source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
Ngay từ khi thành lập cộng đồng châu Âu, chính sách cạnh tranh được coi như một công cụ quan trọng để thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trong khối. Cạnh tranh hữu hiệu là yếu tố cơ bản kích thích đổi mới, tăng năng suất lao động, qua đó nâng cao mức sống của người dân. Được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiệp ước Rome, các quy định về cạnh tranh tiếp tục được quy định và phát triển trong các hiệp ước sau cũng như trong hệ thống pháp luật châu Âu. Luật Cạnh tranh thúc đẩy việc duy trì cạnh tranh trong Liên minh châu Âu thông qua các quy định hành vi phản cạnh tranh của các công ty để bảo đảm rằng họ không tạo ra các tập đoàn các-ten và công ty độc quyền mà sẽ gây thiệt hại đến lợi ích của xã hội. Với một lịch sử có từ thời có các quy định cấm các hạn chế thương mại và chịu ảnh hưởng bởi kinh nghiệm của Đạo luật Sherman năm 1890 và Đạo luật Clayton năm 1914 của Hoa Kỳ, pháp luật cạnh tranh châu Âu ngày nay có nguồn gốc chủ yếu từ Điều 101 đến 109 của Hiệp ước về các chức năng của Liên minh châu Âu. Luật Cạnh tranh của Liên minh châu Âu (EU) yêu cầu chính phủ các quốc gia thành viên không được đặt ra hoặc duy trì các biện pháp nhằm hạn chế một trong ba nguyên tắc tự do cơ bản của liên minh: tự do lưu thông hàng hóa, tự do di chuyển và tự do cung cấp dịch vụ. Chính sách cạnh tranh của EU còn kiểm soát chặt chẽ các khoản trợ cấp của nhà nước dành cho các xí nghiệp của mình, để ngăn chặn xu hướng chính phủ các nước thông qua các khoản trợ cấp hay những đặc quyền nào đó bù đắp cho các công ty độc quyền. Hội đồng châu Âu với vai trò là người quản lý Luật Cạnh tranh chịu trách nhiệm xử lý những vấn đề liên quan đến luật này cũng như cho phép việc sáp nhập và hợp nhất các công ty/tập đoàn lớn của EU để phát triển tự do thương mại và giảm bớt trợ giá từ chính phủ của các quốc gia thành viên cho các công ty/tập đoàn lớn của nước mình. Quá trình liên kết của Liên minh Châu Âu dựa trên cơ sở xây dựng nền dân chủ và kinh tế thị trường, bảo đảm sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể và các nền kinh tế, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng và cả xã hội. Sự can thiệp của nhà nước được cho là cần thiết để hạn chế những tiêu cực của thị trường, bảo đảm các dịch vụ công cộng và phúc lợi xã hội. Do đó, chính sách cạnh tranh của EU không chỉ tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp và còn điều chỉnh một số hoạt động của các nước thành viên, thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại. Nội dung chính sách cạnh tranh thể hiện trên nhiều lĩnh vực, như: chính sách chống độc quyền và các thỏa thuận phản cạnh tranh (cartel); chính sách kiểm soát sáp nhập doanh nghiệp; chính sách kiểm soát hỗ trợ nhà nước; chính sách thúc đẩy tự do hóa. Theo các chính sách này, các quy tắc được áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động ở thị trường thống nhất mà không quan tâm đến hình thức sở hữu của chúng. Các quốc gia thành viên có cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh của họ, còn Ủy ban châu Âu (Ủy ban) chịu trách nhiệm điều tra các vi phạm chính sách. Ủy ban có quyền lực đặc biệt bao gồm ấn định mức tiền phạt, buộc thay đổi các thỏa thuận sáp nhập và ngăn chặn hoạt động trợ cấp của nhà nước. Tuy nhiên, các quyết định này có thể bị kháng cáo ở Tòa án châu Âu. Trong các chính sách này, chống độc quyền là nội dung quan trọng nhất trong việc bảo đảm tự do hoạt động và cạnh tranh công bằng của các doanh nghiệp trong một thị phần thống nhất. Các thỏa thuận: Điều 81 Hiệp định Rome quy định ngăn cấm thỏa thuận mà chúng tác động hoặc có chủ ý ngăn chặn, hạn chế hoặc làm chệch hướng cạnh tranh, theo đó “nghiêm cấm mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, mọi quyết định liên kết doanh nghiệp và mọi dạng thỏa thuận có khả năng ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước thành viên và có mục đích hoặc hậu quả ngăn cản, hạn chế và làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường chung”. Quy định này áp dụng đối với các thỏa thuận theo chiều ngang giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và các thỏa thuận theo chiều dọc giữa các doanh nghiệp thuộc cùng một chuỗi sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Liên quan đến lĩnh vực này, Ủy ban có quyền rất lớn trong việc tiến hành điều tra, bao gồm vào trụ sở của các doanh nghiệp mà không cần báo trước để xem xét các tài liệu nội bộ của doanh nghiệp, có quyền truy cứu bất cứ doanh nghiệp nào vi phạm pháp luật và áp dụng mức phạt tiền lên đến 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp. Thuật ngữ “thỏa thuận” được hiểu theo nghĩa rộng là ngăn chặn việc mở rộng các hoạt động phối hợp hoặc các thỏa thuận khác mà làm đổ vỡ các hợp đồng theo luật dân sự. Một số thỏa thuận được quy định rõ ràng: ấn định giá hoặc các điều kiện thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp; hạn chế hoặc kiểm soát sản xuất, thị trường, đầu tư hoặc phát triển kỹ thuật; phân chia thị trường hoặc cung cấp đẩy các đối tác thương mại vào thế bất lợi. Điều 81 Luật Cạnh tranh đã quy định rõ ràng hơn đối với các trường hợp mua bán được phép (trong một số thị trường nhất định) vì kết quả của việc này làm tăng tính hiệu quả. Tất cả các trường hợp thỏa thuận làm phân chia thị trường hoặc kiểm soát giá cả, kể cả các phân chia lợi nhuận hoặc thỏa thuận tăng giá và các quy định ngược với thương mại công bằng sẽ bị bãi bỏ. Trao đổi thông tin giá cả chỉ được phép khi đã được thông qua. Miễn trừ: Một thỏa thuận có thể bị ngăn cấm nhưng có thể được phép thực hiện nếu thỏa thuận đó làm tăng sản xuất hoặc phân phối hoặc thúc đẩy kỹ thuật và cho phép người tiêu dùng được phân chia lợi ích một cách bình đẳng, chỉ những trường hợp bắt buộc hạn chế như vậy sẽ đạt được mục tiêu và không cho phép loại bỏ cạnh tranh cho một phần chủ yếu của sản xuất. Miễn trừ có thể được áp dụng tùy vào trường hợp cụ thể, ngoài ra thường được áp dụng theo khuôn miễn trừ mà thường có các điều kiện và ưu tiên cho phép thực hiện, trong đó có các điều khoản hoặc có thể hoặc không thể xuất hiện trong thỏa thuận. Bất cứ một thỏa thuận nào mà hội tụ đủ các điều kiện sẽ được miễn trừ, được áp dụng theo quan hệ dọc, gồm: loại trừ phân phối, loại trừ mua, loại trừ quyền cấp kinh doanh. Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường: Điều 82 Luật Cạnh tranh Liên minh châu Âu quy định việc ngăn cấm lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và đưa ra một danh sách hành vi có thể được xem xét là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường: áp đặt giá mua/bán hoặc các điều kiện buôn bán không công bằng (trực tiếp hoặc gián tiếp), hạn chế sản xuất, thị trường hoặc phát triển kỹ thuật gây tổn hại tới người tiêu dùng, phân biệt mà đẩy đối tác thương mại vào thế bất lợi, áp đặt các điều kiện hợp đồng không phù hợp, dẫn đến bất lợi đối với các đối tác khác trên thị trường có thể được xem như là lạm dụng. Vị trí thống lĩnh thường lạm dụng ưu thế thị trường trên 50% và có thể đặt mức thấp hơn thuộc vào các nhân tố khác. Việc ngăn cấm có thể mở rộng vị trí lạm dụng với một vài công ty liên kết cùng nhau, thậm chí không chỉ một công ty có mức chiếm lĩnh thị trường tương đối. Chính sách chống độc quyền được quy định tại Điều 82 của Hiệp định Rome, theo đó, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là hành vi: “bị coi là đi ngược với thị trường chung và bị cấm, trong chừng mực mà thương mại giữa các nước thành viên có khả năng bị ảnh hưởng, hành vi của một hoặc nhiều doanh nghiệp khai thác một cách lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường chung hoặc trên một phần của thị trường chung”. Chính sách cạnh tranh của EU không ngăn cản vị trí thống lĩnh của các doanh nghiệp, bởi suy cho cùng, nhiều doanh nghiệp có được vị trí này là do kết quả của quá trình kinh doanh trên thương trường. Chính sách cạnh tranh của EU thể hiện rất rõ quan điểm ngăn cản việc lạm dụng vị trí thống lĩnh như các hành vi bán dưới giá thành làm suy yếu đối thủ, hoặc các thỏa thuận cung cấp và phân phối độc quyền để loại bỏ đối thủ cạnh tranh…. Một ví dụ điển hình trong vấn đề này là trường hợp của Công ty Microsoft: Với tư cách là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trong lĩnh vực sản xuất phần mềm máy tính, Microsoft đã buộc khách hàng chỉ có thể mua được máy tính nếu chấp nhận mua kèm hệ điều hành Windows của mình. Ủy ban đã đệ trình các biện pháp để ngăn cản hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh này như phạt tiền, buộc Microsoft phải li-xăng công nghệ, hoặc buộc Microsoft phải chia nhỏ doanh nghiệp thông qua việc bán một lượng tài sản nhất định. Quyền lực rất lớn của Ủy ban, đó là, sau cuộc điều tra kéo dài 7 năm của Liên minh châu Âu nhắm vào công cụ tìm kiếm của Google, Tòa án Brussels đưa ra mức phạt kỷ lục 3,4 tỷ USD đối với hành vi vi phạm luật cạnh tranh của công ty này. Con số này đã vượt qua mức phạt 1,2 tỷ USD dành cho Intel năm 2009. Liên minh châu Âu cáo buộc Google đã không công bằng khi thúc đẩy dịch vụ mua sắm của mình (Google Shopping) trong kết quả hiển thị của Google Search. Điều này gây thiệt hại cho các đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Google Shopping. Ngoài ra, EU cũng đang tiến hành một cuộc điều tra chính sách của Google trên nền tảng Android. Các nhà chức trách tin rằng các ứng dụng cài đặt sẵn của Google, việc yêu cầu cấp phép Android và khuyến khích tài chính cho các đối tác làm ảnh hưởng đến những nỗ lực cạnh tranh và sáng tạo. Nếu bị kết án trong trường hợp này, Google phải đóng mức phạt có thể lên đến 10% doanh thu bán hàng hàng năm của công ty. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là, chính sách cạnh tranh của EU không cho rằng mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp đều là vi phạm pháp luật. Trong trường hợp thỏa thuận giữa các doanh nghiệp mang lại lợi ích lớn hơn những hạn chế cạnh tranh thì Ủy ban có quyền cho phép thực hiện những thỏa thuận như vậy, nhằm bảo đảm tính hợp tình và hợp lý của các quy tắc cạnh tranh. Trường hợp này được gọi là “miễn trừ ngăn cản”, tức là Ủy ban đưa ra những miễn trừ thay vì ngăn cản thỏa thuận giữa các doanh nghiệp. Việc sáp nhập doanh nghiệp có thể đưa đến sự ra đời một doanh nghiệp mới có vị trí thống lĩnh. Điều này có thể sẽ làm sai lệch thị trường và không bảo đảm cạnh tranh. Chính vì vậy, hành vi sáp nhập hay hợp nhất doanh nghiệp cũng là đối tượng quan tâm đặc biệt trong chính sách cạnh tranh của EU. Tuy nhiên, cần lưu ý là hoạt động sáp nhập chỉ bị ngăn cản nếu nó tạo ra hoặc nâng cao vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp và làm ảnh hưởng đến hiệu quả cạnh tranh. Năm 1990, chính sách cạnh tranh EU đã có bổ sung đối với vấn đề sáp nhập. Theo đó, các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp có tổng doanh thu trên 5 tỷ euro chỉ được sáp nhập khi có sự phê chuẩn đồng ý của Ủy ban. Thủ tục sáp nhập được diễn ra theo hai bước. Giai đoạn kiểm tra sơ bộ diễn ra trong vòng một tháng. Đây là giai đoạn các chuyên gia xem xét và đưa ra quyết định việc sáp nhập có tác động đến cạnh tranh hay không. Kết quả của giai đoạn này là (i) doanh nghiệp bị từ chối cho phép sáp nhập, hoặc (ii) được cho phép thực hiện sáp nhập ngay, hoặc (iii) Ủy ban phải mở thủ tục xem xét hoạt động sáp nhập. Vấn đề kiểm soát trợ cấp nhà nước đối với doanh nghiệp được quy định tại Điều 87 và 88 của Hiệp định Rome, cụ thể là “tất cả các biện pháp trợ cấp do các quốc gia thành viên thực hiện hoặc bằng cách sử dụng các nguồn lực của quốc gia đó dưới bất kỳ hình thức nào, trong chừng mực mà các biện pháp trợ cấp đó liên quan đến các giao dịch giữa các quốc gia thành viên, mà làm sai lệch hoặc đe dọa làm sai lệch cạnh tranh bằng việc hỗ trợ một nhóm doanh nghiệp hoặc một nhóm ngành nghề sản xuất” thì bị coi là đi ngược với thị trường chung. Trợ cấp của nhà nước có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức như miễn hoặc giảm thuế đối với doanh nghiệp. Các quốc gia thành viên có thể trợ cấp cho các doanh nghiệp trong nước nhằm giúp họ đối mặt với cạnh tranh có thể đến từ các quốc gia còn lại. Điều này sẽ tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh trong Liên minh và sẽ làm sai lệch cạnh tranh. Điều đặc biệt cần quan tâm là các công ty thuộc sở hữu nhà nước được trợ cấp để cạnh tranh với các đối thủ thuộc khu vực tư nhân. Trong các trường hợp này, Ủy ban có quyền ngăn cản hoặc buộc phải thu hồi các khoản trợ cấp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, trợ cấp của nhà nước có thể xem là chấp nhận được, chẳng hạn như trợ cấp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế ở những vùng kém thuận lợi, bảo tồn văn hóa và di sản và các dự án vì lợi ích chung của châu Âu. Cơ quan chịu trách nhiệm chính thi hành chính sách cạnh tranh của EU là Ủy ban châu Âu. Các quốc gia thành viên trao cho Ủy ban vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển một thị trường thống nhất và đấu tranh cho tự do hóa thương mại. Trong việc thực thi chính sách cạnh tranh, Ủy ban đã thể hiện rất rõ vai trò này thông qua việc ngăn cản hoặc phê chuẩn việc sáp nhập doanh nghiệp hoặc các hoạt động điều tra trợ cấp nhà nước ở các quốc gia thành viên. Có thể dẫn chứng ra đây một ví dụ thể hiện rất rõ vai trò của Ủy ban trong việc bảo đảm công bằng và thúc đẩy tự do hóa thương mại nội khối. Cụ thể là Electricité de France - một doanh nghiệp của Pháp - đã tiến hành mua lại các doanh nghiệp nhà nước cùng ngành trên toàn châu Âu. Phản ứng trước vấn đề này, Chính phủ Tây Ban Nha và Ý đã dọa rằng họ sẽ can thiệp để ngăn cản quyền bỏ phiếu của các nhà đầu tư Pháp trong các doanh nghiệp này nếu Chính phủ Pháp không mở cửa thị trường năng lượng của mình. Mâu thuẫn trở nên căng thẳng và buộc Ủy ban phải can thiệp. Một mặt Ủy ban cho rằng sự đe dọa của Chính phủ Ý và Tây Ban Nha là mang tính phân biệt, có khả năng dẫn đến vi phạm chính sách cạnh tranh, nhưng mặt khác, Ủy ban cũng hứa sẽ điều tra các hành vi của Electricité de France bị cáo buộc là phản cạnh tranh. Rõ ràng vai trò của Ủy ban đã thể hiện đúng lúc nhằm làm cho chính sách cạnh tranh được thi hành trên thực tế. Như vậy xét về bản chất, chính sách cạnh tranh của EU không ngăn cản vị trí thống lĩnh của các doanh nghiệp bởi thực tế nhiều doanh nghiệp có vị trí cao đều do kết quả của quá trình kinh doanh thành công trên thương trường.
Luật cạnh tranh Liên minh châu Âu
Luật cạnh tranh châu Âu thúc đẩy việc duy trì cạnh tranh trong Liên minh châu Âu thông qua các quy định hành vi phản cạnh tranh của các công ty để đảm bảo rằng họ không tạo ra các tập đoàn các-ten và công ty độc quyền mà sẽ gây thiệt hại đến lợi ích của xã hội. Với một lịch sử có từ thời có các quy định cấm các hạn chế thương mại, và chịu ảnh hưởng bởi kinh nghiệm của Đạo luật Sherman năm 1890 và Đạo luật Clayton năm 1914 của Hoa Kỳ, pháp luật cạnh tranh châu Âu ngày nay có nguồn gốc chủ yếu từ các điều 101 đến 109 của Hiệp ước về các chức năng của Liên minh châu Âu, cũng như một loạt các quy định và Chỉ thị. Cartel, hoặc kiểm soát thông đồng và hành vi phản cạnh tranh khác, theo điều 101 của Hiệp ước về các chức năng của Liên minh châu Âu (TFEU). Thống lĩnh thị trường, hoặc ngăn chặn việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của các công ty theo Điều 102 TFEU. Sáp nhập, kiểm soát các vụ sáp nhập đề xuất, mua lại và liên doanh liên quan đến các công ty có một số, số tiền được xác định doanh thu trong EU, theo Quy chế sáp nhập.
Để nghiên cứu sự bảo tồn năng lượng và tiết kiệm điện năng của một tòa nhà, một công trình người ta dùng kiểm toán năng lượng. Kiểm toán năng lượng được coi là một dạng kiểm tra và phân tích các vấn đề liên quan đến năng lượng. Từ đó đưa ra các giải pháp hơp lý để bảo tồn năng lượng. Cùng tìm hiểu sâu hơn về cách kiểm toán năng lượng đem lại hiệu quả cùng timviec365.vn nhé. Như đã đề cập ở trên, kiểm toán năng lượng là kiểm tra và phân tích năng lượng của một tòa nhà. Nhưng cụ thể những công việc kiểm toán năng lượng làm như thế nào?. Hãy xét ví dụ sau, ngôi nhà bạn đang ở. Chắc hẳn ai cũng xác định được ngôi nhà được cấu thành từ những bộ phận như trần nhà, sàn nhà, tường nhà, hệ thống cửa sổ và cửa ra vào. Bạn có tự đặt câu hỏi dòng điện ở các khu vực khác nhau có khác nhau không? Nhiệt lượng hay lượng điện được cung cấp như thế nào? Hay làm sao để đo được lượng nhiệt tổng thể của tòa nhà?. Đây chính là một phần công việc kiểm toán năng lượng. Những người kiểm toán năng lượng sẽ đánh giá tỷ lệ rò rỉ, khả năng chống nhiệt, khả năng xâm nhập của các yếu tố khác,. Sau khi thu được kết quả, kiểm toán viên sẽ đánh giá hiệu quả năng lượng, các điều kiện hay yếu tố ảnh hưởng và thiết kế, sắp xếp hệ thống cơ khí để hiệu suất nhiệt của tổng thể tòa nhà là tối ưu nhất. Vừa tối thiểu được yếu tố năng lượng đầu vào, vừa đảm bảo đầu ra hoạt động hiệu quả. Việc kiểm toán năng lượng không chỉ được áp dụng cho các tòa nhà có dân cư, nhà ở, mà còn ứng dụng cho doanh nghiệp, công nghiệp, nhà máy,. Nguồn năng lượng được các kiểm toán viên sử dụng đến từ nhiều nguồn. Chẳng hạn như để tạo được năng lượng, kiểm toán viên cần nghiên cứu về nguyên nhiên liệu để tạo năng lượng như dầu mỏ, khí đốt. Hay hiện nay người ta đang chú trọng phát triển nghiên cứu năng lượng tự nhiên từ gió, nước, hạt nhân,. Việc sử dụng nguồn năng lượng nào ảnh hưởng khá nhiều đến chính chủ nhà hay người sử dụng. Do họ phải trả tiền, chi phí để tạo ra các năng lượng đó. Vì vậy việc làm kiểm toán năng lượng hiện nay đang ngày càng mở rộng tuy nhiên nhân lực về ngành này hầu như khá hiếm. Các doanh nghiệp nói chung đều mong muốn năng lượng đảm bảo để toàn hệ thống của tòa nhà được hoạt động tốt, bên cạnh đó họ cũng mong tối ưu năng lượng nhất có thể mà vẫn tiết kiệm được chi phí hoạt động. Ngoài việc tối ưu năng lượng và giảm chi phí, kiểm toán năng lượng còn có mục tiêu xa hơn là xác định cơ hội và tiềm năng để cải thiện các vấn đề liên quan khác. Qua những thông tin trên, người đọc có thể xác định được những lợi ích mà kiểm toán năng lượng mang lại cho doanh nghiệp nói chung. Cụ thể là, doanh nghiệp có thể theo dõi và kiểm soát năng lượng đang sử dụng, đánh giá hiện trạng của từng khu vực để đưa ra giải pháp kịp thời. Kiểm toán năng lượng giúp xác định tiềm năng trong việc tiết kiệm năng lượng hay xây dựng kế hoạch tổng thể về chi phí năng lượng. Kiểm toán năng lượng tốt sẽ giúp doanh nghiệp, công ty sử dụng chi phí một cách phù hợp. Kiểm toán năng lượng để có kết quả báo cáo (theo luật sử dụng năng lượng của bộ công thương). Hơn thế nữa, việc kiểm toán năng lượng giúp con người tránh lãng phí nguồn tài nguyên. Hiện nay tài nguyên thiên nhiên, tự nhiên không còn quá nhiều nhưng con người hàng ngày vẫn sử dụng và lãng phí năng lượng một cách vô ích. Do vậy, càng cần các kiểm toán viên năng lượng hỗ trợ theo dõi, báo cáo và phân tích đồng thời đưa ra các giải pháp. Các loại kiểm toán dưới đây được sắp xếp theo thứ tự từ cơ bản (sơ cấp) nhất đến những loại cao cấp nhất. Có thể hiểu một cách đơn giản về loại kiểm toán điểm chuẩn này là người ta sẽ đo giá trị hay mức tiêu thụ ở một nơi (có thể là tòa nhà, công ty,.) sau đó so sánh với giá trị chuẩn (có ở trong tài liệu và đã được tính toán, sử dụng trong thời gian khá dài). Kiểm toán năng lượng sơ bộ là một loại kiểm toán nhanh và đơn giản nhất. Loại kiểm toán này hầu như chỉ được sử dụng ở một số khu vực, nơi quan trọng. Phương pháp hoạt động của loại kiểm toán này thông qua các cuộc phỏng vấn. Kiểm toán viên sẽ đi khảo sát thị trường, thực hiện các cuộc phỏng vấn với người điều hành tòa nhà. Một số điều mà kiểm toán viên nên lưu ý hỏi là chi phí sử dụng năng lượng, hóa đơn của các dữ liệu liên quan. Nắm được các hoạt động và khu vực hay xảy ra tình trạng lãng phí năng lượng. Kiểm toán viên cần đưa ra sự phân tích và giải pháp của mình. Đưa cho nhân viên điều hành một số thông tin, biện pháp để khắc phục vấn đề. Ước tính chi phí để tối ưu hóa năng lượng hay tối thiểu chi phí vận hành,. Kiểm toán năng lượng chung hoạt động tương tự như kiểm toán sơ bộ tuy nhiên có phần sâu sắc hơn. Lúc này kiểm soát viên không chỉ khảo sát nhân viên điều hành nữa mà cần phỏng vấn, điều tra kỹ càng hơn. Các hóa đơn được điều tra cần có thời gian nhất định khoảng 12-36 tháng trở lại, không được lâu hơn. Dựa vào các hóa đơn đó để xác định nhu cầu sử dụng năng lượng. Hơn nữa, việc đi sâu vào vấn đề sẽ giúp các kiểm toán viên trong việc nhìn nhận về mục tiêu dài hạn hay ngắn hạn của công ty/doanh nghiệp. Một báo cáo tài chính chi tiết liên quan đến việc sử dụng năng lượng sẽ được đưa ra cho cả hai bên. Khi trao đổi cần nêu rõ biện pháp khắc phục, biện pháp bảo tồn năng lượng, các tham số quan trọng cần để ý. Đặc biệt là các khoản chi phí có thể tiết kiệm hay tiêu tốn để duy trì các việc trên. Kiểm toán năng lượng đầu tư là loại kiểm toán “cao cấp” nhất. Lúc này các bên liên quan không chỉ xoay quanh người sử dụng, người điều hành, kiểm toán viên mà còn có các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư khi bỏ vốn đầu tư một dự án năng lượng, họ luôn mong muốn số tiền mình bỏ ra phải đạt được kết quả. Kết quả cụ thể ở đây chính là sự tiết kiệm năng lượng. Kiểm toán năng lượng viên không chỉ đi sâu vào kiểm toán chung hơn nữa mà còn phải thực hiện báo cáo, phân tích kỹ thuật sâu hơn liên kết với từng vấn đề kỹ thuật cũng như kinh tế. Từ đó so sánh và đánh giá để chuyển đổi các dạng năng lượng với nhau. Sau khi đã hiểu hơn về công việc kiểm toán năng lượng, timviec365.vn sẽ đưa cho bạn quy trình tuần tự để kiểm toán năng lượng tốt nhất, giúp các bạn có cái nhìn tổng quan hơn về kiểm toán năng lượng. Đầu tiên, kiểm toán viên cần chuẩn bị nhân lực, bảng câu hỏi phỏng vấn, thiết bị đo lường năng lượng và một số thứ liên quan khác. Khi đi thực hiện khảo sát, kiểm tra, kiểm toán viên cần thu thập số liệu, dữ kiện cần thiết về dây chuyền sản xuất, hệ thống sử dụng năng lượng, loại năng lượng. Tất nhiên là trước đó, kiểm toán viên cần lập ra kế hoạch đo đạc và khu vực cần đo. Sau khi thực hiện đo trên thực tế, kiểm toán viên năng lượng sẽ phân tích chỉ số, tỷ lệ tiêu thụ để đánh giá hiệu quả sử dụng năng lượng. Việc cuối cùng, cơ bản và cần thiết đó là đề xuất cũng như thực hiện giải pháp tiết kiệm năng lượng hợp lý nhất trong các giải pháp được đề ra. Phân tích chi phí tài chính hay các dự án tiết kiệm năng lượng trong tương lai cũng là một bước quan trọng và được đánh giá cao. Kiểm toán năng lượng thực sự cần thiết trong giai đoạn phát triển hiện nay. Nguồn lực kiểm toán viên cũng không hẳn cao. Timviec365.vn đã tìm hiểu để đưa đến cho các bạn thông tin về kiểm toán năng lượng là gì. Từ đó phân tích công việc, lợi ích và đưa ra đánh giá về cơ hội kiếm việc làm đối với ngành này. Hy vọng các bạn đã có thêm một vài thông tin bổ ích cho bản thân. Nếu bạn đang còn thắc mắc Asterisk là gì thì không nên bỏ qua bài viết này. Timviec365.vn sẽ đưa đến cho bạn một cái nhìn tổng quan nhất về Asterisk.
Kiểm toán năng lượng
Kiểm toán năng lượng là một kiểm tra, khảo sát và phân tích các dòng năng lượng cho bảo tồn năng lượng trong một tòa nhà, một quá trình, hoặc hệ thống để giảm số lượng đầu vào năng lượng vào hệ thống mà không ảnh hưởng xấu đến đầu ra. Kiểm toán năng lượng ban đầu trở nên phổ biến trong phản ứng với các cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973 và các năm sau đó. Quan tâm đến việc kiểm toán năng lượng gần đây gia tăng như là kết quả của sự hiểu biết ngày càng tăng tác động của con người khi sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu.
Trong kinh doanh có rất nhiều điều quan trọng liên quan tới tâm thể của người kinh doanh nhưng một trong những điều căn bản nhất mà tôi luôn nghĩ đến và gắng sức giữ gìn, đó là một tấm lòng chính trực. Chỉ khi người làm kinh doanh có một tấm lòng chính trực thì những điều mà tôi đề cập trên đây mới thực sự có nghĩa, người làm kinh doanh mà thiếu đi tấm lòng chính trực thì không bao giờ có được sự phát triển lâu dài. Một tấm lòng chính trực, nói cách khác là một tấm lòng không bị phân tâm bởi những yếu tố như Iợi ích, tình cảm, kiến thức hay định kiến, đó là một tấm lòng đón nhận mọi vật như chúng vốn có. Người khi bị phân tâm thường không nhìn mọi vật đúng như bản chất của chúng. Nó giống như khi chúng ta nhìn sự vật qua một ống kính màu hay biến dạng. Ví dụ, khi chúng ta nhìn qua một ống kính màu đỏ, thì tờ giấy trắng cũng biến thành màu đỏ trong mắt chúng ta. Khi chúng ta nhìn qua một ống kính biến dạng thì một cây gậy thẳng tắp cũng trở nên cong queo. Như thế, chúng ta sẽ không nắm bắt được chính xác bản chất hay thực chất của sự vật. Vì vậy, khi tiếp cận sự vật trong trạng thái phân tâm, chúng ta sẽ dễ mắc sai lầm trong phán đoán và hành động. Ngược lại, một tấm lòng chính trực giúp chúng ta nhìn nhận mọi vật đúng như bản chất của chúng, màu trắng là màu trắng, đường thẳng là đường thẳng, tựa như khi nhìn qua một ống kính không màu và không biến dạng. Nhờ đó chúng ta biết được chân tướng và bản chất của sự vật. Khi chúng ta nhìn nhận và thực hiện mọi việc với một tâm thế như vậy, chúng ta có thể giảm thiểu sai lầm trong mọi trường hợp. Công việc kinh doanh tẩt sẽ thành công khi chúng ta tuân theo quy luật tự nhiên của trời đất, lắng nghe ý kiến của mọi người, tập hợp được trí tuệ tập thể trong công ty và làm những điều càn làm. Nếu được như vậy, công việc kinh doanh không hẳn là khó. Tuy nhiên, để làm được những điều này, người kinh doanh phải có một tấm lòng chính trực. Tuân theo quy luật tự nhiên của trời đất, như tôi đã từng nói, giống như việc xòe ô ra che khi trời mưa vậy. Xòe ô khi trời mưa là một hành động tự nhiên thể hiện sự chính trực của lòng người. Ngược lại, nếu không xòe ô thì ấy là vì ta bị phân tâm. Và kết cục tất yếu là bị ướt. Việc kinh doanh do đó mà không thuận lợi. Biết khiêm tốn lắng nghe ý kiến của xã hội, của tập thể và hơn nữa là của cấp dưới nghĩa là đã có được một tấm lòng chính trực. Luôn cho rằng mình đúng, mình giỏi hơn người thì không thể tiếp thu ý kiến của người khác. Không tập hợp được trí tuệ tập thể. Công việc kinh doanh sẽ chỉ được điều khiển bằng một cái đầu với trí tuệ ít ỏi của một người. Cách này thường dẫn đến thất bại. Khi có được tấm lòng chính trực, ta sẽ nhìn rõ chân tướng sự vật. Nhờ đó, ta sẽ biết phải làm gì và không nên làm gì. Và ta cũng có được lòng dũng cảm để quyết định xem nên làm hay không nên làm. Không những thế, trong ta sẽ hình thành một tấm lòng từ bi đại lượng, nhờ đó ta có thể sử dụng hiệu quả mọi nguồn nhân lưc và vật lực vào việc kinh doanh. Ðồng thời, dễ dàng tùy cơ ứng biến một cách linh hoạt trước mọi hoàn cảnh và nảy ra những ý tưởng kinh doanh mới mẻ. Nói đơn giản, tấm lòng chính trực giúp con người ta trở nên đúng đắn, mạnh mẽ và thông minh. Có thể nói thần thánh là những bậc cực chí về sự đúng đắn, mạnh mẽ và thông minh. Do đó, tuy con người không phải thần thánh song tấm lòng chính trực càng được trui rèn thì người ta càng gần với thần thánh hơn. Nhờ đó mà làm gì cũng thành công. Trong kinh doanh cũng vậy. Tuy nhiên, không dễ mà có được một tấm lòng chính trực. Trong con người có đủ tình cảm yêu ghét và vô vàn ham muốn. Những thứ đó đã định hình sẵn trong mỗi con người nên việc tận diệt chúng là bất khả. Và lại, nếu mất đi những thứ đó thì con người không còn là con người nữa. Vì vậy, dễ bị dao động bởi tình cảm cá nhân hay vụ lợi cũng là một trong những bản chất của con người. Hay gần đây, học thuật và tri thức ngày một tiến bộ, có biết bao kiểu chủ nghĩa và tư tưởng ra đời khiến người ta phân tâm. Bởi vậy, không bị phân tâm bởi bất cứ điều gì là chuyện nói thì dễ mà làm lại vô cùng khó. Nhưng chính vì khó nên mới đáng quý, mới cần phải nuôi dưỡng và đắp bồi. Vậy thì làm cách nào để nuôi dưỡng và bồi đắp lòng chính trực? Chẳng hạn, tôi nghe nói rất nhiều võ tướng thời chiến quốc thường tập thiền. Tập thiền là để diệt trừ sự phân tâm, điều này cũng giống với lòng chính trực. Trong những cuộc chiến sống còn, hẳn là các võ tướng muốn lâm trận với tinh thần tập trung cao độ và không bị phân tâm bởi bất cứ điều gì nên mới tập thiền. Bản thân tôi hay suy nghĩ thế này: người ta thường nói trong môn cờ vây, không cần thầy dạy, chỉ cần đánh một vạn lần tất sẽ đạt đến nhất đẳng. Vậy thì để có được lòng chính trực cũng vậy, nếu ta luôn tâm niệm về nó trong một vạn ngày - tức khoảng ba mươi năm - rất có thể ta sẽ đạt đến nhất đẳng của lòng chính trực. Tuy mới đạt nhất đẳng, song trong bất kỳ việc gì tấm lòng chính trực của ta cũng có thể bắt đầu phát huy tác dụng, giúp ta tránh phạm phải những sai làm. Cứ như vậy, ngày nào tôi cũng tâm niệm điều này, thường xuyên xem xét lại lời ăn tiếng nói và hành động của mình để từng bước nuôi dưỡng và bồi đắp lòng chính trực. Vì vậy, bản thân việc nuôi dưỡng và bồi đắp lòng chính trực là điều vô cùng quan trọng mà người làm kinh doanh, hơn nữa là mọi người bình thường cần phải tâm niệm thực hiện. Không có lòng chính trực, con người khó lòng đạt được sự thành công trong kinh doanh hay hạnh phúc thực sự trong đời người. Và nếu phân đẳng cho lòng chính trực thì tôi nghĩ chúng ta hãy cùng nhau phấn đấu để đạt đến nhất đẳng. Đạt tới mức đó rồi, các bạn sẽ lĩnh hội và vận dụng được những điều mà tôi đã trình bày. Lòng chính trực chính là tâm thế cơ bản nhất giúp cho việc kinh doanh thành công trên mọi ý nghĩa. Tạ Thị Ngọc Thảo và triết lý của doanh nhân Phật tử03/04/2008Tiếp tục những trăn trở của một người đi trước dành cho giới trẻ, chị Tạ Thị Ngọc Thảo chia sẻ với bạn đọc một cách sống và làm việc theo triết lý nhà Phật trong thời đại cạnh tranh ý tưởng.
Lòng chính trực
Chính trực là đức tính của sự trung thực và sự tuân theo các tiêu chuẩn đạo đức một cách mạnh mẽ; nói cách khác, nó là sự trung thực gắn liền với đạo đức. Thông thường, nó là một sự lựa chọn của cá nhân để giữ cho người đó luôn bám chắc vào các nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo đức. Trong Đạo đức học, Lòng chính trực được nhiều học giả định nghĩa như sự trung thực hay sự hoàn hảo trong cách hành xử của một người. Lòng chính trực cũng có thể được định nghĩa như một sự đối lập với tính Đạo đức giả, lòng chính trực có thể là tình trạng vững bền của nội tâm về Đạo đức, hay các bên có những giá trị mâu thuẫn nhau có thể giải thích được sự khác nhau giữa các mâu thuẫn đó hay là việc lựa chọn niềm tin của họ. Khái niệm “Chính trực” xuất phát từ tiếng Latin là “integer”, nghĩa là “hoàn hảo” hay “trọn vẹn”. Trong cách hiểu này, lòng chính trực là một trạng thái nội tâm “hoàn hảo” bắt nguồn từ những đức tính như sự trung thực và sự bền vững về Đạo đức.
Hiện nay, xã hội nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng việc sử dụng trẻ em làm công cụ lao động khá phổ biến. Vậy những đối tượng nào được xếp vào nhóm là trẻ em và được luật bảo vệ như thế nào cũng như trả lời cho câu hỏi trẻ em tham gia vào các công việc lao động như thế nào? Bài viết dưới đây sẽ giúp chúng ta làm rõ hơn về vấn đề này. – Theo Hiệp ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em thì định nghĩa một đứa trẻ là: “Mọi con người dưới 18 tuổi trừ khi theo luật có thể áp dụng cho trẻ em, tuổi trưởng thành được quy định sớm hơn”. Theo đó, Trẻ em được hiểu là người chưa trưởng thành, ở Việt Nam theo quy định tại Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 thì trẻ em là người dưới 16 tuổi. – Lao động trẻ em được hiểu là người dưới một độ tuổi nào đó mà tùy theo luật pháp nước đó quy định dưới độ tuổi đó là trẻ em (ở Việt Nam là dưới 16 tuổi) làm việc cho gia đình hoặc làm thuê cho người khác. Như chúng ta đã biết, mọi trẻ em đều có quyền được sống, học tập và làm việc, phát triển trong môi trường an toàn, lành mạnh. Đầu tư cho công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em là đầu tư cho an toàn xã hội, phát triển con người, là động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước. Vậy tại sao trong xã hội thực tại vẫn còn rất nhiều trẻ em không được hưởng những quyền đó. Các em lẽ ra đang ở tuổi ăn, học và chơi mà đã phải làm những công việc như một người trưởng thành làm. Thực trạng này không chỉ tồn tại ở một vài quốc gia mà gần như ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở nước ta hiện nay, việc sử dụng lao động trẻ em dưới 16 tuổi ngày càng phổ biến. Vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau để một trẻ em làm những công việc giống như một người trưởng thành, thậm chí những công việc đó còn nặng nhọc, nguy hiểm. Do nhu cầu mưu sinh cho bản thân, gia đình hoặc cũng do bạo lực gia đình gây ra. Có trường hợp trẻ em tự nguyện làm việc, cũng có trường hợp làm việc do bị cưỡng chế. Có những đứa trẻ sinh ra trong gia đình quá nghèo mà không được học tập phải đi làm phụ giúp gia đình trang trải cuộc sống; cũng có những đứa trẻ cơ nhỡ không nơi nương tựa bị một thành phần xấu của xã hội lôi kéo, bóc lột sức lao động. Pháp luật cho phép việc sử dụng lao động trẻ em nhưng nghiêm cấm hành vi bóc lột sức lao động trẻ em. Luật Trẻ em năm 2016 hướng dẫn, bóc lột trẻ em là hành vi bắt trẻ em lao động trái quy định của pháp luật về lao động; trình diễn hoặc sản xuất sản phẩm khiêu dâm; tổ chức, hỗ trợ hoạt động du lịch nhằm mục đích xâm hại tình dục trẻ em; cho, nhận hoặc cung cấp trẻ em để hoạt động mại dâm và các hành vi khác sử dụng trẻ em để trục lợi. Mỗi cá nhân, tổ chức khi sử dụng lao động dưới 16 tuổi phải có ý thức tuân thủ đúng quy định pháp luật về lao động. Các cơ quan chức năng cũng cần phải tích cực kiểm tra, nắm tình hình địa bàn mình quản lý để kịp thời phát hiện hành vi vi phạm và xử lý các đối tượng vi phạm theo quy định pháp luật, tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật về lao động, việc làm cho mọi người dân, nhất là người dân ở vùng nông thôn. Từ xưa Bác Hồ ta đã nói: “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”, đến hiện tại Pháp luật Việt Nam cũng không cấm trẻ em lao động, chỉ ngăn cấm các hành vi bóc lộc sức lao động trẻ em. Chính vì vậy, Điều 143 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định, người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi làm các công việc nhẹ theo danh mục do Bộ LĐ-TBXH quy định:. Người từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi làm các công việc bao gồm: các nghề truyền thống (chấm men gốm, cưa vỏ trai, vẽ tranh sơn mài, làm giấy dó, nón lá, se nhang, chấm nón, dệt chiếu, làm trống, dệt thổ cẩm, làm bún gạo, làm giá đỗ, làm bánh đa (miến), làm bánh đa kế). Các nghề thủ công mỹ nghệ (thêu ren, mộc mỹ nghệ, làm lược sừng, đan lưới vó, làm tranh Đông Hồ, nặn tò he). Đan lát, làm các đồ gia dụng, đồ thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu tự nhiên như: mây, tre, nứa, dừa, chuối, bèo lục bình; nuôi tằm; gói kẹo dừa. Người chưa đủ 13 tuổi cũng có thể lao động và chỉ được làm các công việc sau đây: diễn viên (múa, hát, xiếc, điện ảnh, sân khấu kịch, tuồng, chèo, cải lương, múa rối, trừ múa rối dưới nước). Vận động viên năng khiếu (thể dục dụng cụ, bơi lội, điền kinh, trừ tạ xích), bóng bàn, cầu lông, bóng rổ, bóng ném, bi-a, bóng đá, các môn võ, đá cầu, cầu mây, cờ vua, cờ tướng, bóng chuyền). Và khi người sử dụng lao động sử dụng lao động trẻ em trong trường hợp này phải có sự đồng ý của cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. +) Công việc khác gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên. +) Nơi làm việc khác gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên. – Phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với người chưa đủ 15 tuổi và người đại diện theo pháp luật của người đó. Bởi vì trẻ em chưa có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên người đại diện theo pháp luật sẽ nhân danh để ký kết hợp đồng lao động. – Phải có giấy khám sức khỏe của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền xác nhận sức khỏe của người chưa đủ 15 tuổi phù hợp với công việc và tổ chức kiểm tra sức khỏe định kỳ ít nhất một lần trong 06 tháng. Điều này cho thấy pháp luật rất quan tâm đến sức khỏe của trẻ em, trẻ em muốn làm việc thì phải có đủ sức khỏe phù hợp với công việc đó. – Bảo đảm điều kiện làm việc, an toàn, vệ sinh lao động phù hợp với lứa tuổi. Điều cần lưu ý đối với người sử dụng lao động khi tuyển dụng lần đầu người dưới 15 tuổi vào làm việc phải thông báo bằng văn bản về Sở LĐ-TBXH cấp tỉnh nơi cơ sở đặt trụ sở chính trong vòng 30 ngày kể từ ngày bắt đầu tuyển dụng vào làm việc. Hằng năm, báo cáo việc sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc cùng với báo cáo công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động về Sở LĐ-TBXH. Theo quy định tại Điều 146 Bộ luật lao động 2019 thì thời giờ làm việc của người chưa đủ 15 tuổi không được quá 04 giờ trong 01 ngày và 20 giờ trong 01 tuần; không được làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm. – Phạt cảnh cáo đối với người sử dụng lao động có hành vi không lập sổ theo dõi riêng khi sử dụng lao động chưa thành niên hoặc không xuất trình sổ theo dõi khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. – Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:. +) Sử dụng người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, trừ một số nghề, công việc được pháp luật cho phép. – Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:. +) Sử dụng người dưới 15 tuổi làm công việc ngoài danh mục được pháp luật cho phép theo quy định tại: Khoản 1 và Khoản 3 Điều 164 của Bộ luật lao động. – Người nào sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. – Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng. Khi sử dụng nhà ở hoặc làm chủ sở hữu nhà ở thì người sử dụng hoặc chủ sở hữu có trách nhiệm đối với phần nhà ở thuộc quyền sở hữu của mình. Điều kiện, hồ sơ thủ tục xin cấp chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. Hướng dẫn chuẩn bị hồ sơ và các tài liệu cần thiết để xin cấp quyền sở hữu nhà ở. Việc phát triển nhà ở và các dự án xây dựng nhà ở phục vụ nhu cầu về chỗ ở ngày một tăng cao của người dân, ngoài ra còn giúp phát triển hạ tầng của quốc gia nâng cao giá trị sử dụng của đất đai. Trong quá trình sử dụng nhà ở thì chủ sở hữu nhà ở có những quyền liên quan đến việc yêu cầu được bảo trì, cải tạo nhà ở bên cạnh đó thì chủ sở hữu nhà ở cũng có nghĩa vụ trong việc bảo trì, cải tạo nhà ở.
Lao động trẻ em
Lao động trẻ em đề cập đến vấn đề sử dụng trẻ em trong bất kỳ công việc gì mà tước đi thời thơ ấu của trẻ, cản trở việc đi học thường xuyên, và gây tác hại về tinh thần, thể chất, xã hội hay đạo đức, nguy hiểm và độc hại. Nhiều tổ chức quốc tế coi lao động trẻ em là bóc lột. Pháp luật tại nhiều nước trên thế giới cấm lao động trẻ em. Những luật này không coi tất cả các hình thức trẻ em làm việc là lao động trẻ em, trường hợp ngoại lệ bao gồm công việc của các nghệ sĩ trẻ, công việc nhà, đào tạo có giám sát, một số loại công việc của trẻ em thuộc nhóm Amish, và các nhóm khác. Lao động trẻ em đã tồn tại trong lịch sử ở nhiều mức độ khác nhau. Trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, rất nhiều trẻ em độ tuổi 5-14 từ các gia đình nghèo đã phải làm việc ở châu Âu, Hoa Kỳ và các thuộc địa khác nhau của các cường quốc châu Âu. Những trẻ em làm việc trong ngành nông nghiệp, lắp ráp tại nhà, nhà máy, khai thác mỏ và trong các dịch vụ như trẻ em bán báo.
Bệnh võng mạc tiểu đường là gì2. Các giai đoạn bệnh võng mạc đái tháo đường tiến triển như thế nào2.1. Giai đoạn tiền tăng sinh2.4. Bệnh võng mạc tiểu đường không tăng sinh3. Nguyên nhân bị võng mạc tiểu đường3.1. Tiểu đường ảnh hưởng thế nào đến võng mạc3.2. Ai có nguy cơ cao mắc võng mạc tiểu đường4. Dấu hiệu bệnh võng mạc tiểu đường5. Biến chứng võng mạc tiểu đường6. Chẩn đoán bệnh võng mạc tiểu đường7. Điều trị bệnh võng mạc tiểu đường7.1. Laser quang đông võng mạc7.2. Tiêm thuốc nội nhãn7.3. Phẫu thuật cắt dịch kính8. Phòng ngừa võng mạc tiểu đường. Khái niệm về võng mạc tiểu đường: đây chính là một trong những biến chứng của bệnh tiểu đường. Nguyên nhân là do lượng đường trong máu cao, gây hại cho mặt sau của mắt hay còn được gọi là võng mạc. Nếu không kịp thời phát hiện để chẩn đoán và chữa trị kịp thời thì căn bệnh này sẽ dẫn đến mù lòa. Đây là giai đoạn đầu tiên của bệnh, khi đó vi phình mạch có thể dễ dàng quan sát trên lâm sàng đồng thời có hiện tượng xuất huyết trong võng mạc khiến bộ phận này bị phù lên. Giai đoạn này, bệnh nhân không cần điều trị laser mà chỉ cần tái khám hằng năm kết hợp với điều chỉnh các yếu tố có nguy cơ gây bệnh như thiếu máu, suy thận, cao huyết áp…. Bước sang giai đoạn hoàng điểm, được cho là nguyên nhân phổ biến, thường gặp gây ra hiện tượng giảm thị lực ở bệnh nhân bị tiểu đường bởi hoàng điểm chính là nơi được cho là tập trung cao nhất của thị lực. Giai đoạn này của bệnh võng mạc tiểu đường sẽ xuất hiện các xuất tiết cứng xung quanh hoàng điểm kèm theo tình trạng phù. Trong giai đoạn này, võng mạc bị thiếu máu cục bộ, các tiểu tĩnh mạch bị biến đổi sang dạng chuỗi hạt còn các tiểu động mạch bị thu hẹp, tắc nghẽn gây ra hiện tượng xuất huyết dạng vết kèm theo những bất thường ở vi mạch… đe dọa đến chức năng thị giác của con người. Giai đoạn này gây ra bởi sự tăng sinh các tân mạch bất thường, khiến cho hiện tượng xuất huyết bị tái diễn liên tục, dẫn đến hậu quả là các tổn thương võng mạc một cách trầm trọng, thậm chí rách võng mạc gây mù lòa, rất khó điều trị. Ngược lại với tăng sinh, võng mạc tiểu đường không tăng sinh chính là hiện tượng mạch máu ở võng mạc bị tổn thương trầm trọng rồi trở nên biến dạng hoặc tắc nghẽn. Kèm theo tình trạng dịch lỏng, protein hay chất béo bị rò rỉ ra bên ngoài gây nên tình trạng phù nề, làm cho thị lực bị suy giảm rõ ràng. Vì thế, để bệnh không phát triển nặng thì ngay từ những dấu hiệu của giai đoạn đầu tiên, người bệnh nên đến những cơ sở y tế uy tín, bệnh viện chất lượng để được thăm khám, chẩn đoán và chữa trị kịp thời. Đa số những bệnh nhân mắc phải căn bệnh tiểu đường sẽ có sự thay đổi ở đôi mắt sau khoảng thời gian 15-20 năm, cụ thể sẽ gây ra bệnh đục thủy tinh thể hay tăng nhãn áp. Nhưng nguy hiểm nhất chính là ảnh hưởng trên võng mạc dẫn đến mù lòa. Bởi lượng glucose (đường huyết) trong máu quá cao đồng thời lại cư ngụ một thời gian dài thì sẽ ngăn chặn các mạch máu li ti để nuôi dưỡng sức khỏe của võng mạc. Mặc dù, đôi mắt của bệnh nhân đã cố gắng tạo ra những mạch máu mới nhưng lại không thể phát triển bình thường như trước. Từ đó, sẽ gây ra hiện tượng xuất huyết, tràn dịch trong vào võng mạc làm mờ điểm nhìn và xuất hiện tình trạng phù điểm vàng. Bệnh võng mạc tiểu đường càng diễn biến theo chiều hướng nặng nề thì càng có nhiều mạch máu bị tắc nghẽn, nhiều chất dịch lỏng thoát ra từ mạch máu sẽ tích tụ lại làm rách võng mạc. Do đó, nếu không kịp thời phát hiện, điều trị thì người bệnh có khả năng tổn thương thị giác, mù lòa vĩnh viễn. Thực ra, những ai đang mắc bệnh đái tháo đường tuýp 2 hoặc tiểu đường tuýp 1 đều có nguy cơ mắc bệnh võng mạc tiểu đường. Bên cạnh đó, một số nhóm đối tượng khác như những người có nguồn gốc từ châu Á, phụ nữ đang mang thai, người bị huyết áp cao, có hàm lượng cholesterol cao… Cũng đều có khả năng mắc phải căn bệnh nguy hiểm này. Thông thường, nhiều người khi bị tiểu đường cũng không hề biết rõ ràng được mình có biến chứng của bệnh võng mạc hay không? Chỉ đến khi, bệnh trở nặng với những dấu hiệu như tầm nhìn xa có vấn đề thì mới phát hiện ra. Do đó, những ai đang mắc bệnh tiểu đường thì cần quan tâm, chú ý thật kỹ đến những vấn đề, thay đổi của mắt. Nhất là khi thấy xuất hiện một số triệu chứng, dấu hiệu như dưới đây thì cần đến gặp bác sĩ để được thăm khám và điều trị kịp thời. Mờ mắt: luôn cảm thấy mắt bị mờ dần và thị lực suy giảm một cách đáng kể. Mắt người bệnh sẽ luôn nhìn thấy các chớp sáng hay đốm đen xuất hiện. Có thể nói rằng, nếu không được phát hiện, chữa trị kịp thời, đúng lúc thì võng mạc tiểu đường sẽ gây ra những biến chứng và hậu quả thật khôn lường. Cụ thể, không chỉ khiến cho bệnh nhân không phân biệt được màu sắc, tầm nhìn bị hạn chế… mà nguy hiểm hơn sẽ là tổn thương, làm bong tróc hoặc rách bộ phận võng mạc của mắt, dẫn đến tình trạng mù lòa vĩnh viễn. Đầu tiên, người bệnh sẽ được thăm khám tổng quát để đánh giá về chức năng chung của mắt thông qua bài kiểm tra thị lực, sử dụng bảng đo mắt để nhìn mọi vật ở khoảng cách khác nhau. Tiếp theo, bác sĩ nhãn khoa sẽ nhỏ một loại thuốc vào đồng tử rồi dùng kính lúp dạng đặc biệt để soi đáy mắt, chụp lại bằng ảnh màu để đưa ra những nhận định hoặc phát hiện ra tổn thương ở võng mạc. Đây được cho là cách duy nhất để phát hiện ra căn bệnh võng mạc này. Ngoài ra, tùy theo từng trường hợp, chuyên gia y tế có thể cho bạn làm một số xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh khác như chụp OCT để quan sát rõ hơn hoặc chụp mạch huỳnh quang…. Hiện nay, nhờ sự tiến bộ của ngành y khoa nên đã có rất nhiều phương pháp được áp dụng để điều trị võng mạc tiểu đường. Tức là dùng laser để tạo ra những điểm bỏng nhỏ trên bộ phận võng mạc của mắt, từ đó làm giảm bớt nhu cầu sử dụng oxy để ưu tiên cho vùng hoàng điểm quan trọng hơn. Tùy theo từng dấu hiệu, hiện tượng, tình trạng… của bệnh, sẽ áp dụng nhiều kiểu laser hiện đại khác nhau nhằm mục đích giảm hiện tượng phù hoàng điểm hay hạn chế, ngăn chặn sự phát triển của các tân mạch bất thường đang làm tổn thương vĩnh viễn một phần của võng mạc. Trong các kiểu laser thì laser chùm Pascal được đánh giá là một thiết bị laser quang đông võng mạc tiên tiến nhất hiện nay, khắc phục được những nhược điểm của laser khác và đã được áp dụng thành công trên thế giới. Trong những trường hợp tình trạng võng mạc tiểu đường có xu hướng phát triển theo chiều hướng tiêu cực nặng nề hơn như xuất huyết dịch kính hay màng tăng sinh co kéo võng mạc… thì người bệnh sẽ được đội ngũ bác sĩ, chuyên gia y tế chỉ định làm phẫu thuật. Mục đích là loại bỏ máu trong buồng dịch kính để hạn chế, ngăn ngừa những biến chứng đồng thời có khả năng phục hồi thị lực cho người bệnh tốt hơn. Từ xưa, ông bà ta thường khuyên dạy rằng, nên phòng bệnh hơn chữa bệnh. Do đó, mỗi người nên có ý thức tự giác, chủ động đề phòng bệnh tật cho cơ thể. Đặc biệt, nếu bị tiểu đường thì bạn nên biết kiểm soát hàm lượng đường trong máu cũng như huyết áp để ngăn chặn biến chứng gây ra võng mạc tiểu đường. Xây dựng một chế độ ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng từ nguồn thực phẩm xanh, sạch, an toàn, chất lượng. Không nên ăn quá no, giảm bớt lượng đường và bột trong thức ăn, tuyệt đối nên tránh xa hoặc hạn chế các sản phẩm từ sữa hay thực phẩm chức năng, thực phẩm có nguồn gốc từ động vật…. Tăng cường đi khám sức khỏe mắt định kỳ để kịp thời phát hiện những dấu hiệu, triệu chứng… của bệnh. Không giống như nhiều căn bệnh liên quan đến mắt, bệnh võng mạc tiểu đường gây ra những biến chứng, hậu quả cực kỳ nguy hiểm, trầm trọng. Do đó, hy vọng từ những thông tin bổ ích mà bài viết trên đã chia sẻ thì mọi người sẽ có thêm nhiều kiến thức mới mẻ trong việc chăm sóc sức khỏe cho bản thân mình và gia đình một cách toàn diện, hiệu quả nhất. Các giai đoạn bệnh võng mạc đái tháo đường tiến triển như thế nào2.1. Giai đoạn tiền tăng sinh2.4. Bệnh võng mạc tiểu đường không tăng sinh. Nguyên nhân bị võng mạc tiểu đường3.1. Tiểu đường ảnh hưởng thế nào đến võng mạc3.2. Ai có nguy cơ cao mắc võng mạc tiểu đường. Điều trị bệnh võng mạc tiểu đường7.1. Laser quang đông võng mạc7.2. Tiêm thuốc nội nhãn7.3. Phẫu thuật cắt dịch kính. Khái niệm về võng mạc tiểu đường: đây chính là một trong những biến chứng của bệnh tiểu đường. Nguyên nhân là do lượng đường trong máu cao, gây hại cho mặt sau của mắt hay còn được gọi là võng mạc. Nếu không kịp thời phát hiện để chẩn đoán và chữa trị kịp thời thì căn bệnh này sẽ dẫn đến mù lòa. Đây là giai đoạn đầu tiên của bệnh, khi đó vi phình mạch có thể dễ dàng quan sát trên lâm sàng đồng thời có hiện tượng xuất huyết trong võng mạc khiến bộ phận này bị phù lên. Giai đoạn này, bệnh nhân không cần điều trị laser mà chỉ cần tái khám hằng năm kết hợp với điều chỉnh các yếu tố có nguy cơ gây bệnh như thiếu máu, suy thận, cao huyết áp…. Bước sang giai đoạn hoàng điểm, được cho là nguyên nhân phổ biến, thường gặp gây ra hiện tượng giảm thị lực ở bệnh nhân bị tiểu đường bởi hoàng điểm chính là nơi được cho là tập trung cao nhất của thị lực. Giai đoạn này của bệnh võng mạc tiểu đường sẽ xuất hiện các xuất tiết cứng xung quanh hoàng điểm kèm theo tình trạng phù. Trong giai đoạn này, võng mạc bị thiếu máu cục bộ, các tiểu tĩnh mạch bị biến đổi sang dạng chuỗi hạt còn các tiểu động mạch bị thu hẹp, tắc nghẽn gây ra hiện tượng xuất huyết dạng vết kèm theo những bất thường ở vi mạch… đe dọa đến chức năng thị giác của con người. Giai đoạn này gây ra bởi sự tăng sinh các tân mạch bất thường, khiến cho hiện tượng xuất huyết bị tái diễn liên tục, dẫn đến hậu quả là các tổn thương võng mạc một cách trầm trọng, thậm chí rách võng mạc gây mù lòa, rất khó điều trị. Ngược lại với tăng sinh, võng mạc tiểu đường không tăng sinh chính là hiện tượng mạch máu ở võng mạc bị tổn thương trầm trọng rồi trở nên biến dạng hoặc tắc nghẽn. Kèm theo tình trạng dịch lỏng, protein hay chất béo bị rò rỉ ra bên ngoài gây nên tình trạng phù nề, làm cho thị lực bị suy giảm rõ ràng.
Bệnh võng mạc tiểu đường
Bệnh võng mạc tiểu đường, bệnh võng mạc đái tháo đường hay Bệnh lý võng mạc do đường huyết cao (tiếng Anh: Diabetic retinopathy, hay diabetic eye disease) là tên gọi chung của những bệnh lý trong đó tổn thương xảy ra ở võng mạc bởi căn bệnh tiểu đường và một nguyên nhân hàng đầu dẫn đến mù lòa. Nó ảnh hưởng đến 80% người bị tiểu đường trong khoảng 20 năm hoặc nhiều hơn. Ít nhất 90% trường hợp mới có thể thuyên giảm nếu nhận được sự điều trị và theo dõi mắt đúng cách. Nếu một người mắc bệnh tiểu đường càng lâu, nguy cơ phát triển bệnh võng mạc tiểu đường càng cao. Mỗi năm ở Hoa Kỳ, bệnh võng mạc tiểu đường chiếm 12% trong tất cả các ca mù lòa mới. Nó cũng là nguyên nhân chính dẫn đến mù lòa đối với những người từ 20 đến 64 tuổi.
Một trong những hoạt động du lịch khám phá thú vị ở Chiang Mai (Thái Lan) là mô hình du lịch sinh thái tại công viên voi Elephant Nature Park. Nơi mà bạn có thể vui đùa cùng những chú voi đáng yêu và vô cùng thân thiện. Chỉ cách trung tâm thành phố Chiang Mai 1 tiếng đồng hồ đi xe, đến với công viên voi Elephant Nature Park, bạn không chỉ được hòa mình vào thiên nhiên tươi đẹp mà còn được tham gia vào các hoạt động ngoại khóa bổ ích như nghe hướng dẫn viên phổ biến kiến thức, kinh nghiệm về chăm sóc những chú voi đã từng bị ngược đãi. Đồng thời, bạn còn được tự tay làm thức ăn cho voi và chơi đùa với những chú voi to lớn hiền lành. Elephant Nature Park là nơi những quản tượng, bác sĩ thú y, vài tình nguyện viên chăm sóc những chú voi đã từng bị ngược đãi về thể chất lẫn tinh thần. Sau khi chúng bình phục, người ta chuyển chúng đến Haven, một khu nghỉ dưỡng rộng 800ha. Ngoài việc nuôi dưỡng bảo tồn và phát triển loài voi, công viên còn là nơi du khách có thể tìm hiểu về đời sống của loài voi, tham quan và tìm hiểu cuộc sống người dân miền núi và là dịp để thưởng ngoạn phong cảnh núi rừng hoang sơ và hùng vĩ nhất vùng núi phía Bắc Thái Lan. Chưa có đánh giá nào! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài viết này.
Công viên voi (Chiang Mai)
Công viên thuần dưỡng và bảo vệ loài voi này nằm ở tỉnh Chiang Mai - một tỉnh vùng núi Miền Bắc Thái Lan và là thủ phủ của vương quốc Lannathai xưa. Công viên nằm trong một thung lũng, nằm cạnh một con sông,những dãi núi và người dân địa phương sống bao quanh là điều kiện thuận lợi để phát triển loài voi cũng như là nơi tham quan hấp dẫn dành cho du khách muốn tìm hiểu về thiên nhiên,về núi rừng hay chính cuộc sống thường ngày của cư dân địa phương. Ở đây có hai trung tâm chăm sóc và phục hồi sức khỏe cho thú vật lớn nhất châu Á: Elephant Nature Park và Elephant Haven. Tại Nature Park, nơi những quản tượng, bác sĩ thú y, vài tình nguyện viên chăm sóc những chú voi bị chủ ngược đãi. Sau khi chúng bình phục,người ta chuyển chúng đến Haven, một khu nghỉ dưỡng rộng 800 hecta. Hiện nay đó có tất cả 25 con voi sống trong rừng ở Haven. Mặc dù trong văn hóa Thái, voi rất được coi trọng, nhưng thực tế con số 100.000 con cách đây một thế kỷ nay chỉ còn khoảng 2.500 - 5.000 con.
Có thể nói âm nhạc là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với con người, lịch sử về các thời kỳ phát triển của âm nhạc đã có từng rất lâu hàng nghìn năm xưa, đi qua nhiều giai đoạn, thời kỳ khác nhau. Tiếp theo trong 6 thời kỳ lịch sử âm nhạc cổ điển là Cổ điển, lãng mạn và âm nhạc thế kỷ XX/XXI. Nghĩa rộng hơn bao gồm tất cả âm nhạc nghệ thuật phương Tây từ thời Trung cổ đến những năm 2000. Ý nghĩa cụ thể đề cập đến âm nhạc từ những năm 1750 đến đầu những năm 1820. Thời kỳ Cổ điển mở rộng theo thời kỳ Baroque, thêm một hình thức bài hát mới có ảnh hưởng lớn: bản sonata. Thời kỳ này cũng chứng kiến sự phát triển của các bản concerto, giao hưởng, sonata, tam tấu và tứ tấu. Thời kỳ Cổ điển được biết đến nhiều nhất vì sự hấp dẫn của nó đối với sự rõ ràng về cấu trúc trong âm nhạc. Mặc dù giai đoạn này không có thêm bất kỳ nhạc cụ mới nào, nhưng harpsichord đã chính thức được thay thế bằng piano (hoặc fortepiano). Các dàn nhạc tăng về quy mô, phạm vi và sức mạnh, và tổng thể nhạc cụ có kết cấu nhẹ hơn, rõ ràng hơn so với âm nhạc Baroque, làm cho nó ít phức tạp hơn. Các nhà soạn nhạc đáng chú ý từ thời kỳ Cổ điển bao gồm những người khổng lồ âm nhạc Joseph Hayd, Ludwig van Beethoven, Franz Schubert, và tất nhiên, Wolfgang Amadeus Mozart. Beethoven và Schubert đã thu hẹp khoảng cách giữa thời kỳ cổ điển và lãng mạn của âm nhạc. Cũng giống như người ta có thể cho rằng từ “lãng mạn”, thời kỳ này sử dụng âm nhạc Cổ điển và thêm vào lượng lớn cường độ và biểu cảm. Khi thời kỳ phát triển, các nhà soạn nhạc dần dần buông bỏ những tác phẩm có cấu trúc nặng nề và tập trung vào kịch tính và cảm xúc. Thời kỳ Lãng mạn là thời kỳ vàng son của các nghệ sĩ điêu luyện, nơi những bản nhạc khó nhất sẽ được biểu diễn một cách lãnh đạm một cách dễ dàng. Nhạc cụ thậm chí còn trở nên nổi bật hơn, với các dàn nhạc đang phát triển với số lượng cao hơn bao giờ hết. Các nhà soạn nhạc đã thử nghiệm theo những cách mới, thử các cách kết hợp thiết bị đo độc đáo và vươn tới những chân trời mới trong sự hài hòa. Các buổi hòa nhạc và nhạc kịch công cộng đã thoát khỏi sự độc quyền của hoàng gia và sự giàu có và rơi vào tay của xã hội trung lưu thành thị để tất cả mọi người thưởng thức. Thời kỳ Lãng mạn cũng là thời kỳ đầu tiên các trường dạy âm nhạc quốc gia bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên, các thể loại phụ này thường được gộp chung thành một thể loại lớn vì có rất nhiều phong cách đa dạng và đối lập nhau. Thế kỷ XX và XXI chỉ có thể được mô tả là triều đại tự do cho các nhà soạn nhạc. Mỗi thời kỳ mà chúng tôi đã mô tả cho đến thế kỷ XX và XXI đều có một bộ hướng dẫn và đặc điểm chung mà hầu hết các nhà soạn nhạc đều tuân theo. Theo thời gian, các nhà soạn nhạc ngày càng rời xa các quy tắc và giới hạn để đến với nơi cuối cùng bây giờ là nơi thống trị hoàn toàn tự do. Âm nhạc cổ điển hiện là nơi cho những thử nghiệm đỉnh cao và mặc dù nó có thể không phổ biến vào năm 2018 như năm 1800, nhưng chắc chắn nó vẫn chưa biến mất. Có thể một trong những bản nhạc cổ điển nổi tiếng nhất từng được sáng tác trong thời gian này: “ Clair de Lune ” của Claude Debussy . Âm nhạc cổ điển đã trải qua một chặng đường dài và vô số nhà soạn nhạc đã góp phần tạo nên nó như ngày nay. Có lẽ điều chúng tôi học được nhiều hơn bất cứ điều gì là âm nhạc cổ điển là một điều: vượt thời gian. Thỉnh thoảng chúng ta vẫn nhìn lại thuở ban đầu và nhớ về thứ âm nhạc đẹp đẽ mà rất nhiều người đã làm ra. Chúng tôi rất biết ơn vì họ đã làm việc chăm chỉ, vì điều kỳ diệu mà họ đã dành cho chúng tôi, và món quà âm nhạc cổ điển luôn luôn cống hiến!. Vậy là VietVocal đã chia sẻ 6 thời kỳ lịch sử của nền âm nhạc cổ điển, có thể nói âm nhạc du nhập vào thế giới là rất sớm và tầm ảnh hưởng rất lớn cũng như có vai trò không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Nếu có bất kỳ câu hỏi nào hay đơn giản chỉ là muốn góp ý thêm những kiến thức về thanh nhạc hãy để lại bình luận phía dưới nhé. Rất mong nhận được phản hồi từ bạn!. Lưu tên, email của tôi trong trình duyệt này cho lần tiếp theo tôi nhận xét. VietVocal là học viện thanh nhạc trực tuyến đầu tiên tại Việt Nam, được sáng lập bởi Mỹ Linh - nữ ca sĩ có nhiều cống hiến ý nghĩa cho nền âm nhạc Việt Nam từ những năm 1990 đến nay. VietVocal chính là “đứa con tinh thần” mà ca sĩ Mỹ Linh luôn ấp ủ và mong muốn xây dựng để giúp tất cả những người yêu ca hát được tiếp cận thanh nhạc một cách bài bản trong thời gian ngắn nhất.
Lịch sử âm nhạc
Âm nhạc được tìm thấy trong mọi nền văn hóa và tôn giáo đã biết, quá khứ và hiện tại, rất khác nhau giữa thời gian và địa điểm. Vì tất cả mọi người trên thế giới, kể cả các nhóm bộ lạc bị cô lập nhất, đều có một hình thức âm nhạc, nên có thể kết luận rằng âm nhạc có khả năng đã có mặt trong dân số tổ tiên trước khi có sự phân bố con người trên khắp thế giới. Do đó, âm nhạc đầu tiên có thể đã được phát minh ở Châu Phi và sau đó phát triển để trở thành một thành phần cơ bản của cuộc sống con người. Âm nhạc của một nền văn hóa bị ảnh hưởng bởi tất cả các khía cạnh khác của nền văn hóa đó, bao gồm kinh nghiệm và tổ chức xã hội và kinh tế, khí hậu, khả năng tiếp cận công nghệ và tôn giáo được thực hành tại đó. Những cảm xúc và ý tưởng mà âm nhạc thể hiện, những tình huống mà âm nhạc được chơi và nghe, và thái độ đối với người chơi nhạc và nhà soạn nhạc đều khác nhau giữa các vùng và các thời kỳ lịch sử. "
SCOR là Mô Hình Tham Chiếu Hoạt Động Chuỗi Cung Ứng (Supply Chain Operation Reference). Mô hình này định ra các ứng dụng tốt nhất, các thước đo hiệu quả hoạt động và yêu cầu chức năng của các phần mềm cho từng quy trình cốt lõi, quy trình con và các hoạt động của chuỗi cung ứng. Mô hình SCOR cung cấp cấu trúc nền tảng, thuật ngữ chuẩn để giúp các công ty thống nhất nhiều công cụ quản lý, như tái thiết quy trình kinh doanh, lập chuẩn so sánh, và phân tích thực hành. Các công cụ của SCOR tạo giúp cho công ty phát triển và quản lý cấu trúc chuỗi cung ứng hiệu quả. Vào những năm 90 của thế kỷ 20, khi các chủ đề mở rộng hoạch định và triển khai hoạt động ra ngoài biên giới công ty trở thành mối quan tâm chính của nhiều nhóm lãnh đạo. Trước kia, phần lớn nỗ lực cải thiện quy trình hoạt động đều tập trung vào cải thiện hiệu quả hoạt động của các quy trình nội bộ công ty. Nay, nhờ vào công nghệ mới, xu thế thuê ngoài, xu thế thích ứng hóa hóa chuỗi cung ứng cho phù hợp với các khách hàng quan trọng, đã yêu cầu chuỗi cung ứng phải phát triển ra ngoài giới hạn của “bốn bức tường” công ty. Rõ ràng cần có một tập hợp định nghĩa chuẩn. Vào những năm giữa của thập kỷ 90 của thế kỷ 20, PRTM đã phát triển một mô hình tham chiếu quy trình, bao gồm các định nghĩa và các chỉ số đo lường hiệu quả hoạt động chính của chuỗi cung ứng bao gồm bốn quy trình: hoạch định, mua hàng, sản xuất và phân phối. Nhận thấy nhu cầu về một chuẩn thống nhất giữa các ngành, vào năm 1995 PRTM đã phối hợp làm việc với AMR, một hãng nghiên cứu độc lập chuyên cung cấp các phân tích trong lĩnh vực công nghệ phần mềm. PRTM và AMR đã cùng nhau lập ra Hội Đồng Chuỗi Cung Ứng (the Supply-Chain Council – SCC), ban đầu với 69 công ty thành viên. Trong vòng hơn một năm, ba tổ chức này (PRTM, AMR và SCC), đã phát triển một tiêu chuẩn gọi là Mô Hình Tham Chiếu Hoạt Động Chuỗi Cung Ứng (SCOR). Sử dụng phương pháp thiết kế từ trên xuống dưới của mô hình SCOR, công ty có thể nhanh chóng hiểu được cấu trúc và hiệu quả hoạt động hiện thời chuỗi cung ứng của mình. Công ty cũng có thể so sánh cấu trúc của mình với các công ty khác, phát hiện những cải tiến dựa trên các thực hành tốt nhất, và thiết kế cấu trúc chuỗi cung ứng tương lai cho mình. Từ khi ra đời năm 1996, đến nay đã có 700 công ty áp dụng mô hình SCOR. Năm 1996, Hội Đồng Chuỗi Cung Ứng (SCC) trở thành tổ chức phi lợi nhuận và mô hình SCOR được chuyển giao cho họ. Từ lúc thành lập, SCC ngày càng phát triển rộng khắp thành các hiệp hội ở Châu Âu, Nhật, Úc/New Zealand, Đông Nam Á, và Nam Phi, và khu vực Bắc Mỹ. Các thành viên đã ngày càng phát triển, mở rộng mô hình. Quy trình Thu Hồi được thêm vào năm 2001. Các thực hành tốt và các bảng tiêu chí đánh giá được cập nhật theo định kỳ. Mô hình SCOR là mô hình tổng quan, đưa ra hướng dẫn khung để phát triển cấu trúc chuỗi cung ứng. Bên cạnh SCOR, còn có các mô hình bổ sung khác được phát triển tương thích với từng tình hình cụ thể của các ngành công nghiệp và chi tiết đến mức ứng dụng – chẳng hạn như yêu cầu chuẩn về dữ liệu. Mô hình SCOR bao gồm bốn cấp độ từ khái quát đến chi tiết. Ba cấp độ ban đầu – quy trình, quy trình con, các hoạt động – được mô tả trong mô hình. Các quy trình hoạt động cụ thể, hay cấp độ thứ 4, được diễn giải chi tiết bằng biểu đồ dòng chảy công việc, thường được chuyên biệt hóa tùy theo chiến lược và yêu cầu cụ thể của từng công ty. Vì thế cấp độ 4 không được bao gồm trong tài liệu xuất bản chính thức của mô hình SCOR. Bắt đầu từ cấp độ 1 và kết thúc là cấp độ 3, nội dung của SCOR có thể dùng để chuyển chiến lược kinh doanh của công ty thành cấu trúc chuỗi cung ứng phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh cụ thể. Trình tự sử dụng các cấp độ khác nhau của SCOR sẽ phụ thuộc vào xuất phát điểm và yêu cầu kinh doanh cụ thể. Trong chương này chúng ta sẽ tìm hiểu các lợi ích trong hoạt động và kinh doanh đạt được từ việc cấu trúc chuỗi cung ứng bằng mô hình SCOR. Ở cấp độ 1, công ty cần xác định rõ sự phù hợp của các quy trình kinh doanh với cấu trúc kinh doanh (các đơn vị kinh doanh, các vùng, v.v…) và với các đối tác chuỗi cung ứng. Từ đó tinh chỉnh các mục tiêu chiến lược của chuỗi cung ứng – những ưu tiên kinh doanh mà chuỗi cung ứng phải hỗ trợ đắc lực. Cấp độ 1 tập trung vào năm quy trình chuỗi cung ứng chính (hoạch định(plan), mua hàng (source), sản xuất(make), phân phối (delivery) và thu hồi(return). Ở cấp độ 2, công ty cần tinh chỉnh lựa chọn về các quy trình chuỗi cung ứng của mình và xác định làm thế nào để quy trình tương thích với hạ tầng cơ sở kỹ thuật (bao gồm nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị ở các địa điểm và hệ thống công nghệ thông tin). Cấp độ 2, hay cấp độ cấu hình (configuration level), hỗ trợ phát triển và đánh giá các lựa chọn cấp độ cao (ở mô hình SCOR cấp độ 1) cho cấu trúc quy trình chuỗi cung ứng, bằng việc lựa chọn “gia vị” cho hoạch định, mua hàng, sản xuất, phân phối và thu hồi. Điều này được thực hiện thông qua việc lựa chọn các quy trình con tương ứng, hay còn gọi là các danh mục quy trình, dựa trên chiến lược chuỗi cung ứng. Việc lựa chọn danh mục quy trình sẽ ảnh hưởng đến thiết kế ở mức độ 3 bởi từng hạng mục yêu cầu các hoạt động cụ thể rất khác biệt. Mô hình SCOR đã buộc một công ty phải xem xét lại một luận điểm đã tồn tại rất lâu: dịch vụ khách hàng tệ hơn mong muốn là do quy trình xử lý đơn hàng. Trong quy trình này các đơn hàng được tự động chuyển từ khách hàng tới một hệ thống, sau đó được nhập thủ công vào một hệ thống khác để xử lý tài chính, trước khi liên lạc với các nhà cung cấp. Tuy nhiên, nhóm dự án đã phân tích và chỉ ra rằng dù việc nhập lại số liệu một cách thủ công làm phát sinh chi phí và tạo nguy cơ nhầm lẫn sai sót, nhưng việc quản lý các nhà thầu phụ mới là vấn đề nghiêm trọng hơn. Với quy trình hiện tại, việc trao đổi về kế hoạch yêu cầu với các nhà thầu phụ là một phần của quy trình đặt hàng chính thức, trong đó các nhà cung cấp xác nhận số lượng và ngày giao hàng. Tuy nhiên thay đổi từ phía nhà cung cấp như giao hàng trễ so với kế hoạch, thay đổi về khối lượng đơn hàng từ nhà thầu chính, lại được thực hiện một cách không chính thức. Nhóm dự án đã vạch ra các thay đổi chính gồm vai trò mới của bộ phận thu mua, xem xét lại hoạch định hàng tháng của nhà thầu phụ (nhằm điều chỉnh lại kế hoạch đã được đồng thuận trước), và các quy tắc giúp hướng dẫn thay đổi lịch trình sản xuất của nhà thầu phụ. Sau nhiều tháng nỗ lực, công ty đã mang lại kết quả ấn tượng: giao hàng đúng hạn bởi nhà cung cấp tăng hơn 20%, thời gian xác nhận đơn hàng giảm rõ rệt. Ngày nay công ty có thể xác nhận đơn hàng trong vòng 2 đến 3 ngày, thay bằng 2 đến 3 tuần như trước kia. Công ty đã dần lấy lại được lòng tin của khách hàng.
Tham chiếu hoạt động chuỗi cung ứng
Mô hình tham chiếu hoạt động chuỗi cung ứng (SCOR) là mô hình tham chiếu quy trình được Hội đồng chuỗi cung ứng phát triển và xác nhận là công cụ chẩn đoán tiêu chuẩn, công nghiệp chéo để quản lý chuỗi cung ứng. Mô hình SCOR mô tả các hoạt động kinh doanh liên quan đến việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, bao gồm kế hoạch, nguồn, thực hiện, giao hàng, trả lại và cho phép. Việc sử dụng mô hình bao gồm phân tích trạng thái hiện tại của các quy trình và mục tiêu của công ty, định lượng hiệu suất hoạt động và so sánh hiệu suất của công ty với dữ liệu điểm chuẩn. SCOR đã phát triển một bộ số liệu về hiệu suất chuỗi cung ứng và các thành viên Hội đồng chuỗi cung ứng đã thành lập các nhóm ngành để thu thập thông tin thực tiễn tốt nhất mà các công ty có thể sử dụng để nâng cao mô hình chuỗi cung ứng của họ. Mô hình tham chiếu này cho phép người dùng giải quyết, cải thiện và truyền đạt các thông lệ quản lý chuỗi cung ứng trong và giữa tất cả các bên quan tâm trong doanh nghiệp mở rộng.
Thập tự chinh là một loạt các cuộc chiến tranh tôn giáo, được kêu gọi bởi Giáo hoàng và tiến hành bởi các vị vua và quý tộc là những người tình nguyện cầm lấy cây thập giá với mục tiêu chính là phục hồi sự kiểm soát của Kitô giáo với vùng Đất Thánh. Quân thập tự đến từ khắp Tây Âu, và đã có một loạt các chiến dịch không liên tục giữa năm 1095 và 1291. Các chiến dịch tương tự ở Tây Ban Nha và Đông Âu tiếp tục vào thế kỷ 15. Các cuộc Thập Tự Chinh được chiến đấu chủ yếu giữa người Giáo hội Công giáo Rôma chống lại người Hồi giáo và các tín hữu Kitô giáo theo Chính Thống giáo Đông phương trong Byzantium, với các chiến dịch nhỏ hơn tiến hành chống lại người Slav ngoại giáo, Balts ngoại giáo, Mông Cổ, và người Kitô giáo ngoại đạo. Chính Thống giáo Đông phương cũng tham gia chiến đấu chống lại lực lượng Hồi giáo trong một số cuộc Thập Tự Chinh. Thập tự chinh được thề và đã được cấp một ơn toàn xá bởi Đức Giáo hoàng. Các cuộc Thập Tự Chinh ban đầu có mục tiêu thu hồi lại Giêrusalem và Đất Thánh khỏi ách thống trị của Hồi giáo và các chiến dịch của họ đã được xuất phát từ lời kêu gọi của các nhà lãnh đạo đế chế Byzantine để được sự giúp đỡ nhằm chống lại sự mở rộng của người Thổ Seljuk theo đạo Hồi tới Anatolia. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để mô tả các chiến dịch đương thời và sau đó được thực hiện ở thế kỷ 16 ở vùng lãnh thổ bên ngoài Levant, thường là để chống lại ngoại giáo, và nhân dân bị khai trừ giáo tịch, cho một hỗn hợp của các lí do tôn giáo, kinh tế, và chính trị. Sự kình địch giữa các quốc gia Kitô giáo và Hồi giáo đã dẫn liên minh giữa các phe phái tôn giáo chống lại đối thủ của họ, chẳng hạn như liên minh Kitô giáo với Vương quốc Hồi giáo của Rûm trong cuộc Thập Tự Chinh thứ năm. Các cuộc Thập Tự Chinh đã có một số thành công tạm thời, nhưng quân Thập tự cuối cùng bị buộc phải rời khỏi Đất Thánh. Tuy nhiên các cuộc Thập Tự Chinh đều bị tác động từ bối cảnh chính trị, kinh tế và xã hội sâu rộng ở châu Âu. Bởi vì các cuộc xung đột nội bộ giữa các vương quốc Thiên chúa giáo và quyền lực chính trị, một số cuộc thám hiểm thập tự chinh đã chuyển hướng từ mục tiêu ban đầu của họ, chẳng hạn như cuộc Thập Tự Chinh thứ tư, dẫn đến sự chia cắt của Constantinopolis Thiên chúa giáo và sự phân vùng của đế chế Byzantine giữa Venice và quân Thập tự. Cuộc Thập tự chinh thứ sáu là cuộc thập tự chinh đầu tiên xuất phát mà không có sự cho phép chính thức của Đức Giáo hoàng. Các cuộc Thập Tự Chinh thứ bảy, thứ tám và thứ chín đã dẫn đến kết quả là chiến thắng của Mamluk và triều đại Hafsid, như cuộc Thập Tự Chinh thứ chín đã đánh dấu sự kết thúc của cuộc Thập Tự Chinh ở Trung Đông. Khoảng thế kỷ thứ 7, những người đứng đầu đạo Hồi tiến hành các cuộc trường chinh xâm chiếm các vùng đất mới. Từ năm 660 đến năm 710, các giáo sĩ Hồi giáo đã chiếm được một lãnh thổ rộng lớn ở Bắc Phi, Thổ Nhĩ Kỳ. Đến năm 720, những kỵ binh Hồi giáo chiếm Tây Ban Nha rồi thọc sâu vào đến tận lãnh thổ Pháp; từ năm 830 đến năm 976 Sicilia và miền nam Ý rơi vào tay người Hồi giáo. Lúc này, những đoàn hành hương của tín đồ Kitô giáo về các miền Đất Thánh mà trong đó Palestine là nơi thiêng liêng nhất bắt đầu phổ biến từ thế kỷ 4 và đến thế kỷ 11 đã trở nên rất thịnh hành. Người Thổ Seljuk Hồi giáo không cố ý ngăn cản những đoàn hành hương nhưng họ thu rất nhiều loại thuế, phí gây ra làn sóng phẫn nộ trong cộng đồng Kitô giáo. Cũng sang thế kỷ 11, Đế quốc Byzantine (Đế quốc Đông La Mã) chỉ còn lại một vài vùng đất ở châu Âu. Lúc này, nguy cơ người Hồi giáo tràn sang phía Tây đã hiện hữu đối với người Kitô giáo đặc biệt là sau khi quân đội Seljuk đánh bại quân Byzantine trong trận Manzikert năm 1071 và bắt được cả hoàng đế Romanus IV thì con đường tiến về Constantinopolis đã được khai thông. Suleyman, một thủ lĩnh người Thổ Nhĩ Kỳ và các chiến binh của ông thậm chí còn định cư ngay tại Niacea, chỉ cách Constantinopolis vài dặm. Để giành lại các vùng đất đã mất ở Tiểu Á, Hoàng đế Byzantine kêu gọi sự giúp đỡ từ phía Tây nhưng không có kết quả. Sau đó, họ kêu gọi sự giúp đỡ từ Giáo hoàng và để đổi lại, họ hứa sẽ xóa bỏ sự phân ly giữa Chính thống giáo Đông phương và Giáo hội Công giáo Rôma xảy ra năm 1054. Ngày 27 tháng 11 năm 1095 tại Hội nghị giám mục, Giáo hoàng Urban II (tại vị 1088-1099) kêu gọi các hiệp sỹ, hoàng tử phương Tây và tín đồ Kitô giáo đến giúp đỡ tín hữu Kitô giáo phương Đông đồng thời giành lại những vùng Đất Thánh đã mất. Việc thánh chiến để bảo vệ và lấy lại những vùng đất của người Kitô giáo được hậu thuẫn bởi thay đổi quan trọng trong phong trào cải cách Giáo hội đang diễn ra. Trước khi Giáo hoàng Urban II phát ra lời kêu gọi, quan niệm Chúa sẽ thưởng công cho những ai chiến đấu vì chính nghĩa đã rất thịnh hành. Chính nghĩa là không chỉ là chịu đựng tội lỗi trong thế giới mà phải là cố gắng chỉnh sửa chúng. Các đạo quân thập tự chinh là tiêu biểu cho tinh thần ấy trong giai đoạn Giáo hội đang cải tổ mạnh mẽ. Những cuộc thập tự chinh diễn ra trong thời kỳ mà dân số châu Âu phát triển mạnh mẽ và các học giả cho rằng trên khía cạnh này nó có động cơ tương tự như cuộc tấn công của người Đức vào phương Đông cũng như cuộc xâm chiếm của người Tây Ban Nha. Những cuộc thập tự chinh nhằm mục đích chiếm giữ những vùng đất mới để mở rộng sự bành trướng của phương Tây với các quốc gia Địa Trung Hải. Tuy nhiên thập tự chinh khác với những cuộc tấn công, xâm chiếm của người Đức và người Tây Ban Nha ở chỗ nó chủ yếu dành cho tầng lớp hiệp sỹ và nông dân du cư ở Palestine. Tầng lớp hiệp sỹ đặc biệt nhạy cảm với sự tăng trưởng nhanh chóng của dân số châu Âu trong giai đoạn này. Họ được đào tạo, huấn luyện để tiến hành chiến tranh và trong bối cảnh dân số phát triển mạnh mẽ, những cuộc xung đột để giành đất đai đã xảy ra. “Đất đai mà các bạn cư ngụ thì quá hẹp đối với một dân số lớn; nó cũng không thừa của cải; và nó khó lòng cung cấp đủ thực phẩm cho những người trồng trọt trên nó. Đây là lý do vì sao các bạn phải tàn sát và tàn phá lẫn nhau.”. Như vậy, họ được khuyến khích đi viễn chinh để giành đất và trên góc độ nào đó các cuộc thập tự chinh là phương tiện bạo lực nhằm rút bạo lực ra khỏi đời sống thời Trung Cổ. “Sự ra đi của họ làm cho dân chúng hạnh phúc, và sự đến của họ làm phấn khởi những người đang thúc giục họ giúp đỡ. Họ giúp cả hai nhóm, không những bảo vệ nhóm này mà còn không áp bức nhóm kia.”. Về danh sách các cuộc thập tự chinh, chưa có sự thống nhất cao trên thế giới, danh sách này có thể lên đến 9 cuộc tùy quan điểm. Tháng 9 năm 1095, Giáo hoàng Urban II đã có một bài thuyết giảng tại Clermont, miền nam nước Pháp kêu gọi giới quý tộc đảm nhiệm cuộc viễn chinh vào Đất Thánh. Lời kêu gọi này đã gây tác động đến mọi tầng lớp trong xã hội phương Tây và dẫn đến một cuộc thập tự chinh mang tính đại chúng với sự tham gia đông đảo của nông dân và người nghèo ở miền bắc Pháp và châu thổ sông Rhine cùng với một số hiệp sỹ và tu sỹ vào tháng 2 năm 1096, được lãnh đạo bởi một thầy tu ẩn dật người Pháp tên là Piere l’Ermite. Đội quân đông đảo nhưng trang bị thô sơ và không được tổ chức tốt này tấn công người Do Thái, từ Cologne (Đức) vượt qua Bulgaria, Hungary rồi kéo đến Constantinople. Sau khi được hoàng đế Alexios I của Byzantine đưa qua eo Bosphorus, họ nhanh chóng bị quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đánh tan. Ngay sau đó, một đội quân thực sự được tổ chức tốt do giới quý tộc lãnh đạo đã lên đường tiến hành cuộc thập tự chinh chính thức lần thứ nhất. Họ dẫn đầu 4 đạo quân theo nhiều hành trình đường bộ và đường biển đến Constantinople năm 1096 và 1097 để từ đó tấn công nhà Seljuk ở Rum. Cuối tháng 4 năm 1097, đội quân thập tự chinh tiến vào lãnh thổ của người Seljuk và giành được thắng lợi đầu tiên trong trận Dorylaeum ngày 1 tháng 7 năm 1097. Chiến thắng có tính chất bước ngoặt của thập tự quân là việc đánh chiếm thành phố cảng Antioch và đã giành được thắng lợi sau cuộc vây hãm kéo dài 8 tháng, mở thông đường tiến về Jerusalem. Ngày 7 tháng 6 năm 1099, Thập tự quân tới Jerusalem và bắt đầu vây hãm thành phố. Ngày 15 tháng 7 năm 1099, thập tự quân đột kích chiếm Jerusalem và tàn sát các tín đồ Hồi giáo, Do Thái giáo cũng như cả Chính thống giáo Đông phương. Trong khi đoàn quân chủ yếu tiến đến Antiochia và Jerusalem thì Baldwin xứ Boulogne tách đội quân của mình ra để chiếm Edessa, nơi ông thiết lập Công quốc thập tự quân đầu tiên ở phương Đông. Sau đó với sự giúp đỡ của hạm đội của Venice và Genoa, Thập tự quân chiếm được toàn bộ bờ Đông Địa Trung Hải và thiết lập bá quốc Tripoli và 1 số tiểu quốc khác. Năm 1144, việc quân Hồi giáo tái chiếm Edessa và uy hiếp Jerusalem đã dẫn đến cuộc thập tự chinh thứ hai do Bernard thành Clairvaux tích cực phát động. Đoàn thập tự chinh gồm hai đội quân, một do vua Louis VII của Pháp, một do vua Konrad III (Hohenstaufen) của Đức chỉ huy lên đường chiếm Damascus (Syria) để tạo tiền đồn phòng thủ tốt hơn cho Jerusalem. Cuộc đột chiếm Damascus thất bại, thành phố này rơi vào tay vua Nur ad-Din Zangi, vị tiểu vương Hồi giáo đã dẫn quân đến cứu viện theo đề nghị của Damascus. Đội quân thập tự chinh phải rút về nước mà không giành được một thành quả nào ngoại trừ việc Thập tự quân Bắc Âu dừng lại ở Lisboa và cùng với người Bồ Đào Nha chiếm lại thành phố này từ người Hồi giáo. Sau khi Saladin chiếm được Ai Cập, trở thành Sultan ở đây và thống nhất các tín đồ Hồi giáo, Syria bị đe dọa nghiêm trọng, lãnh thổ của người Kitô giáo có thể bị xâm lấn bất cứ lúc nào. Năm 1187, Saladin đánh bại quân Thập tự và chiếm lại Jerusalem nên nguy cơ công quốc thập tự quân này bị xóa sổ đã hiện hữu. Trước tình hình đó, hoàng đế Friedrich I Barbarossa của đế quốc La Mã thần thánh, vua Philippe II Auguste của Pháp cùng vua Richard I Sư tử tâm của Anh đồng loạt tiến quân về phương Đông, tiến hành cuộc Thập tự chinh thứ ba. Ngày 10 tháng 6 năm 1190, Friedrich I Barbarossa chết đuối khi đang vượt sông Saleph (nay là sông Goksu) ở xứ Tiểu Á, Thổ Nhĩ Kỳ và hầu hết quân đội của ông quay trở về nước. Đội quân của Richard Sư tử tâm và Philippe II Auguste đã vây hãm và chiếm được Acre. Đây là thắng lợi quan trọng nhất của cuộc thập tự chinh này, nhưng do mâu thuẫn vốn có giữa 2 vương quốc nên Philippe II Auguste bỏ về nước để thực hiện các kế hoạch thiết thân hơn ở Tây Âu. Mặc dù vậy, thập tự chinh thứ ba kết thúc trong bế tắc, Richard phải kí hòa ước với Saladin vào ngày 2 tháng 9 năm 1192, theo đó lãnh thổ của công quốc Jerusalem vẫn nằm trong một phạm vi hẹp từ Acre đến Jaffa và việc người Kitô giáo hành hương được quyền viếng thăm Jerusalem trong 3 năm là kết quả của cuộc viễn chinh tốn kém này. Trên đường về nước năm 1192, con tàu của Richard Sư tử tâm bị hỏng ở Aquileia (Ý), ngay trước Giáng Sinh năm ấy, ông bị Leopold V (Công tước Áo) bắt giữ rồi trao cho hoàng đế Heinrich VI (Đế quốc La Mã thần thánh). Richard Sư tử tâm bị cầm tù cho đến 4 tháng 2 năm 1194 mới được giải phóng sau khi đã trả tiền chuộc. Cuộc Thập tự chinh thứ tư bắt đầu năm 1202 do Giáo hoàng Innocent III phát động với mục tiêu chiếm Ai Cập để từ đó tấn công Jerusalem. Thế nhưng do thiếu nguồn lực tài chính nên những người chỉ huy thập tự quân đã thỏa thuận với Venezia nhằm có được phương tiện và hậu cần đảm bảo cho cuộc hành quân sang Ai Cập, để đổi lại, người Venezia sẽ nhận một nửa đất chiếm được và Thập tự quân phải trả 85000 đồng mác bằng bạc. Sau đó, Venezia đề nghị đội quân thập tự chinh đánh chiếm Zara, địch thủ thương nghiệp của Venezia, một thành phố cũng của người Kitô giáo. Bởi còn thiếu 34000 mác, thập tự quân đã tấn công và đánh chiếm Zara vào tháng 11 năm 1202. Kế tiếp, người Venezia lại thuyết phục thập tự quân tấn công Constantinople, thủ đô của Đế quốc Byzantine theo Chính thống giáo Đông phương. Thành phố vốn đang bị chia rẽ bởi mối bất hòa giữa các phe phái này nhanh chóng thất thủ ngày 12 tháng 4 năm 1204. Mặc dù Giáo hoàng Innocent III cố gắng ngăn chặn các đạo quân thập tự, song chúng cũng cướp bóc và đốt cháy hết một phần thành phố. Sau đó người Venezia và Thập tự quân phân chia đế quốc Byzantine thành các công quốc và thống trị cho đến năm 1261. Cuộc Thập tự chinh chấm dứt mà Thập tự quân không tiếp tục tiến về Đất Thánh. Thập tự chinh thứ năm do Giáo hoàng Honorius III tổ chức, Thập tự quân năm 1217 gồm các đạo quân do Leopold VI (Công tước Áo) và András II của Hungary dẫn đầu, đến năm 1218, quân đội của Oliver thành Cologne và một đội quân hỗn hợp của vua Hà Lan Willem I cũng tham gia. Năm 1219, Thập tư quân công chiếm Damietta và Giáo hoàng cử đại diện là Pelagius thống lĩnh cuộc Thập tự chinh. Người Hồi giáo đã đề nghị đổi quyền kiểm soát giữa Damietta và Jerusalem nhưng Pelagius từ chối. Năm 1219, Thập tự quân định tấn công Cairo nhưng không vượt qua được sông Nin đang trong mùa nước lũ và buộc phải rút lui do hậu cần không đảm bảo.
Thập tự chinh thứ năm
Cuộc Thập tự chinh lần thứ năm (1213-1221) là một cố gắng nhằm giành lại Jerusalem và phần còn lại của Đất Thánh bằng cách chinh phạt Triều đình Ayyubid hùng mạnh của Ai Cập. Giáo hoàng Innôcentê III và người kế nhiệm của ông, Giáo hoàng Hônôriô III đã đứng ra tổ chức một đội quân thập tự chinh do vua Andrew II của Hungary và Công tước Leopold VI của Áo, và một bước đột phá so với Jerusalem cuối cùng rời thành phố trong tay người Hồi giáo. Sau đó trong 1218, một quân đội Đức do Oliver của Cologne, và quân đội hỗn hợp của người Hà Lan, Flemish và Frisco nằm dưới sự chỉ huy của William I, Bá tước của Hà Lan đã tham gia vào cuộc thập tự chinh. Để tấn công vào vùng Damietta ở Ai Cập, họ đã liên minh với Vương quốc Hồi giáo Rum của người Seljuk ở vùng Anatolia để tấn công các thành trì của triều Ayyubids tại Syria trong một nỗ lực để giải phóng quân Thập tự chinh khỏi việc phải chiến đấu trên hai mặt trận. Sau khi chiếm được bến cảng Damietta, Quân Thập tự chinh đã hành quân về phía nam phía Cairo vào tháng 7 năm 1221, nhưng họ đã phải quay trở lại sau khi nguồn cung cấp của họ bị cạn kiệt và sự kiện này đã dẫn đến một thất bại.
Chúng ta vẫn còn lẫn lộn giữa hai khái niệm SPA và Thẩm Mỹ Viện. Tại nước ta, chưa có nhiều địa chỉ thực sự đúng nghĩa là Thẩm Mỹ Viện. Phần nhiều vẫn là Spa gắn mác Thẩm Mỹ Viện. Hiện tại, thì cũng rất ít người phân biệt được hai loại hình làm đẹp này. Bài viết hôm nay, sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn Thẩm Mỹ Viện là gì?. Thẩm Mỹ Viện là gì? Đây là câu hỏi cần được giải đáp để bạn có cái nhìn toàn diện hơn về Thẩm Mỹ Viện. Thẩm Mỹ Viện là nơi kinh doanh về dịch vụ sắc đẹp toàn diện hơn. Thẩm Mỹ Viện cung cấp những dịch vụ tổng quát liên tưởng đến sức khỏe, dung nhan. Đó là các loại hình dịch vụ như: thẩm mỹ da mặt, chăm sóc bàn chân, triệt lông, trẻ hóa da. Cao hơn nửa là các dạng tiểu phẫu như nhấn mí, nâng mũi,…Và còn rất nhiều dịch vụ tương quan khác. Thẩm mỹ viện được trang bị các thiết bị làm đẹp hiện đại liên quan đến việc điều chỉnh sắc đẹp thẩm mỹ. Không thiên về các loại hình như chăm sóc da hay massage thư giãn. Không phải thẩm mỹ viện nào cũng có thể hoạt động kinh doanh tất cả các dịch vụ liên quan đến việc điều chỉnh dung nhan, ở mỗi dịch vụ khác nhau thì phải có giấy phép kinh doanh khác nhau. Giấy phép kinh doanh này được đăng ký tại Sở y tế quốc gia Việt Nam. Bên cạnh việc đăng ký giấy phép kinh doanh, ở bất kỳ thẩm mỹ viện nào cũng phải có giấy phép nhập khẩu các thiết bị thẩm mỹ làm đẹp từ nước ngoài. Một thẩm mỹ viện uy tín và an toàn được xác định bởi các yếu tố sau:. Cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại đạt tiêu chuẩn bị quy định bởi Sở Y Tế Việt Nam về ngành làm đẹp thẩm mỹ. Các bác sĩ chuyên gia thẩm mỹ thực hiện các dịch vụ thẩm mỹ phải có đầy đủ bằng cấp liên quan đến lĩnh vực phụ trách. Có kinh nghiệm điều trị và được đào tạo bàn bản qua các trường lớp uy tín. Công nghệ làm đẹp sử dụng là công nghệ thật, đã đăng ký tại cơ sở có thẩm quyền hoặc chuyển giao từ công nghệ của các nước phát triển có chứng nhận hợp pháp. Trong quá trình thực hiện thẩm mỹ làm đẹp, Thẩm Mỹ Viện phải làm đúng quy trình và đảm bảo an toàn y tế, sức khỏe, các điều kiện cần và đủ để mang lại độ an toàn tốt nhất cho người sử dụng dịch vụ. Thẩm Mỹ Viện được nhiều người biết đến với nhiều ca làm đẹp thành công rực rỡ. Số lượng khách hàng đã thực hiện ở địa chỉ thẩm mỹ đó ngày càng nhiều, dịch vụ thỏa mãn và hài lòng người sử dụng.
Thẩm mỹ viện
Thẩm mỹ viện hay tiệm làm đẹp hay mỹ viện (tiếng Anh: Beauty Salon) là một cơ sở kinh doanh chuyên về dịch vụ chăm sóc, trang điểm sắc đẹp, ngoại hình của nam và nữ với mỹ phẩm phục vụ điều trị cho nam giới và phụ nữ, thẩm mỹ viện còn có chức năng tư vấn các vấn đề liên quan đến chăm sóc sắc đẹp. Các biến thể khác của loại hình kinh doanh này bao gồm các tiệm làm tóc, tiệm làm móng và spa. Thẩm mỹ viện cung cấp dịch vụ tổng quát liên quan đến sức khỏe, sắc đẹp từ thẩm mỹ da mặt, chăm sóc bàn chân, liệu pháp oxy, tắm bùn, và vô số các dịch vụ khác.
Dạng thức chính thể nào là dạng thức hiệu quả nhất? Khi trả lời cho câu hỏi này, chính thể đại diện thường nổi lên như là một trong những câu trả lời ưu tú nhất thể hiện tiềm năng một chính thể phải làm được. Theo đó, khi người dân càng được đại diện tốt hơn bao nhiêu, thì nhu cầu của họ càng được phản ánh trong chính phủ, và chính phủ đó càng hoạt động hiệu quả bấy nhiêu. Ở Mỹ, bất kỳ ai cũng có thể thành lập đảng phái chính trị và phấn đấu để có vị trí đại diện lớn hơn trong chính phủ. Thế nhưng, tại sao đất nước này chỉ có hai đảng chính, và tất cả các đảng còn lại đều được gọi chung là “đảng thứ ba”?. Bài viết sau đây sẽ tìm hiểu những ưu nhược điểm của hệ thống lưỡng đảng với Mỹ là ví dụ minh họa. Nói một cách đơn giản, hệ thống lưỡng đảng giúp người dân dễ nắm bắt vấn đề. Khi chỉ có hai đảng lớn có quan điểm mâu thuẫn, việc chọn bên này hay bên kia sẽ trở nên dễ dàng hơn. Ngoài ra, vì đường lối của các đảng đi theo những ý thức hệ tương ứng, nên mọi người có thể dễ dàng đồng tình và đứng về một trong hai đảng. Với hệ thống lưỡng đảng, mỗi đảng phải tìm ra những lập trường phổ biến, nói thay cho mong muốn của đông đảo người dân. Do đó, các đảng sẽ có nhiều khả năng định hướng mình theo quan điểm trung lập – thể hiện phổ quan điểm chung và được nhiều người dân đồng tình, thay vì những quan điểm cực đoan có thể đẩy đảng vào thế nguy xa rời quần chúng. Khi một đảng trở nên cực đoan trong một vấn đề, nhiều người sẽ chuyển sang bỏ phiếu cho đảng còn lại, gửi đi thông điệp rõ ràng rằng những quan điểm như vậy không được lòng người. Nói cách khác, hệ thống lưỡng đảng đã tự điều chỉnh và cho phép các hệ thống chủ động chống lại những quan điểm cực đoan. Khi chỉ có hai đảng hoạt động nhận được sự quan tâm của phần đông dân chúng, việc tổ chức các cuộc tranh luận và các sự kiện bầu cử trở nên dễ dàng hơn nhiều. Các sự kiện có thể được lên lịch từ sớm, và người dân cũng có thể nhận được những cảnh báo chính trị sớm hơn. Ngoài ra, việc có ít đảng cũng mở ra khả năng có nhiều cuộc tranh luận trực tiếp, từ đó giúp nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề chính trị. Những đảng phái thành công đại diện cho số lượng lớn cử tri tại một địa phương. Trong 50 bang của Mỹ thì có 48 bang, các cuộc bỏ phiếu bầu cử được tiến hành dựa trên cơ sở “được ăn cả ngã về không” (“Winner takes it all”). Chẳng hạn, nếu bạn giành được 51% phiếu bầu của bang Florida, thì coi như bạn đã nắm toàn bộ số phiếu của bang này. Như vậy, một chính đảng chỉ có thể chiến thắng tại một khu vực địa lý nếu họ thật sự có đủ sức mạnh chính trị và nhận được sự ủng hộ áp đảo từ quần chúng so với các đảng phái còn lại. Hệ thống này giúp xác định một cách dễ dàng và nhanh chóng xu hướng chính yếu của phần đông cử tri. Tuy nhiên, ưu điểm số bốn cũng có những nhược điểm nhất định. Như đã nói ở trên, với cơ chế “được ăn cả”, đảng muốn chiến thắng cần một sức mạnh tập trung tại bất kỳ một khu vực địa lý bầu cử nào. Điều này không phản ánh được cơ sở ủng hộ của một số đảng phái rải rác trên toàn quốc gia. Ít được biết đến trong cuộc bầu cử, các ứng viên đảng thứ ba có thể chẳng bao giờ nhận được sự chú ý cần thiết để chạy đua với ứng viên của hai đảng chính. Với một sự việc, luôn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau. Tuy nhiên, với hệ thống lưỡng đảng, một số chi tiết nhỏ trong các chủ đề sẽ bị che lấp bởi sự đồng thuận của số đông trong đảng. Điều này làm hạn chế bản chất tự nhiên của các cuộc tranh luận, tập trung hoàn toàn vào ý kiến của đúng hai người. Những hệ thống cho phép nhiều hơn hai đảng phái tồn tại sẽ có nhiều ý kiến về các chủ đề hơn, từ đó cho phép người bỏ phiếu bầu có nhiều cơ hội lựa chọn hơn. Ở Mỹ, rất hiếm có chuyện chính phủ liên minh. Lý do là vì với hệ thống lưỡng đảng, người thắng và kẻ thua rất rõ ràng. Với những hệ thống có nhiều đảng phái hơn, người giành chiến thắng sẽ phải liên minh với các đối thủ để điều hành đất nước hiệu quả hơn (hoặc cũng có thể gây ra tình trạng hỗn loạn hơn). Đảng thắng cử phải làm việc với đảng đối lập để phê duyệt những điều luật hay chương trình cải cách có ý nghĩa. Trong khi đó, với hệ thống lưỡng đảng, các đảng không phải lo làm sao làm việc được với nhau. Phần lớn thời gian sẽ được họ dùng để tìm cách đấu đá nhau. Hệ lụy đáng buồn đôi khi xảy ra do sự ganh đua này là những điều luật không cần thiết lắm lại được thông qua, trong khi chính phủ làm việc kém hiệu quả. Lần cuối bạn bỏ phiếu cho một đảng thuộc bên thứ ba là khi nào? Bạn có tin rằng khi bạn bỏ phiếu cho một bên thứ ba tức là bạn đang ném đi lá phiếu của mình không? Đây không phải là cảm giác hiếm gặp với những hệ thống lưỡng đảng. Ở Mỹ, bỏ phiếu cho bên thứ ba, người không thể chiến thắng, thường được cho là hành động tách mình ra khỏi hoạt động chính trị. Với hệ thống lưỡng đảng, người ta không hy vọng một đảng bất kỳ nào khác có thể nổi lên soán vị trí nổi bật và quan trọng của hai đảng hiện tại. Đóng góp ngay hôm nay và trở thành một phần của Luật Khoa - một tạp chí độc lập và phi lợi nhuận. Chúng tôi nói không với mọi hình thức kiểm duyệt và không đặt quảng cáo. Tìm hiểu thêm về Luật Khoa tại đây.
