title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Anna Ilyinichna Yelizarova-Ulyanova
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805559
Anna Ilyinichna Yelizarova-Ulyanova (tên khai sinh: Anna Ilyinichna Ulyanova; – 19 tháng 10 năm 1935) là một nhà cách mạng, chính khách, và dịch giả người Nga. Bà là chị ruột của lãnh tụ cộng sản Vladimir Ilyich Lenin, và là người con cả trong gia đình Ulyanov-Blank. Tiểu sử. Anna Ilyinichna Ulyanova sinh ngày 26 tháng 8 năm 1864 ở Nizhny Novgorod. Bà là con gái đầu lòng của ông Ilya Nikolayevich Ulyanov, một nhà toán học kiêm vật lý học, và bà Maria Alexandrovna Ulyanova ("nhũ danh" Blank). Từ năm 1869, gia đình Ulyanov chuyển đến sống ở thị trấn Simbirsk để Ilya tiện công tác. Tháng 11 năm 1880, Anna tốt nghiệp trường gymnasium Mariinsky ở Simbirsk, vinh dự nhận huy chương bạc và chứng chỉ gia sư từ Bộ Giáo dục Công cộng Nga. Năm 1883, Anna theo học Khóa Bestuzhev dành cho nữ sinh trên Sankt-Peterburg, ham mê đọc triết và lịch sử. Năm 1886, bà tham gia cuộc biểu tình sinh viên tưởng nhớ 25 năm ngày mất của N. A. Dobrolyubov, một nhà văn có tư tưởng cách mạng. Tháng 3 năm 1887, bà bị bắt giữ vì liên can đến vụ mưu sát Sa hoàng Aleksandr III do em trai, Aleksandr Ulyanov, lên kế hoạch. Chính quyền ban đầu định trục xuất Anna tới Siberia, song nhờ sự can thiệp của mẹ, bà được ân xá và chỉ phải lãnh 5 năm quản thúc tại khu đất của gia đình ở làng Kokushkino, Kazan. Em trai Anna kém may mắn hơn; tuy bà Maria đã van xin chính quyền tha mạng cho con trai, Aleksandr rốt cuộc vẫn bị treo cổ vào tháng 5. Anna dành thời gian ở Kokushkino đọc sách và học hỏi từ em trai Vladimir Lenin, người cũng bị đày tới đây vì tham gia biểu tình ở Đại học Kazan. Tháng 6 năm 1889, bà kết hôn với nhà cách mạng Mark Elizarov, một người bạn cũ từ hồi ở Bestuzhev. Mùa thu năm 1893, vì án phát lưu đã mãn hạn, bà cùng gia đình rời Kazan tới Moskva. Tại đây, thông qua mối liên lạc của Lenin, bà gia nhập nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Marx của Mitskevich. Trong thời gian ấy, bà dịch sang tiếng Nga vở kịch "Thợ dệt" của Gerhart Hauptmann để tuyên truyền trong nội bộ nhóm và soạn một cuốn sách gập tóm tắt tác phẩm "Nhà máy mang lại gì cho nhân dân và lấy đi những gì" của Evstafiy Mikhailovich Dementiev.
Anna Ilyinichna Yelizarova-Ulyanova
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805559
Năm 1894, các hội nhóm cách mạng của Moskva hợp nhất thành "Công đoàn Moskva", rồi nhanh chóng liên kết với nhiều hội nhóm ở các thành phố lân cận. Bà góp công xây dựng mạng lưới liên lạc, gây quỹ, viết thư và sách tuyên truyền cho các hội cách mạng ngầm của Đảng Dân chủ Xã hội và Công đoàn Moskva.
Trật tự từ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805560
Trật tự từ (chữ Anh: "Word order") là thứ tự tổ hợp từ và ngữ trong ngôn ngữ, bao gồm thứ tự sắp xếp chủ ngữ, vị ngữ và tân ngữ, thứ tự sắp xếp tu sức ngữ và trung tâm ngữ, thứ tự sắp xếp giữa các tu sức ngữ. Dựa vào thứ tự sắp xếp chủ ngữ, vị ngữ và tân ngữ, ta có thể chia làm sáu loại hình: SOV, SVO, VSO, VOS, OVS và OSV. Thành phần cấu tạo trật tự từ. Phương pháp sắp xếp chủ từ, thụ từ và động từ tổng cộng có sáu loại, dưới đây lấy S đại diện chủ từ (chủ ngữ), V đại diện động từ (vị ngữ), O đại diện thụ từ (tân ngữ), sắp xếp theo trật tự từ thường sử dụng nhất cho đến trật tự từ ít sử dụng nhất: Tiếng Đức và tiếng Hà Lan, khi mệnh đề chính chỉ có một động từ thì trật tự từ của nó có thể coi là SVO, nhưng nếu mệnh đề chính có từ hai động từ hoặc mệnh đề phụ thuộc trở lên thì trật tự từ của nó là SOV, ngữ pháp liên quan đến hai loại ngôn ngữ này vui lòng xem thêm trật tự từ V2 (). Bảng biểu bên dưới cho thấy số lượng ngôn ngữ và tỉ lệ phần trăm vào năm 2013 và 2015 do Matthew Dryer điều tra. Nghiên cứu năm 2005 đã điều tra ra 1.228 ngôn ngữ, nghiên cứu mới hơn vào năm 2013 đã điều tra ra 1.377 ngôn ngữ. Trong nghiên cứu của ông Dryer không có báo cáo tỉ lệ phần trăm. Vị trí trung tâm ngữ. Ngôn ngữ thuộc trật tự từ SOV (và các ngôn ngữ khác có trật tự từ là tân ngữ nằm trước vị ngữ) có khuynh hướng đem tính từ đặt trước danh từ, trật tự từ loại này gọi là trung tâm ngữ đặt sau; ngôn ngữ thuộc trật tự từ VSO (và các ngôn ngữ khác có trật tự từ là vị ngữ nằm trước tân ngữ) thì ngược lại, có khuynh hướng đem tính từ đặt sau danh từ, trật tự từ loại này gọi là trung tâm ngữ đặt trước. Đối với ngôn ngữ thuộc trật tự từ SVO mà nói, cách sắp xếp trung tâm ngữ đặt sau và trung tâm ngữ đặt trước đều thường thấy.
George Foreman
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805562
George Edward Foreman (sinh ngày 10 tháng 1 năm 1949) là một cựu võ sĩ quyền anh chuyên nghiệp người Mỹ, doanh nhân, giáo sĩ và tác giả. Trong quyền anh, ông có biệt danh là "George lớn" (Big George) và thi đấu từ năm 1967 đến năm 1997. Ông là nhà vô địch hạng nặng thế giới hai lần và từng đoạt huy chương vàng Olympic. Là một doanh nhân, ông được biết đến với thương hiệu George Foreman Grill. Ông trải qua một tuổi thơ đầy khó khăn, Foreman tham gia quyền anh nghiệp dư và giành được huy chương vàng ở hạng nặng tại Thế vận hội Mùa hè 1968. Chuyển sang chuyên nghiệp vào năm sau, ông ấy đã giành được danh hiệu hạng nặng thế giới với trận đấu loại trực tiếp với Joe Frazier, người đã bất bại ở vòng hai vào năm 1973. Ông ấy đã bảo vệ đai hai lần trước khi chịu trận thua chuyên nghiệp đầu tiên trước Muhammad Ali trong trận "Rumble in the Jungle" mang tính biểu tượng vào năm 1974. Không thể đảm bảo một cơ hội danh hiệu khác, Foreman giải nghệ sau trận thua Jimmy Young vào năm 1977. Sau khi mơ thấy Chúa và ông gọi là một sự hiển linh thần thánh, Foreman đã trở thành một giáo sĩ Cơ đốc được phong chức. Mười năm sau, ông đã tuyên bố trở lại võ đài, và vào năm 1994 ở tuổi 45 đã giành được danh hiệu vô địch hạng nặng WBA, IBF và Lineal championship hạng nặng bằng cách hạ gục Michael Moorer, 26 tuổi. Ông đã đánh rơi đai WBA thay vì đối mặt với việc bảo vệ danh hiệu bắt buộc của mình ngay sau đó, và sau một lần bảo vệ danh hiệu thành công trước Axel Schulz, Foreman cũng từ bỏ danh hiệu IBF của mình vào ngày 28 tháng 6 năm 1995. Ở tuổi 46 và 169 ngày, ông là nhà vô địch hạng nặng thế giới lớn tuổi nhất trong lịch sử. Foreman là người lớn tuổi nhất từng giành chức vô địch quyền anh hạng nặng thế giới ở các danh hiệu lớn và là người lớn tuổi thứ hai ở bất kỳ hạng cân nào sau Bernard Hopkins (ở hạng nặng nhẹ - Light heavyweight). Ông giải nghệ năm 1997 ở tuổi 48, với thành tích chung cuộc là 76 trận thắng (68 knockout) và 5 trận thua. Foreman đã được ghi danh vào Đại sảnh Danh vọng Quyền anh Thế giới và Đại sảnh Danh vọng Quyền anh Quốc tế. Tổ chức Nghiên cứu Quyền anh Quốc tế đánh giá Foreman là võ sĩ hạng nặng thứ 8 vĩ đại nhất mọi thời đại.
George Foreman
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805562
Năm 2002, ông được "The Ring" vinh danh là một trong 25 võ sĩ vĩ đại nhất trong 80 năm qua. The Ring xếp Foreman là tay đấm thứ 9 vĩ đại nhất mọi thời đại. Ông ấy là nhà phân tích bên lề cho chương trình quyền anh của HBO trong 12 năm cho đến năm 2004. Ngoài quyền anh, Foreman còn là một doanh nhân thành đạt và được biết đến với việc quảng bá thương hiệu lò nướng George Foreman Grill, đã bán được hơn 100 triệu chiếc trên toàn thế giới. Năm 1999, Foreman đã bán bản quyền thương mại của lò nướng này với giá 138 triệu USD. Cuộc sống đầu đời. George Foreman sinh ra ở Marshall, Texas. Ông lớn lên trong cộng đồng Fifth Ward của Houston, Texas, với 6 anh chị em. Mặc dù ông được nuôi dưỡng bởi J. D. Foreman, người mà mẹ ông đã kết hôn khi George còn nhỏ, cha ruột của ông là Leroy Moorehead. Theo lời thừa nhận của chính mình trong cuốn tự truyện, George là một thanh niên hay gây rắc rối. Anh ta bỏ học năm 15 tuổi và dành thời gian làm một kẻ cướp vặt. Ở tuổi 16, Foreman đã thay đổi và thuyết phục mẹ đăng ký cho anh ta vào Job Corps sau khi nhìn thấy quảng cáo về Job Corps trên TV. Foreman lấy bằng GED và được đào tạo để trở thành thợ mộc và thợ nề. Sau khi chuyển đến Pleasanton, California, với sự giúp đỡ của một người giám sát, anh ấy bắt đầu tập luyện quyền anh. Foreman quan tâm đến bóng bầu dục và rất thần tượng Jim Brown, nhưng lại từ bỏ nó để theo đuổi quyền anh. Sự nghiệp quyền anh nghiệp dư. Thế vận hội Mùa hè 1968. Foreman đã giành được huy chương vàng môn Boxing hạng nặng tại Thế vận hội Olympic Mexico năm 1968. Trong trận chung kết, Foreman đánh bại Jonas Čepulis của Liên Xô; trọng tài dừng trận đấu ở hiệp thứ hai. Khuôn mặt của Čepulis đã chảy máu trong hiệp đầu tiên sau những cú đấm của Foreman, và phải dừng trận đấu hiệp thứ hai. Čepulis, chơi quyền anh ở Litva, là một cựu binh 29 tuổi với sự nghiệp boxing nghiệp dư kéo dài 12 năm, trải qua hơn 220 trận đấu, khá kinh nghiệm và hơn Foreman 10 tuổi. Sau khi giành huy chương vàng, Foreman đi vòng quanh võ đài mang theo một lá cờ nhỏ của Hoa Kỳ và cúi chào đám đông.
George Foreman
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805562
Foreman khẳng định rằng việc giành được huy chương vàng Olympic là thành tích mà anh ấy tự hào nhất trong sự nghiệp quyền anh của mình, hơn cả hai danh hiệu thế giới của anh ấy. Sự nghiệp quyền anh chuyên nghiệp. Sự nghiệp ban đầu. Foreman chuyển sang thi đấu chuyên nghiệp vào năm 1969 với trận hạ đo ván Donald Walheim trong 3 hiệp tại Thành phố New York. Anh ấy đã có tổng cộng 13 trận đấu trong năm đó, chiến thắng tất cả (11 trận hạ đối thủ đo ván). Năm 1970, Foreman tiếp tục tiến tới danh hiệu hạng nặng một cách thuyết phục, giành chiến thắng trong tất cả 12 trận đấu của mình (11 trận hạ đo ván đối thủ). Trong số những đối thủ mà anh ta đánh bại có Gregorio Peralta, người mà Foreman đã đấu tại Madison Square Garden, mặc dù Peralta cho thấy rằng Foreman rất dễ bị phản đòn nhanh kết hợp với phong cách quyền anh quyết đoán. Foreman sau đó đã hạ đo ván George Chuvalo trong ba hiệp. Sau chiến thắng này, Foreman đã đánh bại Charlie Polite trong 4 hiệp và Boone Kirkman trong 3 hiệp. Peralta và Chuvalo là những chiến thắng cấp thế giới đầu tiên của Foreman. Peralta là võ sĩ hạng nặng hạng 10 trên thế giới vào tháng 1 năm 1970 trên "The Ring", trong khi Chuvalo đứng thứ 7 trên thế giới theo số tháng 3 năm 1971 của The Ring. Năm 1971, Foreman thắng thêm 7 trận nữa, thắng tất cả bằng cách hạ đo ván đối thủ, bao gồm cả trận tái đấu với Peralta, người mà anh ấy đã đánh bại bằng hạ đo ván ở vòng thứ 10 và trận chung kết ở Oakland, California, và chiến thắng trước Leroy Caldwell, người mà anh ấy đã hạ gục trong vòng thứ hai. Sau khi lập kỷ lục 32–0 (29 trận hạ đo ván), Foreman được Hiệp hội Quyền Anh Thế giới và Hội đồng Quyền Anh Thế giới xếp hạng là người thách đấu số một.
Lethrinus mitchelli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805570
Lethrinus mitchelli là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2021. Từ nguyên. Từ định danh được đặt theo tên của David Mitchell, một nhà bảo tồn nhiều kinh nghiệm, người đã hết lòng vì công việc ở vịnh Milne. Phân bố và môi trường sống. "L. mitchelli" có phân bố giới hạn ở Tây Thái Bình Dương, và mới chỉ được biết đến ở vịnh Milne (Papua New Guinea). "L. mitchelli" được thu thập ở độ sâu khoảng 20–25 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. mitchelli" là 20 cm (chiều dài tiêu chuẩn). Thân màu nâu, bụng hơi trắng. Hai bên lườn có một dải sọc màu nâu, thuôn nhọn về phía đuôi; một phần trước bị cắt ngang bởi một dải trắng chéo. Như nhiều loài "Lethrinus" khác, "L. mitchelli" có thể chuyển sang kiểu hình lốm đốm, với một loạt các vạch nâu đen ở thân trên và dưới, cũng như những vệt sẫm, thường thấy khi chúng bơi hoặc đứng im gần sát đáy biển, có lẽ là ngụy trang để tránh sự nguy hiểm. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 4 dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 47.
Hàm Ninh Công chúa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805574
Hàm Ninh Công chúa (chữ Hán: 咸宁公主; 1385 – 27 tháng 7 năm 1440), không rõ tên thật, là hoàng nữ của Minh Thành Tổ Chu Đệ, hoàng đế thứ hai của nhà Minh. Cuộc đời. Hàm Ninh Công chúa sinh năm Hồng Vũ thứ 18 (1385), là hoàng nữ thứ tư của Minh Thành Tổ, mẹ là Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu. Bà là con út của hoàng hậu, là em cùng mẹ với Minh Nhân Tông Cao Sí. Vĩnh Lạc năm thứ nhất (1403), bà được vua cha phong là Hàm Ninh Công chúa (咸宁公主), gả cho Hầu tước tướng quân Tống Anh, con trai thứ ba của "Tây Ninh hầu" Tống Thạnh. Tống Anh còn một người anh thứ là phò mã Tống Hổ, là chồng của An Thành Công chúa (chị thứ ba của Hàm Ninh). Do phò mã Hổ bị cách tước nên tước "Tây Ninh hầu" được truyền lại cho phò mã Anh. Tháng 6 năm Chính Thống thứ 5 (1440), công chúa Hàm Ninh qua đời, hưởng thọ 56 tuổi. Chính Thống thứ 14 (1449), trong lúc giao tranh với quân Ngõa Lạt của Dã Tiên, phò mã Anh tử trận, tặng "Vận Quốc công", thụy "Trung Thuận". Con trai của hai người là Tống Kiệt tập tước Hầu.
Vụ tấn công thành phố Nakano 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805586
xảy ra vào lúc 16:26 (theo giờ địa phương), ngày 25 tháng 5 năm 2023, tại thành phố Nakano, tỉnh Nagano. Khi một người đàn ông đã dùng dao và súng giết chết 4 người. Nghi phạm đã bị bắt giữ sau vài giờ cố thủ trong nhà. Nghi phạm đã khai rằng anh không hài lòng thái độ cảnh sát đang cười toe toét khi mình đang xin giấy phép hành nghề. Diễn biến. Theo lời kể nhân chứng, một người đàn ông đeo mặt nạ đang cầm con dao lớn đuổi theo một người phụ nữ, sau đó đâm vào lưng cô. Khi các sĩ quan cảnh sát đến hiện trường, nghi phạm đã bắn súng săn, khiến nhiều người bị thương. Sau vụ tấn công, nghi phạm tìm nơi ẩn náu trong dinh thự của Chủ tịch Hội đồng thành phố Nakano, Masamichi Aoki. Trong cuộc bao vây để bắt tội phạm, hai người thân của nghi phạm đã trốn thoát khỏi nhà. Hung thủ đã bị bắt vào lúc 4:37 sáng ngày hôm sau và được xác định là con trai cả của Masamichi Aoki (chủ tịch Hội đồng thành phố Nakano.
Deadpool 3
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805590
Deadpool 3 là một bộ phim siêu anh hùng sắp ra mắt của Mỹ dựa trên nhân vật Deadpool của Marvel Comics, bộ phim được sản xuất bởi Marvel Studios và Maximum Effort và được phân phối bởi Walt Disney Studios Motion Pictures. Phim được dự định là bộ phim thứ 37 trong Vũ trụ Điện ảnh Marvel (MCU) và là phần tiếp theo của "Deadpool" (2016) và "Deadpool 2" (2018). Bộ phim được đạo diễn bởi Shawn Levy, được viết bởi nhóm biên kịch Rhett Reese và Paul Wernick cùng với Zeb Wells, Ryan Reynolds và Levy. Reynolds đóng vai Wade Wilson / Deadpool cùng với Hugh Jackman, Morena Baccarin và Brianna Hildebrand. Quá trình phát triển phần phim Deadpool thứ ba bắt đầu tại 20th Century Fox vào tháng 11 năm 2016, nhưng đã bị tạm dừng sau khi Disney mua lại công ty hoàn tất vào tháng 3 năm 2019. Quyền kiểm soát nhân vật sau đó được trao cho Marvel Studios, hãng đã bắt đầu phát triển một bộ phim mới với Reynolds trở lại vai diễn. Bộ phim tích hợp Deadpool vào MCU trong khi vẫn giữ nguyên xếp loại R của các phần phim trước. Wendy Molyneux và Lizzie Molyneux-Logelin đã tham gia vào tháng 11 năm 2020 để viết kịch bản. Reese và Wernick được thuê trở lại từ hai bộ phim đầu tiên để viết lại kịch bản vào tháng 3 năm 2022 cùng với sự chỉ đạo của Levy. Việc tuyển diễn viên bổ sung diễn ra vào đầu năm 2023 khi các nhà biên kịch bổ sung được tiết lộ. Quá trình quay phim bắt đầu vào cuối tháng 5 năm 2023 tại London. "Deadpool 3" dự kiến ​​sẽ được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 11 năm 2024 và là bộ phim đầu tiên của Giai đoạn 6 thuộc MCU.. Vai diễn và diễn viên. Ngoài ra, Rob Delaney đảm nhận vai Peter, một thành viên trong đội " X-Force " của Wilson, từ "Deadpool 2" (2018). Emma Corrin đã được chọn vào một vai chính phản diện không được tiết lộ, trong khi Matthew Macfadyen được chọn vào một vai không được tiết lộ. Sản xuất. Phát triển. Sau thành công của "Deadpool" (2016), 20th Century Fox bắt đầu phát triển hai phần tiếp theo. Phần phim thứ ba được thiết lập để bao gồm đội siêu anh hùng X-Force. Đạo diễn "của Deadpool," Tim Miller, đã chọn không quay lại các phần tiếp theo do sự khác biệt về mặt sáng tạo với ngôi sao Ryan Reynolds, và David Leitch đã được thuê để chỉ đạo "Deadpool 2" (2018) vào tháng 11 năm 2016. Fox đang tìm kiếm một nhà làm phim khác để phát triển phần phim thứ ba.
