text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Podiceps auritus là một loài chim thuộc họ Chim lặn. Loài này dài 31–38 cm với sải cánh dài 46–55 cm. Không thể nhầm lẫn vào mùa hè, bộ lông của cả con trống và con mái bao gồm đầu màu đen với các búi như tai nâu phồng lên dọc theo hai bên của khuôn mặt của nó. Nó có cổ sâu màu đỏ, mắt đỏ, mỏ đen thẳng và nhỏ đầu mỏ màu trắng. Loài này sinh sản ở các vùng thảm thực vật của hồ nước ngọt trên toàn châu Âu và châu Á. Nó cũng giống trong các khu vực nội địa hẻo lánh của Hoa Kỳ và Canada. Hầu hết các loài chim di trú vào mùa đông đến bờ biển.
1
null
Buồm là một tấm vải lớn giúp cho một số loại tàu thuyền (như thuyền buồm), phương tiện giao thông hoặc cánh quạt (trong cối xay gió) chuyển động dựa vào lực đẩy của gió. Lịch sử. Những miêu tả được biết đến sớm nhất về cánh buồm là từ Ai Cập cổ đại khoảng 3200 TCN . Ở đó đã có những con thuyền làm bằng sậy căng buồm ngược dòng sông Nile. Cùng lúc đó, người Sumer cổ đại cũng đã sử dụng những chiếc thuyền có buồm hình vuông và người ta cho rằng họ là những người đã đặt nền móng cho những cuộc hải hành thương mại đến tận lưu vực sông Ấn. Từ "buồm" trong ngôn ngữ của người Austronesia nguyên thủy (tổ tiên người Đông Nam Á ngày nay) "lay(r)" đã có từ 3000 năm BCE khi họ bắt đầu bành trướng trên Thái Bình Dương. Người Hy Lạp và người Phoenicia đã giao lưu thương mại bằng tàu thuyền khoảng 1200 TCN.
1
null
Núi ngầm hay núi dưới biển (tiếng Anh: "seamount") là một ngọn núi nhô lên từ đáy đại dương nhưng không nổi lên khỏi mặt nước, và do đó không phải là một hòn đảo. Thông thường thì núi ngầm được hình thành từ các núi lửa đã tắt nhưng nhô lên đột ngột khỏi đáy biển với độ cao từ 1.000-4.000 mét. Các nhà hải dương học định nghĩa núi ngầm là một thực thể riêng biệt nhô lên với độ cao ít nhất là 1.000 m từ đáy biển. Đỉnh núi ngầm thường nằm sâu dưới mặt nước từ hàng trăm đến hàng nghìn mét, nghĩa là vùng biển có núi ngầm phải là vùng biển sâu. Con người ước tính có đến 100.000 núi ngầm trên Trái Đất với đủ các kích cỡ, hình dạng, cách thức hình thành, phát triển và biến mất nhưng chỉ có một số ít được nghiên cứu. Trong các năm gần đây, người ta quan sát được một vài kiến tạo núi ngầm, ví dụ Loihi ở quần đảo Hawaii. Do sự phong phú về số lượng, núi ngầm là một trong những hệ sinh thái đại dương phổ biến nhất trên thế giới. Các tương tác giữa núi ngầm và các dòng chảy ngầm, cũng như độ cao của núi, là các yếu tố thu hút sinh vật phù du, san hô, cá và các động vật có vú sống ở biển, từ đó làm lợi cho ngành đánh bắt cá thương mại. Có những mối quan ngại về tác động tiêu cực của hoạt động đánh bắt đối với các hệ sinh thái núi ngầm như làm suy giảm số lượng một số loài thủy sản, ví dụ loài cá có tên khoa học là "Hoplostethus atlanticus". Hoạt động giăng lưới vét cá, tức là cào lấy toàn bộ hệ sinh thái khỏi các núi ngầm, chính là nguyên nhân gây ra 95% thiệt hại cho môi trường nơi đây. Nhiều núi ngầm vẫn được nghiên cứu thường xuyên (như đo độ sâu và đo độ cao bằng vệ tinh) và vẽ vào bản đồ. Đã có trường hợp các tàu hải quân gặp tai nạn do va phải các núi ngầm không có trong bản đồ. Tuy nhiên, mối nguy hiểm lớn nhất từ các núi ngầm là khi sườn núi sụp xuống; càng về sau, áp suất gia tăng trên các sườn núi gây ra hiện tượng lở đá, từ đó có nguy cơ tạo nên những cơn sóng thần khủng khiếp. Địa lý. Núi ngầm có mặt ở tất cả các bồn trũng đại dương trên thế giới, cực kì đa dạng cả về mặt không gian và độ tuổi. Năm 1964, các nhà khoa học đưa ra định nghĩa núi ngầm là một thực thể cô lập dâng cao lên ít nhất là 1.000 m từ đáy biển xung quanh với một khu vực đỉnh chóp có giới hạn. Tuy vậy, khái niệm này không được tuân thủ chặt chẽ do một số nhà khoa học xem những thực thể chỉ cao 100 m cũng là núi ngầm. Nếu xét theo khái niệm ban đầu thì có 100.000 núi ngầm dưới các đại dương, còn xét theo khái niệm thoáng hơn con số này lên tới 2 triệu. Tuy nhiên, có thể chẳng bao giờ người ta nắm được một số liệu chính xác do có những núi ngầm quá nhỏ và quá sâu, không thể phân tích được. Hầu hết các núi ngầm có nguồn gốc là núi lửa; vì lẽ này, người ta thường tìm thấy chúng trên lớp vỏ đại dương gần các rặng núi giữa đại dương, chùm manti và các vòng cung đảo. Gần một nửa số núi ngầm trên Trái Đất được tìm thấy ở Thái Bình Dương trong khi số còn lại phân bố chủ yếu ở Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương. Nhìn chung, núi ngầm phân bố rất không đều tại Nam bán cầu. Núi ngầm thường hợp lại thành từng cụm, ví dụ chuỗi núi ngầm Emperor kéo dài hàng nghìn kilômét về phía tây bắc của quần đảo Hawaii. Cách đây hàng triệu năm, các hoạt động núi lửa đã tạo nên các núi ngầm này, nhưng kể từ đó chúng càng ngày càng chìm sâu hơn dưới nước. Ngoài các cụm núi ngầm, con người cũng tìm thấy những núi ngầm hoặc nằm riêng lẻ hoặc không có nguồn gốc núi lửa rõ ràng, dù rằng số này không nhiều lắm; có thể kể ra vài ví dụ như núi ngầm Bollons, núi ngầm Eratosthenes, núi ngầm Axial và dãy núi Gorringe. Nếu gom tất cả các núi ngầm trên thế giới lại một chỗ, chúng sẽ tạo thành một địa hình có diện tích ngang ngửa với châu Âu. Do có số lượng đông đảo, núi ngầm là một trong những cấu trúc đại dương và quần xã sinh vật phổ biến nhất Trái Đất nhưng cũng còn nhiều bí ẩn nhất. Địa chất. Cấu trúc. Núi ngầm có thể hình thành theo hàng loạt cách thức kiến tạo khác nhau, dẫn đến sự đa dạng về cấu trúc, từ hình nón, chóp phẳng đến các hình thù phức tạp. Có những núi rất lớn nhưng cũng rất thấp, ví dụ núi chóp phẳng Koko và núi ngầm Detroit trong khi số khác thì dốc hơn, ví dụ núi ngầm Loihi. Một số núi ngầm có chóp carbonate hoặc trầm tích. Nhiều núi ngầm có dấu hiệu của hoạt động xâm nhập, tiềm tàng nguy cơ gây nên sạt lở sườn núi. Núi ngầm có thể được phân loại thành: (1) núi chóp phẳng ("guyot"), sâu ít nhất 200 m dưới mặt biển với chu vi khu vực chóp núi có khi đến hơn 10 km; (2) "knoll", tức là những ngọn núi riêng lẻ có độ cao dưới 1.000 m; (3) đỉnh nhọn ("pinnacle"), tức là những núi ngầm có hình dạng giống như những cái cột. Sinh thái. Vai trò sinh thái. Về mặt sinh thái, núi ngầm có vai trò cực kì quan trọng đối với quần xã sinh vật bao quanh chúng, nhưng vai trò của chúng đối với môi trường thì còn mơ hồ. Do "mọc" lên từ đáy biển, núi ngầm làm biến dạng dòng chảy thông thường, gây ra các xoáy nước và các hiện tượng thủy văn liên quan, tạo nên một đáy biển mới. Tốc độ dòng chảy ở đây có thể lên tới 0,9 knot hay 48 cm/giây. Do vậy, khu vực núi ngầm thường có lượng sinh vật phù du cao hơn bình quân, từ đó thu hút cá tìm đến, để rồi sau đó cá lại thành thức ăn cho các sinh vật săn mồi khác. Tất cả đã biến núi ngầm thành một điểm nóng sinh học quan trọng. Núi ngầm thường cung cấp nơi sinh sống và sinh sản cho các động vật lớn hơn, bao gồm rất nhiều loài cá khác nhau. Một số loài, ví dụ "Allocyttus niger" và "Apogon nigrofasciatus", thường tụ tập ở núi ngầm hơn là tại các vùng biển khác. Các loài động vật biển có vú, cá mập, cá ngừ và động vật thân mềm tập trung tại núi ngầm để săn mồi. Tại các núi ngầm nông cạn, gần mặt biển, người ta nhiều khi người ta còn thấy cả chim biển đến tìm thức ăn. Nhờ độ cao của mình, núi ngầm tạo ra môi trường sống cho những sinh vật biển sống không sống hoặc không quen sống ở những vùng đáy sâu của đại dương. Do hình thành từ đá núi lửa, giá thể của núi ngầm thường cứng hơn nhiều so với trầm tích đáy biển xung quanh. Điều này khiến mức độ đặc hữu của quần thể động vật nơi đây cao hơn so với các quần thể sinh sống ở đáy biển bình thường. Tuy nhiên, các nghiên cứu tiến hành gần đây tại núi biển Davidson (tiểu bang California, Hoa Kỳ) cho rằng không hẳn quần thể sinh vật núi ngầm có tính đặc hữu cao hơn, và các nhà khoa học vẫn tiếp tục bàn luận về tác động của núi ngầm lên tính đặc hữu của sinh vật. Tuy vậy, rõ ràng núi ngầm đã cung cấp nơi cư ngụ cho những loài vốn khó có thể sống sót ở một nơi nào khác ngoài núi ngầm. Có rất nhiều sinh vật kiếm ăn bằng cách lọc nước ("filter feeder") sống tại phần đá núi lửa trên sườn núi ngầm, cụ thể như san hô thường tận dụng các dòng chảy mạnh xung quanh núi ngầm để lấy thức ăn. Điều này trái ngược hẳn với các môi trường dưới đáy biển sâu, nơi các sinh vật kiếm ăn ở chỗ lắng ("deposit-feeding") dựa vào nguồn thức ăn lấy từ đáy biển. Ở các vùng nhiệt đới, san hô phát triển nhiều dẫn tới sự hình thành các rạn san hô vòng trên đỉnh núi ngầm. Ngư nghiệp. Ngành công nghiệp đánh bắt thủy sản từ lâu đã chú ý đến nguồn lợi thủy sản mà các núi ngầm mang lại. Từ nửa sau thế kỉ 20, do cung cách quản lý yếu kém và áp lực tìm kiếm nơi khơi thác mới do các ngư trường và thềm lục địa truyền thống đã cạn kiệt, con người đã hướng đến việc đánh bắt thủy sản tại khu vực các núi ngầm từ đó. Có gần 80 loài cá và động vật có vỏ sinh sống ở núi ngầm bị khai thác thương mại, bao gồm "Palinuridae", "Paralithodes camtschaticus", "Lutjanus campechanus", "Hoplostethus atlanticus", "Percidae", cá thu và cá ngừ. Bảo tồn. Việc bảo tồn hệ sinh thái của núi ngầm gặp trở ngại do tình trạng thiếu thông tin. Có rất ít nghiên cứu về núi ngầm: chỉ 350 trong số 100.000 núi ngầm trên thế giới là được lấy mẫu, trong đó chỉ có 100 núi ngầm được nghiên cứu sâu. Nguyên nhân gây nên tình trạng này là do thiếu công nghệ hay do khó tiếp cận các cấu trúc sâu dưới biển. Chỉ vài thập niên gần đây, công nghệ mới cho phép khám phá toàn diện núi ngầm. Trước khi tiến hành bảo tồn, cần thiết phải vẽ được bản đồ núi ngầm trên thế giới; hiện công việc này đang được tiến hành. Đánh bắt hải sản quá mức là mối đe doạ nghiêm trọng đối với môi trường sinh thái nơi đây. Có thể kể đến nạn đánh bắt loài cá "Hoplostethus atlanticus" tràn lan ở bờ biển nước Úc và New Zealand hay nạn khai thác loài cá "Pseudopentaceros richardsoni" gần Nhật Bản và Nga. Các loài này dễ cạn kiệt là vì vòng đời dài, phát triển chậm và trưởng thành chậm. Vấn nạn sử dụng lưới vét để đánh cá cùng với khó khăn trong việc giám sát các núi ngầm thuộc các vùng biển quốc tế càng làm trầm trọng thêm vấn đề này. Theo báo cáo năm 2006 của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, đánh bắt hải sản bằng lưới vét là nguyên nhân gây nên 95% tổn hại đối với hệ sinh thái của núi ngầm. San hô từ núi ngầm cũng rất dễ bị tổn thương do việc chế tác đồ trang sức và đồ trang trí từ san hô mang lại lợi ích kinh tế cao. Con người khai thác rất nhiều san hô từ núi ngầm, gây cạn kiệt tầng san hô tại đây.
1
null
Ba lô (", knapsack, schoolbag, rucksack, rucksac, pack, sackpack, booksack, bookbag hoặc backsack)" bắt nguồn từ là một loại túi đựng bằng vải có hai dây vắt qua vai để đeo trên lưng, ngoài ra còn có những trường hợp ngoại lệ. Những loại ba lô nhẹ đôi khi chỉ có một dây đeo chéo vai. Những người đi bộ đường dài và học sinh thường sử dụng balo, cũng như sự ưa thích hơn đối với túi xách khi cần mang vác nặng hoặc mang theo bất kỳ loại thiết bị nào, vì khả năng hạn chế để mang vác nặng trong thời gian dài trong tay. Ba lô lớn có thể sử dụng để mang tải hơn , cũng như ba lô thể thao nhỏ hơn (ví dụ: chạy bộ, đạp xe, đi bộ đường dài và đựng nước), thường giảm tải phần lớn nhất (lên đến khoảng 90%) trọng lượng của chúng lên đai hông có đệm, để lại dây đeo vai chủ yếu để ổn định tải trọng. Điều này giúp cải thiện khả năng mang vác vật nặng, vì hông khỏe hơn vai, đồng thời cũng tăng sự nhanh nhẹn và thăng bằng, vì vật nặng di chuyển gần tâm khối lượng của chính người đeo. Thuật ngữ. Từ backpack tại Hoa Kỳ bắt nguồn từ thập niên 1910. "Moneybag" và "packsack" là từ đã được sử dụng trước đây và hiện nay chủ yếu xuất hiện dưới dạng phương ngữ. Từ rucksack là một từ mượn của tiếng Đức, chủ yếu được sử dụng ở Anh, Mỹ và các lực lượng quân sự phương Tây khác. Trong tiếng Đức Trung Cao "ruck(e)" có nghĩa là "lưng" (dorsum), dẫn đến từ "ruggsack" trong tiếng Thượng Đức. Trong tiếng Đức hiện đại, từ "der Rucksack" thường được sử dụng. "Rucksack" là từ cùng nguồn gốc với "rygsæk" của Đan Mạch, "ryggsekk" của Na Uy, "rugzak" của Hà Lan, "rugsak" của Afrikaans, "ryggsäck" của Thụy Điển, và "рюкзак" ("rjukzak") của Nga. Từ knapsack là tên thông thường của rucksack hoặc backpack cho đến giữa thế kỷ 20, thường được sử dụng ở Canada. Các tên thay thế bao gồm haversack từ tiếng Đức "Hafersack" có nghĩa là "bao yến mạch"(oat sack) (mô tả chính xác hơn là một chiếc túi vải nhỏ có quai đeo qua một bên vai và ban đầu được gọi là túi yến mạch dùng để mang thức ăn cho ngựa), "Kraxe" (một chiếc ba lô của Đức có khung cứng), và "bergen" (một chiếc ba lô chịu được trọng lượng lớn, từ một thiết kế của Quân đội Anh trong Chiến tranh thế giới thứ hai). Trên thực tế, người Anh thường gọi ba lô kiểu Alpine là "ba lô Bergen", có thể là từ tên của người tạo ra chúng, tiếng Na Uy là Ole F. Bergan, kết hợp với tên thành phố Bergen của Na Uy. Ba lô thường có thể được gọi đơn giản là "gói", đặc biệt là trong bối cảnh ngoài trời; mặc dù đôi khi mơ hồ so với các loại túi khác như túi yên ngựa và túi vải thô, ngữ cảnh nói chung là đủ để nhận dạng. Chúng cũng được sử dụng trong các hoạt động giải trí và từ lâu đã được sử dụng để chở dụng cụ thể thao và các vật liệu khác. Rất lâu trước khi các thuật ngữ khác nhau của nó bắt đầu xuất hiện trên báo in, bằng chứng về những chiếc ba lô thời kỳ đầu rất khan hiếm. Một ứng cử viên cho vị trí sớm nhất đã được tìm thấy chính là xác ướp của Ötzi vào năm 3300 trước Công nguyên. Thiết kế. Ba lô nói chung thuộc một trong bốn loại: không khung, khung ngoài, khung trong và phần thân. Khung ba lô, nếu có, dùng để đỡ ba lô và phân bổ trọng lượng của đồ bên trong ba lô trên cơ thể một cách hợp lý, bằng cách chuyển phần lớn trọng lượng sang hông và chân. Do đó, phần lớn trọng lượng được trút khỏi vai, giảm nguy cơ chấn thương do áp lực của dây đeo vai (nhiều ba lô chỉ trang bị dây đeo vai có thể ảnh hưởng đến tư thế của một người mang hơn 14kg (30 lbs)), cũng như ít hạn chế phạm vi chuyển động của phần trên cơ thể. Hầu hết các ba lô đều có thể đóng lại bằng cơ chế khóa, dây kéo phéc mơ tuya hoặc gập phần đầu túi, mặc dù một số mẫu sử dụng dây rút có gắn nút khóa dây cho phần ngăn chính. Sử dụng hàng ngày. Ba lô hàng ngày () là một chiếc ba lô nhỏ hơn, không khung có thể chứa đủ đồ cho một chuyến đi bộ đường dài trong ngày hoặc các hoạt động khác trong ngày. Chúng không đủ lớn để du hành với trang bị sau lưng thường phải đem theo túi ngủ cỡ lớn và lều, nhưng có thể đủ lớn cho ba lô du lịch siêu nhẹ. Có thể gắn thêm dây đai thắt lưng có đệm hoặc không có đệm để phân bổ trọng lượng trên cơ thể. Ở nhiều quốc gia, hình ảnh ba lô thường gắn liền với sinh viên hoặc học sinh và là phương tiện chính để vận chuyển tài liệu giáo dục đến từ nhà đến trường. Trong ngữ cảnh này, chúng đôi khi được gọi là cặp sách hoặc cặp đi học. Việc mua một chiếc ba lô phù hợp thời trang, hấp dẫn và hữu ích gần như là một nghi thức quan trọng trong ngày tựu trường của nhiều học sinh. Ba lô học sinh cơ bản thường không có khung cứng như ba lô kiểu ngoài trời và chỉ bao gồm một vài túi ở phía trước ngoài ngăn chứa chính. Mặc dù kiểu truyền thống rất đơn giản về thiết kế, ba lô học sinh thường có dây đeo vai và lưng có đệm cũng như gia cố thêm để chứa một lượng lớn sách giáo khoa nặng, cũng như các tính năng an toàn như tấm phản quang để giúp dễ nhận ra người đeo ba lô hơn. Ba lô đôi khi được đeo như một phụ kiện thời trang, lúc này chúng thực hiện chức năng giống như một chiếc ví. Một số loại ba lô như vậy thường được thiết kế dành riêng cho phụ nữ, nó có kích cỡ tương đương với một chiếc ví thông thường và thường là phụ kiện của các phụ nữ trẻ.
1
null
Rượu vang đỏ hay còn gọi là vang đỏ hay rượu nho đỏ là một dạng phổ biến của rượu vang được làm từ những loại nho đậm màu. Vang đỏ thường có màu đậm pha trộn giữa màu đỏ, đen và tím. Quá trình làm rượu vang đỏ thì vỏ nho cũng được nghiền nát cùng với ruột để tạo ra nước ép rồi lên men (ủ) thành rượu. Đặc điểm. Đây là loại rượu được làm từ nhiều giống nho đỏ (hoặc đen) khác nhau. Do nước ép từ thịt nho là nước hoa quả không màu cho nên màu của rượu phụ thuộc vào màu của vỏ nho và thời gian vỏ nho tiếp xúc với nước ép nho. Rượu đỏ trẻ (tức ủ chưa đủ thời gian) thường chứa nhiều tannin. Theo thời gian tannin giảm bớt và hòa quyện hài hòa với các thành phần khác của rượu chính vì vậy rượu vang đỏ thường để ủ lâu hơn rượu vang trắng. Rượu vang đỏ cũng có một số mùi vị đặc trưng như mùi anh đào, mùi nho khô, mùi dâu tây, mùi quả mâm xôi, mùi quả phúc bồn tử, mùi quả lý chua, mùi quả lý gai, mùi quả sung, mùi hạt tiêu (trắng và đen), mùi coca, mùi da, mùi bánh mì nướng, mùi khói, mùi cam thảo, mùi café moka, mùi quế, mùi hành tỏi. Các nhà sản xuất thường pha trộn các loại nho để tạo ra một hương vị đặc trưng. Một số giống nho để tạo vang đỏ như Cabernet Sauvignon được nhân giống từ loại nho Bordeaux, với vỏ rất dày đảm bảo cho ruột nho chín đến khi có màu đỏ sẫm. Những người sản xuất rượu thường ủ trong gỗ sồi một thời gian dài hơn sẽ đạt được mùi và hương vị tối ưu. Giống nho Merlot được hái sớm hơn giống nho Cabernet Sauvignon vì có vỏ mỏng và do được hái sớm từ trên cây nên quá trình ủ nho cũng mau hơn các loại nho khác. Khi giống nho Merlot còn non thì có hương vị của dâu đen (Black Cherry) và khi chín thì hương vị đổi là mận ngọt (Sweet Plum). Các giống nho chính khác như Pinot noir, Zinfalden, Charbono Barbera và Carignane. Công dụng. Rượu vang đỏ chứa nhiều hợp chất chống oxy hóa có lợi cho sức khỏe, giúp phòng ngừa bệnh tim mạch, lợi ích của rượu nho đỏ chính là nhờ chất chống oxy hóa được tìm thấy trên vỏ quả. Vỏ nho chứa nhiều anthocyanin (chất tạo màu đỏ cho quả và là một nhánh của chất chống oxy hóa polyphenol). Uống rượu vang đỏ ở mức độ vừa phải có thể bảo vệ thị lực nhờ hợp chất resveratrol có tác dụng ngăn chặn mạch máu khỏi bị tổn hại, nó trực tiếp ngăn chặn sự phát triển của các mạch máu bất thường bên trong lẫn bên ngoài mắt. Thành phần resveratrol trong rượu vang đỏ có thể giúp ngăn ngừa các tác động tiêu cực của lối sống ít vận động lên người như công việc ngồi một chỗ của nhân viên văn phòng hoặc tình trạng không trọng lượng ở phi hành gia. Uống rượu vang đỏ còn ngăn ngừa bệnh ung thư. Uống rượu vang đỏ thường xuyên giúp giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ, theo đó, những chất hóa học trong vỏ và hạt của trái nho đỏ lại có tác dụng giúp giảm lượng hormone oestrogen và tăng cường hormone testosterone của phụ nữ thời kỳ mãn kinh. Trong rượu vang đỏ có chất chống lại béo phì, còn trong sữa chua có nhiều axit lactic rất tốt cho đường ruột, khi kết hợp sữa chua và rượu vang đỏ có thể tiêu hóa tốt (chống táo bón) và cơ thể cân đối. Ngoài ra, các thành phần Polyphenol của rượu vang đỏ có thể ức chế quá trình tổng hợp một loại protein liên quan tới bệnh tim mạch. Rượu vang đỏ tốt cho tim vì thành phần Polyphenol của nó có tác dụng chống oxy hóa (ngăn chặn tác hại gây bệnh của các gốc tự do). Polyphenol chống được bệnh tim nhờ khả năng ức chế sản xuất Endothelin-1 (một loại protein gây co mạch máu, làm giảm lượng oxy tới tim và đóng vai trò chủ chốt trong bệnh mạch vành). Polyphenol nằm trong vỏ quả nho và vì vậy, chỉ riêng rượu vang đỏ có đặc tính chống bệnh tim. Có khuyến cáo cho rằng, dùng rượu vang đỏ một cách điều độ (không quá 25g alcohol etylic mỗi ngày) làm giảm tỷ lệ tử vong do tim mạch xuống dưới 40%. Rượu vang đỏ có 3 cơ chế tác dụng: Chống oxy hóa, giãn mạch, chống huyết khối. Màng quả nho và hạt mầm chứa nhiều polyphenol. Trong rượu vang đỏ, phần rượu (alool etylic) giúp polyphenol hấp thu dễ dàng qua ruột non, nồng độ polyphenol trong rượu nho gấp 3-4 lần ở nước ép quả nho; Do đó hoạt tính của rượu vang đỏ hơn hẳn (so với ăn nho) rượu vang đỏ có nhiều triển vọng để phòng chữa xơ vữa động mạch, ung thư, bệnh do virus, sa sút trí tuệ. Bênh cạnh đó, chất oligomeric procyanidins – một loại polyphenol có rất nhiều trong rượu vang đỏ làm theo cách truyền thống, quan trọng trong rượu vang đỏ đóng vai trò kéo dài tuổi thọ con người. Rượu vang đỏ từ lâu đã được biết đến là một trong những sản phẩm hỗ trợ rất tốt cho sức khỏe và ngày càng có nhiều bằng chứng thuyết phục về vai trò của oligomeric procyanidin với sức khỏe tim mạch. Song song đó, rượu vang đỏ cũng rất tốt cho phổi, một hợp chất tự nhiên có trong rượu vang đỏ là resveratrol có thể giúp chống lại bệnh phổi kinh niên và khí thủng (có không khí trong mô), chất này có trong nho đỏ, có thể làm giảm chất hóa học trong phổi - nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm phổi. Khi tiêm resveratrol vào các mẫu thử chất lưu trong phổi của những người hút thuốc lá và những bệnh nhân bị chứng tắc phổi kinh niên, nó làm giảm interleukin 8 (một tác nhân gây ra chứng viêm phổi). Uống một ly rượu vang đỏ mỗi ngày không chỉ mang đến cảm giác ăn ngon miệng mà còn tốt cho lợi khuẩn đường ruột sống ở niêm mạc ruột già. Rượu vang đỏ có thể hợp chất chống oxy hóa polyphenol có nhiều trong rượu vang đỏ đã ảnh hưởng đến sự cân bằng các loại vi khuẩn đường ruột. Được biết, một số tác dụng có lợi khác của hợp chất polyphenol được chứng minh như giảm huyết áp, giảm triglyceride, tăng cholesterol HDL (cholesterol có lợi cho sức khỏe). Một nghiên cứu mới đây cho thấy, uống rượu vang đỏ trong một chừng mực nào đó sẽ tốt cho sức khỏe. Ngoài việc kéo dài tuổi thọ, rượu vang đỏ còn góp phần làm giảm độ béo phì của cơ thể. Người ta đã thí nghiệm bằng cách cho chuột ăn toàn chất béo trong thời gian dài, sau đó cho uống vang đỏ đều đặn theo liều nhất định thì nhận thấy cơ thể chuột giảm hấp thụ chất béo, các bệnh về gan và một số bệnh khác do tiêu thụ thường xuyên chất béo giảm hẳn. Tỷ lệ chuột tử vong do ăn theo chế độ giàu chất béo đã giảm 31% đối với những con chuột tham gia thí nghiệm. Tác dụng phụ. Rượu vang đỏ cũng được biết là gây ra những cơn đau đầu dữ dội, nó gần như có thể bắt đầu với một hoặc hai ngụm đầu tiên và thậm chí có thể kéo dài trong vài giờ, gây ra cảm giác khó chịu. Rượu vang đỏ là một trong những tác nhân gây đau nửa đầu lớn nhất vì rượu được biết là làm giãn mạch trong não. Một hợp chất có trong vỏ nho có thể là một trong những nguyên nhân chính gây đau đầu. Rượu vang đỏ chứa nhiều histamine hơn rượu vang trắng vì nó được làm từ cả quả nho, bao gồm cả vỏ chứ không chỉ nước ép và cùi. Nhiều người tự nhiên bị thiếu hụt loại enzyme phân hủy histamine trong ruột non, rượu cũng ức chế enzyme, do đó sự kết hợp này làm tăng nồng độ histamine trong máu, làm giãn mạch máu và gây đau. Bên cạnh đó, Tannin là hóa chất thực vật tạo hương vị cho rượu vang đỏ, Tannin chứa nhiều chất chống oxy hóa nhưng chúng cũng giải phóng các chất hóa học gọi là chất dẫn truyền thần kinh liên quan đến cơn đau. Sulfites là một chất bảo quản trong rượu vang cũng là nguyên nhân gây đau đầu, nhưng nhiều loại rượu vang trắng và các loại thực phẩm khác cũng chứa sulfite. Một lượng lớn sulfit cũng được tìm thấy trong một số loại trái cây và trái cây khô, khoai tây chiên, dưa chua, nho khô và nước tương. Cách thức điều trị chứng đau đầu do rượu vang đỏ gây ra như uống nhiều nước để bù nước cho cơ thể, úống đồ uống chứa caffein như trà hoặc cà phê, chườm lạnh hoặc chườm đá lên chỗ đau trong ít nhất 10-15 phút, nằm xuống trong phòng tối và cố gắng ngủ. Khi uống thì nên bắt đầu bằng việc uống một lượng nhỏ và sau đó tăng dần lượng, tránh uống khi bụng đói hoặc khi cơ thể bị mất nước, uống một ly nước giữa các ly rượu.
1
null
Rượu vang trắng là loại rượu được lên men từ nho, nhưng không tiếp xúc với vỏ nho nên có màu vàng nhạt, vàng xanh hoặc vàng gold. Rượu vang trắng được làm bằng cách lên men phần thịt nho không màu, bất kể màu vỏ nho là gì. Nó đã tồn tại ít nhất 4000 năm trước. Có rất nhiều loại rượu vang trắng khác nhau, nhờ vào sự đa dạng của các giống nho, phương pháp sản xuất rượu và mức độ đường dư. Rượu vang trắng thường được làm từ nho "trắng", có màu xanh hoặc vàng như Chardonnay, Sauvignon Blanc và Riesling. Tuy nhiên, một số loại rượu vang trắng cũng được làm từ nho có vỏ màu, miễn là nước ép không bị nhuộm màu. Rượu vang trắng khô là loại phổ biến nhất, được làm bằng cách lên men toàn bộ lượng đường trong nước ép nho. Rượu vang trắng ngọt được làm bằng cách dừng quá trình lên men trước khi tất cả đường được chuyển hóa thành rượu. Có một số cách để làm điều này, chẳng hạn như để nho chín lâu hơn trên cây, phơi khô nho hoặc sử dụng một loại nấm mốc đặc biệt gọi là noble rot. Rượu vang sủi bọt, phần lớn là rượu vang trắng, được làm bằng cách giữ lại carbon dioxide từ quá trình lên men trong chai. Rượu vang trắng thường được thưởng thức như một loại đồ uống khai vị trước bữa ăn, với món tráng miệng hoặc như một loại đồ uống giải khát. Rượu vang trắng thường được coi là nhẹ hơn và sảng khoái hơn rượu vang đỏ. Chúng cũng thường được sử dụng trong nấu ăn vì độ chua, hương thơm và khả năng làm mềm thịt và khử mùi chảo. Lịch sử. Thời cổ đại. Dấu vết rượu vang đầu tiên được tìm thấy có niên đại 7500 năm trước, ở Iran ngày nay , nhưng kết quả của các cuộc khai quật khảo cổ chưa thể xác định được rượu vang bắt đầu được sản xuất từ ​​thời điểm nào. Chữ khắc cho chúng ta biết về sự hiện diện của rượu vang ở Trung Đông: nó được sản xuất ở "Vùng đất cao" (biên giới giữa Anatolia và Armenia) và sau đó được nhập khẩu vào Lưỡng Hà, đặc biệt là từ thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Các tấm bia của Hattusa mô tả rượu vang bằng thuật ngữ wiyana trong ngôn ngữ Hittite, GEŠTIN trong tiếng Sumer, và karânu trong tiếng Akkad. Nó có thể là màu đỏ (SA5 GEŠTIN), nhẹ (hoặc có thể là màu trắng: KÙ.BABBAR GEŠTIN), rượu vang ngon (DUG.GA GEŠTIN), mật ong (LÀL GEŠTIN) mới (GIBIL) hoặc chua (GEŠTIN EMSA). Ở Hy Lạp cổ đại, rượu vang đã được phát triển và sử dụng từ thời Hippocrates, một bác sĩ sinh ra khoảng năm 460 trước Công nguyên, người thường xuyên kê đơn cho bệnh nhân. "Rượu vang trắng" và "rượu vang trắng đắng" đã được sử dụng trong số các phương thuốc của ông - một dấu hiệu của sự đa dạng trong sản xuất vào thời điểm đó. Vào thời La Mã, người La Mã đã mô phỏng theo phương thức trồng nho của người Hy Lạp, bao gồm cả việc sản xuất rượu vang trắng. Các nhà quý tộc La Mã giàu có tổ chức các bữa tiệc mà chi phí cho thực phẩm là một dấu hiệu của uy tín. Rượu vang đóng vai trò chủ đạo trong số các sản phẩm đắt tiền. Những công dân giàu có nhất đã xây dựng những biệt thự nguy nga ở Vịnh Napoli, nơi cây nho đã được trồng trọt kể từ khi được người Hy Lạp đưa vào. Giống nho aminum hoặc cổ đại đã sản xuất ra một loại rượu vang trắng ngọt được sản xuất dưới dạng rượu pha trộn tương tự như rượu Madeira hiện đại. Việc chinh phục các vùng đất ngày càng tiến về phía bắc đã khuyến khích người La Mã trồng nho và sản xuất các loại rượu vang nhẹ hơn và ít ngọt hơn. Nó cũng khuyến khích họ tìm kiếm các giống nho hoang dã mới có thể thích nghi với những khu vực xa xôi này, nơi các giống nho Địa Trung Hải đã bộc lộ giới hạn của chúng. Ví dụ, cây nho được trồng trên bờ sông Rhine để cung cấp cho Quân đoàn một loại đồ uống lành mạnh, trái ngược với nước vốn hiếm khi uống được. Rượu vang được uống lạnh vào mùa hè và ấm vào mùa đông, một tập quán vẫn tiếp tục cho đến thế kỷ 21. Thời Trung cổ. Những người buôn rượu vang đã không thể sống sót sau sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã và nghề trồng nho đã suy giảm mạnh. Các bộ lạc Germanic thích uống bia hơn và không thấy giá trị của việc buôn bán rượu vang. Sự suy giảm của nghề trồng nho càng trầm trọng hơn khi người Viking cắt đứt các tuyến đường biển trên Đại Tây Dương. Ở phía nam, người Saracen đã thực hiện Ghazw hoặc các cuộc đột kích. Những chiến dịch này ở miền nam châu Âu đã khiến Languedoc, Provence, miền nam Italy và Thung lũng Douro trở nên vắng vẻ - mọi người bị bắt làm nô lệ hoặc chạy trốn khỏi mối đe dọa. Kiến thức về văn hóa trồng nho được Giáo hội Công giáo bảo tồn: rượu vang là cần thiết cho việc cử hành Thánh lễ và các tu sĩ đã trồng nho ở những vĩ độ cao và tăng diện tích đất tu viện. Khó vận chuyển và bảo quản, rượu vang từ lâu vẫn là một sản phẩm dành cho tiêu dùng địa phương. Mậu dịch được tái lập ban đầu sau khi các quý tộc và giáo sĩ làm giàu, bởi vì giống như người La Mã, nghệ thuật của bàn ăn phản ánh uy tín của chủ nhà. Việc buôn bán bằng đường sông đóng một vai trò rất lớn trong sự phát triển của nghề trồng nho. Nước Đức được hưởng lợi từ khả năng thông hành của sông Rhine và sông Danube, vì vậy họ có thể xuất khẩu sản phẩm của mình. Charlemagne cũng góp phần vào sự phát triển này bằng cách ban hành luật Capitulare de villis, trong đó có quy định về việc trồng nho ở tất cả các khu vực. Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ văn hóa rượu vang trắng ở Đức và Áo. Diện tích trồng nho ở Trung Âu đã lên tới 100.000 ha, gấp 3,5 lần diện tích vào những năm 1990. Từ thế kỷ 13, thương nhân đã phân biệt vinum hunicum (rượu của người Hun), loại rượu được dân thường uống, với vinum francium (rượu của người Frank), loại rượu dành cho tầng lớp quý tộc giàu có. Nho Riesling và Sylvaner đã được biết đến từ cuối thời Trung cổ. Một phần thương mại châu Âu được thực hiện bằng đường biển dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Người Anh, sau đó là người Hà Lan và người Scandinavi do nhu cầu rượu vang của họ, đã tạo ra một cơn sốt trồng nho giữa Bordeaux và La Rochelle. La Rochelle chỉ sản xuất một lượng nhỏ rượu vang trắng khô để xuất khẩu , trong khi Bordeaux chủ yếu xuất khẩu rượu vang từ vùng đất bên trong được vận chuyển qua sông Garonne. Khi sản xuất rượu vang được giới thiệu trên bờ sông Charente vào thế kỷ 17, rượu vang trắng Charente đã được giới thiệu như cognac. Đồng thời, rượu vang trắng khô phổ biến với người Hà Lan được sản xuất ở phía bắc, xung quanh cảng Nantes từ các vùng hiện nay của Muscadet AOC và Gros-plant AOVDQS ở Thung lũng Loire. Các vườn nho ở Thung lũng Loire và Tây Nam có mạng lưới bán hàng nhờ khả năng thông hành của sông Loire và sông Garonne. Ở lưu vực Địa Trung Hải, các cuộc Thập tự chinh đã làm giàu cho cả hai nước cộng hòa đối thủ là Venice và Genoa. Để cung cấp rượu vang cho quân đội của các lãnh chúa Frank giàu có, hai nước cộng hòa này đã cung cấp cho họ rượu vang từ Hy Lạp. Cảng Monemvasia, nơi xuất khẩu một lượng lớn rượu vang trắng, đã đặt tên cho giống nho Malvasia. Các Thập tự quân cũng khám phá ra rượu Muscat. Sau khi trở về nhà, những người cai trị và giới quý tộc giàu có tìm mua những loại rượu ngọt mà họ đã thưởng thức ở phương Đông. Những loại rượu này đến từ những giống nho chiếm ưu thế trong các vườn nho của Languedoc-Roussillon và Tây Ban Nha. Việc buôn bán những loại rượu này được tạo điều kiện thuận lợi nhờ hàm lượng cồn cao của chúng, giúp bảo quản rượu trong suốt hành trình dài đến Bắc Âu. Thời hiện đại. Năm 1453, Đế chế Ottoman chiếm Constantinople và tình hình của người Venice và Genoa xấu đi. Mậu dịch rượu vang giữa Địa Trung Hải phía đông và Bắc Âu giảm mạnh. Đồng thời, người Tây Ban Nha vừa hoàn thành Reconquista và thay thế rượu vang Địa Trung Hải bằng rượu vang của chính mình, đặc biệt là đối với người tiêu dùng Anh và Hà Lan. Cảng Sanlúcar de Barrameda bắt đầu xuất khẩu một lượng lớn rượu vang trắng, là tổ tiên của rượu sherry ngày nay. Loại rượu này được gọi là sack và đã gây được tiếng vang ở Anh. Ngay cả khi đỉnh cao của sự thù địch giữa hai nước (như trong tập của Hạm đội Tây Ban Nha năm 1588), thương mại vẫn tiếp tục - đôi khi được thực hiện bởi những tên cướp biển, cướp đi những gì chúng không thể mua được. Mỗi năm có từ 40 đến 60 nghìn thùng rượu, mỗi thùng 500 lít, rời bờ biển Tây Ban Nha đến Anh và Hà Lan (lượng rượu vang khoảng 300.000 hectolít này chiếm hai phần ba sản lượng hiện nay). Từ thế kỷ 16, những cây nho châu Âu đầu tiên đã được trồng ở Mỹ: ở Mexico, sau đó là Peru, Bolivia, Argentina, và Chile. Những giống nho này được trồng ngoài các giống nho bản địa mọc ở Mexico, nhưng sản xuất trước thời Columbus này không dùng để sản xuất rượu vang vì nho quá chua. Chúng được sử dụng để sản xuất acachul, một loại đồ uống được làm ngọt bằng trái cây và mật ong. Thời kỳ băng hà nhỏ đã giáng một đòn chí tử cho ngành trồng nho ở phía bắc. Cây nho đã biến mất khỏi miền bắc nước Đức và Baden, và độ cao tối đa để trồng nho giảm xuống còn 220 mét. Hans-Jürgen Otto lưu ý rằng: "tất cả các vườn nho đều bị ảnh hưởng và diện tích giảm xuống". Ở Anh , cây nho cũng biến mất. Các vườn nho ít sớm hơn thích chọn các giống nho trắng vì, ngay cả khi chưa chín, nho trắng vẫn cho phép sản xuất rượu vang có vị chua một chút nhưng vẫn có thể uống được, trong khi nho đỏ không cho đủ màu và tannin xanh làm cho rượu vang có vị đắng. Việc gián đoạn quá trình lên men do mùa đông lạnh giá đã dẫn đến việc phát hiện ra quá trình lên men thứ cấp của rượu sâm banh. Sự giàu có của một số bộ phận dân cư đã tạo ra một cơn sốt đối với các loại rượu vang quý hiếm. Hiện tượng này, vốn đã góp phần vào sự phát triển của rượu sherry ở Anh, đã được tái hiện ở Trung Âu. Việc phát hiện ra lợi ích của nấm mốc quý trên nho trắng diễn ra vào khoảng năm 1650 ở Hungary để phát triển rượu Tokaji. Hugh Johnson tuyên bố rằng: "Tokay của ba thế kỷ trước là loại rượu vang ngọt ngào nhất thế giới, nó được kế thừa từ một truyền thống sản xuất rượu vang lâu đời". Được phát triển với một loại nho có độ chín đặc biệt nhờ bí mật thương mại, loại rượu này cũng phát triển chất lượng của nó thông qua một quá trình lâu dài vẫn là bí mật trong các hầm rượu dưới lòng đất của nhà máy rượu. Được Nhà Habsburg đánh giá cao, Tokay đã trải qua quá trình giao dịch sinh lợi. Những nỗ lực bắt chước đều không thành công và việc sử dụng nấm mốc quý vẫn là một bí mật. Mãi đến 120 năm sau, một phương pháp thu hoạch rất muộn mới được thử nghiệm trên các bờ sông Rhine dốc. Việc sử dụng nó ở Sauternes đã được chứng thực vào năm 1836 tại Château La Tour Blanche nhưng vào thời điểm đó, việc thu hoạch rất muộn đã cho ra một loại rượu vang rất phong phú cần nhiều năm để ủ trong thùng gỗ. Các vùng khác đang khám phá những bí mật sẽ làm cho họ giàu có. Vì vậy, Dom Perignon là người tạo ra rượu sâm banh huyền thoại. Trong một vườn nho phía bắc, ông đã phát triển một loại rượu đặc biệt sẽ tạo ra niềm đam mê đặc biệt đối với rượu vang được sản xuất trong điều kiện khí hậu mà ở đó không thể mong đợi rượu vang đạt độ chín hoặc màu sắc đầy đủ. Mốt uống rượu vang trắng khô rẻ tiền bắt đầu ở Paris vào thế kỷ 18. Để tránh thuế tiêu thụ đặc biệt, người Paris đã có thói quen đi uống rượu vang tại cơ sở của nhà sản xuất bên ngoài thành phố. Các quán rượu mở cửa bên sông, trở thành Guinguettes (tương tự như quán rượu): vì vậy loại rượu được uống ở đó cũng được gọi là "guinguet". Đây là một loại rượu vang từ những ngọn đồi của Seine hoặc Marne, có vị chua, nhưng điều kiện vận chuyển thời bấy giờ không cho phép sử dụng loại rượu này trước thời hạn. Thời hiện đại. Rượu sâm banh được tạo ra vào thế kỷ 18, nhưng đến thế kỷ tiếp theo, nó mới bắt đầu mở rộng ra toàn cầu. Các vị vua đầu đội vương miện của châu Âu nhanh chóng biến loại rượu này trở nên thời thượng trong cung điện của họ, mặc dù việc sản xuất của nó, nhất thiết phải trong chai, khiến nó trở thành một sản phẩm rất đắt tiền. Nhà sử học Hugh Johnson gán cho rượu sâm banh một vai trò ngoại giao quan trọng: Talleyrand đã mời loại rượu này lên bàn đàm phán của Đại hội nghị Vienna, sử dụng nó để làm thư giãn các đối tác của mình trong các cuộc thảo luận. Việc chiếm đóng Champagne của quân đội Nga vào năm 1815 đã phổ biến loại rượu sủi bọt này với tầng lớp quý tộc Nga. Veuve Clicquot (Góa phụ Clicquot) đã đặt rượu của mình cho những người chiếm đóng và nói rằng "họ uống hôm nay, ngày mai họ sẽ trả tiền..." Sự phát triển của ngành công nghiệp thủy tinh (đặc biệt là từ việc sử dụng than đá) đã giúp phổ biến việc sử dụng chai thủy tinh. Sản xuất rượu sủi bọt tăng đáng kể và lan sang lục địa Mỹ. Kỹ thuật sản xuất được công nghiệp hóa và các khu vực khác cũng được truyền cảm hứng, nhưng danh tiếng của rượu sâm banh đã bị ảnh hưởng. Việc bay thương mại của rượu sâm banh là một sản phẩm của Cách mạng Công nghiệp, cho phép loại rượu này nằm trong khả năng tài chính của tầng lớp trung lưu mới nổi. Giai đoạn thế kỷ 19 trước khi phylloxera xuất hiện là thời kỳ hoàng kim của rượu vang. Cách mạng Công nghiệp đã làm giàu cho một tầng lớp tư sản là khách hàng của những loại rượu vang ngon nhất và sự di cư từ nông thôn ra các nhà máy đã tạo ra một thị trường lớn cho các loại rượu vang được sản xuất hàng loạt. Một ví dụ nổi bật cho rượu vang trắng là ngành trồng nho ở Đức. Cảm giác tự do được truyền vào các nhà sản xuất rượu vang Đức dưới sự chiếm đóng của Pháp trong Đệ nhất Đế chế đã ngăn cản giới quý tộc và giáo sĩ thu hồi tất cả các vườn nho mà họ đã bị tước đoạt. Phương pháp thu hoạch muộn rất phổ biến và các loại rượu ít ngọt hơn hoặc ngọt hơn đạt được sự cân bằng với độ chua luôn sống động của chúng. Năm 1872, Viện Nghiên cứu Giống nho Geisenheim được thành lập và đây là nguồn gốc của một lượng lớn lai tạo tạo ra các giống nho mới - giống nổi tiếng nhất trong số này là Müller-Thurgau. Trong cùng thời gian, Thụy Sĩ đã áp dụng, dọc theo bờ hồ Geneva, các vườn nho chủ yếu sản xuất rượu vang trắng. Vào thế kỷ 20, việc trồng nho ở những quốc gia mà nó chưa được biết đến đã bùng nổ. Tuy nhiên, nó là không ổn định ở những nơi có nhiệt độ cao hơn trong quá trình lên men. Việc sử dụng các thùng chứa lớn hơn tạo ra các vấn đề trong quá trình lên men: nấm men tạo ra nhiệt không thể thoát ra ngoài và vượt quá 35 °C, các vi sinh vật bắt đầu bị ảnh hưởng và quá trình lên men chậm lại sau đó dừng lại. Sau khi làm mát rượu, cần bổ sung thêm men để tiếp tục quá trình lên men (chưa kể đến những ảnh hưởng xấu đến hương thơm của rượu và nguy cơ bị chua). Ở California, việc tìm kiếm cách kiểm soát nhiệt độ lên men đã đạt được thành công. Khi được áp dụng cho rượu vang trắng, chúng đã cách mạng hóa loại rượu này. Rượu vang châu Âu, được đánh dấu bởi các quy trình ép nho hoàn toàn trái ngược với những loại rượu vang rất trái cây được đánh dấu bởi hương vị tươi mát sảng khoái. Trong những năm 1960–1990, những phương pháp sản xuất rượu này đã chuyển đến châu Âu và việc sử dụng thiết bị làm lạnh hiện được sử dụng rộng rãi ở hầu hết các vùng sản xuất rượu vang trắng. Phân bố địa lý. Sản xuất. Các vùng khí hậu. Nhiều quốc gia sản xuất rượu vang cũng sản xuất rượu vang trắng, tuy nhiên nho trắng cần ít nhiệt hơn nho đỏ để chín: việc thiếu trưởng thành của tannin không phải là vấn đề vì chúng không được chiết xuất trong quá trình ép. Ngoài ra, sự cân bằng hương vị dựa trên độ chua sống động đáng kể. Nho để sản xuất rượu vang trắng khô được thu hoạch ngay trước khi chín. Các điều kiện sản xuất này có thể dẫn đến việc vườn nho sản xuất rượu vang trắng khô nằm ở vị trí phía bắc hoặc trên núi. Ở châu Âu, các vườn nho Đức chủ yếu là nho trắng (63,1% diện tích sản xuất trong năm 2006), cũng như các vườn nho Thụy Sĩ (hơn 50% diện tích sản xuất là nho trắng) và các vườn nho Luxembourg (93% diện tích sản xuất nho trắng hoặc xám). Ở Pháp, nửa phía bắc sản xuất hầu hết các loại rượu vang trắng (Alsace, Jura, Champagne và Thung lũng Loire). Tại Tây Ban Nha, nghịch lý thay, Castile-La Mancha chiếm 50% vườn nho của Tây Ban Nha, sản xuất chủ yếu rượu vang trắng trên diện tích sản xuất rất lớn ở vùng có nhiệt độ cao. Vùng Catalonia sản xuất rất nhiều nho trắng được biến thành rượu vang sủi bọt gọi là Cava. Diện tích sản xuất Cava là 45.000 ha trong tổng diện tích sản xuất là 65.600 ha. Châu Mỹ đã phát triển cả rượu vang trắng và đỏ, một số trong số đó hiện được công nhận trên toàn thế giới. Rượu vang trắng phải chinh phục những vùng lãnh thổ khắc nghiệt mà rượu vang đỏ thống trị, chẳng hạn như dãy núi Rocky hoặc Canada. Ở Canada, kỹ thuật sản xuất rượu vang đá có thể tạo ra những loại rượu vang đặc biệt trong điều kiện khí hậu dường như không thuận lợi. Canada là nhà sản xuất rượu vang đá lớn nhất thế giới. Các khu vực phía nam ấm hơn cũng sản xuất rượu vang trắng, nhưng với tỷ lệ thấp hơn. Ngoài ra, nó thường là những loại rượu vang ngọt hoặc cường hóa, rượu vang ngọt tự nhiên hoặc rượu vang "vinés", như trong trường hợp của các vườn nho xung quanh Địa Trung Hải (muscat, madeira, marsala, v.v.). Các vùng địa chất. Theo Claude và Lydia Bourguignon, rượu vang đỏ rất phù hợp với đất dựa trên đá vôi trong khi rượu vang trắng tốt nhất được sản xuất trên đất đá biến chất (Alsace, Moselle, Anjou) hoặc đá núi lửa (Tokaj ở Hungary và Slovakia). Ngoài ra, rượu vang trắng cũng được sản xuất trên đất có lớp đất nền đá vôi như đá phấn của vùng sản xuất rượu Champagne hoặc đá vôi dưới lớp đá mác silic của Chassagne-Montrachet tạo thành phông nền cho một số loại rượu vang uy tín nhất thế giới. Sản xuất rượu vang. Việc sản xuất rượu vang trắng về cơ bản tương tự như sản xuất rượu vang đỏ, mặc dù có một số chi tiết khác nhau khi sản xuất hai loại rượu này. Rượu vang trắng được làm từ nho trắng hoặc đen (nhưng luôn có màu trắng, những quả nho có màu được gọi là Teinturier có nghĩa là nước ép có màu). Sau khi thu hoạch, nho được ép và chỉ lấy phần nước ép được gọi là dịch nho. Dịch nho được đưa vào các bể để lên men, nơi đường được chuyển hóa thành cồn bởi men có sẵn trên nho. Mùa thu hoạch nho. Độ chín của nho phụ thuộc vào yêu cầu của sản phẩm cuối cùng. Đối với rượu vang trắng ngọt, dù được tăng cường hay tự nhiên, thì đường là tiêu chí chính. Đối với rượu vang trắng khô, độ chín công nghệ được tính toán và nho được thu hoạch ngay trước (thường là 8 ngày) khi đường chín. Tại thời điểm này, mối quan hệ giữa đường và axit là tối ưu. Ngoài ra, độ axit thấp sẽ khiến rượu tương lai mất cân bằng với lượng cồn dư thừa và thiếu độ sống động. Thêm vào đó, hương vị sẽ ít tươi và ít sống động hơn. Phương pháp thu hoạch thủ công truyền thống của toàn bộ chùm nho ngày càng bị thách thức bởi máy thu hoạch cho rượu vang trắng khô, một lựa chọn kinh tế nhưng không phải lúc nào cũng là lựa chọn chất lượng. Độ giòn của nho đòi hỏi phải chuyển nhanh đến nhà máy rượu vang, hoặc bảo vệ khỏi quá trình oxy hóa. Khi thời gian vận chuyển giữa vườn nho và nhà máy rượu vang dài, vụ thu hoạch có thể được làm lạnh và tránh oxy bằng cách sử dụng nitơ hoặc đá khô. Tuy nhiên, đối với một số loại rượu vang ngọt, việc thu hoạch thành công đòi hỏi phải có công sức thủ công và đào tạo cho người thu hoạch để chỉ hái những chùm nho có quả đạt độ chín tối ưu hoặc bị ảnh hưởng bởi nấm mốc cao quý (đối với Sélection de Grains Nobles). Đối với rượu vang sủi bọt, việc thu hoạch bằng tay được khuyến khích và hoàn toàn cần thiết đối với rượu vang trắng làm từ nho có vỏ màu. Công đoạn xử lý trước khi lên men. Bước đầu tiên trong việc xử lý nho tại nhà máy rượu vang là tách các thành phần của dịch nho cần có khỏi các phần không mong muốn. Quy trình được thực hiện ở giai đoạn này sẽ phần lớn quyết định chất lượng rượu vang trong tương lai. Đối với điều này, các chùm nho thường được lắc rồi giẫm. Thao tác giẫm vừa phải cho phép các quả nho vỡ ra, giải phóng nước ép và cùi (không thể sử dụng cho rượu vang trắng làm từ nho đen vì việc các quả nho bị vỡ sớm sẽ tạo ra dịch nho có màu). Thao tác lắc hoặc tách cành có ưu điểm là tách cành ra khỏi chùm nho và tránh cho rượu vang có vị thảo mộc khi ép. Vỏ nho không được ngâm và giữ được màu vàng trong suốt. Nhà sản xuất rượu có thể ngâm vỏ nho trắng và thực hiện quá trình maceration nếu chất lượng nho tốt. Quá trình ngâm trước khi lên men thường được thực hiện ở nhiệt độ được kiểm soát để trì hoãn quá trình lên men. Kỹ thuật này cải thiện việc chiết xuất hương thơm đặc trưng của giống nho và các tiền chất của chúng, chủ yếu nằm ở vỏ nho. Độ axit giảm cũng như tỷ lệ chất keo (các phân tử pectin lớn) và tiềm năng lão hóa. Để thực hiện, quá trình này cần phải có một máy tách cành hoàn hảo, ép vừa phải và sulfit để bảo vệ dịch nho khỏi quá trình oxy hóa. Thời gian (thường từ 5 đến 18 giờ ở 18 °C) phụ thuộc vào giống nho, nhiệt độ ngâm, độ chín của nho và chất lượng đất. Sau khi nho được giẫm và tách cành, nó sẽ được ép. Loại máy ép rượu cũng ảnh hưởng đến chất lượng tiềm năng của rượu. Kể từ những năm 1980, máy ép khí nén đã cải thiện công việc bằng cách hoạt động trong điều kiện kín khí và cho phép kiểm soát áp suất tốt để chiết xuất nước ép mà không làm hỏng nho. Nước ép hoặc moût de goutte (Must of Drops) là nước ép chảy tự nhiên từ các quả nho bị nghiền dưới trọng lượng của chính chúng trước khi ép (trên đường đến máy ép). Việc giẫm đạp làm tăng tỷ lệ của nó và làm cho vật liệu có lợi nhuận bằng cách xử lý một lượng nho cao hơn trong cùng một thời gian. Nước ép de presse (Must of the Press) là nước ép chảy ra từ máy ép do áp lực lên nho. Nó tập trung những phẩm chất hoặc khuyết điểm của nho: nó giàu hương thơm, colloids hoặc các hợp chất phenolic. Tuy nhiên, nó cũng có thể được đánh dấu bởi các khuyết điểm về mùi, chẳng hạn như mùi nấm trên nho bị hỏng hoặc mùi rau của vụ thu hoạch chưa đủ độ chín. Việc pha trộn hay không moût de goutte và moût de presse musts và việc phát hành phụ thuộc vào sức khỏe của nho, phương pháp ép và phong cách rượu dự định. Việc thao tác nho trước khi ép làm tăng lượng cặn và làm phức tạp quá trình ép. Để phát triển một loại rượu vang chất lượng, việc sử dụng chúng bị loại trừ hoặc rất hạn chế. Quá trình lắng. Mục đích của việc lắng cặn là làm trong dịch nho bằng cách loại bỏ cặn khỏi nó. Lees là các colloids lơ lửng, cặn bã từ vỏ hoặc cùi, và cặn bã ngoại sinh (đất). Lắng tĩnh bao gồm việc để dịch nho cho cặn lắng xuống: sau khi ép, dịch nho được để yên trong bể chứa cách xa không khí. Các hạt lơ lửng lắng xuống đáy bể. Điều này được tạo điều kiện thuận lợi bằng việc bổ sung các enzym pectolytic, là những carbon chuỗi dài được tạo thành từ các hợp chất pectic. Các pectic này làm tăng độ nhớt của nước ép, cắt các hạt lơ lửng thành các chuỗi ngắn hơn và đẩy nhanh quá trình kết tủa. Cần làm lạnh dịch nho: nếu quá trình lên men bắt đầu, việc giải phóng bọt khí carbon dioxide sẽ làm lan các hạt lơ lửng khắp dịch nho ngăn cản chúng lắng xuống. Sau khi dịch nho được làm trong, nó được rót ra để lên men.. Lắng động được thực hiện với một máy làm tăng tốc độ tách dịch nho khỏi cặn. Máy ly tâm loại bỏ các hạt lớn nhất nhưng không đạt được độ trong cao. Lắng bằng cách nổi là một kỹ thuật trong đó việc đưa khí vào đáy bể tạo ra các bong bóng khiến các hạt nổi lên bề mặt, nơi chúng được loại bỏ bằng một cái cạo. Lọc bằng bộ lọc chân không quay tương đối chậm nhưng hiệu quả. Nó thường được sử dụng để thu hồi dịch nho trong cặn thoát ra khỏi máy ly tâm. Ngoài ra, việc xử lý bằng enzyme có thể cải thiện quá trình lắng của cặn. Bentonite đóng vai trò như một chất dằn cơ học để lắng các colloid - nó làm tăng tốc độ lắng đọng. Gelatin cũng được sử dụng để kết tụ các tannin lơ lửng được chiết xuất bằng máy ép. Thường liên quan đến vị đắng, việc loại bỏ chúng nói chung có lợi cho rượu vang trắng. Polyvinylpolypyrrolidone hoặc "PVPP" cho phép cố định các hợp chất polyphenol và loại bỏ chúng. Những phân tử này chịu trách nhiệm cho sự đổi màu của rượu và việc loại bỏ chúng mang lại yếu tố ổn định cho thức uống trong tương lai. Trong kỹ thuật "ổn định cặn" (ổn định lạnh bằng chất lỏng), nhà sản xuất rượu thường xuyên thêm cặn trong dung dịch trong vài ngày để chúng không lắng xuống ngay lập tức. Sau đó, họ tiến hành lắng đọng thông thường như đã nêu ở trên. Kỹ thuật này cho phép làm giàu dịch nho với các tiền chất của "thiol" (chanh dây, cam quýt ...) vốn rất hòa tan tự nhiên trong dịch nho và đặc biệt thích hợp với một số giống nho như Sauvignon và Colombard. Trong "maceration of lees", cặn từ quá trình lắng tĩnh được tập hợp trong một bể chứa lạnh và khuấy trong vài ngày. Sau khi lọc và lên men, chúng cho ra một loại rượu vang trắng cũng giàu thiol. Quá trình sản xuất rượu vang. Dịch nho sau đó được đưa vào bể để lên men. Các bể lên men này có thể có nhiều loại khác nhau: gỗ sồi, xi măng phủ epoxy, thép không gỉ hoặc thép tráng men, hoặc nhựa epoxy. Đối với các bể có khối lượng lớn, việc kiểm soát nhiệt độ, thường là khoảng 18 °C, là cần thiết. Hầu hết các thành phần thơm (acetate của rượu và este etyl của axit béo) được tổng hợp bởi men trong quá trình lên men của nước ép nhẹ dưới 18 °C. Tuy nhiên, độ trong và nhiệt độ thấp là những yếu tố làm chậm quá trình lên men. Việc sử dụng thêm men được lựa chọn cho những điều kiện làm việc khó khăn này trở nên rất quan trọng. Ngược lại, một số nhà sản xuất trồng nho của họ theo phương pháp hữu cơ hoặc sinh học: cặn có chất lượng tốt mà không có hóa chất tổng hợp gây hại cho men nên chúng được giữ lại trong rượu. Độ đục của dịch nho đảm bảo cung cấp đủ men và quá trình lên men trong các bể nhỏ hoặc trong thùng không yêu cầu làm chủ độ lạnh. Quá trình lên men bắt đầu tự nhiên dưới tác động của các loại men tự nhiên từ nho. Nhà sản xuất rượu có thể chọn sử dụng men khô hoạt động có sẵn trên thị trường. Nó có thể giúp thể hiện các đặc điểm của một giống nho hoặc phương pháp sản xuất. Đối với rượu vang trắng khô, quá trình lên men tiếp tục cho đến khi hết đường. Sau đó, rượu thường được gạn để loại bỏ cặn. Khi quá trình lên men được thực hiện trong thùng, nhiệt độ thường vượt quá 20 °C hoặc thậm chí 25 °C. Sau khi