text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Máy điện báo toàn năng (; ; ) là một dạng máy fax sơ khai, có khả năng truyền các tín hiệu điện báo đi khoảng cách xa. Nó được phát minh và phát triển bởi Giovanni Caselli và được sử dụng với mục đích thương mại vào thập niên 1860. Đó là loại máy "fax" đầu tiên được ứng dụng vào thực tế. Có thể nói, chiếc "máy fax" đầu tiên này lại ra đời trước cả điện ảnh, truyền hình và thậm chí là cả điện thoại. Máy điện báo toàn năng có thể truyền các tín hiệu hình ảnh như chữ viết tay, chữ ký, hình vẽ trên một khổ giấy rộng 150 x 100mm.
Mô tả.
Máy điện báo toàn năng sử dụng một chiếc đồng hồ điều tiết với một con lắc có tác dụng đóng và mở mạch điện để từ hóa bộ điều tiết và đảm bảo quá trình quét bản mẫu của chiếm bút trâm được ăn khớp và không sai nhịp. Để tạo ra được thời gian cơ sở, một con lắc lớn nặng được treo trên một dàn khung cao . Hai văn bản được viết/vẽ bằng mực không dẫn điện trên hai tấm kim loại được cố định; một tấm được quét khi con lắc đu về phía phải và tấm còn lại được quét khi con lắc đu về phía trái, vì vậy mà tín hiệu văn bản được truyền đi theo chu kì. Bộ phận nhận tín hiệu ở đầu dây bên kia sẽ sao chép lại văn bản gốc trên một tờ giấy nhúng vào kali ferrixyanua - loại giấy này sẽ đen lại khi có dòng điện chạy qua chiếc bút trâm đặt trên nó. Hoạt động của chiếc máy điện báo toàn năng lúc đó còn tương đối chậm: việc sao chép một văn bản 25 từ trên khổ giấy 111mm x 27mm cần đến 108 giây.
Lĩnh vực sử dụng điện báo toàn năng phổ biến nhất là kiểm chứng chữ ký trong các giao dịch ở ngân hàng.
Lịch sử.
Cái tên "Pantèlègraph" được hình thành từ chữ "pantograph" (máy vẽ truyền) - một công cụ dùng để sao chép từ ngữ và hình vẽ - và chữ "telegraph" (máy điện báo) một hệ thống truyền tín hiệu bằng điện thông qua các đường dây điện dài. Khi Giovanni Caselli đang dạy học ở Đại học Florence, ông cũng tranh thủ bỏ nhiều công sức vào việc nghiên cứu công nghệ truyền hình ảnh và truyền các từ ngữ đơn giản bằng điện báo. Alexander Bain và Frederick Bakewell cũng đang nghiên cứu về công nghệ này. Vấn đề lớn nhất lúc đó chính là việc đồng bộ hóa bộ phận truyền phát và bộ phận nhận tín hiệu sao cho chúng hoạt động ăn khớp với nhau. Caselli đã phát triển một công nghệ điện hóa vối một "dụng cụ đồng bộ hóa" (đồng hồ điều tiết) giúp các cơ cấu phát và nhận tín hiệu hoạt động ăn khớp với nhau, và cơ cấu điều tiết này tỏ ra vượt trội hơn so với công nghệ mà Bain hay Bakewell ứng dụng.
Nguyên lý của công nghệ này khá đơn giản. Một hình ảnh vẽ trên một miếng lá thiếc bằng mực không dẫn điện. Một bút trâm bằng kim loại ở phía trên đặt chạm nhẹ vào lá thiếc và dòng điện truyền qua cả hai thứ đó vì chúng đều là chất dẫn điện. Lá thiếc có hình bằng mực sẽ chạy ngang qua bút trâm. Điện được dẫn khi không có mực và không dẫn khi có mực nằm giữa bút trâm và lá thiếc. Việc này khiến mạch điện bị đóng và mở tương ứng với hình ảnh chạy qua giữa bút trâm và lá thiếc. Tín hiệu đóng mở này được truyền đi qua đường dây cáp điện. Ở đầu bên kia là một máy thu tín hiệu mang một bút trâm dẫn điện và nó sẽ dập mực in màu xanh vào một tờ giấy trắng theo từng hàng từng hàng một - khi điện bị ngắt. Đây là quá trình "làm lại cho giống hệt" (tiếng La Tinh: "fac simile") hình ảnh nguyên gốc.
Caselli chế tạo một mẫu thử của chiếc máy và gửi cho Leopoldo II, Đại Công tước Toscana xem thử. Leopoldo rất thích thú chiếc máy này và ông đã bỏ tiền tài trợ cho phát minh của Caselli. Khi quá trình tài trợ chấm dứt, Caselli tiếp tục sang Paris và trình chiếc máy cho Hoàng đế Pháp Napoleon III. Cũng như đối với Đại công Toscana, chiếc máy điện báo đã hoàn toàn chiếm được cảm tình của Hoàng đế Pháp. Từ năm 1857 đến 1861, Caselli tiếp tục công việc phát triển máu điện báo toàn năng tại Paris dưới sự hướng dẫn của kỹ sư và nhà sáng chế người Pháp Léon Foucault.
Vào năm 1858, phiên bản cải tiến của chiếc máy điện báo toàn năng được nhà vật lý Pháp Alexandre-Edmond Becquerel triển lãm tại Học viện Khoa học Pháp ở Paris. Đến năm 1860, Hoàng đế Napoleon III nhìn thấy một chiếc máy điện báo của Caselli trong một buổi triển lãm và đã đặt hàng máy điện báo toàn năng sử dụng cho mạng lưới điện báo trên toàn nước Pháp vào năm sau. Caselli không những được pháp tiếp cận vối hệ thống điện báo của nước Pháp để làm việc với chiếc máy của mình, mà ông cũng nhận được tiền tài trợ từ Hoàng đế. Một cuộc thử nghiệm về hệ thống truyền tin bằng điện báo toàn năng nối liền giữa Paris và Amiens đã thành công, với kết quả là chữ ký của nhà soạn nhạc Gioacchino Rossini đã được truyền đi một khoảng cách dài tới 140 km. Một cuộc thí nghiệm khác - lần này là truyền đi từ Paris tới Marseille cách đó 800 km cũng thành công. Thế là vào năm 1864, chiếc máy điện báo toàn năng được chính thức sử dụng tại Pháp. Vào năm sau (1865), hệ thống truyền tin bằng điện báo toàn năng được xây dựng nối liền Paris và Lyon, và vươn tới Marseille vào năm 1867. Như vậy, phiên bản sơ khai của chiếc máy fax đã đi vào hoạt động trước khi điện ảnh, truyền hình và cả điện thoại ra đời. Alexander Graham Bell chỉ nhận được bằng sáng chế về điện thoại (No. 174,465) bởi Cơ quan đăng ký bằng sáng chế và tên thương mại Hoa Kỳ vào năm 1876.
Caselli được cấp bằng sáng chế về chiếc máy điện báo toàn năng ở châu Âu vào năm 1861 (E.P. 2532) và ở Hoa Kỳ vào năm 1863 (No. 37,563). Ông đã tổ chức triển lãm thành công chiếc máy này vào năm 1861 tại buổi lễ triển lãm Florence, trong số khách tham dự có cả vị vua nước Ý Victor Emmanuel II. Chiếc máy này hoạt động thành công đến nỗi mà hoàng đế Napoleon III đã trao thưởng ông Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh. Các nhà khoa học và kỹ sư ở Paris đã thành lập nên Hiệp hội Điện báo toàn năng để chia sẻ thông tin và kiến thức về phát minh này.
Hội đồng Lập pháp và Hội đồng Nhà nước Pháp đã ủy quyền xây dựng một tuyến điện báo toàn năng giữa thủ đô Paris và thành phố Marseille. Ở Anh, một tuyến thử nghiệm nối từ thủ đô Luân Đôn và Liverpool trong vòng 4 tháng cũng được xây dựng. Sau đó, hoàng đế Napoleon III đã mua một chiếc máy của Caselli nhằm phục vụ cho mục đích công cộng, cụ thể là truyền tín hiệu giữa Paris với Lyon. Nó được đặt tại đó cho đến hết trận Sedan (1870). Nga hoàng Nikolai I cũng xây dựng một tuyến điện báo thử nghiệm nới giữa các cung điện của ông tại kinh đô Sankt Peterburg với Moskva từ năm 1851 tới 1855. Trong năm hoạt động đầu tiên, hệ thống đã truyền được gần 5.000 "bản fax" với tốc độ cao nhất đạt tới 110 bản/giờ.
Tuy nhiên, trình độ kỹ thuật thời đó phát triển quá chậm để phát minh của Caselli được vận hành một cách đáng tin cậy, và kết cục là mọi cố gắng trong lĩnh vực này đã đổ bể. Một khó khăn kỹ thuật chủ yếu vẫn là vấn đề đồng bộ giữa thu và phát. Đồng thời, chiếc máy của Caselli gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt của những kiểu công nghệ truyền tin thế hệ trước, vốn được sự ủng hộ của những thế lực kinh tế và chính trị lớn trong bộ máy chính quyền. Sau cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, máy điện báo toàn năng dần dần bị thế chỗ bởi máy điện báo bút tích của Bernhard Meyer vốn sử dụng trống với gờ dọc và cho phép tốc độ truyền tín hiệu nhanh gấp đôi so với điện báo toàn năng. Bản thân Caselli cũng từ bỏ việc phát triển, cải tiến phát minh của mình và trở về sống ở Florence cho đến khi mất. Phải đợi đến 100 năm sau thì ý tưởng của Caselli mới được phát triển để có thể ứng dụng rộng rãi như ngày nay.
Mẫu vật còn tồn tại.
Hiện nay vẫn còn tồn tại một vài chiếc máy điện báo toàn năng thời cổ. Vào năm 1961 chúng được trưng bày ở Viện bảo tàng Nghệ thuật và Nghề thủ công ở Paris và thật đáng kinh ngạc là chúng vẫn còn hoạt động tốt khi đã truyền tín hiệu suôn sẻ từ Paris đến Marseille. Những chiếc máy này lại tiếp tục chứng minh độ tin cậy tuyệt vời của mình vào năm 1982 khi truyền tín hiệu liên tiếp suốt nhiều tháng, với mỗi ngày hoạt động 6 giờ mà không hề sai sót.
| 1 | null |
Giáo hội là cụm từ Hán-Việt trong tiếng Việt để chỉ về (một, một số hoặc tất cả) tổ chức của những tập hợp, cộng đoàn người có cùng niềm tin tôn giáo căn bản giống nhau (""giáo" là tôn giáo, "hội"" là hội đoàn, hội nhóm) và cũng thường gọi là Hội thánh. Thông thường, một giáo hội sẽ có tổ chức hoặc cơ quan quản trị của giáo hội đó. Tổ chức quản trị của giáo hội có thể xem là phương thức tổ chức bộ máy của một tôn giáo, có chức sắc và giáo lý được công nhận, nhưng thông thường được áp dụng cho Kitô giáo, Phật giáo. Trong Kitô giáo (Cơ đốc giáo) bao gồm Công giáo Rôma, Chính Thống giáo Đông phương và các hệ phái Tin Lành ở Việt Nam, chữ "Giáo hội" còn đồng nhất với chữ "Hội Thánh" (tương đương với chữ "Church" viết hoa trong tiếng Anh), trong khi Phật giáo sử dụng chữ "Sangha" (Hán Việt: "Tăng đoàn") để dịch chữ "Giáo hội".
Kitô giáo.
Đối với Kitô giáo, chữ "giáo hội" (Latinh: "Ecclesia", tiếng Anh: "Church") có nguồn gốc từ chữ "κκλησία" ("Ekkkèsia") trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "triệu tập", và được dùng để chỉ những cuộc tụ họp dân chúng thường có tính cách tôn giáo. Thật ra, các văn bản Cựu Ước cũng đã dùng chữ này để chỉ cuộc triệu tập dân tộc Israel để nghe lệnh truyền của Thiên Chúa. Sau này, các giáo hội thuộc Kitô giáo muốn nhấn mạnh họ là cộng đoàn tín hữu thánh thiện do Thiên Chúa tuyển chọn thì xưng thêm thuật ngữ là "Hội Thánh" (Latinh: "Ecclesia Sancta", tiếng Anh: "Holy Church"). Ví dụ: Hội Thánh Công giáo, Hội Thánh Tin Lành...
Thông thường, chữ "Giáo hội" dùng để chỉ tư cách pháp nhân về tổ chức, không dừng lại ở mối quan hệ trong đạo mà còn là mối quan hệ xã hội; còn chữ "Hội Thánh" dùng để chỉ đặc tính thiêng liêng, một tập hợp rộng rãi cả chức sắc và tín đồ có mối quan hệ trong tôn giáo, và chỉ mang tính chất tôn giáo thuần túy. Trên thực tế, trong Kitô giáo thì hai khái niệm này rất gần nhau, thậm chí đôi khi được hiểu là một và sử dụng như nhau.
Phật giáo.
Ở Việt Nam, các cộng đồng Phật giáo cũng dùng chữ "giáo hội" để chỉ tổ chức của mình, ví dụ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất... nhưng chữ "giáo hội" của Phật giáo không giống nghĩa của Kitô giáo. Do đó, Giáo hội trong Phật giáo không tham chiếu đến chữ "Church" trong tiếng Anh.
Ở Việt Nam.
Có thể định nghĩa về tổ chức quản trị của giáo hội như sau: Tổ chức quản trị của Giáo hội là cơ cấu tổ chức, bộ máy hành chính của tôn giáo và cũng là cơ quan quyền lực của tôn giáo, trong đó tập trung ở một số người. Tổ chức/cơ quan quản trị của Giáo hội là tổ chức có tư cách pháp nhân, không chỉ quan hệ trong đạo mà còn là mối quan hệ xã hội. Hội thánh là nói về phần thiêng liêng, một tập hợp rộng rãi cả chức sắc và tín đồ có mối quan hệ trong đạo, mang tính chất tôn giáo thuần túy. Trên thực tế hai khái niệm này rất gần nhau, thậm chí ở một số tôn giáo, đôi khi được hiểu là một và sử dụng như nhau.
Theo định nghĩa của Nhà nước Việt Nam, tư cách pháp nhân tổ chức tôn giáo khác với tư cách pháp nhân của tôn giáo. Theo quyền tự do tín ngưỡng, các tôn giáo hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, phù hợp với luật pháp Việt Nam, mặc nhiên được thừa nhận tư cách pháp nhân. Tuy nhiên, một tổ chức tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân mới được hoạt động hợp pháp về mặt tổ chức như: duy trì quan hệ trên dưới về mặt tổ chức, có quyền sử dụng tài chính, tài sản theo quy định của pháp luật, tổ chức đại hội, hội nghị, mở trường đào tạo chức sắc, phong chức, điều chuyển chức sắc, in ấn xuất bản kinh sách, xây dựng nơi thờ tự...; duy trì các mối quan hệ dân sự với các tổ chức quan hệ với các tổ chức tôn giáo khác trong và ngoài nước, và tổ chức xã hội khác; chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động của tổ chức tôn giáo mình.
Nhầm lẫn khi dịch tiếng Việt.
Nhiều người vẫn còn nhầm lẫn khi dịch sang tiếng Việt. Thực tế, những ngôn ngữ phương Tây tại các quốc gia truyền thống Kitô giáo đều viết chung một mặt chữ có gốc từ "Ecclesia", nhưng khi viết hoa và viết thường thì mang nghĩa khác nhau. Đơn cử, trong tiếng Anh, chữ "Church" viết hoa thì có nghĩa là "Giáo hội" tức là một cộng đoàn tín hữu (mang tính tổ chức) còn khi "church" viết thường thì có nghĩa là ngôi "nhà thờ" hoặc ngôi "thánh đường" (thực thể kiến trúc). Vì vậy, cần phải để ý về hình thức viết hoặc văn cảnh mới hiểu được chính xác ý nghĩa. Ví dụ, "Catholic Church" nghĩa là "Giáo hội Công giáo" chứ không phải "nhà thờ Công giáo"; nhưng "a church" nghĩa là "một ngôi nhà thờ" chứ không phải "một giáo hội".
| 1 | null |
Kim Cương (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1937) là một nữ diễn viên kịch nói, diễn viên điện ảnh, soạn giả, biên kịch, trưởng đoàn kịch nói Kim Cương, nổi tiếng của Việt Nam từ trước 1975. Bà nổi tiếng từ những năm 1960 trong lĩnh vực kịch nói. Tác phẩm kinh điển làm nên tên tuổi của Bà đó là "Lá sầu riêng" do Bà đóng vai chính kiêm soạn giả. Bà là con gái của người nghệ sĩ tài danh, vị tổ của bộ môn cải lương - Bảy Nam.
Sự nghiệp.
Kim Cương là một nghệ sĩ nổi tiếng người Việt Nam. Bà được mệnh danh là "Kỳ nữ" trong giới sân khấu Việt Nam và được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam chính thức xác nhận kỷ lục là "Nghệ sĩ viết nhiều kịch bản kịch nói nhất Việt Nam". Bà là Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa VII, Ủy viên Hội đồng Tư vấn về lĩnh vực Văn hóa - Xã hội của Ủy ban Trung ương Mặt trận nhiệm kỳ 2009 - 2014; Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc TP. Hồ Chí Minh khóa IX, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi TP. Hồ Chí Minh, Ủy viên Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Văn hóa và Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh..
Thân thế.
Nghệ sĩ Kim Cương có tên họ đầy đủ là Nguyễn Thị Kim Cương. Theo soạn giả Nguyễn Phương, bà sinh ngày 25 tháng 1 năm 1937, tại Cửa Thượng Tứ, thành phố Huế. Thân phụ của bà là ông Nguyễn Ngọc Cương, ông Cương vốn là bầu gánh hát Đại Phước Cương, và thân mẫu của bà là nghệ sĩ Nhân dân Bảy Nam. Bà có người anh ruột là danh hài Ngọc Trai và em gái ruột tên là Kim Quang. Ông Cương là con trai của vua Thành Thái nên Kim Cương là cháu nội của ngài.
Sinh ra trong gia đình nghệ thuật, bà cố, bà nội và cha ruột đều làm bầu gánh, bên mẹ có 11 người cậu dì thì 4 người nổi danh là Năm Phỉ, Bảy Nam, Chín Bia, Mười Truyền, bà đến với sân khấu từ lúc mới sinh được 18 ngày tuổi trong vai con của Quan Âm Thị Kính. Với "vai diễn" đầu đời này, bà được vinh hạnh "diễn" trong dịp mừng thất tuần của Đức Tiên Cung Dương Thị Thục - mẹ của Vua Khải Định với "đạo cụ" là một bình sữa.
Quá trình hoạt động.
Sự nghiệp diễn xuất đến sớm, bà nhanh chóng trở thành đào non trong đoàn Đại Phước Cương, cùng cha mẹ và các thành viên trong đoàn đi lưu diễn khắp nơi. Vai diễn chính thức đầu tiên của bà là vai Na Tra trong vở "Na Tra lóc thịt", do chính mẹ bà viết kịch bản.
Bà nổi tiếng trong những vai kịch buồn rơi nước mắt hay những vai dí dỏm. Giữa thập niên 1950, ký giả Nguyễn Ang Ca đặt biệt hiệu "kỳ nữ" cho bà, từ đó dân chúng biết đến danh hiệu Kỳ nữ Kim Cương.
Bà từng soạn nhiều kịch bản kịch nói với bút danh Hoàng Dũng, nổi tiếng với kịch bản "Lá sầu riêng" (1963), về sau từng đi tu nghiệp Bulgaria ngành đạo diễn.
Ngoài ra, bà còn làm Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ người tàn tật, trẻ em khiếm thị, trẻ em mồ côi Thành phố Hồ Chí Minh. Bà cũng là Phật tử với pháp danh Từ Huệ.
Tình cảm với nhà thơ Bùi Giáng.
"Bài chi tiết: Bùi Giáng"
Bùi Giáng có tình cảm với Kim Cương khi bà mới 19 tuổi. Ông tỏ tình với bà nhưng không thành vì bà thấy ông có vẻ bất bình thường.
Sau đó, Bùi Giáng vẫn giữ tình cảm với bà trong suốt cuộc đời ông. Cả đời Bùi Giáng chỉ nhớ mỗi số điện thoại nhà của Kim Cương, khi ông làm náo loạn trật tự, bị công an "hỏi thăm" cũng chỉ biết đọc lên số điện thoại này; lúc bị ngã xe vào cấp cứu bệnh viên, tỉnh lại cũng mang số điện thoại ra để trả lời bác sĩ.
Viết hồi ký.
Ngày 10 tháng 5 năm 2016, Kim Cương đã ra mắt cuốn hồi ký của bà "Sống cho người – sống cho mình". Bà có ý định viết hồi ký từ năm 1973 nhưng do gặp nhiều trở ngại cuốn hồi ký bị bỏ dở, 40 năm sau hồi ký mới chính thức ra mắt độc giả.
Năm 2022, sau 6 năm, Bà quyết định chuyển thể hồi ký thành phiên bản audio với sự tham gia của nghệ sĩ lồng tiếng Thy Mai, Đạt Phi, Văn Ngà và các nghệ sĩ khách mời Kim Xuân, Thành Lộc, Hữu Châu, diễn viên Trúc Anh... Tổng đạo diễn là nghệ sĩ lồng tiếng Đạt Phi cùng đạo diễn âm thanh Hoà Bình tham gia hậu kì âm thanh tiếng động.
Audio có thời lượng 1.000 phút, chia thành 25 câu chuyện về 40 năm làm nghề và hơn 80 năm cuộc đời của nghệ sĩ Kim Cương. Phiên bản audio giữ cấu trúc chính của sách hồi ký với 4 phần: Tuổi thơ nghiệt ngã, Sân khấu và cuộc đời, Những người trong đời tôi, Sống và yêu.
Audio hồi ký được phát miễn phí trên các nền tản số YouTube, Spotify và Apple Podcast.
Tập 1- Đêm trắng Thất Ngàn (phần 1 Tuổi thơ nghiệt ngã) được phát sóng vào ngày 26/03/2022.
| 1 | null |
Dép tông hay còn gọi là dép xỏ ngón, dép lào là một loại đồ đi chân khá thoáng mát, mỗi chiếc dép tông bao gồm một cái đế bằng và một cái quai hình chữ Y để người đi dép xỏ kẽ chân giữa ngón chân cái và ngón chân bên cạnh vào. Do đó dép tông ôm một cách lỏng lẻo vào chân nhưng vẫn khó có thể tuột ra.
Nguồn gốc tên gọi.
Loại dép này được gọi là "dép tông" là từ gốc tiếng Pháp, "tong". Trong miền Nam gọi là dép Lào hoặc dép Nhựt (Nhật), dép hai quai. Dép Nhật (theo cách gọi miền Nam) xuất hiện tại miền Nam khoảng từ năm 1975, trước đó người miền Nam mang guốc và guốc dành cho đàn ông được gọi là guốc dong.
Sử dụng và thời trang.
Dép tông là một loại dép rất thông dụng, được cho là có sử dụng từ thời Ai Cập cổ đại.
Nó thường được dùng làm dép đi ngoài trời hoặc khi đi tắm biển, đặc biệt phổ biến ở Ấn Độ và Pakistan (ở các nước này, dép tông cực kì thông dụng và được gọi là "Hawaii chappal"- dép Hawaii), Australia, New Zealand, Nam Phi, Anh, Mỹ, Brazil, Panama, Israel, các đảo Thái Bình Dương, và Đông Nam Á.
Các tên gọi trên thế giới.
Ở Pakistan và Ấn Độ, người ta gọi dép tông là "Hawaii chappal" ("chappal" là dép trong tiếng Hindi/Urdu). Dọc bờ đông nước Mỹ nó đôi khi được gọi là "zories" hoặc "thongs". Người Úc cũng gọi nó là "thongs" trong khi người New Zealand gọi nó là "jandals". Dép tông còn được gọi là "Plakkies" và "slip-slops" (hoặc chỉ là "slops") ở Nam Phi, "go-aheads" ở Nam Thái Bình Dương, "sandálias havaianas" (dép Hawaii) ở Brazil, hoặc thông dụng hơn, chỉ đơn giản là "havaianas". Ở Philippines tên của dép tông là "tsinelas", "slippers", và "step-ins". Ở Barbados, Hawaii và nhiều nơi khác trên thế giới, người ta lại gọi là "slippers" (dép lê) hoặc "sandals" (xăng đan).
Ở Hy Lạp nó được gọi là "sayonares" (σαγιονάρες), có thể bắt nguồn từ một từ trong tiếng Nhật sayōnara, có nghĩa là tạm biệt, do nó có nguồn gốc từ Nhật Bản. Ở Ba Lan nó thường được gọi là "japonki" cho thấy xuất xứ Nhật Bản của nó. Ở Nga và Ukraine chúng được gọi là "vietnamki".
| 1 | null |
Cá voi Minke Nam Cực (danh pháp hai phần: "Balaenoptera bonaerensis") là một loài cá voi trong họ Balaenopteridae. Cá voi Minke Nam Cực sinh sống ở Nam Bán Cầu.
Mô tả.
Cá voi minke ở Nam Cực là một trong những cá voi Minke nhỏ nhất, và một trong các loài cá voi tấm sừng hàm nhỏ nhất. Trong số các cá voi Minke, cá voi minke nhìn chung là nhỏ hơn, và giữa các cá voi, cá voi đầu bò lùn cũng nhỏ hơn. Phạm vi chiều dài từ 7,2 m (24 ft) lên 10,7 m (35 ft) và cân nặng từ 5,8 đến 9,1 tấn. Trung bình, con cái dài hơn khoảng 1 mét (3 ft 3 in) so với con đực. Con non mới đẻ dài khoảng từ 2,4 m (7 ft 10 in) đến 2,8 m (9 ft 2 in).
Lưng màu xám đen và bụng màu trắng.
Phân bố.
Cá voi Minke Nam Cực sinh sống tất cả các đại dương ở Nam bán cầu. Phạm vi mùa hè gần Nam Cực, nhưng nó di chuyển về phía bắc vào mùa đông, chồng chéo phạm vi với dạng lùn của cá voi mike thông thường.
| 1 | null |
Sẻ lưng xanh đầu xám (danh pháp hai phần: Nesocharis capistrata) là một loài chim thuộc họ Chim di ở châu Phi. Sẻ lưng xanh đầu xám phân bố ở Bénin, Burkina Faso, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Tchad, Cộng hòa Dân chủ Congo, Côte d'Ivoire, Gambia, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Mali, Nigeria, Sierra Leone, Sudan, Togo và Uganda.
| 1 | null |
Sẻ lửa ngực vạch (danh pháp hai phần: Lagonosticta rufopicta) là một loài chim thuộc họ Chim di ở châu Phi. Sẻ lửa ngực vạch phân bố ở Bénin, Burkina Faso, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Cộng hòa Dân chủ Congo, Côte d'Ivoire, Ethiopia, Gambia, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Kenya, Liberia, Mali, Niger, Nigeria, Rwanda, Sénégal, Sierra Leone, Sudan, Tanzania, Togo và Uganda..
| 1 | null |
Cá voi mõm khoằm Sowerby (danh pháp hai phần: Mesoplodon bidens) là một loài cá trong họ Ziphidae. Cá voi mõm khoằm Sowerby phân bố Đại Tây Dương phía tây và biển Na Uy ở phía đông Đại Tây Dương. Từ 200 đến 1500 mét sâu. Không có ước tính về dân số, tình trạng bảo tồn. Năm 1991, có khoảng 90 ghi nhận sự hiện diện loài này, 80 từ Bắc Đại Tây Dương phía đông và ít hơn 10 từ Tây Bắc Đại Tây Dương, phần lớn các ghi nhận sự hiện diện từ khắp nơi trên quần đảo Anh.
Ngày 10 tháng 1 năm 2009, cá voi mỏ khoằm Sowerby cái đã được tìm thấy tại cảng Fethiye trên bờ biển Aegean của Thổ Nhĩ Kỳ, xa môi trường sống tự nhiên của nó.
| 1 | null |
Cá voi Bryde (danh pháp hai phần: Balaenoptera brydei) là một loài cá trong họ Cá voi lưng xám. Cá voi Bryde ăn cá bơi theo bầy, chẳng hạn như cá cơm, trích và cá sardine.
Chúng phân bố rộng rãi trên khắp các vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới, với một riêng biệt nhỏ hơn, loài lùn được tìm thấy ở vùng nhiệt đới Tây Thái Bình Dương và Đông Nam Á.
| 1 | null |
Cá voi đầu tròn vây dài (danh pháp hai phần: Globicephala melas) là một loài cá trong họ Delphinidae. Cá voi đầu tròn vây dài sinh sống ở vùng ôn đới và cận Bắc cực của cả hai bán cầu, ở các vùng nước đại dương và một số vùng nước ven biển Bắc Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và Biển Bắc. Trước đây tồn tại ở phía Tây Bắc Thái Bình Dương, nơi ngày nay nó có vẻ như không còn hiện diện. Có dân số dưới Nam Cực ở Nam bán cầu, mà đạt đến 68 ° N xuất hiện để được phân lập từ dân số chưa được thực hiện north.1 tổng dân số ước tính toàn cầu. Số lượng cá voi này ước tính khoảng 750.000 cá thể ở đông bắc và trung tâm Bắc Đại Tây Dương và 200.000 trong dân số tiểu Nam Cực và 31 ở biển phía Tây Bắc. Trong năm 2008, nó đã được liệt kê vào danh sách đỏ của IUCN là một loài có đủ dữ liệu (dữ liệu thiếu DD) do thiếu thông tin về dân số toàn cầu và xu hướng của nó, cũng là khả năng của 2 hoặc nhiều loài.
| 1 | null |
Suối nước nóng thực chất là mạch nước ngầm được đun nóng bởi địa nhiệt của lớp vỏ Trái Đất. Có rất nhiều mạch nước nóng ở nhiều nơi trên lớp vỏ Trái Đất.
Các khái niệm.
Vẫn chưa có một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi cho khái niệm suối nước nóng. Ví dụ, người ta có thể định nghĩa suối nước nóng là:
Nguồn gốc của nhiệt năng suối nước nóng.
Phần lớn nhiệt được tạo ra bởi sự phân rã của các nguyên tố phóng xạ tự nhiên. Ước tính 45 đến 90 phần trăm nhiệt thoát ra từ Trái Đất bắt nguồn từ sự phân rã phóng xạ của các nguyên tố chủ yếu nằm ở lớp phủ. ] Các đồng vị sinh nhiệt chính trên Trái Đất là kali-40, urani-238, urani-235 và thorium-232.
| 1 | null |
Cá tầm sông Amur hay còn gọi là cá hoàng (danh pháp khoa học: Acipenser schrenckii) là một loài cá nước ngọt thuộc họ Cá tầm. Loài này sinh sống duy nhất tại sông Hắc Long Giang nơi ranh giới đường biên giới tự nhiên giữa Trung Quốc và Nga, có thể tìm thấy ở cả khu giáp ranh với Mông Cổ, Nhật Bản.
Đặc điểm.
Đây là loài cá ăn thịt, hung dữ, có tuổi thọ trung bình trên 50 năm, trọng lượng bình quân từ 150 kg đến 200 kg. Ngư dân Trung Quốc ở thôn Thắng Lợi trấn Ô Van huyện Gia Âm, Y Xuân, Hắc Long Giang đã bắt được một con cá hoàng có chiều dài 3 mét và trọng lượng hơn 250 kg, trước đó ở Trung Quốc người ta từng phát hiện cá thể cá hoàng nặng gần 1 tấn.
Cá tầm Amur có thịt thơm ngon, dinh dưỡng phong phú tuy nhiên cá hoàng có bộ mặt kỳ dị và thân hình khổng lồ vì vậy nhiều người dân địa phương gọi con cá loại này là quái ngư. Cá hoàng xuất hiện từ 130 triệu năm trước và là một trong những sinh vật cổ còn tồn tại tới ngày nay, cá hoàng được coi như "hóa thạch sống" dưới nước, cùng thời với khủng long.
Loài cá tầm Amur là một đặc sản của sông Hắc Long Giang, rất được ưa chuộng. Loài này có giá trị kinh tế rất cao. Mỗi con có trọng lượng lớn có thể bán được khoảng 22.000 USD. Cá hoàng vừa có thể chế biến thành nhiều món cao lương mỹ vị đồng thời lại có giá trị dược lý rất cao, đặc biệt đối với các đàn ông bị chứng bất lực hay rối loạn cương dương nên hiện nay loài cá này bị săn bắt quá mức.
| 1 | null |
Súng trường tự động Kiểu 56 (Tiếng Trung: 五六式自動步槍, Phiên âm Hán – Việt: Ngũ lục thức tự động bộ thương), hay K-56 (Kiểu 56) hoặc QBZ-56, là loại súng trường tấn công do Trung Quốc sản xuất dựa trên AK-47 và AKM. Súng được sản xuất từ năm 1956 tại Nhà máy sản xuất vũ khí số 66 của Trung Quốc, đến năm 1973, Norinco thay thế Nhà máy sản xuất vũ khí số 66 tiếp tục sản xuất loại súng này.
Lịch sử hoạt động.
K-56 được sử dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia và nhiều chiến trường tại Châu Á, Châu Phi, Nam Mĩ và Đông Âu. Một tài liệu không chính xác cho biết trên thế giới có đến 10-15 triệu khẩu K-56, chiếm 1/5 số súng AK đã được sản xuất trên thế giới. Đặc biệt trong Chiến tranh lạnh, Trung Quốc vừa xuất khẩu vừa viện trợ loại súng này cho nhiều nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Ở Việt Nam, súng thường bị nhầm với phiên bản CKC của Trung Quốc cũng có tên là Kiểu 56 và cũng được sử dụng nhiều tại Việt Nam, vì vậy, để tránh nhầm lẫn, nhiều người gọi K-56 là AK Trung Quốc, còn mẫu CKC "Type 56" do Trung Quốc chế tạo vẫn được gọi là CKC như các phiên bản của Liên Xô.
Trong cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979, Kiểu 56 đã xuất hiện ở cả hai bên chiến tuyến. Trong Chiến tranh Iran-Iraq, cả Iran và Iraq cũng đều sử dụng K-56.
Kiểu 56 cũng xuất hiện trong Chiến tranh Kosovo.
Hiện nay, cũng giống với tình trạng của AK-47 và AKM, K-56 đang được nhiều lực lượng vũ trang, thậm chí các tổ chức khủng bố, ma túy hay mafia sử dụng điển hình như Taliban hay Al-Qaeda. K-56 vẫn được Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc giữ cho lực lượng dự bị và quân động viên, dù ít xuất hiện trong lực lượng chính quy của Trung Quốc. Trong quân đội chính quy, K-56 được thay bằng K-81 và K-84.
Mặc dù từ năm 2008 súng trường tiến công tiêu chuẩn là AKM và AKMS nhưng K-56 vẫn còn trong biên chế Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bởi vì K-56 nặng hơn AK-47 và một số biến thể của AK-47, động lượng khi bắn lớn hơn dẫn tới độ chụm cao hơn AK-47, cộng thêm tiếp nhận các ưu điểm từ AKM nên Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn giữ K-56 lại trong biên chế.
Đặc tính cơ bản.
Về cơ bản, K-56 có cấu tạo và nguyên lý hoạt động tương tự AK-47, chỉ có vài khác biệt nhỏ như lưỡi lê ba cạnh gập dưới nòng súng thay vì sử dụng lưỡi lê kiểu lá lúa của AK-47, ngoài ra, đầu ruồi của súng còn được bảo vệ bằng một vòng tròn kín thay vì nửa vòng như AK-47. Dựa trên phiên bản gốc K-56, Trung Quốc phát triển các phiên bản cải tiến như K-56 I/II (báng xếp), K-56C (còn gọi là QBZ-56C, phiên bản cắt ngắn nòng, dùng hộp tiếp đạn 20 viên), K-84 (phiên bản dùng đạn 5,56mm tiêu chuẩn NATO).
Sản xuất.
Ngoài Trung Quốc thì hiện nay vẫn còn 4 nước sản xuất súng trường K-56 bao gồm Sudan, Campuchia, Việt Nam và Albania. Hiện nay, Việt Nam đang nâng cấp chế độ giảm giật cho K-56.
Thông số kỹ thuật cơ bản.
K-56-1: 3.70 kg (8.16 lb)
K-56-2: 3.94 kg (8.69 lb)
K-56-1/56-2: 874 mm (34.4 in) có báng, 654 mm (25.7 in) gập báng.
| 1 | null |
Rèm hay Màn cũng có gọi khác là mành, miền bắc và bắc trung bộ thường gọi là ri đô, là một vật dụng dùng để che cửa sổ, cửa phòng khách, cửa phòng ngủ, cửa bếp ăn, phòng tắm, ban công hoặc treo để ngăn giữa hai không gian. Rèm cũng dùng để trang trí không gian nội thất, được treo trên tường hoặc các đồ vật như tủ gỗ, ban thờ, giường...
Khi sử dụng, người ta để mở rèm để che kín một phần hoặc toàn bộ cửa sổ theo nhu cầu. Khi không có nhu cầu che nắng, gió hoặc để lấy ánh sáng, người ta có thể xếp gọn rèm sang hai bên hoặc kéo gọn lên phía trên.
Lịch sử.
Dựa vào các bằng chứng thu thập được tại các di chỉ khai quật ở Olynthus, Pompeii và Herculaneum, có vẻ như trong thời cổ đại cổ điển, các cổng vòm được sử dụng như vách ngăn phòng, kèm theo tấm rèm treo trên ô cửa. Tranh khảm từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 6 minh họa việc rèm treo trên thanh ngang qua các mái vòm.
Nước Anh.
Tại Anh, rèm cửa đã bắt đầu thay thế cửa chớp bằng gỗ vào cuối thế kỷ 16. Trước đó, trong thời Trung cổ, cách xử lý cửa sổ sơ khai nhất là sử dụng tấm da luồn qua các thanh sắt. Nhưng cuối cùng, tấm da được thay thế bằng rèm len dệt. Trong thời kỳ của Nữ hoàng Elizabeth I, Anh đã nhập khẩu các loại vải thời Phục hưng từ Ý, như thổ cẩm, nhung và gấm hoa, và trang trí chúng một cách lộng lẫy. Những loại vải trang trí phức tạp này, cùng với rèm được thêu bằng phi hành đoàn, đã được sử dụng làm rèm cửa trong thời kỳ Elizabeth và Jacobean. Tuy nhiên, trong mùa lạnh, vẫn sử dụng cửa chớp bằng gỗ cứng.
Nhà Fatimid.
Trong Nhà Fatimid, một bức màn được gọi là "sitr" ("vải che") được sử dụng để che giấu vị caliph vào đầu buổi đối thoại ("majlis"). Một người hầu gọi là "ṣāḥib al-sitr" (hoặc "muṭawallī al-sitr") sau đó sẽ kéo lùi nó để tiết lộ vị caliph ngồi trên ngai vàng của mình. Sahib al-sitr cũng kết hợp với nhiệm vụ của thủ quỹ, người chủ trì buổi lễ và người mang kiếm của caliph, và thường được chọn từ những người mamluk có nguồn gốc saqaliba.
Kiểm soát ánh sáng và cách nhiệt.
Rèm được làm từ nhiều loại vải dày, mỗi loại có khả năng hấp thụ ánh sáng và khả năng cách nhiệt khác nhau. Để tối đa hóa việc kiểm soát nhiệt độ, khoảng cách giữa rèm và cửa sổ cần nhỏ, đồng thời giảm thiểu luồng không khí đối lưu bên dưới hoặc bên trên rèm. Các cấu trúc kiến trúc xung quanh rèm có thể giúp giảm thiểu luồng không khí này, tuy nhiên, thường thì chúng được sử dụng chủ yếu để trang trí và tạo cảm giác ấm cúng cho căn phòng.
Một bức màn mỏng hoặc màn treo mạng là loại màn được làm từ vải trong suốt, chẳng hạn như vải voile polyester được dệt lỏng, lụa hoặc nylon làm từ marquisette hoặc ninon, và đồ ren bằng cotton, v.v. Màn treo mỏng cho phép ánh sáng chuyển qua vải một cách lớn, trong đó cấu trúc vải cung cấp mức độ cơ bản của bảo vệ tia tử ngoại trong khi vẫn giữ được tầm nhìn tối đa ra ngoài qua màn. Các màn mỏng đôi khi được gọi là "màn che riêng tư" để chỉ khả năng lọc sáng; vào ban ngày, hầu hết các loại vải mỏng sẽ cho phép người trong nhà nhìn ra ngoài trong khi ngăn người bên ngoài nhìn thẳng vào trong nhà. Do cấu trúc lỏng lẻo của vải mỏng, loại màn này cung cấp rất ít khả năng cách nhiệt.
Vải không tráng phủ cung cấp khả năng cách nhiệt và hấp thụ ánh sáng ở mức trung bình. Loại vải này thường được sử dụng để làm rèm cửa, ví dụ như vải dệt chặt bằng sợi bông/polyester, có vẻ mờ đục dưới ánh sáng. Mặc dù vải không tráng phủ có khả năng cách nhiệt tốt nhờ việc dệt chặt, nhưng nó vẫn mỏng hơn để hoàn toàn hấp thụ ánh sáng mạnh. Kết quả là, mặc dù rèm làm từ vải không tráng phủ có thể cố gắng ngăn ánh sáng mặt trời trực tiếp, ánh sáng vẫn có thể xuyên qua rèm do tính sáng bóng của vải.
Vải tráng phủ bao gồm một loại vải không tráng phủ tiêu chuẩn, được dán một lớp nền cao su mờ đục ở phía sau để cải thiện khả năng hấp thụ ánh sáng. Quá trình sản xuất vải tráng phủ bao gồm việc phủ một lớp polyme cao su lỏng lên mặt vải không tráng phủ, sau đó sấy khô bằng trục lăn nóng, tương tự như việc in mực lên giấy và sấy khô. Vải có một lớp phủ được xem là "được phủ 1 lần" hoặc được gọi là "mờ" hoặc "mất điện" vì nó có khả năng hấp thụ khoảng 50-70% ánh sáng trực tiếp. Để nâng cao khả năng hấp thụ ánh sáng, vải có thể được phủ lại tới 3 lớp, đủ để chặn 100% ánh sáng trực tiếp, và vải như vậy được gọi là "lớp phủ chặn".
Để đạt được khả năng hấp thụ ánh sáng và cách nhiệt tối đa, rèm thường được thiết kế với một tấm rèm có lớp lót. Tấm rèm này thường bao gồm một lớp vải không tráng phủ ở phía trước, tạo ra vẻ ngoài và cảm giác của một chiếc rèm, và một lớp vải tráng riêng biệt được gắn ở phía sau để cung cấp khả năng cách nhiệt. Lớp vải tráng thường được gọi là "lớp lót" và nó đơn giản chỉ là một lớp vải tráng không có màu sắc hoặc hoa văn đặc biệt.
Rèm có thể được giữ lại bằng cách sử dụng dây buộc, như một vòng vải hoặc dây, để giữ rèm mở sang một bên. Thường thì dây buộc này được luồn qua một vòng trên móc gắn vào tường và buộc chặt bằng nút thắt, nút hoặc khóa dán. Thường, dây buộc còn được trang trí bằng tua rua. Rèm cũng có thể được đóng và mở bằng cách sử dụng thanh kéo, có thể là thanh nhựa, gỗ hoặc kim loại có khả năng xoắn và kéo. Hoặc có thể sử dụng thanh treo rèm được gắn vào các ngăn chạy hoặc móc đầu tiên. Nút chặn móc rèm là một thiết bị được sử dụng để ngăn rèm từ việc rơi ra khỏi phần cuối của thanh treo rèm.
Mặc dù một số loại rèm cửa có thể sử dụng hệ thống ròng rọc, không nên nhầm lẫn chúng với rèm cuốn hoặc rèm cuốn. Rèm cuốn và rèm cuốn thường được sử dụng để chỉ những loại rèm có thể được cuốn lên hoặc cuốn xuống bằng một cơ chế hoạt động. Tuy nhiên, cả ba loại rèm này được sử dụng như một xử lý cửa sổ, để che phủ hoặc làm cho cửa sổ trở nên đẹp hơn, và cải thiện không gian của căn phòng.
Các loại rèm.
Rèm cửa tạo điểm nhấn cho căn phòng. Có ít nhất 20 kiểu rèm khác nhau và màn cửa cũng có thể sử dụng trên cửa sổ.
| 1 | null |
Bảng xếp hạng Korea K-Pop Hot 100 được ấn hành bởi tạp chí "Billboard" để xếp hạng các ca khúc bằng tiếng Hàn, lần đầu được ấn hành vào ngày 3 tháng 9 năm 2011. Sau đây là danh sách các đĩa đơn đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng này.
| 1 | null |
Ánh sáng hoàng đạo (tiếng Anh: "Zodiacal light"), còn gọi là bình minh giả ("False Dawn"), là hiện tượng nhìn thấy vùng sáng mờ ở phía Tây khi trời vừa tối (hay phía Đông trước lúc bình minh), khoảng từ 1 đến 2 tiếng sau khi Mặt Trời lặn (hay trước khi Mặt Trời mọc).
Nguồn gốc.
Nguyên do trên vùng quỹ đạo của các hành tinh có rất nhiều bụi và băng nhỏ do mảnh vỡ của các thiên thạch, bụi của sao chổi... tuy nhỏ nhưng chúng cũng phản xạ ánh sáng của Mặt trời và nếu nhìn từ Trái Đất thì nó tạo ra một vệt sáng mờ theo đường hoàng đạo. Vùng ở gần Mặt Trời nhất sẽ sáng nhất, nhưng chúng ta chỉ có thể nhận biết khi Mặt Trời vừa khất bóng (hoặc chuẩn bị ló dạng) khi đó vùng sáng này mới hiện rõ do không bị lấn át bởi ánh sáng. Lúc đó nhìn về phía chân trời Tây từ 1 đến 2 tiếng sau khi Mặt Trời lặn ta sẽ thấy 1 vùng sáng có dạng tam giác rộng ở chân trời và nhỏ dần khi lên cao và nghiêng theo đường hoàng đạo. Không phải là ô nhiễm ánh sáng mà đó là ánh sáng hoàng đạo, xuất hiện khi trời đã tối hẳn.
| 1 | null |
Xông khói hay còn gọi là hun khói là một phương pháp chế biến và bảo quản thực phẩm bằng cách phơi nó trên khói hoặc những vật liệu cháy được như gỗ. Thịt và cá là những thực phẩm hay được xông khói nhất, ngoài ra pho mát, rau và các nguyên liệu để làm đồ uống như whisky, bia xông khói (smoked beer), trà "chính san tiểu chủng" (正山小种) cũng được xông khói. Không chỉ dừng lại là phương pháp bảo quản nguyên liệu, hun khói còn được biết đến như một kỹ thuật chế biến món ăn chuyên nghiệp. Các thực phẩm như thịt, cá khi được hun khói còn có màu sắc bắt mắt và hương vị hấp dẫn hơn.
| 1 | null |
Mành hay mành mành là một vật dụng dùng để che cửa hoặc cửa sổ tại nhà ở. Mành có thể dịch theo chiều ngang hay chiều dọc để điều chỉnh độ sáng cần thiết cho căn phòng hoặc nhà ở.
Công dụng.
Khi sử dụng, người ta để mở mành để che kín một phần hoặc toàn bộ cửa, cửa sổ theo nhu cầu. Khi không có nhu cầu che nắng, gió hoặc để lấy ánh sáng, người ta có thể kéo gọn mành kéo gọn lên phía trên. Ngoài công dụng che bớt nắng, gió và che ánh sáng, mành còn làm tăng vẻ đẹp thẩm mỹ cho căn phòng.
Các loại mành.
Mành được làm từ nhiều loại vật liệu khác nhau như tre, gỗ, nhựa (plastic), kim loại (nhôm) và vải bạt. Cũng có loại mành như sử dụng một mảnh duy nhất thay vì dùng các thanh chắn ngang.
Phân theo cơ chế đóng mở của mành được chia làm hai loại: loại tự động và loại kéo bằng tay. Loại tự động được dùng trong các công sở, văn phòng, tòa nhà cao tầng điều chỉnh theo nhiệt độ, độ sáng. Mành kéo tay thường được thiết kế tại nhà.
Mành kéo dây là một trong những loại mành được phát minh sớm nhất vào năm 1888 bởi ông G. L. Castner.
| 1 | null |
"Sleazy" là bài hát của ca sĩ thu âm người Mỹ Ke$ha, trích từ đĩa mở rộng đầu tiên của cô, "Cannibal" (2010). Ca khúc được viết bởi Kesha cùng với Lukasz "Dr. Luke" Gottwald, Benjamin Levin, Shondrae "Bangladesh" Crawford, Klas Åhlund và được sản xuất bởi Bangladesh, Dr. Luke và Levin. Trong khi làm việc với album Ke$ha nhận được sự giúp đỡ của nhà sản xuất Bangladesh vì cô muốn cho vào âm nhạc của cô một khía cạnh khác biệt.
Ca khúc sau đó được phát hành lại cùng với sự góp giọng của ca sĩ nhạc rap André 3000. Sau khi Ke$ha gửi cho anh ca khúc này với hi vọng rằng anh sẽ thích nó, họ đã nói chuyện với nhau qua điện thoại và anh đã đồng ý hợp tác với cô trong ca khúc. "Sleazy" đã lọt vào bảng xếp hạng Canada và Mỹ ở vị trí thứ 46 và 51.
Thực hiện.
"Sleazy" được viết bởi Kesha cùng với Lukasz "Dr. Luke" Gottwald, Benjamin Levin, Shondrae "Bangladesh" Crawford, Klas Åhlund cho đĩa mở rộng đầu tiên của Ke$ha, "Cannibal" (2010). Nó được sản xuất bởi Bangladesh, Dr. Luke, Levin cùng với sự trợ gúp kĩ thuật của Emily Wright, Sam Holland, Chris "TEK" O'Ryan và Chris Holmes. Ca khúc được phát hành vào 29 tháng 10 năm 2010 dưới đinh dạng tải kĩ thuật số. Bài hát còn xuất hiện ở mặt B của đĩa đơn "We R Who We R" ở Anh. Trong khi làm việc với album Ke$ha nhận được sự giúp đỡ của nhà sản xuất Bangladesh. Ông giải thích rằng Kesha chọn ông vì cô muốn có thêm một khía cạnh khác cho âm nhạc của mình, "Cô ấy nói rằng cô muốn là một tên xã hội đen".
Phối khí.
André 3000 xuất hiện trong phiên bản remix (phối khí) chính thức của ca khúc, phát hành kĩ thật số vào 18 tháng 1 năm 2011.
Sau khi phát hành phiên bản remix chính thức với André, Ke$ha cùng với đồng sản xuất của ca khúc, Dr. Luke, quyết định rằng họ sẽ remix lại ca khúc một lần nữa với ý định sẽ mời thêm một số ca sĩ nhạc rap mà Ke$ha mong muốn được hợp tác trong tương lai. Đầu tiên phải kể đến Lil Wayne, và tiếp theo đó Wiz Khalifa và T.I. lần lượt được Ke$ha mời để xuất hiện trong phiên bản này. Cả ba nghệ sĩ đều đồng ý với sự hợp tác này và nhờ đó, phiên bản remix hoàn thành. Phiên bản này được lấy tên là "Sleazy Remix 2.0: Get Sleazier". Vào 7 tháng 12 năm 2011, Ke$ha viết lên mạng một tin nhắn với người hâm mô của cô rằng cô sẽ phát hành ca khúc độc quyền trên iTunes vào ngày 13 tháng 13, 2011.