Hệ thống đơn đảng
Quốc gia đơn đảng hay hệ thống độc đảng hay hệ thống đơn đảng hay chế độ đảng trị là hình thức chính quyền có hệ thống đảng do một đảng chính trị thành lập chính quyền và không cho các đảng khác được phép đưa ứng cử viên của mình ra tranh cử. Thỉnh thoảng cụm từ "Nhà nước đơn đảng không được chính thức thiết lập" (de facto single-party state) được dùng cho hệ thống đảng thống trị để chỉ nơi luật hay việc làm bất bình đẳng để ngăn chặn các đảng đối lập nắm chính quyền. Một số nước đơn đảng chỉ đặt các đảng đối lập, các đảng liên minh dưới quyền ngoài vòng pháp luật và tồn tại như một phần của mặt trận tổ quốc. Tùy theo mức độ kiểm soát người dân, người ta chia nó ra làm chế độ hỗn hợp, chính thể đầu sỏ, chế độ quân phiệt, chế độ quân chủ. Không nên lẫn lộn hệ thống đơn đảng khác với nền dân chủ không đảng phái, nơi cấm tất cả các đảng hoạt động. Ngoài ra, một số quốc gia đơn đảng có thể cho phép các thành viên không đảng phái điều hành các ghế lập pháp như trường hợp phong trào Đảng Ngoại của Đài Loan vào những thập niên 1970 và 1980.
Nhiệt độ màu là một chỉ số đặc trưng của ánh sáng, nhưng mấy ai hiểu rõ về nó. Để tìm hiểu rõ hơn nhiệt độ màu là gì? Phân biệt các loại nhiệt độ màu như thế nào? Hãy để VIETKING giúp bạn trả lời trong bài viết dưới đây nhé. Nhiệt độ màu là gì?– Khái niệm nhiệt độ màu– Thang đo của nhiệt độ màuPhân loại nhiệt độ màu. Nhiệt độ màu của bóng đèn LED– Các nhiệt độ màu đèn led phổ biến hiên nay– Chọn màu đèn led phù hợp. Cách chọn nhiệt độ màu phù hợp cho từng không gian– Đối với phòng khách– Đối với phòng bếp– Đối với phòng ngủ– Đối với phòng vệ sinh– Ban công, cầu thang. Nhiệt độ màu là gì? Corelated Color Temperature (CCT) là một đại lượng cho biết màu sắc mà ánh sáng phát ra, thường được đo ở một nhiệt độ nhất định gọi là nhiệt độ K, đây là thông số đặc trưng dùng để đo ánh sáng. Kelvin- viết tắt là K– là tên gọi của đơn vị đo này. Nhiệt độ màu và nhiệt độ bình thường không giống nhau. Thông thường để có thể đo được nhiệt độ màu bạn cần nung nóng một vật thể có màu đen đạt đến mức tuyệt đối, đến khi vật thể này phát sáng và có khả năng tạo ra màu sắc. Để có thể đo nhiệt độ màu bạn cần dùng một chiếc máy chuyên dụng. Thang đo sẽ hiển thị màu sắc từ nóng đến lạnh, tương đương nhiệt độ từ thấp đến cao. Độ chia của thang đo nhiệt độ màu là từ 1000K đến 10000K. Những vật nào có chung 1 nhiệt độ sẽ có khả năng phát ra cùng 1 màu. Màu ấm hay còn được gọi mà màu trắng ấm, với mức nhiệt giao động trong khoảng 1000K đến 3500K. Những màu ấm thường là những màu như đỏ ,cam, vàng, mang đến cảm giác mềm mại và có chút ấm áp. Một số ánh sáng có thể phát ra có màu ấm như ánh sáng nến, đèn dầu: nhiệt độ 1000k; đèn wolfram: nhiệt độ 2000k; bóng đèn sợi đốt: nhiệt độ 2500K; hay đèn phòng rửa ảnh: nhiệt độ 3000K. Màu trung tính là những màu nằm giữa những màu ấm và màu lạnh với mức nhiệt độ khoảng từ 3500K đến 5300K. Ánh sáng trung tính không những mang đến cảm giác hài hòa tự nhiên, mà còn mang đến cảm giác thư thái và dễ chịu. Màu lạnh hay màu trắng lạnh mà màu sắc sáng nhất, với mức ánh sáng này, mọi vật sẽ được nhìn thấy một cách rõ ràng. Trên bảng nhiệt độ màu Kelvin, màu lạnh sẽ hiển thị từ 5300K trở lên. Tuy nhiên trên thực tế, người ta chỉ sử dụng ánh sáng từ 6700K, bởi lớn hơn sẽ dễ gây ra hiện tượng chói mắt, gây khó chịu. Một số trường hợp phát ánh sáng lạnh dễ thấy nhất như mặt trời lên đỉnh đầu: nhiệt độ 5500K; hay Ánh nắng khi không mây: nhiệt độ 6000K. Sử dụng bảng nhiệt độ màu dưới đây để xác định màu sắc gần đúng của bóng đèn LED. Dưới 2000K: chỉ phát ra ánh sáng lờ mờ tương tự như ánh sáng, nến thích hợp cho những không gian không cần ánh sáng mạnh. 3100K-4500K: phát ra ánh sáng trắng, thích hợp cho những nơi cần chiếu sáng mạnh như phòng bếp hay văn phòng làm việc. 4600K-6500K: phát ra ánh sáng trắng xanh sáng, tương tự như ánh sáng ban ngày, thích hợp cho những nơi cần ánh sáng mạnh. 6500K trở lên: phát ra ánh sáng xanh lam, thường được sử dụng ở những trung tâm thương mại. Nhiệt độ màu đèn LED hay chip led có tầm ảnh hưởng rất lớn đến môi trường xung quanh, tâm trạng cảm xúc, thậm chí là giấc ngủ của chúng ta. Do đó, bạn nên cân nhắc và lựa chọn kĩ càng bóng LED có nhiệt độ màu phù hợp với nhu cầu và không gian sống. Phòng khách là không gian sinh hoạt chung, có diện tích rộng và cần tới ánh sáng rõ ràng nhưng vẫn phải đảm bảo sự ấm áp. Vì vậy, tốt nhất nên sử dụng cả 2 loại ánh sáng là trắm ấn hoặc trung tính. Nhiệt độ màu của đèn LED tốt nhất nên nằm trong khoảng 3.500 – 4.500K. Khu vực phòng bếp chủ yếu được dùng để nấu nướng, ăn uống nên thích hợp để lắp đặt các loại đèn có ánh sáng trung tính và trắng lạnh. Nhiệt độ màu tối ưu phù hợp với không gian này là từ 4.000 – 6.000K. Phòng ngủ là nơi riêng tư, dùng để nghỉ ngơi, thư giãn. Do đó, các bạn nên chọn loại đèn LED có ánh sáng vàng hoặc ấm. Nhiệt độ màu của đèn nằm trong khoảng 2.700 – 3.500K là lý tưởng nhất. Khi chọn đèn cho phòng vệ sinh các bạn có thể chọn theo sở thích. Đó có thể là một mẫu đèn có ánh sáng ấm với nhiệt độ màu từ 2.700 – 3.500K hoặc ánh sáng trung tính từ 3.500 – 4.000K chẳng hạn. Các không gian này có thể sử dụng đèn có ánh sáng ấm vừa đủ để chiếu sáng lại mang tới cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái. Có thể kết hợp thêm các mẫu đèn trang trí để giúp không gian tăng tính thẩm mỹ. Chỉ số hoàn màu có kí hiệu là CRI. Đây là một đại lượng dùng để đo khả năng tái tạo màu sắc vật thể của một nguồn sáng so với ánh sáng lý tưởng. CRI có thang đo từ 0 – 100. Loại đèn nào có CRI càng cao thì chứng tỏ khả năng hiển thị màu sắc của vật thể càng trực thực hơn. Thông thường, đối với đèn đường thì CRI nằm trong khoảng 30 – 40, đèn ở xưởng sản xuất có CRI từ 70 – 80, đèn tại các showroom, cửa hàng thời trang đòi hỏi chỉ số CRI có thể còn cao hơn. Hy vọng sau bài viết của VIETKING, bạn đã hiểu thêm nhiệt độ màu là gì? và làm thế nào để chọn đèn LED phù hợp với từng không gian, nhờ vào thông số nhiệt độ màu. "text":"Corelated Color Temperature (CCT) là một đại lượng cho biết màu sắc mà ánh sáng phát ra, thường được đo ở một nhiệt độ nhất định gọi là nhiệt độ K, đây là thông số đặc trưng dùng để đo ánh sáng. Kelvin- viết tắt là K- là tên gọi của đơn vị đo này.". "text":"Nhiệt độ màu ánh sáng người ta phân chúng thành những loại màu sau: Màu ấm( Warm White) mức nhiệt giao động trong khoảng 1000K đến 3500K. Màu trung tính (Neutral) mức nhiệt độ khoảng từ 3500K đến 5300K. Màu lạnh (Cool White ) hiển thị từ 5300K trở lên". "text":"Độ chia của thang đo nhiệt độ màu là từ 1000K đến 10000K. Những vật nào có chung 1 nhiệt độ sẽ có khả năng phát ra cùng 1 màu.". "disambiguatingDescription":"Nhiệt độ màu là một chỉ số đặc trưng của ánh sáng, nhưng mấy ai hiểu rõ về nó. Để tìm hiểu rõ hơn nhiệt độ màu là gì? Phân biệt các loại nhiệt độ màu như thế nào? Hãy để VIETKING giúp bạn trả lời trong bài viết dưới đây nhé. "pageStart":"Nhiệt độ màu là một chỉ số đặc trưng của ánh sáng, nhưng mấy ai hiểu rõ về nó. Để tìm hiểu rõ hơn nhiệt độ màu là gì? Phân biệt các loại nhiệt độ màu như thế nào? Hãy để VIETKING giúp bạn trả lời trong bài viết dưới đây nhé. "pageEnd":"Hy vọng sau bài viết của VIETKING, bạn đã hiểu thêm nhiệt độ màu là gì? và làm thế nào để chọn đèn LED phù hợp với từng không gian, nhờ vào thông số nhiệt độ màu. Đâu là những loại LED RGB được nhiều người sử dụng nhất hiện nay? Cùng VIETKING tìm hiểu ngay bây giờ nhé.". Cấu tạo flood light gồm những gì?Cùng Vietking tìm hiểu qua bài viết dưới đây". Ưu điểm của loại Chip LED này có gì nổi trội hơn so với những dòng chip khác? Hãy đón đọc ở bài viết dưới đây nhé.". Từng có thời gian làm kỹ sư tại nhiều tập đoàn lớn như SAMSUNG hay LG, hiện nay đang giữ chức vụ Quản lý kỹ thuật sản xuất kiêm Mentor cho CÔNG TY TNHH SX – TM – DV VUA VIỆT, tôi tự tin với những kiến thức và kinh nghiệm mà mình đang có hoàn toàn có thể mang đến cho Qúy Khách hàng các sản phẩm Màn hình Led chất lượng tốt nhất trên thị trường, giá cả cạnh tranh, kèm theo đó là chế độ bảo hành và hỗ trợ chuyên nghiệp từ phía công ty. Đồng thời, các bài blog tôi chia sẻ trên website hi vọng có thể mang đến cho Qúy khách hàng những kiến thức hữu ích về thị trường màn hình Led hiện nay. Xin cảm ơn Qúy khách hàng đã theo dõi.!
Nhiệt độ màu
Nhiệt độ màu là một khái niệm được rút ra từ định luật bức xạ của Planck. Chúng ta đều biết rằng một vật khi nóng thì nó sẽ phát sáng, quang phổ liên tục mà nó phát ra phụ thuộc vào nhiệt độ của vật, vì thế khi quan sát quang phổ của một vật nóng chúng ta có thể ước lượng được nhiệt độ của nó. Khi quan sát bức xạ của một vật đen tuyệt đối Planck đã phát hiện ra rằng ở một nhiệt độ T nhất định thì vật sẽ phát ra một quang phổ liên tục với cường độ sáng thay đổi theo tần số. Tần số ánh sáng được phát xạ mạnh nhất phụ thuộc vào nhiệt độ tuyệt đối của vật. Thông thường ở nhiệt độ càng cao thì bức xạ mạnh nhất mà vật phát ra có bước sóng càng ngắn (thiên về màu xanh hoặc tím). Trong điều kiện chụp dưới ánh sáng thiên về màu nào thì ảnh thường bị ám màu đó (ví dụ ảnh chụp dưới ánh đèn tròn thì bị ám vàng, vì dây tóc bóng đèn làm bằng tunsten (wolfram) có nhiệt độ khi cháy sáng là 3200K).
Phân tích ABC trong quản lý tồn kho là việc phân loại một nhóm các mặt hàng theo thứ tự giảm dần, dựa trên giá trị của chúng đối với doanh nghiệp. Nhóm A là nhóm quan trọng nhất xét về giá trị đóng góp cho công ty, trong khi các mặt hàng nhóm C có giá trị ít nhất. Để cụ thể hơn:. Nhóm B có nhiều mặt hàng hơn nhóm C nhưng ít hơn nhóm A, với giá trị cao hơn nhóm C nhưng ít hơn nhiều so với nhóm A. Điều quan trọng cần lưu ý là giá trị của hàng tồn kho được xét dựa trên một số tiêu chí, chẳng hạn như doanh thu bán hàng hàng năm, lợi nhuận hoặc thậm chí giá trị tiêu thụ hàng năm. Với sự trợ giúp của phương pháp phân tích ABC, các nhà quản lý có thể tập trung thời gian của họ vào các sản phẩm có giá trị khác và điều chỉnh các chính sách kiểm soát hàng tồn kho của họ cho phù hợp. Nguyên tắc Pareto hay còn gọi là quy tắc 80/20, quy định rằng 80% kết quả đến từ 20% nguyên nhân, khẳng định mối quan hệ bất bình đẳng giữa đầu vào và đầu ra. Nguyên tắc cho rằng nhìn chung, khoảng 80% kết quả là do khoảng 20% nguyên nhân gây ra. Trong phân tích ABC, 80% giá trị doanh thu hàng năm của một doanh nghiệp xuất phát từ 20% các mặt hàng như mặt hàng loại A. Loại B và C tổng cộng chiếm 20% còn lại. Cách chia 20% giữa loại B và C sẽ khác nhau, dựa trên danh mục sản phẩm của doanh nghiệp. Phân tích ABC là một bộ khung đơn giản để tìm ra những mặt hàng nào trong kho là quan trọng nhất, và việc này sẽ dành phần lớn thời gian trong việc kiểm soát và quản lý kho. Phân loại hàng tồn kho theo phương pháp ABC được sử dụng chủ yếu cho 3 nhiệm vụ chính:. Đối với người quản lý, doanh thu là yếu tố phổ biến nhất được sử dụng để xác định thứ hạng trong phân tích ABC. Tuy nhiên, cũng có những yếu tố khác có thể được sử dụng như tỷ suất lợi nhuận, tầm quan trọng của khách hàng, mối quan hệ với các mặt hàng khác và vận tốc hoặc lợi nhuận. Xét yếu tố tỷ suất lợi nhuận, lợi nhuận của các mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn có thể là nguyên nhân cho mức tồn kho cao. Trong khi đó, các nhóm hàng tiêu dùng nhanh có thể được duy trì mức tồn kho cao hơn vì các mặt hàng này có lượt quay vòng rất thấp, có thể có ít hoặc không có hàng dự trữ an toàn. Sử dụng phương pháp phân tích ABC có thể tiết kiệm thời gian cho người quản lý kho, giúp họ đưa ra các quy tắc kiểm kê phù hợp cho từng danh mục. Dựa theo các cấp độ dịch vụ khác nhau, mức tồn kho an toàn và các chỉ số tái đặt hàng của từng danh mục, người quản lý có thể đưa ra các chính sách quản lý dựa trên phân loại hàng. Mặc dù phân tích ABC là một cách tương đối dễ dàng để phân loại và quản lý hàng tồn kho của công ty, nhưng nó cũng có một số hạn chế. Đối với người quản lý, việc phân loại các mặt hàng dựa trên một hoặc hai yếu tố có thể là một chiều và quá đơn giản. Việc phân tích ABC theo cách truyền thống có thể thiếu linh hoạt. Trong một thị trường nơi các xu hướng được cập nhật liên tục và doanh số sản phẩm có thể thất thường, các mặt hàng có thể chuyển từ loại C sang A rất nhanh. Nếu không có phân tích liên tục, phân loại ABC hiện tại của công ty có thể nhanh chóng trở nên lỗi thời. Ngoài rủi ro nhóm phân loại trở nên lỗi thời theo thời gian, việc liên tục đánh giá lại và phân loại lại giữa ba nhóm có thể tốn rất nhiều thời gian. Điều này cuối cùng sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tới lợi ích chung của công ty. Để khắc phục những nhược điểm trên và sử dụng phân tích ABC một cách hiệu quả, các nhà quản lý cần cân nhắc sử dụng phần mềm để phân tích và phân loại hàng tồn kho của công ty. Nhờ sự trợ giúp của công nghệ, các nhà quản lý có thể theo dõi sự chuyển động của các mục giữa các nhóm và tự động phân loại dựa trên những yếu tố đã cho.
Phân tích ABC
Trong quản lý nguyên vật liệu, phân tích ABC (hoặc Kiểm soát hàng tồn kho chọn lọc) là một kỹ thuật phân loại hàng tồn kho. Phân tích ABC chia hàng tồn kho thành ba loại - "Mục" A với kiểm soát rất chặt chẽ và hồ sơ chính xác, "Mục B" với hồ sơ tốt và ít kiểm soát chặt chẽ hơn và "Mục C" với các điều khiển đơn giản nhất có thể và hồ sơ tối thiểu. Phân tích ABC cung cấp một cơ chế để xác định các mặt hàng sẽ có tác động đáng kể đến chi phí hàng tồn kho tổng thể, đồng thời cung cấp cơ chế xác định các loại hàng tồn kho khác nhau sẽ yêu cầu quản lý và kiểm soát khác nhau. Phân tích ABC cho thấy hàng tồn kho của một tổ chức không có giá trị như nhau. Do đó, hàng tồn kho được nhóm thành ba loại (A, B và C) theo mức độ quan trọng ước tính của chúng. Các mặt hàng A rất quan trọng đối với một tổ chức. Do giá trị cao của các mục A này, cần phải phân tích giá trị thường xuyên.
Viễn Thông Xuyên Á Giới Thiệu Về Camera quan sát hay camera giám sát, camera an ninh. 1 Camera quan sát là gì ?1.1 Đặc điểm riêng của camera giám sát :1.1.1 Công Ty TNHH Viễn Thông Xuyên Á. Camera quan sát CCTV (Closed Circuit Television) là một hệ thống ghi nhận dữ liệu hình ảnh và âm thanh tại một nơi nhất định mà Người Dùng lắp đặt camera giám sát. Truy cập Tín hiệu hình ảnh, âm thanh camera chỉ dành cho những người được phép kết nối trực tiếp vào hệ thống. Tín hiệu video camera quan sát được Người Dùng theo dõi trên màn hình theo hình thức cục bộ ( local ) hoặc thông qua mạng wan được xây dựng – hay mạng internet để theo dõi từ xa dù Quý Khách ở bất cứ nơi nào. Camera giám sát khác với hệ thống television truyền thống phát sóng, có sẵn cho bất kỳ ai có đầu thu phù hợp. Tín hiệu ( hình ảnh camera quan sát ) hệ thống camera sẽ được truyền dẫn theo định hướng nhất định với mô hình P2P hay P2MP và chỉ dành cho những người được phép kết nối trực tiếp vào vòng lặp này ( hệ thống ). Trong hầu hết các cài đặt, vòng lặp là các liên kết vật lý – bao gồm dây cáp truyền dẫn tín hiệu hình ảnh từ (các) camera đến với người xem. Ngày nay, công nghệ phát triển các nhà sản xuất ngày càng tích hợp thêm tính linh hoạt cho hệ thống camera quan sát, bằng cách thêm vào các hình thức kết nối thông qua Wi-Fi, Wi-Max, 3G, 4G để gửi ảnh, video. Dữ liệu cá nhân của bạn sẽ được sử dụng để xử lý đơn đặt hàng của bạn, hỗ trợ trải nghiệm của bạn trên trang web này và cho các mục đích khác được mô tả trong của chúng tôi.
Camera quan sát
Camera quan sát hay camera giám sát, camera an ninh (Closed-circuit television - CCTV), là việc sử dụng các máy quay video để truyền tín hiệu đến một nơi cụ thể, trên một số màn hình giới hạn. Nó khác với truyền hình quảng bá ở chỗ tín hiệu không được truyền công khai, mặc dù nó có thể sử dụng liên kết điểm-điểm (P2P), điểm-đa điểm (P2MP) hoặc liên kết có dây hoặc không dây dạng lưới. Mặc dù hầu hết tất cả các máy quay video đều phù hợp với định nghĩa này, thuật ngữ này thường được áp dụng cho những máy ảnh được sử dụng để giám sát trong các khu vực yêu cầu bảo mật bổ sung hoặc giám sát liên tục. Mặc dù videotelephony hiếm khi được gọi là "CCTV", một ngoại lệ là việc sử dụng video trong giáo dục từ xa, nơi nó là một công cụ quan trọng. Việc giám sát công chúng bằng camera quan sát là phổ biến ở nhiều khu vực trên thế giới. Trong những năm gần đây, việc sử dụng máy quay video đeo trên người đã được giới thiệu như một hình thức giám sát mới, thường được sử dụng trong thực thi pháp luật, với máy quay được đặt trên ngực hoặc đầu của cảnh sát.
Giai cấp công nhân (giai cấp vô sản) là gì? Nội dung sứ mệnh lịch sử của nó. Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn phát triển với những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định. Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản, mà còn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai cấp vô sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân hiện đại ra đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp, nó là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp đó. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai cấp cơ bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ là những người được tự do về thân thể và có quyền bán sức lao động tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao động. Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ thuộc vào quy luật cung – cầu hàng hóa sức lao động, phụ thuộc vào kết quả lao động của chính ho. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt. Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình để sống”. Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm những công việc khác nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ có hai tiêu chí cơ bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác. – Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao động trong nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đã là công nhân hiện đại thì phải gắn với nền đại công nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp công nhân. + Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người vô sản hiện đại, không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà giai cấp công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí này mà những người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô sản. + Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền. Nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai cấp thống. trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa. Như vậy họ không còn là những người vô sản như trước và sản phẩm thặng dư do họ tạo ra là nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biếu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay. Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ đại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã chứng minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân lọai khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ có thể thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản, bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người, chẳng những tự giải phóng mình, mà còn giải phóng cả các tầng lớp lao động khác, giải phóng dân tộc và giải phóng toàn thể nhân loại. Ph. Ăngghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, – đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”. “Sự phát triển của nền đại công nghiệp đã phá sập dưới chân của giai cấp tư sản, chính ngay cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã xây dựng lên chế độ sản xuất và chiếm hữu của nó. Trước hết, giai cấp tư sản tạo ra những người đào huyệt chôn nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như nhau”. Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh tế – xã hội khách quan của nó quy định:. – Dưới chủ nghĩa tư bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân ra đời và từng bước phát triển. Giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao. Đây là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là giai cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của lịch sử trong thời đại ngày nay. – Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động. Một khi sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì người chủ của nó (người vô sản) phải chịu đựng mọi thử thách, mọi may rủi của cạnh tranh; số phận của nó tùy thuộc vào quan hệ cung – cầu hàng hóa sức lao động trên thị trường làm thuê và phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Xét về mặt bản chất, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa. Những điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể giải phóng mình bằng cách giải phóng toàn thể nhân loại khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình. – Địa vị kinh tế – xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để mà còn tạo cho họ có khả năng thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó. Đó là khả năng đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Đó là khả năng đoàn kết với các giai cấp lao động khác chống chủ nghĩa tư bản. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”.
Giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân theo Karl Marx là giai cấp của những người công nhân và người lao động phải bán sức lao động để đổi lấy tiền lương và họ không phải là chủ sở hữu của phương tiện sản xuất. Cũng theo Marx, giai cấp công nhân là giai cấp tạo ra các giá trị thặng dư và sự giàu có cho xã hội. Ngày nay, đây là giai cấp lao động sản xuất ra của cải vật chất trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại. Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu có và phát triển xã hội. Giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa hay còn được gọi là giai cấp vô sản. Trong tác phẩm "Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản F. Tuy vậy, không chính xác khi gọi giai cấp vô sản là giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là giai cấp vô sản có trình độ lao động công nghiệp cao, là đứa con của nền đại công nghiệp hiện đại. Trong giai đoạn hiện nay, giai cấp công nhân đã có những biến đổi mới: "Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên phong, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Tác giả, giảng viên sử học tại đại học tư lập Madrid (Tây Ban Nha), đã mô tả vắn tắt lịch sử của phong trào nữ quyền (PTNQ: feminismo) dưới những hình dạng khác nhau, đặc biệt trong vòng ba thế kỷ gần đây tại Âu châu và Mỹ châu. 2.2 Đợt một: PTNQ của chủ nghĩa Ánh sáng (từ cách mạng Pháp đến giữa thế kỷ XIX). 2.3 Đợt hai: PTNQ đòi phổ thông đầu phiếu (từ giữa thế kỷ XIX đến khi kết thúc thế chiến thứ hai). Hàn lâm viện Tây Ban Nha, dựa trên sự phân tích từ ngữ (feminisme bởi tiếng latinh “femina” là phụ nữ), đã định nghĩa phong trào nữ quyền như là một chủ trương đòi cho phụ nữ có những quyền lợi như người nam. Mạng lưới Mujeresenred cung cấp một khái niệm chi tiết hơn như sau: “Phong trào nữ quyền (viết tắt: PTNQ) là một phong trào xã hội và chính trị bắt đầu chính thức từ cuối thế kỷ XVIII – mặc dù lúc ấy chưa lấy tên là PTNQ – ý thức về các phụ nữ như là một nhóm người bị áp bức, thống trị và khai thác bởi một nhóm người nam dưới chế độ gia trưởng (patriarcado: phụ quyền) dưới nhiều hình dạng khác nhau, và nhắm tới hành động để giải phóng nữ giới cùng với những thay đổi xã hội cần thiết”. Như Victoria Sau đã nói, các phụ nữ bận rộn với việc tranh đấu cho nữ quyền hơn là với việc định nghĩa nó. Theo Simone de Beauvoir, cuộc đàn áp phụ nữ đã bắt đầu từ kỷ nguyên đồng, khi các bà bị loại trừ khỏi các việc chinh chiến, từ đó “phái chém giết thì mạnh hơn là phái sinh đẻ”. Không có một tiêu chuẩn thống nhất để phân chia các giai đoạn PTNQ, một phần tại vì lịch sử thay đổi tùy theo từng quốc gia. Ở đây chúng tôi dựa theo hai tác giả Amelia Valcárcel và Celia Amorós để phân chia các giai đoạn. Mặc dù không thể nói đến PTNQ đích danh trước thế kỷ XIX, nhưng điều chắc là trong suốt dòng lịch sử, đã có nhiều phụ nữ ý thức về điều kiện bất bình đẳng và đã lên tiếng dưới nhiều hình thức. Vào thời Trung Cổ, chúng ta có thể kể đến hai người đã có lối cư xử khác thường. Một người tên là Guillermina de Bohemia (1210-1281), đã thành lập một giáo hội dành riêng cho phụ nữ và đã bị tố cáo bởi Tòa giáo-pháp. Người thứ hai là một triết gia và nhà thơ Christine de Pizan (1360-1430), với tác phẩm nổi tiếng “Thành phố của các bà” (La cite des dames, xuất bản năm 1405) được coi như tiền hô của PTNQ Tây phương. Bà tố cáo chế độ kỳ thị phụ nữ, và bà chứng minh rằng nguyên nhân của sự thấp kém của các bà là tại vì họ không được giáo dục. Bà đã khởi xướng một cuộc tranh luận văn chương và học thuật La querelle des femmes kéo dài từ cuối thế kỷ XIV cho đến cách mạng Pháp, để bảo vệ khả năng trí thức của phụ nữ, và quyền được đi theo các lớp ở đại học. Sang thời cận đại và chủ nghĩa Nhân văn, với chủ trương là văn hóa, kiến thức và giáo dục là điều phổ quát; nhờ vậy điều kiện phụ nữ được cải thiện dần. Dù sao, cần ghi nhận sự đóng góp của phong trào Cải cách Tin lành. Mặc dù các nhà lãnh đạo của phong trào này không mấy thiện cảm với những đòi hỏi của phụ nữ, nhưng họ đã đem lại một cái nhìn mới về nữ giới. Trên thực tế, vài nhánh của nhóm Quaker đã chấp nhận cho phụ nữ tham gia vào những chức vụ lãnh đạo. Trong số các phụ nữ nổi bật ở giai đoạn này phải kể đến Agripa de Nettesheim, người đã viết khảo luận về vẻ cao quý của nữ giới (De nobilitate et praecellentia foeminei sexus) vào năm 1510. 2.2 Đợt Một: PTNQ của kỷ nguyên Ánh sáng (từ cách mạng Pháp đến giữa thế kỷ XIX). Mặc dù chưa thể nói đến phong trào khi mới chỉ có vài cá nhân lẻ tẻ, nhưng một điều chắc là vào cuối thế kỷ XVIII sang đầu thế kỷ XIX, đặc biệt là tại hai nước Pháp và Anh, đã nảy lên nhiều ý tưởng cho rằng phụ nữ đã không được nhìn nhận đúng mức ở nhiều lãnh vực. Điều kiện thấp kém của phụ nữ không phải là cái gì tự nhiên, nhưng là do kết quả của việc thiếu phương tiện giáo dục. Kế thừa tư tưởng của La querelle des femmes, các phụ nữ vào thời Khai sáng đã tiếp tục cuộc tranh luận chung quanh quyền của phụ nữ được giáo dục và hưởng những quyền lợi công dân để ra khỏi sự tùng phục nam giới. Họ đã tận dụng những cuộc tranh đấu của Thời khai sáng, tuy dù các triết gia như Rousseau vẫn còn xếp các bà ở hạng nhì. Trong cuộc cách mạng Pháp (1789), các bà sát cánh với các ông cách mạng trong cuộc tranh đấu cho khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, huynh đệ”. Các bà tham gia các cuộc diễn thuyết chính trị, các câu lạc bộ cộng hòa, các cuộc khởi nghĩa chiếm ngục Bastille. Các bà cũng ký vào bản đề nghị Cahiers de doleances yêu cầu quốc hội xét lại quyền đầu phiếu, định chế hôn nhân, việc trông nom con cái, và dĩ nhiên là quyền giáo dục. Tuy vậy, các tác giả tự do như Jean-Jacques Rousseau đã để các bà ngồi trong xó của tân quốc gia tự do. Chỉ có vài tiếng nói bênh vực các phụ nữ như John Stuart Mill hoặc Nicolas de Condorcet, cha đẻ của nền giáo dục phi tôn giáo, đã viết một khảo luận về việc cấp quyền công dân cho phụ nữ (1790). Cách mạng 1789 đã tuyên bố Tuyên ngôn những quyền lợi của con người và công dân (Declaration des Droits de l’Homme et du Citoyen), nhưng chỉ là người nam chứ không phải là người nữ. Để đáp lại, Olympe de Gouges (1748-1793) xuất bản tuyên ngôn về những quyền lợi của người nữ và nữ công dân (Déclaration des Droits de la Femme et de la Citoyenne), đòi hỏi sự độc lập của phụ nữ đối với nam giới, áp dụng quy tắc luật pháp đồng đều, quyền tự do ngôn luận và bình đẳng về kinh tế. Vì những lý tưởng mà bà bị đưa lên máy chém năm 1793. Bên Anh, khuôn mặt nổi bật nhất vào thời này là bà Mary Wollstonecraft (1759-1797), tác giả của quyển sách được coi như khai mào cho PTNQ “A Vindication of the Rights of Woman” (đòi hỏi quyền lợi của phụ nữ, 1792). Bà tranh đấu cho các quyền lợi kinh tế và chính trị, cũng như đòi hỏi sự bình đẳng đối với quyền được giáo dục. Bà cũng đặt vấn đề là : phải chăng vai trò phụ nữ gắn liền với bản tính tự nhiên hay chỉ là hậu quả của sự bất bình đẳng?. Hầu như một định luật xảy ra cho mọi giai đoạn: sau một thời thay đổi và tiến bộ là một thời thụt lùi. Không những là các bà không được hưởng những quyền lợi mà họ đòi hỏi, mà lại còn bị chèn ép thêm. Năm 1793, các câu lạc bộ phụ nữ bị đóng cửa, các bà mất quyền tự do lập hội và những cuộc buổi hội họp quá 5 người bị cấm. Năm 1795, bộ luật Napoléon được ban hành, theo đó, vợ phải vâng lời chồng trong khế ước hôn nhân. Bộ luật này được phổ biến sang nhiều quốc gia khác, và hiệu lực kéo dài hơn 100 năm. 2.3 Đợt Hai: PTNQ với quyền đầu phiếu (từ giữa thế kỷ XIX đến khi kết thúc thế chiến thứ hai). Mặc dù sự tranh đấu liên quan đến nhiều lãnh vực, nhưng có thể nói rằng đối tượng chính mà các phụ nữ nhắm tới trong đợt này là quyền đầu phiếu và sự tham gia chính trị. Tác phẩm The Subjection of Women (Sự tùng phục của phụ nữ, 1869) mà ông cùng viết với phu nhân Harriett Taylor Mill, đã đặt nền tảng cho quyền đầu phiếu, được phổ biến ở Anh và Hoa kỳ. Cuộc Cách mạng kỹ nghệ đã gây ra một sự thay đổi trong nếp sống của các phụ nữ; cuộc di dân từ nông thôn lên thành thị đã làm biến chuyển nhiều mô hình. Cho đến nay, nam giới và nữ giới cùng làm việc tại một nơi: đồng ruộng, xưởng thủ công, cửa tiệm, vân vân. Bây giờ khoảng cách đã tăng thêm: đàn ông làm việc ở công xưởng, đàn bà thì ở nhà. Có sự khác biệt giữa công việc ở nhà (nội trợ) và công việc bên ngoài (xí nghiệp). Trong bối cảnh này, việc làm của phụ nữ bị đánh giá thấp bởi vì không sinh ra tiền. Chúng ta đang nói đến giai cấp lao động mà thôi, bởi vì các phụ nữ thuộc giai cấp thượng lưu thì cũng ở nhà và làm các công việc của phái nữ và đồng nghĩa với quyền hành. Tuy nhiên, một điều xem ra nghịch lý là khi các bà đi làm việc ở công xưởng thì tình trạng cũng chẳng khả quan hơn: tuy làm việc nhiều giờ hơn (cộng thêm việc nội trợ không lương) nhưng họ lãnh lương thấp hơn. Chính trong bối cảnh chèn ép như vậy mà nổi lên các phong trào nữ quyền, lôi cuốn cả những cấp thượng lưu cũng như cấp lao động. Tuy vậy, cuộc tranh đấu của các bà ở giai đoạn này thường diễn ra cách êm thắm (hợp với đức tính phụ nữ), nhưng nếu cần, họ cũng tỏ ra quyết liệt như sẽ thấy. PTNQ theo chủ nghĩa tự do tìm cách cải cách chính trị, ngõ hầu các phụ nữ được quyền bầu cử và ứng cử. Họ không quan tâm đến hình thức chính thể; điều mà họ yêu sách là được tham gia vào việc chính trị. Họ đòi hỏi được bình đẳng trong quyền tư hữu, quyền định đoạt tài sản (tiền do họ làm ra nhưng do người cha hay người chồng quản lý), bình đẳng về quyền lợi trong hôn nhân, và từ hậu bán thế kỷ XIX, quyền đầu phiếu. Quyền đầu phiếu của phụ nữ trở thành mục tiêu tranh đấu lớn nhất (tuy không phải là độc nhất) của PTNQ. Tại Hoa kỳ, bầu khí thật là thuận tiện để các PTNQ chớm nở, nhờ sự tham gia của các phụ nữ vào đời sống công, sự canh tân luân lý vào những thập niên ấy. Các phụ nữ đăng ký hoạt động trong các phong trào xã hội chống nạn nô lệ (trong đó nhiều phụ nữ cũng là nạn nhân). Năm 1840, tại Hội nghị quốc tế chống nạn nô lệ được tổ chức tại London, với sự tham gia của các đại biểu khắp thế giới : Hoa kỳ gửi 6 đại biểu, trong đó 4 người là phụ nữ, trong đó có hai khuôn mặt lừng danh trong việc bài trừ nạn nô lệ là Lucretia Mott (1793-1863) và Elizabeth Cady Stanton (1815-1902). Nhưng người ta không cho các bà tham dự các buổi họp viện cớ là thể chất của các bà không thích hợp. Sự kiện này đã đánh dấu khởi đầu của phong trào đòi hỏi đầu phiếu tại Hoa kỳ. Tám năm sau, ngày 19 và 20 tháng 7 năm 1848, hai bà vừa nói đã tổ chức đại hội Seneca Falls ở New York. Tham dự buổi họp này có hơn 200 người nam và nữ thuộc nhiều phong trào xã hội và tổ chức khác nhau. Kết quả là bản Tuyên ngôn Tình cảm Seneca Falls (Seneca Falls Declaration of Sentiments) được công bố, gợi hứng từ bản Tuyên ngôn Độc lập, trong đó người ta tố cáo những hạn chế xã hội và chính trị của các phụ nữ, việc phủ quyết quyền bầu cử và ứng cử cho họ, khước từ việc nắm giữ chức vụ công quyền hoặc tham gia các tổ chức công cộng. Văn kiện tóm lại 12 điểm đòi hỏi thay đổi phong tục ngõ hầu các phụ nữ được hưởng đầy đủ các quyền lợi công dân. Nếu nhân dân Hoa kỳ tự nhận bị Đế quốc Anh đàn áp và đã giành tự do, thì các phụ nữ tại Seneca Falls cũng cảm thấy bị chèn ép bởi Nhà nước và bởi nam giới, và họ quyết định đòi tự do. Bản Tuyên ngôn này có thể gọi như văn bản nền tảng thứ hai của PTNQ tại Hoa kỳ. Tuy nhiên, đó không phải là những phụ nữ duy nhất đã lên tiếng. Nếu các phụ nữ trung lưu Hoa kỳ cho rằng tình trạng của họ là bất công, thì các phụ nữ da đen lại càng có lý hơn nữa để lên tiếng. Nổi tiếng nhất là bà Sojourner Truth (k.1797-1883),với câu nói bất hủ Ain’t I a Woman? (tôi không phải là đàn bà hay sao?). Trước đây bà đã từng là nô lệ, sau đó được giải phóng, và trở thành người đàn bà da đen đã thắng một vụ kiện chống lại một người đàn ông da trắng. Năm 1870, bản Tu chính hiến pháp số XV được phê chuẩn, cấp quyền bầu cử cho người nam da đen. Những người nam da đen đã được quyền đầu phiếu trước các phụ nữ, bởi vì các bà phải chờ cho đến năm 1920, với bản Tu chính hiến pháp số XIX. Đến lượt bên Anh nổi lên các suffragettes, những phụ nữ trung lưu tranh đấu cho quyền công dân, và họ cũng liên minh với các phụ nữ thợ thuyền bị bóc lột trong các xí nghiệp.
Phong trào nữ quyền
Phong trào nữ quyền (còn gọi là phong trào quyền phụ nữ) đề cập đến một loạt các chiến dịch chính trị để cải cách các vấn đề như quyền sinh sản, bạo lực gia đình, nghỉ thai sản, trả lương ngang nhau, quyền bầu cử của phụ nữ, quấy rối tình dục và bạo lực tình dục, tất cả đều thuộc về khái niệm nữ quyền và phong trào nữ quyền. Các ưu tiên của phong trào là khác nhau giữa các quốc gia và cộng đồng, có thể đi từ sự phản đối việc cắt xén bộ phận sinh dục nữ ở một quốc gia, đến sự phản đối trần nhà kính ở một quốc gia khác. Nữ quyền ở một phần của thế giới phương Tây đã trải qua ba đợt phát triển. Chủ nghĩa nữ quyền làn sóng thứ nhất được định hướng xung quanh quyền lợi của phụ nữ da trắng thuộc tầng lớp trung lưu hoặc thượng lưu và liên quan đến quyền bầu cử và bình đẳng chính trị. Chủ nghĩa nữ quyền làn sóng thứ hai đã cố gắng chống lại sự bất bình đẳng về văn hóa và xã hội. Mặc dù làn sóng nữ quyền đầu tiên chủ yếu liên quan đến phụ nữ da trắng thuộc tầng lớp trung lưu, làn sóng thứ hai mang đến phụ nữ da màu và phụ nữ từ các quốc gia đang phát triển khác đang tìm kiếm sự đoàn kết.
Tất cả nội dung của iLive đều được xem xét về mặt y tế hoặc được kiểm tra thực tế để đảm bảo độ chính xác thực tế nhất có thể. Chúng tôi có các hướng dẫn tìm nguồn cung ứng nghiêm ngặt và chỉ liên kết đến các trang web truyền thông có uy tín, các tổ chức nghiên cứu học thuật và, bất cứ khi nào có thể, các nghiên cứu đã được xem xét về mặt y tế. Lưu ý rằng các số trong ngoặc đơn (, , v.v.) là các liên kết có thể nhấp vào các nghiên cứu này. Nếu bạn cảm thấy rằng bất kỳ nội dung nào của chúng tôi không chính xác, lỗi thời hoặc có thể nghi ngờ, vui lòng chọn nội dung đó và nhấn Ctrl + Enter. Thuật ngữ "đa thê" bắt nguồn từ thuật ngữ Hy Lạp πολύς - "rất nhiều" và γάμος - "hôn nhân", có nghĩa là "nhiều hôn nhân". Vì vậy, polygamy có nghĩa là hôn nhân có thể được kết luận với hai hoặc nhiều đối tác. Đa đảng là quan niệm đối nghịch của vợ chồng một vợ một chồng, khi một cuộc hôn nhân chỉ gồm có một người. Đa thê như một phong tục rất cổ xưa được thực hiện bởi nhiều dân tộc ở những nơi khác nhau trên thế giới. Đa thê được thực hiện ngày nay ở Mỹ, Melanesia, Châu Phi. Hồi giáo và Phật giáo là những tôn giáo chấp nhận hôn lễ đa thê. Với sự sửa đổi duy nhất: chồng nên hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả những người vợ đã kết hôn với anh ta. Đa thê không phải là một cách sống cho toàn thể nhân dân trong bất kỳ tôn giáo nào, kể từ đó cần phải có phụ nữ gấp đôi đàn ông so với nam giới. Thiên chúa giáo, không giống Hồi giáo hay Hồi giáo, không chào đón các cuộc hôn nhân đa nghi, mặc dù nhiều thánh đồ Thiên chúa giáo đã làm vợ và thây ma. Còn đối với các tổ phụ cổ xưa, vua Solomon có 700 bà vợ và 300 phù bằng. Những người vợ trong hậu cung có nguyên tắc thâm niên - hải quan như vậy là người vợ lớn đã hướng những người vợ còn lại. Điều tương tự cũng được áp dụng cho hôn nhân. Tại cuộc hôn nhân đầu tiên, một đám cưới xa hoa đã được diễn ra, và các cuộc hôn nhân tiếp theo không có bất kỳ lễ kỷ niệm đặc biệt nào. Con gái và con trai trung bình sinh ra trong một tỷ lệ 49:51 hoặc 51:49. Về mặt lịch sử, vì chiến tranh của phụ nữ qua nhiều thế kỷ, nhiều hơn nam giới. Đặc biệt giảm số nam giới trong thời Trung cổ và Cổ đại - do chiến tranh liên tục. Nếu xã hội không phải là rất văn minh, đa thê được sử dụng như một phần thưởng cho người mạnh mẽ. Đó là, hầu hết phụ nữ tốt nhất không nhận được một số lượng lớn đàn ông. Nhưng những người đàn ông - nam giới alpha - là những người mạnh mẽ, khỏe mạnh và hung dữ nhất của chi. Nếu bạn nhớ lại các sự kiện lịch sử, trong Chiến tranh Trăm trăm, thậm chí cả Kitô hữu được phép có nhiều hơn một vợ, bởi vì nhiều người đàn ông đã bị giết, và nó là cần thiết để tiếp tục gia đình. Thuật ngữ "chế độ đa thê" thường gây nhầm lẫn cho người dân và họ hiểu ý nghĩa của thuật ngữ như bigamy, nơi mà một người có thể có hai cuộc hôn nhân khác nhau, nhưng riêng biệt. Nhưng chế độ đa thê thực sự có nghĩa là một số vợ chồng sống cùng nhà. Đa thê hiện diện chủ yếu ở ba hình thức khác nhau: đa thê, đám cưới nhóm, đa quốc gia. Đa đảng là khi một người đàn ông có thể có nhiều vợ cùng một lúc. Polyandry - thuật ngữ này được sử dụng cho cùng, với sự khác biệt trong polygamy một người phụ nữ có thể có nhiều hơn một trong những chồng cùng một lúc. Đa thê có hai hình thức - đa sắc tộc và đa thê. Polyandry là chính xác giống như polygamy, ngoại trừ nó đề cập đến phụ nữ. Như vậy, điều này có nghĩa là một người phụ nữ có một vài người chồng cùng một lúc. Polygyny là một trong những hình thức hôn nhân đa thê, khi một người đàn ông kết hôn với một số phụ nữ cùng một lúc, nhưng những cuộc hôn nhân này được trang trí riêng. Các đại diện của Hồi giáo được phép kết hôn với 4 phụ nữ ngay lập tức, đó là hành nghề đa thê. Nhưng ở Nga và Ukraine - không, chỉ có hôn nhân một vợ một chồng được phép ở đây.
Đa thê
Đa thê (; từ tân cổ điển Hy Lạp πολυγυνία từ πολύ - poly- "nhiều", và γυνή gyne "người phụ nữ" hoặc "vợ" ) là hình thức phổ biến nhất và hình thức được chấp nhận nhiều nhất của chế độ đa phu thê, là hôn nhân giữa một người đàn ông với nhiều phụ nữ. Đa phu là một hình thức khác của đa phu thê, trong đó phụ nữ có hai hay nhiều chồng. Hầu hết các quốc gia cho phép đa thê là các quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo. Ở một số quốc gia nơi chế độ đa phu thê là bất hợp pháp nhưng đa thê vẫn là một chuẩn mực văn hóa, và đôi khi ngay cả ở những quốc gia mà chế độ đa thê là hợp pháp, đôi khi đàn ông có một hoặc nhiều tình nhân. Tình trạng của một tình nhân không giống như của một người vợ, và bất kỳ đứa trẻ nào được sinh ra từ các mối quan hệ như vậy hầu như được coi là bất hợp pháp và phải chịu các bất lợi về mặt pháp lý. Tỷ lệ ngoại tình và mại dâm cao hơn tồn tại ở những khu vực mà hôn nhân đầu tiên trong một xã hội đa thê thực tế bị nam giới trì hoãn.
Khoa học dịch sang tiếng Anh là Science. Vậy khoa học hay science là gì? Theo Luật Khoa học và Công nghệ, khái niệm khoa học được định nghĩa là hệ thống tri thức bao gồm tất cả những điều thuộc về bản chất, quy luật tồn tại cũng như phát triển của sự vật, hiện tượng và tư duy. Hiểu một cách đơn giản, khoa học chính là quá trình nghiên cứu của con người nhằm khám phá ra những kiến thức mới, quy luật hay học thuyết mới… về các vấn đề của tự nhiên và xã hội. Những kiến thức, quy luật hay học thuyết mới có đặc điểm là tốt hơn, có khả năng thay thế dần những điều cũ, điều lạc hậu và không còn phù hợp với xã hội. Ví dụ: Trước đây, người ta quan niệm rằng thực vật là những vật thể hoàn toàn không có cảm giác. Tuy nhiên, sau này, qua các cuộc thí nghiệm và nghiên cứu, các nhà khoa học đã chỉ ra: thực vật là vật thể có cảm nhận. Điển hình như loài cây xấu hổ, khi con người chạm hoặc sờ nhẹ vào lá cây cũng đủ khiến những chiếc lá cụp lại. Còn khi nhìn từ góc độ hoạt động, khoa học được hiểu là lĩnh vực hoạt động của con người, mang mục đích khám phá ra bản chất và các quy luật vận động của thế giới. Con người ứng dụng thành tựu của các ngành khoa học, sự hiểu biết cũng như những điều đã khám phá được vào các hoạt động sản xuất, sinh hoạt. Như vậy, hiểu theo khía cạnh này, khoa học chính là hoạt động nghiên cứu khoa học, là quá trình để tạo ra tri thức cho xã hội loài người. Khoa học cơ bản là hệ thống lý thuyết nhằm phản ánh các quan hệ, thuộc tính, quy luật khách quan, được thúc đẩy nghiên cứu bằng sự ham hiểu biết của con người. Khoảng thời gian trước thế kỷ 19, khoa học cơ bản được quan niệm là khoa học tự nhiên, tuy nhiên, về sau này, khi xã hội ngày càng phát triển thì những nghiên cứu cụ thể đã được xem xét và đưa ra. Khoa học cơ bản không chỉ đóng khung trong phạm vi khoa học tự nhiên mà còn bao gồm khoa học xã hội và khoa học hình thức (toán học). Khoa học tự nhiên: Khoa học tự nhiên tiếng anh là gì? Khoa học tự nhiên có nhiệm vụ chính đó là nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên, trong đó bao gồm cả đời sống sinh học. Khoa học xã hội có chức năng nghiên cứu về hành vi con người và xã hội. Đặc điểm của những nhóm khoa học chính này là khoa học thực nghiệm, những kiến thức đúc rút phải được dựa trên sự quan sát, tìm hiểu và được thử nghiệm nhằm mục đích kiểm nghiệm tính đúng đắn. Quá trình thực nghiệm cần diễn ra trong một khoảng thời gian và nhiều lần bởi ở các khu vực làm việc khác nhau thì điều kiện để tiến hành thử nghiệm là khác biệt. Riêng với khoa học hình thức sẽ có phương pháp nghiên cứu khách quan, đảm bảo mối liên hệ giữa các lĩnh vực kiến thức. Loại khoa học này nhằm xác minh kiến thức, toán học sử dụng chủ yếu phương pháp tiên nghiệm, bao gồm các số liệu thống kê và logic. Là loại bao gồm các phạm trù nghiên cứu và ứng dụng nó vào cuộc sống thực tiễn. Một số loại khoa học khác như: sức khỏe, kỹ thuật… sẽ được nhóm lại thành khoa học ứng dụng và khoa học liên ngành. Nó có đặc điểm là sẽ bao gồm các yếu tố của một số ngành khoa học khác có thuật ngữ và cơ quan chuyên môn riêng. Khoa học ứng dụng sử dụng kiến thức tổng hợp từ khoa học tự nhiên và khoa học xã hội để giải quyết vấn đề xảy ra trong thực tế, đồng thời phát triển công nghệ và thúc đẩy sự đi lên nói chung của xã hội. Khoa học đánh dấu một bước phát triển vượt bậc trong việc tiếp cận các lĩnh vực so với các thời kỳ trước đó. Những thành công từ kết quả nghiên cứu khoa học gắn liền với thực tiễn, để từ đó đưa ra giải pháp, hướng đi phù hợp. Có thể nói, khoa học cơ bản đã tạo ra toàn bộ công nghệ hiện nay, giúp thay đổi bộ mặt xã hội loài người. Bởi trên thực tế, xã hội loài người đã hình thành, tồn tại hàng triệu năm nay, nhưng chỉ với khoảng 200 năm gần đây, khi các nghiên cứu khoa học được ứng dụng đã tạo ra bước tiến vượt bậc ở tất cả các lĩnh vực. Những thành tựu của khoa học bằng tổng những thành tựu ở tất cả các ngành nghề khác cộng lại. Tuy nhiên, tất cả các nghiên cứu khoa học cơ bản không thể mang lại lợi ích ngay cho xã hội, mà cần có thời gian vận dụng vào thực tiễn để tạo ra của cải vật chất cho con người. Theo ý nghĩa của triết học, tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính và quy luật của thế giới, được diễn đạt dưới dạng hình thức ngôn ngữ hoặc các ký hiệu khác. Nói một cách dễ hiểu, tri thức là những hiểu biết do quá trình học tập, rèn luyện mà con người tích lũy được. Từ đó suy ra, tri thức khoa học là hệ thống tri thức khái quát về tất cả các sự vật, hiện tượng cũng như quy luật vận động của chúng. Tri thức khoa học được xác lập trên căn cứ chính xác, được kiểm nghiệm và có tính ứng dụng cao. Tri thức khoa học được chia thành 2 dạng chính là: tri thức lý luận và tri thức kinh nghiệm. Trong đó, tri thức lý luận dựa trên hệ thống kiến thức, lý luận nghiên cứu còn tri thức kinh nghiệm được tích lũy một cách ngẫu nhiên từ chính các sự vật và hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày, là cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học. Nghiên cứu khoa học là hoạt động xã hội nhằm hướng tới việc tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết, chưa tìm ra. Một cách hiểu khác thì đây chính là hoạt động tìm ra cái mới, hát hiện bản chất sự vật, sự việc, phát triển nhận thức khoa học về thế giới từ đó để cải tạo thế giới. Nghiên cứu mô tả (tiếng anh là Descriptive research): mục đích nhằm đưa ra một hệ thống tri thức mới giúp con người phân biệt các sự vật, sự việc, các hiện tượng xung quanh. Thông thường, nghiên cứu mô tả sẽ bao gồm cả mô tả định tính và định lượng. Sự vật, hiện tượng sẽ được mô tả một cách riêng lẻ, sau đó được so sánh giữa nhiều sự vật, sự việc và hiện tượng khác nhau. Nghiên cứu giải thích (Explanatory research): mục đích nhằm làm rõ các quy luật chi phối các hiện tượng hoặc các quá trình vận động của sự vật. Nghiên cứu sáng tạo (tiếng anh là Creative research): hướng tới việc tạo ra các quy luật, sự vật mang tính khác biệt, mới lạ. Nghiên cứu dự báo (Anticipatory research): giúp chỉ ra xu hướng vận động của các hiện tượng hoặc sự vật trong tương lai. Nghiên cứu cơ bản (hay còn gọi là Fundamental research): nhằm phát hiện thuộc tính, cấu trúc bên trong của các sự vật, sự việc và hiện tượng. Nghiên cứu ứng dụng (Applied research): giúp giải thích, tạo ra các giải pháp, quy trình công nghệ để ứng dụng vào đời sống, sản xuất và các hoạt động kinh doanh. Nghiên cứu triển khai (Implementation research): từ các nghiên cứu cơ bản cũng như ứng dụng của chúng để tổ chức triển khai, thực hiện ở quy mô thử nghiệm. Bài viết là những kiến thức về khoa học là gì, văn bản khoa học là gì, phân loại khoa học hay những kiến thức liên quan như: tri thức khoa học, nghiên cứu khoa học… Mong rằng qua những giải đáp trên sẽ giúp ích cho bạn trong việc nắm bắt, hiểu thêm về khoa học và vận dụng một cách tốt nhất vào thực tế. Tôi đã có nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu, đánh giá chuyên sâu về các sản phẩm điện máy, xe máy, ô tô và các kiến thức liên quan. Hy vọng những thông tin tôi chia sẻ sẽ giúp ích cho quý vị và các bạn!
Khoa học
Khoa học (tiếng Anh: science) là hệ thống kiến thức về những định luật, cấu trúc và cách vận hành của thế giới tự nhiên, được đúc kết thông qua việc quan sát, mô tả, đo đạc, thực nghiệm, phát triển lý thuyết bằng các phương pháp khoa học. Thông qua các phương pháp nghiên cứu có kiểm soát, nhà khoa học sử dụng cách quan sát các dấu hiệu biểu hiện mang tính vật chất và bất thường của tự nhiên nhằm thu thập thông tin, rồi sắp xếp các thông tin đó thành dữ liệu để phân tích nhằm giải thích cách thức hoạt động, tồn tại của sự vật hiện tượng. Một trong những cách thức đó là phương pháp thử nghiệm nhằm mô phỏng hiện tượng tự nhiên dưới điều kiện kiểm soát được và các ý tưởng thử nghiệm. Tri thức trong khoa học là toàn bộ lượng thông tin mà các nghiên cứu đã tích lũy được. Định nghĩa về khoa học được chấp nhận phổ biến rằng khoa học là tri thức đã được hệ thống hóa. Trong tiếng Việt, "khoa học", "kỹ thuật" và "công nghệ" đôi khi được dùng với nghĩa tương tự nhau hay được ghép lại với nhau (chẳng hạn "khoa học kỹ thuật").
Vương Nguyên sinh ra tại Trùng Khánh, Trung Quốc. Vương Nguyên có niềm đam mê rất lớn đối với ca hát. Khi còn nhỏ, ý niệm của cậu về ca hát rất đơn thuần: hát vì yêu thích. Trong một lần phỏng vấn hậu trường của chương trình “Thiếu Niên Trung Quốc Cường”Vương Nguyên chia sẻ rằng cậu được tiếp xúc với âm nhạc dân ca từ rất sớm do người thân trong gia đình, nhất là cha và ông đều thích dòng nhạc này. Với sự động viên của gia đình, Vương Nguyên tham gia và đạt giải trong cuộc thi hát dân ca dành cho thiếu nhi. Từ đó, mơ ước của cậu là trở thành ca sĩ chuyên nghiệp như Tống Tổ Anh. Cuối năm 2011, thông qua cuộc thi TF Gia Tộc để tuyển chọn thêm thành viên mới, Vương Nguyên đã vượt qua vòng sơ tuyển và trở thành thực tập sinh của TF Entertainment. – Tháng 03/2014, Vương Nguyên tham gia phim ngắn Phòng tự học – Học viện nam sinh trong vai diễn Mã Tư Viễn. Cậu còn tham gia cover nhiều bài như: “Ánh trăng tàn khốc”, “Hẹn ước bồ công anh”, “Người bệnh cô đơn”, “Cơn gió lốc”, “Tiếng vỗ tay vang lên” (cùng Vương Tuấn Khải), “Đào thải”, “Nhìn về nơi xa nhất”, “Cô ấy nói”, “Lòng có Lâm Tịch”. – 13/05/2016 tạp chí COSMOPOLITIAN mở bán ấn phẩm với trang bìa Vương Nguyên lập nên kỉ lục trong ngành xuất bản với lượng tiêu thụ trong 48s là 71319 bản và đã hoàn toàn cháy hàng sau đó. – 20/01/2017 Vương Nguyên lần đầu thử sức làm MC trong chương trình truyền hình Vương bài đối Vương bài với vai trò là đội trưởng. – 31/01/2017 Đại diện Trung Quốc tham gia phát biểu tại “Diễn Đàn Thanh Thiếu Niên Liên Hợp Quốc”. – 2017, Vương Nguyên nhận bằng khen “Người khởi xướng kiệt xuất” về Tưởng tượng 2030 của Liên Hợp Quốc. – 19/05/2017 tiếp tục lập kỉ lục báo chí với tạp chí BAZAAR Men khi 1s tiêu thụ 10000 quyển, 10s tiếp tiêu thụ 25000 quyển, 16s hết 38000 quyển, cháy hàng sau đó. – 25/09/2017 phát hành tạp chí Madame Figaro tháng 10 (tháng ngân thập), công phá giới báo chí khi 1 giây cháy hàng, Madame Figaro sau đó đã bổ sung thêm 10 000 cuốn tạp chí nữa. -27/10/2017, Vương Nguyên cùng với CEO Trần Lệ Chí khởi xướng thành lập Quỹ công ích Yuan Foundation, lấy thiện ý tạo thành lực lượng cho xã hội, trợ giúp cộng đồng. Quỹ Nguyên sau khi thành lập đã hoàn thành hạng mục công ích đầu tiên vì bệnh nhân vùng Tây Tạng khó khăn mắc bệnh đục tinh thể thực hiện giải phẫu chữa bệnh, tính đến nay, chữa cho 200 cụ ông cụ bà tìm lại được ánh sáng. Tìm lại ánh sáng đã mất tất cả vì tấm lòng. Là người trẻ tuổi nhất tính tới thời điểm hiện nay thành lập Quỹ công ích, dùng sinh nhật 17 tuổi làm hành động, dùng yêu thương sưởi ấm thế giới này. – Vương Nguyên là đại diện đầu tiên và cũng là duy nhất của Trung Quốc thuộc thế hệ 10x lọt vào danh sách 30 thanh thiếu niên có tầm ảnh hưởng nhất năm 2017 của tạp chí danh tiếng TIME. – 6/12/2017 Sina công bố “Top 100 nghệ sĩ có giá trị thương mại cao nhất năm 2017” dựa trên thống kê của Tuần san kinh tế tài chính hàng đầu Trung Quốc. Vương Nguyên vinh dự xếp thứ 14 trong danh sách và là thế hệ 10x duy nhất trong top 15, tính tới thời điểm hiện tại có lẽ là người đầu tiên. – 17/10/2016, sáng tác ca khúc ” Thời gian tươi đẹp nhất” (phổ nhạc) tặng trường Nam Khai nhân dịp 80 năm thành lập. – 04/11/2016, ra mắt bài hát “Thế giới sau khi trưởng thành” hợp tác cùng JJ Lâm Tuấn Kiệt. – 06/11/2017, phát hành đĩa đơn “Sleep”, đĩa đơn đầu tiên hát hoàn toàn bằng tiếng anh. ”Mặc dù còn trẻ tuổi nhưng có cảm thụ tốt về âm nhạc, là một nghệ sĩ trẻ có chất lượng vượt trội”. Tổng cục điện ảnh Trung Quốc mảng phim truyền hình năm 2017 kỳ 3, bộ phim “Thời đại niên thiếu của chúng ta” được lựa chọn và đề cử vì qua nó nhìn thấy sự trưởng thành, ước mơ của thế hệ trẻ trong thời đại mới, thông qua phấn đấu của bản thân thực hiện lý tưởng sống, đề tài mới mẻ độc đáo, phát huy tinh thần thể dục, nhiệt huyết hết mình, truyền lại năng lượng tích cực. Diễn xuất của Vương Nguyên trong “Thời đại niên thiếu của chúng ta” nhận được sự khen ngợi của Tổng cục: “Nhân vật chính Ban Tiểu Tùng vực dậy đội bóng chày phấn đấu cho mục tiêu xuyên suốt tác phẩm, Ban Tiểu Tùng bằng lòng nhiệt tình yêu thích với bóng chày, dùng tinh thần lạc quan và kiên cường bền bỉ tác động đến đồng đội bên cạnh và các thầy cô”. Cuối cùng với những nỗ lực của mọi người nỗ lực không ngừng cho ước mơ, cho thấy cuộc sống phong phú của học sinh trung học nơi trường học, tràn ngập lan toả ánh mặt trời và hơi thở thanh xuân.
Vương Nguyên (ca sĩ)
Vương Nguyên (Giản thể: 王源, Phồn thể: 王源, Bính âm: WángYuán, tiếng Anh: Roy Wang, sinh ngày 8 tháng 11 năm 2000 tại Trùng Khánh, Trung Quốc) là nam ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên,MC người Trung Quốc, thành viên nhóm nhạc thần tượng Trung Quốc TFBOYS từ năm 2013. Anh được tạp chí Time bình chọn là một trong 30 thanh thiếu niên có sức ảnh hưởng nhất thế giới năm 2017. Vương Nguyên cũng là Đại sứ Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc từ năm 2018. Năm 2019, Vương Nguyên xếp hạng 25 trong Danh sách 100 người nổi tiếng Trung Quốc do Forbes bình chọn. Năm 2020, Vương Nguyên xếp hạng 89/500 trong Danh sách 500 nhân vật thương hiệu xuất sắc nhất Trung Quốc, đồng thời là nghệ sĩ 10x duy nhất nằm trong Top 100. Vương Nguyên sinh ra tại Trùng Khánh, Trung Quốc, trong một gia đình bình thường. Vương Nguyên có niềm đam mê rất lớn đối với ca hát. Khi còn nhỏ, ý niệm của anh về ca hát rất đơn giản: hát vì yêu thích. Trong một lần phỏng vấn hậu trường của chương trình "Thiếu Niên Trung Quốc Cường", Vương Nguyên chia sẻ rằng anh được tiếp xúc với âm nhạc dân ca từ rất sớm do người thân trong gia đình, nhất là cha và ông đều thích dòng nhạc này.
Thương mại điện tử (tiếng Anh: e-Commerce) là một mô hình kinh doanh cho phép các công ty và cá nhân thực hiện việc kinh doanh qua Internet. Thương mại điện tử thường bị nhầm lẫn với Kinh doanh điện tử, vậy hai khái niệm này có khác biệt gì?. Thương mại điện tử trong tiếng Anh là Electronic Commerce (EC), còn được viết là e-Commerce hoặc eCommerce. Đây là một mô hình kinh doanh cho phép các công ty và cá nhân thực hiện việc kinh doanh qua các mạng điện tử, đặc biệt là Internet. (Theo định nghĩa của Investopedia). Theo định nghĩa ngắn gọn của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), “Thuật ngữ Thương mại điện tử được hiểu là sản xuất, phân phối, tiếp thị, bán hàng hoặc phân phối hàng hóa và dịch vụ bằng phương tiện điện tử”. Theo Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử của Chính phủ, “Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác”. Về cơ bản, thương mại đóng vai trò luân chuyển hàng hóa và dịch vụ giữa các doanh nghiệp, nhóm và cá nhân; là phần không thể thiếu đối với bất cứ một hoạt động kinh doanh hay bất cứ doanh nghiệp nào. Nên thực chất, thuật ngữ thương mại điện tử là nói đến các hoạt động thương mại thông qua mạng Internet. Khái niệm Thương mại điện tử hay bị nhầm lẫn với Kinh doanh điện tử (Electronic Business hoặc eBusiness), thế nhưng đây là hai khái niệm khác nhau. Về cơ bản, Thương mại điện tử chú trọng đến việc mua bán trực tuyến và được tập trung ra bên ngoài. Bao gồm các qui trình hướng ngoại, tiếp xúc với khách hàng, nhà cung cấp và đối tác bên ngoài như bán hàng, tiếp thị, đặt hàng, giao hàng,…. Thương mại điện tử cho phép các doanh nghiệp kết nối hệ thống dữ liệu bên trong và bên ngoài doanh nghiệp một cách hiệu quả và linh hoạt hơn; hợp tác một cách chặt chẽ hơn với nhà cung cấp và các đối tác; qua đó có thể thỏa mãn được tốt hơn nhu cầu và sự mong đợi của khách hàng. Còn Kinh doanh điện tử có nghĩa là sử dụng internet và các công nghệ trực tuyến để tạo ra hiệu quả hoạt động. Trong đó bao gồm các qui trình nội bộ như sản xuất, quản lí hàng tồn kho, phát triển sản phẩm, quản lí rủi ro, tài chính, quản lí tri thức và nguồn nhân lực. Chiến lược kinh doanh điện tử phức tạp hơn, tập trung hơn vào các qui trình nội bộ và nhằm mục đích tiết kiệm chi phí và cải thiện hiệu quả, năng suất. Từ đó làm tăng lợi ích cho khách hàng. Business To Business hay B2B (Doanh nghiệp – Doanh nghiệp): Mô tả giao dịch thương mại giữa các doanh nghiệp, chẳng hạn như giữa nhà sản xuất và người bán buôn hay giữa người bán buôn và người bán lẻ. Business To Consumer hay B2C (Doanh nghiệp – Người tiêu dùng): Mô tả giao dịch thương mại giữa các doanh nghiệp tới người tiêu dùng cuối cùng. Consumer To Consumer hay C2C (Người tiêu dùng – Người tiêu dùng): Là giao dịch thương mại trực tuyến giữa những người tiêu dùng thông qua một bên thứ ba, chẳng hạn một trang web làm trung gian đấu giá trực tuyến hay trung gian bán hàng. Consumer To Business hay C2B (Người tiêu dùng – Doanh nghiệp): Là mô hình kinh doanh trong đó người tiêu dùng tạo ra giá trị và bán lại giá trị đó cho doanh nghiệp. Business To Employee hay B2E (Doanh nghiệp – Nhân viên): Đây là hình thức mà doanh nghiệp sử dụng một mạng lưới nội bộ cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ cho nhân viên của mình. Government To Government hay G2G (Chính phủ – Chính phủ): Là sự tương tác trực tuyến, phi thương mại giữa các cơ quan, ban ngành, tổ chức thuộc Chính phủ với các cơ quan, ban ngành, tổ chức khác thuộc Chính phủ. Government To Business hay G2B (Chính phủ – Doanh nghiệp): Là sự tương tác trực tuyến, phi thương mại giữa các cơ quan Chính phủ với các doanh nghiệp với mục đích cung cấp thông tin và tư vấn doanh nghiệp. Government To Citizen hay G2C (Chính phủ – Công dân): Là sự truyền thông giữa chính phủ với khu vực tư nhân hay công dân của mình. (Theo Giáo trình Quản trị kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân). Thư điện tử: Các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước,. sử dụng thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạng, gọi là thư điện tử (electronic mail, viết tắt là e-mail). Trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange, viết tắt là EDI) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc” (stuctured form), từ máy tính điện tử này sang máy tính điẹn tử khác, giữa các công ty hoặc đơn vị đã thỏa thuận buôn bán với nhau. Truyền dung liệu: Dung liệu (content) là nội dung của hàng hóa số, giá trị của nó không phải trong vật mang tin và nằm trong bản thân nội dung của nó. Hàng hoá số có thể được giao qua mạng.
Kinh doanh điện tử
Kinh doanh điện tử, hay còn gọi là "eBusiness" hoặc "e-business" (viết tắt từ chữ Electronic business), hay Kinh doanh trên Internet, có thể được định nghĩa như là một ứng dụng thông tin và công nghệ liên lạc (ITC) trong sự hỗ trợ của tất cả các hoạt động kinh doanh. Thương mại hình thành sự trao đổi sản phẩm và các dịch vụ giữa các doanh nghiệp, nhóm và cá nhân và có thể được hình dung như là một trong những hoạt động quan trọng trong bất cứ doanh nghiệp nào. Thương mại điện tử tập trung vào việc sử dụng ITC để mở các hoạt động bên ngoài và mối quan hệ của thương mại với các cá nhân, nhóm và các doanh nghiệp khác. Thuật ngữ "Kinh doanh điện tử" (e-business) được đặt lần đầu bởi nhóm tiếp thị Internet của tập đoàn IBM năm 1996. Các phương thức kinh doanh điện tử cho phép các công ty liên kết các hệ thống xử lý dữ liệu bên trong và bên ngoài một cách hiệu quả và mềm dẻo, để hoạt động gần gũi hơn với nhà cung cấp và đối tác, và để làm thỏa mãn hơn nhu cầu và mong đợi của khách hàng công ty.
Khi tìm hiêủ về đất nước Nhật Bản, những câu chuyện về thuỷ quái Kappa luôn ẩn chứa nhiều bí mật khiến người ta muốn khám phá. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu nhé. Kappa được coi là là một quái vật đáng sợ huyền thoại trong văn hóa dân gian Nhật Bản chuyên sống trong sông hồ và nuốt những đứa trẻ hư.Trong tiếng Nhật, tên gọi Kappa xuất phát từ Kawa wappa, ngoài ra còn có tên gọi khác là Gataro, hay Suiko (Hổ nước). Đặc điểm nhận biết loài KappaTheo như truyền thuyết dân gian Nhật Bản, Kappa là loài tiểu yêu, kích thước cỡ bằng đứa trẻ lên 5-6, nặng tầm 20kg, giống loài tinh tinh, đầu tóc bờm xờm, mũi dài khoằm, mặt và mắt tròn, hơn nữa chúng còn có râu màu nâu dưới cằm, da xanh xám có thể thay đổi màu sắc tùy theo môi trường, tay chân có 5 ngón và có màng, bụng có một chiếc túi đựng đồ vật, thân thể có mùi tanh như cá. Đặc biệt trên đầu Kappa có một cái đĩa màu đỏ hình bầu dục để đựng nước, người ta tương truyền rằng khi cái đĩa còn nước là loài Kappa vẫn còn sở hữu sức mạnh ghê gớm. Theo thần thoại của Nhật, hố trên đầu phải luôn có nước khi kappa lên bờ, nếu không nó sẽ mất sức mạnh. Kappa có hành vi và tính cách khá giống trẻ con, kẻ gây ra vô cùng nhiều rắc rối. Nếu trêu chọc Kappa, chúng sẽ khóc còn ngược lại nếu đối xử tốt, đôi khi chúng lại giúp đỡ con người. Kappa là kẻ đầu têu những trò phá rối đáng sợ, hay dọa và bắt cóc trẻ con, tốc váy kimono của phụ nữ, kéo chân nhiều người xuống nước và đặc biệt chúng khá thích Sumo, chúng thường bắt những đứa trẻ bị bắt cóc chơi vật Sumo với chúng. Theo truyền miệng của người Nhật kể rằng xa xưa những gia đình nghèo không có khả năng chăm sóc nuôi dưỡng đã ném những đứa con mình sinh ra xuống sông, chúng đã biến thành Kappa để bắt cóc những đứa trẻ chơi đùa dưới sông, lại gần các con sông. Thủy quái Kappa giết chết các nạn nhân với mục đích ăn gan hoặc shirikodama – bóng ma thuật mà người Nhật cổ đại tin rằng nó nằm ở hậu môn của con người. – Năm 1910, cuốn sách nổi tiếng Tono Monogatari (huyền thoại vùng đất Tono) của tác giả Yanagida Kunio có đề cập đến Kappa và bản tính hung hăng của nó. – Nhân vật chính trong tiểu thuyết trào phúng xuất sắc của nhà văn Nhật Bản Akutagawa Ryunosuke mang tên Kappa. Ngày nay nhiều người tin vào truyền thuyết và mong muốn được nhìn Kappa bằng xương bằng thịt đã đến vùng hồ Tono là một điểm du lịch nổi tiếng, hay tới là vùng Mito hay sông Oise gần Nagoya. Thậm chí, ẩm thực Nhật Bản có món ăn là kappa maki (sushi cuộn dưa chuột), kappa xuất hiện trong nhiều truyện ngắn hay phim hoạt hình Nhật Bản. Làm sao để tránh Kappa tấn côngDù là loài thủy quái rất đáng sợ nhưng có những yếu điểm sau như:. – Sợ lửa và tiếng ồn lớn. Do đó, rất nhiều ngôi làng hàng năm sẽ tổ chức lễ hội pháo hoa, thắp sáng đèn khắp nơi để xua đuổi không cho chúng không trêu trọc, phá hoại cuộc sống của người dân. – Kappa luôn đội một chiếc đĩa trên đầu, để có thể đánh bại Kappa cần tìm cách khiến nó cúi người xuống, nước sẽ đổ ra và làm nó yếu đi. – Loài thủy quái này khá yêu thích dưa chuột do vậy các bậc phụ huynh thường khắc tên con mình lên quả dưa chuột, ném xuống sông nó bảo vệ những đứa trẻ thoát khỏi sự tấn công của Kappa.
Kappa (sinh vật truyền thuyết)
Kappa (河童 Hà Đồng), là một loài thủy quái trong truyền thuyết của người Nhật. Kappa là âm đọc tỉnh lược của Kawa wappa, cũng bắt nguồn từ chữ Kawa warawa, đôi khi còn được gọi là Gataro (川太郎 Xuyên thái lang) đều chỉ đứa trẻ con sống ở ngoài sông hay hồ chuôm, hoặc Suiko (Thủy hổ), do mặt của nó nhìn chính diện có hình tròn gần giống mặt hổ. Một con kappa có tóc được gọi là Hyōsube (ひょうすべ, Hyōsube). Có hơn 8 tên khác của kappa ở các vùng khác nhau của Nhật Bản bao gồm kawappa, gawappa, kōgo, mizushi, mizuchi, enkō, kawaso, suitengu, và dangame. Kappa được miêu tả như một tiểu yêu, một quái vật cao cỡ như đứa trẻ bốn hoặc năm tuổi nặng khoảng trên dưới 20 kg, hình dạng gần giống loài tinh tinh, đầu bờm xờm tóc, mũi dài khoằm,miệng như mỏ quạ, mặt và mắt tròn, có râu màu nâu dưới cằm, da xanh xám có thể thay đổi màu sắc tùy theo môi trường, tay chân có 5 ngón và có màng, bụng có một chiếc túi đựng đồ vật, thân thể có mùi tanh như cá. Kappa sống được cả ở dưới nước và trên cạn.
Dự trữ bắt buộc (reserve requirements) là tỷ lệ phần trăm tiền gửi mà các ngân hàng thương mại buộc phải giữ làm dự trữ theo yêu cầu của ngân hàng trung ương. Thông thường, các ngân hàng thương mại phải gửi số tiền này vào một tài khoản đặc biệt ở ngân hàng trung ương. Ngoài ra, cũng cần chú ý rằng ngân hàng trung ương thường quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau cho các khoản tiền gửi có kỳ hạn khác nhau. Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các ngân hàng thương mại có khả năng biến những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này, ngân hàng trung ương buộc các ngân hàng thương mại phải trích một phần tiền huy động được theo một tỷ lệ quy định gửi vào ngân hàng trung ương không được hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các ngân hàng thương mại. Khi lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng trung ương quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng (cung tiền tăng) và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng dẫn tới lãi suất giảm, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng). Như vậy công cụ dự trữ bắt buộc mang tính áp đặt trực tiếp, đầy quyền lực và cực kỳ quan trọng để điều khiển lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hoà mức cung tiền tệ cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng cũng gây nên tình trạng không ổn định cho các ngân hàng.Chính vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít đưọc sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những nước phát triển , có nền kinh tế ổn định).
Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ của ngân hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.
Giải vô địch bóng đá U-22 Đông Nam Á 2019 (còn được biết đến là AFF U-22 LG Cup 2019 nhằm mục đích tài trợ), là mùa giải thứ hai của Giải vô địch bóng đá U-22 Đông Nam Á, do Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á (AFF) tổ chức. Giải đấu này có nhà tài trợ chính là Tập đoàn LG của Hàn Quốc. Giải đấu diễn ra từ ngày 17 đến 26 tháng 2 tại Phnôm Pênh, Campuchia. Đây là giải đấu đầu tiên dành cho cầu thủ dưới 22 tuổi, mà giải trước đó là dưới 23 tuổi. Đội vô địch của giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á 2005, Thái Lan là đương kim vô địch, vì không có giải đấu nào từ năm 2006 đến năm 2018. Giải đấu này không có vòng loại, và tất cả các đội tuyển đều được giành quyền vào vòng chung kết. Các đội tuyển sau đây từ các liên đoàn thành viên của AFF được tham dự giải đấu (ngoại trừ Úc). Singapore đã rút lui khỏi giải đấu để tập trung vào giải đấu vòng loại giải vô địch bóng đá U-23 châu Á 2020 vào tháng 3. Brunei và Lào cũng đã rút lui khỏi giải đấu. Sáu đội tuyển hàng đầu từ giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á 2005 đã được hạt giống vào nhóm 1, các đội tuyển còn lại đã vào nhóm 2. Campuchia đã được gán vào vị trí B1 với tư cách là chủ nhà. Một đội hình cuối cùng có 23 cầu thủ (ba trong số đó phải là thủ môn) phải được đăng ký một ngày trước trận đấu đầu tiên của giải đấu. Trong vòng đấu loại trực tiếp, loạt sút luân lưu đã được sử dụng để quyết định đội thắng nếu cần thiết. Tất cả 16 trận đấu cũng có sẵn trực tiếp và miễn phí tại Campuchia, các quốc gia ASEAN khác và quốc tế thông qua trang Facebook chính thức của Liên đoàn bóng đá Campuchia (FFC), bằng tiếng Khmer.
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á (tiếng Anh: ASEAN Football Championship, gọi tắt tiếng Anh: AFF Championship) là giải đấu bóng đá giữa các đội tuyển bóng đá nam quốc gia đại diện các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á do Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á (AFF) tổ chức. Giải đấu được tổ chức 2 năm một lần vào các năm chẵn, ngoại trừ các lần vào năm 2007 và 2020 (bị hoãn sang năm 2021 do đại dịch COVID-19). Giải lần đầu tiên diễn ra tại Singapore năm 1996 với tên gọi Tiger Cup do được tài trợ bởi Bia Tiger, hãng bia Châu Á Thái Bình Dương của Singapore với 10 đội tuyển và nhà vô địch đầu tiên là Thái Lan. Tên gọi Tiger Cup được giữ đến hết giải lần thứ 5 (năm 2004) sau khi hãng bia Tiger hết hợp đồng tài trợ. Tại giải lần thứ 6 (năm 2007), giải được gọi là AFF Cup. Giải lần thứ 7 (năm 2008), Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á được gọi là AFF Suzuki Cup 2008 do Công ty Suzuki của Nhật Bản đã mua quyền đặt tên cho giải đấu và từ đó, giải đấu được mang tên AFF Suzuki Cup.
Theo thống kê của trang web CIA.gov, Hoa Kỳ hiện là quốc gia lớn thứ ba trên thế giới, sau Cộng hòa liên bang Nga và Canada. Tại nước Mỹ nếu các bạn hỏi một người Việt, hay thậm chí là một người Mỹ rằng tại sao nước Mỹ to lớn như bây giờ, quá trình bành trướng lãnh thổ của Mỹ diễn ra như thế nào, ngoài Chiến tranh Việt Nam và các cuộc chiến gần đây thì Mỹ còn đem quân đánh những nơi nào v.v., thì các bạn sẽ thấy rằng họ không biết câu trả lời. Điều đó có lẽ từ sự tránh né nói về đề tài này trong giáo dục phổ thông và trên báo chí chính thống. Rất may, các trang thông tin trên Internet và các tác phẩm nghiên cứu chuyên sâu đã trình bày, liệt kê, miêu tả những sự kiện quan trọng, những giai đoạn trong suốt quá trình bành trướng khu vực và quốc tế, mở rộng cương thổ của Hoa Kỳ. Bài viết này tổng hợp lại các thông tin, sự kiện để phần nào giải đáp câu hỏi: Tại sao nước Mỹ rộng lớn như hiện nay. Năm 1775, tướng George Washington, vốn là một viên tướng tư lệnh người thuộc địa gốc Anh, đã từng chỉ huy trung đoàn dân quân địa phương trang bị nhẹ ở thuộc địa Virginia đánh bại nhiều bộ tộc châu Mỹ bản xứ và thực dân Pháp, cùng các chiến hữu thành lập lực lượng nổi dậy “Lục quân lục địa”, lãnh đạo quân nổi dậy của 13 thuộc địa tạo phản chống thực dân Anh. Sau tám năm chiến tranh, thực dân Anh thua, phải ký hiệp định Paris 1783 rút quân ra khỏi 13 thuộc địa. George Washington và các chiến hữu tuyên bố 13 thuộc địa độc lập, ly khai nước Anh, và thành lập liên bang Hoa Kỳ. Từ đó, mười ba thuộc địa trở thành mười ba tiểu bang nằm trong liên bang Mỹ. Từ 13 tiểu bang nguyên thủy ban đầu, Mỹ đã bành trướng lãnh thổ lên thành một nước rộng lớn với 50 bang với nhiều lãnh thổ phụ thuộc, bao gồm vùng quốc hải (Insular area), Puerto Rico, Samoa, Guam, 2 quần đảo và 9 hòn đảo. Các khu vực thuộc địa của thực dân Anh ở Bắc Mỹ. Khu vực số 3 bao gồm 13 thuộc địa, sau này trở thành nước Hoa Kỳ với 13 tiểu bang đầu tiên. Từ một quốc gia có diện tích khiêm tốn, liên bang Hoa Kỳ đã trở thành to lớn như hiện nay. Chính sách bành trướng toàn cầu và chủ nghĩa đế quốc của Mỹ đã làm sản sinh ra những khái niệm và thuật ngữ mới trong giới khoa học chính trị quốc tế như “đế quốc Mỹ”, “tiểu bang thứ 51”, “vận mệnh hiển nhiên”…. Thuật ngữ “chủ nghĩa đế quốc” đầu tiên được dùng để nói về các vấn đề liên quan tới hoàng đế Napoleon của Pháp, và cũng được dùng khi nói về chính sách ngoại giao của Anh. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi hơn trong thế kỷ 19 và đầu tiên được sử dụng một cách phổ biến để nói về Hoa Kỳ bởi Liên minh Hoa Kỳ chống Đế quốc, được thành lập năm 1898 để chống chiến tranh Tây Ban Nha – Hoa Kỳ và sự chiếm đóng quân sự cùng những tội ác chiến tranh gây ra bởi quân đội Mỹ ở Philippines sau đó. Tư tưởng bành trướng quốc tế của Mỹ được thể hiện rõ qua khái niệm “Vận mệnh hiển nhiên” (Manifest Destiny), “vận mệnh hiển nhiên” là một niềm tin của người Mỹ rằng họ có “vận mệnh” mở rộng lãnh thổ từ duyên hải Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương. Khái niệm này cũng được sử dụng để hô hào và biện hộ cho việc thu phục các lãnh thổ khác. Những người theo tư tưởng này tin rằng mở rộng lãnh thổ Hoa Kỳ không chỉ tốt đẹp mà còn là “hiển nhiên” và là “vận mệnh”. Ban đầu, “Manifest Destiny” là một từ có tính cách thời thế chính trị trong thế kỷ 19 nhưng dần dần nó trở thành thuật ngữ chuẩn lịch sử, thường được dùng như đồng nghĩa với việc mở rộng lãnh thổ của Hoa Kỳ khắp Bắc Mỹ. Thuật ngữ này không được những nhà làm chính sách của Hoa Kỳ sử dụng trong đầu thế kỷ 20 nhưng một số nhà bình luận tin rằng một số khía cạnh của niềm tin “Vận mệnh hiển nhiên”, đặc biệt là tư tưởng, niềm tin, chủ nghĩa đại bá quyền về một “nhiệm vụ” của người Mỹ là bành trướng thế lực, mở rộng tầm ảnh hưởng ra khắp thế giới dưới chiêu bài chính trị “khai hóa dân chủ”, “khai hóa văn minh”. Biếm họa về tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt và “cây roi lớn” của ông ta ở vùng Caribe, trong chiến dịch xâm chiếm Puerto Rico. Tư tưởng nước lớn của Mỹ cũng được thể hiện qua khái niệm “Tiểu bang thứ 51” (51st state), đó là một thuật ngữ để chỉ những vùng được nghiêm túc hoặc mỉa mai cho rằng có thể trở thành một vùng đất mới của Hoa Kỳ, cộng thêm vào 50 tiểu bang sẵn có của họ. Trước năm 1959, khi Hawaii và Alaska chưa sát nhập vào liên bang Hoa Kỳ thì thuật ngữ “49th state” (tiểu bang thứ 49) đã được dùng. Gần đây nhất, Puerto Rico có khả năng thành tiểu bang thứ 51. Cụm từ “tiểu bang thứ 51” cũng được dùng để nói về các quốc gia chư hầu, nhà nước vệ tinh, hoặc thuộc địa kiểu mới, đã hoặc đang nằm dưới sự ảnh hưởng hoặc điều khiển từ chính phủ Hoa Kỳ. Trong nhiều nước trên thế giới, nhiều người thấy rằng văn hóa, truyền thống dân tộc của họ đã bị Mỹ hóa quá nhiều, các nhóm này cũng thường sử dụng thuật ngữ “tiểu bang thứ 51” như là một cái nhìn nghiêm khắc về nước họ. Lâu nay mỗi khi nhắc đến thổ dân bản xứ châu Mỹ thì nhiều người trong chúng ta, do ảnh hưởng từ hệ thống tuyên truyền, giáo dục, phim ảnh thời Pháp, thời Mỹ, nên đầu óc hiện lên ngay hình ảnh của những kẻ ăn lông ở lỗ, rồi gom chung lại gọi họ là “mọi da đỏ”. Sự thật có phải vậy không?. Sự thật là châu Mỹ nói chung và Bắc Mỹ, Hoa Kỳ nói riêng, trước khi thực dân phương Tây đến thôn tính, đã tồn tại hàng trăm dân tộc với các văn hóa và ngôn ngữ khác nhau vô cùng đa dạng và phong phú. Người phương Tây cho rằng mình văn minh hơn nên ban đầu họ không cần biết ai là ai, họ khái quát hóa lại hết và gom hết vào gọi chung là Indian (vì nhà thám hiểm Christopher Columbus ban đầu nhầm lẫn đây là Ấn Độ), và khi thấy một vài chủng tộc có da nâu đậm hoặc một số bộ lạc có phong tục nhuộm mặt đỏ hoặc có những hình vẽ màu đỏ trên mặt để kích thích ý chí chiến đấu, thì họ gọi đó là Redskin hoặc Red Indians, và từ đó danh từ mang tính lăng mạ “mọi da đỏ” được sử dụng phổ biến. Khi xem hình vẽ, các phim ảnh Hollywood, các truyện tranh của Mỹ, bao gồm cả các hình vẽ minh họa trong sách giáo khoa cấp phổ thông, thì người ta luôn thấy các hình ảnh thổ dân ăn mặc gần như là khỏa thân, chỉ đóng mỗi cái khố, ăn lông ở lỗ, như các dân tộc thiểu số hay con người trong thời thượng cổ, bán khai. Thật ra nếu các bạn đến các tiểu bang phía Bắc nước Mỹ thì các bạn sẽ thấy lạnh căm, đông đá, tuyết phủ. Không cần là các bang phía Bắc, kể cả các bang phía Nam như Texas, Arizona, New Mexico, Florida khi mùa đông đến thì thời tiết khí hậu rất lạnh. Như vậy thì làm sao có thể ăn mặc ít vải gần như khỏa thân, để mình trần đóng mỗi một cái khố như trong sách và phim điện ảnh mô tả mà có thể chịu rét nổi. Từ trên xuống dưới: Kaintwakon (biệt danh: Người trồng ngô), thủ lĩnh của người Seneca, và Thayendanegea, thủ lĩnh của người Mohawk. Hai ông là thủ lĩnh quân đội kiệt hiệt của liên minh Iroquois. Đúng là có một ít tộc người, bộ lạc ở Nam Mỹ gần xích đạo, hoặc những ngư dân sống gần biển, dân đảo, là ăn mặc thiếu vải, bởi vì họ không có nhu cầu đó, và họ sinh hoạt chủ yếu dưới nước không cần nhiều y phục. Hoặc có khi đơn giản là một số người thích cởi trần cho mát khi sinh hoạt thường nhật, như bao nhiêu người trên thế giới ngày nay. Các chính phủ và hệ thống giáo dục nhà nước của Mỹ và phương Tây lâu nay luôn lẩn tránh hoặc viết lại lịch sử một cách xuyên tạc, bóp méo để chạy tội xâm lược, bành trướng, và các tội ác diệt chủng, thảm sát quy mô lớn mà các cha anh của họ đã gây ra ở châu Mỹ. Theo ước tính của nhóm nghiên cứu đạo đức học (ethic studies) của trường đại học Colorado, thì thổ dân Bắc Mỹ có khoảng 15 triệu người khi người Tây phương bắt đầu xâm lược, chỉ còn lại chưa đầy 250 ngàn vào năm 1890. Ban đầu họ không hề là các dân tộc thiểu số, mà họ chính là những dân tộc đa số, chỉ sau khi bị quân xâm lược tiến hành những cuộc chiến tranh diệt chủng, diệt tộc, hoặc đô hộ, đồng hóa, thì họ mới bị trở thành thiểu số. Giáo sư đại học Hawaii, sử gia David Stannard, trong sách “American Holocaust: The Conquest of the New World” (Cuộc diệt chủng Holocaust của Mỹ: Cuộc chinh phục Tân thế giới), do NXB đại học Oxford (Anh) xuất bản, đã cho biết: “Trong vòng bốn thế kỷ – từ thập kỷ 1490 đến 1890 – người châu Âu và người Mỹ trắng đã tham gia một chuỗi liên tục các chiến dịch diệt chủng chống nhân dân châu Mỹ bản xứ. Đó là hành động diệt chủng có quy mô lớn nhất trong lịch sử thế giới.”. “Từ rất lâu trước khi những người châu Âu đầu tiên đến đây, đã có chừng 500 dân tộc đã ở Bắc Mỹ. Họ bao trùm châu lục từ bờ biển đến bờ biển, từ Trung Mỹ đến Bắc Băng Dương. Có hàng chục triệu người ở đây, nói hơn 300 ngôn ngữ. Nhiều dân tộc trong số đó sinh sống trong các thành phố đẹp, thuộc loại các đô thị lớn và tân kỳ nhất trên thế giới. Phim tài liệu 500 Dân tộc nhìn lại các nền văn hóa cổ đó, họ sống ra sao, và bao nhiêu trong số họ còn sống sót…. Những gì các bạn sẽ nhìn thấy trong phim chính là những gì đã xảy ra. Những gì trong phim chỉ là một phần, không phải là tất cả những gì đã xảy ra, và không phải đoạn phim nào cũng dễ xem. Chúng ta không thể thay đổi nó. Chúng ta không thể vặn lại kim đồng hồ. Nhưng chúng ta có thể mở mắt ra và cho các dân tộc đầu tiên trên mảnh đất này sự công nhận và tôn trọng họ đáng phải được: Vị trí chính đáng của họ trong lịch sử thế giới.”. Trong số khoảng 500 dân tộc đó có nhiều bộ tộc, thị tộc, bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc. Và còn có những dân tộc với nền văn minh, văn hóa phát triển cao với các thể chế chính trị đã phát triển cao, bao gồm các đế quốc, vương triều, nhà nước, chính quyền, quân đội có tổ chức, hệ thống hành chính, và các quan hệ vua tôi, thần dân, họ thu thuế và sử dụng một số loại tiền riêng làm bằng đồng (Axe-monies). Tại châu Mỹ trong các thời kỳ khác nhau, những lực lượng lớn mạnh nhất có thể kể đến: Tại Bắc Mỹ có liên minh chính trị quân sự “Đại Liên minh phía Tây” (Western Confederacy, phần lớn thuộc nước Mỹ và Canada ngày nay), một liên minh rộng lớn bao gồm nhiều liên minh nhỏ hơn, nhưng khá lỏng lẻo. Đại liên minh này bao gồm Liên minh Iroquois (lớn nhất trong đại liên minh), liên minh Hội đồng Tam Hỏa, liên minh 7 nước Canada (7 dân tộc bản địa ở khu vực phía Nam Canada ngày nay), Liên minh Wabash (gồm các tộc Wea, Piankashaw và nhiều nhóm khác), liên minh Illini, và 10 lực lượng lớn khác. Tại Trung Mỹ có nền văn minh, đế chế Maya và Aztec (phần lớn thuộc Mexico ngày nay). Và tại Nam Mỹ có nền văn minh, đế chế Inca (phần lớn thuộc Peru ngày nay). Đại Liên minh phía Tây đã bị quân đội liên bang Mỹ tiêu diệt sau trận Fallen Timbers năm 1794. Một năm sau (1795) chính thức kết thúc cuộc đấu tranh chống thực dân Mỹ ở khu vực phía Bắc. Liên minh chính thức tan rã sau hơn 10 năm thành lập để kháng chiến chống sự xâm nhập của đế quốc Mỹ lên phía Bắc. Kim tự tháp của nền văn minh Maya, một trong những kỳ quan thế giới. Nền văn minh, đế chế Maya đến thế kỷ 9 thì suy tàn, quyền lực trung ương bị tan rã và chia làm nhiều phe phái, quyền lực, thế lực khác nhau. Đến năm 1511, thực dân Tây Ban Nha bắt đầu mở cuộc chinh phạt các thế lực còn lại của người Maya, bắt đầu bằng chiến dịch chinh phạt vùng Yucatán, sau đó là vùng Guatemala và Petén. Không giống như hai đế chế Aztec và Inca, khi thực dân Tây Ban Nha chỉ cần hành quyết vua và các lãnh tụ kháng chiến là xong, các thế hệ người Maya dù các lãnh tụ của họ bị hành hình thì họ vẫn nối tiếp nhau liên tục đứng lên kháng chiến đuổi quân ngoại xâm. Sự chống cự dữ dội và thường xuyên của người Maya làm cho thực dân Tây Ban Nha tốn 186 năm mới hoàn thành bình định. Itza, vương quốc cuối cùng của dân tộc Maya chịu thất bại trước Tây Ban Nha vào năm 1697. Đế chế Aztec hay còn gọi là liên minh chân vạc Aztec (Aztec Tripple Alliance – gồm 3 khu vực lớn Tenochtitlan, Texcoco, Tlacopan) là một nền văn minh rực rỡ ở Trung Mỹ. Năm 1519, tướng Hernán Cortés của đế quốc Tây Ban Nha đem 8 vạn quân Tây Ban Nha và hơn 20 vạn ngụy quân bản xứ khai hỏa chiến tranh xâm lược. Sau 2 năm chiến tranh, Cortés san bằng kinh đô Tenochtitlan (thành phố lớn nhất đế chế Aztec và một trong những thành phố thịnh vượng và lớn nhất thế giới thời đó), đế chế Aztec bị tiêu diệt, các hoàng đế Aztec bị hành quyết, Aztec trở thành thuộc địa của thực dân Tây Ban Nha.
Chiến tranh Hoa Kỳ–Anh Quốc (1812)
Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc, hay thường được biết đến với cái tên Chiến tranh năm 1812, là một cuộc chiến giữa các lực lượng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Đế quốc Anh. Hoa Kỳ tuyên chiến vào năm 1812 vì nhiều nguyên nhân, trong đó có mong muốn được mở rộng vùng lãnh thổ Tây Bắc, những hạn chế về thương mại do cuộc chiến tranh mà nước Anh đang tiến hành chống lại Pháp gây ra, việc cưỡng bức các thủy thủ thương gia người Hoa Kỳ đi lính cho Hải quân Hoàng gia Anh, việc Anh hỗ trợ các bộ lạc da đỏ nhằm chống lại sự bành trướng của Hoa Kỳ, và sự phẫn nộ trước những hành động sỉ nhục danh dự quốc gia Hoa Kỳ của Anh trên hải phận quốc tế. Cho đến năm 1814, Đế quốc Anh cho áp dụng một chiến lược phòng thủ, đẩy lùi nhiều cuộc tấn công của Hoa Kỳ tại các tỉnh Thượng và Hạ Canada. Tuy nhiên, quân đội Hoa Kỳ đã kiểm soát được hồ Erie vào năm 1813, chiếm đóng phần phía Tây Ontario, chấm dứt hy vọng thiết lập một khối Liên minh Da đỏ và xây dựng một nhà nước Da đỏ độc lập tại miền Trung Tây của Tecumseh.
– Quặng sắt được hiểu là những loại đất đá chứa kim loại hay đá quý, được khai thác trực tiếp từ mỏ khoáng sản. Chúng được gia công, chế biến để sử dụng trong thực tế đời sống. Ở nước ta quy ước, khi hàm lượng sắt chứa trong khoáng vật có tỷ lệ từ 17% trở lên thì được coi là quặng sắt, ngược lại nếu hàm lượng sắt nhỏ hơn 17% thì được gọi là nguyên liệu khoáng. Quặng sắt chính là nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất ra kim loại sắt và các hợp chất của sắt phục vụ cho nhiều lĩnh vực quan trọng như: xây dựng, chế tạo,…. – Thông thường, người ta hoàn toàn có thể tách sắt ra khỏi đá cũng như khoáng vật. Quặng sắt hay được tìm thấy dưới các dạng sau đây:. Quặng Magnetite có công thức hóa học là Fe3O4 hay còn được gọi là quặng sắt có từ. So với hematite thì loại quặng này có hàm lượng sắt thấp hơn rất nhiều. Tuy nhiên loại quặng này lại dễ dàng tách ra khỏi tạp chất (nhờ từ tính) và sản xuất ra sắt có hàm lượng tạp chất rất thấp. Quặng Magnetite được khai thác ở nhiều nơi trên thế giới, tập trung chủ yếu Mỹ và khu vực phía đông Canada. Về bản chất, cái tên hematite theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là máu do tính chất quặng mang màu đỏ đặc trưng. Loại quặng này được khai thác và đem xuất khẩu trực tiếp đến nhiều nơi trên thế giới. Quặng Hematite dễ dàng được tìm thấy ở nhiều nơi trên khắp thế giới, phổ biến nhất ở Brazil, Úc và một số quốc gia tại Châu Á. Tại Việt Nam, giá quặng sắt đi theo biến động của thế giới cũng liên tục tăng giảm thất thường trong thời gian vừa qua. Theo văn bản số 407/TB-VPCP ban hành ngày 17/12/2012 thì chính phủ đã cho phép xuất khẩu khoáng sản còn tồn với mục đích gõ khó khăn cho doanh nghiệp theo đề nghị của UBND các tỉnh, thành phố. Bộ Công Thương cũng đã ban hành thông tư số 41/2012 chỉ cho phép đặc cách xuất khẩu những trường hợp quặng đã qua chế biến, mang nguồn gốc hợp pháp. Từ việc nới lỏng này mà hàng loạt các cơ sở khai thác địa phương đã xin xuất cho nhiều doanh nghiệp cũng như xuất khẩu với con số lên tới hàng triệu tấn hàng. Một số doanh nghiệp đã xuất khẩu vượt mức cho phép, thậm chí đã làm lậu. Cùng lúc đó, nhiều lò cao sản xuất thép lại hoạt động cầm chừng do thiếu nguồn nguyên liệu trầm trọng. Nói theo một cách khác, chính việc xuất khẩu quặng ra nước ngoài đã ảnh hưởng trực tiếp tới việc sản xuất thép trong nước và gây thất thu cho nguồn ngân sách của nhà nước với con số hàng ngàn tỉ đồng. Nếu được phép xuất khẩu quặng thì giá thực thu của doanh nghiệp Việt Nam chỉ từ 1,3-1,4 triệu đồng/tấn (nếu quặng chứa hàm lượng Fe trên 63%). Chính vì điều này, các công ty sản xuất quặng đều muốn bán hàng trong nước hơn. Theo thống kê của Hiệp hội Thép Việt Nam, qua điều tra, tìm kiếm cũng như thăm dò thì tới nay, tổng số mỏ quặng được tìm thấy ở Việt Nam là 216 mỏ, trử tổng quặng 1,2 tỷ tấn. Trong đó, chỉ tính riêng lượng đã thăm dò xong, đang khai thác tầm 762 triệu tấn. Công ty giải pháp công nghệ môi trường Nhật Hàn là đơn vị chuyên thu mua quặng sắt, các loại phế liệu với giá tốt nhất, cao hơn thị trường từ 10-20%. Hơn nữa, dịch vụ của chúng tôi hoạt động xuyên suốt ngày đêm, trực tiếp đến tận nơi thu mua. Từ đó, đem lại cho khách hàng những lợi ích, tiện nghi hoàn hảo, đảm bảo bạn sẽ hài lòng khi lựa chọn chúng tôi.
Quặng sắt
Quặng sắt là các loại đá và khoáng vật mà từ đó sắt kim loại có thể được chiết ra có hiệu quả kinh tế. Quặng sắt thường giàu các sắt oxit và có màu sắc từ xám sẫm, vàng tươi, tía sẫm tới nâu đỏ. Sắt thường được tìm thấy dưới dạng magnetit (Fe3O4, 72,4% Fe), hematit (Fe2O3, 69,9% Fe), goethit (FeO(OH), 62,9% Fe), limonit (FeO(OH) n(H2O), 55% Fe) hay siderit (FeCO3, 48,2% Fe). Các loại quặng chứa hàm lượng rất cao hematit hay magnetit (trên 60% sắt) với cỡ hạt trên 6mm được biết đến như là "quặng tự nhiên" hay "quặng chở tàu trực tiếp" (DSO), nghĩa là chúng có thể nạp trực tiếp vào các lò cao sản xuất gang. Quặng sắt là nguyên liệu được sử dụng trong sản xuất gang luyện thép, một trong những nguyên liệu chính để sản xuất thép— với khoảng 95-98% lượng quặng sắt đã khai thác để sản xuất thép. Người ta cho rằng quặng sắt là "tích hợp với kinh tế toàn cầu nhiều hơn so với bất kỳ hàng hóa nào, ngoại trừ có lẽ chỉ mỗi dầu mỏ".
Tâm lý học nghề nghiệp – tổ chức (NN-TC) là một nhánh của tâm lý học, là ngành học áp dụng những học thuyết và nguyên tắc tâm lý học vào các cơ quan tổ chức. Cụm từ này hay được gọi tắt theo tiếng anh là I-O psychology và tập trung vào gia tăng hiệu suất công việc và cải thiện những vấn đề như sức khỏe thể chất và tinh thần của nhân viên. Những nhà tâm lý học NN-TC sẽ thực hiện khá nhiều công việc khác nhau, bao gồm nghiên cứu thái độ và hành vi của đội ngũ nhân viên, thực hiện các bài đánh giá công ty, và đào tạo kỹ năng lãnh đạo. Mục tiêu chung của ngành này là nghiên cứu và tìm hiểu hành vi con người tại nơi làm việc. Bạn có thể nghĩ về tâm lý học CN-TC theo hai khía cạnh lớn. Đầu tiên, là khía cạnh nghề nghiệp, tức là tìm hiểu cách làm thế nào để kết nối các cá nhân vào từng vai trò công việc cụ thể một cách phù hợp nhất. Phân khúc này của tâm lý học NN-TC đôi khi cũng được gọi là Tâm lý học nhân sự. Những người làm việc trong lĩnh vực này có thể đánh giá những đặc điểm tính cách của nhân viên, sau đó kết nối từng cá nhân với những công việc mà những người này có khả năng thực hiện tốt. Các chức năng khác của nhóm ngành này bao gồm đào tạo nhân viên, phát triển các bộ tiêu chuẩn hiệu suất nghề nghiệp, và đo lường hiệu suất công việc. Khía cạnh tổ chức của ngành này tập trung hơn vào đi sâu tìm hiểu sự ảnh hưởng của tổ chức lên hành vi của cá nhân. Các cơ cấu tổ chức, quy chuẩn xã hội, phong cách quản lý, và mong đợi cho từng vai trò công việc là tất cả những yếu tố có thể ảnh hưởng lên cách con người ta cư xử trong một tổ chức. Hiểu được những yếu tố này, các nhà tâm lý học NN-TC hy vọng có thể cải thiện được hiệu suất và sức khỏe của từng cá nhân, đồng thời vẫn đảm bảo lợi ích mang lại cho tổ chức nói chung. Mặc dù tâm lý học NN-TC là một ngành ứng dụng, nhưng nghiên cứu lý thuyết cơ bản vẫn hết sức cần thiết. Có gốc rễ từ tâm lý học thực nghiệm, tâm lý học NN-TC có nhiều mảng khác nhau như tương tác con người-máy móc, tâm lý học nhân sự và các yếu tố về con người. – Đào tạo và phát triển: Chuyên gia làm việc trong lĩnh vực này thường xác định dạng kỹ năng nào cần thiết để thực hiện những công việc cụ thể cũng như phát triển và đánh giá các chương trình đào tạo nhân viên. – Chọn lựa nhân viên: Mảng này sẽ giúp phát triển các đánh giá chọn lựa nhân viên, như các bài kiểm tra sàng lọc để xác định ứng cử viên nào đủ tiêu chuẩn cho một vị trí cụ thể nào đó. – Công thái học: Lãnh vực công thái học này liên quan đến thiết kế các quy trình và thiết bị để tối ưu hóa hiệu suất và giảm thiểu chấn thương. – Quản lý hiệu suất: Các nhà tâm lý học NN-TC sẽ phát triển các bài đánh giá và các kỹ thuật xác định xem nhân viên có đang làm tốt công việc của họ hay không. – Công việc – cuộc sống: Mảng này tập trung vào cải thiện sự hài lòng của nhân viên và tối đa hóa hiệu suất của đội ngũ nhân sự. Các nhà tâm lý học NN-TC nhóm này sẽ nỗ lực tìm ra cách khiến công việc trở nên xứng đáng hơn hoặc thiết kế các chương trình cải thiện chất lượng cuộc sống tại nơi làm việc. – Phát triển tổ chức: Các nhà tâm lý học NN-TC làm trong mảng này sẽ giúp cải tiến tổ chức, thường là hỗ trợ tăng lợi nhuận, tái tạo sản phẩm, và cải thiện cơ cấu tổ chức. Sinh viên quan tâm đến các nguyên lý tâm lý ứng dụng trong bối cảnh đời sống thực tế nên cân nhắc chọn ngành này. Nếu bạn có mối quan tâm lớn về tâm lý học cũng như các bộ môn liên quan như thiết kế sản phẩm, máy tính, thống kê và kỹ sư, thì ngành học này khá lý tưởng cho bạn. Sự quan tâm dành cho tâm lý học NN-TC đang ngày càng gia tăng. Cục Thống Kê Lao Động Hoa Kỳ đã dự đoán ngành học này có thể là một trong những nhóm ngành nghề có tốc độ phát triển nhanh nhất, và lương thưởng cũng đã tăng hơn 10%/năm. Theo thống kê từ Cục thống kê lao động, mức lương trung bình năm cho ngành tâm lý học NN-TC tháng 05/2016 là 104,570 (tất cả dữ liệu đều ghi nhận tại Hoa Kỳ – ND). 10% nhóm nhân sự nhận lương thấp nhất trong ngành này là 52,950 và nhóm 10% cao nhất có lương là 184,380 với mức lương trung bình năm là 82,760. Cũng như các ngành khác, lương của ngành này cũng biến động tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau bao gồm địa lý, nền tảng học vấn, lĩnh vực công việc và số năm kinh nghiệm trong lĩnh vực. Người có bằng thạc sĩ hoặc tiến sỹ sẽ có mức lương trung bình năm cao hơn. Nói chung, những người ở khu vực thành thị sẽ tìm được nhiều cơ hội nghề nghiệp cũng như mức lương cao hơn, mặc dù những lợi ích này thường đi kèm theo mức sống đắt đỏ hơn. Nhân sự trong ngành này ở Virginia kiếm được trung bình 120,260/năm, trong khi đó ở Massachusetts thì con số này chỉ là 84,550/năm. Cục Lao động Hoa Kỳ cũng báo cáo mức lương có sự biến động đáng kể tùy thuộc vào ngành nghề mà các nhà tâm lý học NN-TC làm việc. Mức lương trung bình năm cho các ngành như sau:. Đây là trang tổng hợp, dịch và hiệu đính các tài liệu về ngành tâm lý học, nhằm chia sẻ kiến thức cập nhật và đa dạng về ngành học lý thú này cho những cá nhân quan tâm. Các bài viết được tổng hợp từ nhiều nguồn, được dịch sang tiếng Việt và thể hiện bằng song ngữ để giúp thuận lợi cho quá trình tra cứu của độc giả và hạn chế sai sót trong quá trình chuyển ngữ. Nhập địa chỉ email của bạn để đăng ký theo dõi blog này và nhận thông báo về các bài mới qua email. Hãy ủng hộ để trangtamly.blog tiếp tục tồn tại và phát triển nội dung ngày càng đa dạng thông tin và hữu ích cho mọi người hơn. Mọi sự đóng góp đều vô cùng đáng quý. Chân thành cám ơn các bạn!
