa gần với ngôn ngữ tự nhiên. Lập trình trên ngôn ngữ máy rất khó, thường các chuyên gia lập trình mới lập trình được. Lập trình là việc sử dụng cấu trúc dữ liệu và các lệnh của ngôn ngữ lập trình cụ thể để mô tả dữ liệu và diễn đạt các thao tác của thuật toán. Bước 1 : Duyệt, phát hiện lỗi, kiểm tra tính đúng đắn của lệnh trong chương trình nguồn. Bước 2 : Dịch toàn bộ chương trình nguồn thành một chương trình trên ngôn ngữ máy. Lưu ý: một trong những nhiệm vụ quan trọng của chương trình dịch là phát hiện lỗi cú pháp của chương trình nguồn. Ø Có ba loại ngôn ngữ lập trình : Ngôn ngữ máy, hợp ngữ và ngôn ngữ bậc cao.
Lý thuyết ngôn ngữ lập trình
Lý thuyết ngôn ngữ lập trình (thường được biết tới bởi chữ viết tắt tiếng Anh PLT (Programming language theory) là một nhánh của khoa học máy tính nghiên cứu việc thiết kế, thực hiện, phân tích, mô tả đặc điểm, và phân loại các ngôn ngữ lập trình và các đặc trưng của chúng. Lý thuyết ngôn ngữ lập trình phụ thuộc và chịu ảnh hưởng của toán học, kĩ nghệ phần mềm và ngôn ngữ học. Nó là một nhánh của khoa học máy tính được công nhận và là một khu vực nghiên cứu tích cực, với các kết quả được xuất bản trong nhiều tạp chí dành riêng cho PLT, cũng như trong các xuất bản phẩm kĩ thuật và khoa học máy tính chung. Hầu hết các chương trình đào tạo cử nhân khoa học máy tính yêu cầu phải học các môn học trong chủ đề này. Trong một số cách, lịch sử lý thuyết ngôn ngữ lập trình có trước cả sự phát triển của chính các ngôn ngữ lập trình. Phép tính lambda, được phát triển bởi Alonzo Church và Stephen Cole Kleene trong những năm 193x, được một số người coi là ngôn ngữ lập trình đầu tiên của thế giới, mặc dù nó từng được dự định dùng làm mô hình tính toán hơn là phương tiện cho các lập trình viên mô tả các giải thuật cho một hệ thống máy tính.
Tóc bị rụng nhiều khi gội đầu nguyên nhân do đâu?1. Dầu gội không phù hợp2. Nguồn nước không đảm bảo4. Chăm sóc tóc không tốt. Tóc rụng nhiều khi gội đầu liệu có liên quan đến bệnh lý?1. Rối loạn hệ thống miễn dịch3. Hội chứng buồng trứng đa nang. Cách khắc phục tình trạng rụng tóc nhiều khi gội đầu1. Chọn dầu gội phù hợp2. Gội đầu và chăm sóc tóc đúng cách3. Các liệu pháp tự nhiên4. Khi nào cần thăm khám bác sĩ?. Tóc bị rụng nhiều khi gội đầu là vấn đề thường gặp, nhất là ở chị em phụ nữ. Tình trạng này có thể được khắc phục tốt nếu bạn biết cách. Nội dung từ bài viết sẽ giúp bạn tìm ra nguyên nhân cũng như đem đến những giải pháp xác thực. Dù muốn hay không thì rụng tóc cũng trở thành một vấn đề mà bạn không thể tránh được. Bởi nó chính là một phần hết sức bình thường trong chu kỳ phát triển của tóc. Tuy nhiên, tóc thường sẽ có xu hướng rụng nhiều hơn khi bạn chải hay gội đầu. Bởi quá trình gội đầu sẽ khiến cho nang tóc lỏng lẻo, vấn đề rụng tóc sẽ trở nên đáng chú ý hơn. Nhưng vấn đề này cũng không có gì đáng quan ngại thì tổng lượng tóc rụng mỗi ngày chỉ dao động trong khoảng 50 – 100 sợi. Còn nếu tóc bạn rụng nhiều hơn mức khuyến cáo này và rụng rất nhiều khi gội đầu thì cần chú ý. Đây là một trong những nguyên nhân chính khiến cho tóc rụng nhiều hơn khi bạn gội đầu. Da đầu cũng như bất cứ vùng da nào khác, luôn cần một sản phẩm chăm sóc phù hợp. Dùng một loại dầu gội không phù hợp sẽ khiến cho da đầu, đặc biệt là các nang lông bị tổn thương. Điều này khiến tóc dễ dàng bị rụng. Đặc biệt, ở những người có da đầu nhạy cảm nếu sử dụng dầu gội chứa chất tẩy rửa mạnh thì vấn đề sẽ nghiêm trọng hơn. Bên cạnh việc dùng dầu gội không phù hợp thì việc gội đầu sai cách cũng là yếu tố thêm vào khiến tóc rụng nhiều hơn. Sau đây là một số thói quen xấu khi gội đầu có thể khiến da bị tổn thương:. Thêm vào đó, thói quen chải đầu khi tóc còn ướt hay gội đầu bằng nước quá nóng hoặc quá lạnh, quá ít gội đầu cũng được cho là những yếu tố liên quan. Gội đầu với nguồn nước không đảm bảo, nước bị phèn là một trong những nguyên nhân khiến tóc rụng nhiều hơn. Ngoài ra, nguồn nước ô nhiễm còn khiến cho da đầu dễ bị kích ứng. Đồng thời nguồn nước ô nhiễm còn là nơi sinh sống của các loại vi khuẩn, vi nấm. Chúng có thể sẽ xâm nhập và phát triển trên da đầu khiến nguy cơ gặp các tình trạng viêm nhiễm da đầu là rất cao. Yếu tố này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề rụng tóc nhiều khi gội đầu. Chăm sóc không tốt khiến nang tóc trở nên lỏng lẻo, tóc dễ yếu gãy. Lúc này, cộng thêm với những tác động từ việc gội đầu sẽ khiến tóc rụng ồ ạt. Thêm vào đó việc chăm sóc không tốt còn ức chế quá trình hình thành và phát triển của các tế bào tóc mới. Trong nhiều trường hợp, bạn dùng đúng loại dầu gội, chăm sóc và gội đầu đúng cách nhưng tóc vẫn không ngừng rụng. Đây là một vấn đề rất đáng quan ngại. Các chuyên gia cho rằng, lúc này, tình trạng rụng tóc nhiều khi gội đầu có thể liên quan đến các vấn đề bệnh lý. Các loại vi khuẩn, vi nấm sông trên tế bào chết của tóc sẽ dễ dàng phát triển khi có điều kiện thuận lợi. Nhất là khi da đầu ẩm ướt hoặc không được vệ sinh sạch sẽ. Chúng có thể làm kích hoạt sự phát triển của các phản ứng viêm khiến cho da đầu bị viêm nhiễm, đôi khi là nhiễm trùng. Lúc này, nang tóc sẽ trở nên yếu dần đi và tóc dễ rụng khi gội đầu, chải hoặc có bất cứ tác động nào. Khi hệ thống miễn dịch bị rối loạn thì cơ thể của bạn sẽ rất dễ phát tín hiệu nhầm lẫn. Lúc này, nang tóc có thể sẽ được cho là một trong những yếu tố lạ xâm nhập. Từ đó cơ thể sẽ sản sinh ra các kháng thể đi làm nhiệm vụ đào thải tế bào nang tóc. Điều này là nguyên nhân khiến cho quá trình rụng tóc diễn ra nhanh hơn. Đặc biệt là khi có những tác động ngoại lực, mà gội đầu là một ví dụ điển hình. Phần đa các bệnh lý về tuyến giáp đều gây ra hiện tượng mất cân bằng các hormone được sản sinh ngay tại cơ quan này của cơ thể. Cả tình trạng suy giáp hay cường giáp đều có thể là yếu tố liên quan trực tiếp. Hormone tuyến giáp mất cân bằng sẽ gây ra những cản trở rất lớn đến quá trình trao đổi chất. Điều này dẫn đến nhiều nang tóc sẽ bị yếu dần đi, dẫn đến khi gội đầu tóc sẽ rụng nhiều hơn. Đây là một trong những hội chứng xuất hiện rất phổ biến ở phụ nữ. Đặc biệt, tình trạng này đang có nguy cơ kích hoạt ngày càng nhiều ở đối tượng phụ nữ trẻ. Nó đặc trưng bởi tình trạng rụng tóc nhiều, nhất là khi gội đầu. Trong khi đó, các vùng lông ở mặt hay một số vị trí khác lại có xu hướng phát triển nhiều hơn bình thường. Ngoài ra, một số vấn đề khác như thiếu hụt dưỡng chất hay tâm lý căng thẳng, stress cũng có thể sẽ liên quan. Bạn sẽ không còn phải lo lắng trước tình trạng tóc rụng nhiều khi gội đầu nếu biết xử lý đúng cách. Những biện pháp dưới đây đều được xây dựng dựa trên nguyên nhân gây ra vấn đề. Với những cách chăm sóc tốt thì chắc chắn rằng tóc bạn sẽ bớt rụng nhanh chóng. Bên cạnh đó còn có thể mọc lại chắc khỏe hơn. Việc chọn dầu gội phù hợp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhất là tính chất của tóc và da đầu. Độ pH của dầu gội an toàn với da đầu chỉ nên dao động ở trong khoảng từ 4,5 đến 5. Các dòng sản phẩm dầu gội với những chiết xuất từ thảo dược tự nhiên sẽ là lựa chọn an toàn hơn. Chúng hoàn toàn phù hợp với những bạn có mái tóc yếu, hư tổn, dễ gãy rụng. Bên cạnh đó, những thành phần tự nhiên còn giúp cho da đầu, các nang lông được nuôi dưỡng tốt hơn. Từ đó có thể kích thích và thúc đẩy quá trình sản sinh các tế bào tóc mới. Bạn cũng cần chú ý đến số lượng tóc rụng sau mỗi lần gội đầu. Nếu nó nhiều bất thường thì nên nhanh chóng ngưng loại dầu gội đang dùng và cân nhắc đổi sang loại mới ngay lập tức. Các liệu pháp tự nhiên thường có một ưu điểm vượt trội là đảm bảo tính an toàn, ít gây ra các tác dụng không mong muốn. Một số liệu pháp dưới đây hoàn toàn có thể giúp bạn khắc phục tình trạng rụng tóc nhiều khi gội đầu. Đồng thời giúp kích thích quá trình mọc tóc diễn ra nhanh chóng hơn. Với hàm lượng methol phong phú, tinh dầu bạc hà có thể giúp da đầu được thư giãn tốt hơn. Vừa chống rụng tóc, vừa giúp mái tóc bồng bềnh, chắc khỏe. Đồng thời có thể loại bỏ gàu hiệu quả hơn. Thực hiện: Mỗi lần gội đầu bạn chỉ cần trộn vài giọt tinh dầu bạc hà vào trong dầu gội. Áp dụng đều đặn sẽ thấy tình trạng rụng tóc nhanh chóng được khắc phục. Việc thiếu hụt vitamin và dưỡng chất cũng là yếu tố liên quan trực tiếp đến tình trạng rụng tóc nhiều khi gội đầu. Chính vì thế để cải thiện thì việc cung cấp đầy đủ vitamin cho cơ thể là rất cần thiết. Vitamin H, B, C, E là những nhóm quan trọng nhất tham gia trực tiếp vào việc nuôi dưỡng các nang lông và kích thích quá trình mọc tóc. Bạn có thể bổ sung từ rau quả tươi, lòng đỏ trứng hay quả hạch, cá béo…. Giấm táo có tác dụng rất tuyệt vời trong việc làm sạch tế bào da chết và loại bỏ gàu. Từ đó có thể giải phóng các nang tóc khỏi sự tắc nghẽn và ngăn chặn tình trạng rụng tóc khi gội đầu. Thực hiện: Pha loãng giấm táo cùng với nước sạch theo tỷ lệ 1:1. Sau đó, sử dụng hỗn dịch này thoa đều lên da đầu sau khi đã gội đầu với dầu gội. Để nguyên trong khoảng 10 phút rồi xả lại với nước. Nên áp dụng đều đặn 2 lần/tuần. Rụng tóc nhiều khi gội đầu đôi khi là dấu hiệu cảnh báo cho các vấn đề nghiêm trọng hơn. Lúc này, việc thăm khám để nhận được sự can thiệp chuyên sâu là cần thiết. Rụng tóc nhiều khi gội đầu là vấn đề mà bạn cần chú ý theo dõi. Bởi nếu không khắc phục đúng cách thì bạn có thể đứng trước nguy cơ bị hói đầu. Thêm vào đó, đây có thể còn là dấu hiệu cảnh báo một số vấn đề bệnh lý. Hãy chủ động thăm khám khi tình trạng diễn tiến xấu. Rụng tóc tuổi dậy thì là hiện tượng tóc rụng nhiều hơn 100 sợi mỗi ngày. Nguyên nhân chủ yếu…. Hầu hết phụ nữ sau sinh đều bị rụng tóc. Mặc dù không ảnh hưởng đến sức khỏe nhưng vấn…
Gội đầu
Gội đầu là việc vệ sinh tóc cho sạch bằng cách rửa nó với nước và dầu gội đầu, dầu xả hoặc các chất tẩy khác. Mục đích của việc gội đầu là để làm sạch tóc và da. Da đầu lâu ngày không rửa sẽ trở nên bết dính do mồ hôi, bã nhờn bài tiết ra. Tần suất gội đầu tùy thuộc vào dạng tóc, da đầu của mỗi người. Tóc thô xoăn nên gội 1 lần, tóc thẳng mượt gội 2-3 lần/tuần, tóc dễ hư tổn nên hạn chế gội hơn. Việc gội đầu quá nhiều dễ làm mất đi lượng dầu tự nhiên trong tóc. Mặc khác, vệ sinh tóc với nhiều dầu gội đầu cũng có thể làm mất đi độ bóng của tóc. Gội đầu quá thường xuyên có thể làm tóc khô. Khoa học khuyến cáo nên tránh gội đầu hằng ngày để giúp tóc khỏe và đẹp.
Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một công ty, đồng thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu tiên hơn so với cổ đông thường. Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được gọi là cổ đông ưu đãi của công ty. Loại cổ phiếu ưu đãi mà các công ty cổ phần ở các nước thường phát hành là cổ phiếu ưu đãi cổ tức. (Theo Giáo trình Thị trường Chứng khoán, NXB Tài chính). Một công ty có thể phát hành nhiều loại cổ phiếu ưu đãi khác nhau. Sau đây là một số loại cổ phiếu ưu đãi thường được các công ty cổ phần ở nhiều nước sử dụng. Cổ phiếu ưu đãi tích lũy là loại cổ phiếu ưu đãi có tính chất đảm bảo thanh toán cổ thức, nếu trong một năm hay một số năm nào đó do tình hình tài chính của công ty gặp khó khăn công ty không thanh toán được hoặc chỉ thanh toán được một phần thì số cổ tức chưa thanh toán đó được tích lũy hay cộng dồn và công ty phải trả số cổ tức này trước khi công bố trả cổ tức cho cổ đông thường. Cổ phiếu ưu đãi không tích lũy là loại cổ phiếu mà khi công ty gặp khó khăn không trả được cổ tức trong năm thì cổ đông ưu đãi cũng mất quyền nhận số cổ tức trong năm đó. Cổ phiếu ưu đãi tham dự là loại cổ phiếu ưu đãi mà cổ đông nắm giữ chúng, ngoài việc hưởng cổ tức ưu đãi theo qui định còn được hưởng thêm phần lợi tức phụ trội theo qui định khi công ty kinh doanh có lợi nhuận cao. Cổ phiếu ưu đãi không tham dự là loại cổ phiếu ưu đãi mà cổ đông nắm giữ chúng chỉ được hưởng cổ tức ưu đãi cố định, ngoài ra không được hưởng thêm bất cứ phần lợi nhuận nào. Một công ty có thể phát hành loại cổ phiếu ưu đãi có thể mua lại hay nói cách khác là loại cổ phiếu mà công ty có quyền thu hồi lại. Đây là loại cổ phiếu ưu đãi mà công ty có quyền yêu cầu mua lại bất cứ lúc nào, khi công ty có khả năng về tài chính. Giá mua lại được xác định từ thời điểm phát hành và giá này thường tính bằng mệnh giá cổ phiếu ưu đãi cộng thêm một số tiền nhất định có tính chất đền bù cho các nhà đầu tư khi công ty mua lại loại cổ phiếu ưu đãi này. Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi là loại cổ phiếu ưu đãi cho phép người mua có quyền chuyển đổi cổ phiếu ưu đãi này sang các loại chứng khoán khác và thường là cổ phiếu của chính công ty đó. Ngay vào thời điểm phát hành loại cổ phiếu ưu đãi này, công ty đã xác định hệ số chuyển đổi cho phép mỗi cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi thành bao nhiêu cổ phiếu thường. Loại cổ phiếu ưu đãi này có tính hấp dẫn cao, lôi cuốn nhiều nhà đầu tư tham gia đầu tư. (Theo Giáo trình Thị trường Chứng khoán, NXB Tài chính)
Cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi là một loại chứng khoán lai tạp có những đặc điểm vừa giống cổ phiếu thường, vừa giống trái phiếu. a. Giống trái phiếu:Mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi: khác với mệnh giá thường chỉ có giá trị danh nghĩa, mệnh giá cổ phiếu ưu đãi rất quan trọng, có ý nghĩa trong việc chia cổ tức cố định. Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi: cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được ấn định theo một tỷ lệ cố định trên mệnh giá. b. Giống cổ phiếu:Phần vốn góp qua việc mua cổ phiếu là mua vĩnh viễn không được hoàn trả.
Hươu nai là loài động vật xuất hiện nhiều trong các nền văn hóa trên thế giới. Những chú hươu, nai nổi tiếng với bản tính nhút nhát, hốt hoảng bỏ chạy ngay mỗi khi có tiếng động lạ. Tuy nhiên, chúng là đối tượng bị săn đuổi bởi các loài săn mồi. Chúng thường có hình dáng đáng yêu với bốn chân thon và dài và trên thân điểm những đốm lông nhỏ đẹp. Đặc biệt, những loài hươu nai (có đôi mắt to tròn, long lanh nên trong các nền văn hóa chúng là biểu tượng cho sự nhút nhát, thơ ngây. Ngoài ra, hình tượng hươu nai cũng biểu trưng cho phúc lộc. Không ít người chọn hình ảnh những chú hươu, nai rừng dễ thương này để trang trí cho mọi vật xung quanh mình. Hôm nay, mình sẽ tổng hợp và gửi đến bạn đọc bộ hình nền hươu, nai rừng đã được mình tuyển chọn kỹ lưỡng với chất lượng ảnh full HD cực nét, cực sống động để bạn có thể tải về làm hình nền cho máy tính của mình. Hãy chiêm ngưỡng nhé!. Hươu nai là những loài động vật có vú nhai lại thuộc họ Hươu nai bao gồm nhiều loại hươu, nai, hoẵng, tuần lộc… Các con đực của hầu hết các loài hươu nai và tuần lộc cái nổi bật với cặp sừng mọc và rụng theo năm. Điều đáng buồn là nhiều loài hươu nai đang bị đe dọa vì bị săn bắn quá mức để lấy thịt nai, nhung hươu, gạc hươu… Môi trường sống thích hợp của các loài hươu nai là trảng cỏ, rừng thưa có nhiều cây và cỏ non. Ban ngày, chúng thường tìm nơi nên tĩnh, kín đáo và an toàn để ngủ, còn đến ban đêm thì chúng ban đầu ra ngoài để tìm kiếm thức ăn. Trong tự nhiên, chúng là con mồi ưa thích của các loài săn mồi như hổ, sói, gấu và nhiều loại dã thú khác. Do đó, để tồn tại, chúng rất nhanh nhẹn, nhạy cảm và có tốc độ chạy nhanh. Hươu nai xuất hiện nhiều trong các nền văn hóa khác nhau từ Đông đến Tây. Trong văn hóa Trung Quốc, hươu cũng giữ một vị trí quan trọng. Theo truyền thuyết Trung Quốc từ xa xưa, loài hươu được cho là sinh ra từ ánh hào quang của viên ngọc quý, do đó, chúng có khả năng mang lại vạn điều tốt lành. Ở Việt Nam, hình tượng con nai được cho là tượng trưng cho bản tính hiền lành, nhút nhát và thơ ngây. Nhiều địa danh ở Việt Nam được đặt theo tên loài động vật này như: Nhà Nai, Hang Nai, Đồng Nai…. Trong văn hóa Hy Lạp, loài động vật này cũng là một loài động vật có nhiều ý nghĩa. Hình tượng hươu trắng là một sinh vật trong truyền thuyết xuất hiện trong thần thoại Hy Lạp và gắn liền với nữ thần Artemis và con hươu đồi Ceryneian. Trong truyền thuyết Bắc Âu, hươu trắng cũng có vị trí quan trọng. Nhiều người tin rằng nếu giết hươu trắng thì tai nạn sẽ giáng xuống. Người Celts cổ xưa tin rằng hươu trắng là sứ giả mang thông điệp từ một thế giới khác và người bắt gặp loài linh vật này sẽ gặp may mắn và có được một món quà thần thánh. Tổng hợp đầy đủ và cập nhật tất cả nguồn ảnh đẹp hiện có trên Internet, chất lượng cao và hoàn toàn miễn phí.
Hình tượng hươu nai trong văn hóa
Hươu nai là con vật hiện diện trong nhiều nền văn hóa trên thế giới. Với bản tính là loài vật nhút nhát, hễ có tiếng động là bỏ chạy, khi nghe có tiếng động lạ thì nhớn nhác, hoảng hốt, sợ sệt, hươu nai cũng có hình dáng đặc biệt, bốn chân thon và dài, trên thân điểm những đốm lông nhỏ đẹp, hình thể đáng yêu, cho nên những loài hươu nai (đặc biệt là nai tơ, nai vàng) là biểu tượng cho sự nhút nhát, thơ ngây, nó cũng biểu hiện cho phúc lộc và còn là đối tượng bị săn đuổi. Hươu nai là những loài động vật có vú nhai lại thuộc họ Hươu nai gồm nhiều loại hươu, nai, hoẵng, mang, mển, tuần lộc. Con đực của hầu hết các loài hươu nai trừ loài hươu nước ở Trung Quốc và tuần lộc cái đều có sừng mọc và rụng theo năm. Nhiều loài hươu nai đang bị đe dọa vì bị săn bắn quá mức để lấy thịt nai, nhung hươu, gạc hươu và các sản phẩm khác. Môi trường sống thích hợp của chúng là trảng cỏ, rừng thưa có nhiều cây, cỏ non… Ban ngày nai thường tìm nơi nên tĩnh, kín đáo và an toàn để ngủ, nghỉ… ban đêm tìm kiếm thức ăn và những hoạt động khác.
Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phỏ biến nhất. Một là: dân tộc chỉ mọt cộng đồngngười có mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, Xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc gia- Quốc gia có nhiều dân tộc. Hai là: dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong cuộc suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó- Quốc gia dân tộc. Dưới góc độ môn chủ nghĩa xã hội khoa học dân tộc hiểu theo nghĩa thứ nhất. Dựa trên cơ sở tư tưởng của C.Mac-Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc, dựa vào sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạngt hế giới và cách mạng Nga, phân tích 2 xu hướng khách quan của phong trào dân tộc, VI.Lênin đã khái quát lại thành “ Cương lĩnh dân tộc” của đảng cộng sản. Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: Các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ cao thấp đèu có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác. Trong các quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ như nhau, khắc phục chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc do lịch sư để lại. Trên phạm vi giữa các quốc gia dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẵng giữa các dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ ngiã phân biệt chủng tộc, gắn với cuộc đáu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bảnphát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tê.Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc. Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnhcủa dân tộc mình: quyền tự quyết định chế độ chính trị xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình, quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành mổ quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc, quyền tự nguyện liên hiệp lại các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia-dân tộc. Khi giải quyết quyền tự quyết của mỗi dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân ủng hộ phong trào đấu tranh tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn của các thế lực đế quốc, lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để cam thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Lênin: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho dân tộc có đủ sực mạnh để giành thắng lợi. Nó quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc, đồng thời nó là yếu tố sức mạnh bảo đảm cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:”Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết nhân dân lao động trong các dân tộc để đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy , nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Tóm lại:”Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác-Lênin (của Đảng cộng sản) là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. phân tích khái niệm giai cấp công nhân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì? Phân tích những điều kiện khách quan quy sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đặc điểm của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức ở Việt Nam. Tính tất yếu của liên minh công- nông – tri thức trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chủ nghĩa dân tộc
Chủ nghĩa dân tộc (tiếng Anh: nationalism), là một khái niệm phức tạp, có tính đa chiều, liên quan đến nhận biết cộng đồng (communal identification) với dân tộc (nation) của một người. Chủ nghĩa dân tộc không phải là một hệ tư tưởng nhất thể, nhưng các chủ nghĩa dân tộc khác nhau có những điểm tương đồng nhất định. Thông thường nó hay được hiểu là một ý thức hệ thúc đẩy sự thống nhất của một cộng đồng người thành một dân tộc. Khái niệm này hay được cho là ra đời vào cuối thế kỷ XVIII, trong các tác phẩm của các nhà Khai sáng. Trong Cách mạng Pháp, chủ nghĩa dân tộc đặt dân tộc, những người dân là hiện thân của đất nước, đưa ra khái niệm quốc gia dân tộc, trái ngược với tầm nhìn của chế độ cũ vua Pháp là hiện thân đất nước. Khi đó chủ nghĩa dân tộc là cánh tả, nó đi kèm với khái niệm quốc tịch, quyền công dân, quyền tự quyết dân tộc, các giá trị tự do dân chủ. thuyết giai cấp của những người cộng sản, và đề cao văn hóa dân tộc bác bỏ lý thuyết khế ước xã hội của chủ nghĩa tự do.
Đây là tên lửa đạn đạo liên lục địa đầu tiên trên thế giới, được sử dụng ở Liên Xô từ năm 1959 -1968 trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Dạng sửa đổi của tên lửa này đã đưa Sputnik-vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người vào không gian và trở thành nền tảng của động cơ tên lửa Soyuz và các phiên bản của tên lửa Molniya, Vostok và Voskhod. R-7 dài 34m, đường kính 3m và nặng 280 tấn, có tầm bắn 8.800km với độ sai số là 5m, có thể mang đầu đạn hạt nhân với đương lượng nổ 3 megaton (quả bom nguyên tử mà Mỹ thả xuống Hiroshima năm 1945 chỉ có lượng nổ từ 13-16 kiloton). R-7 được thiết kế, thử nghiệm và chế tạo dưới sự chỉ đạo của Tổng công trình sư người Ukraine Sergei Korolyov. Nhà lãnh đạo Liên Xô lúc bấy giờ là Nikita Khrushchev từng hy vọng R-7 có thể giúp xóa bỏ ưu thế hạt nhân của Mỹ. Nhưng thiết kế của tên lửa này trở nên lỗi thời nếu sử dụng làm vũ khí do chi phí vận hành, kích thước và độ cơ động. Trong khi đó, với sự xuất hiện của các máy bay do thám như U-2 của Mỹ, các tổ hợp phóng tên lửa R-7 to lớn khó ngụy trang và có thể dễ dàng bị tấn công trong bất kỳ cuộc chiến tranh hạt nhân nào. Mặt khác, tên lửa này cần tới 20 giờ để chuẩn bị và khó duy trì tình trạng sẵn sàng phóng quá 1 ngày vì nhiên liệu lỏng phải ở tình trạng đông lạnh. Do đó, các lực lượng tên lửa của Liên Xô không thể ở trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu liên tục và có nguy cơ bị tiêu diệt ngay trước khi phóng bởi các máy bay ném bom của đối phương. Mặc dù không thành công khi sử dụng làm vũ khí, nhưng tiến trình thử nghiệm R-7 đã giải quyết rất nhiều vấn đề khoa học cơ bản cho những cải tiến tương lai trong lĩnh vực vũ khí và vũ trụ. Hiện R-7 vẫn là loại tên lửa chính dùng để phóng và xây dựng Trạm vũ trụ quốc tế cũng như cung cấp các nhu yếu phẩm và thiết bị hỗ trợ sự sống cho các phi hành gia trên trạm không gian. Liên Xô đã tìm ra cách để tiêu diệt những “con mắt soi mói” của Mỹ trong không gian. Khi các máy bay trinh sát trên không bị “vây quanh” với các vệ tinh gián điệp trong những năm 1960, Liên Xô đã tìm ra cách để tiêu diệt những “con mắt soi mói” của Mỹ trong không gian. Giải pháp là tương đối đơn giản: Gắn thuốc nổ vào khung của một vệ tinh và điều khiển nó tiếp cận đủ gần để có thể phá hủy các vệ tinh của đối phương bằng các mảnh nổ. Liên Xô đã thử nghiệm phương pháp này trên chính những vệ tinh của họ, nhưng không bao giờ triển khai chúng như là một vũ khí tấn công. Đây là một chương trình của Liên Xô nhằm chế tạo một máy bay không gian cỡ nhỏ và được cho là câu trả lời đối với dự án tàu vũ trụ của Không quân Mỹ có tên gọi Dayna-Soar (chương trình phát triển một máy bay không gian có thể sử dụng cho nhiều nhiệm vụ quân sự khác nhau, bao gồm trinh sát, ném bom, cứu hộ không gian, bảo dưỡng vệ tinh và tiêu diệt vệ tinh của đối phương). MiG-105 là loại máy bay có một chỗ ngồi, có thể được phóng vào không gian từ một chiếc tàu mẹ. Nó có một khoảng trống để chứa được một thiết bị cỡ nhỏ, chẳng hạn như một vệ tinh nhân tạo, trang bị trinh sát hoặc các loại vũ khí, đồng thời có thể quay trở về Trái đất và hạ cánh như một chiếc máy bay bình thường. Tuy nhiên, chiếc máy bay này chưa bao giờ bay vào không gian và cuối cùng nó bị hủy bỏ vào cuối những năm 1970. Cả Mỹ và Liên Xô có một thời điểm cùng chung ý tưởng đưa nhân viên quân sự lên các trạm không gian đặc biệt để theo dõi lẫn nhau. Cả Mỹ và Liên Xô có một thời điểm cùng chung ý tưởng đưa nhân viên quân sự lên các trạm không gian đặc biệt để theo dõi lẫn nhau. Mỹ chưa từng phóng một trạm không gian quân sự nào lên vũ trụ, nhưng Liên Xô, nước đi tiên phong trong lĩnh vực thiết kế trạm không gian trong những năm 1970, đã phóng 3 trạm không gian do thám quân sự trong một chương trình có tên gọi Almaz. Tuy nhiên, Liên Xô chưa bao giờ thừa nhận điều này. 3 trạm không gian Almaz được cho là có trang bị các loại pháo không gian, được phóng dưới vỏ bọc nằm trong chương trình trạm không gian dân sự Salyut. Ý tưởng này cuối cùng đã bị hủy bỏ vì việc trinh sát bằng các vệ tinh có hiệu quả hơn. Mặc dù những chi tiết về con tàu vũ trụ Polyus vẫn còn mập mờ, nhưng có những báo cáo gần đây cho thấy Liên Xô đã từng theo đuổi việc phát triển một trạm chiến đấu (Battlestation) trong không gian để đối phó với sáng kiến phòng thủ tên lửa “cuộc chiến giữa các vì sao” của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan với việc sử dụng vũ khí tia laser để tiêu diệt những vệ tinh của đối phương. Theo một báo cáo trên tạp chí Air & Space, một nguyên mẫu đầu tiên về trạm không gian này đã được phóng vào năm 1987, nhưng đã thất bại khi bay vào quỹ đạo và rơi xuống trái đất. Polyus Battlestation, nếu được phóng thành công, sẽ là một loại vũ khí có thể thay đổi cuộc chơi và Liên Xô sẽ làm thất bại chương trình triển khai các hệ thống vũ khí laser trong không gian của Mỹ. Hà Nội thêm 33 ca mắc Covid-19; Số bệnh nhân Covid-19 tử vong tại TP.HCM có chiều hướng giảm. Có 4 tỉnh, thành phố không có ca lây nhiễm thứ phát trên địa bàn trong 14 ngày qua là Thái Bình, Hải Phòng, Điện Biên, Phú Thọ.
Dự án vũ khí hạt nhân của Liên Xô
Các dự án của Liên Xô để phát triển một quả bom hạt nhân nguyên tử (tiếng Nga: Создание советской атомной бомбы) là một chương trình nghiên cứu và phát triển tối mật bắt đầu trong Thế chiến II, trong sự chạy đua với các khám phá và dự án về hạt nhân của Mỹ, Anh, Canada và Đức. Công việc nghiên cứu khoa học vũ khí hạt nhân này được dẫn đầu bởi nhà vật lý hạt nhân của Liên Xô Igor Kurchatov, trong khi các dịch vụ hậu cần quân sự và những nỗ lực tình báo đã được thực hiện và do ủy ban hội đồng nhân dân thuộc Bộ Dân ủy Nội vụ và do Lavrentiy Beria quản lý. Liên Xô được hưởng lợi từ những nỗ lực tình báo rất thành công trên một phần của GRU (Гла́вное разве́дывательное управле́ние, Cục tình báo trung ương) của Tổng tham mưu Liên Xô. Trong Thế chiến II, chương trình được bắt đầu bởi Joseph Stalin, khi nhận được một lá thư từ nhà vật lý Georgy Flyorov thúc giục ông bắt đầu nghiên cứu, như Flyorov từ lâu đã nghi ngờ rằng các cường quốc Đồng Minh đã bí mật nghiên cứu một vũ khí mạnh sau khi phát hiện hạt nhân phân hạch trong năm 1939.
Cách đây đúng 35 năm, tháng 4/1971, vào lúc cao điểm của Chiến tranh Lạnh, cả thế giới kinh ngạc khi đội tuyển bóng bàn Mỹ được đối thủ không đội trời chung Trung Quốc mời tới thi đấu ở Bắc Kinh. Thủ tướng Chu Ân Lai đã trả lời câu hỏi mà cả thế giới đặt ra chỉ vài ngày sau khi đội bóng bàn Mỹ và các nước khác đến thủ đô Trung Quốc. Mời khách thưởng thức những tách trà nóng, ông Chu tuyên bố kỷ nguyên thù địch và chiến tranh lạnh giữa Trung Quốc và Mỹ chấm dứt. Phóng viên AP John Roderick (phải) nói chuyện với các sinh viên Đại học Thanh Hoa, tháng 4/1971. Đội bóng bàn của Mỹ cùng các phóng viên tháp tùng đã trở thành những mũi tên đầu tiên xuyên thủng bức tường thù địch giữa hai quốc gia, tạo điều kiện cho chuyến thăm lịch sử của tổng thống Mỹ khi đó là Richard Nixon 10 tháng sau đó. Trong lịch sử, chưa bao giờ thể thao được sử dụng làm công cụ thúc đẩy ngoại giao một cách hiệu quả đến thế. Sau một hồi kinh ngạc, thế giới đặt tên cho sự kiện này biệt danh "ngoại giao bóng bàn", nó cho thấy sức mạnh của thể thao trong việc giúp các nước ngồi lại với nhau. Và 35 năm sau, Bắc Kinh đang tất bật chuẩn bị cho Olympics 2008, hy vọng Thế vận hội sẽ tạo ra một hình ảnh đẹp đẽ hơn nữa của Trung Quốc trước con mắt thế giới về một con rồng vươn mình. Nhìn lại đầu năm 1971, đất nước Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông đóng cửa với hầu hết các nước trên thế giới và không có bất cứ mối quan hệ nào với Mỹ. Bắc Kinh liên tiếp từ chối những lời đề nghị viện trợ thiên tai của Washington. Phía Mỹ cũng không kém khắc nghiệt. Năm 1956, Ngoại trưởng khi đó là John Foster Dulles từng đe dọa bỏ tù bất kỳ phóng viên Mỹ nào nhận lời mời đến Trung Quốc. Lời mời bất ngờ được phía Trung Quốc đưa ra sau khi các cầu thủ nước này giành chiến thắng trong giải bóng bàn thế giới ở Nagoya, Nhật Bản. Ngoài các cầu thủ Mỹ, còn có các phóng viên được cấp visa đi theo là John Rich và Jack Reynolds của NBC, cùng với John Roderick của AP. Tính toán khôn ngoan này được cho là xuất phát từ thủ tướng Chu Ân Lai, vị chính khách rất tinh tế và có tư tưởng quốc tế. Ông muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Washington, coi đó là vũ khí chống kế hoạch mở rộng phạm vi ảnh hưởng của phe thân Liên Xô. Lo ngại vấp phải một sự phản đối công khai từ Nixon - vốn nổi tiếng chống cộng, Chu quyết định thử phản ứng của công chúng Mỹ. Còn có điều gì tốt hơn là thể hiện thiện chí đối với các cầu thủ bóng bàn Mỹ - những người xếp hạng 17 trên thế giới (trong khi Trung Quốc vừa giành hạng nhất)? Nếu phản ứng của dư luận Mỹ bất lợi, Trung Quốc cũng không bị mất mặt. Tuy nhiên, trong cuốn "Mao: Câu chuyện chưa từng được biết" viết về tiểu sử của nhà lãnh đạo Trung Quốc do Jung Chang và Jon Halliday viết, thì Mao Trạch Đông mới chính là người quyết định việc mời các vị khách Mỹ. Thực tế là vào thời điểm đó - giai đoạn giữa của Cách mạng Văn hóa do Mao, vợ Giang Thanh và một số nhân vật nữa khởi xướng - Mao Trạch Đông có rất nhiều quyền lực. Ảnh và các trước tác của ông được vô cùng trân trọng, thậm chí tôn sùng. Khi đoàn vận động viên và phóng viên Mỹ tới, họ nhìn thấy những đám đông tươi cười chào đón, trong tay mang những cuốn Mao tuyển, trong có ghi những lời giáo huấn của nhà lãnh đạo. Từ ngày 8 đến 18/4/1971, các vận động viên bóng bàn Mỹ đã chứng tỏ họ là những nhà ngoại giao tuyệt đích, chỉ bằng chính sự hiện diện ở Trung Quốc. Ở bất cứ nơi nào họ tới - Vạn lý Trường thành hay cung điện hoàng gia - họ đều châm ngòi cho những tràng vỗ tay và reo hò. "Meiguo ren hen hao - Người Mỹ rất tốt", đám đông hô vang. Sự cổ vũ càng lớn hơn khi các tay vợt thi đấu giao hữu trước 18.000 khán giả. Đội nam Trung Quốc thắng 5-3 và đội nữ thắng 5-4, trong sự theo dõi chăm chú và cổ vũ nhiệt liệt của khán giả. Sau đó hai bên trao quà lưu niệm và nắm tay nhau cùng bước ra khỏi sân đấu. Cảm giác chung của những người Mỹ khi đó là phía Trung Quốc đã cố để không làm đội Mỹ ngượng vì tỷ số quá cách biệt. Các cầu thủ Mỹ được đối xử rất trịnh trọng, và được thết những bữa ăn 8 món, được đi chơi Thượng Hải và thăm thú núi rừng. Các phóng viên theo đoàn được phép chụp thoải mái và đã đốt hơn 3.000 m phim màu trong suốt chuyến thăm. Những gì mà đội bóng bàn Mỹ nhận được ở Trung Quốc đã góp phần quan trọng đưa đến quyết định của Nixon: thăm Bắc Kinh vào đầu năm 1972. Chuyến thăm được đánh giá là đã làm thay đổi mạnh mẽ cán cân Chiến tranh Lạnh. Nó phục vụ kế hoạch của Nixon là rút khỏi Việt Nam và là một trong những quyết định được người Mỹ hoan nghênh nhất trong cả nhiệm kỳ tổng thống đầy sóng gió của ông này. Nhưng mãi tới 8 năm sau đó, Mỹ và Trung Quốc mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao và trao đổi đại sứ. Khi đó, Mao Trạch Đông đã qua đời, và những người kế nhiệm ông - với tư tưởng thực tế - đã thực hiện công cuộc cải cách, đưa Trung Quốc trở thành chủ nhà của Đại hội thể thao thế giới 2008 - một điều khó tưởng tượng vào thời điểm 1971.
Ngoại giao bóng bàn
Ngoại giao bóng bàn (tiếng Trung: 乒乓外交 Pīngpāng wàijiāo) nói tới sự kiện giao lưu giữa những cầu thủ bóng bàn Hoa Kỳ và Trung Quốc trong những năm đầu thập niên 1970, mà đã bắt đầu trong suốt Giải vô địch bóng bàn quốc tế ở Nagoya, Nhật Bản, do một cuộc tỉ thí giữa cầu thủ Glenn Cowan (Hoa Kỳ) và Zhuhang Zedong (Trung Quốc). Sự kiện đã đánh dấu việc ấm lên quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc mà mở đường cho chuyến thăm tới Bắc Kinh năm 1972 của Tổng thống Richard Nixon. Sự kiện được xem như bước ngoặt trong các mối quan hệ, và chính sách tiếp cận từ đó đã được thực hiện ở những nơi khác. Vào ngày 6 tháng 4 năm 1971, khi đang ở Nagoya, Nhật Bản để tham dự giải vô địch bóng bàn thế giới lần thứ 31, đội tuyển bóng bàn Hoa Kỳ đã nhận được một lời mời đến thăm Trung Quốc. Ngày từ những năm đầu của nền Cộng hòa Nhân dân, thể thao đã đóng một vai trò quan trọng trong ngoại giao của Trung Quốc, luôn bám sát khẩu hiệu "hữu nghị là số một, tranh tài là thứ hai".
Hội chứng Crohn – Bệnh Crohn là gì mà lại nhiều người mắc đến vậy? Liệu đây có phải là một căn bệnh viêm đường ruột thông thường? Ngoài ra nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị bệnh cũng là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm. Vậy hãy tham khảo ngay bài viết để có câu trả lời đầy đủ về bệnh. Bệnh Crohn có tên gọi tiếng Anh là Crohn’s disease, là bệnh viêm nhiễm đường ruột và có một vài nét tương tự, liên kết với bệnh viêm đại tràng nên hai bệnh này cũng thường được gọi là Inflammatory Bowel Disease (nghĩa là viêm đường ruột, viết tắt IBD). Bệnh chủ yếu sẽ gây ra những vết viêm nhiễm ở ruột non và ruột già nên chức năng của hệ tiêu hóa cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Đồng thời bệnh cũng sẽ gây ra nhiều triệu chứng đau bụng, cơ thể mệt mỏi, sụt cân. Tính đến thời điểm hiện tại thì Tây y chưa có thuốc đặc trị, nên rất khó để điều trị dứt điểm được bệnh. Vì vậy đối với người mắc hội chứng Crohn thường sẽ chỉ được chuyển giai đoạn bệnh từ thuyên giảm đến tái nhiễm chứ không có khỏi được bệnh. Tuy nhiên nếu người bệnh biết cách dùng đúng thuốc, chữa trị kịp thời và áp dụng những nguyên tắc được khuyến cáo bởi chuyên gia thì vẫn duy trì được tình trạng sức khỏe, ổn định cuộc sống mà không gặp phải những biến chứng nặng của bệnh. Độ tuổi: Dù không khó để gặp bệnh Crohn ở trẻ em, người già nhưng độ tuổi nhiễm bệnh tập trung chủ yếu ở khoảng 30. Tiền sử gia đình có người nhiễm bệnh: Có đến 20% người nhiễm bệnh có người thân mắc căn bệnh này. Người hút thuốc lá có nguy cơ mắc bệnh cao hơn so với người không hút, bởi chất kích thích sẽ làm đường ruột có thể mất kiểm soát, tạo điều kiện phát bệnh. Người sống ở vùng đất bị ô nhiễm môi trường: Theo khảo sát thì người ở thành thị có tỷ lệ nhiễm bệnh nhiều hơn so với người ở nông thôn, do môi trường sống bị ô nhiễm. Gen di truyền: Do gen là một trong những yếu tố liên kết quyết định thế hệ sau có nguy cơ mắc bệnh hay không. Hệ thống miễn dịch đường ruột: Khi tham khảo những nội dung về bệnh Crohn là bệnh gì chia sẻ ở trên, thì cũng biết đây là loại bệnh viêm đường ruột. Khi có những vi khuẩn, virus xâm nhập vào đường ruột sẽ khiến cho hệ thống miễn dịch phản kháng lại, xảy ra phản ứng bất thường. Vậy nên rất có thể hệ miễn dịch sẽ tấn công cả tế bào đường ruột gây ra những tổn thương. Môi trường sinh sống: Khi ở vùng bị ô nhiễm nước, không khí… cũng có những yếu tố tiềm ẩn mắc bệnh. Mỗi bệnh đều có những triệu chứng riêng biệt, nhưng đối với bệnh lý về đường tiêu hóa thì người bệnh thường vẫn bị lẫn lộn giữa các bệnh khác với nhau. Vì vậy, chúng ta cần xác định rõ triệu chứng cũng như biểu hiện bệnh của mình để kịp thời phát hiện bệnh. Đối với người bị hội chứng Crohn ở giai đoạn nặng (Mãn tính): Sau một thời gian nhiễm bệnh (2 – 4 năm), người bệnh không phát hiện và điều trị kịp thời thì bệnh tình cũng sẽ bị chuyển biến nặng hơn. Nên triệu chứng cũng sẽ nguy hiểm hơn như: Viêm da, mắt, khớp; viêm đường ruột; viêm gan, cơ thể phát triển chậm (ở trẻ chưa dậy thì)…. Bệnh này cũng tương tự như bệnh viêm đại tràng, nên việc chẩn đoán cũng có phần giống. Dưới đây sẽ là cách xác định bệnh crohn ruột mà bất cứ ai cũng nên biết để quá trình thăm khám đạt hiệu quả tốt nhất. Bác sĩ đưa ra những câu hỏi liên quan đến biểu hiện bệnh như: Tình hình đại tiện, sự bất thường trong phân, triệu chứng đau bụng,… để xác định triệu chứng bệnh. Xét nghiệm máu: Với phương pháp này bác sĩ sẽ kiểm tra tình trạng thiếu máu ở người bệnh để phân biệt với những bệnh lý đường ruột khác. Xét nghiệm phân: Để tìm cũng như kiểm tra trong phân có dấu hiệu bất thường nào không như máu, vi khuẩn… để xác định bệnh và nguyên do gây bệnh. Nội soi đại tràng: Bác sĩ sẽ tiến hành quan sát toàn bộ đại tràng, sẽ lấy thêm mẫu mô tế bào nhỏ để thực hiện xét nghiệm hoặc sinh thiết khi không tìm ra các u hạt hoặc khó xác định bệnh. Chụp cộng hưởng từ (MRI): Lúc này hình ảnh chi tiết của các cơ quan và mô sẽ được hiển thị rõ ràng, giúp bác sĩ đánh giá lỗ rò quanh vùng hậu môn hoặc ruột non chính xác hơn. Nội soi viên nang: Với phương pháp này thì người bệnh sẽ nuốt một viên nang có gắn thiết bị y khoa (thiết bị sẽ được gỡ khi người bệnh đại tiện), nó có thể chụp ảnh ruột non rồi truyền lưu trữ. Khi đó bác sĩ sẽ dựa vào hình ảnh đó để kiểm tra các dấu hiệu của bệnh Crohn. Với những biện pháp kể trên thì người bệnh cũng có nhiều cơ hội được phát hiện bệnh chính xác, nên đừng ngần ngại đến ngay các địa chỉ uy tín để khám bệnh và chữa trị kịp thời. Ngoài những nguy cơ bị chuyển biến bệnh thành hội chứng Crohn mãn tính thì người bệnh cũng có nguy cơ đối mặt với nhiều biến chứng bệnh khác nhau nếu không điều trị kịp thời và đúng cách. Vậy nên dù ban đầu là một căn bệnh ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và không nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng khi để tình trạng bệnh kéo dài thì lại vô cùng khó lường. Cụ thể một số biến chứng của bệnh như:. Tắc ruột: Vì độ dày của thành ruột sẽ bị ảnh hưởng bởi triệu chứng của bệnh, khiến bị sẹo hoặc hẹp lại, khiến quá trình hoạt động của đường ruột bị chặn, khó tiêu hóa và hấp thu dưỡng chất, có thể người bệnh phải cắt bỏ phần ruột bị tắc đó. Xuất hiện lỗ rò xung quanh khu vực hậu môn, có thể gây nên tình trạng nứt hậu môn. Suy dinh dưỡng: Do tiêu chảy, mất thường, khó hấp thu được dưỡng chất cộng thêm cơ thể mệt mỏi nên người bệnh rất dễ gặp phải những biến chứng này. Ung thư ruột kết: Biến chứng nguy hiểm nhất, thời gian ủ bệnh thường trên 10 năm. Ngoài ra, có một vài biến chứng người bệnh có thể gặp phải khác nữa như: Thiếu máu, loãng xương, bệnh về gan, túi mật… Vậy nên, khi gặp phải những biểu hiện như kể trên thì người bệnh đừng chủ quan mà hãy đi khám tại nơi uy tín để kịp thời được bác sĩ lên phác đồ điều trị bệnh Crohn. Mỗi căn bệnh đều có những đặc thù riêng và mỗi người bệnh cũng có thể trạng bệnh khác nhau vậy nên phương pháp điều trị cũng ngày càng trở nên phong phú để chữa bệnh được cho người nhiều. Dưới đây sẽ là những biện pháp điều trị thường được đa phần bệnh nhân lựa chọn. Trên thực tế thì đây là cách chữa bệnh được nhiều người bệnh lựa chọn, nhưng tính đến thời điểm hiện tại thì chưa có thuốc đặc trị bệnh hội chứng Crohn. Vậy nên các nhóm thuốc được chia sẻ dưới đây chỉ mang tính chất điều trị vết viêm và làm thuyên giảm các triệu chứng của bệnh. Ưu điểm của cách chữa này là có thể mang đến hiệu quả nhanh chóng, triệu chứng bệnh cũng biến mất trong thời gian sử dụng thuốc. Nhưng nhiều người bệnh chưa biết rằng, với cách điều trị này sẽ không thể chữa dứt điểm, bệnh vẫn có thể tái phát và đặc biệt là trong quá trình sử dụng thuốc cần lưu ý nhiều điều. Điển hình là hạn sử dụng, thời điểm dùng thuốc, thời gian sử dụng thuốc… vì thuốc Tây rất dễ gây tác dụng phụ. Gây ra những biến chứng nguy hiểm cho người bệnh, nên trước khi uống thuốc thì người bệnh cần nghe theo lời tư vấn, chỉ định của bác sĩ. Phương pháp châm cứu dường như đã quá quen thuộc với đời sống của chúng ta, là cách chữa truyền thống của người Trung Quốc xưa. Hiện nay, cách điều trị này cũng là lựa chọn của không ít người nhờ vào sự hữu hiệu, lành tính và thời gian có sự thuyên giảm cũng khoảng 1 tháng. Người bệnh sẽ được các bác sĩ sử dụng những chiếc kim chuyên dụng với độ dài ngắn khác nhau để châm vào các huyệt đạo liên quan. Điều này, sẽ kích thích não bộ khi đó các endorphin sẽ được giải phóng. Đây là một trong những loại dưỡng chất có tác dụng ức chế đau. Từ đó, chúng sẽ nâng cao hệ miễn dịch, đẩy mạnh sức đề kháng của cơ thể để chống lại những yếu tố gây bệnh và làm lành các vết viêm nhiễm. Tuy nhiên với cách điều trị này thì mức độ hiệu quả cũng còn tùy thuộc vào cơ địa của từng người, có người sẽ điều trị mãi không có dấu hiệu thuyên giảm. Và với cách này thì người bệnh cần xuyên châm cứu liên tục hằng ngày trong thời gian 1 – 2 tháng hoặc hơn mà không bị gián đoạn thì sẽ hiệu quả. Trong trường hợp, người bệnh sử dụng thuốc trong một thời gian mà không có dấu hiệu chuyển biến bệnh tình tốt hơn, hoặc bắt đầu gặp phải những biến chứng (thủng ruột, lỗ ro, nhiễm khuẩn, xuất huyết,…) thì bác sĩ sẽ chỉ định bệnh nhân điều trị phẫu thuật. Bởi khi đó người bệnh không được kịp thời tiến hành cắt bỏ phần ruột bị tắc nghẽn đó thì rất có thể nguy hiểm đến tính mạng. Trước khi phẫu thuật người bệnh cần phải nhịn ăn trong khoảng 6 giờ, quy trình phẫu thuật sẽ bắt đầu là gây mê toàn thân. Sau đó bác sĩ sẽ rạch một đường trên bụng rồi tiến hành cắt bỏ phần ruột non đã bị tổn thương do bệnh crohn gây ra, rồi nối đường ruột lại với nhau và thường diễn ra từ 60 – 90 phút. Tuy nhiên sau khi phẫu thuật, nếu người bệnh không tuân thủ theo những khuyến cáo của bác sĩ thì người bệnh vẫn có thể gặp phải những biến chứng như nhiễm trùng, rò rỉ máu gần khu vực phẫu thuật… Và người bệnh sẽ mất khoảng vài ba tháng để hồi phục lại được sức khỏe. Vốn là một căn bệnh về viêm đường ruột, thì vấn đề ăn uống của bệnh nhân cũng cần phải được kiêng khem kỹ càng bởi hệ tiêu hóa lúc này rất nhạy cảm. Cần phải được ăn uống theo đúng với những tư vấn của chuyên gia, dưới đây sẽ là một số thông tin về chế độ ăn uống của bệnh nhân crohn. Ăn nhiều Dứa: Trong quả dứa có chứa bromelain – enzym, một dưỡng chất có thể tham gia vào quá trình hấp thu dinh dưỡng, nhờ vào công dụng bẻ gãy các protein. Ngoài ra, trong dứa cũng có tính chất kháng viêm rất tốt trong việc chống lại vi khuẩn gây bệnh. Ăn nghệ: Với công dụng tuyệt vời là kháng khuẩn, làm lành vết thương thì nghệ được các chuyên gia khuyến cáo nên ăn 360mg/ ngày trong một tháng sẽ thấy được sự thuyên giảm của bệnh. Bổ sung vitamin D: Với những bệnh nhân mắc phải căn bệnh này thường bị thiếu hụt vitamin D nên các triệu chứng của bệnh cũng trở nên nặng hơn. Uống Probiotic: Bởi chúng có vai trò giống như vi khuẩn có lợi trong ruột, thúc đẩy khả năng tiêu hóa và bảo vệ chống lại vi khuẩn có hại. Uống dầu cá: Vì chúng chứa Axit béo omega-3 (thuộc tính kháng viêm), giúp giảm các triệu chứng của bệnh Crohn khá rõ rệt. Thực phẩm chứa nhiều chất béo: Đặc biệt là bơ, bơ thực vật… chúng có thể gây nên tình trạng tiêu chảy trở nên nặng hơn vì đường ruột khó tiêu hóa được chúng. Thực phẩm chứa cồn, chất kích thích: Như thuốc lá, rượu, bia… là tác nhân gây bệnh về đường ruột, nên người bệnh cần tránh xa để bảo vệ sức khỏe. Mỗi người bệnh đều cần trang bị cho mình những kiến thức về bệnh để hiểu đúng và chữa đúng. Vậy nên khi bản thân thấy bất thường vì sự xuất hiện của các triệu chứng như trên thì hãy đến các cơ sở khám chữa bệnh để được chẩn đoán bệnh chính xác. Hy vọng những thông tin chi tiết về nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị bệnh Crohn ở trên đã giúp bạn cải thiện, bảo vệ được sức khỏe của mình và người thân!. Nhận những thông tin sức khỏe hữu ích và tin cậy nhất với hơn 30.000 bài viết về bệnh, thuốc, thảo dược, thai kỳ, bí quyết sống khỏe mỗi ngày.
Bệnh Crohn
Bệnh Crohn là một loại bệnh viêm ruột (IBD) có thể ảnh hưởng đến bất kỳ phần nào của đường tiêu hóa từ miệng đến hậu môn. Các dấu hiệu và triệu chứng thường bao gồm đau bụng, tiêu chảy (có thể có máu nếu viêm nặng), sốt và giảm cân. Các biến chứng khác có thể xảy ra bên ngoài đường tiêu hóa và bao gồm thiếu máu, phát ban da, viêm khớp, viêm mắt và mệt mỏi. Phát ban da có thể là do nhiễm trùng cũng như pyoderma gangrenosum hoặc ban đỏ nodosum. Tắc ruột có thể xảy ra như là một biến chứng của viêm mãn tính, và những người mắc bệnh có nguy cơ cao bị ung thư ruột. Trong khi bệnh nguyên còn chưa rõ, căn bệnh này được cho là do sự kết hợp của các yếu tố môi trường, miễn dịch và vi khuẩn ở những người nhạy cảm về mặt di truyền. Bệnh Crohn dẫn đến rối loạn viêm mãn tính, trong đó hệ miễn dịch của cơ thể tấn công đường tiêu hóa có thể hướng vào các kháng nguyên vi sinh vật. Trong khi Crohn là một bệnh liên quan đến miễn dịch nhưng đây không có vẻ là một bệnh tự miễn (trong đó hệ thống miễn dịch không được kích hoạt bởi cơ thể chính nó).
Bộ Phim Vòng Tròn Định Mệnh là tác phẩm làm lại từ phim Vòng Tròn Oan Nghiệt vốn được ra mắt từ năm 1998 và được đánh giá là một trong những phim kinh dị hay nhất, gây ấn tượng nhất cũng như có khả năng khiến người xem phải “rựng góc gáy” một cách mạnh mẽ nhất, chính thế mà các nhà làm phim Hollywood đã quyết định biến nó thành một phiên bản Mỹ với hi vọng làm được điều tương tự hoặc là hơn thế . Bỏ ra tới 48 triệu USD cho một bộ phim kinh dị , cùng sự tham gia của dàn diễn viên nổi tiếng, đổi lại là khoản thu về 250 triệu USD và hàng loạt giải thưởng, đề cử tại các liên hoan phim lớn và trên hết là The Ring mang tới cho người xem những cảnh quay ma quỷ kinh hoàng và ám ảnh nhất. Nội dung của Phim Vòng Tròn Định Mệnh xoay quanh câu chuyện về cuốn băng Video bí ẩn mà người xem nó sẽ phải trả giá bằng mạng sống của chính mình. Trong chuyến dã ngoại trên núi 2 cô gái trẻ Katie Embry và Rebecca Kotler vì tò mò đã cùng nhóm bạn của mình xem cuốn băng đó. Tương tự như phiên bản của Nhật Bản, rồi thì họ lần lượt phải trả giá với những cái chết khủng khiếp nhất của đôi bạn trẻ. Với những cảnh quay rùng rợn, The Ring thực sự không dành cho những người yếu tim. Cốt truyện của Vòng Tròn Định Mệnh lôi cuốn người xem từ đầu tới cuối. Khán giả vừa xem vừa hồi hộp rồi giật mình thon thót không biết điều gì thực sự đang xảy ra. Bộ Phim đã gây ra cảm giác sợ hãi cho cả những người gan dạ nhất và tại sao không khi bạn có thể xem cả phiên bản gốc năm 1998 và phiên bản làm lại này để thấy được những thay đổi trong cách dẫn dắt ma quái.
Vòng tròn định mệnh
Vòng tròn định mệnh là tựa đề tiếng Việt của bộ phim Mỹ có tên The ring, đây là một bộ phim kinh dị tâm linh sản xuất năm 2002, được làm lại từ phim Ring của Nhật Bản năm 1998 (hay còn gọi là Ringu). Cả hai bộ phim đều dựa theo cuốn tiểu thuyết Ring - Vòng tròn ác nghiệt của Koji Suzuki. Bộ phim được đạo diễn bởi Gore Verbinski với các diễn viên chính Naomi Watts và Martin Henderson. Bộ phim xếp thứ 20 trong top 100 khoảnh khắc kinh dị nhất mọi thời đại của kênh truyền hình cáp Bravo. Sau khi công chiếu vào ngày 18, tháng 10 năm 2002, bộ phim xếp thứ nhất tại Mĩ với doanh thu 15 triệu đô la. Tổng doanh thu bộ phim đạt 249.348.933, là một trong những phim kinh dị thành công nhất mọi thời đại. Câu chuyện bắt đầu vào một buổi tối khi hai cô gái trẻ trò chuyện với nhau về kì nghỉ cuối tuần trước đó, khi Katie Embry (do Amber Tamblyn thủ vai) đã cùng vài người bạn nghỉ tại một căn chòi trên núi. Trong lúc trò chuyện, lời đồn về cuốn băng video nguyền rủa được đề cập tới.
Ngày nay, ta có thể thấy những cụm từ như “quý ông” được sử dụng rất rộng rãi trên báo đài, truyền thông. Tuy thấy nhiều là vậy, bạn có hoàn toàn hiểu hết thế nào là một quý ông thực thụ hay không? Để trở thành một quý ông đúng nghĩa bạn cần phải như thế nào?. Qua thời gian, định nghĩa về hình ảnh quý ông hiện nay đã có rất nhiều biến đổi trở nên mềm mại, linh hoạt cũng như thực tế hơn rất nhiều so với khái niệm thời xưa cũ. Tuy nhiên, làm sao bạn có thể có góc nhìn tổng thể khách quan nếu không biết được gốc rễ của vấn đề? Nếu bạn hứng thú với chủ đề “quý ông hoàn hảo” này, hãy cùng ELLE Man xuôi theo dòng thời gian, để xem quý ông thời xưa và nay khác nhau như thế nào nhé.Bức tranh họa quý ông Anh Quốc vào năm 1875. Ảnh: Gentleman’s GazetteKhái niệm về “quý ông hoàn hảo” nguyên bảnXuất phát từ những quốc gia phương Tây giàu bề dày lịch sử như Anh, Pháp, Ý,…khái niệm một “quý ông” là để chỉ những người đàn ông có địa vị xã hội cao, xuất phát từ dòng dõi trâm anh thế phiệt và sở hữu khối tài sản khổng lồ.Thậm chí hiện nay, các từ điển vẫn dùng những yếu tố này để định nghĩa cho cụm từ “gentleman”, cùng với hàng loạt những tiêu chuẩn khác như:Một người đàn ông lịch thiệpMột cách lịch sự khi đề cập tới một người đàn ôngMột người đàn ông mang dòng dõi hoàng tộcMột người đàn ông có địa vị cao trong xã hội, đặc biệt là người giàu có, sống trong nhung lụaMột danh xưng trang trọng cho những thành viên thuộc Hạ Nghị Viện hoặc Quốc hộiHình ảnh 2 quý ông mặc áo choàng (frock-coat) cùng gậy batoong và mũ top hat, trang phục điển hình của giới quý tộc Anh Quốc vào năm 1913Vậy khái niệm này thật sự mang ý nghĩa gì? Có rất nhiều thứ để xứng đáng với hình ảnh một “quý ông hoàn hảo” hơn chỉ là những phép lịch sự đơn thuần hay gia tài đồ sộ. Một người xuất thân hoàng tộc, hay có địa vị xã hội cao đôi khi cũng đi kèm theo đó là sự ngạo mạn, cùng với những hành động hạ thấp danh dự của người khác. Nếu gọi họ là “quý ông” thì hẳn thật ô uế cái danh xưng hoa mỹ này.Ngày nay, thuật ngữ “quý ông hoàn hảo” dần trở nên bình đẳng hơn rất nhiều. Và nếu bạn muốn trở thành “quý ông”, bạn phải thực chất xứng đáng với nó. Tiền và quyền không còn là điều kiện cần nữa, và thực tế nó thậm chí còn không liên quan tới định nghĩa hiện đại của “gentleman”. Vì chúng không thể mua cho bạn đẳng cấp hay sự tôn trọng từ người khác.Định nghĩa về một “quý ông” thực thụ thời hiện đạiTrên thực tế, khi xã hội càng phát triển, thì khái niệm một “quý ông hoàn hảo” ngày càng trở nên phúc tạp hơn bao giờ hết, biết rằng thực tế hai chữ “hoàn hảo” là một chuẩn mực khá mơ hồ, chúng tôi vẫn sẽ cố gắng cho bạn đọc một cái nhìn khái quát nhất về hình ảnh “quý ông” thực thụ.Chuẩn mực nào cho một quý ông thực thụ thời hiện đại?Trên hết, chúng tôi hoàn toàn tin rằng, bất kỳ ai, sinh ra ở bất kỳ hoàn cảnh nào, đều có thể trở thành một “quý ông” thực thụ chỉ cần người ấy thật sự muốn điều đó. Nhưng bạn đừng nhầm lẫn, hơn là một đích đến, hình ảnh “quý ông” là một hành trình không hồi kết, là một thứ mà mỗi người đàn ông luôn phấn đấu một cách tiếp diễn để trở thành.Vậy, thế nào là một “quý ông” thực thụ?Quý ông thực thụ không hề hoàn hảo: Đây chính là yếu tố quan trong nhất, song cũng mơ hồ nhất trong danh sách này. Như đã đề cập ở trên, một quý ông hoàn hảo là quý ông biết chấp nhận sự không hoàn hảo của mình. Là con người, về cơ bản, chúng ta luôn mắc những lỗi sai, phải đưa ra lựa chọn cũng như sự đánh giá mỗi ngày. Vấn đề là ở chỗ, một quý ông thì không tin vào sự hoàn hảo của bản thân. Họ chủ động và chịu trách nhiệm cho những vấn đề mà họ có thể kiểm soát được, đó là: hành động, tri thức cũng như khát vọng phát triển, vươn xa ra thế giới.Quý ông luôn có tiêu chuẩn cao: Tiêu chuẩn cao luôn là động lực thúc đẩy con người nỗ lực hết sức của mình, và mỗi quý ông đều lấy điều đó làm lẽ sống. Một quý ông thực thụ yêu cầu tiêu chuẩn cao ở mọi khía cạnh: chất lượng, giá trị, năng suất từ những thứ họ mua cho tới những công việc họ làm. Những quý ông kỳ vọng ở bản thân nhiều như cách họ kỳ vọng ở mọi người vậy.Một quý ông luôn biết cách ăn mặc đúng đắn: Đây là một tiêu chí cũng không mấy ngạc nhiên phải không?! Một người đàn ông biết cách ăn mặc thì thường để tâm tới 3 điều: mùa, dịp và phong cách cá nhân. Việc ăn mặc chỉn chu không phải nằm ở vấn đề tiền bạc mà là sự chăm chút, tinh tế trong việc lựa chọn trang phục cùng phụ kiện phù hợp với tiềm lực kinh tế, sự kiện cùng cái gu cá nhân, Một quý ông luôn hiểu được sức mạnh cửa từng thước vải trên người, ấn tượng bên ngoài quan trọng như thế nào, thể hiện vai trò của họ trong xã hội ra sao.Quần áo là công cụ thể hiện sự tôn trọng của quý ông đối với chủ nhà, với đồng nghiệp, đối tác, hay với chủ trì của một bữa tiệc, tinh tế, đẳng cấp nhưng không quá lố, không khoe mẽ. Ăn mặc đẹplà một điểm đáng tự hào của mỗi quý ông bởi vì nó thể hiện tính cách cùng cái gu, cái phong thái cá nhân của họ.Một quý ông luôn biết cách cư xử: Cuối cùng cũng có một tiêu chí mà từ xưa tới nay không hề thay đổi. Như câu nói nổi tiếng “Manners maketh man” trong Kingsman, một quý ông hoàn hảo luôn lịch thiệp, nhã nhặn và tôn trọng tất cả mọi người. Anh ấy biết sự quan trong của hai từ “làm ơn” và “cảm ơn”, biết cách nhẫn nại trong mọi chuyện và đối xử với mọi người theo cách họ mong muốn được đối xử. Quý ông thực thụ luôn biết cách dẫn dắt câu chuyện, nắm rõ những phép tắc ăn uống cũng như văn hóa đặc trưng trên bàn tiệc.Một quý ông thì sở hữu hệ tư tưởng cởi mở: Họ không bao giờ mang suy nghĩ rằng ý kiến hay tri thức của bản thân là đủ và hoàn toàn đúng đắn. Một quý ông luôn khao khát được học hỏi, cởi mở tiếp nhận tự tưởng mới, tiếp thu những phê bình mang tính xây dựng và coi thất bại là một điều tất yếu trên hành trình trưởng thành và nhận thức bản thân. Một quý ông sẽ không tranh luận chỉ để dành phần thắng cho bản thân, họ chú trọng hơn vào việc thấu hiểu và tiếp nhận quan điểm của người khácMột quý ông hoàn hảo luôn thú vị và hiểu biết: Ngày nay, người ta luôn dễ bị cuốn vào những vòng xoáy bận rộn của công việc mà chẳng để tâm tới những chuyện khác. Một người đàn ông thú vị là người luôn biết dẫn dắt các câu chuyện, hứng thú với thế giới xung quanh và cách nó vận hành, luôn tích cực học hỏi nâng cao tri thức cá nhân. Những thói quen cùng sở thích cũng phần nào thể hiện lên cá tính của một quý ông.Là một quý ông, đã nói được phải làm đượcLuôn tôn trọng tất cả mọi người: Đúng vậy, là “mọi người”, từ phụ nữ, đồng nghiệp, cấp trên, cấp dưới, cho tới người bồi bàn, những nhân viên dịch vụ khách hàng, tất cả mọi người. Điều này phản ánh quan điểm của một quý ông về xã hội công bằng, và anh ta không hề có hơn hay kém gì quyền lợi so với những người xung quanh. Anh ấy đồng cảm với những người kém may mắn hơn. Đồng thời, một quý ông luôn nói không với việc hạ thấp người khác để nâng mình lên.Một quý ông luôn phải hiểu được ranh giới giữa sự ngạo mạn và sự tự tin: Nếu một gã trai ngạo mạn luôn tin vào tầm quan trọng của bản thân thì một quý ông lại khác. Họ là những người trưởng thành, biết tin tưởng vào bản thân và khả năng của mình độc lập với mọi người.Một người đàn ông kiêu ngạo phải luôn chiến thắng để cảm thấy được công nhận, trong khi một quý ông hoàn hảo luôn biết bản thân mình đang ở đâu.Một quý ông luôn sử dụng năng lực của mình có chủ đích: Như câu thoại nổi tiếng “Năng lực vĩ đại đi cùng với trách nhiệm vĩ đại” (Bản gốc:With great power comes great responsibilities), là một người đàn ông, khi nắm trong tay quyền lực, anh ấy luôn phải biết sử dụng một cách có chủ đích, không ích kỷ, không cho mục đích trả thù, không phải vì lợi ích cá nhân, và cũng không phải theo cái cách chà đạp quyền lợi của người khác.Hình ảnh 2 quý ông có gu ăn mặc những năm 1930s. Ảnh: Gentleman’s GazetteVậy tại sao những tiêu chí này lại là nền tảng xây dựng lên hình ảnh một “quý ông hoàn hảo”? Bởi vì việc trở thành một quý ông thực thụ là một chuẩn mực cao đối với bất kỳ cánh mày râu nào. Hơn là một đích đến, đó là một khát vọng, một hành trình hoàn thiện hóa bản thân, sự tự nhận thức cũng như động lực phát triển xa hơn nữa.Và sự thành công ở đây là gì? Đó chính là sự nhìn nhận của những người xung quanh về bạn, vì đơn giản những điều tốt đẹp nhất của bản thân nên được đánh giá khách quan bởi những người xung quanh. Có lí do để chúng tôi sử dụng hai từ “quý ông” một cách thường xuyên. Không chỉ là sự lịch sự, chẳng phải đó là hình ảnh mỗi người đàn ông trong xã hội đều hướng đến hay sao?Những khó khăn của một quý ông trong xã hội hiện nayẢnh: Man of ManyThoạt nghe thì hai từ “quý ông” có đẳng cấp và thật đáng ngưỡng mộ, nhưng để giữ vững những chuẩn mực, những lý tưởng đó trong xã hội đảo điên hiện nay gần như là không tưởng. Ai cũng sẽ có những lúc rơi vào tâm trạng tồi tệ, sự căng thẳng, mệt mỏi đến từ công việc, gia đình,… và họ đều có thể vô tình nói hoặc làm những hành động trái với chuẩn mực đạo đức. Những lúc như vậy, điều quan trọng nhất là hãy xin mọi người thứ lỗi. Nếu thật sự chân thành, mọi người sẽ sẵn sàng bỏ qua, vì họ hiểu chẳng ai là hoàn hảo bao giờ.Xem thêm15 thói quen cần có để trở thành một quý ông ăn mặc đẹpQuý ông hiện đại và quy tắc ứng xử trong các mối quan hệ (kỳ 1)—Trích lược: Phương Linh (Tạp chí Phái mạnh ELLE Man, tham khảo: Gentleman’s Gazette). Qua thời gian, định nghĩa về hình ảnh quý ông hiện nay đã có rất nhiều biến đổi trở nên mềm mại, linh hoạt cũng như thực tế hơn rất nhiều so với khái niệm thời xưa cũ. Tuy nhiên, làm sao bạn có thể có góc nhìn tổng thể khách quan nếu không biết được gốc rễ của vấn đề? Nếu bạn hứng thú với chủ đề “quý ông hoàn hảo” này, hãy cùng ELLE Man xuôi theo dòng thời gian, để xem quý ông thời xưa và nay khác nhau như thế nào nhé. Xuất phát từ những quốc gia phương Tây giàu bề dày lịch sử như Anh, Pháp, Ý,…khái niệm một “quý ông” là để chỉ những người đàn ông có địa vị xã hội cao, xuất phát từ dòng dõi trâm anh thế phiệt và sở hữu khối tài sản khổng lồ. Vậy khái niệm này thật sự mang ý nghĩa gì? Có rất nhiều thứ để xứng đáng với hình ảnh một “quý ông hoàn hảo” hơn chỉ là những phép lịch sự đơn thuần hay gia tài đồ sộ. Một người xuất thân hoàng tộc, hay có địa vị xã hội cao đôi khi cũng đi kèm theo đó là sự ngạo mạn, cùng với những hành động hạ thấp danh dự của người khác. Nếu gọi họ là “quý ông” thì hẳn thật ô uế cái danh xưng hoa mỹ này. Ngày nay, thuật ngữ “quý ông hoàn hảo” dần trở nên bình đẳng hơn rất nhiều. Và nếu bạn muốn trở thành “quý ông”, bạn phải thực chất xứng đáng với nó. Tiền và quyền không còn là điều kiện cần nữa, và thực tế nó thậm chí còn không liên quan tới định nghĩa hiện đại của “gentleman”. Vì chúng không thể mua cho bạn đẳng cấp hay sự tôn trọng từ người khác. Trên thực tế, khi xã hội càng phát triển, thì khái niệm một “quý ông hoàn hảo” ngày càng trở nên phúc tạp hơn bao giờ hết, biết rằng thực tế hai chữ “hoàn hảo” là một chuẩn mực khá mơ hồ, chúng tôi vẫn sẽ cố gắng cho bạn đọc một cái nhìn khái quát nhất về hình ảnh “quý ông” thực thụ. Trên hết, chúng tôi hoàn toàn tin rằng, bất kỳ ai, sinh ra ở bất kỳ hoàn cảnh nào, đều có thể trở thành một “quý ông” thực thụ chỉ cần người ấy thật sự muốn điều đó. Nhưng bạn đừng nhầm lẫn, hơn là một đích đến, hình ảnh “quý ông” là một hành trình không hồi kết, là một thứ mà mỗi người đàn ông luôn phấn đấu một cách tiếp diễn để trở thành. Quý ông thực thụ không hề hoàn hảo: Đây chính là yếu tố quan trong nhất, song cũng mơ hồ nhất trong danh sách này. Như đã đề cập ở trên, một quý ông hoàn hảo là quý ông biết chấp nhận sự không hoàn hảo của mình. Là con người, về cơ bản, chúng ta luôn mắc những lỗi sai, phải đưa ra lựa chọn cũng như sự đánh giá mỗi ngày. Vấn đề là ở chỗ, một quý ông thì không tin vào sự hoàn hảo của bản thân. Họ chủ động và chịu trách nhiệm cho những vấn đề mà họ có thể kiểm soát được, đó là: hành động, tri thức cũng như khát vọng phát triển, vươn xa ra thế giới. Quý ông luôn có tiêu chuẩn cao: Tiêu chuẩn cao luôn là động lực thúc đẩy con người nỗ lực hết sức của mình, và mỗi quý ông đều lấy điều đó làm lẽ sống. Một quý ông thực thụ yêu cầu tiêu chuẩn cao ở mọi khía cạnh: chất lượng, giá trị, năng suất từ những thứ họ mua cho tới những công việc họ làm. Những quý ông kỳ vọng ở bản thân nhiều như cách họ kỳ vọng ở mọi người vậy. Một quý ông luôn biết cách ăn mặc đúng đắn: Đây là một tiêu chí cũng không mấy ngạc nhiên phải không?! Một người đàn ông biết cách ăn mặc thì thường để tâm tới 3 điều: mùa, dịp và phong cách cá nhân. Việc ăn mặc chỉn chu không phải nằm ở vấn đề tiền bạc mà là sự chăm chút, tinh tế trong việc lựa chọn trang phục cùng phụ kiện phù hợp với tiềm lực kinh tế, sự kiện cùng cái gu cá nhân, Một quý ông luôn hiểu được sức mạnh cửa từng thước vải trên người, ấn tượng bên ngoài quan trọng như thế nào, thể hiện vai trò của họ trong xã hội ra sao.Quần áo là công cụ thể hiện sự tôn trọng của quý ông đối với chủ nhà, với đồng nghiệp, đối tác, hay với chủ trì của một bữa tiệc, tinh tế, đẳng cấp nhưng không quá lố, không khoe mẽ.
Quý ông
Gentleman (phiên âm: ) hay cách gọi tiếng Việt: Quý ông, là một thuật ngữ đề cập đến chuẩn mực của bất kỳ người đàn ông nào "văn minh, có học thức, tế nhị và phong thái tốt. "Gentleman là một đặc quyền được chia sẻ giữa giới thượng lưu và quý tộc, các tầng lớp cấu thành của quý tộc Anh. Theo truyền thống, và nguồn gốc nghiêm ngặt của từ ngữ thì quý ông phải thuộc tầng lớp thượng lưu, tức là người có chức danh thấp nhất của Thứ bậc hoàng tộc, Quý tộc và Hiệp sĩ. Giới quý tộc đã hạ cánh hiện không còn thuộc về quý tộc, họ được quyền trưng bày thanh kiếm (hay chiếc khiên huy hiệu) và quý ông phải là chuẩn mực của gia đình. Mặc dù, quý ông không phải là một người hoàn hảo nhưng đây được coi là dấu hiệu của địa vị xã hội và giá trị nhất định như một chỉ số về thứ hạng và sự sung túc cho nam giới.