kết thúc quá trình lên men, rượu vang cũng có thể trải qua quá trình lên men malolactic hoặc FML. Quá trình lên men thứ hai này được thực hiện bởi vi khuẩn làm giảm độ chua của rượu vang: nó chuyển đổi axit malic, có hai nhóm carboxyl, thành axit lactic. Hoạt động này làm giảm độ chua gay gắt của rượu vang, không phải lúc nào cũng mong muốn hoặc thực hiện. Ở các vùng phía nam, độ chua được bảo quản cẩn thận để mang lại cho rượu vang sự sống động cho hương thơm sảng khoái của rượu vang. Trong quá trình lên men của nho, hương thơm giống nho được giảm bớt để ủng hộ việc tăng độ tròn trịa và khối lượng trong miệng của rượu vang trong quá trình lão hóa trong thùng gỗ sồi. Nó mang lại sự ổn định sinh học tốt hơn cho rượu vang sâm banh. Đối với rượu vang ngọt, quá trình lên men được dừng trước khi kết thúc để giữ lại một phần đường: đây là Quá trình tăng cường (Mutage). Quá trình lên men có thể được dừng lại bằng cách thêm Sulphur Dioxide (SO2) (khử trùng rượu vang), bằng cách làm lạnh đột ngột (gây mê men), bằng cách lọc vô trùng (bắt giữ men trong bộ lọc lưới rất mịn), hoặc kết hợp một số phương pháp này. Một quy tắc chung để xác định thời điểm tăng cường, cho phép cân bằng giữa cồn thu được và đường dư, là để lại càng nhiều độ tiềm năng càng tốt như độ thu được trên 10% thể tích. Đối với các loại rượu vang tráng miệng ngọt hơn, quá trình lên men dừng lại tự nhiên do lượng đường và cồn dư thừa: Cồn là chất thải từ men và nó có độc ở liều cao. Trong trường hợp rượu vang ngọt, việc bổ sung rượu vang sẽ dừng quá trình lên men. FML không được thực hiện cho rượu vang ngọt vì vi khuẩn lactic phân hủy đường ưu tiên, điều này sẽ tạo ra vị chua lactic (rượu vang ngọt và chua). Ngoài ra, sự cân bằng giữa độ chua và đường trong rượu vang giúp duy trì độ sống động. Thưởng thức rượu vang. Màu sắc. Màu sắc của rượu vang trắng đa dạng như các loại rượu vang. Thuật ngữ được trích dẫn phổ biến nhất là màu vàng. Tuy nhiên, sự phong phú của từ vựng để lại không gian tự do cho việc phân tích trực quan giữa màu sắc thực tế và sắc thái (phạm vi màu sắc thường khác nhau ở phần tiếp giáp giữa rượu và ly). Đến cuối thế kỷ 20, các thành phần của rượu tạo nên màu sắc vẫn chưa được xác định rõ ràng. Trong nhiều thế kỷ, các flavone trong nho được coi là nguyên nhân gây ra màu vàng nhưng khả năng hòa tan rất thấp của chúng trong rượu vang, do ngâm ủ ngắn, đã dẫn đến việc tìm kiếm các phân tử khác. Một luận án của Biau vào năm 1995 đã đề cập đến ảnh hưởng của polysacarit, protein và một số axit phenolic. Léglise chỉ rõ rằng: "thuật ngữ vàng được sử dụng nếu vẻ ngoài rất sáng và đầy phản xạ, trong định nghĩa về các sắc thái khác nhau đặc trưng cho kim loại (...) Nếu, với độ trong suốt thích hợp, rượu vang không tỏa sáng và không phản xạ, chúng tôi sẽ chỉ sử dụng thuật ngữ vàng". Trên thang màu, rượu vang trắng có thể có màu trắng gần như không màu. Khi còn non, nó thường có màu xanh lục nhạt hoặc vàng nhạt. Màu vàng của nó sẫm màu hơn theo thời gian và trưởng thành, trở thành màu vàng, sau đó là màu đồng và cuối cùng là màu hổ phách. Một trong những loại rượu vang sẫm màu nhất thế giới được làm từ nho trắng: Pedro Ximenez. Tỷ lệ đường cũng ảnh hưởng đến màu sắc của rượu vang, làm cho màu sắc bền hơn, tùy thuộc vào đặc tính của giống nho: Bordeaux Sauvignon blanc hoặc Muscadet Melon có màu xanh lục trong khi Chardonnay hoặc Traminer được trồng và sản xuất rượu vang trong điều kiện tương đương sẽ có màu vàng. Hương thơm. Hương thơm từ rượu vang trắng bao gồm hầu hết bảng mùi hương của rượu vang. Hương trái cây bao gồm trái cây có múi như chanh và bưởi, trái cây màu trắng như táo, mộc qua, đào và mơ, và các loại hạt như óc chó và hạt phỉ. Trái cây nhiệt đới cũng có mặt: dứa, xoài và vải thiều. Rõ ràng là bảng hương thơm bao gồm các hương vị nấu chín này: táo, mứt, trái cây kẹo, v.v. Rượu vang trắng cũng có thể truyền tải hương thơm hoa của cây keo, kim ngân, cỏ roi ngựa, hoa violet, v.v. (Hương của mật ong cũng có thể được đồng hóa). Quá trình lão hóa cũng mang lại những hương vị khác cho rượu vang. Quá trình lão hóa trong thùng gỗ sồi tạo ra các hương thơm của vani, bơ, bánh mì brioche, bánh nướng, caramel, v.v. Các loại rượu vang trưởng thành lâu dài như rượu vang vàng hoặc rượu sherry có hương thơm đặc trưng của quả óc chó tươi, hạnh nhân và hạt phỉ. Cuối cùng, đất có thể mang lại hương vị đặc trưng của một vùng. Vì vậy, hương thơm khoáng chất của đá lửa (mùi của đá lửa hoặc đá nhẹ) được thể hiện rõ trong Chardonnay B và sauvignon B, và mùi dầu là đặc trưng của giống nho Riesling Alsatian cũ B. Các hương thơm tương tự mà người ta có thể nghĩ là chỉ có trong rượu vang đỏ cũng có trong rượu vang trắng. Điều này đặc biệt đúng trong một số loại rượu vang sâm panh trắng được làm một phần từ nho đen và gợi nhớ đến trái cây đỏ (dâu tây, mâm xôi, quả việt quất, gooseberry, ...). Hương vị. Khi được đưa vào miệng, rượu vang trắng có sự cân bằng khác với rượu vang đỏ, trong đó cấu trúc tannic đã được loại bỏ. Sự cân bằng này không còn chỉ dựa trên độ cồn và axit: đây là yếu tố giải thích cho khó khăn trong việc làm nên một loại rượu vang trắng. Đối với rượu vang trắng ngọt và cường hóa, sự hiện diện của đường sẽ tạo thêm một thông số để cân bằng độ cồn và axit. Sự trưởng thành trong thùng gỗ sồi mang đến cho rượu vang một hương vị gỗ và tannin từ gỗ sồi mang lại cấu trúc cho rượu. Những loại rượu mạnh nhất, như một số loại grand crus của Sauternes (ví dụ như Château d'Yquem) thậm chí còn có thể chịu được quá trình lão hóa trong thùng gỗ sồi mới. Ly rượu vang trắng. Ngay từ khi các vật dụng bằng thủy tinh xuất hiện, những chiếc ly chuyên dụng cho từng loại rượu vang đã được tạo ra. Có rất nhiều loại ly dành riêng cho rượu vang trắng ở nhiều vùng sản xuất rượu vang. Chiếc ly phải hoàn toàn trong suốt và không màu để có thể đánh giá đúng màu sắc của rượu. Tuy nhiên, các nhà thiết kế và sản xuất đồ dùng ăn uống đã tạo ra những chiếc ly rượu vang trắng có chân màu xanh lá cây hoặc xanh dương. Những màu sắc này làm cho rượu vang trở nên hấp dẫn hơn - chúng tạo ra màu sắc nhân tạo trong bóng râm (một lớp rào chắn phản chiếu làm nổi bật sự tách biệt giữa ly và rượu) - làm mới lại ấn tượng nhận thức. Rượu vang sủi bọt được phục vụ trong những loại ly đặc biệt như ly sáo flute và ly coupe. Ly sáo flute là loại ly được các nhà nếm thử chuyên nghiệp ưa thích: hình dạng của nó tập trung hương thơm vào mũi của người nếm thử và chiều cao của nó cho phép đánh giá các bọt mịn nổi lên bề mặt. Ly coupe không được khuyến khích vì hình dạng quá loe của nó: nó không bảo quản được lớp bọt, và khí và hương thơm thoát ra quá nhanh. Theo truyền thuyết, loại ly này được phát triển dựa trên hình dáng bộ ngực của Marquise de Pompadour. Ly coupe có từ thời mà rượu vang chủ yếu ngọt hơn và ít thơm hơn. Kể từ những năm 1930 và với thói quen sử dụng rượu vang sủi bọt khô hơn, ly sáo flute đã thay thế vị trí của ly coupe. Ly coupe cũng được sử dụng trong các loại cocktail có ô liu và trong các kim tự tháp ly ngoạn mục trên đỉnh các lễ hội. Bên cạnh dòng ly này, công việc của một nhóm các nhà nếm thử, bao gồm Jules Chauvet của INAO tại Pháp, đã dẫn đến việc tạo ra ly INAO vào năm 1970. Loại ly này có thành ly mỏng và đường cong được tính toán để có thể nếm thử tất cả các loại rượu vang. Loại ly này được sử dụng, trong số những loại khác, trong các buổi nếm thử phê duyệt - cánh cổng để các loại rượu vang có quyền mang tên gọi của một appellation d'origine contrôlée (AOC). Loại ly đơn giản nhưng thanh lịch này cũng có thể được sử dụng để phục vụ rượu vang trên bàn. Các khía cạnh ẩm thực. Nhiệt độ phục vụ là một tiêu chí để đặt rượu trong điều kiện tốt nhất để uống. Rượu phải được ướp lạnh nhưng không được phục vụ với đá. Trong khoảng từ 8 đến 9 °C, độ lạnh sẽ làm nổi bật sự sống động của bọt khí và giảm độ ngọt của rượu ngọt hoặc rượu cường hóa. Đối với rượu vang khô có hương thơm, phục vụ ở nhiệt độ từ 10 đến 12 °C sẽ kích thích sự sống động và mang lại sự tươi mát cho hương vị. Cuối cùng, những loại rượu vang trắng tuyệt vời nhất là ở nhiệt độ từ 12 đến 14 °C, điều này cho phép hương vị và cấu trúc được bộc lộ. Kết hợp rượu vang trắng với thức ăn. Độ chua của rượu vang trắng khô sẽ giảm bớt khi kết hợp với các món ăn hơi mặn hoặc ngọt, trong khi rượu vang sẽ làm nổi bật vị mặn của thức ăn và làm dịu các món ăn béo ngậy. Rượu vang ngọt kết hợp tốt với các món ăn ngọt và mặn để giảm bớt vị ngọt gắt và kích thích vị trái cây. Đối với món khai vị, rượu vang khô có hương vị hoặc rượu vang sủi bọt có thể kết hợp với tất cả các bữa ăn. Các chuyên gia về nếm rượu cho rằng lượng đường hoặc cồn trong một số loại rượu có tác dụng bão hòa vị giác, ngược lại, sự sống động của trái cây đánh thức vị giác để chuẩn bị cho bữa ăn sắp tới. Trong bữa ăn, các loại rượu vang rất khô với ít khoáng chất được khuyến nghị dùng với hàu và hải sản: độ chua của chúng làm nổi bật độ mặn của các loại sò. Các loại rượu vang thơm nhất phù hợp với sò, cá hoặc thịt trắng luộc. Đối với món hầm, độ chua của rượu vang trắng cân bằng với vị béo của chất béo. Nếu nước sốt được cân bằng tốt với một thành phần mạnh (nước chanh hoặc mù tạt), có thể sử dụng một loại rượu xa hoa hơn: rượu vang ngọt hoặc khô ủ trong thùng. Rượu vang ngọt, có thể chỉ ngọt hoặc được tăng cường, là một lựa chọn tốt cho các món ăn kỳ lạ với gia vị ngọt (các món ăn có quế, vani, v.v.). Rượu vang trắng được tăng cường được khuyến nghị với gan ngỗng. Rượu vang sủi bọt có thể được uống bất cứ lúc nào trong bữa ăn, sự đa dạng của chúng cho phép điều này. Việc lựa chọn rượu vang sủi bọt cũng cho phép giữ nguyên cùng một loại rượu từ đầu đến cuối bữa ăn. Người sành ăn thường thích rượu vang trắng hơn rượu vang đỏ để kết hợp với pho mát vì độ chua của nó rất hợp với chất béo trong các sản phẩm từ sữa. Rượu vang khô với hương thơm khoáng chất như chardonnay hoặc sauvignon blanc mang lại vị sữa dê. Rượu vang thơm, chẳng hạn như Gewurztraminer và một số loại rượu vang sủi bọt hỗ trợ hương vị mạnh mẽ của pho mát vỏ rửa (Maroilles, Epoisses, Munster, v.v.). Rượu vang trắng trung tính (Castilla-La Mancha, Italian Trebbiano) rất phù hợp với pho mát cừu và cũng có Manchego và pecorino romano cho một chút cay. Pho mát ép chín yêu cầu một loại rượu vang đậm đà, hương rừng. Có sự kết hợp hoàn hảo giữa pho mát Comté và rượu vang vàng của Jura. Rượu vang cường hóa được khuyến nghị với pho mát mốc xanh (Blue hoặc Roquefort). Trong trường hợp này, khuôn pho mát (Penicillium roqueforti) và rượu vang (mốc cao quý) tạo thành một tổng thể hài hòa. Rượu vang trắng cũng là một loại rượu vang tráng miệng. Mọi lựa chọn đều được phép ngay cả khi các loại rượu ngọt và cường hóa phù hợp hơn cho việc này. Rượu vang thơm (Gewurztraminer, Muscat), rượu vang sủi bọt và rượu vang ngọt rất hợp với các món tráng miệng trái cây (salát, bánh tart). Rượu vang cường hóa và rượu vang sủi bọt hỗ trợ các món tráng miệng giàu có làm từ kem hoặc bơ. Crèmes brûlées hoặc caramel kết hợp đường và kem có thể được ăn với một loại rượu ngọt và sống động như Jurançon hoặc rượu vang thu hoạch muộn. Chocolate yêu cầu một loại rượu rất mạnh nên việc lựa chọn rượu vang trắng khá hạn chế: một loại rượu ngọt màu hổ phách tự nhiên là sự lựa chọn tốt nhất. Hơn các loại rượu vang khác, rượu vang trắng là loại rượu có thể được sử dụng giữa các bữa ăn. Thói quen của người Anglo-Saxon và Đức yêu cầu một loại rượu ngọt hoặc một loại rượu khô và có hương trái cây. Rượu vang trắng như một thành phần nấu ăn. Rượu vang trắng thường được sử dụng như một thành phần nấu ăn. Độ chua của nó cân bằng tốt với chất béo, giúp giảm bớt độ nặng nề quá mức. Độ chua này cũng làm tinh tế thịt hoặc cá và giúp phá vỡ các sợi thịt để làm cho thịt mềm hơn. Vai trò của rượu vang trắng tương tự như vai trò của nước cốt chanh được sử dụng trong cùng điều kiện: trước đây, nước ép verjuice cũng thực hiện chức năng này. Giấm kết hợp độ chua với cảm giác nóng rát mang lại cho các công thức món ăn sử dụng nó một đặc điểm ngọt đắng. Là một phương tiện để cân bằng chất béo, rượu vang trắng được sử dụng trong việc chế biến các loại nước sốt như nước sốt ravigote, nước sốt béarnaise, nước sốt marinara, v.v. Việc nhỏ giọt nước trái cây nấu chín cũng là một vai trò mà rượu vang trắng có thể được sử dụng; được làm bằng rượu vang trắng ngọt và tạo ra nước sốt chua-ngọt hoặc ngọt-mặn. Trong món fondue phô mai, sự sống động của rượu vang trắng khô được cân bằng với chất béo của phô mai. Độ tươi mát của rượu vang như một thức uống trên bàn ăn tương phản với độ nóng của fondue. Trong các món ướp, rượu vang trắng được sử dụng để làm mềm các sợi protein. Đôi khi nó thậm chí có thể xảy ra trong quá trình nấu nướng như trong carpaccio cá ngừ kiểu Ý. Rượu vang trắng cũng được sử dụng như một chất làm ướt để nấu chậm. Trong loại món ăn này, nó kết hợp độ mềm của thịt và cân bằng chất béo từ nước sốt. Nó đóng vai trò này trong trường hợp của bắp cải, baeckeoffe hoặc risotto, và trong nước sốt trong việc chế biến thịt trắng như trong osso buco hoặc blanquette de veau (thịt bê hầm), Gà với nấm morel và các biến thể của nó, Chicken à la comtoise và Yellow coq au vin, thỏ hoặc với charcuterie như diot và dạ dày. Nó cũng có thể được sử dụng để chế biến các món cá và hải sản như pôchouse với rượu Burgundy, món hầm cá lưỡi trâu, món hầm cá mú, trai trong rượu vang trắng hoặc Bò hầm kiểu Pháp. Một quy tắc chung của những người sành ăn là phục vụ tại bàn cùng loại rượu vang đã được sử dụng trong nấu ăn. Thành phần dinh dưỡng. Nguồn: US government Ảnh hưởng sức khỏe. Do quá trình ngâm ủ ngắn hơn, rượu vang trắng có rất ít tannin và do đó có ít chất chống oxy hóa khiến rượu vang đỏ rất thú vị khi nói về mặt y tế. Tuy nhiên, một nhóm các nhà nghiên cứu từ Montpellier đã phát triển một loại rượu vang trắng được bổ sung polyphenol. Phụ gia Sulphur Dioxide thường được sử dụng trong rượu không có hại với lượng sử dụng nhưng tác dụng của nó được lo ngại trong số những người bị hen suyễn: nó có thể gây ra cơn (Khó thở). Các triệu chứng như khó thở, đau nửa đầu hoặc cảm giác nóng dạ dày có thể là dấu hiệu của chứng không dung nạp. Phản ứng do thiếu sulphite oxidase (enzim phân hủy Sulphur Dioxide) rất hiếm. Các nghiên cứu đang được tiến hành để điều tra xem một số triệu chứng được cho là do Sulphur Dioxide có thể không đến từ một phân tử khác có trong rượu. Rượu vang trắng là một loại đồ uống có tính axit với độ pH từ 2,8 đến 3,6. Độ axit này là một yếu tố gây hại cho men răng. Ngoài ra, nó chứa cồn được thể hiện bằng độ hoặc phần trăm. Loại cồn này có thể gây xơ gan. Bệnh này có thể xảy ra từ việc tiêu thụ thường xuyên 20 gram mỗi ngày đối với phụ nữ và 40 gram mỗi ngày đối với nam giới. Tuy nhiên, một số nghiên cứu ở California có thể chỉ ra tác dụng có lợi của rượu vang ở liều lượng hàng ngày thấp đối với bệnh xơ gan không do rượu. Trong các nghiên cứu gần đây, rượu vang trắng được chỉ định là có một số lợi ích về tim mạch. Cũng như vậy, rượu vang trắng chứa chất chống oxy hóa, mặc dù rượu vang đỏ có chứa mức chất chống oxy hóa cao hơn. Cả rượu vang trắng và đỏ đều có hiệu quả trong việc ngăn ngừa quá trình oxy hóa LDL. Giá. Năm 1997, một thùng rượu Heidsieck năm 1907 bị thất lạc trong một vụ đắm tàu đã được tìm thấy. Tại phiên đấu giá, mỗi chai rượu được bán với giá 275.000 USD, trở thành những chai rượu vang trắng đắt nhất từng được bán.
1
null
Du lịch tại Hoa Kỳ là một ngành lớn phục vụ hàng triệu khách du lịch quốc tế và trong nước hàng năm. Khách du lịch đến Hoa Kỳ để tham quan các kỳ quan thiên nhiên, các thành phố, địa danh lịch sử và các địa điểm vui chơi giải trí. Du khách Mỹ cũng tìm kiếm hấp dẫn tương tự khi đi du lịch trong nước, cũng như các khu vực vui chơi giải trí và nghỉ. Du lịch tại Hoa Kỳ đã tăng trưởng nhanh chóng dưới các hình thức du lịch đô thị trong thế kỷ cuối 19 và đầu thế kỷ 20. Đến năm 1850, du lịch tại Hoa Kỳ được thành lập như là một hoạt động văn hóa và là một ngành. Thành phố New York, Chicago, Boston, Philadelphia, Washington DC, và San Francisco, tất cả các thành phố lớn của Mỹ, thu hút một số lượng lớn khách du lịch bởi những năm 1890. Đến năm 1915, du lịch thành phố đã đánh dấu sự thay đổi đáng kể trong cách thức người Mỹ nhận thức, tổ chức và di chuyển xung quanh trong môi trường đô thị. Tiến trình dân chủ hóa lữ hành đã diễn ra trong thế kỷ 20 khi ô tô đã cách mạng hóa ngành du lịch. Tương tự như vậy du lịch bằng đường hàng không đã cách mạng hóa đi lại trong thời kỳ 1945-1969, góp phần rất lớn vào du lịch tại Hoa Kỳ. Đến năm 2007 số lượng khách du lịch quốc tế đã tăng lên hơn 56 triệu người đã tiêu dùng 122,7 tỷ đô la Mỹ, thiết lập một kỷ lục mọi thời đại. Ngành lữ hành và du lịch tại Hoa Kỳ là một trong những lĩnh vực có số người thương vong thương mại đầu tiên trong vụ khủng bố 11 tháng 9 năm 2001, một loạt các cuộc tấn công khủng bố vào nước Mỹ. Bọn khủng bố đã sử dụng bốn máy bay thương mại làm vũ khí hủy diệt, tất cả đều đã bị phá hủy trong các cuộc tấn công với 3.000 nạn nhân thương vong. Tại Hoa Kỳ, ngành du lịch là người sử dụng lao động lớn nhất, thứ hai hoặc thứ ba lớn nhất trong 29 tiểu bang, sử dụng 7.300.000 lao động vào năm 2004, để chăm sóc 1,19 tỷ chuyến đi của du khách ở Hoa Kỳ trong năm 2005. Vào năm 2007, có 2.462 Địa điểm nổi bật Lịch sử Quốc gia đăng ký đã được công nhận bởi chính phủ Hoa Kỳ. Tính đến năm 2008, thu hút khách du lịch tham quan nhiều nhất ở Hoa Kỳ là Quảng trường Thời đại ở Manhattan, Thành phố New York hàng năm thu hút khoảng 35 triệu du khách.
1
null
Trần Mục công (chữ Hán: 陳穆公; trị vì: 647 TCN - 632 TCN), tên thật là Quy Khoản (媯款), là vị vua thứ 17 của nước Trần – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Trần Mục công là con thứ của Trần Tuyên công – vua thứ 16 nước Trần, em của thế tử Quy Ngự Khấu. Năm 672 TCN, Trần Tuyên công yêu Quy Khoản bèn giết thế tử Ngự Khấu. Năm 648 TCN, Tuyên công mất, Quy Khoản lên nối ngôi, tức là Trần Mục công. Trần Mục công thường đi dự hội chư hầu do bá chủ Tề Hoàn công kêu gọi. Sau khi vua Tề mất (643 TCN), Trần Mục công cùng vua các nước Lỗ, Trịnh, Sái đến họp ở nước Tề để tưởng nhớ Tề Hoàn công. Nước Tề suy yếu, nước Trần lại ngả theo nước Sở. Năm 639 TCN, Trần Mục công hội minh với Sở Thành vương, cùng nước Trịnh và nước Sái chống lại nước Tống, bắt giữ Tống Tương công. Sau đó Trần Mục công lại ngả theo nước Tống khiến Sở Thành vương giận mang quân đánh Trần vào năm 637 TCN. Quân Sở chiếm ấp Tiêu và ấp Di. Trần Mục công phải thần phục xin giảng hòa. Năm 634 TCN, Trần Mục công mang quân theo Sở Thành vương cùng các nước Trịnh, Sái cùng hợp binh đánh nước Tống. Tấn Văn công mang quân cứu Tống. Đại chiến nổ ra, liên quân theo Sở thất bại một trận lớn ở Thành Bộc. Năm 632 TCN, Tấn Văn công trở thành bá chủ chư hầu, họp chư hầu ở Tiễn Thổ. Trần Mục công sợ phải đến dự hội, quy phục nước Tấn. Cùng năm, Trần Mục công qua đời. Ông ở ngôi được 16 năm. Con ông là Quy Sóc lên nối ngôi, tức là Trần Cung công.
1
null
Lioré-et-Olivier LeO 45 là một loại máy bay ném bom hạng trung của Pháp được sử dụng trong Chiến tranh thế giới II. Nó được làm hoàn toàn bằng kim loại, có càng đáp thu vào được và lắp 2 động cơ 1.100 hp Hispano-Suiza. Sau chiến tranh, nó còn được sử dụng cho đến tận tháng 9 năm 1957. Tính năng kỹ chiến thuật (LeO 451). Aircraft Profile 173
1
null
Cá mập bò mắt trắng, "Carcharhinus leucas", còn được gọi là cá mập Zambezi ở Phi châu và cá mập Nicaragua ở Nicaragua là một loài cá mập phổ biến rộng rãi trên thế giới sống trong những vùng nước ấm và cạn dọc theo bờ biển và sông ngòi. Cá mập bò mắt trắng được biết đến do chúng hung hăng, thích nước nông và hay có mặt ở những vùng nước lợ hay nước ngọt gồm có cửa sông và sông. Chúng có thể sống cả trong nước biển và nước ngọt và có thể sống trong sông sâu trong đất liền. Chúng đã được tìm thấy ở Indiana, Mỹ trong sông Ohio. Chúng có lẽ là loài cá mập đã tấn công con người trong những vụ tấn công gần bãi biển, kể cả trong những vụ tưởng là do những loài cá mập khác. Cá mập bò mắt trắng không thật sự là cá nước ngọt mặc dù nó thể sống trong nước ngọt không giống như là loại cá mập sông thuộc chi Glyphis". Chế độ ăn uống. Chế độ ăn uống một con cá mập bò mắt trắng bao gồm chủ yếu là các loài cá xương và cá mập, trong đó có cá mập bò mắt trắng khác, nhưng cũng có thể bao gồm rùa, chim, cá heo, động vật có vú trên cạn, động vật giáp xác, động vật da gai và cá đuối gai độc. Chúng săn trong vùng nước âm u bởi vì khó khăn hơn cho các con mồi phát hiện nó.
1
null
Không rõ về những cư dân đầu tiên đã định cư tại Đài Loan, nối tiếp họ là những người Nam Đảo (Austronesia). Hòn đảo bị người Hà Lan thuộc địa hóa vào thế kỷ thứ XVII, theo sau là một dòng người Hán nhập cư đến từ các nơi tại Phúc Kiến và Quảng Đông ở Trung Quốc đại lục. Người Tây Ban Nha cũng từng thiết lập nên một điểm định cư ở phía bắc hòn đảo trong một thời gian ngắn, song họ đã bị người Hà Lan trục xuất vào năm 1642. Tên tiếng Hán của hòn đảo, (臺灣, "Đài Loan"), có nguồn gốc từ một thuật ngữ thổ dân; trong quá khứ (từ thế kỷ XVI), hòn đảo được người phương Tây gọi là Formosa (từ tiếng Bồ Đào Nha "Ilha Formosa", "Hòn đảo xinh đẹp"). Năm 1662, một nhân vật trung thành với nhà Minh (tức thế lực đã mất quyền kiểm soát Trung Quốc đại lục vào năm 1644) là Trịnh Thành Công đã đánh bại người Hà Lan và thiết lập một căn cứ cho các chiến dịch của mình trên hòn đảo. Nhà Thanh đã đánh bại quân của họ Trịnh vào năm 1683. Từ đó, các vùng đất tại Đài Loan dần dần hợp nhất vào Đại Thanh trước khi nó cùng với Bành Hồ bị nhượng cho Đế quốc Nhật Bản vào năm 1895 sau chiến tranh Thanh-Nhật. Đài Loan sản xuất lúa gạo và mía đường để xuất cảng sang chính quốc Nhật Bản và cũng đóng vai trò là một căn cứ cho hoạt động mở rộng thuộc địa của Nhật Bản ra Đông Nam Á và Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ 2. Nền giáo dục của đế quốc Nhật Bản đã được áp dụng tại Đài Loan và nhiều người Đài Loan đã từng chiến đấu cho người Nhật trong chiến tranh. Năm 1945, sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ 2, Trung Hoa Dân Quốc do Quốc Dân đảng đã trở thành chính thể quản lý Đài Loan. Năm 1949, khi để mất quyền kiểm soát đối với Trung Quốc đại lục sau Nội chiến Trung Quốc, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Quốc Dân đảng đã rút đến Đài Loan và Tưởng Giới Thạch đã tuyên bố áp đặt thiết quân luật tại hòn đảo. Nhật Bản chính thức từ bỏ tất cả chủ quyền lãnh thổ tại Đài Loan vào năm 1952 trong Hiệp ước San Francisco. Quốc Dân đảng cai quản Đài Loan (cùng với Kim Môn, Ô Khâu và quần đảo Mã Tổ ở phía đối diện của eo biển Đài Loan) như một nhà nước độc đảng trong suốt 40 năm, cho đến khi Tưởng Kinh Quốc tiến hành cải cách dân chủ vào thập niên 1980 Các cải cách được tiếp tục dưới thời người kế nhiệm Tưởng Kinh Quốc là Lý Đăng Huy, mà đỉnh cao là cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp đầu tiên vào năm 1996. Năm 2000, Trần Thủy Biển đắc cử tổng thống và trở thành Tổng thống đầu tiên tại Đài Loan không phải là đảng viên của Quốc Dân đảng. Ông tái cử vào năm 2004. Một đảng viên Quốc Dân đảng là Mã Anh Cửu đã đắc cử tổng thống vào năm 2008, và tái cử vào năm 2012. Thái Anh Văn của Đảng Dân Tiến đắc cử Tổng thống Đài Loan năm 2016 và tái cử năm 2020. Định cư thời tiền sử. Vào cuối bậc Pleistocen muộn, mực nước biển thấp hơn khoảng 140 m so với ngày nay, tầng đáy nông của eo biển Đài Loan trở thành một cầu lục địa cho phép các động vật ở lục địa có thể vượt qua. Bằng chứng cổ xưa nhất về sự xuất hiện của con người trên đảo Đài Loan bao gồm ba mảnh sọ và một răng hàm được tìm thấy tại Xú Quật (臭屈) và Cương Tử Lâm (岡子林), tại khu Tả Trấn, thành phố Đài Nam. Các mẫu vật này có niên đại từ 20.000 đến 30.000 năm. Các hiện vật lâu đời nhất là các công cụ đá cuội được đẽo thuộc nền văn hóa thời đại đồ đá cũ được tìm thấy trong bốn hang động ở Trường Tân, Đài Đông, có niên đại từ 15.000 đến 5.000 năm trước, và chúng tương tự như các hiện vật tại các di chỉ cùng thời kỳ tại Phúc Kiến. Một nền văn hóa tương tự cũng được tìm thấy tại mũi Nga Loan ở cực nam của Đài Loan, đã tiếp tục tồn tại cho đến 5.000 năm trước. Vào lúc bắt đầu thế Toàn Tân vào khoảng 10.000 năm trước, mực nước biển dâng lên, tạo thành eo biển Đài Loan và tách rời hòn đảo khỏi lục địa châu Á. Khoảng năm 3.000 TCN, văn hóa Đại Bộn Khang thuộc thời đại đồ đá mới (đặt tên theo một nơi tại thành phố Tân Bắc) đột ngột xuất hiện và được truyền bá nhanh chóng ra các vùng ven biển của hòn đảo. Các di chỉ của nền văn hóa này có đặc trưng là các đồ gốm có đường vân, rìu đá được đánh bóng với đầu rìu làm bằng đá phiến. Các cư dân trồng lúa và kê, song cũng phụ thuộc rất nhiều vào việc đánh bắt các loài hải sản. Hầu hết các học giả tin rằng nền văn hóa này không có nguồn gốc từ người Trường Tân mà được đưa đến qua eo biển bởi những người là tổ tiên của thổ dân Đài Loan hiện nay, họ nói các ngôn ngữ Nam Đảo thời kỳ đầu. Một số người này sau đó đã di cư từ Đài Loan đến các hòn đảo ở Đông Nam Á và sau đó ra khắp Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Đa Đảo nay được nói trên một khu vực rộng lớn từ Madagascar đến Hawaii, đảo Phục Sinh và New Zealand, song chỉ tạo thành một nhánh của Ngữ hệ Nam Đảo, các nhánh khác của ngữ hệ này chỉ được tìm thấy tại Đài Loan. Kế thừa văn hóa Đại Bộn Khanh là một loạt các nền văn hóa khác trên khắp hòn đảo, bao gồm văn hóa Đại Hồ và văn hóa Doanh Bộ. Đồ sắt đã xuất hiện vào lúc bắt đầu thời Công Nguyên trong những nền văn hóa như Điểu Tùng. Các đồ tạo tác bằng kim loại sớm nhất là các hàng hóa thương mại, song vào khoảng năm 400 SCN, sắt rèn đã được sản xuất tại địa phương bằng cách sử dụng lò nung, một kỹ thuật có lẽ được đưa đến từ Philippines. Các bản văn gây tranh cãi có từ thời Trung Quốc cổ đại đã chỉ ra rằng người Hán có thể đã biết về sự tồn tại của đảo chính Đài Loan từ thời Tam Quốc, họ phân chia các hải đảo xa bờ với các tên gọi như Đại Lưu Cầu và Tiểu Lưu Cầu (từ nguyên, song có lẽ không phải là ngữ nghĩa, tương tự như quần đảo Ryūkyū (Lưu Cầu)), mặc dù không tên gọi nào trong đó tương ứng một cách rõ ràng với đảo chính Đài Loan. Dưới sự cai quản của Hà Lan và Tây Ban Nha. Các thủy thủ người Bồ Đào Nha đã đi qua Đài Loan vào năm 1544 và họ đã lần đầu tiên ghi vào sổ hàng hải của tàu tên gọi "Ilha Formosa", nghĩa là "đảo Xinh đẹp". Năm 1582, những người sống sót sau một vụ đắm tàu của Bồ Đào Nha đã phải mất mười tuần trên đảo và phải chiến đấu với bệnh sốt rét và thổ dân trước khi trở về được Macau trên một chiếc bè gỗ. Các thương nhân người Hà Lan đang tìm kiếm một căn cứ tại châu Á khi họ lần đầu tiên đến đảo vào năm 1623, họ đã sử dụng hòn đảo làm một căn cứ cho hoạt động thương mại của Hà Lan với Nhật Bản và các khu vực ven biển của Trung Quốc. Người Tây Ban Nha đã thiết lập một khu định cư tại Santissima Trinidad, xây dựng pháo đài San Salvador ở bờ biển phía bắc Đài Loan gần Cơ Long vào năm 1626 và chiếm giữ nó cho đến năm 1642 (khi bị một lực lượng liên quân gồm người Hà Lan và thổ dân trục xuất). Người Hà Lan cũng xây dựng một pháo đài tại Đạm Thủy (1628) song đã từ bỏ nó từ năm 1638. Người Hà Lan sau đó xây dựng pháo đài Anthonio trên địa điểm này vào năm 1642, công trình nay vẫn tồn tại và là một phần của khu phức hợp bảo tàng pháo đài San Domingo. Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) đã quản lý hòn đảo cũng như dân cư trên đảo (chủ yếu là thổ dân) cho đến năm 1662, họ thiết lập nên một hệ thống thuế, các trường học để dạy chữ latinh hóa của các ngôn ngữ bản địa và truyền bá Phúc Âm. Mặc dù vậy, quyền kiểm soát của người Hà Lan chủ yếu bị giới hạn ở vùng đồng bằng phía tây của đảo, các hệ thống mà người Hà Lan đưa vào đã được các thế lực chiếm cứ sau đó kế thừa. Dòng nhập cư đầu tiên từ vùng ven biển Phúc Kiến đã ập đến Đài Loan trong thời kỳ thực dân Hà Lan, trong đó các thương nhân đến từ vùng ven biển Trung Quốc đại lục đã tìm cách mua giấy phép săn bắn của người Hà Lan hoặc ở ẩn trong các ngôi làng của thổ dân để đào thoát khỏi chính quyền nhà Thanh. Hầu hết những người nhập cư là các nam giới trẻ, độc thân, họ chán nản khi ở trên đảo mà người Hán vẫn gọi là "Cổng địa ngục" vì hòn đảo nổi danh với việc đã cướp đi sinh mệnh của các thủy thủ và những người khám phá. Người Hà Lan ban đầu tìm cách sử dụng pháo đài Zeelandia của họ ở Tayowan làm một căn cứ giao thương với Nhật Bản và Trung Quốc, song ngay sau đó họ đã nhận ra tiềm năng từ các quần thể hươu sao với số lượng khổng lồ đi lang thang dọc theo các vùng đồng bằng phù sa ở phía tây của Đài Loan. Hươu sao là mặt hàng mà người Nhật Bản có nhu cầu cao, người Nhật sẵn sàng trả một mức giá cao để mua da hươu về làm áo giáp cho các samurai. Các phần khác của hươu được bán cho các thương nhân người Hán để làm thực phẩm hay chế biến thành thuốc. Người Hà Lan trả công cho các thổ dân khi họ đem hươu đến và cố gắng quản lý số hươu theo kịp với nhu cầu. Người Hà Lan cũng thuê người Hán đến làm việc ở các trang trại mía và lúa phục vụ cho việc xuất khẩu, một số sản phẩm gạo và đường thậm chí còn vươn xa đến các thị trường như Ba Tư. Song thật không may là các đàn hươu đã bắt đầu biến mất và các thổ dân buộc phải tìm kế sinh nhai mới. Người Hà Lan cho xây dựng một thành quách hành chính thứ hai trên đảo chính Đài Loan vào năm 1633 và tiến hành các công việc một cách quyết tâm nhằm biến Đài Loan trở thành một thuộc địa đúng nghĩa của Hà Lan.. Cuộc viễn chinh trừng phạt đầu tiên là nhằm chống lại các ngôi làng của người Baccloan và Mattauw, ở phía bắc Saccam gần Tayowan. Chiến dịch Mattauw đã tiến hành dễ dàng hơn dự kiến và các bộ lạc đã phải chịu khuất phục sau khi làng của họ bị đốt cháy hoàn toàn. Chiến dịch cũng nhằm mục đích đe dọa các làng khác từ Tirossen (nay là Gia Nghĩa) đến Lonkjiaow (nay là Hằng Xuân). Người Hà Lan cũng tiến hành cuộc tấn công trừng phạt trên đảo Tiểu Lưu Cầu vào năm 1636 nhằm trả đũa cho hành vi sát hại thủy thủ đoàn của các con tàu bị đắm gồm Beverwijck và Sư tử Vàng, chiến dịch này chấm dứt mười năm sau đó với kết quả là 1.100 thổ dân bị đưa đi khỏi đảo và có 327 người bị giết trong một hang động, họ đã bị người Hà Lan làm cho mắc kẹt trong hang và đã bị chết ngạt do khói được bơm vào bởi người Hà Lan và các bộ lạc thổ dân đồng minh đến từ Saccam, Soulang và Pangsoya. Những người đàn ông bị buộc đến làm nô lệ ở Batavia (Java) còn phụ nữ và trẻ em trở thành người ở hoặc vợ của các quan chức Hà Lan. Các sự kiện trên đảo Tiểu Lưu Cầu đã làm thay đổi tiến trình cai trị của người Hà Lan nhằm cố gắng gẫn gũi hơn với các bộ tộc thổ dân đồng minh, mặc dù họ vẫn có kế hoạch nhằm làm giảm dân số ở những hòn đảo xa xôi. Vương quốc Đông Ninh. Quân Mãn Châu đã vượt qua Sơn Hải quan vào năm 1644 và nhanh chóng lấn át nhà Minh. Năm 1661, một hạm đội thủy binh do Trịnh Thành Công, một người trung thành với nhà Minh lãnh đạo đã đến Đài Loan để trục xuất người Hà Lan ra khỏi Zeelandia và thiết lập một căn cứ phục Minh tại Đài Loan. Trịnh Thành Công là con trai của Trịnh Chi Long, một thương gia và hải tặc người Hán, với một phụ nữ Nhật Bản tên là Tagawa Matsu. Ông sinh năm 1624 tại Hirado, Nagasaki, Nhật Bản. Ông sống ở Nhật Bản cho đến năm bảy tuổi rồi chuyển đến Tuyền Châu thuộc tỉnh Phúc Kiến tại Trung Quốc. Sống trong một gia đình trở nên thịnh vượng nhờ vận chuyển bằng tàu thuyền và cướp biển, Trịnh Thành Công đã kế thừa mạng lưới thương mại của cha mình, kéo dài từ Nagasaki đến Ma Cao. Sau khi quân Mãn tiến vào Phúc Kiến, Trịnh Thành Công rút lui từ thành trì của mình tại Hạ Môn và bao vây Đài Loan với hy vọng sẽ thiếp lập nên một căn cứ chiến lược để sắp xếp lại đội quân và lấy lại căn cứ tại Hạ Môn. Năm 1662, sau chín tháng bao vây, Trịnh Thành Công đã chiếm được pháo đài Zeelandia của người Hà Lan và Đài Loan trở thành căn cứ của ông. Cũng trong thời điểm này, người cuối cùng tự xưng kế vị ngai vàng nhà Minh đã bị tướng Ngô Tam Quế bắt và giết chết, dập tắt mọi hy vọng của Trịnh Thành Công nhằm tái lập Đại Minh. Ông qua đời bốn tháng sau đó trong một cơn đau tột cùng khi hay tin cha và anh em đã bị quân Mãn giết chết một cách tàn nhẫn. Tuy nhiên, cũng có một số nguồn nói rằng Trịnh Thành Công chết vì bệnh sốt rét. Dưới thời nhà Thanh cai trị. Năm 1683, sau một cuộc hải chiến với đô đốc Thi Lang (một trong số những bằng hữu mà cha của Trịnh Thành Công tin tưởng), cháu nội của Trịnh Thành Công là Trịnh Khắc Sảng đã chịu khuất phục trước nhà Thanh. Hoàng đế Khang Hy đã chính thức coi Đài Loan như một nơi "vượt ra ngoài hàng rào của văn minh" và hòn đảo đã không xuất hiện trong bất kỳ bản đồ nào của đế quốc Đại Thanh cho đến năm 1683.. Trước thời nhà Thanh, Trung Quốc đã được coi như là một vùng đất được giới hạn bởi núi, sông và biển. Ý tưởng về một hòn đảo xa là một phần của Trung Quốc không được người Hán nghĩ tới trước khi biên giới nhà Thanh được mở rộng vào thế kỷ thứ XVII. Từ năm 1683, nhà Thanh đặt Đài Loan làm một phủ của tỉnh Phúc Kiến và đến năm 1875 thì chia thành hai phủ, bắc và nam. Năm 1885, hòn đảo trở thành một tỉnh riêng biệt của Đại Thanh. Triều đình nhà Thanh đã cố hạn chế việc nhập cư đến Đài Loan và cấm các gia đình di chuyển đến Đài Loan để đảm bảo rằng những người nhập cư sẽ phải trở về với gia đình và tổ tiên. Tuy nhiên, việc nhập cư bất hợp pháp vẫn tiếp tục, và nhiều người đàn ông nhập cư đã kết hôn với phụ nữ bản địa, dẫn đến thành ngữ "Ông Đường Sơn (tức người Hán) không có bà Đường Sơn" (有唐山公無唐山媽, hữu Đường Sơn công vô Đường Sơn mụ). Nhà Thanh đã cố bảo vệ các tuyên bố đất đai của thổ dân, song cũng tìm cách biến họ thành các thần dân phải nộp thuế. Người Hán và các thổ dân phải nộp thuế bị cấm xâm nhập vào vùng hoang vu (vốn chiếm phần lớn diện tích hòn đảo) do triều đình lo sợ họ sẽ trốn thuế cũng như xung đột với các thổ dân vùng cao và kích động nổi loạn. Một ranh giới đã được lập ra dọc theo vùng đồng bằng phía tây, bằng cách sử dụng các hố và gò đất, mục đích là để ngăn cản việc khai hoang bất hợp pháp. Từ năm 1683 đến khoảng năm 1760, triều đình nhà Thanh vẫn giới hạn việc nhập cư đến Đài Loan. Song hạn chế này đã được nới lỏng sau thập niên 1760 và đến năm 1811 thì đã có trên hai triệu người Hán nhập cư tại Đài Loan. Năm 1875, Đài Bắc phủ (台北府) được thành lập, nằm dưới quyền hành của tỉnh Phúc Kiến. Ngoài ra, đã có những cuộc xung đột khác nhau giữa những người Hán nhập cư. Hầu hết các cuộc xung đột diễn ra giữa những người Hán đến từ Phúc Kiến và những người Hán đến từ Quảng Đông, giữa những người đến từ các vùng khác nhau của Phúc Kiến, giữa người Khách Gia và người Phúc Kiến, hay đơn giản chỉ là giữa những người thuộc các họ tộc khác nhau xung đột vì các mối thù gia tộc. Do những người di cư vẫn còn lòng trung thành với tỉnh cũ của mình, triều đình nhà Thanh cảm thấy Đài Loan có đôi điều khó khăn trong việc quản lý. Đài Loan cũng gặp họa ngoại xâm. Năm 1840, Cơ Long bị người Anh xâm chiếm trong chiến tranh Nha phiến, và đến năm 1884, người Pháp đã tiến hành xâm lược hòn đảo trong chiến tranh Pháp-Thanh. Do những cuộc tấn công này, triều đình nhà Thanh bắt đầu cho xây dựng một loạt các công sự phòng thủ ven biển và đến ngày 12 tháng 10 năm 1885 thì nâng Đài Loan thành một tỉnh, phong Lưu Minh Truyền (劉銘傳) làm tuần phủ đầu tiên. Ông phân chia Đài Loan thành 11 huyện và cố gắng cải thiện quan hệ với thổ dân. Ông cũng phát triển một tuyến đường sắt từ Đài Bắc đến Tân Trúc, mở một mỏ tại Cơ Long, và xây dựng một kho vũ khí để cải thiện khả năng phòng thủ của Đài Loan trước ngoại bang. Sau khi một con tàu của Lưu Cầu bị đắm trên mũi đông nam của Đài Loan vào mùa đông năm 1871, thổ dân Paiwan đã chặt đầu 54 thành viên của thủy thủ đoàn tại Mẫu Đơn Xã (牡丹社), người Nhật đã nắm lấy sự cố này để buộc nhà Thanh phải chính thức công nhận chủ quyền của Nhật Bản đối với quần đảo Lưu Cầu và để kiểm tra phản ứng của nhà Thanh tại Đài Loan. Theo các tư liệu của Nhật Bản, Mao Sưởng Hi (毛昶熙) và Đổng Tuân (董恂), các quan của nhà Thanh tại tổng lý nha môn (總理衙門) ban đầu đã hồi âm khiếu nại của sứ thần Nhật Bản Yanagihara Sakimitsu (柳原前光) rằng họ chỉ biết về một vụ thảm sát người Lưu Cầu chứ không phải người Nhật Bản, và lưu ý rằng Lưu Cầu là một chư hầu của Trung Quốc, do đó vấn đề này không phải là việc của Nhật Bản. Ngoài ra, tổng đốc Phúc Kiến của nhà Thanh đã giải cứu cho những người còn sống sót của vụ thảm sát và đưa họ trở về Lưu Cầu an toàn. Triều đình nhà Thanh giải thích rằng có hai loại thổ dân tại Đài Loan: những người do nhà Thanh quản lý, và những người không được nhập tịch "man di" và nằm ngoài tầm quản lý của chính quyền nhà Thanh. Họ gián tiếp ám chỉ rằng người nước ngoài đi đến những khu vực định cư của những người thổ dân cần phải thận trọng. Sau cuộc tiếp xúc giữa Yanagihara và tổng lý nha môn, người Nhật đã giải thích rằng nhà Thanh không phản đối tuyên bố chủ quyền của Nhật Bản với quần đảo Lưu Cầu, phủ nhận bất kỳ thẩm quyền nào đối với thổ dân Đài Loan, và đã thực sự đồng ý với cuộc thám hiểm của Nhật Bản đến Đài Loan. Tuy nhiên, nhà Thanh thì nói rằng họ đã làm rõ với người Nhật rằng Đài Loan dứt khoát nằm trong phạm vi thẩm quyền của Đại Thanh, mặc dù một phần thổ dân của hòn đảo vẫn chưa nằm dưới ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. Nhà Thanh cũng chỉ ra các trường hợp tương tự trên toàn thế giới khi mà thổ dân bên trong biên giới quốc gia không hoàn toàn bị khuất phục trước nền văn hóa thống trị của nước đó. Nhật Bản tuy vậy đã phát động một cuộc viễn chinh đến Mẫu Đơn Xã với một lực lượng lên đến 3.600 lính vào năm 1874. Con số thương vong của người Paiwan là khoảng 30, và con số của phía Nhật Bản là 543; 12 lính Nhật bị giết trong trận chiến và có 531 bị bệnh. Cuối cùng, quân Nhật rút lui ngay trước khi nhà Thanh cử ba đơn vị với 9.000 lính đến tăng viện cho Đài Loan. Sự kiện này đã khiến cho nhà Thanh suy nghĩ lại về tầm quan trọng của Đài Loan trong chiến lược phòng thủ hàng hải và tầm quan trọng lớn hơn của việc thiết lập quyền kiểm soát đối với các khu vực hoang dã. Vào đêm trước của Chiến tranh Thanh-Nhật, khoảng 45 phần trăm hòn đảo nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của nhà Thanh trong khi phần còn lại là nơi cư trú của thổ dân. Trong tổng dân số 2,5 triệu người, có khoảng 2,3 triệu là người Hán và hai trăm nghìn người còn lại được phân loại là các thành viên của các bộ lạc thổ dân khác nhau. Sau thất bại trong cuộc chiến, nhà Thanh đã cắt nhượng Đài Loan và Bành Hồ cho Nhật Bản vào ngày 17 tháng 4 năm 1895 theo các điều khoản của Hiệp ước Shimonoseki. Việc để mất Đài Loan đã trở thành một điểm quy tụ lòng người của phong trào dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc trong những năm sau đó. Nhật Bản cai trị. Nhật Bản đã tìm cách tuyên bố chủ quyền với Đài Loan (được người Nhật biết đến với cái tên "Takasago Koku", 高砂国, Cao Xa Quốc) từ năm 1592, khi Toyotomi Hideyoshi tiến hành một chính sách bành trướng ra hải ngoại và mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản về phía nam, và phía tây, người Nhật đã nỗ lực để xâm lược Đài Loan song đã không thành công, nguyên nhân chủ yếu là do bệnh tật và bị thổ dân trên đảo tấn công. Năm 1609, Mạc phủ Tokugawa cử Harunobu Arima đi thăm dò hòn đảo. Nỗ lực xâm lược do Murayama Toan dẫn đầu vào năm 1616 đã thất bại, lần này thì nguyên nhân là do một cơn bão nhiệt đới đã đẩy các tàu chiến tản mác và chỉ có một chiếc là có thể tiếp cận được hòn đảo song đã bị đẩy lui. Trong sự kiện Mẫu Đơn năm 1871, một chiến tàu của Lưu Cầu đã bị đắm ở mũi phía nam của Đài Loan và 54 thành viên thủy thủ đoàn đã bị thổ dân Paiwan chém đầu. Sau khi chính quyền nhà Thanh từ chối bồi thường và nói rằng những thổ dân này không nằm dưới quyền kiểm soát của họ, Nhật Bản đã mở một cuộc viễn chinh trừng phạt tại khu vực vào năm 1874, và rút quân sau khi nhà Thanh hứa hẹn sẽ trả tiền bồi thường. Phải đến khi hải quân nhà Thanh thất bại trong chiến tranh Thanh-Nhật vào năm 1894–95 thì Đài Loan mới được cắt nhượng cho Nhật Bản. Hiệp ước Shimonoseki ký ngày 17 tháng 4 năm 1895, đã nhượng Đài Loan và Bành Hồ cho Nhật Bản, thế lực này cai quản Đài Loan trong 50 năm cho đến khi thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi có được chủ quyền tại Đài Loan, người Nhật lo sợ về sự kháng cự đến từ cả người Hán và thổ dân, những người này đã thiết lập nên Đài Loan Dân chủ. Tầng lớp ưu tú của Đài Loan hy vọng rằng bằng cách tuyên bố họ là một nước cộng hòa thì thế giới sẽ không cho phép một nước có chủ quyền bị người Nhật xâm lược, bằng cách ấy liên minh với nhà Thanh. Kế hoạch nhanh chóng rơi vào hỗn loạn khi lục doanh và quân Việt tộc đi cướp bóc. Phải lựa chọn giữa việc chịu cảnh hỗn loạn dưới tay người Hán hay khuất phục người Nhật, tầng lớp trên tại Đài Bắc đã cử Cô Hiển Vinh (辜顯榮) đến Cơ Long để mời quân Nhật tiến đến Đài Bắc và lập lại trật tự. Các cuộc kháng chiến vũ trang diễn ra một cách rời rạc, song cũng có những lúc trở nên khốc liệt, tuy nhiên phần lớn chúng đã bị đè bẹp vào năm 1902, mặc dù các cuộc nổi dậy với quy mô tương đối nhỏ vẫn xảy ra trong những năm tiếp theo, bao gồm sự kiện Ta-pa-ni (hay sự kiện Tây Lai am) năm 1915 tại Đài Nam. Phương thức kháng cự không bạo lực đã thay thế nổi dậy vũ trang và đáng chú ý nhất Hiệp hội Văn hóa Đài Loan (台灣文化協會), thành lập năm 1921. Một số cuộc kháng cự được kích thích bởi những người dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa, trong khi có những cuộc khởi nghĩa khác đòi hỏi quyền tự quyết cho Đài Loan. Các cuộc nổi loạn thường xảy ra do tác động của các chính sách bất bình đẳng tại thuộc địa đối với tầng lớp ưu tú tại địa phương và với đức tin của người Hán tại Đài Loan và những người thổ dân ở vùng đồng bằng. Thổ dân Đài Loan đã kháng cự các chính sách thâm nhập văn hóa và bình định mạnh tay của Nhật Bản cho đến tận đầu thập niên 1930. Cuộc khởi nghĩa lớn cuối cùng của thổ dân, nổi dậy Musha (nổi dậy Vụ Xã) đã nổ ra vào cuối năm 1930 khi người Atayal giận dữ trước cách đối xử với họ trong lao động với các công việc nặng nề để khai thác long não, họ đã lập ra một băng đảng săn đầu người cuối cùng trên đảo, nhóm này đã sát hại và chặt đầu trên 150 quan chức người Nhật trong lễ khánh thành một trường học. Cuộc nổi dậy do Mona Rudao lãnh đạo, đã bị đè bẹp bởi từ 2.000-3.000 lính Nhật với sự giúp đỡ về khí độc từ các thổ dân đồng minh của họ. Thời kỳ thực dân của Nhật Bản tại Đài Loan có thể phân thành ba giai đoạn. Bắt đầu với một thời kỳ đàn áp và độc đoán, sau đó là một thời kỳ "đồng hóa" (同化, dōka) và cuối cùng, trong Chiến tranh thế giới thứ II là thời kỳ "hoàng dân hóa" (皇民化, kōminka), với một chính sách nhằm biến người Đài Loan thành các thần dân trung thành với Thiên hoàng Nhật Bản. Dân chúng Đài Loan có phản ứng khác nhau trước sự cai trị của Nhật Bản. Một số người cảm thấy rằng an toàn của cuộc sống cá nhân và tài sản là vô cùng quan trọng và đã đi theo chính quyền thực dân Nhật Bản. Nhóm người Đài Loan thứ hai thì mong muốn được trở thành thần dân của đế quốc, họ tin tưởng rằng điều này sẽ khiến cho người Đài Loan có vị thế bình đẳng với những người Nhật. Nhóm thứ ba chịu ảnh hưởng của tư tưởng Đài Loan độc lập và cố gắng loại bỏ thực dân Nhật Bản nhằm thiết lập nên một chính quyền của người Đài Loan. Nhóm thứ tư chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và đấu tranh để Đài Loan trở lại dưới quyền cai trị của Trung Quốc. Từ năm 1897 trở đi, nhóm thứ tư đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy, và nổi bật nhất trong đó là cuộc nổi dậy do La Phúc Tinh (羅福星) lãnh đạo, tuy nhiên ông đã bị bắt và bị xử tử cùng với 200 chiến hữu của mình vào năm 1913. Bản thân La Phúc Tinh là một thành viên của Đồng Minh hội, một tổ chức do Tôn Trung Sơn thành lập và là tiền thân của Quốc Dân đảng. Các cơ sở hạ tầng ban đầu đã phát triển một cách nhanh chóng. Ngân hàng Đài Loan được thành lập vào năm 1899 để khuyến khích các công ty tư nhân Nhật Bản, bao gồm Mitsubishi và Mitsui, đến đầu tư tại Đài Loan. Năm 1900, Tổng đốc Đài Loan thứ ba đã thông qua ngân sách bắt đầu xây dựng hệ thống đường sắt của Đài Loan từ Kirun (Cơ Long) đến Takao (Cao Hùng). Năm 1905, hòn đảo có điện bằng thủy năng từ hồ Nhật Nguyệt, và trong những năm tiếp theo, Đài Loan được coi là khu vực phát triển thứ hai tại Đông Á (sau Nhật Bản). Năm 1905, Đài Loan đã có thể tự chủ về tài chính và chính quyền trung ương Nhật Bản không còn phải trợ cấp nữa. Dưới sự cai trị của tổng đốc Shimpei Goto, nhiều dự án công trình công cộng lớn đã được hoàn thành. Hệ thống đường sắt Đài Loan kết nối miền Nam và miền Bắc, việc hiện đại hóa các cảng Kirun (Cơ Long) và Takao (Cao Hùng) đã được hoàn thành và tạo thuận lợi cho việc vận chuyển và chuyên chở các nguyên liệu thô và nông sản bằng tàu biển. Xuất khẩu đã tăng gấp bốn lần. Hệ thống tưới tiêu với các đập nước bao phủ 55% diện tích đất nông nghiệp tại Đài Loan. Sản xuất lương thực gia tăng gấp bốn lần và việc sản xuất đường đã gia tăng gấp 15 lần từ năm 1895 đến 1925 và Đài Loan đã trở thành một vùng lương thực chính phục vụ cho nền kinh tế công nghiệp của Nhật Bản. Hệ thống chăm sóc sức khỏe được thiết lập rộng rãi và các bệnh truyền nhiễm đã gần như được loại bỏ hoàn toàn. Tuổi thọ trung bình của một cư dân Đài Loan tăng lên 60 vào năm 1945. Vào tháng 10 năm 1935, tổng đốc Đài Loan đã tổ chức một Triển làm kỉ niệm 40 năm Nhật Bản bắt đầu quản lý Đài Loan, giới thiệu những thành tựu của quá trình hiện đại hóa Đài Loan dưới sự cai trị của Nhật Bản. Điều này thu hút sự chú ý trên toàn thế giới, trong đó chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đã cử một người được giáo dục tại Nhật Bản là Trần Nghi đến tham dự sự kiện. Ông bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình về khả năng của chính quyền Nhật Bản trong việc phát triển Đài Loan, và nhận xét rằng người Đài Loan thật may mắn vì đã được sống dưới quyền quản lý có hiệu quả như vậy. Trần Nghi về sau trở thành trưởng quan hành chính đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan. Thời kỳ cai trị sau của Nhật Bản đã chứng kiến sự xuất hiện một tầng lớp ưu tú được giáo dục và có tổ chức của người bản địa. Trong thập niên 1930, một vài nhóm lãnh đạo nội địa được thành lập trong thời điểm ở những nơi khác trên thế giới, người ta đang tìm cách chấm dứt chủ nghĩa thực dân. Năm 1935, người Đài Loan đã bầu nhóm đầu tiên của họ làm thành viên của cơ quan lập pháp địa phương. Vào tháng 3 năm 1945, nhánh lập pháp của chính quyền Nhật Bản đã sửa đổi luật bầu cử để cho phép có đại diện của Đài Loan trong Quốc hội Nhật Bản. Khi Nhật Bản tiến hành chiến tranh trên quy mô toàn Trung Quốc vào năm 1937, họ đã mở rộng khả năng sản xuất các vật vật tư dùng cho chiến tranh của Đài Loan. Năm 1939, tại Đài Loan, sản xuất công nghiệp đã vượt qua sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, kế hoạch "hoàng dân hóa" đã được tiến hành để thấm nhuần "tinh thần Nhật Bản" ("Đại Hòa hồn") trong các cư dân Đài Loan, và đảm bảo rằng người Đài Loan sẽ vẫn là các thần dân trung thành với Thiên hoàng Nhật Bản và sẵn sàng hy sinh trong chiến tranh. Các biện pháp bao gồm giáo dục tiếng Nhật, lựa chọn tên gọi Nhật Bản, và theo tín ngưỡng Nhật Bản. Năm 1943, 94% trẻ em được hưởng 6 năm giáo dục bắt buộc. Từ năm 1937 đến 1945, 126.750 người Đài Loan đã tham gia và phục vụ trong quân đội Nhật Bản, trong khi 80.433 đã nhập ngũ từ năm 1942 đến 1945. Trong tổng số này, có 30.304 người hay 15%, đã thiệt mạng trong các cuộc chiến của Nhật Bản tại châu Á. Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động rất nhiều tại Đài Loan. "Nam tiến luận" là dựa trên Đại học Đế quốc Đài Bắc (nay là Đại học Quốc lập Đài Loan) tại Đài Loan. Nhiều trong số các lực lượng Nhật Bản tham gia Không chiến Đài Loan đặt căn cứ tại Đài Loan. Các căn cứ quân sự quan trọng của Nhật Bản và các trung tâm công nghiệp trên khắp Đài Loan, như tại Takao (Cao Hùng), là mục tiêu của các vụ oanh tạc ác liệt của Hoa Kỳ. Năm 1942, sau khi Hoa Kỳ tham chiến chống lại Nhật Bản và đứng về phía Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc của Quốc Dân đảng đã từ chối thừa nhận tất cả các hiệp ước đã ký với Nhật Bản trước đây và biến việc Đài Loan trở về Trung Quốc (cũng như Mãn Châu) là một trong các mục tiêu chiến tranh. Trong Tuyên bố Cairo năm 1943, các lực lượng Đồng Minh đã tuyên bố sự trở về Trung Quốc của Đài Loan (bao gồm Bành Hồ) là một trong số các yêu cầu của Đồng Minh. Năm 1945, Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện với việc ký vào văn kiện đầu hàng và chấm dứt quyền cai trị của mình tại Đài Loan và lãnh thổ này được đặt dưới quyền kiểm soát hành chính của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1945 bởi Cơ quan Cứu tế và Phục hồi Liên Hợp Quốc. Theo quy định trong điều 2 của Hiệp ước San Francisco, Nhật Bản chính thức từ bỏ chủ quyền lãnh thổ đối với Đài Loan và quần đảo Bành Hồ, hiệp ước được ký kết vào năm 1951 và có hiệu lực vào năm 1952. Khi Hiệp ước Hòa bình San Francisco có hiệu lực, tình trạng chính trị của Đài Loan và quần đảo Bành Hồ vẫn chưa chắc chắn. Trung Hoa Dân Quốc và Nhật Bản đã ký kết Hiệp ước Hòa bình Trung-Nhật vào ngày 28 tháng 4 năm 1952 tại Đài Bắc và hiệp ước có hiệu lực vào ngày 5 tháng 8 cùng năm.