Tâm lý học công nghiệp và tổ chức
Tâm lý học công nghiệp và tổ chức, còn được gọi là tâm lý học nghề nghiệp, tâm lý học tổ chức, hoặc tâm lý học công việc và tổ chức; là một môn học ứng dụng trong tâm lý học. Tâm lý học công nghiệp, công việc và tổ chức (IWO) là thuật ngữ toàn cầu rộng lớn hơn cho lĩnh vực quốc tế. Ngành này là khoa học về hành vi của con người liên quan đến công việc và áp dụng các lý thuyết và nguyên tắc tâm lý cho các tổ chức và cá nhân tại nơi làm việc cũng như cuộc sống làm việc của cá nhân nói chung. Các nhà tâm lý học IO được đào tạo theo mô hình học viên- nhà khoa học. Họ đóng góp vào thành công của một tổ chức bằng cách cải thiện hiệu suất, động lực, sự hài lòng trong công việc, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp cũng như sức khỏe và phúc lợi chung của nhân viên. Một nhà tâm lý học IO tiến hành nghiên cứu về hành vi và thái độ của nhân viên, và làm thế nào để cải thiện chúng thông qua các hoạt động tuyển dụng, chương trình đào tạo, phản hồi và hệ thống quản lý.
Trong bài viết này các bạn sẽ được tìm hiểu xem liệu pháp ánh sáng đỏ là gì, các bằng chứng khoa học có ủng hộ việc dùng liệu pháp này để giảm cân hay không, cũng như xem xét về các tác dụng phụ của nó. Ánh sáng đỏ là một trong những ánh sáng sinh học mà các bức xạ điện từ có tần số thấp nhất. Bước sóng của ánh sáng đỏ dao động trong khoảng 630-760nm và có thể thấy bằng mắt thường. Trong điều trị da, ánh sáng đỏ được sử dụng có bước sóng khoảng 630-635nm. Liệu pháp ánh sáng đỏ – còn được gọi là liệu pháp laser mức độ thấp hoặc ánh sáng hồng ngoại – là một phương pháp điều trị loại bỏ chất béo không xâm lấn mới xuất hiện gần đây. Mặc dù nghe đúng là nó có vẻ quá tốt. Những người ủng hộ sử dụng liệu pháp ánh sáng đỏ khẳng định nó đã giúp loại bỏ chất béo “cứng đầu” mà chế độ ăn uống và tập thể dục không thể loại bỏ được. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia y tế tỏ ra nghi ngờ về lợi ích của nó. Do đó, bạn có thể tự hỏi liệu liệu pháp ánh sáng đỏ có đáng để thử hay không. Bài viết này đánh giá xem việc dùng liệu pháp ánh sáng đỏ để giảm cân,có những lợi ích, nhược điểm và rủi ro như thế nào. Được biết đến nhiều hơn với tên gọi liệu pháp laser mức độ thấp (LLLT), liệu pháp ánh sáng đỏ là một thủ thuật không xâm lấn có thể được thực hiện tại các trung tâm thẩm mỹ. Đó là một hình thức điêu khắc cơ thể (body sculpting) phổ biến – một loại quy trình không xâm lấn. Nó được cho là sẽ loại bỏ các tế bào mỡ mà không cần phẫu thuật. Quy trình của phương pháp này là sử dụng tia laser có bức xạ thấp phát ra bước sóng ánh sáng đỏ, xanh lam và tia hồng ngoại khoảng 2,5–5 cm vào da của bạn. Nó nhắm mục tiêu đến lớp chất béo nằm ngay dưới bề mặt da của bạn. Mặc dù cơ chế hoạt động của nó chưa rõ ràng và còn nhiều tranh cãi, một giả thuyết phổ biến cho rằng phương pháp LLLT tạm thời phá vỡ một phần của màng tế bào. Điều này cho phép các tế bào mỡ dự trữ đào thải ra ngoài, co lại và bị loại bỏ thông qua quá trình loại bỏ chất thải tự nhiên của cơ thể bạn. Khi bạn tham gia một buổi điều trị bằng laser, một chuyên gia được đào tạo, chẳng hạn như bác sĩ da liễu hoặc bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ được chứng nhận, sẽ đặt tia laser lên mỗi vùng điều trị trong 10–40 phút. Hầu hết các trung tâm đề nghị tiến hành điều trị trong ít nhất sáu buổi để xem kết quả. Không có thời gian chết và bạn có thể tiếp tục các hoạt động bình thường của mình ngay sau khi điều trị. Điều đó nói rằng, ăn một chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục được khuyến khích mạnh mẽ. Như vậy liệu pháp ánh sáng đỏ, còn được gọi là liệu pháp ánh sáng mức độ thấp, là một thủ thuật không xâm lấn có thể giúp loại bỏ chất béo khỏi các vùng được nhắm mục tiêu trên cơ thể bạn. Dùng liệu pháp ánh sáng đỏ để giảm cân còn rất nhiều tranh cãi. Bất chấp những lời chứng thực tích cực của bệnh nhân và kết quả ấn tượng từ các nghiên cứu khác nhau, nhiều nhà nghiên cứu và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe vẫn nghi ngờ về lợi ích của nó. Cho đến nay, một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng LLLT hoặc liệu pháp ánh sáng đỏ mang lại lợi ích. Một nghiên cứu thí điểm gần đây kéo dài 6 tuần ở 60 người cho thấy rằng phương pháp điều trị LLLT hai lần mỗi tuần dẫn đến giảm vòng eo khiêm tốn 2 cm. Tuy nhiên, những phát hiện này bị hạn chế do thiếu nhóm đối chứng. Một nghiên cứu mù đôi ngẫu nhiên khác ở 67 người tiết lộ rằng những người nhận được 6 lần điều trị LLLT trong 2 tuần đã giảm được 8,9cm tập thể từ bụng, hông và đùi so với nhóm đối chứng. Hơn nữa, một nghiên cứu kéo dài 2 tuần ở 86 người tại một phòng khám Hoa Kỳ đã quan sát thấy sự giảm đáng kể của vòng eo ( 2,8 cm), hông ( 2 cm) và chu vi đùi ( 3 cm). Tuy nhiên, nghiên cứu thiếu nhóm đối chứng. Cuối cùng, một nghiên cứu ở 40 người đã so sánh hiệu quả của điều trị LLLT trên chu vi của cánh tay với điều trị giả dược. Sau 2 tuần, nhóm LLLT đã giảm đáng kể chu vi cánh tay trên 3,7 cm, trong khi nhóm đối chứng không gặp bất kỳ thay đổi nào. Những nghiên cứu này và một số nghiên cứu khác dường như cho thấy một số lợi ích của việc sử dụng LLLT để giảm mỡ. Trong khi hầu hết các nghiên cứu đã quan sát thấy lợi ích của điều trị LLLT, vẫn thiếu sự nhất quán giữa chúng. Thêm vào đó, có rất ít dữ liệu để cho thấy kết quả là lâu dài hay có liên quan đến lâm sàng. Như vậy hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra kết quả giảm béo khiêm tốn sau sáu lần điều trị trở lên của liệu pháp ánh sáng đỏ. Tuy nhiên, cần có những nghiên cứu lớn hơn và dài hạn hơn. Nếu bạn đang muốn thử liệu pháp ánh sáng đỏ, điều quan trọng là phải biết về một số mặt trái của nó. Nhược điểm lớn nhất của liệu pháp ánh sáng đỏ là chi phí của nó. Mặc dù nó phụ thuộc vào nơi bạn ở, gói sáu buổi có thể dao động từ 50– 100tr đồng, khiến nó không khả thi về mặt tài chính đối với hầu hết mọi người. Hầu hết các nghiên cứu cho đến nay đã được thực hiện trên những cá nhân có chỉ số BMI từ 25–30. Do đó, hiệu quả của nó vẫn chưa được biết đối với những người nằm ngoài phạm vi BMI này. Hơn nữa, hầu hết những người tham gia vào các nghiên cứu đều là người da trắng, điều này cho thấy hiệu quả của nó đối với các nhóm chủng tộc khác đang được đặt ra. Hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra lối sống lành mạnh là cách giảm cân hiệu quả nhất. Các mẹo về lối sống lành mạnh bao gồm ăn một chế độ ăn giàu dinh dưỡng với các loại thực phẩm chế biến tối thiểu, tập thể dục thường xuyên, ngủ đủ giấc và kiểm soát mức độ căng thẳng của bạn. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu sử dụng LLLT, hai người tham gia đã bị tổn thương da nghiêm trọng . Dường như nguyên nhân là do tia laser tiếp xúc trực tiếp với da, điều này không xảy ra trong các nghiên cứu khác. Hãy đảm bảo luôn nói chuyện với một chuyên gia có trình độ trước khi thử liệu pháp này. Như vậy, mặc dù thường được coi là an toàn, liệu pháp ánh sáng đỏ rất tốn kém và không được nghiên cứu kỹ ở các quần thể đa dạng. Những người muốn giảm cân có thể lựa chọn các phương pháp hợp lý hơn, được nghiên cứu kỹ lưỡng, chẳng hạn như thực hiện các điều chỉnh chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục. Liệu pháp ánh sáng đỏ – hoặc liệu pháp laser mức độ thấp (LLLT) – có thể loại bỏ lượng mỡ và giảm cân ở mức độ vừa phải . Nếu bạn muốn thử liệu pháp ánh sáng đỏ, tốt nhất bạn nên đến gặp những người đủ điều kiện, chẳng hạn như bác sĩ da liễu hoặc bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ được chứng nhận, người có thể đánh giá tình trạng sức khỏe của bạn và đưa ra các khuyến nghị phù hợp. Tuy nhiên, bạn không cần liệu pháp ánh sáng đỏ để giảm cân. Theo một chế độ ăn kiêng bao gồm các loại thực phẩm chế biến tối thiểu và áp dụng một chế độ tập thể dục thường xuyên có thể giúp bạn đạt được mức thâm hụt calo cần thiết để giảm cân. Như vậy liệu pháp ánh sáng đỏ – hoặc liệu pháp laser mức độ thấp (LLLT) – có thể giúp giảm cân và giảm mỡ ở mức độ vừa phải. Nhưng nếu bạn, áp dụng một chế độ ăn uống lành mạnh và chế độ tập thể dục có thể là một cách bền vững hơn để giảm cân lâu dài. Liệu pháp ánh sáng đỏ còn được gọi là liệu pháp laser mức độ thấp (LLLT). Đây là một kiểu điêu khắc cơ thể có thể giúp bạn loại bỏ lớp mỡ cứng đầu. Hầu hết các nghiên cứu cho thấy rằng liệu pháp ánh sáng đỏ loại bỏ một số chất béo từ eo và cánh tay của bạn, nhưng kết quả tốt nhất là khiêm tốn. Hơn nữa, nó rất tốn kém và không biết kết quả sẽ kéo dài bao lâu. Nếu bạn đang muốn giảm cân, tốt nhất bạn nên áp dụng một lối sống lành mạnh bao gồm ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng và tập thể dục thường xuyên – hai chiến lược được nghiên cứu hỗ trợ để hỗ trợ giảm cân lành mạnh. Tuy nhiên, nếu LLLT là thứ bạn muốn thử, hãy nhớ nói chuyện với một nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đủ điều kiện, người có thể giúp bạn quyết định xem liệu LLLT có phù hợp với bạn hay không.
Liệu pháp ánh sáng
Quang trị liệu hoặc liệu pháp ánh sáng (tiếng Anh: light therapy, phototherapy, heliotherapy) là phương pháp trị liệu bao gồm tiếp xúc với ánh sáng ban ngày hoặc tiếp xúc với các phổ điện từ cụ thể của ánh sáng sử dụng ánh sáng phân cực polychromatic, tia laser, điốt phát quang, đèn huỳnh quang, đèn lưỡng cực, ánh sáng toàn quang. Ánh sáng được quản lý trong một khoảng thời gian nhất định và trong một số trường hợp là vào một thời điểm cụ thể trong ngày. Một cách sử dụng chung của thuật ngữ này liên quan đến việc điều trị các bệnh da liễu, chủ yếu là bệnh vẩy nến, mụn trứng cá, chàm và vàng da ở trẻ sơ sinh. Liệu pháp ánh sáng soi qua võng mạc mắt được sử dụng để điều trị bệnh võng mạc tiểu đường và các rối loạn nhịp sinh học như rối loạn giai đoạn giấc ngủ đến trễ, cũng có thể được sử dụng để điều trị chứng trầm cảm theo mùa, với một số hỗ trợ cho việc sử dụng nó cũng như rối loạn tâm thần không theo mùa. Nhiều nền văn hoá cổ xưa đã thực hiện các hình thức trị liệu ánh sáng khác nhau, bao gồm người Hy Lạp cổ đại, Ai Cập cổ đại, và La Mã cổ đại.
Các khái niệm liên quan đến lĩnh vực học thuật thường rất đa dạng. Trong học hàm, học vị nói chung, chúng ta thường nghe đến những thuật ngữ như thạc sĩ, tiến sĩ, giáo sư,. nhưng hiếm nghe được thuật ngữ tiến sĩ khoa học. Vậy tiến sĩ khoa học được định nghĩa như thế nào và được sử dụng ra sao? Thuật ngữ này có gì khác biệt so với tiến sĩ hay không?. Ở nước ta, tiến sĩ khoa học là một danh xưng xuất hiện từ thời điểm Luật giáo dục năm 1998 có hiệu lực. Tiến sĩ khoa học được áp dụng và được sử dụng đối với những ai sở hữu bằng tiến sĩ của các quốc gia như Nga (Liên xô cũ), học vị doktor nauk (các nước Đông Âu cũ) hoặc doctorat dEtat (tiến sĩ nhà nước) tại nước Pháp. Tiến sĩ khoa học là một khái niệm gắn liền với lịch sử, do trước đây hệ thống giáo dục của nước ta thiết lập các văn bằng được cấp sau đào tạo đại học gần giống với hệ thống của các nước này, chẳng hạn như học sĩ tiến sĩ và phó tiến sĩ. Trong quá trình hội nhập và mở cửa, nước ta cũng đã chấp nhận các học vị tiến sĩ theo hệ thống học vị của các quốc gia châu Âu và Hoa Kỳ. Thế nhưng, chính điều này đã làm cho hệ thống văn bằng quốc gia thiếu sự thống nhất. Lúc này hai học vĩ tồn tại cùng một lúc, một là tiến sĩ theo hệ thống học vị của Việt Nam, hai là tiến sĩ theo hệ thống học vị của các nước này. Trong khi học vị tiến sĩ theo quy định trong Luật Giáo dục là chỉ có một. Đã không ít lần giới chuyên môn và khoa học nảy sinh các tranh cãi, đặc biệt khi có một quyết định hành chính được ban hành. Theo quyết định này, phó tiến sĩ trước đây sẽ được đổi thành tiến sĩ, tiến sĩ trước đây sẽ đổi thành tiến sĩ khoa học. Có nghĩa là, tiến sĩ khoa học sẽ được dùng chung cho bằng tiến sĩ cũ của Việt Nam cấp trước đó, bằng tiến sĩ tại các nước Đông Âu và Liên Xô, bằng tiến sĩ ha-bi, bằng tiến sĩ Nhà nước,. trong đó, bằng tiến sĩ bao gồm cả bằng phó tiến sĩ trước đây. Scientiae Doctor là tiếng Latin chỉ tiến sĩ khoa học (bao gồm cả văn bằng, học vị và khái niệm). Nếu xem xét phân tích ở nghĩa đen từ các thứ tiếng khác nhau, có thể gần giống với thuật ngữ tiến sĩ khoa học tại nước ta hay không, điều đó còn phụ thuộc vào từng tình huống, trường hợp cụ thể (quy định quốc gia, thời điểm lịch sử). Doctor of Science - tiến sĩ khoa học chỉ là khái niệm đơn thuần chỉ tiến sĩ về lĩnh vực khoa học, nhằm phân biệt với học vị tiến sĩ ở những lĩnh vực khác, chẳng hạn như Doctor of Engineering (tiến sĩ kỹ thuật), Doctor of Education (tiến sĩ giáo dục),. Tại nước Nga, tiến sĩ khoa học là gì? Những nhà khoa học tại nước Nga phải sở hữu học vị tiến sĩ và sau khi có học vị này phải tham gia các công tác nghiên cứu khoa học ít nhất 3 năm thì mới đủ điều kiện bảo vệ luận án tiến sĩ khoa học. Trong tiếng Nga, tiến sĩ khoa học là Доктор наук, là học vị dành cho những cá nhân có thể sáng tạo, đưa ra một hướng nghiên cứu hoàn toàn mới trong khoa học. Khác với tiến sĩ khoa học, tiến sĩ tại Nga chỉ là cá nhân có đủ năng lực thực hiện một cách độc lập những nghiên cứu khoa học mà thôi. Trong tiếng Pháp, Docteur ès Sciences chính là tiến sĩ khoa học. Thuật ngữ này xuất hiện từ thời điểm năm 1808, tuy nhiên từ sau cải cách năm 1974 đã không còn được dùng nữa. Sau thời điểm này, nước Pháp tiến hành thống nhất học vị tiến sĩ thuộc các lĩnh vực đa dạng khác nhau (tiến sĩ luật, tiến sĩ khoa học, tiến sĩ khoa học kinh tế, khoa học chính trị, khoa học nhân văn, văn chương,.). Tất cả đều được gọi chung là tiến sĩ cho khỏi phát sinh những nhầm lẫn không đáng có. Đối với các quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung Anh (Ấn Độ, Anh,.) và Ireland thì ngày nay, tiến sĩ khoa học chỉ tồn tại và được sử dụng như một danh hiệu mang tính tôn vinh, tưởng nhớ. Tiến sĩ khoa học được sử dụng dành cho những cá nhân có các đóng góp nhất định và đặc biệt cho một lĩnh vực nào đó. Chứ tiến sĩ khoa học tại các quốc gia này không được sử dụng để tôn vinh các thành tựu hàn lâm cụ thể. Tại Bắc Mỹ, tiến sĩ khoa học là gì? Tại khu vực này, thực tế không có sự phân biệt khác nhau giữa hai học vị tiến sĩ (Doctor of Philosophy, Ph.D.) Nghĩa là chúng được sử dụng chung, tương tự nhau và có thể thay thế cho nhau. Trên thực tế, không chỉ khái niệm tiến sĩ khoa học là gì được quan tâm mà rất nhiều thắc mắc xoay quanh vấn đề khác biệt giữa tiến sĩ khoa học và tiến sĩ tại nước ta. Như đã phân tích, trước đây trong quy chế đào tạo sau đại học ở Liên Xô cũ, chỉ có học vị tiến sĩ, phó tiến sĩ mà không có học vị thạc sĩ. Cùng tương tự như Liên Xô, nhưng ở Pháp lấy tên gọi khác là tiến sĩ quốc gia, hay tiến sĩ tam cấp. Sau sự tan rã của Liên Xô cũ, tại nước Nga hiện nay, người ta đã thống nhất chung thành một danh xưng tiến sĩ mà không phân biệt hai loại như trước đây nữa, ở Pháp cũng tương tự. Trước thời điểm năm 1990, tại nước ta, tất cả hệ thống giáo dục dường như đều tuân thủ theo quy chế của Liên Xô cũ. Tuy nhiên, sau khi Liên Xô cũ tan rã, ta sẽ chẳng giống nước nào nếu như vẫn duy trì quy chế và hệ thống cũ. Đó chính là lý do Chính phủ Việt Nam đã ban hành một quyết định mới, nội dung của quyết định này đã thống nhất vấn đề phó tiến sĩ sẽ không được gọi là thạc sĩ, mà sẽ chuyển gọi thành tiến sĩ. Vì thực tế, phó tiến sĩ được đào tạo trong thời gian bốn năm, trong khi thạc sĩ chỉ có thời gian đào tạo là hai năm. Một luận án phó tiến sĩ nếu theo quy chế của Liên Xô trước đây có thể có giá trị tương đương với một luận án tiến sĩ. Lúc này, nghiên cứu sinh có thể được Hội đồng chấm đề nghị nâng cấp sau quá trình hoàn chỉnh luận án, được phép bảo vệ luận án tiến sĩ nếu Hội đồng cấp trên phê duyệt. Còn thông thường, nghiên cứu sinh chỉ có thể bảo vệ luận án tiến sĩ sau khi đã sở hữu bằng phó tiến sĩ. Sau những tranh cãi không ngừng nghỉ ở thời điểm đó, người ta đã bổ sung thêm từ “khoa học” phía sau từ “tiến sĩ” để phân biệt. Tránh trường hợp những tiến sĩ thuộc quy chế cũ bị cào bằng. Vậy về cơ bản, có thể thấy, danh xưng tiến sĩ khoa học đa phần được xem là có giá trị hơn, hoặc được đánh giá cao hơn danh xưng tiến sĩ. Bên cạnh thắc mắc về tiến sĩ khoa học là gì thì thạc sĩ tiếng Anh là gì cũng là một vấn đề cần được giải đáp. Cùng tác giả Phùng Hà của timviec365.com giải đáp khái niệm này qua những chia sẻ trong bài viết sau nhé!
Tiến sĩ
Tại một số quốc gia ở Mỹ và châu Âu, tiến sĩ là một học vị do trường đại học cấp cho nghiên cứu sinh sau đại học, công nhận luận án nghiên cứu của họ đã đáp ứng tiêu chuẩn bậc tiến sĩ, là hoàn toàn mới chưa từng có ai làm qua. Thời gian để hoàn thành luận án tiến sĩ có thể từ 3 đến 5 năm hay dài hơn, tùy thuộc vào tình hình hay điều kiện khác nhau của từng nghiên cứu sinh, có thể làm bán thời hay toàn thời. Có trường hợp nghiên cứu sinh không thể hoàn thành luận án của mình vì lý do nào đó và xin rút lui. Từ Ph. D có gốc Latin là Doctor Philosophiæ. Doctor nghĩa là "thầy", "chuyên gia", "chức trách". Philosophy (triết học) có nguồn gốc từ thời Trung cổ ở châu Âu, khi mà các trường đại học có bốn chuyên khoa (faculty) chính: thần học, luật, y học và triết học. Tuy có danh chính thức là chuyên gia triết học ("Doctor of Philosophy" hay PhD) nhưng tiến sĩ không chỉ là danh hiệu (title) dành riêng cho người nghiên cứu triết học.
Hành vi người tiêu dùng bao gồm những phản ứng và thái độ về cảm xúc, tinh thần cũng như hành vi tiêu dùng của khách hàng mà đã sử dụng trước đó ở trong lĩnh vực sản phẩm hàng hóa, dịch vụ này. Vậy hành vi người tiêu dùng được hiểu là gì? Những yếu tố nào sẽ ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng, tâm lý khách hàng. Cùng 123job tìm hiểu thêm về hành vi người tiêu dùng, tâm lý khách hàng nhé. Hành vi người tiêu dùng chính là một thuật ngữ trong ngành marketing chỉ tất cả những hoạt động liên quan tới việc mua hàng, sử dụng và dừng sử dụng của những sản phẩm hàng hóa, hay dịch vụ. Hành vi người tiêu dùng trong ngành marketing được bao gồm tổng hợp tới hoạt động mua hàng, cũng như hoạt động tiêu dùng/ sử dụng và các hoạt động xử lý hàng hóa. Cụ thể thì có thể phân tích hành vi người tiêu dùng, tâm lý khách hàng như sau:. - Hoạt động mua hàng: hiểu là người tiêu dùng khi mua sản phẩm hàng hóa hoặc là dịch vụ. Cách để người tiêu dùng mua các sản phẩm hàng hóa và sử dụng dịch vụ và tất cả những hoạt động dẫn tới quyết định mua hàng, tâm lý khách hàng, chúng bao gồm cả việc tìm kiếm những thông tin, việc đánh giá hàng hóa và dịch vụ, cũng như là phương thức thanh toán và hành vi người tiêu dùng cũng bao gồm cả trải nghiệm của từng người dùng khi mua hàng. Để có thể đo lường sự hài lòng của các khách hàng, bạn cũng có thể sử dụng các chỉ số CSAT. - Hoạt động sử dụng/ tiêu dùng: đó là việc sử dụng/ tiêu dùng những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của những người mua. - Hoạt động xử lý: liên quan tới cách người tiêu dùng sẽ thải bỏ sản phẩm và bao bì; chúng có thể bao gồm những hoạt động bán lại hay là hoạt động ký gửi hàng hóa. Phản hồi của những người tiêu dùng có thể đó là: phản ứng cảm xúc, tình cảm, hay là phản ứng tinh thần và các phản ứng hành vi. Phản ứng cảm xúc và tình cảm, chúng đề cập đến các cảm xúc như là tâm trạng. Phản ứng tinh thần hay nhận thức đề cập tới quá trình suy nghĩ của những người tiêu dùng (consumer). Và phản ứng hành vi cũng đề cập đến phản ứng mà có thể quan sát được của những người tiêu dùng liên quan tới việc mua và thải bỏ hàng hóa hay dịch vụ. Lý thuyết hành vi người tiêu dùng chính là việc sử dụng những nguyên tắc hành vi, chúng thường đạt được qua cơ sở thực nghiệm, để có thể giải thích về tâm lý tiêu dùng kinh tế ở con người hay chính là tâm lý khách hàng. Nó cũng là một môn học và các hành vi của người tiêu dùng đứng tại giao điểm của tâm lý kinh tế, khoa học tiếp thị. Nền văn hóa: hành vi người tiêu dùng cần phải xem xét đầu tiên khi mà doanh nghiệp muốn thâm nhập vào những thị trường vẫn chưa được xác định từ trước đó. Vì đó là nét đặc trưng của các quốc gia và góp phần yếu tố khá quan trọng trong quyết định tới hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Doanh nghiệp hãy thật lưu ý và rất cẩn trọng hành vi người tiêu dùng để có thể chọn chiến lược marketing phù hợp tùy thị trường,tại vì mỗi nơi đều có các nền văn hóa khác nhau. Văn hóa cộng đồng: là một nhóm văn hóa cùng tồn tại tại một quốc gia. Thông thường nhóm văn hóa sẽ được hình thành và phát triển từ nhóm người có chung tôn giáo, cũng như chủng tộc hay chung vùng địa lý. Những marketer cũng cần phải lưu ý để đưa ra các chiến dịch marketing phù hợp với các nhóm văn hóa khác nhau trong ngành marketing. Cộng đồng: Đó là truyền thông bằng lời nói, cũng có thể nói đây là hình thức mà có ảnh hưởng rất nhiều tới hành vi mua hàng của những người tiêu dùng. Mạng xã hội: Là một nơi tập hợp những cộng đồng qua Internet hành vi người tiêu dùng. Đây chính là nơi doanh nghiệp sẽ đang tập trung chú ý hiện nay. Doanh nghiệp hãy dựa trên đó mà quảng bá các sản phẩm của mình để có thể nhiều người biết đến nhất. Tầng lớp xã hội: Ở một số nơi thì các tầng lớp xã hội quyết định tới nhiều thứ hành vi người tiêu dùng bởi nó là kết hợp nhiều các yếu tố khác nhau dẫn tới hành vi người tiêu dùng khác nhau. Gia đình: Từng thành viên trong gia đình cũng có các ảnh hưởng nhất định tới hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Địa vị: Mọi người cũng chọn sản phẩm mà thể hiện địa vị của mình trong những vai trò khác nhau. Tuổi tác: từng độ tuổi đều có các thói quen và nhu cầu mua hàng khác nhau, hành vi người tiêu dùng là khác nhau. Nghề nghiệp: Mỗi nghề nghiệp đều có những nhu cầu hành vi mua hàng rất khác nhau để có thể phù hợp với nghề. Phong cách sống: Dù cho mọi người tại chung tầng lớp xã hội, chung độ tuổi hoặc chung nền văn hóa thì đều sẽ có những người có các phong cách sống khác nhau dẫn tới nhu cầu hành vi mua hàng của họ là khác nhau. Tính cách và ngoại hình: Từng người cũng có tính cách sở hữu khác nhau, và ngoại hình đều là yếu tố tác động tới hành vi mua hàng. Động cơ: Đó là động lực để giúp mọi người tìm kiếm sự thỏa mãn ở trong cuộc sống. Quyết định hành vi mua hàng của con người luôn bị tác động bởi các động cơ mà ngay cả người mua cũng không hiểu, đơn giản hành vi người tiêu dùng chỉ là nhận thức để có thể đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Nhận thức: Đó là một quá trình chọn lọc những thông tin của mỗi người. Nhận thức thông thường bao gồm 3 quá trình khác nhau. Giải mã có chọn lọc: Mọi người đều có xu hướng giải nghĩa các thông tin mà hỗ trợ dành cho những gì họ tin trước đó nhưng mà thường quên đi những gì họ đã học. Ghi nhớ có chọn lọc: Mọi người luôn có xu hướng nhớ các thứ tốt về sản phẩm của họ đang dùng còn các điều tốt của các sản phẩm khác họ cũng sẽ không để tâm. Lĩnh hội: các thay đổi mà một cá nhân đúc kết đến từ kinh nghiệm trong cuộc sống. Niềm tin và thái độ: Niềm tin chính là cách nghĩ của một người về điều gì đó, thường thì niềm tin được dựa vào kiến thức, sự tin tưởng nhưng lại không kèm theo cảm xúc trong đó. Thái độ giúp ta thấy đánh giá của một người. Thái độ đặt con người. Vì vậy, doanh nghiệp không chỉ mỗi tập trung bán hàng, mà còn việc chăm sóc khách hàng sau mua hàng là một điều quan trọng không kém. Hãy luôn quan tâm khách hàng nhiều hơn để có thể khẳng định rằng việc họ đã chọn bạn là đúng đắn. Có thể nói hiện tại, tâm lý về hành vi tiêu dùng của người Việt đó là rất phức tạp và chúng biến đổi không ngừng qua mỗi giai đoạn. Đời sống tiêu dùng của người Việt Nam hiện nay ngày càng cao. Một ví dụ về nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng tới các hành vi mua sắm, hành vi người tiêu dùng tại siêu thị của những người tiêu dùng Việt Nam, có những kết quả sau:. Thứ nhất, hiện nay thì hành vi tiêu dùng của người Việt đang có xu hướng ưa chuộng các dòng sản phẩm cao cấp. Điều này cũng không chỉ diễn ra tại khu vực thành thị mà cũng đang xuất hiện nhiều tại khu vực nông thôn. Những dòng sản phẩm cao cấp đại diện cho những sản phẩm có chất lượng cao, về cả mẫu mã, tổng quan bao bì đẹp mắt. Tâm lý mua hàng, hành vi người tiêu dùng của người Việt sẽ luôn cảm thấy mình tự tin hơn sau khi sử dụng những sản phẩm này. Thứ hai, an toàn sức khỏe chính là một yếu tố để người Việt sẽ quyết định mua hàng. Chính vì vậy, hành vi người tiêu dùng khi những sản phẩm đã “dính scandal” về mặt chất lượng kém, không đảm bảo an toàn cho sức khỏe, nhất đó là những sản phẩm về lương thực, thực phẩm đồ uống,. chúng sẽ khiến người dùng Việt đánh mất lòng tin. Thứ ba, tâm lý mua hàng của người Việt cũng còn ảnh hưởng rất nhiều tới mạng internet. Bởi vì hầu hết internet len lỏi vào nhiều lĩnh vực ở trong cuộc sống của con người. Họ cần phải thông qua mạng để có thể tìm hiểu giá cả hàng tiêu dùng, các đặc tính sản phẩm là gì, những hàng hóa cấp thấp, những hàng hóa cấp cao hay là các yếu tố ảnh hưởng đến môi tới kinh doanh,. tác động đến hành vi người tiêu dùng. Chính vì thế, hành vi người tiêu dùng xu hướng mua hàng online cũng đang trở nên phổ biến và chúng dần thay thế các xu hướng mua hàng truyền thống. Có thể nói thì tiếp thị hoặc quảng cáo đó là việc làm điển hình nhất trong việc áp dụng lý thuyết các hành vi khách hàng trong ngành marketing. Sự ảnh hưởng của quảng cáo tới người tiêu dùng chính là vô cùng lớn. Những nhân viên tiếp thị ngành marketing sẽ tiếp cận những khách hàng của mình, sẽ phân tích hành vi người tiêu dùng khi mà mua hàng, nắm bắt các tâm lý hành vi con người của họ. Chẳng hạn như là bạn hãy thử phân tích các hành vi tiêu dùng của những khách du lịch khi mua những đặc sản tại một khu vực nào đó, những yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu du lịch, các nghiên cứu hành vi mua sắm trực tuyến của sinh viên, nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng tới quyết định mua hàng trực tuyến hành vi người tiêu dùng,. Từ đó, vận dụng những am hiểu về sản phẩm, hay hàng hóa, tiến hành công tác giới thiệu và việc tư vấn sản phẩm, hàng hóa mà thuận theo những tâm lý mua hàng của khách hàng. Việc áp dụng lý thuyết này cũng sẽ khiến bạn dễ dàng hơn việc công tác bán hàng đồng thời cải thiện sản phẩm dựa theo xu hướng hành vi người tiêu dùng mua hàng của khách hàng. Với những bạn muốn tham gia những kỳ tuyển chăm sóc khách hàng thì lý thuyết tâm lý người tiêu dùng chính là công việc cần phải áp dụng. Những nhân viên chăm sóc khách hàng sẽ làm nhiệm vụ customer service cũng như chính tên gọi của nó. Mục tiêu đó mang lại sự hài lòng và một trải nghiệm tốt nhất dành cho người tiêu dùng. Việc am hiểu các lý thuyết hành vi người tiêu dùng trong ngành marketing đều sẽ phần nào giải quyết được các tình trạng khách hàng có các phản ứng thái độ và những phản hồi tiêu cực về sản phẩm, hàng hóa.
Hành vi người tiêu dùng
Hành vi người tiêu dùng (hay còn gọi thông dụng là thói quen tiêu dùng) là lĩnh vực nghiên cứu các cá thể, tập thể hay tổ chức và tiến trình họ sử dụng để lựa chọn, gắn bó, sử dụng, và thải hồ̀i các sản phẩm, dịch vụ, trải nghiệm, hay ý tưởng để thỏa mãn các nhu cầu và những tác động của các tiến trình này lên người tiêu dùng và xã hội. Môn học này bao hàm kiến thức từ các lĩnh vực như tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học, marketing và kinh tế học. Nỗ lực để hiểu được tiến trình ra quyết định của người mua hàng, trên phương diện cá nhân lẫn tập thể như cảm xúc chi phối hành vi mua như thế nào Nó nghiên cứu đặc điểm của các cá nhân mua hàng như nhân khẩu học hay tính cách và sự biến đổi trong hành vi mua hàng cốt lõi để hiểu được mong muốn của mọi người. Môn học này cũng cố gắng nhận định tầm ảnh hưởng của gia đình, bạn bè, thể thao, xã hội, các nhóm tham chiếu lên khách hàng một cách tổng quát.
Thành lập vào năm 1602 với tư cách là thư viện của trường đại học Oxford, Bodleian là một trong những thư viện lâu đời nhất châu Âu. Thư viện chứa đựng hơn 11 triệu đầu sách, bao gồm rất nhiều tác phẩm mang giá trị lịch sử: 4 bản chép của Magna Carta, kinh Gutenberg, tác phẩm đầu tiên của Shakespeare (từ 1623)…. Mặc dù Bodleian gồm nhiều toà nhà khác nhau, nhưng công trình độc đáo nhất có lẽ là Radcliffe Camera, xây dựng từ 1737 – 1749 làm thư viện khoa học Radcliffe. Là một trong những tên tuổi lâu đời ở nước Anh, Radcliffe đã xuất hiện trong nhiều bộ phim như Young Sherlock Holmes, The Saint, The Red Violin, và The Golden Compass. Bạn sẽ cần vé vào cổng, đây là một trong những thư viện tuyệt vời nhất của những thư viện tuyệt vời và cổ nhất ở Oxford. Thậm chí nó nên xuất hiện trong phim Mật mã Da Vinci. Nơi này tôn kính như thế đấy. Bạn có thể đến đây mua vé (hoặc đặt vé online trước 2 tuần) – chỉ có các nhà nghiên cứu và học thuật sẽ được đặc cách vào cổng. Cứ hướng tới cổng chính để vào sân Old Schools Quadrangle và thư viện Old Bodleian, bạn sẽ được chiêm ngưỡng công trình tráng lệ này. Cổ kính, lộng lẫy, trí thức, thư viện Bodleian là một ví dụ điển hình cho những sảnh học đường rộng lớn của Oxford. Đây là thư viện chứa đựng bản in đầu tiên của Newton về “Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên” từ 1792, bản in đầu tiên “Emma” của Jane Austen, hay “Nguồn gốc muôn loài” của Charles Darwin, “Minh hoạ lịch sử nước Anh” của John Cassell. Bất cứ ai với chút ít tò mò kiến thức đều sẽ muốn thăm thú nơi đây. Và nó cũng trông lộng lẫy nữa. Thư viện đầu tiên ở Oxford thật sự tráng lệ. Với hơn 12 triệu đầu sách trong bộ sưu tập của mình, đây là một trong những thư viện lớn nhất thế giới. May mắn thay, đa số các bộ sách đều xuất hiện trực tuyến để tiện lợi cho việc nghiên cứu. Bạn sẽ thấy choáng ngợp không chỉ bởi những tác phẩm nơi đây mà còn cả những cái tên danh tiếng đã thăm viếng thư viện nữa đấy.
Thư viện Bodleian
Thư viện Bodleian () là thư viện chính của đại học Oxford, một trong các thư viện lâu đời nhất ở châu Âu và ở Anh và là thư viện lớn thứ 2 với hơn 12 triệu đầu sách chỉ sau thư viện Anh. Theo Đạo luật Lưu chiểu Thư viện 2003, đây là một trong sáu thư viện lưu chiểu cho các tác phẩm được xuất bản tại Vương quốc Anh và theo Luật Ailen, nó có quyền yêu cầu một bản sao của mỗi cuốn sách được xuất bản tại Cộng hòa Ireland. Được các học giả Oxford gọi là "Bodley" hay "Bod", nó hoạt động chủ yếu như một thư viện để tham khảo và nói chung, các tài liệu không được rút khỏi các phòng đọc. Vào năm 2000, một số thư viện trong Đại học Oxford đã được tập hợp lại cho các mục đích hành chính dưới sự bảo trợ ban đầu được gọi là Dịch vụ Thư viện Đại học Oxford (OULS), và từ năm 2010 là Thư viện Bodleian, trong đó Thư viện Bodleian là thành viên lớn nhất. Tất cả các trường đại học của Đại học Oxford đều có thư viện riêng, một số đó đã được thành lập trước cả Bodleian và tất cả đều độc lập hoàn toàn với Bodleian.
Theo Công ước RAMSAR thì "Đất ngập nước bao gồm: những vùng đầm lầy, đầm lầy than bùn, những vực nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, những vùng ngập nước tạm thời hay thường xuyên, những vực nước đứng hay chảy, là nước ngọt, nước lợ hay nước mặn, kể cả những vực nước biển có độ sâu không quá 6m khi triều thấp". Dù rộng hay hẹp, vai trò của các vùng đất ngập nước hầu như đều giống nhau, đó là cung cấp cho con người nhiên liệu, thức ăn, là nơi giải trí, là nơi lưu trữ các nguồn gen quý hiếm. Đất ngập nước là những hệ sinh thái có năng suất cao, cung cấp cho con người gần 2/3 sản lượng đánh bắt cá, là nơi cung cấp lúa gạo nuôi sống gần 3 tỷ người. Đất ngập nước cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự sống còn của các loài chim. Để bảo tồn các vùng đất ngập nước, năm 1971, Công ước RAMSAR đã ra đời (Iran). Đây là công ước quốc tế về bảo tồn sớm nhất thế giới, nhiều thành quả quan trọng về việc bảo tồn các vùng đất ngập nước đã được ghi nhận. RAMSAR bắt buộc 92 nước thành viên của mình phân khu và bảo vệ các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế và thúc đẩy việc "sử dụng hợp lý" các vùng này. Mới đây, gần 800 khu đã được đưa vào danh sách bảo tồn.
Đất ngập nước
Đất ngập nước là một vùng đất mà đất bị bão hòa có độ ẩm theo mùa hay vĩnh viễn. Các vùng này cũng có thể bị bao phủ một phần hay hoàn toàn bởi hồ cạn. Các vùng đất ngập nước bao gồm đầm lầy, đồng lầy, đầm, và bãi lầy, hoặc hỗn hợp và tiểu loại bao gồm rừng ngập mặn, các loại rừng ngập nước. Nước trong vùng đất ngập nước có thể là nước mặn, nước ngọt hoặc nước lợ. Vùng đất ngập nước lớn nhất trên thế giới là Pantanal kéo dài từ Brasil, Bolivia và Paraguay ở Nam Mỹ. Các vùng đất ngập nước được xem là có sự đa dạng sinh học cao nhất trong tất cả các hệ sinh thái. Thực vật trong vùng ngập nước gồm thực vật ngập mặn, súng, cỏ nến, lau, thông rụng lá, thông đen, bách, bạch đàn, và các loài khác. Động vật bao gồm các loài khác nhau như lưỡng cư, rùa, chim, côn trùng, và động vật có vú. Các vùng đất ngập nước còn có vai trò là hệ lọc nước thải tự nhiên — ví dụ như ở Calcutta, Ấn Độ và Arcata, California.
Chào bạn Thảo, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Câu hỏi của bạn cũng là vấn đề đang được rất nhiều người quan tâm, chúng tôi sẽ giải đáp câu hỏi của bạn qua những thông tin sau:. Đồng tử hay con ngươi khi nhìn bằng mắt thường có dạng hình tròn màu đen trong mắt. Chúng có nhiệm vụ thu thập ánh sáng và hình ảnh, sau đó truyền tín hiệu đến võng mạc để giúp ta nhìn thấy được. Đồng tử giãn ra hoặc mở rộng hơn là phản ứng điển hình nhằm đáp ứng với tình trạng giảm ánh sáng bên ngoài. Thỉnh thoảng đồng tử giãn ra không phải do mức độ ánh sáng bên ngoài, thậm chí đồng tử vẫn mở to trong môi trường có ánh sáng đầy đủ, bác sĩ gọi tình trạng này là giãn đồng tử. Trái ngược với giãn đồng tử là co đồng tử (khi đồng tử thu lại nhỏ hơn). Đây là thuốc ức chế hoạt động dẫn truyến các hoạt chất đến mắt làm dãn cơ và tuyến ở mắt. Thuốc này khiến cho đồng tử bị giãn, ngoài ra còn gây táo bón, khô miệng, và giảm đổ mồ hôi. Đây là loại thuốc thường thấy trong nhiều toa thuốc. Nếu giãn đồng tử gây ra do thuốc đang dùng thì bạn có thể bị mờ mắt, choáng váng. Một khi ngưng các thuốc này thì đồng tử sẽ hoạt động trở lại bình thường. Chấn thương mắt như những vật nhọn đâm vào có thể làm phá hủy dây thần kinh điều khiển đồng tử và mống mắt, phần tạo sắc tố mắt bị tổn thương. Điều này có thể ảnh hưởng đến phản ứng của đồng tử khi tình trạng ánh sáng môi trường bên ngoài thay đổi. Các triệu chứng khác có thể xuất hiện đa dạng tùy thuộc vào nguyên nhân gây chấn thương mắt. Tăng nồng độ Oxy - tocin trong máu có thể dẫn đến giãn đồng tử tạm thời từ nhẹ đến trung bình. Oxy - tocin được phóng thích khi tập thể dục, vận động hay trong các hoạt động xã hội khác. Đồng thời, đây còn là một hoạt chất quan trọng trong thai kì. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi tăng Oxy - tocin có thể làm tăng phản ứng với khuôn mặt. Việc sử dụng những thuốc có chứa co-ca-in, thuốc mê, gây ảo giác hay tinh thể metham- phe - ta - mine có thể gây giãn đồng tử. Thuốc gây ảo giác ảnh hưởng lên thụ thể ở não có thể dẫn đến giãn đồng tử. Còn những chất kích thích như co-ca-in làm tăng nồng độ se-ro-to-nin trong máu gây ra ảnh hưởng tương tự cho mắt. Nhưng những biến chứng nguy hiểm của việc sử dụng những thuốc này bao gồm:. Mức độ sử dụng các thuốc trên sẽ quyết định độ nặng của các biến chứng này. Đây là tình trạng giãn tạm thời một bên đồng tử, thường kèm theo đau đầu nhẹ, đau mắt, nhạy cảm ánh sáng, nhìn mờ. các triệu chứng xuất hiện thành từng đợt. Ở một số trường hợp, BEUM cũng xảy ra trong lúc bị đau nửa đầu. BEUM không phải là tình trạng cấp cứu nhưng bác sĩ cần khám kĩ mắt và hệ thần kinh để loại trừ những bệnh cảnh cấp cứu khác. Đây là bệnh liên quan đến sự phá hủy của các dây thần kinh đi đến mắt, trong đó có dây thần kinh vận động ở mắt giúp co và giãn đồng tử. Do đó gây giãn đồng tử bất thường. Bệnh này có thể ảnh hưởng cả 2 mắt và thường gây giảm thị lực. Chấn thương sọ não gây tăng áp lực nội sọ, điều này gây ảnh hưởng đến mắt. Những kiểu gây tổn thương não điển hình bao gồm chấn thương, khối u não hay đột quỵ. Thông thường kiểu tổn thương này chỉ ảnh hưởng lên một mắt. Bác sĩ tổng quát hay bác sĩ nhãn khoa thỉnh thoảng sẽ đưa chất làm giãn đồng tử vào mắt nhằm kiểm tra phần võng mạc và khám những cấu trúc sâu bên trong mắt. Việc khám mắt hằng năm cần được thực hiện và khuyến khích ở người bị tăng huyết áp và tiểu đường. Bác sĩ còn dùng thuốc giãn đồng tử để làm giảm sự co thắt gây đau ở cơ thể mi của mắt. Sự giãn đồng tử do thuốc thường kéo dài từ 4-8 tiếng. Trong một vài trường hợp có thể kéo dài 24 tiếng. Trong khi đồng tử bị dãn thì mắt bạn tạm thời khá nhạy cảm với ánh sáng. Ngoài ra giãn đồng tử hiếm khi ảnh hưởng lên những nơi khác trên cơ thể. Nếu bạn để ý thấy mắt thường xuyên giãn con ngươi ngay cả khi trời sáng thì hãy đến khám bác sĩ tổng quát hay bác sĩ nhãn khoa. Và bạn cũng cần để ý nếu thấy đồng tử một bên dãn to hơn bên còn lại thì cần báo với bác sĩ, họ sẽ giúp bạn tìm nguyên nhân gây bất thường đồng tử 2 bên mắt. Bác sĩ sẽ xem xét kĩ các triệu chứng và tiền căn bệnh lí của bạn. Họ sẽ muốn biết thêm về những thuốc bạn đang dùng hay có chấn thương nào xảy ra trong thời gian gần đây không. Bác sĩ sẽ khám thị lực bao gồm cả test thị lực và test đánh giá hoạt động cơ mắt. Ngoài ra, bác sĩ cũng có thể làm xét nghiệm máu để loại trừ những bệnh lí khác. Việc điều trị giãn đồng tử còn tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra. Bác sĩ của bạn có thể khuyến nghị dùng kính sát tròng có chức năng chắn ánh sáng hoặc kính mát chống nhạy cảm ánh sáng trong quá trình điều trị. Thậm chí trong một số trường hợp có thể cần phẫu thuật. Do đó việc xác định nguyên nhân gây giãn đồng tử khá quan trọng, từ đó có thể đưa ra phương pháp điều trị chính xác. Nếu tình trạng giãn đồng tử kéo dài không giảm thì bạn nên đến khám bác sĩ nhãn khoa hoặc bác sĩ tổng quát. Những nguyên nhân nền gây bệnh có thể từ nhẹ đến nặng, ví dụ như do thuốc hoặc những tình huống nặng như chấn thương, tổn thương sọ não. Bệnh sẽ hồi phục càng nhanh nếu chẩn đoán nguyên nhân càng sớm. Bạn Thảo thân mến, như những gì chúng tôi đã chia sẻ có thể thấy, giãn đồng tử không phải lúc nào cũng nguy hiểm, tuy nhiên khi tình trạng giãn dồng tử diễn ra thường xuyên thì nên đi khám bác sĩ. Hy vọng những thông tin chúng tôi cung cấp sẽ hữu ích cho bạn. Để hẹn khám bác sĩ, bạn có thể đặt khám bác sĩ Hello Doctor chúng tôi theo số điện thoại: 1900 1246, chúng tôi luôn sẵn lòng được hỗ trợ cho bạn. Nguyễn Thị ĐịnhĐối với những ai bị triệu chứng giãn đồng tử, hãy cẩn thận có thể bạn đang mắc bệnh đó. Hãy đi khám để biết chính xác bệnh nhé. Đối với những ai bị triệu chứng giãn đồng tử, hãy cẩn thận có thể bạn đang mắc bệnh đó. Hãy đi khám để biết chính xác bệnh nhé. Nguyễn Đức ThịnhTôi thấy lúc cấp cứu cho bệnh nhân thì bác sĩ thường kiểm tra giãn đồng tử. Tôi thấy lúc cấp cứu cho bệnh nhân thì bác sĩ thường kiểm tra giãn đồng tử.
Giãn đồng tử
Giãn đồng tử là sự giãn nở của các đồng tử, thường có một nguyên nhân phi sinh lý, hoặc đôi khi là một phản ứng đồng tử có tính sinh lý. Các nguyên nhân không sinh lý của bệnh này bao gồm bệnh, chấn thương hoặc sử dụng chất gây nghiện. Thông thường, do là một phần của phản xạ ánh sáng đồng tử, đồng tử giãn ra trong bóng tối và hạn chế ánh sáng để cải thiện sự sống động của hình ảnh vào ban đêm và để bảo vệ võng mạc khỏi tác hại của ánh sáng mặt trời vào ban ngày. Một đồng tử bị giãn sẽ vẫn quá lớn ngay cả trong một môi trường sáng bình thường. Sự kích thích của các sợi xuyên tâm của mống mắt làm tăng khẩu độ đồng tử được gọi là giãn đồng tử. Tổng quát hơn, bệnh giãn đồng tử cũng đề cập đến sự giãn nở tự nhiên của đồng tử, ví dụ trong điều kiện ánh sáng yếu hoặc dưới sự kích thích giao cảm. Một thuật ngữ không chính thức cho bệnh này là đồng tử bị thổi phồng, và được sử dụng bởi các nhà cung cấp y tế.
Nhà thờ Con Gà còn được gọi là nhà thờ chính tòa Đà Lạt. Đây là một nhà thờ một công trình tôn giáo lớn nhất ở Đà Lạt. Ngoài ra đây còn là một điểm tham quan du lịch. Thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến đây tham quan. Hôm nay du-lich-da-lat.com sẽ giới thiệu cho các bạn về nhà thờ này nhé. 3 Thông tin liên hệ nhà thờ con gà Đà Lạt3.1 Số điện thoại nhà thờ con gà Đà lạt. 4 Sự tích nhà thờ con gà Đà Lạt4.1 Tại sao gọi là nhà thờ con gà4.2 Tại sao có con gà trên nóc nhà thờ4.3 Nhà thờ con gà tiếng anh là gì ?. 5 Kiến trúc nhà thờ con gà Đà Lạt5.1 Nhà thờ con gà Đà Lạt có gì ?. 6 Thuyết minh về nhà thờ con gà Đà Lạt6.1 Giờ lễ nhà thờ con gà Đà Lạt6.2 Các nhà thờ Đà Lạt. 7 Địa chỉ nhà thờ con gà7.1 Google maps nhà thờ con gà Đà Lạt7.2 Chỉ đường đi nhà thờ con gà Đà Lạt7.3 Những địa điểm du lịch gần kề nhà thờ con gà Đà Lạt7.4 Nhà thờ con gà Đà Lạt review. 9 Tour nhà thờ con gà Đà Lạt9.1 Một số câu hỏi của du khách về Nhà Thờ con gà Đà Lạt. Nhà thờ chính tòa Đà Lạt còn được du khách biết đến với cái tên nhà thờ Chánh Tọa. Là một nhà thờ lớn của Đà Lạt. Nhà thờ Chính Tọa Đà Lạt được tọa lạc tại một nơi rất tiện nghi. Rất thuận tiện và vô cùng hợp lý. Giúp cho các tín đồ tôn giáo dễ dàng hành lễ. Cũng là nơi cho khách du lịch tham quan và du lịch tiện đường nhất. Địa điểm du lịch này được du khách bình chọn. Là một trong top 20 địa điểm du lịch thu hút khách du lịch nhất. Nếu du khách đến tham quan Đà Lạt. Mà bạn không đến tham quan nhà thờ chính tọa Đà Lạt thì chưa phải là du lịch Đà Lạt. Nơi đây là nhà thờ lớn nhất thành thành phố Đà Lạt. Một công trình kiến trúc pháp nổi tiếng bậc nhất nước ta. Khi du khách đến đây tham quan nhà thờ này. Bạn sẽ được tìm hiểu về phong tục tập quan của nhà thờ. Biết thêm về lối kiến trúc pháp thời xưa. Các bạn hãy theo chân chúng tôi tìm hiểu về nhà thờ này nhé. Tuy là địa điểm du lịch nổi tiếng bậc nhất thành phố Đà Lạt. Nhưng vẫn rất nhiều du khách phương xa vẫn chưa biết nhà thờ chánh tọa Đà Lạt ở đâu. Chính vì thế hôm nay chúng tôi sẽ cung cấp chi tiết. Địa chỉ nhà thờ chính tòa cho du khách biết. Nhà thờ chánh tọa Đà Lạt nằm tọa lạc tại số 15 đường Trần Phú Đà Lạt. Một trong những cung đường sầm uất và tấp nập nhất Đà Lạt. Cung đường này thuộc phường 3 của Thành Phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng. Đây cung là một trong những cung đường tập trung nhiều khách sạn Đà Lạt nhất. Du khách có thể chọn ở những khách sạn trên cung đường này. Đây là điều được rất nhiều du khách quan tâm nhất. Khi du khách đến tham quan nhà thờ chính tòa Đà Lạt. Có rất nhiều du khách vẫn còn e ngại về đường đi đến nhà thờ chánh tọa. Lo sợ về đường đi đến nhá thờ khó đi và kẹt xe. Nhưng hôm nay khi bạn đọc bài viết này. Chúng tôi xin đảm bảo với du khách rằng đường đi đến nhà thờ rất dễ đi. Chúng tôi có thiết kế một bản đồ về đường đi đến nhà thờ dành cho du khách. Mong rằng nó sẽ giúp bạn tìm được đường đến nhà thờ. Ngoài ra trên bản đồ này chúng tôi còn thiết kế thêm cho du khách. Những địa điểm du lịch gần kề nhà thờ con gà Đà Lạt. Du khách có thể chọn lựa và đi du lịch thêm. Để mình không phải mất quá nhiều thời gian di chuyển. Nhưng bạn vẫn có thể tham quan được nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng của Đà Lạt. Hôm nay chúng tôi xin đính chính lại cho các bạn 1 điều rằng. Nhà thờ chính tòa Đà Lạt là địa điểm tham quan hoàn toàn miễn phí nhé. Có rất nhiều du khách hỏi chúng tôi rằng khi đến đây có bị mất phí gì không. Tội xin khẳng định lại là không nhé. Nên các bạn cứ việc yên tâm đến đây tham quan du lịch nhé. Nhà Thờ chính toàn là thờ thờ lớn nhất thành phố Đà Lạt. Nơi đây vừa là nơi tôn giáo tín ngưỡng vừa là nơi du lịch. Nhà thờ luôn rộng mở cửa đó tiếp du khách. Nhưng chúng tôi khuyên du khách nên đi du lịch vào ban ngày. Khi đi du lịch vào ban ngày bạn có thể thưởng thức hết được vẻ đẹp của nhà thờ. Hiện giờ nhà thờ chính tòa vẫn chưa cung cấp thông tin gì để liên lạc với nhà thờ. Ngoài số điện thoại thì chưa có thông tin gì khác. Nếu nhà thờ cung cấp thông tin gì để du khách liên lạc với nhà thờ. Chúng tôi sẽ cập nhật cho du khách trên bài viết này sớm nhất. Nếu du khách có thắc mắc gì về nhà thờ chính tòa Đà Lạt. Bạn có thể gọi ngay Hotline 0263 3821 421 của nhà thờ để được giải đáp. Trong những năm tháng 1893. Khi một bác sĩ có tên gọi là Alexandre Yersin đã khám phá. Và tìm ra là một cái đầm ở Đà Lạt. Khi khám phá và tìm ra Đà Lạt cùng ông. Còn có một vị trí thuộc Hội Thừa sai Paris (MEP) theo ông chính là Robert. Sau khi trở lại và nói kể lại toàn bộ mọi chuyện. Mô tả các nét vẽ của Đà Lạt cho MEP (hội thừa sai paris) nghe. Mãi cho năm 1917 xác định tìm nơi nghỉ dưỡng phù hợp cho các giáo sư. Quản lý (MEP) ở xa là linh mục Nicolas Couveur đã đến đây và chọn Đà Lạt. Làm nơi nghỉ dưỡng cho các giáo sư. Đến Năm 1920 Giám đốc Quinton đã ban hành quyết định thành lập Giáo Phận Đà Lạt. Sở dĩ nhà thờ có tên gọi là nhà thờ chính tòa Đà Lạt. Là vì trên ngọn thánh giá cao nhất của nhà thờ này. Được các nhà thiết kế gắn vào đó tượng một chú gà trống. Làm bằng hợp kim nhôm nhẹ và rổng ở phần bên trong. Tên gọi nhà thờ con gà cũng được xuất phát từ đó. Hình con gà trên ngọn thánh giá còn có tác dụng thu lôi. Giúp cho nhà thờ này được bảo vệ qua những năm tháng. Tượng hình con gà làm bằng hợp kim dài 66 cm và cao 58 cm. Đây là một trong những câu hỏi thú vị nhất. Mà đây cũng là câu hỏi được rất nhiều du khách hỏi. Nhưng để giải thích cặn kẻ về vấn đề này thì chưa ai biết. Họ chỉ cho rằng con gà trên nóc nhà thờ này chỉ đơn thuần để thu lôi. Nhưng ý nghĩa tại sao lại để hình con gà mà không để biểu tượng khác. Thì chẳng ai biết được sự thật bí ẩn đằng sau đó. Tôi khẳng định rằng đây là một câu hỏi rất khó. Trong 10 người thì tầm 3 người biết được câu trả lời. Chính vì thế hôm nay chúng tôi sẽ lý giải câu trả lời này cho bạn biết về nó nhé. Tên gọi tiếng anh của nhà thờ là nhà thờ chính tòa Thánh Nicôla Bari. Hãy nhớ tên gọi này nhé để khi đi đâu ai hỏi bạn, bạn còn biết nhé. Nhà thờ chính tòa là một trong những công trình kiến trúc theo kiểu Roman. Mang một lối phong cách Châu Âu còn sót lại duy nhất tại Đà Lạt. Nhà thờ được thiết kế tổng thể theo một hình chữ thập. Với chiều dài là 65 m và chiều rộng là 14 m. Nơi cao nhất của nhà thờ là tháp chuông cao tới 47 m. Trong lối kiến trúc Roman thì đặc biệt chú trọng vào phần trang trí. Vì thế nên bên trong nhà thờ có những điểm nhấn. Về lối kiến trúc rất đặc sắc bằng việc lắp tới 70 tấm kính màu khác nhau. Mang một lối kiến trúc cổ của nhà thờ châu âu. Những tấm kính đó vừa giúp cho thánh đường nổi bật hơn. Mang một phong cách độc đáo thẩm mỹ. Mà nó còn có tác dụng chiếu sáng. Đây là điều mà du khách quan tâm nhất khi lên kế hoạch du lịch Đà Lạt. Những gì chúng tôi chia sẽ ở trên bài viết. Chắc hẳn du khách cũng đã biết rằng nhà thờ chính tòa có gì rồi phải không. Khi đến tham quan nhà thờ đà Lạt ngoài việc hành lễ. Du khách còn được tìm hiểu về phong tục tập quán của người bản địa. Tìm hiểu về những lối kiến trúc pháp độc đáo mới lạ phá cách. Một nét văn hóa giao thoa giữa 2 vùng đất xa lạ. Kết hợp lại với nhau mang đến vẻ đẹp cho nhà thờ chính tòa Đà Lạt. Nhà Thờ chính tòa Đà Lạt là một trong top những nhà thờ lớn nhất Đà Lạt. Ở nhà thờ này hằng năm đều tổ chức những lễ lớn. Nhằm phục vụ cho đồi sống tôn giác của người dân bản địa nơi dây. Nơi đây còn đươc du khách trong lẫn ngoài nước bình chọn. Là một trong top 20 địa điểm du lịch nổi tiếng nhất Đà Lạt. Khi đến đây tha quan, du khách không thể nào quên được kiến trúc ở đây. Các ngày bình thường thì nhà thờ sẽ hành lễ vào 2 lần trong một ngày. Đó chính là vào lúc 5 giờ 15 phút sáng. Và vào lúc chiều vào lúc 17 giờ 15 phút. Vào các ngày cuối tuần thì nhờ sẽ hành lễ nhiều hơn. Vào chủ nhật : lúc 5 giờ 15 , 7 giờ , 16 giờ , 8 giờ 30, 16 giờ 30 và 18 giờ. Mọi thắc mắc về nhà thờ liên hệ : Cha Phaolo Lê Đức Huân số điện thoại :02633.821.421. Ngoài ra khi tham quan xong nhà thờ chính tòa Đà Lạt. Du khách có thể tham quan thêm các nhà thờ ở Đà Lạt khác. Dưới đây đều là những nhà thờ nổi tiếng bậc nhất thành phố này. Nhà thờ chính tòa Đà Lạt là địa điểm du lịch nổi tiếng. Là công trình tôn giáo nằm ngay trung tâm thành phố Đà Lạt. Nhà thờ tọa lạc tại một vị thế vô cùng đắc địa tại thành phố ngàn hoa. Nhà thờ chánh tọa Đà Lạt nằm tại số 15 đường Trần Phú. Thuộc phường 3 của thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng. Dưới đây là bản đồ google maps nhà thờ con gà Đà Lạt. Chỉ đường tử chợ Đà Lạt đến nhà thờ. Du khách có thể tham khảo hình ảnh dưới đây. Chọn cho bản thân mình một địa điểm bắt đầu phù hợp nhất với bản thân mình. Để bạn dễ dàng đến được nhà thờ chính tòa Đà Lạt nhất. Từ chợ Đà Lạt du khách đi theo đường Nguyễn Thị Minh Khai. Khi đến bùng binh thì du khách đi theo đường nguyễn văn cừ. Sau đó sẽ đi theo đường Bà Triệu. Đi 1 lát gặp một bùng binh đường Trần Phú thì sẽ rẽ trái. Đi cỡ vài trăm mét du khách để ý bên tay phải sẽ thấy nhà thờ . Dưới đây là một số địa điểm du lịch gần kề nhà thờ chính tòa Đà Lạt. Du khách có thể tham khảo thêm những địa điểm chúng tôi đề cập dưới đây. Mong rằng có thể giúp ích được cho bạn. Giúp bạn tìm được một địa điểm du lịch mới nữa mà không phải tốn quá nhiều thời gian. Dưới đây là những đánh giá về nhà thờ chính tòa Đà Lạt. Đây là đánh giá của những du khách đã từng tham quan nhà thờ này. Du khách có thể thao khảo hình ảnh đánh giá dưới đây. Hoặc bạn có thể tham khảo thêm những hình ảnh đánh giá khác trên google. Dưới đây là một số hình ảnh của du khách đã check in. Du khách có thể tham khảo thêm hình ảnh dưới đây. Chọn cho mình một góc chụp đẹp nhất nhé. Rồi sau đó lên đây và ghi lại những khoảnh khắc đẹp nhất. Để lưu lại làm kỉ niệm và khoe vời bạn bè người thân. Nếu như du khách yêu thích nhà thờ con gà Đà Lạt. Du khách có thể chọn tour du lịch 1 ngày nhà thờ chính tòa cùng những địa điểm khác. Do công ty Hoa Dalat Travel tổ chúc hàng ngày. Khi tham gia tour nội thành ngoài được tham quan nhà thờ chính tòa Đà Lạt. Du khách còn được tham quan những địa điểm sau. Giá Tour đã bao gồm : Hướng dẫn viên du lịch. Xe du lịch chất lượng đưa đón du khách, vé vào cổng các điểm du lịch. Cùng với đó là nước uống và khăn lạnh trên xe. Cuối cùng quý Công ty xin kính chúc du khách có một chuyến du lịch Đà Lạt thật thú vị và vui vẻ nhất. Cảm ơn các bạn đã quan tâm đến bài viết review nhà thờ con gà Đà Lạt của chúng tôi. Để có thể chiêm ngưỡng được trọn vẹn vẻ đẹp của nhà thờ Con Gà thì chúng tôi khuyến khích bạn nên đi vào buổi sáng. Lúc này ánh sáng tốt sẽ giúp bạn dễ dàng tham quan và ngắm nhìn!
Nhà thờ chính tòa Đà Lạt
Nhà thờ chính tòa Ðà Lạt (tên chính thức là: Nhà thờ chính tòa Thánh Nicôla Bari, còn có tên gọi khác là nhà thờ Con Gà vì trên đỉnh tháp chuông có hình con gà lớn) là một nhà thờ Công giáo ở Việt Nam. Đây là nhà thờ chính tòa của vị giám mục Giáo phận Đà Lạt, cũng là nhà thờ lớn nhất Đà Lạt, một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu và cổ xưa nhất của thành phố này do người Pháp để lại. Nhà thờ nằm tại số 13 đường Trần Phú, phường 3, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Lịch sử Nhà thờ chính tòa Đà Lạt gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Đà Lạt. Cùng với bác sĩ Alexandre Yersin khám phá ra Đà Lạt, có linh mục Robert thuộc Hội Thừa sai Paris (MEP) vào năm 1893. Đến 1917, linh mục quản lý của MEP tại Viễn Đông là Nicolas Couveur đã đến Đà Lạt với mục đích tìm nơi nghỉ dưỡng cho các giáo sĩ, và ông đã cho xây dựng một dưỡng viện giáo đồ nay là một phần của nhà xứ.
Bỉ vỏ là cuốn tiểu thuyết đầu tay đánh dấu cột mốc lớn trong sự nghiệp văn chương của Nguyên Hồng. Tác phẩm được đánh giá như một bức tranh sinh động về thân phận những con người dưới đáy cùng của xã hội trong thời đại cũ. Văn học Việt Nam vào thế kỷ XX xuất hiện trào lưu hiện thực phê phán bởi lẽ đất nước lúc bấy giờ nằm dưới ách thống trị và đô hộ của thực dân Pháp. Bằng một cái nhìn thấu cảm, những nhà văn đã dựng lên biết bao cảnh đời, số phận của tầng lớp nhân dân và Bỉ vỏ là một minh chứng cho điều trên. Nguyên Hồng là một nhà văn có tuổi thơ bất hạnh, cha mất sớm, nhà lại nghèo. Ông từng có quãng thời gian sống ở trong ngục tù, mẹ của Nguyên Hồng đi thêm bước nữa, sau đó nhà văn đã cùng mẹ ra Hải Phòng và cư ngụ trong các xóm Cấn, xóm chùa Đông Khê. Ở đó, nhà văn đã sống trong những tháng ngày bị câu thúc thân thể, đày đọa và tù tội. Đói khổ, thất nghiệp đã khiến cho Nguyên Hồng cảm thấy lo sợ và ông đã tưởng chừng bản thân sẽ chết vào năm mười sáu tuổi ấy giữa bữa sớm, bữa mất, lắm phen chỉ có miếng cháo lót lòng. “Nghĩa là tôi phải để lại một cái gì tinh khiết nhất của hồn và xác tôi cho cõi đời mà tôi yêu mến.”. Từ đó Nguyên Hồng bắt đầu cầm bút, ông viết bất chấp cả cái đói ê ẩm đang hằng ngày gào thét, ông viết say mê quên luôn cả những nỗi đau thấm thía trong đêm mưa lạnh. Và rồi Bỉ vỏ đã ra đời trong những năm tháng chênh vênh nhất cuộc đời của Nguyên Hồng. “Bỉ vỏ ra đời trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vùng nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập ngụa phân tro.”. Cuốn sách được viết vào năm 1938 nên Bỉ vỏ mang trên mình những hiện thực cuộc sống đậm nét nhất của xã hội trong giai đoạn lúc bấy giờ. Đọc tác phẩm mới thấy, văn chương đối với tác giả là một lẽ sống, ông luôn có một cái nhìn thấu cảm với những con người cùng khổ, nhất là người phụ nữ. Cốt truyện xoay xung quanh nhân vật Tám Bính, đúng như tên gọi, bỉ vỏ có nghĩa là “người đàn bà ăn cắp”, Nguyên Hồng từ đó đã xây dựng nên cuộc đời đầy sóng gió và nghiệt ngã của chị. Từ một người chân chất, thật thà sống ở thôn quê, Tám Bính bây giờ đã sống cuộc sống mưu toan trên máu và nước mắt của người khác. Bỉ vỏ mở đầu với hình ảnh của Bính hằng ngày gánh gạo lên chợ huyện để bán, lần nào chị cũng nhìn thấy Chung, một người đàn ông mang quần áo tây chỉn chu mãi trông về phía mình, đôi lần Bính còn nghe được tiếng gọi vồn vã hay chòng ghẹo dịu dàng. Cô gái ở tuổi hai mươi mang trong mình trái tim nhạy cảm ấy đã trót yêu lấy người mà tưởng chừng cả đời sẽ phó mặc cho họ. Nhưng cảnh đời thật lắm éo le, Chung bỏ đi không một lời an ủi trong khi Bính đã bụng mang dạ chửa. Không những thế, đứa con của Bính sau khi được sinh ra phải nhận lấy sự hắt hủi của ông bà ngoại, họ đem nó đi bán để đổi lấy thanh danh cho gia tộc. Trước việc đó, Bính đã bỏ nhà lên Hải Phòng tìm Chung và cũng là kiếm tiền để chuộc lại con. Thân gái một mình bơ vơ nơi đất khách quê người, khi lên Hải Phòng, Bính bị hai người đàn ông toan cưỡng hiếp nhưng không thành, không những thế chị còn mang thêm cái danh cướp chồng, gái đứng đường mà đi vào nhà “lục xì”. “Đeo một cái tiếng theo giai, Bính như đã chết đi nửa phần. Nay lại thêm cái tiếng đĩ thõa thối thây dày da thì Bính thật không đủ sức chịu đựng được. Bính đến chỉ còn cách tự vẫn thôi. Vậy thà nhịn đói mặc rét héo hắt chết dần chết mòn ở tỉnh còn hơn về quê hương nương nhờ bố mẹ, rồi lại chịu thêm bao nỗi đòi đoạn khác.”. Ở đó, Bính đã sống ê chề và cực nhục, chị toan tử tự nhưng được Năm Sài Gòn, trùm lưu manh Hải Phòng chuộc ra ngoài. Và từ lúc Bính nức nở rơi nước mắt trong căn phòng tối thì cũng chính là khoảnh khắc Năm Sài Gòn biết thế nào là rung động. “Dưới hai vai run rẩy của Bính, Năm Sài Gòn bỗng thấy tâm trí lạnh và mềm hẳn đi. Năm càng đăm đăm nhìn cái gương mặt xanh xao buồn thảm của Bính, trong lòng Năm càng rào rạt. Thật là một sự lạ, một sự lạ kỳ diệu trong cái đời du thủ du thực của Năm là còn biết thương, nhất là còn biết yêu!”. Đọc đến đây, sẽ có một phần độc giả liên tưởng đến Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. Dù khác nhau ở mỗi hoàn cảnh nhưng họ đều là những con người ở lớp đáy cùng của xã hội và chính họ đã chứng minh được cho chúng ta thấy, tình yêu luôn nảy sinh từ đáy sâu tâm hồn dù hoàn cảnh có cơ cực hay nghèo khổ đến nhường nào. Từ ngày làm vợ Năm Sài Gòn, Bính luôn được yêu thương và chiều chuộng hết mực bởi lẽ đối với anh thì đây là người đàn bà đã làm êm đẹp những cảm xúc mà xưa nay Năm vẫn chưa cảm nhận được. Và điều này cũng không ngoại lệ với Bính. “Tấm lòng tốt chan chứa yêu thương của Năm sẽ giữ nàng ở với Năm cho tới ngày trọn đời.”. Tưởng chừng cuộc đời của hai con người gặp gỡ nhau như một định mệnh ấy sẽ êm xuôi và tốt đẹp nhưng hạnh phúc đã không còn mỉm cười với họ. Trong một lần cướp bóc, Năm Sài Gòn đã bị “cớm” bắt, những tưởng Bính sẽ bỏ anh nhưng lòng chị lúc bấy giờ nao nao, chạy ngược xuôi trong chợ mua bánh kẹo và cân giò để chiều mai cùng đàn em Tư-lập-lơ vào tù thăm Năm. Trong suốt ba tháng chờ đợi anh trắng án thì chị quyết không nhận tiền bồi của đàn em mà mưu sinh bằng nghề bán hoa quả với một gánh hàng nhỏ. Từ khi gặp anh, Bính đã trở thành “bỉ vỏ” lành nghề tuy nhiên trong tận sâu thẳm của chị vẫn có mong muốn tìm lại sự lương thiện trước đây mà mình đã đánh mất. Bính muốn Năm và mình sẽ làm lại từ đầu, cùng nhau sống một cuộc đời bình thường như những người khác nên khi anh ra tù, chị đã không e dè mà nói ngay. Nhưng Năm Sài Gòn không nghe, Bính bất đắc dĩ trở lại con đường cũ. Trong một lần hiểu nhầm, anh đã đuổi chị đi, lúc này Bính nghe tin dưới quê cha mẹ gặp khó khăn, suýt nữa phải đi tù nên chị đành phải nhắm mắt cưới Ba Rãy, tên mật thám gác xà lim ở Hải Phòng. Hắn đưa cho chị trăm ngót bạc để về quê lo cho cha mẹ, Bính sống một cuộc sống trong nhung lụa nhưng tận sâu thẳm trái tim của chị, không có ngày nào là Bính không nhớ về Năm. “Cánh cửa sắt nặng chịch của xà lim vừa hé mở, khóa không kịp đóng lại, hai bóng đen đã cắm đầu chạy mỗi lúc một nhỏ dần, rồi biến mất trên con đường xa tắp.”. Chúng ta vẫn có thể nhìn thấy được tình yêu khuất lấp phía sau những con người bị xã hội tha hóa, đầy hủ tục ấy chối bỏ. Bính và Năm Sài Gòn tuy đều sống dưới lớp đáy cùng của thời đại cũ nhưng họ đã đi vào trang văn của Nguyên Hồng với một tình yêu chưa bao giờ vụt tắt:. Đọc Bỉ vỏ, độc giả có thể sống trọn những cảm xúc qua từng nhân vật và tác phẩm chính là sự kết hợp giữa chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực. Chúng ta không chỉ nhìn thấy tình yêu giữa Bính và Năm Sài Gòn mà trong Bỉ vỏ còn hiện lên tình cảm gia đình và tình mẫu tử. Ở đó đã có một tình yêu dần lớn lên trong sự hy sinh và nỗi bất hạnh, ở đó có hai con người đến với nhau như một tia sáng le lói trong chuỗi bi kịch của cuộc đời họ. Vào những năm đầu thế kỷ XX, khuynh hướng văn học hiện thực đã phát triển một cách rầm rộ và có quy mô hơn bao giờ hết. Những cây bút trong giai đoạn này tập trung đi sâu vào cuộc sống của nhân dân để vẽ lên một bức tranh xã hội đang dần tha hóa. Đồng thời qua đó có thể lên án mạnh mẽ chế độ thống trị lúc bấy giờ và Bỉ vỏ chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu chứng minh cho điều trên. Nguyên Hồng không miêu tả trực tiếp quá trình bần cùng hóa của con người mà nhà văn chỉ đơn giản đưa nhân vật đi đến chốn đô thị xa hoa để tha phương cầu thực. Chúng ta bắt gặp một ổ cờ bạc của bọn bịp bợm, buôn hàng lậu ở Muống trong Quán Nải và trong Bỉ vỏ cũng không ngoại lệ. Tám Bính khi còn ở nhà “lục xì” vì tiếp khách quá nhiều nên người chị đâm ra mệt mỏi cùng với bệnh tật. Trong lúc ốm, Bính được Hai Liên, chị em trong nhà hỏi han, không phải cháo cơm bình thường mà là:. – Chị Tám Bính làm gì đấy? Buồn định tìm thuốc để hút phải không. Em tiêm cho nhé!”. “Hà Nội thủ đô xứ Bắc Kỳ, một thành phố đầy rẫy sự ăn chơi xa xỉ, đã tạo ra một số gái mãi dâm nhà nghề không thể đếm xiết, thì Hải Phòng, một hải cảng sầm uất bực nhất của Đông Dương, một thành phố công nghệ mở mang, với hơn ba mươi nghìn dân lao động bần cùng ở các tỉnh dồn về, cũng có một đặc điểm là sản xuất được một số “anh chị” gian ác, liều lĩnh không biết là bao nhiêu.”. Ngay cả nhân vật Tám Bính, từ một cô gái thôn quê bị đày đọa bởi những tục lệ phong kiến ngặt nghèo, khắc nghiệt cũng phải bỏ làng ra tỉnh rồi bị lừa bịp, cưỡng hiếp biến thành lưu manh, gái điếm ở phố Hạ Lý và cuối cùng phải lành nghề “bỉ vỏ” cùng Năm Sài Gòn kiếm tiền sống qua ngày. Đàn em của Năm Sài Gòn như Tư-lập-lơ hay Ba Bay cũng sống trong tệ nạn hút thuốc phiện và ngay cả chính cha mẹ Tám Bính cũng vì buôn thuốc phiện mà suýt bị bắt vào tù. Cuộc đời Bính như một vòng lặp nhân quả, trong một lần “chạy vỏ”, Năm Sài Gòn đã cướp được đưa bé mang vòng vàng trên tàu thuỷ. Chị vội vàng nhận ra được, đó chính là đứa con của mình bị cha mẹ bán năm nào nhưng nó đã chết khi vừa lên bờ, cái xác của nó giờ đây đã lạnh ngắt như mặt đồng tiền. Qua ngòi bút hiện thực của Nguyên Hồng thì Bỉ vỏ đã góp một tiếng nói chung trong việc phản ánh xã hội Việt Nam trước cách mạng, mục rữa và vô nhân đạo. Chính nó đã đẩy con người trong giai đoạn này vào bước đường cùng, sống trong sự khốn nạn dài vô tận. Với bút pháp hiện thực đầy tỉnh táo, Nguyên Hồng đã miêu tả một cách dữ dội quá trình bần cùng hóa, tha hóa của lớp dân nghèo ở chốn thành thị. Đó là thời đại đầy hủ tục, con người sống trên định kiến của xã hội và đồng tiền dường như lăn tròn trên lương tâm của họ. “Tám Bính lẻ loi, bơ vơ, trơ trọi ấy, cũng cả một phần tôi và một phần của bao nhiêu người cùng cảnh. Tôi mượn Tám Bính để đưa ra giữa ánh sáng ban ngày một sự thật trong những sự thật của một hạng người, một số người. Tôi mượn Tám Bính để làm cho nhiều người thấy có một sự thật trong những sự thật như thế của xã hội.”. Bỉ vỏ giúp độc giả có cái nhìn rõ hơn về số phận đau khổ, nghiệt ngã của con người, nhất là người con gái trong xã hội lúc bấy giờ. Nguyên Hồng viết tiểu thuyết lúc chưa đầy hai mươi tuổi nên thông qua Bỉ vỏ, nhà văn đã thể hiện được giá trị nhân đạo, nỗi niềm cảm thông sâu sắc với những kiếp người bé mọn. Đồng thời ông trân trọng nâng niu những ước mơ, phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn của mỗi cá nhân, Bỉ vỏ là niềm tin tin vào khả năng vươn dậy của một con người trong xã hội đương thời. Tác phẩm đặt ra vấn đề về nhân cách, về khát vọng hạnh phúc của nhân vật để giúp người đọc có thể nhận thức được sâu sắc và nhìn rõ hơn mặt trái của thời đại Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Bỉ vỏ
Bỉ vỏ là tác phẩm đầu tay của Nguyên Hồng được Tự Lực Văn đoàn tặng giải nhì năm 1937. Bính là cô gái nghèo làng Sòi. Vì nhẹ dạ, yêu một gã Tham đạc điền và bị hắn bỏ rơi giữa lúc bụng mang dạ chửa. Cô bị cha mẹ hắt hủi, đay nghiến và đứa bé sinh ra phải đem bán đi vì sợ làng bắt vạ. Đau đớn, Bính trốn nhà đi Hải Phòng mong tìm được người tình. Sau mấy ngày đêm lang thang đói khát, có lần suýt bị làm nhục ở một vườn hoa, Bính gặp một gã trẻ tuổi nhà giàu. Gã lừa cô vào nhà hãm hiếp và đổ bệnh lậu cho cô. Vợ gã bắt gặp, đánh đập Bính tàn nhẫn và lôi cô ra Sở cẩm, vu là gái đĩ. Thế là Bính bị đưa vào nhà “lục xì”, sau đó rơi vào nhà chứa của mụ Tài sế cấu. Sống ê chề cực nhục ở nơi bẩn thỉu hôi hám, Bính ốm nặng. Đau khổ, tuyệt vọng, Bính toan tự tử nhưng được Năm Sài Gòn, trùm lưu manh ở Hải Phòng, chuộc ra khỏi nhà chứa, đem về chăm sóc hết lòng.
Trong xu hướng phát triển của xã hội hiện đại, Việt Nam coi công nghiệp ô tô là ngành quan trọng, cần ưu tiên phát triển để góp phần công nghiệp hóa đất nước. Hơn thế nữa, việc đầu tư của các hãng ô tô nước ngoài vào Việt Nam đang phát triển khá nhanh, do đó liên tục nhiều năm qua ngành Công nghệ kỹ thuật Ô tô được đưa vào danh mục các ngành “nóng” về nhu cầu lao động, và nhanh chống trở thành xu thế lựạ chọn cho các bạn trẻ. Nhưng không phải ai cũng hiểu rõ ngành Công nghệ kỹ thuật ô tô là gì? Ra trường làm gì?. Bài viết dưới đây sẽ giúp chúng ta giải đáp câu hỏi “ngành Công nghệ kỹ thuật ô tô là gì? Ra trường làm gì? để cùng định hướng tương lai các bạn nhé. Công nghệ kỹ thuật ô tô là ngành học tích hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực: cơ khí, tự động hóa, điện - điện tử và công nghệ chế tạo máy, chuyên về khai thác, sử dụng và quản lý dịch vụ kỹ thuật ô tô như điều hành sản xuất phụ tùng, lắp ráp, cải tiến, nâng cao hiệu quả sử dụng. Học ngành công nghệ kỹ thuật ô tô, sinh viên được trang bị kiến thức và kỹ năng chuyên sâu về cơ khí ô tô – máy động lực, hệ thống truyền động – truyền lực, cơ cấu khí, hệ thống điều khiển,… để có khả năng áp dụng những nguyên lý kỹ thuật cơ bản, kỹ năng thực hành cao và các kỹ năng liên quan đến ô tô. Các môn học chuyên ngành tiêu biểu và đặc trưng của ngành công nghệ kỹ thuật ô tô mà sinh viên được học như: Động cơ đốt trong, tính toán ô tô, hệ thống điện – điện tử ô tô, hệ thống điều khiển tự động trên ô tô, Công nghê chẩn đoán, sửa chữa và kiểm định ô tô, Hệ thống an toàn và tiện nghi trên ô tô, Quản lý dịch vụ ô tô,… Ngoài ra, những trường đại học đào tạo ngành công nghệ kỹ thuật ô tô có uy tín như Đại học Bách khoa – ĐHQG TP.HCM, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, Đại học Công nghệ TP.HCM (HUTECH), những trường có truyền thống lâu năm về đào tạo các ngành thuộc nhóm ngành kỹ thuật, công nghệ,… sinh viên còn được chú trọng cung cấp các kỹ năng chuyên môn như khai thác, sử dụng và dịch vụ kỹ thuật ô tô cũng như hoạt động điều khiển và lắp ráp, góp phần cải tiến, nâng cao hiệu quả sử dụng phương tiện và phương thức kinh doanh ô tô trên thị trường. Đây là những kỹ năng hết sức cần thiết cho một kỹ sư ngành Công nghệ Kỹ thuật ô tô trong tương lai. Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, thói quen đi lại của con người cũng được thay đổi, thì ô tô được xem là phương tiện thông dụng và được ưa chuộng ở hầu khắp các nước trên thế giới. Vì vậy việc bảo trì, bảo dưỡng động cơ, các hệ thống tự động cho đến nghiên cứu, cải tiến công nghệ và dòng sản phẩm mới theo xu hướng thị trường đều đòi hỏi vai trò quan trọng của các chuyên gia và kỹ sư công nghệ ô tô có trình độ kỹ thuật cao. Do đó, sinh viên ngành công nghệ kỹ thuật ô tô sau khi ra trường có thể đảm nhận các vị trí như: Kỹ sư vận hành, giám sát sản xuất phụ tùng, phụ kiện và lắp ráp ô tô, máy động lực tại các nhà máy sản xuất, cơ sở sửa chữa, bảo trì, bảo dưỡng ô tô; Kiểm định viên tại các trạm đăng kiểm ô tô; Nhân viên kinh doanh tại các doanh nghiệp kinh doanh ô tô, máy động lực, phụ tùng ô tô;.
Kỹ thuật ô tô
Kỹ thuật ô tô (Hay ở Việt Nam còn gọi là Công nghệ Kĩ thuật ô tô) hiện đại là một nhánh của kỹ thuật giao thông, bao gồm các yếu tố như kỹ thuật cơ khí, điện, điện tử, phần mềm và an toàn, ứng dụng để thiết kế, sản xuất và vận hành xe gắn máy, xe du lịch, xe tải và xe buýt và các hệ thống nhỏ trên ô tô. Ngày nay Kĩ thuật ô tô còn là thuật ngữ liên quan đến các ngành maketting về ô tô, dịch vụ hậu mãi và vận hành. Các trường đại học đào tạo ngành Kĩ thuật ô tô hàng đầu ở Việt nam phải kể đến trường Đại học Phenikaa ( Đại học Giao thông Vận tải (cokhioto.utc.edu.vn Lưu trữ 2020-08-05 tại Wayback Machine), Đại học Bách khoa Hà nội (hust.edu.vn), Đại học Bách khoa Hồ Chí minh (hcmut.edu.vn), Đại học sư phạm kỹ thuật Hồ Chí Minh (hcmute.edu.vn).
Micronesia là một trong ba khu vực văn hóa ở Thái Bình Dương cùng với Melanesia về phía nam, và Polynesia về phía đông. Khu vực này có khí hậu nhiệt đới đại dương và thuộc khu vực sinh thái châu Đại Dương. Micronesia có khoảng 2100 đảo với tổng diện tích đất liền là 2700 km2. Guam là đảo lớn nhất với diện tích 582 km2. Quần đảo Caroline bao gồm 500 đảo san hô và nằm ở phái bắc của New Guinea và phía đông của Philippines. Quần đảo Gilbert là một chuỗi 16 rạn san hô vòng và các đảo san hô nằm gần như trên một đường thẳng hướng từ bắc tới nam. Quần đảo này thuộc Kiribati. Quần đảo Mariana thuộc vùng lãnh thổ của Mỹ được cấu thành bởi 15 núi lửa. Đảo Wake là một rạn san hô vòng nằm phái bắc của quần đảo Marshall. Đảo Wake thuộc vùng lãnh thổ của Hoa Kỳ. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Quần đảo Mariana
Quần đảo Mariana là một quần đảo hình vòng cung của Mỹ, nó được tạo thành bởi 15 ngọn núi lửa ở phía tây bắc Thái Bình Dương từ 12 đến 31 độ vĩ bắc và dọc theo kinh tuyến 145 về phía đông. Quần đảo ở tại phía nam Nhật Bản và phía bắc New Guinea, và về phía đông của biển Philippines. Cuối phía nam của chuỗi quần đảo Mariana là đảo Guam. Quần đảo được đặt theo tên của Nữ hoàng Tây Ban Nha Mariana của Áo vào thế kỷ 17, khi Tây Ban Nha bắt đầu thuộc địa hóa quần đảo này. Những hòn đảo là một phần của một cấu trúc địa chất được gọi là hệ thống Izu-Ogasawara-Mariana Arc, và có độ tuổi từ 5 triệu năm tuổi ở phía bắc đến 30 triệu năm tuổi ở phía nam (Guam). Các chuỗi đảo được kiến tạo như là kết quả của rìa phía tây của mảng Thái Bình Dương di chuyển về phía tây và chìm xuống dưới mảng Mariana. Ngay phía đông của chuỗi đảo, Vực Mariana là nơi sâu nhất của Trái Đất và phần thấp nhất của lớp vỏ Trái Đất. Trong khu vực này, theo lý thuyết địa chất, nước bị mắc kẹt trong các đứt gãy sâu rộng của mảng Thái Bình DươngQuần đảo Mariana là phần phía bắc của nhóm đảo Micronesia, mặc dù chủ quyền của nhóm đảo thuộc về nhiều bên khác nhau nhưng chúng có chung các đặc điểm về địa lý.
Mật rỉ đường là gì? Mật rỉ đường hay còn gọi là rỉ mật, mật rỉ đường là một trong những loại hóa chất có độ đặc sánh cao, có màu đen, chính là sản phẩm sau cùng quá trình sản xuất đường. Mật rỉ đường có thành phần chính là sucroza với một lượng glucoza và fructoza. Mật rỉ đường được sử dụng khá phổ biến trong các ngành công nghiệp như chế biến thức ăn chăn nuôi, trong ngành thủy hải sản, mật rỉ đường trong xử lý nước thải……. + Trong sản xuất chế biến thức ăn chăn nuôi gia súc gia cẩm thì mật rỉ đường được sử dụng lên đến 50% trong suốt quá trình chế biến. + Mật rỉ đường được sử dụng như một loại thức ăn thay thế cho ngũ cốc, là một giải pháp cho việc nuôi thâm canh chăn nuôi ở vùng nhiệt đới. Rỉ mật có thể được cho gia sức ăn theo một cách khác nhau như trộn rỉ mật với thức ăn, rỉ mật pha loãng để cung cấp năng lượng trực tiếp cho gia súc. + Ngoài ra, mật rỉ đường có thể được dùng để lên men cho rượu bia, tạo hương cho thuốc lá, nguyên liệu sản xuất cồn. + Mật rỉ đường được dùng làm nguyên liệu cho sản xuất bột ngọt (mì chính), men thực phẩm. Rỉ mật đường chứa nhiều đường nên có thể dùng làm thức ăn bổ sung cung cấp năng lượng cho gia súc nhai lại. Ngoài ra, nó còn chứa nhiều nguyên tố khoáng đa lượng và vi lượng, rất cần thiết cho bò. Rỉ mật đường có vị ngọt nên bò thích ăn. Tuy nhiên không nên cho ăn quá nhiều và nên cho ăn rải đều để tránh làm giảm pH dạ cỏ đột ngột ảnh hưởng không tốt đến VSV phân giải xơ. Để được trải nghiệm những sản phẩm và dich vụ tốt nhất của công ty. Các bạn hãy liên hệ ngay với chúng tôi theo hotline 0934561220 hoặc các bạn có thể truy cập vào trang web ”hoachathaidang” để được hỗ trợ.
Rỉ đường
Rỉ đường hay rỉ mật, mật rỉ, mật rỉ đường, còn được gọi ngắn gọn là mật, là chất lỏng đặc sánh còn lại sau khi đã rút đường bằng phương pháp cô và kết tinh. Đây là sản phẩm phụ của công nghiệp chế biến đường (đường mía, đường nho, đường củ cải). Trong tiếng Anh, rỉ mật được gọi là molasses, xuất phát từ tiếng Bồ Đào Nha melaço, là dạng so sánh hơn nhất của mel, từ Latin (và Bồ Đào Nha) của "mật ong". Chất lượng của rỉ đường phụ thuộc vào độ chín của mía hoặc củ cải nguyên liệu, lượng đường chiết được và phương pháp chiết đường.
Kem nền là loại mỹ phẩm không thể thiết trong tủ đồ makeup của các chị em. Kem nền có tác dụng che khuyết điểm trên khuôn mặt, giúp da mặt trở nên trắng sáng và mịn màng hơn. Bạn đang muốn tìm hiểu về kem nền, cách lựa chọn kem nền và các loại kem nền tốt nhất hiện nay thì đừng bỏ lỡ bài viết dưới đây của Beauty Place Blog nhé. Kem nền là loại kem giúp che đi khuyết điểm ở trên mặt như các vết mụn, tàn nhang, nám, thâm,… Trên mặt của chúng ta luôn có những khuyết điểm nên cần phải sử dụng tới kem nền để che đi những khuyết điểm này. Kem nền là loại kem sử dụng trong công đoạn đầu tiên của trang điểm. Che khuyết điểm cho vùng da mụn, sẹo, không đều màu, làm mịn và phẳng da. Tác dụng kiềm dầu: Da đổ dầu là một trong những nguyên nhân làm trôi lớp trang điểm. Bổ sung độ ẩm cho da, khoáng chất, vitamin, chống nắng và bảo vệ da hiệu quả. Kết hợp với các lớp trang điểm khác sẽ trở nên đẹp hơn và có thể tạo ra nhiều phong cách khác nhau khi makeup. Kem nền hiện nay có rất nhiều loại và có nhiều công dụng, tính năng khác nhau, đáp ứng với nhu cầu của từng chị em. Bạn hãy lựa chọn cho mình một loại kem nền phù hợp với nhu cầu sử dụng để đạt hiệu quả cao nhất nhé. Kem nền thông thường: Kem nền loại này dùng để tạo khối trên mặt, làm đều màu da và che khuyết điểm. Loại kem này chỉ nên sử dụng trong khoảng 2 – 3 giờ là bạn phải tẩy trang vì nó khá bí và dày. Kem nền đa năng BB Cream: Kem nền BB cream là loại kem có khả năng chống nắng và dưỡng ẩm giúp tạo cảm giác mềm mại cho làn da. Kem nền BB Cream được khá nhiều chị em sử dụng ở Việt Nam do phù hợp với thời tiết. Tuy nhiên nếu bạn da dầu và đổ nhiều mồ hôi thì không nên sử dụng bởi rất dễ làm hạ tone màu. Kem nền CC Cream: Được cải tiến từ BB Cream do có thêm vitamin E và C giúp tăng khả năng đề kháng cho làn da của bạn tuy nhiên kem nền CC Cream lại không có khả năng kiềm dầu tốt nên xuống tone màu nhanh. Kem nền CC Cream khá khô thoáng nên thường được sử dụng cho da ít khuyết điểm và không đều màu. Kem nền DD Cream: Là loại kem nền có độ che phủ tốt hơn rất nhiều so với CC Cream, tăng cường khả năng bảo vệ da và dưỡng da, giúp bạn có làn da khỏe mạnh, săn chắc. CC Cushion: Là dạng cải tiến của CC Cream và có dạng phấn nước, dạng này được khá nhiều chị em sử dụng hiện nay. Được biết đến có khả năng giữ tone màu, bảo vệ da tốt nhưng cũng khá ít tone màu cho các chị em lựa chọn. Tension: Là phiên bản cải tiến hơn của Cushion, Tension có tạo lớp nền tốt hơn, che khuyết điểm và bảo vệ da tốt hơn. Độ che phủ của kem nền là một trong những yếu tố đầu tiên cần chú ý khi mua kem nền. Nếu như làn da của bạn có nhiều khuyết điểm thì nên lựa chọn những loại kem nền có khả năng che phủ tốt như Tension. Nếu như da của bạn ít những vết mụn, thâm hay khuyết điểm thì nên sử dụng kem nền BB Cream hoặc CC Cream nhé. Khi ra ngoài bạn thường xuyên phải tiếp xúc với ánh nắng mặt trời thì sử dụng kem nền tích hợp khả năng chống nắng là phương pháp tối ưu nhất. Để bảo vệ làn da khỏi ánh nắng mặt trời tốt nhất thì bạn nên lựa chọn kem có chỉ số SPF từ 15+ trở lên. Thông thường sau khoảng vài tiếng sử dụng kem nền sẽ bị xuống tone màu, nguyên nhân là do mồ hôi và dầu trên da. Để không gặp tình trạng xuống tone màu thì các bạn nên lựa chọn những loại kem có khả năng giữ tone màu ít nhất là 3 tiếng nhé. Bạn nên lựa chọn những loại kem nền có khả năng cung cấp độ ẩm, vitamin E, C nhằm giúp da khỏe mạnh, giảm nếp nhăn trên da. Kem nền là loại kem cần phải lựa chọn tone màu gần giống với màu da của bạn để không lộ ra những khuyết điểm cũng như giúp lớp trang điểm của bạn đẹp và tự nhiên hơn rất nhiều. Đối với mỹ phẩm bạn cần phải lựa chọn thương hiệu uy tín và đảm bảo để không gây ảnh hưởng xấu cho làn da của mình khi sử dụng. Trên thị trường cũng có rất nhiều loại kem nền giả, nhái và kém chất lượng nên khi mua bạn cần phải lựa chọn những nơi bán, cung cấp uy tín. Bạn nên mua tại các gian hàng chính hãng của các thương hiệu mỹ phẩm nổi tiếng trên các sàn thương mại điện tử để mua được sản phẩm chuẩn nhất, ngoài ra bạn có thể tìm kiếm trong các trung tâm thương mại như VINCOM, BigC. Giá kem nền cũng làm một yếu tố quyết định tới chất lượng của loại kem bạn sử dụng, thông thường giá kem nền chính hãng giao động trong khoảng 200.000 đến 300.000 đồng một sản phẩm, với dòng sản phẩm cao cấp hơn thì giá sẽ tăng lên. Bạn có thể sử dụng mức giá này để biết được kem nền mình mua có thật sự chất lượng không. Maybelline Fit Me là dòng kem nền bình dân tới từ thương hiệu Maybelline New York tới từ Mỹ được sự quan tâm của rất nhiều chị em Việt Nam. Maybelline Fit Me có nhiều tone màu và giữ màu lâu, thêm vào đó là chất kem siêu mịn, khô thoáng, cấp ẩm cho da, giúp ngăn ngừa chảy xệ da và còn có tác dụng làm se khít lỗ chân lông. Được chiết xuất từ các thành phần có trong tự nhiên nên Maybelline Fit Me có khả năng kiềm dầu tốt và có thể dùng cho vùng da mụn, loại kem này cũng rất phù hợp với thời tiết ở Việt Nam. Với mức giá khoảng 200.000Đ cho một sản phẩm thì chắc chắn Maybelline Fit Me là dòng kem được đánh giá là khá rẻ so với giá trị mà nó đem lại. Dù là học sinh, hay sinh viên thì bạn đều có thể sở hữu kem nền này. Đối với những người có nhiều khuyết điểm trên mặt như nám, tàn nhang, các vết mụn, rỗ thì nên sử dụng dòng kem nền Revlon Colorstay Foundation bởi khả năng che phủ của dòng kem nền này là cực kỳ cao. Dòng kem nền này cũng có khả năng kiềm dầu tốt nên chắc chắn lớp trang điểm của bạn sẽ được giữ lại rất lâu mà không bị xuống tone màu. Giá bán của dòng kem nền này là khoảng 200.000Đ cho một sản phẩm, phù hợp với túi tiền của nhiều người nên được mình đánh giá khá cao. Nằm trong phân khúc cao cấp là Laneige BB Cushion Pore Control Ex, dòng sản phẩm này được nhập khẩu từ Hàn Quốc. Laneige BB Cushion Pore Control Ex chiết xuất hoàn toàn từ tự nhiên từ đó giúp cấp ẩm, kiểm soát dầu, tạo cảm giác thoải mái, mềm mịn cho làn da trong quá trình sử dụng. Có nhiều tone màu cho bạn lựa chọn và lên màu rất tự nhiên, thêm vào đó là Cushion giúp tăng hiệu ứng cho da của bạn sau khi trang điểm. Khả năng giữ màu của Laneige BB Cushion rốt tốt do kiểm soát được lượng dầu trên da và phù hợp với cả da dầu mụn. Sản phẩm cũng có khả năng chống nắng và bảo vệ da khỏi các tác nhân từ môi trường cực kỳ tốt. Với những công dụng trên nên giá của Laneige BB Cushion Pore Control Ex khá cao, giá một sản phẩm khoảng hơn 900.000Đ do vậy bạn nên cân nhắc khi mua sản phẩm này. Thương hiệu mỹ phẩm tới từ Pháp Makeup Forever cũng có dòng kem nền được đông đảo các chị em sử dụng do có khả năng che khuyết điểm cực tốt, chất kem từ tự nhiên, mỏng, mềm mịn và an toàn với làn da. Makeup Forever có một số dòng kem nền sau đây:. Makeup Forever Water Blend Face & Body Foundation: Đây là dòng kem nền dành cho những người có ít khuyết điểm, lớp nền rất nhẹ nhàng, giữ tone màu tốt và tự nhiên. Makeup Forever Ultra HD Foundation: Dòng kem nền này có khả năng bắt sáng rất hiệu quả, giúp bạn có trông luôn rạng ngời và trẻ trung, thêm vào đó là khả năng cung cấp độ ẩm, dưỡng da và bảo vệ tế bào da. Makeup Forever Mat Velvet+ Foundation: Với những người da dầu thì nên sử dụng dòng sản phẩm này bởi có khả năng kiểm soát dầu gần như tuyệt đối, giúp giữ lớp trang điểm lâu hơn. Makeup Forever Ultra HD Stick Foundation: Dòng kem nền giúp tạo lớp trang điểm tự nhiên, nhanh chóng nhất nhưng vẫn đem lại khả năng che khuyết điểm cao. Giá của các dòng kem nền trên thường giao động trong khoảng 200.000Đ cho một sản phẩm. Nếu như bạn đang tìm đến một loại kem nền có khả năng bảo vệ, chăm sóc làn da của mình hiệu quả nhất thì bạn nên sử dụng tới kem nền của Neutrogena. Kem nền của Neutrogena bảo vệ da khỏi ánh nắng mặt trời và các tác nhân bên ngoài môi trường cực tốt, bên cạnh đó là khả năng che phủ của loại kem này tương đối tốt, chất kem mềm mịn đem lại cảm giác thoải mái khi sử dụng. Kem nền Neutrogena Healthy Skin Liquid Makeup phù hợp với hầu hết các loại da ngay cả da dầu mụn hay da nhạy cảm. Kem nền Neutrogena Healthy Skin Liquid Makeup được bán trên thị trường với giá khoảng 180.000Đ một sản phẩm. L’Oreal là thương hiệu mỹ phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới với rất nhiều dòng sản phẩm khác nhau và đặc biệt nổi bật ở các dòng dưỡng da, Serum chuyên sâu và kem nền. Nếu như bạn có một làn da khô thì chắc chắn bạn nên sử dụng kem nền L’Oreal Alliance Perfect bởi nó có khả năng cấp ẩm cực tốt ngoài ra còn giúp chăm sóc da, dưỡng da, trong quá trình sử dụng không gây cảm giác khô da hay khó chịu. Kem nền L’Oreal Alliance Perfect còn bổ sung chất chống oxy hóa và vitamin giúp bạn có làn da khỏe mạnh, tươi sáng, ngăn ngừa lão hóa da. Kem nền L’Oreal hiện được bán với giá khoảng 230.000 cho một sản phẩm bạn có thể tham khảo mua trên các sàn thương mại điện tử. Là một thương hiệu khá nổi tiếng về mỹ phẩm tới từ Hàn Quốc, các dòng sản phẩm Innisfree được người dùng tại Việt Nam khá ưa chuộng và đặc biệt không thể không kể đến kem nền. Đặc điểm của kem nền Innisfree là rất thân thiện với da ngay cả với làn da khô, da dầu mụn hay da kích ứng đều không gây hại. Kem nền Innisfree Smart Foundation tạo lớp nền hết sức tự nhiên nhưng nếu bạn có nhiều khuyết điểm thì không nên sử dụng loại kem nền này vì độ che phủ kém hơn so với những dòng kem khác. Với khả năng chống nước và kiềm dầu tốt nên kem nền Innisfree có thể giúp bạn giữ lại lớp trang điểm trong thời gian dài mà không bị xuống tone màu. Mức giá của Innisfree Smart Foundation cũng khá mềm chỉ khoảng 140.000 – 150.000Đ cho một sản phẩm. Mỹ phẩm M.A.C chắc chắn là một cái tên quen thuộc đối với các chị em thích đam mê makeup rồi đúng không. Các dòng kem nền của hàng mỹ phẩm này được đánh giá rất cao của người sử dụng. Thuộc phân khúc cao cấp nên kem nền M.A.C Mineralize Moisture SPF 15 Foundation có độ che phủ rất tốt, lớp nền tự nhiên và có khả năng chống nắng cực hiệu quả. Thời gian giữ trang điểm và tone màu lên tới hơn 6 tiếng, kèm theo đó là cảm giác khô thoáng trong suốt quá trình sử dụng sản phẩm. Giá của một sản phẩm giáo động khoảng 750.000Đ bạn hãy cân nhắc trước khi mua. Là một thương hiệu được nhiều tín đồ làm đẹp tin tưởng, kem nền của Wet N Wild cũng là một sản phẩm bạn nên có. Kem nền của Wet N Wild có đặc điểm nổi trội là không bị oxi hóa nên lớp trang điểm của bạn có thể được giữ lại sau cả ngày dài. Cũng có nhiều tone màu cho bạn thỏa thích lựa chọn. Chất kem khá mịn và có độ che phủ tốt với cả vùng da nhiều khuyết điểm nên dòng kem Wet N Wild Photo Focus Foundation luôn được người dùng đánh giá cao. Kem nền Aspasia 4U BB Cream cũng là một sản phẩm được các chị em sử dụng nhiều bởi hiệu quả khá cao. Ngoài làm kem nền, kem lót khi trang điểm thì sản phẩm này còn giúp bổ sung độ ẩm cho da, dưỡng trắng da và chống nắng rất hiệu quả. Được chiết xuất từ những nguyên liệu tự nhiên và các khoáng chất, vitamin nên Aspasia 4U BB Cream rất an toàn với da và còn có tác dụng tăng cường đề kháng cho da. Aspasia 4U BB Cream có độ che phủ tương đối cao và đều màu, giữ màu tone lâu và rất phù hợp với thời tiết tại Việt Nam. Là công đoạn đầu tiên và cũng là quan trọng nhất khi makeup, trước khi đánh kem nền bạn cần phải vệ sinh da đúng cách để có một lớp trang điểm đẹp, lâu trôi nhất. Có nhiều bạn không vệ sinh sạch mặt trước khi đánh kem nền dẫn tới lớp nền bí, đổ dầu, mốc và nhanh xuống tone màu. Do vậy trước khi đánh kem nền thì bạn cần vệ sinh mặt thật sạch và sử dụng thêm một số sản phẩm dưỡng da, tạo độ ẩm cho da nếu có. Đánh kem nền bằng mút là phương pháp được nhiều người sử dụng do có nhiều ưu điểm: giúp lớp nền mịn và đều hơn, thao tác nhanh chóng, dễ dàng, chia đều kem cho các vùng da trên mặt, đặc biệt hiệu quả cao với da dầu mụn. Phương pháp dùng tay đánh kem nền cũng có thể sử dụng nếu như bạn là một người có kỹ thuật trang điểm tốt.
Kem nền
Kem nền hay phấn nền là mỹ phẩm trang điểm có màu sắc trùng với da được thoa trên khuôn mặt để tạo nên một màu đồng nhất cho da, để che khuyết điểm và đôi khi thay đổi tông màu da tự nhiên. Một số kem nền cũng có chức năng như là kem dưỡng ẩm, kem chống nắng, chất se khít hoặc lớp nền cho những mỹ phẩm phức tạp hơn. Kem nền thoa lên cho cơ thể thường được gọi là "body painting". Sử dụng mỹ phẩm để trang điểm da có từ tận thời cổ đại. "Vẽ khuôn mặt" được đề cập trong kinh Cựu Ước (Ezekiel 23:40). Người Ai Cập cổ đại đã sử dụng kem nền. Vào năm 200 TCN, phụ nữ Hy Lạp cổ sử dụng bột chì trắng và đá phấn để làm sáng da. Nó được xem như mốt thời trang cho phụ nữ Hy Lạp có làn da nhợt nhạt. Phụ nữ La Mã cũng ưa thích làn da nhợt nhạt. Người Lã Mã thượng lưu ưa thích hỗn hợp nhão chì trắng, có thể dẫn đến sự biến dạng và tử vong. Đàn ông trang điểm để làm sáng tông màu da của họ.