Video âm nhạc.
Video âm nhạc cho ca khúc được đạo diễn bởi Nicholaus Goossen, được phát hành vào 27 tháng 1 năm 2012. Diễn viên trong video là một số người bạn của Ke$ha, họ hát nhép theo những câu hát trong ca khúc. Tuy nhiên không có sự xuất hiện của Ke$ha trong video này. Jessica Sager từ PopCrush đã viết rằng: "Dù không có Ke$ha, nhưng bản remix vẫn rất... ổn". Tạp chí "Rap-Up" viết rằng, video này rất hài hước và bất ngờ.
| 1 | null |
Hô Diên Tán (chữ Hán: 呼延赞, ? – 1000), người Thái Nguyên, Tịnh Châu là tướng lĩnh nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc.
Xuất thân.
Họ Hô Diên (đôi khi phiên âm sai là Hô Đình do chữ Diên 延 và Đình 廷 có nét giống nhau) có gốc gác Hung Nô, từ sau đời Lưỡng Tấn dần được Hán hóa. Hô Diên Tán sinh ra trong 1 gia đình quân sự, cha là Truy Châu mã bộ Đô chỉ huy sứ Hô Diên Tông nhà Hậu Chu.
Tán buổi đầu gia nhập quân đội làm lính Kiêu kỵ, rồi được Tống Thái Tổ đề bạt làm Kiêu hùng quân sứ.
Kiêu dũng thiện chiến.
Năm 964, Tán theo bọn đại tướng Tây Xuyên hành doanh tiền quân đô bộ thự Vương Toàn Bân từ Phượng Châu tiến xuống phía nam chinh thảo Hậu Thục, đánh hạ cửa ngõ biên giới phía bắc của Tứ Xuyên là Kiếm Môn . Ông làm tiền phong, xung phong phá trận, chịu nhiều vết thương. Sau khi ban sư nhờ quân công được thăng làm Phó chỉ huy sứ. Đầu những năm Thái Bình Hưng Quốc (976 – 984) đời Tống Thái Tông, lại được tuyển làm Thiết kỵ quân chỉ huy sứ.
Năm 979, Tán theo Thái Tông ngự giá đánh thành Thái Nguyên, đô thành của Bắc Hán. Thành bị vây lâu ngày nhưng vẫn ngoan cường chống cự, ông hăng hái xông pha, 4 lần ngã khỏi tường lại 4 lần trèo lên, có tác dụng to lớn cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân Tống. Thái Tông đích thân thưởng cho Tán rất nhiều vàng, lụa. Cuối cùng, Bắc Hán phải dâng thành đầu hàng.
Thái Tông muốn nhân sĩ khí lên cao để giành lại 16 châu Yên, Vân mà Hậu Tấn Cao Tổ Thạch Kính Đường đã dâng cho nhà Liêu, đa phần quần thần tán đồng, Tán lại nằm trong số ít bất đồng với quan điểm này. Quả nhiên quân Tống đại bại ở Cao Lương Hà .
Kém tài quản trị.
Cùng năm, Thái Tông muốn tăng cường phòng ngự nhà Liêu ở phía bắc, mệnh cho ông đi theo Thôi Hàn trấn thủ Định Châu. Về sau lại thăng làm Mã bộ quân phó đô quân đầu.
Năm 986, nhà Tống bắc phạt lại thất bại, quân Liêu phản kích, xâm nhập biên cương và cướp bóc tan hoang nhiều địa phương. Tán dâng lên Thái Tông trận đồ, sách lược, tự đề cử bản thân đi đóng đồn ở biên cương, tấn công Khiết Đan để rửa nhục. Vì thế Thái Tông triệu kiến ông, mệnh cho biểu diễn võ nghệ. Tán đánh roi múa sóc, rồi lại sai bốn con trai là Tất Hưng, Tất Cải, Tất Cầu, Tất Hiển thay nhau biểu diễn, Thái Tông rất tán thưởng, ban cho ông vàng lụa, ban cho các con của ông áo, đai.
Năm 989, Tán ra ngoài lĩnh chức Phú Châu thứ sử. Năm 992, lại nhiệm chức Bảo Châu thứ sử, Ký Châu phó đô bộ thự. Trong việc tổ chức quân đội đồn trú, ông có nhiều khiếm khuyết, vì thế bị đổi làm Liêu Châu thứ sử. Nhưng Tán không có tài quản trị, vì vậy quay lại đảm nhiệm các loại quân chức như Đô quân đầu, sau đó được lĩnh chức Phù Châu thứ sử, gia Khang Châu đoàn luyện sứ.
An phận giữ mình.
Năm 999, Tán theo Tống Chân Tông tuần hành đến Đại Danh, đảm nhiệm Hành cung nội ngoại đô tuần kiểm. Chân Tông muốn bổ nhiệm thêm các tướng lĩnh, mọi người tranh nhau kể công, chỉ có ông là tự nhận mình lương bổng dư dật, mà chưa làm gì để báo ơn nước, xin lui về. Người hiểu chuyện đều khen ông biết an phận giữ mình.
Năm sau (1000), triều đình mệnh cho Tán nắm đội nghi vệ ở Viên Lăng của Lý thái hậu. Sau khi trở về thì qua đời. Con trai là Hô Diên Tất Hiển thay chức Phó đô quân đầu.
Tán có hai hậu duệ dưới thời Nam Tống. Một hậu duệ là Hô Diên Thứ Thăng, là thuộc tướng của Tông Trạch; người còn lại là Hô Diên Thông, là tuỳ tướng của Hàn Thế Trung, từng đánh bại quân Kim nhiều lần dưới thời Tống Cao Tông.
Tính cách.
Tán can đảm, dũng mãnh nhưng hung tợn, khinh suất, thường nói muốn chết trên chiến trường. Ông xăm trên mình mấy chữ "xích tâm sát tặc", còn làm như vậy với thê thiếp và nô bộc trong nhà. Các con trai thì trước sau bị xăm mấy chữ "xuất môn vong gia vi quốc, lâm trận vong tử vi chủ".
Tán có tính cách quái đản, hành vi bất kể tình lý. Vào lúc trời rét đậm, ông dùng nước lạnh tắm cho con trai, hy vọng sau này lớn lên thằng bé sẽ chịu được cái lạnh mà khỏe mạnh hơn người. Khi con trai có bệnh, ông cắt đùi để nấu canh mà chữa.
Tán chế ra các thứ khí giới Phá trận đao, Hàng ma xử (chày), lại có Thiết chiết thượng cân (khăn đội đầu làm từ những miếng sắt) hai bên có mũi nhọn. Những thứ này đều nặng mười mấy cân. Ông thường chít khăn đỏ, cưỡi ngựa Chuy, phục sức quái dị.
Trong văn học.
Bộ tiểu thuyết thông tục "Thuyết Hô toàn truyện" (còn gọi là "Kim tiên ký", "Hô gia hậu đại toàn truyện" hay "Hô gia tướng") lấy chuyện các đời cháu (Hô Diên Thủ Dụng, Hô Diên Thủ Tín), chắt (Hô Diên Khánh) của Hô Diên Tán chống lại bè lũ gian thần của Thái sư Bàng Văn (hay Bàng Tịch) làm tuyến chính.
Nhân vật Hô Diên Khánh còn xuất hiện trong nhiều tiểu thuyết thông tục ra đời vào cuối đời Thanh như "Hô Dương hợp binh", "Tiểu tướng Hô Diên Khánh", "Hô Diên Khánh đả lôi", "Hô Diên Khánh xuất thế", "Hô Diên Khánh chinh bắc", "Hô Diên Khánh chinh tây", "Hô Diên Khánh tiến kinh", "Hô Diên Khánh quải soái".
Nhân vật Hô Diên Chước trong "Thủy Hử truyện" là hậu duệ của Hô Diên Tán.
| 1 | null |
Trà lài, hay Trà nhài, là một loại trà ướp bằng hương hoa lài
Trà lài là loại trà ướp hương nổi tiếng nhất ở Trung Quốc, được cho là xuất hiện từ thời Nhà Tống (960-1279) và là đặc sản ở Trung Quốc. Thông thường, trà lài được chế biến từ trà xanh hoặc trà trắng. Các cây hoa nhài được trồng ở vùng núi có độ cao 500-1000m. Trà lài sản xuất tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc được hưởng danh tiếng tốt nhất. Trà lài cũng được sản xuất ở Hồ Nam, Giang Tô, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây và tỉnh Chiết Giang.
Trà lài cũng được xếp vào một trong ba loại trà ướp hương cổ truyền của người Việt Nam. Về cơ bản, trà lài của Việt Nam rất giống với Trung Quốc về phương pháp ướp hương. Tuy nhiên, phương pháp thưởng ẩm và đặc điểm của nguyên liệu không giống nhau. Ngay cả ở Việt Nam, cách đánh giá chất lượng trà lài cũng khác nhau giữa các vùng miền từ đó nguyên liệu được chọn lọc để ướp hương lài tương đối khác. Những địa danh nổi tiếng tại Việt Nam về sản xuất trà lài có thể kể như Hà Nội, Tam Kỳ(Quảng Nam), Bảo Lộc(Lâm Đồng).
Công dụng của trà lài.
Hoa nhài được sử dụng phổ biến nhất là chế tạo trà hoa nhài.
Dầu được chiết xuất từ hoa nhài rất nổi tiếng và tốn kém. Tuy nhiên, ảnh hưởng của nó đối với cơ thể thì thật là quý giá. Loại thảo dược này có sức mạnh loại bỏ sự căng thẳng và trầm cảm, và nó có thể giúp lấy lại sự tự tin. Những bông hoa nhài được sử dụng trong các phương pháp sinh học và ngành công nghiệp nước hoa.
Những bông hoa nhài tươi có chứa một lượng cao dầu etheric, có tác dụng tăng cường năng lượng. Ngoài ra, những bông hoa nhài cũng có chứa benzilic acetate, linalcohol, rượu benzilic, indole và jasmon... Tất cả các chất này tạo cho hoa nhài một đặc tính kích thích tình dục.
Bên cạnh đó phải kể đến một số tác dụng khác của hoa nhài là: Cải thiện tiêu hóa, bổ trợ trong việc loại bỏ độc tố và giúp giảm cân. Chúng cũng giúp đẩy mạnh quá trình trao đổi chất, cải thiện lưu thông máu và thường được biết đến là có tác dụng kích thích tình dục của con người.
Hiệu quả điều trị từ hoa nhài
- Trị đau đầu, ho: Biện pháp sử dụng hoa nhài đơn giản nhất là uống trà hoa nhài. Trà hoa nhài có thể được sử dụng để điều trị đau đầu, ho và bệnh thấp khớp.
- Xoa bóp dầu thơm từ hoa nhài có thể có ích cho bất kỳ loại chứng đau đớn nào về thể chất: Với những phụ nữ sinh đẻ, dùng dầu hoa nhài cũng rất tốt. Thậm chí hoa nhài còn là một chất khử trùng mạnh mẽ, an thần và thuốc bổ được đề nghị dùng cho trường hợp khó thở, ho và suy nhược thần kinh. Nó cũng có tác dụng với các bệnh về da và một lượng nhỏ tinh dầu hoa nhài cũng có thể làm dịu cơn đau.
- Tăng năng lượng: Trà hoa nhài được biết đến nhiều bởi nó chứa rất nhiều chất dinh dưỡng như là một tá dược trong giảm cân. Trà hoa nhài không có bất kỳ đặc tính năng lượng giống như trà xanh, nhưng nó có tính chất an thần và nó có thể điều chỉnh lưu thông máu và giảm căng thẳng động mạch. Hương vị của một tách trà hoa nhài là ngọt ngào và kết hợp với trà xanh sẽ là một liều thuốc bổ và có hiệu quả tăng năng lượng.
Trà hoa nhài chắc chắn không phải là một trong những thuốc kích dục mạnh nhất, nhưng nó có thể giúp cơ thể thư giãn và lấy lại sức mạnh sau sự căng thẳng hoặc thời gian làm việc quá nhiều ở cả về thể chất và tinh thần.
Phương pháp sản xuất cơ bản.
Hương vị của trà lài ngọt tinh tế, mùi hương nhẹ nhàng như mùi thiếu nữ nên rất được giới thưởng thức ưa chuộng. Tùy theo mỗi địa phương có những chi tiết riêng về nguyên liệu cũng như cách thức, nhưng về phương pháp sản xuất cơ bản không có gì khác biệt.
Lá trà được thu hoạch vào mùa xuân và được lưu trữ cho đến đầu mùa hè khi hoa lài tươi nở rộ. Ở Trung Quốc, hoa lài được hái từ sáng sớm, khi những cánh hoa nhỏ còn đóng kín. Còn ở Việt Nam, hoa lài được thu hái vào giữa giờ Mùi (2 giờ chiều). Những bông hoa được lưu giữ mát cho đến khi đêm xuống. Buổi tối, hoa bắt đầu nở, trà được lên men và pha trộn với hoa lài và được lưu trữ qua đêm. Phải mất hơn bốn giờ để trà hấp thụ mùi thơm và hương vị của hoa lài, quá trình này có thể được lặp đi lặp lại nhiều như sáu hoặc bảy lần. Trà hấp thụ độ ẩm từ những bông hoa lài tươi nên nó phải được tách ra khỏi lài sau khi ướp xong một công đoạn để ngăn chặn hư hỏng.
Trong quá trình chế biến, trà lài thường được ướp chung với rất nhiều thảo mộc. Thành phần thảo mộc và mức độ pha trộn trong trà lài của những thương hiệu trà hoàn toàn không giống nhau. Đây mới là yếu tố đặc biệt quan trọng hình thành nên những danh trà nổi tiếng.
| 1 | null |
Trận bán đảo Kerch (1942) là tổ hợp ba chiến dịch quân sự lớn của Hồng Quân Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã và quân chư hầu România tại bán đảo Kerch từ 26 tháng 12 năm 1941 đến 18 tháng 5 năm 1942. Đây là một trận chiến lớn trong chiến tranh Xô-Đức với mục tiêu giành quyền kiểm soát bán đảo Kerch, có ảnh hưởng lớn đến trận chiến đang diễn ra tại Sevastopol, một hải cảng có ý nghĩa lớn đối với Hạm đội Biển Đen (Liên Xô) cũng như đối với hải quân Đức và các đồng minh của họ. Chiếm được Kerch, quân đội Liên Xô có thể hỗ trợ cho cuộc phòng thủ ở Krym và buộc Tập đoàn quân 11 (Đức) phải chiến đấu trên hai hướng đối diện. Đối với quân đội Đức Quốc xã, việc đánh chiếm bán đảo Kerch không chỉ loại bỏ mối đe dọa từ phía sau lưng các quân đoàn Đức đang chiến đấu trước cửa ngõ Sevastopol mà còn tạo một đầu cầu để đổ bộ sang Taman, phối hợp với Tập đoàn quân A (Đức) tiến vào Bắc Kavkaz.
Diễn biến chiến dịch gồm 3 giai đoạn:
Chiếm lại được bán đảo Kerch, Tập đoàn quân 11 (Đức) có điều kiện dồn quân chủ lực sang phía Tây công kích và đánh chiếm quân cảng Sevastopol trong thời gian hơn một tháng sau đó.
Bối cảnh.
Trong tiến trình Chiến dịch Barbarossa, cuối tháng 9, đầu tháng 10 năm 1941, Tập đoàn quân 11 (Đức) đã tràn qua eo đất Perekop, đánh chiếm hầu hết bán đảo Krym, buộc cánh Nam của Phương diện quân Nam (Liên Xô) phải rút sang bán đảo Taman và vây hãm Cụm tác chiến ven biển của quân đội Liên Xô tại Sevastopol.
Tháng 12 năm 1941, Quân đội Liên Xô tổ chức chiến dịch phản công chiến lược ở Moskva, đẩy lùi quân Đức khỏi cửa ngõ thủ đô và tiếp tục tấn công trong suốt mùa đông 1941-1942. Các chiến dịch phản công quy mô khu vực mặt trận được tổ chức thành công ở Tikhvin, Briansk và Rostov. Đại Bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô ra chỉ lệnh cho Phương diện quân Bắc Kavkaz và Hạm đội Biển Đen cần lợi dụng cơ hội quân Đức vừa bại trận ở cửa ngõ Moskva để tổ chức một chiến dịch đổ bộ đường biển nhằm thu hồi bán đảo Kerch và tấn công vào sau lưng Tập đoàn quân 11 (Đức), giải vây cho Cụm tác chiến ven biển của Liên Xô đang bị quân Đức vây hãm tại Sevastopol.
Chiến dịch được tổ chức trong khi các lực lượng dự bị của quân đội Liên Xô còn mỏng, Tập đoàn quân 47 vừa rút từ Iran và Tập đoàn quân 44 được rút từ biên giới Liên Xô-Thổ Nhĩ Kỳ về có cơ cấu chỉ gồm các sư đoàn bộ binh nhẹ thiếu pháo binh và các phương tiện đột kích như xe tăng, cơ giới. Mặc dù Đại bản doanh Liên Xô đã rút nhiều vũ khí phương tiện từ Quân khu Trung Á để tăng cường cho Phương diện quân Bắc Kavkaz nhưng các đơn vị của Phương diện quân vẫn còn trong tình trạng dưới mức chuẩn trang bị sẵn sàng chiến đấu.
Mặc dù bị đánh lui trước cửa ngõ Moskva nhưng bước sang xuân - hè năm 1942, nước Đức Quốc xã còn rất nhiều tiềm năng dự trữ về nhân lực, vũ khí và kinh tế để huy động sang mặt trận phía Đông. Trong đó, quân đội Romania bắt đầu tham chiến với quy mô tập đoàn quân bên cạnh quân đội Đức Quốc xã. Quân đội Đức Quốc xã mới chỉ bị chặn lại và tạm thời mất quyền chủ động chiến lược và vẫn còn nhiều lực lượng dự bị mạnh để tổ chức tấn công.
Chiến dịch diễn ra trong điều kiện thời tiết mùa đông bất lợi. Trên biển có bão to, sóng lớn, gió đổi hướng thất thường. Các tàu thuyền nhỏ thường bị sóng lật chìm và gặp rất nhiều khó khăn khi cập bờ ở các vị trí bất lợi như sườn núi hoặc bãi lầy ven biển dưới mưa bão và hoả lực pháo bờ biển của đối phương.
Binh lực và kế hoạch.
Quân đội Liên Xô.
Binh lực.
Phương diện quân Bắc Kavkaz do Trung tướng Dmitri Timpfeyevich Kozlov chỉ huy, là chủ công của chiến dịch, sử dụng 2 Tập đoàn quân ở thê đội 1 và 1 tập đoàn quân ở thê đội 2 cùng các đơn vị tăng cường, chia làm nhiều đợt đổ bộ lên bán đảo Kerch và tấn công về phía Tây. Thành phần gồm có:
Hạm đội Biển Đen do Phó đô đốc F. S. Oktyabrsky chỉ huy,
Phân hạm đội Azov do Chuẩn đô đốc S. G. Gorskov chỉ huy, huy động 16 pháo hạm, 14 tàu phóng lôi 40 tàu vận tải, 50 tàu đánh cá.
Tập đoàn quân không quân 4 có 450 máy bay
Không quân hạm đội Biển Đen có 200 máy bay
Kế hoạch.
Tháng 12 năm 1941, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô nhận thấy cần mở một hướng tấn công mới ở Krym để giảm bớt áp lực cho Cụm tác chiến ven biển tại Sevastopol. Đồng thời, vị trí này còn có tác dụng như một bàn đạp chuẩn bị cho các trận phản công mùa xuân năm 1942 tại khu vực Krym, loại bỏ nguy cơ đe dọa hướng Bắc Kavkaz từ đường biển, ngăn cản quân đội Đức Quốc xã lọt vào Taman bằng con đường vượt qua eo biển Kerch.
Kế hoạch ban đầu dự kiến đổ bộ 2 tập đoàn quân lên mũi Kerch từ hướng eo biển Kerch và hướng biển Azov. Tập đoàn quân thứ ba đổ bộ lên Feodosya, chỗ hẹp nhất của bán đảo Kerch nối với bán đảo Krym, chia cắt, bao vây và tiêu diệt Quân đoàn bộ binh 42 (Đức) đang đóng tại phía Tây bán đảo Kerch. Mũi tấn công chủ yếu do các Tập đoàn quân 44 và 51 thực hiện. Mũi tấn công trực diện do Sư đoàn bộ binh 320 tiến hành đổ quân lên Kamysh Bugun và Eltigen, thu hút quân Đức về hướng này. Mũi tấn công thứ hai do chủ lực Tập đoàn quân 51 (các sư đoàn bộ binh 224, 398 và Lữ đoàn sơn chiến 12) thực hiện đổ quân lên các vị trí Ossoviny, mũi Khronya, mũi Tarkham và mũi Zyuk, phía bắc thành phố Kerch, đánh vào sau lưng cánh quân Đức đang đối phó với mũi tấn công trực diện tại khu vực Kamysh Bugun. Trong khi Quân đoàn 42 (Đức) đang bận đối phó ở phía Tây Kerch thì chủ lực Tập đoàn quân 44 (các sư đoàn bộ binh 157, 236 và Lữ đoàn xe tăng 63) đổ bộ lên Feodosya và nhanh chóng phát triển lên phía Bắc, cắt rời Quân đoàn 42 (Đức) khỏi chủ lực Tập đoàn quân 11 và bao vây, tiêu diệt.
Hải quân Hạm đội Biển Đen được phân công phối hợp thực hiện các cuộc tấn công đổ bộ ở phía Tây và phía Nam. Trong đó, căn cứ hải quân Novorossyisk dành phần lớn lực lượng phối hợp với Tập đoàn quân 44 trên hướng Feodosya, một phần lực lượng hỗ trợ cho căn cứ Taman trên hướng Tây. Căn cứ hải quân Anapa phối hợp với Novorossyisk trên hướng Feodosya. Căn cứ Taman chủ yếu phối hợp với Sư đoàn bộ binh 302. Phân hạm đội Azov với căn cứ Temryuk và một bến tàu nhỏ ở Kuchugury phối hợp với Tập đoàn quân 51 đổ quân lên phía Bắc Kerch.
Giai đoạn hai của kế hoạch sẽ tùy theo kết quả của giai đoạn 1 để triển khai. Khái quát kế hoạch ở giai đoạn 2 dự kiến tổ chức các cuộc tấn công lên eo đất Perekop, tổ chức quân nhảy dù chiếm eo đất Perekov, phối hợp với Cụm tác chiến ven biển từ Sevastopol đánh ra, bao vây và tiêu diệt Tập đoàn quân 11 (Đức) tại Krym. Nếu kế hoạch này được thực hiện hoàn hảo, quân đội Liên Xô sẽ có một bàn đạp rất đắc dụng để đánh vào sau lưng cánh quân phía Nam của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đang tiến đến sông Đông và Bắc Kavkaz, loại trừ nguy cơ trên hướng Nam của Mặt trận Xô-Đức.
Quân đội Đức Quốc xã.
Binh lực.
Tập đoàn quân 11 do Thống chế Erich von Manstein chỉ huy có 12 sư đoàn (Đức) và 4 sư đoàn Romania. Thành phần gồm có:
Tập đoàn quân không quân 4 do trung tướng không quân Alexander Löhr chỉ huy có 6 sư đoàn không quân Đức và 2 sư đoàn không quân Romania. Tại Romania và miền Nam Liên Xô năm 1941-1942, Tập đoàn không quân này có các căn cứ tại Constanţa, Akkerman, Odessa, Nikolayev, Rostov, Novocherkassk có thể trực tiếp yểm hộ cho Tập đoàn quân 11 (Đức).
Cụm hải quân B của Liên quân Đức-Romania hoạt động tại Biển Đen do Phó đô đốc Friedrich-Wilhelm Fleischer chỉ huy gồm 1 hải đoàn pháo hạm (Đức), 2 hải đoàn phóng lôi (Đức), 3 biên đội tàu ngầm (Đức), 4 hải đoàn vận tải (hỗn hợp Đức-Romania) và 2 hải đoàn tuần duyên (Romania).
Kế hoạch.
Tập đoàn quân 11 và Quân đoàn 42 (Đức) hoàn toàn bất ngờ trước cuộc đổ bộ và tấn công nhanh chóng của quân đội Liên Xô trong thời gian 4 ngày cuối năm 1941 và 3 ngày đầu năm 1942 tại Kerch. Một số tướng lĩnh của Cụm tập đoàn quân Nam yêu cầu nhanh chóng đánh chiếm Sevastopol trước khi cánh quân Kerch của quân đội Liên Xô tấn công đến nơi. Tuy nhiên, thống chế Erich von Manstein không nghe theo lời khuyên đó. Ông ta hiểu điều gì sẽ xảy ra nếu quân đội Liên Xô chiếm lại được eo đất Perekop. Ngày 31 tháng 12 năm 1941, bất chấp sự thúc giục của Führer, Erich von Manstein ra lệnh tạm ngừng cuộc công kích Sevastopol và điều một phần lực lượng Đức và Romania đang vây hãm Sevastopol sang hướng Kerch đồng thời đề nghị Tổng hành dinh lục quân Đức tăng viện.
Từ tháng 3 năm 1942, khi quân đội Liên Xô không vượt qua được phòng tuyến Shubino Baigodka - Karagoz Koktebl do 2 quân đoàn Đức và 2 sư đoàn Romania trấn giữ thì Erich von Manstein bắt đầu lên kế hoạch phản công. Ý tưởng phản công của Erich von Manstein là lợi dụng cánh trái của Phương diện quân Krym (Liên Xô) bị suy yếu trong các cuộc công kích nhằm nới rộng phạm vi kiểm soát phía Tây Feodosya để phản công đánh chiếm thành phố này. Sau đó tiếp tục khoét sâu vào cánh trái của Phương diện quân Krym, tiến nhanh ra eo biển Kerch, chặn đường rút lui của Phương diện quân Krym (Liên Xô) qua eo biển Kerch và bao vây, tiêu diệt phương diện quân này. Sau đó, Tập đoàn quân 11 (Đức) mới có thể quay lại thanh toán nốt Cụm tác chiến ven biển của Liên Xô tại Sevastopol.
Diễn biến.
Các cuộc đổ bộ tại bán đảo Kerch.
Đêm 24 rạng ngày 25 tháng 12 năm 1941, các tàu vận tải của các căn cứ Novorossiysk và Tuapse đã sắp xếp đầy đủ người, vũ khí và hàng hóa lên tàu. Bốn hải đoàn vận tải chở theo Sư đoàn bộ binh 157 và Lữ đoàn xe tăng 63. Hai hải đoàn vận tải còn lại chở theo sư đoàn bộ binh 404. Do phải di chuyển xa hơn đến Feodosya, họ xuất phát ngày 25 tháng 12. Tại căn cứ Apana, hai hải đoàn vận tải cũng đã sắp xếp Sư đoàn bộ binh 236 lên tàu và xuất phát đi Feodosya. Ngày 26 tháng 12, Căn cứ hải quân Taman cũng hoàn thành việc chuẩn bị chuyển quân cho sư đoàn bộ binh 302 và xuất phát vào nửa đêm. Ở ven biển Azov, ngày 25 tháng 12, Phân hạm đội Azov đã chuẩn bị xong việc di chuyển cho Sư đoàn bộ binh 224 tại căn cứ Temryuk và Lữ đoàn bộ binh sơn chiến 12 tại bến tàu Kuchugury và xuất phát ngày 26 tháng 12. Các tàu tuần dương "Krasnyi Krym", "Krasnyi Kavkaz", các tàu khu trục "Nezamozhnik", "Shaumyan", "Zheleznyakov", các pháo hạm "Adzharistan Đỏ", "Abkhazia Đỏ", "Georgia Đỏ" và Lữ đoàn tàu phóng lôi đã tạo thành các tuyến yểm hộ xen kẽ đội hình các tàu vận tải. Các tàu ngầm D-5, M51 và SS-201 đã tuần tra trên các luồng lạch dọc chuyển quân. Sư đoàn pháo binh 10 và Trung đoàn Katyusha 5 của Phương diện quân đã vào vị trí trên doi đất Chuska và điểm cao Ylich, sẵn sàng pháo kích qua eo biển Kerch.
Trước bình minh ngày 27 tháng 12 khoảng 2 giờ, các tàu của căn cứ hải quân Taman đã đổ lên bờ 13.225 quân, 47 khẩu pháo và 198 súng cối lên các khu vực Kamysh Bugun, Eltigen và Staro Karantin, trên bờ biển phía Đông Kerch. Sư đoàn 302 đã tổ chức tấn công ngay dưới sự yểm hộ của pháo binh đặt trên doi đất Chuska và mỗi trung đoàn bộ binh đã đánh chiếm một đầu cầu nhỏ. Quân đoàn 42 (Đức) báo động, tướng Franz Mattenklott điều Sư đoàn bộ binh 46 tiến ra Kamysh Bugun chặn kích. Trong ba ngày từ 27 đến 30 tháng 12, Sư đoàn bộ binh 46 (Đức) không thể đẩy được Sư đoàn bộ binh 302 xuống biển, ngược lại, Quân đội Liên Xô còn mở rộng thêm căn cứ bàn đạp Kamysh Bugun và uy hiếp phía Nam Kerch.
Đêm 27 tháng 12, các tàu vận tải của Phân hạm đội Azov đã đổ bộ 8.500 quân của Tập đoàn quân 51 lên phía Bắc Kerch. Tại mũi Zyuk ở phía Tây có 1.000 quân đổ bộ, tại mũi Khrony có 5.000 người. Cánh quân lớn nhất được đưa đến mũi Tarkhan gồm 6.000 người, 9 xe tăng hạng nhẹ T-26 và 10 khẩu pháo. Các đội đổ bộ đã nhanh chóng đánh tan các đơn vị tuần tiễu mỏng yếu của Sư đoàn sơn chiến 1 Romania, mở rộng các đầu cầu. Sáng 28 tháng 12, Sư đoàn bộ binh sơn chiến 1 Romania tổ chức phản đột kích hòng chiếm lại Ossoviny (Osovyny) nhưng các cuộc tấn công yếu ớt đều bị hỏa lực Katyusha của Trung đoàn pháo binh 5 đặt tại ilich từ bên kia eo biển bắn sang chặn đứng. Ngày 29 tháng 12, thêm 2.000 quân của Tập đoàn quân 51 đổ bộ lên các đầu cầu phía Bắc Kerch. Quân đội Liên Xô bắt đầu tổ chức tấn công. Lính Romania buộc phải lùi về Kerch, Bagerovo và Mayak Salyn.
Ngày 28 tháng 12, đòn quyết định diễn ra tại Feodosya. Sau ba ngày lênh đênh trên biển, 3 giờ sáng ngày 28 tháng 12, đội đổ bộ đầu tiên đã tiếp cận bờ biển quận Feodosya. Từ 4 giờ 30 đến 11 giờ 30 cùng ngày, 1.700 quân của Sư đoàn bộ binh 157 đã đổ bộ lên cảng Feodosya và bắt đầu tỏa ra đánh chiếm khu cảng. Các đội bảo vệ mỏng yếu của quân Romania nhanh chóng bị tiêu diệt. Lữ đoàn sơn chiến 4 (Romania) lập một vành đai quanh khu vực cảng Feodosya nhưng không thể ngăn cản quân đội Liên Xô tiếp tục đổ quân mỗi ngày một đông hơn. Đến ngày 31 tháng 12, 40.519 sĩ quan và binh sĩ Liên Xô thuộc các sư đoàn bộ binh 157, 236, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 9 (2 tiểu đoàn) và Lữ đoàn xe tăng 63 đã đổ bộ lên khu vực Feodosya. Hạm đội Biển Đen đã bốc dỡ lên bờ 43 xe tăng, 184 khẩu pháo, 50 súng cối cùng hàng vạn tấn đạn dược, vũ khí bộ binh, trang bị, lương thực, thực phẩm. Quân đội Lien Xô nhanh chóng phát triển tấn công lên phía Bắc và sang phía Tây. Đến ngày 1 tháng 2, họ đã lần lượt đánh chiếm các thị trấn Koktebel, Karagoz, Vladislavovka và Kyet. Ba sư đoàn Đức và Romania bị cô lập tại Đông Krym, bị chia cắt khỏi chủ lực Tập đoàn quân 11 (Đức).
Trên phòng tuyến Koktebel - Kyet.
Chiến sự trên mặt trận tháng 1, tháng 2 năm 1942.
Từ ngày 29 tháng 12 năm 1941, các sư đoàn của Tập đoàn quân 51 đã tấn công ra khắp khu vực phía Đông bán đảo Kerch và đánh chiếm cảng Kerch. Ngày 30 tháng 12, Quân đoàn bộ binh 9 (Tập đoàn quân 51) đổ quân lên cảng Kerch. Các sư đoàn bộ binh 172, 184 (Tập đoàn quân 51) và Sư đoàn bộ binh 345 (Tập đoàn quân 47) cũng đổ quân lên Eltigen và đồng loạt tấn công về phía Tây.
Ngày 31 tháng 12, thống chế Erich von Manstein ra lệnh ngừng cuộc tấn công ở Sevastopol để điều quân sang đối phó với mối đe dọa mới từ hướng Kerch. Ông ra lệnh cho tướng Franz Mattenklott phải rút quân ngay sang phía Đông. Tuy nhiên, tướng Franz Mattenklott đã bỏ Kerch lên máy bay về Simferopol từ ngày 30 tháng 12. Sư đoàn sơn chiến Romania tại Kol Taky (Zavitne) và Mareevka, phía Nam Eltigen cũng bỏ chạy về Marfovka để tránh bị bao vây. Quân đoàn bộ binh 42 (Đức) được tách thành ba cụm quân rút lui theo ba hướng. Sư đoàn bộ binh 46 (Đức) và Sư đoàn sơn chiến 1 Romania từ Marfovka rút theo đường bộ về Vladislavovka. Sư đoàn bộ binh 73 rút theo đường sắt từ Kerch về Ak Monai. Sư đoàn bộ binh 170 rút quân dọc theo bờ biển Azov về Sem Kolodezey (Lenino). Lý giải về việc giảm cường độ công kích Sevastopol và điều chủ lực Tập đoàn quân 11 sang hướng Kerch, Erich von Manstein viết:
Ngày 1 tháng 1 năm 1942, Không quân Liên Xô tổ chức nhiều trận oanh tạc xuống các sân bay Sem Kolodezey và Vladislavovka, cắt đứt tuyến đường hàng không cuối cùng của Quân đoàn bộ binh 42 (Đức). Chiều ngày 1 tháng 1, Tập đoàn quân 44 đánh chiếm Vladislavovka, tiếp tục dồn quân Đức lên phía Bắc, đánh chiếm nhà ga Ak Monai. Ngày 2 tháng 1, một cụm quân lớn của Quân đoàn 42 gồm 5 trung đoàn của các sư đoàn bộ binh 73 và 170 bị Tập đoàn quân 44 và Tập đoàn quân 51 (Liên Xô) bao vây tại khu vực mỏ đá Ak Monai. Sang ngày 3 tháng 1, các sư đoàn bộ binh 244, 236, 302, 404 tập trung tiêu diệt các trung đoàn này. Tuy nhiên, do lực lượng bao vây mỏng và thiếu hỏa lực pháo binh yểm hộ nên quân Đức vẫn chọc thủng được phòng tuyến mới thiết lập của quân đội Liên Xô. Ngày 4 tháng 1, khi Quân đoàn bộ binh 9 (Tập đoàn quân 51) tiếp cận chiến trường thì 2 trung đoàn Đức đã thoát khỏi vòng vây qua ngả Kyet. Ba trung đoàn còn lại bị tiêu diệt và bắt sống. Ở phía Nam, Sư đoàn sơn chiến 1 (Romania) lợi dụng trận tuyến còn gián đoạn của Sư đoàn bộ binh 157 đã đột phá qua Vladislavovka, nhờ mũi đột kích của Sư đoàn kỵ binh 8 (Romania) từ Simferopol kéo ra chọc đến nhà ga Ak Monai để thoát khỏi vòng vây với những tổn thất nặng.
Từ ngày 4 đến ngày 14 tháng 1, Quân đội Liên Xô tiếp tục đổ bộ lên bán đảo Krym. Tổng cộng đã có gần 260.000 quân được đưa đến Kerch sau 110 chuyến vận tải đổ bộ. Ngày 2 tháng 1, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô ra Chỉ lệnh số № 170005 thành lập Phương diện quân Krym và giao nhiệm vụ cho Phương diện quân này tổ chức tấn công theo kế hoạch hành động trong năm 1942 để giải phóng Krym. Mệnh lệnh quy định Phương diện quân Krym là đơn vị chủ công tại mặt trận này, Cụm tác chiến ven biển đang phòng thủ Sevastopol phối thuộc Phương diện quân nhưng vẫn có thể chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ STAVKA.
Ngày 5 tháng 1 năm 1942, sau khi được tăng viện Sư đoàn bộ binh 132, Quân đoàn 42 (Đức) tổ chức phản công vào cảng Feodosya. Sư đoàn bộ binh 279 vừa đổ bộ lên Feodosya đã phải bước vào giao chiến trong hành tiến. Ngày 6 tháng 1, Sư đoàn bộ binh 132 (Đức) tạm thời chiếm được khu cảng. Ngày 8 tháng 1, Phương diện quân Krym tiến hành đổ bộ Sư đoàn bộ binh 271 lên phía Đông Feodosya và tổ chức phản công, lấy lại được cảng Feodosya nhưng không đánh bật được quân Đức khỏi cứ điểm Koktebel, một bàn đạp quan trọng có khả năng khống chế khu cảng này bằng pháo binh. STAVKA lệnh cho tướng D. T. Kozlov phải yêu cầu Tập đoàn quân 44 tiếp tục phản kích để lấy lại cứ điểm quan trọng này, bảo đảm an toàn cho các tàu của Hạm đội Biển Đen ra vào cảng Feodosya. Tướng D. T. Kozlov hứa sẽ bắt đầu tấn công vào ngày 13 tháng 1.
Ngày 14 tháng 1, trong khi không quân Đức tổ chức các cuộc tấn công vào các đoàn tàu vận tải của Hạm đội Biển Đen (Liên Xô) thì các tàu ngầm Đức tấn công các chiến hạm đang yểm hộ cho các chuyến vận tải. Các chiến hạm "Hồng quân", "Tashken" và "Zyrianin" bị đánh đắm. Chiến hạm "Kavkaz Đỏ" bị thương nặng hàng chục lỗ thủng lớn và được kéo về Tuapse, sau đó phải đưa về cảng Poti để sửa chữa trong một thời gian dài. Các toán biệt kích người nhái của Hải quân Đức được các tàu ngầm phóng ra đã gây ra các vụ phá hoại tại các cảng Taman, Anapa và Novorossiysk. Mặc dù các tàu ngầm Liên Xô đã phát hiện và đánh đắm 2 tàu ngầm Đức và không quân của Hạm đội Biển Đen cũng tăng số lần xuất kích nhưng vẫn chưa thể loại trừ nguy cơ máy bay Đức tấn công các đoàn tàu vận tải. Tổn thất của các chiến hạm không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến các chuyến vận tải mà còn làm mất đi sự yểm hộ của các pháo hạm Liên Xô đối với các hoạt động quân sự trên đất liền.
Ngày 13 tháng 1, thời hạn tấn công đã đến nhưng D. T. Kozlov xin "khất" với Đại bản doanh Liên Xô cho lùi lại đến ngày 21 tháng 1 do chưa chuẩn bị đủ đạn pháo và nhiên liệu cho xe tăng. Sự chậm trễ của vị Tư lệnh Phương diện quân Krym đã đem đến một "dịp may" cho Tập đoàn quân 11 (Đức). Ngày 15 tháng 1, các sư đoàn bộ binh 46 và 50 (Đức) bất ngờ mở cuộc đột kích vào Vladislavovka. Các sư đoàn bộ binh 138 và 302 (Liên Xô) không chống đỡ nổi đã phải rút lui và để mất cả cứ điểm Koy Aksan trên con đường sắt đi Vladislavovka. Trong khi quân đội Liên Xô cố chặn mũi đột kích ở giữa mặt trận thì ngày 16 tháng 1, các sư đoàn bộ binh 28, 132 (Đức) và Lữ đoàn sơn chiến 4 (Romania) có sự yểm hộ của Lữ đoàn cơ giới Groddeka (sau này trở thành Sư đoàn cơ giới "Großdeutschland") mở cuộc tấn công thứ hai vào Feodosya. Ngay trong ngày giao chiến đầu tiên, tướng A. N. Pervushin đã bị thương nặng và phải vào bệnh viện quân y ở Daln Kamyshi điều trị. Thiếu tướng I. F. Dashichev, Tư lệnh Quân đoàn bộ binh (Tập đoàn quân 51) được bổ nhiệm thay thế nhưng đã không còn chỉ huy được quân đội. Ngày 18 tháng 1, quân Đức chiếm cảng Feodosya lần thứ hai. Mất hải cảng quan trọng này, Hạm đội Biển Đen phải sử dụng cảng Kerch ở xa mặt trận trong khi vận tải đường bộ từ Kerch ra mặt trận không thuận tiện. Cũng trong những ngày này, các sư đoàn bộ binh 73 và 170 (Đức) và Sư đoàn bộ binh 19 (Romania) đã đánh bật các sư đoàn bộ binh 271 và 320 (Liên Xô) khỏi Kyet, đẩy lùi họ về ga Tulumchak.
Các trận đánh trong tháng 3, tháng 4 năm 1942.
Nhằm giúp Phương diện quân Krym ổn định lại phòng thủ để tiếp tục tấn công, ngày 20 tháng 1 năm 1942, STAVKA cử Chính ủy Tập đoàn quân bậc nhất (tương đương thượng tướng) L. D. Mekhlis đến phương diện quân này với tư cách là đại diện toàn quyền của Đại bản doanh. Vừa đến mặt trận, L. D. Mekhlis đã đặt vấn đề "trừng phạt" trước khi bàn đến kế hoạch phòng thủ và tấn công. Ngày 21 tháng 1, ông ta ra lệnh bắt giam tướng I. F. Dashichev và đưa ra tòa án binh về tội để mất hải cảng Feodosya. I. F. Dashichev bị xử 4 năm tù và bị tước quân hàm cùng tất cả các huân huy chương. Thiếu tướng K. F. Baronov, tư lệnh Tập đoàn quân 47 bị thương nặng trong chiến đấu cũng bị L. D. Mekhlis giáng chức làm Phó tư lệnh tập đoàn quân 51. Tướng A. N. Pervushin tạm thời chưa bị "thanh trừng" vì đang nằm viện. Đại tá tham mưu trưởng S. E. Rozhdestvensky thay ông chỉ huy Tập đoàn quân 44. Để tăng cường cho Phương diện quân Krym, từ ngày 1 đến ngày 15 tháng 2, STAVKA cho đổ bộ Tập đoàn quân 47 của tướng K. S. Kolganov vừa rút từ biên giới Liên Xô-Thổ Nhĩ Kỳ về. Nó bao gồm 6 sư đoàn bộ binh, Lữ đoàn xe tăng hạng nhẹ 54 và 2 trung đoàn pháo binh.
Trong khi các cấp chỉ huy của Bộ tư lệnh Phương diện quân Krym và chỉ huy các tập đoàn quân, quân đoàn, sư đoàn tiến hành "kiểm điểm" thì quân Đức vẫn tiếp tục các chiến dịch quân sự để dần dần loại trừ mối đe dọa từ hướng Kerch. Mặc dù Tổng hành dinh quân đội Đức Quốc xã thúc ép dữ dội nhưng Erich von Manstein cho rằng chưa thể hành động quyết liệt ngay mà cần làm suy yếu dần dần Phương diện quân Krym của Liên Xô. Sau khi chiếm được Feodosya, quân Đức tích cực phong tỏa đường biển, bầu trời và tiến hành các chiến dịch nhỏ, đánh chiếm từng vị trí của quân đội Liên Xô trên phòng tuyến. Ngày 23 tháng 3, Sư đoàn bộ binh 22 (Đức) và Lữ đoàn kỵ binh 8 (Ronmania) men theo doi đất Arabat tấn công Trung đoàn pháo binh 456 (Liên Xô), đánh bật cuộc phản kích của Lữ đoàn bộ binh 12, chiếm các vị trí có lợi ở phía Bắc mỏ đá Ak Monai.
Vào lúc quân đội Liên Xô trên khắp mặt trận Kerch đang phải đối phó với sức ép ngày càng tăng của quân đội Đức Quốc xã thì tướng L. D. Mekhlis dùng quyền đại diện tối cao của STVKA tại mặt trận để tiến hành các cuộc kiểm điểm về cái gọi là "tình hình tồi tệ, xấu xí do việc không tổ chức và chỉ huy được quân đội của Bộ tư lệnh Phương diện quân Krym gây ra". Tại cuộc họp Hội đồng quân sự Phương diện quân ngày 28 tháng 2, tướng F. I. Tolbukhin, tham mưu trưởng phương diện quân cho rằng vị đại diện Đại bản doanh đã báo cáo bôi đen tình hình của Phương diện quân và yêu cầu tập trung bàn về các kế hoạch chiến dịch sắp tới. F. I. Tolbukhin cho rằng chưa thể tấn công mà cần phải phòng ngự tích cực vì Phương diện quân bị tiêu hao về người và phương tiện trong các cuộc đổ bộ và các trận đánh ác liệt trong hai tháng vừa qua. Kết quả là ngày 10 tháng 3, L. D. Mekhlis cách chức F. I. Tolbukhin và đưa tướng P. P. Veshnyi (phụ tá của L. D. Mekhlis) lên thay. F. I. Tolbukhin bị điều đi làm Phó chỉ huy khu phòng thủ Stalingrad.
Tướng P. P. Vechnyi "ra mắt" bằng cuộc tấn công vào ngày 13 tháng 3, sử dụng những lực lượng còn tương đối sung sức của Tập đoàn quân 47 đánh qua eo đất Papashky nhằm chiếm lại Kyet. Qua 5 ngày tấn công, Tập đoàn quân 47 bị tổn thất nặng nề và chỉ tiến lên dược từ 7 đến 8 km. Ngày 18 tháng 3, Tập đoàn quân 47 phải dừng tấn công. Ngày 19 tháng 3, Tập đoàn quân 51 bắt đầu tấn công trên hướng Koy Aksan, Tập đoàn quân 44 cũng được lệnh tấn công trên hướng Feodosya trong điều kiện họ bị thiếu hụt quân số nghiêm trọng. Các trận đánh "vỗ mặt" của các Tập đoàn quân Liên Xô diễn ra hết sức ác liệt trước mật độ phòng ngự ngày một tăng lên của Tập đoàn quân 11 (Đức). Ngày 26 tháng 3, Tập đoàn quân 51 phải trả một giá hết sức đắt mới chiếm lại được Koy Aksan. Trong khi đó, các đòn tấn công của Tập đoàn quân 44 quá yếu ớt đến mức nó chỉ tiến được thêm 800 mét đến 1 km sau 12 ngày tấn công. Trong các trận đánh từ 13 đến 29 tháng 3, Phương diện quân Krym bị tổn thất rất nặng về xe tăng và xe thiết giáp. Lữ đoàn thiết giáp lội nước 56 mất 88 chiếc, Lữ đoàn xe tăng 55 mất 8 chiếc, Lữ đoàn xe tăng 39 mất 23 chiếc, Lữ đoàn xe tăng 40 mất 18 chiếc, Trung đoàn xe tăng 24 mất 17 chiếc, Tiểu đoàn xe tăng độc lập 229 mất 3 chiếc.
Trong tháng 2 và tháng 3 năm 1942, Tổng hành dinh Đức Quốc xã đã tăng viện cho Tập đoàn quân 11 (Đức) Sư đoàn bộ binh 28 và Sư đoàn xe tăng 22 đều từ Pháp sang, gồm 45 chiếc Panzer II, 77 chiếc Panzer 38(t) và 20 chiếc Panzer IV. Ion Antonescu, thủ tướng Romania cũng gửi cho Thống chế Erich von Manstein Quân đoàn bộ binh 7 từ quân đội của ông ta. Không còn cách nào khác, STAVKA phải tiếp tục tăng viện dù là ít ỏi cho Phương diện quân Krym để cân bằng lực lượng. Tổng cộng đã có thêm 54 xe tăng (trong đó có 13 xe tăng hạng nhẹ T-26) được bổ sung cho các lữ đoàn xe tăng 39, 40, 56, Trung đoàn xe tăng 24 và Tiểu đoàn xe tăng độc lập 229.
Xét thấy không đủ lực lượng để tiếp tục tấn công, ngày 6 tháng 4, tướng D. T. Kozlov yêu cầu được chuyển sang phòng ngự và bố trí lại quân theo tình huống phòng ngự. Tuy nhiên, L. D. Mekhlis cho rằng D. T. Kozlov đã thoái chí và đề nghị I. S. Stalin cho thay Tư lệnh Phương diện quân bằng một người khác. Dùng quyền lực của dại diện Đại bản doanh, L. D. Mekhlis yêu cầu D. T. Kozlov tiếp tục tấn công. Ngày 15 tháng 4, một mệnh lệnh của STAVKA được gửi đến Bộ Tư lệnh Phương diện quân Krym yêu cầu chuyển sang tư thế phòng ngự và định thời hạn cho mọi việc phải hoàn tất trước ngày 30 tháng 4. Ngày 17 tháng 4, một hội nghị quân sự của các tướng lĩnh Phương diện quân Krym được tổ chức để triển khai chỉ lệnh của STAVKA và như thường lệ ở Krym đầu năm 1942, hội nghị này biến thành cuộc cãi vã vô bổ giữa L. D. Mekhlis và D. T. Kozlov về cái gọi là "nhiệm vụ tăng cường chống lại các phần tử mất tinh thần tiến công trong quân đội".
Trong khi đó thì thời gian không trôi đi một cách vô ích. Thống chế Erich von Manstein sau khi nắm trong tay các lực lượng tăng viện đã chuẩn bị cho một đòn quyết định. Ngày 28 tháng 4, Adolf Hitler đã phê chuẩn kế hoạch phản công của Tập đoàn quân 11 mang mật danh "Săn đại bàng" và cho phép Erich von Manstein được toàn quyền điều hành lực lượng hải quân Đức ở Biển Đen cũng như yêu cầu tướng Alexander Löhr yểm trợ bằng không quân bất kỳ lúc nào thấy cần thiết.
Chiến dịch "Săn đại bàng".
Trong khi ở Phương diện quân Krym (Liên Xô) diễn ra những cuộc tranh cãi về các vấn đề vụn vặt giữa L. D. Mekhlis và D. T. Kozlov về chiến thuật bố trí phòng ngự chuyển sang phản công thì trinh sát của Tập đoàn quân 11 (Đức) đã tìm ra một chỗ yếu chí tử của Phương diện quân này. Đó là tuyến phòng ngự của Tập đoàn quân 44 (Liên Xô) ở khu vực ven biển phía Nam bán đảo Kerch. Ngoài ra, toàn bộ 10 sư đoàn bộ binh của Phương diện quân Krym đều dàn hàng ngang theo đội hình tấn công trên tổng chính diện 27 km. Chiều sâu phòng ngự rất nông, chỉ có 2 sư đoàn bộ binh và 6 lữ đoàn, tiểu đoàn độc lập đều đóng cách tiền duyên từ 3 đến 10 km. Tuyến Lũy Thổ Nhĩ Kỳ dài gần 50 km, một vị trí rất đắc địa trong phòng thủ chỉ có 1 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn cơ giới và 1 tiểu đoàn kỵ binh đóng giữ.