1
null
Anh Quân (tên đầy đủ là Trương Anh Quân, sinh ngày 3 tháng 10 năm 1971) là nhạc sĩ, nhà sản xuất âm nhạc đã nhận 2 đề cử và giành được 1 giải Cống hiến. Anh là con trai của nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh và nghệ sĩ - phát thanh viên Đài tiếng nói Việt Nam Thu Hiền. Năm 1993, anh cùng Huy Tuấn lập nên ban nhạc Anh Em tại Đức. Năm 1998, Anh Quân lập gia đình với ca sĩ Mỹ Linh, cùng ban nhạc Anh Em đưa tên tuổi của Mỹ Linh trở thành một trong những "diva" của làng nhạc nhẹ Việt Nam. Hiện nay, ngoài sáng tác, Anh Quân cũng trở thành một nhà sản xuất âm nhạc thành công. Anh Quân từng là thành viên của Hội đồng thẩm định chương trình "Bài hát Việt" (2010-2013). Anh từng là giám khảo chương trình (2014). Tuổi thơ. Anh Quân sinh ra tại Hà Nội, là con của một gia đình nổi tiếng với cha là nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh và mẹ là nghệ sĩ Thu Hiền. Họ có một căn hộ nhỏ tại khu tập thể Đài Tiếng nói Việt Nam ở Ngã Tư Vọng. Anh Quân có một người em gái là ca sĩ - người dẫn chương trình "Văn nghệ Chủ nhật" Hương Ly. Cha là nhạc sĩ, Anh Quân dễ dàng có được niềm niềm đam mê với âm nhạc. Năng khiếu của Anh Quân sớm được nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh phát hiện, bồi đắp và nuôi dưỡng. Năm 7 tuổi, Anh Quân được học violon tại Nhạc viện Hà Nội dưới sự dìu dắt của nghệ sĩ Tạ Bôn, và tới năm 14 tuổi, anh được chọn đi du học tại Liên Xô. Dù phải sống trong thời kỳ bao cấp khó khăn, cậu bé Anh Quân không bao giờ cảm thấy thiếu thốn về vật chất cũng như tình thương từ cha mẹ. Anh nhớ lại: "Mình còn quá nhỏ tuổi nên không để ý được là bố mẹ phân chia công việc như thế nào nhưng chỉ biết là bố mẹ, hoặc ít nhất là một trong hai người, luôn ở bên cạnh các con và luôn có mặt khi tôi cần." Anh luôn biết ơn bố mẹ là những người đã tạo nên thành công cho mình: "Điều đáng quý nhất mà tôi thừa hưởng từ bố mẹ là được lớn lên trong tình thương yêu của gia đình. Tôi trở thành một người tự tin và biết sống thương yêu người khác!" Sự nghiệp. Ngay từ khi chưa biết nốt nhạc nào, Anh Quân đã có thể đệm trống một cách dõng dạc cho những bản nhạc của bố, với sự nhạy cảm tiết tấu rất rõ ràng. Sau 4 năm sơ cấp khoa violon ở Nhạc viện Hà Nội, anh được các chuyên gia Liên Xô sang trường tuyển thẳng vào Nhạc viện Tchaikovsky. Ngay trong những năm là sinh viên dưới mái trường âm nhạc cổ điển hàng đầu châu Âu này, tình yêu với nhạc nhẹ đã âm thầm nhen nhóm, ngoài giờ học ở trường, Anh Quân cùng bạn bè chơi nhạc và hát ở các nhà hàng, quán bar. Năm 1990, Liên Xô tan rã. Theo bạn bè, từ Nga, anh tìm đường sang Ba Lan, rồi sang Đức, kiếm sống bằng nhiều nghề để được tiếp tục chơi nhạc. Anh Quân tốt nghiệp violon ở Nhạc viện, nhưng sau đó "vì yêu nhạc nhẹ quá", nên anh quyết định chuyển sang chơi guitar. Anh Quân và Huy Tuấn gặp nhau từ Nhạc viện Hà Nội rồi cùng nhau sang Nga. 2 người bạn từ thuở nhỏ với cùng niềm đam mê đã lập nên ban nhạc Anh Em tại Đức vào năm 1993. Họ từng thực hiện một album có tên là "Thiên đường". Huy Tuấn nói về tình bạn với Anh Quân: "Tôi nói với Quân: "Tao với mày đi đâu cũng có nhau, cái gì cũng nghĩ chung, làm chung, cùng nghe một thứ nhạc, cùng thích chơi một thứ nhạc. Tao đi đâu cũng thấy… mày bên cạnh. Tao qua Nga mày cũng qua Nga. Tao qua Ba Lan mày cũng qua Ba Lan. Qua Đức mày cũng qua Đức. Tao ngoái lại lúc nào cũng nhìn thấy mày. Như thế quá bằng "Anh Em" còn gì! Còn hơn cả anh em!"" Kể cũng lạ, không biết sao chúng tôi cứ bám rịt lấy nhau như thế, trong khi hồi đấy cãi nhau là chính, toàn về nhạc nhẽo (chỉ khi về nước, lấy vợ rồi mới… đỡ cãi nhau). May mà hồi đấy chưa có mốt "gay" chứ không thì đã bị coi là một "cặp đôi hoàn hảo" rồi!". Anh Quân nói: ""Anh Em" vì thế quả đúng là cái tên phản ánh rất đúng mối quan hệ giữa tôi và Tuấn vì có lẽ, ngay cả đến anh em trong nhà cũng không thể thân nhau đến thế."" Năm 1997, ban nhạc Anh Em trở về Việt Nam và cộng tác với Mỹ Linh. Năm 2000, họ thực hiện thành công album "Tóc ngắn" tạo tiếng vang lớn trong dư luận và góp phần đưa Mỹ Linh trở thành ""diva" gần gũi với công chúng". Kể từ đó, họ trở thành ê-kíp chính của cô, góp phần tạo nên phong cách của "Tóc ngắn". Năm 2004, Anh Quân bắt đầu thử sức với việc sản xuất qua việc cộng tác với ca sĩ của "Sao Mai điểm hẹn" Phương Anh. Tuy nhiên, cả Huy Tuấn lẫn Anh Quân không thể đưa Phương Anh ra "ánh sáng", dù cô đã có một số thành công nhất định. Với Phương Anh, cô đành chấp nhận một vị trí khiêm tốn trong số những ca sĩ tiềm năng. Còn với Anh Quân, trong vị trí một "ông bầu", một nhà sản xuất, đó có thể xem là một dự án không thành. Năm 2005, nhạc sĩ Dương Thụ "mang tới" cho Anh Quân một giọng hát triển vọng từ phương Nam. đó là ca sĩ Nguyên Thảo. Gần như ngay lập tức họ cùng bắt tay vào dự án mang tên "Suối & cỏ". Năm 2006, album "Suối & cỏ" trình làng và trở thành hiện tượng: album này lọt vào bảng đề cử "Album của năm" giải Cống hiến, còn giọng hát chưa từng xuất hiện trên sân khấu lớn Nguyên Thảo đã được ngầm xem như người kế vị của các "diva". Thế nhưng, cũng với album này, phong cách hát của Nguyên Thảo bị so sánh quá giống với Mỹ Linh. Ngoài Mỹ Linh, ban nhạc Anh Em của Anh Quân vẫn luôn tiếp tục cộng tác với nhiều ca sĩ như Tuấn Ngọc, Thanh Lam, Hồng Nhung, Quang Dũng, Hà Anh Tuấn, Đức Tuấn, Văn Mai Hương, Tùng Dương, Nguyên Lê, Đinh Mạnh Ninh, Tô Minh Đức, Mỹ Tâm... Các chương trình cộng tác của ban nhạc Anh Em luôn được công chúng và giới chuyên môn đánh giá cao. Kể từ năm 2011, Anh Quân nhận lời tham gia Hội đồng thẩm định của chương trình "Bài hát Việt". Tới năm 2013, anh rời cương vị này. Nói về Mỹ Linh trong tư cách đồng nghiệp, anh nói: "Tôi nghĩ rằng, trong cuộc sống, những người khó tính có thể gây khó chịu cho những người xung quanh. Nhưng trong nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc, thì sự khó tính là rất cần thiết. Khi nói đến điều này, tôi phải thầm cảm ơn Mỹ Linh vì đã hiểu, thông cảm và chia sẻ cùng tôi, ngay cả những khi tôi khó tính nhất." Về ban nhạc Anh Em, anh dành những lời cảm ơn: "Tôi có một ban nhạc, với những nhạc công chơi giỏi nhất, và đương nhiên tôi biết mình đang đứng ở đâu, đang làm gì chứ! Nên dư luận quả tình không có ý nghĩa là bao đối với tôi, không quá quan trọng với tôi." Cuối năm 2012, anh cùng các nhạc sĩ Huy Tuấn và Quốc Trung đứng lên khởi xướng cuộc vận động "Nghe có ý thức" nhằm ủng hộ chiến dịch thu phí tải nhạc trực tuyến từ các trang web nhạc ở Việt Nam. Cuộc vận động sau đó được báo "Thể thao & Văn hóa" bầu chọn là một trong 10 sự kiện văn hóa của năm 2012. Năm 2013, anh trở thành giám khảo cuộc thi . Đời sống cá nhân. Hôn nhân. Khi ở Đức, Anh Quân làm quen và sống với một 1 y tá ở đây. Họ có một người con gái, Anna (tên tiếng Việt là Mỹ Hà), sinh năm 1994. Tuy nhiên họ chia tay "vì những cách biệt văn hóa" và Anna về Việt Nam sống với bố. Trở lại Việt Nam vào năm 1997, Anh Quân cùng ban nhạc Anh Em tham gia cộng tác với một ca sĩ trẻ đang lên, đó là Mỹ Linh. Ca khúc "Biển khát" – sáng tác của cha anh, nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh, sau này xuất hiện trong album "Tóc ngắn" (2000) – là lần đầu tiên 2 người quen nhau. Để thể hiện thiện chí, Mỹ Linh đã dành hết số tiền dành dụm để tặng ban nhạc một món quà mà sau này, nhạc sĩ Huy Tuấn gọi đó là "quà cưới": đó là một chiếc đàn guitar vô cùng đắt vào thời điểm đó. Năm 1998, Anh Quân và Mỹ Linh tổ chức đám cưới. Nói về cuộc hôn nhân, Huy Tuấn chia sẻ: "Lựa chọn khôn ngoan nhất của Mỹ Linh là lấy Anh Quân!". Anh Quân cũng nói về người vợ của mình: "Tôi chưa cưới người vợ nào ngoài Mỹ Linh. Linh là cuộc hôn nhân duy nhất của tôi. Mẹ của Anna chỉ là bạn gái cũ mà thôi." "Mỹ Linh chu toàn với gia đình và người đàn ông nào cũng chỉ mong có một người phụ nữ như vậy. Tôi chưa bao giờ hỏi, tình cảm của tôi dành cho Linh thay đổi thế nào trước và sau khi kết hôn. Có những việc mà chúng ta không nên dùng lý trí để cân đo. Tình nghĩa hay tình yêu, theo tôi là một. Mọi người cứ hay phân tách nó ra thôi." Năm 1999, họ có người con trai Trương Anh Duy và năm 2002, họ có con gái út là Trương Mỹ Anh. Về gia đình, Mỹ Linh nói về chồng: ""Anh ấy chưa bao giờ là người háo danh. Đối với anh ấy, gia đình là quan trọng nhất và con cái là cả một "sự nghiệp"!"" . Người bạn thân Huy Tuấn nói về gia đình Anh Quân – Mỹ Linh: "Điều kinh khủng nhất với một người đàn ông trong gia đình là bị mọi người hiểu rằng anh không phải là người kiếm tiền chính, không phải là trụ cột của gia đình – theo nếp nghĩ thông thường của người phương Đông... Đó thực sự là một định kiến lâu đời và theo tôi, chưa được công bằng cho lắm với đàn ông, nhất là với một người hết lòng vì gia đình như Anh Quân. Có ai có thể chịu đựng được điều đó suốt mười mấy năm trời không?" Về điều này, Anh Quân nói: ""Tôi biết rõ cái tôi làm là đúng, và là của hiếm, ở đàn ông Việt. Gì chứ riêng về khoản chăm con, tôi là thằng đại khéo... Những chuyện đó, tôi cho là bình thường và làm nó một cách vui vẻ, tự nguyện, mặc ai nghĩ gì, chứ không đến nỗi phát khổ phát sở để mà cần phải có cái gọi là "nghị lực"!"" Anh nói thêm: "Trong cuộc sống, tôi là một người rất kỷ luật, không chỉ với mọi người xung quanh mà ngay với chính bản thân mình. Nguyên tắc của tôi là nếu Linh đi công tác thì không bao giờ các con tôi vắng bố một ngày. Tôi không bao giờ để cho các con phải ăn cơm một mình hoặc thiếu bố trước khi đi ngủ. [..] Không ai có thể bận rộn tới mức không có thì giờ dành cho con cả. Đó chỉ là sự ngụy biện mà thôi. Con cái đối với tôi rất lớn. Nó lớn hơn cả sự nghiệp của tôi." Đam mê. Ngoài âm nhạc, Anh Quân là người có niềm đam mê lớn tới công nghệ. Khi còn ở Đức và thực hiện album đầu tay "Thiên đường" cùng Huy Tuấn, anh đã thực sự bị cuốn hút với việc thực hiện âm nhạc bằng máy tính.. Album "Tóc ngắn" (2000) của Mỹ Linh mà chính tay anh cùng thực hiện sản xuất được coi là album tiên phong của làng nhạc Việt Nam cho việc áp dụng công nghệ này. Ngoài ra, Anh Quân cũng còn những sở thích khác nữa, như ô tô, iPhone và nuôi chó. Mỹ Linh trả lời phỏng vấn trên tạp chí "Đẹp" số 150: "Có tiền hay có nhiều tiền? Nếu thật nhiều tiền, thì như Anh Quân vẫn hay nói với tôi, anh ấy sẽ xây dựng một trại trẻ mồ côi." Quan điểm âm nhạc. Tu nghiệp ở châu Âu, những dòng nhạc phương Tây đã ngấm vào máu của Anh Quân. Cũng chính vì mê nhạc nhẹ mà kể cả khi có bằng về violon, anh cũng quyết định chơi guitar. Anh và Huy Tuấn lập ra ban nhạc Anh Em với anh chơi guitar còn Huy Tuấn chơi bass. Anh nói về lần đầu tiên khi nghe tới Mỹ Linh: ""Có lần về phép, tôi được Hương Ly – em gái tôi – chỉ cho nghe Mỹ Linh hát bài "Chị tôi", lúc đó được coi là bài hit của Linh. Kiểu tự sự đấy, tôi không "vào" được. Nhưng khi tiếp xúc, cảm thấy Linh thực sự là một kẻ say nghề, thì tôi mới muốn cùng cô ấy làm một cái gì đó thật tử tế cho âm nhạc, để xứng đáng với sự để ý hơn."" Anh nói về bước ngoặt năm 1997 "là trở về Việt Nam làm việc cùng Huy Tuấn, khi ấy thị trường âm nhạc Việt Nam có bước chuyển biến, dòng nhạc nhẹ khởi sắc. Ra đĩa "Tóc ngắn" cho Linh cũng là bước ngoặt lớn." Trong suốt sự nghiệp âm nhạc của Mỹ Linh kể từ năm 2000, R&B, funk và soul luôn là dòng nhạc chủ đạo, đưa cô trở thành một tên tuổi lớn của làng nhạc Việt. Anh Quân, với vai trò thủ lĩnh của ban nhạc Anh Em, nhà sản xuất và phụ trách chính về chuyên môn của ê-kíp, luôn là người đảm bảo tính nghệ thuật của các sản phẩm. Album "Tóc ngắn" năm 2000 không chỉ thay đổi quan điểm trong nhạc nhẹ Việt Nam mà còn tạo ra những chuyển biến về việc thực hiện sản phẩm âm nhạc phòng thu. Năm 2005, họ thành công với album "Chat với Mozart" viết nhạc R&B trên nền nhạc cổ điển. Tới năm 2011, Mỹ Linh cùng ê-kíp của ban nhạc Anh Em đã thử nghiệm phong cách nhạc pha jazz với chất liệu acoustic để thực hiện album "Một ngày". Album tạo được thành công vang dội và góp phần xây đắp vững chắc tên tuổi của Anh Quân. Nói về chính mình, anh bộc bạch: "Tôi làm nhiều. Nhưng khái niệm nhiều ở đây không phải một lúc ra nhiều sản phẩm. Làm việc với tôi phải sâu một chút, như nghiên cứu về thu thanh, cách phối khí hoặc những thủ thuật mới." Về quan điểm làm việc và sáng tác, Anh Quân thừa nhận: "Tôi kỹ tính trong công việc. Nhìn chung, tôi là người nghiêm chỉnh, nhưng không khó khăn, xét nét.""Trong công việc, tôi luôn làm cái gì mà tôi cho là đúng và tôi theo nó tới cùng. Tôi rất cẩn thận, cẩn thận tới mức nhiều khi thành ngớ ngẩn." Trong một bài phỏng vấn, nhạc sĩ Huy Tuấn nói về người bạn vong niên: "Quân khá là nguyên tắc và phần nào đó hơi cực đoan [..]. Quân hay nghiêng về nghệ thuật và luôn cho rằng cứ hay là người ta sẽ nghe chứ không nhất thiết phải dễ nghe." Nói về con trai của mình, nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh nhận xét: "Quân cẩn thận và rất chuyên nghiệp trong cách làm âm nhạc. Trong suốt quãng thời gian thanh niên, Quân dành trọn tiền bạc, thời gian, thú vui vào âm nhạc. Sở dĩ Quân có uy tín trong nghề bởi sự làm ăn nghiêm túc, đề xướng ra những ý tưởng, dù đôi khi những ý tưởng mới của Quân chưa chắc được chấp nhận ngay." Tôn vinh. Trước khi Anh Quân và ban nhạc Anh Em thành công với "Tóc ngắn" (2000) của Mỹ Linh, R&B, funk và soul là những dòng nhạc mới và không có công chúng. Dẫu có những ý kiến rất trái chiều về "Tóc ngắn", song những thành công liên tiếp sau đó của Mỹ Linh đưa cô trở thành "diva" đã khẳng định niềm tin và con đường đúng đắn mà Anh Quân đã xây dựng trong làng nhạc Việt. Ban nhạc Anh Em được công chúng và nhiều người trong nghề coi là ban nhạc hàng đầu của Việt Nam. Nhạc sĩ, nghệ sĩ nhân dân Trần Hiếu khi tham gia liveshow "Trần Tiến – Như chờ từng giấc mơ" (2011) đã tâm sự: "Suốt hơn 50 năm đi hát, tôi chưa thấy ban nhạc nào chơi hay đến thế!" "Made in Vietnam" (2003) là album đầu tiên của Việt Nam được phát hành chính thức ở nước ngoài qua hãng Blue Tiger Records, trong khi đó "Một ngày" (2011) lại là album đầu tiên của Việt Nam được thực hiện và phát hành dưới dạng đĩa than (với sự cộng tác của kỹ thuật viên Doug Sax). Sau thành công vang dội của "Một ngày", Anh Quân cũng ấp ủ kế hoạch thực hiện một liveshow hoàn toàn "acoustic". "Chat với Mozart" từng giành số phiếu bầu áp đảo tại hạng mục "Album của năm" của giải Cống hiến 2005. Với "Mỹ Linh Tour ’06", Mỹ Linh cũng về nhất với danh hiệu "Ca sĩ của năm" của giải Cống hiến 2006 trong khi album "Suối & cỏ" mà anh sản xuất cho ca sĩ Nguyên Thảo cũng có đề cử cho "Album của năm" tại đây. Tại Giải thưởng Cống hiến 2011, album "Tóc ngắn acoustic – Một ngày" của Mỹ Linh được trao giải "Album của năm" và Anh Quân được vinh dự nhận giải "Nhạc sĩ của năm". Tại lễ trao giải, anh khiêm tốn nói về mình và ê-kíp ca sĩ Mỹ Linh: "Hôm nay tôi cảm thấy tôi rất may mắn, thứ nhất là tôi luôn được làm những việc mà tôi say mê, may mắn thứ hai là những say mê của tôi đã được nhìn nhận. Xin cảm ơn các nhà báo đã bầu chọn cho tôi. Xin cảm ơn vợ tôi, các con tôi, bố mẹ và đặc biệt ban nhạc Anh Em. Giải thưởng này cũng là món quà dành cho ban nhạc, những người đã song hành cùng tôi hàng chục năm trời" Tại buổi họp báo, anh nói: "Một lần nữa, tôi vẫn nghĩ rằng mình gặp may. Tôi biết có nhiều người tử tế nhưng chưa bao giờ họ được biết đến đúng với những gì họ làm. Và tôi cũng từng nghĩ mình là một người như thế cho đến trước giây phút này… Giải thưởng Nhạc sĩ và Album của năm là động lực tinh thần, không quy ra vật chất được, để chúng tôi tiếp tục hướng tới phía trước." Nói về giải thưởng này, Huy Tuấn chia sẻ: "Đúng là, riêng với Anh Quân, những cái gì thuộc về bề nổi chưa bao giờ là điều anh ấy quan trọng nhất. Nên kể cả có hay không có giải Cống Hiến vừa rồi, anh ấy cũng vẫn sẽ tiếp tục sống bình thản như thế. [..] Mười mấy năm ấy, bạn tôi đã phải chịu đựng quá nhiều điều tiếng, phải hy sinh quá nhiều thứ để có được Mỹ Linh bây giờ, gia đình bây giờ và cả sự nghiệp bây giờ. Chẳng dễ dàng gì chịu đựng được bằng ấy thứ trong suốt mười mấy năm trời với một cái nghề mà danh tiếng và sự đánh giá của dư luận là rất quan trọng." Nói về người chồng của mình trên tư cách đồng nghiệp, Mỹ Linh nói: "Khách quan mà nói Anh Quân là người yêu nghề, kỹ càng và sâu sắc. Nhưng hơn hết, ở anh ấy luôn có sự chân thành và công bằng. Cho dù cộng tác với ai thì ở anh ấy cũng chỉ một thái độ làm việc ấy mà thôi. Đấy cũng chính là điểm mà tôi thấy yêu và nể phục anh ấy. [..] Tôi nghĩ nếu buộc phải chọn giữa việc bị người ta ghét hoặc bị người ta khinh thì anh Quân sẽ luôn chọn cái thứ nhất."
1
null
Caesalpinia echinata là một loài thực vật thân mộc thuộc họ Đậu mọc ở Brasil. Cây này có thể cao đến 15 mét và các mảnh vỏ cây màu nâu tối với các mảng vỏ lớn, làm lộ ra gỗ màu đỏ máu bóng bên dưới. Lá lông chim và mỗi lá gồm có từ 9 đến 19 lá nhỏ có lông thuôn dài và rộng. Đây là cây biểu tượng của Brasil từ năm 1978.
1
null
Keo hoa vàng (Danh pháp khoa học: Acacia pycnantha) là một loài thực vật thuộc họ Đậu, phân họ Trinh nữ, chi Keo. Cây cao 8 m (25 ft) và có cuống lá dẹt thay vì lá thật. Cuống lá hình lưỡi liềm, dài từ 9 đến 15 cm (3,5–9 in), và rộng 1 đến 3,5 cm (0,5–1,5 in). Hoa vàng, thơm, phát triển nhiều vào cuối đông và mùa xuân. Câu thụ phấn chéo nhờ một số loài chim thuộc họ Ăn mật và chi Acanthiza. Những loài chim này hút mật, rồi cọ phải những bông hoa khác, mang phấn hoa đi theo. Loài này phân bố ở đông nam nước Úc từ bán đảo Eyre phía Nam của Nam Úc vào phía tây tiểu bang Victoria và phía Bắc vào nội địa khu vực phía nam New South Wales và Lãnh thổ Thủ đô Úc. Cây được tìm thấy trong các tầng dưới của rừng bạch đàn mở trên đất khô, nông. cây được trồng ở khu vực trong tất cả các tiểu bang phía nam của Úc cũng như Nam Phi và California. Năm 1842, Thomas Mitchell phát hiện ra loài khi thu thập các loại mẫu vật, còn George Bentham đã mô tả loài. Vỏ cây" Acacia pycnantha" tạo ra chất tannin nhiều hơn bất cứ loài cây keo khác, dẫn đến việc khai thác thương mại sản xuất hợp chất này. Nó đã được trồng rộng rãi làm cây cảnh và sản xuất hoa, nhưng nó lại là cây dại ở Nam Phi, Tanzania, Ý, Bồ Đào Nha, Sardinia, Ấn Độ, Indonesia, New Zealand, cũng như Miền đông nước Úc, Tasmania và New South Wales. Acacia pycnantha đã được bầu chọn là quốc hoa chính thức của Úc vào năm 1988, và đã là biểu tượng in trên tem bưu chính của Úc. Mô tả. Loài "Acacia pycnantha" thường mọc thành cây nhỏ, cao từ 3 đến 8 m (10–25 ft), mặc dù theo báo cáo ở Morocco, loài cây có thể cao lên đến 12 m (40 ft). Vỏ cây thường có màu nâu đậm hoặc xám mịn lúc còn bé và nhăn lại và sần sùi khi đã già. Cành không có hoa hoặc phủ hoa trắng. Các cây trưởng thành không có lá thật nhưng có cuống lá dẹt từ từ các cành, có màu xanh lá cây sáng hoặc tối. Cuống lá hình lưỡi liềm, dài từ 9 đến 15 cm (3,5–9 in), và rộng từ 1 đến 3,5 cm (0,5–1,5 in). Khi trưởng thành cuống mới sạm màu đồng thiếc. Quan sát thực địa tại công viên bảo tồn Hale cho thấy phần lớn cây trưởng thành vào mùa xuân và mùa hè (ở Úc) từ tháng 10 đến tháng 1. Chồi hoa ở quanh năm trên những cây trưởng thành mới, nhưng chỉ bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 5. Hoa nở từ tháng 7 đến tháng 9 (từ cuối mùa đông đến đầu mùa hè) đó là vì các chồi sau này phát triển nhanh hơn đỉnh điểm là tháng 7 và tháng 8. Những chùm hoa vàng tươi mọc thành nhóm từ 40 đến 80 bông, chùm dài 2,5–9 cm (1–3,5 in) phát sinh từ kẽ chồi. Mỗi bông hoa cấu trúc giống như quả bóng, được bao phủ bởi 40 đến 100 bông hoa nhỏ hơn có năm cánh và nhị hoa dài, khiến đầu hoa có lông mỏng. Sau khi quá trình ra hoa kết thúc, vỏ túi hạt hình hơi bẹt, thẳng hoặc cong, dài 5–14 cm (2–5,5 in), rộng 5–8 mm. Lúc cây bé, vỏ túi hạt màu xanh lá cây, khi trưởng thành có màu nâu sẫm và hơi khít lại giữa các hạt, tạo thành một chuỗi. Các hạt thuôn dài có độ dài 5,5–6 mm, màu đen bóng, áo hạt có hình chùy, xuất hiện vào tháng 12 và tháng 1, khi vỏ túi đã chín. Một số loài tương tự là cây keo mại châu ("Acacia obliquinervia"), cây keo hoa vàng ven bờ biển ("Acacia leiophylla") và cây keo hoa vàng dạng vòng hoa ("Acacia saligna"). "Acacia obliquinervia" có cuống lá màu xám xanh, ít hoa, và vỏ hạt rộng hơn (1,25–2,5 cm (1/2–1 in)). "Acacia leiophylla" có cuống lá nhạt màu. "Acacia saligna" có cuống lá dài, hẹp hơn. Quá trình phân loại. Nhà thực vật học George Bentham mô tả chính thức" Acacia pycnantha" lần đầu tiên trên Tạp chí Thực vật học London năm 1842. Nhà thám hiểm Thomas Mitchell thu thập các loại mẫu vật ở phía bắc bang Victoria giữa thị trấn Pyramid Hill và sông Loddon. George Bentham nghĩ đây là loài liên quan đến" Acacia leiophylla", mà ông mô tả ở bài báo tương tự. Tính ngữ "pycnantha" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "pyknos" (dày đặc) và "anthos" (hoa), ám chỉ đến các cụm dày đặc của loài hoa, tạo nên cụm hoa hình cầu. Nhà thực vật học Queensland Les Pedley phân loại lại loài như "Racosperma pycnanthum" vào năm 2003, khi ông đề xuất đặt gần hết các chi cây ở Úc vào chi mới có tên là "Racosperma". Tuy nhiên, tên này được coi là đồng nghĩa với tên gốc. Johann Georg Christian Lehmann mô tả "Acacia petiolaris" vào năm 1851 từ một cây trồng tại Vườn thực vật Hamburg từ hạt giống được cho là từ Thuộc địa sông Swan (Perth). Năm 1855, Carl Meissner mô tả "Acacia falcinella" lấy từ Port Lincoln. Năm 1864, Bentham phân loại cả hai loài là "Acacia pycnantha" như trong cuốn sách Flora australiensis của mình, mặc dù ông đã phân loại 1 phân loài của "angustifolia" dựa trên các dữ liệu từ Vịnh Spencer, với cuống lá dẹt hơn và ít chùm hoa. Tuy nhiên, không có phân loài được công nhận hiện nay. Năm 1921, Joseph Maiden mô tả "Acacia westonii" mọc từ sườn phía bắc và phía tây núi Jerrabomberra gần Queanbeyan ở New South Wales. Ông thấy nó giống tương tự, nhưng thực chất là khác "A. pycnantha", do đó ông không phân ra loài khác. Đồng nghiệp của ông là Richard Hind Cambage đã trồng và nghiên cứu cây giống và phát hiện ra cây có thân dài hơn nhiều so với "A. pycnantha", và cuống lá xuất hiện ba nhị chứ không phải là một như các loài khác. Nó được xem là đồng nghĩa của "A. pycnantha". Tên thường được đặt là cây keo hoa vàng, cây keo xanh, cây keo đen và cây keo lá rộng. Thổ dân vùng Ebenezer Misson ở ngoại ô Wergaia phía tây bắc Victoria gọi chúng là cây phù thủy. Phép lai của loài được biết đến trong tự nhiên và trồng trọt. Trong khu rừng Whipstick gần Bendigo ở Victoria, lai giả định với cây keo Whirrakee ("Acacia williamsonii") đã xác định; tương tự với cây keo hakea ("Acacia hakeoides"). Phép lai với cây keo bạc Queensland (Keo lá tròn) mọc lên ở châu Âu đã được đặt tên là "Acacia x siebertiana" và "Acacia x deneufvillei". Phân bố và môi trường sống. Cây keo hoa vàng được tìm thấy ở vùng đông nam nước Úc từ phía nam của bán đảo Eyre đến dãy núi Flinders, khắp tiểu bang Victoria và phía Bắc vào nội địa phía Nam của New South Wales và Lãnh thổ Thủ đô Úc. Cây được tìm thấy trong các tầng dưới của rừng bạch đàn mở trên đất khô, nông. Loài cây đã trở nên vượt quá phạm vi phân bố ban đầu ở Úc và trở thành một loài xâm lấn ở nhiều nơi khác. Tại bang New South Wales, nó mọc nhiều ở thành phố Sydney và các vùng Duyên hải miền Trung của bang. Tại bang Tasmania, nó đã lan rộng ở phía đông của bang và trở thành cỏ dại trong bụi rậm gần thủ phủ Hobart. Tại Tây Úc, nó được tìm thấy trong dãy Darling và phía tây vành đai wheatbelt cũng như ở thi trấn Esperance và Kalgoorlie. Ngoài nước Úc, cây còn xuất hiện ở Nam Phi, Tanzania, Ý, Bồ Đào Nha, Sardinia, Ấn Độ, Indonesia và New Zealand. Nó hiện diện ở California, nhưng không được xem xét để được tính là phân bố ở đó. Ở Nam Phi, nó đã được trồng từ năm 1858 và 1865 để ổn định cồn cát và sản xuất chất tannin, nhưng đã lan ra theo đường nước vào rừng, núi và đồng bằng fynbos, và các khu vực biên giới giữa fynbos và karoo. Các túi mật của hoa đã hình thành loài ong bắp cày "Trichilogaster signiventris' "đã được tìm thấy ở Nam Phi, đã giúp cân bằng hệ sinh thái và giảm khả năng sinh sản của cây trong suốt phạm vi của chúng. Ong trưởng thành đẻ trứng vào đầu nụ hoa trong mùa hè, nở tháng năm và tháng sáu. Ấu trùng gây ra sự hình thành của các mụn cây và ngăn chặn sự phát triển hoa. Cành cây có thể bị gãy dưới sức nặng của các mụn cây. Ngoài ra, loài mọt hạt keo "Melanterius compactus "xuất hiện năm 2001 cũng góp phần cân bằng hệ sinh thái. Hệ sinh thái. Mặc dù các loài cây thường bị chết do cháy, nhưng loài cây này trưởng thành có thể phát triển thành bụi chống cháy. Hạt giống có thể tồn tại trong đất trong hơn 5 năm, nảy mầm kể cả khi bị cháy. Giống như keo khác, Acacia pycnantha hấp thụ nitơ từ không khí. Đây là nơi vi khuẩn rhizobia hình thành nốt sần rễ, nơi làm cho nitơ ở dạng hữu cơ và do đó giúp cây mọc trên đất bạc màu. Một cuộc nghiên cứu thực địa trên khắp nước Úc và Nam Phi nhận thấy rằng các vi sinh vật rất đa dạng về mặt di truyền, thuộc chủng khác nhau của các loài Bradyrhizobium japonicum và chi Burkholderia ở cả hai nước. Hiện chưa rõ liệu cây keo hoa vàng đã được kèm theo các vi khuẩn này sang lục địa châu Phi hay gặp quần thể mới có. Tự không tương thích, Acacia pycnantha không thể tự thụ tinh và yêu cầu các cây phải thụ phấn chéo nhau để tạo hạt. Điều này tạo thuận lợi cho các loài chim. Đã có các thí nghiệm ngăn chim khỏi hoa cho được kết quả là làm giảm đáng kể số lượng hạt giống. Tuyến mật nằm trên cuống lá, chúng càng ở gần hoa nở thì càng hoạt động. Chúng tạo mật hoa cho chim hút ngay trước hoặc trong quá trình ra hoa. Trong khi hút, chim cọ phải đầu hoa khiến phấn hoa dính trên thân và rơi vào nhiều cây. Một số loài Họ Ăn mật, bao gồm các loài "Melithreptus lunatus", "Lichenostomus chrysops", "Phylidonyris novaehollandiae", và đôi khi cả "Lichenostomus penicillatus," "Phylidonyris pyrrhopterus", và "Acanthorhynchus tenuirostris" đã được quan sát khi kiếm ăn. Các loài chim khác bao gồm các loài "Zosterops lateralis", "Acanthiza lineata", "Acanthiza reguloides" và "Acanthiza pusilla". Khi hút mật hoa, chim thường ăn côn trùng trên các tán lá. Ong mật, ong bản địa, kiến và ruồi cũng bu vào tuyến mật, nhưng thường không tiếp xúc với hoa. Sự hiện diện của loài Acacia pycnantha tỉ lệ thuận với số vẹt "Lathamus discolor" trú đông trong rừng box-ironbark ở trung tâm Victoria, mặc dù vẫn chưa rõ vai trò của vẹt đối với loài. Gỗ dùng làm lương thực cho ấu trùng của bọ cánh cứng nhiều màu như "Agrilus assimilis", "Agrilus australasiae" và "Agrilus hypoleucus". Ấu trùng của một số loài bướm ăn lá bao gồm các loài như "Hypochrysops ignita", "Jalmenus icilius, Jalmenus lithochroa" và "Theclinesthes miskini". Ong bắp cày thuộc chi "Trichilogaster" có dạng u sưng ở đầu hoa, phá vỡ hạt cây và loài "Acizzia acaciaepycnanthae", một loài rầy hút nhựa từ lá. Acacia pycnantha bị các loài nấm gỉ trong chi "Uromycladium romycladiumi" ảnh hưởng đến cuống lá và cành. Các loài nấm bao gồm "Uromycladium simplex" hình thành mụn mủ và "Uromycladium tepperianum" gây u sưng nâu và đen để rồi dẫn đến cái chết của cây chủ. Hai loài nấm nữa đã được phân lập từ bệnh đốm lá trên "Acacia pycnantha "là "Seimatosporium arbuti" và "Monochaetia lutea". Công dụng. Keo hoa vàng đã được trồng ở các vùng ôn đới trên thế giới để lấy chất tannin trong vỏ cây, vì nó cung cấp năng suất cao nhất trong tất cả các cây keo. Cây có thể cho thu hoạch tannin khi trồng được 7–10 năm. Buôn bán gỗ bị giới hạn bởi kích thước nhỏ của cây, nhưng nó có giá trị cao như làm gỗ nhiên liệu. Những bông hoa thơm đã được sử dụng để làm nước hoa, và sản xuất mật ong ở các khu vực ẩm ướt. Tại miền nam châu Âu, nó là một trong những loài được trồng cho thương mại hoa và bán như là "cây mimosa". Giống như nhiều loài khác của cây keo, "Acacia pycnantha" chảy nhựa cao su khi ấn mạnh vào thân cây. Được ăn bởi thổ dân Úc, nhựa cao su được nghiên cứu và có thể thay thế có thể cao su thường vốn được sử dụng trong ngành công nghiệp thực phẩm. Gieo trồng. Cây keo hoa vàng trồng ở Úc và xuất hiện ở Bắc bán cầu vào giữa những năm đầu của thế 19. Dù vòng đời loài tương đối ngắn, từ 15 đến 30 năm, nó vẫn được trồng rộng rãi vì mùi hoa thơm, màu hoa vàng rực rỡ. Ngoài việc trồng làm cây cảnh, cây còn được trồng để chắn gió và để kiểm soát xói mòn. Cây được trồng cùng với cây cao su đường ("Eucalyptus cladocalyx") làm chắn gió hai lớp. Một hình thức gieo trồng rộng rãi ban đầu được thu thập trên núi Arapiles ở miền tây Victoria là lấy hoa, với hoa thơm xuất hiện từ tháng tư đến tháng bảy. Loài có sức chịu đựng sương giá, thích nghi với các điều kiện đất đai vì loài thoát nước tốt. Loài chịu đựng được những loại đất nặng ở vùng khí hậu khô, cũng như độ mặn của đất nhẹ. Nó có thể bị úa lá trong đất đá vôi có tính kiềm. Loài chịu được hạn, chỉ cần lượng mưa 370–550 mm (10–20 in) vào mùa đông là có thể trồng trọt. Khi gieo trồng, loài rất dễ bị mọc mụn cây. Trước khi trồng, cần nhúng hạt giống vào nước nóng để làm mềm lớp cứng phủ bên ngoài hạt. Biểu tượng và văn hóa. Mặc dù loài keo, và đặc biệt là loài keo hoa vàng, xưa đã là biểu tượng hoa chính thức của Úc trong nhiều năm, nó đã không được đồng ý trong hai trăm năm. Cho đến năm 1988, cây keo hoa vàng chính thức được thông qua như là biểu tượng hoa của Australia. Điều này đã được công bố bởi Toàn quyền Ninian Stephen trong công báo Chính phủ công bố vào ngày 1 tháng 9. Vợ của Thủ tướng Úc tên là Hazel Hawke đã đánh dấu buổi lễ quốc gia bằng việc trồng cây keo hoa vàng tại Vườn Quốc gia Australia. Năm 1992, chính thức tuyên bố ngày 1 tháng 9 là "Ngày loài keo quốc gia". Phù hiệu áo giáp của Úc bao gồm một vòng hoa của cây keo, tuy nhiên, không chính xác là cây keo hoa vàng. Tương tự như vậy, các màu xanh lá cây và vàng được sử dụng bởi đội thể thao quốc tế Australia đã được lấy cảm hứng từ màu sắc của keo nói chung, chứ không phải là keo hoa vàng. Loài này được miêu tả trên một con tem chú thích "keo" như là một phần của một bộ tem Úc 1959–1960 gồm hoa bản địa Úc. Năm 1970, một con tem 5c dán nhãn "Golden Wattle" đã được ban hành để bổ sung cho một tập hợp trước đó miêu tả các biểu tượng hoa của Australia. Để đánh dấu Ngày Quốc Khánh Úc vào năm 1990, một con tem 41c dán nhãn "Acacia pycnantha" đã được ban hành. Một con tem dán nhãn "Golden Wattle", với giá trị của 70c, được ban hành vào năm 2014. Xem thêm. · Danh sách các thực vật in trên tem của Australia.
1
null
Emily Robins là ca sĩ, diễn viên người New Zealand nổi tiếng qua serie phim Nàng công chúa bí ẩn và các bài hát trong phim. Cha mẹ cô là Danny Robins và Jade Robins. Gần đầy, cô tham gia đóng vai Alexandra Wilson trong bộ phim truyền hình Úc dành cho trẻ em "Công chúa Voi".