Nếu gõ cụm từ "volunteer orphanage abroad" (tình nguyện viên tại trại trẻ mồ côi nước ngoài), bạn sẽ tìm thấy hơn 1.190.000 kết quả, chủ yếu từ các hãng lữ hành. Dù xuất phát từ mục đích tốt là muốn hỗ trợ và giúp đỡ những đứa trẻ có hoàn cảnh khó khăn nhưng trên thực tế, việc khách du lịch làm thiện nguyện tại những trại trẻ mồ côi ở các nước khác chính là nhân tố thúc đẩy nhiều bất cập. Trong những năm gần đây, ở Thái Lan, Campuchia, Nepal, Ấn Độ hay một số quốc gia ở châu Phi đều đang chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của các trại trẻ mồ côi kêu gọi sự giúp đỡ của các tình nguyện viên là những vị khách nước ngoài du lịch tới đây. Theo Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Australia, các địa điểm du lịch tình nguyện phổ biến dành cho người Úc như Bali, Thái Lan hay Campuchia đều chứng kiến số lượng trại trẻ mồ côi tăng lên đến 500% kể từ khi xu hướng này xuất hiện. "Hầu hết mọi người đều xuất phát từ ý tốt. Các tình nguyện viên thường tận dụng các kỳ nghỉ của mình để đến với những trại trẻ mồ côi, giúp đỡ và hỗ trợ các em có cuộc sống tốt hơn. Tuy nhiên nhiều người dân địa phương đã lợi dụng tình thương ấy để bắt cóc hoặc ép buộc những đứa trẻ có gia đình vào các trại trẻ mồ côi tự phát nhằm trục lợi", chuyên gia bảo vệ trẻ em Karen cho biết. Nhiều người đã lợi dụng những tình nguyện viên nước ngoài để thành lập nên trại trẻ mồ côi bất hợp pháp. Theo tổ chức vận động ReThink Orphanages vào năm 2019, ước tính có khoảng 80% trẻ em sống trong trại trẻ mồ côi không phải là những đứa trẻ mồ côi thực sự và các em có ít nhất cha hoặc mẹ còn sống. "Thật kinh khủng khi phát hiện ra những đứa trẻ này bị lạm dụng để trục lợi. Tôi cảm thấy kinh hoàng và quyết tâm thay đổi thực trạng này", luật sư Doore nói với Reuters. Những kẻ buôn người tìm thấy cơ hội kiếm tiền béo bở từ những trại trẻ mồ côi - nơi thu hút một lượng tiền từ thiện lớn từ những cá nhân, tổ chức từ thiện. Tại các quốc gia đang phát triển, từ Campuchia đến Haiti, những trại trẻ mồ côi mọc lên như nấm, các địa chỉ này cần có trẻ em sống ở đây. Các chuyên gia nhận định, những tay buôn thường dụ dỗ người nghèo ở vùng sâu vùng xa, hứa hẹn cho con cái của họ cơ hội học hành. Chúng làm giấy tờ giả, đặt tên mới cho các em nhỏ, đưa chúng vào trại để thu hút nhà hảo tâm và du khách nước ngoài. Luật sư Van Doore cho biết, nữ mục sư điều hành trại trẻ mồ côi Uganda đã làm hồ sơ giả cho bọn trẻ, đẩy các em vào "hoàn cảnh đáng thương" để hút tài trợ. Nhiều em bị sốt rét và suy dinh dưỡng. Tại Kathmandu, tổ chức Forget Me Not phát hiện ra giấy báo tử giả của cha mẹ bọn trẻ, nhiều em bị ép phải nói dối. "Những câu chuyện đáng sợ lộ ra khi các gia đình đến cổng thăm con, bọn trẻ chỉ đứng nhìn cha mẹ chúng qua cửa sổ", Doore tiết lộ. Campuchia là một trong những điểm đến hàng đầu dành cho những du khách trẻ tuổi. Những năm gần đây, hình thức du lịch trại trẻ mồ côi trở nên phổ biến đã thúc đẩy nhiều khách tham quan đăng ký tham gia thông qua những công ty toàn cầu. Tuy nhiên, những du khách ấy không hề biết rằng lòng tốt của mình đang bị lợi dụng. Điển hình là trường hợp của Sinet Chan, sống trong một trại trẻ mồ côi ở Campuchia. Có nhiều điều về cô bé 9 tuổi này bị giấu nhẹm khi những du khách ghé thăm em. Lúc họ trở về khách sạn, máy ảnh đầy bộ nhớ và thiện ý tốt hoàn thành, họ vẫn hoàn toàn không biết mình vừa ủng hộ cho ai. "Ông chủ cho chúng cháu ăn mặc rách rưới để khách thương cảm khi nhìn thấy và quyên tặng nhiều tiền hơn. Nhưng họ không hề biết điều gì xảy ra trong trại trẻ này", Chan nói. Một số trại trẻ mồ côi còn kết nối với các nhà nghỉ, tài xế taxi và nhất là các công ty du lịch nước ngoài cung cấp công việc tình nguyện để thu hút được nhiều du khách hơn. Joseph Mwuara, 20 tuổi, là một trường hợp thoát khỏi đường dây buôn bán trẻ em. Mwuara phát biểu trong hội nghị Trust Conference về việc một chủ trại trẻ mồ côi gần ngôi làng ở Kenya đã đón mình từ nhà bà và hứa cho cậu đi học. "Chuyện này thật tồi tệ. Chúng tôi phải làm rất nhiều việc để kiếm thức ăn. Nếu không kiếm được việc gì, chúng tôi sẽ bị phạt nhịn đói", chàng trai trẻ nói. Khi có người đến thăm và quyên góp tiền, các em phải khiến khách vui lòng, nhưng các món quà tặng sẽ bị đem bán. Mwuara nói rằng trẻ em trong trại bị ép phải vắt sữa bò, lau dọn nhà kho và làm ruộng. "Bọn họ rất bạo lực. Họ đã đánh gãy chân một cậu bé", Mwuara cho biết thêm. Hiện chàng trai này tham gia các chương trình nâng cao nhận thức về nạn buôn bán trẻ mồ côi và giúp đỡ các trường hợp bị đưa vào trại trẻ bất hợp pháp. Có những sự thật đen tối bị chôn giấu đằng sau các trại trẻ mồ côi. Nhiều trại trẻ mở ra tại các điểm du lịch. Một số nơi bắt các em biểu diễn, ra đường ăn xin, hoặc ép lao động nặng nhọc. Ngoài ra, việc thiếu sót trong quy trình sàng lọc tình nguyện viên khiến nhiều bé có nguy cơ bị lạm dụng tình dục. Đội ngũ tình nguyện viên thay đổi liên tục cũng tác động đến quá trình hình thành tính cách của trẻ khi trưởng thành. Snezana Vuckovic, 24 tuổi, lớn lên ở trại trẻ mồ côi ở Serbia và bị một giáo viên cưỡng hiếp, bắt nạt, đánh đập. "Chúng tôi bị đánh. Chúng tôi đã thực sự bị tra tấn. Tôi vẫn thường giật mình tỉnh dậy trong đêm, thấy mình đang khóc và run rẩy. Tôi đẩy mọi người ra xa", Vuckovic phát biểu tại hội nghị Trust Conference. Nhận thấy nhu cầu ngày một lớn, nhiều công ty du lịch nước ngoài đã cung cấp các gói tình nguyện để du khách có những trải nghiệm thú vị tại những vùng đất xa xôi. Cô Caroline Green là một nữ du khách như vậy khi cô quyết định đi sang Thái Lan để mở mang tầm mắt. Người phụ nữ 45 tuổi này, đang điều hành một cơ sở làm tóc và nối tóc, đã lựa chọn một tổ chức từ thiện tên là Starfish để sắp xếp cho cô cùng những du khách khác tham gia tình nguyện trong 2 tuần tại trại trẻ mồ côi với mức phí gần 12 triệu đồng bao gồm cả chỗ ở cơ bản. Caroline đã trả tiền trước khi bắt đầu đến Thái Lan. Khi đến nơi cô gặp những tình nguyện viên khác cùng đăng ký giúp đỡ tại trại trẻ mồ côi. Tuy nhiên chỉ sau vài ngày ở đây, Caroline cảm thấy có điều gì đó không ổn một chút nào. Cô Caroline Green đã có trải nghiệm đầy ám ảnh tại một trại trẻ mồ côi. "Tôi khá sốc với điều kiện ăn ở của các em nơi đây. Những đứa trẻ nằm lăn lóc trên sàn, không có giường hoặc chăn đắp. Em nhỏ nhất mới 2 tuổi. Vào bữa tối, 29 em cùng nhau chia sẻ một con gà và một ít rau. Tất cả các tình nguyện viên đã đến đây đều đóng góp gần 6 triệu đồng trong một tuần. Vậy tất cả số tiền ấy đã đi đâu?. Sau đó, Caroline nhận ra rằng các em không phải là trẻ mồ côi. Cha mẹ các em đã được thuyết phục rằng khi gửi con họ vào trại trẻ mồ côi các em sẽ có cuộc sống tốt hơn nhưng thực tế thì không như vậy. "Tôi thấy người điều hành trại trẻ kéo các em đi khắp phòng và không ngừng quát mắng chúng. Sau đó một người Thái Lan đang thực tập tại trại trẻ mồ côi nói rằng những đứa trẻ tại đây cho biết họ đã bị đánh đập và bị đe dọa. Tôi không thể ngừng khóc vì những gì đã xảy ra", Caroline chia sẻ hồi ức kinh hoàng trong lần đi tình nguyện của mình vào năm 2015. Năm 2015, tập đoàn du lịch quốc tế Intrepid Travel đã trở thành một trong những đại lý du lịch lớn đầu tiên loại bỏ tất cả các chuyến thăm trại trẻ mồ côi khỏi các chuyến đi được quảng cáo của họ. "Intrepid Travel không cung cấp hoặc hỗ trợ hoạt động du lịch tình nguyện, hoặc du lịch trại trẻ mồ côi cho vấn đề đó. Trẻ em không phải là điểm thu hút khách du lịch và không nên bị đối xử như vậy", giám đốc Leigh Barnes nói. Chuyên gia luật quốc tế Melanie OBrien của Đại học WA cho rằng các công ty du lịch cần phải chịu trách nhiệm về các chương trình tình nguyện của họ để tránh hỗ trợ các hoạt động phi đạo đức. Tiến sĩ OBrien cho hay: "Các công ty cần đặt ra câu hỏi là tiền và nguồn lực có thực sự đến được nơi họ cần hay không?. Nhiều biện pháp đã được đưa ra để dập tắt những trại trẻ mồ côi phi pháp. Tổ chức Forget Me Not và Lumos muốn chuyển hướng khoản tiền tài trợ vào các trại mồ côi sang hỗ trợ các gia đình và cộng đồng chăm sóc trẻ em. Hiện nhiều tổ chức xã hội đã vào cuộc để đẩy lùi loại hình du lịch tới các trại trẻ mồ côi ở những quốc gia phát triển. Australia là quốc gia đầu tiên hành động, gây áp lực lên các công ty lữ hành nhằm chấm dứt loại hình du lịch thăm trại mồ côi. Luật sư Doore cho biết cô cũng đang đàm phán với các giới chức Anh. "Nếu mọi người biết sự tổn hại mà họ gây ra bởi tài trợ, tình nguyện và thăm trại trẻ mồ côi, nó sẽ có tác động thực sự. Chúng ta cần gửi thông điệp đó tới mọi người", cô nói. Trong khi đó, Campuchia cũng đã thực hiện một số biện pháp nhằm nỗ lực xóa bỏ những bất cập về các trại trẻ mồ côi tự phát và đưa những đứa trẻ trở về với gia đình của các em. Hợp tác cùng với UNICEF, chính quyền địa phương đã kiểm tra và đóng cửa nhiều trại trẻ mồ côi không đảm bảo yêu cầu. Đồng thời, một chương trình tái hòa nhập đã được triển khai cho hàng trăm trẻ em Campuchia có người thân hoặc có cha mẹ đầy đủ. Bình luận của bạn đã được gửi và sẽ hiển thị sau khi được duyệt bởi ban biên tập. Ban biên tập giữ quyền biên tập nội dung bình luận để phù hợp với qui định nội dung của Làm Cha Mẹ.
Trại trẻ mồ côi
Trại trẻ mồ côi hay cô nhi viện (ở Việt Nam còn được gọi là mái ấm tình thương, mái ấm nhà mở) là những cơ sở nhằm mục đích thu nhận, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ mồ côi (là những trẻ em có cha mẹ đã chết hoặc không có đủ điều kiện, khả năng hay không muốn chăm sóc cho những trẻ này). Cha mẹ, và đôi khi ông bà có trách nhiệm về mặt pháp lý để chăm sóc, nuôi dưỡng, hỗ trợ trẻ em, nhưng trong trường hợp không có điều kiện do hoàn cảnh éo le hoặc không người thân khác sẵn sàng để chăm sóc cho các trẻ em, thì những trẻ mồ côi này trở thành một đối tượng chăm sóc của nhà nước và xã hội và những trại trẻ mồ côi là một trong những cách thức thể hiện cho việc chăm sóc và là nhà mái nhà, gia đình của những trẻ mồ côi. Đây là một trong những phúc lợi xã hội, chính sách an sinh, thiện nguyện xã hội của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, một số trại trẻ mồ côi, đặc biệt là ở các nước đang phát triển do điều kiện quản lý chưa tốt, nhận thức chưa thật đầy đủ thì trẻ em ở đó có thể bị tổn thương ngay từ chính những cơ sở nuôi dưỡng này như việc bị ghét bỏ, ghẻ lạnh, ngược đãi hành hạ, lạm dụng sức lao động, lạm dụng tình dục trẻ em.
Vụ đánh bom khách sạn Marriott tại Islamabad xảy ra ngày 20 tháng 9 2008. Vụ nổ đã phá sập một phần của khách sạn Marriott ở thủ đô Pakistan, giết chết ít nhất 54 người, kể cả đại sứ Séc, hai công dân Hoa Kỳ và một công dân Việt Nam, và làm bị thương 266 người khác. Theo như giới chức trách, số thương vong chắc chắn sẽ còn lên cao hơn ở nơi từng được bảo vệ cẩn mật này. Ahmad Latif, một viên chức cao cấp cảnh sát Pakistan, cho biết rằng đây là một trong những vụ tấn công lớn nhất của khủng bố trong lịch sử Pakistan. Khách sạn Marriott là địa điểm khách ngoại quốc và giới thượng lưu thường tới ở hay sinh hoạt hội hè ở Islamabad mặc dù đã mấy lần bị khủng bố tấn công. Một nhân viên canh gác tại chỗ, Mohammad Nasir, và một số nhân chứng khác cho hay họ nhìn thấy một chiếc xe vận tải lớn hướng tới phía cổng trước khi nổ tung. Chiếc xe bom đã phát nổ khoảng 8 giờ tối ngày thứ Bảy 19 tháng 9, nơi các nhà hàng bên trong đã đầy thực khách, kể cả những người Hồi giáo chấm dứt thời gian nhịn ăn trong ngày vào dịp lễ Ramadan để chuẩn bị dùng bữa tối. Nhân viên cấp cứu đã kéo các xác nạn nhân ra khỏi tòa nhà cháy đen của khách sạn hôm Chủ Nhật 21 tháng 9, với tổng số người thiệt mạng đã lên đến 54 người. Khách sạn năm tầng này đã bốc khói sau trận hỏa hoạn kéo dài nhiều tiếng đồng hồ tiếp theo vụ nổ hôm 20 tháng 9. Vụ nổ xe bom tự sát này được coi là một trong những cuộc khủng bố lớn nhất ở Pakistan từ trước đến nay. Ðã không có nhóm nào lên tiếng nhận trách nhiệm dù rằng người ta tình nghi là al-Qaeda và Pakistan Taliban có nhúng tay. InteCenter, một nhóm ở Hoa Kỳ chuyên theo dõi và phân tích các tin tức về phiến quân, cho hay trong cuốn phim kỷ niệm cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2008, al-Qaeda đã đe dọa mở các cuộc tấn công nhắm vào những nơi có liên quan đến Tây Phương ở Pakistan, nơi nhiều người giận dữ về một loạt các cuộc tấn công nhắm vào các căn cứ của phiến quân ở vùng biên giới với Afghanistan. Chủ khách sạn cáo buộc lực lượng an ninh đã lơ là để xảy ra việc một xe chở rác có thể đến ngay cửa khách sạn mà không bị chặn lại và đã không bắn người tài xế trước khi ông ta cho nổ quả bom. “Nếu tôi ở đó và nhìn thấy tên khủng bố tự sát, tôi đã giết hắn ta. Ðáng tiếc là họ không làm điều này,” theo lời Sadruddin Hashwani. Chính quyền Pakistan đã cho phổ biến một đoạn phim lấy từ máy thu hình an ninh ở khách sạn, cho thấy chiếc xe lớn tăng tốc độ khi quẹo trái ở cổng, húc đổ một hàng rào cản bằng sắt và ngừng lại chỉ cách khách sạn chừng 18 thước. Thủ tướng Yousuf Raza Gilani cho hay tên khủng bố tấn công khách sạn sau khi sự canh phòng cẩn mật của lực lượng an ninh không cho y đến được nghị viện hay văn phòng thủ tướng, nơi tổng thống và nhiều quan khách đang tham dự dạ tiệc. “Mục tiêu của cuộc tấn công là tạo sự bất ổn trong nền dân chủ,” ông Gilani nói. “Chúng muốn phá hoại chúng ta qua về mặt kinh tế.”. Các toán cấp cứu đã đi lục soát từng căn phòng cháy đen hôm Chủ Nhật 21 tháng 9 nhưng nhiệt độ vẫn còn nóng và lửa vẫn còn cháy ở một số nơi. Giới chức trách lo ngại rằng tòa nhà chính sẽ sụp đổ. Bộ trưởng Nội vụ Rehman Malik cho hay xe bom này chứa khoảng 589 ký lô chất nổ quân sự cũng như các quả đạn đại bác và súng cối, để lại một hố rộng 18 mét, sâu khoảng hơn 7 thước ngay trước cửa tòa nhà chính. Thủ tướng Gilani nói số người thiệt mạng đã vào khoảng 54 người, trong số này có cả đại sứ Cộng Hòa Tiệp ở Pakistan, ông Ivo Zdarek. Ông Zdarek, 47 tuổi, chỉ mới đến nhận nhiệm sở ở Islamabad hồi tháng 8 sau khi làm đại sứ ở Việt Nam trong bốn năm. Bộ trưởng Malik nói rằng có hai người quốc tịch Hoa Kỳ đã được xác nhận là thiệt mạng, cùng với một người quốc tịch Việt Nam. Từ khi tuyên bố là một đồng minh của Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống khủng bố, Pakistan đã phải đối đầu với một loạt các vụ tấn công, phá hoại của phiến quân tiếp theo sau cuộc hành quân của quân đội chính phủ vào khu vực biên giới, nơi sinh sống của bộ tộc và cũng là nơi ẩn náu của thành phần Taliban và al-Qaeda, mặc dù thủ đô Islamabad được coi là tương đối yên tĩnh. Vụ khủng bố đã bị cả thế giới lên án, kể cả Hoa Kỳ, vốn đang áp lực Pakistan phải có thêm nỗ lực để tiêu diệt những nơi trú ẩn của phiến quân dọc theo biên giới với Afghanistan. Washington lo ngại rằng Taliban và al-Qaeda đang sử dụng Pakistan là nơi tuyển mộ, huấn luyện và trang bị rồi sau đó gửi sang chiến đấu tại Afghanistan. Chuyên gia về khủng bố, Evan Kohlmann, cho báo chí biết cuộc tấn công vừa qua có thể nói hầu như chắc chắn là do al-Qaeda hay Pakistani Taliban thực hiện. Vụ nổ cũng khiến cho nhiều cơ quan quốc tế và giới ngoại giao xét lại việc di tản gia đinh thân nhân và những nhân viên không cần thiết ra khỏi Pakistan.
Vụ đánh bom khách sạn Marriott, Islamabad
Vụ đánh bom khách sạn Marriott tại Islamabad xảy ra ngày 20 tháng 9 2008. Vụ nổ đã phá sập một phần của khách sạn Marriott ở thủ đô Pakistan, giết chết ít nhất 54 người, kể cả đại sứ Séc, hai công dân Hoa Kỳ và một công dân Việt Nam, và làm bị thương 266 người khác. Theo như giới chức trách, số thương vong chắc chắn sẽ còn lên cao hơn ở nơi từng được bảo vệ cẩn mật này. Ahmad Latif, một viên chức cao cấp cảnh sát Pakistan, cho biết rằng đây là một trong những vụ tấn công lớn nhất của khủng bố trong lịch sử Pakistan.
Chính phủ Việt Nam đã chính thức nộp đơn ra ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Điều này đã gây ra sự ngạc nhiên và bất bình của những theo dõi và bảo vệ nhân quyền ở trong cũng như ngoài nước. Để giúp quí vị tìm hiểu về Hội đồng Nhân quyền của LHQ, Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam xin giới thiệu về Cơ quan này. Cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người chính là bộ máy các cơ quan và các quy tắc, thủ tục về thúc đẩy, bảo vệ quyền con người trong hệ thống Liên hợp quốc. Mặc dù có mục tiêu chung là để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người và chung một mái nhà là hệ thống Liên hợp quốc, tuy nhiên, dựa trên vị thế pháp lý và chức năng, nhiệm vụ của chúng, các cơ quan quyền con người Liên hợp quốc được chia thành hai dạng: các cơ quan được thành lập theo (dựa trên) Hiến chương (charter-based organ hoặc charter bodies), và các cơ quan được thành lập theo (hoặc dựa trên) một số công ước quan trọng về quyền con người (treaty bodies). Một số tài liệu gọi hệ thống các cơ quan và thủ tục này là cơ chế dựa trên Hiến chương (charter-based mechanism) và cơ chế dựa trên công ước (treaty-based mechanism).1. Cơ chế dựa trên Hiến chương. Do bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người được xác định là một trong những mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc nên cả 6 cơ quan chính (Đại hội đồng (General Assembly), Hội đồng Bảo an (Security Council), Hội đồng Kinh tế và Xã hội (Economic and Social Council – ECOSOC), Hội đồng Quản thác (Trusteeship Council) và Toà án quốc tế (International Court of Justice – ICJ) đều có trách nhiệm trên lĩnh vực này. Một số cơ quan chính thiết lập một mạng lưới các cơ quan giúp việc về quyền con người, đồng thời xây dựng một quy chế để huy động sự tham gia, hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ (quốc tế, khu vực và quốc gia) vào hoạt động thúc đẩy và bảo vệ quyên con người. Hội đồng quyền con người của Liên hợp quốc (UN Human Rights Council – HRC) là cơ quan mới được thành lập theo Nghị quyết số 60/251 ngày 3/4/2006 của ĐHĐ để thay thế cho Ủy ban quyền con người (CHR). Do CHR trước đây và HRC hiện nay đóng vai trò “đầu tầu” trong bộ máy các cơ quan về quyền con người Liên hợp quốc nên sự kiện này được nhiều tổ chức và chuyên gia đánh giá là hứa hẹn mở ra “một trang mới” trong hoạt động của Liên hợp quốc trên lĩnh vực này. Việc thành lập HRC thay thế cho CHR xuất phát từ sự yếu kém trong hoạt động của CHR, mà ở góc độ nhất định, đồng thời cũng là những hạn chế chung của bộ máy quyền con người Liên hợp quốc trong những thập niên vừa qua, đó là thất bại trong việc cải thiện tình hình và xử lý những vi phạm nghiêm trọng về quyền con người diễn ra ở nhiều khu vực và quốc gia trên thế giới. Sự yếu kém của CHR được cho là xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản:. Thứ nhất, hoạt động của cơ quan này từ lâu đã bị chính trị hóa nặng nề, thể hiện ở những vấn đề như tính cấu kết khu vực (regional alliance), sử dụng chuẩn mực kép (double standard), phân biệt đối xử trong lựa chọn và xử lý các tình huống, vấn đề (selectivity), hay tình trạng lợi dụng khe hở của các thủ tục làm việc để ngăn chặn việc thảo luận về những vụ việc bất lợi cho những quốc gia nhất định, hoặc về những vấn đề bất đồng nhất định.;. Thứ hai, tình trạng “đánh trống buông dùi” trong hoạt động, cụ thể là đưa ra nhiều khuyến nghị và nghị quyết nhưng không có khả năng theo dõi, giám sát việc thực hiện. Vì tất cả những điều trên, CHR bị chỉ trích là một cơ quan thiếu tính chuyên nghiệp và tin cậy. Trong một số báo cáo công bố từ đầu thập kỷ 2000, Tổng thư ký Liên hợp quốc đã chỉ ra những hạn chế cụ thể của CHR, và trong báo cáo công bố vào tháng 3 năm 2005, Tổng thư ký Liên hợp quốc đã chính thức đề xuất ĐHĐ bỏ phiếu thay thế CHR bằng một cơ quan mới là HRC. Trong Hội nghị thượng định thế giới tổ chức vào tháng 9 năm 2005, ý tưởng về việc thành lập HRC được đa số các quốc gia tán thành. Các khía cạnh về tính chất và cấu trúc của HRC sau đó được đưa ra thảo luận thêm ở ĐHĐ trong suốt 5 tháng. Cuối cùng, dự thảo nghị quyết về việc thành lập HRC được công bố vào tháng 3 năm 2006 và được thông qua bởi ĐHĐ vào ngày 3/4/2006, với 170 phiếu thuận, bốn phiếu chống (Israel, Quần đảo Marshall, Palau, Hoa Kỳ) và ba phiếu trắng (Belarus, Iran, Venezuela). Từ khi được thành lập đến nay, HCR đã họp một số phiên, trong phiên họp lần thứ hai (tháng 6/2007), HRC đã thông qua các cấu trúc, thủ tục và cơ chế hoạt động của cơ quan này. Theo Điều 5 Nghị quyết 60/251 của ĐHĐ, HRC sẽ bao gồm 47 nước thành viên (CHR trước đây có 53 nước thành viên). Các nước thành viên được bầu trực tiếp bằng phiếu kín bởi đa số thành viên ĐHĐ, phục vụ với nhiệm kỳ 3 năm và chỉ được bầu lại sau hai nhiệm kỳ kế tiếp. Các nước thành viên được phân bổ theo khu vực địa lý, cụ thể như sau: Nhóm các nước châu Phi: 13 ghế; Nhóm các nước châu Á: 13 ghế; Nhóm các nước Đông Âu: 6 ghế; Nhóm các nước Châu Mỹ Latin và Caribe: 8 ghế; Nhóm các nước Tây Âu và các quốc gia khác: 7 ghế. Đứng đầu HRC là một Chủ tịch phục vụ với nhiệm kỳ một năm, do các nước thành viên của HRC bầu ra. Thay thế cho phương thức hoạt động của CHR trước đây là hàng năm chọn ra các vụ việc nghiêm trọng nhất về quyền con người xảy ra ở các quốc gia trên thế giới để đưa ra xem xét, đánh giá, HRC tiến hành một thủ tục mới là UPR. UPR sẽ đánh giá định kỳ việc tuân thủ các nghĩa vụ và cam kết về quyền con người của tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc dựa trên các báo cáo từ các nguồn khác nhau. Để thực hiện UPR, một Nhóm công tác (working group) về UPR do HRC thành lập sẽ tiến hành ba kỳ họp mỗi năm, mỗi kỳ họp kéo dài 2 tuần để đánh giá 16 quốc gia. Như vậy, mỗi năm UPR sẽ đánh giá được 48 quốc gia và phải mất bốn năm để hoàn tất thủ tục này với toàn bộ 192 quốc gia thành viên của Liên hợp quốc (dự tính đến hết 2011, với 12 kỳ họp mới có thể kết thúc vòng đánh giá đầu tiên theo UPR). – Chuẩn bị thông tin làm cơ sở cho việc xem xét: Trong bước này, các tài liệu cần chuẩn bị bao gồm: (i) Báo cáo của quốc gia được xem xét (không quá 20 trang); (ii) Tổng hợp của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người về tình hình ở quốc gia được xem xét từ báo cáo của các cơ quan giám sát điều ước, các thủ tục đặc biệt và các tài liệu khác…(không quá 10 trang); (iii) Bản tóm tắt do Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thực hiện từ những báo cáo của các chủ thể liên quan khác (các tổ chức phi chính phủ, cơ quan nghiên cứu, cơ quan quyền con người quốc gia) (không quá 10 trang). – Xem xét đánh giá: Được thực hiện ở Geneva dưới dạng đối thoại trong ba giờ giữa quốc gia được xem xét với các thành viên Nhóm công tác về UPR, các quốc gia thành viên và quan sát viên của HRC. – Kết luận, đánh giá: Nhóm công tác về UPR sẽ thông qua văn bản kết luận (dưới hình thức một báo cáo) sau khi kết thúc việc xem xét, đánh giá, trong đó tóm tắt trình tự xem xét, các cam kết đưa ra bởi quốc gia liên quan và các kết luận, khuyến nghị với quốc gia đó. HRC sẽ cân nhắc và thông qua báo cáo này, thường là vào kỳ họp tiếp theo. – Thực hiện các khuyến nghị: Quốc gia được xem xét sẽ áp dụng các khuyến nghị nêu trong báo cáo kể trên và thông báo về kết quả của việc áp dụng các khuyến nghị đó trong lần báo cáo định kỳ tiếp theo của nước mình. Tương tự như mô hình Tiểu ban thúc đẩy và bảo vệ quyền con người của CHR trước đây, HRC thành lập một Ủy ban cố vấn để hỗ trợ Hội đồng trong các hoạt động chuyên môn. Ủy ban này bao gồm 18 chuyên gia được Hội đồng bầu ra bằng cách bỏ phiếu kín từ danh sách các ứng cử viên mà các quốc gia thành viên đề cử. Mặc dù vậy, các chuyên gia thành viên của Ủy ban hoạt động với tư cách cá nhân. Nhiệm kỳ của mỗi chuyên gia là 3 năm, chỉ được bầu lại một lần. Cơ cấu của Ủy ban cố vấn được cân nhắc để đảm bảo tính cân bằng về giới và về khu vực địa lý. Cụ thể, để đảm bảo sự cân bằng về khu vực địa lý, thành phần của Ủy ban được phân bổ như sau: Các quốc gia châu Phi: 5 ghế; Các quốc gia Châu Á: 5 ghế; Các quốc gia Đông Âu: 2 ghế; Các quốc gia Châu Mỹ La tinh và Caribê: 3 ghế; Các quốc gia Tây Âu và các quốc gia ở khu vực khác: 3 ghế. Về hoạt động, Ủy ban cố vấn họp tối đa 2 kỳ một năm, mỗi kỳ tối đa 10 ngày, ngoài ra có thể họp các kỳ bổ sung với sự chấp thuận của HRC. Về trách nhiệm, Ủy ban chịu sự điều phối của HRC. Hội đồng có thể yêu cầu toàn bộ, một nhóm thành viên hoặc một cá nhân thành viên của Ủy ban thực hiện những nhiệm vụ nhất định. Cơ chế này được dựa trên các ủy ban giám sát việc thực hiện một số công ước quốc tế về quyền con người (treaty-based bodies), được thành lập theo quy định của chính các công ước đó (ngoại trừ Uỷ ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được thành lập theo một nghị quyết của ECOSOC). Nếu như các cơ quan trong cơ chế dựa trên Hiến chương có những chức năng đa dạng, bao gồm cả việc nghiên cứu, xây dựng các dự thảo văn kiện, thẩm định, theo dõi, giám sát và điều hành các chương trình, hoạt động về quyền con người…thì hệ thống uỷ ban công ước có chức năng hẹp hơn. Các uỷ ban này được thiết lập chỉ để giám sát, thúc đẩy việc thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người, thông qua việc nhận, xem xét và ra khuyến nghị liên quan đến các báo cáo về việc thực hiện các công ước này của những quốc gia thành viên (và với một số uỷ ban, còn thông qua thẩm quyền nhận, xem xét và xử lý các khiếu nại về việc vi phạm các quyền con người được ghi nhận trong một số công ước). Một trong số đó chưa có hiệu lực là Công ước về cưỡng bức đưa đi mất tích. Tám công ước còn lại được giám sát bởi các uỷ ban giám sát và một cơ quan tương tự là nhóm công tác. Cụ thể, các uỷ ban giám sát công ước đang hoạt động bao gồm:. Uỷ ban về xoá bỏ sự phân biệt chủng tộc (thành lập theo Công ước về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc, 1965). Uỷ ban Quyền con người (thành lập theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966). Uỷ ban về Xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ (thành lập theo Công ước quốc tế về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, 1979). Uỷ ban chống tra tấn (thành lập theo Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử tàn bạo,vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác, 1987). Uỷ ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá (thành lập theo một nghị quyết của ECOSOC). Uỷ ban về quyền trẻ em (thành lập theo Công ước về quyền trẻ em, 1989). Uỷ ban bảo vệ quyền của tất cả những người lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ (thành lập theo Công ước về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ, 1990). Uỷ ban về quyền của người khuyết tật (thành lập theo Công ước về quyền của người khuyết tật, 2007). Các ủy ban công ước bao gồm những chuyên gia được thừa nhận là có uy tín, đạo đức và năng lực trong các lĩnh vực của công ước liên quan. Các chuyên gia này được lựa chọn (thông qua bỏ phiếu ở các ủy ban) từ những người được các quốc gia thành viên đề cử (thường là công dân của nước mình). Tuy nhiên, khi được bầu là thành viên các uỷ ban thì các chuyên gia hoạt động với tư cách cá nhân. Số lượng thành viên của các uỷ ban công ước được quy định ngay trong mỗi công ước và có thể khác nhau, nhưng thông thường không ít hơn 10 người và không nhiều hơn 30 người.
Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc
Ủy ban Nhân quyền hay Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc (tiếng Anh: Human Rights Committee) là một cơ quan trực thuộc Liên Hợp Quốc gồm 18 chuyên gia độc lập có nhiệm vụ giám sát việc thực hiện Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR). Đây là một trong 10 cơ quan điều ước quốc tế thuộc hệ thống nhân quyền Liên Hợp Quốc chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện các công ước về nhân quyền của Liên Hợp Quốc. Cần tránh nhầm lẫn Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc với tổ chức của Liên Hợp Quốc về nhân quyền gồm đại diện của các nước thành viên Liên Hợp Quốc (quy định theo Hiến chương Liên Hợp Quốc) là Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, là nơi đại diện các quốc gia thảo luận về các vấn đề nhân quyền. Cũng cần tránh nhầm lẫn với Ủy ban Nhân quyền (United Nations Commission on Human Rights) đã chấm dứt hoạt động vào năm 2006 và được thay thế bằng Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã đề cập trên. Chức năng chính của Ủy ban Nhân quyền là đưa ra các giải thích nội dung của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ở dạng các Bình luận chung), giám sát các quốc gia thành viên Công ước thực hiện các nghĩa vụ quy định trong Công ước (dưới dạng xem xét các báo cáo định kỳ), và giải quyết các khiếu nại của các cá nhân liên quan đến các nước tham gia vào Nghị định thư bổ sung I của Công ước.
Phụ nữ mang thai là đối tượng cực kỳ nhạy cảm, cần đặc biệt chú ý đến vấn đề sức khỏe. Trong thời gian mang thai, bà bầu dễ mắc phải một số căn bệnh nhưng một số biểu hiện bệnh không rõ ràng nên không được chú ý để điều trị kịp thời. Trong số những bệnh lý mà phụ nữ trong giai đoạn mang thai thường dễ mắc phải chính là tiểu đường thai kỳ. Vậy cụ thể tiểu đường thai kỳ là gì? Có những thông tin nào cần chú ý về căn bệnh này?. Trong phần đầu tiên của bài viết này, Sổ tay khỏe đẹp sẽ cùng bạn tìm hiểu xem tiểu đường thai kỳ là gì và những dấu hiệu, hiểu hiện đầu tiên của căn bệnh này. Việc tìm hiểu về dấu hiệu nhận biết sẽ là cơ sở bước đầu để nhận biết bệnh và có biện pháp xử lý kịp thời. Tiểu đường thai kỳ hay còn có tên gọi khác là đái tháo đường thai kỳ, căn bệnh này thường phát triển ở tuần thứ 24 của thai kỳ. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến lượng đường trong máu của mẹ bầu tăng cao đột ngột và khó kiểm soát. Nếu mẹ bầu mắc tiểu đường lúc mang thai và chưa bao giờ bị tiểu đường trong giai đoạn trước đó sẽ được chẩn đoán là tiểu đường thai kỳ. Đây là một căn bệnh các mẹ bầu rất dễ gặp phải, vì thế mẹ bầu cần lắng nghe cơ thể của mình để đảm bảo sức khỏe của cả mẹ và bé. Để nhận biết bệnh, chúng ta có thể quan sát một số dấu hiệu sau đây. Nếu có những biểu hiện này, bạn hoặc người thân đang mang thai nên đến ngay các các cơ sở y tế để kiểm tra kịp thời. Đây chỉ là một số dấu hiệu điển hình để bạn dễ dàng nhận biết căn bệnh tiềm ẩn này đang tồn tại trong cơ thể. Cơ thể phụ nữ khi mang thai nhạy cảm và có nhiều biến đổi, chính vì vậy việc mắc một số căn bệnh về nội tiết là điều một số chị em dễ gặp phải. Khi tìm hiểu tiểu đường thai kỳ là gì, không ít chị em thắc mắc liệu nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là gì? Vậy cùng sotaykhoedep.vn khám phá ngay tại đây nhé!. Bạn sẽ mắc tiểu đường thai kỳ khi tuyến tụy của bạn không sản xuất đủ lượng nội tiết tố insulin để đáp ứng nhu cầu của cơ thể hoặc insulin giảm các tác động lên cơ thể, cơ thể không chuyển hóa tốt insulin. Glucose là chất dinh dưỡng vô cùng quan trọng giúp cung cấp năng lượng cho các tế bào. Tuy nhiên chất này lại không thể tự chuyển hóa đi vào các tế bào mà cần đến sự hỗ trợ của insulin. Chính vì vậy, bạn sẽ bị tiểu đường thai kỳ do lượng đường trong máu cao. Trong thai kỳ, có nhiều chị em thường cảm thấy thèm đồ ăn ngọt, chính vì vậy việc nạp thêm đường vào cơ thể là điều không hề lạ. Nếu cơ thể mẹ bầu có thể sản xuất lượng insulin tương ứng thì sẽ không xảy ra bất lợi cho sức khỏe. Tuy nhiên, không phải cơ thể nào cũng có cơ chế hoạt động tốt như thế, việc thiếu hụt insulin để hỗ trợ chuyển hóa glucose sẽ khiến cơ thể mắc phải tiểu đường thai kỳ. Ngoài ra, trong giai đoạn mang thai, nhau thai sẽ tạo ra các nội tiết tố hỗ trợ để thai nhi phát triển. Chính những nội tiết tố này lại góp phần gây ra một số tác động xấu đến insulin, gây ra rối loạn nội tiết tố. Nên việc kiểm soát lượng đường trở nên khó khăn, gây rối loạn và dẫn đến tiểu đường thai kỳ. Trong gia đình có người mắc bệnh tiểu đường thì nguyên nhân mẹ bầu gặp phải bệnh này khá cao. Người đang dùng một số loại thuốc như glucocorticoid, các loại thuốc điều trị cao huyết áp. hoặc tăng nhịp tim, thuốc chống loạn thần kinh. Các bà bầu thường được khuyên hạn chế tối đa việc dùng các loại thuốc. sotaykhoedep.vn sẽ cung cấp thêm cho bạn những kiến thức phương pháp dùng để điều trị bệnh tiểu đường thai kỳ trong bài viết dưới đây. Hãy tập thói quen ăn uống lành mạnh và thật khoa học: bạn nên chọn những loại thực phẩm có chứa nhiều chất xơ và nên tránh xa với thực phẩm có nhiều chất béo hay calo quá cao. Các bà bầu có thể bổ sung thêm các loại hoa quả, rau xanh và các loại ngũ cốc trong các bữa ăn phụ. Để tránh việc nhàm chán trong các bữa ăn hàng ngày, bạn có thể thay đổi các món ăn từng ngày để vừa đảm bảo dinh dưỡng lại vừa đa dạng các bữa ăn. Thường xuyên vận động: để có một cơ thể khỏe mạng, việc thường xuyên vận động là điều không thể bỏ qua. Với bà bầu, có thể chọn một số cách vận động nhẹ nhàng hàng ngày như: đi bộ, đạp xe đạp, tập yoga,…Khoảng thời gian lý tưởng mỗi ngày là khoảng 30 phút, nếu tập bị mệt, bạn có thể giảm thời gian xuống phù hợp với sức khỏe. Tiêm insulin nếu cần thiết: trong thai kỳ, việc dùng thuốc vô cùng hạn chế và phải hết sức lưu ý trong quá trình sử dụng. Nếu tình trạng bệnh nguy hiểm, các thai phụ sẽ phải dùng phương pháp tiêm insulin để đảm bảo sức khỏe cho mẹ và bé. Các thai phụ sẽ được bác sĩ tư vấn và đưa ra biện pháp điều trị phù hợp. Trong giai đoạn mang thai, dù bị bất cứ căn bệnh nào thì cũng đều vô cùng nguy hiểm. Vậy mẹ bầu và thai nhi sẽ gặp phải những nguy hiểm nào?. Tất nhiên, khi mẹ bầu mắc phải căn bệnh tiểu đường thai kỳ thì sẽ gặp một số nguy hiểm nhất định và thai nhi trong bụng cũng chịu tác động bởi căn bệnh này của bạn. Hạ đường huyết ở trẻ sơ sinh: tuyến tụy của bé tiếp tục sản sinh insulin để hỗ trợ việc chuyển hóa. Tuy nhiên, do lượng đường trong máu của bé xuống thấp nên gây tình trạng hạ đường huyết trẻ sơ sinh. Thai nhi có thể bị biến chứng gây nên dị tật, phát triển chậm hoặc thậm chí dẫn đến trường hợp bị tử vong. Béo phì: tiểu đường thai kỳ có thể khiến mẹ bị thừa cân nên khi sinh bé, bé có nguy cơ thừa cân khoảng 3 lần so với các trẻ bình thường. Bạn đã hiểu rõ tiểu đường thai kỳ là gì và những lưu ý khi điều trị bệnh. Để tránh gặp phải việc bệnh đường thai kỳ, phụ nữ cần lưu ý có những bước kiểm tra trước sinh, điều chỉnh chế độ ăn và tập luyện. Satochi tin tưởng sẽ hỗ trợ, mang đến những hiệu quả tốt nhất cho người bệnh. Qua bài viết tìm hiểu về tiểu đường thai kỳ là gì, sotaykhoedep.vn hy vọng đã mang đến cho các bà bầu và người thân những kiến thức cơ bản để có biện pháp phòng tránh và những lưu ý trong quá trình điều trị.
Bệnh tiểu đường thai kỳ
Bệnh tiểu đường thai kỳ là tình trạng người phụ nữ không mắc bệnh tiểu đường phát triển tăng đường huyết khi mang thai. Bệnh tiểu đường thai kỳ thường dẫn đến một vài triệu chứng; tuy nhiên, nó làm tăng nguy cơ tiền sản giật, trầm cảm và cần phải sinh mổ. Trẻ sinh ra từ những bà mẹ bị tiểu đường thai kỳ được điều trị kém có nguy cơ quá lớn, có lượng đường trong máu thấp sau khi sinh và vàng da. Nếu không được điều trị, nó cũng có thể dẫn đến thai chết lưu. Về lâu dài, trẻ em có nguy cơ thừa cân và phát triển bệnh tiểu đường loại 2 cao hơn. Bệnh tiểu đường thai kỳ là do không đủ insulin trong tình trạng kháng insulin. Các yếu tố nguy cơ bao gồm thừa cân, trước đây bị tiểu đường thai kỳ, tiền sử gia đình mắc bệnh tiểu đường loại 2 và mắc hội chứng buồng trứng đa nang. Chẩn đoán bằng xét nghiệm máu. Đối với những người có nguy cơ bình thường, sàng lọc được khuyến khích giữa 24 và 28 tuần mang thai. Đối với những người có nguy cơ cao, xét nghiệm có thể xảy ra ở lần khám tiền sản đầu tiên.
Nhân viên kỹ thuật sản xuất (Production Technicans) giám sát các quy trình sản xuất, kiểm soát và thực hiện các thử nghiệm khác nhau trên sản phẩm để đánh giá chính xác về sản phẩm, đảm bảo chất lượng và chức năng. Họ thường làm việc trong các nhà máy, kiểm tra các sản phẩm trước khi đưa ra thị trường. Nhân viên kỹ thuật sản xuất cũng đảm bảo sự an toàn của nhà máy và chắc chắn rằng các nguyên vật liệu cần thiết đều được cung cấp đầy đủ. Mô tả công việc của Nhân viên kỹ thuật sản xuất 2. Yêu cầu trình độ và kỹ năng với Nhân viên kỹ thuật sản xuất. Các công việc của Nhân viên kỹ thuật sản xuất ở những công ty khác nhau sẽ khác nhau, tùy vào quy mô và mặt hàng cụ thể. Những doanh nghiệp, nhà máy, nhà xưởng lớn thì thường có riêng bộ phận kỹ thuật sản xuất và Nhân viên kỹ thuật sản xuất làm việc ở đó. Trách nhiệm chính của họ gồm có:. Đảm bảo các dây chuyền sản xuất được vận hành trơn tru bằng cách kiểm tra, phát hiện và chỉ đạo bảo trì máy móc, cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất. Phân tích hiệu suất sản xuất và sản phẩm, đưa ra các khuyến nghị phù hợp. Thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng cao và đảm bảo chúng được thực hiện đầy đủ. Thường xuyên giáo dục cán bộ công nhân viên các quy định về sức khoẻ và an toàn lao động. Thực hiện các phương pháp bảo dưỡng, phòng ngừa rủi ro với dây chuyền sản xuất. Luôn cập nhật các phương pháp sản xuất và quy trình bảo trì thiết bị. Những Nhân viên kỹ thuật sản xuất xuất sắc sẽ có khả năng xác định các vấn đề trong sản phẩm hoặc dây chuyền, quy trình sản xuất, lắp ráp và đưa ra các khuyến nghị rõ ràng. Nhà tuyển dụng yêu cầu ở ứng viên vị trí Nhân viên kỹ thuật sản xuất như sau:. Tốt nghiệp từ trung cấp trở lên các chuyên ngành về kỹ thuật, quản lý sản xuất, cơ khí hoặc liên quan. Có sức khỏe tốt, có thái độ tích cực và sẵn sàng làm việc ngoài giờ, làm việc theo ca. Mô tả công việc của Nhân viên kỹ thuật sản xuất đề cập đầy đủ các thông tin về vị trí này, các trách nhiệm chính và yêu cầu với trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng. Trên thực tế, bạn không cần phải có bằng cấp cao mà vẫn có thể ứng tuyển Nhân viên kỹ thuật sản xuất được, kinh nghiệm và thao tác quan trọng hơn. Về phần mình, nhà tuyển dụng cần điều chỉnh dựa trên môi trường làm việc thực tế để có một bản mô tả công việc Nhân viên kỹ thuật sản xuất phù hợp nhất, tuyển được đúng người.
Kỹ thuật sản xuất
Kỹ thuật sản xuất là một chi nhánh của kỹ thuật chuyên nghiệp có liên quan đến sự hiểu biết và áp dụng các kỹ thuật quy trình sản xuất trình sản xuất phương pháp. Sản xuất kỹ thuật yêu cầu khả năng để lên kế hoạch thi hành sản xuất, để nghiên cứu và phát triển công trình máy móc và thiết bị, và hòa mình vào những tiện nghi và hệ thống sản xuất sản phẩm chất lượng với sự tối ưu chi tiêu của nguồn vốn. Các nhà máy sản xuất hoặc kỹ sư tập trung để biến nguyên liệu vào thành sản phẩm mới đạt hiệu quả và kinh tế nhiều nhất một cách có thể. Kỹ thuật sản xuất được dựa trên nền tảng kỹ thuật công nghiệp và kỹ thuật cơ khí, thêm các yếu tố quan trọng từ điện tử, thương mại, kinh tế và quản lý kinh doanh. Các kỹ sư sản xuất phát triển và tạo vật lý hiện vật, quy trình sản xuất và công nghệ. Nó là một rất rộng, khu vực đó bao gồm những thiết kế và phát triển sản phẩm. Kỹ thuật sản xuất được coi là một sự phụ thuộc vào kỹ thuật hệ thống và có gắn kết chặt chẽ với kỹ thuật cơ khí.
- Tiếp nhận văn học là quá trình người đọc hoà mình vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn từ, lắng tai nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hoá và bằng cả tâm hồn mình, người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình tượng, nhân vật. làm cho tác phẩm từ một văn bản khô khan biến thành một thế giới sống động, đầy sức cuốn hút. - Tiếp nhận văn học là hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí người đọc nhằm biến văn bản thành thế giới nghệ thuật trong tâm trí mình. + Tính chất cá thể hóa tính chủ động, tích cực của người tiếp nhận các yếu tố thuộc về cá nhân có vai trò quan trọng: năng lực, thị hiếu, sở thích, lứa tuổi, trình độ học vấn, kinh nghiệm sống,. Tính khuynh hướng trong tư tưởng, tình cảm, trong thị hiếu thẩm mĩ càng làm cho sự tiếp nhận văn học mang đậm nét cá nhân và chính sự chủ động, tích cực của người tiếp nhận đã làm tăng thêm sức sống của tác phẩm. + Tính đa dạng, không thống nhất: cảm thụ, đánh giá của công chúng về một tác phẩm rất khác nhau, thậm chí cùng một người ở nhiều thời điểm có nhiều khác nhau trong cảm thụ đánh giá. Nguyên nhân ở cả tác phẩm (nội dung phong phú, hình tượng phức tạp, ngôn ngữ đa nghĩa, .) và người tiếp nhận (tuổi tác, kinh nghiệm, học vấn, tâm trạng, .). - Tiếp nhận văn học là quá trình người đọc hoà mình vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn từ, lắng tai nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hoá và bằng cả tâm hồn mình, người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình tượng, nhân vật. làm cho tác phẩm từ một văn bản khô khan biến thành một thế giới sống động, đầy sức cuốn hút. - Tiếp nhận văn học là hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí người đọc nhằm biến văn bản thành thế giới nghệ thuật trong tâm trí mình. + Tính chất cá thể hóa tính chủ động, tích cực của người tiếp nhận các yếu tố thuộc về cá nhân có vai trò quan trọng: năng lực, thị hiếu, sở thích, lứa tuổi, trình độ học vấn, kinh nghiệm sống,. Tính khuynh hướng trong tư tưởng, tình cảm, trong thị hiếu thẩm mĩ càng làm cho sự tiếp nhận văn học mang đậm nét cá nhân và chính sự chủ động, tích cực của người tiếp nhận đã làm tăng thêm sức sống của tác phẩm. + Tính đa dạng, không thống nhất: cảm thụ, đánh giá của công chúng về một tác phẩm rất khác nhau, thậm chí cùng một người ở nhiều thời điểm có nhiều khác nhau trong cảm thụ đánh giá. Nguyên nhân ở cả tác phẩm (nội dung phong phú, hình tượng phức tạp, ngôn ngữ đa nghĩa, .) và người tiếp nhận (tuổi tác, kinh nghiệm, học vấn, tâm trạng, .).
Tiếp nhận văn học
Tiếp nhận văn học (tiếng Đức: rezeptions) là hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo, bản dịch, chuyển thể,. Qua tiếp nhận văn học, nhờ được tri giác, liên tưởng, cắt nghĩa, tưởng tượng của người đọc mà tác phẩm trở nên đầy đặn, sống động, hoàn chỉnh; ngược lại, người đọc nhờ tác phẩm mà được mở rộng vốn hiểu biết, kinh nghiệm về đời sống, tư tưởng và tình cảm cũng như năng lực cảm thụ, tư duy. Về thực chất, tiếp nhận văn học là một cuộc giao tiếp, đối thoại tự do giữa người đọc và tác giả qua tác phẩm. Nó đòi hỏi người đọc tham gia với tất cả trái tim, khối óc, hứng thú và nhân cách, tri thức và sức sáng tạo. Trong tiếp nhận văn học người đọc ở vào một tâm trạng đặc biệt, vừa quên mình, nhập thân, vừa sống và thể nghiệm nội dung của tác phẩm, vừa phân thân, duy trì khoảng cách thẩm mỹ để nhìn nhận tác phẩm từ bên ngoài, để thưởng thức tài nghệ hoặc nhận ra điều bất cập, hoặc cắt nghĩa khác với tác giả.
Ngày Cá tháng Tư hay ngày nói dối là ngày 1- 4 dương lịch hàng năm. Ngày cá tháng Tư có nguồn gốc từ nước Pháp từ thế kỷ 16. Ngày Cá tháng Tư tiếng Anh là April Fool’s Day, còn gọi là All Fool’s Day, ngày nói dối. Hiện nay, ngày Cá tháng Tư dù không phải là ngày nghỉ lễ chính thức nhưng đã trở thành phong tục truyền thống tại nhiều quốc gia. Vào ngày này người ta có thể thoải mái tung nhiều tin đồn (rumour) hoặc nói xạo (tell lie), nói đùa (crack a joke) vô hại về rất nhiều chủ đề khác nhau để trêu chọc ai đó mà không lo bị mắng hay giận dỗi. Hoax: Một phiên bản rút gọn của từ “hocus pocus”, nghĩa là trò chơi khăm hoặc chơi xỏ người khác. Get the joke/ see the joke: Sự hài hước khi ai đó nói một chuyện buồn cười. Đừng tin bất cứ ai trong ngày hôm nay nhé vì hôm nay là ngày Cá tháng 4. Hãy làm như mọi ngày và bạn sẽ yên ổn. Đừng sợ bị lừa hôm nay nhé! Nay vẫn chưa phải là ngày Cá tháng 4 đâu, chỉ mới là ngày 32/3 thôi. Ngày hôm nay bác sĩ bảo tôi là tôi đang bị ốm nặng và chẳng có gì có thể cứu tôi được nữa. Tôi đang chết dần… chết dần vì buồn cười! Chúc mừng ngày Cá tháng 4 nhé. Đôi khi chúng ta không cần phải có bất cứ lý do đặc biệt nào để cưới cả. Chúng ta cười chỉ bởi vì chúng ta cảm thấy ổn thôi. Thế nên mong là bạn có thật nhiều tiếng cười hôm nay và cả những ngày còn lại trong năm nhé.
Cá tháng Tư
Ngày cá tháng Tư, hay Ngày nói dối diễn ra vào 1 tháng 4 dương lịch, là một ngày hội mà trong đó, người ta được phép và thi nhau nói dối, đánh lừa người khác nhằm mục đích mua vui cho bản thân, mọi người mà không chịu những lời chỉ trích, tác hại nào. Cá tháng tư dù không phải là ngày nghỉ lễ chính thức nhưng vẫn là phong tục truyền thống tại nhiều quốc gia kỷ niệm hàng năm vào đúng ngày 1 tháng 4, bằng cách tung nhiều tin đồn hoặc nói xạo, nói đùa vô hại về rất nhiều chủ đề khác nhau nhằm tạo niềm vui hay trêu chọc ai đó. Những tin giả như thế thường được tung ra trong cả ngày 1 tháng 4 ở hầu hết các quốc gia như Hoa Kỳ, Pháp, Ireland,. trong khi tại một số quốc gia khác, nó phải được chấm dứt vào giữa trưa như Anh, Canada, Úc, New Zealand. Tại Ý, Pháp, Bỉ, và các khu vực nói tiếng Pháp của Thụy Sĩ và Canada, 1 tháng 4 truyền thống thường được gọi là "Cá tháng Tư" (Poisson d avril tiếng Pháp hoặc Pesce d aprile trong tiếng Ý).
- Giới là khái niệm chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội. Khái niệm giới và giới tính giúp ta phân biệt đặc điểm của phụ nữ và nam giới để hiểu rõ thực chất và cơ chế hình thành các đặc điểm đó. Sự khác nhau giữa “giới tính” và “giới”được thể hiện qua các nội dung sau:. - Giới tính là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về phương diện sinh học, có sẵn từ khi sinh ra, đồng nhất và không biến đổi (trừ trường hợp có sự can thiệp của y học). Ví dụ nam giới có thể làm thụ thai, phụ nữ có thể sinh con và cho con bú. - Khác với giới tính, giới không mang tính bẩm sinh mà được hình thành trong quá trình sống, học tập của con người từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành. Nói cách khác, giới được thể hiện thông qua các hành vi được hình thành từ sự dạy dỗ và thu nhận từ gia đình, cộng đồng và xã hội, là vị trí, vai trò của nam và nữ mà xã hội mong muốn, kỳ vọng ở phụ nữ và nam giới liên quan đến các đặc điểm và năng lực nhằm xác định thế nào là một người nam giới hay một phụ nữ (hoặc trẻ em trai, trẻ em gái) trong một xã hội hay một nền văn hóa nhất định. Ví dụ: phụ nữ làm nội trợ, thêu thùa, chăm sóc con cái, nam giới xây dựng nhà cửa, làm kinh tế, chính trị,… Những hành vi này không phải là hành vi hay kỹ năng bẩm sinh mà do họ được xã hội, gia đình, cộng đồng dạy dỗ để làm việc đó vì xã hội cho rằng như vậy là phù hợp với thiên chức phụ nữ hoặc nam giới. Việc sinh con của phụ nữ do yếu tố sinh học quy định và đó là đặc điểm giới tính. Việc phụ nữ làm nội trợ trong gia đình nhiều hơn nam giới là do quan niệm và sự phân công lao động trong xã hội tạo ra, chứ không phải là tự nhiên. Nếu như giới tính mang tính đồng nhất (ở mọi nơi trên thế giới đều giống nhau) và không thể thay đổi thì giới rất đa dạng, phong phú và có thể thay đổi ở từng quốc gia, dân tộc dưới sự tác động của các yếu tố xã hội. Ví dụ: ở một xã hội này, phụ nữ có đặc điểm là phụ thuộc vào nam giới về mặt kinh tế và chỉ là người thực hiện các quyết định do nam giới đưa ra (trong công việc gia đình thì nam giới làm chủ gia đình, quyết định mọi việc lớn của gia đình; trong công việc của đất nước, của xã hội thì nam giới thường là người đứng đầu, người lãnh đạo), nhưng ở một xã hội khác, phụ nữ là người tham gia quyết định bình đẳng cùng với nam giới các vấn đề của gia đình và cuộc sống xã hội; hoặc ở nơi này, phần lớn phụ nữ có thể làm ruộng, trồng trọt nhưng ở nơi khác phần lớn nam giới làm ruộng, trồng trọt. Do vậy, muốn có bình đẳng giới thì cần phải thay đổi quan niệm về vị trí, vai trò của phụ nữ và nam giới, chứ không phải thay đổi các đặc điểm tự nhiên. Ví dụ: việc mang thai và sinh con là đặc điểm giới tính của phụ nữ nhưng sự buồn khổ do sinh con gái và sự vui mừng do sinh con trai là do yếu tố giới gây ra (do tư tưởng trọng nam khinh nữ). Vì vậy, để bình đẳng giới, cần thay đổi tận gốc tư tưởng, quan niệm thích con trai, cho rằng con trai quan trọng và có ích hơn con gái. Ghi rõ nguồn Cổng TT-GTĐT tỉnh Vĩnh Phúc hoặc www.vinhphuc.gov.vn khi phát hành lại thông tin từ Cổng TT-GTĐT tỉnh Vĩnh Phúc
Giới tính xã hội
Giới tính xã hội (tiếng Anh: gender), đôi khi còn gọi tắt là giới hoặc phái tính, là các đặc điểm liên quan đến sự khác biệt giữa nam tính và nữ tính. Tùy thuộc vào văn cảnh, những đặc điểm này có thể bao gồm giới tính sinh học (tức là giới tính nam, giới tính nữ hoặc Liên giới tính), các cơ cấu xã hội dựa trên giới tính (gồm vai trò giới và các vai trò xã hội khác), hay bản dạng giới. Hầu hết các nền văn hóa đều sử dụng hệ nhị phân để phân loại giới là nam và nữ; những người có giới nằm ngoài hệ nhị phân này đều nằm trong nhóm phi nhị nguyên giới hoặc đa dạng giới. Một số xã hội có một hay nhiều giới khác ngoài nam và nữ, như là hijra của người Ấn Độ và Two-Spirit của thổ dân châu Mỹ; những người này nằm trong nhóm giới thứ ba. Giới của một người hình thành trong quá trình trưởng thành của người đó. Khái niệm này do John Money đề xuất vào năm 1955, đề cập tới giới tính theo phương diện là một vai trò xã hội để phân biệt với giới tính sinh học.
Thạch Hãn, Dốc Miếu, Cồn Tiên, Gio Linh,… đối với nhiều người chỉ là những địa danh lịch sử với các trận chiến kinh hoàng, nơi bao nhiêu đàn ông bỏ mạng, đàn bà mất chồng mất con và trẻ nhỏ mất cha. Bây giờ những nơi này đã hoàn toàn thay đổi, nhưng cái tên cứ rờn rợn châm da buồn buồn khó tả. Làng Mai Xá (hay còn gọi là Làng Mai là một trong 65 ngôi làng cổ (theo sách Ô Châu cận lục của Tiến sĩ triều Mạc là Dương Văn An) thuộc châu Minh Linh, phủ Tân Bình, xứ Thuận Hoá (nay thuộc xã Gio Mai, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam). Cho đến nay, Mai Xá vẫn còn hội tụ đầy đủ những yếu tố đặc trưng của một làng quê Việt Nam như: cây đa, bến nước, sân đình. Bà mẹ Gio Linh là tên một bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy được sáng tác năm 1948. Bài hát nổi tiếng tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, nhưng sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975, bài hát bị cấm trên toàn cõi Việt Nam cùng với những bài khác của ông. Đến năm 2005, nó là một trong 10 bài đầu tiên của ông được phép lưu hành. Cho đến nay người thể hiện bài hát này được đánh giá cao nhất là ca sĩ Thái Thanh. Bà mẹ Gio Linh trong bài hát của Phạm Duy nói về những người mẹ có thật ở làng Mai Xá, xã Gio Mai, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Theo hồi ký của Phạm Duy, thì trong một lần công tác về vùng đó, ông được nghe kể chuyện bà mẹ có người con trai đi lính, bị giặc bắt chém đầu bêu ra ở chợ, không ai dám lại gần duy chỉ có người mẹ mang thúng tới lấy đầu con đem về mai táng. Nghe xong câu chuyện, ông ghi lại thành ca khúc, trong đó có những câu rất cảm động. Từ niềm đau cá nhân của một bà mẹ đã trở thành niềm đau chung của một dân tộc và của loài người căm ghét chiến tranh. Phạm Duy khắc họa bà mẹ Gio Linh xởi lởi, ấm áp, hiền từ. Nồi khoai lang, ấm nước chè bà mẹ nghèo đãi các anh bộ đội, mẹ nhìn đàn con thương nhớ đứa con xưa. Thật cao cả, tuyệt vời lòng mẹ Việt Nam…. Nỗi đau riêng của bà mẹ Gio Linh vào thời kháng Pháp đã là nỗi đau chung của các bà mẹ hai miền trong cuộc chiến sau, thường chẳng biết đầu con nằm ở đâu để mà đi nhặt. Câu chuyện trong Bà mẹ Gio Linh xảy ra ở làng Mai Xá Chánh, xã Gio Mai, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị – quê hương của người viết bài báo này. Ca sĩ Thái Thanh từng nói lần nào hát Bà mẹ Gio Linh, cô cũng khóc và nhiều người trong chúng ta cũng từng rưng rưng khi nghe ca khúc này. Cứ đau đáu một nỗi căm hờn, một sự bao dung, một niềm đau không gì bù đắp nổi mà người ta vẫn phải sống. Cát vẫn trắng, cây vẫn xanh, rồi những câu chuyện sẽ lãng quên hay được giữ gìn để nói lại cho nhau nghe, cũng là có ích. Những ca từ, hình ảnh nếu không phải là người của thế hệ trước hay là người của miền quê này, chưa chắc đã hiểu hết được. Vì vậy, tôi xin có đôi dòng nói thêm. Năm 2003, nhạc sĩ Phạm Duy cùng con trai là N.s Duy Cường, đã về thăm chỗ nhà của bà mẹ ở làng Mai Xá có người con bị giặc Pháp chặt đầu năm 1948. Ảnh do nhạc sĩ cung cấp. Câu chuyện đã được nhiều người biết là năm 1948, lính Pháp ở đồn Nhĩ Hạ bắt được anh Nguyễn Đức Kỳ (xã đội trưởng), người làng Mai Xá Thị và anh Nguyễn Phi (cán bộ bình dân học vụ xã) – người làng Mai Xá Chánh rồi đem hành quyết, cắt đầu găm vào đòn xóc, thả xuống đoạn sông trước chợ, cũng là trước cửa đình. Ngày hôm đó, ba của tác giả bài báo này, cùng với cậu Giáo (Trương Quang Giáo) và mấy người bạn – đều tuổi thiếu niên – chạy ra chợ chơi, thấy hai đầu người ở dưới thì tưởng các anh đang tắm sông liền nhào xuống, nói “cho em tắm với”. Vừa xuống thì biết sự tình vội chạy lên bờ cấp báo cho người nhà. Nghe tin dữ, bác Cửu Diêu (Lê Thị Cháu) – mẹ của anh Kỳ – cùng người nhà anh Phi cắp thúng ra chợ, gói đầu con vào chiếc khăn rồi giấu trong thúng đem về, sau đó bỏ vào hộp vuông đem đi chôn cất. Câu chuyện này, khi vào Bình Trị Thiên công tác, nhạc sĩ Phạm Duy (lúc đó tham gia kháng chiến), được nghe kể lại và ông xúc động sáng tác ca khúc Bà mẹ Gio Linh. Hai đoạn đầu ca khúc đều dẫn ra hình ảnh bà mẹ Gio Linh “Cuốc đất trồng khoai, tưới nước trồng rau”. Ở những miền quê nghèo miền Trung ngày ấy và cả bây giờ, những mảnh vườn nhỏ thường chỉ trồng rau, trồng khoai, dăm nhà trồng được ít cây chè và nhiều nhất ở Quảng Trị là trồng ớt…. Khó nghèo nên “áo rách sờn vai, cơm ăn bát vơi bát đầy” là chuyện thường, cũng như trong ca khúc Quê nghèo, Phạm Duy từng mô tả: “Có người bừa thay trâu cày” hay “Vui vì nồi cơm ngô đầy”. Nhưng trong nghèo khó mà vẫn hào hùng, lạc quan, vẫn “mẹ mừng con giết được nhiều Tây”, vẫn “con vui ra đi sớm tối vác súng về”. Để tránh Tây lùng sục, các mẹ đã giấu đầu hai anh kín đáo ở trên tra, gần nóc nhà, sau đó nhờ người đóng những chiếc hòm đặc thù hình vuông khâm liệm hai anh rồi đem chôn. Đầu anh Kỳ được chôn tại vùng Dôông, Mai Xá Chánh, đầu anh Phi được chôn tại nghĩa địa Cồn Dài, xóm Kênh, Mai Xá Chánh. Ba đêm sau, tại nhà mẹ Cháu, bộ đội, du kích đã về cùng bà con quây quần làm lễ truy điệu cho các anh sát nách đồn giặc ở Mai Xá…. “Gan Mai Xá, đá Hảo Sơn”, danh tiếng làng Mai đã lừng vang trong câu tục ngữ truyền đời ấy của người Quảng Trị. Như thừa hưởng được phong vận, chính khí của trời đất xứ này, cả đến hoa mai của làng Mai không chỉ lừng hương với gió mà còn lừng hương cả trong dòng sử thơm. Cụ Nguyễn Du viết: “Mai cốt cách”. Người làng Mai truyền tụng câu “Mai vàng tụ nghĩa”. Thuở đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, vua Duy Tân ra Cửa Tùng lấy cớ “nghỉ mát” để che mắt giặc, kỳ thực vua tìm người thân tín họp bàn việc Cần Vương, cứu nước, ở Quảng Trị đã mọc nên sáu vườn đào tụ nghĩa. Đó là vườn đào Tường Vân, Triệu Phong của cụ Lê Thế Vỹ (thân phụ của hai cụ Lê Thế Hiếu, Lê Thế Tiết, hai nhà cách mạng tiền bối tiếng tăm của tỉnh Quảng Trị), vườn đào Cam Lộ của cụ Nguyễn Khoá Bảo, vườn đào Linh Yên, Triệu Phong của cụ đề đốc Nguyễn Thành Đốc, người mang bầu máu nóng “bình Tây, sát tả”, bị giặc Pháp xử trảm ở bãi bồi làng Nhan Biều, Triệu Thượng, Triệu Phong, vườn đào Bồ Bản, Triệu Phong của cụ Ấm Muộn, vườn đào Bích Khê, Triệu Phong của cụ Hoàng giáp Hoàng Hữu Bính và vườn đào Mai Xá, Gio Linh của cụ tú tài Trương Quang Cung. Môn đệ vườn đào Mai Xá họp mặt, khi ở bến đục Hà Trung, Gio Linh, khi ở lòi Mai Xá. Mỗi độ xuân về, lòi Mai Xá cây xanh, cát trắng bỗng thắm vàng trong sắc rừng mai nở, vì thế, vườn đào Mai Xá được gọi tên “Mai vàng tụ nghĩa Cần Vương”. Trong những lần họp mặt, các vị tụ nghĩa Cần Vương đã truyền cho nhau những lời hiệu triệu thống thiết: “Thế nước như trứng chồng, chỉ có hợp quần sức mạnh mới lên!”. Ở làng Mai Xá bấy giờ có cụ Trương Quang Đông đi lính Cần Vương được hàm bát phẩm. Đêm nào, ở nhà cụ Đông xuất hiện một vị khách giả dạng thầy đồ, hoặc thầy bói, hoặc lính lệ Nam triều đến nhỏ to mưu sự với cụ thì ngay đêm đó, những người phụ nữ phải lo nấu từ hai đến ba nồi bung cơm vắt, từng vắt ở giữa có muối mè, để ra nhiều nống chừng trăm vắt, xong có người đến lấy, gánh ra đình làng phân phát cho những người đợi sẵn. Những người này nhận cơm vắt rồi biến mất tăm. Làng Mai đã nuôi những người đi đánh Tây bằng nắm cơm vắt ấm nồng như thế đó. Ngược dòng lịch sử mới thấy, chính hạt gạo khó nhọc làng Mai đã từng nuôi lớn sức mạnh võ công của những người theo nghĩa khí phong trào Tây Sơn. Tộc phả họ Bùi làng Mai còn truyền tên tuổi, công trạng của hai vị quan võ thời Tây Sơn. Đó là chánh tiền chỉ huy sứ Bùi Văn Hịch (chỉ huy một doanh 500 người), có công đặc biệt, sau về làng “giữ ngôi tiên chỉ, giàu có vạn tiền, ruộng liền một dải”. Đó là tiền đạo thuỷ binh Bùi Văn Huy với sức khoẻ và võ công cao cường, ngỡ như huyền thoại: “Chỉ huy tiền đạo thuỷ quân đánh vào căn cứ mạnh của địch, sức khoẻ bẻ gãy cây tre, để cối đá trên bụng cho người giã trắng gạo, uống rượu bao nhiêu cũng không hề say”. Mảnh đất từng hun đúc nên nghĩa khí “Mai vàng tụ nghĩa” lúc đất nước đương cơn bĩ cực cũng chính là nơi sớm sản sinh những hạt giống đỏ. Hưởng ứng phong trào Thanh niên cách mạng đồng chí hội những năm 1925-1929, chi hội Thanh niên cách mạng đồng chí hội huyện Gio Linh đã được thành lập, trong đó có ba hạt giống đỏ Mai Xá là Trương Quang Phiên, Trương Khắc Khoan và Trương Quang Côn, lấy đình làng Mai Xá Chánh làm điểm hẹn liên lạc. Sau vụ rải truyền đơn khắp tỉnh đêm 17-6-1929 kêu gọi thành lập Đảng Cộng sản mà tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội của tỉnh có tham gia, bọn địch tức tối lùng sục, dò xét manh mối. Nhiều hội viên Thanh niên đã bị bắt, trong đó có ba hạt giống đỏ Mai Xá. Bọn thực dân Pháp và Nam triều ở tỉnh Quảng Trị đã kết án 31 hội viên Thanh niên tại phiên toà ngày 13-10-1929, trong đó Trương Khắc Khoan 11 năm tù, Trương Quang Phiên 10 năm tù và Trương Quang Côn 11 tháng tù. Nhưng tù tội chẳng qua là nơi rèn khí tiết, đợi thời cơ. Và rồi thời cơ khởi nghĩa, cướp chính quyền đã đến với khí thế trống giong, cờ mở của mùa thu tháng Tám. Ngày 18-8-1945, tại sân đình làng Mai Xá Chánh, cụ Trương Quang Phiên, hạt giống đỏ “Thanh niên” ngày nào đã chủ trì lãnh đạo việc cướp chính quyền ở địa phương và chuẩn bị ra mắt Uỷ ban khởi nghĩa. Cũng tại sân đình này, đêm 1-9-1945, cụ Trương Quang Côn, Chủ nhiệm Việt Minh xã đã tập hợp, dẫn đầu một đoàn đại biểu dân làng náo nức tiến về thị xã Quảng Trị mừng ngày Quốc khánh 2-9-1945. Nhưng thực dân Pháp không từ bỏ âm mưu cướp nước ta lần nữa. Vì thế, cùng với cả nước, người làng Mai đã tức thì đứng lên kháng Pháp bằng việc gửi con em vào đoàn Nam tiến để chia lửa với chiến trường miền Nam. Cùng với cả huyện, người làng Mai đã góp phần tạo dựng nên “Huyện kháng chiến kiểu mẫu” Gio Linh – danh hiệu được tỉnh công nhận năm 1949 – bằng “kiểu mẫu” riêng, bằng cốt cách truyền thống hun đúc và bằng cả những huyền thoại có thật: đau thương mà bi tráng, uất hận mà khí tiết… trong đó mãi lung linh huyền thoại mẹ Gio Linh. Ký ức người Mai Xá không bao giờ quên ngày uất hận, ngày giặc Pháp ở đồn Nhĩ Hạ bắt được hai anh Nguyễn Đức Kỳ, xã đội trưởng xã Linh Hưng (nay là xã Gio Mai) ở thôn Lâm Xuân, Gio Mai và anh Nguyễn Phi, cán bộ bình dân học vụ ở miếu Đôi ngoài đồng Mai Xá đưa về đồn tra tấn suốt ngày đêm, rồi hành quyết cắt đầu hai anh đem cắm ở chợ trước cổng đình làng Mai Xá Chánh ngày 16-8-1948. Ông Trương Ký Túc, người làng Mai Xá Chánh, nay đã 72 tuổi, lúc đó hãy còn là một chú bé đi chăn bò chứng kiến sự việc bi thương này, nhớ lại: “Sáng đó, lúc 4 giờ tôi đã dậy đi lùa bò. Do bò chạy vào đình làng, tôi phải vào lùa, chợt thấy có hai đầu người bị Tây cắm trên đòn xóc trước đình. Tôi vuốt vào cái đầu người thấy láng mượt, sợ quá, tôi vội quay ra, bị con bò đạp lên chân làm toe móng chân. Chỗ móng chân bị bò đạp vẫn còn “kỷ niệm” mãi đến nay”. Đã làm cái việc dã man trung cổ là bêu đầu, lại còn xức dầu bidăngtin láng mượt lên đầu hai chiến sĩ theo kiểu “hoa lệ” thực dân đểu cáng, giặc Pháp hòng răn đe, làm nhụt ý chí kháng chiến của quân dân Gio Linh. Nhưng chúng đã nhầm to và càng làm mồi thêm ngọn lửa căm thù bốc cao như núi. Trước khi bị hành quyết, hai anh đã dõng dạc gửi lại nghĩa khí cho đời, như trong bài thơ “Mẹ già liệt sĩ làng Mai” của Mai Quang Trí, một tác giả quê ở chính làng Mai Xá Thị, Gio Mai, Gio Linh đã cảm khái và hào sảng viết: “Họ hô to “Độc lập muôn năm”, Họ hô lớn “Việt Nam bất diệt”…
Bà mẹ Gio Linh
"Bà mẹ Gio Linh" là tên một bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy được sáng tác năm 1948. Đây được coi là ca khúc đầu tiên nói về bà mẹ liệt sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bà mẹ Gio Linh trong bài hát của Phạm Duy nói về những người mẹ có thật ở làng Mai Xá, xã Gio Mai, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, đó là hai mẹ Diêu Cháu (tức bà Lê Thị Cháu, còn chồng tên Nguyễn Diêu, dân làng quen kêu là mẹ Diêu Cháu) và mẹ Hoàng Thị Sáng. Bài hát trở nên rất nổi tiếng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và sau đó vẫn được ưa chuộng tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, nhưng sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975, bài hát bị cấm trên toàn cõi Việt Nam cùng với những bài khác của ông. Đến năm 2005, nó là một trong 10 bài đầu tiên của ông được phép lưu hành. Cho đến nay người thể hiện bài hát này được đánh giá cao nhất là ca sĩ Thái Thanh.
Châu Huệ Mẫn, hiện đã 51 tuổi, vẫn luôn là một biểu tượng nhan sắc của làng giải trí xứ hương cảng. Châu Huệ Mẫn nổi tiếng tại Hồng Kông từ thập niên 1990. Cô chia tay sự nghiệp ngôi sao giải trí từ năm 2000 khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp để theo người yêu ra nước ngoài sinh sống và làm việc. Và tới năm 2006, cô bất ngờ trở lại Hồng Kông. Dù không tham gia đóng phim nhiều nhưng Châu Huệ Mẫn vẫn tham gia các sự kiện và là gương mặt đại diện cho một số nhãn hàng. Người đẹp kết hôn với bạn trai lâu năm Nghê Chấn vào năm 2008. Đây được xem là một trong những quyết định táo bạo nhất cuộc đời mỹ nhân họ Châu. Châu Huệ Mẫn và Nghê Chấn làm đám cưới vào năm 2008, không lâu sau khi anh bị phát hiện ngoại tình. Châu Huệ Mẫn và Nghê Chấn đã có 19 năm gắn bó, trải qua bao nhiêu lần hợp tan trước khi tổ chức hôn lễ chính thức vào tháng 12/2008. Điều đáng nói, quyết định kết hôn này được đưa ra không lâu sau khi Nghê Chấn bị phát hiện thân mật với một cô gái trẻ tại quán bar khi vẫn đang hò hẹn với Châu Huệ Mẫn. Khi Châu Huệ Mẫn lên tiếng bênh vực rồi chấp nhận tha thứ cho Nghê Chấn sau scandal ngoại tình, nhiều người đã đánh giá cô dại dột, lụy tình. Và tới khi ngôi sao xứ hương cảng nhận lời hỏi cưới của bạn trai, nhiều người đã nhận định, đây là sai lầm lớn nhất cuộc đời mỹ nhân xứ càng thơm. Châu Huệ Mẫn và Nghê Chấn đã ở bên nhau 19 năm trước khi họ quyết định tổ chức hôn lễ và đăng ký kết hôn. Đám cưới của Châu Huệ Mẫn và Nghê Chấn không có đông người tham dự, khoảng 20 người. Bố mẹ cô dâu và chú rể đều vắng mặt, và người bạn thân của họ - ca sĩ Cổ Cự Cơ đã được giao trách nhiệm người làm chứng cho đám cưới. Sau hôn lễ, một vài hình ảnh hiếm hoi của đám cưới được chia sẻ và hôn lễ này đã trở thành một trong những đám cưới gây sốc nhất làng giải trí xứ hương cảng hơn 10 năm trước. Sau đám cưới, Châu Huệ Mẫn từng nói về quyết định kết hôn với một người đàn ông từng bị phát hiện phản bội cô: “Tôi tin rằng, tôi đã kết hôn với người đàn ông mà mình thực sự yêu thương, với người đàn ông lý tưởng của tôi. Và chắc chắn chúng tôi sẽ có một tương lai tốt đẹp bên nhau”. Sau hơn 10 năm kết hôn, Châu Huệ Mẫn tin rằng, cô đang sở hữu người chồng tuyệt vời nhất. Sau 10 năm chung sống bên nhau, Châu Huệ Mẫn và Nghê Chấn không có con chung. Họ nuôi một đàn mèo và coi chúng như con của mình. Thỉnh thoảng, Châu Huệ Mẫn và Nghê Chấn vẫn nắm tay nhau tham dự các sự kiện. Nói về chồng, mỹ nhân xứ hương cảng luôn tỏ ra tự hào và khẳng định, đó là người đàn ông tuyệt vời nhất với cô. Mỹ nhân 51 tuổi có sút cân đôi chút nhưng vẫn rạng ngời và trẻ trung. Cô cho biết, mình là người thích chăm sóc bản thân, yêu bản thân nên trân trọng những khoảnh khắc riêng tư. Nghê Chấn hiểu cô và sở thích của cô nên anh không bao giờ can thiệp vào những gì cô làm, và luôn ủng hộ mỹ nhân họ Châu. Trong buổi phỏng vấn tháng 4/2019, Châu Huệ Mẫn lại nhận được câu hỏi về quyết định kết hôn với Nghê Chấn. Mỹ nhân 51 tuổi cho hay, cô rất hạnh phúc và trân trọng cuộc hôn nhân hiện tại. “Tôi không bao giờ hối hận vì quyết định kết hôn”, Châu Huệ Mẫn nói. Nữ diễn viên 51 tuổi từng trì hoãn đám cưới gần 19 năm và rồi đưa ra quyết định lên xe hoa khi người đàn ông của mình vừa “dính phốt”. “Tôi không phải là một người phụ nữ lãng mạn chính vì vậy cuộc sống của tôi rất đơn giản. Và chồng tôi là người chấp nhận mọi tính cách của tôi. Anh ấy luôn ở bên khi tôi cần. Trong 10 năm vợ chồng, Nghê Chấn đã làm rất tốt và anh ấy vẫn luôn là người bạn đời hoàn hảo nhất trong tim tôi”, Châu Huệ Mẫn tâm sự. Châu Huệ Mẫn và Nghê Chấn đã ở bên nhau gần 30 năm nhưng không có con chung. Với nữ diễn viên 51 tuổi, quan điểm về chuyện sinh con rất đặc biệt. “Không phải mọi cặp đôi kết hôn đều phải sinh con. Tôi thích nuôi động vật và hạnh phúc khi coi chúng như con mình. Nếu phải lựa chọn giữa 20 con mèo và một đứa con, tôi sẽ không ngần ngại lựa chọn những con mèo. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn khi ở bên thú cưng”, cô nói. Mỹ nhân 51 tuổi cho biết, cô băt đầu nhận thấy mình già đi và không sợ hãi về điều đó. Châu Huệ Mẫn nói rằng, quan điểm của cô về việc sinh con rất khác biệt với mọi người và không được phần đông ủng hộ. Tuy nhiên, cô tin rằng, đó là lựa chọn thích hợp nhất với cô và một người có lối sống như cô. Nghê Chấn cũng hoàn toàn đồng ý với Châu Huệ Mẫn. Anh chấp nhận cuộc sống không con cái bên người vợ ngôi sao. Ở tuổi 51, Châu Huệ Mẫn hàng ngày dành thời gian đọc sách, tập thể dục, chăm sóc da và vẽ tranh. Cô được ca ngợi là mỹ nhân không tuổi của làng giải trí xứ hương cảng vì vẫn sở hữu làn da mịn màng, dáng vóc cân đôi dù tuổi không còn trẻ. Khi được hỏi về tuổi tác và nỗi sợ lão hóa, Châu Huệ Mẫn nói: “Đó là một cuộc hành trình không thể tránh khỏi. Rồi sẽ đến ngày, tôi già đi và gương mặt không thể còn trẻ trung. Nhưng tuổi tác cũng có cái hay của nó. Hãy vui vẻ chấp nhận mọi thứ”. Đây là show diễn nằm trong tour diễn tri ân người hâm mộ của mỹ nhân Châu Huệ Mẫn.
Châu Huệ Mẫn
Châu Huệ Mẫn (chữ Hán: 周慧敏; bính âm: Zhōu Huì Mǐn/ Vivian Chow) (sinh ngày 10 tháng 11 năm 1967) là ca sĩ và diễn viên được yêu mến ở Hồng Kông. Năm 1992 cô tham gia diễn xuất với vai Mai trong bộ phim truyền hình Đại Thời Đại của TVB. Trong suốt sự nghiệp của mình, cô nổi tiếng là một ngôi sao tốt và khiêm tốn. Tính cách và thái độ của cô đối với người hâm mộ và đồng nghiệp trước sau không đổi. Cô rất yêu thích động vật, đã nuôi một vài con chó và mèo. Sau khi tham dự cuộc thi tìm kiếm ca sĩ vào năm 1985, Châu Huệ Mẫn đã trở thành DJ cho đài phát thanh và truyền hình Hồng Kông suốt hai năm. Sau buổi hòa nhạc năm 1994, Châu Huệ Mẫn nhận ra rằng cuộc sống cá nhân mới là quan trọng chứ không phải sự nổi tiếng hay vinh quang. Chính vì vậy cô đã dần tách ra khỏi giới giải trí Hồng Kông và ngừng hẳn vào cuối thập niên 90 khi người yêu lâu năm của cô, Joe Ngai, di cư tới Vancouver, Canada. Tuy nhiên công chúng vẫn còn nhìn thấy cô trong những chuyến quay lại Hồng Kông dài ngày thăm mẹ.
Nhôm (bắt nguồn từ tiếng Pháp: aluminium, phiên âm tiếng Việt: a-luy-mi-nhôm) là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và số nguyên tử bằng 13. Nguyên tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2,7 g/cm3. Nhiệt độ nóng chảy là 660oC. Nhôm là nguyên tố phủ khắp trang bị 3 (sau ôxy và silic), và là kim chiếc tràn khắp nhất trong vỏ Trái Đất. Nhôm chiếm khoảng 8% khối lớp rắn của Trái Đất. Kim dòng nhôm hiếm phản ứng hóa học mạnh với những dòng quặng và sở hữu mặt tránh trong những môi trường khử cực mạnh. Dù vậy, nó vẫn được mua thấy ở dạng hợp chất trong hơn 270 mẫu khoáng vật khác nhau. Quặng chính cất nhôm là bô xít. Nhôm sở hữu điểm đáng chú ý của một kim cái mang tỷ trọng thấp và với năng lực chống ăn mòn hiện tượng thụ động. Các thành phần cấu trúc được gây nên từ nhôm và hợp kim của nó là cực kỳ quan trọng cho ngành công nghiệp hàng không vũ trụ và cực kỳ quan trọng trong lĩnh vực khác của giao thông vận tải và nguyên liệu cấu trúc. Các hợp chất hữu ích nhất cửa nhôm là những ôxít và sunfat. Mặc dù nhôm có mặt nhiều loại trong môi trường nhưng những muối nhôm ko được bất kỳ dạng sống nào cần sử dụng. Tuy nhưng mang sự phủ khắp của nó, các hợp chất nhôm được thực vật và động vật dung nạp đáng đề cập. Nhôm là một trong số kim dòng mềm, nhẹ mang màu trắng bạc ánh kim mờ, vì mang 1 lớp mỏng ôxi hóa tạo thành rất nhanh lúc nó để trần không tính bầu không gian. Tỷ trọng riêng cho nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng; nó rất mềm (chỉ sau vàng), dễ uốn (đứng thứ sáu) và một cách dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó sở hữu khả năng chống ăn mòn và bền vững do lớp ôxít chăm sóc. Nó cũng ko nhiễm từ và không cháy khi để ở ko kể bầu không gian ở điều kiện thông thường. Sức bền của nhôm tinh khiết là 7–11 MPa, trong khi hợp kim nhôm có chất lượng độ bền từ 200 MPa tới 600 MPa. Những nguyên tử nhôm bố trí thành 1 cấu trúc lập phương tâm mặt (fcc). Nhôm có dung lượng xếp lỗi vào khoảng 200 mJ/m2. Nhôm phản ứng sở hữu nước tạo ra hydro và năng lượng: 2 Al + 6 H2O → 2 Al(OH)3 + 3 H2 Tính chất này sở hữu thể cần sử dụng để phát minh hydro, tuy vậy phản ứng này mau chóng giới hạn lại vì tạo lớp kết tủa keo lắng xuống,ngăn cản phản ứng xảy ra. khi ngâm trong hỗn hợp kiềm đặc, lớp màng này sẽ bị phá hủy theo phản ứng Al(OH)3+NaOH → NaAlO2 + 2H2O tiếp tục Al lại tác dụng có lớp nước như phản ứng trên. Đoạn này lại diễn ra tới khi Al khồng hề bị hòa tan hết. Tham chiếu thứ 1 tới nhôm (mặc dù không thể chứng minh) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus (tức Pliny anh): có 1 ngày 1 người thợ vàng ở Roma cho phép cho hoàng đế Tiberius xem 1 mẫu đĩa ăn làm cho từ một kim cái mới. Mẫu đĩa cực kỳ nhẹ và mang màu sáng như bạc. Người thợ vàng kể sở hữu hoàng đế rằng ông đã đáp ứng kim cái từ đất sét thô. Ông cũng đảm bảo với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách chế tạo kim chiếc này từ đất sét. Hoàng đế rất thích thú, và như một chuyên gia về tài chính ông đã sử dụng phủ khắp đến nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là cục bộ tài sản vàng, bạc của ông sẽ mất báo giá trị trường hợp như người dân sinh sống bắt đầu sản xuất kim chiếc màu sáng này từ đất sét. Vì thế, thay vì cảm ơn người thợ vàng, ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta. các người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã cần sử dụng loại muối của kim chiếc này cũng như là thuốc cẩn màu (nhuộm) và chất khiến se vết thương,phèn chua vẫn được sử dụng như chất làm cho se. Năm 1761 Guyton de Morveau đề xuất cách gọi gốc của phèn chua là alumine. Năm 1808, Humphry Davy xác định được gốc kim nhiều loại của phèn chua (alum), mà theo đó ông đặt tên cho nhôm là aluminium. thương hiệu của Friedrich Wöhler nói chung được gắn ngay tắp lự có việc phân lập nhôm vào năm 1827. Tuy nhiên, kim dòng này được sản xuất lần thứ 1 trong dạng không nguyên chất hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted. Nhôm được tậu làm cho chóp cho đài kỷ niệm Washington vào tuổi thọ lúc 1 aoxơ (28,35 g) sở hữu báo giá trị bằng hai lần ngày lương của người lao động. Trước năm 1880, nhôm mang báo giá trị vô cùng cao, hơn cả vàng và bạc. Nguyên do của việc này thiết yếu là và thời điểm đấy, khoa học chỉ mới có phương án tách những dòng nhôm cực kỳ nhỏ. 1 Vài dẫn chứng ví dụ là điều Napoleon III – tổng thống Pháp cho tiêu dùng loại thiết bị ăn uống bằng nhôm lúc tiếp đón những vị khác quan trọng nhất; vua Đan Mạch đội vương miện bằng nhôm và những quý bà ở Paris thường đeo trang sức và tiêu sử dụng ống nhòm bằng nhôm nhằm thể hiện sự giàu sở hữu. Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế (số 400655) năm 1886, về quy trình điện phân để bán nhôm. Henri Saint-Claire Deville (Pháp) đã hoàn chỉnh cách thực hiện của Wöhler (năm 1846) và thể hiện nó trong cuốn sách năm 1859 với hai cải tiến trong các quy trình. Tạo ra của các bước Hall-Héroult năm 1886 đã làm việc cung cấp nhôm từ khoáng chất phát triển thành không đắt tiền và bây giờ nó được quan tâm trên thế giới. nước Đức trở nên nơi cung ứng nhôm lớn nhất thế giới sau lúc Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên, năm 1942, những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã được phép Mỹ các đồ vật mà nước Đức quốc xã ko thể hy vọng cạnh tranh: khả năng chế tạo đủ nhôm để với thể đáp ứng 60.000 máy bay chiến đấu trong bốn năm. Tính theo cả con số lẫn bảng giá trị, việc dùng nhôm vượt mọi những kim cái khác, trừ sắt, và nó đóng vai trò quan trọng trong nền buôn bán thế giới. Nhôm nguyên chất mang sức chịu kéo tốt, nhưng tạo nên những hợp kim với phong phú nguyên tố cũng như đồng, kẽm, magiê, mangan và silic. Khi được gia công cơ nhiệt, các hợp kim nhôm này với những thuộc tính cơ học khuếch trương lên đáng nhắc. Các hợp kim nhôm tạo thành một thành phần quan trọng trong những máy bay và tên lửa do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng. Khi nhôm được bay khá trong chân ko, nó tạo ra lớp bao che phản quang cả độ sáng và phản xạ nhiệt. Các lớp che phủ này tạo thành 1 lớp mỏng của ôxít nhôm chăm sóc, nó không bị nứt cũng như những lớp bạc che phủ vẫn hay bị. Trên một cách thực tế, đầy đủ cục bộ các dòng gương tân tiến được chế tạo tiêu sử dụng lớp phản quang bằng nhôm trên mặt sau của thủy tinh trong. Các gương của kiếng thiên văn cũng được phủ 1 lớp mỏng nhôm, nhưng là ở mặt ra vào để ngăn cản các phản quang phía bên trong mặc dù điều này làm cho bề mặt phía trên nhạy cảm hơn mang các tổn thương. Những dòng vỏ phủ nhôm đôi khi được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khí cầu để tăng nhiệt độ cho việc đó, nhờ vào công dụng hấp thụ bức xạ năng lượng điện từ của hồng ngoại phải chăng, mà phản xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp. Hợp kim nhôm, nhẹ và bền, được sử dụng để buôn bán các các tiểu tiết của phương tiện vận tải (ô tô, máy bay, xe tải, toa xe tàu hỏa, tàu biển, v.v.). bắt đầu (cửa sổ, cửa, ván, v.v; tuy vậy nó đã đánh mất vai trò chủ yếu dùng làm cho dây dẫn phần đến cuối của những mạng điện, thẳng trực tiếp tới người tiêu sử dụng.). Các hàng sử dụng mang thời gian chịu đựng cao (trang thứ, đồ nấu bếp, v.v). Mặc dù tự bản thân nó là ko nhiễm từ, nhôm được sử dụng trong thép MKM và các nam châm Alnico. Nhôm cực kỳ tinh khiết (SPA) chứa 99,980%-99,999% nhôm được tiêu dùng trong công nghiệp năng lượng điện tử và sản xuất đĩa CD. Nhôm dạng bột thông thường được dùng sẽ tạo màu bạc trong sơn. Những bông nhôm mang thể cho thêm vào trong sơn lót, chủ yếu là trong xử lý gỗ — lúc bị khô quá đi, những bông nhôm sẽ tạo dựng ra một lớp kháng nước siêu tốt. Nhôm dương cực hóa là ổn định hơn đối có sự ôxi hóa, và nó được dùng trong các các lĩnh vực khác nhau của xây dựng. hàng chục ngàn những bộ tản nhiệt cho CPU của dàn máy tính hiện đại được sản xuất từ nhôm vì nó một cách đơn giản trong phân phối và độ dẫn nhiệt cao. Ôxít nhôm, alumina, được tìm thấy trong tự dưng dưới dạng corunđum, emery, ruby và saphia đã được tiêu sử dụng trong cung cấp thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được dùng trong những ống tia laser để sản xuất khả năng chiếu sáng với khả năng giao thoa. Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra phủ khắp nhiệt, nó dùng để khiến vật liệu rắn cho tên lửa, nhiệt nhôm và những thành phần của pháo hoa. Bên trên là những thông tin về cửa nhôm 2020 mà bạn quan tâm để sắm cũng như lắp đặt cửa nhôm an toàn nhanh chóng tiết kiệm nhất. Cùng Thành Long tìm hiểu về cửa nhôm về tên tiếng anh là gì sẽ được giải đáp ngay bên dưới:. Cửa nhôm tiếng anh nghĩa là gì là thuật ngữ khiến nhiều người còn khá băn khoăn và đắn đo suy nghĩ. Nếu bạn đang tìm kiếm cho mình câu trả lời cửa nhôm tiếng anh nghĩa là gì thì bài viết dưới đây sẽ nhanh chóng giúp bạn có được câu trả lời hài lòng! Cửa nhôm tiếng anh nghĩa là gì được xem là thắc mắc của một số người muốn tìm hiểu trong lĩnh vực này. Trước khi tìm hiểu cửa nhôm trong tiếng anh là gì, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu, nhôm trong tiếng anh là gì đã nhé! Nhôm trong tiếng anh nghĩa là aluminum. Đây là một loại kim loại nhẹ, có màu trắng bạc, chiếm 8% trọng lượng Trái Đất. Nhôm có tính bền, chống oxy hóa, có khả năng uốn cong, gia công trên máy móc hoặc nhiều vật liệu khác. Nhôm hiện nay được tìm thấy nhiều trong các hợp chất khác, nên được sử dụng nhiều với cái tên là hợp kim nhôm. Để có được thỏi nhôm nguyên chất, đòi hỏi phải trải qua quá trình nghiên cứu, lọc, nung, nấu rồi mới có được sản phẩm chất lượng. Cửa nhôm trong tiếng anh nghĩa là aluminum door, nghĩa là ghép từ chữ nhôm và chữ cửa. Cửa nhôm là sản phẩm được sử dụng rất phổ biến trong cuộc sống hiện nay, được kết hợp hai vật liệu chính là nhôm định hình và kính cường lực. Cửa nhôm nhẹ, dễ dàng sử dụng, độ bền cao, dễ uống dẻo, đa dạng về kiểu dáng mẫu mã, giá thành rẻ nên được nhiều người ưu ái chọn lựa. Với những giải thích cơ bản ở trên đây, chắc bạn đã phần nào giải đáp được thắc mắc cửa nhôm tiếng anh nghĩa là gì rồi đúng không. Thực ra cửa nhôm trong tiếng anh không có gì khó giải thích, hầu như đây là một cụm từ rất thông dụng đối với nhiều người. Nếu như bạn chưa tìm hiểu thì hi vọng thông qua bài viết này, bạn đã phần nào có được câu trả lời chính xác dành cho mình, để từ đó phục vụ cho việc hiểu biết, học tập cũng như nghiên cứu của mình. Chúng tôi hi vọng với câu trả lời này, bạn đã có được sự hài lòng cho chính bản thân mình. Mọi nhu cầu và thắc mắc liên quan đến việc cửa nhôm tiếng anh nghĩa là gì, thi công lắp đặt, thiết kế cửa nhôm, bạn đọc có thể liên lạc với nội thất nhôm kính đẹp Thành Long để được hỗ trợ. Với nhiều năm kinh nghiệm làm việc của mình, chúng tôi hi vọng có thể giúp ích được cho bạn trong việc tìm kiếm và chọn lựa sản phẩm phù hợp với chính bản thân mình. Trân trọng kính chào và hẹn gặp lại quý bạn đọc của nội thất Thành Long. 1, chừng độ uy tín của trường học cắt kính chịu lực ấy như thế nào, với đảm bảo không. 2, lực lượng viên chức, công nghệ viên góp phần cho việc cắt kiếng nhất thiết có trình chức năng tay nghề và chuyên môn cao. 3, Máy móc, cơ sở vật chất hỗ trợ cho vấn đề cắt kiếng cường lực nên được trang bị toàn những, hiện đại. 4, Giá bán cắt kính rẻ, giải quyết được cố định sắm tậu của người mua, không quá đắt cũng không quá thấp. 5, Chế tính bảo dưỡng nghiêm ngặt, hết lòng, có trách nhiệm mang bộ mà mình khiến cho ra của công ty cắt kiếng. 6, Thái độ và tính năng làm việc, trật tự khiến khía canh sở hữu chóng vánh, chất lượng và nhiều năm kinh nghiệm hay ko. nhìn chung, 1 nhà sản xuất cắt kính chịu lực uy tín hàng đầu hiện giờ nên đáp ứng được Bộ chỉ tiêu kể trên. Trong quá trình tậu lựa tòa nhà, người dùng bắt buộc nên tinh xảo trong thông tin sắm hiểu những câu hỏi trên để với được chất lượng văn phòng lý tưởng nhất có thể. Để tậu nhà phân phối cắt kính cường lực uy tín bậc nhất hiện tại hết sức dễ, vì hiện nay trên thị trường với tất cả địa chỉ chuyên sản xuất dịch vụ cắt kính chịu lực cho bạn chọn lọc. Trường hợp bạn muốn nhanh chóng mang được doanh nghiệp cắt kiếng giải quyết được toàn bộ Bộ mục tiêu trên thì đừng ngại ngần shop sở hữu chúng tôi – thứ trong nhà nhôm kính Thành Long để có được câu sử dung tuyệt vời nhất. mang những câu giải đáp về cửa làm từ nhôm kiếng uy tín bậc nhất thực tại trên đây, mong rằng quý độc nhái mang thể bổ sung thêm cho mình một ít tri thức trong vấn đề tậu mua chọn tác phẩm.
Lịch sử nhôm
Hợp chất nhôm phèn đã được biết đến từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên và được người xưa sử dụng rộng rãi để nhuộm và bảo vệ thành phố. Trong Thời trung cổ, việc sử dụng nó để nhuộm đã biến nó thành hàng hóa của thương mại quốc tế. Thời Phục hưng, các nhà khoa học tin rằng phèn là muối của một trái đất mới; trong Thời kỳ Khai sáng, người ta đã xác định rằng trái đất này, alumina, là một oxit của một kim loại mới. Khám phá về kim loại này được công bố vào năm 1825 bởi nhà vật lý người Đan Mạch Hans Christian Ørsted, người có công trình được mở rộng bởi nhà hóa học người Đức Friedrich Wöhler. Nhôm rất khó tinh chế và do đó không phổ biến trong sử dụng thực tế. Ngay sau khi phát hiện ra, giá nhôm đã vượt quá vàng. Nó chỉ bị giảm sau khi bắt đầu sản xuất công nghiệp đầu tiên bởi nhà hóa học người Pháp Henri Étienne Sainte-Claire Deville vào năm 1856. Nhôm trở nên sẵn có hơn cho công chúng với Công nghệ Hall-Héroult được phát triển độc lập bởi Pháp kỹ sư Paul Héroult và kỹ sư người Mỹ Charles Martin Hall vào năm 1886, và công nghệ Bayer được phát triển bởi nhà hóa học người Áo Carl Joseph Bayer vào năm 1889.
Phải chăng đề cao đức tính hi sinh, sự dịu dàng và nhẫn nhịn của phụ nữ là đang bảo vệ và tôn vinh họ? Phải chăng nữ quyền là tranh đấu và chia đôi thế giới này thành hai nửa riêng để phụ nữ và nam giới đều được hưởng như nhau? TS. Khuất Thu Hồng (Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển xã hội) trao đổi với Tia Sáng về những mệnh đề cơ bản này. TS. Khuất Thu Hồng: Nếu chúng ta nhìn bề ngoài thì sẽ thấy dường như đúng là như vậy, người phụ nữ bây giờ sướng hơn, họ có thể ăn mặc đẹp, đi làm ở công sở, thậm chí làm lãnh đạo, một năm có mấy ngày kỷ niệm như ngày 8/3, 20/10, trong khi đó, đàn ông thì không có ngày kỷ niệm nào của riêng mình. Nhưng điều đó chưa phải là tất cả sự thật về cuộc sống của phụ nữ Việt Nam hiện nay. Đây có thể là một phần sự thật về nhóm phụ nữ trí thức, có thu nhập cao ở thành phố, nơi vị thế của phụ nữ được cải thiện nhiều hơn, nơi quan hệ giữa hai giới bình đẳng hơn. Nhưng đó không phải là sự thật cho tất cả phụ nữ Việt Nam – ở nhiều nơi trên đất nước này phụ nữ vẫn luôn phải đứng sau người đàn ông (cho dù người đàn ông đó kém cỏi hơn). Khi nhìn sâu hơn nữa vào cuộc sống của mỗi gia đình thì sẽ thấy rằng nhận xét đó còn rất phiến diện. Không thể phủ nhận những nỗ lực trong việc thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao địa vị của phụ nữ ở Việt Nam nhưng chưa thể nói chúng ta đã đạt được bình đẳng giới, hay là nói theo kiểu dân dã hơn là “Như thế này là tốt quá rồi!” Tôi nghĩ, với công lao, năng lực của họ, phụ nữ Việt Nam xứng đáng nhiều hơn thế. Hãy nhìn vào từng gia đình, ngay cả ở thành phố, ngay cả ở trong những gia đình trí thức, có địa vị cao trong xã hội, liệu đã có bình đẳng thực sự hay chưa? Liệu có bao nhiêu ông chồng hết giờ làm việc về nhà nấu cơm, đón con? Có bao nhiêu ông chồng biết giặt quần áo và cho con ăn? Ở nông thôn thì bức tranh còn nhiều mảng tối hơn nữa. Cảnh “chồng chúa vợ tôi” vẫn chưa hề cũ trong cuộc sống của ngày hôm nay. Chưa kể bạo lực gia đình vẫn còn đang là bóng ma ám ảnh bao nhiêu người phụ nữ. Gần 60% phụ nữ Việt Nam đã kết hôn đã từng phải chịu ít nhất một dạng bạo lực, thể xác, tinh thần và tình dục. 13,5% phụ nữ đã kết hôn đã trải qua quan hệ tình dục không mong muốn với chồng. Có nghĩa là, ngay cả trong quan hệ gần gũi nhất thì người phụ nữ vẫn phải “ưu tiên” nhu cầu của người chồng. Tôi có thể nêu ra rất nhiều ví dụ để chứng minh rằng bất bình đẳng giới vẫn đang hiện diện trong mọi khía cạnh của đời sống. Tôi muốn nói đến bình đẳng giới thực sự, không phải là bình đẳng giới trên giấy. Chưa hết, mỗi khi TV, đài, báo đưa lên câu chuyện về một người phụ nữ thành đạt, thì thế nào cũng có sự nghi ngờ đại loại là ông chồng của cô này thế nào? Có thành đạt như cô ấy không? Nếu như ông chồng không thành đạt bằng vợ mình thì nhiều người sẽ chép miệng, lo lắng cho cô ấy rằng liệu như thế có bền không? Cô ấy có thời gian để nấu cơm cho chồng không? Người phụ nữ thành đạt hơn người chồng là một điều mà mọi người không mấy tán thưởng ở xã hội này, người ta không khuyến khích cho một mô hình như vậy, người ta luôn luôn muốn phụ nữ phải thấp hơn đàn ông một tí, kể cả tuổi tác đến tài năng, địa vị, tiền bạc. Người Việt Nam thường gắn hạnh phúc và sự thành đạt của người phụ nữ với một gia đình yên ổn, hạnh phúc, nơi mà người chồng luôn luôn hài lòng về người vợ, các con luôn luôn hài lòng về bà mẹ của mình, về đến nhà lúc nào cũng có cơm ngon canh ngọt. Còn những người phụ nữ thành đạt mà thiếu những tiêu chuẩn kia thì sự thành đạt đó không có mấy giá trị. Đúng vậy, khuôn mẫu này được nhập khẩu từ Nho giáo Trung Hoa và được gắn với những mỹ từ như là “thiên chức”, “truyền thống tốt đẹp”, “bản sắc văn hoá” … để ru ngủ người phụ nữ và nhốt chặt họ vào trong đó. Rất tiếc là không ít người phụ nữ cũng tự nguyện “giam mình” trong cái khuôn ấy và giam luôn cả con gái, em gái, bạn gái của mình. Có những người không nhận ra mình đang mê ngủ. Những người khác nhận ra đó là những giá trị ảo và thấy ngột ngạt nhưng không dám thay đổi, không dám thách thức bản thân, thách thức số phận. Dường như ở Việt Nam người ta hiểu không đúng lắm về nữ quyền, hầu như chỉ hiểu theo nghĩa đen là quyền của phụ nữ. Nếu chỉ nhìn như vậy thì hẳn là nhiều người sẽ nghĩ ngay là ôi, phụ nữ bây giờ lắm quyền rồi. Viêt Nam đã có Hội Phụ nữ to như thế, bao nhiêu chương trình chính sách về bình đẳng giới, về sự tiến bộ phụ nữ như thế thì cần gì phải có phong trào nữ quyền nữa. Cũng không ít người cho rằng đặt vấn đề nữ quyền là bắt chước phương Tây, nhập khẩu những quan niệm xa lạ với thực tế Việt Nam. Phụ nữ được gắn với vai trò gìn giữ một gia đình hạnh phúc, nơi luôn có “cơm ngon canh ngọt”. Có không ít người nghĩ về nữ quyền đầy tiêu cực, là cứ phải gào lên, hò hét, chỉ đấu tranh cho phụ nữ, chỉ nghĩ tới quyền lợi của người phụ nữ, thậm chí chia đôi thế giới này thành hai nửa riêng cho phụ nữ và nam giới mà bất chấp mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới. Người ta có thể hiểu theo một nghĩa rất triệt để là ông rửa một cái bát thì tôi cũng rửa một cái bát. Đó cũng là cách hiểu về nữ quyền một cách khá thô thiển tuy nhiên vẫn có rất nhiều người hiểu theo cách này. Cách diễn giải như vậy sẽ khiến cho mọi người ngày càng ác cảm với nữ quyền. Nói một cách ngắn gọn nữ quyền là phong trào chính trị - xã hội, nhằm khẳng định và đấu tranh cho quyền của phụ nữ trong mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, gia đình và cá nhân. Phong trào nữ quyền thách thức mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới hiện tại, đòi hỏi sự bình đẳng về cơ hội việc làm, học tập, tham gia chính trị, xã hội và đời sống gia đình và cá nhân. Lý thuyết nữ quyền, bắt nguồn từ phong trào nữ quyền thì tập trung nghiên cứu về bản chất của bất bình đẳng giới thông qua những vai trò và trải nghiệm của phụ nữ, từ đó giải thích nguyên nhân của bất bình đẳng giới, làm cơ sở cho những giải pháp đấu tranh cải thiện địa vị của phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng. Tiếc là từ góc độ này, những nghiên cứu thực sự về nữ quyền thì cũng chưa nhiều. Có một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam tự cho mình theo quan điểm nữ quyền hay tự cho mình là chuyên gia về vấn đề phụ nữ, về giới nhưng nghiên cứu của họ lại củng cố mối quan hệ giới bất bình đẳng, củng cố quan niệm truyền thống về phụ nữ. Thành ra, dù tiếng là nghiên cứu về phụ nữ và vì phụ nữ nhưng các nghiên cứu đó ngoài mô tả cuộc sống của phụ nữ thì không chỉ ra được nguyên nhân của bất bình đẳng giới và sự thiệt thòi của phụ nữ. Trong khi đó một số nghiên cứu rất sắc sảo của các nhà nghiên cứu nước ngoài thì lại ít được tham khảo nghiêm túc và thường có xu hướng coi đó là không phù hợp với thực tế Việt Nam. Nhìn vào hầu hết diễn đàn cho phụ nữ hiện nay, dường như chính chúng ta lại vẫn cứ đang ràng buộc phụ nữ vào những vấn đề muôn thuở, củng cố những mối quan hệ bất bình đẳng bằng việc chỉ gắn phụ nữ với bếp núc, với những đối xử trong gia đình thay vì mở rộng phạm vi quan tâm của phụ nữ. Nhưng bởi vì tự “giam mình” trong những khuôn mẫu ở trên nên nhiều người lại nghĩ rằng chia sẻ những kinh nghiệm đó là đang làm điều rất tốt cho phụ nữ. Cuối cùng phụ nữ chỉ quanh đi quẩn lại trong những chuyện thế thôi. Và rồi những diễn đàn đó lại đả phá những người theo quan điểm nữ quyền, họ nói rằng, nữ quyền thì chỉ cổ vũ phụ nữ sống như đàn ông, không chịu nấu cơm, rửa bát, không lấy chồng, dễ dàng bỏ chồng, ăn to nói lớn. Nhưng nữ quyền không phải là như vậy. Nữ quyền khuyến khích phụ nữ sống độc lập, tự tin, không phụ thuộc. Nữ quyền không phải là phủ nhận đàn ông hay phủ nhận nữ tính. Chúng ta hướng tới là một xã hội, mà ở đó, người phụ nữ có thể tự quyết định mình thích cái gì, chứ không phải là làm theo những điều mà người ta thích phụ nữ làm. Thay đổi như chúng ta muốn là bình đẳng thực sự là rất khó. Nhưng với thời gian điều đó sẽ xảy ra. Đó là khi mà có rất nhiều phụ nữ cùng chia sẻ suy nghĩ như là chúng ta đang trao đổi ở đây. Nếu bạn xem những bộ phim của Mỹ vào những năm 1950, thì thấy giống hệt Việt Nam bây giờ. Thậm chí có những trường dạy cho những cô gái con nhà quý tộc hoặc tầng lớp trung lưu trở lên cách làm bà nội trợ, dạy họ cách làm như thế nào để lấy được một ông chồng giàu có thay vì học hành và làm việc để có cuộc sống độc lập. Tôi không nói rằng, ngày nay tất cả mọi người Mỹ đều có cùng quan điểm như mình đang thảo luận, vẫn còn nhiều phụ nữ ở đó có tư tưởng rất truyền thống, cũng như rất nhiều người đàn ông vẫn gia trưởng giống đàn ông Việt Nam nhưng mà xu hướng chủ đạo đã thay đổi. Ngay cả ở châu Âu cũng thế, có rất nhiều phụ nữ chỉ làm nội trợ suốt đời và tin rằng đó là điều tốt đẹp nhưng quan điểm chủ đạo về vị thế của phụ nữ và quan hệ giới thì đã thay đổi. Điều quan trọng là những xã hội đó thay đổi theo cách để cho phụ nữ tự lựa chọn. Người phụ nữ có thể lựa chọn ở nhà làm nội trợ nếu họ thích như vậy. Nhưng nếu họ lựa chọn làm việc, theo đuổi sự nghiệp của mình thì xã hội cũng trân trọng và ủng hộ. Những người phụ nữ như vậy sẽ không bị phê phán là thiếu nữ tính, ích kỷ hay không hoàn hảo. Như vậy, cái mà chúng ta hướng tới là một xã hội, mà ở đó, người phụ nữ có thể tự quyết định mình thích cái gì, chứ không phải là làm theo những điều mà người ta thích phụ nữ làm. Bây giờ nhiều phụ nữ đang phải làm những điều mà người khác thích phụ nữ làm. Và đang có những nỗ lực để khiến phụ nữ tin rằng đó mới là đúng đắn. Tôi nghĩ là sự thay đổi bắt đầu từ việc truyền bá những quan điểm đó. Truyền thông sẽ là một kênh rất quan trọng cho việc này. Những tư tưởng và hành động bắt đầu từ những cá nhân được truyền bá sẽ tạo thành làn sóng và lan rộng thành phong trào, tạo ra sự thay đổi rất căn bản, vững bền vì đó là lựa chọn của chúng ta vì chính chúng ta. Cơ quan chủ quản: Bộ Khoa học và Công nghệ. Giấy phép xuất bản: Số 01/GP-BTTTT ngày 08/01/2018.
