title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Mười hai Điều khoản của nông dân Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800434
So sánh với Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ năm 1776 cho thấy có một số điểm tương đồng về động cơ và cách triển khai trong văn bản. Những điểm tương đồng cũng có thể được tìm thấy trong kết quả của cuộc Cách mạng Pháp từ năm 1789 trở đi. Trong ba thế kỷ tiếp theo của thời kỳ cận đại, nông dân hầu như không còn nổi dậy. Chỉ với cuộc Cách mạng Đức (1848–1849), các mục tiêu được đề cập trong mười hai điều khoản năm 1525 mới có thể được thực thi.
Cách mạng Tây Ban Nha
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800439
Cách mạng Tây Ban Nha có thể nhắc tới:
Kim Ji-woong
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800441
Kim Ji-woong (; sinh ngày 14 tháng 12 năm 1998) là một diễn viên, ca sĩ và người mẫu Hàn Quốc. Anh được biết đến nhiều nhất khi tham gia chương trình thực tế sống còn của Mnet, "Boys Planet" và xếp thứ 8 trong đêm chung kết và trở thành thành viên của nhóm Zerobaseone với vị trí anh cả của nhóm. Trước đó, anh là cựu thành viên của nhóm nhạc nam INX hoạt động từ 2016 đến 2017. Sau đó, anh xuất hiện lần đầu với tư cách là một diễn viên trong web series "The Sweet Blood" (2021) và được biết đến nhiều nhất với vai diễn trong "Kissable Lips" (2022) và "Roommates of Poongduck 304" (2022). Tiểu sử. Kim Ji-woong sinh ngày 14 tháng 12 năm 1998, tại Wonju, Gangwon, Hàn Quốc. Anh có hai anh em trai: một em trai nhỏ hơn anh mười tuổi và một anh trai lớn hơn anh một tuổi. Anh tốt nghiệp trường trung học Pyongwon. Sự nghiệp. 2016–2018: Ra mắt, tan rã và vụ kiện chống lại công ty của anh ấy. Anh ra mắt với tư cách ca sĩ vào năm 2016 với tư cách là em út của nhóm nhạc nam Hàn Quốc, INX, với nghệ danh Ji-nam. Nhóm tan rã vào cuối năm 2017 và vào năm 2018, họ đã đệ đơn kiện công ty chủ quản yêu cầu chấm dứt hợp đồng độc quyền với lý do bị ngược đãi. Tòa án quận Seoul đã đưa ra phán quyết có lợi cho nhóm đồng thời hợp đồng giữa nhóm và công ty đã được chấm dứt. 2020–nay: Ra mắt diễn xuất, Boys Planet và ZEROBASEONE. Anh đã giành hạng nhất ở hạng mục nam trong 2020 là "Burn Up: Challenge to Billboard". Thừa thắng xông lên, anh phát hành đĩa đơn "Sick of Love" cùng với Kim Min-jung, người đứng đầu hạng mục nữ. Năm 2021, Kim có vai chính đầu tiên trong web series "The Sweet Blood" của Naver TV, được chuyển thể từ webtoon "The Sweet Girl (달달한 그녀)". Năm 2022, Kim có vai chính đầu tiên trong web series BL "Kissable Lips". Kim sau đó tham gia diễn xuất trong web series "Roommate of Poongduck 304" dựa trên tiểu thuyết của Noh Ga-jeong. Bộ phim đã thu hút được một lượng lớn sự chú ý và xếp hạng nhất cho thể loại BL trên dịch vụ phát trực tuyến "Watcha" của Hàn Quốc. Vào ngày 29 tháng 12 năm 2022, Kim được công bố là thí sinh trong chương trình thực tế sinh tồn "Boys Planet" của Mnet.
Kim Ji-woong
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800441
Vào ngày 19 tháng 3 năm 2023, ca sĩ Holland đã thông báo trên tài khoản mạng xã hội cá nhân của mình rằng Kim sẽ góp mặt trong video âm nhạc của bài hát có tựa đề "Number Boy" cho album mới nhất cùng tên được phát hành vào ngày 30 tháng 3 năm 2023. Vào ngày 20 tháng 4 năm 2023, Kim đứng thứ 8 với tổng số điểm bình chọn là 1.338.984 trong tập cuối cùng của Boys Planet, giúp anh ra mắt với nhóm chiến thắng, Zerobaseone (ZB1).
SIP trunking
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800442
SIP trunking là một công nghệ và dịch vụ truyền phương tiện dựa trên giao thức khởi tạo phiên (SIP) của voice over Internet Protocol (VoIP), mà các nhà cung cấp dịch vụ điện thoại trên Internet (ITSPs) cung cấp cho khách hàng trang bị IP-PBX dựa trên SIP và các tiện ích liên lạc thống nhất. Hầu hết các ứng dụng liên lạc thống nhất cung cấp âm thanh, video và các ứng dụng truyền phương tiện khác như chia sẻ màn hình, hội nghị trực tuyến và bảng trắng chung. Domains. Cấu trúc của SIP trunking cung cấp một phân vùng của mạng liên lạc thống nhất thành hai lĩnh vực chuyên môn khác nhau: Sự kết nối giữa hai lĩnh vực phải thông qua một SIP trunk. Sự kết nối giữa hai lĩnh vực, được tạo bởi vận chuyển qua giao thức Internet Protocol (IP), liên quan đến việc đặt ra các quy tắc và quy định cụ thể cũng như khả năng xử lý một số dịch vụ và giao thức thuộc tên gọi SIP trunking. ITSP có trách nhiệm với cơ quan quản lý đối với tất cả các nghĩa vụ pháp lý sau đây của public domain: Private domain thì không bị ràng buộc pháp lý đặc biệt và có thể thuộc về ITSP, người dùng cuối (doanh nghiệp) hoặc bên thứ ba cung cấp dịch vụ thoại cho công ty. Cấu trúc. Mỗi lĩnh vực có các thành phần thực hiện các tính năng đặc trưng yêu cầu của lĩnh vực đó, đặc biệt là kết quả (là một phần của bất kỳ mạng phía trước nào đến khách hàng) được chia logic thành hai cấp: Kiểm soát truy cập (Class 5 softswitch); Các thành phần đường biên mạng tách biệt public domain khỏi private domain, thực hiện tất cả các chính sách bảo mật điện thoại của ITSP thích hợp. Private domain bao gồm ba cấp độ:
Nhật Bản xâm chiếm Davao
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800443
Cuộc hành quân xâm lược Davao của Nhật Bản (Tiếng Philippines: Paglusob ng mga Hapones sa Davao, Jolo at Arkipelago ng Sulu, Tiếng Cebu: Pagsulong sa Hapon sa Davao, Jolo ug Kapuloan sa Sulu) và trên Jolo thuộc quần đảo Sulu vào ngày 19 tháng 12 năm 1941 là một trong các cuộc đổ bộ trước của quân đội Nhật Bản như là bước đầu tiên của Chiến dịch xâm lược Philippines. Mục đích là để cắt đứt khả năng tiếp viện đến Luzon từ phía nam và hoàn thành việc bao vây các lực lượng Mỹ ở đó, với mục đích thứ yếu là thiết lập một căn cứ mà từ đó Tập đoàn quân 16 Nhật Bản có thể phát động chiến dịch xâm lược Bắc Borneo thuộc Anh và Đông Ấn Hà Lan. Cuộc hành quân xâm lược Philippines đầu tiên là tại đảo Batan diễn ra vào ngày 8 tháng 12 năm 1941. Tiếp theo là Vigan, Aparri, Legaspi, Davao, và Jolo trong vài ngày tiếp theo. Bố trí lực lượng. Thành phố Davao là trung tâm kinh tế của miền Nam Mindanao, và trước khi chiến tranh nổ ra là trung tâm định cư và hoạt động kinh tế của Nhật Bản tại Philippines. Đối với cuộc hành quân xâm lược lần này, Thiếu tướng Shizuo Sakaguchi tư lệnh Sư đoàn 56 Nhật Bản đã tổ chức hai phân đội với tổng cộng 5,000 người. Biệt đội Miura, do Trung tá Toshio Miura chỉ huy bao gồm Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn Bộ binh 33, và Biệt đội Sakaguchi, do Sakaguchi trực tiếp chỉ huy, bao gồm Trung đoàn Bộ binh 146, cùng với một tiểu đoàn tiểu đoàn thiết giáp và pháo binh. Trong khi Tập đoàn quân 14 Nhật Bản chịu trách nhiệm đánh chiếm Philippines, lực lượng của Sakaguchi thuộc Tập đoàn quân 16 Nhật Bản và dự kiến sẽ tiếp tục tiến về phía nam đến Tarakan thuộc Đông Ấn Hà Lan qua Jolo ở quần đảo Sulu sau khi Davao được an toàn. Đối với phần đánh chiếm Jolo, Sakaguchi sẽ được hỗ trợ bởi đơn vị Kure SNLF, là đơn vị vừa hoàn thành nhiệm vụ trong việc đảm bảo an toàn tại Legazpi. Khu vực Davao về lý thuyết được bảo vệ bởi 2,000 người thuộc Trung đoàn Bộ binh 101 Philippines, do Trung tá Roger B Hilsman chỉ huy. Cũng như các đơn vị khác trong Quân đội Philippines, lực lượng này chỉ được huấn luyện một phần và thiếu trang thiết bị nghiêm trọng.
Nhật Bản xâm chiếm Davao
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800443
Davao là mối quan tâm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, vì nó có một căn cứ của Hải quân Mỹ và chỉ cách trung tâm quân sự lớn của Nhật Bản ở Tây Nam Thái Bình Dương, Palau 500 dặm. Tuy nhiên, vào lúc bắt đầu chiến tranh, chỉ có tàu chở thuỷ phi cơ USS "William B. Preston", với ba máy bay Consolidated PBY đang hoạt động ở cảng. Không biết được điều này, vào ngày 8 tháng 12, Nhật Bản đã tung ra một cuộc tấn công vào Davao, với 13 máy bay ném bom B5N1 và 9 máy bay tiêm kích A5M4 xuất phát từ tàu sân bay "Ryūjō", với các khu trục hạm "Hayashio", "Kuroshio", "Oyashio" và "Natsushio" chạy với tốc độ cao đến lối vào cảng Davao để bắt giữ bất kỳ tàu nào trốn thoát. Cuộc không kích có phần thất bại, vì các phi công Nhật Bản thậm chí không nhận ra "William B. Preston" là một tàu chiến và chỉ tiêu diệt được hai chiếc PBY (chiếc còn lại đang thực hiện một nhiệm vụ vào lúc đó). Đổ bộ và kết quả. Lực lượng đổ bộ Nhật Bản dưới quyền chỉ huy chung của Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka rời Palau vào ngày 17 tháng 12 bao gồm 5 tàu vận tải, được hộ tống bởi tuần dương hạm hạng nhẹ "Jintsu" và 6 khu trục hạm ("Amatsukaze", "Hatsukaze", "Kuroshio", "Oyashio", "Hayashio" và "Natsushio"), cùng với tàu sân bay "Ryūjō" và tàu chở thuỷ phi cơ "Chitose", cùng các tuần dương hạm "Nachi", "Haguro" và "Myōkō" yểm trợ từ xa. Chiều ngày 19 tháng 12, "Ryūjō" phóng các máy bay ném bom tiêu diệt đài phát thanh tại mũi San Augustin, và "Chitose" tung máy bay trinh sát bay qua Davao. Các tàu vận tải Nhật Bản đến Davao lúc nửa đêm, và cuộc đổ bộ bắt đầu từ 04:00, với Biệt đội Miura đổ bộ lên phía bắc, và Biệt đội Sakaguchi đổ bộ về phía tây nam thành phố. Đối thủ duy nhất là một đội súng máy, tấn công vào Biệt đội Miura trước khi nó bị tiêu diệt bởi một quả đạn pháo bắn trực tiếp từ một khu trục hạm Nhật Bản. Tuy nhiên, vì Biệt đội Miura hứng chịu thương vong, Sakaguchi buộc phải huy động lực lượng dự bị mà ông đang giữ lại cho phần đánh chiếm Jolo trong chiến dịch.
Nhật Bản xâm chiếm Davao
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800443
Lúc 10:30, Đại tá Hilsmen kéo người của mình rởi khỏi thành phố về phía tây bắc vào những ngọn đồi. Đến 15:00, cả thành phố và sân bay đều thất thủ, và vào buổi tối, một căn cứt thuỷ phi cơ được xây dựng ở phía nam của khu vực đô thị. Vào ngày 20 tháng 12, khi Sakaguchi đang tổ chức lại lực lượng của mình thành 9 tàu vận tải cho cuộc đổ bộ lên đảo Jolo, ông bị tấn công bởi một lực lượng gồm 9 máy bay ném bom Boeing B-17 Flying Fortress của Không lực Hoa Kỳ xuất phát từ Darwin, Úc. Do tầm nhìn kém, cuộc ném bom này ít gây ra thiệt hại. Lực lượng đổ bộ Jolo khởi hành từ Davao vào ngày 23 tháng 12, đến nơi vào chiều ngày 24 tháng 12. Jolo, thủ đô của Vương quốc Hồi giáo Sulu cũ, chỉ được bảo vệ bởi 300 thành viên của Cảnh sát Philippines. Quân Nhật đổ bộ vào sáng ngày 25 tháng 12 mà không gặp kháng cự nào. Hậu quả. Cuộc đổ bộ trước của người Nhật ở miền nam Mindanao và đảo Sulu có rất ít và không ảnh hưởng đến toàn bộ chiến dịch Philippines, nhưng lại đặt quân Nhật vào một vị trí tốt cho kế hoạch đánh chiếm Borneo và Đông Ấn Hà Lan vào đầu năm 1942.
Đạo Mộ Bút Ký 2 (phim truyền hình)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800450
Đạo mộ bút ký 2 (tiếng Trung: 怒海潜沙 & 秦岭神树, tiếng Anh: Explore With The Note) là một Bộ phim truyền hình trực tuyến Trung Quốc năm 2019 được chuyển thể từ Quyển 1: phần "Nộ hải Tiềm sa" (怒海潜沙) và quyển 2: phần "Tần Lĩnh thần thụ" (秦岭神树) trong bộ Tiểu thuyết Đạo mộ bút ký của nhà văn Trung Quốc Nam Phái Tam Thúc. Phim được công chiếu vào ngày 06 tháng 6 năm 2019 trên dịch vụ phát trực tuyến Tencent Video. Nội dung. Phần Nộ hải Tiềm sa (怒海潜沙). A Ninh tập hợp nhóm Ngô Tà, Trương Khởi Linh, Vương Bàn Tử đến Hải Nam với lý do tìm kiếm chú ba Ngô Tam Tỉnh thất lạc khi đi tìm Tây Sa hải mộ. Đối phương là một công ty khai thác tài nguyên biển quốc tế, quy mô rất lớn. Cái gọi là công ty khai thác tài nguyên biển, thực chất là căn cứ vào nhiều nguồn tin tức hàng hải kết hợp với tư liệu lịch sử ghi chép lại, tiến hành phân tích để suy đoán ra vị trí tàu thuyền chìm, rồi vớt vật tư trong đó. Những công ty kiểu này chia làm hai dạng, một là vớt tàu thuyền hiện đại, dỡ nhỏ thân thuyền vẫn chưa hoàn toàn mục nát rồi bán sắt vụn, hoặc đem bán vật phẩm vớt được. Hai là vớt những tàu thuyền chìm từ thời cổ đại, lấy đồ cổ bán cho người sưu tầm hoặc viện bảo tàng. Công ty này thuộc dạng thứ hai, tức chọn mục tiêu chủ yếu là tàu thuyền chìm thời cổ. Chú ba muốn mau chóng tìm được Tây Sa hải mộ, nên đã dùng hình thức bảo đảm để mượn thiết bị và nhân viên của công ty này; lại lấy danh nghĩa công ty, chọn ra một đội khảo sát, không ngờ thuyền mới đi được năm ngày, bộ phận hậu cần của bọn họ đã mất liên lạc với thuyền của đội khảo sát. Buổi tối, tàu gặp cơn Bão biển và xuất hiện một con tàu ma. A Ninh bị hải hầu tửbắt qua tàu ma. Ngô Tà, Tiểu Ca cứu A Ninh. Ngô Tà phát hiện trong tủ sắt trên tàu ma có một cái túi chống thấm đã cũ.
Đạo Mộ Bút Ký 2 (phim truyền hình)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800450
Bên trong rơi ra một quyển bút ký đã gần nát vụn, trên bìa viết mấy chữ: Bản ghi chép khảo cổ bãi đá ngầm Tây Sa, trang sau có mấy chữ: Tháng 7 năm 1984, Ngô Tam Tỉnh tặng Trần Văn Cẩm và một tấm hình chụp đoàn khảo cổ Tây Sa cách đây 20 năm. Tiểu Ca cứu được A Ninh về lại tàu, chủ tàu gỡ nhân diện liêm đang dính sau gáy của A Ninh. Đến tọa độ vùng biển nơi lần cuối cùng phát hiện chú ba, cả đội cùng nhau lặn xuống tìm kiếm manh mối chú ba để lại. Nhóm người của A Ninh dùng chất nổ nổ đáy biển. Đáy biển bị nổ ra một cái hố lớn, ngay dưới đáy hố chính là đạo động. Dấu vết quá trình xác định lăng mộ của chú ba vẫn còn lưu lại. Đạo động ở vị trí này dẫn xuống phòng bên, tường gạch nơi đó hẳn là mỏng hơn. Cả đội vào được lăng mộ. Trên đường đi, A Ninh cố tình đạp cơ quan làm mũi tên hoa sen bắn trúng Ngô Tà, Bàn Tử, nhân cơ hội đó A Ninh tách đội. Mục đích A Ninh xuống đây là nhằm tìm quỷ ấn và bản đồ đến Vân Đỉnh Thiên cung. Cả đội lúc này chỉ còn Ngô Tà, Bàn Tử, Tiểu Ca tiếp tục đi khám phá lăng mộ đến một phòng phát hiện một quan tài bằng gỗ lim vàng. Đây gọi là quan tài dưỡng xác, bình thường dùng cho lăng mộ trên cạn, nếu có loại quan tài này thì chắc chắn trong cổ mộ có hai vị trí đặt quan cực tốt. Nếu có hai vị trí mà chỉ đặt một quan tài, chỗ còn trống kia hấp thu linh khí đất trời, sẽ vô tình gọi loài yêu ma; cho nên phải đặt thêm một quan tài dưỡng xác, bên trong táng một người có quan hệ huyết thống với chủ mộ, coi như hợp táng. Quan tài này phải giống y hệt cái trong phòng chủ mộ, cái này trong phong thủy gọi là dưỡng khí. Cả đội mở quan tài ra thì phát hiện một hạn bạt lông trắng. Bên dưới quan tài dưỡng xác là một thông đạo khác. Cả đội đi được một lúc thì hành lang hẹp lại, buộc phải leo lên trên.