Bộ tham mưu Tập đoàn quân 11 (Đức) đã bố trí lại lực lượng. Quân đoàn bộ binh 30 và Sư đoàn xe tăng 22 vốn được coi là lực lượng dự bị ở thê đội 2 đã được điều đến phía Bắc Feodosya. Sư đoàn bộ binh nhẹ 28 và sư đoàn 170 cũng được chuyển từ cánh trái (khu vực Kyet) sang cánh phải nhằm tăng mật độ tấn công của Quân đoàn 30. Quân đoàn bộ binh 7 (Romania) được thế vào vị trí của Sư đoàn bộ binh 28. Đến ngày 6 tháng 5, trên chiến tuyến đã có 5 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn xe tăng và 1 lữ đoàn cơ giới (Đức), 3 sư đoàn và 1 lữ đoàn Romania. Trong đó, hướng ven biển phía Nam bán đảo Kerch tập trung 5 sư đoàn bộ binh và toàn bộ lực lượng xe tăng, cơ giới Đức có mặt tại hướng Kerch. Đối diện với lực lượng này, Phương diện quân Krym vẫn chiếm ưu thế về người (2:1), pháo binh (1,8:1), xe tăng (1,2:1). Quân Đức chiếm ưu thế trên không với tỷ lệ 1,7:1.
Ngày 8 tháng 5, Sư đoàn xe tăng 22 (Đức) dẫn đầu cuộc đột kích vào kẽ hở giữa Sư đoàn bộ binh 279 và Lữ đoàn bộ binh 63 (nguyên là Lữ đoàn xe tăng 63) ở phía Bắc Daln Kamyshi (Prymorskyi). Ngay trong buổi sáng ngày đầu tấn công, quân Đức đã chọc thủng phòng tuyến của quân đội Liên Xô sâu đến 8 km, đánh chiếm Daln Kamyshi ở phía Nam và Akma Yli (Batalne) ở phía Bắc. Trung đoàn pháo binh 53 (thuộc lực lượng tăng cường) đóng ở Uzun Ayak bị mất toàn bộ số pháo và phải lùi về Seitdzheut (Yuzhne). Các sư đoàn bộ binh 279, 396 (Liên Xô) bị dồn lên phía Bắc. Sư đoàn bộ binh 404 được điều ra bịt cửa mở trên hướng Seitdzheut. Chiều ngày 8 tháng 5, tướng D. T. Kozlov điều các lữ đoàn xe tăng 39 và các tiểu đoàn xe tăng độc lập 124, 126 tiến ra phản kích. Song, các đơn vị xe tăng này hoạt động không tập trung nên Sư đoàn xe tăng 22 và Lữ đoàn cơ giới "Großdeutschland" (Đức) dễ dàng bẻ gãy từng mũi phản kích. Riêng tiểu đoàn xe tăng 126 đã lao vào cuộc tử chiến và đánh lùi Sư đoàn bộ binh 132 nhưng cũng bị mất toàn bộ xe tăng. Ngày 9 tháng 5, các sư đoàn bộ binh 28 và 132 (Đức) có Lữ đoàn cơ giới "Großdeutschland" mở đường đã đánh lui sức kháng cự của Sư đoàn bộ binh 404 (Liên Xô) và tiếp tục khoét sâu "lỗ thủng" ở phía Nam bán đảo Kerch thêm 20 km về phía Tây. Sư đoàn xe tăng 22 (Đức) quay mũi lên phía Bắc, Sư đoàn bộ binh 50 tấn công lên ga Ak Monai.
Từ ngày 9 đến ngày 10 tháng 5, tướng D. T. Kozlov điều các lữ đoàn xe tăng 40, 56 và Tiểu đoàn xe tăng 229 đã suy yếu cố gắng chặn đường tiến lên phía Bắc của Sư đoàn xe tăng 22 (Đức). Trong các trận đánh ngày 9 tháng 5 tại điểm cao Syuruk Oba, Tiểu đoàn xe tăng 229 chỉ có 16 xe tăng KV đã bắn cháy 28 xe tăng Đức và chịu mất 13 chiếc KV. Nhưng không phải đơn vị xe tăng nào của Phương diện quân Krym cũng làm được như vậy. Lữ đoàn xe tăng 40 có đến 11 xe tăng KV, 6 xe tăng T-34, 25 xe tăng hạng nhẹ T60 mặc dù chiến đấu bên cạnh Trung đoàn pháo binh 77 (Tập đoàn quân 51) nhưng đã không hề có sự phối hợp hiệp đồng và đã thất bại nặng nề trước Trung đoàn xe tăng 204 (Sư đoàn xe tăng 22 - Đức). Tại điểm cao Kosh Oba, Sư đoàn bộ binh 138 (Liên Xô) cũng bị các sư đoàn bộ binh 28, 50 (Đức) bao vây và đánh thiệt hại nặng. Mất hai điểm cao quan trọng ở Syuruk Oba và Kosh Oba, cánh Bắc của Phương diện quân Krym có nguy cơ bị hợp vây. Ngày 11 tháng 5, thêm một thiệt hại lớn đến với Quân đội Liên Xô. Trong trận ném bom dữ dội của không quân Đức vào Sở chỉ huy Tập đoàn quân 51 trên núi Koncha, tướng V. N. Lvov, tư lệnh Tập đoàn quân đã tử trận. Đại tá I. D. Kotov, tham mưu trưởng Tập đoàn quân 51 tạm thời thay ông.
Qua báo cáo của Tư lệnh Phương diện quân Krym D. T Kozlov, Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô đã sớm nhận thấy ý đồ dùng đòn vu hồi từ hướng Biển Đen để hợp vây các tập đoàn quân 47 và 51 (Liên Xô) ở phía bắc bán đảo Kerch trong khu vực Ak Monai - Astaban và báo cáo khẩn cấp lên I. V. Stalin. Ngày 9 tháng 5, Tổng tham mưu trưởng G. K. Zhukov thay mặt Đại bản doanh đã ký điện khẩn số 170514 gửi Bộ tư lệnh Phương diện quân Krym yêu cầu rút quân ngay về tuyến Lũy Thổ Nhĩ Kỳ để tổ chức phòng thủ nhưng L. D. Mekhlis phớt lờ lệnh này và yêu cầu tướng D. T. Kozlov buộc các tập đoàn quân phải "giữ vững trận địa đang chiếm lĩnh".
Quân Đức cố ý giữ cho mặt trận đối diện với Tập đoàn quân 47 của tướng K. S. Kolganov yên tĩnh trong ba ngày để chờ đợi cánh quân của Sư đoàn xe tăng 22 cắt đứt con đường sắt Vladislavovka - Kerch. Ngày 11 tháng 5, khi Sư đoàn xe tăng 22 (Đức) đã băm nát hậu cứ của Tập đoàn quân 51 (Liên Xô) tại khu vực Ak Monai và bắt đầu đột kích lên phía Bắc thì Sư đoàn bộ binh 46 (Đức) và Quân đoàn bộ binh 7 (Romania) mới phát động tấn công. Trước nguy cơ bị bao vây, tướng K. S. Kolganov buộc phải rút quân về phía Tây. Trên cánh Nam, các sư đoàn bộ binh 132 và 170 (Đức) đã dồn Tập đoàn quân 44 (Liên Xô) lúc này đã rất suy yếu về tuyến Lũy Thổ Nhĩ Kỳ. Đến lúc này, tướng D. T. Kozlov mới nghĩ đến việc thiết lập tuyến phòng thủ tại Lũy Thổ Nhĩ Kỳ nhưng quân Đức đã đi trước một bước. Ngày 12 tháng 5, Sư đoàn xe tăng 22 và Quân đoàn bộ binh 42 (Đức) đổi hướng về phía Đông, tiến dọc đường sắt, đánh chiếm Agibel (Luhove) và tiến rất nhanh về Leninske. Sư đoàn bộ binh 390 và Tiểu đoàn kỵ binh 72 phải yểm hộ Bộ tư lệnh Phương diện quân Krym rút về Kerch. Liên lạc giữa D. T. Kozlov và các tập đoàn quân hoàn toàn bị gián đoạn. Ở phía Nam, Quân đoàn 30 có Lữ đoàn cơ giới "Großdeutschland" mở đường tiếp tục đẩy lùi Tập đoàn quân 44, đánh chiến Chaltemir và lao đến Lũy Thổ Nhĩ Kỳ. Ở cánh Bắc, Tập đoàn quân 47 (Liên Xô) vừa đánh, vừa lùi dần về Kiyat rồi Sem Kolodezey trong khi bị liên quân Đức-Romania liên tục dồn ép và tập kích.
Ngày 12 tháng 5, các sư đoàn bộ binh 143, 156 và 396 cùng các tiểu đoàn xe tăng 124, 126 cố giữ tuyến Lũy Thổ Nhĩ Kỳ để 7 sư đoàn bộ binh còn lại của các tập đoàn quân 47 và 51 rút qua. Ngày 13 tháng 5, 6 sư đoàn Đức và 2 sư đoàn Romania đã phá vỡ tuyến phòng thủ mỏng yếu của quân đội Liên Xô trên tuyến Lũy Thổ Nhĩ Kỳ và bắt đầu dồn các sư đoàn còn lại của Phương diện quân Krym về Mỏm Kerch. Hạm đội Biển Đen được báo động khẩn cấp, hàng trăm tàu bè được gửi đến Kerch để hỗ trợ cho cuộc rút quân. Từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 5, Hạm đội Biển Đen đã thực hiện hàng trăm chuyến vận tải từ cảng Kerch và mũi Yenikale, chuyên chở hơn 130.000 sĩ quan và binh sĩ còn lại của Phương diện quân Krym thoát sang bán đảo Taman.
Ngày 20 tháng 5, những toán quân cuối cùng của Phương diện quân Krym đã lên tàu của Hạm đội Biển Đen tại mũi Yenikale và sơ tán sang Taman trong làn đạn bắn đuổi theo của pháo binh Đức. Tuy nhiên không phải tất cả quân số còn lại của Phương diện quân Krym đều đi thoát. Vẫn còn lại từ 10.000 đến 15.000 quân Liên Xô thuộc các sư đoàn bộ binh, các trung đoàn, tiểu đoàn pháo binh, kỵ binh cùng gần nửa quân số của Trung đoàn 276 NKVD, những người lãnh trách nhiệm cản hậu cho đại quân rút lui đã bị kẹt lại tại khu mỏ đá Adzhimushkay. Tại đây, họ đã tiếp tục chiến đấu đến người cuối cùng và chỉ chịu chấm dứt kháng cự ngày 30 tháng 10 năm 1942 khi không còn một viên đạn.
Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng.
Kết quả.
Theo Grigori Krivosheev, thiệt hại của quân đội Liên Xô lên đến 161.890 người chết, mất tích và bị bắt, 75.747 người bị thương; trong đó, có 32.453 người chết, mất tích và 9.482 người bị thương trong các cuộc đổ bộ từ ngày 28 tháng 12 năm 1941 đến ngày 2 tháng 1 năm 1942. Người Đức tuyên bố trong chiến dịch này, họ tiêu diệt, bắt sống và làm bị thương 170.000 quân Liên Xô nhưng con số này còn bao gồm cả các thường dân mà quân Đức gọi là các phần tử du kích. Theo Robert Forcyzk, Quân đội Liên Xô mất 162.282 người chết, bị bắt, mất tích và bị thương; 116.045 người đã rút sang Taman và các căn cứ hải quân khác bằng đường biển.
Theo các báo cáo lưu trữ quốc gia Đức, từ tháng 12 năm 1941 đến tháng 5 năm 1942, Quân đội Đức Quốc xã tại Krym tổn thất 10.934 người chết và mất tích, 31.511 người bị thương; quân Romania có 6.736 người chết và mất tích, 8.213 người bị thương (bao gồm cả chiến dịch tảo thanh Adzhimushkay); không rõ quân số bị bắt làm tù binh. Tướng Franz Halder, Tổng tham mưu trưởng quân đội Đức Quốc xã cho biết sau chiến dịch này, Tập đoàn quân 11 (Đức) đã phải xin tăng viện 60.000 quân nhưng chỉ được đáp ứng 30.000 quân.
Tập đoàn quân 11 (Đức) chiếm lại toàn bộ bán đảo Kerch.
Đánh giá.
Quân đội Liên Xô.
Điểm mạnh
Chiến dịch đổ bộ lên bán đảo Kerch là một hành động quân sự được chuẩn bị khá chu đáo với những mục tiêu có tính chiến lược cũng như có tính khả thi cao. Chỉ trong một tuần, Phương diện quân Krym (Liên Xô) đã làm chủ bán đảo Kerch và cùng với Cụm tác chiến ven biển ở Sevastopol tạo thế phân tán Tập đoàn quân 11 (Đức), buộc tập đoàn quân này phải giao chiến trên hai hướng ngược chiều nhau. Chiến dịch đổ bộ và đánh chiếm bán đảo Kerch đã làm thất bại mục tiêu nhanh chóng đánh chiến quân cảng quan trọng Sevastopol của quân đội Đức Quốc xã, qua đó làm thấy bại ý đồ đánh nhanh thắng nhanh của họ, buộc quân đội Đức Quốc xã phải lâm vào một cuộc chiến giằng co, tốn kém.
Sự phối hợp giữa Phương diện quân Krym với Hạm đội Biển Đen và Phân hạm đội Azov tương đối ăn khớp trong giai đoạn đầu của chiến dịch. Các tàu chiến và tàu vận tải được huy động đầy đủ, bảo vệ khá chu đáo và được không quân của Phương diện quân Krym và Không quân của hạm đội yểm hộ tích cực. Trừ ba tàu vận tải nhỏ dưới 2.000 tấn bị đánh đắm trên đường hành quân, các tàu vận tải đều cập cảng và đổ quân theo đúng kế hoạch. Những hành động quyết liệt và mau lẹ trong quá trình đổ bộ đã làm cho chiến dịch phát triển thuận lợi và quân đội Liên Xô chiếm được bán đảo Kerch một cách nhanh chóng, bất chấp những khó khăn về thời tiết thất thường trên Biển Đen vào mùa Đông.
Điểm yếu
Nhược điểm lớn nhất dẫn đến cuộc bại trận thảm họa vào cuối chiến dịch phải kể đến vai trò của Chính ủy tập đoàn quân bậc 1 L. D. Mekhlis, Thứ trưởng Bộ dân ủy quốc phòng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Hồng quân, Đại diện của Đại bản doanh tại Phương diện quân Krym. Phương pháp chỉ huy của ông này đã được đánh giá tại Hội nghị quân sự cấp cao tháng 5 năm 1942 của Đại bản doanh Liên Xô là quan liêu, giấy tờ, hình thức chủ nghĩa, kiêu ngạo và bất tuân thượng lệnh. Khi đánh giá Tư lệnh phương diện quân D. T. Kozlov thì L. D. Mekhlis không tiếc lời chê bai ông này là con người "tẻ nhạt", "lười thâm nhập thực tế", "không quan tâm đến hoạt động quân sự", "thường truy vấn quân nhân để trừng phạt", "tự cho mình có thẩm quyền quyết định mọi chuyện" và hơn nữa là "một kẻ nói dối nguy hiểm" và yêu cầu I. V. Stalin thay người khác làm tư lệnh. Những động thái đó của L. D. Mekhlis đã có tác hại to lớn đến việc chỉ huy quân đội khi hai vị đứng đầu Phương diện quân Krym tập trung để đánh nhau nhiều hơn là đánh địch.
Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô đã vạch rõ sai lầm của các chỉ huy cao nhất của Phương diện quân: L. D. Mekhlis và D. T. Kozlov là họ đã hai lần chậm trễ. Lần thứ nhất, họ đã không chấp hành mệnh lệnh tổ chức tấn công đấu tháng 3 năm 1942, để cho quân Đức có thêm thời gian hồi sức, nhận tiếp viện và phản công trước. Lần thứ hai là khi quân Đức phản công và đe dọa bao vây các Tập đoàn quân 47 và 51, họ đã chậm trễ mất hai ngày, không ra lệnh rút quân. Đến khi phải rút quân thì đã không còn nắm được các đơn vị. Cuộc rút quân diễn ra hỗn loạn, vô tổ chức khiến quân đội bị thiệt hại nặng nề. Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô cũng chỉ ra sự thụ động của hai vị tư lệnh này khi trinh sát của Phương diện quân Krym và mạng lưới tình báo quân sự Liên Xô ở Krym đã nắm được kế hoạch tấn công và thông báo cả ngày giờ quân Đức tấn công nhưng cả hai vị chỉ huy Phương diện quân đều không áp dụng các biện pháp thích đáng để đối phó.
Bộ Tổng tham mưu Liên Xô cũng nghiêm khắc chỉ ra sự thiếu hiểu biết về bản chất chiến tranh hiện đại của L. D. Mekhlis, D. T. Kozlov và các tư lệnh tập đoàn quân khi họ rải quân làm một tuyến, bất chấp địa hình trống trải; không bố trí phòng ngự theo chiều sâu, không bố trí thê đội hai và thê đội ba đủ mạnh ở các tuyến phòng thủ phía trong. Các tư lệnh Phương diện quân, tập đoàn quân bố trí sở chỉ huy quá lộ liễu, không ngụy trang kín đáo, không có phương án dự phòng cho sở chỉ huy dự bị nên khi bị không quân Đức oanh tạc, phá hủy các tuyến thông tin thì không còn chỉ huy được các đơn vị dưới quyền. Mặc dù được trang bị các máy liên lạc vô tuyến điện nhưng Bộ Tư lệnh Phương diện quân đã không sử dụng nó để thay thế phương tiện liên lạc hữu tuyến đã bị hỏng.
Riêng sai lầm của L. D. Mekhlis còn trầm trọng hơn khi ông này, trong một bức điện dài dòng gửi I. V. Stalin đã có ý đổ mọi tội lỗi cho tư lệnh Phương diện quân D. T. Kozlov và các tư lệnh Tập đoàn quân. Tuy nhiên, thái độ trốn tránh trách nhiệm của L. D. Mekhlis đã không thể qua mắt Tổng tư lệnh tối cao. I. V. Stalin đã trả lời ông ta rằng đó là một thái độ tuy tiện lợi nhưng hết sức thối tha, vô trách nhiệm. Trả lời cho việc đòi hỏi thay thế D. T. Kozlov, I. V. Stalin mỉa mai:
Kết luận tại phiên họp cuối cùng của Hội nghị quân sự Hồng quân tháng 5 năm 1942 được thể hiện trong Chỉ thị số 155-452 của Đại bản doanh quân đội Liên Xô, nhan đề "Về những nguyên nhân thất bại của Phương diện quân Krym trong chiến dịch Kerch" cũng vạch rõ một sai lầm khác của L. D. Mekhlis và D. T. Kozlov:
Ngoài ra, Bộ tư lệnh Phương diện quân Krym đã không có biện pháp nào để tăng cường cho Tập đoàn quân 44 mặc dù họ thừa biết rằng nó đã suy yếu rất nhiều qua mấy trận đánh giành giật cảng Feodosya với cánh trái của Tập đoàn quân 11 (Đức). Tất cả những nguyên nhân yếu kém về chỉ đạo tác chiến đã làm cho Phương diện quân Krym vốn chiếm ưu thế so với Tập đoàn quân 11 (Đức) đã bại trận và làm nên thảm họa thứ hai của quân đội Liên Xô trên mặt trận Xô-Đức nửa đầu năm 1942.
Quân đội Đức Quốc xã.
Điểm mạnh
Tập đoàn quân 11 (Đức) tuy không chiếm ưu thế về quân số và phương tiện nhưng đã biết khai thác những chỗ yếu của Phương diện quân Krym để tiến hành thành công chiến dịch "Săn đại bàng", chiếm lại bán đảo Kerch. Khi bị quân đội Liên Xô đột kích đánh chiếm bán đảo, nếu Tập đoàn quân 11 tập trung sang phía Đông để phản kích quyết liệt ngay thì họ sẽ rơi vào "cái bẫy" khi để hở hướng Perekop. Cụm quân ven biển (Liên Xô) từ Sevastopol có thể phản kích lên phía Bắc, phối hợp với Tập đoàn quân 47 (Liên Xô) cùng tiến lên Perekop, đánh vào sau lưng các quân đoàn Đức đã dồn sang phía Đông và khóa chặt "cầu tàu" Perekop. Trong quá trình chiến dịch, khi phát hiện toán quân đổ bộ đường không Liên Xô nhảy dù xuống khu vực phía Bắc Ak Monai, Erich von Manstein đã phát hiện ra hướng tiến quân thứ hai đến Perekop của Phương diện quân Krym và đã điều đến đây các sư đoàn Romania rút ra từ phía Nam Sevastopol để loại trừ nguy cơ này.
Erich von Manstein cũng chờ đợi cho đến khi có đủ quân tăng cường mạnh đến tiếp viện mới tổ chức phản công. Cho dù thời gian bị chậm trễ so với yêu cầu nhưng đó là cách đảm bảo cho Tập đoàn quân 11 (Đức) không bị sa vào các trận đánh có tính địa phương mà chỉ cần giữ vững tuyến mặt trận từ Koktebel đến Kyet đến khi có đủ lực lượng để phản công. Riêng việc sớm chiếm lại cảng Feodosya là một quyết định đúng đắn của Erich von Manstein. Mất bến cảng này, quân đội Liên Xô phải sử dụng cảng Kerch tuy thuận lợi về cự ly nhưng lại là cảng nông, khó tiếp nhận các tàu vận tải lớn. Cùng với việc sớm chiếm lại cảng Feodosya, không quân Đức đã tăng cường oanh tạc các tuyến đường sắt và đường bộ từ Kerch sang phía Đông, gây nhiều khó khăn cho hoạt động tiếp tế, hậu cần của quân đội Liên Xô. Tuy có lực lượng tàu nổi yếu hơn nhưng không quân và tàu ngầm Đức đã gần như làm thay hải quân hạm tàu trong nhiệm vụ phong tỏa đường biển, gây nhiều thiệt hại cho Hạm đội Biển Đen (Liên Xô).
Cuối cùng, Erich von Manstein qua các hoạt động quân báo và nhận định của bản thân, đã phát hiện ra cánh trái bị yếu của Phương diện quân Krym trong những cố gắng dồn quân cho cánh phải của họ để tiến ra Perekop theo kế hoạch tác chiến. Sư đoàn xe tăng 22 và Sư đoàn bộ binh 28 được tăng viện từ Pháp và sư đoàn 170 được rút từ cánh Bắc xuống phía Nam đã tạo nên ưu thế vượt trội của Tập đoàn quân 11 (Đức) trên địa đoạn Đông Bắc Feodosya, giúp cho cuộc đột kích diễn ra thuận lợi và nhanh chóng uy hiếp toàn bộ chủ lực Phương diện quân Krym (Liên Xô) đang bố trí áp sát phòng tuyến, đẩy các Tập đoàn quân 47, 51 (Liên Xô) vào nguy cơ bị bao vây và buộc họ phải rút lui. Đòn đột kích mạnh bằng xe tăng và cơ giới của Tập đoàn quân 11 (Đức) vào chỗ hiểm yếu nhất của Phương diện quân Krym đã đẩy Phương diện quân này sớm rơi vào tình trạng vỡ trận.
Điểm yếu
Trong giai đoạn đầu của chiến dịch, Tập đoàn quân 11 (Đức) hoàn toàn bị bất ngờ trước cuộc đổ bộ mau lẹ và nhanh chóng phát huy sức mạnh ra khắp bán đảo Kerch của quân đội Liên Xô. Bất ngờ lớn hơn cho quân đội Đức Quốc xã là đã để mất cảng Feodosya quá nhanh chóng khi họ chỉ bố trí tại đây những đội cảnh binh và kỵ binh Romania mỏng yếu. Chiếm được hải cảng này, Tập đoàn quân 44 nhanh chóng đổ thêm quân tấn công lên phía Bắc, cắt đôi mặt trận Krym của Tập đoàn quân 11 và cô lập Quân đoàn bộ binh 42 (Đức) ở phía Đông Kerch. Nếu không có sự chậm trễ trong việc tổ chức đổ bộ của Tập đoàn quân 47 (Liên Xô) thì Quân đoàn 42 (Đức) có thể đã bị bao vây và tiêu diệt tại Kerch.
Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) tỏ ra không coi trọng mặt trận Krym so với các mặt trận khác. Họ nghĩ đơn giản rằng đây chỉ là một địa bàn có ảnh hưởng ở Biển Đen về phương diện hải quân và là một "ngõ cụt quân sự" đối với lục quân. Vì vậy, đến cuối giai đoạn 2 của chiến dịch "Săn đại bàng", Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đã kiên quyết yêu cầu Erich von Manstein phải "trả lại" Sư đoàn xe tăng 22 cho Tập đoàn quân xe tăng 1, khiến cho Tập đoàn quân 11 không đủ lực lượng đột kích để nhanh chóng đánh chiếm cảng Kerch, bao vây và tiêu diệt Phương diện quân Krym (Liên Xô). Trong khi đó, đây lại là một hướng tiến công thứ hai rất lợi hại đánh vào sau lưng các tập đoàn quân Liên Xô đang phòng thủ trên hướng Volga - Don. Mãi đến nửa cuối năm 1942, Tập đoàn quân 17 (Đức) mới thực hiện được ý đồ này.
Ảnh hưởng.
Về quân sự
Cùng với thất bại ở Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya, thất bại ở Kerch là một trong hai thất bại nặng nề nhất của quân đội Liên Xô đầu mùa hè năm 1942. Nếu như thất bại của Phương diện quân Tây Nam là sự khởi đầu cho những đòn tổng tấn công mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam mặt trận Xô-Đức thì thất bại của Phương diện quân Krym đã đưa đến hậu quả ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của Hạm đội Biển Đen và đẩy Cụm tác chiến ven biển (Liên Xô) đang phòng thủ Sevastopol vào thế bị bao vây đơn độc, không còn sự hỗ trợ trên bộ. Sau khi làm chủ bán đảo Kerch, Tập đoàn quân 11 (Đức) đã dồn toàn lực về Sevastopol và đánh chiếm thành phố cảng này 2 tháng sau đó.
Sau khi đánh chiếm Kerch và Sevastopol. Tập đoàn quân 11 (Đức) không còn đủ lực lượng tiếp tục tấn công sang Taman để tiến vào Kavkaz mà phải ở lại Krym. Thay thế nó trong nhiệm vụ tiếp theo là Tập đoàn quân 17 thuộc Cụm tập đoàn quân A. Đến ngày 5 tháng 8, Tập đoàn quân này được đưa về lực lượng dự bị của OKH và "nằm" lại tại đó đến đầu năm 1945 mới được tái lập. Mặc dù không thể sử dụng Tập đoàn quân 11 (Đức) trên các hướng khác ở Mặt trận phía Đông nhưng đến ngày 21 tháng 11 năm 1942, bộ khung của nó được sử dụng để thành lập Cụm tập đoàn quân sông Đông trong những nỗ lực để giải vây cho Tập đoàn quân 6 (Đức) ở Stalingrad. Tướng Erich von Manstein được phong hàm thống chế và được điều đến Cụm tập đoàn quân Bắc trong vai trò phó chỉ huy cho thống chế Georg von Küchler cho đến khi được Hitler gọi về để giao chức vụ Tư lệnh Tập đoàn quân Sông Đông.
Sau chiến dịch thất bại, L. D. Mekhlis bị kỷ luật giáng hai cấp bậc hàm xuống Chính ủy Quân đoàn bậc 1 (tương đương thiếu tướng), bị cách chức Thứ trưởng Bộ dân ủy quốc phòng, cách chức Chủ nhiệm Tổng cục chính trị của Hồng quân, bị đưa ra khỏi Đại bản doanh và điều đi làm Ủy viên hội đồng quân sự Tập đoàn quân 6. Tướng D. T. Kozlov bị cách chức Tư lệnh phương diện quân và sau 4 tháng hầu tra, ông được điều đi làm tư lệnh Tập đoàn quân 24. Thiếu tướng S. I. Chernyak bị giáng cấp hàm xuống đại tá và điều về Bộ Tổng tham mưu để "sử dụng vào những công việc ít phức tạp". Thiếu tướng K. S. Kolganov cũng bị giáng cấp hàm xuống Đại tá và được điều đi làm Phó trưởng phòng tác chiến Phương diện quân Bryansk.
Phương diện quân Krym bị giải thể và không còn được tái lập. Ngày 20 tháng 5 năm 1942, trên cơ sở các đơn vị còn quân số còn lại, kết hợp với một số sư đoàn của Bộ chỉ huy quân sự Stavropol và Krasnodar, STAVKA thành lập Phương diện quân Bắc Kavkaz. Nguyên soái S. M. Budionyi được chỉ định làm tư lệnh Phương diện quân.
Thất bại của Phương diện quân Krym còn ảnh hưởng nặng nề đến Phân hạm đội Azov. Sau khi chiếm được Kerch, pháo binh bờ biển của quân đội Đức Quốc xã đã khống chế eo biển Kerch, chia cắt hoạt động phối hợp giữa Hạm đội Biển đen và Phân hạm đội Azov một thời gian dài sau đó.
Về chính trị
Thất bại của Phương diện quân Krym đã làm cho Thổ Nhĩ Kỳ (nước có lịch sử tranh chấp khu vực Biển Đen với Nga hay Liên Xô) tỏ thái độ căng thẳng hơn hơn với Liên Xô. Thổ Nhĩ Kỳ cho phép các tàu chiến Đức (kể cả tàu ngầm) được tự do ra vào Biển Đen qua các eo biển Dardanéllia và Bosporus. Các tàu chở hàng quân sự của Đức được ra vào cảng Istanbul để tiếp liệu. Thổ Nhĩ Kỳ cũng đẩy mạnh xuất khẩu quặng Crom cho Đức. Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ trên biến giới Thổ Nhĩ Kỳ-Armenia, Thổ Nhĩ Kỳ-Gruzia và Thổ Nhĩ Kỳ-Azerbaijan (qua tỉnh Nakhichevan) được nâng cấp sẵn sàng chiến đấu.
Thắng lợi của Tập đoàn quân 11 tại Kerch cũng làm Romania tin tưởng ở Hitler hơn và làm cho quan hệ Đức-Romania khăng khít hơn. Thủ tướng chính phủ Romania thân Đức Ion Antonescu gửi thêm 2 tập đoàn quân và không quân tham chiến bên cạnh Đức Quốc xã và dính líu ngày càng sâu hơn vào các hoạt động quân sự trên Mặt trận Xô-Đức. Tại châu Âu, các thế lực phong kiến Kavkaz chống Xô Viết lưu vong do cựu bá tước Sultan Ghirey và tướng Scuro đứng đầu bắt đầu tính đến chuyện trở lại Kavkaz dưới lá cờ Đức Quốc xã.
Về công trình giao thông quân sự
Sau khi quân Đức chiếm được bán đảo Kerch và toàn bộ Krym; đầu năm 1943, kiến trúc sư Albert Speer, Bộ trưởng Bộ công nghiệp quân sự và vũ khí của Đế chế thứ ba đã đến thăm Krym và mũi Kerch. Tại đây, Albert Speer đưa ra ý tưởng xây dựng một cây cầu nối bán đảo Kerch của Krym với bán đảo Taman từ mũi Yenikale đến doi đất Chushka. Theo giới quân sự Đức đánh giá, cây cầu này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quân Đức chuyển quân sang Bắc Kavkaz nhanh chóng hơn là đi đường vòng qua phía Bắc biển Azov và có ý nghĩa lớn về kinh tế và quân sự nếu quân Đức đánh chiếm được vùng Kavkaz. Tuy nhiên, khi đồ án xây dựng vừa hoàn thành thì quân Đức thua trận ở Bắc Kavkaz và sau đó, Tập đoàn quân 17 (Đức) phải bỏ Krym tháo chạy vào mùa hè năm 1944. Sau đó, cây cầu được Liên Xô xây dựng, hoàn thành tháng 11 năm 1944 sau 6 tháng rưỡi nhưng chỉ tồn tại được ba tháng và bị sụp đổ vì băng trôi. Hiện nay, dự án đang được Nga và Ukraina tái khởi động.
| 1 | null |
Gran Hotel (tên tiếng Pháp: Grand Hôtel) là phim truyền hình Tây Ban Nha, do kênh Antena 3 phát hành. Phim do Bambú Producciones là nhà sản xuất, gồm 25 tập, công chiếu từ 4 tháng 10 năm 2011. Bộ phim chiếu tại Tây Ban Nha vượt qua 3,7 triệu người xem, một tỷ lệ khán giả 20%, giành nhiều giải thưởng, cũng đã công chiếu tại Pháp, Anh, và Nga. Phần hai của loạt phim bắt đầu quay vào tháng 1 năm 2012 và sẽ được phát hành khoảng tháng 9 năm 2012 bao gồm 16 tập. Bộ phim khai thác chủ đề tình cảm, bối cảnh năm 1905.
| 1 | null |
Nhài thuốc hay còn gọi hoa tố phương (danh pháp hai phần: Jasminum officinale) là một loài thực vật có hoa thuộc chi Nhài. Thoe ghi chép trong "The Garden Flowers of China" của tác giả H.L. Li thì loài này đã từng được trồng từ rất lâu ở Trung Á. Vào thế kỷ III trong một số văn bản cổ của Trung Hoa, một số loài trong chi Nhài đã được xác định là "J. officinale" và "J. sambac". Các văn bản tiếng Trung ở thế kỷ IX đã ghi nhận loài Nhài thuốc được đem đến Trung Quốc từ Byzantium. Tên gọi latin trong danh phần thứ hai "-officinale" có nghĩa là dùng làm thuốc.
| 1 | null |
"Đối với các định nghĩa khác, xem" Styx (định hướng)
Styx (tên gọi khác S/2012 (134340) 1 hay P5) là một vệ tinh tự nhiên cỡ nhỏ của Sao Diêm Vương. Nó được tuyên bố là vệ tinh tự nhiên thứ năm của Pluto vào ngày 11 tháng 7 năm 2012-gần 1 năm sau phát hiện vệ tinh tự nhiên thứ 4 S/2011 P 1 (Kerberos) của Sao Diêm Vương.
Vệ tinh được phát hiện nhờ vào bộ 9 bức ảnh chụp trong thời gian từ ngày 26 tháng 6 đến 9 tháng 7 năm 2012 bởi "Wide Field Camera 3" lắp trên Kính thiên văn không gian Hubble. Nghiên cứu khảo sát dẫn đến sự phát hiện ra vệ tinh thứ 5 là nhằm sự chuẩn bị cho sự bay ngang qua của tàu không gian New Horizons, hiện đang trên hành trình đến Sao Diêm Vương. Việc phát hiện ra vệ tinh mới và nhỏ này dẫn đến đề cập cho rằng nhiều vùng của không gian trong hệ hành tinh lùn Pluto có chứa nhiều vật thể rất nhỏ khó phát hiện, dấy lên những mối lo ngại về khả năng con tàu có thể bị va chạm với những vật thể chưa được phát hiện khi đi qua hệ này. Một hệ thống vệ tinh tự nhiên bay quanh Pluto có thể là kết quả của sự va chạm giữa Pluto với những vật thể khác thuộc vành đai Kuiper trong quá khứ.
Vệ tinh thứ 5 này có đường kính ước lượng vào khoảng . Số liệu này được suy ra từ độ sáng biểu kiến của nó và bởi ước lượng suất phản chiếu hình học trong giới hạn từ 0,35 và 0,04.
Chu kỳ quỹ đạo của Styx vào khoảng 20,2 +/- 0,1 ngày, quỹ đạo này lệch khoảng 5,4% so với quỹ đạo cộng hưởng 1:3 với quỹ đạo của vệ tinh Charon. Cùng với các vệ tinh tự nhiên của Sao Diêm Vương khác là Nix, Kerberos và Hydra, vệ tinh thứ 5 tạo thành một dãy gần đúng với quỹ đạo cộng hưởng 1:3:4:5:6.
| 1 | null |
Chính phủ Lâm thời Đại Hàn Dân Quốc () là một chính phủ lâm thời thành lập vào ngày 13 tháng 4 năm 1919 với hiến pháp đã được tuyên bố trước đó vào ngày 11 tháng 4 cùng năm. Phong trào 1 tháng 3 là một động lực đáng kể, thu hút tinh thần dân tộc trong giai đoạn Đế quốc Đại Hàn bị Nhật đô hộ. Cao điểm của phong trào này là chính phủ lâm thời, khai sinh tại Thượng Hải, Trung Hoa Dân Quốc, bắt đầu tổ chức công cuộc kháng Nhật khi Đế quốc Nhật Bản mở cuộc xâm lăng Mãn Châu của Trung Quốc. Phong trào độc lập ngày nay được Hàn Quốc kỷ niệm vào ngày 1 tháng 3 hàng năm và được coi là ngày lễ toàn quốc.
Lịch sử.
Sau cuộc Cách mạng Tân Hợi lật đổ nhà Thanh thì Trung Hoa rơi vào tình trạng bất ổn. Đế quốc Nhật Bản nhân đó muốn thúc đẩy chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phải nhượng bộ để Nhật củng cố thuộc địa ở Viễn Đông. Đế quốc Đại Hàn đã bị thôn tính từ năm 1910 nhưng Nhật còn tham vọng dùng Hàn Quốc làm bàn đạp lấn chiếm sang Mãn Châu.
Trước chính sách đồng hóa và phép cai trị hà khắc của thực dân Nhật, dân tình Hàn Quốc ngày càng chán ghét người Nhật. Giới trí thức thì càng căm phẫn khi người Nhật ra lệnh cấm dạy tiếng Hàn ở các trường học. Ngày 1 tháng 3 năm 1919, dân chúng Hàn Quốc đã tổ chức một cuộc xuống đường biểu tình phản đối các chính sách cai trị của chính phủ Nhật Bản với quy mô trên phạm vi toàn quốc. Nhà chức trách Nhật phản ứng bằng cách trấn áp, khiến hàng nghìn người bị sát hại.
Dù thất bại, phong trào Độc lập mồng 1 tháng Ba đã tạo nên tiếng vang hun đúc tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của người dân Hàn Quốc. Theo gót phong trào này là chính phủ lâm thời Đại Hàn Dân Quốc ra đời tại Thượng Hải để điều hành phong trào kháng Nhật, chống lại bước tiến của Nhật vào Mãn Châu Lý. Trung Quốc, một trong những quốc gia có căng thẳng với Nhật, đã đồng ý cho chính phủ lâm thời Đại Hàn được tồn tại và hai chính phủ đã cộng tác chung với nhau để chống lại Nhật Bản.
Về mặt đối ngoại chính phủ lâm thời Đại Hàn không được các cường quốc đương thời công nhận trừ chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Hoạt động chính của chính phủ lâm thời là điều hợp các lực lượng võ trang chống Nhật suốt hai thập niên 1920 và 1930, trong đó có trận Thanh Sơn Lý vào tháng 10 năm 1920 và cuộc tấn công phái đoàn quân sự Nhật ở Thượng Hải vào tháng 4 năm 1932. Đến năm 1940 thì chính phủ lâm thời cho thành lập Hàn Quốc Quang phục quân - một lực lượng tập hợp gần như tất cả các lực lượng kháng chiến Hàn Quốc lưu vong. Ngày 9 tháng 12 năm 1941 chính phủ lâm thời ra thông cáo tuyên chiến với phe Trục và điều binh chặn đánh quân Nhật ở Trung Hoa và Đông Nam Á. Hàn Quốc Quang Quang Phục Quân còn mở đường dây hợp tác với Cơ quan Tình báo chiến lược (OSS) của Hoa Kỳ nhưng các kế hoạch của họ chưa cần thực hiện thì Đế quốc Nhật Bản đã tuyên bố đầu hàng Đồng Minh vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Nhà nước Đại Hàn sau đó bị Hoa Kỳ và Liên Xô chiếm đóng, chính phủ lâm thời Đại Hàn Dân Quốc ngưng hoạt động, đồng thời nhường chỗ cho hai chính thể mới là Đại Hàn Dân Quốc ở miền Nam theo chủ nghĩa tư bản và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở miền Bắc theo chủ nghĩa cộng sản.
Trụ sở hoạt động của chính phủ lâm thời tại Thượng Hải và Trùng Khánh nay được lưu giữ tại viện bảo tàng.
Trong Thế chiến II.
Chính phủ lâm thời Hàn Quốc đã đóng vai trò không nhiều, song thiết thực trong cuộc chiến chống lại Nhật Bản. Khi Đế quốc Nhật đem quân xâm lược Trung Quốc toàn diện, làm nổ ra cuộc chiến tranh Trung-Nhật, người dân Hàn Quốc đã cùng nhau đứng về phía Trung Hoa Dân Quốc.
Do có hàng triệu người Hàn Quốc bị sát hại hoặc bắt ép làm nô lệ tình dục cho binh lính Nhật, rất nhiều người Hàn Quốc đã bắt liên lạc với chính phủ lâm thời và rất nhiều trong số đó bí mật tham gia Hàn Quốc Quang phục Quân cùng lực lượng vũ trang Trung Hoa Dân Quốc do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Chính phủ lâm thời đã cung cấp tài chính, vũ khí, sĩ quan và chiến lược chiến đấu chống lại Nhật Bản, đồng thời kêu gọi sự trợ giúp từ Khối Đồng Minh.
| 1 | null |
Sông Dinh, còn có tên là sông Tô Hạp, sông Cái Phan Rang, là một con sông đổ ra Biển Đông. Sông Dinh chảy qua các tỉnh Khánh Hoà và Ninh Thuận, Việt Nam .
Sông có chiều dài 135 km và diện tích lưu vực là 3.109 km² .
Dấu ấn lịch sử.
Trong suốt lịch sử của vùng Panduranga, Sông Dinh luôn được xem là một nguồn nước quan trọng có ảnh hưởng đến quá trình phát triển của người Chăm ở tiểu quốc này, vì thế mà tên con sông cũng được gọi là Panduranga, sau này người Việt phiên âm ra thành Sông Phan Rang.
Năm 1471, sau những chiến dịch chinh phạt Chiêm Thành của vua Lê Thánh Tông, người Chăm mất 4/5 lãnh thổ của mình vào tay Đế chế Đại Việt, họ chỉ còn giữ lại vùng Kauthara và Panduranga, trung tâm chính trị của người Chăm được chuyển về "Băl Cau" thuộc vùng Phan Rang, cạnh sông Dinh ngày nay.
Năm 1653, Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai Cai cơ Hùng Lộc dẫn 3.000 quân đánh sang đất Chiêm Thành, vua Chiêm "Po Nraup" sai con là Xác Bà Ân dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn ưng thuận cho lấy sông Phan Rang làm ranh giới giữa 2 nước. Lãnh thổ phía Nam sông Phan Rang vẫn thuộc về các chúa Chiêm người Chăm. Sông Dinh/Phan Rang trở thành biên giới giữa 2 quốc gia trong 137 năm, đến năm 1832 vua Minh Mạng cho xoá bỏ Thuận Thành trấn, người Chăm mất toàn bộ quyền tự trị của mình thì sông Dinh/Phan Rang mới không còn là biên giới tự nhiên giữa 2 nước. Ngày nay, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm có 3 phường có địa phận nằm ở bờ phía nam của sông đó là: Bảo An, Đạo Long và Đông Hải.
Dòng chảy.
Sông Dinh bắt nguồn từ dãy núi cao E Lâm Thông giáp với tỉnh Lâm Đồng ở vùng Phan Rang. Sông có chiều dài 130 km, lưu vực 2050 km², lưu lượng trung bình 39m³/s, lưu lượng thấp nhất 3,35 – 8,0m³/s, tại hạ nguồn của thủy điện Đa Nhim.
Trên sông có ba con đập được xây dựng là Sông Pha, Nha Trinh và Lâm Cấm. Đập Lâm Cấm có cao độ +7,4m được xây dựng cách cửa sông Cái 15 km. Mặt cắt ngang của đập trên thượng nguồn là 3 km với trữ lượng nước khoảng 1,5 – 2,0 triệu m3 vào mùa khô và được bổ sung khoảng 12m3/s lưu lượng từ thủy điện Song Pha. Lưu lượng thấp nhất (vào những tháng mùa khô – tháng tư) tại đập Lâm Cấm sau khi tưới tiêu ước lượng khoảng 2,0 – 3,5m3/s.
Khu vực thượng nguồn của sông có dạng bậc thềm có độ cao 800 – 1000m lòng sông dài và có độ trũng. Lưu vực các nhánh sông phân bổ hình rễ cây, từ Tân Mỗ về xuôi, sông chảy qua vùng đồi thấp là đồng bằng Phan Rang.
Chế độ dòng chảy của sông sông phù hợp với phân bổ mùa của khu vực là: Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 dòng chảy lớn có lũ. Mùa kiệt từ tháng 1 đến tháng 7, dòng chảy phụ thuộc vào việc xả nước tưới của thủy điện Đa Nhim cho vùng Hải Du.
| 1 | null |
Empedocles ( ; ; "Empedoklēs"; ; khoảng 490–430 TCN) là một nhà triết học Hy Lạp tiền Socrates và là một công dân của Agrigentum, một thành phố Hy Lạp nằm trên đảo Sicilia. Empedocles nổi tiếng nhất là nhờ ông là người khởi xướng cho thuyết nguồn gốc vũ trụ tạo bởi bốn nguyên tố cổ điển là đất, không khí, lửa và nước. Trong quá trình phát triển của sinh vật thì đầu tiên xuất hiện thực vật, rồi đến động vật, rồi đến con người. Trong quá trình ấy, những loài có thể thích nghi được với hoàn cảnh thì sinh tồn, những loài không thích nghi được thì diệt vong. Ông cũng là người đề xuất ra khái niệm năng lượng gọi là Ái tình và Xung đột (Love and Strife) nhờ đó mà các nguyên tố cổ điển có thể hòa trộn hoặc tách rời.
Cuộc đời.
Empedocles sinh ra khoảng năm 490 TCN ở Agrigentum (Acragas) trên đảo Sicilia trong một gia đình danh giá. Có rất ít thông tin về cuộc đời của ông. Cha ông, Meto, dường như đã bị lơi dụng để lật đổ bạo chúa của Agrigentum, Thrasydaeus, vào năm 470 TCN. Empedocles đã tiếp nối truyền thống là người theo quan điểm dân chủ giống cha mình khi ông góp sức trong việc lật đổ chính quyền kế tiếp hoạt động theo kiểu chính trị đầu sỏ. Người ta nói rằng ông rất hào hiệp trong việc trợ giúp người nghèo; gay gắt đấu tranh với thói hống hách của tầng lớp quý tộc; và thậm chí ông còn từ chối làm chủ thành phố khi người ta đề nghị ông. Empedocles bị chết vì rơi xuống núi lửa Etna ở Sicilia.
| 1 | null |
Dưới đây là danh sách đĩa nhạc của nữ nghệ sĩ thu âm người Mỹ Lana Del Rey bao gồm 2 album phòng thu, 3 đĩa mở rộng và 7 đĩa đơn. Tính đến tháng 7 năm 2012, Lana đã bán được 2 triệu album và 2 triệu đĩa đơn trên toàn thế giới.
Sau khi ký hợp đồng với các hãng đĩa Stranger Records, Interscope Records và Polydor, Del Rey ra mắt công chúng vào tháng 1 năm 2012 với album phòng thu đầu tay, "Born to Die". Tính đến tháng 7 năm 2012, "Born to Die" đã được tiêu thụ hơn 2 triệu bản trên toàn thế giới. Album giành được ngôi vị quán quân ở Anh, Áo, Hy Lạp, Thụy Sĩ và nhiều quốc gia châu Âu khác. Đĩa đơn đầu tiên của album, "Video Games", được phát hành vào tháng 10 năm 2011. Ca khúc nhận được nhiều ý kiến tích cực từ các nhà phê bình, đạt vị trí quán quân ở Đức.
Với sự phát hành của EP thứ ba, "Paradise", Del Rey đã có ba album lọt vào top 10 ở Mỹ, với vị trí #10 trên bảng xếp hạng "Billboard" 200 và 67,000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu phát hành. Hai đĩa đơn từ EP là "Ride" và "Cola" đều đạt được vị trí cao trên bảng xếp hạng của nhiều quốc gia.
| 1 | null |
Tỉnh Krym ( ; ; ) là một tỉnh thuộc nước Nga Xô viết (1945–1954) và CHXHCNXV Ukraina (1954–1991) nằm trong Liên Xô. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Simferopol.
Lịch sử.
Tỉnh Krym thay thế Krym ASSR vào ngày 30 tháng 6 năm 1945.
Tỉnh được chuyển giao từ CHXHCNXV Liên bang Nga cho CHXHCNXV Ukraina vào ngày 19 tháng 2 năm 1954.
Sevastopol là một thành phố bị đóng cửa nhờ vai trò hải cảng của Hạm đội Biển Đen và chỉ được nhập vào tỉnh Krym từ năm 1978.
Sau một cuộc trưng cầu dân ý ngày 20 tháng 1 năm 1991, tỉnh được trả lại địa vị của một nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Krym vào ngày 12 tháng 2 năm 1991 bởi Xô viết Tối cao CHXHCNXV Ukraina.
Vào năm 1992, nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa tự trị trở thành Cộng hòa Tự trị Krym thuộc Ukraina. Tuy nhiên Sevastopol, do ý nghĩa chiến lược đối với Hạm đội Biển Đen của Nga, vẫn là đối tượng tranh chấp của Ukraina và Nga cho tới năm 1997, thời điểm hai quốc gia đồng ý coi thành phố là "thành phố với địa vị đặc biệt" thuộc Ukraina.
| 1 | null |
de Havilland Canada DHC-4 Caribou (quân đội Hoa Kỳ lúc đầu ký hiệu là CV-2, sau đổi thành C-7 Caribou) là một loại máy bay vận tải chuyên dùng có khả năng hạ/cất cánh với đường băng ngắn (STOL) do Canada thiết kế và sản xuất. Caribou cất cánh lần đầu tiên vào năm 1958. Mặc dù người ta hầu như không còn dùng máy bay này trong các hoạt động quân sự nữa nhưng một số ít Caribou vẫn được sử dụng như một loại máy bay "bụi rậm" độ bền cao.
Thiết kế và phát triển.
Máy bay DHC-4 Caribou là thiết kế thứ ba, thuộc loại hạ/cất cánh với đường băng ngắn, của công ty de Havilland Canada, đồng thời đánh dấu một bước tiến lớn về phương diện kích cỡ so với hai thiết kế trước là DHC Beaver và DHC Otter. Đây cũng là thiết kế DHC đầu tiên có hai động cơ. Tuy vậy, ý tưởng thiết kế chiếc Caribou vẫn tương đồng với các mẫu máy bay trước ở chỗ Caribou vẫn là một phương tiện hạ/cất cánh với đường băng ngắn dạng "nồi đồng cối đá"; Caribou chủ yếu được dùng làm máy bay vận chuyển mang tính chiến thuật trong quân sự còn trong lĩnh vực dịch vụ thương mại thì nó chỉ chiếm một phân khúc nhỏ trong hoạt động vận tải hàng hoá. Lục quân Hoa Kỳ đã đặt hàng 173 chiếc vào năm 1959, nhận hàng năm 1961 và đặt mã hiệu là AC-1 (sau này đổi thành CV-2 Caribou vào năm 1962).