Phụ nữ ở Việt Nam
Phụ nữ Việt Nam là nguồn nhân tố quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của xã hội Việt Nam. Lịch sử đã và luôn minh chứng sự hiện diện của phu nữ trong các vai trò quan trọng của xã hội. Quá trình xây dựng, lao động sản xuất, đấu tranh chống thiên tai, địch họa, tề gia. Được khẳng định qua năng lực và phẩm hạnh trong các hoạt động xã hội, bao gồm cả trong lĩnh vực phi truyền thống nhất, góp một phần to lớn công sức và trí tuệ cho nền hoà bình và văn minh nhân loại. Chiếm 51% lực lượng lao động ở Việt Nam, phụ nữ ở nông thôn vẫn đóng vai trò chính trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Phụ nữ vẫn đóng vai trò chính trong công việc gia đình và nuôi dạy con cái. Trong số các đại biểu của Quốc hội Việt Nam, tổ chức quyền lực cao nhất, phụ nữ chiếm 27,3% và được Liên Hợp Quốc đánh giá là: "Phụ nữ Việt Nam tham gia hoạt động chính trị cao nhất thế giới". Theo thống kê, số lượng nữ sinh theo học tại bậc trung học phổ thông là 53,8%, tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%, thạc sĩ 33,95%, tiến sĩ 25,96%.
Tajikistan Xô viết có vị trí tại Trung Á và được thành lập vào ngày 14 tháng 10 năm 1924, đã có lúc được gọi là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Tajikistan và là một phần của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan. Vào ngày 5 tháng 12 năm 1929 nó được chuyển thành một nước độc lập riêng rẽ của Liên bang Xô viết. Vào ngày 9 tháng 9 năm 1991, Quốc gia này tuyên bố độc lập từ Liên bang Xô viết và được đổi tên thành “Cộng hòa Tajikistan“. Một trong các chính thể mới được xây dựng tại Trung tâm châu Á năm 1924 là Uzbekistan, có vị thế của một nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết. Tajikistan được xây dựng như một nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết tự trị bên trong Uzbekistan. Nền Cộng hòa tự trị là phía Đông Bukhara và có dân số khoảng 740.000, trong khi tổng dân số của Uzbekistan là 5 triệu. Thủ đô là Dushanbe, là một ngôi làng có số dân khoảng 3.000 vào năm 1920. Năm 1929 Tajikistan ly khai khỏi Uzbekistan và có chính thể đầy đủ là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết. Trong thời gian này, vùng lãnh thổ phía Nam Tajikistan đã được thêm vào nước Cộng hòa. Mặc dù được thêm lãnh thổ, Tajikistan vẫn là nước nhỏ nhất ở Trung tâm châu Á. Tờ báo được viết bằng ngôn ngữ Tajik tại Tajikistan Xô Viết bắt đầu vào năm 1926. Nền giáo dục mới cũng bắt đầu từ thời gian này. Các ngôi trường đầu tiên, cho cả người lớn và trẻ con được xây dựng để phổ cập kiến thức cơ bản, mở cửa năm 1926. Chính quyền cũng tuyển một số ít người Tajik cho văn phòng công cộng, hoặc gửi họ đến trường tại Uzbekistan.
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Moldavia
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Moldavia (Tiếng Moldova: Република Аутономэ Советикэ Cочиалистэ Молдовеняскэ, tiếng Romania: Republica Autonomă Sovietică Socialistă Moldovenească) gọi tắt là Moldova tự trị Xô viết là cộng hòa tự trị của Liên Xô, một phần của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina, nằm giữa sông Transnistria và Nam Bug. Trong Nội chiến Nga, nó đã đổi chủ nhiều lần giữa Đỏ, Trắng và Cossacks. Sau chiến thắng của Hồng quân năm 1920, nó trở thành một phần của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina. Vào ngày 7 tháng 3 năm 1924, vùng tự trị Moldavia được thành lập. Nó được nâng cấp thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết tự trị vào ngày 12 tháng 10 năm 1924. Vào ngày 2 tháng 8 năm 1940, Cộng hòa tự trị xã hội chủ nghĩa Xô viết của Liên Xô đã bị rút. 6 vùng phía tây của Cộng hòa tự trị cũ và 6 quận hoàn chỉnh và 3 vùng nhỏ của Bessarabia đã được thành lập thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Moldova, phần còn lại thuộc Ukraina. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Moldavia được thành lập bên trong Ukraina Xô viết, vào ngày 12 tháng 10 năm 1924.
Nếu bạn là người đam mê thời trang, nhất là những mẫu tóc thời thượng. Có lẽ “gôm xịt tóc” là một sản phẩm không còn xa lạ gì với bạn. Nhưng bạn có hiểu rõ về gôm xịt tóc này chưa? Có nên sử dụng sản phẩm thường xuyên không? Hãy tham khảo cùng dược phẩm OTC nhé. Gôm xịt tóc là sản phẩm dùng trong việc sản xuất được tạo kiểu mẫu cho tóc. Ra đời và hình thành vào năm 1940 nhằm phục vụ nhu cầu thẩm mỹ cho tóc. Sau khi ra đời, gôm xịt tóc dần trở nên phổ biến và ứng dụng nhiều. Với công dụng chính là cố định kiểu tóc, mẫu tóc để tạo hình tóc. Gôm xịt tóc giúp giữ dáng tóc và giữ nếp tóc tốt hơn. Tuy nhiên, đây là sản phẩm được sử dụng nhiều cho nam giới. Thành phần của bình xịt tóc bao gồm các chất polyme công nghiệp nhưng không gây hại cho tóc. Tuỳ theo công thức pha trộn khác nhau mà gôm xịt tóc chia ra các loại tóc cứng, mềm. Tuỳ theo mục đích bóng hay không bóc, nhu cầu và sở thích khác nhau của người sử dụng. Bạn muốn sử dụng bình xịt tóc nhưng chưa biết cách làm. Nếu chưa nắm rõ cách sử dụng, bạn sẽ dễ khiến tóc bị sai kiểu và không đạt hiệu quả như mong muốn. Trước tiên, để định hình sơ tóc thì bạn dùng sáp tạo kiểu. Để tăng hiệu quả khi sử dụng sáp, bạn có thể sử dụng lúc tóc còn ướt. Lúc này sẽ khiến việc chải và tạo tóc đơn giản, dễ dàng hơn đấy. Lắc đều trước khi sử dụng. Hãy lắc đều chai gôm xịt chứa các thành phần hoà trộn vào nhau. Đây là một bước đơn giản nhưng không kém phần quan trọng đấy nhé. Sau cùng, khi đã lắc và sử dụng dụng dịch được hoà trộn. Bạn sử dụng nắp chai và vòi vào vị tóc mà bạn cần định hình. Khoảng cách để đạt được hiệu quả tốt nhất là từ 20-30cm. Cuối cùng, bạn dùng lược và tay để chỉnh lại nếp tóc trước khi khô là được. Như vậy bạn đó được mẫu tóc như mong muốn rồi đấy. Đơn giản phải không nào. Khiến tóc dễ trở nên khô và xoăn, ảnh hưởng đến chất tóc. Bạn để ý sẽ thấy tóc khó chải mượt. Lạm dụng quá nhiều sẽ khiến tóc bị chẻ ngọn và đổi sang màu vàng. Tóc bị tổn thương nghiêm trọng. Không nên xịt gần hoặc sử dụng loại có gel. Dẫn đến tình trạng tóc dày và dễ gây nhiềm trung da đầu. Các chất hoá học có trong gôm xịt tóc sẽ khiến bạn bị mất protein keratin. Khiến tóc và da dầu bị bí, không thể thở. Nếu muốn sử dụng gôm xịt tóc, bạn nên thường xuyên chăm sóc tóc. Gội đầu hàng ngày, ủ tóc bằng dầu xả. Bạn nên để bình xịt tóc ở nơi có không gian thoáng mát. Tránh ánh nắng mặt trời hay nhiệt độ cao. Vì có thể gây nên hiện tượng nổ bình. Bình xịt tóc đa phần sử dụng cho nam. Tuy nhiên đây là sản phẩm làm đẹp cho cả nam và nữ. Nên hãy lưu ý khi sử dụng nên chú ý đến một lượng vừa phải. Sử dụng quá nhiều sẽ gây ảnh hưởng đến chất tóc và khiến tóc bị “đơ” thiếu tự nhiên. Khi xịt gôm cho tóc, bạn nên che mắt lại để tránh gôm xịt tiếp xúc với mắt. Vì các thành phần có trong gôm sẽ gây kích ứng và ảnh hưởng đến tóc. Mối nguy hiểm của keo xịt và keo xịt tóc có thể lớn hoặc nhỏ tùy theo thói quen sử dụng, và chúng ta nên cố gắng hết sức để tránh những nguy cơ dù là nhỏ. Đặc biệt là các bạn nam, không nên dùng keo xịt tóc hàng ngày vì về lâu dài sẽ gây hại rất nhiều. Chính sách bảo mật thông tin khách hàng và nghĩa vụ bên mua và bán.
Gôm xịt tóc
Gôm xịt tóc, hay còn gọi là keo xịt tóc, là sản phẩm mỹ phẩm phổ biến được phun xịt lên tóc để giữ nếp tóc cứng hoặc trong một kiểu tóc nhất định. Gôm xịt phun ra từ vòi phun hoặc miệng bình xịt. Gôm xịt tóc hiện đại đã được phát triển trong khoảng thời gian bình xịt thiếc vào những năm 1940 và bằng sáng chế đầu tiên diễn tả copolyme cho kiểu tóc đã được xuất bản vào những năm 1940. Gôm xịt tóc trở nên phổ biến sau khi bằng sáng chế về quá trình xịt và chế tạo bình thiếc phun xịt trong những năm 1940. Người đầu tiên đóng gói là sản phẩm Chase (một nhà sản xuất bình xịt) vào năm 1948, vì ngành công nghiệp làm đẹp đã nhìn thấy rằng bình thiếc phun xịt được sử dụng trong Thế chiến II cho thuốc trừ sâu có thể được sử dụng phân phát như gôm xịt tóc. Nó phát triển và ngày càng trở nên phổ biến và được sản xuất hàng loạt, như kiểu tóc updo và những kiểu tóc khác đã được tạo ra. Đến năm 1964, nó trở thành sản phẩm bán chạy nhất trên thị trường.
Tình dục không phải là một điều gì đó đáng xấu hổ, đó là một nhu cầu tự nhiên của con cá nhân. Chúng ta có thể cải thiện đời sống hôn nhân hay chỉ là cá nhân mình bằng phương pháp cải thiện một cuộc sống tình dục có hiệu quả. Trong quan hệ tình dục, khi cả hai cùng đạt được “cực khoái” đó là dấu hiệu tốt cho sự liên kết giữa hai người được khăn khít hơn bao giờ kết thúc. Vậy vấn đề là làm thế nào để đạt được “cực khoái” khi yêu? Bài viết này sẽ giúp bạn hiểu hơn về cực khoái ở nam và nữ, từ đó bạn sẽ biết phương pháp để tạo cực khoái khi quan hệ. Cực khoái hay còn gọi là “lên đỉnh”, đó là trạng thái sung sướng cực độ khi được thỏa mãn những nhu cầu về thể xác lẫn tinh thần. một trong những số đặc điểm lên cơ thể được kích thích đúng nơi, đúng thời điểm sẽ giúp đối phương dễ lên đỉnh. Đường âm đạo ở nữ có một khu vực nhạy cảm hơn các khu vực khác (điểm G). Khu vực này khi được kích thích sẽ đem lại khoái cảm khác biệt so với những vùng khác khi quan hệ. Lên đỉnh trong quá trình kích thích tình dục (trước khi cậu nhỏ thâm nhập vào cô bé) cũng là một trong những dạng của cực khoái. Những kích thích được tạo nên hoàn toàn từ thần kinh (tưởng tượng trong suy nghĩ) cũng nhiều khả năng đạt được cực khoái mà không có sự tác động nào khác từ bên ngoài. Rối loạn cực khoái xảy ra khi một cá nhân có kích thích tình dục nhưng không trên đỉnh được hoặc trên đỉnh sớm hơn dự kiến. Dưới đây là một số biểu đang kết hợp nguyên nhân gây rối loạn cực khoái bạn có thể nghiên cứu. Ở nam giới khi gặp các biểu đang rối loạn khoái cảm hoặc mất ham muốn tình dục, tốt đặc biệt nên điều trị sớm kết hợp dứt điểm. Vì “đêm dài lắm mộng”, nguy hại đến sức khỏe và sinh sản sau này.
Cực khoái
Cực khoái hoặc Cao trào tình dục là việc xả đột ngột của hưng phấn tình dục tích lũy trong suốt chu kỳ đáp ứng tình dục, dẫn đến nhịp co thắt cơ bắp trong vùng khung chậu đặc trưng bởi khoái cảm tình dục. Cực khoái có cả ở nam và nữ, và được hệ thống thần kinh tự chủ kiểm soát. Chúng thường được liên kết với các hành động không tự nguyện khác, bao gồm co thắt cơ bắp ở nhiều khu vực của cơ thể, một cảm giác hưng phấn chung và, thường xuyên gây ra chuyển động cơ thể và các âm thanh. Khoảng thời gian sau khi đạt cực khoái (được gọi là thời kỳ hạ nhiệt) thường là một trải nghiệm thư giãn, được cho là do sự giải phóng các hormone thần kinh oxytocin và prolactin cũng như endorphin (hay "morphin nội sinh").Cực khoái của con người thường là kết quả của sự kích thích tình dục thể chất của dương vật ở nam giới (điển hình là xuất tinh kèm theo) và của âm vật ở nữ giới. Kích thích tình dục có thể bằng cách tự thực hành (thủ dâm) hoặc với bạn tình (quan hệ tình dục thâm nhập, quan hệ tình dục không thâm nhập hoặc hoạt động tình dục khác).
Phật đản là ngày lễ trọng đại được tổ chức hằng năm bởi cả hai hệ phái Phật giáo Nam Tông (Tiểu thừa) và Bắc Tông (Đại thừa). Nguồn gốc, ý nghĩa và các nghi thức thường làm trong ngày lễ Phật ĐảnNguồn gốcÝ nghĩaNghi thức thường làm. Lễ Phật Đản được tổ chức hàng năm, vào ngày rằm tháng tư, ở các nước theo đạo Phật là để kỷ niệm ngày Đức Phật ra đời. Trong đại lễ, Phật tử không sát sinh, chỉ ăn chay, phóng sinh và làm các công việc thiện nguyện. Từ năm 1999, ngày lễ Phật Đản 15/4 (âm lịch) đã được Liên Hiệp Quốc công nhận là ngày lễ hội văn hóa tâm linh thế giới. Ngày Phật Đản còn là một trong ba ngày lễ lớn trong năm của đạo Phật (Phật Đản, Vu lan, Thành đạo). Trước năm 1959, các nước Đông Á thường tổ chức ngày lễ Phật Đản vào ngày 8/4 âm lịch. Nhưng tại Đại hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên, tại Colombo (Tích Lan) được tổ chức từ 25/5 đến 8/6/1950, 26 nước là thành viên thống nhất ngày Phật Đản quốc tế là ngày rằm tháng tư âm lịch hàng năm (15/4). Từ năm 1999, ngày lễ Phật Đản 15/4 (âm lịch) đã được Liên Hiệp Quốc công nhận là ngày lễ hội văn hóa tâm linh thế giới. Lễ Phật Đản là một trong ba lễ cấu thành Lễ Tam hợp mà Liên Hiệp Quốc gọi là Vesak (lễ Phật Đản sinh, lễ Phật thành đạo và lễ Phật nhập Niết bàn). Lễ Phật Đản được tổ chức hàng năm để kỷ niệm ngày Đức Phật ra đời. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thân là Thái tử Tất Đạt Đa, dòng họ Cồ Đàm, vương tộc Thích Ca. Ngài được cho là sinh vào ngày rằm tháng tư âm lịch năm 624 trước Tây lịch (theo lý giải của phái Nam tông), mùng 8/4 âm lịch (theo lý giải của phái theo Bắc tông) tại vườn Lâm Tỳ Ni - nơi nằm giữa Ca Tỳ La Vệ và Devadaha ở Nepal. Chính vì thế, lễ Phật Đản được tổ chức hàng năm, vào ngày rằm tháng tư, ở các nước theo đạo Phật là để kỷ niệm ngày Đức Phật ra đời. Vào ngày lễ, Phật tử thường vinh danh Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng (qua các hình thức như dâng cúng, tặng hoa, đến nghe thuyết giảng), và thực hành ăn chay và giữ Ngũ giới, Tứ vô lượng tâm (từ bi hỷ xả), thực hành bố thí và làm việc từ thiện, tặng quà, tiền cho những người yếu kém trong cộng đồng. Giáo hội các tỉnh thành còn tổ chức diễu hành, làm lễ, thả hoa đăng trên sông. Ở Việt Nam, lễ Phật Đản luôn được tổ chức trang trọng. Ngoài việc tổ chức buổi lễ chính vào ngày rằm tháng 4, Giáo hội các tỉnh thành còn tổ chức diễu hành, làm lễ, thả hoa đăng trên sông, tổ chức thuyết giảng về Phật pháp xen kẽ các buổi văn nghệ, đèn lồng, làm lễ đài tổ chức. Vào ngày Phật Đản, các Phật tử không sát sinh, mọi người đều ăn chay, lau dọn vệ sinh nhà cửa và trang trí bàn thờ Phật thật đẹp. Các Phật tử có thể đến chùa để phụ giúp làm công quả, nghe các bài thuyết giảng về cuộc sống, tự chiêm nghiệm về hành động của bản thân để làm cho tâm hồn được thanh tịnh. Tại các chùa, Phật tử thường dựng lên lễ đài lớn, trang trí các xe hoa. Tuy nhiên, tất cả những việc này đều được thực hiện sao cho không gây tốn kém nhiều, không phung phí, tất cả được thể hiện bằng tấm lòng thành vốn là đạo lý nhà Phật. Một trong những nghi thức quan trọng nhất không thể thiếu chính là: Tắm Phật. "Tắm Phật trong ngày lễ Phật đản là để những người con Phật tưởng nhớ kỷ niệm ngày Đức Phật ra đời. Ngài đã mang ánh sáng chân lý soi rọi vào cuộc sống, xóa tan những nỗi khổ niềm đau. Tắm Phật là tắm những phiền não ở trong lòng, gột rửa đi những sân hận để cho tâm được thanh lương mát mẻ hướng đến một đời sống an lạc". Ni sư Thích Diệu Mơ - Trưởng Ban trị sự GHPG huyện Kinh Môn (Hải Dương), trụ trì chùa Nhẫm Dương cho rằng: "Tắm Phật là nghi thức tưới nước thơm lên tượng Phật sơ sinh, ngoài mục đích kỷ niệm Phật đản giáng sinh còn mang ý nghĩa sâu sắc về sự tẩy trừ phiền não, hướng đến thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý của con người". Tắm Phật đã trở thành một nghi lễ không thể thiếu trong ngày lễ Phật đản hàng năm.
Lễ Phật Đản
Phật Đản (chữ Nho 佛誕 - nghĩa là ngày sinh của đức Phật) hay là Vesak (tiếng Phạn: Vaiśākha, Devanagari: वैशाख, Sinhala: වෙසක් පෝය) là ngày kỷ niệm Phật Tất-đạt-đa Cồ-đàm sinh ra tại vườn Lâm-tì-ni năm 624 TCN, diễn ra vào ngày 8 tháng 4 âm lịch hoặc 15 tháng 4 âm lịch hàng năm, tùy theo quốc gia. Theo truyền thống Phật giáo Bắc tông và ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, ngày này chỉ là ngày kỷ niệm ngày sinh của đức Phật Thích Ca; tuy nhiên, theo Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Tây Tạng thì ngày này là ngày Tam hiệp (kỷ niệm Phật đản, Phật thành đạo và Phật nhập Niết-bàn). Ngày Phật Đản hay là lễ Vesak, Tam Hiệp được kỷ niệm vào các ngày khác nhau tùy theo quốc gia. Một số quốc gia với đa số Phật tử chịu ảnh hưởng Bắc tông (như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam) thường tổ chức ngày lễ Phật đản vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Các quốc gia theo Nam tông thường tổ chức vào ngày trăng tròn trong tháng 4 âm lịch hay là ngày trăng tròn trong tháng 5 dương lịch.
FTA là từ rút gọn của từ Free trade area (Khu vực mậu dịch tự do) hoặc cũng có thể là Free trade agreement (Hiệp định thương mại tự do).Là mục đích chính thức của một quá trình thương thảo giữa hai hay nhiều quốc gia ký kết nhằm hạ thấp hoặc loại hẳn các rào cản đối với thương mại. Một FTA thường gồm có những yếu tố quy định về thuế nhập khẩu, hạn ngạch và lệ phí đối với hàng hóa/dịch vụ được giao dịch giữa các thành viên ký kết FTA nhằm cho phép các nước mở rộng tiếp cận thị trường của nhau. Cho tới nay đã có rất nhiều các tổ chức và đất nước khác nhau đưa rõ ra các định nghĩa về FTA cho riêng mình. Việc này thể hiện những khái niệm khác nhau về FTA cũng như sự tăng trưởng đa dạng của các đất nước. Tuy vậy theo cách hiểu chung nhất, FTA là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó bằng cách cắt giảm thuế quan, có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi sản phẩm, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên. Tại thời điểm này, FTA còn có cả các nội dung mới xúc tiến và tự do hóa đầu tư, chuyển giao công nghệ, lao động, môi trường…. Thứ nhất là quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. thứ 2 là quy định danh mục mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan. Thông lệ áp dụng chung là 90% thương mại. Thứ ba là quy định lộ trình cắt giảm thuế quan, khoảng thời gian cắt giảm thuế hay được kéo dài không quá 10 năm. FTA khu vực: là FTA được ký giữa các nước trong cùng một đơn vị khu vực. FTA được ký giữa một tổ chức với một nước: ví dụ các FTA được ký giữa một bên là tổ chức ASEAN với Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc… Hay FTA giữa nước ta và Liên minh Châu Âu EU. Hiệp định song phương Viet Nam Hoa Kỳ chính thức được ký kết sau 4 năm thương thuyết. Hiệp Định này được thương thuyết trên cơ sở các nguyên tắc của doanh nghiệp thương mại thế giới WTO, vì vậy mà nội dung không những nói tới thương mại sản phẩm, mà còn chứa đựng cả những điều khoản về thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư. Hiệp Định này được gọi tắt là TIFA, được ký kết nhân chuyến thăm chính thức Hoa kỳ của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Hai bên đã thành lập hội đồng tifa nhằm mục tiêu theo dõi và giám sát sự tăng trưởng quan hệ thương mại và đầu tư hai nước, xem xét không vấn đề thương mại và đầu tư cả hai cùng chú ý, tìm kiếm các biện pháp giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế thương mại gồm có cả những khó nhằn và kiến nghị của công ty hai nước. Trải qua 9 phiên đàm phán chính thức, Hiệp Định JVEPA đã chính thức được ký kết tại Tokyo. Hiệp định này quy định những điều khoản về thương mại sản phẩm, thương mại dịch vụ đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, mua sắm chính phủ và các lĩnh vực kinh tế khác. Hiệp định này đã tạo khuôn khổ pháp lý cho các nhà đầu tư hai nước, cùng lúc đó tăng cường sự kết nối kinh tế thương mại song phương. – Từ thời điểm ký kết AFAS (từ năm 1995) đến nay, có 9 gói cam kết, lần lượt từ năm 1997 đến năm 2015. – Các đảm bảo về tự do hóa thương mại gồm có mọi lĩnh vực như: tạo ra, môi trường, dịch vụ bán hàng, dịch vụ chuyên nghiệp, phân phối sản phẩm, giáo dục, vận tải biển, viễn thông và du lịch. + Xác lập mục tiêu hài hòa chính sách giữa các thành viên ASEAN trong bối cảnh xây dựng AEC. + Cam kết cắt giảm thuế của nước ta trong khuôn khổ Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN-Trung Quốc. – Tiến tới thành lập một khu vực thương mại tự do với ASEAN với mục tiêu biến ASEAN thành một khu vực sản xuất chung của Nhật Bản, tạo chuỗi liên kết các khu vực sản xuất của Nhật Bản giữa các nước ASEAN. – Tiến hành thương thuyết để đạt cho được lợi ích ở từng lĩnh vực nhất định. – Tự do hoá 90% kim ngạch trong vòng 10 năm (kim ngạch nhập khẩu từ Nhật Bản năm 2006). – Nhật Bản loại trừ các mặt hàng tập trung Chủ yếu vào các hàng hóa nông nghiệp. + Danh mục một số mặt hàng đảm bảo xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
Khu vực mậu dịch tự do
Khu vực mậu dịch tự do là một thể loại của khối thương mại, một nhóm các quốc gia được thiết lập mà đã đồng ý để loại trừ thuế quan, hạn ngạch, và ưu đãi trong phần lớn trao đổi thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia trong nhóm. Nó có thể được coi là giai đoạn thứ hai của Hội nhập kinh tế. Các nước chọn loại hình hội nhập kinh tế nếu cơ cấu kinh tế của họ được bổ sung. Khu vực mậu dịch tự do là hình thức liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước thành viên thỏa thuận với nhau về việc giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế về số lượng, tiến tới hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên các nước thành viên vẫn giữ được quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán với các nước ngoài khu vực. Nói cách khác, những thành viên của FTA có thể duy trì những thuế quan riêng và những hàng rào thương mại khác đối với thế giới bên ngoài.
Bài viết này giới thiệu các yếu tố 4p trong Marketing Mix truyền thống, và 7p trong Marketing Mix hiện đại và cách sử dụng chúng hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu kinh doanh của bạn. Marketing Mix là tập hợp các công cụ tiếp thị mà doanh nghiệp sử dụng để bán sản phẩm hoặc dịch vụ cho khách hàng mục tiêu của mình. Marketing mix hay còn gọi là Marketing hỗn hợp các doanh nghiệp luôn sử dụng các công cụ marketing để quảng bá và bán sản phẩm hoặc dịch vụ cho khách hàng mục tiêu, giúp họ đạt được mục tiêu tiếp thị trên thị trường. Thuật ngữ "Marketing Mix" đã được đặt ra vào giữa thế kỷ 20. Một trong những cách sử dụng đầu tiên của nó là trong một bài phát biểu năm 1953 tại Hiệp hội Tiếp thị Hoa Kỳ, trong đó giáo sư Harvard và chuyên gia tiếp thị Neil Bordon đã phác thảo cách các nhà tiếp thị phát triển và thực hiện một kế hoạch marketing thành công. Việc xác định và sắp xếp các yếu tố của Marketing Mix cho phép một doanh nghiệp đưa ra các quyết định tiếp thị có lợi ở mọi cấp độ. Những quyết định này giúp một doanh nghiệp:. Kể từ những năm 1950, các yếu tố của hỗn hợp tiếp thị đã trải qua nhiều biến đổi khác nhau để đáp ứng với các công nghệ mới và những thay đổi khác trong các phương pháp tiếp thị tốt nhất. Kể từ những năm 1960, Marketing hỗn hợp được kết hợp với bốn chữ Ps: Price (giá cả), Product (sản phẩm), Promotion (quảng bá) và Place (địa điểm/phân phối). Chi phí để mua một sản phẩm. Giá cả phụ thuộc vào giá trị cảm nhận của khách hàng về sản phẩm và nó có thể thay đổi đáng kể chiến lược marketing của bạn . Giá thấp hơn giúp sản phẩm tiếp cận được với nhiều khách hàng hơn, trong khi giá cao hơn hấp dẫn những khách hàng tìm kiếm sự độc quyền. Dù bằng cách nào, giá cả phải lớn hơn chi phí sản xuất để doanh nghiệp của bạn có thể tạo ra lợi nhuận. Những gì đang được bán. Các nhà tiếp thị phải xem xét vòng đời của sản phẩm để giải quyết bất kỳ thách thức nào có thể phát sinh khi sản phẩm đã đến tay người tiêu dùng. Ví dụ, phiên bản đầu tiên của iPod đã gặp vấn đề về tuổi thọ pin chỉ đáng chú ý sau một khoảng thời gian nhất định và Apple cần phải phát triển các cách để khắc phục vấn đề đó. Tên sản phẩm/dịch vụ bạn muốn cung cấp là gì? nó có bắt tai hay không. Quảng cáo, tiếp thị trực tiếp và xúc tiến bán hàng. Quảng cáo truyền hình, quảng cáo trên Internet, catalogue, hội chợ thương mại, bảng quảng cáo, và thậm chí cả quảng cáo trên đầu xe taxi đều là những hình thức khuyến mãi. Danh mục này cũng bao gồm quan hệ công chúng, chẳng hạn như phân phối thông cáo báo chí hoặc các mối quan hệ đang diễn ra với giới truyền thông. Quảng cáo bao gồm nội dung được truyền đạt, thông tin đó được truyền đạt cho ai, tiếp cận đối tượng đó như thế nào và tần suất quảng cáo diễn ra. Bất kỳ vị trí thực tế nào mà khách hàng có thể sử dụng, truy cập hoặc mua sản phẩm. Điều này bao gồm các trung tâm phân phối, vận chuyển, kho bãi, quyết định hàng tồn kho và nhượng quyền thương mại. Cốt lõi cơ bản của Marketing là định nghĩa của nó. Hầu hết các nhà tiếp thị đều quen thuộc với khái niệm marketing về quy tắc đặt đúng sản phẩm vào đúng nơi với giá phù hợp vào đúng thời điểm. Nó thay đổi một chút khi nó được định nghĩa là 4 chữ P: Product (sản phẩm), Place (địa điểm), Promotion (quảng bá) và Price (giá cả). Sản phẩm phải phục vụ một nhóm người cụ thể. Ví dụ: các nỗ lực tiếp thị thức ăn cho vật nuôi ngon nhất và lành mạnh nhất sẽ nhắm vào chủ sở hữu vật nuôi. Một lưu ý khác về ý tưởng marketing hỗn hợp này là phải biết nơi các chủ sở hữu vật nuôi tập trung lại với nhau. Họ mua sắm ở đâu? Họ truy cập những trang web nào trên Internet?. Chủ sở hữu vật nuôi có thể sẵn sàng trả một khoản phí bảo hiểm để có thức ăn an toàn và ngon cho vật nuôi của họ. Sự sẵn sàng chi tiêu của chủ sở hữu vật nuôi là yếu tố quyết định giá mà nó có thể được bán. Giá có thể phản ánh giá trị mà chủ sở hữu vật nuôi cảm nhận được trong thức ăn cho vật nuôi. Ý kiến khác cho rằng các nỗ lực tiếp thị sẽ thành công nếu họ có thể tìm thấy chủ vật nuôi vào thời điểm họ sẵn sàng và có thể mua thức ăn cho vật nuôi. Không chắc họ sẽ quan tâm đến việc mua thức ăn cho thú cưng khi đang xem phim trong rạp, thư giãn trên bãi biển, hoặc trong một bữa tối hẹn hò vui vẻ. Thay vào đó, hãy tiếp cận họ khi họ đang ở cửa hàng tạp hóa. Marketing Mix là gì trở nên hơi khó hiểu khi nó trở nên rõ ràng là nó có thể khác với 4ps. Vậy thì marketing hỗn hợplà gì? Đó là một cách chung để xác định các quyết định thực tế về cách đưa một sản phẩm đến marketplace. 4ps mang tính định hướng quy trình nhiều hơn trong đó chúng xác định chung những gì cần phải xảy ra. Ban đầu nó được đặt ra bởi EJ McCarthy vào năm 1960. Các câu hỏi cần đặt ra khi xác định hỗn hợp tiếp thị được xác định bởi hỗn hợp tiếp thị. Ví dụ, về sản phẩm, bạn có thể hỏi khách hàng muốn sản phẩm làm được gì cho họ. Nói cách khác, nó đáp ứng những nhu cầu nào?. Hơn nữa, những tính năng nào sẽ cung cấp cho nhu cầu của sản phẩm? Một quy tắc khác là không nên dát vàng sản phẩm của bạn với những tính năng có giá cao nhưng khách hàng sẽ không sử dụng. Trong quá trình nghiên cứu, hãy tìm hiểu xem khách hàng đang sử dụng sản phẩm như thế nào cũng như ở đâu. Có được hình ảnh tốt về cách họ cũng sẽ trải nghiệm sản phẩm. Luôn biết đối thủ cạnh tranh và họ đang cung cấp những tính năng nào cũng như cách sản phẩm của bạn cung cấp giá trị lớn hơn. Có quyền truy cập vào các kênh phân phối phù hợp là rất quan trọng. Biết nơi khách hàng sẽ mua sản phẩm của bạn có nghĩa là bạn sẽ biết nơi đặt sản phẩm để bán. Đôi khi, nó có thể liên quan đến việc tạo ra một lô sản phẩm thử nghiệm và thuyết phục một nhà bán lẻ hoặc chủ cửa hàng nhỏ cũng cho phép một giai đoạn bán thử nghiệm diễn ra. Tìm ra người bạn cần để giúp bạn bán sản phẩm của mình. Có hữu ích khi tham dự các triển lãm thương mại trong ngành hoặc đi dự các hội nghị không?. Đôi khi, 4 Ps được mở rộng để bao gồm bảy chữ Ps. Ngoài bốn chữ Ps thông thường, bảy chữ Ps bao gồm bằng chứng vật chất, con người và quá trình. Bất kỳ thứ gì hữu hình liên quan đến sản phẩm hoặc môi trường vật chất mà dịch vụ diễn ra. Bằng chứng vật chất có thể bao gồm bao bì sản phẩm, biên lai giao hàng, bảng chỉ dẫn hoặc cách bố trí của một cửa hàng thực. Nhân viên, bao gồm những người tương tác trực tiếp với khách hàng (chẳng hạn như bán hàng, dịch vụ khách hàng hoặc người giao hàng) cũng như tuyển dụng và đào tạo nhân viên. Danh mục này bao gồm mức độ thực hiện công việc của nhân viên, cách họ xuất hiện với khách hàng (ví dụ: đồng phục của họ trông như thế nào) và cảm nhận của khách hàng về trải nghiệm của họ. Bất cứ điều gì trong tổ chức có ảnh hưởng đến cách một sản phẩm hoặc dịch vụ được nhân viên xử lý và chuyển đến tay người tiêu dùng. Một số ví dụ là thứ tự mà nhân viên phải thực hiện nhiệm vụ, số lượng truy vấn mà nhân viên bán hàng nhận được và nơi họ hướng dẫn khách hàng để được trợ giúp hoặc cách theo dõi và đo lường hiệu suất. Nó cũng bao gồm những phần nào của quy trình được tiêu chuẩn hóa và những phần nào có chỗ để tùy chỉnh trên cơ sở từng khách hàng. Digital marketing mix là cách một doanh nghiệp đạt được các mục tiêu tiếp thị của mình bằng cách sử dụng các công nghệ kỹ thuật số. Khi hoạt động kinh doanh trực tuyến ngày càng nhiều, các công cụ Digital marketing trở nên quan trọng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, không chỉ những doanh nghiệp trong ngành công nghệ. Một hỗn hợp tiếp thị digital tuân theo các nguyên tắc tương tự của một hỗn hợp tiếp thị truyền thống. Tuy nhiên, những yếu tố đó được điều chỉnh theo cách Internet ảnh hưởng đến công nghệ mới và hành vi của người tiêu dùng. Vào những năm 1990, bốn chữ Ps đã được điều chỉnh cho phù hợp với bốn chữ C để tập trung ít hơn vào công việc kinh doanh mà tập trung nhiều hơn vào khách hàng. 4C là người tiêu dùng, chi phí, tiện lợi và giao tiếp. Trong một số trường hợp, bốn chữ C có thể áp dụng cho hỗn hợp Digital marketing hơn bốn chữ P. Những mong muốn và nhu cầu của người tiêu dùng. Theo mô hình này, một doanh nghiệp nên tập trung vào giải quyết vấn đề cho người tiêu dùng hơn là tạo ra sản phẩm. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu hành vi và nhu cầu của người tiêu dùng, cùng với việc tương tác với khách hàng tiềm năng để tìm ra những gì họ muốn. Tổng chi phí để có được một sản phẩm hoặc dịch vụ, vượt quá mức giá. Chi phí bao gồm thời gian nghiên cứu sản phẩm và mua hàng. Nó cũng có thể bao gồm chi phí đánh đổi mà người tiêu dùng phải thực hiện, chẳng hạn như bỏ qua một lần mua hàng khác, hoặc chi phí cảm thấy tội lỗi mà họ phải trải qua khi mua hoặc không mua một sản phẩm. Người tiêu dùng dễ dàng hay khó khăn trong việc tìm mua một sản phẩm. Sự gia tăng của tiếp thị và mua hàng trên Internet đã làm cho sự thuận tiện trở nên quan trọng hơn trong các quyết định của khách hàng hơn là vị trí thực tế. Một cuộc đối thoại phụ thuộc nhiều vào người tiêu dùng cũng như người bán. Điều này bao gồm quảng cáo, tiếp thị và xuất hiện trên các phương tiện truyền thông. Tuy nhiên, trong thế giới kỹ thuật số, nó cũng bao gồm các email mà khách hàng chọn tham gia hoặc bắt đầu, đại sứ thương hiệu, bài đăng trên blog, trang web, vị trí sản phẩm được tài trợ và các kênh truyền thông xã hội. Để mang lại doanh số bán hàng sớm và xây dựng cơ sở khách hàng, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải bắt đầu bằng việc xác định marketing mix của mình. Bước đầu tiên trong quá trình này là xác định khách hàng mục tiêu của bạn . Khi bạn biết khách hàng của mình là ai, bạn có thể bắt đầu hiểu mối quan hệ của họ với doanh nghiệp của bạn. Tiếp theo, xác định mục tiêu của bạn về bán hàng và tăng trưởng, cũng như ngân sách của bạn cho các sáng kiến tiếp thị. Sau đó, chọn một chiến thuật marketing sẽ giúp bạn tiếp cận đối tượng mục tiêu và đạt được những mục tiêu đó. Ví dụ: nếu bạn cần 25 khách hàng tiềm năng để bán một sản phẩm và bạn muốn bán 1.000 sản phẩm trong tháng này, thì bạn cần 25.000 khách hàng tiềm năng mới. Bạn biết rằng khách hàng mục tiêu của mình đọc và tin tưởng hai trang web khác nhau, một trang có 25.000 khách truy cập mỗi tháng và một trang có một triệu khách truy cập mỗi tháng. Trang web chỉ có 25.000 khách truy cập mỗi tháng sẽ ít tốn kém hơn nhiều để quảng cáo trên đó, nhưng không chắc rằng tất cả 25.000 khách truy cập sẽ trở thành khách hàng tiềm năng mới. Do đó, trang web có một triệu người truy cập hàng tháng là cách sử dụng tốt hơn ngân sách quảng cáo của bạn, ngay cả khi nó đắt hơn. Bằng cách làm việc thông qua các yếu tố của Marketing Mix riêng lẻ của doanh nghiệp, bạn sẽ có thể tạo ra một chiến lược marketign mix để tiếp cận hiệu quả người tiêu dùng, bán hàng và phát triển doanh nghiệp của mình. Mỗi email bạn gửi đều nói lên điều gì đó về bạn. Nếu bạn nói về mình mọi lúc, mọi người sẽ hủy đăng ký. Nếu nội dung của bạn trông giống như được ghép lại với nhau vào phút trước - đầy lỗi chính tả hoặc liên kết bị hỏng - thì danh tiếng và chiến lược tiếp thị qua email của bạn sẽ bị ảnh hưởng. Chúng tôi sẽ chia sẻ các nguyên tắc hướng dẫn để viết các dòng tiêu đề hiệu quả và cung cấp các mẹo sẽ giúp bạn cải thiện tỷ lệ mở của mình lên đến 47%.
Marketing hỗn hợp
Marketing hỗn hợp là một khái niệm cơ bản trong lĩnh vực marketing (đồng thời được biết đến như là 4P), là tập hợp các công cụ tiếp thị được doanh nghiệp sử dụng để đạt được trọng tâm tiếp thị trong thị trường mục tiêu. Thuật ngữ lần lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1953 khi Neil Borden, là chủ tịch của hiệp hội Marketing Hoa Kỳ lấy ý tưởng công thức thêm một bước nữa và đặt ra thuật ngữ Marketing hỗn hợp. Một nhà tiếp thị nổi tiếng, E. Jerome McCarthy, đề nghị phân loại theo 4P năm 1960, mà nay đã được sử dụng rộng rãi. Khái niệm 4P được giải thích phần lớn trong sách giáo khoa về marketing và trong các lớp học. Tiếp thị hỗn hợp (Marketing Mix) là tập hợp các công cụ tiếp thị được doanh nghiệp sử dụng để đạt được trọng tâm tiếp thị trong thị trường mục tiêu. Product (Sản phẩm): Một đối tượng hữu hình hoặc một dịch vụ vô hình đó là khối lượng sản xuất hoặc sản xuất trên quy mô lớn với một khối lượng cụ thể của đơn vị. Sản phẩm vô hình là dịch vụ như ngành du lịch và các ngành công nghiệp khách sạn hoặc mã số các sản phẩm như nạp điện thoại di động và tín dụng.
Tiếng Lô Lô là một ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Tạng-Miến trong ngữ hệ Hán-Tạng . Tại Trung Quốc gọi là người Di với các nhánh Bắc Di, Di Lãnh Sơn, Di Tứ Xuyên,… với dân số 7,77 triệu người. Nuosu đã được chính phủ Trung Quốc lựa chọn là ngôn ngữ Di chuẩn (bằng tiếng phổ thông: Di yǔ, 彝語 / 彝语, Di ngữ) và nó là ngôn ngữ duy nhất được giảng dạy trong các trường học, cả ở dạng nói và viết của mình. Tại Việt Nam có 4.541 người Lô Lô sống chủ yếu ở miền bắc, theo số liệu điều tra dân số năm 2009. Tiếng Lô Lô được khoảng 2 triệu người nói và đang gia tăng, trong đó 60% là đơn ngữ. Nuosu là tên gốc cho ngôn ngữ riêng của người Lô Lô, và không có mặt trong tiếng Trung Quốc; mặc dù đôi khi nó có thể được viết theo cách phát âm (Nuòsūyǔ 诺苏语 / 諾蘇語, Nặc Tô ngữ) trong đó các ký tự Trung Quốc cho rằng Nặc Tô không mang ý nghĩa. Bắc Di là nhóm lớn nhất với khoảng hai triệu người nói và là nền tảng cho văn liệu ngôn ngữ học. Nó là một ngôn ngữ phân tích. Ngoài ra còn có các ngôn ngữ Di của Việt Nam sử dụng chữ Lô Lô, như tiếng Mantsi. Nhiều người Di ở Vân Nam, Quý Châu và Quảng Tây biết tiếng Trung Quốc, và thường xuyên chuyển đổi qua lại giữa tiếng Di và tiếng Trung Quốc.
Ngữ hệ Hán-Tạng
Ngữ hệ Hán-Tạng, trong một số tư liệu còn gọi là ngữ hệ Liên Himalaya, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về số lượng người bản ngữ, trong đó đại đa số (1,3 tỷ) là người bản ngữ các dạng tiếng Trung Quốc. Những ngôn ngữ khác với số người nói đáng kể là tiếng Miến (33 triệu) và cụm Tạng (6 triệu). Các ngôn ngữ còn lại nằm ở vùng Himalaya, khối núi Đông Nam Á cùng rìa đông cao nguyên Thanh Tạng. Phần lớn số này là ngôn ngữ cộng đồng nhỏ ở vùng sâu vùng xa hẻo lánh, nên ít khi được nghiên cứu. Nhiều phân nhóm cấp thấp đã được phục dựng chắc chắn, song việc phục dựng ngôn ngữ nguyên thuỷ cho toàn hệ vẫn đang ở những bước đầu, nên cấu trúc cấp cao của ngữ hệ Hán-Tạng vẫn chưa rõ ràng. Theo quan niệm truyền thống, ngữ hệ này chia hai ra làm nhánh Hán (các dạng tiếng Trung) và nhánh Tạng-Miến (phần còn lại), song, sự tồn tại của nhánh Tạng-Miến như một nhóm ngôn ngữ cố kết là điều chưa bao giờ được chứng minh.
Giá trị hiện tại trong tiếng Anh là Present Value of Money, viết tắt là PV. Giá trị hiện tại của tiền là giá trị hiện tại của một khoản tiền hoặc dòng tiền trong tương lai với tỉ lệ chiết khấu xác định. Giá trị thời gian của một khoản tiền là giá trị của khoản tiền phát sinh trong tương lai được qui về thời điểm hiện tại (thời điểm gốc) theo một tỉ lệ chiết khấu nhất định. Giá trị hiện tại của dòng tiền được xác định bằng tổng các giá trị hiện tại của tất cả các khoản tiền trong dòng tiền tệ đó. - Thời điểm phát sinh khoản tiền càng xa thời điểm hiện tại thì giá trị hiện tại của khoản tiền càng nhỏ. Khi các khoản tiền phát sinh ở cuối các thời điểm bằng nhau CF1 = CF2 = . CFn = A thì giá trị tương lai của dòng tiền đều cuối kì được xác định như sau:. CFt: Giá trị của khoản tiền phát sinh ở thời điểm đầu kì thứ t trong tương lai. b) Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở đầu mỗi kì bằng nhau (CF1 = CF2 = . CFn = A). Các dòng tiền phát sinh ở mỗi kì đều bằng nhau và kéo dài mãi mãi sẽ tạo ra dòng tiền đều vô hạn (CF1 = CF2 = . CFn = A). Các khoản tiền phát sinh trong chuỗi tiền tệ tăng trưởng với tốc độ không đổi và kéo dài mãi mãi sẽ tạo ra dòng tiền tăng trưởng đều vô hạn (tăng trưởng vĩnh viễn). Việc xem xét giá trị hiện tại của tiền có ý nghĩa rất lớn trong kinh tế. Trước hết, với phương pháp xác định giá trị hiện tại cho phép xem xét các vấn đề tài chính của doanh nghiệp dưới một góc độ mới có tính đến yếu tố thời gian về sự rủi ro để từ đó đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn hơn. Bên cạnh đó, sự am hiểu các vấn đề về giá trị hiện tại của tiền khi soạn thảo một quyết định là một yếu tố cần thiết để hiểu thấu đáo vấn đề đầu tư trong kinh doanh và vấn đề tài trợ vốn.
Giá trị hiện tại thuần
Trong Tài chính,giá trị hiện tại thuần (NPV) hoặc "giá trị hiện tại ròng" (NPW) của chuỗi thời gian các dòng tiền, cả vào và ra, được định nghĩa là tổng các giá trị hiện tại (PV) của các dòng tiền cụ thể của cùng một thực thể. Trong trường hợp khi tất cả các luồng tiền trong tương lai là tiền vào (chẳng hạn như phiếu giảm giá và gốc trái phiếu) và dòng tiền ra duy nhất là giá mua, NPV chỉ đơn giản là PV của dòng tiền tương lai trừ đi giá mua (đó là PV của riêng nó). NPV là một công cụ trung tâm trong phân tích dòng tiền chiết khấu (DCF), và là một phương pháp tiêu chuẩn cho việc sử dụng giá trị thời gian của tiền để thẩm định các dự án dài hạn. Được sử dụng để lập ngân sách vốn, và rộng rãi trong suốt kinh tế, tài chính, kế toán, nó đo lường sự vượt quá hoặc thiếu hụt của các dòng tiền, về giá trị hiện tại, một khi các chi phí tài chính được đáp ứng. NPV của một chuỗi các dòng tiền có như là đầu vào dòng tiền mặt và tỷ lệ chiết khấu hoặc đường cong giảm giá và đầu ra một mức giá quá trình trò chuyện trong phân tích DCF - tham gia một chuỗi các dòng tiền và một mức giá như đầu vào và suy luận như sản lượng giảm giá tỷ lệ (tỷ lệ chiết khấu mà sẽ mang lại mức giá được đưa ra như NPV) - được gọi là năng suất, và được sử dụng rộng rãi trong kinh doanh trái phiếu.
Một mùa hè nữa lại kết thúc, thật hiếm hoi để tìm kiếm những bộ phim giải trí dành cho thiếu nhi vào thời điểm này. Bộ phim hoạt hình Inside Out sẽ là một lựa chọn phù hợp mà các bậc phụ huynh có thể dành thời gian cùng con cái khi năm học mới bắt đầu. Inside Out (tên tiếng Việt: Những mảnh ghép cảm xúc), đứa con cưng thứ 15 của hãng Disney’s Pixar, hãng phim đã tạo ra vô số những tác phẩm hoạt hình xuất sắc mang đậm tính triết lý cũng như cảm xúc với khán giả. Được đầu tư kinh phí ngang ngửa với một phim bom tấn, lên đến 175 triệu USD, bộ phim đã tạo nên một cơn sốt phòng vé cũng như hầu hết các trang phê bình điện ảnh. Chỉ tính riêng ngày đầu tiên công chiếu, Inside Out đã thu về 34 triệu USD (khu vực Bắc Mỹ), khiến nhiều người dự đoán đây là tác phẩm hay nhất của hãng Pixar kể từ Toy Story 3 hồi năm 2010. Đến với khán giả Việt Nam và khu vực Đông Nam Á chậm hơn 2 tháng, nhưng Inside Out vẫn nhận được sự quan tâm và mong chờ của cả giới trẻ cũng như thiếu nhi. Bộ phim là câu chuyện kể về Riley, một cô bé 11 tuổi bình thường. Như bao bạn bè đồng trang lứa khác, bước vào tuổi dậy thì là một quá trình gian nan với Riley và cô bé còn bị thử thách bởi một biến cố bất ngờ: buộc phải rời khỏi cuộc sống của mình tại miền Trung Tây nước Mỹ khi cha cô bắt đầu công việc mới tại San Francisco, California. Cũng như bao đứa trẻ khác, Riley chịu sự điều khiển của cảm xúc bên trong tâm trí mình và với Inside Out, những cảm xúc đó đã được nhân cách hóa thành những nhân vật trên màn ảnh, đó là: Joy (Vui vẻ), Fear (Sợ sệt), Anger (Giận dữ), Sadness (Buồn bã) và Disgust (Chán ghét). Các nhân vật cảm xúc này của Riley sống tại Headquarters, trung tâm điều khiển bên trong bộ não của Riley, nơi họ giúp chỉ dẫn cho cô trong cuộc sống hằng ngày. Do Riley và các cảm xúc của cô gặp khó khăn trong việc thích nghi với cuộc sống mới, thế là tình trạng hỗn loạn bắt đầu nảy sinh. Và hy vọng duy nhất được đặt hết vào Joy, cảm xúc chính và quan trọng nhất của Riley, để có thể giữ cho cô bé lạc quan và vượt qua giai đoạn khó khăn này. Theo Peter Docter, đạo diễn của Inside Out, người từng đoạt giải Oscar, nguyên nhân khiến ông tạo dựng nên một bộ phim hoạt hình bom tấn trong suốt 3 mùa hè vừa qua được bắt nguồn từ cô con gái 11 tuổi của mình. Ông đã bắt đầu nghĩ đến việc thực hiện Inside Out cách đây 6 năm kể từ những thay đổi trong tâm lý cô con gái nhỏ trong tuổi dậy thì mà nhân vật Riley trong phim là đại diện. Đây thực sự là một bộ phim có ý tưởng độc đáo. Các nhà làm phim đã gặp gỡ các chuyên gia tâm lý, thần kinh để tìm hiểu về các yếu tố tâm lý của các nhân vật và điều gì có thể làm ảnh hưởng đến tâm lý của một đứa trẻ trước giai đoạn trưởng thành. Bộ phim đi sâu vào phân tích cảm xúc của con người, đã giúp khán giả lý giải những thay đổi trong tâm lý con người và điều gì khiến họ vui, buồn, tức giận, sợ hãi. Đúng như tên gọi, bộ phim với những nét vẽ lung linh đầy sắc màu, mang đến cảm xúc mạnh cho người xem đi ngược về cuộc du hành ký ức, rất thích hợp cho các em thiếu nhi và đặc biệt là các em đang trong độ “tuổi teen” với những thay đổi cảm xúc phức tạp. Phim chính thức ra rạp từ ngày 21.8.2015 với phiên bản phụ đề và lồng tiếng Việt qua những giọng đọc ngộ nghĩnh và gần gũi, tăng thêm hiệu ứng nghe nhìn cho trẻ nhỏ. Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, tòa soạn sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng cgvdt.vn của mình. Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Báo Công giáo và Dân tộc, website: cgvdt.vn”. Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Công giáo và Dân tộc.
Những mảnh ghép cảm xúc
Inside Out (tiếng Việt: Những mảnh ghép cảm xúc) là bộ phim hoạt hình máy tính 3D của Mỹ được hãng phim hoạt hình Pixar sản xuất và phát hành bởi Walt Disney Pictures. Phim do Pete Docter đạo diễn, Ronnie del Carmen đồng đạo diễn, kịch bản do Pete Docter, Meg LeFauve và Josh Cooley viết, chuyển thể từ một câu chuyện của Docter và Del Carmen. Bộ phim lấy bối cảnh bên trong não bộ của cô bé Riley Anderson, nơi năm cảm xúc là Joy (Vui Vẻ), Anger (Giận Dữ), Disgust (Chán Ghét), Fear (Sợ Hãi) và Sadness (Buồn Bã) luôn cố gắng dẫn dắt cuộc sống của cô khi cô bé và cha mẹ đang thích nghi với cuộc sống mới ở San Francisco. Docter bắt đầu phát triển ý tưởng cho bộ phim Inside Out từ năm 2010 khi ông nhận thấy cô con gái đang lớn của ông bắt đầu có những thay đổi trong tính cách. Các nhà làm phim đã tham khảo ý kiến của rất nhiều nhà tâm lý học trong đó có cả Dacher Keltner, giáo sư tâm lý học của Đại học California, Berkeley, người đã giúp sửa đổi câu chuyện dựa trên những khám phá trong lĩnh vực tâm lý học thần kinh (neuropsychology) cho rằng cảm xúc của một người có ảnh hưởng đến các mối quan hệ của người đó với những người khác và các cảm xúc này có thể chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ đó.
Vương triều thứ Nhất của Ai Cập cổ đại (hoặc vương triều thứ Nhất, ký hiệu: Triều I) bao gồm một loạt các vị vua Ai Cập đầu tiên đã cai trị một vương quốc Ai Cập thống nhất. Nó được thiết lập ngay sau khi diễn ra quá trình thống nhất Thượng và Hạ Ai Cập, có thể được tiến hành bởi Narmer, và đánh dấu sự bắt đầu giai đoạn Sơ kỳ vương triều của Ai Cập, vào thời kỳ này trung tâm quyền lực nằm tại Thinis. Niên đại của thời kỳ này luôn là đề tài trong các cuộc tranh luận học thuật về phạm vi của bảng niên đại Ai Cập cổ đại. Nó rơi vào giai đoạn đầu thời kỳ đồ đồng và được ước tính theo nhiều cách khác nhau là đã bắt đầu trong giai đoạn từ thế kỷ 34 tới thế kỷ thứ 30 trước Công nguyên. Theo một nghiên cứu vào năm 2013 bằng đồng vị phóng xạ, thời điểm bắt đầu vương triều thứ nhất (lúc Hor-Aha lên ngôi) được xác định là khoảng năm 3150 TCN (trong khoảng 3218-3035 TCN với độ tin cậy 95%). Thông tin về vương triều này chủ yếu được bắt nguồn từ một vài di tích và những đồ vật có mang tên hoàng gia, quan trọng nhất là tấm bảng đá và đầu chùy Narmer cũng như danh sách vua của Den và Qa’a. Không có bất cứ ghi chép cụ thể nào về hai vương triều đầu tiên còn lưu lại tới ngày nay, ngoại trừ bản danh sách ngắn gọn trên tấm Bia đá Palermo. Các ghi chép trong tác phẩm Aegyptiaca của Manetho lại mâu thuẫn với cả những bằng chứng khảo cổ học và với các ghi chép lịch sử khác: Manetho đã ghi lại tên của chín vị vua thuộc vương triều đầu tiên, nhưng chỉ có một cái tên trong số đó phù hợp với các nguồn khác, và chỉ đưa ra được thông tin về bốn người trong số họ . Các ngôi mộ lớn của các pharaon tại Abydos và Naqada, cùng với những khu nghĩa trang tại Saqqara và Helwan gần Memphis, đều có cấu trúc được xây dựng chủ yếu bằng gỗ và gạch bùn, có một số ít trong số chúng sử dụng đá để làm các bức tường và sàn của ngôi mộ. Đá đã được sử dùng nhiều để tạo nên các đồ thờ cúng, bình chậu, và đôi khi là các bức tượng. Tục lệ hiến tế người đã được thực hiện như là một phần trong nghi thức mai táng tất cả các vị vua thuộc vương triều đầu tiên. Nó được chứng minh rõ ràng là đã xuất hiện trong suốt vương triều này thông qua bằng chứng về việc những người hầu được chôn cất gần ngôi mộ của mỗi pharaon, cũng như những động vật được hiến tế trong quá trình mai táng. Ngôi mộ của Djer đã nằm cạnh ngôi mộ của 338 người khác. Người và những động vật được hiến tế chẳng hạn như lừa, được kỳ vọng là sẽ hầu hạ các pharaon khi sang thế giới bên kia. Không rõ lý do nào đã khiến cho tục lệ này kết thúc cùng với thời điểm vương triều thứ nhất đi đến hồi kết, nhưng sau đó shabti đã được sử dụng để thay thế cho con người trong vai trò hầu hạ các pharaon khi họ bước sang thế giới bên kia.
Vương triều thứ Hai Mươi Lăm của Ai Cập
Vương triều thứ Hai Mươi Lăm của Ai Cập cổ đại (Vương triều thứ 25) cũng được biết đến với tên gọi Vương triều Nubia hoặc Đế chế Kush là vương triều cuối cùng của Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập cổ đại. Gia đình hoàng gia của Vương triều 25 là một dòng tộc có nguồn gốc từ các nhà cầm quyền ở Nubia, Vương quốc Kush – ngày nay là Bắc Sudan và miền nam Ai Cập và hầu hết các nhà khảo cổ đều cho rằng Napata là quê hương của họ. Họ đã trị vì trong một phần hoặc toàn bộ lãnh thổ của Ai Cập cổ đại, từ năm 760 trước Công nguyên đến 656 trước Công nguyên. Vương triều khởi đầu với cuộc xâm lược Kashta ở Thượng Ai Cập và đạt đến đỉnh cao trong nhiều năm cả các mặt thành công lẫn không thành công trong chiến tranh với người Lưỡng Hà và Đế chế Assyria. Triều đại thứ 25 cũng thống trị Hạ Ai Cập, Thượng Ai Cập, và Đế chế Kush (của người Nubia) tạo được một vương quốc Ai cập có lãnh thổ rộng nhất kể từ thời kỳ Tân Vương Quốc.
Perfex là phần mềm mã nguồn mở có phí quản trị quan hệ khách hàng (CRM) dành cho các doanh nghiệp nhỏ và hay người kinh doanh tự do. Các tính năng của phần mềm bao gồm:. Quản lý và chăm sóc khách hàng thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu, phiếu hỗ trợ tương tác với khách hàng qua email, quản lý danh sách khách hàng trên phần mềm. Hỗ trợ quản lý nhân viên và kết hợp đội nhóm với tính năng tạo dự án, phân công nhiệm vụ, giao việc cho nhân viên. Hỗ trợ quá trình bán hàng bằng các tính năng tạo đề xuất, tự động gửi báo giá, tạo hóa đơn. Perfex đáp ứng gần như đầy đủ các tính năng cần có của một hệ thống CRM giúp doanh nghiệp quản trị tốt hơn các công việc của mình. Để sử dụng Perfex CRM, người dùng cần thuê sẵn hosting và có domain ( hoặc subdomain) để tích hợp phần mềm lên đó. Ngoài ra phần mềm cũng được phát hành trên Android và IOS giúp quản trị viên cập nhật công việc trên điện thoại, tablet nhanh chóng. Trong màn hình tổng quan, Perfex cho phép người dùng theo dõi các báo cáo tổng quan về hiện trạng của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp quản lý hoạt động quản trị khách hàng và dự án một cách tốt hơn. Các báo cáo được thể hiện như:. Ngoài ra người dùng cũng có thể tùy chỉnh các báo hiển thị trên thanh điều khiển ở đầu trang. Thêm nhanh danh sách khách hàng bằng tệp: mỗi khách được thêm mỗi sẽ được hệ thống tự động tạo tài khoản đăng nhập trên website của bạn. Để quản lý khách hàng theo nhóm thuận tiện hơn, Perfex cho phép người dùng có thể tạo nhóm cho khách hàng. Tuy nhiên, bạn không thể tạo nhóm ngay trên màn hình của mục quản lý khách hàng mà phải tạo ở trong mục cài đặt. Quản lý Credit Note (Ghi chú tín dụng): quản lý khoản ứng trước hoặc trả trước của khách hàng trên trang web của bạn. Đây là một trong những tính năng nổi bật nhất của Perfex, khi khách hàng yêu cầu bạn lập một đề xuất bán hàng. Bạn sẽ tạo đề xuất gửi đến khách hàng của mình, nếu đề xuất đó được khách hàng chấp nhận thì hệ thống sẽ tự động chuyển đề xuất thành báo giá và gửi lại cho khách hàng. Khi bạn nhập thông tin khách hàng, nếu khách hàng đã được tạo sẵn thì các trường thông tin còn lại sẽ được tự động điền. Tính năng cho phép quản lý danh sách khách hàng tiềm năng, hỗ trợ những công cụ giúp người dùng chăm sóc khách hàng tốt hơn và có cơ hội biến khách hàng tiềm năng trở thành khách hàng thực sự. Để thu thập thông tin khách hàng tự động từ trang web, Perfex cho phép người dùng tạo 1 form thu thập từ mục cài đặt khách hàng tiềm năng, sau đó sử dụng form này để nhúng lên website, landing page. Tính năng này hỗ trợ người dùng có thể quản lý các khoản chi của doanh nghiệp để tránh sai sót hay thất thoát tài chính, hỗ trợ báo cáo doanh thu và lợi nhuận cuối kỳ. Lọc khoản chi theo trạng thái hóa đơn, thời gian, theo danh mục, theo hình thức thanh toán. Quản lý nhân viên là một trong những tính năng quan trọng của bất cứ một phần mềm CRM nào, giúp đơn giản hóa quy trình làm việc và theo dõi hiệu quả làm việc của nhân viên 1 cách chính xác nhất. Quản lý bảng chấm công nhân viên, theo dõi các dự án mà nhân viên phụ trách. Ví dụ: Khi bạn tạo một vị trí cho nhân viên sale thì chỉ cho phép nhân viên quản lý một số mục như quản lý khách hàng tiềm năng. Nhờ đó, khi bạn thêm nhân viên mới vào hệ thống thì chỉ cần chỉ định vai trò của nhân viên mà không cần thiết lập lại phân quyền. Tự động đóng phiếu hỗ trợ: có nghĩa là bạn có thể cài đặt sau một số giờ nhất định từ lần bạn trả lời cuối cùng mà khách không phản hồi, hệ thống sẽ tự động đóng phiếu lại và khách hàng không thể trả lời email đó nữa. Tạo phân công nhóm nhận ticket: ví dụ bạn tạo nhóm CSKH, Sale. Khi khách hàng chọn mục hỗ trợ (nhóm CSKH quản lý) trên trang, thì email sẽ chỉ gửi đến email của nhóm CSKH. Đây là một trong những tính năng nổi bật và mạnh mẽ nhất mà Perfex mang đến cho người dùng. Nhờ có tính năng này, quản trị viên có thể quản lý dự án của mình 1 cách sát sao và hiệu quả nhờ lên dự án, phân công công việc cho từng nhân viên và cập nhật tiến độ dự án 1 cách trực quan. Ví dụ bạn có khách hàng là công ty ABC, cần thực hiện dự án thiết kế web cho công ty đó. Bạn sẽ thiết lập 1 dự án để phân công công việc cho nhân viên và cho phép khách hàng theo dõi tiến độ dự án cùng. Tùy chỉnh tiến độ dự án, Perfex cũng sẽ cập nhật tiến độ thực hiện của dự án dựa trên số công việc được hoàn thành. Quan sát các báo giá, đề xuất kế hoạch hay tình hình tổng quan về tài chính của dự án. Nếu bạn đang làm việc trên các dự án cụ thể và cần truy cập hằng ngày, Perfex hỗ trợ người dùng có thể ghim dự án. Dự án được ghim sẽ hiển thị phía dưới bên trái từ menu chính của quản trị viên. Tính năng này cho phép bạn bắt đầu các cuộc thảo luận khác nhau với khách hàng hoặc các thành viên khác trong dự án. Bạn có thể tùy chọn cho phép khách hàng tham gia cuộc thảo luận hay không. Biểu đồ KanBan hay Milestone giúp người dùng chia nhỏ các công việc ra để giúp quản lý dự án dễ dàng hơn. Quản trị viên cũng có thể giao task cho thành viên dự án bất cứ lúc nào, có thể tùy chỉnh theo tiến độ của biểu đồ Milestone; tùy chỉnh cho công việc được lặp lại sau 1 tuần/ 1 tháng…; cho phép khách hàng quan sát nhiệm vụ mới hay không. Quản lý hợp đồng: Tạo và quản lý danh sách hợp đồng, xuất hợp đồng ra file, đính kèm nội dung vào hợp đồng, theo dõi danh sách hợp đồng theo thời hạn hợp đồng, gửi hợp đồng cho khách hàng ngay trên website. Gửi khảo sát cho khách hàng tiềm năng và khách hàng: Perfex cho phép người dùng tạo các phiếu khảo sát, chỉnh sửa nội dung phiếu khảo sát, gửi phiếu khảo sát cho các khách hàng tiềm năng/khách hàng/ nhân viên từ danh sách thư được tạo để cải thiện trải nghiệm khách hàng với doanh nghiệp của bạn. Cơ sở dữ liệu: Cho phép bạn tạo ra những bộ câu hỏi, hướng dẫn giúp khách hàng tra cứu nhanh về các vấn đề cần giải quyết, giúp tiết kiệm thời gian cho khách hàng và giảm khối lượng công việc cần giải quyết cho nhân viên. Ngoài ra, bạn cũng có thể tạo bộ tài liệu dành riêng cho nội bộ doanh nghiệp. Perfex phù hợp với doanh nghiệp nhỏ không có đội ngũ IT, không muốn chi trả hàng tháng cho hệ thống CRM trên thị trường và không cần quá nhiều các tính năng về Auto Marketing mà tập trung vào việc quản lý dự án, quản lý nhân viên. Với các tính năng của mình, Perfex phù hợp với các doanh nghiệp phát triển dưới dạng B2B (Business To Business) hơn là các doanh nghiệp B2C (Business to Consumer). Perfex cung cấp cho người dùng một quy trình bán hàng khá tiện lợi, khi bạn đưa ra đề xuất kế hoạch cho khách hàng và khách hàng chấp nhận đề xuất đó thì hệ thống sẽ cho phép bạn chuyển đề xuất thành báo giá và tiếp tục gửi cho khách hàng. Nếu khách hàng chấp nhận báo giá thì hệ thống sẽ tiếp tục chuyển thành hóa đơn, và sau đó là quản lý thanh toán. Như vậy, nhân viên có thể giải quyết các yêu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng, rút ngắn thời gian và hiệu quả, chính xác hơn nhiều so với những cách làm thủ công. Với các tính năng cho phép thêm nhiệm vụ hay phân quyền cho nhân viên, nhắc nhở với các hóa đơn, đề xuất và theo dõi bảng chấm công sẽ giúp nhân viên làm việc hiệu quả hơn, tránh được những sai sót hay quên công việc được giao. Ngoài ra, nhờ những tính năng như quản lý dự án giúp các nhân viên làm việc theo nhóm hiệu quả, dễ dàng theo dõi. Perfex cho phép bạn tạo biểu mẫu thu thập khách hàng tiềm năng nhằm ghi lại các thông tin khách hàng nhúng lên website, những khách hàng đăng ký sẽ tự động thêm vào danh sách khách hàng tiềm năng.
Quản lý khách hàng tiềm năng
Quản lý khách hàng tiềm năng là tập hợp các phương pháp, hệ thống và thực tiễn được thiết kế để tạo ra khách hàng kinh doanh tiềm năng mới, thường được điều hành thông qua nhiều chiến dịch hoặc chương trình tiếp thị khác nhau. Quản lý khách hàng tiềm năng tạo điều kiện cho kết nối của doanh nghiệp giữa quảng cáo tiêu dùng đi và phản hồi của quảng cáo đó. Các quy trình này được thiết kế cho các chiến lược doanh nghiệp với doanh nghiệp và trực tiếp đến người tiêu dùng. Quản lý khách hàng tiềm năng trong nhiều trường hợp là tiền thân của quản lý bán hàng và quản lý quan hệ khách hàng. Kết nối quan trọng này tạo điều kiện cho lợi nhuận kinh doanh thông qua việc mua lại khách hàng mới, bán cho khách hàng hiện tại và tạo thương hiệu thị trường. Quy trình này cũng được gọi chính xác là quản lý sở hữu khách hàng. Các nguyên tắc chung của quản lý khách hàng tiềm năng tạo ra một cấu trúc được sắp xếp để quản lý khối lượng yêu cầu kinh doanh, thường được gọi là khách hàng tiềm năng.
Nhiều người thắc mắc Tự nhiên giật mình có điềm gì? đánh lô số đề con gì? bài viết hôm nay sẽ giải đáp điều này. Phản ứng giật mình là phản ứng phòng thủ phần lớn mang tính vô thức đối với các kích thích đột ngột hoặc đe dọa, như tiếng ồn bất ngờ hoặc chuyển động sắc nét, và có liên quan đến ảnh hưởng tiêu cực. Thông thường sự khởi đầu của phản ứng giật mình là phản ứng phản xạ giật mình. Phản xạ giật mình là phản ứng phản xạ não (phản xạ) có tác dụng bảo vệ các bộ phận dễ bị tổn thương, như sau gáy (giật toàn thân) và mắt (liên kết mắt) và tạo điều kiện chạy thoát khỏi các kích thích đột ngột. Phản xạ này được tìm thấy trong suốt tuổi thọ của nhiều loài. Một loạt các phản ứng có thể xảy ra do trạng thái cảm xúc của từng cá nhân, tư thế cơ thể, chuẩn bị thực hiện một nhiệm vụ vận động, hoặc các hoạt động khác. Phản ứng giật mình có liên quan đến sự hình thành các ám ảnh cụ thể. Việc giật mình với người bình thường không sao, tuy nhiên với những cá nhân đang bị bệnh tim – huyết áp – hô hấp thì điều này khá là nguy hiểm có thể đưa họ vào trạng thái nguy hiểm đến tính mạng. Khi bị giật mình, ta nên tĩnh tâm bình tĩnh và thở đều lại, biết kìm hãm cảm xúc bản thân để chúng ta thấy thoải mái nhất và mọi việc sẽ ổn không nên quá tức giận – nóng giận lên mà ảnh hưởng sức khỏe của bản thân.
Phản ứng giật mình
Ở động vật, bao gồm cả con người, phản ứng giật mình là phản ứng phòng thủ phần lớn mang tính vô thức đối với các kích thích đột ngột hoặc đe dọa, như tiếng ồn bất ngờ hoặc chuyển động sắc nét, và có liên quan đến ảnh hưởng tiêu cực. Thông thường sự khởi đầu của phản ứng giật mình là phản ứng phản xạ giật mình. Phản xạ giật mình là phản ứng phản xạ não (phản xạ) có tác dụng bảo vệ các bộ phận dễ bị tổn thương, như sau gáy (giật toàn thân) và mắt (liên kết mắt) và tạo điều kiện chạy thoát khỏi các kích thích đột ngột. Phản xạ này được tìm thấy trong suốt tuổi thọ của nhiều loài. Một loạt các phản ứng có thể xảy ra do trạng thái cảm xúc của từng cá nhân, tư thế cơ thể, chuẩn bị thực hiện một nhiệm vụ vận động, hoặc các hoạt động khác. Phản ứng giật mình có liên quan đến sự hình thành các ám ảnh cụ thể.
Chủ nghĩa khủng bố không phải là mới, cũng không phải là việc cố gắng ngăn chặn nó bằng các biện pháp chống khủng bố. Nhưng khi số lượng các vụ tấn công khủng bố đã tăng vọt trong thế kỷ 21, Hoa Kỳ và các quốc gia khác đã phải chủ động hơn nhiều trong việc bảo vệ công dân của họ khỏi những bạo lực như vậy. Chính phủ Hoa Kỳ đã coi việc chống khủng bố trở thành ưu tiên hàng đầu kể từ đầu những năm 1970 , sau vụ khủng bố vào Thế vận hội Mùa hè 1972 ở Munich, Đức và một số vụ cướp máy bay. Nhưng chính vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 đã biến chống khủng bố trở thành trụ cột của chính sách đối nội và đối ngoại ở Hoa Kỳ và hơn thế nữa. "Chủ nghĩa chống khủng bố, kể từ năm 2001, đe dọa nơi trú ẩn an toàn của bọn khủng bố, xâm nhập mạng lưới tài chính và truyền thông của bọn khủng bố, củng cố cơ sở hạ tầng quan trọng và kết nối các điểm giữa các cộng đồng tình báo và thực thi pháp luật .". Một số cơ quan liên bang đóng những vai trò quan trọng trong chống khủng bố đương thời, cả trong nước và quốc tế, và các nỗ lực của họ thường chồng chéo lên nhau. Trong số những điều quan trọng nhất là:. Bộ An ninh Nội địa : Cơ quan chủ trì mọi hoạt động chống khủng bố và an ninh trong nước. Văn phòng Giám đốc Tình báo Quốc gia : Điều phối việc thu thập, phân tích và chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan tình báo liên bang như FBI và CIA. Cục Điều tra Liên bang : Thực hiện các hành động chống khủng bố như giám sát và điều tra cùng với các cơ quan thực thi pháp luật khác ở cấp địa phương, tiểu bang và liên bang. Cơ quan Tình báo Trung ương : Thu thập, phân tích và chia sẻ dữ liệu và thông tin tình báo quốc tế để thông báo và thực hiện chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Chống khủng bố không chỉ giới hạn ở các cơ quan này. Ví dụ, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm khởi tố các vụ án hình sự liên quan đến khủng bố, trong khi Bộ Giao thông Vận tải thường xuyên làm việc về các vấn đề an ninh với Bộ An ninh Nội địa. Các cơ quan hành pháp của tiểu bang và địa phương cũng thường tham gia vào một số chức năng. Trên bình diện quốc tế, chính phủ Hoa Kỳ thường xuyên hợp tác với các nước khác về các vấn đề an ninh. Liên hợp quốc, NATO và các tổ chức phi chính phủ khác cũng đã thiết lập các chính sách chống khủng bố của riêng mình. Nói chung, các nỗ lực chống khủng bố có hai mục tiêu: bảo vệ quốc gia và công dân của họ khỏi bị tấn công và vô hiệu hóa các mối đe dọa và tác nhân sẽ tấn công Hoa Kỳ Các biện pháp phòng thủ có thể đơn giản, như đặt quả cầu bê tông trước các tòa nhà để ngăn chặn một chiếc xe chất đầy chất nổ khỏi quá gần. Giám sát video các khu vực công cộng cùng với công nghệ nhận dạng khuôn mặt là một biện pháp phòng thủ chống khủng bố tiên tiến hơn đáng kể. Các đường dây an ninh tại các sân bay Hoa Kỳ, do Cơ quan An ninh Vận tải điều hành, là một ví dụ khác. Các biện pháp chống khủng bố tấn công có thể bao gồm từ các hoạt động giám sát và rình rập đến bắt giữ và truy tố hình sự đến thu giữ tài sản tài chính và hành động quân sự. Ví dụ, vào tháng 2 năm 2018, Bộ Tài chính đã phong tỏa tài sản của 6 người được cho là có hoạt động kinh doanh với Hezbollah, một tổ chức Hồi giáo mà Mỹ đã gán cho là tổ chức khủng bố. Cuộc đột kích năm 2011 của Lực lượng Đặc nhiệm Hải quân vào khu nhà ở Pakistan của Osama bin Laden, dẫn đến cái chết của thủ lĩnh Al Qaeda, là một trong những ví dụ nổi tiếng nhất về hoạt động chống khủng bố quân sự thành công. Bush, Obama và Trump: Sự phát triển của chính sách chống khủng bố của Hoa Kỳ kể từ ngày 11/9 .". Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
Chống khủng bố
Chống khủng bố, kết hợp thi hành, chiến thuật quân sự, kỹ thuật và chiến lược mà chính phủ, quân đội, cơ quan thực thi pháp luật, doanh nghiệp và cơ quan tình báo sử dụng để chống lại hoặc ngăn chặn hành vi khủng bố. Chiến lược chống khủng bố là kế hoạch của chính phủ sử dụng các công cụ quyền lực quốc gia để vô hiệu hóa những kẻ khủng bố, tổ chức của chúng và mạng lưới của chúng nhằm khiến chúng không có khả năng sử dụng bạo lực để gây sợ hãi và ép buộc chính phủ hoặc chính phủ công dân để phản ứng phù hợp với các mục tiêu của kẻ khủng bố. Nếu hành vi khủng bố là một phần của hành vi nổi dậy rộng hơn, thì việc chống khủng bố có thể sử dụng các biện pháp chống nổi dậy. Lực lượng vũ trang Hoa Kỳ sử dụng thuật ngữ phòng thủ nội bộ nước ngoài cho các chương trình hỗ trợ các quốc gia khác trong nỗ lực trấn áp các cuộc nổi dậy, phi pháp hoặc lật đổ hoặc để giảm bớt các điều kiện mà các mối đe dọa an ninh này có thể phát triển.
Hãy cùng Dapitale tìm hiểu khái niệm tầng lửng là gì trong bài viết dưới đây nhé. Tầng lửng tiếng anh là “Mezzanine” (trong tiếng Pháp là Entresol). Tầng lửng còn gọi là gác lửng (hoặc lửng) hay gác xép, nó là một tầng trong kiến trúc của tòa nhà hoặc nhà ở. Nói đúng hơn, tầng lửng là một tầng trung gian giữa 2 tầng chính. Chính vì vậy, tầng lửng không được tính như một tầng trong tổng thể của tòa nhà. Đồng thời cũng không được tính chcho không gian sàn tối đa. Tầng lửng là một kiểu kiến trúc bắt nguồn từ Pháp, được gọi là entresol. Nó có nghĩa là một căn phòng được tạo ra bằng cách phân vùng trên không tại các căn hộ dành cho quý tộc tại cung điện Versailles. Ngày nay chúng được sử dụng trong kiến trúc hiện đại , nơi chú trọng nhiều vào ánh sáng và không gian. Tầng lững hay lửng là thắc mắc của không ít người do khó phân biệt dấu hỏi và dấu ngã. Câu trả lời chính xác ở đây là tầng lửng bạn nhé. Trong các nhà xưởng, tai nạn tại tầng lửng rất thường xuyên xảy ra. Nguyên nhân chính là do lan can thấp, kém chất lượng, người lao động không chú ý khi lan can đóng/ mở. Tầng lửng trong nhà cũng là nơi nguy hiểm cho trẻ nhỏ và người già. Không nên cho trẻ chơi đùa trên gác lửng để tránh tai nạn đáng tiếc xảy ra. Đây là kiểu thiết kế gây ấn tượng mạnh cho khách khi bước vào phòng. Cảm nhận không gian mới lạ, và thu hút. Bên cạnh đó, chủ nhà còn có thể phối hợp thêm màu sắc thì chắc chắn sẽ làm cho ngôi nhà them thú vị hơn nữa. Tầng lửng xây lùi về sau là loại phổ biến trong công trình nhà phố, và thường được bố trí thêm lan can tầng lửng. Loại này có tạo không gian đẹp cho phòng khách, vị trí tầng lửng tạo điều kiện tốt để làm không gian sinh hoạt chung, có thể quan sát tầng trệt . Tuy nhiên, nhược điểm của kiểu thiết kế này là làm không gian tầng trệt phía sau thấp. Không gian của tầng lửng cũng gây cảm giác chật chội. Đây là kiểu thiết kế hiện đại, mới lạ và độc đáo. Nhưng đòi hỏi ngôi nhà phải có một diện tích đủ rộng để có thể thi công được. Đối với các phòng có diện tích nhỏ, chủ nhà thường bố trí thêm gác lửng làm không gian làm việc học tập hay theo một sở thích cá nhân cho con cái. Loại gác xép này tạo cảm giác thoải mái và riêng tư. Trong các thiết lập công nghiệp, tầng lửng có thể được lắp đặt (chứ không phải được xây dựng như một phần của cấu trúc) trong các không gian trần cao như nhà kho. Các cấu trúc bán kiên cố này thường đứng tự do, có thể tháo dỡ và di dời. Các cấu trúc gác lửng công nghiệp có thể được hỗ trợ bởi các cột và các yếu tố kết cấu thép, hoặc bằng giá đỡ hoặc kệ. Tùy thuộc vào độ dài và tốc độ chạy của tầng lửng, các vật liệu khác nhau có thể được sử dụng cho sàn tầng lửng. Một số gác lửng công nghiệp cũng có thể bao gồm không gian văn phòng được đóng kín, được ốp ở các tầng trên của chúng. Làm mặt bằng kinh doanh, trung bày hàng hóa hoặc làm chỗ để xe, nhà kho. Gác lửng làm cho một không gian trần cao cảm thấy cá tính hơn và bớt rộng lớn hơn, và có thể tạo thêm không gian sàn. Làm bếp ăn, phòng khách, sinh hoạt chung cho gia đình. Tầng lửng có thể chỉ dùng với mục đích tiếp khách mà vẫn quan sát được việc mua bán ở tầng trệt. Với nhiều nhà ở, có thể bố trí tầng lửng như một phòng ngủ cho thành viên trong gia đình. Nếu luật Xây dựng quốc tế cho phép một tầng lửng chiếm 1/3 diện tích sàn bên dưới thì Luật Việt Nam cho phép chiếm 80%. Chủ công trình lấp ô thông tầng ở tầng lửng sẽ bị coi là xây dựng vượt quá số tầng được phép và bị phạt. Đối với nhà ở riêng lẻ, nếu việc thay đổi kiến trúc bên trong công trình xây dựng không ảnh hưởng đến kết cấu chịu lực chính thì không xử phạt về hành vi xây dựng sai Giấy phép xây dựng. Trường hợp chủ đầu tư xây dựng đúng số tầng, có phát sinh thêm tầng lửng nhưng không vượt quá chiều cao công trình theo Giấy phép xây dựng thì không xử phạt về hành vi xây dựng sai Giấy phép xây dựng. Hợp đồng cho thuê nhà – Khái quát, pháp lý và những lưu ý về loại hợp đồng này. Vụ ‘thâu tóm’ gần 32.000m2 đất công: Bà chủ Quốc Cường Gia Lai khai gì?
Tầng lửng
Tầng lửng hay còn gọi đơn giản là lửng là một tầng trong kiến trúc của một tòa nhà hoặc một ngôi nhà. Đó là một tầng trung gian giữa các tầng của một tòa nhà chính và do đó thường không tính trong số các tầng tổng thể của một tòa nhà. Thông thường, tầng lửng là trần thấp và nằm ở tầng một (tầng dưới cùng). Thuật ngữ tầng lửng bắt nguồn từ tiếng Ý là "mezzano". Thiết kế tầng lửng là một trong những cách để tăng diện tích sử dụng theo chiều cao. Việc làm này rất thích hợp với những căn nhà có diện tích hẹp hoặc nằm trong khu vực bị khống chế chiều cao. Nhưng ngay cả với những ngôi nhà lớn, cũng có thể thiết kế tầng lửng để tạo ra không gian đẹp và thoáng. Những ngôi nhà có được thiết kế tầng lửng này thường được gọi một cách ngắn gọn là nhà gác lửng.
Lực ly tâm là gì, lực ly tâm và lực hướng tâm có điểm gì khác biệt, ứng dụng của lực ly tâm ra sao? Đó là một số vấn đề liên quan đến lực ly tâm mà nhiều bạn vẫn đang thắc mắc. Chính vì vậy, chúng tôi đã đi tìm hiểu chi tiết và tổng hợp lại trong nội dung bài viết dưới đây. Cùng theo dõi với chúng tôi nhé. Lực ly tâm chính là lực quán tính xuất hiện trên mọi vật nằm yên trong hệ quy chiếu quay so với một hệ quy chiếu quán tính. Nó là hệ quả của trường gia tốc xuất hiện trong hệ quy chiếu phi quán tính hay chính là hệ quy chiếu quay. Một khái niệm khác của lực ly tâm là "Lực ly tâm là phản lực của lực hướng tâm tác động vào vật đang chuyển động theo một đường cong với thành phần lực vuông góc với vận tốc và làm cho vận tốc đổi hướng nhằm giữ cho vật nằm cân bằng trong hệ quy chiếu quay". Theo định luật 1 Newton, "Một vật thể ở trạng thái nghỉ sẽ vẫn ở trạng thái nghỉ, và một vật thể đang chuyển động sẽ vẫn chuyển động trừ khi nó bị tác động bởi một ngoại lực" tức là trong hệ quy chiếu quán tính, các vật thể sẽ chuyển động thẳng đều khi không có lực gì tác động vào khiến nó tăng/giảm tốc hoặc đổi hướng. Để nó đi theo một đường tròn mà tốc độ không thay đổi thì ta phải tác dụng một lực hướng tâm liên tục với phương vuông góc với đường đi của nó. Bán kính (r) của đường tròn được xác định bằng tích khối lượng (m) với bình phương vận tốc (v) chia cho lực hướng tâm (F). Theo định luật 3 Newton, "Khi một vật tác dụng lực lên vật thể thứ hai thì vật thứ hai sẽ tác dụng lại vât thứ nhất một lực cùng độ lớn và ngược chiều". Trong hệ quy chiếu quay, lực hướng tâm sẽ kéo khối lượng của vật vào trong theo một đường cong, trong khi theo quán tính thì khối lượng này dường như sẽ bị đẩy ra ngoài. Tuy nhiên, ở trường hợp này chỉ có một lực thực sự được tác dụng, còn lực kia chỉ là lực biểu kiến, không tồn tại. Vậy bản chất của lực ly tâm chính là lực quán tính của lực hướng tâm. Lực ly tâm được xác định là tích âm của khối lượng với bình phương vận tốc tiếp tuyến, chia cho bán kính. Từ công thức ta có thể thấy rằng, lực ly tâm có thể được tăng lên bằng cách tăng tốc độ quay/khối lượng của vật thể hoặc giảm bán kính, tức là giảm khoảng cách của vật thể từ tâm của đường cong. - Tăng tốc độ quay: Lực ly tâm sẽ tăng lên theo tỷ lệ bình phương của tốc độ, tức là nếu tăng tốc độ lên 10 lần thi lực ly tâm sẽ tăng lên 100 lần. Theo Andrew A. Ganse - nhà vật lý nghiên cứu tại Đại học Washington "Sự khác biệt giữa lực hướng tâm và lực ly tâm là do hệ quy chiếu khác nhau, tức là góc nhìn mà bạn dùng để đo lường một thứ gì đó không giống nhau". "Thực chất, lực hướng tâm và lực ly tâm hoàn toàn giống nhau, chúng chỉ ngược chiều nhau vì được nhìn từ các hệ quy chiếu khác nhau”. Tức là, nếu bạn nhìn một hệ quay từ bên ngoài, bạn sẽ thấy một lực hướng tâm ở bên trong tác động vào vật để hạn chế nó quay theo một đường tròn. Nhưng nếu bạn ở trong hệ thống quay, bạn sẽ thấy có một lực ly tâm đẩy bạn ra khỏi tâm của vòng tròn đó, dù thực sự điều mà bạn cảm thấy được là lực hướng tâm bên trong đang ngăn bạn đi. - Hệ quy chiếu quay giúp tạo ra trường gia tốc nhân tạo với độ lớn điều khiển được bằng tốc độ quay và khoảng cách tới tâm quay. Trường gia tốc nhân tạo có thể được ứng dụng các trạm vũ trụ, như trạm vũ trụ quốc tế, tạo ra một môi trường giúp phi hành gia có cảm giác về trọng lượng biểu kiến, như môi trường sống quen thuộc trên Trái Đất. - Khả năng điều khiển cảm giác về trọng lượng biểu kiến của trường gia tốc ly tâm được ứng dụng trong các trò chơi cảm giác mạnh. - Trong trường gia tốc, lực ly tâm giúp phân tích các vật chất thành nhiều thành phần. Đó là ứng dụng của máy phân tích ly tâm. - Lực ly tâm cũng được ứng dụng trong bộ ly hợp tự động của một số loại phương tiện giao thông (oto, xe máy). + Khi tốc độ quay của động cơ đạt đến một ngưỡng nhất định, lực ly tâm lên các quả nặng trong bộ ly hợp sẽ đủ lớn để khép chặt các tiếp xúc và chuyển bộ ly hợp sang trạng thái truyền lực -> xe di chuyển. + Khi tốc độ quay của động cơ dưới ngưỡng thích hợp, lực ly tâm không đủ lớn, bộ ly hợp không được truyền lực -> xe dừng lại dù động cơ vẫn nổ máy. Vậy là LabVIETCHEM đã giúp các bạn tìm hiểu chi tiết hơn về lực ly tâm là gì cũng như bản chất và ứng dụng của lực ly tâm. Hy vọng rằng đây sẽ là những kiến thức bổ ích dành cho bạn đọc. Ngoài ra, nếu bạn nào quan tâm đến sản phẩm máy ly tâm, vui lòng truy cập website labvietchem.com.vn để biết thêm thống tin chi tiết nhé. GPDKKD: 0108580557 do Sở KH & ĐT TP Hà Nội cấp ngày 10/01/2019. Là doanh nghiệp hàng đầu chuyên cung cấp Hóa chất, thiết bị và dụng cụ phòng thí nghiệm. Chúng tôi cam kết đem đến những sản phẩm chất lượng với mức giá TỐT NHẤT trên thị trường.
Lực ly tâm
Lực li tâm là một lực quán tính xuất hiện trên mọi vật nằm yên trong hệ quy chiếu quay so với một hệ quy chiếu quán tính. Nó là hệ quả của trường gia tốc, xuất hiện trong hệ quy chiếu phi quán tính mà trong trường hợp này là hệ quy chiếu quay. Chúng ta cảm thấy lực này khi ngồi trong xe ô tô đang đổi hướng, hay chơi trò cảm giác mạnh như xe lao tốc độ ở công viên. Lực này được ứng dụng để tạo nên một trường gia tốc giúp phân loại các thành phần trong hỗn hợp vật chất, như máy phân tích ly tâm hay để vắt quần áo trong máy giặt. Trong hệ quy chiếu, khi không có lực gì tác động vào các vật thể, chúng giữ chuyển động thẳng đều, theo định luật 1 Newton. Tuy nhiên chuyển động thẳng đều này lệch với chuyển động quay của hệ quy chiếu quay. Ví dụ về một người ngồi trong xe ô tô đang đổi hướng: nếu không có lực ma sát giữa người và ghế, người sẽ tiếp tục đi thẳng, còn ô tô và ghế đổi hướng. Người bị dịch chuyển, một cách tương đối, lệch khỏi ghế.
Ngôn ngữ lập trình (programming language) là dạng ngôn ngữ được chuẩn hóa theo một hệ thống các quy tắc riêng, sao cho qua đó người lập trình có thể mô tả các chương trình làm việc dành cho thiết bị điện tử mà cả con người và các thiết bị đó đều hiểu được. Bất cứ ai mới tiếp xúc với lập trình cũng sẽ đặt ra câu hỏi, “Nên học ngôn ngữ lập trình nào trước tiên?” Nếu tìm trong các nhóm hoặc cộng đồng developer, bạn sẽ ngay lập tức nhận được rất nhiều câu trả lời khác nhau. Nhưng hãy tỉnh táo để nhận ra một điều: “tín đồ” của ngôn ngữ nào sẽ bình chọn cho ngôn ngữ đó. Vì vậy sau đây chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn thông tin về các loại ngôn ngữ lập trình phổ biến nhất để bạn có thể có được sự lựa chọn phù hợp nhất cho mình. Google phát triển Go để giúp các nhà phát triển của mình xây dựng các hệ thống cho lượng người dùng cực lớn. Go cũng được rất nhiều lập trình viên yêu thích vì tính dễ đọc và dễ nhân rộng. Ngôn ngữ kinh điển này được sáng chế ra vào năm 1972 và vẫn thịnh hành cho đến ngày nay, không chỉ bởi khả năng hoạt động trên tất cả các nền tảng điện toán mà còn bởi tính ổn định và dễ hiểu với hầu hết các lập trình viên từ khắp nơi trên thế giới. Viết tắt của “Cascading Style Sheets”, CSS là ngôn ngữ dùng cho thiết kế định dạng và layout website. Rất nhiều menu trên website và ứng dụng di động đều được viết bởi CSS kết hợp cùng JavaScript và HTML. Được phát minh ra vào năm 1983 như một lựa chọn thay thế ngôn ngữ C truyền thống, C++ thực sự rất phổ biến với các nhà phát triển trên toàn cầu. Microsoft Windows, Google Chrome hay các phần mềm cho phi cơ chiến đấu đều được viết bằng C++. PHP đã quá phổ biến trong thiết kế website. Theo một ước tính không chính thức, PHP hiện được sử dụng cho 1/3 số lượng website trên toàn cầu. Tuy vậy cũng có không ít người ghét PHP, điển hình là nhà sáng lập Stack Exchange Jeff Atwood khi khẳng định “PHP không phải một ngôn ngữ lập trình mà đúng hơn phải là một đống tạp nham các từ khóa và function.”. Các nhà phát triển yêu thích ngôn ngữ lập trình 24 năm tuổi này bởi độ dễ đọc, dễ viết. Đi kèm với nó là Rails, một framework add-on giúp cho việc xây dựng ứng dụng web trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Khẩu hiệu của Ruby chính là “người bạn tốt nhất của các lập trình viên.”. Với xuất phát điểm từ năm 1989, cũng như Ruby, Python được ưa chuộng bởi tính dễ đọc. Nhiều lập trình viên còn cho rằng đây là ngôn ngữ dễ học nhất bên cạnh Ruby. Được Oracle phát minh ra vào năm 1991, Java nay đã trở thành ngôn ngữ lập trình phổ biến nhất thế giới. Java chính là phần thiết yếu trong phát triển ứng dụng Android, phần mềm doanh nghiệp hay TV thông minh. Hiển nhiên, ngôn ngữ lập trình dùng để viết nên các chương trình phần mềm. Vậy, một ngôn ngữ này được cấu tạo bởi những bộ phận cơ bản nào để thực hiện được điều này?. Mỗi ngôn ngữ lập trình có thể được xem như là một tập hợp của các chi tiết kỹ thuật chú trọng đến cú pháp, từ vựng, và ý nghĩa của ngôn ngữ. Một hệ thống đặc thù mà theo đó các dữ liệu được tổ chức sắp xếp trong một chương trình gọi là hệ thống kiểu của ngôn ngữ lập trình. Việc thiết kế và nghiên cứu các hệ thống kiểu được biết như là lý thuyết kiểu. String: biểu diễn chuỗi các ký tự, hay còn gọi là chuỗi, để tạo thành câu hay cụm từ. Hầu hết các ngôn ngữ đều cung cấp các cách thức để lắp ráp các cấu trúc dữ liệu phức tạp từ các kiểu sẵn có và để liên kết các tên với các kiểu mới kết hợp (dùng các kiểu mảng, danh sách, hàng đợi hay tập tin). Khi dữ liệu đã được định rõ, máy tính phải được chỉ thị làm thế nào để tiến hành các phép toán trên dữ liệu đó. Những mệnh đề cơ bản có thể được cấu trúc thông qua việc sử dụng các từ khóa (đã được định nghĩa bởi ngôn ngữ lập trình) hoặc là có thể tạo thành từ việc dùng và kết hợp các cấu trúc ngữ pháp hay cú pháp đã được định nghĩa. Những mệnh đề cơ bản này gọi là các câu lệnh. Tùy theo ngôn ngữ, các câu lệnh có thể được kết hợp với nhau theo trật tự nào đó. Điều này cho phép thiết lập được các chương trình thực hiện được nhiều chức năng. Hơn nữa, ngoài các câu lệnh để thay đổi và điều chỉnh dữ liệu, còn có những kiểu câu lệnh dùng để điều khiển dòng xử lý của máy tính như là phân nhánh, định nghĩa bởi nhiều trường hợp, vòng lặp, hay kết hợp các chức năng. Đây là các thành tố không thể thiếu của một ngôn ngữ lập trình. Muốn cho chương trình chạy được thì phải có phương pháp xác định được các vùng trống của bộ nhớ để làm kho chứa dữ liệu. Phương pháp được biết nhiều nhất là thông qua tên của các biến. Tùy theo ngôn ngữ, các vùng trống gián tiếp có thể bao gồm các tham chiếu, mà trên thực tế, chúng là các con trỏ (pointer) chỉ đến những vùng chứa khác của bộ nhớ, được cài đặt trong các biến hay nhóm các biến. Phương pháp này gọi là đặt tên kho nhớ. Tương tự với phương pháp đặt tên kho nhớ, là phương pháp đặt tên những nhóm của các chỉ thị. Hầu hết các ngôn ngữ lập trình đều cho phép gọi các macro hay các chương trình con như là các câu lệnh để chạy nội dung mô tả trong các macro hay chương trình con này thông qua tên. Việc dùng tên như thế này cho phép các chương trình đạt tới một sự linh hoạt cao và có giá trị lớn trong việc tái sử dụng mã nguồn (vì người viết mã không cần phải lặp lại những đoạn mã giống nhau mà chỉ việc định nghĩa các macro hay các chương trình con.). Các tham chiếu gián tiếp đến các chương trình khả dụng hay các bộ phận dữ liệu đã được xác định từ trước cho phép nhiều ngôn ngữ định hướng ứng dụng tích hợp được các thao tác khác nhau. Mỗi ngôn ngữ lập trình đều có một bộ các cú pháp quy định việc lập trình sao cho mã nguồn được thực thi. Theo đó, mỗi nhà sản xuất các ngôn ngữ này sẽ cung cấp một bộ các cấu trúc ngữ pháp cho các câu lệnh, một khối lượng lớn các từ vựng quy ước được định nghĩa từ trước, và một số lượng các thủ tục hay hàm cơ bản. Ngoài ra, để giúp lập trình viên dễ dàng sử dụng, nhà sản xuất còn phải cung cấp các tài liệu tra cứu về đặc tính của ngôn ngữ mà họ phát hành. Những tài liệu tra cứu này bao gồm hầu hết các đặc tả, tính chất, các tên (hay từ khoá) mặc định, phương pháp sử dụng, và nhiều khi là các mã nguồn để làm ví dụ. Do sự không thống nhất trong các ý kiến về việc thiết kế và sử dụng từng ngôn ngữ nên có thể xảy ra trường hợp mã nguồn của cùng một ngôn ngữ chạy được cho phần mềm dịch này nhưng không tương thích được với phần mềm dịch khác. Ví dụ là các mã nguồn C viết cho Microsoft C (phiên bản 6.0) có thể không chạy được khi dùng trình dịch Borland (phiên bản 4.5) nếu không biết cách thức điều chỉnh. Đây cũng là lý do các kỳ hội nghị chuẩn hóa ngôn ngữ lập trình được tiến hành. Ngoài công việc chính là phát triển ngôn ngữ đặc thù, hội nghị còn tìm cách thống nhất hóa ngôn ngữ bằng cách đưa ra các tiêu chuẩn, các khuyến cáo thay đổi về ngôn ngữ trong tương lai hay các đổi mới về cú pháp của ngôn ngữ. Trong lập trình, việc lựa chọn ngôn ngữ phù hợp rất quan trọng vì việc này không chỉ ảnh hưởng đến bảo mật mà còn liên quan đến sự thông dụng trong việc sửa chữa. Nếu là một nhà quản lý, khi bạn đã chọn một ngôn ngữ như C++ thì việc bạn sau này tuyển thêm những nhân viên lập trình khác cũng phải yêu cầu là C++. Nếu bạn tuyển một anh chàng Php về không chỉ không phù hợp với những gì bạn và đội ngũ của bạn đã lập trình trong quá khứ mà có khi phải viết lại tất cả các đoạn mã từ đầu. Lưu ý: Bằng việc cung cấp thông tin liên hệ cho chúng tôi, quý vị đã đồng ý nhận tin tức và các thông tin ưu đãi từ Magenest.
D (ngôn ngữ lập trình)
D là một ngôn ngữ lập trình hệ thống hướng đối tượng, dùng câu lệnh, đa mẫu hình do Walter Bright của Digital Mars tạo ra và phát hành năm 2001. Quá trình thiết kế và phát triển ngôn ngữ này trong năm 2007 được Andrei Alexandrescu tham gia đóng góp. Mặc dù nó có nguồn gốc như là một bản phát triển kỹ thuật của C++, D là một ngôn ngữ riêng biệt, đã thiết kế lại một số tính năng cốt lõi của C++ trong khi cũng lấy cảm hứng từ các ngôn ngữ khác, đáng chú ý là các ngôn ngữ Java, Python, Ruby, C , và Eiffel. Mục tiêu thiết kế của D cố gắng kết hợp hiệu suất và sự an toàn của các ngôn ngữ biên dịch với sức mạnh biểu đạt của các ngôn ngữ năng động hiện đại. Mã D sau khi dịch thường nhanh như mã C++ tương đương, trong khi ngắn hơn và an toàn hơn về mặt bộ nhớ. Các tính năng định kiểu biến, quản lý bộ nhớ tự động và cú pháp đặc biệt cho các kiểu thường dùng cho phép phát triển phần mềm nhanh hơn, trong khi việc kiểm tra giới hạn, thiết kế theo các tính năng của hợp đồng và hệ thống kiểu nhận thức tương tranh đồng thời giúp giảm sự xuất hiện của các lỗi phần mềm.