Deadpool 3
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805590
Vào tháng 3 năm 2017, đồng biên kịch "của Deadpool" và "Deadpool 2," Rhett Reese cho biết X-Force sẽ được giới thiệu trong"Deadpool 2" trước khi góp mặt trong một bộ phim phụ đã được lên kế hoạch sẽ ra mắt "thứ gì đó lớn hơn", tách biệt với bộ phim Deadpool thứ ba sẽ "hợp đồng" và mang tính cá nhân hơn. Khi việc mua lại 21st Century Fox của Disney được công bố vào tháng 12 năm 2017, Giám đốc điều hành của Công ty Walt Disney, Bob Iger, cho biết Deadpool sẽ được tích hợp với Vũ trụ Điện ảnh Marvel (MCU) được xếp hạng PG-13,  và Disney sẵn sàng làm R được đánh giá cao về phim Deadpool "miễn là chúng tôi cho khán giả biết điều gì sắp xảy ra". Anh ấy nói thêm rằng một "thương hiệu Marvel-R" có thể được phát triển cho những nhân vật như Deadpool. Vào tháng 5 năm 2018, Reynolds cho biết bộ phim Deadpool thứ ba có thể không được thực hiện do nhượng quyền thương mại chuyển trọng tâm sang X-Force,  nhưng Reese và cộng sự viết kịch bản Paul Wernickcảm thấy phần phim thứ ba "chắc chắn" sẽ xảy ra sau khi Reynolds tạm rời xa nhân vật này và bộ phim X-Force được phát hành. Họ so sánh điều này với bộ phim chéo "The Avengers" (2012) được phát hành giữa "Iron Man 2" (2010) và "Iron Man 3" (2013).  Leitch bày tỏ sự quan tâm đến việc quay lại với một bộ phim Deadpool khác, tùy thuộc vào "thời gian và địa điểm".. Phần phim Deadpool thứ ba được cho là đang được phát triển tích cực vào tháng 8 năm 2018, với kế hoạch sản xuất diễn ra ở Atlanta, Georgia, thay vì ở Vancouver nơi các phần trước được thực hiện. "Ngày xửa ngày xưa" , một phiên bản PG-13 của"Deadpool 2" , được phát hành vào cuối năm. Nó đã được Disney và Marvel Studios theo dõi cẩn thận để xem nó có thể thông báo cách tiếp cận của họ với nhân vật trong MCU PG-13 như thế nào.  Trong khi quảng cáo cho "Once Upon a Deadpool" , Reynolds xác nhận rằng phần phim thứ ba của Deadpool đang được phát triển, và nói rằng nó sẽ đi theo một "hướng hoàn toàn khác";  Reynolds sau đó tiết lộ rằng nó được dự định là một bộ phim du hành theo phong cách "Rashomon" (1950) và cũng sẽ có nhân vật "X-Men" của Hugh Jackman là James "Logan" Howlett / Wolverine, trong khi Jackman tiết lộ trước đó anh ấy đã hình dung ra ý tưởng của Reynolds về một bộ phim hợp tác như vậy lấy cảm hứng từ "48 Hrs."
Deadpool 3
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805590
(1982) khi đang tham gia buổi chiếu phim "Deadpool" vào năm 2016, mặc dù đã chính thức từ bỏ vai diễn vào thời điểm đó.  Vào tháng 3 năm 2019, Disney chính thức mua lại Fox và giành được quyền làm phim một số nhân vật Marvel Comics cho Marvel Studios, bao gồm cả Deadpool.  Các bộ phim dựa trên Marvel mà Fox đang phát triển đã bị "tạm dừng". Josh Brolin tiết lộ vào tháng 6 năm 2019 rằng anh ấy đã nhiều lần thảo luận về tương lai của mình với tư cách là Cable với Marvel Studios, sau khi đóng vai chính nhân vật đó trong "Deadpool 2" đồng thời đóng vai Thanos trong MCU. Vào tháng 10, Zazie Beetz cho biết cô sẽ rất ngạc nhiên nếu không đóng lại vai Domino trong "Deadpool 2" trong một bộ phim trong tương lai. Tháng đó, Reese và Wernick cho biết họ và Reynolds đang "nghỉ ngơi rất cần thiết sau Deadpool" trong khi chờ tin từ Marvel Studios về tương lai của loạt phim. Họ xác nhận rằng một bộ phim Deadpool khác sẽ được thực hiện, nó sẽ được xếp loại R giống như những bộ phim trước đó và nó sẽ tích hợp nhân vật này với MCU. Wernick tuyên bố rằng chưa bao giờ có thời gian cố định cho phần phim Deadpool thứ ba giữa lúc họ kiệt sức sau khi hoàn thành "Deadpool 2"và thông báo về việc Disney mua lại Fox, Reese nói thêm rằng giờ đây họ phải "đạt được ý tưởng phù hợp và một khi chúng tôi làm được, tôi nghĩ chúng tôi sẽ bắt đầu cuộc đua." Các nhà biên kịch cảm thấy sẽ có nhiều nhân vật hơn trong MCU để đóng vai trò là lá chắn cho Deadpool so với các lựa chọn hạn chế của họ trong số các nhân vật mà Fox đã kiểm soát trong các phần phim trước.  Vào thời điểm đó, Reynolds tiết lộ rằng anh ấy đang gặp gỡ với Marvel Studios. Vào tháng 12, Reynolds xác nhận rằng anh và "cả nhóm" đang tích cực phát triển một bộ phim Deadpool tại Marvel Studios.  Reynolds sau đó tiết lộ rằng anh ấy đã thúc giục Feige đưa Wolverine vào phim vào thời điểm đó, mặc dù đã được thông báo rằng "khi đó thì không thể". Trong suốt tháng 10 năm 2020, Reynolds và Marvel Studios đã gặp gỡ các nhà biên kịch tiềm năng cho bộ phim Deadpool tiếp theo, với Wendy Molyneux và Lizzie Molyneux-Logelin được thuê để viết kịch bản vào tháng 11 năm đó.
Deadpool 3
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805590
Reynolds và Marvel Studios cảm thấy lời giới thiệu của các nhà biên kịch phù hợp với ý định riêng của họ đối với bộ phim, bộ phim sẽ vẫn được xếp hạng R. Reynolds và Marvel Studios đã sẵn sàng để Leitch trở lại với bộ phim, nhưng anh ấy không được mong đợi sẽ làm như vậy do các cam kết khác trong suốt năm 2021 và không tham gia vào việc thuê biên kịch. Leitch xác nhận rằng anh ấy đã gặp Marvel cho bộ phim, nhưng cả hai đều hiểu rằng lịch trình và các cam kết khác sẽ ngăn cản anh ấy quay lại.  Vào tháng 1 năm 2021, chủ tịch Marvel Studios Kevin Feigetái khẳng định rằng bộ phim sẽ có xếp hạng R và sẽ lấy bối cảnh trong MCU. Reynolds đang giám sát quá trình viết kịch bản vào thời điểm đó và Feige cho biết việc quay phim sẽ không bắt đầu cho đến sau năm 2021 do lịch trình bận rộn của Reynolds. Anh ấy gọi Deadpool là "một kiểu nhân vật rất khác" cần có trong MCU. Tháng 7 năm đó, Reynolds và Taika Waititi đã quảng cáo cho bộ phim "Free Guy" (2021) của họ bằng cách lần lượt xuất hiện với tư cách là nhân vật MCU của Deadpool và Waititi là Korg trong một quảng cáo cho bộ phim đó có tựa đề là "Deadpool và Korg React" . Deadpool thảo luận về việc gia nhập MCU với Korg trong quảng cáo. Tháng sau, Reynolds cho biết anh dự kiến ​​quay phim vào năm 2022, mà Feige đã sớm xác nhận. Anh ấy cho biết Marvel Studios đã nghĩ đến khung thời gian phát hành cho bộ phim và chỉ ra rằng Reynolds cũng đang thực hiện kịch bản. Vào tháng 11, Beetz và Rob Delaney bày tỏ sự quan tâm đến việc trở lại với vai hai nhân vật Domino và Peter trong "Deadpool 2" của họ cho các bộ phim trong tương lai,  trong khi Reynolds nói rằng họ đang "cắm đầu" vào bộ phim. Shawn Levy được tiết lộ sẽ đạo diễn bộ phim vào tháng 3 năm 2022, trước đó đã từng đạo diễn Reynolds trong "Free Guy" và "The Adam Project" (2022). Reese và Wernick cũng được thuê để viết lại kịch bản. Levy cho biết việc quay phim sẽ không bắt đầu cho đến sau năm 2022 do lịch trình bận rộn của anh ấy trong suốt thời gian còn lại của năm. Cuối tháng đó, Reynolds xác nhận rằng công ty sản xuất Maximum Effort của anh sẽ đồng sản xuất bộ phim.
Deadpool 3
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805590
Reese và Wernick đã nói vào tháng 6 rằng họ rất hào hứng khi sử dụng các yếu tố của MCU làm bối cảnh cho bộ phim, đồng thời nói rằng Disney và Marvel ủng hộ những trò đùa về MCU mà họ viết cho Deadpool sau thành công trong hai phần trước. phim. Khi được hỏi liệu họ đang làm việc trên một kịch bản mới hoàn toàn hay đang làm lại kịch bản trước đó của chị em nhà Molyneux, Reese và Wernick từ chối xác nhận, lưu ý rằng đã có "câu trả lời" nhưng không muốn tiết lộ chi tiết cốt truyện.  Cũng vào thời điểm đó, Raymond Chan được tiết lộ là nhà thiết kế sản xuất, sau khi trước đó đã làm việc cho loạt phim Marvel Studios "The Falcon and the Winter Soldier" (2021).  Reese cũng nói rằng bộ phim sẽ là một con cá mắc cạncâu chuyện cho Deadpool, trong đó anh ta sẽ là một kẻ mất trí bị rơi vào "thế giới rất lành mạnh" của MCU. Vào tháng 7, Feige cho biết bộ phim sẽ được nâng cấp theo cách tương tự như các phần ba khác của loạt phim MCU, chẳng hạn như "Captain America: Civil War" (2016), "Thor: Ragnarok" (2017) và "Avengers: Infinity War" (2018) và nói rằng thật vui khi được làm việc với Reynolds. Tiền kỳ. Vào giữa tháng 8 năm 2022, Jackman quyết định thực hiện phần phim Deadpool thứ ba với ý tưởng của Reynolds khi đang đi trên đường, và anh ấy đã liên lạc với Reynolds về việc tham gia bộ phim với vai Wolverine cùng thời điểm Reynolds đang chuẩn bị đóng phim. gặp Feige về nó. Reynolds đã liên tục đưa ra ý tưởng hợp tác cho bộ phim với Jackman trong những năm trước. Reynolds đã thông báo vào tháng 9 rằng Jackman sẽ trở lại với vai Wolverine cho "Deadpool 3", cùng với ngày phát hành của bộ phim được ấn định vào ngày 6 tháng 9 năm 2024. Reynolds và Jackman đã sớm làm rõ rằng bộ phim sẽ không can thiệp vào các sự kiện của "Logan" (2017), trong đó nhân vật chết và thay vào đó sẽ là "tách biệt", ​​và xảy ra trước "Logan". Jackman cho biết sự trở lại của Logan sẽ là kết quả của một thiết bị tường thuật mà Marvel Studios đã nghĩ ra có thể được sử dụng để di chuyển theo các mốc thời gian và sẽ không can thiệp vào các sự kiện của "Logan", điều quan trọng đối với anh;  anh ấy cũng đã liên hệ vớiđạo diễn James Mangold "của Logan" để thông báo cho ông ấy rằng câu chuyện của "Deadpool 3" sẽ không can thiệp vào "Logan".
Deadpool 3
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805590
Công việc tiền sản xuất đã bắt đầu từ tháng 10 năm 2022, khi việc quay phim dự kiến ​​bắt đầu vào tháng 1 năm 2023, trước khi việc phát hành bị lùi lại đến ngày 8 tháng 11 năm 2024  Jackman chỉ ra rằng bộ phim có thể không có tiêu đề "Deadpool 3", được gọi là vào thời điểm đó.  Reynolds cho biết vào tháng 11 rằng việc quay phim sẽ bắt đầu ngay trước giữa năm 2023, trong khi "Collider" thông báo dự kiến ​​quay phim vào khoảng tháng 4 đó.. Reynolds khi đó gọi bộ phim là "Phim Deadpool/Người Sói". Levy cho biết vào tháng sau rằng việc phát triển bộ phim là một trong những "trải nghiệm sáng tạo thú vị nhất" của anh ấy, với lý do nhận thức về bản thân, bạo lực và ngôn ngữ thô tục. Anh ấy tiết lộ rằng việc quay phim sẽ bắt đầu vào tháng Năm. Jackman sau này gọi bộ phim là "Wolverine và Deadpool". Đến tháng 2 năm 2023, Patrick Stewart, người đóng vai Charles Xavier trong loạt phim "X-Men" và đóng lại vai này trong phim MCU "Doctor Strange in the Multiverse of Madness" (2022), đã được tiếp cận để có khả năng xuất hiện trong phim ảnh. Cuối tháng đó, Emma Corrintham gia dàn diễn viên trong một vai phản diện chính không được tiết lộ. Marvel đã cân nhắc Corrin cho vai diễn này từ cuối năm 2022, nhưng phải giải quyết các vấn đề về lịch trình với các cam kết khác của họ trước khi họ ký hợp đồng. Levy được tiết lộ sẽ sản xuất bộ phim cùng với Feige và Reynolds. Quá trình quay phim sau đó được ấn định diễn ra ở London. Vào tháng 3 năm 2023, có thông tin cho rằng Cơ quan quản lý phương sai thời gian, Mobius M. Mobius (do Owen Wilson thể hiện) và Miss Minutes (do Tara Strong lồng tiếng), sẽ góp mặt trong phim.  Cuối tháng đó, Matthew Macfadyen tham gia dàn diễn viên với một vai không được tiết lộ,  được mô tả là "bánh xe thứ ba" của Deadpool và Wolverine,  trong khi Karan Soni và Leslie Uggams được tiết lộ sẽ đóng lại vai của họ. vai Dopinder và Blind Al trong các phần phim "Deadpool" trước đó.Zeb Wells đã đồng viết kịch bản vào thời điểm đó,  sau khi trước đó từng là biên kịch cho loạt phim MCU "She-Hulk: Attorney at Law" (2022) và phim "The Marvels" (2023), đồng thời là biên kịch chính của loạt phim "Marvel Zombies" (2024).  Vào đầu tháng 4, Morena Baccarin tiết lộ rằng cô đã được yêu cầu đóng lại vai Vanessa và đang đàm phán với Marvel Studios để thực hiện điều đó.
Deadpool 3
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805590
Cô ấy đã được thiết lập để tiếp tục vai trò của mình vào cuối tháng đó cùng với Stefan Kapičić trở lại để lồng tiếng cho Colossus. Tháng sau, Delaney được tiết lộ sẽ đóng lại vai Peter từ "Deadpool 2" , khi Reynolds và Levy được tiết lộ là cũng đã làm việc trên kịch bản.  Cuối tháng 5, Brianna Hildebrand và Shioli Kutsuna được tiết lộ sẽ đảm nhận vai trò tương ứng của họ là Negasonic Teenage Warhead và Yukio. Quay phim. Chụp ảnh chính bắt đầu vào ngày 22 tháng 5 năm 2023, tại Luân Đôn, với George Richmond là nhà quay phim. Trước đó dự kiến ​​bắt đầu vào tháng 1 năm 2023,  và sau đó vào khoảng tháng 4 năm 2023. Việc quay phim dự kiến ​​sẽ không bị ảnh hưởng bởi cuộc đình công năm 2023 của Hiệp hội Nhà văn Hoa Kỳbắt đầu vào đầu tháng 5 năm 2023, ngoài việc Reynolds không thể đóng góp vào kịch bản trong quá trình quay phim, như anh ấy đã làm trong hai phần phim trước, theo quy tắc đình công. Marvel Studios được cho là đang lên kế hoạch quay những gì họ có thể trong quá trình chụp ảnh chính và thực hiện mọi điều chỉnh cần thiết về văn bản trong quá trình quay lại đã được lên lịch của bộ phim. Levy đã làm việc với Marvel Studios và những người sáng tạo loạt phim "Stranger Things" của Netflix (trong đó Levy là nhà sản xuất điều hành) để cho phép anh ấy đạo diễn ít nhất một tập của mùa cuối cùng của loạt phim đó, vì anh ấy biết rằng lịch trình đã lên kế hoạch cho "Deadpool 3" sẽ trùng với quá trình sản xuất "Stranger Things" trước khi phần sau bị trì hoãn vì cuộc đình công của các nhà văn. Phát hành. "Deadpool 3" dự kiến ​​sẽ được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 11 năm 2024. Phim có thể thuộc Giai đoạn 6 của MCU.
Ibrahim Aziz
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805593
Ibrahim Aziz (sinh ngày 9 tháng 8 năm 1969) là một vận động viên điền kinh người Kuwait. Anh đã thi đấu trong nội dung chạy tiếp sức 4 × 400 mét nam tại Thế vận hội Mùa hè 2000.
.ipa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805596
Một tệp .ipa là tệp lưu trữ ứng dụng iOS và iPadOS lưu trữ ứng dụng iOS/iPadOS. Mỗi tệp .ipa bao gồm một tệp nhị phân và chỉ có thể được cài đặt trên thiết bị iOS, iPadOS, hoặc thiết bị macOS dựa trên ARM. Các tệp có phần mở rộng .ipa có thể được giải nén bằng cách thay đổi phần mở rộng thành .zip và giải nén. Phần lớn các tệp .ipa không thể cài đặt lên Giả lập iPhone bởi vì chúng không chứa nhị phân cho kiến trúc x86, Kiến trúc ARM của điện thoại di động và máy tính bảng. Để chạy các ứng dụng trên trình giả lập, các tệp dự án gốc có thể được mở bằng Xcode SDK.Tuy nhiên, một số tệp .ipa có thể được mở trên trình mô phỏng bằng cách giải nén và sao chép tệp .app được tìm thấy trong thư mục Payload. Một số ứng dụng đơn giản có thể chạy trên trình mô phỏng thông qua phương pháp này. ipa là một định dạng thực tế được Apple sử dụng và không có thông số kỹ thuật nào về nó. Nó là một dạng của quản lý quyền kĩ thuật số tồn tại ở định dạng để kiểm soát việc phân phối lại cho một ID Apple duy nhất. Trước iTunes 12.7 (tháng 9 năm 2017), người dùng có quyền truy cập trực tiếp vào các tệp ipa dưới dạng tải xuống App Store. Cấu trúc của một tệp .ipa. IPA có cấu trúc tích hợp sẵn để iTunes và App Store có thể nhận ra. Ví dụ dưới đây cho thấy cấu trúc của một tệp IPA: Như danh sách ở trên, thư mục Payload là nơi chứa tất cả dữ liệu ứng dụng. Tệp iTunes Artwork có độ phân giải 512×512 pixel ở định dạng PNG, chứa biểu tượng của ứng dụng để hiển thị trong iTunes và ứng dụng App Store trên iPad. Tệp iTunesMetadata.plist chứa nhiều thông tin khác nhau, từ tên và ID của nhà phát triển, số nhận dạng gói, thông tin bản quyền, thể loại, tên ứng dụng, ngày phát hành, ngày mua, v.v. Việc sử dụng tệp JPEG cho là phổ biến nhưng không có giấy tờ . . Kể từ năm 2017, Apple đã sử dụng LZFSE thay vì thuật toán Zip đã đăng ký trong IPA. Trường "compression method" trong trường hợp này đặt thành 99. Việc code signing (ký mã) được xử lý trong thư mục gói .app. trong thư mục .app . TThư mục META-INF chỉ chứa metadata về chương trình nào đã được sử dụng để tạo IPA. Các tệp thực thi .ipa chưa được ký.
.ipa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805596
Các tệp thực thi .ipa chưa được ký. Một tệp .ipa chưa được ký (Unsigned) có thể được tạo bằng cách sao chép thư mục có phần mở rộng .app từ thư mục Products của ứng dụng trong Xcode đến một folder gọi là Payload và nén sau bằng lệnh codice_1. Sau đó có thể cài đặt tệp .ipa chưa được ký trên thiết bị iOS đã được jailbreak sử dụng phần mềm bên thứ ba. "AppSync" là công cụ để cài đặt các ứng dụng homebrew. Tương tự như trường hợp hack game console, mọi người được biết là sử dụng cài đặt này để vi phạm bản quyền, trái với mong muốn của nhà phát triển công cụ: một số cộng đồng ngầm hình thành xung quanh việc mua một ứng dụng và sau đó chia sẻ phiên bản không có chữ ký và không có DRM của ứng dụng đó.
Baatarkhüügiin Battsetseg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805597
Baatarkhüügiin Battsetseg (sinh ngày 21 tháng 1 năm 1976) là một vận động viên điền kinh người Mông Cổ. Cô đã thi đấu trong nội dung chạy 5000 mét nữ tại Thế vận hội Mùa hè 2000.
Zelalem Bacha
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805601
Zelalem Bacha (sinh ngày 10 tháng 1 năm 1988) là một vận động viên điền kinh người Bahrain. Năm 2019, anh đã thi đấu trong nội dung chạy dài nam tại Giải vô địch Thế giới Vượt rào Quốc tế 2019 được tổ chức tại Aarhus, Đan Mạch. Anh kết thúc cuộc đua ở vị trí thứ 90.
Chân bì
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805605
Chân bì (tiếng Anh: "Dermis"), còn được gọi là trung bì, là một lớp da nằm giữa thượng bì (là thành phần chính của da) và hạ bì. Nó bao gồm các mô liên kết dày đặc hợp thức, có vai trò quan trọng trong việc cung cấp độ đàn hồi và độ bền cho da. Chân bì được chia thành hai phần: vùng giao tiếp với lớp biểu bì được gọi là vùng nhú, và phần sâu hơn được gọi là lớp hạ bì dạng lưới. Lớp hạ bì tạo ra một kết nối chặt chẽ với lớp biểu bì thông qua màng đáy. Cấu trúc của chân bì bao gồm collagen, sợi đàn hồi và ma trận ngoại sợi. Nó cũng chứa các cơ quan thụ cảm cơ học để nhận biết cảm giác chạm, cũng như các cơ quan thụ cảm nhiệt để cảm nhận nhiệt độ. Ngoài ra, chân bì còn chứa nang lông, tuyến mồ hôi, tuyến bã nhờn (tuyến dầu), tuyến apocrine, mạch máu và dây thần kinh. Mạch máu trong chân bì đảm nhận vai trò cung cấp dưỡng chất và loại bỏ chất thải cho cả lớp biểu bì và thượng bì.