Đạo Mộ Bút Ký 2 (phim truyền hình)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800450
Tiểu Ca tìm thấy lớp gạch trên tường có một dòng chữ được viết bằng máu: “Ngô Tam Tỉnh hại tôi đến bước đường cùng, ngậm oan mà chết, có trời đất chứng giám… Giải Liên Hoàn.” Giải Liên Hoàn cũng là người trong đội khảo cổ Tây Sa cách đây 20 năm, chính là người nắm giữ Xà mi Đồng ngư đã chết ở bãi đá ngầm. Trên đường đi, Tiểu Ca tiêu diệt Cấm bà đang định làm hại Ngô Tà, Vương Bàn Tử. Cả đội gặp lại A Ninh đang bị bất tỉnh. Đến một hang động, Tiểu Ca đột nhiên nhớ ra chuyện cách đây 20 năm mình cũng có tham gia đoàn khảo cổ Tây Sa cùng Trần Văn Cẩm, Hoắc Linh, Giải Liên Hoàn, Ngô Tam Tỉnh nên bắt đầu nhận biết được đường đi (Do Tiểu Ca mắc bệnh Mất trí nhớ của gia tộc). Tiểu Ca tìm được tám cửa ngầm bố trí theo thuật Độn giáp. Những cửa ấy vô cùng hẹp, chỉ có thể cho từng người lách mình đi qua. Nơi này sương mù dày đặc, bên ngoài lại có một cánh cửa di động một chiều, chỉ cần đẩy là có thể mở ra, sau khi đi vào sẽ có van tự động đóng lại. Nhớ lại chuyến đi cách đây 20 năm, Ngô Tam Tỉnh tìm được cửa sinh đi tiếp bằng cách tìm nơi bóng mình phản chiếu trên tấm bia đá. Tiểu Ca làm theo, phát hiện ở thái dương có hình bóng mờ mờ ảo ảo của ba con cá nối đuôi nhau thành vòng tròn. Tiểu Ca quan sát hình con cá, phát hiện ấn ký đó di chuyển rất chậm, bên trong phiến đá này là một cơ quan quay cùng vận tốc với bờ ao. Vị trí ấn ký này chỉ vào chính là Thiên môn. Tiểu Ca cầm đèn pin chạy tới bên thành ao, lần lượt đứng ở vị trí các cửa ngầm, tới cửa số ba tìm được đường vào bên trong. Trước mắt bọn họ xuất hiện một gian phòng lớn hình vuông, chính giữa căn phòng là mô hình của Vân Đỉnh Thiên cung. Trên tường là các ảnh họa mô tả lại quá trình xây dựng Vân Đỉnh Thiên cung. Cách đây 20 năm, đoàn khảo cổ Tây Sa cũng đã tới đây. Hoắc Linh phát hiện trong mô hình Vân Đỉnh Thiên cung, trên một tảng đá bên trong đó có một thây khô đã hoàn toàn co rút, quần áo trên người rách nát lộ ra thân thể màu đen.
Đạo Mộ Bút Ký 2 (phim truyền hình)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800450
Đây là một tọa hóa kim thân (thi thể các hòa thượng viên tịch khi đang trong tư thế ngồi thiền) được gió tự nhiên sấy khô. Thi thể này một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, tóc và móng tay cũng giống những kim thân khác, sau khi chết đi vẫn không ngừng sinh trưởng, đặc biệt móng tay đã dài gần bằng ngón tay. Đoàn khảo cổ Tây Sa bất ngờ ngửi được một mùi hương làm cả đoàn khảo cổ ngất đi. Lúc tỉnh lại, Trương Khởi Linh đã thấy mình nằm trên giường bệnh, cái gì cũng không nhớ, mấy tháng sau mới dần dần nhớ lại một vài chi tiết vụn vặt. Lần này xuống mộ lần nữa thì nhớ ra được nhiều chi tiết hơn. Cả nhóm Ngô Tà tìm cách thoát khỏi đây. Ngô Tà nghĩ cách dùng Thuốc nổ phá hỏng kết cấu phía trên trần mộ, phần trên tự nhiên sẽ vỡ ra thành một cái động, đợi nước biển lấp đầy ngôi mộ này là có thể thoát ra ngoài. Mấu chốt của kế hoạch này là phải tính thời gian thật chuẩn, nếu không đúng lúc Thủy triều xuống để phá vỡ kết cấu trần mộ thì cái động này sẽ bị nước biển tràn vào phá sụp. Tiểu Ca đoán trong xác khô kia có một cơ quan dùng trục Bát Bảo làm ngòi kích phát, bên trong có thể đặt thuốc nổ. Nếu gặp kẻ nào muốn trộm bảo vật trong thi thể thì nó sẽ nổ ngay. Sau khi nổ được trần mộ, cả nhóm thoát ra được. Tiểu Ca không từ mà biệt. A Ninh chuẩn bị sẵn ca nô tẩu thoát, bỏ lại Ngô Tà, Bàn Tử. Tuy nhiên, cô mua lại tàu mà lúc đầu mọi người đến đây, dặn chủ tàu thả neo gần chỗ hai người Ngô Tà, Bàn Tử để họ lên tàu về lại Hải Nam. Trở về Hàng Châu, Ngô Tà điều tra thông tin về những người trong tấm ảnh của đội khảo cổ trên Internet phát hiện tài khoản tên Hải đảo 701 có một bài đăng trên mạng cũng có tấm ảnh chụp này. Điều tra biết được lần cuối cùng thấy tài khoản này hoạt động là trong hệ thống công ty Bồ Công Anh chuyên về lĩnh vực Công nghệ thông tin, trụ sở tại Hàng Châu.
Đạo Mộ Bút Ký 2 (phim truyền hình)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800450
Ngô Tà nhờ Bàn Tử đến trợ giúp vào công ty trên điều tra thông tin phát hiện công ty này của Tiêu Vực, cha anh là Tiêu Đạt ngày xưa cũng có tham gia chuyến khảo cổ nhưng không xuống đáy biển do bị sốt cao. Ngô Tam Tỉnh cũng từng đến gặp Tiêu Đạt, dự định sẽ cùng Tiêu Đạt đi tìm những người mất tích trong đội khảo cổ. Ngô Tà cũng phát hiện có hình ảnh về Xà mi đồng ngư ở Bảo tàng tư nhân Hendry của Cầu Đức Khảo tại Thái Lan. Ngô Tà, Bàn Tử ghé bảo tàng không hỏi được thông tin gì. Trong lúc cả hai rời khỏi thì phát hiện một người có hình dáng rất giống chú ba. Cả hai đuổi theo thì phát hiện người này giao dịch một va li cho một người nước ngoài. Cả hai theo dấu người nước ngoài đến một buổi đấu giá văn vật. Tuy nhiên, đây là buổi đấu giá ngầm, phải có thiệp mời mới vào được. Ngô Tà được Tina - một cô gái người Trung Quốc xa lạ hỗ trợ vào bên trong. Bàn Tử thì giả dạng làm phục vụ buổi đấu giá cũng vào được. Trong buổi đấu giá này, cũng có cả Giải Vũ Thần, Hoắc Tú Tú, Tiêu Vực tham gia (Tiêu Vực chi viện, không trực tiếp đến). Khi đến món văn vật là một bình hoa từ Vườn Viên Minh, Tiêu Vực báo cảnh sát về buổi đấu giá này làm buổi đấu giá phải dừng lại. Sau buổi đấu giá, nhóm người Giải Vũ Thần, Tiêu Vực nhờ Tiểu Ca và Hắc Hạt Tử trợ giúp cướp được Xà mi đồng ngư. Tuy nhiên, sau đó bị A Ninh cùng đồng bọn bắt được. Bàn Tử, Giải Vũ Thần chạy thoát. Ngô Tà bị A Ninh bắt về gặp Cầu Đức Khảo. Tiểu Ca giải cứu được Ngô Tà khỏi nơi giam giữ. Cả nhóm Ngô Tà, Giải Vũ Thần, Hoắc Tú Tú, Bàn Tử. Chú ba Ngô Tam Tỉnh trên đường đi nhờ người hỗ trợ mà cả nhóm thoát được về lại Hàng Châu an toàn. Về đến nhà, Ngô Tà hỏi chú ba sự thật về chuyến đi Tây Sa hải mộ 20 năm trước. Chú ba kể với Ngô Tà không biết đã ngủ bao lâu, đến khi tỉnh dậy mới phát hiện ra trong căn phòng đó chỉ còn lại mình chú, những người kia không biết đã đi đâu hết. Chú không giết Giải Liên Hoàn mà sau khi phát hiện Giải Liên Hoàn chết trên vách đá, trên tay cầm 1 con Xà mi đồng ngư.
Đạo Mộ Bút Ký 2 (phim truyền hình)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800450
Sau chuyến đi, Ngô Lão Cẩu dẫn Ngô Tam Tỉnh đến nhà Giải Cửu Gia dâng Xà mi đồng ngư và nhận lỗi. Sau đó, Ngô Tam Tỉnh (thực chất đây là Giải Liên Hoàn) lấy lý do truy tìm hung thủ mà lấy lại Xà mi đồng ngư đưa cho Cầu Đức Khảo. Thực tế thì Giải Liên Hoàn chỉ giả chết do đạt thành hiệp nghị cùng Ngô Tam Tỉnh hợp tác tham gia kế hoạch được thiết kế bởi Giải gia và Ngô gia nhằm chống lại "Nó", cũng thường xuyên hoán đổi thân phận "Ngô Tam Tỉnh" (do tướng mạo và tuổi tác tương tự vì hai nhà Ngô - Giải vốn có quan hệ họ hàng). Phần Tần Lĩnh thần thụ (秦岭神树). Tại Bắc Kinh, trong một lần Ngô Tà cùng Bàn Tử ngồi ăn thì có một người đến bán văn vật. Người này gọi là lão Mã, vừa ra tù vì tội trộm văn vật, muốn bán văn vật mà trong một chuyến đi hắn phát hiện được ở Tần Lĩnh. Người này thật ra là do A Ninh nhờ đến để mang manh mối về chuông lục giác cho Ngô Tà để nhóm Ngô Tà đến đó tìm hiểu thêm thông tin. Dù là hình dạng hay màu sắc, ngoại trừ chuyện cái này hơi nhỏ thì khá giống với loại chuông trong động xác và trong Tây Sa hải mộ. Ngô Tà gặp Ông cụ họ Tề, là một trong những người buôn đồ cổ sớm nhất ở Hàng Châu, dựa theo phân tích của ông, kỹ thuật làm nên chiếc chuông này nằm trong giai đoạn từ nhà Hạ đến Nhà Chu, hoa văn trên đó tên là song thân nhân diện văn xà (hoa văn rắn mặt người hai thân), rất có khả năng thứ này có nguồn gốc từ một quốc gia thời cổ ở khu vực từ Thiểm Tây đến Hồ Bắc có tên gọi là Xá Quốc; mà quốc gia này đã đột nhiên biến mất từ 2000 năm trước. Ngô Tà cùng Bàn Tử đi đến Tần Lĩnh. Trên đường đi, bọn họ gặp một nhóm đạo mộ khác. Đến núi Xà Đầu, họ tình cờ gặp lại nhóm người trên đường đi. Ngô Tà, Bàn Tử nghe được câu chuyện mà một người trong nhóm đạo mộ tên là Ông chủ Lý kể lại về Hà mộc tập và Bất ngôn kỵ. Sau năm tiếng đồng hồ, Ngô Tà cùng Bàn Tử qua được núi Xà Đầu. Sau khi đặt chân được tới tiểu thôn đầu tiên dưới chân núi, bọn họ vào trong thôn tìm người chỉ đường.
Đạo Mộ Bút Ký 2 (phim truyền hình)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800450
Một người lớn tuổi trong làng nói thời điểm này không thể đi đến Giáp Tử Câu được. Ông lão cho hay, từ thôn này tiến vào vùng núi Tần Xuyên, theo hướng Tây mà đi, bảy ngày sau sẽ gặp một ngọn núi có tên Thiên Môn, trong núi có một khe đường, hai người đi song song có thể băng qua, người ta thường gọi là “đường trời”, cũng chính là Giáp Tử Câu mà ông nhắc tới. Tuy ông lão không đi theo dẫn đường nhưng ông vẽ ra bản đồ cho hai người họ tự đi. Sau cùng, họ cũng đến nơi và gặp một tượng người đá bồi táng. Lúc này, nhóm người của A Ninh cũng theo dấu tới đây. Đằng sau bức tượng người đá là một cổ mộ, bên trong là một thạch thất dạng mái vòm rất lớn. Ngô Tà, Bàn Tử trong lúc chiến đấu với cá khổng lồ mà lạc mất nhau. Ngô Tà gặp lại Giải Tử Dương. Giải Tử Dương là bạn thuở nhỏ của Ngô Tà. Ba năm trước, Giải Tử Dương cùng một người bạn là lão Mã đến đây phát hiện một cái hố rất sâu. Lão Mã nhát gan không dám xuống hố, Giải Tử Dương đi xuống phát hiện một nhóm người đạo mộ khác lập thành một đội. Trên đường đi thì bị đá rơi, Giải Tử Dương may mắn thoát chết. Lúc quay lại, Giải Tử Dương gặp được dân làng đi rừng đem về chữa thương. Nghe tin lão Mã đã bị bắt vì tội trộm văn vật. Giải Tử Dương bỏ trốn lại vào rừng và gặp lại nhóm Ngô Tà, Bàn Tử tại đây. Ngô Tà cùng lão Dương tiếp tục đi vào trong, họ gặp lại nhóm đạo mộ lúc trong rừng, lập thành một đội tiếp tục đi đến suối nước nóng phun cách quãng làm bỏng chết nhóm đạo mộ kia chỉ còn lại trợ lý Lương. Cả đội đi qua khỏi mê cung hình tròn tạo thành từ ba thác nước. Bọn họ đến một hang động thiên nhiên rất lớn, bên trong chất đầy xương cốt. Cả đội nghỉ ngơi trước khi tiếp tục đi khám phá. Trong lúc nghỉ ngơi, trợ lý Lương kể về lai lịch những người đi cùng, người họ Vương tên là Vương Kỳ, người họ Lý tên là Lý Tỳ Bà, cả hai đều ở Phật Sơn, trong giới đồ cổ địa phương rất có tiếng tăm, trong đó Lý Tỳ Bà thì giàu lên hoàn toàn nhờ “hà mộc tập” ghi chép vị trí một lượng lớn các cổ mộ.
Đạo Mộ Bút Ký 2 (phim truyền hình)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800450
Gia thế của Vương Kỳ không hiển hách như Lý Tỳ Bà nhưng lại có phần chân thực hơn, nghề mà tổ tiên người này làm gọi là “triều phụng”. Nghỉ ngơi xong, cả nhóm tiếp tục đi. Trợ lý Lương nhặt một vài Xương đòn phát hiện lỗ hổng trên này chính là vết thương được tạo thành trước khi chết và một mảnh giáp bằng đồng. Đây là kiểu áo giáp chỉ xuất hiện vào thời Hậu Hán. Trợ lý Lương đoán đây là một chiến trường, thi thể ở dưới này có hai phe, một bên là những người canh giữ cổ mộ của Xá quốc, một bên là quân đội người Hán. Trợ lý Lương gợi ý bắn pháo sáng soi đường ra khỏi đây. Đi theo pháo sáng đến một đường cụt. Ngô Tà thử đẩy các quan tài thì phát hiện ra một thạch thất, có một hố rất to, giữa hố dựng thẳng một cái cây bằng thanh đồng có đường kính khoảng mười mét. Gốc cây thanh đồng cắm vào khối đá ở đáy hố giống như là từ đó mọc ra, làm cho Nham thạch ở bốn phía nứt ra. Cả nhóm trèo lên cây thanh đồng tìm đường lên mặt đất. Bọn họ đụng độ một bầy khỉ đeo mặt nạ người bằng đá hung dữ. Cả nhóm gặp A Ninh, nhờ A Ninh bắn súng giết bọn khỉ mà cả nhóm chạy thoát được. Đi tiếp họ phát hiện có vài xác khỉ chết khô, xác đã khô quắt rồi nhưng mặt nạ vẫn không bị rớt ra. Ngô Tà quan sát vài chiếc mặt nạ rồi thử giật ra, phát hiện phía sau là Li cổ. Li cổ có thể sinh sôi nảy nở trong cơ thể của vật chủ, đợi khi vật chủ chết đi, chúng liền bám vào một chỗ nào đó, ví dụ như là mặt sau cái mặt nạ, chờ vật chủ kế tiếp tới gần, rồi tiếp tục ký sinh trên người vật chủ mới. Lão Dương bắn pháo hiệu, phát hiện rất nhiều Li cổ. Ngô Tà nghĩ cách dùng dây cho cả nhóm đu tới được chỗ vách đá không có Li cổ. Qua đến vách đá an toàn, bỗng xuất hiện Ông chủ Vương trong nhóm người đạo mộ khi nãy mà Ngô Tà nghĩ đã chết lúc đi đến suối nước nóng phun cách quãng. Ông chủ Vương bắt Ngô Tà cùng mình đi trước dò đường. Còn lão Dương, A Ninh, trợ lý Lương ở lại nghỉ ngơi. Cả hai đi đến một sạn đạo.
Đạo Mộ Bút Ký 2 (phim truyền hình)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800450
Cả hai đi đến một sạn đạo. Tiếp tục đi họ phát hiện một giếng quan trong cột cây thanh đồng, bên trong giếng quan có sợi xích dài. Cả hai trèo xuống phát hiện vật treo phía dưới sợi xích không phải quan tài mà là một khối đá Hổ phách trong suốt cực lớn có hình quan tài. Ông chủ Vương giải thích cho Ngô Tà biết đây là Thi kiển. Ngô Tà vô cùng kinh ngạc khi biết được Ông chủ Vương nãy giờ đi cùng mình thực ra là lão Dương. Lão Dương thấy nét mặt Ngô Tà biến đổi, đành im lặng đứng nhìn. Sau đó, lão Dương giải thích cho Ngô Tà biết thật ra mình đã chết, người mà Ngô Tà đang thấy là bản hiện thực hóa của hắn. Trong lúc đi cùng anh họ đến đây, hắn đã bị kẹt lại suốt bốn tháng. Trong khoảng thời gian này, hắn phát hiện ra mình có năng lực "Hiện thực hóa" nhưng muốn sử dụng năng lực này thì nhất định phải có sự dẫn dắt, cái này rất khó. Nếu quá trình dẫn dắt thất bại hoặc xuất hiện sai sót thì sẽ chẳng thể tưởng tượng nổi thứ đã hiện thực hóa ra là gì. Lão Dương dần dần cũng nắm được một vài bí quyết, lại phát hiện loại năng lực này sẽ dần dần suy giảm theo thời gian, cuối cùng hoàn toàn biến mất. Hắn quyết định dùng năng lực này phục chế một bản sao của chính mình và thành công. Trên thực tế, hắn biết mình chỉ là bản phục chế, nhưng sâu trong tiềm thức lại không muốn tin vào chuyện này nên hắn đã giết chính bản thể của mình, sau đó lại tự ám thị mình rằng hắn chỉ giết đi một kẻ thay thế. Năng lực mà cây thanh đồng tạo ra có thời gian rất ngắn. Bởi vậy hắn đã bẻ một cành cây thanh đồng, dùng năng lực để thoát ra từ dưới chân cây thanh đồng. Hắn đã mang theo một bộ phận của cây thanh đồng để có thể sử dụng năng lực đó lâu hơn một chút. Sau đó, hắn bị cảnh sát bắt đi tù 3 năm. Khi ra tù phát hiện mẹ đã mất. Hắn dùng năng lực "Hiện thực hóa" làm mẹ sống lại. Hắn quay lại đây để có thể ở gần với cây thanh đồng nhằm kéo dài năng lực "Hiện thực hóa" giúp mẹ sống trở lại lâu hơn. Đột nhiên cây thanh đồng và Thi kiển chấn động mạnh do tác động của Nến Cửu Âm.