Hồ Chí Minh học có ba bộ phận. Các bộ môn tiểu sử Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng tư tưởng, tấm gương của Người vào cuộc sống đều có đối tượng nghiên cứu rộng, hẹp khác nhau, song đều liên quan mật thiết với nhau, nên có thể nói, về cơ bản là thống nhất với nhau. Dù nghiên cứu tiểu sử hay tư tưởng Hồ Chí Minh để tìm cách vận dụng vào cuộc sống, người nghiên cứu đều phải tìm hiểu về quê hương, gia đình, dân tộc và thời đại Hồ Chsi Minh đã sống và hoạt động, về các nguồn tư tưởng và văn hoá đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh, đã góp phần hình thành nên tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách của Người – nói chung là những phẩm chất và năng lực phi thường của một lãnh tụ thiên tài của dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh được phản ánh trong các công trình và tác phẩm của Người. Những tư tưởng đó được Người đưa ra để hành động nên cũng được quán triệt trong các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước mà Hồ Chí Minh là người đứng đầu. Ngoài ra, tư tưởng đó còn có thể được tìm hiểu thông qua các tác phẩm, bài viết của những đồng chí và học trò gần gũi của Người đã trực tiếp lĩnh hội và quán triệt tư tưởng của người thầy vĩ đại trong lĩnh vực hoạt động của mình. Tất cả những vấn đề nêu trên, trực tiếp hay gián tiếp, đều có thể xem là đối tượng nghêin cứu của chuyên ngành Hồ Chí Minh học. Trong những nội dung đó cần tập trung đi sâu, làm rõ mấy khía cạnh cơ bản sau đây: con người Hồ Chí Minh, cuộc đời Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức – lối sống, phương pháp – phong cách Hồ Chí Minh…. Hồ Chí Minh học là một chuyên ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng, do đó nó cũng có những nguyên tắc phương pháp luận và hệ thống phương pháp nghiên cứu riêng, xuất phát từ đối tượng và phù hợp với đối tượng. Phương pháp luận và hệ thống phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh là một chuyên đề rộng lớn, cần được trình bày thành những chuyên đề riêng. Bài viết này chỉ đề cập những vấn đế có ý nghĩa phương pháp luận chung cần nắm vững trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh. a) Nắm vững phương châm “lý luận phải luôn luôn gắn liền với thực tế”. Ở đây, thực tế được khuôn trong phạm vi: thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam, lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; thực tế dân tộc và thực tế phát triển của thời đại. Để thực hiện tốt phương châm này, đòi hỏi người nghiên cứu cần có tinh thần độc lập suy nghĩ, đào sâu nghiên cứu, mạnh dạn trao đổi và thảo luận, tranh luận để nhận thức sáng tỏ vấn đề. Học phải đi đôi với hành, học để vận dụng vào thực tế, để tu dưỡng tư tưởng, đạo đức, lối sống, học để làm theo tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Thứ nhất, mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết giải phóng giai cấp vô sản ở châu Âu vào thực tiễn một nước thuộc địa nửa phong kiến ở châu Á, trước hết nhằm giải phóng dân tộc để sau đó tiến lên CNXH. Mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ giữa cací chung và cái riêng. Thứ hai, mối quan hệ giữa kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo. Trong lịch sử các học thuyết hay trào lưu tư tưởng đều bao hàm các thời kỳ và những con người tiêu biểu với công lao to lớn để sáng lập, đặt nền móng, kế thừa, bổ sung, nâng lên tầm cao mới, phát triển, hoàn thiện bằng những sáng tạo mới. Trong việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh không phải chỉ có kế thừa, vận dụng mà còn bổ sung, phát triển, làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin bằng những sáng tạo mới, xuất phát từ điều kiện thực tế của cách mạng Việt Nam. Do đó, trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần làm rõ: cái gì Hồ Chí Minh đã thâu hoá chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo, biến thành tư tưởng của mình, cái gì sinh thời Mác, Ăngghen, Lênin, do thực tiễn chưa đặt ra, các ông chưa đề cập hoặc chưa có điều kiện đi sâu, nay Hồ Chí Minh xuất phát từ thực tiễn dân tộc và thời đại, đã đặt ra và giải quyết thành công. Đó là những luận điểm của Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm và đóng góp vào kho tàng lý luận Mác – Lênin. Nếu không làm rõ được sự vận dụng sáng tạo và phát triển của Hồ Chí Minh cũng tức là không chứng minh được sự cần thiết phải nêu tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Có hai khuynh hướng cần phải tránh: một là, tầm thường hoá tư tưởng Hồ Chí Minh không tự giác, cho rằng Người chỉ nói và viết về những điều cụ thể, thông thường, ít có tính lý luận; hai là, lý tưởng hoá tư tưởng Hồ Chí Minh, đề cao quá mức, cái gì cũng cho là mới, là sáng tạo, vĩ đại, đỉnh cao! Nên nhớ, Hồ Chí Minh rất khiêm tốn, lúc nào Người cũng chỉ coi mình là người học trò nhỏ của Mác, Lênin và các nhà tư tưởng lỗi lạc khác của nhân loại. Hai khuynh hướng trên đây, tuy không phải là phổ biến, nhưng trong nói và viết về Hồ Chí Minh, có lúc, có người không tránh khỏi rơi vào phiến diện, cực đoan một cách không tự giác, nên cũng cần nêu lên để đề phòng. Thứ ba, mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với đường lối, quan điểm của Đảng ta và Quốc tế cộng sản. Xét trong lịch sử thì những quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta là thống nhất, chứ không phải là đồng nhất. Người là lãnh tụ sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với tinh hoa tư tưởng – văn hoá dân tộc và thực tiễn cách mạng nước ta, do đó đã đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ của cách mạng Việt Nam, vì vậy, Đảng ta đã khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn cách mạng, rõ nhất là trong 10 năm đầu mới thành lập, do trình độ nhận thức lý luận và hiểu biết thực tế khác nhau, giữa Hồ Chí Minh và một số đồng chí đứng đầu Trung ương lúc đó có sự lý giải và vận dụng không giống nhau trong một số vấn đề cụ thể về sách lược cách mạng của Việt Nam. Đó là điều bình thường, ở Đảng nào cũng có. Nhờ có sự ứng xử đúng đắn của Hồ Chí Minh, nên sự khác nhau tuy có ảnh hưởng nhất định đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, nhưng chưa gây ra những tác hại nghiêm trọng. Uy tín của vị lãnh tụ khai sáng vẫn chiếm vị trí tuyệt đói trong Đảng và dân tộc. Những tư tưởng đúng đắn của Người có một thời gian bị ngộ nhận, nhưng thực tiễn đã chứng minh chân lý thuộc về Người. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã xác nhận vai trò kim chỉ nam của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nhân tố cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng. Tư tưởng đó với đường lối, quan điểm của Đảng ta là thống nhất. Vì vậy, cần tránh khuynh hướng đi tìm sự khác biệt, mắc vào âm mưu của kẻ thù muốn chia rẽ Hồ Chí Minh với Trung ương Đảng, hoặc giữa một số ủy viên Trung ương. Về mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh với Quốc tế cộng sản, trước hết cần khẳng định công lao to lớn của Quốc tế Cộng sản trong việc đào tạo, bồi dưỡng, giúp đỡ cho cách mạng Việt Nam về nhiều mặt, nhất là về xây dựng tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt cho Đảng ta, trong đó có Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Quốc tế Cộng sản – nhất là trong 10 năm đầu sau thành lập, do chưa có hiểu biết về tính hình phương Đông nên có lúc đã đánh giá sai về sắp xếp lực lượng cách mạng ở thuộc địa, đã đề ra những chủ trương không sát hợp, không thấy vấn đề cấp bách ở thuộc địa là vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, nên đã đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghãi yêu nước và tinh thần dân tộc, vai trò của chiến lược đại đoàn kết dân tộc. Hồ Chí Minh từ người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, mang theo khát vọng giải phóng dân tộc, coi chủ nghĩa dân tộc của người bản xứ là một động lực to lớn của đất nước. Do đó Người chủ trương đoàn kết tất cả những người có tinh thần yêu nước, chống đế quốc trong Mặt trận Dân tộc thống nhất, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính là chủ nghĩa đế quốc. Chủ trương này của Người trái với đường lối “giai cấp chống giai cấp” của Quốc tế cộng sản lúc bấy giờ, nên đã bị phê phán. Đồng chí Trần Phú được cử về họp Hội nghị Trung ương tháng 10-1930, ra luận cương chính trị, thay thế Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng ngày 3-2-1930 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Vì lợi ích của Đảng, với ý thức tổ chức kỷ luật cao, Người nghiêm chỉnh chấp hành, không tranh luận. Do đó, cần hiểu sự khác biệt giữa Nguyễn Ái Quốc với Trần Phú, Hà Huy Tập… thực chất là phản ánh nhận thức khác nhau giữa Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản, chứ không phải chỉ là với các đồng chí của mình. Thứ tư, mối quan hệ giữa khái quát và mô tả trong nghiên cứu và trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, cần phân biệt tư tưởng Hồ Chí Minh như là đối tượng nghiên cứu với tư tưởng Hồ Chí Minh như là một bộ môn của Hồ Chí Minh học. Tư tưởng Hồ Chí Minh với ý nghĩa là sản phẩm của tư duy Hồ Chí Minh được hình thành trong quá trình tìm đường cứu nước, lãnh đạo cách mạng, là một hiện tượng khách quan, cần được xem xét ở mặt bản thể luận, nghĩa là người nghiên cứu trước hết phải mô tả xem nó là cái gì, có diện mạo như thế nào, rồi sau đó mới tiến hành phân tích đánh giá, rút ra ý nghĩa, giá trị của nó đối với dân tộc và thời đại. Còn tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là một bộ môn của Hồ Chí Minh học, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh (khách thể) làm đối tượng nghiên cứu, tìm tòi, khám phá, từng bước xây dựng lên thành một khoa học. Tuy nhiên, nó không thể một bước trở thành khoa học, mà phải có thời gian, có sự đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà nước về tổ chức, xây dựng đội ngũ, cơ sở vật chất cho nghiên cứu, đào tạo…. Hiện nay, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã qua bước nghiên cứu khai phá, đang chuyển dần sang bước thứ hai, đưa nó lên thành một khoa học. Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc lĩnh vực tư tưởng – lý luận, không phải lịch sử. Nếu nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh mà cứ na ná như giảng dạy lịch sử Đảng thì là lầm lẫn về tính chất, chức năng và nhiệm vụ của chuyên ngành. Tư tưởng – lý luận đòi hỏi phải khái quát chứ không phải chỉ trình bày sự kiện. Biên soạn giáo trình, bài giảng phải giáo khoa hóa kết quả nghiên cứu thành hệ thống luận điểm, tức là đòi hỏi phải khái quát, cô đọng, có tính lý luận, không được rơi vào liệt kê tư liệu, kể lể tràn lan. Thực hiện được điều này là khó, bởi Hồ Chí Minh vốn không có nhiều bài viết, tác phẩm về lý luận, cũng không trình bày tư tưởng của mình dưới dạng các bài như các nhà triết học phương Đông. Vì vậy, tìm ra được một cách chính xác hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh về một vấn đề nào đó là điều không đơn giản, khó thấy ngay một lúc, nên cũng khó tránh rơi vào mô tả. Đó là điều cần ý thức được để đề phòng. Mặt khác cũng cần tránh xuất phát từ một cái khuôn có sẵn, đem úp vào Hồ Chí Minh, rồi đi tìm một vài câu thích hợp để minh họa. Đọc những bài ấy, người đọc không thấy Hồ Chí Minh đâu, chỉ thấy ý kiến áp đặt của tác giả. Do đó, ở bước đầu nghiên cứu Hồ Chí Minh, mô tả và trích dẫn Hồ Chí Minh là điều không thể thiếu, một yêu cầu không thể rơi vào suy diễn, áp đặt. Cuối cùng, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải đi với tổng kết, rút ra được nhận định về bản chất và đặc điểm tư tưởng của Người, tức là làm sáng tỏ mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng – giữa chủ nghĩa mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một yêu cầu quan trọng về nhận thức mà các bài giảng cần làm rõ. (Tạp chí Lý luận chính trị – Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia HCM – tháng 3/2008. Đánh máy bởi thehehochiminh.net; bạn đọc muốn góp ý hoặc đóng góp bài vở, vui lòng gửi tới địa chỉ email: banbientap@thehehochiminh.net. Chân thành cảm ơn!). "Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu gì tới vòng danh lợi".
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển gắn với các thời kì hoạt động của Hồ Chí Minh trong phong trào cách mạng Việt Nam và quốc tế vào đầu và giữa thế kỷ 20. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh nhận định Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của văn hóa dân tộc Việt Nam, tư tưởng cách mạng Pháp, tư tưởng tự do của Hoa Kỳ, lý tưởng cộng sản Marx - Lenin, tư tưởng văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây và phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, được chính thức đưa ra từ Đại hội VII của Đảng.
Khi nhắc tới tự kỷ chúng ta thường hình dung tới những người có hành vi kỳ lạ, cô lập, không thích tiếp xúc với người khác. Tuy nhiên, tự kỷ có rất nhiều dạng khác nhau, triệu chứng phong phú, mức độ nặng nhẹ cũng khác nhau nên hội chứng này chính xác được gọi là rối loạn phổ tự kỷ. Rối loạn tự kỷ là thoái hóa hoặc suy yếu khả năng ngôn ngữ, nhận thức, giao tiếp xã hội, hành vi, cảm giác, gặp khó khăn trong học tập và sinh sống. Rối loạn tự kỷ thường được phát hiện ngay từ khi còn bé (18-36 tháng) nên còn có tên gọi khác là tự kỷ từ bé, hoặc tự kỷ cổ điển. Rối loạn Aspenger còn được biết đến là rối loạn tự kỷ chức năng cao, hay “tự kỷ thông minh”. Người bị hội chứng Asperger phát triển trí tuệ và ngôn ngữ bình thường nhưng lại có khả năng giao tiếp kém. Họ thường thích giao tiếp một chiều, thiếu tiếp xúc xã hội, thiếu sự thấu hiểu và khả năng làm việc nhóm, đặc biệt tập trung tới vấn đề yêu thích. Vụng về và cử chỉ chậm chạp cũng là những biểu hiện của hội chứng này. Những trẻ mắc hội chứng Aspenger thường hay bị trêu chọc, cô lập do khả năng giao tiếp kém, khác biệt so với người khác nhưng lại có thể có chỉ số thông minh cao và đặc biệt xuất sắc trong một số lĩnh vực nào đó. Một số thiên tài trong lịch sử được biết đến mắc hội chứng Aspenger như Albert Einstein và Isaac Newton. Đây là hội chứng rối loạn thần kinh hiếm gặp, thường xảy ra ở các bé gái. Trẻ bị rối loạn Rett có não nhỏ, khó đi lại, cơ thể phát triển không đồng đều, tay trẹo, khó thở, thường bị động kinh và mất các khả năng cả tốt lẫn xấu. Nhiều trẻ bị bệnh Rett nặng cũng bị liệt, phải sử dụng xe lăn và cần chăm sóc suốt 24 giờ. Trước đây, hội chứng Rett được cho là một phần của rối loạn phổ tự kỷ, tuy nhiên, theo quan điểm mới, nó không còn được xếp vào phổ tự kỷ nữa mà được xác định là một rối loạn do di truyền, liên quan tới gen MECP2. Rối loạn tự kỷ thoái hóa lần đầu tiên được nghiên cứu bởi tiến sĩ Theodor Heller. Ông ghi nhận rằng vào thời gian chập chững bước đi cho đến khi được 6 tuổi, trẻ bắt đầu đi vào giai đoạn thoái hóa có tính tự kỷ, nghĩa là trẻ mất dần những khả năng về trí tuệ, ngôn ngữ và những mặt phát triển bình thường khác mà trẻ đã có được trước đây. Rồi ngày mỗi ngày, những khả năng kể trên mỗi mất dạng, và trẻ bắt đầu có những biểu hiện của tự kỷ. Heller gọi sự tổng hợp của những biến dạng đó là sự rối loạn thoái hóa. Rối loạn thoái hóa thường hiếm gặp. Trong 100.000 trẻ, chỉ có 1 trẻ bị tự kỷ ở dạng này. Trong các dạng tự kỷ, PDD-NOS là chứng tự kỷ nhẹ. Dạng này không được phân loại rõ ràng. Trẻ được liệt vào dạng PDD-NOS vì chưa đến mức độ tự kỷ. Rối loạn phát triển bao quát cũng có tên gọi khác như rối loạn phát triển không điển hình, tính cách không điển hình, tự kỷ không điển hình, tự kỷ hoạt cao…. Bố mẹ cần nhờ bác sĩ tư vấn về các thuật ngữ y khoa và ý nghĩa chính xác của các dạng tự kỷ ở trẻ. Hiệu quả điều trị ở mỗi dạng phụ thuộc vào vấn đề này rất nhiều.
Rối loạn phổ tự kỷ
Phổ tự kỷ, còn được gọi là rối loạn phổ tự kỷ (ASD), là một loạt các rối loạn tâm thần thuộc loại rối loạn thần kinh. Nó bao gồm tự kỷ và hội chứng Asperger. Các cá nhân mắc chứng này thường gặp vấn đề với giao tiếp và tương tác xã hội; và các hành vi, sở thích hoặc hoạt động hạn chế và lặp đi lặp lại. Các triệu chứng thường được nhận ra từ một đến hai tuổi. Các vấn đề trong dài hạn có thể bao gồm những khó khăn trong việc thực hiện các nhiệm vụ hàng ngày, tạo và giữ mối quan hệ và duy trì công việc. Nguyên nhân của phổ tự kỷ là không chắc chắn. Các yếu tố rủi ro bao gồm có cha mẹ lớn tuổi, tiền sử gia đình mắc chứng tự kỷ và một số điều kiện di truyền nhất định. Ước tính có từ 64% đến 91% rủi ro là do tiền sử gia đình. Chẩn đoán dựa trên các triệu chứng. DSM-5 xác định lại các rối loạn phổ tự kỷ để bao gồm các chẩn đoán tự kỷ trước đó, hội chứng Asperger, rối loạn phát triển lan tỏa không được chỉ định khác (PDD-NOS) và rối loạn phân rã ở trẻ em.
Ngành Kiến trúc nội thất là gì? Cùng tìm hiểu về Thiết Kế Kiến Trúc Nội Thất bạn cần biết đây là 2 ngành hoàn toàn khác biệt tuy nhiên ngành kiến trúc và thiết kế nội thất lại rất liên quan bao gồm không gian kiến trúc và không gian nội thất của công trình và chúng luôn đi liền với nhau. Kiến trúc nội thất là gì bạn thường nghe đến Ngành Kiến Trúc Nội Thất đi liền với nhau nhưng thực ra kiến trúc và nội thất là hai chuyên ngành khác nhau. Cùng phân tích đầy đủ các khái niệm về Kiến Trúc Nội Thất để bạn có cái nhìn đúng nhất khi quyết định Có nên học kiến trúc và thiết kế nội thất. Kiến trúc nội thất là gì: Kiến trúc nội thất là từ ngữ bao hàm cả không gian kiến trúc và không gian nội thất của công trình. Nhưng khi đào tạo, khi học chuyên ngành thì không ai gộp hai ngành này làm một cả. Thiết kế kiến trúc nội thất là một khái niệm rộng bao gồm cả công việc của thiết kế kiến trúc và thiết kế nội thất, thể hiện công việc sáng tạo giải pháp không gian sống từ kiến trúc, kết cấu đến các thiết kế nội thất bên trong ngôi nhà. Ngày nay ngành thiết kế nội thất và ngành thiết kế kiến trúc được tách biệt trong đào tạo cũng như trong công việc và nó là hai chuyên ngành khác nhau vì vậy thay vì hiểu kiến trúc nội thất là gì chúng ta nên tìm hiểu riêng khái niệm của từng ngành kiến trúc và nội thất. Người kiến trúc sư làm công việc thiết kế kiến trúc còn nhà thiết kế nội thất sẽ là người thiết kế nội thất cho công trình. VẬY không gian kiến trúc là gì: là các không gian như phòng khách, phòng ngủ, hiên, không gian ngoại thất…, kiến trúc sư tạo nên không gian kiến trúc qua việc thiết kế tường, trần, sàn, mái, vòm, cửa, logia, hiên, ban công, giếng trời, mái che…Mỗi không gian kiến trúc đều được tạo nên nhờ những hình khối chính vì vậy công việc thiết kế kiến trúc còn có thể hiểu kiến trúc là nghệ thuật tổ chức không gian và hình khối. Kiến trúc sư nổi tiếng Le Corbusier nói “Kiến trúc là trò chơi thông minh và tuyệt diệu của tập hợp các hình khối trong ánh sáng”. PHILIP JOHNSON – kiến trúc sư tài giỏi người Mỹ thì nói “Kiến trúc là nghệ thuật của việc chừa ra không gian.”. Nội thất là không gian bên trong của công trình kiến trúc, có khi công trình kiến trúc đã xây dựng. Nhưng không phải vì thế mà vai trò của không gian nội thất là ít, mặt khác không gian nội thất mới chính là nơi con người trực tiếp sử dụng, tiếp xúc, trải nghiệm, sinh hoạt và sinh sống hàng ngày, hàng giờ nên nội thất quyết định sự tiện nghi sống, thoải mái, thẩm mỹ và cảm xúc sống của con người. Thiết kế kiến trúc nội thất là hai ngành liên quan đến nhau, khá gần gũi với nhau nhưng không thể đánh đồng là một. Nếu bạn đang muốn học ngành kiến trúc nội thất thì nên hiểu sự khác nhau của kiến trúc và nội thất để lựa chọn cho mình ngành nào bạn thích hơn. Tham khảo thêm: 9 Tư vấn sâu sắc trước khi học ngành kiến trúc nội thất. Thiết kế kiến trúc là công việc biến một mảnh đất trống không trở thành một ngôi nhà có thể che nắng che mưa, có các phòng ốc không gian bên trong ngôi nhà đầy đủ, hợp lý nhưng nếu chưa có thiết kế nội thất thì công trình kiến trúc mới chỉ có khả năng che nắng che mưa trú ngụ chứ chưa thể có công năng và tiện nghi sống đầy đủ, tiện nghi và đẹp mắt được. Thiết kế kiến trúc tạo nên phần xác của ngôi nhà còn thiết kế nội thất tạo nên phần hồn của ngôi nhà sống động, sang trọng và tiện nghi. Ngành kiến trúc và thiết kế nội thất đều cần sử dụng các kiến thức về Mỹ thuật và Kỹ thuật nhưng cụ thể kiến thức về Mỹ thuật và Kỹ thuật của hai ngành này khác nhau mặc dù tên môn học có thể giống nhau bạn đừng lầm tưởng kiến trúc nội thất là một. Thiết kế quy hoạch không gian nội thất: bố trí các hạng mục giường, tủ, bàn ghế, bàn thờ, tủ bếp, kệ, đồ trang trí…ở đâu trong căn phòng, kích thước bao nhiêu, hướng đặt để, khoảng cách tới các đồ vật, mối quan hệ với cửa chính, cửa sổ…để tối ưu sự tiện nghi, thoải mái, tối ưu các không gian cần thiết cho ngôi nhà đảm bảo sinh hoạt được tốt nhất. Tính toán sự tối ưu của gió và ánh sáng tự nhiên chiếu, thổi vào không gian ngôi nhà. Sự trang trí ánh sáng của đèn điện, đèn trang trí sao cho ngôi nhà đủ ánh sáng, tối ưu về sử dụng và đẹp mắt. Tham khảo 2 khóa học tại AWE để bạn hiểu kỹ về kiến thức và sự khác nhau trong ngành kiến trúc nội thất. Website cho phép đặt bài viết, banner quảng cáo. Vui lòng liên hệ qua Hotline: 0981.185.620 hoặc kế nối Zalo
Kiến trúc nội thất
Kiến trúc nội thất là kiến trúc không gian bên trong một công trình. Khái niệm này có phần hơi tương đồng với khái niệm thiết kế nội thất. Tuy nhiên 2 khái niệm này thường gắn liền với 2 cách dùng khác nhau. " Kiến trúc nội thất" chỉ những kiến trúc, không gian. " Thiết kế nội thất" thì thường chỉ công việc liên quan đến kiến trúc nội thất. Tại Mỹ, để trở thành một kiến trúc sư làm kiến trúc nội thất thì phải hoàn thành một số tiêu chí đặt ra để trở thành một kiến trúc sư có chứng chỉ hành nghề. Ở Việt Nam kiến trúc nội thất đã phát triển được một thời gian khá dài, điều kiện sống phát triển kèm theo nhu cầu làm đẹp cho Nội thất, ngoại thất nhà cửa tăng mạnh. Kiến trúc nội thất đã chia ra nhiều trường phái khác nhau, mỗi trường phái lại mang đậm nét khác biệt quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Như kiến trúc nội thất châu âu, kiến trúc nội thất Pháp, (cái này hiểu là phong cách thiết kế hay kiểu kiến trúc). Hiểu theo cách đơn giản nhất, kiến trúc nội thất là thiết kế kiến trúc xây dựng có tính đến phương án bố trí nội thất và trang trí nội thất có liên quan đến kết cấu trần, tường, sàn.
Không phải tự nhiên mà người ta gọi măng tây là “ rau hoàng đế”. Chỉ một cọng rau nho nhỏ ấy mà chứa rất nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Vì đây là loại rau cao cấp nên thường được xuất hiện trên các bàn tiệc hay trong các nhà hàng sang trọng. Ít ai biết rằng măng tây còn là một vị thảo dược nữa đấy. Vậy cùng đọc bài viết dưới đây của ohana để biết rõ hơn về các công dụng của măng tây nhé. Măng tây dùng để làm gì? Tác dụng của măng tây1. Măng tây tốt cho tim mạch2. Tác dụng làm đẹp da và ngăn ngừa ung thư3. Tốt cho xương và ngăn ngừa lão hóa4. Tốt cho nam giới. Măng tây và một số thông tin hữu íchKỹ thuật chọn măng tây sạchSơ chế măng tây như thế nào?Một số món ăn ngon từ măng tâyMón măng tây chầnHướng dẫn làm măng tây xào tỏiCanh măng tây. So với các loại măng khác thì hình dáng măng tây khá nhỏ nhắn, một cây chỉ cao từ 50 đến 100cm. Tuổi thọ của cây khá dài và mọc đơn độc. thân cây thẳng đứng, hình trụ dài, lá và chồi mọc chụm lại nhìn khá giống ngọn nến. Thân măng có các lá dài khoảng 3cm mọc áp sát vào thân. Măng tây có hoa và quả. Điểm đặc biệt là hoa đực và hoa cái mọc tách riêng nhau, có 2 màu là vàng xanh và trắng nhạt. Hoa có hình chuông và không lớn lắm chỉ dài khoảng 6cm. Đến mùa thì măng tây sẽ mọc quả màu đỏ có vài hạt bên trong. Măng tây xanh: Đây là măng tây phổ biến nhất khiến nhiều người lầm tưởng măng tây chỉ có màu xanh. So với 2 loại còn lại thì măng tây xanh vị đắng hơn nhiều. Lượng dinh dưỡng trong măng tây xanh khá cao. Măng tây trắng: Hình dáng bên ngoài không khác gì so với măng tây xanh nhưng vì sống trong điều kiện thiếu ánh sáng nên chất diệp lục ít, cây có màu trắng. Loại măng tây này có vị ngọt và mềm hơn măng tây xanh. Vì có nhiều chất dinh dưỡng hơn nên giá thành của loại này cao hơn 2 loại còn lại. Nơi trồng và chế biến măng tây trắng có điều kiện khá nghiêm ngặt. Măng tây tím: Măng này không phổ biến nhiều, có màu tím là vì hàm lượng anthocyanins trong nó nhiều. Khi ăn thì bạn sẽ thấy măng tây tím có vị ngọt hơi giống trái cây và rất mềm. Tuy nhiên lượng chất xơ trong măng khá ít. Măng tây xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 60 nhưng chỉ dành cho giới thượng lưu. Đến năm 2005 thì nó mới được trồng rộng rãi ở các tỉnh miền Trung và Nam Bộ như Bình Thuận, Ninh Thuận, Đồng Nai, Long An,…. Giá thành măng tây cao nên thu nhập người dân kiếm được cũng cao hơn nhiều loại nông sản như ngô, khoai,… Hiện nay Ninh Thuận là tỉnh trồng măng tây lớn nhất nước. Thu hoạch: Măng tây là cây lâu năm. Cứ 2 đến 3 tuần người nông dân sẽ thu hoạch măng một lần. Họ quan sát khi các ngọn măng đã mọc ra sẽ hái ngay tránh để quá thời điểm. Một cây măng người ta sẽ cắt khoảng 6 inch. Cần cắt cẩn thận để lá và cây măng vẫn nguyên vẹn giữ năng suất cho mùa vụ tiếp theo. Các loại thực phẩm đắt tiền thường sẽ chứa nhiều chất dinh dưỡng tốt cho tim mạch. Trong măng tây có kali ( hay còn gọi là potassium) có thể điều chỉnh được huyết áp. Còn tim khỏe nhờ vào folate trong cây măng. Cholesterol – nguyên nhân gây nên các bệnh về tim mạch cũng bị ngăn chặn khi ăn măng tây. Là thực vật nên trong măng có chứa các chất xơ tốt cho hệ tiêu hóa và giảm thiểu cholesterol. Ngoài chất xơ thì trong măng tây còn có chứa saponin. Chất này có thể gắn giữ cholesterol tại đường tiêu hóa, khi ấy chúng không thể đi theo máu đi đến các bộ phận trong cơ thể. Không chỉ các cô gái mà hiện nay việc làm đẹp là điều quan tâm của cả các bạn nam. Một làn da đẹp không chỉ giúp bạn tự tin trước đám đông mà còn ảnh hưởng tốt đến sức khỏe của cơ thể. Trong măng tây có 2 loại vitamin là vitamin A và vitamin C, chắc bạn không xa lạ gì với công dụng của chúng đúng không. Chúng như 2 vệ sĩ bảo vệ da trước sự tác động của các gốc tự do, chống lại sự oxy hóa làn da theo thời gian. Ngoài da vitamin C còn trị thâm, giúp làn da được trắng sáng. Collagen sẽ giúp làn được nâng đỡ, căng tràn sức sống và không bị lão hóa – nỗi sợ của mọi người phụ nữ. Ngoài ra ăn măng tây còn giúp bạn chống lại ung thư và các bệnh lý liên quan. Chất glutathione là một thành phần có hàm lượng cao trong măng tây nên khả năng chống lại chất oxy hóa gây ung thư cũng được nâng cao. Ngoài ra đối với phụ nữ măng tây còn có công dụng tuyệt vời trong những ngày dâu. Nó giúp điều hòa kinh nguyệt và giảm cơn đau khi phụ nữ đến ngày. Trong măng tây có vitamin K có thể rút ngắn thời gian đông máu, tăng cường sự chắc khỏe của xương cốt. Giảm cân: Vì giàu chất xơ và các loại vitamin lại chứa lượng calories cực thấp nên măng tây phù hợp để thêm vào thực đơn giảm cân của bạn. Đối với nam giới măng tây như là thần dược từ thiên nhiên vậy. Nó có các chất dinh dưỡng có thể thúc đẩy hoocmon sinh dục của nam. – là một loại thức ăn “kích dục” quý giá. Đối với người bị gout thì không nên sử dụng các chế phẩm của măng tây vì lượng purin trong nó sẽ khiến bạn bị đau khớp. Ngoài măng tây còn có nấm, súp lơ,… cũng chứa nhiều purin. Đầu tiên hãy chọn những cửa hàng bán thực phẩm uy tín và sạch sẽ, không có hàm lượng thuốc trừ sâu hay chất hóa học độc hại. Nếu bạn muốn chế biến nhanh gọn thì chọn những cây măng thanh mảnh vì dù to mập hay mảnh gầy thì chất lượng chúng đều thơm ngon như nhau. Màu sắc cây măng phải xanh non, tươi và cứng. Không chọn những cây đã bị biến màu và quá mềm. Tại các siêu thị hiện nay đều đã xuất hiện loại thực phẩm này. Nếu bạn mua cây măng to thi nên bào mỏng lớp vỏ để măng dễ chín. Các món salad hay xào lựa chọn măng tây thân mảnh để dễ thấm gia vị. Măng tây mua về đã được cắt bỏ rễ, bạn rửa măng dưới dòng nước để làm sạch đất cát trong các kẽ lá. Rửa kĩ phần ngọn vì phần này rất hay bị bám bẩn. Phần đầu măng khá mềm nhưng phần cuống lại cứng. Bạn có thể cắt bỏ chúng hoặc bào mỏng lớp vỏ để khi ăn dễ dàng hơn. Măng tây phổ biến tại nhiều quốc gia nên có rất nhiều cách chế biến và cách thưởng thức. Bạn có thể sử dụng nó làm món chính hoặc làm các món khai vị đều tuyệt vời. Sau đây ohana xin chia sẻ 3 món ăn với 3 cách thức chế biến khác nhau để bạn tham khảo nhé!. Đây là món ăn vô cùng đơn giản có thể nấu khi bạn không có nhiều thời gian chuẩn bị. Nấu một nồi nước sôi, thêm vào chút muối rồi thả măng tây vào. Chần trong 3 phút rồi vớt ra tránh để măng quá chín. Sau đó cho măng vào nước lạnh để giữ được độ giòn nguyên bản của măng tây và cso màu xanh thẫm đẹp mắt. Bạn có thể dùng nó kèm với các món chính nhiều chất đạm để cân bằng dinh dưỡng hoặc trộn với các loại sốt làm thành salad măng tây. Nguyên liệu gồm có: 300g măng tây xanh, tỏi, muối, tiêu xay và dầu ( nên dùng dầu oliu). Rửa sạch măng tây, cắt bớt cuống già. Tùy vào sở thích mà bạn để nguyên cây hoặc thái khúc vừa ăn. Sau đó đun nóng dầu, cho vào 1 thìa tỏi băm phi thơm. Cho măng tây vào xào. Vì măng tây nhanh chín nên đảo nhanh tay. Nêm thêm một xíu muối và tiêu xay vừa miệng thì tắt bếp. Khi chảo nóng thì chỉ cần khoảng 3 phút là măng tây đã chín rồi. Nguyên liệu: 6 lạng măng tây, nửa cân thịt bò, sả, tỏi, các gia vị khác. Rửa sạch măng tây. Bắc chảo rồi phi thơm tỏi băm sau đó cho phần măng tây vào đảo sơ rồi tắt bếp, có thể thêm chút xíu muối cho măng có vị. Bắc nồi nước đun sôi. Đập dập 1 cây sả rồi cho vào nồi. Khi nước dậy mùi thì bạn thêm 1 muỗng cà phê muối vào. Sau đó vớt sả ra, thả thịt bò vào. Khi thịt chín tái vớt ra tránh để thịt dai. Cho măng tây vào nấu khoảng 1 phút thì nêm thêm các loại gia vị cho vừa miệng. Trước khi tắt bếp cho thịt bò vào. Khi múc ra tô bạn có thể thêm chút hành lá lên trên. Bài viết trên là những lợi ích mà măng tây mang lại cho con người. Măng tây vừa giàu dinh dưỡng vừa có thể kết hợp với nhiều nguyên liệu tạo ra rất nhiều món ngon. Tại sao bạn lại không thử nhỉ? Chúc các bạn ngon miệng!
Măng tây
Măng tây (danh pháp hai phần: Asparagus officinalis) là một loại thực vật dùng làm rau. Cây thảo có thân mọc ngầm trong đất, thường gọi là thân rễ. Thân rễ dày, mang nhiều rễ dài, đường kính 5-6mm, màu nâu sáng, xốp. Các thân đứng mọc trong không khí lởm chởm những vết sẹo của những nhánh đã rụng. Các thân khi sinh này mang những vòng cành biến đổi thành lá hình kim. Hoa rất nhỏ, màu lục, hình chuông, dài độ 6mm, tập hợp 4-6 cái thành nhóm ở nách lá của các cành dạng lá. Quả hình cầu, dày màu đỏ. Người ta phân biệt giữa măng tây trắng và măng tây xanh. Tùy thuộc vào khu vực, măng tây được thu hoạch ở châu Âu từ tháng 3 đến tháng 6 và được đánh giá cao như một loại rau. Cây măng tây là một loại cây đa niên thuộc Họ Măng tây với bản địa ở Âu châu, Bắc Phi và Tây Á. Ngày nay đọt non cây măng tây được trồng nhiều nơi dùng trong ẩm thực như một loại rau. Loài này từng được xếp vào họ lily, giống với các loài Allium, hành và tỏi, nhưng họ Liliaceae đã được tách ra và các cây giống hành hiện thuộc họ Amaryllidaceae và asparagus (cây Thiên Môn) thuộc họ Asparagaceae.
Chiếc giày vàng châu Âu là gì? Chiếc giày vàng Châu Âu là một trong những giải thưởng cao quý được trao cho các cá nhân hàng năm. Cùng chúng tôi tìm hiểu về giải thưởng này qua bài báo viết dưới đây. Chiếc giày vàng châu Âu có tên tiếng Anh là European Golden Shoe. Đây chính là giải thưởng được trao cho cầu thủ có số lượng bàn thắng nhiều nhất trong một mùa giải ở các giải vô địch quốc gia. Giải thưởng này được trao hàng năm, hiện nay giải thưởng này được trao bởi European Sports Media. Bàn thắng được tính để trao giải là những bàn thắng ở giải vô địch quốc gia chứ không phải ở bất cứ giải đấu nào khác. Thành tích của cầu thủ được tính theo tổng số bàn thắng ghi được ở giải vô địch quốc gia nhân cho hệ số của giải đấu. Các giải hàng đầu châu Âu như Anh, Tây Ban Nha, Đức, Ý, Pháp đều có hệ số là nhân 2 và các giải xếp sau đó có hệ số nhân 1,5. Còn các giải còn lại đến từ nền bóng đá yếu kém hơn chỉ có hệ số là nhân 1. Cũng chính vì hệ số của các giải đấu Châu Âu cao nên những cầu thủ ở 5 giải đấu này thường có cơ hội chiến thắng nhiều hơn. Từ những năm 1968 – 1991, giải thưởng này được thành lập và trao cho những cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất ở bất kỳ giải nào ở Châu Âu. Quy định này được đánh giá là không công bằng bởi có rất nhiều giải đấu khắc nghiệp và số trận cũng khác nhau. Thời điểm này có một số cầu thủ đã nhận giải thưởng này 2 lần đó là: Eusébio, Gerd Müller, Dudu Georgescu và Fernando Gomes. Do dự bất bình từ việc cho rằng giải đấu không công bằng thì Rekip đã ngừng trao giải từ năm 1991 đến năm 1996. Các giải đấu thiếu sự bình đẳng về giải thưởng vì khoảng cách trình độ. Không chỉ có vậy đã có những cáo buộc về những hành vi sai trái trong trường hợp của cầu thủ người Romania Camatar. Cầu thủ này ghi nhiều bàn nhất ở mùa giải 1990-91, nhưng theo thực tếthì Darko Pancev của Nam Tư mới ghi nhiều bàn nhất. Anh ấy đã giành được giải thưởng vào năm 2006. Từ năm 1996-97 đến nay, ESM đứng ra trao giải thưởng danh giá này. Và giải thưởng lần này được tính theo hệ số dựa trên độ khó của mỗi giải vô địch quốc gia. Giải đấu có mức độ khó được xác định theo hệ số UEFA và 5 giải vô địch hàng đầu châu Âu được tính hệ số nhân 2. Các giải đứng thứ 6 đến 22 trên BXH UEFA được tính hệ số nhân 1,5. Còn tất cả các giải còn lại được tính hệ số nhân 1. Kể từ khi thây đổi luật thì chỉ có 2 cầu thủ đoạt giải thưởng này không thuộc 5 giải vô địch hàng đầu châu Âu đó là Henrik Larsson và Mario Jardel. Trước đây giải thưởng được chia đều cho các cầu thủ nếu có cùng điểm số. Nhưng từ mùa 2019-20, thể thức trao giải có đôi chút thay đổi khi giải thưởng được trao cho cầu thủ thi đấu với số phút ít hơn nếu có 2 hoặc nhiều cầu thủ có cùng điểm số. Bải viết trên chúng tôi đã giải đáp những thắc mắc của bạn về Chiếc giày vàng châu Âu là gì? Hy vọng những tin thể thao trên sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về giải thưởng này.
Chiếc giày vàng châu Âu
Chiếc giày vàng châu Âu (tiếng Anh: European Golden Shoe, tên gọi cũ là European Golden Boot) là một giải thưởng bóng đá hằng năm được trao cho cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất tại các trận đấu thuộc hệ thống các giải đấu hàng đầu quốc gia thuộc Liên đoàn bóng đá châu Âu trong một mùa giải. Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất sẽ được nhận giải (các giải lớn như Anh, Đức, Tây Ban Nha. thì có hệ số lớn hơn). Thành tích của cầu thủ không bao gồm số bàn thắng ghi được trong các giải khác như cúp quốc gia, cúp liên đoàn và các cúp châu Âu, Siêu cúp châu Âu, Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ (trước là Cúp Liên lục địa), cũng như không tính các bàn thắng cầu thủ đó ghi được cho đội tuyển quốc gia trong mùa bóng đó. Kể từ khi được thành lập vào mùa bóng 1967-1968, danh hiệu có tên gọi ban đầu theo tiếng Pháp là Soulier d Or, sau dịch thành Chiếc giày vàng châu Âu (Golden Shoe or Boot), nhằm trao tặng cho cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất tại tất cả các giải đấu châu Âu mùa bóng năm đó.
Tài liệu HACCP rất quan trọng trong việc xây dựng và áp dụng thành công tiêu chuẩn HACCP - An toàn vệ sinh thực phẩm. HACCP là hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn được áp dụng trong quá trình sản xuất, chế biến thực phẩm. Theo đó, trước khi lên kế hoạch HACCP, doanh nghiệp cần xây dựng hồ sơ, tài liệu được trình bày dưới dạng văn bản pháp quy về hệ thống quản lý an toàn thực phẩm. Bộ tài liệu HACCP của đơn vi, tổ chức trong lĩnh vực sản xuất, chế biến thực phẩm thường bao gồm các quy trình, chính sách, hướng dẫn an toàn thực phẩm, danh sách đánh giá, giám sát. Danh mục tài liệu là yếu tố then chốt khi xây dựng kế hoạch quản lý hệ thống quản lý an toàn thực phẩm cho doanh nghiệp. Các tài liệu này đóng vai trò trong việc xem xét mức độ kết dính của hệ thống HACCP với kế hoạch cũng như tính thích hợp của kế hoạch HACCP. Dưới đây là danh mục tài liệu HACCP mà doanh nghiệp cần chuẩn bị để lên kế hoạch HACCP cũng như muốn đạt được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn HACCP. Trong tài liệu HACCP có thể kể đến tài liệu SSOP để hỗ trợ HACCP. SSOP (Sanitation Standard Operating Procedures) là quy phạm vệ sinh hay còn được hiểu là quy trình làm vệ sinh và thủ tục kiểm soát vệ sinh. Tùy theo từng kế hoạch mà cấu trúc của SSOP sẽ biến đổi và được thiết kế khác nhau sao cho phù hợp. Các quy trình vận hành tiêu chuẩn vệ sinh yêu cầu phải được văn bản hóa. Thông thường, các công ty thường xuyên kiểm soát các điều kiện và cách vận dụng để làm giảm thiểu các mối nguy có thể phát sinh trong quá trình chế biến thực phẩm góp phần làm tăng tính hiệu quả của kế hoạch HACCP. GMP là cụm từ viết tắt của Good Manufacturing Practice - Thực hành sản xuất tốt. GMP bao gồm những quy định, nguyên tắc chung, hướng dẫn các nội dung cơ bản về điều kiện sản xuất. Thực hành sản xuất tốt GMP áp dụng cho các đơn vị, cơ sở gia công, sản xuất, đóng gói thực phẩm, thiết bị y tế, dược phẩm, mỹ phẩm.nhằm đảm bảo sản phẩm an toàn và đạt chất lượng theo quy định. Thông thường, các đơn vị muốn áp dụng thành công HACCP thì đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc về vệ sinh thực phẩm - GMP. Chẳng hạn như điều kiện cơ sở hạ tầng của đơn vị chưa đáp ứng được các yêu cầu cần thiết về khâu vệ sinh thì doanh nghiệp cần phải quyết các khâu đó trước. Lãnh đạo và toàn bộ nhân viên hiểu về hệ thống quản lý an toàn thực phẩm có vai trò quan trọng như thế nào trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Có khả năng triển khai một chương trình vệ sinh tiên quyết như SSOP (Quy phạm vệ sinh) hoặc GMP (Thực hành sản xuất tốt) tại cơ sở. Doanh nghiệp có thể xem chi tiết nội dung tiêu chuẩn HACCP pdf ngay tại đây và kết hợp với danh mục tài liệu để hiểu rõ về HACCP. Hiểu rõ HACCP tạo cơ sở quan trọng để áp dụng thành công HACCP cũng như đạt được giấy chứng nhận HACCP. Nếu doanh nghiệp có nhu cầu đăng ký chứng nhận HACCP hoặc chứng nhận ISO hãy liên hệ tới hotline: 0976389199 (hoàn toàn miễn phí) để được các chuyên gia của ISOCERT hỗ trợ trong thời gian sớm nhất. Tiêu chuẩn này được xây dựng dựa trên phương pháp nêu trong TCVN 2309 (ISO 760). Tuy nhiên, phương pháp này đã được cải biến bằng cách xác định trực tiếp hàm lượng nước bằng dung môi metanol/formamid. Để hiểu rõ hơn về tiêu chuẩn này, hãy tham khảo tài liệu dưới đây. Chắc hẳn là chúng ta đã nghe rất nhiều về các ngành nghề như nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp… đặc biệt là nông nghiệp đúng không? Bởi Nông nghiệp chính là ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam và hiện nay nước ta vẫn là một nước nông nghiệp. Vậy bạn có bao giờ thắc mắc nông nghiệp là gì?. Tiêu chuẩn ISO 3593:1981 quy định phương pháp xác định tro có trong tinh bột. Phương pháp này áp dụng cho tinh bột tự nhiên và tinh bột biến tính có chứa hàm lượng tro nhỏ hơn 2%. Tiêu chuẩn này không áp dụng cho các sản phẩm tinh bột thủy phân hoặc tinh bột đã oxi hóa hoặc các sản phẩm khác chứa nhiều hơn 0,2% clorua, tính theo natri clorua. Để hiểu rõ hơn về tiêu chuẩn này, hãy tham khảo tài liệu dưới đây!. Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 11445:2016 áp dụng đối với axit L-glutamic được sử dụng làm phụ gia thực phẩm.
HACCP
HACCP (viết tắt của Hazard Analysis and Critical Control Points, được dịch ra tiếng Việt là Phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn), là những nguyên tắc được sử dụng trong việc thiết lập hệ thống quản lý an toàn thực phẩm. HACCP được nhiều nước trên thế giới quy định bắt buộc áp dụng trong quá trình sản xuất, chế biến thực phẩm. Uỷ ban Tiêu chuẩn Thực phẩm quốc tế (CODEX) cũng khuyến cáo việc nên áp dụng HACCP kết hợp với việc duy trì điều kiện sản xuất (GMP) để nâng cao hiệu quả của việc đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. HACCP được giới thiệu trong tiêu chuẩn của CODEX mang số hiệu CAC/RCP 1-1969, Rev.4-2003, và tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam tương đương là TCVN 5603:2008. HACCP là công cụ cơ bản trong việc hoạch định tạo thực phẩm an toàn trong việc áp dụng ISO 22000 tại các tổ chức tham gia vào chuỗi thực phẩm. HACCP có tính chất hệ thống và có cơ sở khoa học, nó xác định các mối nguy cụ thể và các biện pháp để kiểm soát chúng nhằm đảm bảo tính an toàn thực phẩm.
Trước khi giải thích chiếc hộp Pandora là gì, người viết xin kể lại một chút về nguồn gốc của loài người chúng ta trong thần thoại Hy Lạp, điều có liên quan mật thiết với câu chuyện về chiếc hộp Pandora. Như đã kể ở những bài trước, sau cuộc chiến giữa các Titan và các Olympian, có 2 Titan không bị giam dưới Tartarus, đó là Prometheus và Epimetheus, bởi 2 ông này không tham gia vào cuộc chiến. Zeus đã giao cho 2 Titan nhiệm vụ tạo ra con người và các sinh vật sống khác trên trần gian. Prometheus lấy đất sét nặn ra con người, rồi thần Athena thổi sự sống vào. Epimetheus có nhiệm vụ trao tặng những khả năng đặc biệt cho muôn loài như sự nhanh nhẹn, tốc độ, sức mạnh, đôi cánh ….Không may rằng, đến khi Prometheus tạo ra con người thì Epimethus đã trao tặng hết các khả năng tốt cho các loài khác, chẳng còn lại gì cho loài người chúng ta. Prometheus, vì rất yêu quý con người, đã tạo hình cho con người có dáng đứng thẳng như các vị thần, và ông còn lén ăn cắp ngọn lửa của các vị thần, đem xuống cho loài người. Nhờ có lửa của Prometheus, loài người yếu đuối không còn sợ bóng tối và thú dữ, dần dần mới phát triển cho đến ngày nay. Khi biết chuyện, thần Zeus vô cùng nổi giận và quyết định trừng phạt Prometheus cùng loài người. Với Prometheus, Zeus xích ông vào ngọn núi Caucasian và ngày này sai một con chim khổng lồ đến khoét ruột gan ông, bắt Prometheus phải chịu đựng nỗi đau đớn đó hàng ngày. Về sau, chính anh hùng Heracles – con trai của Zeus, đã giết chết con chim, chặt đứt xích và giải thoát cho Prometheus. Còn đối với loài người, thần Zeus có một cách trừng phạt khác. Zeus ra lệnh cho thần thợ rèn Hephaestus nặn ra một người phụ nữ tên là Pandora. Nàng là người phụ nữ đầu tiên của loài người. Các vị thần đều trao tặng những món quà cho Pandora. Nữ thần Athena cho nàng quần áo, Aphrodite cho nàng sắc đẹp, thần Appollo cho nàng khiếu âm nhạc, thần Hermes cho nàng khả năng nói…. Sau đó, thần Zeus gả Pandora cho Epimetheus và để họ sống chung với loài người. Món quà cuối cùng mà Zeus tặng cho Pandora là một chiếc hộp. Đó cũng là sự trừng phạt của Zeus. Mặc dù Prometheus đã cảnh báo Epimetheus chớ nên nhận món quà của Zeus, nhưng Epimetheus lại quá chiều lòng vợ mình – nàng Pandora xinh đẹp mà giữ lại món quà. Đã được căn dặn không được mở hộp ra, nhưng Pandora không chiến thắng nổi sự tò mò, mở nắp hộp, và mọi điều xấu xa, độc ác trong đó thoát ra. Từ đó, con người mới có những đức tính xấu như lòng tham, sự đố kỵ, giả dối, phản bội … Chúng ta hận thù, tranh giành và chém giết nhau, tạo ra những cuộc chiến tranh cũng là do chiếc hộp của Pandora. Tuy vậy, người ta nói rằng, vẫn còn một điều tốt đẹp hiếm hoi sót lại trong chiếc hộp của Pandora, đó là niềm hy vọng. Nhờ có hy vọng, con người mới có thể đứng vững và vượt qua mọi thử thách, khó khăn của cuộc đời. Về sau, cụm từ “Chiếc hộp Pandora” cũng là để ám chỉ một hành động nhỏ bé nhưng có thể gây ra tác hại rất lớn, hay chỉ những thứ hấp dẫn con người ta nhưng ẩn chứa những điều không tốt lành bên trong. Qua câu chuyện truyền thuyết về chiếc hộp Pandora, cũng có thể thấy thông điệp mà người xưa để lại rằng nguồn cơn của mọi thói hư tật xấu, tai họa của loài người, đều xuất phát từ phụ nữ. Từ ngàn xưa, sử sách đã ghi chép lại vô số câu chuyện về những tai họa mang tầm quốc gia xảy ra chỉ bởi phụ nữ. Phải chăng thực sự phụ nữ là nguồn cơn của những gì xấu xa nhất, hay đó là sự đổ lỗi cho quyết định sai lầm của những bậc quân vương bị mất nước, truyền thống trọng nam khinh nữ vì thế mà ra đời?
Chiếc hộp Pandora
Trong thần thoại Hy Lạp, chiếc hộp Pandora là một chiếc hộp mà nàng Pandora – người phụ nữ đầu tiên đến thế giới loài người sở hữu. Nàng Pandora đã được thần Zeus dặn kĩ rằng không được mở chiếc hộp đó ra. Nhưng với sự tò mò của mình, Pandora đã mở chiếc hộp ra và tất cả những gì trong chiếc hộp kì bí đó đã khiến cho tất cả những điều bất hạnh tràn ngập khắp thế gian: thiên tai, bệnh tật, chiến tranh… Theo như nhiều phiên bản của truyền thuyết, chiếc hộp chỉ còn sót lại một điều là "hy vọng" để cho loài người để có thể tiếp tục sống.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có một lá cờ hai màu. Lá cờ là sự kết hợp của màu đỏ (màu cơ bản) và màu vàng (năm sao). Lá cờ này cũng đại diện cho sự thống nhất của người dân như một quốc gia sau nhiều thập kỷ của các triều đại và chia rẽ. Quốc kỳ Trung Quốc được thông qua vào ngày 1 tháng 10 năm 1949. Lá cờ này chính thức được kéo lên lần đầu tiên tại Quảng trường Thiên An Môn Bắc Kinh trong buổi lễ tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trước lá cờ này, đất nước đã có một lá cờ khác. Từ năm 1862 đến năm 1912, quốc kỳ của Trung Quốc có năm màu. Đó là màu đỏ, vàng, xanh, trắng và đen. Đế của lá cờ có màu vàng với một con rồng xanh ở trung tâm và một đĩa màu đỏ ở góc trên bên trái. Mặt sau của con rồng gồm các dải ngang màu trắng và đen. Sự suy tàn của triều đại nhà Thanh lên đến đỉnh điểm vào năm 1912. Có nhiều cuộc nổi dậy từ nhiều vùng khác nhau của đất nước, từ dân tộc Miêu ở tỉnh Quý Châu đến người Hồi giáo Hồi giáo.và cuộc nổi dậy của người Nian năm 1851-1868. Đã có những nỗ lực nhằm khôi phục chế độ quân chủ vào năm 1915 và 1916. Trong thời gian này, lá cờ được sử dụng gồm các màu vàng, xanh lam, đen, trắng và đỏ. Tuy nhiên, thiết kế đã khác. Có một chữ X màu đỏ ở tâm với bốn hình tam giác ở góc với các màu trắng, đen, xanh lam và vàng. Đế quốc Trung Hoa đã có một biến thể tương tự của lá cờ. Lá cờ này có hình chữ thập màu đỏ với hình chữ nhật màu vàng ở trên cùng bên trái, hình chữ nhật màu đen ở trên cùng bên phải, hình chữ nhật màu xanh ở phía dưới bên trái và hình chữ nhật màu trắng ở phía dưới bên phải. Trung Quốc đã có những thời đại khác nhau trong suốt lịch sử của mình. Mỗi thời kỳ đều có một lá cờ tượng trưng cho hình thức cai trị. Trong thời kỳ Xô Viết năm 1931, lá cờ là một đế màu đỏ với một quả địa cầu ở trung tâm. Quả địa cầu có một cái liềm và một cái búa đen nằm bên trong. Trên đỉnh địa cầu có một ngôi sao vàng và vòng nguyệt quế xuất hiện ở hai bên trái và phải. Quốc kỳ Trung Quốc sau đó đã được thay đổi vào năm 1934 để bao gồm lưỡi liềm và búa xuất hiện ở bên trái của lá cờ màu đỏ. Ở phía bên phải của lá cờ có một biểu tượng nói rằng ‘Cộng sản Trung Quốc.’ Quốc kỳ Đài Loan từng được Quốc dân Đảng Quốc dân đảng (KMT) treo ở Trung Quốc. Sau năm 1949, lá cờ của đảng cộng sản dưới thời Mao Trạch Đông đã trở thành lá cờ tồn tại lâu hơn tất cả. Lá cờ hiện đại của Trung Quốc gắn liền với quá khứ cộng sản của nó. Lá cờ là một lĩnh vực màu đỏ với năm ngôi sao vàng trong bang. Màu đỏ tượng trưng cho cuộc cách mạng cộng sản của Trung Quốc trong khi năm ngôi sao được hiểu là sự thống nhất của nhân dân đất nước theo đảng cộng sản. Ngôi sao lớn hơn được bao quanh bởi bốn ngôi sao nhỏ hơn tượng trưng cho đảng cộng sản. Bốn ngôi sao nhỏ hơn tượng trưng cho bốn giai cấp xã hội, “giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tư sản thành thị và giai cấp tư sản dân tộc”. Người đứng sau thiết kế là Zeng Liansong. Thiết kế của Zeng là một phần của cuộc thi diễn ra vào tháng 7 năm 1949. Cuộc thi do Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (CPCC) tổ chức. Đã có hơn 3000 bài dự thi ngay từ đầu cuộc thi. Theo nhà thiết kế lá cờ, ngôi sao lớn màu vàng tượng trưng cho đảng cộng sản (ĐCSTQ). Bốn ngôi sao nhỏ hơn đại diện cho sự thống nhất của các tầng lớp xã hội của đất nước. Ý nghĩa này đã được Mao Trạch Đông đề cập trong bài phát biểu tháng 6 năm 1949 về “Chế độ độc tài dân chủ nhân dân”. ‘ Căn cứ màu đỏ có hai ý nghĩa. Thứ nhất, đó là màu của cuộc cách mạng cộng sản. Màu vàng vàng của các ngôi sao cũng có một số ý nghĩa. Đầu tiên, màu này là đại diện cho triều đại Machu. Màu vàng là một màu biểu tượng trong lịch sử Trung Quốc. Nó là màu của hoàng gia hay màu của hoàng đế. Quốc Kỳ Trung Quốc có năm ngôi sao. Ngôi sao lớn là đảng cộng sản, trong khi bốn ngôi sao nhỏ hơn tạo thành một vòng cung thẳng đứng thể hiện các tầng lớp xã hội của xã hội truyền thống Trung Quốc. Các tầng lớp xã hội này đều thống nhất dưới quyền của đảng cộng sản Trung Quốc. Các ngôi sao năm cánh cũng đại diện cho ngũ hành trong văn hóa Trung Quốc. Những yếu tố này bao gồm nước, lửa, đất, gỗ và kim loại, được liên kết với hoàng đế của Trung Quốc. Lá cờ có hình chữ nhật với tỷ lệ chiều rộng và chiều dài là 2: 3. Các chi tiết của thiết kế Quốc Kỳ Trung Quốc được ghi lại trong phiên họp toàn thể của tổng thống năm 1949 do Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (CPPC) tổ chức. Việc xây dựng dựa trên các đơn vị sau:. Bản vẽ của ngôi sao lớn nhất bắt đầu từ năm đơn vị tính từ palăng. Ngôi sao này có đường kính ngoại tiếp 6 đơn vị. Cách đỉnh cờ hai đơn vị và cách palăng 10 đơn vị là hình vẽ của ngôi sao nhỏ đầu tiên. Ngôi sao nhỏ tiếp theo được vẽ cách đỉnh 4 đơn vị và cách palăng 12 đơn vị. Hình vẽ của ngôi sao thứ tư xuất hiện cách đỉnh cờ 9 đơn vị và cách palăng 10 đơn vị. Tất cả các ngôi sao nhỏ có đường kính 2 đơn vị. Ngoài ra, các ngôi sao nhỏ được định vị theo cách mà chúng hướng vào phần trung tâm của ngôi sao lớn hơn. Quốc kỳ của Trung Quốc và của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mặc dù có xuất thân hoàn toàn khác nhau, nhưng có một số điểm tương đồng. Ví dụ, cả năm điểm trên ngôi sao vàng trên quốc kỳ Việt Nam và bốn ngôi sao nhỏ trên quốc kỳ của Trung Quốc đại diện cho các giai cấp xã hội bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tiểu tư sản, trí thức và binh lính. Đầu tiên, Quốc Kỳ Trung Quốc là hiện thân của lịch sử và văn hóa của đất nước. Thứ hai, lá cờ là đại diện cho đặc tính quyền lực của giai cấp công nhân. Thứ ba, hình dạng phải là hình chữ nhật với tỷ lệ chiều dài và chiều rộng là 3: 2. Thiết kế của Zheng đã giành chiến thắng trong cuộc thi. Khi thiết kế nó, anh ấy nói rằng anh ấy đã nghĩ đến câu ngạn ngữ Trung Quốc, “khao khát các vì sao, khao khát mặt trăng.”. Từ thứ 2 đến thứ 6: 8h30 - 17h Chủ Nhật nghỉ (ngoài giờ liên hệ: 0911 288 590) Điện thoại:(028)353 54 711 - 0912 755 911 (Ms.Trang) Phản hồi: 0911 288 590 – Mr Quang
Quốc kỳ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Quốc kỳ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (tiếng Trung: 中华人民共和国国旗, Trung Hoa Nhân dân Cộng hòa Quốc Quốc kỳ) hay còn gọi là Ngũ Tinh Hồng Kỳ (tiếng Trung: 五星红旗; bính âm: wǔ xīng hóng qí; nghĩa đen: "Cờ đỏ năm sao") ra đời năm 1949 sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát đại lục và thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Quốc kỳ nền đỏ, có một ngôi sao vàng năm cánh lớn được bao quanh bởi bốn ngôi sao vàng năm cánh khác nhỏ hơn nằm ở góc trên bên trái. Màu đỏ tượng trưng cho cách mạng và cũng tượng trưng cho máu của các chiến sĩ đã hy sinh vì độc lập. Năm ngôi sao tượng trưng cho sự đoàn kết của nhân dân cách mạng đại đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lá cờ này được Tăng Liên Tùng, một công dân ở Thụy An, Chiết Giang, thiết kế. Năm ngôi sao trên quốc kỳ Trung Quốc trong đó bốn ngôi sao nhỏ tượng trưng cho lực lượng của cách mạng bao gồm giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị và tư sản dân tộc, cùng đứng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Trung Hoa, chính là ngôi sao lớn.
Chứng khó học toán (Dyscalculia) /ˌdɪskælˈkjuːli.ə/ là một dạng rối loạn gây khó khăn trong việc nhớ và hiểu để thao tác tính toán các con số và sự kiện toán học. Đây thường được coi là một rối loạn phát triển cụ thể. Chứng khó học toán có thể xảy ra ở với tất cả mọi người trên mọi phạm vi IQ – thường cao hơn ở mức IQ trung bình – đi cùng với những khó khăn liên quan thời gian, đo lường, và lý luận không gian. Ước tính về sự phổ biến của chứng khó học toán dao động từ 3 đến 6% dân số. Năm 2004, theo báo cáo có 1/4 trẻ em mắc chứng khó học toán có rối loạn tăng động giảm chú ý. Năm 2015, theo minh chứng có tới 11% trẻ em mắc chứng khó học toán cũng gặp rối loạn ADHD. Chứng khó học toán cũng có liên hệ với những phụ nữ mắc hội chứng Turner và những người bị tật nứt đốt sống bẩm sinh. Các khiếm khuyết về khả năng toán học có thể xảy ra do kết quả của chấn thương sọ não, trong trường hợp này thuật ngữ thích hợp là acalculia để phân biệt với chứng khó học toán dyscalculia có nguồn gốc do gen, bẩm sinh hoặc trong quá trình phát triển. Biểu hiện sớm nhất của chứng khó học toán thường là một khiếm khuyết trong khả năng nhận biết, từ khi nhìn liếc qua mà không đếm, xem có bao nhiêu đối tượng có trong một nhóm nhỏ. Người lớn có thể phân chia 3 hoặc 4 đối tượng. Trẻ em từ 5 tuổi có thể nhận biết số lượng khoảng 6 đối tượng. đặc biệt là khi nhìn vào súc sắc. Tuy nhiên, trẻ em với hội chứng khó học toán cũng có thể nhận biết số lượng của vài đối tượng nhưng ngay cả khi để nhận biết chính xác cũng mất nhiều thời gian hơn để xác định được số lượng so với các bạn cùng tuổi. Chứng khó học toán thường có biểu hiện khác nhau ở các độ tuổi khác nhau. Chứng khó học toán có xu hướng trở lên rõ ràng hơn khi trẻ trưởng thành hơn; các triệu chứng cũng có thể xuất hiện sớm ở trẻ em chưa tới tuổi đến trường. Các triệu chứng thường gặp của chứng khó học toán là gặp khó khăn với phép tính nhẩm trong toán học, gặp khó khăn phân tích thời gian và xem đồng hồ kim, khó khăn khi sắp xếp các chuỗi số thường chúng sẽ đếm ngón tay để nhớ thêm số. Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu tin rằng chứng khó học toán là một rối loạn dai dẳng, bằng chứng về sự tồn tại của chứng khó học toán vẫn còn lẫn lộn. Ví dụ, trong một nghiên cứu của Mazzocco và Myers (2003), các nhà nghiên cứu đánh giá trẻ em trên nhiều biện pháp và chọn biện pháp phù hợp nhất của chúng như là tiêu chuẩn chẩn đoán tốt nhất của họ: một sự cắt giảm đáng kể 10 phần trăm trên TEMA-2. Ngay cả với tiêu chí hết sức mình, họ phát hiện chẩn đoán chứng khó học toán cho trẻ em theo chiều dọc đã không tồn tại; Chỉ có 65% học sinh đã từng được chẩn đoán trong suốt bốn năm được chẩn đoán trong ít nhất hai năm. Tỷ lệ trẻ em được chẩn đoán trong hai năm liên tiếp tiếp tục giảm. Không rõ liệu đây là kết quả của những đứa trẻ bị chẩn đoán sai cải thiện về toán học và nhận thức về không gian khi chúng tiến triển như bình thường hay các đối tượng cho thấy sự cải thiện được chẩn đoán chính xác, nhưng có dấu hiệu của sự khiếm khuyết trong học tập không liên tục. Không có khả năng hiểu được kế hoạch tài chính hoặc ngân sách, đôi khi thậm chí ở mức độ cơ bản; ví dụ, ước tính chi phí của các mặt hàng trong giỏ mua hàng hoặc sổ chi phiếu. Hình dung số như là biểu tượng vô nghĩa hoặc vô nghĩa, chứ không phải là nhận thức chúng như ký tự chỉ ra một giá trị số. Khả năng nhận thức kém về không gian, hoặc sự hiểu biết về hình dạng, khoảng cách, hoặc khối lượng dường như giống như phỏng đoán hơn là hiểu thực tế. Khó khăn với thời gian, phương hướng, hồi tưởng lại lịch trình, chuỗi các sự kiện. Khó tư duy hồi tưởng về thời gian (vd: Rời đi lúc mấy giờ nếu cần đến địa điểm nào đó tại thời điểm ‘X’). Gặp khó khăn khi tính nhẩm về ước lượng phép đo hoặc khoảng cách của một sự vật. Khi viết, đọc và nhớ lại những con số, nhầm lẫn xảy ra trong các trường hợp: cộng số, thay thế, hoán vị, quên không làm tròn số, đảo ngược số. Không có khả năng nắm bắt và ghi nhớ các khái niệm toán học, các quy tắc, công thức và trình tự. Không có khả năng tập trung vào công việc yêu cầu tập trung tinh thần cao độ. Nhận diện tên/khuôn mặt kém. Có thể thay thế tên bắt đầu bằng cùng một chữ cái.
Chứng khó học toán
Chứng khó học toán (Dyscalculia) là một dạng rối loạn gây khó khăn trong việc nhớ và hiểu để thao tác tính toán các con số và sự kiện toán học. Đây thường được coi là một rối loạn phát triển cụ thể. Chứng khó học toán có thể xảy ra ở với tất cả mọi người trên mọi phạm vi IQ - thường cao hơn ở mức IQ trung bình - đi cùng với những khó khăn liên quan thời gian, đo lường, và lý luận không gian. Ước tính về sự phổ biến của chứng khó học toán dao động từ 3 đến 6% dân số. Năm 2004, theo báo cáo có 1/4 trẻ em mắc chứng khó học toán có rối loạn tăng động giảm chú ý. Năm 2015, theo minh chứng có tới 11% trẻ em mắc chứng khó học toán cũng gặp rối loạn ADHD. Chứng khó học toán cũng có liên hệ với những phụ nữ mắc hội chứng Turner và những người bị tật nứt đốt sống bẩm sinh. Các khiếm khuyết về khả năng toán học có thể xảy ra do kết quả của chấn thương sọ não, trong trường hợp này thuật ngữ thích hợp là acalculia để phân biệt với chứng khó học toán dyscalculia có nguồn gốc do gen, bẩm sinh hoặc trong quá trình phát triển.
– Hê-minh-uê (Ernest Miller Hemingway) (1899 – 1961) là một tiểu thuyết gia người Mỹ, nhà văn viết truyện ngắn và là một nhà báo. Ông là một phần của cộng đồng những người xa xứ ở Paris trong thập niên 20 của thế kỷ XX, và là một trong những cựu quân nhân trong Chiến tranh thế giới I. – Ông để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ với nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ và nhiều hồi kí, ghi chép. Những tác phẩm nổi tiếng của Hê-minh-uê: Mặt trời vẫn mọc (1926), Giã từ vũ khí (1929), Chuông nguyện hồn ai (1940), Ông già và biển cả (1952). – Hê-minh-uê là nhà văn lỗi lạc nhất nước Mĩ vào thế kỉ XX, ông khai sinh lối viết kiệm lời, kiệm cảm xúc. Ông là người đề ra nguyên lí sáng tác “tảng băng trôi”:. + Dựa vào hiện tượng tự nhiên: tảng băng trên mặt nước chỉ có ba phần nổi, bảy phần chìm. + Nhà văn phải hiểu biết cặn kẻ về điều muốn viết, sau đó lược bỏ những chi tiết không cần thiết, giữ lại những phần cốt lõi, sắp xếp lại để người đọc vẫn có thể hiểu được những gì tác giả đã lược bỏ. + Người đọc phải đồng sáng tạo mới có thể hiểu được “bảy phần chìm”, những hình tượng, những hình ảnh, … giàu tính tượng trưng đa nghĩa. – Dù viết về đề tài gì, Châu Phi hay Châu Mĩ, Huê-minh-uê đều nhằm mục đích “viết một áng văn xuôi đơn giản và trung thực về con người”. – Hê-minh-uê đã nhận được Giải Pulitzer (Giải thưởng văn chương cao qúy nhất của Hoa Kì) năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả, và Giải Nobel Văn học năm 1954. – Hoàn cảnh ra đời: Năm 1952, sau 10 năm sống ở Cu-ba, Hê-minh-uê đã cho ra đời tác phẩm Ông già và biển cả. Trước khi in thành sách, tác phẩm được in trên tạp chí Đời sống. Tác phẩm tiêu biểu cho lối viết “tảng băng trôi” của Hê-minh-uê. – Đại ý: cuộc chiến đấu không cân sức giữa ông già và con cá kiếm hung dữ. Hình ảnh ông lão đánh cá đơn độc dũng cảm săn đuổi con cá lớn nhất đời là một biểu tượng về vẻ đẹp của ước mơ và hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực. – Phần 1 (từ đầu đến “nước bắn tung, trùm lên cả ông lão lẫn con thuyền”): Cuộc chinh phục cá kiếm của ông lão Xan-chi-a-gô. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống đánh cá lênh đênh, gian nan của ông lão người Cuba, Xan-chi-a-gô. Lão chài Xan-chi-a-gô sống cô độc trong một túp lều trên bờ biển ngoại ô thành phố La-ha-ba-na. 84 ngày đêm ra khơi gặp vận xúi, đi đi về vế chẳng câu được một con cá nào. Lần này ông lại ra khơi chỉ có một mình đưa thuyền đến tận vùng Giếng Lớn nơi rất nhiều cá. Buông câu từ sáng sớm, mãi đến non trưa phao câu mới động đậy. Cá mắc câu kéo thuyền chạy. Lão gò lưng, gập mình kéo lại. Từ trưa tới chiểu, rồi một ngày một đêm nữa trôi qua. Bàn tay bị dây câu cứa rách nát ứa máu. Không một mẩu bánh mì vào bụng. Chân tê dại, tay trái bị chuột rút, mệt lả nhưng lão không chịu buông tha: “Mình sẽ cho nó biết sức con người có thể làm được gì và chịu đựng được đến đâu!”. Sang ngày thứ 3, cá đuối dần, lão chài dùng lao đâm chết cá, buộc cá vào đuôi thuyền, hân hoan trở về bến. Con cá nặng độ 6 – 7 tấn, dài hơn con thuyền câu của lão độ 7 tấc. Trong màn đêm, đàn cá mập lại đánh hơi thấy mùi của con cá mà ông bắt được nên đã ùa tới đuổi theo chiếc thuyền câu, lăn xả vào đớp và rỉa con cá kiếm. Lão chài cũng rất dũng cảm đem hết sức mình chống chọi với lũ cá mập, phóng lao và thậm chí dùng cả mái chèo để đánh. Lão đã giết được khá nhiều con và đuổi được chúng đi nhưng khi lão Xan-chi-a-gô về tới bến, con cá kiếm chỉ còn trơ lại bộ xương trắng. Quá mệt mỏi, lão nằm vật ra lều ngủ thiếp đi, “mơ thấy đàn sư tử”. Sáng hôm sau, bé Ma-nô-lín chạy sang lều rồi đi gọi bạn chài đến săn sóc ông lão. + Đó là một con cá to lớn, xinh đẹp. Đuôi lớn hơn chiếc lưỡi hái lớn, màu hồng dựng lên trên mặt đại dương xanh thẫm. Nó dài hơn thân hình lão 4 tấc,thân hình đồ sộ, bộ vây to sụ, nặng hơn nửa tấn. + Nó có một sức mạnh ghê gớm, Sức mạnh ấy thể hiện qua các vòng lượn của nó quanh con thuyền khi đã mắc câu, vẽ ra những vòng tròn rất lớn. – Nó là một con cá khôn ngoan, kiên cường, kháng cự đến cùng, không chấp nhận cái chết, phóng vút lên mặt nước phô diễn vẻ đẹp; con cá bạc trắng, thẳng đơ => mang vẻ đẹp sức mạnh oai phong, kì vĩ. Các chi tiết được sắp xếp theo trình tự cuộc chinh phục cá kiếm, từ quan sát, cảm nhận khi con cá cố vùng vẫy để thoát rồi sau đó tới gần hơn. – Con cá cố gắng để thoát hiểm, qua đó cho thấy phẩm chất kiên cường của nó. Ông lão cũng cố hết sức để bảo vệ thành quả của mình bằng kinh nghiệm và chút sức lực còn lại. Những cú quật mạnh hòng vượt thoát khỏi sự bủa vây của người ngư phủ cho thấy con cá kiếm cũng dũng cảm kiên cường không kém gì đối thủ của mình. – Sự lặp đi lặp lại của các vòng lượn cho thấy cuộc giằng co giữa hai bên đang ở giai đoạn gay go, quyết liệt, tạo nên tình thế cả hai đối thủ phải nỗ lực hết mình, cuộc chiến không cân sức. Đó là những cố gắng cuối cùng dù tuyệt vọng nhưng cũng hết sức mãnh liệt của con cá kiếm. – Hình ảnh ấy đã góp phần gợi lên hình ảnh một người ngư phủ rất giàu kinh nghiệm, rất lành nghề giữa chốn biển khơi đầy gian nan thử thách. – Con cá kiếm trong cuộc chiến, nó không lặn xuống bể sâu làm đứt dây câu cũng không lồng lên làm đắm thuyền. Nó chấp nhận một cuộc đấu sằng phẳng. Nó kéo ông lão ra khơi xa, thử thách ông lão. Ông lão chinh phục hành động ấy, thán phục nét đẹp kiêu hùng, cao cả của nó. Xan-chi-a-gô là một ngư dân lành nghề, già dặn kinh nghiệm đi biển. trong cuộc chiến với con cá kiếm, lão có những cảm nhận và phán đoán hết sức chính xác. – Trên hết ở lão là niềm tin, ý chí, nghị lực kiên cường, không bao giờ bị khuất phục, khát khao làm nên kì tích. – 84 ngày đêm thất bại, không bắt được con cá nào. Con cá kiếm là sản phẩm lớn nhất cuộc đời lão. Lão vừa yêu mến nó (tự hào vì câu được con cá lớn nhất cuộc đời), vừa muốn giết nó (muốn chứng minh khả năng khuất phục con mồi). – Con cá kiếm là hiện thân của thành quả lao động, xóa bỏ đi sự hoài nghi, những thất bại liên tiếp, mở ra cơ hội. Nó chứng minh một điều là lão là một người kiên cường, không bao giờ bị đánh bại. – Đây là ngày thứ ba của chuyến câu, ông lão đã phải níu giữ con cá, còn con cá thì mắc câu đang cố vùng vẫy để cố thoát thân, cả hai đều không được ăn uống. Tác giả chỉ ra sự tương quan lực lượng giữa hai bên. – Bằng sự nhạy bén của ông già nhiều năm kinh nghiệm, ông đã huy động mọi khả năng vào cuộc chiến. Về thị giác: phán đoán con cá thông qua đường bơi nghiêng, sức căng của sợi dây. Về xúc giác: Cảm nhận được từng cử động của nó qua sợi dây. Ông lão còn cảm nhận con cá bằng nỗi đau thể xác vì phải nỗ lực, gắng sức để giữ cho bằng được thành quả lao động của mình. Con cá hiện ra như một nhân vật trong đoạn trích. + Thu dây ngắn lại khiến con cá quay vòng. Cầu cho con cá đừng vùng vẫy bởi sợ nó mất → dựa vào tình thế. + Tự phân tích tình hình, tìm cách giải quyết tốt nhất. Di chuyển được con cá, động viên bản thân, tập trung sức lực phóng lao → dựa vào chính mình. + Ông lão đâm trúng con cá, nó vụt lên khỏi mặt nước, phô hết vẻ khổng lồ, sức lực phi thường. + Lão dần kiệt sức, đầu óc hoang tưởng nhưng cuối cùng cũng chiến thắng. Con cá sau mấy ngày đêm vùng vẫy cuối cùng cũng nổi lên, phơi tráng bụng. Lão chiến thắng như một người anh hùng đích thực. Ý nghĩa: Giữa lão đánh cá và con cá kiếm có mối liên hệ kì lạ. Trước hết, đó là quan hệ giữa người đi câu và con mồi được câu. Vượt lên trên quan hệ đó, đây là quan hệ giữa hai kì phùng địch thủ (quan hệ ngang hàng, cân tài cân sức, cả hai đều nỗ lực hết mình), là hai người bạn chí cốt vừa là hai kẻ thù không đội trời chung.
Ông già và biển cả
Ông già và Biển cả (tên tiếng Anh: The Old Man and the Sea) là một tiểu thuyết ngắn được Ernest Hemingway viết ở Cuba năm 1951 và xuất bản năm 1952. Nó là truyện ngắn dạng viễn tưởng cuối cùng được Hemingway viết và được xuất bản khi ông còn sống. Đây cũng là tác phẩm nổi tiếng và là một trong những tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Tác phẩm đoạt giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1953. Nó cũng góp phần quan trọng để nhà văn nhận Giải Nobel văn học năm 1954. Trong tác phẩm này ông đã triệt để dùng nguyên lý mà ông gọi là "tảng băng trôi", chỉ mô tả ba phần nổi còn lại bảy phần chìm, khi mô tả sức mạnh của con cá, sự chênh lệch về lực lượng, về cuộc chiến đấu không cân sức giữa con cá hung dữ với ông già. Tác phẩm là bản anh hùng ca ca ngợi sức lao động và khát vọng của con người. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống đánh cá lênh đênh, gian nan của ông lão người Cuba, Santiago, người đã cố gắng chiến đấu trong ba ngày đêm với một con cá kiếm khổng lồ trên biển vùng Giếng Lớn khi ông câu được nó.
An ninh chính trị là gì? Vai trò công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ? Vai trò công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ. Biện pháp tăng cường an ninh tư tưởng nội bộ. Từ trước đến nay, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ là một nhiệm vụ quan trọng có tính chiến lược, lâu dài trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh. Đây không chỉ là trách nhiệm của lực lượng Công an, mà còn là trách nhiệm của các cấp uỷ, các tổ chức Đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên. “An ninh” có nghĩa là tình hình trật tự xã hội bình thường, yên ổn. Không có rối loạn, không rối ren. Hoặc nếu muốn hiểu theo một cách đơn giản hơn. Đó là khả năng có thể giữ vững sự an toàn trước các mối đe dọa. Mọi người thường cho rằng an ninh chỉ gắn với cộng đồng rộng lớn. Một quốc gia nhưng thực tế an ninh đang dần tập trung vào cá nhân nhiều hơn. Khái niệm đó gọi là An ninh con người. Nó đang được ngày càng chú trọng. Bởi khi mỗi con người đều được đảm bảo an ninh sẽ là động lực giúp đảm bảo an ninh cho toàn xã hội. Khi mọi người được đảm bảo an ninh, đời sống sẽ ấm no, hạnh phúc. Bởi con người không phải sống trong những nỗi sợ hãi bởi những mối nguy hiểm thường trực. Những sự việc gây nguy hại đến cuộc sống của họ. Mỗi cá thể trong xã hội chính là động lực để phát triển. Các biện pháp đảm bảo an ninh của mỗi quốc gia. Điều này được thể hiện rõ trong quan điểm của các nước lớn như Canada, Na Uy, Nhật Bản…. An ninh chính trị là một bộ phận của an ninh quốc gia, có nội dung chính là đảm bảo sự ổn định chính trị, trật tự xã hội; nghĩa là đảm bảo hiệu quả và hiệu lực của quyền lực chính trị trong quốc gia đó; trong đó, vấn đề cốt lõi nhất là bảo vệ chủ quyền quốc gia. Công tác Bảo vệ chính trị nội bộ là tổng thể các hoạt động xuất phát từ bên trong hệ thống chính trị nhằm phòng ngừa, phát hiện, giải quyết đối với những việc, hiện tượng, hành vi xâm phạm, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đối với nền tảng tư tưởng, mục đích, lý tưởng, uy tín, vị thế chính trị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động, sự đoàn kết, thống nhất, trong sạch nội bộ của Đảng, của hệ thống chính trị và mặt chính trị của cán bộ, đảng viên. Trong thời gia qua cấp ủy đảng các cấp từ tỉnh đến cơ sở đã quan tâm chỉ đạo công tác Bảo vệ chính trị nội bộ. Tuy nhiên, trước những diễn biến của tình hình trong nước và quốc tế, công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề phải quan tâm giải quyết, đó là:. Thứ nhất: Bảo vệ chính trị nội bộ là vấn đề sống còn của chế độ, gắn liền với vận mệnh và vai trò lãnh đạo của Đảng, là một nhiệm vụ quan trọng có tính chiến lược lâu dài trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, là trách nhiệm của các cấp uỷ, các tổ chức Đảng và toàn thể đảng viên, do đó, phải thực hiện đúng quan điểm của Đảng, bảo đảm kịp thời, khách quan, toàn diện, đề cao tinh thần trách nhiệm, vì sinh mệnh chính trị của cán bộ, đảng viên và sự trong sạch của nội bộ Đảng. Thứ hai: Phải xuất phát từ nhiệm vụ và phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng; gắn công tác Bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh; giữ vững lập tr­ường chủ nghĩa Mác – Lênin, t­ư tưởng Hồ Chí Minh gắn với tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của Đảng. Thứ ba: Trong mối quan hệ giữa yếu tố bên trong với bên ngoài thì yếu tố bên trong, nội bộ là cơ bản, quyết định. Cần đề phòng sai lầm về đ­­­­­ường lối, chủ trương, chính sách, coi việc phòng chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội chính trị và vi phạm nguyên tắc tổ chức Đảng là cực kỳ quan trọng. Thứ t­ư: Tích cực, chủ động phòng ngừa, tự bảo vệ mình là chính; xử lý kịp thời, nghiêm minh những cán bộ, đảng viên thoái hoá biến chất về chính trị; coi trọng phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả mọi âm m­ưu, hoạt động phá hoại nội bộ của các thế lực thù địch, chống đối. Thứ năm: Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp và đội ngũ cán bộ tham m­ưu chiến l­ược, đặc biệt những ng­ười đứng đầu tổ chức đảng các cấp. Thứ sáu: Bảo vệ chính trị nội bộ phải có sự phối kết hợp để phát huy sức mạnh của toàn Đảng và hệ thống chính trị trong công tác quan trọng này; kết hợp hoạt động của tổ chức đảng với hoạt động tích cực của nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Thứ bảy: Quy định của Bộ Chính trị về Bảo vệ chính trị nội bộ Đảng là căn cứ, là cơ sở để xem xét, kết luận về chính trị của cán bộ, đảng viên; phải thực hiện nghiêm túc, thống nhất; khắc phục tình trạng giản đơn, vận dụng tùy tiện hoặc máy móc, thành kiến, hẹp hòi. Do đó, công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ phải quán triệt thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, bảo đảm kịp thời, chính xác, khách quan, toàn diện, đề cao tinh thần trách nhiệm, vì sinh mệnh chính trị của cán bộ, đảng viên và sự trong sạch, vững mạnh của nội bộ Đảng. Một là, tham mưu cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, ban, ngành tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4, Khóa XII. Trong đó, cần chú trọng tuyên truyền, làm cho cấp ủy, lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành, địa phương, cán bộ, đảng viên nhận thức thấu đáo về biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nguyên nhân, điều kiện nảy sinh và tính chất nguy hiểm, hậu quả, tác hại của nó, tính cấp thiết của cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cấp ủy, lãnh đạo cơ quan chịu trách nhiệm chính trong giải quyết vấn đề chính trị nội bộ của cơ quan, đơn vị mình. Hai là, tham mưu cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, ban, ngành tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chủ động phát hiện, giải quyết những vấn đề chính trị nội bộ nhất là vấn đề liên quan đến công tác chính trị, tư tưởng, công tác cán bộ; tăng cường các biện pháp kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Ba là, tiếp tục triển khai quyết liệt các biện pháp phòng ngừa đấu tranh, ngăn chặn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch phản động; trực tiếp tham gia đảm bảo an ninh an toàn việc tổ chức đại hội đảng các cấp, trong đó tập trung bảo vệ đường lối, nhân sự đại hội, bảo vệ bí mật nhà nước, xử lý các vụ việc phức tạp có liên quan đến công tác chuẩn bị, tổ chức và nhân sự đại hội. Bốn là, tham mưu, phối hợp cấp ủy đảng, chính quyền, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị tăng cường công tác bảo vệ nội bộ, quản lý cán bộ, đảng viên, xây dựng hành lang pháp lý, chế tài thực hiện các quy định, quy chế như: Kỷ luật phát ngôn, bảo vệ bí mật nhà nước, trao đổi, cung cấp thông tin, quan hệ, tiếp xúc với người nước ngoài. Có quy định cụ thể trong quản lý cán bộ, đảng viên tham gia góp ý, kiến nghị chủ trương, chính sách; hoan nghênh những ý kiến tâm huyết mang tính xây dựng, kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp lợi dụng việc tham gia góp ý, kiến nghị để gây rối nội bộ. Cùng với đó, các cấp ủy, tổ chức đảng phải hết sức công tâm trong xem xét, đánh giá cán bộ, thực hiện quy hoạch, bổ nhiệm, đề bạt, điều động, điều chuyển đúng nguyên tắc, quy định đảm bảo đoàn kết nội bộ. Năm là, tham mưu cấp ủy các cấp thực hiện tốt việc phổ biến, tuyên truyền các văn bản, hướng dẫn của Đảng về việc tổ chức đại hội các cấp như: Chỉ thị 35-CT/TW, Kết luận 60-KL/TW, Hướng dẫn số 26-HD/B TCTW… Phối hợp làm tốt công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh các quan điểm sai trái, thù địch. Cùng với đó, tăng cường công tác lãnh đạo và quản lý báo chí, xuất bản, văn hoá,văn nghệ. Chấn chỉnh tình trạng báo chí đưa thông tin sai lệnh để kẻ địch lợi dụng phá hoại khối đoàn kết toàn dân, chia rẽ nội bộ Đảng và Nhà nước; báo chí phải thực sự là cơ quan ngôn luận của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội nghề nghiệp, là diễn đàn của nhân dân, cung cấp thông tin, định hướng dư luận, nhất là những giá trị cao đẹp. Tám là, thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ; tất cả các trường hợp trước khi tiếp nhận, giới thiệu quy hoạch, bổ nhiệm… phải được thẩm định và kết luận về tiêu chuẩn chính trị. Những trường hợp có vấn đề về chính trị, phải được thẩm tra, xác minh và có kết luận;. Mười là, thường xuyên rà soát chính trị nội bộ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp xử lý, sử dụng phù hợp đối với những trường hợp có vấn đề về chính trị; tăng cường quản lý thông tin, tài liệu, giữ gìn bí mật nội bộ, bí mật quốc gia; đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, đấu tranh với các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch; tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy của bộ phận Bảo vệ chính trị nội bộ các cấp đảm bảo đủ năng lực tham mưu giúp cấp ủy xử lý, giải quyết kịp thời những vấn đề liên quan đến chính trị nội bộ. Kết luận: An ninh chính trị nội bộ lành mạnh, vững chắc, đảm bảo hỗ trợ tốt cho nền an ninh quốc gia là một trong những yếu tố trụ cột để xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, nền chính trị quốc phòng được giữ vững. Nội dung chi tiết, file tải về (download) và hướng dẫn tra cứu chi tiết văn bản: Công văn 4744/VPCP-V.I năm 2019 về kiểm tra, làm rõ thông tin báo chí phản ánh việc tôm hùm đất là sinh vật ngoại lai cấm nhập khẩu do Văn phòng Chính phủ ban hành. Xác định thị trường liên quan và cách xác định thị trường liên quan. Các thị trường liên quan và cách xác định thị trường liên quan theo quy định trong Luật cạnh tranh 2018. Thị phần là gì? Vai trò và cách xác định thị phần tăng trưởng? Cách xác định thị phần tăng trưởng. Làm thế nào để gia tăng thị phần?. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo quy định mới nhất của Luật cạnh tranh 2004. Khái niệm, đặc điểm và phân loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh?. Tìm hiểu quy định của pháp luật về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm? Phân tích các quy định về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo luật cạnh tranh mới nhất. Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin cung cấp cho quý khách hàng những trường hợp được miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh năm 2004.