Lethrinus conchyliatus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805609
Lethrinus conchyliatus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1959. Từ nguyên. Tính từ định danh trong tiếng Latinh có nghĩa là "khoác lên màu tím", không rõ hàm ý, có lẽ đề cập đến vùng "màu tím nhạt" ở gốc vây ngực của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. conchyliatus" có phân bố rộng rãi ở Ấn Độ Dương, từ Mozambique và Tanzania, gồm các đảo quốc như Seychelles và Madagascar trải dài về phía đông đến biển Andaman và đảo Sumatra. "L. conchyliatus" sống gần các rạn san hô và có nền đáy cát, đá vụn hoặc thảm cỏ biển ở độ sâu đến ít nhất là 220 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. conchyliatus" là 76 cm, thường bắt gặp với chiều dài khoảng 50 cm. Thân màu nâu hoặc xám, nhạt hơn ở bụng. Môi, gốc trên vây ngực và rìa nắp mang màu đỏ. Các vây màu cam nhạt hoặc lốm đốm. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 3 hoặc 4 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8 (tia thứ nhất thường dài nhất); Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 47–48. Sinh thái. Thức ăn của "L. conchyliatus" chủ yếu bao gồm động vật giáp xác và cá nhỏ. Thương mại. "L. conchyliatus" được đánh bắt vì mục đích thương mại và câu cá giải trí.
Visitación Badana
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805611
Visitación Badana Ribagorda(sinh ngày 2 tháng 7 năm 1937) là một vận động viên người Philippines. Cô đã tham gia cuộc thi nhảy xa nữ tại Thế vận hội Mùa hè năm 1960.
Sân vận động Hainaut
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805615
Sân vận động Hainaut là một sân vận động đa năng ở Valenciennes, Pháp. Sân được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá và các trận sân nhà của câu lạc bộ Valenciennes FC. Nó đã thay thế Stade Nungesser làm sân nhà của đội bóng. Sân vận động có sức chứa 25.172 khán giả cho các trận đấu bóng đá, nhưng sức chứa của nó có thể được mở rộng lên 35.000 cho các buổi hòa nhạc. Sân vận động là một trong số những sân vận động tổ chức Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019. Sân vận động được xây dựng với tổng chi phí 75 triệu euro. Nó chứa 2.600 ghế câu lạc bộ và 16 hộp sang trọng, hai màn hình video khổng lồ, mỗi màn hình rộng 48 mét vuông. Mái của nó chứa 1.800 tấn thép. Trận đấu đầu tiên. Trận đấu đầu tiên trên sân vận động này diễn ra vào tối ngày 26 tháng 7 năm 2011. Đó là 1 trận giao hữu giữa Valenciennes FC và Borussia Dortmund. Đội khách đã giành chiến thắng 1–0 trước một kỷ lục của câu lạc bộ là 22.778 người.
Salem Nasser Bakheet
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805620
Salem Nasser Al shingel (sinh ngày 27 tháng 6 năm 1977) là vận động viên nhảy cao người Bahrain. Thành tích lớn nhất của anh là huy chương bạc tại Giải vô địch châu Á 2002. Kỷ lục cá nhân của anh là 2,19 mét ngoài trời và 2,13 mét trong nhà, đều được thiết lập vào năm 2006, và đều là kỷ lục quốc gia hiện tại.
Hoa vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805630
<ns>0</ns> <revision> <parentid>70575356</parentid> <timestamp>2023-08-23T22:09:30Z</timestamp> <contributor> <ip>14.170.71.77</ip> </contributor> <model>wikitext</model> <format>text/x-wiki</format> Hoa vương là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Vie Channel và VieON do Đỗ Phú Hải và Hoàng Trần Minh Đức làm đạo diễn. Phim được mua kịch bản chuyển thể từ bộ phim nổi tiếng "Nội chiến, mẹ kế và con dâu - Flower of Queen" của Hàn Quốc (2015). Phim phát sóng vào lúc 20h00 từ thứ 2 đến thứ 4 hàng tuần bắt đầu từ ngày 8 tháng 5 năm 2023 trên kênh HTV2, VTVCab 1 và 19h00 từ thứ 2 đến thứ 4 hàng tuần trên kênh VTVCab 19. Nội dung. Anh Thư là một người phụ nữ tuổi 40, quyết tâm phải nhanh chóng khẳng định vị trí của mình và khao khát thành công bằng mọi giá. Cô bất chấp tất cả mọi thứ để đạt được điều mình muốn, không bao giờ để cho ai coi thường và chà đạp mình. Sau đó, Anh Thư thành công trong việc tiếp cận giám đốc giàu có Hải Đăng (Ngọc Quỳnh) rồi trở thành vợ anh. Thế nhưng cuộc hôn nhân này không dễ dàng như cô hằng tưởng khi bà Trà My (Hồng Ánh) - mẹ kế của chồng cô cũng là một người phụ nữ tham vọng không kém. Vì bảo vệ quyền thừa kế cho con trai bà là Đăng Khoa (Nhật Trường), bà dùng mọi cách để chia rẽ Anh Thư và Hải Đăng. Câu chuyện càng gây cấn hơn khi Trà My phát hiện ra Anh Thư có một đứa con riêng là Trúc Mai (Rima Thanh Vy), mà cô bé đó lại đang yêu đương với đứa con trai yêu quý của bà. Tại sao một người có tất cả mọi thứ (tình yêu, con cái, tiền của và nhan sắc...) như bà Trà My lại không ngừng muốn cướp đoạt gia sản của chồng bà? Nhạc phim. Sáng tác: Tăng Nhật Tuệ<br>Thể hiện: Anh Tú Sáng tác: Tăng Nhật Tuệ<br>Thể hiện: Myra Trần
Vương tôn nữ Adrienne, Nữ công tước xứ Blekinge
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805651
Vương tôn nữ Adrienne, Nữ công tước xứ Blekinge (tên đầy đủ: Adrienne Josephine Alice, sinh ngày 9 tháng 3 năm 2018) là con út của Vương nữ Madeleine, Nữ Công tước xứ Hälsingland và Gästrikland và Christopher O'Neill. Khi sinh ra cô xếp thứ 10 trong thứ tự kế vị ngai vàng Vương thất Thụy Điển, hiện tại cô xếp thứ 11 trong dòng kế vị này. Thông tin về sự ra đời. Chào đời. Vương tôn nữ Adrienne sinh ngày 9 tháng 3 năm 2018 lúc 00:41 tại Bệnh viện Danderyd, nặng 3,465 gram và đo được 50 cm khi mới sinh. Cùng ngày, 21 phát súng chào mừng đã được bắn từ trạm Skeppsholmen ở Stockholm, quận Boden, Karlskrona, Gothenburg và Härnösand để chào mừng sự kiện này. Đến ngày 12 tháng 3, tên và tước vị của cô được Vua Carl XVI Gustaf công bố trong một buổi lễ trước hội đồng nhà nước. Một nghi thức tạ ơn "Te Deum" đã được tổ chức vào chiều cùng ngày tại Nhà nguyện Hoàng gia thuộc Cung điện Stockholm để chào mừng Vương tôn nữ. Đồng thời, Adrienne là người đầu tiên được tấn phong thành công tước của xứ Blekinge vốn vĩ là một công quốc của Thụy Điển trong tước hiệu vì trước đây các thành viên Vương thất thường sẽ được phong trở thành công tước của các tỉnh thành Thụy Điển. Rửa tội. Vương tôn nữ Adrienne được rửa tội bởi Đức Tổng Giám mục Antje Jackelén tại Nhà thờ Cung điện Drottningholm vào ngày 8 tháng 6 năm 2018, cùng nơi các anh chị cô đã được rửa tội. Cha mẹ đỡ đầu của cô gồm Anouska d'Abo, Coralie Charriol Paul, Nader Panahpour, Gustav Thott, Charlotte Kreuger Cederlund và Natalie Werner. Đặt tên. Vương tôn nữ tên đầy đủ là "Adrienne Josephine Alice". Cái tên được chọn ""Adrienne" là một tên mới và không thực sự phổ biến trong Vương thất Thụy Điển. Tên đệm "Josephine" nhằm tưởng nhớ đến bà cố Josephine Cesario và cuối cùng là "Alice"" để tôn vinh mẹ của Vương hậu Silvia là Quý bà Alice Sommerlath đã mất vào năm 1997. Tước hiệu. Kể từ ngày 7 tháng 10 năm 2019, sau khi Vua Carl XVI Gustaf tuyên bố tinh giảm quy mô gia đình bao gồm các con của Vương tử Carl Philip và Vương nữ Madeleine, vì vậy Vương tôn nữ Adrienne không còn sử dụng kính ngữ "Royal Highness" và không còn phải thực hiện các nhiệm vụ Vương thất nữa.
TKS
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805655
TKS là xe tăng siêu nhẹ của Ba Lan được phát triển trong những năm 1930 và được sử dụng trong Chiến tranh Ba Lan và Mặt Trận Xô-Đức mặc dù nó không hề hiệu quả trong các trận chiến lớn. Thiết Kế. Xe tăng siêu nhẹ TKS dựa trên khung gầm của xe tăng siêu nhẹ Carden Loyd của Anh, với thân xe đã được cải tiến và động cơ mạnh hơn, cùng lớp giáp dày tới 8 mm (0,31 in). (10 mm hoặc 0,39 inch trên TKS). Năm 1939, việc trang bị súng máy Nkm wz.38 FK 20 mm (0,79 in) cho xe tăng siêu nhẹ TKS, nhưng chỉ có 24 chiếc trong số được nêu hoàn thành trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ngày 6 tháng 11 năm 1934 Estonia mua 6 chiếc TKS từ Ba Lan, với hợp đồng trị giá hơn 180.000 Krone (đơn vị tiền tệ của Na Uy) . Sau khi Liên Xô chiếm đóng Estonia, những chiếc xe này được đưa vào trang bị cho Hồng quân. Tham Khảo. https://en.wikipedia.org/wiki/TKS
Tái chuẩn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805658
Hans Bethe là người đầu tiên nêu ra giải pháp khắc phục những trở ngại của Lý thuyết lượng tử. Năm 1947, trên chuyến xe lửa từ New York đến Schenectady, sau ông khi tham gia hội nghị tổ chức tại Đảo Shelter về chủ đề này, Hans Bethe đã hoàn thành tính toán phi tương đối đầu tiên về sự dịch chuyển của các vạch quang phổ của nguyên tử Hydro mà trước đó Lamb và Retherford đo được. Mặc dù có những hạn chế trong cách tính của ông, nhưng kết quả thu được khớp đến mức tuyệt vời so với thực nghiệm. Ý tưởng đơn giản nhằm triệt tiêu các giá trị vô hạn để hiệu chỉnh khối lượng và điện tích thu về giá trị hữu hạn như đo bằng các thí nghiệm. Theo cách này, những giá trị vô hạn sinh bởi chuỗi số bị hấp thụ bởi các hằng số và cho kết quả hữu hạn khớp với giá trị đo được từ thí nghiệm. Thủ tục này sau đó gọi là Tái chuẩn hóa. Tái chuẩn hóa là một kỹ thuật đòi hỏi gắn các đại lượng vật lý tại những phép phân kỳ nhất định xuất hiện trong lý thuyết thông qua các tích phân. Sau đó, nó trở thành một trong những công cụ cơ bản của lý thuyết trường lượng tử và trở thành một tiêu chuẩn cho một lý thuyết lượng tử được chấp thuận. Ngay cả khi kỹ thuật tái chuẩn hóa hoạt động khá hiệu quả trong thực hành, Feynman không bao giờ cảm thấy dễ chịu hoàn toàn về tính đúng đắn toán học của nó, và ông coi tái chuẩn hóa giống như "trò xóc đĩa" (shell game) và "hocus pocus" (ma thuật).
Ủy ban Olympic Quốc gia Uruguay
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805662
Ủy ban Olympic Quốc gia Uruguay (, COU) thành lập năm 1923 và được công nhận bởi Ủy ban Olympic Quốc tế cùng năm. Đây là cơ quan tổ chức cho các vận động viên Uruguay tham dự Thế vận hội. Ủy ban là thành viên của PASO, ACNO và ODESUR. Chủ tịch hiện tại của Ủy ban Olympic Quốc gia Uruguay là ông Julio César Maglione. Ông đảm nhận cương vị này từ năm 1987. Xem thêm. Uruguay tại Thế vận hội
Tổng công ty tàu điện ngầm Seoul
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805664
Tổng công ty tàu điện ngầm Seoul () là một Doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu của Chính quyền thành phố Seoul. Được thành lập vào năm 1970, nó cùng với Tổng công ty đường sắt cao tốc đô thị Seoul và Korail, một trong những nhà điều hành chính của Tàu điện ngầm đô thị Seoul. Công ty đã sáp nhập với Tổng công ty đường sắt cao tốc đô thị Seoul vào năm 2017. Các tuyến. Dịch vụ của Seoul Metro bao gồm một phần của Tàu điện ngầm Seoul tuyến 1 và toàn bộ Tàu điện ngầm Seoul tuyến 2, Tàu điện ngầm Seoul tuyến 3, Tàu điện ngầm Seoul tuyến 4. Đối với các tuyến 1, 3 và 4, Korail cùng tham gia khai thác dịch vụ. Seoul Metro kiểm soát các tuyến đường sắt và nhà ga thuộc sở hữu của Chính quyền thành phố Seoul.
Lethrinus atlanticus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805667
Lethrinus atlanticus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830. Từ nguyên. Từ định danh được đặt theo tên tiếng Anh của Đại Tây Dương, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–"icus" trong tiếng Latinh: "thuộc về"). Phân bố và môi trường sống. Đây là loài duy nhất của chi "Lethrinus" được tìm thấy ở Đại Tây Dương. "L. atlanticus" có phân bố trải dài từ Sénégal về phía nam đến Cộng hòa Congo, bao gồm quốc đảo Cabo Verde và São Tomé và Príncipe. "L. atlanticus" sống gần các rạn san hô và có nền đáy cát, đá vụn hoặc thảm cỏ biển ở độ sâu đến ít nhất là 57 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. atlanticus" là 50 cm, thường bắt gặp với chiều dài khoảng 30 cm. Thân màu nâu, phớt hồng hoặc màu ô liu. Cá có phần đầu sẫm màu hơn so với phần thân còn lại. Má có các vệt sọc nhỏ tạo thành kiểu hình lưới bên dưới mắt. Mép miệng có màu hồng. Các vây có màu đỏ đậm hơn. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 4 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8 (tia thứ nhất thường dài nhất); Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 42–46. Sinh thái. Thức ăn của "L. atlanticus" chủ yếu bao gồm các loài thủy sinh không xương sống. Thương mại. "L. atlanticus" được đánh bắt vì mục đích thương mại, được bán ở dạng tươi sống, xông khói hoặc khô cá. Việc đánh bắt "L. atlanticus" diễn ra vào khoảng tháng 6 đến tháng 9 ở bờ biển Ghana.
Ahmad Balkis
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805668
Ahmad Balkis (tiếng Ả Rập: أحمد بلقيس; sinh ngày 14 tháng 1 năm 1961) là một vận động viên người Syria. Anh đã tham gia thi đấu môn nhảy cao nam tại Thế vận hội Mùa hè năm 1980.
Ali Mohamed Al-Balooshi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805670
Ali Mohamed Al-Balooshi (sinh ngày 4 tháng 8 năm 1987) là một vận động viên điền kinh người Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE). Anh đã thi đấu trong nội dung chạy 800 mét nam tại Thế vận hội Mùa hè năm 2004.
Hanna Barakat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805672
Hanna Barakat (tiếng Ả Rập: هناء بركات; sinh ngày 1 tháng 9 năm 1999) là một vận động viên điền kinh người Mỹ gốc Palestine sinh ra tại Los Angeles. Barakat là một sinh viên vận động viên tại Đại học Brown. Cha cô, Mohammed Barakat, đã thi đấu cho Hoa Kỳ tại Thế vận hội Mùa hè năm 1984 trong môn khúc côn cầu. Cô sinh ra tại Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Anh trai của cô, Adam, đã thi đấu bóng đá Mỹ cho Đại học Bucknell tại Lewisburg, Pennsylvania, Hoa Kỳ. Cô đã thi đấu môn điền kinh tại Trường Trung học Flintridge ở California. Vận động viên này là một trong năm người Palestine đại diện cho đất nước tại Thế vận hội Tokyo 2020. Cô đã thi đấu trong nội dung chạy 100 mét nữ, nơi cô thiết lập kỷ lục quốc gia với thời gian chạy là 12,16 giây. Barakat cũng giữ kỷ lục quốc gia Palestine trong nội dung chạy 400 mét và 200 mét.
Tuyến đường sắt sân bay (Bangkok)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805682
Tuyến đường sắt sân bay (ARL) () là một tuyến tốc hành, đường sắt ngoại ô ở Băng Cốc, Thái Lan. Tuyến cung cấp tuyến đường sắt liên kết sân bay từ Sân bay Suvarnabhumi, thông qua Ga Makkasan, đến trung tâm thành phố Băng Cốc tại Ga Phaya Thai. Hầu hết toàn bộ tuyến nằm trên cầu cạn và phía dưới nó là tuyến đường sắt phía Đông. Nó thuộc sở hữu của Đường sắt Nhà nước Thái Lan (SRT), từ năm 2021, được quản lý bởi Asia Era One Company Limited. Tổng chiều dài tuyến là và vận hành từ ngày 23 tháng 8 năm 2010.
Philipp Đẹp trai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805684
Philipp của Áo hay còn gọi là Philipp Đẹp trai (tiếng Đức: "Philipp von Österreich" hay "Philipp der Schöne"; tiếng Tây Ban Nha: "Felipe el Hermoso"; tiếng Pháp: "Philippe Ier le Beau"; tiếng Hà Lan: "Filips van Oostenrijk"; tiếng Anh: "Philip of Austria" hay "Philip the Fair"; 22 tháng 7 năm 1478 – 25 tháng 9 năm 1506), là Công tước xứ Bourgogne, Nhà cai trị của Hà Lan Bourgogne và là Quốc vương Castilla qua đạo luật jure uxoris và thông qua cuộc hôn nhân với Juana I của Castilla trong một khoảng thời gian ngắn năm 1506. Những năm đầu đời. Philipp được sinh ra tại Brugge vào ngày 22 tháng 7 năm 1478, con trai của Maximilian của Áo và Marie I xứ Bourgogne. Khi Philipp ra đời, Quốc vương Louis XI của Pháp, một đối thủ của cha mẹ Philipp, đã lan truyền tin đồn rằng Philipp thực tế là một bé gái. Khi lễ rửa tội của Philipp diễn ra, bà ngoại kế của Philipp là Margaret xứ York đã bế Philipp, trong trạng thái khỏa thân cho dân chúng chiêm ngưỡng để xóa tan tin đồn về giới tính của Philipp. Cái tên Philipp được đặt theo tên ông cố ngoại (ông nội của Marie I) là Philippe III xứ Bourgogne, paternal grandfather of his mother Mary. Trong lần đầu gặp cha, cả hai cha mẹ của Philipp đều tự hào về con trai, Marie còn nói với chồng rằng In his first presentation to the father, the parents expressed double dynastic pride. Mary said: “Sir, look at your son and our child, young Philip of imperial seed.” (Thưa ngài, hãy nhìn con trai ngài, đứa con của chúng ta, Philipp bé nhỏ, dòng dõi của đế quốc). Maximilian hôn đứa trẻ và trả lời rằng: “O noble Burgundian blood, my offspring, named after Philip of Valois.” (Ôi dòng dõi Bourgogne cao quý, con của ta, được đặt tên theo Philippe xứ Valois). Khi mẹ của Philipp, Marie I xứ Bourgogne qua đời năm 1482, Philipp chỉ mới được hơn 3 tuổi, do đó đã thừa hưởng Công quốc Bourgogne ở độ tuổi rất nhỏ và dược giám hộ bởi cha. Bất chấp những sự kiện chính trị diễn ra sau khi mẹ qua đời, bị chia cắt khỏi cha và em gái Margarete, tuổi trẻ của Philipp không thiếu thốn sự xa hoa và một nền giáo dục tương xứng với địa vị. Philipp là một người tài giỏi trong bắn cung, quần vợt, đánh gậy, săn bắn và là một hiệp sĩ gan dạ như cha. Philipp cũng là một vũ công giỏi và được thừa hưởng đam ê âm nhạc từ cha.
Philipp Đẹp trai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805684
Cha của Philipp, Maximilian, do bận rộn với các chiến dịch, thường xuyên vắng mặt trong thời niên thiếu của Philipp (Maximilian đã quay lại chiến đấu chỉ hai tháng sau khi Philipp ra đời). Sau này, vì các vấn đề tình cảm, Maximilian thường tránh trở về Hà Lan và bỏ lỡ lễ nhậm chức năm 1494 và đám cưới năm 1496 của con trai. Gia sư của Philipp là Olivier de la Marche và François de Busleyden, người sau này chính là quan chưởng ấn của Philipp ở Vlaanderen.
Louise Élisabeth xứ Orléans
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805687
Louise Élisabeth xứ Orléans (tiếng Pháp: "Louise Élisabeth d'Orléans"; tiếng Tây Ban Nha: "Luisa Isabel de Orleans"; 9 tháng 12 năm 1709 – 16 tháng 6 năm 1742) là Vương hậu Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Quốc vương Luis I của Tây Ban Nha. Triều đại của hai vợ chồng được coi là một trong những triều đại ngắn nhất trong lịch sử khi chỉ kéo dài trong bảy tháng. Louise Élisabeth là con gái thứ tư sống qua tuổi trưởng thành của Philippe II xứ Orléans và Françoise Marie de Bourbon, người con gái ngoại hôn của Louis XIV của Pháp. Louise Élisabeth thường không được ưa thích tại triều đình Tây Ban Nha do có nhiều sự cố và bê bối của mình, bao gồm các hành vi khiếm nhã như mặc đồ ngủ khi đi dạo quanh cung điện và khiêu khích người khác bằng cách phô bày những bộ phận nhạy cảm ở nơi công cộng. Tuy nhiên, các chẩn đoán thời hiện đại cho rằng những hành vi này của Louise Élisabeth là do rối loạn nhân cách ranh giới nghiêm trọng gây ra. Sau khi trở thành góa phụ, Louise Élisabeth trở về Pháp và qua đời tại Cung điện Luxembourg ở Paris. Hai vợ chồng qua đời mà không có con. Những năm đầu đời. Louise Élisabeth xứ Orléans sinh ra tại Cung điện Versailles, là người con thứ năm và là con gái thứ tư của Philippe II xứ Orléans và Françoise Marie de Bourbon. Mẹ của Louise Élisabeth là Françoise Marie là một trong những người con gái ngoại hôn được hợp pháp hóa bởi Quốc vương Louis XIV của Pháp và tình nhân là Françoise-Athénaïs, Phu nhân xứ Montespan. Là một thành viên của Vương tộc Bourbon, Louise Élisabeth là một "princess du sang" (Tông nữ Pháp)"." Trong gia đình, Louise Élisabeth thường được gọi đơn giản là Élisabeth . Trước khi kết hôn, Louise Élisabeth được biết đến với danh xưng "Mademoiselle de Montpensier" ("Quý cô xứ Montpensier"). Élisabeth lớn lên cùng với một anh trai và năm chị em gái trong đó người anh trai Louis rất thân với Élisabeth. Élisabeth nhận được nền giáo dục không được cao, tương tự như của hai chị gái Charlotte và Adélaïde vì không được coi trọng. Giống như người em gái Louise Diane, Élisabeth có một nền giáo dục tôn giáo. Có lẽ trong tương lai, Élisabeth được cho là sẽ kết hôn với một vị vương nước Đức hoặc Ý ít người biết đến. Kể từ năm 1715, cha của Louise Élisabeth, Philippe II xứ Orléans, trở thành người cai trị nước Pháp trên thực tế với tư cách là nhiếp chính cho Louis XV của Pháp.
