text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Vũ Văn Mật (; 1493-1571) là em của Vũ Văn Uyên, vị chúa Bầu thứ hai của họ Vũ ở Tuyên Quang.
Nối nghiệp huynh trưởng.
Sau khi nối quyền của anh là Vũ Văn Uyên, ông tự xưng là Gia quốc công, cho dời căn cứ từ thành Nghị Lang xây thành đắp lũy trên gò Bầu. Từ đó, nhân dân thường gọi ông là "Chúa Bầu" hoặc "Vua Bầu". Các đời sau hùng cứ một vùng ở thành Bầu đều được gọi chung là chúa Bầu. Các thành mà ông xây dựng gồm thành Nghị Lang ở Lương Sơn - Lục Yên; thành Cát Tường ở Khánh Vân - Lục Yên; thành Bắc Pha ở xã Đà Dương - Lục Yên; thành Bình Ca ở Hàm Yên (Tuyên Quang); thành Việt Tĩnh ở Diên Gia - Châu Thu (Lục Yên - Yên Bình - Yên Bái) về sau đều được gọi chung là thành Bầu. Sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn ghi: thời Lê Chiêu Tông, Mạc Đăng Dung nổi lên lật đổ nhà Lê, quân của Vũ Văn Mật đóng làm 11 doanh: "Huyện Phù Yên có doanh Phù Yên, châu Thu Vật có doanh Yên Thắng, châu Lục Yên có doanh An Bắc, châu Vị Xuyên có các doanh Bình Di, Bình Man, Trần Uy, Yên Biên, và Nam Đương, châu Đại Man có doanh Nghi, châu Bảo Lạc có doanh Bắc Kiệm và Trung Mang", cùng tiếp sức với vua Lê đánh Đăng Dung.
Vũ Văn Mật lấy Đại Đồng làm trung tâm xây thành đắp lũy, chiêu tập những người lưu vong trở về xây dựng Đại Đồng thành một nơi trù mật, đông đúc. Tương truyền thành Cát Tường ở xã Vân Khánh, huyện Lục Yên là thành của ông. Lê Anh Tông sai ông cùng các tướng trấn nơi khác sửa đường sá từ Thiên Quan tới Hưng Hóa, Tuyên Quang để vận tải lương để tiếp tế cho chiến trường chống nhà Mạc.
Vũ Văn Mật từng mang quân xuống đánh phá các phủ Đoan Hùng, Đà Dương, Lâm Thao thuộc Sơn Tây, các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ thuộc Thái Nguyên và Mai Châu thuộc Hưng Hóa. Nhưng sau đó quân nhà Mạc tiến đến phản công chiếm lại. Vũ Văn Mật thua chạy về giữ Đại Đồng.
Sau khi Vũ Văn Mật mất, con là Vũ Công Kỷ lên thay, được phong là Nhân Quốc Công. Năm 1573, Trịnh Tùng nắm binh quyền ở Nam Triều phong Vũ Công Kỷ làm hữu tướng, chúa Vũ Công Kỷ nhiều lần đem quân đánh nhà Mạc lập được công lớn.
Hiện đền Phúc Khánh (Là một đền thờ khá lớn được nhà nước công nhận) tại thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên - Tỉnh Lào Cai đang thờ "Chúa Bầu", Vũ Văn Mật.
| 1 | null |
Cuộc thập tự chinh của trẻ em (Tiếng Đức: Kinderkreuzzug, Tiếng Pháp: Croisade des enfants, Tiếng Anh: Children's Crusade), là một cuộc thập tự chinh của trẻ em Công giáo Châu Âu tiến đến đất thánh Jerusalem để cảm hoá người Hồi giáo và cải đạo họ sang Cơ đốc giáo một cách hoà bình, giành lại vùng đất thánh này, câu chuyện trên diễn ra vào năm 1212.
Mong muốn của cuộc thập tự chinh này là lập ra Vương quốc Latin thứ 2 ở đất Thánh Jerusalem. Những đoàn binh trẻ em gồm 2 nhóm, trong đó Nicholas của Cologne dẫn đầu nhóm trẻ em Đức, còn Stephen của Cloyes dẫn đầu nhóm trẻ ở miền Bắc nước Pháp. Câu chuyện truyền thống của sự kiện này có thể được kết hợp từ một số sự kiện thực tế và cả thần thoại. Hai lãnh đạo của phong trào chính là 2 cậu bé người Pháp và Đức, với mong muốn chuyển đổi một cách hoà bình người Hồi giáo ở Đất thánh sang Cơ đốc giáo, các nhóm trẻ em đã diễu hành đến Bán đảo Ý và bị một số nhà buôn lừa bán làm nô lệ ở Tunis.
Một nghiên cứu được công bố vào năm 1977, nói về sự nghi ngờ tính xác thực của câu chuyện. Các sử gia đều tin rằng không có (hoặc không phải hoàn toàn) đội quân là trẻ em. Câu chuyện qua thời gian có nhiều biến thể và phần lớn là đáng nghi vấn.
Nguồn gốc.
Câu chuyện truyền thống.
Các biến thể lâu đời của câu chuyện Thập tự chinh của trẻ em có nội dung tương tự nhau ở khắp châu Âu. Một cậu bé bắt đầu rao giảng ở Pháp hoặc Đức, câu ấy kể rằng: Chúa Giêsu đã đến thăm cậu, người đã hướng dẫn cậu lãnh đạo một cuộc Thập tự chinh để chuyển đổi người Hồi giáo sang Cơ đốc giáo một cách hoà bình. Thông qua những hành động và phép lạ, cậu bé đã tập hợp được 30.000 trẻ em ủng hộ cho cuộc thập tự của mình.
Cậu bé dẫn những đứa trẻ dưới trướng của mình về phía Nam để đến Địa Trung Hải, với niềm tin rằng biển sẽ tách ra khi họ đến và đoàn quân trẻ em có thể đi thẳng đến Jerusalem. Điều này đã không xảy ra. Những đứa trẻ được bán cho hai thương gia (Hugh Sắt và William của Posqueres). Sau đó, những đứa trẻ đã được đưa đến Tunisia, nơi bọn trẻ bị các thương nhân bán làm nô lệ hoặc sẽ chết trong một vụ đắm tàu gần đảo San Pietro ngoài khơi Sardinia trong một cơn gió lớn.
Những nghiên cứu sau này.
Theo các nhà nghiên cứu gần đây, dường như đã thực sự có hai cuộc di chuyển của con người (ở mọi lứa tuổi) vào năm 1212 từ Đức và Pháp. Những điểm tương đồng của cả hai đã cho phép các nhà biên niên sử sau này kết hợp và bổ sung các câu chuyện.
Câu chuyền về Nicholas của Cologne.
Trong phong trào đầu tiên, Nicholas, một cậu bé chăn cừu đến từ Rhineland, Đức, đã cố gắng dẫn một nhóm băng qua dãy Alps để đến Ý vào đầu mùa xuân năm 1212. Nicholas nói rằng biển sẽ khô cạn trước mắt họ và cho phép những người đi theo cậu ta đến Thánh địa. Thay vì phải chống lại người Saracen khi đến Thánh địa, cậu ta nói rằng các vương quốc Hồi giáo sẽ bị đánh bại khi người dân của họ chuyển sang Công giáo. Các môn đệ của cậu bé đã đi rao giảng lời kêu gọi "Thập tự chinh" trên khắp các vùng đất của Đế chế La Mã Thần thánh, và họ tập trung đông đảo ở Cologne sau một vài tuần. Chia thành hai nhóm, đám đông đi những con đường khác nhau qua Thụy Sĩ. Một số người đã chết trong suốt hành trình, trong đó có một số người khác bỏ cuộc và quay trở về nhà của họ. Khoảng 7.000 người đã đến Genoa vào cuối tháng 08. Họ lập tức hành quân đến bến cảng, mong đợi biển cả sẽ tách ra trước mặt họ; khi diễn biến không giống như những lời rao giảng, có nhiều người trở nên thất vọng cay đắng. Một số cáo buộc Nicholas đã nói dối họ, trong khi những người khác cầu nguyện để chờ Chúa thay đổi ý định.
Các nhà chức trách Cộng hòa Genova đã rất ấn tượng với những cậu bé dũng cảm, và họ đã trao quyền công dân cho những người muốn định cư tại thành phố này. Hầu hết các nhóm thập tự chinh trẻ em đã đồng ý ở lại thành phố. Nicholas đã từ chối đặc ân này, và đi đến Pisa, toán người này tiếp tục bị hao hục trên chuyến hành trình. Tại Pisa, hai con tàu hướng đến Palestine đã đồng ý đưa một số trẻ em đi cùng, những người có lẽ đã đến được Đất Thánh. Thay vào đó, Nicholas và một số tín đồ trung thành tiếp tục đến Lãnh địa Giáo hoàng, nơi họ gặp Giáo hoàng Innôcentê III. Những người còn lại khởi hành đến Đức sau khi Đức Thánh Cha khuyên họ hãy sống tốt và trở về nhà với gia đình của mình. Nicholas đã không sống sót trong lần thử thứ hai băng qua dãy Alps; cha của Nicholas đã bị bắt và bị treo cổ dưới áp lực và giận dữ của những gia đình mất người thân trong cuộc hành trình.
Một số thành viên tận tụy nhất của cuộc Thập tự chinh trẻ em sau đó được cho là đã lưu lạc đến Ancona và Brindisi; nhưng không có ai trong số họ được biết là đã đến được Thánh địa.
Câu chuyện về Stephen ở Cloyes.
Phong trào thứ hai được dẫn đầu bởi một cậu bé chăn cừu người Pháp 12 tuổi tên là Stephen (Étienne) ở Cloyes, cậu bé nói rằng vào tháng 06, cậu đã gửi bức thư của Chúa Giê-su cho vua nước Pháp. Nhiều thiếu niên khoảng tuổi của cậu đã bị thu hút, hầu hết đều tự nhận mình sở hữu những món quà đặc biệt của Chúa và tự cho mình là những người có phép lạ. Thu hút hơn 30.000 người lớn và trẻ em đi theo, cậu bé đến Saint-Denis, nơi mà cậu được cho là đã thực hiện một số hành động kỳ diệu, mang tính siêu linh. Theo lệnh của Vua Philip II, được cố vấn bởi Đại học Paris, đám đông được khuyên là hãy trở về nhà. Bản thân nhà vua tỏ ra không mấy ấn tượng, đặc biệt là vì đám đông chỉ được dẫn dắt bởi một đứa trẻ. Tuy nhiên, Stephen không bị can ngăn và cậu bé bắt đầu rao giảng tại một tu viện gần đó. Từ Saint-Denis, Stephen đi vòng quanh nước Pháp, truyền bá thông điệp của mình. Mặc dù Giáo hội còn nghi ngờ, nhưng nhiều người lớn đã rất ấn tượng trước lời rao giảng của cậu bé. Rất ít trong số những người ban đầu tham gia cùng Stephen; người ta ước tính rằng chỉ còn lại chưa đầy một nửa trong số 30.000 ban đầu, một con số đang thu hẹp nhanh chóng, thay vì tăng lên như dự đoán.
Vào cuối tháng 06/1212, Stephen dẫn đội Thập tự chinh phần lớn là trẻ vị thành niên của mình từ Vendôme đến Marseille. Họ sống sót bằng cách đi xin ăn trong suốt hành trình, trong khi phần lớn dường như đã chán nản trước sự khó khăn của cuộc hành trình này và trở về với gia đình của họ.
Góc nhìn nghiên cứu lịch sử.
Nguồn.
Theo Peter Raedts, giáo sư Lịch sử Trung cổ tại Đại học Radboud Nijmegen, có khoảng 50 nguồn từ thời kỳ này nói về cuộc thập tự chinh, dài từ vài câu đến nửa trang giấy. Raedts phân loại các nguồn thành 3 loại, tùy thuộc vào thời điểm chúng được viết ra:
Raedts không coi các nguồn sau năm 1250 là có đủ yếu tố cấu thành một câu chuyện có thật, và trong số các nguồn trước năm 1250, ông chỉ công nhận khoảng 20 câu chuyện là có thật. Chỉ có những câu chuyện sau này mới nhắc đến thuật ngữ "cuộc thập tự chinh dành cho trẻ em", được viết bởi các tác giả như Vincent của Beauvais, Roger Bacon, Thomas của Cantimpré, Matthew Paris và nhiều người khác.
Nghiên cứu.
Trước nghiên cứu của Raedts vào năm 1977, chỉ có một số ấn phẩm lịch sử nghiên cứu về Cuộc Thập tự chinh của Trẻ em. Sớm nhất là của G. de Janssens (1891) và Reinhold Röhricht (1876). Họ đã phân tích các nguồn nhưng không phân tích câu chuyện. Theo Raedts, nhà trung cổ học người Mỹ Dana Carleton Munro (1913–1914), đã cung cấp những phân tích tốt nhất về các nguồn cho đến nay và là người đầu tiên đưa ra một bản tường thuật một cách thuyết phục về cuộc Thập tự chinh mà không bàn đến những huyền thoại. Sau đó, J. E. Hansbery (1938–1939) đã công bố một bản đính chính về tác phẩm của Munro, nhưng nó đã bị đánh giá thấp vì dựa trên một nguồn không đáng tin cậy. Nhà tâm thần học người Đức Justus Hecker (1865) đã đưa ra một cách giải thích nguồn gốc về cuộc thập tự chinh, nhưng đó là một cuộc luận chiến về "chủ nghĩa cảm tính tôn giáo bệnh hoạn" và cũng bị xem là không đáng tin cậy.
Ý nghĩa.
Bi kịch đau lòng này trở thành truyện dân gian truyền lại tới ngày nay: Người thổi sáo kì dị (The Pied Piper). Đó là câu chuyện về những tội lỗi đáng lên án, câu chuyện đen tối về một thành phố nơi có những đứa trẻ đang sống hạnh phúc đã phải mất mạng vì những điều phi lý vì "nhiều người nghĩ rằng sự việc xảy ra không phải do họ thiếu hiểu biết mà do chúa đã chỉ dẫn họ làm thế".
Trong nghệ thuật.
Nhiều tác phẩm nghệ thuật đề cập đến cuộc Thập tự chinh của trẻ em, các tác phẩm lấy bối cảnh thời Trung cổ và chủ yếu tập trung vào việc kể lại các sự kiện. Đối với các mục đích sử dụng khác, hãy xem "Cuộc thập tự chinh của trẻ em (định hướng)".
Các tác phẩm nói về cuộc Thập tự chinh trẻ em.
Các tác phẩm nghệ thuật nói về Cuộc Thập tự chinh trẻ em khá là phong phú về thể loại và số lượng, cho nên dưới đây chỉ là một số tiêu biểu:
| 1 | null |
Blohm & Voss BV 138 "Seedrache" (Rồng biển, tên thân mật là "Der Fliegende Holzschuh" ("guốc bay", do hình dạng khung vỏ nhìn từ hai bên) là một loại tàu bay của Đức trong Chiến tranh thế giới II, nó là loại máy bay chuyên thực hiện các nhiệm vụ trinh sát tầm xa trên biển.
| 1 | null |
Blohm & Voss BV 222 "Wiking" (tiếng Đức: "Viking") là một loại tàu bay của Đức trong Chiến tranh thế giới II. Ban đầu nó được thiết kế làm máy bay vận tải thương mại, và chỉ được sản xuất với số lượng nhỏ. Đây là thuyền bay lớn nhất và máy bay lớn nhất được đưa vào hoạt động trong chiến tranh.
| 1 | null |
Vụ ám sát Tổng thống James Abram Garfield là một sự kiện gây rúng động dư luận Mỹ thời bấy giờ, diễn ra vào lúc 9 giờ 30 phút sáng, thứ 7, ngày 02 tháng 07 năm 1881, tại nhà ga đường sắt Baltimore và Potomac ở Washington, D.C. Vụ ám sát được thực hiện bởi Charles J. Guiteau, một người bị hoang tưởng về chính trị. Kẻ thủ ác đã bị kết tội giết người và bị tuyên án tử hình bằng hình thức treo cổ sau đó 1 năm. Tổng thống James A. Garfield bị thương nghiêm trọng sau vụ ám sát này, và ông đã qua đời 79 ngày sau đó vào ngày 19 tháng 09 năm 1881 tại Elberon, New Jersey. Ông là vị Tổng thống Mỹ bị ám sát thứ hai, trước đó là vụ ám sát Tổng thống Abraham Lincoln, sau cuộc Nội chiến (đây là những cuộc ám sát dẫn đến cái chết của Tổng thống), nếu tính cả những vụ ám sát hụt thì đây là vụ ám sát thứ 3 trước đó cần phải kể đến vụ ám sát Tổng thống Andrew Jackson. Trong suốt thời gian Garfield điều trị vết thương, lúc ấy là mùa hè, nên trời rất oi bức... Nhà thiên văn học và nhà toán học nổi tiếng thế giới Simon Newcomb đã lắp ráp chiếc máy điều hoà đầu tiên trên thế giới để giữ cho ngài Tổng thống được mát mẻ trong cái nóng khô rát.
James Abram Garfield là vị tổng thống thứ 20 trong lịch sử Hoa Kỳ. Chỉ 200 ngày sau khi ông nhậm chức, Garfield bị ám sát. Tuy tại vị với một thời gian khá ngắn, nhưng ông là một nhân vật quan trọng trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ. Nhưng ngày nay ông là vị Tổng thống bị chính người Mỹ lãng quên nhanh nhất.
Nguyên nhân của vụ ám sát.
Một luật sư bị tâm thần tên là Charles J. Guiteau, tức giận vì ngài Tổng thống Garfield không cho hắn ta làm lãnh sự Hoa Kỳ tại Paris, cho nên tìm cách ám sát Tổng thống, hắn còn nói rằng nhiều lần Thiên Chúa đã mách bảo hắn ám sát Tổng thống, vì khi loại bỏ Garfield thì mọi việc sẽ được giải quyết.
Diễn biến.
Vào buổi sáng ngày 02.7.1881, Tổng thống Garfield trên đường đến họp lớp thời đại học của ông tại trường Williams College, trong buổi họp mặt sẽ có một bài phát biểu của ông. Ông đi cùng với: James G. Blaine, Robert Todd Lincoln (con của Tổng thống Abraham Lincoln lúc đó đang làm Bộ trưởng Chiến tranh) và hai con trai của ông là James và Harry.
Tổng thống đang đi đến ga xe lửa số 6 của tuyến đường sắt Baltimore - Potomac ở Washington,D.C vào lúc 9:30 sáng, ông đã bị bắn hai lần từ phía sau, một lần trên cánh tay và một lần ở phía sau, bởi tên luật sư tâm thần Charles J. Guiteau. Tổng thống bị bắn bởi một khẩu súng lục cỡ nòng 0,44 Bulldog Webley.
Kết quả.
Tuy bị bắn và trong người có hai viên đạn, nhưng Tổng thống Garfield chỉ bị thương, gần 20 bác sĩ giỏi thời bấy giờ được điều động đến để tìm cách lấy viên đạn ra. Các bác sĩ phải mất tới 80 ngày nỗ lực để loại bỏ những viên đạn. Bác sĩ Willard Bliss đặt một đầu dò vào vết thương tạo đường dẫn. Sau đó, vết thương trở nên tồi tệ hơn vì ông đút một ngón tay chưa rửa vào đấy, dẫn đến việc nhiễm trùng. Một bác sĩ khác đưa cả cổ tay vào sâu bên trong làm thủng gan. Bên cạnh đó 16 bác sĩ khác nhúng tay vào và chọc vết thương từ một lỗ thủng 7 cm thành một vết nhiễm trùng 50 cm.
Tổng thống sống trong lay lắt trong sự đau đớn quằn quại suốt mùa hè. Cuối cùng, ông ra đi vào ngày 14.9.1881. Kết quả khám nghiệm tử thi cho biết viên đạn được bắn vào một vị trí không hề đe doạ đến tính mạng, ông qua đời do bị nhiễm trùng nặng. Các báo thời đó bình luận rằng: nếu giá như cứ để vậy có lẽ Tổng thống vẫn còn sống...
Tên ám sát Tổng thống bị đưa ra toà xét xử, hắn cho rằng mình chỉ bắn Tổng thống chứ không giết ông, chính các bác sĩ mới là người làm điều đó... Nhưng hắn đã bị treo cổ sau đó vì tội lỗi của mình.
Những phát minh sau vụ ám sát.
Những nỗ lực của Bell và Newcomb đã thút đẩy khoa học công nghệ phát triển. Nhưng họ không đủ khả năng để cứu Tổng thống Garfield.
| 1 | null |
Cá dao châu Phi (danh pháp hai phần: Xenomystus nigri) là một loài cá trong chi Xenomystus của họ Notopteridae.
Mô tả.
Loài cá này sinh sống ở các lưu vực sông ven biển ở Sierra Leone, Liberia, Togo, Bénin và Cameroon cũng như ở các lưu vực Tchad, sông Nin, sông Congo và sông Niger. Con trưởng thành dài 30 cm.
| 1 | null |
Trong lý thuyết đồ thị, một lát cắt là một cách phân chia tập hợp các đỉnh của một đồ thị thành hai tập hợp con không giao nhau. Tập hợp cắt của lát cắt là tập hợp các cạnh có hai đầu nằm ở hai tập hợp con khác nhau. Một cạnh của đồ thị là bị cắt nếu nó nằm trong tập hợp cắt.
Trong một đồ thị vô hướng không trọng số, "kích thước" của một lát cắt chính là số cạnh bị cắt. Trong đồ thị có trọng số, "kích thước" hay "trọng số" của lát cắt là tổng trọng số các cạnh bị cắt.
Trong một đồ thị luồng, một lát cắt s-t là một lát cắt trong đó đỉnh "phát" và đỉnh "thu" nằm ở hai tập hợp con khác nhau, và "tập hợp cắt" chỉ gồm các cung từ tập hợp con chứa đỉnh phát tới tập hợp con chứa đỉnh thu. "Khả năng thông qua" của một lát cắt s-t được định nghĩa là tổng khả năng thông qua của các cung trong "tập hợp cắt".
Khái niệm "lát cắt" của một đồ thị cũng được dùng để chỉ "tập hợp cắt" thay vì phân chia của tập hợp đỉnh.
Lát cắt nhỏ nhất.
Một lát cắt là "nhỏ nhất" nếu kích thước của nó không lớn hơn kích thước bất kì lát cắt nào khác. Ví dụ bên phải là một lát cắt nhỏ nhất: kích thước của nó là 2, và không có lát cắt nào có kích thước 1 vì đồ thị không có cầu.
Định lý luồng cực đại lát cắt cực tiểu chứng minh rằng luồng cực đại của một đồ thị luồng đúng bằng tổng khả năng thông qua của lát cắt nhỏ nhất chia cắt đỉnh phát và đỉnh thu. Có nhiều thuật toán thời gian đa thức để giải bài toán tìm luồng cực đại và lát cắt nhỏ nhất, chẳng hạn như thuật toán Edmonds-Karp.
Lát cắt lớn nhất.
Một lát cắt là "lớn nhất" nếu kích thước của nó không nhỏ hơn kích thước bất kì lát cắt nào khác. Ví dụ bên phải là một lát cắt lớn nhất: kích thước của nó là 5, và không có lát cắt nào có kích thước bằng |"E"| vì đồ thị này không phải là đồ thị hai phía (tồn tại chu trình lẻ).
Trong trường hợp tổng quát, việc tìm lát cắt lớn nhất đòi hỏi nhiều thời gian tính toán. Bài toán này là một trong 21 bài toán NP-đầy đủ của Karp. Hơn thế nữa, ngay cả việc tính xấp xỉ lát cắt lớn nhất với tỉ lệ lớn hơn 16/17 cũng là NP-khó.
Ghi chú là hai bài toán tìm lát cắt nhỏ nhất và lớn nhất "không phải" là các bài toán đối ngẫu theo nghĩa của quy hoạch tuyến tính, mặc dù ta thu được bài toán kia từ bài toán này bằng việc đổi hàm mục tiêu từ min sang max. Bài toán tìm luồng cực đại là bài toán đối ngẫu của bài toán tìm lát cắt nhỏ nhất.
Lát cắt thưa nhất.
Bài toán tìm lát cắt thưa nhất yêu cầu chia các đỉnh thành hai phần sao cho tỉ lệ giữa số cạnh bị cắt và số đỉnh trong phần nhỏ hơn là nhỏ nhất có thể. Hàm mục tiêu này để tìm lát cắt có ít cạnh và phân chia tập hợp đỉnh càng đều càng tốt. Bài toán này là NP-khó, và thuật toán xấp xỉ tốt nhất hiện nay của có tỉ lệ xấp xỉ formula_15.
| 1 | null |
Chim nhiệt đới (tên khoa học: Phaethon aethereus) là một trong 3 loài chim thuộc họ Chim nhiệt đới.
Phân bố và môi trường sống.
Chim nhiệt đới sống ở các vùng biển nhiệt đới thuộc Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nhóm dưới loài "P. a. indicus" từng được coi là một loài, phân bố ở Pakistan và tây Ấn Độ. Chúng sinh sản trên các hòn đảo nhiệt đới, mỗi lứa chúng chỉ đẻ một quả trứng trên mặt đất hoặc trên vách đá. Chim nhiệt đới bơi kém, thức ăn của chúng là cá và mực.
Mô tả.
Chim trưởng thành chủ yếu lông màu trắng, dài đến 48 cm.
Đọc thêm.
Snow, D.W. (1965). "The breeding of the Red-billed Tropicbird in the Galapagos Islands." "Condor" 67(3)
| 1 | null |
Bắt cô trói cột (còn có nhiều tên khác) (tên khoa học: Cuculus micropterus) là loài chim thuộc họ Cu cu, phân bố ở châu Á, từ Pakistan, Ấn Độ, Sri Lanka đến Indonesia ở phía nam và Trung Quốc, Liên bang Nga ở phía bắc. Loài chim này thường sống trong rừng, ở độ cao trên 3.600 m. Nó được tím thấy ở tiểu lục địa Ấn Độ và Đông Nam Á.
Tên gọi.
Do nghe tiếng kêu của chim nên nhiều người Việt Nam nghe thành nhiều câu khác nhau: hay "năm trâu sáu cột", "khó khăn khắc phục", "chim cu Ấn Độ", "Bắc quang Bắc mục", "Hà Giang nước độc", "bốn cô chín chục", "chín cô bốn chục", "năm trâu sáu cọc", "trói cô vào cột", "vua quan trói cột", "đuổi Tây đánh Nhật"...
Miêu tả.
Bắt cô trói cột là loài chim cu cỡ trung bình, chim trống và chim mái khá giống nhau. Nửa thân trên có màu trắng còn nửa dưới có nhiều vạch trắng đen. Chim non trong tổ có miệng màu đỏ cam và viền màu vàng.
Khóa phân loài.
Có hai phân loài được công nhận rộng rãi. Phân loài "Cuculus micropterus" sp. "micropterus" phân bố trên lục địa châu Á, còn phân loài "Cuculus micropterus" sp. "concretus" S. Müller, 1845 nhỏ hơn, lông màu tối hơn và phân bố ở bán đảo Mã Lai, Java, Sumatra và Borneo. Những con chim ở vùng Amur có thân lớn hơn và Swinhoe gọi nhóm này (từ Hoa Bắc trở lên) là "Cuculus michieanus" trong khi Walter Norman Koelz miêu tả dạng "fatidicus" ở đông bắc Ấn Độ.
Phân bố và môi trường sống.
Loài chim này phân bố rộng rãi khắp châu Á. Môi trường sống ưa thích của chúng là các khu rừng thường xanh và xanh tạm thời, tuy nhiên chúng cũng sống trong các khu vườn và bụi cây.
Vào mùa đông, một vài quần thể di cư về phương nam, và có những quần thể sinh sản ở nam bán cầu.
Cổ tích Việt Nam.
Sự tích chim năm trâu sáu cột và chim bắt cô trói cột
| 1 | null |
Natri format, HCOONa, là muối natri của axit formic, HCOOH. Nó tồn tại dưới dạng bột màu trắng chảy rữa.
Sử dụng.
Natri format được dùng trong nhiều quy trình in ấn và nhuộm vải. Nó còn được dùng làm chất đệm cho các axit mạnh để tạng độ pH, và là một chất phụ gia thực phẩm (E237).
Điều chế.
Natri format có thể được điều chế trong phòng thí nghiệm bằng cách trung hòa axit formic với natri cacbonat. Nó còn có thể được tạo ra khi xử lý clorofom trong dung dịch kiềm.
hay phản ứng giữa natri hydroxide với cloral hiđrat.
Nói chung, phương pháp sau được ưa dùng hơn bởi vì dung dịch CHCl3 loãng làm cho việc tách nó ra khỏi dung dịch natri format, bằng phương pháp kết tinh phân đoạn, dễ dàng hơn so với NaCl.
Trong thương mại, người ta điều chế natri format bằng cách hấp thụ CO dưới áp suất cao trong NaOH rắn ở 160 °C.
Một cách khác là điều chế natri format thông qua phản ứng halofom giữa etanol và natri hypoclorit trong môi trường base.
| 1 | null |
Tu sĩ Phan Sinh là những tu sĩ Công giáo Rôma thuộc các dòng tu do Thánh Phanxicô thành Assisi sáng lập. Dòng tu nổi bật nhất trong nhóm Phan Sinh là Dòng Anh Em Hèn Mọn, thường được gọi đơn giản là "tu sĩ Phan Sinh" hoặc "tu sĩ Phanxicô".
Tổ chức.
Các tu sĩ Phan Sinh có mối liên hệ chung là xuất phát từ linh đạo do Thánh tổ phụ Phanxicô thành Assisi biên soạn, và họ thường gọi mình là Gia đình Phan Sinh. Hiện nay, Gia đình Phan Sinh được phân thành ba nhánh riêng biệt:
| 1 | null |
Đặng Thu Thảo (sinh ngày 15 tháng 2 năm 1991 tại Bạc Liêu) là một hoa hậu, doanh nhân người Việt Nam, nổi danh khi chiến thắng hai cuộc thi sắc đẹp là Hoa khôi Đồng bằng sông Cửu Long 2012 và Hoa hậu Việt Nam 2012. Cô là thí sinh đầu tiên xuất thân từ miền Tây Nam Bộ đăng quang ngôi vị Hoa hậu Việt Nam trong lịch sử của cuộc thi này.
Ngày 22 tháng 11 năm 2014, cô trao lại vương miện Hoa hậu Việt Nam 2014 cho người kế nhiệm là cô Nguyễn Cao Kỳ Duyên, đến từ Nam Định.
Ngày 28 tháng 6 năm 2015, cô tiếp tục trao lại ngôi vị "Hoa khôi Đồng bằng Sông Cửu Long 2015 (nay là Hoa hậu Đồng bằng sông Cửu Long 2015)" cho người kế nhiệm là cô Nguyễn Thị Lệ Nam Em, đến từ Tiền Giang.
Học vấn.
Một thời gian ngắn ngay sau khi đăng quang, đã có nhiều dư luận về Đặng Thu Thảo. Cô bị một số người nghi ngờ khai báo không trung thực về trình độ học vấn là "sinh viên" đại học Tây Đô của mình khi đăng ký dự thi hoa hậu, bạn cùng lớp cho rằng Thu Thảo chưa tham gia kỳ thi tốt nghiệp trung cấp và chưa phải là sinh viên hệ cao đẳng. Tuy nhiên, sau đó, ông Phan Văn Thơm - Hiệu trưởng trường Đại học Tây Đô đưa ra nhiều lý giải và văn bản để chứng minh Thu Thảo đã được trường cho thi đặc cách 2 lần để hoàn thành hệ trung cấp lên "cao đẳng" và việc này không được Ban giám hiệu công khai, nhưng dư luận phát hiện nhiều điểm bất thường xung quanh chuyện đặc cách và các giấy tờ, hồ sơ liên quan mà Ông Thơm cung cấp và phát biểu trên báo chí. Ban tổ chức cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2012 cho biết Thảo đã thi liên thông lên cao đẳng cùng với 25 người khác nên "có thể hiểu lần này không có chuyện đặc cách".
Đời tư.
Năm 2017, Thu Thảo kết hôn cùng với doanh nhân Nguyễn Trung Tín.
| 1 | null |
Thông rụng lá là những cây có quả hình nón trong chi Larix, thuộc họ Thông. Cao từ 20 – 45 m, chúng là cây bản địa tại nhiều nơi thuộc vùng ôn đới của bán cầu bắc, tại các vùng đất thấp ở phương bắc và trên các vùng núi cao ở phương nam. Thông rụng lá là một trong những loài cây mọc nhiều trong những cánh rừng taiga mênh mông ở Nga và Canada.
| 1 | null |
Echinopsis mamillosa là một loài xương rồngbản địa Bolivia.
Cây mọc đơn độc, hân cây hình cầu cao . Thân cây màu xanh lá cây đậm với đường kính lê đến và có 13-17 sườn. Loài này có hai phân loài, "mamillosa" ngắn hơn (thường chỉ cao đến ) với 17 sườn. Phân loài "silvatica" cao hơn và có ít sườn hơn.
Loài này được mô tả khoa học lần đầu vào năm 1970 bởi nhà thực vật học Đức Max Gürke. "E. silvatica" đã được đưa vào trong "E. mamillosa" như phân loài "silvatica" bởi Pierre Braun và E. Esteves Pereira vào năm 1995. Định nghĩa của "Echinopsis" vẫn còn gây tranh cãi; chi này được chấp nhập không phải là chi đơn loài.
| 1 | null |
Sừng là phần cứng nhô ra trên đầu của một số loài động vật móng guốc và côn trùng cánh cứng, được cấu tạo từ một lớp keratin (chất tạo nên tóc, móng tay của con người) mỏng phủ lên một lõi xương (riêng của côn trùng cánh cứng thì được cấu thành từ kitin). Tuy nhiên, sừng của tê giác là loại độc nhất vô nhị bởi chúng không có lõi xương mà chỉ có keratin. Giới khoa học từng bỏ nhiều công sức để giải thích sự khác biệt này.
| 1 | null |
Ngón tay giữa là ngón thứ ba trên bàn tay người, nằm giữa ngón trỏ và ngón áp út (ngón tay đeo nhẫn). Thông thường nó là ngón tay dài nhất.
Ngón tay thối.
Tại các quốc gia phương Tây, việc giơ ra ngón giữa với bàn tay chụm lại, bị coi là một cử chỉ mạ báng. Cử chỉ này thường được dùng để lăng mạ người, hay nhóm mà ngón tay này chỉ vào. Trong tiếng Việt nó được gọi là "ngón tay thối" (). Ở Đức, cử chỉ này có thể bị đưa ra tòa về tội phỉ báng, nhất là khi giơ ngón giữa với cảnh sát.
| 1 | null |
Ngón tay trỏ hay đơn giản là ngón trỏ là ngón tay thứ hai trên bàn tay người, nằm giữa ngón tay cái và ngón tay giữa. Nó có thể coi là ngón tay nhạy bén và khéo léo nhất trên bàn tay mặc dù không phải là ngón dài nhất. Nó ngắn hơn ngón giữa, có thể ngắn hơn hoặc dài hơn ngón áp út. Ngón tay có thể được dùng để chỉ định một vật hay người nào đó.
Giải phẫu học.
Ngón trỏ có ba đốt ngón tay. Nó không chứa bất kỳ cơ nào, nhưng được điều khiển bởi các cơ trên bàn tay bằng các điểm bám của gân vào xương.
Chỉ trỏ.
Chỉ bằng ngón tay trỏ có thể được sử dụng để chỉ hoặc xác định một mục, người, địa điểm hoặc đồ vật.
Khoảng một tuổi, trẻ bắt đầu chỉ để truyền đạt những suy nghĩ tương đối phức tạp, bao gồm sở thích, mong muốn, thông tin và hơn thế nữa. Chỉ tay ở trẻ sơ sinh của con người có thể chứng minh lý thuyết về tâm trí, hoặc khả năng hiểu những gì người khác đang nghĩ. Cử chỉ này có thể là cơ sở cho sự phát triển ngôn ngữ của con người. Các loài linh trưởng không phải người, thiếu khả năng hình thành ý tưởng về những gì người khác đang nghĩ, sử dụng chỉ tay theo những cách ít phức tạp hơn nhiều.Tuy nhiên, những con chó và voi hiểu việc chỉ trỏ này.
Trong một số nền văn hóa, đặc biệt là người Mã Lai và người Java ở Đông Nam Á, việc chỉ tay bằng ngón trỏ bị coi là thô lỗ, do đó ngón cái được dùng để thay thế.
Ngón trỏ trong đạo Hồi.
Trong Hồi giáo, việc giơ ngón trỏ biểu thị "Tawhīd" (تَوْحِيد), biểu thị sự duy nhất không thể phân chia của Thượng đế. Nó được sử dụng để thể hiện sự thống nhất của Thiên Chúa ("không có thần thánh nào ngoài Allah").
Trong tiếng Ả Rập, ngón trỏ hoặc ngón trỏ được gọi là "musabbiḥa" (مُسَبِّحة), chủ yếu được sử dụng với mạo từ xác định: "al-musabbiḥa" (الْمُسَبِّحة). Đôi khi "as-sabbāḥa" (السَّبّاحة) cũng được sử dụng. Động từ Ả Rập سَبَّحَ - có cùng gốc với từ Ả Rập có nghĩa là ngón trỏ - có nghĩa là ca ngợi hoặc tôn vinh Chúa bằng cách nói: "Subḥāna Allāh" (سُبْحانَ الله)
Trong nghệ thuật.
Là một quy ước nghệ thuật, ngón trỏ chỉ vào người xem dưới dạng một mệnh lệnh hoặc lệnh triệu tập. Hai ví dụ nổi tiếng về điều này là áp phích tuyển dụng được sử dụng trong Thế chiến thứ nhất của Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.
Ngón trỏ hướng lên là một dấu hiệu của thẩm quyền giảng dạy. Điều này được thể hiện trong mô tả của Plato trong Trường học Athens của Raphael.
| 1 | null |
Lưu Thiệu () (426–453), tên tự Hưu Viễn (休遠), thụy hiệu là Nguyên Hung (元凶, nghĩa là "đầu sỏ"), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là thái tử của Văn Đế, song sau khi hay tin về việc phụ hoàng định phế truất mình, ông đã tiến hành chính biến và sát hại phụ hoàng rồi đoạt lấy ngôi vị, song sau đó chính ông lại bị đánh bại rồi bị giết chết dưới tay hoàng đệ là Vũ Lăng vương Lưu Tuấn, Lưu Tuấn lên ngôi trở thành Hiếu Vũ Đế.
Làm thái tử.
Năm sinh chính thức của Lưu Thiệu là 426, khi đó cha của ông Lưu Nghĩa Long (Văn Đế) đã là hoàng đế. Tuy nhiên, các sử sách chính thức đã chỉ ra rằng đó không phải là năm sinh thực sự của ông, ông là con trai của cha cùng Hoàng hậu Viên Tề Quy, và khi ông sinh ra thì Lưu Nghĩa Long vẫn đang là Nghi Đô vương dưới quyền trị vì của huynh trưởng là Thiếu Đế. Theo chính sử thì lý do năm sinh của ông bị giả mạo là bởi Lưu Thiệu đã được thụ thai trong giai đoạn Lưu Nghĩa Long đang phải để tang ba năm phụ hoàng Vũ Đế, trong thời gian đó Lưu Nghĩa Long có nghĩa vụ phải kiêng quan hệ nam nữ. Do Vũ Đế qua đời năm 422, nên năm sinh thật sự của Lưu Thiệu là vào một thời điểm nào đó từ năm 423 đến 425. Lưu Thiệu là con trai cả của Văn Đế.
Các ghi chép chính thức cũng nói về một câu chuyện khác, đó là khi Lưu Thiệu chào đời, Viên Hoàng hậu đã nhìn người con mới chào đời rồi nói rằng, "tướng mạo của đứa trẻ này thật khác thường, và nó chắc chắn sẽ phá hủy quốc gia và gia đình mình; Ta sẽ không nuôi nó." Sau đó, bà muốn người con trai mới lọt lòng phải chết, song khi Văn Đế hay tin thì liền chạy đến và cứu lấy đứa trẻ. (Sử gia hiện đại Bá Dương nghi ngờ về chi tiết này và cho rằng câu chuyện được bịa đặt sau các hành động của Lưu Thiệu.)
Năm 429, Văn Đế lập Lưu Thiệu làm thái tử. Năm 438, ông lấy con gái của viên quan Ân Thuần (殷淳) đã qua đời trước đó, tên là Ân Ngọc Anh, làm thái tử phi. Khoảng tết năm 440, Thái tử Thiệu được mặc trang phục của người lớn, đồng nghĩa với việc được công nhận là đã trưởng thành. Vào thời điểm này, ông được mô tả là một thanh niên tuấn tú và hiếu học, cũng có tài bắn cung và cưỡi ngựa. Ông thích tiếp nhiều khách ở trong cung của mình, và Văn Đế cung cấp bất kỳ điều gì ông mong muốn. Khoảng thời gian này, Lưu Thiệu cũng bắt đầu duy trì một đội cận vệ lớn để bảo vệ Đông cung.
Mẹ của Lưu Thiệu, Viên Hoàng Hậu, ban đầu được Văn Đế sủng ái. Tuy nhiên, theo thời gian, bà đã để mất lợi thế vào tay Phan thục phi. Một lần, để thử lòng Văn Đế, Viên Hoàng hậu đã lệnh cho Phan thục phi thỉnh cầu Văn Đế ban cho thân thích của mình một khoản phí tổn cao gấp từ sáu đến mười lần so với khoản Văn Đế đã trao cho thân thích của Hoàng hậu trước đây, và Văn Đế đã dễ dàng chấp thuận. Từ thời điểm đó, bà trở nên bực bội với Văn Đế, rồi lâm bệnh trong khi lòng tràn ngập đố kị, song ngay cả khi bị bệnh thì bà vẫn không chịu hòa giải với Văn Đế. Năm 440, Viên Hoàng hậu qua đời, và do đó Lưu Thiệu trở nên bực bội với Phan thục phi và con trai của bà ta là Thủy Hưng vương Lưu Tuân. Lưu Tuân biết được điều này nên đã khéo léo bợ đỡ và nuôi dưỡng mối quan hệ với Lưu Thiệu, và hai anh em do đó đã trở nên cực kỳ thân thiết.
Năm 450, khi Văn Đế muốn tấn công Bắc Ngụy để thu hồi lại các châu ở phía nam Hoàng Hà bị mất trong thời trị vì của Thiếu Đế (Văn Đế từng lấy lại được vào năm 430 song đến năm 431 lại để mất), Lưu Thiệu cùng với các tướng Thẩm Khánh Chi (沈慶之) và Tiêu Tư Thoại (蕭思話), phản đối chiến dịch song Văn Đế không nghe theo. Khi Bắc Ngụy Thái Vũ Đế phản công vào cuối năm và tiến sâu vào lãnh thổ Lưu Tống, đến tận Qua Bộ (瓜部, nay thuộc Nam Kinh, Giang Tô), đối diện với kinh thành Kiến Khang qua Trường Giang. Tuy nhiên, lúc này Thái Vũ Đế đã đề xuất về việc hai hoàng tộc thiết lập hòa bình bằng những mối quan hệ hôn nhân, theo đó một con gái của Văn Đế sẽ kết hôn với một cháu nội của Thái Vũ Đế, và một con gái của Thái Vũ Đế sẽ kết hôn với một con trai của Văn Đế là Vũ Lăng vương Lưu Tuấn (có Hán tự khác với Thủy Hưng vương Lưu Tuân). Lưu Thiệu đã ủng hộ kế hoạch này do khi đó cả hai em trai của ông là Lưu Tuấn và Nam Bình vương Lưu Thước (劉鑠), cũng như thúc phụ Giang Hạ vương Lưu Nghĩa Cung (劉義恭) đều đang bị mắc kẹt trong các thành bị Bắc Ngụy bao vây; tuy nhiên một đại thần cấp cao tên là Giang Đam (江湛) đã phản đối và điều này đã khiến cho Lưu Thiệu trở nên tức giận. Sau buổi thiết triều, Lưu Thiệu lệnh cho binh lính đẩy Giang Đam ngã xuống bậc thang, gần như đã giết chết Giang. Lưu Thiệu cũng đề xuất với Văn Đế rằng nên giết chết Giang Đam và một đại thần cấp cao khác là Từ Đam Chi [徐湛之, con trai hoàng tỉ của Văn Đế là Hội Kê Trưởng công chúa Lưu Hưng Đệ (劉興弟)] vì đã ủng hộ chiến dịch. Tuy nhiên, Văn Đế đã từ chối và nói rằng việc mở chiến dịch là ý của mình và Từ cùng với Giang chỉ đơn thuần là đã không phản đối nó. Từ thời điểm này trở đi, giữa Lưu Thiệu với Giang và Từ đã phát triển một mối thù hận sâu sắc. Do vậy, Giang Đam và Từ Đam Chi tiếp tục phản đối mạnh mẽ hiệp ước hôn nhân, và nó đã không bao giờ được thực hiện.
Năm 451, Lưu Thiệu đã nhúng tay vào cái chết của một hoàng thúc, đó là Bành Thành vương Lưu Nghĩa Khang. Do Lưu Nghĩa Khang là trung tâm của nhiều âm mưu (song ông ta không trực tiếp liên quan) nhằm hạ bệ Văn Đế và đưa ông ta lên ngôi, Văn Đế đã đưa Lưu Nghĩa Khang đi lưu đày. Do quân Bắc Ngụy vẫn còn ở sâu trong lãnh thổ Lưu Tống, Văn Đế lo ngại rằng sẽ tiếp tục xảy ra các âm mưu tương tự, Lưu Thiệu cùng với Vũ Lăng vương Lưu Tuấn và Hà Thượng Chi (何尚之) cũng chủ trương giết chết Lưu Nghĩa Khang. Văn Dế do đó đã cử người đến truyền lệnh buộc Lưu Nghĩa Khang phải tự sát, song vì Lưu Nghĩa Khang từ chối nên ông ta đã bị làm cho chết ngạt.
Chính biến chống lại Văn Đế.
Vào một thời điểm nào đó trước năm 452, Lưu Thiệu và Thủy Hưng vương Lưu Tuân quen biết với nữ vu Nghiêm Đạo Dục (嚴道育), khả năng ma thuật của người này được Đông Dương Hiến công chúa Lưu Anh Nga (劉英娥) hết sức tin tưởng. Do Văn Đế nghiêm khắc với con trai của mình, ông thường xuyên quở trách Lưu Thiệu và Lưu Tuân về những lỗi trong hành vi của họ. Ban đầu, Lưu Thiệu và Lưu Tuân yêu cầu Nghiêm sử dụng ma thuật để cầu xin các thần linh hãy khiến cho Văn Đế không nghe được tin về những lỗi của họ. Sau đó, Lưu Thiệu và Lưu Tuân bắt đầu yêu cầu Nghiêm hãy yểm bùa cho Văn Đế sớm chết, để Lưu Thiệu có thể sớm lên ngôi hoàng đế. Thời điểm này, trong các bức thư trao đổi giữa hai anh em, họ gọi phụ hoàng là "người đó", và gọi thúc phụ Giang Hạ vương Lưu Nghĩa Cung (tức người đang đứng đầu triều đình vào thời điểm đó) là "tên nịnh bợ."