An ninh chính trị
An ninh chính trị là một bộ phận của an ninh quốc gia, có nội dung chính là đảm bảo sự ổn định chính trị, trật tự xã hội; nghĩa là đảm bảo hiệu quả và hiệu lực của quyền lực chính trị trong quốc gia đó; trong đó, vấn đề cốt lõi nhất là bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đảm bảo an ninh về tư tưởng bao gồm việc bảo vệ hệ tư tưởng nền tàng, bản sắc văn hóa và đại đoàn kết dân tộc. An ninh về thể chế chính trị bao gồm ba vấn đề chính là bảo vệ chế độ chính trị, các thiết chế nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội (bảo vệ Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội).
Nguyên nhân gây rối loạn nhân cách chống đối xã hội1. Sự giáo dục và môi trường sống3. Sự khác biệt về não bộ4. Yếu tố sinh học. Các dấu hiệu nhận biết rối loạn nhân cách chống đối xã hội1. Dấu hiệu ở người lớn2. Dấu hiệu ở trẻ em. Điều trị rối loạn nhân cách chống đối xã hội1. Lời khuyên cho thành viên trong gia đình người bệnh. Rối loạn nhân cách chống đối xã hội (ASPD) là tình trạng đặc trưng bởi sự thiếu đồng cảm và không quan tâm tới người khác. Người bệnh thường có hành vi chống đối và hành động vô cảm, rất dễ trở thành tội phạm. Cần sớm được quan tâm và can thiệp điều trị để tránh các hệ lụy nguy hiểm. Rối loạn nhân cách chống đối xã hội (ASPD) là một trong những loại rối loạn nhân cách xảy ra phổ biến. Trong đó, người bệnh không quan tâm tới đúng sai và phớt lờ quyền cũng như cảm xúc của người khác. Trên thực tế, những người bị ASPD thường có xu hướng chống đối, thao túng hay đối xử thô bạo với người khác. Thậm chí là tỏ ra nhẫn tâm, thờ ơ. Đặc biệt, họ không bao giờ tỏ ra tội lỗi hay hối hận về các hành vi của mình. Những người bị rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường rất dễ vi phạm pháp luật và trở thành tội phạm. Họ có thể nói dối, bốc độc, cư xử thô bạo hay có vấn đề với việc sử dụng rượu, ma túy và các chất gây nghiện khác. Do có những đặc điểm này nên những người bị ASPD thường không thể hoàn thành các trách nhiệm có liên quan tới gia đình, công việc hoặc xã hội. Cho đến nay, nguyên nhân chính xác của chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội vẫn chưa được biết tới. Nhân cách được hình thành bởi rất nhiều yếu tố khác nhau. Bao gồm cả tự nhiên và sự nuôi dưỡng. Rối loạn này phổ biến hơn trong những người ruột thịt hoặc có họ hàng với người bị ASPD hơn là trong dân số chung. Nghiên cứu chỉ ra rằng, ASPD có thể liên quan chặt chẽ với sự kế thừa. Còn những ảnh hưởng từ môi trường thường sẽ làm trầm trọng thêm sự phát triển của nó. Sự giáo dục cũng được cho là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chứng ASPD. Lạm dụng, bỏ bê hay chấn thương thời thơ ấu có thể liên quan tới sự khởi phát của ASPD. Nếu cha mẹ của một đứa trẻ bạo hành và bị rối loạn chức năng thì trẻ cũng có thể học các kiểu hành vi đó. Sau đó thể hiện chúng với con cái của mình. Những đứa trẻ lớn lên trong gia đình vô tổ chức hay bị bỏ rơi cũng bị thiếu cơ hội để phát triển ý thức kỷ mạnh mẽ. Đồng thời không tự chủ và rất khó cảm thông với người khác. Những yếu tố này cũng làm tăng nguy cơ khởi phát ASPD. Một số yếu tố được tìm thấy làm tăng nguy cơ mắc chứng ASPD bao gồm chức năng não bất thường và hút thuốc trong thời kỳ mang thai. Nghiên cứu chỉ ra rằng, những người bị ASPD có sự khác biệt ở thùy trán. Đây chính là vùng não đóng vai trò phán đoán và lập kế hoạch. Những người bị ASPD thường có xu hướng yêu cầu kích thích nhiều hơn. Đồng thời họ có thể tìm kiếm các hoạt động gây nguy hiểm. Thậm chí là bất hợp pháp nhằm nâng cao sự kích thích lên mức tối ưu. Các chuyên gia cho biết, những người bị rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể có mức serotonin bất thường. Nó đóng vai trò quan trọng với việc điều chỉnh tâm trạng cũng như cảm giác hạnh phúc của con người. Dấu hiệu của bệnh rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể khác nhau ở từng đối tượng. Nhất là có sự khác biệt rất rõ giữa người lớn và trẻ em. Cụ thể như sau:. Ở người trưởng thành, dấu hiệu ASPD có thể khác nhau giữa từng người. Hơn nữa, các triệu chứng còn có thể thay đổi theo thời gian. Các triệu chứng có thể gặp bao gồm:. Người bệnh thường đáp lại tình cảm của người khác với thái độ thờ ơ, lạnh lùng. Thậm chí là xem thường hoặc nói những lời nặng nề. Tuy nhiên họ không bao giờ nhận ra hành vi của mình là sai. Trong một số trường hợp, họ đơn giản chỉ là không quan tâm tới hành vi của bản thân cũng như người khác. Các chuyên gia cho biết, chứng ASPD ở người trưởng thành biểu hiện rõ nét nhất thông qua thái độ xem thường. Họ không chấp nhận việc phải sống và làm việc theo quy chuẩn về đạo đức và pháp luật. Người bệnh cũng tự cho rằng họ không liên quan tới các ranh giới hay các quy tắc được ấn định trong xã hội. Đây cũng là nguyên nhân khiến họ thường xuyên nói dối, trộm cắp, lừa đảo và thực hiện các hành vi phản đạo đức, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên họ lại không nghĩ tới hậu quả trước mặt hay sau này. Đối với họ, xã hội đã khai khi đặt ra quá nhiều các nguyên tắc đi ngược với cách họ suy nghĩ. Ngoài những hành vi và suy nghĩ tiêu cực, những người bị ASPD thường cố tỏ ra quyến rũ và lôi cuốn người khác. Họ tận dụng trí thông minh, sự hài hước và nịnh hót để trục lợi cá nhân. Đôi khi người bệnh có thể dùng lời nói hay hành động khiến người khác làm hại bản thân. Người bị ASPD thường có xu hướng hành động mà không quan tâm hậu quả. Họ có thể thường xuyên tham gia các hoạt động nguy hiểm. Sự bốc đồng và xem thường hậu quả có thể khiến cho họ có nguy cơ cao bị nghiện một thứ gì đó. Ví dụ như cờ bạc hay chất kích thích. Người bệnh thường hành động giống như họ có địa vị cao hơn những người xung quanh. Họ quá tự tin vào vai trò của bản thân trong xã hội. Ngoài ra họ còn tin rằng bản thân mình có quyền xem thường người khác. Và họ rất dễ nổi cáu nếu một ai đó không công nhận điều này hay góp ý với họ. Những người bị ASPD có thể cố tình gây ra những tổn thương về cả thể chất lẫn tinh thần cho người xung quanh. Các hành vi xâm phạm có thể là hạ thấp nhân phẩm, lăng mạ, nói xấu, sỉ nhục công khai. Thậm chí là bạo lực hay cưỡng bức. Mặc dù không phổ biến nhưng trẻ em cũng có thể bị ảnh hưởng bởi chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Trong những trường hợp này, bác sĩ thường dùng thuật ngữ “rối loạn hành vi” để nói về những bệnh nhi thường xuyên có các hành vi chống đối xã hội. Khác với bệnh nhân trưởng thành, các bệnh nhi thường có xu hướng tự phá vỡ các quy tắc được gia đình và nhà trường đề ra. Ví dụ như bỏ học, không về nhà đúng giờ hay bỏ nhà đi. Chúng không hề lo sợ trước các hành vi của mình. Thậm chí sự cấm đoán, trách phạt của người lớn còn khiến chúng thích thú hơn với việc phá vỡ các quy tắc. Trẻ bị ASPD thường có biểu hiện phá hoại liên tục với mức độ tăng dần lên. Bao gồm làm bẩn tường công cộng cho tới trộm cắp, đột nhập vào nhà người khác hay thích thú với các chất gây cháy nổ… Ngay khi phải chịu hậu quả với những hành động sai trái của mình thì trẻ vẫn tiếp tục thực hiện chúng. Tương tự như người lớn, trẻ mắc chứng ASPD thích các hoạt động bạo lực. Chúng thường liên quan tới các hành vi xâm phạm người khác qua lời nói hay thể chất, từ nhẹ cho đến nghiêm trọng. Các hành vi này có thể bao gồm sử dụng vũ khí, liên tục đấm đá vào người khác, xúc phạm người khác, tra tấn động vật…. Thay vì khóc lóc, vòi vĩnh để có được thứ mình muốn thì những đứa trẻ bị ASPD sẽ nói dối và đánh cắp. Chúng cũng có thể giả vờ ngọt ngào hay quyến rũ khác thường để có được những thứ chúng muốn. Các chuyên gia cho biết, chứng ASPD tác động rất lớn tới khả năng hoạt động của một người. Nó có thể gây khó khăn trong việc đối phó với nhiều khía cạnh của cuộc sống. Theo DSM-5, chứng rối loạn này có thể dẫn tới việc bị giam giữ, bị thương hay tử vong do hành động có hại hoặc phạm tội. Ảnh hưởng tới khả năng làm việc cũng như duy trì các mối quan hệ của một cá nhân. Có khả năng gây tổn hại cho bạn bè, người thân, đồng nghiệp và cả những người lạ do hành động của người bệnh. Những người bị rối loạn nhân cách xã hội thường rất khó để tin rằng họ cần đến sự giúp đỡ. Tuy nhiên, họ có thể tìm kiếm sự giúp đỡ vì các triệu chứng khác. Ví dụ như trầm cảm, lo lắng, bộc phát tức giận. Hay khi họ có nhu cầu điều trị lạm dụng chất gây nghiện. Trong một số trường hợp, người bị rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể không cung cấp thông tin chính xác về các dấu hiệu và triệu chứng. Yếu tố chính trong chẩn đoán là cách người bệnh liên hệ và gắn kết với những người khác. Với sự cho phép, gia đình và bạn bè có thể sẽ cung cấp thông tin hữu ích. Sau khi đánh giá y tế để loại trừ các tình trạng khác, bác sĩ có thể giới thiệu người bệnh tới chuyên gia sức khỏe tâm thần để đánh giá thêm. Đánh giá tâm lý khám phá cảm xúc, suy nghĩ, các mối quan hệ, kiểu hành vi và lịch sử gia đình. Các triệu chứng được liệt kê trong DSM-5 của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ. Mặc dù ASPD thường không được chẩn đoán trước 18 tuổi nhưng một số dấu hiệu và triệu chứng có thể xảy ra ở thời thơ ấu hay những năm đầu thiếu niên. Thường xảy ra ở những trẻ có bằng chứng về các triệu chứng rối loạn ứng xử trước tuổi 15. Rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường gặp khó khăn trong vấn đề điều trị vì một số lý do. Đặc biệt, những người mắc phải chứng rối loạn này thường hiếm khi tự tìm cách điều trị. Họ thường chỉ nhận được sự điều trị sau một số xung đột liên quan đến pháp luật. Thực tế cho thấy, những người bị ASPD thường tiếp xúc với hệ thống tư pháp hình sự. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ ra rằng, việc giam giữ hay các biện pháp trừng phạt gần như không hiệu quả. Bởi những người mắc chứng bệnh này thường không phản ứng với các hình phạt. Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) có thể hữu ích trong việc giúp những người mắc chứng ASPD có được cái nhìn sâu sắc hơn về hành vi của họ. Đồng thời có sự thay đổi các kiểu suy nghĩ không phù hợp. Kết quả hiệu quả thường chỉ nhận được sau khi điều trị lâu dài. Liệu pháp nhóm và gia đình cũng như các liệu pháp dựa trên tinh thần, nhằm vào khả năng nhận biết và hiểu trạng thái tinh thần của bản thân và người khác cũng đã được nghiên cứu về ASPD đánh giá là cho thấy nhiều hứa hẹn. Thuốc có thể được sử dụng nhằm điều trị một số triệu chứng mà những người bị ASPD có thể gặp phải. Một số loại thuốc có thể được bác sĩ kê toa bao gồm:. Tất cả loại thuốc này đều cần sử dụng theo chỉ định của bác sĩ. Tuyệt đối không được tùy tiện điều chỉnh liều lượng, tần suất hay thời gian dùng thuốc khi chưa có chỉ dẫn từ bác sĩ. Nếu trong quá trình điều trị bằng thuốc gặp các vấn đề bất thường hãy báo ngay cho bác sĩ để được xử lý kịp thời. Những người bị rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường sẽ có hành động và làm cho người khác đau khổ. Tuy nhiên chính họ lại không có cảm giác hối hận. Nếu bạn có người thân bị ASPD điều quan trọng là bản thân bạn cũng cần được giúp đỡ. Chuyên gia sức khỏe tâm thần có thể dạy bạn một số kỹ năng để học cách thiết lập ranh giới và giúp vảo vệ bản thân khỏi sự bạo lực, hung hăng và tức giận của người bị ASPD. Ngoài ra, bạn cũng cần trang bị các chiến lược để đối phó với người bệnh. Rối loạn nhân cách chống đối xã hội gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng trong cuộc sống của chính người bệnh và những người xung quanh. Đặc biệt chứng bệnh này khiến cho hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội gia tăng. Cần điều trị theo chỉ dẫn của bác sĩ để sớm kiểm soát tiến triển của bệnh, hạn chế phát sinh rủi ro. Rối loạn nhân cách kịch tính (HPD) là một dạng rối loạn nhân cách đặc trưng bởi sự phổ biến của hình thái cảm xúc quá mức, luôn tìm kiếm. Rối loạn nhân cách là một dạng rối loạn tâm thần xảy ra phổ biến, đặc trưng bởi lối suy nghĩ và hành vi cứng nhắc, không lành mạnh. Rối loạn nhân cách ranh giới hay rối loạn nhân cách cảm xúc không ổn định là một dạng rối loạn cảm xúc, đặc trưng bởi những hành vi, suy. Rối loạn nhân cách phân liệt (SPD) là một tình trạng mãn tính, đặc trưng bởi sự cô lập xã hội và cảm giác thờ ơ với người khác.
Rối loạn nhân cách chống xã hội
Rối loạn nhân cách chống xã hội (tiếng Anh: Antisocial personality disorder, hay viết tắt là ASPD) là một trạng thái không bình thường của nhân cách biểu hiện chủ yếu bằng sự khó hoặc không thích ứng thường xuyên với các quy tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Đây là một dạng trong nhóm bệnh rối loạn nhân cách. Không quá ngạc nhiên khi các nghiên cứu chỉ ra rằng rối loạn nhân cách chống xã hội có tỷ lệ cao ở tù nhân (những người thường có hành vi bạo lực), tương tự như vậy người lạm dụng rượu và các chất gây nghiện cũng được ghi nhận là có nhiều khả năng mắc hơn so với cộng đồng. Trong suốt thế kỷ trước các nhà nghiên cứu và các bác sĩ lâm sàng đã sử dụng các nhiều thuật ngữ đa dạng để miêu tả ASPD chẳng hạn như bệnh xã hội (sociopathy), đạo đức suy đồi (moral insanity). Kraepelin và Schneider thì dùng từ bệnh nhân cách (psychopathy) để chỉ loại rối loạn này, tuy nhiên về sau thuật ngữ trên bị áp dụng một cách quá rộng rãi để chỉ tất cả các loại rối loạn nhân cách.
Phát hiện chuyển động là quá trình phát hiện sự thay đổi vị trí của vật thể so với môi trường xung quanh hoặc thay đổi môi trường xung quanh một cách tương đối so với vật thể. Phát hiện chuyển động có thể đạt được bằng phương pháp cơ học hoặc điện tử. Khi phát hiện chuyển động được thực hiện bởi các cơ quan sinh học tự nhiện, nó được gọi là nhận thức chuyển động. Hình thức cơ bản nhất của phát hiện chuyển động cơ học là ở dạng công tắc hoặc bộ kích hoạt. Ví dụ, các phím của máy đánh chữ sử dụng phương pháp cơ học để phát hiện chuyển động. Mỗi phím là một công tắc thủ công tắt hoặc bật. Mỗi chữ cái xuất hiện là kết quả của chuyển động trên phím chử và đóng một công tắc tương ứng. Các ứng dụng chủ yếu là phát hiện xâm nhập trái phép, tắt mở nguồn sáng tự động, và phát hiện chuyển động để kích hoạt ghi hình các sự kiện tiếp theo. Các thuật toán phức tạp hơn sẽ có thể phát hiện chuyển động khi máy ảnh tự di chuyển hoặc khi chuyển động của một đối tượng cụ thể phải được phát hiện trong môi trường có nhiều chuyển động khác có thể bị bỏ qua.Ví dụ như một bức tranh được bao quanh bởi du khách trong một phòng trưng bày nghệ thuật. Đối với trường hợp máy ảnh chuyển động, các mô hình toán dựa trên dòng quang được sử dụng để phân biệt sự dịch chuyển của hình nền và sự dịch chuyển của các đối tượng độc lập. Máy dò chuyển động là một thiết bị phát hiện các vật thể chuyển động, đặc biệt là con người. Một thiết bị như vậy thường được tích hợp như một thành phần của hệ thống tự động thực hiện một tác vụ hoặc cảnh báo người dùng chuyển động trong một khu vực. Một cảm biến chiếm chỗ phát hiện sự hiện diện của một thực thể trong một không gian nhất định. Bộ điều khiển chuyển động cũng được sử dụng cho các máy chơi game video như là một thiết bị điều khiển. Một máy ảnh cũng có thể dùng chuyển động của cơ thể như một kênh thông tin đầu vào, chẳng hạn như trong hệ thống Kinect.
Chuyển động tròn
Trong vật lý, chuyển động tròn là chuyển động quay của một chất điểm trên một vòng tròn: một cung tròn hoặc quỹ đạo tròn. Nó có thể là một chuyển động đều với vận tốc góc không đổi, hoặc chuyển động không đều với vận tốc góc thay đổi theo thời gian. Các phương trình mô tả chuyển động tròn của một vật không có kích thước hình học, đúng hơn là chuyển động của một điểm giả định trên một mặt phẳng. Trong thực tế, khối tâm của vật đang xét có thể được coi là chuyển động tròn. Ví dụ chuyển động tròn của một vệ tinh nhân tạo bay quanh Trái Đất theo một quỹ đạo địa tĩnh, một hòn đá được cột với một sợi dây và quay tròn (ném tạ), một chiếc xe đua chạy qua một đường cong trong một đường đua, một electron chuyển động vuông góc với một từ trường đều, và bánh răng quay trong một máy cơ khí. Chuyển động tròn là không đều ngay cả khi vận tốc góc ω không đổi, bởi vì vector vận tốc v của điểm đang xét liên tục đổi hướng. Sự thay đổi hướng của vận tốc liên quan đến gia tốc gây ra do lực hướng tâm kéo vật di chuyển về phía tâm của quỹ đạo tròn.
Lịch sử của grand slam như thế nào và ai mới là người mang grand slam vào trong quần vợt? Tất cả những thắc mắc này sẽ được giải đáp ngay thông qua bài viết sau đây. 4 giải này do đó cũng gọi là các giải Grand Slam, và được xem như là những giải đấu quan trọng nhất trong năm, cả đối với đại đa số khán giả cũng như về điểm xếp hạng và tiền thưởng cho đấu thủ. Các chức vô địch 4 giải cũng đều được gọi là các danh hiệu Grand Slam. Thắng được cả bốn giải Grand Slam trong cùng một năm chính là thành tích tột đỉnh của một đấu thủ quần vợt. Cho đến nay trong lịch sử chỉ có 2 tay vợt nam (Don Budge-1938 và Rod Laver-1962, 1969) và 3 tay vợt nữ (Maureen Connolly-1953, Margaret Court-1970, và Steffi Graf-1988) đã đạt được thành tích xuất sắc này. Thuật ngữ Grand Slam được ký giả người Mỹ John Kieran đã dùng lần đầu tiên cho môn quần vợt vào năm 1933, khi ông miêu tả về nỗ lực của Jack Crawford giành cả 4 giải đấu lớn năm đó, nhà báo đã so sánh như “một cú grand slam trong bài bridge”. Tuy nhiên, trong trận chung kết giải Mỹ mở rộng, Crawford đã không thể vượt qua được Fred Perry. Mãi cho đến năm 1938 mới có người đầu tiên giành được Grand Slam là Don Budge. Từ Grand Slam thoạt tiên chỉ thắng lợi trong các giải quần vợt chính, sau đó đã được dùng trong các môn thể thao khác với nghĩa tương tự, chẳng hạn trong môn đánh golf. Grand Slam là 4 giải thưởng chính của một mùa quần vợt trong năm bởi lẽ đó là 4 giải đấu có mức tiền thưởng cao nhất, mang nhiều điểm xếp hạng nhất và cũng chính là những giải đấu được biết đến nhiều nhất. Duy nhất các trận đấu ở Grand Slam thi đấu theo thể thức 5 set & thắng 3 (Đơn Nam), set thứ 5 không sử dụng tie-break; vì vậy, đòi hỏi các tay vợt Nam cần phải có nền tảng thể lực rất tốt để thi đấu. Như chúng ta đã biết, 4 giải đấu lớn nhất trong 1 năm của quần vợt hiện nay đó là Australian Open, Roland Garros, Wimbledon và US Open. Dù lịch sử các giải đấu đã có từ rất lâu (như Wimbledon lần đầu tổ chức năm 1877) nhưng phải cho đến năm 1925, khi mà Roland Garros cho phép các VĐV nước ngoài tham dự, đó mới được coi như thời điểm mà “Grand Slam” ra đời. Vậy, ai mới là người đã mang cụm từ đó vào trong tennis?. Đã có một sự nhầm lẫn trong thời gian dài về người đã lần đầu tiên áp dụng về thuật ngữ “Grand Slam” vào môn quần vợt. Trong một bài báo vào tháng 10/1933, John Francis Kieran (1892 – 1981), cây bút thể thao của tờ báo New York Times,nói: “Nếu Crawford (tay vợt đã giành 3 danh hiệu lớn vào năm 1933) thắng, điều đó như là ghi một cú ‘Grand Slam’ trên sân quần vậy”. Người có công phát hiện ra Alan Gould đó chính là nhà báo, BLV huyền thoại Bud Collins, ông được mệnh danh là “Google của tennis”. Trong cuốn sách “Lịch sử tennis” phát hành năm 2008, Collins đã ngụ ý sự nhầm lẫn trên là vì bài viết của Kieran được đăng trên tờ báo lớn New York Times nên nhiều người biết hơn, trong khi Gould thì ít nổi tiếng hơn khi làm việc ở tờ địa phương ở Pennsylvania. Trước đó, vào năm 1930, trong thể thao có môn golf cũng dùng ‘Grand Slam’ để miêu tả về chiến tích giành 4 danh hiệu lớn của Bobby Jone trong một mùa giải. Bài viết trên đây đã giúp bạn hiểu rõ hơn về grand slam là gì trong quần vợt. Hy vọng qua bài viết này, bạn đã có thêm nhiều kiến thức hay về môn tennis.
Grand Slam (quần vợt)
Mỹ Mở rộng4 giải này do đó cũng gọi là các giải Grand Slam, và được xem là những giải đấu quan trọng nhất trong năm, cả đối với đại đa số khán giả cũng như về điểm xếp hạng và tiền thưởng cho đấu thủ. Các chức vô địch 4 giải cũng được gọi là các danh hiệu Grand Slam. Thắng được cả bốn giải Grand Slam trong cùng một năm là thành tích tột đỉnh của một đấu thủ quần vợt. Cho tới nay trong lịch sử chỉ có 2 tay vợt nam (Don Budge-1938 và Rod Laver-1962, 1969) và 3 tay vợt nữ (Maureen Connolly-1953, Margaret Court-1970, và Steffi Graf-1988) đã đạt được thành tích này. Thuật ngữ Grand Slam được ký giả Mỹ John Kieran dùng lần đầu tiên cho môn quần vợt năm 1933. Khi miêu tả nỗ lực của Jack Crawford giành cả bốn giải đấu lớn năm đó, nhà báo đã so sánh như "một cú grand slam trong bài bridge". Tuy nhiên, trong trận chung kết giải Mỹ mở rộng, Crawford đã không vượt qua được Fred Perry. Mãi đến năm 1938 mới có người đầu tiên giành được Grand Slam là Don Budge.
Nếu là một tín đồ của Phật giáo chắc hẳn ai cũng biết đến câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Vậy ý nghĩa câu Nam Mô A Di Đà Phật là gì? Câu niệm có tác dụng như thế nào? Cùng chúng tôi đi giải nghĩa chi tiết trong bài viết này. Nếu ai yêu thích Phật giáo chắc chắn không thể không biết đến câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu hết được ý nghĩa thật sự của câu chú. Theo quan niệm của Phật Giáo, Nam Mô A Di Đà Phật có nghĩa Lục Tự Hồng Danh được dịch là (Danh lớn 6 chữ). Sáu chữ này đã được lưu truyền ngàn đời không những trong giới Phật Giáo mà còn có sức ảnh hưởng sâu rộng khắp thế giới. Cụ thể ý nghĩa câu Nam Mô A Di Đà Phật như sau:. Nam Mô: Có nghĩa là kính lễ, quy y, cứu độ, thờ phụng, quy mạng. Hiểu một cách đơn giản là quyết tâm vâng theo và nương tựa, gửi đời cho nhà Phật. Khi các phật tử niệm Nam Mô là giai đoạn bắt đầu đi trên con đường Giác Ngộ, tránh xa mọi tội lỗi để về với Đức Phật từ bi. A Di Đà: Có nghĩa là Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ. Từ này dùng để chỉ năng lực bất tư nghị của Đức Di Đà. Phật tử phải duy trì niệm trên suốt con đường Giác Ngộ của mình. Ý nghĩa của câu Nam Mô A Di Đà Phật là Kính lễ, thể hiện sự tôn kính với đấng Giác ngộ vô lượng. Hoặc cũng có thể hiểu là con quay về nương tựa nơi cửa Phật, nương tựa vào đấng Giác ngộ vô lượng. A Di Đà Phật là một trong những vị Phật quan trọng nhất của giới Phật giáo bắc tông. Ngài được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như Vô Lượng Quang Phật, Vô Lượng Phật hay Vô Lượng Thọ Phật. Niệm Phật A Di Đà là một trong những cách tu dễ dàng và nhanh chóng để thành chính quả. Khi niệm cần dùng tâm để cảm, trau dồi đức hạnh và xoa dịu đi những khổ đau cho mình cùng những người xung quanh. Niệm Phật A Di Đà còn giúp phật tử tự chuyển hóa ý nghĩ, hành động và lời nói của mình trở nên thiện lành hơn. Với 48 lời nguyện, phật tử sẽ đạt tới tánh thanh tịnh của chính mình. Bằng việc tự chánh niệm phật con người sẽ thoát khỏi vực thẳm của tội lỗi. Đây là ánh sáng thức tỉnh cho mỗi người. Lúc này, tâm sẽ cảm được những ý nghĩa tốt đẹp từ cuộc sống. Qua bốn đức tính như: Từ, Bi, Hỷ, Xả, người niệm phật sẽ biết cách sống có đạo đức hơn. Niệm phật A Di Đà giúp chúng ta thoát khỏi dục vọng, sự tham lam và thèm khát thay vào đó là một tâm hồn trong sáng, thoát khỏi mọi đau khổ. Niệm phật giúp con người sống tích cực hơn trong cả suy nghĩ và hành động. Niệm phật giúp chúng ta có thêm niềm tin, hy vọng vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Niệm Phật như một lời nhắc chúng ta là con của Phật, mọi suy nghĩ và hành động đều phải tuân theo lời răn của Phật. Khi biết được ý nghĩa câu Nam Mô A Di Đà Phật chắc chắn bạn sẽ thấy việc niệm Phật có phần quan trọng như thế nào trong cuộc sống. Tuy nhiên, để niệm đúng cách, chúng ta phải coi đây như là một lời nhắc nhở rằng mình là con của Phật. Mọi suy nghĩ và hành động đều phải tuân theo lời dạy của Người. Chúng ta cần thực hành theo những điều kiện dưới đây:. Chăm chỉ nghiền ngẫm giáo pháp của Phật, lấy đó là nền tảng phát triển tư duy và trí tuệ. Phát tâm Bồ đề đến nhiều người khác, hướng dẫn họ đi theo con đường chân chính để được hưởng hạnh phúc lâu dài. Để đạt được tới cảnh giới nhất tâm bất loạn, tâm hồn chúng ta phải ở trong trạng thái tĩnh lặng. Muốn đạt tới trạng thái này, phật tử phải phát tâm Bồ đề với mong muốn giác ngộ thoát khỏi mọi ưu phiền và ra sức giúp đỡ chúng sinh.
A-di-đà
A-di-đà Phật (chữ Hán: 阿彌陀佛) được phiên âm từ Amitābha, hay còn được biết đến với tên gọi Amida hoặc Amitāyus (trong tiếng Sankrit Amitābha có nghĩa là ánh sáng vô lượng, Amitāyus có nghĩa là thọ mạng vô lượng, nên A-di-đà Phật được xem là đức Phật Vô Lượng Thọ Vô Lượng Quang) hoặc Tiếp Dẫn đạo sư (Vị thầy đạo tiếp đón chúng sinh, hai tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa và Tây du ký có 1 nhân vật có tên này nhưng được miêu tả có ngoại hình khác) là một trong những vị Phật được thờ trong Phật giáo Đại thừa, ngụ ở tịnh độ của mình và đến thế giới này với vai trò là một thế lực cứu độ. Theo Đại Kinh A-Di-Đà hay Đại Kinh Sukhāvatīvyūha, trong một kiếp sống trước đây A-Di-Đà là một vị tăng tên là Pháp-tạng hay Dharmākara, ông nguyện khi đắc quả Phật sẽ tịnh hoá và trang nghiêm một thế giới và biến nó thành một trong những quốc độ thanh tịnh và đẹp đẽ nhất. Một khi ông hoàn toàn tỉnh giác và thành tựu lời nguyện của mình, Dharmākara sẽ trở thành Phật A-Di-Đà. Phật A-Di-Đà giờ đây đang cư ngụ tại thế giới đã tịnh hoá, gọi là Sukhāvatī (Cực lạc) tịnh độ ở phía phương Tây.
Máy làm đá, hoặc máy tạo đá là một thiết bị làm đá viên lạnh với sản lượng lớn hơn nhiều so với tủ lạnh; một thiết bị hoạt động độc lập sản xuất nước đá, hoặc một máy công nghiệp tự động sản xuất nước đá trên quy mô lớn. Thuật ngữ”máy làm đá”thường dùng để chỉ những thiết bị độc lập. Các máy tạo băng là một phần của máy làm đá trên thực tế sản xuất đá. Máy này bao gồm các thiết bị bay hơi và bất kỳ thiết bị điều khiển/khung giữ có liên quan trực tiếp với việc làm và đẩy đá đã đông vào một kho lưu trữ. Hầu hết mọi người nói tới máy làm đá, họ nói đến hệ thống phụ tự làm đá này. Một máy nước đá, đặc biệt nếu mô tả là ‘đóng gói’, thường sẽ là một hệ thống hoàn chỉnh bao gồm cả tủ lạnh và bộ phận điều khiển, chỉ yêu cầu nối điện và cung cấp nguồn nước là hoạt động. Thuật ngữ làm đá khá là mơ hồ, với một số nhà sản xuất mô tả máy đóng gói nước đá của họ như là một máy làm đá, trong khi những người khác mô tả tủ lạnh của họ theo cách này. Trong năm 1748, điện lạnh nhân tạo đầu tiên được biết đến đã được chứng minh bởi William Cullen tại Đại học Glasgow. Trong năm 1844, nhà vật lý người Mỹ, John Gorrie, xây dựng một tủ lạnh dựa trên thiết kế Oliver Evans ‘để làm nước đá làm mát không khí cho bệnh nhân sốt vàng da của mình. Trong năm 1851, John Gorrie được trao bằng sang chế US 8080 cho một máy tạo đá. Trong năm 1853, Alexander Twining đã được trao bằng sáng chế US 10221 cho một máy làm đá. Trong năm 1855, James Harrison nhận bằng sáng chế tương tự cho một máy làm đá tại Úc. Năm 1867, Andrew Muhl xây dựng một nhà máy làm đá tại San Antonio, Texas, để giúp mở rộng phục vụ ngành công nghiệp thịt bò trước khi di chuyển nó đến Waco năm 1871. Năm 1873, bằng sáng chế cho máy này đã được ký hợp đồng với Columbus Iron Works, là nhà sản xuất băng thương mại đầu tiên của thế giới. William Riley Brown từng là chủ tịch của hãng và George Jasper Vàng từng là giám đốc. Năm 1902, gia đình Teague của Montgomery đã mua quyền kiểm soát công ty. Quảng cáo cuối cùng của họ trong Ice and Refrigeration xuất hiện tháng 3 năm 1904. Tất cả thiết bị làm lạnh gồm bốn thành phần chính; các thiết bị bay hơi, bình ngưng, máy nén và van tiết lưu. Máy làm đá hoạt động theo cách tương tự. Các chức năng của máy nén là để nén áp suất thấp làm lạnh hơi với hơi áp suất cao, và cung cấp cho bình ngưng. Ở đây, hơi áp suất cao được ngưng tụ thành chất lỏng áp suất cao, và để ráo nước ra qua van tiết lưu để trở thành chất lỏng áp suất thấp. Tại thời điểm này, chất lỏng được thực hiện để các thiết bị bay hơi, nơi mà nhiệt trao đổi xảy ra, và đá được tạo ra. Đây là một chu kỳ làm lạnh hoàn chỉnh. Máy làm đá tự động cho gia đình đầu tiên được cung cấp bởi công ty Servel khoảng năm 1953. Chúng thường được tìm thấy bên trong ngăn đá tủ lạnh. Họ sản xuất đá viên hình lưỡi liềm từ một khuôn kim loại. Một bộ đếm thời gian điện hoặc điện tử đầu tiên mở một van solenoid cho một vài giây, cho phép các khuôn để lấp đầy với nước từ các nguồn cung cấp nước lạnh trong nước. Các bộ đếm thời gian sau đó đóng các van và cho phép đóng băng nước đá khoảng 30 phút. Sau đó, bộ hẹn giờ bật một công suất thấp yếu tố nhiệt điện bên trong các khuôn mẫu cho một vài giây, để làm tan chảy khối băng hơi vì vậy họ sẽ không dính vào khuôn. Cuối cùng, bộ đếm thời gian chạy một cánh tay xoay muỗng rằng các khối đá ra khỏi khuôn vào một thùng, và chu kỳ lặp đi lặp lại. Nếu thùng chứa đầy nước đá, băng đẩy lên một cánh tay dây, tắt làm đá cho đến khi mực nước đá trong thùng đi xuống một lần nữa. Người dùng cũng có thể nâng lên cánh tay dây bất cứ lúc nào để ngăn chặn việc sản xuất nước đá. Các nhà sản xuất nước đá bỏ đá vào một thùng trong ngăn đá; người sử dụng đã phải mở cửa tủ lạnh để có được đá. Năm 1965, Frigidaire giới thiệu máy làm đá phân phối từ mặt trước của cửa tủ đông. Trong các mô hình này, nhấn một kính chống lại một cái nôi ở bên ngoài cửa chạy một động cơ, mà biến một máy khoan trong bin và mang viên đá vào ly. Hầu hết các máy rút có thể tùy chọn tuyến đường băng qua một cơ chế nghiền để cung cấp đá bào. Một số máy rút cũng có thể phân chia nước lạnh. Máy làm đá di động có thể phù hợp trên một mặt bàn. Máy làm đá di động nhỏ và làm đá nhanh nhất trên thị trường. Các băng được sản xuất bởi một bị làm đá di động hình đạn và có nhiều mây, xuất hiện mờ đục. Các lô đầu tiên của nước đá có thể được thực hiện trong vòng 10 phút. Nước được bơm vào bồn nhỏ với chốt kim loại ngâm trong nước. Các chốt có một hệ thống làm mát và sưởi ấm bên trong mà đóng băng các nước xung quanh họ và sau đó nóng lên vì vậy các băng trượt khỏi khung và rơi vào thùng chứa. Máy làm đá di động sẽ không giữ đá khỏi tan chảy, nhưng thiết bị này sẽ tái chế nước để làm đá. Máy làm đá xây dựng trong được thiết kế để phù hợp cho nhà bếp hoặc quầy bar, nhưng chúng có thể được sử dụng như là đơn vị đứng độc lập. Họ sản xuất đá lưỡi liềm như đá làm từ tủ lạnh. Đá có nhiều mây và đục thay vì rõ ràng, bởi vì các nước đang đóng băng nhanh hơn trong khối rõ ràng. Trong quá trình này, các bong bóng khí nhỏ bị mắc kẹt, gây ra sự xuất hiện của mây băng. Các nhà sản xuất đá viên thương mại cải thiện chất lượng nước đá bằng cách sử dụng nước chuyển động. Các nước đang chạy xuống một bề mặt liên tục tại 0 °C (32 °F) vì chỉ có nước mà không có tạp chất sẽ đóng băng ở nhiệt độ này trên một bề mặt. Nước với các tạp chất đòi hỏi nhiệt độ thấp hơn để đóng băng và sẽ tiếp tục rửa xuống bề mặt và thông qua các cống của một bị làm đá thương mại. Không khí và chất rắn không tan sẽ được rửa sạch đến mức độ như vậy mà trong các máy bay hơi ngang các nước có 98% chất rắn loại bỏ, kết quả là rất khó khăn, hầu như tinh khiết, nước đá rõ ràng. Trong thiết bị bay hơi dọc băng là nhẹ nhàng hơn, nhiều hơn như vậy nếu có các tế bào khối cá nhân thực tế. Máy nước đá thương mại có thể làm cho các kích cỡ khác nhau của băng như flakers, nghiền nát, khối lập phương, hình bát giác, và ống. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Máy làm đá
Máy làm đá, hoặc máy chế tạo đá là một thiết bị làm đá lạnh với số lượng lớn hơn nhiều so với tủ lạnh; một thiết bị hoạt động độc lập sản xuất nước đá, hoặc một máy công nghiệp tự động sản xuất nước đá trên quy mô lớn. Thuật ngữ "máy làm đá" thường dùng để chỉ những thiết bị độc lập. Trên thực tế các máy tạo băng là một phần của máy sản xuất đá. Máy này bao gồm các thiết bị bay hơi và bất kỳ thiết bị điều khiển khung giữ có liên quan trực tiếp với việc làm và đẩy đá đã đông vào một kho lưu trữ. Hầu hết mọi người nói tới máy làm đá, họ nói đến hệ thống phụ tự làm đá này. Một máy nước đá, đặc biệt nếu mô tả là đóng gói , thường sẽ là một hệ thống hoàn chỉnh bao gồm cả tủ lạnh và bộ phận điều khiển, chỉ yêu cầu nối điện và cung cấp nguồn nước là hoạt động. Thuật ngữ làm đá khá là mơ hồ, với một số nhà sản xuất mô tả máy đóng gói nước đá của họ như là một máy làm đá, trong khi những người khác mô tả tủ lạnh của họ theo cách này.
Khi làm bất cứ điều gì, bạn phải hiểu bản chất thực sự của chúng. Chiến lược và chiến thuật là hai thuật ngữ được sử dụng nhiều, thay thế cho nhau trong nhiều bối cảnh. Nhưng ý nghĩa thật sự của chúng là gì, khác biệt ra sao và tại sao nó lại quan trọng?. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu sự khác nhau giữa chiến lược và chiến thuật, cũng như chỉ ra các cách hiệu quả nhất để sử dụng chúng. Khi làm bất cứ điều gì, bạn phải hiểu bản chất thực sự của chúng. Chiến lược và chiến thuật là hai thuật ngữ được sử dụng nhiều, thay thế cho nhau trong nhiều bối cảnh. Nhưng ý nghĩa thật sự của chúng là gì, khác biệt ra sao và tại sao nó lại quan trọng?. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu sự khác nhau giữa chiến lược và chiến thuật, cũng như chỉ ra các cách hiệu quả nhất để sử dụng chúng. Tuy chiến lược và chiến thuật bắt nguồn từ thuật ngữ quân sự, nhưng ứng dụng của chúng đã lan rộng sang nhiều khía cạnh của cuộc sống. Chiến lược là kế hoạch bao quát hoặc chỉ đơn giản là đặt ra các mục tiêu. Thay đổi chiến lược cũng giống như cố gắng xoay chuyển một tàu sân bay, nó có thể được hoàn thành nhưng không phải chuyện một sớm một chiều. Chiến thuật là những hành động hoặc các bước đi cụ thể giúp bạn dễ dàng thực hiện chiến lược của mình hơn. Ví dụ, trong một cuộc chiến, chiến lược của một quốc gia có thể là thuyết phục hoàn toàn được người dân nước đối thủ. Để đạt được điều này, họ có thể sử dụng các chiến thuật như tuyên truyền hoặc xây dựng bệnh viện. Nếu chiến lược của bạn là tham gia vào một nghề nghiệp cụ thể, thì chiến thuật có thể bao gồm chọn môi trường đào tạo, tìm kiếm một người cố vấn tận tâm hoặc đánh bóng tên tuổi của mình so với đối thủ. Chúng ta có thể lập chiến lược cho bất cứ điều gì từ việc đạt được quyền lực chính trị hoặc được thăng chức, để xây dựng mối quan hệ và tăng lượng khán giả của một blog. Bất cứ điều gì chúng ta đang cố gắng làm, chúng ta sẽ làm tốt để hiểu cách thức chiến lược và chiến thuật hoạt động, sự khác biệt và làm thế nào chúng ta có thể phù hợp với cả hai. Không có chiến lược, chúng ta sẽ dễ gặp rủi ro trong cuộc sống, không đảm bảo và lo ngại về việc liệu chúng ta có đạt được tiến bộ theo những gì chúng ta muốn hay không. Không có chiến thuật, chúng ta được định sẵn cả đời với những suy nghĩ mơ ước hoặc sự bất mãn mãn tính. Như Lawrence Freedman viết trong Chiến lược: Lịch sử, “Đối mặt với bất kỳ vấn đề nào hoặc phấn đấu cho bất kỳ mục tiêu nào đều bị coi là cẩu thả nếu không có chiến lược. Chắc chắn, không có chiến dịch quân sự, đầu tư của công ty hay sáng kiến của chính phủ nào có khả năng nhận được sự ủng hộ trừ khi có một chiến lược để đánh giá. Có một lời kêu gọi chiến lược mỗi khi con đường đến một điểm đến nhất định không đơn giản.” Nếu không có chiến thuật, bạn sẽ phụ thuộc vào may mắn thuần túy để thực hiện chiến lược của mình. Để đạt được bất cứ điều gì, chúng ta cần một cái nhìn chính xác về cả vi mô và vĩ mô, khu rừng và cây cối, cũng như cách cả hai phối cảnh cùng nhau. Chiến lược và chiến thuật là mối quan hệ bổ sung. Tôn Tử đã nhận ra điều này cách đây hai thiên niên kỷ khi ông khẳng định, “Chiến lược mà không có chiến thuật là con đường chậm nhất để chiến thắng. Còn chiến thuật không có chiến lược là sự ồn ào trước khi bại trận.” Chúng ta cần có một cái nhìn dài hạn và suy nghĩ thấu đáo, trong khi chọn các bước ngắn hạn để thực hiện ngay bây giờ vì lợi ích của những gì chúng ta muốn sau này. Bất cứ khi nào chúng ta quyết định một mục tiêu và đầu tư nguồn lực để đạt được nó, chúng ta sẽ lên chiến lược. Một định nghĩa đương đại phổ biến mô tả chiến lược là việc duy trì sự cân bằng giữa các mục đích, cách thức và phương tiện; về việc xác định mục tiêu; và về các nguồn lực và phương pháp có sẵn để đáp ứng các mục tiêu đó. Sự cân bằng này đòi hỏi không chỉ tìm ra cách đạt được kết thúc mong muốn mà còn điều chỉnh các đầu cuối để có thể tìm ra các cách thực tế để đáp ứng chúng bằng các phương tiện có sẵn. Trong Chiến lược lớn của đế chế La Mã, Edward N. Luttwak viết rằng chiến lược “ không phải l việc di chuyển quân đội qua địa lý, như trong các trò chơi trên bàn cờ. Nó bao gồm toàn bộ cuộc đấu tranh của các thế lực thù địch, vốn không cần phải có một chiều không gian ở tất cả các môn phái.” Khi bạn nghĩ về một cuộc chiến thắng lợi, Ý nghĩa thực sự có chiến thắng đó là gì? Lịch sử có đầy đủ các ví dụ về các cuộc chiến tranh đã được chiến thắng trên giấy, chỉ được khởi động lại ngay khi đối thủ có thời gian tập hợp lại. Vì vậy, chính xác trong mục tiêu của bạn, để bao gồm toàn bộ những gì bạn muốn đạt được, là cần thiết để đưa ra một chiến lược tốt. Chiếc lược không có nghĩa thành công trong thời điểm này, mà là thành công trong dài hạn. Đó là khác biệt giữa sự kết thúc của WWI và WWII. Chiến tranh thế giới thứ nhất là thắng một cuộc chiến. Thế chiến II đồng nghĩa với việc chúng ta không bao giờ chiến đấu với một cuộc chiến như vậy nữa. Các chiến lược được khớp nối và theo đuổi bởi Hiệp ước Versailles và Kế hoạch Marshall có đầy đủ các chiến thuật khác nhau. Trong "Chiến lược tốt, Chiến lược tồi", Richard Rumelt viết: “Ý tưởng cơ bản nhất về chiến lược là ứng dụng sức mạnh chống lại điểm yếu. Hoặc nếu bạn thích, sức mạnh được áp dụng cho cơ hội hứa hẹn nhất. Một chiến lược tốt không chỉ cần dựa vào sức mạnh hiện có; chiến lược đó tự tạo ra sức mạnh.” Định nghĩa của Rum Rumelt về chiến lược tạo ra sức mạnh là đặc biệt quan trọng. Bạn sẽ không cạn kiệt khi bạn thực hiện chiến lược của mình. Bạn chọn chiến thuật củng cố và xây dựng sức mạnh khi chúng được triển khai. Trở lại chiến thắng trái tim và tâm trí - chiến thuật đòi hỏi chi phí trả trước. Nhưng khi họ tiến hành, chiến lược mở ra, sức mạnh và sự hỗ trợ có được nhờ người dân địa phương. Một chiến lược tốt làm cho bạn mạnh mẽ hơn. Tập trung vào mục tiêu cuối cùng của bạn và hành động để đạt được nó. Nhà lý thuyết chiến lược Henry Mintzberg cung cấp một cách tiếp cận hữu ích để suy nghĩ về chiến lược trong các tình huống bất lợi. Theo Mintzberg, có năm thành phần chính:. Kế hoạch: Một loạt các hành động được lựa chọn có ý thức để đạt được mục tiêu, được thực hiện trước. Mưu đồ: Một nỗ lực cố ý để gây nhầm lẫn, đánh lừa hoặc đánh lạc hướng đối thủ. Mô hình: Một chuỗi các hành động nhất quán, lặp đi lặp lại để đạt được kết quả mong muốn. Vị trí: Một mối quan hệ được xem xét giữa một thực thể (tổ chức, quân đội, cá nhân, v.v.) và bối cảnh của nó. Quan điểm: Một cách nhìn thế giới cụ thể, một suy nghĩ liên quan đến các hành động dẫn đến một cách hành xử khác biệt. Geoffrey P. Chamberlain cung cấp một quan điểm hơi khác về các thành phần của chiến lược, hữu ích khi chiến lược thiên về mục tiêu cá nhân. Ông xác định bảy phần:. Một chiến lược được cố ý hình thành hoặc xuất hiện một cách tự nhiên. Theo Rumelt, một chiến lược phải bao gồm tiền xử lý, dự đoán hành vi của người khác và thiết kế có chủ đích các hành động phối hợp với nhau. Theo nguyên tắc chung, chiến lược quan trọng hơn trong các tình huống mà các bên khác có khả năng cản trở hoặc phá vỡ các hành động, hoặc khi kế hoạch của chúng ta gặp rủi ro nếu chúng ta không thực hiện các bước có ý nghĩa để đạt được chúng. Chiến lược tốt đòi hỏi chúng ta phải tập trung vào một mục tiêu và dự đoán những trở ngại để đạt được mục tiêu đó. Khi chúng ta gặp chướng ngại vật, chúng ta có thể cần phải sử dụng những gì Freedman gọi là lừa dối, lừa đảo, lừa đảo, điều động và một chiến thuật nhanh nhẹn hơn. “Các chiến thuật gia khéo léo có thể được ví như Shuai-Jan. Shuai-Jan là một con rắn được tìm thấy ở vùng núi Ch’ang . Khi tấn công vào đầu của nó, và bạn sẽ bị tấn công bởi cái đuôi của nó; tấn công vào đuôi của nó, và bạn sẽ bị tấn công bởi cái đầu của nó; tấn công vào giữa của nó, và bạn sẽ bị tấn công bởi cả đầu và đuôi.”. Ngay cả chiến lược được lên kế hoạch tốt, hoàn hảo nhất cũng vô dụng nếu chúng ta không thực hiện các bước chu đáo để đạt được nó. Mặc dù mục tiêu chung vẫn ổn định, các bước chúng ta thực hiện để đạt được mục tiêu đó phải đủ linh hoạt để điều chỉnh theo thực tế ngắn hạn của tình huống của chúng ta. Từ "Chiến thuật (Tactics)" xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại “taktikos”, mà dịch một cách lỏng lẻo sang “Nghệ thuật sắp xếp”. Bây giờ chúng ta sử dụng thuật ngữ này để biểu thị các hành động hướng tới mục tiêu. Chiến thuật thường tập trung vào việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có, cho dù tiền bạc, con người, thời gian, đạn dược hoặc vật liệu. Chiến thuật cũng có xu hướng ngắn hạn và cụ thể hơn chiến lược. Nhiều chiến thuật là vô tận và đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ hoặc thậm chí hàng thiên niên kỷ. Các chiến thuật quân sự như phục kích, sử dụng thời tiết thịnh hành và phân chia và chinh phục đã có từ lâu khi mọi người chiến đấu với nhau. Điều tương tự cũng áp dụng cho các chiến thuật được sử dụng bởi các chính trị gia và người biểu tình. Các chiến thuật thành công thường bao gồm một ý định thực hiện — Tập hợp một kích hoạt cụ thể báo hiệu khi nào chúng nên được sử dụng. Đơn giản chỉ cần quyết định những gì để làm là hiếm khi đủ. Chúng ta cần kế hoạch hoàn chỉnh, khi nào và tại sao. Bản chất ngắn hạn và tính linh hoạt của các chiến thuật cho phép chúng ta xoay vòng khi cần thiết, lựa chọn phương án phù hợp với tình huống, để đạt được các mục tiêu chiến lược lớn hơn. Mặc dù có thể hoán đổi cho nhau, nhưng chiến lược và chiến thuật vẫn có phần khác nhau. Theo chiến lược gia lão luyện Tôn Tử , chiến lược là về chiến thắng trước khi trận chiến bắt đầu, trong khi chiến thuật là tấn công vào điểm yếu. Cả hai đều là những khái niệm cổ xưa đã trở thành một phần thiết yếu của nhiều ngành học hiện nay và đưa ra những lối tư duy mới vô tận.
Sự khác biệt giữa chiến lược và chiến thuật
Chiến lược là một tập hợp các lựa chọn được sử dụng để đạt được mục tiêu tổng thể trong khi chiến thuật là những hành động cụ thể được sử dụng khi áp dụng những lựa chọn chiến lược đó. Nếu có chiến lược mà không có chiến thuật thì sẽ không biết hành động cụ thể ra sao. Nếu có chiến thuật nhưng không có chiến lược sẽ rối loạn vì không có phương hướng tổng thể dẫn đường. Trong một tổ chức, chiến lược được quyết định bởi hội đồng quản trị cấp cao, và chiến thuật của các trưởng bộ phận được thực hiện bởi cán bộ cơ sở và nhân viên. Trong việc thực thi kế hoạch, kết quả cuối cùng có thể không giống nhau. Đôi khi thành công về chiến lược nhưng thất bại về chiến thuật, hoặc ngược lại, thành công chiến thuật nhưng thất bại về chiến lược. Trong Lịch sử quân sự Mỹ của tác giả Demma, Vincent H, phần viết về chiến tranh Việt Nam có ghi: "chiến thuật dường như tồn tại ngoài những vấn đề lớn hơn, chiến lược và mục tiêu. Tuy nhiên, ở Việt Nam quân đội đã trải qua thành công chiến thuật và thất bại chiến lược.thành công không chỉ nằm trong hiệu quả chiến đấu mà còn trên phân tích chính xác bản chất của cuộc xung đột cụ thể, hiểu chiến lược của kẻ thù, và đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của các đồng minh, chiến tranh cay đắng ở Việt Nam".
Chứng khoán là một lĩnh vực giúp bạn làm giàu rất nhanh chóng nếu bạn hiểu biết rõ. Nhưng nó cũng tìm ẩn nhiều rủi ro nếu như bạn không có đầy đủ kiến thức. Nếu bạn là một người ham học hỏi với tiêu chí làm giàu thì hôm nay chungkhoan sẽ cùng bạn tìm hiểu sàn giao dịch chứng khoán là gì nhé. Trước tiên, một sàn giao dịch chứng khoán là gì? Nói một cách dễ hiểu, một sàn giao dịch chứng khoán là một doanh nghiệp, tổ chức hoặc hiệp hội tổ chức một thị trường nơi cổ phiếu, trái phiếu, quyền chọn, tương lai và hàng hóa được giao dịch. Người mua và người bán đến với nhau để giao dịch trong giờ cụ thể vào ngày làm việc. Trao đổi chứng khoán áp đặt các quy tắc và quy định đối với các doanh nghiệp và môi giới xoay quanh đến họ. Nếu như một công ty chi tiết được giao dịch trên một sàn giao dịch chứng khoán, nó được gọi là “được lên danh sách.”. Chứng khoán không nên lên danh sách trên sàn giao dịch chứng khoán được bán OTC, viết tắt của Over-The-Counter. Các công ty có cổ phiếu giao dịch OTC thường nhỏ hơn và nguy cơ hơn vì họ không đáp ứng các yêu cầu được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán. Nhiều cổ phiếu blue-chip khổng lồ, ví dụ Berkshire Hathaway, đã có lúc giao dịch trên thị trường không cần kê đơn trước khi chuyển sang cái gọi là “Big Board”, hay Sở giao dịch chứng khoán New York. Khi một đơn vị tăng vốn bằng việc phát hành cổ phiếu, chủ có được của những cổ phiếu mới đó có khả năng sẽ muốn bán cổ phần của họ một ngày nào đấy. Có thể họ có một đứa con đi học đại học và cần trang trải hóa đơn học phí. Có lẽ họ qua đời, và bất động sản của họ phải chịu một vài thuế bất động sản nặng. Họ thậm chí có thể để nó cho cháu của họ, những người được hưởng lỗ hổng căn bản tăng cường, nhưng những người thừa kế muốn thanh lý để mua một ngôi nhà. Bất cứ điều gì đang thúc đẩy quyết định của họ, họ sẽ không buộc tiền của mình trừ khi họ biết bằng cách nào đó, vào một thời điểm nào đó, trong tương lai, họ sẽ có thể tìm được người mua để nắm giữ mà không gặp quá nhiều khó khăn là “thị trường thứ cấp.”. Nếu không có sàn giao dịch chứng khoán, những người chủ này sẽ phải đi khắp nơi với bạn bè, thành viên gia đình và thành viên cộng đồng, với mong rằng tìm được ai đó mà họ có khả năng bán cổ phần của mình. (Về mặt kỹ thuật, bạn có thể làm điều này. Bạn không phải bán cổ phiếu của mình trên một sàn giao dịch chứng khoán. Vai trò đầu tiên phải kể đến của sàn giao dịch chứng khoán đấy chính là việc huy động các khoản tiết kiệm để đầu tư, chúng ta có khả năng hiểu là khi toàn bộ mọi người đưa rõ ra những khoản tiền tiết kiệm của mình, thu thập những khoản tiền này để đầu tư, mua các cổ phần. Điều này có công dụng để huy động vốn từ các khoản tiền tiết kiệm của người dân vào việc đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán… thay vì sử dụng số tiền đó để tiêu dùng hay gửi tổ chức tài chính, việc huy động các khoản tiết kiệm để đầu tư giúp cho việc huy động và tái định hướng để thúc đẩy công việc kinh doanh mang lại lợi ích cho mọi lĩnh vực trong nền kinh tế. Như phân tích ở trên chúng ta thấy được những doanh nghiệp, doanh nghiệp được bạn đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu hay chứng khoán sẽ huy động được một khoản tiền từ bạn, khi có nguồn vốn doanh nghiệp doanh nghiệp sẽ có cơ hội để mở rộng sản xuất kinh doanh, ngăn chặn tính bất ổn, tăng thêm các kênh cung cấp, mua thêm nhiều máy móc thiết bị để chiều lòng sản xuất bán hàng, nói nói chung là là việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán…. Đem tới cực kì nhiều lợi ích cho các công ty, mà công ty nào cũng cố gắng đưa công ty lên được sàn giao dịch chứng khoán. Hiện nay tại nước ta có rất nhiều sàn chứng khoán, tuy vậy có 5 sàn được lọt top những sàn chứng khoán khổng lồ nhất như sàn HOSE, HNX, UPCoM, OTC và Vnstockgame. Sàn giao dịch chứng khoán HOSE được ra đời bởi Sở giao dịch chứng khoán cùng tên (tên tiếng Anh: HoChiMinh Stock Exchange, viết tắt HOSE), đây là sàn chứng khoán với lịch sử hình thành và chu trình phát triển lâu bền từ năm 1998, đến thời điểm hiện tại đã đạt cho được cực kì nhiều thành tựu, đem về các danh hiệu, huân chương danh giá từ chính phủ và đảng bộ các cấp. Những cổ phiếu ở HOSE đều được nghiên cứu chọn lọc, được đề cao về giá trị vốn hóa cũng giống như mức thanh khoản rất tích cực. Sàn giao dịch chứng khoán HNX được thành lập bởi Sở giao dịch chứng khoán cùng tên ( tên tiếng Anh: HaNoi Stock Exchange, viết tắt HNX), mặc dù được tạo ra và phát triển sau HOSE tới 7 năm nhưng HNX đã phát triển mau chóng và chủ đạo thức gia nhập Liên đoàn Sở giao dịch chứng khoán Châu Á & châu Đại Dương và trở thành thành viên thứ 19 của liên đoàn này. Hình thức giao dịch của HNX gồm là loại khớp lệnh liên tục cùng deal. Khung giờ hoạt động của HNX là vào 5h45-12h30 sáng và 14h00-17h00 chiều từ thứ 2- thứ 6 mỗi tuần. Sàn giao dịch chứng khoán UPCoM (tên tiếng Anh: Unlisted Public Company Market) được tổ chức bởi Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX). Đây chính là sàn chứng khoán từ công ty đại chúng chưa niêm yết được cam kết quyền lợi của các nhà đầu tư/doanh nghiệp với khung pháp lý thị trường đầy đủ và cơ chế linh hoạt.
Sàn giao dịch chứng khoán
Sàn giao dịch chứng khoán (tiếng Anh: stock exchange, securities exchange hoặc bourse) là một hình thức sàn giao dịch cung cấp cho những người môi giới cổ phiếu và người mua bán cổ phiếu một nền tảng và phương tiện để trao đổi và mua bán các cổ phiếu, trái phiếu cũng như các loại chứng khoán khác. Sàn giao dịch cổ phiếu cũng cung cấp các dịch vụ cho việc phát hành và thu hồi chứng khoán cũng như các phương tiện tài chính và các sự kiện như việc chi trả lợi tức và cổ tức. Chứng khoán được giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán gồm: các cổ phiếu do các công ty phát hành, các chứng chỉ quỹ, các sản phẩm phái sinh, các sản phẩm hợp tác đầu tư và trái phiếu. Các sàn giao dịch chứng khoán hoạt động như một "sàn đấu giá liên tục" – nơi mà người mua lẫn người bán có thể đến gặp nhau và thực hiện giao dịch thông qua việc hô giá công khai (open outcry) tại một sàn giao dịch truyền thống hoặc thông qua sàn giao dịch điện tử. Để có thể giao dịch trên một sàn giao dịch cổ phiếu, cổ phiếu phải được niêm yết ở đó.
Khủng hoảng Suez là kết quả của quyết định bởi Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser vào tháng 7/1956 nhằm quốc hữu hóa 120 dặm Kênh đào Suez vốn trước đó được đồng kiểm soát bởi Anh và Pháp. Quyết định này một phần nhằm tài trợ cho việc xây dựng đập Aswan trên sông Nile, một dự án mà các nước phương Tây đã từ chối tài trợ. Hơn hai phần ba lượng dầu được sử dụng bởi châu Âu được vận chuyển qua tuyến đường thủy mang tính quan trọng chiến lược nối liền Địa Trung Hải và Biển Đỏ này, và Thủ tướng Anh Anthony Eden đã thề đòi lại “con đường huyết mạch vĩ đại của đế chế.”. Pháp, phản đối sự ủng hộ của Nasser dành cho các lực lượng phiến quân tại thuộc địa của quốc gia này là Algeria cũng như việc quốc hữu hóa con kênh được xây dựng dưới thời cựu lãnh sự Pháp Ferdinand de Lesseps vào năm 1869, và Israel, quốc gia đã tham gia vào các cuộc chiến lẻ tẻ với Ai Cập dọc biên giới chung với nước này, đã tham gia cùng với Vương quốc Anh trong một cuộc xâm lược ba bên bắt đầu vào ngày 29/10/1956, khi các lực lượng vũ trang Israel tấn công bán đảo Sinai. Hai ngày sau đó, dưới vỏ bọc bảo vệ kênh đào, các lực lượng Anh và Pháp bắt đầu ném bom các mục tiêu ở Ai Cập. Ngày 5/11, lính dù và thủy quân lục chiến của Anh và Pháp bắt đầu chiếm đóng tại các vị trí chiến lược trong khu vực kênh đào. Liên Hợp Quốc (UN) nhanh chóng thông qua một nghị quyết kêu gọi một lệnh ngừng bắn, và trong một trường hợp hiếm hoi trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, cả Hoa Kỳ và Liên Xô cùng gây áp lực buộc Anh, Pháp và Israel phải rút lui. Liên Xô, quốc gia cung cấp vũ khí và tiền bạc cho Ai Cập, đã đưa ra những lời đe dọa mơ hồ – và đáng ngại – về việc sử dụng vũ khí hạt nhân để hỗ trợ đồng minh, trong khi Hoa Kỳ sử dụng quyền lực kinh tế của mình. Tức giận vì đã không được thông báo trước về cuộc tấn công và lo sợ về một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn ở Trung Đông, Tổng thống Dwight D. Eisenhower đã đe dọa các đồng minh NATO và Israel là sẽ áp đặt lệnh trừng phạt nếu họ không rút các lực lượng của mình. Các đội quân Anh và Pháp đã rời Ai Cập vào tháng 12/1956, và một vài tuần sau đó Eden từ chức. Sau khi Israel rút lui vào tháng 3/1957, Ai Cập mở cửa trở lại kênh đào cho việc vận chuyển thương mại. Khủng hoảng Suez đã chỉ ra rõ ràng rằng các cường quốc thực dân cũ, Anh và Pháp, đã bị thay thế bởi các lực lượng địa chính trị nổi trội của thế giới là Hoa Kỳ và Liên Xô. Cách mạng Văn hóa, với tên gọi đầy đủ là Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản, là một trong những chiến dịch tuyên truyền lớn nhất và quan trọng nhất của Mao Trạch Đông, gây nên một giai đoạn hỗn loạn xã hội kéo dài suốt một thập kỷ tại Trung Quốc.
Kênh đào Suez
Kênh đào Suez (tiếng Việt: Xuy-ê) là kênh giao thông nhân tạo nằm trên lãnh thổ Ai Cập, chạy theo hướng Bắc-Nam đi ngang qua eo Suez tại phía Đông Bắc Ai Cập, nó nối Địa Trung Hải với Vịnh Suez, một nhánh của Biển Đỏ. Kênh đào cung cấp 1 lối đi tắt cho những con tàu đi qua cảng Châu Âu-Châu Mỹ đến những cảng phía nam Châu Á, cảng phía Đông Châu Phi và Châu Đại Dương. Kênh được bắt đầu khởi công ngày 25 tháng 4 năm 1859 và hoàn thành vào ngày 17 tháng 11 năm 1869. Khi hoàn thành, kênh đào Suez dài 193,30 km (120,11 dặm), khúc hẹp nhất là 60 m, và độ sâu tại đó là 24 m đủ khả năng cho tàu lớn 250.000 tấn qua được. Tuyến đường dài 164 km này đã thay đổi vĩnh viễn lịch sử vận tải đường biển quốc tế, giúp tàu thuyền không phải đi qua mũi phía Nam Châu Phi, rút ngắn 6000 km. Có lẽ vào khoảng những năm 1839 tới 1878 trước Công Nguyên vào Triều đại vua Senusret III đã có một kênh đào đông tây nối sông Nin với Biển Đỏ phục vụ giao thông bằng những con thuyền đáy bằng đẩy sào và cho phép việc giao thương giữa Biển Đỏ và Địa Trung Hải.
Lạc nội mạc tử cung là gì, căn bệnh này có nguy hiểm hay không… là những thông tin mà chị em phụ nữ nên biết. Mặc dù không gây nguy hiểm nhưng căn bệnh này gây đau đớn, khó chịu cho những ai không may mắc phải. Nếu để kéo dài không loại bỏ, lạc nội mạc tử cung có thể dẫn tới nhiều biến chứng nghiêm trọng, trong đó có đe dọa gây vô sinh, hiếm muộn. Trước hết cần hiểu nội mạc tử cung là lớp lót bên trong tử cung, thường bong ra khi hành kinh và được tái tạo sau khi sạch kinh. Lạc nội mạc tử cung xảy ra khi lớp nội mạc này không được thải ra theo con đường tự nhiên mà quay trở lại ống dẫn trứng. Nó có thể được tìm thấy ở nhiều vị trí khác nhau trong cơ thể, bao gồm:. Lạc nội mạc tử cung thường gặp ở phụ nữ trong độ tuổi từ 25 – 40, hiếm khi xảy ra ở những người đã trải qua thời kỳ mãn kinh. Các triệu chứng của lạc nội mạc tử cung có thể khác nhau trong từng trường hợp cụ thể, tuy nhiên triệu chứng thường gặp là đau vùng bụng dưới dữ dội. Lạc nội mạc tử cung là một bệnh lý mạn tính. Các triệu chứng có thể khác nhau trong từng trường hợp cụ thể và một số người bệnh không gặp phải bất cứ triệu chứng nào cả.Các triệu chứng phổ biến bao gồm:. Đau ở vùng bụng dưới, xương chậu và thắt lưng trong những ngày có kinh nguyệt hoặc trong và sau khi quan hệ tình dục. Ho ra máu – trong trường hợp hiếm hoi mô nội mạc tử cung “đi lạc” đến phổi. Để chẩn đoán xem một người liệu có bị lạc nội mạc tử cung hay không, bác sĩ sẽ thăm khám và yêu cầu thực hiện một số xét nghiệm như siêu âm. Để chẩn đoán xem một người liệu có bị lạc nội mạc tử cung hay không, bác sĩ sẽ yêu cầu người bệnh mô tả triệu chứng, bao gồm vị trí cơn đau và thời gian xảy ra.Các xét nghiệm và thăm khám thường được thực hiện để chẩn đoán là:. Khám phụ khoa: trong quá trình khám phụ khoa, bác sĩ có thể phát hiện thấy bất thường ở vùng chậu, chẳng hạn như có u nang hoặc vết sẹo sau tử cung. Thông thường rất khó để phát hiện thấy những vùng lạc nội mạc tử cung nhỏ trừ khi các mô lạc nội mạc tử cung đã dẫn tới hình thành u nang. Siêu âm: Xét nghiệm này sử dụng sóng âm thanh tần số cao để tạo ra hình ảnh của các cơ quan bên trong cơ thể. Để có thể quan sát được các hình ảnh, bác sĩ sẽ di chuyển một thiết bị gọi là bộ chuyển đổi trên vùng bụng hoặc đưa vào âm đạo (siêu âm qua ngã ba âm đạo). Mặc dù siêu âm không khẳng định chắc chắn người bệnh có bị lạc nội mạc tử cung hay không nhưng nó có thể xác định u nang kết hợp với lạc nội mạc tử cung. Nội soi ổ bụng: để quan sát tử cung rõ ràng hơn, bác sĩ có thể đề nghị thực hiện nội soi ổ bụng. Bệnh nhân sẽ được gây mê, sau đó bác sĩ sẽ tạo một vết rạch rất nhỏ ở gần rốn và chèn dụng cụ nội soi vào bên trong để tìm kiếm mô nội mạc tử cung bên ngoài tử cung và lấy mẫu mô để thực hiện sinh thiết. Nội soi ổ bụng cung cấp thông tin về vị trí, quy mô và kích thước của lạc nội mạc tử cung để có phương pháp hỗ trợ điều trị. Hỗ trợ điều trị lạc nội mạc tử cung thường là nội khoa (dùng thuốc) hoặc phẫu thuật. Hỗ trợ điều trị lạc nội mạc tử cung thường là nội khoa (dùng thuốc) hoặc phẫu thuật. Bác sĩ sẽ căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của triệu chứng và kế hoạch mang thai của người bệnh để tư vấn phương pháp phù hợp.Nhìn chung các bác sĩ thường chỉ định các phương pháp hỗ trợ điều trị bảo tồn đầu tiên và phẫu thuật là lựa chọn cuối cùng. Bác sĩ có thể chỉ định dùng thuốc giảm đau tự, chẳng hạn như các loại thuốc chống viêm (NSAID), ibuprofen hoặc naproxen để giúp giảm bớt cơn đau bụng kinh đau đớn.Nếu cảm thấy liều dùng tối đa của các loại thuốc này không thể kiểm soát các dấu hiệu và triệu chứng, người bệnh cần thông báo với bác sĩ để lựa chọn các phương pháp điều trị khác. Liệu pháp hormone có hiệu quả trong việc giảm đau do lạc nội mạc tử cung gây ra. Thuốc bổ sung hormone có thể làm chậm sự phát triển mô nội mạc tử cung và ngăn chặn sự dày lên của lớp nôi mạc tử cung.Tuy nhiên đây không phải là phương pháp hỗ trợ điều trị lâu dài cho lạc nội mạc tử cung. Các triệu chứng có thể xuất hiện trở lại sau khi người bệnh ngừng sử dụng thuốc. Với những trường hợp bị lạc nội mạc tử cung và mong muốn có con trong tương lai, phẫu thuật có thể được áp dụng để loại bỏ lớp nội mạc tử cung trong khi vẫn giữ nguyên tử cung và buồng trứng. Căn cứ vào tình trạng của người bệnh, bác sĩ sẽ chỉ định mổ hở hoặc nội soi. Nếu lạc nội mạc tử cung quá nghiêm trọng, người bệnh có thể sẽ phải phẫu thuật cắt bỏ tử cung và cổ tử cung cũng như hai buồng trứng. Vì chỉ cắt bỏ tử cung là không hiệu quả, estrogen do buồng trứng sản xuất ra vẫn có thể kích thích các mô nội mạc tử cung còn sót lại và tiếp tục gây đau đớn. Đây là lựa chọn cuối cùng, đặc biệt là đối với những phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Người bệnh sẽ không thể mang thai sau khi cắt bỏ tử cung. U lạc nội mạc tử cung: Mối đe dọa của mọi mẹ bầuU lạc nội mạc tử cung là căn bệnh khá thường gặp, tuy nhiên căn bệnh này sẽ. U lạc nội mạc tử cung là căn bệnh khá thường gặp, tuy nhiên căn bệnh này sẽ. Chế độ ăn uống và luyện tập cho người bị lạc nội mạc tử cungNhững người được chẩn đoán bị lạc nội mạc tử cung thường tự hỏi ngoài việc điều trị. Những người được chẩn đoán bị lạc nội mạc tử cung thường tự hỏi ngoài việc điều trị. Phẫu thuật nội soi lạc nội mạc tử cungLạc nội mạc tử cung là một căn bệnh phụ khoa khá phổ biến ở chị em. Lạc nội mạc tử cung là một căn bệnh phụ khoa khá phổ biến ở chị em. Đau vùng kín khi quan hệ có sao không?đời sống tình dụcĐau vùng kín khi quan hệ có sao không là câu hỏi của nhiều chị em cần giải. Đau vùng kín khi quan hệ có sao không là câu hỏi của nhiều chị em cần giải. Biến chứng của lạc nội mạc tử cungLạc nội mạc tử cung là một trong những bệnh lý phụ khoa thường gặp. Lạc nội mạc tử cung là một trong những bệnh lý phụ khoa thường gặp. Tập thể dục có lợi cho người bị lạc nội mạc tử cungLạc nội mạc tử cung là một rối loạn xảy ra khi lớp niêm mạc của tử cung,. Lạc nội mạc tử cung là một rối loạn xảy ra khi lớp niêm mạc của tử cung,.
Lạc nội mạc tử cung
Lạc nội mạc tử cung là một bệnh trong đó các mô bình thường phát triển bên trong tử cung lại phát triển bên ngoài tử cung. Các triệu chứng chính là đau vùng chậu và vô sinh. Gần một nửa số người bị bệnh có đau vùng chậu mãn tính, trong khi 70% cơn đau xuất hiện trong kỳ kinh nguyệt. Đau khi quan hệ tình dục cũng là phổ biến. Vô sinh xảy ra gần một nửa số phụ nữ bị ảnh hưởng. Các triệu chứng ít gặp hơn bao gồm các triệu chứng khi tiểu tiện hoặc đại tiện. Khoảng 25% phụ nữ không có triệu chứng nào. Lạc nội mạc tử cung có thể có cả hai tác động xã hội và tâm lý. Nguyên nhân là không hoàn toàn rõ ràng. Các yếu tố nguy cơ bao gồm một lịch sử gia đình mắc bệnh này. Thông thường buồng trứng, ống dẫn trứng, và các mô xung quanh tử cung và buồng trứng bị ảnh hưởng; Tuy nhiên, trong những trường hợp hiếm hoi nó cũng có thể xảy ra ở các bộ phận khác của cơ thể. Các khu vực của nội mạc tử cung chảy máu mỗi tháng, dẫn đến viêm nhiễm và thành sẹo.