Louise Élisabeth xứ Orléans
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805687
Năm 1718, Chiến tranh của Liên minh Bốn bên nổ ra giữa Pháp và Tây Ban Nha. Do đó để đạt được một thỏa thuận về sự hòa bình giữa hai bên, năm 1720, Quốc vương Felipe V của Tây Ban Nha muốn đạt đã đề xuất một thỏa thuận hôn nhân kép: cô con gái ba tuổi của Felipe V, Infanta Mariana Victoria, sẽ kết hôn với vị Quốc vương Pháp 11 tuổi Louis XV, còn con trai và người thừa kế của Felipe là Luis sẽ kết hôn với một trong những cô con gái của ngài nhiếp chính. Thân vương phi xứ Asturias. Vào tháng 11 năm 1721, ở độ tuổi mười một, Louise Élisabeth tiến hành kết hôn theo ủy nhiệm tại Paris. Louise Élisabeth và em gái Philippine Élisabeth sớm rời khỏi Pháp để đến Madrid. Bất chấp sự đón tiếp thiếu tôn trọng từ Vương thất Tây Ban Nha, chủ yếu là từ Elisabetta Farnese, mẹ kế của chồng tương lai, Élisabeth kết hôn với Luis của Tây Ban Nha vào ngày 20 tháng 1 năm 1722 tại Lerma. Khi đến Tây Ban Nha để kết hôn, Éllisabeth mang theo của hồi môn trị giá 4 triệu đồng livres. Mối quan hệ vốn căng thẳng giữa Élisabeth và em gái Philippine trở nên gay gắt hơn khi Philippine bắt đầu được triều đình Tây Ban Nha chú ý nhờ vẻ đẹp, sự quyến rũ và trí thông minh của mình trong khi Élisabeth chưa bao giờ nhận được sự chú ý như vậy. Em gái của Élisabeth sau đó đã đính hôn với "Infante" Carlos của Tây Ban Nha, một người thừa kế ngai vàng khác của Tây Ban Nha; nhưng hôn ước giữa hai người không thành, và em gái của Louise Élisabeth sau đó được đưa trở lại Pháp và qua đời vì bệnh đậu mùa ở tuổi 19 tại Paris. Là vợ của người thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha, Élisabeth nhận được tước vị Thân vương phi xứ Asturias. Vương hậu Tây Ban Nha. Ngày 15 tháng 1 năm 1724, Felipe V thoái vị vì sự bất ổn về mặt cảm xúc của mình, do đó con trai Luis trở thành Quốc vương Luis I của Tây Ban Nha, Élisabeth theo đó cũng trở thành Vương hậu nước Tây Ban Nha. Tuy nhiên chỉ sau bảy tháng trị vì, Luis I đã qua đời vì bệnh đậu mùa. Vì không có người thừa kế nên Felipe V đã trở thành Quốc vương Tây Ban Nha một lần nữa. Élisabeth ở lại Madrid một thời gian sau cái chết của chồng, nhưng hành vi của ngài Thái hậu trước cái chết đột ngột của chồng đã khiến cho Élisabeth cực kỳ không được lòng triều đình Tây Ban Nha.
Louise Élisabeth xứ Orléans
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805687
Kể từ khi đến triều đình Tây Ban Nha, Louise Élisabeth ngày càng được biết đến với vô số bê bối. Một vài trong những bê bối đó là những hành vi khiếm nhã, nhưng những hành vi của Élisabeth thường có tính thất thường và cực kỳ bốc đồng như ăn mặc hở hang đi lại, ợ hơi và xì hơi ở nơi công cộng, chạy quanh các hành lang của cung điện hoặc nhảy xuống ngựa để trèo lên cây. Các chẩn đoán hiện đại cho rằng nhiều đặc điểm hành vi của Louise Éllisabeth tương thích với chứng rối loạn nhân cách ranh giới ngoài tầm kiểm soát. Louise Élisabeth còn xuất hiện ở nơi công cộng một cách bẩn thỉu và hôi hám, từ chối mặc đồ lót, và sẽ cố gắng khiêu khích các cận thần bằng cách để lộ những bộ phận nhạy cảm. Élisabeth cũng từ chối chạm vào thức ăn trên bàn của mình nhưng sau đó sẽ trốn đi và ngấu nghiến bất cứ thứ gì mà bản thân có thể chạm tay vào, cho dù nó có thể ăn được hay không. Những hành vi đó dường như trở nên tồi tệ hơn theo thời gian. Tại một thời điểm, Élisabeth thường lau cửa sổ và sàn cung điện bằng quần áo của mình, khiến các cận thần của mình phải kinh ngạc khi đột ngột cởi bỏ trang phục để lau cửa sổ trong phòng bằng chiếc váy của mình. Chồng của Élisabeth, Quốc vương Luis I, đã viết thư cho cha mình rằng: Luis I sau đó đã giam vợ mình vào một tu viện. Louise Élisabeth đã khóc và viết thư gửi cho chồng những lá thư cầu xin sự tha thứ. Sau đó, Luis cảm thấy có lỗi với vợ và thả Louise ra. Khi Luis lâm bệnh nặng, chính Vương hậu Louise Élisabeth đã cố gắng hết sức để chăm sóc cho chồng khiến cho bản thân có nguy cơ bị lây nhiễm. Tuy nhiên, có lẽ vì sự thị phi và những hành vi kỳ quặc của Élisabeth sau cái chết của Luis, cha chồng của Thái hậu là Felipe V đã tìm cách tiêu hủy cuộc hôn nhân của Élisabeth và Luis. Kết quả là Louise Élisabeth mất đi khoản trợ cấp dành cho Thái hậu Tây Ban Nha và buộc phải quay trở lại Pháp, nơi người cháu họ Louis XV từ chối cho phép Élisabeth cư trú tại Versailles. Thời kỳ góa phụ. Sau cái chết của chồng, Louise Élisabeth trở về Pháp theo yêu cầu của mẹ, Bà Công tước xứ Orléans. Élisabeth buộc phải sống thầm lặng ở Paris, cách xa Triều đình của người cháu họ Louis XV của Pháp.
Louise Élisabeth xứ Orléans
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805687
Với tư cách là Thái hậu Tây Ban Nha, Louise Élisabeth sẽ nhận được khoản trợ cấp hàng năm là 600.000 đồng livres từ nhà nước; tuy nhiên, Tây Ban Nha sẽ không trả tiền trợ cấp vì cuộc hôn nhân giữa Louise Élisabeth và Luis I của Tây Ban Nha đã bị tuyên bố là vô hiệu lực. Khi về Pháp, Louise Élisabeth chính thức được biết đến với tước hiệu Thái hậu của Tây Ban Nha. Điều này dẫn đến tranh chấp giữa Louise Élisabeth với người chị gái Charlotte Aglaé, Công tước phu nhân xứ Modena khi đoàn xe ngựa của Bà Công tước phải để đoàn xe của Louise Élisabeth vượt qua trước vì Vương hậu có địa vị cao hơn Công tước phu nhân. Louise Élisabeth đến Paris một cách thầm lặng và sống tại Lâu đài Vincennes và Cung điện Luxembourg, nơi đã từng được cha của Louise trao cho chị gái của Louise Élisabeth. Élisabeth qua đời ở đó vào ngày 16 tháng 6 năm 1742 và được chôn cất tại nhà thờ Église Saint-Sulpice ở Paris, gần Cung điện Luxembourg, nơi người anh cùng cha khác mẹ của Élisabeth là Louis Charles làm giám mục.
Sân vận động Dodger
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805692
Sân vận động Dodger () là một sân vận động bóng chày nằm ở khu phố Elysian Park của Los Angeles, California. Đây là sân nhà của Los Angeles Dodgers thuộc Major League Baseball. Được khánh thành vào năm 1962, sân được xây dựng trong vòng chưa đầy ba năm với chi phí 23 triệu đô la Mỹ ( đô la vào năm ). Đây là sân vận động bóng chày lâu đời nhất ở bờ phía tây sông Mississippi tại MLB, và là sân vận động bóng chày lâu đời thứ ba về tổng thể tại MLB, sau Fenway Park ở Boston (1912) và Wrigley Field ở Chicago (1914). Đây là sân vận động bóng chày lớn nhất thế giới theo sức chứa chỗ ngồi. Thường được gọi là "sân vận động bóng chày của cầu thủ giao bóng", sân vận động đã chứng kiến 13 trận đấu no-hitter, hai trong số đó là trận đấu hoàn hảo. Sân vận động đã tổ chức Trận đấu All-Star Major League Baseball 1980 và 2022—cũng như các trận đấu của 10 mùa giải World Series (1963, 1965, 1966, 1974, 1977, 1978, 1981, 1988, 2017 và 2018). Sân cũng đã tổ chức các trận bán kết và trận chung kết của World Baseball Classic 2009 và 2017, cũng như giải đấu môn bóng chày của Thế vận hội Mùa hè 1984. Vào ngày 3 tháng 8 năm 2013, sân vận động đã tổ chức một giải đấu bóng đá với sự góp mặt của bốn câu lạc bộ: đội chủ nhà Los Angeles Galaxy và các đội bóng châu Âu bao gồm Real Madrid, Everton và Juventus. Vào năm 2014, trận đấu thông thường trong mùa giải giữa Los Angeles Kings và Anaheim Ducks đã được tổ chức tại đây như một phần của NHL Stadium Series. Sân đôi khi được gọi là "Blue Heaven on Earth" (Thiên đường xanh trên Trái Đất), một biệt danh do huấn luyện viên Dodgers Tommy Lasorda đặt ra.
Moshe Barbalat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805693
Moshe Barbalat (sinh năm 1932) là một vận động viên Paralympic người Israel đã nghỉ hưu và được phong anh hùng chiến tranh. Barbalat đã hoàn thành nghĩa vụ quốc gia trong Lực lượng Phòng vệ Israel trong Lực lượng Tăng hạng. Năm 1968, anh bị thương nặng trong Trận Karameh và mất cả hai chân. Trong tình trạng bị thương nặng và vẫn bị bắn, anh yêu cầu sơ tán các binh sĩ bị thương khác trước khi anh được sơ tán, và vì điều này anh đã được trao Huân chương Dịch vụ Xuất sắc vào năm 1973. Anh đã thi đấu cho Israel và giành được các huy chương vàng trong các môn bóng chuyền đứng nam tại Thế vận hội Paralympic Mùa hè 1976, Thế vận hội Paralympic Mùa hè 1980 và Thế vận hội Paralympic Mùa hè 1984. Anh cũng đã thi đấu trong các môn thể thao dành cho người khuyết tật nam. Tại Thế vận hội Paralympic Mùa hè 1976, anh đã giành huy chương đồng trong môn ném cầu một chân C1 và môn ném đĩa một chân C1, xếp thứ 8 trong môn ném lao một chân C1 và thứ 9 trong môn ném lao chính xác một chân C1. Tại Thế vận hội Paralympic Mùa hè 1980, anh xếp thứ 6 trong môn ném đĩa một chân C1 và thứ 9 trong môn ném cầu một chân C1.
Nothing about us without us
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805699
"Nothing about us without us"-"Không có gì về chúng tôi mà không có (sự tham gia của) chúng tôi" () là một khẩu hiệu được sử dụng để truyền đạt ý tưởng rằng không có chính sách nào được quyết định bởi bất kỳ đại diện nào mà không có sự tham gia đầy đủ và trực tiếp của thành viên (các) nhóm chịu ảnh hưởng bởi chính sách đó. Ở hiện tại, điều này thường liên quan đến các nhóm quốc gia, sắc tộc, người khuyết tật hoặc các nhóm thường bị lề hóa khỏi các cơ hội chính trị, xã hội và kinh tế khác. Câu này có gốc gác từ truyền thống chính trị Trung Âu. Chính khẩu hiệu này đã giúp thiết lập - và, được dịch một cách lỏng lẻo sang tiếng Latin, cung cấp tên cho - hiến pháp năm 1505 của Ba Lan, "Nihil novi", lần đầu tiên chuyển quyền điều hành từ quốc vương sang quốc hội. Sau đó, nó trở thành tiêu chuẩn cho các chuẩn mực dân chủ. Đây cũng là một nguyên tắc lâu đời của luật pháp và chính sách đối ngoại của Hungary, và là nền tảng của chính sách đối ngoại của Ba Lan trong thời kỳ chiến tranh. Người ta đã sử dụng dạng thức tiếng Anh của cụm từ này trong phong trào vì người khuyết tật những năm 1990. James Charlton kể lại rằng ông được nghe về cụm từ này lần đầu tiên là trong buổi nói chuyện của các nhà hoạt động vì người khuyết tật Nam Phi Michael Masutha và William Rowland. Những người này trước đó cũng được nghe câu này từ một nhà hoạt động ở Đông Âu giấu tên trong một hội nghị quốc tế về quyền của người khuyết tật. Năm 1998, Charlton đã sử dụng cụm từ này làm tiêu đề cho một cuốn sách về quyền của người khuyết tật. Nhà hoạt động vì quyền của người khuyết tật David Werner cũng đã sử dụng tựa đề tương tự cho một cuốn sách khác, cũng xuất bản năm 1998. Năm 2004, Liên Hợp Quốc đã sử dụng cụm từ này làm chủ đề cho Ngày Quốc tế Người khuyết tật và nó cũng gắn liền với Công ước về Quyền của Người khuyết tật . Khẩu hiệu này đã được sử dụng mở rộng đến các nhóm và phong trào về quyền khác bên ngoài cộng đồng về quyền của người khuyết tật.
Điếu văn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805700
Một điếu văn (; từ , "eulogia", tiếng Hy Lạp cổ điển, "eu" có nghĩa là "tốt" hoặc "đúng", "logia" có nghĩa là "lời" hoặc "văn bản", cùng nhau để diễn tả "lời khen ngợi") là một bài diễn thuyết hoặc văn bản ca ngợi một người hoặc nhiều người, đặc biệt là người đã mới qua đời hoặc đã nghỉ hưu, hoặc như một từ ngữ yêu mến. Các điếu văn thường được đọc trong các nghi lễ đám tang. Ở Hoa Kỳ, chúng được tổ chức trong một nhà tang lễ trong hoặc sau buổi Thám tử (wake); ở Vương quốc Anh, chúng được đọc trong lễ cầu hồn, thường tại một nhà hỏa táng hoặc nơi thờ phụng, trước buổi thám tử. Ở Hoa Kỳ, một số tôn giáo không khuyến khích hoặc không cho phép các điếu văn trong các nghi lễ nhằm duy trì sự tôn trọng cho các truyền thống. Các điếu văn cũng có thể khen ngợi những người còn sống. Thường diễn ra trong các dịp đặc biệt như sinh nhật, bữa tiệc văn phòng, kỷ niệm nghỉ hưu, v.v. Điếu văn không nên bị nhầm lẫn với thơ tưởng, đó là những bài thơ viết để tưởng nhớ người đã qua đời; cũng không nên nhầm lẫn với tờ báo tử, đó là những bài viết mô tả cuộc đời của những người đã qua đời gần đây; cũng không nên nhầm lẫn với các tế lễ tang, đề cập chung đến các nghi lễ xung quanh đám tang. Các linh mục Công giáo La Mã bị cấm bởi Sách phụ lục trong Thánh lễ không đọc điếu văn thay cho bài giảng khi cử hành Thánh lễ tang. Việc sử dụng hiện đại của thuật ngữ "điếu văn" được ghi nhận lần đầu trong thế kỷ 16 và xuất phát từ thuật ngữ Latin cổ "eulogium". "Eulogium" thời đó đã trở thành "điếu văn" ngắn hơn của ngày nay. Các điếu văn thường được phát biểu bởi một thành viên trong gia đình hoặc bạn thân trong trường hợp của người đã qua đời. Đối với điếu văn dành cho người còn sống như trong trường hợp nghỉ hưu, một đồng nghiệp cấp cao có thể đọc điếu văn. Đôi khi, điếu văn được phát biểu cho những người mắc bệnh nặng hoặc tuổi già nhằm thể hiện những lời yêu thương và biết ơn trước khi họ qua đời.
Điếu văn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805700
Điếu văn không chỉ giới hạn trong việc khen ngợi con người, mà còn có thể dành cho các địa điểm hoặc vật phẩm (mà bất kỳ ai cũng có thể phát biểu), nhưng điều này ít phổ biến hơn so với điếu văn dành cho con người, bất kể còn sống hay đã qua đời. Trong một số trường hợp, người ta viết một bài tự điếu văn trước khi chủ thể qua đời, với mục đích cho một người bạn hoặc người thân đọc lời của họ trong lễ thánh tang. Có những ví dụ đáng chú ý như điếu văn tự thăng bằng của nhà văn Mỹ Kurt Vonnegut (được mượn từ lễ tang của chú của ông) và một điếu văn tự hài hước của cầu thủ bóng đá Úc theo quy tắc và người nổi tiếng truyền thông Lou Richards, được đọc bởi một người bạn. Các điếu văn nổi tiếng. Một điếu văn thành công có thể mang lại sự an ủi, truyền cảm hứng hoặc thiết lập một mối liên kết với người được khen ngợi trong điếu văn. Phần tiếp theo sẽ khám phá một số điếu văn nổi tiếng đã làm được như vậy. Điếu văn của Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan cho tàu con thoi "Challenger" (1986): Điếu văn của Charles Spencer cho chị gái Diana, Công nương xứ Wales (1997): Điếu văn của Jawaharlal Nehru cho Mahatma Gandhi (1948): Điếu văn của Ted Kennedy cho anh trai Robert F. Kennedy (1968): Các loại điếu văn khác nhau. Có nhiều loại điếu văn khác nhau. Một số loại chỉ nhằm mô tả sơ lược về cuộc đời của người đó. Cuộc đời ngắn gọn đơn giản là việc kể lại những gì người đó đã trải qua trong cuộc đời. Điều này có thể được thực hiện để nhấn mạnh những điểm quan trọng trong cuộc đời của người đã qua đời. Một phiên bản khác là kể lại một cái nhìn cá nhân hơn về những gì người đã làm. Nó bao gồm việc kể lại những kỷ niệm mà người kể chuyện và người đã qua đời đã chia sẻ. Kỷ niệm, ấn tượng và trải nghiệm là những điều có thể được bao gồm trong việc kể lại điếu văn cá nhân. Ở hầu hết các nơi trên thế giới, điếu văn chủ yếu tập trung vào sự mô tả cuộc đời của người qua đời bằng cách nhấn mạnh những sự kiện quan trọng trong cuộc đời họ, như công việc hoặc sự nghiệp, giáo dục, v.v.
Ga Wonjong
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805703
Ga Wonjong (Tiếng Hàn: 원종역, Hanja: 遠宗驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Seohae nằm ở Wonjong-dong, Bucheon-si, Gyeonggi-do. Nó sẽ trở thành ga trung chuyển khi Tuyến Daejang-Hongdae mở ra trong tương lai.
Teungueth FC
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805705
Câu lạc bộ bóng đá Teungueth là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Sénégal được thành lập năm 2013 tại Rufisque. Teungueth hiện đang thi đấu tại Giải bóng đá Ngoại hạng Sénégal. Mùa giải 2021-22, đội bóng này đứng thứ 7 trên bảng xếp hạng. Sân nhà của đội là sân Stade Lat-Dior ở Thiès.
TVP HD
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805706
TVP HD là một kênh truyền hình phiên bản HD đặc biệt của các kênh phát sóng công cộng Ba Lan (Telewizja Polska). Một kênh truyền hình kỹ thuật số đã có ở Warsaw, Poznań, Zielona Góra, Żagań, Kraków, Leżajsk và Krosno từ ngày 6 đến ngày 25 tháng 8 năm 2008. Kênh được lên sóng vào tháng 8 năm 2008, phát sóng theo kiểu 1080i được mã hóa bằng MPEG4/H.264. Nó được mã hóa trên vệ tinh (Hot Bird 13C tại 13° đông), với 18 giờ nội dung HD hàng ngày. Trong suốt kì Thế vận hội Mùa hè 2008, tín hiệu đã được thay thế cho TVP Polonia, TVP Historia và TVP Kultura.