1
null
Đoàn Cải lương Cao Văn Lầu là đoàn cải lương trực thuộc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Bạc Liêu, đặt trụ sở đặt tại phường 1, thành phố Bạc Liêu, là một trong những đoàn cải lương nổi tiếng ở Đồng bằng sông Cửu Long. NSƯT Minh Chiến là trưởng đoàn. Theo đề án phát triển đoàn giai đoạn 2012-2016, đoàn phấn đấu trở thành đơn vị biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp mạnh và ổn định vào năm 2016, là động lực cho những bước tiến vững chắc của đoàn trong tương lai Giọng ca cải lương giải Cao Văn Lầu, một giải thưởng uy tín và chất lượng, vốn được xem như một sản phẩm nổi tiếng của đoàn, nhằm tìm kiếm và rèn luyện những tài năng Vọng cổ, cũng như kế thừa và phát huy bộ môn nghệ thuật độc đáo của dân tộc, đã có không ít những giọng ca đã khẳng định được tên tuổi của mình sau những mùa giải
1
null
Trận Neuve Chapelle là một trận đánh trên Mặt trận phía Tây của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra từ ngày 10 tháng 3 cho đến ngày 13 tháng 3 năm 1915 giữa Tập đoàn quân số 1 của Vương quốc Anh và Tập đoàn quân số 6 của Đế quốc Đức tại Artois.. Đây cũng là chiến dịch tấn công đầu tiên của Quân đội Anh trên Mặt trận phía Tây trong chiến tranh. Trận đánh đã kết thúc với thắng lợi chiến thuật nhưng đồng thời là thất bại về mặt chiến lược của quân Anh. Tuy quân Anh đã chiếm được Neuve Chapelle với cái giá đắt, họ đã không thể mở đường ra Lille. Thất bại của quân Anh trong trận Neuve Chapelle kết hợp với thất bại đẫm máu của quân Pháp trong trận Champagne lần thứ hai đã trở thành những thắng lợi khiến cho Tổng tham mưu trưởng Quân đội Đức là Erich von Falkenhayn giữ thế cân bằng trong cuộc xung đột riêng tư giữa ông với các vị tư lệnh của quân Đức trên Mặt trận phía Đông.. Tổng tư lệnh Quân đội Anh là Ngài John French đã ra lệnh cho Tập đoàn quân số 1 của Anh dưới quyền tướng Douglas Haig tiến công Neuve Chapelle và cao điểm Aubers. Nếu thành công, cuộc tấn công này sẽ gây hiểm họa đến trung tâm hỏa xa của Quân đội Đức tại Lille. Haig đã dự kiến tiến hành những chiến thuật "cắn và giữ" mới mẻ do Quân đoàn IV của Anh thực hiện. Theo ý tưởng này, người Anh sẽ chiếm giữ một chút phần đất dễ phòng vệ, buộc đối phương phải phát động những cuộc phản công đắt giá nhằm vào họ. Vào ngày 10 tháng 3 năm 1915, cuộc tấn công của quân Anh đã gây cho đối phương bất ngờ, sau một cuộc công pháo rất lớn. Quân Anh đã nhanh chóng tràn ngập tuyến đầu tiên của quân Đức và chiếm được Neuve Chapelle, mặc dù chịu thiệt hại không nhỏ. Tuy họ đã xóa bỏ chỗ lồi về hướng Bắc của ngôi làng này, cuộc tiến công trên một mặt trận hẹp hòi này đã không thể vượt qua các cứ điểm vững mạnh của quân Đức và bị mất đà. Chung cuộc, quân Anh-Ấn không thể tấn công hợp đồng và chỉ làm nên được bước tiến nhỏ nhoi trong ngày hôm ấy. Đêm ngày 10 tháng 3, quân Anh lập kế hoạch tiến công cho ngày hôm sau và quân Đức cũng tăng cường lực lượng. Vào ngày 11 tháng 3 năm 1915, sau một cuộc pháo kích vô hiệu quả của mình, các đơn vị của quân Anh bị súng máy của quân Đức quét tan. Ngoài ra, sự công pháo của quân Đức vào đường dây điện thoại của quân Anh đã gia tăng khó khăn về liên lac của người Anh. Sang ngày 12 tháng 3 năm 1915, Tư lệnh Tập đoàn quân số 6 của Đức là Thái tử Rupprecht xứ Bayern đã phát động phản công quyết liệt. Quân Anh bị đánh bật khỏi vị trí xuất phát của cuộc phản kích này, nhưng giữ được Neuve Chapelle. Trong khi đó, các đơn vị Anh đã tàn tạ và chỉ có thể thực hiện những đợt công kích yếu ớt. Đến cuối ngày, quân Anh không thu được một thắng lợi đáng kể nào và đóng trong chiến hào. Trước tình thế bất lợi, quân Anh đã chấm dứt trận chiến này, trong khi người Đức vẫn làm chủ cao điểm ở hướng Đông. Nhìn chung, đối với cả hai phía trận đánh này là một cuộc tàn sát. Trong khi Quân đội Anh đã rút gọn được trận tuyến của mình với tổn thất nặng nề, thiệt hại của Quân đội Đức - vốn ngang ngửa với thiệt hại của đối phương - chủ yếu là do cuộc phản kích của họ trong giai đoạn cuối của trận đánh. Ngoài ra, quân đội của Haig cũng chịu hao tổn không ít đạn pháo, và sự thiếu hút đạn dược được cho là nguyên nhân khiến cho người Anh thua trận này. Cuộc bại trận tại Neuve Chapelle đã khiến cho người Anh chủ trương tiến công trên một mặt trận rộng lớn hơn trong khi người Đức tin tưởng vào khả năng phòng ngự của các lực lượng yếu ớt nhưng được sự hỗ trợ của hỏa lực. Sau trận đánh. Tổng chỉ huy quân đội Anh, Thống chế John French khẳng định rằng quân Anh thua trận vì đạn pháo không đủ. Phát biểu này dẫn đến Khủng hoảng đạn dược 1915, cùng với thất bại ở Dardanelles khiến chính phủ của Đảng Tự do của Thủ tướng H. H. Asquith sụp đổ. Ông ta phải thành lập chính phủ liên hiệp mới và bổ nhiệm David Lloyd George làm Bộ trưởng Đạn dược. Hành động đó cũng cho thấy, người Anh đã nhận thức được rằng, cả nền kinh tế của họ phải chấp nhận gồng mình ra gánh lấy cuộc chiến tranh khổng lồ này nếu như muốn quân đội trụ vững trên chiến trường. Vai trò của binh sĩ Ấn Độ. Một nửa số binh sĩ trong các lực lượng tiến công của Anh tại trận chiến này là người Ấn Độ. Đây là một trong những trận đánh lớn mà quân đội Ấn Độ thuộc Anh tham gia trong chiến tranh. Nhiều đơn vị Ấn Độ đã tham gia những đợt công kích phá vỡ phòng tuyến Đức ở Neuve Chapelle và đánh chiếm Aubers. Tuy nhiên, do pháo binh Anh không tới kịp, quân Ấn Độ không được pháo binh yểm hộ và bị quân Đức đánh thiệt hại nặng. Gần 1 nghìn binh sĩ Ấn Độ tử thương. Cũng trong ngày đó, tư lệnh Tập đoàn quân số 1 của Anh là Douglas Haig cũng tung ra 1 đợt tấn công vô nghĩa như vậy và kết quả cũng thê lương như thế. Ngày 25 tháng 4, các đơn vị Ấn Độ cũng lần đầu tiên nếm phải mùi vị hơi độc mà quân Đức dùng trong chiến tranh. Trong trận đánh này, tử sĩ Gabbar Singh Negi thuộc trung đoàn bộ binh số 39 Garhwal Rifles đã được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Victoria, phần thưởng cao nhất của nước Anh dành cho lòng dũng cảm. Công trạng của ông đã được ghi nhận trên tạp chí "The London Gazette" như sau: Gabbar Singh Negi cũng là một trong 4.700 tử sĩ Ấn Độ được khắc tên tưởng niệm tại Đài tưởng niệm Ấn Độ Neuve-Chapelle thuộc quyền quản lý của Ủy ban Mộ phần Chiến tranh Khối Thịnh vượng chung. Mộ phần của những binh sĩ Ấn Độ cũng có thể được tim thấy tại Ayette, Souchez và Neuve-Chapelle. Trong văn hóa đại chúng. Trong tác phẩm "The Magus" của John Fowles, nhân vật chính hồi tưởng lại trải nghiệm của mình tại trận đánh này với mục đích mô tả cuộc chiến tranh là tàn khốc một cách vô lý. Neuve Chapelle được nhân vật chính gọi là "một nơi không có khả năng cho sự tồn tại của lý trí".
1
null
Khoan La San theo cách gọi tại Việt Nam hay Thập Tầng Đại Sơn () theo cách gọi của Trung Quốc là ngọn núi nằm ở ngã ba biên giới giữa Việt Nam (tỉnh Điện Biên), Lào (tỉnh Phongsaly) và Trung Quốc (Phổ Nhĩ, Vân Nam). Mốc số 0 trên đỉnh núi là giao điểm đường biên giới ba nước, là mốc lớn được làm bằng đá hoa cương, có ba mặt, gắn quốc huy của ba nước. Mốc được cắm mốc chính thức vào ngày 27 tháng 6 năm 2005, cao 1,6 mét, bệ mốc cao 0,4 m. Từ đỉnh núi nhìn về phía Việt Nam và phía Trung Quốc là rừng rậm, nhìn về phía Lào là đồi núi trọc.
1
null
Phu Xai Lai Leng là một ngọn núi trên dãy Trường Sơn Bắc. Ngọn núi có đỉnh cao 2720 mét và nằm trên biên giới giữa Việt Nam (tỉnh Nghệ An) và Lào (tỉnh Xiengkhuang). Đây là một trong các đỉnh cao vượt trội (Ultra prominent peak), nghĩa là cao hơn so với địa hình xung quanh từ 1500 mét trở lên, tại Đông Nam Á. Núi có cấu tạo granit xuyên lên trầm tích cổ sinh hạ. Rừng chí tuyến và á chí tuyến ẩm.
1
null
Lockheed Hudson là một loại máy bay ném bom hạng nhẹ và trinh sát bờ biển do Hoa Kỳ chế tạo, ban đầu nó được chế tạo cho Không quân Hoàng gia (RAF) ngay trước khi Chiến tranh thế giới II bùng nổ và chủ yếu được sử dụng tại các chiến trường co sự tham chiến của RAF. Hudson là hợp đồng chế tạo máy bay quan trọng đầu tiên của hãng Lockheed Aircraft Corporation—RAF lúc đầu đặt mua 200 chiếc Hudson, vượt xa mọi con số đơn hàng trước đây công ty nhận được. Hudson hoạt động trong suốt cuộc chiến, chủ yếu thuộc Bộ tư lệnh bờ biển nhưng cũng được sử dụng làm máy bay vận tải và huấn luyện và chở điệp viên vào vùng đất bị chiếm đóng của Pháp. Chúng cũng được Không quân Hoàng gia Canada dùng làm máy bay chống tàu ngầm một cách rộng rãi.
1
null
Lockheed Ventura là một loại máy bay tuần tra trong Chiến tranh thế giới II, nó được Hoa Kỳ và khối thịnh vượng chung Anh sử dụng. Nó được phát triển từ máy bay vận tải Lockheed Model 18 Lodestar, và thay thế cho lại máy bay ném bom Lockheed Hudson trong Không quân Hoàng gia Anh. Liên kết ngoài. [[Thể loại:Máy bay quân sự Hoa Kỳ thập niên 1940]] [[Thể loại:Máy bay chiến đấu]] [[Thể loại:Máy bay ném bom]] [[Thể loại:Máy bay tuần tra]] [[Thể loại:Máy bay chống tàu ngầm]] [[Thể loại:Máy bay hai động cơ cánh quạt]] [[Thể loại:Máy bay cánh dưới]]
1
null
Perdiccas I (? - 678 TCN) là vua thứ tư của vương quốc Macedonia từ 700 TCN - 678 TCN, và được ghi chép đầu tiên trong biên niên sử Macedonia. Herodotus trong "Lịch sử" có viết về ông như sau: "Ông từ Argos bỏ trốn về Illyria cùng với con cháu của tổ phụ Temmenus là Gauanes, Aeropus, và ông ta (tức Perdiccas) rời Illyria di chuyển xuống định cư ở thành phố Lebaia ở vùng thượng Macedonia"
1
null
Martin B-10 là loại máy bay ném bom một tầng cánh làm hoàn toàn bằng kim loại đầu tiên được đưa vào sử dụng thường xuyên trong biên chế của Quân đoàn Không quân Lục quân Hoa Kỳ, nó được đưa vào biên chế tháng 6/1934. Nó cũng là máy bay ném bom sản xuất hàng loạt đầu tiên có hiệu năng tốt hơn so với các máy bay tiêm kích của Lục quân cùng thời. B-10 cùng được dùng làm khung thân cho các loại B-12, B-13, B-14, A-15 và O-45 dùng động cơ Pratt & Whitney thay cho động cơ Wright Cyclones. Tính năng kỹ chiến thuật (B-10B). "United States Military Aircraft Since 1909"
1
null
Google Now là một ứng dụng di động trợ giúp tìm kiếm cá nhân được tạo ra bởi Google và được hỗ trợ bởi chức năng nhận dạng giọng nói người dùng và phân biệt liệt kê ra kết quả cho họ trong đồ thị tri thức, được xây dựng trên nền tảng hệ điều hành Android 4.1 (Jelly bean). Giao diện. Google Now được chứa trong các ứng dụng Google Search và nằm bên dưới thanh tìm kiếm. Các thẻ tự động xuất hiện trong suốt cả ngày và được sắp xếp theo chiều dọc với các thẻ tương tự xuất hiện xếp chồng lên nhau trên đầu trang của mỗi khác.
1
null
Chùa Hội Khánh là một ngôi chùa cổ Phật giáo được Thiền sư Đại Ngạn (thuộc dòng Lâm Tế) khai sơn năm Cảnh Hưng thứ 2, đời Lê Hiển Tông, tức năm Tân Dậu (1741) ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Lúc đầu chùa được xây trên một ngọn đồi cao, nhưng vào năm 1861 nó bị phá hủy trong chiến tranh. Chùa được cho xây lại do thầy Thích Chánh Đắc dưới chân đồi khoảng 100 m cách vị trí cũ. Địa chỉ của chùa hiện tại là 29 đường Chùa Hội Khánh phường Phú Cường thành phố Thủ Dầu Một, 30 km về phía bắc Thành phố Hồ Chí Minh. Chùa nằm cách đường cái 150 m. Sau cổng Tam Quan có chạm rồng phụng chùa tọa trên một vùng dất yên tỉnh với nhiều cây cối, đặc biệt là có bốn cây dầu đã được trồng hơn một thế kỷ không bao lâu sau khi chùa được xây lại. Dù được trùng tu và mở rộng nhiều lần chùa vẫn không mất đi vẻ cổ kính. Nơi tụng kinh và phía đông chùa được xây dựng lại vào năm 1917 và phía tây được xây lại vào năm 1984. Chánh điện được xây lại năm 1990 và 1991. Vào ngày 29 tháng 2 năm 1992 Hội đồng Phật giáo tỉnh Sông Bé cho trùng tu lại những pho tượng lịch sử trong chùa. Diện tích của chánh diện cộng với nơi tụng kinh và phai gian phía bên đông và tây là 700 m². Trong chính diện có tượng Phật Thích Ca, Địa Tạng và những vị bồ tát khác, tất cả đều làm bằng gỗ thiếp vàng. Ngoài ra có tượng của 18 La Hán xung quanh chính điện. Các tượng được tạo ra do các thợ trong vùng Thủ Dâu Một vào thế kỷ thứ 19.{ Trong suốt 250 năm kể từ ngày thành lập chùa đã có 10 vị trụ trì. Chín vị đã mất được hỏa thiêu và tro được giữ lại tại chùa. Các vị trụ trì quá cố gồm có: Thích Đại Ngạn, Thích Chân Kính, Thích Chánh Đắc, Thích Trí Tập, Thích Thiện Quới, Thích Từ Văn, Thích Ấn Bửu - Thiện Quới, Thích Thiện Hương và Thích Quảng Viên. Đương nhiệm trụ trì là Hòa thượng Thích Huệ Thông. Ngài cũng là Phó Tổng Thư KÍ Kiêm Chánh Văn phòng 2 TW GHPGVN, Phó ban thường trực Ban Pháp chế TW, Phó ban Thông tin truyền thông TW, Phó Thư kí Ban Tăng sự TW, Trưởng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bình Dương. Đã từ lâu, chùa Hội Khánh là một trung tâm tu học Phật giáo trong vùng. Nhiều thầy đào tạo từ chùa đã ra mở chùa mới và trụ trí ở đó. Một thầy nổi bật từ chùa là Hòa thượng Thích Từ Văn được coi là thầy dẫn đầu trong Phật giáo miền nam Việt Nam thời đó. Năm 1920 thầy được mời qua Marseille, Pháp để thuyết pháp. Thầy là một người có công lớn trong việc thiết lập chùa Hội Khánh ở Marseille.
1
null
Giáo sư Chu Hảo (sinh năm 1940) là một nhà khoa học, cựu chính khách tại Việt Nam. Ông từng giữ chức Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam từ 1996 đến 2005. Ông từng là Giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức và Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Phan Châu Trinh. Năm 2018, Ủy ban Kiểm tra Trung ương kỷ luật ông bằng hình thức khai trừ Đảng. Hành động này đã dẫn đến việc một số trí thức tuyên bố từ bỏ Đảng Cộng sản để phản đối. Thân thế. Chu Hảo sinh ngày 15 tháng 5 năm 1940 tại Bắc Giang trong gia đình cán bộ cách mạng, cha là ông Chu Đình Xương, cán bộ cao cấp của ngành công an, từng giữ chức Giám đốc Sở Công an Bắc Bộ năm 1945, Phó Giám đốc Sở Công an Trung Bộ, Giám đốc Sở Công an Nam Trung Bộ, sau chuyển ngành làm Chánh Văn phòng Bộ Văn hóa. Khi còn nhỏ ông từng sang học 5 năm tại trường Dục Tài, Quế Lâm, Quảng Tây, Trung Quốc rồi về Việt Nam học tiếp tại lớp 10 trường Chu Văn An. Sự nghiệp. Năm 1960 Chu Hảo được nhà nước cử sang Liên Xô học tập ở trường Đại học Bách khoa Kiev. Ông tốt nghiệp năm 1965 rồi ở lại trường làm tiếp Phó tiến sĩ. Thời gian sau ông làm việc tại Viện Nghiên cứu năng lượng nguyên tử Nga. Về Việt Nam, ông tham gia xây dựng Viện Vật lý Việt Nam, tiền thân của Viện Khoa học Việt Nam. Năm 1976-1979, ông giảng dạy tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội Năm 1979 ông sang Pháp tu nghiệp, làm luận án tiến sĩ. Năm 1983, Chu Hảo được phong Giáo sư. Năm 1985, ông làm Viện trưởng Viện nghiên cứu công nghệ quốc gia. Ngoài ra, ông còn công tác tại các viện: Năm 1995, ông giữ chức Chánh Văn phòng Chương trình quốc gia phát triển công nghệ thông tin. Năm 1996, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam kiêm Giám đốc dự án Khu công nghệ cao Hòa Lạc. Năm 2005, ông nghỉ hưu. Hiện nay ông là Giám đốc nhà xuất bản Tri Thức với hy vọng mang lại cho người Việt một tủ sách tinh hoa tri thức của thế giới.. Từ năm 1996 đến nay, ông là Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Pháp. Ông cũng là thành viên của Viện Nghiên cứu Phát triển từ năm 2002 cho đến khi viện này tự giải thể vào năm 2009 để phản đối quyết định số 97 của thủ tướng chính phủ. Vinh danh. Năm 2005, ông được trao tặng Huân chương Quốc công của Pháp. Đề nghị kỷ luật. Ngày 25 tháng 10 năm 2018, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam công bố kết luận tại kỳ họp thứ 30, từ ngày 17 đến 19/10, cho rằng ông Chu Hảo, Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Tri thức, đã vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm, có những bài viết, phát ngôn có nội dung trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ông Chu Hảo được cho đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, từ năm 2011 đến nay, ông Chu Hảo đã tham gia ký tên, soạn thảo và trực tiếp soạn thảo 7 kiến nghị, thư ngỏ với nhiều nội dung chưa đúng, không phù hợp, trái với đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước, để các phần tử xấu lợi dụng, xuyên tạc sự thật, ảnh hưởng đến uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Ông buộc "chịu trách nhiệm chính về việc Nhà xuất bản Tri thức từ năm 2005 đến 2018 xuất bản 29 cuốn sách có nội dung trái với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, vi phạm luật Xuất bản, bị cơ quan chức năng xử lý, thu hồi và tiêu hủy". Cụ thể trong giai đoạn 2005-2009, ông đã cho xuất bản 5 cuốn sách bao gồm "Đường về nô lệ" (F.A. Hayek), "Karl Marx" (Peter Singer), "Tranh luận để đồng thuận" (Nhiều tác giả), "Việt Nam thay đổi và hạnh phúc" (Nhiều tác giả), "Ông Sáu Dân trong lòng dân" (Nhiều tác giả). Giai đoạn 2009-2018, ông xuất bản 2 cuốn vi phạm về chính trị, tư tưởng bị cấm phát hành; 17 cuốn sách sai phạm ở mức độ ít nghiêm trọng và 5 cuốn không được phép tái bản. Ngày 29 tháng 10, trong nội dung thư ký tên của Chu Hảo hôm 26/10/2018 nhưng mới vừa được lan truyền trên mạng xã hội ở Việt Nam hôm 29/10, ông viết rằng Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản) mà ông gia nhập 45 năm trước ""không còn tính chính danh. Đảng này (hiện có trên 4 triệu thành viên), có nhiều khuất tất, ngày càng thoái hóa, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và xu thế tiến bộ của nhân loại" và đề nghị chi bộ "xóa tên tôi trong danh sách Đảng viên"". Từ ngày 12 đến 14/11/2018 tại kỳ họp thứ 31 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ủy ban đã xem xét thi hành kỷ luật ông Chu Hảo bằng hình thức khai trừ Đảng. Ủy ban kết luận, quá trình xem xét kỷ luật, ông Chu Hảo không chấp hành quy định của Đảng, "có hành vi chống đối". Phản ứng. Hai trí thức nhiều năm tuổi đảng tuyên bố từ bỏ đảng Cộng sản ngay sau đề nghị kỷ luật Giáo sư Chu Hảo. Tính tới ngày 29.10, theo đài VOA (Mỹ) thì có ít nhất 13 người vừa tuyên bố bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có trung tá Quân đội Trần Nam, Giảng viên Đại học Khoa Học Tự Nhiên Trần Thanh Tuấn, Trung úy Quân đội Nguyễn Hữu Chiến, Nguyên phó chủ tịch Huyện Bình Chánh Hà Quang Vinh, Giảng viên Học viện Âm nhạc Huế Dương Bích Hà, đảng viên trẻ Nguyễn Việt Anh, Luật sư Lê Văn Hòa, nhà văn Mai Tú Ân… Phó giáo sư Nguyễn Trọng Phúc thì cho rằng: bất kỳ Đảng viên nào cũng phải tuân thủ điều lệ, cương lĩnh của Đảng, pháp luật của Nhà nước khi có các bài viết và phát ngôn. Ông Chu Hảo đã có những đóng góp khi tham gia xây dựng Viện Vật lý Việt Nam, cũng như góp phần triển khai Internet. Tuy nhiên, nhiều người không đồng tình với việc trong thời gian dài gần đây ông đã có những bài viết, phát ngôn trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ và quy định của Đảng, bởi ông vốn là một cán bộ cấp cao và là một Đảng viên Ngày 14 tháng 11, Hãng tin AFP loan tin cho biết nhóm 81 học giả và các nhà nghiên cứu từ 10 quốc gia vào ngày 14 tháng 11 công bố thư do họ ký tên bày tỏ các mối lo ngại cũng như lên tiếng ủng hộ Giáo sư Chu Hảo. Nội dung bức thư được trích nói rằng nhóm các học giả quốc tế không cho rằng những tác phẩm của Giáo sư Chu Hảo là mối đe dọa cho sự phát triển ổn định và hòa bình của Việt Nam; đồng thời khẳng định những cáo buộc của chính phủ Việt Nam là vô căn cứ và đáng lo ngại. Nhận xét. Một tiến sĩ hải ngoại là Hoàng Dũng cho rằng việc kỷ luật Giáo sư Chu Hảo là một "tuyên chiến đối với giới trí thức Việt Nam". Ông cũng cho biết, đã có một số trí thức lên tiếng phản đối với ông ngay sau quyết định này. Ngày 29 tháng 10, Tiến sĩ Phạm Gia Minh, Phó Chủ tịch Hội liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài (ALOV) tuyên bố từ chức, sau khi cùng hơn 150 người ký tên vào bức Thư ngỏ gửi Ủy ban Kiểm tra Trung ương đảng Cộng sản và Bộ Chính trị nhằm bảo vệ Giáo sư Chu Hảo. Trong bức thư ngỏ đề ngày 27/10, các cựu thành viên của Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) cho rằng những lý do mà Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra trong quyết định kỷ luật Giáo sư Chu Hảo, là “ không chính đáng, không đúng sự thật, thể hiện sự trấn áp thô bạo những nỗ lực rất đáng trân trọng của một trí thức hết lòng vì dân vì nước, chà đạp những ý kiến chân thật và xây dựng của ông về những vấn đề nóng bỏng của đất nước.” Báo Nhân dân thì cho rằng: ông Chu Hảo đã tham gia hoặc có quan hệ với một số tổ chức, diễn đàn được lập ra chỉ nhằm mục đích phát tán, tuyên truyền, xuất bản tài liệu để thúc đẩy diễn biến hòa bình tại Việt Nam. Từ năm 2009 đến năm 2018, với vai trò Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Tri thức, ông đã cho xuất bản tới 24 cuốn sách có vi phạm phải xử lý (trong đó có hai cuốn sai phạm nghiêm trọng về chính trị và bị thu hồi, năm cuốn không được phép tái bản, 17 cuốn phải chỉnh sửa lại). Đặc biệt, tháng 6-2018, ông Chu Hảo soạn thảo “khuyến nghị về Luật An ninh mạng”, trong đó đã mạo danh chữ ký của Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn, nguyên Ủy viên trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an. Sau đó, Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn đã phải viết thư gửi Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Ban Tuyên giáo Trung ương và các tờ báo để thông báo việc bị mạo danh này. Trong thư, Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn khẳng định: "“Tôi cho rằng một số người (ông Đặng Hữu, Chu Hảo...) đã lợi dụng vị trí cá nhân, chức vụ của tôi trước đây để đưa những thông tin không đúng sự thật, đây là hoạt động bịa đặt nhằm bôi nhọ, hạ uy tín của cá nhân tôi và mục đích cuối cùng của họ là nhằm phủ nhận dự thảo Luật An ninh mạng, ngăn cản Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng.”" Những hành động của ông Chu Hảo nhằm truyền bá, khuyến khích “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, nên không có gì ngạc nhiên khi các nhóm có tư tưởng chống Nhà nước Việt Nam hoặc các đảng viên suy thoái tư tưởng đã ca ngợi, hỗ trợ sau khi ông này bị kỷ luật Ngày 24 tháng 11, trong buổi tiếp xúc cử tri Hà Nội, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng lý giải về việc kỷ luật ông Chu Hảo rằng "tự diễn biến, tự chuyển hóa trong mỗi con người nó biến mình thành người khác lúc nào không biết, nó lái con đường của chúng ta đi vô cùng phức tạp. Về cơ bản là rất tốt rồi, nhưng không phải không có những người cậy mình có chút công lao để sinh ra kiêu ngạo, muốn nói gì thì nói, phán gì thì phán, nói trái điều lệ, nói trái cương lĩnh. Thế ông có còn đảng viên nữa không, chưa nói là cán bộ. Bất cứ ai nếu có suy thoái chúng ta phải giáo dục chứ, phải uốn nắn chứ. Kỷ luật một vài người để cứu muôn người cơ mà, để người khác đừng phạm vào nữa, đừng cậy mình thế này, thế nọ, là công thần rồi phê phán hết cả thì chế độ này sẽ ra làm sao ?"
1
null
Mộ của Taras Shevchenko (tiếng Ukraina: Могила Тараса Шевченка) nằm trên đồi Chernecha tại thành phố Kaniv, tỉnh Cherkasy là một trong những nơi tôn kính nhất của người dân Ukraina. Khu mộ này nằm trong quần thể Vườn Quốc gia Shevchenko. Ở đây, trên các sườn đồi bên sông Dnepr, trong bảo tàng tưởng niệm và văn học là những tài liệu, hiện vật về cuộc đời và sáng tạo của nhà thơ – họa sĩ trong các điều kiện khó khăn của chế độ nông nô ở Đế quốc Nga. Hiện vật của bảo tàng bao gồm các sản phẩm của thợ thủ công, nghệ nhân dân gian của khắp các vùng ở Ukraine. Bên cạnh bảo tàng là ngôi mộ của Taras Shevchenko, mà phía trên là một tượng đài cao bằng đá hoa cương. Lịch sử. Sau khi mất, Taras Shevchenko được mai táng tại nghĩa trang Smolensky ở Saint Petersburg. Hai tháng sau, di hài của ông được chuyển về an táng tại khu mộ này. Năm 1989, bia tưởng niệm bằng đá granit được đặt tại nghĩa trang Smolensky. Trong Thế chiến II, tại khu mộ Taras Shevchenko đã xảy ra trận đánh trong nhiều ngày của du kích Ukraina với quân phát xít. Năm 1978, Oleksa Mykolajovyč Hirnyk (được truy tặng anh hùng Ukraina năm 2007) đã tự thiêu tại khu mộ này để phản đối chính sách Nga hóa Ukraina của chính quyền Xô Viết.
1
null
Semachrysa jade là một loài trong họ Chrysopidae sống ở Selangor trong rừng mưa Malaysia. Cho đến nay chỉ có con mái được tìm thấy. Chúng có những chấm đen trên phía dưới của cánh. Con lớn sống bằng nhụy hoa trong khi ấu trùng lại ăn những loài côn trùng nhỏ khác. Sự khám phá ra loài này thật tình cờ khi có người bỏ hình nó lên Flickr nhờ người ta tìm xem nó thuộc loài gì.
1
null
Homo rudolfensis là một loài người hóa thạch được Bernard Ngeneo, một thành viên của đội khảo cổ do nhà nhân chủng học Richard Leakey và nhà động vật học Meave Leakey dẫn đầu vào năm 1972, phát hiện tại Koobi Fora tại phía đông hồ Rudolf (nay là hồ Turkana) ở Kenya. Danh pháp khoa học "Pithecanthropus rudolfensis" đã được V. P. Alekseyev đề xuất năm 1978. Sau đó nó được Bernard Wood đổi thành "Homo rudolfensis", cho mẫu vật Sọ 1470 (KNM ER 1470). Sọ 1470 đã được ước tính có tuổi 1,9 triệu năm. Ngày 8 tháng 8 năm 2012, một đội khảo cổ do Meave Leakey dẫn đầu đã thông báo việc phát hiện ra một khuôn mặt và hai xương hàm thuộc "H. rudolfensis". Đó là bằng chứng cho thấy một giống người mới thuộc chi "Homo" đã sống cùng thời với người "Homo erectus" và "Homo habilis". "Homo rudolfensis" có bộ não lớn hơn và khuôn mặt phẳng hơn "Homo habilis".
1
null
Marvin Frederick Hamlisch (2 tháng 6 năm 1944 – 6 tháng 8 năm 2012) là một nhà soạn nhạc và người điều khiển dàn nhạc Mỹ. Ông đã đoạt giải Oscar, 4 giải Grammy, 3 Giải Emmy, một giải Tony và 3 Giải Quả Cầu Vàng. Ông cũng là một trong hai người đã giành được cả bốn giải thưởng và cũng là một người nhận được giải Pulitzer cho kịch (1976) (người kia là Richard Rodgers). Hamlisch là người diều khiển chính cho một số dàn nhạc của Hoa Kỳ, kể cả dàn nhạc giao hưởng Pittsburgh, Pasadena and Pops và dàn nhạc giao hưởng San Diego. Ông đã soạn nhạc cho hơn 40 bộ phim, kể cả nhạc khúc đoạt giải Oscar và bản nhạc trong bộ phim The Way We Were, và cho đoạn nhạc ragtime của Scott Joplin dùng trong phim The Sting, đã giúp ông đoạt giải Oscar thứ ba của ông. Ông đã soạn từ những tác phẩm nổi tiếng trên sân khấu Broadway cho đến các bản hòa tấu cổ điển, và nhạc rhythm and blues. Hamlisch sinh ra ở Manhattan trong một gia đình có cha mẹ là người Do Thái sinh ra ở Wien, mẹ là Lilly (nhũ danh Schachter) và cha là Max Hamlisch. Cha ông là một nhạc công accordion và chỉ huy dàn nhạc. Hamlisch là một thần đồng âm nhạc, lúc năm tuổi, cậu bé bắt đầu bắt chước âm nhạc piano mà cậu nghe trên radio. Một vài tháng trước khi lên 7 tuổi, năm 1951, cậu đã được chấp nhận vào học ở trường nay là Khoa dự bị Đại học Trường Julliard, công việc đầu tiên của cậu là một nghệ sĩ dương cầm diễn tập cho Funny Girl với Barbra Streisand. Ngay sau đó, anh được thuê bởi nhà sản xuất Sam Spiegel để chơi piano tại tiệc của Spiegel. Hamlisch tham dự Queens Cao đẳng. Ông đã nhận được bằng cử nhân nghệ thuật học vào năm 1967. Hamlisch tốt nghiệp Trường Âm nhạc Julliard và trường đại học Queen.
1
null
Hội nghị Quốc dân (, "") là cơ quan lập pháp (Quốc hội) của Libya. Cơ quan này đã được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu vào ngày 7 tháng 7 năm 2012, và từ 8 tháng 8 thay thế Hội đồng chuyển tiếp quốc gia, cơ quan lãnh đạo quốc gia này kể từ khi kết thúc cuộc nội chiến Libya. Hình thành. Hội nghị Quốc dân gồm 200 nghị sĩ được thành lập sau cuộc bầu cử tự do đầu tiên của Libya tổ chức đầu tháng 7 năm 2012. Liên minh tự do dưới sự lãnh đạo của cựu thủ tướng Mahmoud Jibril về nhất trong cuộc bầu cử và giành được 39 ghế trong tổng số 80 vị trí phân bổ cho các đảng phái. 120/200 ghế được trao cho những ứng viên độc lập. Hội nghị Quốc dân có nhiệm vụ chỉ định một chính phủ lâm thời và soạn thảo hiến pháp mới. Chính phủ sẽ hoạt động đến khi cuộc bầu cử mới diễn ra. Một chủ tịch và hai phó chủ tịch Hội nghị dự kiến được bầu trong vài ngày kể từ ngày trở thành cơ quan lập pháp chính thức. Trong một buổi lễ ngày 8 tháng 8 năm 2012, Hội đồng chuyển tiếp quốc gia chính thức chuyển giao quyền lực cho Hội nghị Quốc dân. Mustafa Abdul Jalil từ chức khỏi vị trí nguyên thủ quốc gia, chuyển giao cho nghị sĩ nhiều tuổi nhất của Hội nghị Quốc dân, Mohammed Ali Salim. Hội đồng chuyển tiếp quốc gia sau đó đã được giải thể, trong khi các thành viên Hội nghị Quốc dân đã tuyên thệ nhậm chức, dẫn đầu bởi Salim. Hàng trăm người tụ tập tại quảng trường Liệt sĩ ở thủ đô Tripoli và thắp nến, một hành động biểu thị sự hòa giải. Ngày chuyển giao quyền lực, ngày 20 Ramadan của lịch Hồi giáo - đã cũng được lựa chọn cho các lý do biểu tượng; để kỷ niệm ngày 20 Ramadan năm trước (rơi vào ngày 20 tháng 8), khi mà Quân đội Giải phóng Quốc gia tấn công Tripoli, dẫn đến sự bỏ chạy của Gaddafi. Khi Jalil phát biểu trước đám đông, những người tham dự hô vang "Allāhu Akbar" hoặc "máu của các vị tử đạo sẽ không bị lãng phí!". Theo BBC News, việc chuyển giao này là lần "chuyển giao quyền lực hòa bình đầu tiên trong lịch sử hiện đại của Libya".
1
null
Trần Văn Xuân (sinh ngày 6 tháng 9 năm 1934) là một cựu vận động viên đấu kiếm người Việt Nam. Ông tập môn đấu kiếm khi học tại trường Yersin (Đà Lạt) từ năm 1948 đến 1952, từng là thành viên của đội tuyển Việt Nam Cộng hòa tham dự Olympic Roma 1960, Olympic Tokyo 1964. và lớp trọng tài tại Á Vận Hội Teheran - Asian Games Teheran (1974). Ông tiếp tục tập luyện cho đến cuối thập niên 80 mới gác kiếm. Ông có vợ và 5 người con, vợ và các con của ông hiện đang sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 3 tháng 3 năm 2009 (tức ngày mùng 7 tháng 2 năm Kỷ Sửu) tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 76 tuổi.
1
null
Samuel Woodroffe Hollis (1866–1942) là một huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp nổi tiếng người Anh. Sinh năm 1866 tại Anh quốc Ngày mất: 17/4/1942, tại Nottingham, Anh Sự nghiệp huấn luyện: Sam Hollis được biết đến nhiều nhất với vai trò là huấn luyện viên đầu tiên của một Woolwich Arsenal chuyên nghiệp (CLB lên chuyên nghiệp vào năm 1891). Ông được đề bạt làm huấn luyện viên (hay một secretary-manager – ở đây secretary là một chức vụ của câu lạc bộ đảm nhiệm việc thư tín và các công vụ nội bộ, vị trí mà ông được mọi người biết đến về sau này) của Woolwich Arsenal vào năm 1894. Trước đó những vấn đề của đội bóng được uỷ ban cầu thủ và thành viên câu lạc bộ tự giải quyết. Sam trước đó đã làm việc tại văn phòng pháp lý và bưu điện. Trong 3 năm ông ở câu lạc bộ, đội bóng có sự vững chắc nhưng tấn công không đẹp mắt và chỉ nằm ở vị trí giữa bảng xếp hạng của giải hạng 2. 4/1897, Sam đã bị lôi kéo đến câu lạc bộ vừa thành lập là Bristol City, ông thôi việc vào tháng 3/1899, rời đến Bedminster và trở thành thư tịch viên kiêm huấn luyện viên cho câu lạc bộ này. Năm 1900 Bedminster hợp nhất với Bristol City và Sam thôi việc. Năm 1901 ông quay lại làm huấn luyện viên cho Bristol City. Lần này ông đã có những khoảng thời gian thành công, câu lạc bộ đã về nhì tại giải Southern League và được thăng lên hạng Football League. Ông rời CLB vào tháng 3/1905 và làm quản lý khách sạn từ năm 1905 đến 1911, sau đó tiếp tục điều hành một quán rượu từ 1899 đến 1909. Ông tiếp quản vai trò quản lý Bristol City lần thứ 3 vào 1/1911 và đã để câu lạc bộ tụt từ giải hạng nhất xuống hạng 2. Ông rời Bristol City 3/1913. Tháng 7 năm đó ông đảm nhận vai trò huấn luyện viên đội bóng nghiệp dư Newport County và gắn bó đến năm1917. Sau đó ông giã từ bóng đá hoàn toàn. Ông mất tại Nottingham tháng 3/1942.
1
null
Kim Tử Long (sinh năm 1966) tên thật là Hoàng Kim Long. Anh là một nghệ sĩ cải lương người Việt Nam, đồng thời cũng đóng góp nhiều vào tân nhạc. Thân thế sự nghiệp. Anh tên thật là Hoàng Kim Long, sinh ngày 17 tháng 10 năm 1966 tại Sài Gòn, quê gốc Thái Bình. Trong gia đình anh có 4 anh chị em, gồm có 3 nam và 1 nữ. Cha là Hoàng Sinh, mẹ là Châu Thanh Nguyên, vợ là Nghệ sĩ Trinh Trinh . Các vai diễn thành công của anh gồm có "Y Mây (Y Ban và nàng tiên), Phan Lương (Người đẹp bến Tiền Châu), Gia Đồng (Nàng tiên Mẫu Đơn), Lữ Bố (Phụng Nghi Đình), Mỹ đen (Sống trong tình thương), Dự Nhượng (Dự Nhượng đả long bào), Đổng Thừa (Mã Siêu báo phụ thù)..." Từng làm diễn viên cho các đoàn hát như đoàn cải lương Trần Hữu Trang, đoàn Huỳnh Long, đoàn Minh Tơ, Sông Bé. Anh từng đoạt giải Đôi diễn viên được yêu thích nhất năm 1994 (cùng với nghệ sĩ Ngọc Huyền), huy chương vàng Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc 1995, Gương mặt nghệ sĩ tài hoa năm 2000 và giải Mai Vàng 2003... Liên tiếp từ năm 2019 đến nay, anh tham gia làm nhà đấu giá cố định cho chương trình "Sàn chiến giọng hát". Từ năm 2022 đến nay, anh tham gia Ban Giám khảo chuyên môn cuộc thi "Chuông vàng vọng cổ truyền hình". Cuộc sống gia đình. Là một nghệ sĩ cải lương nổi tiếng, song anh đã từng trải qua đổ vỡ hôn nhân. Trong cuộc đời, anh đã kết hôn 3 lần và có 5 người con. Lần thứ nhất anh kết hôn cùng người vợ đầu tiên, có cô con gái là Hoàng Kim Phụng (nghệ danh Maika). Hiện Hoàng Kim Phụng đã kết hôn. Sau khi ly hôn người vợ đầu tiên, anh kết hôn lần thứ hai với Cẩm Tú - em gái của danh thủ Hồng Sơn, có thêm 2 cô con gái là Hoàng Gia Linh và Hoàng Gia Hân. Sau 2 cuộc hôn nhân đổ vỡ, anh đã lập gia đình lần thứ ba với nghệ sĩ Trinh Trinh - cháu gái của NSND Thanh Tòng và là con gái của hai nghệ sĩ cải lương Hữu Cảnh - Xuân Yến, có thêm 2 cậu con trai là Hoàng Gia Khánh (Andy) và Hoàng Gia Khiêm (Peter). Ngoài ra, anh còn có cô con gái nuôi là nghệ sĩ cải lương Bình Tinh - quán quân của chương trình "Sao nối ngôi" mùa đầu tiên.
1
null
(nghĩa đen trong tiếng Marols, một phương ngữ tiếng Hà Lan được nói ở Brussels, trong tiếng Pháp là "") là một điểm mốc nổi tiếng ở Brussels. Thực chất nó là một bức tượng điêu khắc kiêm đài phun nước nhỏ bằng đồng, diễn tả một chú bé trần truồng đi tiểu vào bồn nước của đài phun. Tượng được thiết kế bởi François Duquesnoy và được dựng năm 1618 hoặc 1619. Nó cũng mang những ý nghĩa văn hóa tương tự như tượng nàng tiên cá ở Copenhagen. Địa điểm. Bức tượng nổi tiếng này tọa lạc trên giao lộ / và /. Nó nằm gần những địa điểm nổi tiếng như quảng trường Lớn Bruxelles và Tòa thị chính Brussels. Lịch sử và truyền thuyết. Bức tượng đồng cao 61 cm đặt ở góc phố Rue de l'Etuve Rue des Grands Carmes được làm năm 1619 bởi nhà điêu khắc Brussels là Hieronimus Duquesnoy the Elder, cha của . Bức tượng này nhiều lần bị đánh cắp: bức tượng hiện nay có từ năm 1965. Phiên bản phục dựng gốc được giữ tại Maison du Roi/Broodhuis ở Grand Place. Có một số truyền thuyết đằng sau bức tượng này, nhưng nổi tiếng nhất là truyền thuyết về Công tước Godfrey III của Leuven. Năm 1142, quân đội của lãnh chúa hai tuổi đã chiến đấu chống lại quân đội của Berthouts, lãnh chúa của Grimbergen, tại Ransbeke (nay là Neder-Over-Heembeek). Binh lính đã đặt lãnh chúa nhỏ tuổi trong một cái giỏ và treo dưới một cây để khích lệ họ. Từ trên cây, cậu bé đi tiểu vào binh lính của Berthouts, những kẻ thua trận. Một truyền thuyết khác là vào thế kỷ 14, Brussels bị bao vây bởi các thế lực nước ngoài. Thành phố đã tổ chức phòng thủ, do đó những kẻ tấn công đã hình thành một kế hoạch đặt chất nổ tại các bức tường của thành phố. Một cậu bé tên đã theo dõi khi quân xâm lược thực hiện kế hoạch. Cậu bé đã đi tiểu vào dây dẫn cháy và nhờ đó cứu được thành phố. Vào thời kỳ đó (giữa thế kỷ 15, có lẽ sớm nhất là năm 1388) có một bức tượng tương tự làm bằng đá. Bức tượng đã bị đánh cắp nhiều lần. Một câu chuyện khác (thường được kể cho khách du lịch) là về một thương gia giàu có, trong chuyến thăm thành phố với gia đình, cậu con trai yêu quý của ông đã mất tích. Vị thương gia này vội vã thành lập một đội tìm kiếm mà lùng sục khắp nơi của thành phố để tìm cậu bé, và họ tìm thấy cậu bé đang đi tiểu vui sướng trong một khu vườn nhỏ. Vị thương gia, đã xây dựng đài phun nước coi như một món quà tri ân người dân địa phương vì đã giúp ông tìm được con trai. Một truyền thuyết khác là một cậu bé đi lạc khỏi mẹ khi đang mua sắm ở trung tâm thành phố. Người phụ nữ hoảng lạn, do mất đứa con, đã kêu gọi tất cả mọi người mà cô đi qua, bao gồm cả thị trưởng của thành phố tìm kiếm đứa con cho cô. Một cuộc tìm kiếm toàn thành phố đã bắt đầu và cuối cùng đứa bé được tìm thấy, khi đang đi tiểu ở một góc phố nhỏ. Câu truyện được lưu truyền theo thời gian và bức tượng được dựng lên để tưởng nhớ đến câu truyện ngụ ngôn nổi tiếng. Còn một truyền thuyết khác kể về đứa trẻ, bị đánh thức bởi đám cháy và đã dập tắt lửa bằng nước tiểu của mình, điều này cuối cùng đã giúp lâu đài của nhà vua khỏi bị đám cháy.
1
null
Döge là một thị trấn thuộc hạt Szabolcs-Szatmár-Bereg, Hungary. Thị trấn này có diện tích 16,54 km², dân số năm 2010 là 2124 người, mật độ 128 người/km². Vị trí. Nằm ở phía tây bắc của hạt Szabolcs-Szatmár-Bereg, tại Rétköz. Cách Kisvárda 2 km, Szabolcsveresmart 11 km, Komoró 7,5 km, Fényeslitke 5 km, Tuzsér 12 km. Lịch sử. Döge từng là một khu định cư trong kỉ Árpád của Hungary. Nó được nhắc đến trong một văn bản vào năm 1284 với tên gọi Kysduge. Vào giữa năm 1270 đến năm 1290 Dioga, sau được biết đến với tên gọi là Dough Bé và Lớn. Vào đầu thế kỉ 14, dòng họ Várday là chủ sở hữu của khu này. Vào nửa đầu thế kỉ 16, đó lại là dòng họ Cserney và Soós. Giữa thế kỉ 17 và 18 có rất nhiều dòng họ sở hữu: dòng họ Esterházy, Szögyényi, Horváth, Nozdroviczky, Erős Solomon. Vào đầu thế kỉ 20, dòng họ Elek và Ferenczy nắm giữ quyền sở hữu. Vào năm 1944, họ sở hữu Mária Jármy. Điều tra dân số năm 1910 cho kết quả khu vực có 1725 cư dân, trong đó bao gồm 1721 người Hungary: 1330 người theo đạo Tin Lành, 262 người theo đạo Công giáo Rôma và 74 người theo đạo Công giáo Hi Lạp. Đầu thế kỉ 20, hạt Szabolcs thuộc về tiểu vùng Kisvárda. Tộc người. Vào năm 2001, 96% dân cư là người Hungary và 4% còn lại là người Digan.
1
null
Gödöllő là một thành phố thuộc hạt Pest, Hungary. Thành phố này có diện tích 61,97 km², dân số năm 2010 là 33901 người, mật độ 547 người/km². Địa lý. Gödöllő nằm trong vùng đồi cùng tên, giáp với Isaszeg về phía nam, Domony về phía đông, Kerepes về phía tây và Szada về phía bắc. Khí hậu. Gödöllő có khí hậu đại dương (phân loại khí hậu Köppen "Cfb"). Thành phố kết nghĩa. Gödöllő kết nghĩa với:
1
null
Gyöngyös là một thành phố thuộc hạt Heves, Hungary. Thành phố này có diện tích 55,31 km², dân số năm 2010 là 32607 người, mật độ 590 người/km². Tọa lạc ở chân dãy núi Sár-hegy và Matra, thành phố có nhiều nhà máy sản xuất thực phẩm, bao gồm cả các nhà máy sản xuất sữa và xúc xích. Đây cũng là nơi có các vườn nho trồng ở sườn núi Sárhegy. Các tòa nhà Art-Nouveau và Baroque xung quanh quảng trường chính của trung tâm thành phố đã được xây dựng lại sau khi một đám cháy bắt nguồn từ bệnh viện địa phương vào năm 1917, đám cháy đã phá hủy một số tòa nhà nhà ở các tổ chức quan trọng của người Do Thái và khiến khoảng 8.000 người vô gia cư.
1
null
Thánh Gioan thành Ávila (tiếng Tây Ban Nha: "San Juan de Ávila"; 6 tháng 1, 1500 - 10 tháng 5, 1569) là một linh mục, nhà truyền giáo, nhà thần bí, học giả của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông là người chống lại ảnh hưởng của cuộc cải cách Tin Lành diễn ra tại Tây Ban Nha, góp phần làm cho nhiều người trở lại Công giáo, trong đó có Gioan Thiên Chúa và Phanxicô Borgia. Ông cũng có liên hệ với Inhaxiô nhà Loyola và Têrêsa thành Ávila. Ông đã được Giáo hoàng Lêô XIII phong chân phước vào ngày 12 tháng 12 năm 1893 và Giáo hoàng Phaolô VI phong thánh vào 31 tháng 5 năm 1970. Giáo hoàng Biển Đức XVI vinh thăng ông là Tiến sĩ Hội Thánh vào ngày 7 tháng 10 năm 2012. Tiểu sử. Gioan sinh tại Almodóvar del Campo trong một gia đình Công giáo giàu có và đạo đức, tuy rằng họ có nguồn gốc Do Thái giáo. Năm 14 tuổi, Gioan được gửi đến học tại Đại học Salamanca chuyên ngành pháp luật, nhưng chỉ một năm thì quay về nhà cha mình. Tại đây, Gioan đã dành ba năm thực hành lòng đạo đức và khắc khổ. Dịp kia, một tu sĩ Dòng Phanxicô có lời khuyên ông nên nghiên cứu triết học và thần học tại Alcalá de Henares, tại đây ông may mắn được theo học nhà thần học nổi tiếng là Domingo de Soto. Khi đang nghiên cứu thì cha mẹ ông qua đời nên sau khi được truyền chức linh mục, ông đã cử hành Thánh Lễ mở tay tại nhà thờ nơi mà họ được an táng, bán hết tài sản của gia đình để giúp người nghèo. Sau đó, Gioan dự định làm công cuộc truyền giáo ra nước ngoài, cụ thể là đi México. Năm 1527, khi đang ở Sevilla để tìm kiếm cơ hội thuận lợi cho dự định của mình, sự nhiệt tâm của ông trong khi cử hành Thánh Lễ đã thu hút sự chú ý của một linh mục tên là Hernando de Contreras. Linh mục này giới thiệu Gioan với tổng Giám mục Don Alonso Manrique de Lara. Tổng Giám mục nhận thấy nhà truyền giáo trẻ này là người mạnh mẽ, có thể khuấy động đức tin ở Andalusia nên ông đã thuyết phục Gioan từ bỏ hành trình đến châu Mỹ. Thuyết giảng ở Adalusia. Bài giảng đầu tiên của Gioan tại Adalusia là ngày 22 tháng 7 năm 1529, ngay lập tức tạo nên danh tiếng cho ông. Trong suốt chín năm truyền giáo tại Andalusia, các nhà thờ nơi ông thuyết giảng chật cứng người tham dự. Tuy nhiên, vì đã mạnh mẽ lên án những bất công trong xã hội nên ông bị giới giàu có tố cáo là đã phóng đại những mối nguy hiểm về họ. Năm 1533, ông được tuyên là vô tội. Qua đời. Gioan bắt đầu sự nghiệp giảng đạo tại Andalusia năm 30 tuổi. Chín năm sau, ông trở về Sevilla, để khởi động các lĩnh vực rộng lớn hơn của Cordova, Granada, Baeza, Montilla và Zafra. Suốt mười tám năm trước khi qua đời, ông bị bệnh tật liên tục bởi đã quá nhiệt thành truyền giáo trong bốn mươi năm. Ông qua đời vào ngày 10 tháng 5 năm 1569 tại Montilla.
1
null
Kalocsa là một thành phố thuộc hạt Bács-Kiskun, Hungary. Thành phố này có diện tích 53,18 km², dân số năm 2010 là 17359 người, mật độ 326 người/km². Thị trấn có cự ly 142 km (88 mi) về phía nam của Budapest. Nó nằm trong một khu đầm lầy nhưng có năng suất cao, gần bờ trái của sông Danube. Trong lịch sử, nó có tầm quan trọng chính trị và kinh tế lớn hơn so với hiện tại. Kalocsa là nơi có tòa giám mục của một trong bốn tổng giám mục Công giáo Hungary. Trong số các tòa nhà của nó là một nhà thờ tốt, cung điện, một đài thiên văn, một chủng viện dành cho các linh mục và các trường cao đẳng để đào tạo giáo viên. Cư dân của Kalocsa và vùng đất chung của nó được sử dụng chủ yếu trong việc trồng đu đủ, trái cây, hạt lanh, cây gai dầu và ngũ cốc, trong việc đánh bắt thủy cầm và đánh bắt cá. Kalocsa là một trong những thị trấn lâu đời nhất ở Hungary. Tổng giám mục hiện tại, được thành lập vào khoảng năm 1135, [cần xác minh] là một sự phát triển của một giám mục được cho là được thành lập năm 1000 bởi Vua Stephen the Saint. Nó đã chịu đựng nhiều trong thế kỷ 16 từ cuộc xâm lược của những người lính Ottoman, những kẻ đã tàn phá đất nước. Một phần lớn của thị trấn đã bị phá hủy bởi một vụ hỏa hoạn vào năm 1875, trước khi các tòa nhà được xây dựng bằng vật liệu chống cháy nhiều hơn và khi nhiều đám cháy được sử dụng để sưởi ấm và nấu nướng.
1
null
Chiến dịch Chenla I (nghĩa là "Chiến dịch Chân Lạp I") là một chiến dịch quân sự trong Chiến tranh Việt Nam ở Campuchia. Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) đã phát động chiến dịch này vào cuối tháng 8 năm 1970 với sự hỗ trợ không giới hạn từ lục quân và không quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Chiến dịch chấm dứt vào tháng 2 năm 1971, sau khi Bộ Tư lệnh cấp cao Cộng hòa Khmer đã quyết định rút một số đơn vị từ Tang Kauk về bảo vệ thủ đô Phnôm Pênh sau khi căn cứ không quân Pochentong bị tấn công. Mục tiêu của chiến dịch này là nối lại Skoun và Kompong Cham cùng tuyến quốc lộ 7 đã nhiều lần bị lực lượng Cộng sản tấn công. Diễn biến. Ban đầu chiến dịch được tiến hành đúng theo kế hoạch. Tang Kauk được tái chiếm vào đầu tháng 9 một cách dễ dàng. Quân đội Campuchia đã giúp người tị nạn tái định cư và thiết lập lực lượng tự vệ địa phương. Phản ứng lại chiến dịch Chenla I, Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phát động một loạt các cuộc tấn công vào các vị trí trên tuyến quốc lộ 7 ở Campuchia, khu vực xung quanh Kompong Cham và Prey Totung đều chìm trong những trận chiến khốc liệt vào các tháng cuối năm 1970. Là kết quả của áp lực từ Sư đoàn 9 Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Quân Quốc gia Khmer không thể tiến ra ngoài Tang Kauk. Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã tham gia chiến dịch này từ phía đông sông Mê Kông vào tháng 12, cho phép quân Quốc gia Khmer mở lại tuyến quốc lộ 7 mà không cần chạm trán quân đối phương. Vào đêm 21 tháng 1 năm 1971, một lực lượng khoảng 100 lính đặc công Bắc Việt được trang bị chất nổ và súng phóng tên lửa tấn công vào căn cứ không quân Pochentong. Khu vực xung quanh Pochentong cũng bị tấn công. Trước nguy cơ này, Tổng thống Cộng hòa Khmer Lon Nol đã mở rộng tình trạng khẩn cấp quốc gia thêm 6 tháng khi tái triển khai các đơn vị Campuchia từ Tang Kauk để bảo vệ thủ đô Phnôm Pênh, thực tế đã chấm dứt chiến dịch Chenla I. Kết quả. Mặc dù gặp thuận lợi ban đầu thế nhưng Quân đội Quốc gia Khmer chỉ đạt được thành công chiến lược hạn chế, Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng vẫn còn kiểm soát một phần lớn lãnh thổ bên ngoài Phnôm Pênh. Cuộc tấn công vào sân bay Pochentong trong đêm 21 tháng 1 gần như quét sạch toàn bộ lực lượng không quân Campuchia, phá hủy tất cả các máy bay chiến đấu tại đây. Riêng Lon Nol thì được sơ tán bằng máy bay của Mỹ để điều trị tại Bệnh viện đa khoa Tripler sau khi bị một cơn đột quỵ nghiêm trọng.
1
null
Walter Bendix Schönflies Benjamin (; 15 tháng 7 năm 1892 – 26 tháng 9 năm 1940) là một nhà phê bình văn học, nhà triết học, nhà phê bình xã hội, nhà tiểu luận, dịch giả và phát thanh viên truyền thanh người Đức gốc Do Thái. Mang trong mình sự hòa trộn của chủ nghĩa duy tâm Đức, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa thần bí Do Thái, Benjamin đã có những đóng góp lâu dài và ý nghĩa cho các ngành mỹ học và chủ nghĩa Marx phương Tây. Ông cũng có liên quan với trường phái Frankfurt. Trong số các công trình lớn của ông với vai trò nhà phê bình văn học có thể kể đến những bài tiểu luận trong tiểu thuyết "Elective Affinities" của Goethe; tác phẩm của Franz Kafka và Karl Kraus; lý thuyết dịch thuật; những câu chuyện của Nikolai Semyonovich Leskov; tác phẩm của Marcel Proust và phần lớn các bài thơ của Charles Baudelaire.