Tuy nhiên, đến năm 452, tin tức về những trò phù thủy của Nghiêm đã bị bại lộ. Hầu gái của Lưu Anh Nga là Vương Anh Vũ (王鸚鵡), là người giúp liên lạc giữa Lưu Thiệu, Lưu Tuân và Nghiêm Đạo Dục, Vương Anh Vũ trước đó đã có quan hệ với một đầy tớ của Lưu Anh Nga tên là Trần Thiên Dữ (陳天與) và người này cũng tham gia vào trò phù thủy, tuy nhiên Vương Anh Vũ sau đó đã trở thành thê thiếp một thuộc hạ của Lưu Tuân tên là Thẩm Hoài Viễn (沈懷遠). Lo ngại rằng Thẩm Hoài Viễn sẽ phát hiện ra mối quan hệ xác thịt giữa mình và Trần Thiên Dữ trước đây, Vương Anh Vũ đã thuyết phục Lưu Thiệu giết chết Trần. Một đầy tớ khác tên là Trần Khánh Quốc (陳慶國), cũng tham gia vào trò phù thủy, hắn ta trở nên sợ hãi vì nghĩ rằng mình cũng sẽ bị giết hại nên đã báo lại sự việc cho Văn Đế. Văn Đế bắt giữ Vương Anh Vũ và tìm thấy thư tín giữa Lưu Tuân và Lưu Thiệu nói về trò phù thủy, và còn tìm thấy một hình nộm được sử dụng cho việc yểm bùa; Văn Đế sau đó cũng hạ lệnh bắt giữ Nghiêm song không thể tìm được người này. Tuy nhiên, Văn Đế đã không nhẫn tâm trừng phạt Lưu Thiệu và Lưu Tuân mà chỉ trách mắng họ.
Đến mùa xuân năm 453, Nghiêm Đạo Dục được Lưu Tuân che giấu tại Kinh Khẩu (京口, nay thuộc Trấn Giang, Giang Tô), sống trong nhà một đày tớ của Lưu Tuân tên là Trương Ngổ (張旿). Lưu Tuân sau đó trở thành thứ sử của Kinh Châu (荊州, nay là Hồ Bắc) với trị sở đặt tại Giang Lăng, và ông ta đưa Nghiêm quay trở lại kinh thành Kiến Khang. Tuy nhiên, vào lúc này, Văn Đế đã nhận được tin rằng Nghiêm đang sống trong nhà của Trương, và đã cho lục soát căn nhà nhà, và khi không tìm thấy Nghiêm (do bà ta đã trở về Kiến Khang cùng với Lưu Tuân), Văn Dế được kể lại rằng Nghiêm đang ở Kiến Khang cùng với Lưu Tuân. Văn Đế cực thịnh nộ, tin rằng Lưu Tuân và Lưu Thiệu vẫn tiếp tục liên quan đến trò ma thuật. Do đó, Văn Đế đã tính đến việc phế truất Lưu Thiệu và buộc Lưu Tuân phải tự sát. Văn Đế đã bí mật thảo luận chuyện này với Từ Đam Chi và Giang Đam cùng Vương Tăng Xước (王僧綽). Cuộc thảo luận trở nên bế tắc trước việc ai sẽ thay thế Thiệu làm thái tử, trong đó Giang Đam ủng hộ anh em đồng hao là Nam Bình vương Lưu Thước còn Từ Đam Chi thì ủng hộ con rể là Tùy vương Lưu Đản (劉誕), và bất chấp việc Vương Tăng Xước đã hối thúc nhanh chóng giải quyết vấn đề, Văn Đế vẫn do dự trong việc lựa chọn Lưu Thước hay Kiến Bình vương Lưu Hoành (劉宏). Trong khi đó, mặc dù việc thảo luận diễn ra trong bí mật, Văn Đế lại đi nói sự việc cho Phan thục nghi, và bà đã nhanh chóng báo tin cho con trai ruột là Lưu Tuấn, Lưu Tuấn sau đó báo cho Lưu Thiệu. Do đó, Lưu Thiệu đã lên kế hoạch chính biến chống lại phụ hoàng.
Ngoài một người tên là Viên Thục (袁淑), tất cả các cộng sự khác đều ủng hộ kế hoạch của Lưu Thiệu. Lưu Thiệu sau đó giả một chiếu chỉ của Văn Đế để cho quân của mình có thể tiến vào cung của vua phụ hoàng, giả vờ rằng đang chống lại một cuộc phản loạn, Lưu Thiệu đồng thời cử một thân tín tên là Trương Siêu Chi (張超之) vào phòng ngủ của Văn Đế để ám sát. Lưu Thiệu cũng ra lệnh giết chết Từ Đam Chi, Giang Đam, Phan thục phi và một số cộng sự khác của Văn Đế. Lưu Tuân nhanh chóng hội quân cùng Lưu Thiệu tại hoàng cung, và hai người này sau đó đã vu cáo rằng Văn Đế bị Từ và Giang sát hại. Lưu Thiệu lên ngôi hoàng đế.
Thời gian trị vì ngắn ngủi.
Mặc dù Lưu Thiệu đã đổ tội sát hại Văn Đế cho Từ và Giang, song sự thật đã sớm bị phơi bày. Do đó, mặc dù phần lớn các bá quan chịu khuất phục do lo sợ song hầu hết họ đều không thực sự trung thành với ông. Ông đã ban cái chết một số người em họ mà mình không ưa.
Lưu Thiệu sau đó đã gửi một mật chỉ để gửi cho Thẩm Khánh Chi, lệnh cho người này phải giết chết Vũ Lăng vương Lưu Tuấn [người đang là thứ sử Giang Châu (江州, nay là Giang Tây và Phúc Kiến). Tuy nhiên, Thẩm Khánh Chi lại trình mật chỉ này cho Lưu Tuấn và chủ trương rằng Lưu Tuấn cần phải nổi dậy để chống lại Lưu Thiệu. Lưu Tuấn đã chấp thuận và ngay sau đó đã hội quân cùng với một hoàng thúc phụ là Nam Tiếu vương Lưu Nghĩa Tuyên (劉義宣, đang là thứ sử Kinh Châu), Tang Chí [臧質, đang là thứ sử Ung Châu (雍州, nay là tây bắc bộ Hồ Bắc và tây nam bộ Hà Nam)), và Tùy vương Lưu Đản (đang là thái thú quận Hội Kê [會稽, nay gần tương ứng với Thiệu Hưng, Chiết Giang)], họ còn chủ trương Lưu Tuấn lên kế vị ngai vàng. Khi hay tin về cuộc nổi loạn, Lưu Thiệu trở nên sợ hãi, và ông đã đặt Kiến Khang trong thiết quân luật, thậm chí còn cho quản thúc tại phủ với các em trai và em họ ở Kiến Khang. Trong khi đó, Lưu Thiệu lập vợ mình là Ân Thái tử phi làm hoàng hậu và phong cho con trai Lưu Vĩ Chi (劉偉之) làm thái tử.
Lưu Thiệu nghi ngờ rằng những bá quan của phụ hoàng sẽ không trung thành với ông, vì thế ông đã cố đối xử tốt với các tướng Lỗ Tú (魯秀) và Vương La Hán (王羅漢), phó thác các việc binh cho họ, trong khi sử dụng một cộng sự lâu năm là Tiêu Bân (蕭斌) làm nhà chiến lược chính và thúc bá của Hoàng hậu là Ân Xung (殷沖) làm người tuyên huấn chính. Tiêu Bân đã đề xuất về việc Lưu Thiệu đích thân dẫn hạm đội của mình đi đánh Lưu Tuấn vì Lưu Tuấn có hạm đội nhỏ hơn và không phù hợp để giao chiến trên Trường Giang, hoặc phòng thủ hẻm núi ở Lương Sơn (梁山, nay thuộc Sào Hồ, An Huy). Tuy nhiên, vì bí mật ủng hộ Lưu Tuấn, Lưu Nghĩa Cung đã để xuất Lưu Thiệu nên ở tại Kiến Khang và phòng thủ thành chống lại quân của Lưu Tuấn, sử dụng sông Tần Hoài (秦淮河, chảy qua phía nam Nam Kinh ngày nay ra Trường Giang) làm tuyến phòng thủ, một chiến lược sẽ khiến cho quân của Lưu Tuấn có thể sử dụng được sức mạnh quân sự một cách hiệu quả trên bộ. Lưu Tuấn do đó đã có thể nhanh chóng tiến về Kiến Khang. Ban đầu, một tướng của Lưu Thiệu là Chiêm Thúc Nhi (詹叔兒) đề xuất rằng ông nên nhanh chóng tiến đánh tướng Liễu Nguyên Cảnh (柳元景) của Lưu Tuấn, song Lưu Thiệu đã không làm theo mà chỉ hạ lệnh tấn công sau khi doanh trại của Lưu Nguyên Cảnh đã được củng cố vững chắc. Tuy nhiên, quân của Lưu Thiệu dưới quyền chỉ huy của Tiêu Bân, nhạc phụ của Thủy Hưng vương Lưu Tuấn là Trữ Đam Chi (褚湛之), Lỗ Tú, và Vương La Hán đã có tiến triển trước quân của Lưu Nguyên Cảnh. Tuy nhiên, Lỗ Tú sau đó đã phá hoại kế hoạch tác chiến khi thổi hiệu lệnh rút lui. Lỗ Tú và Trữ Đam Chi sau đó đã nhân cơ hội để đầu hàng. Lưu Nghĩa Cung ngay sau đó cũng chạy trốn sang quân của Lưu Tuấn, và trong cơn thịnh nộ, Lưu Thiệu đã cho giết chết 12 con trai của Lưu Nghĩa Cung. Lo sợ tình hình trước mắt, song Lưu Thiệu đã không thể nghĩ ra được điều gì khác ngoài việc cúng tế thần linh.
Năm ngày sau đó, Lưu Tuấn đã tiến đến gần Kiến Khang, và vào ngày hôm sau, Lưu Tuấn đã lên ngôi hoàng đế (tức Hiếu Vũ Đế) trong khi các trận chiến vẫn đang tiếp diễn. Ngay sau đó, Lỗ Tú (nay là tướng của Lưu Tuấn) đã vượt qua sông Tần Hoài, quân của Lưu Thiệu đã sụp đổ. Quân của Lưu Tuấn bao vây hoàng cung, và Thủy Hưng vương Lưu Tuấn đã cố thuyết phục Lưu Thiệu rằng họ có thể chạy ra Đông hải, song Lưu Thiệu đã từ chối. Ngay sau đó, hoàng cung thất thủ, và mặc dù Lưu Thiệu trốn trong một cái giếng song vẫn bị phát hiện và bắt giữ. Lưu Tuấn công khai chặt đầu Lưu Thiệu cùng với bốn người con trai của ông. Ân Hoàng hậu và các con gái của Lưu Thiệu bị buộc phải tự sát. Lưu Tuấn cũng đặt thụy hiệu cho Lưu Thiệu là "Nguyên Hung" (元凶), nghĩa đen là "đầu sỏ."
| 1 | null |
"She Wolf (Falling to Pieces)" là một ca khúc của nam DJ/nhà sản xuất âm nhạc người Pháp David Guetta, hợp tác với nữ ca sĩ thu âm người Úc Sia. Ca khúc được chọn làm đĩa đơn thứ bảy trích từ album "Nothing but the Beat", hoặc có thể coi nó như là đĩa đơn đầu tiên của "Nothing but the Beat 2.0", album phát hành lại của "Nothing but the Beat". Ca khúc được phát hành kỹ thuật số vào ngày 21 tháng 8 năm 2012.
Bối cảnh.
Trước khi "She Wolf (Falling to Pieces)" được phát hành vào ngày 21 tháng 8 năm 2012, một EP với hai bản phối khí của Michael Calfan, Sandro Silva và một bản mở rộng được phát hành độc quyền trên Beatport vào ngày 7 tháng 8 năm 2012. Đĩa đơn CD và 12" vinyl của "She Wolf (Falling to Pieces)" được phát hành ở Đức vào ngày 24 tháng 8 năm 2012. Đĩa đơn này được phát hành ở Anh vào ngày 10 tháng 9 năm 2012, cùng ngày phát hành với album "Nothing but the Beat 2.0". Tại đây, ca khúc đã lọt vào bảng xếp hạng UK Singles Chart tại vị trí #8.
| 1 | null |
Sự kiện phun trào núi lửa Pelée được xem là một thảm hoạ phun trào núi lửa tồi tệ nhất thế kỷ XX, đã giết hơn 30.000 người trong vòng chưa đầy 2 phút, thiêu rụi hoàn toàn thành phố Saint-Pierre, Martinique (một thuộc địa của Pháp). Sự việc trên xảy đến do ngọn núi lửa Pelée trên đảo hoạt động mạnh nhưng vì động thái chủ quan của nhà chức trách không báo động và cho di tản dân cư, một đám khí và tro nóng lên đến hàng 1000 °C đã giết chết hầu như toàn bộ cư dân của thành phố chỉ trừ hai người còn sống sót. Sự kiện này đánh dấu thảm họa lớn duy nhất về núi lửa trong lịch sử của nước Pháp và các vùng lãnh thổ hải ngoại của nước này.
Nguyên nhân.
Pelée là một ngọn núi lửa hình nón vẫn còn hoạt động, toạ lạc ở phía bắc hòn đảo Martinique, là một thuộc địa của Pháp tại vùng biển Caribbe. Vào tháng 5 năm 1902, ngọn núi lửa trên đảo Martinique bắt đầu hoạt động mạnh, mọi cư dân Saint-Pierre dưới chân núi đều cảm nhận được sự nguy hiểm của nó.
Cũng trong thời gian này cuộc bầu cử tại Caribe, Martinique cũng đang trở nên gay go. Nhà chức trách trên đảo và đặc biệt là ngài thống đốc Martinique thì lo lắng về cuộc bầu cử hơn là ngọn núi lửa đang hoạt động...
Thống đốc Louis Mouttet sợ rằng sự hoảng loạn sẽ gây hại đến những ứng cử viên của đảng Cấp tiến đang thống trị. Vì vậy ông đã chỉ định cho tổng biên tập tờ báo địa phương nói giảm mức độ nguy hiểm của việc hoạt động mạnh lên bất thường của núi lửa Pelée. Ông dựng những hàng rào tạm thời trên đường để ngăn người dân rời khỏi thành phố. Ông cấm những bức điện đưa tin cảnh báo nguy hiểm, và để làm ra vẻ có thiện chí, ông đến thăm Saintp-Pierre ba ngày trước cuộc bầu cử đẻ chắc rằng mọi thứ đều tốt đẹp.
Phân tích thực tế cho thấy, vụ thảm sát này không đơn thuần là do thiên nhiên mà nó còn có sự vô trách nhiệm của giới chính chức cầm quyền vụ lợi và không biết trách nhiệm của mình trong hoàn cảnh nguy kịch, trong khi đó công dân trong thành phố cũng như trên đảo Martinique đều thấy được, cảm nhận được sự nguy hiểm và cái chết đang đến gần.
Ngài Thống đốc Mouttet nói rằng ông che giấu những cảnh báo về núi lửa vì chúng "có thể tạo ra trạng thái lo sợ và sự bi quan không đáng có". Rõ ràng ông chưa thể hình dung ra được sự khủng khiếp của việc này.
Diễn biến.
Trước khi có sự phun trào mùa hè năm 1902, người dân Caribbe đã từng biết đến các vụ phun trào trước đó trong các năm 1792 và 1851... Trong năm 1900, trước vụ phun trào chính thức 2 năm, người ta đã phát hiện các dấu hiện ngọn núi lửa Pelée đang hoạt động mạnh hơn trước và có nguy cơ phun trào mạnh mẽ trở lại.
Núi lửa Pelée bắt đầu phun hơi lưu huỳnh ở các lỗ thông khí gần núi lửa vào này 23 tháng 4 năm 1902, nhưng đã không được xem trọng. Cũng trong ngày này, ngọn núi lửa đã phun tro về phía Tây và Nam kèm theo những tiếng gầm.
Ngày 25 tháng 4, ngọn núi lửa phun ra một đám may lớn chứa tro và đá, nhưng không có thiệt hại gì nhiều.
Ngày 26 tháng 4, các khu vực xung quanh phủ đầy tro núi lửa vì vụ hoạt động núi lửa trước đó, nhưng các cơ quan công quyền cảm thấy không có lý do gì để phải lo lắng.
Ngày 27 tháng 4, trên đỉnh núi xuất hiện một cái hồ hình nón, chứa đầy nước sôi sùng sục như một cái vạt. Mùi lưu huỳnh bốc ra từ núi lửa bao trùm tên chu vi 6,4 km tính từ núi lửa, gây những hiệu ứng xấu cho người và gia súc.
Vào lúc 11:30 ngày 2 tháng 5, xuất hiện một vụ nổ lớn, động đất kèm theo một cột khói đen, tro và các hạt mịn bọt bao phủ toàn bộ nửa phía bắc của đảo. Vụ nổ vẫn tiếp tục trong 5-6 giờ tiếp theo. Việc này đã làm chính quyền thuộc địa thấy một chút lo lắng, ra quyết định không cho mọi người lên núi. Các đàn gia súc bắt đầu chết vì đói và khát vì nguồn nước và thức ăn của chúng bị nhiễm độc.
Thứ 7 ngày 3 tháng 5, gió thổi đám mây tro bụi về phía bắc, làm giảm bớt tình hình căng thẳng ở Saint-Pierre. Ngày hôm sau việt hoạt động mạnh bất thường của núi lửa làm các hoạt động liên lạc giữa thành phố và các vùng lân cận bị vô hiệu hoá. Cả vùng bị phủ bởi một lớp tro dày đặc như bột mì trắng, một số công dân quyết định sơ tán.
Vào thứ 2 ngày 5 tháng 5, ngọn núi có yên ắng lại một chút, tuy nhiên, vào khoảng 01:00, nước biển đột nhiên rút xuống khoảng 100 mét (330 ft) và sau đó tăng lại đột biến, lũ lụt đã tiến vào một phần của thành phố và một đám mây lớn khói xuất hiện về phía tây núi lửa. Một mảng lớn của miệng núi lửa bị vỡ ra và sụp xuống, đẩy một lượng lớn nước sôi và bùn ra các con sông gây ngập lụt nghiêm trọng, đã chôn vùi 150 nạn nhân dưới 60 mét (200 ft) đến 90 mét (300 ft) bùn. Người dân các nơi trên đảo tháo chạy về thành phố Saint-Pierre, trình trạng càng thêm hoảng loạn khi sự hoạt động mạnh mẽ của núi lửa đã làm mất điện và các dịch vụ thiết yếu khác, thành phố chìn ngập trong bóng đêm và nỗi sợ hãi. Vào ngày hôm sau, vào lúc 2 giờ sáng, những âm thanh lớn phát ra từ trong lòng núi báo hiệu một đợt phun trào sắp diễn ra.
Vào khoảng 4 giờ sáng ngày 7 tháng 5, ngọn núi lửa tăng cường hoạt động, những đám bụi bốc lên, những âm thanh kèm theo những ánh sáng cam đỏ trong đêm. Một số công dân đã rời thành phố đi lánh nạn, nhưng các cư dân nông thôn xung quanh đã đổ về nơi đây để tìm một chỗ an toàn, làm cho dân số thành phố tăng lên đột biến, đến giờ phút này báo chí và chính quyền trên đảo vẫn thông báo là thành phố vẫn an toàn. Chính quyền không cho phép người dân rời bỏ thành phố và họ tìm mọi cách làm điều đó để không làm gián đoạn cuộc bầu cử sắp đến gần. Tối hôm đó núi lửa bỗng dừng gầm rú...
Hậu quả của thảm hoạ.
Khoảng 8 giờ sáng ngày 8 tháng 5 năm 1902, ngọn núi lửa Pelée phun trào, một đám khí và tro nóng hơn 1000 °C rít lên ầm ầm rồi bao trùm cả thành phố với tốc độ gần 100 dặm/giờ, nó san phẳng thành phố và giết chết 30.000 người cùng ngài Thống đốc Louis Mouttet và gia đình ông ta. Quang cảnh thành phố sau trận phun trào không khác gì những tấm ảnh chụp thành phố Hirosima của Nhật sau đợt ném bom nguyên tử của Mỹ năm 1945.
Theo nghiên cứu, các đám tro tàn đang nguội dần đổ xuống thành phố cũng đủ nóng để làm tan chảy thủy tinh và kim loại. Và thứ nó để lại trong thành phố cảng xinh đẹp này là những tàn tích đang âm ỉ cháy. Chỉ duy nhất hai người sống sót. Nghịch lý thay, một trong số đó là tù nhân trong nhà tù ngầm và sẽ bị tử hình vào ngày hôm sau.
Auguste Ciparis là người đàn ông bị kết an tử hình đã sống sót trong vụ phun trào núi lửa, đủ may mắn để được giảm tội. Anh ta có nhiều năm du ngoạn cùng gánh xiếc Barnum & Bailey với bản sao cái xà lim của chính mình hồi trước.
| 1 | null |
Cá sặc vện sông Hằng (danh pháp khoa học: Nandus nandus) là một loài cá thuộc họ Cá sặc vện. Loài này nguyên được Francis Buchanan-Hamilton mô tả dưới danh pháp "Coius nandus" năm 1822.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy trong lưu vực sông Ấn, sông Hằng và nhiều hệ thống sông khác tại Ấn Độ. Các quốc gia ghi nhận sự hiện diện của nó là Ấn Độ, Bangladesh, Nepal, Pakistan. Sự ghi nhận tại Myanmar có lẽ là nhận dạng sai.
Đặc điểm.
Loài cá nước ngọt và nước lợ, dài tới 20 cm. Đẻ tới 300 trứng mỗi tổ.
Môi trường sống.
Cá trưởng thành thường xuyên xuất hiện ở các mương máng, hào rãnh và ruộng ngập nước. Phổ biến trong những tháng mùa hè khi chúng tụ tập từ phần đáy đang khô kiệt của vùng trữ nước, ao hồ tù đọng, ruộng nuôi và những nơi khác. Được tìm thấy phổ biến nhất ở các vùng nước tù đọng hoặc chảy chậm của ao hồ, hồ chứa nước hoặc kênh mương. Thức ăn là côn trùng thủy sinh và cá.
Sử dụng.
Là một loại cá được đánh giá cao và được mua bán làm thực phẩm ở dạng cá tươi sống. Cũng có giá trị trong mua bán cá cảnh.
| 1 | null |
Tàu ngầm Đề án 667BDRM Delfin (tiếng Nga: Проекта 667БДРМ Дельфин - Proyekta 667BDRM Delfin) là loại tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo do Liên Xô chế tạo. Với hệ thống phóng tên lửa D-9R có thể mang 16 tên lửa đạn đạo R-29RM và sau đó là R-29RMU Sineva. NATO gọi loại tàu ngầm này là lớp Delta IV.
Thiết kế.
Đề án 667BDRM là loại tàu ngầm được nâng cấp mạnh tay hơn nữa từ tàu ngầm Đề án 667BDR Kalmar, đây là loại cuối cùng trong dòng tàu ngầm Đề án 667B và cũng là cơ sở để phát triển tiếp các loại tàu ngầm tiên tiến khác. Đề án 667BDRM được phát triển tích hợp với nhiều thành tựu mới trong việc nghiên cứu vũ khí cũng như hệ thống kiểm soát và dò tìm khi đó. Tàu được trang bị một hệ thống thủy âm mới là Skat-VDRM, sử dụng nhiều bộ phận giảm xóc khác nhau, cô lập các bộ phận chuyển động, sử dụng các thiết bị hấp thụ âm thanh và vỏ tàu có thêm một lớp cách âm. Các nghiên cứu để làm giảm tiếng ồn khi hoạt động của loại tàu ngầm này đã được ứng dụng cho tàu ngầm Đề án 941 Akula. Về hình dáng bên ngoài thì nó vẫn giống với các tàu thuộc Đề án 667B khác với lớp vỏ kép cùng các ống phóng tên lửa nhô lên.
Tên lửa được trang bị cho tàu là R-29RM và sau đó tên lửa R-29RMU Sineva mang nhiều đầu đạn đã được phát triển để sử dụng cho loại tàu ngầm này. Không giống như các loại tàu ngầm khác trước đó Đề án 667BDRM có thể phóng tên lửa từ dưới mặt nước ở độ sâu khoảng 55 m và tất cả có thể phóng lên chỉ trong loạt bắn, các đầu đạn của tên lửa có thể kết nối vào hệ thống vệ tinh để bay đến mục tiêu giúp tăng độ chính xác. Tàu có thể sử dụng tất cả các loại ngư lôi 533 mm cũng như cả các tên lửa phóng từ ống phóng ngư lôi. Hệ thống quản lý chiến đấu Omnibus-Bdrm có thể kiểm soát tất cả các hoạt động chiến đấu, xử lý dữ liệu và điều khiển tên lửa cũng như ngư lôi. Hệ thống dẫn đường Shlyuz cũng được trang bị để cải thiện tính chính xác của các tên lửa và có khả năng di chuyển tốt dưới nước cũng như có thể chỉ điểm mục tiêu bằng kính tiềm vọng. Với hệ thống liên lạc thì tàu có hai phao nổi gắn ăng ten có thể sử dụng ở độ sâu rất lớn để phục vụ cho việc phát sóng liên lạc cũng như nhận các thông tin về mục tiêu hay kết nối với hệ thống vệ tinh.
Tên lửa nâng cấp R-29RMU2 Layner mang 12 đầu đạn đã được phát triển và phóng thành công từ Đề án 667BDRM.
Hoạt động.
Có 7 tàu trong lớp này đã được đóng từ năm 1981 đến năm 1990, trong đó có 4 chiếc hiện đang hoạt động hai chiếc đang đại tu và một chiếc chuyển đổi chức năng để dùng cho các mục đích đặc biệt.
Ban đầu tất cả các tàu Đề án 667BDRM đều được biên chế vào cho Hạm đội Phương Bắc và neo tại cảng Olenya Guba. Sau đó các tàu được chuyển sang cảng Yagelnaya.
| 1 | null |
Cá ngừ vây xanh Đại Tây Dương (danh pháp khoa học: Thunnus thynnus) là một loài cá ngừ trong họ Scombridae. Loài này là loài bản địa cả phía tây và đông Đại Tây Dương cũng như Địa Trung Hải. Nó đã tuyệt chủng ở Biển Đen. Cá ngừ vây xanh Đại Tây Dương có mối quan hệ gần với hai loài cá ngừ vây xanh khác cá ngừ vây xanh Thái Bình Dương và cá ngừ vây xanh phương Nam.
Loài cá này có thể đạt trọng lượng hơn . Đây là một loài cá thương mại quan trọng.
| 1 | null |
Cá marlin xanh (danh pháp hai phần: Makaira nigricans) là một loài cá marlin bản địa Đại Tây Dương. Cá marlin xanh ăn một loạt các sinh vật sống gần bề mặt, và là một loài cá thể thao phổ biến. Đây là một loại cá có giá trị thương mại bởi vì thịt có hàm lượng chất béo tương đối cao. Nó là quốc ngư của Thịnh vượng chung Bahamas và có mặt trên huy hiệu nước này.
Cá marlin xanh phân bố khắp vùng nước nhiệt đới và cận nhiệt đới tại Đại Tây Dương. Chúng sinh sống ở vùng nước thoáng cách xa bờ, và săn nhiều loại sinh vật biển, chủ yếu gần bề mặt nước, và thường dùng mỏ của nó thể loại choáng hay bị thương con mồi.
Con cái có thể có khối lượng lên đến bốn lần so với khối lượng của cá đực. Khối lượng tối đa được công bố là 820 kg và chiều dài . Loài này có ít loài săn mồi bắt nó ngoài con người; IUCN hiện đang xem xét nó một loài bị đe dọa do đánh bắt quá mức.
Phân loại và đặt tên.
Cá maclin xanh được đặt trong chi "Makaira". Tên này xuất phát từ tiếng Hy Lạp, "machaira" có nghĩa là "kiếm ngắn", và từ tiếng Latin "machaera", "kiếm". Tên loài ("nigricans") trong tiếng Latin nghĩa là "trở thành màu đen". Loài cá này là một phần của họ Cá buồm (Istiophoridae) và của bộ Cá vược (Perciformes). Thêm vào đó, nó nằm trong phân bộ Xiphioidei và là thành viên của phân lớp Neopterygii. Nó cũng được xếp vào lớp Actinopterygii, gồm các loài cá vây tia, và siêu lớp Osteichthyes, gồm các loài cá xương.
Danh pháp đồng nghĩa.
Danh pháp đồng nghĩa của "Makaira nigricans" là:
Kẻ thù và ký sinh trùng.
Khi trưởng thành, cá maclin xanh có ít kẻ thù ngoài tự nhiên, những sinh vật săn nó chủ yếu là các loài cá mập lớn như cá mập mako vây ngắn và cá mập trắng lớn.
Chúng cũng có vài ký sinh trùng. Những ký sinh trùng này thuộc về các nhóm: Digenea, Didymozoidea, Monogenea, Cestoda (sán dây), Nematoda (giun tròn), Acanthocephala (động vật đầu móc), copepoda, hà, và "Isistius brasiliensis".
Cá ép cũng thường bám vào cá maclin xanh.
| 1 | null |
Cá maclin trắng, tên khoa học Kajikia albidus, là một loài cá thuộc họ Istiophoridae. Loài cá này có màu xanh biển đậm đến nâu sô cô la. Chúng xuất hiện thành từng nhóm nhỏ trong biển. Trọng lượng trung bình 45–65 kg gần bằng cá buồm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Chúng thích khu vực nước trong xanh sâu hơn 100 mét.
Tham khảo.
https://web.archive.org/web/20060819002124/http://www.iccat.int/Documents/SCRS/DetRep/DET_whm.pdf
| 1 | null |
Voi rừng châu Phi (danh pháp hai phần: Loxodonta cyclotis) là một loài voi sống ở trong rừng tìm thấy ở vùng lòng chảo Congo. Nó là loài voi nhỏ nhất trong ba loài voi vẫn còn tồn tại, nhưng vẫn là một trong những loài động vật lớn nhất trên mặt đất. Voi rừng châu Phi và Voi đồng cỏ châu Phi, "L. africana", từng được coi là một loài cho đến khi các nghiên cứu về di truyền chỉ ra rằng chúng tách ra khỏi nhau ước chừng 2–7 triệu năm trước. Từ con số ước chừng khoảng hơn 2 triệu cá thể trước thời kì thuộc địa ở châu Phi, số lượng loài vào năm 2015 ước chừng chỉ còn khoảng 100.000 con, chủ yếu sống trong các khu rừng Gabon. Do có tỷ lệ sinh thấp hơn, Voi rừng châu Phi mất nhiều thời gian hơn để hồi phục từ nạn săn bắt trái phép, khiến số lượng nó giảm 65% từ năm 2002 tới năm 2014. Ước chừng rằng Voi rừng châu Phi có thể tuyệt chủng trong vòng mười năm. Nếu có thể hồi phục, Voi rừng châu Phi sẽ mất gần 1 thế kỷ để ổn định.
| 1 | null |
Dòng Anh Em Hèn Mọn (tiếng Latinh: "Ordo Fratrum Minorum") là một dòng tu Công giáo Rôma, và là nhánh chủ yếu và nổi bật nhất trong nhóm các Dòng Phanxicô. Dòng Anh Em Hèn Mọn tuân giữ và kế thừa đầy đủ nhất "Quy luật của Thánh Phanxicô thành Assisi" khi sáng lập dòng.
Lịch sử.
Mùa đông năm 1206, Phanxicô Bênađônê (tiếng Ý: "Francesco di Bernardone", sau này thường được gọi là Thánh Phanxicô thành Assisi) từ giã gia đình để đi tu. Ông từ bỏ những cuộc vui chơi tiệc tùng với bạn bè để đi giúp những người bệnh phong, người vô gia cư và những người bị loại ra bên lề xã hội. Hai năm sau, ông phải đi hành khất, sống ẩn dật và sửa sang ba nhà thờ đổ nát trong miền Assisi là nhà thờ Thánh Đamianô, nhà thờ Thánh Phêrô và nhà thờ Đức Bà Porziuncula. Ban đầu, lối sống của Phanxicô đã thu hút hai người bạn đồng hương là nhà quý tộc Bênađô Cantavalê ("Bernardo di Quintavalle") giàu có và nhà giáo luật Phêrô Catanê ("Peter Waldo"). Sau đó, có thêm chín người khác gia nhập nhóm này để trở thành 12 "người đền tội" lữ hành, sống khổ hạnh, không nơi cư trú. Phanxicô có soạn vài quy luật nội bộ cho nhóm - dù có một số bất đồng giữa các anh em tu sĩ nhưng nó đã được Giáo hoàng Innôcentê III chấp thuận bằng miệng, rồi Giáo hoàng Hônôriô III phê chuẩn văn bản vào năm 1223, trở thành nền tảng quy luật của Dòng Anh Em Hèn Mọn ("Dòng Nhất").
Năm 1226, Phanxicô qua đời. Lễ Hiện Xuống năm 1230, tại tổng tu nghị của dòng, tu sĩ Elias xứ Cortona toan tính nắm lấy việc quản trị mọi thứ của dòng thay cho Phanxicô, nhưng các anh em tu sĩ khác lại bầu chọn tu sĩ Gioan Parenti. Mâu thuẫn xảy ra cho nên một ủy ban đã được thành lập (có cả Antôn thành Padova) đến Rôma xin ý kiến giải thích của Giáo hoàng Grêgôriô IX về bản quy luật và di chúc của Phanxicô, nhằm dựa vào đó giải quyết mâu thuẫn này. Qua sắc dụ "Quo elongati" đề ngày 28 tháng 9 năm 1230, ông trả lời rằng bản di chúc ấy không buộc anh em tu sĩ phải tuân giữ như là một bổn phận và họ được phép có một người trung gian (nuntius) và những người bạn thiêng liêng như bản quy luật ấn định, tuy nhiên anh em tu sĩ không được quản trị hay sở hữu thứ gì mà chỉ được sử dụng hợp với lời khấn nghèo khó những gì họ đã nhận được. Tại tổng tu nghị năm 1232, tu sĩ Elias được bầu làm tổng phục vụ thay vì tổng quản trị. Elias đã có công hoàn tất việc xây dựng Vương cung thánh đường Thánh Phanxicô thành Assisi, ngoài ra ông cũng muốn bành trướng nhà dòng nên đã xây thêm nhiều nhà thờ, tu viện rộng lớn trong thành phố. Elias hoạt động khá độc tài, nhất là việc điều chuyển nhân sự đến các tỉnh dòng, không bao giờ triệu tập tổng tu nghị trong suốt thời gian tại chức để nghe ý kiến của anh em đồng môn. Thế rồi, các tu sĩ khác xin Giáo hoàng Grêgôriô IX triệu tập một tổng tu nghị tại Rôma vào ngày 15 tháng 5 năm 1239 để cách chức tổng phục vụ của Elias. Sau đó, vì muốn khôi phục quyền lực nên Elias cùng với Frederick II chống đối, họ bị Giáo hoàng dứt phép thông công và bị khai trừ khỏi dòng. Lần lượt các tu sĩ nhận chứ tổng phục vụ là Alberto thành Pisa, tỉnh dòng Anh quốc (1239-1240), Raymon Faversham (1240-1243), Gioan Buralli thành Parma (1247-1257), Bonaventure 1257-1274). Giữa thế kỷ 13, Dòng Anh Em Hèn Mọn đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là dấn thân vào ngành giáo dục. Cùng với Anh Em Thuyết Giáo (tức Dòng Đa Minh), Anh Em Hèn Mọn đã đạt được những ghế giáo sư trong các đại học lớn như Đại học Oxford, Đại học Bologna, Đại học Paris... Bên cạnh đó, một số tu sĩ Anh Em Hèn Mọn đã được bổ nhiệm vào các chức phẩm cao cấp trong Giáo hội Công giáo như giám mục, tổng giám mục, hồng y, đặc biệt là tu sĩ Girolamo Masci (1274-1279) được bầu làm giáo hoàng lấy tông hiệu là Giáo hoàng Nicôla IV.
Dòng Anh Em Hèn Mọn phải trải qua một cuộc cải tổ sâu rộng và nhiều bất đồng, từ đó dẫn đến xuất hiện ba nhánh dòng độc lập nhưng hầu như cũng tuân theo cùng một lý tưởng sống của Phanxicô thành Assisi. Ba nhánh dòng này có sự quản trị và cơ cấu riêng gồm: Dòng Anh Em Hèn Mọn là dòng cơ bản nguyên thủy, Dòng Anh Em Hèn Mọn Viện Tu và Anh Em Hèn Mọn Lúp Dài (còn gọi là Dòng Anh Em Hèn Mọn Capuchin). Dù phân ly như vậy nhưng cả ba nhánh dòng này đã phát triển mạnh nhiều cuộc truyền giáo và xuất hiện nhiều nhân vật có công trạng lớn cho Giáo hội Công giáo.
Dòng Nhì và Dòng Ba.
Trong quá trình hoạt động, nhóm của họ đã lôi cuốn một thiếu nữ quý tộc tên là Clara. Chúa nhật Lễ Lá năm 1212, Clara trốn khỏi gia đình đến gặp Phanxicô, nhưng vì là nữ nên Phanxicô chỉ cắt tóc cho cô tại nhà nguyện nhỏ Porziuncula như một dấu chỉ cô đã dâng hiến cho Thiên Chúa để hình thành một nhóm nữ tu riêng. Nhóm nữ tu này cũng thu hút được nhiều thiếu nữ khác. Đến năm 1218 (hoặc 1219), nhóm của Clara được giáo hoàng chấp thuận như là một tu hội kín theo lý tưởng của anh em hèn mọn gọi là Dòng Chị Em Thanh Bần. Sau này, ngành dòng nữ Phanxicô thường được gọi là "Dòng Nhì".
Trong khoảng từ năm 1210 đến 1211, hoạt động của Phanxicô phát triển lan rộng. Ông đã phái gửi nhiều đồng môn đi khắp nơi để truyền giáo. Năm 1221, một cặp vợ chồng thương gia ở Florence cũng bị cuốn hút nên xin gia nhập dòng, nhưng vì họ đã kết hôn nên chỉ sống theo lý tưởng của anh em hèn mọn trong đời sống dân sự. Đây là hình thức xuất phát của ngành "Dòng Ba", gọi là "Phan Sinh Tại Thế".
| 1 | null |
Tổ hợp lọc dầu Paraguaná (tiếng Tây Ban Nha: "Centro de Refinación de Paraguaná") là một nhà máy lọc dầu nằm ở bang Falcón Venezuela hiện là nhà máy lọc dầu lớn thứ nhì trên thế giới, chỉ sau nhà máy lọc dầu Jamnagar ở Ấn Độ. Tổ hợp này là kết quả của việc hợp nhất nhà máy lọc dầu Amuay, nhà máy lọc dầu Bajo Grande và nhà máy lọc dầu Cardón. Đến thời điểm năm 2012, tổ hợp lọc 955 ngàn thùng dầu mỗi ngày (151.800 m3/ngày).
Sự cố.
Đêm 25 tháng 8 năm 2012, đã xảy ra vụ nổ khiến ít nhất 41 người thiệt mạng và khiến hoạt động tại tổ hợp lọc dầu này phải ngừng hoạt động trong vòng ít nhất 2 ngày. Ngoài ra còn có thêm ít nhất 80 người bị thương trong vụ nổ Theo thống đốc bang Falcon Stella Lugo, trong số người tử nạn có một cậu bé 10 tuổi.. Một số ngôi nhà xung quanh nhà máy cũng bị thiệt hại. Tuy nhiên ngọn lửa hiện đã được kiểm soát và khả năng xảy ra những vụ nổ tiếp theo là rất nhỏ.
| 1 | null |
Nhà máy lọc dầu Jamnagar là một nhà mày lọc dầu tư nhân thuộc sở hữu của Reliance Industries tọa lạc ở Jamnagar, Gujarat, Ấn Độ. Nhà máy được chạy thử ngày 14/6/1999 với công suất lắp đặt 668.000 barrel dầu thô mỗi ngày. Nó là nhà máy lọc dầu có công suất lọc lớn nhất thế giới.
| 1 | null |
Just a Little More Love là album phòng thu đầu tay của DJ người Pháp David Guetta, được phát hành vào ngày 10 tháng 6 năm 2012 bởi hãng đĩa Gum Prod, EMI France và Virgin Records France. Trong album có hai giọng ca chính, Chris Willis và Barbara Tucker. Ca khúc có tên "Just a Little More Love" chỉ được thu âm trong vòng ba mươi phút. Ca khúc này sau đó được phối lại bởi Wally López và được xuất hiện trong "MoS: Clubbers Guide 2004" và album nhạc phim của "The Football Factory". Bốn đĩa đơn từ album đã được phát hành: "Just a Little More Love", "Love Don't Let Me Go", "People Come People Go" và "Give Me Something".
| 1 | null |
Cá cờ mặt trăng (danh pháp hai phần: Velifer hypselopterus) là loài cá biển thuộc họ Veliferidae. Nó ít có tầm quan trọng về thương mại.
Phân bố.
Sinh sống trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương: Được tìm thấy từ ngoài khơi miền nam Madagascar, Ấn Độ, Việt Nam và Nhật Bản. Cũng được tìm thấy tại Indonesia, biển Arafura và tây bắc Australia. Độ sâu tới 110 m.
Đặc điểm.
Dài tối đa . Vây lưng: tia gai 1-2, tia mềm 33-34. Vây hậu môn: tia gai 1, tia mềm 24-25.
| 1 | null |
Cá mập miệng bản lề (danh pháp hai phần: Ginglymostoma cirratum) là một loài cá trong họ Ginglymostomatidae, là loài duy nhất của chi Ginglymostoma. Loài này có thể đạt chiều dài lên tới và cân nặng tới . Tình trạng bảo tồn của cá mập miệng bản lề được đánh giá trên toàn cầu là sắp nguy cấp trong Danh sách các loài bị đe dọa của IUCN. Chúng được coi là loài ít quan tâm ở Hoa Kỳ và The Bahamas, nhưng được coi là gần bị đe dọa ở phía tây Đại Tây Dương vì tình trạng dễ bị tổn thương ở Nam Mỹ và các mối đe dọa được báo cáo ở nhiều khu vực của miền Trung. Châu Mỹ và vùng Caribe.
Cá mập miệng bản lề là loài quan trọng để nghiên cứu về cá mập (chủ yếu về sinh lý học). Chúng mạnh mẽ và có thể chịu được việc bắt, xử lý và gắn thẻ cực kỳ tố. Vì không gây khó chịu như như vẻ bề ngoài, cá mập miệng bản lề được xếp hạng thứ tư trong các tài liệu về vết cắn của cá mập đối với con người,
| 1 | null |
Podarcis sicula là một loài thằn lằn trong họ Lacertidae. Chúng được Rafinesque phân loại vào năm 1810.
Nơi sinh sống bản địa của loài này là ở Bosna và Hercegovina, Croatia, Pháp, Ý, Serbia và Montenegro, Slovenia và Thụy Sĩ, nhưng chúng đã được nhập nội vào Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và Hoa Kỳ. "P. sicula" là loài thằn lằn nhiều nhất ở phía nam Ý.
"P. sicula" thu hút sự chú ý năm 2008 sau khi người ta xuất bản một nghiên cứu nêu chi tiết thay đổi hình thái và hành vi riêng biệt trong một quần thể "P. sicula" biểu lộ sự "tiến hóa nhanh".
| 1 | null |
Trận sông Aisne lần thứ nhất là một trận đánh trên Mặt trận phía tây của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra từ ngày 12 cho đến ngày 28 tháng 9 năm 1914. Trong trận chiến này - vốn bắt nguồn từ cuộc truy đuổi của quân đồng minh Anh - Pháp sau trận sông Marne lần thứ nhất, quân đội Đế quốc Đức (gồm thâu các Tập đoàn quân số 1, số 2 và số 7) đã liên tiếp đánh bật các cuộc tiến công của liên quân (gồm thâu các Tập đoàn quân số 5, số 6 của Pháp và quân đội Viễn chinh Anh), gây thiệt hại nặng nề cho quân đội Anh - Pháp trong từng đợt tập kích của họ. Thắng lợi phòng ngự của quân đội Đức trong trận Aisne lần thứ nhất đã thể hiện tính chất "dễ thủ khó công" của Mặt trận phía tây khi ấy, đồng thời cũng chứng tỏ ý nghĩa của trận đánh này là đánh dấu sự chấm dứt của cuộc "chiến tranh cơ động" giữa quân Đức và liên quân Anh - Pháp, cùng với sự mở đầu của tình trạng "chiến tranh chiến hào" trên Mặt trận phía tây.
Vào ngày 11 tháng 9 năm 1914, sau khi bị đánh bại trong trận Marne lần thứ nhất, quân đội Đức triệt thoái về sông Aisne và phòng ngự ở vùng đất cao ở hướng Bắc con sông này. Trong ngày hôm đó, các Tập đoàn quân số 1 và số 2 của Đức đã bắt đầu đào hào bên sông Aisne. Tập đoàn quân số 7 của Đức cũng tham gia đóng quân ở mạn Bắc sông Aisne. Quân đội phe Hiệp Ước đã tiến công không lâu sau khi quân Đức đến được cao điểm Chemin des Dames: vào ngày 12 tháng 9 năm 1914, một Sư đoàn Bộ binh Anh đã đến cái chóp của khu đất cao tại Venizel, nằm giữa chiến tuyến sông Aisne, nhưng "Lực lượng Viễn chinh Anh" sớm bị sa lầy ở giữa chiến tuyến. Hôm sau (13 tháng 9), các Tập đoàn quân số 5 và số 6 của Pháp được sự hỗ trợ của quân Anh đã phát động cuộc tấn công trực diện của quân bộ binh vào chiến tuyến của Đức nhằm vòng qua cánh tây của cao điểm "Chemin des Dames", nhưng bị quân Đức đẩy lùi. Cơ hội duy nhất cho liên quân Anh - Pháp là ở bên phải chiến tuyến của họ, khi quân Pháp phát hiện ra một lỗ hổng giữa hai Tập đoàn quân số 1 và số 2 của Đức. Nhưng một quân đoàn Đức đã được tung vào lỗ hổng này. Sau khi lập đầu cầu ở phía bắc sông Aisne vào ngày 14 tháng 9 năm 1914, phe Hiệp Ước đã tiếp tục tập kích quân Đức nhưng các cuộc phản công của quân Đức đã bẻ gãy cuộc tập kích của đối phương. Tập đoàn quân số 7 được lệnh của Tổng tham mưu trưởng Quân đội Đức là Erich von Falkenhayn cũng xuất hiện để che lấp lỗ hổng giữa hai Tập đoàn quân Đức. Quân Đức tiếp tục nắm giữ thế thượng phong trước địch thủ của mình trong giai đoạn sau đó. Súng máy và pháo binh mà họ khai triển để phòng ngự các cử điểm của mình đã gây bất lợi cho phe Hiệp Ước, và tuy phe Hiệp Ước đã thực hiện một số bước tiến nho nhỏ nhưng không thể củng cố chúng.
Tổng tư lệnh Joseph Joffre của Quân đội Pháp phải ra lệnh chấm dứt cuộc truy kích. Sau những thất bại của mình, khối Hiệp Ước đã bắt đầu thu nhỏ quy mô của cuộc chiến vào ngày 18 tháng 9 năm 1914, và cho đến ngày 28 tháng 9 năm ấy thì cuộc chiến kết thúc. Trận sông Aisne lần thứ nhất cho thấy cả hai phe, nhất là khối Hiệp Ước đã không thể tiến công những cứ điểm được bố phòng vững chãi của đối phương. Những cuộc tấn công dữ dội của liên quân Anh - Pháp đã không thể bọc sườn quân Đức, chưa kể quân Pháp còn chịu áp lực ngày một gia tăng tại Rheims. Trong khi quân đội Anh mất hơn 10% binh lực của mình, Thống chế Kitchener của Anh Quốc đã nhận thấy rằng người Đức không thể bị đánh bại nhanh chóng, và trận chiến này được xem là một bi kịch quốc gia của Anh Quốc. Tình hình bế tắc đã bắt đầu trên Mặt trận phía tây của cuộc chiến, và hai phe giờ đây cố gắng đánh tạt sườn nhau trong cái gọi là cuộc "Chạy đua ra biển".
| 1 | null |
Formosa là thành phố thủ phủ của tỉnh Formosa, Argentina, bên bờ sông Paraguay, cự ly khoảng 1.200 km (746 dặm) so với Buenos Aires, trên quốc Lộ 11. Thành phố có dân số khoảng 210.000 người theo điều tra dân số năm 2001 .