Cách hiểu dễ nhất cho khái niệm khoa học công nghệ là tổng hợp toàn bộ những hoạt động có tính sáng tạo và hệ thống giúp phát triển được những kiến thức liên quan đến tự nhiên và xã hội của con người, mục đích để sử dụng những kiến thức và hiểu rõ sáng tạo là gì để biết cách sáng tạo để tạo ra những ứng dụng mới. Hiện nay, Việt Nam có quy định dành riêng của Luật Khoa học và Công nghệ. Lĩnh vực khoa học và công nghệ bao gồm những hoạt động gồm: nghiên cứu và phát triển công nghệ, nghiên cứu khoa học, dịch vụ khoa học và công nghệ, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, hoạt động phát huy sáng kiến cùng các hoạt động khác để xây dựng và phát triển khoa học và công nghệ. - Nghiên cứu khoa học được hiểu là một nghiên cứu để phát hiện, tìm hiểu các sự vật, quy luật của tự nhiên, tìm hiểu các hiện tượng, xã hội và tư duy, cuối cùng sáng tạo ra những giải pháp giúp có thể ứng dụng vào đời sống thực tế của con người. - Phát triển công nghệ được hiểu là những hoạt động được nghiên cứu nhằm tạo ra và phát triển hoàn thiện những sản phẩm mới và công nghệ mới. Phát triển công nghệ trải qua 2 quá trình là triển khai thực nghiệm, sau đó là sản xuất thử nghiệm để kiểm tra những tính năng của công nghệ đó. - Tiếp đến phần triển khai thực nghiệm, đây là hoạt động sử dụng những nghiên cứu khoa học có khả năng để làm công tác thực nghiệm nhằm tạo ra được sản phẩm mới và công nghệ mới. - Tiếp theo sau phát triển thực nghiệm là đến sản xuất thực nghiệm, đây là hoạt động sử dụng kết quả từ khâu triển khai thực nghiệm để bắt đầu tiến hành những mẫu sản phẩm đó với số lượng nhỏ để nắm bắt tình hình của sản phẩm đó và hoàn thiện nó trước khi đưa và đời sống và sản xuất. - Cuối cùng là những dịch vụ về khoa học và công nghệ, đây là khâu cuối cùng trong nghiên cứu khoa học và công nghệ, đây là hoạt động giúp phát triển và phục vụ việc nghiên cứu như các dịch vụ thông tin, các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, chuyển giao công nghệ, ứng dụng trí thức khoa học công nghệ và những kiến thức kinh nghiệm thực tiễn. Phần 1 đã giải thích khái quát để bạn hiểu rõ hơn về khái niệm khoa học công nghệ là gì? Phần này chúng tôi sẽ giải thích cho bạn rõ hơn về những vấn đề phương pháp khoa học phát triển công nghệ. Phương pháp khoa học công nghệ được hiểu là một hệ thống kỹ thuật giúp nghiên cứu các vấn đề hiện tượng xảy ra nhằm phát hiện và thu thập được những kiến thức mới hoặc có thể hoàn thiện các kiến thức đã có sẵn từ trước. Để được coi là khoa học hay nghiên cứu khoa học công nghệ đều cần dựa trên những dữ liệu có thực nghiệm hoặc những vấn đề đo lường được và phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định của ngành. Phương pháp không chỉ là những lý luận đơn giản mà đây còn là những vấn đề mang lại ý nghĩa thực tế to lớn, chỉnh vì những phương pháp đó góp phần quyết định được những thành công của những nghiên cứu khoa học và công nghệ. Phương pháp này là cách thức, công cụ, thủ pháp, giải pháp, bí quyết, con đường, quy trình công nghệ giúp chúng ta phát triển và nghiên cứu thành công công nghệ và khoa học. Bản chất của việc nghiên cứu khoa học phát triển công nghệ là những hiện tượng, sự vật mà chúng ta cảm nhận và thấy được để tìm ra các quy luật của từng hiện tượng sự vật đó. Nhưng những bản chất của sự vật và hiện tượng đó bao giờ cũng nằm trong nhiều tầng để khai thác được bản chất tiềm ẩn trong mỗi sự vật và hiện tượng chúng ta cần có những phương pháp nghiên cứu cụ thể. Bản chất của phương pháp này chính là việc con người cần phải có ý thức sử dụng đối với các quy luật của đối tượng như những công cụ để khám phá những đối tượng đó. Phương pháp nghiên cứu là con đường tốt nhất cho sự sáng tạo về khoa học và công nghệ. - Phương pháp lúc nào cũng là những cách làm việc của chủ thể nhằm nghiên cứu các hiện tượng, đối tượng cụ thể. - Phương pháp được hiểu là cách làm việc của chủ thể, chính vì thế nó gắn liền với chủ thể vì thế phương pháp có mặt chủ quan. Mặt chủ quan nghĩa là gì? Chính là những năng lực nhận thức, thể hiện trong việc ý thức được các quy luật có liên quan và kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể để khám phá chính đối tượng đó. - Phương pháp nghiên cứu khoa học bao giờ cũng xuất phát từ các đặc điểm đặc trưng của đối tượng, phương pháp luôn luôn gắn chặt với đối tượng, chính vì thế phương pháp có mặt khách quan. Những quy định về chọn cách này hay cách khác trong hoạt động của chủ thể được gọi là mặt khách quan. - Có tính mục đích vì những việc làm trên đều do con người chủ đích hướng đến một mục đích nghiên cứu của các đề tài nhằm để tìm ra những phương pháp, giải pháp nghiên cứu mới tạo ra những ứng dụng khoa học mới để phục vụ nhu cầu của con người. - Những phương pháp nghiên cứu này đều gắn chặt với những vấn đề và nội dung cần nghiên cứu. Trong mỗi một đề tài nghiên cứu khoa học khác nhau đều có một phương pháp cụ thể và trong các ngành cũng đều có các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của ngành đó. - Để nghiên cứu khoa học tốt thường có một cấu trúc đặc biệt đó là những hệ thống các vấn đề được sắp xếp theo các chương trình được tối ưu nhất. Phát hiện được những logic tối ưu của các hoạt động và sử dụng nó một cách thông minh là vấn đề quyết định đến sự thành công nhanh chóng hay không của một vấn đề nghiên cứu khoa học. - Những nghiên cứu khoa học luôn cần có các phương tiện kỹ thuật hiện đại và có độ chính xác cao và các công cụ hỗ trợ. Phương tiện và phương pháp gắn bó chặt chẽ và hỗ trợ rất tốt cho việc nghiên cứu của bạn đạt tới độ chính xác cao hơn. Phương pháp và phương pháp luận đều là hai khái niệm thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Phương pháp luận được hiểu là một hệ thống các nguyên lý khác nhau có quan điểm để làm cơ sở, và có tác dụng xây dựng và chỉ đạo, xác minh phạm vi cùng những khả năng ứng dụng các phương pháp đó vào nghiên cứu. Các phương pháp luận thường có tình lý luận nhiều hơn cho nên thường mang màu sắc về quan điểm triết học nhiều hơn, những nó lại không đồng nhất với triết học nên không thể coi đó là triết học để nhận thức và tiếp cận thế giới. Phương pháp luận được chia thành các phương pháp bộ môn, được sử dụng trong các bộ môn khoa học, phương pháp này phổ biến chung cho các hoạt động, nghiên cứu về khoa học phát triển công nghệ là triết học. Những phương pháp khoa học thường đi liền cùng từng các bộ môn khoa học cùng lĩnh vực (sinh vật học, toán học, toán tin, kinh tế học, toán học…). Do vậy mỗi bộ môn sẽ có một phương pháp luận nghiên cứu khác nhau, để có thể nghiên cứu sâu, kỹ càng và chuyên ngành hơn. Trong cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật trong thời đại hiện nay, khoa học được đóng vai trò chủ chốt và rất quan quan trọng giúp tạo ra những cơ sở vật chất cần thiết cho xã hội, giúp con người trong xã hội hoàn thiện và phát triển hơn hình thành một xã hội mới. Để có được những thành tựu trong khoa học thì cần phải có những phương pháp và quá trình nghiên cứu chuyên sâu để có thể khai thác được hết những vấn đề có trong đối tượng cần nghiên cứu và khai thác. Từ đó mới đưa ra được những phát hiện, sáng tạo mới để tạo ra được những sản phẩm và hoàn thiện những vấn đề cũ một cách hoàn hảo và tối ưu nhất có thể. Tất cả những nghiên cứu về khoa học đều có những mục tiêu nhất định để tìm kiếm được những câu hỏi mà xã hội và con người đặt ra. Nghiên cứu khoa học là một quá trình vận dụng những ý tưởng và nghiên cứu để hoàn thành những sản phẩm mới. Nếu một vấn đề về khoa học và công nghệ không có những phương pháp, nghiên cứu cụ thể theo một hệ thống chuyên môn thì sẽ không thể thu lại được những kết quả tốt. Trong đời sống xã hội, những phương pháp nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đóng vai trò rất quan trọng thiết thực, những thành quả của khoa học công nghệ nghiên cứu ra những sản phẩm mới để phục vụ cuộc sống của con người. Từ đó xã hội cùng cuộc sống của con người được cải thiện và nâng cao hơn rất nhiều. Đối với nền kinh tế của một đất nước là sự cần thiết, những nghiên cứu phát minh của khoa học giúp cho công nghệ cũng như nền kinh tế nước đó phát triển vượt bậc và có thể xiay mình. Hầu như những quốc gia nào có sự phát triển cực tốt của khoa học và công nghệ đều là những cường quốc lớn mạnh trên thế giới. Chính vì thế từ những vấn đề về sự phát triển cuộc sống của con người trong xã hội cũng như nền tảng phát triển của một đất nước khoa học và công nghệ là một vấn đề rất thiết yếu và thiết thực mà chúng ta cần quan tâm và coi trọng. Chúng ta đều đã tìm hiểu về khái niệm khoa học công nghệ là gì, phương pháp nghiên cứu cũng như vai trò của khoa học công nghệ ra sao. Vậy khoa học công nghệ được áp dụng như thế nào trong đời sống thực tế và những lợi ích nó mang lại nói chung trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Trong thế giới ngày nay, vai trò của khoa học và công nghệ là không thể thiếu. Chúng ta cần Khoa học và Công nghệ trong mọi lĩnh vực của cuộc sống như muốn điều trị các bệnh như ung thư hoặc thậm chí để đặt một chiếc taxi hoặc vé tàu / chuyến bay. Trong thực tế, không có công nghệ (kết hợp với khoa học), chúng ta không thể tưởng tượng cuộc sống của chúng ta đều trở nên kém cỏi và không khác gì những người tiền sử đến mức như thế nào. Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của Khoa học và Công nghệ là nó có giải pháp cho những khó khăn của những vấn đề khó giải quyết, vấn đề có khả năng trở thành nút thắt lớn đối với sự tăng trưởng chung của đất nước. Khoa học công nghệ đều được áp dụng và phát triển nghiên cứu theo những nhu cầu của các ngành dưới đây:. Tất cả những công nghệ này, lần lượt, cung cấp các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước và tăng sự cạnh tranh lành mạnh trên toàn quốc và cả quốc tế. Trong thế giới ngày nay, thường xuyên hơn, chúng ta có thể đọc hoặc nghe rằng các nước phát triển, các nước đang phát triển, các nước kém phát triển hoặc thậm chí các nước thuộc thế giới thứ ba, tất cả đều chỉ định mức độ phát triển của Khoa học và Công nghệ ở các quốc gia khác, họ có ảnh hưởng đến . Chính phủ cũng đã tạo ra một bộ phận độc chuyên môn để nghiên cứu vào sự phát triển của Khoa học và Công nghệ và một ngân sách riêng cũng được phân bổ cho cùng. Khoa học công nghệ không chỉ được thế giới coi trọng mà chính phủ và nhà Nước ta đã ý thức được vai trò của khoa học và công nghệ từ sớm nên đã đưa ra rất nhiều chính sách và ưu ái dành riêng cho việc nghiên cứu khoa học công nghệ tại nước ta. Đã có rất nhiều những nghiên cứu khoa học áp dụng thành công trong các lĩnh vực như: y tế, giao dục, giao thông… Đều đã thu lại những thành tích kết quả rất lớn. Kết quả được chứng minh rằng cuộc sống người dân được nâng cao và cải thiện hơn, trình độ dân trí ngày càng phát triển lớn mạnh. Đi cùng với đó là nền kinh tế nước nhà đang đi lên rõ rệt. Ngoài ra khoa học công nghệ còn áp dụng trên tất cả các lĩnh vực khác như các ngành nông nghiệp nuôi trồng thủy hải sản bằng công nghệ cao mang lại lợi ích đáng kể cho người nông dân. Nhiều ứng dụng từ công nghệ kỹ thuật giúp giải thoát được sức người lao động, tối ưu được kinh tế cũng như thời gian. Nắm bắt được những yếu tố quan trọng đó của khoa học công nghệ, trong nhiều năm qua không chỉ có mỗi nhà Nước đầu tư phát triển công nghệ mà còn có rất nhiều cáo công ty, doanh nghiệp tư nhân cũng đầu tư phát triển lĩnh vực này. Không chỉ giải quyết được những vấn đề mà xã hội cần mà khoa học công nghệ còn mang lại doanh thu rất cao được ví như là một cây vàng đang chờ mọi người khai thác. Đầu tư vào khoa học công nghệ chưa bao giờ là lỗi thời trong thời buổi công nghệ đang đứng đầu như thế này. Khoa học được xã hội coi trọng vì việc áp dụng kiến thức khoa học giúp thỏa mãn nhiều nhu cầu cơ bản của con người và cải thiện mức sống. Tìm ra phương pháp chữa ung thư và một dạng năng lượng sạch chỉ là hai ví dụ điển hình. Tương tự như vậy, khoa học thường được coi là công khai thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, được coi là một khoản hoàn vốn đầu tư cho tài trợ công. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ qua, một mục tiêu khác của khoa học đã xuất hiện: tìm cách sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên để đảm bảo tính liên tục của chúng và tính liên tục của chính loài người; một nỗ lực hiện đang được gọi là bền vững. Khoa học công nghệ chính là một đảo vàng để khai thác. Và nó có vai trò quan trọng vô cùng đến cuộc sống cũng như xã hội của con người. Hy vọng những thông tin chia sẻ trên cũng giúp bạn hiểu được về khái niệm khoa học công nghệ là gì cũng như những vấn đề xoay quanh. Bạn hãy chia sẻ những thông tin hữu ích này đến với mọi người.
Hội chứng sợ công nghệ hiện đại
Hội chứng sợ công nghệ hiện đại, có tên khoa học là Technophobia (từ tiếng Hy Lạp τέχνη technē, "nghệ thuật, kỹ năng, thủ công" và φόβος phobos, "sợ hãi") là nỗi sợ hãi hoặc không thích công nghệ tiên tiến hoặc các thiết bị phức tạp, đặc biệt là máy tính. Mặc dù có nhiều cách giải thích về hội chứng sợ công nghệ hiện đại, hội chứng này trở nên phức tạp hơn khi công nghệ tiếp tục phát triển. Thuật ngữ này thường được sử dụng trong việc thể hiện ý nghĩa của một nỗi sợ hãi không hợp lý, nhưng những người khác tranh cãi lo sợ này là hợp lý. Nó đồng thời cũng liên quan đến hội chứng sợ máy tính và công nghệ. Tiến sĩ Larry Rosen, một nhà tâm lý học, người giảng dạy về máy tính, và giáo sư tại Đại học bang California, cho rằng có ba thể loại nhỏ điển hình của hội chứng sợ công nghệ hiện đại- "người dùng khó chịu", "nhận thức của người sợ dùng máy tính" và "lo âu của người sợ dùng máy tính". Lần đầu tiên nhận được thông báo rộng rãi trong cuộc cách mạng công nghiệp, những người mắc phải hội chứng sợ công nghệ hiện đại đã được quan sát để ảnh hưởng đến xã hội và các cộng đồng khác nhau trên toàn thế giới.
Học tập là một quá trình không ngừng để thu nạp kiến thức cũng như để hoàn thiện các khả năng của bản thân. Tuy nhiên, không phải một giáo trình học tập này có thể áp dụng cho tất cả những đối tượng cùng một lúc. Bởi thế nên những nhà giáo dục mới phải liên tục đau đầu về nhưng cải tiến, những thay đổi trong giảng dạy. Và những thay đổi này chính là Adaptive Learning. Vậy Adaptive Learning là gì? Cùng tìm hiểu bạn nhé!. Adaptive Learning được hiểu là “học tập thích ứng”. Học tập thích ứng đã là một thuật ngữ thường xuyên được sử dụng trong giáo dục trong nhiều năm nhưng ngày nay, với sự ra đời của công nghệ phổ biến hơn trong các trường học, các hệ thống giáo dục đang chú trọng hơn đến những lợi thế của việc tận dụng các kỹ thuật thích ứng trong cả đánh giá và chương trình giảng dạy. Về cơ bản thì thuật ngữ Adaptive Learning được sử dụng, được hiểu khá chung chung, đó là việc sử dụng những công nghệ để đánh giá hoạt động giảng dạy để đưa ra những định hướng cụ thể. Ý tưởng cơ bản về tính thích ứng trong học tập là khả năng sửa đổi cách trình bày tài liệu để đáp ứng với thành tích của học sinh. Các nhà giáo dục từ lâu đã biết rằng việc học được cải thiện khi hướng dẫn được cá nhân hóa - điều chỉnh cho phù hợp với phong cách học tập của từng cá nhân. Trên thực tế, một số người cho rằng việc ủng hộ hướng dẫn thích ứng đã có từ xa xưa. Tuy nhiên, quan điểm hiện đại của lý thuyết học tập thích ứng được bắt nguồn từ công việc của các nhà tâm lý học giáo dục đương thời. Nhà khoa học Bloom vào năm 1971 đã đưa ra giả thuyết rằng khoảng cách thành tích giữa các học sinh có thể được giải quyết tốt nhất bằng cách hướng dẫn khác nhau. Để đạt được mục tiêu này, Bloom đã nghĩ ra chiến lược giảng dạy được gọi là học thành thạo, trong đó nội dung và kỹ năng cần học được sắp xếp thành các đơn vị riêng lẻ. Các mô-đun này được trình bày cho sinh viên trong một giai đoạn hướng dẫn ban đầu, sau đó một đánh giá hình thành được tiến hành. Phản hồi đánh giá xác định nơi cần hướng dẫn khắc phục. Các hoạt động khắc phục được thực hiện và chu trình đánh giá-phản hồi-hoạt động khắc phục tiếp tục cho đến khi đạt được sự thành thạo. Bloom (1984) đã chứng minh rằng việc học thành thạo thông qua hướng dẫn trực tiếp dẫn đến kết quả học tập đáng kể so với hướng dẫn nhóm thông thường. Kết quả học tập được cho là nhờ những điều chỉnh trong cách giảng dạy của người dạy kèm khi họ đánh giá sự tiến bộ của người học. Bloom tin rằng tất cả học sinh đều có thể đạt được trình độ cao nếu được cung cấp các điều kiện học tập thích hợp để hướng dẫn phù hợp với tốc độ học tập và phương thức của người học. Adaptive Learning - Lý thuyết học tập thích ứng có thể được hình thành trong khuôn khổ lý thuyết khoa học cung cấp thông tin. Theo nghĩa này, một hệ thống học tập thích ứng có thể được coi là một biểu hiện của một hệ thống cung cấp thông tin trong đó người cung cấp thông tin là người hướng dẫn, khách hàng là sinh viên và công cụ thích ứng dựa trên quy tắc vừa thông báo vừa được cung cấp thông tin bằng cách tương tác với khách hàng. Các điểm tương đồng khác tồn tại như mô hình học tập với độ phức tạp của khách hàng, mô hình miền với ngữ cảnh của người cung cấp thông tin, và mô hình thích ứng với kênh. Hình 1 tóm tắt việc triển khai hoạt động của một hệ thống học tập thích ứng trong một khuôn khổ khoa học cung cấp thông tin. Từ những năm 1970 đến 1980, “hệ thống học tập tích hợp” đã được phát triển nhằm triển khai các thuật toán phức tạp và ẩn để xác định con đường của từng học sinh thông qua một bộ tài liệu nhất định. Loại khả năng thích ứng phức tạp này ngày nay được tìm thấy trong các chương trình chuyên môn. Khả năng thích ứng phức tạp cũng được thấy trong các chương trình điều chỉnh và cá nhân hóa cách trình bày tài liệu dựa trên kinh nghiệm tích lũy của hệ thống về các phản hồi và lỗi của học sinh. Ngoài những phát triển chuyên môn này, thách thức ngày nay đối với bất kỳ nhà phát triển nội dung giảng dạy nào là liệu và làm thế nào để thêm một số mức độ thích ứng vào các chương trình hoặc khóa học của họ, để “cá nhân hóa” tốt hơn hoặc điều chỉnh hướng dẫn cho phù hợp với nhu cầu của học sinh. Ở cấp độ đơn giản nhất, khả năng thích ứng này thường được gọi là công nghệ phân nhánh, nơi các hành động và phản ứng của học sinh trong một nhiệm vụ có thể được hiệu chỉnh để xác định cấp độ và phạm vi của hoạt động tiếp theo. Tài liệu học tập, hoặc các khóa học hướng dẫn được thiết kế để dạy các khái niệm mới, thường có cấu trúc phân cấp và khả năng thích ứng có thể được giới thiệu ở các cấp độ khác nhau của hệ thống phân cấp này. Trước tiên, hãy để bắt đầu với định nghĩa về các cấp độ này, cấp độ được đề xuất có thể không khớp chính xác với mọi loại nội dung học tập nhưng theo ý kiến của tôi, chúng nên bao gồm hầu hết các loại tài nguyên, khóa học hoặc chương trình giảng dạy. Đối tượng học tập thường được nhóm thành một chuỗi mà trong thực tế, tương ứng với một phiên học tập duy nhất của người dùng. Bạn có thể nghĩ về một trình tự như một bài học hoặc một chương. Cấp độ tiếp theo của tổ chức này sẽ là “Khóa học”, là một tập hợp các Trình tự được sắp xếp theo mục lục phân cấp. Cũng có thể có cấp độ tổ chức cao hơn, tương ứng với một tập hợp các khóa học. Trong hầu hết các trường hợp, chúng ta có thể giả định rằng tất cả các chức năng và tính năng điều hướng được thực hiện hoàn toàn. Điều này cũng có nghĩa là tất cả các tính năng học tập thích ứng được giới thiệu trong đối tượng học tập hoặc Trình tự ở cấp độ này sẽ hoạt động trên bất kỳ hệ thống quản lý học tập nào. Với một công cụ soạn thảo đơn giản, những nhà nghiên cứu có thể cung cấp các tính năng học tập thích ứng ở cấp đối tượng học tập và trình tự và các tính năng này sẽ hoạt động trên mỗi và mọi hệ thống quản lý học tập. Điều này có nghĩa là sự phát triển khả năng thích ứng ở cấp độ của khóa học và nhóm học viên phức tạp hơn và cho đến nay đã khó hơn do thiếu các tiêu chuẩn ngành về khả năng tương tác. Đây là lý do tại sao các nhà phát triển nội dung dễ dàng tập trung hơn vào hai cấp độ thích ứng đầu tiên: đối tượng học tập và trình tự. Việc tập trung vào cấp độ đối tượng học tập và trình tự có thể có vẻ rất hạn chế nhưng trên thực tế, điều này sẽ đủ để nâng cao chất lượng trải nghiệm học tập cho nhiều môn học và chủ đề. Adaptive Learning đưa ra những nghiên cứu học tập linh hoạt đem lại tư duy linh hoạt cho trẻ cũng như cho người học. Cụ thể những cách để phát triển tư duy đem lại học tập hiệu quả như sau:. 1 - Phản hồi nhanh: việc đưa ra những yêu cầu phản hồi thông tin ngay lập tức sẽ giúp kích thích tư duy, sự phát triển của não bộ để đưa ra những phản hồi tích cực thúc đẩy quá trình học tập và khuyến khích khả năng tư duy nhanh nhạy của người học. 2 - Hướng đến những mục tiêu: đưa ra những mục tiêu ngay từ đầu giúp học sinh xác định đích đến của mình một cách rõ ràng nhất. Phương pháp này giúp trẻ có thể phát huy một cách tối đa, nhanh chóng những khả năng tiềm ẩn của chính mình. Từ đó có thể tôi luyện trí thông minh của trẻ, rèn luyện khả năng sắp xếp thời gian, thông tin làm việc. 3 – Linh hoạt hơn: việc đưa ra những phương pháp giảng dạy linh hoạt giúp trẻ có thể tiếp cận thông tin bằng nhiều cách khác nhau, từ đó kích thích sự phát triển của bộ não cũng như tránh được tình trạng nhàm chán trong học tập. Kết quả cuối cùng của điều này sẽ đem lại tư duy linh hoạt, kết quả học tập được cải thiện đáng kể. 4 – Kích thích khả năng giao tiếp: việc giao tiếp trong quá trình học tập sẽ giúp kích thích tư duy, suy nghĩ của trẻ giúp phát triển cả kiến thức cùng với tư duy ngôn ngữ cần thiết. 5 – Cải thiện năng lực nhận thức: Việc cải thiện năng lực nhận thức giúp học sinh có thể đứng dậy sau những thất bại, nhìn ra những phương pháp làm việc chưa chính xác của mình để chọn lựa một phương pháp khác hiệu quả hơn. Đây được xem là phương pháp vô cùng quan trọng để trẻ phát triển tư duy, nhận thức. Cũng như để trẻ không có cảm giác mặc cảm, tự ti khi luôn cho là mình bất tài, mình không giỏi hay mình không thể làm được điều đó. Hy vọng rằng thông qua bài viết này bạn đã nắm rõ về Adaptive Learning là gì? Cùng những thông tin hữu ích khác cho mình.
Hệ thống thích ứng phức tạp
Hệ thống thích ứng phức tạp là một hệ thống trong đó một sự hiểu biết hoàn hảo về các bộ phận riêng lẻ không tự động truyền đạt một sự hiểu biết hoàn hảo về toàn bộ hành vi của hệ thống. Trong các hệ thống thích ứng phức tạp, toàn bộ phức tạp hơn các bộ phận của nó, và phức tạp và có ý nghĩa hơn tổng hợp các bộ phận của nó. Nghiên cứu về các hệ thống thích ứng phức tạp, một tập hợp con của các hệ động lực phi tuyến, có tính liên ngành cao và pha trộn những hiểu biết sâu sắc từ khoa học tự nhiên và xã hội để phát triển các mô hình cấp độ hệ thống và hiểu biết cho phép các tác nhân không đồng nhất, chuyển pha và hành vi phát sinh. Chúng phức tạp ở chỗ chúng là các mạng tương tác động và các mối quan hệ của chúng không phải là tập hợp của các thực thể tĩnh riêng lẻ, nghĩa là hành vi của đoàn thể không được dự đoán bởi hành vi của các thành phần. Chúng thích nghi ở chỗ hành vi cá nhân và tập thể đột biến và tự tổ chức tương ứng với sự kiện vi mô khởi xướng hoặc tập hợp các sự kiện.
BSC là gì, BSC hay tiếng Việt là thẻ điểm cân bằng, với bốn viễn cảnh: tài chính, khách hàng, quy trình nội bộ và học hỏi phát triển đã giúp cho các nhà quản lý có được bức tranh cân bằng về hiệu quả hoạt động hiện tại cũng như các nhân tố là động lực tăng trưởng cho tương lai. Ngay sau khi biết BSC là gì, BSC nhanh chóng được hàng ngàn các doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ, các tổ chức phi lợi nhuận khắp nơi trên thế giới áp dụng trong đó có Việt Nam. Gần 20 năm sau, trong kết quả khảo sát toàn cầu về các công cụ quản lý năm 2011 do hãng tư vấn Bain công bố, Thẻ điểm cân bằng đã lọt vào tốp 10 công cụ quản lý được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới (vị trí thứ 6). Quay về trước thập kỷ 90, hệ thống quản trị của hầu hết các công ty vẫn chủ yếu dựa trên các chỉ số tài chính và ngân sách để đo lường mức độ thành công. Một hệ thống như vậy khiến các công ty có xu hướng tập trung vào ngắn hạn và các chỉ số tài chính chỉ là kết quả cuối cùng phản ánh sự đã rồi, nó giống như người lái xe chỉ nhìn vào gương chiếu hậu thay vì nhìn về phía trước để lái xe. Nếu chỉ dựa trên các chỉ số tài chính, các nhà quản trị gặp khó khăn trong việc kết nối mục tiêu của các bộ phận, cá nhân với mục tiêu công ty và chiến lược kinh doanh, khó cân bằng được ưu tiên ngắn hạn và dài hạn, xác định ưu tiên đầu tư nguồn lực cho các chức năng của công ty. Từ một dự án nghiên cứu các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động của rất nhiều công ty có tài sản vô hình đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo giá trị, Kaplan và Norton tin rằng nếu các công ty muốn cải thiện hiệu quả quản lý các tài sản vô hình (như thương hiệu, sự trung thành của khách hàng, nguồn nhân lực, văn hóa, năng lực tổ chức) họ phải tích hợp việc đo lường các tài sản vô hình vào hệ thống quản trị của mình. Theo Kaplan và Norton (2010), BSC là gì – BSC bắt nguồn từ ba yếu tố cơ bản: hệ thống mục tiêu của GE, nghiên cứu của Herb Simon và Peter Drucker, phong trào quản lý của Nhật bản. Vào thập kỷ 50, General Electronics đưa ra hệ thống quản lý dựa trên cả mục tiêu tài chính và phi tài chính (xem bảng mục tiêu của GE). Mặc dù không được thực thi đến nơi đến chốn, Kaplan và Norton đã coi hệ thống này như gốc thứ nhất của công cụ BSC sau này. Các công trình nghiên cứu của Herb Simon, Peter Drucker khuyến nghị rằng hệ thống hoạch định và kiếm soát trong quản lý cần tập trung cả các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính. Tuy nhiên, đến trước năm 1992, phần lớn các công ty vẫn chỉ sử dụng hệ thống quản trị dựa trên các chỉ tiêu tài chính và ngân sách trong kiểm soát và đo lường hiệu quả hoạt động. Kết quả nghiên cứu những hạn chế trong hệ thống quản lý và kiểm soát của Mỹ (đơn thuần tập trung vào các chỉ số tài chính ngắn hạn) và sự thành công của các công ty Nhật bản trong việc đầu tư vào nâng cao kiến thức kỹ năng (tài sản vô hình) để nâng cao chất lượng sản phẩm, sự hài lòng của khách hàng và kết quả tài chính, Kaplan và Norton đã xây dựng nên công cụ Thẻ điểm cân bằng ngày nay. Thẻ điểm cân bằng đã giải quyết hiệu quả những hạn chế của các thước đo tài chính mang tính ngắn hạn và phản ánh kết quả quá khứ bằng việc bổ sung các thước đo là động lực phát triển doanh nghiệp trong tương lai. Các mục tiêu và thước đo trong thẻ điểm cân bằng bắt nguồn từ tầm nhìn và chiến lược của tổ chức. Các mục tiêu và thước đo đánh giá hiệu quả của một tổ chức từ bốn viễn cảnh: tài chính, khách hàng, quy trình nội bộ và học hỏi phát triển. Bốn viễn cảnh này tạo thành nên một khuôn khổ cho Thẻ điểm cân bằng sắp xếp theo nguyên lý quan hệ nhân quả, trong đó nhấn mạnh một kết quả tài chính tốt và bền vững phụ thuộc vào sự hài lòng của khách hàng, sự hài lòng của khách hàng phụ thuộc vào khả năng tạo ra những sản phẩm, dịch vụ đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng phụ thuộc vào chất lượng và việc thực thi các quy trình nội bộ và hiệu quả thực thi các quy trình nội bộ lại phụ thuộc vào khả năng phát triển kiến thức, kỹ năng của nguồn nhân lực, năng lực tổ chức, năng lực thông tin. Dựa trên nguyên tắc này, bốn viễn cảnh BSC là gì – là 4 viễn cảnh sau đây giúp một doanh nghiệp duy trì một sự cân bằng giữa ngắn hạn và dài hạn, giữa các kết quả kỳ vọng và các nhân tố động lực thúc đẩy các kết quả này, giữa các chỉ số khách quan, cứng và các chỉ số mang tính chủ quan. Các chỉ số hiệu quả tài chính xác định các mục tiêu dài hạn của một đơn vị kinh doanh (một doanh nghiệp hoặc một công ty thành viên trong nhóm công ty). Mặc dù các mục tiêu lợi nhuận được sử dụng phổ biến hơn, các mục tiêu tài chính khác hoàn toàn có thể được sử dụng. Tùy theo giai đoạn phát triển trong chu kỳ sống hoặc tình trạng kinh doanh, doanh nghiệp có thể tập trung vào mục tiêu tăng trưởng nhanh, dòng tiền. Kaplan và Norton gợi ý ba giai đoạn của chiến lược kinh doanh:. – Tăng trưởng: gắn với giai đoạn đầu của chu kỳ sống sản phẩm và thường có nhu cầu đầu tư nhiều hơn và mang tính dài hạn. – Duy trì (ổn định): Gắn với giai đoạn bão hòa của chu kỳ sống sản phẩm. Trong giai đoạn này doanh nghiệp vẫn cần đầu tư và tái đầu tư nhưng đòi hỏi tỷ suất hoàn vốn cao hơn, đồng thời tập trung vào duy trì thị phần hiện tại. – Thu hoạch: Gắn với giai đoạn chín muồi của chu kỳ sống sản phẩm. Trong giai đoạn này doanh nghiệp chỉ đầu tư để duy trì năng lực hiện tại, không mở rộng hoạt động kinh doanh và hướng tới mục tiêu thu hồi vốn nhanh các khoản đầu tư. Các mục tiêu trong viễn cảnh khách hàng tập trung vào đo lường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trên phân khúc thị trường mục tiêu và đo lường giá trị cung cấp cho khách hàng. Đây là các yếu tố quan trọng đóng góp vào kết quả tài chính vượt trội của một doanh nghiệp. Để đo lường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trên phân khúc thị trường mục tiêu, các mục tiêu như mức độ hài lòng của khách hàng, giữ chân khách hàng, thu hút khách hàng mới, lợi nhuận từ khách hàng, tỷ trọng khách hàng mục tiêu (xem hình dưới) được sử dụng. Đây là các mục tiêu cốt lõi của viễn cảnh khách hàng. Các chỉ tiêu này có thể sử dụng cho hầu hết các loại tổ chức, tuy nhiên chúng cần được điều chỉnh cho phù hợp với các nhóm khách hàng mục tiêu mà doanh nghiệp muốn tập trung vào. Để đạt được hiệu quả trên thị trường mục tiêu, doanh nghiệp phải cung cấp được những giá trị đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, những giá trị này cũng cần phải đo lường. Khái niệm giản đồ giá trị khách hàng được Kaplan và Norton (1996) bổ sung vào viễn cảnh khách hàng. Giản đồ giá trị khách hàng biểu thị các thuộc tính của sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp để tạo sự hài lòng và sự trung thành của khách hàng mục tiêu. Mặc dù có sự khác biệt giữa các ngành, lĩnh vực, các thuộc tính trong bản đồ giá trị có thể được chia thành ba nhóm:. – Các thuộc tính sản phẩm/dịch vụ: gồm các yếu tố như sự khác biệt, tính năng, chất lượng, giá, thời gian giao hàng. – Quan hệ khách hàng: liên quan đến quá trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng, bao gồm việc đáp ứng khách hàng và thời gian giao hàng và cách mà khách hàng cảm nhận trải nghiệm mua hàng của doanh nghiệp. – Hình ảnh và danh tiếng: cho phép doanh nghiệp định vị trong tâm trí khách hàng. Trong viễn cảnh quy trình nội bộ, doanh nghiệp phải xác định được các quy trình nội bộ cốt lõi mà doanh nghiệp cần đầu tư để trở nên vượt trội. Các quy trình nội bộ được coi là cốt lõi nếu nó giúp doanh nghiệp:. Các chỉ tiêu đo lường chỉ nên tập trung vào các quy trình nội bộ có ảnh hưởng lớn nhất đến sự hài lòng của khách hàng và việc thực hiện các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp. Để xác định được các chỉ tiêu thực sự đo lường được khả năng tạo giá trị cho khách hàng và cổ đông, các tổ chức một mặt đo lường và kiểm soát các quy trình nội bộ hiện tại bằng việc sử dụng các chỉ tiêu về chất lượng và thời gian, mặt khác quan trọng hơn là họ phải xác định được các quy trình xác định các quy trình mới hoàn toàn mà doanh nghiệp cần phải thực hiện xuất sắc (xem bảng 2) . Các quy trình này phải là các quy trình then chốt để đảm bảo doanh nghiệp triển khai thành công chiến lược của mình. Kaplan và Norton (1996) nhấn mạnh đến sự khác biệt so với cách tiếp cận truyền thống đó là các quy trình nội bộ được tích hợp thêm quy trình đổi mới – chú trọng vào việc phát triển thị trường mới, nhu cầu mới và phát triển sản phẩm dịch vụ mới để thỏa mãn nhu cầu mới của khách hàng hiện tại và tương lai. Đây chính là các quy trình tạo giá trị dài hạn có khả năng đảm sự việc đạt được các chỉ tiêu tài chính dài hạn của một tổ chức. Viễn cảnh Học hỏi và phát triển xác định một nền tảng mà doanh nghiệp phải xây dựng để tạo ra sự tăng trưởng dài hạn. Viễn cảnh học hỏi và phát triển gồm ba nguồn chính: con người, các hệ thống và các quy trình tổ chức. Các mục tiêu tài chính, khách hàng và quy trình nội bộ trong thẻ điểm cân bằng thường sẽ cho ta biết khoảng cách giữa năng lực con người, hệ thống và quy trình tổ chức và những gì cần để đạt được sự đột phá về hiệu quả tổ chức. Để thu hẹp khoảng cách này, doanh nghiệp sẽ phải tái đầu tư vào việc nâng cao kỹ năng, tăng cường hệ thống công nghệ thông tin, liên kết các quy trình, thủ tục của tổ chức. Các mục tiêu chính là trọng tâm của viễn cảnh học hỏi và phát triển. Các thước đo đối với nguồn nhân lực là sự kết hợp của một loạt các yếu tố: mức độ hài lòng của nhân viên, giữ chân nhân viên, đào tạo nhân viên và kỹ năng nhân viên. Hệ thống công nghệ thông tin có thể đo lường bằng mức độ sẵn có của các thông tin chính xác về khách hàng và quy trình nội bộ dành cho nhân viên. Các thủ tục của tổ chức có thể được xem xét về mức độ gắn kết đãi ngộ dành cho nhân viên với các nhân tố thành công cốt lõi của tổ chức và được đo bằng mức độ cải thiện liên quan đến các quy trình nội bộ và khách hàng. Tôn vinh giá trị tri thức, phụng sự xã hội và giữ gìn danh tiếng là triết lý phát triển xuyên suốt, trở thành tôn chỉ cho mọi hoạt động của EduViet.
Bảng điểm cân bằng
Bảng điểm cân bằng (tiếng Anh: Balanced Scorecard - BSC) là phương pháp quản lý hiện đại dựa trên mục tiêu, theo đó định hướng phát triển của doanh nghiệp được thể hiện bằng các chỉ tiêu, các mục tiêu được tổ chức đó xây dựng một cách hài hòa, cân đối dựa trên các ưu tiên quan trọng của tổ chức, doanh nghiệp. Hệ thống này giúp định hướng hành vi của toàn bộ các hệ thống trong công ty - giúp mọi người cùng hướng tới mục tiêu chung cũng như sự phát triển bền vững của doanh nghiệp và làm cơ sở cho hệ thống quản lý và đánh giá công việc. Khái niệm Bảng điểm cân bằng trong ngành kế toán quản trị đã tạo lập nên điểm khởi đầu cho khái niệm về mục tiêu tổng thể của một doanh nghiệp là tạo ra giá trị kinh tế dài hạn. Do vậy, mặc dù những đo lường tài chính về hiệu quả của doanh nghiệp hàng quý, hàng năm sẽ vẫn được sử dụng để cung cấp một báo cáo về hiệu quả hoạt động hiện thời, nhưng những thước đo tài chính này cần phải được bổ sung bằng những nhân tố tác động tới hiệu quả tài chính dài hạn.
Trong thời kì hội nhập kinh tế, Việt Nam đang không ngừng cải thiện các mặt an sinh xã hội nhằm mang đến cho công dân của mình nhiều lợi ích khi tham gia các quan hệ lao động cũng như bảo đảm các quyền con người mà Việt Nam kí kết trong các Công ước quốc tế. Bảo hiểm xã hội là chế độ an sinh xã hội không thể bỏ qua. Tổng đài tư vấn 19006557 xin giới thiệu một cái nhìn khái quát về Bảo hiểm xã hội là gì? Phân loại bảo hiểm xã hội? theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Bảo hiểm xã hội là hình thức bảo hiểm mà người sử dụng lao động và người lao động phải đóng cho chính phủ vào quỹ tài chính ngoài ngân sách Nhà nước để mà họ nhận được sự bù đắp khi họ không có khả năng làm việc bởi vì ốm đau, thai sản, nghỉ hưu, chết hoặc mất việc làm. 2007 – 2008 bao gồm 02 loại là bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện. 2009 đến năm 2014 thì bảo hiểm xã hội được phân thành 03 loại là bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. 2015 đến nay thì bảo hiểm xã hội chỉ gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện. Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại bảo hiểm mà cả người sử dụng lao động và người lao động đều phải tham gia đóng vào quỹ tài chính độc lập với ngân sách do Nhà nước tổ chức. Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình mà người tham gia có quyền chọn mức đóng, thời gian đóng hợp lý với nguồn thu nhập của mình vào quỹ tài chính độc lập với ngân sách do Nhà nước tổ chức và có sự hộ trợ của Nhà nước. Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam, những người đang trong độ tuổi lao động và không thuộc các đối tượng đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. 1/ Mức đóng áp dụng đối với đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều 2 trừ điểm e, g, i của khoản này. – Với chế độ BHYT: nếu thuộc các đối tượng được quy định tại điểm 1.4 Khoản 1 Điều 17 Quyết định 595/QĐ-BHXH thì áp dụng tỷ lệ là 4.5 %, trong đó người sử dụng lao động đóng 3% và người lao động đống 1.5%. Còn nếu thuộc trường hợp quy định tại điểm 3.14 khoản 3 Điều 17 của Quyết định này thì tỷ lệ áp dụng là 4.5% do ngân sách nhà nước chi trả. – Người lao động hằng tháng đóng bằng 8% mức lương cơ sở vào quỹ hữu trí và tử tuất. – Người sử dụng lao động hằng tháng đóng 14% vào mức lương cơ sở cho người lao động. – Với BHYT mức đóng hằng tháng bằng 4.5% mức lương cơ sở, trong đó UBND xã đóng 3%; người lao động đóng 1.5%. Đối tượng đi làm việc ở nước ngoài theo Hợp đồng lao động tại tiết b điểm 1.7 khoản 1 Điều 4 Quyết định 595/QĐ-BHXH đóng hằng tháng vào quỹ hưu trí và tử tuất là 8% mức tiền lương tháng. Còn người sử dụng lao động đóng 3% vào quỹ ốm đau thai sản và 14% vào quỹ hưu trí và tử tuất. Các trường hợp còn lại trong điểm 1.7 Khoản 1 Điều 4 Quyết định này phải đóng 22% mức tiền lương tháng hoặc 22% của 02 lần mức lương cơ sở tùy thuộc vào đối tượng tham gia vào quỹ bảo hiểm xã hội hằng tháng. Người lao động hằng tháng đóng bằng 22% mức thu nhập tháng do người lao động lựa chọn để đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất, mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn và cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở. Mức chuẩn hộ nghèo hiện nay căn cứ theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 1 Quyết định 59/2015/QĐ-TTg là 700.000 đồng/ người/ tháng ở khu vực nông thôn. 1/ Tham gia, hưởng các chế độ trong loại hình bảo hiểm tương ứng mà người lao động đã đóng vào quỹ tài chính ngoài ngân sách của Nhà nước. 3/ Thông qua các cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ trong quản lý về bảo hiểm xã hội trả lương hưu và trợ cấp đầy đủ các chế độ nhanh chóng, đúng đắn và chính xác. 6/Được cập nhật các thông tin về việc đóng, hưởng bảo hiểm xã hội 06 tháng 01 lần từ người sử dụng lao động, 01 năm 01 lần từ cơ quan bảo hiểm xã hội. 7/ Trong quá trình tham gia bảo hiểm xã hội nếu phát hiện có bất kỳ vi phạm nào của các cơ quan, tổ chức bảo hiểm xã hổi thì cá nhân người lao động có quyền thực hiện việc khiếu nại, tố cáo và khởi kiện theo luật định. 3/ Giữ gìn, quản lý tốt sổ bảo hiểm xã hội của mình tránh thất lạc, mất mát. 1/ Không thực hiện theo bất kỳ yêu cầu nào có dấu hiệu vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội. 2/ Trong quá trình tham gia đóng bảo hiểm xã hội nếu phát hiện có bất kỳ sai phạm nào của tổ chức, cá nhân trong quản lý, thực hiện các chính sách về bảo hiểm xã hội, người sử dụng lao động có quyền khiếu nại, tố cáo và khời kiện theo luật định. 1/ Lập danh sách những người lao động, nộp đến cơ quan bảo hiểm xã hội để đảm bảo các chế độ cho người lao động. 4/ Xác nhận các thông tin về thời gian đóng, thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc, thôi việc cho cơ quan bảo hiểm xã hội để tiến hành chốt sổ bảo hiểm cho người lao động kịp thời, nhằm tránh gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động. 5/ Công khai, niêm yết đầy đủ các thông tin về việc đóng bảo hiểm xã hội của người lao động 06 tháng 01 lần. 6/ Báo cáo kịp thời, đủ, chính xác các thông tin đóng bảo hiểm xã hội của người lao động cho cơ quan bảo hiểm xã hội 01 năm 01 lần.
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội (viết tắt: BHXH) là sự đảm bảo thay thế được bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Bảo hiểm xã hội là trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội ở mỗi nước. Các chế độ của bảo hiểm xã hội đã hình thành khá lâu trước khi xuất hiện thuật ngữ an sinh xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội đầu tiên được thiết lập tại nước Phổ (nay là Cộng hòa Liên bang Đức) dưới thời của Thủ tướng Otto von Bismarck (1850) và sau đó được hoàn thiện (1883-1889) với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp; bảo hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: người lao động; người sử dụng lao động và Nhà nước.
Ballet flats (Giày búp bê) chắc chắn đứng đầu vị trí cho đôi giày thoải mái nhất mọi thời đại. Với kết cấu nhẹ, linh hoạt và vừa vặn, cho dù bạn đi đâu, một buổi chiều shopping hay lịch sự đến công sở, giày búp bê vẫn luôn là lựa chọn hoàn hảo về độ tiện dụng đồng thời đảm bảo cho bạn một vẻ ngoài thời trang. Kiểu dáng nguyên thủy của giày búp bê bắt nguồn từ kiểu giày được mang bởi cả nam và nữ vào thời trung cổ, vào khoảng thế kỷ 16, có tên là pompes. Năm 1533, Catherine dei Medici xuất hiện cùng kiểu giày cao gót 5cm vào đám cưới của mình đã tạo nên cơn sốt giày cao gót vào thời điểm bấy giờ, kéo dài đến tận thế kỷ 18. 1680: Giày ballet nguyên gốc là phiên bản cao gót, ra đời tại trường ballet the Royal Academy tại Pháp, mặc dù đẹp về hình thức nhưng giày ballet này gây khó khăn cho các vũ công để nhảy cũng như thực hiện các động tác phức tạp. Sự kiện Marie Antoinette bước đến máy chém trong một đôi giày cao gót vào năm 1793 làm giày cao gót mất đi vị thế của mình, sớm rơi vào quên lãng ở Pháp. Sự kiện này cũng góp phần biến chuyển cho giày múa ballet, cùng với sự thay đổi về trang phục, giày ballet bỏ đi phần gót và có hình dạng như ngày nay. Sau một thời gian sửa và tìm hiểu về giày cho các vũ công ballet, Salvatore Capezio đã cho ra đời phiên bản giày ballet bền và chắc chắn hơn vào những năm 1880. Ông hợp tác với nhà thiết kế Clare McCardell và cho ra đời mẫu giày ballet với đế cao su bên dưới (1940), đưa kiểu giày này từ ánh đèn sân khấu ra sàn diễn thời trang, đến mọi con phố trong trang phục thường ngày. Năm 1947, tại một xưởng may ở Paris, Rose Repetto đã chế tác đôi giày búp bê thủ công đầu tiên cho con trai là Roland Petit, một vũ công nổi tiếng. Giày búp bê dần trở nên phổ biến trên toàn thế giới, đặc biệt trong giới vũ công nhờ vào độ linh hoạt, thoải mái. Giày búp bê đạt đỉnh vàng khi vũ công, diễn viên người Pháp Brigitte Bardot mang đôi giày búp bê màu đỏ của Repetto trong phim And God Created Woman vào năm 1956 với mục đích thương mại và đạt thành công rực rỡ khi đôi giày được ưa chuộng rộng rãi. Đôi giày búp bê màu đen do biểu tượng thời trang Audrey Hepburn mang và tiên phong trong bộ phim Funny Face (1957) khiến cho những đôi giày búp bê trở thành kiểu giày làm điên đảo phái nữ trên toàn thế giới. Ngày nay, giày búp bê có mặt ở khắp mọi nơi. Giống như chiếc váy mini-black-dress, gần như mỗi phụ nữ đều sở hữu cho mình một đôi ballet flats. Với kiểu dáng đa dạng theo xu hướng thời trang từng thời điểm cùng nhiều chất liệu khác nhau, đôi giày búp bê thoải mái và tiện dụng hứa hẹn vẫn luôn là món đồ thiết yếu của bất kỳ phụ nữ nào. Giày búp bê bắt nguồn từ giày múa của vũ công ballet, với gót rất mỏng hoặc hầu như không có. Giày sử dụng nhiều loại vải và thường có đế cao su rất mỏng. Người mang có thể điều chỉnh giày ôm sát vào chân nhờ thun ẩn trong đường viền giày. Giày có kiểu dáng linh hoạt và tiện dụng dành cho nữ ở mọi lứa tuổi. Với đặc tính không có gót, giày búp bê có xu hướng không tạo cảm giác kéo dài chiều cao cho bạn. Vì vậy bạn có thể mix giày búp bê cùng váy ngắn hoặc shorts để đôi chân trông dài hơn. Giày búp bê làm từ satin đem lại cái nhìn thanh lịch, tao nhã sẽ rất thích hợp nếu bạn kết hợp cùng váy liền. Trong khi đó chất liệu da tạo cảm giác lịch sự, phù hợp cho môi trường công sở, đặc biệt khi bạn kết hợp với chân váy bút chì. Nếu bạn đang tìm kiếm một vẻ ngoài năng động, trẻ trung, đừng quên đôi giày búp bê lằm bằng vải canvas khi kết hợp cùng leggings, quần skinny, shorts hay váy ngắn denim.
Giày búp bê
Giày búp bê có nguồn gốc từ giày múa ba lê, là kiểu giày rất linh hoạt và tiện dụng dành cho nữ (ở mọi lứa tuổi). Giày búp bê sử dụng nhiều loại vải và thường là với một đế cao su rất mỏng. Có thể mang khi làm, dạo chơi, hay chỉ đơn thuần trong một buổi dạo phố vào một ngày đẹp trời. Audrey Hepburn, biểu tượng thời trang và là người tiên phong khiến cho những đôi giày búp bê trở thành kiểu giày làm điên đảo phái nữ trên toàn thế giới, trong bộ phim Funny Face vào năm 1957. Giày búp bê bước vào làng thời trang thế kỷ 16, mặc dù trong suốt lịch sử nổi tiếng của nó đã giảm xuống so với giày cao gót. Trong thế kỷ 20, nó đã tăng đáng kể về chức năng, thời trang, màu sắc, kết cấu và xu hướng.
Cùng tham gia cộng đồng vì sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc hơn! Hãy điểm qua những nội dung mới của Hello Bacsi. Cỏ xạ hương được dùng để điều trị viêm phế quản, ho gà, đau họng, đau bụng, viêm khớp, đau bụng, đau dạ dày, tiêu chảy, đái dầm, chứng khó tiêu, đầy hơi, nhiễm ký sinh trùng giun tròn và rối loạn da. Cỏ xạ hương cũng được sử dụng để tăng lưu lượng nước tiểu (như thuốc lợi tiểu), để khử trùng nước tiểu và như một chất kích thích thèm ăn. Một số người dùng cỏ xạ hương trực tiếp lên da để điều trị viêm thanh quản, viêm amiđan, đau miệng và hôi miệng. Dầu cỏ xạ hương được sử dụng làm chất diệt vi trùng trong nước súc miệng và dầu xoa bóp. Dầu cỏ xạ hương cũng được áp dụng cho da đầu để điều trị chứng hói đầu và dùng ở tai để chống lại sự nhiễm khuẩn và nấm. Thymol, một trong những chất hoá học trong cây cỏ xạ hương, được sử dụng với chlorhexidine như một chất nha khoa để ngăn ngừa sâu răng. Trong thực phẩm, cỏ xạ hương được sử dụng như một chất tạo hương vị. Trong sản xuất, dầu xạ hương đỏ được sử dụng trong nước hoa, ngoài ra cũng được sử dụng trong xà bông, mỹ phẩm, và kem đánh răng. Cỏ xạ hương có thể được sử dụng cho các mục đích sử dụng khác. Hãy hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ để biết thêm thông tin. Cỏ xạ hương có chứa các chất có thể giúp ngăn ngừa nhiễm vi khuẩn và nấm và các kích thích nhỏ, cũng có thể làm giảm co thắt cơ trơn, chẳng hạn như ho. Hiện nay vẫn chưa có đủ nghiên cứu về tác dụng của loại thuốc này. Bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi sử dụng thuốc. Cỏ xạ hương có thể mamg lại tác dụng khác nhau đối với những bệnh nhân khác nhau. Liều lượng dựa trên tuổi của bạn, tình trạng sức khỏe và một số vấn đề cần quan tâm khác. Cỏ xạ hương có thể không an toàn. Hãy thảo luận với thầy thuốc và bác sĩ của bạn để tìm ra liều dùng thích hợp. Muỗi hổ có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của Đông Nam Á. .Một nhóm nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Chungbuk ở Hàn Quốc đã báo cáo rằng sự kết hợp giữa tinh dầu cỏ xạ hương, tinh dầu tràl có hiệu quả trong việc tiêu diệt ấu trùng muỗi vằn. Tinh dầu xạ hương chiết xuất từ lá thường được sử dụng như một phương thuốc giảm ho tự nhiên. Trong một nghiên cứu, trà cỏ xạ hương kết hợp cùng lá thường xuân giúp giảm bớt ho và các triệu chứng khác của viêm phế quản cấp tính. Nhiệm vụ hấp thu đủ vitamin và khoáng chất đầy đủ mỗi ngày có thể khó khăn. May mắn thay, nếu có cỏ xạ hương, bạn hãy tận dụng loại thảo mộc này bởi nó chứa vitamin C và dồi dào vitamin A. Ngoài ra, cỏ xạ hương còn cung cấp chất xơ, chất sắt…. Mốc là một nguyên tố gây ô nhiễm không khí phổ biến và luôn có khả năng nguy hiểm có thể ẩn nấp trong nhà của bạn. Do vậy, hãy thực hiện các bước cần thiết để loại chúng bằng dầu xạ hương. Các nhà nghiên cứu tại Đại học Belgrade, Serbia, phát hiện ra rằng chiết xuất từ cỏ xạ hương tự nhiên làm giảm huyết áp trong các thử nghiệm trên chuột. Chuột phản ứng tăng huyết áp theo cách tương tự với con người, vì vậy những phát hiện này có thể có tác động lớn đến quá trình điều trị bệnh.Tuy nhiên, cần có nhiều thí nghiệm hơn nhằm có kết luận chính xác nhất. Một nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu động vật và vật nuôi tại Bồ Đào Nha, đã nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn của các loại tinh dầu chiết xuất từ một loạt các cây thơm, bao gồm cả xạ hương. Họ báo cáo rằng dầu xạ hương ở nồng độ thấp có khả năng trở thành một chất bảo quản thực phẩm tự nhiên và chống lại một số vi khuẩn phổ biến gây bệnh cho con người. Hiện tượng oxy hóa lipid là một vấn đề nghiêm trọng trong quá trình chế biến và bảo quản thực phẩm. Nó có thể làm cho thực phẩm mất chất lượng, ổn định, an toàn và mất đi giá trị dinh dưỡng. Các nhà khoa học từ Warsaw, Ba Lan, đã kiểm tra xem chiết xuất dầu xạ hương có thể kéo dài sự ổn định của dầu hướng dương và cho ra được nhiều kết quả khả quan. Cỏ xạ hương an toàn khi tiêu thụ với lượng có trong thức ăn bình thường. Cỏ xạ hương có thể an toàn khi dùng với lượng có trong thuốc trong một khoảng thời gian ngắn. Cỏ xạ hương có thể gây tác dụng phụ như rối loan tiêu hóa. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về các tác dụng phụ, hãy tham khảo ý kiến thầy thuốc hay bác sĩ. Bạn có bất kỳ loại dị ứng nào khác, như thực phẩm, thuốc nhuộm, chất bảo quản, hay động vật. Bạn cần cân nhắc giữa lợi ích của việc sử dụng cỏ xạ hương với nguy cơ có thể xảy ra trước khi dùng. Tham khảo ý kiến tư vấn của thầy thuốc hay bác sĩ trước khi sử dụng vị thuốc này. Trẻ em: Cỏ xạ hương an toàn khi trẻ em tiêu thụ với lượng thức ăn bình thường. Cỏ xạ hương an toàn khi dùng làm thuốc trong một khoảng thời gian ngắn. Không có đủ thông tin để biết liệu dầu cỏ xạ hương có an toàn cho trẻ khi được bôi lên da hay uống. Phụ nữ mang thai và cho con bú: Cỏ xạ hương an toàn cho phụ nữ mang thai và cho con bú khi tiêu thụ trong lượng thức ăn bình thường. Tuy nhiên, bác sĩ không biết liệu có an toàn để sử dụng cỏ xạ hương với số lượng lớn hơn hay không, nên hãy dùng đủ lượng thực phẩm nếu bạn mang thai hoặc cho con bú. Dị ứng với oregano và các cây tương tự: Những người bị dị ứng với oregano hoặc các loài khác thuộc họ Lamiaceae cũng có thể bị dị ứng với cỏ xạ hương. Rối loạn xuất huyết: cỏ xạ hương có thể làm chậm đông máu. Dùng cỏ xạ hương có thể làm tăng nguy cơ chảy máu, đặc biệt nếu dùng với lượng lớn. Các điều kiện nhạy cảm với hormone như ung thư vú, ung thư tử cung, ung thư buồng trứng, lạc nội mạc tử cung hay u xơ tử cung: Cỏ xạ hương có thể hoạt động giống như estrogen trong cơ thể. Nếu bạn có bất kỳ tình trạng nào có thể trở nên nghiêm trọng hơn khi tiếp xúc với estrogen, không sử dụng cỏ xạ hương. Phẫu thuật: cỏ xạ hương có thể làm chậm đông máu, do đó có một số lo ngại rằng nó có thể làm tăng nguy cơ chảy máu trong và sau khi giải phẫu. Ngừng sử dụng cỏ xạ hương ít nhất 2 tuần trước khi phẫu thuật theo lịch trình. Thảo dược này có thể tương tác với những thuốc bạn đang dùng hay tình trạng sức khỏe hiện tại của bạn. Tham khảo ý kiến tư vấn của thầy thuốc hay bác sĩ trước khi sử dụng cỏ xạ hương. Cỏ xạ hương có thể làm chậm máu đông. Dùng cỏ xạ hương cùng với thuốc làm chậm đông máu có thể làm tăng nguy cơ bầm tím và chảy máu. Hello Health Group không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay các phương pháp điều trị y khoa. Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Hello Bacsi mong muốn trở thành nền tảng thông tin y khoa hàng đầu tại Việt Nam, giúp bạn đưa ra những quyết định đúng đắn liên quan về chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ bạn cải thiện chất lượng cuộc sống.
Cỏ xạ hương
Cỏ xạ hương (tiếng Anh: Thyme hay Common thyme, Garden thyme, danh pháp hai phần: Thymus vulgaris) là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa môi, được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực, dược liệu và trang trí. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753 Chúng thuộc Chi Cỏ xạ hương (Bách lý hương) và là loài phổ biến nhất trong chi này. Cỏ xạ hương có nguồn gốc miền nam châu Âu từ phía tây Địa Trung Hải đến miền nam Italia nhưng hiện nay đã di thực khắp nơi trên thế giới. Tại Việt Nam cây được trồng chính tại Đà Lạt và Sa Pa. Cỏ xạ hương khá phổ biến ở châu Âu như Đức, Pháp, Séc, Áo và khu vực Địa Trung Hải như Italia. Theo trang Y học cổ truyền, cỏ xạ hương là cây dưới bụi, cao 30–70 cm, tạo thành khóm xám hay lục trăng trắng, thân hóa gỗ, mọc đứng hay nằm, phân nhánh nhiều và có lông mịn. Lá nhỏ hình ngọn giáo dài 5-9mm; có cuống ngắn, mép lá cuốn lại có lông như bông ở mặt dưới. Hoa nhỏ ở nách lá, dài 4-6mm, màu hồng hay trắng; đài lởm chởm, lông cứng, chia hai môi; tràng hình ống, các môi trên đứng, môi dưới có 3 thùy gần bằng nhau; nhị 4, lồi có bao phấn rẽ ra; nhụy có đĩa mật bao quanh.
Ngày xửa ngày xưa có một góa phụ nghèo có một đứa con trai duy nhất tên là Jack và một con bò tên là Trắng Sữa. Họ sống nhờ vào việc đem lượng sữa con bò cho mỗi sáng ra chợ bán. Nhưng một buổi sáng Trắng Sữa không cho được sữa và họ không biết phải làm thế nào. “Chúng ta biết làm sao bây giờ, làm sao bây giờ?”, bà mẹ vò đầu bứt tai. “Mẹ đừng buồn, con sẽ đi ra ngoài tìm việc gì đó để làm”, Jack nói. “Vâng thưa mẹ”, Jack nói. “Hôm nay là ngày có phiên chợ, con sẽ mang Trắng sữa đi bán rồi xem chúng ta có thể làm gì.”. Vậy là cậu cầm lấy dây dắt bò đi. Cậu đi được chưa xa thì gặp một ông già trông khá kì lạ chào cậu: “Chào buổi sáng, Jack.”. “Chào buổi sáng ông lão”, Jack nói và thắc mắc tại sao ông ta lại biết tên cậu. “Ồ cậu trông giống một người bán bò đấy. Tôi tự hỏi cậu có biết làm thế nào để có năm hạt đậu”. “Hai hạt trong mỗi bàn tay và một ở trong mồm ông”, Jack nói sắc sảo như mũi kim. “Vì cậu rất thông minh nên tôi không phiền làm một cuộc trao đổi: con bò của cậu đổi lấy những hạt đậu này.”. “À cậu không biết những hạt đậu này rồi”, ông già nói; “nếu cậu trồng chúng qua một đêm, đến sáng nó sẽ mọc lên tận trên trời”. Jack nói và đưa cho ông ta cái dây buộc con Trắng Sữa và đút những hạt đậu vào trong túi. Jack về nhà và bởi cậu đi chưa xa nên khi đến cửa thì trời còn chưa tối. “Con đã về rồi à Jack?”, mẹ cậu nói. “Mẹ không thấy con Trắng Sữa đâu, có nghĩa là con đã bán được nó. Vậy con bán được bao nhiêu tiền?”. “Con đã bảo mẹ không đoán được đâu. Mẹ hãy nhìn những hạt đậu này xem; chúng là đậu thần, trồng chúng qua một đêm và …”. “Cái gì!”, mẹ Jack nói, “con đúng là một thằng ngốc đần độn khi đem đổi Trắng Sữa của mẹ, con vật cho sữa tốt nhất trong xứ để đổi lấy mấy hạt đậu tầm thường này. Và những hạt đậu quý giá này của con sẽ ra ngoài cửa sổ. Giờ thì hãy lên giường vì tối nay con sẽ không được ăn uống gì cả.”. Vậy là Jack đi lên căn phòng nhỏ của mình trên gác mái, buồn bã vì đã làm mẹ thất vọng và vì mất bữa tối. Khi tỉnh dậy, cậu thấy căn phòng trông rất ngộ nghĩnh. Mặt trời chiếu sáng một phần của nó và phần còn lại thì tối om. Vậy là Jack nhảy lên và mặc quần áo và bước đến cửa sổ. Và bạn nghĩ cậu thấy gì? Những hạt đậu mẹ cậu vứt ra ngoài cửa sổ hôm trước ra vườn giờ đây đã mọc thành một cây đậu lớn có thân vươn lên vươn lên mãi cho đến tận trên trời. Vậy là ông già đã nói sự thật. Cây đậu mọc lên ngay sát cửa sổ của Jack nên cậu mở cửa sổ và nhảy lên thân cây cấu tạo giống như một cái thang xoắn. Vậy là Jack leo lên leo lên mãi cho đến khi đến tận trời. Và khi cậu đến được đó cậu tìm thấy một con đường lớn đi thẳng như một mũi tên. Thế là cậu cứ đi một mạch cho đến khi gặp một ngôi nhà lớn và ở cửa có một người phụ nữ cao lớn. “Chào buổi sáng, mẹ”, Jack nói. “Mẹ có thể tốt bụng cho con ít đồ ăn sáng được không?”. “Mày muốn bữa sáng à?”, người phụ nữ cao lớn nói. “Mày sẽ trở thành bữa sáng nếu không đi khỏi đây ngay. Chồng tao là một gã yêu tinh khổng lồ và không có gì hắn khoái hơn là một thằng bé kẹp trong bánh mì. Tốt nhất mày nên đi ngay trước khi hắn trở về”. “Ôi xin mẹ, hãy cho con thứ gì đó để ăn. Con đã không được ăn gì từ sáng qua, thật đó mẹ. Con có thể bị nướng nhưng chết đói thì cũng chẳng khác gì”. Vợ của gã khổng lồ không phải là người xấu. Bởi vậy bà đưa Jack vào trong bếp và đưa cho cậu một chiếc bánh mì thừa, phô mai và bình sữa. Nhưng Jack chưa ăn được một nửa thì “Thùng! Thùng!” cả căn nhà rung lên bởi tiếng một ai đó đang đến. “Lạy chúa nhân từ! Đó là chồng tôi”, vợ gã khổng lồ nói, “Tôi phải làm gì bây giờ? Nào hãy nhanh lên và nhảy vào đây”. Và bà gói Jack vào trong một cái lò khi gã khổng lồ bước vào. Thắt lưng gã khổng lồ buộc ba con bê, và gã tháo dây ném chúng lên bàn và nói: “Đây vợ ơi, hãy nướng một cặp bê này cho bữa sáng. A, ta ngửi thấy gì thế này?”. “Vô lí”, vợ gã nói, “Anh đang mơ đấy. Hoặc có thể anh ngửi thấy mảnh thừa của thằng bé mà anh rất thích từ bữa tối qua. Đây, anh hãy đi tắm rửa thay quần áo và khi trở lại anh sẽ thấy bữa sáng sẵn sàng cho anh chén”. Vậy là gã khổng lồ đi ra và Jack suýt nữa nhảy ra từ lò nướng và chạy đi nếu người đàn bà không bảo cậu. “Hãy đợi đến khi hắn ngủ. Hắn luôn đánh một giấc ngắn sau khi ăn sáng”. Gã khổng lồ ăn sáng, sau đó hắn đi tới một cái rương lớn lấy ra vài túi vàng và ngồi xuống đếm chúng cho đến khi đầu hắn gà gật và hắn bắt đầu ngáy vang cả nhà. Sau đó Jack lẻn ra khỏi lò, và khi đi ngang qua tên khổng lồ cậu lấy một túi vàng trong tay hắn và chạy một mạch tới cây đậu thần. Sau đó cậu ném túi vàng xuống vườn nhà và trèo xuống. Về đến nhà cậu khoe với mẹ những đồng vàng và nói: “Mẹ à, con có nói sai về những hạt đậu đâu. Chúng thật sự kì diệu, mẹ đã thấy rồi đó”. Vậy là họ đã sống nhờ số vàng đó trong một khoảng thời gian. Tuy nhiên cuối cùng họ cũng tiêu hết nên Jack quyết định thử vận may một lần nữa để leo lên đỉnh hạt đậu thần. Vậy là một buổi sáng cậu dậy sớm, leo lên cây đậu và bắt đầu trèo, trèo mãi cho đến khi tới bầu trời và đi theo con đường đến ngôi nhà lớn cậu từng tới trước đây. Và đứng trước ngưỡng cửa lại là người đàn bà cao lớn. “Đi đi, con trai”, người đàn bà to lớn nói, “nếu không chồng ta sẽ biến mày thành bữa sáng của hắn. Nhưng không phải mày là thằng bé đã từng đến đây một lần rồi sao? Mày có biết hôm đó chồng ta đã mất một túi vàng không?”. “Điều đó thật lạ, mẹ à”, Jack nói. “Con dám nói rằng con có thể kể cho mẹ một chút về điều đó nhưng vì đang rất đói nên con không thể nói cho đến khi được ăn gì đó.”. Người phụ nữ cao lớn rất tò mò nên bà cho cậu vào và đưa cậu một ít đồ ăn. Nhưng cậu nhai rất chậm và rồi “Thùng! Thùng!”, họ nghe thấy tiếng bước chân của gã khổng lồ và vợ hắn lại giấu Jack trong chiếc lò. Và giống như lần trước, gã khổng lồ lại đến nói: “Phì phà phì phò” và mang theo bữa sáng là ba con bò. Sau đó hắn nói: “Vợ, mang cho ta con gà đẻ trứng vàng”. Vậy là bà mang theo nó và gã khổng lồ nói “Hãy đẻ trứng” và con gà liền đẻ ra một quả trứng vàng. Sau đó gã khổng lồ bắt đầu gà gật và ngáy rung cả nhà. Sau đó Jack lẻn ra khỏi chiếc lò, bắt lấy con gà đẻ trứng vàng và chạy mất. Nhưng lần này con gà kêu cục tác đánh thức gã khổng lồ và ngày khi Jack đặt chân ra khỏi nhà cậu nghe thấy gã gọi: “Vợ ơi vợ, cô đã làm gì với con gà đẻ trứng vàng của tôi?”. Nhưng đó là tất cả những gì Jack nghe thấy bởi cậu đang vội vã chạy về cây đậu và trèo xuống như thể đang cháy nhà. Khi trở về nhà cậu liền cho mẹ thấy con gà tuyệt vời và nói “Đẻ”. Thế là nó đẻ một quả trứng vàng mỗi khi cậu nói “Đẻ”. Jack vẫn chưa vừa lòng và không lâu sau cậu lại quyết định thử vận may một lần nữa. Vậy là một buổi sáng đẹp trời, cậu dậy sớm và trèo lên cây đậu. Cậu lại trèo một mạch đến đỉnh cây đậu và đi thẳng đến nhà gã khổng lồ. Khi đến gần đó cậu nấp trong bụi cây cho đến khi nhìn thấy vợ gã khổng lồ đi ra ngoài lấy nước liền lẻn vào trong nhà và nấp trong chảo đồng. Một lúc sau cậu lại nghe “Thùng! Thùng!” và gã khổng lồ và vợ hắn bước vào. “Thật sao, chồng yêu?”, vợ hắn nói. “Vậy nếu đó là thằng trộm nhỏ đã lấy vàng và con gà đẻ trứng vàng của chồng, chắc hẳn hắn đã chui vào lò nướng”. Và họ vội vã chạy đến lò nướng. Nhưng may sao Jack không ở đó và vợ của gã khổng lồ nói: “Lại một lần nữa chả có gì với cái phì phà phì phò của anh. Chắc chắn đó là thằng nhỏ anh bắt tối qua mà tôi đã nướng cho bữa sáng. Tôi thật đãng trí và anh thì thật bất cẩn khi không nói được sự khác nhau giữa một đứa còn sống và một đứa đã chết”. Thế là gã khổng lồ ngồi xuống ăn sáng nhưng hắn liên tục lẩm bẩm: “Ôi, ta có thể thề rằng” và hắn đứng lên và tìm kiếm trong chạn đựng thức ăn, các tủ đồ và khắp nơi nhưng may sao hắn không nghĩ đến chiếc chảo đồng. Sau khi ăn xong bữa sáng, gã khổng lồ gọi to: “Vợ ơi vợ, đưa ta chiếc đàn hạc vàng”. Bà vợ liền mang lên đặt trên bàn trước mặt hắn. Hắn liền nói: “Đàn lên!” và chiếc đàn hạc vàng ngân lên những âm thanh tuyệt đẹp. Và nó tiếp tục đàn cho đến khi gã khổng lồ chìm vào giấc ngủ và ngáy như sấm. Sau đó Jack nhẹ nhàng nhấc chiếc chảo đồng lên và lẻn đến chiếc bàn lấy chiếc đàn hạc rồi lao đến chiếc cửa cùng nó. Nhưng chiếc đàn bỗng cất tiếng gọi to: “Chủ nhân! Chủ nhân!” và gã khổng lồ bật dậy đúng lúc nhìn thấy Jack chạy ra ngoài cùng chiếc đàn hạc của hắn. Jack chạy nhanh hết sức và gã khổng lồ vội vã đuổi theo sau. Khi cậu đến chỗ cây đậu thần, gã khổng lồ chỉ còn cách hai mươi thước. Đột nhiên, hắn thấy Jack biến mất và khi đến cuối con đường hắn nhìn thấy Jack đang tụt xuống. Tên khổng lồ cảm thấy không tự tin lắm với chiếc thang này nên hắn đành đứng đó chờ cho đến khi Jack lại leo lên. Nhưng cây đàn hạc lại kêu lên “Chủ nhân! Chủ nhân!” và gã khổng lồ liền trèo xuống cây đậu. Cây đậu thần rung lên với sức nặng của hắn. Lúc này Jack đã trèo xuống gần đến nhà. Cậu liền gọi mẹ: “Mẹ ơi! Hãy mang cho con chiếc rìu, mang cho con chiếc rìu”. Và mẹ cậu vội đến mang theo chiếc rìu trên tay, nhưng khi đến bên cây đậu bà ngây người sợ chết khiếp khi thấy gã khổng lồ đang trèo xuống dưới những đám mây. Nhưng Jack đã nhảy xuống và lấy chiếc rìu chặt đứt một nửa thân cây đậu thần. Gã khổng lồ thấy cây đậu rung chuyển nên hắn dừng lại xem có vấn đề gì. Sau đó Jack chặt một phát nữa và thân cây đậu bị đứt làm đôi và bắt đầu đổ xuống. Thế là gã khổng lồ ngã xuống vỡ đầu, cây đậu thần đổ theo sau. Sau đó Jack cho mẹ xem chiếc đàn hạc vàng. Bằng cách cho mọi người xem chiếc đàn và bán những quả trứng vàng, Jack và mẹ trở nên rất giàu có. Sau đó cậu lấy một cô công chúa và họ sống với nhau hạnh phúc suốt đời.
Jack và cây đậu thần
"Jack và cây đậu thần" là một câu chuyện thần tiên nước Anh. Câu chuyện được biết sớm nhất thông qua bản in của Benjamin Tabart năm 1807. "Felix Summerly" (Henry Cole) phổ biến trong The Home Treasury (1842), và Joseph Jacobs đã viết lại trong English Fairy Tales (1890). Phiên bản của là được nhiều người biết đến nhất thông qua các đợt tái bản và được gần gũi hơn là bản truyền miệng của Tabart. Jack là một cậu bé sống với người mẹ và nguồn thu nhập chính của họ chỉ là chăn bò. Khi con bò không còn khả năng cho sữa nữa, mẹ Jack bảo cậu đem con bò ra chợ bán. Trên đường đi, cậu gặp một ông lão, ông gợi ý đổi hạt đậu thần với con bò cậu đồng ý. Khi cậu về nhà với tay không mẹ cậu nổi giận và ném những hạt đậu xuống đất và bắt cậu đi ngủ. Hôm sau cây đậu thần lớn nhanh như thổi, Jack đã leo lên tận trời xanh. Có một lâu đài của người khổng lồ trên những đám mây và cậu đã lẻn vào. Ta sẽ nghiền nát xương của ngươi để làm bánh mì của ta.
Được xây dựng từ đầu thế kỷ 17, Văn miếu Xích Đằng là nơi tôn vinh nền học vấn của người dân Phố Hiến và vẫn giữ nguyên nét cổ kính sau gần 400 năm. Tọa lạc tại thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, Văn miếu Xích Đằng là điểm quan trọng trong quần thể di tích Phố Hiến. Xây dựng từ cuối thời Lê - thế kỷ 17 (khoảng năm 1701) và trải qua đợt trùng tu lớn vào năm 1839 (năm Minh Mạng thứ 20), Văn miếu Xích Đằng nay vẫn giữ nguyên vẹn kiến trúc cổ. Khuôn viên Văn miếu rộng 6.000 m2, bao gồm các công trình kiến trúc tam quan, lầu chuông, lầu khánh, hai dải vũ, khu chính và khu tháp thờ. Tam quan Văn miếu xây dựng theo kiến trúc "chồng diêm hai tầng tám mái”. Đây là công trình kiến trúc đặc sắc vẫn giữ nguyên vẹn từ khi xây dựng và còn được lấy làm biểu tượng tỉnh Hưng Yên. Hai bên sân là lầu chuông và lầu khánh. Trong đó, lầu chuông treo quả chuông bằng đồng đúc năm 1804 còn lầu khánh mắc một chiếc khánh đá, dựng năm 1803. Phần tiếp theo là hai dải vũ, xây theo kiến trúc 5 gian, xưa kia là nơi các quan để cỗ kiệu, sửa soạn mũ áo trước khi vào lễ Khổng Tử. Ngày nay, nơi này trưng bày những hình ảnh về giáo dục và du lịch tỉnh. Qua tam quan sẽ tới sân Văn miếu và tòa chính. Khoảng sân này trước kia là nơi diễn ra các kỳ thi hương. Theo bài văn khắc trên chuông, từ năm 1804, Hưng Yên đã có văn miếu nhưng phải đến năm Minh Mạng thứ 20 (1839), Văn miếu Xích Đằng mới xây dựng lại với quy mô to đẹp, bề thế như ngày nay. Tòa chính được xây theo kiến trúc kiểu chữ Tam, gồm ba tòa tiền tế, trung từ và hậu cung. Bên trong tòa chính là nơi thờ Khổng Tử, nhà giáo Chu Văn An, các vị thánh hiền nho giáo và dựng 9 tấm bia ghi danh các vị học sĩ đỗ đạt cao. Những tấm bia đá dựng hai bên tòa chính nằm trong số các hiện vật quý giá nhất Văn miếu Xích Đằng còn giữ lại. Hơn 200 vị khoa bảng được vinh danh trên bia đá. Người có học vị cao nhất là các trạng nguyên Tống Trân (thôn An Cầu, huyện Phù Cừ,) đời Trần hay Nguyễn Kỳ (huyện Đông An), triều Mạc. Còn người có chức vụ cao nhất là Lê Như Hổ, quận công triều Mạc. Bên cạnh thờ Khổng Tử, Văn miếu Xích Đằng còn thờ Chu Văn An - một thầy giáo ở thời Trần, đồng thời là người được lịch sử tôn vinh "ông tổ đạo Nho". Hai bức tượng đồng lấy mẫu tượng từ Văn miếu Quốc Tử Giám và cung tiến năm 2003. Văn miếu xưa có hai mùa lễ hội. Trọng hội là ngày 10/2 và 10/8. Cứ vào các ngày trọng hội, những vị nho học và quan đầu tỉnh phải đến Văn miếu tế lễ để thể hiện nề nếp nho phong, tôn sư trọng đạo làm gương cho con cháu, cầu mong sự nghiệp giáo dục ngày càng tiến bộ. Ngày nay, hàng năm, vào dịp mùng 4-5 Tết, Văn miếu lại tổ chức lễ hội với các hoạt động như hát ca trù, cho chữ đầu xuân.
Văn miếu Xích Đằng
Văn miếu Xích Đằng hay còn gọi là Văn miếu Hưng Yên là một di tích quan trọng trong quần thể di tích Phố Hiến. Văn miếu Xích Đằng là văn miếu thuộc hàng tỉnh, được xây dựng vào khoảng năm 1701, hiện tại thuộc địa phận thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Văn miếu thờ Khổng Tử người sáng lập đạo Nho và thờ Vạn thế sư biểu Chu Văn An - nhà sư phạm tài năng đức độ thời Trần. Xưa kia, Văn Miếu là nơi tổ chức các cuộc thi Hương và sát hạch thí sinh đi dự kì thi Hương. Vào mỗi dịp xuân thu nhị kỳ, nơi đây còn tổ chức tế lễ. Chủ tế là các quan đầu tỉnh cùng chức sắc, nho sinh. Nơi đây cũng thường xuyên tổ chức các cuộc thi bình văn, thơ của nho sĩ yêu nước. Văn miếu Xích Đằng có tên như vậy vì được xây dựng trên đất làng Xích Đằng, xưa kia là văn miếu của trấn Sơn Nam căn cứ vào khánh, chuông còn lại ở văn miếu. Hệ thống quần thể di tích Văn miếu Xích Đằng đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử năm 1992.
Con bướm đập cánh ở Brazil có thể gây ra cơn lốc xoáy ở Texas. Hiệu ứng bươm bướm (tiếng Anh: Butterfly effect) (còn được gọi là hiệu ứng cánh bướm) là một cụm từ dùng để mô tả khái niệm trong lý thuyết hỗn loạn về độ nhạy cảm của hệ đối với điều kiện gốc (tiếng Anh: sensitivity on initial conditions). Hiệu ứng này được nhà toán học Edward Norton Lorenz khám phá ra. Khi thực hiện mô phỏng các hiện tượng thời tiết, Lorenz nhận thấy rằng nếu ông làm tròn các dữ liệu đầu vào, dù với sai số bé thế nào đi nữa, thì kết quả cuối cùng luôn khác với kết quả của dữ liệu không được làm tròn. Một thay đổi nhỏ của dữ liệu đầu vào dẫn đến một thay đổi lớn của kết quả. Tên gọi hiệu ứng cánh bướm bắt nguồn từ hình ảnh ẩn dụ: một cơn bão chịu sự ảnh hưởng của một con bươm bướm nhỏ bé vỗ cánh ở một nơi nào đó rất xa cơn bão. Vốn được sử dụng ban đầu như một khái niệm khoa học đơn thuần, hiệu ứng cánh bướm sau đó đã được nhắc đến nhiều lần trong văn hóa đương đại, đặc biệt là trong các tác phẩm có đề cập tới quan hệ nhân quả hoặc nghịch lý thời gian (ví dụ như bộ phim Hiệu ứng cánh bướm được đặt tên và lấy cảm hứng theo khái niệm này). (Dự đoán: Liệu con bướm đập cánh ở Brasil có thể gây ra cơn lốc ở Texas?). Trước đó vào năm 1961, trong khi mô phỏng một dự đoán về thời tiết trên máy tính, Lorenz đã lỡ nhập số liệu là 0,506 thay vì 0,506127 như dự định, và do đó đã thu được kết quả dự đoán thời tiết hoàn toàn khác so với tính toán ban đầu. Từ kết quả này Lorenz đã đề cập tới sự ràng buộc chặt chẽ của hệ vật lý đối với các điều kiện ban đầu trong bài nói chuyện. Theo đó một cái đập cánh của con bướm nhỏ bé có thể gây ra sự thay đổi (dù rất nhỏ) trong điều kiện gốc của hệ vật lý dẫn đến kết quả là những thay đổi rất lớn về thời tiết ví dụ như cơn lốc tại một địa điểm cách nơi con bướm đập cách hàng vạn km. Thực tế thì khái niệm độ nhạy cảm của hệ đối với điều kiện gốc đã được nói đến lần đầu trong văn học từ năm 1890 (trong một tác phẩm của Jacques Hadamard). Cái tên”hiệu ứng cánh bướm”đã được rất nhiều tác phẩm âm nhạc và điện ảnh sử dụng, tuy nhiên nó lại thường được dùng để mô tả nghịch lý thời gian và quan hệ nhân quả, đặc biệt là trong các tác phẩm có nhắc tới du hành thời gian.
Hiệu ứng bươm bướm
Hiệu ứng bươm bướm (tiếng Anh: Butterfly effect) (còn được gọi là hiệu ứng cánh bướm) là một cụm từ dùng để mô tả khái niệm trong lý thuyết hỗn loạn về độ nhạy cảm của hệ đối với điều kiện gốc (tiếng Anh: sensitivity on initial conditions). Hiệu ứng này được nhà toán học Edward Norton Lorenz khám phá ra. Khi thực hiện mô phỏng các hiện tượng thời tiết, Lorenz nhận thấy rằng nếu ông làm tròn các dữ liệu đầu vào, dù với sai số bé thế nào đi nữa, thì kết quả cuối cùng luôn khác với kết quả của dữ liệu không được làm tròn. Một thay đổi nhỏ của dữ liệu đầu vào dẫn đến một thay đổi lớn của kết quả. Tên gọi hiệu ứng cánh bướm bắt nguồn từ hình ảnh ẩn dụ: một cơn bão chịu sự ảnh hưởng của một con bươm bướm nhỏ bé vỗ cánh ở một nơi nào đó rất xa cơn bão. Vốn được sử dụng ban đầu như một khái niệm khoa học đơn thuần, hiệu ứng cánh bướm sau đó đã được nhắc đến nhiều lần trong văn hóa đương đại, đặc biệt là trong các tác phẩm có đề cập tới quan hệ nhân quả hoặc nghịch lý thời gian (ví dụ như bộ phim Hiệu ứng cánh bướm được đặt tên và lấy cảm hứng theo khái niệm này).