Đa phần các sản phẩm Caribou được dùng cho hoạt động quân sự nhưng do có ưu điểm bền và khả năng hạ/cất cánh với đường băng ngắn xuất sắc (chỉ cần đường băng dài 365 m) nên một số khách hàng vẫn sử dụng chúng cho mục đích thương mại. Hoa Kỳ cấp chứng chỉ cho loại máy bay này vào ngày 23 tháng 12 năm 1960. Có thể kể ra đây một số khách hàng dân sự của Caribou như hãng Ansett Australia, hãng AMOCO chi nhánh Ecuador và hãng Air America (do CIA điều hành nhằm thực hiện các phi vụ ngầm tại khu vực Đông Nam Á trong thời kì Chiến tranh Việt Nam). Caribou cũng được đưa vào khai thác thương mại sau khi các đơn vị quân sự thôi sử dụng chúng. Ngày nay, số Caribou dùng trong dân sự chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Lịch sử hoạt động.
Công ty de Havilland Canada thiết kế DHC-4 để đáp ứng yêu cầu của Lục quân Hoa Kỳ về một loại máy bay vận chuyển chiến thuật có thể tiếp viện binh lính, chuyển hàng tiếp tế và sơ tán binh sĩ bị thương trên đường về. Với sự giúp sức của Cục Sản xuất thuộc Bộ Quốc phòng Canada, DHC đã chế tạo được mẫu minh hoạ đầu tiên và có thể bay được vào ngày 30 tháng 7 năm 1958.
Bị ấn tượng hoàn toàn trước khả năng hạ/cất cánh với đường băng ngắn cũng như tiềm năng của DHC4, Lục quân Hoa Kỳ đặt hàng năm chiếc để đánh giá chất lượng với định danh YAC-1, trở thành nhà vận hành Caribou lớn nhất lúc bấy giờ. Năm 1962, họ đổi định danh AC-1 thành CV-2. Sau đó vào năm 1967, vì phải chuyển giao số CV-2 cho Không quân Hoa Kỳ nên Lục quân Hoa Kỳ đổi định danh số máy bay này thành C-7. Thời Chiến tranh Việt Nam, lực lượng Hoa Kỳ và Úc sử dụng rất nhiều Caribou.
159 chiếc Caribou do Lục quân Hoa Kỳ mua về đã hoàn thành tốt nhiệm vụ vận tải chiến thuật của mình trong cuộc Chiến tranh Việt Nam bởi các máy bay vận tải lớn hơn như Fairchild C-123 Provider và Lockheed C-130 Hercules đều không có khả năng hạ cánh trên các phi đạo ngắn. Caribou có thể chuyên chở 32 lính hoặc hai chiếc xe Jeep hay các loại xe hạng nhẹ tương tự. Thang để xếp hàng ở phía sau máy bay có thể dùng vào việc thả dù.
Lực lượng miền Bắc Việt Nam đã thu được một số Caribou của Hoa Kỳ và dùng chúng cho đến cuối thập niên 1970. Sau chiến tranh Việt Nam, Không quân Hoa Kỳ chuyển giao toàn bộ số máy bay Caribou cho Lực lượng Không quân Dự bị và Lực lượng Không quân Vệ binh Quốc gia.
Từ đó, tất cả máy bay C-7 lần lượt bị thải bỏ khỏi quân đội Mỹ. Chiếc cuối cùng phục vụ Lục quân Hoa Kỳ trong năm 1985 để hỗ trợ đội Dù Biểu diễn của Lục quân. Quân đội Ấn Độ, Brasil, Canada, Malaysia, Tây Ban Nha và Úc từng có nhiều máy bay Caribou. Ngày 27 tháng 11 năm 2009, chiếc Caribou cuối cùng của Không quân Hoàng gia Úc cũng ngừng hoạt động.
Tính năng kĩ chiến thuật (DHC-4A).
Trích từ "Macdonald Aircraft Handbook"
| 1 | null |
Hạt (County) là đơn vị hành chính cao nhất tại xứ Anh (England) trong Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland. Các hạt của nước Anh là khu vực được sử dụng cho mục đích phân định ranh giới địa lý hành chính và chính trị. Tính đến tháng 4 năm 2009, trên toàn xứ Anh có tất cả là 27 hạt, và được chia nhỏ ra thành 48 quận, ở các quận có Hội đồng quận quản lý. Trong 27 hạt thì có 6 trong số đó là đô thị được gọi là hạt đô thị, những đô thị này không có Hội đồng cấp quận. Cũng giống như quận, đứng đầu các hạt cũng có Hội đồng quản hạt, Hội đồng quản hạt thành lập đầu tiên vào năm 1889 và nó được cải cách đáng kể vào năm 1974.
| 1 | null |
"Summertime Sadness" là một bài hát của nữ nghệ sĩ-nhạc sĩ người Mỹ Lana Del Rey, trích từ album phòng thu thứ hai của cô "Born to Die". Nó được phát hành như một đĩa đơn chính thức vào ngày 22 tháng 6 năm 2012. Đây là đĩa đơn thứ ba của album này ở Đức, Áo và là đĩa đơn thứ tư ở Thụy Sĩ.
Video âm nhạc.
Video âm nhạc cho "Summertime Sadness" được quay vào tháng Tư và tháng 5 năm 2012. Video được đạo diễn bởi Kyle Newman và Spencer Susser.
| 1 | null |
Trong tín ngưỡng Phật giáo, Câu Lưu Tôn hay Câu Lâu Tôn (tiếng Pali: Kakusandha, tiếng Phạn: Krakucchanda, tiếng Tạng: Khorvadjig) là tên gọi của vị Phật thứ 25, cũng là vị Phật đầu tiên của hiền kiếp (kiếp hiện tại), và là vị Phật thứ 4 trong số Bảy vị Phật quá khứ. Tiểu sử của vị Phật này được ghi chép trong "Phật sử" (Buddhavamsa) của Tiểu bộ kinh (Khuddaka Nikaya), một phần của Kinh Tạng (Sutta Piṭaka), một trong ba bộ kinh sách của Kinh Tạng Pāli (Tripitaka).
Cuộc đời.
Phật Câu Lưu Tôn có họ là Ca Diếp (Kassapa) , sinh ra tại Khemavati (hiện nay là Gotihawa), thuộc quận Kapilavastu, trong vùng Lumbini thuộc miền nam Nepal. Phụ thân ông là Aggidatta (Tự Đắc, 祀得), một giáo sĩ Bà-la-môn của vua Khemankara (An Hòa) xứ Khemavati (An Hòa). Mẫu thân ông là Visakha (Thiện Chi, 善枝). Vợ ông là Virochamana (còn biết đến như là Rocani); ông có một con trai là Uttara (Thượng Thắng, 上勝, con trai của Kakusandha).
Asoka (vua A Dục) từng thăm viếng Gotihawa, Nepal khi ông tới thăm Lumbini, Nepal và cho dựng một cột đá, trên đó có khắc câu chuyện về cuộc viếng thăm của ông lên cột đá này. Cũng có một tháp Phật (stupa) tại Gothihawa. Vì thế, nói chung người ta chấp nhận (vì cột đá này) rằng nơi sinh của Kakusandha là tại Gothihawa, Nepal gần Kapilvastu, Lumbini (Lâm Tì Ni), Devadaha và Ramagrama của Nepal.
Phật Câu Lưu Tôn sống 4.000 năm trong gia đình tại ba nơi: Ruci, Suruci và Vaddhana (hay Rativaddhana). Năm 4.000 tuổi, ông từ bỏ cuộc sống trần tục trong khi đang đi trên một cỗ xe ngựa kéo. Ông tu tập khổ hạnh trong 8 tháng. Trước lúc đạt tới giác ngộ, ông đã ăn một chút cơm nấu bằng nước cốt dừa do con gái của vị Bà-la-môn Vajirindha tại làng Suchirindha cúng dường, cũng như cỏ để làm chỗ ngồi từ yavapalaka Subhadda. Ông giác ngộ dưới gốc cây sirisa (Thi lợi sa, Bồ kết tây hay Lim xanh, "Albizia lebbeck"), sau đó thuyết pháp lần đầu cho một tăng hội gồm 40.000 Tỳ kheo trong một công viên gần Makila.
Phật Câu Lưu Tôn đã thực hiện một phép màu kép dưới cây sala ("Shorea robusta"), tại cổng Kannakujja. Trong số những chúng sinh được ông giáo hóa có một dạ xoa (yaksha) hung dữ tên là Naradeva. Câu Lưu Tôn duy trì lễ Phát Lồ sám hối ("uposatha") mỗi năm.
Hai đệ tử hàng đầu của ông là Vidhura (Tỳ-lâu, 毗樓) và Sanjiva (Tát-ni, 薩尼), còn trong số các Tỳ kheo ni là Sama và Champa. Vị chấp sự đệ tử (thị giả tỳ kheo) là Buddhija (Thiện Giác, 善覺) . Acchuta và Samana, Nanda và Sunanda là các nam / nữ thí chủ chính của ông. Acchuta đã cho xây dựng một tu viện cho Phật Câu Lưu Tôn tại cùng một nơi mà sau này được Anathapindika mua để lập Jetavana Arama (tu viện rừng cây Jeta) dành cho Phật Thích Ca Mâu Ni.
Theo Tương Ưng Bộ kinh (Samyutta Nikaya) (ii.194), đỉnh Vepulla ở Rajgir khi đó gọi là Pachinvamsa; và những người dân trong khu vực đó là Tivara.
Phật Câu Lưu Tôn cao 40 cubit (20–21 m), nhập diệt ở tuổi 40.000 tại Khemavati. Một tháp Phật (thūpa) từng được dựng trên các thánh tích của ông, với độ cao khoảng 5 km.
Vị Bồ Tát mà sau này trở thành Thái tử Tất-đạt-đa Cồ-đàm (Siddhartha Gautama) thì trong thời Phật Câu Lưu Tôn chính là vua Khema. Câu Lưu Tôn cũng là vị Phật đã tiên đoán rằng vua Khema, người đã dâng cho ông đồ bố thí cùng Y và thuốc men, sẽ trở thành Phật Thích Ca trong tương lai.
Xem thêm.
Bốn vị Phật khác của Hiền kiếp (kiếp hiện tại):
| 1 | null |
Đại học Công nghệ Đồng Nai (tiếng Anh: "Dong Nai Technology University") là một trường đại học tư thục tại Đồng Nai do TS. Phan Ngọc Sơn đứng tên thành lập theo quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 16 tháng 6 năm 2011 của thủ tướng chính phủ.
Hình thành.
Tiền thân của trường là Trường Cao đẳng Kỹ thuật - Công nghệ Đồng Nai ("Dongnai College of Technology"), thành lập ngày 3 tháng 10 năm 2005. Trường đào tạo nhiều lĩnh vực Khoa học kỹ thuật - Công nghệ - Kinh tế khác nhau, gồm các hệ: Đại học, sau đại học.
Ngành đào tạo.
Các ngành đào tạo của trường bao gồm :
| 1 | null |
"Blue Jeans" là một bài hát của nữ nghệ sĩ-nhạc sĩ người Mỹ Lana Del Rey, trích từ album phòng thu thứ hai của cô "Born to Die" (2011). Ca khúc được phát hành như một đĩa đơn thứ ba của album vào ngày 8 tháng 4 năm 2012 bởi hãng đĩa Interscope.
Thực hiện.
Ca khúc được chính thức phát hành trong đĩa đơn "Video Games" ở mặt B, sau đó mới được phát hành như một đĩa đơn riêng biệt. EP remix của "Blue Jeans" được phối lại bởi D/R/U/G/S, Blood Orange, Kris Menace và RAC.
Biểu diễn thực tế.
Vào 14 tháng 1 năm 2012, Lana Del Rey biểu diễn ca khúc trên chương trình truyền hình "Saturday Night Live". Cô còn biểu diễn ca khúc này ở "Le Grand Journal" tại Pháp vào 30 tháng 1 năm 2012. Vào 13 tháng 4 năm 2012, Lana biểu diễn ca khúc trong buổi nói chuyện truyền hình trực tiếp ở bên Ý, "Le invasioni barbariche". Vào 28 tháng 4, ca khúc được cô biểu diễn tại chương trình "The Voice UK" và trên BBC One vào ngày hôm sau.
Video âm nhạc.
Video âm nhạc đầu tiên cho "Blue Jeans" được Lana đăng tải trên tài khoản Youtube của cô vào 9 tháng 9 năm 2011. Cũng giống như video cho đĩa đơn "Video Games", cô ghép những đoạn băng cũ lấy trên Internet với những cảnh cô tự quay chính mình bằng webcam với nhau để tao ra video này.
Video âm nhạc chính thức được đạo diễn bởi Yoann Lemoine, người đã từng làm đạo diễn video cho đĩa đơn trước đó "Born to Die". Bradley Soileau đóng vai người tình của Del Rey trong video này, và anh cũng chính là người đã đóng vai ấy trong video "Born to Die" . Video được quay vào đầu tháng 3 năm 2012 và được phát hành vào 19 tháng 3 năm 2012 .
Truyền thông.
"Blue Jeans" xuất hiện trong tập "It's Easy to Cry When This Much Cash Is Involved" của phim truyền hình "Ringer" mùa thứ nhất. Đây là lần thứ hai ca khúc của cô xuất hiện trong sêri này, trước đó là "Video Games" .
| 1 | null |
Yurgovuchia hay còn gọi với tên là Yurgovuchia doellingi là một chi khủng long thuộc họ Dromaeosauridae, mới được phát hiện vào năm 2012 ở Vườn quốc gia Arches, trong một khu vực có tên gọi Doelling’s Bowl Bone Bed. Chi này có 1 loài, hóa thạch của loài này được các nhà cổ sinh vật học Mỹ tìm thấy tại khu vườn quốc gia ở bang Utah. Yurgovuchia là loài khủng long ăn thịt có niên đại 130 triệu năm tuổi và có kích cỡ to bằng một con chó sói đồng cỏ Bắc Mỹ, nó này có một móng vuốt cong lớn trên ngón chân thứ hai, đây là móng vuốt chúng dùng làm vũ khí săn mồi và công cụ hỗ trợ khi bơi hoặc đào bới.
| 1 | null |
"National Anthem" ("Quốc ca") là một bài hát của nữ nghệ sĩ-nhạc sĩ người Mỹ Lana Del Rey, trích từ album phòng thu thứ hai của cô Born to Die (2011). Nó được chọn làm một đĩa đơn thứ năm của album và được phát hành vào ngày 6 tháng 7 năm 2012 bởi Interscope.
Video âm nhạc.
Video ca nhạc cho "National Anthem"được đạo diễn bởi Anthony Mandler vào tháng 5 năm 2012 và được phát hành vào 27 tháng 6 năm 2012. Trong video, Del Rey đóng hai vai Marilyn Monroe và Jacqueline Kennedy Onassis còn nghệ sĩ nhạc rap A$AP Rocky đóng vai John F. Kennedy.
Tính đến tháng 4 năm 2020, video đã đạt hơn 73 triệu lượt xem.
| 1 | null |
Cá voi mõm khoằm Andrews (danh pháp hai phần: " ") là một loài cá trong họ Ziphidae. Cá voi mõm khoằm Andrews sinh sống ở Nam bán cầu, và phạm vi chính xác là không chắc chắn. Khoảng 35 mẫu vật bị mắc kẹt đã được ghi nhận ở Úc và New Zealand, Macquarie Island, quần đảo Falkland, và Tristan da Cunha. Đó là phạm vi có thể bao hàm sự phân phối quanh vùng Nam Cực. Tuy nhiên, có không nhìn thấy xác nhận để xác nhận điều này.
| 1 | null |
Cá heo California (danh pháp hai phần: "Phocoena sinus") là một loài cá trong họ Cá heo chuột. Cá heo California có môi trường sống giới hạn khu vực phía bắc của vịnh California. Chúng sống ở các đầm phá nông, đục dọc theo các bờ biển và hiếm khi được nhìn thấy ở nhiều nước sâu hơn 30 mét, thật sự nó có thể tồn tại trong các ao hồ để nông nhô ra trở lại trên bề mặt. Loài cá vi này thường được nhìn thấy trong nước 11-50 mét sâu, 11–25 km từ bờ biển, trên đáy bùn và đất sét. Môi trường sống của nó được đặc trưng bởi nước đục với có nhiều con mồi với hàm lượng dinh dưỡng cao.
| 1 | null |
Nam Định là một tỉnh thuộc vùng nam đồng bằng sông Hồng, phía bắc giáp tỉnh Thái Bình, phía nam giáp tỉnh Ninh Bình, phía tây giáp tỉnh Hà Nam, phía đông giáp vịnh Bắc Bộ.
Lịch sử tổ chức hành chính.
Thời tiền sử.
Trên đất Nam Định, dấu tích con người ở thời kỳ này còn lưu lại ở các dãy núi thuộc huyện Vụ Bản và huyện Ý Yên nằm về phía tây bắc của tỉnh. Tại đây đã tìm thấy những chiếc rìu đá có vai mài lưỡi, các hòn nghè, chày đá và bàn nghiền. Đó là những dấu tích của những cư dân thuộc thời kỳ đồ đá mới hoặc sơ kỳ đồ đồng đã từ vùng rừng núi tiến xuống khai phá vùng đồng bằng ven biển để sinh sống và dần dần tiến tới lập các làng xóm. Vào lúc cực thịnh của thời kỳ đồ đá, ở tỉnh Nam Định cũng như nhiều địa điểm khác trên đất nước, đã nở rộ những nền văn hoá nguyên thủy. Ngoài kinh tế hái lượm những sản phẩm sẵn có trong tự nhiên, người nguyên thủy trên đất Nam Định đã bắt đầu sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Thời dựng nước.
Nằm trong cương vực nước Văn Lang của các Vua Hùng trải dài từ miền trung du đến miền đồng bằng ven biển, vùng đất Nam Định khi ấy tương đương với đất các huyện Vụ Bản, Ý Yên, Mỹ Lộc, thành phố Nam Định và phần phía bắc của huyện Nam Trực hiện nay. Theo ngọc phả đền thờ Tam Bành ở thôn Bảo Ngũ, xã Quang Trung thì vào đời vua Hùng Vương, huyện Vụ Bản có tên là huyện Bình Chương thuộc bộ Lục Hải, là một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Huyện Bình Chương lúc đó nằm sát biển. Tại đây có cửa biển Côi Sơn (Núi Gôi) mà dấu vết còn lại đến ngày nay là địa danh cồn Dâu, cồn Cói ở các vùng quanh chân núi.
Cùng với các nghề trồng lúa nước, trồng rau củ và hoa quả thì những ngành kinh tế khai thác vẫn giữ vai trò quan trọng. Tại di chỉ núi Hổ, trong các di vật tìm được có nhiều mũi tên bằng đá và xương động vật. Cách đó không xa tại hang Lồ (núi Lê) cũng tìm thấy khá nhiều các loại xương thú khác nhau. Săn bắn bổ sung nguồn thức ăn nhiều dinh dưỡng cho con người, đồng thời cung cấp da, xương, sừng cho một số nghề thủ công như chế tạo đồ trang sức, đồ dùng, vũ khí.
Năm 1963, tại núi Mai Độ (còn gọi là núi Hình Nhân) thuộc xã Yên Tân, huyện Ý Yên đã phát hiện một số hiện vật đồng có giá trị. Núi có 4 đỉnh, đỉnh cao nhất cao 52m. Đây là núi đá có lẫn đất, không có cây cao, trên mặt chỉ phủ một lớp cỏ mỏng. Sườn phía đông có một khoảng đất tương đối bằng phẳng, rộng độ 2 sào, nguyên trước có một kiến trúc tôn giáo không biết của đời nào vì đã bị phá hủy từ lâu. Cách chân núi về phía Tây 400m là thôn Mai Độ, phía Đông là thôn Mai Sơn, xung quanh núi là cánh đồng chiêm. Các hiện vật đồng được phát hiện gồm có dao, giáo và rìu.
Thời Bắc thuộc.
Sau khi nước Nam Việt bị nhà Tây Hán đánh chiếm vào năm 111 TCN, đất nước bước vào một thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn một nghìn năm. Nam Định lúc đó nằm trong quận Giao Chỉ. Do điều kiện thuận lợi cho nghề trồng lúa nước, vùng đất Nam Định trở thành một trung tâm nông nghiệp từ rất sớm.
Trên cơ sở một nền văn hoá bản địa vững chắc thể hiện bản lĩnh, cá tính, lối sống và truyền thống mà cốt lõi là ý thức độc lập, tự chủ và tinh thần yêu quê hương, đất nước, cư dân Nam Định cổ đã tiếp thu những yếu tố văn hoá mới, làm phong phú thêm văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, nét bao trùm lên lịch sử thời kỳ Bắc thuộc trên đất Nam Định vẫn là cuộc đấu tranh chống lại ách đô hộ và âm mưu đồng hoá của phong kiến ngoại bang, mà tiêu biểu là nhân dân Nam Định nói chung và đặc biệt là phụ nữ, đã hăng hái tham gia và nhanh chóng đứng dưới ngọn cờ nghĩa của Hai Bà Trưng (Đầu năm 40) chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán. Theo tư liệu lịch sử hiện có, Nam Định có tới 20 tướng lĩnh cả nam lẫn nữ tham gia cuộc khởi nghĩa này. Dấu tích về các tướng lĩnh tham gia khởi nghĩa tập trung nhiều ở huyện Vụ Bản, như: Lê Thị Hoa ở Phú Cốc, Chu Liên Hoa ở làng Vậy, Dung Nương và Phương Dung ở làng Cựu, Trần Cao Đạo ở làng Riềng, Bùi Công Mẫn ở xã Trung Thành...
Năm 542, Lý Bí nổi dậy khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Lương. Sau bốn năm chiến đấu anh dũng, cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi, Lý Bí lên ngôi, xưng Hoàng Đế, xây dựng nước Vạn Xuân độc lập. Đóng góp vào cuộc khởi nghĩa này, Nam Định có tướng quân Hoàng Tề ở làng Lập Vũ (nay thuộc xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản). Ông được Lý Bí phong chức Túc vệ tướng quân, ban gươm báu và luôn cho hầu bên mình.
Khi Lý Bí qua đời, Hoàng Tề theo Triệu Quang Phục.
Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê.
Sau khi Ngô Quyền mất, vùng hạ lưu sông Hồng khi đó chịu sự chi phối của sứ quân Trần Lãm. Đất Nam Định dần trở thành nơi hội tụ và đối đầu quyết liệt của hào khí bốn phương, trong danh sách 12 sứ quân, rất nhiều vị tướng nhà Đinh và các sứ quân như: Trần Lãm, Lã Đường, Ngô Nhật Khánh, Nguyễn Khoan, Phạm Bạch Hổ được thờ ở đây. Đinh Bộ Lĩnh – người anh hùng "tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời", tự nhận về mình sứ mệnh thiêng liêng dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước – không thể không tìm về vùng đất duyên hải cửa sông này.
Thời Lý - Trần.
Dưới thời Lý, Trần, Nam Định không những là một cửa ngõ của cả vùng châu thổ sông Hồng mà còn là một trung tâm kinh tế quan trọng. Các vua Lý đã dành sự quan tâm đặc biệt cho vùng đất này. Qua các tư liệu lịch sử, ta biết trên đất Nam Định xưa, nhà Lý đã cho xây ít nhất hai hành cung làm nơi cho vua dừng chân nghỉ lại trong những lần đi kinh lý vùng đất này.Vào thời Trần Thiên Trường được coi như kinh đô thứ hai. Vị trí ứng với khu vực tháp Phổ Minh và Đền Trần ngày nay. Nơi đây còn có dấu tích của cung Trùng Quang và cung Trùng Hoa.
Do vị trí trọng yếu, Nam Định trở thành một trong những nơi giao tranh quyết liệt. Năm 1203, quân nổi loạn do Phí Lang và Bảo Lương cầm đầu từ Đại Hoàng (Ninh Bình) xuôi theo sông Đáy đến đất Nam Định, mở rộng hoạt động ra vùng hạ lưu. Sự rối loạn lên đến cực điểm vào năm 1208, khi trong nước "người chết đói nằm chồng chất lên nhau". Đúng lúc triều Lý bất lực trong việc điều hành đất nước, vùng đất Nam Định lại là nơi hưng khởi của nhà Trần, một triều đại đầy sức sống đã đưa quốc gia Đại Việt phát triển hưng thịnh và ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông.
Đời Trần được gọi là lộ Thiên Trường, sau lại chia làm ba lộ: Kiến Xương, An Tiêm, Hoàng giang.
Dưới thời thuộc Minh.
Tháng 4-1407, Minh Thành Tổ hạ chiếu đổi nước ta làm quận Giao Chỉ - như một địa phương của quốc gia phong kiến nhà Minh. Bằng hành động này, nhà Minh đã bộc lộ rõ ý đồ không chỉ chiếm đóng mà còn vĩnh viễn xóa bỏ nước ta, sáp nhập hẳn vào đế quốc Minh như tên gọi và đơn vị hành chính mà các đế chế đô hộ phương Bắc đã dùng từ nửa thiên niên kỷ trước.
Dưới quận, nhà Minh chia ra làm 15 phủ. Phần đất Nam Định lúc ấy thuộc hai phủ Kiến Bình và Phụng Hóa.
Phủ Phụng Hóa tương đương với phủ Thiên Trường cuối thể kỷ XIV, gồm bốn huyện là Mỹ Lộc, Tây Chân, Giao Thủy và Thận Uy. Bốn trong số chín huyện thuộc phủ Kiến Bình thuộc về đất Nam Định là Ý Yên, An Bản, Vọng Doanh và Đại Loan. Cả hai phủ thuộc tỉnh Nam Định đều bị nhà Minh đổi tên. Kiến Hưng đổi thành Kiến Bình với ý nghĩa xây dựng, kiến lập sự yên ổn, vững chắc, Thiên Trường đổi thành Phụng Hóa hàm ý tuân theo sự giáo hóa, cải hóa của nhà Minh.
Thời Lê.
Đời Lê, thuộc xứ Sơn Nam, đến niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2 năm 1741, vùng đất này thuộc lộ Sơn Nam Hạ.
Nhà nước thời Lê sơ rất quan tâm đến việc nông trang nói chung, công cuộc khai hoang mở rộng diện tích canh tác nói riêng bằng hàng loạt chính sách, nhất là dưới thời Hồng Đức. Cùng với hoạt động khẩn hoang tự nguyện của những người nông dân, chính quyền trung ương nhà Lê cũng đặc biệt chú trọng đến việc tổ chức khẩn hoang dưới hình thức đồn điền ở phía Nam khu vực sông Hồng, trong đó có Nam Định. Khó có thể thống kê, khảo sát, xác định được đầy đủ những đồn điền thời Lê sơ đã từng có ở Nam Định. Ngoài lý do thời gian đã quá lâu, còn có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác. Cư dân đầu tiên của các đồn điền này trước hết và chủ yếu là các binh lính, tù binh, tội nhân. Họ ít và khó có điều kiện ghi chép để truyền lại cho đời sau về lịch sử khai hoang lập làng. Tuy nhiên căn cứ vào các nguồn tài liệu chính thống của nhà nước phong kiến như chính sử, điền bạ…có thể thấy vùng Nam Định tập trung khá nhiều đồn điền như:
Sở Vĩnh Hưng (thuộc vùng của tổng Cổ Nông, Trực Ninh)
Sở Đông Hải (nơi có các thôn Đắc Sở, Thượng Đồng, Hạ Đồng thuộc Trực Ninh)
Sở Hoa Diệp (thuộc vùng Phượng Để, Cổ Lễ, Trực Ninh)
Sở Vọng Doanh (nằm trong vùng các xã Yên Quang, Yên Bằng, Yên Khang thuộc Ý Yên).
Khi Nguyến Huệ kéo quân ra đánh Trịnh với danh nghĩa phò Lê thì địa điểm đầu tiên quân Tây Sơn tiến chiếm cũng là quân doanh Vỵ Hoàng tức Nam Định.
Sự trù mật của các đồn điền ở ven cửa biển vùng Giao Thủy, bên đê sông Hồng, sông Đáy tự đã làm nổi bật lên vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng của vùng đất phủ Thiên Trường với nhà nước thời Lê sơ, với quốc gia Đại Việt nửa sau thế kỷ XV. Nửa sau thế kỷ XV, trên vùng ven biển Nam Định chứng kiến một công trình kết tinh thành quả lao động to lớn của nhân dân Đại Việt. Đó là việc khởi công và hoàn thành đê Hồng Đức, một con đê ngăn nước mặn có quy mô lớn đầu tiên của vùng châu thổ. Với sự đầu tư, quan tâm của trung ương và địa phương như vậy, công cuộc đắp đê ở vùng biển Nam Định, Ninh Bình thời Lê sơ đã được tiến hành với tốc độ nhanh quy mô lớn. Trên địa bàn Nam Định qua những dấu tích còn lại thì thấy đê Hồng Đức kéo dài từ cửa Đại An, qua phần bắc Nghĩa Hưng, rồi Hải Hậu về đến Hội Khê. Nhiều đoạn gần trùng với con đường 56 hiện nay.
Cùng với sự phát triển nho học của cả nước, giáo dục nho học ở Nam Định thế kỷ XV có bước phá triển mới. Ngay sau khi kết thúc chiến tranh, vào năm 1428, nhà Lê đã cho mở các trường học ở phủ, lộ. Điều đáng chú ý là trong thời Lê sơ, sự phát triển của nho học ở Nam Định không chỉ diễn ra trên các vùng đất cổ như Ý Yên, Vụ Bản hay tại vùng xung quanh ấp thang mộc của nhà Trần như Lộc Vượng, mà còn ở cả địa bàn ven biển, nơi các làng mạc mới được hình thành. Trong vòng 100 năm của thời Lê sơ, Nam Định có đến 22 tiến sĩ, đại bộ phận số đại khoa này đều đỗ vào nửa sau thế kỷ XV, cho nên có thể nói Nho học ở Nam Định đã thực sự có bước phát triển mới từ sau sự kiện Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên (1463). Ngoài con số các trạng nguyên tiến sĩ kể trên, biểu hiện quan trọng của thành tựu giáo dục nho học vùng Nam Định, điều đáng nói ở chỗ không ít vị đại khoa đã trở thành những nhân vật tiêu biểu cho trí tuệ, tài năng Đại Việt thế kỷ XV nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung.
Thời Nguyễn.
Dưới triều Nguyễn, năm 1822 (Minh Mạng thứ 3) đổi tên trấn Sơn Nam Hạ thành trấn Nam Định. Đến năm Minh Mạng 13 (1832) đổi trấn Nam Định thành tỉnh Nam Định (tỉnh Nam Định được thành lập), với 4 phủ, 18 huyện, bao gồm phần đất tỉnh Thái Bình hiện nay. Năm 1890, Thái Bình tách ra thành tỉnh riêng và một phần phía bắc Nam Định tách ra để cùng một phần phía nam Hà Nội lập thành tỉnh Hà Nam. Chữ Hà là từ Hà Nội và Nam là từ Nam Định. Điều này cũng lý giải cho việc vì sao chuối ngự thường được gọi là chuối ngự Nam Định bởi cho đến 1890 vùng Lý Nhân vẫn thuộc Nam Định. Từ1890 Nam Định còn lại 2 phủ và 9 huyện.
Thời kỳ độc lập (1945-nay).
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, các đơn vị hành chính trong tỉnh luôn có sự thay đổi.
Có một giai đoạn ngắn nơi đây gồm: tỉnh Nam Định, tỉnh Bùi Chu và thành phố Nam Định. Tỉnh lị Nam Định đặt ở Hành Thiện, Xuân Trường. Sau Bùi Chu nhập với Nam Định mang tên tỉnh Nam Định.
Năm 1953, 7 xã ở phía Bắc sông Đào thuộc huyện Nghĩa Hưng được cắt nhập vào huyện Ý Yên. Đồng thời, 3 huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên nhập vào tỉnh Hà Nam.
Năm 1956, 3 huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên lại được cắt trả cho Nam Định. Đồng thời, thành phố Nam Định chuyển thành tỉnh lị tỉnh Nam Định. Tỉnh Nam Định có 1 thành phố Nam Định và 9 huyện: Giao Thủy, Hải Hậu, Mỹ Lộc, Nam Trực, Nghĩa Hưng, Trực Ninh, Vụ Bản, Xuân Trường, Ý Yên.
Tỉnh Nam Hà.
"Bài chi tiết: Nam Hà (tỉnh)"
Năm 1965, tỉnh Nam Định được hợp nhất với tỉnh Hà Nam thành tỉnh Nam Hà.
Năm 1966, điều chỉnh địa giới một số xã thuộc huyện Hải Hậu.
Năm 1967, hợp nhất huyện Giao Thủy và huyện Xuân Trường thành một huyện lấy tên là huyện Xuân Thủy; huyện Mỹ Lộc nhập vào thành phố Nam Định.
Năm 1968, hợp nhất một số xã thuộc huyện Xuân Thủy. Cùng năm, 7 xã phía Nam sông Ninh Cơ thuộc huyện Trực Ninh nhập vào huyện Hải Hậu, hợp nhất huyện Trực Ninh và huyện Nam Trực thành một huyện lấy tên là huyện Nam Ninh..
Năm 1969, hợp nhất một số xã thuộc huyện Xuân Thủy.
Năm 1971, điều chỉnh địa giới một số xã thuộc các huyện Nghĩa Hưng, Nam Ninh, Xuân Thủy.
Năm 1973, điều chỉnh địa giới một số xã thuộc huyện Xuân Thủy.
Năm 1974, điều chỉnh địa giới một số xã thuộc các huyện Vụ Bản, Nam Ninh, Nghĩa Hưng.
Tỉnh Hà Nam Ninh.
Bài chi tiết: Hà Nam Ninh
Năm 1975, Nam Hà hợp nhất với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh.
Năm 1976, hợp nhất một số xã thuộc các huyện Hải Hậu, Nam Ninh.
Năm 1977, tách 9 xã (của huyện Mỹ Lộc cũ) từ thành phố Nam Định về huyện Bình Lục
Hợp nhất một số xã thuộc các huyện Nghĩa Hưng, Nam Ninh.
Năm 1978, hợp nhất một số xã thuộc các huyện Nam Ninh, Vụ Bản; thành lập xã Nam Điền thuộc huyện Nghĩa Hưng..
Năm 1984, thành lập thị trấn Cổ Lễ thuộc huyện Nam Ninh. Cùng năm, điều chỉnh địa giới thành phố Nam Định và huyện Bình Lục.
Năm 1985, chia tách một số phường thuộc thành phố Nam Định.
Năm 1986, thành lập thị trấn huyện lị thuộc các huyện Hải Hậu, Xuân Thủy, Ý Yên, Vụ Bản.
Năm 1987, thành lập thị trấn Liễu Đề và đổi tên thị trấn nông trường Rạng Đông thành thị trấn Rạng Đông thuộc huyện Nghĩa Hưng.
Năm 1991, chia tỉnh để tái lập 2 tỉnh mới là Nam Hà và Ninh Bình.
Tỉnh Nam Định.
Năm 1996, tách tỉnh Nam Hà để tái lập 2 tỉnh mới có tên là Nam Định và Hà Nam; đồng thời, chuyển 7 xã của huyện Bình Lục của tỉnh Hà Nam về thành phố Nam Định quản lý. Khi tách ra, tỉnh Nam Định có 7 đơn vị hành chính gồm thành phố Nam Định và 6 huyện: Hải Hậu, Nam Ninh, Nghĩa Hưng, Vụ Bản, Xuân Thủy, Ý Yên.
Năm 1997, điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Nam Định và huyện Nam Ninh. Cùng năm, điều chỉnh địa giới huyện Nam Ninh và huyện Hải Hậu; các huyện Nam Ninh, Xuân Thủy được chia lại thành các huyện như cũ, tái lập huyện Mỹ Lộc; đồng thời thành lập thị trấn Thịnh Long thuộc huyện Hải Hậu.
Năm 2003, thành lập thị trấn huyện lị thuộc các huyện Nam Trực, Xuân Trường, Mỹ Lộc và thị trấn Quất Lâm thuộc huyện Giao Thủy.
Năm 2004, thành lập một số phường thuộc thành phố Nam Định.
Năm 2006, thành lập thị trấn Cát Thành thuộc huyện Trực Ninh trên cơ sở toàn bộ xã Cát Thành. Thị trấn Cát Thành có 830,01 ha diện tích tự nhiên và 14.577 nhân khẩu.
Năm 2007, thành lập thị trấn Quỹ Nhất thuộc huyện Nghĩa Hưng trên cơ sở toàn bộ xã Nghĩa Hòa. Thị trấn Quỹ Nhất có 546,49 ha diện tích tự nhiên và 6.274 nhân khẩu.
Năm 2017, thành lập thị trấn Ninh Cường thuộc huyện Trực Ninh trên cơ sở toàn bộ xã Trực Phú. Thị trấn Ninh Cường có 7,41 km² diện tích tự nhiên và 10.244 người.
Năm 2019, thành lập 2 phường Lộc Hòa và Mỹ Xá thuộc thành phố Nam Định.
Năm 2020, hợp nhất một số xã, thị trấn thuộc các huyện Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Ý Yên.
| 1 | null |
Camera giấu kín là chương trình truyền hình thực tế do Truyền hình Công an Nhân dân (ANTV) và AVG - Truyền hình An Viên phối hợp sản xuất có hình thức thể hiện hết sức đặc biệt với các máy quay được giấu kín và những nhân vật tham gia chương trình không hề hay biết mình đang bị quay phim. Các tập phát sóng của Camera giấu kín không chỉ có tính giải trí, mang đến tiếng cười cho người xem mà còn có ý nghĩa tốt đẹp, nhân văn, đúc rút nhiều bài học về cách ứng xử, giao tiếp cho những người xem chương trình. Chương trình được phát sóng trên kênh ANTV và kênh An Viên của AVG - Truyền hình An Viên.
Chương trình đưa ra tình huống giả định để kéo nhân vật tham gia vào chương trình. Những tình huống này đều được lựa chọn để phù hợp với văn hóa Phương Đông.
Tại nhiều vị trí xung quanh bối cảnh, các camera được bố trí ẩn hoặc ở các vị trí mà nhân vật không quan sát được, chính vì vậy, nhân vật sẽ thể hiện các phản ứng bột phát đúng với bản chất thật của mình.
Các biên tập viên của Camera giấu kín luôn có mặt gần bối cảnh để xử lý các tình huống tiêu cực ngoài dự kiến.
Camera giấu kín gửi đến người xem nhiều bài học có giá trị, chứa đựng nhiều yếu tố nhân văn, thể hiện tình thương giữa người với người. Bên cạnh đó, chương trình chỉ ra những điều còn chưa đẹp trong đời sống để đánh động mọi người thay đổi hành vi và cách ứng xử trong đời sống.
Phát sóng trên kênh chuyên về an ninh, chương trình còn có ý nghĩa nâng cao cảnh giác của người dân trong mọi tình huống và thử thách bản lĩnh của các cá nhân trong các trường hợp liên quan đến trật tự, an toàn xã hội.
Một người nước ngoài là diễn viên của chương trình đóng vai người hành nghề xe ôm đứng đợi khách ở cổng trường đại học và tại các ngã tư đông người qua lại. Sự có mặt của một anh Tây hành nghề xe ôm đã thu hút sự chú ý của những người đường và ngay cả các "đồng nghiệp" của anh.
Một nhóm người nước ngoài cũng là diễn viên của chương trình Camera giấu kín bắt xe taxi để đi một quãng đường ngắn nhưng tài xế taxi đã đưa đi vòng vèo "mua đường" để tăng lệ phí phải trả.
Tình huống này đã phản ánh đúng một thực tế nhức nhối trong xã hội hiện nay.
Nghệ sĩ Quyền Linh được mời tham gia chương trình Camera giấu kín mà anh không hề biết chương trình đó như thế nào. Anh được hai người trong ekip thực hiện đến đón để đưa tới một nhà hàng trong buổi hẹn gặp đạo diễn của chương trình. Trên đường đi, xe đón anh hai lần dừng xe để nhận hàng, anh cũng không biết đó là món hàng gì. Sau đó, xe đón Quyền Linh bất ngờ bị công an yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Công an đã phát hiện trên xe có hàng cấm. Quyền Linh sẽ phản ứng ra sao? Đây là tình huống thử phản ứng của người tham gia chương trình khi gặp một tình huống thể hiện sự bản lĩnh của người khi gặp tình huống như vậy.
Sau khi một đoạn cắt clip của chương trình bị rò tỉ trên trang youtube, tình huống này đã gây một phản ứng dữ dội trong dư luận và dấy lên các hoài nghi về NS Quyền Linh cũng như tính nhân văn của nhà sản xuất chương trình. Đích thân NS Quyền Linh phải lên tiếng "Không nên dừng phát sóng tình huống '"Camera giấu kín'".
| 1 | null |
Cá lúi sọc (Danh pháp khoa học: Osteochilus microcephalus) là một loài cá nước ngọt thuộc họ Cá chép (Cyprinidae), có thân hình cỡ vừa, mình dày và hơi tròn, lưng màu đen.
Phân bố.
Cá lúi sọc phân bố rộng trong khu vực Đông Nam Á, từ hạ lưu sông Mê Kông (Campuchia (Tonle Sap và các chi lưu của sông Mê Kông, bao gồm cả sông Sêrêpôk), Lào (từ thác Khone về phía nam), Thái Lan và Việt Nam) tới lưu vực Salween, Mae Klong và Chao Praya ở Thái Lan (Vidthayanon "et al." 1997), tới Indonesia (Sumatra và Kalimantan), Malaysia (Sarawak và Malaysia bán đảo) và Brunei Darussalam.
Sinh sống trong khu vực từ các con sông suối cao nguyên tới các con sông vùng đất thấp và đầm lầy than bùn. Tìm thấy trong nhiều loại môi trường sống nhưng chủ yếu trong vùng nước chảy chậm và đục. Sống ở vùng nước từ giữa tới đáy trong sông, suối, kênh mương, đầm lầy. Di chuyển vào vùng đất rừng và đồng cỏ bị ngập nước trong mùa lũ. Khi nước rút thì trở về sông, với số lượng đông nhất xuất hiện từ tháng 12 năm trước tới tháng 2 năm sau. Được sử dụng để làm món prahoc ở Campuchia.
Tại Việt Nam, cá lúi sọc sinh sống ở những con sông, suối dọc miền Trung Việt Nam. Loại cá này đặc biệt chỉ có ở sông Côn (Bình Định), sông Ba (Gia Lai) và thường xuất hiện nhiều vào những tháng mùa hè oi bức của miền Trung.
Đặc điểm.
Loại cá này sinh sản nhanh và sống từng đàn, nhưng con lớn nhất cũng thường chỉ bằng độ hai ngón tay, nhỏ thì bằng ngón tay cái, vảy cũng đều sáng bóng. Cá lúi mẹ to đến hai ba ngón tay, con nào cũng mập, mỡ nhiều, bụng đầy trứng. Cá lúi ở suối là mập, xương mềm, thịt thơm, ngọt và xương có vị chát.
Khi đến mùa sinh sản, cá có đặc điểm là từng đàn cá dưới sông cái theo dòng nước chảy trở ngược về đầu nguồn, lên những dòng suối có nhiều thác ghềnh tìm nơi trú ẩn rồi chuẩn bị mùa đẻ trứng. Hằng năm cứ đến đầu mùa nước lũ lên, thì cá lúi mẹ từ trên nguồn xuôi theo con nước xuống đẻ trứng. Đến giữa tháng 11, đầu tháng 12 âm lịch là hết mùa lũ, nước sông trong xanh là cá lúi con theo dòng nước đi ngược lên nguồn nên gọi là cá lúi lên, từng đàn cá dày đặc như tấm chiếu trải.
Chế biến.
Cá lúi sọc là loài đặc sản có giá trị chế biến nhiều món ngon người ở quê không nấu nướng mà thường làm những món dân dã, như cá lúi nấu với rau răm, kho với gừng, kho nghệ, nấu canh rau mương, nấu chua lá giang, nướng dầm nước mắm, cá lúi nướng ăn với rau thơm, cá lúi um nghệ... Tương truyền rằng, chính loại cá này là một trong những loại dược phẩm giúp nghĩa quân Tây Sơn có những ngày đêm hành quân thần tốc để đánh đuổi quân Mãn Thanh.
Đối với món cá lúi suối nướng, không nhất thiết phải làm ruột, không nạo vảy, không ướp bất kỳ gia vị nào mà chỉ cần rửa sơ bằng nước suối, đem nẹp thành từng ghim hoặc từng kẹp rồi nướng đều trên lửa than hồng. Giữ độ nóng vừa phải, tránh cháy sém cá sẽ mất ngon. Cá nướng thường được ăn kèm với các loại rau thơm, rau chuối thái nhỏ, và cơm.
| 1 | null |
Hội chứng căng thẳng (danh pháp khoa học: burnout syndrome) là một thuật ngữ tâm lý - y khoa - xã hội chỉ về hiện tượng kiệt sức hoặc năng suất lao động giảm sút sau một quá trình lao động, hoạt động dài ngày với những triệu chứng như mất ngủ, chóng mặt, ù tai, lo sợ mà không rõ nguyên nhân. Lý thuyết chỉ ra rằng hội chứng này là bao gồm kết quả tiêu cực liên quan đến kiệt sức, do tính chất công việc (hiệu suất, sản lượng...), kết quả liên quan đến sức khỏe (tăng kích thích tố căng thẳng, bệnh tim mạch vành, các vấn đề tuần hoàn) và các vấn đề sức khỏe tâm thần (trầm cảm, vv). Đây là một căn bệnh có mức độ nghiêm trọng với hơn 500.000 nạn nhân theo thống kê năm 2011 ở Đức.
Triệu chứng.
Khi mắc phải hội chứng này, người bệnh thấy cơ thể mệt mỏi, chán chường, nhấc chân nhấc tay cũng không nổi, chẳng buồn ăn uống, tinh thần làm việc hay vui chơi cũng không thể xốc dậy dù được củng cố. Nạn nhân của hội chứng này thường khi còn rất trẻ, trước đó chưa hề có lần đau yếu nghiêm trọng, bỗng nhiên trở nên mệt mỏi dù chưa làm việc bao nhiêu, chợt chán chường dù không có lý do, thậm chí không thể tập trung tư tưởng đến độ đãng trí như người mất hồn.
Thực tế bệnh quá đa dạng, triệu chứng bệnh khá mơ hồ, thậm chí quá thông thường như nhức đầu, chóng mặt, ù tai… nên một số không ít bệnh nhân lọt lưới chẩn đoán, thậm chí người thì nhức đầu, người thì thường mất ngủ khó chẩn đoán. Tuy nhiên một số nhân biết rõ hơn ai hết về cảm giác khó tả, cảm giác ghét công việc đi kèm với nỗi chán chường. Điểm bộc phát là thời điểm nạn nhân không còn hiệu năng như trước nhưng vẫn phải che giấu thực tế là mình đã bị từ lâu.
Trên thực tế cũng có dấu hiệu báo động, thông thường qua ba giai đoạn:
Đối tượng nguy cơ cao.
Số người có nghề nghiệp gắn liền trực tiếp hoặc gián tiếp với sinh hoạt mang tính xã hội, trong số đó giáo viên là ứng viên hàng đầu. Người càng theo đuổi lý tưởng một khi thất vọng vì không vượt nổi chướng ngại trong cuộc sống rất dễ trở thành nạn nhân của hội chứng này. Một số nghề nghiệp ít nhiều đòi hỏi đam mê nhưng cũng đầy gian truân như thầy giáo, thầy thuốc, doanh nhân, vận động viên chuyên nghiệp, văn nghệ sĩ… ở hầu hết nạn nhân đều đang thành đạt, nhiều người thậm chí ở ngay đỉnh cao sự nghiệp lại thêm bề ngoài coi rất khỏe, nhưng bỗng dưng gãy gánh sau khi dẫn đầu gần hết đường đua.
Điều trị.
Chứng burn-out là một dạng bệnh tâm thần đáng ngại nhưng nếu phát hiện sớm, điều trị đúng cách, kịp thời thì chỉ sau một thời gian thuốc thang và được tư vấn chế độ nghỉ ngơi hợp lý, bệnh nhân có thể hoàn toàn khỏi bệnh và trở lại làm việc, học tập bình thường. Nếu để bệnh quá nặng thì khó điều trị khỏi và người bệnh có thể mất hẳn khả năng làm việc, thậm chí khả năng tự chăm sóc bản thân, trong tương lai.
| 1 | null |
Xa lộ Liên tiểu bang 87 (tiếng Anh: "Interstate 87" hay viết tắt là I-87) là một xa lộ liên tiểu bang dài nằm hoàn toàn trong tiểu bang New York tại Hoa Kỳ. I-87 là xa lộ liên tiểu bang-nội tiểu bang dài nhất trong Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang. Điểm đầu phía nam của nó nằm gần khu vực cầu Triborough trong Quận the Bronx thuộc Thành phố New York, và điểm đầu phía bắc của nó nằm ở biên giới Hoa Kỳ và Canada trong thị trấn Champlain nơi nó tiếp tục đi vào tỉnh bang Quebec với tên gọi Xa lộ Quebec 15. I-87 kết nối Xa lộ Liên tiểu bang 95 trong Thành phố New York; Xa lộ Tiểu bang New York 17 gần Harriman; I-84 gần Newburgh; và Xa lộ Liên tiểu bang 90 tại thành phố Albany. Đoạn đường của I-87 giữa ranh giới Thành phố New York và thành phố Albany là một bộ phận thuộc Xa lộ cao tốc Tiểu bang New York. Phía bắc thành phố Albany, I-87 có tên gọi là Adirondack Northway.
Mô tả xa lộ.
Xa lộ cao tốc Thiếu tá Deegan.
I-87 bắt đầu tại nút giao thông khác mức với Xa lộ cao tốc Bruckner (I-278) tại Cầu Triborough ("cầu ba quận"). Trong tiếp theo, I-87 được đặt tên là Xa lộ cao tốc Thiếu tá William Francis Deegan khi nó đi qua Quận the Bronx. Quốc lộ Hoa Kỳ 9 hiện nay chạy song song với Xa lộ Thiếu tá Deegan, và có thể đi đến qua lối ra số 10. I-87 tiếp theo đi vào Công viên Van Cortlandt và có nút giao thông lập thể với Công viên Van Cortlandt ở chiều hướng nam, lối ra số 11. Lối ra 12 dùng để đi đến Xa lộ Công viên Henry Hudson và Xa lộ Công viên Sông Saw Mill. Xa lộ cao tốc Thiếu tá Deegan đi vào Quận Westchester tại thành phố Yonkers và trở thành Xa lộ cao tốc Tiểu bang New York, một xa lộ thu phí toàn tiểu bang dài .
Xa lộ cao tốc Tiểu bang New York.