Formosa là trung tâm của ngành công nghiệp tỉnh, chế biến các sản phẩm tài nguyên thiên nhiên của tỉnh. Cảng phục vụ Paraguay về phía sông Paraná là phương tiện vận tải chính cho ngành sản xuất của tỉnh.
Các điểm tham quan đáng chú ý của thành phố bao gồm Giáo đường Nuestra Señora del Carmen, tòa nhà Chính phủ, Vườn thực vật rừng Torelli, Bảo tàng Lịch sử tỉnh, sân vận động Estadio Centenario, bờ sông Paraguay, Đảo Isla de Oro, và Quảng trường Trung tâm được đặt tên José de San Martín.
Khí hậu địa phương cận nhiệt đới ẩm, với nhiệt độ trung bình 28 °C vào mùa hè và 16 °C vào mùa đông.
| 1 | null |
Hồng hạc Chile (danh pháp hai phần: "Phoenicopterus chilensis") là một loài hồng hạc lớn có kích thước , quan hệ gần gũi với hồng hạc Mỹ và hồng hạc lớn. Hồng hạc Chile sinh sống ở khu vực Nam Mỹ, từ Ecuador, Peru đến Chile, Argentina và phía Đông Brazil, chúng cũng được du nhập vào Đức và Hà Lan. Một số lượng nhỏ cá thể còn xuất hiện ở Utah và California. Môi trường sống của chúng thường bị giới hạn ở các đầm muối hoặc hồ kiềm, vốn là những khu vực dễ bị tổn hại do mất môi trường sống và ô nhiễm nước.
Không hiếm cá thể hồng hạc Chile ở môi trường tự nhiên sống hơn 50 năm tuổi còn trong môi trường nuôi nhốt, tuổi thọ trung bình của loài là khoảng 40 năm. Chúng được Sách Đỏ IUCN xếp vào hạng mục loài sắp bị đe dọa.
Mô tả.
Loài đã được mô tả sinh học vào năm 1782 bởi Juan Ignacio Molina. Tương tự như ở các loài hồng hạc khác, hồng hạc Chile trưởng thành có đầu nhỏ, cổ dài so với cơ thể, mống mắt màu vàng nhạt, cặp chân dài cùng ba ngón chân có màng giúp chúng đứng vững dưới bùn. Bộ lông của hồng hạc Chile được mô tả có màu hồng đậm hơn so với hồng hạc lớn nhưng lại nhạt hơn so với hồng hạc Caribbe. Có thể phân biệt chúng với những loài hồng hạc khác qua đôi chân có màu xám lợt, khớp nối xương chày có màu hồng cùng chiếc mỏ có nhiều phần màu đen hơn. Hồng hạc Chile con, song, không có bộ lông màu hồng mà thay vào đó là màu xám.
Thức ăn.
Mỏ của hồng hạc Chile sở hữu cấu trúc tựa như chiếc lược giúp chúng có khả năng lọc thức ăn trong nước và bùn ở những bãi bồi ven biển, cửa sông, đầm và hồ muối. Thức ăn của hồng hạc thường là các loại động vật không xương sống như ruồi đục cánh, tôm, sinh vật phù du cùng với một số loại tảo lục lam, tảo silic, động vật nguyên sinh, thực vật thủy sinh, ấu trùng và giun nhỏ. Loài thường đứng sau cùng chuỗi thức ăn của hệ sinh thái thủy kiềm nơi chúng sinh sống.
Sinh sản.
Hồng hạc Chile sống thành những đàn lớn trong tự nhiên và cần điều kiện quần thể đông đúc từ 15 đến 18 cá thể để thúc đẩy quá trình sinh sản. Vào mùa giao phối, cá thể đực và cá thể cái có nhiều hành vi nhằm thu hút bạn tình, như lắc đầu từ phía này sang phía khác hoặc liên tục mở và khép cánh. Hồng hạc nhìn chung có tỉ lệ sinh sản thành công thấp vì chúng có xu hướng trì hoãn giao phối cho đến khi điều kiện môi trường thật thích hợp..
Sau khi ghép đôi thành công, con đực và con cái sẽ cùng nhau xây tổ bằng bùn cũng như thay phiên ấp trứng.. Sau khi nở, con non có bộ lông màu xám và chỉ bắt đầu chuyển sang màu hồng vào lúc 2 đến 3 tuổi. Cả hồng hạc bố và mẹ đều có thể sản sinh một loại chất dinh dưỡng tương tự như sữa ở tuyến diều để nuôi con.
Môi trường nuôi nhốt.
Cá thể hồng hạc đầu tiên nở thành công tại một vườn thú ở châu Âu là cá thể hồng hạc Chile tại Vườn thú Basel (Thụy Sĩ) vào năm 1958.
Năm 1988, một cá thể hồng hạc Chile sống tại Vườn điểu Tracy, Salt Lake, Utah trốn thoát, và trở nên nổi tiếng với cái tên Pink Floyd. Pink Floyd về Utah vào mùa đông để ăn tôm ngâm nước mặn tại hồ Muối Lớn, và bay tới Idaho và Montana vào mùa hè. Pink Floyd trở thành nhân vật thu hút khách du lịch và trở thành biểu tượng địa phương cho đến khi mất tích sau khi bay về Idaho vào mùa xuân năm 2005.
Do số lượng loài hồng hạc Chile đã sụt giảm đáng kể, các kế hoạch sinh sản đã được thực hiện ở các vườn thú nhằm ngăn chặn xu hướng này tiếp tục..
| 1 | null |
Trận Stallupönen là một trận đánh ở Trung Âu trên Mặt trận phía Đông, trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, đồng thời là trận đánh lớn đầu tiên giữa quân đội Đế quốc Nga và Đế quốc Đức tại vùng Đông Phổ. Trong trận đánh này, Quân đoàn I thuộc Tập đoàn quân số 8 của Đế quốc Đức do tướng Hermann von François chỉ huy đã tiến công các đơn vị tiên phong của Tập đoàn quân số 1 của Đế quốc Nga do tướng Paul von Rennenkampf chỉ huy, và giành thắng lợi chiến thuật nhỏ, bất chấp lợi thế của quân Nga về quân số. Trận chiến này đã phá vỡ chiến lược ban đầu của quân đội Đức và mở đường cho đại thắng của họ trong trận Tannenberg.
Khi quân Nga của Rennenkampf tiến vào Đông Phổ, tướng François đã không tuân theo thượng lệnh của Maximilian von Prittwitz - Tư lệnh Tập đoàn quân số 8 - là triệt thoái về Gumbinnen để cố thủ. François đã phát động cuộc tiến công mạnh mẽ vào ba quân đoàn Nga, bắt được 3.000 tù binh. Quân Nga bị đẩy lùi về biên giới trong hỗn loạn. Giao chiến tiếp diễn và tuy François cuối cùng đã rút quân về Gumbinnen theo lệnh của Prittwitz, trận đánh tại Stallupönen đã khiến cho Rennenkampf càng thêm cẩn trọng. Không lâu sau, thắng lợi của François trong trận này đã khuyến khích Prittwitz tấn công Tập đoàn quân số 1 của Nga trong trận Gumbinnen lớn hơn nhiều.
| 1 | null |
KGB Archiver là một trình lưu trữ tệp tin và một công cụ nén dữ liệu dựa vào thuật toán nén PAQ6.
Được viết bằng Microsoft Visual C++ bởi Tomasz Pawlak, KGB Archiver được thiết kế để lưu trữ với tỉ lệ nén rất cao. Để làm được điều này, chương trình sẽ đòi hỏi bộ nhớ và CPU tương đối nhiều.
KGB Archiver là phần mềm tự do nguồn mở được phát hành dựa trên điều khoản của GNU General Public License. Phiên bản 2 beta 2 đã có cho Microsoft Windows và một phiên bản dòng lệnh của KGB Archiver 1.0 đã có cho hệ diều hành Unix-like. KGB Archiver là một trong ít những ứng dụng sử dụng thuật toán PAQ để tạo ra tập tin KGB. Có mười cấp độ nén, từ thấp đến cao, một khác biệt lớn so với hầu hết các phần mềm nén khác. Tuy nhiên, ở cấp độ nén cao hơn, thời gian cần thiết để nén một tập tin tăng lên đáng kể.
Trang mạng chính thức đã ngừng hoạt động.
Yêu cầu hệ thống.
Yêu cầu tối thiểu cho KGB Archiver là:
| 1 | null |
Hồng hạc nhỏ (danh pháp khoa học: "Phoenicopterus minor") là một loài hồng hạc. Đây oài chim cư trú ở châu Phi (chủ yếu là trong Đới tách giãn Đông Phi) và miền nam châu Á. Chim đôi khi được ghi nhận ở xa hơn về phía bắc, nhưng đây là những thường được coi là những con chim trốn thoát.
Đây là loài hồng hạc nhỏ nhất. Loài này cân nặng từ .. Chiều cao đứng là khoảng . Tổng chiều dài (từ mỏ đến đuôi) và sải cánh là trong cùng một phạm vi các cách đo, từ .
Hầu hết bộ lông hơi trắng hồng. Sự khác biệt rõ ràng nhất giữa loài này và hồng hạc lớn, là màu đen rộng hơn rất nhiều trên mỏ.
| 1 | null |
Hoa hậu Việt Nam 2012 là cuộc thi Hoa hậu Việt Nam lần thứ 13. Cuộc thi diễn ra từ ngày 4 tháng 12 đến 15 tháng 12 năm 2012 tại Cung thể thao Tiên Sơn, thành phố Đà Nẵng với chủ đề: Vẻ đẹp hội tụ và lan tỏa. Người đẹp Đặng Thu Thảo đến từ tỉnh Bạc Liêu đã đoạt ngôi vị cao nhất và được trao vương miện bởi Hoa hậu Việt Nam 2010 Đặng Thị Ngọc Hân. Đây là năm đầu tiên tân Hoa hậu Việt Nam được trao vương miện bởi đương kim Hoa hậu.
Giải thưởng.
Hoa hậu Việt Nam 2012 được trao giải thưởng chính thức 300 triệu Việt Nam đồng. Á hậu 1 nhận được số tiền là 150 triệu đồng và Á hậu 2 là 100 triệu đồng.
Ngoài ra còn có các giải thưởng phụ như Người đẹp Tài năng, Người đẹp Biển, Người đẹp Áo dài, Người có mái tóc đẹp nhất, Người đẹp có khuôn mặt khả ái nhất. Mỗi giải sẽ nhận được phần thưởng chính thức là 30 triệu đồng.
| 1 | null |
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là hiện tượng viêm hoặc nhiễm trùng nội tâm mạc, lớp màng mỏng bao bọc bên trong tim gồm có cơ tim và các van tim. Nguyên nhân thường gặp nhất là do nhiễm khuẫn, vam tim có thể do các mảnh sùi do vi khuẩn bám vào và có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của nó. Viêm nội tâm mạc thể cấp tính phát triển rầm rộ trong khi triệu chứng của thể bán cấp kém rầm rộ hơn vì thế việc chẩn đoán cũng khó khăn hơn...
Triệu chứng.
Triệu chứng của bệnh bao gồm sốt kéo dài, chán ăn, mệt mỏi, cơn ớn lạnh, đổ mồ hôi đêm, đau đầu, đau khớp và xuất huyết những nốt nhỏ ở ngực, ngón chân, lưng, ngón tay. Khi thăm khám còn có thể phát hiện tiếng thổi mới xuất hiện ở tim và những nốt xuất huyết nhỏ ở màng tiếp hợp mắt.
Biến chứng.
Bệnh không được điều trị triệt để có thể dẫn tới tử vong. Tiên lượng tuỳ thuộc vào chủng vi khuẩn gây bệnh. Nếu trong trường hợp điều trị khỏi, tổn thương van tim sau này có thể dẫn đến hậu quả suy tim. Một số trường hợp cục máu đông hình thành, trôi theo dòng máu gây tắc mạch ở não, phổi.
| 1 | null |
Yorke, là một bán đảo toạ lạc ở phía Tây và Tây Bắc thành phố Adelaide, thuộc bang Nam Úc, Úc. Nó nằm kẹp giữa hai vịnh Spencer (về phía Tây) và vịnh Saint Vincent (phía Đông). Phía Nam của bán đảo là đảo Kangaroo; hai bên được eo biển Invertigator ngăn cách. Thị trấn đông người nhất trên bán đảo là Kadina.
| 1 | null |
Yamal (tiếng Nga: полуо́стров Яма́л) là một bán đảo thuộc huyện tự trị Yamal-Nenets, nằm ở vùng Tây Bắc Siberia của Nga. Bán đảo Yamal chạy dài khoảng 700 km (435 dặm) từ bắc đến nam, giáp biển Kara, Vịnh Baydaratskaya về phía Tây, và vịnh Ob về phía Đông.
Tên gọi.
Trong tiếng Nenets (ngôn ngữ của cư dân địa phương), "Yamal" có nghĩa là "End of the World".
Địa chất.
Bán đảo bao gồm chủ yếu là các tầng đất đóng băng vĩnh cửu, địa chất kiến tạo ở đây tương đối trẻ, chưa đến 10.000 năm tuổi.
Sinh vật.
Tại Liên bang Nga, bán đảo Yamal là nơi có truyền thống chăn nuôi tuần lộc với quy mô lớn được bảo tồn tốt nhất. Trên bán đảo, hàng ngàn người Nenets và người Khanty chăn nuôi khoảng nửa triệu con tuần lộc. Đồng thời, Yamal là nơi sinh sống của vô số các loài chim di cư.
Khoáng sản.
Theo thăm dò của chính phủ Nga, bán đảo Yamal là nơi có trữ lượng khí đốt nhiều nhất nước, dự kiến sẽ được khai thác độc quyền bởi cty Gazprom của Nga trong năm 2011 - 2012. Dự án khai thác khí đốt ở Yamal đã đặt tương lai của việc chăn thả tuần lọc vào một nguy cơ tuyệt diệt.
Cơ sở hạ tầng.
Một ước tính cho là dự trữ khí đốt ở đây đạt 55 nghìn tỷ m3, đây là nơi có dữ trữ khí đốt lớn nhất thế giới và dự án năng lượng lớn nhất của Nga trong lịch sử. Khu vực này phần lớn chưa phát triển, nhưng các công trình đang được tiến hành xây dựng với ba dự án hạ tầng lớn - đường sắt Obskaya-Bovanenkovo với chiều dài 572 km sẽ được hoàn thành vào năm 2011, ống dẫn khí, và một số cầu đường.
| 1 | null |
Vườn quốc gia rừng hóa đá (tiếng Anh: "Petrified Forest National Park") là một vườn quốc gia Hoa Kỳ trong các quận Navajo và Apache ở phía đông bắc tiểu bang Arizona. Trụ sở cơ quan quản lý vườn quốc gia nằm ở 26 dặm (42 km) về phía đông của Holbrook dọc theo xa lộ liên bang Interstate 40 (I-40) song song với Southern Transcon của đường sắt BNSF của, sông Puerco, và tuyến xa lộ lịch sử Route 66, tất cả qua vườn quốc gia gần phía đông-tây. Được đặt tên theo các trầm tích lớn gỗ hóa thạch, vườn quốc gia có diện tích khoảng 146 dặm vuông (380 km2), bao gồm thảo nguyên cây bụi bán sa mạc cũng như các vùng đất cằn cỗi cao bị xói mòn và đầy màu sắc. Khu vực này có phần phía bắc trong đó mở rộng vào Painted Desert, được công nhận là di tích quốc gia vào năm 1906 và một vườn quốc gia vào năm 1962. Khoảng 600.000 người ghé thăm vườn quốc gia này mỗi năm và tham gia vào các hoạt động bao gồm tham quan, chụp ảnh, đi bộ đường dài, và du lich ba lô.
Với độ cao trung bình khoảng 5.400 feet (1.600 m) trên mực nước biển, vườn quốc gia này có khí hậu gió khô với nhiệt độ dao động từ mức cao vào mùa khoảng 100 °F (38 °C) xuống mức thấp mùa đông thấp dưới điểm đóng băng. Hơn 400 loài thực vật, chủ yếu là cỏ như cỏ bụi, cỏ xanh, và sacaton, được tìm thấy trong vườn quốc gia. Hệ động thực vật bao gồm các loài động vật lớn như linh dương sừng nhánh, chó sói, mèo rừng, và các loài động vật nhỏ hơn nhiều, chẳng hạn như chuột nai, rắn, thằn lằn, bảy loài động vật lưỡng cư, và hơn 200 loài chim, trong đó có một số là loài thường trú và trong đó có nhiều loài di trú. Khoảng một nửa số động vật trong vườn quốc gia này được xác định là loài hoang dã.
Rừng hóa đá được biết đến với các cây hóa thạch của nó, đặc biệt là cây đổ đã sống vào cuối kỷ Triat, khoảng 225 triệu năm trước. Các trầm tích có chứa các khúc gỗ hóa thạch là một phần kiến tạo Chinle, phổ biến rộng rãi và đầy màu sắc, mà từ đó các Painted Desert (sa mạc hội họa) được đặt tên. Bắt đầu từ khoảng 60 triệu năm trước đây, cao nguyên Colorado, trong đó vườn quốc gia này, đã được đẩy lên do lực kiến tạo mảng và tiếp xúc xói mòn tăng lên. Tất cả các lớp đất đá của vườn quốc gia trên Chinle, ngoại trừ những lớp địa chất gần đây được tìm thấy trong các bộ phận của vườn quốc gia đã bị loại bỏ bởi sức gió và nước. Ngoài các khúc gỗ hóa thạch, hóa thạch được tìm thấy trong vườn quốc gia này cũng gồm có dương xỉ Trias muộn, Cycadophyta, ginkgo, và nhiều loại thực vật cũng như các động vật bò sát khổng lồ được gọi là phytosaur, động vật lưỡng cư lớn, và khủng long thời kỳ đầu. Các nhà cổ sinh vật học đã tiến hành khai quật và nghiên cứu hóa thạch của vườn quốc gia này kể từ đầu thế kỷ 20.
Những người định cư sớm sớm nhất ở khu vực này đã đến cách đây ít nhất là 8.000 năm trước. Khoảng 2.000 năm trước đây, họ đã trồng ngô trong khu vực và ngay sau đó đã xây dựng nhà ở trong các hang ở khu vực nay là vườn quốc gia. Các cư dân đến sau đã xây dựng trên nhà mặt đất gọi là các "pueblo". Mặc dù biến đổi khí hậu đã khiến các pueblo bị bỏ hoang vào khoảng năm 1400, hơn 600 địa điểm khảo cổ, bao gồm các bản khắc đá, đã được phát hiện trong vườn quốc gia này. Trong thế kỷ 16, các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đến thăm khu vực, và giữa thế kỷ 19, một đội khảo sát Hoa Kỳ đã tiến hành khảo sát một tuyến đường Đông-Tây thông qua khu vực vườn quốc gia và đã nhận thấy các khúc gỗ hóa thạch. Sau đó, đường bộ và đường sắt theo tuyến đường tương tự và đã dẫn đến gia tăng hoạt động du lịch, và trước khi khu vực này được bảo vệ. Nạn trộm cắp gỗ hóa thách vẫn còn là một vấn đề trong thế kỷ 21.
Địa lý.
Vườn quốc gia rừng hóa đá nằm giữa biên giới giữa quận Apache và quận Navajo ở phía đông bắc tiểu bang Arizona. Vườn quốc gia có chiều dài khoảng 30 dặm (48 km) dài từ bắc đến nam, và chiều rộng của nó thay đổi từ một tối đa khoảng 12 dặm (19 km) ở phía bắc đến tối thiểu khoảng 1 dặm (1,6 km) dọc theo một hành lang hẹp giữa phía bắc và phía nam, nơi vườn quốc gia mở rộng một lần nữa đến khoảng ..
I-40, trước đây là xa lộ 66, Đường sắt BNSF, và sông Puerco chia hai vườn quốc gia gần như đông-tây dọc theo một lộ trình tương tự. Adamana, một thị trấn ma, có cự ly khoảng 1 dặm (1,6 km) về phía tây của vườn quốc gia dọc theo tuyến BNSF. Holbrook, khoảng 26 dặm (42 km) về phía tây của trụ sở quản lý vườn quốc gia theo I-40, là thành phố gần nhất. Đường bộ qua vườn quốc gia chia đôi vườn quốc gia theo hướng bắc-nam, chạy giữa I-40 gần vườn quốc gia ở phía bắc và xa lộ 180 ở phía nam. Tuyến đường bộ lịch sử 180, chạy qua rìa phía nam của vườn quốc gia. Giống như xa lộ 66, nó đã xuống cấp và bị đóng. Nhiều con đường bảo trì không trải nhựa, đóng cửa đối với công chúng, giao nhau với đường bộ vườn quốc gia tại các điểm khác nhau.
Vườn quốc gia có diện tích khoảng . Các ranh giới Navajo Nation giáp vườn quốc gia ở phía bắc và đông bắc.
| 1 | null |
Chiến tranh Nhật Bản-Lưu Cầu là cuộc chiến do phiên Satsuma của Nhật Bản tiến hành vào năm 1609, tấn công Vương quốc Lưu Cầu. Cuộc chiến không dẫn đến nhiều thương vong vì Lưu Cầu chỉ có sức mạnh quân sự rất hạn chế, và thần dân Lưu Cầu đã nghe theo lệnh quốc vương khi đầu hàng. Cuộc chiến kết thúc đánh dấu việc Vương quốc Lưu Cầu bắt đầu trở thành một nước chư hầu của Satsuma.
Vương quốc Lưu Cầu từ đó là chư hầu của phiên Satsuma, song nước này vẫn duy trì mối quan hệ triều cống từ lâu với Trung Quốc, cho đến khi chính thức bị sáp nhập vào Nhật Bản từ năm 1879, trở thành tỉnh Okinawa.
Bối cảnh.
Gia tộc Shimazu của phiên Satsuma đã mối quan hệ truyền thống lâu dài với Lưu Cầu. Hai bên đã tiến hành giao thương ít nhất là từ vài thế kỷ trước đó và thậm chí còn có thể từ lâu hơn nữa; ngoài ra, Lưu Cầu đã có một số lần triều cống cho Mạc phủ Muromachi (1336–1573) của Nhật Bản, trong khi đã triều cống cho Trung Quốc từ năm 1372.
Trong những thập niên cuối của thế kỷ 16, gia tộc Shimazu cùng với Toyotomi Hideyoshi [người cai trị Nhật Bản từ năm 1582 đến 1598] đã yêu cầu Lưu Cầu phải hỗ trợ trong một số sự kiện. Vua Shō Nei (trị vì 1587–1620) đã đáp ứng một số trong những yêu cầu này. Sho Nei đã cử Aya-Bune (tàu triều cống đến Satsuma) vào tháng 2 hoặc tháng 3 năm 1592, và chịu cung ứng gánh nặng cho phí cho cuộc xâm lược của Nhật Bản vào Triều Tiên năm 1593. Song Sho Nei đã lờ đi nhiều thông báo từ gia tộc Shimazu và Hideyoshi, điều này đã thúc đẩy gia tộc Shimazu, với sự cho phép của Mạc phủ Tokugawa (1603–1867), tiến hành xâm lược Lưu Cầu vào năm 1609, tuyên bố rằng đây là một hành động trừng phạt.
Một trong các sự kiện chính đã thúc đẩy Satsuma hành động là khi Hideyoshi mở chiến dịch xâm lược Triều Tiên đầu tiên. Năm 1591, Shimazu Yoshihisa đã nói rằng "Hideyoshi lệnh cho Lưu Cầu và Satsuma phải cung cấp 15.000 quân để nhập Đường. Song Lưu Cầu là một nước xa xôi và không biết về phong cách chiến thuật của Nhật Bản. Do vậy ta miễn cho các vị việc phải huy động quân lính. Đổi lại, các vị phải cung cấp khẩu phần ăn trong 10 tháng cho 7.000 lính." Sho Nei đã chỉ cung ứng một nửa vào năm 1593.
Sau cái chết của Hideyoshi vào năm 1598, Tokugawa Ieyasu tiếp quản quyền cai trị Nhật Bản, Shō Nei được Satsuma hỏi về việc chính thức quy phục Mạc phủ mới song yêu cầu này cũng bị lờ đi.
Năm 1603, một số người Lưu Cầu đã bị dạt vào bờ biển của phiên Sendai. Tokugawa Ieyasu đã gửi họ trở lại Lưu Cầu. Gia tộc Shimazu đã nhiều lần nhắc nhở Lưu Cầu phải nồng nhiệt cảm ơn Tướng quân Ieyasu, song Lưu Cầu đã phớt lờ. Kian, một bậc thầy về trà đạo, phụng sự cho Sho Nei, đã viết trong nhật ký rằng "Nếu tôi tiết lộ nguyên nhân cơ bản của cuộc chiến tranh này, thì đó chỉ là do lỗi của Jana. Ông ta là cận thần xảo quyệt.". Gia tộc Shimazu sau đó đã yêu cầu được phát động một cuộc trừng phạt Lưu Cầu.
100 tàu trở theo khoảng 3.000 chiến binh đã tập trung tại bến cảng Yamakawa vào ngày 1 tháng 3 ÂL. Một trong số các chiến binh là Ichirai Magobee, ông đã viết "Nhật ký vượt biển đến Lưu Cầu của ta". Họ dời khỏi cảng vào ngày 4 tháng 3 ÂL, dưới quyền chỉ huy của Kabayama Hisataka và Hirata Masumune.
Chiến sự Amami Ōshima.
Hạm đội Satsuma đến Amami Oshima vào ngày 7 tháng 3 ÂL. Người dân trên đảo đã không phản kháng, và thậm chí còn giúp đỡ quân Satsuma. Tameten, án ti của Kasari, đã chịu khuất phục trước Kabayama, và sau đó kêu gọi người dân toàn đảo đầu hàng. Shigetedaru (焼内首里大屋子茂手樽), án ti của Yakiuchi, đã cung ứng nhu yếu phẩm cho quân Satsuma. Vào ngày 16 tháng 3, 13 tàu dời Amami Ōshima để tiến đến Tokunoshima. Những tàu khác dời Amami Ōshima vào ngày 20 tháng 3.
Ngày 10 tháng 3 ÂL, Sho Nei được thông báo về việc quân Satsuma đến Amami Ōshima. Ông cử Ibun, trụ trì của chùa Tenryu, đến đảo này để ra lệnh đầu hàng. Song Ibun đã bị mất liên hệ với quân Satsuma vì lý do chưa rõ ràng.
Chiến sự Tokunoshima.
Ngày 17 tháng 3 ÂL, 13 tàu đến Tokunoshima. Hai tàu đến Kanaguma song không có chuyện gì xảy ra. 8 tàu đến Wanya. Các tàu bị 1000 người vây hãm suốt đêm. Đến ngày 18 tháng 3 ÂL, quân Satsuma rời khỏi tàu và giết chết 50 người. 3 tàu đến Akitoku. Họ bị người Akitoku tấn công song đã nhanh chóng giành lại lợi thế và giết chết 20~30 người.
Hạm đội Satsuma đến Akitoku vào ngày 20 tháng 3 ÂL. Đến ngày 21 thảng ÂL, Kabayama đi đến đảo Okierabu cùng với 10 tàu. Các tàu khác dời khỏi Tokunoshima vào ngày 24 tháng 3, và đến Okierabu vào lúc mặt trời lặn. Họ gặp Kabayama và đội tàu của ông tại đây, rồi nhanh chóng tiến về đảo Lưu Cầu.
Chiến sự đảo Lưu Cầu.
Hạm đội Satsuma đến cảng Unten tại bán đảo Motobu của đảo Lưu Cầu vào ngày 25 tháng 3. Đến ngày 27 tháng 3, một số đã đổ bộ lên bờ. Họ thấy thành Nakujin bị bỏ hoang. Quân Satsuma đốt cháy một số nơi.
Ngay sau khi Sho Nei hay tin quân Satsuma đã đến Nakijin, ông đã triệu một nhà sư phái Thiền tông tên là Kikuin (菊隠宗意). Quốc vương Lưu Cầu ra chiếu chỉ cho Kikuin, "Ngươi đã sống ở Satsuma trong nhiều năm, vậy ngươi sẽ biết rất nhiều về ba lãnh chúa của gia tộc Shimazu. Hãy tạo ra một đề nghị hòa bình."Kikuin và đoàn sứ thần rời kinh đô Lưu Cầu, Shuri vào ngày 26 tháng 3, sau đó đến Kuranami (nay là Yomitan). Họ dời Kuranami đến Onna bằng thuyền. Đến ngày 27 tháng 3, họ lại dời khỏi Onna bằng thuyền và đến Nakijin. Kikuin thương thảo với Kabayama. Kabayama ra lệnh rằng các cuộc đàm phán hòa bình phải được tiến hành ở kinh đô.
Vào sáng sớm ngày 29 tháng 3 ÂL, hạm đội Satsuma và Kikuin dời khỏi cảng Unten. Họ đến Oowan. Đoàn sứ thần Lưu Cầu ngay lập tức dời khỏi nơi đó và đến Makiminato. Tại đây, họ dời khỏi thuyền để về Shuri và đến được kinh đô vào ban đêm. Kikuin báo cáo lại lời của Kabayama cho Sho Nei.
Tại Oowan, Kabayama cử một số chỉ huy của mình đến Naha, do ông nghe nói rằng ở đó có một loạt lối vào cảng Naha. "Nếu không có một loạt lối, không tàu nào có thể tiến vào cảng."Để chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất, ông đã chuẩn bị tấn công Shuri.
Ngày 1 tháng 4 ÂL, tàu của Satsuma tiến vào cảng Naha. Ngay lập tức, họ đã tổ chức đàm phán hòa bình tại Oyamise (親見世) ở Naha. Lúc này, có một vụ hỏa hoạn tại Shuri. Quân Satsuma tấn công. Một số chỉ huy quân Satsuma tiến lên Shuri từ Naha. Do Sho-Nei đã cho đưa Kabayama cùng vương đệ là Sho-Ko (尚宏), và toàn bộ ba tể tướng của mình đi làm con tim, Kabayama đã ra lệnh cho lính của mình đi xuống Naha. Toàn bộ quân Satsuma đến Naha vào ngày 1 tháng 4 ÂL.
Ngày 4 tháng 4 ÂL, Sho-Nei bỏ thành Shuri. Đến ngày 5 tháng 4 ÂL, một số chỉ huy của quân Satsuma đã tiến vào kinh thành, và bắt đầu kiểm kê kho báu tại thành.
Đến ngày 17 tháng 5 ÂL, Sho Nei dời khỏi cảng Unten và cùng với khoảng 100 bá quan đến chỗ quân Satsuma. Đến tháng 8 ÂL năm 1610, ông gặp cựu Tướng quân Tokugawa Ieyasu tại Sunpu. Sau đó, quốc vương Lưu Cầu bị đưa đến Edo để chính thức yết kiến Tướng quân Tokugawa Hidetada vào ngày 28 tháng 8 ÂL. Ngày 24 tháng 12, Sho Nei trở về Kagoshima, tại đây ông bị buộc phải chính thức đầu hàng và tuyên thệ trung thành với gia tộc Shimazu. Năm 1611, tức hai năm sau cuộc xâm lược, quốc vương trở về thành Shuri.
Trong lúc quốc vương vắng mặt, Kabayama Hisataka và Honda Chikamasa đã quản lý các hòn đảo thay mặt cho lãnh chúa Shimazu Tadatsune. 14 quan chức samurai đến từ Satsuma, cùng với 163 nhân viên, kiểm tra kết cấu chính trị của vương quốc và tình trạng kinh tế, và tiến hành khảo sát đất đai trên tất cả các đảo. Sau khi quốc vương trở về Shuri và quyền quản lý của ông được tái lập, một số bá quan Lưu Cầu đã đến Kagoshima làm con tim. Kunigami Aji Seiya (国頭按司正弥) đã sống tại Kagoshima vào năm 1614-1616. Ông phục vụ cho gia tộc Shimazu Iehisa trong trận bao vây Osaka năm 1615.
Kết quả.
Các văn kiện đầu hàng được ký tại Kagoshima vào năm 1611 đi kèm với một loạt lời tuyên thệ. Quốc vương cùng các bá quan Lưu Cầu đã phải thề rằng "các đảo Lưu Cầu từ thời cổ đã là đất phụ thuộc của Satsuma", và rằng Lưu Cầu đã có một truyền thống lâu dài trong việc gửi triều cống và cử sứ thần thỉnh an các lãnh chúa Satsuma; mặc dù những điều này là sai lệch so với thực tế. Những lời tuyên thệ cũng bao gồm các quy định rằng Lưu Cầu thừa nhận mình đã hành động sai trái khi phớt lờ yêu cầu phải đóng góp vật lực và nhân lực, rằng cuộc xâm lược là thích đáng, lãnh chúa Satsuma đã khoan dung khi cho phép quốc vương cùng các bá quan trở về quê hương và duy trì quyền lực. Cuối cùng, các bá quan bị buộc phải thề trung thành với gia tộc Shimazu thông qua quốc vương của họ. Tei Dō là một đại thần triều đình và một chỉ huy quân sự của Lưu Cầu đã tham gia chống lại cuộc xâm lược, song ông đã từ chối ký vào lời tuyên thệ và bị chặt đầu.
Cấu trúc triều đình của Lưu Cầu vẫn còn nguyên vẹn cùng với vương tộc. Người Lưu Cầu vẫn duy trì là một nước độc lập, một "nước ngoài" (異国, "dị quốc") đối với người Nhật, và triều đình Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực để làm yếu đi sự thống trị của Satsuma đối với Lưu Cầu, mục đích là để đảm bảo rằng các hoạt động kinh tế và ngoại giao giữa hai bên sẽ vẫn tiếp tục, Trung Quốc lúc đó không có quan hệ chính thức cũng như thương mại với Nhật Bản. Tuy nhiên, mặc dù các vị quốc vương vẫn được giữ lại quyền lực đáng kể, song chỉ được phép hoạt động trong khuôn khổ các nguyên tắc nghiêm ngặt do Satsuma đặt ra, và bị yêu cầu phải triều cống thường xuyên một lượng tài vật đáng kể cho Satsuma.
Khuôn khổ do Satsuma đặt ra phần lớn được ghi trong một tài liệu mà thỉnh thoảng được gọi là "Mười lăm điều cấm kị" (掟十五ヶ条, "Okite jūgo-ka-jō"), đi kèm với lời tuyên thệ ký ở Kagoshima năm 1611, trong đó có các hạn chế chi tiết về chính trị và kinh tế đối với vương quốc. Theo đó, các hoạt động ngoại thương, ngoại giao, và thăm viếng sẽ bị cấm nếu không có sự chấp thuận chính thức của Satsuma. Quan hệ thương mại phát triển của Lưu Cầu với Trung Quốc, Đông Nam Á và Triều Tiên trở thành mối quan tâm của Satsuma, và một số luật khác cũng được đặt ra để nghiêm cấm tương tác giữa người Lưu Cầu và người Nhật, cũng như đi lại giữa hai quốc đảo. Tương như như vậy, việc đi ra bên ngoài và tiếp nhận tàu tại các cảng của Lưu Cầu nói chung đã bị hạn chế rất nhiều, ngoại lệ chỉ dành cho thương mại và các chuyến thăm viếng chính thức do Satsuma cho phép.
Ngoài ra, Amami Ōshima và một số đảo khác mà nay được gọi với cái tên quần đảo Satsunan đã bị sáp nhập vào phiên Satsuma và không còn là lãnh thổ của Lưu Cầu. Các hòn đảo này ngày nay thuộc về tỉnh Kagoshima thay vì tỉnh Okinawa.
| 1 | null |
Trận Krithia lần thứ nhất là một trận đánh trong Chiến dịch Gallipoli của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra vào ngày 28 tháng 4 năm 1915. Trong trận đánh này, quân đội Đế quốc Ottoman do Đại tá Halil Sami Bey chỉ huy đã đẩy lùi cuộc tiến công thiếu tổ chức của quân đồng minh Anh - Pháp do tướng Aylmer Hunter-Weston chỉ huy, gây thiệt hại nặng nề cho liên quân và buộc họ phải triệt thoái về các chiến hào của mình trong buổi sáng. Đây là cuộc hợp lực đầu tiên của quân đội phe Hiệp Ước nhằm chiếm giữ đồi Achi Baba trong Chiến dịch Gallipoli.
Vào ngày 25 tháng 4 năm 1915, tướng Hunter-Weston của Anh đã đổ bộ lên đỉnh của bán đảo Gallipoli quanh Helles. Tổng chỉ huy liên quân Ngài Ian Hamilton ra lệnh cho Hunter-Weston tiến chiếm ngôi làng Krithia nằm ở phía sau chiến tuyến của quân Thổ cũng như đồi Achi Baba tại đó. Và, vào ngày 28 tháng 4 năm 1915, Hunter-Weston đã mở đầu một trong 3 trận đánh tại Krithia, bằng một cuộc công pháo vừa phải. Quân đội Anh đã tấn công cánh cực tả của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ trong khi quân đội Pháp tấn công vào cánh cực hữu. Quân đồng minh dự định tiến theo xương sống của bán đảo và chiếm đoạt Krithia từ đằng sau. Bất chấp những thắng lợi ban đầu, cả hai cuộc tấn công đều bị đánh bật. Thậm chí chiến tuyến của quân Anh ở bên trái cũng đã tan vỡ trong một cuộc tấn công bằng lưỡi lê của quân Thổ, khiến chiến hạm HMS "Queen Elizabeth" phải tiến hành pháo kích ở ngoài khơi để cứu họ. Mặc dù quân Thổ chỉ có 200 người ở giữa trận tuyến, cuộc tấn công của quân đồng minh ở đây cũng bị bẻ gãy.
Quân Thổ đã cầm cự đủ lâu tại đồi Achi Baba cho đến khi liên quân mệt mỏi, và, nhận thấy tình hình bất lợi, Hunter-Weston đã chấm dứt cuộc tấn công lúc 6 giờ tối ngày hôm đó. Liên quân Anh - Pháp rút lui và mọi thắng lợi ban đầu của họ trong trận Krithia đã trở nên công cốc. 3 ngày sau, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ Enver Pasha đã ra lệnh tấn công chiến tuyến phe Hiệp Ước. Các cuộc tấn công của quân Thổ đã thất bại dù gây thiệt hại không nhỏ cho khối Hiệp Ước. Vào ngày 6 tháng 5, liên quân Anh - Pháp mở trận Krithia lần thứ hai và lặp lại sai lầm của thất bại tại Krithia trước đó.
| 1 | null |
Johnnie Walker là một nhãn hiệu rượu Whisky Scotland sở hữu bởi Diageo có xuất xứ từ Kilmarnock, Ayrshire, Scotland. Đây là nhãn hiệu rượu whisky pha Scotland phổ biến rộng rãi nhất trên thế giới, được bán ở hầu khắp các quốc gia với trên 130 triệu chai một năm . Ở Việt Nam, nó còn được biết đến với tên gọi Ông già chống gậy do logo của sản phậm rượu có hình một người đàn ông với cây gậy.
Lịch sử.
Được biết đến như "Walker's Kilmarnock Whisky" (rượu Whisky Kilmarnock của Walker), nhãn hiệu Johnnie Walker là tài sản do John (Johnnie) Walker (1805 – 1857) để lại sau khi ông bắt đầu bán rượu whisky ở một cửa hàng tạp phẩm tại Ayrshire, Scotland.
- Khởi nghiệp từ năm 14 tuổi với tiệm tạp hóa nhỏ ở vùng Kilmarnock, John Walker không ngờ sự nghiệp và tên tuổi của mình lại vang danh khắp Thế giới. Nhiệt tình và sự thông minh của tuổi trẻ đã giúp anh thỏa mãn sự tìm tòi sáng tạo của mình bằng cách pha trộn nhiều loại rượu khác nhau để tìm ra được loại rượu thượng hạng cho khách hàng. Cuộc hành trình để khám phá những hương vị mới bắt đầu
- Từ những năm 1860, những chai rượu với hình dáng "Vuông thành góc cạnh" ra đời và xuất hiện trên các kệ rượu ở khắp nơi trên Thế giới, không thể vắng mặt trong những bữa tiệc sang trọng thời ấy
- Cuộc hành trình tiếp tục đến thế kỷ 20 khi những người cháu của John Walker là George và Alexander tham gia vào công cuộc tiếp thị một "Thương hiệu". Năm 1909, hình ảnh Thương hiệu đơn sơ ngày nào đã được họa sĩ trẻ giỏi nhất thời bay giờ - Tom Browne phát họa hình ảnh của Johnnie cách điệu thành một Quý ông chống gậy đang sải bước. Những dòng sản phẩm sau này ra đời đã gắn liền với hình ảnh của "người đàn ông sải bước" (Striding man), tự tin bước vào những sự kiện văn hóa toàn cầu, từ tầng lớp Quý tộc thời xưa đến giới Thượng lưu và sành điệu của thời hiện đại
- Bí mật của sự thành công ấy là sự thấu hiểu khách hàng và niềm đam mê vươn tới những tiêu chuẩn chất lượng để hình thành loại rượu Scotch whisky ngon nhất thế giới
Các dòng sản phẩm.
- Red Label (Nhãn Đỏ): Red Label còn được gọi với cái tên quen thuộc là rượu Johnnie Đỏ, là dòng rượu trẻ nhất của hãng rượu Johnnie Walker, được phối chế từ 35 loại Rượu Whisky khác nhau, lên men từ Ngũ cốc và Mạch nha. Hương vị hòa quyện giữa cay nồng và Khói của Malt rất nhẹ nhàng. Sắc đỏ đặc trưng của nhãn hiệu Scotch Whisky này được ưa chuộng ở khắp mọi nơi trên Thế giới. Johnnie Walker Red Label là một món quà rất ý nghĩa với nhiều người.
Xem nhiều hơn: Johnnie Walker Red Label
- Black Label (Nhãn Đen): Là loại rượu Whisky sang trọng, biểu trưng cho sức mạnh và sự tao nhã, với những đặc tính hoàn toàn riêng biệt. Johnnie Walker Black Label được phối chế từ 40 loại rượu Whisky mỗi loại như vậy phải phải có tuổi tối thiểu là 12 năm. Hương vị đến từ vị cay nồng của Gỗ Sồi, mùi Gia vị và Mù tạt. Đây là dòng sản phẩm bán chạy nhất trong các cửa hàng miễn thuế (Duty Free Shop) trên khắp Thế giới.
- Double Black (Nhãn đen đặc biệt): Dùng nhiều Whisky nguyên liệu từ vùng bờ biển phía Tây của Scotland cho nhiều hương vị khói hơn loại Black Label thông thường. Double Black _ Hương vị nhân đôi có mầu vàng hổ phách và hương thơm đặc trưng của Khói than bùn khô được tích tụ ở những khu rừng nguyên sinh, hương thơm của gỗ Sồi cổ thụ tạo nên sự đắm say lâng lâng, kết hợp cùng vị Trái cây sấy khô và Vanilia dịu ngọt
Hiện nay, Johnnie Walker Double Black ngày càng có chỗ đứng trong sự tin cậy của người tiêu dùng tại Việt Nam. Double Black là sự lựa chọn hoàn hảo không thể bỏ qua nhất là với những người đã từng say mê hương vị của Black Label. Double Black chắc chắn sẽ không thể thay thế cho dòng Whisky mạch nha khói của dảo Islay như Bowmore, Lagavulin, Laphroaig nhưng nó sẽ thu hút người hâm mộ Johnnie Walker đang tìm kiếm một loại rượu Whisky có vị Khói than bùn vừa phải.
- Green Label (Nhãn xanh lá cây): Green Label _ Dòng sản phẩm được phối chế từ các loại Whisky lên men từ Malt (Mạch nha) của các vùng sản xuất rượu Single Malt nổi tiếng của Scotland là Speycide, Highland và Isley. Đây là dòng Whisky Mạch nha (Malt Whisky) độc đáo của Johnnie Walker. Nguồn nguyên liệu dùng để pha trộn được lấy từ 27 Lò chưng cất khắp đất nước Scotland. Mỗi lò chưng cất một loại Malt duy nhất có độ tuổi tối thiểu là 15 năm để tạo ra nét đặc trưng cho Green Label. Johnnie Walker Green Label 15 Years Old có mùi Táo chín đỏ, vị ngọt dịu của Mạch nha, mùi Khói than bùn khô, mang đến hương vị đồng quê trong lành. Các bậc thầy pha trộn của Johnnie Walker đã tạo ra một loại rượu Whisky mạch nha độc đáo với số lượng giới hạn, thiết kế chai cổ điển, nhưng không kém phần sang trọng và tinh tế.
- Gold Label Reserve (Nhãn vàng đặc biệt): Gold Label Reserve là dòng sản phẩm hoàn toàn mới như một tiếp nối của nhãn hiệu Gold Label. Gold Label Reserve là kết quả của sự tổng hợp từ 15 loại Whisky quý hiếm từ kho tàng rượu quý của Johnnie Walker. Sự kết hợp tuyệt vời này đã tạo ra chất rượu với vị êm dịu, sâu lắng, ngọt ngào của Mật ong, Trái cây và gỗ Sồi. Gold Label Reserve là hiếm và đắt tiền thường được dự tính để sử dụng trong những dịp trọng đại.
- Blue Label (Nhãn xanh dương): Đây là Sản phẩm cao cấp nhất của Johnnie Walker, số năm ủ rượu không được tiết lộ, dung tích chai 750 ml, nồng độ 40 %. Các chuyên gia của hãng rượu Johnnie Walker đã tuyển chọn những loại Whisky tốt nhất từ bờ biển phía tây và trên các đảo của vùng Speycide để phối trộn tạo ra Blue Label. Blue Label có hương vị được hòa trộn sành điệu mùi Vani, Hoa và vị Khói than bùn, vị cay của Gỗ sồi, vị nồng của Gia vị... Đây là loại Whisky được ca ngợi trên khắp Thế giới
Được tạo nên từ những loại Whisky quý hiếm và đắt tiền nhất Thế giới _ Blue Label mang đến những đặc tính và hương vị khác biệt, nổi bật, một sản phẩm tiêu biểu của thế kỷ thứ 19, để phục vụ cho các khách hàng quý tộc, sang trọng. Blue Label với hương vị mạnh mẽ, hiếm có sẽ mang đến cho người thưởng thức những trải nghiệm mãnh liệt. Mỗi thành phẩm được xem như một món quà quý báu và được đánh số Seri riêng biệt
Chai rượu Blue Label được làm bằng thủy tinh Flint, được thổi ra từ những cái khuôn của Johnnie Walker đã có từ thế kỷ thứ 19, bảo vệ Whisky quý hiếm ở bên trong bằng nút bấc truyền thống.