Đỗ Duy Mạnh là cái tên từng nhận danh hiệu Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất V-League 2015. Anh là trung vệ, tiền vệ kiến tạo xuất sắc cho Hà Nội FC và đội tuyển quốc gia Việt Nam. Khả năng đi bóng từ phòng ngự đến chuyền bóng của anh được đánh giá cao và tắc bóng xuất sắc. Anh đam mê bóng đá ngay từ nhỏ và bộc lộ ngay tài năng của mình. Anh trưởng thành trong lò đào tạo của Hà Nội FC và trở thành trụ cột lớn của đội. Chàng trai sinh năm 96 được các đồng đội gọi là Mạnh gắt kể từ khi chơi cho đội U23 châu Á. Lý do là anh ta thường trở nên gắt gỏng với kẻ thù, như muốn ăn tươi nuốt sống kẻ thù. Đây là hành động mở ra để bảo vệ đồng đội và đấu tranh cho công lý của đội. Nhưng anh không mắc sai lầm nghiêm trọng nào, hành động của anh khiến nhiều người bật cười và xót xa. Cùng với HLV Toshiya Miura, Lê Công Vinh là học trò cưng và được đánh giá cao nhất dưới triều đại của ông là Đỗ Duy Mạnh. Anh ấy là một cầu thủ tài năng và đa năng với kỹ năng chuyền dài cực tốt và tranh chấp bóng linh hoạt. Miura cũng nhận xét rằng Duy Mạnh cũng là một tiền vệ phòng ngự khi anh ấy có thể thu hồi bóng tốt và gây đột biến trong các tình huống tấn công. Bộ đôi Đình Trọng – Duy Mạnh đã phối hợp rất ăn ý trong lối chơi của đội. Cả hai nên bọc lót cuối cùng trước thủ môn Đặng Văn Lâm phòng trường hợp đồng đội mất cảnh giác hoặc phá bóng không an toàn. Anh và các đồng đội thường xuyên làm nản lòng mọi đợt tấn công, đặc biệt là những chân sút nguy hiểm. Đỗ Duy Mạnh chơi bóng từ năm 8 tuổi, nhưng năm 10 tuổi anh được đào tạo tại Trung tâm đào tạo bóng đá Hà Nội và sau đó đến Hanoi T&T F.C. Tôi đã được chuyển đến. Vào tháng 12 năm 2006, anh và Phạm Đức Huy chơi cho câu lạc bộ J2 League Consadole Sapporo. Tài năng của người đàn ông này đã được ghi nhận trong suốt các giải đấu dành cho trẻ em và thiếu niên. Năm 2013, anh chuyển đến Hà Nội T&T. Duy Mạnh và Quang Hải là hai cái tên được kỳ vọng nhất tại CLB. Anh nhanh chóng trở thành đội trưởng đội trẻ do HLV Nguyễn Hữu Thắng dẫn dắt. Trung vệ này đã thi đấu xuất sắc để mang về chức vô địch cho đội tuyển bóng đá quốc gia dưới 19 tuổi và dưới 21 tuổi. Nhưng cột mốc đáng nhớ của anh đến vào năm 2015 khi anh được gọi vào đội U23 và giúp CLB bóng đá Hà Nội cán đích ở vị trí á quân V-League. Cầu thủ trẻ này đã vượt qua cả Xuân Trường và Tuấn Anh của HAGL để giành giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm 2014. Năm 2021, đội Hà Nội của ông có thành tích không tốt khi không đứng đầu bảng xếp hạng. Và cậu ấy vẫn đang nỗ lực trong cuộc đua ở V.League năm nay. Năm 2011, Duy Mạnh tập trung vào danh sách U16 quốc gia. Năm 2013, anh được gọi vào đội tuyển U19 Việt Nam tham dự giải vô địch U19 Đông Nam Á cùng năm. Năm 2015, anh tham gia đội tuyển U23 Quốc gia tham dự giải bóng đá vô địch AFC U22 2016, nơi anh được gọi vào đội tuyển quốc gia Việt Nam tham dự trận giao hữu quốc tế với Manchester. Năm 2016, anh tham gia Giải vô địch AFC U23 2016 tại Qatar. Ngày 14 tháng 1 năm 2016, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho U23 Việt Nam tại giải đấu này. Trong năm 2018, anh tham dự các giải đấu lớn nhỏ, từ ASIAD đến AFF Cup 2018. Ở trận tứ kết ASIAD 2018, khi Olympic Việt Nam thi đấu với Olympic Syria, anh đã thi đấu trọn vẹn 120 phút và bị chuột rút. khắp cơ thể mình. Đầu năm 2020, anh tham dự trận tranh Siêu cúp quốc gia tại sân vận động Thống Nhất, va chạm với tiền đạo bên phía CLB TP.HCM. Anh bị một loạt chấn thương nghiêm trọng bao gồm đứt dây chằng, giãn dây chằng chéo trước, đụng dập hạt ngoài, chấn thương xương hàm dưới và chấn thương dây chằng chéo trước ruột. Đỗ Duy Mạnh sinh ra trong một gia đình lao động tại Đông Anh, Hà Nội. Cha mẹ anh đã làm việc chăm chỉ để giáo dục con cái của họ. Bố mẹ dù vất vả nhưng vẫn luôn ủng hộ con trai theo đuổi đam mê và sự nghiệp. Anh bắt đầu chơi bóng từ năm 4 tuổi và tập sút bóng bằng khu vườn rộng trước nhà. Anh ấy rất thích trái bóng, vì vậy khi đi ngủ anh ấy đã ôm anh ấy và trở nên gắt gỏng khi bố mẹ yêu cầu anh ấy đưa anh ấy ra khỏi phòng. Anh cũng khá nghịch ngợm và từng được huấn luyện bởi đòn roi của cha mình. Khi thấy con trai quá cuồng nhiệt và được bố mẹ lần lượt đưa đến sân tập xe 81 bánh, bố mẹ Quang Hải cũng yêu cầu anh đưa về nhà. Mạnh và Hải vẫn quyết tâm tập vì trời mưa, ba người xuống sân tập. Đỗ Duy Mạnh có cô vợ Quỳnh Anh xinh đẹp và là chị dâu của Nguyễn Văn Quyết. Cô gái và nam cầu thủ quen nhau khi mới 19 tuổi. Cả hai nhiều lần trải qua thăng trầm buồn vui nhưng cuối cùng vẫn về chung một nhà. Đỗ Duy Mạnh là cái tên quan trọng của đội tuyển bóng đá Việt Nam. Anh ấy cải thiện mỗi ngày để cống hiến tài năng của mình cho đội tuyển. Người đàn ông đầy nghị lực và rực lửa này chắc chắn sẽ mang về những chiến thắng vang dội cho nước nhà. Hy vọng bài viết sẽ giúp bạn trong quá trình tìm hiểu tiểu sử Đỗ Duy Mạnh.
Đỗ Duy Mạnh
Đỗ Duy Mạnh (sinh ngày 29 tháng 9 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Hà Nội và Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam. Đỗ Duy Mạnh sinh ra tại Đông Anh, Hà Nội và bắt đầu chơi bóng đá vào khoảng 8 tuổi. Thần tượng từ thời thơ ấu của anh là danh thủ người Bồ Đào Nha Cristiano Ronaldo. Năm 2006, khi mới 10 tuổi, anh được tuyển chọn vào trung tâm đào tạo bóng đá trẻ Hà Nội và chuyển sang chơi bóng cho các đội trẻ CLB Hà Nội T&T vào năm 2013. Tháng 12 năm 2013, Duy Mạnh cùng với người đồng đội Phạm Đức Huy đã có buổi thử việc tại câu lạc bộ Consadole Sapporo của Nhật Bản.
Nơi này được coi là trung tâm tôn giáo của Athens cổ đại, đồng thời là nơi cất giữ tiền đóng góp của người dân. Ngôi đền này được gọi là trung tâm tôn giáo của Athens cổ đại, đồng thời là kho bạc, nơi cất giữ tiền đóng góp của nhân dân. Parthenon được khởi công vào năm 447 trước Công nguyên và hoàn thiện vào năm 432 trước Công nguyên. Ước tính, đội ngũ thi công đã sử dụng 22.000 tấn đá cẩm thạch để xây dựng đền và phần cổng dẫn tới Acropolis, thành phòng thủ của Athens. Đền Parthenon là nơi thờ Athena, nữ thần gắn liền với trí tuệ, nghề thủ công mỹ nghệ và chiến tranh. Sảnh chính bên trong ngôi đền đặt bức tượng phỏng lại hình ảnh của nữ thần Athena. Bức tượng này cao khoảng 11,5 m, được làm từ ngà voi và khảm vàng. Phidias, nhà điêu khắc, họa sĩ và kiến trúc sư người Hy Lạp cổ đại, là tác giả của bức tượng này. Bức tượng của cô được thu nhỏ và đặt trong lòng bàn tay của nữ thần Athena. Tương tự phần tượng của Athena trong đền Parthenon, tượng của Nike cũng được làm từ ngà voi và khảm vàng tỉ mỉ. Lễ hội Panathenaea là sự kiện quan trọng hàng đầu tại Athens, nhằm kỷ niệm ngày sinh của nữ thần Athena. Vào ngày này, người dân sẽ dâng 100 con bò cái để hiến sinh, như một cách bày tỏ lời cảm ơn nữ thần Athena vì đã có công bảo vệ thành phố Athens. Nền dân chủ đầu tiên của Athens được phát triển từ khoảng thế kỷ 6 trước Công nguyên. Khi đó, mọi quyền quyết định đều được thông qua hoạt động bầu cử. Tuy nhiên, quyền bầu cử chỉ nằm trong tay nam giới, thành phần chỉ chiếm khoảng 12% dân số Athens thời bấy giờ. Ước tính, một cuộc bầu cử hợp lệ cần tối thiểu 6.000 người. Người Hy Lạp cổ đại tổ chức các cuộc thi đấu điền kinh để vinh danh các vị thần. Cuộc thi được tổ chức từ năm 776 trước Công nguyên, theo chu kỳ 4 năm một lần. Ban đầu, đại hội thể thao chỉ diễn ra trong một ngày, sau đó dần kéo dài thành 5 ngày. Ngày đầu tiên dành để làm lễ rước đuốc và đọc lời thề không gian lận. Ba ngày tiếp theo sẽ diễn ra các cuộc thi đấu, bao gồm chạy, nhảy xa, ném đĩa, phóng lao, đấu vật. Ngày thứ 5 là lễ bế mạc, trao giải thưởng và tổ chức tiệc ăn mừng. Đại hội thể thao Olympic của người Hy Lạp cổ đại chỉ dành cho công dân Hy Lạp. Khác với Olympic hiện đại, cuộc thi thời bấy giờ chỉ tổ chức thi đấu dưới danh nghĩa cá nhân, không đại diện cho địa phương. Phần thưởng của người chiến thắng không mang giá trị vật chất, mà thiên về giá trị tinh thần. Cụ thể, người chiến thắng được tặng một chiếc vòng đội đầu được làm từ cành ô liu. Thành phố này nằm ở châu Âu, có lịch sử kéo dài hơn 2.500 năm. Ngoài ra, nơi này được gọi là Caput Mundi, nghĩa là thủ đô của thế giới. Đó là những rung động man mác, bâng khuâng của các nhà thơ trước sự biến đổi kỳ lạ trong thời khắc giao mùa của đất trời sang thu. Đây là nhân vật trong tác phẩm nổi tiếng viết về nạn đói năm 1945. Cái đói khiến thân phận con người trở nên nhỏ bé, tội nghiệp. Tương truyền nếu ai tìm được chiếc lá này, người đó sẽ nhanh chóng chiếm được tình cảm của người mình yêu.
Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một nền văn minh thuộc về một thời kỳ lịch sử của Hy Lạp khởi đầu từ thời kỳ Tăm tối của Hy Lạp khoảng từ thế kỷ XII cho tới thế kỷ thứ IX TCN và kéo dài đến cuối thời kỳ cổ đại (khoảng năm 600 Công Nguyên). Tiếp nối giai đoạn này là sự bắt đầu của giai đoạn đầu thời kỳ trung cổ và kỷ nguyên Byzantine. Khoảng ba thế kỷ sau giai đoạn sụp đổ cuối thời kỳ Đồ đồng của nền văn minh Mycenaean, các thành bang Hy Lạp đã bắt đầu hình thành vào thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên, mở ra thời kì Hy Lạp cổ xưa và quá trình thuộc địa hóa khu vực Địa Trung Hải. Tiếp theo, đó là thời kỳ Hy Lạp cổ điển, kỷ nguyên này được bắt đầu bằng các cuộc Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư, kéo dài từ thế kỷ thứ V cho đến thế kỷ thứ IV TCN. Nhờ vào các cuộc chinh phạt được Alexandros Đại Đế của Macedonia thực hiện, nền văn minh Hy Lạp hóa đã phát triển rực rỡ trải dài từ khu vực Trung Á cho đến tận cùng phía tây của khu vực biển Địa Trung Hải.
Chúng ta đã nghe rất nhiều về đối tượng lao động trong quá trình sản xuất kinh tế. Nhưng chưa chắc đã hiểu rõ về bản chất của đối tượng lao động là gì? Phân biệt giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động. Hãy cũng chúng tôi tìm hiểu rõ hơn về thuật ngữ này. Đối tượng lao động là một khái niệm đặc trưng trong nền kinh tế chính trị Marx – Lenin nói về một bộ phận trong giới tự nhiên mà lao động của con người tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. + Loại có sẵn trong tự nhiên như: tôm, cua, cá ngoài biển, tài nguyên thiên nhiên khoáng sản trong lòng đất, đất đá ở núi, rừng nguyên sinh. Đối với các loại đối tượng lao động có sẵn này, con người chỉ cần tách chúng ra khỏi mối liên hệ trức tiếp với tự nhiên là chúng sẵn sàng để sử dụng. Các loại đối tượng lao động có sẵn này lại là đối tượng lao động của các ngành công nghiệp khác. + Loại đã qua chế biến, xử lý và là đối tượng lao động của ngành công nghiệp chế biến. Ví dụ gỗ sau khi được khai thác và xử lý sẽ trở thành bàn, ghế và trở thành đối tượng lao động của ngành khác. Có thể nói đó là nguyên liệu nhưng không phải mọi đối tượng lao động đều trở thành nguyên liệu. Mỗi một ngành sản xuất lại có một đối tượng lao động khác nhau và được tác động nhằm những sự biến đổi khác nhau. Quá trình sản xuất tạo ra của cải vất chất là do con người tác động vào các đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên nhàm tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con người. Quá trình này không chỉ đơn giản là chỉ dùng những vật chất đã có trong tự nhiên là có thể biến những vật vô tri vô giác đó thành những sản phẩm có giá trị cốt lõi. Muốn tạo ra sản phẩm con người có dụng cụ lao động kết hợp với sức lao động bằng cả trí óc và chân tay. Vì vậy, quá trình này phải được liên kết chặt chẽ với nhau qua 3 yếu tố đó là sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Lao động là hoạt động có ý thức, mục đích của con người nhằm tạo ra các sản phẩm có giá trị cốt lõi để phục vụ, nâng cao đời sống xã hội. Nó là một thước đo để so sánh con người và bản năng của động vật. Tuy nhiên lao động lại khác với sức lao động. Sức lao động là khả năng con người có thể lao động dựa trên trí óc và trí lực. Nhưng muốn tạo ra sản phẩm con người phải tiêu dùng khả năng đó trong hiện thực. Quá trình lao động cũng là quá trình con người tự phát triển, hoàn thiện bản chất hơn. Con người nhờ có quá trình lao động mà ngày càng khám phá, hiểu biết hơn về tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ cho con người, hoàn thiện dụng cụ sản xuất, tăng hiệu quả sản xuất. Có thể thấy nên sản xuất xã hội ngày càng phát triển và nâng cao hơn thì vai trò của con người lại càng quan trọng. Dần dần trong sản xuất máy móc, thiết bị sẽ sẽ thay thế sức lao động chân tay của con người. Vì vậy năng lực trí óc ngày càng được ưu tiên và nâng cao hơn. Trong quá trình sản xuất và phát triển của xã hội, vai trò của đối tượng lao động dần dần được thay đổi. Những đối tượng lao động sẵn có trong tự nhiên ngày càng bị giảm sút, còn những đối tượng qua chế biến lại càng tăng. Hơn thế nữa, khoa học càng ngày càng phát triển, với trí lực của con người sẽ tạo ra nhiều các vật liệu nhân tạo để thay thế. Tuy nhiên bản chất của các vật liệu này vẫn có nguồn gốc từ các đối tượng lao động sẵn có. Tư liệu lao động có thể hiểu đơn giản là những dụng cụ hay hệ thống một số công cụ mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng nhằm mục đích biến đổi nó thành sản phẩm mà con người mong muốn. Trong tư liệu lao động thì công cụ lao động giữ vai trò nòng cốt quyết định năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Có thể nói nhìn vào công cụ lao động ta có thể đoán được trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên kết cấu hạ tầng cũng đóng vai trò chủ chốt trong nèn kinh tế. Bởi nó tác động đến toàn bộ nền kinh tế thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Vì vậy, con người cũng cần chú trọng đầu tư xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng. Nếu quá trình sản xuất kết hợp tốt 3 yếu tố trên thì nền kinh tế sẽ được ổn định và phát triển bền vững.
Tư liệu lao động
Tư liệu lao động là một khái niệm trong kinh tế chính trị Marx-Lenin đề cập về một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động trong đó công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Trình độ của công cụ sản xuất là một tiêu chí biểu hiện trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội. Karl Marx cho rằng "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào".
Hồ Loch Ness là một hồ nước ngọt sâu và cực kỳ rộng lớn của Scotland, với diện tích lên tới. 56 km2. Lượng nước bên trong hồ thậm chí còn nhiều hơn tổng tất cả các hồ tại Anh và Xứ Wales cộng lại. Nhưng quan trọng hơn, nơi đây lưu truyền một trong những huyền thoại thủy quái gây tranh cãi nhất trong lịch sử: Quái vật hồ Loch Ness. Tại sao gây tranh cãi? Vì trong nhiều năm, dù không có bằng chứng cụ thể, nhưng có tới cả ngàn người cho rằng đã nhìn thấy Nessie (tên con người đặt cho nó). Vậy rốt cục, nó có tồn tại hay không?. Quái vật hồ Loch Ness, thường còn được gọi là "Nessie" hay "Ness" (tiếng Gaelic: Niseag), là một động vật hoặc nhóm sinh vật bí ẩn và chưa thể xác định được, sống ở hồ Ness (Loch Ness - một hồ nước ngọt nằm gần thành phố Inverness tại Scotland với điểm sâu nhất lên tới 230 m. Nhiều người cho rằng con quái vật này chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng hoặc chỉ có trong các câu truyện truyền thuyết. Trong khi đó, một số người khác lại tin tưởng vào sự tồn tại của nó. Những ghi chép đầu tiên về Nessie đã xuất hiện từ năm 565, trong một cuốn sách viết về thánh Saint Columba. Cuốn sách có đề cập đến một con "thủy quái" đã lôi một người đàn ông xuống nước tại Sông Ness của Scotland. Nhưng phải mãi đến năm 1933, nhờ một con đường được xây bao quanh hồ giúp nó trở nên bớt cô lập, những câu chuyện về con thủy quái này mới bắt đầu rộ lên. Năm 1888, người thợ hồ Alexander Macdonald ở làng Abriachan đã nhìn một con vật có kích thước cực lớn trồi lên từ mặt hồ và bơi cách vị trí nơi Macdonald đứng khoảng 50m. Macdonald sau đó đã báo cáo việc nhìn thấy của mình với Alex Campbell, người phụ trách an ninh của hồ Loch Ness và mô tả sinh vật này trông giống như một con kỳ nhông. Những câu chuyện về quái vật hồ Loch Ness tưởng chừng đi vào quên lãng trong suốt 45 năm, trước khi được khơi dậy một lần nữa vào ngày 22/7/1933, khi khi George Spicer và vợ nhìn thấy "một loại động vật kỳ lạ nhất" băng qua đường phía trước xe của họ. Họ mô tả sinh vật này có thân hình to lớn (cao 1,2 m và dài 8 m), với một chiếc cổ dài, lượn sóng, hẹp, hơi dày hơn vòi voi và dài 3 - 4 m. Trong cùng năm 1933, hình ảnh đầu tiên của quái vật Loch Ness đã chính thức chụp lại. Hugh Gray, một nhân viên của công ty nhôm Vương quốc Anh, đang đi bộ từ nhà thờ về nhà vào ngày 12/11/1933, thì bất ngờ phát hiện một điều gì đó bất thường ở ven bờ hồ Loch Ness. Hugh Gray đã nhanh chóng sử dụng chiếc máy ảnh mà mình đang mang theo để chụp lại hình ảnh ở trên. Hình ảnh sau đó được xuất bản lần đầu tiên trên tờ báo Daily Record của Anh, gây nên những tranh cãi về sự tồn tại của quái vật hồ Loch Ness. Năm 1934, bác sĩ Robert Kenneth Wilson người Anh trong lúc đi nghỉ mát tại hồ Loch Ness đã chụp được hình ảnh về quái vật hồ Loch Ness. Hình ảnh sau này trở thành hình ảnh nổi tiếng nhất về quái vật hồ Loch Ness cho thấy một quái vật cổ dài nhô lên từ mặt nước. Tuy nhiên, nó cũng tiếp tục gây nên những tranh cãi về mức độ thực tế. Nhiều người cho rằng đây chỉ là hình ảnh giả mạo hoặc chỉ là hình ảnh một vật thông thường trên mặt hồ, nhưng nhiều người khác lại cho rằng đây là bằng chứng xác thực cho sự tồn tại của quái vật hồ Loch Ness. Cho tới nay, đã có hơn 1.000 người tuyên bố họ đã nhìn thấy con quái vật bí ẩn này. Vào năm 2003, Đài BBC đã tiến hành một nghiên cứu sử dụng đến 600 tia sonar (dùng để phát hiện tàu ngầm) và theo dõi vệ tinh để rà quét toàn bộ chiều dài của hồ. Kết quả, họ không hề tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào cho thấy sự tồn tại của một con quái vật ở dưới hồ Loch Ness. Mặc dù vậy, vẫn rất nhiều người vẫn luôn rất tin tưởng vào sự tồn tại của con quái vật kỳ bí này. Với riêng giới khoa học, nhiều nhà nghiên cứu nêu ra một số giả thuyết khác nhau về quái vật hồ Loch Ness. Một số giả thuyết cho rằng, quái vật hồ Loch Ness là hậu duệ của loài bò sát Cryptoclididae thuộc nhóm bò sát sống dưới nước Plesiosaurus. Tuy nhiên, giả thuyết này sau đó đã bị bác bỏ, sau khi các nhà nghiên cứu đến từ Trường ĐH Otago vào năm 2019 xác nhận hồ Loch Ness không chứa mẫu DNA của khủng long. Một số nhà khoa học thậm chí còn không loại trừ khả năng, quái vật hồ Loch Ness thực chất chính là một con lươn khổng lồ. Theo thống kê, từ khi được phát hiện cho tới nay đã có tới hơn 1.000 trường hợp kể về sự tồn tại của Nessie, thậm chí có đi kèm ảnh tư liệu. Nhưng hầu hết đó đều là giả mạo. Nổi tiếng nhất có lẽ là bức hình của George Edwards - một người lái thuyền. Năm 2012, ông chụp được một tấm hình và khẳng định đây chính là bằng chứng rõ ràng nhất về sự tồn tại của quái vật hồ Loch Ness. Nhưng một năm sau, chính ông đã thú nhận rằng đã sử dụng hình mẫu Nessie từ tài liệu của National Geographic để tạo dưng lên hình ảnh đó. Năm 2014, ứng dụng bản đồ của Apple đã ghi lại được hình ảnh về một thứ gì đó dài cả chục mét, đang bơi trên mặt hồ Loch Ness. Nhưng các chuyên gia cho rằng đó chỉ là một con thuyền đang rẽ sóng mà thôi.
Quái vật hồ Loch Ness
Quái vật hồ Loch Ness, thường còn được gọi là "Nessie" hay "Ness" (tiếng Gaelic: Niseag), là một động vật hoặc nhóm sinh vật bí ẩn và chưa thể xác định được, người ta cho là chúng sống ở hồ Ness (Loch Ness), một hồ nước ngọt điểm sâu nhất của hồ là 230 m (754 feet), gần thầnh phố Inverness tại Scotland. Nessie thường được xếp vào loại quái vật hồ. Bản ghi chép đầu tiên về người tận mắt chứng kiến quái vật là năm 1802. Đó là người nông dân Anderson, anh trông thấy một con vật rất to, dài chừng 45m, trồi lên mặt nước.
COP 1 đầu tiên được tổ chức vào năm 1995 tại Berlin, Đức (COP 1) từ ngày 28/3 đến 7/4, thảo luận những mối lo ngại về sự tương xứng trong khả năng đạt được các cam kết, đồng thuận về "Các hành động được thực thi cùng nhau", những biện pháp chung tay đầu tiên trong hành động chống lại biến đổi khí hậu quốc tế. COP 2 diễn ra vào tháng 7/1996 tại Geneva (Thụy Sĩ) chấp nhận những phát hiện mặt khoa học về biến đổi khí hậu; Kêu gọi "các mục tiêu trung hạn ràng buộc về mặt pháp lý". COP 3 diễn ra tháng 12/1997 tại Kyoto (Nhật Bản), thông qua Nghị định thư Kyoto về biến đổi khí hậu, vạch ra những nghĩa vụ giảm phát thải khí nhà kính cho các quốc gia, cùng với các cơ chế Kyoto, như: Mua bán phát thải, cơ chế phát triển sạch và việc thực thi cùng nhau; các quốc gia công nghiệp hóa nhất và một số nền kinh tế Trung Âu đang trong thời kỳ quá độ chấp thuận việc giảm ràng buộc về mặt pháp lý lượng phát thải khí nhà kính với mức giảm trung bình 6 tới 8% dưới mức năm 1990 từ trong khoảng thời gian 2008-2012, được gọi là giai đoạn ngân sách phát thải đầu tiên. Mỹ được yêu cầu giảm lượng phát thải trung bình 7% thấp hơn mức năm 1990. Các bên thông qua một "Kế hoạch hành động" kéo dài 2 năm nhằm gia tăng các nỗ lực và vạch ra các cơ chế để thi hành Nghị định thư Kyoto. COP 5 diễn ra từ 25 /10 đến 5/11/1999, tại Bonn (Đức) không đạt được một thỏa thuận nào quan trọng. COP 6 diễn ra từ 13-25/11/2000, tại The Hague (Hà Lan) trở thành một cuộc đàm phán cấp độ cao về những vấn đề chính trị quan trọng. Tuy nhiên không đạt được sự thỏa thuận nào. COP 8 từ 23/10 tới 1/11/2002, tại New Delhi, Ấn Độ thông qua Tuyên bố Bộ trưởng Delhi kêu gọi nỗ lực của các nước đã phát triển chuyển giao công nghệ và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu lên các nước đang phát triển. COP 9 diễn ra vào ngày 1-12/12 năm 2003 tại Milan (Ý). Các bên đồng ý sử dụng Quỹ Thích ứng được xây dựng tại COP7 vào năm 2001, chủ yếu trong việc hỗ trợ các quốc gia đang phát triển thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu. Quỹ cũng được sử dụng cho việc xây dựng năng lực thông qua việc chuyển giao công nghệ. COP 10 diễn ra từ ngày 6 tới ngày 17/12/2004, tại Buenos Aires (Argentina), thảo luận về tiến trình đã diễn ra kể từ Hội nghị đầu tiên của Các bên 10 năm trước và các thách thức trong tương lai, đặc biệt nhấn mạnh tới việc làm giảm nhẹ và thích nghi với biến đổi khí hậu, thông qua Kế hoạch Hành động Buenos Aires. COP 11 (hay COP 11/CMP 1) diễn ra từ 28/11 tới 9/12/2005, tại Montreal (Canada), được xem là hội nghị liên chính phủ lớn nhất về biến đổi khí hậu từng diễn ra với 10.000 đại biểu. Sự kiện đánh dấu việc Nghị định thư Kyoto bắt đầu có hiệu lực. Kế hoạch hành động Montreal là một thỏa thuận trong việc "gia hạn hiệu lực của Nghị định thư Kyoto qua năm 2012 (năm Nghị định thư hết hiệu lưc) và đàm phán về những cắt giảm sâu hơn trong việc phát thải khí nhà kính". COP 12/CMP 2 diễn ra từ 6-17/11/2006 tại Nairobi (Kenya) đã có những bước tiến nhất định, bao gồm lĩnh vực hỗ trợ các quốc gia đang phát triển và cơ chế phát triển sạch. Các bên đã thông qua một kế hoạch 5 năm để hỗ trợ việc thích ứng biến đổi khí hậu bởi các quốc gia đang phát triển, đồng ý về trình tự và phương thức của Quỹ Thích ứng, đồng ý cải thiện dự án cho cơ chế phát triển sạch. COP 13/CMP 3 diễn ra từ 3-17/12/2007,tại Nusa Dua, Bali (Indonesia), thỏa thuận về một khung thời gian và sự đàm phán có cấu trúc về khung hậu 2012 (khi kết thúc giai đoạn cam kết đầu tiên của Nghị định thư Kyoto). Thông qua Kế hoạch Hành động Bali hướng tới việc tăng cường khẩn cấp việc thực thi Công ước khung tới và sau năm 2012. Các đại biểu đồng ý về các nguyên tắc trong việc cấp vốn cho một quỹ để giúp các quốc gia nghèo nhất đương đầu với hậu quả của biến đổi khí hậu và đồng ý về một cơ chế để hợp nhất việc bảo vệ rừng thành những nỗ lực của cộng đồng quốc tế để chống lại biến đổi khí hậu. COP 15/CMP 5 diễn ra tại Copenhagen (Đan Mạch) từ ngày 7-18/12/2009, với nhiều kỳ vọng đưa ra được một hiệp ước ràng buộc pháp lý, nhưng hội nghị gặp những bế tắc trong đàm phán. Kết quả, đã nhen nhóm ý tưởng về việc để các chính phủ tự nguyện đề ra mục tiêu giảm khí thải theo tính toán phù hợp với nhu cầu của nước mình, yêu cầu các nước gởi mục tiêu khí thải vào cuối tháng 1/2010. COP 16/CMP 6, tại Cancún (Mexico) năm 2010, bước đầu đã lấy lại niềm tin của các nước trên thế giới, tạo cơ sở tiến tới khuôn khổ pháp lý toàn cầu. Các nước đã thống nhất phải hợp tác dài hạn trong ứng phó với biến đổi khí hậu để nhiệt độ toàn cầu không tăng quá 2 độ C vào cuối thế kỷ 21 và phát triển nền kinh tế theo hướng carbon thấp. COP 16 thống nhất xây dựng quy trình Quỹ Khí hậu xanh; nhất trí tăng cường các hoạt động giảm phát thải do phá rừng và suy thoái rừng, thông qua bảo vệ, quản lý bền vững ở các nước đang phát triển với sự hỗ trợ về công nghệ và tài chính của các nước phát triển; đưa ra những hướng dẫn mới về Cơ chế phát triển sạch (CDM). COP 17/CMP7 năm 2011 được tổ chức tại Durban (Nam Phi), từ 28/11-9/12/2011, mục tiêu đưa ra một hiệp ước mới nhằm hạn chế lượng carbon và các loại khí gây hiệu ứng nhà kính, đồng thời thống nhất về văn bản mang tính ràng buộc pháp lý mới thay thế cho Nghị định thư Kyoto. Hội nghị đồng ý một thỏa thuận ràng buộc pháp lý bao gồm tất cả các quốc gia, sẽ được thông qua vào năm 2015 và có hiệu lực vào năm 2020. Ngoài ra còn có tiến triển liên quan đến việc thành lập Quỹ Khí hậu Xanh, trong đó một khung quản lý được thông qua. Quỹ sẽ đóng góp 100 tỉ USD mỗi năm để giúp các quốc gia nghèo thích ứng với hậu quả của biến đổi khí hậu. COP 18/CMP 8 tại Doha (Qatar) từ ngày 26/11 đến 7/12/2012, tập trung thảo luận về các nỗ lực chống sự nóng lên toàn cầu, trong đó bao gồm việc thực hiện các cam kết trong giai đoạn thứ hai của nghị định thư Kyoto. COP 19/CMP9 được tổ chức tại Warsaw (Ba Lan) từ ngày 11-23/11/2013, tập trung đàm phán để thông qua một hiệp ước toàn cầu mới do Liên hợp quốc bảo trợ về biến đổi khí hậu nhằm bắt đầu thực hiện từ năm 2020, thay thế Nghị định thư Kyoto. Hội nghị đã đạt được sự nhất trí về một số nguyên tắc chính mang “tính thỏa hiệp” cho một thỏa thuận mới để chống lại sự biến đổi khí hậu trên toàn cầu. Thỏa thuận Paris là cơ sở pháp lý toàn cầu trong vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, hướng tới tăng trưởng kinh tế carbon thấp, tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu để phát triển bền vững. Mục tiêu bao quát của hội nghị là nhằm làm giảm lượng khí thải nhà kính để hạn chế sự tăng nhiệt độ toàn cầu lên 2 độ C trên mức hiện tại. EU đặt mục tiêu giảm bắt buộc 40% một cách hợp pháp lượng khí thải carbon tới năm 2030 so với trong năm 1990. COP 21/CMP 11 được tổ chức tại Paris (Pháp) từ 30/11-12/12 năm 2015, thông qua Thỏa thuận chung Paris, quản lý các phương thức giảm biến đổi khí hậu từ năm 2020. Thỏa thuận đã đạt được ngưỡng thông qua với hơn 55 quốc gia đại diện cho ít nhất 55% lượng phát thải khí hậu kính của thế giới đã phê chuẩn Thỏa thuận này. Vấn đề trọng tâm của COP 22 là nạn thiếu nước, nước sạch và bền vững liên quan tới nước, một vấn đề quan trọng của các nước đang phát triển, bao gồm nhiều nước châu Phi. Mục tiêu chính là triển khai thực thi thỏa thuận lịch sử về biến đổi khí hậu - Thỏa thuận Paris. COP 23/CMP 13/CMA 2, Bonn (Đức) được tổ chức vào ngày 6-17/11/2017 đã đạt được nhận thức chung về hiểm họa từ biến đổi khí hậu, qua đó kêu gọi các nước cùng chung tay hành động. COP 23 đã thành công trong việc cứu vãn Hiệp định Paris 2015 khi không còn sự tham gia của Mỹ, qua đó thắp lên hy vọng cứu vãn hành tinh xanh trước nguy cơ hủy diệt do tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng. COP 24/CMP 14 diễn ra tháng 11/2018, tập trung xây dựng và hoàn thiện các kế hoạch chi tiết về giảm nhẹ, thích ứng, tăng cường năng lực, hỗ trợ tài chính, chuyển giao công nghệ… đối với toàn bộ 195 quốc gia đã ký kết (trong đó 184 quốc gia đã phê chuẩn) Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu năm 2015. Ngoài ra, đại diện các nước cũng thảo luận về cách thức nhằm giải quyết các mối đe dọa cấp bách như tình trạng biến đổi khí hậu, lượng khí nhà kính gây ra sự ấm lên toàn cầu, cải thiện chất lượng không khí, thiên tai gây thiệt hại nặng nề về người và của, như các trận cháy rừng, các đợt nóng kéo dài và các cơn bão hung dữ có sức tàn phá lớn đi kèm với mực nước biển tăng; đồng thuận về cơ chế hướng dẫn quy định chung, được xây dựng để hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra trong Hiệp định Paris năm 2015 về việc giới hạn mức tăng nhiệt độ của Trái Đất ở mức dưới 2 độ C. COP 25/CMP 15/CMA 4 sẽ được tổ chức vào cuối năm 2019 tại Chilê, kỳ vọng sẽ đưa ra nhiều sáng kiến, kế hoạch hành động và cam kết cụ thể nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu 2011
Hội nghị Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu 2011 (COP17/CMP7) được tổ chức tại Durban, Nam Phi từ ngày 28 tháng 11 đến 11 tháng 12 năm 2011. Mục tiêu của hội nghị là đưa ra một hiệp ước mới nhằm hạn chế lượng cacbon và các loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác thải ra, đồng thời thống nhất về văn bản mang tính ràng buộc pháp lý mới thay thế cho Nghị định thư Kyoto vốn hết hiệu lực vào năm 2012. Hội nghị diễn ra với sự tham gia của khoảng 194 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trước đó, để chuẩn bị cho sự kiện này, tại thủ đô của Đức đã diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh Berlin về Biến đổi Khí hậu Toàn cầu vào ngày 3 tháng 7 với đại diện của 35 quốc gia. Hội nghị đồng ý một thỏa thuận ràng buộc pháp lý bao gồm tất cả các quốc gia, thỏa thuận này sẽ được chuẩn bị vào năm 2015 và có hiệu lực vào năm 2020. Ngoài ra còn có tiến triển liên quan đến việc thành lập Quỹ Khí hậu Xanh (GCF) mà theo đó một chương trình khung về biến đổi khí hậu sẽ thông qua.
Phương Thảo18:13 21 tháng 9, 2020Với những đóng góp ngày càng tích cực cho hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc cho thấy Việt Nam đã đủ tầm để khẳng định vai trò của mình trên trường quốc tế, đặc biệt là khi được bầu làm ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc từ tháng 1/2020. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ càng khẳng định được mình trong việc giữ gìn nền hòa bình chung.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Với những đóng góp ngày càng tích cực cho hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc cho thấy Việt Nam đã đủ tầm để khẳng định vai trò của mình trên trường quốc tế, đặc biệt là khi được bầu làm ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc từ tháng 1/2020. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ càng khẳng định được mình trong việc giữ gìn nền hòa bình chung. Quỳnh Hoa18:21 21 tháng 9, 2020Việc Việt Nam được Liên Hợp Quốc lựa chọn làm một trong 4 cơ sở huấn luyện của khu vực để huấn luyện cho lực lượng giữ gìn hòa bình cho thấy uy tín và tầm ảnh hưởng rất lớn của Việt Nam trên lĩnh vực này. Chúng ta có thể tự hào về những đóng góp của đất nước ta trong suốt những năm vừa qua trong việc giữ gìn hòa bình thế giới.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Việc Việt Nam được Liên Hợp Quốc lựa chọn làm một trong 4 cơ sở huấn luyện của khu vực để huấn luyện cho lực lượng giữ gìn hòa bình cho thấy uy tín và tầm ảnh hưởng rất lớn của Việt Nam trên lĩnh vực này. Chúng ta có thể tự hào về những đóng góp của đất nước ta trong suốt những năm vừa qua trong việc giữ gìn hòa bình thế giới. An Đông20:20 21 tháng 9, 2020Việt Nam ngay từ những ngày đầu tham gia Liên Hợp Quốc đã chủ động đóng góp công sức vào những vấn đề liên quan đến hòa bình cả trong khu vực ASEAN và trên thế giới. Từ trước đến nay, Việt Nam luôn là đất nước yêu chuộng hòa bình, chủ trương giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp bằng biện pháp hòa giải hữu nghị.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Việt Nam ngay từ những ngày đầu tham gia Liên Hợp Quốc đã chủ động đóng góp công sức vào những vấn đề liên quan đến hòa bình cả trong khu vực ASEAN và trên thế giới. Từ trước đến nay, Việt Nam luôn là đất nước yêu chuộng hòa bình, chủ trương giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp bằng biện pháp hòa giải hữu nghị. Ngọc Hòa20:26 21 tháng 9, 2020Mặc dù gia nhập Liên Hợp Quốc sau nhiều quốc gia và quá trình tham gia các hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên Hợp Quốc chưa dài, nhưng Việt Nam ta đã đạt những kết quả rất đáng ghi nhận trong lĩnh vực này. Điều đó thể hiện ở việc nước ta đã được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc từ đầu năm nay.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Mặc dù gia nhập Liên Hợp Quốc sau nhiều quốc gia và quá trình tham gia các hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên Hợp Quốc chưa dài, nhưng Việt Nam ta đã đạt những kết quả rất đáng ghi nhận trong lĩnh vực này. Điều đó thể hiện ở việc nước ta đã được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc từ đầu năm nay. Ánh Kim20:36 21 tháng 9, 2020Sự tham gia một cách tích cực các hoạt động giữ gìn hòa bình Liên hợp quốc của Việt Nam ngày càng đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận. Điển hình là việc nước ta trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc năm nay. Trong thời gian tới, chắc chắn Việt Nam sẽ phát huy mạnh mẽ hơn vvai trò của mình trong lĩnh vực này.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Sự tham gia một cách tích cực các hoạt động giữ gìn hòa bình Liên hợp quốc của Việt Nam ngày càng đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận. Điển hình là việc nước ta trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc năm nay. Trong thời gian tới, chắc chắn Việt Nam sẽ phát huy mạnh mẽ hơn vvai trò của mình trong lĩnh vực này. Thanh Thanh21:27 21 tháng 9, 2020Việt Nam là một quốc gia yêu chuộng hòa bình và luôn sẵn sàng chiến đấu vì sự nghiệp hòa bình của đất nước và thế giới. Đây là điều không phải chỉ chúng ta tự hào mà cả thế giới đều công nhận và ngưỡng mộTrả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Việt Nam là một quốc gia yêu chuộng hòa bình và luôn sẵn sàng chiến đấu vì sự nghiệp hòa bình của đất nước và thế giới. Đây là điều không phải chỉ chúng ta tự hào mà cả thế giới đều công nhận và ngưỡng mộ. Vương Lão Đại23:10 23 tháng 9, 2020Hòa bình là một mục tiêu cao cả và quan trọng nhất cần nỗ lực hướng tới ở cả bình diện quốc gia và quốc tế. Cùng hành động và hợp tác vì mục tiêu này sẽ đem lại cho nhân loại một cuộc sống an toàn, thịnh vượng và bền vững.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Hòa bình là một mục tiêu cao cả và quan trọng nhất cần nỗ lực hướng tới ở cả bình diện quốc gia và quốc tế. Cùng hành động và hợp tác vì mục tiêu này sẽ đem lại cho nhân loại một cuộc sống an toàn, thịnh vượng và bền vững. kieu hoa nguyen23:10 23 tháng 9, 2020Hòa bình và xây dựng một nền hòa bình lâu dài, hướng tới phát triển bền vững chính là khát vọng, là mục tiêu cao cả của toàn nhân loại. Vào thời điểm trên thế giới liên tục xuất hiện các “điểm nóng” với xung đột và chiến tranh đe dọa sự sống của hàng triệu người dân thì giá trị của an ninh và hòa bình, hơn lúc nào hết, càng cần được củng cố.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Hòa bình và xây dựng một nền hòa bình lâu dài, hướng tới phát triển bền vững chính là khát vọng, là mục tiêu cao cả của toàn nhân loại. Vào thời điểm trên thế giới liên tục xuất hiện các “điểm nóng” với xung đột và chiến tranh đe dọa sự sống của hàng triệu người dân thì giá trị của an ninh và hòa bình, hơn lúc nào hết, càng cần được củng cố. Nguyễn Văn Sáu23:11 23 tháng 9, 2020Ngày kỷ niệm này cũng là dịp để Liên hợp quốc kêu gọi các bên tham chiến trên toàn thế giới cùng từ bỏ vũ khí và đưa ra một cơ hội hòa bình. Ngày quốc tế hòa bình đem lại cơ hội cho thế giới cùng dừng lại và xem xét cách thức tốt nhất để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của xung đột và bạo lực.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Ngày kỷ niệm này cũng là dịp để Liên hợp quốc kêu gọi các bên tham chiến trên toàn thế giới cùng từ bỏ vũ khí và đưa ra một cơ hội hòa bình. Ngày quốc tế hòa bình đem lại cơ hội cho thế giới cùng dừng lại và xem xét cách thức tốt nhất để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của xung đột và bạo lực. Anh Dũng23:11 23 tháng 9, 2020Kỷ niệm Ngày quốc tế hòa bình, Liên hợp quốc mong muốn thể hiện sự cống hiến cho hòa bình thế giới và khuyến khích toàn nhân loại cùng hành động và hợp tác vì mục tiêu này. Ngày quốc tế hòa bình được dành để kỷ niệm và củng cố các lý tưởng hòa bình giữa tất cả các quốc gia và các dân tộc.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Kỷ niệm Ngày quốc tế hòa bình, Liên hợp quốc mong muốn thể hiện sự cống hiến cho hòa bình thế giới và khuyến khích toàn nhân loại cùng hành động và hợp tác vì mục tiêu này. Ngày quốc tế hòa bình được dành để kỷ niệm và củng cố các lý tưởng hòa bình giữa tất cả các quốc gia và các dân tộc. Thái Toàn23:11 23 tháng 9, 2020Kỷ niệm Ngày quốc tế hòa bình, Liên hợp quốc mong muốn thể hiện sự cống hiến cho hòa bình thế giới và khuyến khích toàn nhân loại cùng hành động và hợp tác vì mục tiêu này. Ngày quốc tế hòa bình được dành để kỷ niệm và củng cố các lý tưởng hòa bình giữa tất cả các quốc gia và các dân tộc.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Kỷ niệm Ngày quốc tế hòa bình, Liên hợp quốc mong muốn thể hiện sự cống hiến cho hòa bình thế giới và khuyến khích toàn nhân loại cùng hành động và hợp tác vì mục tiêu này. Ngày quốc tế hòa bình được dành để kỷ niệm và củng cố các lý tưởng hòa bình giữa tất cả các quốc gia và các dân tộc. Vương Lão Đại23:12 23 tháng 9, 2020Tiếng chuông rung lên vì hòa bình tại một thời điểm khi còn nhiều người dân trên khắp thế giới đang phải đấu tranh để được sống, bắt đầu và kết thúc một ngày của họ trong bóng tối, đói khổ và sợ hãi, phải đối mặt với nỗi kinh hoàng vào ngày mai. Tiếng chuông rung lên vì hòa bình tại thời điểm khi vẫn còn xung đột và đổ máu ở nhiều nơi trên thế giới, nơi có những căng thẳng và bạo lực nẩy sinh từ các vấn đề truyền thống và bắt nguồn từ lâu, hoặc xuất phát từ sự khác biệt về sắc tộc và tôn giáoTrả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Tiếng chuông rung lên vì hòa bình tại một thời điểm khi còn nhiều người dân trên khắp thế giới đang phải đấu tranh để được sống, bắt đầu và kết thúc một ngày của họ trong bóng tối, đói khổ và sợ hãi, phải đối mặt với nỗi kinh hoàng vào ngày mai. Tiếng chuông rung lên vì hòa bình tại thời điểm khi vẫn còn xung đột và đổ máu ở nhiều nơi trên thế giới, nơi có những căng thẳng và bạo lực nẩy sinh từ các vấn đề truyền thống và bắt nguồn từ lâu, hoặc xuất phát từ sự khác biệt về sắc tộc và tôn giáo. kieu hoa nguyen23:12 23 tháng 9, 2020Ngày quốc tế hòa bình cũng là thời điểm để bất kỳ quốc gia nào tham gia vào xung đột sẽ có một ngày ngừng bắn, nơi chúng ta sẽ có một phút im lặng để tưởng nhớ và tôn vinh các nạn nhân của chiến tranh và xung đột ở bất cứ nơi nào trên thế giới, và chúng ta nỗ lực hết mình để cùng nhau hành động nhằm thúc đẩy hòa bình.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Ngày quốc tế hòa bình cũng là thời điểm để bất kỳ quốc gia nào tham gia vào xung đột sẽ có một ngày ngừng bắn, nơi chúng ta sẽ có một phút im lặng để tưởng nhớ và tôn vinh các nạn nhân của chiến tranh và xung đột ở bất cứ nơi nào trên thế giới, và chúng ta nỗ lực hết mình để cùng nhau hành động nhằm thúc đẩy hòa bình. Nguyễn Văn Sáu23:12 23 tháng 9, 2020Tiếng chuông hòa bình vang lên đánh dấu Ngày quốc tế hòa bình một lần nữa nhắc nhở người dân trên toàn thế giới về các giá trị cao cả của hòa bình. Mỗi người dân, dù ở nơi nào trên trái đất, đều có quyền và có nghĩa vụ xây dựng hòa bình, hướng tới sự phát triển công bằng, thịnh vượng và bền vững. Tiếng chuông hòa bình vang lên đánh dấu Ngày quốc tế hòa bình một lần nữa nhắc nhở người dân trên toàn thế giới về các giá trị cao cả của hòa bình. Mỗi người dân, dù ở nơi nào trên trái đất, đều có quyền và có nghĩa vụ xây dựng hòa bình, hướng tới sự phát triển công bằng, thịnh vượng và bền vững. Anh Dũng23:13 23 tháng 9, 2020Hòa bình không thể đến ngẫu nhiên, mà nó là sản phẩm của ý thức, của thiện chí và mong muốn của mỗi người; cũng như là sản phẩm của một quá trình nỗ lực cùng nhau xây dựng và gìn giữ vì lợi ích chung của toàn nhân loại.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Hòa bình không thể đến ngẫu nhiên, mà nó là sản phẩm của ý thức, của thiện chí và mong muốn của mỗi người; cũng như là sản phẩm của một quá trình nỗ lực cùng nhau xây dựng và gìn giữ vì lợi ích chung của toàn nhân loại. Thái Toàn23:13 23 tháng 9, 2020Việc tham gia, đóng góp ngày càng tích cực, có hiệu quả cho hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc đã khẳng định Việt Nam có đầy đủ năng lực trong lĩnh vực này. Với năng lực đó, Cục Giữ gìn hòa bình Việt Nam được lựa chọn là một trong 4 cơ sở huấn luyện của khu vực để huấn luyện cho lực lượng giữ gìn hòa bình theo Dự án hợp tác ba bên của LHQ. Đây cũng là nền tảng để đưa Cục Giữ gìn hòa bình Việt Nam thành cơ sở huấn luyện giữ gìn hòa bình mang tầm cỡ khu vực và quốc tế trong tương lai.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Việc tham gia, đóng góp ngày càng tích cực, có hiệu quả cho hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc đã khẳng định Việt Nam có đầy đủ năng lực trong lĩnh vực này. Với năng lực đó, Cục Giữ gìn hòa bình Việt Nam được lựa chọn là một trong 4 cơ sở huấn luyện của khu vực để huấn luyện cho lực lượng giữ gìn hòa bình theo Dự án hợp tác ba bên của LHQ. Đây cũng là nền tảng để đưa Cục Giữ gìn hòa bình Việt Nam thành cơ sở huấn luyện giữ gìn hòa bình mang tầm cỡ khu vực và quốc tế trong tương lai. Hồng Đăng23:27 28 tháng 9, 2020Chúng ta không làm được những điều to lớn, tầm cỡ nhưng chúng ta có tấm lòng, sẵn sàng sẻ chỉa với các quốc gia đang gặp khó khăn trên thế giới, tinh thần quốc tế trong sáng và cao cả này đã được truyền từ chủ tịch Hồ Chí Minh Vĩ đại của chúng ta đến tận bây giờ, thật là tự hào khi nhìn lại.Trả lờiXóaTrả lờiTrả lời. Chúng ta không làm được những điều to lớn, tầm cỡ nhưng chúng ta có tấm lòng, sẵn sàng sẻ chỉa với các quốc gia đang gặp khó khăn trên thế giới, tinh thần quốc tế trong sáng và cao cả này đã được truyền từ chủ tịch Hồ Chí Minh Vĩ đại của chúng ta đến tận bây giờ, thật là tự hào khi nhìn lại.
Ngày Quốc tế Hòa bình
Ngày quốc tế Hòa bình, cũng gọi không chính thức là Ngày Hòa bình thế giới diễn ra hàng năm vào ngày 21 tháng 9. Ngày này được dành để tôn vinh nền Hòa bình thế giới, và kêu gọi chấm dứt chiến tranh, bạo lực và là dịp để tổ chức các lệnh ngừng bắn tạm thời trong vùng chiến sự để các lực lượng cứu trợ nhân đạo thi hành sứ mệnh của mình. Ngày quốc tế Hòa bình được nhiều quốc gia, dân tộc, các nhóm chính trị và quân sự tuân thủ. Ngày quốc tế Hòa bình đầu tiên được tổ chức lần đầu trong năm 1981. Để khai mạc ngày này, "Chuông Hòa bình" ở Trụ sở Liên Hợp Quốc (tại thành phố New York, Hoa Kỳ) bắt đầu ngân vang báo hiệu. Chuông này được đúc từ các đồng tiền kim loại quyên góp của các trẻ em từ khắp các châu lục ngoại trừ châu Phi. Đó là món quà tặng của "Hiệp hội Liên Hợp Quốc" của Nhật Bản, và được coi như "một lời nhắc nhở về phí tổn nhân mạng cho chiến tranh". Các chữ khắc ghi trên mặt chuông như sau: "Vạn tuế hòa bình tuyệt đối trên thế giới".
Lễ Phục sinh được xem là một trong những dịp lễ quan trọng nhất trong năm của các tín đồ theo đạo Kito. Ngày lễ này mang ý nghĩa tưởng niệm sự kiện Chúa Jesus hồi sinh sau khi bị đóng đinh trên Thánh giá. Lễ Phục Sinh là kỷ niệm ngày vị ngôn sứ (Chúa Jesus) đã bị xử tử và sống lại của toàn thể tín đồ Thiên Chúa giáo. Vị ngôn sứ này được kinh thánh của đạo cho biết là con của đấng tối cao tạo nên muôn loài. Và cái chết thê thảm của ngài là trả nợ cho tội lỗi của loài người. Đồng thời, lễ này cũng kỷ niệm việc giao ước mới giữa loài người và đấng tối cao. Lễ Phục sinh (Easter) được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo Kitô giáo (Công giáo, Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo). Thời xa xưa người ta gọi lễ hội mùa xuân (Frühlingsfest / spring festival) hay "Ostarum" người Đức gọi là "Ostara" và danh từ "Ostern/ Easter" nguồn gốc từ chữ "Ost/ East" hướng về phương đông mùa xuân mặt trời sắp lên. Người Do Thái gọi ngày lễ này là "Paschafest" Người Ai Cập (Ägypter) gọi là "Osterlamm/ paschal lamb)" cũng nhằm ngày rằm đầu tiên mùa xuân họ giết cừu ăn mừng được giải phóng khỏi sự đàn áp, thoát khỏi thân phận nô lệ. Lễ Phục sinh thường diễn ra vào một ngày Chủ nhật bất kì khoảng cuối tháng 3 và đầu tháng 4 để tưởng niệm sự kiện chúa Jesus hồi sinh từ cõi chết sau khi bị đóng đinh trên Thánh giá. Lễ Phục sinh không có ngày cố định mà người dân thường tính lễ Phục sinh diễn ra vào Chủ nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn đầu tiên hoặc sau ngày Xuân phân. Do vậy, lễ Phục sinh còn được coi như lễ hội mùa xuân, mừng đất trời chuyển mùa với rất nhiều màu sắc rực rỡ. Năm nay (2019), Lễ Phục sinh rơi vào ngày chủ nhật, 21/4. Phục Sinh là trọng tâm của niềm tin trong Thiên Chúa Giáo. Người theo đạo Thiên Chúa tin rằng Chúa Jesus chết trên thập tự giá nhưng sau đó, từ cõi chết, Ngài đã sống lại và trở lên Thiên quốc trong khải hoàn ca. Do Chúa Jesus vượt qua được sự chết, và phục sinh nên tín đồ Thiên Chúa Giáo cho rằng chỉ Ngài mới có quyền năng đem lại cho họ đời sống vĩnh cửu. Và niềm tin đó là điều mà người theo Thiên Chúa Giáo cất tiếng xướng lên hằng năm trong lễ Phục Sinh, cũng như hằng tuần trong ngày Chúa Nhật. Phục Sinh cũng là lễ của niềm hy vọng vì nhằm thời điểm mùa Xuân trở lại với muôn loài. Tạo Hóa thật là kỳ diệu, cây cành trơ trụi suốt mùa Đông lạnh lẽo vậy mà chỉ sau một buổi nắng ấm do nàng Xuân mang lại, các nụ con con, hay lá non đã nhu nhú trên nhành cây. Ăn chay kiêng thịt hãm mình: nói đúng hơn là chay ăn và chay thịt. Người Công giáo trong ngày Lễ tro và Thứ 6 tuần Thánh trước Lễ Phục Sinh 2 ngày phải kiêng thịt, kiêng ăn đồ vặt, kiêng thỏa mãn nhu cầu không cần thiết. Mọi nguồn lực dư ra thường tặng người nghèo hoặc dâng cúng cho nhà thờ. Xếp hình lá lấy về từ Lễ Lá: Hình dạng muôn vẻ, tùy vào độ khéo tay của mỗi người.Đi đàng thánh giá: ngắm 12 bức hình mô tả từng giai đoạn của Ngài Jesus từ khi bị bắt tới khi qua đời. Rửa chân: được lấy từ một chuyện trong Kinh Thánh là trước khi Ngài Jesus bị bắt thì đã rửa chân cho từng môn đệ. Và dặn rằng mọi người phải rửa chân cho nhau dù ở bất kỳ chức vụ nào. Diễn hoạt cảnh Chúa bị đóng đinh: thường ở các vùng đông tín hữu hoặc các nước có đông dân Công Giáo. Hoạt cảnh dựa theo câu chuyện từ khi Jesus bị bắt cho tới khi chết. Vào ngày này, mọi người thường tặng nhau những quả trứng được trang trí nhiều màu sắc, con thỏ hay những lát Jambon đầy tính biểu tượng cho ngày lễ này. Trứng là biểu tượng xa xưa nhất của ngày lễ Phục sinh, tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Vào dịp này, mọi người thường tặng nhau những quả trứng được trang trí đủ màu sắc, hay được làm bằng chocolate, thạch cao hoặc thậm chí là len, rất bắt mắt do chính tay mình trang trí để thay cho lời chúc. Người phương Tây tin rằng Trái đất này vốn được nở ra từ một quả trứng khổng lồ. Tại vùng núi Appalachian, những thầy lang xưa từng dùng quả trứng chín, quay trên bụng bà mẹ mang thai, từ đó dự đoán được khả năng sinh sản của đứa trẻ sau này. Vai trò biểu tượng văn hóa của trứng trong cuộc sống ngày một quan trọng. Tục lệ tặng nhau trứng cũng đã hiện diện trong nhiều nền văn minh lớn. Các nghiên cứu khảo cổ chứng minh được rằng, người Ai Cập và Su-me cổ có tập tục trang trí trứng làm quà tặng từ ít nhất 5.000 năm về trước. Có lẽ vì những lý do ấy mà người ta thừa nhận trứng là một biểu tượng không thể thiếu trong ngày lễ Phục Sinh - ngày mừng sự tái sinh của Chúa Jesus. Ngoài biểu tượng của sự sinh sản, thỏ còn là hình tượng của sức sống dồi dào, mạnh mẽ. Đặc biệt, chú thỏ gắn liền với truyền thuyết Ostara, còn gọi là Easter. Tên của vị nữ thần mùa xuân này được sử dụng để đặt cho tên của lễ Phục sinh. Theo truyền thuyết, có một lần nữ thần mang mùa xuân tới Trái đất muộn, khiến muôn loài phải chịu giá lạnh, trong đó có một chú chim sắp chết với hai cánh bị đóng băng. Vì cảm thương, Ostara đã hô biến chú chim thành con thỏ cưng, ban cho nó khả năng đẻ trứng và khả năng chạy nhanh. Với khả năng này, nữ thần muốn chú thỏ sẽ đảm nhiệm hết công việc tặng quà cho trẻ em những khi xuân về. Tuy nhiên, sau này, thỏ thần vô tình khiến Ostara nổi giận. Nó bị thần ném lên bầu trời, hóa vào chòm sao Lepus. Một năm, thỏ chỉ được xuống nhân gian một lần vào mùa xuân để tặng những quả trứng đáng yêu cho người dân dưới trần thế. Cũng từ đó, hình ảnh thỏ mang trứng trở thành một nét đặc biệt trong ngày lễ Phục Sinh của phương Tây. Món jambon truyền thống chưa bao giờ vắng mặt trên các bàn ăn của các tín đồ Thiên chúa giáo khắp thế giới vào lễ Phục sinh. Đối với họ, thịt lợn được coi là món ăn của Chúa. Nếu thời điểm trăng tròn đầu tiên của mùa thu là lúc tốt nhất để ướp muối thịt lợn dự trữ thì mùa xuân chính là khi người phương Tây dùng loại thức ăn tích trữ này. Do vậy jambon trở thành món ăn truyền thống trên bàn ăn mỗi dịp lễ Phục sinh về. Người ta tin tưởng rằng, mặc quần áo mới trong lễ Phục sinh sẽ mang lại may mắn cho những ngày còn lại của năm. Theo quan niệm, quần áo mới đại diện cho sự đổi mới và sự khởi đầu may mắn - những yếu tố quan trọng của mỗi dịp Phục sinh hàng năm. Đối với những người theo Công giáo, lễ Phục sinh còn thể hiện niềm tin vào sự tái sinh, hy vọng những điều tốt đẹp. Đó cũng là thông điệp mà ngày lễ này đang truyền tải tới người dân khắp nơi trên thế giới. Thông thường lễ Phục Sinh sẽ diễn ra vào tháng 3 hoặc tháng 4 hàng năm (được tính là ngày chủ nhật giữa 22 tháng 3 và 25 tháng 4).
Lễ Phục Sinh
Lễ Phục Sinh thường được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo Kitô giáo. Thường diễn ra vào tháng 3 hoặc tháng 4 mỗi năm để tưởng niệm sự kiện chết và Phục sinh của Giê-su từ cõi chết sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá. Được người Kitô hữu tin là đã xảy ra vào khoảng năm 30 đến năm 33. Phục Sinh cũng được dùng để chỉ một mùa trong năm phụng vụ Công giáo gọi là Mùa Phục Sinh, kéo dài đúng 50 ngày, từ Chúa Nhật Phục Sinh đến Lễ Hiện Xuống. Lễ Phục sinh dựa nhiều vào nguồn gốc lễ Vượt qua của Do Thái giáo. Người Kitô hữu tin rằng cái chết và Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã hoàn thành những gì mà biến cố Xuất Hành đã tiên báo: giải phóng con người khỏi tội lỗi và đưa họ vào cuộc sống trên Thiên Đàng mà Người đã trao ban. Việc mừng Chúa Giêsu sống lại vẫn được cử hành vào mỗi ngày Chủ Nhật. Tân Ước không có đoạn nào nói về Lễ Phục sinh của Kitô giáo nhưng có nói về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.
Nam Cao (1917-1951) là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XX, có đóng góp quan trọng vào sự phát triển của văn xuôi nghệ thuật tiếng Việt, có một số tác phẩm đạt đến mức cổ điển của văn học hiện đại Việt Nam. Ông cũng là một trong những người đặt nền móng và là một trong những tác giả đầu tiên của nền văn học mới với chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (từ năm 1945). Nam Cao sinh ngày 29-10-1917, họ tên khai sinh là Trần Hữu Tri; sinh trong một gia đình công giáo (Catholicisme, nhánh chính của đạo thiên chúa giáo Meristianisme) nên được đặt tên thánh là Giuse; người làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Xang, phủ Lị Nhân (nay thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân) tỉnh Hà Nam. thợ mộc, làm thuốc, mẹ là Trần Thị Minh (1897-?) làm vườn, làm ruộng, dệt vải. Thủa nhỏ, cậu bé Trần Hữu Tri học một trường tư trong làng; 10 tuổi ra thành phố Nam Định học tiểu học, và trung học. Vì thể chất yếu, chưa kịp thi Thành chung đã phải về nhà chữa bệnh và 18 tuổi cưới vợ. Vài tháng sau lên tàu hỏa đi Nam Kỳ, vào Sài Gòn, làm thư ký cho một hiệu may, vừa tự học thêm và viết văn. Về sau nhớ lại đoạn đời này, Nam Cao viết “Tạng người y không cho y cầm súng cầm gươm, y sẽ cầm bút mà chiến đấu” (Sống mòn). Có thể coi đây là lời bộc bạch về chí hướng của nhà văn trẻ. Một vài tác phẩm đầu tiên được đăng báo trong năm 1936. Hơn hai năm sau, Nam Cao trở ra Bắc, tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, từ đó sống bằng nghề dạy học và viết văn. Đất Bắc Kỳ thủa ấy chỉ có một trung tâm văn hóa là Hà Nội. Những thanh niên từ các vùng quê, các tỉnh lẻ thường tìm về Hà thành thử tài, thử trí, thử vận may. Với Trần Hữu Tri cũng vậy. Anh tìm được một chỗ dạy học ở trường tư thục Công Thanh gần chợ Bưởi lúc ấy là ngoại thành, và giao dịch với các báo, các nhà xuất bản, với giới viết báo viết văn Hà thành. Sáng tác của anh thơ có, văn xuôi có bắt đầu xuất hiện đều trên các Tiểu thuyết thứ bảy, Ích hữu, Hà Nội báo với những bút danh như là những cái tên ướm thử ngập ngừng Xuân Du, Nguyệt, v.v. Năm 1941, cuốn sách đầu tay ký bút danh Nam Cao nhan đề Đôi lứa xứng đôi ra mắt bạn đọc. Các nhà văn lớp tuổi đàn anh như Vũ Bằng, Lê Văn Chương dường như đã nhìn thấy ở cây bút mới này một văn tài thật sự. Nhưng dư luận văn học lúc ấy dường như bị át đi bởi những thông tin chấn động của cuộc thế chiến thứ 2 diễn ra khốc liệt bên châu Âu và đang lan rộng sang Viễn Đông. Dẫu ít được dư luận cổ vũ, sau tập sách mỏng đầu tay trong đó có truyện Chí Phèo bất hủ, ngòi bút nhà văn Nam Cao tự tin, linh hoạt hẳn lên. Nghề dạy học thì xuống dốc : trường Công Thanh bị quân Nhật trưng dụng, Nam Cao thôi dạy học ở đây, có lúc sang dạy học ở tận trường tư thục Kỳ Giang bên tỉnh Thái Bình, có lúc về quê, nằm nhà. Công việc liên tục bị rút lại, chỉ còn ngòi bút và trang giấy. Các năm từ năm 1941 đến 1944, Nam Cao viết được nhiều nhất. Một thống kê cho thấy, chỉ trên tuần san Tiểu thuyết thứ bảy, trong năm 1942, Nam Cao đã đăng được mười truyện, trong năm 1943 được 24 truyện, phần lớn là những truyện ngắn hay như: Cái mặt không chơi được, Những chuyện không muốn viết, Trẻ con không được ăn thịt chó, Mua nhà, Bài học quét nhà,…. Ngoài ra còn loạt truyện viết cho độc giả nhỏ tuổi in trong loại sách Hoa Mai, truyện dài “Truyện người hàng xóm” đăng trong Trung bắc chủ nhật, bốn cuốn tiểu thuyết bán bản thảo nhưng chưa được in nên mất (Cái bát, Một đời người, Cái miếu, Ngày lụt); lại còn tiểu thuyết Sống mòn viết xong từ khoảng tháng 10, 1944, không nhà cuất bản nào nhận in, đành để đấy. Thời gian 1941-1944 là thời sáng tác sung mãn và có hiệu quả nhất trong đời viết văn của Nam Cao. Cố nhiên ngòi bút viết văn của Nam Cao không đạt kỷ lục nào về số lượng, về độ dài hay độ dày. Cái mà ông đạt tới đỉnh cao là chất lượng mới: chất lượng ngôn ngữ nghệ thuật, chất lượng tư duy xã hội và tư duy văn học. Nam Cao thuộc vào số những nhà văn đã đọc được và nhận ra được cái thâm trầm ở Chekhov, ở Dostoievski. Ngòi bút kể chuyện đời đã không còn dừng lại ở sự mô tả những biểu hiện trái tai gai mắt bề ngoài; sự bất hòa. Sự kết án xã hội đương thời, ở Nam Cao đã đi vào nguyên tắc, nên có thể bộc lộ ra một cách ôn tồn và nhỏ nhẹ, đẩy tính quyết liệt ẩn sâu vào trong. Ở các trang viết của mình. Nam Cao đã nhìn thấy và chỉ cho người đọc thấy cái xã hội đọng trong nô lệ và lạc hậu xứ mình, cái xã hội đẳng cấp, bất công và phi nhân ấy đã làm tha hoá, biến dạng biến chất con người ta như thế nào. Viết sau và đi tiếp dòng văn tả thực xã hội của những Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, chủ nghĩa hiện thực ở Nam Cao đã tỉnh táo đến mức không còn ảo tưởng, không còn sự ve vuốt nào hết. Phần lớn các nhân vật nông dân ở tác phẩm của ông đều đã hoặc đang bị bần cùng hóa, lưu manh hóa, suy đồi về nhân tính, nhân cách. Phần lớn đám nhân vật tiểu trí thức ở sáng tác của ông đều đang bị dằng xé giữa sự mưu cầu miếng cơm manh áo và sự bảo vệ phẩm giá con người mình, đều đang day dứt vì thấy đời mình “sẽ mốc lên, sẽ rỉ đi, sẽ mòn ra ” và mình “sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống”. Tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa trong văn chương Nam Cao không thuộc kiểu một tình thương mênh mông vỗ về, an ủi, mà là một đòi hỏi nghiêm khắc: ở mức thấp, đó là đòi hỏi con người hiểu biết chính mình và hoàn cảnh sống quanh mình, nhận cho ra tình trạng bị tha hóa, biến dạng biến chất, coi sự tự ý thức này là cơ sở cho việc hành động cải tạo hoàn cảnh sống ở mức cao hơn, đó là đòi hỏi việc tạo điều kiện để phát triển “tận độ ”, hết mức những năng lực vốn có ở mỗi con người, coi phát triển năng lực con người là tiền đề của sự hoàn thiện nhân cách. Sáng tác của Nam Cao gắn bó với tiến trình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX vốn thường được hình dung như là quá trình cách tân, hiện đại hóa văn học. Là người tham dự tiến trình ấy, có thể là ở chặng gần cuối, Nam Cao được tiếp nhận và thừa hưởng không ít thành quả của những chặng đầu, ví dụ những thành tựu của các tác giả văn xuôi Tự lực văn đoàn, hoặc thành tựu của các nhà “tả chân” lớp trước; đồng thời Nam Cao bằng chính hoạt động sáng tạo của mình, đã thật sự góp phần phát triển và hoàn tất tiến trình ấy, góp phần khép lại giai đoạn quan trọng nhất của việc xây dựng một nên văn xuôi tự sự mới của người Việt trong những điều kiện và tiền đề văn hóa xã hội mới. Ngòi bút Nam Cao đã đem lại cho văn xuôi tự sự tiếng Việt một chất lượng mới trong khả năng thể hiện tâm lý, phân tích tâm lý. Truyện ngắn Nam Cao là một thành tựu nổi bật, bên cạnh đó, với Sống mòn, Nam Cao đóng góp cho thể tài truyện dài một kiểu kết cấu riêng. Đối với việc xây dựng và phát triển văn xuôi tiếng việt hiện đại, Nam Cao có đóng góp rõ rệt về ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật. Ở văn xuôi Nam Cao, thành phần ngôn ngữ nhân vật không có những phương ngữ hay, biệt ngữ thật đột xuất (nếu so sánh với thành phần ngôn ngữ nhân vật trong phóng sự của một số nhà “tả chân” đương thời), nhưng cũng không bị thôn tính bởi ngôn ngữ tác giả như ở các nhà văn xuôi Tự lực văn đoàn. Mặt khác, do quan tâm truyền đạt những dao động, biến thiên của tâm lý, tâm trạng nên Nam Cao tạo được một ngôn ngữ ít nhiều mang tính phức điệu. Tổ chức được những mạng lưới phức tạp gồm cả ngôn ngữ bên ngoài và ngôn ngữ bên trong, cả ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật, thậm chí cả những sự đan xen và nhòe lẫn vào nhau của hai thành phần ngôn ngữ ấy, Nam Cao là một trong số không nhiều tác giả cùng thời có những tác phẩm mà ngôn ngữ dường như không cũ đi so với thời gian. Nói cách khác, Nam Cao có những tác phẩm đạt đến độ cổ điển của văn xuôi tiếng Việt. Từ 1943, Nam Cao tham gia phong trào Việt Minh và là một trong số những thành viên đầu tiên của tổ chức Văn hoá cứu quốc. Tháng 8-1945, ông tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, được cử làm Chủ tịch xã đầu tiên của chính quyền mới ở địa phương. Vài tháng sau ông thôi việc chính quyền, ra Hà Nội với giới văn nghệ, làm việc trong tòa soạn tạp chí Tiền Phong, cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc. Đầu năm 1946 ông có chuyến đi ngắn vào cực nam Trung bộ với tư cách phái viên Văn hóa cứu quốc đi mặt trận. Kháng chiến bùng nổ ở Hà Nội, ông về quê rồi tham gia làm báo Giữ nước và báo Cờ chiến thắng của tỉnh Hà Nam. Mùa thu năm 1947, theo lời mời của Xuân Thủy, chủ nhiệm báo Cứu quốc, Nam Cao lên Việt Bắc, làm phóng viên báo này, cùng phụ trách tạp chí Cứu quốc, thư ký toà soạn báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1948, Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương; cuối năm ấy ông đi công tác vùng đồng bằng. Năm 1950 ông chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà soạn tạp chí Văn nghệ. Tháng sáu, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học tập của văn nghệ sỹ, sau đó ông được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương Đảng. Cũng trong năm 1950 Nam Cao đi chiến dịch biên giới. Giữa năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng đi công tác liên khu III, dự Hội nghị Văn nghệ liên khu III (23-9-1951), sau đó cả hai ông cùng đi liên khu IV. Khoảng tháng 10 Nam Cao trở ra Liên khu III, tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp. Trên đường cùng đoàn công tác này thâm nhập vùng địch hậu, Nam Cao bị địch phục kích bắt được và xử bắn. Đoạn đời từ cách mạng tháng 8-1945, ngòi bút Nam Cao hoạt động với tư cách ngòi bút của một cán bộ làm báo, làm văn. Ông viết tin, làm ca dao, soạn kịch ngắn tuyên truyền, viết hoặc dịch sách phổ thông về địa lý, lịch sử, thời sự. Ông coi đó là “những công việc nhũn nhặn, thầm lặng nhưng có ích”, mặc dù cũng có lúc ông “lo lắng lối viết như vậy có thể làm hỏng lối văn tiểu thuyết đã có ít nhiều người thích” trước đây của ông. Phần sáng tác văn học của Nam Cao sau 1945 tuy khá ít, nhưng cũng có tác phẩm đạt độ chín về nghệ thuật. Có thể kể chùm chuyện ngắn: Mở sâm banh, Cách mạng, Đôi mắt và một loạt bút ký, ghi chép, nhật ký như: Đường vô Nam, Chuỵện biên giới, Ở rừng. Qua những tác phẩm này, nhất là qua nhật ký Ở rừng, người ta nhận thấy trong thế giới tinh thần nhà văn đang diễn ra một cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt để vượt qua cái mà Nam Cao gọi là “thằng nghệ sĩ cũ trong người tôi”. Ông cảm thấy có tội vì đã vướng vào duyên nợ với kiểu nghệ sỹ tiểu tư sản trước kia. Ông muốn có đôi mắt mới để nhìn đời nhìn người. Không bằng lòng với những trang viết đã có mà ông cảm thấy nó nhợt nhạt so với thực tế sống và chiến đấu của công nông, ông chủ trương “sống đã rồi hãy viết”. Chuyến đi cuối cùng mà ông tham dự và hy sinh trên đường công tác, nằm trong chủ định của ông: đi lấy tài liệu cho sáng tác, ông muốn chất sống thực sự được bộc lộ mạnh mẽ hơn nữa trên trang viết. Sự hy sinh của ông không chỉ là sự hy sinh của một cán bộ kháng chiến mà còn là sự tử nạn vì nghề nghiệp của một người cầm bút. Từ sau khi nhà văn hy sinh, ý nghĩa các sáng tác của ông, vị trí của Nam Cao trong văn học Việt Nam thế kỷ XX ngày càng rõ dần, lớn lên trước các sáng tác, nghiên cứu phê bình văn học. Năm 1956, tiểu thuyết Sống mòn được xất bản lần đầu, 5 năm sau khi tác giả qua đời, gây sức thuyết phục lớn về văn tài tác giả. Ngay sau đó, các truyện ngắn của ông được sưu tầm tập hợp và xuất bản trong các tập Truyện ngắn Nam Cao, Một đám cưới. Diện mạo di sản của ngòi bút Nam Cao, đặc sắc và tầm cỡ văn nghiệp của ông ngày một rõ rệt trước mắt hậu thế. Năm 1961 xuất hiện cuốn sách chuyên luận đầu tiên về thân thế và sự nghiệp văn học của Nam Cao; từ đó đến nay có thêm rất nhiều công trình nghiên cứu nhiều hội thảo khoa học về tác giả này. Năm 1975 bắt đầu xuất hiện tuyển tập tác phẩm của Nam Cao. Từ đó đến nay có thêm khá nhiều bộ sách tuyển tác phẩm của ông. Một số tác phẩm văn học của Nam Cao đã được dịch và in ở nước ngoài. Năm 1996 cụm tác phẩm chính, sáng tác trước và sau 1995 của Nam Cao, được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật, giải thưởng chính thức cao nhất của chính thể mới từ sau cách mạng tháng 8-1945 dành cho giới sáng tác văn học.
Nam Cao
Nam Cao (1915 hoặc 1917 – 28 tháng 11 năm 1951) là một nhà văn và cũng là một chiến sĩ, liệt sĩ người Việt Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn (trước Cách mạng Tháng Tám), một nhà báo kháng chiến (sau Cách mạng), một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20. Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. ), giấy khai sinh ghi ngày 29 tháng 10 năm 1917, nhưng theo người em ruột của ông là Trần Hữu Đạt thì ông sinh năm 1915. Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao. Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Cha ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Mẹ ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng.
Rắn không chỉ là loài động vật sống trên khắp thế giới, nó còn là biểu tượng cho nước, lửa, linh hồn, nhục dục, quyết đoán, đa nghi. Với các nước phương Đông, trong một số nền văn hóa, hình tượng rắn có vị trí quan trọng trong thế giới biểu tượng. Rắn thường thể hiện hình ảnh khác nhau như thần hiền, thần ác, điều tốt, điều xấu, sự hủy diệt, tái sinh, tình yêu. Theo giáo sư Ngô Đức Thịnh, giám đốc Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng, rắn là con vật đa diện, tùy theo quan niệm từng dân tộc và tôn giáo mà nó là loài biểu tượng cho cái ác hay cái thiện. Trong văn hóa Việt, rắn không chỉ là loài động vật bình thường mà còn trở thành một biểu tượng tâm linh. Từ xa xưa, người Việt có câu chuyện truyền thuyết về loài rắn như câu chuyện Thạch Sanh, Lý Thông; một huyền thoại khác là rắn báo oán mà Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Trong hầu hết các câu chuyện ở Việt Nam, rắn thường gắn với cái ác. Vì thế, người Việt quan niệm rắn là loài đáng sợ nên không nhiều người thích chúng, vì nọc độc của một óố loài rắn có thể giết người ngay tức khắc. Tục ngữ Việt còn có câu nói lên tính xấu của con người với hình ảnh con rắn như "Khẩu phật tâm xà", "Đánh rắn là phải đánh dập đầu", "Cõng rắn cắn gà nhà", vì thế những người tính cách không tốt, thường được ví như người ác, gian manh hay thích nhục dục. Trong văn hoá dân gian Việt Nam, rắn không được xem là biểu tượng gắn với tôn giáo, trừ trường hợp Phật giáo của người Khmer sống ở Nam Bộ. Tục thờ rắn là một tín ngưỡng nguyên thuỷ của người Việt cổ với hai ý nghĩa chính là tục thờ thủy thần. Tục thờ này mang ý niệm về sông nước của cư dân làm nông nghiệp. Các đền thờ rắn xuất hiện dọc theo các con sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống. Vị thần rắn trong Ấn Độ giáo có tên gọi là Naga. Rắn được xem như biểu tượng của sự bất tử, được kính trọng như con vật linh thiêng. Người Ấn còn dành riêng cho rắn ngày tết vào tháng 8 hàng năm. Hình ảnh thường thấy ở các đền đài Ấn Độ là vị thần cầm rắn trên tay hay để rắn quấn quanh mình. Truyền thuyết Ai Cập thường xem rắn như là một vị thần linh tối cao, vị thần hộ mạng cho các nhà vua, do đó trên các vương miện của các vua pharaoh Ai Cập đều có chạm trổ hình rắn Naja bằng vàng hay đá qúy. Ở Hy Lạp, y học dùng biểu tượng con rắn quấn quanh cây gậy tượng trưng cho sự khôn ngoan, khả năng chữa trị bệnh tật. Theo thần thoại cổ Hy Lạp, vị thần Esculape, con trai của thần Apollo được xem là ông tổ ngành y dược, trên đường đi thăm bạn gặp một con rắn, ông đưa cây gậy ra, con rắn bám lấy và bò lên quấn quanh cây gậy của ông. Thấy vậy, thần Esculape lấy cây gậy đập xuống đất để giết chết con rắn. Nhưng, một con rắn khác bò tới, miệng ngậm thảo dược để cứu con rắn kia. Cũng từ đây, ông tìm kiếm các loại cây cỏ trên núi để chữa bệnh cứu sống con người. Vì vậy, để khắc họa vị thần Esculape, người ta thường để thần cầm một chiếc gậy làm bằng gỗ cây nguyệt quế và một con rắn quấn chung quanh. Với người Thái Lan, rắn là hồn của âm vật, là thần mẹ. Trong văn hóa tâm linh, rắn là vật linh thiêng, mang lại may mắn cho con người. Vì thế ở đền thờ Thái Lan có rất nhiều đền thờ rắn. Thờ rắn còn phổ biến trong tín ngưỡng ở Campuchia. Người Khmer vốn có tín ngưỡng thờ rắn Naga chín đầu. Rắn chín đầu là biểu tượng cho thần đất và thần nước. Sau này, do ảnh hưởng của đạo Bà la môn, rắn còn mang biểu tượng nguồn gốc các vị vua lập quốc. Vì thế, các vị vua Khmer thường cho xây dựng các cung điện và đền thờ lớn bằng đá, mà rắn Naga được xem là vị thần canh giữ, chúng xuất hiện trên cầu thang, các lối đi, trên ngưỡng cửa hoặc trên các mái tháp để xua đuổi tà ma. Trong kiến trúc nhiều ngôi đền cổ của người Khmer, hình ảnh cầu vồng và rắn Naga tượng trưng cho cầu nối giữa trần gian và cõi Niết bàn. Ở Trung Quốc, tín ngưỡng thờ rắn được biết đến từ khá lâu, qua hình tượng thần Phục Hy đầu người đuôi rắn, thần Nữ Oa đầu người mình rắn. Rắn Naga là biểu tượng của linh vật bảo vệ tôn giáo, cội nguồn của sự sống và cái chết.
Tục thờ rắn
Tục thờ rắn hay tín ngưỡng thờ rắn là các hoạt động thờ phụng loài rắn. Rắn là loài vật được nhiều dân tộc trên thế giới tôn thờ. Hình tượng rắn được thờ phụng ở rất nhiều quốc gia, dưới nhiều hình thức khác nhau, người dân ở khắp các châu lục đều có tôn sùng và thờ phụng rắn. Nhiều nơi trên thế giới, con rắn được thần thánh hóa và tôn thờ và đi vào đời sống tâm linh. Ít có loài vật nào mà ý nghĩa biểu trưng phong phú như loài rắn. Rắn không chỉ là loài động vật sống trên khắp thế giới, nó còn là biểu tượng cho nước, lửa, linh hồn, nhục dục, đa nghi, cái thiện-ác, tà-thần. Tục thờ rắn là một hình thái tín ngưỡng nguyên thủy, ra đời trong thời kỳ mà con người chưa tách mình ra khỏi tự nhiên, nhận thức về tự nhiên còn thấp, các ý nghĩa biểu trưng của hình tượng rắn phần lớn chính là sự mô phỏng hiện thực tự nhiên. Hình tượng rắn không chỉ xuất hiện trong hầu hết các nền văn hóa mà còn mang nhiều ý nghĩa khác nhau, đôi khi đối lập nhau.