Đoạn đường giữa ranh giới Thành phố New York và điểm giao cắt với Xa lộ Liên tiểu bang 90 ở thành phố Albany là một phần của Xa lộ cao tốc Tiểu bang New York. I-87 đi vào Quận Westchester tại thành phố Yonkers. Nút giao thông lập thể Phố Yonkers nằm tại vị trí . Khi I-87 đi về hướng bắc, NY 9A bắt đầu chạy song song với nó và có nút giao thông lập thể với nó ở lối ra số 7. Xa lộ Công viên Sông Saw Mill cũng chạy song song, giao cắt tại lối ra 7A. Lối ra số 8 là để đến I-287. Lối ra số 9 là lối ra cuối trước khi đến Cầu Tappan Zee. Lối ra này để đi đến Xa lộ Tiểu bang New York 119 và Quốc lộ Hoa Kỳ 9 lân cận. Xa lộ Liên tiểu bangs 287 và I-87 qua cầu Tappan Zee vào Quận Rockland.
I-87 bắt đầu một đoạn dài trong Quận Rockland. Lối ra 11 là vào phố chính Nyack cho Quốc lộ Hoa Kỳ 9 chiều đi hướng bắc và Xa lộ Tiểu bang New York 59 chiều đi hướng nam. I-87 sau đó đi qua Công viên Quận Mountainview Nature khi nó đến gần lối ra 12, nằm trong khu vực bên ngoài Nyack. Lối ra 12 là một nút giao thông lập thể đi đến Xa lộ Tiểu bang New York 303 và Trung tâm bán hàng Palisades. Xa lộ đầu tiên dài liên đổi đường tại lối ra 13 là Xa lộ Công viên Liên tiểu bang Palisades.
Xa lộ hiện có ba xa lộ nhánh ngắn phụ: I-287 nối với xa lộ mẹ của nó bằng một đoạn đường trùng dài 19 dặm (31 km) gần điểm đầu phía nam của nó. Khi đó I-87 được ghi biển là xa lộ bắc-nam và I-287 là xa lộ đông-tây. Đây là đường tránh đi quanh Thành phố New York. Phía tây đoạn trùng tại lối ra 15, xa lộ đi vòng quanh New York để gặp Xa lộ thu phí New Jersey tại Middlesex County, New Jersey. Phía đông đoạn trùng, I-287 tiếp tục với tên gọi là Xa lộ cao tốc Cross-Westchester để kết thúc tại Xa lộ Liên tiểu bang 95 tại thành phố Rye gần ranh giới tiểu bang Connecticut. Di chuyển lên hướng bắc, Xa lộ Liên tiểu bang 587 là một xa lộ nhánh ngắn phụ dài nối I-87 đến thành phố Kingston. Cuối cùng, không có lối ra trực tiếp đến thành phố Albany từ I-87; thay vào đó, Xa lộ Liên tiểu bang 787 dài đưa xe cộ đi và đến từ I-87 và thủ phủ tiểu bang Albany.
Xa lộ bắc Adirondack.
Phía bắc thành phố Albany, I-87 có tên là Xa lộ bắc Adirondack, và tiếp tục cuộc hành trình của nó đến biên giới Canada nằm tại thị trấn Champlain. I-87 nhập vào Xa lộ bắc tại lối ra 1. Tuy nhiên, Xa lộ bắc bắt đầu tại một vị trí ở phía nam nút giao thông lập thể với I-87 và I-90 tại Quốc lộ Hoa Kỳ 20 trong Guilderland. Xa lộ cao tốc nhánh ngắn này, được người dân địa phương gọi là Xa lộ Tùy chọn Lộ Fuller, được đặt tên là Xa lộ Tiểu bang New York 910F. Giữa lối ra 1 và lối ra 22 (ở Hồ George), I-87 là xa lộ cao tốc 6 làn xe với 3 làn xe mỗi chiều.
Giữa lối ra 2 và 5, I-87 chạy song song với Lộ Wolf Road qua thị trấn Colonie. Phần phía nam của Xa lộ bắc đi qua Colonie và Quận Saratoga hiện nay là con đường có đông xe cộ. Từ khi xa lộ được xây dựng, Quận Saratoga đã trở thành khu vực phát triển nhanh nhất của vùng thủ phủ và thật sự tất vùng thượng tiểu bang New York.
Tại làng Lake George, I-87 kết nối với Quốc lộ Hoa Kỳ 9 và Xa lộ Tiểu bang New York 9N tại lối ra 22 bằng một xa lộ hai làn xe ngắn có tên là Xa lộ Kết nối Lake George. Tại đây người lái xe có thể nhìn thấy các biển dấu đầu tiên của Xa lộ Quebec 15 khi đi về phía bắc đến Canada.
Tại mốc dặm 100 trong chiều đi hướng nam của I-87, có một trạm tuần tra biên giới của Quan thuế Hoa Kỳ. Trạm này được đưa vào sử dụng sau vụ tấn công khủng bố 11 tháng 9.
Trong Quận Clinton, các biển dấu từ lối ra 34 đến lối ra 43 được viết bằng hai thứ tiếng là tiếng Anh và tiếng Pháp vì đoạn này nằm gần tỉnh bang Quebec. Các biển dấu của Xa lộ Quebec 15 cũng được dựng khi Xa lộ bắc tiến đến gần biên giới Canada.
Danh sách lối ra.
Các lối ra dưới đây thực hiện theo bảng chỉ dẫn thực tế, và biển dặm 0,00 nằm ngay phía bắc của cầu vượt với I-90.
Các xa lộ phụ trợ.
Xa lộ này có ba tuyến đường nhánh hiện tại, tất cả đều nằm dọc theo phần thu phí của I-87. I-287 là một đoạn đường vành đai xung quanh thành phố New York, bắt đầu tại xa lộ thu phí New Jersey ở quận Middlesex, New Jersey, và kết thúc tại I-95 (tại New England Thruway) gần ranh giới bang Connecticut ở Rye. I-287 và I-87 chồng lên nhau một đoạn 19 dặm (31 km) trên Westchester và quận Rockland. Phía đông nút giao cắt, I-287 được gọi là cao tốc Cross-Westchester. Hai đường nhánh khác, I-587 dài và I-787 dài , kết nối I-87 tới hai thành phố Kingston và Albany.
Hai xa lộ phụ của I-87 đã được lên kế hoạch nhưng không bao giờ được xây dựng. Trong Thung lũng Hudson, I-487 sẽ chạy dọc theo sông Hudson từ I-87 và I-287 ở Tarrytown đến I-84 phía đông Beacon. Một xa lộ khác, I-687, sẽ kết nối I-90 ở Albany với I-87 gần Sân bay Quốc tế Albany ở Colonie. Cả hai tuyến đường đều bị hủy bỏ vào những năm 1970 do hậu quả của sự phản đối của công chúng.
| 1 | null |
Thượng Đô (, ), còn được gọi là Xanadu (; Mông Cổ: "Šandu") là thủ đô dưới chế độ cai trị của hoàng đế Mông Cổ Hốt Tất Liệt thời nhà Nguyên ở Trung Quốc, trước khi dời đô về Trung Đô () mà sau đó được đổi thành Khanbaliq, Bắc Kinh ngày nay. Sau đó nó trở thành thủ đô mùa hè, nằm ở Chính Lam, Nội Mông.
Marco Polo từng ghé thăm Thượng Đô vào năm 1275 trước khi nó bị phá hủy vào năm 1369 bởi quân đội nhà Minh dưới thời Chu Nguyên Chương. Năm 1797, lịch sử của thành phố này đã truyền cảm hứng cho nhà thơ lãng mạn người Anh Samuel Taylor Coleridge sáng tác ra bài thơ nổi tiếng "Kubla Khan"
Mô tả.
Thượng Đô ngày nay là một di tích nằm tại thị trấn Thượng Đô, Chính Lam, Nội Mông. Nó nằm cách 350 km về phía bắc của Bắc Kinh, và về tây bắc của thị trấn Dolon Nor khoảng 28 km. Bố trí của thành phố gần như là hình vuông với cạnh khoảng 2.200 mét. Nó bao gồm khu ngoại thành và một khu nội thành nằm ở phía đông nam. Khu nội thành cũng được bố trí như một hình vuông với cạnh là 1.400 mét là nơi có cung điện của hoàng đế, nơi Hốt Tất Liệt cư trú vào mùa hè. Cung điện có mặt ngoài khoảng 550 mét, có diện tích bằng khoảng 40% diện tích của Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh. Tàn tích có thể nhìn thấy là bức tường đất, mặc dù vẫn còn nền gạch.
Tên của thành phố ban đầu là Khai Bình (, "Kāipíng"), được thiết kế bởi kiến trúc sư Lưu Bỉnh Trung (1252-1256) và nó mang ảnh hưởng của kiến trúc Trung Quốc sâu sắc. Năm 1264, nó được đổi tên thành Thượng Đô. Thời kỳ đỉnh cao, thành phố là nơi có 100.000 người sinh sống bên trong các bức tường. Năm 1369, Thượng Đô bị chiếm đóng bởi quân đội nhà Minh, bị phá hủy và đổi tên thành Khai Bình. Vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyên là Nguyên Huệ Tông đã chạy trốn khỏi thành phố, và nó bị bỏ hoang trong vài thế kỷ kế tiếp.
Năm 1872, Steven Bushell phối hợp cùng với Quân đội Anh ở Bắc Kinh đã đến nơi này và đã báo cáo về những đền đài, khối đá cẩm thạch lớn và nền gạch còn sót lại tại đó. Vào những năm 1990, tất cả các hiện vật đã biến mất, và rất có thể nó đã bị những người dân ở thị trấn Dolon Nor gần đó thu thập để xây nhà ở. Các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc vẫn được nhìn thấy trong các bức tường của một số tòa nhà Dolon Nor.
Ngày nay, Thượng Đô chỉ còn là một tàn tích được bao quanh bởi một gò phủ đầy cỏ trước đây là bức tường thành phố. Từ năm 2002, những nỗ lực để phục hồi di tích này đã được thực hiện. Tháng 6 năm 2012, Thượng Đô đã trở thành Di sản thế giới của UNESCO.
| 1 | null |
Chuyển động lăn là chuyển động kết hợp giữa chuyển động quay và chuyển động tịnh tiến. Ở điều kiện lý tưởng, thì một vật có thể chuyển động lăn tương đối so với một vật khác mà không bị trượt.
Các công thức vật lý.
Ta xét tại một thời điểm, vật thể lăn có thể được xem như đang xoay quanh điểm tiếp xúc với bề mặt lăn, các điểm tiếp xúc sẽ thay đổi theo thời gian. Khi vật thể quay được 1 vòng, nó sẽ di chuyển được 1 đoạn bằng chu vi đường tròn, mỗi điểm trên đường tròn sẽ tiếp xúc với mặt phẳng lăn 1 lần.
Khi vật thể quay được một góc θ, thì quãng đường mà khối tâm đã dịch chuyển là:
với:
Xét các điểm trên đỉnh của đường tròn:
Suy ra:
Điểm trên đỉnh của đường tròn sẽ có tốc độ tương đối so với mặt đất gấp 2 lần vận tốc của khối tâm.
Xét các điểm tiếp xúc với mặt đất
Điểm tiếp xúc với mặt đất có một tốc độ bằng 0, tức là đang đứng im.
Giả sử nêm đứng yên thì vận tốc và vận tốc góc ở trên dốc có thể tính bằng cách sử dụng định luật bảo toàn năng lượng:
Với:
Theo định luật bảo toàn năng lượng, ta có:
Khi vật thể lăn:
Suy ra:
Ứng dụng.
Chuyển động lăn được ứng dụng để làm giảm ma sát trong các chi tiết hay bộ phận máy (từ ma sát trượt chuyển thành ma sát lăn): các ổ bi, ổ trục, các điểm tiếp xúc cơ khí hay cảm biến...
| 1 | null |
Vũ Văn Hiền (1910 - 1961) là một nhà báo, chính khách, chuyên gia về Luật và Tài chính Việt Nam. Ông đồng sáng lập báo Thanh Nghị dưới thời Pháp thuộc, và là Bộ trưởng Bộ Tài chính trong chính phủ Trần Trọng Kim.
Thân thế.
Ông sinh năm 1910 tại thôn Thổ Cầu, xã Nghĩa Dân, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên trong một gia đình nhà Nho nghèo. Mồ côi cha từ nhỏ, ông đã được họ hàng nuôi ăn học cho tới bằng Tú tài bản xứ. Từ đó, ông tự mưu sinh học tập, đỗ thủ khoa Cử nhân Luật tại Hà Nội năm 1937 và nhận được học bổng du học tại Pháp. Ông tốt nghiệp Tiến sĩ Luật khoa Đại học Paris năm 1939, với luận án "La propriété communale au Tonkin".
Hoạt động chính trị.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ông từ Pháp trở về quê hương. Từ 1939 đến 1941, ông làm trợ tá cho giám đốc Nha Tài chánh Đông Dương tại Hà Nội, trước khi mở văn phòng luật sư riêng của mình. Năm 1941, ông cùng Vũ Đình Hòe và Phan Anh chủ trương ra báo Thanh Nghị, cơ quan ngôn luận tập hợp những trí thức trẻ yêu nước. Ông là cây bút cột trụ của tờ báo, với bút hiệu Tân Phong. Tờ báo được phát hành cho tới năm 1945.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. Vua Bảo Đại mời Trần Trọng Kim làm thủ tướng chính phủ, và nội các được thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945. Ông được mời tham gia chính phủ này ở chức Bộ trưởng Bộ Tài chính. Với tư cách đó, ông tích cực trong "Hội đồng Cải cách Tư pháp và Tài chính" gồm 16 thành viên với nhiệm vụ soạn thảo cơ cấu mới cho chính phủ Đế quốc Việt Nam.
Sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố thành lập, Ông được mời tham gia phái đoàn Việt Nam, do Nguyễn Tường Tam dẫn đầu, đàm phán với Pháp tại Hội nghị Đà Lạt để chuẩn bị cho một hội nghị ở Pháp, với vai trò Tổng thư ký. Ông tiếp tục được chọn vào phái đoàn Việt Nam đi Hội nghị Fontainebleau diễn ra sau đó, nhưng cuối cùng ông bị bệnh nên đã không đi.
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam tại nhà tù Hỏa Lò Hà Nội một thời gian. Năm 1954, ông và gia đình di cư vào Nam, ở Sài Gòn. Từ đó ông ngừng mọi hoạt động chính trị. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục sự nghiệp luật sư, nổi bật tại các phiên tòa xử những vụ án lớn về chính trị và tài chánh. Đồng thời, ông giảng dạy ở khoa Luật Đại học Sài Gòn.
Ông còn là tác giả của một số sách chuyên môn về kinh tế và tài chính, xuất bản ở Hà Nội và Sài Gòn.
Ông mất năm 1961 tại Sài Gòn.
Gia đình.
Vợ ông là bà "Nguyễn Thị Quyên", từng phụ trách nhà xuất bản và tiệm sách "Sông Nhị" ở Hà Nội. Cuối đời, bà viết sách lịch sử và sáng tác văn chương, dưới bút hiệu "Nguyễn Thi".
| 1 | null |
"Iris" là một cái vịnh nhỏ nằm về phía nam của mũi Muller và tọa lạc ở phía đông nam của đảo Nam Georgia, cách mũi Vahsel 6 dặm (10 km) về phía tây bắc. Vịnh nhỏ này được đoàn thám hiểm của James Cook tìm ra năm 1775 và đặt tên là "vịnh Sandwich", theo tên của John Montagu, 4 Earl of Sandwich. Cái tên vịnh Iris được chính thức sử dụng cho đến ngày nay sau cuộc khảo sát Nam Georgia năm 1951 - 1952.
| 1 | null |
Royal là một vịnh nhỏ, rộng khoảng 4 dặm (6 km), nằm giữa mũi Charlotte và mũi Harcourt, dọc theo bờ biển phía bắc của Nam Georgia. Giống như các nơi khác trên đảo, vịnh là nơi có nhiều loài chim sinh sống và sinh sản tại đây, trong đó có chim cánh cụt vua, chim cánh cụt gentoo và chim cốc mắt xanh.
Vịnh Royal được phát hiện và đặt tên bởi đoàn thám hiểm người Anh của James Cook vào năm 1775.
| 1 | null |
Xa lộ Liên tiểu bang 83 (tiếng Anh: "Interstate 83" hay viết tắt là I-83) là một xa lộ liên tiểu bang trong miền đông Hoa Kỳ. Điểm đầu phía nam nằm tại thành phố Baltimore, Maryland tại lối ra Phố Fayette; điểm đầu phía bắc nằm tại thành phố Harrisburg, Pennsylvania tại Xa lộ Liên tiểu bang 81.
Phần lớn đoạn đường ở phía nam Lemoyne, Pennsylvania thay thế Quốc lộ Hoa Kỳ 111, một cựu xa lộ nhánh phụ của Quốc lộ Hoa kỳ 11.
Mô tả.
Maryland.
Xa lộ cao tốc Thác Jones.
Xa lộ cao tốc Thác Jones, được dân địa phương gọi tắt là JFX, là một xa lộ cao tốc dài và nó mang theo Xa lộ Liên tiểu bang 83 đoạn từ phố chính thành phố Baltimore đến các khu ngoại ô phía bắc. Đây là một xa lộ huyết mạch bắc–nam của khu vực này vì Xa lộ Liên tiểu bang 95 gần như chạy theo hướng đông–tây khi đi qua phần lớn thành phố. Điểm đầu phía nam là ở Phố Fayette, và điểm đầu phía bắc ở Xa lộ Maryland 25, ngay phía bắc của Xa lộ vành đai Baltimore (I-695).
Xa lộ bắt đầu tại một ngã tư cùng mặt lộ giữa Xa lộ cao tốc Thác Jones, Phố Fayette, và Phố President. Con đường của Phố President tiếp tục đi hướng nam dọc theo rìa phía đông của khu thương mại trung tâm để kết thúc tại một vòng xoay gần bến tàu Inner]]. Phố Fayette phục vụ như một con đường đi đến khu vực phố chính.
Đi bên dưới Cầu cạn Phố Orleans (một đoạn thuộc Quốc lộ Hoa Kỳ 40), JFX đi theo hướng bắc, đi ngang gần tượng đài Washington. Giữa lối ra 3 và 4, có một khúc quanh 90 độ mà đôi lúc bắt buộc người lái xe phải giảm tốc đội ngay trước khi đi vào.
Sau khi qua khúc cong, JFX bắt đầu đi song song với MD 25, liên đổi đường với Phố North (là phố mang Quốc lộ Hoa Kỳ 1 và Quốc lộ Hoa Kỳ 40 dành cho xe tải) trước khi tiếp tục hướng bắc qua Hồ Druid. Chạy theo hướng tây bắc ra khỏi trung tâm thành phố, JFX đi song song với dòng nước mà xa lộ mang tên đó là Thác Jones. Phía bên kia dòng nước là hệ thống Đường sắt nhẹ Baltimore. Gần phố chính, tuyến đường sắt nhẹ đổi sang hướng khác trong khi đó con thác chảy ngay bên dưới đoạn đường nâng cao của xa lộ cao tốc I-83. Sau khi liên đổi đường với Đường Cold Spring và Xa lộ Công viên Northern, JFX ra khỏi Baltimore, đi vào Quận Baltimore.
Tại xa lộ vành đai, I-83 rời JFX và nhập vào I-695 khoảng và rồi tách rời để tiếp tục đi vào miền bắc Maryland. JFX tiếp tục thêm trước khi kết thúc tại một điểm giao cắt cùng mặt lộ với Xa lộ Maryland 25 (Lộ Falls). I-83 và I-695 tách rời tại điểm cuối phía nam của Xa lộ cao tốc Baltimore-Harrisburg. I-695 tiếp tục đi hướng đông qua Towson và Parkville.
Xa lộ cao tốc Baltimore-Harrisburg.
Sau khi rời khỏi từ Xa lộ vành đai, I-83 giờ đây được biết với tên gọi Xa lộ cao tốc Baltimore-Harrisburg. Đi theo hướng bắc khỏi xa lộ vành đai, I-83 chạy song song với Xa lộ Maryland 45 (Lộ York), đây là cựu Quốc lộ Hoa Kỳ 111. Đi ngang phía tây của Timonium và Cockeysville, I-83 rời vành đai ngoại ô quanh thành phố Baltimore và đi vào Quận Baltimore nông thôn ở ngay phía bắc cộng đồng Hunt Valley tại Lộ Shawan. I-83 và MD 45 tiếp tục chạy song song với nhau qua phần phía bắc của quận.
Khu định cư lớn duy nhất mà đoạn đường I-83 đi qua là Monkton nhưng phải đi qua Xa lộ Maryland 137. Ở phía tây I-83, MD 137 nối với điểm đầu phía bắc của MD 25, đây là con đường đồng hành củ của I-83 về phía nam.
Xa lộ liên tiểu bang sau cùng đi qua đường vạch Mason-Dixon để vào Quận York, Pennsylvania, khoảng ở phía bắc thành phố Baltimore.
Pennsylvania.
I-83 vào tiểu bang Pennsylvania qua đường vạch Mason-Dixon và đi qua phía đông xã Shrewsbury, và chạy theo hướng bắc đến York. Xa lộ đi tránh các xã Loganville và Jacobus trước khi vào thành phố York.
I-83 là xa lộ liên tiểu bang độc nhất vô nhị trên duyên hải phía đông Hoa Kỳ có xa lộ thương mại đi qua phố chính York, được biết với tên gọi Xa lộ Thương mại Liên tiểu bang 83. Xa lộ thương mại này đi theo con đường cũ của US 111, trong khi I-83 quay hướng đông bắc và rồi trở về hướng bắc để đi tránh khu vực đô thị. Gần Xa lộ Pennsylvania 462, Xa lộ Lincoln, xa lộ liên tiểu bang quay hướng tây một đoạn ngắn và rồi quay về hướng bắc để liên đổi đường với Quốc lộ Hoa Kỳ 30. Bên ngoài Quốc lộ Hoa Kỳ 30, I-83 tiếp tục với một đường thẳng, đi theo hướng bắc ra khỏi thành phố York và đi qua phía tây Emigsville.
Phía bắc Xa lộ Pennsylvania 295, I-83 có tên là Xa lộ cao tốc Susquehanna. Tên này vẫn giữ khi nó đi qua phía nam và tây Valley Green, tiếp tục hướng bắc về Harrisburg. Phía nam Harrisburg, I-83 có nút giao thông lập thể với Xa lộ Liên tiểu bang 76, Xa lộ thu phí Pennsylvania. Phía bắc I-76, I-83 tiếp tục hướng bắc, đi qua New Cumberland, trước khi nhập với Xa lộ Pennsylvania 581 tại Lemoyne.
Sau khi nhập với PA 581, I-83 có tên là Xa lộ cao tốc Harrisburg. Xa lộ quay sang hướng đông bên trong đoạn nhập và qua Sông Susquehanna bằng Cầu John Harris ở phía nam khu thương mại trung tâm của phố chính thành phố Harrisburg, đi qua Paxtang trước khi gặp Xa lộ Liên tiểu bang 283 và Quốc lộ Hoa Kỳ 322 tại nút giao thông lập thể Eisenhower.
Bên ngoài nút giao thông lập thể, I-83 lại đi theo hướng bắc qua đông Harrisburg, liên đổi đường với Quốc lộ Hoa Kỳ 22 ở đông bắc khu thương mại trung tâm trước khi kết thúc tại nút giao thông lập thể Xa lộ Liên tiểu bang 81.
Các xa lộ phụ trợ.
I-83 có duy nhất một xa lộ nhánh phụ: Xa lộ Liên tiểu bang 283, đây là xa lộ nối đến Xa lộ Liên tiểu bang 76 và PA 283 ở đông nam thành phố Harrisburg.
Các xa lộ thương mại.
Xa lộ vòng thương mại của York, Pennsylvania.
Xa lộ Thương mại Liên tiểu bang 83 là một xa lộ liên tiểu bang ngắn tại York, tiểu bang Pennsylvania. Đầu phía bắc của nó nằm tại I-83 và Xa lộ Pennsylvania 181 phía bắc York. Điểm đầu phía nam nằm tại I-83, phía nam York. Con đường này có tên là Phố George trên phần lớn chiều dài của nó.
Xa lộ Thương mại I-83 là xa lộ thương mại duy nhất của I-83 và là xa lộ thương mại liên tiểu bang duy nhất tại tiểu bang Pennsylvania mặc dù việc này thay đổi vào năm 2009 khi Xa lộ Thương mại Pennsylvania 60 tại Xã Moon, Pennsylvania gần thành phố Pittsburgh được cắm biển là Xa lộ Thương mại Liên tiểu bang 376 khi con đường hiện thời của PA 60 trở thành một đoạn nối dài của I-376. Con đường này được xây năm 1958 nhưng được cắm biển năm 1957. Xa lộ Thương mại I-83 đi qua phố chính York trên Lộ George, đây là xa lộ huyết mạch nam-bắc chính của thành phố.
| 1 | null |
Khói là tập hợp các khí và các hạt chất lỏng hoặc chất rắn lơ lửng trong không khí sinh ra khi một nguyên liệu bị đốt cháy hoặc chưng khô, khô cạn, sau phản ứng có sinh ra chất khí có màu, kèm theo đó là một lượng không khí bị cuốn theo và trộn lẫn vào các phần tử đó.
| 1 | null |
Nguyễn Ngọc Huy (1924-1990) là một chính khách Việt Nam Cộng hòa và một nhà thơ, nhà văn người Việt Nam. Ông là một trong những người sáng lập đảng Tân Đại Việt và là Tổng thư ký đầu tiên của đảng này. Ông cũng là Tổng thư ký của Phong trào Quốc gia Cấp tiến và là một thành viên trong phái đoàn Việt Nam Cộng hòa tham dự Hòa đàm Paris.
Thân thế.
Ông sinh ngày 2 tháng 11 năm 1924 tại Hôpital Indigène de Cochinchine ("Bệnh viện bản xứ Nam Kỳ") Chợ Lớn, Đông Dương thuộc Pháp.
Nguyên quán của ông thuộc làng Mỹ Lộc, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Thuở nhỏ, ông theo học bậc tiểu học ở trường xã Mỹ Lộc rồi sau đó là trường quận Tân Uyên. Đến bậc Trung học, ông theo học tại trường Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký.
Khởi đầu sự nghiệp chính trị.
Năm 1943, ông ra làm thư ký hành chính tại Tòa Hành chính Cần Thơ. Tại đây, ông tiếp xúc với một số đảng viên Đại Việt Quốc dân đảng và gia nhập đảng này vào đầu năm 1945, sinh hoạt trong Xứ bộ Nam Việt.
Khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông tham gia kháng chiến một thời gian ngắn. Khi chiến sự lan rộng, năm 1946, ông về Sài Gòn làm việc trong một thư viện. Thời gian này, ông tham gia viết các bài báo cho báo Thanh Niên và báo Đuốc Việt của đảng Đại Việt với các bút hiệu Việt Tâm, Hùng Nguyên, Cuồng Nhân, Ba Xạo.
Khi người Pháp bắt đầu tìm cách liên kết với các tổ chức chính trị chống Cộng để chống lại phong trào độc lập của Việt Minh, ông cùng nhiều đảng viên Đại Việt khác bắt đầu hoạt động công khai. Năm 1949, ông làm giảng viên chính trị cho trường Cán bộ Thanh niên Nha Trang. Năm 1950, ông cho xuất bản tập thơ Hồn Việt với bút danh Đằng Phương.
Năm 1951, ông được điều động ra Bắc để hoạt động cho Thanh niên Bảo quốc Đoàn. Đến năm 1953, khi Thanh niên Bảo quốc Đoàn bị giải tán, ông về lại Sài Gòn và dạy quốc văn ở trường tư thục Lê Bá Cang.
Lưu vong lần thứ nhất.
Sau Hiệp định Genève, lo ngại trước viễn cảnh cát cứ, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã lần lượt tiêu diệt các thế lực chính trị đối lập mạnh tại miền Nam, trong đó có Đại Việt. Các chiến khu Nguyễn Huệ (Phú Yên) và Châu Đốc đều bị giải tán, chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị) bị quân đội tiến đánh khiến tan vỡ. Nhiều lãnh đạo Đại Việt bị bắt giam, thủ tiêu. Một số khác bị buộc phải lưu vong ra nước ngoài như Nguyễn Tôn Hoàn lưu vong sang Pháp. Ông được các lãnh đạo Đại Việt chỉ định cùng đi Pháp phụ giúp cho ông Nguyễn Tôn Hoàn.
Tại Pháp, ông vừa làm việc tại quán ăn Sông Hương ("la Rivière des parfums"), vừa đi học tại Viện Đại học Paris ("Université de Paris"). Ông lần lượt tốt nghiệp Viện Nghiên cứu chính trị Paris năm 1958, Cử nhân Luật khoa và Khoa học Kinh tế năm 1959, Cao học Chính trị năm 1960 và Tiến sĩ Chính trị học năm 1963.
Về nước và lưu vong lần thứ hai.
Sau Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963, ông về nước. Không lâu sau đó, lãnh tụ Đại Việt Nguyễn Tôn Hoàn cũng về nước và được Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng Nguyễn Khánh bổ nhiệm vào chức vụ Phó thủ tướng đặc trách bình định. Ông được ông Hoàn bổ nhiệm vào chức vụ Đổng lý Văn phòng cho mình. Tuy nhiên không lâu sau, Phó thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn từ chức để phản đối Hiến chương Vũng Tàu. Đổng lý Nguyễn Ngọc Huy cũng rời khỏi chức vụ. Ông lưu vong lần thứ hai ở Hongkong vào tháng 9 năm 1964. Tháng 10 năm 1964, ông sang Nhật Bản. Bấy giờ lãnh tụ Nguyễn Tôn Hoàn cũng lưu vong tại đây sau vụ binh biến thất bại của tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát. Thất vọng với chính trường Việt Nam Cộng hòa, ông Hoàn từ bỏ hoạt động chính trị để tiếp tục ở lại Pháp, để lại quyền lãnh đạo Đại Việt cho người phụ tá lâu năm của mình.
Thành lập đảng Tân Đại Việt.
Ngày 26 tháng 10 năm 1964, Thượng hội đồng Quốc gia được thành lập với Phan Khắc Sửu là Quốc trưởng và Trần Văn Hương làm Thủ tướng. Ông trở về nước tiếp tục hoạt động. Tuy nhiên, giữa các lãnh đạo Đại Việt có sự phân hóa trầm trọng. Trước tình hình này, đến ngày 14 tháng 11 năm 1964, ông cùng một nhóm các đảng viên Đại Việt, chủ yếu là các đảng viên trẻ ở vùng Lục tỉnh, tập hợp và lập ra một chính đảng mới lấy tên là Tân Đại Việt. Ông được cử giữ chức Tổng thư ký của đảng, sau đó là Tổng thư ký của Phong trào Quốc gia Cấp tiến, một tổ chức ngoại vi của đảng Tân Đại Việt nhằm để thu hút các thành phần không phải đảng viên nhưng hợp tác được với nhau.
Chính khách - Giáo sư.
Năm 1965, ông được mời về làm Giáo sư Chính trị học và Luật Hiến pháp tại Học viện Quốc gia Hành chánh. Ông còn là giảng viên cho nhiều trường và viện đại học khác như Đà Lạt, Huế, Cần Thơ, Vạn Hạnh, Minh Đức và Đại học Sư phạm Sài Gòn, các trường quân sự như trường Cao đẳng Quốc phòng, trường Tham mưu Cao cấp, Đại học Chiến tranh Chính trị... Năm 1974, ông là một trong những sáng lập viên của trường Cao đẳng Thương mại Minh Trí.
Về sự nghiệp chính trị, năm 1967, ông được bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng Dân quân. Năm 1968, ông được cử làm thành viên phái đoàn Việt Nam Cộng hòa tham dự Hòa đàm Paris cho đến năm 1970. Năm 1973, ông là thành viên phái đoàn Việt Nam Cộng hòa tham dự cuộc thương thuyết La Celle Saint Cloud. Ông cũng là thành viên sáng lập và là đồng Chủ tịch của Liên minh Dân chủ Xã hội, một mặt trận gồm 6 chính đảng đối lập theo xu hướng dân chủ trên chính trường Việt Nam Cộng hòa.
Lưu vong lần thứ ba và nỗ lực cuối đời.
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, quyết định ban đầu của ông là ở lại Việt Nam để tiếp tục tranh đấu vì ông cho rằng mình là người đứng đầu một đảng phái chính trị nên không thể bỏ lại đồng đội. Sau đó, theo ý kiến của Giáo sư Stephen Young, Cố vấn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về vấn đề Việt Nam rằng "Nguyễn Ngọc Huy có thể bị ám sát theo lệnh của Lê Duẩn" nên ông quyết định tị nạn chính trị tại Hoa Kỳ.
Những ngày đầu tại Hoa Kỳ, ông làm chuyên gia khảo cứu cho Đại học Harvard, tham gia việc dịch Bộ luật Hồng Đức ra tiếng Anh cũng như chú giải bộ luật này.
Năm 1981, ông tập hợp các thành viên cũ trong Phong trào Quốc gia Cấp tiến và một số nhân sĩ độc lập lưu vong tại hải ngoại để thành lập Liên minh Dân chủ Việt Nam, do ông làm Chủ tịch Ủy ban chấp hành Trung ương. Năm 1986, ông sáng lập và làm Ủy viên danh dự của Ủy ban quốc tế Yểm trợ Việt Nam tự do.
Ngày 28 tháng 5 năm 1988, ông và cựu Đại sứ Bùi Diễm tổ chức cuộc họp với các lãnh đạo của ba hệ phái Đại Việt tại San José, California, đề nghị thống nhất Đại Việt Quốc dân Đảng, nhưng không thành. Ngày 28 tháng 7 năm 1990, ông qua đời tại Paris, Pháp và ý định thống nhất ba đảng Đại Việt cũng tan thành mây khói.
| 1 | null |
Bảo quản thực phẩm là quá trình xử lý thức ăn nhằm ngăn chặn hoặc làm chậm việc thức ăn bị hư hỏng (giảm chất lượng và giá trị dinh dưỡng hoặc không thể ăn được), nhờ đó thực phẩm giữ được lâu hơn.
Phương pháp bảo quản thường liên quan đến việc ngăn ngừa sự phát triển của vi khuẩn, nấm men, nấm mốc...(mặc dù đôi khi người ta đưa vào thực phẩm các loại vi khuẩn và nấm lành tính để bảo quản) cũng như làm chậm quá trình oxy hóa của chất béo để tránh ôi thiu. Bảo quản thực phẩm còn bao gồm các quá trình kiềm chế sự suy giảm thẩm mỹ của thức ăn, ví dụ phản ứng hóa nâu bởi enzyme ở quả táo sau khi cắt, xảy ra trong khâu chuẩn bị thực phẩm.
Các kỹ thuật truyền thống.
Phơi khô.
Phơi khô là một trong những phương pháp bảo quản thực phẩm cổ xưa nhất. Nó làm giảm hoạt độ nước đủ để ngăn chặn hoặc trì hoãn sự phát triển của vi khuẩn.
Làm lạnh.
Làm lạnh giúp bảo quản thức ăn bằng cách làm chậm sự phát triển và sinh sôi của vi sinh vật cũng như các phản ứng của enzym gây thối rữa thực phẩm.
Đông lạnh là phương pháp bảo quản thực phẩm bằng cách hạ nhiệt độ nhằm biến nước trong thực phẩm thành đá do đó làm ngăn cản sự phát triển của vi sinh vật dẫn đến sự phân hủy của thực phẩm diễn ra chậm. Làm đông cũng giống như làm lạnh nhưng mà nhiệt độ làm đông thấp hơn làm lạnh.
Ướp muối.
Ướp muối là một phương pháp bảo quản và chế biến thức ăn bằng cách trộn chúng với muối ăn, nhờ vào khả năng ức chế vi sinh vật gây thối của muối ăn. Ngoài ra, muối ăn cũng có tác dụng làm giảm các ảnh hưởng của các enzym gây hư hỏng. Quá trình ướp muối có thể kết hợp với ướp nước đá lạnh.
Ướp đường.
Đường có tác dụng làm dịu vị mặn muối ăn, tạo điều kiện cho vi khuẩn lactic hoạt động, kìm hãm sự phát triển vi khuẩn gây thối.
Muối chua.
Muối chua là cách bảo quản thực phẩm tốt nhất bằng cách đặt hoặc nấu nó trong một chất ức chế phù hợp cho tiêu dùng của con người, điển hình như ngâm nước muối (nhiều muối), giấm, rượu và dầu thực vật, nhất là dầu ô liu nhưng cũng có nhiều loại dầu khác. Hầu hết các quá trình muối chua nào cũng liên quan đến việc nấu hoặc đun sôi để các thực phẩm bảo quản trở nên bão hòa với các chất dùng để muối chua. Các thực phẩm qua phương pháp muối chua cũng làm cho chúng trở nên khó tiêu hóa hơn.
Kỹ thuật hiện đại.
Hút chân không.
Môi trường chân không sẽ hạn chế tối đa oxy nhờ đó không gây ra phản ứng giữa oxy với thực phẩm. Nó ức chế sự phát triển của vi khuẩn giúp bảo quản thức ăn tốt hơn. Người ta sử dụng máy móc (máy hút chân không) hoặc các loại túi hút chân không để tạo ra một môi trường chân không và cho thực phẩm vào đó.
| 1 | null |
Bellubrunnus là một chi (có nghĩa là "cái đẹp của Brun" trong tiếng Latin) thằn lằn có cánh Rhamphorhynchidae từ cuối kỷ Jura (giai đoạn Kimmeridgia) ở miền nam nước Đức. Nó chứa một loài duy nhất, "Bellubrunnus rothgaengeri". Bellubrunnus được phân biệt từ các "rhamphorhynchidae" khác bởi thiếu các chỗ nhô ra trên các đốt sống đuôi, ít răng ở hàm, và đầu cánh đường cong về phía trước chứ không phải là xuôi ngược như thằn lằn bay khác.
Phát hiện.
"Bellubrunnus" được biết đến từ một bộ xương khớp nối hoàn chỉnh được gọi là BSP-1993-XVIII-2. Nó được tìm thấy vào năm 2002 bởi một nhóm khai quật dẫn đầu bởi Monika Rothgaenger, trùng tên của loài. Nó được bảo quản dưới bụng, có nghĩa là mặt dưới của bộ xương có thể được nhìn thấy từ các phiến đá vôi. Mẫu vật được đặt trong Viện bảo tàng Bürgermeister-Müller, mặc dù nó được xếp vào mục lục cho Paläontologie Staatssammlung Bayerische für und historische. Nó đến từ một mỏ đá gần ngôi làng Brunn, Upper Palatinate, trong một lớp đá nằm dưới lớp đá vôi được biết đến nhiều hơn Solnhofen. Mỏ đá từ giai đoạn Kimmeridgian của thời kỳ cuối kỷ Jura, khoảng 155-150.000.000 năm trước đây. Tia cực tím chiếu sáng tiết lộ nhiều chi tiết của hóa thạch.
| 1 | null |
Crocus vernus là một loài hoa thuộc họ Diên vĩ. Việc trồng trọt loài cây này và "Crocus flavus" được sử dụng làm cây cảnh. "Crocus flavus" lớn hơn so với các loài cây diên vĩ được trồng khác (ví dụ, "Crocus chrysanthus"). Tùy thuộc vào năm, "Crocus vernus" bắt đầu ra hoa cùng một thời điểm hoặc lên đến 2 tuần sau khi "Crocus chrysanthus" bắt đầu ra hoa. Chiều cao loài này từ 10–15 cm.
| 1 | null |
Điều hòa thân nhiệt là khả năng duy trì nhiệt độ cơ thể của một sinh vật trong các giới hạn nhất định, ngay cả khi nhiệt độ môi trường xung quanh chênh lệnh lớn với nhiệt độ cơ thể của nó. Một sinh vật biến nhiệt, thì ngược lại, chỉ tiếp thu nhiệt độ môi trường làm nhiệt độ của chính cơ thể nó, do đó không cần đến sự điều nhiệt nội môi. Quá trình kiểm soát nhiệt nội môi là một phương diện của cân bằng nội môi.
Với sự ra đời của nhiệt kế, ta có thể thu được các số liệu chính xác về nhiệt độ trên cơ thể động vật. Dựa trên đó, sự khác biệt về nhiệt độ giữa các vùng khác nhau trên một cơ thể sinh vật được phát hiện, sự khác biệt này là do sự sinh và thải nhiệt ở mỗi cơ quan trên cơ thể khác nhau, với nhiệt độ của máu thường là nhiệt độ trung bình của các nội tạng trong cơ thể sinh vật đó.
Phân loại thú dựa trên các tính chất về nhiệt.
Dựa trên sự kiểm soát nhiệt ở sinh vật sống, trước đây các nhà khoa học chia chúng ra thành động vật máu nóng và động vật máu lạnh.
Sau này, với nhiều nghiên cứu về khả năng điều nhiệt ở sinh vật sống, người ta thấy động vật có thể theo một hay nhiều cơ chế khác nhau sau đây để điều chỉnh nhiệt độ của chúng:
| 1 | null |
Lớp tàu ngầm "Los Angeles" , đôi khi còn được gọi là lớp "LA" hoặc lớp 688,
là một lớp tàu ngầm tấn công nhanh sử dụng năng lượng hạt nhân là lực lượng nòng cốt của đội
tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ. Với 42 tàu ngầm thuộc lớp này đang hoạt động và 20 tàu đã nghỉ hưu, lớp "Los Angeles" có nhiều tàu ngầm hạt nhân hơn hẳn bất kì lớp tàu ngầm nào khác trên thế giới. Lớp "Los Angels" có lớp trước là và lớp sau là . Ngoại trừ , tất cả tàu ngầm lớp này đều được đặt theo tên các thành phố và một vài
thị trấn của Hoa Kỳ (vd. Key West, Florida và Greeneville, Tennessee).
Trong tổng cộng 42 chiếc, 23 tàu sau này của lớp "Los Angeles" được thiết kế sao cho vận hành ít tiếng động hơn so với các tàu trước đó, và mang nhiều vũ khí và thiết bị do thám tối tân hơn. Những tàu này cũng được thiết kế để có thể hoạt động bên dưới băng tuyết vùng cực.
Đặc điểm.
Khả năng.
Theo Bộ quốc phòng Mỹ, tốc độ tối đa của tàu ngầm lớp "Los Angeles" là trên 25 knots (29 dặm/h. or 46 km/h), mặc dù vận tốc tối đa thật sự vẫn được giữ bí mật. Một số đánh giá khác trong sách báo là 30 đến 33 knots cho tốc độ tối đa. Trong cuốn sách "Submarine: A Guided Tour Inside a Nuclear Warship", Tom Clancy đánh giá tốc độ tối đa của tàu ngầm lớp "Los Angeles" là khoảng 37 knot.
Hải quân Hoa Kỳ đưa ra độ sâu tối đa của tàu ngầm lớp "Los Angeles" là khoảng , trong khi Patrick Tyler, trong cuốn "Running Critical" của ông, cho rằng độ sâu hoạt động của tàu ngầm lớp này tối đa là . Mặc dù Tyler trích dẫn thiết kế của lớp "688-" cho thông số này, chính phủ Hoa Kỳ không bình luận gì cả. Tàu có thể lặn sâu tối đa theo Jane's Fighting Ships, 2004-2005 Edition, edited by Commodore Stephen Saunders of Royal Navy.
| 1 | null |
Giải bóng chuyền nữ quốc tế VTV Cup 2012 là giải đấu lần thứ 9 với sự phối hợp tổ chức của Liên đoàn bóng chuyền Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam. Giải đấu được tổ chức tại nhà thi đấu tỉnh Vĩnh Phúc. Giải đấu được sự tài trợ chính của Exim Bank, nên giải còn có tên gọi là Giải bóng chuyền nữ quốc tế VTV Eximbank Cup 2012.
Vòng bảng.
Bảng B.
Kết quả chi tiết.
Nguồn
| 1 | null |
Huỳnh Liên (sinh năm 1923 và mất ngày 16 tháng 04 năm 1987 ) là một ni sư của giáo hội Phật giáo Việt Nam, bà có tên thật (thế danh) là Nguyễn Thị Trừ. Bà là Trưởng Giáo Đoàn Ni và là Đại biểu Quốc hội Khóa VI, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc TP, Ủy viên ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hòa Bình Thế giới của Thành phố Hồ Chí Minh.
Tiểu sử.
Ni sư Huỳnh Liên sinh năm 1923 tại làng Phú Mỹ, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (ngày nay là xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang). Cha là ông Nguyễn Văn Vận, mẹ là bà Lê Thị Thảo đã xuất gia.
Năm 1943, khi được 20 tuổi, bà đã quy y Phật Đường Minh Sư, tu học theo hạnh cư sĩ tại gia. Bà kế tục sự nghiệp Tổ Thầy, trực tiếp lãnh đạo hàng Ni chúng Khất Sĩ trong phận sự Ni Trưởng Ni năm 1954.
Từ năm 1960 đến năm 1975, Ni Sư Huỳnh Liên âm thầm và công khai tham gia đấu tranh cho hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước. Sau đó từ năm 1975, bà là thành viên Đoàn Đại biểu miền Nam Hiệp Thương Thống Nhất Tổ Quốc Việt Nam. Bà mất ngày 16 tháng 4 năm 1987.
Vinh danh.
Tên của Ni sư Huỳnh Liên được đặt cho một con đường tại Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tấm gương đạo đức.
Ni sư Huỳnh Liên có rất nhiều những người con nuôi, đó là những [[trẻ em]] [[mồ côi]]. Trong số những người bà cưu mang dạy dỗ có "Ni sư Thích Nữ Liên Thanh" là [[bác sĩ]] giám đốc Phòng khám đa khoa từ thiện [[Long Bửu]], bà từng là một trong 5 sinh viên xuất sắc được nhận học bổng của [[Nhật Bản]] và có 3 bằng cử nhân: [[Phật giáo|Phật học]], [[Xã hội học]] và Y dược học.
Liên kết ngoài.
[[Thể loại:Sinh năm 1923]]
[[Thể loại:Mất năm 1987]]
[[Thể loại:Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI]]
[[Thể loại:Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam]]
[[Thể loại:Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất]]
[[Thể loại:Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam]]
[[Thể loại:Ni sư Việt Nam]]
| 1 | null |
Diên vĩ hoa tím (danh pháp hai phần: Iris spuria) là một loài thực vật thuộc họ Diên vĩ. Loài được trồng và lai để sử dụng trong vườn. Nó được tìm thấy ở châu Âu, châu Á và châu Phi. Nó được mô tả lần đầu tiên năm 1753 bởi Linnaeus, người đã mô tả nó trong Species Plantarum Đức.
| 1 | null |
Bằng sáng chế số 6469 cấp tại Hoa Kỳ cho sáng chế ứng dụng cho các con tàu hơi nước vào thế kỷ 19, giúp những con tàu vượt qua bãi cạn mà không cần bốc dỡ hàng hoá khỏi tàu. Chủ nhân của bằng sáng chế là Tổng thống Abraham Lincoln, với tấm bằng sáng chế này ông trở thành vị Tổng thống đầu tiên trong lịch sử của nước Mỹ có bằng sáng chế.
Lịch sử.
Trên thực tế nhiều người xem vị tổng thống thứ ba của nước Mỹ, Thomas Jefferson là nhà sáng chế vĩ đại nhất từng sống ở Nhà Trắng. Nhưng vị Tổng thống này chưa bao giờ lấy bằng sáng chế cho những ý tưởng của mình. Trong lịch sử nước Mỹ, chỉ duy nhất một Tổng thống từng được cấp bằng sáng chế cho dù bình thường ông ít quan tâm đến công nghệ, đó là Tổng thống Abraham Lincoln.
Vào cuối những năm 1840, Lincoln là đại biểu Quốc hội của bang Illinois. Ông thường đi lại giữa Washington và Illinois trên con tàu chạy bằng hơi nước Great Lakes. Một lần tàu bị mắt kẹt ở bãi cát ngay giữa sông. Tất cả hành khách và hàng hoá phải chuyển đi để con tàu nổi dần lên. Đó là một quá trình dài và buồn tẻ.
Điều này mang đến cho Lincoln một ý tưởng, khi trở về văn phòng luật sư của mình ở Illinois, ông bắt đầu sáng chế ra một thiết bị có thể làm con tàu nổi lên mà không cần phải làm cho nó nhẹ đi bằng việc bóc dở hàng hoá xuống. Ông tranh thủ gọt đẽo mô hình giữa các phiên toà. Kết quả, ông nhận được bằng sáng chế số 6469: "Cách làm nổi những con tàu lớn".
Nội dung bằng sáng chế.
Ý tưởng của Lincoln là thêm vào "các khoang chứa không khí có thể điều chỉnh được" bên dưới gấn nước. Khi bị mắc kẹt, những khoang này sẽ được làm đầy khí để con tàu nổi lên. Nó gần giống với ý tưởng các nhà sáng chế sau này sử dụng để tạo ra tàu ngầm hiện đại.
Nhận xét.
Sáng chế của Lincoln được chứng minh là không thực tế và không được đưa vào sản xuất. Nhưng nó đã cho thấy vị luật sư có tài xoay xở này sở hữu một trí tuệ đầy sáng tạo và dám thực hiện những ý tưởng mới. Đó là ý chí mà nước Mỹ rất cần trong những năm tháng bất ổn sau này.
| 1 | null |
Nuôi ong là việc con người duy trì những đàn ong mật, thường là trong các tổ ong. Người nuôi ong sẽ thu được mật ong và các sản phẩm khác như phấn hoa, keo ong, sáp ong, sữa ong chúa; ngoài ra mục đích của việc nuôi ong còn là để thụ phấn cho cây trồng hoặc tạo ra đàn ong mới để bán cho người nuôi ong khác.
Khởi nguyên.
Có trên 20.000 loài ong dại. Nhiều loài sống đơn độc trong khi nhiều loài khác nuôi những con nhỏ tạo thành những bầy đàn (ví dụ ong nghệ). Nuôi ong liên quan đến việc quản lý khéo léo các loài ong sống theo bầy, mà bầy đàn đó có thể có đến 100.000 cá thể. Ở châu Âu và Hoa Kỳ, loài ong được nuôi phổ biến là ong mật phương Tây (Apis mellifera).
| 1 | null |
Euryplatea nanaknihali là một loài ruồi thuộc nhóm ruồi lưng gù phorid (gồm khoảng 4.000 loài) sinh sống ở tại Thái Lan vừa được phát hiện và công nhận là loài ruồi nhỏ nhất thế giới với kích thước nhỏ hơn gấp năm lần so với ruồi giấm, thậm chí còn bé hơn hạt muối (0,4 mm) nhưng lại không kém phần hung bạo so với họ hàng của mình. Viện Bảo tàng tự nhiên Los Angeles (Mỹ) đã tìm ra loài ruồi mới tại Công viên quốc gia Kaeng Krachan (Thái Lan). Đây cũng là loài ruồi đầu tiên thuộc dạng này được phát hiện ở châu Á.
| 1 | null |
Pseudacteon formicarum là một loài ruồi thuộc họ ruồi lưng gù phorid, loài ruồi này được tìm thấy tại châu Âu. Pseudacteon formicarum có kích thước cơ thể dài từ 1 đến 3 mm và chỉ săn con mồi có hình dạng lớn hơn. Loài ruồi này nổi tiếng với hành vi trừ khử kiến trong đó bao gồm hành động cắt đầu con mồi.