- J&B: Thú vị với J& B Bỏ túi màu vàng.
| 1 | null |
Ga Đồng Đăng là một nhà ga xe lửa tại thị trấn Đồng Đăng, Cao Lộc, Lạng Sơn. Được kết nối với Trung Quốc tại khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Nhà ga là điểm kết thúc tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng và được nối với ga Bằng Tường thuộc tuyến đường sắt Hành Dương - Bằng Tường của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Lịch sử.
Ngày 24 tháng 4 năm 1889, Chính phủ Pháp quyết định xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên ở Bắc Kỳ.
Năm 1902,ga Đồng Đăng được hình thành như là một điểm đỗ cuối của tuyến đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan.
Năm 1908, ga Đồng Đăng trở thành nhà ga có tác nghiệp cả hai đầu.Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, tuyến đường sắt bị tê liệt,nhà ga bị bỏ hoang.
Ngày 28 tháng 2 năm 1955, chuyến tàu đầu tiên thông đường đã chạy từ ga Yên Viên lên ga Đồng Đăng sang ga Bằng Tường (Trung Quốc).
Ngày 19 tháng 7 năm 1955, Hội nghị liên vận 10 nước xã hội chủ nghĩa (OSZD) họp ở Berlin (Đức) thống nhất kết nạp Đường sắt Việt Nam là thành viên.Đó cũng là ngày ga Đồng Đăng trở thành ga liên vận quốc tế - nơi cuối tiễn đưa các đoàn tàu chở hành khách, hàng hoá quốc tế vào Việt Nam cũng như của Việt Nam ra quốc tế.Trong chiến dịch Linebacker, Đồng Đăng là ga địa đầu nằm trên tuyến đường chiến lược, các ga trên tuyến đường sắt Hà Nội - Hữu Nghị thành cảng nổi tiếp nhận toàn bộ hàng viện trợ và hàng nhập thay cho cảng Hải Phòng.
Năm 1992, từ trong đổ nát, nhà ga đã hồi sinh.
Năm 1996, nhà ga được khánh thành khôi phục thông xe đường sắt liên vận quốc tế Việt Nam-Trung Quốc.
Ngày 26 tháng 2 năm 2019, nhà ga vinh dự đón tiếp và tiễn chủ tịch Triều Tiên Kim Chính Ân lần đầu đến Việt Nam trong chuyến tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Hoa Kỳ - Triều Tiên lần thứ 2 và thăm hữu nghị chính thức Việt Nam.
Xem thêm.
Ga quốc tế Đồng Đăng - Điểm du lịch có bề dày truyền thống lịch sử
| 1 | null |
Walther P38 là một loại súng lục, súng ngắn bán tự động được thiết kế bởi nhà máy vũ khí Walther và Mauser của Đức và được sử dụng rộng rãi bởi quân đội Đức Quốc xã trong suốt thế chiến thứ hai. Nó cũng sử dụng loại đạn nổi tiếng 9x19mm như khẩu súng lục Luger P08, nó được thiết kế ra nhằm mục đích thay thế khẩu Luger đã lỗi thời. Mười mấy năm sau khi thế chiến hai kết thúc, một số biến thể khác của khẩu Walther P38 cũng ra đời.
Khi thế chiến thứ hai diễn ra, Walther P38 và Luger P08 đã trở thành 2 khẩu súng ngắn tiêu chuẩn của các sĩ quan lẫn cả binh lính Đức Quốc xã, nhưng các sĩ quan thì rất ít dùng Walther P38 bởi vì đối với họ nếu mang theo khẩu Luger thì chẳng khác nào mang theo một huân chương cao quý, còn khẩu P38 chỉ là một khẩu súng yếu ớt. Hầu hết kháng chiến quân ở châu Âu cũng dùng khẩu Walther P38 rất nhiều, chủ yếu họ mua lại từ các chợ đen bán súng lậu, một số thì cướp được của quân Đức lẫn với cảnh sát địa phương trong lúc đi truy lùng người Do Thái, một số thì dựa theo những bản mẫu rồi tự thiết kế tại nhà. Tuy được sử dụng chung trong một quân đội nhưng cũng có thể nói Walther P38 và Luger P08 là đối thủ của nhau trong suốt thế chiến thứ hai, 2 khẩu súng lục Walther PP và Walther PPK không thể là đối thủ của P38 hay Luger hay bất cứ khẩu súng lục nào khác vì chúng là những khẩu súng lục nhỏ nhất và có độ chính xác thấp nhất thời đó.
Đến những năm 1945 trở đi tức là thời kỳ chiến tranh Đông Dương thứ hai tiếp diễn, khi quân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam một lần nữa thì họ đã mua một số lượng Walther P38 khá nhỏ giao lại cho những người mật thám. Chúng ta thấy trong những bộ phim hay trò chơi nói về đề tài chiến tranh Đông Dương thì không bao giờ thấy khẩu P38 do nó xuất hiện chưa đến 50 khẩu trong thời gian chiến tranh Đông Dương nên những đoàn làm phim cùng với những nhà thiết kế game cảm thấy không cần đưa nó vào bộ phim hay trò chơi mình tạo ra. Walther P38 chỉ xuất hiện trong những bộ phim hay trò game về đề tài thế chiến thứ hai như là phim Force 10 from Navarone, Schindler's List, Valkyrie, Defiance... và những trò game Call of Duty, Medal of Honor...
| 1 | null |
Pop Life là album phòng thu thứ ba của DJ người Pháp David Guetta. Album được phát hành vào tháng 6 năm 2007 và được sản xuất bởi Joachim Garraud. Người cộng sự lâu năm Chris Willis vẫn là giọng ca chính, ngoài ra còn có một số ca sĩ khách mời khác như JD Davis, Juliet, Tara McDonald, Cozi Costi, Thailand. Đĩa đơn đầu tiên từ "Pop Life" là "Love Is Gone", đã lọt vào Top 10 hit tại bảng xếp hạng UK Singles Chart ở vị trí thứ 9. Bản phối khí của Fred Riester và Joachim Garraud đã được chơi trên nhiều sàn nhảy lớn. Đĩa đơn thứ hai của album là "Baby When the Light", có sự góp giọng của Cozi Costi. Các đĩa đơn còn lại là "Delirious", "Tomorrow Can Wait", "Everytime We Touch"
| 1 | null |
Quốc lộ 47 là đường bộ quốc gia thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.
Quốc lộ 47 có chiều dài 138 km, điểm đầu thuộc phường Trường Sơn, thành phố Sầm Sơn, điểm cuối là cửa khẩu Khẹo, huyện Thường Xuân.
Quốc lộ 47 đi qua các huyện và thành phố: Sầm Sơn, Thanh Hóa và các huyện: Đông Sơn, Triệu Sơn, Thọ Xuân, Thường Xuân.
| 1 | null |
"Money" là một ca khúc nhạc house được biểu diễn bởi DJ người Pháp David Guetta, Chris Willis và Moné. Đây là đĩa đơn đầu tiên cho album phòng thu thứ hai của Guetta, "Guetta Blaster", và được phát hành vào ngày 9 tháng 4 năm 2004. Đĩa đơn này đạt được thành công lớn nhất khi lọt vào nảng xếp hạng Belgian Singles Chart của Bỉ tại vị trí thứ 12. Tuy nhiên, "Money" lại không được phát hành ở Anh.
| 1 | null |
Nguyễn Thị Chiên (1930 – 2016) là một sĩ quan của Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Trung tá. Bà là nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân đầu tiên của quân đội Việt Nam.
Cuộc đời.
Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 tại xóm Trại Đồng, xã Tân Tiến (nay là thị trấn Kiến Xương, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình). Gia đình bà vốn có 5 người con, nhưng 4 trong số đó đã qua đời trong Nạn đói năm Ất Dậu. Từ nhỏ, bà đã phải làm nhiều công việc để trang trải cuộc sống. Đến năm 15 tuổi, bà bắt đầu tham gia hoạt động du kích tại địa phương, là trung đội trưởng đội nữ du kích xã Tán Thuật (Kiến Xương, Thái Bình).
Quân nghiệp.
Năm 1946 đến năm 1952, Nguyễn Thị Chiên tham gia xây dựng cơ sở kháng chiến ở 5 thôn, xây dựng và chỉ huy Đội du kích xã Tán Thuật (nay là thị trấn Thanh Nê) đánh địch ,chống càn phá giao thông đường 39, phá tề. Bà đã tiêu diệt, làm bị thương và bắt 15 quân địch .
Tháng 4 năm 1950, trong khi đưa cán bộ về hoạt động tại xã, bà bị quân địch bắt, dụ dỗ và tra tấn suốt 3 tháng rưỡi. Nhưng bà vẫn trung thành, không khai báo .
Tháng 10 năm 1951, trong một trận phục kích đánh địch trên đường 39, bà đã bắn 1 quân địch, bắt sống được 6 lính địch, thu được 4 khẩu súng
Tháng 12 năm 1951, khi quân đội Pháp lùng sục vào làng, Bà đã chỉ huy du kích bất ngờ xông ra bắt sống 4 tên lính Pháp.
Trong đợt thi đua từ 19-5 đến 19-12-1951, đơn vị du kích của bà đã thắng 10 trận, tự tay bà thu được 15 súng và bắt sống 12 địch và trong đó có 1 quan chức của Pháp.
Năm 1952, Nguyễn Thị Chiên được bầu là chiến sĩ thi đua toàn quốc. Bà là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Sau Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ Thi đua toàn quốc, Anh hùng Nguyễn Thị Chiên được cử tham gia đoàn đại biểu Việt Nam đi dự Đại hội Hòa bình châu Á – Thái Bình Dương tại Bắc Kinh (Trung Quốc), Đại hội Hòa bình Thế giới tại Áo.
Bà được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng một khẩu súng ngắn. Dưới bút danh C.B. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài "Nguyễn Thị Chiên" đăng trên báo Nhân Dân nêu bật tấm gương của bà. Đến năm 1953, bà mới chính thức gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Sau kháng chiến chống Pháp, bà Nguyễn Thị Chiên về công tác tại Cục Chính trị, Quân khu Thủ đô. Bà được phong quân hàm trung tá năm vào năm 1984.
Nguyễn Thị Chiên qua đời vào lúc 8h20 phút sáng ngày 1/6/2016, tại Bệnh viện Đa khoa Đức Giang (Long Biên, Hà Nội), hưởng thọ 87 tuổi.
| 1 | null |
Muttrah (tiếng Ả Rập: مطرح) dân số 150.000 người (năm 2003), là một thành phố nằm ở tỉnh Muscat của Oman. Trước khi phát hiện dầu, Muttrah là trung tâm thương mại ở Oman. Nó vẫn là một trung tâm thương mại và có một trong những cảng biển lớn nhất của khu vực. Các công trình nổi bật khác bao gồm Souq Muttrah, chợ truyền thống và chua Al-Lawatiah, một cộng đồng nhỏ với ngôi nhà được bao quanh bởi một bức tường thành cũ.
Thường được gọi là Cảng Muscat, cảng Sultan Qaboos là một trong những cảng thương mại chính ở Oman. Đây là cửa ngõ hàng hải hàng đầu của Oman, có một vị trí đắc địa trong vương quốc Hồi giáo ổn định chính trị. Nằm ở một bến cảng tự nhiên 250 km về phía nam của eo biển Hormuz trên bờ biển Ấn Độ Dương của bán đảo Ả Rập.
| 1 | null |
Chat với Mozart là album phòng thu của ca sĩ Mỹ Linh được phát hành vào ngày 10 tháng 9 năm 2005. Tính đến năm 2019, album đã bán được hơn 120.000 bản và là album cổ điển giao thoa bán chạy nhất lịch sử nhạc Việt. Đây là sản phẩm từ một dự án táo bạo mà Mỹ Linh đã hát nhạc cổ điển theo phong cách R&B với phần lời được viết bởi nhạc sĩ Dương Thụ. Đây là lần đầu tiên album của Mỹ Linh được thu âm tại Anh Em Studio và sản xuất bởi công ty Diệu Thanh.
Anh Quân, Huy Tuấn và ban nhạc Anh Em tiếp tục là ê-kíp phụ trách chuyên môn cho album của Mỹ Linh. Ảnh bìa được nhiếp ảnh gia Dương Minh Long chụp tại Nhà hát Lớn Hà Nội trong một serie các bức ảnh chụp Mỹ Linh mà sau đó đều được đưa vào trong album.
"Chat với Mozart" là album thành công về mặt thương mại cũng như chuyên môn của Mỹ Linh. Dù vướng phải vụ kiện về quyền tác giả với luật sư Cù Huy Hà Vũ, album vẫn có được những đánh giá rất tích cực từ công chúng và các nhà phê bình. Tại "Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến" lần thứ nhất năm 2005, "Chat với Mozart" được vinh dự trao tặng giải "Album của năm".
Hoàn cảnh ra đời.
Thu âm và sản xuất.
Sau thành công của "Made in Vietnam" (2003), Mỹ Linh và ê-kíp của ban nhạc Anh Em bắt đầu một dự án mới táo bạo hơn. Vẫn theo đuổi phong cách R&B, song họ đã nghĩ tới một chủ đề mới, đòi hỏi nhiều tính chuyên môn hơn, đó chính là mang âm nhạc giao hưởng thính phòng vào nhạc nhẹ với mong muốn giúp khán giả trẻ làm quen với thể loại nhạc cổ điển, vốn bị định kiến là một thể loại nhạc dài dòng, không hay và khó hiểu.
Nhạc sĩ Dương Thụ nhớ lại: "Ý tưởng thực hiện Chat với Mozart đến trong một lần tôi trò chuyện cùng nhạc sĩ Huy Tuấn. Chúng tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm của mình – những người đang hoạt động nhạc nhẹ nhưng trọng nhạc cổ điển – với các bạn trẻ, những người cho rằng nhạc cổ điển là già cỗi, khó nghe nên không chủ động tiếp cận."
Phần lời được viết hoàn toàn bởi nhạc sĩ Dương Thụ. Ông nói: ""Với mục đích "phục vụ" thính giả Việt Nam, tôi cố gắng chuyển những tác phẩm cổ điển mang giai điệu phương Tây thành những ca khúc cho người Việt Nam hát, khiến người nghe Việt phải bắt gặp bản thân mình trong đó. Và vì hướng đến những người trẻ nên lời ca phải tương đối giản dị và có chất văn."" Mỹ Linh nhận xét: "Theo cảm quan cá nhân, tôi thấy ca từ vẫn nhẹ nhàng gần gũi đúng kiểu Dương Thụ với các chủ đề về tình yêu, về những mộng mơ của con người, về thiên nhiên và cuộc sống hằng ngày... Tôi cho rằng ca từ rất trong sáng và chân thành.".
Phần hòa âm được 2 nhạc sĩ Anh Quân và Huy Tuấn phụ trách. Album cũng mời tới sự cộng tác của các nghệ sĩ trẻ hát thính phòng hàng đầu Việt Nam như Trọng Tấn, Khánh Linh, Mạnh Dũng để hát bè cũng như cố vấn chuyên môn cho các ca khúc. Cái tên "Chat với Mozart" là do nhạc sĩ Huy Tuấn nghĩ ra, Mỹ Linh nói: "Nhắc tới Mozart thì ai cũng biết Mozart ở đây là biểu trưng của một dòng nhạc từng làm chủ cả thế giới chứ không chỉ mang ý nghĩa về tác giả - tác phẩm. [..] (Công chúng trẻ) sẽ nghe nhạc cổ điển qua những phong cách âm nhạc đương đại như R&B, jazz, funk... mà chúng tôi đã thể hiện trong loạt album "Tóc ngắn", "Made in Vietnam". Tên album là "Chat với Mozart", nhưng tôi nghĩ chúng tôi đang chat với cả một thế hệ người nghe nhạc mới đấy."
Ảnh bìa album được chụp tại Nhà hát lớn Hà Nội bởi nhiếp ảnh gia Dương Minh Long trong một serie mà người nghe có thể thấy nó trong nội dung của album. Phần thiết kế được thực hiện bởi nghệ sĩ Xuân Đông và ILU Group. Ngoài công ty Diệu Thanh, album cũng được hỗ trợ bởi Học viện Công nghệ thông tin Hà Nội (HanoiCTT) và Hãng mỹ phẩm Olay.
Ê-kíp cũng mời rất nhiều nghệ sĩ tới cộng tác, trong đó có dàn dây Nhạc viện Hà Nội, dàn hợp xướng Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt Nam, và các nghệ sĩ Sơn Trạch, Quyền Thiện Đắc, Quốc Hưng...
Vụ kiện quyền tác giả.
Năm 2006, luật sư Cù Huy Hà Vũ gửi đơn kiện album "Chat với Mozart" tới Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội và Cục bản quyền tác giả văn học - nghệ thuật, với đối tượng cụ thể là Mỹ Linh và nhạc sĩ Dương Thụ, vì cho rằng việc đặt lời Việt cho các tác phẩm cổ điển vi phạm Công ước Berne. Luật sư viết: "Theo Luật Sở hữu Trí tuệ, quyền nhân thân bao gồm bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả, và quyền này được bảo hộ vô thời hạn... Rõ ràng phổ lời tác phẩm âm nhạc không lời là một hành vi xâm phạm sự toàn vẹn của tác phẩm... và vì thế đã xâm phạm quyền nhân thân của tác giả... Điều 16 Công ước Berne quy định mọi tác phẩm phi pháp (xâm phạm quyền tác giả) sẽ bị tịch thu.". Ông Vũ cũng nói rằng ông kiện ca sĩ trong nước vi phạm bản quyền nhạc nước ngoài là nhằm sau này "bảo vệ các nhạc sĩ trong nước nếu họ bị vi phạm bản quyền ở nước ngoài." Sự kiện này đe dọa trực tiếp tới việc cấp giấy phép cho kế hoạch ngay sau đó của Mỹ Linh, "Mỹ Linh Tour '06" – chương trình biểu diễn lớn nhất trong sự nghiệp của cô.
Tháng 4 năm 2007, Cục bản quyền tác giả văn học - nghệ thuật ký Công văn số 91/BQTG-BQ để trả lời vụ việc trên: ""Các trích đoạn tác phẩm âm nhạc của tám nhạc sĩ nước ngoài được sử dụng trong đĩa nhạc "Chat với Mozart" đều thuộc loại tác phẩm đã hết thời hạn. Nhạc sĩ Dương Thụ đã sử dụng các trích đoạn từ các tác phẩm của các nhạc sĩ đó, không sửa, đổi để sáng tạo tác phẩm mới.""
Phát hành và đón nhận của công chúng.
Ở miền Bắc, album được phát hành bởi LCD Music, trong khi ở miền Nam, Viết Tân Studio tiếp tục là nhà phát hành album của Mỹ Linh. Ít nhất hơn 20.000 bản đã được bán hết trong đợt phát hành đầu tiên. "Chat với Mozart" xuất hiện trên iTunes vào ngày 24 tháng 9 năm 2007. Tháng 9 năm 2007, "Chat với Mozart" cùng "Made in Vietnam" (2003) và "Để tình yêu hát" (2006) là 3 CD được Mỹ Linh phát hành tại Nhật Bản qua nhà phân phối Pony Canyon. Album được bổ sung thêm 2 ca khúc bonus là "Color of the Moon" (sáng tác của Francis Lee) và "Hương ngọc lan" (sáng tác của Anh Quân)<ref name='Dep Online 11/09/2007'></ref>.
Khi mới phát hành, album nhận được nhiều sự e dè từ chính những người trong cuộc. Mỹ Linh từng bộc bạch: "Đúng là chúng tôi từng e ngại vì những giai điệu cổ điển rất khó tiếp cận với giới trẻ hiện nay. Nhưng với cách làm và tham vọng của mình, chúng tôi nghĩ đây sẽ là một dịp tốt để đưa những tác phẩm ấy đến với công chúng trẻ." Quả vậy, album đã nhận được rất nhiều ý kiến trái chiều từ dư luận. Nhạc trưởng Nguyễn Thiếu Hoa – Trưởng khoa Lý luận-Sáng tác-Chỉ huy của Nhạc viện Hà Nội – phê phán kịch liệt album là "một sự tùy tiện thiếu suy nghĩ" và cho rằng phần lời của nhạc sĩ Dương Thụ "đã tạo thành sản phẩm khôi hài".
Tuy nhiên, album lại nhận được những đánh giá rất tích cực từ công chúng và giới chuyên môn. Album được khen ngợi khi đã khai thác triệt để kỹ thuật và cữ giọng của Mỹ Linh và tạo điều kiện cho Anh Quân và Huy Tuấn thể hiện khả năng phối khí hiện đại. Nhạc sĩ Bảo Chấn nói: "Tôi cho rằng "Chat với Mozart" của Linh mới là đỉnh cao nhất của sự nghiệp ca hát, không chỉ của riêng Mỹ Linh. Album đó đưa Mỹ Linh đến một đẳng cấp khác hẳn những đồng nghiệp, nhất là thẩm mỹ âm nhạc. Có thể, sau này có đôi lúc Linh quay lại hát hàng chợ đi chăng nữa, thì cách làm của cô ấy vẫn rất đầy đặn và nồng nàn. Tôi ái mộ Mỹ Linh về hình ảnh biểu trưng ấy, nhất là cách biểu diễn."
Tháng 1 năm 2006, "Chat với Mozart" được chọn là "Album của năm" tại Giải Cống hiến 2005 với số phiếu áp đảo: 33/61.
"Chat với Mozart" tạo cảm hứng để nghệ sĩ Nguyễn Bách lập ra ban nhạc Credo vào năm 2009.
"Chat với Mozart" chính là phần mở đầu trong chương trình 'Cửa sổ âm nhạc' số 2: Tôi mơ một giấc mơ (2013), được thực hiện bởi nhạc sĩ Dương Thụ.
| 1 | null |
Xử tử bằng điện giật được thực hiện thông qua ghế điện, là một phương pháp hành quyết có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, trong đó người tử tù sẽ bị trói vào một chiếc ghế gỗ được chế tạo đặc biệt và để cho một dòng điện cực lớn chạy qua cơ thể của người tử tù thông qua các điện cực được gắn chặt trên đầu và chân của họ. Phương pháp hành quyết này, được hình thành vào năm 1881 bởi một nha sĩ ở Buffalo, New York tên là Alfred P. Southwick, được phát triển trong suốt những năm 1880, với sự tham gia tích cực của công ty điện Thomas Edison, quá trình nghiên cứu phát triển ghế điện được các nhà sử học kinh tế đương thời xem là một phần của "Chiến tranh các dòng điện", một cuộc xung đột giữa 2 triết lý dòng điện một chiều (DC) được bảo vệ bởi Thomas Edison và điện xoay chiều (AC) được bảo vệ bởi George Westinghouse. Dòng điện chết người được sử dụng trong ghế điện là điện xoay chiều, việc theo đuổi phát minh này của Thomas Edison chỉ để cho người Mỹ thấy rằng: "dòng điện xoay chiều nguy hiểm hơn dòng điện một chiều rất nhiều".
Tử hình bằng ghế điện được xem là hình thức hành quyết nhân đạo, dùng để thay thế cho treo cổ. Trên thế giới, chỉ có Hoa Kỳ mới áp dụng phương pháp tử hình này. Philippines dưới thời là thuộc địa của Hoa Kỳ, cũng sử dụng ghế điện làm công cụ tử hình, bắt đầu từ năm 1924 cho đến khi quốc gia Đông Nam Á này loại bỏ vào năm 1976. Mặc dù về lý thuyết, ban đầu người ta tin rằng, tử tù bị giết chết trên ghế điện là do tổn thương não, nhưng vào năm 1899, nó đã được giải thích rằng: tử tù chết chủ yếu là do rung tâm thất và cuối cùng dẫn đến ngưng tim.
Mặc dù ghế điện từ lâu đã trở thành biểu tượng của án tử hình ở Hoa Kỳ, nhưng việc sử dụng công cụ này ngày càng ít đi, do phương pháp tử hình bằng tiêm thuốc độc được ưa chuộng hơn, vì nó vốn được cho là một phương pháp hành quyết nhân đạo. Trong khi một số tiểu bang vẫn duy trì ghế điện như một phương pháp hành quyết hợp pháp, ngày nay nó chỉ được duy trì như một phương pháp phụ có thể được lựa chọn thay thế theo yêu cầu của tù nhân, ngoại trừ ở Tennessee và Nam Carolina, nơi mà ghế điện được sử dụng thường trực và bắt buộc nếu nguồn thuốc độc dùng để tử hình hết, không có sẵn ngay để thực hiện tử hình. Kể từ năm 2021, ghế điện là một hình thức hành quyết không bắt buộc ở các bang Alabama và Florida, cả hai tiểu bang này đều cho phép tù nhân lựa chọn tiêm thuốc độc như một phương pháp thay thế, nếu họ không muốn bị hành quyết bằng ghế điện. Ở bang Kentucky, hình thức tử hình bằng ghế điện đã bị loại bỏ hoàn toàn, ngoại trừ những người bị kết án tử hình với những vi phạm xảy ra trước ngày 31 tháng 3 năm 1998, và những người chọn phương pháp tử hình bằng ghế điện; những tù nhân không chọn ghế điện và những tù nhân bị kết án tử hình vì những tội ác sau ngày đó sẽ bị tử hình bằng cách tiêm thuốc độc. Ghế điện cũng được cho phép ở Kentucky trong trường hợp việc tiêm thuốc gây chết người bị tòa án phát hiện là vi hiến. Ghế điện là một hình thức hành quyết thay thế được phê duyệt ở Arkansas, Mississippi và Oklahoma nếu các hình thức hành quyết khác được phát hiện là vi hiến trong tiểu bang vào thời điểm hành quyết.
Vào ngày 8 tháng 2 năm 2008, Tòa án Tối cao Nebraska xác định rằng hành quyết bằng ghế điện là một "hình phạt tàn nhẫn và bất thường" theo hiến pháp của tiểu bang. Điều này đã khiến các vụ hành quyết kiểu này kết thúc ở Nebraska.
Lịch sử phát minh.
Ý tưởng ban đầu.
Vào cuối những năm 1870 đến đầu những năm 1880, sự lan rộng của đèn hồ quang, một kiểu chiếu sáng đường phố ngoài trời đòi hỏi điện áp cao trong khoảng 3000–6000 V. Câu chuyện về ánh sáng nhân tạo và sự nguy hiểm của những dòng điện áp cao có thể giết chết người mà không để lại dấu vết được các tờ báo lan truyền nhanh chóng. Một trong những tai nạn này đã diễn ra tại Buffalo, New York, vào ngày 7 tháng 8 năm 1881, dẫn đến sự ra đời của chiếc ghế điện. Tối hôm đó, một công nhân bến tàu say rượu tên là "George Lemuel Smith", đang tìm kiếm lý do tạo ra cảm giác ngứa ran mà anh ta đã nhận thấy khi nắm lấy lan can bảo vệ trong một ngôi nhà điện chiếu sáng bằng đèn hồ quang của Công ty Brush Electric, ông ấy đã tìm cách lẻn vào nhà máy vào ban đêm, tay của ông ấy đã chạm phải một vật phát điện và sự cố này đã giết chết ông ấy ngay lập tức. Nhân viên điều tra vụ án đã nói về sự kiện này tại một hội thảo khoa học địa phương ở Buffalo. Nha sĩ Alfred P. Southwick có mặt tại hội thảo nghĩ rằng có thể tìm thấy một số ứng dụng hữu ích từ những dòng điện gây chết người này, và đây chính là ý tưởng đầu tiên về chiếc ghế điện dùng để tử hình.
Southwick đã tham gia cùng bác sĩ George E. Fell và người đứng đầu Buffalo ASPCA trong một loạt các thí nghiệm điện giật hàng trăm con chó đi lạc. Họ đã thử nghiệm dùng điện giật những con chó ở cả 2 môi trường, ở môi trường khô ráo và cả trong môi trường nước, đồng thời họ thay đổi vị trí đặt điện cực cho đến khi họ chắc chắn tìm ra cách thức để giết chết con vật nhanh nhất bằng điện. Southwick tiếp tục thực hiện các thực nghiệp vào đầu những năm 1880 để khẳng định rằng phương pháp này được sử dụng như một sự thay thế nhân đạo hơn cho phương pháp tử hình treo cổ, điều này đã thu hút sự chú ý của cả nước khi ông công bố ý tưởng của mình trên các tạp chí khoa học vào năm 1882 và 1883. Những phiên bản đầu tiên của chiếc ghế điện được cải biến từ chiếc ghế dùng trong nha khoa.
Uỷ ban Gerry.
Sau một loạt các bản án tử hình bằng phương pháp treo cổ diễn ra ở Mỹ, ngày càng có nhiều người chỉ trích về hình thức tử hình này là vô nhân đạo. Năm 1886, Thống đốc bang New York mới đắc cử là David B. Hill đã cho thành lập một uỷ ban gồm 3 thành viên: Elbridge Thomas Gerry, một nhà hoạt động nhân quyền đứng đầu, hai thành viên khác là luật sư kiêm chính trị gia Matthew Hale và Nha sĩ Southwick. Nhiệm vụ của uỷ ban này là nghiên cứu và tìm ra phương pháp tử hình nhân đạo hơn.
Các thành viên của ủy ban đã khảo sát các cuộc thí nghiệm trước đó và gửi một bảng câu hỏi tìm hiểu thực tế cho các quan chức chính phủ, luật sư và chuyên gia y tế trên khắp tiểu bang để hỏi ý kiến của họ. Một số ít người được hỏi nên áp dụng phương pháp tử hình treo cổ hay điện giật? Thay vì chọn một trong hai thì họ đề xuất bãi bỏ hình phạt tử hình. Ủy ban cũng đã liên hệ với các chuyên gia điện, bao gồm Elihu Thomson của Công ty Điện lực Thomson-Houston (người đã đề xuất điện áp cao AC nối với đầu và cột sống) và nhà phát minh Thomas Edison (người cũng đề xuất AC, cũng như sử dụng máy phát điện Westinghouse). Họ cũng tham dự các thí nghiệm dùng điện giật các con chó của George Fell, người đã làm việc với Southwick trong các thí nghiệm đầu những năm 1880. Fell đang tiến hành các thí nghiệm sâu hơn, đồng thời cho mổ xẻ những con chó để cố gắng tìm ra chính xác cách mà dòng điện giết chết chúng.
Vào năm 1888, Ủy ban đã đề xuất phương pháp điện giật sử dụng ý tưởng ghế điện của Southwick với dây dẫn kim loại gắn vào đầu và chân của tử tù. Họ cũng khuyến nghị rằng các vụ hành quyết được xử lý bởi tiểu bang thay vì tại các địa phương riêng lẻ với ba chiếc ghế điện được thiết lập tại các nhà tù Auburn, Clinton và Sing Sing. Một dự luật theo các khuyến nghị này đã được thông qua bởi cơ quan lập pháp bang và được Thống đốc Hill ký vào ngày 4 tháng 6 năm 1888, có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 1889.
Uỷ ban Pháp lý Y tế New York.
Bản thân dự luật không có thông tin chi tiết về lượng điện và loại dòng điện được sử dụng trong hình thức tử hình bằng ghế điện, vì thế "Hiệp hội Pháp lý Y tế New York" bao gồm các bác sĩ và luật sư được giao nhiệm vụ xác định những thông tin này.
Vào tháng 9 năm 1888, một ủy ban được thành lập và khuyến nghị sử dụng lượng điện 3000 v, mặc dù sử dụng dòng điện một chiều (DC) hay dòng điện xoay chiều (AC), vẫn chưa được xác định, vì các thử nghiệm cho đến thời điểm đó chỉ được thực hiện trên động vật có kích thước nhỏ hơn con người, cụ thể là từ loài chó, một số thành viên không chắc chắn rằng khả năng gây chết người của dòng điện xoay chiều đã được chứng minh đầy đủ.
Tại thời điểm này, những nỗ lực của bang để thiết kế chiếc ghế điện dùng cho tử hình nhân đạo đã bị trộn lẫn vào Cuộc chiến Dòng điện, một cuộc cạnh tranh giữa hệ thống điện một chiều của Thomas Edison và hệ thống dòng điện xoay chiều của George Westinghouse. Hai công ty đã cạnh tranh thương mại từ năm 1886 và một loạt các sự kiện đã biến nó thành một cuộc chiến truyền thông toàn diện vào năm 1888. Người đứng đầu ủy ban, nhà thần kinh học Frederick Peterson, đã mời Harold P. Brown làm cố vấn. Brown đã tự mình thực hiện cuộc thập tự chinh chống lại dòng điện xoay chiều sau khi ông chứng kiến việc lắp đặt kém chất lượng các đường dây chiếu sáng hồ quang điện xoay chiều ở thành phố New York đã gây ra một số cái chết vào đầu năm 1888.
Cuộc chiến giữa các dòng điện.
Sau khi phát minh ra bóng đèn mang tính ứng dụng đầu tiên, ai cũng muốn có điện trong nhà mình. Đã có hai người đàn ông tranh chấp với nhau nhằm chiếm lĩnh thị trường. Thomas Edison sử dụng dòng điện một chiều (DC), còn George Westinghouse nghĩ rằng dòng điện xoay chiều (AC) ưu việt hơn. Cuộc xung đột của họ được biết đến như chiến tranh các dòng điện.
Lúc đầu, dòng điện một chiều của Edison dẫn đầu nhờ vào danh tiếng của ông, nhưng dòng điện xoay chiều nhanh chóng bắt kịp vì nó dễ dàng và rẻ hơn trong việc truyền tải đường dài. Edison đã tìm cách làm mất uy tín của dòng điện xoay chiều, bằng việc chứng minh rằng nó rất nguy hiểm. Ông đưa ra những lời cảnh báo khốc liệt với công chúng. Ông còn đề nghị bang New York sử dụng máy điện xoay chiều của Westinghouse làm phương pháp tử hình nhân đạo. Edison nói rằng nếu sử dụng dòng điện xoay chiều sẽ tạo ra "cái chết ngay lập tức". Tuy Westinghouse không đồng ý cung cấp máy điện xoay chiều để làm thử nghiệm việc dùng ghế điện, nhưng Edison và những đồng nghiệp của ông đã dùng phòng thí nghiệm bí mật để làm ra chiếc máy điện xoay chiều và thí nghiệm trên các động vật. Ban đầu ông thí nghiệm trên 50 con chó, mèo sau đó là trên các con vật lớn hơn như bò, ngựa và công dụng của nó vô cùng hiệu quả, làm người xem phải rùng mình. Và chiếc ghế điện dùng để tử hình mà chúng ta biết ngày nay ra đời rất tình cờ với kết quả của cuộc đấu đá giữa dòng điện xoay chiều và một chiều. Tuy Edison (dòng điện một chiều) thắng trong cuộc đua này, nhưng về sau ta thấy dòng điện xoay chiều của Westinghouse được phổ biến hơn cả.
Ngày 6 tháng 8 năm 1890, tử tù William Kemmler (tội giết người) bị đưa lên chiếc ghế điện. Hắn là tử tù đầu tiên bị xử tử bằng ghế điện, đó là thành quả rùng rợn của cuộc đấu đá tiếp thị giữa Edison và Westinghouse.
Lần đầu tiên ghế điện được sử dụng.
Tử tù đầu tiên bị hành quyết bằng ghế điện là William Kemmler trong nhà tù Auburn, New York vào ngày 6 tháng 8 năm 1890, người thực hiện việc thi hành án tử hình là Edwin Davis. Đầu tiên, nguồn điện được cho qua cơ thể của tử tù trong 17 giây, và gây ra bất tỉnh, không làm cho tử tù chết. Hai bác sĩ ở pháp trường lúc đó là Edward Charles Spitzka và Charles F. Macdonald, đi lên để kiểm tra Kemmler, sau khi xác nhận Kemmler chưa chết. Tiếp tục cho dòng điện qua tử tù một lần nữa, lần này dòng điện lên đến 2000 vôn. Các mạch máu dưới da của Kemmler bị vỡ ra và chảy ra ngoài cơ thể tử tù, việc thi hành toàn bộ vụ xử tử phải mất đến 8 phút. George Westinghouse đã nhận xét rằng: "họ có thể làm tốt hơn bằng cách sử dụng một cái rìu", và một phóng viên chứng kiến vụ hành quyết phát biểu rằng: "đó là một cảnh tượng khủng khiếp, tồi tệ hơn cả việc treo cổ".
Nữ tử tù đầu tiên bị kết liễu bằng ghế điện là Martha M. Place, tại nhà tù Sing Sing vào ngày 20/3/1899.
Phổ biến ra toàn quốc.
Ghế điện đã được tiểu bang Ohio (1897), Massachusetts (1900), New Jersey (1906) và Virginia (1908) áp dụng, và nhanh chóng trở thành phương pháp tử hình phổ biến ở Hoa Kỳ, thay thế cho việc treo cổ. 26 Tiểu bang Hoa Kỳ, Đặc khu Columbia, chính phủ Liên bang và Quân đội Hoa Kỳ đã nhanh chóng sử dụng hình thức này. Ghế điện vẫn là phương pháp hành quyết nổi bật nhất cho đến giữa những năm 1980 khi tiêm thuốc độc được chấp nhận rộng rãi để tiến hành các vụ tử hình, vì nó được xem là loại hình nhân đạo hơn.
Ghế điện trên thế giới.
Các quốc gia khác dường như đã từng tham khảo và có dự định sử dụng ghế điện trong việc thực hiện tử hình thay cho treo cổ, chém đầu hay tử hành bằng súng, vì tính nhân đạo của nó.
Philippines.
Dưới thời còn là thuộc địa của Mỹ, Philippines cũng áp dụng ghế điện, và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1926. Một vụ hành quyết ba người được công khai rộng rãi diễn ra ở đó vào tháng 5 năm 1972, khi Jaime Jose, Basilio Pineda và Edgardo Aquino bị điện giật vì vụ bắt cóc và cưỡng hiếp tập thể năm 1967 đối với nữ diễn viên trẻ Maggie de la Riva. Vụ hành quyết bằng ghế điện cuối cùng ở Philippines là vào năm 1976 và sau đó được thay thế bằng hình thức tiêm thuốc độc.
Ethiopia.
Theo một số nguồn tin, Đế quốc Ethiopia đã cố gắng sử dụng ghế điện như một phương pháp xử tử tội phạm. Hoàng đế Menelik II được cho là đã mua ba chiếc ghế điện vào năm 1896, nhưng không thể làm cho các thiết bị hoạt động vì quốc gia của ông không có nguồn điện đáng tin cậy vào thời điểm đó. Hai trong số 3 chiếc ghế được sử dụng làm đồ nội thất trong vườn hoặc được tặng cho bạn bè và Menelik II được cho là đã sử dụng chiếc ghế điện thứ ba làm ngai vàng.
Vương quốc Anh.
Ủy ban Hoàng gia về Trừng phạt của Vương quốc Anh đã xem xét việc thay thế treo cổ bằng ghế điện (cũng như xem xét phòng hơi ngạt, tử hình bằng súng, máy chém và tiêm thuốc độc), các phát hiện được công bố vào năm 1953. Ủy ban kết luận rằng ghế điện không có lợi thế cụ thể so với treo cổ. Hình phạt tử hình ở Vương quốc Anh đã được bãi bỏ vào năm 1965.
Những sự kiện về ghế điện đáng chú ý.
Kẻ giết người hàng loạt Lizzie Halliday là người phụ nữ đầu tiên bị kết án tử hình trên ghế điện vào năm 1894, nhưng thống đốc Roswell P. Flower đã giảm án xuống chung thân trong một trại tâm thần sau khi ủy ban y tế tuyên bố cô ta bị mất trí. Người phụ nữ thứ hai bị kết án tử hình vào năm 1895, Maria Barbella, nhưng được tuyên trắng án vào năm sau. Martha M. Place trở thành người phụ nữ đầu tiên bị hành quyết trên ghế điện tại Nhà tù Sing Sing vào ngày 20 tháng 3 năm 1899, vì tội giết con gái riêng 17 tuổi của mình, Ida Place.
Bức ảnh đầu tiên về cuộc hành quyết bằng ghế điện là của Ruth Snyder tại nhà tù Sing Sing vào tối ngày 12 tháng 1 năm 1928, vì tội giết chồng mình vào tháng 3 năm 1927. Nó đã được chụp lại bởi nhiếp ảnh gia tin tức Tom Howard, người đã lén đưa một chiếc máy ảnh vào buồng tử thần và chụp ảnh cô trên ghế điện khi dòng điện đang được bật. Bức ảnh này đã được đăng trên trang nhất của New York Daily News vào sáng hôm sau. Cho đến nay, bức ảnh này vẫn là một trong những ví dụ nổi tiếng nhất về nghệ thuật kể chuyện bằng ảnh.
Một kỷ lục về "tử hình bằng ghế điện" đã được thiết lập vào ngày 13 tháng 7 năm 1928, khi 7 người đàn ông bị hành quyết liên tiếp trên ghế điện tại Nhà tù Tiểu bang Kentucky ở Eddyville Kentucky.
Vào ngày 16 tháng 6 năm 1944, một thiếu niên người Mỹ gốc Phi, George Stinney, 14 tuổi, trở thành người trẻ nhất từng bị hành quyết trên ghế điện, vụ tử hình này được thực hiện tại Viện cải huấn trung ương ở Columbia, Nam Carolina. Lời kết tội này đã bị lật ngược vào năm 2014, sau khi một thẩm phán tòa án tuyên bố bằng chứng kết tội Stinney không đầy đủ và cơ quan tố tụng đã vi phạm các quyền dành cho Stinney theo Tu chính án thứ 6, trong Hiến pháp Hoa Kỳ.
Vào ngày 25 tháng 5 năm 1979, John Spenkelink trở thành người đầu tiên bị tử hình bằng ghế điện sau phán quyết Gregg kiện Georgia của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ năm 1976. Ông là người đầu tiên bị hành quyết tại Hoa Kỳ theo cách này kể từ năm 1966.
Người cuối cùng bị hành quyết bằng ghế điện trước khi có các loại hình mà tử tù có thể lựa chọn để thay thế là Lynda Lyon Block vào ngày 10 tháng 5 năm 2002, tại Alabama. Sau này, tại nhiều tiểu bang ở Mỹ, tử tù có thể lựa chọn hình thức mà bản thân sẽ bị tử hình, có thể dùng ghế điện hoặc tiêm thuốc độc.
| 1 | null |
Cờ Dưới đây là danh sách các loại cờ từng được dùng làm hiệu kỳ của các tổ chức chính trị - xã hội cấp quốc gia tại Triều Tiên (bao gồm 2 chế độ độc lập là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Đại Hàn Dân quốc) tồn tại trong lịch sử, được các tài liệu độc lập và có uy tín ghi nhận:
| 1 | null |
Bạc hà hay còn gọi ráy Bắc bộ (danh pháp khoa học: Alocasia odora) là loài thực vật có hoa nguồn gốc Đông Nam Á và Đông Á. Loài Ráy Bắc bộ có thể được dùng như một loại thảo dược để điều trị cảm lạnh thông thường ở miền Bắc Việt Nam.
Trong thành phần hóa học của cây có chứa các tinh thể oxalat calci dễ gây ngộ độc, do vậy cần cẩn trọng trong việc sử dụng thực phẩm. Ở Nhật Bản đã có ghi nhận một số trường hợp ngộ độc do ăn tình cờ sử dụng loài này làm thực phẩm. Bộ Y tế - Lao động và Phúc lợi Nhật Bản khuyến cáo không sử dụng loài này làm thực phẩm, họ cũng khuyến cáo về những nhầm lẫn giữa Ráy Bắc bộ và Dọc mùng ("Colocasia gigantea") hoặc "Colocasia esculenta".
| 1 | null |
Ráy (tên khoa học: Alocasia macrorrhizos) là loài thực vật có hoa thuộc họ Ráy, bản địa tại các khu rừng mưa nhiệt đới từ Malaysia đến Queensland, hiện được trồng tại nhiều vùng nhiệt đới khác.
Ráy được thuần hóa để trồng bắt đầu từ Philippines.
Đặc điểm sinh học.
Cây ráy thuộc loài thực vật thân Cỏ, sống nhiều năm. Lá cây ráy to bản, tiết mồ hôi mạnh nên có tác dụng làm sạch môi trường trong phòng rất tốt.
Là loại cây mọc hoang dại, sống lâu năm, chiều cao từ 1-3m. Lá xếp thành hình hoa thị, mọc đối, lưỡi dẹt, tăng dần, với xoang đáy chiếu xuống dưới. Những chiếc lá xanh dày, có dây, có gân nổi rõ, hình gợn sóng (dài 50 cm- 1,2m và rộng 1,5 -3m) sinh ra trên những thân cứng (cuống lá có bẹ dài) mọc ra từ 1 thân cây thẳng đứng mập mạp (trở thành thân gỗ theo tuổi) mà cuối cùng có thể cao đến 3m.
Toàn bộ cây cuối cùng có thể cao đến 10m trong điều kiện phát triển tối ưu.
Hoa đặc biệt, không sặc sỡ. hoa nở không liên tục quanh năm. Cây có quả với kích thước nhỏ màu xanh, khi chín màu đỏ, có hình dạng như những quả trứng nhỏ bọc xung quanh một cuống, hình thành trong quá trình trồng trọt không thường xuyên. Cụm hoa có đốm màu vàng và lá màu lục, nhưng hoa không có phấn hoa.
Hoạt tính sinh học.
ráy có chứa calci oxalat, hay còn gọi là raphite, một tinh thể không hòa tan. Chất này khiến phần nhựa của cây ráy trở thành nguy cơ gây bỏng da, kích ứng, sưng khi tiếp xúc. Đặc biệt là phần lưỡi, miệng, môi,…
Nếu nhà có con nhỏ hoặc thú cưng thì không nên để các loại ráy trong tầm với của chúng. Chẳng may ăn phải lá ráy thì sẽ bị trúng độc và sưng, dị ứng là triệu chứng nhẹ. Nghiêm trọng sẽ là mất tỉnh táo, khó thở, ảnh hưởng hệ tiêu hóa.
Kể cả không thường xuyên có trẻ em hoặc vật nuôi thì mọi người cũng nên thận trọng khi tiếp xúc với mủ của cây ráy. Khi chưa được làm chín bằng bất cứ hình thức nào thì các bộ phận trên cây này cũng có thể tiềm ẩn sự nguy hiểm.
Một số tác dụng của cây ráy.
Trang trí sân vườn.
- Những căn nhà có thiết kế đặc biệt có thể thoát khí như nhà sàn của quán cà phê, nơi nghỉ mát,…
- Đường đi các khu resort, quán cà phê, biệt thự,…
- Dọc hành lang các trung tâm thương mại.
Dân gian Việt Nam thường sử dụng củ ráy để giảm sốt, trị bệnh gút, mụn nhọt ngoài da và đau nhức xương khớp do phong tê thấp.
Ráy có thể dùng làm thức ăn cho gia súc, hoặc thậm chí cho người. Vào thời kì nạn đói năm 1945, người dân đã phải dùng ráy, khoai lang, cỏ dại, cám để nấu làm đồ ăn cho người.
Trồng và chăm sóc.
Nhân giống.
Là loại cây sinh sản vô tính, nên nhân giống bằng cách phân chia cây con từ thân mẹ và mang đi ươm trồng.
Sau khi trồng cần tưới nước ngay để tạo điều kiện cho ráy bén rễ vào giá thể.
Đất:.
Họ ráy không kén đất canh tác, chịu được đất bùn nhão, đất thịt, chịu phèn chua khá tốt. Sử dụng đất hữu cơ, đất sạch khi trồng cây vào chậu nhỏ.
Nếu muốn cây luôn xanh tốt, bạn cần chọn đất tơi xốp với đầy đủ dinh dưỡng. Một trong những loại đất phù hợp nhất để trồng Ráy cảnh đó là đất thịt. Bạn có thể chuẩn bị chậu có chứa loại đất này và trồng cây con để chăm sóc.