Nguyễn Văn Nhung (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805713
Nguyễn Văn Nhung có thể là:
Pierre Garcia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805720
Pierre Garcia (27 tháng 7 năm 1943 – 13 tháng 2 năm 2023) là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Pháp. Câu lạc bộ cuối cùng mà ông từng thi đấu trong sự nghiệp là câu lạc bộ Rennes tại Ligue 1. Garcia qua đời vào ngày 13 tháng 2 năm 2023 ở tuổi 79. Danh hiệu. Rennes
Lực lượng Phòng vệ Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805723
Lực lượng Phòng vệ Phần Lan là lực lượng chiến đấu của nước Cộng hòa Phần Lan với trách nhiệm chiến đấu, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia. Hoạt động của Lực lượng Phòng vệ dựa trên quy định của Hiến pháp, pháp luật, cam kết chiến lược và điều ước quốc tế mà Phần Lan là thành viên và đối tác; đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Quốc phòng Phần Lan, sự thống lĩnh của Tổng thống Phần Lan và sự quản lý đan xen của Chính phủ Phần Lan. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức. Lực lượng Phòng vệ Phần Lan có nhiệm vụ đảm bảo tính toàn vẹn lãnh thổ, đời sống xã hội, quyền cơ bản của mọi công dân và sự hoạt động của chính phủ cũng như việc bảo vệ tính pháp quyền bằng sức mạnh của lực lượng vũ trang trong tình huống quốc phòng đe dọa sự độc lập, chủ quyền, thống nhất của đất nước. Nhiệm vụ. a) đảm bảo tính toàn vẹn lãnh thổ của Phần Lan đối với các hoạt động trên bộ, trên biển và trên đường không; b) giữ gìn quyền cơ bản của mọi công dân, bảo vệ sự hoạt động của chính phủ và đảm bảo tính pháp quyền của Hiến pháp và luật pháp; c) thực hiện chức năng công tác, huấn luyện, giáo dục quốc phòng góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước; Phối hợp. a) phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong việc đảm bảo tính đồng bộ của pháp luật, duy trì trật tự xã hội và an toàn, an ninh công cộng, cũng như công tác phòng ngừa và ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa cực đoan, khủng bố; b) Tích cực tham gia và cung cấp nhân lực, vật tư chuyên biệt vào các hoạt động tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn và khắc phục hậu quả thiên tai; Công tác. Đảm nhiệm các hoạt động tương trợ đối ngoại trong khu vực cũng như liên minh như đã được đề ra trong chương 222, Hiệp ước Hoạt động chung của Liên minh châu Âu, chương 42, đoạn 7 Hiến chương Liên minh châu Âu; Tham gia. Các hoạt động gìn giữ hòa bình, hỗ trợ nhân đạo trên trường quốc tế. Tên gọi.
Lực lượng Phòng vệ Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805723
Tên gọi. Tên gọi chính thức của quân đội Phần Lan là “Lực lượng Phòng vệ Phần Lan”, trong tiếng Phần Lan là “Puolustusvoimat” và trong tiếng Thụy Điển là Försvarsmakten là lực lượng chuyên trách công tác quốc phòng của Phần Lan. Lực lượng bao gồm Lục quân, Hải quân và Không quân và Biên phòng khi có chiến sự, xung đột xảy ra. Nghĩa vụ quân sự là quy định bắt buộc đối với nam giới từ 18 đến 29 tuổi và có nghĩa vụ phải phục vụ trong các mốc thời hạn 165 ngày, 255 ngày hoặc 347 ngày. Nam giới không nằm trong nhóm được kêu gọi và có ý nguyện nhập ngũ hoặc nữ giới có mong muốn sẽ được tuyển chọn theo quy định riêng biệt. Về mặt lý thuyết, Lực lượng Phòng vệ đặt dưới sự quản lý và điều hành trực tiếp của Bộ Quốc phòng. Trong giai đoạn thời bình, quân số theo quy định vào khoảng 12,000 quân phục vụ cho mục đích quốc phòng trong nước. Ngoài ra, có khoảng 4,000 nhân viên dân sự và các tình nguyện viên, nâng tổng quân số cả quân nhân và nhân sự vào khoảng 22,000 hằng năm. Lực lượng Phòng vệ luôn duy trì, phát triển và nâng cấp khả năng sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống và điều kiện trong tình hình mới. Trong giai đoạn bình thường, nhiệm vụ chính của lực lượng là duy trì và phát triển nhiệm vụ quân sự, quốc phòng: hoạch định, phân loại, bão trì, bão dưỡng đối với các loại quân khí, quân dụng và hệ thống quân sự liên quan, cũng như đánh giá, tổ chức và huấn luyện đối với quân nhân. Trong công bố sách trắng về chính sách quốc phòng, Phần Lan có khoảng 280,000 quân đối với trường hợp đất nước trong tình trạng chiến tranh. Ngân sách quốc phòng vào khoảng 5,8 tỷ euro, Phần Lan thường xuyên tham gia và cắt cử lực lượng dành cho các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, khắc phục hậu quả chiến tranh của Liên hiệp Quốc, NATO và Liên minh châu Âu. Lực lượng Phòng vệ và lực lượng Biên phòng thường xuyên hợp tác và phối hợp, tương trợ trong công tác tuần tra, kiểm soát và bảo vệ biên giới, lãnh thổ quốc gia. Lịch sử hình thành. Thời kỳ thuộc Thụy Điển.
Lực lượng Phòng vệ Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805723
Thời kỳ thuộc Thụy Điển. Giai đoạn từ năm 1100-1809, Phần Lan nằm dưới sự thống trị và toàn bộ lãnh thổ hiện nay của Phần Lan từng là một phần thuộc về Đế quốc Thụy Điển. Trong suốt thế kỷ 17, Thụy Điển phát triển lớn mạnh như một quốc gia hùng mạnh có tầm ảnh hưởng trong khu vực, song song với việc mở tầm ảnh hưởng, sức mạnh quân sự cũng được nâng lên ngang tầm nên việc quân đội được mở rộng không ngừng. Do cần duy trì sự hiện diện và giữ vững ảnh hưởng của mình, quân đội Thụy Điển đã thu dụng rất nhiều quân sĩ có nguồn gốc Phần Lan. Những người lính Phần Lan này có mặt ở khắp mọi nơi trong đế chế và những nơi nó đặt quyền kiểm soát tận Trung Âu. Những người lính Phần Lan chủ yếu là kỵ binh thường hô vang ‘Hakkaa päälle’ có nghĩa là ‘Chặt chúng nó’ khi xung trận đã trở thành nổi tiếng trên chiến trường. Trong thời kỳ Nội chiến. Phần Lan tách ra khỏi Đế quốc Nga và trở thành quốc gia độc lập với bản tuyên ngôn độc lập vào ngày 6 tháng 12 năm 1917, Bạch vệ trở thành lực lượng quân sự cho chính phủ vào ngày 25 tháng 1 năm 1918. Trung tướng Carl Gustaf Emil Mannerheim thuộc lực lượng Quân đội Hoàng gia Nga được chỉ định làm Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Phần Lan. Nội chiến Phần Lan nổ ra giữa Bạch quân và Hồng quân tại Viipuri, Bạch quân nhanh chóng giành được những thắng lợi quan trọng, phần lớn nhờ vào sự lãnh đạo và chỉ huy của tướng Mannerheim và lực lượng khoảng 1,800 lính đến từ nhánh Jäger Phần Lan, nhóm lính chuyên biệt được huấn luyện theo phong cách chiến đấu và học thuyết quân sự kiểu Đức. Hiệp ước Tartu được ký kết giữa Phần Lan và Nga Xô viết đặt dấu chấm hết đối với nền bảo hộ của nhà nước Nga trên toàn lãnh thổ Phần Lan dưới hình thức tự trị cũng như kết thúc nỗ lực của nước Nga Xô viết trong việc tiếp tục giữ Phần Lan như một thực thể thuộc Liên bang Xô viết. Các dữ kiện liên hợp với nhau góp phần thành lập nên nhà nước độc lập của Phần Lan dưới sự công nhận quốc tế. Giai đoạn hòa bình tạm thời.
Lực lượng Phòng vệ Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805723
Giai đoạn hòa bình tạm thời. Trong xuyên suốt thời điểm hòa bình, lực lượng quân đội Phần Lan được cơ cấu và tổ chức với ba sư đoàn và một quân đoàn với chỉ huy là sĩ quan Đức và nó trở thành hình mẫu cho quân đội Phần Lan trong 20 năm tiếp theo. Không quân được thành lập vào tháng 3 năm 1918 nhưng vẫn còn hạn chế về số lượng máy bay và quân số nên chỉ có thể là một phần trong Lục quân cho đến năm 1928. Bạch quân đóng một vai trò quan trọng trong chính sách quốc phòng của Phần Lan về cả chính quy và phi chính quy trên bộ, biên giới với địa hình và địa lý phức tạp do tổ chức đơn giản và dễ huy động. Tân Chính phủ đưa ra điều luật mới trong đó việc thi hành nghĩa vụ quân sự mang tính bắt buộc với mọi công dân là nam giới trong độ tuổi có thể chiến đấu (thường là từ 16 – 60 tuổi). Sĩ quan quân đội được đào tạo bài bản, chính quy hơn trong học viện quân sự còn được gọi là "Kadettikoulu" thành lập vào năm 1919, tiếp theo đó là Học viện Sĩ quan Chỉ huy "Sotakorkeakoulu" vào năm 1924 và trường quân sự đặc huấn "Taistelukoulu" năm 1927 dành cho sĩ quan cấp đại đội và trung đội cũng như các hạ sĩ quan. Giai đoạn Thế chiến thứ hai. Bắt đầu từ 30 tháng 11 năm 1939 đến 13 tháng 3 năm 1940, quân đội Phần Lan tham gia vào cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc trước cuộc xâm lược của Liên Xô được biết đến với tên gọi Chiến dịch Mùa Đông. Phần Lan đã chiến đấu dũng cảm trước quân đội Liên Xô hơn rất nhiều về mọi mặt, từ nhân lực, vật lực, tài lực mà gần như không có bất kỳ sự hỗ trợ đáng kể từ bất kỳ quốc gia nào, ngay cả từ Đức Quốc Xã vốn ủng hộ Phần Lan rất lớn trên mặt trận ngoại giao. Tuy gặp hạn chế trên nhiều phương diện, Phần Lan vẫn giành được nhiều chiến thắng quan trọng trong suốt cuộc chiến vốn gây ra tổn thất rất to lớn đối với Hồng quân trong đó đến thời điểm đình chiến, Phần Lan chỉ mất khoảng 26,00 lính, trong khi phía Liên Xô mất hơn 100,000 quân, trong đó nếu so sánh dân số khoảng 4 triệu người của Phần Lan với khoảng 200 triệu dân của phía Liên Xô cho thấy khả năng chiến đấu và tính hiệu quả trong chiến thuật của quân đội Phần Lan.
Lực lượng Phòng vệ Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805723
Quân đội Phần Lan dù được đích thân Nguyên soái Mannerheim chỉ huy và giành rất nhiều thắng lợi, trong đó có Chiến dịch Suomussalmi, tuy nhiên Phần Lan phải đánh mất gần 9% lãnh thổ cho Liên Xô trong Hòa ước Moskva ký kết năm 1940 để đổi lấy nên hòa bình tạm thời. Để giành lại phần lãnh thổ đã mất, Phần Lan tham gia liên minh quân sự với Đức vào mùa hè năm 1941, viên trợ về vũ khí và khí tài từ Đức cùng với quân lực được kêu gọi nhập ngũ từ trước đó hai năm đã giúp Phần Lan hình thành nên 16 sư đoàn bộ binh, cơ giới góp phần gia tăng sức mạnh quân sự. Phần Lan nhanh chóng thu hồi toàn vẹn lãnh thổ và đưa quân vào cả khu vực Karelina Xô viết. Nhưng khi quân Đức rơi vào tình thế xấu đi, đặc biệt việc thất bại từ sau Chiến dịch Barbarossa, Liên Xô nhanh chóng mở mặt trận tổng tấn công lên Phần Lan. Giao tranh diễn ra quyết liệt trong thế giành co giữa hai bên chiến tuyến, đặc biệt là việc Liên Xô muốn giành lại toàn bộ phần lãnh thổ đã được nhượng trong hiệp ước trước đó mà còn đập tan hoàn toàn khả năng chiếu đấu của quân đội Phần Lan thông qua Chiến dịch Vyborg–Petrozavodsk. Tuy nhiên, quân đội Phần Lan đã chiến đấu, phản công và phòng thủ rất tốt trên nhiều chiến tuyến, điều này được chứng minh bằng thành công trong trận Tali-Ihantala. Điều này đã buộc Liên Xô ngồi vào bàn đàm phán và ký kết Hòa ước Moskva (1944) bằng việc chấm dứt chiến sự, trong đó Phần Lan trả lại những phần lãnh thổ được ký kết trước đó, cũng như nhượng thổ tạm thời một phần lãnh hải, hải đảo, đổi lại Phần Lan tránh được việc phải trở thành quốc gia vệ tinh dưới sự kiểm soát của Moskva. Cuộc chiến kết thúc với tổn thất lớn ở cả hai phía với khoảng 60,000 quân Phần Lan và 200,000 quân Liên Xô. Giai đoạn Chiến trạnh Lạnh và Hiện đại. Sau hiệp đinh Paris, dưới sức ép từ Moskva khi đó đang nắm quyền lãnh đạo Ủy ban Kiểm soát thuộc Khối Đồng minh, Phần Lan phải giải giáp và tái cơ cấu lại các lực lượng quân sự và chuyển đổi từ quân đội thành Lực lượng Phòng vệ.
Lực lượng Phòng vệ Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805723
Phần Lan chỉ được phép phân bổ, cấu trúc rất hạn chế cả về số lượng quân nhân và quân khí chỉ đủ làm nhiệm vụ bảo vệ, các lực lượng dân quân, hiến quân đều phải giải tán và không cho phép thành lập mới. Tuy nhiên, quân dự bị động viên không nằm trong các điều khoản thuộc hiệp định tạo ra cơ sở tiền đề cho phép huấn luyện nhân sự có thể sẵn sàng chiến đấu trong số lượng được phép theo từng năm. Các sư đoàn bị giải giáp được phân tách và tái hợp dưới các lữ đoàn độc lập nhỏ khác nhau. Sau gần hai thập kỷ kể từ khi kết thúc Thế chiến thứ hai trải dài đến suốt những năm 60, lực lượng phòng vệ chỉ được trang bị và huấn luyện với quân khí và chiến lược đã lỗi thời, ngân sách quốc phòng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong chi tiêu chính phủ. Khởi điểm cao trào từ chiến tranh lạnh đã thúc đẩy chính quyền Phần Lan xem xét nghiêm túc hơn trong nỗ lực gia tăng ngân sách dành cho khu vực quân sự và cho phép Bộ quốc phòng được mua sắm, nhập nhiều loại vũ khí, hệ thống chiến đấu mới giúp nâng cao khả năng phòng thủ quốc gia, đặc biệt là khu vực Lapland khi chính phủ cho phép thành lập một lực lượng đồn trú chính quy nhằm đảm bảo khả năng bảo vệ khu vực quan trọng phía bắc này. Từ nằm 1968 trở về sau, chính phủ đề cao về học thuyết quân sự mới với tên gọi là phòng thủ địa hình, do địa giới và độ đa dạng từ rừng núi dày đặc, tuyết, mặt băng bao phủ thường xuyên trong địa hình rộng lớn, trải dài giúp tăng hiệu quả phòng vệ, có thể gây thương vong lớn cho đối phương và vẫn bảo toàn được lực lượng của chính mình. Học thuyết mới này đáp ứng được nhu cầu quan trọng trong thế trận quốc phòng toàn dân giúp chính phủ có thể tiếp cận được mọi nguồn lực trong xã hội trong các tình huống khủng hoảng quốc gia như chiến tranh, xung đột. Phần Lan kiên trì và mở rộng hơn với chiến thuật phòng thủ toàn dân nay, đặc biệt khi khu vực rơi vào khủng hoảng trước sự kiện Tiệp Khắc năm 1968, song song với việc chính phủ Phần Lan kiên quyết chọn tránh liên kết, liên hiệp hay liên minh với bất kỳ bên nào, và duy trì tính trung lập nhằm giữ Phần Lan đứng ngoài bất kỳ cuộc chiến nào.
Lực lượng Phòng vệ Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805723
Xuyên suốt qua nhiều cuộc chiến tranh và xung đột, đặc biệt là xung đột xảy ra dai dẳng với Liên Xô đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành chính sách quốc phòng của Phần Lan, cũng như đến định hướng phát triển của Lực lượng Phòng vệ. Tại một số thời điểm, các quốc gia láng giềng, hoặc trong khối châu Âu cắt giảm quân số, chi tiêu quốc phòng, nhưng lực lượng phòng vệ Phần Lan vẫn giữ một lượng lớn quân dự bị động viên. Với đường biên giới dài hơn 1300 km với Nga, việc giữ một lực lượng lớn như vậy là điều có thể hiểu được, có lẽ với thương vong chiếm gầm 2% dân số trong các cuộc chiến với Liên Xô trước đó luôn là một nổi ám ảnh trong việc bảo vệ lãnh thổ của Phần Lan.. Trong hiện tại, ba quân chủng thuộc lực lượng có nhiều thay đổi về chủng loại khí tài, quân dụng trong đó có việc mua sắm máy bay chiếu đấu hiện đại F-35 thay thế đội bay F-18 với hợp đồng lên đến 10 tỉ euro dành cho Không quân, bổ sung tàu chiến đấu lớp Pohjanmaa trong nhiệm vụ bảo vệ lãnh hải, nâng cấp xe chiếu đấu bộ binh lên cấp Patria XA-300. Bộ binh được trang bị súng chiến đấu tự động RK 62 và hệ thống phòng không David’s Sling thuộc Tập đoàn Công nghệ Quốc phòng Rafael. Cuộc chiến tại Ukraina đã làm thay đổi toàn diện môi trường an ninh trên toàn châu Âu, cũng như thúc đẩy chính phủ và nhân dân Phần Lan mong muốn gia nhập NATO nhanh hơn, Tổng Thư ký NATO Jens Stoltenberg lên tiếng ủng hộ và kêu gọi các thành viên khác chấp nhận Phần Lan trở thành thành viên của tổ chức.. Rất nhiều tiếng nói giữa các nghị sĩ, thành viên chính phủ cũng như các khảo sát trong nhân dân với sự đồng thuận rất cao về việc Phần Lan nên gia nhập NATO, “Cuộc chiến mùa Đông trong Thế chiến thứ hai với việc Hồng quân Xô viết chiếm đoạt trắng trợn lãnh thổ dựa trên những điều ước, điều khoản bất bình đẳng và việc tạo áp lực buộc chúng ta phải chấp nhận trở thành một nước trung lập không liên minh, liên kết.
Lực lượng Phòng vệ Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805723
Điều này không làm giảm ý chí của Phần Lan trong việc xây dựng lực lượng phòng thủ đủ mạnh để đảm bảo an ninh, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng là kết quả từ một xã hội dân chủ, nhân dân làm chủ, song song với việc hoàn thành công tác đối thoại với Moskva.” Công tác tổ chức. Tổng thống Phần Lan nắm vai trò là Chỉ huy Tối cao thống lĩnh các lực lượng vũ trang trong đó có Lực lượng Phòng vệ, với quyền hạn được giao để ra quyết định trong các vấn đề: Lĩnh vực trọng yếu đối với an ninh quốc phòng, Thay đổi quan trọng trong việc sẵn sàng chiến đấu, Thực thi chính sách quốc phòng và mọi hoạt động liên quan đối với Lực lượng Phòng vệ cũng như đảm bảo sự hoạt động luân phiên cấp yếu trong việc điều hành chỉ huy các cấp quân sự. principles. Bộ trưởng Quốc phòng có nhiệm vụ và chức năng ra quyết định trong việc thành lập, giải tán đơn vị đồn trú, quân đoàn cũng như tham gia các vấn đề trọng yếu, cấp bách đối với an ninh quốc gia. Chỉ huy Trưởng là người đứng đầu lực lượng Phòng vệ, là người điều hành, quản lý Tổng cục và Cục dưới quyền, đồng thời đảm nhận nhiệm vụ là người đứng đầu Học viện Quân sự Quốc. Cơ cấu tham mưu, chỉ huy. Lục quân Hải quân Không quân Học viện Quân sự Quốc gia Các cơ quan dưới quyền. Cục Công nghệ Thông tin Quốc phòng (C5) Trung tâm Dữ liệu Quốc phòng Cơ quan Tình báo Quốc phòng Viện Nghiên cứu An ninh Quốc phòng Bộ Tư lệnh Công tác Hậu cần Về mặt lý thuyết, Lực lượng Phòng vệ đặt dưới sự quản lý của Bộ Quốc phòng. Tổng Chỉ huy Quốc phòng là lãnh đạo cao cấp nhất chịu trách nhiệm quản lý và báo cáo trực tiếp cho Tổng thống trong việc điều hành, chỉ huy quân đội. Khi cần đưa ra các quyết định liên quan đến an ninh quốc phòng, Tổng thống và Chỉ huy Trưởng sẽ tham vấn cùng với Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng. Lực lượng Biên phòng thuộc quyền quản lý của Bộ Nội vụ nhưng theo yêu cầu trong các tình huống quốc phòng sẽ được sát nhập một phần hoặc hoàn toàn vào lực lượng phòng vệ.
Lực lượng Phòng vệ Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805723
Bộ Chỉ huy Hậu cần có nhiệm vụ thực hiện công tác liên quan đến vấn đề cung cấp, chuyên chở và lưu giữ hàng hóa liên quan đến quốc phòng, vũ khí, khí tài, quân trang, quân dụng cho từng tỉnh, thành, khu vực dưới sự điều hành của ba trung đoàn. Cơ cấu tổ chức. Lãnh đạo Lực lượng Phòng vệ. Tổng Chỉ huy Quốc phòng Đại tướng Timo Kivinen Bộ Chỉ huy Quốc phòng. Tham mưu Trưởng Bộ Tư lệnh Phần Lan Trung tướng T Vesa Virtanen Phó Tham mưu Trưởng Hậu cần và Quân khí Trung tướng Mikko Heiskanen Phó Tham mưu Trưởng Tác chiến Thiếu tướng Kari Nisula Phó Tham mưu Trưởng Quân lực, Quân huấn Thiếu tướng Rami Saari Phó Tham mưu Trưởng Chiến lược Thiếu tướng Janne Jaakkola Cục trưởng CụcTình báo Chuẩn Đô đốc Juha Vauhkonen Cục trưởng Cục Kế hoạch Chuẩn tướng Tero Ylitalo Trợ lý Tham mưu Trưởng Cục Tác chiến Đại tá Janne Huusko Cục trưởng Cục Công nghệ Thông tin Quốc phòng (C5) Chuẩn tướng Jarmo Vähätiitto Cục trưởng Cục quân lực (J1) Đại tá Tuomas Tiilikainen Cục trưởng Cục Hậu cần Chuẩn tướng Timo Saarinen Cục trưởng Cục Quân y Đại tá Juha-Petri Ruohola Lục Quân. Tư lệnh Lục quân Trung tướng Pasi Välimäki Tham mưu Trưởng Lục quân Thiếu tướng Jukka Jokinen Bộ Chỉ huy Tác chiến Lục quân Chuẩn tướng Sami-Antti Takamaa Tư lệnh Lữ đoàn Karelia Chuẩn tướng Jyri Raitasalo Tư lệnh Lữ đoàn Kainuu Chuẩn tướng Manu Tuominen Tư lệnh Lữ đoàn Pori Chuẩn tướng Vesa Valtonen Hải Quân. Tư lệnh Hải quân Chuẩn Đô đốc Jori Harju Tham mưu Trưởng Hải quân Đại tá Jukka Anteroinen Không quân. Tư lệnh Không quân Thiếu tướng Juha-Pekka Keränen Tham mưu Trưởng Không quân Chuẩn tướng Timo Herranen Học viện Quốc Phòng. Hiệu trưởng Thiếu tướng Mika Kalliomaa Tổ Công tác đặc biệt. Tùy viên Quốc phòng đại diện Phần Lan tại EU và NATO Trung tướng Kim Jäämeri Phòng Chính sách Quốc phòng An ninh Chuẩn tướng Sami Nurmi Bộ Tư lệnh Hậu cần Quốc phòng. Tư lệnh Hậu cần Thiếu tướng Jari Mikkonen Phó Tư lệnh Chuẩn tướng Juha-Matti Ylitalo Quân hàm.