1
null
Um Savuth (? - 1972) là một sĩ quan quân đội Campuchia nổi bật nhất trong cuộc nội chiến Campuchia, nơi ông chịu trách nhiệm chỉ huy Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer trong chiến dịch Chenla I đầy thảm bại vào năm 1971. Ông là con trai một tài xế chính phủ và là em của nhà chính trị Um Samuth, Savuth bắt đầu khởi nghiệp trong Quân đội Hoàng gia Campuchia dưới chế độ của Hoàng thân Norodom Sihanouk, về sau ông trở thành người ủng hộ tướng Lon Nol sau cuộc đảo chính năm 1970 lật đổ Sihanouk. Quê quán cũng như năm sinh của Savuth không được rõ ràng, người ta chỉ biết đến ông trong các chiến dịch quân sự sau này, với cơ thể phần lớn bị liệt nửa người bước đi với sự trợ giúp của cây gậy, nổi tiếng là nốc rượu liên tục để làm dịu tình trạng đau đớn của mình. Điều này đã xảy ra do một sự cố trước đó trong sự nghiệp của ông là khi ông say rượu cứ khăng khăng rằng cấp dưới bắn một con mèo sống ra khỏi đầu của ông, nói rằng đó là một mệnh lệnh trực tiếp khi binh sĩ chống lại. Phát bắn hụt khiến một phần đầu của Savuth bị thổi bay: tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục cuộc đời binh nghiệp của mình. Dưới chế độ Sihanouk, Savuth (cùng với một sĩ quan đồng nghiệp, Les Kosem) có liên quan chặt chẽ đến sự hình thành của FULRO, một phong trào du kích kháng chiến đòi quyền tự trị cho các sắc tộc người Thượng của Việt Nam. Khi Kosem không đồng ý với sự chỉ đạo do nhà lãnh đạo FULRO là Y-Bham Enuol thực hiện ông buộc phải bắt giam Y-Bham Enuol và đặt dưới tình trạng quản thúc tại dinh thự của Savuth ở Phnôm Pênh. Savuth cũng được biết có liên quan sâu sắc đến sự dàn xếp bí mật của Sihanouk với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho phép vũ khí được nhập lậu qua Campuchia (dọc theo "đường mòn Sihanouk") nhằm cung cấp cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau khi nước Cộng hòa Khmer thành lập, Savuth được thăng cấp bậc lên Chuẩn tướng. Mặc dù được sự đảm bảo từ những người ủng hộ của Đảng Cộng hòa Mỹ, rằng Savuth "say rượu tốt hơn hết các sĩ quan Campuchia tỉnh táo", chiến dịch nổi bật nhất của ông (Chiến dịch Chenla I) là một thảm họa quân sự. Vào năm 1971, Savuth đã viết thư cho Tổng thống Mỹ Richard Nixon, đề nghị trao con voi cưng "Khaat" ("Chú Ếch Nhỏ") của ông làm quà tặng. Nixon đã không đáp lại lời đề nghị này, dù vợ của Savuth nói với ký giả Peter R. Kann của tờ Wall Street Journal rằng bà khá hài lòng với điều này vì "cho đi một con voi là không được may mắn". Savuth đã chết trong một vụ tai nạn xe hơi vào tháng 11 năm 1972. Một cuốn phim thời sự quay về buổi lễ hỏa táng của ông (theo tập tục truyền thống của Phật giáo) vẫn được Trung tâm Tư liệu Campuchia tổ chức thực hiện.
1
null
Thánh Đa Minh còn gọi là thánh Đôminicô (tiếng Anh: Saint Dominic, tiếng Tây Ban Nha: Santo Domingo; 1170 - 6 tháng 8 năm 1221) là người sáng lập ra Dòng Anh Em Giảng Thuyết hay còn gọi là Dòng Đa Minh. Đa Minh còn là vị thánh quan thầy của các nhà thiên văn học. Với biểu tượng chú chó ngậm bó đuốc. Tiểu sử. Đa Minh (Domingo) sinh năm 1170 tại Calaruega, thuộc dòng tộc Guzmán, nên được gọi là "Domingo Félix de Guzmán". Guzman là một dòng tộc danh tiếng tại Tây Ban Nha vào thời Trung Cổ. Theo tường thuật của Jordan thành Saxony, người chuyên nghiên cứu tiểu sử của Thánh Đa Minh, thì trước khi Đa Minh ra đời, mẹ ông làm một cuộc hành hương đến Silos, bà mơ thấy mình đẻ ra một con chó ngậm bó đuốc đang cháy sáng và mang lửa đến khắp thế giới. Trong ngày Thanh Tẩy cho ông, bà mẹ đỡ đầu lại trông thấy trên đầu ông có một ngôi sao sáng, chiếu tỏa chung quanh. Hôm ấy là ngày Chúa Nhật nên ông được đặt tên là "Domingo" (tiếng Tây Ban Nha, "Domingo" là ngày Chủ Nhật). Có lẽ nguồn này là đáng tin cậy, bởi lẽ Dòng Đa Minh theo tiếng Latinh là "Dominicanus", đây là một cách chơi chữ tách từ cụm từ "Domini canis", nghĩa là "Con chó của Thiên Chúa". Học tập và linh mục. Năm 7 tuổi, Đa Minh được gửi đến ở với người cậu là linh mục đang coi xứ gần Caleruega. Năm 14 tuổi, Đa Minh từ giã gia đình và cha mẹ để lên học tại trường Palencia, là trường học nổi tiếng nhất tại Tây Ban Nha lúc bấy giờ. Ngay từ hồi nhỏ, Đa Minh đã biết dung hòa việc học hành với cầu nguyện và các bổn phận tông đồ. Hết trung học, Đa Minh xin đi tu và có lẽ được truyền chức linh mục vào năm 1194. Sau đó, ông làm kinh sĩ tại Nhà thờ chính tòa Osma, chuyên lo đọc kinh thay cho toàn giáo phận. Với lòng đạo đức và nhiệt thành, chỉ 2 năm sau, ông được chỉ định làm bề trên hội kinh sĩ. Năm 1203 (hoặc 1204), ông tháp tùng giám mục Diego de Acebo của giáo phận Osma làm một nhiệm vụ ngoại giao cho vua Alfonso VIII xứ Castile, để hỏi cưới công chúa Đan Mạch cho thái tử Ferdinand. Phái đoàn đến Đan Mạch băng qua Aragon và miền Nam nước Pháp. Tại đây, Đa Minh và Diego có gặp nhóm Cathars - một giáo phái mà Giáo hội Công giáo Rôma coi dị giáo. Nhóm Cathars đã thụ phong linh mục cho nam giới lẫn phụ nữ, các giáo sĩ không phục tùng giáo hoàng. Bên Đan Mạch chấp thuận hôn ước nhưng ở chuyến đi thứ hai, công chúa Đan Mạch bỗng nhiên qua đời, vì vậy, Diego và Đa Minh trở về qua ngả đường Roma và Cîteaux. Lập dòng. Năm 1208, Giáo hoàng Innôcentê III đã phát động một cuộc thập tự chinh chống lại các giáo phái dị giáo do bá tước Simon IV dẫn đầu. Đa Minh đi theo đạo quân này để rao giảng cho những người lạc giáo quay về với Công giáo nhưng ông không thành công lắm. Vào năm 1214, bá tước Simon tặng cho Đa Minh một lâu đài ở Casseneuil. Ông cùng với sáu môn đệ đã thành lập một tu hội tận tụy cho việc hoán cải người lạc giáo Albigensian. Trong Công đồng Latêranô IV năm 1215, Đa Minh thất bại trong việc xin giáo quyền phê chuẩn tu hội của ông, nhưng năm sau, Giáo hoàng Hônôriô III đã chuẩn y, và "Dòng Anh Em Giảng Thuyết" (Ordo Praedicatorum", viết tắt: O.P.) được ra đời, về sau người ta thường gọi là "Dòng Đa Minh". Cuối đời. Đa Minh dùng quãng đời còn lại để tổ chức dòng, đi khắp nước Ý, Tây Ban Nha và Pháp để rao giảng và thu hút các thành viên mới, cũng như thiết lập các trung tâm của dòng. Dòng Anh Em Giảng Thuyết đã thành công trong việc hoán cải nhiều người khi họ áp dụng quan niệm là hài hoà giữa đời sống trí thức với nhu cầu của quần chúng. Năm 1220, tại Bologna, Đa Minh triệu tập hội đồng chung của dòng. Năm sau, trong chuyến rao giảng ở Hungary, ông lâm bệnh và buộc phải trở về Bologna và qua đời tại đó vào ngày 6 tháng 8 năm 1221.
1
null
Martin 187 Baltimore là một loại máy bay ném bom hai động cơ do công ty Glenn L. Martin Company của Hoa Kỳ chế tạo, nó được chế tạo theo đơn đặt hàng của Pháp vào tháng 5/1940 theo sau loại Martin Maryland cũng đang trang bị cho không quân Pháp. Với sự sụp đổ của Pháp, việc sản xuất hàng loạt đã chuyển hướng sang Anh. Việc phát triển Baltimore bị cản trở bởi một loạt các vấn đề, mặc dù cuối cùng nó cũng trở thành một mẫu máy bay chiến đấu đa năng. Được sản xuất với số lượng lớn, Baltimore không được quân đội Hoa Kỳ sử dụng, nhưng nó lại được trang bị rộng rãi trong không quân các nước Anh, Canada, Australia, Nam Phi, Hy Lạp và Italy. Tính năng kỹ chiến thuật (Baltimore GR.V). Jane's Fighting Aircraft of World War II
1
null
Martin Model 167 là một loại máy bay ném bom hạng nhẹ của Hoa Kỳ, nó được thiết kế trong thập niên 1930. Nó được trang bị cho quân đội Pháp và Anh tham chiến trong Chiến tranh thế giới II, nó được gọi với tên khác là Maryland. Tính năng kỹ chiến thuật (Maryland Mk II). "American Aircraft of World War II"
1
null
Hồ Balaton ( ) là một hồ nước ngọt ở vùng Transdanubia của Hungary. Đây là hồ lớn nhất Trung Âu, và là một trong những điểm du lịch chính của đất nước. Sông Zala là nguồn cấp nước chính, còn kênh Sió là nguồn thoát nước duy nhất. Vùng đồi núi cạnh bờ bắc là vùng làm rượu vang lớn của Hungary, còn vùng đất phẳng phía nam lại là nơi tập trung nhiều khu nghỉ dưỡng. Balatonfüred và Hévíz hình thành như những thị trấn nghỉ dưỡng của giới nhà giàu, nhưng tới thế kỷ XIX thì những địa chủ bắt đầu xây nhà nghỉ cho giới trung lưu dần mở rộng.
1
null
Osuga () là tên một dòng sông tọa lạc tại các tỉnh Tver và tỉnh Smolenks của Nga. Nó là một phụ lưu bên trái của sông Vazuza. Sông Osuga có chiều dài 100 cây số, với nguồn là nơi hội tụ của những dòng suối gần làng Zavidovo Oleninskogo. Nó chảy sang phía Đông tới làng Zubtsovskogo. После заполнения hồ Vazuzskoye в 1981 году в нижнем течении разлилась. В верховьях реки Оленинский комплексный заказник. Một phần của con sông chính là ranh giới tự nhiên giữa các tỉnh Tver và Smolensk. Sông Osuga đổ vào sông Vazuza và hồ Vazuzskoye.
1
null
là một vị tướng của Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tiểu sử. Kawaguchi sinh ra tại tỉnh Kōchi, tốt nghiệp khóa 26 Trường Sĩ quan Lục quân năm 1914 và khóa 34 Đại học Lục quân năm 1922. Trong thập niên 20 và 30, ông lần lượt nắm giữ nhiều vị trí trong ban tham mưu của Phương diện quân Bắc Trung Hoa và tại Nhật Bản, trước khi được phong quân hàm Thiếu tướng năm 1940. Năm 1940, Kawaguchi được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng Lữ đoàn Bộ binh 35. Lữ đoàn này đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nam Phương quân và được thành lập bởi các đơn vị rút ra từ Sư đoàn 18. Lữ đoàn của Kawaguchi đã tham gia các cuộc đổ bộ đánh chiếm Borneo thuộc Anh vào tháng 12 năm 1941 và tháng 1 năm 1942 tại Miri, Kuching, Brunei, Jesselton, Beaufort, đảo Labuan và Sandakan. Sau đó khi Nhật Bản tấn công Philippines, lữ đoàn đã tham gia đổ bộ lên Cebu tháng 3 năm 1942 và Mindanao một tháng sau đó. Sau khi đánh chiếm Philippines thành công, Kawaguchi đã phản đối một cách mạnh mẽ việc hành quyết các quan chức cấp cao, trong đó có thẩm phán Tòa án tối cao của Philippines vì giết đối thủ đã bị đánh bại một cách tàn nhẫn là hành động đi ngược lại tinh thần võ sĩ đạo Nhật Bản. Sự chống đối này của Kawaguchi đã khiến ông bị đại tá Tsuji Masanobu thuộc phe quân phiệt cực đoan quá khích không ưa và ông này tìm mọi cách để đưa Kawaguchi đến những khu vực chiến trận ác liệt mà từ đó không có khả năng quay về. Kawaguchi và Lữ đoàn 35 của mình cùng với một số đơn vị khác hỗ trợ đã đổ bộ lên đảo Guadalcanal vào tháng 8 và tháng 9 năm 1942 trong nỗ lực tăng viện để tái chiếm lại sân bay trên đảo từ quân Đồng Minh. Tuy nhiên, do phán đoán sai quân số của đối phương (Kawaguchi cho rằng chỉ có 2.000 lính Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ nhưng thực tế là hơn 11.000), trong trận chiến đồi Edson diễn ra từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 9 năm 1942, 6.000 quân Nhật dưới quyền chỉ huy của Kawaguchi nhiều lần tấn công trực diện vào phòng tuyến Mỹ đã bị đánh bại hoàn toàn với tổn thất nặng nề. Trong nỗ lực tấn công sau cùng của quân Nhật tại Guadalcanal, Kawaguchi được Trung tướng Maruyama Masao giao chỉ huy một cánh quân tấn công nhưng ông đã bị cách chức sau đó và bị đưa về Nhật Bản do thay đổi kế hoạch tấn công ban đầu. Kawaguchi đã bị đưa vào danh sách quân nhân dự bị vào năm 1943. Sau khi hồi phục sau một cơn bệnh kéo dài, ông được giao chỉ huy công việc phòng thủ đảo Tsushima vào tháng 3 năm 1945. Sau khi chiến tranh kết thúc, Kawaguchi bị Bộ Chỉ huy tối cao lực lượng Đồng Minh (SCAP) bắt giữ và kết tội là tội phạm chiến tranh. Mặc dù đã chống đối những chính sách tàn ác của Đại tá Tsuji trước đó, ông vẫn bị giam cầm tại nhà tù Sugamo suốt từ năm 1946 đến năm 1953. Kawaguchi mất tại Nhật Bản năm 1961.
1
null
Triều đại Tudor hoặc Nhà Tudor là một Vương thất châu Âu có nguồn gốc từ xứ Wales. Từ năm 1485 đến 1603, Nhà Tudor cai trị Vương quốc Anh và các lãnh thổ, trong đó có Lãnh địa Ireland, về sau là Vương quốc Ireland. Quân vương khởi nghiệp của Triều đại Tudor là Henry VII, một hậu duệ (về phía mẹ) của Vương tộc Anh, Nhà Lancaster. Sau Chiến tranh Hoa Hồng, Nhà Lancaster không còn người kế vị, quyền lực chuyển sang Nhà Tudor. Henry xác lập uy tín của ông không chỉ là một ứng viên cho những người ủng hộ truyền thống Lancaster, mà còn cho những người bất đồng thuộc phe đối nghịch, Nhà York. Qua chiến trận, ông chiếm được ngai vàng, trở thành Vua Henry VII. Chiến thắng càng vững chắc hơn sau khi ông kết hôn với Elizabeth xứ York, cuộc hôn nhân được xem như là biểu tượng của sự thống nhất giữa các phe phái tranh chấp nay sống chung dưới triều đại mới. Nhà Tudor mở rộng lãnh thổ bằng cách sáp nhập xứ Wales và củng cố quyền cai trị trên Vương quốc Ireland. Họ cũng công bố danh hiệu truyền thống Vua nước Pháp dù không ai trong số họ thực thi quyền này, và dù Henry VIII từng gây chiến với Pháp để cố đòi lại danh hiệu ấy. Con gái ông, Mary I, đánh mất danh hiệu này vĩnh viễn sau khi để mất Calais về tay người Pháp trong năm 1558. Tổng cộng, Triều đại Tudor kéo dài hơn một thế kỷ với năm quân vương (nếu không kể Jane Grey thoái vị sau chín ngày). Henry VIII nối ngôi Henry VII, là người kế vị nam giới duy nhất còn sống đến tuổi trưởng thành. Năm 1603, Nhà Stuart nắm quyền khi quân vương sau cùng của Nhà Tudor, Elizabeth I, băng hà mà không có con. Chính những người thuộc Nhà Tudor lại không thích tên Tudor (bởi vì người Tudor đầu tiên có xuất thân thấp hèn), do đó tên Tudor không được sử dụng nhiều mãi cho đến cuối thế kỷ 18. Trong thời trị vì của triều đại Tudor, nước Anh chứng kiến những biến động chưa từng xảy ra trước đó. Năm quân vương thuộc Nhà Tudor đã đem đến những thay đổi triệt để mà ảnh hưởng của chúng trên đất nước này vẫn còn kéo dài cho đến ngày nay. Kể từ lúc Henry VII đăng quang năm 1485 cho đến khi Elizabeth băng hà năm 1603, định chế tôn giáo cũ đã bị xóa bỏ, những khu định cư ở Tân Thế giới được thiết lập, Lực lượng Hải quân Hoàng gia được hình thành và các cường quốc truyền thống ở Âu châu bị thách thức. Xuất thân. Henry VII của Nhà Tudor, về họ mẹ, là hậu duệ của John Beaufort, một trong những con ngoại hôn của Vương tử John xứ Gaunt, Công tước Lancaster - một người con của Edward III của Anh, với người tình lâu năm của ông, Katherine Swynford. Chính thức thì hậu duệ con ngoại hôn của Vương thất Anh không có quyền kế vị, nhưng tình hình trở nên phức tạp khi Gaunt và Swynford sau cùng cũng kết hôn với nhau vào năm 1396, lúc ấy John Beaufort đã 25 tuổi. Bởi một chỉ dụ của Giáo hoàng, giáo hội công bố Beaufort là con chính thức nhưng vẫn không được quyền kế vị. Tuy nhiên, nhà Beaufort là đồng minh thân cận với các hậu duệ chính thức của Gaunt trong cuộc hôn nhân đầu tiên, vương tộc nhà Lancaster. Cháu gái John Beaufort, Margaret Beaufort, người có quyền kế vị, kết hôn với Edmund Tudor. Edmund Tudor là con trai quan cận thần Owen Tudor với Catherine nhà Valois, Vương hậu của Vua Henry V thuộc nhà Lancaster đồng thời là mẹ ruột của Henry VI của Anh. Edumund Tudor là con ngoại hôn, dù vậy nhờ thiện ý của Vua Henry VI mà họ được hưởng tài sản lớn. Ngày 15 tháng 12 năm 1449, Edmund Tudor trở thành Bá tước Richmond rồi kết hôn với Margaret Beaufort, chắt của John xứ Gaunt, tổ tiên của dòng họ Lancaster. Edmund mất ngày 3 tháng 11 năm 1456. Ngày 28 tháng 11 năm 1457, Margaret Beaufort sinh một con trai, Henry Tudor, tại Lâu đài Pembroke. Đó là khởi đầu của nhà Tudor. Henry Tudor trải qua thời thơ ấu tại Lâu đài Raglan của Bá tước Pembroke, một nhân vật có nhiều ảnh hưởng ở xứ York Sau khi Henry VI và con trai, Edward, bị giết trong năm 1471, Henry trở thành trụ cột của nhà Lancaster. Henry được đưa đến sống ở Bretagne thuộc Pháp vì lý do bảo toàn tính mạng khỏi sự dòm ngó của nhà York, mẹ của Henry là phu nhân Margaret Beaufort ở lại nước Anh và tái hôn liên tiếp với các nhà quý tộc có thế lực như Henry Stafford rồi Thomas Stanley để che giấu mình khỏi ánh mắt của người nhà York. Trong lúc thanh danh của Vua Richard III bị suy giảm, Margaret Beaufort liên kết với những cư dân York bất mãn nhằm thành lập một liên minh ủng hộ con trai của bà. Hai năm sau khi Richard III đăng quang, Henry và Jasper Tudor dẫn quân đến Thủy lộ Milford Haven đánh bại Richard III trong Trận Bosworth, Henry Tudor xưng Vương ngay trong trận chiến, trở thành Vua Henry VII của nước Anh. Các quân vương. Henry VII. "Quốc vương Henry VII chấm dứt cuộc nội chiến tranh giành quyền lực, thành lập Vương triều Tudor, hiện đại hóa chính quyền và luật pháp nước Anh." Mối quan tâm hàng đầu của Henry VII là củng cố quyền lực. Ngày 18 tháng 1 năm 1486 tại Điện Westminster, nhà vua làm lễ cưới với Elizabeth xứ York. Hai người là anh em họ đời thứ ba, đều là chắt của John of Gaunt. Cuộc hôn phối đoàn kết hai gia tộc đang tranh chấp với nhau: Lancaster và York. Gia huy của Nhà Tudor là hoa hồng Tudor, một sự kết hợp giữa hoa hồng trắng của Nhà York với hoa hồng đỏ của Nhà Lancaster. Bốn người con của Henry và Elizabeth còn sống đến tuổi trưởng thành là Arthur, Thân vương xứ Wales; Henry, Công tước xứ Richmond; Margaret, kết hôn với James IV của Scotland; và Mary, kết hôn với Louis XII của Pháp. Một trong những mục tiêu của Henry VII trong ngoại giao là củng cố vương triều thông qua các cuộc hôn nhân. Năm 1503, Ông gả con gái mình là Margaret Tudor cho James IV của Scotland. Một trăm năm sau, hai vương quốc Anh và Scotland thống nhất khi Elizabeth I, quân vương cuối cùng của Nhà Tudor băng hà mà không có con nối ngôi, James VI của Tô Cách Lan, hậu duệ của James IV và Margaret, là người thừa kế chính thức trở thành James I của vương quốc Anh thống nhất. Năm 1501, Henry VII cưới Catalina xứ Aragón cho con trai cả Arthur để lập liên minh với Quân chủ Công giáo của Tây Ban Nha. Song, chỉ bốn tháng sau đám cưới, Arthur qua đời, Henry trở thành người nối ngôi. Dù đã có được phép miễn trừ của giáo hoàng để Henry được phép cưới góa phụ của anh trai, Henry VII vẫn chần chừ. Henry VII không muốn dấn sâu vào chính trường châu Âu. Ông chỉ để mình vướng vào hai cuộc chiến, một là vào năm 1489 trong đợt khủng hoảng Breton và cuộc xâm lăng Brittany, lần kia từ năm 1496-97 nhằm trả đũa Scotland khi nước này ủng hộ Perkin Warbeck và xâm lấn phía bắc nước Anh. Năm 1492, Henry VII ký hòa ước với Pháp và, do cuộc nổi loạn năm 1497, ông quyết định chấm dứt chiến tranh với Scotland. Năm 1502, Henry ký hòa ước với James IV dọn đường cho cuộc hôn nhân của James với con gái ông, Margaret. Một mối quan tâm khác của Henry VII là tìm cách gia tăng ngân sách hoàng gia. Trong thời trị vì của Henry VII, Anh trở thành một trong những quốc gia giàu có nhất Âu châu. Ngày 21 tháng 4 năm 1509, Henry VII mất vì bệnh lao phổi, để lại cho con trai, Henry VIII, một triều chính ổn định, một chính phủ linh hoạt, một đất nước phồn vinh và đoàn kết. Henry VIII. "Là một trong những quân vương nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Anh, Henry VIII kết hôn sáu lần, cắt đứt quan hệ với giáo hoàng ở Rô-ma, thành lập Giáo hội Anh, và khởi xướng cuộc cải cách tôn giáo." Ngày 11 tháng 6 năm 1509, Tân vương Henry VIII kết hôn với Catalina của Aragón. Vào ngày 24 tháng 6 cùng năm, Quốc vương và Vương hậu cùng đăng quang tại Điện Westminster. Lúc đầu, Henry chẳng mấy quan tâm đến chính sự nhưng buông mình chìm đắm trong cuộc sống xa hoa và dành đam mê cho các môn thể thao. Song, hai năm sau nhà vua khởi quan tâm đến các chiến lược quân sự, rồi chăm chú vào triều chính. Thời trẻ tuổi, Henry là người lịch thiệp, nhã nhặn trong các cuộc tranh luận, và thường tìm kiếm sự đồng thuận hơn là thích ra lệnh, được nhiều người xem như là một quân vương hào phóng, nhân hậu, và dễ gần. Tuy nhiên, hình ảnh của nhà vua lúc về già lại khác hẳn: béo phì, xốc nổi, và tàn độc. Catherine không thể có con trai như Henry mong đợi: con gái đầu chết lưu thai, kế tiếp là một con trai chết chỉ 52 ngày sau khi chào đời. Lại thêm một đứa bé chết lưu thai trước khi Mary ra đời năm 1516. Không có con trai để nối ngôi và sự chênh lệch tuổi tác, Vương hậu lớn hơn nhà vua sáu tuổi, Henry sai Hồng y Thomas Wolsey đến Rome để thuyết phục Giáo hoàng cho phép hủy hôn – thời ấy ly dị đồng nghĩa với hủy hôn. Song, do áp lực dữ dội từ cháu của Catherine - Charles V, Hoàng đế Thánh chế La Mã, nhân vật quyền lực nhất châu Âu thời bấy giờ, Giáo hoàng phải từ chối yêu cầu này. Quốc hội Anh ban hành luật cắt đứt quan hệ với Công giáo La Mã, tuyên bố nhà vua là Lãnh đạo Tối cao của Giáo hội Anh. Tân Tổng Giám mục Canterbury, Thomas Cranmer, tuyên bố hủy bỏ cuộc hôn nhân của Henry với Catherine, Henry VIII sau đó cưới Anne Boleyn. Ngày 7 tháng 9 năm 1533, Anne hạ sinh một con gái, Elizabeth, đặt theo tên của bà nội. Tháng 5 năm 1536, Anne bị bắt giam, bị gán cho những tội danh như phản quốc, phù thủy, và loạn luân, dẫn đến cuộc xử tử bà cùng năm ấy. Không lâu sau Henry VIII kết hôn lần thứ ba, lần này với Jane Seymour. Năm 1537, Jane sinh một con trai, người sẽ kế vị Henry VIII để trở thành Vua Edward VI. Mười hai ngày sau khi sinh, Jane qua đời, Henry VIII bị suy sụp dữ dội. Cùng lúc ấy, Thomas Cromwell thành công trong nỗ lực thống nhất Anh và xứ Wales. Năm 1540, do sự sắp đặt của Cromwell, Henry kết hôn với Anna xứ Kleve, con gái của một công tước Tin Lành người Đức. Cuộc hôn nhân chỉ kéo dài 7 tháng do nhà vua không thích nhan sắc của Vương hậu. Với sự đồng ý của Anne, Henry quyết định hủy hôn. Ngày 28 tháng 7 năm 1540, Cromwell bị chém đầu. Cũng sau đó, Anne sống cả đời như một trinh nữ và không lấy ai nữa. Ngay sau đó Henry lại tái hôn. Lần cưới vợ thứ năm của Henry là với Catherine Howard, cháu gái của Thomas Howard, Công tước Norfolk. Howard hi vọng Catherine sẽ thuyết phục Henry đem nước Anh trở lại với Công giáo. Henry gọi Catherine là "bông hồng không gai", nhưng hôn nhân này là một thất bại. Catherine dan díu với Thomas Culpeper, một cận thần của Henry. Catherine bị xử tử ngày 13 tháng 2 năm 1542 vì bị gán tội ngoại tình. Năm 1543, Henry kết hôn với Catherine Parr, một tín hữu Kháng Cách. Bà suýt bị cầm tù vì cố giới thiệu với Henry giáo lý Lutheran khi chăm sóc nhà vua trên giường bệnh. Catherine Parr giúp Henry hòa giải với hai cô con gái, Mary và Elizabeth. Bà cũng tạo lập một mối quan hệ tốt đẹp với thái tử Edward. Trong khi đó, Edward hấp thụ nền giáo dục Kháng Cách từ những giáo thụ như Giám mục Richard Cox, John Belmain, và Sir John Cheke. Những phụ nữ có nhiệm vụ chăm sóc Edward như Blanche Herbert, Lady Troy, đều là tín hữu Kháng Cách. Mặc dù động lực chính thúc đẩy mọi hoạt động của Henry là vì quyền lợi của vương triều và những tham vọng cá nhân, và dù chưa bao giờ chối bỏ các giáo lý căn bản của Giáo hội Công giáo, thời trị vì của Henry đã tạo nên bước ngoặt quan trọng trong lịch sử vương quyền Anh. Quyết định của Henry tách khỏi Rô-ma trong những năm 1533 – 1534 đã có hệ quả lâu dài trên dòng chảy lịch sử, và không chỉ giới hạn trong những năm trị vì của triều đại Tudor, không chỉ là yếu tố thúc đẩy tiến trình chuyển đổi nước Anh trở thành một cường quốc mà còn tước bỏ quyền lực chính trị và kinh tế khỏi giáo hội để trao cho giới cầm quyền nước Anh thông qua việc truất hữu tài sản và đất đai của các tu viện – một biện pháp ngắn hạn nhưng có hiệu quả xã hội lâu dài. Từ 15 tàu chiến thừa kế từ vua cha, Henry VIII xây dựng lực lượng hải quân tới năm 1540 được 45 chiếc để có thể đối đầu với hải lực của Pháp và Tây Ban Nha. Henry VIII có công thiết lập mạng lưới bưu điện quốc gia phục vụ Vương thất. Tất cả thị trấn trong nước đều phải dự bị ngựa để chuyển phát thư tín của triều đình. Đến năm 1635, vua Charles I mở rộng hệ thống này cho toàn dân – là sự khởi đầu của mạng lưới bưu chính cho đến ngày nay. Trong thời trị vì của Henry, quyền lợi quốc gia phát triển đáng kể, và nhà vua đã khá thành công trong nỗ lực biến nước Anh trở thành một thế lực quan trọng ở châu Âu dù phải chịu hao tốn nhiều tiền của. Henry VIII băng hà ngày 28 tháng 1 năm 1547, được an táng cạnh Jane Seymour trong Nhà nguyện St George tại Lâu đài Windsor. Edward VI. "Lên ngôi lúc 9 tuổi và băng hà ở tuổi 15, nhưng thời trị vì ngắn ngủi của Edward VI chứng kiến một giai đoạn khai mở trọn vẹn nền thần học Tin Lành ở nước Anh." Edward là con của Henry VIII với người vợ thứ ba, Jane Seymour, bà mất chỉ vài ngày sau khi sinh Edward. Là con hợp pháp duy nhất của Henry VIII (con của những bà vợ đã ly dị không được xem là hợp pháp), Edward nối ngôi cha khi mới chín tuổi. Mặc dù thông mình trước tuổi và được hưởng một nền giáo dục tinh hoa, Edward không có thể chất tốt. Henry VIII đã sắp đặt một hội đồng nhiếp chính, nhưng Edward Seymour, Công tước Somerset – bác của Edward – tiếm quyền và tự phong "Lord Protector". Somerset và Thomas Cranmer muốn biến Anh Quốc trở thành một đất nước Kháng Cách. Mùa hè năm 1549 bùng nổ cuộc nổi dậy của nông dân tại West Country chống lại Sách Cầu nguyện chung mới vừa ban hành; trong khi đó, cuộc nổi dậy ở Norfolk chỉ nhằm phản kháng những bất công. Cùng lúc, Pháp tuyên chiến với Anh. Sau khi trấn áp cuộc nổi dậy ở Norfolk, John Dudley, Bá tước Warwick, hạ bệ, cầm tù rồi xử tử Somerset. Dudley, trở thành Công tước Northumberland, cai trị đất nước. Cuộc cải cách tôn giáo được đẩy mạnh. Thomas Cranmer, Tổng Giám mục Canterbury, là người thiết kế cuộc cải cách tôn giáo, quảng bá nền thần học Kháng Cách, và ban hành Sách Cầu nguyện chung năm 1552, vẫn còn sử dụng cho đến ngày nay. Edward trở bệnh, Northumberland thuyết phục nhà vua ban hành luật kế vị mới, tuyên bố Mary là bất hợp pháp và truyền ngôi cho Lady Jane Grey, con dâu của Northumberland. Jane Grey là chắt của Henry VII. Chín ngày sau khi lên ngôi, Jane Grey bị lật đổ, rồi bị hành quyết sau bốn tháng giam giữ. Mary, con gái của Henry VIII với người vợ đầu, Catherine of Aragon, trở thành Nữ vương nước Anh. Mary I. "Là Nữ vương đầu tiên của nước Anh, Mary I bị gọi là "Mary khát máu" vì đã bách hại người Kháng Cách trong nỗ lực không thành cố phục hồi Công giáo trên đất nước này." Mary Tudor là con gái của Henry VIII và Catalina của Aragón. Thông qua mẹ, Infanta Catalina của Aragón, Mary là cháu ngoại của Quân chủ Công giáo, Song vương Ferrando II của Aragón và Isabel I của Castilla. Như vậy, bà là em họ của Karl V, Hoàng đế Thánh chế La Mã, một Hoàng đế quyền lực ở Châu Âu và là lãnh đạo của nhà Habsburg. Sau khi Henry hủy hôn với Catalina, Mary bị xem là người con hoang do điều luật hôn nhân khi ấy, lẽ dĩ nhiên Mary cũng bị tước bỏ danh hiệu Vương nữ của Vương thất, mất đi quyền thừa kế và đặc biệt hơn là không được phép gặp cha mẹ. Thời điểm Catalina qua đời, Mary không được gặp mẹ mình, tạo nên nỗi hiềm khích sâu sắc giữa Mary với cha bà, Vua Henry VIII. Tuy nhiên, dưới sự tác động của Vương hậu Jane Seymour, vợ kế của Henry VIII, Mary lại làm lành với vua cha, và bà tiếp tục trở thành đứa con gái được nhà vua yêu quý khi được phép trở về sống trong triều đình Tudor. Nhẫn nại để có một cuộc sống tốt hơn, Mary bắt buộc phải tuân theo yêu cầu của Henry VIII, trong đó có việc phải xem hôn nhân giữa ông và Catalina đã không còn hợp lệ, và Mary đã phải chấp nhận những điều khoản này, để đổi lại bà được cung cấp nữ hầu theo đúng địa vị của mình cùng với những lãnh địa, lâu đài được ban bởi Henry VIII với địa vị của một Vương nữ. Năm 1553, ngày 6 tháng 7, Quốc vương Edward VI băng hà. Lo sợ người chị cả cùng cha khác mẹ lên ngôi sẽ khiến cho Công giáo được khôi phục vì Mary là một tín đồ Công giáo, Vua Edward đã viết di chúc, chỉ định Jane Grey nối ngôi. Song, với sự ủng hộ của dân chúng, Mary tiến vào London và phế truất Jane. Năm 1554, sau khi dẹp cuộc nổi dậy của Sir Thomas Wyatt, Mary kết hôn với Quốc vương Felipe II của Tây Ban Nha, dụng tâm đem nước Anh trở lại với Công giáo và phục hồi luật chống Anh giáo của phái Kháng Cách, thứ mà Mary xem là tà giáo ung nhọt. Những động thái này của Nữ vương đều không được lòng dân, bởi vì trong nhiều năm chịu cải cách của hai cha con Henry VIII và Edward VI, dân chúng Anh đã xem Anh giáo là chính thống. Bên cạnh đó, dân Anh không tin cậy Phillip vì ông là Quốc vương của Tây Ban Nha, hơn nữa nhiều người ở Anh đang hưởng lợi nhờ chính sách của Henry VIII giải thể các tu viện cũng như thu hồi đất đai và tài sản của giáo hội. Trong vòng 3 năm, gần 300 người Kháng Cách bị đem lên giàn thiêu. Lại thêm thất bại trong chiến tranh khiến nước Anh mất Calais về tay người Pháp trong tháng 1 năm 1558. Không con cái, bệnh tật hành hạ và bị Philip bỏ rơi, Mary băng hà ngày 17 tháng 11 năm 1558, sau 3 năm trị vì. Người em gái khác mẹ, cũng là con gái của Anne Boleyn, Elizabeth Tudor, trở thành người kế vị ngai vàng của nhà Tudor. Elizabeth I. "Elizabeth I là một trong những quân vương vĩ đại nhất của nước Anh – có lẽ là người vĩ đại nhất. Hải quân của Nữ vương đánh bại đại hạm đội của Tây Ban Nha và cứu nước Anh khỏi họa xâm lăng. Nữ vương củng cố đức tin Tin Lành và xây dựng đất nước trở thành một quốc gia độc lập và hùng cường." Elizabeth Tudor, con gái của Anne Boleyn, đã đem nước Anh trở lại với đức tin Kháng Cách, nhưng Nữ vương không áp đặt chính sách tôn giáo nghiêm nhặt, tuyên bố rằng bà không muốn "săm soi vào linh hồn của thần dân". Bà quyết định không kết hôn bởi vì bà muốn nước Anh không bị các gia tộc nước ngoài chi phối cũng như muốn tránh sự phân hóa nội bộ vì những tranh chấp có thể xảy ra liên quan đến cuộc hôn nhân của bà. Khi còn trẻ, Elizabeth có một tuổi thơ đầy khó khăn. Chứng kiến mẹ bà bị xử tử theo lệnh của cha, Elizabeth cũng như người chị Mary đều bị tước bỏ quyền kế vị. Lúc bà được sinh ra, Vua Henry VIII đã thất vọng khi nghe tin đó là con gái, bởi vì thời điểm ấy nhà vua khao khát có một con trai để duy trì dòng tộc Tudor. Khi mới 2 tuổi rưỡi, mẹ của Elizabeth bị chém đầu để cưới Jane Seymour, và sau đó nhà vua tước bỏ danh hiệu Công chúa của Elizabeth, y hệt việc làm với Mary Tudor. Bà bị bỏ rơi cho đến khi được người vợ cuối cùng của Henry VIII là bà Catherine Parr nhận chăm sóc. Dưới sự bảo hộ của Catherine, công nương Elizabeth được hưởng một nền giáo dục tốt nhất cũng như được học giả của Đại học Cambridge, Roger Ascham, huấn luyện kỹ năng nói trước công chúng. Năm 13 tuổi, Elizabeth đến sống cùng với mẹ kế Catherine Parr. Sau khi vua Henry VIII mất, em trai bà là Edward kế vị. Khi Edward băng hà năm 1553, chị gái cô lên ngôi, lấy Mary I, . Nữ vương Mary tiến hành một cuộc thanh trừng đẫm máu nhằm loại bỏ người Kháng Cách. Sau một cuộc nổi dậy chống lại dự tính của Mary kết hôn với Philip của Tây Ban Nha, Elizabeth bị nghi ngờ có dính líu, giam giữ trong Tháp Luân Đôn rồi đưa về quản thúc ở Woodstock, Oxfordshire. Sau khi Mary mất, Elizabeth, 25 tuổi, lên ngôi. Thừa hưởng một đất nước tan tác vì tranh chấp tôn giáo, Nữ vương biết rằng cần phải có sự ủng hộ của thần dân. Bà củng cố Giáo hội Anh, trở thành người lãnh đạo tối cao của giáo hội, ban hành Sách Cầu nguyện chung, và phổ biến Kinh Thánh bản tiếng Anh. Chống lại áp lực của Quốc hội, Elizabeth không chịu kết hôn, nói rằng phúc lợi của đất nước chứ không phải hôn nhân, là ưu tiên của bà. Thời trị vì của Elizabeth cũng là thời kỳ hoàng kim của nền kịch nghệ Anh. Luật được ban hành nhằm khuyến khích nghệ sĩ tham gia các đoàn lưu diễn, lúc đầu trong các kho vựa, về sau trong những hí viện. Nữ vương thích xem kịch. Đoàn kịch của Lord Chamberlain rất được yêu thích trong thập niên 1590 có sự tham gia của Shakespeare. Viễn kiến của Nữ vương vượt quá biên giới châu Âu nhằm mở rộng giao thương và gia tăng ngân khố quốc gia. Năm 15809, Francis Drake là người Anh đầu tiên đi vòng quanh thế giới bằng thuyền. Tám năm sau, Sir Walter Raleigh, với 100 thủy thủ, thiết lập một khu thuộc địa ở bờ biển phía đông Bắc Mỹ, đặt tên Virginia nhằm vinh danh Elizabeth, [Nữ vương Đồng trinh]. Vì bà chưa từng kết hôn, vấn đề kế vị của Elizabeth gây tranh cãi lớn đương thời. Mary Stuart, em họ của Elizabeth, một giáo dân Công giáo, âm mưu lật đổ bà để có được ngai vàng. Sau nhiều tháng chần chừ vì không muốn xử tử một người thuộc vương tộc Anh, Nữ vương Elizabeth buộc phải đồng ý để Mary bị xử chém đầu. Giáo hoàng thúc giục Philip của Tây Ban Nha cất quân xâm lấn nước Anh. Philip cử hạm đội lừng danh, Armada Tây Ban Nha, tấn công Anh. Tin quyết sẽ bảo vệ được vương quyền cùng gìn giữ nước Anh khỏi ảnh hưởng của Rô-ma, Nữ vương nói với binh lính rằng bà sẽ chiến đấu bên cạnh họ. Đụng độ với hải lực Anh tại eo biển Manche rồi bị gió mạnh đánh dạt lên Bắc Hải, Armada rút về Tây Ban Nha, chỉ còn một nửa trong số 130 tàu chiến lúc xuất quân. Elizabeth băng hà năm 69 tuổi. Thần dân than khóc Nữ vương, hàng ngàn người đổ ra đường phố London tiễn đưa bà trên lộ trình đến nơi an táng trong Điện Westminster. Elizabeth là quân vương cuối cùng của nhà Tudor. James VI của Scotland được tôn làm vua, thống nhất Scotland với nước Anh. Nhà Tudor cai trị nước Anh được 118 năm.
1
null
Petlyakov Pe-2 (, tên thân mật Peshka (Пешка) là một loại máy bay ném bom bổ nhào của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới II. Nó được coi là một trong những máy bay cường kích tốt nhất trong chiến tranh và nó cực kỳ thành công trong vai trò làm tiêm kích hạng nặng, trinh sát và tiêm kích bay đêm. Pe-2 là một trong những máy bay quan trọng nhất trong Chiến tranh thế giới II, về nhiều khía cạnh thì nó tương đồng với loại de Havilland Mosquito của Anh, dù Pe-2 được sản xuất với số lượng rất lớn: 11.400 chiếc. Pe-2 có tính cơ động, nhanh và bền. Một số quốc gia Xã hội chủ nghĩa cũng dùng nó sau chiến tranh, nên có tên định danh NATO là Buck.
1
null
Bun Rany (Khmer: ប៊ុន រ៉ានី) (sinh 15 tháng 12 năm 1954) là phu nhân Thủ tướng Campuchia Hun Sen và cũng là người đứng đầu Hội Chữ Thập Đỏ Campuchia. Danh vị. Danh vị chính thức của bà là Lok Chumteav Kittiprittbandit Bun Rany. Bà thường được gọi bằng danh xưng tôn kính "Lok Chumteav", tiếng Khmer có nghĩa là Phu Nhân. Thời trẻ. Bà được sinh ra ở huyện Krouch Chhmar, tỉnh Kampong Cham. Bà là con thứ tư trong một gia đình nông dân có năm người con. Gia đình bà là người Campuchia gốc Hoa, có gốc gác từ đảo Hải Nam, Trung Quốc. Cuộc sống riêng tư. Năm 1972, bà là y tá cho Mặt trận Thống nhất Quốc gia Campuchia (National United Front of Kampuchea - NUFK). Bà đã gặp Hun Sen năm 1973 tại một trạm xá ở Kampong Cham khi ông đang điều trị cái chân bị thương. Ngày 5 tháng 1 năm 1976, bà đã cưới Hun Sen trong một đám cưới tập thể cùng với 12 chiến sĩ bị thương khác.
1
null
Ngày xửa ngày xưa mùa 1 (tiếng Anh: Once Upon a Time season 1) là loạt phim truyền hình của ABC, ra mắt vào ngày 23 tháng 10 năm 2011 và kết thúc vào ngày 13 tháng 5 năm 2012, được tạo ra bởi hai tác giả của "" ("Trò chơi Ảo giác") và "Mất tích", Edward Kitsis và Adam Horowitz. Loạt phim đặt trọng tâm vào hai thế giới Khu rừng Phép thuật cổ tích và Storybrooke, một thị trấn đông bắc nước Mỹ hiện đại, và mưu đồ của Hoàng hậu Độc ác muốn cướp đi cuộc sống yên bình của mọi người và vì thế chỉ có bà ta là người duy nhất được hưởng kết thúc có hậu. Mùa đầu tiên của "Ngày xửa ngày xưa" nhận được "sự ưa thích" đa số từ các nhà phê bình. Metacritic tặng chương trình 66 trên tổng 100 dựa trên 26 lần xem xét. Hank Stuever của "Bưu báo Washington" gọi chương trình là "một phần thưởng thủ công thông minh dành tặng cho fan hâm mộ của những câu chuyện phép thuật trong sáng với sự pha trộn của hành động, sự thông minh và lãng mạn". Verne Gay của tờ Newsday nói rằng chương trình "tỏa sáng cùng với ánh sáng cận nghệ kịch, thách thức khán giả phải suy nghĩ về chương trình là một thứ gì đó khác hơn chỉ là khuôn mẫu". Tập phim mở đầu thu hút 12,93 triệu khán giả và nhận được đánh giá/chia sẻ 4,0/10 từ người trưởng thành 18-49. Những con số này giảm xuống vào cuối mùa đến một con số thấp 8,36 triệu người xem và đánh giá/chia sẻ 2,8/8 từ người trưởng thành 18-49 trong tháng 4 năm 2012, nhưng khôi phục nhẹ vào cuối mùa với 9,66 triệu người xem và đánh giá/chia sẻ 3,3/10 từ người trưởng thành 18-49.
1
null
Lê Phước Vũ (sinh 28 tháng 5 năm 1963 tại Quy Nhơn, Bình Định. Quê cha mẹ ở Điện Bàn, Quảng Nam) là Chủ tịch Tập đoàn Hoa Sen (Việt Nam). Môi trường. Dự án thép ở Cà Ná. Ngày 26.8.2016, chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Hoa Sen (HSG) Lê Phước Vũ cam kết về dự án thép ở Cà Ná (Ninh Thuận): "Nếu xảy ra sự cố môi trường, tôi giao hết tài sản cho Nhà nước". Tại Hội nghị xúc tiến đầu tư vào tỉnh Ninh Thuận được tổ chức sáng 27-8 ở TP Phan Rang - Tháp Chàm (Ninh Thuận) trước sự chứng kiến của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và lãnh đạo các bộ ngành, lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận và Tập đoàn Hoa Sen đã ký thỏa thuận hợp tác chiến lược với dự án khu liên hợp luyện cán thép Hoa Sen Cà Ná (công suất dự kiến 16 triệu tấn/năm) và một số dự án khác lên đến hơn 10 tỉ USD. Đầu tháng 4 năm 2017, chính phủ đã có phản hồi chính thức về dự án, theo đó sẽ tạm dừng đề xuất dự án này để làm rõ một số vấn đề. Dự án Khu du lịch tâm linh Đại Tùng Lâm - Hoa Sen. Công ty TNHH Đầu tư và Du lịch Hoa Sen bị phản ánh lấp suối, bạt đồi và xây dựng trên đất người khác, ngoài ra còn có dấu hiệu khai thác trái phép hàng triệu mét khối đất để phục vụ san lấp mặt bằng tại dự án Khu du lịch tâm linh Đại Tùng Lâm - Hoa Sen tại Thôn 2, xã Đạ M’ri, huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng. Đời tư. Ông Lê Phước Vũ theo Phật giáo, tham gia nhiều công tác từ thiện. Đặc biệt tháng 5/2013 ông đã chi ra hơn 36 tỷ đồng để mời Nick Vujicic. Vợ cũ của ông Lê Phước Vũ là bà Hoàng Thị Xuân Hương, tuy nhiên hai người hiện đã li dị. Vợ hiện tại của ông là bà Trần Mỹ Hạnh, em của người mẫu Thủy Hương (vợ Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh). Tuyên bố. Ông Vũ tuyên bố sẽ rút khỏi công ty vào năm 2026, nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập:"Chắc chắn sau đó tôi sẽ xuất gia, sống cuộc đời phạm hạnh (trong sạch, thanh tịnh) của một người tu hành. Tôi sẽ ra đi khi tròn trách nhiệm, chứ không phải ra đi để gom một mớ tiền", ông Vũ nói và nhấn mạnh đây là ước mong từ năm 30 tuổi và không gì có thể lay chuyển.
1
null
Trong sinh học, bắt chước là hiện tượng một loài sinh vật có đặc điểm giống hoặc tương tự như một loài khác để bảo vệ chính nó hoặc cả hai. Đây là thuật ngữ trong sinh học tiến hóa, ở tiếng Anh là mimicry, tiếng Pháp là mimétism, cũng đã được dịch là "giả trang" hoặc "ngộ trạng". Như một loài bướm (không độc) lại có hình dạng, màu sắc rất giống như ong vò vẽ (có độc). Ở ví dụ này loài bướm đó đã "bắt chước" ong vò vẽ, nhờ đó kẻ thù của bướm (thường là chim sâu) tưởng nhầm nó là ong độc, nên không dám ăn thịt. Có thể nói: bướm này là loài bắt chước để đánh lừa kẻ thù của nó, còn ong là loài mẫu, bị bắt chước. Thông thường, sự bắt chước hay xảy ra giữa hai loài động vật cùng sinh sống trong một vùng (sinh cảnh) nhất định và chúng giống nhau chủ yếu về hình thái, nhưng cũng có khi giống nhau về tập tính hoặc tiếng kêu hay mùi vị phát ra. Hiện tượng này thực chất là kết quả của quá trình tiến hóa, do tác động của chọn lọc tự nhiên diễn ra rất lâu dài trong một quần xã. Kết quả là mang lại lợi thế trước hết cho loài bắt chước và sau đó có thể có lợi thế cho loài mẫu, cũng là kết quả của quá trình tiến hóa hội tụ. Trong sự phát triển mạnh mẽ của sinh học phân tử, tương đối gần đây đã phát hiện được sự bắt chước còn xảy ra ở cấp độ phân tử, gọi là hiện tượng "molecular mimicry" hoặc phân tử bắt chước. Tổng quan. Thường thường thì sự bắt chước xảy ra giữa 2 loài khác nhau, như một con bướm bắt chước hay mô phỏng như là một con nhện ăn bướm để tự bảo vệ lấy mình. Thường thường thì sự bắt chước chỉ có lợi cho loài đi bắt chước người ta và hại cho loài tiếp nhận. Cải trang cũng là một dạng bắt chước vì một loài giả ra thành môi trường chung quanh của nó (như là một vài loài côn trùng giả ra lá, hoa hay đá cỏ) Tuy loại bắt chước dễ nhận ra nhất là do thi giác nhưng cũng có những bắt chước về mùi hương, tiếng động. Cũng có thể bắt chước về hình thái, hành vi hay bắt chước những tính chất khác. Bắt chước luôn luôn làm cho đối tượng tiếp nhận bì lầm lẫn, thí dụ như chim ăn sâu bọ đôi khi không dám ăn một loài sâu nào đó vì nó giống một loài khác có mùi vị khó nuốt trôi.p161 Một loài có thể lúc bắt chước loài này có lúc bắt chước loài khác tùy theo giao đoạn. Một loài cũng có thể bị nhiều loài khác bắc chước. Nhưng con hay bắt chước nhât là côn trùng tuy là có trường họp loài hữu nhũ bắt chước. Cây cỏ nấm cũng có bắt chước nhưng nghiên cứu về chúng chưa có nhiều
1
null
Quan hệ Việt Nam - Mông Cổ là mối quan hệ song phương giữa Việt Nam và Mông Cổ. Việt Nam đã thiết lập đại sứ quán tại Ulaanbaatar và Mông Cổ cũng đã thiết lập đại sứ quán tại Hà Nội. Các văn kiện. Hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao vào 1954. Mặc dù Mông Cổ không trực tiếp tham gia chiến tranh Việt Nam, nhưng họ vẫn bày tỏ sự ủng hộ về ý thức hệ đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng cách hỗ trợ tương tự trong Thế chiến II cho Liên Xô và chiến tranh Triều Tiên với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, và cung cấp vật nuôi như là sự hỗ trợ vật chất, bao gồm nhiều hơn hơn 100.000 đầu ngựa, bò và cừu. Sau chiến tranh, Mông Cổ đã tiếp nhận và nuôi dưỡng hơn 400 trẻ em mồ côi chiến tranh trong những năm 1960-1970. Lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã đến thăm Mông Cổ và bày tỏ sự đánh giá cao sự hỗ trợ của Mông Cổ trong thời chiến; Nhà lãnh đạo Mông Cổ Yumjaagiin Tsedenbal đã có chuyến thăm đối ứng tới Hà Nội vào cuối năm đó. Vào thời điểm đó, hai nước đã ký Hiệp định Hợp tác Kinh tế và Văn hóa và năm sau bắt đầu tiến hành thương mại song phương. Các nước đã ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác vào năm 1961, đổi mới năm 1979 và ký kết một hiệp ước mới vào năm 1995. Vào ngày 13 tháng 1 năm 2003, các nước đã ký một văn bản hợp tác 8 điểm cam kết hợp tác giữa hai chính phủ và các cơ quan lập pháp của họ, thay thế một tài liệu trước đó được ký vào năm 1998. Đã có 13 phiên họp của ủy ban liên chính phủ Việt Nam-Mông Cổ về hợp tác thương mại, kinh tế và khoa học công nghệ, với phiên họp tiếp theo sẽ được tổ chức tại Ulaanbaatar vào năm 2010. Vào ngày 25 tháng 5 năm 2004 tại Ulaanbaatar, các nước đã ký thỏa thuận về vận tải đường sắt và hợp tác khoa học và công nghệ. Các thỏa thuận khác đã bao gồm các lĩnh vực như bảo vệ thực vật và các quy định kiểm dịch, hải quan, y tế và giáo dục. Các chuyến thăm ngoại giao. Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh và Trần Đức Lương đã lần lượt đến thăm Mông Cổ vào các năm 1955 và 2004. Các tổng thống Mông Cổ Punsalmaagiin Ochirbat, Nambaryn Enkhbayar và Natsagiin Bagabandi cũng đã lần lượt đến thăm Việt Nam các năm 1994, 2002 và 2005. Thương mại. Xuất khẩu từ Việt Nam vào Mông Cổ đã tăng từ 2,4 triệu USD năm 2005 lên 3,3 triệu USD năm 2006 và 5,7 triệu USD năm 2007. Hai bên đặt mục tiêu nâng mức thương mại song phương lên 10 triệu USD cho đến năm 2010. Trong chuyến thăm của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đến Mông Cổ năm 2008, Việt Nam đã đồng ý bán 20.000 tấn gạo cho Mông Cổ. Đại sứ quán, lãnh sự quán. - Tại Việt Nam: - Tại Mông Cổ:
1
null
Quan hệ Đan Mạch – Việt Nam là mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Đan Mạch. Hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 25 tháng 11, năm 1971. Ngày 1 tháng 4 năm 1994, Đan Mạch đã mở đại sứ quán tại Hà Nội, và từ ngày 12 tháng 8 năm 2000 Việt Nam đã mở đại sứ quán tại Copenhagen. Việt kiều. Có khoảng 8.500 người Việt Nam sống ở Đan Mạch. Thỏa thuận. Năm 2008, hai nước đã ký kết một thỏa thuận về bảo vệ môi trường. Năm 2007, hai bên đã ký kết một thỏa thuận khung về chương trình tín dụng của Đan Mạch dành cho Việt Nam. Đại sứ quán , lãnh sự quán. - Tại Việt Nam : - Tại Đan Mạch :
1
null
Bãi Trăng Khuyết là một rạn san hô vòng thuộc cụm An Bang (cụm Thám Hiểm) của quần đảo Trường Sa. Rạn vòng này nằm cách đô thị Rizal trên đảo Palawan của Philippines 71 hải lý (132 km) về phía tây. Bãi Trăng Khuyết là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát rạn vòng này. Sự kiện. Ngày 14 tháng 7 năm 2012, thị trưởng Kalayaan cho biết tàu frigate Đông Quan 560 (lớp Giang Hồ-V) của Trung Quốc đã bị mắc cạn tại bãi Trăng Khuyết trong khoảng mười ngày trước đó. Con tàu này cũng từng chạy vòng quanh khu vực bãi Trăng Khuyết nhiều lần và từng bắn cảnh cáo ba tàu cá Philippines tại bãi Hải Sâm vào tháng 2 năm 2011. Ngày 15 tháng 7, Trung Quốc thông báo giải cứu thành công chiếc tàu bị mắc cạn vào lúc 5 giờ sáng (giờ chuẩn Trung Quốc) và đã sắp xếp đưa nó về cảng.