Bón phân:.
Hàng năm từ tháng 1 đến tháng 3 nên bón phân loãng cho cây một lần, có thể tăng tỉ lệ nguyên tố ni-tơ, đồng thời thêm ít sulfat sắt, cũng có thể dùng đất lá mục, đất bùn hoặc đất phù sa làm nguồn dinh dưỡng bổ sung cho cây.
Nên bón phân dưỡng lá, phân trùn quế và một số loại phân hữu cơ khác.
Nhiệt độ:.
Ráy là loài thực vật nhiệt đới, nhiệt độ sinh trưởng phù hợp nhất là từ 20 – 30 độ, thấp nhất có thể chịu được 0-8 độ. Khi nhiệt độ ấm dần lên cần chăm bón nhiều hơn.
Nếu vào mùa đông nên chuẩn bị các biện pháp làm ấm, nhiệt độ phòng không được thấp quá, có thể mở điều hòa âm trong phòng, hoặc trùm túi ni lông lên cây rồi đục vài lỗ để thoát khí.
Độ ẩm:.
Cây ráy ưa ẩm, vào mùa xuân, hè và thu nên duy trì độ ẩm cho đất, độ ẩm trong phòng không nên thấp quá 60%.
Vào mùa đông nên hạn chế tưới nước. Trả cây lại vườn vào mùa xuân. Mặc dù tại bản địa, hay ngoài sân vườn tự nhiên cây ráy cảnh chịu ngập được khá lâu, và có thể ngâm thân rễ trong nước một phần trong suốt thời gian phát triển.
Với cây đã trồng trong chậu, hoặc trong nhà ở hạn chế tối đa tưới nước đẫm.
Ánh sáng:.
Nơi cây được phát triển tốt nhất là trong bóng râm một phần hoặc ánh nắng mặt trời lọc trong đất ẩm đến ẩm ướt, giàu chất hữu cơ ở những vị trí có mái che, tránh gió mạnh có thể làm hỏng nghiêm trọng những lá cây cảnh khổng lồ. Lá thường bị cháy xém khi phơi đủ nắng. Cây sẽ phát triển ở những nơi ngập nước định kỳ. Cuống lá sẽ yếu đi và không có khả năng chống đỡ lá trong bóng râm quá nhiều. Nếu trồng trong nhà không có nắng thì nên đem cây ra phơi nắng 2 đến 4 giờ mỗi ngày.Với những chậu cây được trồng trong nhà thì cần mang ra ngoài nắng khoảng 4-6 tiếng mỗi ngày.
Phòng trừ một số loại bệnh, sâu hại trên ráy:.
- Bệnh cháy sinh lý: cháy mép lá do thời tiết nắng nóng. Trị bệnh bằng thuốc diệt khuẩn Xantocin liều lượng 1 gói/ 1 bình 16 lít nước. Phun cách nhau 5-7 ngày.
- Bệnh thối thân:
+ Sử dụng Mekomil Gold để trị bệnh theo liều lượng pha 50 – 60g với 25 lít nước, phun 400-600 lít/ ha. Thời gian phun cách nhau 7 ngày.
+ Sử dụng thuốc zizomi 1 tuần /1 lần theo liều lượng 1 gói/ 16 lít.
Thu hoạch.
Cây ráy thường thu hoạch khi cây bắt đầu lụi (tùy theo thời tiết từng vùng nhưng thường thì mùa thu hoặc cuối năm). Có thể chưa thu hoạch để mùa sang năm thu hoạch khi cây đã 1 - 2 năm để cây lại phát triển (theo mùa) tiếp. Càng để lâu rễ củ ráy càng to và cao, dài. Nhưng nếu để quá lâu củ ráy sẽ bị rỗ, mắt ráy sâu, sượng. Nếu thu hoạch vào mùa cây bắt đầu sinh trưởng lại ăn thường ngứa và sượng hơn. Thời gian thu hoạch tốt nhất 2 - 4 năm.
Tham khảo.
Phụ lục I: DANH MỤC THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT ĐƯỢC PHÉP SỬ DỤNG TẠI VIỆT NAM
"(Ban hành kèm theo Thông tư số 10/2020/TT-BNNPTNT ngày 09" "tháng 9 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn)."
| 1 | null |
"Stay" là một ca khúc nhạc house được biểu diễn bởi DJ người Pháp David Guetta và nam ca sĩ Chris Willis cho album phòng thu thứ hai của Guetta, "Guetta Blaster". Ca khúc được chọn làm đĩa đơn thứ hai của album và được phát hành vào ngày 13 tháng 9 năm 2004. Đĩa đơn này đạt được thành công lớn nhất khi lọt vào nảng xếp hạng Belgian Singles Chart của Bỉ tại vị trí thứ 10. Tuy nhiên, "Stay" lại không được phát hành ở Anh.
| 1 | null |
7UP là một nhãn hiệu đồ uống nhẹ vị chanh xanh-chanh vàng không chứa caffein. Bản quyền nhãn hiệu thuộc về Dr Pepper Snapple Group của Mỹ và PepsiCo (được nhượng giấy phép) ở bên ngoài nước Mỹ. Logo "7Up" bao gồm một chấm đỏ nằm giữa "7" và "up".
Lịch sử.
7Up được sáng tạo bởi Charles Leiper Grigg. Ông đã thành lập một công ty có trụ sở tại St. Louis, Missouri có tên là The Howdy Corporation vào năm 1920. Năm 1929, Grigg đã đưa ra một công thức đồ uống nhẹ vị chanh, lấy tên ban đầu là "Bib-Label Lithiated Lemon-Lime Soda". Sản phẩm này được giới thiệu đúng hai tuần trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng phố Wall 1929. Từ năm 1950, trong thành phần 7Up có chứa thêm lithium citrate, một loại thuốc an thần (mood-stabilizing drug). Đây là một trong số các sản phẩm thuốc độc quyền (Patent medicine) phổ biến vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Philip Morris đã mua lại 7UP vào năm 1978 và bán nó năm 1986 cho một tập đoàn thuộc hãng đầu tư Hicks & Haas. 7UP đã được hợp nhất với Dr Pepper năm 1988; Cadbury Schweppes đã mua lại công ty hỗn hợp này vào năm 1995. Dr Pepper Snapple Group được tách ra khỏi Cadbury Schweppes năm 2008.
| 1 | null |
Christopher "Chris" Willis là một ca sĩ/nhạc sĩ người Mỹ và hơn nữa, anh còn là một nhà sản xuất âm nhạc. Mặc dù ban đầu anh chỉ là một ca sĩ nhạc phúc âm, nhưng sau này anh đã được nhiều người biết đến với việc cộng tác với DJ người Pháp David Guetta và góp giọng trong nhiều ca khúc của DJ này như "Just a Little More Love", "Love Don't Let Me Go (Walking Away), "Love Is Gone", "Tomorrow Can Wait", "Everytime We Touch" (với Steve Angello và Sebastian Ingrosso), "Gettin' Over You"...
| 1 | null |
Hồ Ayakum( / Ayaqqum köli / Ayaⱪⱪum kɵli; nghĩa là "hồ cát bên dưới"), trong tiếng Hán gọi là "A Nhã Khắc Khố Mộc hồ" (阿雅克库木湖), "A Nhã Cách Khố Mộc Khố Lý" (阿雅格库木库里), "A Nha Khắc Khố Mộc hồ" (阿牙克库木湖) nằm tại phía đông nam của huyện Nhược Khương, khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, Trung Quốc. Hồ nằm ở chân núi phía nam của dãy núi Qimantag (祁漫塔格山) và nằm trong ranh giới của khu bảo tồn thiên nhiên Altyn-Tagh và là một hồ nước mặn. Hồ Ayakum cũng nằm gần ranh giới phía bắc của cao nguyên Thanh-Tạng, ở phía đông nam của dãy Côn Lôn.. Hồ Ayakum nằm trên độ cao 3 876 mét trên mực nước biển, dài 47,8 km, chiều rộng tối đa là 17,6 km và chiều rộng bình quân là 11,25 km, diện tích của hồ Ayakum là 537,6 km². Độ sâu tối đa của hồ Ayakum là 50 mét và độ sâu trung bình là 10 mét. Hai cong sông Y Hiệp Khắc Mạt Đề (依协克帕提河) và Sắc Tư Khắc Á đổ vào (色斯克亚河) đổ nước vào hồ Ayakum.
Khu vực hồ Ayakum có lượng mưa trung bình năm là 100~200 mm, nhiệt độ trung bình năm dưới 0 °C, nhiệt độ tối cao là 6 °C và nhiệt độ tối thấp là -37 °C, có chênh lệch nhiệt lớn giữa ngày và đêm, cường độ bức xạ mặt trời mạnh mẽ. Trong hồ có nguồn sinh vật phong phú, đồng cỏ tại các đầm lầy quanh hồ là thức ăn của gia súc trong huyện Nhược Khương. Màu nước ngọc lam của hồ Ayakum đang dần bị biến thành màu gỉ sắt do do lớp đất đá trầm tích không ngừng chảy xuống lòng hồ.
| 1 | null |
Aleksandr Petrovich Demyanov (, 1910-1978) là một điệp viên của Liên Xô có bí danh là "Heine". Ông được biết đến với vai trò quan trọng trong nhiều chiến dịch tình báo của quân đội Liên Xô trong chiến tranh Xô-Đức, đặc biệt là trong Chiến dịch Sao Hỏa.
Tiểu sử.
Aleksandr Petrovich Demyanov xuất thân từ một gia đình quý tộc thời đế quốc Nga. Cha ông là một sĩ quan Kozak có địa vị cao trong xã hội, từng tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất và tử trận vào năm 1915. Mẹ ông cũng là một quý tộc, từng theo học trường nữ sinh Bestuzhev danh giá và là một phụ nữ có tên tuổi trong giới thượng lưu ở Petrograd thời đó.
Thời niên thiếu của Demyanov trải qua những năm tháng kinh hoàng của cuộc Nội chiến Nga đẫm máu. Sau khi chiến tranh kết thúc, vào giữa thập niên 1920 Demyanov cùng với mẹ trở về Petrograd (lúc này đã đổi tên là Leningrad sinh sống. Tại đây ông làm nghề thợ điện và theo học tại Học viên Bách khoa nhưng sau đó bị đuổi học với lý do là "thành phần xa lạ đối với xã hội". Đến năm 1929 ông bị bắt giữ vì tội tàng trữ vũ khí trái phép và tội tuyên truyền chống Nhà nước Xô Viết - tuy nhiên thật ra vụ việc này đã được sắp đặt. Vào năm đó, Demyanov được Cục Bảo vệ chính trị nhà nước ("" - "OGPU") tuyển mộ làm nhân viên không chính thức của cơ quan này.
Đầu thập niên 1930, Demyanov được thuyên chuyển về thủ đô Moskva và hoạt động dưới vỏ bọc một kỹ sư tại "Glavkinoprokate", một xưởng sản xuất phim nghệ thuật. Theo chỉ thị của cấp trên, Demyanov đã thiết lập mối quan hệ sâu rộng với các nhà báo, nhà ngoại giao và các văn nghệ sĩ trong nước lẫn nước ngoài. Không lâu sau đó, như dự kiến, ông trở thành một "mục tiêu" của cơ quan tình báo Đức Quốc xã.
Khi Chiến tranh Xô-Đức (1941-45) bùng nổ, người đứng đầu cơ quan bảo vệ nội bộ của NKVD là Sudoplatov và Gorlinsky đã yêu cầu L. P. Berya cho phép sử dụng Demyanov vào "Chiến dịch Tu viện" - một "trò chơi điện đài" của cơ quan tình báo Xô Viết với mục đích nhằm "xỏ mũi" Abwehr - cơ quan tình báo Đức Quốc xã. Yêu cầu này được Berya đồng ý. Tháng 12 năm 1941, NKVD đã đưa Demyanov sang khu vực tiền tuyến gần Mozhaisk, và đã bố trí một cuộc đào tẩu "như thật" cho ông sang phía quân Đức ở Smolensk với vỏ bọc là một người Nga căm ghét chế độ Liên Xô và ủng hộ Đức Quốc xã. Sau hơn một tháng thẩm vấn, không phát hiện thấy điều gì nghi ngại. Abwer quyết định "đánh" Demyanov ngược trở lại Liên Xô. Và từ đó bắt đầu "Chiến dịch Tu viện". Trong chiến dịch này, Demyanov đã liên tục tuồn các tin tức nửa thật nửa giả mà phía Liên Xô cố tình cung cấp cho Đức Quốc xã, trong đó có việc cố tình để lộ thông tin về Chiến dịch Sao Hỏa (tháng 11-12 năm 1942) để đảm bảo bí mật và sự thành công của Chiến dịch Sao Thiên Vương diễn ra cùng thời gian. Đồng thời trong thời gian này, hoạt động của Demyanov cũng giúp cơ quan tình báo Liên Xô tóm gọn hơn 20 điệp viên Đức.
Từ tháng 8 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, Demyanov tiếp tục tham gia vào một chiến dịch phản gián khác mang tên "Berezino". Sau khi chiến tranh kết thúc, cơ quan tình báo Liên Xô đã dự định gài Demyanov vào hoạt động tại Paris, tuy nhiên cộng đồng những người Nga ủng hộ Bạch Vệ không có cảm tình với ông; vì vậy Demyanov cùng vợ và cũng là người đồng chí của mình, bà Tachiana Berezantsova, trở về Moskva. A. P. Demyanov qua đời tại thủ đô của Liên Xô vào năm 1970, hưởng thọ 68 tuổi.
| 1 | null |
Đường sắt Hà Nội – Đồng Đăng (trước năm 1978 gọi là Đường sắt Hà Nội – Mục Nam Quan) là một tuyến đường sắt liên vận quốc tế nối Hà Nội với các tỉnh trung du và miền núi Đông Bắc. Tuyến này có từ thời thực dân Pháp cai trị Việt Nam.
Toàn tuyến dài 162 km. Đây là tuyến đường sắt chỉ một và duy nhất có khổ lồng 3 đường ray 1000mm và 1435mm.
Tuyến Hà Nội – Đồng Đăng có điểm đầu là ga Hà Nội và điểm cuối là ga Đồng Đăng với lý trình như sau:
Đường sắt Hà Nội – Đồng Đăng còn kết nối với tuyến đường sắt Hành Dương – Bằng Tường của Trung Quốc.
Cùng với tuyến đường sắt Bắc Nam, tuyến đường sắt Hà Nội – Đồng Đăng là một phần của hệ thống tuyến đường sắt xuyên lục địa Á – Âu.
| 1 | null |
Âm vực hay âm trình là độ rộng của cao độ mà một người có thể phát âm được. Mặc dù nghiên cứu về âm vực có rất ít ứng dụng thực tiễn trong những lĩnh vực về âm ngữ, nhưng nó vẫn là một chủ đề nghiên cứu của ngôn ngữ học, ngữ âm học, âm ngữ bệnh học (speech-language pathology), đặc biệt nó có liên quan đến việc nghiên cứu những ngôn ngữ có thanh điệu (tonal languages) và một số loại rối loạn phát âm. Tuy nhiên, ứng dụng lớn nhất của âm vực là trong lĩnh vực ca hát. Trong lĩnh vực này, âm vực được sử dụng như một đặc điểm để xác định và phân loại giọng hát thành những kiểu chất giọng khác nhau.
Định nghĩa của âm vực trong ca hát.
Định nghĩa rộng của âm vực đơn giản là khoảng cách từ nốt thấp nhất đến nốt cao nhất mà một người có thể phát âm được, tuy nhiên trong lĩnh vực ca hát thì định nghĩa về âm vực lại khác. Các giáo viên thanh nhạc hướng tới việc xác định âm vực là khoảng cách của những nốt "hữu ích đối với âm nhạc" mà một ca sĩ có thể hát được, vì một số các nốt mà một người có thể phát ra có thể không được coi là hữu dụng cho các ca sĩ khi trình diễn bởi nhiều lý do khác nhau. Ví dụ, trong opera tất cả các ca sĩ phải trình diễn với một dàn nhạc mà không có sự trợ giúp của micrô, do đó họ chỉ có thể hát trong âm vực gồm những nốt có thể nghe được rõ ràng. Ngược lại, âm vực của một nghệ sĩ nhạc pop lại gồm những nốt có thể nghe được với sự trợ giúp của một cái micrô.
Một yếu tố khác nữa là việc sử dụng các hình thái khác nhau trong phát âm. Con người có khả năng phát ra âm thanh bằng cách sử dụng các quá trình sinh lý khác nhau trong thanh quản. Những hình thái khác nhau của phát âm được gọi là những quãng giọng. Trong khi những con số và định nghĩa chính xác về quãng giọng là một chủ đề gây tranh cãi trong lĩnh vực ca hát, thì các ngành khoa học xác định chỉ có bốn khoảng âm: giọng siêu cao (whistle register), giọng giả hay giọng mũi (falsetto register), modal và vocal fry. Thông thường, âm vực được xác định trong quãng giọng modal, là quãng giọng mà khi nói hoặc hát bình thường người ta thường sử dụng. Tuy nhiên, một số trường hợp khác âm vực bao gồm thêm những quãng giọng khác. Ví dụ, trong opera, giọng phản nam cao (countertenor) lại thường xuyên sử dụng quãng giọng falsetto và giọng nữ cao màu sắc (coloratura soprano) hay dùng quãng giọng headvoice trên C6 nghe rất giống với whistle. Do đó, những kiểu giọng sẽ bao gồm những nốt trong các quãng giọng thuộc phạm vi âm vực của họ. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp thì chỉ có các nốt mà ca sĩ có thể sử dụng được trong quãng giọng modal được tính vào khi xác định âm vực của ca sĩ đó.
| 1 | null |
Trận Spicheren theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là Trận Forbach), còn được đề cập với cái tên Trận Spicheren-Forbach, là một trong những trận đánh lớn đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), đã diễn ra quanh hai làng Spicheren và Forbach gần biên giới Saarbrücken vào ngày 6 tháng 8 năm 1870. Tại đây các đơn vị Đức thuộc Binh đoàn số 1 dưới quyền lão tướng Karl von Steinmetz và Quân đoàn III của Binh đoàn 2 dưới quyền Vương tử Friedrich Karl đã đánh bại được Quân đoàn II Pháp do tướng Charles Auguste Frossard chỉ huy. Cùng với những thắng lợi lớn của Binh đoàn 3 ở Alsace trong các ngày 4 và 6 tháng 8, chiến thắng Spicheren trên mạn Lorraine đã khai lối cho các đạo binh Đức tiến vào bản thổ Pháp.
Tổng tham mưu trưởng Đức Helmuth Graf von Moltke thoạt đầu dự định tập trung Binh đoàn 2, với Binh đoàn 1 yểm trợ sườn phía bắc, trên bờ sông Saar – nơi họ sẽ chờ đến khi Binh đoàn 3 đánh bại Quân đoàn I Pháp tại vùng Alsace và vượt dãy Vosges. Song vào ngày 5 tháng 8, Steinmetz tự ý quay quân xuống phía nam để tiến công sông Saar theo những lộ trình được quy định cho Binh đoàn 2, đẩy binh đoàn Phổ-Đức vào một chiến dịch tấn công trực diện ngoài ý muốn của Bộ Tổng tham mưu. Sau khi đơn vị đi đầu của Steinmetz – Sư đoàn 14 (Quân đoàn VII) Phổ tiếp cận Lorraine vào đầu ngày 6 tháng 8, sư đoàn trưởng là tướng Georg von Kameke lập tức phát lệnh tấn công tuyến phòng ngự rắn chắc của Quân đoàn II gồm 3 sư đoàn Pháp trên các cao điểm Spicheren-Forbach. Được trang bị súng trường hiện đại Chassepot, bộ binh Pháp đã chặn được các đợt tấn công đầu tiên của Sư đoàn 14..
Nhưng trong khi phía Pháp hầu như chỉ phòng ngự bị động, 3 sư đoàn quân Đức thuộc các Quân đoàn VII (tướng Heinrich von Zastrow), VIII (tướng August von Goeben) và III (tướng Constantin von Alvensleben) đã "hành quân theo tiếng đạn pháo" về chiến trường để tăng cường sức ép tấn công. Thêm vào đó, các khẩu đại bác tân tiến hiệu Krupp của pháo binh Đức cũng cày nát trận địa quân Pháp. Bấp chấp sự chống cự cứng rắn của quân Pháp, quân Đức đã dần tạo được thế hợp vây buộc Frossard phải bỏ cuộc và rút quân chạy về Sarreguemines trong màn đêm. Tổn thất của hai bên lên đến khoảng 5.000 quân Đức và 4.000 quân Pháp – một con số cao nếu xét về những lợi thế tự nhiên mà phía Pháp có được từ các địa điểm phòng thủ của mình.
Bối cảnh.
Dù không có kế hoạch rành mạch, Hoàng đế Pháp Napoléon III đã điều các Quân đoàn II (tướng Frossard), III (Thống chế Bazaine), IV (tướng Ladmirault) và V (tướng De Failly) tiến gần đến biên giới Đức-Pháp ở Lorraine vào ngày 31 tháng 7 năm 1870, sau khi cuộc Chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ. Đến ngày 2 tháng 8, Frossard kéo Quân đoàn II đánh vào bản thổ Đức và giành được thị trấn biên ải Saarbrücken từ tay 3 đại đội của Trung đoàn 40, Sư đoàn 16 (Phổ). Giữa lúc dư luận Pháp rộn rã ăn mừng thắng lợi mở màn của quân lực, Bộ Chỉ huy quân Pháp tại Metz lại trở nên dè đặt và không thể xác định một mục đích cụ thể nào cho các hoạt động tiếp theo.
Trong khi đó, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ-Đức Helmuth Graf von Moltke đã hội đủ các đạo binh hùng hậu của mình của mình trên một diện rộng từ Koblenz xuống Karlsruhe vào đầu tháng 8 năm 1870. Cánh trái của ông gồm Binh đoàn 1 (50.000 quân) dưới quyền Thượng tướng Bộ binh Karl von Steinmetz và Binh đoàn 2 (134.000 quân) dưới quyền Thân vương Friedrich Karl trên mạn bắc, cánh phải gồm 125.000 quân của Binh đoàn 3 do Thái tử Friedrich Wilhelm chỉ huy ở phía nam. Cũng như trong cuộc chiến tại Áo năm 1866, chủ trương hành động của Moltke là: "truy tìm quân chủ lực địch và tấn công chúng, ở bất cứ nơi nào chúng bị tìm thấy". Ông dự định tập trung Binh đoàn 2, với Binh đoàn 1 yểm trợ sườn phải tại Tholey, trên bờ đông sông Saar để giam chân chủ lực Binh đoàn sông Rhin trong khi Binh đoàn 3 (125.000 quân) tràn vào Alsace, đánh bại Quân đoàn I của Thống chế Pháp MacMahon tại đây rồi vượt dãy Vosges. Tiếp theo đó, Binh đoàn 2 sẽ tấn công quân chủ lực Pháp trong khu vực từ Saarbrücken đến Sarreguemines trong khi Binh đoàn 1 quành xuống phía nam bao vây sườn trái và Binh đoàn 3 vòng lên phía bắc để bọc kín sườn phải.
Tuy nhiên, viên tướng 74 tuổi Steinmetz do thèm khát vinh quang nên bất mãn với vai trò trừ bị và bảo vệ sườn mà ông và binh đoàn nhỏ bé của mình phải đảm nhận. Bất chấp lệnh nghiêm cấm vượt sông Saar của Moltke và truyền thống tuân thủ thượng lệnh của quân lực Phổ, vào ngày 5 tháng 8, Steinmetz cố tình quay toàn bộ Binh đoàn 1 xuống phía nam để tiến đánh Saarbrücken theo các lộ trình mà Bộ Tổng tham mưu dành riêng cho cho Binh đoàn 2, làm cắt rời bộ binh của Friedrich Karl – vốn đang tiến xuống con đường Ottweiler-Neunkirchen – khỏi các sư đoàn kỵ binh của ông – vốn đang đi thẳng về thung lũng Saar để thám sát lực lượng địch – và lôi cả 2 binh đoàn Đức vào một chiến dịch tấn công trực diện ngoài ý muốn của Moltke. Khi Steinmetz lý giải với Moltke rằng mục đích của ông là nhằm hỗ trợ Binh đoàn 2 bằng cách dụ quân Pháp tấn công thật dữ dội vào binh đoàn của ông, Moltke chỉ đơn thuần ghi chú vào bản thông điệp của Steinmetz: "Sẽ đẩy Binh đoàn 1 đến sự thất trận". Theo nhật ký của Thiếu tá Alfred von Waldersee, "Bộ tư lệnh đang bắt đầu hối tiếc về việc bổ nhiệm [Steinmetz]".
Frossard rút khỏi Saarbrücken.
Như đã nêu, Bộ Tư lệnh quân Pháp trở nên do dự sau trận thắng đầu tiên tại Saarbrücken. Ban đầu Napoléon tính điều Quân đoàn IV mở một cuộc tiến công hạn chế vào thung lũng sông Saar, nhưng sau khi được viên cảnh sát trưởng thị trấn biên ải Wissembourg (Alsace) thông báo về sự xuất hiện của nhiều đạo quân Đức ngoài thị trấn vào ngày 3 tháng 8, vị hoàng đế hốt hoảng chuyển sang thế trận phòng ngự trên mạn đông nước Pháp. Tình hình đó làm Frossard bị lẻ loi tại Saarbrücken và tin tức về đại thắng của Binh đoàn 3 Đức ở Wissembourg ngày 4 tháng 8 đã khiến ông trở nên lo sợ bị chung số phận với Abel Douay. Do vậy, dưới ánh mắt quan sát của quân tuần tiễu Đức thuộc Sư đoàn Kỵ binh 5 (Binh đoàn 2) dưới quyền tướng Rheinbaben, Frossard rút quân khỏi Đức về cố thủ trên các cứ điểm rắn chắc quanh hai làng Spicheren và Forbach (Lorraine) cách Saarbrücken 3,22 km vào ngày 5 tháng 8 mà không cần đợi lệnh cấp trên.
Hệ thống cao điểm Spicheren nằm chế ngự khu vực giữa Saarbrücken, ngã tư sông Saar và các tuyến đường sắt, đường bộ chủ yếu để tiến về phía tây nước Pháp. Chúng đã được đánh giá là "địa điểm tuyệt vời" ("position magnifique") trong các cuộc khảo sát của quân đội Pháp do chính Frossard thực hiện trước chiến tranh. Bên phải các cao điểm có địa hình dốc xuống theo hướng sông Saar qua các khu rừng Giferts và Stiftswald rộng lớn, gây khó khăn cho bộ binh địch và làm họ không thể tiếp cận với các binh chủng khác. Ở bên trái có thung lũng Forbach-Stiring chật hẹp, chạy dọc theo nó là con đường chính từ Saarbrücken đến Forbach, và theo đó qua Forbach tới St. Avold. Trong thung lũng, các lực lượng Pháp có được một "pháo đài" phòng thủ hình thành từ các xưởng thép của thành phố Stiring-Wendel. Lối vào thung lũng này ở phía bắc được chế ngự bởi một ngọn nhô ra từ hệ thống cao điểm Spicheren, được gọi là đồi Đỏ ("Rote Berg", "Rotheberg" hay "Rotherberg") do màu đỏ gạch của các vách đá lởm chởm của nó. Từ đồi Đỏ, quân phòng thủ Pháp có thể nhìn xuống toàn bộ thung lũng nằm giữa các vị trí của họ và các cao điểm trên Saarbrücken mà họ vừa từ bỏ. Nếu như một lực lượng tấn công nào chiếm được Đồi Đỏ, họ sẽ còn phải vượt qua một con đèo chật chội được chế ngự bởi cao điểm Pfaffenberg phía sau làng Spicheren để tiếp cận các sườn dốc chính quanh Spicheren và Forbach.
Hiểu rằng "cái thuổng là bạn đồng hành của súng trường" trong chiến tranh hiện đại, Frossard – một kỹ sư lành nghề – đã cho sư đoàn của tướng Sylvian de Laveaucoupet đào hào cố thủ trên các cao điểm ở trung tâm và cánh phải. Đồi Đỏ được chốt giữ bởi một tiểu đoàn sơn chiến chasseur của Laeveucoupet, với sự yểm trợ của một khẩu đội mitrailleuse. Bên trái, Frossard sai tướng Charles Vergé bài trí sư đoàn của mình đóng giữ thung lũng Forbach-Stiring. Phía sau, ông giữ sư đoàn của tướng Bataille làm trừ bị tại Oetingen, từ đây họ có thể đối phó với bất kỳ một cuộc tấn công nào từ Völklingen vào Forbach. Tổng cộng, trong tay Frossard có 28.000 quân - với 39 tiểu đoàn, 24 khối kỵ binh và 90 cỗ đại bác. Nếu như quân Phổ-Đức mở một đợt tấn công quy mô lớn lên các cao điểm Spicheren, Frossard sẽ phụ thuộc vào sự tiếp viện của một quân đoàn khác để chống đỡ. Cách tuyến phòng ngự Spicheren khoảng 9,7 km về phía sau, Bazaine bố trí 4 sư đoàn của Quân đoàn III trên một địa bàn rộng khoảng 25,75 km.
Trận đánh.
Đầu ngày 6 tháng 8, trong khi chủ lực các binh đoàn 1 và 2 còn đang di chuyển chồng chéo ở phía sau, Trung tướng Georg von Kameke dẫn Sư đoàn Bộ binh 14 (Quân đoàn VII) – đơn vị tiên phong của Binh đoàn 1 – vượt sông Saar vào Saarbrücken. Trước đó Kameke đã được sư đoàn kỵ binh Rheinbaben thông báo về cuộc triệt thoái của quân Pháp khỏi Saarbrücken, nên sau khi tiếp cận với các cao điểm Spicheren, ông tưởng rằng mình đang đối mặt với "hậu quân" của một lực lượng địch đang tháo chạy. Ông liền gửi thỉnh cầu xin Tư lệnh Quân đoàn VII - Thượng tướng Bộ binh 70 tuổi Heinrich von Zastrow cho ông tấn công đội "hậu quân" này. Được Zastrow cho phép "hành động theo điều anh nghĩ là tốt nhất", Kameke ngay lập tức chuẩn bị huy động 6 tiểu đoàn của Lữ đoàn 27 (Trung đoàn Hỏa mai 39 Hạ Rhein và Trung đoàn Bộ binh 74 Hannover) dưới quyền Thiếu tướng Bruno von François tấn công.
Sau một cuộc pháo kích nhỏ vào buổi sáng nhằm dọn đường cho bộ binh tấn công, lúc giữa ngày, lữ đoàn François bắt đầu tiến công ào ạt theo 3 mũi trên một diện rộng 5 km: 2 tiểu đoàn bên phải đánh sườn trái quân Pháp tại thung lũng Stiring, 2 tiểu đoàn bên trái đánh sườn phải quân Pháp tại rừng Giferts và 2 tiểu đoàn trung tâm do François trực tiếp chỉ huy đánh thẳng lên Đồi Đỏ.
Các đợt tấn công ban đầu của quân Đức.
Trong khi các đại đội hàng dọc của Lữ đoàn 27 đang tiến về phía trước, họ vấp phải làn hỏa lực pháo binh mạnh mẽ mà một "đội hậu quân" không thể có được. Nhờ đội hình mở của mình, quân Đức đã vượt qua được màn đạn pháo trên khoảng đất trống trước các cao điểm Spicheren mà không bị thiệt hại đáng kể. Hai tiểu đoàn Đức ở cánh trái quét sạch các toán tản binh Pháp và tràn vào rừng Giferts, song nhanh chóng làm mồi cho làn mưa đạn ồ ạt của bộ binh và các khẩu đội mitrailleuse của sư đoàn Laveaucoupet. Các toán bộ binh Pháp đã núp sau các lùm cây và bắn quỵ hàng tá quân Đức bằng loại súng trường tối tân Chassepot của mình. Tình hình cánh phải cũng bất lợi không kém: hai tiểu đoàn Hannover chiếm được các khu rừng nằm dọc theo tuyến đường sắt Forbach, song bị hỏa lực Chassepot của sư đoàn Vergé chặn đứng trước Stiring-Wendel với thiệt hại đến hàng trăm người. Trong khi đó, François đôn đốc Tiểu đoàn Hỏa mai của Trung đoàn 74 và 3 đại đội của Trung đoàn 39 đánh đến đáy Đồi Đỏ và chiếm được một vị trí giữa các khe đồi, nhưng cũng bị hỏa lực đại bác và súng trường của Pháp từ trên sườn dốc cản lại. Khoảng 13h, cuộc tấn công của Lữ đoàn 27 coi như đã bị bẻ gãy. Bị hao tổn nặng nề, lữ đoàn phải bám trụ vào các vị trí đứng chân của mình để ẩn tránh hỏa lực quân Pháp và chờ thời cơ.
May mắn cho François, lực lượng pháo binh hùng hậu của Sư đoàn Bộ binh 14 giờ đây đã quy tụ về trận địa với số lượng lớn và cứu Lữ đoàn 27 khỏi nguy cơ bị tiêu diệt. Những khẩu đại bác hiệu Krupp đầy uy lực của tướng Kameke liên tục cày phá các chiến hào và thổi bay mọi đợt phản công của quân Pháp, gây thương vong hàng loạt cho đối phương. Một số đội hình pháo binh linh hoạt của Pháp đã dời xuống cao điểm nhằm thu ngắn tầm đạn của mình đồng thời khống chế ưu thế của đại bác Krupp, song bị các khẩu đội pháo binh Đức bắn trả liên tục và làm câm họng.
Đến giữa chiều, Kameke điều Lữ đoàn 28 do Thiếu tướng Wilhelm von Woyna chỉ huy vào tăng viện cho các tàn binh của Trung đoàn 74 trước Stiring-Wendel. Khoảng 15h30, sau khi đã dốc cả sư đoàn của mình vào cuộc và được biết các đơn vị của binh đoàn 1 và 2 đang kéo về trận địa, Kameke phát lệnh cho François đem Tiểu đoàn Hỏa mai của Trung đoàn 74 và 3 đại đội của Trung đoàn 39 tấn công trực diện lên đồi Đỏ. Trước sự bất ngờ của quân sơn chiến Pháp, người của François hăng hái trèo lên vách đá và quét tan quân Pháp ra khỏi các chiến hào tiền tiêu. Thừa thắng, Đại đội 9 (Trung đoàn 39) khẩn trương truy sát đối phương. Lính sơn chiến Pháp chạy về tuyến thứ hai và bắn trả hết sức dữ dội. Chỉ trong vòng vài phút, François, khi đang xung phong cùng với Đại đội 9, đã bị trúng 5 phát đạn và tử trận. Cuộc tấn công của quân Đức một lần nữa bị chặn đứng với thiệt hại nặng nề. Các đơn vị Đức bám chặt vào các chiến hào tiền tiêu mà họ đã chiếm được trên đỉnh và, nhờ sự yểm trợ đắc lực của pháo binh, họ cản được các đợt phản công dồn dập của Pháp nhằm hất họ xuống đồi.
Có lúc tướng Kameke còn xua một trung đoàn khinh kỵ binh đánh lên đồi Đỏ, nhưng cũng bị đẩy lui với tổn thất lớn.
Trong khi Frossard đã hành động khá chậm chạp để đối phó với các đợt tấn công của Kameke, các thuộc cấp của ông lại tỏ ra quá năng động. Không chỉ Vergé và Laveaucoupet nhanh chóng tiếp viện cho quân tiền phương của mình, ngay đến Bataille cũng chia sư đoàn trừ bị của mình làm đôi để tăng viện các đơn vị tiền phương mà không chờ lệnh cấp trên. Quyết định này đã lấy mất của Frossard những đơn vị trừ bị mà ông có thể dùng để tung một đòn đánh chiến lược. Dù gì, sau 15h30, sư đoàn Kameke đã trở nên dàn trải một cách nguy hiểm. Nhận thấy Lữ đoàn 27 Phổ bị kiệt sức, tướng Laveaucoupet điều Trung đoàn 40 phản công vào rừng Gifert buộc hai tiểu đoàn cánh trái của Đức phải rút khỏi đây chỉ sau một trận chiến đấu ngắn ngủi. Tuy nhiên, quân Pháp khai thác thắng lợi của mình và ở lại trận địa để chờ đợi nước đi tiếp theo của đối phương.
Các đội viện binh Đức vào trận.
Sau khi nhận được tin từ các đội kỵ binh tuần tiễu về cuộc rút lui của quân Pháp khỏi Saarbrücken, cả Steinmetz và Friedrich Karl đều hạ lệnh tổng tiến công qua Saarbrücken vào buổi sáng. Song tiếng đạn pháo từ Spicheren đã thu hút các sư đoàn quân Đức về trận địa từ trước khi họ chính thức nhận lệnh tiến quân. Zastrow đã điều Sư đoàn 13 dưới quyền Trung tướng Adolf von Glümer vượt sông Saar tại Völklingen để thực hiện cuộc hành quân bọc sườn trái và hậu quân Pháp tại Forbach. Sư đoàn 16 (Trung tướng Albert von Barnekow), đơn vị đi đầu của Quân đoàn VIII đã kéo vào trận tuyến trong buổi chiều và tư lệnh quân đoàn này là Thượng tướng Bộ binh August von Goeben thay thế Kameke chỉ huy trận chiến. Ngoài ra, Zastrow cuối cùng cũng tiếp cận trận địa và Goeben đã nhượng lại quyền chỉ huy trận đánh cho viên tướng cao niên này.
Trong khi Sư đoàn 16 đang đổ về Saarbrücken từ mạn bắc, Sư đoàn 5 (Trung tướng Ferdinand von Stülpnagel) thuộc Quân đoàn III Brandenburg – đơn vị đi đầu của Binh đoàn 2 – do Trung tướng Constantin von Alvensleben chỉ huy cũng đổ về từ hướng đông bắc. Dù cả Zastrow và Goeben đều trên quân hàm Alvensleben, Zastrow vì biết mình kém tài hơn nên đã viện cớ không còn quân trừ bị để đặt quyền điều khiển tác chiến vào tay vị tướng năng động này. Từ đây cho đến tối, quân Đức dưới sự yểm trợ của pháo binh đã mở hàng loạt cuộc tấn công quyết liệt vào trận tuyến quân Pháp.
Rừng Giferts và đồi Đỏ.
Thoạt tiên, tướng von Alvensleben sai von Stülpnagel điều quân xung kích vào rừng Giferts. Quân phòng thủ Pháp của Laveaucoupet đã bắn gục được loạt quân Brandenburg đầu tiên tiến công khu rừng. Sau đó, quân Pháp ra vài đòn phản công làm đối phương thất điên bát đảo. Nhiều đơn vị khác của Sư đoàn 5 và Sư đoàn 16 đã kéo vào rừng để tăng sức ép tấn công. Quân Đức dần dần cũng chiếm được rừng Giferts, nhưng do bìa nam của rừng không chỉ bị ngăn cách khỏi Spicheren bởi một khe hẻm lớn mà còn bị cày xé bởi hỏa lực súng trường và pháo binh Pháp từ trên các sườn dốc phía bên kia, họ nhưng không thể nào tiến ra ngoài rừng. Vào thời điểm 19h30, tất cả những gì mà rừng Giferts chứa đựng là mớ hỗn độn gồm 30 đại đội Đức thuộc các binh đoàn 1 và 2.
Trong khi giao chiến diễn ra ở rừng Giferts, các đơn vị thuộc Sư đoàn 16 dưới sự đốc thúc của tướng von Barnekow đã phối hợp với các thành phần Sư đoàn 5 ập lên đồi Đỏ để tiếp sức cho các tàn binh của François còn đang bám trụ trên đỉnh. Được sự hỗ trợ của pháo binh, các đội hình hàng dọc của Đức xung phong từ mọi hướng và dọn sạch quân sơn chiến Pháp khỏi các chiến hào. Thừa thắng, Alvensleben huy động một trung đoàn Khinh kỵ binh Brunswick leo qua một con hẻm trũng lên đỉnh đồi để khai thác thành quả, song pháo binh Pháp đã tập trung khai hỏa làm quân kỵ binh Đức bị rối bời và không thể di chuyển lên con hẻm này. Tình hình đó buộc Tư lệnh Pháo binh Quân đoàn III - Thiếu tướng Hans von Bülow thỉnh cầu thượng cấp cho ông đưa 12 khẩu đại bác của khẩu đội khinh pháo số 3 và khẩu đội trọng pháo số 3 lên trên đồi Đỏ. Được quân bộ binh giúp sức, đội ngũ pháo thủ Sư đoàn 5 dưới sự chỉ đạo của Thiếu tá von Lyncker dù chịu nhiều hao tổn nhưng đã nhanh chóng kéo được 12 cỗ đại bác lên đỉnh. Từ đây, dàn đại bác Phổ-Đức tập trung bắn dập cao nguyên Spicheren, gây ra thương vong hàng loạt cho các đơn vị quân phòng ngự Pháp. Cho đến tối, quân Pháp cố mở một số đợt phản công lẻ tẻ nhằm chiếm lại đồi Đỏ, nhưng bị đập tan.
Trong thời điểm 17h, quân Đức đã hoàn toàn làm chủ cả đồi Đỏ và rừng Giferts, song tất cả những gì họ chiếm được chỉ là bề mặt của tuyến phòng ngự chính của Frossard, vốn nằm trên khu vực cao quanh Spicheren và Forbach phía trước họ. Để tiếp cận với trận tuyến chính của Pháp, bộ binh Đức cần phải vượt qua một con đèo bị pháo Pháp cày xới từ đồi Pfaffenberg nằm ngoài tầm bắn của pháo Đức. Không một tướng lĩnh Đức nào dám làm điều đó do họ biết rằng nó chỉ gây thêm hao tổn cho các lực lượng đã thấm mệt của mình.
Khu vực Stiring-Wendel.
Do vậy, mối bận tâm chính của tướng Frossard nằm ở cánh trái của ông, nơi Sư đoàn 14 Phổ đang tấn công mãnh liệt gây cho sư đoàn Vergé lao đao quanh các bãi hàng và công xưởng của Stiring-Wendel. Không chỉ phải đối mặt với Sư đoàn 14 ở phía trước, Vergé còn bị uy hiếp từ bên sườn bởi cuộc hành quân bởi cuộc tiến quân của Sư đoàn 13 Phổ từ Völklingen xuống thung lũng Rossel. Bấy giờ lữ đoàn trừ bị của Vergé đang được bài trí tại Forbach để phòng bị sườn, song Frossard do nhận thấy cần giải quyết gấp mối nguy cơ trước mắt nên đã điều lữ đoàn này đến Stiring. Ngoài ra vị tư lệnh Quân đoàn II cũng đánh điện yêu cầu sư đoàn Metman của Quân đoàn III đến giúp ông giữ Forbach. Đồng thời, sau khi nhận định rằng tình hình cánh trái đang nguy cấp, Bataille cũng chuyển một trung đoàn từ cánh phải sang Stiring để giúp Vergé đẩy lui hiểm họa trước mắt của mình. Được tăng cường lực lượng, quân Pháp trong thung lũng Stiring-Wendel ồ ạt phản công đánh tơi bời các đơn vị bộ binh của tướng Kameke vào khoảng 18h. Quân Đức phải viện đến 7 khẩu đội pháo mới ngăn chặn được bước phản công của quân Pháp và giành thế chủ động.
Những diễn biến cuối cùng.
Mặc dù Alvensleben chưa được thông tin về đòn phản công vào Sư đoàn 14 bên phải, ông nhận thức rằng các đơn vị Đức trong rừng Giferts và đồi Đỏ đã thấm mệt và không thể tiếp tục tiến công. Nếu như quân Pháp phản công thắng lợi, họ có lẽ sẽ đẩy ông vào thế dựa lưng vào sông Saar. Do đó, viên chỉ huy Quân đoàn III Phổ quyết định tung một đòn đánh cuối cùng để đập vỡ hàng phòng ngự của quân Pháp trên các cao điểm Spicheren, không phải bằng cách đổ thêm quân vào rừng Giferts và đồi Đỏ, mà bằng cách đánh thẳng lên đồi Forbach trải dài từ thung lũng Stiring để thọc sườn trái Laveaucoupet. Và ông đã dùng một lực lượng trừ bị mạnh gồm 7 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 5 để tiến hành đợt tiến công này.
Dưới sự đôn đốc của tướng Alvensleben, những người lính Brandenburg thiện chiến hăm hở trèo lên đồi Forbach và đánh thốc vào cánh trái sư đoàn Laveaucoupet. Quân cánh trái của Laveaucoupet chống cự vững vàng gây cho đối phương loạng choạng, nhưng đỉnh đồi cuối cùng đã thất thủ về tay quân Đức. Quân Pháp giáng một đòn phản kích lớn hất quân Đức ra khỏi vị trí, song các tiểu đoàn Brandenburg lại xông lên tấn công dũng mãnh và từng bước đoạt lại điểm cao. Cũng trong thời gian này, các đơn vị khác của Laveaucoupet phản công đến tận rừng Giferts, song không chiếm được con đèo yên ngựa dẫn lên đồi Đỏ. Sự xuất hiện của 7 tiểu đoàn Brandenburg bên sườn trái đã buộc quân Pháp phải từ bỏ phản công và lui về tuyến phòng ngự dưới sự yểm trợ của các khẩu đội pháo. Các đợt tấn công mạnh mẽ của bộ binh và pháo binh Đức cuối cùng đã đánh kiệt sức sư đoàn Laveaucoupet, người phải rút đoàn quân tàn tạ của mình chạy vào thị trấn Spicheren lúc khoảng 19h30.
Bên cánh phải, các đơn vị của Zastrow khi gần đêm đã chỉnh đốn tình hình và giành lại thế chủ động. Pháo Pháp dội xối xả vào các đội hình tấn công của Đức cho đến khi bị câm tịt trước sự phản pháo của một khẩu đội Đức dưới sự chỉ huy của Trung tá Gotz. Được Goeben tiếp sức bằng mọi tiểu đoàn chưa tham chiến của Sư đoàn 16, quân Đức mở rộng tấn công chiếm được nhiều vị trí từ tay các sư đoàn Vergé và Bataille trong màn đêm. Mặc dù quân của hai tướng Pháp cố sức chống trả, cục diện trận đánh trên thực tế đã được quyết định từ sau 19h, khi quân tiền vệ của sư đoàn Glümer xuất hiện ở các ngọn đồi trên Forbach. Frossard, do đã đổ hết lực lượng lên tiền tuyến, nên không còn quân phòng giữ thị trấn. Một sĩ quan Pháp nhanh trí đã thu nhặt một số lính dự bị để ngăn cản bước tiến của Glümer, song tình hình quân Pháp sớm trở nên vô vọng. Nhận thấy đối phương đang dần khép kín vòng vây ("Kessel"), Frossard quyết định từ bỏ Forbach – cơ sở tiếp tế chủ yếu cho mọi kế hoạch tấn công lãnh thổ Đức – vào lúc 19h30. Do cuộc tấn công của Glümer từ mạn bắc đã làm cho việc rút chạy về St. Avold theo hướng tây trở nên bất khả thi, viên tướng Pháp đành tiến hành rút toàn bộ lực lượng về Sarreguemines theo hướng nam. Vergé và Bataille nhận lệnh rút các đơn vị của mình khỏi những căn nhà đang bừng cháy trong khu vực Stiring-Wendel, một nhiệm vụ không dễ tí nào dưới sức tấn công dữ dội của quân Đức.
Phải đến lúc Frossard tập kết các đơn vị của mình trên các sườn dốc phía sau Spicheren để tiến hành triệt thoái, quân tiếp viện Quân đoàn III mới xuất hiện. Theo sử gia Michael Howard, họ nhìn thấy đầy rẫy "những đội hình rút lui gồm những người cay đắng và kiệt sức".