Đạo Mộ Bút Ký 2 (phim truyền hình)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800450
Giải Tử Dương dùng thuốc nổ hy sinh bản thân cứu Ngô Tà. Lúc này, A Ninh cũng đến nơi và gặp Ngô Tà, còn trợ lý Lương đã chết trên đường đi. Tuy nhiên, thuốc nổ của lão Dương không làm Nến Cửu Âm chết. Ngô Tà, A Ninh tiếp tục chạy trốn. Ngô Tà vì muốn cứu A Ninh mà lại gần dùng thuốc nổ ném vào miệng Nến Cửu Âm. Cái đuôi khổng lồ Nến Cửu Âm đập vào vách đá, trên đó xuất hiện một khe nứt lớn, nước đầm ồ ạt tuôn qua cái khe nứt. Về phía Bàn Tử, sau khi lạc Ngô Tà, anh gặp được Tiểu Ca. Cả hai tiếp tục đi tìm Ngô Tà và cũng đến được đây. Nhờ dòng nước mà cả nhóm thoát được ra ngoài. A Ninh vẫn không từ mà biệt. Ngô Tà nằm bệnh viện điều trị do bị thương lúc chiến đấu với Nến Cửu Âm. Ngô Tà kể lại toàn bộ sự việc cho Bàn Tử, Tiểu Ca biết. Ngô Tà nhận định năng lực "Hiện thực hóa" của Giải Tử Dương có thể là do lực từ trường quá lớn của cây Xà thần trong Tần Lĩnh thần thụ dẫn đến Đa vũ trụ tiếp xúc với nhau tạo nên diễn giải nhiều thế giới làm Giải Tử Dương và mẹ hắn ở thế giới song song có thể qua được thế giới này. Thời gian phát sóng. Thời gian trong bảng dựa theo giờ địa phương
Dimlama
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800457
Dimlama hoặc dymdama, là một món hầm của Turk hoặc Uzbekistan (hay rộng hơn là ở Trung Á). Đó là sự kết hợp của thịt, khoai tây, hành tây, rau củ, và đôi khi có trái cây. Thịt (thịt cừu, thịt bê hoặc thịt bò) và rau được cắt thành miếng lớn và xếp thành từng lớp trong nồi đậy kín để đun sôi từ từ. Rau củ cho dimlama ngoài khoai tây và hành tây thì có thể có cà rốt, bắp cải, cà tím, cà chua, ớt ngọt, gia vị với tỏi và nhiều loại thảo mộc và gia vị. Dimlama thường được nấu vào mùa xuân và mùa hè khi có nhiều loại rau để lựa chọn và được phục vụ trên một đĩa lớn, ăn bằng thìa.
Phương trình Euler–Lagrange
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800459
trong Phép tính biến phân và cơ học cổ điển, những phương trình Euler-Lagrange là một hệ thống những phương trình vi phân thường bậc 2, có nghiệm là những điểm uốn của cho trước. Những phương trình ấy được khám phá thập niên 1750 bởi nhà toán học Thuỵ Sĩ Leonhard Euler và nhà toán học Ý Joseph-Louis Lagrange. bởi vì một hàm số khả vi là điểm uốn tại điểm cực trị cục bộ của hàm ấy, phương trình Euler-Lagrange sẽ hữu ích cho giải những bài toán tối ưu mà theo đó, cho trước hàm số nào đó, ta tìm hàm số tối thiểu hoặc tối đa nó. Đây tương tự với trong vi tích phân, tuyên bố rằng tại bất cứ điểm nào thoả mãn một hàm số khả vi đạt một điểm cực trị cục bộ thì đạo hàm của nó sẽ bằng không. Trong cơ học Lagrange, tuân theo nguyên lý của Hamilton về tác dụng tối thiểu, tiến triển của một hệ vật lý sẽ được miêu tả bởi những nghiệm cho phương trình Euler cho hoạt động của hệ thống. Trong văn cảnh này, những phương trình Euler thường gọi tên là những phương trình Lagrange. Trong cơ học cổ điển, nó tương đương với các định luật chuyển động của Newton; đúng là, các phương trình Euler-Lagrange sẽ sản sinh ra cùng những phương trình giống như các định luật của Newton. Đây đặc biệt hữu ích khi phân tích những hệ thống có những vectơ lực đặc biệt phức tạp. Nó có lợi thế vì nó giữ nguyên hình thức trong bất cứ hệ thống toạ độ suy rộng nào, nó sẽ hợp hơn cho việc khái quát hoá. Trong , có một để tính những động lực của một trường. Lịch sử. phương trình Euler-Lagrange được phát triển thập niên 1750 bởi Euler và Lagrange liên quan đến những nghiên cứu của họ về vấn đề . Đây là vấn đề quyết định một đường cong mà trên đó một hạt có khối lượng sẽ rơi xuống một điểm cố định trong một khoảng thời gian cố định, độc lập với điểm bắt đầu. Lagrange giải quyết vấn đề này năm 1755 và gửi nghiệm cho Euler. Cả hai đã phát triển thêm phương pháp của Lagrange và ứng dụng nó vào cơ học, đã dẫn đến hình thành cơ học Lagrange. Hai người trao đổi thư từ, sau rốt, đã dẫn đến phép tính biến phân là thuật ngữ được Euler đặt tên năm 1766 Phát biểu. đặt (X, L) là một hệ thống cơ học có n bậc tự do.
Phương trình Euler–Lagrange
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800459
Tại đây, X là và L = L (t, q, v) Lagrange là một hàm số giá trị thực trơn thoả mãn q formula_1 X và v là một vectơ tốc độ n chiều (cho ai quen thuộc với hình học vi phân thì X là một đa tạp trơn, và L : Rt x TX -> R sao cho TX là của X) đặt P (a, b, xa ,xb ) là tập hợp những trơn q : [a, b] -> X sao cho q(a) = xa và q(b) = xb . S : P (a, b, xa, xb) -> R được định nghĩa là S [q] = formula_2 một đường q formula_1 P (a, b, xa, xb) là một điểm uốn của S khi và chỉ khi formula_4(t, q(t), q'(t)) - formula_5formula_6(t, q(t), q'(t)) = 0, i = 1, ..., n ở đây q'(t) là đạo hàm thời gian của q(t). Khi ta nói đến điểm uốn, ta ám chỉ rằng một điểm uốn của S đối với bất cứ rung động nhỏ nào trong q. Xem chứng minh dưới đây để thêm chi tiết cụ thể.Nguồn gốc của phương trình Euler-Lagrange một chiều nguồn gốc của phương trình Euler-Lagrange một chiều là một trong những chứng minh kinh điển trong toán học. Nó dựa vào định lý căn bản của giải tích ta muốn tìm một hàm số f thoả mãn những điều kiện giới hạn f(a) = A và f(b) = B và sẽ cực trị hoá hàm số: J = formula_7 ta giả thiết rằng L khả vi liên tục hai lần. Một giả thiết lỏng lẻo hơn có thể được sử dụng, nhưng chứng minh sẽ trở nên khó khăn hơn. nếu f cực trị hoá chủ thể hàm số đến những điều kiện giới hạn, thì bất cứ rung động nhỏ nào của f miễn là bảo toàn những giá trị giới hạn sẽ phải hoặc tăng J (nếu f là một hàm cực tiểu) hoặc giảm J (nếu f là một hàm cực đại) đặt gformula_8(x) = f (x) + formula_8formula_10(x) là kết quả của một rung động formula_11(x) của f mà formula_8 là nhỏ và formula_10(x) là một hàm số khả vi thoả mãn formula_14 sau đó định nghĩa: Jformula_8 = formula_16(x, gformula_8(x), g'formula_8(x))dx = formula_16formula_8 dx với Lformula_8 = L(x, gformula_8(x), g'formula_8(x)) giờ,
Phương trình Euler–Lagrange
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800459
gformula_8(x), g'formula_8(x)) giờ, ta muốn tính đạo hàm toàn phần của Jformula_8 với cân nhắc đến formula_8 formula_26 = formula_27 formula_28 + formula_29 formula_30 + formula_31 formula_32 = formula_29 formula_30 + formula_31 formula_32 = formula_10(x) formula_30 + formula_10'(x) formula_32 với dữ kiện rằng x không phụ thuộc vào formula_8 tức là formula_42 cho nên formula_43 = formula_44 khi formula_8 = 0 ta có formula_46 và formula_47 và formula_48 có một giá trị cực trị, sao cho formula_49 = formula_50 bước tiếp theo là để sử dụng tích phân từng phần lên số hạng thứ hai của hàm lấy tích phân, sẽ được formula_51 sử dụng những điều kiện giới hạn formula_14 formula_53 áp dụng định lý căn bản của giải tích ta sẽ được phương trình Euler-Lagrange formula_54Nguồn gốc khác của phương trình Euler-Lagrange một chiều cho một hàm số formula_55 trên C1([a, b]) với những điều kiện giới hạn y(a) = A và y(b) = B ta tiếp tục bằng cách ước lượng đường cong cực trị bởi một một có n đoạn thẳng và đạt đến giới hạn khi số lượng những đoạn thẳng tăng lớn tuỳ ý. chia khoảng [a, b] thành n đoạn thẳng bằng nhau với những điểm cuối t0 = a, t1, t2, . , tn = b và đặt formula_56 thay vì một hàm số trơn y(t), ta cân nhắc đường khấp khuỷu có những đỉnh (t0, y0), . ,(tn, yn) với y0 = A và yn = B. Theo đó, hàm số của ta trở thành một hàm số thực của n - 1 biến số formula_57 những cực trị của hàm số mới này sẽ được định nghĩa trên những điểm rời rạc t0, . , tn tương ứng với những điểm mà formula_58 ước lượng đạo hàm riêng này ta được formula_59 chia phương trình trên cho formula_60 ta được formula_61 và lấy giới hạn tại formula_62 -> 0 của vế tay phải của biểu thức này, ta được formula_63 vế tay trái của biểu thức trên là đạo hàm formula_64 của hàm số J một điều kiện cần thiết cho một đạo hàm có một cực trị trên hàm số nào đó là rằng đạo hàm của nó tại hàm số đó sẽ biến mất, đúng như miêu tả bởi biểu thức cuối cùng ở trên Ví dụ.
Phương trình Euler–Lagrange
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800459
một ví dụ tiêu chuẩn là tìm hàm số giá trị thực y(x) trên khoảng [a, b] sao cho y(a) = c và y(b) = d tại đó độ dài quãng đường dọc theo đường cong vẽ bởi y sẽ ngắn nhất có thể formula_65 hàm lấy tích sẽ là formula_66 những đạo hàm riêng của L sẽ là formula_67 formula_68 bằng cách thay thế những đạo hàm riêng này vào phương trình Euler-Lagrange, ta được formula_69 formula_70 formula_71 formula_72 thế là, đạo hàm bậc nhất của hàm số trên là một hằng số, do đó đồ thị của nó là một đường thẳng Suy rộng. Hàm số duy nhất của biến số duy nhất với những đạo hàm bậc cao. những giá trị điểm uốn của hàm số formula_73 formula_74 formula_75 formula_76 có thể lấy được từ phương trình Euler-Lagrange formula_77 dưới những điều kiện giới hạn cố định cho bản thân hàm số cũng như cho những đạo hàm từ bậc k-1 trở xuống (tức là cho tất cả f(i) với formula_78) những giá trị điểm cuối của đạo hàm bậc cao nhất f(k) sẽ vẫn linh hoạt Nhiều hàm số của biến số duy nhất với đạo hàm duy nhất. nếu vấn đề liên quan đến tìm nhiều hàm số formula_79 của một biến độc lập duy nhất (x) sẽ định nghĩa một cực trị của hàm số formula_80 formula_81 thì những phương trình Euler-Lagrange tương ứng sẽ là formula_82 formula_83 Hàm số duy nhất của nhiều biến số với đạo hàm duy nhất. một suy rộng đa chiều đã đến từ cân nhắc một hàm số trên n biến số. Nếu formula_84 là bề mặt nào đó, thì formula_85 formula_86 đạt cực trị chỉ khi f thoả mãn phương trình đạo hàm riêng formula_87 khi n = 2 và hàm số formula_88 là , đây sẽ dẫn đến vấn đề bề mặt tối thiếu của Nhiều hàm số của nhiều biến số với đạo hàm duy nhất. nếu có nhiều hàm số chưa biết cần được xác định và nhiều biến số, sao cho formula_89 formula_90 hệ phương trình Euler-Lagrange sẽ là formula_91 formula_92 formula_93 Hàm số duy nhất của hai biến số với những đạo hàm bậc cao.
Phương trình Euler–Lagrange
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800459
nếu có một hàm số đơn chưa biết f cần được xác định, mà phụ thuộc vào hai biến số x1 và x2 và nếu hàm số phụ thuộc vào hàm số bậc cao của f lên đến bậc thứ n sao cho formula_94 formula_95 formula_96 thì phương trình Euler-Lagrange sẽ là formula_97 có thể viết gọn lại thành formula_98 với formula_99 là các chỉ số sẽ trải ra một số biến số, mà, ở đây chúng đi từ 1 đến 2. Ở đây, tóm lại những chỉ số formula_99 sẽ chỉ với formula_101 để tránh đếm cùng một đạo hàm riêng nhiều lần, lấy ví dụ formula_102 xuất hiện chỉ một lần trong phương trình trước đó Nhiều hàm số của nhiều biến số với những đạo hàm bậc cao. nếu có p phương trình chưa biết fi cần được xác định, mà phụ thuộc vào m biến số formula_103 và nếu hàm số phụ thuộc vào đạo hàm bậc cao của fi lên đến bậc thứ n sao cho formula_104 formula_105 formula_106 với formula_107 là các chỉ số trải ra một số biến số, sẽ đi từ 1 đến m. Sau đó, phương trình Euler-Lagrange sẽ là formula_108 với tổng những formula_107 sẽ tránh đếm cùng đạo hàm formula_110 lại nhiều lần, giống như phần trên. Đây có thể viết gọn thành formula_111 Suy rộng ra những đa tạp. đặt M là một đa tạp trơn và đặt formula_112 biểu thị khoảng không gian của những formula_113 sau đó với những hàm số formula_114 của dạng thức formula_115 với formula_116 là Lagrange, phát biểu formula_117 sẽ tương đương với phát biểu rằng: với tất cả formula_118 thì mỗi khung toạ độ formula_119 của một vùng lân cận của formula_120 ra được những phương trình M chiều formula_121
Bát quái Dương Châu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800469
Bát quái Dương Châu hay Dương Châu bát quái () là tên của một nhóm họa sĩ Trung Quốc vào thế kỷ 18 nổi tiếng dưới triều đại nhà Thanh vì tôn sùng và có thành tựu cao trong một trường phái hội họa cách tân, gọi là "Dương Châu họa phái" (). Mặc dù mang nghĩa đen "Tám người lập dị của Dương Châu", nhưng đến nay thuật ngữ này thường dùng để chỉ chung cho cả một nhóm 15 họa sĩ cùng theo trường phái nghệ thuật trên. Tổng quan. "Bát quái Dương Châu" là thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm họa sĩ xuất thân từ nhiều nơi khác nhau nhưng lại sinh hoạt lâu dài và hoạt động sáng tác ở phủ Dương Châu () từ những năm giữa niên hiệu Khang Hi đến những năm cuối niên hiệu Càn Long. Hơn nữa, tư tưởng, hành vi và phong cách nghệ thuật của họ đều không bị bó buộc bởi các phép xưa lệ cũ hay các quy ước của triều đại đương thời, rất khác biệt với các họa sĩ khác. Theo một số nghiên cứu ghi nhận, khái niệm Bát quái Dương Châu xuất hiện lần đầu tiên trong "Dương Châu họa uyển lục" () của họa sĩ Uông Quân () vào cuối thời Thanh. Tuy nhiên, một số bằng chứng chỉ ra rằng, Kim An Thành đã nhắc đến "Bát quái Dương Châu" sớm hơn cả Uông Quân ba mươi năm. Đến năm 2012, một bài nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng về việc Dương Đạc mới là người ghi chép về "bát quái" sớm nhất. Ban đầu, khái niệm "quái" này mang ý nghĩa châm biếm, nhưng càng về sau trường phái hội họa cách tân và bản thân các họa sĩ theo trường phái này dần được công chúng công nhận, từ "bát quái" dần được dùng với ý khen ngợi. Mặc dù được gọi là "Bát quái Dương Châu", nhưng thực tế danh tính và số họa sĩ được nhắc đến lại không đồng nhất ở nhiều nguồn. Trong "Âu Bát La thất thư họa mục quá khảo" của Lý Ngọc Phân, khái niệm này dùng để gọi 8 người Uông Sĩ Thận, Kim Nông, Hoàng Thận, Cao Tường, Lý Thiện, Trịnh Tiếp, Lý Phương Ưng, La Sính.
Bát quái Dương Châu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800469
Nếu tổng hợp từ các nguồn khác như "Dương Châu họa uyển lục", "Thiên Ẩn đường tập", "Ái Nhật Ngâm Lư thư họa bổ lục", "Cổ họa vi" và "Lịch sử Hội họa Trung Quốc", có đến tất cả 15 người được nhắc đến dưới danh nghĩa "Bát quái Dương Châu". Phần lớn các nguồn đều chọn dùng kiến giải của Lý Ngọc Phân trong "Âu Bát La thất thư họa mục quá khảo", một số khác thì có thêm Hoa Nham, Cao Phượng Hàn, Biên Thọ Dân, Trần Soạn, Mẫn Trinh, Lý Miễn, Dương Pháp. Ngày nay, giới học thuật gần như đi đến nhận thức chung là "Bát quái Dương Châu" không chỉ dùng để chỉ riêng 8 người, mà là tất cả 15 người thuộc "Dương Châu họa phái". Tại Nhà tưởng niệm Bát quái Dương Châu () có tác phẩm điêu khác tượng cả 15 người cũng như trưng bày bộ sưu tập tác phẩm còn sót lại của "Bát quái Dương Châu".
Tình yêu thời giảm cân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800473
Tình yêu thời giảm cân (tiếng Anh: "Love on a Diet", tiếng Trung: "瘦身男女") là một bộ phim điện ảnh Hồng Kông thuộc thể loại hàitình cảmchính kịch công chiếu năm 2001 do Đỗ Kỳ Phong và Vi Gia Huy đồng đạo diễn và sản xuất, với sự tham gia diễn xuất của hai ngôi sao chính Lưu Đức Hoa và Trịnh Tú Văn. Cùng với Hồng Kông, Yokohama và Tokyo là hai địa điểm của Nhật Bản được lựa chọn để quay phim. Bộ phim khởi chiếu tại Hồng Kông vào ngày 21 tháng 6 năm 2001 và nhận về những lời nhận xét khá tích cực từ giới chuyên môn. Tại giải thưởng điện ảnh Hồng Kông lần thứ 21, bộ phim giành giải Ca khúc trong phim hay nhất và nhận 4 đề cử, bao gồm Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất và Nam diễn viên chính xuất sắc nhất.