1
null
Trường Trung học Phổ thông Tây Tiền Hải là một trường Trung học phổ thông công lập tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Trường được thành lập năm 1961, là một trong những ngôi trường cấp 3 đầu tiên của tỉnh Thái Bình. Năm học 2010 - 2011, trường được công nhận là trường chuẩn quốc gia. Trường sở hiện nay tại đường Nguyễn Công Trứ, khu 3 Thị trấn Tiền Hải, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Lịch sử hình thành. Trường được thành lập vào tháng 9 năm 1961, với trường sở ban đầu chỉ là lán tranh, mái ngói nằm cạnh bờ hồ Nguyễn Công Trứ, thuộc xã Tây Sơn; là trường cấp 2 - 3 cho học sinh ở 4 huyện Kiến Xương, Tiền Hải, Thái Ninh, Thụy Anh, và một phần Đông Quan (Đông Hưng ngày nay). Năm học đầu tiên 1961 – 1962 khai giảng với 4 lớp 8 với 203 học sinh và 17 cán bộ, giáo viên. Sau này tách hai hệ riêng biệt, trường dời đến khu mới, nằm cạnh Quốc lộ 39. Một ngôi trường cấp III chỉ vẻn vẹn có hai ngôi nhà lợp ngói, đủ làm phòng học cho 4 lớp 8 và 4 lớp 9. Trường sở ngày nay với 38 phòng học đúng quy cách, 4 phòng máy vi tính, với 90 máy. Quy mô đào tạo phát triển rất nhanh, từ 4 lớp ban đầu, nay đã có 36 lớp với hơn 1.800 học sinh, cho cả ba khối lớp 10, 11 và 12... Trường Trung học phổ thông Tây Tiền Hải có tới 52,5% giáo viên từng là học sinh cũ của trường. Trong 33.216 học sinh từng tốt nghiệp, có 3.836 học sinh đỗ vào trường đại học, 5 người là giáo sư, 6 người là phó giáo sư, 80 tiến sĩ, 4 người mang quân hàm cấp tướng, 78 đại tá.
1
null
Bất Động Minh Vương hay Acala (Sanskrit: अचल "bất động") là một hộ pháp chủ yếu được thờ phụng trong Kim Cương thừa. Ông được xem là thần hộ vệ chính trong Chân Ngôn Tông của Nhật Bản với tên gọi Fudō Myō-ō, trong Mật tông ở Trung Hoa, Nepal, Nhật Bản và Tây Tạng gọi là Candarosana. Bất Động Minh Vương là hoá thân phẫn nộ của Đức Đại Nhật Như Lai để hàng phục những chúng sinh quá cứng đầu và hộ trì tam bảo trong những đời vị lai. Tên gọi khác của Ngài là Bất Động Kim Cang Minh Vương, Bất Động Tôn, Vô Động Tôn, Vô Động Tôn Bồ Tát, mật hiệu là Thường Trụ Kim Cang. Hình tượng. Hình tượng của Bất Động Minh Vương có tượng hai tay, tượng bốn tay, và tượng sáu tay. Nhưng phần nhiều thường thấy là tượng hai tay. Thân thông thường của Bất Động Minh Vương mang sắc xanh đen, đỏ cam, vàng, vẻ mặt giận dữ nhìn thẳng, chân răng cắn cứng, có tượng mở to đôi mắt, có tượng chỉ mở to một mắt, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm dây; sau lưng xuất hiện những ngọn lửa lớn cháy mãnh liệt phần nhiều ngồi kiết già trên bàn thạch hay trên toà sắt. Sắc tướng uy mãnh của Ngài có thể khiến cho quỷ ác, yêu ma, trông thấy phải khiếp sợ. Kiếm sắc ở tay phải biểu thị đầy đủ công năng tiêu diệt Tham – Sân – Si, là ba thứ độc hại đối với trí tuệ. Sợi dây ở tay trái có thể trói buộc tất cả những kẻ ỷ mạnh làm càn. Ngọn lửa dữ sau lưng Ngài có thể thiêu đốt hết thảy các thứ phiền não. Do đó, tất cả các hình tướng kia là để biểu hiện đức đại bi của Ngài. Phổ biến. Tại Đông mật và trong Đài mật, Bất Động Minh Vương rất được sùng bái, tại các tự viện thuộc Tông phái này có khá nhiều di tích về Ngài. Thần chú. Phiên âm: Namo Sammanto Vajra Nai Ham ( Bất Động Tôn Nhất Tự Tâm Chân Ngôn )
1
null
Angangueo ( ) là một thị trấn tọa lạc tại miền đông bang Michoacán ở trung México, đáng chú ý vì lịch sử khai mỏ và vị trí trong khu dự trữ sinh quyển bướm vua. Nó nằm ở một hẻm núi nhỏ giữa những ngọn núi rừng phủ đầy. Thị trấn được thành lập chính thức sau khi một mỏ quặng lớn được phát hiện trong khu vực vào cuối thế kỷ 18. Việc khai mỏ dừng lại vào thế kỷ 20, nhưng nó lại nổi danh nhờ việc nằm cạnh hai khu bảo tồn bướm.
1
null
Sừng Vàng (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Halic (có nguồn gốc từ trong tiếng Ả Rập Khaleej, có nghĩa là Vịnh) hoặc Altin Boynuz (nghĩa đen "Sừng Vàng" trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ); tiếng Hy Lạp: Κεράτιος Κόλπος, Keratios Kolpos: vinh hình dạng sừng) là một vịnh nhỏ của eo biển Bosphorus phân chia thành phố Istanbul và hình thành bến cảng tự nhiên đã che chở các quốc gia cổ Hy Lạp, La Mã, Byzantine, Ottoman và các tàu thuyền trong hàng ngàn năm. Đó là một cửa sông có hình mã tấu đổ vào Bosphorus ngay tại điểm eo biển đó đi vào biển Marmara, do đó tạo thành một bán đảo đầu trong số đó là "Istanbul Cổ" (Byzantion và Constantinople cổ). Tên tiếng Hy Lạp và tiếng Anh có nghĩa gần như nhau, nhưng trong tiếng Anh có thêm chữ "vàng" ("Golden Horn"), trong khi trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ tên của nó "Halic" chỉ đơn giản có nghĩa là "cửa sông" hay là "vịnh". Nơi đây đã chứng kiến ​​nhiều sự cố lịch sử đầy biến động, và khung cảnh đầy kịch tính của nó đã là chủ đề của nhiều tác phẩm nghệ thuật.
1
null
Bacoachi là một đô thị thuộc bang Sonora, México. Năm 2005, dân số của đô thị này là 1456 người.Diện tích đô thị là 1,260.65 km² và dân số (nông thôn và thành thị) là 1.456 vào năm 2005, với 924 cư dân sinh sống ở ghế, thành phố. Độ cao của đô thị là 1,350 mét so với mực nước biển. Bacoachi nằm về phía đông nam của Cananea và có ranh giới ở phía bắc với Naco , phía đông với Fronteras , phía đông nam với Nacozari , phía tây nam với Arizpe và phía đông với Cananea Lãnh thổ ban đầu là nơi sinh sống của người da đỏ Opata Teguima, họ gọi khu định cư của họ là "". Năm 1649, Thuyền trưởng Simón Lazo de la Vega thành lập một thị trấn Tây Ban Nha ở cùng địa điểm. Tên có nghĩa là "rắn nước" trong ngôn ngữ bản địa. Phần lớn đất là núi và là một phần của Sierra de Sonora. Nơi đây vẫn còn những khu rừng thông và nhiều loại động vật phong phú, bao gồm sói đồng cỏ, báo đốm, hươu, nai, gấu trúc, lợn rừng, chồn hôi và cú, cùng nhiều loài khác. Dân số ngày càng giảm do nhập cư vào Hợp chủng quốc Hoa Kỳ . Có ít con đường nhưng đô thị này được kết nối với thủ đô Hermosillo bằng đường cao tốc Hermosillo-Cananea. Nông nghiệp và chăn nuôi gia súc là hoạt động kinh tế chính. Phần lớn ngành nông nghiệp là trồng cỏ nuôi gia súc, với số lượng hơn 25.000 con vào năm 2000.
1
null
6P62 (tiếng Nga: 6П62) là loại súng máy hạng nặng có thể tác chiến khi đang cầm do GRAU thiết kế sử dụng đạn 12.7 mm. Trong phạm vi 100 m đạn có thể xuyên 20 mm các loại giáp thép đồng nhất. 6P62 được phát triển để có thể chống lại các phương tiện cơ giới bọc giáp, các loại phương tiện bay thấp hay các mục tiêu là con người mang các loại áo giáp chống đạn hạng nặng trong khoảng cách từ 500 đến 1000 m. Thiết kế. Súng có một ống hãm thanh lớn để giảm tối đa tiếng động khi bắn, ống hãm thanh này cũng kiêm luôn chức năng là bộ phận chống giật và chống chớp sáng để thuận tiện cho việc ẩn nấp và tác chiến. Loại súng này có thể gắn trên các phương tiện cơ giới, trực thăng hay được mang đi bởi các lực lượng đặc nhiệm nhất là lực lượng lính dù. Loại súng có sức mạnh tương tự với loại súng này là HMG Kord nhưng Kord khó có thể tác chiến khi đang cầm một cách chính xác vì độ giật quá mạnh cũng như quá dài và nặng cũng như Kord chỉ có bộ phận chống giật chứ không có ống hãm thanh. 6P62 thì có một bộ phận chống giật được phát triển riêng cho loại súng này, nó cho phép 6P62 có thể tác chiến trong tư thế đứng nhắm dù là sử dụng loại đạn 12.7 mm giống như Kord. Cũng như 6P62 ngắn và nhẹ có tầm bắn ngắn hơn nhưng các viên đạn bắn ra vẫn có động lực và sức công phá ngang với Kord, dù vậy loại súng này sử dụng hộp đạn 14 viên chứ không phải dây đạn. Các đặc điểm này khiến cho khẩu súng thích hợp với lối đánh du kích là đánh và chạy hơn là cố thủ và càn quét như Kord. Hệ thống nhắm tiêu chuẩn của súng là điểm ruồi có tầm nhắm khoảng 100 đến 1000 m. Súng có thể gắn thêm các hệ thống nhắm khác như ống nhắm hay hệ thống nhìn đêm tùy thuộc vào môi trường tác chiến.
1
null
Los Cabos là một đô thị thuộc bang Baja California Sur, México. Năm 2005, dân số của đô thị này là 164162 người. Los Cabos nằm ở mũi phía nam của bán đảo Baja California của Mexico, ở bang Baja California Sur. Nó bao gồm các thị xã Cabo San Lucas và San José del Cabo (thủ phủ), cũng như các hành lang nghỉ dưỡng nằm giữa hai thị trấn này. Khu vực này là từ xa và nông thôn cho đến sau thế kỷ 20, khi chính phủ Mexico đã bắt đầu phát triển ở Cabo San Lucas cho ngành du lịch, sau đó lan sang phía Đông đến thủ phủ khu tự quản. Khu vực này có sức hấp dẫn du khách nhờ khí hậu và địa lý, nơi sa mạc gặp biển, cùng với hoạt động câu cá thể thao, khu du lịch và sân golf. Ngành du lịch hiện là hoạt động kinh tế chủ yếu với hơn hai triệu du khách mỗi năm. San José del Cabo. Thị xã San José del Cabo tọa lạc ở chân Sierra de la Laguna, 130 km nam tây nam của La Paz, thủ phủ bang Baja California Sur. Mặc dù cơ quan chính quyền khu tự quản đóng ở Los Cabos, thị trấn này lại nhỏ hơn so với Cabo San Lucas. Tuy nhiên, nhờ các khoản đầu tư liên bang và tư nhân vào ngành du lịch, sự tăng trưởng của thị xã này nay đã giúp thị trấn này cạnh tranh với những khu nghỉ mát nổi tiếng hơn. Sự tăng trưởng này đã được hướng bên ngoài trung tâm thị trấn, đặc biệt là ở phía nam, nơi có các bãi biển, khiến trung tâm lịch sử và yên tĩnh và hầu như không thay đổi. Hiện vẫn còn đường phố đá cuội, nhà ở gạch sống, cây jacaranda và một quảng trường trung tâm ở phía trước của một nhà thờ có từ những năm 1700, nơi mà người dân vẫn tụ tập vào buổi tối khi rời mát mẻ hơn. Một số trong những ngôi nhà lớn trong trung tâm được xây từ thế kỷ thứ 19, và hầu hết trong số này đã được chuyển đổi thành nhà hàng, phòng trưng bày nghệ thuật và cửa hàng bán đủ thứ từ đồ thủ công mỹ, bạc, đá quý địa phương và quà lưu niệm. Cảnh nghệ thuật trong thị trấn đang phát triển tốt vì du lịch và những người với căn nhà nghỉ mát. Các cửa hàng treo các bức tranh nghệ thuật, tác phẩm điêu khắc từ Mexico truyền thống, nghệ nhân và nghệ sĩ đương đại Mexico và quốc tế. Trong mùa cao điểm du lịch từ tháng 10 đến tháng 5, các phòng trưng bày nghệ thuật mở cửa về khuya. Thị trấn đã từ chối bổ sung các trung tâm mua sắm và các cửa hàng chuỗi. Ngoài ra còn có một số kiến trúc thời thuộc địa nữa, nhưng phong cách này có nhiều điểm chung với các thị trấn thuộc địa ở phía bắc vào Hoa Kỳ chứ không phải là trung bộ và nam bộ Mexico. Ví dụ chính của kiến trúc thuộc địa ở đây là nhà thờ giáo xứ của thị trấn. Nó là một phần của Estero de las Palmas de San José del Cabo Mission, thành lập năm 1730. Khu vực du lịch của thị trấn là khu vực nằm giữa trung tâm nội thị và bờ biển. Khu vực có một sân gôn chín lỗ và một loạt khách sạn và khu nghỉ mát nhìn ra biển, phục vụ hơn 900.000 lượt khách lưu trú khách sạn năm 2011.
1
null
Cherán là một đô thị thuộc bang Michoacán, México. Bản thân Cherán nằm ở phần phía tây bắc của Michoacán, cách Thành phố Mexico khoảng 360 km về phía tây và cách thủ phủ bang là Morelia khoảng 123 km về phía tây. Phần "Municipio" (đô thị) Cherán được báo cáo có dân số 16.243, nhưng phần "Localidad" (thị trấn) Cherán được chính thức thống kê có dân số 12.616, bao gồm 5.827 nam và 6.787 nữ. Cherán là một trong cụm gồm 11 "Municipios", dân số đáng chú ý là người Purépecha. Người dân nói tiếng Purépecha cũng như tiếng Tây Ban Nha địa phương. Cherán được chú ý vì hệ thống chính quyền độc nhất sau cuộc nổi dậy dân sự năm 2011 của quần chúng địa phương vì các vấn đề tham nhũng và tội phạm trong khu vực. Khu vực này hiện được coi là một cộng đồng bản địa tự trị, phần lớn không có sự can thiệp của chính phủ liên bang Mexico. Cuộc nổi dậy năm 2011 và tách rời khỏi chính phủ. Giống như nhiều cộng đồng khác trong bang Michoacán, Cherán đã trải qua nhiều vấn đề về tội phạm có tổ chức, chính trị gia và cảnh sát nhận hối lộ và tham nhũng. Bắt cóc, tống tiền, giết người và khai thác trái phép rừng địa phương—mạch máu của cộng đồng. Tờ "Los Angeles Times" đưa ra nguyên nhân của cuộc nổi dậy năm 2011 như sau:Đó là năm mà cư dân, hầu hết là người bản địa và nghèo khó, đã tiến hành một cuộc nổi dậy và tuyên bố tự trị với hy vọng thoát khỏi những tệ nạn đang hoành hành ở Mexico: bạo lực tràn lan, các chính trị gia tham nhũng, một hệ thống tư pháp không hiệu quả và các băng đảng tàn ác mở rộng từ buôn lậu ma túy sang tống tiền, bắt cóc và khai thác gỗ trái phép."Để bảo vệ chính mình," một nhà lãnh đạo cộng đồng giải thích, "chúng tôi phải thay đổi toàn bộ hệ thống - loại bỏ các đảng phái chính trị, loại bỏ Tòa thị chính, loại bỏ cảnh sát và mọi thứ. Chúng tôi phải tự tổ chức cách sống của mình để tồn tại". Theo đó, vào ngày 15 tháng 4 năm 2011, một nhóm phụ nữ và nam giới sử dụng đá và pháo hoa đã tấn công một xe buýt chở lâm tặc bất hợp pháp có liên quan đến băng đảng ma túy La Familia Michoacana của Mexico trang bị súng máy. Lực lượng nổi dậy nắm quyền kiểm soát thị trấn, trục xuất lực lượng cảnh sát và các chính trị gia, đồng thời chặn các con đường dẫn đến rừng sồi trên một ngọn núi gần đó, nơi đã bị khai thác trái phép bởi các băng nhóm vũ trang được hỗ trợ bởi các quan chức tham nhũng. Cộng đồng đã được mở rộng tới 20.000 cư dân và hơn 27.000 ha đất công. Các thành viên canh gác khu phố tuần tra cả thị trấn và các khu rừng xung quanh. Hiến pháp Mexico cho phép cộng đồng bản địa tự quản lý và tự quản lý chính sách. Sau những cuộc chiến pháp lý kéo dài, chính phủ Mexico đã phải công nhận Cherán là một cộng đồng bản địa tự trị hợp pháp."Trong chế độ chính phủ độc nhất của Cherán, quyền lực thực sự hoàn toàn nằm trong tay người dân. Không có một quyết định nào được đưa ra mà không có sự đồng thuận, từ việc ai sẽ nhận công việc xây dựng ở địa phương, đến việc phân bổ dịch vụ công và giám sát chi tiêu ngân sách." . Quyền lực của hội đồng quần chúng cao hơn bất kỳ cơ quan chính quyền địa phương nào khác."Cộng đồng bầu ra Hội đồng gồm 12 người, gọi là "K'eri Jánaskakua," và có khoảng 180 đơn vị hành chính gọi là "fogatas" (lửa trại / lửa cộng đồng) trong bốn khu phố của mình. Hội đồng Thứ ba (Hội đồng Trưởng lão, Hội đồng Cấp cao, Consejo Mayor, Consejo de Keris) được đặt tên vào năm 2018. Các cơ quan đại diện khác bao gồm hội đồng thanh niên, hội đồng phụ nữ, hội đồng khu phố và hội đồng lãnh thổ cấp xã tập trung vào phát triển kinh tế. Thị trấn đã cấm các đảng phái chính trị và các chiến dịch chính trị. Theo tờ "Guardian," chế độ dân chủ trực tiếp của Cherán đã cung cấp "một giải pháp đơn giản cho vấn nạn mua phiếu bầu và bao che đang gây khó khăn cho nền dân chủ Mexico." Theo một nhà hoạt động cộng đồng, dân chủ trực tiếp không chỉ cứu rừng mà còn mang lại hòa bình: Cherán năm 2017 có tỷ lệ giết người thấp nhất trong toàn bang Michoacán và có lẽ thậm chí trên toàn bộ đất nước Mexico. XEPUR-AM, một đài phát thanh công cộng bản địa dùng ngôn ngữ Purépecha, đặt trụ sở tại Cherán. Cộng đồng cũng có kênh YouTube và blog. Đài truyền hình cộng đồng TV Cherán lần đầu phát sóng vào ngày 29 tháng 11 năm 2014.
1
null
Chilpancingo de los Bravo (gọi ngắn gọn là Chilpancingo; ) là thủ phủ và thành phố đông dân thứ nhì bang Guerrero, México. Năm 2010, thành phố có dân số 187.251 người. Municipio Chilpancingo de los Bravo có diện tích , nằm trên dãy Sierra Madre del Sur, bên cạnh "sông Huacapa". Chạy qua thành phố là quốc lộ Liên bang 95 nối Acapulco với thành phố México. Sân bay quốc tế Chilpancingo, một trong năm sân bay của bang, nằm ở đây. Lịch sử. Thời tiền Colombo, vùng này là lãnh địa người Olmec, những người đã xây hệ thống đường hầm, và để lại tranh tường trong hang Juxtlahuaca. Thành phố Chilpancingo được Conquistador lập nên ngày 1 tháng 11, 1591. Trong chiến tranh giành độc lập, Chilpancingo đóng vài trò quan trọng trong cuộc nổi dậy do người dân nơi đây chủ động tham chiến, trở thành một cứ điểm quan trọng cho hoạt động quân cư ở miền nam. Chilpancingo là nơi quốc hội họp mặt dưới sự chủ trì của José María Morelos y Pavón năm 1813 trong cuộc chiến tranh giành độc lập. Tướng Nicolás Catalán, chồng nữ anh hùng Antonia Nava de Catalán, trở thành Tư lệnh Guerrero ngày 24 tháng 1, 1828. Gia đình họ dời đến Chilpancingo, cũng là nơi hai người qua đời. Năm 1853, Chilpancingo trở thành thủ phủ tạm thời của bang, do dịch bệnh hoành hành ở thủ phủ đương thời Tixtla. Năm 1870, thống đốc Francisco O. Arce chọn Chilpancingo làm thủ phủ tạm, do phe đối lập dẫn đầu bởi tướng Jimenez nắm giữ chính quyền ở Tixtla. Trong cuộc cách mạng México, Chilpancingo trở nên rối loạn, do sự quan trọng chính trị với các phe. Thập niên 1910, có những trận chiến nổ ra trong vùng gần thành phố. Emiliano Zapata đánh bại lực lượng liên bang của Porfirio Diaz, Francisco I. Madero, Victoriano Huerta và Venustiano Carranza. Lực lượng miền nam của Huerta lãnh thêm một trận thua lớn vào tháng 3-4, 1914; quân Zapatistas chiếm thành phố cho tới khi Hội nghị Hiến pháp diễn ra. Năm 1960, thành phố đối mặt một cuộc khủng hoảng xã hội nặng nề do phong trào sinh viên ở Đại học Tự trị Guerrero. Mục đích chính là nhằm giảm bớt quyền lực chính quyền bang, giành lại sự tự trị. Ngày 27 tháng 4, 2009, một vụ động đất 5,6 độ xảy ra với tâm chấn gần Chilpancingo.
1
null
Cozumel (, ) là một hòn đảo ngoài khơi bờ đông bán đảo Yucatán của México, trong biển Caribbe, đối diện với Playa del Carmen, và gần với eo biển Yucatán. Nền kinh tế Cozumel dựa trên du lịch, với các balneario, và nơi cho phép lặn có bình khí, và có ống hơi. Đô thị chính trên đảo là San Miguel de Cozumel. Hòn đảo thuộc bang Quintana Roo, México. Tên. Cái tên Cozumel xuất phát từ "Cuzamil" hay "Ah Cuzamil Peten" trong các ngôn ngữ Maya, có nghĩa là "đảo chim nhạn" ().
1
null
Cuitláhuac (1476—1520) là "tlatoani" thứ 10 của thành Tenochtitlan, kế vị Montezuma II và đăng cơ vào tháng 6 năm 1520. Cuitláhuac dẫn dắt cuộc phản kháng người Tây Ban Nha tại Tenochtitlan, trong sự kiện "Noche Triste" (Đêm Sầu Bi) (30 tháng 6, 1520—1 tháng 7, 1520). Trong 4 tháng trị vì ngắn ngủi, Cuitláhuac nỗ lực tái tổ chức Liên minh Tam quốc để có thể chống lại quân xâm lược Tây Ban Nha. Không may thay, ông qua đời vì bệnh đậu mùa và được kế vị bởi cháu trai là Cuauhtémoc, tlatoani cuối cùng của Tenochtitlan và hoàng đế cuối cùng của Đế quốc Aztec. Tiểu sử. Cuitláhuac là người con trai thứ mười một của Axayacatl, vua Aztec đời thứ 3. Do đó, ông là em ruột của Moctezuma, vị vua Aztec tiền nhiệm. Cuitláhuac lấy con gái cả của Moctezuma, một cô bé khoảng 10-11 tuổi, người sau này được biết đến với cái tên Isabella Moctezuma.
1
null
Guadalupe là một đô thị thuộc bang Nuevo León, México. Năm 2005, dân số của đô thị này là 691931 người. Thành phố có tổng diện tích 151,3 km2, khu vực có độ cao 500 mét trên mực nước biển. Theo điều tra dân số năm 2010 của Cục Điều tra dân số của Viện Quốc gia về Thống kê và Địa lý (Instituto Nacional de Estadística y Geografía) là 678.006 người. Đây là thành phố đông dân thứ 24 của Mexico và lớn thứ nhì trong bang. Guadalupe là một thành phố và khu tự quản thuộc một phần của vùng đô thị Monterrey. Thành phố Guadalupe tiếp giáp với phía đông của Monterrey, cũng giáp với thành phố San Nicolás de los Garza, Apodaca, Pesquería, và Juárez. Thành phố được thành lập vào ngày 04 tháng 1 năm 1716, nhưng khu vực đất này đã có người ở trước đó rất lâu. Khi Monterrey đã được thành lập năm 1596, đất đai, dân cư gồm các bộ lạc bản địa khác nhau, được nhượng cho Diego de Montemayor, người sáng lập của Monterrey, nhưng ông đã không sử dụng đất. Năm 1627, đất đai biến thành đồn điền lớn, đường mía và ngô đã được nâng lên. Các chủ sở hữu đất trong thời gian đầu thế kỷ 18 được có tên là Capitan Nicolás Ochoa de Elejalde, nhưng đất đã bị chính quyền Tây Ban Nha lấy từ ông và chuyển đổi cho một đoàn truyền giáo vào tháng 2 năm 1715. Năm 1756, thành phố được đổi tên thành "Pueblo de la Nueva Tlaxcala de Nuestra Señora de Guadalupe de Horcasitas". Ngày 05 Tháng 3 năm 1825, thành phố đã được tuyên bố là khu tự quản Nuevo León và phân loại như một villa, mặc dù trong nhiều năm tiếp tục được gọi là "Villa de Guadalupe".
1
null
Bãi Hải Sâm là một rạn san hô vòng thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa. Rạn vòng này nằm về phía bắc - đông bắc của đá Vành Khăn và cách đảo Vĩnh Viễn gần 12 hải lý (22 km) về phía nam. Bãi Hải Sâm có dạng hình tròn với đường kính khoảng 6 hải lý (11,2 km).Vụng biển (đầm nước) có độ sâu từ 25 đến 46 m. Có năm vị trí được đặt tên trên vành san hô của rạn san hô vòng này, tức năm "đá". Bãi Hải Sâm là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát rạn vòng này. Sự kiện. Ngày 25 tháng 2 năm 2011, tàu frigate Đông Quan 560 (lớp Giang Hồ-V) của Trung Quốc phát hiện ba tàu cá của ngư dân Philippines đang thả neo tại bãi Hải Sâm, gồm F/V Jaime DLS, F/V Mama Lydia DLS và F/V Maricris 12. Sau đó, Đông Quan 560 bắn ba phát đạn cách tàu F/V Maricris 12 0,3 hải lý (hơn 550 m), dù rằng trước đó F/V Maricris 12 đưa lý do gặp sự cố với dây neo và xin phía Trung Quốc "đợi một lát" để gỡ neo. Tàu cá của Philippines bèn cắt đứt dây neo và chạy về đảo Vĩnh Viễn - do Philippines kiểm soát.
1
null
José María Morelos (30 tháng 9 năm 1765, thành phố Valladolid, nay là Morelia, Michoacán - ngày 22 tháng 12 năm 1815, San Cristóbal Ecatepec, bang México) là một linh mục Công giáo Rôma người Mexico và nhà lãnh đạo quân cách mạng đã lãnh đạo phong trào Chiến tranh Độc lập Mexico. Ông đã đảm nhiệm vai trò chỉ huy sau vụ hành quyết Miguel Hidalgo y Costilla năm 1811. Morelos và Ignacio López Rayón được ghi nhận với việc tổ chức cuộc chiến giành độc lập. Theo Morelos, Đại hội Anáhuac đã được cài đặt vào ngày 13 tháng 9 năm 1813 và vào ngày 6 tháng 11 của cùng một đại hội năm đã tuyên bố độc lập của đất nước. Vào ngày 22 tháng 10 năm 1814, một hiến pháp, Decreto Constitucional la la Libertad de la América Mexicana, đã được Quốc hội soạn thảo tuyên bố rằng Mexico sẽ là một nước Cộng hòa.
1
null
M1 Carbine (tên đầy đủ United States Carbine, Caliber .30, M1) là loại súng cạc-bin có trọng lượng nhẹ và tốc độ bắn cao. Khẩu súng này đồng hành với quân đội Mỹ qua 3 cuộc chiến lớn của Thế kỉ XX là Chiến tranh thế giới thứ hai, Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam, mặc dù trong cuộc chiến này thì quân Mỹ ít dùng M1 Carbine hơn nhiều so với 2 cuộc chiến trước vì sự xuất hiện của các dòng súng trường tấn công mới và đa năng hơn nó như M14 hay M16. Bên cạnh sử dụng thì Hoa Kỳ cũng cung cấp rất nhiều khẩu súng này cho các đồng minh của họ trong các cuộc chiến này như: Anh, Pháp, Philippines, Hàn Quốc, Việt Nam Cộng hòa, Thái Lan... Lịch sử hoạt động. Thế chiến thứ hai (1942-1945). M1 Carbine được sử dụng rộng rãi bởi sĩ quan, hạ sĩ quan, lính công binh, lính trinh sát, lính pháo binh, ... của Quân đội Hoa Kỳ trong Thế chiến 2. Nó nhận được nhiều lời khen ngợi vì kích thước nhỏ, trọng lượng nhẹ. Bên cạnh M1 Carbine thì quân đội Mỹ cũng phát triển thêm nhiều biến thể như: M1A1 Carbine (biến thể dùng báng gập của M1 Carbine, ra đời vào tháng 5 năm 1942) và M2 Carbine (biến thể "súng trường tấn công" của M1 Carbine, ra đời vào tháng 10 năm 1944). Không chỉ được Hoa Kỳ sử dụng trong Thế chiến 2 mà M1 Carbine và M1A1 Carbine cũng được quân đội Mỹ cung cấp cho các nước khác trong phe Đồng Minh. Các lực lượng: SAS (Special Air Service), SOE (Special Operations Executive) và Đơn vị xung kích số 30 (No. 30 Commando) của Anh, 2 trung đoàn kháng chiến của lực lượng Pháp Tự do, 1 trung đoàn lính Bỉ và các đơn vị du kích Philippines (chống phát xít Nhật) cũng sử dụng M1 và M1A1 Carbine. Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Trong chiến tranh Triều Tiên, M2 Carbine đã gần như thay thế hoàn toàn cho M1 Carbine trong biên chế của quân đội Mỹ. Tuy nhiên vẫn còn khá nhiều binh sĩ Mỹ trong các đơn vị hỗ trợ (pháo binh, phòng không, lái xe, quân cảnh...) dùng M1 Carbine. Cả hai phiên bản M1 và M2 Carbine đều phải chịu khá nhiều những tai tiếng liên quan đến việc hay bị kẹt đạn trong tiết trời mùa đông lạnh đến -5 °C (23 °F) ở Hàn Quốc. Nhiều binh sĩ Mỹ còn cho biết thêm là sau khi bắn quá nhiều phát trong cùng một lúc thì lực cản của viên đạn trở nên rất yếu ớt. Nó thậm chí còn không thể xuyên qua nổi lớp áo bông dày của lính Bắc Triều Tiên hay mặc trong mùa đông, mặc dù cự ly khai hỏa rất gần (dưới 75m). Có rất nhiều báo cáo được lính Mỹ gửi về từ Nam Hàn cho thấy M1/M2 Carbine hiệu quả trong khoảng cách tác chiến dưới 45m. Quốc quân Đại Hàn Dân Quốc nhận được 1.015.568 khẩu M1 Carbine từ năm 1963 đến năm 1972 và trở thành quốc gia nhận được nhiều súng M1 và M2 Carbine nhất sau Chiến tranh thế giới thứ hai từ Mỹ. Chiến tranh Việt Nam (1955-1975). Mỹ đã cung cấp cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa 793.994 khẩu M1 và M2 Carbine từ năm 1963 đến năm 1973. Bên cạnh được Mỹ cung cấp thì Việt Nam Cộng Hòa còn được trực tiếp kế thừa toàn bộ số súng M1 và M2 Carbine mà quân Pháp bỏ lại ở miền Nam Việt Nam sau năm 1954. Cũng như M1 Garand, M1 và M2 Carbine được sử dụng chủ yếu trong giai đoạn đầu cuộc chiến (1955-1963). Từ năm 1964, nó và M1 Garand dần bị thay thế bằng M16. Những cuộc chiến khác sau Chiến tranh Việt Nam (1975-nay). M1 và M2 Carbine vẫn được sử dụng trong những cuộc xung đột quân sự sau Chiến tranh Việt Nam như: Nội chiến Campuchia, Nội chiến Angola, Chiến tranh biên giới Tây Nam, Chiến tranh biên giới Việt–Trung, ...
1
null
Tân Thái là một thành phố cấp huyện thuộc địa cấp thị Thái An, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Vào thời Xuân Thu, Tân Thái là đất của nước Kỷ, sau là vùng hai nước Tề và Lỗ tranh đoạt. Đến thời Tào Nguyện, thiết lập huyện Đông Bình Dương, đến thời Tấn đổi thành huyện Tân Thái, và tên gọi này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Năm 1983, huyện Tân Thái trở thành thành phố Tân Thái. Tân Thái nằm ở giữa dãy núi Thái Nghi. Thái Nghi nằm trong vùng khí hậu ôn đới bán ẩm lục địa, có bốn mùa rõ rệt, nhiệt độ trung bình năm là 13 °C. Tân Thái là khu vực sản xuất lương thực, rau trọng yếu của tỉnh Sơn Đông. Thành phố có các đặc sản bánh kép, cần tây, hoa hiên. Tân Thái có trữ lượng 1,6 tỉ tấn than đá đã được thăm dò cùng các loại khoáng sản khác như thạch anh, đá vôi và đất sét. Nền công nghiệp thành phố bị chi phối bởi các ngành năng lượng, hóa chất, máy móc, vật liệu xây dựng.
1
null
Metepec () là một thành phố và municipio ở bang México của México, nằm ngay về phía đông thủ phủ bang, Toluca. Thành phố có độ cao trên mực nước biển. Trung tâm thành phố México nằm cách thành phố khoảng 50 km về phía đông. Cái tên Metepec bắt nguồn từ tiếng Náhuatl, nghĩa là "đồi cây thùa". Trong tiếng Matlatzinca, nó có tên gọi "Nepinta-Tuhi" ('người xứ ngô') còn trong tiếng Otomi thì mang tên "Ntaguada".
1
null
Hệ thống cảnh báo sớm và kiểm soát trên không ("airborne early warning and control", viết tắt: AEW&C) là hệ thống trên không trung bao gồm trạm, máy bay hoặc phương tiện được trang bị radar ("radar picket") được thiết kế để phát hiện máy bay, tàu và phương tiện ở tầm xa và thực hiện chỉ huy và kiểm soát không gian chiến đấu trong một cuộc giao chiến trên không bằng cách chỉ đạo máy bay chiến đấu và tấn công. Các đơn vị AEW & C cũng được sử dụng để thực hiện giám sát, bao gồm các mục tiêu trên mặt đất và thường xuyên thực hiện các chức năng C2BM ("command and control, battle management": chỉ huy và kiểm soát, quản lý chiến đấu) tương tự như Bộ điều khiển không lưu đưa ra chỉ huy quân sự đối với các lực lượng khác. Khi được sử dụng ở độ cao, radar trên máy bay cho phép người điều khiển phát hiện và theo dõi mục tiêu và phân biệt giữa máy bay thân thiện và máy bay thù địch cách xa hơn so với radar trên mặt đất tương tự. Giống như một radar trên mặt đất, nó có thể bị phát hiện bởi các lực lượng đối phương, nhưng vì tính cơ động của nó, nó ít bị tổn thương hơn khi phản công. Sự tham gia đầu tiên của thế giới trong lịch sử chiến tranh trên không, với cả hai phe đối lập sử dụng các nền tảng như vậy, là ở Nam Á, trong cuộc giao chiến trên không ngày 27 tháng 2 năm 2019 giữa Ấn Độ và Pakistan, với Ấn Độ sử dụng A-50I Phalcon AWACS và Pakistan sử dụng Saab 2000. Khái niệm "Cảnh báo sớm trên không" ("airborne early warning", AEW) đã được sử dụng cho các máy bay tương tự trước đó, như Fairey Gannet AEW.3 và Lockheed EC-121 Warning Star, và tiếp tục được sử dụng cho Sentry AEW1, trong khi AEW & C (cảnh báo sớm và kiểm soát trên không) nhấn mạnh các khả năng chỉ huy và điều khiển có thể không có trên máy bay radar nhỏ hơn hoặc đơn giản hơn. AWACS (tiếng Anh: "Airbone Warning and Control System" - Hệ thống điều khiển và cảnh báo trên không) là tên của hệ thống cụ thể được cài đặt trong các máy bay E-3 và Boeing E-767 AEW & C của Nhật Bản, nhưng thường được sử dụng làm từ đồng nghĩa chung cho AEW & C. Nhìn chung, hệ thống kiểm soát và cảnh báo trên không ("AWACS"') là hệ thống rada được thiết kế, lắp đặt trên máy bay. AWACS có nhiệm vụ chính là phát hiện và cảnh báo các máy bay của đối phương, chỉ huy và phối hợp tác chiến giữa các máy bay chiến đấu. Các máy bay AWACS hiện đại có khả năng phát hiện máy bay từ khoảng cách 400 km - 650 km, có thể bao quát một khu vực rộng tới 300.000 km2. Mỹ có các loại máy bay AWACS như: E-2 Hawkeye của Hải quân, E-3 Sentry của Không quân. E-2D có vận tốc 650 km/h và tầm bay 2.700 km có thể kiểm soát phi đội chiến đấu với 40 mục tiêu cùng lúc, khả năng phát hiện máy bay ở cự ly đến 640 km. E-3 Sentry tốc độ tối đa 855 km/h, tầm bay 7.400 km, khả năng phát hiện mục tiêu đến 650 km. Một chiếc E-2D Hawkeye giá 170 triệu USD, E-3 Sentry giá 270 triệu USD. Nga có máy bay AWACS A-50 Mainstay có khả năng theo dõi 50 mục tiêu cùng lúc ở cự ly 230 km, phát hiện mục tiêu ở cự ly 400 km, kiểm soát phi đội chiến đấu với 10 máy bay. Trung Quốc có AWACS KJ-2000 được phát triển trên khung của máy bay vận tải IL-76 của Nga. KJ-2000 có khả năng theo dõi 60 mục tiêu cùng lúc với cự ly 400 km, kiểm soát phi đội chiến đấu với 10-15 máy bay.
1
null
Pajapan là một đô thị thuộc bang Veracruz, México. Năm 2005, dân số của đô thị này là 14621 người. Pajapan nằm ở vùng phía nam bang Veracruz, cách thủ phủ Xalapa 496 km. Đô thị có diện tích 305.98 km2. Đô thị có tọa độ 18°16′N 94°41′W. Nông nghiệp. Đô thị chủ yếu sản xuất ngô, đậu, gạo, dưa hấu, xoài và nước cam.
1
null
La Paz là một đô thị thuộc bang Baja California Sur, México. Năm 2005, dân số của đô thị này là 219596 người. La Paz là một trung tâm thương mại khu vực quan trọng. Thành phố có dân số theo điều tra dân số năm 2010 là 215.178 người, nhưng dân số đô thị của nó đông hơn vì có các đô thị xung quanh như el Centenario, el Zacatal và San Pedro. Tính cả dân số cá đô thị xung quanh của nó, đây là khu vực đô thị lớn thứ tư ở Mexico về kích thước địa lý, với dân số 251.871 người sinh sống trên diện tích đất 20.275 km2.
1
null
Playas de Rosarito là một đô thị thuộc bang Baja California, México. Năm 2005, dân số của đô thị này là 73305 người. Đây là một thành phố nghỉ mát ven biển ở bang Baja California của Mexico nằm khoảng 10 dặm về phía nam của biên giới Hoa Kỳ ở khu tự quản Rosarito Beach. Bãi biển và các câu lạc bộ khiêu vũ là các điểm đến phổ biến cho những người trẻ tuổi đến từ Hoa Kỳ trong những ngày cuối tuần Memorial Day và Labor Day. Bãi biển Rosarito là thủ phủ của khu tự quản Rosarito. Thành phố này là lớn thứ hai trong khu vực đô thị Tijuana bãi phía nam của khu vực đô thị quốc tế San Diego-Tijuana. Ngoài ra, nó là thủ phủ khu tự quản cực tây Mexico, hơi xa hơn về phía tây Tijuana, nằm trong đất liền phía bắc-đông bắc.
1
null
Puerto Vallarta (phát âm tiếng Tây Ban Nha: [pweɾto βaʝaɾta]) là một thành phố nghỉ dưỡng tuyệt đẹp của Mexico nằm bên bờ Thái Bình Dương của Bahía de Banderas. Điều tra dân số 2010 của Puerto Vallarta là 255.725 người làm cho nó trở thành thành phố lớn thứ hai ở bang Jalisco. Thành phố Puerto Vallarta là thủ phủ của các đô thị tại Puerto Vallarta trong đó bao gồm thành phố cũng như các trung tâm dân cư bên ngoài của thành phố kéo dài từ Boca de Tomatlán đến biên giới Nayarit (sông Ameca). Thành phố này nằm ở 20 ° 40' Bắc 105 ° 16' Tây, có có diện tích 502,19 dặm vuông (1,300.7 km2). Phía bắc giáp bang Nayarit. Phía Đông giáp khu đô thị của Mascota và San Sebastián del Oeste, phía nam giáp thành phố Talpa de Allende và Cabo Corriente. Puerto Vallarta được theo tên của Ignacio Vallarta, một cựu thống đốc bang Jalisco. Trong tiếng Tây Ban Nha, Puerto Vallarta thường được rút ngắn "Vallarta", trong khi người nói tiếng Anh gọi là thành phố PV cho ngắn. Trong cách viết tắt Internet thành phố thường được gọi như PVR, theo Mã sân bay của Hiệp hội Vận tải của Sân bay Quốc tế Gustavo Diaz Ordaz thuộc thành phố.
1
null
Quan hệ Trung Quốc – Lào là mối quan hệ song phương giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trên nhiều lĩnh vực, trong đó có thương mại và viện trợ. Viện trợ của Trung Quốc cho Lào phần lớn đổ vào việc xây dựng những con đường ở các tỉnh bắc Lào, không ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Việt Nam và Thái Lan ở vùng trung và nam Lào. Tuy nhiên, cuộc đổ quân của Việt Nam vào Campuchia tháng 12 năm 1978 để lật đổ chính quyền Pol Pot đã khiêu khích Trung Quốc gây ra cuộc xâm lược có giới hạn với Việt Nam để "dạy cho Việt Nam một bài học". Khi đó, Lào đã rơi vào tình thế nguy hiểm, vừa không muốn Trung Quốc nổi giận, vừa không thể chống đối người láng giềng hữu hảo Việt Nam. Các nhà lãnh đạo Lào đã vượt qua khó khăn bằng cách đưa ra các tuyên bố trì hoãn việc hỗ trợ Việt Nam sau một số tranh cãi trong nội bộ Đảng, một mặt nhanh chóng giảm mức quan hệ ngoại giao với Trung Quốc xuống cấp chargé d'affaires nhưng không hoàn toàn đổ vỡ. Rạn nứt trong mối quan hệ Trung-Lào đã xảy ra vào năm 1979, khi có những thông tin về việc Trung Quốc giúp đỡ và đào tạo cho các lực lượng nổi loạn người Hmong dưới quyền tướng Vàng Pao tại tỉnh Vân Nam. Tuy nhiên, mối quan hệ thù địch giữa hai bên đã dần dần được xoa dịu. Năm 1989, thủ tướng Lào Kaysone Phomvihane đã có chuyến thăm cấp nhà nước tới Bắc Kinh. Năm 1991, Kaysone đã chọn đi nghỉ ở Trung Quốc thay vì đến thăm Liên Xô vì Liên Xô tan rã. Mối quan hệ ngoại giao và mối quan hệ giữa hai Đảng đã được bình thường hóa vào năm 1989. Thương mại đã mở rộng từ trao đổi các mặt hàng tiêu dùng mức độ địa phương sang việc thông qua mười một giấy phép đầu tư năm 1991, trong đó một có dự án lắp ráp ô tô. Tiếp sau sự thành lập Ủy ban Biên giới chung Lào - Trung Quốc năm 1991, những cuộc họp diễn ra trong năm 1992 đã mang lại một thỏa thuận phác họa đường biên giới chung hai nước. Đầu tư thương mại và giao thương giữa Trung Quốc và Lào đã phát triển một cách từ từ chứ không đột ngột. Từ năm 2014, Trung Quốc chính thức vượt qua Thái Lan và Việt Nam, trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại Lào với các lĩnh vực chủ yếu là khai thác mỏ, nông nghiệp và thủy điện. Tuy nhiên, việc đầu tư, thao túng của Trung Quốc bị đánh giá là gây hại cho cộng đồng người dân địa phương tại miền Bắc Lào vì các lý do như sử dụng thuốc trừ sâu quá mức, xây sòng bạc khiến tội phạm hoành hành, di dời dân để làm thủy điện... Đại sứ quán, lãnh sự quán. — Tại Lào: — Tại Trung Quốc:
1
null
Núi Sóc Lu (còn có tên gọi là núi Gia Nhang) là ngọn núi cao khoảng 400 m so với mực nước biển. Nằm ở Tọa độ: 10.9944711N. và 107.1342801E. Là một ngọn núi lửa đã ngừng hoạt động cách đây khoảng 300.000 năm. Núi này thuộc địa bàn xã Quang Trung, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 53 km theo hướng Tây Nam và cách núi Gia Lào 26 Km theo đường chim bay về hướng Đông. Núi cách Ngã ba Dầu Giây 5.4 km và cách quốc lộ 20 chỉ 1.4 Km phía phải, theo hướng Dầu Giây - Đà Lạt Hiện tại chung quanh khu vực núi có nhiều cơ sở khai thác đá phục vụ cho xây dựng. Đất đai tại vùng chung quanh núi Gia Nhang (Soklu) vào loại rất tốt do quá trình hoạt động của núi lửa để lại. Quanh núi có bãi dung nham cổ. Hiện tại khu vực này người dân trồng rất nhiều chuối, cà phê, tiêu.
1
null
Lâm Phụng Kiều (chữ Hán: 林鳳嬌; bính âm: Lín Fèngjiāo; tiếng Anh: Joan Lin) (sinh 30 tháng 6 năm 1953) là một nữ diễn viên người Đài Loan đã giải nghệ và là vợ của siêu sao phim võ thuật Thành Long. Năm 1979 (26 tuổi), bà trở thành Ảnh Hậu Kim Mã với vai chính trong phim "Tiểu thành cố sự" (小城故事). Cô bỏ học từ năm 12 tuổi do gia đình nghèo đói. Năm 1972, ở tuổi 19, cô tham gia đóng phim đầu tiên "Triều Châu Nộ Hán" (潮州怒漢), một bộ phim kung fu. Rất nhiều bộ phim cô đóng được dựa trên tiểu thuyết của Quỳnh Dao. Lâm Phụng Kiều đã đóng hơn 70 phim trong sự nghiệp 10 năm của mình. Cùng với Tần Tường Lâm, Tần Hán và Lâm Thanh Hà, họ là những tên tuổi nổi bật nhất ngành công nghiệp điện ảnh HongKong và Đài Loan những năm 1970. Được gọi là "Song Lâm Song Tần", họ được biết đến với nhiều hit phòng vé thời kỳ đó. Cô gặp Thành Long năm 1981 và họ cưới nhau tại Los Angeles năm 1982. Đứa con duy nhất, Phòng Tổ Danh (giờ là diễn viên và ca sĩ), sinh sau khi họ kết hôn. Lâm Phụng Kiều từ giã sự nghiệp điện ảnh từ đó.
1
null
Tehuacán () là thành phố lớn thứ hai ở bang Puebla của Mexico, nép mình trong Thung lũng Đông Nam của Tehuacán, giáp với các bang Oaxaca và Veracruz. Cuộc điều tra dân số năm 2010 đã báo cáo dân số 248.716 người trong thành phố và 274.906 ở vùng đô thị Tehuacán xung quanh, trong đó nó phục vụ như là thủ phủ. Đô thị này có diện tích 390,36 km² (150,72 sq mi). Văn hóa. Ban đầu là một khu định cư người Mỹ bản địa, nó đã chính thức trở thành một thành phố ở Viceroyalty của Tân Tây Ban Nha vào năm 1660. Tehuacan được biết đến với việc tổ chức nhiều lễ hội đa dạng để kỷ niệm truyền thống và trang phục kiếm được qua nhiều năm từ những người bản địa cổ đại. Một trong những lễ hội được công nhận nhất trong 15 năm qua là Festival Internacional de Tehuacán 1660, nơi tổ chức kỷ niệm văn hóa nghệ thuật của thành phố. Vào cuối thế kỷ XIX, thành phố này nổi tiếng với suối khoáng. Trên thực tế, Peñafiel (nay thuộc sở hữu của Cadbury Schweppes), một nhà sản xuất nước giải khát nổi tiếng, chiết xuất nước từ các giếng này để sử dụng trong các sản phẩm của họ. Tehuacán cũng có một nhóm các nhà sản xuất gia cầm quan trọng, làm cho thành phố và môi trường xung quanh trở thành một trong những vùng sản xuất trứng quan trọng nhất ở Mexico. Kinh tế. Hoạt động kinh tế chính trong thung lũng Tehuacán là sản xuất gia cầm. Đô thị này là nhà sản xuất trứng gà lớn thứ hai trong cả nước với hơn 25 triệu lớp được nuôi cùng với việc sản xuất thịt gà thịt. Các công ty thống trị ngành công nghiệp bao gồm El Calvario, ông Egg, Huevo Tehuacán, PATSA và IMSA. Sau khi hiệp định NAFTA được ký kết, Tehuacán đã nhìn thấy các maquiladora dệt được thiết lập trong thành phố và các khu vực xung quanh. Các nhà máy dệt này chủ yếu tập hợp quần jean màu xanh để xuất khẩu sang các công ty như The Gap, Guess, Old Navy, và JC Penney. Ở độ cao của maquila (viết tắt của maquiladora) bùng nổ, đã có một số ước tính hơn 700 maquilas trong thị trấn, bao gồm cả những người đã hoạt động từ nhà, thường là bí mật. Trong khi tình trạng này tạo ra một thất nghiệp tiêu cực (không thất nghiệp) và maquilas tìm kiếm công nhân như xa như Orizaba và Córdoba ở bang Veracruz lân cận, nó cũng tạo ra một cơn ác mộng đô thị và môi trường. Trong một thập kỷ, Tehuacán đã đi từ một thị trấn 150.000 người đến thành phố 360.000 người. Mặc dù nhiều maquilas đã đóng cửa ngày hôm nay, trong năm 2007 vẫn còn hơn 700 người trong số họ được tìm thấy ở Tehuacán. Địa lý. Tehuacán nằm ở phía đông nam của Mexico. Các thành phố biên giới phía Bắc là Tepanco de López, Santiago Miahuatlán, Vicente Guerrero y Nicolás Bravo; Đông Vicente Guerrero, San Antonio Cañada y Ajalpan; Nam San Gabriel Chilac, Zapotitlán, San Antonio Texcala y Altepexi; và Tây Zapotitlán, San Martín Atexcal, Juan N. Méndez y Tepanco de López. Thành phố Tehuacan có dân số 248.716 người với thời tiết địa lý là 19 độ C hầu hết trong năm. Tehuacan là một lãnh thổ quan trọng được gọi là Thung lũng Tehuacan với hệ sinh thái đa dạng. Một yếu tố địa lý quan trọng khác cần xem xét về khu vực Oaxaca và thung lũng Tehuacan là khu vực kinh tế nơi có thành phố. Tehucan được bao quanh bởi Neovolcanic Axis bao gồm các bang Nayarit, Jalisco, Colima, Michoacán, Guanajuato, Querétaro, México, Hidalgo, Morelos, Tlaxcala, Puebla và Veracruz. Trục này kết nối các núi lửa hoạt động chính của vùng và do hoạt động núi lửa này, thành phố trình bày các chuyển động liên tục của Trái đất, đặc biệt trong mùa hè và mùa xuân. Thung lũng Tehuacan có sự đa dạng cao về các loài động vật và thực vật, đặc biệt là Tehuacan-Cuicatlán Khu dự trữ sinh quyển nằm cách Tehuacan 30 phút về phía tây nam, thuộc thành phố và bảo vệ 200 loài Cactus, hầu hết trong số chúng đều có nguy cơ tuyệt chủng.. Du lịch. Tehuacan cung cấp một sự đa dạng của các điểm tham quan, từ các hoạt động bên ngoài đến những địa điểm lịch sử và bảo tàng mà giữ nhiều năm lịch sử không chỉ từ khu vực mà từ thời cổ đại và thành lập Cộng hòa Mexico. Những nơi phổ biến nhất để ghé thăm là: Peñafiel và Garci Crespo Natural Springs Các điểm tham quan du lịch ở TehuacánPuebla Mexico Phòng trưng bày ngầm các cơ sở sản xuất cho nước khoáng nổi tiếng được gọi là "Agua Tehuacan". Đây là một phần của quá trình tự nhiên do tuyết tan chảy từ các núi lửa có chứa hàm lượng khoáng chất cao, khiến nó trở nên sôi sục. Ex-Convent of San Francisco Các điểm tham quan du lịch ở TehuacánPuebla Mexico là một tu viện tu viện thế kỷ 16 được sử dụng làm ngôi nhà của một trong những trường học mới nhất của tiếng Latinh ở Tây Ban Nha mới. Kiến trúc và lịch sử in trên bức tường của nó vẽ cho thấy sự chuyển đổi từ một thời gian của lịch sử khác. Museum of Mineralogy Các điểm tham quan du lịch ở TehuacánPuebla Mexico là một bảo tàng có bộ sưu tập riêng từ Don Seferino Romero, một trong những công nhận số liệu của thành phố Tehucan tặng những tác phẩm nghệ thuật và khoa học quan trọng như moonstones, hóa thạch khoáng vật và thiên thạch như quà và những người khác tìm thấy trong khu vực thung lũng Tehucan trong nhiều lần khám phá khác nhau. Cactus Vườn Bách thảo nằm cách thành phố 30 phút về phía nam của Thung lũng Tehucan và nó bảo tồn hơn 200 loài cây xương rồng trong tất cả các khu vực, làm cho nó trở thành hệ sinh thái đa dạng lớn nhất trên thế giới. Các điểm tham quan du lịch ở TehuacánPuebla Mexico Khảo cổ học. Sự chuyển đổi từ săn bắn du mục và tập hợp sang một cách sống nông nghiệp ổn định ở thung lũng Tehuacan đã là chủ đề của nghiên cứu sâu rộng. Nhà khảo cổ học Richard MacNeish cùng các cộng sự đã tiến hành một dự án trinh sát và khai quật quy mô lớn ở Tehuacán, được thực hiện từ năm 1960 đến 1965. MacNeish và nhóm của ông đã thử nghiệm 15 hang động, sau đó tập trung vào 6 tên là El Riego, Tecorral, San Marcos, Purrón, Abejas và Coxcatlán. Các kết quả đã được xuất bản trong một loạt năm tập được chỉnh sửa, và thu hút nhiều sự chú ý. "MacNeish phát hiện ra rằng một khu phức hợp cuối cùng của những cái bát bằng đá được theo sau là gốm đầu tiên của Mexico. Được đặt tên cho Hang Purrón, nơi chúng xuất hiện lần đầu, những đơn sắc gốm sứ Mexico giống như (và cùng tồn tại một thời gian ngắn) những cái bát đã." Thuần hóa ngô. Về mặt lịch sử, Thung lũng Tehuacán rất quan trọng đối với toàn bộ Mexico, vì các hình thức cổ xưa nhất của ngô đã được các nhà khảo cổ học tìm thấy ở đây. Theo MacNeish (MacNeish, 1981, 1985), Thung lũng Tehuacán là nơi đầu tiên ngô được nhân loại thuần hóa. Ông đã đi đến kết luận này khi ông tìm thấy hơn 10.000 teosinte cobs trong những gì bây giờ được gọi là Coxcatlan Cave. Thứ mà anh ta tìm thấy thực ra nằm giữa ngô và teosinte - bánh ngô có kích thước bằng một bộ lọc thuốc lá. Sau đó, vào năm 1989, tác phẩm của ông đã được đánh giá lại và xác nhận.Zea mays mẫu từ Cueva San Marcos và từ Cueva Coxcatlan trong khu phố Tehuacan đã được thử nghiệm. Những ngày lâu đời nhất là 4700 BP (chưa được hiệu chỉnh) hoặc 3600 trước Công nguyên (hiệu chuẩn). Các địa điểm này nằm trong thung lũng Sông Balsas, nơi tiếp tục hạ lưu vào trạng thái Guerrero. Ngoài ra còn có những địa điểm ngô rất sớm ở đó, gần đây đã thu hút sự chú ý. Bằng chứng gần đây ủng hộ thung lũng sông Balsas là nơi đầu tiên trên thế giới nơi ngô được thuần hóa lần đầu tiên khoảng 9000 năm trước. Cái gọi là "Balsas teosinte", bây giờ được coi là loài tiền nhiệm trực tiếp của ngô, phát triển chủ yếu ở phần giữa của thung lũng Balsas tại thời điểm này. Trong quá khứ, nó có thể đã phát triển ở các phần khác của thung lũng này, tùy thuộc vào nghiên cứu cổ khí hậu học. Cuộc tranh luận gần đây giữa các nhà khoa học là nơi chính xác trong thung lũng sông Balsas loại teosinte này ("Zea mays ssp. parviglumis") mọc.