Lực lượng Phòng vệ Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805723
Quân hàm Lực lượng Phòng vệ Phần Lan dựa theo hệ quy chiếu quân hàm của các lựa lượng vũ trang NATO, riêng cấp úy có bốn bậc hàm thiếu, trung, thượng và đại, trong đó cấp thiếu úy thường được sử dụng cho sĩ quan dự bị và sẽ tự động lên cấp trung úy khi thành quân nhân chính quy. Hệ thống cấp Hạ sĩ quan và binh sĩ lại dựa vào những đặc trưng từ cấu trúc quân hàm, cấp bậc của quân đội Đức, nhưng chức năng, nhiệm vụ, huấn luyện, kỹ năng không khác với tiên chuẩn của các lực lượng quân đội các nước khác thuộc NATO. Trang bị. Trang bị và vũ khí quân dụng của Lực lượng Phòng vệ Phần Lan. Phần Lan không có trực thăng chiến đấu và tàu ngầm, cũng như Hiến pháp Phần Lan nghiêm cấm nước này sở hữu vũ khí hạt nhân hoặc vũ khí hạt nhân bên thứ ba đặt trên lãnh thổ của mình. Hoa Kỳ duyệt bán lô vũ khí cho Phần Lan bao gồm tên lửa AIM 9X Block II và tên lửa dẫn đường AGM-154 Joint Stand Off Weapons JSOW và các trang thiết bị liên quan với chi phí ước tính vào khoảng 323.3 triệu đô la vào ngày 28 tháng 11 năm 2022. Trong đó bao gồm 40 tên lửa AIM 9X Block II, 4 hệ thống điều khiển dẫn đường chiến lược, 48 tên lửa AGM-154 JSOW, tên lửa ngụy trang dùng cho huấn luyện, tên lửa đẩy dùng cho huấn luyện, máy bay huấn luyện tấn công, tổ hợp bay tự lái, đơn vị vận chuyển, huấn luyện lập nhiệm vụ chiến thuật, khâu hỗ trợ, kiểm tra, huấn luyện và na toàn bảo quản quân khí, đạn dược, phát triển phần mềm quản lý vũ khí không quân, vận chuyển, quân dụng và thiết bị kiểm tra, thiết bị hỗ trợ, phụ tùng, linh kiện hỗ trợ sửa chữa, nhân viên chính phủ và nhà thầu hỗ trợ trong thiết kế, kỹ thuật và hậu cần. Đề án này sẽ nâng cao khả năng phòng thủ không đối không và không đối đất giúp Phần Lan giành nhiều lợi thế trong các cuộc chiến hay xung đột trong tương lai. Nhiệm vụ gìn gữ hòa bình. Phần Lan cắt cử lực lượng phòng vệ tham gia vào nhiều nhiệm vụ gìn giữ hòa bình khác nhau trên toàn thế giới:
Đài Truyền hình Quốc gia Bhutan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805724
Đài Truyền hình Quốc gia Bhutan (tiếng Anh: "Bhutan Broadcasting Service"), (), (viết tắt: BBS) là mạng truyền hình lớn nhất tại Bhutan. BBS là cơ quan ngôn luận duy nhất cho chính phủ Bhutan. Tranh cãi. Chương trình chống Ấn Độ. Vào ngày 6 tháng 12 năm 2012, đã gắn cờ đỏ cho BBS là kênh thù địch trong số 24 kênh khác vì đã chiếu các chương trình chống Ấn Độ. Một đề xuất hành động cấm đã được gửi đến Bộ Nội vụ Ấn Độ.
Marie Louise của Orléans
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805726
Marie Louise của Orléans (tiếng Pháp: "Marie-Louise d'Orléans"; tiếng Tây Ban Nha: "María Luisa de Orleans"; 26 tháng 3 năm 1662 – 12 tháng 2 năm 1689) là một "petite-fille de France" ("Cháu gái nước Pháp" hay "Vương tôn nữ nước Pháp") và là con gái của Công tước Philippe I của Orléans và Vương nữ Henrietta của Anh. Marie Louise là Vương hậu Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Quốc vương Carlos II của Tây Ban Nha ngày 19 tháng 11 năm 1679 cho đến khi bà qua đời vào năm 1689, được cho là do viêm ruột thừa. Tiểu sử. Thời thơ ấu. Marie Louise của Orléans sinh ra tại Palais-Royal ở Paris, con đầu lòng của Vương tử Philippe của Pháp, Công tước xứ Orléans và Vương nữ Henrietta của Anh. Với tư cách là một "Vương tôn nữ Pháp," Marie Louise được hưởng kính xưng "Royal Highness," mặc dù, theo thông lệ tại triều đình cung điện Versailles, Marie thường được gọi là "Mademoiselle d'Orléans" (Đức nữ xứ Orléans). Quyến rũ, xinh đẹp và duyên dáng, Marie Louise chính là người con cưng của cha và đã có một tuổi thơ hạnh phúc. Marie Louise dành phần lớn thời gian sống ở Cung điện Vương thất và Lâu đài Saint-Cloud cách Paris vài km về phía tây. Marie Louise cũng dành nhiều thời gian cho cả bà nội Ana của Tây Ban Nha, người rất yêu quý cháu gái và để lại phần lớn tài sản cho Marie Louise khi Ana qua đời năm 1666; và bà ngoại Henriette Marie của Pháp sống ở Colombes. Henrietta, mẹ của Marie Louise qua đời năm 1670. Năm sau đó, cha của Marie tái hôn với Elisabeth Charlotte của Pfalz. Marie Louise có mối quan hệ tốt đẹp với mẹ kế và thường trao đổi thư từ một cách tình cảm với Elisabeth Charlotte. Vương hậu Tây Ban Nha. Tháng 7 năm 1679, Marie Louise được cha là Philippe, và bác là Quốc vương Louis XIV của Pháp thông báo hôn ước của Marie với Carlos II của Tây Ban Nha. Đau khổ vì mối hôn sự này, Marie dành phần lớn thời gian để khóc vì đã đem lòng yêu người anh họ Louis, bấy giờ là Trữ quân nước Pháp. Hôn lễ ủy nhiệm diễn ra tại Cung điện Fontainebleau vào ngày 30 tháng 8 năm 1679, đứng thay cho chú rể là em họ xa là Louis-Armand I xứ Conti. Cho đến giữa tháng 9, có một loạt các sự kiện trang trọng được tổ chức để vinh danh Tân vương hậu của Tây Ban Nha. Trước khi đến Tây Ban Nha, Marie Louise đã đến tu viện Val-de-Grâce, nơi lưu giữ trái tim của mẹ Marie là Henrietta của Anh.
Marie Louise của Orléans
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805726
Sau này, Marie Louise không bao giờ trở lại Pháp. Ngày 19 tháng 11 năm 1679, Marie Louise chính thức kết hôn với Carlos II của Tây Ban Nha ở Quintanapalla, gần Burgos, Tây Ban Nha, chính thức bắt đầu chuỗi ngày cô độc tại triều đình Tây Ban Nha của Marie. Carlos II hết mực yêu hương Marie Louise cho đến tận cuối đời nhưng nhưng những lễ nghi của Triều đình Tây Ban Nha như cấm chạm vào Vương hậu và những nỗ lực sinh con không thành công đã khiến Marie Louise sầu khổ. Người bạn đồng hành thường xuyên nhất của Vương hậu chính là đại sứ Pháp Marie Gigault de Bellefonds, Hầu tước xứ Villars. Chung sống với nhau mười năm không có con, Marie Louise đã tâm sự với đại sứ Pháp rằng Trong những năm cuối đời, Marie Louise trở nên thừa cân. Vương hậu được cho là thích đồ uống có vị ngọt từ chanh và quế, vốn cần 32 pound đường để pha chế. Sau khi cưỡi ngựa vào ngày 11 tháng 2 năm 1689, Marie cảm thấy đau dữ dội ở bụng khiến Vương hậu phải nằm nghỉ suốt buổi tối. Sau khi các bác sĩ phát hiện ra rằng tình trạng của ngài hậu đã trở nên nguy kịch, các cha giải tội đã được gọi đến để cứu phần hồn của Marie. Trong lúc hấp hối trên giường bệnh, Marie Louise đã nói với chồng những lời sau:Marie Louise qua đời vào đêm hôm sau. Gia phả.
Hell's Kitchen Mỹ (Mùa 3)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805729
Tiến độ thí sinh. Mỗi tuần, thành viên xuất sắc nhất (do Ramsay xác định) từ đội thua cuộc trong lần phục vụ gần nhất được yêu cầu đề cử hai người đồng đội của họ để loại bỏ; một trong hai người này được Ramsay gửi về nhà. Các tập. <onlyinclude> </onlyinclude>
Nguyễn Văn Nhung (Ba Sa)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805732
Nguyễn Văn Nhung (sinh năm 1917), tên thường gọi là Ba Sa, là một nhà cách mạng và chỉ huy quân sự Việt Nam. Cuộc đời. Nguyễn Văn Nhung sinh năm 1917 ở Rạch Bàng, Càng Long, là con thứ năm của ông Nguyễn Văn Hậu (Mười Hậu) và bà Võ Thị Đậu. Gia đình ông có sáu người anh chị em, ba người đầu là ba chị gái. Ông Mười Hậu và bà Đậu vốn là người Bến Tre, chạy dạt sang Trà Vinh mướn ruộng để cày. Lớn lên, ông theo học ở trường Vũng Liêm, được dạy bởi các nhà giáo Trần Kim Giảo, Tỵ và Đặng Văn Bảy. Ông trượt trung học, về làm ruộng. Cuộc đời. Tháng 5 năm 1937, ông bắt đầu tham gia phong trào cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương, tham gia Hội tương tế, Hội ái hữu ở xã Trung Ngãi. Tháng 8 năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng. Tháng 2 năm 1939, ông làm Bí thư chi bộ Trung Ngãi, được bầu vào Quận ủy Vũng Liêm. 18 giờ ngày 22 tháng 11 năm 1940, Quận ủy Vũng Liêm mở cuộc họp thống nhất kế hoạch khởi nghĩa, tham dự bao gồm Bí thư Quận ủy Nguyễn Thị Hồng, Quận ủy viên Nguyễn Văn Nhung, Phạm Văn Ba, Trần Ngọc Đảnh, Phan Văn Hòa, các cán bộ Hồ Chí Thiện (Năm Tép), Huỳnh Văn Đắc, Nguyễn Ngọc Yến, Trần Kim Giảo. Hội nghị đã đưa ra kế hoạch tác chiến cụ thể, chia quân làm ba mũi, lần lượt do Nguyễn Thị Hồng, Phan Văn Hòa và Nguyễn Văn Nhung chỉ huy. Cánh quân của Nguyễn Văn Nhung với lực lượng khoảng 30 người ở làng Trung Ngãi, có nhiệm vụ chiếm và phá cầu Mây Tức, cầu Giồng Ké để ngăn viện quân từ Trà Vinh lên tiếp viện cho Vĩnh Long. Đêm 22 rạng sáng ngày 23, ông chỉ huy nghĩa quân đánh cướp một số súng rồi tấn công cầu Mây Tức nhưng không thành, phải rút lui. Nghĩa quân dùng dầu đốt cầu Giồng Ké, sau đó hội quân với lực lượng từ thị trấn Vũng Liêm do Đỗ Văn Viên và Phan Ngọc Yến chỉ huy đến mai phục ở cầu Mây Tức. Sáng ngày 23, nghĩa quân phục kích bắn bị thương Tỉnh trưởng (Jean Dufour) và Tỉnh phó (Paul) Trà Vinh.
Nguyễn Văn Nhung (Ba Sa)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805732
Khởi nghĩa thất bại, ông bị bắt hai lần những đều được thả sớm vì không có bằng chứng. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi. Ngày 25 tháng 8, ông được phân công về làm Trung Ngãi làm Bí thư kiêm công tác chính quyền. Tháng 10, ông được rút về làm Huyện ủy viên Huyện ủy Vũng Liêm, Hội trưởng Nông dân cứu quốc huyện Vũng Liêm. Năm 1952, ông lần lượt được phân công làm Bí thư các xã An Phước, Hiệp Long, An Long để khôi phục cơ sở. Năm 1954, ông lần lượt phân công làm Trưởng ban Tuyên huấn, Trương ban Binh vận Tỉnh ủy Trà Vinh, rồi Bí thư Thị ủy Vĩnh Long, Bí thư Huyện ủy Cầu Ngang. Năm 1960, ông là người chỉ huy Đồng khởi ở ba huyện Càng Long, Cầu Kè, Vũng Liêm. Sau đó, ông tiếp tục được phân công làm Trưởng ban Kinh tài, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Trà Vinh. Trong thời gian này, ông đã cho thành lập Đoàn cải lương Ánh Hồng và Tập san văn nghệ "Lửa Hồng" để phục vụ công tác tuyên truyền. Khoảng sau năm 1962, ông được phân công làm Phó Chủ nhiệm Đoàn 962 có nhiệm vụ tiếp nhận vũ khí viện trợ từ đường biển, tương đương Đại úy. Một thời gian sau, ông làm Phó Hội trưởng Hội Nông dân Khu Tây Nam Bộ, rồi về làm Phó Hội trưởng Hội Nông dân tỉnh Trà Vinh, Trưởng ban Tài chính tỉnh Trà Vinh. Sau năm 1975, ông làm Phó Ban cải tạo công thương nghiệp, Phó Chủ nhiệm Liên hiệp xã cho đến khi về hưu.
French appetit
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805746
S.A.R.L French appétit ( ), phổ biến hơn được biết đến là French appétit, là một công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân có trụ sở chính tại Paris, Pháp. French appétit là một nhà bán lẻ và nhà phân phối quốc tế của các mặt hàng tiêu dùng nhanh liên quan đến thực phẩm và vệ sinh. Ngoài trụ sở chính ở Paris, công ty cũng hoạt động từ các thành phố Trappes và Châlons-en-Champagne ở Pháp. Nó được thành lập vào năm 2023 tại Paris bởi Rafik Zribi, một nhà buôn người Pháp, chuyên viên phân tích dữ liệu và cựu sinh viên của Trường Quản lý IÉSEG. Ban đầu, thương hiệu tập trung vào việc bán các hộp snack Pháp thông qua mô hình kinh doanh dựa trên đăng ký, phục vụ khách hàng quốc tế. Theo thời gian, họ mở rộng danh mục sản phẩm để bao gồm các lựa chọn bán buôn.
Volhynia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805749
Volhynia (còn viết là Volynia) (, , ), là một khu vực lịch sử tại Trung và Đông Âu, giữa miền đông nam Ba Lan, miền tây nam Belarus và miền tây Ukraina. Ranh giới của khu vực này không được xác định rõ ràng, nhưng lãnh thổ mang cùng tên với nó là tỉnh Volyn ở miền tây Ukraine. Volhynia từng qua tay nhiều lần trong lịch sử và bị phân chia giữa các cường quốc kình địch nhau. Trong nhiều thế kỷ khu vực là bộ phận của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Sau đó bị Đế quốc Nga sáp nhập trong quá trình phân chia Ba Lan cuối thế kỷ 18. Các thành phố quan trọng trong khu vực là Zhytomyr, Rivne, Lutsk, Zviahel và Volodymyr. Từ nguyên. Tên gọi khác của khu vực là Lodomeria theo tên thành phố Volodymyr, nơi từng là thủ phủ chính trị của Thân vương quốc Volhynia thời trung cổ. Theo một số nhà sử học, khu vực này được đặt theo tên của một thành phố bán huyền thoại là "Volin" hoặc "Velin", được cho là nằm trên sông Nam Bug, tên của thành phố này có thể xuất phát từ gốc tiền-Slav 'ướt'. Trong các phiên bản khác, thành phố nằm cách Volodymyr hơn 20 km về phía tây, gần cửa sông Huczwa, một nhánh của sông Tây Bug. Địa lý. Về mặt địa lý, khu vực chiếm các phần phía bắc của vùng đất cao Volhynia-Podolia và các phần phía tây của vùng đất thấp Polesia, dọc theo thung lũng sông Prypyat và là một phần của Đồng bằng Đông Âu rộng lớn, giữa sông Tây Bug ở phía tây và thượng nguồn của các sông Uzh và Teteriv. Trước khi phân chia Ba Lan cuối thế kỷ 18, rìa phía đông kéo dài một chút về phía tây dọc theo hữu ngạn của sông Sluch hoặc ngay phía đông của nó. Trong lãnh thổ của Volhynia có Tiểu Polisie, một vùng đất thấp thực sự chia vùng đất cao Volhynia-Podolia thành vùng đất cao Volhynia riêng biệt và vùng ngoại vi phía bắc của vùng đất cao Podolia, được gọi là vùng đồi Kremenets. Volhynia nằm trong lưu vực của sông Tây Bug và Prypyat, do đó hầu hết các con sông của nó đều chảy theo hướng bắc hoặc tây. So với các khu vực lịch sử khác, nó nằm ở phía đông bắc của Galicia, phía đông của Tiểu Ba Lan và phía tây bắc của Podolia. Biên giới của khu vực không được xác định rõ ràng và nó thường được coi là chồng lên một số khu vực khác, trong đó có Polesia và Podlasie.
Volhynia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805749
Các lãnh thổ của Volhynia trong lịch sử hiện nay là một phần của các tỉnh Volyn, Rivne và một phần của các tỉnh Zhytomyr, Ternopil và Khmelnytskyi của Ukraina, cũng như một phần của Ba Lan (Chełm). Các thành phố lớn bao gồm Lutsk, Rivne, Kovel, Volodymyr, Kremenets (tỉnh Ternopil) và Starokostiantyniv (tỉnh Khmelnytskyi). Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều shtetl (thị trấn nhỏ) của người Do Thái, chẳng hạn như Trochenbrod và Lozisht, là một phần không thể thiếu của khu vực. Tại một thời điểm, toàn bộ Volhynia là một phần của Hàng rào định cư cho phép người Do Thái định cư Đế quốc Nga chỉ định ở biên giới cực tây nam của lãnh thổ quốc gia. Lịch sử. Những ghi chép đầu tiên có thể bắt nguồn từ các biên niên sử của người Ruthenia, chẳng hạn như "Biên niên sử sơ cấp", đề cập đến các bộ lạc Dulebe, Buzhan và Volhynia. Vùng đất đã được đề cập trong các tác phẩm của Al-Masudi và Abraham ben Jacob rằng vào thời cổ đại, "Walitābā" và vua "Mājik", mà một số người đọc là "Walīnānā" và được xác định với người Volhynia, là "người Saqaliba thuần chủng, nguyên thủy, được tôn vinh nhất" và thống trị phần còn lại của các bộ lạc Slav, nhưng do "bất đồng quan điểm" nên "tổ chức ban đầu của họ đã bị phá hủy" và "người dân chia thành các phe phái, mỗi phe do vua của mình cai trị", ngụ ý sự tồn tại của một Liên bang Slav đã bị diệt vong sau cuộc tấn công của người Avar Pannonia. Volhynia có thể đã được đưa vào (hoặc nằm trong phạm vi ảnh hưởng của) Đại công quốc Kyiv (Ruthenia) ngay từ thế kỷ 10. Vào thời điểm đó, Đại công tước phu nhân Olga đã phái một cuộc tấn công trừng phạt chống lại người Drevlia để trả thù cho cái chết của chồng bà là Đại công tước Igor (Ingvar Röreksson); sau đó bà thành lập các pogost hành chính dọc theo sông Luha. Theo ý kiến ​​của nhà sử học Ukraina Yuriy Dyba, cụm từ biên niên sử «и оустави по мьстѣ. погосты và дань. и по лузѣ погосты и дань и ѡброкы» (và thiết lập các pogost và cống nạp dọc theo Luha), hướng đi của các pogost và cống nạp phản ánh lộ trình thực tế cuộc tấn công của Olga chống lại người Drevlia xa hơn về phía tây, cho đến nhánh sông Luha của Tây Bug.