Ký sinh trên thân kiến.
Ban đầu, ruồi sẽ đẻ trứng trên thân kiến. Trứng nở ra và di chuyển lên phần đầu, ăn dần các bó cơ lớn chịu trách nhiệm hoạt động đóng mở hàm kiến. Loài ký sinh này còn có thể chui vào não kiến, khiến con mồi lâm vào tình trạng lang thang không định hướng trong hai tuần.
Cuối cùng, đầu kiến bị cắt lìa, sau khi nhộng ruồi phân hủy lớp màng nối phần đầu với thân. Con nhộng tiếp tục chiếm cứ phần đầu và làm tổ trong vòng hai tuần tiếp theo, trước khi phát triển thành ruồi trưởng thành.
| 1 | null |
Sciurumimus ("bắt chước sóc," được đặt tên theo việc lông vũ trên đuôi mọc theo kiểu giống trên đuôi sóc) là một chi khủng long theropoda Coelurosauria sống vào thời kỳ Jura muộn tại Đức. Nó được biết tới từ một mẫu vật duy nhất còn non đại diện cho loài điển hình, Sciurumimus albersdoerferi, được tìm thấy ở một mỏ đá vôi gần Painten tại Hạ Bayern.
Mậu vật "Sciurumimus" được công bố vào năm 2011, nhưng được mô tả và đặt tên chính thức vào năm sau (2012).
| 1 | null |
Bông cải xanh (hoặc súp lơ xanh, cải bông xanh, "Broccoli") là một loại cây thuộc loài Cải bắp dại, có hoa lớn ở đầu, thường được dùng như rau. Bông cải xanh thường được chế biến bằng cách luộc hoặc hấp, nhưng cũng có thể được ăn sống như là rau sống trong những đĩa đồ nguội khai vị.
Dinh dưỡng.
Bông cải xanh có chứa nhiều Vitamin A, Vitamin C, Vitamin K, chất xơ , Quercetin. Nó cũng chứa nhiều chất dinh dưỡng có khả năng chống ung thư như Myrosinase, Sulforaphane, Di-indolyl mêtan và một lượng nhỏ selen.
Tác dụng chữa bệnh.
Viêm xương khớp.
Một nghiên cứu của Anh cho thấy bông cải xanh có chứa một hợp chất gọi là Sulforaphane có thể giúp chống lại viêm xương khớp (osteoarthritis) - sulforaphane có thể chặn các enzyme phá hủy sụn bằng cách chặn một phân tử gây viêm.
Chống oxy hóa.
Bông cải xanh vẫn được biết đến là có thành phần chống ung thư, ngoài ra chính nó còn giúp cải thiện hệ miễn dịch ở người già và làm chậm quá trình lão hóa. Sulforaphane có khả năng hoạt hóa những gene và enzyme chống oxy hóa trong tế bào miễn dịch. Những thành phần này sẽ ngăn các gốc tự do hủy hoại tế bào. Tiến trình chuyển hóa trong cơ thể sinh ra các sản phẩm phụ là gốc tự do, nếu không ngăn ngừa hoạt động của gốc tự do này có thể gây tổn hại mô dẫn tới bệnh tật và sự lão hoá.
Bệnh tim mạch vành.
Nghiên cứu thành phần hóa học trong bông cải xanh tại trường Đại Học Y Khoa Warwick đã phát hiện hợp chất sulforaphane đã làm cho cơ thể tăng cường hình thành các enzyme bảo vệ các mạch máu, giảm các loại phân tử gây tổn hại tế bào. Chất sulforaphane có trong bông cải xanh có thể chống lại sự phát triển bệnh mạch máu do tiểu đường.
Kết quả nghiên cứu trên động vật của trường Đại Học Connecticut cho thấy, những động vật ăn bông cải xanh cải thiện được chức năng tim và ít bị tổn thương về cơ tim hơn khi thiếu oxy. Các nhà nghiên cứu cho rằng những lợi ích của bông cải xanh chính là việc nó bổ sung các chất mà giúp tăng cường các protein bảo vệ tim có tên là thioredoxin. Một chế độ ăn nhiều bông cải xanh sẽ mang lại lợi ích cho tim mạch.
Đau bao tử.
Thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy, thành phần sulforaphane trong bông cải xanh và mầm của nó có thể tiêu diệt vi khuẩn helicobacter pylori (HP) đây là loại vi khuẩn chính gây loét dạ dày và phần lớn tác nhân gây ung thư ở đây. Khi nghiên cứu trên chuột, các nhà khoa học tại Đại Học Johns Hopkins phát hiện thấy, sulforaphane tiêu diệt được cả vi khuẩn HP vẫn kháng lại kháng sinh thông thường. Hóa chất này có thể tìm và diệt vi khuẩn nằm ngoài lẫn nằm trong tế bào. Điều này rất quan trọng vì thông thường, HP hay nằm trong các tế bào lót của niêm mạc dạ dày, khiến bệnh khó lành. Hàm lượng sulforaphane được dùng trong thí nghiệm có thể nhận thấy được bằng cách ăn bông cải xanh hay mầm của nó.
Ung thư.
Khi không nấu chín, loại thực phẩm này chứa một lượng nhỏ chất có khả năng bảo vệ DNA trước sự tấn công của các enzyme oxy hóa - tác nhân gây ung thư. Đây là thành quả nghiên cứu mới nhất của Đại Học Illinois. Khi nhai, các tế bào bông cải xanh bị đứt gãy và giải phóng một loại enzyme đặc biệt. Nhờ enzyme này, một chất hóa học gọi là sulphoraphanes được hình thành. Một số phân tử hợp chất mới này được gắn thêm một nguyên tử sulphur, có tác dụng hoạt động cơ chế đối kháng các độc tố sinh ung thư. Bên cạnh đó, trong bông cải xanh còn có thêm protein ESP với nhiệm vụ tạo ra sự cân bằng cho các sulphoraphane kém sulphur.
Cách chế biến.
Bông cải xanh là món ăn ưa thích, tuy nhiên khi chế biến bông cải xanh ở nhiệt độ cao, nhiều nghiên cứu đã cho thấy những thành phần vitamin đặc biệt là nhóm chất có tác dụng ngăn ngừa ung thư bị giảm. Lý do là nhiệt độ cao sẽ làm mất hoạt tính của các enzyme và chất ESP, làm mất cân bằng của sulforaphane. Hơn nữa, lượng sulforaphane có đính thêm Sulphur trong bông cải xanh rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 20 % tổng số sulphoraphanes và rất dễ bị vô hiệu hóa. Các thành phần còn lại không có đủ nguyên tố Sulphur hữu ích, nên không có khả năng kháng bệnh.
Các nhà nghiên cứu so sánh cách nấu bằng luộc, lò vi sóng và hấp bông cải xanh, và thấy rằng hấp bông cải xanh trong năm phút là cách tốt nhất để giữ lại enzyme myrosinase (một loại enzyme có trong bông cải xanh giúp làm sạch chất gây ung thư trong gan) của nó. Cách luộc và hâm bằng lò vi sóng bông cải xanh trong một phút hoặc nhiều hơn đã phá hủy phần lớn các enzyme, theo Elizabeth Jeffery, một nhà nghiên cứu tại Đại học Illinois tại Urbana-Champaign.
Hiện nay xu hướng dùng bông cải xanh trong bữa ăn như salad trộn không qua nấu chín đang là cách ẩm thực phổ biến và khoa học, có lẽ đây là cách đảm bảo nguyên vẹn thành phần dinh dưỡng có lợi và bảo vệ sức khỏe.
Sản xuất.
Ở Bắc Mỹ, bông cải xanh chủ yếu được trồng ở California. Theo mùa, mức giá vận chuyển trung bình cho súp lơ vào năm 2004 là 33 đô-la Mỹ cho mỗi 100 cân pao (hay 0,73 đô cho 1 kg) theo Dịch vụ Thống Kê Nông nghiệp Quốc gia, USDA.
| 1 | null |
John Joseph Merlin (17 tháng 9 năm 1735 – 4 tháng 5 năm 1803, tên khai sinh là Jean-Joseph Merlin) là một thợ làm đồng hồ và là một nhà phát minh người Bỉ. Ông sinh năm 1735 tại thành phố Huy thuộc tỉnh Liège, Bỉ. Lớn lên một chút, Joseph Merlin sang sinh sống ở Paris. Ông theo học nghề thợ cơ khí chế tạo máy chính xác và đồng hồ và được đánh giá là một người thợ có tài năng bẩm sinh. Chính vì điều này, viên Đại sứ Tây Ban Nha ở Anh đã tìm cách đưa Merlin đến Luân Đôn định cư và lập nghiệp vào năm 1760.
Một trong những phát minh đáng nhớ của Joseph Merlin là giày trượt patin, ra đời vào năm 1760 và được xem là cha đẻ của môn thể thao này. Merlin đã trình bày phát minh mới của mình trong một buổi vũ hội hóa trang khi vừa chơi đàn vĩ cầm vừa trượt patanh, nhưng không may ông không điều khiển được phương hướng, đâm sầm vào một chiếc gương lớn và bị thương nặng.
Merlin cũng là một nhạc công nghiệp dư, chơi các loại đàn vĩ cầm và harpsicord. Và ông là tác giả của một số nhạc cụ cải tiến và là người chế tạo ra nhiều máy tự động, tỉ như đồng hồ Cox (đồng sáng chế với James Cox. Chiếc máy tự động Thiên nga Bạc (hiện đang trưng bày ở Bảo tàng Bowes) là một sản phẩm của Merlin.
Ông đã bỏ công xây dựng nên Bảo tàng Cơ khí Merlin tại Quảng trường Hanover để trưng bày các máy móc của mình. Bảo tàng này trong một thời gian dài là nơi thăm viếng của rất nhiều người dân. Một trong những người đến đó chính là Charles Babbage, người thiết kế ra chiếc máy vi tính cơ học đầu tiên.
Danh sách một số phát minh được cho là của Merlin - nếu không kể chiếc giày trượt patin:
Jean-Joseph Merlin qua đời năm 1803 ở Luân Đôn, hưởng thọ 67 tuổi.
| 1 | null |
Di sản thế giới hỗn hợp (hay "cảnh quan văn hóa thế giới") là một loại di sản thế giới kép, đáp ứng đủ cả hai yếu tố nổi bật về văn hóa và thiên nhiên. Một địa danh được công nhận là di sản thế giới hỗn hợp phải thỏa mãn ít nhất là một tiêu chí về di sản văn hóa (tiêu chuẩn i,ii,iii,iv,v,vi) và một tiêu chí về di sản thiên nhiên (tiêu chuẩn vii,viii,ix,x).
Tổng quan.
Tính đến hết năm 2023, UNESCO đã công nhận 40 di sản hỗn hợp trên tổng số 1172 di sản thế giới. Số lượng di sản hỗn hợp chỉ chiếm khoảng ~3,4% số lượng di sản thế giới. Nhiều di sản hỗn hợp từng được UNESCO công nhận từ 2 lần trở lên do bổ sung thêm tiêu chuẩn hoặc mở rộng diện tích. Chính là bởi trước khi trở thành di sản thế giới hỗn hợp, nhiều khu vực đã là một di sản thiên nhiên thế giới (như Khu bảo tồn Ngorongoro, Ohrid, Tassili n'Ajjer, Vườn quốc gia Tongariro) hoặc di sản văn hóa thế giới (như núi Thái Sơn, Thành cổ Maya và rừng Calakmul).
Trung Quốc và Úc là hai quốc gia có số lượng di sản hỗn hợp nhiều nhất với 4 địa điểm, tiếp theo là Peru, Mexico, Hy Lạp, Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ với hai địa điểm. Vùng hoang dã ở Tasmania của Úc và Thái Sơn của Trung Quốc là 2 di sản thế giới kép đáp ứng nhiều tiêu chuẩn nhất (7 tiêu chuẩn); trong khi đó, Vách đá Bandiagara; Tehuacán-Cuicatlán; Paraty và Ilha Grande-Văn hóa và Đa dạng sinh học; Vùng các hồ Willandra lại là 4 di sản hỗn hợp đạt ít tiêu chuẩn nhất (với chỉ 1 tiêu chuẩn về văn hóa và 1 tiêu chuẩn về thiên nhiên). Có hai di sản xuyên quốc gia là Pyrénées-Mont Perdu và Khu bảo tồn xuyên biên giới Maloti-Drakensberg. Quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình) hiện là di sản hỗn hợp duy nhất ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.
| 1 | null |
Lịch sử hành chính Kon Tum có thể xem mốc khởi đầu từ năm 1904 với sự kiện thành lập tỉnh Plei Ku Der. Đến này 16 tháng 7 năm 2019, tỉnh Kon Tum có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 9 huyện với 102 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 10 phường, 7 thị trấn và 85 xã.
Lịch sử tổ chức hành chính.
Trước khi thành lập tỉnh.
Vùng đất Kon Tum ngày xưa là vùng đất hoang vắng, đất rộng, người thưa với sự sinh sống của các dân tộc bản địa gồm Xơ Đăng, Bana, Gia Rai,Giẻ Triêng, Brâu, Rơ Măm. Đất rộng người thưa, cách biệt với bên ngoài bởi rừng rậm và núi non hiểm trở, các làng bản địa là những xã hội thu nhỏ, chưa có một chính quyền liên minh trong khi chính quyền các quốc gia hùng mạnh xung quanh như Đại Việt, Chân Lạp, Chiêm Thành, Vạn Tượng chưa vươn tầm kiểm soát đến đây.
Năm 1471, sau khi vua Lê Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành, đẩy lùi chính quyền Chiêm Thành về phía Nam (tương ứng vùng từ Khánh Hòa đến Bình Thuận ngày nay), đã cử các sứ thần thu phục các bộ tộc ở Tây Nguyên và sáp nhập vùng đất này vào lãnh thổ của Đại Việt. Thời Tây Sơn, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cử nhiều sứ giả đến tăng cường quan hệ hợp tác đồng minh với các bộ tộc vùng này nhằm tạo một hậu cứ vững chắc làm bàn đạp tiến xuống duyên hải, đồng thời mộ quân và tài lực phục vụ cho chiến tranh.
Thời Thiệu Trị, năm 1840, triều đình Huế cho lập Bok Seam, một người Bana làm quan cai trị các bộ tộc Tây Nguyên, đồng thời cho phép người Kinh và bộ tộc được phép tự do quan hệ mua bán, trao đổi.
Trong thời gian này, các giáo sĩ Thiên chúa giáo cũng tìm cách mở đường lên cao nguyên để truyền đạo, trong đó có cả Kon Tum. Lịch sử Giáo hội Công giáo tại Việt Nam ghi nhận, sau chuyến mở đường năm 1848, 2 linh mục Pháp và 7 thầy giảng người Việt đã đến Kon Tum và đặt cơ sở tôn giáo tại đây vào năm 1850. Hai trong 4 trung tâm truyền giáo đầu tiên được đặt ở vùng Kon Tum ngày nay: Kon Kơ Xâm (do linh mục Combes phụ trách, truyền giáo bộ tộc Bahnar-Jơlơng) và Kon Trang (do linh mục Dourisboure phụ trách, truyền giáo bộ tộc Xơ Đăng).
Sau khi nắm được toàn quyền thực dân ở Đại Nam, người Pháp bắt đầu mở rộng quyền kiểm soát và tiến lên khai thác vùng Tây Nguyên. Năm 1888, một nhà phiêu lưu người Pháp là Mayréna xin phép chính quyền Pháp đi thám hiểm khu vực Tây Nguyên để thỏa thuận với các dân tộc thiểu số ở đây và được Toàn quyền Đông Dương lúc đó là Ernest Constans chấp thuận. Bằng các tiểu xảo, Mayréna đã thu phục được một số bộ tộc thiểu số (cụ thể là hai dân tộc Ba Na và Xơ Đăng) và thành lập ra Vương quốc Sedang với Mayréna làm vua, lấy hiệu là "Vua Marie đệ nhất, vua Sedang". Thủ đô của Vương quốc Sedang tại làng Long Răng, hiện nay là làng "Kon Gu", xã Ngok Wang, huyện Đăk Hà tỉnh Kon Tum, lấy tên là "Pelei Agna" hay "thành phố vĩ đại", một số nguồn nói rằng tên thủ đô của vương quốc Sedang là Maria Pelei.
Sau đó, Mayréna quay về Quy Nhơn và thuyết phục chính quyền thực dân Pháp mua lại vương quốc Sedang. Sau khi Pháp từ chối đề nghị này, Mayréna sang Hồng Kông với ý định bán lại vương quốc Sedang cho người Anh. Nhân dịp này, công sứ Quy Nhơn Guiomar đã tìm cách ngăn chặn Mayréna trở về, đồng thời đặt quyền kiểm soát Tây Nguyên, dưới quyền công sứ Quy Nhơn. Năm 1892, chính quyền thực dân Pháp cho đặt tòa đại lý hành chính Kon Tum, do một giáo sĩ người Pháp là Vialleton (tên Việt: "Truyền") phụ trách, trực thuộc tòa công sứ Bình Định.
Thời Pháp thuộc.
Ngày 4 tháng 7 năm 1904, chính quyền thực dân Pháp thành lập tỉnh Plei Ku Der, do một công sứ Pháp là Leon Plantié nắm quyền cai trị, gồm hai tòa đại lý hành chính mơi thành lập là Kon Tum (trước đây thuộc Bình Định) và Cheo Reo (trước đây thuộc Phú Yên). Ngày 25 tháng 4 năm 1907, chính quyền thực dân Pháp lại bãi bỏ tỉnh Plei Ku Der. Toàn bộ đất đai của tỉnh Plei Ku Der gồm hai tòa đại lý hành chính Kon Tum và Cheo Reo được sáp nhập trở lại hai tỉnh Bình Định và Phú Yên như trước đó. Ở tòa đại lý Kon Tum, viên đại lý đầu tiên là Guenot.
Ngày 9 tháng 2 năm 1913, chính quyền thực dân Pháp chính thức thành lập tỉnh Kon Tum, bao gồm đại lý hành chính Kon Tum tách ra từ Bình Định, đại lý hành chính Cheo Reo tách ra từ Phú Yên, và đại lý hành chính Buôn Ma Thuột. Hiện nay, chính quyền tỉnh Kon Tum đã chính thức lấy ngày 9 tháng 2 năm 1913 là ngày thành lập tỉnh, năm 2013, UBND tỉnh Kon Tum đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập. Năm 1917, Pháp thành lập tòa đại lý hành chính An Khê, gồm huyện Tân An và khu vực người dân tộc thiểu số đặt dưới quyền cai trị của công sứ Kon Tum. Ngày 2 tháng 7 năm 1923, thành lập tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở tách đại lý Buôn Ma Thuột khỏi tỉnh Kon Tum.
Ngày 3 tháng 12 năm 1929, thị xã Kon Tum được thành lập, trên thực tế chỉ là thị trấn, gồm tổng Tân Hương và một số làng dân tộc thiểu số phụ cận. Ngày 25 tháng 5 năm 1932, tách đại lý Pleiku ra khỏi tỉnh Kon Tum để thành lập tỉnh Pleiku. Đến ngày 9 tháng 8 năm 1943, đại lý hành chính An Khê được tách khỏi tỉnh Kon Tum, sáp nhập vào tỉnh Pleiku. Lúc này tỉnh Kon Tum chỉ còn lại tổng Tân Hương và toàn bộ đất đai vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Ngày 3 tháng 2 năm 1929, theo nghị định của Khâm sứ Trung Kỳ, tổng Tân Hương được lập thành thị trấn Kon Tum, từ đó thị trấn Kon Tum trở thành tỉnh lị của tỉnh Kon Tum.
Trong chiến tranh giành độc lập.
Sau Cách mạng tháng 8, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tổ chức lại tỉnh Kon Tum thành 4 đơn vị hành chính gồm các huyện Đăk Glei, Đăk Tô, Konplong và thị xã Kon Tum. Ngày 26 tháng 6 năm 1946, người Pháp tái chiếm lại Kon Tum và sau đó trao lại quyền kiểm soát về danh nghĩa cho Quốc gia Việt Nam (thành lập năm 1949) để thành lập Hoàng triều cương thổ. Trên thực tế, bộ máy cai trị tại đây vẫn trên cơ sở hành chính cũ của người Pháp.
Về phía chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tỉnh Kon Tum chịu sự quản lý chỉ đạo về hành chính của Xứ ủy Trung Kỳ và Phân ban vận động quốc dân thiểu số Nam Trung Bộ. Tháng 1 năm 1947, Phân khu 15 thành lập, trong đó nòng cốt là tỉnh Kon Tum và các huyện miền Tây của hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi. Trên thực tế, tổ chức hành chính của tỉnh Kon Tum vẫn giữ nguyên, nhưng chịu sự quản lý và chi phối của Phân khu 15 về hoạt động quân sự. Tháng 8 năm 1947, Khu 15 Tây Nguyên được thành lập, tỉnh Kon Tum là một trong những đơn vị hành chính trực thuộc Khu 15. Tháng 3 năm 1950, theo chủ trương của Liên Khu ủy V, tỉnh Kon Tum và Gia Lai được sáp nhập thành tỉnh Gia - Kon. Tháng 10 năm 1951, theo quyết định của Liên Khu ủy V, tỉnh Kon Tum và các huyện phía tây Quảng Ngãi hợp nhất thành Mặt trận miền Tây. Tháng 2 năm 1954, Kon Tum là tỉnh đầu tiên và duy nhất ở Tây Nguyên hoàn toàn đặt dưới quyền kiểm soát của Việt Minh. Một thời gian sau, Mặt trận miền Tây cũng được giải thể.
Hệ thống 2 chính quyền trong Chiến tranh Việt Nam.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, phía Quốc gia Việt Nam tiếp quản Kon Tum. Năm 1958 dưới thời Việt Nam Cộng hòa, bộ máy hành chính tỉnh Kon Tum được chia thành tòa hành chính Kon Tum - bộ máy hành chính cấp tỉnh, bên dưới gồm các quận Kon Tum, Đăk Tô, Konplong và Đăk Sút.
Năm 1958, Việt Nam Cộng hòa thành lập quận Toumơrông. Năm 1959, tiếp tục lập thêm quận Chương Nghĩa. Năm 1960, quận Konplong bị xóa bỏ. Năm 1961, tỉnh Kon Tum còn lại 4 đơn vị hành chính cấp quận là Kon Tum, Đăk Tô, Đăk Sút, Toumơrông.
Năm 1972, Việt Nam Cộng hòa đổi tên chi khu Đăk Pét thành quận Đăk Sút để mở rộng chức năng về hành chính. Sau chiến dịch xuân - hè năm 1972, quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh và đại bộ phận các vùng nông thôn, vùng kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa bị thu hẹp đáng kể. Quận lỵ Đăk Tô phải chuyển về đèo Sao Mai; các chi khu Đăk Pét, Măng Đen, Măng Buk bị cô lập giữa vùng kiểm soát của quân Giải phóng. Lực lượng Việt Nam Cộng hòa chỉ còn tập trung phần lớn tại khu vực thành phố Kon Tum.
Năm 1974, quân Giải phóng tấn công tiêu diệt hoàn toàn các chi khu Đăk Pét, Măng Đen, Măng Buk. Tận dụng thời cơ thắng lớn ở Buôn Ma Thuột, ngày 16 tháng 3 năm 1975, quân giải phóng và dân chúng trong tỉnh đã nổi dậy tấn công vào đầu não của Việt Nam Cộng hòa ở nội thị, chiếm được thị xã và toàn tỉnh Kon Tum.
Sau khi Việt Nam thống nhất.
Năm 1975, tỉnh Kon Tum sáp nhập với tỉnh Gia Lai thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum, trên địa bàn tỉnh có thị xã Kon Tum và 3 huyện: Đăk Glei, Đăk Tô, Kon Plông.
Năm 1978, thành lập huyện Sa Thầy trên cơ sở một phần xã Đăk Tô
Năm 1979, thành lập một số xã thuộc huyện Sa Thầy: Sa Bình, Sa Sơn và Sa Nghĩa
Năm 1981, chia tách một số xã thuộc thị xã Kon Tum và các huyện Sa Thầy, Kon Plông.
- Thành lập xã Chư H'reng trên cơ sở một phần xã Đoàn Kết
- Thành lập xã Ngọk Réo trên cơ sở một phần xã Đắk Kấm
- Thành lập xã Sa Lon trên cơ sở một phần xã Kờ Rơi
- Thành lập xã Ya Xiêr trên cơ sở một phần xã Ya Ly
- Thành lập xã Sa Nhơn
Năm 1983, chia tách một số xã thuộc huyện Đăk Tô.
Năm 1984, điều chỉnh địa giới huyện Kon Plông và huyện An Khê.
Năm 1985, chia tách một số xã thuộc huyện Kon Plông và thị xã Kon Tum.
Năm 1988, thành lập thị trấn Đăk Tô thuộc huyện Đăk Tô trên cơ sở một phần xã Tân Cảnh. Thị trấn Đăk Tô có 2.530 hécta diện tích tự nhiên và 4.818 nhân khẩu.
Năm 1990, thành lập thị trấn Sa Thầy thuộc huyện Sa Thầy.
Năm 1991, tỉnh Kon Tum được tái lập trên cơ sở chia tách tỉnh Gia Lai - Kon Tum thành hai tỉnh mới là Gia Lai và Kon Tum. Khi tách ra, tỉnh Kon Tum có 5 đơn vị hành chính gồm thị xã Kon Tum và 4 huyện: Đăk Glei, Đăk Tô, Kon Plông, Sa Thầy. Cùng năm, thành lập huyện Ngọc Hồi và thị trấn Plei Kần thuộc huyện Ngọc Hồi.
Năm 1994, thành lập huyện Đăk Hà và thị trấn Đăk Hà thuộc huyện Đăk Hà.
Năm 1996, chia tách một số xã và thị trấn thuộc các huyện Kon Plông, Đăk Glei, Ngọc Hồi, Đăk Hà và thị xã Kon Tum.
- Thành lập thị trấn Kon Plông trên cơ sở một phần xã Tân Lập. Thị trấn Kon Plông có 5.000 ha diện tích tự nhiên và 4.031 nhân khẩu.
- Thành lập xã Pờ Ê trên cơ sở một phần xã Hiếu. Xã Pờ Ê có 11.150 ha diện tích tự nhiên và 1.107 nhân khẩu.
- Thành lập thị trấn Đăk Glei trên cơ sở một phần xã Đắk Pék. Thị trấn Đăk Glei có 8.750 ha diện tích tự nhiên và 3.899 nhân khẩu.
- Thành lập xã Đắk Man trên cơ sở một phần xã Đắk Plô. Xã Đắk Man có 11.600 ha diện tích tự nhiên và 1.270 nhân khẩu.
Năm 1998, thành lập một số phường, xã thuộc thị xã Kon Tum và huyện Đăk Hà.
Năm 2001, chia tách một số xã thuộc các huyện Đăk Glei, Đăk Tô.
Năm 2002, thành lập huyện Kon Rẫy và đổi tên thị trấn Kon Plông thành thị trấn Đắk Rve thuộc huyện Kon Rẫy.
Năm 2003, thành lập xã Ya Tăng thuộc huyện Sa Thầy.
Năm 2004, thành lập một số phường, xã thuộc thị xã Kon Tum và các huyện Kon Rẫy, Ngọc Hồi, Kon Plông
- Thành lập phường Trần Hưng Đạo trên cơ sở một phần xã Hòa Bình. Phường Trần Hưng Đạo có 590 ha diện tích tự nhiên và 5.857 nhân khẩu.
- Thành lập phường Ngô Mây trên cơ sở một phần xã Vinh Quang. Phường Ngô Mây có 550 ha diện tích tự nhiên và 4.035 nhân khẩu.
- Thành lập phường Nguyễn Trãi trên cơ sở một phần xã Đoàn Kết. Phường Nguyễn Trãi có 600 ha diện tích tự nhiên và 3.889 nhân khẩu.
- Thành lập phường Trường Chinh trên cơ sở một phần phường Thắng Lợi và xã Đắk Blà. Phường Trường Chinh có 440,88 ha diện tích tự nhiên và 6.253 nhân khẩu.
- Thành lập xã Đắk Long trên cơ sở một phần xã Măng Cành. Xã Đắk Long có 13.555 ha diện tích tự nhiên và 2.054 nhân khẩu.
- Thành lập xã Đắk Tăng trên cơ sở một phần xã Măng Bút. Xã Đắk Tăng có 12.100 ha diện tích tự nhiên và 2.067 nhân khẩu.
- Thành lập xã Đắk Nên trên cơ sở một phần xã Đắk Ring. Xã Đắk Nên có 12.973 ha diện tích tự nhiên và 2.027 nhân khẩu.
Năm 2005, thành lập một số xã thuộc huyện Đăk Tô và thành lập huyện Tu Mơ Rông.
- Thành lập xã Đắk Rơ Nga trên cơ sở một phần xã Ngọk Tụ. Xã Đắk Rơ Nga có 11.320 ha diện tích tự nhiên và 2.208 nhân khẩu.
- Thành lập xã Đắk Trăm trên cơ sở một phần xã Văn Lem. Xã Đắk Trăm có 5.277 ha diện tích tự nhiên và 3.036 nhân khẩu.
- Thành lập xã Đắk Rơ Ông trên cơ sở một phần xã Đắk Tờ Kan. Xã Đắk Rơ Ông có 6.807 ha diện tích tự nhiên và 2.619 nhân khẩu.
Năm 2006, thành lập xã Hơ Moong thuộc huyện Sa Thầy.
Năm 2008, thành lập và điều chỉnh một số xã thuộc thị xã Kon Tum và các huyện Sa Thầy, Đăk Tô.
Năm 2009, thành lập thành phố Kon Tum.
Năm 2013, thành lập và điều chỉnh một số xã, phường thuộc các huyện Đăk Hà, Sa Thầy và thành phố Kon Tum.
Năm 2015, thành lập huyện Ia H'Drai trên cơ sở một phần huyện Sa Thầy. Huyện Ia H’Drai có 98.013,22 ha diện tích tự nhiên, 11.644 nhân khẩu và 03 xã Ia Dom, Ia Đal và Ia Tơi.
Năm 2019, thành lập thị trấn Măng Đen thuộc huyện Kon Plông trên cơ sở toàn bộ xã Đắk Long. Thị trấn Măng Đen có 148,07 km² diện tích tự nhiên, dân số 6.913 người.
Các đơn vị hành chính trực thuộc.
Tỉnh Kon Tum hiện có 1 thành phố và 9 huyện với 102 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 10 phường, 7 thị trấn và 85 xã.
| 1 | null |
Lý Chính Thắng (1917–1946) tên thật là Nguyễn Đức Huỳnh (Nguyễn Đắc Huỳnh) là một liệt sĩ cách mạng Việt Nam, quê ở thôn thọ lộc xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là đại biểu Quốc hội khóa I khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn.
Tiểu sử.
Ông học trung học tỉnh Thanh Hóa, sau đó vào Nam tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1930 ông là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, trải qua các công việc cấp ủy từ chi bộ lên đến thành ủy viên kiêm thư ký công đoàn Sài Gòn – Gia Định. Ông gây cơ sở Đảng ở khu vực Đa Kao.
Tháng 3 năm 1945, ông được phái ra Bắc để bắt liên lạc với Trung ương, sau đó lên đường vào Nam đem theo quyết định khởi nghĩa vũ trang cho xứ ủy Nam Kỳ.
Sau ngày Nam Bộ kháng chiến bùng nổ, từ tháng 11 năm 1945 ông lập trạm đón tiếp công nhân từ thành phố ra ở An Phú Đông và phụ trách tờ báo "Cảm tử" của quân đội. Lý Chính Thắng là Chỉ huy trưởng mặt trận phía Đông Sài Gòn, Tổng Thư kí Tổng Công đoàn Nam Bộ từ tháng 10 năm 1945
Tháng 1 năm 1946, tại cuộc bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên, ông trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I đại diện khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn.
Tháng 3 năm 1946 ông hoạt động trong ngành giao thông liên lạc tại vùng Sài Gòn bị chiếm. Quân Pháp tấn công An Phú Đông lần thứ hai, quân ta chống cự rất anh dũng từ sáng đến chiều, đẩy lui được địch, giết chết 100 tên, bên ta 20 chiến sĩ hy sinh. Lý Chính Thắng bị thương nặng, bị quân Pháp bắt và tra tấn cực hình.
Ngày 30 tháng 9 năm 1946 ông mất tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Vinh danh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh ngày 25 tháng 4 năm 1949 truy tặng Lý Chính Thắng Huân chương Độc Lập hạng nhì.
Tên ông được đặt cho một con đường ở quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh (đường Lý Chính Thắng trước năm 1975 đường có tên là Yên Đổ) và trường tiểu học Lý Chính Thắng 2, THCS Lý Chính Thắng 1 ở huyện Hóc Môn.
Trường THPT Lê Hữu Trác 2, Hương Sơn, Hà Tĩnh từ tháng 9 năm 2013 được UBND tỉnh Hà Tĩnh đổi tên thành Trường THPT Lý Chính Thắng.
| 1 | null |
Trận Puebla diễn ra vào ngày 5 tháng 5 năm 1862 gần thành phố Puebla trong cuộc can thiệp của Pháp vào México. Trận đánh kết thúc với chiến thắng của Quân đội México trước quân xâm lược Pháp, buộc quân Pháp phải bỏ chạy. Quân Pháp sẽ đánh bại quân México trong những trận đánh sau đó, nhưng chiến thắng Puebla của quân México trước một đội quân lớn và được trang bị tốt hơn hẳn của Pháp đã lên dây cót cho sĩ khí quân đội México và cũng trì hoãn bước tiến của người Pháp vào Thành phố México.
Trận Puebla được xem là thắng lợi quân sự lớn nhất của México, và là biểu tượng cho tình đoàn kết cùng với chủ nghĩa yêu nước của người México. Mỗi năm, họ làm lễ mừng chiến thắng Puebla vào ngày 5 tháng 5. Việc kỷ niệm trận thắng mang tính chất vùng miền tại México, chủ yếu là ở bang Puebla, nơi ngày lễ được tổ chức với cái tên "Ngày Trận Puebla" ("El Día de la Batalla de Puebla"). Ở các miền đất khác của nước này, ngày lễ này cũng được một số sự công nhận hạn chế. Đây vẫn là một ngày lễ phổ biến ở Hoa Kỳ, nơi nó được tổ chức hàng năm với tên gọi "Cinco de Mayo".
| 1 | null |
Đây là danh sách thống kê về tổng sản phẩm quốc nội, giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ từ một quốc gia trong một năm. Được thống kê bởi Quỹ tiền tệ quốc tế IMF (theo số liệu 2011); Ngân hàng thế giới WB (số liệu 2011) và CIA - Factbook (số liệu 2011). Đồng dollar GDP ước tính trình bày ở đây được tính toán tỷ giá hối đoái chính thức tại thị trường hay chính phủ.
Một số nền kinh tế không được coi là các quốc gia (thế giới, EU, và một số vùng lãnh thổ phụ thuộc) được liệt kê trong danh sách bởi vì chúng xuất hiện trong nguồn. Các nền kinh tế này không tuy được liệt kê nhưng không được xếp hạng.
Các số liệu được trình bày ở bảng thống kê này không tính sự khác nhau về chi phí sinh hoạt ở các quốc gia, và kết quả có thể khác nhau rất nhiều từ năm này qua năm khác dựa trên biến động trong tỷ giá hối đoái mà đồng tiền nội tệ của mỗi quốc gia thuyên chuyển. Biến động như vậy có thể thay đổi thứ hạng của một quốc gia từ năm tiếp theo. Do đó, những số liệu này nên được sử dụng cẩn thận.
Trong bảng thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, chỉ có mặt của 182 quốc gia trên thế giới, ngoài ra còn có số liệu về GDP 2011 của các thực thể không được xem là nhà nước như EU và các vùng lãnh thổ (Hong Kong), trong đó có một số thực thể mơ hồ giữa nhà nước hay vùng lãnh thổ như Đài Loan và Kosovo cũng được thống kê trong danh sách này. Trong đó có 17 quốc gia và vùng lãnh thổ không có trong bảng thống kê này của IMF, đó là: Liên bang Micronesia; Palau; Quần đảo Marshall; Bắc Triều Tiên; Turkmenistan; Lãnh thổ Palestine; Somalia; Cuba; Greenland; Lãnh thổ Tây Sahara; Toà thánh Vatican; Công quốc Monaco; San Marino; Liechtenstein; và Andorra, do vấn đề xung đột chính trị và nội chiến, Syria cũng không có mặt trong bảng thống kê. Nhà nước Nam Sudan mới ra đời cũng không được liệt kê vào danh sách, GDP của Sudan trong danh sách gồm GDP của Nam Sudan và Sudan (mới) cộng lại.
Danh sách do CIA - Factbook của Mỹ đưa ra thì khá đầy đủ, gần như toàn bộ các thực thể nhà nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, tổ chức này đưa ra số liệu được thống kê vào năm 2010.
Các số liệu được Ngân hàng thế giới công bố bao ngồm có 189 quốc gia và vùng lãnh thổ, ngoài các quốc gia và vùng lãnh thổ có trong bảng thống kê của IMF, thì trong danh sách của WB còn có các lãnh thổ Greenland; Quần đảo Faroe (lãnh thổ của Đan Mạch);Đảo Man (lãnh thổ thuộc vương miện Anh); lãnh thổ Bermuda (lãnh thổ hải ngoại của Anh); Quần đảo Eo biển (lãnh thổ thuộc vương miện Anh) và Đặc khu hành chính Macau của CHND Trung Hoa.
| 1 | null |
Trận Lincoln lần thứ hai diễn ra tại Lâu đài Lincoln vào ngày 20 tháng 5 năm 1217, trong cuộc Chiến tranh Tử tước lần thứ nhất, giữa quân đội của vua Pháp tương lai Louis VIII và của vua Henry III của Anh. Quân của Louis bị quân cứu viện Anh do William Marshal, Bá tước Pembroke thứ nhất chỉ huy tấn công. Bá tước de la Perche, chỉ huy quân Pháp, bị tiêu diệt và đại bại này khiến cho Louis bị đánh đuổi khỏi căn cứ của mình ở miền Đông Nam nước Anh. Cuộc xâm lược nước Anh của Louis đã chấm dứt. Sự kiện này được gọi là "Lincoln Fair" sau vụ cước bóc xảy ra sau trận đánh. Thị dân ở đây trung thành với Louis do đó quân đội của Henry III đã cướp phá thành phố. Cái tên này cũng gợi nên chiến thắng dễ dàng của người Anh trong trận đánh.
| 1 | null |
Đảo Lord Howe (; tên cũ Đảo của Lord Howe) là tàn dư của ngọn núi lửa hình lưỡi liềm tại biển Tasman, giữa Úc và New Zealand. Hòn đảo nằm cách về phía đông của thị trấn ven biển Port Macquarie, về phía đông bắc Sydney và khoảng về phía tây nam của Đảo Norfolk. Nó có chiều dài và rộng từ , với tổng diện tích , bao gồm cả vùng trũng là một phần của đảo.
Dọc theo bờ biển phía tây là dải cát nửa kín với đầm phá rạn san hô. Hầu hết dân số sống tại phía bắc của đảo, trong khi phía nam bị chi phối bởi những ngọn đồi rừng với điểm cao nhất trên đảo, núi Gower cao . Nhóm đảo Lord Howe bao gồm 28 đảo, đảo nhỏ và đảo đá. Ngoài đảo Lord Howe, thì đáng chú ý nhất trong số các đảo này là đảo đá Ball's Pyramid và một núi lửa không có người ở khoảng về phía đông nam của Lord Howe. Về phía bắc là một cụm gồm 7 đảo nhỏ được gọi là Nhóm đảo Admiralty.
Báo cáo đầu tiên về đảo Lord Howe vào ngày 17 tháng 2 năm 1788, khi trung úy Henry Lidgbird Ball lúc đó là chỉ huy của tàu hải quân "HMS Supply" đang trên đường từ Vịnh Botany đến khu vực thi hành án trên đảo Norfolk. Trên hành trình trở về, Ball đã gửi một nhóm lên bờ trên đảo Lord Howe để tuyên bố đó là sở hữu của nước Anh. Sau đó, nó đã trở thành một cảng trú ẩn cho những tàu đánh bắt cá voi. và trở thành khu định cư vĩnh viễn vào tháng 6 năm 1834. Khi việc săn bắt cá voi giảm, những năm 1880 đã chứng kiến việc bắt đầu xuất khẩu loài Cọ Kentia đặc hữu trên đảo, vốn vẫn là một thành phần chính trong nền kinh tế. Ngành công nghiệp du lịch bắt đầu sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai vào năm 1945.
Nhóm đảo Lord Howe là một phần của bang New South Wales và được coi là khu chưa hợp nhất do Hội đồng Đảo Lord Howe quản lý, báo cáo với Bộ trưởng Môi trường và Di sản bang New South Wales.
UNESCO đã công nhận nhóm đảo này là Di sản thế giới như là địa điểm mang giá trị tự nhiên toàn cầu. Hầu hết hòn đảo là khu rừng gần như hoang sơ, với nhiều loài động thực vật không tìm thấy ở nơi nào khác trên thế giới. Các đặc điểm tự nhiên khác bao gồm sự đa dạng cảnh quan với lớp phủ và đá bazan đảo đại dương, rạn san hô chắn cực nam của thế giới, cùng sự phong phú của các loài chim biển và di sản văn hóa lịch sử. Một đạo luật năm 1981 đã thành lập Công viên bảo tồn vĩnh viễn (chiếm khoảng 70% diện tích đảo). Hòn đảo đã được thêm vào Danh sách Di sản Quốc gia Úc vào ngày 21 tháng 5 năm 2007 và Sổ bộ Địa danh New South Wales vào ngày 2 tháng 4 năm 1999. Vùng biển xung quanh là một khu vực được bảo vệ được chỉ định là Công viên biển Đảo Lord Howe.
| 1 | null |
Đông Cumberland là một cái vịnh nhỏ nằm về phía đông của vịnh Cumberland, Nam Georgia. Nó nằm giữa mũi Sappho và mũi Barff. Lối vào vịnh rộng 4,3 km và mở rộng về phía đông nam lên 13 km. Nó được khảo sát bởi đoàn thám hiểm Nam cực của Thuỵ Điển năm 1901 - 1094 và đặt tên là vịnh Nam (South Bay). Nó được đổi tên thành vịnh Đông Cumberland sau khi nhân viên của Discovery Investigations làm việc tại đây (1926 - 1929), việc đặt tên dựa vào phương hướng của vịnh so với vịnh anh em của nó (vịnh Tây Cumberland). Tên vịnh Đông (East Bay) cũng được sử dụng để chỉ cho cái vịnh này trong thời gian đó.
Trong năm 1951 - 1952, dưới cuộc khảo sát của Ủy ban về Địa danh Nam Cực của Anh (UK-APC), đề nghị tên của vịnh là Cumberland East Bay (vịnh Đông Cumberland) và các tên khác bị từ chối sử dụng, và cái tên vịnh Đông Cumberland được sử dụng chính thức trên truyền thông, giáo dục cho đến ngày nay. Quyết định này nhăm mục đích tránh nhằm lẩn với một cái vịnh khác cũng nằm ở Nam Georgia tên East Bay (Vịnh Đông).
| 1 | null |
Hình hài dấu yêu (tựa gốc: The Lovely Bones) là một phim siêu thực đạo diễn bởi Peter Jackson ra mắt trong năm 2009. Phim dựa theo quyển sách cùng tên The Lovely Bones của Alice Sebold. Các diễn viên gồm Saoirse Ronan trong vai Susie Salmon, Mark Wahlberg và Rachel Weisz trong vai cha mẹ của Susie, Jack và Abigail Salmon. Tham gia đóng phim còn có Susan Sarandon, Amanda Michalka và Stanley Tucci. Phim nhận nhiều đề cử và giải thưởng, trong đó có Giải Quả cầu vàng.
Nội dung.
Vào năm 1973, Susie Salmon (Saoirse Ronan), một cô bé 14 tuổi sống ở Pennsylvania cùng với cha mẹ, chị và em trai, với mơ ước sau này trở thành một nhiếp ảnh gia. Một ngày nọ tại trường học, Ray Singh (Reece Ritchie), một cậu bé mà Susie đã phải lòng, tiếp cận cô ở tủ đồ cá nhân và để lại một mảnh giấy vào sách giáo khoa của cô. Anh hẹn cô đi chơi vào Thứ Bảy tuần sau. Khi Susie đi về nhà băng qua một cánh đồng ngô, cô chạm mặt một gã hàng xóm, George Harvey (Stanley Tucci), kẻ đã dụ cô vào tầng hầm của mình. Bên trong, Susie bắt đầu cảm thấy không thoải mái và cố gắng rời khỏi đó thì Harvey, hắn ta chộp lấy cô. Cảnh quay thể hiện cô được nhìn thấy chạy vội vã ngang qua bạn cùng lớp Ruth Connors (Carolyn Dando).
Trong khi đó, gia đình của cô bé trở nên lo lắng khi Susie không về nhà. Bố của cô, Jack (Mark Wahlberg), đi tìm kiếm cô khắp nơi, trong khi mẹ cô, Abigail (Rachel Weisz), gọi cho cảnh sát. Trong lúc chạy trốn nơi thị trấn, Susie nhìn thấy cha cô, nhưng ông không trả lời khi cô gọi. Susie sau đó chạy về nhà, thì thấy tên Harvey đang ngâm mình trong bồn tắm. Khi nhìn thấy chiếc vòng tay của cô treo trên vòi nước gần một chiếc dao cạo dính đầy máu, Susie mới nhận ra rằng cô đã không thể thoát khỏi cái "bẫy" đó và thực sự đã bị hắn ta sát hại. Gào thết, cô bị kéo vào một nơi xa lạ, không phải thiên đàng cũng không phải trần gian. Từ đó, Susie dõi theo những người thân yêu của mình, cô gặp một người bạn mới ở thế giới bên kia Holly, thúc giục cô cùng đi, nhưng cô không nỡ.
Vụ việc điều tra sự mất tích của Susie bởi Thám Tử Len Fenerman (Michael Imperioli), bố cô cho rằng Susie bị sát hại bởi một người mà cô quen biết. Ông bắt đầu đi kiểm tra những người hàng xóm xung quanh và ông nghi rằng chính Harvey là kẻ gây nên chuyện này. Jack cũng có suy nghĩ rằng Harvey là kẻ giết người. Nhưng sau khi tra hỏi Harvey, thì không thể tìm thấy bất kỳ bằng chứng cho thấy ông ta là người đáng nghi, vì hắn đã xóa sạch tất cả các bằng chứng liên quan đến Susie trước khi họ đến. Chị của Susie, Lindsey (Rose McIver), cũng đồng tình với nghi ngờ của cha cô, nhưng mẹ cô,Abigail đã quá lo lắng, nên Jack nhờ người mẹ say rượu, Lynn (Susan Sarandon), đến để chăm sóc cho cô. Cảm thấy đau khổ khi sống trong ngôi nhà mình và bị chồng xa lánh, Abigail bỏ đi đến một trang trại ở California. Ở thế giới bên kia, Susie đã biết được rằng Harvey, hắn đã nhắm Lindsey làm mục tiêu tiếp theo, và đã giết chết sáu cô gái khác, bao gồm cả Holly, và hắn dấu xác của Susie vào một két sắt trong tầng hầm.
Một đêm nọ, Jack mang theo một gậy bóng chày, đi theo dõi phía sau Harvey vào con đường mòn trên cánh đồng ngô. Tuy nhiên, Jack tình cờ chạm mặt bạn của Susie, Clarissa (Amanda Michalka) khiến cho bạn trai của cô, Brian (Jake Abel) nhầm lẫn cho rằng Jack hành hung bạn gái mình, đã giật gậy của Jack đánh ông chí tử, cùng lúc Harvey quan sát từ nơi hắn ẩn núp gần đó. Trong lúc phục hồi, Lindsey đột nhập vào nhà của Harvey để tìm kiếm bằng chứng. Lên lầu, cô tìm thấy một cuốn sổ tay có chứa một bản tóm tắt các kế hoạch mờ ám sắp tới của hắn và một lọn tóc Susie, cũng như các tin tức về sự mất tích của Susie. Harvey trở về nhà, Lindsey đã kịp thoát ra cùng với cuốn sổ trong tay và lao về nhà, và vừa lúc mẹ cô đã trở về. Nhưng trông thấy bố mẹ đang làm lành, cô không muốn xen vô, nên đã giấu cuốn sổ và đưa nó cho bà ngoại. Phát hiện bị mất cuốn sổ, hắn sợ bị bắt, nên vội chở két sắt dấu xác của Susie đi tiêu hủy.
Susie nay đã tiến gần hơn tới cổng Thiên Đường, và cô được chào đón bởi các nạn nhân trước đó của Harvey. Cô trì hoãn sự thôi thúc của Holly để lên thiên đàng cùng với những người khác, nói rằng cô còn một điều cuối cùng cần phải thực hiện. Trong khi đó, Ruth và Ray có mặt khi Harvey lái xe đến để bỏ két sắt nơi có hố chôn những vật dụng cũ. Susie trở về trần gian và nhập hồn vào cơ thể của Ruth, làm Ruth ngất đi. Ray chạy đến giúp Ruth và nhận ra cô đã trở thành Susie. Họ hôn nhau và hoàn thành ước nguyện cuối cùng của Susie, và cô trở về thiên đường, trong lúc Harvey lái xe đi. Trong khi đó, cảnh quay két sắt được lăn xuống hố trước khi chìm xuống bùn.
Một thời gian sau, Harvey gặp một cô gái trẻ bên ngoài một quán ăn và ngỏ ý muốn đưa cô đến nơi cô muốn, nhưng cô từ chối và bỏ đi. Một mảnh băng nhọn rơi từ một cành cây trên không, trúng vai của Harvey. Hắn mất thăng bằng trên băng và rơi ngược xuống một vách đá và chết. Qua thời gian, gia đình Susie đã bớt đau lòng, và trong tâm trí mọi người, Susie được nghĩ đến như "hình hài dấu yêu". Khi bộ phim kết thúc, Susie cuối cùng đi vào thiên đường, nói với khán giả: " tôi tên Susie, họ tôi là Salmon, giống như tên một loại cá (cá hồi), tôi 14 tuổi, tôi bị sát hại vào ngày 06 tháng 12 năm 1973, tôi đã đến "trần gian" một lúc rồi... sau đó tôi đã biến mất, tôi mong muốn tất cả các bạn sống thật lâu và hạnh phúc".
| 1 | null |
Xa lộ Liên tiểu bang 81 (tiếng Anh: "Interstate 81" hay viết tắt là I-81) là một xa lộ liên tiểu bang tại miền đông Hoa Kỳ. Điểm đầu phía nam của nó nằm tại Xa lộ Liên tiểu bang 40 trong thành phố Dandridge, Tennessee; điểm đầu phía bắc của nó nằm trên Đảo Wellesley (gần Fishers Landing, New York) tại biên giới Canada nơi Cầu Thousand Islands nối nó đến Xa lộ Ontario 401, xa lộ cao tốc chính nối thành phố Detroit qua ngã thành phố Toronto đến thành phố Montreal.