Gen.G
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800480
Gen.G (, còn gọi là Gen.G eSports), trước đây là KSV eSports, là một tổ chức thể thao điện tử chuyên nghiệp có trụ sở tại Santa Monica, Seoul và Thượng Hải. Theo Forbes, Gen.G là tổ chức thể thao điện tử có giá trị lớn thứ 8 trên thế giới với 250 triệu USD, tính đến tháng 5 năm 2022. Lịch sử. Gen.G eSports được thành lập vào năm 2017 dưới tên KSV eSports bởi Kevin Chou và Kent Wakeford, những nhà đồng sáng lập của công ty phát triển trò chơi Kabam. Tổ chức đã bắt đầu với việc mua lại quyền tham gia Overwatch League ở Seoul, Hàn Quốc. Ngày 3 tháng 5 năm 2018, KSV eSports thông báo thay đổi thương hiệu thành Gen.G. Ngày 20 tháng 1 năm 2020, Gen.G được công bố đứng sau một đội NBA 2K League tên "Gen.G Tigers of Shanghai". Ngày 27 tháng 8 năm 2020, Gen.G là một trong 10 đội được chọn thi đấu tại LCK. Ngày 21 tháng 9 năm 2022, Gen.G là một trong 10 đội thi đấu tại mùa giải mở đầu của VCT Thái Bình Dương. Các đội hiện tại. "Liên Minh Huyền Thoại". Đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại KSV được thành lập vào ngày 30 tháng 11 năm 2017 sau thương vụ mua lại tổ chức thể thao điện tử Samsung Galaxy. Năm 2018, đội tuyển (lúc này là Gen.G eSports) giành vé vào chơi Chung kết thế giới 2018 nhưng bị loại ngay tại vòng bảng với tỉ số 1-5. Sau đó đến năm 2020, Gen.G mới tiếp tục xuất hiện trở lại trên đấu trường thế giới, nhưng đã bị G2 eSports đánh bại với tỉ số 0-3 ở vòng tứ kết. Gen.G đã tiến đến vòng bán kết của kỳ Chung kết thế giới 2021 trước khi bị Edward Gaming đánh bại, đội tuyển mà sau đó đã lên ngôi vô địch. Năm 2022, Gen.G đã đánh bại T1 với tỉ số 3-0 ở trận chung kết để lên ngôi vô địch LCK Mùa hè và trở thành hạt giống số một khu vực của kỳ Chung kết thế giới 2022. Đến chung kết thế giới, họ lại bị đội tuyển được đánh giá yếu hơn là DRX đánh bại với tỉ số 1-3 ở bán kết và phải ra về. Mùa xuân năm 2023, Gen.G có lần thứ hai liên tiếp lên ngôi vô địch LCK sau khi đánh bại T1 3-1 ở trận chung kết tổng. Với thắng lợi này, đội tuyển đã trở thành hạt giống số 1 đại diện khu vực tại kỳ MSI 2023 nhưng sau đó đã bị BLG đánh bại với tỉ số 0-3 ở nhánh thua và kết thúc chiến dịch với vị trí thứ 4.
Gen.G
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800480
Sang Mùa hè, Gen.G lại một lần nữa đánh bại T1 ở trận chung kết với tỉ số 3-0 và giành được chức vô địch LCK lần thứ 3 liên tiếp. "NBA 2K". Ngày 26 tháng 9 năm 2019, NBA 2K League thông báo Gen.G eSports sẽ thành lập một đội NBA 2K League đến từ Thượng Hải và sẽ cùng 22 đội khác tham gia NBA 2K League ở mùa giải 2020. Gen.G Tigers of Shanghai là đội tuyển NBA 2K League đầu tiên ngoài khu vực Bắc Mỹ. "Overwatch". Gen.G eSports đã bắt đầu với việc mua lại suất thi đấu tại Overwatch League, đặt tên đội là Seoul Dynasty. Trước khi đưa ra thông báo này, KSV eSports đã mua lại đội hình của Lunatic-Hai vào ngày 21 tháng 8 năm 2017. "PUBG: Battlegrounds". Ngày 7 tháng 11 năm 2017, KSV thông báo gia nhập sân chơi PUBG với đội tuyển KSV Asel. Chỉ vài tuần sau, ngày 7 tháng 12 năm 2017, KSV đã ra mắt thêm đội PUBG thứ hai, KSV Notitle hay KSV NTT. Ngày 16 tháng 8 năm 2018, Gen.G thông báo sáp nhập hai đội. Đội tuyển sau đó đã thành công qua các năm, trở thành quán quân PUBG World Championship - PUBG Global Invitational 2018, PUBG Global Championship 2019, và đứng thứ ba ở kỳ PUBG Global Invitational 2021. "Rocket League". Ngày 28 tháng 9 năm 2022, Gen.G Mobil1 Racing được thành lập với sự hợp tác giữa Gen.G eSports và Mobil 1. ApparentlyJack, Chronic và noly gia nhập đội hình, với Pollo dự bị. Allushin trở thành huấn luyện viên vào ngày 30 cùng tháng. "Valorant". Ngày 4 tháng 5 năm 2020, Gen.G tiến vào sân chơi Valorant với thương vụ mua lại FRENCH CANADIANS. Gen.G đã chiến thắng giải đấu lớn đầu tiên North American VALORANT, T1 x Nerd Street Gamers Invitational. Gen.G sau đó đã chiến thắng thêm 3 giải nữa vào năm 2020 - Pittsburgh Knights Tournament Series, Pulse Invitational, và Pittsburgh Knights Before Christmas. Sau thông báo của Valorant Franchisement League, Gen.G đã quyết định đặt căn cứ tại Hàn Quốc.
Công tước xứ Leuchtenberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800493
Công tước xứ Leuchtenberg (tiếng Đức: "Herzog von Leuchtenberg"; tiếng Pháp: "Duc de Leuchtenberg"; tiếng Nga: "Герцог Лейхтенбергский") là một tước hiệu được vua của Vương quốc Bayern tạo ra hai lần cho các nhân vật hoàng tộc. Lần tạo ra đầu tiên bởi Maximilian I, Tuyển hầu xứ Bayern để trao cho con trai của mình là Maximilian Philipp Hieronymus, sau khi ông qua đời mà không để lại người thừa kế, các vùng đất được truyền lại cho cháu trai của ông là Tuyển hầu tước Maximilian II. Lần tạo ra thứ 2 bởi Maximilian I Joseph, Vua xứ Bayern vào ngày 14 tháng 11 năm 1817 và được trao cho con rể của ông, Eugène de Beauharnais, nhận kính ngữ "Royal Highness", và các con cháu trực hệ của Eugène sẽ nhận kính ngữ "Serene Highness". Eugène là con riêng Hoàng hậu Joséphine vợ đầu tiên của Hoàng đế bị phế truất Napoléon I của Pháp, và trước đó đã giữ tước hiệu hoàng tử Pháp (Prince français) với kính ngữ "Imperial Highness". Ông cũng từng là người thừa kế Đại công quốc Frankfurt và một thời gian ngắn ở Vương quốc Ý. Vua Maximilian Joseph đã đền bù cho con rể của mình sau khi ông mất các tước hiệu khác và chỉ định ông là người thừa kế Vương quốc Bayern, chỉ xếp sau các hậu duệ dòng dõi nam của gia đình hoàng gia và ưu tiên tiếp theo sau Hoàng gia. Tước hiệu phụ, cũng trong tước vị quý tộc của Bayern, là Thân vương xứ Eichstätt, được Công tước thứ 4 trả lại tước vị cho Vua Bayern vào năm 1855.Vào ngày 14 tháng 7 năm 1839, Hoàng đế Nikolai I của Nga đã phong cho Hoàng thân xứ Leuchtenberg theo phong cách Đế quốc Nga và Phần Lan, cùng với tước hiệu phụ là Thân vương Romanovsky, cho Công tước thứ 3, Maximilian de Beauharnais, người vừa kết hôn với con gái của ông, Nữ Đại công tước Maria Nikolaevna. Nicholas Maximilianovich, Công tước thứ 4 của Leuchtenberg, được Alexander III của Nga phong làm Công tước xứ Leuchtenberg trong Đế chế Nga vào năm 1890, vì gia đình công tước lúc đó bao gồm các thành viên của Hoàng gia Nga mở rộng. Sự sáng tạo này một lần nữa khẳng định sự nâng tầm của phong cách từ Serene lên Imperial Highness, và sẽ được mang theo bởi tất cả các hậu duệ dòng dõi nam của Nicholas sinh ra từ các cuộc hôn nhân ở cấp bậc tương ứng, của Công tước đương nhiệm từ năm 1852 đến năm 1891.
Công tước xứ Leuchtenberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800493
Danh hiệu này phần lớn mang tính chất nghi lễ, không có đất đai hoặc lãnh địa quản lý kèm theo; phong cách và tước hiệu trở thành "Duke von (hoặc of) Leuchtenberg, de Beauharnais". Sau cái chết của Công tước thứ 8 vào năm 1974, không còn người thừa kế nam nào của triều đại; cuộc hôn nhân của cha mẹ Công tước thứ 8 là cuộc hôn nhân bình đẳng cuối cùng được thực hiện bởi một nam vương của Nhà Beauharnais. Danh hiệu được tuyên bố bởi Nicolas de Leuchtenberg (sinh năm 1933), người thừa kế cấp cao của Công tước thứ 4 với một cuộc hôn nhân quý tiện kết hôn. Nicolas Nikolaievitch (1868–1928) được phong Công tước Leuchtenberg vào năm 1890 theo sắc lệnh của Sa hoàng Alexander III của Nga, với phong cách Hoàng thân. Nhiều hậu duệ nữ của vị Công tước đầu tiên xứ Leuchtenberg đã được gả vào các hoàng gia quan trọng ở châu Âu và Nam Mỹ, bao gồm: Người con gái cả là Joséphine xứ Leuchtenberg kết hôn với Vua Oscar I thuộc Vương tộc Bernadotte, và trở thành Vương hậu của Thụy Điển và Na Uy, hậu duệ của cặp đôi này vẫn trị vì Thuỵ Điển cho đến tận ngày nay; Người con gái thứ 2 là Eugénie de Beauharnais, kết hôn với Constantine, Thân vương xứ Hohenzollern-Hechingen thuộc Vương tộc Hohenzollern; Người con gái thứ 3 là Amélie xứ Leuchtenberg trở thành vợ thứ 2 của Hoàng đế Pedro I và giữ ngôi vị Hoàng hậu của Đế quốc Brasil; Người con gái thứ 4 là Théodolinde de Beauharnais, kết hôn với Wilhelm, Công tước xứ Urach, thuộc Vương tộc Württemberg.
Kodai Senga
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800502
là một vận động viên ném bóng chày chuyên nghiệp người Nhật Bản cho New York Mets của Major League Baseball (MLB). Anh ra mắt đội bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản (NPB) vào năm 2012 cho Fukuoka SoftBank Hawks và chơi cho họ đến năm 2022 . Anh ấy đã xuất hiện tại NPB All-Star ba lần .
Khu kinh tế ven biển Quảng Yên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800503
Khu kinh tế ven biển Quảng Yên nằm ở phía Tây Nam tỉnh Quảng Ninh được thành lập theo Quyết định số 29/2020/QĐ-TTg có hiệu lực từ 15/11/2020. Khái quát. Khu kinh tế ven biển Quảng Yên nằm ở phía Tây Nam tỉnh Quảng Ninh, bao gồ khu phức hợp đô thị, công nghiệp, công nghệ cao tại thành phố Uông Bí và thị xã Quảng Yên 6.403,7 ha và Khu dịch vụ cảng biển, cảng biển, công nghiệp và đô thị Đầm Nhà Mạc thuộc thị xã Quảng Yên 6.899,3 ha. Định hướng trong tương lai, khu kinh tế ven biển Quảng Yên xây dựng cơ sở hạ tầng từ 2020-2021, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và các khu chức năng từ 2021-2025 và đồng bộ kết cấu hạ tầng hình thành đô thị thông minh. từ 2026-2035.
Lê Anh Xuân (bác sĩ Tôm)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800506
Lê Anh Xuân là một doanh nhân, nhà khoa học, tiến sĩ chuyên ngành nuôi trồng thủy sản người Việt Nam. Ông được biết đến với cái tên khác là "Bác sĩ tôm" vì những đóng góp của ông cho ngành nuôi trồng thuỷ sản nói chung và tôm giống nói riêng. Năm 2018, Ông được tôn vinh "Nhà khoa học của nông dân" do Trung ương Hội Nông dân tổ chức. Ông được vinh danh ở khối doanh nghiệp khoa học công nghệ với các nghiên cứu chế phẩm vi sinh phục vụ cho ngành nuôi tôm. Tiểu sử. Lê Anh Xuân sinh ngày 19 tháng 5 năm 1976 tại Thanh Hóa. Tốt nghiệp Trường Đại học Thủy sản Vinh – Nha Trang năm 1999. Sau khi tốt nghiệp, Ông xin vào làm việc cho một công ty kinh doanh thuốc thú y thủy sản và về Bạc Liêu với vai trò là một kênh phân phối các chế phẩm vi sinh tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2004, ông thành lập công ty Trúc Anh. Năm 2012, Lê Anh Xuân tốt nghiệp Thạc sĩ khoa học chuyên ngành công nghệ sinh học tại Đại học Bách khoa Hà Nội với đề tài: “Xây dựng quy trình nuôi tôm sạch sử dụng chế phẩm vi sinh thay thế hóa chất”. Nhằm đưa ra chủng vi sinh có đặc tính kháng khuẩn để xử lý bệnh cho ao tôm không dùng kháng sinh. Được Tổng cục Thủy sản – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là tiến bộ khoa học kỹ thuật đầu tiên trong nuôi siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng với “Quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh 2 giai đoạn ít thay nước theo công nghệ Trúc Anh”, theo Quyết định 502/QĐ-TCTS-KHCN&HTQT ngày 3 tháng 5 năm 2017. Ngày 30 tháng 12 năm 2020, Ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ “Nghiên cứu ứng dụng vi khuẩn Bacillus sp. đối kháng với Vibrio parahaemolyticus trong nuôi tôm công nghiệp” tại Đại học Cần Thơ. Ứng dụng nghiên cứu từ đề tài luận án Tiến sĩ của mình, Ông cho ra mắt sản phẩm Kill Para đặc trị gan tụy cấp, bệnh tôm chết sớm 01 tháng tuổi.
Schützenpanzer Lang HS.30
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800519
Schützenpanzer Lang HS.30, tên cũ là "Schützenpanzer, lang, Typ 12-3", hay viết tắt "SPz lg 12-3" (tiếng Đức là "Xe tăng-bộ binh, dài, kiểu 12-3"), là một mẫu xe thiết giáp bộ binh của Tây Đức phát triển từ năm 1956 đến năm 1958. Nó được thiết kế bởi công ty Hispano-Suiza của Thuỵ Sỹ, với động cơ của Rolls-Royce. Do nguyên mẫu gặp nhiều trục trặc về mặt cơ khí, chỉ có 2.176 chiếc được sản xuất mặc dù Tây Đức dự định sẽ sản xuất 10.680 chiếc. Xe thiết giáp được trang bị pháo tự động 20 mm, tương tự như các mẫu xe chiến đấu bộ binh cùng thời. Mẫu thiết kế đã tỏ ra có nhiều thiếu sót, và việc sản xuất bị ảnh hưởng bởi bê bối chính trị lớn ở Tây Đức vào những năm 1960s. Đã có tổng cộng 2.176 chiếc SPz HS.30 ở các phiên bản khác nhau được chế tạo cho đến năm 1962, theo đó, chính phủ Tây Đức đã tiêu tốn 517 triệu DM, khoảng 238.000 DM cho mỗi chiếc. HS.30 đã được đưa vào phục vụ trong tiểu đoàn xe thiết giáp "Panzergrenadier" vào năm 1960 và được thay thế bởi xe chiến đấu bộ binh Marder từ năm 1971. Thiết kế và học thuyết. Từ bỏ học thuyết quân sự của Mỹ khi đó là xe thiết giáp bộ binh nên chỉ có vai trò chuyên chở binh lính trên chiến trường mà không trực tiếp tham gia chiến đấu, người Đức đã phát triển xe thiết giáp bộ binh HS.30 có khả năng chiến đấu bên cạnh xe tăng và cung cấp lá chắn cho lính bộ binh cơ giới. Quân đội Đức đã đi đến quyết định này dựa trên kinh nghiệm khi sử dụng "Panzergrenadiere" (xe thiết giáp bộ binh) trong chiến tranh thế giới thứ 2. Học thuyết của người Đức là sử dụng SPz 12-3 như là một vũ khí cho các tiểu đội bộ binh xung kích, và bộ binh xung kích được huấn luyện để có thể sử dụng xe thiết giáp trong hoạt động tấn công cũng như phòng thủ. Không giống như xe thiết giáp M113 của Mỹ, xe thiết giáp HS.30 không thể bơi, nhưng theo học thuyết của Đức, nó là thành phần chiến đấu đi kèm với xe tăng chủ lực vốn cũng không có khả năng bơi, và theo các nhà thiết kế Đức thì đây không phải là một nhược điểm quá lớn.
Schützenpanzer Lang HS.30
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800519
Xe bọc thép HS.30 được trang bị một tháp pháo nhỏ với khẩu pháo tự động 200mm Hispano-Suiza HS.820 cùng với kính ngắm tiềm vọng 15×15. Vai trò của pháo cỡ nòng 20mm trong học thuyết của Đức là dùng để bắn máy bay trực thăng, vũ khí chống tăng và xe thiết giáp nhẹ của đối phương, giúp xe tăng chủ lực được tập trung vào nhiệm vụ tiêu diệt xe tăng đối phương. Ngoài ra, với việc trang bị tháp pháo cỡ nhỏ, HS.30 còn thấp hơn M113 0,6 m dẫn đến việc nó khó bị bắn trúng hơn. Xe thiết giáp HS.30 mang được 2.000 viên đạn pháo 20 mm. Giáp trước của xe có khả năng chống đạn 20 mm. Việc bổ sung thêm giáp khiến cho HS.30 nặng hơn 4 tấn khi so với M113, dù cho nó chỉ chở được một nửa phân đội bộ binh so với M113. Binh lính bên trong xe có thể bắn ra bên ngoài qua các cửa sập trên trần xe. Các nhà quân sự người Đức cho rằng đây là một nhược điểm lớn khi quân đội Liên Xô tấn công bằng vũ khí hoá học khi xảy ra chiến tranh giữa hai khối NATO và Warsaw. Tình hình chính trị, quá trình vận hành và độ tin cậy. Quyết định đến từ chính trị. Nhu cầu trang bị vũ khí cho lực lượng lục quân Đức mới thành lập ban đầu phụ thuộc vào các yếu tố quân sự, tính kinh tế và yếu tố chính trị. Quân đội Đức cần loại xe thiết giáp giống xe AMX-13 VTP, nhưng giá thành quá đắt đỏ. Trong khi xe thiết giáp chở quân M59 của Mỹ lại quá nặng nề và cao, không phù hợp với hình dung của học thuyết quân sự của Đức. Ngoài ra có vấn đề là công nghiệp Tây Đức không có hoặc không mặn mà với việc chế tạo vũ khí, hậu quả từ sau khi chiến tranh thế giới 2 diễn ra, người Đức không xuất khẩu vũ khí ra bên ngoài, do đó những khoản đầu tư lớn cho phát triển xe chiến đấu bộ binh bị coi là không tạo ra lợi nhuận trong tương lai khi không được phép xuất khẩu. Do đó với những cân nhắc về chính trị, dường như là đúng đắn khi Tây Đức dựa vào việc xuất khẩu vũ khí trang bị cho các quốc gia Đồng minh và tập trung phát triển kinh tế.