Volhynia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805749
Ngay từ năm 983, Vladimir Đại đế đã bổ nhiệm con trai mình là Vsevolod làm người cai trị Thân vương quốc Volhynia. Năm 988, ông thành lập thành phố Volodymer ("Володимѣръ"). Lịch sử ban đầu của Volhynia trùng khớp với lịch sử của các công quốc hoặc thân vương quốc Halych và Volhynia. Hai quốc gia kế thừa Rus Kyiv này đã thành lập nhà nước Halych-Volhynia từ thế kỷ 12 đến 14. Su khi Đại công quốc Halych-Volhynia tan rã vào khoảng năm 1340, Vương quốc Ba Lan và Đại công quốc Litva phân chia khu vực giữa họ, theo đó Ba Lan chiếm Tây Volhynia và Litva chiếm Đông Volhynia (1352–1366). Sau năm 1569, Volhynia được tổ chức như một tỉnh của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Trong thời kỳ này, nhiều người Ba Lan và người Do Thái định cư trong khu vực. Các nhà thờ Công giáo La Mã và Hy Lạp được thành lập trong tỉnh. Năm 1375, một giáo phận Công giáo La Mã của Lodomeria được thành lập, nhưng nó bị đàn áp vào năm 1425. Nhiều nhà thờ Chính thống giáo đã tham gia tổ chức Công giáo Hy Lạp để hưởng lợi từ một địa vị pháp lý hấp dẫn hơn. Hồ sơ về các thuộc địa nông nghiệp đầu tiên của người Mennonite, là những người theo đạo Tin lành từ Đức, có từ năm 1783. Sau khi Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva bị phân chia lần thứ ba vào năm 1795, Volhynia được sáp nhập thành tỉnh Volhynia (Volyn) của Đế quốc Nga. Tỉnh này có diện tích 71.852,7 km². Sau vụ sáp nhập này, chính phủ Nga thay đổi đáng kể cấu trúc tôn giáo của khu vực: họ buộc thanh lý Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraina, chuyển tất cả các tòa nhà của họ sang quyền sở hữu và kiểm soát của Giáo hội Chính thống Nga. Nhiều tòa nhà của Giáo hội Công giáo La Mã cũng được trao cho Giáo hội Nga. Giáo phận Công giáo La Mã Lutsk đã bị đàn áp theo lệnh của Nữ hoàng Yekaterina II. Năm 1897, dân số tỉnh Volyn là 2.989.482 người (41,7/km²). Con số bao gồm 73,7% người Đông Slav (chủ yếu là người Ukraina), 13,2% người Do Thái, 6,2% người Ba Lan và 5,7% người Đức. Hầu hết những người Đức định cư đã nhập cư từ Ba Lan Lập hiến. Một số ít người Séc định cư cũng di cư đến đây.
Volhynia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805749
Mặc dù về mặt kinh tế, khu vực này đang phát triển khá nhanh chóng, nhưng trước Thế chiến thứ nhất, đây vẫn là tỉnh nông thôn nhất ở miền Tây của Đế quốc Nga. Cộng hòa Nhân dân Ukraina. Sau Cách mạng tháng Hai và sự kiện thành lập Chính phủ lâm thời Nga, những người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraina tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Ukraina tự trị. Lãnh thổ của Volhynia bị chia đôi theo một chiến tuyến ngay phía tây thành phố Lutsk. Do một cuộc xâm lược của những người Bolshevik, chính phủ Ukraina đã buộc phải rút lui về Volhynia sau khi Kyiv bị chiếm lĩnh. Viện trợ quân sự từ Liên minh Trung tâm là kết quả của Hiệp ước Brest-Litovsk, giúp mang lại hòa bình và ổn định ở một mức độ nhất định trong khu vực. Từ đó cho đến khi chiến tranh kết thúc, khu vực này chứng kiến ​​sự hồi sinh của văn hóa Ukraina sau nhiều năm bị Nga áp bức và từ chối các truyền thống của Ukraina. Sau khi quân Đức rút đi, toàn bộ khu vực bị nhấn chìm bởi một làn sóng hành động quân sự mới của người Ba Lan và người Nga nhằm tranh giành quyền kiểm soát lãnh thổ. Quân đội Nhân dân Ukraina buộc phải chiến đấu trên ba mặt trận: những người Bolshevik, người Ba Lan và Quân tình nguyện Đế quốc Nga. Giai đoạn giữa hai thế chiến. Năm 1921, sau khi Chiến tranh Ba Lan-Liên Xô kết thúc, một hiệp ước được gọi là Hòa ước Riga đã phân chia tỉnh Volyn giữa Ba Lan và Liên Xô. Ba Lan chiếm phần lớn hơn và thành lập tỉnh Wołyń (Volhynia). Hầu hết phần phía đông tỉnh Volyn trở thành một phần của Ukraina Xô viết, cuối cùng được chia thành các khu nhỏ hơn. Trong thời kỳ đó, một số khu dân tộc được hình thành bên trong Ukraina Xô viết nằm trong quá trình tự do hóa văn hóa. Các chính sách Ba Lan hóa ở Ba Lan dẫn đến sự hình thành các phong trào kháng chiến khác nhau ở Tây Ukraina và Tây Belarus, bao gồm cả ở Volhynia. Năm 1931, Vatican thành lập miền Phủ Doãn Tông Tòa Công giáo Ukraina của Volhynia, Polesia và Pidliashia, nơi giáo đoàn thực hành Nghi thức Byzantine bằng tiếng Ukraina.
Volhynia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805749
Từ năm 1935 đến năm 1938, chính phủ Liên Xô trục xuất nhiều công dân từ Volhynia trong một đợt di chuyển dân số đến Siberia và Trung Á, trong quá trình diệt trừ phú nông, một nỗ lực nhằm đàn áp nông dân trong khu vực. Những người này bao gồm cả người Ba Lan ở Đông Volhynia. Thế chiến II. Sau khi ký kết Hiệp ước Molotov–Ribbentrop vào năm 1939, và sau đó là cuộc xâm lược và phân chia lãnh thổ Ba Lan giữa Đức và Liên Xô, Liên Xô đã xâm chiếm và chiếm đóng phần Volhynia của Ba Lan. Trong quá trình di chuyển dân số của Đức Quốc xã-Liên Xô sau liên minh Đức-Xô (tạm thời) này, hầu hết dân số thiểu số người Đức ở Volhynia đã được chuyển đến các khu vực Ba Lan bị Đức Quốc xã sáp nhập. Sau các vụ trục xuất và bắt giữ hàng loạt do NKVD thực hiện và các hành động đàn áp người Ba Lan do Đức thực hiện, bao gồm trục xuất đến Đức để đến các trại lao động cưỡng bức, bắt giữ, giam giữ trong trại và hành quyết hàng loạt, đến năm 1943, người Ba Lan chỉ chiếm 10–12% toàn bộ dân số của Volhynia. Trong cuộc xâm lược của Đức, khoảng 50.000–100.000 người Ba Lan ở Volhynia đã bị Quân nổi dậy Ukraina tàn sát. Số nạn nhân Ukraina trong các cuộc tấn công trả đũa của Ba Lan cho đến mùa xuân năm 1945 được ước tính là khoảng 2.000−3.000 người ở Volhynia. Năm 1945, Ukraina thuộc Liên Xô đã trục xuất người dân tộc Đức khỏi Volhynia sau khi chiến tranh kết thúc, tuyên bố rằng Đức Quốc xã đã sử dụng người dân tộc Đức ở Đông Âu như một phần của Kế hoạch chung Ost. Liên Xô sáp nhập Volhynia vào Ukraina sau khi Thế chiến II kết thúc. Năm 1944, những người cộng sản ở Volyhnia đã đàn áp miền Phủ Doãn Tông Tòa Công giáo Ukraina. Hầu hết những người dân tộc Ba Lan còn lại đã bị trục xuất sang Ba Lan vào năm 1945. Kể từ khi Liên Xô tan rã vào những năm 1990, Volhynia là một phần của Ukraina.
Aybüke Pusat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805754
Aybüke Pusat (sinh ngày 25 tháng 2, 1995) là một nữ diễn viên, người mẫu người Thổ Nhĩ Kỳ. Sự nghiệp diễn xuất. Phim truyền hình. Năm 2014, Aybüke Pusat ra mắt lần đầu tiên với một vai diễn nhỏ trong bộ phim truyền hình nổi tiếng "Medcezir". Sau đó, cô tiếp tục đóng thêm một số vai phụ trong các loạt phim như: "Beş Kardeş" (2015) và "O Hayat Benim" (2015–2016). Năm 2016, cô được mời đóng vai chính trong loạt phim hài "Familya" , trong đó cô đóng vai Su Beyoğlu, con gái duy nhất của gia đình Beyoğlu, người cùng với các anh chị em của mình nổ lực hàn gắn mọi thứ trong gia đình sau cái chết của mẹ. Cô trở nên nổi tiếng vào năm 2017 nhờ vào vai nữ chính - bác sĩ Bahar Kutlu với tính cách cứng rắn, kiên cường trong hai mùa phim ' (Lời Thề) - một trong những bộ phim hành động nổi tiếng và được quốc tế đón nhận nồng nhiệt nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, đóng cặp cùng Tolga Sarıtaş. Năm 2018"', cô tiếp tục đóng vai chính trong "," được chuyển thể từ loạt phim truyền hình nổi tiếng của Hoa Kỳ là Falcon Crest. Tuy nhiên, Şahin Tepesi chỉ kéo dài một thời gian ngắn do tỷ suất người xem thấp. Năm 2019, cô đóng vai chính cùng với Furkan Andıç trong bộ phim hài lãng mạn ' (Đâu Đâu Cũng Là Em), ở đó cô đóng vai Selin Sever, một kiến ​​trúc sư nội thất sôi nổi và thông minh, người bị buộc phải sống chung một nhà với nhân vật Demir Erendil của Furkan Andıç, đồng thời cũng chính là sếp mới của cô. Her Yerde Sen đã nhận được sự công nhận và đánh giá cao của quốc tế sau khi giành được Giải thưởng Ống kính Vàng từ Hiệp hội Nhà báo về lối kể chuyện, đạo diễn và kỹ xảo điện ảnh xuất sắc. Năm 2020, cả Pusat và Andıç đều giành được Giải thưởng Con bướm vàng cho Cặp đôi truyền hình xuất sắc nhất. Sau đó, Her Yerde Sen là tác phẩm duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ được nêu tên trong The Guardian 's danh sách 52 Phim hài lãng mạn cho Ngày lễ tình nhân năm 2021.
February Azure
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805756
February Azure (), còn được gọi là February Blue, là một bức tranh phong cảnh của họa sĩ Nga Igor Emmanuilovich Grabar, thuộc trường phái hậu ấn tượng, được tạo năm 1904. Bức tranh được trưng bày công khai lần đầu tiên tại triển lãm thứ hai của Hiệp hội Họa sĩ Nga, mở cửa vào ngày 31 tháng 12 năm 1904 tại Sankt-Peterburg và sau đó chuyển đến Moskva vào tháng Hai năm 1905. Năm 1905, "February Azure" được Nhà trưng bày Tretyakov ở Moskva mua từ Grabar sau quyết định của ban giám đốc của bảo tàng. Grabar coi "February Azure" là sự tổng hợp của nhiều quan sát riêng rẽ, một cách nói khác, là sự kết hợp của chúng, và đây là một tác phẩm mang tính cách mạng, mở ra một con đường mới mà nghệ thuật Nga chưa từng khám phá trước đó. Các nghiên cứu và nguồn cảm hứng. Tại triển lãm đầu tiên của Hiệp hội Họa sĩ Nga năm 1903, Grabar quen được với một trong những nghệ sĩ tham gia triển lãm, Nikolai Meshcherin. Meshcherin mời Grabar ở lại tại biệt thự gia đình ông trên bờ sông Pakhra ở Moscow. Grabar, muốn vẽ tuyết và mùa đông, đã chấp nhận lời mời - ông thích phong cảnh mùa đông vì ông coi tuyết là cơ sở lý tưởng để sử dụng nhiều hiệu ứng ánh sáng khác nhau. Gia đình Meshcherin sở hữu nhà máy Danilovskaya và giàu có cùng hiếu khách. Grabar cảm thấy như ở nhà và họ cung cấp cho ông một chiếc xe trượt với một chiếc xe ngựa để ông di chuyển xung quanh khu vực để nghiên cứu. Trong một trong những cuộc lang thang thường xuyên gần biệt thự vào tháng Hai năm 1904, ông đã gặp "một điều phi thường đang diễn ra trong tự nhiên. [...] một lễ hội của bầu trời lam, cây tuyết ngọc trai, nhánh san hô và bóng sapphire trên mặt tuyết màu hoa oải hương", điều này ấn tượng ông sâu sắc đến mức ông quyết định biểu hiện nó trên một bức tranh. Grabar đã vẽ một nghiên cứu trên một bức tranh nhỏ trước, sau đó lấy một bức tranh lớn và làm việc trên một nghiên cứu khác trong ba ngày tiếp theo tại cùng một vị trí.
February Azure
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805756
Cả hai nghiên cứu đã được lưu giữ: nghiên cứu đầu tiên, mang tựa đề "Mùa đông", được lưu trữ trong bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Nga Quốc gia dưới số lưu trữ tại Sankt-Peterburg, và nghiên cứu thứ hai, mang tựa đề "February Azure", được giữ tại Bảo tàng Nghệ thuật Quốc gia Belarus tại Minsk. Sau đó, ông đào một rãnh sâu hơn một mét (3,3 ft) trong tuyết, trong đó ông ngồi xuống với một cái dụng cụ và một tấm bức tranh được gắn trên nó để ông có thể nhìn thấy "một đường chân trời thấp và trung điểm thiên văn, với tất cả các mức độ màu xanh từ màu xanh lá cây nhạt ở dưới đến màu xanh lục lam ở trên". Ông đã chuẩn bị tấm bức tranh trước đó trong phòng tạo hình, phủ lên một lớp dày của chất trắng chì có các tông màu khác nhau. Công việc hàng ngày kéo dài trong hai tuần, không bị gián đoạn và hoàn toàn "tại chỗ". Grabar nhớ lại rằng, may mắn cho ông, tuyết không tan trong suốt thời gian đó vì thời tiết giữ lạnh. Ông làm việc dưới một cái ô, và với mặt trước của tấm bức tranh hướng lên trời để ánh sáng mặt trời phản chiếu trên tuyết không rơi vào bức tranh - điều này sẽ ảnh hưởng đến cách ông nhìn thấy màu sắc trên bức tranh. Mô tả. Tiêu đề mô tả hiệu quả bản chất của bức tranh khi nó miêu tả sắc độ tươi sáng của bầu trời vào một ngày tháng Hai lạnh giá. Hầu hết diện tích phía trước của bức tranh được chiếm bởi một cây đuôi công với những cành cây mà, theo nhà sử học nghệ thuật Olga Podobedova, được "sắp xếp theo nhịp điệu ()" và phát sáng màu trắng hoặc màu vàng so với nền bầu trời. Grabar đã chú ý đến cấu trúc nhịp điệu của chúng trong "Automonograph" của mình. Mặt trên của cây không thể nhìn thấy vì bị cắt ngang bởi cạnh trên của bức tranh. Nhà sử học nghệ thuật Natalia Mamontova so sánh những cành cây này với "đôi cánh" và quan sát rằng những chiếc đỉnh đỏ của cây thực sự mang tính ấn tượng, trong khi định dạng dọc của bức tranh (142.6 cm × 84.8 cm hoặc 56.1 in × 33.4 in) tăng cường tính thể nổi của cây đuôi công và làm nổi bật "vô tận của không gian xanh da trời ()".
February Azure
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805756
Phía sau là những cây đuôi công khác, mảnh hơn và ở chân trời là một khu rừng đuôi công với ánh sáng trong một khoảng cách nào đó. Tuyết phía trước cho thấy bóng của cây phía sau người xem. Grabar đã viết trong "Automonograph" của mình rằng, mặc dù "March Snow" (Мартовский снег, 1904) có vẻ phổ biến hơn so với bất kỳ tác phẩm nào khác mà ông đã sáng tạo trong những năm đầu của mình, ông cảm thấy rằng "February Azure" quan trọng và toàn diện hơn vì nó là tổng hợp của nhiều quan sát khác nhau và, một cách nào đó, là sự tổng hợp của chúng, và ông tin rằng "February Azure" mở ra một con đường mới mà nghệ thuật Nga chưa khám phá cho đến thời điểm đó.
Shoro (công ty)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805757
Shoro là một công ty đồ uống được thành lập năm 1992 ở Kyrgyzstan. Họ bán bốn loại đồ uống quốc gia, gồm: Maksym Shoro (), Chalap Shoro (), Jarma Shoro (), và Aralash Shoro (). Những đồ uống này là đồ uống truyền thống maksym, chalap, jarma, và sự kết hợp của hai thứ trước, tương ứng. Bạn có thể mua những thứ này dưới dạng chai ở hầu hết các cửa hàng, hoặc mua "trên vòi" ở các góc phố (xem trong hình) và chợ ở hầu hết các thành phố ở Kyrgyzstan. Ngoài ra, họ bán nước có ga đóng chai, tiếp thị nó là "Байтик". Đối thủ cạnh tranh chính của họ là Enesay, công ty chuyên sản xuất các loại đồ uống tương tự và phân phối chúng theo những cách tương tự.
Quân hàm Lực lượng Phòng vệ Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805758
Quân hàm Lực lượng Phòng vệ Phần Lan là biểu trưng thể hiện cấp bậc, ngạch bậc, quân chủng, binh chủng trong các lực lượng vũ trang của Phần Lan. Quân hàm quân sự Phần Lan chịu ảnh hưởng rất lớn về cách đặt tên, phân cấp đến từ quân đội các nước lớn trong khu vực như Thụy Điển, Đức và Nga. Tên gọi các cấp hàm sử dụng trong ngôn ngữ chính thức bằng tiếng Phần Lan và tiếng Thụy Điển có bản dịch ra tiếng Anh.
Bên trong vỏ kén vàng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805767
Bên trong vỏ kén vàng (tên tiếng Anh: Inside the Yellow Cocoon Shell) là một bộ phim điện ảnh chính kịch của Việt Nam năm 2023 do Phạm Thiên Ân đạo diễn và dựng phim, đồng thời cũng là tác phẩm điện ảnh đầu tay của anh. Bộ phim do Trần Văn Thi và Jeremy Chua đảm nhiệm vai trò sản xuất, dựa trên phần kịch bản do chính Phạm Thiên Ân chấp bút. Phim được JK Film cùng Potocol chịu trách nhiệm sản xuất và CJ CGV giữ vai trò phân phối, với sự tham gia diễn xuất của Lê Phong Vũ, Nguyễn Thị Trúc Quỳnh, Vũ Ngọc Mạnh, Nguyễn Thịnh, Nguyễn Hân và Vũ Trọng Tuyền. Lấy bối cảnh tại chủ yếu tại Lâm Đồng vào năm 2018, nội dung phim xoay quanh Thiện sau khi đưa hài cốt của người chị dâu tên Hạnh về quê, anh bắt đầu hành trình tìm kiếm người anh trai đã biến mất từ lâu, cũng như có những cuộc gặp gỡ đầy mê hoặc trong suốt cuộc hành trình này. Với những cú máy dài và chuyển động chậm cùng những bối cảnh rộng lớn, đạo diễn tạo ra những khoảng trống về không gian để làm nổi bật những chiêm nghiệm mà nhân vật nhìn nhận về cuộc đời. Phim đã có buổi ra mắt thế giới trong hạng mục Directors' Fortnight tại Liên hoan phim Cannes lần thứ 76 vào ngày 24 tháng 5 năm 2023 và giành được giải Caméra d'Or (Giải máy quay vàng), giải thưởng cho phim truyện đầu tay hay nhất. Đây là phim nói tiếng Việt thứ hai đoạt giải thưởng này, sau "Mùi đu đủ xanh", cách đó đúng 30 năm. Nội dung. Phim kể về Thiện, một người đàn ông phải chở xác chị dâu chết trong một vụ tai nạn xe máy ở Sài Gòn, và đứa con trai 5 tuổi của cô ấy tên Đạo, người sống sót sau vụ tai nạn, về quê. Ở nông thôn Việt Nam, những hình bóng về tuổi trẻ của chính anh, về người anh trai của anh, người đã ra đi để làm lại cuộc đời ở nơi khác, và về chiến tranh cũng đang chờ đợi anh. Trong suốt cuộc hành trình tìm lại anh trai của mình và là cha của Đạo, Thiện đối diện với quá khứ và suy tư về cuộc đời, về đức tin và lẽ sống, đồng thời phim cũng đã đưa lên màn ảnh rất nhiều cảnh sắc, con người Sài Gòn cũng như Việt Nam.
Bên trong vỏ kén vàng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805767
Trả lời đài RFI Tiếng Việt ngày 24 tháng 5 năm 2023, đạo diễn Phạm Thiên Ân cho rằng 'Vỏ kén' là vỏ bọc của con người trong xã hội chạy theo danh vọng và tiền bạc và xoay quanh câu hỏi "Sống vì điều gì". Sản xuất. Phim dài 3 tiếng và phát triển từ phim ngắn "Hãy thức tỉnh và sẵn sàng" (Stay Awake, Be Ready) cũng của Phạm Thiên Ân năm 2019, với mong muốn của đạo diễn là thể hiện tác phẩm theo cách thức tối giản, bằng những chất liệu có sẵn và sử dụng cú máy dài (long take). Ông miêu tả phim là "bản nhạc chậm kéo người nghe trôi theo dòng chảy với những ngã rẽ của cuộc đời". "Bên trong vỏ kén vàng", do Ủy ban Điện ảnh Singapore, hãng Purin Pictures, Normandie Images và Hubert Bals Script & Development Scheme tài trợ kinh phí, đây là sản phẩm hợp tác sản xuất giữa Việt Nam, Singapore, Pháp và Tây Ban Nha. Hãng Cercamon đã mua bản quyền phát hành phim từ tháng 4 năm 2023, trước khi phim ra mắt tại Cannes 2023. Vai diễn. Phim có sự tham gia diễn xuất của các diễn viên phụ bao gồm Nguyễn Văn Lưu trong vai cụ Lưu và NSND Phi Điểu trong vai bà cụ ở tiệm sửa xe. Đón nhận. Phê bình. Trên Rotten Tomatoes, bộ phim có tỷ lệ phê duyệt 100% dựa trên 10 bài phê bình, với điểm trung bình là 9/10. Guy Lodge của "Variety" đã gọi nó là "Rạp chiếu phim nghệ thuật đầy thách thức nhưng quyến rũ mời gọi so sánh với những người khổng lồ như Apichatpong Weerasethakul, Tsai Ming-liang và thậm chí Theo Angelopoulos, mà không cảm thấy bắt nguồn từ bất kỳ điều gì."