Đây là xa lộ liên tiểu bang không-chính yếu dài thứ hai (xa lộ không có mã số cuối là 0 hay 5).
Xa lộ Liên tiểu bang 81 phần lớn đi theo dấu của các con đường mòn do thú vật di cư, người bản thổ Mỹ và dân định cư xưa tạo ra ở bên dưới chiều dài của Dãy núi Appalachia. Nó cũng đi theo một hành lang chính di chuyển quân sự thời Nội chiến Hoa Kỳ. Các đường mòn này và đường lộ này sau đó tiến hóa thành Quốc lộ Hoa Kỳ 1. Xa lộ Liên tiểu bang 81 chạy song song phần lớn con đường cũ của Quốc lộ 1. Vì phần lớn là nông thôn nên nó được dùng như hành lang xa lộ cho xe tải, thông thường như đường tránh phía đông của Xa lộ Liên tiểu bang 95.
Liên minh Hành lang Xa lộ Liên tiểu bang 81, một liên minh gồm sáu tiểu bang, được tổ chức để giám sát các vấn đề dọc trên Xa lộ Liên tiểu bang 81, thí dụ như ô nhiễm không khí và lưu lượng xe tải. Tính đến ngày 15 tháng 10 năm 2008, ủy ban này đã họp hai lần.
Mộ tả xa lộ.
Tennessee và Virginia.
Xa lộ Liên tiểu bang 81 bắt đầu trong tiểu bang Tennessee tại Xa lộ Liên tiểu bang 40 trong thành phố Dandridge. I-81 chạy song song Dãy núi Appalachia trong phần lớn đoạn đường của nó qua tiểu bang Tennessee và tiểu bang Virginia, phục vụ các thành phố như thành phố đôi Bristol, Tennessee/Bristol, Virginia, Roanoke, Blacksburg, Lexington, Staunton, Harrisonburg, và Winchester. Tại Harrisonburg, I-81 chạy cắt ngang Đại học James Madison. Nó chạy song song với con đường đồng nhiệm củ hơn là Quốc lộ Hoa Kỳ 11 trên toàn tuyến đường tại Virginia.
Ở mốc dặm 8, I-81 gặp nửa đường phía đông của Quốc lộ Hoa Kỳ 25: Quốc lộ Hoa Kỳ 25E ở phía nam của Morristown. I-81 không đi qua Johnson City hay Kingsport; nhưng tại mốc dặm 57, I-81 gặp Xa lộ Liên tiểu bang 26 và Quốc lộ Hoa Kỳ 23 là hai xa lộ đi đến Kingsport và Johnson City. Tại mốc dặm 75, I-81 rời tiểu bnag Tennessee và vào thịnh vượng chung Virginia.
Tiểu bang Virginia đề xuất mở rộng toàn đoạn đường của I-81 đi qua địa phận của mình lên ít nhất là 3 hoặc 4 làn mỗi chiều để phục vụ sự gia tăng giao thông bằng xe tải và cũng đề xưất việc thu phí đối với xe không phải xe cá nhân hay xe không chở khách. Một số đoạn đường mới của I-81 trong tiểu bang Virginia có thể hoàn toàn tách biệt giữa xe cá nhân, hay chở khách với xe tải.
West Virginia và Maryland.
Xa lộ Liên tiểu bang 81 đi vào vùng cán chảo phía đông của tiểu bang Tây Virginia, phục vụ thành phố Martinsburg. Sau đó nó đi vào tiểu bang Maryland tại một trong những điểm hẹp nhất của nó, đi qua thành phố Hagerstown là nơi nó giao cắt với một số lớn các xa lộ khác.
Pennsylvania.
Xa lộ Liên tiểu bang 81 hình thành một hành lang xa lộ bắc–nam chính yếu đi qua tiểu bang Pennsylvania, phục vụ các đô thị tự quản Chambersburg và Carlisle là nơi nó gặp Xa lộ thu phí Pennsylvania (I-76) nhưng không trực tiếp liên đổi đường với xa lộ thu phí (người lái xe phải dùng Quốc lộ Hoa Kỳ 11 để kết nối). Quanh thu phủ tiểu bang là Harrisburg, xa lộ hình thành đoạn đông bắc của Xa lộ vành đai Thủ phủ của tiểu bang Pennsylvania. Sau đó xa lộ đi hướng đông bắc về Thung lũng Wyoming, nơi nó phục vụ các thành phố Wilkes-Barre và Scranton, sau đó đi hướng bắc qua vùng Dãy núi Endless về phía ranh giới tiểu bang.
Tiểu bang New York.
Xa lộ Liên tiểu bang 81 vào tiểu bang New York gần Binghamton. Nó đi song song Quốc lộ Hoa Kỳ 11 theo hướng bắc–nam qua phần lớn tiểu bang, phục vụ các thành phố Syracuse (nơi nó giao cắt Xa lộ cao tốc Tiểu bang New York), và thành phố Watertown. Xa lộ kết thúc tại biên giới Canada tại Cầu Thousand Islands, nơi nó vượt Sông Saint Lawrence, tiếp tục trong vai trò một xa lộ kết nối ngắn có tên là Xa lộ Ontario 137 đi cắt ngang qua Xa lộ Công viên Thousand Islands trước khi kết thúc tại Xa lộ Ontario 401.
Các xa lộ phụ trợ.
I-81 hiện nay có ba xa lộ phụ cung cấp lối đi đến hay đi tránh nhiều thành phố khác nhau dọc theo con đường của nó.
| 1 | null |
Một khu vực sinh thái hay vùng địa sinh (tiếng Anh: ecozone) là cách phân chia bề mặt Trái Đất theo địa sinh. Trái Đất phân ra thành các vùng địa sinh dựa vào lịch sử và sự tiến hóa của thực vật và động vật.
Đặc điểm.
Vùng địa sinh gồm những vùng rộng lớn mà trong đó cây cỏ và động vật đã phát triển một cách cô lập, trong một thời gian dài. Các vùng này cách nhau bởi những ranh giới tự nhiên như đại dương, sa mạc bao la, hay những dãy núi cao, khiến cho cây cỏ và động vật ở vùng này không di cư qua một vùng khác được.
Vùng địa sinh được đặc trưng bởi cây cỏ và động vật trong vùng đó. Vùng địa sinh khác với quần xã sinh vật. Quần xã sinh vật được đặc trưng bởi cây cối tương tự và không coi trọng quá trình tiến hóa của thực vật và động vật. Một vùng địa sinh có thể bao gồm nhiều quần xã sinh vật. Chẳng hạn, rừng nhiệt đới Trung Mỹ dù là tương tự như rừng New Guinea nói về thực vật, nhưng hai rừng này có nhiều thực vật và sinh vật với quá trình tiến hóa rất khác nhau.
Các khu vực sinh thái của WWF.
Một nhóm nhà sinh vật học được triệu tập bởi WWF đã chia Trái Đất ra làm 8 vùng địa sinh như sau:
Các vùng sinh thái.
Dự án WWF tiếp tục phân chia nhỏ các khu vực sinh thái thành các vùng sinh thái theo định nghĩa "cụm địa lý thuộc vùng sinh thái có thể mở rộng vài loại môi trường sống, nhưng có mối quan hệ sinh địa học mạnh mẽ, đặc biệt ở các mức phân loại cao hơn mức phân loại loài (chi, gia đình)". Các vùng sinh thái WWF trên thế giới như sau:
| 1 | null |
Người châu Âu đã bắt đầu thực dân hóa châu Mỹ kể từ năm 1492. Tuy nhiên, di chỉ L'Anse aux Meadows nằm ở tỉnh bang Newfoundland và Labrador của Canada đã bị thực dân hóa từ rất lâu trước đó. Kể từ năm 1000 SCN, nó là địa điểm duy nhất được biết đến là một ngôi làng của người Viking và Norse nằm ở Canada cũng như Bắc Mỹ ngoại trừ Greenland. L'Anse aux Meadows là trường hợp duy nhất được công nhận rộng rãi về sự giao lưu xuyên đại dương thời kỳ tiền Columbus.
Vào năm 1492, một đoàn thám hiểm Tây Ban Nha dẫn đầu bởi Cristoforo Colombo đã đi tàu đến châu Mỹ để buôn bán những gia vị đắt tiền và các mặt hàng khác. Ngay sau đó là các cuộc xâm chiếm, thám hiểm, đại thám hiểm cùng với thực dân hóa của người châu Âu. Các hoạt động đầu tiên diễn ra dọc theo bờ biển Caribbe trên các hòn đảo của Hispaniola, Puerto Rico và Cuba, và sau năm 1500 đã mở rộng sau vào lục địa ở cả Bắc và Nam Mỹ. Vào năm 1497, nhân danh nước Anh, John Cabot đã đặt chân đến bờ biển Bắc Mỹ và sau đó 1 năm, chuyến hải hành thứ ba cũng đã đưa Colombo đến bờ biển Nam Mỹ.
Pháp tìm kiếm thuộc địa nhiều nơi ở phía đông Bắc Mỹ, trên một số đảo ở Caribbe và ở Nam Mỹ, Bồ Đào Nha thực dân hóa Brasil.
Rốt cuộc, toàn bộ Tây bán cầu đã nằm dưới quyền cai trị của các nước châu Âu, dẫn đến những thay đổi sâu sắc về cảnh quan, dân cư và đời sống động thực vật ở những nơi đó. Trong thế kỷ 19, đã có trên 50 triệu người rời châu Âu để tới châu Mỹ. Thời kỳ sau năm 1492 được biết đến như là thời kỳ trao đổi Colombo (Columbian Exchange).
| 1 | null |
Wireshark là một phần mềm tự do dùng để xử lý sự cố mạng, phát triển những giao thức thông tin mới và trong giáo dục. Nó có thể được sử dụng trên Linux, Mac OS X và Windows. Lúc đầu nó mang tên là Ethereal nhưng đổi tên là Wireshark vì có vấn đề về nhãn hiệu. Nó chủ yếu cho người dùng biết tất cả giao thông trên mạng, từng cụm tin một. Tác giả của chương trình này là Gerald Combs.
| 1 | null |
Vĩnh Thuận là một xã thuộc huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.
Địa lý.
Xã Vĩnh Thuận có diện tích 51,60 km², dân số năm 2020 là 12.068 người, mật độ dân số đạt 234 người/km².
Hành chính.
Xã Vĩnh Thuận được chia thành 9 ấp: Bờ Xáng, Đòn Dông, Kinh 3, Kinh 9, Kinh 11, Kinh 13, Kinh 14, Ranh Hạt, Vĩnh Trinh.
Lịch sử.
Sau năm 1975, Vĩnh Thuận là một xã thuộc huyện Vĩnh Thuận.
Ngày 10 tháng 10 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 109-HĐBT<ref name=109/1981/QĐ-HĐBT></ref> về việc chia xã Vĩnh Thuận thành bốn xã lấy tên là xã Vĩnh Thuận, xã Thuận Bắc, xã Thuận Nam và xã Thuận Tây.
Ngày 24 tháng 5 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 92-HĐBT<ref name=92/1988/QĐ-HĐBT>Quyết định 92-HĐBT năm 1988 về việc điều chỉnh địa giới huyện Châu Thành để mở rộng địa giới thị xã Rạch Giá; thành lập phường, xã, thị trấn thuộc thị xã Rạch Giá và các huyện Châu Thành, An Minh, Gò Quao, Hòn Đất; điều chỉnh địa giới hành chính huyện Hà Tiên và huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang</ref> về việc:
Ngày 31 tháng 5 năm 1991, Ban Tổ chức Chính phủ ban hành Quyết định số 288-TCCP<ref name=288/1991/QĐ-TCCP>Quyết định số 288-TCCP điều chỉnh địa giới một số xã, phường thuộc thị xã Rạch Giá và các huyện An Minh, Giồng Riềng, Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang</ref> về việc giải thể xã Tân Thuận nhập một phần vào xã Vĩnh Thuận.
Ngày 18 tháng 3 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 23-CP<ref name=23/1997/NĐ-CP></ref> về việc thành lập xã Tân Thuận trên cơ sở 4.033 ha diện tích tự nhiên và 10.164 nhân khẩu của xã Vĩnh Thuận.
Xã Vĩnh Thuận sau khi điều chỉnh địa giới hành chính có 5.091 ha diện tích tự nhiên và 11.986 nhân khẩu.
| 1 | null |
Vĩnh Thắng là một xã thuộc huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.
Xã Vĩnh Thắng có diện tích 33,83 km², dân số năm 2020 là 6.914 người, mật độ dân số đạt 204 người/km².
Hành chính.
Xã Vĩnh Thắng được chia thành 6 ấp: Thắng Lợi, Vĩnh Minh, Vĩnh Phong, Vĩnh Tân, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Tiến.
Lịch sử.
Ngày 27 tháng 9 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 107-HĐBT<ref name=107/1983/QĐ-HĐBT></ref> về việc chia xã Vĩnh Tuy thành 3 xã lấy tên là xã Vĩnh Tuy, xã Vĩnh Thắng và xã Vĩnh Hùng.
Ngày 14 tháng 11 năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 84/2001/NĐ-CP<ref name=84/2001/NĐ-CP></ref> về việc thành lập xã Vĩnh Thắng trên cơ sở 3.383 ha diện tích tự nhiên và 10.325 nhân khẩu xã Vĩnh Tuy.
| 1 | null |
Bàng Noãn (), có chỗ chép là Bàng Hoán, Bàng Tử, Bàng Viên, có chỗ chép lầm là Phùng Noãn, nhà lý luận chính trị theo học phái Tung Hoành, nhà lý luận quân sự, tướng lĩnh nước Triệu cuối thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Không rõ xuất thân của Bàng Noãn, những ghi chép sớm nhất về ông xuất hiện trong "Hạt Quan Tử", kể rằng Bàng Noãn từng đàm luận binh pháp với Triệu Vũ Linh Vương và Triệu Điệu Tương Vương. Cũng có thuyết cho rằng ông từng thảo luận với Tuân Tử về binh pháp trước mặt Triệu Hiếu Thành Vương.
Tướng Yên là Kịch Tân khi còn ở Triệu có quan hệ rất tốt với Bàng Noãn. Năm 242 TCN, Yên Vương Hỷ cho rằng Triệu đã nhiều lần thua Tần, Liêm Pha thì bỏ sang Ngụy, muốn thừa cơ tấn công. Trước khi xuất chinh, Yên Vương hỏi đến Bàng Noãn, Kịch Tân nói rằng đối phó ông rất dễ. Yên Vương vì thế phái Kịch Tân đem quân đánh Triệu, nước Triệu sai Bàng Noãn nghênh chiến. Kết quả, quân Yên đại bại, bị bắt 2 vạn người, Kịch Tân bị giết.
Năm 241 TCN, 5 nước Triệu, Sở, Ngụy, Hàn, Yên đưa Sở Khảo Liệt Vương làm Tung ước trưởng, Bàng Noãn làm Chủ soái liên quân, cùng tấn công nước Tần. Khi liên quân đánh Hàm Cốc quan, quân Tần xuất kích, chư hầu thua chạy. Liên quân chuyển sang đánh đồng minh của Tần là nước Tề, chiếm được Nhiêu An.
Năm 236 TCN, Bàng Noãn soái chủ lực quân Triệu lên phía bắc đánh Yên. Tần vương Chính mượn lý do cứu Yên, lấy Vương Tiễn, Hoàn Nghĩ, Dương Đoan Hòa làm tướng, chia 2 đường đánh Triệu. Trong khi Triệu chiếm được 3 thành Chước Lương, Li, Dương Thành của Yên thì Tần chiếm được quận Thượng Đảng; 6 thành Át Dữ, Liêu Dương, Nghiệp Thành, và An Dương cả thảy 9 thành. Bàng Noãn nghe tin vội đưa quân về phía nam để cứu viện thì quân Tần đã thôn tính toàn bộ lưu vực Chương Thủy. Sau trận này, nước Triệu lại thêm suy yếu, Triệu Điệu Tương Vương uất ức mà chết. Từ đây Bàng Noãn không còn xuất hiện trong ghi chép nào nữa.
Trước tác.
Bàng Noãn đã viết 3 thiên luận về Binh Quyền Mưu Gia và 2 thiên luận về Tung Hoành Gia, đều không còn lưu giữ được.
Trong Đông Chu liệt quốc.
Trong tiểu thuyết Đông Chu Liệt Quốc của Phùng Mộng Long, Bàng Noãn là viên tướng quan trọng hàng đầu của nước Triệu sau khi Liêm Pha ra đi. Ông chinh chiến với các nước Yên, Tần và cuối cùng trong trận thắng tướng Tần là Mông Ngao, ông bị trúng tên của quân Tần, bị thương nặng và qua đời. Sau Bàng Noãn, nước Triệu lại có Lý Mục.
| 1 | null |
Dương Đông là một phường thuộc thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.
Địa lý.
Phường Dương Đông nằm ở phía tây đảo Phú Quốc, có vị trí địa lý:
Phường Dương Đông có diện tích 15,06 km², dân số năm 2020 là 44.607 người, mật độ dân số đạt 2.962 người/km².
Hành chính.
Phường Dương Đông được chia thành 12 khu phố: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12.
Lịch sử.
Dưới thời nhà Nguyễn, Dương Đông là một thôn thuộc tổng Phú Quốc, huyện Hà Châu, phủ An Biên, tỉnh Hà Tiên.
Đến thời Pháp thuộc, tổng Phú Quốc được chuyển thành quận thuộc tỉnh Hà Tiên, Dương Đông là một làng thuộc quận Phú Quốc và là nơi đặt quận lỵ.
Sau năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đặt quận Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang. Lúc này, Dương Đông là một xã thuộc quận Phú Quốc nhưng địa bàn thu hẹp lại do tách hai ấp Hưng Văn và Lạc Quới để thành lập xã An Thới vào năm 1960.
Về phía chính quyền cách mạng, trong những năm kháng chiến, một phần diện tích và dân số của xã Dương Đông được tách ra để thành lập thêm hai xã Dương Tơ và Cửa Cạn. Sau đó, xã Dương Đông lại nhập với xã Cửa Cạn thành xã Cửa Dương. Thị trấn Dương Đông được thành lập sau năm 1954 trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của xã Cửa Dương.
Sau năm 1975, Phú Quốc là huyện thuộc tỉnh Kiên Giang, huyện lỵ đặt tại thị trấn Dương Đông.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 50-CP. Theo đó, sáp nhập xóm Suối Mây của thị trấn Dương Đông vào xã Dương Tơ.
Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1109/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập thành phố Phú Quốc và các phường thuộc thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2021). Theo đó, thành lập phường Dương Đông thuộc thành phố Phú Quốc trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và 60.415 người của thị trấn Dương Đông.
| 1 | null |
Hòa Điền là một xã thuộc huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.
Địa lý.
Xã Hòa Điền có diện tích 121,21 km², dân số năm 2020 là 9.836 người, mật độ dân số đạt 81 người/km².
Hành chính.
Xã Hòa Điền được chia thành 8 ấp: Cảng, Cờ Trắng, Hòa Giang, Hòa Lạc, Kinh 1, Núi Trầu, Tân Điền, Thạnh Lợi.
Lịch sử.
Trước đây, Hòa Điền là một xã thuộc huyện Hà Tiên cũ.
Ngày 21 tháng 4 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 28/1999/NĐ-CP<ref name=28/1999/NĐ-CP></ref> về việc đổi tên huyện Hà Tiên thành huyện Kiên Lương. Xã Hòa Điền thuộc huyện Kiên Lương.
| 1 | null |
Trong nhiếp ảnh, máy ảnh toàn phương hay máy ảnh 360 độ là một loại máy ảnh có phạm vi quan sát bao quát gần như một hình cầu hoặc ít nhất là một đường tròn theo phương ngang. Loại máy ảnh này có nhiều ứng dụng quan trọng trong các lĩnh vực cần độ quan sát bao quát không gian rộng, ví dụ như ảnh toàn cảnh hoặc sử dụng cho robot.
| 1 | null |
Trận Nachod là một trận giao tranh trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, diễn ra vào ngày 27 tháng 6 năm 1866 giữa Quân đoàn V thuộc Binh đoàn thứ hai của Quân đội Phổ và Quân đoàn VI của Quân đội Đế quốc Áo, đồng thời là cuộc giao chiến lớn đầu tiên ở cánh trái của quân Phổ trong chiến dịch năm 1866. Trong trận đánh này, Quân đoàn V của Phổ dưới sự chỉ huy của tướng Karl Friedrich von Steinmetz chỉ dùng mỗi súng trường mà đánh bật cuộc tiến công dữ dội của đội quân Áo hùng mạnh hơn dưới quyền tướng Wilhelm Ramming von Riedkirchen trong cùng ngày với thắng lợi của quân Áo trước quân Phổ trong trận Trautenau. Nhờ đó, Steinmetz tiếp tục cuộc hành binh của ông, và được mệnh danh là "Sư tử của Nachod". Trận đánh tại Nachod là một chiến thắng quan trọng của Quân đội Phổ, đã mở đường cho họ tiến quân vào vùng Böhmen và đặt nền tảng cho đại thắng của họ trong trận Königgrätz ("Sadowa"). Đồng thời, chiến thắng này cũng chứng tỏ những ý niệm của Tổng tham mưu trưởng Quân đội Phổ là Helmuth von Moltke Lớn.
Trong khi "Binh đoàn Schlesien" (còn gọi là Binh đoàn thứ hai) của Quân đội Phổ tiến chiếm vùng Böhmen thuộc Áo thông qua Trautenau, xa về hướng Đông, Thái tử nước Phổ là Friedrich Wilhelm đã phái các đơn vị dẫn đầu dưới quyền tướng Steinmetz kéo đến cao nguyên Vysokov, về hướng Tây Nachod. Bằng các "đội hình hàng dọc", người Áo đã tiến công người Phổ trong trận đánh tại Nachod. Cuộc giao chiến đã diễn ra khốc liệt. Ban đầu, quân Phổ lâm vào khó khăn và Steinmetz cho quân đội của ông trú ẩn trong một đống gỗ để tránh khỏi đạn pháo của đối phương và tử thủ. Thái tử Friedrich Wilhelm đã thân chinh tham chiến trong trận Nachod, và sự hiện diện của ông cùng với ưu thế của khí giới quân đội Phổ đã khiến cho cuộc chiến đấu phòng vệ của người Phổ giành thắng lợi. Cuối cùng, quân Phổ thừa thắng đã tiếp tục cuộc tiến công của mình. Mà trước khi tổng tấn công, một trận giao đấu bằng Kỵ binh đã xảy ra và kết thúc với thất bại hoàn toàn của lực lượng Kỵ binh Áo. Với chiến bại của quân Kỵ binh Áo, Quân đội Phổ đã đánh tan tác đội Kỵ binh lừng lẫy nhất tại châu Âu. Giữa lúc quân Áo thất thế, Ramming đã từng bị mất liên lạc với các thuộc cấp của mình do hỏa lực của quân Phổ. Sau những đợt công kích liên tiếp thảm bại, trận tuyến của quân Áo đã bị tan rã và họ phải rút chạy về phía Tây, nhưng những người lính của Steinmetz không truy đuổi vì đã thấm mệt. Tuy nhiên, một số đơn vị Phổ đã tiến hành truy quét và thu được nhiều tù binh cùng với chiến lợi phẩm.
Với chiến bại của Ramming, đèo Nachod đã rộng mở cho đoàn quân Phổ. Sau cuộc chiến đấu kịch liệt, Quân đoàn V của Phổ vẫn còn mạnh mẽ. Trận thắng của quân Phổ tại Nachod cũng được xem là một "cuộc bắn bia nhằm vào tay thiện xa" của họ đối với quân Áo, và thiệt hại của quân Áo nặng nề hơn hẳn đối phương (trong tổn thất của quân Áo có cả những binh sĩ đã đầu hàng còn hơn là rút chạy). Trong trận chiến này, quân Phổ đã thành lập trận tuyến không chính quy và dựa vào hỏa lực khủng khiếp của mình, song, không những hỏa lực vượt trội của súng trường nạp hậu của quân Phổ mà sự quyết đoán và khéo léo của Steinmetz, tài nghệ điều binh của các Sĩ quan cấp cao của Phổ và sự bền chí của tướng sĩ Phổ cũng được đánh giá là nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của họ. Đồng thời, trận chiến này cũng góp phần chứng tỏ khả năng chỉ huy quân đội của Thái tử Friedrich Wilhelm. Thắng lợi toàn diện tại Nachod là lần đầu tiên lợi thế của các chiến thuật của quân Phổ được chứng tỏ, mặc dù các Trung đoàn Phổ tham chiến trong trận Nachod chưa hề tham gia một cuộc chiến tranh nào kể từ sau trận Waterloo năm 1815 (trái ngược với người Áo). Được xem là chiến thắng được nói đến nhiều nhất trong cuộc chiến tranh, thắng lợi tại Nachod đã góp phần mang lại thanh thế lừng lẫy cho Steinmetz. Ông đã từng trực tiếp điều khiển cuộc giao chiến của lực lượng Kỵ binh Phổ trong trận thắng này. Và, sau chiến thắng Nachod, đoàn binh của ông tiếp tục đánh thắng quân Áo trong trận Skalitz và trận Schweinschädel.
| 1 | null |
Chi Khi mộc hay Xích dương (dương đỏ) (danh pháp khoa học: Alnus) là một chi thực vật có hoa trong họ Bạch dương. Chi này gồm khoảng 30 loài cây và cây bụi có hoa đơn tính cùng gốc, một vài loài có kích thước lớn phân bố trên khắp khu vực ôn đới của bán cầu bắc và ở châu Mỹ dọc theo Andes về phía nam đến Argentina.
Phân loại.
Chi này được chia thành 3 phân chi:
| 1 | null |
Anchor text, hay link label, link text, hoặc link title, là những ký tự có thể nhìn thấy và những từ này là siêu liên kết (hyperlink) thể hiện khi liên kết tới các văn bản khác hoặc các vị trí khác nhau trên website. Từ 1998, một vài trình duyệt web có khả năng thêm để hiển thị các siêu liên kết này trước khi nó được sử dụng.
Không phải tất cả liên kết (link) có anchor text bởi vì nó thể thể rõ ràng khi liên kết dẫn tới các các thứ mà được sử dụng trước đó. Anchor text thường dưới 60 ký tự.
| 1 | null |
Day By Day (tạm dịch: "Ngày qua ngày") là đĩa mở rộng (mini-album) thứ tư của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc T-ara. Album được phát hành vào ngày 3 tháng 7 năm 2012 bởi hãng Core Contents Media với bài hát cùng tên với album là ca khúc chủ đề. Album đánh dấu sự xuất hiện lần đầu tiên của thành viên thứ tám, Areum và cũng là lần xuất hiện cuối cùng của Hwayoung với tư cách thành viên trong nhóm. Ngoài ra, trong video nhạc của Day by Day còn có sự xuất hiện của thành viên thứ 9 sắp ra mắt Dani như là một nữ diễn viên cùng với các thành viên hiện tại của nhóm là Jiyeon và Hyomin. Sau khi phát hành, bài hát chủ đề đã nhanh chóng đạt "all-kill" khi đạt vị trí số một tại nhiều bảng xếp hạng lớn nhỏ tại Hàn Quốc. Một phiên bản tái phát hành của album, có tiêu đề Mirage (mặc dù tiêu đề trên bìa là album thứ bảy), được phát hành vào ngày 3 tháng 9 năm 2012 với bài hát chủ đề "Sexy Love".
| 1 | null |
Backlink, còn được biết với các thuật ngữ như incoming link, inbound link, inlink, và inward link, là những liên kết hướng tới website hoặc trang web (web page). Trong thuật ngữ link cơ bản, backlink là mọi link được nhận từ các website như trang web (web page), thư mục (directory), website hoặc tên miền ở mức cao nhất (top level domain) từ những web khác nhau.
Backlink ban đầu có vai trò quan trọng (trước khi sự xuất hiện của công cụ tìm kiếm) như là biện pháp chính để điều hướng website, giờ đây thì nó rất có ý nghĩa trong SEO. Số lượng backlink thì một trong những yếu tố phổ biến và quan trọng đối với một website hoặc trang web.
Backlink là việc bạn gắn địa chỉ web của bạn lên một trang web khác thông qua các cách như sử dụng anchor text, link ảnh hoặc link trần để gắn link. Để thực hiện được điều này, bạn có thể thực hiện theo nhiều cách như: Mua vị trí gắn link tại trang web bạn muốn gắn, thực hiện trao đổi link giữa hai bên. Backlink sẽ thực sự tốt cho web của bạn nếu trang bạn đặt link có uy tín và lượng truy cập lớn (pagerank tốt hoặc hiện tại là các chỉ số DA, PA và index của website...), khi đó các truy cập vào trang web mà bạn đặt backlink sẽ liên kết trỏ về web của bạn, do đó giúp phần tăng thứ hạng cho website của bạn.
Các công cụ tìm kiếm thường sử dụng số lượng backlinks mà một trang web có như một trong những yếu tố quan trọng nhất để xác định thứ hạng, sự phổ biến và tầm quan trọng của công cụ tìm kiếm trên trang web đó. Mô tả của Google về hệ thống PageRank ghi chú rằng "Google giải thích một liên kết từ trang A đến trang B như là một cuộc bỏ phiếu, theo trang A, cho trang B." Kiến thức về hình thức này của bảng xếp hạng công cụ tìm kiếm đã thúc đẩy một phần của ngành công nghiệp SEO thường được gọi là link spam, nơi mà một công ty cố gắng đặt càng nhiều liên kết trong nước càng tốt vào trang web của họ bất kể bối cảnh của trang web có nguồn gốc. Tầm quan trọng của Công cụ Tìm kiếm xếp hạng là khá cao và nó được coi là một tham số quan trọng trong kinh doanh trực tuyến và tỷ lệ chuyển đổi của khách truy cập vào bất kỳ trang web, đặc biệt là khi nói đến mua sắm trực tuyến.
Trang web thường sử dụng kỹ thuật SEO để tăng số lượng các liên kết ngược chỉ vào trang web của họ. Một số phương pháp được sử dụng miễn phí bởi tất cả mọi người trong khi một số phương pháp, như link baiting, đòi hỏi khá nhiều kế hoạch và tiếp thị để làm việc. Ngoài ra còn có những kỹ thuật được trả tiền để tăng số lượng backlink đến một địa điểm mục tiêu. Ví dụ: các trang blog cá nhân có thể được sử dụng để mua backlinks.
Có một số yếu tố xác định giá trị của một backlink. Liên kết ngược từ các trang web có thẩm quyền về một chủ đề nhất định rất có giá trị. Nếu cả hai trang web đều có nội dung hướng tới chủ đề từ khóa, liên kết ngược được xem là có liên quan và được cho là có ảnh hưởng mạnh đến thứ hạng của công cụ tìm kiếm trong trang web được cấp backlink. Liên kết ngược đại diện cho một cuộc bầu cử 'phiếu bầu' thuận lợi cho trang web nhận từ trang web cấp phép khác. Một yếu tố quan trọng nữa là anchor text của backlink. Văn bản neo là ghi nhãn mô tả của liên kết như xuất hiện trên một trang web. Các chương trình công cụ tìm kiếm (tức là các rô bốt tìm kiếm và thu thập thông tin, v.v...) kiểm tra văn bản để đánh giá mức độ liên quan đến nội dung trên trang web. Văn bản neo và sự tương thích nội dung trang web được đánh giá cao trong bảng xếp hạng trang kết quả tìm kiếm (SERP) của một trang web liên quan đến bất kỳ truy vấn từ khoá nào của người dùng công cụ tìm kiếm.
Tương lai của Backlink.
Thời điểm năm 2018 hàng loạt thuật toán của Google nhằm loại bỏ và phạt những website cố tình sử dụng backlink như một cách để nâng cao thứ hạng từ khóa như Penguin, Hummingbird hoặc mới đây nhất là thuật toán RankBrain. Tuy nhiên Google cũng đã tuyên bố một số yếu tố mà backlink sẽ mang lại cho giá trị website:
| 1 | null |
Vasco Núñez de Balboa (sinh khoảng 1475 mất khoảng 12-21 tháng 1, 1519) là một nhà thám hiểm, chinh tướng, thống sứ (governor) người Tây Ban Nha.
Lịch sử.
Vasco Núñez de Balboa vang danh nhờ chuyến băng qua eo đất Panama để đến Thái Bình Dương năm 1513, trở thành người châu Âu đầu tiên dẫn dắt một đoàn thám hiểm thấy hoặc đi tới Thái Bình Dương từ Tân Thế giới.
Ông đã du hành tới Tân Thế giới vào năm 1500 và sau một số cuộc hành trình, ông đã ở lại đảo Hispaniola. Ông đã thành lập khu định cư Santa María la Antigua del Darién mà ngày nay là Panama vào năm 1510. Đó là khu định cư lâu dài đầu tiên của người châu Âu trên lục địa châu Mỹ (khu định cư được Alonso de Ojeda thành lập trước đó một năm tại San Sebastián de Urabá đã bị bỏ hoang hoàn toàn).
| 1 | null |
"Call It What You Want" là một ca khúc của nhóm nhạc indie pop Foster the People. Đây là đĩa đơn thứ ba trích từ album đầu tay Torches của nhóm nhạc này và được phát hành vào tháng 12 năm 2011. Ca khúc được viết bởi trưởng nhóm Mark Foster và được sản xuất bởi Paul Epworth. Nó cũng được xuất hiện trong phần nhạc của video game "FIFA 12".
Video âm nhạc.
Video âm nhạc cho "Call It What You Want" được phát hành lần đầu tiên trên YouTube vào 1 tháng 11 năm 2011 với tổng độ dài là 4 phút 02 giây. Video được bắt đầu với câu: "Idle Minds are the Devil's Workshop" (tạm dịch: "Sự lười biếng là nơi ở của ma quỷ"). Video được đánh giá là vô cùng độc đáo và kì lạ.
| 1 | null |
Quan tài () là một hộp tang lễ được sử dụng để bảo quản thi hài đem đi chôn cất hoặc hỏa táng.
Từ này có hai hướng khác nhau. Tiếng Pháp cổ cofin, ban đầu có nghĩa là " giỏ", trở thành coffin trong tiếng Anh; hình thức tiếng Pháp của từ này hiện nay là couffin, có nghĩa là "Cũi". Một sự khác biệt tạo ra giữa "quan tài" và "bình đựng tro cốt": cái sau thường được hiểu là biểu thị bốn mặt hoặc tám mặt (hầu như luôn luôn là một hộp tang lễ hình hộp chữ nhật và bát giác dài), trong khi một cỗ quan tài thường là hộp tang lễ sáu mặt hoặc mười hai mặt (hầu như luôn luôn là một hộp hình lục giác hoặc hình đa giác 12 mặt kéo dài). Tuy nhiên, quan tài có một mặt từ 1 mảnh với một đường cong ở vai thay vì một khớp nối thường được sử dụng tại Vương quốc Anh (UK).
Thông lệ.
Quan tài thường được chôn trực tiếp xuống đất, được đặt trong hầm mộ hoặc được hỏa táng. Ngoài ra, quan tài cũng có thể được đặt trong lăng mộ, nhà thờ, nhà nguyện.
| 1 | null |
"Panzerkampfwagen" IV (Pz.Kpfw. IV), thường được gọi là Panzer IV, là xe tăng hạng trung của Đức Quốc xã được thiết kế vào cuối những năm 1930 và được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó là xe tăng duy nhất của Đức được sản xuất từ đầu đến hết chiến tranh. Số hiệu kỹ thuật của nó là Sd.Kfz.161.
Thiết kế ban đầu như một chiếc xe tăng hỗ trợ bộ binh, Panzer IV được dự định là sẽ yểm trợ bộ binh tấn công chứ không tham gia giao chiến với các đơn vị thiết giáp của đối phương, nhiệm vụ vốn được thực hiện bởi Panzer III. Tuy nhiên, những sai sót của học thuyết này trở nên rõ ràng khi xe tăng Đức phải đối mặt với loại xe tăng T-34 mạnh mẽ của Liên Xô. Panzer IV sớm được sửa đổi để đảm nhận vai trò chống xe tăng đối phương của người anh là Panzer III, vốn ngày càng tỏ ra lỗi thời. Được Đức sản xuất rộng rãi nhất và triển khai nhiều nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Panzer IV được sử dụng như là khung thân cho nhiều phương tiện chiến đấu khác, bao gồm cả pháo tự hành xung kích Sturmgeschütz IV, pháo tự hành chống tăng Jagdpanzer IV, pháo tự hành phòng không Wirbelwind, và pháo tự hành Brummbär.
Mạnh mẽ và đáng tin cậy, nó phục vụ trong tất cả chiến trường liên quan đến Đức và có sự khác biệt với các xe tăng Đức lúc đó là nó được duy trì sản xuất liên tục trong suốt cuộc chiến, với hơn 8.550 chiếc được chế tạo từ năm 1936 tới 1945, chưa kể 4.600 pháo tự hành được chế tạo dựa trên khung thân Panzer IV. Trong giai đoạn đó, Panzer IV liên tục có các bản nâng cấp và sửa đổi thiết kế, thường được thực hiện để đáp ứng với sự xuất hiện của xe tăng mới của Đồng minh, nhằm tăng khả năng chiến đấu của mình. Nói chung, việc nâng cấp bao gồm gia tăng giáp bảo vệ của Panzer IV và tăng cường vũ khí của nó, mặc dù trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến, với nhu cầu bức thiết để thay thế nhanh chóng các thiệt hại, việc thay đổi thiết kế cũng bao gồm các biện pháp để đơn giản hóa và tăng tốc độ sản xuất.
Ở mặt trận phía Tây, Panzer IV có thể đối đầu hiệu quả với các xe tăng Anh - Mỹ như M4 Sherman, xe tăng Churchill... trong suốt cuộc chiến. Trong khi đó ở mặt trận phía Đông, Panzer IV được coi là đối thủ thiết kế với loại T-34 của Liên Xô (cả hai đều là xe tăng hạng trung chủ lực), cả Đức và Liên Xô đều liên tục nâng cấp loại xe của mình hòng vượt qua đối thủ. Đến đầu năm 1944, Panzer IV đã bị đánh bại bởi phiên bản nâng cấp của T-34 là T-34-85 (trang bị pháo 85 mm và tháp pháo cải tiến) Tuy nhiên, do sự thiếu hụt của xe tăng Panther để thay thế, Panzer IV vẫn tiếp tục là nòng cốt của các sư đoàn thiết giáp của Đức, bao gồm cả các đơn vị ưu tú như Quân đoàn Panzer SS II trong suốt chiến tranh.
Panzer IV là xe tăng xuất khẩu rộng rãi nhất của Đức Quốc xã, với khoảng 300 chiếc được bán cho các đối tác như Phần Lan, România, Tây Ban Nha và Bulgaria. Sau chiến tranh, Pháp và Tây Ban Nha bán hàng chục chiếc Panzer IV cho Syria, nước này đã dùng Panzer IV tham chiến trong cuộc Chiến tranh Sáu ngày năm 1967.
Lịch sử phát triển.
Nguồn gốc.
Panzer IV là đứa con tinh thần của chiến tranh thiết giáp nói chung và sáng tạo của nhà lý luận Đức, đại tướng Heinz Guderian. Trong khái niệm, nó được dự định là một chiếc xe tăng hỗ trợ cho bộ binh, sử dụng để tiêu diệt pháo chống tăng và công sự của kẻ thù, trong khi loại Panzer III được dùng để tiêu diệt tăng thiết giáp của kẻ thù Theo Guderian, lý tưởng nhất thì các tiểu đoàn xe tăng của sư đoàn thiết giáp sẽ có ba đại đội xe tăng hạng trung Panzer III và một đại đội xe tăng Panzer IV.
Ngày 11 tháng 1 năm 1934, quân đội Đức đã viết các chi tiết kỹ thuật cho một "thân xe kéo hạng trung", và đã ban hành cho một số các công ty quốc phòng. Để hỗ trợ các Panzer III vốn được trang bị một khẩu súng chống tăng 37 mm (1.46 in), chiếc xe mới sẽ có đại bác nòng ngắn 75 mm (2.95 in) là pháo chính, giới hạn trọng lượng là trong tầm 24 tấn (26,46 tấn ngắn). Sự phát triển được thực hiện dưới cái tên Begleitwagen ("xe đi kèm"), hay BW, để che giấu mục đích thực tế của nó, bởi vì Đức, về mặt lý thuyết, vẫn còn bị ràng buộc bởi Hiệp ước Versailles. MAN, Krupp, và Rheinmetall-Borsig đều phát triển một nguyên mẫu cho mình, và nguyên mẫu của Krupp được lựa chọn để tiếp tục phát triển.
Ban đầu, khung xe đã được thiết kế với hệ thống treo đan xen sáu bánh (giống như hệ thống treo của xe kéo quân sự bán bánh xích đang được Đức sử dụng), nhưng quân đội Đức đã sửa đổi điều này thành hệ thống thanh xoắn, điều này được dự định để cải thiện hiệu suất và kíp lái thoải mái cả trên và không trên đường. Tuy nhiên, do yêu cầu cấp thiết cho các xe tăng mới, đề nghị không được thông qua, và Krupp đã trang bị hệ thống treo lá lò xo.
Nguyên mẫu yêu cầu kíp lái gồm năm người, thân tăng có khoang động cơ phía sau. Lái xe ngồi phía trước bên trái cùng với liên lạc viên kiêm xạ thủ súng máy ở bên phải. Trong tháp pháo, chỉ huy xe tăng ngồi dưới cửa nắp, trong khi xạ thủ nằm bên trái của súng chính và nạp đạn viên ngồi bên phải. Tháp pháo lệch 66,5 mm (2,62 in) về bên trái so với trung tâm khung xe, trong khi động cơ lệch 152,4 mm (6,00 in) về bên phải. Điều này cho phép các trục mô-men xoắn tránh được trục khung tháp pháo đồng thời cung cấp năng lượng điện để quay tháp pháo, trong khi kết nối với hộp truyền dẫn được gắn trong thân, ở giữa phía trước lái xe và liên lạc viên. Do bố trí không đối xứng, phía bên phải bị gia tăng khối lượng, người ta đã đưa thùng đạn lên để cân bằng lại.
Được sản xuất với số hiệu Versuchskraftfahrzeug 622 (Vs.Kfz. 622), sản xuất bắt đầu năm 1936 ở nhà máy Krupp-Grusonwerke AG's tại Magdeburg.
Ausf. A tới Ausf. F1.
Loạt sản xuất đầu tiên của Panzer IV là "Ausführung" A (viết tắt là Ausf. A, nghĩa là "Biến thể A"), vào năm 1936. Nó chạy bằng động cơ Maybach HL 108TR, sản sinh ra , và sử dụng bộ truyền tải SGR 75, đạt vận tốc tối đa trên đường là ..Vũ khí chính của xe là pháo Kampfwagenkanone 37 L/24 (KwK 37 L/24) 75 mm (2.95 in), một khẩu pháo có sơ tốc đạn thấp, được thiết kế chủ yếu là để phá hủy công sự của đối phương. Khi chống lại các mục tiêu bọc thép, thì pháo sử dụng đạn Panzergranate (đạn xuyên hỗn hợp cứng) với sơ tốc đạn là 430 m/s (1.410 ft/s). KwK 37 có thể xuyên thủng lớp giáp dày 43 mm (1,69 in) ở độ nghiêng 30 độ với phạm vi lên đến 700 mét (2300 ft). Một súng máy MG-34 7,92 mm (0,31 in) được gắn đồng trục với súng chính trong tháp pháo, trong khi một khẩu súng máy thứ hai của cùng loại được gắn ở phía trước của thân tăng. Ausf.A được bảo vệ bởi lớp tấm thép dày 14,5 mm (0.57 in) phía trước của khung xe, và 20mm trên tháp pháo. Lớp giáp này có khả năng ngăn được mảnh pháo, các loại vũ khí bộ binh, và đầu đạn chống tăng hạng nhẹ.
Sau khi sản xuất 35 xe tăng của các phiên bản A, năm 1937, sản xuất chuyển đến mẫu Ausf. B. Cải tiến bao gồm việc thay thế động cơ ban đầu bằng loại mạnh hơn với hơn 300 mã lực (220,65 kW) Maybach HL 120TR, và truyền tải với bộ truyền dẫn mới SSG 75. Mặc dù điều này làm gia tăng trọng lượng đến 16 tấn, nhưng tốc độ của xe tăng vẫn được cải thiện đến 39 km/h (24 mph). Các tấm giáp nghiên đã được tăng cường để có độ dày tối đa 30 mm (1,18 in), và súng máy gắn trên thân tăng đã được thay thế. 42 chiếc Panzer IV Ausf. B được sản xuất trước khi giới thiệu mẫu Ausf. C vào năm 1938. Điều này thấy giáp tháp pháo tăng lên 30 mm (1,18 in), trọng lượng của xe tăng đến 18,14 tấn. Khi Đức xâm lược Ba Lan vào tháng 9 năm 1939 kết thúc, Đức đã quyết định mở rộng quy mô sản xuất của Panzer IV, đã được thông qua vào ngày 27 tháng 9 năm 1939 với số hiệu là Sonderkraftfahrzeug 161 (Sd.Kfz 161.).
Để đáp ứng với những khó khăn của việc xuyên giáp xe tăng bộ binh Anh Matilda trong trận chiến nước Pháp, người Đức đã thử nghiệm pháo 50 mm (1,97 in) dựa trên pháo chống tăng 5 cm Pak 38 L/60 trên Panzer IV Ausf-D. Tuy nhiên, với chiến thắng nhanh chóng của Đức ở Pháp, việc này bị hủy bỏ trước khi bước vào sản xuất.
Trong tháng 9 năm 1940, phiên bản Ausf. E được giới thiệu. Phiên bản này có lớp giáp dày 50 mm (1,97 in) bảo vệ mặt trước, các tấm nghiêng thì dày 30 mm (1,18 in). Cuối cùng, vòm của chỉ huy đã được di chuyển về phía trước tháp pháo. Các đời Panzer IV cũ hơn được trả lại cho nhà sản xuất để được trang bị thêm các tính năng này. 280 Ausf.E đã được sản xuất từ tháng 12 năm 1939 đến tháng 4 năm 1941.
Trong tháng 4 năm 1941, Đức sản xuất mẫu Panzer IV Ausf. F. Đặc trưng của phiên bản này là có 50 mm giáp ở trước tháp pháo và thân tăng (1,97 in) và gia tăng giáp hông lên 30 mm (1,18 in). Trọng lượng của chiếc xe là 22,3 tấn, yêu cầu sửa đổi tương ứng với xích từ 380 đến 400 mm (14,96-15,75) để giảm áp lực lên mặt đất. Đường kính xích rộng hơn cũng tạo điều kiện thuận lợi việc lắp khớp ly hợp, và các bánh xe và xích cũng được sửa đổi. Phiên bản Ausf. F được nâng cấp thành Ausf. F1, sau đó là một phiên bản mới khác biệt là Ausf. F2 xuất hiện. Tổng cộng 464 Ausf. F (sau này là F1) được sản xuất từ tháng 4 năm 1941 đến tháng 3 năm 1942, trong đó có 25 chiếc được chuyển đổi sang F2.
Ausf. F2 tới Ausf. J.
Ngày 26 tháng năm 1941, chỉ vài tuần trước Chiến dịch Barbarossa, trong một cuộc họp với Hitler, Đức đã quyết định cải thiện trang bị pháo chính của Panzer IV. Krupp đã được trao hợp đồng để để lắp khẩu pháo 50 mm Pak 38 L/60 vào tháp pháo. Nguyên mẫu đầu tiên được chuyển giao ngày 15 tháng 11 năm 1941.
Trong vòng vài tháng, cú sốc gặp phải xe tăng hạng trung T-34 và xe tăng hạng nặng KV-1 đòi hỏi Panzer IV phải được nâng cấp, trang bị pháo chính mạnh hơn rất nhiều Trong tháng 11 năm 1941, quyết định thay thế pháo chính của Panzer IV bằng pháo cỡ nòng 50 mm L/60 đã bị hủy bỏ vì loại pháo này vẫn chưa đủ để bắn xuyên giáp trước của T-34. Hãng Krupp, Rheinmetall đã được ký hợp đồng phát triển để nâng cấp pháo chính của Panzer IV lên cỡ 7,5 cm L/46 Pak 40. Sau đó, do chiều dài và độ giật không phù hợp với tháp pháo của xe tăng, nên cơ chế giật và ngăn đạn đã được rút ngắn. Điều này dẫn đến sự ra đời của 75 mm KwK 40 L/43. Khi bắn đạn xuyên giáp, sơ tốc đạn của pháo 75mm L/24 chỉ là 430 m/s, trong khi pháo 75mm L/43 đã tăng lên đến 990 m/s Ban đầu, súng được gắn với một khoang đạn, bộ hãm nòng, nên độ giật được giảm tới 50%. Khi bắn đạn Panzergranate 39, KwK 40 75mm L/43 có thể xuyên được tới 77 mm (3,03 in) giáp thép ở phạm vi 1.830 m (6000 ft).
Phiên bản sau của xe tăng Ausf-F mang pháo dài hơn, nó sử dụng pháo KwK-40 75mm L/43, được đặt tên là Ausf. F2 (với số hiệu là Sd.Kfz 161/1). Trọng lượng tăng lên 23,6 tấn. 175 chiếc Ausf-F2 đã được sản xuất từ tháng 3 năm 1942 đến tháng 7 năm 1942. Ba tháng sau khi bắt đầu sản xuất, Panzer IV Ausf-F2 đã được đổi tên thành Ausf-G.
Trong suốt thời gian sản xuất từ tháng 5 năm 1942 đến tháng 6 năm 1943, Panzer IV Ausf-G đã thông qua sửa đổi thêm, bao gồm nâng cấp giáp. Các nhà thiết kế cho rằng chiếc xe tăng đã đạt đến giới hạn thiết kế của nó, nên để tránh tăng trọng lượng tăng lên, các tấm chắn 20 mm trên tháp pháo(0,79 in) đã bị gỡ bỏ, mà thay vào đó là tấm thép dày tăng lên đến 30 mm (1,18 in). Trọng lượng xe lại tăng về phía trước, trong đó có 30 mm (1,18 in) thép tấm chắn hàn (sau này bắt vít), làm tăng độ dày giáp trước thân xe lên đến 80 mm (3,15 in). Quyết định gia tăng lớp giáp phía trước thu được sự ủng hộ của các tổ lái theo báo cáo của quân đội vào ngày 8 tháng 11 năm 1942, mặc dù vấn đề kỹ thuật của hệ thống lái xe do trọng lượng thêm vào. Tại thời điểm này, đã có 50% của Panzer IV sản xuất được trang bị với tấm áo giáp 30mm. Sau đó, vào ngày 5 tháng 1 năm 1943, Hitler quyết định sản xuất Panzer IV với 80 mm giáp trước thân xe (giáp trước tháp pháo thì giữ nguyên độ dày 50 mm).