1
null
Tepic () là thủ phủ và thành phố lớn nhất của bang Nayarit, México. Thành phố nằm ở trung tâm bang, tại . Nó nằm ở độ cao trên mực nước biển, cạnh bờ Río Mololoa và Río Tepic, cách Guadalajara, Jalisco chừng về phía tây bắc. Ngay kế là núi lửa đã tắt. Tepic là trung tâm đô thị chính của vùng thiên về nông nghiệp này. Thành phố được ra năm 1531 dưới tên "Villa del Espíritu Santo de la Mayor España".
1
null
Veracruz (), tên chính thức Heroica Veracruz, là một thành phố cảng lớn nằm bên vịnh México, thuộc địa phận bang Veracruz, México. Thành phố duyên hải này nằm ở miền trung bang Veracruz, cách thủ phủ Xalapa về phía đông nam theo Quốc lộ Liên bang 140. Đây là thành phố đông dân nhất bang, với dân số vượt chính municipio "Veracruz", do thành phố lan ra tận municipio Boca del Río kề bên. Theo thống kê 2010, thành phố có 554.830 dân, 428.323 ở municipio Veracruz và 126.507 ở municipio Boca del Río. Phát triển từ thời thực dân Tây Ban Nha, Veracruz là thành phố cảng cổ nhất, lớn nhất, quan trọng nhất về mặt lịch sử của México.
1
null
Xochimilco là một trong 16 quận thuộc bang Quận Liên bang, México. Năm 2005, dân số của quận này là 404.458 người. Trung tâm của quận và thành phố trước đây là của thành phố độc lập Xochimilco ở phía bờ nam Hồ Xochimilco trước Tây Ban Nha. Khu vực này mang bản sắc riêng so với các quận khác và tạo thành khu vực gọi là Trung tâm Lịch sử của Thành phố Mexico. Xochimilco được biết đến với các con kênh còn sót lại từ một hồ nước và hệ thống kênh, kết nối hầu hết các khu định cư của Thung lũng Mexico. Các kênh cùng với các hòn đảo nhân tạo được gọi là "chinampas", là nơi thu hút khách du lịch với những chiếc thuyền "trajineras" đầy màu sắc xung quanh 170 km (110 dặm) của kênh rạch, giống như gondola tại Venice. Hệ thống kênh và các đảo nổi chinampa là một di tích trước Tây Ban Nha trong quá khứ của khu vực đã được công nhận là một phần di sản thế giới. Tuy nhiên, hiện nay, các con kênh đã bị suy thoái môi trường nghiêm trọng.
1
null
Zamora de Hidalgo, là một thành phố của bang Michoacán, México. Theo thống kê dân số 2010, thành phố có dân số 141.627 người, khiến nó trở thành thành phố lớn thứ ba trong bang. Đây là thủ phủ của "municipio" Zamora (có diện tích 330,97 km² (127.79 sq mi) và bao gồm nhiều điểm dân cư nhỏ hơn, nổi bật trong đólà Ario de Rayón (Ario Santa Mónica)). Dân số của "municipio" là chừng 186.102 người, là vùng đô thị lớn thứ nhì bang. Thành phố tọa lạc trên cao nguyên Tarascan ở mạn tây bắc Michoacán, ở độ cao 1.567 m (5.141 ft) trên mực nước biển. Zamora được vây quanh bởi thung lũng Tziróndaro màu mỡ, một vùng trồng trọt quan trọng giúp tạo ra một lượng lớn hàng xuất khẩu đến Hoa Kỳ.
1
null
CASA C-212 Aviocar hay C-212 là loại máy bay quân sự do hãng Airbus thiết kế và sản xuất tại nhà máy Airbus ở Tây Ban Nha. Đây là loại máy bay vận tải hạng trung và có thể trang bị vũ khí nhằm tuần tra biên giới, bờ biển. Ban đầu nó có tên là "Aviocar", nhưng sau đó EADS-CASA (công ty cổ phần của Airbus, phối hợp cùng BAE System) đổi tên thành C-212. Một phiên bản tương tự C-212 là IPTN-NC-212 cũng được công ty hàng không vũ trụ Indonesia Indonesian Aerospace (bây giờ là IAE) sản xuất tại Indonesia dưới bản quyền của Airbus. Từ năm 2007-2016, công ty CASA có nhiều hợp đồng và sẽ sản xuất đến 85 chiếc C-212. Phiên bản mới nhất hiện nay của nó là C-212-400. Thiết kế và Phát triển. Suốt những năm 1960, Không quân Tây Ban Nha vẫn còn sử dụng các loại máy bay vận tải đời cũ như Junkers Ju 52 và Douglas C-47, điều đó thúc đẩy họ thiết kế một loại máy bay vận tải có hai động cơ đời mới, khỏe hơn. CASA bắt đầu thiết kế C-212 vào những năm cuối thập niên 1960 và 1970, nó bay thử lần đầu tiên vào ngày 16 tháng 3 năm 1971, đến năm 1974, Không quân Tây Ban Nha bắt đầu chấp nhận nó vào biên chế và nó cũng được giới thiệu trong năm này. C-212 không chỉ thành công trong quân sự mà cả dân sự, sau khi sản xuất được một vài năm, CASA bắt đầu thiết kế C-212 cho dân sự. Lô hàng dân sự đầu tiên của C-212 là vào tháng 7 năm 1975. Đến tháng 8 năm 2006, đã có hơn 30 lực lượng không quân và hãng hàng không trên thế giới sử dụng C-212. Các phiên bản sau này ngày càng được nâng cấp với khả năng hoạt động, tầm bay và sức chứa lớn hơn. Hiện nay, phiên bản hiện đại nhất là series 400 (C-212-400), độ cao bay là 10.000 ft hay 3.300 m. Các nhiệm vụ chủ yếu của C-212 thường là vận tải (chở người, chở lính dù, chở hàng hóa), trinh sát, tuần tra bờ biển, cứu hộ, cảnh báo từ trên không, ngăn chặn xâm phạm bờ biển. Một số lực lượng tuần duyên bờ biển và không quân sử dụng C-212 như Cảnh sát biển Thụy Điển, Cảnh sát biển Argentina, Cảnh sát Biển Việt Nam, v.v... Tính đến nay, đã có 478 chiếc C-212 đã được sản xuất với mọi biến thể. Biến thể. Series 300. Phiên bản tiêu chuẩn sản xuất từ ​​năm 1987. Sử dụng động cơ Honeywell TPE331-10R-513C. Tai nạn. Tính đến tháng 9 năm 2011, đã xảy ra 71 vụ tai nạn liên quan máy bay CASA C-212 với tổng số 558 trường hợp tử vong. Trưa ngày 16 tháng 6 năm 2016, một máy bay CASA C- 212 mang số hiệu 8983 của Lực lượng Không quân vận tải trong khi làm nhiệm vụ tìm kiếm phi công Su-30MK2 mất liên lạc trên vịnh Bắc Bộ đã rơi ở vùng biển Bạch Long Vĩ, 9 phi công và thành viên tổ bay đã hy sinh.
1
null
Thác Bạt Dư (, ? - 452), gọi theo thụy hiệu là Nam An Vương (南安王), là hoàng đế thứ tư của Bắc Ngụy, trị vì trong một thời gian ngắn ngủi của triều Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được hoạn quan Tông Ái (宗愛) đưa lên ngai vàng sau khi Tông ám sát Thái Vũ Đế vào mùa xuân năm 452, và Tông cũng đã nắm phần lớn quyền kiểm soát trong thời gian Thác Bạt Dư trị vì. Sau đó, Tông cũng đã ám sát Thác Bạt Dư khi Dư cố khẳng định quyền lực của mình, song sau đó một nhóm triều thần đã lật đổ Tông và đưa một cháu trai của Thác Bạt Dư, Thác Bạt Tuấn (con trai của anh trai ông là Thái tử Thác Bạt Hoảng, người đã chết từ trước đó), lên ngôi trở thành Văn Thành Đế. Bối cảnh. Không rõ về thời điểm Thác Bạt Dư sinh ra, song ông là người nhỏ tuổi nhất trong số sáu người con trai của Thái Vũ Đế còn sống qua tuổi thơ ấu. Mẹ ông là Uất Cửu Lư thị, bà là em gái của Sắc Liên khả hãn Uất Cửu Lư Ngô Đế của Nhu Nhiên, việc bà trở thành vợ của Thái Vũ Đế nằm trong sự hòa giải hòa bình-hôn nhân giữa hai bên vào năm 434, theo đó Thái Vũ Đế kết hôn với bà trong khi gả một em gái hay em họ là Tây Hải công chúa cho Uất Cửu Lư Ngô Đề. Thác Bạt Dư được phong làm Ngô vương vào năm 442, và đến năm 450, khi phụ hoàng của ông đang tiến hành phản công sau một cuộc tấn công lớn của Lưu Tống, còn Thái tử Hoảng đang phòng thủ biên giới phương Bắc nhằm chống lại một cuộc tấn công có thể xảy ra từ Nhu Nhiên, Ngô vương đã được giao nhiệm vụ phụ trách trấn giữ kinh đô Bình Thành (平城, nay thuộc Đại Đồng, Sơn Tây), một dấu hiệu cho thấy rằng Thái Vũ Đế tin tưởng vào khả năng của Thác Bạt Dư. Nắm 452, ông được ban tước hiệu mới là Nam An vương. Tại một thời điểm nào đó vào cuối thời gian trị vì của Thái Vũ Đế, Thác Bạt Dư trở nên thân mật với hoạn quan Tông Ái, người mà vào năm 451 đã vu cáo các thân cận của Thái tử Hoảng là Cừu Ni Đạo Thịnh (仇尼道盛) và Nhâm Bình Thành (任平城) phạm tội, khiến cho nhiều người phục tùng cho Thái tử bị hành hình còn bản thân Thái tử Hoàng lâm bệnh trong sợ hãi và cuối cùng đã qua đời. Đến mùa xuân năm 452, lo sợ rằng Thái Vũ Đế sẽ trừng phạt mình, Tông Ái đã ám sát Thái Vũ Đế. Các quan ban đầu đã không công bố về cái chết của Thái Vũ Đế, họ tranh cãi xem nên lập con trai cả của Thái tử Hoảng là Cao Dương vương Thác Bạt Tuấn hay người con trai lớn tuổi nhất còn sống của Thái Vũ Đế là Đông Bình vương Thác Bạt Hàn (拓拔翰) lên ngôi. Bản thân Tông Ái có quan hệ không tốt với Thác Bạt Hàn, do đó ông ta đã triệu Thác Bạt Dư đến cung và giả mạo một chiếu chỉ của Hách Liên Hoàng hậu (chính thất của Thái Vũ Đế) để phục kích và xử tử tất cả các quan ủng hộ Thác Bạt Tuấn hay Thác Bạt Hàn. Sau đó, Tông Ái xử tử Thác Bạt Hàn và lập Thác Bạt Dư làm hoàng đế. Thời kỳ trị vì ngắn ngủi. Thác Bạt Dư tôn Hách Liên Hoàng hậu làm Thái hậu, và ông cũng phong cho Tông Ái một số vị trí cấp cao, gồm đại tư mã, đại tướng quân, thái sư. Tông Ái trên thực tế là người kiểm soát đế quốc, phong mình là Phùng Dực vương (馮翊王). Việc Thác Bạt Dư lên ngôi có lẽ đã không gặp phải phản đối lớn nào, song ông cũng biết mình đã bỏ qua các anh trai và cháu trai (theo nguyên tắc Nho giáo là người kế vị hợp pháp), và do đó ông đã cố gắng đạt được sự ủng hộ của các quan bằng cách ban cho họ các phần thưởng quá lớn, tuy nhiên, điều này lại dẫn đến ngân khố cạn kiệt. Sử sách cũng mô tả Thác Bạt Dư là thường xuyên uống rượu, và thường dành thời gian cho những trò tiêu khiển và săn bắn, và dành ít thời gian cho việc nước. Tông Ái, với vai trò là thái sư, cũng phụ trách cấm quân của hoàng cung, ông ta trở nên cực kỳ kiêu ngạo. Cuối cùng, Thác Bạt Dư trở nên hết kiên nhẫn với trò hề của Tông Ái và lập kế hoạch tước bỏ quyền lực của hắn. Tuy nhiên, thông tin đã lọt đến tai Tông Ái, và đến mùa đông năm 452, trong khi Thác Bạt Dư đang tiến hành cúng tế Tiên Hoàng là Đạo Vũ Đế vào ban đêm, Tông Ái đã cử Giả Chu (賈周) đi ám sát hoàng đế. Ông ở trên ngai vàng chỉ trong bảy tháng. Một số quan lại sau đó đã lật đổ Tông Ái và lập Thác Bạt Tuấn làm hoàng đế (tức Văn Thành Đế). Văn Thành Đế đã chôn cất Thác Bạt Dư với vinh dự dành cho một thân vương hoàng gia chứ không phải hoàng đế, và truy thụy cho ông.
1
null
Quan hệ Malaysia-Việt Nam (tiếng Malay "Hubungan Malaysia-Vietnam") là mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Malaysia, được thiết lập ngày 30/3/1973. Việt Nam đã mở đại sứ quán tại Kuala Lumpur và Malaysia đã mở đại sứ quán tại Hà Nội. Lịch sử. Việt Nam và Vương quốc Malacca của Mã Lai trong quá khứ đều đã từng triều cống cho Trung Quốc nhưng hai nước đã có mối quan hệ ngoại giao căng thẳng do Việt Nam đã công kích một vài công sứ Malacca. Vào cuối những năm 1970 và 1980, mối quan hệ của các nước trở nên căng thẳng do hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam - Campuchia và dòng thuyền nhân Việt Nam đổ vào Malaysia. Nghị quyết tiếp theo của các vấn đề này cho thấy sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế và thương mại mạnh mẽ, và thương mại song phương giữa các nước phát triển mạnh mẽ, với sự mở rộng sang các lĩnh vực bao gồm công nghệ thông tin, giáo dục và quốc phòng. Malaysia và Việt Nam là hai quốc gia Đông Nam Á với biên giới trên biển nằm trong vịnh Thái Lan và biển Đông. Hai nước có yêu sách chồng lấn trên thềm lục địa trong Vịnh Thái Lan. Tuy nhiên, hai nước đã đi đến một thỏa thuận cùng khai thác tài nguyên thiên nhiên trong khu vực tranh chấp trong thời gian chờ giải quyết tranh chấp chủ quyền. Trong biển Đông, Malaysia và Việt Nam có liên quan đến những tuyên bố đa quốc gia trên quần đảo Trường Sa và vùng biển lân cận. Malaysia hiện là nơi có một cộng đồng người nước ngoài lớn của Việt Nam bao gồm công nhân nhập cư, cô dâu, số lượng khoảng 100.000 người. Việt Nam cũng có một cộng đồng người nước ngoài nhỏ của Malaysia, bao gồm chủ yếu là các doanh nhân có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Quan hệ ngoại giao. Quan hệ ngoại giao với Miền Bắc Việt Nam sau này là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Malaysia thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Việt Nam vào ngày 31 tháng 3 năm 1973 ở cấp đại sứ sau khi Hiệp định Hòa bình Paris được ký kết năm đó. Một thỏa thuận giữa các đại sứ của Malaysia và Việt Nam đã đạt được vào năm 1975. Năm sau, Malaysia lần đầu tiên mở đại sứ quán tại Hà Nội, trong khi Việt Nam cũng mở đại sứ quán tại Kuala Lumpur vào ngày 29 tháng 5 năm 1976. Vào giữa đến cuối những năm 1970, các mối quan hệ song phương đã căng thẳng khi Malaysia gây áp lực buộc Việt Nam phải nắm lấy khái niệm ZOPFAN, mà sau này được hiểu là một phiên bản của chính sách ngăn chặn chống cộng. Trong hội nghị thượng đỉnh song phương vào tháng 8 năm 1977, Thủ tướng Hussein Onn của Malaysia đã hứa sẽ cung cấp hỗ trợ kinh tế và kỹ thuật để xây dựng lại nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá của Việt Nam. Khi chiến tranh Việt Nam - Campuchia nổ ra vào năm 1979, nhiều người Việt Nam đã tìm nơi ẩn náu ở Malaysia từ thời điểm đó trở đi vào những năm 1980 và gây ra các vấn đề an ninh kinh tế và quốc gia cho Malaysia đặc biệt là sự cân bằng chủng tộc của họ vì hầu hết người tị nạn Việt Nam giống người Trung Quốc. Quan hệ song phương được bình thường hóa từ năm 1988 trở đi, khi Việt Nam tuyên bố kế hoạch rút khỏi Campuchia. Đầu những năm 1990, các nhà lãnh đạo chính phủ của cả hai nước đã tổ chức nhiều chuyến thăm và hội nghị ngoại giao, trong đó đưa ra nhiều thỏa thuận nhấn mạnh đến sự hợp tác và phát triển kinh tế. Tăng cường quan hệ cũng chứng kiến ​​việc mở văn phòng lãnh sự quán tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 3 năm 1991. Việt Nam bày tỏ sự quan tâm đến việc gia nhập ASEAN với sự hỗ trợ của Malaysia vào năm 1994 khi các nước tiếp tục thúc đẩy quan hệ kinh tế chặt chẽ. Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995; mục nhập của nó đã được chào đón nồng nhiệt bởi Malaysia. Trong những năm 1990, quan hệ song phương được đặc trưng bởi hợp tác thương mại và kinh tế; các lĩnh vực hợp tác song phương khác đã được khám phá từ năm 2000 trở đi. Trong năm đó, Việt Nam và Malaysia đã đạt được thỏa thuận về các nỗ lực song phương trong thực thi pháp luật và đàn áp buôn bán ma túy xuyên quốc gia. Năm 2004, ba Bản ghi nhớ (MoU) trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, giáo dục và quan hệ ngoại giao, và hợp tác nói chung đã được ký kết. Hợp tác song phương giữa hai nước cũng được mở rộng sang vấn đề quốc phòng vào năm 2008 khi một MoU khác được ký kết, đề xuất cho các khóa huấn luyện quân sự chung và hợp tác trong ngành công nghiệp quốc phòng giữa quân đội Malaysia và Việt Nam. MoU cũng cung cấp cho hải quân của cả hai nước để ngăn ngư dân Việt Nam xâm nhập vào vùng biển Malaysia để hoạt động đánh bắt cá cũng như kiểm soát cướp biển. Quan hệ ngoại giao với Miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa). Quan hệ với nhà nước cũ của miền Nam Việt Nam được thiết lập khi miền Nam Việt Nam công nhận nền độc lập của Liên bang Malaya vào năm 1957. Từ thời điểm đó, Malaysia đã viện trợ cho chế độ Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống Việt Cộng và quân đội Bắc Việt. Thủ tướng Mã Lai Tunku Abdul Rahman đã có chuyến thăm đầu tiên vào năm 1958, được Tổng thống Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm đáp lại hai lần vào ngày 28 tháng 31 năm 1958 vào tháng 10 năm 1961. Đến năm 1963, khi Malaya chuyển đổi sang Malaysia (có thêm một lãnh thổ ở đảo Borneo), chính phủ chính ở Kuala Lumpur lo ngại ảnh hưởng của những người cộng sản Bắc Việt sẽ đe dọa sự tồn tại của nó theo lý thuyết của Domino, do đó thay đổi vị trí của nó để trở thành rất ủng hộ sự can dự của Mỹ vào Chiến tranh Việt Nam vì Malaysia cũng đã trải qua một cuộc nổi dậy của cộng sản. Tunku Abdul Rahman sau đó đã bày tỏ những lo ngại này vào tháng 12 năm 1966 và kêu gọi Hoa Kỳ và Vương quốc Anh cung cấp hỗ trợ hậu cần gia tăng cho các nỗ lực chiến tranh ở Việt Nam. Malaysia đã tổ chức các khóa đào tạo về hành chính công và chiến tranh rừng rậm cho các quan chức chính phủ, và cung cấp xe máy để củng cố khả năng hậu cần của cảnh sát và quân đội miền Nam. Đến cuối chiến tranh Việt Nam năm 1975, Malaysia đã đóng cửa đại sứ quán tại Sài Gòn trong hai giai đoạn; đầu tiên, họ rút các đại sứ quán vào ngày 12 tháng 4 năm 1975, trước khi đóng cửa hoàn toàn 16 ngày sau đó, hai ngày trước khi Sài Gòn sụp đổ. Malaysia cũng đã mở rộng sự công nhận đối với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong thời gian ngắn hình thành vào tháng 5 năm 1975, với lý do vị trí vô tư của Malaysia về tư tưởng chính trị và hệ thống xã hội. Thị thực. Từ ngày 25/11/2001, Việt Nam và Malaysia đã thực hiện miễn thị thực với công dân của hai nước mang tất cả các loại hộ chiếu, thời gian tạm trú không quá 30 ngày cho các mục đích: du lịch; tham dự các hoạt động thông tấn, báo chí; đi việc công; thăm thân nhân; đàm phán thương mại; đầu tư; tham dự các hoạt động thể thao; tham dự các hội nghị, hội thảo. Hợp tác kinh tế, thương mại. Thương mại song phương giữa Malaysia và Việt Nam đứng ở mức 2,2 triệu USD sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam năm 1975. Trong ba năm đầu tiên sau chiến tranh, Malaysia đã đề xuất mở rộng hỗ trợ kinh tế và kỹ thuật cho các ngành công nghiệp cọ và cao su của Việt Nam. Malaysia đã xuất khẩu kẽm sang Việt Nam và ký hợp đồng tạo điều kiện cho việc nhập khẩu rau của Việt Nam vào Malaysia. Những hợp tác và đề xuất ban đầu này đã kết thúc sau khi Việt Nam đưa quân sang Campuchia năm 1979. Hợp tác kinh tế đã dần hồi phục từ năm 1988, khi thương mại song phương giữa các nước đứng ở mức 50 triệu đô la. Năm 1990, thương mại song phương tăng lên 140 triệu đô la và lên tới 235 triệu đô la vào năm 1991. Trong khoảng thời gian này, các doanh nhân Malaysia bắt đầu mở khách sạn ở Vũng Tàu để phục vụ cho ngành du lịch phát triển mạnh mẽ. Tại hội nghị thượng đỉnh song phương năm 1992, cả hai nước đã nhất trí về ý tưởng khai thác dầu khí chung; Việt Nam có số lượng lớn các mỏ dầu ở Biển Đông. Trong khoảng thời gian này, các hội đồng thống kê của Malaysia và các công ty liên kết với chính phủ bao gồm Ngân hàng Negara, MIDAS và Petronas bắt đầu cung cấp các chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam. Việt Nam cũng tìm kiếm sự hỗ trợ của Malaysia để phát triển ngành ngân hàng; Ngân hàng Công cộng của Malaysia đã thành lập liên doanh với ngân hàng VID (sau này là ngân hàng ATM) để mở chi nhánh tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1993 đến 1994. Đến năm 1994, Malaysia trở thành nhà đầu tư lớn thứ hai của ASEAN tại Việt Nam. Xuất khẩu từ Việt Nam sang Malaysia chủ yếu bao gồm gạo, cao su, hạt dầu và máy móc, trong khi Malaysia xuất khẩu máy móc, thiết bị và hóa chất chủ yếu có nguồn gốc từ hỗ trợ kinh tế của nhà tạo mẫu cho nước này. Các doanh nhân Malaysia chịu trách nhiệm phát triển Khu chế xuất An Don bắt đầu từ năm 1994 tại Đà Nẵng. Tại một cuộc họp của APEC năm 1994, Thủ tướng Mahathir Mohamad của Malaysia đã nói về niềm tin rằng Malaysia không cần phải tự chủ hoàn toàn trong thực phẩm và bày tỏ sự quan tâm của mình đối với việc mua một số thực phẩm từ Việt Nam như một biện pháp tăng cường quan hệ kinh tế. Hai năm sau, những chiếc xe Proton Wira do Malaysia sản xuất lần đầu tiên được bán tại Việt Nam. Một cuộc họp ủy ban chung giữa các quốc gia vào năm 1996 đã đưa các công nhân lành nghề và bán lành nghề vào Việt Nam từ Malaysia từ thời điểm đó trở đi. Từ năm 2002 đến 2003, làn sóng lao động Việt Nam đầu tiên đã đến Malaysia để cung cấp lao động cho lĩnh vực sản xuất mở rộng của nó. Đến năm 2003, có 67.000 công nhân Việt Nam tại Malaysia; cả hai nước đã ký một biên bản ghi nhớ miễn cho những người lao động Việt Nam không có kỹ năng cần phải có đủ tiếng Anh hoặc tiếng Mã Lai để đủ điều kiện làm việc. Số người có giấy phép lao động Việt Nam tăng nhẹ lên 80.000-90.000 vào năm 2011; sự hiện diện của họ sau đó mở rộng sang các lĩnh vực khác bao gồm xây dựng, dọn phòng, nông nghiệp và lĩnh vực dịch vụ. Một số công nhân Việt Nam tìm được việc làm trong các nhà hàng Trung Quốc làm bồi bàn, và học nói một số tiếng Trung Quốc. Năm 2015, Malaysia là nhà đầu tư lớn nhất của ASEAN tại Việt Nam với tổng số cam kết là 2,47 tỷ USD. Malaysia và Việt Nam đã ký một tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược trong các vấn đề kinh tế cùng với một bản ghi nhớ về tuần tra chung, liên lạc với đường dây nóng, phối hợp tìm kiếm và cứu hộ và phòng chống cướp biển ở Biển Đông. Ngoài ra còn có một phòng kinh doanh Malaysia tại Việt Nam. Hợp tác xã hội. Một số lượng lớn đàn ông Malaysia có vợ ngoại quốc, đặc biệt là phụ nữ Việt Nam. Các điều khoản về những cuộc hôn nhân như vậy lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1990, nhưng vào những năm 2000, những cuộc hôn nhân này trở nên đặc biệt phổ biến với những người đàn ông Malaysia lớn tuổi ở Trung Quốc. Một ngành công nghiệp mai mối phát triển mạnh, trong đó các chú rể tương lai có thể chọn cô dâu Việt Nam dựa trên các chương trình đường bộ và phương pháp định hình đã phát triển. Vợ chồng người Malaysia viện lý do không thể tìm được người phối ngẫu tại địa phương vì các cam kết nghề nghiệp và mối quan hệ văn hóa giữa người Malaysia gốc Hoa và người Việt Nam là động lực chính của họ để tìm vợ người Việt. Các công đoàn như vậy đã phải đối mặt với các vấn đề đáng kể, chẳng hạn như rào cản ngôn ngữ, trường hợp người vợ từ bỏ vợ hoặc chồng Malaysia và đưa con cái của họ trở về Việt Nam, và tống tiền. Một lãnh đạo cộng đồng người Trung Quốc, Michael Chong, cho biết lý do chính khiến các cô dâu Việt Nam bỏ trốn là họ không có khả năng thích nghi với cuộc sống và xã hội Malaysia, và nhiều phụ nữ đã kết hôn để thoát nghèo ở quê nhà. Malaysia là quê hương của gần 100.000 công dân Việt Nam, chủ yếu tập trung tại các trung tâm công nghiệp ở các bang Tây Malaysia của Penang, Negeri Sembilan, Selangor và Johor. Lao động nhập cư Việt Nam đôi khi bị chủ nhân đối xử tệ bạc, và phải đối mặt với ký túc xá quá đông đúc, các khoản khấu trừ lương và lạm dụng thể chất tại nơi làm việc. Một số lượng lớn tội phạm ở Malaysia, bao gồm cướp, hãm hiếp, giết người và mại dâm, đã được quy cho cộng đồng người Việt. Năm 2008, Tổng thanh tra của cảnh sát Malaysia Musa Hassan, cho biết cảnh sát Malaysia đã xử lý hơn 200 trường hợp phạm tội liên quan đến cộng đồng người Việt Nam trong năm 2008. Phụ nữ Việt Nam là phổ biến trong buôn bán mại dâm Malaysia, khách hàng Malaysia đã quy kết sự nổi tiếng của họ với vóc dáng quyến rũ và thực hành khách sạn tốt. Một số gái mại dâm Việt Nam đã báo cáo đã đăng ký thẻ sinh viên giả hoặc kết hôn giả với đàn ông địa phương để kiếm việc làm trong thương mại này. Đại sứ quán và lãnh sự quán. - Tại Việt Nam: - Tại Malaysia:
1
null
Gioan La San (tiếng Pháp: "Jean-Baptiste de La Salle"; 30 tháng 4 năm 1651 - 7 tháng 4 năm 1719) là một linh mục, nhà cải cách giáo dục, và là người sáng lập ra "Dòng Sư Huynh Các Trường Công giáo" hay còn gọi là Dòng La San. Ông được Giáo hội Công giáo Rôma tôn làm thánh và quan thầy của các giáo viên, giáo chức. Ông cũng được coi là người sáng lập ra mô hình trường trung học Công giáo đầu tiên. Tiểu sử. Gioan La San sinh ngày 30 tháng 4 năm 1651 tại Rheims (Pháp) trong một gia đình giàu có và quyền thế. Năm 11 tuổi, Gioan nhận lễ cạo đầu (một tập tục cổ của Pháp) và hoàn thiện các bí tích căn bản tại Nhà thờ Đức Bà Reims khi 15 tuổi. Khi cha mẹ sớm qua đời, Gioan phải đảm nhận việc quản lý các vấn đề của gia tộc. Tuy vậy, Gioan vẫn hoàn thành việc nghiên cứu thần học và được thụ phong linh mục năm 26 tuổi vào ngày 9 tháng 4 năm 1678. Hai năm sau, ông nhận được học vị tiến sĩ thần học. Mặc dầu được bổ nhiệm làm kinh sĩ - một chức vụ danh dự trong nhà thờ chính tòa Đức Bà Reims, Gioan Lasan lại bị thu hút đặc biệt vào việc phục vụ các trẻ thơ bất hạnh, khó khăn trong những xóm nghèo. Với sự giúp đỡ của một số người hảo tâm, Gioan bắt đầu mở trường dạy cho trẻ em nghèo. Ông dạy chữ và dạy cung cách sống theo gương mẫu Kitô giáo. Công việc của Gioanđã thu hút một số thanh niên tình nguyện theo ông phục vụ trẻ thơ. Với nhóm thanh niên này, ông đã dần dần huấn luyện họ thành những sư huynh tiên khởi, đặt nền tảng cho Dòng Sư Huynh Các Trường Công giáo ngày nay.
1
null
Quần đảo Bắc Cực thuộc Canada (), cũng gọi là Quần đảo Bắc Cực (), là một quần đảo của Canada nằm ở phía bắc phần đại lục của đất nước này. Quần đảo nằm ở vùng cực bắc của Bắc Mỹ, có diện tích khoảng và là quần đảo lớn thứ hai trên thế giới(sau quần đảo Mã Lai), quần đảo gồm có 36.563 đảo và bao gồm nhiều lãnh thổ của Miền Bắc Canada – hầu hết Nunavut và một phần của Các Lãnh thổ Tây Bắc. Lịch sử. Người Anh đã tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo dựa trên các cuộc thám hiểm trong thập niên 1570 của Martin Frobisher. Chủ quyền của Canada, ban đầu (1870–80) chỉ trên các đảo thuộc vùng bồn địa Foxe, vịnh Hudson và eo biển Hudson, và Anh Quốc đã chuyển giao cho Canada các đảo còn lại vào năm 1880; Quận Franklin được thành lập vào năm 1895 và bao gồm hầu hết quần đảo; quận này bị giải thể khi thành lập Nunavut năm 1999. Canada tuyên bố rằng tất cả các tuyến đường thủy của Các hành lang Tây Bắc đều nằm trong vùng nội thủy của Canada; tuy nhiên Hoa Kỳ và hầu hết các quốc gia hàng hải khác lại nhìn nhận rằng chúng nằm trong vùng biển quốc tế. Địa lý. Quần đảo trải dài khoảng theo chiều dọc và từ đại lục đến mũi Columbia, điểm cực bắc của đảo Ellesmere. Quần đảo bị giới hạn bởi biển Beaufort ở phía tây; ở phía tây bắc là Đại Tây Dương; phía đông là Greenland, vịnh Baffin và eo biển Davis; và ở phía nam là vịnh Hudson và đại lục Canada. Các hòn đảo bị tách rời khỏi nhau và với lục địa bằng một loạt các tuyến đường thủy được gọi chung là Hành lang Tây Bắc. Hai bán đảo lớn nhất, Boothia và Melville, kéo dài về phía bắc từ lục địa. Sau Greenland, quần đảo là vùng đất cận Bắc Cực lớn nhất. Quần đảo có khí hậu Bắc Cực, địa hình quần đảo phần lớn là lãnh nguyên, còn lại là các khu vực đồi núi. Hầu hết các đảo không có cư dân sinh sống; các khu định cư đặc biệt nhỏ và thưa thớt, chủ yếu là các khu định cư của người Inuit tại vùng ven biển của các đảo phía nam. Quần đảo bao gồm 36.563 đảo, 94 trong đó được phân loại là đảo chính với diện tích lớn hơn , tổng diện tích của quần đảo là khoảng . Những hòn đảo thuộc quần đảo có diện tích trên , theo thứ tự diện tích giảm dần là: Bản đồ liên kết đến các đảo. Các đảo không thể hiện trên bản đồ
1
null
James Patrick Page (sinh ngày 9 tháng 1 năm 1944) là một nhạc công, nhạc sĩ, nhà sản xuất thu âm người Anh, tay guitar chính và là người sáng lập ban nhạc rock Led Zeppelin. Page rất thành công trong việc tạo ra các guitar riff và phong cách chơi đa dạng của ông liên quan đến việc điều chỉnh các âm điệu guitar khác nhau, những màn độc tấu đầy kỹ thuật, du dương và mạnh mẽ cũng như các tác phẩm acoustic chịu ảnh hưởng từ dòng nhạc dân gian và Phương Đông của ông. Ông cũng được chú ý vì thỉnh thoảng chơi guitar với cung đàn cello để tạo ra sự bay bổng trong âm nhạc. Page bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một nhạc sĩ phòng thu ở London vào giữa những năm 1960, cùng với Big Jim Sullivan là một trong những nghệ sĩ guitar phòng thu nổi tiếng nhất nhất ở Anh. Ông là thành viên của The Yardbirds từ năm 1966 đến năm 1968. Khi The Yardbirds tan rã, ông thành lập Led Zeppelin, hoạt động từ năm 1968 đến năm 1980. Sau cái chết của tay trống John Bonham của Led Zeppelin, ông tham gia vào một số nhóm nhạc trong suốt những năm 1980 và 1990, nổi bật là XYZ, The Firm, The Honeydrippers, Coverdale–Page và Page and Plant. Kể từ năm 2000, Page làm khách mời của nhiều buổi biểu diễn khác nhau với nhiều nghệ sĩ, cả ghi âm trực tiếp và trong phòng thu, và tham gia tái hợp với Led Zeppelin một lần vào năm 2007 được phát hành dưới tên phim hòa nhạc "Celebration Day" năm 2012. Cùng với The Edge và Jack White, ông tham gia vào bộ phim tài liệu "It Might Get Loud" năm 2008. Page được coi là một trong những nghệ sĩ guitar vĩ đại và có ảnh hưởng nhất mọi thời đại. Tạp chí "Rolling Stone" đã xếp ông ở vị trí thứ ba trong danh sách "100 nghệ sĩ guitar vĩ đại nhất mọi thời đại", sau Jimi Hendrix và Eric Clapton. Năm 2010, ông được xếp hạng thứ hai trong danh sách "50 nghệ sĩ guitar hàng đầu mọi thời đại" của "Gibson" và năm 2007, vị trí thứ bốn trong danh sách "100 anh hùng guitar hoang dã nhất" của "Classic Rock". Ông được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll hai lần: một lần với tư cách là thành viên của Yardbirds (1992) và một lần là thành viên của Led Zeppelin (1995). Tuổi thơ. Jimmy là con trai của James Patrick Page và Patricia Elizabeth Page (nhũ danh Gaffikin). Họ sống ở phía Tây London, gần Heston, nay trở thành một phần của khu Hounslow, London. Ông James Patrick là một quản lý nhà máy, trong khi bà Patricia, một người phụ nữ gốc Ireland, là một y tá. Năm 1952, gia đình họ chuyển tới Feltham rồi sau đó tới Miles Road, Epsom ở Surrey, nơi mà cậu bé Jimmy lần đầu được tiếp xúc với guitar. "Tôi không biết rằng họ đã để lại [chiếc guitar] trong căn nhà trước đó, hoặc rằng đã có người bạn nào đó của gia đình đã làm vậy – nhưng không một ai biết vì sao nó ở đó." Lần đầu cậu thực sự chơi guitar là ở tuổi 12 khi cậu trải qua vài giờ học ở Kingston, nhưng chủ yếu Jimmy tự học guitar: Những người đầu tiên ảnh hưởng tới Page là 2 nghệ sĩ rockabily Scotty Moore và James Burton – những người từng tham gia thu âm cùng Elvis Presley. Ca khúc "Baby Let's Play House" của Presley thường được Page nhắc tới như là niềm cảm hứng chơi guitar của cá nhân mình. Cho dù từng được lên truyền hình trên kênh BBC1 vào năm 1957 với cây Hofner President, Page sau này vẫn nói chiếc guitar đầu tiên của ông là chiếc 1959 Futurama Grazioso, rồi sau đó là cây Fender Telecaster. Phong cách âm nhạc của Page pha trộn giữa skiffle (phong cách chủ đạo trong âm nhạc Anh vào thời điểm đó) và nhạc folk acoustic hòa lẫn với những âm thanh nhạc blues từ Elmore James, B.B. King, Otis Rush, Buddy Guy, Freddie King và Hubert Sumlin. "Về cơ bản, sự khởi đầu là việc pha trộn rock với blues." Ở tuổi 13, Page tham gia chương trình tìm kiếm tài năng thiếu niên "All Your Own" của Huw Wheldon với phần trình diễn nhạc skiffle, sau đó được phát sóng trên kênh BBC1. Ban nhạc của cậu chơi ca khúc "Mama Don't Want to Skiffle Anymore" và một ca khúc nhạc Mỹ "In Them Ol' Cottonfields Back Home". Khi được Wheldon hỏi tương lai mà mình muốn sau khi ra kết thúc việc đi học, Page đã trả lời "Cháu muốn làm nghiên cứu sinh" để chữa trị "ung thư, nếu lúc đó vẫn chưa ai tìm ra phương pháp". Sau này khi được phỏng vấn trên tờ "Guitar Player", Page nhớ lại "hồi đó tôi lang thang đi diễn rất nhiều, và như họ nói, tôi lúc nào cũng trông như đang đi du lịch, nhưng đó là một cách học rất tốt". Page vẫn mang đàn guitar hàng ngày tới trường, nhờ người khác trông giúp rồi trả lại cậu vào cuối giờ học. Cho dù từng đi phỏng vấn để có được chân quản thư ở thư viện, cậu cuối cùng quyết định rời bỏ ngôi trường Danetree Secondary School, Tây Ewell để theo đuổi con đường âm nhạc. Ban đầu, Page rất khó khăn để gặp gỡ những nghệ sĩ guitar có chung quan điểm âm nhạc. "Lúc đó có lẽ không tồn tại một sự đa dạng như tôi từng nghĩ. Tôi đã chơi cho rất nhiều nhóm... và thật sự không một ai có thể tìm thấy một tiếng nói chung." Sau khi thôi việc chơi nhạc trong những chương trình giao lưu của nhà thơ Royston Ellis tại nhà hát Mermaid trong khoảng năm 1960-1961, rồi của ca sĩ Red E. Lewis, Page được ca sĩ Neil Christian đề nghị gia nhập nhóm của mình, The Crusaders, sau khi Christian nhìn thấy cậu nhóc 15 tuổi chơi đàn tại sảnh lớn. Page đi tour cùng Christian suốt 2 năm sau đó, tham gia vào nhiều bản thu cùng ban nhạc, trong đó có đĩa đơn "The Road to Love". Sau đó, Page bị ốm nặng do dính phải bệnh sốt tuyết truyền nhiễm nên quyết định dừng việc đi tour. Trong thời gian điều trị, cậu quyết định tạm ngừng việc chơi guitar để dành cho một tình yêu khác – hội họa – và đăng ký tại Trường Nghệ thuật Sutton ở Surrey. Sau này ông giải thích vào năm 1975: Những năm đầu thập niên 1960: nhạc công tự do. Trong thời gian là sinh viên, Page thường xuyên chơi guitar tại Marquee Club với nhóm All Stars của Cyril Davies và nhóm Blues Incorporated của Alexis Korner cùng những tay guitar tự do khác là Jeff Beck và Eric Clapton. Anh được John Gibb của nhóm Brian Howard & the Silhouettes chú ý và đề nghị tới giúp đỡ thu âm với hãng Columbia Graphophone Company, trong đó có đĩa đơn "The Worrying Kind". Mike Leander của hãng Decca Records là người đầu tiên đưa Page tới phòng thu. Buổi thu đầu tiên là bản thu đĩa đơn "Diamonds" trình bày bởi Jet Harris và Tony Meehan: ca khúc sau đó có được vị trí quán quân vào đầu năm 1963. Sau những lần cộng tác với nhóm Carter-Lewis and the Southerners, Mike Hurst rồi nhóm The Method, Mickey Finn và The Blue Men, Page cuối cùng cũng có một buổi thu của riêng mình. Khi tham gia là nhạc công tự do, anh chọn nghệ danh "Lil' Jim Pea" để phân biệt với một nghệ sĩ tự do nổi tiếng khác là Big Jim Sullivan. Page thường được mời tới như một nghệ sĩ "đảm bảo" mỗi khi cần sự thay thế hay mỗi khi nghệ sĩ cần một tay guitar chơi lót phía sau. "Tôi hay đi cùng với một tay trống", anh giải thích, "nhưng họ không nhớ tới tay trống, nên họ chỉ nhắc tới tên tôi... Mọi người đều muốn nhờ tới, hoặc Big Jim [Sullivan] hoặc tôi." Anh nhấn mạnh rằng: ""Trong những lần thu đầu tiên, họ thường bảo "Cứ chơi như cậu muốn!", bởi vì lúc đó tôi không biết đọc nhạc hay hiểu bất cứ nhạc lý nào."" Page là nghệ sĩ guitar ưa thích của nhà sản xuất Shel Talmy. Cũng chính vì vậy, anh luôn có mặt trong các buổi thu của The Who và The Kinks. Page được chú ý khi chơi guitar acoustic 12-dây trong 2 ca khúc "I'm a Lover Not a Fighter" và "I've Been Driving on Bald Mountain" nằm trong album đầu tay của The Kinks, ngoài ra còn có thể trong ca khúc mặt B "I Gotta Move". Page cũng là người chơi guitar nền trong đĩa đơn đầu tay "I Can't Explain" của The Who (cho dù Pete Townshend khá miễn cưỡng trong việc đồng ý cho Page tham gia song cuối cùng anh vẫn có mặt trong phần trình bày ca khúc mặt B "Bald Headed Woman"). Trong năm 1964, Page còn tham gia trong "As Tears Go By" của Marianne Faithfull, "Tobacco Road" của The Nashville Teens, "Heart of Stone" của The Rolling Stones, "Baby Please Don't Go" và "Here Comes the Night" của Van Morrison cùng Them, "The Crying Game" và "My Baby Left Me" của Dave Berry, "Is It True" của Brenda Lee, và "Downtown" của Petula Clark. Năm 1964, Page được quản lý Andrew Loog Oldham của The Rolling Stones thuê để tham gia sản xuất và là thành viên A&R cho hãng Immediate Records, qua đó giúp anh được chơi cùng các nghệ sĩ như John Mayall, Nico, Chris Farlowe, Twice as Much hay Clapton. Page cũng nhanh chóng thiết lập tình bạn với một nhạc sĩ lãng mạn có tên Jackie DeShannon. Anh bắt đầu sáng tác trong album "The Maureeny Wishful Album" của John Williams cùng Big Jim Sullivan. Sau đó anh tham gia làm nghệ sĩ hợp đồng trong "Sunshine Superman" (1966) của Donovan, "Jeune Homme" (1968) và "Je Suis Né Dans La Rue" (1969) của Johnny Hallyday, "Love Chronicles" (1969) của Al Stewart và 5 ca khúc trong album đầu tay "With a Little Help from My Friends" của Joe Cocker. Kể từ năm 1970, tổng cộng Page chơi lead guitar trong 10 ca khúc của Roy Harper, tương đương tới 81 phút độc diễn guitar. Khi được hỏi về những ca khúc mình tham gia, đặc biệt là những vai trò khác nhau thậm chí đối lập trong số các ca khúc đó, Page thường nhấn mạnh mình không nhớ rõ bao nhiêu ca khúc mình đã từng thu do tham gia quá nhiều buổi thu khác nhau. Trong một buổi phỏng vấn trên đài phát thanh, anh giải thích "Tôi thực hiện 3 buổi thu mỗi ngày và 15 buổi thu một tuần. Đôi lúc tôi chơi với một nhóm nhạc, đôi lúc tôi tham gia thu âm nhạc phim, đôi lúc đó là một buổi thu nhạc folk... Tôi buộc phải thích nghi với mọi vai trò khác nhau." Cho dù Page tham gia thu âm với rất nhiều nghệ sĩ, hầu hết những bản thu trên đều nằm trong những ấn bản nháp, và phần lớn số đó được hội những người hâm mộ Led Zeppelin phát hành rải rác vào cuối những năm 1970. Một trong những bản thu hiếm nhất là bản hát lại ca khúc "Little Queen of Spades" của Robert Johnson mà Page trình diễn cùng tay guitar của The Stones, Keith Richards. Nhiều bản thu thời kỳ này được tổng hợp và phát hành trong album sau đó, "". Page cũng tham gia chơi guitar và hát cùng Richards tại phòng thu Olympic Sound Studios ngày 15 tháng 10 năm 1974: ca khúc này có tên "Scarlet" được thu với Ric Grech chơi bass và Bruce Rowland chơi trống cuối cùng bị xóa bỏ. Không lâu sau Page giải thích trong bài phỏng vấn với Cameron Crowe trên tờ "Rolling Stone": ""Tôi đã làm mọi thứ có thể để hoàn thiện ca khúc mặt B của The Stones. Tôi cùng Ric Grech và Keith đã thu âm một ca khúc có tên "Scarlet". Tôi không nhớ tên tay trống. Nó mang giai điệu và âm hưởng tương đồng với "Blonde on Blonde". Nó thực sự rất hay, rất tốt. Chúng tôi làm việc thâu đêm rồi tới phòng thu Island Studios để Keith chèn thêm một đoạn guitar theo phong cách reggea. Tôi cũng chơi thêm một đoạn solo, và lúc đó đã khoảng 8 giờ sáng của ngày mới. Cậu ta sau đó mang mấy cuốn băng sang Thụy Sĩ, và có ai đó đã cảm thấy thích thú về chúng. Keith đã nói rằng đó là một sáng tác trong album của tôi."" Page chia tay công việc tại phòng thu sau khi những ảnh hưởng ngày một lớn của hãng Stax Records tới âm nhạc quần chúng khiến họ sử dụng nhiều hơn tới bộ hơi và dàn nhạc thính phòng thay vì phải chi tiền cho những chiếc guitar đắt tiền. Anh nhớ lại thời kỳ làm nhạc công tự do thực sự là quãng thời gian tuyệt vời để anh trau dồi kỹ năng: Những năm cuối thập niên 1960: The Yardbirds. Năm 1964, Page đứng trước cơ hội thay thế Eric Clapton để chơi cho The Yardbirds, song anh từ chối vì cho rằng điều đó là thiếu tôn trọng người bạn thân của mình. Tháng 2 năm 1965, Clapton tuyên bố chia tay The Yardbirds, và Page chính thức nhận được lời đề nghị gia nhập nhóm. Song một phần vì anh chưa muốn từ bỏ sự nghiệp nghệ sĩ tự do đang rực rỡ của mình, và mặt khác cũng vì anh không hoàn toàn tự tin về tình hình sức khỏe của mình sau thời gian dài bị cảm, Page quyết định đề nghị người bạn thân Jeff Beck thay thế anh tham gia ban nhạc. Ngày 16 tháng 5 năm 1966, tay trống Keith Moon, tay bass John Paul Jones, keyboard Nicky Hopkins, Beck và Page thu âm ca khúc "Beck's Bolero" tại phòng thu IBC Studios ở London. Trải nghiệm đó đã khiến Page muốn thành lập một siêu ban nhạc với Beck, Moon và tay bass John Entwistle của The Who. Tuy nhiên, vì không tìm được một ca sĩ đủ chất lượng và những ràng buộc hợp đồng phức tạp khiến cho ý tưởng đổ bể. Cùng khoảng thời gian đó, Moon lần đầu tiên nhắc cái tên "Led Zeppelin" sau khi Entwistle tuyên bố rằng dự án này sẽ nổi tiếng khắp nơi như những chiếc khí cầu hàng đầu vậy. Chỉ vài tuần sau, Page chơi trong buổi diễn của The Yardbirds ở Oxford. Sau buổi diễn, Paul Samwell-Smith tuyên bố rời nhóm. Page đề nghị được thay thế vị trí của Samwell-Smith và dễ dàng được chấp thuận. Ban đầu anh được chỉ định chơi bass, nhưng rồi sau đó chuyển sang đánh lead cùng Beck sau khi Chris Dreja chuyển sang chơi bass. Đội hình hứa hẹn đã nhanh chóng bế tắc sau khi vài mâu thuẫn cá nhân xuất hiện vì những tour diễn kéo dài cũng như việc nhóm không có được thành công thương mại rõ rệt, cho dù họ đã có cùng nhau đĩa đơn thành công "Happenings Ten Years Time Ago" (khi Page và Beck cùng tới The Yardbirds, bộ ba huyền thoại Page-Beck-Clapton chưa bao giờ chơi cùng nhau trong một đội hình chính thức, họ chỉ cùng nhau chơi lần đầu tiên trong buổi diễn từ thiện của ARMS vào năm 1983). Sau khi Beck ra đi, ban nhạc ổn định với đội hình 4 người. Họ hoàn thiện album đầu tiên với Page chơi lead, "Little Games". Album nhận được những đánh giá vô cùng trái chiều và nhìn chung không có được thành công về mặt thương mại khi chỉ đứng thứ 80 tại "Billboard" 200. Cho dù đã cố gắng biến sản phẩm phòng thu gần gũi với công chúng, các buổi diễn của họ lại ngày một xa lánh quan điểm đó khi chúng trở nên ngày càng heavy và experimental hơn. Những buổi diễn đó đã giới thiệu một phần những quan điểm sau này của Page với Led Zeppelin, trong đó có những lần trình diễn ca khúc "Dazed and Confused". Sau khi Keith Relf và Jim McCarty chia tay The Yardbirds vào năm 1968, Page tuyên bố thành lập ban nhạc mới để hoàn tất tour diễn vòng quanh Scandinavia. Anh nói: Cuối cùng, anh chọn được ca sĩ Robert Plant và tay trống John Bonham từ nhóm Band of Joy trong khi anh đề nghị cộng tác với John Paul Jones – người trước đó cũng từng mong muốn gia nhập nhóm. Trong tour diễn vòng quanh Scandinavia, ban nhạc này được đặt tên là New Yardbirds, nhưng khi nhớ lại buổi nói chuyện trước đây cùng Moon và Entwistle, Page đã đề xuất đổi tên nhóm. Quản lý Peter Grant quyết định đặt tên ban nhạc mới là "Led Zeppelin", vốn đồng âm với cụm từ "lead zeppelin". 