Kết cục.
Mặc dù nằm ngoài kế hoạch của Moltke và Bộ Chỉ huy Đức, chiến thắng Spicheren đã đánh vỡ chính diện của Binh đoàn sông Rhin và mở đường cho quân Phổ-Đức tiến vào Lorraine. Một đại tá Trung đoàn 63 Pháp tham chiến ở Spicheren đã mô tả một cách cay cú về trận đánh: "Quân ta xả súng trường suốt cả ngày hôm đó nhưng không mấy hiệu quả trước một kẻ địch liên tục được tăng cường lực lượng và bọc sườn ta". Lời bình luận này đã trở nên thông dụng trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức.
Trong thư gửi Alvensleben vào ngày 7 tháng 8, Thân vương Friedrich Karl đã so sánh sự thất trận của quân Pháp tại Spicheren với cuộc đại bại của nước Áo năm 1866: "Giống như năm 1866... tụi Pháp đã thả cho ta thảy một vài quân đoàn giáng vào mớ quân mềm mại, mong manh của chúng". Hai ngày sau, khi viết thư cho mẹ mình, Friedrich Karl lại khẳng định sự tương đồng với chiến dịch nước Áo: "Ở mọi nơi cuộc chiến mở đầu giống như [cuộc chiến] năm 1866, [với] sự thua trận liểng xiểng của các quân đoàn riêng lẻ và sự xuống tinh thần nghiêm trọng [của địch]. Trong các khu rừng gần đây đầy rẫy quân địch đào ngũ. Cứ điểm mà chúng con đã đánh chiếm tại Spicheren rắn chắc một cách không thể tưởng được".
Nhưng chiến dịch năm 1870 có một khác biệt lớn với năm 1866 mà Friedrich Karl không chỉ ra: với ưu thế vượt trội trước loại súng trường "Dreyse" mà bộ binh Phổ sử dụng, các khẩu "Chassepot" của Pháp đã mang lại thiệt hại nặng nề cho quân lực Phổ. Trái với các trận đánh năm 1866 khi quân Phổ chỉ thiệt mất 1 người để đổi lấy 4 lính Áo chết hoặc bị thương, quân Phổ trong trận đánh Spicheren chịu thương vong hơn gấp đôi quân Pháp. Trong số 35.000 quân tham chiến thuộc 33 tiểu đoàn và 33 khối kỵ binh, họ mất 850 người tử trận, 3.650 bị thương cộng thêm 400 mất tích. Con số này chiếm hơn nửa tổng số quân Phổ chết và bị thương trong trận đại chiến Königgrätz, mặc dù quy mô của trận Spicheren nhỏ hơn rất nhiều so với Königgrätz. Theo một nhân chứng, vua Wilhelm I của Phổ khi thị sát trận địa đã "tỏ ra hoảng hốt" trước cuộc tàn sát không ai ngờ tới này. Điều duy nhất có thể an ủi ông là mức độ tổn thất của quân Pháp - rất cao nếu xét về những lợi thế tự nhiên mà họ có được từ địa điểm phòng thủ của họ. Quân Pháp trong trận chiến bị thiệt mất 4.100 người, trong số đó hơn 2.000 người mất tích (phần lớn số này bị bắt làm tù binh). Con số này đã góp phần khẳng định sức mạnh ưu việt của các khẩu đại bác Krupp mà pháo binh Đức sử dụng.
Cùng ngày 6 tháng 8, chủ lực Binh đoàn 3 Phổ-Đức do Thái tử Friedrich Wilhelm thống lĩnh đã đánh tan bộ phận quân Pháp dưới quyền Mac-Mahon gồm Quân đoàn I và một sư đoàn của Quân đoàn VII trong trận Wœrth-Frœschwiller, buộc quân Mac-Mahon phải cuống cuồng tháo chạy về hướng tây nam qua dãy Vosges. Đúng như sự dự đoán của Thủ tướng Phổ-Bắc Đức Otto von Bismarck, tin tức về các trận Wœrth và Spicheren đã gây choáng ngợp cho các đồng minh tiềm ẩn của Pháp ở châu Âu: người Áo, Đan Mạch và Ý. Họ từ bỏ mọi ý định tham gia cuộc chiến mà người Pháp xem ra đã bị đánh bại.
Hai cuộc thua trận ngày 6 tháng 8 – nổi bật trong đó là cảnh tượng pháo binh Đức khoét những lỗ hổng to lớn vào trận tuyến của mình – đã làm sa sút tinh thần quân tướng Pháp đồng thời đánh đòn nặng nề vào ý chí của Napoléon. Buổi sáng ngày 7 tháng 8, ông truyền lệnh cho toàn bộ quân lực rút về Châlons-sur-Marne, để lại mọi quyền chủ động chiến lược trong tay Graf Moltke. Nhưng, trong khi con đường tháo chạy về hướng tây-nam của MacMahon sau trận Wœrth đã mở rộng khoảng trống giữa 3 quân đoàn I, V, VII ở phía nam và 5 quân đoàn chủ lực Pháp trên mạn bắc, Frossard lại tự ý quyết định rút quân từ Sarreguemines về Metz mà không hỏi ý Napoléon khi hay tin Mac-Mahon đại bại. Cuối ngày 7 tháng 8, sau khi xác định lại tình hình, hoàng đế Pháp đành hạ lệnh cho cánh quân phía nam triệt thoái về Châlons để thành lập một binh đoàn mới do MacMahon chỉ huy, còn chủ lực Binh đoàn sông Rhin lui về tập kết tại pháo đài Metz rồi rút tới Châlons theo đường Verdun để hội quân với Mac-Mahon. Chỉ sau một tuần lễ chiến đấu, quân đội Pháp đã hoàn toàn triệt thoái.
Sau khi nhận định lại cục diện chiến tranh, Moltke quyết định tập trung tập trung điều động các binh đoàn 1 và 2 truy kích tiêu diệt chủ lực Binh đoàn sông Rhin trong khi Thái tử Friedrich Wilhelm tiếp tục theo sau cánh quân của MacMahon. Quyết định này đã dẫn đến các trận đánh lớn kế tiếp tại Borny-Colombey (14 tháng 8), Mars-la-Tour (16 tháng 8) và Gravelotte (18 tháng 8).
| 1 | null |
Canadian Vickers Vedette là máy bay đầu tiên do Canada tự thiết kế và chế tạo cho nhu cầu trong nước. Đây là thủy phi cơ một động cơ trang bị cho Không quân Hoàng gia Canada (RCAF), nhằm đáp ứng nhu cầu của RCAF về một loại máy bay nhỏ hơn Vickers Viking nhưng có vận tốc lên cao lớn hơn, và thích hợp để khảo sát rừng và chữa cháy. Loại máy bay này còn được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động dân sự ở Canada. Hầu hết các bản đồ địa hình sử dụng ở Canada ngày nay được dựa trên các bức ảnh chụp từ các chuyến bay khảo sát của Vedette.
| 1 | null |
Hà Trung là tên một phủ thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam trong thời kì phong kiến.
Địa giới.
Địa giới phủ Hà Trung vào thời Nguyễn như sau:
Phủ Hà Trung vào thời Nguyễn tương ứng với địa giới các huyện Hà Trung, Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, thị xã Bỉm Sơn và phần tả ngạn sông Mã thuộc thành phố Thanh Hóa ngày nay.
Diện tích của phủ Hà Trung ước tính khoảng 830 km², tương đương với diện tích các tỉnh Hà Nam hoặc Bắc Ninh hiện nay.
Thời gian tồn tại.
Theo "Đại Nam nhất thống chí", phủ Hà Trung được thành lập năm Quang Thuận thứ nhất (1460), đời vua Lê Thánh Tông nhà Lê sơ, lúc này thuộc thừa tuyên Thanh Hóa. Tên phủ lấy theo tên huyện Hà Trung có từ đời Trần trở về trước. Phủ Hà Trung gồm 4 huyện.
Tuy nhiên, trong sách "Đất nước Việt Nam qua các đời" của Đào Duy Anh thì phủ Hà Trung xuất hiện từ năm Thiệu Bình thứ 2 (năm 1435), là một trong 6 phủ của đất Thanh Hóa bấy giờ (6 phủ gồm Thiệu Thiên, Hà Trung, Tĩnh Gia, Thanh Đô, Trường Yên, Thiên Quan). Trong đó phủ Hà Trung kiêm lí huyện Thuần Hựu và thống hạt 3 huyện là Tống Giang, Nga Sơn và Hoằng Hóa.
Sang thời Nguyễn, phủ Hà Trung thuộc trấn Thanh Hoa, địa giới vẫn giữ như cũ, kiêm lý huyện Hậu Lộc và thống hạt các huyện Tống Sơn, Nga Sơn và Hoằng Hóa. Năm Minh Mệnh thứ 12, phủ Hà Trung thuộc tỉnh Thanh Hoa (đổi từ trấn Thanh Hoa). Năm Minh Mệnh thứ 18 (1837) hoặc Minh Mệnh thứ 19, phủ Hà Trung có thêm huyện Mỹ Hóa được thành lập từ một phần các huyện Hậu Lộc và Hoằng Hóa đồng thời nhà Nguyễn cũng đặt thêm phân phủ Hà Trung. Phủ Hà Trung lúc này kiêm lý huyện Tống Sơn và thống hạt các huyện Nga Sơn và Hậu Lộc còn phân phủ Hà Trung kiêm lý huyện Hoằng Hóa và thống hạt huyện Mỹ Hóa.
Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), phủ Hà Trung thuộc tỉnh Thanh Hóa (đổi từ tỉnh Thanh Hoa). Đến năm Tự Đức thứ ba (1850) thì bỏ phân phủ Hà Trung, đồng thời phủ Hà Trung kiêm lý các huyện Tống Sơn, Nga Sơn và thống hạt các huyện Hoằng Hóa, Mỹ Hóa, Hậu Lộc. Năm Thành Thái thứ 12 (1900), đổi huyện Nga Sơn từ kiêm lý sang thống hạt.
Cuối thời Nguyễn, huyện Mỹ Hóa được sáp nhập vào huyện Hoằng Hóa. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), cấp phủ được bãi bỏ, huyện Tống Sơn đổi thành huyện Hà Trung; các huyện Hà Trung, Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa trực thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Địa giới và cương vực các huyện trong phủ.
Địa giới và cương vực các huyện trong phủ Hà Trung vào thời Nguyễn (đầu thế kỉ 20) như sau:
| 1 | null |
Đại tá Lê Tấn Quốc (sinh năm 1927 - mất năm 2006), có bí danh Chín Quốc, Sáu Nhứt xứ, Sáu Phần, Năm An, Tám Thành, Sáu Định là một Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó Trưởng Ty Giao thông Liên lạc tỉnh Gia Định; Bí thư chi bộ, chính trị viên Đội Biệt động 67 - Quân khu Sài Gòn Gia Định; Trung đoàn trưởng, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn Thanh niên cận vệ Sài Gòn (nay là Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh). Ông quê tại xã Long Trường, huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nay là phường Long Trường, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh). Ông tham gia cách mạng từ tháng 8-1945. Ngày 17 tháng 4 năm 2010 ông được truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Tiểu sử.
Cách mạng Tháng Tám, Lê Tấn Quốc tham gia biểu tình cướp chính quyền ở Thủ Đức. Sau đó, ông được bầu làm bí thư Ban Chấp hành Thanh niên cứu quốc làng Tam Đa. Tháng 5 năm 1948, Lê Tấn Quốc được kết nạp vào Đảng.
Ông tham gia hầu hết những trận đánh với vai trò đội trưởng đội biệt động từ đội C10, C50, C67 và biệt động Thành đoàn. Ngày 26 tháng 12 năm 1960, Lê Tấn Quốc lúc đó là đại đội trưởng đội C10 Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã tham gia trận đánh đầu tiên của ông là tấn công Câu lạc bộ golf Sài Gòn trong khuôn viên sân bay Tân Sơn Nhất.
Khi đội biệt động 67 được thành lập, ông được trao trọng trách đội trưởng, chính trị viên đội biệt động 67. Và sau đó là biệt phái qua Khu đoàn Sài Gòn - Gia Định. Trong thời gian này ông và đồng đội thực hiện 250 cuộc khai hỏa giết gần 1000 quân đối phương; điển hình như các trận đánh vào sân Dạ Cầu, sân vận động Cộng Hòa.
Đầu năm 1969, ông bị thương làm hỏng mắt trái trong một trận càn và bị bắt nhốt tại quận Trúc Giang, Bến Tre. Tháng 9 năm 1969, ông bị đưa đến trại giam tù binh cộng sản Phú Quốc. Năm 1973, ông được trao trả tại Thạch Hãn (Quảng Trị) theo Hiệp định Paris.
Năm 1975, ông trực tiếp tham gia cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975 ở cánh Tây Nam.
Sau 1975, ông công tác tại Ban Chỉ huy quân sự quận 5 và tháng 11 năm 1987, Lê Tấn Quốc được phong hàm Đại tá. Ông nghỉ hưu năm 1988 và mất năm 2006. Năm 2010, ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Gia đình.
Lê Tấn Quốc có ba người con, trong đó con trưởng Lê Tấn Tài hiện đang là trưởng ban tổ chức quận ủy quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vinh danh.
Ghi nhận những công lao của ông, Nhà nước Việt Nam đã tặng thưởng:
| 1 | null |
Trung tâm Eden là một khu mua sắm của người Mỹ gốc Việt tọa lạc gần giao lộ Seven Corners, tục gọi là Ngã Bảy thuộc thành phố Falls Church, Virginia, thành lập từ năm 1984 rộng 200.000 ft (19.000 mét vuông). Hội đồng Phát triển Kinh tế của thành phố Falls Church coi đây là địa điểm du lịch số một trong khu vực.
Trung tâm này có hơn 100 cửa hàng, nhà hàng và cơ sở kinh doanh phục vụ cho một lượng lớn khách hàng người Mỹ gốc Á, đặc biệt là người Mỹ gốc Việt. Trung tâm Eden đã tạo nên một điểm tựa cho văn hóa Việt, đáp ứng nhu cầu cho cả vùng Virginia, Bắc Carolina, Maryland, và Pennsylvania. Bằng chứng là ở đây có rất nhiều nhà hàng phở cũng như thường xuyên có các sự kiện văn hóa của người Việt tại Mỹ được tổ chức ở đây. Eden cũng là nơi đầu tiên phổ biến dịch vụ viễn thông Solavei đến với cộng đồng Việt Nam ở tiểu bang Virginia nói riêng, và cả Hoa Kỳ nói chung.
Tên gọi trung tâm Eden có nguồn gốc từ "khu Eden" ở Sài Gòn những năm 60 của thế kỷ trước.
| 1 | null |
Rạn san hô Belize Barrier là một loạt các rạn san hô trải dài theo bờ biển Belize, khoảng khoảng 300 mét (980 ft) ngoài khơi ở phía bắc và 40 km (25 dặm) ở phía nam bờ biển. Nó được biết đến như là một phần dài 300 km của Hệ thống Rạn san hô Trung Bộ châu Mỹ dài 900 km liên tục từ Cancún trên mũi phía đông bắc bán đảo Yucatán qua Riviera Maya xuống tới Honduras khiến nó trở thành rạn san hô lớn thứ ba thế giới sau Rạn san hô Great Barrier ở Úc và Rạn san hô Nouvelle-Calédonie ở New Caledonia. Đây là điểm đến du lịch hàng đầu của Belize, phổ biến cho lặn biển và thu hút gần một nửa trong số 260.000 khách đến đây. Nó cũng là khu vực quan trọng đối với ngành công nghiệp đánh cá của đất nước. Charles Darwin từng mô tả nó là rạn san hô đáng chú ý nhất tại Tây Ấn vào năm 1842.
Ngoài rạn san hô chính, nó còn có các đảo san hô vòng của khu vực Caribe là Turneffe Atoll, Glover's Reef và Lighthouse Reef. Trong đó Lighthouse Reef được biết đến là khu vực lặn biển đông nhất tại Belize, nơi có Great Blue Hole (được biết đến là Hố Xanh) được Jacques Cousteau phát hiện ra vào năm 1970. Đảo san hô vòng Turneffe là đảo san hô gần bờ biển Belize nhất.
Mô tả.
Đây là rạn san hô lớn nhất ở Bắc bán cầu và lớn thứ ba trên thế giới, Belize Barrier là hệ thống tự nhiên nổi bật bao gồm các rạn san hô ven biển, các đảo san hồ ngoài khơi, bãi cát, rừng ngập mặn, các đầm phá ven biển và khu vực thiên nhiên tại các cửa sông. Một số địa điểm trong khu bảo tồn là minh chứng sống cho sự tiến hóa lịch sử của san hô và là môi trường sinh sống quan trọng của một số loài động vật đang bị đe dọa. Tại đây có nhiều loài động thực vật bao gồm: 70 loài san hô cứng, 36 loài san hô mềm, 500 loài cá, hàng trăm loài động vật không xương sống nhưng ước tính mới chỉ phát hiện được 10% số loài san hô và 90% số loài cần nghiên cứu.
Phần lớn rạn san hô được bảo vệ bởi các khu vực bảo tồn tự nhiên bao gồm 7 khu bảo tồn biển bảo vệ 450 đảo cát, 3 đảo san hô với tổng diện tích là . Các khu bảo tồn này là:
Rạn san hô Belize Barrier được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới vào năm 1996 nhờ cảnh quan tự nhiên cùng sự đa dạng sinh học và là nơi quan trọng trong việc bảo tồn một số loài quan trọng trong đó có cá sấu nước mặn, lợn biển và rùa biển. Vào tháng 12 năm 2010, Belize trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành việc cấm đánh bắt cá bằng lưới. Vào tháng 12 năm 2015, Belize cấm việc khoan và thăm dò dầu khí ngoài khơi bờ biển trong bán kính 1 km từ rạn san hô Belize Barrier.
Mặc dù đã thực hiện các biện pháp bảo vệ nhưng rạn san hô này vẫn bị ảnh hưởng bởi tình trạng ô nhiễm môi trường biển, du lịch, vận tải biển và việc đánh bắt cá không kiểm soát được. Các mối đe dọa khác bao gồm các cơn bão, sự nóng lên toàn cầu dẫn đến nước biển ấm lên gây ra hiện tượng tẩy trắng san hô (san hô chết). Các nhà khoa học cho rằng, hơn 40% rạn san hô của Belize đã bị hư hại kể từ năm 1998.
| 1 | null |
Sewell là một thị trấn khai mỏ nằm ở sườn núi Andes, thuộc xã Machalí, tỉnh Cachapoal, vùng O'Higgins, Chile, ở độ cao từ 2.000 đến 2.250 mét.
Mô tả.
Được thành lập vào năm 1906, bởi Công ty đồng Braden để khai thác đồng từ mỏ El Teniente. Tên của nó được đặt theo tên của chủ tịch công ty đầu tiên, Barton Sewell.
Trong thời kỳ Đại suy thoái, Braden trở thành công ty con của Công ty đồng Kennecott. Năm 1917, xưởng đúc đồng và các thợ rèn chuyển từ Sewell sang Caletones, và cũng sớm phát triển trở thành một thị trấn tại đó.
Ban đầu, các công nhân nam sống trong một khu nhà chung được gọi là "Colectivos", sau đó các gia đình của họ dần chuyển đến đây sinh sống. Sân chơi, quảng trường, cửa hàng và rạp chiếu phim sau đó theo sau được xây dựng. Người đi bộ lên và xuống bằng hệ thống thang thẳng đứng. Thị trấn có những con phố ngang không được trải nhựa và tại đây cũng không có xe hơi. Đối diện về phía tây của thị trấn là Cerro Negro, một khu trại cho những người nước ngoài. Quá trình khai thác, quặng được đưa xuống sườn núi đến Graneros, nơi có những tàu đường sắt khổ hẹp nối Sewell với Rancagua cũng được xây dựng vào năm 1906 và hoàn thành năm 1911. Tổng quãng đường là khoảng 45 dặm, với sự thay đổi độ cao lên tới 5.000 ft. Vào năm 1915, Sewell có một bệnh viện, một đơn vị cứu hỏa và một câu lạc bộ công cộng. Các tòa nhà được làm bằng gỗ và sơn bằng các màu sáng như vàng, đỏ và xanh dương. Ở thời kỳ hoàng kim những năm 1960, thị trấn đã có hơn 16.000 cư dân. Sewell được mệnh danh là "thành phố của những cầu thang". Thị trấn được xây dựng trên địa hình quá dốc đối với các phương tiện có bánh xe, và được bố trí xung quanh một cầu thang lớn ở trung tâm nổi từ ga xe lửa có tên là Escalara Central. Tất cả các nguồn cung cấp được đưa lên thị trấn thông qua một đường sắt khổ hẹp.
Sewell cũng từng xảy ra nhiều tai nạn, ví dụ như một trận lở tuyết vào ngày 8 tháng 8 năm 1944 khiến 102 người chết, hay một đám cháy vào tháng 6 năm 1945 khiến 355 công nhân thiệt mạng. Điều này dẫn đến các quy định an toàn lao động được tăng lên. Thị trấn luôn bị đe dọa bởi những trận động đất, tuyết lở, cháy nổ.
| 1 | null |
Trận Großbeeren xảy ra vào ngày 23 tháng 8 năm 1813 ở phía Nam Berlin (Phổ), trong chiến dịch giải phóng Đức trong chiến tranh Liên minh thứ sáu – cuộc chiến áp chót của chuỗi chiến tranh Napoléon. Lực lượng tham chiến bên phe Liên minh có Quân đoàn III (Phổ) do tướng Friedrich Wilhelm Freiherr von Bülow chỉ huy và Quân đoàn IV (Phổ) do tướng Bogislav Friedrich Emanuel von Tauentzien chỉ huy, đối diện với Tập đoàn quân Berlin (Pháp) do Thống chế Nicolas Oudinot chỉ huy. Quân Phổ có pháo Nga và Thụy Điển yểm trợ đã đánh bại quân Pháp và làm phá sản cuộc hành quân đánh Berlin của Oudinot. Đây là chiến thắng đầu tiên của quân đội Phổ kể từ sau thất bại nhục nhã dưới tay Pháp năm 1806.
Bối cảnh.
Oudinot - Tư lệnh Binh đoàn Berlin của Pháp - đã được lệnh nhanh chóng tiến chiếm kinh thành Berlin của Phổ. Trong đoàn quân của ông có Quân đoàn VII gồm thâu binh lính người xứ Sachsen. Hoàng đế Pháp là Napoléon Bonaparte khi ấy tỏ ra khinh suất đối phương, và đội quân của Oudinot không có đủ thực lực để chiến đấu. Đối diện của họ là 98.000 quân Phổ đang phòng vệ ở quê hương của mình. Oudinot cũng có quan điểm như Hoàng đế của ông, đồng thời khả năng thu thập tin tức yếu kém đã khiến cho họ lao mình vào các lực lượng Phổ vào buổi sáng ngày 23 tháng 8 năm 1813 và một trận hỗn chiến đã bùng nổ giữa hai phía.
Diễn biến.
Mưa lớn đã gây thêm náo loạn và khiến cho quân đội hai bên khó bắn, không lâu sau người Phổ phát động chiến dịch tấn công với từng đợt tập kích trực diện về phía quân Pháp. Hai phe dựa vào lưỡi lê và báng súng để đánh giáp lá cà với nhau và quân Pháp dần dần thất thế. Một số khẩu đại bác 12 pao của quân Nga đã tham gia chiến đấu cùng quân Phổ trong cuộc chiến. Trận chiến đã chấm dứt sau khi đội hình hàng dọc cuối cùng của quân Pháp giao tranh với lực lượng Khinh kỵ binh Cận vệ của quân Phổ trong một cuộc hỗn chiến giữa hai đội kỵ binh vào ban đêm, với thất bại của quân đội Pháp. Một khẩu đội pháo do ngựa kéo của quân Thụy Điển cũng xuất hiện trong chiến trường giữa đêm khuya và không có đóng góp gì đáng kể.
Ngày hôm sau, quân đội của Oudinot tiếp tục triệt thoái. Ông trở nên được biết đến nhiều nhất vì cuộc bại trận tại Großbeeren. Phía Phổ đã đối xử rất khắc nghiệt với các tù binh Sachsen trong trận đánh này. Tuy không có quy mô lớn nhưng trận chiến Großbeeren đã gây hậu quả nghiêm trọng cho quân đội Pháp: Quân đoàn VII phải bỏ ra vài ngày để chỉnh đốn quân ngũ, và thất bại của họ đã khiến cho Oudinot phải rút toàn bộ Binh đoàn Berlin về Wittenberg. Ngoài ra, thất bại của quân Pháp trong trận Großbeeren cũng buộc Thống chế Louis Nicolas Davout của Quân đoàn XIII của Pháp phải chấm dứt chiến dịch tấn công Berlin của mình và rút quân về Hamburg. Là một đòn giáng vào chiến lược của Pháp, trận thắng này cũng được xem là mốc định hình cho lực lượng quân đội mới của Phổ, đồng thời là chiến thắng đầu tiên của Liên minh thứ sáu trước các thuộc cấp của Napoléon I trong năm 1813. Sau đó, Bülow đã bẻ gãy cuộc tấn công Berlin của quân Pháp dưới quyền Thống chế Michel Ney trong trận Dennewitz, và thắng lợi này cùng với chiến thắng Großbeeren và chiến thắng Luckau hồi tháng 6 của ông đã giải nguy cho Berlin.
| 1 | null |
Rau diếp, hay đôi khi cũng được gọi là xà lách (danh pháp hai phần: "Lactuca sativa" L. var. "longifolia"),
là một thứ cây trồng thuộc loài "Lactuca sativa". So với các thứ rau cùng loài, rau diếp có đầu lá cao hơn, xương lá thẳng và cứng hơn, đồng thời có khả năng chịu nhiệt tốt hơn.
Ẩm thực.
Rau diếp có thể được ăn trực tiếp hoặc trộn salad. Đây là loại rau thường được dùng trong ẩm thực Trung Đông.
Dinh dưỡng.
Cũng như các loại rau có lá màu xanh đậm, lá rau diếp có chứa các chất chống oxy hóa được coi là có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh ung thư.
| 1 | null |
reCAPTCHA được phát triển và cung cấp bởi trường đại học Carnegie Mellon. reCAPTCHA là sự kết hợp sáng tạo giữa CAPTCHA với việc số hóa các bản scan sách. Cụ thể, một mặt nó cung cấp dịch vụ CAPTCHA miễn phí cho người sử dụng thông qua website recaptcha.net để đưa vào các website khác, mặt khác, nó sử dụng chính dữ liệu mà người dùng đã xác thực để số hóa các cuốn sách mà bản thân các phần mềm số hóa không thể đọc được.
Mailhide.
reCAPTCHA cũng mới tạo dự án Mailhidanscos nhiệm vụ bảo vệ các địa chỉ email trên các trang web khỏi bị spam. Mặc định, địa chỉ email sẽ được chuyển sang dạng mà các bộ máy tìm kiếm và các phần mềm bóc dữ liệu web (crawler) không thể lấy được địa chỉ đầy đủ. Ví dụ, "mailme@example.com" sẽ bị chuyển thành "mai...@example.com". Người duyệt web có thể kích chuột vào dấu "..." và điền vào một mã ReCAPTCHA được yêu cầu để có thể thấy địa chỉ email đầy đủ.
Nghĩa.
CAPTCHA, Completely Automated Public Turing test to tell Computers and Humans Apart và tiếng Việt: Máy kiểm tra người hoặc máy được hoàn thành công khai. Nếu sai, reCAPTCHA sẽ kiểm tra lại.
| 1 | null |
Lê Thước (1891 - 1975) hiệu Tĩnh Lạc; là nhà giáo dục, nhà biên khảo Việt Nam ở đầu thế kỷ 20.
Thân thế và sự nghiệp.
Ông sinh ngày 13 tháng 4 năm 1891 ở xã Lạc Thiện, huyện La Sơn; nay là xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Đi học, dạy học.
Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, nên ông phải vất vả ngay từ thuở nhỏ (chăn trâu, cắt cỏ, phụ giúp mẹ dệt vải để kiếm ăn). Mãi đến năm 14 tuổi (1905), ông mới theo cha vào Huế học chữ Hán. Và đến năm 1908, ông bắt đầu học thêm chữ Pháp.
Năm 1910, ông thi đỗ bằng Tiểu học, được vào học Quốc Học Huế. Ông học giỏi, một năm lên hai lớp, nên chẳng bao lâu sau ông lấy được bằng Thành Chung, được bổ làm trợ giáo tại Nha học chính Trung Kỳ.
Tháng 8 năm 1917, ông xin đổi ra dạy học ở trường Pháp-Việt thành phố Vinh (Nghệ An). Năm sau (Mậu Ngọ, 1918), nhân ở đấy có khoa mở khoa thi Hương, ông xin thi và đỗ Giải nguyên. Đây là khoa thi Hương cuối cùng của triều Nguyễn trên đất Trung Kỳ.
Thi đỗ cử nhân, nhưng ông không ra làm quan, mà xin được học thêm. Tháng 8 năm 1918, ông được tuyển vào học trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương ở Hà Nội.
Năm 30 tuổi (1921), ông đỗ tốt nghiệp với bài luận văn được điểm cao nhất có nhan đề là "L' Enseignement des caracteres chinois en Vietnam" ("Việc dạy chữ Hán ở Việt Nam"). Sau đó, ông được bổ đến dạy Pháp văn, Việt văn và Việt sử ở trường Quốc học Vinh. Hai năm sau (1923), ông được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường Cao đẳng tiểu học Vinh; kiêm Thanh tra các trường sơ học, tiểu học trong tỉnh Nghệ An.
Tháng 9 năm 1927, Nha học chính Đông Dương điều động ông ra Hà Nội dạy tiếng Việt tại trường Trung học Albert Sarraut (nay là Trường Trung học Phổ thông Trần Phú ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội).
Tháng 9 năm 1935, ông đổi đến dạy tại trường Trung học Bảo hộ (còn gọi là trường Bưởi, nay là Trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội).
Tháng 9 năm 1938, ông được cử làm Đốc học các trường ở thị xã Lạng Sơn. Cuối năm 1940, ông được chuyển về dạy ở trường Trung học Đào Duy Từ (Thanh Hóa).
Tháng 5 năm 1943, ông bị Nhà nước bảo hộ cách chức vì có lòng yêu nước.
Làm công tác nghiên cứu.
Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Lê Thước tham gia Hội đồng cố vấn giáo dục.
Tháng 12 năm 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông được cử giữ chức Chủ tịch Uỷ ban tăng gia sản xuất tỉnh Thanh Hóa. Trong năm đó, con trai cả của ông là Lê Thiệu Huy hy sinh ở Thakkhet (Lào).
Năm 1950, ông được bầu vào Ủy ban trung ương Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam. Tháng 3 năm 1951, ông được bầu vào Ban Chấp hành Uỷ ban Mặt Trận Liên-Việt toàn quốc.
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp (1954), ông làm cán bộ ở Nha Giáo dục Phổ thông, sau chuyển sang Ban Tu thư thuộc Bộ Giáo dục (Hà Nội). Ở đây, ông làm công tác phiên dịch, hiệu đính, chú thích, giới thiệu các tác phẩm Hán-Nôm chọn lọc ở bậc trung học và đại học.
Tháng 2 năm 1957, ông đổi sang làm trong Ban phụ trách ngành Bảo tồn Bảo tàng thuộc Bộ Văn hóa, góp phần quan trọng trong việc phát hiện, sưu tầm hiện vật, và xây dựng Thư viện Hán Nôm. Đến tháng 6 năm 1963, ông được về nghỉ hưu ở tuổi 72 tuổi.
Qua đời.
Giáo sư Lê Thước mất ngày 1 tháng 10 năm 1975 (Ất Mão), thọ 85 tuổi .
Tác phẩm.
Giới thiệu về các tác giả quan trọng của cổ văn Việt Nam, có:
Trong số ấy, "Truyện cụ Nguyễn Du" và "Sự nghiệp thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ" là hai công trình tâm huyết, công phu hơn cả .
Về biên khảo, có:
Về giáo khoa, có:
Ngoài ra, theo Trần Hải Yến, thì ông là một trong số người đầu tiên tham gia viết sách văn học cho cấp học II (nay là Trung học cơ sở) và III (nay là Trung học phổ thông) ngay sau năm 1955.
Về thơ có: Tĩnh Lạc thi tập (chưa xuất bản).
Ghi nhận nhân cách và công lao của Giáo sư Lê Thước, ở thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên ông.
| 1 | null |
Bán đảo Yucatán (), nằm tại đông nam México, tách biệt biển Caribe với vịnh México, bờ biển phía bắc của bán đảo nằm bên eo biển Yucatán. Bán đảo nhằm ở phía đông của eo đất Tehuantepec, một phân vùng địa lý chia tách Trung Mỹ với phần còn lại của đại lục Bắc Mỹ.
Bán đảo bao gồm lãnh thổ các bang Yucatán, Campeche, và Quintana Roo của México; phần phía bắc của đất nước Belize; và phần phía bắc tỉnh Petén của đất nước Guatemala.
Từ nguyên.
Nguồn gốc của từ Yucatán là vấn đề được tranh cãi rộng rãi. Hernan Cortes, trong lá thư đầu tiên gửi cho Karl V của Thánh chế La Mã, đã tuyên bố rằng tên gọi Yucatán bắt nguồn từ một sự hiểu lầm. Theo đó, những nhà thám hiểm Tây Ban Nha đầu tiên đã hỏi về tên gọi của vùng này và họ nhận được phản hồi là "Yucatan," một từ tiếng Maya Yucatán có nghĩa là "Tôi không hiểu bạn nói gì." Những người khác thì cho rằng tên gọi bắt nguồn từ Yokatlān trong tiếng Nahuatl (Aztec), có nghĩa là "nơi giàu có."
Dân cư.
Bán đảo Yucatán bao gồm một phần đáng kể vùng đất thấp Maya cổ đại (mặc dù văn minh Maya mở rộng ở phía nam của bán đảo Yucatán, tại những vùng đất mà nay là Guatemala và tiến đến Honduras và cao nguyên Chiapas). Có nhiều di chỉ khảo cổ Maya trên khắp bán đảo; một số di chỉ được biết đến nhiều là Chichen Itza, Tulum và Uxmal. Người Maya bản địa và người Mestizo có một phần nguồn gốc Maya chiếm một phần khá lớn trong nhân khẩu của bán đảo, và ngữ hệ Maya được sử dụng rộng rãi tại đây. Chiến tranh đẳng cấp năm 1847 đã nổ ra khi người Maya bản địa nổi dậy chống lại tổ chức xã hội do người Tây Ban Nha áp đặt. Sau chiến tranh, người Maya kiểm soát phần đông nam của bán đảo còn người gốc Tây Ban Nha thì kiểm soát phần còn lại.
Kinh tế.
Cho đến đầu thời kỳ hiện đại, hoạt động kinh tế tại bán đảo Yucatán phần lớn là chăn nuôi gia súc, khai thác gỗ, Manilkara chicle (một loài thuộc họ Hồng xiêm để làm kẹo cao su) và cây thùa sợi. Từ thập niên 1970 (thị trường thùa sợi và kẹo cao su tự nhiên đã sụp đổ do sự ra đời của các sản phẩm tổng hợp thay thế), bán đảo Yucatán đã định hướng lại nền kinh tế theo hướng phát triển du lịch, đặc biệt là tại bang Quintana Roo của México. Từng là một làng đánh cá nhỏ, Cancún ở phía đông bắc của bán đảo nay đã phát triển thành một thành phố thịnh vượng. Riviera Maya, trải dài dọc theo bờ biển phía đông của bán đảo giữa Cancún và Tulum, có đến 50.000 giường nghỉ và được hàng triệu du khách viếng thăm mỗi năm. Các địa điểm được biết đến nhiều là thị trấn đánh cá cũ Playa del Carmen, các công viên sinh thái Xcaret và Xel-Há và các di chỉ Maya Tulum và Coba.
Địa chất.
Bản đảo là phần nhô lên của nền Yucatán lớn hơn, tất cả đều gồm có đá cacbonat và đá hòa tan, chủ yếu là đá vôi song dolomit và evaporit cũng hiện diện ở các độ sâu khác nhau. Toàn bộ bán đảo Yucatán là một vùng cảnh quan karst bằng phẳng không bị giới hạn. Các hố đất sụt, được gọi là cenote, khá phổ biến tại các vùng đất thấp phía bắc.
Theo giả thuyết Alvarez, các loài khủng long đã tuyệt chủng hàng loạt trong quá trình chuyển đổi từ kỷ Phấn trắng sang kỷ Cổ Cận, được gọi là ranh giới kỷ Phấn trắng-kỷ Cổ Cận (ranh giới K–T), 65 triệu năm trước đây và nguyên nhân là do đã có một tiểu hành tinh va chạm với một nơi nào đó tại bồn Caribe lớn. Hố Chicxulub nằm ở ngoài khơi bờ biển phía bắc của bán đảo gần thị trấn Chicxulub.
Tài nguyên nước.
Do toàn bộ bán đảo có cảnh quan karst, nửa phía bắc của nó không có các con sông. Tại những nơi có hồ và đầm lầy, nước đục và không thể uống được. Do có vị trí ven biển, nằm dưới toàn bộ bán đảo là một tầng ngậm nước ven biển phân tầng dày đặc tiếp giáp kéo dài, nước sạch được tạo thành từ tầng nước nổi lên trên lớp nước mặn xâm nhập từ mép bờ biển. Hàng nghìn hồ được gọi là cenote trên khắp khu vực đã cho phép tiếp cận nguồn nước ngầm. Các cenote từ lâu đã được người Maya cổ đại và đương đại sử dụng.
Thực vật.
Các khu rừng nhiệt đới ngắn và cao là kiểm thảm thực vật tự nhiên chiếm ưu thế tại bán đảo Yucatán. Biên giới giữa phía bắc Guatemala (tỉnh Petén), México (Campeche và Quintana Roo), và phía tây Belize vẫn được bao phủ bởi những vùng rừng nhiệt đới Trung Mỹ kéo dài liên tục. Tuy nhiên, chúng đang bị tàn phá trên phạm vi rộng.
Khí hậu.
Giống như phần lớn vùng Caribe, bán đảo Yucatán nằm trong vành đai bão Đại Tây Dương, và với địa hình gần như bằng phẳng thì bán đảo sẽ dễ bị tổn hại từ những cơn bão đến từ phía đông. Mùa bão Đại Tây Dương năm 2005 với năm cơn bão mạnh ập vào đã khiến cho ngành du lịch México chịu ảnh hưởng nặng nề. Các cơn bão mạnh được gọi là nortes có thể đổ bộ vào bán đảo Yucatán tại bất kỳ thời điểm nào trong năm. Mặc dù các cơn bão đổ bộ sẽ mang đến mưa lớn và gió mạnh song chúng đều chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Tỉ lệ trung bình ngày có mưa dao động từ 7% vào tháng 4 đến 25% vào tháng 10. Gió biển sẽ đem đến sự mát mẻ, độ ẩm thường cao, đặc biệt là tại các khu rừng nhiệt đới còn lại.
| 1 | null |
Viện Đại học Auckland hay Đại học Auckland (tiếng Māori: "Te Whare Wānanga o Tamaki Makaurau"; tiếng Anh: "The University of Auckland") là một viện đại học ở thành phố Auckland (đảo Bắc), New Zealand. Đây là viện đại học lớn nhất quốc gia châu Đại Dương này, và được QS World University Rankings xếp thứ 82 trong các cơ sở giáo dục đại học trên toàn thế giới. Được thành lập vào năm 1883 như là một trường đại học thành viên của Viện Đại học New Zealand, Viện Đại học Auckland nay có tám phân khoa đại học ở sáu khuôn viên và hơn 40.000 sinh viên.
Quản trị.
Đứng đầu Viện Đại học Auckland là vị Viện trưởng (Chancellor), hiện tại là Ian Parton, nhưng chức danh này chỉ mang tính chất lễ nghi. Viên chức nắm quyền điều hành cao nhất là vị Phó viện trưởng (Vice-Chancellor), hiện tại là Giáo sư Stuart McCutcheon, vị Phó viện trưởng thứ năm trong lịch sử của Viện đại học.
| 1 | null |
Khám Sing Sing hay Nhà tù Sing Sing là một trong những nhà tù lớn nhất ở Mỹ, tọa lạc tại bờ Tây của sông Hudson và cách 30 dặm (khoảng 50 km) từ thành phố New York của Mỹ. Cái tên ""Sing Sing" được đặt nhại theo tên "Sinck Sinck" hoặc "Sint Sinck"" của một bộ lạc da đỏ bản địa của Mỹ đã sống ở đây vào năm 1685, nó có nghĩa là "đá trong đá". Nhà tù này có sức chứa lên đến 1.700 tù nhân, hiện đang có kế hoạch đưa 1825 phòng giam vào diện bảo tàng. Nhà tù này cũng là nơi giam giữ nhiều tù nhân nổi tiếng như là Crowley Hai súng. Crowley giết người tàn nhẫn nhưng khi lên ghế điện thì ông ta vẫn biện bạch rằng: "Tôi chỉ tự vệ mà người ta xử tôi như vậy đó".
| 1 | null |
Rau cúc đắng hay khổ thảo, diếp đắng, diếp xoăn (danh pháp hai phần: Cichorium endivia) hay là loài rau ăn lá thuộc họ Cúc (Asteraceae), dùng để nấu, ăn trực tiếp hoặc làm salad.
Tại Việt Nam, cây này được trồng ở miền Nam.
Diếp đắng giàu vitamin và khoáng chất, đặc biệt là folate, vitamin A và vitamin K, cũng như có chứa nhiều chất xơ.
Có hai thứ của loài này thường được trồng:
| 1 | null |
Hồ Viết Thắng (1918 -1998), tên khai sinh là Hồ Sĩ Khảng, là một chính khách Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Trưởng ban Nông vận, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa, từng giữ chức Giám đốc trực tiếp điều hành Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Bộ trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm (1979 - 1981).
Thân thế gia đình.
Ông thuộc họ Hồ làng Quỳnh Đôi nổi tiếng, sinh làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An, con Hồ Sỹ Đản, cháu của Hồ Sỹ Tư là bạn Phan Bội Châu, Nguyễn Sinh Sắc.
Hồ Viết Thắng có bảy con, trong số đó có hai người là Hồ Sĩ Tá và Hồ Sĩ Hậu nguyên Thiếu tướng Cục trưởng Cục Kinh tế Bộ Quốc phòng.
Quá trình hoạt động cách mạng.
Năm 1933 Hồ Viết Thắng bắt đầu học chữ Quốc ngữ và tham gia hoạt động cách mạng qua hai người thầy là Phan Hữu Thờm và Nguyễn Xuân Vịnh. Đây là hai Đảng viên Cộng sản từ năm 1930.
Năm 1939, Hồ Viết Thắng được đứng trong hàng ngũ Đảng, sau đó ông đến thôn Yên Thống (nay là xã Diễn Liên, huyện Diễn Châu) hoạt động, xây dựng cơ sở và làm Bí thư chi bộ. Đầu năm 1940, ông được Ban Chấp hành Phủ uỷ Diễn Châu giao cho nhiệm vụ củng cố 3 chi bộ Vạn Phần, Tiền Song, Nam Khoán vừa mới bị phá vỡ.
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim ra lệnh thả tù chính trị. Hồ Viết Thắng được thả khỏi nhà lao Buôn Ma Thuột sau 6 năm ngồi tù của bản án 18 năm khổ sai. Ông mau chóng về quê bắt liên lạc lại với tổ chức, phát triển Mặt trận Việt Minh để chuẩn bị khởi nghĩa tại quê nhà.
Ngày 17-8-1945, tức ngày 10-7 năm Ất Dậu, đúng phiên chợ Cầu Giát, nhân dân Quỳnh Lưu khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.Hồ Viết Thắng làm Phó chủ tịchỦy ban Hành chính lâm thời huyện Quỳnh Lưu (Chủ tịch là ông Nguyễn Xuân Mai). Từ tháng 9-1945, ông lần lượt được đề bạt làm Bí thư Huyện ủy lâm thời huyện Quỳnh Lưu, Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An.
Hồ Viết Thắng từng làm Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An, Bí thư Tỉnh uỷ Thanh Hóa trong thời gian 1948 - 1949.
Sau đó tham gia kháng chiến chống Pháp tại chiến khu Việt Bắc. Ngày 06/8/1949, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 02 – NQ/TW về việc thành lập Ban Nông vận Trung ương, gồm 6 đồng chí: Hồ Viết Thắng - Ủy viên Trung ương Đảng làm Trưởng ban, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Mạnh Hồng, Phạm Xuân Di, Trương Việt Hùng, Trần Đào. Trụ sở đầu tiên của Ban Nông vận Trung ương đóng tại Bản Lá (Roòng Khoa), xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên; sau chuyển sang thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II năm 1951, ông cùng một số đồng hương Hồ Tùng Mậu, Hoàng Ngọc Ân, Nguyễn Chấn tham gia, và cùng Hồ Tùng Mậu, Hoàng Ngọc Ân được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là Ủy viên dự khuyết, Trưởng tiểu ban Nông vận, thành viên Ban Kinh tế Tài chính của Trung ương Đảng.
Thực hiện phong trào Cải cách ruộng đất.
Với tư cách Ủy viên Trung ương Đảng giữ chức Trưởng Ban Liên lạc Nông dân toàn quốc, Thứ trưởng Bộ Nông lâm, từ tháng 7 năm 1954, ông Hồ Viết Thắng được giao trách nhiệm là Phó ban, trực tiếp phụ trách cơ quan Ủy ban Cải cách ruộng đất Trung ương điều hành chiến dịch.
Ủy ban Cải cách ruộng đất Trung ương do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng Ban. Tổng Bí thư Trường Chinh là Phó Ban,nhưng phụ trách Đảng tổ Cải cách ruộng đất, là người cao nhất về Đảng lãnh đạo công cuộc Cải cách ruộng đất. Hai Ủy viên Bộ Chính trị là Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương trực tiếp chỉ đạo.
Từ đợt 2, Hồ Viết Thắng được giao nhiệm vụ là Ủy viên thường trực điều hành công việc hàng ngày. Thành viên Ủy ban Cải cách ruộng đất Trung ương có một số Ủy viên Bộ Chính trị, người đứng đầu các Ban ngành, đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Cải cách ruộng đất đem lại những kết quả mang tính chiến lược song Cải cách ruộng đất cũng phạm phải những sai lầm nghiêm trọng.Để lấy lại lòng tin của nhân dân, Đảng Lao động Việt Nam triển khai ngay hai việc: Một là thi hành kỷ luật những người trực tiếp chỉ đạo và điều hành công cuộc Cải cách ruộng đất.Hai là tiến hành sửa sai.
Ngày 18-8-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm Cải cách ruộng đất và cho biết Trung ương đảng và chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm. Tại Hội nghị Trung ương 10 (1956) đã thông qua quyết định thi hành kỷ luật những người trực tiếp chỉ đạo công cuộc Cải cách ruộng đất. Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trong hội nghị lần thứ 10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (họp từ ngày 25/8/56 đến 24/9/56) tiến hành sửa sai cải cách ruộng đất, Hồ Viết Thắng bị kỷ luật, bị loại ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Sau khi nhận kỷ luật, ông Hồ Viết Thắng trở thành chuyên viên Văn phòng Trung ương Đảng. Năm 1958, ông được phân công về phụ trách trường Hợp tác xã nông nghiệp Trung ương thuộc Ban Công tác nông thôn Trung ương.