Đế quốc Akkad /əˈkeɪdiən/là đế quốc nói tiếng Semit cổ đại đầu tiên của Mesopotamia, trung tâm của nó nằm ở thành phố Akkad /ˈækæd/ ở khu vực Mesopotamia cổ đại và vùng đất xung quanh nó, cũng được gọi là Akkad trong Kinh thánh. Đế quốc này đã thống nhất người Akkad và những cư dân nói tiếng Sumer khác nằm dưới sự cai trị của một vị vua chung. Đế quốc Akkad còn mở rộng ảnh hưởng của nó ra khắp toàn bộ khu vực Mesopotamia, Cận Đông và Anatolia, và tiến hành những cuộc viễn chinh quân sự xa về phía Nam tới tận Dilmun và Magan (ngày nay là Bahrain và Oman) ở bán đảo Ả rập. Vào thiên niên kỷ thứ 3 TCN, giữa người Sumer và Akkad đã có một sự giao thoa văn hoá rất mật thiết bao gồm cả việc sử dụng song ngữ một cách phổ biến. Tiếng Akkad đã dần dần thay thế tiếng Sumer như là một ngôn ngữ nói trong khoảng thời gian từ giữa thiên niên kỷ thứ 3 cho đến thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên (niên đại chính xác hiện vẫn đang được tranh luận). Đế quốc Akkad đạt đến giai đoạn đỉnh cao của nó là vào khoảng thời gian từ thế kỷ 24 cho đến thế kỷ 22 trước Công nguyên, sau những cuộc chinh phạt của vị vua sáng lập nên nó là Sargon của Akkad. Dưới triều đại của Sargon và những vị vua kế vị ông, các quốc gia láng giếng bị họ chinh phục như Elam và Guti đã phải sử dụng tiếng Akkad trong một thời gian ngắn. Đôi khi, Akkad được coi là đế quốc đầu tiên trong lịch sử, mặc dù ý nghĩa của thuật ngữ này không chính xác, và còn có nhiều người cho rằng nó đáng lý phải thuộc về người Sumer trước đó. Sau khi đế quốc Akkad sụp đổ, người dân Mesopotamia cuối cùng cũng được thống nhất lại thành hai cường quốc nói tiếng Akkad: Assyria ở phía Bắc, và một vài thế kỷ sau là Babylonia ở phía Nam. Kinh thánh đề cập đến Akkad trong sách Sáng thế 10:10 và nói rằng vương quốc của Nimrod khởi nguồn từ vùng đất của Akkad. Tên tuổi thực sự của Nimrod vẫn chưa được xác định rõ, nhưng một số người đã so sánh ông ta với vị anh hùng truyền thuyết Gilgamesh, người đã sáng lập ra thành phố Uruk. Ngày nay, các nhà nghiên cứu đã thu thập được khoảng 7.000 văn bản có từ thời kỳ Akkad, chúng viết bằng cả tiếng Sumer và Akkad. Rất nhiều văn bản trong số này thuộc về các quốc gia kế tục của Assyria và Babylonia và cũng đã đề cập tới đế quốc Akkad. Sự hiểu biết của chúng ta về đế quốc Akkad còn tiếp tục gặp trở ngại bởi thực tế đó là vị trí kinh đô Akkad của nó vẫn chưa được xác định chính xác, bất chấp rất nhiều nỗ lực . Việc xác định chính xác niên đại của các di chỉ khảo cổ học còn bị cản trở bởi thực tế đó là không có sự khác biệt rõ ràng giữa những đồ tạo tác mà được cho là thuộc về giai đoạn Sơ kỳ triều đại trước đó, với những thứ được cho là của người Akkad. Tương tự như vậy, những chất liệu được cho là của người Akkad vẫn tiếp tục được sử dụng vào thời kỳ vương triều thứ Ba của Ur. Phần lớn những hiểu biết gần đây của chúng ta về Đế quốc Akkad đều bắt nguồn từ các cuộc khai quật ở khu vực Thượng Khabur thuộc khu vực đông bắc Syria ngày nay, khu vực này đã trở thành một phần của Assyria sau khi Akkad sụp đổ. Ví dụ, các cuộc khai quật tại Tell Mozan (Urkesh cổ đại) đã phát hiện ra một dấu niêm phong của Tar’am-Agade, một người con gái mà trước đây chưa hề được biết đến của Naram-Sin, bà có thể đã kết hôn với một endan (lãnh chúa) địa phương chưa rõ danh tính. Các nhà khai quật ở gần Tell Leilan (Shekhna / Shubat-Enlil cổ đại) đã sử dụng các kết quả từ cuộc khai quật của họ để lập luận rằng sự sụp đổ của Đế quốc Akkad là do một sự khô hạn đột ngột, nó còn được gọi là sự kiện 4,2 ngàn năm. Tác động của sự kiện biến đổi khí hậu này đối với khu vực Lưỡng Hà nói chung, và đặc biệt là đối với Đế chế Akkad nói riêng, vẫn đang tiếp tục được tranh luận một cách gay gắt. Thông qua việc khai quật tại địa điểm ngày nay là Tell Brak, các nhà khảo cổ học đã đưa ra giả thuyết cho rằng người Akkad đã xây dựng lại một thành phố (“Brak” hoặc “Nagar”) tại địa điểm này để sử dụng như là một trung tâm hành chính. Thành phố này gồm có hai tòa nhà lớn gồm cả một khu phức hợp với đền thờ, văn phòng, sân trong và cả những lò nướng lớn. Thời kỳ Akkad thường được cho là có niên đại vào khoảng từ năm 2334 TCN – năm 2154 trước Công nguyên (dựa theo bảng niên biểu tầm trung của Cận Đông cổ đại), hoặc từ khoảng năm 2270 TCN – c. 2083 TCN (dựa theo bảng niên biểu ngắn của Cận Đông Cổ đại). Nó đã nối tiếp thời kỳ Tiền triều đại của Lưỡng Hà (ED) và kế tiếp sau đó là thời kỳ vương triều thứ Ba của Ur, mặc dù vậy cả hai quá trình chuyển tiếp này đều không rõ ràng. Ví dụ: Có khả năng là sự trỗi dậy của vua Sargon của Akkad đã diễn ra trùng với giai đoạn cuối của thời kỳ Tiền triều đại và những vị vua cuối cùng của Akkad đã cai trị một cách đồng thời với các vị vua Guti và song song với các vị vua ở cả hai thành phố Uruk và Lagash. Đế chế Akkad lấy tên theo tên gọi của khu vực và thành phố Akkad, tên gọi của cả hai đã được bản địa hoá trở thành tên gọi chung cho khu vực hợp lưu của sông Tigris và sông Euphrates. Mặc dù vị trí của thành phố Akkad vẫn chưa được xác định rõ, thế nhưng chúng ta vẫn biết được nó thông qua các nguồn văn kiện khác nhau. Trong số này có ít nhất một văn bản có niên đại trước thời kỳ của Sargon. Cùng với thực tế đó là cái tên Akkad lại có nguồn gốc không phải từ tiếng Akkad, điều này cho thấy thành phố Akkad có thể đã bị chiếm đóng trong giai đoạn trước thời của Sargon . Sargon của Akkad (Sharru-kin = “Vị Vua hợp pháp”, có thể là một tước hiệu được ông sử dụng khi giành được quyền lực) đã đánh bại và bắt sống Lugal-zage-si trong trận Uruk cùng với đó là chinh phục luôn đế chế của ông ta. Những ghi chép sớm nhất bằng tiếng Akkad có niên đại thuộc về thời đại của Sargon. Sargon được cho là con của La’ibum hoặc Itti-Bel, một người làm vườn có địa vị thấp kém, và có thể là một hierodule, hoặc một nữ tư tế của thần Ishtar hoặc Inanna. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Đế quốc Akkad
Đế quốc Akkad (Tiếng Akkad: 𒆳𒌵𒆠 māt Akkadi; Tiếng Sumer: 𒀀𒂵𒉈𒆠 a-ga-de3KI, Nghĩa đen: "vùng đất của người Akkad"; Tiếng Hebrew: אַכַּד Akkad) là đế quốc cổ đại đầu tiên nói tiếng Semit ở Lưỡng Hà sau thời kỳ văn minh Sumer. Với trung tâm tại thành phố Akkad và các vùng đất xung quanh, đế quốc Akkad đã thống nhất các dân tộc Akkad (người Assyria và người Babylon) và người nói tiếng Sumer. Đế quốc dần mở rộng ảnh hưởng ra khắp toàn bộ khu vực Lưỡng Hà, Cận Đông và Anatolia, và tiến hành những cuộc xâm lược về phía Nam tới tận Dilmun và Magan (ngày nay là Bahrain và Oman) trên bán đảo Ả Rập. Vào thiên niên kỷ thứ 3 TCN, giữa người Sumer và người Akkad đã phát triển sự giao thoa văn hoá mật thiết và cùng với đó, song ngữ được sử sụng rộng rãi. Tiếng Akkad đã dần dần thay thế tiếng Sumer trở thành ngôn ngữ phổ thông trong khoảng thời gian từ giữa thiên niên kỷ thứ 3 đến thiên niên kỷ thứ 2 TCN (thời điểm chính xác hiện đang còn tranh cãi).Đế quốc Akkad phát triển tới đỉnh cao vào khoảng từ thế kỷ 24 cho đến thế kỷ 22 TCN, sau những cuộc chinh phạt của Sargon của Akkad.
Hong Kong bắt đầu thúc đẩy dự luật gây tranh cãi cho phép dẫn độ sang Trung Quốc đại lục, bất chấp các cuộc biểu tình lớn. Chính phủ lập luận rằng các sửa đổi được đề xuất sẽ "bịt các lỗ hổng trong luật pháp" để thành phố sẽ không trở thành nơi ẩn náu an toàn cho tội phạm. Nhưng giới chỉ trích nói rằng người dân ở cựu thuộc địa của Anh sẽ bị đặt vào hệ thống tư pháp đầy khiếm khuyết của Trung Quốc, và nó sẽ dẫn đến sự xói mòn thêm sự độc lập tư pháp của thành phố. Hàng trăm nghìn người đã biểu tình chống lại dự luật vốn bị phản đối rộng rãi. Nhà lãnh đạo Hong Kong Carrie Lam bác bỏ chuyện thay đổi luật dẫn độ và đang thúc đẩy việc thông qua các thay đổi trước tháng Bảy. Những thay đổi sẽ cho phép các yêu cầu dẫn độ từ chính quyền ở Trung Quốc đại lục, Đài Loan và Ma Cao đối với các nghi phạm bị cáo buộc sai phạm hình sự, chẳng hạn như giết người và hiếp dâm. Các yêu cầu sau đó sẽ được quyết định trên cơ sở từng trường hợp. Một số hành vi phạm tội thương mại như trốn thuế đã bị xóa khỏi danh sách các tội phạm có thể dẫn độ giữa những lo ngại từ cộng đồng doanh nghiệp. Các quan chức Hong Kong cho biết tòa án Hong Kong sẽ có phán quyết cuối cùng về việc liệu có nên cho phép các yêu cầu dẫn độ như vậy hay không, và nghi phạm bị cáo buộc phạm tội chính trị và tôn giáo sẽ không bị dẫn độ. Chính phủ đã tìm cách trấn an công chúng bằng một số nhượng bộ, bao gồm việc hứa chỉ trao trả những người chạy trốn vì các tội mang bản án cao nhất từ bảy năm tù trở lên. Có rất nhiều sự phản đối từ công chúng, và những chỉ trích nói rằng mọi người sẽ là đối tượng bị giam giữ tùy tiện, xét xử không công bằng và tra tấn dưới hệ thống pháp lý của Trung Quốc. "Những thay đổi được đề xuất đối với luật dẫn độ sẽ khiến bất cứ ai ở Hong Kong đang làm những công việc có liên quan đến đại lục bị nguy hiểm," Sophie Richardson của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói trong một tuyên bố. "Sẽ không ai được an toàn, bao gồm các nhà hoạt động, luật sư nhân quyền, nhà báo và nhân viên xã hội.". Lam Wing Kee, một người bán sách ở Hong Kong cho biết ông đã bị bắt cóc và giam giữ ở Trung Quốc năm 2015 vì bán sách chỉ trích các nhà lãnh đạo Trung Quốc và bị buộc tội "điều hành một hiệu sách bất hợp pháp". "Nếu tôi không đi, tôi sẽ bị dẫn độ," ông Lam nói trong một cuộc biểu tình gần đây chống lại dự luật. "Tôi không tin chính phủ đảm bảo sự an toàn cho tôi, hoặc sự an toàn của bất kỳ người dân Hong Kong nào.". Cuối tháng Tư, ông Lam trốn khỏi Hong Kong và đến Đài Loan nơi ông được cấp thị thực cư trú tạm thời. Việc phản đối luật đang lan rộng, với các nhóm từ tất cả các thành phần trong xã hội - từ luật sư đến trường học cho đến các bà nội trợ - đã lên tiếng chỉ trích hoặc bắt đầu kiến nghị chống lại những thay đổi. Các nhà tổ chức ước tính một triệu người đã tham gia tuần hành chống lại dự luật hôm 09/06, mặc dù cảnh sát đưa ra con số 240.000 người vào lúc cao trào. Nếu ước tính của ban tổ chức được xác nhận là đúng, đây sẽ là cuộc biểu tình lớn nhất ở Hong Kong kể từ khi lãnh thổ này được trao lại cho Trung Quốc vào năm 1997. Đầu tháng này, 3.000 luật sư, công tố viên, sinh viên luật và các học giả đã tuần hành trong im lặng và kêu gọi chính phủ tạm gác đề xuất này. Hàng trăm kiến nghị phản đối các sửa đổi khởi đầu bởi các cựu sinh viên đại học và trung học, sinh viên nước ngoài và các nhóm nhà thờ cũng đã xuất hiện trên mạng. Bản kiến nghị từ trường Đại học St. Francis Canossian - trường cũ của nhà lãnh đạo Hồng Kông Carrie Lam - đã được hơn 1.300 người ký. Thậm chí còn có bản kiến nghị của các bà nội trợ, đã thu thập được hơn 6.000 chữ ký. Wong Choi Fung, người mẹ một con sống ở quận Kwun Tong, quận của tầng lớp lao động, nói với truyền thông địa phương rằng bà làm điều này để đấu tranh cho tương lai của con trai mình. Một số nhóm doanh nhân giàu có nói rằng các sửa đổi, nếu được thông qua, sẽ phá hủy tính cạnh tranh của Hong Kong. "Những thay đổi được đề xuất sẽ dẫn đến việc mọi người cân nhắc lại liệu có chọn Hong Kong làm cơ sở hoạt động hay trụ sở khu vực vì có nguy cơ bị chuyển đến một quyền tài phán khác mà không cung cấp sự bảo hộ mà họ được hưởng ở Hong Kong," Phòng Thương mại Quốc tế viết trong một đệ trình lên cơ quan lập pháp. Một ủy ban quốc hội Hoa Kỳ trong tháng Năm cho biết những thay đổi được đề xuất sẽ khiến Hong Kong dễ bị "ép buộc chính trị" của Trung Quốc hơn và xói mòn thêm quyền tự trị của Hong Kong. Anh và Canada bày tỏ quan điểm tương tự trong một tuyên bố chung, nói thêm rằng họ lo ngại về "tác động tiềm tàng" mà những thay đổi được đề xuất sẽ gây ra đối với công dân Anh và Canada ở Hong Kong. Liên minh Châu Âu cũng gửi công hàm ngoại giao tới bà Lam bày tỏ lo ngại về những thay đổi luật được đề xuất. Bộ ngoại giao Trung Quốc bác bỏ quan điểm như vậy, cho rằng họ cố gắng "chính trị hóa" dự luật của chính phủ Hong Kong và can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc. Đề xuất mới nhất được đưa ra sau khi một người thanh niên Hong Kong 19 tuổi bị cáo buộc sát hại bạn gái 20 tuổi đang mang thai, trong khi đang đi nghỉ cùng nhau ở Đài Loan vào tháng Hai năm ngoái. Nam thanh niên đã trốn khỏi Đài Loan và trở về Hong Kong vào năm ngoái. Giới chức Đài Loan tìm kiếm sự giúp đỡ từ chính quyền Hong Kong để dẫn độ người này, nhưng giới chức Hong Kong nói họ không thể tuân theo vì không có thỏa thuận dẫn độ với Đài Loan. Nhưng chính phủ Đài Loan tuyên bố sẽ tìm cách dẫn độ nghi phạm giết người theo những thay đổi được đề xuất, và thúc giục Hong Kong giải quyết vụ việc riêng rẽ. Là thuộc địa cũ của Anh, Hong Kong là chế độ bán tự trị theo nguyên tắc "một quốc gia, hai hệ thống" sau khi nó trở lại sự cai trị của Trung Quốc vào năm 1997. Thành phố có luật pháp riêng và người dân được hưởng các quyền tự do dân sự mà người dân đại lục không có. Hong Kong đã ký kết các thỏa thuận dẫn độ với 20 quốc gia, bao gồm cả Anh và Mỹ, nhưng không có thỏa thuận nào như vậy đạt được với Trung Quốc đại lục bất chấp các cuộc đàm phán diễn ra trong hai thập niên qua. Các nhà phê bình cho các thất bại như vậy là do việc bảo vệ pháp lý kém cỏi với các bị cáo theo luật pháp Trung Quốc.
Dự luật dẫn độ Hồng Kông 2019
Dự luật đối với người phạm tội bỏ trốn và Hỗ trợ pháp lý lẫn nhau trong Lập pháp các vấn đề Hình sự (Sửa đổi) 2019 (phồn thể: 2019年逃犯及刑事事宜相互法律協助法例(修訂)條例草案) là một dự luật được đề xuất liên quan đến dẫn độ để sửa đổi Pháp lệnh người phạm tội bỏ trốn (Chương 503) liên quan đến các thỏa thuận dẫn độ đặc biệt và Hỗ trợ pháp lý lẫn nhau trong Pháp lệnh các vấn đề hình sự (Chương 525) để có thể sắp xếp hỗ trợ pháp lý lẫn nhau giữa Hồng Kông và bất kỳ nơi nào ngoài Hồng Kông. Dự luật được chính phủ Hồng Kông đề xuất vào tháng 2 năm 2019 để yêu cầu dẫn độ nghi phạm Hồng Kông trong vụ án giết người ở Đài Loan. Chính phủ đề xuất thiết lập một cơ chế chuyển giao những người chạy trốn không chỉ cho Đài Loan, mà còn cho Trung Quốc đại lục và Ma Cao, vốn không nằm trong luật hiện hành. Sự ra đời của dự luật đã gây ra sự chỉ trích rộng rãi trong và ngoài nước từ nghề luật, các tổ chức nhà báo, nhóm kinh doanh và chính phủ nước ngoài vì lo ngại sự xói mòn thêm của hệ thống pháp luật Hồng Kông và các biện pháp bảo vệ tích hợp, cũng như làm tổn hại môi trường kinh doanh của Hồng Kông.
1. khái niệm nhân chủng học là gì?1.1. nhân loại là gì? nhân loại học là gì?1.2. nhân chủng học là gì?1.3. nhân học ứng dụng là gì?1.4. phân ngành trong nhân loại học. 2. sự phân ngành về nhân chủng học2.1. nhân chủng học pháp y2.3. nhân chủng học y tế. một trong những ngành nghiên cứu về các khía cạnh của loài người trong xã hội từ quá khứ đến hiện tại là ngành nhân loại học. nhân loại học bao gồm nhiều ngành nghiên cứu khác nhau, trong đó có ngành nhân chủng học. cùng timviec365.vn tìm hiểu nhân chủng học là gì, khái niệm chủ đạo trong ngành nhân loại học cũng như những thông tin xung quanh ngành nhân chủng học. tên gọi chung của những ngành nghiên cứu về loài người, những nghiên cứu về nhiều khía cạnh của loài người trong xã hội như chuẩn mực xã hội, giá trị xã hội, ngôn ngữ con người, sự phát triển sinh học về cơ thể của con người được gọi chung bằng khái niệm là nhân loại học. vậy nhân loại là gì? những đặc điểm tính cách được đặc trưng bởi các nguyên tắc đạo đức liên quan đến mối quan hệ hằng ngày của mọi người, mọi cá nhân cũng như tập thể được gọi là nhân loại. Đây là một biểu hiện được hình thành trong quá trình xã hội hóa, con người tiến hóa cũng như biểu hiện trong quá trình hình thành, nuôi dưỡng lên nhân phẩm, tính cách con người thông qua các công cụ của xã hội. nhân loại được xã hội gắn cho các phẩm chất cao nhất cũng như những phẩm giá con người. từ đó có thể hiểu được nhân loại là gì, nhân loại học chính xác là một ngành nghiên cứu khoa học. Đây là một ngành nghiên cứu về nhiều khía cạnh của loài người trong xã hội từ quá khứ đến hiện tại. trong nhân loại học lại phân loại ra làm nhiều ngành nghiên cứu nhỏ và quy định chi tiết hơn về lĩnh vực nghiên cứu, tuy có sự phân biệt về nội dung nghiên cứu nhưng nhìn chung đều có mối liên quan với nhau. một trong những phân ngành của nhân loại học là nhân chủng học. vậy nhân chủng học là gì?. nhân chủng học là ngành học nghiên cứu về nguồn gốc, lịch sử, sự phát triển của cơ thể, tâm lý của các giống người. nhân chủng học còn được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau, tùy từng trường hợp nó được gọi bằng những tên khác nhau như nhân loại học hình thể, nhân loại học sinh học, nhân học hình thể. hẳn bạn không còn thắc mắc nhân học hình thể là gì. nhân học hình thể là nhân chủng học, 2 khái niệm này tương đương nhau đều chỉ đến ngành nghiên cứu nguồn gốc, lịch sử cũng như sự phát triển của cơ thể, tâm lý, thể chất của các giống người. Đây cũng là một trong những phân ngành nghiên cứu của nhân loại học, tuy nhiên khái niệm nhân học ứng dụng xuất hiện sau cùng trong những phân ngành nghiên cứu của nhân loại học. nhân học ứng dụng được hình thành khoảng sau chiến tranh thế giới thứ hai. nhân học ứng dụng có sự đa dạng hơn các loại phân ngành khác của nhân loại học, nhân học ứng dụng là nơi tập hợp các nhà nhân loại học làm việc trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu về các giống người khác nhau. trong nhân học ứng dụng lại chia ra làm nhiều khía cạnh nghiên cứu khác nhau, việc phân loại dựa vào lĩnh vực nghiên cứu cũng như những vấn đề cụ thể như: phát triển xã hội, nông nghiệp và phát triển nông nghiệp, y tế, giáo dục,…. Bài viết liên quan: “at sight” là gì? Nghĩa của từ at sight trong tiếng Việt. mỗi ngành nghiên cứu của nhân học ứng dụng đều có sự khác biệt nhất định, từng ngành nghiên cứu có sự khác biệt về đối tượng, mục đích cũng như cách nghiên cứu, cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu nhưng nhìn chung chúng đều hướng tới sự thay đổi, phát triển của các giống người. các phân ngành đều có mối quan hệ, có sự liên hệ tới nhau, các ngành đều hướng tới mục đích là hiểu bản chất sinh học và văn hóa của con người cũng như nhấn mạnh tới vai trò của văn hóa và các phương pháp tiếp cận được áp dụng đều được đưa ra so sánh ưu điểm, sự phát triển cũng như tính khác biệt và phương pháp được đề cao cũng như sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu là dân tộc ký. nhân loại học là khái niệm chỉ chung cho những ngành nghiên cứu khác nhau về các loại người từ quá khứ đến hiện tại. dựa vào mục đích, đối tượng, cách nghiên cứu, cách tiếp xúc đối tượng khác nhau mà nhân loại học phân chia ra các loại ngành khác nhau. – nhân học hình thể: hay còn có nhiều tên gọi khác như nhân loại học hình thể, nhân loại học sinh học, nhân chủng học. Đây là ngành nghiên cứu về nguồn gốc, lịch sử, sự phát triển của thể chất, tâm lý của các giống người. Đối tượng nghiên cứu của ngành là các loài người đã và đang xuất hiện, ngành sẽ sẽ nghiên cứu lịch sử xuất hiện, sự phát triển của các loài người này xem sự phát triển về thể chất cũng như tâm lý của các giống người xác định. – nhân loại học văn hóa – xã hội: trong ngành này lại chia nhỏ ra văn hóa và xã hội. nhìn chung thì nhân loại học xã hội và nhân loại học văn hóa nghiên cứu về các chuẩn mực và giá trị xã hội. hai ngành có sự đối lập và mâu thuẫn với nhau, trong khi nhân chủng học văn hóa nghiên cứu vào sự biến đổi văn hóa giữa con người với nhau thì nhân học xã hội lại coi sự biến đổi văn hóa là một tập hợp con của hằng số nhân loại học, coi sự biến đổi là điều đương nhiên xảy ra và được sắp đặt sẵn. không chỉ vậy mục tiêu nghiên cứu của 2 ngành là khác nhau. – nhân loại học ngôn ngữ: đây là ngành nghiên cứu về cách mà ngôn ngữ tác động tới xã hội. Đối tượng nghiên cứu là ngôn ngữ của các loài người từ quá khứ đến hiện tại. mục đích nghiên cứu là tìm hiểu về sự tác động của ngôn ngữ tới xã hội. – khảo cổ học: đây là lĩnh vực nghiên cứu văn hóa nhân loại trong quá khứ thông qua khảo cứu các chứng tích thể lý, đây là một nhánh của nhân loại học nhưng tại một số nơi nó được coi là một ngành riêng, một ngành đặc biệt được nhóm riêng vào lĩnh vực lịch sử. hiện nay việt nam chưa có sự phân biệt rõ ràng về các phân ngành, nhân loại học được coi như nhân chủng học, tuy nhiên cần lưu ý sự khác nhau cũng như các tên gọi, khái niệm để có sự phân biệt rõ ràng hơn. ngành nhân loại học là một trong những ngành nghiên cứu quan trọng, hiện nay đã có trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn đã có đào tạo ngành nghiên cứu này, trường đã thành lập ngành nhân học trên cơ sở ngành dân tộc học trước đây. nhân chủng học là một phần nhỏ trong nhân loại học nhưng lại là lĩnh vực nghiên cứu rộng. trong nhân chủng học lại có sự phân ngành và sinh viên sẽ theo học một trong nhiều ngành cụ thể để có sự nghiên cứu chuyên sâu. phân loại về nhân chủng học bao gồm:. Đây là ngành nghiên cứu về lĩnh vực văn hóa, lĩnh vực văn hóa tập trung vào nghiên cứu các nền văn hóa khác nhau từ quá khứ đến hiện tại, lĩnh vực này có mực đích nhằm xác định các điểm tương đồng, khác biệt. ngành nhân chủng học văn hóa có nhiệm vụ ghi lại và phân tích các thực tiễn văn hóa, phong tục tập quán và tín ngưỡng của loài người. dựa vào những nghiên cứu thực địa để miêu tả nền văn hóa nào đó, người nghiên cứu có thể nghiên cứu đồng thời nghiên cứu dân tộc học. nhân học văn hóa được nhiều người gọi bằng nhiều cái tên khác nhau như nhân học văn hóa xã hội hay nhân chủng học, những nhân chủng học văn hóa khác nhân chủng học xã hội và chỉ là một phần trong nhân chủng học. cần nắm rõ khái niệm để có sự hiểu biết nhất định và không nhầm lẫn giữa các khái niệm. nhân học xã hội là thuật ngữ chỉ sự thay đổi, biến thể của chuyên ngành, tập trung vào nghiên cứu các mối quan hệ xã hội, các hệ thống kinh tế, chính trị, pháp luật, những yếu tố xây dựng nên xã hội, còn nhân học văn hóa nghiên cứu vào các nền văn hóa. Đây là ngành áp dụng kiến thức về nhân chủng thể chất để phân tích thi hài, phân tích nguyên nhân tử vong và đặc điểm nhận dạng cá thể, các nghiên cứu của nhân chủng học pháp y đều liên quan đến tử thi, xác người. các nghiên cứu và phân tích của nhân chủng học pháp y thường được áp dụng vào trong hệ thống pháp luật, các nhà nhân chủng học pháp y trong ngành sẽ đưa ra các phân tích, bằng chứng thông qua việc khám nghiệm để hỗ trợ các vụ án hình sự, hỗ trợ nhận dạng thi hài, xác bị phân hủy, thiêu,…mà không thể nhận dạng bằng mắt thường. nhân chủng học pháp y sẽ kết hợp với nghiên cứu chuyên sâu giải phẫu người. xương và quá trình điều tra tâm lý tội phạm để đưa ra kết quả chuẩn sát nhất. tên gọi khác của nhân chủng học sinh học là nhân học thể chất. nhân chủng học sinh học là môn khoa học nghiên cứu sự tiến hóa của các loài người, sự đa dạng sinh học cũng như hành vi trong xã hội, sự thích nghi với các môi trường của con người từ quá khứ đến hiện tại.
Nhân chủng học văn hóa
Nhân chủng học văn hóa là một nhánh của nhân loại học tập trung vào nghiên cứu sự biến đổi văn hóa giữa con người với nhau. Nó trái ngược với nhân học xã hội, coi sự biến đổi văn hóa là một tập hợp con của hằng số nhân loại học. Nhân chủng học văn hóa có một phương pháp phong phú, bao gồm quan sát người tham gia (thường được gọi là nghiên cứu thực địa vì nó đòi hỏi nhà nhân chủng học dành một khoảng thời gian dài tại địa điểm nghiên cứu), phỏng vấn và khảo sát. Một trong những phát biểu sớm nhất về ý nghĩa nhân học của thuật ngữ " văn hóa " đến từ Ngài Edward Tylor, người viết trên trang đầu tiên của cuốn sách năm 1871: "Văn hóa, hay văn minh, được hiểu theo nghĩa rộng, dân tộc học, là toàn bộ phức tạp bao gồm kiến thức, niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất kỳ khả năng và thói quen nào khác mà con người có được khi trở thành thành viên của xã hội. " Thuật ngữ "văn minh" sau đó đã nhường chỗ cho các định nghĩa được đưa ra bởi V. Gordon Childe, với văn hóa hình thành một thuật ngữ ô và nền văn minh trở thành một loại văn hóa đặc biệt.
Người biểu tình ở Hong Kong một lần nữa chặn các con đường chính và các tòa nhà chính phủ, trong khi lực lượng cảnh sát bắn hơi cay và đạn cao su để đáp trả. Nhìn bề ngoài, những cuộc biểu tình này là dự luật cho phép dẫn độ người từ Hong Kong sang Trung Quốc đại lục. Nhưng đây không phải là tất cả. Có rất nhiều những số bối cảnh quan trọng, thậm chí kéo dài hàng thập kỷ có thể sẽ giúp giải thích những gì đang diễn ra. Điều đầu tiên quan trọng cần nhớ là Hồng Kông rất khác biệt so với các thành phố khác của Trung Quốc. Hong Kong là thuộc địa của Anh trong hơn 150 năm. Đảo Hong Kong được nhượng lại cho Anh sau một cuộc chiến năm 1842. Sau đó, Trung Quốc cũng cho Anh thuê phần còn lại của Hong Kong trong 99 năm. Hong Kong kể từ đó trở thành một cảng giao dịch bận rộn, một trung tâm sản xuất và nền kinh tế đã phát triển mạnh mẽ vào những năm 1950. Lãnh thổ này cũng là nơi mà nhiều người di cư và những người bất đồng chính kiến tìm đến để chạy trốn khỏi sự bất ổn, nghèo đói hoặc đàn áp ở Trung Quốc đại lục. Sau đó, vào đầu những năm 1980, khi thời hạn cho thuê 99 năm ngày càng đến gần, Anh và Trung Quốc bắt đầu đàm phán về tương lai của Hong Kong. Chính phủ cộng sản ở Trung Quốc cho rằng tất cả Hong Kong nên được trả lại cho Trung Quốc. Hai bên đã đạt được thỏa thuận vào năm 1984 rằng Hong Kong sẽ được trả về cho Trung Quốc vào năm 1997, theo nguyên tắc "một quốc gia, hai chế độ". Điều này có nghĩa là trong khi trở thành một phần với Trung Quốc, Hong Kong sẽ được hưởng "quyền tự chủ cao độ, ngoại trừ các vấn đề đối ngoại và quốc phòng" trong 50 năm. Do đó, Hong Kong có một hệ thống pháp lý và biên giới riêng, và các quyền bao gồm tự do hội họp và tự do ngôn luận được bảo vệ. Ví dụ điển hình chính là việc Hong Kong là một trong số ít nơi trên lãnh thổ Trung Quốc có thể tưởng niệm cuộc đàn áp Quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Hong Kong vẫn được hưởng các quyền tự do vốn không tồn tại ở Trung Quốc đại lục nhưng giới chỉ trích cho rằng các quyền này đang bị suy giảm. Các nhóm đấu tranh đã cáo buộc Trung Quốc can thiệp sâu vào Hong Kong, như các phán quyết pháp lý loại bỏ các nhà lập pháp ủng hộ dân chủ. Họ cũng lo ngại về sự mất tích 5 nhân viên nhà xuất bản sách Hong Kong và một nhà tài phiệt bị giam giữ ở Trung Quốc. Nhà lãnh đạo của Hong Kong, Carrie Lam, được bầu ra bởi một ủy ban bầu cử gồm 1.200 thành viên, hầu hết đều thân Bắc Kinh. Trong khi đó chỉ có 6% tổng số cử tri có quyền bầu các ủy viên này. Theo Bản Hiến pháp của Hong Kong, Bộ Luật cơ bản, Hong Kong nên bầu lãnh đạo của mình theo một cách dân chủ hơn, nhưng có nhiều tranh cãi về việc thực hiện điều này. Chính phủ Trung Quốc cho biết vào năm 2014 sẽ cho phép cử tri bầu chọn các nhà lãnh đạo từ một danh sách đã được ủy ban-thân-Bắc Kinh phê chuẩn, nhưng giới phê bình gọi đây là "nền dân chủ giả tạo" và nó đã không được thông qua tại Hội đồng lập pháp của Hồng Kông. 28 năm nữa là đến 2047, thời điểm Luật cơ bản sẽ hết hạn nhưng những gì sẽ xảy ra với quyền tự trị của Hong Kong vẫn chưa rõ ràng. Trong khi hầu hết người Hong Kong là người gốc Hoa, và mặc dù Hồng Kông là một phần của Trung Quốc, phần lớn người dân ở đây không nhận mình là người Trung Quốc. Các khảo sát từ Đại học Hong Kong cho thấy hầu hết mọi người tự nhận mình là "người Hong Kong" và chỉ có 15% tự nhận là "người Trung Quốc". Sự khác biệt thậm chí còn lớn hơn trong giới trẻ. Trong một cuộc khảo sát năm 2017 cho thấy chỉ có 3% người trong độ tuổi 18-29 tự nhận mình là người Trung Quốc. Người Hong Kong nêu rõ sự khác biệt về pháp lý, xã hội và văn hóa và thực tế Hong Kong là một thuộc địa riêng biệt trong 150 năm là lý do tại sao họ không đồng nhất với đồng bào của họ ở Trung Quốc đại lục. Tuy nhiên, tinh thần chống Trung Quốc ở Hong Kong cũng tăng trong những năm gần đây, khi nhiều người người phàn nàn về những vị khách du lịch đến từ đại lục vô cùng thô lỗ, coi thường các quy tắc địa phương hoặc làm gia tăng chi phí sinh hoạt. Một số nhà hoạt động trẻ thậm chí đã kêu gọi Hong Kong độc lập khỏi Trung Quốc, một điều rất đáng báo động đối với chính quyền Bắc Kinh. Người biểu tình cảm thấy dự luật dẫn độ, nếu được thông qua, sẽ đưa lãnh thổ này đến gần hơn dưới sự kiểm soát của Trung Quốc. "Hồng Kông sẽ trở thành một thành phố khác của Trung Quốc nếu dự luật này được thông qua", một người biểu tình, Mike, 18 tuổi, nói với BBC. Vào tháng 12/2014, khi cảnh sát tháo dỡ những gì còn sót lại tại một địa điểm biểu tình ủng hộ dân chủ ở trung tâm Hong Kong, những người biểu tình đã hô vang: "Chúng tôi sẽ trở lại.". Thực tế việc các cuộc biểu tình trở lại không quá đáng ngạc nhiên. Hong Kong có một lịch sử về sự bất đồng chính kiến kéo dài nhiều năm qua. Năm 1966, các cuộc biểu tình nổ ra sau khi Công ty Star Ferry quyết định tăng giá vé. Các cuộc biểu tình leo thang thành bạo loạn buộc chính quyền phải ra lệnh giới nghiêm và điều động hàng ngàn binh sĩ đã xuống đường. Các cuộc biểu tình lại tiếp diễn từ năm 1997, nhưng những cuộc biểu tình lớn nhất thường có xu hướng chính trị và đưa người biểu tình vào cuộc xung đột với Trung Quốc đại lục. Trong khi người Hong Kong có một mức độ tự chủ nhất định, họ có ít tự do trong các cuộc thăm dò, có nghĩa là các cuộc biểu tình là một trong số ít cách họ có thể đưa ra quan điểm của mình. Có nhiều cuộc biểu tình lớn vào năm 2003 (lên tới 500.000 người xuống đường và dẫn đến một dự luật an ninh gây tranh cãi bị hủy bỏ) và các cuộc tuần hành hàng năm cho quyền bầu cử phổ quát cũng như việc tưởng niệm cuộc đàn áp ở Quảng trường Thiên An Môn, cho thấy bề dày lịch sử biểu tình của Hong Kong. Các cuộc biểu tình năm 2014 đã diễn ra trong vài tuần và khi đó người Hong Kong yêu cầu được quyền bầu lãnh đạo của chính họ. Nhưng phong trào Dù vàng đã bị xẹp xuống mà không có bất kỳ sự nhượng bộ nào từ Bắc Kinh.
Biểu tình tại Hồng Kông 2019–20
Biểu tình tại Hồng Kông năm 2019–2020, còn được gọi là Phong trào chống sửa đổi dự luật dẫn độ (tiếng Trung: 反對逃犯條例修訂草案運動), là một loạt các cuộc biểu tình diễn ra từ năm 2019–2020, được gây ra bởi dự luật dẫn độ của chính phủ Hồng Kông nhưng bị rút lại vào tháng 9 năm 2019. Nếu được ban hành, dự luật sẽ cho phép chính quyền địa phương giam giữ và dẫn độ những người bị truy nã ở những vùng lãnh thổ mà Hồng Kông không có thỏa thuận dẫn độ, kể cả Trung Quốc và Đài Loan. Nhiều người lo ngại dự luật sẽ đặt người Hồng Kông và du khách tới Hồng Kông vào phạm vi tài phán của Trung Quốc đại lục do Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát, làm suy yếu nguyên tắc "một quốc gia, hai chế độ" và điều đó sẽ làm ảnh hưởng tới quyền lợi của họ. Mặc dù hàng trăm ngàn người đã tuần hành trong một cuộc biểu tình phản đối dự luật vào ngày 9 tháng 6 nhưng chính phủ vẫn kiên trì với dự luật. Cuộc biểu tình vào ngày 12 tháng 6, ngày dự luật sẽ được đọc lần thứ hai ở Hội đồng Lập pháp, đánh dấu sự leo thang bạo lực mạnh mẽ.
Dinh dưỡng – món ngon Sản phụ khoa Nhi khoa Nam khoa Làm đẹp – giảm cân Phòng mạch online Ăn sạch sống khỏe (cungdaythang.com) – Lúc 18h09 (giờ VN, 6/12), UNESCO đã công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại. Đúng 18h09 phút (giờ Việt Nam, tức 12h09, giờ Paris, ngày 06/12), tại kỳ họp lần thứ 7, Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể đã chính thức công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ, Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đoàn đại biểu Việt Nam có mặt đông đủ trong phòng họp tại trụ sở UNESCO đón nhận tin vui này, gồm đoàn đại biểu của tỉnh Phú Thọ; đoàn đại biểu Viện văn hóa và nghệ thuật Việt nam; đoàn Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam cùng các cán bộ Phái đoàn Việt nam tại UNESCO. Như vậy, với tin vui này, Việt Nam hiện nay có tổng cộng 14 di sản văn hóa cả vật thể và phi vật thể được thế giới công nhận. Lãnh đạo tỉnh Phú Thọ cũng cam kết với Ủy ban liên chính phủ Công ước 2003 rằng: Việt Nam sẽ làm hết sức mình thực hiện nghiêm túc Công ước 2003 để cùng với Cộng đồng trao truyền, thực hành, giáo dục thế hệ trẻ bảo vệ và phát huy giá trị di sản này để di sản mãi trường tồn cùng dân tộc xứng đáng là di sản văn hoá phi vật thể Đại diện của Nhân loại. Với quyết định của UNESCO, từ nay Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ởPhúThọđã trởthành tàisản văn hoá của nhân loại. Đúng như nhiều lãnh đạo và chuyên gia về di sản của Việt Nam đã khẳng định, việc công nhận chỉ là bước đầu, chặng đường tiếp theo còn dài với nhiều việc chúng ta phải làm để phát huy và thúc đẩy các giá trị của di sản với chính người dân Việt nam, bảo tồn một cách đúng khoa học để di sản còn tồn tại mãi với những giá trị nguyên gốc của nó và thứ ba là quảng bá những giá trị di sản quý giá đó với bạn bè thế giới. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương thể hiện lòng tôn kính đối với tổ tiên, làm tăng thêm lòng tự hào dân tộc và đoàn kết dân tộc; đồng thời khích lệ nhận thức về lòng biết ơn tổ tiên. Chính những giá trị tiêu biểu đó giúp hồ sơ Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương vượt qua vòng xét duyệt khó khăn, trở thành 1 trong 17 Di sản văn hóa phi vật thể đại diện mới của thế giới.Để hiểu rõ hơn về điều này, PV Đài TNVN thường trú tại Pháp phỏng vấn Đại sứ Dương Văn Quảng – Trưởng phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh UNESCO. Như vậy là UNESCO đã quyết định công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương của Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của Thế giới. Là người trực tiếp tham gia vào quá trình trình và chỉnh sửa hồ sơ để thuyết phục các chuyên gia của UNESCO cũng như trực tiếp có mặt trong giây phút hồ sơ được công nhận, Đại sứ có cảm nhận như thế nào?. Đ.S Dương Văn Quảng: Đây là một tin vui, một vinh dự đối với nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân tỉnh Phú Thọ nói riêng. Niềm vui này đối với tỉnh Phú Thọ còn tăng lên gấp đôi vì năm 2011, Hát xoan của tỉnh Phú Thọ cũng đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vươngđược công nhận thể hiệnsự đánh giá cao của Thế giới đối với đời sống tâm linh của con người Việt Nam, đặc biệt, thể hiện qua sự thờ cúng tổ tiên. Các thế hệ Vua Hùng đã lập nên nước Việt Nam chúng ta và chúng ta coi Vua Hùng là tổ tiên chúng ta và chúng ta có ngày Quốc giỗ. Trong bối cảnh hiện nay, hồ sơ này được công nhận đã chứng tỏ sức sống của văn hóa Việt Nam, và nó cũng chứng tỏ rằng văn hóa Việt Nam có khả năng hội nhập thế giới nói chung và vào nền văn hóa thế giới nói riêng. PV: Có thể nói, phong tục thờ cúng tổ tiên không được thực hiện tại nhiều nước, đặc biệt là các nước phương Tây. Vậy trong quá trình chuẩn bị hồ sơ, chúng ta có gặp nhiều khó khăn để làm bật những giá trị của di sản và thuyết phục các chuyên gia quốc tế của UNESCO hay không?. Đ.S Dương Văn Quảng: Đôi khi chúng ta không có nhận thức hết, chưa hình dung được nhất là văn hóa phi vật thể. Ví dụ tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng là di sản văn hóa chứ không phải là di tích. Trong thờ cúng, có những phần chúng ta nhìn được, đó là những công trình để thờ cúng, ví dụ Đền Hùng là Di tích. Nhưng tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương mới là di sản. Khi viết hồ sơ phải làm sao để chuyên gia có thể đọc và hiểu đây là di sản trong khi những chuyên gia đó không phải là người áp dụng thờ cúng, dân tộc họ không áp dụng phong tục thờ cúng tổ tiên. Ta phải đi dưới góc độ không nhìn thấy, sờ thấy nhưng cảm được giá trị của nó. Qua quá trình chuẩn bị, trình các chuyên gia xem xét hồ sơ, tôi thấychúng ta cần chú đến một số vấn đề sau: trước hết cần xác định được đâu là các di sản văn hóa phi vật thể thực sự có giá trị. Khi xác định được rồi phải xây dựng hồ sơ đáp ứng được những tiêu chí do Công ước 2003 đặt ra, đặc biệt Văn bản hướng dẫn Công ước được thông qua năm 2011, về cách lập hồ sơ. Những hồ sơ sau này trình lên muốn được công nhận phải xây dựng chu đáo, đầy đủ về chuyên môn, thủ tục, tài liệu để chứng thực đây thực sự là di sản văn hóa phi vật thể. Văn hóa phi vật thể không chỉ có hát, nhạc mà cả phong tục, lối sống, cách thức ăn mặc. Chúng ta không thể làm ồ ạt. Mỗi kỳ họp, chỉ xác định số lượng nhất định các hồ sơ được xét duyệt. Việt Nam là một trong những nước có khá nhiều hồ sơ đã được xét duyệt thì không được nằm trong dạng ưu tiên. Người ta cũng cố gắng đảm bảo mỗi nước có một hồ sơ được xét duyệt trong năm đó. Điều quan trọng là Bộ văn hóa cũng như các tỉnh cần xác định đâu là những công trình văn hóa có giá trị, là di sản văn hóa phi vật thể. Trên cơ sở đó, chúng ta phải có lộ trình, chương trình để xây dựng hồ sơ. Năm tới, Việt Nam có hồ sơ “Đờn ca tài tử” đã được trình lên Ban thư ký của Công ước 2003, nhưng theo quy định mới, hồ sơ này phải trình lại mới đủ và đúng các thủ tục./. Lưu tên, email và trang web của tôi trong trình duyệt này cho lần tiếp theo tôi nhận xét. CungDayThang.Com - chia sẻ mọi thứ về Cúng Kính / Phong Thủy / Kiến Thức dành cho những người tìm hiểu về tâm linh và những thông tin kiến thức hỏi đáp. Để được cập nhật với tất cả các tin tức mới nhất, ưu đãi và thông báo đặc biệt.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một loại hình tín ngưỡng dân gian được lưu truyền lâu đời ở Việt Nam, chủ yếu được thực hiện ở các di tích thờ các nhân vật liên quan đến thời Hùng Vương tiêu biểu như Thần Nông, Vua Hùng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Sơn Tinh, Cao Sơn, Quý Minh. Loại tín ngưỡng này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (đợt 1) và UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Ngày 6 tháng 12 năm 2012, tại kỳ họp lần thứ 7 Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể đang diễn ra ở Paris (Pháp), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức thông qua quyết định ghi danh Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không phải một tôn giáo mà chính là biểu trưng của lòng thành kính, sự biết ơn- tri ân công đức các Vua Hùng là những người có công dựng nước Văn Lang.
Là một trong những tác phẩm điêu khắc thời kỳ Hy Lạp cổ đại nổi tiếng nhất, tượng thần Vệ Nữ thành Milo còn rất dễ nhận ra vì bị thiếu mất hai cánh tay. Bức tượng này thường được cho là tạc hình Aphrodite, nữ thần tình yêu và sắc đẹp Hy Lạp, được người La Mã gọi tên là Venus (Vệ Nữ). Tác phẩm này được tìm thấy vào năm 1820 trên đảo Melos (còn gọi là Milos) trên biển Aegea. Một viên chuẩn úy hải quân Pháp, Olivier Voutier, khi đang neo tàu tại cảng Melos một hôm đã quyết định giết thời gian bằng cách ra khơi và đi tìm cổ vật. Trong khi đang tìm kiếm gần tàn tích của một nhà hát cổ, Voutier để ý thấy một người nông dân địa phương đang dỡ đá từ một bức tường gần đó để làm vật liệu xây dựng, và có vẻ đã tìm thấy thứ gì đó ẩn bên trong bức tường. Khi tìm hiểu, Voutier thấy người nông dân nọ đã tìm thấy nửa trên một pho tượng phụ nữ. Nhận thấy rằng bức tượng có thể có ý nghĩa quan trọng, anh ta cùng với người nông dân đã đào thấy được nửa dưới của pho tượng cách đó không xa. Voutier đã báo lại với cấp trên về bức tượng tìm được, và người Pháp đã mua lại tác phẩm nghệ thuật này, sau đó được gọi là tượng thần Vệ Nữ thành Milo (tiếng Pháp: Venus de Milo), với một khoản tiền tương đối nhỏ. Bức tượng được đưa đến Pháp vào năm 1821 và được dâng cho Vua Louis XVIII, sau đó được ông tặng lại cho Bảo tàng Louvre và vẫn ở đó cho đến ngày nay. Ban đầu, Bảo tàng Louvre giới thiệu bức tượng là một kiệt tác có từ thời kỳ Hy Lạp cổ điển (Greek classical era). Tuy nhiên đến nay, tượng thần Vệ Nữ thành Milo được cho là có niên đại vào khoảng năm 100 TCN, một giai đoạn muộn hơn có tên là thời kỳ Hy Lạp Hóa (Hellenistic age). Ban đầu, bức tượng được tạc từ hai khối đá cẩm thạch rồi ghép với nhau. Tượng có chiều cao khoảng 2m từ đỉnh đầu đến chân và là tác phẩm của một nghệ nhân tên là Alexandros thành Antioch, một nhân vật vẫn còn là bí ẩn. Về hai cánh tay bị thiếu mất của bức tượng, từ lâu đã có người cho rằng hai cánh tay đã bị phá hủy vào năm 1820 trong một trận chiến trên bờ biển Melos, khi các thủy thủ Pháp và Thổ Nhĩ Kỳ tranh giành tác phẩm này. Song trên thực tế, phần lớn các học giả ngày nay đều tin rằng hai cánh tay đó đã bị mất trước khi bức tượng được Voutier và người nông dân tìm thấy. (Ngoài ra những thứ khác cũng bị mất là những đồ trang sức kim loại mà các học giả cho rằng đã được dùng để trang trí hai tay, đầu, và tai bức tượng ngày xưa, và sơn màu trên mặt, tóc, và váy choàng của bức tượng). Người ta cũng phỏng đoán về tư thế đứng ban đầu của tượng, mặc dù có bằng chứng cho thấy là bức tượng có thể đã cầm một trái táo trên tay trái. Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
Tượng thần Vệ Nữ
Tượng thần Vệ Nữ thành Milo (tiếng Pháp: Venus de Milo) là một pho tượng bán khỏa thân cụt hai tay, được tìm thấy vào năm 1820 ở đảo Milos (Hy Lạp) nên được đặt tên là Milo. Pho tượng được cho là có niên đại vào khoảng 130 TCN, khắc họa vị nữ thần tình yêu và sắc đẹp Hy Lạp. Tượng được tạp bằng đá cẩm thạch trắng, cao khoảng 2,04 mét, thể hiện cân đối, tràn đầy sức sống của nữ thần với lớp vải quấn mềm mại rủ xuống từ ngang hông. Việc thiếu đôi tay là đặc điểm nổi bật nhất của bức tượng Vệ nữ Milo. Đã có rất nhiều nhà điêu khắc thử tạo những phương án khác nhau để hoàn thiện đôi tay cho nữ thần nhưng vẫn chưa có được phương án hợp lý cho bức tượng bởi vậy cho đến nay bức tượng vẫn ở trong trạng thái như ban đầu. Là một di sản của nền văn minh Hy Lạp cổ đại, tượng thần nữ Milo được coi là một trong những tác phẩm điêu khắc cổ điển đẹp nhất thế giới.
Theo như báo cáo thường niên về tình hình dân số thế giới của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), 20 quốc gia trên thế giới vẫn cho phép những kẻ hiếp dâm kết hôn với nạn nhân của họ để tránh khỏi việc bị truy tố hình sự. Nga, Thái Lan và Venezuela là một trong những quốc gia cho phép đàn ông thoát tội hiếp dâm nếu họ kết hôn với nạn nhân mà họ đã hành hung. Tiến sĩ Natalia Kanem – Giám đốc điều hành của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), cho rằng những đạo luật như vậy là “hoàn toàn sai trái” và là “một cách để khuất phục người phụ nữ.”. Việc người phụ nữ có quyền từ chối hay không không được bao gồm trong đạo luật này. Luật “Kết hôn với kẻ hiếp dâm” đã vô tình chuyển gánh nặng tội lỗi sang những nạn nhân, đồng thời cố gắng xóa bỏ một tình huống phạm tội. Dima Dabbous – Giám đốc của tổ chức phi chính phủ Equality Now khu vực Trung Đông và châu Phi, có nghiên cứu được trích dẫn trong báo cáo của UNFPA, cho biết: luật đã phản ánh một nền văn hóa xem thường khả năng tự chủ của người phụ nữ về thể xác, cho rằng “ là một loại tài sản của gia đình.” Đó là một cách tiếp cận lạc hậu đối với tình dục và danh dự của phái nữ. Bà cũng thẳng thắn chia sẻ rằng thật sự khó để thay đổi những đạo luật này – nhưng nhấn mạnh “không có nghĩa là không thể”. Dabbous đã lấy dẫn chứng là đất nước Maroc. Bà kể về sự việc quốc gia này phải bãi bỏ luật “Kết hôn với kẻ hiếp dâm” sau làn sóng phẫn nộ mạnh mẽ của quần chúng – phản ứng trước việc một người phụ nữ trẻ đã tự sát sau khi cô bị buộc phải kết hôn với kẻ xâm phạm mình. Jordan, Palestine, Lebanon và Tunisia là những quốc gia có quyết định tương tự ngay sau đó. Tuy nhiên, khác với những nước trên, Kuwait vẫn cho phép kẻ gây án kết hôn với nạn nhân của mình với sự cho phép của người giám hộ. Ở Nga, nếu thủ phạm đủ 18 tuổi và thực hiện hành vi giao cấu với trẻ tuổi vị thành niên dưới 16 tuổi, người đó sẽ được miễn án phạt nếu kết hôn với nạn nhân. Tương tự như thế đối với Thái Lan. Tại đất nước chùa vàng, hôn nhân cũng được coi là giải pháp thoát tội hiếp dâm nếu thủ phạm trên 18 tuổi và nạn nhân trên 15 tuổi “đồng thuận” với hành vi giao cấu và được tòa án cho phép kết hôn. UNFPA cho biết, các luật và tập quán về hôn nhân – khiến người phụ nữ trở thành “cửa dưới” trong xã hội, là những điều lệ vốn đã được áp dụng lâu đời và phổ biến, nên rất khó để “diệt tận gốc.” Cũng theo tổ chức phi chính phủ này, hiện nay trên thế giới có 43 quốc gia không có luật hình sự hóa hiếp dâm trong hôn nhân. Không chỉ đơn thuần được quyết định hôn nhân của mình, báo cáo của UNFPA còn cho biết sự việc còn đi xa hơn thế khi những quyền lợi khác của phụ nữ và bé gái, người khuyết tật và những người có xu hướng tính dục đa dạng cũng bị kìm hãm một cách vô lý. Theo đó, báo cáo tập trung vào quyền tự chủ cơ thể – là khả năng đưa ra những quyết định về cơ thể của chủ thể mà không bị bạo lực hoặc ép buộc. Đồng thời, tổ chức cũng nhấn mạnh rằng, gần một nửa số phụ nữ (45%) ở 57 quốc gia bị từ chối quyền được nói “có” hoặc “không” với quan hệ tình dục, cũng như với việc sử dụng biện pháp tránh thai hoặc quyền tìm kiếm sự chăm sóc sức khỏe. Ở Mali, Niger và Senegal, hiện trạng này hết sức đáng báo động. Có ít hơn 1 trên 10 phụ nữ được tự quyết định về việc chăm sóc sức khỏe của bản thân, phòng tránh thai và quan hệ tình dục với bạn đời của họ. Kanem cho biết, về bản chất xã hội tồn tại hàng trăm triệu phụ nữ và trẻ em gái không có quyền sở hữu cơ thể của chính mình, cũng như không thể đưa ra quyết định của bản thân về việc quan hệ, sử dụng biện pháp tránh thai hay tìm kiếm các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Cuộc sống của họ bị chi phối bởi những người khác. Hơn 30 quốc gia hạn chế quyền tự do bên ngoài của người phụ nữ. Trẻ em gái và trai khuyết tật có nguy cơ bị bạo lực tình dục cao hơn gần ba lần – và các bé gái có nguy cơ cao nhất. Chìa khóa để cải thiện quyền tự chủ của cơ thể không gì hơn chính là giáo dục. Song song với đó, luật pháp cũng cần phải được thay đổi, đồng thời các chuẩn mực xã hội đối với các giới cũng cần cân bằng hơn. Việc từ chối quyền tự chủ về cơ thể của một cá nhân là hành vi vi phạm quyền con người cơ bản của các nạn nhân bị hiếp dâm. “Điều này chẳng khác gì sự hủy diệt linh hồn của một người, và nó phải dừng lại”, Kanem khẳng định.
Luật kết hôn nạn nhân hiếp dâm
Luật kết hôn nạn nhân hiếp dâm là luật về hiếp dâm phán rằng kẻ hiếp dâm sẽ không bị truy tố nếu hắn kết hôn với nạn nhân của mình. Mặc dù thuật ngữ cho hiện tượng này chỉ được đặt ra trong những năm 2010, trên thực tế nó được luật chống lại hiếp dâm trong nhiều hệ thống pháp luật ủng hộ trong suốt lịch sử. Vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, những luật lệ còn sót lại của loại này ngày càng bị thách thức và bãi bỏ ở một số quốc gia. Theo truyền thống nhiều nước, cuộc hôn nhân của người gây bạo lực và nạn nhân sau khi bị hiếp dâm thường được coi là một lối "giải quyết" thích hợp cho tình hình. Một điều khoản như vậy có thể được tìm thấy trong Sách Đệ Nhị Luật số 22: 28-29 (viết vào khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên), trong đó quan hệ tình dục giữa một người nam và một người phụ nữ còn trinh chưa hứa hôn ngoài thành phố được xem là sai trái. Bất kể phụ nữ có đồng ý với hành vi tình dục hay không, hoặc chấp thuận kết hôn, người đàn ông được quyền lựa chọn kết hôn với cô ta bằng cách trả cho bố mẹ cô một khoản tiền để giải quyết vấn đề.
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực là một chứng bệnh rối loạn tâm thần gây ra sự biến đổi cảm xúc không ổn định. Người bệnh chuyển từ cảm xúc hưng phấn sang ức chế một cách xen kẽ có chu kỳ. Một số người có vòng tuần hoàn khí sắc thay thế nhanh chóng giữa các đợt trầm cảm và hưng cảm, đôi lúc, người bệnh có tình trạng kết hợp vừa có những triệu chứng hưng cảm, vừa có những triệu chứng trầm cảm. Tùy vào mỗi người mà các cơn hưng cảm và trầm cảm sẽ có số lượng và tần suất khác nhau. Có thể chỉ bị một, hay cơn, trong khi một số người khác thì bị rất nhiều cơn hưng cảm hay trầm cảm. Rối loạn cảm xúc lưỡng cực ảnh hưởng đến cả nam và nữ, ở mọi lứa tuổi. Bệnh thường khởi phát ở độ tuổi 18-24 tuổi. Cảm thấy đau buồn có thể là một phản ứng rất bình thường trước các sự kiện xảy ra trong đời, nhưng một bệnh liên quan đến trầm cảm có thể là một phần của rối loạn lưỡng cực. Cảm giác đau buồn dần trở nên tệ đi và sẽ xảy ra trong thời gian dài và người bị sẽ gặp khó khăn để đối đầu với các vấn đề thường ngày. Các đợt trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực thường kéo dài vài tháng. Một cơn hưng cảm của rối loạn cảm xúc lưỡng cực là một giai đoạn kéo dài từ vài ngày đến vài tuần, suốt giai đoạn đó một người cảm thấy cực kì tốt, phấn khích, cao hứng, giàu năng lượng hay dễ cáu kỉnh. Sự gia tăng về khí sắc này có thể rất mạnh mẽ, đôi lúc khiến người bệnh bị mất liên hệ với thực tế và bắt đầu tin vào những thứ kì lạ, có những nhận định sai lầm và có những hành vi đáng xấu hổ, gây hấn hay thậm chí nguy hiểm. Gia tăng tâm trạng, không phù hợp với tình huống cá nhân. Thường người bệnh sẽ cực kì sảng khoái, bị lấn át bởi cảm giác khỏe mạnh và quan trọng hóa bản thân. Nói nhiều, thường nhanh và to hơn bình thường, khó mà người khác có thể theo kịp. Ở những trường hợp nặng, bệnh nhân sẽ có các triệu chứng tâm thần về ảo tưởng và ảo giác. Nội dung thường liên quan đến sự phấn khích và các cảm giác không thực tế về tầm quan trọng của bản thân. Cơn hưng cảm nhẹ các triệu chứng thường xảy ra với một mức độ thấp hơn và thường dễ loại bỏ. Nếu bạn hay ai đó bạn biết có các triệu chứng rối loạn cảm xúc lưỡng cực, việc tìm sự giúp đỡ y tế rất quan trọng. Bạn nên tới gặp các bác sĩ tâm thần ngay để điều trị. Nếu đã được chẩn đoán bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực, điều quan trọng là việc tránh tái phát trong tương lai. Việc điều trị bao gồm thuốc và điều trị tâm lý. Rối loạn cảm xúc lưỡng cực được cho là do sự mất cân bằng của các chất truyền tin trong não. Bệnh thường xảy ra trong gia đình, và được cho là sự khác biệt trên mã gene khiến họ dễ mắc rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Các sự kiện lớn trong đời như mất đi người thân, tan vỡ trong các mối quan hệ hay các căng thẳng lớn khác có thể khởi phát các đợt bệnh, đồng thời có thể khởi phát các bệnh thực thể hay các vấn đề về giấc ngủ. Các đợt trầm cảm sẽ được điều trị với thuốc chống trầm cảm và liệu pháp tâm lý. Các đợt hưng cảm có thể được điều trị với các thuốc ổn định khí sắc hoặc các thuốc chống loạn thần. Để ngừa tái phát, bác sĩ sẽ tư vấn liệu trình điều trị tùy vào tình trạng từng bệnh nhân. Cần có thời gian để các thuốc phát huy tác dụng, và việc điều chỉnh thuốc thích hợp nhất dựa vào cơ địa mỗi người là khác nhau; vì thế bệnh nhân không nên tự ý ngưng thuốc hoặc tự ý sử dụng thuốc mà chưa được sự đồng ý của bác sĩ. Bác sĩ Nguyễn Thị Giang với hơn 25 năm kinh nghiệm về tư vấn tâm lý và điều trị các bệnh tâm thần kinh. Nguyên Trưởng khoa Tâm lý - tâm thần trẻ em trực thuộc bệnh viện Tâm thần TPHCM. Tốt nghiệp chuyên khoa 1 ngành Tâm thần tại Đại học y dược TPHCM.
Rối loạn lưỡng cực
Rối loạn lưỡng cực (tiếng Anh: bipolar disorder), từng được gọi là bệnh hưng trầm cảm (tiếng Anh: manic depression), là một bệnh tâm thần có đặc trưng là các giai đoạn trầm cảm đi kèm với các giai đoạn tâm trạng hưng phấn ở mức bất thường kéo dài từ nhiều ngày đến nhiều tuần. Nếu tâm trạng người bệnh hưng phấn ở mức nghiêm trọng hoặc có liên hệ với loạn thần thì giai đoạn đó được gọi là hưng cảm; nếu tâm trạng người bệnh hưng phấn ở mức nhẹ hơn thì giai đoạn đó được gọi là hưng cảm nhẹ. Trong các giai đoạn hưng cảm, người bệnh có những hành vi hoặc cảm xúc hưng phấn, vui vẻ hoặc cáu bẳn một cách bất thường, và thường đưa ra những quyết định bộc phát mà không quan tâm đến hậu quả. Người bệnh cũng thường cảm thấy ít buồn ngủ hơn bình thường trong các giai đoạn hưng cảm. Trong các giai đoạn trầm cảm, người bệnh có thể khóc, có cái nhìn tiêu cực về cuộc sống và gặp khó khăn trong việc nhìn thẳng vào mắt người khác. Người mắc rối loạn lưỡng cực có nguy cơ tự sát cao; trong vòng 20 năm, 6% người bệnh tử vong vì tự sát, trong khi 30–40% người bệnh có hành vi tự hại.
Tăng trưởng xanh được coi là một chương trình toàn diện, tạo ra hướng tiếp cận mới trong tăng trưởng kinh tế, hướng tới phục hồi và bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên, nuôi dưỡng cuộc sống của con người và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Chính vì vậy nhiều quốc gia trên thế giới đang tiếp cận theo xu hướng mới này nhằm hướng tới phát triển bền vững. - Theo Hàn Quốc : "Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng đạt được bằng cách tiết kiệm và sử dụng các nguồn tài nguyên và năng lượng hiệu quả để giảm thiểu biến đổi khí hậu và thiệt hại tới môi trường, tạo ra các động lực tăng trưởng mới thông qua nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh, tạo các cơ hội việc làm mới và đạtđược sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường". - Theo Tổ chức Sáng kiến tăng trưởng xanh của Liên Hợp Quốc: Tăng trưởng xanh hay xây dựng nền kinh tế xanh là quá trình tái cơ cấu lại hoạt động kinh tế và cơ sở hạ tầng để thu được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư cho tài nguyên, nhân lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, khai thác và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn và giảm sự mất công bằng trong xã hội. - Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD (Organization for Economic Co-operation and Development): Tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo rằng các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Để thực hiện điều này, tăng trưởng xanh phải là nhân tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ hội kinh tế mới. - Định nghĩa tăng trưởng xanh của Việt Nam: Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. - Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. - Tăng trưởng xanh phải do con người và vì con người, góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. - Tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu tư vào bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện nâng cao chất lượng môi trường, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế. - Tăng trưởng xanh phải dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ hiện đại, phù hợp với điều kiện Việt Nam. - Tăng trưởng xanh là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các Bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp và tổ chức xã hội. Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. - Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường thông qua tạo nhiều việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ xanh, đầu tư vào vốn tự nhiên, phát triển hạ tầng xanh. Giai đoạn 2011 - 2020: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8 - 10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 1 - 1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó mức tự nguyện khoảng 10%, 10% còn lại mức phấn đấu khi có thêm hỗ trợ quốc tế. Định hướng đến năm 2030: Giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5 - 2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20% đến 30% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó mức tự nguyện khoảng 20%, 10% còn lại là mức khi có thêm hỗ trợ quốc tế. Thực hiện một chiến lược “công nghiệp hóa sạch” thông qua rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm. Những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 gồm: Giá trị sản phẩm ngành công nghệ cao, công nghệ xanh trong GDP là 42 - 45%; tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường là 80%, áp dụng công nghệ sạch hơn 50%, đầu tư phát triển các ngành hỗ trợ bảo vệ môi trường và làm giàu vốn tự nhiên phấn đấu đạt 3 - 4% GDP. Kết hợp nếp sống đẹp truyền thống với những phương tiện văn minh hiện đại để tạo nên đời sống tiện nghi, chất lượng cao mang đậm bản sắc dân tộc cho xã hội Việt Nam hiện đại. Thực hiện đô thị hóa nhanh, bền vững, duy trì lối sống hòa hợp với thiên nhiên ở nông thôn và tạo lập thói quen tiêu dùng bền vững trong bối cảnh hội nhập với thế giới toàn cầu. Những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 gồm: Tỷ lệ đô thị loại III có hệ thống thu gom và xử lý nước thải đạt quy chuẩn quy định: 60%, với đô thị loại IV, loại V và các làng nghề: 40%, cải thiện môi trường khu vực bị ô nhiễm nặng 100%, tỷ lệ chất thải được thu gom, xử lý hợp tiêu chuẩn theo Quyết định số 2149/QĐ-TTg, diện tích cây xanh đạt tương ứng tiêu chuẩn đô thị, tỷ trọng dịch vụ vận tải công cộng ở đô thị lớn và vừa 35 - 45%, tỷ lệ đô thị lớn và vừa đạt tiêu chí đô thị xanh phấn đấu đạt 50%. Nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng trong hoạt động sản xuất, vận tải, thương mại. Đẩy mạnh khai thác có hiệu quả và tăng tỷ trọng các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng của quốc gia. Giảm phát thải khí nhà kính thông qua phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững, nâng cao tính cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch các ngành sản xuất, dần hạn chế những ngành kinh tế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, tạo điều kiện phát triển các ngành sản xuất xanh mới. Thúc đẩy các ngành kinh tế xanh phát triển nhanh để tạo thêm việc làm, nâng thu nhập, làm giàu thêm nguồn vốn tự nhiên. Phát triển kết cấu hạ tầng bền vững chủ yếu gồm: Hạ tầng giao thông, năng lượng, thủy lợi và các công trình xây dựng đô thị. Nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ, ban hành hệ thống tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật và thông tin dữ liệu về tăng trưởng xanh. - Theo Hàn Quốc : "Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng đạt được bằng cách tiết kiệm và sử dụng các nguồn tài nguyên và năng lượng hiệu quả để giảm thiểu biến đổi khí hậu và thiệt hại tới môi trường, tạo ra các động lực tăng trưởng mới thông qua nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh, tạo các cơ hội việc làm mới và đạtđược sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường". - Theo Tổ chức Sáng kiến tăng trưởng xanh của Liên Hợp Quốc: Tăng trưởng xanh hay xây dựng nền kinh tế xanh là quá trình tái cơ cấu lại hoạt động kinh tế và cơ sở hạ tầng để thu được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư cho tài nguyên, nhân lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, khai thác và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn và giảm sự mất công bằng trong xã hội. - Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD (Organization for Economic Co-operation and Development): Tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo rằng các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Để thực hiện điều này, tăng trưởng xanh phải là nhân tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ hội kinh tế mới. - Định nghĩa tăng trưởng xanh của Việt Nam: Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. - Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. - Tăng trưởng xanh phải do con người và vì con người, góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
Kinh tế xanh
Kinh tế xanh, không nên được hiểu nhầm theo nghĩa là kinh doanh bởi kinh tế xanh được thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế như: Nông-lâm-ngư nghiệp, sản xuất, Giao thông vận tải, Kiến trúc xây dựng, Tài nguyên môi trường, Du lịch sinh thái và các lĩnh vực khác của đời sống. Hình dung về kinh tế xanh đó là sự kết hợp giữa 3 thành tố: Kinh tế + Xã hội + Môi trường, kinh tế xanh có tính chất bền vững, có nghĩa là đó là những hoạt động(trong nền kinh tế) tạo ra lợi nhuận hoặc giá trị có ích lợi, hướng đến phát triển cuộc sống của cộng đồng xã hội con người (đặc biệt là yếu tố văn hóa), đồng thời những hoạt động này thân thiện với môi trường (thành tố quan trọng), 3 yếu tố này đạt trạng thái cân bằng sẽ thỏa mãn tính bền vững. Một nền kinh tế xanh là một nền kinh tế hay mô hình phát triển kinh tế dựa trên phát triển bền vững và kiến thức về kinh tế học sinh thái (Xin hãy đóng góp khái niệm Kinh tế học sinh thái). Kinh tế xanh là mô hình đánh giá trực tiếp vốn tự nhiên và việc sử dụng tự nhiên như một giá trị của kinh tế học, điều này không giống và đáng quý hơn so với những mô hình kinh tế trước đó.
Nhìn xung quanh và phóng tầm nhìn rộng ra toàn thế giới, chúng ta đang sống trong một thế giới đầy ắp sự khác biệt, đầy thiên lệch và bất bình đẳng. Liệu có gì đó trong quá khứ đã làm tiền đề định hình cho thế giới ngày nay? Quá khứ, lịch sử. Chúng ta từng đi bao xa trong đó để cố gắng thấu hiểu vì sao thế giới lại thế này mà không phải thế khác? Tại sao của cải và quyền lực chỉ được phân phối như hiện nay mà không được phân phối theo một cách nào khác?. “Nếu câu hỏi này lập tức khiến bạn nhún vai cho rằng bạn sắp phải đọc một luận văn phân biệt chủng tộc thì, xin thưa, không phải vậy. Như bạn sẽ thấy, những lời đáp cho câu hỏi này tuyệt không bao hàm những sự khác biệt về chủng tộc. Cuốn sách này tập trung truy tìm những lý giải tối hậu và đẩy lùi chuỗi nhân quả lịch sử càng xa bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.” Với Jared Diamond, đó là một lược sử về tất cả mọi người của 13.000 năm trở lại đây qua quyển sách: Súng, Vi Trùng và Thép. Từ xuất phát điểm, “loài người” gần như là như nhau, để rồi qua thời gian, sự phân tán và di cư của chúng ta tới những vùng địa lý khác nhau, dẫn tới việc phát triển không tương đồng ở mọi nơi con người xuất hiện. Liệu có phải một số dân tộc đã trở nên ưu việt hơn, là do sự khác biệt sinh học và khả năng nội tại của những dân tộc đó tốt hơn phần còn lại? Tác giả cho rằng không phải vậy! Sách gồm 4 phần, 20 chương, một lượng kiến thức khoa học khổng lồ được diễn giải kỹ lưỡng, thuyết phục. Phần I: Từ vườn địa đàng tới Cajamarca. Từng trang sách sẽ dẫn dắt một cách chớp nhoáng về sự tiến hóa và lịch sử loài người từ khi chúng ta thoát khỏi loài vượn cổ tới cuối thời kỳ Băng Hà. Kế đó, là những tác động của môi trường lên lịch sử trong 13.000 năm qua kèm theo những cuộc đụng độ giữa các dân tộc từ các lục địa khác nhau. Cái dễ thấy ở những cuộc chiến này, là những nhân tố quyết định cho cuộc chinh phạt của Châu Âu nhắm tới các dân tộc Châu Mỹ bản địa. Những thứ (chữ viết, vi trùng, ngựa…) đã khiến cho dân tộc A đánh chiếm dân tộc A’ và thành công, chứ còn lâu A’ mới đi đánh A, tất nhiên còn lâu hơn nữa mới thành công. Như tác giả đã viết, phân tích những yếu tố quan trọng này là phần dễ, quan trọng hơn cả là làm sao tìm hiểu được những nguyên nhân sâu xa đã dẫn tới việc những yếu tố đó xuất hiện ở dân tộc này (sớm hơn) chứ không phải dân tộc khác. Phần II: Sự bành trướng và phát sinh của sản xuất lương thực. Phần này đề cập tới cái mà tác giả cho là nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự khác biệt giữa các lục địa, các dân tộc khác nhau: Sản xuất lương thực. Thay vì “săn bắt hái lượm” từ tự nhiên, một vài dân tộc đã thuần hóa cây dại và thú hữu nhũ, bắt đầu lối sống trồng trọt chăn nuôi của mình. Thăng dư lương thực xuất hiện, cán cân giữa các dân tộc bắt đầu bấp bênh. Tuy vậy, sản xuất lương thực lại xuất hiện và bành trướng khác nhau ở từng vùng, từng khu vực trên thế giới. Do đâu lại có sự khác nhau này, do đâu ở một vài nơi sản xuất lương thực lại phát sinh sớm hơn những nơi khác, tại sao chỉ một số khu vực mới trở thành trung tâm sản xuất lương thực?. Việc liên tục đặt ra các nghi vấn, liên tục đào sâu các vấn đề cũng như mở rộng sang những vấn đề liên quan, là thứ dễ thấy xuyên suốt quyển sách, một nỗ lực tuyệt vời của Jared Diamond. Có một sự thật là, giới truyền thông vẫn hay yêu cầu các tác giả tóm tắt quyển sách của mình trong một câu. Theo tác giả thì đó là: “Diễn trình lịch sử của mỗi dân tộc một khác, đấy là do những khác biệt giữa môi trường sống của các dân tộc, chứ không phải do những khác biệt về sinh học giữa bản thân các dân tộc đó”. Liệu bàn tay vô hình của Adam Smith có bị chi phối bởi một bàn tay nào khác không, như bàn tay lịch sử từ 8.000 năm trước chẳng hạn. Với việc đã đọc 2 phần đầu của quyển sách, cá nhân tôi cực kì thấm thía cái gọi là “khác biệt môi trường sống”. Nghe thì thật đơn giản, nhưng với một người có trách nhiệm như Jared Diamond, đó là một quyển sách 675 trang, khổ 16 x 24: Súng, vi trùng và thép.
Súng, Vi trùng và Thép
Súng, Vi trùng và Thép (tiếng Anh: Guns, Germs, and Steel, tên đầy đủ là: Guns, Germs, and Steel: The Fates of Human Societies/Súng, Vi trùng và Thép: Định mệnh của các xã hội loài người) là một cuốn sách của tác giả Jared Diamond xuất bản vào năm 1997, đây cuốn sách khoa học phổ thông thứ hai và nổi tiếng nhất của ông, cuốn sách này trở thành cuốn sách bán chạy nhất trên thế giới, được dịch ra 33 thứ tiếng và nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có một giải Pulitzer, một giải thưởng Sách Khoa học Aventis và giải thưởng Khoa học Phi Beta Kappa năm 1997. Một bộ phim tài liệu truyền hình nhiều tập dựa trên cuốn sách đã được Hiệp hội Địa lý Quốc gia sản xuất vào năm 2005. Tác phẩm nêu lên câu hỏi tại sao người Á-Âu đã chinh phục và thay thế người Mỹ bản địa, người Úc và người châu Phi, thay vì ngược lại. Trong cuốn sách này lập luận rằng kết quả này không phải do lợi thế sinh học của bản thân các dân tộc Á-Âu mà thay vào đó là các đặc trưng của lục địa Á-Âu, nhất là sự đa dạng cao độ của các loài thực vật và động vật hoang dã phù hợp với việc thuần hóa và trục chính Đông/Tây của nó đã giúp cho sự lây lan những loài động vật thuần hóa, con người và công nghệ cho khoảng cách dài với rất ít thay đổi theo vĩ tuyến, tác giả cho rằng thấy tầm quan trọng của việc cùng vĩ độ như là yếu tố quyết định cho khí hậu, điều kiện sinh trưởng, để từ đó việc phát tán dễ dàng hơn.
Ngành Y tế công cộng là gì? Ngành Y tế công cộng ra trường làm gì? Sau khi ra trường có dễ xin việc không? Tất cả những thắc mắc của bạn sẽ được chúng tôi giải đáp ngay dưới đây. Y tế công cộng là một trong những thuật ngữ còn khá mới mẻ đối với nhiều các bạn trẻ hiện nay. Cùng bởi vậy, mà dạo gần đây có rất nhiều bạn thắc mắc không biết ngành y tế công cộng là gì?. Thực tế hiện nay có có rất nhiều khái niệm, định nghĩa được đưa ra về y tế công cộng. Tuy nhiên, những định nghĩa dưới đây được coi là khái niệm cơ bản nhất được rất nhiều nhà khoa học đồng tình:. “Theo báo cáo của IOM vào năm 1988 thì Y tế công cộng chính là hoàn thiện tất cả những mối quan tâm của xã hội trong việc đảm bảo những quyền có thể giúp cho con người ngày càng khỏe mạnh hơn.”. Mặt khác, có khái niệm cho rằng: Y tế công cộng là khoa học và nghệ thuật phòng bệnh, tăng cường sức khỏe và kéo dài tuổi thọ của con người chúng ta thông qua những cố gắng có tổ chức của cả xã hội. Qua hai khái niệm trên ta có thể thấy những người làm việc trong ngành y tế công cộng sẽ phải biết quan tâm đến sức khỏe của bản thân và tất cả mọi người trong xã hội. Vậy ngành Y tế công cộng là gì?. Đó là một trong những ngành có liên quan đến toàn bộ dân số. Chúng sẽ bao gồm tất cả những điều có liên quan đến sức khỏe, nguyện vọng cá nhân về sức khỏe của chính bản thân họ. Mặt khác, ngành Y tế công cộng sẽ liên quan đến sự nâng cao, bảo vệ và hồi phục sức khỏe của mỗi cá nhân trong xã hội. Trách nhiệm của Y tế công cộng sẽ thuộc về những tổ chức khác nhau ở trong xã hội. Ngành y tế công cộng sẽ được chia ra thành nhiều lĩnh vực to nhỏ khác nhau như: Dịch tễ học, sinh thống kê, và dịch vụ y tế. Tất cả các vấn đề có liên quan đến xã hội, môi trường, sức khỏe nghề nghiệp hay nhân chủng học điều sẽ được chú trọng. Để có thể theo dõi được tình trạng sức khỏe của cả một cộng đồng thì các nhân viên trong ngành Y tế công cộng phải dùng các biện pháp quản lý, thống kê sinh học,….thuộc lĩnh vực y tế để có thể theo dõi được sự biến động sức khỏe trong cộng đồng. Lúc này với có thể so sánh được. Mỗi kết luận được đưa ra đều phải chỉ ra những lý do vì sao lại có hiện tượng đó. Vậy theo học ngành Y tế công cộng ra trường làm gì?. Ngành Y tế công cộng ra trường làm gì? Là thắc mắc của rất nhiều bạn trẻ hiện nay. Có thể thấy ngành này rất lớn và bạn có thể thoải mái lựa chọn công việc của mình sau khi ra trường. Công việc của các bạn ngành Y tế công cộng sau khi ra trường sẽ tùy thuộc vào nhu cầu, khả năng, trình độ cũng như sở thích của mỗi bạn. Cụ thể các bạn có thể lựa chọn các công việc như sau:. Công việc liên quan đến việc lập kế hoạch hoặc tham gia vào quá trình xây dựng chính sách như: Cán bộ chương trình/ dự án, cán bộ chuyên quản về sức khỏe nghề nghiệp, an toàn lao động hay cán bộ vệ sinh môi trường ở các nhà máy/xí nghiệp hoặc những bộ phận có liên quan khác. Quản lý dự án/chương trình, điều phối, tham gia chương trình hay đảm nhận công việc thanh tra, giám sát, đánh giá tại các tổ chức, doanh nghiệp. Tiến hành các công việc liên quan đến nghiên cứu như: Nghiên cứu viên, quản lý nghiên cứu. Bên cạnh những công việc nêu trên, các bạn sinh viên sau khi ra trường có thành tích học tập cùng với kỹ năng tốt có thể sẽ được nhà trường giữ lại để làm giảng viên. Qua những thông tin trên ta có thể thấy, công việc của ngành Y tế công cộng sau khi ra trường sẽ rất đa dạng. Hãy cân nhắc để lựa chọn đúng theo mong muốn của mình nhé!. Cce.com.vn – Trang hướng nghiệp uy tín nhất hiện nay: Chúng tôi sẽ chia sẻ đến bạn đọc những ngành nghề đang hot và có tiềm lực phát triển mãnh mẽ trong tương lai. Giúp các bạn lựa chọn được công việc phù hợp với năng lực và đam mê của bạn. Hãy theo dõi chúng tôi để biết thêm chi tiết!
Y tế công cộng
Sức khoẻ có nhiều định nghĩa khác nhau theo nhiều tổ chức. Tổ chức y tế thế giới, cơ quan của Liên Hợp Quốc, đặt tiêu chuẩn và cung cấp chương trình kiểm soát bệnh tật đã định nghĩa sức khỏe là:"tình trạng hoàn toàn thoải mái cả về thể chất, tinh thần và các quan hệ xã hội chứ không phải đơn giản là tình trạng không có bệnh hay ốm yếu". Các chuyên gia y tế công cộng cho rằng định nghĩa này chưa đầy đủ, một số thành phần khác trong sức khỏe con người còn có dinh dưỡng, tinh thần và tri thức. Y tế công cộng có nhiều lĩnh vực nhỏ nhưng có thể chia ra các phần: dịch tễ học, sinh thống kê và dịch vụ y tế. Những vấn đề liên quan đến môi trường, xã hội, nhân chủng học và sức khỏe nghề nghiệp cũng là lĩnh vực quan trọng trong y tế công cộng. Trọng tâm can thiệp của y tế công cộng là phòng bệnh trước khi đến mức phải chữa bệnh thông qua việc theo dõi tình trạng và điều chỉnh hành động bảo vệ sức khỏe. Nói tóm lại, trong nhiều trường hợp thì chữa bệnh có thể gây nguy hiểm đến tính mạng hơn so với phòng bệnh từ trước, chẳng hạn như khi bùng phát bệnh lây nhiễm.
Hằng trăm năm qua, hầu hết nghệ sĩ đều cố gắng tái tạo những sự vật có thực trong không gian ba chiều (3D). Nhưng đến thế kỉ 19 bắt đầu có sự thay đổi – một phần vì sự ra đời của nhiếp ảnh những năm 1830. Trước đó, người ta trông cậy vào nghệ sĩ để ghi lại diện mạo. Nhưng khi nhiếp ảnh đã làm được việc đó, một số nghệ sĩ cảm thấy mình nên tìm tòi thứ khác. Thời xưa, nhiều nghệ sĩ ăn lương để làm việc cho các nhà bảo trợ giàu có. Nhưng cả điều này cũng thay đổi. Từ thế kỉ 19, nghệ sĩ bắt đầu sáng tác trước, bán sau. Nhờ thế, họ thêm tự do để thử nghiệm. Ta hãy so sánh hai bức họa dưới đây. Cả hai đều diễn tả những đồ vật được bày biện, hay còn gọi là tĩnh vật – chủ đề truyền thống của các họa sĩ. Nhưng những điểm khác biệt giữa hai tác phẩm còn rõ ràng hơn nhiều so với nét tương đồng. Đàn ghi-ta trên bàn (Guitar on a Table, 1916) của Juan Gris; sơn dầu trên toan, 92x60cm. Để ý cách Gris sử dụng những hình khối, hình học để phá vỡ bức tranh, và những bức chuyển đột ngột giữa các hình khối, khiến các chi tiết không liền mạch với nhau. Vanitas trong tiếng Latinh nghĩa là phù hoa – ngụ ý sự phù du, trống rỗng của những lạc thú trần thế, bởi tất cả chúng ta cuối cùng rồi sẽ chết. Nhiều người đánh giá nghệ thuật qua trình độ chuyên môn của nghệ sĩ – vì thế họ thường ấn tượng với những bức họa chỉn chu, giống thật (như là bức vẽ đầu lâu) hơn là nghệ thuật thử nghiệm (như bức đàn ghi-ta). Nhưng, với nhiều nghệ sĩ ngày nay, tính độc đáo sáng tạo còn quan trọng hơn kĩ thuật. Cái đầu lâu quả thực giống hệt ảnh chụp, nhưng những hình khối đơn giản và màu sắc sống động của cây đàn khiến nó trở thành một hình ảnh hết sức ấn tượng và cách tân. Ngày nay người ta đặc biệt nhấn mạnh tính độc đáo sáng tạo, nên không ngạc nhiên khi các nghệ sĩ không ngừng mở rộng giới hạn của cái gọị là nghệ thuật. Giờ đây, nếu ghé thăm một phòng trưng bày hiện đại, ta có thể nhìn thấy mọi thứ, từ tấm toan trắng đến một hàng sỏi, từ cái gối hình bánh kẹp thịt khổng lồ cho đến một đống kẹo bằng bạc. Từ nghệ thuật (art) vốn nguyên thủy có nghĩa là chế tác bằng tay, nhưng có những thứ không do người nghệ sĩ trực tiếp tạo ra – họ chỉ tìm thấy chúng. Điều này gay tranh cãi gay gắt, nhiều người tự hỏi: thế mà là nghệ thuật ư?. Đây là một con cá mập thật, đã chết, được treo lơ lửng trong dung dịch phoocmôn để khỏi bị phân hủy. Đa phần nghệ thuật hiện đại làm ra với chủ đích độc đáo và gây sốc, khiến ta phải giật mình, và nhìn nhận sự vật khác đi. Nhưng, khi ngắm gần lại, hóa ra đó vẫn là những chủ đề xưa cũ. Damien Hirst nổi tiếng vì sử dụng những động vật chết, ví dụ như con cá mập trên. Nhưng ông dùng nó để khám phá tính hữu hạn của đời sống, giống như bức họa đầu lâu sơn dầu thế kỉ 17. Xác ướp con cá mập cũng có chủ đích là gợi cho ta suy ngẫm về cái chết. Nhưng trông con cá mập sống động đến mức thật khó để chấp nhận là nó đã chết – đúng như tiêu đề của tác phẩm của Damien Hirst: Tính bất khả vật lí của sự chết trong tâm trí kẻ sống. Nghệ thuật hiện đại có thể gây ra tranh cãi nảy lửa và đôi khi dẫn đến kiện tụng. Một trường hợp nổi tiếng: điêu khắc gia Contantin Brancusi đã kiện hải quan Mỹ để chứng minh tác phẩm của mình đúng là nghệ thuật. Ông thắng cuộc, còn nghệ sĩ Richard Serra thì không may mắn như vậy. Serra thực hiện một bức tường thép khổng lồ uốn lượng tên là Vòm nghiêng (Tilted Arc) cho một quảng trường ở New York. Bức tường khiến người dân địa phương phẫn nộ, vì cho rằng nó ngăn cản họ sử dụng quảng trường. Theo Serra, mấu chốt chính là ở đó – ông muốn thay đổi nhận thức của công chúng về không gian. Nhưng sau một buổi điều trần, các quan tòa đã ra lệnh di dời bức tường. Năm 1998-99, Tracey Emin đã khuấy động một cuộc tranh luận dữ dội khi triển lãm chính…cái giường của mình như một tác phẩm nghệ thuật. Hai nghệ sĩ đến xem thậm chí còn nổi hứng trình diễn một màn đánh nhau bằng gối để phản bác. Nghệ thuật luôn là thứ đắt đỏ. Những bức tranh nổi tiếng thường có giá hàng triệu đôla, những tên tuổi như Vincent van Gogh đóng góp khá nhiều vào loạt tác phẩm đắt giá hàng đầu. Các tác phẩm nghệ thuật thường được bán với mức giá ngất ngưởng, một sự thể khiến nhiều người thấy khó hiểu, thậm chí là tức giận. Lí giải chuyện này thật phức tạp. Nghệ thuật – đặc biệt là nghệ thuật hiện đại – là một địa hạt. Hầu như mọi thứ đều hư hại dần theo thời gian, tranh cũng không là ngoại lệ. Chất liệu làm nên tranh có thể cong vênh, nứt rạn và thôi màu, biến đổi hoàn toàn bức tranh, thậm chí phá hủy chúng. Vậy nên các bảo tàng và phòng tranh. Chất liệu và kĩ thuật của giới họa sĩ đã thay đổi ghê gớm qua từng thế kỉ, từ những màu sắc phải kì công tự chế đến những màu sơn hiện đại bóp phẳng ra từ tuýp. Phần này sẽ giới thiệu những chất liệu hội họa. Chân dung tự họa phổ biến trong giới nghệ sĩ ít nhất đã 500 năm nay, từ khi những tấm gương loại tốt ra đời. Nhưng hiện giờ, khi nhiếp ảnh chân dung quá phổ biến, họ không còn quan tâm đến chuyện chụp sao cho sát thực. Nhiều người băn khoăn liệu nhiếp ảnh có thực sự là nghệ thuật không, một phần vì nó phụ thuộc vào những quy trình hóa học hơn là kĩ thuật dùng cọ vẽ. Nhưng ảnh vẫn cần được sáng tác và in tráng. Theo một số nghệ sĩ và phê bình gia, đặc biệt là những nhà hoạt động nữ quyền, vai trò của phụ nữ trong nghệ thuật đã trở thành một vấn đề chính trị phiền toái và bị tảng lờ. Trước đây, nghệ thuật đa phần là do nam giới sáng tạo. Mặc dù nhiều nghệ sĩ sử dụng chất liệu và kĩ thuật chư từng xuất hiện trước đây, tác phẩm của họ vẫn thường khai thác những chủ đề từ quá khứ. Từ khoảng thế kỉ thứ 5, Cơ Đốc Giáo đã là một trong những đối tượng chính của nghệ thuật. Nhiều tác phẩm nghệ thuật hiện đại lôi nghệ thuật ra khỏi phòng triển lãm, đến những nơi mà bình thường ta không nghĩ tới – từ nông thôn xa xôi hẻo lánh đến phố xá đông đúc. Một số nghệ sĩ làm vậy vì muốn. Tác phẩm sắp đặt Vật chất tối lạnh của nghệ sĩ người Anh Cornelia Parker là một đống những mảnh vụn treo lơ lửng bằng dây trong suốt giữa căn phòng tối. Một bóng đèn độc nhất chiếu sáng ở chính giữa, khiến các mảnh vụn. Với nhiều nghệ sĩ những năm 1960-70, điêu khắc và hội họa truyền thống trở nên quá hạn chế. Họ muốn làm ra những tác phẩm có thể mở rộng biên giới của khái niệm nghệ thuật – và thay đổi cách con người suy tư về thế giới. Pop art lấy rất nhiều chất liệu từ văn hóa đại chúng, vì thế không ngạc nhiên khi nó thường giới thiệu những gương mặt nổi tiếng từ phim ảnh và nhạc pop. Nhưng mối quan hệ giữa nghệ sĩ và ngôi sao còn mật thiết hơn thế. Bức Vệt tóe lớn nắm bắt khoảnh khắc một người nhảy xuống bể bơi xanh ngắt dưới bầu trời lung linh màu lam ngọc. Cảm hứng vẽ nên nhiều bức tranh đầy màu sắc và lí tưởng về cuộc sống. Kỉ nguyên hậu chiến chứng kiến sự bùng nổ của hàng hóa sản xuất hàng loạt và giải trí đại chúng. Điều này khơi dậy một nền văn hóa mới được đại chúng (pop-culture). Nhiều nghệ sĩ hưởng ứng bằng cách vay mượn. Khi thế kỉ 20 dần trôi đi, cách nhìn của người ta về thành thị đã thay đổi. Nỗi hào hứng ban đầu của những nhóm như Vị lai đã bị dập tắt sau cuộc suy thoái kinh tế và hậu quả của hai lần thế chiến. Nghệ sĩ ngày càng chuyển sang sáng tác. Trong những năm 1930-40, một loại hình điêu khắc mới nổi lên ở Châu Âu. Đi tiên phong trong phong cách này là hai nghệ sĩ trẻ người Anh: Henry Moore và Barbara Hepwworth. Họ tạo nên những tác phẩm mượt mà, sống động,. Vào những năm 1940-50, một nhóm họa sĩ New York bắt đầu gặt hái danh tiếng khắp thế giới nhờ một loại hình nghệ thuật mới, gọi là Biểu tượng Trừu tượng. Điểm chung gắn kết họ không phải một phong cách đặc thù. Thế chiến 2 chứng kiến rất nhiều điều khủng khiếp, từ giao tranh khốc liệt và dội bom dân thường cho đến tàn sát có hệ thống hàng triệu người trong các trại tập trung Quốc xã. Kinh hoàng và vỡ mộng trước những sự kiện này. Suốt một thời gian dài, nghệ sĩ và chính quyền sử dụng nghệ thuật như một hình thức phản kháng hoặc tuyên truyền, cố gắng nhào nặn tư tưởng của con người. Những hình ảnh có sức thuyết phục đặc biệt mạnh mẽ. Nhiều quốc gia cần tái thiết sau những hỗn loạn và tàn phá của Thế chiến 1. Trong những năm tiếp đó, số đông nghệ sĩ bắt đầu quan tâm đến kiến trúc và thiết kế. Kết hợp nghệ thuật với môi trường xung quanh.
Nghệ thuật hiện đại
Nghệ thuật hiện đại (tiếng Anh: modern art) bao hàm các tác phẩm nghệ thuật được sáng tác trong giai đoạn khoảng từ thập niên 1860 đến thập niên 1970, biểu thị các phong cách và triết lý của nghệ thuật thời kỳ đó. Nghệ thuật hiện đại gạt sang một bên các truyền thống quá khứ với một tinh thần thể nghiệm. Các nghệ sĩ hiện đại thể nghiệm với những cách nhìn mới và với những ý tưởng mới về bản chất vật liệu và các chức năng của nghệ thuật. Nghệ thuật hiện đại có xu hướng xa rời tính tự sự (vốn dĩ là đặc trưng của nền nghệ thuật truyền thống) để hướng tới tính trừu tượng. Tác phẩm nghệ thuật ra đời trong các năm gần đây thường được gọi là nghệ thuật đương đại hoặc nghệ thuật hậu hiện đại. Nghệ thuật hiện đại bắt đầu với di sản hội họa của nhiều họa sĩ như Vincent van Gogh, Paul Cézanne, Paul Gauguin, Georges Seurat và Henri de Toulouse-Lautrec, tất cả mang tầm vóc quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của nghệ thuật hiện đại. Vào đầu thế kỷ 20, Henri Matisse và một số nghệ sĩ trẻ khác bao gồm các nghệ sĩ tiền lập thể như Georges Braque, André Derain, Raoul Dufy, Jean Metzinger và Maurice de Vlaminck đã cách mạng hóa thế giới nghệ thuật Paris với phong cách vẽ tranh phong cảnh "hoang dã", đa sắc màu, mang tính biểu cảm, cùng với những bức tranh thuộc trường phái dã thú.
là một nhóm gồm ba hòn đảo ở tại phía nam của quần đảo Ogasawara của Nhật Bản và về mặt hành chính thuộc về Ogasawara. Các đảo đều là các núi lửa nằm trên đỉnh một cung đảo kéo dài về phía nam đến quần đảo Mariana của Mỹ. Có một căn cứ của Lực lượng Bảo vệ bờ biển Nhật Bản với khoảng 400 nhân viên. Ngoài ra, không có cư dân cư trú trên các đảo. Hòn đảo không có dân cư sinh sống cho đến năm 1889, khi hai hòn đảo ở phía bắc có những người Nhật đến định cư từ quần đảo Izu. Các đảo được sáp nhập vào Nhật Bản năm 1891. Dân số trên các đảo đạt 1100 vào năm 1939, phân bổ thành 5 điểm định cư là Higashi, Minami, Nishi, Kita và Motoyama (lần lượt có nghĩa là “Đông”, “Nam”, “Tây”, “Bắc” và “Bản Sơn”) tại Iwo Jima và hai điểm dân cư tại Kita Iwo Jima, Ishinomura (“đô thị Ishino”) và Nishimura (“đô thị Tây”). Các cơ cấu hành chính này tồn tại cho đến năm 1940 (khi bị hợp nhất vào Ogasawara, Tokyo) và có văn phòng ở Higashi. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Quần đảo Mariana
Quần đảo Mariana là một quần đảo hình vòng cung của Mỹ, nó được tạo thành bởi 15 ngọn núi lửa ở phía tây bắc Thái Bình Dương từ 12 đến 31 độ vĩ bắc và dọc theo kinh tuyến 145 về phía đông. Quần đảo ở tại phía nam Nhật Bản và phía bắc New Guinea, và về phía đông của biển Philippines. Cuối phía nam của chuỗi quần đảo Mariana là đảo Guam. Quần đảo được đặt theo tên của Nữ hoàng Tây Ban Nha Mariana của Áo vào thế kỷ 17, khi Tây Ban Nha bắt đầu thuộc địa hóa quần đảo này. Những hòn đảo là một phần của một cấu trúc địa chất được gọi là hệ thống Izu-Ogasawara-Mariana Arc, và có độ tuổi từ 5 triệu năm tuổi ở phía bắc đến 30 triệu năm tuổi ở phía nam (Guam). Các chuỗi đảo được kiến tạo như là kết quả của rìa phía tây của mảng Thái Bình Dương di chuyển về phía tây và chìm xuống dưới mảng Mariana. Ngay phía đông của chuỗi đảo, Vực Mariana là nơi sâu nhất của Trái Đất và phần thấp nhất của lớp vỏ Trái Đất. Trong khu vực này, theo lý thuyết địa chất, nước bị mắc kẹt trong các đứt gãy sâu rộng của mảng Thái Bình DươngQuần đảo Mariana là phần phía bắc của nhóm đảo Micronesia, mặc dù chủ quyền của nhóm đảo thuộc về nhiều bên khác nhau nhưng chúng có chung các đặc điểm về địa lý.
Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến trong bài Tiếp cận quá trình hiện đại hoá văn hoá Việt Nam từ góc độ chủ nghĩa cá nhân văn hoá, đăng ở Viet-studies, sau đó được Chungta.com đăng lại (26-10-2009) đã phải phân trần về hai cách hiểu “chủ nghĩa cá nhân”:. Ý niệm “chủ nghĩa cá nhân” lưu hành trong đời sống và ngôn ngữ hàng ngày thuộc “đạo đức học”, nghĩa của nó khá rõ và đơn giản: đó là thói ích kỷ, trong mọi hoàn cảnh đặt lợi ích của mình lên trên hết, không cho ai động đến “một sợi lông chân của mình”, có thể gọi tên nó là chủ nghĩa cá nhân “đạo đức học”.Trong khẩu hiệu “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân” Hồ Chủ tịch nói đến chủ nghĩa cá nhân này. Trong mọi xã hội, mọi thời đại chủ nghĩa cá nhân này đều bị lên án. Còn cái mà chúng tôi gọi là chủ nghĩa cá nhân “văn hoá” không có liên quan gì đến chủ nghĩa cá nhân “đạo đức học”: đó là ý thức của cá nhân về cá tính và bản lĩnh riêng của mình, đặc biệt nó thể hiện ở “lòng tin “của cá nhân vào “giá trị của ý kiến riêng của mình” cũng như giá trị những hình thức diễn đạt nó lựa chọn và sáng tạo, tóm lại đó là lòng tin của cá nhân vào bảng giá trị của nó (thuộc mọi lĩnh vực chính trị, mỹ học, đạo đức…). Cách hiểu đầu có lẽ xuất hiện sớm nhất từ thập kỷ 30, còn trước đó trí thức nước ta hiểu chủ nghĩa cá nhân theo cách thứ hai. Bài dưới đây thử so sánh hai cách hiểu đó. - Trong giai đoạn chống Pháp, giành độc lập (1945-1954) hầu như sách báo và văn bản của ta chưa có nhóm từ “chủ nghĩa cá nhân”. Đó là nhờ tinh thần xả thân vì lý tưởng, tác phong gương mẫu và phẩm chất liêm chính của lớp cán bộ-đảng viên ở cái thuở xa xưa ấy. - Nhưng khi tạm thời có hoà bình (1954-1960), tư tưởng “cầu an, hưởng lạc”, “tự tư, tự lợi” bắt đầu xuất hiện, bị phê phán, dần dần quy về chủ nghĩa cá nhân. - Giai đoạn từ 1960, khi đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh lên CNXH, đồng thời phát động cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, Đảng đòi hỏi mọi người cống hiến, hy sinh nhiều hơn nữa. Do vậy, cần lên án mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Trong học tập chính trị, cũng như trong chỉnh huấn, chỉnh đảng, chỉnh quân, bao giờ cũng có mục đề cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng và lên án chủ nghĩa cá nhân, để mỗi người tự liên hệ mà kiểm điểm bản thân. Đích thân cụ Hồ, với cương vị lãnh tụ tối cao của đảng, đã kịp thời phát biểu, viết bài trong mọi dịp cần thiết. Tháng 3-1960: Chủ nghĩa cá nhân như tự tư tự lợi, tự kiêu, tự mãn, chỉ tham việc gì có danh tiếng, xem khinh những công việc bình thường. Tháng 3-1961: Chủ nghĩa cá nhân, lợi mình hại người, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật và những tính xấu khác, là kẻ địch nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội. Tháng 1-1965: Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt. Tháng 2-1969: Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Bài viết cuối cùng về đề tài này của Hồ chủ tịch đăng trên báo Nhân Dân trong dịp 3-2-1969 có cái nhan đề rất quyết liệt: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Tác dụng tức thời sau đợt học tập bài này là công nhân thêm vững “tay búa, tay súng”, nông dân càng chắc “tay cày, tay súng”; đồng thời lớp lớp thanh niên lại vượt Trường Sơn đi chiến đấu. Còn tác dụng lâu dài, thì 40 năm sau chủ nghĩa cá nhân vẫn chưa bị “quét sạch” như Cụ mong muốn. Trong bài nói trên, Hồ chủ tịch (ký là TL) đã tóm tắt đặc điểm và tác hại của chủ nghĩa cá nhân: Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khǎn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ. Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Sau đó 38 năm, khi phát động học tập đạo đức Hồ Chí Minh (dịp 3-2-2007) tổng bí thư đương nhiệm vẫn nhắc lại một số nội dung mà cụ Hồ đã nêu: Tư tưởng không đúng thì có nhiều, nhưng có một tư tưởng mẹ: đó là chủ nghĩa cá nhân. “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích của tập thể. “Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”. Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, nết xấu như : lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô. Chủ nghĩa cá nhân là vết tích xấu xa của xã hội cũ, “là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà càng nguy hiểm”. Ngày 31-8-2009, nhân kỷ niệm 40 năm cụ Hồ viết di chúc, bài trên trang mạng của đảng Cộng Sản Việt nam cũng nhắc lại lời Cụ: Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do đó mà nó sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm như: Bệnh tham lam; bệnh lười biếng; bệnh kiêu ngạo; bệnh hiếu danh; bệnh thiếu kỷ luật; óc hẹp hòi; óc thực dụng; óc lãnh tụ. Và kết luận: Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Trung ương lần thứ V khoá VI đã nghiêm khắc chỉ ra những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên khi đi vào đổi mới, đó là bệnh quan liêu, bàn giấy, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, hống hách với nhân dân; sinh lòng thèm khát dồng tiền, sẵn sàng “chiếm công vi tư”, đục khoét của cải của nhân dân; sống buông thả, sa đoạ, móc ngoặc và tiếp tay cho bọn làm ăn bất chính ngoài xã hội; cơ hội chủ nghĩa, sống vô nguyên tắc, chỉ biết luồn lọt, nịnh bợ để có danh lợi; không tự phê bình và phê bình trên tình đồng chí, hoặc là xuê xoa, nể nang, hoặc là lợi dụng để đả kích nhau, tạo ra phe phái gây mất đoàn kết nghiêm trọng. Trong nhiệm kỳ khoá VII, nhận diện của Đảng về chủ nghĩa cá nhân có sự phát triển. Tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đảng ta cho rằng tham nhũng, quan liêu trở thành một trong bốn nguy cơ đối với chế độ mà Đảng, nhân dân ta đã lựa chọn và là biểu hiện tập trung của chủ nghĩa cá nhân, suy thoái đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên. Đến Đại hội VIII, chủ nghĩa cá nhân với rất nhiêu biểu hiện, đặt Đảng trước thách thức lớn hơn. Đại hội nhận định: một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức lối sống. Bệnh quan liêu, độc đoán, cục bộ địa phương, kèn cựa, địa vị rất nặng. Số thoái hoá về chính trị tuy ít, nhưng hoạt động của họ gây hậu quả rất xấu. Những năm đầu của thế kỷ XXI, chủ nghĩa cá nhân với biểu hiện tập trung của nó là tham nhũng, tiêu cực diễn biến càng phức tạp hơn. Đại hội lần thứ IX, lần thư X của Đảng đều đã đề cập đến chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện chính của nó. Đảng chủ trương mỗi cấp uỷ, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm và thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng cơ hội thực dụng. Tóm lại, không thể thêm gì vào sự xấu xa và nguy hiểm của chủ nghĩa cá nhân - một chủ nghĩa ngày càng lộng hành ở nước ta, kể từ cách đây nửa thế kỷ. Nó là kẻ thù từ bên trong, dường như tự sinh, tự dưỡng, có sức sống mãnh liệt, dù chúng ta luôn luôn cảnh báo và đã huy động mọi khả năng để diệt trừ. Có lẽ chủ nghĩa này ở các nước bạn còn nặng nề hơn, vì chỉ 2 thập niên sau khi cụ Hồ mất, các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô đã theo nhau sụp đổ. Nay, 2009, nó đã phát triển tới mức đặt chế độ ta trước nguy cơ tồn vong. Phương Tây xoá bỏ chế độ phong kiến trước phương Đông nhiều thế kỷ. Đó là điều kiện tiên quyết để chủ nghĩa cá nhân ra đời cách nay đã hai trăm năm. Đó là khi dân trí đã đủ cao, cuộc sống vật chất và tinh thần được nâng lên, tầng lớp trí thức “đích thực” đã hình thành, khiến cho mỗi con người có điều kiện suy nghĩ về những quyền lợi chính đáng của chính mình khi chung sống trong xã hội. Trước nhất và cơ bản nhất, đó là các quyền tự do cho mỗi cá nhân. Mỗi cá thể không còn quá lệ thuộc vào cộng đồng, mà phải trở thành một thành viên độc lập của cộng đồng ấy, có quyền có suy nghĩ riêng, đưa ra ý kiến, quan điểm riêng, và thể hiện bản thân theo cách riêng. Không ai bị buộc trở thành một cái bóng mờ nhạt, bị chìm lấp vào đám đông - kể cả đó là cái bóng của vĩ nhân. Tóm lại, bất cứ ai cũng được quyền thể hiện bản thân, để “tôi phải là chính tôi”. Đạo đức cao nhất của chủ nghĩa cá nhân là không vi phạm quyền tự do của các cá nhân khác. Suy ra, chức năng số 1 của Nhà Nước là tạo điều kiện để mỗi cá nhân thực hiện đầy đủ các quyền tự do; đồng thời ngăn chặn sự xâm phạm quyền tự do của cá nhân từ bất cứ cá nhân (hay nhóm) nào khác. Nhà nước không được phép tự ý gom gộp những cá nhân thành một đám, nhào nặn để nó “có hình thù vừa ý” nhằm dễ quản lý và sai khiến cả đám – như Hitler đã làm.Như vậy, trong khi 87 triệu dân ta hiểu chủ nghĩa cá nhân là xấu xa, nguy hiểm; thì phần khổng lồ còn lại của nhân loại lại hiểu khác. - Một thành tựu trong quá trình ngàn năm tư duy và tiến hoá của nhân loại là tạo ra khái niệm cá nhân. Đám nô lệ khổ sai xây Kim Tự Tháp, hoặc khối nông nô lầm than đắp Vạn Lý Trường Thành không thể có khái niệm cá nhân. Không có chuyện mỗi nô lệ dám “thể hiện mình”. Mỗi người chỉ như con kiến, không cá tính, bị chìm lấp trong đàn kiến. Đó chính là tình trạng của mỗi thường dân ở xã hội phong kiến và càng như vậy ở mọi xã hội trước phong kiến. Cá nhân, đó là con người độc lập, tuy trừu tượng (không chỉ ra một ai cụ thể), nhưng lại phổ cập (là bất cứ cá thể nào trong nhân loại) mà không phân biệt quốc tịch, màu da, trình độ. Chủ nghĩa cá nhân đặt quyền lợi và hạnh phúc của mỗi con người lên trên hết. Sau hàng thế kỷ, sự phát triển và hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa cá nhân đã đưa đến sự ra đời khái niệm quyền con người (nhân quyền) như ta thấy hiện nay.- Sai lầm lớn nhất: Đó là quan niệm coi “cá nhân” là. “bản thân mình”. Từ đó, coi chủ nghĩa cá nhân là thứ chủ nghĩa đặt quyền lợi và hạnh phúc của bản thân mình lên trên hết. Nếu gọi đúng tên, thì đây là chủ nghĩa vị kỷ (egoism, đối lập với chủ nghĩa vị tha), chứ không phải là chủ nghĩa cá nhân (individualism, đối lập với chủ nghĩa tập thể). Hầu hết trường hợp chống chủ nghĩa cá nhân là do cách hiểu sai lầm này. Càng tai hại, nếu giới quyền lực cố ý hiểu sai như vậy. Dân ta được giáo dục để hiểu chủ nghĩa cá nhân theo nghĩa xấu. Việt Nam ta mượn danh từ “chủ nghĩa cá nhân” chỉ để làm cái vỏ, và nhét vào đó một nội dung tự quy ước - khác với nội dung gốc. Xin khẳng định: Đó là quyền của Việt Nam, miễn là Việt Nam chỉ dùng khái niệm tự quy ước này trong phạm vi nước ta – và cứ vô tư mà dùng - cho đến khi nào buộc phải thống nhất với khái niệm chung của thế giới. Tuy nhiên, vẫn có một số người Việt có điều kiện tiếp cận với quan niệm của thế giới. Do vậy, họ có hai cách hiểu. Và họ sử dụng mỗi cách tuỳ theo tình huống. Không khó gì tìm ra trên báo chí ta những bài viết gần đây bàn về chủ nghĩa cá nhân dưới góc độ triết lý, học thuật. Tuy nhiên, người bàn luận sớm nhất về chủ nghĩa cá nhân - theo cách hiểu từ gốc – có lẽ là cụ Phan Khôi. Từ trên 70 năm trước, sau khi lập luận đầy đủ, cụ đã đưa ví dụ: đàn chim sẻ đã sống theo “chủ nghĩa cá nhân” (mỗi cá thể có quyền tự quyết định), còn đàn kiến sống theo “chủ nghĩa tập thể” (mỗi cá thể không có quyền đó). - Đề xuất: Đã tới lúc nên thay từ “chủ nghĩa cá nhân” bằng chủ nghĩa vị kỷ? Chớ nên tiếc, vì sự thay thế này chẳng liên quan gì tới “bản sắc văn hoá” (là cái chúng ta muốn giữ gìn), cũng chẳng phải sự khác nhau về quan niệm Đông - Tây. Cái chủ nghĩa vị kỷ này không chỉ là kẻ thù của CNXH mà là kẻ thù của cả nhân loại. Có điều, sao nó cứ ngang ngược ở nước ta hơn ở đâu hết. Chủ nghĩa vị kỷ bị lên án suốt nửa thế kỷ; tới nay vẫn tiếp tục bị mạt sát nặng nề. Điều đó chứng tỏ ta rất căm ghét nó, trút bực tức lên nó – vì bất lực với nó. Không những nó chưa bị “quét sạch” (như cụ Hồ dặn lại) mà còn phát triển đầy thách thức. Biểu hiện tiêu biểu nhất là nạn tham nhũng – đã tới mức đe doạ sự sinh tồn của chế độ. Vấn đề “ai thắng ai” lại được đặt ra lần nữa, nhưng không phải giữa hai phe (XHCN và TBCN) như trước đây, mà là ngay trong nội bộ xã hội XHCN ở nước ta. Mong rằng kết quả đấu tranh lần này sẽ khác lần trước. Là những người duy vật, nhưng chúng ta chỉ có trong tay biện pháp duy tâm để chống lại nó.