WHY: mở đầu cho mệnh đề quan hệ trong tiếng Anh chỉ lý do, thường thay cho cụm for the reason, for that reason. Có hai loại mệnh đề quan hệ: mệnh đề quan hệ xác định và mệnh đề quan hệ không xác định. Mệnh đề quan hệ xác định (Defining relative clauses): là mệnh đề được dùng để xác định danh từ đứng trước nó. Mệnh đề xác định là mệnh đề cần thiết cho ý nghĩa của câu, không có nó câu sẽ không đủ nghĩa. Nó được sử dụng khi danh từ là danh từ không xác định và không dùng dấu phẩy ngăn cách nó với mệnh đề chính. Mệnh đề quan hệ không hạn định (Non-defining relative clauses): là mệnh đề cung cấp thêm thông tin về một người, một vật hoặc một sự việc đã được xác định. Mệnh đề không xác định là mệnh đề không nhất thiết phải có trong câu, không có nó câu vẫn đủ nghĩa. Nó được sử dụng khi danh từ là danh từ xác định và được ngăn cách với mệnh đề chính bằng một hoặc hai dấu phẩy (,) hay dấu gạch ngang (-). Nếu trong mệnh đề quan hệ có giới từ thì giới từ có thể đặt trước hoặc sau mệnh đề quan hệ (chỉ áp dụng với whom và which.). Trong mệnh đề quan hệ xác định , chúng ta có thể bỏ các đại từ quan hệ làm túc từ:whom, which. Mệnh đề quan hệ được rút thành cụm động từ nguyên mẫu (To-infinitive) khi trước đại từ quan hệ có các cụm từ: the first, the second, the last, the only hoặchình thức so sánh bậc nhất. ▪ Chỉ cần có máy tính kết nối Internet ổn định, tai nghe, microphone đảm bảo cho việc dạy học online. ▪ Giao tiếp liên tục, sửa lỗi kịp thời, bù đắp lỗ hổng ngay lập tức. ▪ Tặng MIỄN PHÍ giáo trình chuẩn quốc tế và tài liệu trong quá trình học. Trong thời đại hội nhập hiện nay, tiếng Anh đang dần trở thành ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Bạn không chỉ cần tiếng Anh để đi thi, đi học, mà còn cần chuẩn bị vốn tiếng Anh giao tiếp để đi làm. Nếu một người nước ngoài nhờ bạn chỉ đường thì bạn sẽ trả lời như nào? Nếu chưa biết thì cùng học những mẫu câu sau đây để có thể dễ dang trả lời bất kỳ lúc nào nhé. Bài học hôm nay, ad sẽ chia sẻ tới các bạn các từ vựng về thời gian như ngày, tháng, mùa, các ngày lễ,. Langmaster Learning System - Hệ thống học tiếng Anh giao tiếp toàn diện cho người mới bắt đầu.
Mệnh đề quan hệ
Mệnh đề quan hệ (Relative clause) là một mệnh đề phụ được dùng để bổ nghĩa cho danh từ (noun) hoặc cụm danh từ (noun phrase) đứng trước nó. Ví dụ như câu "the man who wasn t there" (Người đàn ông đã không có mặt ở đó), the man ở đây là danh từ và nó được bổ nghĩa bởi mệnh đề quan hệ who wasn t there. Mệnh đề quan hệ còn có thể bổ nghĩa cho đại từ như trong câu "he to whom I have written" (Anh ta là người mà tôi viết thư đến), hoặc một cụm danh từ mà nó bao gồm từ bổ nghĩa, như câu "the black panther in the tree" (Con báo đen trong cái cây đó nó sắp vồ). Mệnh đề quan hệ thường được nối với mệnh đề chính bằng các đại từ quan hệ (relative pronouns) who, whom, which, whose, that. Trong phần lớn ngôn ngữ châu Âu, mệnh đề quan hệ được cấu tạo bởi lớp nghĩa đặc biệt của đại từ gọi là đại từ quan hệ (relative pronouns); ở các ví dụ trên từ who, which, whom là một đại từ quan hệ. Trong một số ngôn ngữ khác, mệnh đề quan hệ có thể khác nhau rõ rệt: họ gọi các liên từ với lớp nghĩa đặc biệt này là relativizers.
Tiếp tuyến (tangent) là đường thẳng chỉ tiếp xúc, chứ không cắt đồ thị tại một điểm nhất đinh. Khái niệm tiếp tuyến có ích khi được vận dụng vào kinh tế để xác định độ dốc hay hệ số góc của một đường tại một điểm nhất định dọc theo hướng đó. Ví dụ, phân tích đường bàng quan cho thấy người tiêu dùng hành động hợp lý sẽ tìm cách tối đa hóa ích lợi của mình bằn cách chọn một kết hợp hai sản phẩm X và Y sao cho đường ngân sách của anh ta tiếp tuyến với đường bàng quan cao nhất có thể có, bởi vì chỉ tại điểm đó giá tương đối của các sản phẩm mới phù hợp với lợi ích tương đối của chúng. Khi tiếp tuyến đi qua điểm giao của đường tiếp tuyến và đường cong trên, được gọi là tiếp điểm, đường tiếp tuyến "đi theo hướng" của đường cong, và do đó là đường thẳng xấp xỉ tốt nhất với đường cong tại điểm tiếp xúc đó. Tương tự như vậy, mặt phẳng tiếp tuyến của mặt cong tại một điểm nhất định là mặt phẳng "chỉ chạm vào" mặt cong tại điểm đó. Khái niệm tiếp tuyến là một trong những khái niệm cơ bản nhất trong hình học vi phân và đã được nghiên cứu và tổng quát hóa rộng rãi.
Tiếp tuyến
Tiếp tuyến của một đường cong tại một điểm bất kỳ thuộc đường cong là một đường thẳng chỉ "chạm" vào đường cong tại điểm đó. Leibniz định nghĩa tiếp tuyến như một đường thẳng nối một cặp điểm gần nhau vô hạn trên đường cong. Chính xác hơn, một đường thẳng là một tiếp tuyến của đường cong y = f (x) tại điểm x = c trên đường cong nếu đường thẳng đó đi qua điểm (c, f (c)) trên đường cong và có độ dốc f (c) với f là đạo hàm của f. Một định nghĩa tương tự áp dụng cho các đường cong không gian và các đường cong trong không gian Euclide n-chiều. Khi tiếp tuyến đi qua điểm giao của đường tiếp tuyến và đường cong trên, được gọi là tiếp điểm, đường tiếp tuyến "đi theo hướng" của đường cong, và do đó là đường thẳng xấp xỉ tốt nhất với đường cong tại điểm tiếp xúc đó. Tương tự như vậy, mặt phẳng tiếp tuyến của mặt cong tại một điểm nhất định là mặt phẳng "chỉ chạm vào" mặt cong tại điểm đó. Khái niệm tiếp tuyến là một trong những khái niệm cơ bản nhất trong hình học vi phân và đã được tổng quát hóa rộng rãi.
Cờ caro – một trò chơi rất phổ biến ở Việt Nam và được rất nhiều người yêu thích, đặc biệt là các bạn đã từng trải qua thời học sinh. Nói đến cờ caro, chắc hẳn không một bạn học sinh nào là không biết. Chỉ cần một mảnh giấy kẻ ô, hai cây bút, bạn có thể tự tổ chức một cuộc thi cờ đúng nghĩa. Hôm trước, chúng ta đã được tìm hiểu về nguồn gốc của cờ vây, hôm nay hội những người yêu cờ thủ chúng ta hãy cũng tìm hiểu thêm về nguồn gốc của cờ caro nhé. Cho đến nay vẫn chưa ai biết chính xác lai lịch của cờ caro, có lời đồn cho rằng, cờ caro xuất hiện cách đây khoảng hơn 2000 năm TCN tại Trung Quốc. Tuy nhiên, một số nhà khoa học đã tìm ra bằng chứng rằng cờ caro đã xuất hiện ở Hy Lạp cổ đại và châu Mĩ trước thời Colombo. Sau khi ra đời, cờ caro được truyền bá rộng rãi sang các quốc gia khác nhau trên thế giới, vì vậy mà xuất hiện nhiều biến thể của trò chơi này với nhiều cách chơi khác nhau, đánh dấu nhiều mốc quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển cờ caro. Tuy nhiên, ở đất nước của xứ sở hoa anh đào, nó còn được gọi dưới nhiều cái tên khác nhau ở mỗi địa phương Kakugo, gomoku-narabe, Itsutsu-ishi,…. Khi mới xuất hiện, loại cờ này được chơi bằng các con cờ vây (viên cờ màu trắng và đen) trên một bàn cờ vây (19×19). Quân đen đi trước và người chơi lần lượt đặt một viên đá của họ trên đường chéo còn trống. Người thắng là người đầu tiên có được một chuỗi liên tục gồm 5 quân hàng ngang, hoặc dọc, hoặc chéo. Tuy nhiên, vì một khi đã đặt xuống, các quân cờ không thể di chuyển hoặc bỏ ra khỏi bàn, do đó loại cờ này có thể chơi bằng giấy bút. Ở Việt Nam, cờ này thường chơi trên giấy tập học sinh (đã có sẵn các ô ca-rô), dùng bút đánh dấu hình tròn (O) và chữ thập (X) để đại diện cho 2 quân cờ, bên nào có đường 5 quân liền nhau trên một hàng, một cột hoặc một đường chéo là thắng. Trong cờ carô, bên đi trước luôn có lợi thế rất lớn, thậm chí L.Victor Allis còn chứng minh được rằng trong cờ carô tự do, bên đi trước luôn luôn thắng. Để hạn chế nhược điểm này người ta đưa ra một số luật bổ sung để hạn chế lợi thế của người đi trước (quân đen) và tăng cường khả năng phòng thủ của người đi sau. Thoạt đầu mới nhìn chơi cờ caro, nhiều người vẫn nghĩ đây là trò chơi đơn giản nhưng thực chất trò caro mà chúng ta vẫn ahy chơi chỉ là thể loại cũ của môn cờ này. Trên thế giới hiện nay, môn cờ này đã được phát triển thành nhiều thế cờ khác nhau và luật chơi phức tạp hơn nhiều. Thực chất, cờ caro khá hấp dẫn với những màn đấu trí tuệ cao. Để chơi cờ caro bạn cần có một ty duy logic cực nhanh và nhạy, không những thế bạn cần có óc quan sát và phán đoán. Có như thế bạn mới có thể thắng được. Nếu chơi với tính chất đơn giản thì đó chỉ là những quân cờ trắng đen. Cờ ca-rô (hay sọc ca-rô) là một trò chơi bàn cờ theo chiến thuật trừu tượng. Cờ ca-rô trong tiếng Triều Tiên là omok (오목), tiếng Trung là 五子棋 (bính âm: wǔzǐqí) và trong tiếng Nhật là 五目並べ (gomoku narabe); tiếng Anh, sử dụng lại tiếng Nhật, gọi là gomoku. Các luật cơ bản: Ván cờ được chơi trên bàn cờ 15 x 15 dòng kẻ. Hai bên sẽ thay phiên nhau đi những quân cờ vào giao điểm của các hàng ngang và cột dọc. Người đi trước (quân đen) sẽ đi quân đầu tiên vào tâm bàn cờ (giao của hàng 8, cột 8). Luật thắng thì cũng như cờ ca-rô, tuy nhiên bên đen phải chịu những hạn chế cơ bản sau: không được tạo thành một hàng 6 quân liên tiếp (overlines), không được tạo thành các bẫy 3×3 (double-threes) và 4×4 (double-fours) – nếu đi vào những nước như vậy coi như thua,người nào đi được 5 quân nhưng đã bị chặn trước ở 2 đầu sẽ không thắng.Cuối cùng, có luật về nước đi thứ 5 và thứ 7: Ở những nước thứ 5 và thứ 7, quân đen phải đưa ra 2 phương án nước đi để quân trắng có quyền lựa chọn (Alternative moves 5th and 7th). Hai lựa chọn này phải không đối xứng nhau (vì nếu đối xứng thì coi như không có quyền chọn). Tất cả những luật này không những hạn chế ưu thế của quân đen mà còn đem đến cho quân trắng những cơ hội phải công. Ví dụ, quân trắng, bằng những nước đi của mình có thể buộc quân đen tạo thành 1 hàng 6 quân liên tiếp hay tạo thành bẫy 3×3. Có những ván đấu kết thúc ngay ở nước thứ 7 vì quân đen buộc phải đi 2 nước đối xứng. Cờ caro tưởng nhưu rất đơn giản nhưng lại là môn cờ rất phức tạp và rất hấp dẫn. Với một trò chơi sử dụng chủ yếu là kỹ năng logic thế này, cờ caro rất phù hợp với lứa tuổi học sinh. Để xem hướng dẫn chơi cờ caro trên cờ thủ, các bạn nên đọc bài Hướng dẫn các bước cho người mới bắt đầu chơi cờ caro. Trước tiên ban quản trị Cờ Thủ xin cảm quý kỳ thủ đã luôn đồng hành cùng Cờ Thủ trong suốt thời gian qua. Để thay lời cảm ơn và. Cùng với cờ Vua, cờ Vây, cờ Tướng là một trong những kiểu chơi cờ trực tuyến được ưa chuộng và phổ biến trên khắp hành tinh. Với tính năng giải trí. Cờ Tướng là trò chơi cờ dân gian có nguồn gốc từ Trung Hoa, và đã gia nhập vào Việt Nam hơn nhiều thế kỷ nay. Đây là trò chơi mang tính. Tầng 10, số 48 Lê Văn Lương, Khu Đô thị mới N2, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội
Cờ ca-rô
Cờ ca-rô (hay sọc ca-rô) là một trò chơi dân gian. Cờ ca-rô trong tiếng Triều Tiên là omok (오목) và trong tiếng Nhật là 五目並べ (gomoku narabe); tiếng Anh, sử dụng lại tiếng Nhật, gọi là gomoku. Ban đầu loại cờ này được chơi bằng các quân cờ vây (quân cờ màu trắng và đen) trên một bàn cờ vây (19x19). Quân đen đi trước và người chơi lần lượt đặt một quân cờ của họ trên giao điểm còn trống. Người thắng là người đầu tiên có được một chuỗi liên tục gồm 4 quân hàng ngang, hoặc dọc, hoặc chéo không bị chặn đầu nào. Nếu bị chặn một đầu thì người đó cần có chuỗi 5 quân liên tục mới thắng. Nếu chuỗi 5 quân liên tục bị chặn cả hai đầu thì trò chơi tiếp tục. Một khi đã đặt xuống, các quân cờ không thể di chuyển hoặc bỏ ra khỏi bàn, do đó loại cờ này có thể chơi bằng giấy bút. Ở Việt Nam, cờ này thường chơi trên giấy tập học sinh (đã có sẵn các ô ca-rô), dùng bút đánh dấu hình tròn (O) và chữ X để đại diện cho 2 quân cờ.
Cốc nguyệt san là sản phẩm đã quá quen thuộc với phụ nữ trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam, sản phẩm này mới được biết đến trong vài năm gần đây và còn mới lạ với đa số nữ giới. Cốc nguyệt san để làm gì, cách sử dụng như thế nào, hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây. Sản phẩm cốc nguyệt san (Menstrual cup) là sản phẩm thay thế cho băng vệ sinh hay tampon. Đây là dụng cụ được đưa vào âm đạo nữ giới trong chu kỳ kinh nguyệt nhằm chứa máu kinh (máu từ niêm mạc tử cung), chăm sóc vùng kín và ngăn không cho chủng rò rỉ ra quần áo. Cốc được thiết kế dạng hình phễu, có cuống, chất liệu từ silicon hoặc nhựa y tế mềm dẻo, độ bền cao. Khác với băng vệ sinh thông thường và tampon (băng vệ sinh dạng ống), dụng cụ menstrual cup dùng để đựng dung dịch thay vì khả năng thấm hút. Cốc nguyệt san có nhiều màu sắc, kích cỡ và có thể tái sử dụng nhiều lần. Hạn sử dụng của sản phẩm lên đến 5-10 năm. Loại sản phẩm có cỡ nhỏ được khuyên dùng cho nữ giới dưới 30 tuổi hoặc chưa sinh đẻ thường bao giờ. Các sản phẩm cỡ lớn hơn được dùng cho nữ giới trên 30 tuổi, đã từng sinh nở hoặc chảy máu nhiều trong kỳ kinh nguyệt. Cấu tạo cốc đựng kinh nguyệt gồm 2 phần là phễu và cuống. Phần phễu được đưa vào trong âm đạo còn cuống dùng để điều chỉnh vị trí hoặc đưa cốc ra ngoài. Tùy thuộc vào lượng máu kinh của người dùng mà cứ sau khoảng 4-12 tiếng, cốc cần được đưa ra ngoài, đổ bỏ chất lỏng, vệ sinh sạch vùng kín và đưa lại vào trong âm đạo. Sau mỗi chu kỳ kinh nguyệt, dụng cụ cần được khử trùng sạch sẽ và bảo quản để dùng tiếp cho kỳ kinh tiếp theo. Khi cốc được đưa vào trong, bạn có thể dùng lực ở âm đạo hoặc cầm vặn đáy cốc để miệng cốc bung ra, bám chặt vào thành âm đạo. So với tampon, cốc nguyệt san được đặt ở vị trí thấp hơn trong khoang âm đạo. Với những bạn lần đầu sử dụng, có thể nhờ đến sự giúp đỡ của gel bôi trơn để dễ dàng đưa cốc vào trong hơn. Cốc được tháo ra bằng cách bạn chạm vào phần cuống để tìm đến thân cốc. Bạn bóp nhẹ đáy cốc để miệng cốc bung ra khỏi thành âm đạo, sau đó nhẹ nhàng rút ra. Sau khi đổ bỏ chất lỏng, cần được rửa lại toàn bộ cốc bằng nước cùng dung dịch sát khuẩn. Bạn có thể dùng dung dịch vệ sinh phụ nữ để rửa sạch cốc. Ngoài ra sau mỗi chu kỳ kinh nguyệt, bạn cần sát khuẩn dụng cụ bằng nước sôi hoặc cho cốc vào nước rồi quay trong lò vi sóng từ 3-5 phút. Đây vẫn còn là sản phẩm còn mới trên thị trường. Nhiều chị em vẫn lo lắng về việc sử dụng cốc đựng có ảnh hưởng gì không. Trước khi quyết định có chuyển sang dùng sản phẩm này thay cho băng vệ sinh truyền thống không, bạn nên tìm hiểu. Tham khảo review cốc nguyệt san của những người đã dùng giúp bạn có thêm thông tin. Được làm từ chất liệu mềm dẻo, độ bền cao, cốc đựng kinh nguyệt giúp nữ giới vận động thoải mái hơn trong chu kỳ. Cốc đặt sâu trong âm đạo, nhẹ nhàng đựng hết được lượng máu, ngăn không cho máu kinh rò rỉ ra ngoài. Với sản phẩm này, bạn hoàn toàn có thể đi bơi, xuống nước trong kỳ kinh nguyệt mà không sợ máu vấy bẩn ra ngoài. Dụng cụ cốc đựng máu kinh còn giúp nữ giới bảo vệ vùng kín, ngăn không cho vi khuẩn xâm nhập và phát triển. Từ đó hạn chế được các bệnh phụ khoa cho phái nữ. Việc dùng băng vệ sinh có thể làm mất cân bằng độ pH, gây kích ứng vùng âm đạo với một số bạn. Nhưng với cốc nguyệt san, bạn sẽ không gặp phải trường hợp này. Cảm giác bí bách, hăm bẹn do băng vệ sinh cũng sẽ không còn. Hạn sử dụng của cốc nguyệt san có thể lên đến 10 năm tùy từng hãng sản xuất. Nhờ đó, bạn có thể tiết kiệm được đáng kể chi phí dành để mua băng vệ sinh dùng 1 lần. Sử dụng cốc, bạn có thể hạn chế được lượng rác thải ra từ bao bì và băng vệ sinh hay tampon dùng 1 lần. Đây là ưu điểm thân thiện với môi trường của sản phẩm dành cho nữ giới này. Sản phẩm còn mới lạ nên nhiều nữ giới chưa hiểu rõ về công dụng và cách dùng. Với những bạn sử dụng lần đầu, việc đưa cốc vào và tháo ra còn khó khăn. Nếu dụng cụ được đặt sai vị trí có thể gây đau, khó chịu và rò rỉ máu kinh ra ngoài. Cốc được đưa vào trong âm đạo và có thể tác động đến màng trinh của nữ giới. Do đó với những bạn chưa quan hệ tình dục hay có quan điểm muốn giữ gìn màng trinh trước khi lấy chồng thì nên cân nhắc về cốc nguyệt san. Cốc nguyệt san sẽ hoàn toàn an toàn với người dùng nếu bạn đã thành thạo việc sử dụng đúng cách. Nếu bạn đã có đủ kiến thức và cảm thấy bản thân phù hợp với các đặc điểm của cốc, thì đây chính là sản phẩm bạn nên sử dụng. Trên thị trường hiện nay có rất nhiều các thương hiệu, sản phẩm có nguồn gốc, xuất xứ khác nhau. Một số thương hiệu nổi tiếng và phổ biến hiện nay có thể kể đến như:. Nữ giới nên lựa chọn sản phẩm có thương hiệu uy tín, được kiểm chứng về độ an toàn, chất lượng từ Bộ Y tế. Tuyệt đối không mua hàng giả, hàng kém chất lượng trôi nổi trên thị trường gây ảnh hưởng sức khỏe. Trong 3 chất liệu phổ biến của cốc đựng kinh nguyệt gồm silicon y tế, chất dẻo có tính đàn hồi và cao su tự nhiên thì silicon y tế được cho là an toàn và được kiểm chứng là vô hại cho người dùng. Chị em nên ưu tiên lựa chọn cốc có chất liệu từ silicon y tế. Một sản phẩm cốc nguyệt san tốt nên có kích thước phù hợp với âm đạo của người dùng. Với người chưa quan hệ hay chưa sinh nở, có kích thước âm đạo nhỏ nên chọn sản phẩm nhỏ. Những thương hiệu từ châu Á hay Việt Nam thường sản xuất cốc nguyệt san có kết cấu phù hợp với âm đạo phụ nữ châu Á. Người đã từng sinh thường hay có âm đạo rộng, lượng máu kinh nhiều nên chọn sản phẩm cỡ lớn hơn. Cốc nguyệt san từ châu Âu sẽ phù hợp với đối tượng này hơn. Mua cốc nguyệt san ở đâu, địa chỉ bán cốc nguyệt san chính hãng nào tốt là thắc mắc của nhiều bạn đọc. Sản phẩm hiện được bán nhiều trên các trang thương mại điện tử, các trang cá nhân bán hàng online. Một vài thương hiệu nội địa của Việt Nam có website bán hàng uy tín. Chị em có thể tham khảo sự tư vấn của người bán và mua sản phẩm phù hợp qua mạng. Tuy nhiên, cần cẩn thận lựa chọn để không bị mua phải hàng kém chất lượng, hàng giả…. Giá của cốc nguyệt san giao động từ 400.000-1.000.000 VNĐ tùy loại. Với các sản phẩm nhập khẩu, giá thành có thể chênh lệch cao hơn. 30.000 bài viết về bệnh, thuốc, thảo dược, thai kỳ, bí quyết sống khỏe mỗi ngày.
Cốc nguyệt san
Cốc nguyệt san (tiếng Anh: menstrual cup) là một dụng cụ vệ sinh được đưa vào âm đạo trong chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ. Mục đích chính là chứa chất lỏng kinh nguyệt (máu từ niêm mạc tử cung) và ngăn chặn chất lỏng rò rỉ ra quần áo. Những loại cốc thường được làm bằng silicon y tế, mủ cao su hoặc đồng phân nhiệt dẻo. Sản phẩm có hình dạng gồm phần phễu và cuống. Phần cuống được sử dụng chỉnh vị trí của cốc trong âm đạo và khi cần tháo ra. Phần cốc sẽ được giữ tại thành âm đạo ngay dưới cổ tử cung. Cứ sau 4 giờ 12 giờ (tùy thuộc vào lượng máu), cốc được lấy ra, đổ bỏ chất lỏng, tráng sạch và lại đưa vào. Sau mỗi chu kỳ, cốc nguyệt san phải được khử trùng bằng nước sôi. Không giống băng vệ sinh thông thường và băng vệ sinh dạng ống (tampon), cốc nguyệt san đựng dung dịch lỏng thay vì thấm hút. Một chiếc cốc có thể tái sử dụng đến 10 năm. Điều này làm cho chi phí dài hạn của cốc thấp hơn so với băng vệ sinh hoặc miếng lót dùng một lần, mặc dù chi phí ban đầu cao hơn.
Để biết rõ những câu hỏi thắc mắc, sau đây mời các bạn, hãy cùng tôi đi tìm hiểu chi tiết hơn về ngành học thông qua bài viết bên dưới, từ đó giúp các em có một ngành nghề lựa chọn sao cho phù hợp nhất bản thân và gia đình. Tâm lý học là hệ thống của khoa học xã hội, trong đó sẽ thiết lập những tác phẩm chung để tìm hiểu cá nhân hoặc một nhóm người thông qua nghiên cứu từng trường hợp cụ thể. Ngành học quản lý nghiên cứu về việc xử lý thông tin từng người một, biểu hiện cụ thể, từ đó làm rõ chất lượng của con người bằng cách đi sâu vào nghiên cứu từng ngóc ngách trong đời sống trong mọi lĩnh vực. Ngành tâm lý học nghiên cứu về cách mà con người đã học được từ những tác động ở môi trường xung quanh. Con người sẽ được học thông qua nhiều hình thức khác nhau và đối tượng học chủ yếu sẽ là trẻ em để kích thích nhưng tư duy tốt, kích thích năng khiếu của các em được phát triển và những người khuyết tật. Sau khi học xong và tốt nghiệp chuyên ngành tâm lý giáo dục, các em sinh viên sẽ có rất nhiều những cơ hội việc làm khác nhau như có thể làm giáo viên hoặc giảng viên giảng dạy tại các trường học, làm cán bộ nghiên cứu tại các đơn vị, tổ chức- chính trị chẳng hạn như làm việc trong Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ,. Hiện nay, ở Việt Nam vẫn còn rất nhiều những trung tâm trẻ em khuyết tật, các bạn có thể xin vào làm việc ở các trung tâm đó để giảng dạy cho các em bộ môn tâm lý học. Xã hội ngày càng hiện đại và phát triển thì đời sống của người dân đang dược nâng lên rất nhiều. Khác với ngày xưa khi còn phải lo cơm áo gạo tiền, cuộc sống còn khó khăn nghèo nàn thì giờ đây khi kinh tế đã vững vàng hơn có của ăn của để hơn thì họ lại có những nỗi lo xa hơn nhưng phù hợp với tình hình xã hội hiện đại. Trẻ em là mầm xanh của Đất nước, các các bậc phụ huynh luôn muốn con em mình được phát triển toàn diện về tất cả mọi mặt. Ngoài việc chăm lo sức khỏe, giáo dục kiến thức thì tâm lý của trẻ cũng hết sức phức tạp. Và đây cũng là khía cạnh được rất nhiều bà mẹ chú ý, chính vì thế mà họ thường sẽ thuê giáo viên giảng dạy bộ môn tâm lý này giống như những bộ môn về kiến thức khác. Đây chính là cơ hội lớn của bạn khi ngày càng nhiều các bậc phụ huynh cho con em đến những trung tâm dạy kỹ năng cho trẻ, bạn có thể xin việc ở đó. Đây là một ngành học khá là phổ biến và được xuất hiện từ rất lâu đối với các nước phát triển trên Thế giới và chỉ xuất hiện ở Việt Nam với thời gian chưa lâu. Tuy nhiên thì đây là ngành khá là có tương lai khi xuất hiện ở nước ta với bối cảnh kinh tế như hiện nay. Trước khi theo học ngành tâm lý giáo dục, các bạn cần phải tìm hiểu rõ xem ngành có những yêu cầu gì về kỹ năng và trình độ để định hướng được nghề nghiệp chính xác trong tương lai. Để làm việc trong ngành tâm lý, các bạn cần phải là người hòa đồng, cởi mở, là người biết lắng nghe người khác và có tính kiên nhẫn. Yếu tố này thực sự quan trọng trong khi làm việc bởi vì sự hòa đồng, thân thiện sẽ giúp bạn tiếp xúc được với học viên của mình hơn, giúp họ có thể chia sẻ nhiều về bản thân với mình, như vậy bạn sẽ biết là học viên đó đang có những gì và đang thiếu những gì. Từ đó có thể đưa ra được những phương pháp dạy riêng biệt phù hợp với học viên và các em có thể tiếp thu nhanh hơn. Trong quá trình dạy, đương nhiên sẽ có nhiều đối tượng khác nhau, sẽ có những học viên thông minh và cũng sẽ có những học viên chậm hiểu hơn. Vì vậy là một giáo viên giảng dạy môn tâm lý các bạn cần phải thật bình tĩnh, kiên nhẫn để tiếp tục giảng dạy có thể là theo hướng khác, hình thức khác sao cho học viên đó hiểu được bài giảng. Các bạn cần phải là người chịu được áp lực, tại sao lại như vậy? Ngành giáo viên luôn là một trong số những ngành phải chịu nhiều áp lực trong công việc. Lúc nào họ cũng phải nghĩ làm sao có bài giảng để cho toàn bộ học sinh của mình đều hiểu được bài, làm sao để thu hút được học sinh chú ý vào bài giảng, làm sao cho các em có được thái độ học tập nghiêm túc,. Đây chính là áp lực công việc mà giáo viên dạy môn tâm lý cũng thường xuyên phải đối mặt. Việc dạy học là một nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng được cả Thế giới tôn vinh cho dù là bạn đang dạy môn gì, ở đâu, vì vậy nếu các bạn đang bị áp lực thì hãy nghĩ đến điều đó, và xem những áp lực đó là những thử thách mới mỗi ngày mà mình phải vượt qua, nếu vượt qua được chúng bạn sẽ dần trưởng thành và tích luỹ được cho mình những kinh nghiệm để vào hành trang trên con đường chinh phục sự nghiệp của mình. Là một người có năng khiếu giao tiếp, kỹ năng thuyết phục người khác và thích khám phá nội tâm bí ẩn của con người. Đây thực sự là yếu tố cần thiết đối với những bạn theo học ngành tâm lý, hầu hết những ai làm công tác giảng dạy thì đều cần sử dụng đến kỹ năng này, nó giúp bạn thuyết phục được học sinh của mình trong khi giảng dạy. Khi bạn đa có một định hướng đúng đắn, việc đầu tiên bạn sẽ phải chọn địa chỉ đào tạo cho phù hợp, sao cho đáp ứng được chất lượng và quan trọng là sự uy tín. Các bạn đã tìm được địa chỉ nào phù hợp để có thể theo học với chất lượng tốt nhất chưa? Nếu chưa hãy tham khảo một số trường sau đây: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên, Học viện quản lý giáo dục, Đại học Sư phạm thuộc Đại học Huế và Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Bước chân vào những trường đào tạo chuyên ngành của tâm lý học, các bạn sẽ phải học những ngành liên kết và những bộ môn chuyên ngành tâm lý. Cụ thể đó là những môn học sau: Cơ sở văn hóa Việt Nam, Tâm lý học đại cương, Phương pháp Nghiên cứu khoa học, Giáo dục hướng nghiệp, Tâm lý học lao động giáo dục, . Ngoài ra còn rất nhiều các môn học khác, tuy nhiên nêu ra một số môn học từ điển để các bạn có thể hình dung rằng mình sẽ phải học về những lĩnh vực cơ bản. Thường thì bác sĩ tâm lý có thể làm việc độc lập hoặc có thể phối hợp với các chuyên gia trong lĩnh vực khác nhau để đưa ra các phương pháp tư vấn, hướng dẫn giải quyết vấn đề tâm lý và sức khỏe đối với khách hàng hàng của mình. Thì thực sự là công việc khó khăn cần sử dụng rất nhiều đến những kỹ năng quan sát, phân tích, tổng hợp để kết hợp với chuyên môn giải quyết các vấn đề đảm bảo nhiệm vụ của mình. Công việc hàng ngày của bác sĩ tâm lý đó là khám và tư vấn cho khách hàng về những vấn đề, chứng chỉ mà họ đang gặp phải và muốn giải quyết cho họ. Những vấn đề đó có thể là những thương hiệu về tâm lý hoặc cũng có thể là những thương hiệu về sức khỏe. Bác sĩ tâm sự có thể làm việc ở rất nhiều đơn vị, các tổ chức khác nhau như: Phòng khám bệnh viện, Viện nghiên cứu trung tâm, . Một một giáo viên, giảng viên đào tạo tại các trường đại học, Cao đẳng, các trung tâm giáo dục thường xuyên,. sẽ làm các công việc liên quan đến chuyên ngành tâm lý. Bạn sẽ phải tham gia vào công tác giảng dạy bộ môn tâm lý học, tham gia nghiên cứu và phát triển bộ môn chuyên khoa để phù hợp với chương trình đào tạo của đơn vị giảng dạy. Đây là công việc yêu cầu ở bạn rất nhiều các yếu tố như là kỹ năng giao tiếp, thuyết trình, trình độ chuyên môn cao về chuyên ngành tâm lý học, có khả năng phân tích, quan sát và đánh giá tâm lý của học sinh, sinh viên,. Thu nhập luôn là vấn đề được quan tâm của người lao động, ai cũng mong muốn làm việc ở vị trí có mức cao, có chế độ tốt. Tuy nhiên thì các bạn cần phải xác định được đúng khả năng trình độ của mình để làm việc tại những vị trí phù hợp nhất, có như vậy thì trong khi làm việc bạn sẽ không gặp phải nhiều khó khăn, nhiều áp lực. Với ngành tâm lý học, các bạn sinh viên sau khi tốt nghiệp và đi làm sẽ có khoản thu nhập khá. Thường thì mức trung bình có thể nhận được sẽ từ 5-7 triệu đồng. Còn đối với nhân viên đã có kinh nghiệm trong ngành, mức lương đạt được ở mức cao hơn từ 8-11 triệu. Ngoài ra còn phụ thuộc vào vị trí, chức vụ việc làm, các cán bộ làm quản lý, lãnh đạo mức lương sẽ còn ở mức cao hơn nữa, có thể lên đến khoảng 15 triệu đồng mỗi tháng. Để có được mức lương cao như mong muốn, các bạn cần phải cố gắng rất nhiều, đạt thành tích xuất sắc hoặc phấn đấu nhận được nhiều giải thưởng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Cần phải có thái độ nghiêm túc để gặt hái được những kết quả tốt nhất với ngành học tâm lý này. Mức lương rất quan trọng tuy nhiên thì các bạn nên chọn những công việc phù hợp nhất với khả năng, trình độ mà bạn có để khi làm việc có thể đảm bảo hoàn thành được nhiệm vụ mà không gặp quá nhiều khó khăn. Các bạn đã biết cách để tìm việc làm ngành tâm lý học giáo dục như thế nào chưa? Có một cách phổ biến mà được nhiều người áp dụng và đạt được hiệu quả cao đó là tìm việc tại website timviec365.com. Đây là trang web đang có số lượng người sử dụng đông đảo nhất bởi tốc độ tìm kiếm nhanh chóng và kết quả cho người đọc hữu ích. Bạn sẽ truy cập vào trang web này sau đó gõ nội dung tìm kiếm “Ngành tâm lý học giáo dục” và chỉ sau vài giây bạn sẽ có cả loạt danh sách để lựa chọn những thông tin cần tra cứu. Đây là bài viết tôi chia sẻ cho các bạn về nội dung “Ngành tâm lý học giáo dục”, hy vọng rằng thông qua những thông tin này, các bạn có thể hiểu và định hướng nghề nghiệp một cách chính xác, biết thêm được một number of trường đào tạo và cách xin hiệu quả nhất. Ngoài những thông tin này, các bạn có thể tham khảo nhiều thông tin về các lĩnh vực khác nhau trong lĩnh vực nghề nghiệp tại timviec365.com . Chúc các bạn sớm tìm thấy phù hợp vị trí đối với lý do chuyên ngành mà bạn đang theo học.
Tâm lý học
Tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu về tâm trí và hành vi, tìm hiểu về các hiện tượng ý thức và vô thức, cũng như cảm xúc và tư duy. Đây là một bộ môn học thuật với quy mô nghiên cứu rất sâu rộng. Các nhà tâm lý học tìm hiểu về những tính chất rõ nét của não bộ và những hiện tượng đa dạng liên kết với những tính chất trên. Ở phương diện y sinh này, tâm lý học gắn bó chặt chẽ và là một phần của khoa học thần kinh. Từ phương diện khoa học xã hội, tâm lý học tìm hiểu về các cá nhân và cộng đồng bằng cách thiết lập những nguyên tắc chung và nghiên cứu những trường hợp đặc trưng. Trong lĩnh vực này, người có chuyên môn ứng dụng hoặc nghiên cứu lý thuyết được gọi là nhà tâm lý học, hoặc có thể được phân loại thành nhà nghiên cứu xã hội, nhà nghiên cứu hành vi hay nhà nghiên cứu nhận thức. Nhiệm vụ của nhà tâm lý học là tìm hiểu vai trò của chức năng tâm thần (mental functions) trong hành vi cá nhân hay hành vi xã hội, cùng với việc khám phá những quy trình sinh học thần kinh và sinh lý, là cơ sở của chức năng nhận thức và hành vi.
Lời tiên tri là một thông điệp được một vị tiên tri tuyên bố là đã được một vị thần truyền đạt cho họ. Những thông điệp như vậy thường liên quan đến cảm hứng, giải thích hoặc mặc khải về ý chí thiêng liêng liên quan đến thế giới xã hội của nhà tiên tri và các sự kiện sắp tới (so sánh kiến thức thiêng liêng). Lời tiên tri thường được tung ra nhằm mục đích chính trị. Trong một số trường hợp, người ta cũng gọi những dự đoán trước một thời gian dài với độ chính xác cao là những lời tiên tri. Cuộc cách mạng năm 1831. Như lời tiên tri của nhà chiêm tinh học, Tướng Ikey Wether-Bridge. Maimonides cho rằng “lời tiên tri là, trong sự thật và thực tế, một sự phát ra từ Thiên Chúa thông qua phương tiện của Trí tuệ Chủ động, trong trường hợp đầu tiên đưa đến lý trí của con người, và trường hợp sau đưa đến trí tưởng tượng của anh ta”. Quan điểm của Maimonides liên quan chặt chẽ đến định nghĩa của Al-Fârâbî, người đã phát triển lý thuyết tiên tri trong đạo Hồi. Phần lớn hoạt động của các nhà tiên tri trong Cựu Ước liên quan đến các cảnh báo có điều kiện hơn là tương lai bất biến. Một bản tóm tắt về một công thức tiên tri trong Cựu Ước tiêu chuẩn có thể chạy: Hãy ăn năn tội lỗi X và sống tốt, nếu không thì hậu quả Y sẽ xảy ra. Saint Paul nhấn mạnh đến sự phù hợp, khuyên nhủ và thoải mái trong một định nghĩa về tiên tri. Từ điển bách khoa Công giáo định nghĩa một quan niệm của Kitô giáo về tiên tri là “hiểu theo nghĩa chặt chẽ của nó, nó có nghĩa là sự biết trước về các sự kiện trong tương lai, mặc dù đôi khi nó có thể áp dụng cho các sự kiện trong quá khứ không có ký ức và trình bày những điều ẩn giấu không thể biết được bằng sức mạnh tự nhiên của lý trí “. Theo nhà bí truyền phương Tây Rosemary Guiley, khả năng thấu thị đã được sử dụng như một sự bổ sung cho “bói toán, tiên tri và ma thuật”. Từ quan điểm hoài nghi, một câu châm ngôn Latin tồn tại: “lời tiên tri được viết sau thực tế” (vaticinium ex eventu). Torah Do Thái đã đề cập đến chủ đề của tiên tri giả (Deuteronomy 13: 2-6, 18: 20-22). Vào năm 1863, Bahá’u’lláh, người sáng lập Tín ngưỡng Bahá’í, đã tuyên bố là nhân vật lộn xộn được hứa hẹn của tất cả các tôn giáo trước đây và là Biểu hiện của Thiên Chúa, một loại tiên tri trong các tác phẩm của Bahá’í phục vụ như là trung gian giữa thần thánh và nhân loại và người nói với giọng nói của một vị thần. Bahá’u’lláh tuyên bố rằng, trong khi bị giam cầm tại Siyah-Chal ở Iran, ông đã trải qua một loạt các kinh nghiệm thần bí bao gồm có một tầm nhìn về Tiên nữ Thiên đàng, người đã nói với ông về sứ mệnh thiêng liêng của chính ông, và lời hứa về sự trợ giúp thiêng liêng; Trong niềm tin của Bahá’í, Tiên nữ Thiên đàng là một đại diện của sự thiêng liêng. Haedong Kosung-jon (Tiểu sử của các cao tăng) ghi lại rằng vua Beopheung của Silla đã muốn tuyên bố Phật giáo là quốc giáo. Tuy nhiên, các quan chức trong triều đình của vua đã phản đối ông. Vào năm thứ mười bốn dưới triều đại của ông, “Thư ký lớn” của Beopheung, Ichadon, đã nghĩ ra một chiến lược để vượt qua sự phản đối của tòa án. Ichadon đã âm mưu với nhà vua, thuyết phục ông đưa ra một tuyên bố cho Phật giáo được chính thức trên toàn quốc bằng cách sử dụng con dấu hoàng gia. Ichadon nói với nhà vua phủ nhận đã tuyên bố như vậy khi các quan chức đối lập nhận được nó và yêu cầu một lời giải thích. Thay vào đó, Ichadon sẽ thú nhận và chấp nhận hình phạt xử tử, và sẽ nhanh chóng được nhận ra là một sự giả mạo. Ichadon đã tiên tri với nhà vua rằng trong cuộc hành quyết của mình, một phép lạ tuyệt vời sẽ thuyết phục được phe phái đối lập với quyền lực của Phật giáo. Kế hoạch của Ichadon đã đi theo đúng kế hoạch, và các quan chức chống đối đã cắn câu. Khi Ichadon bị xử tử vào ngày 15 của tháng 9 năm 527, lời tiên tri của ông đã được thực hiện; Trái đất rung chuyển, mặt trời tối sầm, những bông hoa xinh đẹp từ trên trời rơi xuống, cái đầu bị cắt đứt của ông bay đến ngọn núi Geumgang linh thiêng và sữa thay vì máu phun ra 100 feet từ xác chết bị chặt đầu của ông. Điềm báo đã được các quan chức tòa án đối lập chấp nhận như là một biểu hiện của sự chấp thuận của thiên đàng và Phật giáo đã trở thành quốc giáo của nước này vào năm 527. Trong tiếng Trung Quốc cổ đại, các văn bản tiên tri được gọi là sấm (谶). Lời tiên tri nổi tiếng nhất của Trung Quốc là Thôi bối đồ (推背圖). Một vài nhân vật có những văn bản hay lời tiên tri nổi tiếng ở Việt Nam: Nguyễn Bỉnh Khiêm. THÙY LINH – XUÂN QUANG. “Tướng Thước nói về lời tiên tri của Đại tướng Võ Nguyên Giáp”.
Lời tiên tri
Lời tiên tri là một thông điệp được một vị tiên tri tuyên bố là đã được một vị thần truyền đạt cho họ. Những thông điệp như vậy thường liên quan đến cảm hứng, giải thích hoặc mặc khải về ý chí thiêng liêng liên quan đến thế giới xã hội của nhà tiên tri và các sự kiện sắp tới (so sánh kiến thức thiêng liêng). Lời tiên tri thường được tung ra nhằm mục đích chính trị. Trong một số trường hợp, người ta cũng gọi những dự đoán trước một thời gian dài với độ chính xác cao là những lời tiên tri. Maimonides cho rằng "lời tiên tri là, trong sự thật và thực tế, một sự phát ra từ Thiên Chúa thông qua phương tiện của Trí tuệ Chủ động, trong trường hợp đầu tiên đưa đến lý trí của con người, và trường hợp sau đưa đến trí tưởng tượng của anh ta". Quan điểm của Maimonides liên quan chặt chẽ đến định nghĩa của Al-Fârâbî, người đã phát triển lý thuyết tiên tri trong đạo Hồi. Phần lớn hoạt động của các nhà tiên tri trong Cựu Ước liên quan đến các cảnh báo có điều kiện hơn là tương lai bất biến.
Quản lý môi trường đối với cuộc sống của chúng ta khá quan trọng vì môi trường rất quan trọng với con người. Xuất hiện với vai trò quan trọng như vậy thì quản lý môi trường là gì? Và cánh cửa việc làm với sinh viên ngành này là như thế nào? Trong bài viết này hứa hẹn sẽ đem lại nhiều thông tin bổ ích cho bạn đọc.Bạn đang xem: Quản lý môi trường là gì. Quản lý môi trường còn được biết đến với tên quốc tế chính là “Environmental Management”. Ngành quản lý môi trường còn được hiểu chính là ngành tổng hợp tất cả những biện pháp, hệ thống pháp luật, các chính sách về kinh tế, kỹ thuật và chính sách xã hội để bảo vệ chất lượng môi trường và giúp cho nền kinh tế phát triển bền vững nhất, đem lại lợi ích cho đất nước. - Một là, chủ động khắc phục và phòng chống sự suy thoái của môi trường, ô nhiễm môi trường xảy ra trong đời sống của con người. - Xây dựng công cụ quản lý môi trường hiệu quả, bộ công cụ này phải đảm bảo phù hợp với các ngành, các địa phương khác nhau trên cả nước. Quản lý môi trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của con người hiện nay, đặc biệt khi khí hậu và môi trường đang dần bị ô nhiễm nặng nề thì càng thấy rõ vai trò và trọng trách to lớn của quản lý môi trường. Môi trường là một vấn đề nóng được toàn cầu quan tâm, chính vì thế mà môi trường hiện nay cần thiết phải thực hiện theo những nguyên tắc nhất định chứ không thể nào làm một cách bừa bãi được. Hoạt động quản lý môi trường cần phải thực hiện theo những nguyên tắc sau đây:. Nguyên tắc 1: Định hướng công tác quản lý môi trường đến mục tiêu phát triển kinh tế xã hội bền vững của đất nước. Giữa phát triển xã hội và môi trường cần được đảm bảo thực hiện song song. Nguyên tắc 2: Quản lý môi trường là việc chung của toàn thể đất nước và người dân chứ không phải của riêng cá nhân cán bộ quản lý môi trường chính vì thế mà cần phải kết hợp giữa các mục tiêu quốc tế, quốc gia và các vùng lãnh thổ trong công tác quản lý. Nguyên tắc 3: Công tác quản lý môi trường hiện nay cần thiết phải thực hiện dựa trên nhiều biện pháp khác nhau chứ không sử dụng một biện pháp duy nhất. Nguyên tắc 4: Trong quản lý môi trường, phòng chống, ngăn ngừa suy thoái môi trường cần được ưu tiên thực hiện hơn là việc xử lý, phục hồi môi trường. Nguyên tắc này chính là đề cao sự “phòng bệnh” hơn là “chữa bệnh” vì môi trường không dễ giải quyết, chính vì thế mà cần phải ngăn ngừa nhiều hơn. Nguyên tắc 5: “Ai làm người đó chịu” nghĩa là sao, tức là ai gây ra ô nhiễm môi trường thì cần phải bồi thường cho tổn thất về môi trường, và phải chi trả cho những chi phí về xử lý môi trường, còn nếu ai sử dụng các thành phần môi trường thì cần thiết phải trả tiền cho việc sử dụng mà gây ra ô nhiễm môi trường. Công cụ dùng trong quản lý môi trường chính là các biện pháp, các văn bản pháp luật của Nhà nước dùng trong quản lý môi trường, tuy nhiên mỗi một công cụ quản lý thì đều có chức năng và giới hạn nhất định của nó, chính vì thế mà nó không thể bao quát được mà cần đến nhiều bộ công cụ khác nhau. Công cụ quản lý môi trường là những công cụ quản lý hành động, vĩ mô và công cụ hỗ trợ, đó là sự phân loại theo chức năng. Khi chia công cụ theo bản chất thì sẽ bao gồm những loại sau:. - Công cụ văn bản luật pháp, bao gồm tất cả các văn bản luật, dưới luật, các thông tư nghị định mà Quốc hội ban hành. - Công cụ kinh tế chính là các loại thuế và phí, là những thu nhập từ hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên công cụ kinh tế này lại chỉ có hiệu quả cao đối với nền kinh tế thị trường đầy năng động và phát triển. - Công cụ kỹ thuật, những phương pháp, công cụ kỹ thuật sẽ giúp cho quá trình kiểm tra chất lượng và các thành phần của môi trường tốt hơn, đặc biệt trong việc đánh giá sự ô nhiễm và các chất thải ra môi trường. Những công cụ quản lý môi trường là những công cụ dành riêng cho việc quản lý môi trường. Nó có tác dụng và ưu điểm nhất định thế nhưng vẫn còn những hạn chế và bất cập nhất định. - Ưu điểm: Ưu điểm lớn nhất của ngành chính là đảm bảo được sự quản lý, và ngăn ngừa môi trường, có thể xử lý những trường hợp đúng theo quy định của pháp luật. Và thêm vào đó chính là bằng những công cụ của mình có thể bao quát tất cả các ngành nghề, các vùng miền khác nhau. - Nhược điểm: Nhược điểm chính là bao quát nhưng lại không đến được những vấn đề nhỏ, những khía cạnh nhỏ của vấn đề môi trường. Còn đang quá tập trung quản lý tại các nơi phát triển và thả lỏng ở nhiều địa phương. Tuy các công cụ có luật pháp thế nhưng luật pháp lại có rất nhiều kẽ hở vì thế mà các cá nhân có thể lợi dụng điều đó để hách luật. Như vậy, tuy rằng có những công cụ thực hiện quản lý môi trường nhưng vẫn có những kẽ hở, vì thế mà công tác quản lý môi trường hiện nay vẫn chưa thật sự có hiệu quả cao. Với những thông tin trên đây, hy vọng bạn đã hiểu thế nào là quản lý môi trường và chương trình quản lý môi trường là gì? Sau khi đã có những hiểu biết nhất định về ngành thì chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem sinh viên ngành quản lý môi trường sẽ có những cơ hội như thế nào nhé!. Bạn có thấy sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế xã hội hay không? Đúng vậy, trong những năm gần đây kinh tế nước phát trát triển một cách đáng kinh ngạc, thế nhưng đi cùng với nó chính là sự suy thoái của môi trường. Các vấn đề về môi trường ngày càng nghiêm trọng hơn đó là các vấn đề như: Ô nhiễm môi trường nước, ô nhiễm môi trường không khí, ô nhiễm môi trường đất, suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách nhanh chóng,.và vô số vấn đề khác làm ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Chính vì thế môi trường và các vấn đề của môi trường đã trở thành vấn đề nóng và cần được giải quyết một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, nước ta và cả trên thế giới đang vô cùng thiếu nguồn nhân lực trong vấn đề này. Hiện nay không chỉ là vấn đề giải quyết môi trường không nữa mà còn gắn liền với sự phát triển của kinh tế và sự bền vững. Hiện nay các trường đại học đang tăng mạnh về số lượng đào tạo ngành từ 40% sẽ lên đến con số 70%, trong đó ưu tiên các lĩnh vực có môi trường. Một mặt khác, trong các doanh nghiệp cũng đang thiếu nhân viên ngành quản lý môi trường khá nhiều. Chính vì thế mà bạn không quá khó để có thể tìm được công việc ngành quản lý môi trường. Bên cạnh những nguyên nhân trên thì còn một nguyên nhân nữa chính là việc bạn đang làm quản lý môi trường thì cũng là giúp chính bản thân mình được sống trong một bầu không khí trong lành hơn, tốt hơn. Chính vì thế mà cùng với sự đảm bảo về tương lai lại được mang trên mình một sứ mệnh không hề nhỏ, bởi vì thế mà bạn nên theo học ngành quản lý môi trường.
Hệ thống quản lý môi trường
Hệ thống quản lý môi trường (tiếng Anh: Environmental Management System, viết tắt EMS) đề cập đến việc quản lý các chương trình môi trường của một tổ chức một cách toàn diện, có hệ thống,có kế hoạch và được lưu trữ. Nó bao gồm cơ cấu tổ chức, lập kế hoạch và nguồn lực cho phát triển, thực hiện và duy trì chính sách bảo vệ môi trường. Chính thức hơn, EMS là " một hệ thống và cơ sở dữ liệu kết hợp các quy trình và quy trình đào tạo nhân sự, giám sát, tổng hợp và báo cáo thông tin về hiệu suất hoạt động về môi trường cho các bên liên quan bên trong và bên ngoài của một công ty. Các tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi nhất mà một EMS dựa vào là Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) 14001. Lựa chọn thay thế bao gồm EMAS. Một hệ thống thông tin quản lý môi trường (EMIS) là một giải pháp công nghệ thông tin để theo dõi dữ liệu về môi trường cho một công ty như là một phần của hệ thống quản lý môi trường tổng thể của họ.
Trong tâm thần học, Hội chứng sợ những đồ vật gia dụng và môi trường xung quanh nhà, có tên khoa học là oikophobia (đồng nghĩa với domatophobia và ecophobia), là một ác cảm với môi trường xung quanh nhà ở. Nó cũng có thể được sử dụng rộng rãi hơn để có nghĩa là một nỗi sợ hãi bất thường (một ám ảnh) đối với ngôi nhà, hoặc tất cả mọi thứ có trong một ngôi nhà ("sợ thiết bị gia dụng, thiết bị, bồn tắm, hóa chất gia dụng và các vật dụng phổ biến khác trong nhà"). Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp oikos, có nghĩa là gia đình, nhà cửa, hoặc gia đình, và phobia, có nghĩa là "sợ hãi". Năm 1808 nhà thơ và nhà viết tiểu luận Robert Southey sử dụng từ ngữ này để mô tả một mong muốn rời khỏi nhà và đi du lịch của mình. Việc sử dụng của Southey như là một từ đồng nghĩa cho việc đi lang thang được các nhà văn thế kỷ XIX khác thu nhận. Thuật ngữ này cũng đã được sử dụng trong các ngữ cảnh chính trị để chỉ trích những ý thức hệ chính trị mang tính phê bình đến việc loại bỏ văn hóa của chính mình và tán dương những nền văn hóa khác. Việc sử dụng đầu tiên như vậy là của Roger Scruton trong một cuốn sách năm 2004. Trong tâm thần học, hội chứng sợ những đồ vật gia dụng và môi trường xung quanh nhà thường đề cập đến sự sợ hãi đối với không gian vật lý của nội thất nhà, và đặc biệt liên quan đến nỗi sợ hãi của thiết bị gia dụng, phòng tắm, thiết bị điện và các khía cạnh khác của ngôi nhà mà người mắc phải hội chứng này thường cảm thấy chúng là những mối nguy hiểm tiềm tàng. Thuật ngữ này được áp dụng đúng để chỉ nổi lo sợ các đối tượng trong nhà. Sợ hãi đối với ngôi nhà của chính mình được gọi là domatophobia. Trong thời kỳ sau Thế chiến II, một số nhà bình luận đã sử dụng thuật ngữ này để ám chỉ một "nỗi sợ hãi và ghê tởm việc nhà" đối với những phụ nữ đã từng vừa làm việc nhà vừa làm việc bên ngoài và sau đó họ bị thu hút bởi lối sống của những người thích tận hưởng. Southey sử dụng thuật ngữ này trong cuốn sách Những lá thư từ nước Anh (Letters from England) (1808), nói rằng nó là sản phẩm của "một nền văn minh hay sự giàu có nhất định", ám chỉ thói quen của những người giàu có đến thăm các thị trấn, spa và khu nghỉ mát bên bờ biển trong những tháng mùa hè. Ông cũng đề cập đến thời trang cho du lịch đẹp như tranh vẽ với phong cảnh hoang dã, chẳng hạn như vùng cao nguyên Scotland. Mối liên hệ giữa oikophobia của Namey với sự giàu có và tìm kiếm những trải nghiệm mới đã được các nhà văn khác đề cập đến, và được trích dẫn trong các từ điển. Một nhà văn vào năm 1829 đã xuất bản một bài luận về kinh nghiệm của mình khi chứng kiến hậu quả của trận Waterloo, nói rằng "tình yêu của sự vận động là tự nhiên, đối với một người Anh không có gì có thể xích anh ấy về nhà, nhưng tuyệt đối không thể sống được ở nước ngoài, hãy hành động theo tôi, tôi đã từ bỏ ám ảnh sợ về nhà và mùa hè năm 1815 là khi bạn tìm thấy tôi ở Brussels. " Năm 1959 tác giả người Anh-Ai Cập Bothaina Abd el-Hamid Mohamed đã sử dụng khái niệm của Namey trong cuốn sách Oikophobia của ông: Một cơn sốt văn học cho giáo dục thông qua du lịch.
Hội chứng sợ những đồ vật gia dụng và môi trường xung quanh nhà
Trong tâm thần học, Hội chứng sợ những đồ vật gia dụng và môi trường xung quanh nhà, có tên khoa học là oikophobia (đồng nghĩa với domatophobia và ecophobia), là một ác cảm với môi trường xung quanh nhà ở. Nó cũng có thể được sử dụng rộng rãi hơn để có nghĩa là một nỗi sợ hãi bất thường (một ám ảnh) đối với ngôi nhà, hoặc tất cả mọi thứ có trong một ngôi nhà ("sợ thiết bị gia dụng, thiết bị, bồn tắm, hóa chất gia dụng và các vật dụng phổ biến khác trong nhà"). Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp oikos, có nghĩa là gia đình, nhà cửa, hoặc gia đình, và phobia, có nghĩa là "sợ hãi". Năm 1808 nhà thơ và nhà viết tiểu luận Robert Southey sử dụng từ ngữ này để mô tả một mong muốn rời khỏi nhà và đi du lịch của mình. Việc sử dụng của Southey như là một từ đồng nghĩa cho việc đi lang thang được các nhà văn thế kỷ XIX khác thu nhận. Thuật ngữ này cũng đã được sử dụng trong các ngữ cảnh chính trị để chỉ trích những ý thức hệ chính trị mang tính phê bình đến việc loại bỏ văn hóa của chính mình và tán dương những nền văn hóa khác.
Đọc "Hoàng Tử Bé", có người rút ra được bài học về nghệ thuật sống, có người ngẫm ra các triết lý kinh doanh, lại có người suy nghĩ về sự vô thường của vạn vật. Có một cuốn truyện rất ngắn của một viên phi công mang biệt danh thân mật trong phi hành đoàn là “thiếu tá Saint-Ex” ra mắt năm 1943, và từ đó làm say mê hàng triệu độc giả trên toàn thế giới. Nhiều tác phẩm điện ảnh, phim truyền hình, hoạt hình, kịch, ballet và opera được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết mỏng này. Hoàng Tử Bé là một cuốn sách kỳ diệu, bởi chỉ một câu chuyện kể, với mỗi lứa tuổi khác nhau, tác phẩm mang đến những bài học khác nhau. Đọc Hoàng Tử Bé, có người rút ra được bài học về nghệ thuật sống, có người ngẫm ra các triết lý kinh doanh, lại có người suy nghĩ về sự vô thường của vạn vật, về bản chất của con người, những mối sa ngã và các tính xấu…. Và hôm nay, ta hãy ngồi thủ thỉ về những triết lí tình yêu trong cuốn truyện dành tặng một người lớn “ngày ông còn là một cậu bé”. Hoàng Tử Bé đem lòng yêu một đóa hồng ở quê nhà - tiểu tinh cầu B612. Nàng tự nhận nàng là độc nhất trong giống loài mình. Các cô gái hay ôm sự tự mãn dễ thương như thế, và đó đồng thời là nỗi tự ti thầm kín cùng lòng kì vọng vào sự độc tôn trong trái tim người họ yêu. Đặt chân tới Trái Đất, Hoàng Tử Bé ngỡ ngàng đứng trước một vườn hồng có tới hàng nghìn đóa hoa giống hệt bông hồng của cậu. Cậu đau khổ và cảm thấy bị lừa dối. Thế nhưng, sau cuộc trò chuyện với chú Cáo có bộ lông đỏ rực, loài vật của sự im lặng, một sự im lặng không rõ là tinh ranh hay thông thái, cậu hiểu ra rằng đóa hồng của cậu là duy nhất. Sự duy nhất của đóa hồng ấy là bởi nàng là bông hoa cậu yêu. Mỗi người đều có một bông hoa của riêng mình, một ngôi sao cho riêng mình, và chẳng có ai giống ai. Người cậu yêu là độc nhất, bởi cậu yêu người ấy, vậy thôi. Người ấy quan trọng, vì người ấy là tình yêu của cậu. Giống như cuộc chiến giữa cừu và hoa, là chuyện phù phiếm với viên phi công, nhưng là điều tối quan trọng với Hoàng Tử Bé; giống như mọi sự trên thế gian, kể cả tính mạng cậu bé (khi cậu mượn nọc độc của rắn để mong trút lại thân xác nặng nề mà trở về với bông hoa)… Tất cả, tất cả đều không quan trọng bằng sự tồn tại của một đóa hồng. Cái cách mà Hoàng Tử Bé luôn hướng về ngôi sao của cậu - nơi có đóa hồng với bốn cái gai mỏng manh - khiến ta nhớ tới một bộ phim hoạt hình sản xuất năm 2009 của hãng Walt Disney: The Princess and the Frog. Chú đom đóm Ray đem lòng yêu ngôi sao mà chú gọi là nàng Evangeline, một tình yêu ai cũng ngán ngẩm rằng vô vọng, nhưng rồi cuối cùng, bởi sự một lòng một dạ ấy, chú đom đóm cũng trở thành một ngôi sao. Hình ảnh hai vì sao lấp lánh cạnh nhau làm ta liên tưởng đến “second star to the right” dẫn lối tới Neverland - vùng đất của những đứa trẻ không lớn. Kể ra, trong tình yêu, ai cũng là những đứa trẻ, hay phạm lỗi và cần được yêu thương. Cáo lông đỏ tiết lộ với Hoàng Tử Bé: “Đây, cái bí quyết của tớ. Rất giản dị thôi: Người ta chỉ nhìn thấy thật rõ ràng bằng trái tim mình. Cái chủ yếu thì mắt chẳng thể thấy.”. Nhiều khi những quyết định mang tính trực giác, bản năng đem tới kết quả tốt hơn sự phân tích bằng lí tính. Cái “nhiều khi” ấy đúng trong tình yêu. Trực giác tồn tại để giúp con người cân bằng các quyết định, để kết nối bản năng và lí trí. Mặc những lý thuyết về việc tình yêu chỉ là bản năng từ thuở hồng hoang để con người gắn kết với nhau cùng chống kẻ thù, thú dữ, tình yêu vẫn là điều được loài người ngợi ca. Nếu không ngửi hoa và nhìn một ngôi sao thì chỉ là một cây nấm không hơn không kém, Hoàng Tử Bé đã giận dữ thốt lên như vậy. Hoàng Tử Bé nói với viên phi công rằng cồn cát đẹp vì nó ẩn chứa nguồn nước, và các vì sao đẹp bởi trên một vì sao có một bông hồng. Nếu ai đó yêu một đoá hoa mọc lẫn giữa hàng triệu và hàng triệu vì sao, thì chỉ cần ngước nhìn các vì sao cũng đủ khiến người ấy thấy hạnh phúc. “Khi một người yêu một đóa hoa, hoa ấy chỉ có một đóa thôi, trong hàng triệu hàng triệu ngôi sao, chừng ấy đủ làm cho anh sung sướng khi nhìn những ngôi sao.”. Hoàng Tử Bé, thời còn ngụ trên tiểu tinh cầu B612, mỗi ngày đều thông muội ba ngọn núi lửa và nhổ những cây bao báp nhỏ. Hình tượng những cây bao báp khiến ta liên tưởng đến những thứ na ná tình yêu ta va phải hàng ngày, để đến được nơi ta tìm thấy người ta thật lòng thương yêu. “Đều đặn phải lo việc nhỏ bọn bao báp từ lúc ta còn kịp phân biệt chúng với các cây hoa hồng, mà bao báp hồi còn thơ thì lại giống cây hoa hồng lắm.” Xuất phát điểm của những mối quan hệ thường đều tốt đẹp, nhưng khi ta “nuôi lớn” tình cảm, có những mối quan hệ là độc hại, tình yêu thì không nhiều. Những cây bao báp sẽ phá hủy cả hành tinh, còn đóa hồng thì mang lại cho ta tình yêu và trải nghiệm sống. Hạnh phúc không tồn tại nhan nhản xung quanh ta. Để tìm thấy nó, ta phải mở thật to mắt tìm kiếm, và phải thật cẩn trọng phân biệt các chồi non. Đóa hồng là duy nhất đối với Hoàng Tử Bé, bởi cậu đã dành từng ấy thời gian và tâm sức chăm sóc nàng. Cáo bảo cậu: “Chính là cái thời gian cậu đã tiêu phí vì bông hồng của cậu, cái thời gian ấy nó làm cho bông hồng đó trở nên quan trọng đến như thế.”. Nếu không phải ngày ngày cậu tưới hoa, chiều chiều úp lồng kính chắn gió, cặm cụi bắt từng con sâu, kiên nhẫn ngồi nghe than thở, tán hươu tán vượn, và đôi khi cả im lặng nữa, bởi vì nàng là đoá hồng của cậu, có lẽ bông hồng ở tiểu tinh cầu B612 sẽ chẳng khác gì những đóa hoa trống rỗng trong vườn hồng nơi Trái Đất. Hoàng Tử Bé đã dành thời gian cho hoa, hoa cũng dành thời gian cho cậu, tình yêu phải là sự vun đắp, sự “thuần hóa” đến từ hai phía. Khái niệm “thuần hóa” mà Saint-Exupery đã để Cáo định nghĩa vô cùng thấm thía: “thuần hóa” là tạo nên những mối liên hệ để hai người cần đến nhau. Người ta chỉ hiểu những gì người ta đã thuần hóa, và việc thuần hóa, giống như Hoàng Tử Bé đã thuần hóa Cáo, là việc phải dành nhiều thời gian và công sức, làm hàng ngày, kiên nhẫn và dịu dàng, từng chút một. Kiêu kì, đỏm dáng, có phần nông cạn - bông hồng của Hoàng Tử Bé gợi nhớ tới nàng Holly trong tác phẩm Breakfast at Tiffanys, câu chuyện nổi tiếng được Hollywood chuyển thể thành bộ phim nổi tiếng không kém công chiếu năm 1961. Bông hoa ấy yếu đuối như một cách nói yêu, những mánh khóe và sự tinh khôn đáng thương của nàng chính là sự dịu dàng. Bông hồng đỏng đảnh, giống như con gái kiêu kỳ, thường hay nhõng nhẽo, khó chiều. Nhưng thật ra, các cô gái chỉ giận dỗi những người mà họ tin rằng dù thế nào cũng sẽ không quay lưng bỏ đi. Bông hồng đã trao cho Hoàng Tử Bé tình yêu, vẻ đẹp và hương thơm của nàng, để đẹp và để ngát hương như vậy, chắc chắn nàng cần phải được bảo vệ khỏi lũ sâu, khỏi gió lùa và khỏi cảm giác sợ hãi khi không được chở che. Bối rối và mệt mỏi - như tất cả chúng ta vẫn thường vậy trong tình yêu - Hoàng Tử Bé chọn cách rời xa đóa hồng để khám phá thế giới và chính mình. Sau này, cậu thú nhận với viên phi công rằng cậu đã “chạy trốn” và hối tiếc về hành động của mình. Nhưng có lẽ, việc Hoàng Tử Bé rời B612 là việc nên làm, phải làm, và thực sự cậu đã làm vậy. Nếu không ra đi, cậu sẽ mãi băn khoăn, chán ngán, và chẳng bao giờ nhận ra tình cảm và bản chất sự độc nhất của đóa hoa hồng. Và ta đã đánh mất nàng). Trong chuyến phiêu lưu của Hoàng Tử Bé, cậu đã gặp một nhà địa lý ở tinh cầu thứ sáu cậu đặt chân đến. "- Chúng tôi không ghi chép những loài hoa" - Nhà địa lý nói. Hoa là thứ đẹp nhất kia mà". "- Bởi vì hoa vốn phù du". Bởi vì vẻ đẹp chóng tàn, và tình yêu không được nuôi dưỡng sẽ tan đi như bọt bể. Một khi đã khiến đối phương tổn thương, giống như cậu đóng những chiếc đinh lên hàng rào, rút đinh ra thì những lỗ đinh vẫn còn mãi đó. Tổn thương có thể lành, nhưng sẹo không xóa đi được. Hoàng Tử Bé rời tiểu tinh cầu B612 rất dễ, chỉ cần theo một đàn chim di cư, nhưng để trở về, cậu phải chấp nhận rủi ro bằng nọc rắn, và người đọc chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng thứ chất độc rủi ro đó đã thực sự đưa cậu về với đóa hoa hồng. Việc Hoàng Tử Bé bỏ đi, nếu tạm coi như sự tan vỡ trong mối quan hệ của cậu với bông hoa, ta có thể thấy, từ mối tan vỡ này, cả Hoàng Tử Bé và bông hồng đều trở nên mạnh mẽ và sáng suốt hơn. Đến Trái Đất, lần đầu tiên nghe thấy tiếng vọng, Hoàng Tử Bé nhận xét rằng nơi đây thật nhạt nhẽo, thật khác với ngày cậu còn ở cùng một bông hoa luôn cất tiếng trước. Cậu dần nhận ra tầm quan trọng của những điều giá trị mà vì đã có trong tay, cậu không mấy để tâm. Cậu bắt đầu biết nghĩ về sự hy sinh của người khác, biết thương một cô nàng không sợ hổ, nhưng sợ gió lùa, một bông hoa chỉ có bốn cái gai để chống chọi với cuộc đời dữ dội, nhưng can đảm đẹp nhất để làm cậu ưng lòng. Bông hồng, vốn là hiện thân của sự nông cạn, đỏng đảnh, kiêu kỳ, cũng lớn lên từ mối quan hệ đổ vỡ này. Nàng không cần lồng kính nữa, nàng chấp nhận sự ra đi của cậu bằng vẻ bình tĩnh dịu dàng, không hề trách móc, bằng sự kiêu hãnh, và hơn hết, nàng yêu cậu, nên nàng không muốn người mình yêu thấy nàng rơi nước mắt. Và bông hoa cũng dạy chúng ta cách vượt qua sự sợ hãi, tổn thương và khó khăn, bởi: “Em muốn biết bươm bướm là thế nào, em phải chịu đựng vài ba con sâu". Nhân dịp này, chương trình giao lưu với họa sĩ Nguyễn Thành Vũ “Trò chuyện cùng Hoàng tử bé” được NXB Kim Đồng tổ chức, vào lúc 19:30, ngày 21/4/2018 tại Sân khấu 1 Hội sách Mừng Ngày Sách Việt Nam, Công viên Thống Nhất, đường Trần Nhân Tông, Hà Nội.
Hoàng tử bé
Hoàng tử bé (tên tiếng Pháp: Le Petit Prince), được xuất bản năm 1943, là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn và phi công Pháp Antoine de Saint-Exupéry. Ông đã thuê ngôi biệt thự The Bevin House ở Asharoken, Long Island, New York trong khi viết tác phẩm này. Cuốn tiểu thuyết cũng bao gồm nhiều bức tranh do chính Saint-Exupéry vẽ. Tác phẩm đã được dịch sang hơn 250 ngôn ngữ (bao gồm cả tiếng địa phương) và cho đến nay đã bán được hơn 200 triệu bản khắp thế giới, trở thành một trong những sách bán chạy nhất của mọi thời đại, được phát triển thành một sê ri truyện tranh 39 chương bởi Élyum Studio, và một phiên bản graphic novel bìa cứng chuyển thể bởi danh họa tài năng Joann Sfar. Truyện còn được dùng như tài liệu cho những người muốn làm quen với ngoại ngữ. Hoàng tử bé sống trên tiểu tinh cầu B612. Ở đó có ba ngọn núi lửa (hai ngọn đang hoạt động còn ngọn kia thì không) và một bông hoa hồng. Cậu chăm sóc cho tiểu hành tinh của mình hằng ngày, nhổ hết các cây bao báp định bám rễ, mọc lên tại đây.
Tôi đã nghe tuyên bố tương tự này của các nhà hoạt động môi trường ở Thái Lan nhiều lần, trong cả các diễn đàn công cộng và trong các cuộc họp riêng. Tuyên bố này đặc biệt nổi bật trong ba cuộc đấu tranh bảo vệ môi trường gần đây nhất của Thái Lan, đó là các cuộc biểu tình chống đập Mae Wong, các cuộc vận động chống săn trộm vốn bắt nguồn từ một vụ bê bối liên quan đến việc giết một con báo đen hoang dã của một doanh nhân Thái Lan, và một cuộc vận động chống lại một dự án nhà ở tư pháp được xây dựng trên ranh giới rừng quốc gia Doi Suthep. Tại sao các cuộc đấu tranh về môi trường của Thái Lan lại đề cập đến chính trị một cách rầm rộ như vậy? Tác động của chủ nghĩa môi trường phi chính trị hóa này là gì? Các tuyên bố về môi trường có thể thay đổi như thế nào trong bối cảnh ngày càng gây tranh cãi ở Thái Lan? Tôi khám phá những câu hỏi này trong bài viết nhằm xem xét tác động của quá trình phi chính trị hóa này và xem xét các con đường có thể hướng tới một phong trào môi trường chính trị mạnh mẽ hơn có thể gắn kết các mục tiêu dân chủ của Thái Lan với các phong trào môi trường. Phi chính trị hóa trở nên phổ biến dưới thời Hội đồng Quốc gia vì Hòa bình và Trật tự (NCPO), cơ quan quân sự cai trị Thái Lan sau cuộc đảo chính tháng 5 năm 2014 cho đến tháng 7 năm 2019. Dưới thời quân đội, các nhà hoạt động đã tiến hành đấu tranh chính trị dưới mọi hình thức với những nguy hiểm có thể đến với bản thân và cộng đồng của họ. Trong bối cảnh đàn áp đó, có thể hiểu được rằng các phong trào đã cố gắng tách biệt các yêu sách vật chất của họ khỏi các tuyên bố chính trị rộng lớn hơn để giữ an toàn. Tuy nhiên, những tuyên bố đó của các nhà môi trường vẫn nằm dưới chính phủ thay thế của NCPO, một chính phủ vẫn giữ quyền kiểm soát sau một cuộc bầu cử không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi. Việc giữ trong khuôn khổ một cách kiên trì này làm phát lộ nhiều hơn, không chỉ là một chính trị có tính chiến lược, đó là làm nổi bật niềm tin làm cơ sở, nếu không phải là hệ tư tưởng, định hình nền chính trị rộng lớn hơn của các nhà môi trường và do đó cả cách họ thiết kế ra các phong trào của mình. Hầu hết các phong trào môi trường ở Thái Lan không chủ yếu là về bảo vệ môi trường. Thay vào đó, họ liên kết với các vấn đề về quyền sinh kế và tiếp cận vấn đề tài nguyên thiên nhiên trong các mối quan tâm về bảo vệ môi trường. Điều này là do các phong trào hướng đến việc bảo vệ môi trường và hoặc bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên này sẽ giành được sự quan tâm và ủng hộ của công chúng nhiều hơn các phong trào giải quyết các vấn đề về sinh kế và tài nguyên. Một ví dụ điển hình về điều này là phong trào chống lại việc xây đập Mae Wong ở tỉnh Nakhon Sawan. Vào năm 2013, phong trào đó đã làm sống lại nền chính trị môi trường của Thái Lan, vốn trước đó đã bị các cuộc xung đột chính trị lớn hơn thay thế vào giữa những năm 2000. Nhưng không giống như các phong trào chống đập trước đây, vốn nhấn mạnh đến những ảnh hưởng tiềm tàng lên sinh kế của cộng đồng địa phương (và không thu hút được sự ủng hộ lớn của tầng lớp trung lưu), phong trào chống đập Mae Wong này tập trung vào các tuyên bố về việc bảo vệ rừng nguyên sinh, nơi sinh sống của quần thể hổ hoang dã cuối cùng ở Thái Lan. Phong trào này nhận được sự chú ý rộng rãi của các tầng lớp trung lưu thành thị và đối với một số người, nó đã trở thành một biểu tượng của cuộc đấu tranh vì môi trường của thập kỷ trước. Tương tự, vào đầu năm 2018, hai trường hợp môi trường phi chính trị hóa khác đã gây xôn xao dư luận. Trường hợp đầu tiên là để phản ứng trước việc một ông trùm kinh doanh Thái Lan săn trộm động vật hoang dã ở Khu bảo tồn động vật hoang dã Thungyai Naresuan. Đứng trước những bức ảnh kỳ cục về những kẻ săn trộm và nơi ẩn náu của một con báo đen quý hiếm mà họ đã giết thịt, phong trào này đòi hỏi sự trách nhiệm. Nhiều người cảm thấy tay thợ săn quyền lực đó có khả năng tránh được việc bị truy tố. Do đó, các cuộc biểu tình này làm dấy lên lo ngại về sự tham nhũng trong quá trình tư pháp và trong việc bảo tồn động vật hoang dã. Những người biểu tình bày tỏ lo ngại tương tự về dự án nhà tòa án là nó sẽ xâm phạm vào khu rừng bảo tồn Doi Suthep ở tỉnh Chiang Mai. Cả hai vụ việc đều gây ra sự phản đối trong công chúng và các phong trào này đều đặt ra yêu cầu bảo vệ rừng một cách nghiêm ngặt, đồng thời cũng nêu rõ việc tham nhũng và lạm dụng quyền lực có liên quan đến việc hủy hoại môi trường như thế nào. Mặc dù hai trường hợp này nhấn mạnh đến sự bất công, nhưng chúng tập trung vào bảo vệ rừng hơn là các vấn đề hệ thống rộng lớn hơn. Chúng, và các các phong trào môi trường “xanh” khác giống như thế, không thách thức các cấu trúc chính trị và xã hội vốn xác định các quyền tiếp cận, phân phối, bảo vệ hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên. Các phong trào môi trường này đặt việc bảo vệ môi trường lên trên sự vận động vì quyền tiếp cận bình đẳng đối với tài nguyên thiên nhiên, vì sự bảo vệ bình đẳng trước tác động của suy thoái môi trường và quyền tham gia vào quá trình hoạch định các chính sách liên quan đến tài nguyên thiên nhiên. Ở đây, các phong trào này phản ánh một cuộc ly tán đặc hữu giữa các phong trào môi trường ở Thái Lan. Ví dụ, trong ba thập kỷ qua, lâm nghiệp cộng đồng trở thành vấn đề tranh cãi giữa các nhóm cho rằng việc bảo vệ rừng cần phải loại trừ các hoạt động của con người và các nhóm vận động vì quyền của cộng đồng trong việc quản lý và chăm sóc rừng (ví dụ, xem Forsyth & Walker 2008). Hơn nữa, các phong trào môi trường này đã mở rộng các tuyên bố đạo đức rộng lớn hơn và những nguyện vọng chống tham nhũng vốn đã thống trị các cuộc xung đột chính trị Thái Lan trong hơn một thập kỷ. Trong khuôn khổ luân lý, các vấn đề xã hội dường như là kết quả của những sai lầm về đạo đức cá nhân chứ không phải là các quyết định chính trị, hoạch định chính sách hay các mối quan hệ quyền lực không đồng đều. Chính trị đạo đức của chủ nghĩa môi trường thuộc tầng lớp trung lưu hướng sự quan tâm của công chúng ra khỏi những câu hỏi rộng hơn về công bằng môi trường. Ví dụ, các phong trào chống lại các dự án khai thác mỏ, các dự án này có xu hướng sử dụng các hoạch định về công lý môi trường, được cổ vũ ở địa phương, giữa các cộng đồng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi suy thoái môi trường, lại nhưng không thu hút được sự chú ý rộng rãi của công chúng. Theo nghĩa này, việc phi chính trị hóa các vấn đề môi trường và các phong trào môi trường của Thái Lan có những hậu quả chính trị rộng lớn hơn nhiều. Việc phi chính trị hóa các vấn đề môi trường có thể được giải thích bằng cách xem xét lại hệ tư tưởng và thực hành của các phong trào môi trường Thái Lan. Chủ nghĩa môi trường và các hoạch định về môi trường đã được cả phong trào môi trường xanh và các phong trào liên quan đến công lý môi trường áp dụng trong suốt quá trình dân chủ hóa ở Thái Lan. Điều này một phần là do chủ nghĩa môi trường đã thu hút được nhiều sự ủng hộ hơn từ tầng lớp trung lưu. Các nhóm khác, đặc biệt là các phong trào ở cấp cơ sở, trình bày các vấn đề môi trường, nhưng trên thực tế, chúng đã sử dụng cái mà Guha và Martinez-Alier gọi là ‘chủ nghĩa môi trường của người nghèo’ (Guha và Martinez Alier 1997, 12) để khẳng định quyền của họ đối với tự nhiên tài nguyên bằng cách tuyên bố rằng họ là những người bảo vệ thực sự của môi trường. Các phong trào môi trường trong thời kỳ dân chủ hóa đã tạo nên liên minh giữa các giai cấp nhằm che lấp những khác biệt này (Hirsch 1997, 192). Tuy nhiên, trong bối cảnh này, các tuyên bố chính trị được các phong trào môi trường ủng hộ người nghèo đưa ra ít được các nhà hoạt động ưu tiên hơn vì sợ mất sự ủng hộ của tầng lớp trung lưu. Các phong trào môi trường của người nghèo cũng bị ảnh hưởng bởi các diễn thuyết địa phương và các phương pháp tiếp cận văn hóa cộng đồng vốn là trọng tâm của các tổ chức xã hội dân sự Thái Lan và các phong trào cơ sở kể từ khi bối cảnh chính trị của đất nước bắt đầu mở cửa vào những năm 1980. Các phương pháp tiếp cận văn hóa cộng đồng và địa phương được hầu hết các tổ chức phi chính phủ áp dụng nhằm lý tưởng hóa sinh kế nông thôn và trí tuệ địa phương. Chúng cũng bao hàm sự phẫn uất đối với cuộc sống tư bản hiện đại và nền chính trị đại diện. Trong các khuôn khổ này, dân chủ bầu cử bị coi là một ý tưởng phương Tây thiếu nền tảng đạo đức và trở thành một không gian nơi các chính trị gia vô đạo đức thao túng người nghèo để trục lợi. Diễn ngôn về chính trị bẩn thỉu thể hiện nền dân chủ như là thứ không phù hợp với các cộng đồng Phật giáo Thái Lan, chúng lập luận rằng thay vào đó Thái Lan nên được quản lý bởi các nhà lãnh đạo vượt trội về mặt đạo đức. Diễn ngôn đạo đức này liên kết một bộ phận xã hội dân sự với giới tinh hoa cầm quyền bảo thủ, những người có cùng một nền chính trị đạo đức (Thorn 2016, 530). Cả hai nhóm đều nhấn mạnh sự “đúng đắn” của “những người tốt”, những người được coi là xứng đáng giữ vị trí cai trị do lòng tốt của họ hơn là những chính trị gia được bầu chọn, những người được lựa chọn bởi đa số những người mà các nhóm này cho là không có khả năng chọn một người tốt về mặt đạo đức. Xung đột chính trị và các phương thức phản kháng, đặc biệt là những cuộc biểu tình nhân danh dân chủ, sau đó bị coi là một phương tiện hỗn loạn và bạo lực để đấu tranh cho những lợi ích chính trị hẹp hòi. Chính trong bối cảnh thể chế và diễn ngôn này mà các phong trào môi trường đương đại phải gắn các cam kết của họ với chính trị. Trong các cuộc biểu tình lật đổ chính phủ của Thaksin Shinawatra vào giữa những năm 2000 và các cuộc biểu tình sau đó nhằm lật đổ chính phủ đồng minh của ông từ cuối năm 2013 đến đầu năm 2014, nhiều tổ chức xã hội dân sự và các nhà hoạt động, bao gồm cả những người hoạt động của phong trào môi trường, đã cùng tham gia kêu gọi sự chấm dứt của quân đội đối với nền dân chủ đại diện. Họ tin rằng quân đội có tư cách đạo đức cao hơn các chính trị gia. Trong cả cuộc đảo chính ngày 19 tháng 9 năm 2006 và ngày 22 tháng 5 năm 2014, nhiều nhà hoạt động môi trường đã không lên tiếng phản đối cuộc đảo chính. Thực sự, một số nhân vật chủ chốt của xã hội dân sự đã tham gia quá trình “cải cách chính trị” của quân đội, coi đây là cơ hội để thoát khỏi chính trị vô đạo đức. Trong bối cảnh đó, bảo vệ môi trường được coi là hành động đạo đức chính đáng mà chính quyền quân sự có thể thúc đẩy. Một nhà hoạt động môi trường hàng đầu thậm chí còn bày tỏ hy vọng rằng NCPO “có thể tận dụng cơ hội để thiết lập nhanh chóng một nền tảng tốt trong thời kỳ đang không có sự phản đối nào” để giải quyết vấn đề suy thoái môi trường và nạn phá rừng hoặc ban hành luật thân thiện với môi trường, đồng thời công nhận rằng thể chế này tập trung nhiều hơn vào vấn đề phát triển chứ không phải môi trường. Ẩn ý ở đây rất rõ ràng: chính trị đạo đức của việc bảo vệ môi trường đã trở nên hoàn toàn tương thích với sự cai trị độc tài, quân sự. Việc các nhà bảo vệ môi trường chấp nhận chính phủ quân sự này có lẽ là điều mỉa mai. Sau cuộc đảo chính tháng 5 năm 2014, chính phủ quân sự do Hội đồng Hòa bình và Trật tự Quốc gia (NCPO) lãnh đạo đã đưa ra nhận thức rõ ràng về mối quan hệ giữa các vấn đề môi trường và cấu trúc chính trị phi dân chủ. NCPO đã ban hành một số lệnh dưới sự bảo trợ của Điều 44, Hiến pháp tạm thời năm 2016, cho phép chính phủ thực hiện các dự án phát triển với sự tham gia hạn chế của công chúng. Nhiều dự án này gây ra các tác động môi trường nặng nề đến cả sinh kế của người dân và tài nguyên thiên nhiên. Ví dụ bao gồm tuyên bố rằng các Khu kinh tế đặc biệt (SEZ) và các cơ sở liên quan đến sản xuất năng lượng và quản lý chất thải được miễn tuân theo luật quy hoạch thành phố và luật kiểm soát tòa nhà (Cơ quan Lệnh NCPO số 3/2559 và số 4/2559). Một sự miễn trừ khác giúp chính phủ có thể thu hồi đất và rừng công cộng để sử dụng làm SEZ mà không cho phép những người đang sinh sống hoặc đang sử dụng đất đó hoặc các cơ quan chính phủ có liên quan sở hữu đất đưa ra phản đối (Cơ quan Lệnh NCPO số 17/2558 ). Cơ quan Lệnh số 9/2559 của NCPO cho phép nhà nước tìm kiếm các nhà đầu tư trong các dự án liên quan đến giao thông, thủy lợi, phòng ngừa nguy hiểm công cộng, bệnh viện hoặc các dự án khu dân cư được coi là “cấp bách nhất” ngay cả trước khi các nghiên cứu Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) được hoàn thành. Các lệnh này vẫn còn nguyên vẹn dưới thời chính phủ hiện tại. Quy tắc đàn áp của NCPO và chính phủ tiếp theo của nó cũng dẫn đến việc gia tăng các vu bắt giữ, sách nhiễu, và đe dọa các nhà hoạt động môi trường, trong số các nhà hoạt động chính trị khác. Nhiều thành viên của xã hội dân sự Thái Lan đã tích cực vận động cho quyền sinh kế hoặc vì thay đổi chính sách để giải quyết các vấn đề xã hội khác trước khi những xung đột chính trị đang nổ ra bị sự đàn áp của quân đồi làm cho câm lặng. Trong khi một số người đặt câu hỏi về các chính sách cụ thể, thì họ thường không yêu cầu dân chủ, thay vào đó là khẳng định quan điểm phi chính trị của họ. Ngay cả khi một mạng lưới các phong trào nhân dân hoạt động cho các vấn đề liên quan đến môi trường chỉ trích các lệnh đầy vấn đề của NPCO, thì mạng lưới này đã công nhận thẩm quyền của Hiến pháp lâm thời mà không nghi ngờ tính bất hợp pháp của nó, chứ chưa nói đến nguồn gốc phi dân chủ của nó. Tôi không tuyên bố rằng tất cả các phong trào môi trường ở Thái Lan đều bị phi chính trị hóa. Trên thực tế, một số phong trào có nguyên nhân liên quan đến công bằng môi trường (ví dụ các cộng đồng bị ảnh hưởng bởi việc khai thác mỏ hoặc xây dựng đồn điền mía và các nhà máy điện sinh khối) đã không coi các tuyên bố bảo vệ môi trường là cơ sở duy nhất của chúng, mà thay vào đó tuyên bố sự phản đối đối với các dự án như là sự phản đối đối với chế độ quân sự, đòi hỏi dân chủ cùng với những tuyên bố cụ thể chống lại những dự án này.