Gia đình ông Hồ Viết Thắng tất cả chín nhân khẩu và gia đình ông Hoàng Du, nguyên là Chánh Văn phòng Ủy ban Cải cách ruộng đất Trung ương, dọn ra ở xóm lao động bãi Nghĩa Dũng, ngoài đê sông Hồng.
Phục hồi.
Tháng 6/1961, sau một khóa học tại trưởng Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, ông Hồ Viết Thắng được bổ nhiệm làm Ủy viên, rồi Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch &Đầu tư) trong thời gian dài và là Bí thư Đảng ủy Ủy ban này.
Sau năm 1975 ông vào TP Hồ Chí Minh tham gia công tác chính quyền cách mạng mới. Năm 1979 ông tham gia Đoàn chuyên gia kinh tế văn hóa có nhiệm vụ giúp Chính phủ Campuchia nghiên cứu chủ trương, chính sách, kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa ở Campuchia và giúp thực hiện những công việc kinh tế, văn hóa do Campuchia yêu cầu.
Ngày 23-4-1979 ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm thay ông Ngô Minh Loan, thời gian làm Bộ trưởng đến 22-1-1981 khi Bộ Lương thực Thực phẩm chia thành Bộ Lương thực và Bộ Công nghiệp Thực phẩm.
Tháng 12-1980, Bộ Lương thực Thực phẩm tách thành Bộ Lương thực và Bộ Công nghiệp Thực phẩm, ông trở lại Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Đầu năm 1983, Hồ Viết Thắng chính thức nghỉ hưu ở tuổi 65 và qua đời năm 1998.
| 1 | null |
Chi Rau khúc (danh pháp khoa học: Gnaphalium) là một chi thực vật có hoa thuộc họ Cúc. Chi này có khoảng 120 loài, chủ yếu phân bố ở vùng ôn đới, đôi khi có gặp ở miền cận nhiệt đới hoặc miền núi nhiệt đới.
Sinh hóa.
Các loài trong chi Rau khúc có chứa flavonoid và diterpen. Gần đây, hai dạng dẫn xuất của axit caffeoyl-D-glucaric là axit leontopodic và axit B leontopodic trước đây được phát hiện trong loài" Leontopodium alpinum" (L.) Cass. nay đã được tìm thấy trong một số loài rau khúc khác.
| 1 | null |
Rau khúc tẻ hay Hoàng nhung gần (danh pháp khoa học: Gnaphalium affine, đồng danh: "Gnaphalium multiceps") là loài thực vật có hoa thuộc chi Rau khúc "Gnaphalium". Loài này mọc nhiều ở Đông Á, từ các vùng ôn đới thuộc Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan cũng như các vùng cao thuộc Ấn Độ, Nepal, Thái Lan. Tại Việt Nam, loài này mọc từ Hà Giang đến Bảo Lộc.
Rau khúc tẻ sống đến hai năm, thân dài 15–40 cm và phân cành với lớp lông mịn, lá nhỏ và dẹt. Hoa nhỏ, cánh dài khoảng 2 mm.
Ứng dụng.
Rau khúc tẻ được dùng trong Đông y và ẩm thực. Loại rau này được dùng để nhuộm màu xanh và tạo hương vị đặc trưng cho một số loại thực phẩm Đông Á.
Tại Việt Nam, lá và ngọn rau khúc tẻ dùng để làm rau ăn hoặc làm bánh khúc.
| 1 | null |
Sông Illinois () là một trong các chi lưu chính của sông Mississippi, có chiều dài xấp xỉ thuộc bang Illinois. Sông thoát nước cho một khu vực lớn ở miền trung bang Illinois, với diện tích lưu vực là . Đây là một dòng sông quan trọng đối với người bản địa châu Mỹ và các nhà buôn người Pháp thời kỳ đầu do là tuyến đường thủy chính nối Đại Hồ với sông Mississippi. Các khu định cư thuộc địa của người Pháp dọc theo sông đã tạo thành trung tâm của một khu vực được gọi là xứ Illinois (Pays des Illinois). Sau khi hoàn thành việc xây dựng kênh đào Illinois và Michigan và kênh đào Hennepin vào thế kỷ 19, vai trò của sông trong việc vận chuyển giữa hồ Michigan và sông Mississippi càng được mở rộng.
Thủy văn.
Sông Illinois bắt đầu từ điểm hợp lưu của sông Kankakee và sông Des Plaines ở phía đông quận Grundy, xấp xỉ 10 dặm (16 km) về phía tây nam của Joliet. Sông chảy theo hướng tây qua miền bắc của tiểu bang Illinois, qua Morris và Ottawa, tại hai nơi này sông nhận được nước từ [sông [Mazon]] và sông Fox. Tại LaSalle, sông Illinois tiếp tục nhận được nước của sông Vermilion, và sau đó chảy về phía tây qua Peru, và Spring Valley. Ở phía đông nam quận Bureau, dòng chảy của sông chuyển thành hướng nam tại một khu vực được gọi là "Great Bend," sau đó chảy về tây nam qua miền tây của Illinois, qua Lacon, Henry và khu kinh doanh của Peoria, thành phố chính nằm ven sông.
Phía nam của Peoria, sông Illinois hợp với sông Mackinaw rồi chảy qua Khu trú ẩn hoang dã quốc gia Chautauqua. Qua Havana, sông Illinois nhận nước từ sông Spoon, và qua Browning, nó lại nhận được nước từ sông Sangamon. Sông La Moine đổ vào sông Illinois xấp xỉ năm dặm (8 kilometers) về phía tây nam của Beardstown.
Gần nơi hợp lưu của Illinois với sông La Moine, dòng chảy cú nó chuyển sang hướng nam, chảy gần như song song với sông Mississippi tại phía tây nam Illinois. Sông Macoupin đổ vào Illinois tại ranh giới giữa Greene và Jersey, xấp xỉ 15 dặm (24 km) về phía thượng lưu từ điểm hợp lưu với Mississippi.
Tại 20 dặm (32 km) cuối, sông Illinois chỉ cách sông Mississippi khoảng 5 dặm, bởi một vùng đất tạo thành quận Calhoun. Illinois đổ vào Mississippi gần Grafton, xấp xỉ 25 dặm (40 km) về phía tây bắc khu kinh doanh của St. Louis và khoảng 20 dặm về phìa thượng nguồn từ điểm hợp lưu giữa sông Missouri và Mississippi.
| 1 | null |
Sông Arkansas (, tiếng Pawnee: "Kícka" ) là một trong các phụ lưu chính của sông Mississippi. Hướng dòng chảy chính của sông là đông và đông nam, sông chảy qua các tiểu bang Colorado, Kansas, Oklahoma, và Arkansas của Hoa Kỳ. Lưu vực ban đầu của con sông là tại Colorado ở miền Tây, cụ thể là tại thung lũng sông Arkansas. Tại đây, thượng nguồn của sông bắt nguồn từ lớp băng trên các đỉnh núi Collegiate. Sau đó, dòng nước chảy đến vùng Trung Tây qua Kansas, và cuối cùng chảy qua hai bang Oklahoma và Arkansas thuộc miền Nam.
Với chiều dài 2.364 km (1.469 mi), đây là sông dài thứ sáu tại Hoa Kỳ, chi lưu dài thứ hai của hệ thống Mississippi-Missouri, và là sông dài thứ 45 trên thế giới. Sông khởi nguồn từ dãy núi Rocky trên địa phận quận Lake, Colorado, gần Leadville. Năm 1859, người ta đã phát hiện ra vàng sa khoáng tại khu vực Leadville, và điều này đã thu hút hàng nghìn người đến để tìm vận may, song vàng sa khoáng đã nhanh chóng cạn kiệt. Cửa sông Arkansas thuộc địa phận Napoleon, Arkansas, và diện tích lưu vực của sông là 440.300 km² (170.000 sq mi). Về dung tích, sông Arkansas nhỏ hơn nhiều so với sông Missouri và sông Ohio, với lưu lượng trung bình là khoảng 1.200 m³/s (41.000 ft³/s).
Đoạn sông Arkansas từ đầu nguồn cho đến kinh tuyến 100°T từng tạo thành một phần của biên giới Mexico - Hoa Kỳ từ Hiệp ước Adams-Onís (có hiệu lực năm 1821) cho đến vụ sáp nhập Texas hay Hiệp ước Guadelupe Hidalgo.
Phát âm.
Tên của sông được phát âm khác nhau tùy theo vùng. Nhiều người ở các bang Trung Tây, bao gồm Kansas và Colorado, phát âm là ,
trong khi người dân bang Arkansas thì phát âm là theo một điều luật cấp bang được thông quan vào năm 1881.
Thủy văn.
Dòng chảy Arkansas được phân thành ba phần riêng biệt. Tại đầu nguồn, Arkansas là một dòng sông vùng núi dốc chảy qua các thung lũng hẹp của dãy núi Rocky, độ cao của sông hạ 1,4 km trong chiều dài 193 km. Có thể đi thuyền trên đoạn sông này (bao gồm "The Numbers" gần Granite, Colorado, "Brown's Canyon", và Royal Gorge) vào mùa xuân và mùa hè.
Tại Cañon City, Colorado, thung lũng sông Arkansas mở rộng và phẳng ra rõ rệt. Ngay phía tây Pueblo, Colorado, sông chảy vào Đại Bình Nguyên. Đoạn còn lại trên địa bàn Colorado, Kansas, và hầu hết Oklahoma, Arkansas mang nét đặc trưng của một sông vùng Đại Bình Nguyên, lòng sông rộng và nông và có lũ lụt theo mùa. Các chi lưu lớn của sông Arkansas là sông Canadian và sông Cimarron (cả hai đều chảy từ vùng đông bắc New Mexico) và sông Salt Fork Arkansas.
Sà lan và tàu thủy lớn có thể thông hành trên đoạn sông cho đến Catoosa, Oklahoma do ở đó có một loạt cửa cống và đập được xây dựng từ đầu thế kỷ 20, tuyến đường sông này được gọi là "McClellan-Kerr Arkansas River Navigation System". Phía trên Catoosa, chỉ có các tàu thuyền nhỏ như bè hay ca nô là có thể đi lại trên sông.
Qua miền tây Arkansas, thung lũng sông phải đi qua các núi bằng, ụ đất hay tàn khâu có đỉnh bằng phẳng song cao và biệt lập, như núi Nebo và núi Petit Jean, hay núi Magazine, đỉnh cao nhất của tiểu bang. Thung lũng sông mở rộng và trở nên nông hơn ở ngay phía tây của Little Rock, Arkansas. Sông tiếp tục chảy theo hướng đông, qua các vùng đồng bằng và khu rừng ở miền đông Arkansas cho đến khi đổ vào sông Mississippi.
Lưu lượng dòng chảy của sông Arkansas (đo ở miền trung Kansas) đã suy giảm từ xấp xỉ 248 feet khối trên giây (7 m³/s) vào giai đoạn 1944-1963 xuống trung bình 53 feet khối trên giây (1,5 m³/s) trong giai đoạn 1984–2003, nguyên nhân chủ yếu là do việc bơm hút nước ngầm để tưới tiêu cho miền đông Colorado và miền tây Kansas.
Các thành phố quan trọng dọc sông Arkansas bao gồm Pueblo, Colorado; Wichita, Kansas; Tulsa, Oklahoma; Fort Smith và Little Rock, Arkansas.
Vấn đề phân bổ nguồn nước.
Từ năm 1902, Kansas đã tuyên bố rằng Colorado đã lấy đi quá nhiều nước của sông, dẫn đến một số vụ kiện trước Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ và vẫn kéo dài đến ngày nay, thường được gọi với cái tên "Kansas v. Colorado". Các vấn đề trong việc sở hữu và sử dụng nguồn nước sông Arkansas giữa Colorado và Kansas đã khiến cho hai bang có các thỏa thuận riêng với nhau. Mặc dù Quốc hội Hoa Kỳ đã tán thành Thỏa thuận sông Arkansas vào năm 1949, song nó vẫn không khiến cho các tranh chấp về quyền sử dụng nước sông giữa hai bang dừng lại.
| 1 | null |
Trận Champion Hill là trận đánh quyết định trong chiến dịch Big Black River của tướng Ulysses S. Grant trên Mặt trận miền Tây của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, diễn ra vào ngày 16 tháng 5 năm 1863. Trong trận đánh này, quân đội Liên bang miền Bắc do Grant chỉ huy đã giành chiến thắng trước quân đội Liên minh miền Nam do tướng John C. Pemberton chỉ huy, dù bị thiệt hại không nhỏ. Thất bại này buộc Pemberton phải rút quân về Vicksburg và định đoạt cho số mệnh của Vicksburg.
Sau khi đánh bại quân miền Nam do tướng Joseph Johnston chỉ huy trong trận Jackson, Grant sai quân đoàn của tướng William T. Sherman cầm chân Johnston tại Jackson. Quân miền Nam không chỉ bị phân rẽ giữa Johnston Pemberton, mà lại còn mâu thuẫn về chiến lược: Johnston muốn Pemberton tiến quân về phía Bắc Mississippi để hội quân với lực lượng của ông. Tuy nhiên, Pemberton muốn lại gần Vicksburg để phòng vệ thành phố này. Grant đã cử hai quân đoàn khác của mình, dưới quyền James McPherson và John McClernand, tiến công Pemberton. Họ phát hiện ra quân miền Nam tại đồi Champion Hill nằm khoảng chính giữa Jackson và Vicksburg. Tại đây, quân đội miền Bắc đã tấn công quân đội miền Nam. Thế trận thường xoay chuyển, song sức kháng cự của quân miền Nam đã đuối dần. Cuối cùng, quân của Grant đã chiếm được Champion Hill, quân của Pemberton bị buộc phải triệt thoái và một sư đoàn bị cắt đứt hoàn toàn khỏi đội quân của ông.
Trận Champion Hill được xem là trận chiến khốc liệt nhất trong chiến Big Black River. Mặc dù quân miền Nam rút chạy trong hỗn loạn, sự rụt rè của McClernand đã khiến cho quân miền Nam không hoàn toàn bị tiêu diệt. Song, trận Champion Hill được xem là trận đánh quyết định của chiến tranh. Pemberton đã kéo quân về sông Big Black River, trước khi bị Grant đánh đuổi vào ngày hôm sau. Pemberton đã kéo quân về Vicksburg, và cuối cùng, cuộc vây hãm Vicksburg đã diễn ra trong suốt 6 tuần và kết thúc với sự thất thủ của Vicksburg.
| 1 | null |
Jaffna (Tiếng Tamil: யாழ்ப்பாணம் Yalpanam, Sinhala: යාපනය Yāpanaya) là một thành phố lớn ở Sri Lanka. Đây là thành phố thủ phủ của tỉnh Phía Bắc (Northern) Sri Lanka. Đây là trụ sở hành chính của huyện Jaffna nằm trên bán đảo Jaffna. Nó cũng là thành phố lớn thứ ba trong nước, sau cố đô Colombo và thành phố Kandy.
Thành phố Jaffna cách Kandarodai 6 dặm về phía Bắc, phục vụ như là một trung tâm thương mại nổi tiếng tại bán đảo Jaffna từ thời cổ đại. Cùng trên một bán đảo Nallur nằm trong thành phố Jaffna ngày nay được biết đến như là kinh đô của Vương quốc Jaffna trong 4 thế kỷ dưới thời trung cổ. Trước khi cuộc nội chiến Sri Lanka diễn ra, thành phố Jaffna là đô thị đông dân thứ hai của Sri Lanka sau thủ phủ thương mại Colombo. Từ năm 1980, trong cuộc nội chiến, quân nổi dậy đã chiếm đóng thành phố và dân số giảm sút nghiêm trọng vì chiến sự. Sau khi kết thúc nội chiến, kể từ năm 2009, những người tị nạn, tha hương trở về lại thành phố. Chính phủ trung ương cho xây dựng lại kinh tế và cơ sở hạ tầng, khu vực kinh tế tư nhân bắt đầu được phát triển.
Trong lịch sử, Jaffna đã là một cứ địa tranh chấp của các phe thực dân, năm 1619 nó trở thành một thành phố cảng của Bồ Đào Nha và sau đó thuộc quyền kiểm soát của Hà Lan và Hà Lan đã mất thành phố cảng này vào tay người Anh vào năm 1796. Sau khi Sri Lanka giành được độc lập năm 1948, mối quan hệ chính trị giữa người Sri Lanka chiếm đa số với người Tamil và Sinhalese là thiểu số ngày càng tồi tệ. Sau Cuộc tàn sát tháng bảy đen tối, nội chiến Sri Lanka nổ ra năm 1983. Jaffna bị chiếm đóng bởi phiến quân Những con Hổ giải phóng Tamil (LTTE) vào năm 1986. Năm 1987 được Lực lượng gìn giữ hoà bình Ấn Độ (IPKF) chiếm đóng và chính phủ Sri Lanka đã giành quyền kiểm soát vào năm 1995.
| 1 | null |
Tại Sri Lanka, các tỉnh (tiếng Sinhala: පළාත, tiếng Tamil: மாகாணம்), là dạng phân chia hành chính cấp cao nhất tại quốc gia này. Các tỉnh được thành lập đầu tiên dưới thời Thực dân Anh cai trị Tích Lan năm 1833. Vào thế kỷ sau đó, hầu hết các chức năng hành chính đã được chuyển giao cho các quận (huyện), là cấp độ phân chia hành chính thứ hai. Vào giữa thế kỷ 20, các tỉnh chỉ còn đơn thuần mang tính nghi lễ. Tu chính án 13 Hiến pháp năm 1978 của Sri Lanka đã thành lập Hội đồng tỉnh. Hiện nay Sri Lanka được phân chia thành chín tỉnh.
Danh sách các tỉnh.
Tất cả các số liệu dân số từ cuộc điều tra dân số gần đây nhất của Sri Lanka, vào năm 2001. Các tỉnh phía Bắc và Đông không hoàn toàn được thống kê trong cuộc điều tra này vì lý do chiến sự. Vì vậy, các số liệu thống kê dân số cho những địa phương này là ước tính. Đây được đánh dấu bằng một biểu tượng *.
| 1 | null |
Mộ đá (Dolmen) là loại mộ làm từ cự thạch (đá lớn) chỉ có một gian, thường bao gồm ít nhất ba tảng đá dựng đứng đỡ một phiến đá lớn, phẳng, nằm ngang. Phần lớn mộ đá xuất hiện đầu thời đại đồ đá mới (4000-3000 năm TCN). Mộ đá thường được phủ bằng đất hoặc những viên đá nhỏ hơn để tạo thành một gò đất (barrow), dù rằng nhiều khi lớp phủ đó bị tự nhiên bào mòn đi, chỉ còn trơ lại "bộ xương" đá hàu như nguyên vẹn.
Người ta vẫn còn đang phân vân không biết khi nào, tại sao và ai đã tạo nên những mộ đá đầu tiên. Những mộ đá có niên đại sớm nhất đã được tìm thấy ở Tây Âu. Chúng đã được xây dưng 7000 năm trước, cùng thời với các nền văn minh cổ đại như Ai Cập, Ấn Độ và Trung Đông. Các nhà khảo cổ học vẫn không biết ai đã dựng nên những mộ đá đó. Càng khó để biết tại sao họ làm thế. Quan điểm được chấp nhận rộng rãi nhất là tất cả các mộ đá là những phòng đá dùng vào mục đích an táng người chết.
| 1 | null |
Alphonse Gabriel "Al" Capone (17 tháng 1 năm 1899 - 25 tháng 1 năm 1947), thường được biết đến với biệt danh "Scarface" (mặt sẹo), là một trùm gangster người Mỹ, đồng thời cũng là thương gia. Al Capone, cùng với Johnny Torrio thành lập tổ chức mafia Chicago Outfit (gọi tắt là The Outfit) trong thời kỳ cấm rượu. Thời kì lãnh đạo tổ chức của Capone kéo dài 7 năm và kết thúc khi ông 33 tuổi. Hệ thống tội phạm của Capone nổi lên vào những năm 1920 ở Chicago bằng những cuộc chiến băng đảng đẫm máu để giành quyền kiểm soát và phân phối rượu lậu. Từ đó, The Outfit của Capone được biết đến với các hoạt động buôn lậu rượu và các hoạt động bất hợp pháp khác như cờ bạc, mại dâm, tống tiền, cho vay nặng lãi, hối lộ các chính trị gia và những vụ thanh toán băng đảng. Nổi tiếng nhất có lẽ là vụ thảm sát Valentine xảy ra vào ngày 14 tháng 2 năm 1929, khi Al Capone ra lệnh cho 4 tên đàn em của hắn vũ trang 2 khẩu Tommy và 2 khẩu shotgun để thủ tiêu 7 người của Geroge "Bugs" Moran hòng trả thù. Sau hơn 100 viên đạn, cả 7 người của Moran đều chết. Al Capone bị FBI bắt được sau hơn 2 năm gây ra vụ thảm sát.
Tiểu sử.
Al Capone sinh tại Brooklyn, New York vào ngày 17 tháng 1 năm 1899. Cha của Al Capone là Gabriele Capone, một người Ý di cư. Năm 1894, Gabriele vượt đại dương sang Hoa Kỳ. Cùng đi với Gabriele là bà vợ đang mang bầu Teresina, 27 tuổi, và hai cậu con trai, cậu cả Vicenzo 2 tuổi và đứa út Raffaele còn chưa thôi nôi. Gia đình Capone định cư tại Brooklyn, gần một doanh trại hải quân. Apone sinh ra tại quận Brooklyn ở Thành phố New York trong một gia đình di dân người Ý, Capone dính líu vào các hoạt động băng đảng ở tuổi thanh niên sau khi bị đuổi khỏi trường học khi lên 14 tuổi. Trong thời kỳ tuổi đôi mươi, Capone chuyển đến Chicago với mục đích tận dụng lợi thế, nhằm tạo cơ hội mới để thực hiện buôn lậu rượu trong thời kỳ cấm rượu ở thành phố này. Capone cũng tham gia vào các hoạt động tội phạm khác, bao gồm cả hối lộ các quan chức chính quyền và tổ chức mại dâm. Mặc dù hành nghề bất hợp pháp, Capone cũng đã trở một nhân vật được công chúng coi trọng. Ông đã đóng góp cho nỗ lực từ thiện khác nhau bằng cách sử dụng tiền kiếm được từ các hoạt động của mình, và đã nhiều người cho là một "Robin Hood thời hiện đại".
| 1 | null |
Giao tranh tại Rossignol là một cuộc giao chiến trong Trận Biên giới Bắc Pháp trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra vào ngày 22 tháng 8 năm 1914 (ngày thứ hai của Trận Ardennes giữa các Tập đoàn quân số 4 và số 5 của Đức với các Tập đoàn quân số 6 và số 5 của Pháp). Trong trận đánh này, Quân đội Đế quốc Đức đã bao vây và bẻ gãy các cuộc tiến công của Quân đoàn Thuộc địa - một lực lượng nhà nghề thuộc Tập đoàn quân số 4 của Pháp, gây cho quân đoàn này thiệt hại nặng nề đến mức có thể nói là họ đã bị tiêu diệt. Cuộc bại trận của quân đội Pháp tại Rossignol được xem là một trong những trận đánh khốc liệt nhất trong chiến dịch của họ.
Cùng ngày, hoạt động quân sự của các quân đoàn Pháp khác nhìn chung cũng thất bại. Quân Đức đã đánh cho quân Pháp thiệt hại nặng. Cuối cùng, trận chiến Ardennes kết thúc với thảm bại của quân Pháp vào ngày 24 tháng 8 năm 1914.
Bối cảnh lịch sử.
Trong giai đoạn đầu cuộc chiến tranh, quân đội Đức tiến vào nước Bỉ. Trong khi đó, phía Pháp có các Tập đoàn quân số 3 và số 4 đối diện với vùng núi Ardennes, và Tổng tư lệnh quân đội Pháp là Joseph Joffre đã ra lệnh cho họ kéo về hướng đông bắc. Vào ngày 21 tháng 8 năm 1914, các tập đoàn quân này tiến vào nước Bỉ. Tập đoàn quân số 3 của Pháp đã giáp mặt với quân Đức trong ngày hôm ấy - trở thành ngày thứ nhất của Trận Ardennes. Sang ngày hôm sau, trận chiến tiếp diễn với bất lợi cho quân Pháp.
Cùng ngày, cánh trái của Tập đoàn quân số 4 của Pháp tiến xa hơn hẳn cánh phải của họ, và một số thành phần thực sự đã đến được Neufchâteau. Từ trái sang phải, Tập đoàn quân số 4 có các quân đoàn IX, XI, XVII, Thuộc địa và II. Ở bên phải tập đoàn quân này, Quân đoàn II đã tiếp cận với đối phương từ đầu ngày nên không thể tiến lên. Tuy nhiên, họ vẫn giữ liên lạc với cánh trái của Tập đoàn quân số 3 của Pháp. Trong khi ấy, Quân đoàn Thuộc địa lâm vào tình thế nguy kịch, bởi vì Sư đoàn Thuộc địa số 3 ở cánh phải của họ đã chiến đấu tại Rossignol, cách Neufchâteau 15 km về phía Nam, trong một trong những trận đánh dữ dội nhất của chiến dịch.
Diễn biến.
Sau khi quân kỵ binh Pháp phát hiện ra binh lính Đức trong một khu rừng ở hướng Bắc một ngôi làng, Sư đoàn số 3 đã huy động 6 tiểu đoàn nối tiếp nhau tiến công quân Đức được bố phòng vững chãi trên một mặt trận hẹp, và thiệt hại đến hơn 5.000 người. Quân đội Đức cũng đáp trả bằng cách đi vòng qua sườn phải của Sư đoàn số 3 và phá hủy mọi hỏa pháo, xe moóc chở đạn dược và phương tiện vận tải. Với thất bại của quân Pháp trong các đợt công kích quyết liệt của mình, cho đến cuối ngày hôm đó Sư đoàn số 3 - vốn đã bị Quân đoàn Schlesien số 6 của Đức gần như là tận diệt - cùng với Sư đoàn số 2 đến trợ chiến cho họ đã mất đến 11.648 binh lính.
Các cuộc giao tranh cùng ngày.
Trận Rossignol không phải là cuộc giao tranh ác liệt duy nhất trong ngày hôm đó: Trong khi Sư đoàn Thuộc địa số 3 của Pháp chịu thiệt hại khủng khiếp, Lữ đoàn Thuộc địa số 5 ở cánh trái của Quân đoàn Thuộc địa đã "sơ suất" tiến quân về phía Neufchâteau, tại đây họ vấp phải một lực lượng rất mạnh của quân đội Đức và bị đánh bật với tổn thất nặng nề. Cuối ngày, một lỗ hổng kéo dài 12 km giữa các đơn vị ở cánh phải và cánh trái của Quân đoàn Thuộc địa. Theo báo cáo của Tập đoàn quân số 4 của Pháp, Quân đoàn XII đã nằm trong tình trạng "tốt lành" vào cuối ngày, nhưng ở bên trái quân đoàn này, tình hình của Quân đoàn XVII trở nên tệ hại hơn so với mọi quân đoàn Pháp ở cánh trái: Sư đoàn số 33 của họ đã mất gần hết pháo binh của mình khi một cuộc tấn công của quân Đức đã tràn qua sườn cho tới hậu binh của họ, Sau này, Joffre cho rằng thất bại này đóng vai trò chủ chốt cho sự thất trận của Tập đoàn quân số 4 của Pháp trong trận Ardennes. Xa về bên trái, tình hình xem ra thuận lợi cho hai quân đoàn còn lại. Không lâu sau nửa đêm, Tư lệnh Tập đoàn quân số 4 đã báo cáo với Joffre:
Nhìn chung, thiệt hại của quân Pháp rất nặng trong ngày hôm đó. Thiệt hại của quân Đức cũng không phải là nhỏ, do đó tuy thất bại nhưng Joffre ra lệnh cho tiếp diễn trận Ardennes vào ngày hôm sau (23 tháng 8). Cho đến ngày 24 tháng 8 năm 1914, quân Pháp phải triệt thoái.
Liên quan.
Vào ngày 1927, Feunette, người đàn ông có con là Gaby đã chết trận tại Rossignol, đã khánh thành đài kỷ niệm lính thuộc địa Pháp ở khu tự quản Tintigny (tỉnh Luxembourg, Bỉ). Không lâu sau buổi lễ, Feunette đã tự sát trên mộ phần của con mình.
Một trong những tử sĩ Pháp trong trận Rossignol là nhà văn Ernest Psichari (1883 – 1914), một người gốc Hy Lạp đã cải sang Ki-tô giáo ở tuổi 29.
| 1 | null |
Gnaphalium polycaulon trong tiếng Việt gọi là Rau khúc, Rau khúc nếp, Hoàng nhung nhiều thân nằm trong họ Cúc. Là loài thân thảo hàng năm, cao khoảng 15 cm. Lá đơn nguyên mọc cách. Phiến lá có màu xám xanh dài từ 1-4,5 cm, rộng từ 2-9mm. Hoa màu vàng rơm, xuất hiện từ tháng 7-12. Cây thường mọc ở chỗ đất ẩm ướt ngoài đồng ruộng, dọc kênh mương.
| 1 | null |
XM307 ACSW (Advanced Crew Served Weapon) còn được biết đến là 25 mm Airbursting Weapon System là loại súng phóng lựu tự động do nhóm các nhà thầu chính là General Dynamics Armament and Technical Products cũng như General Dynamics Ordnance and Tactical Systems (thiết kế đạn nổ khi đang bay), Kaman Dayron Inc (thiết kế ngòi nổ lập trình) và Raytheon (lập trình các chương trình cần thiết để chạy hệ thống) phát triển cho lực lượng quân đội Hoa Kỳ. Nó được giới thiệu lần đầu năm 1999 với tên 25mm OCSW. Hiện tại thì các nguyên mẫu đã được thử nghiệm với nhiều loại lựu đạn khác nhau kể cả các loại lựu đạn nổ khi đang bay. Loại súng này được phát triển với ý định thay thế khẩu MK 19 với khả năng bắn áp đảo, có thể vác đi hoặc gắn trên phương tiện cơ giới cũng như có thêm khả năng tiêu diệt các phương tiện cơ giới bọc giáp nhẹ và trực thăng. XM307 cũng có một khả năng thú vị là có thể lắp ráp chuyển thành súng máy hạng nặng XM312 dùng đạn 12.7×99mm NATO khi cần.
Dù vậy chương trình phát triển loại vũ khí này đã bị hủy bỏ vào năm 2007 do tốc độ bắn quá chậm.
Thiết kế.
XM307 sử dụng cơ chế nạp đạn bằng khí nén cùng thoi nạp đạn xoay cùng với một hệ thống lùi nòng để giảm dộ giật khi bắn loại súng này. Súng sử dụng dây đạn để nạp đạn và bắn với thoi nạp đạn mở. Hệ thống lùi nòng gồm nòng súng và các bộ phận nạp dạn được làm thành một khối thống nhất để tất cả cùng di chuyển khi nòng bị đẩy ra phía sau lúc bắn. Khi một viên đạn được bắn thì độ phản lực tạo ra sẽ đẩy nòng (tức toàn bộ khối) di chuyển ra phía sau vào vị trí gần nơi nạp đạn để chuẩn bị nạp viên đạn mới, đồng thời khi khối di chuyển khí nén do viên đạn tạo ra trong nòng súng sẽ được trích vào ống trích khí làm thoi nạp đạn trong khóa nòng xoay mở khóa và di chuyển ra phía sau đẩy vỏ đạn cũ ra ngoài và nạp viên đạn mới vào. Lò xo nằm phía sau khối này sẽ đẩy hệ thống trở về chỗ cũ. Nhưng khi bắn liên tục thì lúc khối vẫn di chuyển lên phía trên để trở về chỗ cũ nó sẽ khai hỏa tiếp để quán tính của khối và độ giật sinh ra khi viên đạn tiếp theo được bắn sẽ triệt tiêu lẫn nhau một lượng đủ để vẫn có thể hoạt động nhưng độ giật sẽ được giảm đi nhiều với các quả bắn sau sau cú giật mạnh ban đầu.
Súng được tích hợp một máy tính quỹ đạo đường đạn cùng thiết bị xác định khoảng cách bằng laser làm hệ thống nhắm, vì thế người bắn có thể nhanh chóng xác định được khoảng cách từ mình tới mục tiêu cũng như máy tính sẽ kích nổ lựu đạn trên không khi bay đến vị trí cần thiết mà không cần va chạm. Hệ thống nhắm điện tử này có thể dùng được trong cả ngày và đêm trong ban đêm. Trước khi bắn xạ thủ sẽ chỉ thị cho hệ thống biết là loại đạn đang sử dụng là đạn chống người hay đạn xuyên giáp để hệ thống bật chế độ nổ khi đang bay hay tắt đi. Dây đạn có thể gắn từ ở cả hai bên thân súng.
XM307 có thể gắn trên các phương tiện cơ giới hay được mang đi bởi một nhóm 2 người và gắn trên bệ chống ba chân khi chiến đấu. Súng có thể lắp ráp chuyển đổi thành súng máy hạng nặng XM312 dùng đạn 12.7×99mm NATO khi cần với việc thay thế năm bộ phận chính của súng.
| 1 | null |
Scott Pilgrim vs. the World được đạo diễn bởi Edgar Wright, dựa trên bộ graphic novel Scott Pilgrim của Bryan Lee O'Malley. Phim nói về Scott Pilgrim (Michael Cera), một nhạc công trẻ người Canada gặp được cô gái trong mơ của mình, Ramona Flowers (Mary Elizabeth Winstead). Để đến được với Ramona, Scott phải đánh bại hội "7 người yêu cũ xấu xa" của Ramona, những kẻ đến để giết cậu.
Scott Pilgrim vs. the World được lên kế hoạch làm phim ngay sau khi tập đầu của truyện được phát hành. Wright tham gia dự án và phim khởi quay tháng 3 năm 2009 ở Toronto. Scott Pilgrim vs. the World có một gian thảo luận ở San Diego Comic-Con International tháng 7 năm 2010. Phim được công chiếu rộng rãi ở khu vực Bắc Mỹ từ ngày 13/8/2010 trên 2,818 rạp chiếu. Phim đứng thứ 5 trong bảng xếp hạng phim ăn khách tuần đầu khởi chiếu với doanh thu $10.5 triệu. Phim nhận được nhiều đánh giá tích cực từ giới phê bình và fan hâm mộ bộ graphic novel, nhưng không kiếm lại đủ kinh phí với doanh thu phòng vé, chỉ thu được $31.5 triệu ở Bắc Mỹ và $16 triệu ở các nước khác. Tuy nhiên, phim thành công hơn khi phát hành DVD và Blu-ray, lọt vào top Blu-ray bán chạy nhất trên Amazon.com ngay ngày đầu phát hành.
Nội dung.
Ở Toronto, Scott Pilgrim (Michael Cera), tay guitar bass của ban nhạc "Sex Bob-omb", bắt đầu hẹn hò với cô nữ sinh trung học Knives Chau (Ellen Wong) và bị hầu hết bạn bè phản đối. Scott gặp một cô gái người Mỹ, Ramona Flowers (Mary Elizabeth Winstead), người đã xuất hiện trong giấc mơ của anh, và bị ám ảnh bởi cô, không thích Knives nữa. Trong khi đang tham gia cuộc thi giữa các ban nhạc để giành hợp đồng ghi âm của "G-Man Graves", Scott bị tấn công bởi Matthew Patel (Satya Bhabha), kẻ tự nhận mình là người đầu tiên trong số ‘những người yêu cũ xấu xa’ của Ramona. Scott đánh bại Patel và được Ramona cho biết để hẹn hò với cô anh phải đánh bại cả bảy tên đó.
Scott chia tay với Knives, cô đổ lỗi cho Ramona vì đã cướp đi Scott của cô và muốn giành lại anh. Scott chiến đấu với tên người yêu cũ xấu xa thứ hai của Ramona, một diễn viên nổi tiếng thích trượt ván Lucas Lee (Chris Evans), bị đánh bại vì bị lừa thực hiện một động tác trượt ván nguy hiểm. Scott sau đó đối đầu tên thứ ba, Todd Ingram (Brandon Routh), kẻ đang hẹn hò với bạn gái cũ của Scott là Natalie "Envy" Adams (Brie Larson). Todd áp đảo Scott về sức mạnh với khả năng siêu nhiên của người ăn chay của hắn, nhưng sau bị tước sức mạnh bởi Cảnh sát Ăn chay (Thomas Jane và Clifton Collins, Jr.) sau khi Scott lừa hắn uống cà phê kem, và Scott đã dễ dàng đánh bại hắn khi đã mất sức mạnh.
Scott bất ngờ với lịch sử hẹn hò của Ramona khi đánh bại người yêu cũ xấu xa thứ tư, Roxy Richter (Mae Whitman), một cô gái. Trong vòng hai của cuộc thi giữa các ban nhạc, Sex Bob-omb đối mặt với người yêu cũ xấu xa thứ năm và thứ sáu, anh em sinh đôi Katayanagi: Kyle (Keita Saito) và Ken (Shota Saito), đánh bại họ cho Scott thêm một mạng trong trò chơi này. Trong khi chiến đấu, Scott thấy Ramona ở bên người yêu cũ xấu xa thứ bảy của cô, Gideon Graves (Jason Schwartzman), chính là người tài trợ và sẽ ký hợp đồng với Sex Bob-omb, G-Man. Các thành viên của Sex Bob-omb chấp nhận ký hợp đồng thu âm với Gideon, trừ Scott, anh rời ban nhạc. Ngay sau đó, Ramona chia tay với Scott.
Khi trở về nhà, Scott nhận được một cuộc gọi từ Gideon mời đến Chaos Theater (Nhà hát của sự Hỗn loạn) mới mở của hắn, nơi mà Sex Bob-omb đang chơi nhạc, và khẳng định là không có ý đồ gì. Scott đến và thách đấu với Gideon, vì tình yêu với Ramona anh nhận được thanh kiếm mang tên "Sức mạnh của Tình yêu ", nhưng Gideon dễ dàng phá hủy nó. Knives sau đó nhảy vào đánh Ramona để giành Scott. Scott ngăn cuộc chiến giữa hai cô gái lại nhưng vô tình tiết lộ rằng anh đã lừa dối họ khi hẹn hò với cả hai cùng lúc, sau đó anh bị Gideon giết.
Ramona đến gặp Scott ở ‘cõi Âm’ và xin lỗi vì đã khiến anh dính vào chuyện của cô, anh được biết rằng Gideon đã cấy một con chip để kiểm soát tâm trí vào sau đầu cô. Scott nhận ra anh vẫn còn một mạng và dùng nó để trở lại cuộc sống ở thời điểm Gideon gọi điện mời anh. Scott lại tới Nhà hát của sự Hỗn loạn, nơi anh làm hòa với các bạn mình và thách đấu với Gideon một lần nữa, lần này anh chiến đấu vì bản thân mình và nhận được thanh kiếm mạnh hơn nhiều, "Sức mạnh của Lòng tự trọng", anh dùng thanh kiếm và đánh bại được Gideon. Sau đó anh xin lỗi Ramona và Knives vì đã lừa dối họ, nhưng Gideon nhảy vào đánh ngã Ramona, làm Scott và Knives phải hợp sức để đánh bại hắn. Thoát khỏi sự kiểm soát của Gideon, Ramona định bỏ đi, nhưng Knives chấp nhận sự thật là mối quan hệ của cô và Scott đã chấm dứt và khuyên anh nên đuổi theo Ramona. Anh đuổi theo, và hai người bắt đầu mối quan hệ của mình lại từ đầu.
Sản xuất.
Phát triển.
Sau khi họa sĩ Bryan Lee O'Malley hoàn thành tập 1 của Scott Pilgrim, nhà xuất bản của anh là Oni Press đã liên lạc với nhà sản xuất phim Marc Platt đề nghị về việc chuyển thể bộ truyện thành phim. Sau đó Universal Studios đã ký hợp đồng với đạo diễnEdgar Wright, người vừa hoàn thành một phim của mình là Shaun of the Dead, để chuyển thể bộ truyện tranh về Scott Pilgrim này. Bryan Lee O'Malley lúc đầu có nhiều cảm xúc lẫn lộn về việc chuyển thể thành phim này, anh cho biết anh "mong đợi họ sẽ biến nó thành một phim hài hành động với một số diễn viên mà tôi ghét [nhưng cuối cùng thì] tôi thậm chí chả quan tâm. Tôi là một họa sĩ nghèo khổ, cứ đưa cho tôi nhiều tiền là được."
Tháng 5 năm 2005, studio đã hợp đồng để Michael Bacall viết kịch bản cho phim chuyển thể này. Bacall nói anh muốn viết kịch bản cho phim Scott Pilgrim vì anh cảm thấy rất thích cốt truyện và cũng đồng cảm với nhân vật Scott Pilgrim. Tháng 1 năm 2009, các nhà làm phim bắt đầu tuyển chọn diễn viên tham gia trong phim, lúc này phim đã được đặt tên chính thức là Scott Pilgrim vs. the World. Edgar Wright cho biết rằng tác giả O'Malley đã tham gia nhiều trong việc viết kịch bản cho phim ngay từ đầu, thậm chí còn thêm lời thoại và "mài dũa" một số cảnh nhất định trong phim. Cứ như vậy trong quá trình phát triển lâu dài này, nhiều câu thoại trong các bản nháp kịch bản khác nhau của Wright và Bacall cuối cùng lại xuất hiện trong tập 4 và tập 5 của bộ truyện.
O'Malley xác nhận là không có chi tiết nào của Scott Pilgrim's Finest Hour (Thời khắc tỏa sáng của Scott Pilgrim), tập thứ 6 trong bộ truyện về Scott Pilgrim sẽ xuất hiện trong phim, vì lúc anh viết truyện thì quá trình sản xuất đã bắt đầu rồi. Trong khi anh đưa ra nhiều ý tưởng và kiến nghị cho phần kết của phim, anh cũng thừa nhận là nhiều kế hoạch phải thay đổi trong quá trình viết kịch bản và cuối cùng khẳng định lại "Cái kết của họ là cái kết của họ thôi". O'Malley chỉ cho Wright và Bacall biết nội dung chính và những gì sẽ xảy ra trong tập 6 của bộ truyện trong khi phim đang được quay.
Tuyển diễn viên cho những nhân vật chính bắt đầu từ tháng 6 năm 2008. Quá trình quay phim chính bắt đầu từ tháng 3 năm 2009 ở Toronto, Canada và kết thúc vào tháng 8. Trong đoạn kết lúc đầu của phim, theo kịch bản được viết trước khi tập cuối của truyện Scott Pilgrim được ra mắt, Scott cuối cùng đã trở lại với Knives. Sau khi tập truyện cuối cùng trong series được xuất bản, trong đó Scott và Ramona cuối cùng lại yêu nhau, cộng thêm phản ứng tiêu cực của khán giả khi xem đoạn kết phim ở những buổi chiếu thử (test screening), một đoạn kết khác được quay cho phù hợp với truyện, với Scott và Ramona trở lại bên nhau.
Tuyển diễn viên.
Đạo diễn Edgar Wright cảm thấy rất tự tin với dàn diễn viên của phim này. Wright khẳng định rằng "Cũng giống như với Hot Fuzz (1 phim khác của đạo diễn Edgar Wright), chúng tôi có những con người tuyệt vời vào từng vai dù là nhỏ nhất, phim này cũng vậy. Điều tuyệt nữa là trong đó có những người đã nổi tiếng mà chắc bạn sẽ biết như Michael [Cera] và Jason [Schwartzman], và rồi có những ngôi sao đang lên, như Anna Kendrick (mới được đề cử Oscar cho Best Supporting Actress năm đó với Up in the Air), Aubrey Plaza và Brie Larson, và có những người hoàn toàn không có tên tuổi gì nữa". Chẳng có studio nào lại đi can thiệp vào việc tuyển nhiều hơn những diễn viên không tên tuổi cả, như Wright đã cho biết rằng "Universal không thắc mắc gì về việc tuyển những diễn viên nổi tiếng hơn, vì với việc Michael [Cera] đã từng tham gai vào 2 bộ phim đạt doanh thu hơn $100 triệu, và nhiều người khác nữa, dù họ không phải những tên tuổi lớn cho lắm, nhưng mọi người chắc chắn biết họ là ai." Wright đã dự định sẽ chọn Cera cho vai chính trong khi đang quay Hot Fuzz sau khi xem xong một số tập phim Arrested Development. Wright nói ông cần một diễn viên mà "khán giả vẫn sẽ theo dõi anh ta kể cả khi nhân vật có hơi lố bịch". Edgar Wright cho O'Malley biết tất cả những quyết định tuyển diễn viên của ông trong quá trình tuyển chọn. Mary Elizabeth Winstead là lựa chọn của Wright cho vai nữ chính Ramona Flowers từ 2 năm trước khi bắt đầu quay phim, bởi vì "cô ấy có vẻ là một người rất vui tươi, do đó sẽ thật thú vị nếu để cô ấy vào vai chính mình nhưng chỉ có điểm khác là nội tâm tan vỡ. Cô ấy thật tuyệt trong phim vì cô ấy gây ra rất nhiều sự hỗn loạn nhưng vẫn giữ được sự bình tĩnh đến mức phi thường." Ellen Wong, một nữ diễn viên ở Toronto được biết đến nhiều nhất từ một vai trong phim ‘This Is Wonderland’, đã tham gia thử vai Knives Chau đến ba lần. Trong lần diễn thử thứ 2, Wright được biết Wong đã có đai xanh Tae kwon do, và nói anh đã cảm thấy thú vị và tò mò về "cô gái trẻ có gương mặt dễ thương nhưng thực ra lại rất ngầu" này.
Âm nhạc.
- Các nhạc sĩ Nigel Godrich, Beck, Metric, Broken Social Scene, Cornelius, Dan the Automator, Kid Koala, và David Campbell tất cả đều sáng tác đóng góp cho phần nhạc phim thêm sôi động.
- Beck viết và soạn những bản nhạc được ban nhạc Sex Bob-omb chơi trong phim, và hai bản nhạc chưa công bố được chơi trong đoạn teaser trailer của phim. Các diễn viên Mark Webber, Alison Pill và Johnny Simmons đều phải học chơi các nhạc cụ tương ứng của mình trong phim, và dành nhiều thời gian tập luyện như một ban nhạc thực sự với Michael Cera (người biết đánh guitar bass từ lâu) và Beck trước khi phim được khởi quay. Các diễn viên cũng thực hiện phần nhạc phim luôn.
- Brendan Canning và Kevin Drew của Broken Social Scene viết tất cả các bản nhạc cho ban nhạc Crash and the Boys chơi. Những bài đó được hát bởi diễn viên Erik Knudsen, người vào vai Crash trong phim. Drew cho biết lý do đằng sau chuyện này là "[anh ta] biết rằng [Knudsen] không cần phải là một ca sĩ để thể hiện tốt [nó]" vì những ca khúc đó "quá nhanh, mạnh và sôi động" và "cần phải là giọng của nhân vật trong đó".
- Metric là nguồn cảm hứng cho ban nhạc giả tưởng trong phim ‘the Clash at Demonhead’, và họ đã đóng góp bài "Black Sheep" cho phim. Trang phục của ca sĩ chính của Metric là Emily Haines, cũng là nền tảng cho thiết kế trang phục của ca sĩ chính trong Clash at Demonhead. Brie Larson là người thể hiện bài "Black Sheep" trong phim, tuy nhiên trong album nahjc phim thì có thêm một bản với Haines hát chính.
- Chris Murphy của ban nhạc Sloan là thầy dạy guitar cho các diễn viên tham gia bộ phim.