Chủ nghĩa cá nhân
Chủ nghĩa cá nhân hay còn gọi là cá nhân chủ nghĩa, chủ nghĩa cá thể là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả một cách nhìn nhận trên phương diện xã hội, chính trị hoặc đạo đức trong đó nhấn mạnh đến lợi ích của mỗi cá nhân, sự độc lập của con người và tầm quan trọng của tự do và tự lực của mỗi cá nhân. Những người theo chủ nghĩa cá nhân chủ trương không hạn chế mục đích và ham muốn cá nhân. Họ phản đối sự can thiệp từ bên ngoài lên sự lựa chọn của cá nhân - cho dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước, hoặc bất kỳ một nhóm hay một thể chế nào khác. Chủ nghĩa cá nhân do vậy đối lập với chủ nghĩa toàn luận, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cộng đồng, và chủ nghĩa công xã, tức là đối lập với những chủ thuyết nhấn mạnh đến việc công xã, nhóm, xã hội, chủng tộc, hoặc các mục đích quốc gia cần được đặt ưu tiên cao hơn các mục đích của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân cũng đối lập với quan điểm truyền thống, tôn giáo, tức đối lập với bất cứ quan niệm nào cho rằng cần sử dụng các chuẩn mực đạo đức hay luân lý ở bên ngoài, khách thể, để hạn chế sự lựa chọn hành động của cá nhân.
– 14 tháng 4 năm 1414) là vị hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Trần, một triều đại được dựng lên ở miền nam Đại Việt để chống lại sự đô hộ của đế quốc Minh sau năm 1407. Ông có tên húy là Trần Quý Khoáng hay Trần Quý Khoách (陳季擴), là cháu nội của Trần Nghệ Tông. Khi chú ông là Giản Định Đế dựng nhà Hậu Trần (1407), ông giữ chức Nhập nội thị trung. Năm 1408, các tướng Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị bất bình với Giản Định Đế mới vào Nghệ An lập Trần Quý Khoáng lên ngôi vua. Trần Quý Khoáng tôn Giản Định Đế làm Thái thượng hoàng, cùng tiến quân ra bắc đánh Minh, đến năm 1409, Thượng hoàng bị địch bắt giết. Trong suốt thời gian giữ ngôi, Trùng Quang Đế cùng các tể thần Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị và Nguyễn Súy đã tận lực chiến đấu chống quân đội Minh do Anh quốc công Trương Phụ chỉ huy. Các ông từng đánh bại quân Minh ở La Châu, Hạ Hồng, nhân đà truy kích tới tận Bình Than, nhưng cuối cùng bị thiệt hại nặng, phải lui về Nghệ An và Hóa Châu. Sau trận thư hùng đẫm máu ở kênh Thái Đà năm 1413, lực lượng Hậu Trần tan vỡ, Trùng Quang Đế chạy sang Lão Qua nhưng bị Trương Phụ bắt giữ. Tháng 4 năm 1414, trên đường áp giải về Đại Minh, Trùng Quang Đế trầm mình xuống biển tự tử. Nhà Trần diệt vong. Tuy thất bại nhưng Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng vẫn được các bộ sử sau này của nước Đại Việt coi là vị vua chính thống nối nghiệp nhà Trần, được nhân dân phối thờ trong đền Trần (nơi thờ các vua nhà Trần). Sử thần đời Hậu Lê Ngô Sĩ Liên trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư (hoàn tất năm 1479) đã ca ngợi tấm gương của Trùng Quang Đế là “quốc quân chết vì xã tắc”. Tháng 9 âm lịch năm 1406, lấy cớ khôi phục nhà Trần, đế quốc Minh-Trung Quốc mang 80 vạn quân do Tân Thành hầu Trương Phụ, Tây Bình hầu Mộc Thạnh đánh chiếm nước Việt. Hai vua Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương liên tục thua trận, đến tháng 5 (âm lịch) năm 1407 thì đều bị bắt về Trung Quốc. Ngày 2 tháng 10 âm lịch năm 1407, con thứ Trần Nghệ Tông là Trần Ngỗi lên ngôi Hoàng đế ở Mô Độ (Ninh Bình), dựng nhà Hậu Trần, lấy hiệu là Giản Định Đế. Không lâu sau, vua Giản Định bị quân Minh đánh bại, phải chạy vào Nghệ An. Các hào kiệt về theo khá đông trong đó có Quốc công Đặng Tất và Đồng Tri khu mật tham mưu quân sự Nguyễn Cảnh Chân. Được hai tướng họ Nguyễn, Đặng trợ giúp, Giản Định làm chủ khu vực phía nam nước Việt từ Nghệ An vào Thuận Hóa, sau đó tiến ra bắc đụng độ quân tiếp viện Minh một trận lớn ở bến Bô Cô (1408). Quân Giản Định thắng to, người Minh chạy về cố thủ Đông Quan. Năm 1409, do nghe lời gièm pha của hoạn giả Nguyễn Quỹ và học sinh Nguyễn Mộng Trang, Giản Định giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung (con của Đặng Tất) và Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) bất bình với vua Giản Định, bèn về Nghệ An tôn Trần Quý Khoáng làm vua mới. Theo sách Đại Việt Sử ký Toàn thư do sử thần đời Lê Ngô Sĩ Liên soạn, ở thời điểm năm 1409 Trần Quý Khoáng làm chức Nhập nội thị trung ở Nghệ An. Ngày 17 tháng 3 âm lịch năm 1409, Trần Quý Khoáng lên ngôi Hoàng đế ở Chi La, nay thuộc huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Tân hoàng đế đặt niên hiệu Trùng Quang (重光), phong Nguyễn Súy làm Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo, Đặng Dung làm Đồng bình chương sự, Nguyễn Chương làm Tư mã. Bấy giờ Giản Định đang đóng giữ thành Ngự Thiên; Trùng Quang sai Nguyễn Súy đem quân đánh úp, bắt được Giản Định. Ngày 7 tháng 4 âm lịch cùng năm, Hưng Khánh thái hậu (mẹ của Giản Định Đế) liên kết với Hành khiển Lê Triệt và Lê Nguyên Đỉnh dấy quân ở Hát Giang, định đánh úp vua Trùng Quang. Nhà vua giết Triệt và Đỉnh nhưng tha hết quân của họ. Đối chiếu sự kiện này với việc Giản Định giết 2 tôn thất theo Minh là Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Giao cùng hơn 500 thuộc hạ ở Diễn Châu, Nghệ An (1407), sử thần đời Lê Ngô Sĩ Liên cho rằng vua Trùng Quang có phẩm chất lãnh đạo tốt hơn Giản Định:. Ngày 20 tháng 4 âm lịch, Giản Định bị dẫn về Nghệ An, Trùng Quang khiêm nhường mặc thường phục xuống thuyền đón rước, tôn Giản Định làm Thái thượng hoàng. Ở thời Trần, tên nước là Đại Việt, từ khi nhà Hồ soán ngôi đã đổi thành Đại Ngu. Sử Việt không chép tên nước của Trùng Quang Đế; tuy nhiên, trong Hoàng Minh thực lục có ghi Trùng Quang Đế là “ngụy hoàng đế Đại Việt”, vậy chứng tỏ Trùng Quang Đế đã dùng quốc hiệu Đại Việt. Tháng 7 âm lịch năm 1409, vua Trùng Quang cùng Thượng hoàng chia quân hai đường đánh quân Minh. Thượng hoàng Trần Ngỗi đóng ở Hạ Hồng (Ninh Giang, Hải Dương), vua Trùng Quang đóng ở Bình Than. Quân Minh cố thủ không dám ra đánh. Trùng Quang sai quân đi tuần tra 4-5 ngày 1 lần. Hai vua được hào kiệt các lộ ủng hộ nhiệt liệt, duy chỉ có Tri phủ Tam Giang là Đỗ Duy Trung vẫn theo Minh. Đến khi vua Minh sai Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ đeo ấn Chinh Di tướng quân đem quân cứu viện, quân Minh lại mạnh lên. Thượng hoàng thấy liền rời thuyền chạy lên trấn Thiên Quan, Trùng Quang nghi ngờ Thượng hoàng có lòng khác, liền sai người đuổi theo. Nguyễn Súy đuổi theo không kịp, nhưng Trương Phụ lại bắt được Thượng hoàng Trần Ngỗi, giải về Kim Lăng giết chết. Tháng 8 âm lịch năm 1409, vua Trùng Quang chống nhau với Trương Phụ ở Bình Than. Quân Việt thiếu lương thực trầm trọng, Đặng Dung bèn chia quân đi gặt lúa sớm để cấp cho binh lính. Trương Phụ nhân lúc quân Việt đang yếu liền đem thủy quân đánh vào cửa Hàm Tử. Trùng Quang nghe tin, tự liệu chống không nổi, bèn dẫn quân lui về Nghệ An. Đại Việt Sử ký Toàn thư kể Trùng Quang Đế có một bà phi mất vào tháng 6 âm lịch năm 1409. Đế quốc Minh muốn đánh chiếm Đại Việt lâu dài nên năm 1410, Tổng binh Trương Phụ sai quân mở đồn điền ở địa bàn Tuyên Quang, Thái Nguyên, Tam Giang tạo lương thực cho quân, lại cấp ruộng đất cho các thổ quan đầu hàng để họ thu tô thay cho bổng lộc, cấp ruộng đất cho quân đội để cày cấy lấy lương thực. Ngoài ra, Trương Phụ thực hiện chính sách đàn áp rất tàn bạo để khủng bố tinh thần người Việt, như Đại Việt Sử ký Toàn thư thuật lại:. Đại Minh còn cấp bằng ghi công trạng cho các thổ quan đi đánh dẹp quân khởi nghĩa người Việt. Vì vậy có một bộ phận người Việt là thổ quan, hàng tướng phản bội, cùng với những người đã từng tiếp tay cho người Minh diệt nhà Hồ, nay lại tiếp tay cho Trung Quốc đàn áp cuộc khởi nghĩa của Trùng Quang Đế, khiến cuộc khởi nghĩa gặp trăm ngàn khó khăn. Nhưng vua tôi Trùng Quang vẫn dũng cảm chiến đấu. Tháng 5 âm lịch năm 1410, Trùng Quang Đế và Nguyễn Cảnh Dị đem quân tới La Châu, Hạ Hồng, đánh bại quân Minh do Đô đốc thiêm sự Giang Hạo chỉ huy. Thừa thắng, nhà vua truy kích đến bến Bình Than và đốt phá thuyền trại của người Minh. Đoàn quân của Trùng Quang Đế được nhiều hào kiệt hưởng ứng, nổi bật nhất là Đồng Mặc người Thanh Hóa, giữ chức Lỗ Lược Tướng quân, đã đánh bại và bắt chỉ huy quân Minh là Tả Địch. Đồng Mặc được Trùng Quang Đế giao cai quản phủ Thanh Hóa. Tuy nhiên, quân Hậu Trần không được tổ chức bài bản nên cuối cùng bị quân Minh đánh bại, nhà vua phải chạy về Nghệ An. Tháng 7 âm lịch năm 1411, Trùng Quang Đế và Nguyễn Súy chia quân đánh các cửa biển, bắt nhóm thổ quan theo Trung Quốc là Nguyễn Chính ở Bài Lâm, chém bêu đầu cảnh cáo. Cùng năm, nhà vua gả chị gái là Quốc tỷ Trưởng công chúa cho người Hóa Châu là Hồ Bối. Ông còn phong Hồ Bối chức Tư đồ rồi sai đem quân đánh Minh ở Thanh Hóa. Trong thời gian giữ ngôi, Trùng Quang Đế từng sai Hành khiển Nguyễn Nhật Tư, Thẩm hình Lê Ngân sang Minh cầu phong. Vua Minh bắt giết cả hai. Về sau, Trùng Quang Đế phái Hành khiển Hồ Ngạn Thần, Thẩm hình Bùi Nột Ngôn đem biểu văn, lễ vật và hai tượng người bằng vàng, bạc đi thay. Khi sứ đoàn vào Yên Kinh, Minh Thành Tổ sai Hồ Nguyên Trừng giả vờ hỏi thăm vua Trần, tiện dò la nội tình Đại Việt. Ngạn Thần nghe theo. Về nước, Bùi Nột Ngôn hặc tội Ngạn Thần, Trùng Quang sai bắt giam Ngạn Thần rồi xử tử. Chưa phân thắng bại thì Nguyễn Súy, Cảnh Dị rồi Hồ Bối đều bỏ chạy, Đặng Dung phải dùng thuyền nhẹ rút lui ra biển. Trương Phụ lại đem quân vào đánh phá hành tại ở Nghệ An, bao vây các thành tại Thanh Hóa, Diễn Châu, Nghệ An bị chiếm. Tháng 1 âm lịch năm 1413, nhà vua cùng Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị đưa quân theo đường biển tới Vân Đồn, Hải Đông và các vùng ven biển Bắc Bộ nhằm thăm dò, tìm lương thực và đánh tiêu hao quân đội Minh. Chiến dịch này thất bại nặng nề. Ngày 4 tháng 3 âm lịch, nhà vua về hành tại ở Nghệ An, quân đi 10 phần về chỉ còn 3-4 phần. Cùng lúc đó, Nông Văn Lịch ở Lạng Sơn cầm đầu quân khởi nghĩa “áo đỏ” chặn đường giao thông, giết chết được Tham chính người Việt là Mạc Thúy (tổ 4 đời của Mạc Đăng Dung) và tiêu diệt được khá nhiều quân Minh. Nguyễn Liễu ở Lý Nhân chiêu tập người các huyện Lục Na, Vũ Lễ đánh quân Minh trong mấy năm nhưng do thiếu sự liên kết với vua nên các thế lực này dần tan vỡ. Tháng 4 âm lịch năm 1413, Trương Phụ lại đánh vào Nghệ An, Trùng Quang Đế phải rút về Hóa Châu, sai Nguyễn Biểu làm sứ đi cầu phong, đến Nghệ An bị Trương Phụ bắt giữ, Nguyễn Biều tức giận mắng Trương Phụ và bị Phụ giết chết. Thái phó Đại Việt là Phan Quý Hữu đầu hàng quân Minh, được 1 tuần thì chết. Liêu bèn kể hết cho Phụ về thực lực các tướng, quân số của Trùng Quang Đế và địa thế Hóa Châu. Trương Phụ, Mộc Thạnh liền đem quân thủy bộ vào Hóa Châu, mất 21 ngày thì tới. Tháng 9 âm lịch năm 1413, Nguyễn Súy dàn trận tại kênh Thái Đà, đánh nhau ác liệt với Trương Phụ. Nửa đêm Đặng Dung dùng voi đánh úp dinh của Phụ, định nhảy lên thuyền Phụ bắt sống mà không nhận được mặt, Phụ nhảy lên thuyền nhỏ trốn mất, quân Minh tan vỡ quá nửa, thuyền chiến vũ khí bị đốt phá gần hết. Thế nhưng Nguyễn Súy không chịu hợp sức cùng Đặng Dung chiến đấu, mà quân thì còn rất ít. Trương Phụ thấy vậy xua tàn quân phản công, thay đổi cục diện. Quân Đặng Dung tan chạy, ẩn nấp trong hang núi, không còn sức đánh lớn. Tháng 11 âm lịch năm 1413, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị định chạy sang Xiêm La nhưng bị quân Minh bắt. Khi trông thấy Phụ, Nguyễn Cảnh Dị luôn mồm quát mắng: “Bổn tướng lâu nay muốn giết ngươi, nào nghĩ hôm nay lại bị ngươi bắt!”. Trương Phụ tức giận, giết rồi ăn gan Nguyễn Cảnh Dị. Trương Phụ chiếm được Tân Bình, Thuận Hóa, bèn đặt quan cai trị, điều tra dân số, làm sổ dân đinh và tâu xin vua Minh tăng cường quân trấn giữ. Ngày 10 tháng 3 âm lịch năm 1414, Trùng Quang Đế chạy sang nước Lão Qua, Nguyễn Súy chạy sang châu Minh Linh, sau đều bị người của Phụ bắt. Người của Thuận Hóa cũng ra hàng, từ đó vương triều Hậu Trần chấm dứt. Giữa đường, Trùng Quang Đế nhảy xuống biển tự tử. Hai tể tướng Đặng Dung, Nguyễn Súy sau đó cũng đều nhảy xuống biển tự tử. Tuy nhiên, theo Hoàng Minh thực lục, ngày 16 tháng 8 năm 1414, Trùng Quang Đế và các tướng lĩnh trong đó có Đặng Dung đều bị giải tới Yên Kinh và xử tử. Trùng Quang Đế lấy quân một lữ để mưu khôi phục đất nước trong lúc loạn lạc lưu ly, ví như dùng một cây gỗ để chống giữ ngôi nhà lớn đã đổ, chả lẽ không biết rằng thế không thể cứu vãn được nữa hay sao? Nhưng hãy làm hết bổn phận nên làm, ngõ hầu có thể vãn hồi được thiên mệnh! Còn như khi bị giặc bắt đem về, giữ nghĩa không chịu nhục, cam lòng nhảy xuống biển mà chết, để cùng mất với nước, thực đúng là “quốc quân chết vì xã tắc”, mà các bề tôi của ngài như Cảnh Dị chửi giặc mong cho chúng giết ngay mình, Nguyễn Biểu kể tội ác của giặc rồi chết, đều là những người đáng ca ngợi cả. Chỉ có Hồ Ngạn Thần đi sứ làm nhục mệnh vua, đã bị giết rồi, Phan Liêu đem tình hình mạnh yếu trong nước đi báo cho giặc, tuy được thoát chết trong một thời, nhưng sau lại bị Thái Tổ Cao Hoàng Đế ta giết chết. Than ôi, người làm tôi trung với nước tuy chết vì nghĩa không có tội gì, mà để lại tiếng thơm mãi mãi, còn bọn bất trung phản quốc, không khỏi tránh khỏi chết, lại còn để tiếng xấu ngàn năm, thực đúng như thế.
Trùng Quang Đế
Trùng Quang Đế (chữ Hán: 重光帝 ? – 14 tháng 4 năm 1414) là vị hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Trần, một triều đại được dựng lên ở miền nam Đại Việt để chống lại sự đô hộ của đế quốc Minh sau năm 1407. Ông có tên húy là Trần Quý Khoáng hay Trần Quý Khoách (陳季擴), là cháu nội của Trần Nghệ Tông. Khi chú ông là Giản Định Đế dựng nhà Hậu Trần (1407), ông giữ chức Nhập nội thị trung. Năm 1408, các tướng Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị bất bình với Giản Định Đế mới vào Nghệ An lập Trần Quý Khoáng lên ngôi vua. Trần Quý Khoáng tôn Giản Định Đế làm Thái thượng hoàng, cùng tiến quân ra bắc đánh Minh, đến năm 1409, Thượng hoàng bị địch bắt giết. Trong suốt thời gian giữ ngôi, Trùng Quang Đế cùng các tể thần Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị và Nguyễn Súy đã tận lực chiến đấu chống quân đội Minh do Anh quốc công Trương Phụ chỉ huy. Các ông từng đánh bại quân Minh ở La Châu, Hạ Hồng, nhân đà truy kích tới tận Bình Than, nhưng cuối cùng bị thiệt hại nặng, phải lui về Nghệ An và Hóa Châu.
Ban đầu, có truyền thuyết cho rằng Tây Vương Mẫu có diện mạo là một nữ thần già hung dữ, là một vị nữ thần gây tai vạ ở phía Tây của núi Côn Lôn, không khác gì một quái vật, theo bộ Sơn Hải Kinh. Về sau, theo sự xuất hiện của Lão Tử thời Xuân Thu và bộ Đạo Đức Kinh là nền tảng chính thống của Đạo giáo Trung Quốc, sự nổi lên của Đạo giáo và các truyền thuyết dần biến Tây Vương Mẫu thành một nữ thần hiền từ, vị thế của bà từ đó trở thành một trong những nữ thần tối cao và tiêu biểu nhất trong nhiều hệ thống tín ngưỡng Đông Á. Cùng với sự tôn sùng của Đạo giáo, Tây Vương Mẫu thông thường được hình dung là một bà già hiền lành, hoặc một nữ thần tiên dung mạo diễm lệ, sống ở tại núi Côn Lôn thuộc phía Tây, ngự bên cạnh một bờ hồ tiên cảnh được gọi là Diêu Trì (cũng đọc thành Dao Trì). Trong vườn của bà có trồng bàn đào là giống đào tiên, ăn vào trẻ mãi không già. Hình tượng về bà nổi lên trong thế kỉ 2 khi hình thành nên Con đường tơ lụa. Tây Vương Mẫu qua các đời có rất nhiều tên gọi, ngoài những tên gọi qua các nước đồng văn Đông Á, bà được nhiều triều đại về sau sắc phong. Bà được đề cập lần đầu tiên là từ giáp cốt văn thời nhà Thương. Khi ấy, người ta mô tả bà là một vị thần ngự trị ở phương Tây, gọi là Tây mẫu (西母). Không rõ nguyên hình thực sự tạo nên hình ảnh của bà, nhưng vào lúc đó hình tượng của bà tương đối lớn và rất được tôn kính. Bấy giờ, có thể xem bà là nữ thần tối cổ xưa nhất từng hiện diện và thờ cúng có quy mô. Trong quyển Sơn hải kinh thời nhà Chu, bà được mô tả với hình thù kì quái với răng nanh của hổ, là một nữ thần nửa người nửa thú, tính khí dữ tợn thường gây bệnh dịch, nên đương thời còn gọi bà là Yêu mẫu (妖母). 《Sơn Hải Kinh – Tây Sơn kinh》: “Núi Doanh Mẫu cách phía Tây 350 dặm, gọi là Ngọc Sơn, tương truyền là nơi ở của Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu kì trạng như người, nhưng có đuôi báo, răng hổ, có đeo trăng sức trên bồng tóc. Bà có tính nghiêm khắc và tàn ác”. Quách Phác chú: “Chủ quản nghiêm trang trên trời và năm hình phạt tàn hại“. 《Sơn Hải Kinh – Hải Nội Bắc kinh》: “Tây Vương Mẫu lấy đầu chim đái thắng cài lên tóc, ăn chim Tam Thanh để sống”. 《Sơn Hải Kinh – Đại Mạc Tây kinh》: “Phía Nam của Tây hải, bên cạnh bãi Lưu sa, đằng sau Xích thủy, phía trước Hắc thủy, có một ngọn núi lớn. Ở trong có thần nhân mình hổ, có vằn và đuôi, tất cả đều trắng, ngự tại núi ấy. Bên dưới có một vực xoáy sâu, bên ngoài lại có một ngọn núi rực lửa, có một người đeo đầu chim đái thắng, răng hổ, đuôi báo, ở trong hang, gọi là Tây Vương Mẫu”. Về sau, bà dần dần được du nhập vào Đạo giáo, trở thành một nữ thần hiền hòa và là biểu tượng của trường sinh bất tử. Học giả Trang Tử mô tả trong quyển sách cùng tên như thể bà là một vị nữ thần tối cao, không ai biết bà đến từ đâu, không ai biết bà đi khi nào. Cũng theo Trang Tử, bà tọa tại một ngọn núi linh thiêng ở phía Tây là Côn Luân, có sự liên kết với mô tả từ thời Thương là một vị thần ở hướng Tây. Cung vàng điện ngọc ẩn trong núi Côn Lôn của Tây Vương Mẫu, tranh vẽ vào thời nhà Minh. Vào thời nhà Đường, thời kỳ nở rộ của thi ca, hình tượng Tây Vương Mẫu trở nên cực kỳ phổ biến. Những bài thơ về bà có thể tìm thấy trong Toàn Đường thi, một tuyển tập thi ca thơ Đường. Sau khi nhà Đường sụp đổ, thời Ngũ đại thập quốc, Đỗ Quang Đình, với Dung Thành tập tiên lục (墉城集仙錄), là người sớm nhất viết tổng hợp những truyện kí về Tây Vương Mẫu, thường được xem là người soạn thảo hoàn bị nhất về nhận thức của người đời Đường đối với Tây Vương Mẫu. Theo ghi chép của Đỗ Quang Đình, Tây Vương Mẫu đã giúp Lão Tử làm ra cuốn Đạo Đức Kinh. Vào năm thứ 25 của Chu Chiêu vương, Lão Tử đi chu du thiên hạ, gặp Tây Vương Mẫu và được bà trao cho cuốn sách này. Truyền thuyết này là một đặc thù của phái Thượng Thanh (上清), một phân nhánh của Đạo giáo mà ở đó Đỗ Quang Đình được xem là người khởi đầu. Ngoài ra, trong vài bài thơ thời Đường cũng mô tả việc gặp gỡ giữa Tây Vương Mẫu và Lão Tử, tuy nhiên lúc này vai trò của bà thấp hơn, và gọi ông là Nguyên Thủy Thiên Tôn. Đây là một truyền thuyết phổ biến trong các phân nhánh khác của Đạo giáo. Đi theo hình tượng biến hóa, dần cũng có nhiều truyền thuyết về tên họ thật của bà, bởi vì “Tây Vương Mẫu” nhìn thế nào cũng chỉ là tên hiệu. Người đời Đường là Đoạn Thành Thức (段成式), sáng tác “Dậu dương tập trở – Nặc cao kí thượng” (酉陽雜俎·諾皋記上) đã viết rằng:「“Tây Vương Mẫu họ Dương, húy Hồi, trị ở Tây Bắc núi Côn Lôn, ngày Đinh Sử chết. Từ đó “Dương Hồi” cùng “Uyển Cấm” trở thành tên thật của Tây Vương Mẫu trong rất nhiều truyền thuyết. Một trong những truyền thuyết nổi tiếng nhất về bà là việc gặp gỡ Chu Mục vương thời Tây Chu – một trong những vị Thiên tử vĩ đại nhất của thời kỳ này. Sách Mục thiên tử truyện là một bản sách bằng thẻ tre được cho là sáng tác vào khoảng đời Xuân Thu, được phát hiện vào đời nhà Tấn và được các văn nhân đương thời như Tuân Úc tiến hành soạn lại thành 6 quyển. Trong nội dung cuốn ghi chép này có một câu chuyện về việc Chu Mục vương xuất hành đi về phía Tây, tại đó ông đã gặp gỡ một nữ thần xinh đẹp được gọi là Tây Vương Mẫu. Ghi chép đại khái nói:. Đoàn hộ giá xuất phát từ Tông Chu, vượt qua sông Chương, đi qua các vùng núi Hà Tông, Dương Hu, núi Quần Ngọc, hành trình qua 9 vạn dặm, trải qua Tứ hoang, chạm đến Lưu sa phía Bắc, diện kiến Tây Vương Mẫu. Theo cách miêu tả trong “Mục thiên tử truyện”, hình tượng của Tây Vương Mẫu vào thời gian này đã không còn kì dị nữa, mà trở thành một nữ thần có nhan sắc rất đẹp, giỏi ca hát, khiến Chu Mục vương mê mẩn. Cả hai người họ yêu nhau, Mục vương đem các của cải của mình mang đến thiết yến bên cạnh Dao Trì của Tây Vương Mẫu, cả hai say sưa đàn hát. Tây Vương Mẫu hát ca dao:「“Bạch vân tại thiên, sơn cung tự xuất, đạo lí du viễn, sơn xuyên gian chi, tương tử vô tử, thượng năng phục lai”」, ý rằng Thiên tử đến cùng ta chung vui rất quý, nhưng liệu co thể gặp lại được chăng. Chu Mục vương nghe xong cũng thật cao hứng, cầm lòng không đậu mà cũng xướng khởi ca dao:「“Dư quy đông thổ, hòa trị chư hạ, vạn dân bình quân, cố ngô kiến nhữ, bỉ cập tam niên, tương phục nhi dã”」, ý rằng bản thân ông cần phải trở về cai trị dân chúng thật tốt, khi thiên hạ thái bình thì sẽ lại đến gặp Tây Vương Mẫu. Đối với chuyện gặp gỡ này Chu Mục vương nhớ mãi không quên, còn khắc lại trên đá của Yểm Sơn, trồng cây hòe bên cạnh. Câu chuyện này tiếp tục được chép trong Trúc thư kỉ niên và Sử ký Tư Mã Thiên (mục Triệu thế gia). Câu chuyện Tây Vương Mẫu gặp gỡ Hán Vũ Đế cũng là một trong những truyền thuyết nổi tiếng nhất nói về bà, có ghi trong Hán Vũ cố sự cùng Hán Vũ Đế nội truyện (漢武帝內傳) của Cát Hồng. Câu chuyện này xoay quanh về phép trường sinh bất tử. Chuyện kể rằng, Hán Vũ Đế tin tưởng Đạo giáo, nghe nói mùng 7 tháng 7 (là ngày Thất tịch), Tây Vương Mẫu sẽ xuống điện nên vội vàng bày biện nghênh tiếp. Vào ngày đó, đúng canh hai, Tây Vương Mẫu ngồi xe mây màu tía xuống điện, gặp gỡ Hán Vũ Đế. Khi Tây Vương Mẫu gặp gỡ Hán Vũ Đế, bà đãi ông một buổi tiệc linh đình, tặng cho ông 7 viên đào tiên (có sách nói là 5 viên). Đào tiên của Tây Vương Mẫu được gọi Bàn đào (蟠桃), được gieo trồng ở vườn đào trên núi Côn Luân, có công hiệu trường sinh bất lão. Truyền thuyết chỉ cần ăn một trái đào tiên là có thể đủ kéo dài ba ngàn năm tuổi thọ. Hán Vũ Đế không thể tận dụng và học hỏi được các phép thần thông của bà và không thể đạt được đến sự bất tử như mong muốn. Vương Mẫu mệnh Thị nữ lấy mâm ngọc có 7 trái đào tiên, to như trứng vịt, màu xanh lá. Vương Mẫu lấy 3 trái ăn cùng Đế, Đế thấy vị rất ngon, muốn thu lại lấy hạt trồng. Vương Mẫu nói:「“Đào này 3000 mới sinh quả, đất ở Trung Hạ mỏng, trồng cũng không ra quả đâu”」. Vương Mẫu lên điện, ngồi ở hướng Đông. Mặc áo màu hoàng kim, hoa văn đẹp đẽ, dung mạo sáng rỡ trong trẻo. Đeo một dải linh phi đại thụ, eo mang kiếm Phân Cảnh, trên đầu búi tóc hình hoa lớn, đội mũ Thái Chân Thần Anh, mang giày Huyền Quỳnh Phụng Văn. Nhìn tuổi chỉ cỡ hơn ba mươi, tu đoản đắc trung, thiên tư yểm ái, dung nhan tuyệt thế, thật là một người khác thường. Truyền thuyết về bà đáng tin cậy và phổ biến nhất, là trong các thần hệ Đạo giáo. Tây Vương Mẫu là nữ thần cai quản Tây Côn Lôn, cùng với chồng là Hạo Thiên Thiên Đế cai quản Thiên đình. Bà và Ngọc Hoàng Đại Đế không hề có quan hệ ruột thịt gì. Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn còn gọi là “Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn”, là vị tối cao trong Tam Thanh, cũng là vị Tôn Thần hạng nhất của Thần Tiên Đạo Giáo. Theo “Lịch đại thần tiên thông giám” tôn xưng Ngài là “Vị Tổ chủ trì cõi trời”. Địa vị của Ngài tuy cao, nhưng lại xuất hiện muộn hơn Thái Thượng Lão Quân. Hồi đầu của Đạo giáo không thấy nói đến Nguyên Thủy, trong “Thái Bình Kinh”, Tưởng Nhĩ Chú” cũng đều không thấy ghi tên Ngài, kể cả trong thần thoại xưa Trung Quốc cũng không thấy nói đến hành trạng Ngài. Danh xưng Nguyên Thủy xuất hiện sớm nhất trong “Chẩm trung thư” ghi là “Trước lúc hổn độn chưa phân rõ (thái cực), đã có “tinh hoa của trời đất” hiệu là “Nguyên Thủy Thiên Vương”sẵn bên trong, sau phân hóa thành hai phần (lưỡng nghi), Nguyên Thủy Thiên Vương ở phía trên cõi trời, ngẫng lên hút thiên khí, cúi xuống uống địa tuyền (suối đất ) trải qua vô số kiếp , cùng với Thái Nguyên Ngọc Nữ thông khí kết tinh mà sanh ra Thiên Hoàng Tây Vương Mẫu. Thiên hoàng sanh ra Địa Hoàng, Địa Hoàng sanh ra Nhân Hoàng, tiếp tục sanh ra con cháu là Bào Hi, Thần Nông. Cho nên bảo rằng : “Phía trên Đại La có bảy ngọn núi báu gọi là Huyền Đô Ngọc Kinh, có ba cung. Thượng cung là nơi ở của Bàn Cổ Chân Nhân, Nguyên Thủy Thiên Vương và Thái Thái Thánh Mẫu”. Như vậy, từ đây mới có danh xưng Nguyên Thủy Thiên Vương. Sớm tại thời đầu Hán, truyền thuyết của Đạo giáo lưu truyền Tây Vương Mẫu có liên quan đến thuật trường sinh bất lão, đây cũng là hình tượng được gắng liền về bà nhất trong rất nhiều dị bản truyền thuyết, nhất là truyền thuyết của Đạo giáo. Trong sách “Hoài Nam tử” của Lưu An, có ghi lại câu chuyện giữa Hằng Nga và Hậu Nghệ, đã đề cập đến vai trò của thứ thuốc trường sinh và Tây Vương Mẫu là người nắm được bí mật của thứ thuốc ấy. Đây là tiền đề cho Đạo giáo thời Hán về sau, người Đạo giáo bắt đầu suy tôn Tây Vương Mẫu, địa vị của bà được tôn kính hơn hẳn. Thời Đông Tấn, các truyền thuyết của Đạo giáo cho rằng Tây Vương Mẫu là con gái của Đệ nhất thần trong Đạo giáo – Nguyên Thủy Thiên Tôn. Học giả Cát Hồng thời Tấn, viết Chẩm trung thư (枕中書) có đoạn:「“Khi hai cực chưa phân tách, thiên-địa-nhật-nguyệt chưa có đủ, đã xuất hiện Bàn Cổ chân nhân, tự hiệu Nguyên Thủy Thiên vương. Sau đó, ông cùng Thái Nguyên Thánh mẫu thông khí kết tinh, sinh Đông Vương Công cùng Tây Vương Mẫu. Sách Tập thuyết thuyên chân (集說詮真) dẫn “Tiên truyện thập di” (仙傳拾遺) lại nói:「“Tây Vương Mẫu ở giữa Côn Luân, có thành ngàn dặm, 12 tòa ngọc lâu. Bên trái có Ngọc nữ hầu, bên phải có Vũ đồng hạ. Các nữ tiên trong Tam giới thập phương đều là dưới trướng của bà”」. Bởi vậy từ ấy, Đạo giáo tu sĩ xưng Phù Tang Đại Đế Đông Vương Công làm Nguyên Dương Phụ (元暘父), còn Thái Chân Tây Vương Mẫu là Cửu Quang Huyền Nữ (九光玄女). Bà ở núi Côn Luân, là chủ quản của các nữ tiên trong tiên giới, là lãnh tụ tối cao của các nữ tiên trong truyền thuyết. Từ đây địa vị của Tây Vương Mẫu một bước lên trời, hình tượng răng hổ mình báo quái dị của thời Sơn Hải kinh đại biến, vì thế Đạo giáo văn nhân lại mổ xẻ hình tượng, nói người mang hình dạng kia không phải Tây Vương Mẫu, mà là 「“Vị thần Bạch Hổ phía Tây, sứ giả của Tây Vương Mẫu”; 西方白虎之神,西王母的使者」.
Tây Vương Mẫu
Tây Vương Mẫu (chữ Hán: 西王母; Hangu: 서왕모; Kana: せいおうぼ), còn gọi là Diêu Trì Kim Mẫu (瑤池金母), Tây Vương Kim Mẫu (西王金母), Vương Mẫu Nương Nương (王母娘娘) hoặc Kim Mẫu Nguyên Quân (金母元君), là vị nữ thần cổ đại rất nổi tiếng trong truyền thuyết Đạo giáo Trung Quốc. Ban đầu, có truyền thuyết cho rằng Tây Vương Mẫu có diện mạo là một nữ thần già hung dữ, là một vị nữ thần gây tai vạ ở phía Tây của núi Côn Lôn, không khác gì một quái vật, theo bộ Sơn Hải Kinh. Về sau, theo sự xuất hiện của Lão Tử thời Xuân Thu và bộ Đạo Đức Kinh là nền tảng chính thống của Đạo giáo Trung Quốc, sự nổi lên của Đạo giáo và các truyền thuyết dần biến Tây Vương Mẫu thành một nữ thần hiền từ, vị thế của bà từ đó trở thành một trong những nữ thần tối cao và tiêu biểu nhất trong nhiều hệ thống tín ngưỡng Đông Á. Cùng với sự tôn sùng của Đạo giáo, Tây Vương Mẫu thông thường được hình dung là một bà già hiền lành, hoặc một nữ thần tiên dung mạo diễm lệ, sống ở tại núi Côn Lôn thuộc phía Tây, ngự bên cạnh một bờ hồ tiên cảnh được gọi là Diêu Trì (cũng đọc thành Dao Trì).
Trước “cơn bão” mỹ phẩm Á-Âu-Mỹ đang đổ bộ vào nước ta ngày càng nhiều thì có một xu hướng dùng mỹ phẩm mới gần đây. Và xu hướng mới thực ra là sự trở lại của những cái cũ?. Đó là chị em phụ nữ chuyển dần sang dùng đồ tự nhiên với quan niệm lành tính, sạch, không hóa chất… Đơn giản như đắp mặt nạ với cà chua, mật ong, lòng trắng trứng hay nghệ hoặc sử dụng nha đam dưỡng da, dầu dừa để dưỡng mi. Và cũng không ít chị em đã sử dụng dầu thầu dầu và thấy hiệu quả rõ rệt. Việc sử dụng dầu thầu dầu đã có từ thời Ai Cập cổ đại, người ta sử dụng nó để điều trị kích ứng mắt và như một phương pháp chăm sóc da trẻ đẹp tự nhiên . Dầu thầu dầu không chỉ mang lại lợi ích chăm sóc sắc đẹp, nó còn có rất nhiều tác dụng đối với sức khỏe. Dầu thầu dầu là một loại dầu béo không bay hơi có nguồn gốc từ hạt của cây thầu dầu (Ricinus communis), thuộc họ Spurge (Euphorbiaceae). Dầu thầu dầu, còn được gọi là dầu ricinus hay dầu hải ly có màu từ trong đến màu hổ phách hoặc hơi xanh. Nó có mùi hương nhẹ và hương vị bùi béo. Thầu dầu được cho là một trong những cây trồng lâu đời nhất của loài người. Các lợi ích của dầu thầu dầu xuất phát từ thành phần hóa học của nó. Nó được phân loại là một loại axit béo trung tính, gần 90% hàm lượng axit béo của nó là một hợp chất đặc hiệu và hiếm được gọi là axit ricinoleic. Cây thầu dầu được gọi là “Palma Christe” vì hình dạng lá của cây được cho là giống với lòng bàn tay của Chúa Kitô. Dầu thầu dầu được coi là khá độc đáo vì axit ricinoleic không được tìm thấy trong các loại cây khác. Thêm vào đó, số lượng axit ricinoleic trong dầu thầu dầu khá là cao. Theo một báo cáo được công bố trên tạp chí quốc tế về hóa chất, dầu thầu dầu được sử dụng trong hơn 700 sản phẩm mỹ phẩm. Ngoài thành phần chính là axit ricinoleic, dầu thầu dầu cũng chứa một số muối và este có tác dụng tương tự như các yếu tố dưỡng da. Đồng thời, chúng giúp ổn định kết cấu và tính nhất quán của sản phẩm. Đó là lý do tại sao dầu thầu dầu được sử dụng trong rất nhiều mỹ phẩm, chăm sóc mái tóc và làn da. Khi sử dụng như thực phẩm, dầu được thủy phân trong ruột non bởi các enzyme tuyến tụy, dẫn đến việc giải phóng glycerol và acid ricinoleic, cùng với các chất chuyển hóa có lợi khác cho cơ thể. Những người chữa bệnh dân gian trên toàn thế giới đã sử dụng dầu thầu dầu để điều trị nhiều tình trạng sức khỏe trong hàng ngàn năm. Như người Ai Cập cổ đại mình đã nêu ở trên. Tại Ấn Độ, nó đã được đánh giá cao về khả năng chữa lành da, tiêu hóa, kháng khuẩn, nó còn thường được sử dụng trong thực hành y học Ayurvedic truyền thống . Trong nhiều thế kỷ ở Ấn Độ, khi có dấu hiệu đầu tiên của bệnh tật, nhiều bậc cha mẹ và ông bà sẽ ngay lập dùng dầu thầu dầu cho con cái của họ bằng bôi tại chỗ hoặc bổ sung trong bữa ăn để tăng cường chức năng miễn dịch và tăng tốc độ chữa bệnh. Trong suốt lịch sử, dầu thầu dầu được sử dụng phổ biến nhất để điều trị nhiễm trùng da, giảm táo bón và tăng cường sức khỏe của tóc. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nó có nhiều ứng dụng quan trọng hơn để hỗ trợ hệ miễn dịch. Dầu thầu dầu chứa nhiều thành phần có lợi, bao gồm axit béo, flavonoid, hợp chất phenolic, axit amin, terpenoid và phytosterol. Các hợp chất này cung cấp cho dầu các tính chất và lợi ích sức khỏe tiềm năng sau:. Một trong những lý do chính khiến dầu thầu dầu có tác dụng tăng cường miễn dịch là bởi vì nó hỗ trợ hệ thống bạch huyết của cơ thể. Vai trò quan trọng nhất của hệ bạch huyết là nó hấp thụ và loại bỏ các chất dư thừa, protein cũng như chất thải từ tế bào của chúng ta. Các hạch bạch huyết hoạt động giống như các bộ lọc tự nhiên của cơ thể đối với độc tố và chúng cũng tiết ra các kháng thể khi chúng ta bị bệnh để giữ các protein hoặc vi khuẩn ở ngoài tế bào. Ví dụ, nếu bạn đã từng có hạch bạch huyết ở cổ, đây là một dấu hiệu cho thấy có các kháng thể đang hoạt động mạnh mẽ để chống lại một nhiễm trùng gần khu vực đó, như là viêm họng. Khi hệ thống bạch huyết không hoạt động đúng cách, có thể dẫn đến nhiều tế bào khỏe mạnh bị suy giảm và có thể phá hủy các cơ quan. Ví dụ, bạch huyết kém hoạt động có liên quan đến tổn thương mô, có thể làm tăng hoặc làm trầm trọng thêm các bệnh tim mạch vành. Dầu thầu dầu có thể giúp cải thiện hệ thống bạch huyết, lưu lượng máu, các chức năng khác của hệ thống miễn dịch. Một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y học Tự nhiên đã xem xét tác động của các gói dầu thầu dầu trên 36 đối tượng. Các gói bao phủ một khu vực 12-inch của da trên góc phần tư phía trên bên phải của bụng. Các đối tượng có gói được áp dụng trong khi nghỉ ngơi lúc 9 giờ sáng và sau đó loại bỏ lúc 11 giờ sáng (tổng cộng hai giờ). Các đối tượng đã được lấy máu bốn lần (một lần trước khi điều trị và ba lần sau điều trị) và không có sự lặp lại điều trị. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng các đối tượng sử dụng các gói dầu thầu dầu có sự gia tăng đáng kể sự sản xuất các tế bào lympho so với bệnh nhân sử dụng các gói giả dược (Xem thêm nghiên cứu tại đây). Tại sao đây lại là một phát hiện tuyệt vời? Lymphocytes là hệ thống miễn dịch tự nhiên của cơ thể, được ví là “máy bay chiến đấu” tấn công những kẻ “xâm lược” như độc tố, vi khuẩn và các mối đe dọa khác. Vì vậy, dầu thầu dầu giúp cho sản xuất các tế bào lympho ở mức độ thích hợp, được lưu hành và lưu trữ trong các mô bạch huyết của tuyến ức, lá lách, các hạch bạch huyết và mô trong ruột non. Hệ thống bạch huyết cũng tác động đến hệ thống tuần hoàn và tiêu hóa , đó là lý do tại sao dầu thầu dầu đôi khi được sử dụng để hỗ trợ sức khỏe tim mạch và cải thiện các vấn đề tiêu hóa như táo bón. Một hệ thống bạch huyết khỏe mạnh và lưu lượng máu thích hợp đi đôi với nhau. Khi hệ thống bạch huyết hoạt động kém, có nhiều khả năng đi kèm với vấn đề tuần hoàn và tim mạch. Điều này là do hệ thống tuần hoàn bạch huyết hoạt động trực tiếp với hệ thống tuần hoàn tim mạch để giữ máu và mức độ bạch huyết trong một sự cân bằng tối ưu. Theo National Heart, Lung và Blood Institute, “Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy hệ thống bạch huyết ảnh hưởng đến sức khỏe của nhiều cơ quan, bao gồm tim, phổi và não”. Vì vậy dầu thầu dầu có ảnh hưởng tích cực đến hệ thống bạch huyết có nghĩa là lưu thông tổng thể tốt hơn và tăng cường sức khỏe cho các cơ quan quan trọng như tim mạch. Như bạn đã biết, làn da muốn khỏe đẹp không chỉ tác động bên ngoài mà còn phải nuôi dưỡng từ sâu bên trong. Sức khỏe của làn da thường phản ánh sức khỏe của ruột, hệ thống miễn dịch và cân bằng nội tiết tố. Đặc biệt với các làn da “đỏng đảnh” nhạy cảm, rất khó để bạn có thể chọn lựa được mỹ phẩm phù hợp và không gây kích ứng cho làn da. Dầu thầu dầu hoàn toàn tự nhiên và không chứa hóa chất tổng hợp (tất nhiên, miễn là bạn sử dụng loại tinh khiết 100%), nhưng nó rất giàu thành phần thúc đẩy làn da như axit béo. Sử dụng dầu thầu dầu cho da khô hoặc da bị kích ứng có thể giúp ngăn ngừa khô da và giữ độ ẩm thích hợp cho làn da. Dầu thầu dầu cũng có thể giúp chữa lành vết thương nhờ vào tính giữ ẩm cũng như các đặc tính kháng khuẩn của nó. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng dầu thầu dầu có hiệu quả chống lại nhiều loại vi khuẩn, bao gồm Staphylococcus aureus, Escherichia coli , Pseudomonas aeruginosa (Xem thêm nghiên cứu tại đây). Trong số tất cả các vi khuẩn tụ cầu, Staphylococcus aureus được coi là nguy hiểm nhất và có thể gây nhiễm trùng da từ nhẹ đến nghiêm trọng. Dầu thầu dầu có thể được sử dụng để xoa bóp bàn tay giúp làm mờ các nếp nhăn. Thoa dầu thầu dầu lên da tay và móng tay của bạn mỗi đêm trước khi đi ngủ, nó sẽ làm mềm lớp biểu bì và ngăn ngừa móng tay khỏi bị nứt nẻ. Nếu bạn đang lo lắng về nứt gót chân, thì hãy nghĩ ngay đến việc thoa dầu thầu dầu trước khi đi ngủ nhé!. Dầu thầu dầu là phương pháp được khuyến nghị cổ xưa nhất khi cần kích đẻ tự nhiên, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy nó có hiệu quả, và nó còn có thể khiến bạn cảm thấy khó chịu. Dầu thầu dầu là một phương thuốc tự nhiên được sử dụng để tăng co bóp tử cung. Trong nhiều thế kỷ, phụ nữ mang thai tới ngày dự sinh đã uống nó để giúp tăng tốc độ co thắt tử cung. Lý do dầu thầu dầu có thể tăng co bóp là do axit ricinoleic trong dầu có thể kích hoạt các thụ thể prostanoid EP3 trong tử cung. Theo một nghiên cứu được tiến hành trong năm năm và báo cáo vào năm 2018, “Việc sử dụng dầu thầu dầu có liên quan đến xác suất khởi đầu chuyển dạ cao hơn trong vòng 24 giờ. Dầu thầu dầu có thể được coi là một phương pháp phi dược lý an toàn cho cảm ứng co bóp chuyển dạ”. Ngoài ra, các đối tượng nghiên cứu toàn thời gian (từ 40 đến 41 tuần) uống dầu thầu dầu có tỷ lệ mổ đẻ thấp hơn. (Xem thêm nghiên cứu tại đây). Một nhược điểm của việc sử dụng dầu thầu dầu (và lý do nó không thường được sử dụng trong các bệnh viện) là một số phụ nữ cảm thấy buồn nôn sau khi uống nó. Là một tác nhân kháng khuẩn tự nhiên, dầu thầu dầu hoạt động tương tự như dầu dừa để tăng cường sức khỏe cho da. Nó cũng là một loại kem dưỡng ẩm da tuyệt vời và có tác dụng chống viêm. Nếu bạn muốn thoát khỏi mụn trứng cá, bạn cần phải tìm đến nguồn gốc của vấn đề. Dầu thầu dầu là một phương thuốc tự nhiên tuyệt vời để chống lại mụn trứng cá nhẹ. Khi nó thâm nhập sâu vào da, nó chống lại vi khuẩn có thể làm tắc nghẽn lỗ chân lông, đồng thời làm mềm và làm ẩm da bị kích ứng cùng một lúc. Như mình đã đề cập trước đó, dầu thầu dầu đã được chứng minh là có khả năng chống lại Staphylococcus aureus, là nguyên nhân thường gây ra mụn bởi chủng vi khuẩn này. Đối với điều trị mụn, dùng một tăm bông sạch thấm dầu thầu bôi vào chỗ da bị mụn. Bạn cũng có thể thử sử dụng giấm táo và các loại tinh dầu như hương trầm trộn với một lượng nhỏ dầu dừa nguyên chất. Tất cả các phương pháp này làm giảm viêm sưng của mụn trứng cá, giảm đau và tránh để lại sẹo. Để ngăn ngừa mụn trong tương lai, hãy rửa mặt trước bằng nước ấm để giãn nở lỗ chân long, sau đó massage một ít dầu vào mặt và để nó qua đêm, rửa sạch vào sáng hôm sau. Để làm ẩm da mà không làm tắc nghẽn lỗ chân lông: Trộn 1/4 muỗng dầu thầu dầu và 3/4 muỗng dầu dừa nguyên chất (hoặc 3/4 muỗng dầu mè), sau đó thoa lên cơ thể và khuôn mặt của bạn. Để dưỡng ẩm cho làn da thường hoặc da nhờn, hãy thử sử dụng 1/4 chén dầu thầu dầu với dầu jojoba, dầu hạt nho hoặc dầu ô liu thay vì dầu dừa và dầu mè. Nhẹ nhàng massage vùng da khô của bạn bằng hỗn hợp. Có thể để qua đêm và sau đó rửa sạch vào buổi sáng bằng nước ấm. Một lựa chọn khác là tạo mặt nạ bằng cách sử dụng một muỗng cà phê dầu thầu dầu cùng với lòng đỏ trứng. Thoa hỗn hợp lên mặt trong 10–15 phút, sau đó rửa sạch lại mặt. Các đặc tính chống viêm của dầu thầu làm giảm đau và đỏ từ đó giúp làm dịu da cháy nắng. Sử dụng dầu thầu dầu trộn với dầu dừa (tỷ lệ 1: 1) cho vùng bị ảnh hưởng hoặc thử phương pháp tương tự như dưỡng môi tự nhiên để giải quyết đôi môi bị nứt nẻ hoặc bị cháy nắng. Dầu thầu dầu và axit ricinoleic có thể tăng cường sự thâm nhập qua da của các hóa chất khác, vì vậy bạn nên sử dụng dầu thầu dầu cùng với các mỹ phẩm chăm sóc da phù hợp với bạn. Dầu thầu dầu hoạt động như một thuốc nhuận tràng tự nhiên khi uống, giúp giảm căng thẳng trong khi đi vệ sinh và giúp bạn “đi ngoài” dễ dàng hơn. Thành phần hoạt tính của nó, axit ricinoleic, được giải phóng vào ruột, nơi nó cùng với quá trình tiêu hóa, hấp thụ chất dinh dưỡng và làm sạch hệ thống ruột. Tác dụng giảm táo bón tự nhiên của dầu thầu dầu cũng đã được chứng minh bởi các nghiên cứu. Một nghiên cứu được tiến hành ở Thổ Nhĩ Kỳ đã xem xét tác động của dầu thầu dầu trên người cao tuổi bị táo bón. Những người tham gia nghiên cứu được theo dõi trong một tuần, ba ngày trước và bốn ngày sau khi dùng dầu. 80% các cá nhân được nghiên cứu đã trải qua táo bón trong 10 năm hoặc lâu hơn. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng dầu thầu dầu đã có thể làm giảm các triệu chứng táo bón, đặc biệt là căng thẳng trong khi đi vệ sinh. ( Xem thêm nghiên cứu tại đây). Dầu thầu dầu thường được sử dụng như là một biện pháp điều trị cho viêm khớp làm giảm đau khớp, sưng khớp. Đặc tính chống viêm tự nhiên khiến nó trở thành một loại dầu massage lý tưởng có thể được áp dụng cho các khớp, cơ hoặc mô bị đau.
Dầu thầu dầu
Dầu thầu dầu là dầu thực vật thu được bằng cách ép hạt cây thầu dầu (Ricinus communis). Dầu thầu dầu có tên là "castor oil", từ loại cây được đặt tên, có lẽ đến từ cách sử dụng như một chất thay thế cho castoreum, một cơ sở nước hoa được làm từ tuyến đáy chậu khô của hải ly (castor trong tiếng Latinh).Dầu thầu dầu là chất lỏng màu không màu hoặc vàng nhạt với vị và mùi khác biệt khi ăn vào. Điểm sôi của dầu là 313 °C (595 °F) và mật độ 961 kg/m3. Đó là một triglyceride trong đó có khoảng 90% axit béo chuỗi là ricinoleates. Axit oleic và axit linoleic là những thành phần quan trọng khác. Dầu thầu dầu và các dẫn xuất của nó được sử dụng trong sản xuất xà phòng, dầu bôi trơn công nghiệp, dầu phanh và thủy lực, sơn, thuốc nhuộm, chất phủ, mực viết, chất dẻo kháng lạnh, sáp và chất đánh bóng, nylon, dược phẩm và nước hoa.
Bà mẹ nhiễm HIV tuyệt đối không nên nuôi con bằng sữa mẹ, giảm tối đa nguy cơ lây truyền virus HIV sang con. Bác sĩ Võ Hoàng Anh Tuấn, khoa Sản - Phụ khoa, Bệnh viện Đa khoa Xuyên Á, cho biết, một nửa số trẻ em sống, sinh ra từ người mẹ nhiễm HIV, có nguy cơ mắc bệnh nếu không được can thiệp y tế đúng cách. Virus HIV lây từ mẹ sang con có thể diễn ra trong ba thời kỳ. Gồm, giai đoạn mang thai, virus từ máu mẹ qua nhau thai vào cơ thể thai nhi (20-30%). Giai đoạn sinh nở, dù đẻ thường qua ngả âm đạo hay đẻ mổ thì nguy cơ cũng cao hơn, 50%. Virus từ nước ối, dịch tử cung, dịch âm đạo hoặc vết thương chảy máu ở âm đạo của mẹ xâm nhập vào trẻ thông qua niêm mạc mắt, mũi, hậu môn hoặc vết xước trên da trẻ. 20-30% còn lại xảy ra nếu trẻ bú sữa mẹ. Theo bác sĩ Tuấn, virus luôn tồn tại trong sữa mẹ, dù chúng có bị kiểm soát ở tải lượng thấp nhất, thì tỷ lệ lây nhiễm vẫn cao. Khi trẻ bú mẹ nhiều lần trong ngày, HIV có thể xâm nhập qua niêm mạc miệng, lưỡi, lợi của trẻ. Đặc biệt, nếu trẻ có các viêm nhiễm, sang thương trong khoang miệng (viêm lợi, mọc răng, nấm miệng.) hoặc niêm mạc đường ruột, nguy cơ tăng. Ngoài ra, trong trường hợp vú mẹ có viêm nhiễm, có vết nứt "cổ gà", hay bị trẻ ngứa lợi mọc răng cắn gây chảy máu, HIV có thể theo máu xâm nhập vào cơ thể trẻ. Bác sĩ Tuấn khám và tư vấn cho một sản phụ sắp đến ngày dự sinh (người mẹ không mang HIV). Bác sĩ khuyến cáo mọi bà mẹ cần đi tầm soát HIV trước, trong và sau thời kỳ thai sản. Với những bà mẹ không may mắc HIV thì sẽ được can thiệp điều trị bằng thuốc kháng virus ARV sớm nhất, ngay khi phát hiện. "Sản phụ nhiễm HIV là trường hợp đặc biệt. Họ tuyệt đối không nên nuôi con bằng sữa mẹ", bác sĩ Tuấn khẳng định. Đồng quan điểm, bác sĩ Lê Thị Thu Thanh, khoa Sản - Phụ khoa, Bệnh viện Đa khoa Xuyên Á, giải thích, sữa mẹ luôn là thức ăn tốt nhất cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Tuy nhiên, với bà mẹ nhiễm HIV, thành phần sữa đã có sự thay đổi, nhất là chất lượng kháng thể. Do đó, trẻ có mẹ nhiễm HIV nên uống hoàn toàn sữa công thức sau khi chào đời. Theo Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế, can thiệp dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con là biện pháp rất hiệu quả. Tỷ lệ nhiễm HIV từ mẹ sang con năm 2010 là 10,8%. Sau 5 năm, tỷ lệ này giảm xuống còn 2,8%. Đến cuối năm 2019 tỷ lệ này dưới 2%, có nghĩa là cứ 100 phụ nữ nhiễm HIV sinh con thì có hai trẻ bị lây nhiễm HIV từ mẹ. Năm 2019, tính đến 30/9, cả nước ghi nhận 1.569 phụ nữ mang thai nhiễm HIV được điều trị dự phòng bằng ARV; 1.079 trường hợp điều trị trước khi có thai. Số trẻ sinh ra còn sống từ mẹ nhiễm HIV là 1.370, có 1.351 trẻ được điều trị dự phòng ARV.
Nuôi con bằng sữa mẹ và HIV
Nuôi con bằng sữa mẹ cho những bà mẹ nhiễn HIV là cách thực hành cho con bú của những bà mẹ nhiễm HIV và bao gồm cả những người có thể muốn hoặc hiện đang cho con bú. HIV có thể lây truyền sang trẻ sơ sinh thông qua việc cho con bú. Nguy cơ lây truyền thay đổi và phụ thuộc vào tải lượng virus trong sữa mẹ. Trẻ sơ sinh có thể bị nhiễm HIV trong suốt thời gian mang thai hoặc trong khi sinh. Theo đề nghị của WHO với các hướng dẫn về HIV trong nuôi con bằng sữa mẹ cho rằng các bà mẹ nhiễm HIV (đặc biệt ở các nước nghèo nguồn lực) chỉ nên thực hành nuôi con bằng sữa mẹ, thay vì cho con bú kết hợp với việc bổ sung chế độ ăn uống hoặc chất lỏng. Nhiều nghiên cứu đã phát hiện lợi ích to lớn của việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ đối với cả mẹ và con, chứng minh rằng nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong thời gian 6 tháng làm giảm đáng kể việc truyền bệnh, mang lại cho trẻ cơ hội sống sót cao hơn trong năm đầu đời và giúp mẹ để phục hồi nhanh hơn sau những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của việc sinh nở.
Người Dơi Và Siêu Nhân: Ánh Sáng Công Lý bộ phim nói về cuộc chiến giữa Batman và Superman. Batman e sợ những hành động của một Siêu nhân không được kiểm soát, hung hãng, làm cho thành phố anh sinh sống bị tàn lụi, hiện đại cứu tinh Metropolis trong khi thế giới vật lộn với những gì sắp xếp của người anh hùng thực sự cần nó. Và với Batman và Superman có chiến tranh với nhau, một mối đe dọa mới nhanh chóng phát sinh, đưa nhân loại gặp nguy hiểm lớn hơn nó bao giờ được biết đến trước đây. Mời các bạn cùng đón xem nhé.
Batman đại chiến Superman
Batman v Superman: Dawn of Justice (tên tiếng Việt: Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý) là bộ phim siêu anh hùng của hãng Warner Bros., dựa theo các nhân vật Batman và Superman được phát hành bởi DC Comics. Phim do Zack Snyder làm đạo diễn, Chris Terrio và David S. Goyer viết kịch bản, với sự tham gia của các diễn viên Ben Affleck, Henry Cavill, Amy Adams, Jesse Eisenberg, Diane Lane, Laurence Fishburne, Jeremy Irons, Holly Hunter, và Gal Gadot. Batman v Superman: Dawn of Justice là phim thứ hai trong Vũ trụ Mở rộng DC.Phim được công bố vào năm 2013 tại San Diego Comic-Con International, ngay sau khi phát hành Man of Steel. Lúc đầu phim dự định sẽ được phát hành trong năm 2015 nhưng do nhiều lý do việc khởi quay đã bị hoãn lại một thời gian, sau đó mới bắt đầu bấm máy tại Chicago. Zack Snyder đã hoàn thành những cảnh quay cuối cùng vào tháng 12 năm 2014 sau đó là hơn một năm xử lý hậu kỳ cho phim. Batman v Superman: Dawn of Justice được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 3 năm 2016 dưới các dạng 2D, 3D, và DC Extended Universe IMAX 3D.
Bến Đá nằm cạnh vực xoáy ngầm, tất cả những gì từ thượng nguồn thác Đen trong rừng theo suối chảy xuống đều phải dừng lại ở đó: những bè gỗ trên có thả rắn, những vật dụng phế thải và…cả xác người. Từ bến Đá này, Hoạt ngang tàng phóng túng nhưng hiếu thảo (Thạch Kim Long) vừa đi tù thay bố về, gặp Vân (Kiều Trinh) hừng hực sức sống, sắc sảo mặn mà. Kẻ thủng thẳng, người nhát gừng, đã…phải lòng nhau. Không gian chính thứ hai là thăm thẳm đại ngàn, nơi có cây ma, cây sưa hàng nghìn năm tuổi, biểu tượng linh thiêng của rừng. Ở đó có Bền “gỗ” (Trần Văn Duống) phá rừng mưu sinh, báng bổ thần thánh, bước qua những ranh giới thiêng liêng trong giao ước tâm linh giữa người và rừng…. Ở đó có những con người vì sinh kế đã tàn phá rừng không thương tiếc, người đi tới đâu, cây rừng đổ rạp tới đó; tiếng cây ngã đổ, tiếng xao xác chim muông mất tổ gây đau cắt, xót xa. Ở đó ông già nấu bếp (Trần Hạnh) với một niềm tin tâm linh sâu xa, có phần mông muội, đã nhiều lần cảnh báo trong bất lực. Ở đó có cô gái điếm “hoa rừng” làm trò giải khuây cho những gã đàn ông trút những hậm hực vào tấm thân ô uế. Từng đoạt giải khuyến khích cho phim và giải nam diễn viên phụ xuất sắc nhất tại giải Cánh diều vàng 2007, Rừng đen chỉ mới ra mắt một bộ phận khán giả, chủ yếu là báo giới. Rừng đen cũng là phim duy nhất được đề cử tranh giải Oscar 2008 nhưng “hụt” đi tranh giải chỉ vì thiếu tiêu chuẩn “chiếu thương mại trong thời gian bảy ngày”. Ra rạp lần đầu này, Rừng đen được chiếu ít nhất trong vòng hai tuần lễ (từ 24/12) ở bốn cụm rạp: Toàn Thắng, Tân Sơn Nhất, Megastar Hùng Vương và cụm rạp mới Megastar CT Plaza. Rừng đen đơn giản về câu chuyện nhưng lại dữ dội, triệt để trong tình huống, tính cách nhân vật. Trong thời điểm các nhà phê bình than thở nhân vật của phim Việt cứ “mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” và bị “lưỡng lự nhị nguyên” thì hầu hết các nhân vật trong Rừng đen đều đầy cá tính. Đó là một nhóm người sống theo bản năng, trong mọi hành xử đều thể hiện vẹn nguyên bản thể với tất cả xấu, tốt; đều hừng hực sức sống theo cách riêng. Như Vân và Hoạt, cả hai lao vào nhau một cách tự nhiên khi chợt nhận ra họ yêu nhau thật sự, bất kể việc Vân là vợ sắp cưới của Bền “gỗ” - bố của Hoạt. Bền “gỗ” thản nhiên phá rừng, làm tình với “hoa rừng” như người ta ăn ngủ, hít khí trời. Như Tưởng, tức giận cha, trút ẩn ức vào những cuộc mây mưa, cuồng nộ tìm đến chém nhân tình của vợ và bình thản nói với em: “Tao đi tù”. Cũng vậy, những nhân vật phụ trong Rừng đen đều có điểm khác biệt độc đáo, được đạo diễn và biên kịch chăm chút từng chi tiết. Diễn xuất đồng đều của dàn diễn viên tạo nên sức hút cho Rừng đen. Đặc biệt, Thạch Kim Long lần đầu giữ vai nam chính đã thuyết phục khán giả với hình ảnh Hoạt đầy nam tính: ngang tàng, phóng túng, trọng nghĩa, tình. Vẫn là rừng - sở trường của Vương Đức- nhưng Rừng đen khác với Những người thợ xẻ. Một phim là rừng của những kẻ “kéo cưa lừa xẻ” vừa làm vừa lừa. Một phim là nỗi đau đáu và day dứt về ứng xử của con người trước mỗi “sinh linh” cây rừng. Dĩ nhiên khi làm thiên nhiên phẫn nộ thì con người sẽ phải trả giá. Thế nhưng nỗi xót xa vẫn lớn lao bởi vì dù cái giá phải trả là sinh mệnh con người thì những cây rừng cũng đã bị đốn hạ…Cần đến hàng nghìn năm nữa để sửa chữa lỗi lầm ấy. Rừng đen có nhiều nhân vật có sức sống của một biểu tượng. Ông già mù ở bến Đá là một ẩn dụ thú vị về con người và sự thờ ơ, hoàn toàn không chú ý gì đến những tội ác xảy ra bên cạnh mình và cuối cùng chỉ có sự câm lặng đáp lại lời ông kêu cứu. Ông già nấu bếp luôn cúng bái và sợ hãi trước những điềm tâm linh. Bền “gỗ” báng bổ trời đất và sổ toẹt mọi giá trị sống. Bến Đá - nơi đón nhận tất cả của rừng đổ về và giữ lại ở đó tất cả. Cơn mưa đen và lời nguyền thác Đen… Tất cả đã mang lại một không gian riêng, tạo nên sinh khí riêng cho Rừng đen - điều mà không nhiều phim VN có thể mang lại. Đọc tin “Một mình Rừng đen chống lại phim ngoại trong mùa Giáng sinh” không khỏi chạnh lòng khi tưởng tượng cảnh bộ phim này cũng như những bộ phim Việt Nam trước đó, như Mùa len trâu, Sống trong sợ hãi, Hạt mưa rơi bao lâu…ra rạp và loe hoe một vài khán giả. Rừng đen là một bộ phim hay, có giá trị, được đạo diễn bởi một tên tuổi cứng cựa trong làng điện ảnh, có sự tham gia của nhiều diễn viên giỏi. Tên tuổi Rừng đen cũng đã được nhắc đi nhắc lại trên báo đài khá nhiều khi bộ phim này từng đoạt giải khuyến khích Cánh diều vàng 2007 và mất cơ hội tham dự giải Oscar. Nhưng hình như bao nhiêu đó chưa đủ khi tình cảm, suy nghĩ của khán giả VN dường như đã trở thành định kiến: cứ phim VN đã thấy không muốn coi. Có một dạo những bộ phim VN được xác định là phim thương mại như Gái nhảy, Nụ hôn thần chết… cũng làm được động tác quan trọng là kéo khán giả trở lại rạp. Nhưng vô tình chính hai chữ thương mại ấy cũng làm nhiều khán giả khó tính càng trở nên xa rời với phim VN hơn khi trong nếp nghĩ mới của họ: Phim VN hoặc là phim thương mại, hoặc là phim không hay, rốt cục đều không đáng để xem. Những bộ phim này phải tung thêm những chiêu PR, quảng cáo, khuyến mãi khác để thu hút thêm khán giả? Câu hỏi đặt ra đã vướng ngay câu trả lời “đầu tiên, tiền đâu”, và ai sẽ là mạnh thường quân đầu tư những chi phí này. Hay là làm cho mọi người đồng lòng với những chiến dịch như “Người Việt hãy xem phim Việt”? Câu hỏi mới nghe đã không muốn trả lời, rằng rõ ràng với những sản phẩm văn hóa, không thể áp dụng những khẩu hiệu, những nhân danh hay áp đặt. Thôi, chỉ xin nhân danh chính mình, một khán giả mê điện ảnh, chẳng quen biết gì với đạo diễn Vương Đức hay các diễn viên nổi tiếng trong phim, nhưng đã may mắn được xem Rừng đen, chia sẻ với mọi người: Rừng đen đáng xem. Và một bộ phim hay hoặc dở không phụ thuộc lắm vào cái gọi là Hollywood hay Hong Kong, hay Pháp, Ý…
Rừng đen (phim)
Rừng đen là một bộ phim chính kịch điện ảnh Việt Nam năm 2007 do Vương Đức đạo diễn, dựa trên kịch bản Người vớt củi của Lê Ngọc Linh. Phim có sự tham gia của các diễn viên Thạch Kim Long, Nguyễn Thị Kiều Trinh và Trần Văn Duống. Rừng đen đã xuất sắc giành giải khuyến khích (chia sẻ với Em muốn làm người nổi tiếng) cũng như nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Trần Văn Duống tại lễ trao giải cánh diều vàng 2007. Ngoài ra phim cũng đoạt giải Bông sen bạc cho phim truyện điện ảnh xuất sắc nhất năm 2007 cùng Trăng nơi đáy giếng. Rừng đen là câu chuyện về sự ly tán của một gia đình thợ rừng, những người dám đốn cây cổ thụ và xâm phạm tính linh thiêng của cánh rừng già. Sau khi đi tù thay cha, Hoạt tìm đường vào rừng để gặp lại cha và anh trai. Trong lúc chờ đò qua sông, Hoạt gặp Vân mà không biết rằng cô là người tình của cha mình. Trước lúc nghỉ nghề thợ rừng và chuyển giao quyền làm chủ nhóm cho Hoạt, ông Bền quyết định làm một phi vụ đặc biệt.
Hằng số vũ trụ có lẽ là một dạng vật chất hoặc năng lượng bí ẩn hoạt động đối nghịch với lực hấp dẫn và được nhiều nhà vật lý coi là tương đương với năng lượng tối . Không ai thực sự biết chính xác hằng số vũ trụ là gì, nhưng nó được yêu cầu trong các phương trình vũ trụ để dung hòa lý thuyết với những quan sát của chúng ta về vũ trụ. Albert Einstein , nhà vật lý nổi tiếng người Mỹ gốc Đức, đã đưa ra hằng số vũ trụ, mà ông gọi là “hằng số phổ quát”, vào năm 1915 như một phương tiện để cân bằng các phép tính nhất định trong lý thuyết tương đối rộng của ông. Vào thời điểm đó, các nhà vật lý tin rằng vũ trụ là tĩnh – không giãn nở cũng không co lại – nhưng công trình của Einstein cho rằng lực hấp dẫn sẽ khiến nó làm việc này hay cách khác. Vì vậy, để phù hợp với sự đồng thuận của khoa học, Einstein đã chèn một hệ số fudge, được ký hiệu bằng chữ cái Hy Lạp lambda, vào kết quả của mình, điều này giữ cho vũ trụ đứng yên. Tuy nhiên, hơn một thập kỷ sau, nhà thiên văn học người Mỹ Edwin Hubble nhận thấy rằng các thiên hà thực sự đang di chuyển ra khỏi chúng ta, cho thấy vũ trụ đang giãn nở. Einstein gọi lambda là “sai lầm lớn nhất” của ông. Các quan sát của Hubble đã phủ nhận sự cần thiết của một hằng số vũ trụ trong nhiều thập kỷ, nhưng điều đó đã thay đổi khi các nhà thiên văn kiểm tra các siêu tân tinh ở xa vào cuối những năm 1990 phát hiện ra rằng vũ trụ không chỉ đang giãn nở mà còn đang tăng tốc trong quá trình giãn nở của nó. Họ đặt tên cho lực phản trọng lực bí ẩn cần thiết để giải thích cho hiện tượng này là “năng lượng tối “. Vào những năm 1920, nhà vật lý người Nga Alexander Friedmann đã phát triển một phương trình, ngày nay được gọi là Phương trình Friedmann, mô tả các đặc tính của vũ trụ từ Vụ nổ BigBang trở đi, theo một hướng dẫn trực tuyến từ Đại học Bang Georgia . Bằng cách quét sạch lambda của Einstein và gắn nó vào các phương trình Friedmann, các nhà nghiên cứu có thể lập mô hình vũ trụ một cách chính xác – tức là với tốc độ giãn nở ngày càng nhanh. Phiên bản này của Phương trình Friedmann hiện tạo thành xương sống của lý thuyết vũ trụ học đương đại, được gọi là ΛCDM (Lambda CDM, trong đó CDM là viết tắt của vật chất tối lạnh) và giải thích cho tất cả các thành phần đã biết của thực tại. Tuy nhiên, không ai thực sự hiểu lambda là gì. Hầu hết các nhà vật lý coi nó có thể thay thế cho khái niệm năng lượng tối, nhưng điều đó không làm cho mọi thứ rõ ràng hơn vì năng lượng tối chỉ đơn giản là một phần giữ chỗ mô tả một số chất phản trọng lực chưa biết. Vì vậy, về cơ bản chúng tôi đã hoàn nguyên để sử dụng hệ số fudge của Einstein. Một giải thích tiềm năng cho hằng số vũ trụ nằm trong lĩnh vực vật lý hạt hiện đại. Các thí nghiệm đã xác minh rằng không gian trống rỗng được xuyên qua bởi vô số hạt ảo liên tục xuất hiện và tồn tại. Hành động không ngừng này tạo ra thứ được gọi là “năng lượng chân không”, hoặc một lực sinh ra từ không gian trống, vốn có trong cấu trúc của không-thời gian có thể phá hủy vũ trụ. Nhưng kết nối năng lượng chân không với hằng số vũ trụ là không đơn giản. Dựa trên những quan sát của họ về các siêu tân tinh, các nhà thiên văn học ước tính rằng năng lượng tối nên có một giá trị nhỏ và trầm lắng, chỉ đủ để đẩy mọi thứ trong vũ trụ ra xa nhau trong hàng tỷ năm. Tuy nhiên, khi các nhà khoa học cố gắng tính toán lượng năng lượng sẽ phát sinh từ chuyển động của các hạt ảo, họ đưa ra kết quả lớn hơn 120 bậc độ lớn so với những gì dữ liệu siêu tân tinh đề xuất. Để thêm vào câu hỏi hóc búa, một số nhà nghiên cứu đã đề xuất rằng hằng số vũ trụ có thể không phải là một hằng số, mà là thay đổi hoặc dao động theo thời gian. Lý thuyết này được gọi là tinh hoa và một số dự án, chẳng hạn như Khảo sát Năng lượng Tối , hiện đang thực hiện các quan sát chính xác để xem liệu nó có bất kỳ hỗ trợ quan sát nào hay không. Trong khi chờ đợi, các nhà vũ trụ học sẽ tiếp tục sử dụng lambda. Họ có thể không biết nó là gì, nhưng họ biết rằng họ cần nó để làm cho vũ trụ có ý nghĩa.
Hằng số vũ trụ
Trong phạm vi của ngành vũ trụ học, hằng số vũ trụ (hay hằng số vũ trụ học) là dạng mật độ năng lượng đồng nhất gây ra sự giãn nở gia tốc của vũ trụ. Nó được đề xuất từ lúc mới hình thành phát triển của thuyết tương đối rộng để có thể miêu tả một nghiệm vũ trụ tĩnh suy ra từ phương trình trường Einstein, nhưng sau đó các nhà thiên văn từ bỏ nó khi các quan sát thực nghiệm trong thập niên 1930 cho thấy vũ trụ đang giãn nở. Hiện tại, hằng số vũ trụ học được khôi phục trở lại nhằm giải thích kết quả quan sát vũ trụ đang giãn nở gia tốc. Hằng số vũ trụ học là cách giải thích đơn giản nhất cho năng lượng tối, nguyên nhân chưa được hiểu rõ gây ra sự giãn nở gia tốc này. Vật lý lượng tử cũng tiên đoán sự tồn tại của nó dưới dạng năng lượng chân không, mặc dù độ lớn tính toán từ lý thuyết lượng tử không khớp với giá trị đo được của vật lý vũ trụ học. Hằng số vũ trụ xuất hiện lần đầu tiên trong một bài báo năm 1917 của Einstein có tiêu đề "Những khía cạnh vũ trụ học của thuyết tương đối tổng quát".
“Cải cách thể chế, cải cách thể chế và cải cách thể chế” đang là khẩu hiệu hành động được nhiều nhà lãnh đạo đưa ra. Quả thực, về mặt nhận thức, đây là một thành tựu rất đáng được ghi nhận. Không có được nhận thức như vậy, không thể có đủ quyết tâm chính trị để thúc đẩy những cải cách về cơ bản là khó khăn và cũng đầy rủi ro. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ nằm ở nhận thức về sự cần thiết phải cải cách thể chế, mà còn nằm ở sự hiểu biết về việc phải cải cách như thế nào và xử lý những rủi ro đi kèm ra làm sao. Thủ tướng làm việc với các doanh nghiệp CNC đang đầu tư tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc. Để trả lời câu hỏi cải cách thể chế như thế nào thì quan trọng nhất là lựa chọn mô hình thể chế. Các mô hình thể chế đưa lại thành công và thịnh vượng không thiếu ở trên thế giới. Vấn đề là phải lựa chọn cho được mô hình phù hợp với Việt Nam. Các nước Mỹ, Úc, Canada, New Zealand đều đã từng là thuộc địa của nước Anh và đều đã rất thành công khi áp dụng mô hình thể chế của Anh cho đất nước mình. (Mỹ có mô hình tổ chức nhà nước hơi khác, nhưng về cơ bản, các mô hình thể chế khác đều chịu ảnh hưởng của Anh). Nhiều người cho rằng di sản lớn nhất của Anh là mô hình thể chế của nước này. Các nước cựu thuộc địa của Anh đã được tận hưởng mô hình thể chế của Anh nên đều rất phát triển. Tuy nhiên, nếu nhận xét nói trên đúng cho nước Mỹ, Úc, Canada, New Zealand, thì có vẻ lại không hoàn toàn đúng cho Ấn Độ, Pakistan và nhiều nước châu Á-Phi từng là thuộc địa của Anh khác. Tại sao mô hình thể chế của nước Anh lại chỉ phát huy tác dụng ở một số nước, còn ở một số nước khác thì không? Câu trả lời nằm ở nền tảng văn hóa của các nước. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, các nước Mỹ, Úc, Canada, New Zealand có nền tảng văn hóa tương đồng với nước Anh. Người Anh đã không chỉ xuất khẩu thể chế, mà còn di dân và xuất khẩu văn hóa tới những nước trên. Trong lúc đó, nước Anh đã không thể xuất khẩu văn hóa của mình sang Ấn Độ, Pakistan và các nước cựu thuộc địa khác. Chính vì thế mô hình thể chế của nước Anh ít phát huy tác dụng ở các nước nói trên. Điều dễ nhận thấy ở đây là: một mô hình thể chế chỉ phát huy tác dụng ở các nước có nền tảng văn hóa tương đồng và ít phát huy tác dụng ở các nước có nền tảng văn hóa khác biệt. Tương tự cũng là điều chúng ta có thể nói về mô hình thể chế của nhà nước phúc lợi. Các nhà nước phúc lợi Bắc Âu (Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy…) là mô hình thể chế có thể được coi là thịnh vượng và tốt đẹp nhất đang tồn tại trên thế giới hiện nay. Ở các nước này, người dân sinh ra đã được nhà nước chăm lo đầy đủ về mọi mặt. Cuộc sống của họ hết sức an toàn và hạnh phúc. Thế nhưng tại sao một mô hình thể chế tốt đẹp (có người còn coi là mô hình thể chế chủ nghĩa xã hội nhất) lại không thể nhân rộng ra được ngoài vùng Bắc Âu? Lý do là vì thiếu nền tảng văn hóa của Bắc Âu không thể vận hành được một mô hình như vậy. “Biết thế nào là đủ” là một nét văn hóa rất đặc biệt của những người dân Bắc Âu. Những người dân này sẵn sàng đóng thuế cho nhà nước đến 70-75% thu nhập của mình mà không hề tâm tư, suy bì. Bất cứ ở một nơi nào khác trên thế giới, mức thuế như trên sẽ triệt tiêu động lực làm việc, còn ở các nước Bắc Âu thì lại không. Ví dụ từ các nước Bắc Âu một lần nữa khẳng định nền tảng văn hóa là rất quan trọng để một mô hình thể chế có thể thành công. Về mặt vị trí địa lý, Việt Nam thuộc về nhóm các nước Đông Nam Á. Ăn cơm bằng đũa, viết chữ tượng hình (Việt Nam đã từng có chữ Nôm là chữa tượng hình) chỉ là một vài biểu hiện ra bên ngoài của văn hóa Đông Bắc Á. Cái nằm sâu bên trong ảnh hưởng đến cách nghĩ, cách hành xử của cư dân ở vùng này là tinh thần và tư tưởng Nho giáo. Một trong những đặc điểm nổi bật của các nước này là truyền thống khoa bảng. Học hành, thi cử để làm quan là con đường phấn đấu được coi trọng nhất. Đây cũng là nền tảng văn hóa để nhà nước có thể tuyển dụng được những người tài giỏi nhất cho nền quản trị công. Một mô hình thể chế chỉ phát huy tác dụng ở các nước có nền tảng văn hóa tương đồng và ít phát huy tác dụng ở các nước có nền tảng văn hóa khác biệt. Mô hình thể chế được hầu hết các nước Đông Bắc Á lựa chọn là nhà nước kiến tạo phát triển (developmental state). Sự thành công của các nước này cho thấy mô hình nhà nước kiến tạo phát triển rất phù hợp với nền tảng văn hóa của các nước Đông Bắc Á. Mà như vậy thì mô hình này có nhiều khả năng sẽ phù hợp với Việt Nam hơn cả. Điều đáng nói ở đây là rất nhiều nước ở các vùng miền khác trên thế giới đã cố gắng áp dụng mô hình nhà nước kiến tạo phát triển, nhưng đều đã không thành công. Trường hợp ngoại lệ , có lẽ, chỉ là Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất. Khái niệm “nhà nước kiến tạo phát triển” được nhà nghiên cứu Chalmers Johnson đưa ra từ những năm tám mươi của thế kỷ trước khi ông nghiên cứu về sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Ông nhận thấy rằng trong sự phát triển thần kỳ ấy có vai trò rất quan trọng của nhà nước. Nhà nước Nhật Bản đã không chỉ tạo ra khuôn khổ cho sự phát triển, mà còn định hướng và thúc đẩy sự phát triển đó. Sau này, ngoài Nhật Bản ra, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc. đều được xem là những nhà nước kiến tạo phát triển. Đặc trưng hết sức cơ bản của mô hình nhà nước kiến tạo là nhà nước trực tiếp đề ra một kế hoạch phát triển công nghiệp (với những tham vọng lớn) và đầu tư mạnh mẽ về cơ chế, chính sách và nhiều khuyến khích khác để thúc đẩy công nghiệp phát triển. Theo các nhà nghiên cứu, đây là mô hình nhà nước nằm ở giữa nhà nước điều chỉnh Anh-Mỹ (theo chủ thuyết thị trường tự do) và nhà nước kế hoạch hóa tập trung (theo mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống). Nhà nước kiến tạo phát triển không đứng ngoài thị trường, nhưng cũng không làm thay thị trường. Mà nhà nước kiến tạo phát triển chủ động can thiệp mạnh mẽ vào thị trường để thúc đẩy phát triển và hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đã được đề ra. Để đạt được mức tăng trưởng GDP gấp đôi, một nhà nước điều chỉnh (như Mỹ) sẽ phải mất đến 50 năm, trong lúc đó một nhà nước kiến tạo phát triển (như Trung Quốc) chỉ mất 10 năm. Do là một nước có nền tảng văn hóa của Đông Bắc Á, mô hình nhà nước kiến tạo phát triển có thể là tối ưu cho Việt Nam. Thật ra, kể từ Đại hội VI của Đảng, chúng ta đã thật sự từ bỏ mô hình nhà nước kế hoạch hóa tập trung, mà đi theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển. Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối công nghiệp hóa đất nước, đã công nhận cơ chế thị trường, nhưng vẫn coi trọng vai trò quản lý của Nhà nước. Như vậy tất cả các phần cấu thành quan trọng của một nhà nước kiến tạo phát triển đều đã được khẳng định trong đường lối phát triển của chúng ta. Có lẽ, chính vì thế, kinh tế nước ta đã có sự phát triển khá ngoạn mục trong thời gian vừa qua. Sau 30 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế, cũng như thu nhập bình quân đầu người ở nước ta đã tăng đến hàng chục lần. Rất nhiều nước cộng hòa Xô viết (thuộc Liên Xô trước đây) từ bỏ mô hình nhà nước kế hoạch hóa tập trung đã không có được một sự phát triển ngoạn mục như vậy. Tuy nhiên, vấn đề là đất nước ta vẫn chưa trở thành “hổ”, thành “rồng’ như các nước Đông Bắc Á. Nguyên nhân có nhiều, nhưng cơ bản nhất là chúng ta đã không thúc đẩy phát triển công nghiệp thông qua các công ty, các tập đoàn tư nhân như ở Nhật Bản và Hàn Quốc, mà lại thông qua các doanh nghiệp nhà nước. Một nguyên nhân cơ bản khác nữa là chúng ta cũng đã không có được một bộ máy hành chính, công vụ chuyên nghiệp và tài giỏi để hiện thực hóa chương trình công nghiệp hóa. Có lẽ đây là những khiếm khuyết mà chúng ta phải tập trung mọi nỗ lực để khắc phục. Đồng thời phải kiên trì mô hình nhà nước kiến tạo phát triển. Công bằng mà nói, một khuôn khổ khái niệm sáng rõ và mạch lạc về mô hình nhà nước kiến tạo phát triển chưa thật sự hình thành ở nước ta. Sự lựa chọn của chúng ta trong quá trình đổi mới nếu không phải do may mà đúng, thì cũng chủ yếu là đi theo sự đòi hỏi khách quan của tình hình hơn là trên một nền tảng lý thuyết vững chắc. Tuy nhiên, điều đáng băn khoăn là những cố gắng của chúng ta trong thời gian gần đây lại có vẻ đang đi chệch khỏi mô hình nhà nước kiến tạo phát triển sang mô hình nhà nước điều chỉnh. Khi Chính phủ kiến tạo phát triển được hiểu là: “Chính phủ chủ động thiết kế ra một hệ thống pháp luật tốt, những chính sách tốt, thể chế tốt để nuôi dưỡng nền kinh tế phát triển”; “Nhà nước không làm thay thị trường”; “Chính phủ phải kiến thiết được môi trường kinh doanh thuận lợi”. Đây quả thực là mô thức hành động của nhà nước điều chỉnh (trong đó có Chính phủ điều chỉnh) theo mô hình Anh, Mỹ. Cách làm này đã đưa lại sự phát triển và thịnh vượng cho hai quốc gia nói trên là điều không thể chối cãi. Và trong điều kiện các doanh nghiệp của nước ta làm ăn khó khăn như hiện nay, có lẽ đây cũng là cách làm rất cần thiết. Tuy nhiên, rủi ro lớn nhất ở đây là các điều kiện kinh doanh thuận lợi có thể được tạo ra, nhưng tận dụng chúng lại là các doanh nghiệp nước ngoài chứ không phải là doanh nghiệp Việt. Thành công của mô hình nhà nước điều chỉnh vì vậy còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của các doanh nghiệp trong nước. Sự lựa chọn đúng đắn hơn cho đất nước ta vì vậy có vẻ vẫn là mô hình nhà nước kiến tạo phát triển (theo mô hình các quốc gia Đông Bắc Á) chứ không hẳn là mô hình nhà nước điều chỉnh (theo kiểu Anh-Mỹ). Lựa chọn mô hình nhà nước kiến tạo phát triển là tối ưu cho đất nước ta, tuy nhiên rủi ro của lựa chọn này là hoàn toàn không nhỏ. Trước hết, là rủi ro về năng lực. Chúng ta có khả năng hoạch định chính sách phát triển công nghiệp đúng đắn hay không? Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thì chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam phải là gì? Đây quả thực là những câu hỏi không dễ trả lời. Thiếu một đội ngũ lãnh đạo tinh hoa khó lòng hoạch định chính sách phát triển đúng đắn được. Để có được một đội ngũ lãnh đạo như vậy, việc thu hút người tài vào trong Đảng là rất quan trọng. Đây phải được coi là một trong những nhiệm vụ chiến lược hàng đầu của Đảng ta trong thời gian sắp tới. Ngoài ra, tận dụng tri thức của giới Việt kiều tinh hoa để hoạch định chính sách phát triển công nghiệp cũng rất quan trọng. Rủi ro thứ 2, do đã hội nhập sâu rộng với thế giới và tham gia rất nhiều các hiệp định về tự do thương mại song phương và đa phương, nên không gian chính sách còn lại của Nhà nước ta cho việc hoạch định và triển khai chương trình công nghiệp hóa một cách độc lập và tự chủ là rất nhỏ hẹp. Bị ràng buộc bởi vô vàn những cam kết quốc tế, Nhà nước rất khó can thiệp vào thị trường để thúc đẩy phát triển những ngành công nghiệp mà chúng ta lựa chọn. Để vượt qua rủi ro này, quan trọng là phải nâng cao năng lực thiết kế các hàng rào kỹ thuật, các hàng rào về thủ tục. Điều này có vẻ như đang đi ngược với những cố gắng cắt giảm thủ tục hành chính của Chính phủ hiện nay. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn phát triển ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam, thì hàng rào kỹ thuật là rất cần thiết để ngành công nghiệp non trẻ này của đất nước không bị cạnh tranh quốc tế bóp chết từ trong trứng nước. Tận dụng các khoảng trống chính sách cũng rất quan trọng ở đây. Không hiệp định tự do thương mại nào có thể ngăn cản chúng ta đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu và phát triển (R&D) trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng cả. Tại sao chúng ta không đầu tư vào đây, khi cần thiết thì vẫn có thể chuyển giao các thành tựu nghiên cứu cho các lĩnh vực dân sự?. Rủi ro thứ 3, bộ máy hành chính và đội ngũ công chức của chúng ta khá yếu kém. Bộ máy này đang bị chính trị hóa rất nặng nề. Nhiều quan chức hành chính chỉ giỏi nói chính trị, nói nghị quyết, nhưng lại không tài giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, không giỏi điều hành. Không có đội ngũ công chức hành chính tinh hoa, không thể vận hành hiệu quả mô hình nhà nước kiến tạo phát triển. Chủ trương cắt giảm bộ máy hiện nay là cơ hội để chúng ta loại bỏ bớt những công chức năng lực hạn chế ra khỏi bộ máy hành chính. Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là phải lựa chọn cho được những người tài giỏi nhất vào bộ máy hành chính. Truyền thống khoa bảng là điều kiện rất thuận lợi để chúng ta tuyển chọn người tài ở đây. Ngoài ra, tâm lý thích học để làm quan cũng là động lực quan trọng để thu hút người tài vào bộ máy nhà nước. Vấn đề là phải học thật và thi thật. Phải kiên quyết áp đặt một chế độ khoa bảng và thi tuyển nghiêm khắc nhất vào bộ máy hành chính nhà nước. Rủi ro thứ 4, quỹ thời gian để xây dựng thành công mô hình nhà nước kiến tạo phát triển còn lại không nhiều. Với áp lực của hội nhập và dân chủ hóa, mô hình nhà nước kiến tạo phát triển trong đó mục tiêu phát triển kinh tế được tạm thời chú trọng nhiều chưa chắc đã có được sự chấp nhận của tất cả mọi thành phần xã hội. Để vượt qua thách thức này, truyền thông đóng một vai trò hết sức quan trọng. Không có một nền tảng kinh tế-xã hội phù hợp (với đa số dân chúng là tầng lớp trung lưu) và một nền tảng văn hóa chính trị trưởng thành, những cải cách dân chủ manh động không khéo lại chỉ dẫn đến đổ vỡ và bất ổn xã hội mà thôi.
Nhà nước kiến tạo phát triển
Nhà nước kiến tạo phát triển, hoặc chính phủ kiến tạo (theo cách hiểu của Việt Nam), là một thuật ngữ được dùng bởi ngành kinh tế chính trị quốc tế để đề cập về một mô hình xây dựng kinh tế vĩ mô ở Đông Á vào thế kỷ 20. Mô hình tư bản này (thỉnh thoảng được đề cập tới như là chủ nghĩa phát triển tư bản), nhà nước mang tính chủ động hơn, nói cách khác là tự trị và mang nhiều quyền lực chính trị hơn, cũng như có quyền hơn trong điều tiết kinh tế. Nhà nước kiến tạo có sự can thiệp rất mạnh trong việc mở rộng phạm vi điều chỉnh và quy hoạch. Thuật ngữ sau đó được dùng để mô tả các quốc gia ngoài khu vực Đông Á đã đáp ứng được tiêu chuẩn của nhà nước kiến tạo. Botswana, là một ví dụ, đã chứng tỏ được khả năng kinh tế của mình từ đầu những năm 1970. Nhà nước kiến tạo ngược lại với nhà nước trấn lột hoặc nhà nước yếu. Nhà nước kiến tạo phát triển là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Hội nhập ở Việt Namđã thúc đẩy và tạo ranhững tiền đề vô cùngmạnh và rộng để văn hóa ViệtNam hội nhập với khu vực vàthế giới. Những thay đổi mạnh mẽ vềtư duy. Có lẽ chưa bao giờ trongnhận thức xã hội, các quanniệm, khái niệm về tự do tôngiáo, nhân quyền, dân chủ, pháttriển con người, phát triển bềnvững, tự do văn hóa, báo chí,sáng tác… lại được bàn luận trênnhiều diễn đàn với các quy môkhác nhau như hiện nay. Điềunày không chỉ có tác dụng đánhthức tư duy, nhận thức mới vềsứ mệnh của văn hóa mà cònkhắc phục được sự phiến diện,thiên lệch hoặc tầm nhìn hạnhẹp khi xác định vai trò của vănhóa trong phát triển. Từ nền tảng này, vănhóa còn được xác định là mộttrong bốn trụ cột của phát triểnbền vững, có vị trí ngang vớikinh tế, chính trị và xã hội. Song songvới việc xác định được mô hìnhphát triển của nền văn hóa ViệtNam “tiên tiến, đậm đà bản sắcdân tộc”, những đổi mới mạnhmẽ trên phương diện quản lývăn hóa đã tạo ra những bướcngoặt quan trọng trong hoạtđộng bảo tồn, phát huy các giátrị của di sản văn hóa; tham giatích cực vào việc tạo ra nhữngsản phẩm du lịch đặc trưng,thúc đẩy phát triển kinh tế vùngvà cả nước, tăng trưởng GDP địaphương và thúc đẩy phát triểndu lịch. Những động lực mới để vănhóa phát triển đa dạng. Quá trìnhđổi mới, hội nhập và tiếp biếnvăn hóa trên nhiều khía cạnhđã tạo ra những động lực mớiđể văn hóa phát triển đa dạng,phong phú; xuất hiện nhiều loạihình, trong đó có cả những thiếtchế văn hóa mới. Các sản phẩmvăn hóa không chỉ góp phầnquan trọng tạo không khí dânchủ, cởi mở hơn, dân trí đượcnâng cao, tính năng động sángtạo, tự chủ mà còn phát huy tínhtích cực xã hội của con người,hình thành các nhân tố mới, giátrị mới của con người Việt Nam.Sản phẩm văn hóa tăng đáng kểvề số lượng, có dấu hiệu tích cựcvề chất lượng, đã và đang hìnhthành thị trường sản phẩm vănhóa, văn học, nghệ thuật…Văn học, nghệ thuật đã tạo ranhiều tác phẩm có giá trị, phảnánh mọi lĩnh vực đời sống, đangnỗ lực đổi mới tư duy sáng tạo,tìm tòi phương thức mới để nângcao năng lực khám phá cuộcsống. Hệ thống thông tin đạichúng có bước phát triển mạnhvề loại hình, chất lượng, tínhhiện đại, trực tiếp, nhanh nhạychuyển tải, truyền bá văn hóađến với công chúng ngày càngrộng hơn, góp phần không nhỏvào quá trình hình thành tư duyphản biện xã hội trên phươngtiện thông tin đại chúng…. Thành tựu trong đối ngoại vănhóa. Kết quả đem lạilà hàng loạt các di sản văn hóavật thể, phi vật thể của Việt Namđã đến được với bạn bè quốc tế,đem lại sự ngạc nhiên thán phụccủa thế giới về tính độc đáo, đặctrưng của văn hóa Việt Nam.Hàng loạt các di sản văn hóaViệt Nam đã được ghi danh, xếphạng là di sản văn hóa của nhânloại như: Vịnh Hạ Long (QuảngNinh); Quan họ (Bắc Ninh), Catrù, Nhã nhạc cung đình Huế…và gần đây nhất là “thực hànhtín ngưỡng Tam phủ”…. Bên cạnh đó, tiếp biến vănhóa còn mở ra những kênh traođổi học thuật với nhiều quốc giavăn minh trên thế giới, qua cácphương thức khác nhau từ duhọc sinh đến trao đổi học giả…Trong lối sống và phong cáchsống (theo nghĩa hẹp thể hiện từăn, mặc, ở đến đi lại, ứng xử…),tiếp biến văn hóa của Việt Namvới thế giới đã đem lại nhữngthành tựu rực rỡ. Cùng với sựphát triển mạnh mẽ về kinh tếlà hàng loạt các thay đổi trên cácphương diện thụ hưởng cuộcsống, nâng cao chất lượng sốngvà thay đổi ứng xử liên quan đếnbình đẳng giới…. Bên cạnh những thành quảto lớn mang lại về kinh tế, vănhóa, xã hội, quá trình hội nhậpnhanh và rộng của Việt Namtrong hơn 30 năm qua cũng dẫnđến nhiều hệ lụy không chỉ chovăn hóa, xã hội mà cả kinh tế,môi trường và con người ở ViệtNam. Đó là sự hình thành ngànhcông nghiệp văn hóa, thị trườngsản phẩm văn hóa mà chưa cómô hình quản lý thích hợp, theokịp, gây ảnh hưởng không nhỏtới thị hiếu thẩm mỹ Á Đông,nhất là sự khủng hoảng về đạođức và lối sống. Có thể thấy, bên cạnh việchình thành tư duy sống chấtlượng, lối sống ích kỷ, vụ lợi cánhân cũng bắt đầu hình thành vàngày càng xâm nhập vào nhiềutầng lớp trong xã hội. Lối sốngthiên về hưởng thụ, sống gấpđang huỷ hoại dần nhân cáchcủa nhiều người dẫn đến nhiềugiá trị truyền thống dần trở nênmai một. Trong khi đó, khủnghoảng niềm tin cũng đang là mộttrở ngại lớn đối với việc thiết lậpcác quan hệ xã hội và thực hiệncác mục tiêu kinh tế, chính trị.Điều tra giá trị châu Á năm 2008của Viện Nghiên cứu con ngườicho biết: có tới 58,5% người ViệtNam cho rằng không thể tinvào bất kỳ ai mới tiếp xúc. Bệnh“ngợp bởi vật chất” cũng khiếnkhông ít người, nhất là giới trẻhiện nay thiên lệch về nhu cầuvật chất, thể hiện xu hướng tháiquá hơn trên mọi khía cạnh.Những “trào lưu”, “thị hiếu”,“thời thượng” chế ngự không ítnhững cá nhân đang tìm đủ cáchkiếm tiền, sống gấp. Tệ xâm hại tình dục, ngượcđãi trẻ em, hành vi lệch chuẩncủa học sinh, sinh viên có xuhướng gia tăng; bạo lực họcđường phổ biến ở cả những họcsinh nữ; một bộ phận thầy, côgiáo suy giảm nhân cách, đạo đứclàm ảnh hưởng xấu đến hình ảnhnghề giáo… làm gia tăng sự khủnghoảng niềm tin trong xã hội. Trong khi đó, tình trạngkhủng hoảng giá trị giữa cũ vàmới đã và đang phá vỡ nhiềuhình thức và nội dung trong lốisống truyền thống Việt Nam.Khi khuếch trương mặt tích cựccủa tiêu dùng thì quan niệmtiêu dùng đã chuyển thành quanniệm tiêu thụ thuần túy. Khi tiêudùng trở thành mục đích sốngthì chất lượng của đời sống làtiêu thụ - hưởng thụ!. Tư tưởngtiêu dùng đã biến cả nghệ thuậtthành hàng hoá đơn thuần; giáodục thành quan hệ đổi chác,mua bán; sinh hoạt tâm linhvốn thiêng liêng nhiều khi cũngtrở thành nơi thu lợi nhuận. Từlối sống tiêu thụ dẫn đến phânbiệt giàu - nghèo qua cách “chơitrội”, với ý thức đề cao tiện nghi.Lối sống lạnh lùng kiểu “tiềntrao cháo múc” của xã hội tư sảntràn vào xã hội Việt Nam dẫnđến tư tưởng xem thường thuầnphong mỹ tục, thậm chí xem rẻnhân phẩm con người. Tư tưởngtuyệt đối hoá điều kiện vật chấtvà kỹ thuật, lấy phương tiệnsống làm thước đo sự phát triểncon người và xã hội của không ítngười đang làm sai lệch các giátrị đích thực và lý tưởng nhânvăn cao đẹp mà ông cha ta đãhàng nghìn năm vun đắp. Cùngvới đó, tình trạng thiếu hiểu biếtpháp luật, nhân cách kém và sựthiếu hụt, lệch lạc của giáo dụctruyền thống cũng đang ảnhhưởng không nhỏ tới giới trẻ…. Tiếp biến văn hóa là mộthình thức biến nhiều lợi ích tiềmnăng mà giao lưu văn hóa đemlại thành những lợi ích thực tế,song cũng đưa đến những tháchthức không nhỏ. Vì vậy, để tạo ranhững sản phẩm văn hóa vượtgộp, làm nên những giá trị vănhóa sống mãi với thời gian vàkhống chế được những bất cập,mặt trái, cần tập trung vào mộtsố nhiệm vụ trọng tâm sau:. Một là, nâng cao nhận thứccủa các cấp ủy, chính quyền,ban, ngành chức năng về xâydựng và phát triển văn hóa, đểvăn hóa thực sự trở thành nềntảng tinh thần vững chắc củaxã hội, là sức mạnh nội sinhquan trọng bảo đảm sự pháttriển bền vững và bảo vệ vữngchắc Tổ quốc, vì mục tiêu dângiàu, nước mạnh, dân chủ, côngbằng, văn minh. Trong đó,tiếp tục xây dựng nền văn hóavà con người Việt Nam pháttriển toàn diện, hướng đếnchân - thiện - mỹ, thấm nhuầntinh thần dân tộc, nhân văn,dân chủ và khoa học. Hai là, tăng cường và đổi mớicông tác tuyên truyền, nâng caonhận thức trong Đảng, hệ thốngchính trị và toàn xã hội về vị trí,vai trò của sự nghiệp xây dựngvà phát triển văn hóa, con ngườiViệt Nam. Tích cực đấu tranh,bài trừ các sản phẩm văn hóa độchại, phản động, đồi trụy; đồngthời, hạn chế hoặc gạt bỏ nhữnghủ tục để tạo dựng đời sống tinhthần lành mạnh trong nhân dân. Ba là, xây dựng cơ chế, chínhsách phát triển văn hóa đốingoại; hỗ trợ quảng bá nghệthuật quốc gia và xuất khẩu cácsản phẩm văn hóa ra nước ngoài.Chủ động mở rộng hợp tác vănhóa với các nước, thực hiện đadạng các hình thức văn hóa đốingoại và đưa các quan hệ quốc tếvề văn hóa đi vào chiều sâu, đạthiệu quả thiết thực. Xây dựng thị trường văn hóalành mạnh, đẩy mạnh phát triểncông nghiệp văn hóa, tăng cườngquảng bá văn hóa Việt Nam.Đồng thời, từng bước thu hẹpkhoảng cách về hưởng thụ vănhóa giữa thành thị và nông thôn,giữa các vùng miền và các giaitầng xã hội; ngăn chặn và đẩy lùisự xuống cấp về đạo đức xã hội. Trong bối cảnh hội nhập đachiều với thế giới hôm nay, bảnlĩnh trong tiếp biến, làm giàuvăn hóa dân tộc và khắc chếnhững hệ lụy, mặt trái tới đâusẽ tạo ra độ khúc xạ văn hóatới đó. Bản lĩnh càng cao thì độkhúc xạ càng mạnh mẽ và khiấy các thành tựu văn hóa ra đờivà phát triển.
Văn hóa mạng
Văn hóa mạng hay văn hóa Internet là một nền văn hóa mà đã nổi lên, hoặc đang nổi lên, từ việc sử dụng mạng máy tính cho việc thông tin liên lạc, giải trí và kinh doanh. Văn hóa Internet cũng là nghiên cứu về các hiện tượng xã hội khác nhau liên quan đến Internet và các hình thức mới khác của truyền thông mạng. Ví dụ về các hình thức giao tiếp mạng mới này bao gồm, cộng đồng trực tuyến, trò chơi nhiều người chơi trực tuyến, máy tính có thể đeo được, trò chơi xã hội, phương tiện truyền thông xã hội, ứng dụng di động, thực tế gia tăng và nhắn tin cũng như các vấn đề liên quan đến nhận dạng, quyền riêng tư và hình thành mạng lưới. Do ranh giới của văn hóa mạng rất khó xác định, thuật ngữ này được sử dụng linh hoạt và việc áp dụng nó vào các trường hợp cụ thể có thể gây tranh cãi. Nó thường dùng ít nhất cho nền văn hóa của cộng đồng ảo, nhưng kéo dài đến một loạt các vấn đề văn hóa liên quan đến " cyber -topics", ví dụ như điều khiển học, và nhận thức hoặc dự đoán sinh vật cơ khí hóa của cơ thể con người và chính bản thân xã hội loài người.
Một nhóm bạn tụ tập Las Vegas để tổ chức buổi tiệc độc thân khó quên, nhưng sáng hôm sau khi tỉnh lại, họ không thể nhớ được gì cả. Một nhóm hề nhận được lệnh truyền bá niềm tin và lòng trung thành với nhà vua bằng những mánh khóe ảo diệu. Nội dung phim Bad Moms xoay quanh cuộc sống hằng ngày của các bà nội trợ kiểu Mỹ và những áp lực từ việc làm mẹ của họ. Để bắt tội phạm, đặc vụ FBI Malcolm Turner phải hóa trang thành bà nội ngoại cỡ của bạn gái cũ của tên tội phạm bỏ trốn. Bối cảnh của phim Huyền Thoại Mùa Thu trải dài từ trước Thế chiến thứ nhất qua Thời kỳ cấm đoán tới thập niên 1920 và kết thúc năm 1963. Bộ phim xoay quanh chuyện gia đình Ludlow ở Montana gồm: Đại tá Ludlow - một cựu chiến binh trong Chiến tranh chống người da đỏ, ba người con trai của ông là Alfred, Tristan và Samuel, và người phụ nữ chiếm được tình cảm của cả ba anh em nhà Ludlow - Susannah. Thiếu Nữ Tuổi 30 kể về Jenna Rink, một cô học sinh bình thường nhưng lại muốn gia nhập “Six Chicks” – nhóm thiếu nữ xinh đẹp, giàu có và sành điệu trong lớp. Thiện Ác Đối Đầu 2 diễn ra ngay sau các sự kiện của phần đầu tiên. Phim kể về Robert Mccall (Denzel Washington), một cựu CIA được cho rằng đã chết khi tham gia một nhiệm vụ trước đây. Anh từ bỏ quá khứ bạo lực để bắt đầu cuộc sống bình dị, lúc này đang chuyển sang làm tài xế chạy Lyft. Đồng thời thường xuyên giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh xung quanh với sự hỗ trợ của đặc vụ Susan Plummer (Melissa Leo) - đồng nghiệp, bạn thân và là người duy nhất biết anh còn sống sót. Paul Blart – một nhân viên an ninh tại siêu thị đưa con gái cưng Maya tới Las Vegas – nơi có hệ thống an ninh khủng nhất trên thế giới để tham dự triển lãm. Tại đây, ông vô tình phát hiện ra một kế hoạch đánh cướp sòng bạc tham vọng bậc nhất thế giới. Liệu một nhân viên an ninh vụng về có thể giải cứu cả Las Vegas?. Trong quá trình điều tra những hành vi tội phạm của Drake, Eddie Brook vô tình nhiễm phải Symbiote vào cơ thể. Anh bắt đầu sở hữu những siêu năng lực và nhân cách tàn bạo của Venom. Những bí mật, những lời nói dối và án mạng là nguyên liệu chính của Người Lạ Hoàn Hảo. Bộ phim nhanh chóng chiếm vị trí thứ tư trong bảng xếp hạng những phim ăn khách nhất tại Bắc Mỹ trong tuần đầu công chiếu. Người Nhện: Xa Nhà là bộ phim chiếu rạp hấp dẫn kể về thời gian Hậu chiến Vô Cực. Trở lại trường học, cậu nhóc Peter Parker cùng các người bạn bị cuốn vào rắc rối mới với Nick Fury cùng nhân vật bí ẩn có tên Mysterio trong chuyến đi du lịch đến Châu Âu. Scott đã phát triển không được bình thường từ sau cái chết của bố cậu. Cả ngày dài cậu hút cần và mơ mộng trở thành nghệ sĩ xăm mình cho đến khi xảy ra những sự kiện buộc cậu phải nhận thức về nỗi đau buồn và sẵn sàng bước tiếp. Nhóm điệp viên được huấn luyện từ khi còn nhỏ, hướng đến mục tiêu cao cả là thống nhất Triều Tiên. Kẻ Tầm Xương được đặt vào bối cảnh hàng loạt vụ giết người man rợ xảy ra tại New York. Thủ phạm luôn cố tình để lại dấu vết khó hiểu tại hiện trường để chỉ dẫn cho cảnh sát biết địa điểm sẽ xảy ra vụ án mạng tiếp theo. Không Thể Rời Mắt là câu chuyện ấm lòng về hai chị em Thúy Ngân và Jack, tuy bên ngoài châm chọc nhau nhưng lại hết lòng bảo vệ nhau. Bối cảnh diễn ra ở Los Angeles của 30 năm sau, khi Replicant đã phát triển tới một trình độ cao hơn. Liệu sĩ quan K phải chiến đấu với điều gì khi thời khắc tận thế đang tiến đến rất gần?. Tại một phòng thí nghiệm quân sự tối mật, sau nhiều năm nghiên cứu một nhóm các nhà khoa học trẻ tuổi xuất sắc vừa giải mã được chìa khóa của sự vô hình. Người nhóm trưởng kiêu ngạo Sebastian Caine (Kevin Bacon) đã bỏ mặc mọi nguy hiểm để thử nghiệm trên chính cơ thể mình. Gái già lắm chiêu xoay quanh Linh San phát hiện ra bệnh suy buồng trứng, cô tìm mọi cách để có thai trước khi không còn khả năng sinh con. Được chuyển thể từ truyện tranh cùng tên của Marvel, với kinh phí 175 triệu USD, đây là một trong những bộ phim siêu anh hùng hoành tráng nhất 2017. Bộ phim Khủng Bố Quốc Tế là câu chuyện của nhân viên Interpol Louis Salinger và luật sư cố vấn của Manhattan Eleanor Whitman. Cả hai đang cố gắng lập lại công lý bằng cách vạch trần một trong số những ngân hàng có quyền lực nhất thế giới. Một thương gia giàu có sống cùng ba cô con gái xinh đẹp. Hai người chị là những người ích kỷ nhưng con gái út Belle lại sở hữu một tâm hồn thánh thiện. Một vụ tai nạn ô tô khiến một bé 13 tuổi bị hôn mê và 15 năm sau mới tỉnh lại. Không nản lòng, cô tiếp tục theo đuổi mơ ước trở thành một vũ công. Là phiên bản remake của “Fantasy Island” (Đảo kinh hoàng) – series phim kinh dị nổi tiếng của những năm 1970-1980, đây sẽ là câu chuyện về quý ngài Roarke và trợ lý Tatto, chào mừng các vị khách đến hòn đảo biệt lập của mình, và hứa hẹn 1 cuộc sống trong mơ. Phim được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết nổi tiếng cùng tên của tác giả Takuji Ichikawa. Được phát hành tại Việt Nam với tựa ‘Em sẽ đến cùng cơn mưa’ là một trong những cuốn tiểu thuyết văn học Nhật được yêu thích. Một tên trộm bậc thầy bất đắc dĩ phải đồng ý thực hiện một phi vụ cuối cùng - cướp một lô vàng của Thụy Sĩ - sau khi bị cộng sự lâu năm của mình hăm dọa. Phim tiếp theo có sự kết hợp của bộ đôi đạo diễn Charlie Nguyễn và diễn viên Thái Hòa. Dựa trên tiểu thuyết nổi tiếng Busy Woman Seeks Wife của nhà văn Annie Sanders. Gia đình truyền giáo Gemstone gây dựng hình tượng vô cùng chính trực và thanh cao, nhưng ẩn bên trong là những thói hư tật xấu đang ngày một mất kiểm soát. Flint quyết định không theo nghề bán cá mòi của gia đình mà đâm đầu vào phòng thí nghiệm với những phát mình vô cùng “tai hại” như Cơn Mưa Thịt Viên.