Schützenpanzer Lang HS.30
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800519
Xe thiết giáp Schützenpanzer SPz 11-2 Kurz (được phát triển từ Hotchkiss SP1A) được Pháp đặt mua, sau khi mẫu xe thiết giáp Centurion trở nên lỗi thời, đồng thời việc Mỹ cung cấp M41 Walker Bulldog và M47 Patton theo gói viện trợ quân sự, đã hình thành nên consortium, để chế tạo AFV mới tại Anh như lời đề nghị của Hispano-Suiza năm 1955, dường như hấp dẫn hơn. Công ty Hispano-Suiza đưa ra đề nghị phù hợp với nhu cầu cùa Bộ trưởng Bộ quốc phòng Đức, với giá chỉ xấp xỉ 170.000 DM, thấp hơn 30% so với xe AMX VTP. Kết hợp với áp lực về tiến độ trang bị do NATO đưa ra là phải thành lập và trang bị cho 12 Sư đoàn thiết giáp Tây Đức cho đến năm 1960, Bộ quốc phòng Đức đã chấp thuận mẫu thiết kế của Hispano-Suiza và đặt hàng 10.680 chiếc AFV. Bản thân công ty Hispano-Suiza không có cơ sở để sản xuất xe AFV. Công ty đã mua lại bản thiết kế pháo 20 mm và sử dụng mối quan hệ trên khắp châu Âu để cuối cùng đưa ra được một chiếc AFV hoàn chỉnh. Khi Bộ trưởng quốc phòng mới của Tây Đức là Franz Josef Strauss lên nhậm chức, ông đã đánh giá về dự án HS.30 cho thấy nhiều thiếu sót của mẫu xe này, sự kiên nhẫn dành cho Hispano-Suiza ngày càng ít đi, và cắt giảm từ 10.680 chiếc xuống còn 2.800 chiếc, với 1.089 chiếc được chế tạo bởi Leyland Motors của Anh, số còn lại sẽ được chế tạo tại nhà máy của Henschel và Hanomag tại Đức. Vấn đề về tính tin cậy. Sau các nâng cấp, xe thiết giáp bộ binh HS.30 được tuyên bố bởi hội đồng điều tra là đã đủ điều kiện và đáp ứng các yêu cầu của quân đội. Vào năm 1965, 65% số lượng xe thiết giáp đã đi vào vận hành, tính đến năm 1968 tỉ lệ này nâng lên 85%. Các vấn đề ở các phiên bản đầu tiên trở nên nghiêm trọng đế Bộ quốc phòng phải tự đưa ra giải pháp kỹ thuật riêng. Ngoài ra còn có các vấn đề về tốc độ, bảo trì động cơ, khả năng leo dốc<ref name="V/4527-69">German Federal Government:"V/4527", page 69</ref> Phục vụ. Xe chiến đấu bộ binh HS.30 được giới thiệu cho "Bundeswehr" cuối năm 1959 nhưng chịu nhiều chỉ trích. Chiếc AFV ban đầu được sử dụng để trang bị cho các tiểu đoàn bộ binh cơ giới vốn chỉ sử dụng xe tải hay xe APC.
Schützenpanzer Lang HS.30
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800519
Từ 1974, xe chiến đấu bộ binh Marder đã thay thế xe HS.30 trong các đơn vị bộ binh thiết giáp Đức. Peru đã mua khoảng 20 xe HS.30 trong những năm 1970s. Các xe chiến đấu còn lại một số được đưa ra làm mục tiêu bắn và luyện tập.
Trường Trung học phổ thông Xuân Đỉnh, Hà Nội
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800526
Trường Trung học phổ thông Xuân Đỉnh hay còn gọi là Cấp 3 Xuân Đỉnh (còn được gọi trước đây là Trường PTTH Chuyên Toán Xuân Đỉnh) là một trường trung học phổ thông công lập tại địa bàn thành phố Hà Nội. Thành tích. Huân chương. Trường đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng: Năm 1967: Huân chương Lao động hạng Ba lần 1. Năm 2002: Huân chương Lao động hạng Nhì lần 1. Năm 2022: Huân chương Lao động hạng Nhì lần 2.
Vương Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800527
Vương Dương (Tên tiếng Trung: 王阳; pinyin: "Wáng Yáng"; tên cũ: 王洋) sinh ngày 13 tháng 03 năm 1978 tại Cáp Nhĩ Tân tỉnh Hắc Long Giang. Anh là một diễn viên điện ảnh và truyền hình người người Trung Quốc. Tốt nghiệp khoa Biểu diễn của Học viện Sân khấu Thượng Hải. Vương Dương được biết đến qua các vai diễn như "Liễu Vân Chiêu - Kim Ngọc Lương Duyên (2014), Giang Tử Đan - Vô Gian Đạo (2016), Đằng Tử Kinh - Khánh Dư Niên (2019), Thiệu Vũ Hàn - Em là thành trì doanh lũy của anh (2020), Trần Mặc Quần - Kẻ Phản Nghịch (2021), Thịnh Phương Đình - Đời Này Có Em (2022), Trình Nhân Thanh - Đại Minh Dưới Kính Hiển Vi (2023)" và một số vai diễn khác. Tiểu sử. Vương Dương sinh ra và lớn lên ở Cáp Nhĩ Tân, Hắc Long Giang. Vương Dương từ nhỏ đã chơi bóng bàn trong trường, chơi được chín năm. Do chịu ảnh hưởng của người cha làm nghề ngoại thương, nên ngay từ nhỏ Vương Dương đã nhạy bén về các con số và quyết tâm theo học ngành kinh tế ở nước ngoài. Khi tốt nghiệp cấp ba, Vương Dương muốn ra nước ngoài học ngành tài chính, nhưng cuối cùng anh đã từ bỏ vì không xin được visa vào Mỹ. Sau đó, Vương Dương nhận được giấy báo nhập học của Đại học Truyền thông Trung Quốc và Học viện Sân khấu Thượng Hải, anh lựa chọn học tại Học viện Sân khấu Thượng Hải. Trong năm học thứ hai, Vương Dương được trường cử đi du học Singapore và lấy được bằng kép. Năm 2002, sau khi tốt nghiệp Đại học, anh trở thành diễn viên kịch của Nhà hát Nghệ thuật Nhân dân Bắc Kinh. Sự nghiệp. Giai đoạn đầu:. Năm 2004, anh ký hợp đồng với Công ty truyền thông Đông Phương Minh Châu, cùng năm đó anh tham gia vai chính trong bộ phim chiến tranh gián điệp "Điệp Chiến". Trong phim anh diễn vai Lâm Tử Hào - một điệp viên tình báo, đây cũng là vai diễn đầu tay của Vương Dương, từ đó chính thức bước chân vào showbiz. Năm 2005, anh đóng vai chính trong bộ phim võ thuật, hài lãng mạn "Nữ Võ Sĩ", trong phim anh diễn vai Bồ Thiếu Kiệt - một thiếu gia thông minh, kiêu ngạo. Đây cũng là vai nam chính truyền hình đầu tay của anh.
Vương Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800527
Năm 2006, anh tham gia diễn xuất trong bộ phim cổ trang tình cảm "Đoán Kiếm Hồn" của đạo diễn Phạm Đông Vũ. Trong phim anh diễn vai thị vệ Chu Dương người đem lòng yêu mến công chúa Triều Dương. Đây là vai diễn cổ trang đầu tiên của anh. Năm 2007, anh đóng cùng Vịnh Mai, Tưởng Hân trong bộ phim tình cảm nhân văn "Nếu còn có ngày mai", anh diễn vai nam chính Trần Bộ Sâm;; Cùng năm anh diễn vai chính cùng Trần Tử Hàm trong bộ phim tình cảm đô thị "Tuyết đang tan" vai nhà văn Tư Thanh (bạn trai của nữ chính La Nhất) Năm 2008, anh đóng chung với Viên Hoằng, Dương Mịch trong bộ phim cổ trang chính kịch "Thượng Thư Phòng", anh diễn vai con trai thứ 24 của Khang Hy - Ái Tân Giác La Doãn Bí. Năm 2009, tham gia bộ phim điện ảnh truyền cảm hứng cho người trẻ "Vũ Đạo Hệ" vai biên đạo múa trẻ tuổi Mã Kha - cũng là vai điện ảnh đầu tiên của anh. Năm 2010, tham gia diễn xuất trong bộ phim đề tài cách mạng chiến tranh "Khâu Thiếu Vân" của đạo diễn Trương Tân Vũ, trong đó anh diễn vai nam chính Khâu Thiếu Vân ; Cùng năm anh diễn xuất trong bộ phim đô thị hiện đại "Thành Sự" vai nhà thiết chăm chỉ Liễu Sâm. Năm 2011, diễn chính trong bộ phim "Nhật ký cực phẩm con trai con gái" của đạo diễn Lâm Tử. Trong phim anh diễn vai Trương Ngạn - Chàng trai rạng rỡ, tài năng xuất chúng. Năm 2012, anh diễn cùng Đỗ Thuần, Hà Minh Thịnh trong bộ phim cổ trang "" vai một người có âm mưu hoàng đế Lý Vị ; Cùng năm anh diễn xuất trong bộ phim "Huyết sắc luyến tình" vai nam chính Bằng Phi - thiếu ban chủ của một ban hội. ; Sau đó cùng năm, anh tham gia đóng chính trong bộ phim "Cuộc hôn nhân không che đậy" anh diễn vai Trì Tường - một người đàn ông lập nghiệm ở Bắc Kinh. . Năm 2013, anh đóng chính cho bộ phim "Cuộc hôn sự của Lão Mễ gia" của đạo diễn Triệu Thần Dương. Trong phim anh diễn vai Lý Nam Bắc - một phú nhị đại có vẻ ngoài nổi loạn, nhưng thực chất là một người dịu dàng và có trách nhiệm. ; Tháng 5 anh tham gia bộ phim "Kim Ngọc Lương Duyên" cùng Hoắc Kiến Hoa, Đường Yên. Trong phim anh diễn vai Liễu Vân Chiêu.
Vương Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800527
; Cùng năm đó, anh tham gia bộ phim truyền hình truyền cảm hứng cho người trẻ của đạo diễn Trình Tường "Tất cả tình yêu", trong phim anh diễn vai Đàm Thiếu Vũ. Năm 2014, anh đóng chính trong bộ phim y học "Bác sĩ thanh niên" do Triệu Bảo Cương, Vương Nghênh làm đạo diễn, trong bộ phim nay anh vào vai bác sĩ trẻ nội trú khoa Cấp cứu - Vương Bác, đây cũng là lần đầu tiên anh tham gia diễn vai bác sĩ trên phim truyền hình. . Năm 2016, anh tham gia bộ phim "Tiệm cà phê hoàng tử" vai Bân Triết Mặc - ông chủ của một quán cà phê. ; Cùng năm anh tham gia bộ phim " vai đội trưởng Thịnh Đường. Ngày 21 tháng 12 cùng năm, bộ phim cảnh sát " phát sóng, trong bộ phim anh diễn vai Giang Tử Đan (Viên Đạn sir) ; Sau đó anh tiếp tục góp mặt trong bộ phim "Trở lại tuổi hai mươi" vai Hạng Quốc Bân. Ngày 27 tháng 07 năm 2017, bộ phim Quân sự "" phát sóng, Vương Dương diễn vai Thượng Đường - phó thuyền trưởng của thuyền 377 và là sĩ quan với có công nhất trong đội tàu ngầm, tuy vẻ ngoài nghiêm nghị lạnh lùng, bá đạo nhưng lại có trái tim mềm mại. Ngày 06 tháng 06 năm 2018, bộ phim tội phạm trinh thám "Bùng Cháy" vai Tôn Nhiên - Bên ngoài là đầu bếp Nhật dịu dàng nhã nhặn, nhưng thực chất là một trùm buôn ma túy đang bị truy nã. Giai đoạn khởi sắc:. Cùng năm 2018, anh tham gia chương trình diễn xuất của đài truyền hình vệ tinh Chiết Giang, chương trình "Tôi Chính Là Diễn Viên" anh đoạt quán quân nhóm Từ Phong và đạt danh hiệu top 4 diễn viên thực lực. Ngày 26 tháng 11 năm 2019, bộ phim truyền hình cổ trang quyền mưu "Khánh Dư Niên" do , diễn chính phát sóng, trong phim anh diễn vai Đằng Tử Kinh, nhờ bộ phim thoát vòng nên Vương Dương cũng được chú ý nhiều hơn. ; Ngày 20 tháng 12 cùng năm bộ phim về pháp luật đô thị "Luật Sư Tinh Anh" do diễn chính phát sóng trên kênh và truyền hình Bắc Kinh, anh diễn vai một vận động viên boxing Ký Ngộ. Năm 2020, anh hợp tác cùng Phan Việt Minh, Đồng Dao trong bộ phim truyền hình "", trong bộ phim nay anh diễn vai Lý Uất Hạo.
Vương Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800527
; Cùng năm, ngày 07 tháng 09 tham gia làm khách mời trong bộ phim truyền hình đô thị hiện đại "Tôi Thân Yêu" cùng Chu Nhất Long, Lưu Thi Thi Giai đoạn phát triển:. Ngày 11 tháng 03 năm 2021, bộ phim tình cảm đô thị " phát sóng, trong bộ này anh diễn vai Thiệu Vũ Hàn - bác sĩ trưởng tài năng của khoa Ngoại thần kinh. Ngày 07 tháng 06 năm 2021, bộ phim truyền hình chiến tranh gián điệp " do Chu Nhất Long diễn chính lên sóng, trong phim anh diễn vai trạm trưởng khu Thượng Hải - Trần Mặc Quần. Ngày 11 tháng 07 năm 2021 tham gia bộ phim truyền hình "Bắc Triệt Nam Viên", anh diễn vai Bành Bái - người bạn trai sắp cưới của Đới Tiểu Vũ, nhưng cho đến ngày kết hôn cô mới phát giác rằng Bánh Bái vẫn chưa ly hôn với vợ cũ. Ngày 21 tháng 10 cùng năm, đóng vai Chu Xương Bình trong bộ phim truyền hình "Phá Vây"; Sau đó tiếp tục hợp tác cùng Hứa Khải và trong bộ phim dân quốc "Lạc Lối Dưới Lòng Côn Luân" vai Lạc Vân Tùng - sở trưởng sở cảnh sát. Ngày 18 tháng 11 năm 2021, bộ phim " lên sóng, anh diễn vai Thịnh Phương Đình - người có âm mưu thâu tóm tập đoàn Đông Viễn. Ngày 28 tháng 01 năm 2021, bộ phim đời sống " phát sóng, anh diễn vai Thái Hiểu Quang - một người rạng rỡ ấm áp, một đời si tình với Châu Dung. Ngày 15 tháng 04 năm 2021 anh tham gia cùng Ngụy Đại Huân, Hàn Canh, Lý Nhất Đồng trong bộ phim công an, tội phạm "Nhiệm vụ đặc công" vai Châu Triết Nhất. "(đã đóng máy - chưa phát sóng)" Ngày 29 tháng 06 năm 2022, khai máy bộ phim "", đóng chính cùng Tần Lam trong phim anh diễn vai Đinh Ninh. "(Ngày 09 tháng 09 đóng máy - chưa lên sóng)" Ngày 27 tháng 07 năm 2022 bộ phim "" phát sóng trên iQIYI Ngày 25 tháng 08 năm 2022 bộ phim truyền hình "Phạt Tội" lên sóng, anh diễn vai Triệu Bằng Trình - một kiểm sát viên chính trực, đồng thời cũng là con trai thứ của một gia đình tội phạm. Anh vì muốn thu thập bằng chứng phạm tội của gia đình giao nộp cho cảnh sát mà bị ám hại. Ngày 18 tháng 12 năm 2022, tham gia diễn chính trong series " do iQIYI sản xuất.
Vương Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800527
Ngày 09 tháng 02 năm 2023 bộ phim truyền hình cổ trang quyền mưu " do Trương Nhược Quân và Vương Dương đóng chính lên sóng, đây là một trong những dự án lớn mà anh có cơ hội tham gia diễn xuất với vai trò diễn viên chính. Ngày 16 tháng 03 năm 2023, bộ phim truyền hình nằm trong series ' - ' do anh và diễn chính lên sóng trên iQIYI Đời sống cá nhân. Vương Dương là con một trong gia đình, cha của anh là dân kinh doanh lĩnh vực ngoại thương. Ngày 15 tháng 12 năm 2018, Vương Dương đăng Weibo thông báo kết hôn với nữ diễn viên Cao Tư . Hai người họ đều là cựu diễn viên xuất thân từ Học viện hý kịch Thượng Hải. Và tình yêu 6 năm cuối cùng cũng đơm hoa kết trái, ngày 20 tháng 10 năm 2020, Vương Dương thông báo vợ đã mang thai. , ngày 24 tháng 12 năm 2021 con gái của anh chào đời. Tác phẩm. Phim truyền hình. "*****(in đậm là vai chính)"
Judo tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800528
Judo là một trong những môn thể thao được tranh tài tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 ở Campuchia, dự kiến sẽ được tổ chức từ ngày 13 đến 16 tháng 05 năm 2023 tại Phnôm Pênh, Campuchia. Nội dung thi đấu. Cuộc thi Judo sẽ bao gồm mười ba (13) nội dung bao gồm: 10 nội dung cá nhân, 01 nội dung đồng đội và 02 nội dung Kata, cụ thể:
Eisingen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800530
Eisingen là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Karate tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800533
Karate là một trong những môn thể thao được tranh tài tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 ở Campuchia, dự kiến sẽ được tổ chức từ ngày 06 đến 08 tháng 05 năm 2023 tại Phnôm Pênh, Campuchia. Nội dung thi đấu. Tại SEA Games 32 Karate có 17 nội dung thi đấu, trong đó 9 nội dung cho nam, 8 cho nữ, cụ thể:
Engelsbrand
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800534
Engelsbrand là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Friolzheim
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800535
Friolzheim là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Illingen, Baden-Württemberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800537
Illingen là một thị xã thuộc bang Baden-Württemberg, Đức. Với dân số khoảng 10.000 người, nơi đây nằm cách Stuttgart về phía tây.
Ispringen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800538
Ispringen là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Kämpfelbach
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800541
Kämpfelbach là một thị xã thuộc huyện Enz, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Pforzheim 7 km.