- Nhạc trong series video game nổi tiếngThe Legend of Zelda đã được sử dụng trong một cảnh giấc mơ trong phim. Để được sự cho phép sử dụng bản nhạc, đạo diễn Edgar Wright đã gửi một clip của phim và viết một lá thư cho hãng Nintendo (hãng sản xuất The Legend of Zelda) và miêu tả bản nhạc như là "điệu hát ru cho cả một thể hệ."
Tiêu đề.
Cảnh tiêu đề phim được thiết kế bởi Richard Kenworthy của hãng Shynola, và được lấy cảm hứng từ những đoạn phim hoạt hình vẽ tay của phim được làm bởi Len Lye, Oskar Fischinger, Stan Brakhage và Norman McLaren.
Công chiếu.
[[Tập tin: Michael Cera as Captain America by Gage Skidmore.jpg|nhỏ|phải|Michael Cera mặc đồ [[Captain America]] ở buổi họp báo của "Scott Pilgrim" tại hội chợ [[San Diego]] [[San Diego Comic-Con International|Comic-Con]]
Gian hàng của ‘Scott Pilgrim vs. the World’ được mở ở hội chợ San Diego Comic-Con International tổ chức ngày 22 tháng 7 năm 2010. Sau khi giới thiệu thì đạo diễn Edgar Wright đã mời một số thành viên được lựa chọn trong số khán giả để xem một buổi chiếu thử bộ phim, sau đó là một màn trình diễn của ban nhạc Metric.
Scott Pilgrim vs. the World cũng tham gia Fantasia Festival ở Montreal, Quebec, Canada ngày 27 tháng 7 năm 2010 và cũng có mặt ở hội chợ Movie-Con III ở London, Anh ngày 15 tháng 8 năm 2010.
Phim được chiếu ra mắt ở Liên hoan phim quốc tế Yubari ngày 26 tháng 2 năm 2011 với tư cách là một phim được chọn chiếu chính thức. Phim khởi chiếu ở các nơi khác ngày 29 tháng 4 năm 2011.
Quảng bá.
Ngày 25 tháng 3 năm 2010, đoạn teaser trailer đầu tiên chop him được ra mắt. Trailer thứ 2 có sử dụng nhạc của The Ting Tings, LCD Soundsystem, Be Your Own Pet, Cornelius, Blood Red Shoes, và The Prodigy được ra mắt ngày 31 tháng 5 năm 2010.
Ở lễ trao giải MTV Movie Awards 2010, clip đầu tiên của phim được công chiếu, đó là cảnh Scott Pilgrim chiến đấu với Lucas Lee. Các diễn viên vào vai diễn viên đóng thế của Lucas Lee thực ra chính là diễn viên đóng thể cho Chris Evans.
Alison Pill người vào vai Kim Pine trong phim cho biết mối quan hệ trong quá khứ của nhân vật của cô với Scott sẽ được tiết lộ trong loại hình giải trí khác "Sẽ có một chút gì gì đó được lên sóng trên Adult Swim". Và bộ phim hoạt hình ngắn, Scott Pilgrim vs. the Animation, được sản xuất bởi Titmouse Inc., chuyển thể từ phần mở đầu của tập truyện thứ hai về Scott Pilgrim đã được lên sóng trên Adult Swim vào 12 tháng 8 năm 2010, sau đó được chiếu trên trang web của họ.
Michael Cera cho biết anh đã cảm thấy bộ phim sẽ "khó mà ăn khách được. Tôi không biết chiến dịch marketing quảng bá cho bộ phim có thể thuyết phục bạn như thế nào. Nhưng tôi nghĩ mọi người còn lâu mới khám phá ra được sự thú vị của phim. Thành thật mà nói thì tôi cũng chỉ mới biết đến Shaun of the Dead (1 bộ phim khác của đạo diễn Edgar Wright) lại hay đến thế ".
Video game.
1 video game được sản xuất dựa trên series truyện này. Được phát hành trên PlayStation Network ngày 10 tháng 8 năm 2010 và trên Xbox Live Arcade ngày 25 tháng 8, nhận được phần lớn đánh giá tích cực. Game được phát hành bởi hãng Ubisoft và được phát triển bởi Ubisoft Montreal và Ubisoft Chengdu, với phần phim hoạt hình cắt cảnh của Paul Robertson và nhạc nền gốc được sáng tác bởi Anamanaguchi.
Phát hành đĩa.
Scott Pilgrim vs. the World phát hành đĩa DVD và Blu-ray ở khu vực Bắc Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2010 và ở Anh ngày 27 tháng 12 năm 2010.
Đĩa DVD bao gồm 4 bài bình luận của: (đạo diễn Edgar Wright, đồng biên kịch Michael Bacall, và tác giả truyện tranh Bryan Lee O'Malley; Wright và đạo diễn hình ảnh Bill Pope; Michael Cera, Jason Schwartzman, Mary Elizabeth Winstead, Ellen Wong, và Brandon Routh; và Anna Kendrick, Aubrey Plaza, Kieran Culkin, và Mark Webber), 21 cảnh bị xóa, mở rộng, hoặc cảnh quay tương tự với bình luận, cảnh quay hỏng, gallery ảnh, và một số thông tin nhỏ thú vị.
Đĩa Blu-ray bao gồm tất cả những phụ lục có trong DVD, thêm nhiều cảnh quay khác, 6 đoạn phim giới thiệu, phim tài liệu về quá trình sản xuất phim, phim hoạt hình Scott Pilgrim vs. the Animation, các đoạn trailer và TV spot, tranh vẽ phác họa cảnh phim, một bản phim như trong DVD, và một bản phim kỹ thuật số (digital). Phiên bản "Ultimate Japan Version" Blu-ray bao gồm thêm cả bình luận của đạo diễn Edgar Wright và Shinya Arino. Nó cũng có thêm những hình ảnh về chuyến đi của Wright và Michael Cera đến Nhật Bản và một cuộc thảo luận bàn tròn với nhà phê bình phim người Nhật Tomohiro Machiyama. Phiên bản này được phát hành ngày 2 tháng 9 năm 2011.
Trong tuần đầu ra mắt, DVD của phim đã bán được 190,217 bản, thu về $3,422,004. Phim đứng đầu bảng xếp hạng doanh thu Blu-ray bán chạy nhất ở Anh trong tuần đầu phát hành.
Phản hổi.
Phòng vé.
Phim được công chiếu rộng rãi ở khu vực Bắc Mỹ ngày 13 tháng 8 năm 2010, ở 2,818 rạp chiếu. Phim chỉ đứng thứ 5 trong tuần đầu khởi chiếu với doanh thu tổng cộng là $10.5 triệu, và chỉ trong tuần thứ 2 phim đã rơi xuống vị trí cuối cùng của top 10. Tờ Wall Street Journal nhận xét đây là một sự "thất vọng" trong khi Ben Fritz của tờ [[Los Angeles Times]] cho rằng phim có vẻ sẽ là một "thất bại nặng nề về mặt tài chính". Universal thừa nhận thất vọng vì tuần khởi chiếu, và nói rằng họ đã "nhận thức được khó khăn khi mở rộng chiếu phim này cho khán giả đại chúng"; dù vậy, phát ngôn viên của studio cho biết Universal "tự hào về bộ phim này và quan hệ của chúng tôi với nhà làm phim sáng tạo và có tầm nhìn xa trông rộng như Edgar Wright ... Edgar đã tạo ra một bộ phim thực sự độc đáo và pha trộn nhiều thể loại, con đường thử nghiệm như vậy chắc chắn là một bước quan trọng trong ngành làm phim nói chung."
Ở Anh, phim được chiếu ở 408 rạp, đứng thứ 2 trong tuần mở đầu với doanh thu £1.6 triệu, rơi xuống vị trí thứ 3 trong tuần tiếp theo đó.
Giới phê bình.
Đánh giá của giới phê bình về bộ phim tương đối tích cực. Trang web tổng hợp review [[Rotten Tomatoes]] đã thống kê phim được 81% fresh rating dựa trên 217 bài reviews, với điểm số trung bình là 7.5 trên 10. Rotten Tomatoes phần lớn đều đống ý rằng "kịch bản phim có thể không được ấn tượng như phần hiệu ứng hình ảnh, nhưng Scott Pilgrim vs. the World là một bộ phim vui vẻ, chặt chẽ và có tính sáng tạo ".
[[Metacritic]] cho phim điểm trung bình là 69, dựa trên 38 bài reviews. David Edelstein của tạp chí New York đã viết "Phim hơi lặp lại, và mất cân bằng: Wright có vẻ thể hiện hơi quá sớm. Nhưng một diễn viên chính khác có thể sẽ giữ cho bạn vẫn cười và hứng thú với phim. Cera thể hiện không sinh động những cảnh chiến đấu được như Stephen Chow ([[Châu Tinh Trì]]) làm rất tốt trong bộ phim hài đầy những cảnh võ thuật siêu thực Kung Fu Hustle. (Tuyệt đỉnh Kung fu)"
Sau một buổi chiếu thử, đạo diễn Kevin Smith đã bị ấn tượng bởi phim và nói "Phim này thật tuyệt. Nó rất lôi cuốn và chẳng ai hiểu cái quái gì vừa xảy ra. Chắc tôi đang mỉa mai nên mới nói, 'anh ấy đang mang truyện tranh ra đời thực!' nhưng thực sự đúng là anh ấy đang mang truyện tranh đến với đời thực." Smith cũng nói rằng các đạo diễn [[Quentin Tarantino]] và Jason Reitman cũng "thực sự thích nó". Ca sĩ của ban nhạc Sister, Carla Gillis, cũng bình luận về phim. Gillis đã từng là ca sĩ của ban nhạc Canada đã tan rã Plumtree, và đĩa đơn "Scott Pilgrim" của họ là nguồn cảm hứng cho O'Malley sáng tạo ra nhân vật và series này. Trong một bài phỏng vấn nói về bộ phim và ca khúc đã tạo cảm hứng cho nó, Gillis cảm thấy phim cũng có âm hưởng tích cực nhưng đầy những cảm xúc vui buồn lẫn lộn như ca khúc của mình.
Sau buổi chiếu thử ở hội chợ San Diego Comic-Con International, phim nhận được nhiều đánh giá tích cực. Variety có một bài review cho rằng "bất cứ ai trên 25 tuổi chắc hẳn sẽ thấy bộ phim chuyển thể từ bộ truyện tranh nổi tiếng này này của đạo diễn Edgar Wright xem rất mệt, như mình là người giám hộ ở một bữa tiệc đầy những cô cậu nhóc đang học đại học sôi động." Tờ [[The Hollywood Reporter]] thì có một bài review chê thẳng tay, khẳng định rằng "Điều đáng thất vọng là tất cả quá trẻ. Chẳng chuyện gì thực sự có ý nghĩa diễn ra cả... diễn xuất của [Michael] Cera không dừng sự vớ vẩn này lại được." và "Universal nên tấn công mạnh vào giới trẻ ở thị trường nội địa khi phim ra mắt tháng sau. Một lượng lớn những khán giả lớn tuổi và thị trường quốc tế có vẻ sẽ không thích đâu."
[[IGN]] cho phim đánh giá tích cực 8/10, gọi phim là "vui nhộn và sôi động" cũng như nói rằng phim "thích hợp nhất với thế hệ những người như chúng ta lớn lên cùng với Nintendo và MTV. Nhưng cũng chính động lực tự nhiên và sự nhạy cảm của phim có thể làm nhiều người chán."
Nick Schager của tạp chí Slant đã cho phim một review tích cực với 3 sao rưỡi trên 4, gọi Edgar Wright là một "nghệ sĩ pha trộn đầy cảm hứng, và Scott Pilgrim vs. the World có lẽ là tác phẩm tốt nhất của anh cho đến nay". A. O. Scott cho phim vào danh sách "phê bình tuyển chọn" của mình, cho rằng "Có những bộ phim về những người trẻ tuổi chỉ làm bạn cảm thấy mình đã già, thậm chí cả khi bạn chưa già ... Scott Pilgrim vs. the World thì ngược lại. Nó vui nhộn, sôi động, tình cảm vui-buồn của phim dễ lan truyền làm bạn cảm thấy mình như đang ở nhà dù có đang ở đâu và còn lạ lẫm với cái nhìn đầu tiên."
Sau khi khởi chiếu ở Nhật Bản, nhiều nhân vật đáng chú ý trong ngành công nghiệp video games, phim ảnh và [[anime]] đã có lời khen ngợi Scott Pilgrim vs. the World, trong đó có Hironobu Sakaguchi (Final Fantasy), Goichi Suda, Miki Mizuno, Tomohiko Itō, Rintaro Watanabe và Takao Nakano.
Liên kết ngoài.
[[Thể loại:2010s romantic comedy films]]
[[Thể loại:Phim hành động Canada]]
[[Thể loại:Phim Canada]]
[[Thể loại:Phim Vương quốc Liên hiệp Anh]]
[[Thể loại:Phim Nhật Bản]]
[[Thể loại:Phim hành động Anh]]
[[Thể loại:Big Talk Productions films]]
[[Thể loại:Bisexuality-related films]]
[[Thể loại:Films about music and musicians]]
[[Thể loại:Films based on comics]]
[[Thể loại:Films directed by Edgar Wright]]
[[Thể loại:Films set in Toronto]]
[[Thể loại:Films shot in Toronto]]
[[Thể loại:Lesbian-related films]]
[[Thể loại:Scott Pilgrim]]
[[Thể loại:Universal Pictures films]]
[[Thể loại:Phim năm 2010]]
[[Thể loại:Phim Mỹ]]
[[Thể loại:Phim của Universal Pictures]]
[[Thể loại:Phim hài lãng mạn Mỹ]]
[[Thể loại:Phim tiếng Anh]]
[[Thể loại:Phim dựa theo truyện tranh]]
[[Thể loại:Phim hài lãng mạn thập niên 2010]]
[[Thể loại:Phim liên quan đến LGBT thập niên 2010]]
[[Thể loại:Phim liên quan đến LGBT của Mỹ]]
[[Thể loại:Phim hài lãng mạn Vương quốc Liên hiệp Anh]]
[[Thể loại:Phim về âm nhạc và nhạc sĩ]]
[[Thể loại:Phim hài liên quan đến LGBT]]
| 1 | null |
Trận Loos là một trận chiến trong Chiến tranh thế giới thứ I, diễn ra vào ngày 25/9/1915, trên mặt trận phía Tây. Đây là đợt tấn công lớn nhất của Anh trong năm 1915, và cũng là lần đầu tiên quân Anh sử dụng khí độc trong chiến đấu, cũng là lần đầu tiên tham chiến của quân đoàn Kitchener (New Army). Liên quân Pháp và Anh cố gắng xuyên thủng tuyến phòng ngự của Đức tại Artois và Champagne và cố gắng tạo sự đột phá trên chiến trường. Mặc dù đã sử dụng nhiều đạn dược hơn, có trang bị tốt hơn và chiến thuật tốt hơn, nhưng cuộc tấn công của Pháp và Anh phần lớn đã bị Đức chặn đứng, cùng với đó là tổn thất về sinh mạng không nhỏ. Quân Anh đã hoàn toàn thất bại trong mục tiêu vô hiệu hóa các hỏa điểm của Đức và pháo binh bắn chuẩn bị cũng quá ngắn không đủ để phá hết hàng rào dây thép gai cùng các ổ súng máy. Chiến thuật phòng thủ của quân Đức tốt hơn đáng kể so với kế hoạch và chiến thuật tấn công của quân Anh, dẫn đến việc quân Anh thua trận.
Bối cảnh.
Những phát triển về chiến thuật.
Trận Loos là một phần trong Trận Artois lần thứ ba, một chiến dịch của Liên quân Anh-Pháp (Quân Đức gọi chiến dịch này là (Trận chiến mùa thu). Thống chế- Sir John French và Douglas Haig (Tập đoàn quân số 1 của GOC), nhận thấy rằng khu vực phía nam Kênh La Bassée, khu vực này nằm trong tầm quan sát của quân Đức, nên không phù hợp để mở một cuộc tấn công. Đặc biệt là vào tháng 7, trinh sát cho thấy quân Đức đang xây dựng tuyến phòng thủ thứ 2 phía sau tuyến phòng thủ thứ nhất. Tại Hội nghị Frévent vào ngày 27/7, Thống chế French đã không thể thuyết phục Ferdinand Foch rằng một cuộc tấn công xa hơn về phía bắc mang lại triển vọng thành công lớn hơn. Cuộc tranh luận vẫn tiếp tục kéo dài đến tháng 8. Ngày 3/5, Anh quyết định sử dụng hơi khí độc trong các chiến dịch quân sự tại Pháp. Trong hội nghị vào ngày 6/9, Haig tuyên bố với cấp dưới của mình rằng việc sử dụng khí clo có thể tạo điều kiện thuận lợi cho một cuộc tiến công về phía Douai và Valenciennes, bất chấp địa hình, miễn là cuộc tấn công phải được tiến hành bí mật.
Khởi đầu.
Sự chuẩn bị của người Anh.
Trận Loos là lần thứ ba có sự góp mặt của lực lượng đào hầm đặc biệt, có nhiệm vụ đào các đường hầm xuyên qua các "vùng đất không người", và đặt mìn vào dưới chiến hào tiền phương của quân Đức. Những quả mìn này sẽ được kích nổ để thổi bay công sự của quân Đức vào lúc bắt đầu trận đánh.
Kế hoạch của Anh.
Pháp quyết định giữ một lực lượng dự bị bao gồm Quân đoàn Kỵ binh, Quân đoàn Kỵ binh Ấn Độ và Quân đoàn XI (Trung tướng Richard Haking), bao gồm Sư đoàn Vệ binh và Sư đoàn 21 và Sư đoàn 24 (Quân đoàn Kitchener) vừa mới đến Pháp và một ban chỉ huy (một số người trong đó chưa bao giờ làm việc cùng nhau hoặc từng trong ban chỉ huy trước đây). Archibald Murray, Phó Tổng tham mưu trưởng Hoàng gia (DCIGS) đã khuyên người Pháp rằng do binh lính mới hoàn thành khóa huấn luyện, sẽ không phù hợp cho chiến tranh chiến hào. Người Pháp nghi ngờ về khả năng chọc thủng phòng tuyến quân Đức. Haig và Foch, chỉ huy trưởng của Nhóm quân phương Bắc (Northern Army Group), muốn giữ lực lượng dự bị ở gần, nhằm phát triển đột phá trong ngày đầu tiên của trận chiến.
Haig bị cản trở bởi sự thiếu hụt đạn pháo, có nghĩa là ông không thể triển khai bắn chuẩn bị có hiệu quả. Với chỉ 533 khẩu pháo và không đủ đạn pháo để bao phủ 11.200 yd (6,4 dặm; 10,2 km) chiều sâu hai tuyến chiến hào của quân Đức. Quân Anh sẽ phải tấn công các vị trí phòng ngự của quân Đức chưa bị làm mềm nhờ đạn pháo, và khi đó quân Anh phải hoàn toàn dựa vào việc sử dụng khí độc để tạo ra bước đột phá. Các chỉ huy Anh vào thời điểm đó không nắm rõ hệ thống phòng thủ của Đức, với việc đặt một tuyến các ổ súng máy trên sườn đồi, để có thể phá hủy những tổ súng máy này sẽ cần phải có pháo binh và đạn nổ mạnh. Trước cuộc tấn công của Anh, khoảng khí clo đã được quân Anh sử dụng nhưng không hiệu quả khi có nhiều nơi khí clo bị gió thổi ngược trở lại vào các chiến hào của Anh, nhưng nó cũng gây khó khăn cho quân Đức. Do mặt nạ phòng độc kém, nhiều binh lính Anh đã tháo bỏ mặt nạ của chính họ, do chúng cản trở tầm nhìn và gây khó thở, kết quả là quân Anh bị ảnh hưởng bởi chính khí độc mà họ sử dụng. Vì muốn ở vị trí gần với tiền tuyến hơn, French đã di chuyển đến cách tiền tuyến gần 20 dặm (32 km), để lại gần như toàn bộ bộ chỉ huy của mình và cũng không có đường dây điện thoại kết nối với Sở chỉ huy lúc trận chiến bắt đầu vào lúc 6:30 sáng.
Trận chiến.
Ngày 25 tháng 9.
Ở nhiều vị trí, pháo của quân Anh đã không thể phá được hàng rào dây thép gai của quân Đức trước khi xung phong. Những chỉ huy có kinh nghiệm tỏng việc sử dụng khí độc đã cảnh báo về những hạn chế khi sử dụng khí độc, vì nó quá phụ thuộc vào gió-là một thứ không thể dự đoán trước được, tuy nhiên ý kiến của họ đã bị tướng Hubert Gough bỏ qua. Tại một số vị trí, khí độc đã bị thổi ngược trở lại tuyến chiến đấu của quân Anh, khiến cho thương vong của quân Anh cao hơn quân Đức. Việc phải tiến công trên một vùng đất trống trải, trong tầm hỏa lực súng máy của quân Đức đã khiến quân Anh phải chịu tổn thất đáng kể. Quân Anh chỉ có thể vượt qua các đoạn yếu trên tuyến phòng thủ của quân Đức và chiếm được ngôi làng Loos-en-Gohelle, chủ yếu do ưu thế về quân số. Hậu cần và thông tin liên lạc gặp vấn đề, cộng với việc quân tiếp viện đến muộn, đã dẫn đến việc quân Anh không thể đạt được bước tiến nào đáng kể. Haig đã không có thông tin gì cho đến 10h sáng rằng các sư đoàn đang di chuyển về phía tiền tuyến. French tới gặp Haig từ và đồng ý rằng Haig có thể có lực lượng dự bị, nhưng thay vì sử dụng đường dây điện thoại, ông đã lái xe tới sở chỉ huy của Haking và đưa ra mệnh lệnh vào lúc Vào lúc Haig nghe được từ Haking rằng lực lượng dự bị đang tiến lên phía trước. French không nắm được rằng tình trạng đường xá tồi tệ tồi tệ do đó đã không thiết lập một tuyến đường khác. Phần lớn các sư đoàn dự bị đã phải hành quân bộ trong suốt cả ngày trước khi ra đến đường chính vào buổi tối.
26–28 tháng 9.
Khi cuộc chiến tiếp diễn vào những ngày sau đó, quân Đức đã khôi phục và củng cố các vị trí phòng ngự của họ. Phần lớn mạng lưới dây thép gai, một số nơi có chiều sâu lên tới , vẫn chưa bị phá bỏ do đó quân Anh buộc phải sử dụng khí clo. Quân Anh nỗ lực tiếp tục tấn công sau khi bổ sung quân dự bị tuy nhiên đều bị đẩy lùi. Mười hai tiểu đoàn chịu thiệt hại nặng với 8.000 quân bị chết và bị thương trên tổng số 10.000 người chỉ trong vòng 4 giờ đồng hồ. Quân Anh tiếp tục bắn pháo chuẩn bị, với cường độ không liên tục trong vòng 20 phút và rõ ràng không gây thiệt hại với quân Đức. Các xạ thủ súng máy của Đức sau này đã kể lại họ đã "buồn nôn" khi qua họng súng quan sát được có quá nhiều quân Anh thiệt mạng và đã ngừng bắn để lính Anh bị thương có thể rút lui. French thông báo với Foch vào ngày 28/9 rằng khoảng trống phía Bắc của Đồi 70 có khả năng để cho binh lính xung phong vượt qua, dù cho Foch cảm thấy điều này là rất khó để thực hiện, đồng thời Haig báo cho ông biết rằng quân đoàn 1 không thể tiếp tục tấn công sâu hơn. Trận chiến kết thúc vào ngày 28/9, khi quân Anh quay trở về phòng tuyến ban đầu, với thương vong hơn 20.000 người, bao gồm 3 tướng chỉ huy.
Không quân.
Không quân Anh được đặt dưới sự chỉ huy của Hugh Trenchard. Không đoàn số 1, 2 và 3 được đặt dưới sự chỉ huy của Đại tá Edward Ashmore, John Salmond và Sefton Brancker. Do pháo binh quân Anh thiếu đạn pháo, nên Không quân Anh đã tham gia vào việc trinh sát pháo binh, đảm bảo việc bắn pháo chính xác và không bị lãng phí. Trong những ngày đầu, các phi đội được trang bị bộ truyền tín hiệu không dây, giúp chỉ điểm mục tiêu quân Đức cho các khẩu đội pháo. Sau đó các phi công trực tiếp tham gia ném bom bổ nhào chiến tuyến quân Đức. Các máy bay thuộc phi đội số 2 và 3 đã thả nhiều bom lên đầu quân Đức, đường ra, toa xe lửa của quân Đức. Các phi công Anh còn trinh sát trên các vị trí của quân Đức, và chỉ điểm cho pháo binh Anh.
Sau trận chiến.
Phân tích.
Rawlinson viết thư cho Arthur Bigge (28/9)Tướng Richard Hilton, tại đài quan sát tiền phương đã kể lại về trận đánh:
Mười hai tiểu đoàn chịu tổng cộng 8.000 thương vong trên tổng số 10.000 người chỉ trong vòng bốn giờ đồng hồ. French sau đó được thay thế bởi Haig trong vai trò tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Anh vào tháng 12 năm 1915. Haig và Gough không bị chỉ trích vì thất bại này. Năm 1998, nhà phân tích John Keegan chỉ trích khả năng lên kế hoạch kém, thiếu hiểu biết, và thiếu quyết đoán trong việc sử dụng quân dự bị là nguyên nhân dẫn đến thất bại của quân Anh.
Thương vong.
Quân Anh chịu tổn thất 48.367 người trong đợt tấn công đầu tiên, và thêm 10.880 người trong các đợt tấn công tiếp theo, tổng cộng quân Anh mất 59.247 người trong tổng số thương vong 285.107 người trên mặt trận phía Tây năm 1915. Nhà sử học người Anh James Edmonds đưa ra con số thương vong của lính Đức từ ngày 21/9-10/10 vào khoảng 26.000 đến 141.000 người trên mặt trận phía Tây trong suốt các chiến dịch diễn ra vào mùa thu tại Artois và Champagne. Tập đoàn quân số 6 của Đức chịu tổn thất 29.657 người tính đến ngày 21/9; đến cuối tháng 10 thương vong tăng lên đến 51.100 người. Tính tổng cộng trong suốt các chiến dịch mùa thu tại khu vực Artoise và Champagne, quân Đức chịu tổn thất 150.000 người. Khoảng 26.000 lính Đức thương vong trong trận đánh Loos.
54 sĩ quan chỉ huy đã bị giết hoặc bị thương trong trận chiến.
Các chiến dịch nối tiếp.
3–13 tháng 10.
Quân Đức tổ chức nhiều đợt tấn công nhằm chiếm lại Hohenzollern Redoubt, và họ đã thành công vào ngày 3/10. Ngày 8/10, quân Đức nỗ lực chiếm lại phần đất còn lại bằng việc sử dụng 5 trung đoàn xung quanh Loos để tấn công một bộ phận của sư đoàn 7 quân Anh ở phía cánh trái. Thời tiết sương mù gây cản trở tầm nhìn, khiến cho pháo binh bị hạn chế nhiều, quân Anh và Pháp có thời gian để chuẩn bị phòng ngự cùng lớp hàng rào thép gai còn nguyên vẹn. Cuộc tấn công của quân Đức bị đẩy lùi với 3.000 thương vong của quân Đức nhưng nó đã khiến quân Anh phải lui cuộc tấn công xuống lúc nửa đêm ngày Quân Anh tổ chức đợt tấn công cuối cùng vào ngày 13/10, cuộc tấn công thất bại do quân Anh thiếu lựu đạn cầm tay. Haig tiếp tục dự định tổ chức một cuộc tấn công khác vào ngày 7 tháng 11 nhưng trời mưa to cùng với sự chính xác của pháo binh Đức trong khoảng thời gian nửa sau tháng 10 khiến ông phải hủy bỏ dự định.
Tưởng niệm.
Đài tưởng niệm Loos nhằm tưởng niệm hơn 20.000 lính Anh và Liên hiệp Anh vô danh đã ngã xuống trong trận chiến.
Tham khảo.
Books
Journals
Websites
Đọc thêm.
Books
Theses
| 1 | null |
Dọc mùng (hay Thiếu nữ trong vườn và phong cảnh) là bức tranh sơn mài khổ lớn trình bày theo kiểu bình phong của họa sĩ Nguyễn Gia Trí. Bức tranh thực chất gồm hai mặt, mặt trước là tranh "Phong cảnh" còn mặt sau là tranh "Thiếu nữ trong vườn". Bức tranh được giới chuyên môn cũng như giới sưu tập đánh giá là "Bức tranh sơn mài đẹp nhất Việt Nam". Hiện nay, bức tranh được đặt trang trọng tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Miêu tả bức tranh.
Bức tranh là một bộ bình phong gồm 8 tấm gỗ ghép lại. Với sơn đỏ son, sơn then, vàng, bạc, vỏ trứng và sơn cánh gián họa sĩ đã tạo cho "Dọc mùng" một vẻ đẹp lộng lẫy, có chiều sâu bí ẩn, đưa kĩ thuật sơn mài lên đỉnh cao, khẳng định tầm quan trọng của chất liệu hội họa này trong nền mỹ thuật Việt Nam, đồng thời, đánh dấu sự khởi đầu cho khuynh hướng sáng tác đưa sơn mài vào nghệ thuật của Nguyễn Gia Trí những năm sau này.
Mặt trước là hình ảnh cây dọc mùng với nét vẽ khoẻ khoắn, những mảng vỏ trứng, hình cây điển hình được viền bằng những mảng màu to rộng, nét cứng cáp gợi về sự gần gũi chân quê của vùng nông thôn Bắc Bộ Việt Nam.
Mặt sau, bức tranh "Thiếu nữ trong vườn" là vườn hoa muôn sắc màu, trong đó các cô gái đang vui đùa, chạy nhảy, giá trị hiện thực toát lên từ hình khối, động tác. Sắc vàng kim được dát trên nền trời, trên những tấm áo điểm xuyết vỏ trứng, những vệt vàng lộng lẫy trên từng đường lượn như tôn vẻ đẹp thanh tân thiếu nữ.
Mọi thành tựu kỹ thuật đều được phát huy hết mức, đặc biệt là thủ pháp để lộ nền son trong những hình người khiến các nhân vật nhẹ lâng lâng như tan được. Việc xử lý vỏ trứng ở đây có những sáng tạo mới: vỏ trứng nhoè mờ, ẩn hiện như thủy mặc, mềm như lụa, ánh vàng kim chiếu ra từ bên trong, từ những kẽ vỏ trứng như một ánh sáng nội tại huy hoàng, và các nét tinh tế màu đen chạy trên mặt vỏ trứng khiến ta nhìn thấy được những đường gió cuốn tà áo dài thiếu nữ.
Ở đây sử dụng mô-típ ba cô (Ba cô gái đứng cạnh nhau) của Botticelli nhưng có thể thấy sự khác biệt ở vẻ mông lung hư ảo nhiều hơn, phần hồn át hẳn phần xác, nhịp chân tíu tít, bước chân tung tẩy như không chạm đất, sự trong trắng phát sáng từ bên trong. Các cô đã rời cõi thế lên tiên giới.
Đánh giá.
Ngoài những sự công nhận giá trị của bức tranh này, nó còn làm thay đổi cả quan niệm về sơn mài truyền thống.
Năm 1946, Bác Hồ từng mượn của nhà sưu tập Đức Minh tranh Nguyễn Gia Trí (trong đó có Dọc mùng) và các họa sĩ khác để tiếp khách quốc tế. Bác Hồ rất coi trọng văn hóa quốc gia, cho nên Bác muốn nơi tiếp khách phải thể hiện văn hóa quốc gia. Mỹ thuật biểu hiện điều đó nhanh nhất, rõ nét nhất.
Tìm kiếm.
Sau chiến dịch Đại thắng mùa xuân 1975, cố họa sĩ, nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Đỗ Cung, nguyên Viện trưởng đầu tiên của Viện Mỹ thuật Việt Nam đã chỉ thị cho người cộng sự của mình là họa sĩ, nhà điêu khắc Nguyễn Thiện vào Đà Lạt tìm và đưa bức sơn mài nổi tiếng của danh họa Nguyễn Gia Trí về Hà Nội an toàn, nguyên vẹn.
Họa sĩ Nguyễn Thiện "người cộng sự" năm xưa giờ đã vào tuổi 80 bồi hồi kể lại:
"Sau giải phóng miền Nam 1975, tôi khi đó là Trưởng phòng Phục chế, trang trí và trưng bày của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam được ông Nguyễn Đỗ Cung, Viện trưởng gọi lên giao nhiệm vụ vào Nam tìm và đem bằng được bức tranh "Dọc mùng" của họa sĩ Nguyễn Gia Trí lúc đó đang được đặt tại dinh thự của Ngô Đình Diệm ở Đà Lạt về Hà Nội. Nhận nhiệm vụ, tôi không dám hỏi lại Viện trưởng vì sao chỉ cử một mình tôi vào tìm, đem bức tranh về, bởi tôi biết ông là một người rất cẩn trọng. Lặng lẽ gói gém hành trang tôi lên đường với hy vọng hoàn thành nhiệm vụ."
"Sau vài tuần vất vả đi đường, tôi cũng đến được Đà Lạt, và thật may mắn công tác bảo vệ, giữ gìn các công trình kiến trúc của chế độ cũ được các cơ quan Trung ương cũng như địa phương làm khá tốt sau giải phóng.
Hầu như các hiện vật là các bức tranh quý tại các dinh thự của quan lại chế độ cũ được bảo quản khá nguyên vẹn. Bức tranh "Dọc mùng" được tôi tìm thấy tại dinh thự cổ của một viên chủ đồn điền Pháp tại Đông Dương được Ngô Đình Diệm chọn làm nơi ở mỗi khi lui về nghỉ dưỡng tại Đà Lạt.
Khi đó tôi thật sự cảm phục sự tinh tế của ông Nguyễn Đỗ Cung và hiểu vì sao Viện trưởng lại cử mình vào tìm bức tranh.
Một vấn đề khó khăn xuất hiện sau khi tìm được bức tranh. Đó là làm sao đưa được bức tranh trở về Hà Nội một cách an toàn và nguyên vẹn, bởi bức tranh là bình phong khổ lớn gồm tám bức ghép có kích thước 160cmx400cm. Tôi đành điện ra Hà Nội báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo và Viện trưởng đã cử một đoàn công tác đặc biệt do họa sĩ Nguyễn Văn Y, một bậc thầy về gốm, khi đó là Phó Viện trưởng Viện Mỹ thuật Việt Nam dẫn theo tổ công tác gồm họa sĩ Chu Khắc Thuật, Lê Kim, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Bích, Hải Yến… là cán bộ của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam vào hỗ trợ tìm cách đưa bức tranh trở về".
Ông Thiện kể tiếp: "Sau giải phóng, giao thông đi lại thật gian khó, nhưng khi chúng tôi đề xuất với địa phương về sự quan trọng cần gìn giữ và đưa bức tranh ra Hà Nội phải được đảm bảo an toàn tuyệt đối, nên đã được tạo điều kiện rất thuận lợi". Và hành trình của "chuyến xe đặc biệt" vận chuyển "bức tranh sơn mài đẹp nhất" Việt Nam về Sài Gòn rồi sau đó ngược ra Bắc an toàn.
| 1 | null |
Roland Gérard Barthes (; 12 tháng 11 năm 1915 – 25 tháng 3 năm 1980) là một nhà lý luận văn học, triết gia, nhà ký hiệu học người Pháp. Các ý tưởng của Barthes đã khám phá nhiều lĩnh vực khác nhau và ông đã ảnh hưởng tới sự phát triển của các trường phái lý thuyết bao gồm chủ nghĩa cấu trúc, ký hiệu học, xã hội học, nhân chủng học và chủ nghĩa hậu cấu trúc. Ông được xem như một trí thức hàng đầu ở Pháp thập niên 1960-1970 cùng với những tên tuổi như Foucault, Lacan, hay Claude Lévi-Strauss, có khuynh hướng chính trị thiên tả. Ông giữ một ghế giảng dạy khóa Ký hiệu học văn học ở Collège de France từ năm 1977 cho tới 1980, năm ông chết sau một tai nạn giao thông.
| 1 | null |
Jacques Marie Émile Lacan (; sinh ngày 13 tháng 4 năm 1901 – mất ngày 9 tháng 12 năm 1981), được biết đến nhiều hơn với tên Jacques Lacan, là một nhà tâm thần học kiêm phân tâm học người Pháp. Ông nổi tiếng với những đóng góp lý thuyết cho ngành phân tâm học, dựa trên diễn giải các công trình của Sigmund Freud trộn lẫn với các yếu tố triết học, chủ nghĩa cấu trúc, ngôn ngữ học cấu trúc và toán học.
Lacan theo học chuyên khoa tâm thần thuộc ngành y của Đại học Paris. Năm 1932, ông tốt nghiệp văn bằng tiến sĩ. Vào thập kỷ 1930, ông bén duyên với ngành phân tâm học và chủ nghĩa siêu thực. Khoảng năm 1934, khi còn đang nghiên cứu dưới trướng Rudolph Loewenstein, Lacan gia nhập Hiệp hội Phân tâm học Paris (SPP), rồi trở thành hội viên chính thức vào năm 1938. Thời điểm đó, ông rất tích cực tham gia vào đời sống trí thức ở Paris, thường xuyên giao lưu với các nghệ sĩ trường phái siêu thực như André Breton và Salvador Dalí. Ngoài ra ông cũng bắt đầu tìm hiểu về Martin Heidegger và G. W. F. Hegel, những vị triết gia mà sẽ ảnh hưởng đáng kể đến Lacan sau này.
Tuyên bố của Lacan về sự "trở lại với Freud", sự phản đối của ông đối với các trường phái Freud khác (đặc biệt là tâm lý học cái tôi), cũng như chiều hướng lý thuyết của ông, đã khiến nội bộ SPP chia rẽ vào năm 1953. Lacan tiếp tục nghiên cứu và tổ chức nhiều cuộc hội thảo từ năm 1953 đến năm 1980. Ngoài ra, ông từng thành lập và chỉ đạo một học viện phân tâm học của riêng mình, gọi là (EFP). Cơ sở này đi vào hoạt động từ năm 1964 nhưng phải giải thể vào năm 1980 sau một số lục đục. Văn tuyển "Ecrits" (1966) có thể coi là công trình nổi bật nhất của Lacan, và cũng chính nhờ nó, ông đã trở thành một nhân vật thống trị đời sống văn hóa Pháp hồi thập niên 70.
Công trình của Lacan khám phá tầm quan trọng của vô thức Freud trong phân tích thực tiễn và lý thuyết, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong giảng dạy, ông đặc biệt nhấn mạnh chiều kích triết học của bộ môn tâm lý mà xa rời góc độ sinh học. Trái ngược với Freud, người đã tự nguyện đoạn tuyệt với triết học, Lacan tiếp nhận những suy đoán mang tính triết học đó và tổng hòa chúng với ngành phân tâm học. Theo Lacan, vô thức là một cấu trúc có hiệu ứng giống ngôn ngữ, và bắt nguồn từ ngôn ngữ. Hơn nữa, quan điểm ấy đã giao thoa với những thành tựu khoa học đương thời, nổi bật là ngôn ngữ học cấu trúc của Ferdinand de Saussure và một số ngành toán mới nổi như tô-pô học. Tất cả những yếu tố đó đã giúp Lacan trở thành một trong những nhà thông dịch vĩ đại nhất về tư tưởng của Freud, đồng thời cũng đanh dấu sự khai sinh của phong trào phân tâm học mang tên ông, "chủ nghĩa Lacan".
Tiểu sử.
Lacan Émile Jacques-Marie là con đầu lòng của một gia đình thuộc tầng lớp trung lưu. Ông lớn lên trong môi trường Công giáo bảo thủ. Mẹ ông rất sùng đạo còn cha ông thì thực hiện các nghĩa vụ tôn giáo không chút nhiệt tâm. Được coi như một đứa trẻ độc đoán và sáng dạ, ông theo học tiểu học và trung học tại trường Stanislas. Khoảng mười lăm tuổi, Lacan khám phá Baruch Spinoza, một trong những tác giả yêu thích nhất mãi về sau của ông. Ông rất ấn tượng bởi việc giảng dạy của John Baruzi, tác giả của một luận án về Jean de la Croix, mà cũng quan tâm đến Leibniz, Saint Paul và Angelus Silesius.
Lacan bắt đầu theo học Y khoa, trái với ý muốn của cha mình. Những năm đầu tiên, ông tích cực tham gia các hội đối lập với những người theo chủ nghĩa siêu thực và hành động Pháp. Những hội này đặc trưng bởi vị trí trái ngược rõ rệt và mối quan tâm đặc biệt tới các vấn đề ngôn ngữ. Bởi ông đã mất niềm tin trong thời niên thiếu, và lại từng muốn gây được ảnh hưởng nhất định tới người em trai, cho nên lễ tấn phong linh mục của người em này tại nhà thờ Hautecombe năm 1926 đối với ông lại trở thành một thất bại cá nhân.
Chọn khoa Tâm thần và theo học Gaëtan Gatian de Clérambault, Lacan sau này chỉ công nhận đó là người thầy tâm thần học duy nhất của mình. Trong thời kỳ học nội trú, ông gặp gỡ Henri Ey và Pierre Mâle. Ông bảo vệ luận án tiến sĩ vào cuối năm 1932 và tốt nghiệp Y khoa, chuyên khoa tâm thần.
Vài tháng trước khi bảo vệ luận án, ông bắt đầu theo học Phân Tâm học với Rudolph Loewenstein. Ông được bổ nhiệm làm hội viên của hiệp hội Phân Tâm Paris. Năm 1938, ông trở thành thành viên chính thức với sự hỗ trợ của Loewenstein với điều kiện: Lacan phải tiếp tục phân tâm học với ông. Tuy nhiên, Lacan đã sớm bỏ dở. Cũng vào những năm 1930, ông tham dự hội thảo của Alexandre Kojève về Hegel. Hội thảo này không chỉ là nơi gặp gỡ giữa các nhân vật rất khác biệt (Raymond Aron, Raymond Queneau, Jean Hyppolite, Maurice Merleau-Ponty, Georges Bataille, vv..) mà còn là nơi đào tạo trí thức rất quan trọng đối với Lacan.
Năm 1933, ông gặp và cưới Marie-Louise Blondin. Họ có ba đứa con chung: Caroline (1937), Thibault (1039) và Sibylle (1940). Sau đó ông đem lòng yêu Sylvia Maklès, vợ của Georges Batailles đã li thân từ năm 1933. Họ có chung một người con, Judith (1941). Lacan li dị vợ vào cuối thế chiến.
Lacan ngưng tất cả mọi hoạt động giảng dạy trong thời Pháp bị chiếm đóng, nhưng vẫn theo đuổi nghiên cứu Phân Tâm học. Chỉ sau khi chiến tranh kết thúc, phong trào phân tâm học ở Pháp mới sống lại. Chiến tranh thế giới dẫu sao cũng mang đến những đổi thay lớn. Những phong trào như của nhà ngôn ngữ học Edouard Pichon về ngôn ngữ vô thức quốc gia phụ thuộc đã bị đẩy lùi bởi những kinh nghiệm mới mẻ hơn. Cuộc lưu vong của Loewenstein, kẻ yêu cuồng Marie Bonaparte, lãnh đạo tinh thần của các nhà phân tâm học cũng gây nên những thay đổi rõ rệt. Ngay khi chiến tranh vừa chấm dứt, Lacan đột nhiên có một tầm quan trọng chưa từng biết đến, có lẽ vì ông là một trong những trí thức không chọn con đường lưu vong.
Tư tưởng.
Chấn hưng thuyết Freud.
Công trình "quay về với Freud" của Lacan đã nhen nhóm từ thời ông còn học tập tại Société Psychanalytique de Paris (SPP), một cơ quan liên kết với Hiệp hội Phân tâm học Quốc tế (IPA), và Lacan tự coi mình là người bảo tồn những di sản của học thuyết Freud. Ban đầu, ông chí trích gay gắt chí hướng diễn giải Freud của các nhà phân tâm học IPA. Về sau, khi đã rời bỏ SPP vào năm 1953, ông tiếp tục mở rộng phê phán của mình đối với ba học phái thời thượng lúc bấy giờ trong nội bộ IPA, đó là tâm lý học cái tôi, phân tâm học Klein và thuyết quan hệ khách thể. Do vậy, "quay về với Freud" là sự phản ứng với điều mà Lacan nhìn nhận như sự phản bội Freud của các nhà lý thuyết IPA.
| 1 | null |
Trận Krithia lần thứ ba là một trận đánh trong Chiến dịch Gallipoli của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra vào ngày 4 tháng 6 năm 1915. Trong trận đánh này, quân phòng thủ Thổ Ottoman do viên sĩ quan Otto Liman von Sanders của Đế quốc Đức chỉ huy đã đẩy lùi các cuộc tấn công quyết liệt của liên quân Anh - Pháp do tướng Aymer Hunter-Weston của Anh phát động, với thiệt hại nặng nề cho cả hai phe. Thiệt hại của liên quân đã khiến cho Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Anh Quốc Kitchener phải hốt hoảng.
Sau thất bại của khối Hiệp Ước trong trận Krithia lần thứ nhất và trận Krithia lần thứ hai, người tổng chỉ huy của họ là Ian Hamilton đã vạch ra một kế hoạch ít tham vọng hơn nhằm mở Trận Krithia lần thứ ba. Kế hoạch của Hamilton chỉ nhằm mục tiêu chiếm giữ tiền tuyến của hệ thống chiến hào Ottoman. Liên quân cũng thực hiện một nỗ lực lớn hơn nhiề nhằm đảm bảo các vấn đề tiếp tế. 3 Sư đoàn Anh cùng với 2 Sư đoàn Pháp sẽ tham gia cuộc tiến công này cùng với 159 khẩu pháo. Tuy nhiên, lực lượng Ottoman cũng tăng cường phòng ngự và tăng viện cho chiến tuyến của mình trong tháng trước. Các chiến hào Ottoman giờ đây có 2 Sư đoàn, với 3 Sư đoàn trừ bị cách đó không xa và 86 khẩu pháo.
Mặc dù Hamilton đã ra sức chuẩn bị nhưng trận chiến cho thấy quân đồng minh vẫn chưa thế áp đảo các cứ điểm của quân đội Ottoman. Quân Pháp không thể chiếm giữ một khu đất nào, cũng như quân Anh ở bên phải. Tuy nhiên, Sư đoàn số 29 và Sư đoàn (East Lancashire) số 42 của Anh đã chiếm giữ các mục tiêu đã được đề ra của họ. Tuy nhiên, không có các sườn yểm trợ, họ đã rơi vào làn đạn khốc liệt của đối phương và họ chỉ còn cách là bám chặt vào các cứ điểm mà họ mới chiếm được. Cuối buổi chiều hôm đó, quân Ottoman đã bắt đầu phát động các cuộc phản công mạnh mẽ từ 3 hướng, buộc quân Anh phải từ bỏ phần lớn đất đai mà họ chiếm được khi màn đêm buông xuống. Tình hình mặt trận không thay đổi gì nhiều. Một lần nữa, liên quân Anh - Pháp đã thất bại trước sức kháng cự dữ dội của quân đội Thổ Ottoman. Ngày hôm sau (5 tháng 6), quân Ottoman tổ chức những đợt phản công mạnh mẽ gây khó khăn cho liên quân, nhưng bị đánh bật. Thất bại thứ ba tại Krithia đã khiến cho Hamilton không còn hy vọng về một chiến thắng vang dội của quân đồng minh tại Helles.
| 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.