Chuyện ngày xưa ở... Hollywood
Chuyện ngày xưa ở. Hollywood (tựa gốc tiếng Anh: Once Upon a Time in Hollywood) là phim điện ảnh tội phạm hài kịch châm biếm của Mỹ. Phim do Quentin Tarantino làm đạo diễn kiêm chắp bút phần kịch bản, với sự tham gia diễn xuất của Leonardo DiCaprio, Brad Pitt và Margot Robbie. Với bối cảnh tại Los Angeles, phim kể câu chuyện của diễn viên truyền hình Rick Dalton và người đóng thế của anh là Cliff Booth khi họ chật vật với những đổi thay của ngành điện ảnh. Công bố vào tháng 7 năm 2017, đây là phim đầu tiên của Tarantino không có hợp tác với Harvey Weinstein, sau khi Tarantino cắt quan hệ với The Weinstein Company sau bê bối tình dục của Harvey Weinstein. Sony Pictures giành quyền phát hành phim sau khi đạt được nhiều yêu cầu khắt khe từ Tarantino trong khâu biên tập. Pitt, DiCaprio, Robbie, Tim Roth, Kurt Russell và Michael Madsen tham gia trong giai đoạn nửa đầu năm 2018. Giai đoạn quay phim kéo dài từ tháng Sáu đến tháng Mười Một tại Los Angeles. Đây là phim sau cùng có mặt Luke Perry, người vừa qua đời vào tháng 3 năm 2019.
Mèo – loài thú cưng đang được rất nhiều người ưa chuộng hiện nay. Thế nhưng không phải ai thích mèo, đã và đang sở hữu một chú mèo đều hiểu biết được tất cả mọi thứ về chúng. Chính vì thế mà để có thêm những hiểu biết về mèo thì hãy cùng theo dõi những kiến thức về vòng đời và cách tính tuổi thọ của mèo. Mục lục bài viết1 Những kiến thức về vòng đời của mèo2 Các cách tính tuổi mèo chính xác2.1 Tính tuổi của mèo theo bảng đối chiếu so với con người2.2 Tính tuổi của mèo bằng cách kiểm tra răng2.3 Tính tuổi của mèo theo thói quen chải chuốt2.4 Tính tuổi của mèo bằng cách nhìn vào mắt chúng3 Những cách làm tăng tuổi thọ của mèo3.1 Có chế độ dinh dưỡng hợp lý3.2 Cần kiểm soát cân nặng của mèo3.3 Nên thân thiết với mèo. Nhắc đến mèo chúng ta thường nghĩ đến sự dẻo dai, uyển chuyển thông qua những bước đi nhẹ nhàng của chúng. Tuổi thọ của mèo được những nhà khoa học xác định là khá cao – nó nằm vào khoảng 25 năm. Thế nhưng tuổi thọ của mèo ngoài dựa vào những yếu tố di truyền thì nó còn phụ thuộc vào cách mà con người chăm sóc và có chế độ ăn uống phù hợp theo từng độ tuổi. Một lưu ý cho khoảng thời gian này đó chính là nếu không có nhu cầu nhân giống thì việc thiến và triệt sản là cách tốt nhất để phòng tránh những bệnh liên quan đến sinh sản hoặc ung thư đường sinh dục. Và nó còn là giai đoạn mà mèo dễ bị mất, thất lạc khi chúng đi tìm bạn tình. Kiểm tra răng của mèo là cách xác định tuổi thọ của mèo được nhiều người áp dụng. Cụ thể là răng sữa của mèo bắt đầu mọc khi chúng được 2 tuần tuổi và kết thúc mọc khi chúng 8 tuần tuổi. Sau đó khi chúng được 4 tháng tuổi thì răng sữa sẽ rụng và bộ răng hoàn chỉnh sẽ bắt đầu hình thành và phát triển, răng hoàn chỉnh sẽ mọc đầy đủ ở tháng thứ 6. Khi qua giai đoạn này thì bạn sẽ rất khó sử dụng cách này để tính tuổi của mèo. Thông thường mèo rất quan tâm trong việc chải chuốt bộ lông và đại đa số những chú mèo nhỏ tuổi sẽ có bộ lông sạch. Và khi mèo đến một độ tuổi nhất định nào đó thì chúng sẽ không chăm chút như trước nữa. Thậm chí cân nặng của mèo sẽ tăng khi chúng lớn tuổi – đây cũng được xem là cách xác định tuổi của mèo. Nhìn vào mắt mèo – cách tính tuổi của mèo mà các bác sĩ thú ý thường sử dụng. Thông thường thì trong khoảng 6 đến 7 tuổi thì thủy tinh thể trong mắt của mèo sẽ có dấu hiệu mờ dần và khi đó nếu sử dụng kính soi đáy soi mắt mèo thì bạn có thể thấy một màng bao phủ ở mắt. Và dấu hiệu này sẽ giữ nguyên cho đến khi chúng 10 tuổi, sau đó sẽ có màng trắng mờ bao phủ. Khi sở hữu một loài vật cưng yêu thích thì việc làm tăng tuổi thọ luôn là vấn đề quan trọng nhất. Và mèo cũng thể, dưới đây là những cách làm tăng tuổi thọ của mèo. Một chế độ dinh dưỡng hợp lý và phù hợp với độ tuổi của mèo luôn là một trong những vấn đề quan trọng nhất để làm tăng tuổi thọ của mèo. Thức ăn cho mèo thường được chia theo mức độ: thực phẩm tươi, thực phẩm bảo quản lạnh, thực phẩm ướt hoặc khô. Để giúp tuổi thọ của mèo được kéo dài thì việc kiểm soát cân nặng cho mèo cũng là việc làm cần thiết. Vì vậy bạn không nên cho mèo ăn quá nhiều trong một bữa hay cho chúng ăn quá nhiều thức ăn vặt mà hãy thay vào đó là bổ sung cho chúng những thực phẩm dễ tiêu hóa, có mức năng lượng thấp và hơn hết và thường xuyên vui đùa với chúng để mèo được vận động nhiều nhất có thể. Thân thiết, thường xuyên chơi đùa cùng với mèo cũng được xem là phương pháp làm tăng tuổi thọ của mèo. Ngoài cách đơn giản là vui đùa cùng mèo thì bạn cũng có thể thân thiết với mèo bằng cách: dành cho chúng những sự chăm sóc đặc biệt, bày tỏ tình yêu của bạn đối với chúng, khiến cho vui vẻ, hạn chế những việc làm khiến chúng khó chịu hay hãy tạo cho chúng cảm giác an toàn để chúng không cảm thấy cô đơn. 2 Các cách tính tuổi mèo chính xác2.1 Tính tuổi của mèo theo bảng đối chiếu so với con người2.2 Tính tuổi của mèo bằng cách kiểm tra răng2.3 Tính tuổi của mèo theo thói quen chải chuốt2.4 Tính tuổi của mèo bằng cách nhìn vào mắt chúng. 3 Những cách làm tăng tuổi thọ của mèo3.1 Có chế độ dinh dưỡng hợp lý3.2 Cần kiểm soát cân nặng của mèo3.3 Nên thân thiết với mèo. Nhắc đến mèo chúng ta thường nghĩ đến sự dẻo dai, uyển chuyển thông qua những bước đi nhẹ nhàng của chúng. Tuổi thọ của mèo được những nhà khoa học xác định là khá cao – nó nằm vào khoảng 25 năm. Thế nhưng tuổi thọ của mèo ngoài dựa vào những yếu tố di truyền thì nó còn phụ thuộc vào cách mà con người chăm sóc và có chế độ ăn uống phù hợp theo từng độ tuổi. Một lưu ý cho khoảng thời gian này đó chính là nếu không có nhu cầu nhân giống thì việc thiến và triệt sản là cách tốt nhất để phòng tránh những bệnh liên quan đến sinh sản hoặc ung thư đường sinh dục. Và nó còn là giai đoạn mà mèo dễ bị mất, thất lạc khi chúng đi tìm bạn tình. Kiểm tra răng của mèo là cách xác định tuổi thọ của mèo được nhiều người áp dụng. Cụ thể là răng sữa của mèo bắt đầu mọc khi chúng được 2 tuần tuổi và kết thúc mọc khi chúng 8 tuần tuổi. Sau đó khi chúng được 4 tháng tuổi thì răng sữa sẽ rụng và bộ răng hoàn chỉnh sẽ bắt đầu hình thành và phát triển, răng hoàn chỉnh sẽ mọc đầy đủ ở tháng thứ 6. Khi qua giai đoạn này thì bạn sẽ rất khó sử dụng cách này để tính tuổi của mèo. Thông thường mèo rất quan tâm trong việc chải chuốt bộ lông và đại đa số những chú mèo nhỏ tuổi sẽ có bộ lông sạch. Và khi mèo đến một độ tuổi nhất định nào đó thì chúng sẽ không chăm chút như trước nữa. Thậm chí cân nặng của mèo sẽ tăng khi chúng lớn tuổi – đây cũng được xem là cách xác định tuổi của mèo. Nhìn vào mắt mèo – cách tính tuổi của mèo mà các bác sĩ thú ý thường sử dụng. Thông thường thì trong khoảng 6 đến 7 tuổi thì thủy tinh thể trong mắt của mèo sẽ có dấu hiệu mờ dần và khi đó nếu sử dụng kính soi đáy soi mắt mèo thì bạn có thể thấy một màng bao phủ ở mắt. Và dấu hiệu này sẽ giữ nguyên cho đến khi chúng 10 tuổi, sau đó sẽ có màng trắng mờ bao phủ. Khi sở hữu một loài vật cưng yêu thích thì việc làm tăng tuổi thọ luôn là vấn đề quan trọng nhất. Và mèo cũng thể, dưới đây là những cách làm tăng tuổi thọ của mèo. Một chế độ dinh dưỡng hợp lý và phù hợp với độ tuổi của mèo luôn là một trong những vấn đề quan trọng nhất để làm tăng tuổi thọ của mèo. Thức ăn cho mèo thường được chia theo mức độ: thực phẩm tươi, thực phẩm bảo quản lạnh, thực phẩm ướt hoặc khô. Để giúp tuổi thọ của mèo được kéo dài thì việc kiểm soát cân nặng cho mèo cũng là việc làm cần thiết. Vì vậy bạn không nên cho mèo ăn quá nhiều trong một bữa hay cho chúng ăn quá nhiều thức ăn vặt mà hãy thay vào đó là bổ sung cho chúng những thực phẩm dễ tiêu hóa, có mức năng lượng thấp và hơn hết và thường xuyên vui đùa với chúng để mèo được vận động nhiều nhất có thể. Thân thiết, thường xuyên chơi đùa cùng với mèo cũng được xem là phương pháp làm tăng tuổi thọ của mèo. Ngoài cách đơn giản là vui đùa cùng mèo thì bạn cũng có thể thân thiết với mèo bằng cách: dành cho chúng những sự chăm sóc đặc biệt, bày tỏ tình yêu của bạn đối với chúng, khiến cho vui vẻ, hạn chế những việc làm khiến chúng khó chịu hay hãy tạo cho chúng cảm giác an toàn để chúng không cảm thấy cô đơn. Một lưu ý cho khoảng thời gian này đó chính là nếu không có nhu cầu nhân giống thì việc thiến và triệt sản là cách tốt nhất để phòng tránh những bệnh liên quan đến sinh sản hoặc ung thư đường sinh dục. Và nó còn là giai đoạn mà mèo dễ bị mất, thất lạc khi chúng đi tìm bạn tình. Kiểm tra răng của mèo là cách xác định tuổi thọ của mèo được nhiều người áp dụng. Cụ thể là răng sữa của mèo bắt đầu mọc khi chúng được 2 tuần tuổi và kết thúc mọc khi chúng 8 tuần tuổi. Sau đó khi chúng được 4 tháng tuổi thì răng sữa sẽ rụng và bộ răng hoàn chỉnh sẽ bắt đầu hình thành và phát triển, răng hoàn chỉnh sẽ mọc đầy đủ ở tháng thứ 6. Khi qua giai đoạn này thì bạn sẽ rất khó sử dụng cách này để tính tuổi của mèo. Thông thường mèo rất quan tâm trong việc chải chuốt bộ lông và đại đa số những chú mèo nhỏ tuổi sẽ có bộ lông sạch. Và khi mèo đến một độ tuổi nhất định nào đó thì chúng sẽ không chăm chút như trước nữa. Thậm chí cân nặng của mèo sẽ tăng khi chúng lớn tuổi – đây cũng được xem là cách xác định tuổi của mèo. Nhìn vào mắt mèo – cách tính tuổi của mèo mà các bác sĩ thú ý thường sử dụng. Thông thường thì trong khoảng 6 đến 7 tuổi thì thủy tinh thể trong mắt của mèo sẽ có dấu hiệu mờ dần và khi đó nếu sử dụng kính soi đáy soi mắt mèo thì bạn có thể thấy một màng bao phủ ở mắt. Và dấu hiệu này sẽ giữ nguyên cho đến khi chúng 10 tuổi, sau đó sẽ có màng trắng mờ bao phủ. Khi sở hữu một loài vật cưng yêu thích thì việc làm tăng tuổi thọ luôn là vấn đề quan trọng nhất. Và mèo cũng thể, dưới đây là những cách làm tăng tuổi thọ của mèo. Một chế độ dinh dưỡng hợp lý và phù hợp với độ tuổi của mèo luôn là một trong những vấn đề quan trọng nhất để làm tăng tuổi thọ của mèo. Thức ăn cho mèo thường được chia theo mức độ: thực phẩm tươi, thực phẩm bảo quản lạnh, thực phẩm ướt hoặc khô. Để giúp tuổi thọ của mèo được kéo dài thì việc kiểm soát cân nặng cho mèo cũng là việc làm cần thiết. Vì vậy bạn không nên cho mèo ăn quá nhiều trong một bữa hay cho chúng ăn quá nhiều thức ăn vặt mà hãy thay vào đó là bổ sung cho chúng những thực phẩm dễ tiêu hóa, có mức năng lượng thấp và hơn hết và thường xuyên vui đùa với chúng để mèo được vận động nhiều nhất có thể. Thân thiết, thường xuyên chơi đùa cùng với mèo cũng được xem là phương pháp làm tăng tuổi thọ của mèo. Ngoài cách đơn giản là vui đùa cùng mèo thì bạn cũng có thể thân thiết với mèo bằng cách: dành cho chúng những sự chăm sóc đặc biệt, bày tỏ tình yêu của bạn đối với chúng, khiến cho vui vẻ, hạn chế những việc làm khiến chúng khó chịu hay hãy tạo cho chúng cảm giác an toàn để chúng không cảm thấy cô đơn.
Tuổi thọ của mèo
Cho đến nay, thông tin đáng tin cậy về tuổi thọ của mèo nhà rất đa dạng và tương đối ít ỏi. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã tìm hiểu về vấn đề này và đã đưa ra các con số ước tính đáng chú ý. Ước tính tuổi thọ trung bình của mèo trong các nghiên cứu này dao động từ 13 đến 17 năm, với một giá trị tuổi trung bình rơi vào khoảng mốc 15 năm. Ít nhất một nghiên cứu tìm thấy giá trị tuổi thọ trung bình là 14 năm và một phần tư tương ứng nằm trong phạm vi từ 9 đến 17 năm. Tuổi thọ tối đa được ước tính ở các giá trị dao động từ 22 đến 30 năm mặc dù đã có những tuyên bố chưa xác minh của các cá thể mèo chết ở lứa tuổi trên 30 năm. Mèo cái đã được chứng minh có tuổi thọ cao hơn mèo đực, trong khi mèo bị triệt sản và mèo lai đã được chứng minh có tuổi thọ cao hơn mèo thuần chủng. Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng trọng lượng của một con mèo càng lớn, thì tuổi thọ trung bình của nó càng thấp.
Ngày 30/5/1941 là ngày mà Manolis Glezos đã nhạo báng Adolf Hitler khi ông và một người bạn của mình lẻn lên nóc thành cổ Acropolis ở Athens, tháo xuống rồi xé toạc lá cờ “Chữ vạn ngược” được quân Đức Quốc Xã treo lên 4 tuần trước đó khi chúng chiếm đóng Hy Lạp. Hành động này đã làm ông và người đồng chí của mình trở thành những người hùng. Vào thời điểm đó, Glezos là một chiến binh kháng chiến. Nhưng hôm nay, người đàn ông sắp bước sang tuổi 93 hiện đang là một nghị viên thuộc đảng cầm quyền Syriza đại diện cho Hy Lạp tại Nghị Viện Châu Âu. Ngồi ở văn phòng của mình trên tầng ba, tòa nhà Willy Brandt, Brussel, ông kể lại câu chuyện về cuộc chiến chống lại phát xít ngày xưa cũng như cuộc chiến với nước Đức hiện đại. Mái tóc bạc bù xù khiến nhiều người ví von ông giống như là Che Guevara lúc về già. Từng nếp nhăn trên khuôn mặt của người chiến sĩ một thời lột tả những thăng trầm của cả một thế kỷ trôi qua trên lục địa già. Ban đầu, ông tham gia cuộc chiến chống phát xít Ý, sau đó cầm vũ khí chống lại Lực lượng vệ binh Đức Quốc xã, và rồi hòa mình vào cuộc đấu tranh lật đổ chế độ độc tài do quân đội Hy Lạp thiết lập. Từng đó đã đủ cho ông phải bị vào tù nhiều lần. Tổng cộng ông đã mất gần 12 năm trong đời đằng sau chấn song sắt, khoảng thời gian ông dùng để viết thơ. Tuy nhiên, ngay khi vừa được thả ra, ông lại tiếp tục tham gia vào những cuộc chiến còn đang dang dở. “Những giây phút ấy vẫn còn rất sống động ở trong tôi”, ông nói. Glezos biết rõ điều gì sẽ xảy ra khi người Đức muốn thống trị cả Châu Âu và khẳng định rằng đó chính xác là điều đang diễn ra vào thời điểm này. Tuy nhiên, lần này không phải là những quân đoàn người Đức cai trị Hy Lạp, mà là những doanh nhân và các chính trị gia người Đức. “(Tuy) Tư bản Đức thống trị Châu Âu và kiếm lời trên sự bất hạnh của người Hy Lạp”, ông nói. “Nhưng chúng tôi không cần tiền của các người”. Trong mắt của ông, nước Đức hiện tại đang trực tiếp kế thừa quá khứ khủng khiếp của nó. Tuy vậy, ông cũng nhấn mạnh rằng, ông đang ám chỉ đến tầng lớp lãnh đạo, chứ không phải là toàn bộ người dân Đức. Ông nói, giới lãnh đạo nước này lại đang một lần nữa trở nên hung hăng khi mà “mối quan hệ giữa Đức với Hy Lạp có thể được ví như là mối quan hệ của một kẻ bạo chúa và những người nô lệ”. Glezos nhớ đến bài viết của Joseph Goebbels, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Đức Quốc xã, mô tả một Châu Âu trong tương lai nằm dưới sự cai trị của người Đức với tiêu đề là “Năm 2000”. “Goebbels thực ra chỉ dự đoán sai có 10 năm”, ông nói thêm, khi mà phải đến tận năm 2010, lúc mà cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra, mới là thời điểm đánh dấu sự bá chủ của người Đức. Đã từng có thời gian dài, chỉ có người Đức là bị ám ảnh bởi quá khứ man rợ thời phát xít của đất nước mình. Nhưng gần đây, nhiều nước châu Âu khác đã bắt đầu biểu hiện rõ sự đề phòng với cái quá khứ ấy. Thủ tướng Angela Merkel với hàm ria của Hitler, những cỗ xe tăng Đức đang tiến về phía nam: Những hình ảnh biếm họa ấy tràn ngập trên các phương tiện truyền thông ở Hy Lạp, Tây Ban Nha, Anh, Ba Lan, Italia và Bồ Đào Nha trong những năm gần đây. Và biểu tượng “Chữ vạn ngược” của chủ nghĩa phát xít trở thành biểu tượng đại diện cho nước Đức trong tất cả các cuộc biểu tình của người dân các nước, phản đối chính sách thắt lưng buộc bụng do chính phủ nước này đề xướng. Người ta bắt đầu nói về “Đệ tứ đế chế” (Fourth Reich) như là một sự kế thừa từ thuật ngữ “Đệ tam đế chế” của Adolf Hitler. Điều này thoạt đầu nghe có vẻ phi lý, khi mà nước Đức ngày nay là một mô hình dân chủ thành công và chứa đựng trong nó không còn một chút tàn dư nào của chủ nghĩa “Quốc xã” – và dĩ nhiên không ai có thể đánh đồng các chính sách của Merkel là theo thiên hướng phát xít. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận hoàn toàn ý nghĩa của từ “đế chế” (Reich, tiếng Anh: empire) trong hoàn cảnh hiện tại, khi mà từ này được dùng để diễn tả sự thống trị, chi phối cuộc sống của một trung tâm quyền lực lên nhiều người, nhiều quốc gia khác. Vậy dựa vào định nghĩa trên, liệu có phải là sai khi nói rằng, đúng là có tồn tại sự thống trị của người Đức trên phương diện kinh tế hay không?. Thủ tướng Hy Lạp Alexis Tsipras đương nhiên nhận thức rõ là ông không thể tự do lèo lái đất nước theo cách mà ông muốn. Hôm thứ hai ngày 23/3, ông lên đường đến Berlin để dự hội nghị với người đồng cấp phía Đức, mà trong hội nghị đó, chủ đề về quá khứ “Quốc-xã” của người Đức sẽ được ông đề cập đến. Hy Lạp đã yêu cầu Đức chi trả tiền chi phí sửa chữa những thiệt hại do Phát xít Đức gây ra cho đất nước này trong suốt chiến tranh thế giới lần thứ hai. Những yêu sách này, tất nhiên, liên quan nhiều hơn đến sự tuyệt vọng của chính phủ Hy Lạp, khi họ đang cố gắng điều hành đất nước bằng những chính sách a-ma-tơ của mình. Tuy nhiên, không thể nói rằng, quá khứ của nước Đức sẽ không bao giờ trở nên liên quan và đáng để nêu ra nữa. Trái lại, nó hiện đang được lặp đi lặp lại ở nhiều nơi như là một chiếc bóng của quá khứ ám ảnh lên cuộc sống hiện tại. Những sự buộc tội từ phía Hy Lạp, Tây Ban Nha, Pháp hay kể cả từ Anh và Mỹ đối với Đức đang ngày càng trở nên gay gắt hơn. Như cách mà nhiều chính trị gia, kinh tế gia và cả giới truyền thông mô tả, cuộc khủng hoảng châu Âu đã cho phép người Đức chi phối và bóp chẹt các nước Nam Âu, nhằm ép buộc những nước này tuân theo những nguyên tắc cứng nhắc của nước Đức. Trong hoàn cảnh đó, chính sách xuất khẩu của Đức lại đem về cho nước này lợi nhuận khổng lồ khi so sánh với tất cả những nước còn lại trong khối Euro. Hình ảnh nước Đức hiện ra trong mắt của nhiều nước thành viên như là một bạo chúa kinh tế ích kỷ được vây quanh bởi những quốc gia nhỏ thịnh vượng và chia sẻ chung một kiểu mẫu về lợi ích ở Bắc Âu. Những người chỉ trích và buộc tội mạnh mẽ nhất đến từ những quốc gia, nơi đã phải chứng kiến một tỷ lệ thất nghiệp khủng khiếp và sự tức giận cực độ từ công chúng nước mình trong nhiều năm. Họ nói rằng những con quỷ của nước Đức đã trở lại. Và vì thế không có gì là đáng ngạc nhiên khi mà nhiều chính phủ lại bỗng dưng bị bẽ mặt và đòi nước Đức phải thanh toán những món nợ nó gây ra trong quá khứ. Tội lỗi của người Đức trong thời kỳ phát xít giờ trở thành một vũ khí gây náo động hiệu quả của những chủ thể bất lực. Tuy trong nhiều cuộc thăm dò ở nước ngoài, Đức thực ra là một đất nước được nhiều người ngoại quốc kính nể. Nhưng với người dân Châu Âu hiện nay, họ sẽ buộc phải lôi lại chuyện cũ và gào thét khi mà những chính sách do người Đức đề xướng đang trở nên không mấy dễ chịu đối với họ. Có một điều đáng lưu ý là, những cáo buộc đối với chính phủ Đức có một luận điệu kết hợp kỳ lạ rằng, nước Đức đang áp đảo, chứ không phải đang thực quyền lãnh đạo. Nó đang bá quyền, nhưng thực ra lại là một bá chủ yếu ớt. Điều này sẽ khiến nhiều người nhớ lại nội dung của cuốn sách “Từ Bismarck đến Hitler” được xuất bản vào năm 1987 của nhà sử học Sebastian Haffner, trong đó ông có viết rằng nước Đức tại thời điểm chuyển giao thế kỷ đang mang một kích thước thật kỳ lạ. Nó vừa quá lớn lại vừa quá nhỏ. Điều này có vẻ đang đúng một lần nữa. Nằm cạnh sàn chứng khoáng Milan, nơi cách đó không xa có một tượng đá mang hình một bàn tay đang giơ ngón tay thối cao 11 mét như đang châm biếm cho sự thoái trào của nền tài chính thế giới, là tòa nhà trụ sở của nhật báo Il Giornale. Ngồi bên trong văn phòng mà khi xưa là của nhà báo nổi tiếng người Ý – Indro Montanelli, là một nhà báo kỳ cựu khác năm nay đã 71 tuổi – Vittorio Feltri. Ông đã tác nghiệp hơn một nửa thế kỷ tại nhật báo Corriere della Sera và một vài tờ báo khác. Vào năm ngoái, ông và một nhà báo nổi tiếng khác là Gennaro Sangiuliano, phó tổng biên tập cho kênh truyền hình quốc gia Rai 1, đã cùng hợp tác xuất bản một cuốn sách đáng chú ý với tựa đề: “Đệ tứ đế chế: Cách mà nước Đức khuất phục cả châu Âu”. Nói thêm rằng, đây không đơn giản chỉ là suy nghĩ của một vài người cấp tiến tuyệt vọng cố tìm ra điểm giống nhau giữa hiện tại và quá khứ. Còn có nhiều học giả đáng kính và nhiều công dân ưu tú khác, những người mà không vướng bận bởi những lo lắng về cơm áo gạo tiền thường ngày, giống như Feltri và Sangiuliano, chia sẻ chung một quan điểm với họ. Hai tác giả cho rằng, đồng euro chính là một phương tiện thống trị của người Đức và do đó phải được xếp ngang hàng với những sư đoàn xe tăng thiện chiến của Đức quốc xã ngày xưa. Đồng Euro chính là công cụ đảm bảo sự thống trị của người Đức. Và tòa án hiến pháp liên Bang Đức Bundesverfassungsgericht cũng nên được so sánh như là một thứ vũ khí phát xít. Đặc biệt, họ mô tả thủ tướng Đức, với tên châm biếm là Merkiavelli – được ghép từ tên của thủ tướng Merkel và cố học giả Machiavelli, với ý nghĩa mô tả sự láu cá, hai mang và thực dụng trong nghệ thuật quản lý nhà nước của Merkel – cùng với chính phủ tự phụ của mình đang cố hoàn thành cái kế hoạch mà Hitler ngày xưa còn làm dang dở. Cuốn sách, nói như Feltri, như một án văn luận chiến công kích “sự không thích hợp đến vô lý của việc sử dụng một đồng tiền chung, thứ mà duy nhất chỉ có nước Đức là được hưởng lợi từ nó”. Một bộ phận lớn chính trị gia Ý chia sẻ cách nhìn của Feltri. Vào năm ngoái, thành viên Đảng dân chủ xã hội Romano Prodi, cựu chủ tịch của Hội đồng châu Âu, đã gây ngạc nhiên khi xuất bản một bài xã luận trên chuyên trang L’Espresso, trong đó có đoạn: “Ở Đức, những người theo chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa dân tộc thì được dạy dỗ và dẫn dắt bởi Merkel”, ông tiếp tục. “Tuy nhiên, ở Brussels trong những năm gần đây, lại chỉ có một quốc gia duy nhất xác định hướng đi của cả Liên minh; Đức thậm chí tự xem mình là đủ tư cách để dạy bảo những thành viên khác những bài học về đạo đức theo một cách không thể chấp nhận được”. Trong khi thủ tướng Italia Matteo Renzi thì thận trọng khi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc gần Đức, những tiếng nói cực đoan từ phía cánh hữu đang ngày càng trở nên gay gắt hơn. Chuyên gia nghiên cứu về nước Đức, Luigi Reitani đã phát biểu trong một hội nghị vào cuối năm ngoái rằng một số người Ý đã bắt đầu vẽ ra “một đường gạch nối từ những cuộc xâm lược man rợ trong quá khứ của Bismarck và Hitler tới (những chính sách của) Merkel”. Ở Pháp, những luận điệu tương tự thế này xuất hiện một cách thường xuyên. Vào năm 2011, Arnaud Montebourg, người sẽ nắm cương vị Bộ trưởng Kinh tế một khoảng thời gian sau đó, nói rằng “Bismarck đã liên kết những nguyên tắc kỷ luật đậm chất Đức để cai trị Châu Âu, đặc biệt là để cai trị Pháp. Tương tự một cách đáng nhạc nhiên, Angela Merkel đang cố gắng giải quyết các vấn đề trong nước bằng cách áp đặt những nguyên tắc kinh tế và tài chính được hậu thuẫn bởi những người bảo thủ trong nước lên phần còn lại của Châu Âu”. Theo một cách nói khác, những chính sách bành trướng của Đức đã hiện diện trở lại, ít nhất là trên địa hạt kinh tế. Nỗi sợ hãi trước sự bá chủ của người Đức đối với châu Âu sẽ không ở đâu bằng được ở Pháp, nơi mà một phần lớn lãnh thổ từng bị người hàng xóm của mình chiếm đóng đến ba lần trong vòng 80 năm. Đặc biệt là trong những năm gần đây, phong trào bài Đức phát triển một cách mạnh mẽ trên địa hạt chính trị, từ Đảng cực hữu Mặt trận quốc gia đến những người tả khuynh trong Đảng Dân chủ cầm quyền. Tuy mục đích một phần của phong trào này là nhằm hướng sự chú ý của công chúng ra khỏi những thất bại chính trị của các nhà lãnh đạo nước này trong việc thực thi cải cách, nhưng ý nghĩa và tác động của nó vẫn đáng được xem xét một cách nghiêm túc.
Người Đức
Người Đức (tiếng Đức: Deutsche) là khái niệm để chỉ người thuộc sắc tộc Đức (bao gồm người Áo), có cùng văn hóa và nguồn gốc, nói tiếng Đức là tiếng mẹ đẻ. Trong tiếng Việt, người Đức còn được dùng để chỉ những người có quốc tịch Đức, dù họ không có sắc tộc Đức (những người nước ngoài nhập cư vào Đức). Ngoài khoảng 100 triệu người nói tiếng Đức là ngôn ngữ mẹ đẻ thì còn có khoảng 80 triệu người trên thế giới tự coi là người Đức. Ngoài ra còn có khoảng 70 triệu người gốc Đức (chủ yếu ở Hoa Kỳ, Brazil, Argentina, Pháp và Canada), những người này không nói tiếng Đức là ngôn ngữ chính nhưng vẫn nhận họ có gốc Đức. Do vậy, dân số người Đức trên thế giới ước lượng vào khoảng từ 75 tới 160 triệu người. Tại Hoa Kỳ, trong cuộc điều tra dân số năm 2000, có 15% dân số Mỹ nhận họ là người Đức, nhiều hơn bất cứ nhóm tộc người nào khác. Người Đức cũng là dân tộc bản địa tại Áo. Trong lịch sử, người Đức đã mang lại cho loài người những thành tựu lớn về khoa học, văn học, triết học, âm nhạc và mĩ thuật.
Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6 là dịp tri ân các thế hệ nhà báo đã cống hiến trí tuệ, sự nhiệt thành, và, nhiều khi là cả máu và nước mắt để độc giả có được những bài báo hay phản ánh chân thực các sự kiện nóng hổi, các vấn đề đời sống, văn hóa, xã hội, những câu chuyện truyền cảm hứng và những tấm gương đáng tôn vinh. Hàng năm vào ngày 21/6 các hoạt động kỷ niệm, chào mừng diễn ra sôi nổi trên khắp cả nước. Cũng vào ngày này, các cuộc thi báo chí với những sản phẩm chất lượng của các phóng viên, nhà báo được phát động. Chính vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng ngày 21/6 không đơn thuần là ngày lễ kỷ niệm mà còn là dịp để những người làm báo nhìn lại những thành tựu cũng như khó khăn để thêm tình yêu và sự nỗ lực đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp báo chí cách mạng. Từ những năm 60 thế kỉ XIX đã có một số báo lần lượt ra đời tại Sài Gòn, Hà Nội và một vài địa phương khác. Những năm đầu thế kỷ XX, hàng loạt tờ báo của người Việt Nam được xuất bản. Các tờ báo này tập hợp nhiều nhà văn, nhà báo, nhà trí thức theo từng nhóm nhỏ nhưng có các khuynh hướng chính trị khác nhau. Đến ngày 21/6/1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập báo Thanh Niên, đây là dấu mốc đánh dấu sự hình thành của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Từ khi có báo “Thanh niên”, báo chí Việt Nam giương cao ngọn cờ cách mạng, nói lên ý chí, khát vọng của dân tộc Việt Nam và chỉ rõ phương hướng đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Ngày 2/6/1950, Chính phủ chính thức quyết định cho thành lập Hội "Những người viết báo Việt Nam" (Hội Nhà Báo Việt Nam ngày nay). Đến tháng 7/1950, Tổ chức Báo chí quốc tế (OIJ) đã công nhận Hội những người viết báo Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức. Ngày 21/6/1985, lần đầu tiên báo chí cả nước tổ chức Lễ kỷ niệm ngày Báo chí Việt Nam và kỷ niệm 60 năm Báo Thanh Niên xuất bản số đầu tiên. Ðây là ngày lễ không chỉ của riêng giới báo chí mà là ngày lễ của nhân dân cả nước, vì báo chí là sự nghiệp của toàn dân. Ngày 21/6/2000, nhân kỉ niệm 75 năm ngày Báo chí Việt Nam, theo đề nghị của Hội Nhà báo Việt Nam, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đồng ý gọi ngày Báo chí Việt Nam là ngày Báo chí cách mạng Việt Nam. Sau ngày thống nhất đất nước, báo chí ở nước ta đã phát triển khá nhanh cả về số lượng và chất lượng, hình thành hệ thống thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình rộng khắp cả nước. Nội dung thông tin của báo chí ngày càng phong phú, hiệu quả, hình thức đẹp, sinh động và hấp dẫn. Trong thời kỳ hội nhập và đổi mới, báo chí đã tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ánh nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Báo chí đã quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời báo chí cũng là vũ khí sắc bén chống lại các thế lực thù địch của cách mạng, đấu tranh chống tiêu cực bảo vệ lợi ích của nhân dân. - Nhân Ngày Báo chí Việt Nam (21/6), xin gửi lời chúc tới các bác, anh, chị, em đã, đang và sẽ trở thành những nhà báo lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và luôn có tâm sáng, ngòi bút sắc bén để: "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà". - Nhân kỷ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6), xin gửi tới các nhà báo, phóng viên, biên tập viên, những người làm việc trong ngành truyền thông, báo chí lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và thành công trong sự nghiệp. Chúc các đồng chí sẽ luôn luôn giữ vững ngòi bút sắc bén để trở thành những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa tư tưởng. - Nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6, thương chúc các anh chị có một ngày kỷ niệm nhiều niềm vui và luôn giữ được tâm huyết với nghề báo. Tôi rất ngưỡng mộ những đóng góp thầm lặng của các anh chị để có những tác phẩm báo chí tuyệt vời đến gần hơn với độc giả. - Nhân ngày 21/6 ngày nhà báo Việt Nam, xin được gửi lời chúc tất cả các anh chị em nhà báo luôn luôn thật nhiều sức khỏe, nhiều ý tưởng và nhiều đam mê với công việc mình đã lựa chọn. Bởi giữ được đam mê, nhiệt huyết thì thành công sẽ luôn đến bên các anh chị em. - Chúc mừng ngày nhà báo! Em chúc anh chị thân thương luôn vui vẻ, sức khỏe và hạnh phúc trong công việc cũng như có thật nhiều bài báo hay để chia sẻ cùng với độc giả. - Chúc các anh chị phóng viên, biên tập viên, những người làm báo có một ngày hạnh phúc. Mong các anh chị luôn giữ được tư tưởng vững vàng để mang đến sự thẳng thắn, trắng đen, đúng sai thật sự đến với độc giả. - Kính chúc các nhà báo, các phóng viên, biên tập viên thật nhiều sức khỏe, nhiều niềm vui và may mắn. Đặc biệt hãy luôn giữ vững ngòi bút, lập trường và sự khách quan, trung thực của mình nhé. - Nhân kỷ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, chúc /chị sẽ luôn luôn giữ vững ngòi bút của mình để trở thành những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận thông tin. - Nhân kỷ niệm 95 ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam chúc các anh chị em luôn vững vàng ngòi bút, yêu nghề và nguyện cống hiến để có được những bài báo hay nhất, nóng hổi nhất phục vụ độc giả. Sáng 26/8, hàng trăm phương tiện xe tải, xe container ùn ứ trong khu vực Bến xe khách Trung tâm TP. Cần Thơ và đường phía bên ngoài.
Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam
Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (ngày 21 tháng 6) là ngày kỉ niệm ra đời của báo "Thanh niên" do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập 21 tháng 6 năm 1925. Trong lịch sử báo chí Việt Nam, từ những năm 60 thế kỉ 19 đã có "Gia Định báo" và một số báo khác lần lượt ra đời tại Sài Gòn, Hà Nội và một vài địa phương khác. Nhưng báo "Thanh niên" đã mở ra một dòng báo chí mới: báo chí cách mạng Việt Nam. Từ khi có báo "Thanh niên", báo chí Việt Nam mới giương cao ngọn cờ cách mạng, nói lên ý chí, khát vọng của dân tộc Việt Nam và chỉ rõ phương hướng đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Do ý nghĩa đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Quyết định số 52 ngày 5 tháng 2 năm 1985 lấy ngày 21 tháng 6 hằng năm làm Ngày báo chí Việt Nam nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm xã hội của báo chí, thắt chặt mối quan hệ giữa báo chí với công chúng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí.
Xét về nguyên tắc, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản chất khác hẳn với các kiểu nhà nước trước đó. Bản chất này là do cơ sở kinh tế – chính trị và các đặc điểm của việc tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị trong chế độ xã hội chủ nghĩa quy định. Về bản chất, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của đại đa số nhân dân lao động trong xã hội mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua các đặc trưng sau:. – Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là bộ máy chính trị – hành chính, một bộ máy cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế – xã hội của nhân dân lao động, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ còn là “nửa nhà nước ”. – Dân chủ là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất là nhà nước của đông đảo nhân dân lao động trong xã hội, nhà nước mở rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, bao gồm các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tự do dân chủ và tự do cá nhân… Thông qua các quy định của pháp luật, nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng ghi nhận nhiều hơn các quyền con người thành quyền công dân, đồng thời xây dựng một cơ chế hữu hiệu để nhân dân thực hiện các quyền dân chủ. + Nhân dân thực hiên quyền lực thông qua các hoạt động đưa ra những yêu cầu, kiến nghị. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài những đặc điểm thể hiện bản chất chung giống bất kỳ nhà nước xã hội chủ nghĩa thì còn có những đặc điểm riêng thể hiện nét riêng có của mình, cụ thể: Nhà nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam; Nhà nước ta được tổ chức và hoạt động trên cơ sở mối quan hệ bình đẳng và trách nhiệm lẫn nhau giữa nhà nước và công dân; Nhà nước mang tính nhân đạo sâu sắc, tất cả vì giá trị con người; Nhà nước ta mở rộng chính sách đối ngoại, hướng tới việc góp phần xây dựng một thế giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau. Những đặc điểm của Nhà nước ta được thể hiện nhất quán trong các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trong tổ chức và hoạt động của nhà nước và được pháp luật quy định một cách chặt chẽ, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Điều 2 Hiếu pháp 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Bản chất của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam theo Hiến pháp 2013 là nhà nước của dân, do dân và vì dân. – Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ và pháp quyền. Tính giai cấp công nhân của Nhà nước ta được quy định bởi tính tiên phong và sự lãnh đạo của giai cấp này. Tính tiên phong của giai cấp công nhân. được thể hiện trong quá trình đấu tranh cách mạng, ở sự trung thành với lý tưởng cách mạng, ở khả năng nhận thức và tư tưởng đổi mới, phát triển. Bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện bản chất của giai cấp công nhân, là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân lao động và của toàn xã hội. Nhà nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đoàn kết dân tộc. Các dân tộc anh em đều bình đẳng trước pháp luật. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng, được Nhà nước tạo điều kiện, hỗ trợ về mọi mặt để phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội. Các chính sách xã hội thể hiện tính dân chủ, nhân đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa đang được triển khai thực hiện ở vùng đồng bào các dân tộc. Ngày nay, tính dân tộc đó được phát huy nhờ kết hợp với tính giai cấp, tính nhân dân và tính thời đại. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân: Nhân dân thiết lập nên Nhà nước bằng quyền bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sử dụng quyền lực nhà nước chủ yếu thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức giám sát, khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện các quyết định, hành vi của các cơ quan nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền làm thiệt hại đến quyền lợi của họ; tham gia góp ý vào các dự án chính sách, pháp luật. Tính nhân dân không phủ nhận các biện pháp cương quyết, mạnh mẽ của Nhà nước nhằm chống lại các hành vi gây mất ổn định chính trị, vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Vì vậy, cùng với việc đổi mới, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước, Nhà nước cần tăng cường bộ máy cưỡng chế để đảm bảo an ninh, an toàn cho xã hội và cho từng cá nhân con người. Nhà nước ta là một Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện thiết chế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nhà nước ta hiện nay đang thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhà nước ta thừa nhận nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là phương tiện để đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Bên cạnh việc chăm lo phát triển kinh tế, Nhà nước Việt Nam còn quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, chú trọng phát triển giáo dục, y tế, văn hóa…. Tính thời đại của Nhà nước ta còn được thể hiện sinh động trong chính sách đối ngoại với phương châm: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, hợp tác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào nội bộ của nhau. Lưu tên, email và trang web của tôi trong trình duyệt cho lần bình luận sau.
Chủ nghĩa xã hội nhà nước
Chủ nghĩa xã hội nhà nước là một cách gọi cho tất cả các tư tưởng kinh tế và chính trị ủng hộ việc quốc hữu hóa phương tiện sản xuất vì bất kì mục đích nào, dù để làm giải pháp tạm thời tiền đề cho việc chuyển đổi từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội, hay là làm cơ sở căn bản cho chủ nghĩa xã hội đó. Từ này thường được dùng, đôi khi ngang nghĩa với chủ nghĩa tư bản nhà nước (mặc dù trong thực tế cả hai thuật ngữ có nhiều tính chất khác biệt) khi nhắc đến các hệ thống kinh tế của các nước theo chủ nghĩa Marx – Lenin như Liên bang Xô viết để nhấn mạnh vai trò của kinh tế theo kế hoạch trong những nền kinh tế này, trong khi những nhà phê bình của hệ hay nước này thường gọi nó là "chủ nghĩa tư bản nhà nước". Những nước này thường chỉ có một số lượng giới hạn các tính chất của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội nhà nước được đặt ở vị trí đối lập với chủ nghĩa xã hội tự do cá nhân, một chủ nghĩa không đồng tình với quan điểm chủ nghĩa xã hội có thể được xây dựng nên bằng việc sử dụng cơ sở hạ tầng nhà nước sẵn có hay bằng các chính sách nhà nước.
Kế toán trưởng là gì – Trong bài viết trước Báo kinh tế có chia sẽ đến bạn đọc chi tiết về kế toán. Trong đó kế toán trưởng được xem là một cấp bậc của nghề kế toán. Xong, để có thể trở thánh kế toán trưởng lại không phải là điều đơn giản. Cần phải tốn nhiều thời gian, kinh nghiệm để có thể trở thành kế toán trưởng tài ba. Kế toán trưởng là những người được Bộ Tài chính cấp phép để trở thành kế toán trưởng. Kế toán trưởng là người phụ trách chỉ đạo mọi hoạt động của bộ phận kế toán. Ngoài ra, trong những công ty có quy mô lớn thì kế toán trưởng chỉ dưới quyền giám đốc tài chính. Nhiệm vụ chính của họ là người giám sát một nhóm các chuyên gia tài chính khác. Đa số các công ty ở Việt Nam, kế toán trưởng ngoài việc đảm nhận chức năng kế toán thì báo cáo thuế cũng được xem là vai trò chính. Theo quan điểm riêng của Báo Kinh Tế, kế toán trưởng là chức vụ, bởi đây là cụm từ chung nói về công việc của người làm kế toán trưởng. Còn chức danh chỉ được sử dụng khi gán với một người nào đó làm kế toán trưởng. Lúc này kế toán trưởng được hiểu là chức danh của chị Trương Ngọc Diệu. Trong Doanh nghiệp thì Kế toán trưởng được xem là một trong các quản lý cao cấp. Ngoài việc chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ các kế toán viên trong bộ phận kế toán thì họ đóng vai trò quan trọng trong việc đóng góp ý kiến cho các nhà quản lý góp phần thúc đẩy việc tăng lợi nhuận và cắt giảm chi phí khi cần thiết. Kế toán trưởng là người chịu trách nhiệm đảm bảo mọi cá nhân thuộc sự giám sát và quản lý của mình sẽ thay đổi phù hợp với nhu cầu công việc và tham gia đầy đủ các chương trình đào tạo. Nắm rõ các quy trình làm việc và các quy định công thức kế toán của công ty. Trong việc quản lý hoạt động của phòng kế toán, kế toán trưởng sẽ là người vận dụng các công nghệ, kỹ thuật mới giúp cho bộ phận gia tăng hiệu quả, giảm thiểu thời gian và các chi phí. Bên cạnh đó, kế toán trưởng cũng là người thực hiện mọi giao dịch tài chính với ngân hàng. Kế toán trưởng cần có sự giám sát việc quyết toán các khoản thu chi, tổ chức kiểm kê tài sản định kì, kiểm kê dòng tiền của doanh nghiệp vào mỗi cuối năm tài chính. Tuy nhiên, họ có thể được yêu cầu quyết toán bất cứ thời điểm nào từ quản lý cấp cao. Vì thế nên kế toán trưởng cần luôn chuẩn bị sẵn sàng. Chính vì nhiệm vụ này, nên kế toán trưởng cũng sẽ là người thực hiện trình bày kết quả với các quản lý cấp cao và cả các bên liên quan (nếu có). Những bảng báo cáo tài chính có thể là do kế toán viên hoặc chính kế toán trưởng lập. Nhưng kế toán trưởng sẽ phải tham gia vào việc lập các báo cáo tài chính vào thời gian quy định và phải trình bày báo cáo với lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp. Kế toán trưởng sẽ là người chịu trách nhiệm với kiểm toán viên về sổ sách chứng từ của doanh nghiệp. Với nhiệm vụ này, kế toán trưởng phải luôn đảm bảo được tính chính xác kịp thời và hợp pháp trong các sổ sách kế toán: các giấy thanh toán, bảng kê tài chính, bảng cân đối kế toán, sổ sách bảo hiểm, công nợ với ngân hàng, khách hàng cũng như chủ đầu tư và cả bảng báo cáo tài chính. Kế toán trưởng sẽ là người hiểu rõ nhất về các hoạt động kế toán tài chính của doanh nghiệp. Khi đó, bảng phân tích và dự báo của họ có ý nghĩa quan trọng, từ đây kế toán trưởng sẽ đưa ra dự báo về nguồn tài chính, có thể đưa ra các kiến nghị trong việc thu hút nguồn tài chính cho doanh nghiệp để duy trì ngân sách. Ngoài nhiệm vụ chính có liên quan đến kế toán và thuế, kế toán trưởng có thể thực hiện một số nhiệm vụ khác, tùy thuộc vào doanh nghiệp nơi mà họ đang làm việc. Kế toán trưởng có quyền độc lập đối với các công việc liên quan tới nghiệp vụ kế toán, tài chính. Đối với những doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước thì kế toán trưởng còn có quyền đưa ra ý kiến với người đại diện pháp luật của Doanh nghiệp (có thể là giám đốc pháp lý) về việc thay đổi nhân sự (thông báo tuyển dụng, chuyển đổi vị trí, khen thưởng và kỷ luật nếu có). Kế toán trưởng có quyền yêu cầu kế toán viên cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu kế toán cần thiết. Khi ý kiến về chuyên môn kế toán của kế toán trưởng khác với ý kiến của lãnh đạo thì kế toán trưởng có quyền giữ ý kiến của mình. Kế toán trưởng có trách nhiệm phải thực hiện công việc kế toán, tổ chức quản lý bộ phận kế toán theo đúng các quy định của pháp luật. Ngoài ra, kế toán trưởng sẽ là người lập và báo cáo về các hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Kế toán trưởng sẽ là người chịu trách nhiệm đảm bảo sổ sách kế toán phải chính xác và đầy đủ. Cũng như các hoạt động kế toán- tài chính – thuế của doanh nghiệp phải phù hợp với quy định của pháp luật. Để trở thành kế toán trưởng thì ứng viên cần có chứng chỉ kế toán, nền tảng kiến thức chuyên sâu về kế toán và phải có nhiều năm kinh nghiệm ở vị trí thấp hơn hoặc vị trí tương đương. Vị trí kế toán trưởng phải chịu trách nhiệm quan trọng trong mọi hoạt động kế toán, thuế có liên quan tới những vấn đề pháp luật của một doanh nghiệp. Vì vậy, việc lựa chọn một kế toán trưởng có đầy đủ năng lực là điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Có lẽ “Kế toán trưởng” Là mục tiêu của không ít người đang làm kế toán. Xong không phải ai cũng đủ tố chất để trở thành một kế toán trưởng giỏi. Vậy kế toán trưởng cần những điều kiện gì ? Một số gợi ý sau đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về kế toán trưởng. Kỹ năng chuyên môn là yếu tố đầu tiên giúp bạn trở thành vị trí tối cao trong phòng kế toán. Bổi người làm ở vị trí này phải hiểu biết toàn diện về công việc kinh doanh của công ty. Có thể sử dụng thành thạo tất cả các phần mềm quản lý tài chính, phân tích tài chính,… cũng như các kỹ năng, chuyên môn liên quan đến nghiệp vụ kế toán. Có thể thấy, đây là một trong những điều kiện bạn có thể dễ dàng có được. Bởi những kỹ năng này chúng ta có thể học hỏi, trao dồi kiến thức từ bạn bè, người đã thành công trong lĩnh vực này. Có thể nói kỹ năng chuyên môn là yêu tố bắt buộc người làm kế toán trưởng trong tương lai phải có. Bởi vị trí này rất quan trọng trong bộ máy doanh nghiệp. Nếu bạn không có kiến thức chuyên môn tốt, bạn sẽ không thể làm được những công việc khó mà chỉ có người đứng đầu mới có quyền và nhiệm vụ thực hiện. Do vậy trước khi muốn trở thành một kế toán trưởng thực thụ, bạn cần phải rèn luyện kỹ năng chuyên môn của mình. Kế toán trưởng là người đứng đầu trong phòng kế toán. Là người chịu trách nhiệm rất lớn trong việc chắt lọc các thông tin, dữ liệu của công ty doanh nghiệp. Là người truyền đạt các yêu cầu của cấp trên, phân phối công việc cho các nhân viên dưới trướng của mình. Bởi vậy, để trở thành toán trưởng, ngoài kỹ năng chuyên môn, thì kỹ năng giao tiếp cũng là yếu tốt không thể thiếu. Cho dù là giao tiếp trực tiếp hay qua trao đổi bằng cá phần mềm nhắn tin. Là người quản lý các nhân viên khác trong một phòng ban, nếu bạn không có kỹ năng giao tiếp. Cách nói chuyện, ứng xử không khéo léo, các nhân viên cấp dưới sẽ không nể phục và phải nghe. Như vậy sẽ rất khó để bạn quản trị phòng kế toán của mình đúng không nào ?. Việc nắm bắt các thông tin, nghị định, luật mới không chỉ là người làm kế toán trưởng phải biết. Mà kể các các nhân viên kế toán cũng phải nắm rõ và am hiểu tường tận các điều khoản, quy định, luật doanh nghiệp, thuế,… Có thể nắm bắt các quy định mới về thuế. Vậy nên để trở thành kế toán trưởng giỏi ngoài 2 yếu tố kỹ năng chuyên môn, kỹ năng giao tiếp, bạn còn phải biết nắm bắt, am hiểu, các điều khoản bổ sung. Các điều khoản sửa đổi liên quan đến luật doanh nghiệp, thuế…. Như chúng ta đã biết, bất kỳ công việc, ngành nghề nào cũng có những khó khăn, áp lực riêng. Kế toán cũng không ngoại lệ, Do vậy, từ lúc bước chân vào học và làm kế toán, bạn cần xác định trước khi lựa chọn. Một khi đã lựa chọn kế toán làm nghề thì nhất định phải nỗ lực không ngừng, tạo động lực cho bản thân. Dù có khó khăn như thế nào cũng quyết tâm trụ vững với nghề. Như vậy mới có hy vọng trở thành một người kế toán trường giỏi, tài ba, được nhiều người kính nể. Theo thông tin khảo sát từ các trang web tuyển dụng cho thấy. Mức lương trung bình cho vị trí kế Toán Trưởng tại Việt Nam hiện nay khoảng 22 triệu đồng. Chưa tính các khoản thu nhập khác, vì mỗi doanh nghiệp có những chế độ ưu đãi khác nhau. Trong một doanh nghiệp lớn thì kế toán trưởng sẽ có nhiều cơ hội thăng tiến lên những vị trí quản lý cấp cao hơn. Hoặc kế toán trưởng khi có đủ điều kiện có thể thành lập công ty riêng cung cấp dịch vụ kế toán trưởng bán thời gian cho các doanh nghiệp khác. 1 Kế toán trưởng là gì – Kế toán trưởng là chức danh hay chức vụ1.1 Kế toán trưởng là gì1.2 Kế toán trưởng tiếng anh là gì 1.3 Kế toán trưởng là chức danh hay chức vụ1.4 Kế toán trưởng làm gì1.4.1 Quản lý hoạt động của phòng/ bộ phận kế toán1.4.2 Giám sát việc quyết toán1.4.3 Lập báo cáo tài chính và đảm bảo tính hợp pháp trong sổ sách kế toán1.4.4 Tham gia phân tích và dự báo về nguồn tài chính trong doanh nghiệp1.5 Quyền hạn và trách nhiệm của kế toán trưởng trong doanh nghiệp1.5.1 Quyền hạn của kế toán trưởng1.5.2 Trách nhiệm của kế toán trưởng1.6 Kế toán trưởng cần có những kỹ năng kinh nghiệm gì1.6.1 Kỹ năng chuyên môn1.6.2 Kỹ năng giao tiếp1.6.3 Nắm bắt nhanh các điều khoản luật pháp quy định1.7 Mức lương của kế toán trưởng hiện nay là bao nhiêu1.8 Tổng kết về kế toán trưởng trong doanh nghiệp. 1.4 Kế toán trưởng làm gì1.4.1 Quản lý hoạt động của phòng/ bộ phận kế toán1.4.2 Giám sát việc quyết toán1.4.3 Lập báo cáo tài chính và đảm bảo tính hợp pháp trong sổ sách kế toán1.4.4 Tham gia phân tích và dự báo về nguồn tài chính trong doanh nghiệp. 1.4.3 Lập báo cáo tài chính và đảm bảo tính hợp pháp trong sổ sách kế toán. 1.5 Quyền hạn và trách nhiệm của kế toán trưởng trong doanh nghiệp1.5.1 Quyền hạn của kế toán trưởng1.5.2 Trách nhiệm của kế toán trưởng. 1.6 Kế toán trưởng cần có những kỹ năng kinh nghiệm gì1.6.1 Kỹ năng chuyên môn1.6.2 Kỹ năng giao tiếp1.6.3 Nắm bắt nhanh các điều khoản luật pháp quy định
Kế toán trưởng
Kế toán trưởng là người được bổ nhiệm đứng đầu bộ phận kế toán nói chung của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, xí nghiệp, cơ sở. và là người phụ trách, chỉ đạo chung và tham mưu chính cho lãnh đạo về tài chính và các chiến lược tài chính, kế toán cho doanh nghiệp. Kế toán trưởng là người hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, điều chỉnh những công việc mà các kế toán viên đã làm sao cho hợp lý nhất. Trong các đơn vị kinh doanh, doanh nghiệp, Kế toán trưởng luôn đứng dưới, làm việc dưới quyền Giám đốc Tài chính (CFO).
Xúc cảm chính là thá độ và những rung động của một con người đối với một người khác, hoặc một sự kiện, hiện tượng nào đó bất kỳ trong cuộc sống, Xúc cảm chính là yếu tố đầu tiên thúc đẩy và hình thành nhu cầu cầu về tình càm và những nhu cầu khác trong đời sống tinh thần của mỗi một người. Tinh thần là một trong hai yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự đầy đủ trong giá trị cuộc sống của mỗi người. Trong đó, xúc cảm là một trong những yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự phong phú trong đời sống tinh thần của một người. Cùng với “tình cảm” là một điều không thể thiếu tạo nên sự phú trong đời sống tinh thần của một người. Cả hai yếu tố xúc cảm và tình cảm đều là hai yếu tố tạo nên giá trị tinh thần của một người. Thế nhưng hai khái niệm nay lại là hai khái niệm hoàn toán khác nhau mà đa số mọi người thường nhầm lãn với nhau khi nhắn đến hai khái niệm này. Vậy trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích những nội dung liên quan đến câu hỏi Xúc cảm là gì? So sánh xúc cảm và tình cảm. Xúc cảm là thá độ và những rung động của một con người đối với một người khác, hoặc một sự kiện, hiện tượng nào đó bất kỳ trong cuộc sống. Có thể thấy ở bất kỳ nơi đâu và bất kỳ thời điểm nào, chắc hẳn tất cả chúng ta đều dễ dàng gặp được những việc, hiện tượng và chúng ta sẽ bày tỏ thái độ đối với những hiện tượng đó. Thái độ đó có thể là yêu thích hoặc thù ghét tùy thuộc vào hiện tượng mà ta nhìn thấy là gì? Mang tính tích cực hay mang tính tiêu cực. Tất cả những thái độ đó với những hiện tượng diễn ra xung quanh chúng ta được gọi là xúc cảm. Tuy nhiên, không có khái niệm nào có thể định nghĩa xúc cảm một cách chính xác, bởi xúc cảm là một phạm trù rất đa dạng và xúc cảm được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Theo nhà tâm lý học Feht Russel thì “Xúc cảm là thứ mà mọi người đều biết nhưng không thể định nghĩa được”. Theo như nhận định của nhà tâm lý này thì tất cả mỗi chúng ta đều biết và đều biết thể hiện xúc cảm của bản thân, tuy nhiên, không thể định nghĩa nó một cách chính xác và khái quát nhất. Như vậy theo các nhà tâm ký học thì xúc cảm mang tính nhất thời và không ổn định, có thể được thể hiện chủ yếu duowuis hai dạng là yêu và ghét. Tình cảm là những thái độ cảm xúc của một người đối với một người nào đó, nó mang tính chất ổn định hơn xúc cảm vì tình càm sẽ không diễn ra ngay tức thời mà phải trải qua một quá trình nhất định. Tình cảm cũng là thái độ rung động của một cá nhân nào đó, tuy nhiên tình cảm là những thái độ rung động, ấn tượng tốt đối với một người nào đó chứ không được thể hiện dưới dạng thái độ tích cực. Có thể nói, xúc cảm đóng vài trò rất quan trọng đối với cuộc sống của mỗi con người, nó tạo nên giá trị tinh thần của mỗi người, mà đây là yếu tố không thể thiếu trong đời sống của mỗi người. + Đối với quá trình nhận thức của một con người, xúc cảm luôn là động lực thưc sđảy tiềm thức và hành động của mỗi chúng ta, kích thích sự tìm tòi và sáng tạo của mỗi người. + Đối với đời sống thường ngày, xúc cảm đóng vai trò quan trọng về cả tâm lý và sinh lý của mỗi người. Xúc cảm chính là yếu tố đầu tiên thúc đẩy và hình thành nhu cầu cầu về tình càm và những nhu cầu khác trong đời sống tinh thần của mỗi một người. + Trong công việc, xúc cảm giúp thúc đẩy con người, tạo đồng lực cho con người vượt qua mọi khó khan trở ngại trong công việc. Bơ nếu một người được thúc đẩy bởi yếu tố xúc cảm, người đó dẽ có tinh thần mạnh mẽ và có nhiều động lực hơn. Tù đó có thể hoàn thành công việc và vượt qua những khó khan một cách dễ dàng hơn. Đồng thời, thông qua hoạt động của xuacs cảm, tình cảm của con người sẽ có cơ hội nảy nở và trở nên phong phú hơn. Từ những chia sẻ về khái niệm của xúc cảm và tình cảm, chúng ta có thể thấy xúc cảm và tình cảm đều là những rung động của một con người đối với những con người, hiện tượng, sự việc diễ ra xung quanh. Vậy Xúc cảm và tình cảm có phải là hai trạng thái cảm xúc giống nhau?. Dưới đây chúng tôi sẽ đi so sánh những điểm giống và khác nhau của hai trọng thái xúc cảm và tình cảm để bạn đọc dễ dàng nhận biết và phan biết hai trạng thái cảm xúc này. + Xúc cảm và tình càm đều do sự tác động khách quan từ yếu tố bên ngoài mà có, thể hiện thái độ cá nhân của một người đối với hiện tượng khách quan đó. + Nội dung và hình thức của xúc cảm à tình cảm đều mang tính chủ quan, nghĩa là nó thể hiện thái độ chủ quan của cá nhân đối với một hiện tượng khách quan nào đó. + Xúc cảm va tình cảm đều là nét nổi bật thể hiện trạng thái tâm ký của mỗi người. + Xúc cảm và tình cảm đều có cơ sở vật chất trên vỏ não và có khuynh hướng truyền cảm. + Xúc cảm mang tính chất nhất thời, không ổn định và phụ thuộc hầu như vào những yếu tố khách quan bên ngoài, còn tình cảm mang tính ổn định hơn. + Xúc cảm giúp thực hiện chức năng sinh vật, nó gắn liền với phản xạ tự nhiên, vì vậy nó không chỉ tồn tại ở người mà còn có thể tồn tại ở các loài vật. Còn tình cảm gắn với chức năng xã hội, nó gắn liền với phản xạ có điều kiện và chỉ được thể hiện ở con người.
Trí tuệ xúc cảm
Trí tuệ xúc cảm (emotional intelligence - EI) thường dùng dưới hàm nghĩa nói về chỉ số cảm xúc (emotional intelligence quotient - EQ) của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng, năng lực, kỹ năng (trong trường hợp của mô hình tính cách về trí tuệ xúc cảm) hay khả năng tự nhận thức để xác định, đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của người khác, của các nhóm cảm xúc. Trí tuệ xúc cảm là nhánh nghiên cứu tương đối mới của ngành tâm lý học. Do đó, định nghĩa về trí tuệ xúc cảm không ngừng thay đổi. Nguồn gốc sâu xa nhất của trí tuệ cảm xúc có thể truy ngược về việc Darwin nghiên cứu về tầm quan trọng của sự diễn đạt cảm xúc của các cá thể trong quá trình chọn lọc tự nhiên và các thay đổi thích nghi Vào những năm 1900, mặc dù các định nghĩa truyền thống về trí tuệ nhấn mạnh tới yếu tố nhận thức như là trí nhớ và khả năng giải quyết vấn đề, nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng trong lĩnh vực nghiên cứu trí tuệ đã bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của khía cạnh "ngoài nhận thức" (non-cognitive).
Trinh thám luôn là thể loại sách thu hút số lượng lớn độc giả bởi sự kịch tính và bất ngờ của nó. Khác hẳn với các thể loại khác, dòng văn trinh thám đòi hỏi khả năng tư duy rất cao từ tác giả, cũng như khối lượng kiến thức, thông tin khổng lồ được sử dụng để là chất liệu cho tác phẩm. Không phải bất cứ tác giả nào cũng đủ khả năng để nghĩ ra những vụ án giả tưởng song lại rất hợp lý. Ngày nay, dòng văn học trinh thám phát triển mạnh mẽ với số lượng tác phẩm khổng lồ. Tuy nhiên, nổi bật trong thế giới đầy phức tạp của văn học trinh thám, vẫn có những tác phẩm được xếp vào hàng kinh điển của thế giới và không thể thay thế trong lòng của các độc giả. Hãy cùng Sách Hay 24H điểm qua Top 12 cuốn tiểu thuyết trinh thám hay và nổi tiếng nhất trên toàn thế giới mà bạn không nên bỏ qua. Sherlock Holmes được xem là một trong những huyền thoại trinh thám trên nền văn học thế giới. Hình tượng của vị thám tử tài ba là khuôn mẫu mà các nhà văn hướng tới khi xây dựng các tác phẩm trinh thám, nổi tiếng đến mức độ độc giả quyên mất đây chỉ là một nhân vật hư cấu. Đây là cuốn tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn với những câu chuyện đặc sắc, khiến người xem "nghẹt thở" đến giây phút cuối cùng. Cuốn sách xuất bản lần đầu tiên vào năm 1887, cho đến nay Sherlock Holmes Conan Doyle đã trở thành một tượng đài bất tử trong làng truyện trinh thám. Tác phẩm là những mẩu chuyện khác nhau xoay quanh những vụ án bí ẩn chưa tìm thấy lời giải đáp. Các câu chuyện là tách rời nhau, địa điểm cũng như các nhân vật phụ là hoàn toàn khác biệt. Cái hay của tác phẩm là chú ý nhiều đến khả năng quan sát tinh tường và trí thông minh tuyệt đỉnh của Sherlock trong quá trình ông điều tra các vụ án. Các chi tiết nhỏ nhất cũng có sự ảnh hưởng đến mạch truyện, những cách thức gây án không thể ngờ tới lôi cuốn người đọc vào thế giới của của những vụ án. Điểm nhấn của tác phẩm chính là sự đối đầu giữa vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes và vị giáo sư thiên tài Moriarty. Một bên ánh sáng, một bên bóng tối song đều sở hữu trí thông minh tuyệt đỉnh đã tạo ra những cuộc rượt đuổi nghẹt thở. Có thể nói đây chính là cuộc chiến giữa thiện và ác, cả hai là kẻ thù của nhau, song đều dành cho đối phương một sự kính trọng đặc biệt bởi tài năng của mỗi người là không thể phủ nhận. Thêm một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Dan Brown được mệnh danh là một trong số cuốn tiểu thuyết trinh thám hay nhất mọi thời đại đó chính là Mật mã Davinci. Vào thời điểm tác phẩm này ra đời đã gây ra cuộc tranh cãi lớn trên văn đàn thế giới bởi việc sử dụng yếu tố thần học trong tác phẩm. Cuốn sách mang đậm phong cách cá nhân của Dan Brown khi có sự đan xen giữa yếu tố trinh thám và yếu tố thần thoại, hai chất liệu hoàn toàn trái ngược nhau. Với những tình tiết hấp dẫn, hồi hộp hết sức nhưng không kém thú vị bạn sẽ khám phá được từ bất ngờ này đến bất ngờ khác trong câu chuyện. Tác phẩm kể nhân vật Langdon đang sống yên ổn, bỗng nhiên một ngày lại rơi vào một hoàn cảnh nguy hiểm đến tính mạng. Những may mắn ông đã gặp một người phụ nữ xinh đẹp nhưng không kém phần thông minh đó chính là Sophia. Sau một chuyến chạy trốn đầy nguy hiểm nhờ sự giúp đỡ của một nhà sử học tài ba có tên Teabing cả Langdon và Sophie đã khám phá được một bí mật động trời. Bí mật xen lẫn bí mật, bất ngờ nối tiếp bất ngờ, tác phẩm đậm màu sắc huyền bí và tâm linh, đã không chọn giải quyết những vụ án đơn thuần và là những bí mật nằm sâu trong quá khứ, có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến toàn thế giới. Song hành với những chi tiết đời thực khi hau nhân vật chính cố gắng bảo toàn tính mạng của mình là hành trình đi tìm nguồn gốc thật sự của chén thánh, những bí mật mà theo tác giả, nên nằm vĩnh viễn trong bóng tối. Tác phẩm chú ý nhiều đến việc tìm ra hung thủ và động cơ của họ hơn là cách thức gây án. Xuôi chiều cuốn sách là hơi thở gấp gáp của từng nhân vật khi phải chạy đua với sự truy đuổi gắt gao từ cảnh sát và áp lực phải tìm ra sự thật đằng sau thông điệp được gửi gắm dưới các tác phẩm của Davinci. Những tình tiết giết người được miêu tả rất tàn nhẫn góp phần tạo nên kịch tính cho tác phẩm. Được chắp bút bởi Agatha Christe – nữ hoàng truyện trinh thám, tác phẩm mang hơi hướng cổ điển song vẫn còn nguyên sức hút đối với độc giả qua thời gian. Tác phẩm nói về vụ án mạng kỳ lạ xảy ra trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông chạy từ Istambul về Calais mà thám tử Hercule Poirot tình cờ có mặt. Con tàu trở thành một căn phòng kín và hung thủ thì vẫn có mặt trên chuyến tàu trong suốt hành trình phá án. Nạn nhân trong tác phẩm là một kẻ thủ ác, đang bị đe dọa bởi những lá thư vì những tội ác hắn đã làm trong quá khứ, bị giết bởi 12 nhát dao. Nhưng điều kì là là các nhát dao này không phải của cùng 1 người, câu hỏi đặt ra là tại sao lại xuất hiện các vết thương khác nhau trên cùng một nạn nhân đã khiến cho vị thám tử vô cùng đau đầu. Cuốn sách là hành trình đi tìm hiểu những lời khai đến từ các nhân chứng. Những lời khai rất logic và trùng khớp song bằng tài năng và trí thông minh của mình, Poirot đã tìm ra những khe hở trong những lời khai đó, thật ngạc nhiên khi tất cả đều là lời nói dối. Cũng giống như Sherlock Home, cuốn sách không có các tình tiết giết người dã man song vẫn không làm mất đi giọng văn hồi hộp của một tác phẩm trinh thám. Tài suy luận và con mắt tinh tưởng của vị thám tử khi không có sự hỗ trợ của các phương tiện khoa học kĩ thuật được đặc biệt chú ý. Tác giả chú ý đến từng tình tiết nhỏ bị lãng quên, song dưới con mắt của Poirot đó lại là chìa khóa của vụ án. Kết quả thu được không chỉ đơn thuần là câu trả lời cho vấn đề hung thủ là ai, mà chính là lương tâm của con người trước ánh sáng của công lí đã mở ra. Hành động của hung thủ trong tác phẩm theo tòa án lương tâm thì là đúng đắn, song theo luật pháp lại là phạm pháp. Sự thật đôi khi thật đau lòng và các nạn nhân đôi khi không phải lúc nào cũng là bên yếu thế. Đây là một trong những cuốn sách mà câu chuyện của nó khiến người đọc phải ớn lạnh bởi sự tàn ác của hung thủ và của chính nạn nhân, từ động cơ gây án cũng như cách thức giết người của hung thủ và cả sự trả thù đến từ nạn nhân. Tác phẩm kể về diễn biến tâm lý của những nhân vật, cụ thể là những đứa trẻ mới lớn bị giáo dục một cách lầm lạc. Như cái tên của cuốn sách, 6 chương vẻn vẹn hơn 200 trang sách chỉ nói về thú tội. Lần lượt là tường thuật của cô giáo, lớp trưởng, bà mẹ học sinh B, rồi đến lời tự sự điên loạn của B, di chúc của A & cuối cùng khép lại bằng cuộc gọi của cô giáo cho học sinh A. Tất cả mọi lời thú tội đều bắt đầu xung quanh câu chuyện về Manami, con gái của cô giáo, bị giết hại bởi chính những học sinh của mình. Thú tội tiết lộ hung thủ ngay từ những chương đầu, bởi thứ nó muốn làm nổi bật là tâm lý của những hung thủ này. Sự bất ổn trong tâm lý của chúng, sự giáo dục sai lầm đến từ phía gia đình, và cách thức truyền thông tiêm nhiễm vào đầu những đứa trẻ mới lớn về hình ảnh của những vụ án giết người. Chúng là những đứa trẻ khao khát tìm sự chú ý và được công nhận, song con đường lại hoàn toàn sai trái khi lựa chọn việc giết người để làm điều đó. Hành trình trả thù của cô giáo cũng khiến độc giả phải rùng mình bởi sự ác độc của nó cũng không thua kém cách hung thủ giết người. Một tác phẩm đầy sức nặng khiến độc giả phải thở gấp. Togashi đột ngột xuất hiện sau 5 năm li dị đã thay đổi cuộc đời Yasuki hoàn toàn, gã đeo bám chị không dứt, buổi tối định mệnh đó sau một hồi giằng co chị vô tình giết Togashi. Ishigami, một thiên tài toán học ẩn dật bất ngờ xuất hiện, đề nghị giúp chị phi tang cái xác. Tác phẩm đi theo một hướng hoàn toàn khác so với các tác phẩm trinh thám thông thường, đó là không chú trọng vào việc tìm ra hung thủ mà chú trọng vào cách thức tạo bằng chứng ngoại phạm. Ishigami vời tài năng của một thiên tài đã thành công tạo ra một bằng chứng ngoại phạm tuyệt vời và thậm chí là điên rồ để qua mặt các viên cảnh sát. Cách thức mà anh sử dụng không một ai có thể ngờ tới, nó hoàn hảo đến độ ngay cả khi Yugawa phát hiện ra cũng không thể khiến cho Yasuki buộc phả nhận tội. Ishigami đã tiên liệu đến những chi tiết nhỏ nhất, ngoại trừ sự xuất hiện của Yugawa. Tác phẩm còn làm nổi bật được tình yêu của Ishigami dành cho Yasuki, sự hi sinh anh giành cho cô có lẽ vượt xa giới hạn của con người. Đan xen với những yếu tố trinh thám, tình cảm của các nhân vật như đòn bẩy để thúc đẩy mạch truyện vốn rất chậm rãi. Sự bất ngờ được duy trì cho đến tận khi kết thúc tác phẩm, một cái kết nằm ngoài dự đoán của tất cả mọi người. Nhắc đến những cuốn tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng trên thế giới, chắc chắn chúng ta không thể bỏ qua một tác phẩm cực kì nổi tiếng đó là Hoả Ngục của nhà văn người Mỹ Dan Brown. Được xuất bản vào năm 2013, Hỏa ngục đã thực sự tạo được dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả và trở thành một trong những cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất trên danh sách New York Times Best Seller. Tác phẩm ngay từ khi xuất bản đã thu về doanh thu rất cao, cũng như được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Đồng thời, tác phẩm cũng được chuyển thể thành phim và dự kiến chiếu vào tháng 4 năm 2016. Hỏa ngục với nội dung rất kịch tính, độc đáo và hấp dẫn nói về vấn đề khá nhức nhối của nhân loại hiện nay qua những sự kiện, những tình tiết thể hiện tương đối hư cấu và nhân hóa, đó chính là sự gia tăng đột ngột dân số toàn cầu đồng thời cũng đặt ra những câu hỏi về vai trò của khoa học trong tương lai của chúng ta. Nếu bạn là một người yêu thích tiểu thuyết trinh thám thì chắc chắn không thể bỏ qua được tiểu thuyết Sự im lặng của bầy cừu của Thomas Harris. Đây là một tác phẩm trinh thám xen lẫn yếu tố kinh dị, với việc miêu tả tâm lí nhân vật hết sức tinh tế cùng những tình tiết truyện gay cấn và hồi hộp, cuốn tiểu thuyết đã tạo ấn tượng rất đặc biệt trong lòng người đọc. Sự im lặng của bầy cừu là câu chuyện đầy gay cấn và hấp dẫn kể về hàng loạt vụ án giết người xảy ra nhưng không để lại bất kỳ một dấu vết gì. Tuy nhiên có một bác sĩ tâm lý bị tâm thần có tên là Lecter lại rõ về hành vi của kẻ sát nhân nhưng không hiểu sao ông chỉ im lặng. Cuối cùng thì sự thật cũng đã phơi bày, thủ phạm của hàng loạt vụ án giết người là một tên có nhân cách bệnh hoạn, một kẻ tâm thần vô cùng nguy hiểm.…. Với những vụ án rùng rợn, kinh dị và khủng khiếp qua ngòi bút sắc bén của tác giả Lôi Mễ, “Đề thi đẫm máu” đã trở thành một trong những cuốn tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhất trên thế giới thu hút được sự quan tâm của hàng triệu độc giả. Ám ảnh, sợ hãi và bất ngờ, đó là những gì gói gọn trong tác phẩm trinh thám Đề thi đẫm máu nổi tiếng của tác giả Lôi Mễ. Những vụ án ly kì, hậu quả cực kì nghiêm trọng; tên sát nhân với thủ đoạn tàn nhẫn, giết người ghê rợn đều được thể hiện hết sức sinh động qua ngòi bút sắc bén của Lôi Mễ. Nội dung cuốn tiểu thuyết kể về nhân vật chính là một chàng trai vô cùng thông minh có tên là Phương Mộc. Anh chàng này có khả năng thiên bẩm là khắc họa chân dung tội phạm rất chính xác nên giúp đỡ cảnh sát nhiều trong việc phá án những vụ án giết người nguy hiểm. Rồi có những sự việc gì xảy ra tiếp theo, tại sao thầy giáo Tôn, người đã ra đề thi đẫm máu và nước mắt cho anh và những người thân bên cạnh anh lần lượt ra đi. Hãy theo dõi cuốn sách để tìm hiểu sự thật đằng sau những cái chết bí hiểm đó nhé. Vốn là một sĩ quan cảnh sát, thế nên cách phát triển tâm lí tội phạm, cách miêu tả những tình tiết trong các vụ án đều được Lôi Mễ diễn tả một cách vô cùng chân thực và logic. Các sự việc xâu chuỗi vào nhau, tạo nên mạch truyện rất hợp lí. Gấp lại trang cuối cùng, chắc chắn đọng lại trong chúng ta không những là cảm giác ám ảnh về những vụ án khủng khiếp, mà còn là những trăn trở, suy nghĩ về tâm lí nhân vật, về những triết lí sống mà cuốn tiểu thuyết trinh thám đặc sắc này đã để lại.
Tiểu thuyết trinh thám
Tiểu thuyết trinh thám (tiếng Pháp: roman détective) là một tiểu loại của tiểu thuyết phiêu lưu. Bản thân tên gọi thể loại đã làm nổi bật một vài đặc điểm riêng của nó. Nó nói lên nghề nghiệp của nhân vật chính. Nhân vật chính có thể là “thám tử”, là “mật thám”, hay “điều tra viên” gì đó, nhưng đều có nghề nghiệp chung là dò la, điều tra, khám phá cái bí mật, còn nằm trong bóng tối. Nó chứng tỏ, đây là truyện vụ án, truyện viết về tội phạm, một loại truyện rất phổ biến ở các nước phương Tây. Nó mách bảo người sáng tác cách thức xây dựng cốt truyện: phải giữ đến cùng những bí mật của tội phạm để tạo nên sự hấp dẫn, khiến người đọc luôn luôn ở trong trạng thái căng thẳng. Cái bí mật bao giờ cũng tạo nên sự hứng thú, hấp dẫn đối với người đọc. Nhưng chắc chắn, nghề “trinh thám” không thể trở thành cốt truyện phổ biến trong văn học, khi phạm tội chưa trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến. Ngay ở những nước tư bản phát triển nhất, bộ máy cảnh sát có nhiệm vụ điều tra âm mưu để chặn đứng tội ác của bọn tội phạm cũng phải đến nửa sau thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, mới được thành lập.
Qua việc đăng ký tài khoản VNTRIP, bạn đồng ý hoàn toàn với các Điều khoản, Điều kiện cũng như các Chính sách bảo mật của VNTRIP. Nhập địa chỉ Email đã đăng ký tài khoản Vntrip, hệ thống sẽ gửi thông tin hướng dẫn bạn khôi phục lại mật khẩu. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một trong những nơi trưng bày và lưu giữ những giá trị về văn hóa của 54 dân tộc anh em trên khắp cả nước. Đây là địa điểm thu hút rất đông du khách tới tham quan mỗi năm. Giờ hãy cùng VNTRIP.VN tìm hiểu xem bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có những gì thú vị nhé!. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam nằm trên đường Nguyễn Văn Huyên, Cầu Giấy, cách trung tâm Hà Nội khoảng 8km. Bảo tàng mang ý nghĩa giá trị văn hóa to lớn quy mô quốc gia cũng như địa phương. Bạn có thể dễ dàng di chuyển tới đây bằng nhiều phương tiện như ô tô, xe máy hoặc taxi. Đối với nhiều du khách khi đến Hà Nội, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam luôn nằm trong danh sách những điểm đến “không thể bỏ qua”. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được hình thành từ năm 1981 tại Hà Nội với diện tích 3,27 ha. Công trình này do kiến trúc sư Hà Đức Linh thiết kế và nữ kiến trúc sư Veronique Dollfus (người Pháp) thiết kế nội thất. Bảo tàng như một bức tranh thu nhỏ về lịch sử cũng như văn hóa của đồng bào 54 dân tộc anh em tại Việt Nam với đa dạng nét văn hóa vô cùng đặc sắc. Các hiện vật này được trưng bày theo nhiều loại khác nhau như: y phục, trang sức, vũ khí, nhạc cụ, tôn giáo, tín ngưỡng và nhiều hoạt động tinh thần khác. Bảo tàng được chia làm ba khu trưng bày chính: tòa nhà Trống Đồng, khu trưng bày ngoài trời và khu trưng bày Đông Nam Á. Từ ngoài nhìn vào, du khách sẽ thu hút bởi cách trình bày, bố trí từ hình thức đến nội dung thể hiện đều rất khoa học và logic, dễ dàng nắm bắt được màu sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc. Tòa nhà Trống Đồng có hai không gian, 1 không gian trưng bày theo chủ đề và luôn được làm mới ở tầng 2, còn không gian tầng 1 giới thiệu bản sắc 54 dân tộc. Tại đây có 15.000 hiện vật, 42.000 thước phim và hình ảnh miêu tả đời sống sinh hoạt, trang phục, y phục, nông cụ và tôn giáo tín ngưỡng cũng như các tục lệ của đồng bào dân tộc. Để phục vụ khác tham quan, các hiện vật ở đây đều được dịch chủ yếu 3 thứ tiếng: Tiiếng Việt, tiếng Anh, Tiếng Pháp và một số thứ tiếng khác để du khách tiện cho việc tham quan, tìm hiểu bảo tàng. Du khách sẽ ngỡ ngàng trước những hiện vật đẹp mắt được trưng bày cẩn thận từ quần áo, đồ nghề cho tới mô hình các lễ nghi, ma chay, cưới hỏi… Tất cả được dựng lại như một góc thu nhỏ cuộc sống cũng như văn hóa cổ truyền của đồng bào dân tộc xưa kia. Du khách sau khi tham quan qua tòa nhà Trống Đồng sẽ bắt gặp một khoảng sân lớn, đó khu trưng bày ngoài trời. Tại đây sẽ bắt găp những kiến trúc độc đáo của người dân tôc như nhà sàn của người Tày, nhà sàn của người Ê đê, nhà sàn của người Tày, nhà trệt lợp ván Pơmu của người H’mong. Nằm trong khuôn viên khu vườn còn có cối giã gạo bằng sức nước của người Dao. Tiếp theo các du khách có thể tham quan khu trưng bày Đông Nam Á ở trong bảo tàng. Nhìn từ xa, du khách sẽ nhận thấy khu trưng bày được xây dựng theo hình cánh diều – một nét văn hóa truyền thống không chỉ của Việt Nam mà của cả khu vực ASEAN. Cánh diều tượng trưng cho ước mơ, hoài bão, cho sự tự do còn mãi với thời gian. Ở đây thường xuyên trưng bày về văn hóa Đông Nam Á, tranh kính Indonesia, một thoáng châu Á và vòng quanh thế giới. Ngoài ra còn có các hoạt động giáo dục, hội trường, phòng chiếu phim, phòng đa phương tiện, du khách có thể xem tư liệu văn hóa không chỉ của Việt Nam mà còn của các nước ASEAN. Đây chính là cầu nối, quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam và bạn bè khu vực Đông Nam Á cũng như nhiều nơi trên thế giới. Du khách đến đây không chỉ tham quan mà vào thứ bảy, chủ nhật hàng tuần, Bảo tàng Dân tộc học còn tổ chức nhiều chương trình biểu diễn múa rối nước, các hoạt động văn nghệ dân gian, lễ hội dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam phục vụ du khách. Ngoài ra du khách sau khi tham quan bảo tàng có thể dừng chân mua vài món đồ lưu niệm nhỏ nhắn, xinh xắn về làm quà cho gia đình hay những người bạn của mình. Không chỉ đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam mà du khách còn cảm nhận được sự giao thoa mang đậm né tvăn hóa của các nước Đông Nam Á. Điều này càng làm cho mối quan hệ giữa văn hóa Việt nam với văn hóa của các nước Đông Nam Á trở nên tốt đẹp hơn. Là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa lâu đời của 54 dân tộc anh em kết hợp những sắc màu văn hóa trên khắp cả nước, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam chắc chắn là một trong những địa điểm mà các bạn không thể bỏ qua khi đến với thủ đô. Nếu bạn có chọn địa điểm du lịch đến Hà Nội để tới tham quan, bạn có thể đặt phòng tại VNTRIP.VN.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (tiếng Anh: Vietnam Museum of Ethnology) là tổ chức sự nghiệp trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, có chức năng nghiên cứu khoa học, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, phục chế hiện vật và tư liệu về các dân tộc; tổ chức trưng bày,trình diễn và những hình thức hoạt động khác nhằm giới thiệu, phổ biến và giáo dục về các giá trị lịch sử, văn hoá của các dân tộc trong và ngoài nước; cung cấp tư liệu nghiên cứu về các dân tộc cho các ngành; đào tạo cán bộ nghiên cứu, nghiệp vụ, quản lý về nhân học bảo tàng. Bảo tàng tọa lạc tại đường Nguyễn Văn Huyên, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, cạnh đường Nguyễn Khánh Toàn và đối diện công viên Nghĩa Đô. Bảo tàng lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật văn hoá của cả 54 dân tộc Việt Nam gồm 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CD-Rom (tính đến năm 2000).
Các nhà vật lý hạt nhân đã tiến đến gần thời điểm có thể chế ngự một nguồn năng lượng sạch hầu như vô tận - năng lượng tổng hợp hạt nhân trong tương lai gần (2030-2035). Phản ứng tổng hợp hạt nhân đang được xem là nguồn năng lượng của tương lai khi mà nó có thể giải quyết đồng thời hai vấn đề nóng của nhân loại: biến đổi khí hậu và bảo đảm năng lượng bền vững trong nhiều triệu năm. Năng lượng tổng hợp hạt nhân dựa trên nguyên lý của nhà bác học vĩ đại Albert Einstein. Phản ứng tổng hợp hạt nhân là hai nhân hợp lại với nhau thành một nhân nặng hơn, trong quá trình hợp nhất phóng thích ra năng lượng khổng lồ. Còn phản ứng phân hạch hạt nhân là sự phân rã hạt nhân phóng thích năng lượng, cùng các tia alpha, beta, gama. Phản ứng tổng hợp hạt nhân phóng thích năng lượng tùy thuộc vào khối lượng của hạt nhân tham gia, ví dụ: những nguyên tử nhẹ hơn sắt và nickel tổng hợp hạt nhân thì phóng thích năng lượng, trong khi các nhân nặng hơn thì hấp thu năng lượng. Nếu thực hiện được phản ứng tổng hợp thì chúng ta thu được năng lượng. Muốn có được tổng hợp hạt nhân phải làm 2 hạt nhân ban đầu xích lại gần nhau ở khoảng cách ~10-14 m. Sau đó cần có động năng cực kỳ lớn cho các hạt nhân vượt qua tương tác đẩy Coulomb giữa chúng mà va vào nhau. Để làm được điều này cần một nguồn năng lượng rất lớn, phải tạo ra nhiệt độ cao trên 100 triệu độ (nóng gấp khoảng 10 lần tâm của Mặt trời). Ở nhiệt độ cao như vậy, nguyên tử khí bị “tuột” ra khỏi các electron bên ngoài, để lại hạt nhân mang điện tích dương. Đám khí này gọi là plasma. Do mang điện tích nên nó có thể chứa từ trường bên trong, ngay cả ở nhiệt độ rất cao. Nhiệt độ đạt đến mức cần thiết sẽ tạo ra từ trường đủ mạnh và bắn ra tia hydro giàu neutron, giúp hiện tượng nhiệt hạch xảy ra. Vì thế người ta còn gọi đây là phản ứng nhiệt hạch. Với những lò phản ứng thông thường, thành của lò không thể chịu được nhiệt độ cao như vậy nên người ta phải dùng từ trường để giam giữ plasma. Phản ứng nhiệt hạch là cơ sở để chế tạo bom khinh khí hay bom H, đồng thời cũng là cơ sở để xây dựng lò phản ứng nhiệt hạch. Tổng hợp hạt nhân giải phóng 17,6 MeV (hình 1), với năng lượng lớn gấp nhiều triệu lần năng lượng cung cấp bởi các phản ứng sử dụng carbon. Nhiên liệu để phản ứng tổng hợp hạt nhân là đồng vị Deuterium và Tritium của hydrogen. Các nguyên liệu này có thể tách dễ dàng từ nước biển hoặc tổng hợp với quy mô công nghiệp từ các nguyên tử hydrogen không mấy tốn kém. Nguồn nhiên liệu hydrogen gần như vô tận trong thiên nhiên. Chỉ cần 1 kg hỗn hợp Detrium và Tritium (tách từ 1.000 l nước biển), sẽ tạo ra nguồn năng lượng ngang với 1 tỷ tấn dầu mỏ và gấp hàng chục lần so với nhiên liệu phân hạch Uranium, đồng thời sản phẩm khí thải là Helium - một loại khí hiếm, hoàn toàn không gây ô nhiễm môi trường. ITER (International Thermonuclear Experimental Reactor) là lò Tokamak 1 có từ trường lớn nhất thế giới với sức mạnh 5 Tesla (gấp 100 nghìn lần từ trường Trái đất), được xây dựng tại miền nam nước Pháp. Đây là một siêu dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ tổng hợp hạt nhân quốc tế, với sự góp sức của 35 quốc gia, chi phí lên tới hàng chục tỷ USD, trong đó vai trò chính thuộc về Liên minh châu Âu, Anh, Thụy Sỹ, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ và Hàn Quốc. Dự án được kỳ vọng sẽ mở ra kỷ nguyên mới cho việc sử dụng năng lượng nhiệt hạch của loài người. ITER đóng vai trò là nơi thử nghiệm một số công nghệ khác bao gồm sản xuất Tritium, kiểm soát plasma, duy trì quá trình cháy và các nghiên cứu nâng cao khác. ITER cũng sẽ là nơi kiểm tra các tính năng an toàn cần có của các nhà máy điện nhiệt hạch trong tương lai. Những hoạt động đầu tiên của lò ITER được lên kế hoạch vào năm 2025 và hướng đến mục tiêu vận hành phản ứng tổng hợp hạt nhân vào năm 2035. Lò phản ứng Wendelstein 7-X (W7-X) là một lò thử nghiệm được Viện Max Planck về vật lý plasma (IPP) xây dựng tại Greifswald, Đức, hoàn thành vào 10/2015 sau 19 năm nghiên cứu, xây dựng, với chi phí hơn 1 tỷ Euro. Đây là lò phản ứng tổng hợp hạt nhân dạng stellarator 2. Trong lần hoạt động chính thức đầu tiên (12/2014), lò Wendelstein 7-X được lấp đầy bằng khí heli và được nung nóng bằng tia laser 1 triệu độ C. Plasma được sản sinh bên trong lò và duy trì trong vòng 1/10 giây, không quá dài nhưng đủ để chứng minh Wendelstein 7-X hoạt động một cách bình thường. Lần hoạt động tiếp theo (2/2016) là một bước tiến lớn khi các nhà khoa học sử dụng nguồn bức xạ vi sóng với công suất 2 MW để nung nóng khí hydro lên tới 80 triệu độ C trong vòng 1/4 giây (mục tiêu để lò Wendelstein 7-X hoạt động hoàn hảo là tạo ra plassma với nhiệt độ lên tới 100 triệu độ C) và được coi là thành công bước đầu. Mục tiêu cuối cùng của một lò phản ứng nhiệt hạch hoàn hảo là phải duy trì dòng plasma ở nhiệt độ 100 triệu độ C trong thời gian hơn 1.000 giây (khoảng 17 phút). Đây là dự án kết hợp giữa Phòng thí nghiệm Rutherford Appleton (Anh) và Hệ thống kích hoạt quốc gia - NIF (Mỹ). NIF dùng các hạt nhân của Deuterium, Tritium và bắn tia laser để hợp nhất các hạt này còn bằng vài phần trăm kích cỡ ban đầu của chúng. Quá trình này khiến các nguyên tử hydro hợp nhất, biến thành helium - phản ứng tương tự như ở bom H (bom khinh khí). Phản ứng này được kiểm soát và có thể tạo ra các dòng neutron chuyển động nhanh. Chúng có thể được dùng để đun nóng nước và quay tua-bin hơi nước, tạo ra năng lượng. Mục tiêu của NIF là có thể kích hoạt (phản ứng) trong vài năm tới. Để đạt đến mục tiêu này, nguồn năng lượng tạo ra phải tăng khoảng 1.000 lần. Vì thế, thách thức mà công nghệ này phải đối mặt thật không nhỏ. Tham vọng làm chủ nguồn năng lượng nhiệt hạch còn vấp phải nhiều rào cản kỹ thuật. Trong đó, khó khăn lớn nhất là phải tạo ra được plasma với nhiệt độ cao (T), mật độ nhất định plasma ( ), lưu giữ được plasma đó trong thời gian nhất định ( ) sao cho tích của 3 thừa số đó vượt một ngưỡng nhất định để tổng hợp hạt nhân có thể xảy ra. Đó là tiêu chí Lawson (đặt theo tên nhà vật lý người Anh J.D. Lawson) cho tổng hợp hạt nhân. Muốn tạo được phản ứng tổng hợp cần có điều kiện:. Khả năng giam giữ plasma: việc giam giữ plasma bằng từ trường có thể gây ra các hiện tượng rò rỉ, ngoài ra, thời gian giam giữ plasma cũng cần phải đủ dài để cho phép các ion nhận đủ nhiệt lượng cho phản ứng nhiệt hạch. Các thiết bị hiện tại chỉ mới giam giữ được plasma trong khoảng thời gian rất ngắn. Để có thể giam giữ plasma với thời gian lâu hơn, các lò phản ứng cần có kích thước lớn hơn và từ trường mạnh hơn. Vật liệu lò Tokamak: hiện tại chưa có vật liệu nào đủ tin cậy để chịu được nhiệt độ cực cao và sự bắn phá liên tục của các hạt nơtron trong suốt vòng đời của một nhà máy điện. Các vật liệu siêu dẫn ở nhiệt độ cao đang là niềm hy vọng mới trong việc cải thiện khả năng giam giữ plasma của các lò Tokamak. Sản xuất điện: để tạo ra điện từ lò phản ứng nhiệt hạch, các thiết bị sẽ phải hoạt động ở nhiệt độ rất cao. Do đó, quá trình trao đổi nhiệt sẽ hoạt động như thế nào vẫn còn là một dấu hỏi. Hầu hết các thiết kế hiện tại đều dựa trên ý tưởng một vòng tuần hoàn heli sẽ lấy nhiệt từ tấm chăn liti và truyền động trực tiếp cho tuabin hoặc tạo ra hơi nước trong vòng lặp thứ cấp để làm quay tuabin hơi. Phương hướng tổng hợp hạt nhân hiện nay đang phát triển mạnh mẽ, mở ra nhiều hy vọng về một phương pháp tạo năng lượng vô cùng tận (cung cấp năng lượng cho nhân loại nhiều triệu năm), không gây khí nhà kính, giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Nhiều vấn đề công nghệ phức tạp cần phải tiếp tục hoàn thành để biến tổng hợp hạt nhân thành công nghiệp thị trường. Với quy mô và tốc độ phát triển hiện nay, chúng ta có thể chờ đợi không lâu (khoảng 2030-2035) để chế ngự một năng lượng có một không hai cho loài người - năng lượng tổng hợp hạt nhân. 1 Hầu hết các nghiên cứu nhiệt hạch đều sử dụng một thiết bị giam giữ từ tính được gọi là Tokamak. Được phát triển lần đầu tiên từ những năm 50 của thế kỷ XX, Tokamak là một buồng chân không hình xuyến sử dụng các nam châm điện mạnh để giam giữ và định hình plasma (Tokamak là viết tắt của tiếng Nga cho “buồng hình xuyến với các cuộn dây từ tính”). 2 Tokamak sử dụng dòng điện để xoắn các electron và ions trong plasma, tạo ra một vòng lặp theo chiều dọc cũng như chiều ngang trong thiết bị có hình chiếc bánh donut. Tuy nhiên do sử dụng điện nên khi gặp sự cố về điện, từ trường cũng sẽ bị phá vỡ và lò phản ứng sẽ bị tổn hại, rất nguy hiểm. Ngược lại, Stellarator tạo ra vòng lặp ngang dọc này bằng chính thiết kế ban đầu của Tokamak, bọc thêm các cuộn dây vào chiếc bánh donut. Tuy nhiên, cách làm này lại khiến Stellarator khó xây dựng hơn Tokamak mặc dù nó có ưu điểm là không cần dùng điện. Nhưng nếu xây dựng thành công, phản ứng sẽ được diễn ra an toàn hơn do từ trường được tạo thành từ các cuộn dây bọc vòng quanh, giữ cho plasma luôn ở bên trong.
Phản ứng tổng hợp hạt nhân
Phản ứng tổng hợp hạt nhân hay phản ứng nhiệt hạch, phản ứng hợp hạch, trong vật lý học, là quá trình giữa 2 hạt nhân trở lên hợp lại với nhau để tạo nên một hạt nhân mới nặng hơn. Cùng với quá trình này là sự phóng thích năng lượng hay hấp thụ năng lượng tùy vào khối lượng của hạt nhân tham gia. Nhân sắt và nickel có năng lượng kết nối nhân lớn hơn tất cả các nhân khác nên bền vững hơn các nhân khác. Sự kết hợp hạt nhân của các nguyên tử nhẹ hơn sắt và nickel thì phóng thích năng lượng trong khi với các nhân nhẹ hơn thì hấp thụ năng lượng. Phản ứng tổng hợp hạt nhân là một trong hai loại phản ứng hạt nhân. Loại kia là phản ứng phân hạch. Phản ứng tổng hợp hạt nhân của các nguyên tử nhẹ tạo ra sự phát sáng của các ngôi sao và làm cho bom hydro nổ. Phản ứng tổng hợp hạt nhân của các nhân nặng thì xảy ra trong điều kiện các vụ nổ sao (siêu tân tinh). Phản ứng tổng hợp hạt nhân trong các sao và các chòm sao là quá trình chủ yếu tạo ra các nguyên tố hóa học tự nhiên.
Xuất tinh là hiện tượng mà hầu hết nam giới đều từng trải qua. Tình trạng này có liên quan đến hoạt động tình dục và chức năng sinh sản. Do vậy, nam giới nên tìm hiểu các vấn đề xoay quanh xuất tinh để tránh mắc phải các bệnh nam khoa sau này. Xuất tinh là hiện tượng nam giới phóng thích tinh dịch thông qua cơ quan sinh sản, đi kèm với cảm giác cực khoái. Khi xuất tinh, nam giới sẽ xuất ra một lượng tinh dịch chứa đến 300 triệu tinh trùng. Đây là một phần thiết yếu của quá trình thụ thai tự nhiên. Xuất tinh thường xảy ra cuối cùng trong các giai đoạn kích thích tình dục như quan hệ, thủ dâm hoặc xảy ra trong lúc ngủ (mộng tinh). Khi bước sang tuổi dậy thì, lỗ thông ở đầu dương vật giữ vai trò thoát nước tiểu và tinh dịch. Lúc này, cơ quan sinh dục đã dần trưởng thành và phát triển chức năng sản xuất tinh trùng. Tuy nhiên, ở những lần đầu nam giới có thể tự xuất tinh mà không cần đến những kích thích tình dục. Bước 2: Tín hiệu sẽ được truyền trực tiếp đến trung tâm gây cương tại não bộ. Bước 3: Vỏ não nhận nhiệm vụ truyền tín hiệu cho hệ thần kinh giao cảm ở dương vật, khiến dương vật cương cứng. Bước 4: Khi đạt được sự cương cứng và khoái cảm cực đỉnh, dương vật sẽ xuất tinh. Quá trình phóng tinh sẽ trải qua 2 giai đoạn chính là: Giải phóng tinh dịch và giai đoạn xuất tinh. Dương vật sẽ ngày càng cương lên khi nhận được càng nhiều kích thích tình dục. Song song đó, túi tinh và tuyến tiền liệt cũng sẽ dần cứng lên. Từ mào tinh, áp lực đẩy tinh trùng đi theo ống dẫn tinh và tập kết ở túi tinh. Sau khi tinh trùng đã vào túi tinh thì tinh dịch từ túi tinh, ống dẫn tinh cũng như tuyến tiền liệt sẽ tiết ra nhiều hơn. Áp suất tại niệu đạo sẽ được tạo ra ở mức rất lớn, cùng với đó là số lượng tinh dịch nhiều. Khi tinh dịch vượt mức cho phép sẽ đẩy áp suất lên tột đỉnh và buộc phải giải phóng. Các cơ vòng dưới niệu đạo bắt đầu mở ra và các cơ nền ở đáy chậu đồng loạt co bóp. Điều này sẽ tạo thành lực đẩy rất mạnh, đẩy tinh dịch ra phía ngoài theo đường niệu đạo. Tinh dịch sẽ bắn ra ngoài theo từng đợt. Mỗi đợt cách nhau khoảng 1 giây và có từ 3-10 đợt trong 1 lần xuất tinh. Lần đầu xuất tinh ở trẻ vị thành niên nam là khoảng 13 - 15 tuổi. Đây cũng là dấu hiệu cho thấy trẻ đã dậy thì. Thời gian xuất tinh lần đầu có thể là khi thức hoặc khi ngủ. Trong đó, nếu xuất tinh khi thức xảy ra khi trẻ bị kích thích bởi hình ảnh, âm thanh hoặc các xúc tác khêu gợi khác thì xuất tinh lúc ngủ sẽ xảy ra khi trẻ đang có giấc mơ về tình dục và không có hiện tượng thủ dâm. Vì thế, hiện tượng này còn được gọi là “mộng tinh” hay “giấc mơ ướt”. Theo các chuyên gia, xuất tinh sớm trong lần đầu quan hệ là tình trạng bình thường. Nguyên nhân là do trong lần đầu xâm nhập vào “cô bé”, dương vật dễ bị kích thích quá mức. Kết hợp với tâm lý lo lắng, hồi hộp và căng thẳng trong lần đầu sẽ làm giai đoạn phóng tinh sẽ diễn ra nhanh hơn. Thời gian xuất tinh hợp lý nhất là từ 7 - 15 phút tính từ lúc dương vật đưa vào trong âm đạo cho đến khi dương vật xuất tinh. Tuy nhiên các chuyên gia cũng lưu ý rằng thực tế, thời gian “xung trận” có thể chỉ đạt 3 – 7 phút. Đây cũng là khoảng thời gian bình thường, phổ biến ở nam giới và đã có thể giúp phụ nữ lên đỉnh 2 – 3 lần. Nhiều người cho rằng khi dương vật xuất tinh mới là lúc nam giới đạt cực khoái. Thế nhưng sự thật là nam giới vẫn có thể đạt được khoái cảm cực độ trong mỗi cuộc giao ban mà không hề xuất tinh và cũng không hẳn lần xuất tinh nào cũng đạt cực khoái. Sở hữu đời sống “chăn gối” viên mãn là niềm tự hào của rất nhiều quý ông. Hầu hết nam giới trưởng thành mong muốn cải thiện chức năng tình dục mạnh hơn, kéo dài thời gian quan hệ, duy trì ham muốn. Hiểu được điều này, Alipas mới chứa nhiều tinh chất đặc hiệu ra đời nhằm tăng cường sức khoẻ sinh lý và sức khỏe nền tảng cho nam giới. Alipas mới chứa tinh chất Thông biển Pháp kết hợp cùng L-Arginine có vai trò quan trọng trong việc tăng sinh Nitric Oxide một cách tự nhiên, cải thiện được vấn đề nhức nhối ở đàn ông là xuất tinh sớm và rối loạn cương. Nitric Oxide là một phân tử được sản sinh ở nội mạc mạch máu, có vai trò làm giãn mạch, đưa máu đến các bộ phận của cơ thể, trong đó có dương vật. Vì vậy, khi có kích thích tình dục xảy ra, dương vật có cương đủ nhanh và cứng hay không để thực hiện được quá trình giao hợp hợp phụ thuộc vào lượng máu đổ về các xoang của dương vật. Đồng thời, quá trình này giúp các tĩnh mạch được ép chặt, giữ máu được lâu hơn ở dương vật, kéo dài thời gian quan hệ. Alipas mới còn chứa tinh chất Eurycoma Longifolia đậm độ gấp 2 lần và tinh chất hàu đại dương thúc đẩy quá trình trao đổi chất, tăng cường Testosterone nội sinh, nâng cao sức khỏe nền tảng, cải thiện chất lượng tinh trùng, tăng ham muốn, từ đó, giúp đàn ông mạnh mẽ và cuồng nhiệt trên giường. Giấy chứng nhận ĐKKD số 0102637020 do sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hà Nội cấp ngày 29/01/2008
Xuất tinh
Xuất tinh hay phóng tinh là sự xuất ra tinh dịch từ cơ quan sinh dục nam và thường kèm theo cực khoái. Nó thường là giai đoạn cuối cùng và là mục đích tự nhiên của kích thích tình dục (quan hệ tình dục, thủ dâm.) và là một phần cơ bản của thụ tinh tự nhiên. Trong những trường hợp hiếm hoi, xuất tinh là do bệnh ở tuyến tiền liệt. Xuất tinh cũng xảy ra một cách tự động khi đang ngủ và được gọi là mộng tinh. Mỗi lần xuất tinh có tới 200-300 triệu tinh trùng. Anejaculation là tình trạng không thể xuất tinh được. Tinh trùng được sản xuất từ tinh hoàn. Tinh trùng thường được sản xuất lần đầu vào tuổi dậy thì. Khi phóng tinh tinh trùng từ túi tinh được hòa với dịch từ tuyến tiền liệt tiết ra thành tinh dịch và theo ống đái ra ngoài.