Keltern
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800542
Keltren là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Omega (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800543
Omega (chữ hoa Ω, chữ thường ω) là chữ cái cuối cùng trong bảng chữ cái Hy Lạp, cũng được dùng làm ký hiệu. Omega cũng có thể là:
Salawati
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800546
Salawati là một trong bốn đảo lớn thuộc quần đảo Raja Ampat ở tỉnh Tây Nam Papua (trước đây là Tây Papua ), Indonesia. Diện tích của đảo là 1.623 km2. Salawati được ngăn cách với New Guinea về phía đông nam bởi eo biển Sele (hay còn gọi là eo biển Galowa, eo biển Revenges), và tách biệt với đảo Batanta về phía bắc bởi eo biển Pitt (hay còn gọi là eo biển Sagewin). Lịch sử. Hồi giáo lần đầu tiên được đưa đến quần đảo Raja Ampat vào thế kỷ 15 do các liên hệ chính trị và kinh tế với Vương quốc Hồi giáo Bacan. Trong thế kỷ 16 và 17, Vương quốc Hồi giáo Tidore có quan hệ kinh tế chặt chẽ với đảo. Tên của đảo bắt nguồn từ "Shalawat" được nói bởi Quốc vương Bacan khi ông đến đảo và được tưởng nhớ với dạng 'Salawati'. Trong thời kỳ này, Hồi giáo được thiết lập vững chắc và các thủ lĩnh địa phương bắt đầu chấp nhận tôn giáo này. Trên đảo này cũng từng có một vương quốc Hồi giáo tên là Vương quốc Salawati được thành lập bởi Fun Malaban. Phần phía nam của đảo là khu vực của Vương quốc Sailolof có trụ sở tại Sailolof, được thành lập bởi Fun Mo, một người Moi không có quan hệ họ hàng với các vị vua khác nhưng sau đó kết hôn với con gái của vua Waigeo là Pinfun Libit. Hành chính. Đảo Salawati (với các hòn đảo nhỏ ngoài khơi) bao gồm năm khu hành chính (kecamatan) của tỉnh Tây Nam Papua. Phần phía bắc của đảo được chia thành các khu Bắc Salawati (Salawati Utara), Tây Salawati (Salawati Barat) và Trung Salawati (Salawati Tengah) của huyện Raja Ampat, trong khi phần phía nam được chia thành khu Nam Salawati (Salawati Selatan) và Trung Salawati (Salawati Tengah) của huyện Sorong. Lưu ý rằng tên Trung Salawati được đặt cho hai khu khác nhau ở các phần liền kề của hai huyện. Sinh thái. Khu bảo tồn thiên nhiên Pulau Salawati Utara bao phủ phần lớn phần phía bắc của đảo, với diện tích 570 km2 trên phần phía bắc của đảo. Khu bảo vệ một phần rừng mưa đất thấp bản địa của đảo.
Nantenaina Ramalalaharivololona
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800550
Nantenaina Ramalalaharivololona (sinh ngày 10 tháng 7 năm 1987) là một cựu tay vợt người Madagascar. Ramalalaharivololona đã từng có 1 lần vô địch giải ITF tour trong cả sự nghiệp. Vào ngày 20 tháng 12 năm 2014, cô đứng ở vị trí thứ 916 thế giới trong bảng xếp hạng đôi nữ. Thi đấu cho Madagascar tại Billie Jean King Cup, Ramalalaharivololona có thành tích thắng-thua là 4–6. Ramalalaharivololona giải nghệ vào năm 2017.
Batanta
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800553
Batanta là một trong bốn đảo lớn thuộc quần đảo Raja Ampat ở tỉnh Tây Nam Papua, Indonesia. Diện tích của đảo là 453 km² và điểm cao nhất của đảo là 1184 m. Eo biển Pitt ngăn cách Batanta với Salawati, trong khi eo biển Dampier ngăn cách Batanta với Waigeo. Eo biển Dampier được đặt theo tên của nhà thám hiểm người Anh William Dampier. Năm 1759, Thuyền trưởng William Wilson chèo thuyền của công ty Đông Ấn tên là "Pitt" qua lại các vùng biển này và đặt tên cho eo biển giữa Batanta và Salawati là Pitt, theo tên con tàu của ông. Lịch sử. Hồi giáo lần đầu tiên được đưa đến quần đảo Raja Ampat vào thế kỷ 15 do các liên hệ chính trị và kinh tế với Vương quốc Hồi giáo Bacan. Trong thế kỷ 16 và 17, Vương quốc Hồi giáo Tidore có quan hệ kinh tế chặt chẽ với đảo. Trong thời kỳ này, Hồi giáo được thiết lập vững chắc và các thủ lĩnh địa phương bắt đầu chấp nhận tôn giáo này. Batanta trong lịch sử từng nằm dưới sự cai trị của Vương quốc Salawati, một trong "Raja Ampat" (Tứ vương). Động vật. Các loài bò sát, động vật có vú và chim sau đây được tìm thấy trên đảo:
Nội chiến Myanmar (2021–nay)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800556
Nội chiến Myanmar (), cũng gọi là Cách mạng mùa Xuân Myanmar, và Chiến tranh Bảo vệ nhân dân, là một cuộc nội chiến đang diễn ra sau các cuộc nổi dậy kéo dài của Myanmar đã leo thang đáng kể để đáp trả cuộc đảo chính quân sự năm 2021 và cuộc đàn áp bạo lực sau đó đối với các cuộc biểu tình chống đảo chính. Trong những tháng sau cuộc đảo chính, phe đối lập bắt đầu tập hợp xung quanh Chính phủ Thống nhất dân tộc, tổ chức này đã phát động một cuộc tấn công chống lại chính quyền quân sự. Đến năm 2022, phe đối lập đã kiểm soát một vùng lãnh thổ đáng kể, mặc dù dân cư thưa thớt.<ref name="CNN 7/9/21"></ref>Tại nhiều ngôi làng và thị trấn, các cuộc tấn công của chính quyền quân sự đã khiến hàng chục nghìn người phải rời đi. Vào ngày kỷ niệm thứ hai của cuộc đảo chính, vào tháng 2 năm 2023, Min Aung Hlaing thừa nhận đã mất quyền kiểm soát ổn định đối với "hơn một phần ba" các thị trấn. Các nhà quan sát độc lập lưu ý rằng con số thực tế có thể cao hơn nhiều, chỉ có 72 trong số 330 thị trấn và tất cả các trung tâm dân cư lớn vẫn nằm dưới sự kiểm soát ổn định. Tính đến tháng 9 năm 2022, 1,3 triệu người đã phải di dời trong nước và hơn 13.000 trẻ em đã thiệt mạng. Đến tháng 3 năm 2023, Liên Hiệp Quốc ước tính rằng kể từ cuộc đảo chính, 17,6 triệu người ở Myanmar cần hỗ trợ nhân đạo, trong khi 1,6 triệu người phải di dời trong nước và 55.000 tòa nhà dân sự đã bị phá hủy. UNOCHA nói rằng hơn 40.000 người đã trốn sang các nước láng giềng.
Quần đảo Banggai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800562
Quần đảo Banggai () là một nhóm đảo nằm ở cực đông của tỉnh Trung Sulawesi, Indonesia. Quần đảo tạo thành một huyện ("kabupaten") của tỉnh Trung Sulawesi, được thành lập vào năm 1999 bằng cách chia huyện Banggai thành một huyện Banggai mới nằm trên đất liền của Sulawesi và một huyện Quần đảo Banggai bao gồm toàn bộ quần đảo (với thủ phủ là thị trấn Banggai). Vào tháng 12 năm 2014, huyện Quần đảo Banggai tiếp tục bị chia tách khi bảy huyện xa về phía nam (bao gồm cả đảo Banggai, cùng với các đảo nhỏ hơn ở phía tây nam và đông nam) tách ra để thành lập huyện Banggai Laut mới. Do đó, huyện Quần đảo Banggai đã thu hẹp bao gồm đảo chính Peleng cùng với nhiều đảo nhỏ ngoài khơi khác. Huyện có diện tích 2.488,79 km2 và có dân số 109.384 theo điều tra dân số năm 2010 và 120.142 theo điều tra dân số năm 2020; ước tính chính thức vào giữa năm 2021 là 121.684. Quần đảo được bao bọc bởi vịnh Tolo (Teluk Tolo) của biển Banda, và biển Molucca. Eo biển Peleng (Selat Peleng) ngăn cách quần đảo với lục địa Sulawesi. Hành chính. Huyện Quần đảo Banggai được chia thành 12 khu ("kecamatan"), được lập bảng dưới đây với diện tích và dân số của chúng theo điều tra dân số năm 2010 và điều tra dân số năm 2020, cùng với các ước tính chính thức vào giữa năm 2021. bảng cũng bao gồm vị trí của trụ sở chính quyền khu , số lượng làng hành chính ("desa" nông thôn và "kelurahan" đô thị, tổng cộng lần lượt là 141 và 3) và các đảo ngoài khơi trong mỗi khu và mã bưu chính. Notes: (a) bao gồm "kelurahan" Salakan. (b) bao gồm "kelurahan" Bulagi (thị trấn). (c) bao gồm "kelurahan" Sabang. Giao thông. Merpati Nusantara Airlines phục vụ cho quần đảo từ Palu (thủ phủ của tỉnh Trung Sulawesi). Ngoài ra còn có một dịch vụ xe buýt qua Luwuk và sau đó bằng thuyền hoặc tàu thủy đến Banggai. Sinh vật. Quần đảo Banggai là quê hương của cá hồng y Banggai. Loài này có phạm vi địa lý cực kỳ hạn chế (5.500 km²) và tổng quy mô quần thể nhỏ (ước tính khoảng 2,4 triệu con). Cá hồng y Banggai bao gồm các quần thể biệt lập tập trung xung quanh vùng nước nông của 17 đảo lớn và 10 đảo nhỏ trong quần đảo Banggai.
Quần đảo Banggai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800562
Nó đang bị đe dọa tuyệt chủng do bị thu gom để buôn bán cá cảnh. Khí hậu. Salakan có khí hậu rừng mưa nhiệt đới (Af) với lượng mưa vừa phải từ tháng 8 đến tháng 1 và lượng mưa lớn từ tháng 2 đến tháng 7.
Kieselbronn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800571
Kieselbronn là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Knittlingen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800572
Knittlingen là một thị trấn nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, miển nam nước Đức.
Königsbach-Stein
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800573
Königsbach-Stein là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Maulbronn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800575
Maulbronn () là một đô thị nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, miền nam nước Đức.
Mönsheim
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800576
Mönsheim là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Mühlacker
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800577
Mühlacker là một thị trấn nằm ở phía đông huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Neuenbürg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800580
Neuenbürg là một thị trấn thuộc huyện Enz, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm bên bờ sông Enz, cách Pforzheim 10 km về phía tây nam.
Neuhausen, Enz
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800581
Neuhausen là một thị xã thuộc huyện Enz, bang Baden-Württemberg, Đức.
Dòng năng lượng (sinh thái học)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800591
Dòng năng lượng () là dòng năng lượng truyền qua các sinh vật sống trong hệ sinh thái. Mọi sinh vật sống đều tham gia chuỗi thức ăn, theo vai trò trong chuỗi mà được phân loại thành sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ và sinh vật phân giải. Mỗi mắt xích hay mỗi loài trong chuỗi thức ăn là một bậc dinh dưỡng. Những mũi tên trong chuỗi thức ăn chỉ hướng của dòng năng lượng một chiều; năng lượng bị mất dưới dạng nhiệt sau khi truyền qua một bậc dinh dưỡng. Để thể hiện nhiều thông tin hơn ở mỗi bậc dinh dưỡng, chuỗi thức ăn được tổ chức thành các tháp sinh thái. Dòng năng lượng một chiều và có thất thoát khi nó truyền qua các bậc của lưới thức ăn là một mô hình chịu sự chi phối của nhiệt động lực học (thuyết trao đổi năng lượng giữa các hệ thống). Động lực học dinh dưỡng liên quan đến nhiệt động lực học vì nó liên quan đến vận chuyển và biến đổi năng lượng (có nguồn gốc bên ngoài hệ sinh thái, chủ yếu là từ mặt trời thông qua bức xạ Mặt Trời) và giữa các sinh vật. Năng lượng và chu trình sinh địa hóa. Bước đầu tiên trong quá trình truyền năng lượng trong hệ sinh thái là quang hợp, trong đó nước và carbon dioxide từ không khí được hấp thụ dưới ánh sáng mặt trời, rồi được chuyển đổi thành oxy và glucose. Hô hấp tế bào là phản ứng ngược với quang hợp, trong đó oxy và đường tham gia phản ứng oxy hóa khử và giải phóng năng lượng khi chúng tạo thành carbon dioxide và nước. Carbon dioxide và nước mà hô hấp tạo ra được tái sử dụng trong quang hợp nhờ thực vật. Thất thoát năng lượng có thể được đo bằng hiệu suất truyền năng lượng (% lượng năng lượng truyền từ bậc dinh dưỡng này sang bậc dinh dưỡng tiếp theo) hoặc sinh khối (% khối lượng vật chất do sinh vật tạo ra truyền từ bậc dinh dưỡng này sang bậc dinh dưỡng tiếp theo). Năng lượng sơ cấp tinh ở sinh vật sản xuất nhìn chung chỉ có 10% chuyển sang bậc tiếp theo (sinh vật tiêu thụ), mỗi bậc dinh dưỡng chỉ truyền được 10% năng lượng sơ cấp tinh lên bậc dinh dưỡng kế tiếp. Hiệu suất sinh thái có giá trị từ 5% đến 20% tùy thuộc vào mức độ hiệu quả của hệ sinh thái đó. Hiệu suất sinh thái thấp (10%) chủ yếu do sinh vật hô hấp và năng lượng bị mất dưới dạng nhiệt.
Dòng năng lượng (sinh thái học)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800591
Vì hiệu suất sinh thái thấp nên có số cá thể sinh vật tiêu thụ luôn ít hơn so với sinh vật bị tiêu thụ. Sản xuất sơ cấp. Sinh vật sản xuất là sinh vật tự dưỡng, chủ yếu là sinh vật quang tự dưỡng. Sinh vật sản xuất rất quan trọng vì chúng chuyển đổi năng lượng từ Mặt Trời thành dạng năng lượng hóa học có thể dự trữ và sử dụng là ATP, glucose hay các chất hữu cơ khác và oxy, gọi là năng lượng sơ cấp. Sinh vật sản xuất sử dụng năng lượng do chúng tự dưỡng tạo ra. Nếu sinh vật sản xuất bị động vật ăn cỏ tiêu thụ thì một phần năng lượng từ sinh vật tự dưỡng sẽ được truyền vào động vật ăn cỏ và truyền liên tục như vậy trong chuỗi thức ăn. Glucose trong sinh vật sản xuất được dùng làm thức ăn cho sinh vật tiêu thụ, do đó phải nhờ sinh vật sản xuất mà sinh vật tiêu thụ mới có thể thu năng lượng. Sinh vật sản xuất là vi khuẩn tự dưỡng, tảo và thực vật. Vi khuẩn hóa tự dưỡng thực hiện một quá trình tương tự như quang hợp, nhưng thay vì năng lượng từ Mặt Trời, chúng sử dụng năng lượng dự trữ trong chất vô cơ như hydro sunfide. Quá trình này (được gọi là hóa tổng hợp) thường xảy ra sâu trong đại dương tại những miệng phun thủy nhiệt có sẵn nhiệt độ và các hóa chất như hydro, hydro sulfide và metan. Vi khuẩn hóa tự dưỡng có thể sử dụng năng lượng trong các liên kết của hydro sunfide và oxy để chuyển đổi carbon dioxide thành glucose, giải phóng nước và lưu huỳnh trong quá trình này. Sinh vật tiêu thụ vi khuẩn hóa tổng hợp có thể hấp thụ glucose và sử dụng oxy để tiến hành hô hấp tế bào, tương tự như động vật ăn cỏ tiêu thụ sinh vật sản xuất. Một trong những yếu tố kiểm soát sản xuất sơ cấp là lượng năng lượng đi vào sinh vật sản xuất, có thể được đo đếm bằng hiệu suất sinh thái. Chỉ 1% năng lượng Mặt Trời đi vào sinh vật sản xuất, phần còn lại phản xạ ra vũ trụ hoặc tán xạ ở khí quyển và mặt đất. Tổng năng suất sơ cấp hay năng suất sơ cấp thô là lượng năng lượng mà sinh vật sản xuất tạo ra được. Nhìn chung, 60% năng lượng đi vào cơ thể sinh vật sản xuất được dùng cho hô hấp của chính sinh vật ấy.
Dòng năng lượng (sinh thái học)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800591
Năng suất sơ cấp tinh là lượng năng lượng mà thực vật còn lại sau khi trừ đi lượng sử dụng cho hô hấp hoặc rơi rụng... Một yếu tố khác kiểm soát sản xuất sơ cấp là mức độ dinh dưỡng hữu cơ/vô cơ trong nước hoặc đất mà sinh vật sản xuất đang sinh sống. Sản xuất thứ cấp. Năng lượng thứ cấp là năng lượng mà sinh vật tiêu thụ chuyển đổi thành sinh khối của chính chúng. Những hệ sinh thái khác nhau có mức độ sinh vật tiêu thụ khác nhau, tất cả đều kết thúc bằng một sinh vật tiêu thụ đứng cuối. Hầu hết năng lượng được lưu trữ trong chất hữu cơ của thực vật và khi sinh vật tiêu thụ ăn những thực vật này, chúng sẽ hấp thụ năng lượng này. Năng lượng này trong động vật ăn cỏ và động vật ăn tạp bị động vật ăn thịt tiêu thụ. Ngoài ra còn có một lượng lớn năng lượng trong sản xuất sơ cấp cuối cùng trở thành chất thải hoặc rơi rụng, được gọi là mùn bã. Mùn bã cũng được tiêu thụ bởi sinh vật phân giải, chuỗi thức ăn bắt đầu bằng sinh vật phân giải mùn bã gồm có một lượng lớn vi sinh vật, động vật không xương sống cỡ lớn, động vật không xương sống đáy nhỏ (tiếng Anhː meiobenthos hay meiofauna), nấm và vi khuẩn. Những sinh vật này bị động vật ăn tạp và động vật ăn thịt tiêu thụ, chiếm một lượng lớn năng luọng thứ cấp. Sinh vật tiêu thụ thứ cấp có thể rất khác nhau về hiệu suất tiêu thụ. Hiệu quả của năng lượng truyền cho sinh vật tiêu thụ được ước tính là khoảng 10%. Dòng năng lượng đi qua sinh vật tiêu thụ cao hơn ở môi trường nước so với môi trường trên cạn, chủ yếu do khả năng truyền nhiệt của nước kém hơn đất (nhiệt dung riêng của nước c = 4200 J/kg.K cao hơn nhiều so với nhiệt dung riêng của đất c = 800 J/kg.K), do đó bảo toàn nhiệt độ tốt hơn. Sản xuất thứ cấp trong môi trường nước Dị dưỡng đóng góp vào sản xuất thứ cấp, tạo ra năng lượng mà động vật và sinh vật phân hủy sử dụng và nó phụ thuộc vào năng suất sơ cấp tinh. Đa số động vật ăn cỏ và sinh vật phân hủy tiêu thụ carbon từ hai nguồn hữu cơ chính trong hệ sinh thái thủy sinh là nguồn carbon bản địa và ngoại lai.