Phong trào môi trường
Phong trào môi trường (đôi khi được gọi là phong trào sinh thái), bao gồm cả bảo tồn môi trường và chính trị xanh, là một phong trào khoa học, xã hội và chính trị đa dạng để giải quyết các vấn đề môi trường. Các nhà môi trường ủng hộ việc quản lý bền vững các nguồn tài nguyên và quản lý môi trường thông qua những thay đổi trong chính sách công và hành vi cá nhân. Trong quá trình công nhận nhân loại là người tham gia (không phải kẻ thù của) hệ sinh thái, phong trào tập trung vào sinh thái, sức khỏe và nhân quyền. Phong trào môi trường là một phong trào quốc tế, được đại diện bởi một loạt các tổ chức, từ lớn đến cơ sở và thay đổi từ quốc gia này sang quốc gia khác. Do thành viên lớn, niềm tin khác nhau và mạnh mẽ, và đôi khi có tính chất đầu cơ, phong trào môi trường không phải lúc nào cũng thống nhất trong các mục tiêu của nó. Phong trào cũng bao gồm một số phong trào khác với trọng tâm cụ thể hơn, chẳng hạn như phong trào khí hậu.
quý khách mong muốn biết vũ trụ là gì? Ngân hà là gì? Và dải ngân hà được phân các loại như thế nào? thì hãy thuộc theo dõi và quan sát nội dung bài viết sau đây của anhhung.mobi nhé!. Dải ngân hà là một dải ngân hà (galaxy) nhưng gồm hệ Mặt Ttách ở trong số ấy. Nó mở ra trên khung trời nhỏng một dải sáng sủa mờ kéo dãn dài từ bỏ phía của cthùng sao Tiên Hậu (Cassiopeia) ở phía bắc cho tới csăng sao Nam Thập Tự (Crux) làm việc phía nam giới. Dải ngân hà sáng hơn về phía của chậu sự sao Nhân Mã (Sagittarius) là nơi trung chổ chính giữa dải Ngân Hà.Bạn đang xem: Dải ngân hà là gì. Dải ngân hà phân chia khung trời ra thành nhì phần giao động cân nhau. Như vậy chứng tỏ rằng hệ Mặt Trời nằm siêu ngay sát đối với mặt phẳng của thiên hà này. Ngân Hà là 1 trong vũ trụ xoắn ốc bao gồm thanh ngang hình trạng SBbc dựa theo phân các loại Hubble. Khối lượng giao động 1012 trọng lượng của Mặt Ttránh và khoảng chừng 200-400 tỷ ngôi sao(định tinh). Dải ngân hà gồm 2 lần bán kính là khoảng 100.000 năm ánh nắng. Khoảng bí quyết từ bỏ Mặt Ttách mang lại trung chổ chính giữa dải Ngân Hà là khoảng 27.700 năm tia nắng. Thiên hà là một trong những khối hệ thống lớn bao gồm những thiên thể cùng vật dụng hóa học link cùng nhau bởi lực hấp dẫn. Thiên hà gồm những: sao, tàn tích sao, môi trường liên kết sao chứa khí, lớp bụi thiên hà với đồ dùng chất tối (đó là một các loại thành phần quan trọng đặc biệt cơ mà không được gọi rõ). Nó là một đội hoặc một tập thích hợp đẩy đà những ngôi sao sáng. Nơi bao gồm tất cả các loại thiên thể nhỏng địa cầu, tinh vân, lớp bụi dải ngân hà với nhiều vật dụng hóa học không giống. Tính năng chủ yếu nhưng ngoài hành tinh có sự lôi kéo của trọng tải giữ tất cả những đồ vật chất này lại cùng nhau. Con người vẫn hoàn toàn có thể coi những vũ trụ trong veo lịch sử giống như những mảng khuếch tán trên bầu trời đêm. Trong dải ngân hà quan lại ngay cạnh được thì có tối thiểu 2 nghìn tỷ thiên hà. Hầu không còn trong số đó gồm đường kính từ bỏ 100 cho đến 100.000 parsec. phần lớn bạn trong những bọn chúng được tập vừa lòng trong các các dải ngân hà và chúng được nằm trong số rất cụm. Các ngôi sao sáng hoàn toàn có thể tập thích hợp lại thành các nhiều hình cầu để dọn mặt đường cho dải ngân hà. Và cũng có thể thiên hà ra đời trước rồi tiếp nối những ngôi sao chứa trong đó lại cùng nhau. Những ngoài trái đất trẻ này nhỏ tuổi rộng hiện thời cùng ngay gần cùng nhau hơn. Tuy nhiên, lúc chúng va chạm tới nhau cùng đổi mới 1 phần của ngoài trái đất đã giãn nở, bọn chúng bự lên cùng biến đổi mẫu thiết kế. Các ngoài trái đất có tía kiểu dáng hình thái bao gồm đó là: hình elip, xoắn ốc, cùng khác lại. Trong khi phương pháp biểu đạt cụ thể hơn kết cấu thiên hà; đó là dựa vào hình dáng của chúng được Hubble nêu trong hàng phân nhiều loại của ông. Hệ thống phân loại Hubble review vũ trụ elip phụ thuộc cửa hàng hình dáng elip của chúng. Đi tự E0 với ngoài trái đất tất cả dạng ngay gần hình cầu cho tới E7 cùng với dáng vẻ thuôn dài. Những thiên hà này giống như với 1 khối ellipsoid làm cho chúng hiển thị giống như là hình elip khi nhìn bên dưới một góc. Hình thái này bộc lộ thường xuyên khôn cùng ít điểm lưu ý về kết cấu cùng thường có tương đối không nhiều thiết bị chất liên sao trong ngoài trái đất elip. Đây là loại ngoài trái đất mà lại những ngôi sao sáng phân bổ theo như hình xoắn ốc đi về phía trung khu. Mặc cho dù những ngôi sao cùng đa số những thiết bị hóa học khả kiến không giống vào thiên hà nhiều loại này nằm trên một phương diện phẳng. Kăn năn lượng đa số của thiên hà xoắn ốc hay triệu tập tại miền hình cầu của đồ vật chất tối không ngừng mở rộng bao lấy đồ dùng chất khả con kiến. Thiên hà dị thường là đa số thiên hà tất cả kết cấu không bình thường. Tác đụng do sự shop tdiệt triều với mọi ngoài trái đất không giống. Mặc mặc dù nhiều thiên hà trông rất nổi bật lên cùng rất cấu tạo xoắn ốc hoặc dạng elip. Phần to các dải ngân hà trong vũ trụ tất cả form size nhỏ tuổi bé xíu. Những thiên hà lùn này tương đối nhỏ tuổi khi đối chiếu cùng với rất nhiều ngoài trái đất khác. Ví dụ nlỗi bọn chúng có form size bởi một trong những phần trăm 2 lần bán kính của ngân hà cùng chứa chỉ vài ba tỷ ngôi sao 5 cánh.
Ngân Hà
Ngân Hà, Sông Ngân hay tên trong tiếng Anh là Milky Way, là một thiên hà chứa Hệ Mặt Trời của chúng ta. Nó xuất hiện trên bầu trời như một dải sáng mờ kéo dài từ chòm sao Tiên Hậu (Cassiopeia) ở phía bắc đến chòm sao Nam Thập Tự (Crux) ở phía nam, và sáng nhất ở chòm sao Cung Thủ (Sagittarius) - trung tâm của dải Ngân Hà. Nguyên nhân dải Ngân Hà được gọi bằng cái tên Milky Way là vì thần Zeus đã bế con trai mình là Hercules, cho cậu bé bú trộm dòng sữa của nữ thần Hera để trở nên bất tử. Bỗng nhiên nữ thần choàng tỉnh giấc làm dòng sữa bị văng tung toé lên bầu trời, từ đó mà cái tên gọi Milky Way được hình thành. Galileo Galilei đã lần đầu quan sát được các ngôi sao riêng biệt trong Ngân Hà vào năm 1610 bằng kính viễn vọng của mình. Tuy nhiên, cho tới tận những năm 20 của thế kỉ XX, các nhà thiên văn học vẫn cho rằng toàn bộ vũ trụ mà con người biết lúc bấy giờ đều chứa trong Ngân Hà. Đến khi có cuộc tranh luận lớn nổ ra giữa Harlow Shapley và Heber Curtis, cùng với Edwin Hubble đã chứng minh được Ngân Hà chỉ là một trong số rất rất nhiều thiên hà khác.
Từ ngàn xưa, cây sen đã xuất hiện trong cuộc sống của chúng ta. Từ hình ảnh những đóa sen vươn mình nở rộ giữa ao làng, đến sự xuất hiện trong Kinh Phật hay những truyền thuyết cổ, tất cả đều cho thấy hình ảnh một loài cây xinh đẹp, thanh tịnh. Nhưng bên cạnh tất cả những giá trị đó, cây sen nói chung và hạt sen nói riêng còn có cả những giá trị dinh dưỡng và chữa bệnh lớn lao mà không phải ai cũng biết. Vậy hạt sen là gì và tác dụng của hạt sen cũng như cách dùng của nó ra sao? Bài viết dưới đây sẽ bật mí tất cả cho bạn. Hạt sen là hạt của các loài thực vật thuộc chi Sen, chúng nằm trong đài sen. Sau khi hoa tàn, đài sen được thu hoạch về để lấy quả, bóc vỏ ra sẽ được hạt sen. Hạt sen thường được sử dụng ở cả hai dạng, hạt tươi và hạt khô với giá trị dinh dưỡng hàm chứa bên trong rất lớn. Gói gọn trong một hạt sen bé nhỏ là những chất dinh dưỡng to lớn đáng quý. Hạt sen cung cấp năng lượng cùng các dưỡng chất quan trọng thiết yếu như tinh bột, chất đạm, chất béo, các vitamin và khoáng chất như vitamin B2 (riboflavin), natri, kali, canxi, magie, phốt pho… và không chứa cholesterol. Với nguồn dinh dưỡng dồi dào như chúng tui đã liệt kê ở trên, hạt sen đã trở thành món ăn bổ dưỡng cho tất cả thành viên trong gia đình. Từ ông bà, bố mẹ đến anh chị em, bà bầu, trẻ nhỏ, ai cũng có thể đón nhận dưỡng chất từ hạt sen. Chắc bạn cũng biết hạt sen có thể ăn tươi hoặc khô. Hạt sen tươi có vị ngọt thanh, trong khi hạt khô thì thơm giòn, và thường sẽ ngon hơn sau khi nướng. Trong mỗi 100 gram hạt sen tươi sống có khoảng 89 calo; nhưng khi hạt khô thì có đến 372 calo. Năng lượng mà hạt sen cung cấp, chủ yếu đến từ nguồn carbohydrate và protein bên trong hạt, cũng mạnh mẽ không kém gì các loại hạt khác như hạt dẻ, hạt điều, hạt óc chó,… mà chúng tui đã đề cập đến trước đây. Như vậy, ăn hạt sen sẽ có thể cung cấp nguồn năng lượng tức thời cho cơ thể, và đó là lý do mà hạt sen trở thành một món ăn vặt mà bạn nên mang theo người để sử dụng khi cần, hoặc trở thành món ăn bồi bổ sức khỏe trong y học cổ truyền và dân gian. Nếu bạn ăn hạt sen thường xuyên, các chất dinh dưỡng tìm thấy trong hạt sen sẽ bắt đầu làm trẻ hóa tế bào da của bạn bởi chúng chứa nhiều loại vitamin đồng thời dồi dào các enzyme có tác dụng thúc đẩy việc phục hồi lượng protein bị thiếu, đặc biệt là collagen, loại protein đứng đầu về tác dụng “cải lão hoàn đồng”. Tui thật sự đã ngạc nhiên khi hạt sen có tác dụng ngăn ngừa sự lão hóa của cơ thể chúng ta không chỉ bằng nguồn dinh dưỡng trong hạt khi ta ăn chúng, mà loại hạt này còn có trong thành phần của kem dưỡng da để mang lại tác dụng tương tự. Tuy nhiên, các chuyên gia dinh dưỡng cũng đề nghị chúng ta nên ăn hạt sen thay vì sử dụng mỹ phẩm. Hẳn các bạn đều đồng ý cái gì đến từ tự nhiên đều tốt hơn, đúng không nào?. Chảy máu chân răng, nhiệt miệng và loét miệng là một trong những vấn đề răng miệng thường gặp nhất. Nhưng bạn đừng lo, chỉ cần kết hợp hạt sen vào chế độ ăn uống của mình, bạn sẽ hạn chế được tình trạng này và làm dịu tình trạng nướu bị kích ứng do cách bạn vệ sinh răng miệng do các thành phần trong hạt sen chứa đặc tính chống viêm tự nhiên như kaempferol và flavonoid. Tuy nhiên, nếu bạn gặp các vấn đề nghiêm trọng hơn như là đau hoặc chảy máu quá nhiều, chúng tui vẫn khuyên bạn nên đến gặp nha sĩ để có biện pháp điều trị nhanh chóng và phù hợp. Theo Đông y, hạt sen có vị ngọt, tính bình và thành phần dinh dưỡng của hạt sen cũng đã được chứng mình là mang lại tác dụng an thần rất hiệu quả. Trong hạt sen có chứa nhiều gluxit và protit, cũng như các vitamin nhóm B, nhóm C nên ăn hạt sen cũng có tác dụng tốt trong việc điều trị bệnh đau đầu, đặc biệt là chứng đau nửa đầu. Do các dưỡng chất dồi dào cùng với thành phần chống oxy hóa gói gọn trong hạt sen mà loại hạt này có tác dụng tăng cường sức khỏe, đặc biệt là người già và phụ nữ sau sinh. Đặc biệt là tình trạng suy giảm trí tuệ của người cao tuổi cũng được cải thiện bằng các món ăn từ hạt sen đấy. Ngoài ra, sau khi sinh, nếu muốn nhanh chóng lấy lại vẻ đẹp săn chắc của vòng một thì các chị em có thể ăn các món ăn chế biến từ hạt sen, đặc biệt là món chè hạt sen đậu nành cùng với táo đỏ, nhân sâm thì sẽ nhanh chóng có được vòng một như ý. Ngoài những công dụng tăng cường sức khỏe nói chung đã nêu trên, đối với từng đối tượng đặc biệt, ăn hạt sen cũng đem lại các lợi ích tốt khác. Đầu tiên hãy cùng chúng tui tìm hiểu về những lợi ích tốt đẹp mà hạt sen mang lại cho trẻ em. Sau khi đọc xong bài viết này thì đừng quên làm vài món ăn với hạt sen để bé yêu nhà bạn thưởng thức nhé!. Món ăn từ hạt sen có tác dụng bồi bổ sức khỏe: Nhờ nguồn “năng lượng sạch” mà hạt sen cung cấp, bạn có thể nấu các món ăn với hạt sen để tẩm bổ nếu bé yêu bị ốm, hay chỉ đơn giản là bổ sung vào trong thực đơn hàng tuần để bổ sung dưỡng chất cho con yêu của bạn. Hạt sen giàu canxi nên rất tốt cho bé: Người ta ví hạt sen giống như một “cường quốc canxi” bởi lượng vi chất này chiếm tới hơn 40% trọng lượng của hạt sen. Nhờ vậy mà hạt sen có khả năng duy trì mức canxi cần thiết của trẻ em, giúp ích cho quá trình phát triển xương và răng. Bổ sung các món ăn từ hạt sen cũng tương tự như việc cho con bạn uống sữa để xương chắc khỏe, bé cao lớn hơn. Hạt sen là món ăn vặt lý tưởng cho trẻ em: Thiết nghĩ, chẳng có bé con nào mà lại không thích nhai chóp chép suốt ngày. Nhưng thay vì cho bé ăn kẹo, snack hay các đồ ăn nhanh khác, bạn có thể làm các món ăn vặt nhưng vẫn bổ dưỡng cho bé yêu từ hạt sen. Nấu chè hạt sen, mứt hạt sen hay chỉ đơn giản là rang hoặc sấy khô hạt sen để ăn như ăn lạc rang, hạt điều rang,… cũng đem lại giá trị dinh dưỡng gấp bội so với những món ăn vặt kia mà không lo tới vấn đề béo phì hay tiểu đường. Lý tưởng quá đúng không nào?. Hạt sen giúp tăng cảm giác thèm ăn và tốt cho tiêu hóa của bé: Bé biếng ăn, gầy yếu hoặc tiêu chảy kéo dài là những nỗi lo của rất nhiều bà mẹ, đặc biệt là những bà mẹ trẻ, chưa nhiều kinh nghiệm chăm con. Vậy Tui Khỏe Còn Bạn mách nhỏ các bà mẹ một cách giải quyết vấn đề này bằng các thực phẩm thiên nhiên nhất nhé. Đó chính là kết hợp thức ăn có hạt sen trong thực đơn của bé, hoặc tham khảo bài thuốc dân gian: trộn đều khoảng 200 gram hạt sen sấy khô và 200 gram gạo tẻ rang vàng rồi xay thành bột mịn, mỗi ngày cho bé ăn từ 6 đến 8 gram vào lúc đói, có thể chia thành nhiều lần. Hàm lượng chất làm se tự nhiên (astringent) được tìm thấy nhiều trong hạt sen có khả năng mang lại cảm giác ngon miệng theo đúng lời khuyên từ các chuyên gia dinh dưỡng là nên điều trị các vấn đề biếng ăn ở trẻ em từ các nguồn tự nhiên. Thêm vào đó, các vitamin và khoáng chất trong hạt sen còn có thể điều trị các chứng tiêu chảy , nôn mửa và khó tiêu ở bé, tăng cường hệ tiêu hóa khỏe mạnh. Cả hạt sen tươi và hạt sen khô đều có thành phần dinh dưỡng dồi dào, rất tốt cho bà bầu và sự phát triển của thai nhi. Nếu bạn đang mang bầu, ăn hạt sen không những bổ sung các chất dinh dưỡng mà còn là vị thuốc an thai rất tốt. Hạt sen có tác dụng an thai, ngừa sảy thai quen dạ: Vì nhiều lý do mà có một số phụ nữ hay bị động thai, thậm chí là sảy thai do quen dạ, việc này khiến cho quá trình chào đón thiên thần nhỏ của họ trở nên gian nan, vất vả hơn nhiều bà mẹ khác. Nhưng bạn yên tâm, nếu bổ sung hạt sen vào thực đơn dinh dưỡng của mình một cách hợp lý, đó sẽ là một bài thuốc an thai đến từ thiên nhiên rất hiệu quả. Một số bài thuốc chữa an thai từ hạt sen phổ biến là: Nấu cháo gạo nếp hạt sen và thêm rễ cây gai, ăn mỗi tháng một lần sẽ có tác dụng an thai, ổn định thai nhi. Ngoài ra thì bạn có thể nấu cháo gạo tẻ với hạt sen cùng gà mái đen để ăn cũng sẽ có tác dụng an thai và bổ sung dinh dưỡng cho em bé nữa nhé. Ngoài 2 cách nấu cháo hạt sen kể trên, nếu tán mịn củ mài và hạt sen đã bỏ tâm, bỏ vỏ và uống 2 lần một ngày trong lúc đói, mỗi lần uống 5 thìa cà phê sẽ tránh tình trạng sảy thai quen dạ và giúp bé yêu phát triển tốt. Tỉ lệ hạt sen và củ mài là 1:2, tức là bạn sao vàng 1kg hạt sen cùng với 2kg củ mài khô trước khi tán bột mịn nhé. Hạt sen sẽ rất tốt cho sự phát triển của hệ thần kinh và trí não của bé yêu trong bụng: Với thành phần dinh dưỡng phong phú như tui đã kể trên, đặc biệt là acid folic (folate) và riboflavin (B12), là những thành phần thiết yếu của quá trình tổng hợp DNA và phân chia tế bào, hạt sen có tác dụng tích cực góp phần hình thành và phát triển trí não cũng như hệ thần kinh và tư duy của bé ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Vậy nên những bà mẹ tương lai cần bổ sung chế độ ăn uống đầy đủ folate khi mang thai để giúp ngăn ngừa các khuyết tật ống thần kinh ở trẻ sơ sinh, trong đó bảo gồm cả việc ăn hạt sen nhé mẹ bầu. Hạt sen tốt cho đường huyết, tim mạch và giúp mẹ bầu kiểm soát huyết áp cũng như cân nặng trong thời kỳ mang thai: Mang thai là thời kỳ mà người phụ nữ phải đối mặt với nguy cơ mắc nhiều loại bệnh mà khi bình thường họ không hề bị, ví dụ như huyết áp, tiểu đường, và thậm chí là tim mạch mà nguyên nhân một phần vì những thay đổi về nội tiết tố trong cơ thể, cũng một phần do chế độ ăn uống và vận động. Một trong những cách phòng tránh, khắc phục các tình trạng này là bổ sung vào thực đơn các món ăn bổ dưỡng lành mạnh, chẳng hạn như hạt sen tươi. Hạt sen tươi chứa nhiều vitamin B, chất xơ và lại ít calo. Những đặc điểm này sẽ giúp mẹ bầu giảm được lượng đường trong máu cũng chính là phòng tránh bệnh tiểu đường trong thời kỳ mang thai. Hơn nữa, hàm lượng natri thấp trong khi hàm lượng magie lại cao là một tỉ lệ khoáng chất lý tưởng rất có lợi cho hệ tim mạch của bà bầu nói riêng, và của tất cả chúng ta nói chung. Tâm sen chính là phần phôi được tìm thấy ở lõi của hạt sen. Bộ phận này có chứa rất nhiều vitamin đồng thời có thành phần alcaloid và isoquinoline với tác dụng kiểm soát lưu lượng máu trong cơ thể, cũng tức là kiểm soát huyết áp của bạn. Alcaloid và isoquinoline là nguồn gốc của vị đắng trong tâm sen đấy, nhưng đây cũng chính là chiến binh chống lại các chứng co thắt, do đó giữ cho mạch máu của bạn giãn ra và từ đó làm giảm huyết áp. Hạt sen chứa nhiều dưỡng chất vitamin, protein, magie, kali, kẽm và sắt nên ăn một chút cũng đem lại nguồn năng lượng dồi dào và cảm giác no, vậy nên sẽ giúp bạn hạn chế nạp vào cơ thể nhiều loại thức ăn khác. Đây chính là tác dụng kiểm soát cân nặng của hạt sen. Hạt sen giúp bà bầu ngủ ngon: Giấc ngủ vô cùng quan trọng với mẹ bầu bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp sức khỏe của mẹ cũng như sức khỏe và sự phát triển của bé yêu trong bụng. Bên cạnh chế độ dinh dưỡng, bạn còn cần phải chú ý đến giấc ngủ nếu bạn đang mang bầu bởi bà bầu mà bị mất ngủ thường xuyên trong thời gian dài sẽ khiến cơ thể mệt mỏi, kiệt sức khiến cho thể chất và trí não của em bé không thể phát triển. Trong hạt sen có chứa thành phần glicozit và các thành phần khác có tác dụng an thần, đặc biệt là trong tâm sen. Khi bạn ăn hạt sen, đặc biệt là buổi tối, cơ thể sẽ sản sinh ra nhiều insulin hơn, và mẹ bầu sẽ dễ ngủ hơn. Hạt sen giúp bà bầu ngừa tiêu chảy và các vấn đề tiêu hóa khác trong thời kỳ đầu mang thai: Cũng tương tự như tác dụng tốt cho hệ tiêu hóa mà chúng tui đã nói ở trên, khi bạn mang thai, nhất là trong thời kỳ đầu, khi mà cơ thể có nhiều sự thay đổi về nội tiết tố, các bà mẹ thường hay gặp những vấn đề về tiêu hóa, phần nhiều sẽ hay bị tình trạng tiêu chảy. Khi đó, hạt sen với công dụng tuyệt vời là làm cho hệ tiêu hóa của mẹ khỏe mạnh hơn, ngừa tiêu chảy sẽ góp phần đảm bảo sức khỏe để mẹ bầu dần thích nghi với những thay đổi của cơ thể. Mẹ bầu có thể nấu cháo hạt sen, chè hạt sen,… kết hợp cùng với một số loại đậu, đỗ và các loại hạt khác để có món ăn vặt vừa ngon vừa bổ nhé. Hạt sen giúp mẹ bầu tăng khả năng miễn dịch: Hạt sen, như chúng ta đã tìm hiểu ở trên, luôn mang trong mình nhiều loại vitamin, khoáng chất và các chất chống oxy hóa. Tất cả những điều này sẽ giúp bạn tăng cường tình trạng sức khỏe một cách tổng thể. Bởi vì mang thai, sẽ có nhiều khi bạn cảm thấy yếu ớt, mệt mỏi và liên tục bị ốm. Tương tự như cách tiêu thụ các loại hạt dinh dưỡng khác, hạt sen có thể được ăn như một món ăn vặt, hoặc trở thành gia vị bổ sung thêm vào các món ăn khác.
Hạt sen
Hạt sen là hạt của các loài thực vật thuộc chi Sen (Nelumbo), thường là loài Nelumbo nucifera, có vai trò quan trọng trong ẩm thực Trung Quốc và Việt Nam. Hạt sen được bán dưới dạng hạt đã được làm khô hoặc bán với cả đài sen để ăn sống. Hạt sen cũng là một món ăn quen thuộc của người dân bác Colombia, đặc biệt ở các thành phố Barranquilla và Cartagena. Người địa phương gọi hạt sen là "martillo" và họ thường dùng hạt sen như là món ăn sống.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha là đội bóng của Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha và đại diện cho Tây Ban Nha ở cấp độ quốc tế. Tây Ban Nha trở thành thành viên chính thức của FIFA vào năm 1904, nhưng Hiệp hội bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha được thành lập vào năm 1909. Trận đấu quốc tế đầu tiên của đội Tây Ban Nha là chống lại đội. chiêu mộ Đan Mạch vào năm 1920. Kể từ đó, Tây Ban Nha đã tham gia vào 14 trong số 20 World Cup FIFA và 9 trong số 13 giải đấu Euro. Tây Ban Nha là một trong những đội bóng hàng đầu thế giới, đã vô địch World Cup 2010 và Euro 2008 và 2012, trở thành đội duy nhất chiến thắng cả ba giải đấu lớn liên tiếp. Tây Ban Nha cũng giữ kỷ lục là đội có nhiều trận bất bại liên tiếp nhất thế giới với 29 trận. Với việc chuyển đổi băng ghế huấn luyện của huấn luyện viên người Tây Ban Nha, từ HLV Vicente Del Bosque sang HLV Julen Lopetegui, đã hồi sinh một đội bóng đã bị suy yếu rõ rệt do không thể bảo vệ danh hiệu vô địch thế giới. World Cup 2014 của họ và vương miện châu Âu tại Euro 2016. Giờ đây, với đội hình siêu sao và tài năng, đội tuyển Tây Ban Nha có thể thách thức tất cả các đối thủ tại World Cup 2018 và cũng là ứng cử viên số 1 cho Cúp vàng. Tiqui-Taca là một lối chơi sử dụng những đường chuyền ngắn để cải thiện khả năng kiểm soát bóng. Kế hoạch chiến thuật lý tưởng cho Tiqui-Taca là 4-3-3, hoặc đôi khi có các biến thể 4-1-2-3 và 3-4-3. Bên cạnh đó, phải có sự kết hợp giữa tấn công và bảo vệ khu vực để đạt đến trình độ hóa học tốt. Tiqui-Taca là vượt qua và chạy. Bóng được chuyền, và liên tục chuyển từ cầu thủ này sang cầu thủ khác. Người chơi không có bóng phải di chuyển linh hoạt để bắt bóng. Nhưng vì chỉ tăng tốc và di chuyển trong một phạm vi ngắn, người chơi không mất nhiều công sức; ngược lại, đội đối phương, nếu không thích nghi, sẽ mất sức do bám và dễ bị rối loạn trong đội hình. Barcelona và Tây Ban Nha đã xây dựng một tiqui-taca gần như hoàn hảo và nó ngày càng phổ biến trên toàn thế giới. Tất cả các đội trẻ Barcelona bây giờ phải học chơi và chơi tiqui-taca.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha
Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: Selección de fútbol de España) là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha và đại diện cho Tây Ban Nha trên bình diện quốc tế chính thức kể từ năm 1920 bắt đầu bằng trận đấu với Đan Mạch. Tây Ban Nha có những biệt danh như La Roja ("Đội Quân Màu Đỏ"), La Furia Roja ("Cơn Thịnh Nộ Màu Đỏ"), La Furia Española ("Cơn Thịnh Nộ Của Tây Ban Nha") hay đơn giản là La Furia ("Cơn Thịnh Nộ"). Tây Ban Nha trở thành thành viên chính thức của FIFA vào năm 1904 nhưng Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha lại được thành lập vào năm 1909. Tây Ban Nha đã tham dự 15 trên 21 lần tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới (liên tục kể từ năm 1978) và 10 trên 15 lần tổ chức Giải vô địch bóng đá châu Âu. Tây Ban Nha nằm trong số 8 đội bóng từng vô địch thế giới, ghi dấu ấn với ba danh hiệu giành được ở World Cup 2010, Euro 2008 và 2012, viết nên trang sử độc nhất vô nhị đó là vô địch ba giải đấu lớn liên tiếp.
Một số người tưởng rằng, thuyết bất khả tri là một giải pháp thay thế cho chủ nghĩa vô thần, và họ thường đánh đồng khái niệm sai lầm này với những giải thích đơn giản, hạn hẹp của họ. Nói đúng ra, thuyết bất khả tri là về tri thức, và tri thức là vấn đề liên quan nhưng tách biệt với niềm tin. Chủ nghĩa vô thần: Những người theo chủ nghĩa này sẽ dựa trên kinh nghiệm của các giác quan hay các nghiên cứu khoa học ở hiện tại để khẳng định là không có Thượng đế và các vị thần. Họ thường xem đức tin của những người hữu thần là mê tín, niềm tin mù quáng khi không có cơ sở rõ ràng. Chủ nghĩa hữu thần: Những người cuồng tín tôn giáo sẽ dựa trên các văn bản được ghi chép từ xa xưa, những lời tiên tri hoặc từ các bậc thầy tâm linh để có đức tin tuyệt đối về sự tồn tại của Thượng đế hoặc các vị thần. Họ cho rằng vị thần của họ không thể “nhìn thấy bằng kính hiển vi” hay “phải cần những cách bí ẩn” mới có thể liên lạc được. Một số người sẽ nói, “Tôi không phải là người vô thần, tôi là một người bất khả tri” như một cách làm dịu đòn tấn công khi giải thích về sự thiếu niềm tin của họ đối với các vấn đề tâm linh hay tôn giáo. Chủ nghĩa bất khả tri trả lời một câu hỏi hoàn toàn khác với chủ nghĩa vô thần. Chủ nghĩa vô thần hay hữu thần là câu trả lời cho câu hỏi “Bạn có tin Thượng đế hay các vị thần là có thật không?” Mặt khác, chủ nghĩa bất khả tri là câu trả lời cho “Bạn có biết liệu có vị thần nào tồn tại không?”. Thuật ngữ “bất khả tri” xuất phát từ tiếng Hy lạp (agnostic) trong đó “A” có nghĩa là “không” và “gnostic” có nghĩa là “kiến thức”. Theo nghĩa đen thì một người bất khả tri là người tuyên bố “không thể biết” hoặc “không có kiến thức” để khẳng định một điều gì đó. Kiến thức hay tri thức là những hiểu biết của con người về bản thân và thế giới, những dữ kiện, thông tin, sự mô tả hay kỹ năng có được nhờ trải nghiệm hoặc thông qua giáo dục. Con người không thể biết được sự tồn tại của bất cứ điều gì nằm ngoài kinh nghiệm của mình. Thuật ngữ này đã trở nên tương đồng trong cách nói phổ biến với sự hoài nghi về các câu hỏi tôn giáo nói chung, và đặc biệt là với sự từ chối các tín ngưỡng Kitô giáo truyền thống dưới tác động của tư tưởng khoa học hiện đại. Những người vô thần thường nhầm lẫn khái niệm này và chối bỏ sự tồn tại của Thượng đế. Trong khi một người bất khả tri là người không chấp nhận hoặc phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế. Mặc dù chúng ta có thể sử dụng như vậy, nhưng thuật ngữ bất khả tri được sử dụng dường như độc quyền để nói về các vấn đề tôn giáo. Khi nói đến niềm tin vào Thượng đế, có hai lập trường cơ bản cần thực hiện: Một là bạn tin rằng Thượng đế có thật và hai là bạn không tin. Tuy nhiên, nếu bạn còn do dự khi chưa thể đưa ra quyết định thì những lựa chọn sau đây có thể giúp bạn:. Chủ nghĩa hữu thần: Bạn tin vào Thượng đế và “biết” điều này là đúng. Chủ nghĩa hữu thần yếu: Bạn tin vào Thượng đế, nhưng “không biết” liệu điều đó có đúng không. Chủ nghĩa vô thần: Bạn không tin vào Thượng đế và “biết” điều này là đúng. Chủ nghĩa vô thần yếu: Bạn không tin vào Thượng đế, nhưng “không biết” liệu điều đó có đúng không. Chủ nghĩa vô thần mạnh là sự khẳng định tường minh rằng thần thánh không tồn tại. Còn chủ nghĩa vô thần yếu bao hàm tất cả các hình thức khác của thuyết phi thần (non-theism). Theo cách phân loại này, bất cứ ai không theo thuyết hữu thần thì chắc chắn phải là một người theo vô thần mạnh hoặc vô thần yếu. Như vậy thì hầu hết những người theo chủ nghĩa bất khả tri được xem là những người vô thần yếu. Tuy nhiên, đa số những người bất khả tri lại cho rằng quan niệm của họ tách biệt hẳn với chủ nghĩa vô thần – thuyết mà họ xem là thiếu cơ sở và ít thuyết phục chẳng kém gì hữu thần. Việc không thể đạt được các tri thức chứng minh hay phủ nhận sự tồn tại của thần thánh, đôi khi được xem là một ngụ ý nói rằng chủ nghĩa vô thần cũng dựa trên một niềm tin thiếu căn cứ. Thuyết bất khả tri tập trung vào những gì có thể biết, một luận điểm nhận thức luận về bản chất và giới hạn của kiến thức con người. Còn đối thuyết vô thần và hữu thần là các quan điểm bản thể học (một nhánh của siêu hình học nghiên cứu về các loại thực thể tồn tại). Nhà tư tưởng bất khả tri đầu tiên là Sanjaya Belatthiputta (Samjayin Vairatiputra), một người cùng thời với Phật Thích Ca Mâu Ni, như đã được ghi trong kinh điển. Người ta kể rằng, khi được hỏi có cuộc sống sau cái chết hay không thì ông đã trả lời là có thể có và có thể không, và từ chối phỏng đoán xa hơn. Những người cuồng tín tôn giáo (Kitô giáo, Hồi giáo, Phật giáo…) thường bị coi là thiếu hiểu biết vì niềm tin mù quáng của họ đối với những “sinh vật tối cao” mà không có bằng chứng thuyết phục. Đa số chỉ dựa vào quan điểm tôn giáo được truyền từ đời này sang đời khác. Những người bất khả tri sẽ đặt câu hỏi về sự tồn tại của các vị thần bởi vì rất nhiều niềm tin tôn giáo không có cơ sở trong logic hiện đại. Họ có thể tin vào sự tồn tại của các sinh vật tối cao, nhưng họ cũng tin rằng không có bất kỳ kiến thức nào ở hiện tại có thể hiểu về các sinh vật đó. Không giống như người vô thần, người theo chủ nghĩa bất khả tri sử dụng một cách tiếp cận khoa học hơn cho hệ thống niềm tin của họ. Một người bất khả tri vô thần biết rằng chỉ vì không có bằng chứng về sự tồn tại của một sinh vật bậc cao hơn, thì không có nghĩa là những sinh vật đó không tồn tại. Việc nhận ra rằng “chúng ta không thể biết mọi thứ” là xương sống của niềm tin bất khả tri. Khẳng định rằng “Chúa Trời” hay “các vị thần” là các khái niệm có ý nghĩa, nhưng con người không có bằng chứng cho các khái niệm đó, vì thế, trong khi chờ đợi, những người bất khả tri vô thần phải chọn lập trường mặc định là không tin vào sự tồn tại của các sinh vật tối cao. Thuyết bất khả tri (agnosticism) được đưa ra vào năm 1869 bởi Thomas Henry Huxley (1825-1895), một nhà tự nhiên học người Anh và cũng là nhà vô địch thuyết tiến hóa của Darwin. Người đã lấy cảm hứng từ các tư tưởng của David Hume (1711-1976) và Emmanuel Kant (1724-1804). Nó đi vào đầu tôi như là một gợi ý chống lại thuyết ngộ đạo của lịch sử Giáo hội, người đã công khai biết rất nhiều về chính những điều tôi không biết. Thuật ngữ này thường được dùng để miêu tả những người chưa bị thuyết phục, hoặc cố tình chưa đưa ra quan điểm về sự tồn tại của Thượng đế cũng như các vấn đề tôn giáo khác. Những ý tưởng trọng tâm của David Hume nói rằng, nếu một tuyên bố xuất phát từ ý tưởng hoặc thực nghiệm, nó là vô nghĩa. Vì những phát biểu về kiến thức của Thượng đế nằm ngoài 2 loại này, Thượng đế về cơ bản là không thể biết được. Ý tưởng nền tảng thứ hai của Hume là không có nguyên nhân thiết yếu. Chúng ta không bao giờ có thể biết chắc chắn rằng một cái gì đó gây ra bất cứ điều gì khác. Sự hình thành vũ trụ hay loài người không phải bắt nguồn từ điểm A đến điểm G mà chúng ta vẽ trên giấy. Do đó, bất kỳ mối liên hệ nhân quả nào chúng ta cho rằng đều là suy đoán của tâm trí, đó không phải sự thật. Chúng ta không có khả năng hiểu được nguyên nhân hình thành vũ trụ, chúng ta cũng không bao giờ có thể biết gì về Thượng đế. Triết lý của Immanuel Kant bị ảnh hưởng rất nhiều bởi Hume. Kant đã cố gắng kết hợp các ý tưởng của chủ nghĩa duy lý và kinh nghiệm với nhau. Chủ nghĩa duy lý cho rằng, có một số kiến thức bẩm sinh trong con người. Ngược lại, chủ nghĩa kinh nghiệm tin rằng con người được sinh ra như tờ giấy trắng, và tất cả tri thức đều có được bằng kinh nghiệm. Kant kết luận bằng cách tập hợp những kết quả của cả hai bên. Nội dung tri thức đến từ kinh nghiệm (như các nhà thực nghiệm đã tranh luận), nhưng cấu trúc hay hình thức tri thức được phát triển trong tâm trí (như các nhà lý luận). Cách kết hợp này dẫn đến sự bất khả tri đối với Kant. Nếu chúng ta không thể biết bất cứ điều gì mà chưa có kinh nghiệm thông qua các giác quan, và nếu kiến thức đó chỉ có được thông qua tâm trí, thì chúng ta chỉ có thể biết đối tượng mà chúng ta nghiên cứu như chúng đối với chúng ta – không phải như chúng thật sự là. Chúng ta không bao giờ có thể biết bản chất thật của mọi thứ trong vũ trụ này. Điểm tham chiếu luôn là chính chúng ta chứ không phải với bản thân đối tượng. Lẫn lộn về thuyết bất khả tri thường xuất hiện khi mọi người cho rằng, bất khả tri chỉ có nghĩa là một người thiếu lập trường khi không thể khẳng định một vấn đề nào đó. Nếu những giả định đó là đúng, thì sẽ là chính xác khi kết luận thuyết bất khả tri là một “chủ nghĩa trung gian” giữa chủ nghĩa vô thần và hữu thần. Tuy nhiên, điều này không chính xác. Rõ ràng, nếu chủ nghĩa hữu thần là niềm tin vào Thượng đế và vô thần là không tin vào Thượng đế, thì không thể có chủ nghĩa trung gian. Một người có thể tin hoặc không tin vào Thượng đế. Thuyết bất khả tri với ý tưởng rằng, con người trong một khía cạnh nào đó của thực tại là không thể biết được. Do đó, một người bất khả tri không phải là người thiếu lập trường, mà bởi vì người đó cảm thấy rằng đối tượng đang thảo luận không thể biết được và do đó không thể phán xét được. Thuyết bất khả tri cũng không phải là một cách “dung hòa” giữa chủ nghĩa vô thần và hữu thần. Nó là một chủ nghĩa riêng biệt tương thích với cả hai. Người bất khả tri không phải là chưa đưa ra quyết định hay hoài nghi về vấn đề nào đó, mà quyết định của họ là vấn đề đó ở thời điểm hiện tại thì không thể biết được, hoặc không có kiến thức để khẳng định có – không hay đúng – sai. Tín đồ tôn giáo tin rằng Thượng đế tồn tại, người vô thần tin rằng Thượng đế không tồn tại. Người bất khả tri tin rằng, chúng ta không nên khẳng định có – không về sự tồn tại của Thượng đế, bởi vì điều đó là không thể. Sự tồn tại của Đấng tối cao không thể được chứng minh bằng thực nghiệm hay lý luận. Chủ nghĩa bất khả tri là một hình thức vô thần trung thực về mặt trí tuệ. Nếu con người cũng giống như những hình vẽ trong không gian 2 chiều trên mặt tờ giấy. Thì làm thế nào để chúng ta có thể khẳng định có – không cái gì đó ở bên ngoài!. Một người theo chủ nghĩa hữu thần hay một người theo Kitô giáo có thể là một người bất khả tri, và một người vô thần có thể không phải là một người bất khả tri. Một người vô thần có thể phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, và trong trường hợp này, chủ nghĩa vô thần của người đó là giáo điều và không thuyết phục. Họ sẽ đưa ra những lập luận đã được nâng cao bởi “thiên kiến xác nhận” nhằm khẳng định tính không hợp lệ. Trong trường hợp này, chủ nghĩa vô thần của người đó là cực đoan, không phải là chủ nghĩa bất khả tri. Người vô thần có thể, và không thường xuyên là một người bất khả tri.
Thuyết bất khả tri
Thuyết bất khả tri (Tiếng Anh: agnosticism) là quan điểm triết học cho rằng tính đúng hay sai của một số tuyên bố nhất định - đặc biệt là các tuyên bố thần học về sự tồn tại của Chúa Trời hay các vị thần - là chưa biết và không thể biết được hay không mạch lạc. Một số người theo thuyết bất khả tri suy diễn từ đó rằng các tuyên bố đó không liên quan đến ý nghĩa của cuộc sống. Có lẽ nhà tư tưởng bất khả tri (hay hoài nghi) đầu tiên là Sanjaya Belatthiputta (Samjayin Vairatiputra), một người cùng thời với Phật Thích Ca Mâu Ni, như đã được ghi trong kinh Phật. Người ta kể rằng khi được hỏi có cuộc sống sau cái chết hay không ông đã trả lời là có thể có và có thể không, và từ chối phỏng đoán xa hơn. Thuật ngữ "bất khả tri" (agnosticism) được đưa ra năm 1869 bởi Thomas Henry Huxley (1825-1895), một nhà tự nhiên học người Anh, người đã lấy cảm hứng từ các tư tưởng của David Hume và Emmanuel Kant. Thuật ngữ này còn được dùng để miêu tả những người chưa bị thuyết phục hay cố tình chưa đưa ra quan điểm về sự tồn tại của các vị thần thánh cũng như các vấn đề tôn giáo khác.
Viện Nghiên cứu Hạnh phúc có trụ sở tại Copenhagen chỉ ra rằng Phần Lan đứng đầu danh sách hạnh phúc mặc dù không có GDP cao nhất trong các nước Bắc Âu. Mạng lưới an toàn xã hội của quốc gia kết hợp với tự do cá nhân và sự cân bằng tốt giữa công việc và cuộc sống đã mang lại lợi thế cho quốc gia này. Tại sao họ lại được như vậy, cũng như rất nhiều câu hỏi khác mà nhiều người Việt nam hiện nay vẫn đang còn thăc mắc về đất nước xinh đẹp này sẽ được giải đáp đầy đủ nhất trong bài viết sau:. 8 Hệ thống giáo dục Phần Lan8.1 Về chúng tôi8.2 Du học tại đất nước Phần Lan với HISA bạn sẽ được. Cộng hòa Phần Lan (tên chính thức là Suomen Tasavalta hay gọi tắt là Suomi) là nước nằm ở phía đông nhất của các nước Tây Âu. Từ tây sang đông nó có chiều dài tối đa là 542 km và từ nam lên bắc nó có chiều dài 1157 km. Hơn 70 phần trăm đất nước được bao phủ bởi rừng, 8 phần trăm được sử dụng làm đất nông nghiệp và 10 phần trăm bao gồm nước. Phần Lan có hơn 60.000 hồ và có hơn 20.000 hòn đảo nhỏ dọc theo bờ biển. Một phần ba đất nước nằm ở phía bắc của vòng bắc cực. Biên giới với Nga dài 1313 km. Phía tây giáp Thụy Điển (đường biên giới: 586 km. ), Phía bắc Na Uy (đường biên giới 729 km) và phía nam và tây nam Phần Lan giáp Biển Botnic. Bề mặt của Phần Lan là 337.000 km vuông. Điều này bao gồm các đảo Åland trước bờ biển Thụy Điển. Cảnh quan ở Phần Lan từ từ thay đổi từ bằng phẳng (đôi khi hơi dốc) và hồ nước trù phú ở phía nam (trong đó người ta không nhìn thấy nhiều từ các con đường) đến những ngọn đồi cao hơn và rừng cây rộng lớn ở phía bắc. Ở cực bắc của Phần Lan có các lãnh nguyên và vùng cao nguyên không có rừng ở Lapland. Ở phía tây bắc có một vùng núi với Haltiatunturi là ngọn núi cao nhất (1328m). Phần Lan nằm giữa 60 và 70 độ vĩ bắc. Phần Lan có 5,17 triệu dân (tháng 7 năm 2001), gấp đôi so với năm 1900. Phần Lan là một trong những quốc gia có tỷ lệ sinh thấp nhất trên thế giới và dự đoán dân số sẽ giảm trong vòng 10 đến 15 năm tới. Với 16 người trên một km vuông, Phần Lan (sau Na Uy và Iceland) là quốc gia thưa dân nhất của châu Âu. Gần Helsinki, mật độ dân số trung bình là 203 người trên km2, trong khi ở Lapland chỉ là 2 người trên km2. Hơn 70% dân số sống ở các thành phố, nơi đã phát triển nhanh chóng trong 50 năm qua. Có hai nhóm dân cư ở Phần Lan: người Sami (còn gọi là người Lapps, cư dân gốc) và người vây (trong đó 6% là người Phần Lan gốc Thụy Điển). Có khoảng 6000 người Sami ở Phần Lan, hầu hết tất cả mọi người trong số họ sống trong khu vực lãnh nguyên ở phía bắc. Không chỉ tiếng Phần Lan, mà Thụy Điển cũng là một ngôn ngữ chính thức ở Phần Lan. Đa số người dân (93,5%) nói tiếng Phần Lan là anguagel đầu tiên; 6,3 phần trăm tiếng Thụy Điển. Người Sami ở phía bắc nói tiếng Sami hoặc Lapps. Ở một vài nơi có thể nghe thấy tiếng Nga. Dù nguồn gốc của người Phần Lan là gì, một sự thật là họ nói một ngôn ngữ không phải là tiếng Ấn-Âu như các ngôn ngữ Bắc Âu khác, mà là tiếng Finno-Ugric; Họ hàng chính gần nhất của nó là tiếng Estonia (nhưng ngay cả hai ngôn ngữ đó cũng không thực sự dễ hiểu lẫn nhau), và nó có liên quan xa với tiếng Hungary, tiếng Sámi và một số ngôn ngữ nhỏ được nói ở châu Âu Nga (Esthonia) và Siberia. Nó cũng liên quan đến tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Nó được đặc trưng bởi ngữ pháp phức tạp của nó. Thường thì một từ dài được ghép lại với nhau để phản ánh vị trí mà các ngôn ngữ khác sẽ sử dụng nhiều từ hơn hoặc thậm chí cả câu. Ngoài ra còn có rất nhiều từ vay từ tiếng Thụy Điển và những năm gần đây, ngày càng nhiều từ tiếng Anh được tiếp thu bởi tiếng Phần Lan. Có rất nhiều nguyên âm được so sánh với số lượng phụ âm, bởi vì các chữ cái b, c, f, q, w, x và z không tồn tại trong bảng chữ cái Phần Lan đích thực (chúng có trong các từ có nguồn gốc Thụy Điển). Chỉ đến năm 1903, tiếng Phần Lan mới được coi là bình đẳng với tiếng Thụy Điển. Khí hậu Phần Lan cho thấy ảnh hưởng của cả hàng hải và lục địa. Những vùng biển xung quanh làm mát khí hậu trên bờ biển vào mùa xuân nhưng mặt khác lại ấm lên vào mùa thu nhờ dòng nước ấm vùng Vịnh. Khí hậu trở nên lục địa hơn, tức là khắc nghiệt hơn, càng đi về phía đông và phía bắc. Tuy nhiên, phía bắc xa hơn có khí hậu khá biển do ảnh hưởng của Bắc Băng Dương. Mùa hè kéo dài hai đến bốn tháng, mùa sinh trưởng bốn đến sáu tháng. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở thủ đô Helsinki là 5,3 độ C. Nhiệt độ ban ngày cao nhất ở miền nam Phần Lan trong mùa hè thỉnh thoảng tăng lên gần 30 độ. Trong những tháng mùa đông, đặc biệt là vào tháng Giêng và tháng Hai, nhiệt độ âm 20 độ C không phải là hiếm. Ở cực bắc, ngoài vòng Bắc Cực, mặt trời không lặn trong khoảng 73 ngày, tạo ra những đêm trắng của mùa hè. Trong cùng một khu vực, trong suốt mùa đông đen tối, mặt trời vẫn ở dưới đường chân trời trong 51 ngày, tạo ra đêm địa cực được gọi là kaamos trong tiếng Phần Lan. Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng nhất của Phần Lan, và giấy, gỗ, v.v. là nguồn thu nhập quốc gia chính. Nền đá granit chứa nhiều loại mỏ khoáng vật nhỏ, bao gồm đồng, niken, sắt, kẽm, crôm, chì và pyrit sắt. Trong những năm gần đây, kim cương đã được tìm thấy ở miền đông Phần Lan, nhưng chúng vẫn chưa được khai thác. Ngoài ra, đá vôi, đá granit và cát được khai thác để làm vật liệu xây dựng. Chế biến gỗ từ trước đến nay là ngành kinh tế quan trọng nhất. Các ngành công nghiệp kim loại và kỹ thuật đã phát triển nhanh chóng và ngày nay là nguồn việc làm công nghiệp lớn nhất. Kể từ những năm 1950, việc thoát nước, bón phân và trồng rừng trên quy mô lớn ở đầm lầy đã cải thiện sản lượng gỗ. Nhà nước sở hữu 20% rừng; phần còn lại do tư nhân kiểm soát. Các ngành công nghiệp hóa chất, đồ họa và thực phẩm cũng có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế, tiếp theo là các doanh nghiệp dệt may và điện hóa. Hoạt động khai thác đã giảm tầm quan trọng, mặc dù Phần Lan vẫn sản xuất một nửa lượng đồng và niken cần thiết cho thị trường nội địa. Năm 1960, 30% lực lượng lao động của Phần Lan làm nông nghiệp; đến năm 1990, con số này chỉ còn dưới 10% và chỉ có 7% tổng diện tích đất được canh tác. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp sản xuất thặng dư các sản phẩm sữa, thịt và trứng. Lúa mì và lúa mạch đen là những hạt bánh mì quan trọng nhất; các loại cây trồng chính khác bao gồm cỏ khô, khoai tây, yến mạch và lúa mạch. Khí hậu của Phần Lan và các trang trại nhỏ thích sản xuất sữa và chăn nuôi, vốn chiếm phần lớn thu nhập của nông trại. Các vấn đề do sản xuất quá mức tạo ra đã dẫn đến việc bồi lấp đất (một chính sách cố ý để đất canh tác hoang hóa) và tái trồng rừng. GDP / PPP (ước tính năm 2014): 221,5 tỷ USD; bình quân đầu người 40,500. Tốc độ tăng trưởng thực: –,2%. Tỷ lệ thất nghiệp: 8,6%. Nông nghiệp: lúa mạch, lúa mì, củ cải đường, khoai tây; bò sữa; cá. 2,665 triệu; nông, lâm nghiệp 4,4%, công nghiệp 15,5%, xây dựng 7,1%, thương mại 21,3%, tài chính, bảo hiểm và dịch vụ kinh doanh 13,3%, giao thông và liên lạc 9,9%, dịch vụ công 28,5%. Các ngành công nghiệp: kim loại và sản phẩm kim loại, điện tử, máy móc và dụng cụ khoa học, đóng tàu, bột giấy và giấy, thực phẩm, hóa chất, dệt may, quần áo. Tài nguyên thiên nhiên: gỗ, quặng sắt, đồng, chì, kẽm, cromit, niken, vàng, bạc, đá vôi. Xuất khẩu: 78 tỷ USD (ước tính năm 2014): máy móc thiết bị, hóa chất, kim loại; gỗ, giấy, bột giấy (1999). 72,01 tỷ USD (ước tính năm 2014): thực phẩm, dầu mỏ và các sản phẩm dầu mỏ, hóa chất, thiết bị vận tải, sắt thép, máy móc, sợi dệt và vải, ngũ cốc. Thông tin liên lạc: Điện thoại: đường truyền chính đang sử dụng: 890.000 (2012); di động di động: 9,32 triệu (2012). Phương tiện quảng bá: sự kết hợp giữa các đài truyền hình hoạt động công khai và đài truyền hình tư nhân; 2 đài truyền hình thuộc sở hữu nhà nước gần đây đã mở rộng dịch vụ và đài truyền hình tư nhân lớn nhất đã giới thiệu một số kênh truyền hình trả tiền được quan tâm đặc biệt; dịch vụ đăng ký đa kênh truyền hình cáp và vệ tinh có sẵn; tất cả các tín hiệu truyền hình đã được phát sóng kỹ thuật số kể từ tháng 9 năm 2007; việc phát sóng analog qua mạng cáp đã bị chấm dứt vào tháng 2 năm 2008; phát sóng công cộng duy trì mạng lưới gồm 13 đài phát thanh quốc gia và 25 đài phát thanh khu vực; một số lượng lớn các đài phát thanh tư nhân (2008). Người dùng Internet: 4,393 triệu (2009). Đường sắt: tổng cộng: 5.944 km (2013). Đường cao tốc: tổng cộng: 78.000 km; trải nhựa: 50.000 km (trong đó có 700 km đường cao tốc); chưa trải nhựa: 28.000 km (2012). Đường thủy: 8.000 km, bao gồm hệ thống kênh Saimaa dài 3.577 km; phần phía nam thuê của Nga (2013). Với hơn 400 khóa học bằng tiếng Anh, các ngành học phổ biến khi du học Phần Lan 2021 cho sinh viên quốc tế gồm có: Truyền thông, Ngành kiến trúc, Khoa học môi trường, Công nghệ sinh học, Công nghệ thông tin và truyền thông, Nghệ thuật và Thiết kế.
Phần Lan
Phần Lan (tiếng Phần Lan: Suomi, tiếng Thụy Điển: Finland), tên chính thức là Cộng hòa Phần Lan (tiếng Phần Lan: Suomen tasavalta, tiếng Thụy Điển: Republiken Finland) là một quốc gia thuộc khu vực Bắc Âu. Phần Lan giáp với Thụy Điển về phía Tây, Nga về phía Đông, Na Uy về phía Bắc và Estonia về phía Nam qua Vịnh Phần Lan. Thủ đô của Phần Lan là Helsinki và cũng là thành phố lớn nhất. Phần Lan là một trong những quốc gia dân cư thưa thớt nhất châu Âu. Theo số liệu tháng 12 năm 2020, dân số Phần Lan là 5.546.233 người. Với mật độ dân số chỉ khoảng 18 người/km², Phần Lan trở thành quốc gia có mật độ dân cư thấp nhất trong các nước Liên minh châu Âu. Ngôn ngữ chính tại nước này là tiếng Phần Lan - một ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Ural. Bên cạnh đó, tiếng Thuỵ Điển, tiếng Anh là 2 trong 3 ngôn ngữ chính thức của nước này. Trong lịch sử, Phần Lan từng là một phần của Thụy Điển trong một thời gian dài (từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVIII) rồi sau đó trở thành một đại công quốc dưới sự cai trị của Sa hoàng nước Nga trong khoảng thời gian 1809-1917.
Tăng áp động mạch phổi là bệnh có thể gặp ở bất cứ lứa tuổi nào, từ sơ sinh cho đến người lớn tuổi. Bệnh tăng áp động mạch phổi nếu không được điều trị kịp thời hoặc loại bỏ nguyên nhân gây ra bệnh thì sẽ có những nguy cơ biến chứng rất nghiêm trọng. Bài viết dưới đây sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về căn bệnh này. Đối với những người bình thường, tâm thất phải chịu trách nhiệm bơm máu đến phổi để tiếp nhận oxy và tuần hoàn đi khắp cơ thể. Khi quá trình này diễn ra, nó tạo một áp lực lên thành động mạch phổi. Vì một số nguyên nhân khác nhau, quá trình lưu thông máu có thể bị cản trở và áp lực máu trong mạch máu tăng lên, có thể do hệ thống mao mạch và động mạch phổi bị xơ vữa, thu hẹp hoặc suy yếu. Tăng áp động mạch phổi là một loại tăng huyết áp. Nó ảnh hưởng đến các động mạch phổi và bên phải của tim. Bệnh tăng áp động mạch phổi bắt đầu khi áp lực lên thành động mạch phổi thường xuyên tăng lên. Buồng thất phải sẽ phải làm việc nhiều hơn để bơm máu qua phổi khi áp suất được xây dựng, cứ như vậy cơ tìm sẽ bị suy yếu và cuối cùng là suy hoàn toàn. Tăng áp động mạch phổi là căn bệnh vô cùng nghiêm trọng. Nó thường có xu hướng trở nên tồi tệ dần và thậm chí có thể khiến cho người bệnh tử vong. Hiện nay, tăng áp động mạch phổi vẫn chưa thể được chữa khỏi mà chỉ có thể làm giảm các triệu chứng bệnh. Giai đoạn đầu của bệnh tăng áp động mạch phổi thường không có triệu chứng bệnh rõ rệt. Bệnh diễn biến âm thầm và có chuyển biến nghiêm trọng nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.Một số dấu hiệu để nhận biết bệnh tăng áp động mạch phổi gồm:. Khi máu chảy qua tim, các buồng dưới bên phải bơm máu lên phổi thông qua động mạch phổi. Máu giải phóng dioxit cacbon và lấy oxy. Qua các mạch máu trong phổi, máu giàu oxy sẽ đến phía bên trái của tim. Bình thường, máu lưu thông dễ dàng qua các mạch trong phổi do áp lực động mạch phổi thường thấp hơn nhiều. Do sự thay đổi trong các tế bào lót động mạch phổi gây nên tình trạng gia tăng huyết áp. Những sự thay đổi này khiến cho các mạch máu bị ngăn chặn hoặc thu hẹp làm cho động mạch trở nên cứng hoặc hẹp đi. Chính điều này làm cho tăng áp trong động mạch phổi khi máu lưu thông. Tăng áp động mạch phổi nguyên phát: Không thể xác định được nguyên nhân gây nên bệnh tăng áp động mạch phổi. Một số yếu tố nguy cơ có liên quan đến tình trạng này gồm:Đột biến gen, yếu tố di truyền;Tác động của thuốc giảm cân không rõ nguồn gốc;Do người bệnh bị dị tật tim bẩm sinh;Do một số bệnh lý khác như HIV, xơ gan;Do bệnh lý tĩnh mạch, mao mạch (tĩnh mạch phổi bị tắc nghẽn.). Tuy nhiên, hiện nay, những nguyên nhân gây nên bệnh tăng áp động mạch phổi tự phát hầu hết vẫn chưa được công nhận. Tăng động mạch phổi thứ phát: Tăng động mạch phổi thứ phát xảy ra phổ biến hơn so với tăng động mạch phổi nguyên phát. Một số nguyên nhân gây nên tăng động mạch phổi thứ phát bao gồm:Do một số bất thường liên quan đến tim như bệnh van tim, tâm thất trái phì đại.;Tình trạng bất thường xảy ra ở phổi như phổi tắc nghẽn mãn tính, xơ phổi, ngưng thở khi ngủ.;Động mạch phổi bị tắc nghẽn do cục máu đông;Các mô liên kết bị rối loạn (xơ cứng bì hay lupus);Người bệnh bị tim bẩm sinh hoặc suy tim;Các bộ phận khác trong cơ thể bị biến chứng và gây ảnh hưởng tới động mạch phổi như bệnh tuyến giáp trạng, đa hồng cầu nguyên phát.;Do người bệnh sử dụng thuốc kích thích như cocain;Do bệnh gan mãn tính;Do bệnh phổi, gây ra sẹo giữa các phế nang trong mô giữa;Người bệnh bị thiếu máu tế bào hình liềm. Do một số bất thường liên quan đến tim như bệnh van tim, tâm thất trái phì đại.;. Tình trạng bất thường xảy ra ở phổi như phổi tắc nghẽn mãn tính, xơ phổi, ngưng thở khi ngủ.;. Các bộ phận khác trong cơ thể bị biến chứng và gây ảnh hưởng tới động mạch phổi như bệnh tuyến giáp trạng, đa hồng cầu nguyên phát.;. Bệnh nhân bị tăng áp động mạch phổi thường vào viện khi bệnh đã trở nặng, gây khó khăn cho quá trình điều trị. Vì vậy, cần thường xuyên kiểm tra sức khỏe tổng quát để phát hiện bệnh sớm; đồng thời khi thấy bất cứ dấu hiệu nào của bệnh cần đến ngay cơ sở y tế uy tín để được thăm khám và can thiệp kịp thời. Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là địa chỉ khám, chữa bệnh uy tín, đáng tin cậy đối với bệnh nhân mắc bệnh tim mạch nói chung và bệnh nhân bị tăng áp động mạch phổi nói riêng. Với trang thiết bị hiện đại cùng đội ngũ bác sĩ có chuyên môn tim mạch giàu kinh nghiệm, luôn hết lòng vì sức khỏe bệnh nhân, Vinmec luôn được giới chuyên môn đánh giá cao về chất lượng khám chữa bệnh tim mạch và là địa chỉ được nhiều bệnh nhân tin tưởng lựa chọn. Hẹp nhánh động mạch phổi là bệnh tim bẩm sinh, khi bị hẹp nặng sẽ gây ra tình trạng suy tim phải, phương pháp điều trị chính là nong hẹp nhánh động mạch phổi, tỷ lệ thành công cao, có . Thuốc Letairis (tên chung Ambrisentan) được chỉ định để điều trị cao huyết áp động mạch phổi bằng việc ngăn chặn tác động của endothelin-1. Thuốc Selexipag có hoạt chất là selexipag, được bào chế ở dạng viên nén. Thuốc có nhiều loại hàm lượng khác nhau từ 200mcg đến 1600mcg, được đóng gói trong lọ 60 viên. Thuốc Treprostinil là sản phẩm có hiệu quả và được lựa chọn sử dụng nhiều trong điều trị tăng huyết áp động mạch phổi, một bệnh lý ảnh hưởng tới sức khỏe của nhiều người dân ở Việt Nam và .
Tăng huyết áp phổi
Tăng huyết áp phổi (Pulmonary hypertension - PH hoặc PHTN) là tình trạng tăng huyết áp trong các động mạch phổi. Các triệu chứng bao gồm khó thở, ngất, mệt mỏi, đau ngực, sưng chân và nhịp tim nhanh. Tình trạng có thể gây khó khăn cho việc tập thể dục. Khởi phát điển hình diễn ra dần dần. Nguyên nhân gây bệnh thường không được biết. Các yếu tố nguy cơ bao gồm tiền sử gia đình, cục máu đông trước phổi, HIV/AIDS, bệnh hồng cầu hình liềm, sử dụng cocaine, COPD, ngưng thở khi ngủ, sống ở độ cao và các vấn đề với van hai lá. Cơ chế cơ bản thường liên quan đến viêm động mạch trong phổi. Chẩn đoán bao gồm đầu tiên phải loại trừ các nguyên nhân tiềm năng khác. Bệnh hiện tại không thể chữa khỏi. Điều trị tùy thuộc vào loại bệnh. Một số biện pháp hỗ trợ như liệu pháp oxy, thuốc lợi tiểu và thuốc để ức chế đông máu có thể được sử dụng. Thuốc đặc biệt cho tình trạng này bao gồm epoprostenol, treprostinil, Iloprost, bosentan, ambrisentan, macitentan, và sildenafil. Ghép phổi có thể là một lựa chọn trong một số trường hợp.
Trọng tài biên là một trong những nhân vật quyền lực và quan trọng trên sân bóng. Vậy vai trò và quyền hạn của trọng tài biên bóng đá là gì? Trong bài viết này, chúng tôi sẽ giúp bạn tìm hiểu chi tiết và đừng quên truy cập vào Bongdalive để xem trực tiếp bóng đá nhé!. Một số ký hiệu trọng tài biên thường sử dụng1. Ký hiệu thông báo phạm luật việt vị2. Ký hiệu thông báo phạt góc3. Ký hiệu yêu cầu công nghệ VAR. Trọng tài biên trong bóng đá còn được gọi là trợ lý trọng tài. Họ có trách nhiệm giúp đỡ và hỗ trợ trọng tài chính thực hiện các điều luật của bóng đá được đưa ra. Trong một trận đấu sẽ có một trọng tài chính và hai trợ lý trọng tài, nhưng đối với các trận đấu chuyên nghiệp, số lượng trọng tài được giới hạn là năm. Trọng tài biên là một trong những vị trí quan trọng nhất. Tay trái và tay phải giúp đỡ trọng tài, và trong một số trường hợp, trọng tài biên cũng là người ảnh hưởng trực tiếp đến phán quyết của trọng tài. Tuân thủ, thuộc lòng những luật bóng đá. Từ đó, xử phạt lỗi cũng như góp phần điều hành trận đấu một cách chính xác nhất. Theo dõi, bắt lỗi các cầu thủ vi phạm ở gần khu vực đường biên trên sân. Hỗ trợ, đưa ra ý kiến để trợ giúp trọng tài chính trong việc đưa ra những quyết định cần thiết. Đối với những tình huống có pha phạt đền, trọng tài biên cần theo sát và hỗ trợ trọng tài chính. Từ đó, kiểm soát và đánh giá tình trạng bóng trong khu vực đá phạt. Xác định các tình huống bóng lăn khỏi vạch vôi đường biên bên sân hay chưa. Quan sát, chú ý theo dõi những tình huống vi phạm trong quá trình thi đấu của các cầu thủ. Từ đó, thông báo với trọng tài chính trong những trường hợp cần thiết. Lập biên bản về các tình huống cần thiết, diễn ra trong suốt trận đấu. Trì hoãn, đình chỉ các trận đấu nếu như có cầu thủ trên sân vi phạm lỗi. Điều này cũng được áp dụng nếu có thành viên cố gắng trì hoãn, kéo dài thời gian trong hiệp đấu. Trọng tài biên có thể yêu cầu tạm dừng hiệp đấu nếu có sự xuất hiện, tác động của những yếu tố khách quan. Như cổ động viên trên sân quá khích, thời tiết thất thường… Đặc biệt, khi có cầu thủ chấn thương nặng trọng tài biên cũng được thực hiện lệnh này. Dù không phải trọng tài chính, trọng tài biên cũng được quyền xử phạt thẻ đỏ, thẻ vàng. Từ đó, kỷ luật những thành viên không tuân thủ luật bóng đá trên sân. Việt vị là tình huống có thể thay đổi kết quả của một bàn thắng. Khi xuất hiện lỗi vi phạm này, trọng tài biên sẽ đưa ra ký hiệu bằng tay. Theo đó, trọng tài sẽ cầm cờ, giơ tay thẳng lên phía trên đầu mình. Trọng tài biên thường là người phát hiện, ra thông báo về tình huống phạt góc. Động tác được thực hiện ở thời điểm này là dùng cờ, chỉ thẳng vào đường cung phạt góc ở phía sân bên kia. Trong nhiều trường hợp, công nghệ VAR sẽ được sử dụng để truy xét lại tình huống của trận đấu theo nghi vấn. Lúc này, trọng tài biên sẽ giơ tay lên trên không trung, đồng thời tiến lên về phía màn hình điện tử trên sân. Các công nghệ sẽ được áp dụng để truy xét và đưa ra quyết định chính xác nhất cho trận đấu. Bạn là người hâm mộ bóng đá? Bạn đang không biết nên xem trực tiếp bóng đá đêm nay ở đâu? Bongdalive.TV chính là sự lựa chọn hoàn hảo cho bạn, hứa hẹn mang đến những link xem trực tiếp bóng đá chất lượng cao. Điều gì khiến Bongdalive là kênh xem trực tiếp bóng đá được nhiều người lựa chọn:. Chất lượng phát sóng trực tiếp tại Bongdalive TV luôn không ngừng được nâng cấp với mục tiêu đáp ứng được tối đa nhu cầu của cộng đồng những người hâm mộ bóng đá tại Việt Nam và vươn xa hơn trong khu vực. Tất cả các trận đấu đều đảm bảo được chất lượng về âm thanh, hình ảnh và trong quá trình theo dõi sẽ không gặp phải tình trạng lag – giật hoặc bị mất video như những trang trực tiếp bóng đá khác trên thị trường hiện nay. Việc hỗ trợ bình luận bằng tiếng Việt trong các trận đấu cũng sẽ giúp cho việc theo dõi của người hâm mộ được thuận lợi hơn. Dù là một trận đấu lớn hay nhỏ, trong hay ngoài nước thì đều đảm bảo được chất lượng tốt nhất và cũng không chèn nhiều quảng cáo gây ra sự khó chịu khi theo dõi các trận đấu. Chính vì thế, đồng hành cùng với Bongdalive sẽ giúp cho các bạn có được những trải nghiệm tuyệt vời nhất. Hệ thống trang thiết bị mà Bongdalive TV sử dụng đều hiện đại và tiên tiến nhất, đường truyền tốc độ cao, ổn định nên dù bạn truy cập bằng bất kỳ thiết bị nào cũng không phải lo lắng bị bỏ lỡ những màn trình diễn hấp dẫn nhất. Tất cả những thông tin có liên quan tới các trận đấu như: thời gian thi đấu, giải đấu, đội bóng, các cầu thủ, trọng tài, đội hình ra sân, đội hình dự bị… đều được cập nhật đầy đủ và chính xác trước khi trận đấu diễn ra nên các bạn có thể tra cứu thông tin một cách dễ dàng mà không mất quá nhiều thời gian tìm kiếm. Hệ thống giao diện của Bongdalive TV cũng vô cùng mắt mắt với tông màu chủ đạo là nâu, trắng, xanh rêu. Bố cục của các chuyên mục được sắp xếp một cách khoa học và rõ ràng giúp cho người dùng dễ dàng nắm bắt được thông tin và sử dụng các tiện ích ngay trong lần đầu tiên truy cập. Tất cả những sự cố xảy ra đều được đội ngũ kỹ thuật viên khắc phục kịp thời và nhanh chóng nhất nên sẽ không gây ảnh hưởng tới nhu cầu giải trí chung của những người có niềm đam mê với bóng đá. Mục đích chung nhất cả Bongdalive chính là đáp ứng tối đa nhu cầu của người dùng. Chính vì thế, khi đồng hành cùng với Bongdalive TV các bạn sẽ có thể dễ dàng nắm bắt được rất nhiều thông tin hữu ích có liên quan tới bóng đá như:. Hệ thống link xem trực tiếp bóng đá được cập nhật theo từng ngày với đầy đủ tất cả các trận đấu ở trong và ngoài nước. Tất cả những tin tức, thông tin có liên quan tới bóng đá đều được cập nhật đầy đủ và nhanh chóng. Đặc biệt là Lịch thi đấu, kết quả bóng đá, bảng xếp hạng, livescore, tỷ lệ kèo, soi kèo bóng đá…. Như vậy bài viết trên đã giúp bạn hiểu rõ về vai trò và chức năng của trọng tài biên bóng đá là gì? Hy vọng đây sẽ là những thông tin hữu ích giúp bạn có thêm nhiều kiến thức liên quan đến môn thể thao vua. Và đừng quên tiếp tục truy cập vào trang web Bongdalive TV chính là một trong những trang phát trực tiếp bóng đá uy tín và chất lượng hàng đầu tại thị trường Việt Nam hiện nay. Chúc các bạn có những trải nghiệm tuyệt vời nhất nhất cùng môn thể thao vua khi đồng hàng cùng chúng tôi!
Trọng tài (bóng đá)
Trọng tài là danh từ chỉ người điều khiển một trận đấu trong bóng đá. Trọng tài có những nhiệm vụ thực thi luật bóng đá để điều khiển trận đấu đã được giao, là người đưa ra quyết định cuối cùng về một tình huống nào đó mà không thể thay đổi hay phản đối được. Một trọng tài còn được nhận những sự hỗ trợ từ trợ lý trọng tài, và ở một số trận đấu chuyên nghiệp cũng có một trọng tài thứ tư và thậm chí là trọng tài thứ năm. Trọng tài thứ năm đầu tiên đã được giới thiệu bởi FIFA vào năm 2006. Các trọng tài được sử dụng những hệ thống định vị để giúp việc kiểm soát trận đấu. UEFA cũng đã sử dụng thêm những người giám sát trọng tài trong khu vực sân thi đấu để giúp giải quyết các sự cố như: bóng vượt qua vạch giới hạn, bóng có vượt qua vạch vôi hay không. Gần đây, công nghệ video hỗ trợ trọng tài (công nghệ VAR) đã được đưa vào sử dụng trong các trận đấu lớn. Giải vô địch bóng đá thế giới 2018 tại Nga là giải đấu World Cup đầu tiên áp dụng công nghệ này.