1970-1980: Led Zeppelin. Led Zeppelin là một trong những nghệ sĩ có số lượng đĩa bán chạy lớn nhất lịch sử: nhiều nguồn khác nhau ước tính họ đã bán được tổng cộng khoảng 200 tới 300 triệu đĩa. Với 111,5 triệu đĩa chứng nhận bởi RIAA, họ là nghệ sĩ có số đĩa bán chạy thứ 2 tại Mỹ. Cả chín album phòng thu của họ đều nằm trong top 10 của "Billboard" 200, trong đó 6 giành được vị trí quán quân. Led Zeppelin được coi là những người khai sinh ra heavy metal và hard rock, và âm nhạc của họ chủ yếu được hoàn thiện bởi Page trong vai trò nhà sản xuất cũng như nhạc công. Phong cách cá nhân hóa trình diễn của ban nhạc cũng được ảnh hưởng từ nhiều thể loại khác, đặc biệt là nhạc folk. Họ phá vỡ liên tiếp nhiều kỷ lục trình diễn, góp phần củng cố thêm danh tiếng của họ. Cho dù vẫn duy trì được thành công về mặt thương mại cũng như chuyên môn, song tới cuối thập niên 1970, ban nhạc bắt đầu ít hoạt động hơn và việc đi tour ngày một hạn chế do những vấn đề cá nhân của từng thành viên. Page giải thích mình đã có một ý tưởng vô cùng đặc biệt để tạo dựng nên Led Zeppelin ngay từ buổi đầu tiên: Sự nghiệp hậu-Zeppelin. Năm 1980, John Bonham qua đời vì cảm lạnh sau khi uống rượu tại dinh thự Old Mill của Page ở Clewer, Berkshire. Led Zeppelin liền tuyên bố giải tán. Page từ chối chạm vào chiếc guitar một thời gian để tưởng nhớ người bạn thân thiết. Sau đó, anh chuyển sang cộng tác một vài dự án nhỏ lẻ với các ban nhạc The Firm, The Honeydrippers, một vài lần thực hiện các dự án cá nhân, trong đó có cả nhạc phim. Anh cũng bắt đầu tham gia vào nhiều hoạt động nhân đạo. Thập niên 1980. Page quay trở lại sân khấu với Jeff Beck vào tháng 3 năm 1981 trong buổi diễn tại nhà hát Hammersmith Odeon. Cũng trong năm 1981, anh cùng 2 thành viên của ban nhạc Yes là Chris Squire và Alan White lập nên siêu ban nhạc XYZ. Họ từng thu thử cùng nhau rất nhiều lần, song dự án lại không thực sự trôi chảy. Các bản thu nháp sau này được phát tán trong các ấn phẩm nhỏ lẻ, trong đó có ca khúc "Fortune Hunter" của The Firm, và "Mind Drive" và "Can You Imagine?" của Yes. Page tham gia buổi diễn cùng Yes năm 1984 tại Westfalenhalle ở Dortmund, Đức khi chơi ca khúc "I'm Down" của The Beatles. Năm 1982, Page hợp tác cùng đạo diễn Michael Winner để thu âm nhạc phim cho bom tấn "Death Wish II" (1985). Album soundtrack này cùng rất nhiều bản thu khác sau này của Page được thực hiện tại phòng thu The Sol ở Cookham mà anh mua lại từ Gus Dudgeon vào đầu thập niên 80. Năm 1983, Page xuất hiện trong buổi hòa nhạc từ thiện của ARMS nhằm tôn vinh tay bass Ronnie Lane của nhóm Small Faces vốn đang lâm bệnh nặng. Trong lần đầu tiên trình diễn tại Royal Albert Hall ở London, Page đã mang tới một vài ca khúc từ bộ phim "Death Wish II" (với Steve Winwood hát chính) và chơi bản không lời ca khúc "Stairway to Heaven". Sau đó chương trình còn được tổ chức ở 4 thành phố tại Mỹ với Paul Rodgers phụ trách phần hát. Trong quãng thời gian này, anh cùng Rodgers đã trình bày ca khúc "Midnight Moonlight" sau này nằm trong album đầu tay của The Firm. Tất cả các buổi diễn đều có phần trình bày jam của ca khúc "Layla" với sự tham gia của 3 cựu thành viên The Yardbirds là Page, Beck và Clapton. Theo cuốn "Hammer of the Gods", cũng trong khoảng thời gian này Page tuyên bố với bạn bè rằng mình kết thúc 7 năm sử dụng heroin. Ngày 13 tháng 12 năm 1983, Page tái hợp cùng Plant trong một buổi diễn tại Hammersmith Odeon ở London. Page sau đó tham gia cộng tác trong album "Whatever Happened to Jugula?" (1984) của Roy Harper theo kèm một vài buổi diễn, chơi acoustic guitar trong nhiều liên hoan nhạc folk cùng The MacGregors hay Themselves. Cũng trong năm 1984, anh cùng Plant kết hợp dưới nghệ danh chung The Honeydrippers để thực hiện album "" và thu âm cùng John Paul Jones cho album sountrack nhạc phim "Scream for Help". Page cộng tác với Rodgers để thu âm dưới tên ban nhạc The Firm. Họ cho ra mắt album đầu tay cùng tên vào năm 1985, trong đó có 2 ca khúc tương đối nổi tiếng là "Radioactive" và "Satisfaction Guaranteed". Album này đạt được vị trí số 17 tại bảng xếp hạng "Billboard" và nhận chứng chỉ Vàng tại Mỹ. Album thứ hai của nhóm là "Mean Business", phát hành vào năm 1986. Họ cũng tổ chức tour quảng bá cho mỗi album, song sau đó sớm tan rã. Không lâu sau đó Page tham gia vào rất nhiều dự án, trong đó có của Graham Nash, Stephen Stills và cả The Rolling Stones (đĩa đơn "One Hit (to the Body)" năm 1986). Cũng trong năm này, The Yardbirds tái hợp ngắn để trình bày vài ca khúc trong album "Strange Land" của Box of Frogs. Page cũng cho ra mắt album solo "Outrider" vào năm 1988 với sự hỗ trợ từ Plant, rồi cùng năm tới lượt anh tham gia hợp tác trong album solo của Plant mang tên "Now and Zen". Suốt quãng thời gian này, Page cũng tái hợp trình diễn cùng 2 cựu thành viên còn lại của Led Zeppelin trong một số chương trình, đặc biệt là buổi hòa nhạc Live Aid vào năm 1985 với Phil Collins và Tony Thompson phụ trách phần chơi trống. Tuy nhiên, họ cho rằng các buổi diễn trên có chất lượng thấp, đặc biệt vì Page đã chọn sử dụng một chiếc Les Paul chất lượng kém. Cả Page, Plant, Jones cùng con trai của John Bonham – Jason – đều tham gia vào buổi diễn kéo dài tới 12 tiếng kỷ niệm 40 năm thành lập hãng Atlantic Records vào ngày 14 tháng 5 năm 1988. Thập niên 1990. Năm 1990, Page bất ngờ xuất hiện cùng Plant trong buổi diễn tại Knebworth House nhằm gây quỹ từ thiện cho Trung tâm điều trị Nordoff-Robbins Music và trường British School for Performing Arts and Technology. Bộ đôi trình bày 3 ca khúc "Misty Mountain Hop", "Wearing and Tearing" và "Rock and Roll". Page cùng 2 thành viên còn lại của Led Zeppelin cũng tham dự lễ cưới của Jason Bonham. Năm 1993, Page liên danh với David Coverdale dưới nghệ danh Coverdale and Page. Năm 1994, anh tái hợp với Plant để tham gia serie Unplugged của kênh MTV. Buổi diễn mang tên "Unledded", kéo dài 90 phút và là chương trình có mức rating cao nhất trong lịch sử của MTV. Tới tháng 10 cùng năm, ê-kíp cho ra mắt album "", rồi sau đó DVD "No Quarter Unledded" vào năm 2004. Tiếp nối những thành công trong suốt những năm 1990, Page and Plant cũng cho ra mắt album "Walking into Clarksdale" vào năm 1998. Page là người trực tiếp thực hiện việc chỉnh âm tái bản các ấn phẩm của Led Zeppelin. Anh cũng tham gia vào nhiều dự án và chương trình từ thiện, điển hình là "Action for Brazil's Children Trust", được thực hiện bởi người vợ Jimena Gomez-Paratcha vào năm 1998. Cùng năm, anh chơi guitar trong ca khúc "Come with Me" của rapper Puff Daddy, vốn dựa trên ca khúc "Kashmir" của Zeppelin và được cho vào nhạc nền của bộ phim "Godzilla". Tháng 10 năm 1999, Page cùng nhóm The Black Crowes thực hiện 2 đêm trình diễn các ca khúc của Led Zeppelin và các sáng tác blues và rock truyền thống. Sự kiện này được thu thành album-kép, "Live at the Greek", phát hành vào năm 2000. Thập niên 2000. Năm 2001, Page xuất hiện cùng trưởng nhóm Limp Bizkit, Fred Durst, và Wes Scantlin của nhóm Puddle of Mudd trong lễ trao giải MTV Europe Video Music Awards tại Frankfurt khi trình diễn ca khúc "Thank You" của Led Zeppelin. Tới năm 2005, ông được trao danh hiệu cao quý OBE từ Hoàng gia Anh cho những hoạt động từ thiện cho đất nước Brazil qua quỹ Task Brazil and Action For Brazil's Children's Trust, trở thành công dân danh dự của thành phố Rio de Janeiro vào cuối năm, cùng với đó là được trao giải Grammy. Tháng 11 năm 2006, Led Zeppelin được xướng tên tại Đại sảnh âm nhạc Anh. Phần lời tựa cho ban nhạc được chiếu qua truyền hình với phần dẫn dắt bởi rất nhiều nghệ sĩ hậu bối nổi tiếng (có thể kể tới Roger Taylor, Slash, Joe Perry, Steven Tyler, Jack White và Tony Iommi), theo kèm là những lời đề nghị về danh hiệu tới Page cùng những lời ngắn gọn từ ông. Cũng trong khuôn khổ chương trình, ban nhạc Wolfmother đã thể hiện lại ca khúc "Communication Breakdown". Trong buổi phỏng vấn năm 2006 trên kênh BBC, ông tiết lộ những dự định mới trong năm 2007 "Đó sẽ là một album mà tôi thực sự muốn mang nó ra khỏi những tư duy của mình... đó là một album tuyệt vời và nó đã sẵn sàng để được ra mắt." và "Hẳn là một lời kết cho Zeppelin." Ngày 10 tháng 12 năm 2007, 3 thành viên còn sống của Led Zeppelin cùng con trai của Bonham – Jason – đã thực hiện buổi diễn từ thiện tại sân khấu O2 Arena ở London. Đó là lần duy nhất ban nhạc tái hợp kể từ ngày tan rã vào năm 1980. Buổi diễn được thu thành bộ phim "Celebration Day", phát hành vào ngày 17 tháng 10 năm 2012. Album theo kèm được phát hành vào ngày 19 tháng 11 sau đó được trao Giải Grammy cho Album rock xuất sắc nhất, trong khi phần trình diễn ca khúc "Kashmir" cũng được để cử cho "Trình diễn rock xuất sắc nhất" tại Giải Grammy lần thứ 56. Trong lễ bế mạc Thế vận hội mùa hè Bắc Kinh diễn ra ngày 24 tháng 8 năm 2008, Jimmy Page cùng David Beckham và Leona Lewis là 3 nhân vật đại diện cho nước Anh giới thiệu Thế vận hội mùa hè London 2012. Beckham xuất hiện từ tầng dưới chiếc xe bus 2 tầng tiến vào sân vận động, trong khi Page và Lewis trình diễn ca khúc "Whole Lotta Love" ở phía bên. Năm 2008, Page đồng sản xuất bộ phim tài liệu của đạo diễn Davis Guggenheim mang tên "It Might Get Loud". Bộ phim nói về lịch sử của chiếc guitar điện, nhấn mạnh vào sự nghiệp của Page, The Edge và Jack White. "It Might Get Loud" được giới thiệu tại Liên hoan phim Toronto ngày 5 tháng 9. Ngày 7 tháng 5 cùng năm, Page và Jones xuất hiện trong phần trình diễn kết thúc buổi diễn của Foo Fighters tại Sân vận động Wembley với 2 ca khúc "Rock and Roll" và "Ramble On". Page sau đó tham gia vào bộ phim tài liệu của BBC "London Calling: The making of the Olympic handover ceremony" vào ngày 4 tháng 3 năm 2009. Ngày 4 tháng 4 năm 2009, ông trực tiếp đề cử người bạn lâu năm Jeff Beck vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll. Sau đó ngày 16 tháng 12 cùng năm trên kênh Sky News, ông cũng giới thiệu về tour diễn solo vào năm 2010 của mình. Thập niên 2010. Tháng 1 năm 2010, Page cho ra mắt cuốn tự truyện "Jimmy Page by Jimmy Page" được phát hành bởi Genesis Publications với số lượng hạn chế là 2.150 bản. Page được vinh danh ở giải thưởng Global Peace lần thứ nhất bởi tổ chức Pathways to Peace thuộc Liên hợp quốc sau khi ông đứng ra tổ chức buổi hòa nhạc từ thiện Show of Peace Concert ở Bắc Kinh ngày 10 tháng 10 năm 2010. Ngày 3 tháng 6 năm 2011, Page tham gia trình diễn cùng Donovan tại Royal Albert Hall, London; buổi diễn sau đó cũng được thu hình lại. Ông sau đó bất ngờ có mặt tại buổi diễn của The Black Crowes trên sân khấu O2 Shepherd's Bush Empire ngày 13 tháng 6 cùng năm. Page cũng chơi cùng Roy Harper trong chương trình hòa nhạc kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 của Harper ở Royal Festival Hall cùng ngày. Tháng 11 năm 2011, thành viên Hạ viện Anh Louise Mensch bắt đầu thực hiện chiến dịch vận động ủng hộ phong tước Hiệp sĩ cho Page vì những đóng góp cho nền công nghiệp âm nhạc. Tháng 12 năm 2012, Page, cùng Plant và Jones, đại diện cho Led Zeppelin vinh dự nhận giải thưởng hàng năm Kennedy Center Honors từ Tổng thống Mỹ Barack Obama tại Nhà Trắng. Đây là giải thưởng cao quý nhất mà nước Mỹ trao cho những cá nhân có ảnh hưởng lớn tới văn hóa nghệ thuật tại đất nước này. Tháng 2 năm 2013, Robert Plant có nhắc tới việc Led Zeppelin sẽ được tái hợp vào năm 2014, nhấn mạnh rằng bản thân ông không cảm thấy có bất cứ vấn đề gì, vì "Jimmy Page và John Paul Jones vẫn còn bận bịu với thế giới của riêng họ nên muốn để việc này cho tôi quyết định", đặc biệt khi ông "không phải là một người xấu" và "vẫn chưa có kế hoạch gì trong năm 2014". Ngày 10 tháng 5 năm 2014, Page nhận bằng Tiến sĩ danh dự tại Trường âm nhạc Berklee. Trước đó, trả lời phỏng vấn với đài BBC về việc tái phát hành 3 album của Led Zeppelin, Page cho rằng mặc dù người hâm mộ đặt nhiều kỳ vọng vào việc ban nhạc tái hợp, "nhưng khả năng đó gần như bằng 0". Trên tờ "The New York Times", Page nói rằng mình "phát ngấy" về việc nghe Plant từ chối chơi nhạc. "Tôi có nghe rằng Plant vẫn chưa có kế hoạch gì trong năm 2014 và anh ta đang chờ câu trả lời của 2 người còn lại chúng tôi. Thực ra, Plant biết rõ chúng tôi nghĩ gì. Trong khi ai cũng muốn đi diễn thì Plant chỉ biết làm trò. Và tôi cần phải nói thẳng, là tôi phát ngấy vì mấy trò này rồi. Vì tôi không biết hát, nên tôi không biết làm gì hơn... Rõ ràng là tôi vẫn luôn muốn đứng trên sân khấu, vì tôi vẫn còn có khả năng chơi nhạc. Chỉ cần tôi thả hồn vào âm nhạc và tập trung chơi guitar." Tới lượt Plant lên tiếng "thất vọng" trên tờ "NME" vào tháng 7 cùng năm về những nhận xét này của Page, nhưng vẫn đề nghị Page cùng sáng tác với ông một số ca khúc acoustic. Ngày 30 tháng 9 năm 2014, Page tuyên bố thành lập một ban nhạc mới và sẽ tới toàn bộ những sáng tác trong suốt sự nghiệp của mình. "Đã lâu rồi tôi chưa từng chơi cùng ban nhạc nhưng tôi đã có dự định với họ trong năm tới. Nếu tôi không thể chơi tốt thì tôi sẽ chơi lại những giai điệu trong suốt sự nghiệp của mình, bắt đầu từ thời kỳ The Yardbirds. Sẽ có nhiều chất liệu mới được bổ sung nữa..." Page tham gia vào chương trình phát thanh "Johnny Walker Meets" trên đài BBC Radio 2 vào ngày 30 tháng 12 năm 2015. Vào tháng 10 năm 2017, ông cũng tham gia chia sẻ với sinh viên trường Đại học Oxford. Nhạc cụ và kỹ thuật thu âm. Guitar. Kể từ sau album thứ 2 của Led Zeppelin, Page chủ yếu chơi cây guitar Gibson Les Paul mà ông mua lại từ Joe Walsh và dùng qua bộ chỉnh âm của hãng Marshall. Ngoài ra còn có cây Harmony Sovereign H-1260 được dùng trong 2 album "Led Zeppelin III", "Led Zeppelin IV" và trong các buổi diễn trong khoảng từ ngày 5 tháng 3 năm 1971 tới ngày 28 tháng 6 năm 1972. Trong quá trình thu âm album đầu tay của Led Zeppelin, Page chơi chiếc Fender Telecaster, vốn là quà từ Jeff Beck. Ông cũng từng sử dụng chiếc Danelectro 3021 song được chỉnh dây theo D-A-D-G-A-D, chủ yếu được biết tới qua ca khúc "Kashmir". Page cũng nổi tiếng với việc chơi guitar với cây vĩ của đàn cello trong 2 ca khúc "Dazed and Confused" và "How Many More Times". Đây là kỹ thuật mà ông phát triển trong khoảng thời gian làm nhạc công tự do. Trong chương trình "Led Zeppelin Rockumentary" của kênh MTV, Page tiết lộ rằng ông nảy ra ý định trên sau khi xem nghệ sĩ cello David McCallum, Sr. – một nhạc công tự do cùng thời. Page sử dụng chiếc Fender Telecaster rồi sau đó là dùng cây vĩ để chơi với đàn Gibson Les Paul. Hãng Gibson cho phát hành thương hiệu Jimmy Page Signature Les Paul, sau đó ngừng phát hành vào năm 1999 trước khi tái sản xuất vào năm 2004, rồi sau đó tiếp tục ngừng bày bán. Dòng sản phẩm năm 2004 bao gồm 25 chiếc được trực tiếp Page ký tên, 150 chiếc được chỉnh sửa bởi nghệ nhân Tom Murphy (được gọi là dòng "master") và 840 "ulimited" chiếc đại trà. Chiếc guitar 2-cần thương hiệu Jimmy Page Signature EDS-1275 cũng được sản xuất bởi Gibson. Gần đây, Gibson cũng cho tái sản xuất chiếc 1960 Les Paul Black Beauty – chiếc mà Page từng bị ăn cắp vào năm 1970 – với một vài cải tiến. Dòng guitar này được bày bán vào năm 2008 với 25 chiếc được Page ký tên trong tổng số 500 chiếc được sản xuất. Tháng 12 năm 2009, Gibson ra mắt dòng Jimmy Page "Number Two" Les Paul. Đây là chiếc guitar thiết kế lại từ chiếc No. 2 mà Page sử dụng từ khoảng năm 1974. Thiết kế lần này có thêm phần chỉnh pickup theo ý tưởng của Page, cạo hết lớp sơn trên cần đàn, sử dụng pickup Burstbucker trên cần với dòng chữ "Pagebucker" theo các phím. Trong tổng số 325 được sản xuất có 25 chiếc được hoàn thiện bởi Tom Murphy và được ký tên bởi Page (giá 26.000 $), 100 chiếc phổ thông (giá 16.000 $) và 200 chiếc VOS (giá 12.000 $). Ampli và hiệu ứng âm thanh. Page thường sử dụng bộ chỉnh âm guitar Vox AC30 cùng các ampli của Fender và Orange trong thu âm. Album đầu tiên của Led Zeppelin được chơi với chiếc Fender Telecaster qua bộ chỉnh âm Supro. Page không sử dụng nhiều thiết bị hiệu ứng âm thanh, trong đó có Maestro Echoplex, Dunlop Cry Baby, MXR Phase 90, Vox Cry Baby Wah, Boss CE-2 Chorus, Yamaha CH-10Mk II Chorus, Sola Sound Tone Bender Professional Mk II, MXR Blue Box và DigiTech Whammy. Ông cũng là người yêu thích dùng theremin. Kỹ thuật thu âm. Jimmy Page được nhắc tới nhiều là người đi đầu trong những cải tiến về âm thanh phòng thu, đặc biệt trong quãng thời gian là thành viên của Led Zeppelin – phần nhiều trong số đó được ông phát triển từ thời kỳ nhạc công tự do. Ông cũng phát triển việc sử dụng hiệu ứng âm thanh theo nhiều cách mới và thử nghiệm những cách sắp đặt micro và ampli hợp lý. Cho tới cuối những năm 1960, hầu hết các nhà sản xuất và kỹ thuật viên âm thanh đều bố trí micro ngay trước ampli và trống, dẫn đến nhiều lúc âm thanh khá "nhỏ giọt". Page bình luận trên tạp chí "Guitar World" rằng thời điểm đó, ông nghe tiếng trống "như thế mấy tiếng thùng xốp vậy". Mặt khác, ông còn là fan của phương pháp thu âm những năm 1950 mà Sun Studios rất hưởng ứng. Cũng trong bài phỏng vấn với "Guitar World", Page nhận xét "Thu âm là một ngành khoa học" và "[kỹ thuật viên] cần phải biết câu châm ngôn: khoảng cách đi liền với chiều sâu". Theo duy lý đó, Page nghĩ ra việc bổ sung micro ở một vài khoảng cách nhất định với ampli (có khi tới 12 feet) và thu lại âm thanh cân bằng giữa 2 chiếc micro. Cũng từ đây, ông được coi là một trong những nghệ sĩ Anh đầu tiên phát hiện ra phương pháp "ambient sound" nhằm cân bằng độ chênh lệch thời gian giữa ampli và những khoảng cách khác nhau trong phòng thu. Trong rất nhiều ca khúc cua Led Zeppelin, điển hình là "Whole Lotta Love" và "You Shook Me", Page có cho thêm hiệu ứng "reverse echo" – một kỹ thuật mà ông từng tuyên bố là sản phẩm cá nhân từ thời kỳ The Yardbirds (ông phát hiện ra hiệu ứng này trong quá trình thu âm đĩa đơn "Ten Little Indians" năm 1967). Kỹ thuật này cho phép nghe được tiếng vọng trước cả âm thanh chính, được thực hiện bằng cách phát chồng băng thu với tiếng vọng tại 2 máy riêng biệt, rồi thực hiện lại lần nữa để đảm bảo tiếng vọng vang lên trước mỗi tín hiệu âm thanh. Page cũng nhấn mạnh rằng, dưới tư cách nhà sản xuất, ông có sở thích thay đổi kỹ thuật viên âm thanh trong suốt thời kỳ Led Zeppelin, từ Glyn Johns trong album đầu tay, cho tới Eddie Kramer trong "Led Zeppelin II", và Andy Johns kể từ "Led Zeppelin III". Ông giải thích: "Tôi thực sự quan tâm tới việc thay đổi kỹ thuật viên âm thanh vì tôi không muốn mọi người nghĩ họ phải chịu trách nhiệm về thứ âm thanh của chúng tôi. Tôi muốn họ hiểu rằng tất cả đều nhờ tôi." John Paul Jones cũng cho rằng những kỹ thuật thu âm của Page chính là chìa khóa thành công của Led Zeppelin: Trong bài phỏng vấn thực hiện với tờ "Guitar World" vào năm 1993, Page nhớ lại quãng thời gian ông làm nhà sản xuất âm nhạc: Tôn vinh và ảnh hưởng. Những kinh nghiệm của Page trong phòng thu cũng như cùng The Yardbirds đã đóng góp rất nhiều vào thành công rực rỡ của Led Zeppelin trong thập niên 1970. Trong vai trò là nhạc sĩ, tay guitar chính và nhà sản xuất, ông đã định hình Led Zeppelin như hình mẫu cho vô số những ban nhạc rock sau này, trở thành một trong những người dẫn lối cho âm thanh của nhạc rock suốt một thời kỳ dài, đặc biệt là ảnh hưởng trực tiếp tới rất nhiều tay guitar nổi tiếng khác. Allmusic từng viết "có vẻ mọi tay guitar kể từ cuối thập niên 60 - đầu thập niên 70 đều bị ảnh hưởng từ những công việc của Page với Led Zeppelin". Andy Shernoff của nhóm Dictators nhận xét rằng đoạn chạy và riff của Page trong "Communication Breakdown" – một trong những ca khúc gây ấn tượng mạnh với những yếu tố protopunk – chính là nguồn cảm hứng cho Johnny Ramone của nhóm Ramones phát triển kỹ thuật downstroke. Ramone, người từng gọi Page "có lẽ là tay guitar vĩ đại nhất từ trước tới nay", đã thổ lộ trong bộ phim tài liệu "Ramones: The True Story" rằng mình đã cải tiến kỹ thuật down-picking bằng cách tập chơi đi chơi lại ca khúc trên rất nhiều lần vào buổi đầu sự nghiệp. Brian May của Queen, vốn cũng rất bị ảnh hưởng từ Page, từng nói: "Tôi nghĩ không có ai có thể cô đọng được cách viết đoạn riff như Page – anh ấy là một trong những bộ não vĩ đại nhất của nhạc rock." Tom Scholz của nhóm Boston cũng bị ảnh hưởng lớn từ Page, cho rằng phần chơi guitar của Led Zeppelin trong "How Many More Times" sau này chính là những âm thanh đặc trưng của Boston. Đoạn chơi solo của Page trong ca khúc "Heartbreaker" được Eddie Van Halen gọi là niềm cảm hứng cho kỹ thuật bấm dây 2 tay của mình sau khi được xem buổi trình diễn của Led Zeppelin vào năm 1971. Tương tự, Steve Vai trong buổi phỏng vấn với tờ "Guitar World" vào tháng 9 năm 1998 đã nhắc tới ca khúc này: ""Ca khúc ["Heartbreaker"] chính là thứ bùng nổ nhất mà tôi từng biết khi còn trẻ. Nó mang đầy tính thách thức, táo bạo và sắc sảo hơn bất cứ điều gì. Đó mới là một đoạn guitar solo đích thực."" Vô số những tay guitar nổi tiếng sau này bị ảnh hưởng từ ông, trong đó bao gồm Ace Frehley, Joe Satriani, John Frusciante, James Hetfield, Kirk Hammett, Zakk Wylde, Yngwie Malmsteen, Joe Perry, Richie Sambora, Angus Young, Slash, Dave Mustaine, Mike McCready, Jerry Cantrell, Stone Gossard, Mick Mars, Paul Stanley, Alex Lifeson và Dan Hawkins đều từng ấn tượng bởi cách chơi của Page. Page được tạp chí "Uncut" viết là "tay guitar vĩ đại nhất và bí ẩn nhất của nhạc rock". Theo NBCNews.com, Jimmy Page "đã chơi thứ guitar cơ bản và đáng nhớ nhất của lịch sử nhạc rock – từ những đoạn rền mạnh mẽ nhất cho tới những nốt tinh tế gảy bằng fingerpick". Ca khúc huyền thoại "Stairway to Heaven" được độc giả 2 tạp chí nổi tiếng "Guitar World" và "Total Guitar" bình chọn là đoạn solo vĩ đại nhất mọi thời đại, còn bản thân ông cũng được vinh danh là "Nghệ sĩ guitar của năm" trong 5 năm của thập niên 1970 bởi tạp chí "Creem". Tờ "Guitar World" viết "Vốn là một vị thánh, Jimmy Page rõ ràng là một trong những nghệ sĩ guitar solo mê đắm nhất mà lịch sử nhạc rock từng biết đến". Năm 1996, tạp chí "Mojo" xếp ông ở vị trí số 7 trong danh sách "100 tay guitar vĩ đại nhất". Năm 2002, ông có được vị trí thứ 2 trong danh sách tương tự được bình chọn bởi độc giả tờ "Total Guitar". Năm 2007, tạp chí "Classic Rock" xếp ông ở vị trí số 4 trong danh sách "100 tay guitar hoang dã nhất". Trang Gigwise.com bình chọn ông ở vị trí số 2 trong danh sách "50 tay guitar xuất sắc nhất" vào năm 2008. Tháng 8 năm 2009, tạp chí "Time" xếp ông ở vị trí số 6 trong danh sách những nghệ sĩ guitar điện vĩ đại nhất. Năm 2010, Page có được vị trí số 2 trong danh sách "50 tay guitar của mọi thời đại" của hãng Gibson. Năm 2004, nhà báo trẻ David Fricke của tờ "Rolling Stone" xếp ông ở vị trí số 9 trong danh sách "100 tay guitar vĩ đại nhất" với lời bình "đỉnh cao của kỹ thuật riff"; bản danh sách cập nhật năm 2011 đưa ông lên vị trí số 3, chỉ đứng sau Jimi Hendrix và người bạn thân, Eric Clapton. Fricke cũng từng viết về Page vào năm 1998 "có lẽ là phiên bản kỹ thuật số của James Brown trong thời đại nhạc pop ngày nay". Roger Daltrey của The Who là người hâm mộ lâu năm của Page và từng đề nghị thành lập một siêu ban nhạc với ông vào năm 2010: "Tôi muốn làm một điều gì đó, tôi muốn được thực hiện một album cùng Page." Keith Richards của The Rolling Stones miêu tả về ông "là một trong những tay guitar kiệt xuất nhất tôi từng biết". Page có tên trên Đại sảnh Danh vọng Anh vào tháng 8 năm 2004. Ông cũng được trao giải thưởng Huyền thoại sống của tờ "Classic Rock" vào năm 2007. Tháng 6 năm 2008, ông được trao bằng Tiến sĩ danh dự tại trường Đại học Surrey vì những đóng góp cho nền công nghiệp âm nhạc. Page được xướng tên tại Đại sảnh Danh vọng của tạp chí "Mojo" trong buổi lễ trao giải ngày 11 tháng 6 năm 2010. Ngày 10 tháng 5 năm 2014, ông được trao bằng Tiến sĩ danh dự tại trường Nhạc viện Berklee vì những cống hiến cho nền âm nhạc nói chung. Tháng 8 năm 2011, nghiên cứu sinh Justin Havird ở Đại học Auburn đã đặt tên cho loài cá "Lepidocephalichthys zeppelini" khi anh cho rằng loài cá này có ngoại hình giống chiếc guitar 2-cần của Jimmy Page. Đời sống cá nhân. Jimmy Page sống chung với siêu mẫu Pháp Charlotte Martin từ năm 1970 cho tới khoảng năm 1982-1983. Page gọi Martin là "My Lady". Họ có chung một người con gái là Scarlet Page (sinh năm 1971), một nhiếp ảnh gia. Từ năm 1986 tới năm 1995, Page kết hôn với Patricia Ecker, một người mẫu và bồi bàn; họ có một người con trai, James Patrick Page III (sinh tháng 4 năm 1988). Page sau đó cưới Jimena Gómez-Paratcha, người mà ông gặp trong tour diễn No Quarter ở Brazil. Ông nhận nuôi con gái riêng của bà, Jana (sinh năm 1994), và họ có hai người con gái chung Zofia Jade (sinh năm 1997) và Ashen Josan (sinh năm 1999). Page và Paratcha li dị vào năm 2008. Năm 1972, Page mua căn hộ từ Richard Harris, vốn trước đây là thiết kế của William Burges (1827–1881) có tên The Tower House. "Tôi luôn muốn quay trở về tuổi thơ với những tư tưởng tiền-Raphael và kiến trúc của Burges", ông nói, "Quả là một thế giới tuyệt vời để khám phá." Richard Cole từng nói vào năm 1972, ông đã phải bắt cóc cô bé 14 tuổi, Lori Maddox, tới đây theo yêu cầu của Page. Page sau đó có ở cùng cô bé trong một căn phòng khóa kín song không bị truy tố vì tội giao cấu với trẻ vị thành niên. Trong khoảng từ năm 1980 tới năm 2004, Page sở hữu biệt thự The Mill House ở Mill Lane, Windsor, vốn là nơi ở của tài tử Michael Caine. Đây cũng chính là nơi mà John Bonham qua đời vì cảm lạnh vào năm 1980. Khoảng đầu những năm 1970 cho tới đầu những năm 1990, ông sở hữu biệt thự The Boleskine House, vốn là nhà cũ của nhà nghiên cứu huyền bí học Aleister Crowley. Trích đoạn mộng tưởng của Page trong bộ phim "The Song Remains the Same" được quay tại con đồi ngay bên cạnh Boleskine House. Theo tờ "Sunday Times Rich List", Page có khối tài sản ước tính khoảng 75 triệu £ vào năm 2012. Hiện tại ông sống tại điền trang Deanery Garden ở Sonning, Berkshire, được thiết kế bởi Edwin Lutyens vốn đề dành cho chủ sở hữu tạp chí "Country Life", Edward Hudson. Ông cũng từng sở hữu biệt thự Plumpton Place – một căn hộ khác của Hudson với vài phần cũng được thiết kế bởi Lutyens. Căn biệt thự này cũng xuất hiện trong bộ phim "The Song Remains The Same" với cảnh quay Page ngồi chơi hurdy gurdy. Ma túy. Page cũng được biết tới khi là một trong những nghệ sĩ đầu tiên thừa nhận việc sử dụng ma túy trong thập niên 1970. Trong bài phỏng vấn trên tạp chí "Guitar World" vào năm 2003, ông nhấn mạnh: "Tôi không thể nói [với các thành viên khác trong ban nhạc], song với tôi ma túy là một phần của cuộc sống, kể từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc." Sau tour diễn của Led Zeppelin vào năm 1973, ông nói với Nick Kent: "Mọi người sẽ đều có lúc đạt tới đỉnh vinh quang. Tôi biết tôi đã làm làm được, và nói thẳng ra với cậu, rằng tôi không nhớ nó đã diễn ra như thế nào nữa." Năm 1975, Page bắt đầu dùng heroin theo lời gợi ý từ Richard Cole, người từng nhấn mạnh rằng Page đã lảm nhảm suốt về ma túy trong thời gian thu âm album "Presence" cùng năm và rằng Page đã thú nhận không lâu sau với Led Zeppelin rằng mình đã bị nghiện heroin. Trong tour diễn Bắc Mỹ của nhóm vào năm 1977, việc nghiện ma túy của Page bắt đầu cản trở khả năng trình diễn guitar. Cùng lúc, mọi người cũng bắt đầu để ý quá trình sụt cân của ông. Ngoài việc ngoại hình trên sân khấu của Page có nhiều thay đổi, việc nghiện ma tuý cũng khiến cho ông trở nên khép kín và tách biệt, dẫn tới sự chuyển biến đáng kể trong mối quan hệ của ông với Plant. Trong quá trình thực hiện album "In Through the Out Door" (1978), vai trò mờ nhạt của Page suốt quá trình thu âm (theo John Paul Jones) chủ yếu là do ảnh hưởng của việc nghiện heroin, dẫn tới việc ông không thể có mặt tại phòng thu một thời gian dài. Page tuyên bố cai nghiện heroin vào đầu những năm 1980. Năm 1988, trong bài phỏng vấn trên tạp chí "Musician", Page tỏ vẻ bức xúc khi phóng viên hỏi liệu rằng từ heroin đã đi liền với tên ông chưa: "Trông tôi vẫn có vẻ giống một gã nghiện sao? Cám ơn anh nhiều." Năm 2003, trả lời phỏng vấn với tạp chí "Q", Page trả lời câu hỏi rằng liệu ông có ý tiếc nuối khi từng nghiệp ngập heroin và cocaine: "Tôi không hề thấy tiếc về điều đó, vì khi tôi cần tập trung, tôi vẫn luôn tập trung. Vậy đấy. Cả "Presence" lẫn "In Through the Out Door" đều được thu trong vỏn vẹn 3 tuần, vậy nên nó chỉ được có vậy. Đáng lẽ tôi phải biến chúng trở thành tuyệt tác hàng đầu." Huyền bí học. Việc xuất hiện của những ký tự biểu tượng trên áo của Led Zeppelin trong sự kiện ra mắt album thứ tư của nhóm đã minh chứng cho những mối quan tâm rõ rệt của Page về huyền bí học. Mỗi biểu tượng đại diện cho 1 thành viên, và biểu tượng của Page có tên là "Zoso" được lấy từ cuốn sách "Ars Magica Arteficii" (1557) của Gerolamo Cardano, một tài liệu cổ về thuật giả kim mà trong đó biểu tượng trên được xác định là một chữ ký cổ ám chỉ hoàng đạo. Chữ ký này cũng được nhắc tới trong cuốn "Dictionary of Occult, Hermetic and Alchemical Sigils" của Fred Gettings. Trong quá trình đi tour và quảng bá cho album thứ tư, Page vẫn in ký tự "Zoso" lên áo khoác, đi kèm với những biểu tượng hoàng đạo. Một trong những trang phục nổi tiếng nhất là bộ "Dragon Suit" với hình ảnh của cung Ma kết, Thần nông và Cự giải với ý nghĩa lần lượt là cung Mặt trời, cung Mọc và cung Mặt trăng của Page. Phần hình bìa của album là một bức tranh của họa sĩ Barrington Colby MOM, lấy cảm hứng từ lá "The Hermit" ("Tu sĩ") trong bộ bài nổi tiếng Rider-Waite. Có rất ít thông tin về Colby, và nhiều lời đồn đoán cho rằng chính Page đã tự tay thiết kế nên phần bìa này. Page cũng từng tự hóa thân thành nhân vật "The Hermit" trong bộ phim ca nhạc "The Song Remains the Same" của Led Zeppelin. Trong những năm 1970, Page sở hữu cho riêng mình một cửa hàng sách và văn hóa phẩm về huyền bí học mang tên The Equinox Booksellers and Publishers ở phố Kensington High Street, London, tuy nhiên sau đó phải đóng cửa vì sự nổi tiếng của Led Zeppelin. Cửa hàng sách đã từng cho bán một bản sao cuốn "Goetia" (1904) của nhà huyền bí học người Anh, Aleister Crowley. Page luôn thể hiện rõ mối quan tâm đặc biệt của mình với những ghi chép của Crowley. Năm 1978, ông nói: Page là người viết nhạc cho bộ phim "Lucifer Rising" của đạo diễn phim trái lề Kenneth Anger – một người rất ngưỡng mộ Crowley. Page sản xuất đoạn nhạc kéo dài 23 phút, điều đó khiến Anger cảm thấy không thỏa mãn khi bộ phim dài 28 phút và Anger đề nghị soundtrack kéo dài suốt chiều dài bộ phim. Ông chỉ trích Page tốn 3 năm để viết nhạc và sản phẩm cuối cùng chỉ là 23 phút toàn tiếng "vo ve". Đạo diễn còn phát khùng với Page trước báo chí khi gọi ông là "gã tài tử" của huyền bí học, một gã nghiện không biết tự tách mình ra khỏi ma túy để hoàn thiện dự án. Page sau này có cho phát hành phần soundtrack của bộ phim trên trang web cá nhân vào năm 2012 trong mục "Lucifer Rising and other sound tracks". Tháng 12 năm 2012, trong bài viết "Jimmy Page Looks Back" trên tạp chí "Rolling Stone", Page giải thích: "... từng có lời đề nghị rằng "Lucifer Rising" cần được đưa ra ánh sáng một lần nữa với nhạc của tôi theo kèm. Và tôi đã từ chối." Cho dù Page vẫn luôn sưu tập ghi chép của Crowley, song ông chưa bao giờ gọi mình là người theo quan điểm Thelema hay Typhonian Order. Cửa hàng The Equinox Bookstore and Boleskine House bị bán trong thập niên 1980 khi Page bắt đầu quan tâm nhiều hơn tới đời sống gia đình và các hoạt động từ thiện. Trong cuốn tự truyện "Rebel Heart: An American Rock and Roll Journey" (2001), Bebe Buell – người từng mê đắm Page – cũng đã nhắc tới những mối quan tâm về huyền bí học của Page như là một phần bức chân dung của bà về ông.
1
null
Bắt chước kiểu Bates là một kiểu bắt chước trong sinh học được đặt tên theo nhà tự nhiên học người Anh Henry Walter Bates. Trong kiểu bắt chước này thì một loài không độc hại giả trang giống như một loài độc hại nhằm tránh khỏi bị săn bắt bởi những loài ăn thịt chúng. Một ví dụ tiêu biểu nhất là loài ruồi giả ong giả trang thành ong để khiến cho chim chóc sợ mà không dám tấn công chúng. Một ví dụ khác là một số loài bướm giả trang thành loại khác có vị khó ăn khiến cho chim không muốn ăn chúng. Bắt chước kiểu Bates là loại bắt chước thông thường nhất và được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất. Sự bắt chước không chỉ giới hạn ở bề ngoài, màu sắc, hình dạng mà còn có thể bắt chước về mùi, về âm thanh, thái độ và động tác. Ví dụ có loài bướm đêm tuy không độc hại lại bắt chước phát ra tiếng siêu âm của những con bướm đêm khó ăn khiến cho dơi không dám ăn chúng.
1
null
Bãi Sa Bin hay bãi Chóp Mao (tiếng Anh: "Sabina Shoal"; tiếng Filipino: "Escoda"; ; Hán-Việt: "Tiên Tân tiêu". )là một rạn san hô vòng thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa. Bãi Sa Bin là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát rạn vòng này, nhưng Trung Quốc đã tăng cường sự hiện diện tại bãi Sa Bin thông qua việc cho tàu tuần tra và đặt một ụ nổi dù bị Philippines phản đối. Đặc điểm. Bãi Sa Bin gồm hai phần nằm ở hai phía đông-tây với chiều dài tính theo trục tây-tây bắc - đông-đông nam là 12,7 hải lý (23,5 km) và tổng diện tích là 115 km². Phần phía tây tuy rộng lớn hơn so với phần phía đông nhưng chìm dưới nước từ 3,7 đến 18,3 m trong khi phần phía đông chỉ bị ngập sóng.
1
null
Rết, hay tít(tiếng địa phương Nghệ An),là tên gọi tiếng Việt của một nhóm động vật chân khớp thuộc lớp Chân môi ("Chilopoda") trong phân ngành Nhiều chân ("Myriapoda"). Rết là loài động vật thân đốt, có lông, thon dài, mỗi đốt có một đôi chân. Số lượng chân của mỗi loài rết rất đa dạng, từ dưới 20 cho đến trên 300 chân. Số cặp chân rết luôn là số lẻ, ví dụ nó có thể có 15 hoặc 17 cặp chân (30 hoặc 34 chiếc chân) nhưng không bao giờ có 16 cặp chân (32 chân). Một đặc điểm dễ nhận thấy của rết là cặp kìm ở trước miệng có thể tiết nọc độc vào kẻ thù, được hình thành từ một cặp phần phụ miệng. Hầu hết các loài rết là động vật ăn thịt. Trong tiếng Pháp rết được gọi là Bách túc ("centipèdes", lấy từ các chữ tiếng La Tinh là ' (một trăm) và ', "" (chân)). Tuy nhiên điều này không có nghĩa là các loài rết có 100 chân. Phần lớn các loài rết có từ 30-50 chân, còn bộ "Geophilomorpha" có nhiều chân hơn, có thể lên tới 350 cái. Rết thường có màu nâu sậm, kết quả sự kết hợp giữa hai màu nâu và đỏ. Các loài rết ở trong hang và trong lòng đất thường không có sắc tố và nhiều loài rết sống tại vùng nhiệt đới có thể có các màu sắc sặc sỡ mang tín hiệu xua đuổi. Kích cỡ có thể dao động trong khoảng vài milimét đối với các loài nhỏ con thuộc bộ "Lithobiomorpha" và "Geophilomorpha" cho tới đối với bộ "Scolopendromorpha". Rết có thể hiện diện ở rất nhiều khu vực có điều kiện môi trường khác nhau. Hiện nay có 8.000 loài rết có lông được biết đến trên thế giới, trong đó 3.000 loài đã được mô tả. Như đã nói, khu vực sinh sống địa lý của rết rất rộng, có loài được tìm thấy ở tận vòng Bắc Cực. Nơi sống trên cạn của rết có thể từ rừng mưa nhiệt đới cho đến tận các sa mạc. Tuy nhiên, do lớp vỏ không có lớp cutin dạng sáp giúp chống thoát nước như các loài côn trùng và nhện, chúng dễ dàng mất nước qua da và vì vậy dù trong tất cả các nơi sống của chúng cần có một vi môi trường sống có độ ẩm cao. Cụ thể, ta có thể tìm thấy rết trong đất mùn, lá cây mục, dưới các phiến đá hay tại các khúc gỗ. Rết là một trong những loài săn mồi không xương sống to lớn nhất trên cạn và đóng góp đáng kể trong sinh khối của các loài săn mồi trong các hệ sinh thái trên cạn. Mô tả. Rết có đầu tròn hoặc dẹt, mang một đôi râu ở phần trước của đầu. Chúng có một cặp hàm trên dài và hai cặp hàm dưới. Cặp hàm dưới đầu tiên mọc từ môi dưới và mang xúc tu ngắn. Cặp chân hàm đầu tiên kéo dài từ cơ thể ra phía trước để che phủ phần còn lại của miệng. Đầu chân hàm nhọn, mang ngòi độc để tiết nọc độc vào con mồi. Rết có nhiều mắt đơn trên phần đầu và đôi khi chúng tập trung thành từng cụm để trở thành mắt kép. Mặc dù vậy, dường như rết chỉ có khả năng phân biệt được sáng/tối chứ không có thị giác thật sự như các loài chân khớp khác. Trên thực tế, nhiều loài rết thậm chí không có mắt. Một số loài rết có cặp chân cuối cùng có chức năng cảm giác tựa như râu, nhưng mọc từ trước ra sau. Một số nhóm rết có một cơ quan cảm giác đặc biệt gọi là cơ quan Tömösvary. Nó nằm ở gốc râu và bao hàm một cấu trúc dạng đĩa với một lỗ ở trung tâm bao quanh bởi các tế bào cảm giác. Có thể chúng được sử dụng để cảm nhận rung động và thậm chí có thể được dùng như một dạng cơ quan thính giác. Loại kìm chứa nọc độc của rết là cơ quan đặc trưng của các thành viên lớp Chân môi-các lớp khác của ngành Chân khớp không có đặc điểm này. Cặp kìm này chính là cặp chân đầu tiên của rết, được biến đổi trở thành phần phụ dạng kìm nằm ngay sau đầu. Như vậy, kìm độc của rết không phải là phần phụ miệng thật sự mặc dù chức năng của chúng là bắt mồi, tiêm thuốc độc và giữ mồi. Và đương nhiên, kìm độc của rết có một đường ống rỗng bên trong để bơm chất độc vào con mồi như một cái kim tiêm. Phía sau đầu, cơ thể rết được chia thành 15 đốt hoặc có thể nhiều hơn. Mỗi đốt mang 1 cặp chân, trong đó đốt thứ nhất mang cặp chân hàm/kìm độc chĩa ra phía trước mặt, và 2 đốt cuối cùng khá nhỏ và không có chân. Mỗi cặp chân đều dài hơn cặp chân phía trước nó một chút, điều này đảm bảo việc các chân không chạm vào nhau khi di chuyển quá nhanh. Trong một số trường hợp đặc biệt, cặp chân sau cùng có thể dài gấp đôi so với cặp chân trước tiên. Đốt cuối cùng trở thành dạng trâm nhọn và mang lỗ huyệt của cơ quan sinh dục. Rết là động vật săn mồi và chúng sử dụng râu để dò tìm con mồi. Hệ tiêu hóa có dạng một đường ống đơn giản với các tuyến tiêu hóa kết nối với miệng. Giống như côn trùng, rết hô hấp thông qua hệ thống khí quản, với mỗi đốt có 1 cặp lỗ thở. Việc bài tiết được thực hiện thông qua 1 cặp vi quản malpighi. Loài rết khổng lồ Amazon "Scolopendra gigantea" là loài rết to lớn nhất hiện đang tồn tại trên thế giới, với chiều dài có thể lên tới . Con mồi của nó có thể bao gồm thằn lằn, ếch, chim, chuột và cả dơi - bị tóm ngay khi đang bay - cũng như các loài gặm nhấm và nhện. Trong lịch sử tự nhiên, chi rết sống trong kỷ Permi là "Euphoberia" là chi rết lớn nhất với chiều dài có thể lên tới 1m 39 inch)( Vòng đời và sinh sản. Quá trình sinh sản và thụ tinh của rết không cần đến hoạt động giao phối. Con đực chỉ đơn giản tạo ra một bao tinh rồi để cho con cái tự nhặt lấy. Trong một số loài rết, bao tinh dược đặt trong một túi lưới và con đực thực hiện một điệu nhảy mang tính ve vãn nhằm thuyết phục con cái tiếp nhận bao tinh của mình. Đối với một số loài khác, các con đực tạo ra bao tinh rồi bỏ đi, để cho các con cái tự tìm lấy. Ở các khu vực ôn đới, thời gian sinh sản của rết diễn ra vào mùa xuân và hè tuy nhiên ở các khu vực cận nhiệt và ôn đới dường như các loài rết không có chu trình sinh sản theo mùa. Đồng thời, một vài loài rết là loài sinh sản đơn tính. Đối với các bộ Lithobiomorpha và Scutigeromorpha, rết cái đào một cái hố nhỏ, đẻ trứng vào đó rồi lấp lại và bỏ đi. Số lượng trứng dao động từ 10-50 quả. Thời gian "ấp" trứng kéo dài tùy theo loài, có thể từ 1 tháng tới vài tháng. Tuổi trưởng thành sinh dục cũng không giống nhau,ví dụ như loài "S. coleoptera" cần đến 3 năm để trưởng thành sinh dục, trong khi đó bộ Lithiobiomorpha trong điều kiện thích hợp chỉ cần 1 năm. So với côn trùng,rết sống khá thọ,ví dụ như "Lithobius forficatus" có thể sống đến 5 hay 6 năm.Do số trứng đẻ ra ít, thời gian ấp nở và thời gian trưởng thành sinh dục kéo dài mà nhiều ý kiến cho rằng rết là loài động vật thuộc nhóm chọn lọc K. Rết cái thuộc các bộ Geophilomorpha và Scolopendromorpha tỏ ra quan tâm đến con hơn. Mỗi lứa rết đẻ 15-60 trứng trong một cái tổ ở một thân cây mục hay đất mùn. Sau khi đẻ, rết cái ở lại bên cạnh tổ, canh chừng trứng, liếm sạch trứng để bảo vệ chúng khỏi bị nhiễm nấm; sau khi trứng nở chúng tiếp tục canh chừng lũ con cho đến khi rết con có thể tự lập được - thời gian ở bên cạnh con có thể kéo dài tới 1 năm. Tuy nhiên trong một số trường hợp, rết mẹ có thể ăn trứng hoặc bỏ mặc cho trứng bị nhiễm nấm và chết. Một số loài rết thuộc bộ Scolopendromorpha có tập tính mẫu thực, tức là rết mẹ tự nguyện để cho lũ con mới sinh ăn thịt mình. Vòng đời và tập tính sinh sản của bộ Craterostigmomorpha cho đến nay vẫn chưa được tỏ tường. Tiến hóa. Những hóa thạch cổ nhất của rết có niên đại từ 430 triệu năm về trước, vào khoảng kỷ Silur muộn. Chúng thuộc về Phân ngành Nhiều chân ("Myriapoda"), trong đó bao gồm "Diplopoda", "Symphyla", và "Pauropoda". Hóa thạch cổ xưa nhất của động vật trên đất liền là loài, "Pneumodesmus newmani" thuộc Phân ngành Nhiều chân. Rết cũng thuộc nhóm những động vật chiếm lĩnh đất liền sớm nhất và là nhóm động vật đầu tiên sinh sống trong một ổ sinh thái cơ sở với tư cách là loài săn mồi rộng sinh thái trong lưới thức ăn mùn bã. Hiện nay, số lượng và chủng loại rết rất phong phú và chúng tồn tại ngay ở những khu vực có điều kiện sống khắc nghiệt. Tính trong phân ngành Nhiều chân, rết được cho là lớp đầu tiên phấn nhánh từ tổ tiên chung gần nhất. Hiện có 5 bộ rết: Craterostigmomorpha, Geophilomorpha, Lithobiomorpha, Scolopendromorpha, và Scutigeromorpha. 5 bộ này được gộp chung vào lớp Chân môi ("Chilopoda") dựa theo các đặc tính dẫn xuất chia sẻ sau: Về sau, lớp Chân môi/rết được chia làm hai nhánh: nhánh Notostigmomorpha bao hàm bộ Scutigeromorpha và nhánh Pleurostigmomorpha bao hàm 4 bộ khác. Sự khác biệt chính giữa hai nhánh này là Notostigmomorpha có lỗ thở nằm ở vùng lưng giữa. Trước đây, rết được tin tằng nên được chia thành cá nhóm Anamorpha (bao gồm bộ Lithobiomorpha và Scutigeromorpha) và nhóm Epimorpha (Geophilomorpha và Scolopendromorpha) dựa trên cách thức phát triển và tiến hóa, trong khi đó mối liên hệ với bộ Craterostigmomorpha chưa được rõ ràng. Các nghiên cứu phân loài học gần đây phân tích dựa trên các phân tử tổ hợp và các đặc tính về kiểu hình cho thấy kiểu phân loại trước đó dường như đúng hơn cả. Nhóm Epimorpha vẫn được sử dụng với tư cách là một đơn ngành nằm trong nhóm Pleurostigmomorpha, nhưng Anamorpha là cận ngành. Các loài rết thuộc bộ Geophilomorpha được sử dụng như và ví dụ về áp lực tiến hóa; tức là quá trình tiến hóa của một đặc tính - ở đây là số đốt của các thành viên trong bộ Geophilomorpha - chịu sức ép bởi phương thức phát triển. Các loài thuộc bộ này có số đốt khác nhau, nhưng, giống như các loài rết khác, số đốt và số cặp chân luôn là lẻ; cụ thể số đốt dao động trong khoảng 27-191 nhưng luôn là số lẻ.
1
null
Đá Én Đất là một rạn san hô thuộc cụm Nam Yết của quần đảo Trường Sa. Đá này có kích thước lớn nhất cụm, nằm tại cực đông của cụm và cách đá Núi Thị khoảng 7 hải lý (13 km) về phía đông-đông nam. Đá Én Đất là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Trung Quốc đổ bộ lên Én Đất vào tháng 5 năm 1989. Ngày 28 tháng 4 năm 1990, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi công hàm phản đối hành động cho quân chiếm đá Én Đất của phía Trung Quốc.
1
null
Tên người Ê Đê được theo cấu trúc tên trước, họ sau. Nguyên thủy xa xưa, người Ê Đê (Radaya) cũng như nhiều tộc người khác trên thế giới, không có họ riêng. Thông thường họ dùng từ Dam (nghĩa là "Chàng") để đệm cho Nam giới như Dam Săn, Dam Điêt, Dam Bhu, Dam Păr Kuê, Dam Yi, Dam Rông, Dam Jŭ... và Hơbia (nghĩa là "Nàng") để đệm cho Nữ giới như HơBia Blao, HơBia Jŭ, HơBia Drah Hjan. Như hầu hết dân tộc trên thế giới, họ của người Ê Đê cũng hình thành từ sự phân rã các bộ tộc. Ở thời kỳ hiện đại, họ của người Ê Đê có liên quan mật thiết với họ của người J'rai do quá trình gắn bó mật thiết lâu đời của 2 dân tộc này như Niê (Nai, Nay), Buôn Yă, B.Yă (Kpă), Mlô (R'), Êban (Rhlan, Rbăm), Ksơr (Ksor), Êčăm (Rčăm, Rčom), Kbuôr (Puih, Kpuih, Kbor), Adrơ̆ng (Ajrơ̆ng)… Ngày nay, người Ê Đê đã hình thành rất nhiều họ khác nhau, tuy nhiên, có 2 dòng họ chính là Niê và Mlô, cùng nhiều phân họ kép hình thành từ 2 dòng họ này. Người Ê Đê cũng là tộc người duy nhất ở Việt Nam đặt tên theo cấu trúc tên trước, họ sau, có thể là kết quả ảnh hưởng của văn hóa Pháp. Người Ê Đê thường đặt tên theo cấu trúc như sau: Ví dụ như: "H'Maryam Niê", "H'Či Êban". Ví dụ như: "Y-Dam Săn Mlô", "Y-Arol Êčăm," "Y Dam Rông Buôndăp".. Tuy nhiên, ngày nay người Ê Đê chịu ảnh hưởng nhiều từ văn hóa Đạo Tin Lành, nên việc sử dụng tên Thánh đã hoàn toàn chiếm ưu thế so với cách đặt tên theo truyền thống xưa. Các tên Thánh để đặt tên theo tiếng Ê Đê. Ðối với tên Nữ Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ người Ê Đê vẫn duy trì việc đặt tên theo nhân vật trong các tác phẩm sử thi như H'Bia, H'Ñĭ, H'Bhĭ, Y-Dam Săn, Y-Dam Yi, Y-Dam Rông...
1
null
Viêm loét dạ dày – tá tràng là viêm loét lớp bên trong của dạ dày, phần đầu tiên của ruột non, hoặc đôi khi là dưới thực quản. Đặc điểm của bệnh là tùy theo các vị trí của viêm và loét khác nhau mà có các tên gọi là viêm dạ dày (đau dạ dày, đau bao tử), viêm hang vị, viêm tâm vị, viêm bờ cong nhỏ hoặc loét bờ cong nhỏ, loét hang vị, loét tiền môn vị, viêm loét tá tràng (hành tá tràng) hoặc viêm cả dạ dày và hành tá tràng. Nguyên nhân. Thuốc. Có ba loại thuốc chủ yếu dễ gây ra tổn thương cho niêm mạc dạ dày, đó là: nhóm axit acetylsalicylic (ví dụ như Aspirin); hai là các loại thuốc chống viêm, chữa khớp; ba là thuốc hormone như sterol. Vì vậy nên hạn chế tránh dùng những loại thuốc này. Nếu cần thiết phải dùng thì nên khống chế liều lượng và liệu trình, tốt nhất là uống sau khi ăn. Helicobacter pylori. Vi khuẩn Helicobacter pylori và do tình trạng tăng tiết acid: Lây nhiễm trực khuẩn môn vị là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra viêm loét đường ruột. Đây là loại xoắn khuẩn, sống trên lớp nhày niêm mạc dạ dày và gây ra bệnh này. Trong số những người bị viêm loét dạ dày thì tỉ lệ do vi khuẩn này gây ra tới 70 – 90%. Vi khuẩn thường lây truyền qua đồ đựng thực phẩm, bàn chải đánh răng và nụ hôn. Ăn thực phẩm không sạch cũng là một trong những nguyên nhân lây nhiễm vi khuẩn này. Yếu tố tâm lý. Căng thẳng kéo dài: Trạng thái căng thẳng, buồn phiền, tức giận sẽ nhanh chóng được khuếch tán tới các cơ quan trong cơ thể, ảnh hưởng đến hệ thần kinh thực vật gây mất cân bằng cho chức năng dạ dày, đường ruột; acid hydrochloric và pepsin tăng tiết khiến cho huyết quản dạ dày, môn vị co thắt, tầng bảo vệ niêm mạc dạ dày bị thương tổn, hình thành bệnh viêm loét dạ dày. Người bệnh thường bị đau khi công việc căng thẳng, lo lắng nhiều, buồn rầu, tức giận hoặc sợ hãi. Phòng ngừa. Ngoài việc khắc phục những nguyên nhân trên còn cần: Điều trị. Điều trị nội khoa. Nhóm thuốc kháng acid: Là các thuốc có chứa nhôm hoặc calci, magnesi hydroxit, có tác dụng trung hòa acid không ảnh hưởng đến bài tiết dịch vị cũng như pepsin, 1-3 h sau bữa ăn và đi ngủ Nhóm thuốc trung hòa acid: Giúp trung hòa acid dạ dày, tăng pH dạ dày, hành tá tràng; ức chế phân giải protein của pepsin Một số loại thuốc gồm: Nhóm thuốc bảo vệ niêm mạc dạ dày: Thuốc kháng sinh diệt H.pylori Điều trị ngoại khoa. Rất hạn chế, chỉ chỉ định phẫu thuật khi :
1
null