Dòng năng lượng (sinh thái học)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800591
Carbon bản địa đến từ bên trong hệ sinh thái và gồm có thực vật thủy sinh và tảo. Carbon ngoại lai từ ngoài hệ sinh thái chủ yếu là chất hữu cơ chết từ hệ sinh thái trên cạn rơi xuống nước. Trong hệ sinh thái nước chảy, khoảng 66% năng lượng đầu vào thường niên có thể được rửa sạch ở hạ lưu. Lượng còn lại được tiêu thụ và biến mất dưới dạng nhiệt. Sản xuất thứ cấp trong môi trường trên cạn Sinh vật tiêu thụ thường có thức ăn ở nhiều bậc dinh dưỡng. Hiệu suất đồng hóa thức ăn được thể hiện bằng lượng thức ăn mà sinh vật tiêu thụ đã ăn, mức độ mà sinh vật tiêu thụ đồng hóa được và mức độ chất thải ra ngoài như phân hoặc nước tiểu. Một phần lớn năng lượng (60 - 70%) hấp thu được từ thức ăn được sinh vật sử dụng để hô hấp, một phần năng lượng khác sẽ chuyển sang sinh khối trong cơ thể sinh vật tiêu thụ. Sinh vật tiêu thụ được chia thành sinh vật tiêu thụ sơ cấp, sinh vật tiêu thụ thứ cấp và sinh vật tiêu thụ bậc cao. Động vật ăn thịt có hiệu suất đồng hóa năng lượng cao hơn nhiều, khoảng 80% và động vật ăn cỏ có hiệu suất thấp hơn nhiều, khoảng 20 đến 50%. Năng lượng trong một hệ thống có thể chịu ảnh hưởng bởi sự di cư/nhập cư của động vật. Sự di chuyển của sinh vật có ý nghĩa trong hệ sinh thái. Mức tiêu thụ năng lượng của động vật ăn cỏ trong hệ sinh thái trên cạn có phạm vi thấp ~3-7%. Sự biến động lượng sản phẩm sơ cấp tinh mà động vật ăn cỏ tiêu thụ nhìn chung là thấp. Điều này trái ngược hoàn toàn với môi trường thủy sinh của hồ và ao, nơi mà động vật ăn cỏ có mức tiêu thụ cao hơn nhiều, khoảng ~33%. Động vật biến nhiệt và động vật đẳng nhiệt có hiệu quả đồng hóa rất khác nhau. Sinh vật ăn mùn bã. Sinh vật ăn mùn bã tiêu thụ vật chất hữu cơ đang phân hủy và bị động vật ăn thịt tiêu thụ. Năng suất của loài săn mồi có tương quan với năng suất của con mồi, từ đấy khẳng định rằng năng suất sơ cấp trong hệ sinh thái ảnh hưởng đến mọi năng suất kế tiếp. Mùn bã là một phần lớn chất hữu cơ trong hệ sinh thái.
Dòng năng lượng (sinh thái học)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800591
Chất hữu cơ trong rừng ôn đới chủ yếu được hình thành từ thực vật chết, chiếm khoảng 62%. Trong một hệ sinh thái thủy sinh, lá rơi xuống suối bị ẩm ướt và bắt đầu phân hủy thành chất hữu cơ. Quá trình xảy ra khá nhanh và sẽ thu hút vi sinh vật và động vật không xương sống. Những chiếc lá có thể bị phân hủy thành những mảnh lớn gọi là chất hữu cơ dạng hạt thô (tiếng Anhː coarse particulate organic matter - CPOM). CPOM nhanh chóng bị vi sinh vật tiêu thụ. Động vật không xương sống đáy nhỏ có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sản xuất thứ cấp trong các hệ sinh thái nước chảy. Vi sinh vật phân hủy và xâm chiếm CPOM vô cùng quan trọng đối với các loài ăn mùn bã. Loài ăn mùn bã làm cho CPOM trở nên dễ ăn hơn bằng cách giải phóng hợp chất từ các mô và giúp làm mềm chúng. Khi lá thối rữa, nitơ sẽ giảm còn cellulose và lignin trong lá rất khó phân hủy. Sự phân hủy của lá phụ thuộc vào hàm lượng nitơ ban đầu, mùa, loài cây và hàm lượng sinh vật phân giải trong môi trường. Hiệu suất sinh thái và tính đa dạng loài trong một hệ sinh thái có thể được phân tích thông qua hiệu suất đồng hóa của chúng. Ngoài ra, sản xuất thứ cấp ở hệ sinh thái nước chảy bị ảnh hưởng lớn bởi mùn bã rơi xuống các dòng chảy; sản xuất sinh khối của hệ động vật đáy và độ phong phú giảm thêm 47–50% nếu hệ sinh thái bị mất đi lượng mùn bã này. Dòng năng lượng qua các hệ sinh thái. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng sinh vật sản xuất sơ cấp cố định carbon với tỷ lệ tương tự nhau trong các hệ sinh thái khác nhau. Các cơ chế chi phối dòng năng lượng đến các bậc dinh dưỡng cao hơn sẽ khác nhau giữa các hệ sinh thái. Trong các hệ sinh thái thủy sinh và trên cạn, những mô hình đã được nhận diện có thể giải thích cho sự biến đổi này và được chia làm hai con đường kiểm soát chính: từ trên xuống và từ dưới lên. Các cơ chế hoạt động ở mỗi con đường điều chỉnh cấu trúc bậc dinh dưỡng và quần xã trong một hệ sinh thái với những mức độ khác nhau.
Dòng năng lượng (sinh thái học)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800591
Con đường kiểm soát từ dưới lên liên quan đến các cơ chế dựa trên chất lượng và tính sẵn có của tài nguyên, kiểm soát năng suất sơ cấp, dòng năng lượng và sinh khối từ bậc dinh dưỡng thấp đến các bậc dinh dưỡng cao hơn. Con đường kiểm soát từ trên xuống liên quan đến các cơ chế dựa trên mức tiêu thụ của sinh vật tiêu thụ. Những cơ chế này kiểm soát tỷ lệ vận chuyển năng lượng từ bậc dinh dưỡng này sang bậc dinh dưỡng khác khi động vật ăn cỏ hoặc loài săn mồi ăn các bậc dinh dưỡng thấp hơn. So sánh dòng năng lượng trong hệ sinh thái thủy sinh và hệ sinh thái trên cạn. Dòng năng lượng sẽ khác nhau trong các hệ sinh thái khác nhau, tạo ra thách thức trong việc xác định khác biệt giữa các loại hệ sinh thái. Theo nghĩa chung, dòng năng lượng là một hàm của năng suất sơ cấp với nhiệt độ, lượng nước và ánh sáng. Ví dụ, ở hệ sinh thái thủy sinh, sản xuất sơ cấp cao hơn thường được tìm thấy ở những dòng sông lớn và hồ cạn hơn là ở hồ sâu và các dòng chảy đầu nguồn nước trong. Ở hệ sinh thái trên cạn, đầm lầy cỏ, đầm lầy cây thân gỗ và rừng mưa nhiệt đới có hiệu suất sản xuất sơ cấp cao nhất, trong khi các hệ sinh thái vùng lãnh nguyên và núi cao có tỷ lệ thấp nhất. Mối quan hệ giữa sản xuất sơ cấp và điều kiện môi trường đã giúp giải thích sự biến đổi trong các loại hệ sinh thái, cho phép các nhà sinh thái học chứng minh rằng dòng năng lượng qua hệ sinh thái thủy sinh hiệu quả hơn so với hệ sinh thái trên cạn do có nhiều cách kiểm soát từ dưới lên và từ trên xuống. Từ dưới lên. Sức mạnh của các biện pháp kiểm soát từ dưới lên đối với dòng năng lượng được quyết định bởi chất lượng dinh dưỡng, quy mô và tỷ lệ tăng trưởng của sinh vật sản xuất sơ cấp trong hệ sinh thái. Chất liệu quang hợp thường giàu nitơ (N) và phosphor (P), bổ sung N và P cho nhu cầu cao của động vật ăn cỏ trong mọi hệ sinh thái. Sản xuất sơ cấp thủy sinh chủ yếu là thực vật phù du đơn bào và nhỏ, chủ yếu bao gồm chất liệu quang hợp, cung cấp nguồn hiệu quả các chất dinh dưỡng này cho động vật ăn cỏ.
Dòng năng lượng (sinh thái học)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800591
Ngược lại, thực vật đa bào trên cạn chứa nhiều cấu trúc cellulose hỗ trợ lớn có hàm lượng carbon cao nhưng giá trị dinh dưỡng thấp. Do sự khác biệt về cấu trúc này, sinh vật sản xuất sơ cấp thủy sinh có ít sinh khối trên mỗi mô quang hợp lưu trữ trong hệ sinh thái thủy sinh hơn là trong rừng và đồng cỏ của hệ sinh thái trên cạn. Sinh khối thấp này so với chất liệu quang hợp trong hệ sinh thái thủy sinh cho phép tỷ lệ tuần hoàn hiệu quả hơn so với hệ sinh thái trên cạn. Khi thực vật phù du bị động vật ăn cỏ tiêu thụ, tỷ lệ tăng trưởng và sinh sản của chúng được tăng cường đủ để lấp đầy sinh khối bị mất và cùng với chất lượng đậm đặc dinh dưỡng của chúng, hỗ trợ sản xuất thứ cấp lớn hơn. Những yếu tố bổ sung tác động đến sản xuất sơ cấp gồm có các đầu vào của N và P, xuất hiện ở mức độ lớn hơn trong hệ sinh thái thủy sinh. Những chất dinh dưỡng này rất quan trọng trong việc kích thích phát triển thực vật và khi được chuyển đến các bậc dinh dưỡng cao hơn sẽ kích thích sinh khối và tỷ lệ phát triển của sinh vật tiêu thụ. Nếu một trong hai chất dinh dưỡng này bị thiếu hụt, chúng có thể hạn chế sản xuất sơ cấp tổng thể. Ở các hồ, P có xu hướng là chất dinh dưỡng hạn chế lớn hơn, trong khi cả N và P đều hạn chế sản xuất sơ cấp ở sông. Do những tác động hạn chế này, các chất dinh dưỡng đầu vào có thể làm bớt đi những hạn chế đối với sản lượng sơ cấp ròng của một hệ sinh thái thủy sinh. Chất liệu allochthonous bị cuốn vào hệ sinh thái thủy sinh, mang lại N và P cũng như năng lượng ở dạng phân tử carbon mà sinh vật sản xuất sơ cấp dễ dàng hấp thụ. Đầu vào lớn hơn và nồng độ chất dinh dưỡng tăng lên hỗ trợ tỷ lệ sản xuất sơ cấp ròng cao hơn, từ đó hỗ trợ sản xuất thứ cấp lớn hơn. Từ trên xuống. Những cơ chế từ trên xuống tạo ra sự kiểm soát lớn hơn lên sinh vật sản xuất sơ cấp thủy sinh do sự luân chuyển sinh vật tiêu thụ trong một lưới thức ăn thủy sinh.
Dòng năng lượng (sinh thái học)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800591
Ở sinh vật tiêu thụ, động vật ăn cỏ có thể làm trung gian tác động của các bậc dinh dưỡng bằng cách bắc cầu dòng năng lượng từ sinh vật sản xuất sơ cấp sang động vật ăn thịt ở các bậc dinh dưỡng cao hơn. Trên khắp các hệ sinh thái, có một mối liên hệ nhất quán giữa sự phát triển của động vật ăn cỏ và chất lượng dinh dưỡng của sinh vật sản xuất. Tuy nhiên, ở hệ sinh thái thủy sinh, sinh vật sản xuất sơ cấp bị động vật ăn cỏ tiêu thụ với tỉ lệ cao gấp bốn lần so với các hệ sinh thái trên cạn. Mặc dù đề tài này đang được tranh luận nhiều, nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng sự khác biệt trong kiểm soát động vật ăn cỏ là do một số lý thuyết, trong đó sinh vật sản xuất đến tỷ lệ kích cỡ sinh vật tiêu thụ và tính chọn lọc của động vật ăn cỏ. Mô hình kiểm soát từ trên xuống lên sinh vật sản xuất sơ cấp cho thấy rằng việc kiểm soát dòng năng lượng tốt nhất xảy ra khi tỷ lệ kích cỡ của sinh vật tiêu thụ tới sinh vật sản xuất sơ cấp đạt mức cao nhất. Sự phân bố kích cỡ của các sinh vật được tìm thấy trong một bậc dinh dưỡng duy nhất trong các hệ thống thủy sinh hẹp hơn nhiều so với các hệ thống trên cạn. Trên cạn, kích thước của sinh vật tiêu thụ dao động từ nhỏ hơn thực vật mà nó tiêu thụ (chẳng hạn như côn trùng) đến lớn hơn đáng kể (chẳng hạn như động vật móng guốc), trong khi ở các hệ thủy sinh, kích thước cơ thể của sinh vật tiêu dùng trong một bậc dinh dưỡng biến đổi đổi ít hơn nhiều và có mối tương quan chặt chẽ với các vị trí dinh dưỡng. Do đó, sự khác biệt về quy mô giữa sinh vật sản xuất và sinh vật tiêu thụ trong môi trường thủy sinh lớn hơn so với trên cạn, dẫn đến khả năng kiểm soát động vật ăn cỏ mạnh hơn đối với sinh vật sản xuất sơ cấp thủy sinh. Động vật ăn cỏ có thể kiểm soát số phận của chất hữu cơ khi nó luân chuyển qua lưới thức ăn. Động vật ăn cỏ có xu hướng chọn thực vật giàu dinh dưỡng đồng thời tránh thực vật có cơ chế phòng vệ cấu trúc Giống như cấu trúc hỗ trợ, các cấu trúc phòng vệ bao gồm cellulose nghèo chất dinh dưỡng và có hàm lượng carbon cao.
Dòng năng lượng (sinh thái học)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800591
Tiếp cận với các nguồn thực phẩm bổ dưỡng giúp tăng cường trao đổi chất và nhu cầu năng lượng của động vật ăn cỏ, dẫn đến việc loại trừ sinh vật sản xuất sơ cấp đông hơn. Ở hệ sinh thái thủy sinh, thực vật phù du rất giàu dinh dưỡng và thường thiếu cơ chế phòng vệ. Điều này dẫn đến khả năng kiểm soát từ trên xuống lớn hơn vì chất thực vật đã tiêu thụ nhanh chóng được thải lại hệ thống dưới dạng chất thải hữu cơ không bền. Ở hệ sinh thái trên cạn, sinh vật sản xuất sơ cấp ít dinh dưỡng hơn và có nhiều khả năng chứa các cấu trúc phòng vệ. Bởi vì động vật ăn cỏ thích thực vật giàu dinh dưỡng và tránh thực vật hoặc các bộ phận của thực vật có cấu trúc phòng vệ, nên một lượng lớn thực vật không được tiêu thụ trong hệ sinh thái. Động vật ăn cỏ tránh chất thực vật chất lượng thấp có thể là do các hệ thống trên cạn thể hiện kiểm soát từ trên xuống yếu hơn so với dòng năng lượng.
Dashboard
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800608
Dashboard (Bảng điều khiển) là một loại giao diện đồ họa thường cung cấp cái nhìn tổng quan về các chỉ số hiệu suất chính (KPIs) liên quan đến một mục tiêu hoặc quy trình kinh doanh cụ thể. Trong trường hợp sử dụng khác, "dashboard" là một tên khác cho "báo cáo tiến độ" hoặc "báo cáo" và được coi là một dạng hình ảnh trực quan dữ liệu. Bằng cách cung cấp cái nhìn tổng quan này, chủ doanh nghiệp có thể tiết kiệm thời gian và cải thiện quyết định của mình bằng cách sử dụng các dashboard. Dashboard thường được truy cập thông qua trình duyệt web và thường được liên kết với các nguồn dữ liệu cập nhật thường xuyên. Các dashboard nổi tiếng bao gồm dashboard của Google Analytics, được sử dụng trên 55% tất cả các trang web, nó hiển thị hoạt động trên một trang web; chẳng hạn như số lượt truy cập, trang đầu vào, tỷ lệ thoát và nguồn lưu lượng. Đại dịch COVID-19 năm 2020 đã đưa các dashboard khác lên hàng đầu, với bảng theo dõi coronavirus của trường Đại học Johns Hopkins và bảng theo dõi coronavirus của chính phủ Anh là những ví dụ tốt. Thuật ngữ dashboard xuất phát từ bảng điều khiển của ô tô, nơi người lái xe giám sát các chức năng chính một cách tổng quan thông qua bảng đồng hồ. Lịch sử. Ý tưởng về digital dashboard xuất hiện sau khi nghiên cứu hệ thống hỗ trợ quyết định trong những năm 1970. Các bản trước của dashboard kinh doanh hiện đại được phát triển đầu tiên vào những năm 1980 dưới dạng Executive Information Systems (EISs). Do các vấn đề chủ yếu với việc làm mới và xử lý dữ liệu, ngay sau đó đã nhận ra rằng phương pháp không thực tế vì thông tin thường thiếu, không đáng tin cậy và phân tán trên quá nhiều nguồn không đồng nhất. Do đó, EISs đã ngưng hoạt động cho đến những năm 1990 khi thời đại thông tin tăng nhanh và kho dữ liệu và xử lý phân tích trực tuyến (OLAP) đã cho phép dashboard hoạt động đủ tốt. Mặc dù các công nghệ cho phép, sử dụng dashboard không trở nên phổ biến cho đến những năm sau đó, với sự gia tăng của các chỉ số hiệu suất chính (KPIs) và giới thiệu của balanced scorecard của Robert S. Kaplan và David P. Norton. Vào cuối những năm 1990, Microsoft đã đề xuất một khái niệm được gọi là "Digital Nervous System" và "digital dashboards" được miêu tả là một phần của khái niệm đó. Hiện nay, việc sử dụng dashboard số là một phần quan trọng của Quản lý Hiệu suất Doanh nghiệp (BPM).
Dashboard
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800608
Ban đầu, dashboard được sử dụng cho mục đích giám sát, nhưng hôm nay, với sự tiến bộ của công nghệ, dashboard được sử dụng cho các mục đích phân tích hơn. Việc sử dụng bảng điều khiển hiện đã được tích hợp; phân tích kịch bản, khả năng phân tích chi tiết và tính linh hoạt của định dạng trình bày.
Lăng Võ Tánh (Phú Nhuận)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800623
Lăng Võ Tánh là một đình thờ danh tướng Võ Tánh nằm tại địa chỉ 19 Hồ Văn Huê, phường 9, quận Phú Nhuận, Tp. HCM. Năm 1802, vua Gia Long đã lập miếu và lăng mộ Võ Tánh tại thôn Phú Nhuận để người dân dễ dàng tiếp cận và cúng bái. Kiến trúc lăng mộ này được xây dựng theo hình trục thẳng, kiểu kẻ chuyền cổ điển (chữ nhất) với cổng tam quan được xây dựng vào năm 1951. Khu lăng mộ Võ Tánh có giá trị lịch sử, văn hoá, kiến trúc lớn vì nó được xây dựng từ năm 1802 theo kiến trúc đặc trưng của mộ cổ vùng Nam bộ, với các bộ phận như bình phong tiền, trụ cổng, sân thờ, bệ thờ, nấm mộ, bình phong hậu và tường bao. Nội thất lăng có hoành phi, cân đối, bao lam có giá trị. Khu lăng mộ Võ Tánh trước đây nằm trong khu vực quân sự, cho đến những năm 1990 mới được bàn giao cho UBND phường 9, quận Phú Nhuận. Từ năm 2006-2007, diện tích lăng mộ được quy hoạch lại, đền thờ và mộ được trùng tu, nâng cấp, đồng thời xây dựng thêm nhà bảo vệ và tường rào bảo vệ. Ngày 5-6-2020, UBND quận Phú Nhuận đã tổ chức lễ đón nhận bằng xếp hạng di tích cấp TP đối với di tích kiến trúc nghệ thuật lăng Võ Tánh. Kể từ ngày này, khu lăng mộ Võ Tánh sẽ mở cửa đón khách tham quan và lễ bái từ 7 giờ đến 21 giờ hằng ngày. Nguồn tham khảo 1) https://plo.vn/vinh-danh-cong-lao-danh-tuong-vo-tanh-post578450.html 2) https://goo.gl/maps/EanSfp7LrApCS5KdA 3) https://thanhnien.vn/chum-anh-bi-mat-3-ngoi-mo-cua-danh-tuong-vo-tanh-o-sai-gon-va-binh-dinh-185512612.htm 4)https://congan.com.vn/doi-song/thu-vi-o-lang-vo-tanh_2840.html
Neulingen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800628
Neulingen là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Niefern-Öschelbronn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800631
Niefern-Öschelbronn là một thị xã thuộc huyện Enz, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm bên bờ sông Enz, cách Pforzheim 6 km về phía đông.