Vương thứ Mười Tám của Ai Cập cổ đại hay Vương triều thứ 18 (bắt đầu năm 1543 TCN – kết thúc 1292 TCN) là một vương triều pharaon nổi tiếng của Ai Cập cổ đại, với sự đạt đỉnh cao nhất về sức mạnh và lãnh thổ của nó. Vương triều thứ 18 có một số vị pharaon nổi tiếng, trong đó bao gồm vị Pharaon trẻ tuổi Tutankhamun – ngôi mộ của ông đã được tìm thấy bởi nhà khảo cổ học người Anh Howard Carter vào năm 1922, và các Pharaon khác như Akhenaton và Nữ hoàng Hatshepsut. Vương triều này cũng được biết đến với tên Vương triều Thutmosid nổi tiếng trong khoảng thời gian cai trị của bốn vị pharaon đầu tiên là các vua thuộc hoàng tộc của Thutmosis I. Vị Nữ hoàng nổi tiếng nhất của Vương triều thứ 18 là Hatshepsut (1479 TCN–1458 TCN), người ta cho rằng bà là một nữ pharaon người bản địa của Ai Cập, thuộc dòng họ của Akhenaten (1353-1336 TCN) và được cho là người đã kế vị Pharaon Nefertiti. Vương triều thứ 18 là vương triều đầu tiên của Thời kỳ Tân Vương quốc, là khoảng thời gian mà nền văn minh của Ai Cập cổ đại đã đạt đến đỉnh cao nhất. Xác định niên đại bằng cacbon-14 cho thấy Vương triều thứ 18 đã có thể đã bắt đầu một vài năm trước so với năm được thường ghi nhận là 1550 trước Công nguyên. Phương pháp xác định niên đại cho thấy thời gian bắt đầu vương triều là vào khoảng 1570-1544 trước Công nguyên, và trung bình là khoảng năm 1557 trước công nguyên. Các pharaon của Vương triều 18 cai trị trong khoảng 250 năm (từ 1550-1298 TCN). Thời gian trị vì và tên các pharaon trong bảng được lấy từ các nghiên cứu của Dodson và Hilton. Nhiều vị trong số các pharaon này được chôn cất trong Thung lũng các vị Vua tại các ngôi mộ xác định bởi tên “KVxx”. Nhiều thông tin, tài liệu cổ mới có ghi chép về niên đại, tên tuổi các pharaon được tìm thấy trong thung lũng và nhờ đó sơ đồ phả hệ cuối cùng đã được sắp xếp và tạo ra. Một số cuộc hôn nhân diễn ra với các quốc gia bên ngoài đã được biết đến ở thời kỳ Tân Vương quốc. Những công chúa của các vua nước ngoài thường được nhắc đến trong nhiều văn bản bằng chữ hình nêm. Các cuộc hôn nhân ấy đã cho thấy rằng vào thời kỳ này đã có một mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp giữa các vương triều Ai Cập với các nước láng giềng. Tượng đầu của một người thuộc Vương triều thứ Mười tám, vương triều Vua từ 1539-1493 TCN,37.38 E, Bảo tàng Brooklyn. vương triều 18 đã được sáng lập bởi Ahmose I, anh trai hay con trai của Kamose, người cai trị cuối cùng của vương triều XVII. Ahmose hoàn thành chiến dịch để trục xuất những người Hyksos đang cai trị. vương triều của ngài được xem như là sự kết thúc của Giai đoạn Trung Gian thứ Hai và sự bắt đầu của thời kỳ Tân Vương quốc. Ahmose được kế thừa bởi con trai của ông Amenhotep I, vương triều này tương đối yên lặng. Amenhotep I có lẽ không có con trai để trở thành người thừa kế và tiếp theo sau ông là pharaon Thutmosis I, dường như có liên quan đến gia đình hoàng gia qua hôn nhân. Trong suốt vương triều của mình, biên giới của Ai cập đạt độ lớn nhất, họ mở rộng mở rộng lãnh thổ của mình về phía bắc Carchemish, trên sông Euphrates và Kurgus ở phía nam. Quyền lực của Thutmosis I tương đương với Thutmosis II và nữ hoàng của mình là Hatshepsut. Bà là con gái của Thutmosis I và ngay sau cái chết của chồng, bà đã cai trị hơn hai mươi năm sau khi pharaon mất, bà là một trong những người con thuộc dân tộc thiểu số, người mà sau này sẽ trở thành như là một nữ pharaon. Thutmosis III sau này trở thành người được gọi là vị pharaon vĩ đại nhất lịch sử, cũng đã cai trị trong một thời gian dài trong Vương triều sau khi pharaon Thutmosis II mất. vương triều của Amenhotep III được xem như là một điểm cao trong vương triều này. Amenhotep III đã thực hiện rất nhiều các công trình xây dựng mới với quy mô lớn, đạt mức độ mà chỉ có thể so sánh được với những người trong thời đại của Ramesses II. Amenhotep III có thể đã nhường ngai vàng trước 12 năm cho con trai mình Amenhotep IV, người đã thay đổi tên của mình thành Akhenaten. Có nhiều cuộc tranh luận về đề nghị đổi tên này. Trong năm thứ năm của vương triều, Amenhotep IV thay đổi tên của mình là Akhenaten và di chuyển thủ đô đến Amarna. Trong suốt vương triều của Akhenaten, Aten – sundisk – lần đầu tiên trở thành vị thần nổi bật nhất, và cuối cùng Aten được coi là chúa. Việc này nổi lên thực sự là độc thần để tiếp tục là chủ đề của các cuộc tranh luận trong cộng đồng khoa học. Một số người cho rằng Akhenaten tạo ra một vị thần trong khi những người khác cho rằng ông bị sự chi phối năng lượng mặt trời và giáo phái, bởi khẳng định của người khác, trong khi ông không bao giờ hoàn toàn bị bỏ rơi một số truyền thống khác của các vị thần. Sau thời Ai Cập gọi là Amarna, thời gian của người là không may sai. Các sự kiện sau cái chết của Akhenaten vẫn chưa rõ ràng. Một vài cá nhân tên là Smenkhare và Neferneferuaten đã được biết, các nhà khảo cổ chỉ biết nhưng vị trí và vai trò trong lịch sử của 2 người vẫn còn nhiều tranh cãi. Tutankhamun là pharaon cuối cùng đã lên ngôi và chết khi còn rất trẻ. Hai thành viên cuối cùng của Vương triều thứ Mười Tám là Ay và Horemheb, họ đã cai trị và trở thành vua từ một chức quan trong triều đình. Ay có thể đã kết hôn với một góa phụ của Tutankhamun nhưng bà ấy không sống được lâu sau đó. Ay trị vì trong thời gian khá ngắn. Người kế thừa sau ông là Horemheb, một vị tướng trong suốt vương triều của vua Tutankhamun, khi Ay không có con để dự định như là người kế nhiệm của mình. Horemheb có thể cướp ngai vàng từ Ay trong một cuộc đảo chính. Horemheb đã qua đời khi ông không có một người con nào và bổ nhiệm người thừa kế ông là Ramesses I. Ông đã lên ngôi vào năm 1292 trước công nguyên, và là vị pharaon đầu tiên của Vương triều thứ Mười chín. Ahmose-Nefertari là con của Seqenenre Tao II, thuộc Vương triều thứ 17. Anh của cô là Ahmose, đã trục xuất người Hyksos ra khỏi lãnh thổ của Ai Cập, và bà ấy đã trở thành một nữ hoàng của Tân Vương quốc. Bà đã được phong là một vị thần sau khi qua đời. Ahmose I. Ông được cho là người sáng lập ra Vương triều thứ 18 và ông là anh trai của Kamose, vị pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 17. Trong suốt triều đại của ông, ông đã trục xuất người Hyksos từ Hạ Ai Cập và đưa đến khu vực đồng bằng sông Nile dưới sự kiểm soát của ông. Ông cũng đã thống nhất về chính trị của Ai Cập một lần nữa. Amenhotep I đã lấy được ngai vàng sau khi hai anh em trai của ông chết. Ông là con trai của Ahmose và Ahmose-Nefertari. Ông đã thành công bởi Thutmosis I đã kết hôn với con gái của ông, Ahmose. Amenhotep I với mẹ của mình, Ahmose-Nefertari. Cả gia đình hoàng gia được ghi chép với việc mở một ngôi làng của người thợ tại Deir el-Medina. Dier el-Medina đặt các nghệ nhân và công nhân xây dựng các ngôi mộ của các pharaon ở Thung lũng các vị Vua, từ Vương triều thứ 18 đến Vương triều thứ 21. Amenhotep I và mẹ của mình đã được phong là những vị thần và là các vị thần chính của ngôi làng. Thutmosis I là một người làm việc trong quân đội, ông lên nắm quyền bằng cách kết hôn với em gái của Amenhotep I. Trong vương triều của ông, ông đã mở rộng biên giới của Ai Cập đến Nubia và Levant. Ông được ghi nhận với việc bắt đầu xây dựng các dự án mà những gì bây giờ là Ngôi đền Karnak. Một bản phác thảo từ một đền thờ của Thutmosis II. Ông được coi là một người cai trị yếu đuối, ông đã kết hôn với em gái của mình là Hatshepsut. Ông đã đặt tên cho Thutmosis III, con trai ông làm người kế nhiệm để ngăn chặn việc Hatshepsut đoạt lấy ngai vàng. Họ đã có một người con gái là Neferure. Hatshepsut là con gái của Thutmose II, bà cai trị vương quốc cùng chồng của mình là Thutmosis III. Bà đã lên ngôi sớm và tuyên bố mình là nữ pharaon đầu tiên mặc dù có thể đã từng có những người cai trị là nữ khác trước thời của bà. Bà là người nữ duy nhất sử dụng các biểu tượng có hình râu. Thutmosis III, một người từng làm trong quân đội và là một thành viên của gia đình hoàng gia Thutmosid thường được gọi là “Napoleon của Ai Cập”. Cuộc chinh phục Levant của ông đã mang lại một diện tích lãnh thổ rộng lớn và tầm ảnh hưởng của Ai Cập đến mức độ cao nhất từ trước đến giờ. Akhenaten, lúc sinh tên là Amenhotep IV, người đã bắt đầu một cuộc cách mạng tôn giáo, trong đó ông tuyên bố Aten là một vị thần tối cao và quay lưng lại với những truyền thống cũ. Ông đã tự đổi tên của mình thành Akhetaten. Công việc của bà trong cuộc sống hàng ngày là tại các tòa án được mở rộng sớm từ Đại Hoàng hậu. Bà ấy cũng có thể đã cai trị Ai Cập với quyền riêng của mình như là một pharaon, Neferneferuaten. Nữ hoàng Meritaten, là con gái lớn nhất của Akhenaten và Nefertiti. Bà là vợ của Smenkhkare. Bà cũng có thể đã cai trị Ai Cập với quyền riêng của mình như là một pharaon và là một trong những ứng cử viên có thể trở thành pharaon, Neferneferuaten. Trên đây là 2 trẻ em, họ là hai trong số sáu người con gái của Akhenaten và Nefertiti. Có thể Neferneferuaten Tasherit là một trong những người có thể đã cùng người cha cai trị vương quốc như là một vị pharaon nữ. Smenkhkare, là người đã cùng Akhenaten trị vì đất nước sau khi ông chết. Người ta tin rằng Smenkhkare là một người nam thay thế trị vì cho Nefertiti, và nó đã được chấp nhận vì Smenkhkare là một nam giới. Ông lấy vợ là Meritaten, con gái con gái của nữ hoàng Nefertiti.
Vương triều thứ Nhất của Ai Cập
Vương triều thứ Nhất của Ai Cập cổ đại (hoặc vương triều thứ Nhất, ký hiệu: Triều I) bao gồm một loạt các vị vua Ai Cập đầu tiên đã cai trị một vương quốc Ai Cập thống nhất. Nó được thiết lập ngay sau khi diễn ra quá trình thống nhất Thượng và Hạ Ai Cập, có thể được tiến hành bởi Narmer, và đánh dấu sự bắt đầu giai đoạn Sơ kỳ vương triều của Ai Cập, vào thời kỳ này trung tâm quyền lực nằm tại Thinis. Niên đại của thời kỳ này luôn là đề tài trong các cuộc tranh luận học thuật về phạm vi của bảng niên đại Ai Cập cổ đại. Nó rơi vào giai đoạn đầu thời kỳ đồ đồng và được ước tính theo nhiều cách khác nhau là đã bắt đầu trong giai đoạn từ thế kỷ 34 tới thế kỷ thứ 30 trước Công nguyên. Theo một nghiên cứu vào năm 2013 bằng đồng vị phóng xạ, thời điểm bắt đầu vương triều thứ nhất (lúc Hor-Aha lên ngôi) được xác định là khoảng năm 3150 TCN (trong khoảng 3218-3035 TCN với độ tin cậy 95%).
Tự do, theo triết học, liên quan đến ý chí tự do so với thuyết quyết định. Theo Oxford English Dictionary, tự do là "thực tế của việc không bị kiểm soát bởi một thế lực đối với số phận; ý chí tự do".Trong chính trị, tự do bao gồm các quyền tự do xã hội và tự do chính trị mà tất cả các thành viên cộng đồng xã hội được hưởng và là tự do dân sự.Trong thần học, tự do là tự do khỏi những ảnh hưởng của "tội lỗi, tâm lý nô lệ, hoặc mối quan hệ ràng buộc với thế gian". Tự do luôn là một khái niệm bí ẩn và trừu tượng đối với con người. Đúng như tên gọi, tự do không chịu khuôn mình vào bất kỳ chiếc khung nào, ngay cả trong những nỗ lực của các nhà triết học, các nhà khoa học ở mọi thời đại nhằm mô tả và lý giải khái niệm tự do. Có lẽ vì thế, cho đến nay, tự do là cái gì đó quen thuộc mà vẫn xa lạ đối với con người. Nhận thức của nhân loại về tự do mới chỉ dừng lại ở những phát hiện của các nhà triết học thời kỳ Khai sáng. Trong khi đó, với tư cách là một đối tượng triết học quan trọng, bên cạnh những nội dung nguyên thuỷ, khái niệm tự do vẫn đang không ngừng vận động và ngày càng chứa đựng thêm nhiều nội dung mới. Tự do vừa là bản chất tự nhiên, vừa là khát vọng thường trực của mỗi người. Ai cũng yêu tự do, ai cũng khao khát tự do. Tự do mạnh mẽ và vĩ đại ở chỗ tìm kiếm nó trở thành bản năng sống còn của con người. Càng thiếu tự do, con người càng khao khát tự do, giống như sự thèm muốn bị thôi thúc bởi cơn khát khi không có nước. Chính vì thế, không một con người nào yên phận sống trong sự nô dịch của người khác và không một dân tộc nào cam chịu sống trong sự kìm kẹp của dân tộc khác. Các cuộc kháng chiến chính là để giải phóng con người ra khỏi sự nô dịch và kiềm toả. Sự mãnh liệt của khát vọng tìm kiếm tự do là một trong những tiêu chuẩn để đo đạc sự lành mạnh của một dân tộc. Tự do là một khái niệm nhiều chiều, nhiều thành tố. Con người có thể nhận thức, chiêm nghiệm những khía cạnh của tự do như một khái niệm ở tầng cao triết học, chính trị học nhưng không chỉ có thế, con người còn có thể cảm nhận được tự do một cách sinh động, hàng ngày, thông qua các cảm giác của mình. Trong tâm hồn con người luôn luôn hiện hữu những cảm giác của tự do. Đó là tình yêu tự do bản năng, là cảm hứng sáng tạo, là danh dự, là hạnh phúc. Như đã nói ở trên, con người thường chỉ nhận ra tự do khi vướng phải ranh giới của sự thiếu tự do. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là khát vọng về tự do không thường trực trong mỗi người. Tự do có thể không hiện hữu ở tất cả mọi nơi nhưng tình yêu đối với tự do bao giờ cũng tồn tại trong con người như một bản năng. Có thể tình yêu tự do được thể hiện mạnh mẽ ở người này, cũng có thể ở trạng thái “ngủ” hay chưa được đánh thức ở người kia, nhưng con người nói chung luôn khao khát tự do một cách bản năng. Điều này cũng giống với việc không chỉ những người biết chơi cờ mà ngay cả những người không biết chơi cờ vẫn đến tham dự một cách hồ hởi vào những ngày hội đấu cờ. Bởi lẽ, mặc dù không phải là người chơi cờ nhưng con người luôn cảm thấy niềm vui khi được thưởng thức cảm giác tự do của việc đánh cờ trong một bàn cờ đầy quy tắc. Xã hội dân chủ cũng giống như một bàn cờ, đó là một xã hội tự do và đầy cảm hứng trong mối tương quan với những quy tắc hợp lý và thống nhất. Tuy nhiên cũng cần nói thêm, nếu coi niềm vui là cảm giác có được khi đi những nước cờ đầy tự do và sáng tạo mà không hề vi phạm những quy tắc chơi cờ thì không chỉ những người dân trong xã hội dân chủ, mà ngay cả người dân ở những xã hội chưa có nền dân chủ cũng cảm thấy được niềm vui đó. Bởi vì tình yêu tự do bản năng chính là mối liên hệ ngầm giữa những con người lành mạnh. Đôi khi con người cũng nổi hứng tự do, đó là lúc cái bản năng tự do không được kiểm soát, nó trỗi dậy một cách phung phí. Hoặc có khi, tự do bị tước đoạt khiến con người có những phản ứng, đó là phản ứng trước sự thiếu tự do hay sự yếm khí của con người. Nhưng phải đến khi con người thực sự đi tìm kiếm tự do thì tự do mới trở thành lý tưởng, thành động lực của con người. Vì thế, không phải ngẫu nhiên những vần thơ hay nhất về tự do lại được cất lên trong ngục tù và những nhà thơ tự do đồng thời là những chiến sĩ của tự do như Sandor Petofi, Nazim Hikmet. Sandor Petofi đã viết lên những câu thơ, những bài thơ chứa đựng sự rung cảm sâu sắc trong điều kiện thiếu tự do:. Nói chung, tự do ở đây được đề cập như một quyền lợi, khái niệm theo triết học và chính trị, là khác biệt với trạng thái hoặc khả năng tự do trong đó chủ yếu, nếu không phải là độc nhất, tình trạng tự do là khả năng tự quyết, làm theo một ý chí và điều gì có quyền làm; trong khi quyền tự do liên quan đến việc không có những hạn chế tùy tiện và xem xét các quyền của tất cả những người có liên quan. Như vậy, việc thực hiện quyền tự do là tùy thuộc vào khả năng và giới hạn trong tương quan bởi quyền của những người khác. Quyền tự do theo quan điểm của những người theo chủ nghĩa tự do truyền thống chủ yếu là tự do của cá nhân khỏi sự ép buộc từ bên ngoài. Quan điểm của các nhà tự do xã hội đề cập nhu cầu về sự bình đẳng xã hội và kinh tế. Họ gắn kết quyền tự do với sự phân phối công bình quyền lực chính trị (dân chủ) xét trong mặt nghĩa của tự do tích cực. Họ cho rằng tự do mà không có bình đẳng thì tương đương với việc những kẻ mạnh nhất sẽ chiếm thế chi phối. Do đó, tự do và dân chủ được xem là cặp đôi gắn bó và rốt cuộc là tương phản nhau.
Dân chủ tự do
Dân chủ tự do là một thể chế nhà nước. Đây là một hình thức dân chủ đại nghị nơi mà thẩm quyền của các đại diện dân chủ được bầu ra thực thi quyền ra quyết định phụ thuộc vào nền pháp trị và thường được hiến pháp tiết chế. Hiến pháp nhấn mạnh sự bảo vệ quyền và tự do của các cá nhân và ràng buộc các nhà lãnh đạo. Các quyền và quyền tự do được hiến pháp của nền dân chủ tự do bảo vệ rất đa dạng, nhưng thường gồm những dạng chính sau đây: quyền xử lý theo trình tự luật (due proces of law), quyền riêng tư, quyền sở hữu tài sản và quyền bình đẳng trước pháp luật, và quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội và tự do tôn giáo. Ở các nền dân chủ tự do, các quyền (tự do) này thường được đảm bảo theo hiến pháp, hoặc được tạo nên bởi luật pháp hay luật tố tụng mà có thể các luật đó có thể làm cho các cơ quan dân sự khác nhau có quyền để quản lý hay thực thi các quyền này. Các nền dân chủ tự do cũng có đặc trưng là sự khoan dung và đa nguyên; các quan điểm chính trị và xã hội khác, ngay cả đối với những quan điểm cực đoan được cho phép cùng tồn tại và cạnh tranh cho quyền lực chính trị trên nền tảng dân chủ.
Một sự lựa chọn bao giờ cũng phải chịu một chi phí nhất định. Và trong thực tế, mọi hoạt động, công việc của chúng ta diễn ra đều phải có sự tính toán, lựa chọn. Đó được gọi là chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là một khái niệm hữu ích được sử dụng trong lí thuyết về sự lựa chọn. Nó được vận dụng rất thường xuyên và rộng rãi trong đời sống kinh tế. Chi phí cơ hội dựa trên cơ sở là nguồn lực khan hiếm, nên buộc chúng ta phải thực hiện sự lựa chọn.Lựa chọn, tức là thực hiện sự đánh đổi, là để nhận được một lợi ích nào đó buộc chúng ta phải đánh đổi, hoặc bỏ qua một chi phí nhất định cho nó.Như vậy, chi phí cơ hội của một phương án được lựa chọn là giá trị của phương án tốt nhất bị bỏ qua khi thực hiện sự lựa chọn đó (và là những lợi ích mất đi khi lựa chọn phương án này mà không lựa chọn phương án khác, phương án lựa chọn khác có thể tốt hơn phương án đã chọn).Do quy luật về sự khan hiếm nên luôn tồn tại sự đánh đổi khi thực hiện các sự lựa chọn.Hay nói cách khác, chi phí cơ hội luôn tồn tại. Chẳng hạn,em xem xét quyết định liệu có nên tiếp tục học đại học không? Hiện tại, em đang là sinh viên năm thứ hai trường đại học Luật Hà Nội, em có thể tiếp tục học hoặc dừng học. Lợi ích của việc học tiếp là làm giàu thêm kiến thức và có những cơ hội làm việc tốt hơn trong tương lai. Nhưng chi phí của học tiếp là gì? Nếu dừng học và đi làm, em có thể đủ thu nhập để ổn định cuộc sống, đi du lịch và có nhiều thời gian giao lưu với bạn bè. Nếu học tiếp em sẽ không có những thứ ấy. Em có thể có những thứ ấy sau này và đó chính là sự hi sinh từ việc học tiếp. Tuy nhiên, mọi chi phí cho sinh hoạt, đóng học phí và mua tài liệu đều do gia đình chu cấp và không có tiền đi du lịch. Ôn bài, đọc tài liệu tham khảo, làm bài tập về nhà có nghĩa là em còn ít thời gian để giao lưu bạn bè. Chi phí cơ hội của việc học tiếp là phương án thay thế có giá trị nhất mà em có thể làm nếu em dừng học. Cơ sở khoa học cho sự lựa chọn là người ta cân nhắc, so sánh những lợi ích thu được do sự lựa chọn đó đem lại với chi phí tính theo giá trị của phương án tốt nhất bị bỏ qua.
Chi phí cơ hội
Chi phí cơ hội được định nghĩa như phần thu nhập mất đi do đã không lựa chọn một cơ hội đầu tư khác. Chi phí cơ hội là một khái niệm hữu ích được sử dụng trong lý thuyết lựa chọn. Nó được vận dụng rất thường xuyên và rộng rãi trong đời sống kinh tế. Chi phí cơ hội dựa trên cơ sở là nguồn lực khan hiếm nên buộc chúng ta phải thực hiện sự lựa chọn. Lựa chọn tức là thực hiện sự đánh đổi, tức là để nhận được một lợi ích nào đó buộc chúng ta phải đánh đổi hoặc bỏ qua một chi phí nhất định cho nó. Như vậy, chi phí cơ hội của một phương án được lựa chọn là giá trị của phương án tốt nhất bị bỏ qua khi thực hiện sự lựa chọn đó (và là những lợi ích mất đi khi chọn phương án này mà không chọn phương án khác; Phương án được chọn khác có thể tốt hơn phương án đã chọn). Do quy luật về sự khan hiếm nên luôn tồn tại những sự đánh đổi khi thực hiện các sự lựa chọn. Hay nói cách khác, chi phí cơ hội luôn tồn tại.
Cuộc sống ngày càng phát triển, chúng ta luôn cố gắng vươn đến những giá trị to lớn, hoàn mỹ để có cơ hội thể hiện bản thân ở tầm cao mới. Thông qua quy mô, cách tổ chức sự kiện bài bản, chuyên nghiệp. Chủ nhân của sự kiện sẽ cho thấy được đẳng cấp và cá tính riêng, tạo dựng hình ảnh đẹp và khẳng định được vị thế trong lĩnh vực hoạt động. Vậy bạn đã thật sự hiểu tổ chức sự kiện là gì và làm thế nào để triển khai một chương trình hoạt động trơn chu? Cùng xem bài viết hữu ích dưới đây từ Asiana Plaza. Quy trình tổ chức sự kiện cơ bản6.1. Giai đoạn trước khi bắt đầu sự kiện6.2. Giai đoạn chạy sự kiện6.3. Giai đoạn sau sự kiện6.4. Giải quyết các vấn đề sau sự kiện. Các lưu ý để có một buổi sự kiện thành công7.1. Xác định địa điểm tổ chức sự kiện7.2. Gửi thư mời kèm thông điệp7.3. Bám sát kế hoạch đã đề ra7.4. Làm việc thông minh7.5 Chú ý các chi tiết nhỏ7.6. Luôn có kế hoạch thứ 2 cho mọi tình huống7.7. Trang bị 1 vài vật dụng nhỏ7.8. Theo sát khách hàng7.9. Chi tiêu trong khả năng. Trước khi tìm hiểu tổ chức sự kiện là gì? tổ chức sự kiện bao gồm những gì? chúng ta cùng tìm hiểu về khái niệm sự kiện. Sự kiện là một hoạt động có chủ đích được diễn ra tại thời điểm cụ thể, địa điểm cụ thể do một cá nhân hay tổ chức làm chủ. Thông qua sự kiện, một thông điệp, ý nghĩa nào đó sẽ được gửi đến những người tham gia. Theo tùy từng quan niệm khác nhau, mỗi người lại có cách định nghĩa về sự kiện khác nhau. Vậy trên thực tế thì sự kiện bao gồm những hoạt động nào? Theo từ điển, những việc có ý nghĩa quan trọng xảy ra gây ảnh hưởng đến đời sống con người, xã hội mới được gọi là sự kiện. Ví dụ như thi hoa hậu, khai mạc tuần lễ du lịch biển, sự kiện thể thao,…. Tuy nhiên hiện nay, quan niệm về sự kiện đã được mở rộng, Không chỉ là những hoạt động cộng đồng có quy mô lớn mà còn bao hàm cả những hoạt động mang ý nghĩa cá nhân hay cộng đồng trong phạm vi hẹp. Ví dụ cưới hỏi, sinh nhật, hội nghị công ty, hội chợ, giới thiệu sản phẩm, triển lãm, khai trương,…cũng được xem là sự kiện. Tổ chức sự kiện là gì?Vậy khái niệm tổ chức sự kiện là gì? Đây là quá trình tổ chức, thực hiện những hoạt động sẽ xảy ra trong sự kiện. Quá trình từ lúc bắt đầu hình thành cho đến khi kết thúc để đảm bảo toàn bộ chương trình được diễn ra theo kế hoạch. Từ đó khiến công chúng được truyền đạt đầy đủ những nội dung mà đơn vị chủ quản muốn gửi đến. Ở những nước phát triển, tổ chức sự kiện được xem như một ngành nghề riêng. Tại Việt Nam, hình thức này cũng đang phát triển rất mạnh và ngày càng thể hiện rõ tính chuyên nghiệp. Tổ chức sự kiện bao gồm rất nhiều các lĩnh vực như:. Giúp doanh nghiệp, cá nhân thu hút sự quan tâm của truyền thông và công chúng. Đây là một hình thức marketing nhằm quảng bá sản phẩm, dịch vụ và đưa đơn vị tiếp cận gần hơn với khách hàng. Giúp các đơn vị kinh doanh nâng cao nâng số bán hàng và mang đến những tác động hiệu quả đến doanh thu. Giúp người tiêu dùng tiếp cận tốt hơn đến những sản phẩm và dịch vụ mình đang quan tâm. Từ đó có sự lựa chọn hợp lý và phù hợp với nhu cầu. Mục đích của việc tổ chức một sự kiện chính là kết quả mà đơn vị đầu tư và đơn vị tổ chức muốn hướng đến. Ba mục đích chính mà sự kiện muốn hướng đến bao gồm:. Hỗ trợ cho các chiến dịch quảng cáo, truyền thông. Từ đó giúp xây dựng, phát triển hình ảnh của thương hiệu, sản phẩm, dịch vụ hay con người. Tác động vào nhận thức của công chúng, là những khách hàng tiềm năng về đối tượng mà sự kiện muốn hướng đến. Phát triển và tận dụng hiệu ứng của truyền thông lên mức tối đa. Từ đó lấy được sự đồng cảm, ủng hộ của người xem. Bên cạnh đó, trả lời cho câu hỏi “mục đích của tổ chức sự kiện là gì?” thì sự kiện còn hỗ trợ các kênh bán hàng, quảng cáo trực tiếp cho sản phẩm dịch vụ hay triển khai đường lối chính sách. Chung quy lại, mục đích chính vẫn là để doanh nghiệp hoặc đơn vị tổ chức có thể tiếp cận nhiều hơn đến đối tượng mà sự kiện muốn hướng tới. Trước khi bắt đầu sự kiện, chuyên viên tổ chức sự kiện cần tìm hiểu và chuẩn bị trước nhiều vấn đề. Các yếu tố có thể tác động đến sự thành công của sự kiện đó. Thực hiện chiến dịch quảng bá thông qua truyền thông khiến nhiều người biết đến. Lắp đặt các thiết bị âm thanh ánh sáng và kiểm tra lại hoạt động lần cuối. Quản lý và điều hành diễn biến chính, phục vụ ăn uống, lưu trú và vận chuyển trong sự kiện. Tạo mối quan hệ tốt với những nhà cung cấp trang thiết bị và các dịch vụ bổ trợ trong sự kiện. Chăm sóc khách hàng để mang lại dịch vụ tốt nhất khiến khách hàng tìm đến bạn lần sau. Một vấn đề sau sự kiện cần được giải quyết đó là tài chính và khả năng quản lý những khoản chi phí của sự kiện. Bên cạnh đó là việc phải đối mặt với khủng hoảng và tìm cách giải quyết hợp lý để tránh trường hợp rủi ro xảy ra vào những lần tổ chức sau này. Các lưu ý để có một buổi sự kiện thành côngMặc dù không ai muốn nhưng trong ngành tổ chức sự kiện cũng không thể tránh khỏi việc gặp những khó khăn trong quá trình thực hiện. Người quản lý tốt sẽ biết cách đối mặt và đưa ra phương án giải quyết phù hợp. Vậy những lưu ý để có được sự thành công khi tổ chức sự kiện là gì?. Tùy theo tính chất và quy mô sự kiện mà bạn có thể cân nhắc chọn địa điểm tổ chức phù hợp. Tham khảo qua bảng thông tin mà Asiana Plaza tổng hợp dưới đây. – Có không gian chuyên nghiệp và sang trọng, phù hợp tổ chức hội nghị hay hội thảo. – Có thể gây nên một số bất tiện cho người tham dự bảo một số địa chỉ không có lối đi riêng cho mục đích tham dự hội nghị hay hội thảo. – Không gian rộng rãi thích hợp cho những sự kiện có đông đảo người tham gia. – Không có các dịch vụ kèm theo miễn phí. Mọi hoạt động đều được tính vào chi phí. – Ban tổ chức có thể phải sắm thêm nhiều trang thiết bị để thuận tiện cho sự kiện của mình. – Phong cách chuyên nghiệp, làm việc tận tình và có đội ngũ kỹ thuật viên thành thạo. – Cần lưu ý về vấn đề chỗ ngồi, các thiết bị âm thanh ánh sáng. – Một số trung tâm nhỏ có thể không ở khu vực trung tâm nên gây ra một số bất tiện trong quá trình di chuyển của quan khách. – Có đội ngũ nhân sự giúp bạn lên kế hoạch, ý tưởng chi tiết và cụ thể cho sự kiện của mình. – Một số địa điểm không ở trung tâm nên có thể di chuyển khó khăn. Sau khi xác định được địa điểm, bước tiếp theo cần triển khai đó chính là gửi thư mời đến khách hàng, đối tác. Nội dung thư cần thể hiện được những yếu tố cụ thể bao gồm: tên sự kiện là gì? Đơn vị nào tổ chức? Thời gian và địa điểm ở đâu? Chương trình được tổ chức với các bước như thế nào?. Một bản kế hoạch chi tiết cần được thực hiện tỉ mỉ trước khi bắt đầu sự kiện. Có như vậy mới đảm bảo được sự thành công của chương trình. Khi đã có trong tay kế hoạch, việc cần thiết là thực hiện theo đúng những gì đã được đề ra. Thay đổi về phút chót có thể ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình diễn ra của sự kiện. Đội ngũ chịu trách nhiệm tổ chức sự kiện phía doanh nghiệp cần chuẩn bị những kế hoạch làm việc thông minh để sự kiện được diễn ra hoàn hảo nhất. Các thông tin khách hàng nên được lưu vào file riêng để thuận tiện sử dụng trong và sau quá trình tổ chức. Với mỗi khách hàng, nên chuẩn bị bảng tên, thẻ địa điểm để gửi trong chương trình và thư cảm ơn khi sự kiện kết thúc. Rất nhiều người không quan tâm đến các chi tiết nhỏ khiến sự kiện không được diễn ra tốt đẹp. Đôi khi những điều này sẽ ảnh hưởng đến cả một quá trình hay chất lượng các hoạt động. Ví dụ khi tổ chức một buổi lễ dành cho những người theo đạo, hãy lưu tâm đến tín ngưỡng cũng như những điều kiêng kị…. Bởi không ai có thể biết trước được những vấn đề xấu có thể xảy ra khi tổ chức sự kiện là gì. Kế hoạch B có thể sẽ không khiến hoạt động hoàn hảo như ban đầu nhưng là phương án tốt nhất để hạn chế rủi ro. Một số đồ vật nhỏ có thể giúp ích cho khách hàng nên được trang bị. Đây chính là hành động thông minh và tinh tế; để khách hàng có ấn tượng tốt và luôn biết được rằng bạn luôn quan tâm đến họ. Băng dính hai mặt, kim chỉ hay kéo,… có thể không có tác dụng lớn nhưng sẽ hữu ích rất nhiều khi khách hàng cần. Giữ liên lạc thường xuyên với khách hàng để đảm bảo chương trình được diễn ra tốt nhất. Hãy liên hệ trước 2 đến 3 ngày để đảm bảo những khách mời quan trọng sẽ có mặt. Sau khi kết thúc sự kiện, nếu có thể nên gửi thư cảm ơn cùng một số bức hình khoảnh khắc đẹp của họ. Ekip thực hiện cần có sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa tất cả các bộ phận. Sử dụng bộ đàm, máy chiếu, camera, microphone,… sẽ giúp sự kiện có được sự thành công lớn nhất. Hãy sử dụng những thiết bị công nghệ để phục vụ tốt nhất cho chương trình của bạn. Một tuyệt chiêu nữa trong việc nâng cao hiệu quả tổ chức sự kiện là gì? Đó chính là chi tiêu trong khả năng và hạn chế ngân sách. Tuy nhiên vẫn cần đảm bảo chất lượng cho khách hàng. Hãy thương lượng với các đơn vị phân phối để thống nhất về giá. Nhiều khoản tiết kiệm nhỏ sẽ giúp bạn tiết kiệm kha khá ngân sách. Vì sao nên chọn tổ chức sự kiện tại các trung tâm hội nghị?Với khả năng lên kế hoạch và triển khai sự kiện. Cùng không gian sức chứa đa dạng quy mô khách mời cũng như kiến trúc phù hợp với nhiều tính chất. Các trung tâm hội nghị chính là điểm đến lý tưởng cho mọi sự kiện. Tại TP.HCM, Asiana Plaza chính là địa chỉ được nhiều khách hàng doanh nghiệp tin tưởng trong nhiều năm qua. Asiana Plaza có 2 cơ sở tại trung tâm thành phố với nhiều sảnh tiếp đón, quy mô sự kiện khác nhau. Khách hàng có thể di chuyển dễ dàng tới bất cứ chi nhánh nào mà không gặp khó khăn gì. Trung tâm có lối kiến trúc chiết trung, hiện đại, phù hợp thị hiếu và phong cách sống đẳng cấp. Tùy từng nhu cầu về tính chất sự kiện, thẩm mỹ khách mời,… mà bạn có thể chọn sảnh tiệc được bài trí theo nhiều phong cách khác nhau. Tất cả các sảnh đón tiếp điều được bố trí hệ thống âm thanh ánh sáng đạt tiêu chuẩn chất lượng. Với hình ảnh sắc nét, âm thanh sinh động cùng lối bài trí chuyên nghiệp, mọi ý tưởng của bạn sẽ được triển khai hoàn hảo và chi tiết nhất. Chắc chắn điều này sẽ để lại những ấn tượng tốt trong lòng quan khách. Đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp sẽ phối hợp chặt chẽ với ban tổ chức khiến khách hàng hài lòng. Bên cạnh đó, Asiana Plaza có đa dạng gói ẩm thực phù hợp cho mọi tính chất của sự kiện như: Buffet, Teabreak hay Finger Food. Các món ăn tuy nhỏ nhưng đều được chú trọng tỉ mỉ từ khâu chọn nguyên liệu, chế biến đến bài trí.
Sự kiện va chạm
Sự kiện va chạm / sự kiện tác động là sự va chạm giữa các thiên thể gây ra những ảnh hưởng có thể đo lường được. Sự kiện va chạm có hậu quả vật lý và đã được tìm thấy thường xuyên xảy ra trong các hệ hành tinh, mặc dù thường xuyên nhất liên quan đến các tiểu hành tinh, sao chổi hoặc thiên thạch và có tác động rất nhỏ. Khi các vật thể lớn va chạm vào các hành tinh đất đá như Trái Đất, có thể có những hậu quả vật lý và sinh học quan trọng, mặc dù bầu khí quyển giảm thiểu nhiều tác động bề mặt thông qua quá trình xâm nhập vào khí quyển. Các miệng hố và cấu trúc tác động là địa hình thống trị trên nhiều vật thể rắn của Hệ Mặt Trời và đưa ra bằng chứng thực nghiệm mạnh nhất về tần suất và quy mô của chúng. Các sự kiện va chạm dường như đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của Hệ Mặt Trời kể từ khi hình thành. Các sự kiện tác động lớn đã định hình đáng kể lịch sử Trái Đất, có liên quan đến sự hình thành hệ thống Mặt Trăng-Trái Đất, lịch sử tiến hóa của sự sống, nguồn gốc của nước trên Trái Đất và một số sự kiện tuyệt chủng hàng loạt.
Khi giáo hoàng Phanxicô phong thánh cho các giáo hoàng Gioan XXIII và Gioan-Phaolô II vào ngày chủ nhật tới (27 tháng 4), giáo hữu Công giáo trên khắp thế giới sẽ có lý do để ăn mừng. Người theo phái tự do công nhận Đức Gioan XXIII đã mở Giáo hội ra với thế giới hiện đại trong thập niên 1960, những người theo bảo thủ sẽ tôn vinh Đức Gioan- Phaolô vì ngài đã tái xác nhận tính chính thống sau một thời gian quá nhiều đổi mới. Trong 500 năm đầu tiên Kitô giáo, tông đồ Phêrô (được xem là giáo hoàng đầu tiên) và 47 trong số 48 giáo hoàng kế vị ngài được xem là thánh, chủ yếu là vì quá nhiều người trong số này đã tử đạo, một con đường đơn giản nhất để phong hiển thánh. Trong 500 năm kế tiếp, có 30 giáo hoàng khác được phong thánh, phần lớn là do danh tiếng thánh thiện của các ngài. Nhưng theo lưu ý của Christopher Bellitto thuộc Đại học Kean, thì trong suốt 9 thế kỷ sau, chỉ có 3 giáo hoàng được phong thánh. Thời khô hạn này chỉ kết thúc khi giáo hoàng Piô X được phong thánh vào năm 1954, 40 năm sau ngày ngài mất. “Nếu bạn có quyền chọn lựa trong việc phong thánh cho các giáo hoàng, có lẽ thời gian chờ đợi nên lâu hơn một ít, 50 hay 100 năm, và không thể bác bỏ thời gian trì hoãn này được,” theo lời của Bellitto, một sử gia Giáo hội, người ủng hộ việc tạm ngừng phong thánh cho tất cả các giáo hoàng. Việc phong thánh kép này đã gợi lên những chỉ trích vốn không thường nhắm vào các vị thánh tương lai, và đặc biệt là hai giáo hoàng được tưởng nhớ và yêu mến hết mực này. Ngay sau khi qua đời vào năm 2005, Gioan-Phaolô đã được giáo dân xưng tụng là “Gioan-Phaolô Cả”, một danh hiệu chỉ dùng cho 2 hay 3 giáo hoàng trong suốt lịch sử. Và trong lễ an táng của ngài, nhiều giáo dân đã trương biểu ngữ đòi “Phong thánh ngay lập tức!” (Santo Subito!). Hơn một tháng sau, giáo hoàng Bênêđictô XVI đáp lại tình cảm dạt dào đó bằng việc bỏ qua thời gian5 năm, tiêu chuẩn chờ đợi trước khi xúc tiến án phong thánh đối với giáo hoàng Gioan-Phaolô II. Nhưng trong những năm gần đây, những hành động mơ hồ của giáo hoàng Gioan-Phaolô về các vụ tai tiếng xâm phạm tính dục của các giáo sĩ đã làm bớt đi uy tín di sản của ngài, vào ngày thứ ba vừa rồi, 22 tháng 4, các viên chức Vatican đã phải lên tiếng bảo vệ ngài trong một buổi họp báo về việc tôn vinh hai vị giáo hoàng này. Cùng lúc đó, một vài người bảo thủ cảm thấy buồn khi thấy “Giáo hoàng Tốt lành” hay Gioan XXIII, được phong thánh cùng một lần với Đức Gioan-Phaolô II, vì họ cho rằng di sản cải cách của Gioan XXIII đã làm xói mòn nghiêm trọng bản tính Công giáo. “Không thể nói đến chuyện phong thánh cho ngài được,” theo lời Roberto de Mattei, giáo sư lịch sử giáo hội tại Đại học Âu châu tại Rôma và là một người có uy tín trong phái cánh hữu Công giáo. Giờ đây, hầu hết giáo hoàng trong kỷ nguyên hiện đại, bắt đầu với Piô IX, giáo hoàng theo chủ trương truyền thống cực đoan của thế kỷ XIX, cho đến Piô XII (mất năm 1958), Phaolô VI và Gioan Phaolô I (trị vì trong chỉ 33 ngày năm 1978), đều đang trên đường được phong thánh. Các chuyên gia xem đó là tích hợp của nhiều yếu tố. Có người cho rằng, các giáo hoàng gần đây được cho là thánh thiện hơn các vua chúa, và đặc biệt tốt lành khi so sánh với vô số những người lừa lọc và hiếu chiến đã ngồi trên ngai giáo hoàng trong thời Phục hưng. “Xét theo mặt nào đó, họ là chứng tá cho đời sống Kitô giáo,” theo lời của Massimo Faggioli, một thần học gia tại Đại học thánh Tôma ở Minnesota và là tác giả quyển tiểu sử mới về giáo hoàng Gioan XXIII. Faggioli cho rằng, các giáo hoàng thời hiện đại “ít lệ thuộc vào các ràng buộc chính trị và xã hội của thế giới Công giáo Âu châu thời trước, một thời mà khi trở thành giáo hoàng, người ta phải thuộc một gia tộc hay liên minh thích hợp, và bạo lực hay tàn nhẫn hay gần như là một tội phạm chiến tranh chẳng có gì là quan trọng.”. Ông thêm rằng, các giáo hoàng được xem là các vị thánh hơn là người cai trị, giáo hoàng phải là mục tử của một giáo hội ‘cố gắng gần lại với tin mừng hơn là gần với Đế chế La Mã.’. Một yếu tố khác nữa là: Gioan Phaolô II rất tận tâm với các thánh, và ngài đã phong thánh cho 482 người trong suốt 27 năm trị vì, vượt xa con số khoảng 300 vị thánh được các giáo hoàng tôn phong trong suốt 6 thế kỷ trước cộng lại. Những người chỉ trích, họ buộc tội Gioan-Phaolô đã biến Vatican thành nhà máy “sản xuất thánh,” trong khi những người khác lại cho rằng ngài chỉ đơn giản là đang dân chủ hóa hệ thống mà thôi. Một chuyện nữa, là một vài giáo hoàng được hưởng lợi từ việc tăng con số phong thánh này, trong đó có cả chính Gioan-Phaolô. Nhưng một lý do chính cho sự chuyển mình này là từ thế kỷ XIX, các giáo hoàng đã trở thành trung tâm điểm của Công giáo, một vị thế chưa từng có trước đây. Giáo hoàng vừa là biểu tượng đức tin đối với thế giới bên ngoài và là người cầm cờ tiên phong trong Giáo hội. Nhưng, vấn đề là chiều hướng phong thánh cho tất cả các giáo hoàng có nghĩa là tiến trình phong thánh này có vẻ mang tính chính trị. Nó cũng dấy lên nguy cơ tập trung vào các giáo hoàng mà bỏ qua các ứng viên khác, vốn cũng được thừa nhận rộng rãi là thánh, như mẹ Têrêxa vẫn còn ở bậc chân phước. “Chúng ta có đề đạt phong thánh cho những khía cạnh trong đời sống của giáo hoàng mà chúng ta thích, nhưng lại nói khía cạnh đó không áp dụng với những người mà chúng ta không thích không? Và ai ra quyết định đó? “việc này đẩy cái kiểu tự quyền tự biến trong Công giáo trong lăng kính hệ tư tưởng lên một mức độ hoàn toàn mới”. Hơn nữa, tiến trình phong thánh có thể biến thành một dạng trao đổi lợi ích, khi giáo hoàng đương vị phong thánh cho những vị tiền nhiệm để mong về sau mình cũng sẽ được phong thánh. Bênêđictô XVI, người chưa được phong thánh vì còn sống, đã cấp kỳ mở án phong thánh cho Gioan- Phaolô, người đã làm việc cùng ngài suốt hơn 23 năm. Cuối cùng, xu thế này có thể thực sự đem lại kết quả trái với mong đợi nếu giáo dân xem tất cả mọi giáo hoàng đều sẽ tự động, hay ít nhất được xem là, thánh. Faggioli cho rằng, “giờ đây, hầu hết các thánh là ‘thánh thức ăn nhanh’ và họ nhanh chóng bị quên lãng. Chúng ta sẽ xem liệu những thánh giáo hoàng này có bị quên lãng hay không”.
Giáo hoàng đối lập
Giáo hoàng đối lập hay còn gọi là Giáo hoàng giả hoặc Ngụy Giáo hoàng (tiếng La Tinh: antipapa) là một người, trong phe đối lập với Giám mục của Rôma, giành được sự chấp nhận rộng rãi như một Giáo hoàng. Sự hiện diện của những người chống đối lại Giáo hoàng là một trong những hiện tượng lạ kỳ nhất trong lịch sử của Giáo hội. Hầu hết những người chống đối lại Giáo hoàng đều là những vị Hồng y có mưu đồ, các vị Hoàng Tử trần tục, đời thường hay tầng lớp quý tộc La Mã. Ngụy Giáo hoàng được định nghĩa là một người mạo nhận là đứng đầu Tòa thánh, chống lại Giáo hoàng đã được bầu lên đúng giáo luật. (tiếng Latin Antipapa được gộp từ Anti: chống + papa: Giáo hoàng). Có một số ngụy Giáo hoàng xuất hiện trong thời kỳ sơ khai của Giáo hội Công giáo Rôma. Trong số các vị còn lại, rải rác từ thế kỷ III cho đến đầu thế kỷ XV, có ông rút lui trong một ngày, có ông một tháng, có ông lâu dài. Ða số vì hiểu lầm, nhưng ảnh hưởng chính trị và hoàn cảnh của thời xưa (đế quốc và phong kiến) cũng đóng một vai trò quan trọng.
Thời kỳ Phục Hưng có gốc từ tiếng Pháp - Renaissance (nghĩa là sự tái sinh), còn gọi là Rinascimento (tiếng Ý), là cuộc tái sinh các giá trị nghệ thuật, tư tưởng, khoa học của thời kì Cổ đại và sự sống lại, phát triển rực rỡ của nền văn minh phương Tây. Phong trào Phục Hưng bắt đầu từ khoảng thế kỉ 14 tại Ý và thế kỉ 16 tại Bắc Âu. Nó đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp của châu Âu từ thời kỳ Trung cổ sang thời kỳ Cận đại, cũng như từ thời kỳ phong kiến sang thời kỳ tư bản. Phục Hưng được gọi như thế vì đặc tính cơ bản của thời kỳ này là sự hồi sinh của tinh thần thời kỳ Cổ đại. Chủ nghĩa Nhân văn chính là phong trào tinh thần cơ bản của thời kỳ này. Việc hồi sinh thể hiện ở chỗ nhiều yếu tố của tư tưởng thời kỳ Cổ đại được tái khám phá và sống lại (văn học, tượng đài kỷ niệm, tác phẩm điêu khắc, triết học,.và hơn cả đó là hội hoạ). Trong một nghĩa rộng người ta hiểu Phục Hưng là sự hồi sinh của thời kỳ Cổ đại với các ảnh hưởng của thời kỳ này đến khoa học, văn học, xã hội, cuộc sống của những tầng lớp thượng lưu và sự phát triển của con người đi đến tự do cá nhân ngược lại với chế độ đẳng cấp của thời kỳ Trung cổ. Trong nghĩa hẹp hơn Phục Hưng là một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật – “thời kì của hội hoạ". Các tác phẩm Phục Hưng mang tư tưởng nhân văn: ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, sức mạnh con người. Bỏ lối vẽ chi tiết cũ sang khái quát hóa hình thức hoành tráng. Tranh thời kì Phục Hưng là tranh của sự mẫu mực. Tả chất vô cùng độc đáo với làn da mềm mại của người phụ nữ và cơ bắp chắc khỏe của người đàn ông… Tạo hình khốc liệt, có sức mạnh về chiều sâu không gian. Các hoạ sĩ vẽ rất nhiều tranh khỏa thân, ngay cả trong tôn giáo, các thiên thần, thánh thần…. Hội hoạ thời Phục Hưng là đỉnh cao của hội hoạ, là bước ngoặt của nền mĩ thuật thế giới, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển nhiều lĩnh vực như: tìm ra chất liệu sơn dầu, phát triển bộ môn giải phẫu tạo hình, luật xa gần, phối cảnh, hình hoạ, nhiếp ảnh… Là nơi sản sinh ra rất nhiều nhân tài nghệ thuật, nhiều hoạ sĩ nổi tiếng, nhiều tác phẩm để đời cho cả thế giới. Phục hưng có nghĩa là “làm sống lại”. Đã vậy, chỉ nhìn vào những tác phẩm hội hoạ của thời Phục Hưng chúng ta có thể nhận ra về mặt tôn giáo và lịch sử mà không cần phải qua sách vở. Đó là những tác phấm sống mãi với thời gian.những hoạ sĩ bậc thầy lớn để các ngòi bút không ngừng tranh cãi mặc dù đã cách xa hàng trăm năm. Giotto là một thiên tài đã phá vỡ vòng kim tỏa của nghệ thuật Byzantine và thoát ra, mạo hiểm dấn thân vào một thế giới mới, đã chuyển dịch những hình tượng sống động của nghệ thuật Gothic vào trong hội họa. Người Ý tin rằng một kỉ nguyên nghệ thuật hoàn toàn mới đã bắt đầu mới sự xuất hiện của họa sĩ vĩ đại ấy. Ông nổi tiếng với các bức bích họa trong Nhà Nguyện Arena (Arena Chapel), hoàn thành khoảng năm 1305, mô tả cuộc đời Đức mẹ Đồng Trinh và Chúa Jesu. Đây được coi là một trong những kiệt tác của thời kì đầu Phục Hưng. Leonar da Vinci là một họa sĩ, đồng thời cũng là nhà bác học am hiểu nhiều bộ môn khoa học xã hội và khoa học tự nhiên: điêu khắc, kiến trúc, toán học, cơ khí học, sinh học,… Sự hiểu biết của ông mang dấu vết liên tục trong lịch sử khoa học và nghệ thuật Châu Âu qua nhiều thế kỉ. Ông được xem là một trong những nhà nghiên cứu và sáng tạo cái mới xuất sắc. Trong suốt quá trình hoạt động nghệ thuật của mình, ông chỉ để lại khoảng 30 tác phẩm. Song mỗi tác phẩm của ông lại là một cuộc tìm tòi để tạo ra cái mới cho nhiều thế hệ sau học tập. Những tác phẩm của ông còn giữ tới ngày nay là những mẫu mực về nhiều mặt cho nền hội họa thế giới. Trong thời gian ở Milan giữa những năm 1495- 1498, Leonar vẽ bức tranh tường cho nhà thờ Thánh Maria denhla – Hraxi ( gần Milan ) “Buổi họp kín” hay còn gọi là bữa tiệc cuối cùng (1495 – 1498) – Tranh tường. Tác phẩm không chỉ có giá trị về mặt thẩm mỹ mà còn có giá trị to lớn về tính khoa học trong nghệ thuật. Điều mà Leonar vẫn tâm đắc và tự hào. Sẽ thật thiếu sót nếu nhắc tới Leonar mà không nhắc tới tác phẩm Monalisa hay còn gọi là La giocongdo. Bức tranh nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của họa sĩ. Đây là bức chân dung miêu tả tâm lý rất thành công. Nhân vật trong tranh được tác giả chăm chút cả về vẻ đẹp ngoại hình lẫn nội tâm. Điểm đặc biệt trong bức tranh là nụ cười bí hiểm của nàng Monalisa, nụ cười vừa phảng phất niềm vui và nỗi buồn khiến người xem cứ vương vấn mãi. Vẻ đẹp của nàng là một vẻ đẹp lý tưởng không chỉ của thế kỉ XVI mà còn là vẻ đẹp lý tưởng của mọi thời đại. Không chỉ thành công ở thể loại chân dung, đề tài về Chúa và thần thoại cũng được Leonar thể hiện rất thành công với những tác phẩm nổi tiếng như: Đức Mẹ Litta, Leda… Từ năm 1500 – 1516 Leonard dành nhiều thời gian để nghiên cứu khoa học. Ông muốn sáng tác một bộ Bách khoa toàn thư về “sự vật trong thiên nhiên”. Ngoài ra ông vẫn sáng tác cho đến cuối đời. Michelangelo không chỉ là nhà điêu khắc nổi tiếng của thời kỳ phục hưng mà còn là một kiến trúc sư, một hoạ sĩ và là một nhà thơ. Ở bất kì lĩnh vực nào ông cũng để lại những tác phẩm tiêu biểu được lưu giữ mãi tới mai sau. Ông là một hoạ sĩ kỳ tài với tác phẩm nổi tiếng nhất là quần thể tranh trong nhà thờ Sistine. Tuy vậy niềm đam mê thật sự của ông lại là tạc nên những pho tượng và tác phẩm đầu tiên đưa tên tuổi và uy tín của ông đến với mọi người là: Pietta (theo tiếng Pháp có nghĩa là “tình thương”). Tác phẩm được ông hoàn thành trong 5 năm. Với tác phẩm này ông đã rất thành công khi miêu tả nỗi xót thương, đau đớn của đức mẹ trước đứa con đã mất trên tay. Chân dung chúa Jesu cũng được tác giả miêu tả vô cùng sống động. Ở đó ta nhìn thấy rõ nỗi đau đớn mà chúa phải chịu đựng trước khi mất nhưng ta cũng nhìn thấy ở chân dung đó niềm kiêu hãnh của một vị anh hùng, một đấng cứu thế. Ngoài ra tác phẩm còn thành công trong việc thể hiện những nét gấp trang phục, chất da thịt mền mại. Bằng thủ pháp đối lập giữa nét mền mại của các nếp áo váy phong phú và đa dạng với mảng phẳng nhẵn của cơ thể chúa Jesu. Sự đối lập đó tạo nên sự nổi bật khác nhau của nhân vật, của sự sống và cái chết. Từ năm 1501 – 1504, Michelangelo dành thời gian để tạo nên kiệt tác cho nhân loại, đó là bức tượng người anh hùng David của người dân Hebreuca đã chiến thắng người khổng lồ Goliat. Bức tượng được xem là một sự hoàn thiện mẫu mực về vẻ đẹp thể chất và vẻ đẹp tinh thần của con người. Pho tượng cao 5,5m này được đặt ở trước trụ sở hành chính của thành Phlorangxo. Đây là niềm tự hào của người dân thành phố, họ coi David là một “người khổng lồ” là biểu tượng sức mạnh của con người. Những năm cuối đời là những năm sáng tác đẹp đẽ của ông. Tác phẩm tiêu biểu nhất là bức “Sự phán xét cuối cùng” và cảnh Chúa giáng thế trên trần nhà Nguyện Sistine. Khác với Leonar, Raphael không phải là nhà sáng tạo ra cái mới. Vì nghệ thuật của ông có ý nghĩa không phải ở chỗ khám phá ra con đường mới mà là ở chỗ đã tổng hợp thành tựu của những người đi trước. Ông cùng với Leonar, Michelangelo tạo nên chuẩn mực, định hình cho sự phát triển phong cách nghệ thuật phuc hưng. Thành phố Phlorangxo đã khiến Raphael thành công và được nhiều nhà bảo trợ hào phóng giúp đỡ. Đây cũng là thời kì ông vẽ nhiều tranh về đề tài Đức Mẹ. Trong đó nổi tiếng là tác phẩm “ Đức mẹ của Đại công tước” được ông vẽ theo yêu cầu của Đại công tước. Vị này coi tác phẩm là vô giá và luôn giữ bên mình. Ở bức tranh này ta vẫn còn thấy phảng phất nét của Peruganh, nhưng nó đã đạt đến sự mẫu mực, hoàn hảo về đề tài dạng này. Raphael đã tạo được một Madona có thực trên đời, một Madona thơ mộng, dịu dàng như trăm nghìn phụ nữ Ý khác. Suốt từ đấy đến lúc mất ông sống ở đó và được sự bảo trợ của hai đời Giáo hoàng là Duyn II và Leon X. Nhiều tác phẩm danh tiếng của ông đã vẽ trong thời kí này. Trong đó có một bứ vẽ treo trong phòng “Chữ kí” – phòng quan trọng nhất trong tòa thánh Vatican vô cùng thành công là bức “Trường học Aten”. Nội dung tác phẩm ca ngợi triết học Hy Lạp cổ đại. Nhân vật chính của bức tranh là Praton và Arixtot. Hai người đang tranh luận về quan điểm triết học của mình, Praton chỉ tay lên trời chị Arixtot chỉ tay xuống đất. Điều này thể hiện tư tưởng triết học duy tâm khách quan của Praton và sự dung hợp giữa triết học duy vật và duy tâm của Arixtot. Bức tranh có khoảng 50 nhân vật bao gồm những nhà tiết học, các học giả…. Bôticeli là hoạ sĩ kết thúc thời kì Phục Hưng. Trong sự nghiệp sáng tác của Bôticeli có nhiều tác phẩm nổi tiếng trong đó có tác phẩm: Mùa xuân, Ngày sinh của thần vệ nữ, Lễ truyền tin,…. Ông là hoạ sĩ kì tài, tranh ông nổi tiếng về mặt dụng công ,đề tài tôn giáo truyên ngụ ngôn và tương huyền nhiệm. Hoạ phẩm của ông còn dễ nhận thấy ở đường nét “trong ngọc, trắng ngà” rất uyển chuyển hoà điệu. Ông tài hoa ở chỗ tinh tế lạ thường, pha thêm không khí sầu tư hóm hỉnh. Vào tuổi già tranh ông vẽ như chìm vào sự lo buồn, nét mặt người trong tranh hốc hác, có lúc lộ vẻ nhăn nhó. Có lẽ ông chịu tác động của tôn giáo và xã hội đương thời. Ở đó ông vẽ bức “Truyền tin”. Tranh được vẽ kĩ ,tả tỉ mỉ, tất cả đều rõ ràng rành mạch. Tuy vậy vẫn có sự tương phản giữa những đường thẳng, sắc cạnh trong những chi tiết tường nhà, nền gạch với những đường cong nếp gấp mềm mại trong sự diễn tả trang phục của hai nhân vật chính. Trong tranh, hoạ sĩ còn tạo sự tương phản về nóng lạnh của màu sắc để diễn tả xa gần. Vẻ mặt Đức Mẹ thanh tú được diễn tả khéo léo về ánh sáng đang cúi xuống được kết hợp với hai bàn tay đưa lên, vừa như muốn ngăn thiên sứ, vừa như chấp nhận sứ mệnh của Chúa trời trao cho. Bôticeli là tài năng lớn của thời kì Phục Hưng. Nhà nghiên cứu nghệ thuật người nga Ooc-lô-ra đã viết về ông như sau: ”nếu không biết đên sáng tác của ông, thì khái niệm của chúng ta về hội hoạ phưc hưng sẽ không đầy đủ”. Do tài năng, uy tín của ông trong nghệ thuật, năm 1504 Bôticeli được mời tham gia uỷ ban quyết định vị trí đật tượng Đa-vít của Mi-ken-lăng-giơ. Bo-ti-xen-li mất ngày 17 tháng 5 năm 1510. Mặc dù ông qua đời dã gần 500 năm song với những bức tranh với vẻ đẹp chuẩn mực của ông vẫn được công chúng nghệ thuật thế giới nhiều thời đại yêu thích và các thế hệ nghệ sĩ thời đại sau ông học tập.
Phục Hưng
Phục Hưng (tiếng Pháp: Renaissance, phát âm tiếng Pháp: , tiếng Ý: Rinascimento, từ ri- "lần nữa" và nascere "được sinh ra") là một phong trào văn hóa thường được xem là bao gồm giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, khởi đầu tại Firenze (Ý) vào Hậu kỳ Trung Đại, sau đó lan rộng ra phần còn lại của châu Âu trên những quy mô và mức độ khác nhau. Người ta cũng dùng từ Phục Hưng để chỉ, một cách không nhất quán, thời kỳ lịch sử diễn ra phong trào văn hóa nói trên. Là một phong trào văn hóa, Phục Hưng bao hàm sự nở rộ các nền văn học tiếng Latinh cũng như các tiếng dân tộc, bắt đầu từ sự phục hồi việc nghiên cứu các tư liệu cổ điển, sự phát triển của phép phối cảnh tuyến tính và các kỹ thuật nhằm biểu diễn hiện thực tự nhiên hơn trong mỹ thuật, và một cuộc cải cách giáo dục tiệm tiến nhưng phổ cập. Các học giả và nghệ sĩ thời Phục hưng cũng được gọi là những người theo chủ nghĩa nhân văn. Trong chính trị, Phục Hưng đã đóng góp vào sự phát triển những hiệp ước ngoại giao, và trong khoa học là một sự quan tâm lớn hơn tới quan sát thực nghiệm.
Ngày hôm nay, Webtaichinh sẽ đưa ra đánh giá khách quan về các tips, tricks hữu ích phải biết khi tham gia vào thị trường tài chính qua bài viết Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) là gì?. Đa phần nguồn đều đc cập nhật ý tưởng từ những nguồn trang web đầu ngành khác nên có thể vài phần khó hiểu. Đáp ứng nhu cầu của độc giả về FOREX. Webtaichinh xin chia sẽ với các bạn lộ trình A-Z cho người mới khi tham gia vào thị trường này. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong tiếng anh là Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, Được viết tắt là PCI. PCI là chỉ số đánh giá, xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành phố của Việt Nam về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Chỉ số PCI được công bố lần đầu tiên vào năm 2005 cho 42 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và lần thứ hai từ năm 2006 trở đi, tất cả các tỉnh, thành phố của Việt Nam đều được đưa vào bảng xếp hạng, đồng thời, các chỉ số thành phần cũng được nâng cao. (iii) Ấn định trọng số và tính điểm PCI tổng hợp bao gồm trung bình có trọng số của 10 chỉ số phụ trên thang điểm đến 100. – Chỉ số PCI Không nhằm mục đích nghiên cứu khoa học đơn thuần hay biểu dương, phê bình các tỉnh có điểm PCI cao hay thấp. – Thay vào đó, chỉ số PCI học và li lý giải tại sao một số tỉnh, thành phố lại vượt trội hơn các tỉnh, thành phố khác về phát triển kinh tế tư nhân, giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế, từ đó cung cấp thông tin hữu ích để lãnh đạo các tỉnh, thành phố xác định các lĩnh vực và cách thức thực hiện đổi mới điều hành kinh tế hiệu quả nhất. Chào các trader, Mình là Adam Lý, mình có kinh nghiệm hơn 3 năm lĩnh vực tài chính nói chung và forex nói riêng. Cũng không dám vỗ ngực xưng tên gì cả, những kiến thức mình chia sẽ trên đây chỉ hướng đến đối tượng là các nhà đầu tư mới. Webtaichinh.vn không chịu trách nhiệm pháp lý về những sai sót, lỗi chính tả trong quá trình đăng tải, và những sự cố khách quan khác. Đã phát hiện trình chặn quảng cáo trên máy tính hoặc điện thoại của bạn. Vui lòng gỡ bỏ để có trải nghiệm tốt hơn
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hay PCI (viết tắt của Provincial Competitiveness Index) là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh. Đây là dự án hợp tác nghiên cứu giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Chỉ số này được công bố thí điểm lần đầu tiên vào năm 2005 cho 42 tỉnh, thành. Từ lần thứ hai, năm 2006 trở đi đến nay, tất cả các tỉnh thành Việt Nam đều được đưa vào xếp hạng, đồng thời các chỉ số thành phần cũng được tăng cường thêm.
Giả thuyết Gaia là gì? Giả thuyết Gaia được đặt theo tên của nữ thần Trái đất theo văn hóa Hy Lạp cổ đại, lý thuyết này cho rằng hành tinh của chúng ta là một thực thể sống, đang thở và có thể tự điều chỉnh. "Bản tính tự nhiên là Trí tuệ!". Nhiều người đã quen thuộc với cụm từ này, nhưng nó đúng như thế nào?. Nếu chúng ta tìm hiểu xu hướng của các giả thuyết khoa học ngày nay, và xem xét cái nào trong số chúng xóa nhòa ranh giới giữa vật lý hữu hình và thần bí, chúng ta sẽ thấy dẫn đầu trong số đó là giả thuyết Gaia. Trong bốn thập kỷ qua ý tưởng về một "Trái đất là một thực thể sống" tiếp tục đưa ra những bằng chứng cụ thể, đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học từ các lĩnh vực khác nhau ngày càng nhiều hơn. Ví dụ, không khí mà chúng ta đang hít thở - oxy là một yếu tố không thể thiếu đối với tất cả các sinh vật sống, từ vi khuẩn, động vật đến con người. Khí này chiếm khoảng 21% thể tích của bầu khí quyển trái đất, do một số sinh vật (thực vật) liên tục giải phóng ra (gọi là quá trình quang hợp). Oxy còn là một nguyên tố rất dễ phản ứng, có khả năng kết hợp với các loại khí và khoáng chất khác trong khí quyển và vỏ Trái đất, và cũng có thể biến mất hoàn toàn ở dạng giải phóng. Mặc dù ở trạng thái không thực sự ổn định, bầu khí quyển của Trái đất vẫn luôn cung cấp dưỡng khí cho sự sống tương đối hài hòa. Đây là một trong những quan sát mà Nhà hóa học James Lovelock mô tả tại một hội thảo khoa học được tổ chức tại Princeton năm 1969. Thách thức khái niệm tự nhiên đơn thuần như một trò chơi may rủi, Lovelock khẳng định rằng Trái đất đang tự vận hành như một sinh vật sống khổng lồ, tổ chức tất cả các dạng vật chất cả hữu cơ và vô cơ với mục tiêu tạo ra một môi trường để duy trì sự sống. Ông đã đạt được nhiều thành tựu trong quá khứ, nhưng đáng chú ý nhất là tạo ra các thiết bị cảm biến tiên tiến cho tàu vũ trụ Viking trong chuyến thám hiểm sao Hỏa. Ý tưởng của Lovelock về một Trái đất sống đã chịu sự chỉ trích gay gắt từ các đồng nghiệp. Một luận điểm khác mà Lovelock nêu ra là nồng độ mặn của nước biển không thay đổi, vẫn duy trì ở mức tối ưu cho sự tồn tại của sự sống. Khoa học đã phát hiện ra rằng nước trong các dòng sông liên tục kéo muối khoáng vào đại dương, nhưng khi nước biển bốc hơi tạo thành mây, nó không mang theo muối. Nếu chúng ta tuân theo một lối suy nghĩ logic chặt chẽ, chúng ta sẽ kết luận rằng nồng độ muối trong đại dương sẽ tăng theo thời gian. Điều này đã không xảy ra trong thực tế. Nồng độ muối vẫn không thay đổi trong nhiều thế kỷ. Theo những người ủng hộ Giả thuyết Gaia, điều này là do khả năng của một người khổng lồ đang duy trì trạng thái cân bằng ở bên trong, một hiện tượng trùng khớp về mặt khoa học (mặc dù thường được áp dụng cho các sinh vật cấu tạo bởi các tế bào) đó là "cân bằng nội môi". Một số người tin rằng câu trả lời đằng sau hiện tượng kỳ dị này có thể được tìm thấy trong sự hình thành của các mỏ muối: theo thời gian nước tạo thành vịnh và sau đó bị chặn lại. Nước bên trong bay hơi và chỉ còn lại muối. Phần đất này sau đó được bao phủ bằng bụi và đất sét, cuối cùng được chuyển thành đá rắn, ngăn không cho bất cứ dòng sông nào trong tương lai có thể kéo muối đi. Cơ chế này có thể điều chỉnh một cách ngẫu nhiên nồng độ muối, sao cho các sinh vật biển bao gồm cả cá và những sinh vật khác luôn luôn có thể tồn tại. Theo những người ủng hộ giả thuyết, nó không chỉ đơn thuần là sản phẩm của hoàn cảnh ngẫu nhiên, mà là một quá trình do chính Gaia kiểm soát. Một ví dụ gần đây hơn ủng hộ sự tồn tại của Gaia đến từ một khám phá được thực hiện bởi các nhà khoa học tại Đại học Hồng Kông, người dẫn đầu là Jiu Liao. Trong quá trình nghiên cứu dọc bờ biển, nhóm điều tra viên này nhận thấy rằng thủy triều dường như làm cho đáy biển "thở", không khí và hơi ẩm được thay thế tuần hoàn qua áp lực nước dưới đáy biển. Hơi thở này có thể được nhận thấy trong những trường hợp rõ ràng nhất khi bọt khí nổi lên từ tầng đáy ven biển. Thủy triều dường như ảnh hưởng đến sự chuyển động nhịp nhàng của đáy đại dương, tạo ra hiệu ứng có vẻ giống với hô hấp nhưng với tần suất chậm hơn, nguyên nhân là do kích thước tương đối to lớn của Trái đất. Bằng chứng về sự sống, hơi thở của trái đất không dừng lại ở đó: các báo cáo đương đại của các nhà khoa học của đài thiên văn Mauna Loa của Hawaii dựa trên những thu thập thông qua các trạm quan sát địa lý, chứng minh rằng nồng độ carbon dioxide, từ năm 1955 đến 1995, đã thay đổi theo kiểu lên xuống nhịp nhàng, một số giải thích đó là hiện tượng mặt đất hít vào và thở ra. Giả thuyết Gaia đã bác bỏ quan niệm rằng, các điều kiện thích hợp cho cuộc sống đã được duy trì trong hàng ngàn năm chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên - sự mong manh của sự sống trên Trái đất đều do các quá trình đơn lập tạo nên một cách tình cờ. Ý tưởng Trái đất như một sinh vật sống cho đến nay đã thu hút được nhiều người hoài nghi hơn những người ủng hộ, nhưng tư duy của các nhà khoa học đang thay đổi khi nhiều bằng chứng tiếp tục xuất hiện.
Giả thuyết Gaia
Giả thuyết Gaia, còn được gọi là lý thuyết Gaia hay nguyên lý Gaia, đề xuất rằng các sinh vật tương tác với môi trường vô cơ xung quanh của chúng trên Trái Đất để tạo ra một sự tự kết hợp tổng hợp, hệ thống phức tạp giúp duy trì các điều kiện sống trên hành tinh. Các chủ đề quan tâm bao gồm các sinh quyển và sự tiến hóa của các dạng sống ảnh hưởng đến sự ổn định của nhiệt độ toàn cầu, độ mặn đại dương, oxy trong bầu khí quyển, sự duy trì một thủy lưu thể lỏng và các biến đổi môi trường khác ảnh hưởng đến sinh thái của Trái Đất. Giả thuyết này được lập ra bởi nhà hóa học James Lovelock và được đồng phát triển bởi nhà vi sinh vật học Lynn Margulis trong những năm 1970. Giả thuyết này ban đầu bị chỉ trích vì là các nguyên lý viễn thám, và mâu thuẫn về chọn lọc tự nhiên, nhưng sau đó các sàng lọc đã liên kết giả thuyết Gaia với các ý tưởng từ các lĩnh vực như khoa học hệ thống Trái Đất, sinh học và hệ sinh thái hệ thống của Trái đất,.
Đây là sân của CLB Kền Kền Trắng – Real Madrid. Sân Bernabeu là nơi thường xuyên diễn ra các trận đấu hấp dẫn cả trong nước và quốc tế. Để tìm hiểu chi tiết hơn về sân Santiago Bernabéu, hãy cùng chuyên mục Blog của Congdongfifa.com theo dõi bài viết sau đây nhé!. Sân vận động Santiago Bernabéu thuộc sở hữu của CLB bóng đá Real Madrid. Sân bóng này được khánh thành vào ngày 14 tháng 12 năm 1947 với sức chứa lên tới 99,454 chỗ ngồi. Năm 2007, Santiago Bernabéu được công nhận là sân vận động UEFA Elite. Sân vận động Santiago Bernabéu của Real có kích thước khá lớn 105m × 68m, với mặt sân được làm từ Mixto Hybrid Grass Technology – Một chất liệu hiện đại. Bên cạnh đó, sân cũng được trang bị những thiết bị hiện đại, giúp các cầu thủ cũng như người hâm mộ có những trải nghiệm tốt nhất. Nguồn gốc tên của sân vận động Santiago Bernabéu xuất phát từ chủ tịch Santiago Bernabéu Yeste. Sân của Real Madrid từng là nơi chứng kiến các trận chung kết của các giải đấu lớn như: Euro 1964 và World Cup 1982, 3 trận chung kết cúp Châu Âu các năm 1957, 1969, 1980…. Như đã nói trước đó, sân nhà của Real Madrid có tên Santiago Bernabéu là để ca ngợi thành tích của vị HLV cùng tên. Santiago Bernabéu Yeste là một trong những vị thuyền trưởng quan trọng nhất của Kền Kền Trắng. Dưới thời của ông, Real đạt được nhiều danh hiệu danh giá, cụ thể: 16 giải vô địch Tây Ban Nha, 1 chiến thắng tại cúp Liên lục địa, 6 cúp vô địch Châu Âu, 6 cúp Tây Ban Nha. Ngày 15/9/1943, cuộc bầu cử chủ tịch CLB Real Madrid đã diễn ra. Sân Real lúc bấy giờ là Estad Chamartin không đủ lớn để thỏa mãn tham vọng của câu lạc bộ. Sau đó, ông đã đứng ra xây dựng một SVĐ mới. Mùa hè 1944, nhiều sân vận động mới được mua và được xây dựng mới. Ngày 14 tháng 12 năm 1947, CLB Fútbol của Estadio Real Madrid được khánh thành. Có biệt danh Nuevo Estadio Chamartin gồm có 27.645 khán giả. Trong trận đấu khai mạc, Real đã đánh bại CLB Belenenses Bồ Đào Nha với tỷ số 3-1. Năm 1954, Nuevo Estadio Chamartin được cải tạo, lúc này sức chứa của sân vận động tăng lên 125.000 khán giả. Với sức chứa khủng, sân Nuevo Estadio Chamartin chính thức trở thành SVĐ lớn nhất trong số những nước tham gia cúp C1. Tháng 1 năm 1955, sân vận động Chamartin chính thức được đổi tên thành sân vận động Santiago Bernabéu. Năm 1992 sân vận động tiếp tục được nâng cấp và mở rộng. Chi phí lên đến 5 tỷ peseta để xây thêm bốn tòa tháp lố, nâng cấp, 20.200 ghế khán giả, tạo ra một giảng đường ở phía tây. Năm 1982, sân Santiago được chọn để tổ chức World Cup 1982. Năm 2011, Santiago Bernabéu được cải tạo lần nữa. Sau khi Pérez trở thành chủ tịch câu lạc bộ real ông đầu tư 127 triệu euro mở rộng diện tích sân từ 2001–2006. Ngày 9/12/2018, sân nhà Real Madrid tổ chức sự trở lại cuối cùng của Copa Libertadores 2018 giữa các câu lạc bộ Argentina River Plate và Boca Juniors theo quyết định của Liên đoàn bóng đá Nam Mỹ. Chưa dừng lại ở đó, chủ tịch Florentino Perez vào năm 2019 đã chính thức thông báo dự án nâng cấp sân vận động Santiago Bernabéu bao gồm việc bổ sung thêm mái che cho sân, thay mới toàn bộ ghế và lắp đặt thêm một màn hình TV 360 độ. Sức chứa của Bernabeu vẫn giữ nguyên là 80.000 ghế ngồi. Vị chủ tịch tham vọng sẽ biến sân nhà trở thành sân vận động tốt nhất thế giới. Với khoảng sân rộng rãi, sức chứa cao sân vận động Santiago Bernabéu chính là địa điểm tổ chức rất nhiều trận đấu đáng nhớ với CLB cũng như người hâm mộ bóng đá thế giới. Một số giải đấu tiêu biểu được tổ chức trước đây như:. Không chỉ thế, địa điểm này còn là nơi chứng kiến hai dải ngân hà Galacticos lớn nhất châu lục. Bạn đam mê, yêu thích đá bóng và hiếm khi nào bỏ lỡ trận thi đấu có câu lạc bộ yêu thích tham gia. Bên cạnh đó bạn muốn tìm hiểu thêm về lịch sử, tiểu sử cầu thủ, đội hình,… của đội bóng con cưng của mình thì đừng bỏ qua những bài viết đầy cảm xúc trên chuyên mục Blog bóng đá của Congdongfifa. Bài viết trên đây vừa cung cấp đến bạn đọc những thông tin cơ bản về sân vận động Santiago Bernabéu. Sân vận động này không chỉ là một điểm lý tưởng để tổ chức các sự kiện lớn mà còn có ý nghĩa đặc biệt với lịch sử phát triển của Real Madrid.
Sân vận động Santiago Bernabéu
Sân vận động Santiago Bernabéu (tiếng Tây Ban Nha: Estadio Santiago Bernabéu; phát âm tiếng Tây Ban Nha: ( nghe)) là sân vận động bóng đá ở thành phố Madrid, Tây Ban Nha. Với sức chứa hiện tại là 81.044 chỗ ngồi, đây là sân nhà của Real Madrid kể từ khi hoàn thành vào năm 1947. Đây là sân vận động lớn thứ hai ở Tây Ban Nha và lớn nhất trong Vùng đô thị Madrid. Santiago Bernabéu là một trong những địa điểm bóng đá nổi tiếng nhất trên thế giới. Sân đã tổ chức trận chung kết cúp C1 châu Âu/UEFA Champions League trong bốn lần: năm 1957, 1969, 1980, 2010. Sân vận động này cũng đã tổ chức trận chung kết lượt về Copa Libertadores 2018, biến Santiago Bernabéu trở thành sân vận động đầu tiên (và duy nhất) tổ chức hai trận chung kết cúp châu lục quan trọng nhất (UEFA Champions League và Copa Libertadores). Các trận chung kết của Giải vô địch bóng đá châu Âu 1964 và Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 cũng được tổ chức tại Bernabéu, khiến sân trở thành sân vận động đầu tiên ở châu Âu tổ chức cả trận chung kết Euro và trận chung kết World Cup.
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, chúng ta được biết đến các tên gọi như thương mại điện tử, thư điện tử, chính phủ điện tử. Và trong giáo dục, nhiều người cũng bắt chước theo cách đó để gọi “giáo án điện tử”, “bài giảng điện tử” ngoài cái tên quen thuộc là “giáo án”. Vậy, cách gọi tên như thế nào là đúng?. “Giáo án”: Có thể hiểu là bản thiết kế cho tiến trình một tiết dạy/học, là bản kế hoạch mà người giáo viên dự định sẽ thực hiện giảng dạy trên lớp cho học sinh cụ thể. “Bài giảng” là sự thực thi một giáo án (kế hoạch dạy học) nào đó trên đối tượng học sinh. Nói cách khác, một giáo án chỉ có thể trở thành bài giảng khi nó được thực thi. “Bài giảng điện tử” là một hình thức tổ chức bài lên lớp mà ở đó toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học đều được chương trình hoá do giáo viên điều khiển thông qua môi trường multimedia do máy vi tính tạo ra. Cũng có thể hiểu bài giảng điện tử là những tệp tin có chức năng chuyển tải nội dung giáo dục đến học sinh,. “Giáo án điện tử”: Có thể hiểu là bản thiết kế cụ thể toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học của giáo viên trên giờ lên lớp, toàn bộ hoạt động dạy học đó đã được multimedia hoá một cách chi tiết, có cấu trúc chặt chẻ và logic được quy định bởi cấu trúc của bài học. Giáo án điện tử là một sản phẩm của hoạt động thiết kế bài dạy được thể hiện bằng vật chất trước khi bài dạy học được tiến hành. Giáo án điện tử chính là bản thiết kế của bài giảng điện tử, chính vì vậy xây dựng giáo án điện tử hay thiết kế bài giảng điện tử là hai cách gọi khác nhau cho một hoạt động cụ thể để có được bài giảng điện tử. Vấn đề thứ nhất hiện nay là: Nhiều người dùng thuật ngữ “giáo án điện tử” để chỉ các bài trình chiếu PowerPoint. Đó là sai lầm về thuật ngữ và cách hiểu vì đây chỉ là tập hợp các slide để trình bày vấn đề giáo viên muốn truyền đạt, còn hệ thống câu hỏi, những gợi ý, dẫn dắt …. thường không thể hiện ra ở các slide. Thực tế, các bài giảng kiểu này có thể được soạn trên PowerPoint, Violet, Flash, được giảng dạy qua máy vi tính và được coi như là một loại thiết bị dạy học điện tử. Hơn nữa, trong tiếng Anh chúng ta chỉ tìm được từ giáo án (lesson plan), không tìm được từ bài giảng điện tử mà chỉ có từ “presentation”. Vấn đề thứ hai là: Nhiều người lẫn lộn khái niệm giáo án (lesson plan) với bài giảng điện tử hoặc coi bản trình chiếu PowerPoint là giáo án. Cấn thống nhất rằng khi dùng bài giảng điện tử, giáo viên phải có giáo án (kịch bản) chi tiết kèm theo, nêu rõ phần nội dung bài giảng nào cần dùng thiết bị dạy học điện tử này, dùng như thế nào…. Vấn đề thứ ba là: Khi sử dụng bài giảng điện tử và trình chiếu trên lớp, nhiều giáo viên không viết bảng. Cần nhấn mạnh rằng bài giảng điện tử không phải là một công cụ để thay thế “bảng đen phấn trắng” mà là cái đóng vai trò định hướng trong tất cả các hoạt động trên lớp, minh họa cho bài giảng của mình. Hiện tại chưa có định nghĩa chính xác do đó cũng chưa có qui chế sử dụng tuy nhiên có thể hiểu bài giảng điện tử là giáo án được soạn thảo bằng máy tính và có thể in ra để thay thế cho giáo án viết tay. Trong bài giảng điện tử này có chứa các nội dung trình chiếu, các mô phỏng ( hay được gọi là thí nghiệm ảo) cũng như hình ảnh, âm thanh và các dụng cụ thí nghiệm thật (đương nhiên chỉ có thể mô tả cách sử dụng ). Những thay đổi trong công tác biên mục - tiền đề chuẩn bị cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (15/04/2021)
Giáo án điện tử
Giáo án điện tử Theo tài liệu "Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS - môn Tin học" do Vụ Giáo dục Trung học - Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2007 (trang 95) thì "Giáo án điện tử có thể hiểu là giáo án truyền thống của giáo viên nhưng được đưa vào máy vi tính – giáo án truyền thống nhưng được lưu trữ, thể hiện ở dạng điện tử. Khi giáo án truyền thống được đưa vào máy tính thì những ưu điểm, thế mạnh của CNTT sẽ phát huy trong việc trình bày nội dung cũng như hình thức của giáo án. Như vậy, giáo án điện tử không bao hàm có ứng dụng hay không việc ứng dụng CNTT trong tiết học mà giáo án đó thể hiện." Giáo án điện tử là bản thiết kế cụ thể toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học của giáo viên trên giờ lên lớp, toàn bộ hoạt động dạy học đó đã được số hóa và minh họa bằng các dữ liệu đa phương tiện (multimedia) một cách trực quan, có cấu trúc chặt chẽ và logic được quy định bởi cấu trúc của bài học.