Để đơn giản hóa sản xuất, các cửa quan sát ở hai bên của tháp pháo và trên mặt trước tháp pháo phải được loại bỏ, trong khi một giáp phụ hai bên xích xe đã được trang bị để bảo vệ ở phía bên của thân tăng. Bổ sung này, khung cho bảy liên kết theo dõi phụ tùng đã được thêm vào các tấm bảo vệ mặt trước. Đối với hoạt động ở nhiệt độ cao, thông gió của động cơ được cải thiện bằng cách tạo ra khe hở trên các boong động cơ phía sau của khung xe, và hiệu suất làm mát bằng không khí đã được thúc đẩy mạnh mẽ bằng cách thêm một thiết bị nước làm mát động cơ, như 1 vòi phun nước. Một loại đèn mới thay thế các đèn pha ban đầu, và cổng tín hiệu trên tháp pháo đã được gỡ bỏ. Ngày 19 tháng 3 năm 1943, Panzer IV với giáp bọc Schürzen trên các cạnh của nó và tháp pháo được trưng bày.. Vào tháng 4 năm 1943, KwK 40 L/43 được thay thế bởi pháo 75 mm (2.95 in) KwK 40 L/48, với một mõm phanh được thiết kế lại đa van đổi có hiệu quả giật được cải thiện.
Phiên bản tiếp theo, Ausf. H, bắt đầu sản xuất vào tháng 4 năm 1943 với số hiệu Sd. Kfz. 161/2. Biến thể có giáp bảo vệ mặt trước được cải thiện bằng cách sản xuất nó như là một tấm thép đồng nhất dày tới 80 mm (3,15 in). Để ngăn chặn mìn chống tăng, Đức lo ngại sẽ được Đồng Minh sử dụng với số lượng lớn, nên đã dán Zimmerit đã được bổ sung cho tất cả các bề mặt thẳng đứng của giáp xe tăng. Giáp hông của xe và tháp pháo được bảo vệ bởi việc bổ sung 5 mm thép (0,20 in), tới 8 mm (0,31 in). Lỗ trên nóc, được thiết kế để sử dụng Nahverteidigungswaffe, được đậy một tấm thép tròn do thiếu vũ khí này. Những sửa đổi này có nghĩa là trọng lượng của xe tăng nhảy vọt lên 25 tấn, làm giảm giảm tốc độ của nó, tình hình không được cải thiện bởi các quyết định thông qua sử dụng bộ truyền tải SSG 77 Panzer III, kém hơn so với mô hình trước đó Panzer IV.
Mặc dù giải quyết các vấn đề tính di động được giới thiệu bởi các mô hình trước đó, phiên bản sản xuất cuối cùng của Panzer IV là Ausf-J, được coi là đi ngược từ các Ausf-H. Do sự cần thiết để thay thế tổn thất nặng nề, phiên bản này đã được đơn giản hóa rất nhiều để tăng tốc độ sản xuất. Máy phát điện để quay tháp pháo của xe tăng đã được gỡ bỏ, do đó, tháp pháo chỉ có thể được quay bằng tay. Không gian đã được sau đó được sử dụng cho việc cài đặt của một bồn chứa nhiên liệu phụ 200 lít (44 gallon); khiến phạm vi hoạt động do đó tăng lên tới 320 km (198,84 dặm), Súng ngắn và ống quan sát trong tháp pháo đã bị gỡ bỏ, và bộ tản nhiệt của động cơ đã được đơn giản hóa bằng cách thay đổi các bên nghiêng bên thẳng. Ngoài ra, ống khói trụ được thay thế bởi hai ống khói giảm âm. Đến cuối năm 1944, lớp bảo vệ chống mìn Zimmerit đã không còn được áp dụng cho các xe bọc thép của Đức, và giáp phụ Panzer IV đã được thay thế bằng giáp lồng thép. Các biện pháp này đã làm tốc độ sản xuất tăng lên.
Trong một nỗ lực để tăng cường hỏa lực của Panzer IV, một nỗ lực được thực hiện để kết hợp tháp pháo mang pháo 75 mm (2.95 in) L/70 của Panther để thay cho Panzer IV. Điều này đã không thành công, và các nhà thiết kế khẳng định rằng khung tăng của Panzer IV đạt đến giới hạn nâng cấp cả về trọng lượng và thể tích, nó không thể mang được các khẩu pháo mạnh hơn nữa.
Sản xuất.
Panzer IV được dự định ban đầu chỉ được sử dụng trên một quy mô hạn chế, vì vậy ban đầu Krupp là nhà sản xuất duy nhất của nó. Trước cuộc tấn công Ba Lan, chỉ có 262 Panzer IV đã được sản xuất: 35 Ausf. A, 42 Ausf. B, 140 Ausf. C và 45 Ausf. D. Sau khi xâm lược Ba Lan, Đức quyết định thông qua rằng Panzer IV là trụ cột của sư đoàn thiết giáp của Đức, sản xuất đã được mở rộng nhà máy Nibelungenwerke (Steyr-Daimler-Puch quản lý) tại Áo. Ausf. E đã được giới thiệu, với 223 xe tăng chuyển giao cho quân đội Đức. Năm 1941, 462 Panzer IV Ausf. F đã được lắp ráp, và nâng cấp lên Ausf. F2. Tổng sản lượng hàng năm đã tăng gấp bốn lần kể từ khi bắt đầu cuộc chiến.
Sau khi phiên bản cuối cùng của Panzer IV xuất hiện, một nhà máy sản xuất thứ ba là Vomag (nằm ở thành phố Plauen), bắt đầu lắp ráp. Năm 1941 trung bình 39 xe tăng mỗi tháng được sản xuất, và tăng lên 83 chiếc vào năm 1942, 252 chiếc trong năm 1943, và 300 chiếc trong năm 1944. Tuy nhiên, vào tháng 12 năm 1943, một số nhà máy của Krupp đã chuyển sang sản xuất Sturmgeschütz IV, và vào mùa xuân năm 1944 các nhà máy Vomag bắt đầu sản xuất Jagdpanzer IV, để cho Nibelungenwerke là nhà máy duy nhất lắp ráp Panzer IV. Với việc ngành công nghiệp Đức chịu các cuộc không kích và các chiến dịch tấn công mặt đất của Đồng Minh trong tháng 10 năm 1944 nên nhà máy Nibelungenwerke đã bị hư hại trong một cuộc đột kích ném bom vào tháng ba và tháng 4 năm 1945 mức độ sản xuất đã giảm xuống trước năm 1942, với chỉ có khoảng 55 xe tăng một tháng hoàn thành dây chuyền lắp ráp.
Chi phí.
Một vài nguồn của Đồng Minh tính rằng Panzer IV Ausf-G có giá khoảng 103.462 RM. Mức giá này ở mức trung bình so với mức giá của các loại xe tăng Đức khác: 96.163 RM của Panzer III Ausf-N, 82.500 RM của StuG-III, 117.100 RM của xe tăng Panther, 250.800 RM của Tiger I và 321.500 RM của Tiger II. Các số liệu chi phí trên không kể giá thành vũ khí, kính ngắm và bộ điện đàm
Nếu tính cả chi phí cho vũ khí, kính ngắm và bộ điện đàm thì mỗi chiếc Panzer IV Ausf-F2 có giá thành là 115.962 RM, và mỗi chiếc Panzer IV Ausf-G có giá thành là 125.000 RM (125.000 RM tương đương với 460.500 EUR thời giá năm 2018).
Xuất khẩu.
Panzer IV là xe tăng được xuất khẩu nhiều nhất của quân Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai. Vào năm 1942 Đức cung cấp 11 xe tăng cho Romania và 32 chiếc cho Hungary, nhiều chiếc trong số đó bị mất ở mặt trận phía Đông vào cuối năm 1942 dến đầu năm 1943. Romania đã nhận khoảng 120 chiếc Panzer IV gồm nhiều biến thể cho đến cuối cuộc chiến. Còn Bulgaria, được Đức cung cấp 46 chiếc hay 91 chiếc Panzer IV, và cung cấp cho Ý 12 xe tăng để tạo thành hạt nhân của một bộ phận bọc thép mới. Chúng được sử dụng để đào tạo kíp lái Ý trong khi nhà độc tài Ý Benito Mussolini đã bị lật đổ, nhưng đã được tái chiếm bởi Đức trong thời gian chiếm đóng Ý vào giữa năm 1943.
Chính phủ Tây Ban Nha kiến nghị cung cấp 100 Panzer IV vào tháng 3 năm 1943, nhưng chỉ có 20 chiếc được giao, vào tháng 12. Phần Lan mua 30 chiếc, nhưng chỉ nhận được 15 chiếc Panzer IV vào năm 1942, cúng năm đó Phần Lan cũng đã mua đợt thứ hai với số lượng 62 chiếc hay 72 chiếc để gửi tới Hungary (khoảng 20 chiếc trong số đó được chuyển sang bù thiệt hại Đức). tổng cộng có khoảng 297 chiếc Panzer IV được cung cấp cho đồng minh của Đức.
Lược sử chiến đấu.
Panzer IV là loại xe tăng duy nhất của Đức được sản xuất và chiến đấu trong suốt chiến tranh thể giới thứ hai, và theo các tính toán trong cuộc chiến thì Panzer IV chiếm khoảng 30% trong tổng số xe tăng của Wehrmacht. Mặc dù chỉ bắt đầu phục vụ vào đầu năm 1939, trong thời gian chiếm đóng Tiệp Khắc, tại thời điểm bắt đầu của cuộc chiến thì phần lớn các xe tăng hạng nhẹ của Đức đã lỗi thời như Panzer I và Panzer II. Panzer I đặc biệt đã được chứng minh rằng kém hơn so với xe tăng Liên Xô, chẳng hạn như T-26, trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha.
Mặt trận phía Tây và Bắc Phi (1939–1942).
Khi Đức xâm lược Ba Lan vào ngày 01 tháng 9 năm 1939, quân đoàn thiết giáp của Đức bao gồm 1.445 Panzer I, 1223 Panzer II, 98 Panzer III và 211 Panzer IV. Như vậy, các xe tăng hạng trung hiện đại Panzer III và Panzer IV chỉ chiếm ít hơn 10% sức mạnh thiết giáp của Đức. Sư đoàn Panzer I đã có một sự cân bằng tương đương của các loại, với 17 Panzer I, 18 Panzer II, 28 Panzer III, và 14 Panzer IV mỗi tiểu đoàn. Các sư đoàn thiết giáp còn lại chủ yếu là các xe tăng hạng nhẹ đã lỗi thời, trang bị chúng với 34 Panzer I, 33 Panzer II, 5 Panzer III, và 6 Panzer IV mỗi tiểu đoàn. Mặc dù quân đội Ba Lan chỉ sở hữu ít hơn 200 xe tăng có khả năng bắn xuyên giáp các xe tăng hạng nhẹ của Đức, pháo chống tăng Ba Lan đã chứng tỏ là một mối đe dọa, củng cố niềm tin của Đức vào giá trị của sự hỗ trợ chặt chẽ của xe tăng hạng trung mới như Panzer IV.
Mặc dù sản xuất ngày càng tăng của các xe Panzer III và IV trước khi diễn ra cuộc xâm lược của Đức vào Pháp ngày 10 tháng 5 năm 1940, phần lớn các xe tăng Đức trong chiến dịch này vẫn còn là các loại xe tăng hạng nhẹ. Theo Heinz Guderian, Wehrmacht (Lục quân Đức) xâm lược Pháp với 523 chiếc Panzer I, 955 chiếc Panzer II, 349 chiếc Panzer III, 278 chiếc Panzer IV, 106 chiếc Panzer 35(t) và 228 chiếc Panzer 38(t). Thông qua việc sử dụng sóng vô tuyến chiến thuật và chiến thuật vượt trội, người Đức đã có thể qua mặt và đánh bại lực lượng thiết giáp của Pháp và Anh. Tuy nhiên, Panzer IV được trang bị với pháo xe tăng KwK 37 75 mm L/24 (2.95 in) cho thấy nó khó khăn để xuyên giáp các xe tăng Pháp như Somua S35 và Char B1. Somua S35 có giáp dày tối đa là , trong khi KwK 37 L/24 chỉ có thể xuyên qua lớp thép dày tại khoảng cách . Tương tự như vậy, xe tăng Matilda Mk II của Anh cũng có giáp dày hơn khả năng xuyên của pháo 75 mm L/24, với ít nhất khoảng ở mặt trước và tháp pháo, và trung bình 65 mm ở mặt bên.
Mặc dù Panzer IV đã được triển khai đến Bắc Phi với quân đoàn Afrika Korps của Đức, cho đến khi các biến thể mang pháo mạnh hơn còn bắt đầu sản xuất, Panzer IV yếu hơn Panzer III trong các trận đấu xe tăng. Cả hai loại Panzer III và IV đều có khó khăn trong việc xuyên giáp dày của xe tăng Anh Matilda II, trong khi pháo của Matilda là 40 mm QF 2 có thể hạ gục xe tăng Đức, bất lợi chính của Matilda là tốc độ thấp. Đến tháng 8 năm 1942, Rommel chỉ nhận được 27 Panzer IV Ausf. F2, được trang bị với pháo 75mm L/43, triển khai mũi nhọn chiến dịch tấn công bọc thép của ông. Pháo này có thể xuyên thủng giáp của tất cả các xe tăng Mỹ và Anh trên chiến trường ở khoảng cách lên đến . Mặc dù đã có các xe tăng mới chuyển đến Bắc Phi giữa tháng tám và tháng 10 năm 1942, con số của chúng là không đáng kể so với số lượng trang bị thiết giáp được vận chuyển tới của quân đội Anh
Panzer IV cũng đã tham gia vào cuộc xâm lược Nam Tư và cuộc xâm lược Hy Lạp vào đầu năm 1941.
Mặt trận Xô-Đức (1941–1945).
Với việc phát động Chiến dịch Barbarossa ngày 22 tháng 6 năm 1941, quân Đức có trong lực lượng của mình gần 500 chiếc Panzer IV thuộc nhiều phiên bản, đều được trang bị pháo nòng ngắn 75 mm L/24. Loại pháo này chủ yếu dùng để phá công sự nhưng cũng có thể hạ gục các loại xe tăng hạng nhẹ của Liên Xô như BT-7, T-26... khá dễ dàng. Giáp trước dày 50mm của Panzer IV Ausf-F cũng đủ để chống lại pháo 45mm trên các loại tăng hạng nhẹ này.
Sự xuất hiện bất ngờ của các xe tăng KV-1 và T-34 của Liên Xô khiến Panzer IV bị thất thế. Khẩu pháo 75mm L/24 nòng ngắn của Panzer IV Ausf-F không thể xuyên được giáp trước của T-34 và KV-1, trong khi pháo 76mm L/42 của T-34 lại xuyên thủng được giáp trước của Panzer IV Ausf-F từ cự ly lên tới 1.200 mét. Khi gặp phải T-34, nếu đấu trực diện thì Panzer IV Ausf-F gần như không có cơ hội thắng, nó thường phải tìm cách lẻn tới để bắn vào hông của T-34, hoặc tệ hơn là phải bỏ chạy rồi gọi các khẩu đội pháo chống tăng cỡ 88mm tới ứng cứu.
Điều này buộc Đức phải nâng cấp pháo của Panzer IV lên khẩu 75 mm (2.95 in) L/43. Cỡ nòng giữ nguyên nhưng chiều dài nòng đã tăng rất nhiều để bắn đạn xuyên giáp động năng với sơ tốc cao, thích hợp cho việc chống lại xe tăng đối phương. Khi dùng loại pháo này, nó có thể bắn xuyên giáp trước tháp pháo T-34/76 ở khoảng cách lên đến 1.200 m (3.900 ft) ở góc đối diện Pháo KwK 40 L/43 trên Panzer IV có thể xuyên giáp T-34 ở bất kỳ vị trí nào ở khoảng cách từ và đối đa đến . Lô hàng biến thể đầu tiên có gắn những khẩu pháo 75mm mới, được định danh là Ausf. F2, bắt đầu được sản xuất vào mùa xuân năm 1942, và trong cuộc tấn công mùa hè 1942 đã có khoảng 135 Panzer IV với pháo L/43. Vào thời điểm đó, những xe tăng Panzer IV đã có thể bắn xuyên được giáp trước xe tăng Liên Xô như T-34, KV-1. Nó đóng một vai trò quan trọng trong các sự kiện xảy ra giữa tháng 6 năm 1942 tới tháng 3 năm 1943, và Panzer IV trở thành trụ cột chính của các sư đoàn xe tăng Đức.
Vào cuối tháng 9 năm 1942, Tiger I đã xuất hiện nhưng chưa đủ nhiều để gây ảnh hưởng cũng như nó bị các vấn đề nghiêm trọng về bánh răng, trong khi loại xe tăng Panther đã không được gửi các đơn vị Đức ở Liên Xô cho đến tháng 5 năm 1943. Mức độ phụ thuộc Đức vào Panzer IV trong thời gian này được phản ánh bởi mất mát của chúng, 502 chiếc đã bị phá hủy trên mặt trận phía Đông vào năm 1942.
Panzer IV tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động năm 1943, bao gồm cả trận Kursk. Loại xe tăng mới hơn như Panther gặp vấn đề độ tin cậy nên hiệu quả chiến đấu của nó bị hạn chế, Có 841 chiếc Panzer IV đã tham gia vào trận chiến. Trong suốt năm 1943, quân đội Đức bị mất 2.352 Panzer IV tại Mặt trận phía Đông; một số sư đoàn thiết giáp đã bị giảm xuống còn 12-18 xe tăng vào cuối năm. Năm 1944, có thêm 2.643 chiếc Panzer IV đã bị phá hủy và thiệt hại đó đang trở nên ngày càng khó khăn để thay thế.
Từ giữa năm 1944, Panzer IV đã bị áp đảo bởi phiên bản nâng cấp của T-34 là T-34-85 với trang bị pháo 85 mm (3,35 in) và giáp trước tháp pháo dày hơn 90mm vát nghiêng. Kể cả Panzer IV các phiên bản nâng cấp mới nhất cũng yếu hơn T-34-85 cả về hỏa lực và vỏ giáp. Những mô hình xe tăng hạng nặng của Liên Xô như xe tăng IS-2 mang pháo 122 mm (4,80 in) thì có thể dễ dàng tiêu diệt Panzer IV ở cự ly rất xa Tuy nhiên, do sự thiếu hụt của xe tăng Panther để thay thế, Panzer IV tiếp tục là nòng cốt của các sư đoàn thiết giáp của Đức, bao gồm cả các đơn vị ưu tú như Quân đoàn Panzer SS II, suốt năm 1944.
Vào tháng 1 năm 1945, 287 chiếc Panzer IV đã bị mất trên mặt trận phía Đông. Người ta ước tính rằng khi chiến đấu chống lại các lực lượng Liên Xô thì khoảng 6.153 chiếc Panzer IV bị phá hủy, chiếm khoảng 75% số Panzer IV của Đức bị phá hủy trong suốt thời gian chiến tranh.
Mặt trận phía Tây (1944–1945).
Panzer IV chiếm khoảng một nửa xe tăng Đức có trên Mặt trận phía Tây trước khi diễn ra cuộc đổ bộ của Đồng minh của Normandy vào ngày 06 tháng 6 năm 1944. Hầu hết 11 sư đoàn thiết giáp Đức đóng gần vùng Normandy ban đầu đều gồm có một trung đoàn thiết giáp tiểu đoàn Panzer IV và Xe tăng con báo, tổng cộng khoảng 160 xe tăng, mặc dù các đơn vị xe tăng Waffen-SS là lớn hơn và được trang bị tốt hơn Heer.
Nâng cấp thường xuyên Panzer IV đã giúp duy trì danh tiếng của nó như là một đối thủ ghê gớm. Mặc dù có ưu thế áp đảo, Đồng Minh đã gặp rất nhiều khó khăn khi đánh chiếm vùng nông thôn phía Bắc Bocage, xe tăng Đức và súng chống tăng gây ra tổn thất nặng nề cho xe thiết giáp Đồng minh trong chiến dịch Normandy. Tuy nhiên Panzer IV, Panther và các loại xe bọc thép khác cũng bị tổn thất nặng tại Bocage bởi bộ binh Đồng Minh trang bị vũ khí chống tăng cá nhân, pháo tự hành chống tăng và súng chống tăng, cũng như máy bay ném bom chiến đấu ở khắp mọi nơi. Địa hình nhiều bụi cây, hàng rào nông trại tại đây là không phù hợp với xe tăng, nhiều chiếc Panzer IV Ausf-H đã bị bắn hỏng do bị bộ binh Đồng Minh phục kích bắn vào hông xe với những vũ khí chống tăng như PIAT của Anh hoặc súng bazooka của Mỹ. Tất cả các đơn vị thiết giáp của Đức đã vô cùng "bực tức" vì giáp phụ bị xé rời trong quá trình di chuyển qua các vườn cây ăn trái, và hàng rào dày đặc.
Quân Đồng minh cũng đã được phát triển chương trình cải tiến nguy hiểm của riêng của họ. Quân Mỹ thiết kế được sử dụng rộng rãi phương tiện xe tăng M4 Sherman, loại này có máy móc đáng tin cậy nhưng giáp mỏng và pháo không đủ mạnh. Chống lại các phiên bản cũ của Panzer IV, M4 Sherman có thể đủ sức, nhưng với khẩu pháo M3 75 mm của nó thì không thể chống lại các phiên bản cuối của Panzer IV (và không thể bắn thủng giáp phía trước của xe tăng Panther và Tiger tại bất cứ phạm vi nào). Các phiên bản cuối Panzer IV có 80 mm (3,15) giáp trước, có thể dễ dàng chịu được pháo 75 mm (2.95 in) trên Sherman ở phạm vi chiến đấu bình thường, mặc dù hai bên hông xe vẫn còn dễ bị tổn thương.
Người Anh nâng cấp M4 Sherman với pháo chống tăng QF 17, kết quả là phiên bản Sherman Firefly; cho phép loại xe tăng này có khả năng đối phó với tất cả các xe tăng Đức lúc đó trong phạm vi chiến đấu bình thường, nhưng số lượng của chúng rất ít (khoảng 300 chiếc) có trong thời gian cho cuộc tấn công Normandy. Xe tăng Cruiser Mk VIII Challenger của Anh không thể tham gia vào cuộc đổ bộ và phải chờ tàu đổ bộ. Phải cho đến tháng 7 năm 1944, khi mà Sherman của Mỹ được trang bị với pháo M1 76mm (3 inch) L/53, loại xe này mới đạt mức cân bằng hỏa lực với Panzer IV.
Tuy nhiên, bất chấp sự vượt trội về chất lượng xe tăng, quân Đức bị áp đảo về quân số cũng như bị không quân Đồng Minh tấn công liên tục. Ngày 29 Tháng 8 năm 1944, các binh sĩ còn lại thuộc Quân đoàn Panzer số 5 và số 7 đã bắt đầu rút lui về phía Đức, gây nên thảm họa kép đồi với Đức là trận Pocket Falaise và việc vượt sông Seine của quân Đồng Minh, và cái giá mà các đơn vị thiết giáp Wehrmacht phải trả là rất lớn. Trong số 2.300 xe tăng và pháo tự hành của Đức tham chiến tại Normandy (bao gồm cả khoảng 750 Panzer IV), khoảng 2.200 xe đã bị mất hoặc bị hỏng nặng. Thống chế Walter Model gửi báo cáo cho Hitler là những sư đoàn xe tăng còn lại của ông, trung bình chỉ còn khoảng 5-6 xe trong mỗi sư đoàn.
Trong mùa đông 1944-1945, Panzer IV là một trong những chiếc xe tăng được sử dụng rộng rãi nhất trong cuộc tấn công Ardennes nhưng bị thiệt hại nặng nề, do quân Đức bị thiếu nguồn cung cấp nhiên liệu làm cho hoạt động của xe tăng Đức tại mặt trận phía Tây bị hạn chế và suy giảm đáng kể. Panzer IV tham chiến là những chiếc sống sót sau trận chiến ở Pháp giữa tháng 6 và tháng 9 năm 1944, với khoảng 260 Panzer IV Ausf. J phát hành là quân tiếp viện.
Các nước sử dụng khác.
Trong những năm 1960, Syria đã nhận được một số Panzer IV từ Pháp, và thay thế súng máy ở tháp pháo bằng 1 súng 12,7 mm do Liên Xô sản xuất (0,50.Chúng được sử dụng để tấn công các khu định cư Israel ở Cao nguyên Golan, và chống lại xe tăng Centurion của Israel. Syria cũng đã nhận được 17 chiếc Panzer IV từ Tây Ban Nha, những chiếc này đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Sáu ngày năm 1967.
Phần Lan đã mua 15 mới Panzer IV Ausf J trong năm 1944, với giá 5.000.000 markka Phần Lan mỗi chiếc (khoảng hai lần giá sản xuất). Các xe tăng đến quá muộn để chống lại Liên Xô, nhưng thay vào đó nó được sử dụng chống lại Đức trong Chiến tranh Lapland. Sau chiến tranh, họ đã sử dụng nó làm xe tăng huấn luyện, và một chiếc đóng giả làm xe tăng KV-1 của Liên Xô trong bộ phim The Unknown Soldier vào năm 1955.
Sau năm 1945, Bulgaria kết hợp Panzer IV còn lại sau chiến tranh trong các lô cốt phòng phủ trên biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ, cùng với T-34. Hàng phòng ngự được biết đến như là "Line Krali Marko", vẫn được sử dụng cho đến khi nhà nước cộng sản chủ nghĩa sụp đổ vào năm 1989.
Hầu hết các xe Panzer IV mà Romania đã nhận được đã bị mất trong năm 1944 và năm 1945 trong chiến đấu. Những xe tăng còn tồn kho của quân đội, đã được sử dụng bởi trung đoàn thiết giáp số 2. Đến ngày 09 tháng 5 năm 1945 chỉ có hai chiếc Panzer IV còn lại. Romania nhận được thêm 50 xe tăng Panzer IV từ Hồng quân sau khi kết thúc chiến tranh. Các xe tăng này gồm nhiều phiên bản khác nhau và trang bị nghèo nàn. Nhiều chiếc trong số đó bị mất các bộ phận và giáp phụ. Các xe tăng Panzer IV vẫn phục vụ cho đến năm 1950, khi quân đội đã quyết định chỉ sử dụng thiết bị của Liên Xô. Đến năm 1954, tất cả các xe tăng Đức đã bị loại bỏ.
Biến thể.
Để phù hợp với triết lý thiết kế thời chiến của Đức gắn một khẩu súng chống tăng hiện có trên một vị trí thuận lợi trên một loại khung tăng nào đó, một số pháo tự hành chống tăng và súng bộ binh hỗ trợ đã được thiết kế trên thân tăng Panzer IV. Cả Jagdpanzer IV, ban đầu được trang bị với các pháo 75 mm (2.95) L/48, và Krupp sản xuất Sturmgeschütz IV, gắn trên thân của Panzer IV, tỏ ra có hiệu quả cao trong việc phòng thủ. Rẻ hơn và nhanh hơn hơn so với xe tăng, nhưng khá bất lợi là góc quay của pháo rất hạn chế. Khoảng 1.980 chiếc Jagdpanzer IV và 1.140 chiếc Sturmgeschütz IV được sản xuất. Một phiên bản pháo tự hành chống tăng, Jagdpanzer IV/70, sử dụng pháo 75 mm L/70 giống như của xe tăng Panther cũng được sản xuất
Một biến thể của Panzer IV là xe tăng chỉ huy Panzerbefehlswagen IV (Pz.Bef.Wg. IV). Chuyển đổi này kéo theo việc lắp đặt thêm bộ phát thanh, lắp giá đỡ, máy biến áp, hộp tiếp nối, dây điện, ăng ten và một máy phát điện phụ trợ. Để nhường chỗ cho các thiết bị mới, kho đạn dược đã được giảm từ 87 xuống 72 viên đạn. Chiếc xe có thể phối hợp với lực lượng thiết giáp, bộ binh gần đó, hoặc thậm chí máy bay. Mười bảy chiếc Panzerbefehlswagen được chuyển đổi từ khung xe Ausf. J, trong khi khác 88 chiếc khác dựa trên khung gầm nâng cấp.
Panzerbeobachtungswagen IV (Pz.Beob.Wg. IV) là một xe quan sát được lắp dặt trên khung gầm Panzer IV. Được trang bị được thiết bị vô tuyến điện và máy phát điện, được đặt ở góc bên trái phía sau của khoang chiến đấu. Panzerbeobachtungswagens làm việc với các loại pháo tự hành Wespe và Hummel.
Cũng dựa trên khung gầm Panzer IV là pháo tự hành xung kích hỗ trợ bộ binh Sturmpanzer IV Brummbär 150 mm (5,91 in) hỗ trợ bộ binh, súng tự hành. Những chiếc xe này chủ yếu được cấp đến bốn đơn vị Sturmpanzer (số 216, 217, 218 và 219) và được sử dụng trong trận Vòng cung Kursk và ở Ý vào năm 1943. Hai phiên bản riêng biệt của Sturmpanzer IV còn, mà không có một khẩu súng máy trong vật che đạn của pháo thủ nhưng có một khảu súng máy lắp gần pháo chính. Hơn nữa, một khẩu súng pháo 105-mm (4,13 in) đã được gắn trong một tháp pháo thử nghiệm trên một khung gầm Panzer IV. Biến thể này được gọi là Heuschrecke, hoặc Grasshopper. Một nguyên mẫu 105 mm pháo binh / chống tăng là 10,5 cm K (gp.Sfl) có biệt danh Dicker Max.
Bốn loại pháo tự hành phòng không đã được thiết kế trên thân tăng Panzer IV. Flakpanzer IV Möbelwagen được trang bị một khẩu pháo phòng không 37 mm (1.46 in), 240 chiếc được chế tạo từ năm 1944 và 1945. Trong cuối năm 1944 một loại Flakpanzer mới, Wirbelwind, được thiết kế bọc giáp, để bảo vệ kíp lái và súng,tháp quay, được trang bị với hệ thống phòng không 20mm Flakvierling, ít nhất 100 chiếc được sản xuất. Sáu mươi năm tương tự như đã được sản xuất, tên là Ostwind, nhưng với một khẩu pháo phòng không 37 mm (1.46 in). Chiếc xe này được thiết kế thay thế Wirbelwind. Mô hình cuối cùng là Flakpanzer IV Kugelblitz, trong đó chỉ có năm được sản xuất. Chiếc xe có một tháp pháo được trang bị các khẩu pháo phòng không đôi 30 mm (1,18 in).
Mặc dù không phải là một sửa đổi trực tiếp của Panzer IV, chỉ có một số thành phần của nó kết hợp với các bộ phận từ Panzer III, đã được sử dụng để làm khung cho loại pháo tự hành dược sử dụng rộng rãi trong chiến tranh Geschützwagen III/ IV. Khung này là cơ sở của pháo Hummel, trong đó có 666 chiếc đã được sản xuất, và cũng như pháo chống tăng 88 mm (3,46 in)Nashorn, với 473 chiếc được sản xuất. Để tiếp tế cho pháo tự hành trong lĩnh vực này, loại xe vận chuyển đạn dược được sản xuất trên khung Geschützwagen III / IV.
Một biến thể hiếm gặp khác là xe sửa chữa Bergepanzer IV. Một số đã được chuyển đổi, 21 chiếc đã được chuyển đổi từ thân tăng đang sửa chữa từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 1 năm 1945. Việc chuyển đổi gồm loại bỏ tháp pháo và thêm một tấm ván bằng gỗ bao gồm với cửa nắp tại nơi dặt tháp pháo trước đó. Ngoài ra cần kéo và các thanh kéo cũng được trang bị.
| 1 | null |
Trận Trevilian Station (còn gọi là Trevilians) diễn ra từ ngày 11 đến ngày 12 tháng 6 năm 1864, trong Chiến dịch Overland của Trung tướng Liên bang miền Bắc là Ulysses S. Grant chống lại Binh đoàn Bắc Virginia của Liên minh miền Nam dưới quyền Đại tướng Robert E. Lee. Quân Kỵ binh Liên bang dưới quyền Thiếu tướng Philip Sheridan đã giao chiến với quân Kỵ binh miền Nam dưới quyền hai Thiếu tướng Wade Hampton và Fitzhugh Lee trong trận đánh toàn toàn của Kỵ binh lớn và đẫm máu nhất của cuộc chiến.
Sheridan xuất kích với mục tiêu là phá hủy các đoạn Đường sắt Trung tâm Virginia, tạo một đòn nhử mồi gây cho Kỵ binh Liên minh đóng cứ ở đó không thể nhận biết kế hoạch vượt sông James River, của Grant, và để hội quân với Thiếu tướng David Hunter tại Charlottesville. Kỵ binh của Hampton đánh bật Sheridan đến một đường sắt ở Trevilian Station và vào ngày 11 tháng 6 họ đánh nhau với kết thúc bế tắc. George A. Custer tiến đến khu vực hậu quân Liên minh và bắt được đoàn tàu tiếp tế của Hampton, nhưng sớm bị vây khốn và phải chiến đấu ác liệt để tránh khỏi sự tận diệt.
Ngày 12 tháng 6, các lực lượng Kỵ binh lại đụng độ về phía Tây Bắc Trevilian Station, và bảy cuộc tập kích của Sư đoàn Liên bang của Thiếu tướng Alfred T. A. Torbert bị đẩy lui với tổn thất nặng nề. Vốn chỉ phá hủy được một phần đường sắt, Sheridan rút quân về tập kết lại với đội quân của Grant. Dù họ chịu thiệt hại lớn, trận đánh này là một thắng lợi chiến thuật của quân Liên minh và Sheridan đã thất bại trong các mục tiêu phá hủy Đường sắt Trung tâm Virginia hay hội binh với Hunter.
Bối cảnh lịch sử.
Sau thất bại đẫm máu của quân Liên bang trong trận Cold Harbor vào ngày 3 tháng 6, Grant đề xướng một chiến lược mới.
| 1 | null |
Trận Wilson's Wharf (còn gọi là Trận đồn Pocahontas) là một trận đánh trong Chiến dịch Overland của Thiếu tướng Liên bang miền Bắc là Ulysses S. Grant chống lại Binh đoàn Bắc Virginia của Đại tướng Liên minh miền Nam là Robert E. Lee.
Vào ngày 24 tháng 5, Sư đoàn Kỵ binh Liên minh (khoảng 2.500 lính) của Thiếu tướng Fitzhugh Lee tấn công kho quân nhu của phe Liên bang tại Wilson's Wharf, trên sông James River ở phía Đông Thành phố Charles, Virginia. Họ bị hai Trung đoàn người Mỹ gốc Phi (khoảng 1.100 lính) của Lực lượng Da màu Hoa Kỳ (USCT) dưới sự chỉ huy của Chuẩn tướng Edward A. Wild đẩy lùi, khi Wild đang trong tiến trình xây dựng một đồn lũy tại đây mà sẽ được đặt tên là đồn Pocahontas. Trận đánh này là cuộc giao tranh đầu tiên của Binh đoàn Bắc Virginia của tướng Lee với quân Mỹ gốc Phi.
Liên kết ngoài.
| 1 | null |
Thái Bình là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, phía bắc giáp tỉnh Hải Dương, tỉnh Hưng Yên và thành phố Hải Phòng, phía nam giáp tỉnh Nam Định, phía đông giáp vịnh Bắc Bộ, phía tây giáp tỉnh Hà Nam.
Lịch sử tổ chức hành chính.
Trước khi thành lập tỉnh.
Vùng đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay, vào thời Bắc Thuộc trước thế kỉ 10, thuộc hương Đa Cương (vùng đất từ sông Luộc ra đến biển) của quận Giao Chỉ. Thời 12 sứ quân vùng đất này là căn cứ của sứ quân Trần Lãm. Tới nhà Hậu Lê, thời vua Lê Thánh Tông về sau vùng đất Thái Bình ngày nay thuộc trấn Sơn Nam. Đến cuối thời nhà Lê trung hưng sang đầu nhà Nguyễn, vùng này thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Năm 1832, vua Minh Mạng nhà Nguyễn cắt hai phủ Thái Bình, Kiến Xương nhập vào tỉnh Nam Định, nhập phủ Tiên Hưng vào tỉnh Hưng Yên.
Tỉnh Thái Bình - Những thay đổi hành chính.
Năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình, gồm phủ Thái Bình, phủ Kiến Xương (tách từ tỉnh Nam Định) và huyện Thần Khê (tách từ tỉnh Hưng Yên và sáp nhập vào phủ Thái Bình - sau đổi tên là phủ Thái Ninh). Tỉnh lỵ đặt tại phủ lỵ Kiến Xương, bờ nam sông Trà Lý. Vị trí này nằm trên đường Hải Phòng- Nam Định nhưng chỉ cách Nam Định 17 km nên người dân nơi đây thường đi phà Tân Đệ (sau này là cầu) sang Nam Định mua các thứ cần thiết.
Năm 1894, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cắt hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà thuộc phủ Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên sáp nhập vào tỉnh Thái Bình; lấy sông Luộc làm ranh giới giữa hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình. Như vậy lúc mới thành lập, tỉnh Thái Bình gồm có 3 phủ Kiến Xương, Thái Ninh, Tiên Hưng với tổng cộng là 12 huyện: Đông Quan, Duyên Hà, Hưng Nhân, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thần Khê, Thanh Quan, Thư Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Trực Định, Vũ Tiên.
Sau đó, đơn vị hành chính cấp phủ bị loại bỏ, các huyện có sở lị phủ thì đổi theo tên của phủ kiêm quản trước đó: Thanh Quan thành Thái Ninh, Trực Định thành Kiến Xương, Thần Khê thành Tiên Hưng.
Tỉnh lị tỉnh Thái Bình khi mới thành lập năm 1890, đặt tại xã Kỳ Bố, trước là huyện lị của huyện Vũ Tiên (từ thời Minh Mạng).
Sau năm 1945, bỏ cấp phủ, gọi chung là huyện. Tỉnh Thái Bình có 1 thị xã Thái Bình và 12 huyện: Đông Quan, Duyên Hà, Hưng Nhân, Kiến Xương, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thái Ninh, Thư Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Tiên Hưng, Vũ Tiên.
Năm 1955, điều chỉnh một số xã thuộc các huyện Đông Quan, Tiên Hưng, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thụy Anh, Tiền Hải và Thái Ninh.
Năm 1957, đổi tên một số xã thuộc huyện Hưng Nhân.
Năm 1958, điều chỉnh một số xã thuộc các huyện Thụy Anh, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Kiến Xương, Vũ Tiên.
Năm 1963, điều chỉnh địa giới thị xã Thái Bình và các huyện Vũ Tiên, Thư Trì. Cùng năm, điều chỉnh địa giới một số xã thuộc các huyện Đông Quan, Thụy Anh, Phụ Dực, Kiến Xương
Năm 1968, thành lập xã Thụy Tân thuộc huyện Thụy Anh.
Năm 1969, hợp nhất huyện Đông Quan và huyện Tiên Hưng thành một huyện lấy tên là huyện Đông Hưng; hợp nhất huyện Hưng Nhân, huyện Duyên Hà và 5 xã: Bắc Sơn, Đông Đô, Hòa Bình, Chi Lăng và Tây Đô của huyện Tiên Hưng (cũ) thành một huyện lấy tên là huyện Hưng Hà; hợp nhất huyện Quỳnh Côi và huyện Phụ Dực thành một huyện lấy tên là huyện Quỳnh Phụ; hợp nhất huyện Thái Ninh và huyện Thụy Anh thành một huyện lấy tên là huyện Thái Thụy; hợp nhất huyện Vũ Tiên và huyện Thư Trì thành một huyện lấy tên là huyện Vũ Thư; điều chỉnh địa giới huyện Vũ Tiên (cũ) và huyện Kiến Xương. Cùng năm, điều chỉnh địa giới huyện Kiến Xương và huyện Tiền Hải.
Năm 1974, chia tách một số xã thuộc huyện Kiến Xương.
Năm 1975, chia tách một số xã thuộc huyện Thái Thụy, Tiền Hải.
Năm 1976, chia tách một số xã thuộc các huyện Thái Thụy, Quỳnh Phụ, Vũ Thư, Tiền Hải, Hưng Hà.
Năm 1977, hợp nhất và điều chỉnh một số xã thuộc huyện Hưng Hà.
Năm 1982, chia tách một số xã thuộc huyện Vũ Thư. Cùng năm, điều chỉnh địa giới thị xã Thái Bình và huyện Vũ Thư.
Năm 1986, điều chỉnh địa giới thị xã Thái Bình và huyện Vũ Thư. Cùng năm, chia tách một số xã, thị trấn thuộc các huyện Đông Hưng, Thái Thụy, Tiền Hải, Vũ Thư.
- Thành lập thị trấn Diêm Điền trên cơ sở một phần xã Thụy Lương, xã Thụy Hà và xã Thụy Hải. Thị trấn Diêm Điền có tổng diện tích tự nhiên 177, 73 hécta đất với 10.314 nhân khẩu.
- Sáp nhập một phần xã Thụy Lương vào xã Thụy Hà. Xã Thuỵ Hà có 627 hécta đất với 3.946 nhân khẩu.
- Thành lập xã Đông Hải trên cơ sở một phần xã Đông Trà. Xã Đông Hải có 461,3 hécta diện tích tự nhiên với 2.500 nhân khẩu.
- Thành lập xã Nam Phú trên cơ sở một phần xã Nam Hưng. Xã Nam Phú có 997,2 hécta diện tích tự nhiên với 2.909 nhân khẩu.
- Thành lập thị trấn Tiền Hải trên co sở một phần xã Tây Sơn và xã Tây Giang. Thị trấn Tiền Hải có tổng diện tích tự nhiên 146,55 hécta với 7.306 nhân khẩu.
Năm 1988, thành lập thị trấn Kiến Xương thuộc huyện Kiến Xương trên cơ sở một phần xã Tan Thuật. Thị trấn Kiến Xương có 109,72 hécta diện tích tự nhiên và 4.649 nhân khẩu.
Năm 1989, chia tách một số xã thuộc huyện Vũ Thư. Cùng năm, thành lập một số phường, thị trấn thuộc thị xã Thái Bình và huyện Hưng Hà.
Năm 1990, mở rộng thị trấn Quỳnh Côi thuộc huyện Quỳnh Phụ.
Năm 2002, thành lập một số phường, xã thuộc thị xã Thái Bình và thành lập thị trấn Thanh Nê thuộc huyện Kiến Xương.
Năm 2004, thành lập thành phố Thái Bình trên co sở toan bộ thị xã Thái Bình. Thành phố Thái Bình có 4.330 ha diện tích tự nhiên và 143.925 nhân khẩu, có 13 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 8 phường và 5 xã.
Năm 2005, điều chỉnh và thành lập một số xã, thị trấn thuộc các huyện Quỳnh Phụ, Hưng Hà.
Năm 2007, điều chỉnh địa giới thành phố Thái Bình và các huyện Vũ Thư, Kiến Xương, Đông Hưng; thành lập một số phường thuộc thành phố Thái Bình.
- Thành lập phường Hoàng Diệu trên co sở toàn bộ xã Hoàng Diệu. Phường Hoàng Diệu có 613,58 ha diện tích tự nhiên và 13.715 nhân khẩu.
- Thành lập phương Trần Hưng Đạo trên cơ sở một phần phương Quang Trung, phường Tiền Phong, phương Bồ Xuyên và xã Phu Xuân. Phường Trần Hưng Đạo có 171,6 ha diện tích tự nhiên và 4.710 nhân khẩu.
Năm 2020, sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã thuộc các huyện Đông Hưng, Quỳnh Phụ, Thái Thụy, Tiền Hải.
- Sáp nhập toàn bộ xã Đông Hải vào xã Đông Trà. Xã Đông Trà có 10,72 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 6.855 người.
- Sáp nhập toàn bộ xã Tây An và xã Tây Sơn vào thị trấn Tiền Hải. Thị trấn Tiền Hải có 9,39 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 13.562 người.
- Sau khi sắp xếp, huyện Tiền Hải có 32 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 31 xã và 01 thị trấn.
- Thành lập xã Đông Quan trên cơ sở toàn bộ xã Đông Phong, xã Đông Huy và xã Đông Lĩnh. Xã Đông Quan có 10,61 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 8.524 người.
- Thành lập xã Hồng Bạch trên cơ sở toàn bộ xã Bạch Đằng và xã Hồng Châu. Xã Hồng Bạch có 8,50 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 6.851 người.
- Thành lập xã Liên Hoa trên cơ sở toàn bộ xã Hoa Nam và xã Hoa Lư. Xã Liên Hoa có 6,48 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 5.988 người.
- Thành lập xã Minh Phú trên cơ sở toàn bộ xã Minh Châu và xã Đồng Phú. Xã Minh Phú có 7,13 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 7.540 người.
- Thành lập xã Hà Giang trên cơ sở toàn bộ xã Đông Hà và xã Đông Giang. Xã Hà Giang có 9,22 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 9.167 người.
- Sau khi sắp xếp, huyện Đông Hưng có 38 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 37 xã và 01 thị trấn.
- Thành lập xã Hồng Dũng trên cơ sở toàn bộ xã Thụy Hồng, xã Thụy Dũng và xã Hồng Quỳnh. Xã Hồng Dũng có 12,18 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 10.371 người.
- Thành lập xã Dương Hồng Thủy trên cơ sở toàn bộ xã Thái Dương, xã Thái Hồng và xã Thái Thủy. Xã Dương Hồng Thủy có 14,82 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 9.350 người.
- Thành lập xã Dương Phúc trên cơ sở toàn bộ xã Thụy Dương và xã Thụy Phúc. Xã Dương Phúc có 7,34 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 8.184 người.
- Thành lập xã An Tân trên cơ sở toàn bộ xã Thụy An và xã Thụy Tân. Xã An Tân có 9,61 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 7.516 người.
- Thành lập xã Sơn Hà trên cơ sở toàn bộ xã Thái Hà và xã Thái Sơn. Xã Sơn Hà có 10,22 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 9.498 người.
- Thành lập xã Thuần Thành trên cơ sở toàn bộ xã Thái Thuần và xã Thái Thành. Xã Thuần Thành có 12,42 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 7.181 người.
- Thành lập xã Tân Học trên cơ sở toàn bộ xã Thái Tân và xã Thái Học. Xã Tân Học có 7,88 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 6.561 người.
- Thành lập xã Hòa An trên cơ sở toàn bộ xã Thái Hòa và xã Thái An. Xã Hòa An có 7,62 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 8.993 người.
- Sáp nhập toàn bộ xã Thụy Lương và xã Thụy Hà vào thị trấn Diêm Điền. Thị trấn Diêm Điền có 12,82 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 22.170 người.
- Sau khi sắp xếp, huyện Thái Thụy có 36 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 35 xã và 01 thị trấn.
- Thành lập thị trấn Kiến Xương trên cơ sở toàn bộ thị trấn Thanh Nê và xã An Bồi. Thị trấn Kiến Xương có 11,26 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 12.254 người.
- Thành lập xã Minh Quang trên cơ sở toàn bộ xã Minh Hưng và xã Quang Hưng. Xã Minh Quang có 8,22 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 9.450 người.
- Sáp nhập toàn bộ xã Quyết Tiến vào xã Lê Lợi. Xã Lê Lợi có 8,66 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 9.664 người.
- Thành lập xã Tây Sơn trên cơ sở toàn bộ xã Vũ Tây và xã Vũ Sơn. Xã Tây Sơn có 9,74 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 11.872 người.
- Sau khi sắp xếp, huyện Kiến Xương có 33 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 32 xã và 01 thị trấn.
- Thành lập xã Châu Sơn trên cơ sở toàn bộ xã Quỳnh Châu và xã Quỳnh Sơn. Xã Châu Sơn có 8,02 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 8.338 người.
- Sau khi sắp xếp, huyện Quỳnh Phụ có 37 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 35 xã và 02 thị trấn.
| 1 | null |
Semih Saygıner (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1964 tại Adapazarı, Thổ Nhĩ Kỳ) được mệnh danh là Phù thủy hay Hoàng tử Thổ Nhĩ Kỳ là một tay cơ thủ billiards chuyên nghiệp của Thổ Nhĩ Kỳ, người từng từng đăng quang ngôi vô địch thế giới và châu Âu. Những thành tích nổi bật của Seyginer đã giúp phong trào billiards tại Thổ Nhĩ Kỳ phát triển và anh là người đặt nền móng cho sự ra đời của Liên đoàn Billiards Thổ Nhĩ Kỳ để giúp đất nước này trở thành thế lực mới của billiards thế giới. Anh chinh phục người hâm mộ bằng những đường cơ biểu diễn hài hước, lạ và cầu kỳ đến nỗi chỉ có người điên mới nghĩ ra.
Cuộc đời, sự nghiệp.
Semih Saygıner sinh ra trong một gia đình có sáu anh chị em ở vùng ngoại ô Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. 14 tuổi, cả cha lẫn mẹ đột ngột qua đời vì tai nạn giao thông khiến Sayginer bị sốc nặng khiến Sayginer bị trầm cảm vì mất tất cả tình yêu cha mẹ, đến trường bị khinh miệt vì mồ côi. Năm 16 tuổi, Sayginer được một người bạn là Iker đưa đến một câu lạc bộ billiards để chơi thử, tuy nhiên ngay lần đầu cầm cơ, Sayginer đã khiến mọi người xung quanh kinh ngạc khi tỏ ra có năng khiếu và bắt chước các tư thế đánh rất nhanh. Những lời khen đó khiến Seyginer thích thú khi anh thấy mình được mọi người quan tâm tuy nhiên Sayginer còn chịu áp lực rất lớn từ sự phản đối của anh chị trong nhà vì billiards khi đó không được người dân Thổ Nhĩ Kỳ xem là môn thể thao mà chỉ là trò bài bạc.
Seyginer mày mò tự học để rồi chỉ tám tháng sau đã trở thành nhà vô địch Thổ Nhĩ Kỳ lúc 17 tuổi. Để được dự giải, Seyginer phải đến Istanbul ở nhờ ký túc xá của bạn. Không có tiền, Sayginer nhờ thợ mộc mài cây cơ với đầu cơ được quấn giấy báo cho khỏi xước. Đuôi cơ được dán bằng cục cao su của dép lê. Khi ra đấu, Seyginer cố ôm cây cơ trong người để đối thủ không biết chuyện này. Sau đó anh bỏ học để theo nghiệp billiards, Sayginer chuyển đến Istanbul tự kiếm tiền sinh sống. Anh làm đủ thứ nghề từ lau dọn, phục vụ bàn, thu ngân viên, thợ điện... và sống tiết kiệm trong những căn nhà trọ nhỏ để có dư tiền. Nhưng bao nhiêu tiền dành dụm được đều tiêu tán theo các giải đấu thất bại liên tục của Sayginer từ năm 1988-1991.
Với quyết tâm vươn ra châu lục, Seyginer cùng một người bạn lái xe hơi ba ngày liên tục từ Istanbul sang Bỉ để thi đấu năm 1991. Giải đấu này tiếp tục là một thất bại khi Sayginer chỉ biết lóng ngóng đứng nhìn vì không biết ngoại ngữ và khớp trước đối thủ. Sau đó, Sayginer bắt đầu gây được tiếng vang năm 1992 khi đánh bại tay cơ huyền thoại người Bỉ từng 35 lần vô địch thế giới Raymond Ceulemans tại Giải World Cup billiards ba băng ở Berlin. Hai năm sau, Sayginer trở thành nhà vô địch giải đấu này. Ngoài ra, trong sự nghiệp của mình, Sayginer còn đăng quang Giải vô địch billiards ba băng châu Âu 1999 và vô địch thế giới billiards ba băng năm 2003.
| 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.