Ölbronn-Dürrn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800632
Ölbronn-Dürrn là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Ötisheim
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800633
Ötisheim, còn được gọi trong tiếng địa phương là Aize, là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Remchingen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800634
Remchingen () là một thị xã thuộc huyện Enz, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm bên bờ sông Pfinz, cách Karlsruhe 14 km về phía đông nam và cách Pforzheim 12 km về phía tây bắc.
Sternenfels
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800637
Sternenfels là xã nằm ở cực bắc huyện Enzkreis, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây bao gồm các làng Diefenbach và Sternenfels.
Straubenhardt
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800638
Straubenhardt là một thị xã thuộc huyện Enz, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Karlsruhe 21 km về phía đông nam và cách Pforzheim 14 km về phía tây.
Vườn sao băng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800639
Vườn sao băng có thể là:
Tiefenbronn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800641
Tiefenbronn là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Wiernsheim
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800642
Wiernsheim làm một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Wimsheim
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800643
Wimsheim là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Wurmberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800645
Wurmberg là một thị xã nằm ở huyện Enz, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Nguyễn Văn Hoan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800676
Nguyễn Văn Hoan (1907–1991), tên thường gọi là Giáo Nam, bí danh Kính Trắng, là nhà thơ, nhà cách mạng, nhà sử học Việt Nam. Thân thế. Nguyễn Văn Hoan sinh năm 1907 ở thành phố Nam Định. Thời trẻ, ông theo học ở trường Thành chung Nam Định, cùng lứa với Đặng Châu Tuệ, Đặng Xuân Khu, Phạm Năng Độ, Nguyễn Khắc Lượng, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Văn Năng, Nguyễn Danh Đới, Đặng Xuân Thiều, Nguyễn Cao Luyện... Tháng 3 năm 1926, ông cùng các bạn học tham gia bãi khóa để tang Phan Chu Trinh dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Đức Cảnh, Đặng Xuân Khu và Nguyễn Khắc Lượng. Tháng 4, ông bị chính quyền thực dân đuổi học cùng nhiều bạn học khác, phải lên Hà Nội làm công nhân. Cuộc đời. Cuối năm 1926, ông gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1927, ông tham dự lớp học chính trị ở Quảng Châu. Tháng 4, ông cùng Trần Trung Tín được Kỳ bộ Bắc Kỳ phân công trở về Nam Định gây dựng cơ sở, mà trước hết là công nhân nhà máy sợi. Cho đến cuối năm 1927, cùng với thầy giáo Đào Đình Mẫn, tổng cộng sáu chi bộ Hội đã được thành lập ở Nam Định. Từ tháng 6, ông được cử sang Ninh Bình, thành lập chi bộ đầu tiên trong tỉnh do Lương Văn Thăng làm Bí thư. Tháng 9 năm 1927, Ban Tỉnh bộ lâm thời Thanh niên tỉnh Nam Định được thành lập do Nguyễn Văn Hoan làm Bí thư. Tháng 9 năm 1928, Tỉnh bộ Nam Định tổ chức hội nghị đại biểu Tỉnh bộ, bầu ra Ban Chấp hành chính thức gồm Nguyễn Văn Hoan, Đào Gia Lựu, Vũ Huy Hào, vẫn do ông làm Bí thư. Cuối năm 1928, trong hội nghị Kỳ bộ Bắc Kỳ, ông đã nêu ra những mặt hạn chế của tổ chức Thanh niên và chỉ ra thực tế cần phải thành lập một tổ chức mới để chỉ đạo phong trào cách mạng. Đầu năm 1929, ông được Kỳ bộ cử làm Bí thư Liên tỉnh bộ Nam Định-Ninh Bình-Hà Nam, hoạt động chủ yếu ở Ninh Bình, chức vụ Bí thư Tỉnh bộ Nam Định chuyển giao cho Nguyễn Văn Phúc.
Nguyễn Văn Hoan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800676
Ngày 17 tháng 6 năm 1929, Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập, ông tích cực xúc tiến việc thành lập các chi bộ cộng sản ở Ninh Bình. Tháng 10, Tỉnh ủy lâm thời Ninh Bình được thành lập, gồm Nguyễn Văn Hoan, Nguyễn Văn Phúc, Trần Quang Tặng, do Nguyễn Văn Hoan làm Bí thư. Nhân ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Mười, Tỉnh ủy cho in ấn tờ báo "Dân cày" làm cơ quan ngôn luận, tiến hành rải truyền đơn và dán khẩu hiệu ở những nơi đông dân. Ngày 7 tháng 11, Nguyễn Văn Hoan cùng Lương Văn Tụy tiến hành treo lá cờ búa liềm lên đỉnh núi Non Nước. Ngày 18 tháng 11, trên đường chuyển báo "Dân Cày" đến cơ sở, ông cùng Lương Văn Tụy bị thực dân Pháp bắt và giam giữ ở nhà lao Ninh Bình, sau đó áp giải về nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Dù bị giam giữ, nhưng ông vẫn làm biên tập cho tờ báo bí mật "Tù nhân báo", "Đường cách mạng" của chi bộ Đảng nhà tù. Ngày 29 tháng 4 năm 1930, ông cùng Lương Văn Tụy bị đưa ra xét xử ở Tòa thượng thẩm Hà Nội với tội danh "Cộng sản". Đây là phiên tòa đầu tiên xét xử tội "Cộng sản" ở Việt Nam. Ông bị kết án khổ sai chung thân, lưu đày Côn Đảo. Tại Côn Đảo, ông tiếp tục làm biên tập cho tờ báo bí mật "Tiến lên". Tháng 7 năm 1936, ông được trả tự do. Tháng 11, ông viết hồi ký "Côn Lôn" tố cáo tội ác của thực dân ở Côn Đảo. Bài viết được Phan Tử Nghĩa dịch ra tiếng Pháp với nhan đề "Poude Condore", đăng trên hai kỳ của báo "". Năm 1939, ông bị trục xuất khỏi Hà Nội và bị quản thúc ở Thái Bình. Năm 1944, ông trốn về Nam Định hoạt động. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ngày 21 tháng 8 năm 1945, ông là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Nam Định. Năm 1948, ông chuyển sang công tác ở Bộ Tư pháp. Năm 1955, ông làm Viện trưởng Viện Công tố phúc thẩm Hà Nội (tiền thân của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao).
Nguyễn Văn Hoan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800676
Năm 1961, ông chuyển sang làm Phó ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, cố vấn Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Phó Giám đốc Bảo tàng Cách mạng Việt Nam cho đến khi về hưu. Ông mất năm 1991. Tác phẩm. Trong thời gian bị giam giữ ở Ninh Bình và Côn Đảo, ông có sáng tác nhiều bài thơ, tiêu biểu như: "Gửi người cùng bị bắt", "Trước tòa án thực dân", "Say", "Tự hào", "Hận", "Khóc đồng chí Lương Văn Tụy", "Đường xa gánh nặng", "Lại vào xà lim", "Đón xuân trong xà lim", "Ra về nhớ bạn"... Một số bài được in trong hai tập thơ "Tiếng hát trong tù" (1973–1974) và "Thơ ca cách mạng (1925–1945)" (1973). Sách "Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 36" (2000) sưu tầm được 34 bài thơ và bài báo "Côn Lôn" do chính ông chỉnh lý lần cuối. Năm 1970, ông vẽ một tấm bản đồ Côn Đảo tặng người bạn tù là Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng. Tấm bản đồ được Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng treo trang trọng ở nhà số 35 Trần Phú (Hà Nội, nay là trụ sở Cục trẻ em) cho đến khi Chủ tịch nước qua đời. Tặng thưởng. Năm 1955, lá cờ đỏ búa liềm do ông và Lương Văn Tụy treo trên núi Non Nước được đích thân ông tìm thấy trong kho hồ sơ của Tòa thượng thẩm Hà Nội. Hiện lá cờ đang được bảo quản ở Bảo tàng Ninh Bình. Cuốn sách "Đường Kách mệnh" được trưng bày ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam hiện nay được ông sưu tầm và tặng lại cho bảo tàng vào năm 1959. Đó là một trong nhiều bản in được Nguyễn Lương Bằng mang từ Quảng Châu về nước để phân phát cho các đồng chí trong nước. Năm 2012, cuốn "Đường Cách mệnh" hiện vật gốc được công nhận là bảo vật quốc gia. Tên của ông được đặt cho một con đường ở thành phố Nam Định. Gia đình. Con gái ông là bà Nguyễn Bích Ngọc (sinh năm 1947 ở Nam Định) hiện đang sống ở Thành phố Hồ Chí Minh cùng hai người con.
4 đất nước sách Đa-ni-ên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800677
Bốn vương quốc được tiên tri trong sách của Danien là bốn vương quốc sẽ tiên tri về "thời kỳ cuối cùng" và "Vương quốc của Đức Chúa Trời". Bốn đất nước. Bối cảnh lịch sử. Sách Đa-ni-en bắt nguồn từ một tập hợp các truyền thuyết lưu hành trong cộng đồng Do Thái ở Babylon và Mesopotamia trong thời kỳ Ba Tư và Thời kỳ Hy Lạp hóa sớm (từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 3 trước Công nguyên), và sau đó được mở rộng bằng những tầm nhìn của các chương 7-12 trong thời kỳ Macca-bê (giữa thế kỷ thứ hai). Chủ đề "bốn vương quốc" được đề cập rõ ràng trong Đa-ni-ên chương 2 và Đa-ni-ên chương 7, và được ví dụ trong hình ảnh của Đa-ni-ên chương 8. Khái niệm của Đa-ni-ên về bốn đất nước làm chủ thế giới cũng có những câu chuyện tương tự ở Hy Lạp về lịch sử thần thoại. Những nhà nghiên cứu đã đạt được sự nhất trí rằng bốn con thú trong chương 7, giống như 4 thứ kim loại trong chương 2, tượng trưng cho Babylon, Phe-rơ-sơ, Hy Lạp và La Mã. Đa-ni-ên chương 2. Trong chương 2, Nê-bu-cát-nết-sa mơ thấy một bức tượng được làm bằng bốn vật liệu khác nhau, được xác định là bốn vương quốc: Đa-ni-ên chương 7. Trong chương 7, Đa-ni-ên có một khải huyền về bốn thú lên từ biển, và được nói rằng chúng đại diện cho bốn vương quốc: Điều này được giải thích là một vương quốc thứ tư, khác với tất cả các vương quốc khác; nó "sẽ nuốt chửng toàn bộ trái đất, dẫm nát và đè nát nó" (câu 23). Mười chiếc sừng đại diện cho mười nước sẽ tách ra từ vương quốc này (câu 24). Một sừng khác (sừng "nhỏ") sau đó xuất hiện và nhổ bật ba chiếc sừng trước đó: điều này được giải thích là một vị vua tương lai. Đa-ni-ên chương 8. Trong chương 8, Đa-ni-ên nhìn thấy một con dê có hai sừng húc một con dê con có một sừng; sừng bị gãy và bốn sừng xuất hiện. Các tư tưởng. Lịch sử đế chế La Mã. Bức tranh khắc này năm 1630 về tầm nhìn của Daniel trong chương 7 do Matthäus Merian thể hiện theo tư tưởng của Jerome về bốn con thú, nhưng thay vì "Babylon" là "Assyria".
4 đất nước sách Đa-ni-ên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800677
Sự giải thích dưới đây đại diện cho quan điểm truyền thống của các nhà lịch sử tôn giáo Do Thái và Kitô giáo, các nhà tiên tri học, các nhà bày tỏ quan điểm tương lai, các nhà thuộc phái Giáo hội đa giáo kết hợp tương lai Do Thái và Kitô giáo, cũng như một số người Do Thái mà thường nghiên cứu để xác định các đế chế trong sách Daniel (với những biến thể) như sau: Giêrônimô đã diễn dài điều này trong phần sách nghiên cứu về lời tiên tri sách Đa-ni-ên của ông. So sánh với Sách Khải Huyền. Các nhà giải thích Kitô giáo thường đọc Sách Daniel cùng với Sách Khải Huyền của Kinh Thánh mới. Các Tổng giám mục giải thích con thú mười sừng trong Khải Huyền 13 như đế chế La Mã. Đa số các nhà nhận định học hiện đại hiểu "thành phố trên bảy đồi" trong Khải Huyền là tham chiếu đến La Mã. Lý thuyết Đền thứ hai. Full Preterists, Idealists, một số nhà phản cải cách tôn giáo và những người không tin vào lời tiên tri Đa-ni-ên thì lại dạy rằng tiên tri của Daniel kết thúc với sự phá hủy của Đền thứ hai của Jerusalem và không có nhiều hệ quả vượt ra ngoài điều đó. Các nhà tiên tri học, các nhà thuộc phái Giáo hội đa giáo, các nhà phản cải cách tin rằng các tiên tri của Đa-ni-ên đã dừng lại với sự phá hủy của Đền thứ hai của Jerusalem; nhưng sẽ tiếp tục ở một thời điểm trong tương lai sau một khoảng thời gian không có tiên tri để giải thích cho Kỷ nguyên Giáo hội. Quan điểm truyền thống. Ngày tận thế. Trong hơn hai ngàn năm qua, các học giả đã suy đoán về ý nghĩa của những chủ đề chạy suốt Sách Đa-ni-en: Cơ Đốc phục lâm ngày thứ bảy. Lời tiên tri về 2.300 ngày trong Đa-ni-ên 8:14 đóng vai trò quan trọng trong triết lý của Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm. 2.300 ngày được giải thích là 2.300 năm bằng nguyên tắc Theo giáo lý của Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, khoảng thời gian này bắt đầu cùng với lời tiên tri Bảy mươi Tuần vào năm 457 trước Công nguyên và kết thúc vào năm 1844 sau Công nguyên. Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm tin rằng cuối của khoảng thời gian này sẽ đưa đến sự kết thúc của một thời đại và được ủng hộ bởi Phong trào Phục lâm vào đầu thế kỷ 19.
4 đất nước sách Đa-ni-ên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800677
Hầu hết các tôn giáo Tin Lành thứ Bảy xuất phát từ Phong trào Phục lâm có các niềm tin tương tự về , cũng như các tôn giáo cải cách khác của đức tin Kitô giáo. Một số trong số này, đặc biệt là Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, đã từ lâu cho rằng hội thánh phản bội được hình thành khi Giám mục của Giáo hội La Mã bắt đầu thống trị và mang đến sự ô uế tôn giáo, cho phép thờ các hình tượng của người ngoại đạo, và thành lập Giáo hội Công giáo La Mã, và thờ phượng vào Chủ Nhật thay vì ngày Sabat (thứ bảy), là điều không có trong với Kinh Thánh. Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm dạy rằng thế lực Cái Sừng nhỏ dã được tiên tri dấy lên sau khi Đế quốc La Mã tách ra chính là Giáo hoàng. Năm 533, Justinianus I, Hoàng đế của Đế chế Đông La Mã, chính thức công nhận giám mục (giáo hoàng) của Rome là người đứng đầu của tất cả các giáo hội Kitô giáo. Do sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Arian tại một số vùng thuộc Đế chế La Mã, giám mục của Rome không thể thực hiện quyền lực này. Cuối cùng, vào năm 538, Belisarius, một trong những tướng của Justinian, đánh bại các vương quốc phiến loạn cuối cùng của Người Ostrogoth tại thành phố Rome và giáo hoàng La Mã đã có thể bắt đầu thiết lập quyền lực toàn cầu của mình. Do đó, bằng sự giúp đỡ quân sự của Đế chế Đông La Mã, giáo hoàng La Mã đã trở nên có quyền lực tuyệt đối trên toàn khu vực của Đế quốc La Mã cũ. Giống như nhiều nhà lãnh đạo thời kỳ Cải cách, những bài viết của nhà sáng lập Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm - Ellen White phản đối Giáo hội Công giáo như một hội thánh đã sụp đổ và đóng vai trò xấu ác trong kịch bản thời kỳ sau cùng. Bà cho rằng Giáo hội Công giáo chính là kẻ thù của Hội thánh chân thật của Chúa và rằng giáo hoàng chính là Antichrist. Rất nhiều nhà cải chánh, như Martin Luther, John Knox, William Tyndale và những người khác cũng có quan điểm tương tự về Giáo hội Công giáo và giáo hoàng khi họ tách ra khỏi Giáo hội Công giáo trong Thời cải cách. Ellen White đã viết,
Peleng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800703
Peleng là một đảo ngoài khơi bờ biển phía đông của Sulawesi, Indonesia và là đảo lớn nhất của quần đảo Banggai (Kepulauan Banggai). Bao quanh đảo này là biển Banda và biển Molucca, và đảo có diện tích 2.406 km². Một số đảo nhỏ xung quanh Peleng thuộc nhóm quần đảo Banggai là Banggai, Bowokan , Labobo, Kebongan, Kotudan, Tropettenando, Timpau, Salue Besar, Salue Kecil, Masepe và Bangkulu. Vào tháng 1 năm 2020, một bài báo đăng trên tạp chí Science đã ghi lại việc phát hiện ra 10 loài và phân loài chim biết hót mới, 9 trong số chúng được tìm thấy ở Peleng. Phần lớn người dân trên đảo Peleng kiếm sống bằng nghề trồng dừa, khoai lang hoặc đánh cá. Có năm thủ phủ khu trên đảo là Bulagi, Tataba, Liang, Salakan và Sambiut. Các thị trấn lớn nhất của đảo là Basiano và Bonganang.
Ngày Quốc tế Giáo dục
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19800704
Ngày Quốc tế Giáo dục (tên chính thức: International Day of Education) là một ngày quốc tế được cử hành hàng năm vào ngày 24 tháng 1 nhằm tôn vinh ngành giáo dục. Ngày 3 tháng 12 năm 2018, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua nghị quyết tuyên bố ngày 24 tháng 1 là Ngày Quốc tế Giáo dục, nhằm tôn vinh vai trò của giáo dục trong việc đảm bảo hòa bình thế giới và phát triển bền vững trên toàn cầu. Lịch sử. Ngày 24 tháng 1 được tuyên bố là Ngày Giáo dục Quốc tế theo một nghị quyết đã được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào ngày 3 tháng 12 năm 2018. Sau đó, vào ngày 24 tháng 1 năm 2019, Ngày Quốc tế Giáo dục lần đầu tiên được tổ chức. Thông điệp của Đại Hội đồng đang được lan truyền trên toàn cầu. Những nỗ lực chân thành của họ trên toàn thế giới đã cho thấy những kết quả đầy hứa hẹn qua việc cải thiện trình độ học vấn của người dân giúp tạo ra một xã hội có văn hóa bằng sự lạc quan và cơ hội.