Jérôme Mombris
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805769
Jérôme Mombris Razanapiera (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1987) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Gazélec Ajaccio tại Championnat National 3 bảng D. Anh sinh ra tại Pháp nhưng từng đại diện cho Madagascar trên đấu trường quốc tế. Sự nghiệp thi đấu. Ngày 19 tháng 8 năm 2021, anh ký hợp đồng 2 năm với Guingamp. Anh tuyên bố giải nghệ vào ngày 3 tháng 1 năm 2022 vì "lý do cá nhân". Anh sau đó đã rút lại ý định đó và ký hợp đồng với câu lạc bộ JS Saint-Pierroise. Chỉ sau một thời gian ngắn, anh lại ký hợp đồng với Gazélec Ajaccio lần thứ hai. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Mombris sinh ra tại Pháp, có bố là người Réunion, và bên ngoại là người gốc Madagascar. Anh ra mắt quốc tế cho Madagascar trong trận hòa 1–1 trước Comoros vào ngày 11 tháng 11 năm 2017. Anh thi đấu tại Cúp bóng đá châu Phi 2019, nơi Madagascar đã gây bất ngờ lớn khi lọt vào vòng tứ kết ngay lần đầu tham dự.
La Passion de Dodin Bouffant
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805777
La Passion de Dodin Bouffant ("Niềm đam mê của Dodin Bouffant"), (tên tiếng Anh: The Pot-au-Feu, tạm dịch:" Món bò hầm") là một bộ phim chính kịch lãng mạn lịch sử Pháp năm 2023 của đạo diễn Trần Anh Hùng với sự tham gia của Juliette Binoche và Benoît Magimel, Lấy bối cảnh năm 1885, bộ phim miêu tả mối tình lãng mạn giữa một nữ đầu bếp và một người sành ăn mà bà ấy phục vụ. Nhân vật người sành ăn dựa trên Dodin-Bouffant do Marcel Rouff tạo ra trong cuốn tiểu thuyết "La Vie et la Passion de Dodin-Bouffant, người sành ăn (The Passionate Epicure)" năm 1924 của ông. Phim đã được chọn để tranh giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes 2023, nơi phim được công chiếu lần đầu vào ngày 24 tháng 5 năm 2023 và Trần Anh Hùng thắng giải đạo diễn xuất sắc. Phim đã lên lịch dự kiến ​​được công chiếu tại Pháp từ ngày 8 tháng 11 năm 2023. Kịch bản. Pháp năm 1885: Eugénie đã làm đầu bếp cho chủ nhà hàng nổi tiếng Dodin trong 20 năm. Cô được coi là xuất sắc trong lĩnh vực của mình. Trong những năm qua, bởi Eugénie cùng Dodin dành rất nhiều thời gian vào bếp cùng nhau nên giữa họ đã nảy sinh tình cảm. Tình yêu ẩm thực chung của họ đã tạo ra những món ăn độc đáo, ngon và tinh tế đến mức không nơi nào sánh kịp và thu hút nhiều thực khách từ khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, Eugénie yêu tự do không bao giờ muốn kết hôn với Dodin. Sau đó, Dodin quyết định lần đầu tiên nấu ăn cho người mình yêu. Sản xuất. Phim được quay tại một lâu đài ở Segré-en-Anjou Bleu, tỉnh Maine-et-Loire, vào tháng 4 và tháng 5 năm 2022. Đầu bếp người Pháp Pierre Gagnaire từng là giám đốc ẩm thực đồng thời xuất hiện trong phim với vai trò nhỏ như một đầu bếp.
Công viên nước
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805780
Công viên nước ("Water park") hay thế giới nước ("Water world") hay Công viên thủy cung ("Aquapark") là một công viên giải trí có các khu vui chơi dưới nước như hồ bơi, bể bơi, đường trượt nước, miếng đệm nước, sân chơi nước và sông trôi ("Lazy river"), cũng như các khu vực thả nổi, tắm, bơi lội, và các môi trường giải trí dưới nước khác. Các công viên nước hiện đại cũng có thể được trang bị một số loại môi trường lướt sóng nhân tạo hoặc lướt ván nằm (trượt ván miếng), chẳng hạn như bể tạo sóng hoặc thiết bị tạo sóng ("Flowriding"). Công viên nước đã trở nên phổ biến kể từ khi được ra mắt vào cuối những năm 1940 và đầu những năm 1950. Hoa Kỳ có thị trường công viên nước lớn nhất và tập trung đông đảo nhất với hơn 1.000 công viên nước và hàng chục công viên mới mở cửa mỗi năm. Các công viên nước xuất hiện từ các spa có xu hướng gần giống với các khu nghỉ dưỡng trên núi hơn, vì chúng trở thành điểm đến quanh năm. Ví dụ như Khu nghỉ dưỡng Công viên nước Splash Universe có chủ đề phù hợp với cộng đồng nơi nó tọa lạc. Chủ đề này nhằm nâng cao sức hấp dẫn của điểm đến trong cộng đồng. Quá trình chuyên môn hóa có thể được thấy trong các phiên bản kết hợp của công viên chủ đề, các trò vui chơi giải trí kết hợp với nước. Vào những năm 2000, một nỗ lực đã được triển khai thực hiện nhằm giảm bớt hàng dài người chờ đợi bằng cách sử dụng băng chuyền nâng hành khách hoặc sử dụng vòi phun nước. Một tính năng khác thường tại công viên nước là trượt băng. Công viên nước Deep River ở phía tây bắc Indiana có trò trượt băng, có thể thực hiện được nhờ các ống làm mát được lắp đặt bên dưới quảng trường đồ sộ. Theo ước tính của Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng Hoa Kỳ "(U.S. Consumer Product Safety Commission") đã có hơn 4.200 người mỗi năm được đưa đến phòng cấp cứu do bị chấn thương trên các đường trượt nước.
Công viên nước
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805780
Vào tháng 7 năm 2015, một trường hợp chết đuối và ít nhất ba trường hợp suýt chết đuối đã được báo cáo tại các công viên nước ở Hoa Kỳ.Vào ngày 7 tháng 8 năm 2016, Caleb Schwab đứa con trai 10 tuổi của chính trị gia người Mỹ Scott Schwab, đã bị chặt đầu trên trò chơi trượt nước Verrückt tại công viên nước Schlitterbahn ở Thành phố Kansas thuộc bang Kansas. Sau sự cố chết người này, công viên nước Verrückt đã bị đóng cửa vĩnh viễn.
TeleCuraçao
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805781
TeleCuraçao (Call sign: PJC-TV) là một đài truyền hình phát sóng bằng tín hiệu analog trên NTSC, kênh 8 ở Curaçao, với một bộ lặp ở Bonaire trên kênh 16. Đài được thành lập vào ngày 31 tháng 7 năm 1960, là đài truyền hình đầu tiên của Antille thuộc Hà Lan. Đài truyền hình Mỹ Gerald Bartell đã thành lập đài với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương và sự hỗ trợ Telearuba 13 sau này. Tại một thời điểm, đài đã mở rộng ra khắp đảo ABC còn lại với các bộ lặp (chẳng hạn như ở Aruba). Ban đầu, đài chủ yếu phát sóng phim của Hoa Kỳ (chẳng hạn như Gunsmoke), với tin tức địa phương. Tuy nhiên, ngày nay, họ đang dần dần bắt đầu sản xuất ngày càng nhiều chương trình của riêng mình, để ít phụ thuộc vào những chương trình từ Hoa Kỳ hơn và phục vụ nhiều hơn theo thị hiếu địa phương. Là một phần của việc chuyển đổi truyền hình kỹ thuật số ở Curaçao vào năm 2013, TeleCuraçao đã thêm một mô phỏng kỹ thuật số trên UHF 26 trong DVB-T, với hai kênh con được bổ sung thêm.
Loretta Barcenas
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805784
Loretta A. Barcenas (sinh ngày 19 tháng 12 năm 1942) là một vận động viên chạy nước rút người Philippines. Cô đã tham gia thi đấu ở nội dung chạy tiếp sức 4 x 100 mét nữ tại Thế vận hội Mùa hè năm 1964.
Mại dâm tại Vương quốc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805786
Tại Vương quốc Anh (bao gồm Anh, Xứ Wales và Scotland), việc tham gia vào quan hệ tình dục để nhận tiền là hoàn toàn hợp pháp, Tuy nhiên, có những hoạt động liên quan đến mại dâm vi phạm pháp luật, chẳng hạn như quảng cáo mại dâm ở nơi công cộng, điều tra, sở hữu hoặc quản lý một nhà hoạt động mại dâm, điều hành môi giới và quảng cáo mại dâm. Ở Bắc Ireland, trước đây cũng áp dụng các luật tương tự, nhưng từ ngày 1 tháng 6 năm 2015, việc trả tiền cho dịch vụ mại dâm đã trở thành hành vi bất hợp pháp. Mặc dù có quy định về công việc tình dục, nhưng không phải lúc nào chúng cũng được tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Tháng 3 năm 2016, có báo cáo cho thấy một số lực lượng cảnh sát đã "nhắm mắt làm ngơ" không để ý đến những nơi hoạt động mại dâm, tức là họ đã không làm gì để ngăn chặn hoạt động này. Tuy nhiên, từ đó, đã có những báo cáo về việc truy quét những tụ điểm hoạt động mại dâm ở Vương quốc Anh. Nhiều tụ điểm hoạt động mại dâm ở các thành phố như Manchester, Luân Đôn và Cardiff hoạt động dưới hình thức "tiệm massage". Mặc dù tại Vương quốc Anh, độ tuổi tối thiểu tham gia hoạt động tình dục là 16 tuổi, nhưng việc trả tiền cho dịch vụ từ một người dưới 18 tuổi mà người mua không có lý do hợp lệ để tin rằng họ đã đủ 18 tuổi trở lên là vi phạm pháp luật. Ở Anh và Xứ Wales, trả tiền để mua dịch vụ tình dục từ một gái mại dâm bị "ép buộc" được coi là một tội danh nghiêm trọng, áp dụng nguyên tắc chịu trách nhiệm nghiêm ngặt. Điều này có nghĩa là ngay cả khi khách hàng của gái mại dâm không có ý đồ phạm tội hoặc không biết rằng gái mại dâm bị ép buộc, họ vẫn có thể bị truy tố tội. Phạm vi. Số lượng người bán dâm tại Vương quốc Anh không thể xác định chính xác và khó để đánh giá. Năm 2009, các cơ quan chính phủ và tổ chức phi chính phủ ước tính có khoảng 100.000 người đang hoạt động trong ngành bán dâm tại đất nước này. Theo một nghiên cứu được công bố vào năm 2015, có khoảng 72.800 người bán dâm tại Vương quốc Anh.
Mại dâm tại Vương quốc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805786
Trong số này, 88% là phụ nữ, 6% là nam và 4% là người chuyển giới. Theo một nghiên cứu của TAMPEP vào năm 2009, trong tổng số người bán dâm ở Vương quốc Anh, có 41% là người nước ngoài; tuy nhiên, ở Luân Đôn, tỷ lệ này lên đến 80%. Tuy số lượng người bán dâm di cư ở Vương quốc Anh thấp hơn đáng kể so với các nước phương Tây khác (như Tây Ban Nha và Ý, nơi tỷ lệ người bán dâm di cư chiếm 90%), người bán dâm di cư đến từ các khu vực như Trung Âu (bao gồm Ba Lan, Hungary, Slovakia và Cộng hòa Séc) chiếm 43%, các quốc gia Baltic chiếm 10%, Đông Âu (bao gồm Romania và Bulgaria) chiếm 7%, các quốc gia Balkan chiếm 4%, các quốc gia khác trong Liên minh châu Âu chiếm 16%, Trung và Nam Mỹ chiếm 10%, Châu Á chiếm 7%, Châu Phi chiếm 2%, và Bắc Mỹ chiếm 1%. Theo dữ liệu từ Văn phòng Thống kê Quốc gia cho thấy vào năm 2009, ngành công nghiệp mại dâm đã đóng góp số tiền là 5,3 tỷ Bảng Anh vào nền kinh tế Vương quốc Anh. Vào năm 2015, Cục Thuế và Hải quan của Vương quốc Anh đã thành lập một đội làm việc đặc biệt có tên "Đội công tác giải trí cho người trưởng thành". Mục tiêu của đội là thu thuế từ thu nhập chưa được khai báo của các công ty môi giới hẹn hò và các cơ sở kinh doanh mại dâm trực tuyến. Ngành mại dâm ở Vương quốc Anh có nhiều hình thức khác nhau, bao gồm mại dâm đường phố, mại dâm qua dịch vụ đi cùng và mại dâm tại các cơ sở. Các cơ sở này có thể là phòng xông hơi, phòng mát-xa, căn hộ riêng tư và các cửa hàng tại khu Soho. Vào năm 2003, cảnh sát điều tra đã kiểm tra một câu lạc bộ nhảy múa kiêm mại dâm có tên Spearmint Rhino trên đường Tottenham Court ở Luân Đôn và cho rằng đây là một địa điểm trá hình mại dâm. Theo một nghiên cứu của Dự án Poppy vào năm 2008, đã phát hiện ra sự tồn tại của những nhà chứa ở tất cả 33 khu chính quyền địa phương ở Luân Đôn. Westminster là nơi có số lượng nhà chứa cao nhất với 71 nhà chứa, trong khi Southwark chỉ có 8 nhà chứa. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã giả danh làm khách hàng tiềm năng và đã gọi điện cho 921 nhà chứa đã quảng cáo trên các báo địa phương.
Mại dâm tại Vương quốc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805786
Từ đó, các nhà nghiên cứu ước tính rằng ngành công nghiệp nhà chứa tạo ra từ 50 triệu đến 130 triệu bảng mỗi năm. Nhiều nhà chứa hoạt động thông qua các doanh nghiệp hợp pháp được cấp phép làm phòng xông hơi hoặc phòng mát-xa. Tuy nhiên, phần lớn nhà chứa lại tập trung trong các căn hộ riêng tư nằm trong các khu dân cư. Báo cáo cũng phát hiện rằng có tới 77 dân tộc khác nhau trong số những người bán dâm. Nghiên cứu này đã được gọi là "nghiên cứu toàn diện nhất từng được tiến hành về nhà chứa tại Vương quốc Anh". Tuy nhiên, phương pháp nghiên cứu của nó đã bị chỉ trích và từ chối bởi các nhà hoạt động và các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực ngành công nghiệp dịch vụ tình dục. Kích thước của các nhà chứa tại Vương quốc Anh thường nhỏ. Theo Cari Mitchell, người phát ngôn của Tổ chức Đoàn kết Nữ diễn viên ở Anh vào năm 2008, "hầu hết các nhà chứa được điều hành kín đáo bởi hai hoặc ba phụ nữ. Đôi khi có một lễ tân hoặc một phụ nữ khác, thường là những người trước đây đã từng làm công việc tình dục thuê người khác". Trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến 2014, đã có 55 vụ kiện liên quan đến việc duy trì nhà chứa. Năm 2014 đến 2015, số vụ kiện này tăng lên 96.. Vào năm 2017, một báo cáo đã tiết lộ rằng có một số tài sản bị cho thuê trong thời gian ngắn để sử dụng như nhà chứa "tạm thời". Thường thì những tài sản này được đặt ở những khu vực hẻo lánh. Các khảo sát cho thấy rằng số lượng đàn ông ở Anh thuê người bán dâm ít hơn so với các nước khác. Ước tính từ các nghiên cứu cho thấy khoảng 7% đàn ông ở Anh đã từng sử dụng dịch vụ của người bán dâm (dữ liệu năm 1991) đến 11% (dữ liệu từ 2010-2012). So với Mỹ (15-20%) và Pháp (16%), số lượng đàn ông ở Anh thuê người bán dâm ít hơn. Tuy nhiên, các tác giả nhấn mạnh rằng việc tìm dữ liệu đáng tin cậy gặp khó khăn do thiếu các nghiên cứu trước đây, sự khác biệt về kích thước mẫu và khả năng ước lượng thấp do quan tâm về quyền riêng tư của người tham gia khảo sát.
Mại dâm tại Vương quốc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805786
Một cuộc khảo sát được tiến hành vào năm 2004 với những người bán dâm đường phố đã cho thấy tuổi trung bình khi bắt đầu hoạt động là 21 tuổi. Vào tháng 3 năm 2015, Đại học Leeds đã tiến hành một cuộc khảo sát quy mô lớn về người bán dâm tại Vương quốc Anh, với sự tài trợ từ Quỹ Wellcome. Kết quả cho thấy rằng 71% những người bán dâm trước đây đã từng làm việc trong lĩnh vực y tế, chăm sóc xã hội, giáo dục, chăm sóc trẻ em hoặc các tổ chức từ thiện. Ngoài ra, 38% trong số họ có bằng cử nhân. Nghiên cứu khác được công bố bởi Đại học Swansea cũng vào tháng 3 năm 2015 đã chỉ ra rằng gần 5% sinh viên tại Vương quốc Anh đã tham gia vào hoạt động tình dục, bao gồm cả mại dâm. Hầu hết sinh viên tham gia vào công việc tình dục để chi trả các chi phí sinh hoạt (hai phần ba) và trả nợ (45%). Khoảng 70% người bán dâm làm việc trong nhà, có nghĩa là họ tiếp khách và cung cấp dịch vụ tại các địa điểm như căn hộ riêng tư hoặc nhà riêng. Năm 2016, Ủy ban Lựa chọn Quốc gia về Công việc Nội vụ tiến hành cuộc điều tra đầu tiên về ngành công nghiệp dịch vụ tình dục. Chứng cứ được đệ trình cho cuộc điều tra cho thấy rằng có khoảng 70.000 người bán dâm ở Anh và họ kiếm trung bình 2.000 bảng Anh mỗi tuần. Các ước tính cũng cho thấy rằng người bán dâm ở Anh tính trung bình 78 bảng Anh cho mỗi dịch vụ và có khoảng 25 khách hàng mỗi tuần. Khoảng một phần tư được cho là làm việc đường phố trong ngành mại dâm, phần còn lại làm việc trong nhà chứa và phòng xông hơi. Các lý do chọn làm việc trong ngành mại dâm bao gồm vấn đề về vô gia cư và nghiện ma túy. Cuộc điều tra cũng đề xuất rằng các hồ sơ tội phạm về mại dâm trong quá khứ nên được gỡ bỏ. Ủy ban đã đề nghị rằng, do hiện tại thiếu dữ liệu đáng tin cậy về chủ đề này, Bộ Nội vụ nên tiến hành một nghiên cứu để thu thập thông tin phục vụ cho quá trình lập pháp trong tương lai.. Lịch sử. Một trong những bằng chứng sớm nhất về hoạt động mại dâm ở Vương quốc Anh là phát hiện một món tiền đồng nhỏ gọi là "spintria" trên bờ sông Thames.
Mại dâm tại Vương quốc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805786
Đây là những đồng xu từ thời La Mã, có hình vẽ mô tả một người đàn ông và một người phụ nữ đang thực hiện hành vi tình dục. Một số học giả cho rằng spintria là những token được sử dụng trong hoạt động mại dâm, có thể được dùng để vào các nhà chứa mại dâm hoặc trao đổi cho các đối tác trong giao dịch mại dâm. Thời kỳ Trung cổ. Trong thời Trung cổ, nhiều nhà chứa mại dâm ở Luân Đôn được đặt tại khu vực Southwark, nằm trong quyền hạn của cung điện Winchester, nơi cư trú của Giám mục Winchester. Năm 1161, vua Henry II ban hành các quy định cho phép các Giám mục cấp phép các nhà chứa mại dâm và người bán dâm ở khu vực này, dẫn đến việc hình thành Liberty of the Clink. Kết quả là, số lượng nhà chứa mại dâm tăng lên ở khu vực Bankside thuộc Liberty này. Những nhà chứa này thường được gọi là "stew-houses" vì nhiều trong số chúng cũng là các nhà tắm đầy hơi. Giám mục là chủ sở hữu của nhiều nhà chứa mại dâm, và thường đóng cửa chúng khi quốc hội họp để bảo vệ danh dự. Hồ sơ vụ án đã tiết lộ rằng có các linh mục, tu sĩ và tu sĩ fransiscô đã là khách hàng của các nhà chứa này. Các nhà chứa mại dâm phải chấp nhận việc kiểm tra hàng tuần từ công an hoặc người quản lý. Họ không được yêu cầu đòi hỏi phụ nữ bán dâm trả nhiều hơn 14 penny một tuần cho một phòng. Các nhà chứa không được mở cửa vào ngày lễ và việc ép buộc bán dâm là bị cấm. Người bán dâm không được phép sống tại nhà chứa mại dâm hoặc kết hôn, và họ phải trải qua một đêm đầy đủ với khách hàng của mình. Đây là luật mại dâm sớm nhất tại châu Âu, thể hiện việc điều chỉnh mại dâm thay vì đàn áp nó, và nhà chứa mại dâm cung cấp một nguồn thu lớn cho các Giám mục. Những người bán dâm, được gọi là Winchester Geese, được cho rằng có thể đã được chôn cất tại một nghĩa trang không được phép được biết đến với tên gọi Cross Bones Cemetery. Sau đó, một loạt quy định đã được ban hành nhằm hạn chế hoạt động mại dâm ở Luân Đôn, đặc biệt là trong khu vực Southwark, và giới hạn sự hấp dẫn của nó. Tại Thành phố Luân Đôn vào năm 1277, người bán dâm làm việc trong nhà chứa mại dâm bị cấm sống trong thành phố.
Mại dâm tại Vương quốc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805786
Tuy nhiên, có những dấu hiệu cho thấy hoạt động mại dâm diễn ra trong Thành phố Luân Đôn ở các khu vực như Farringdon Without, nơi thường xuyên xuất hiện "phụ nữ bình thường". Khu vực giữa Cheapside và nhà thờ St Pancras, Soper Lane cũng nổi tiếng với tội ác tình dục, bao gồm một con phố được gọi là Gropecunt Lane. Năm 1310, vua Edward II ban hành lệnh đình chỉ hoạt động các nhà chứa mại dâm ở Luân Đôn. Ngoài Luân Đôn, hầu hết các thị trấn và thành phố khác ở Anh thời Trung cổ cũng có nhà chứa mại dâm. Ở một số nơi, nhà chứa mại dâm là hoạt động chính thức và do công chúng sở hữu. Thông thường, người bán dâm chỉ được phép hoạt động trên các tuyến đường cụ thể hoặc trong các khu vực đã được chỉ định. Có các quy định về phục vụ giàu có yêu cầu phụ nữ bán dâm mặc đồ khác với phụ nữ khác để được coi là "đáng kính". Các luật pháp về mại dâm khác nhau từ thị trấn này đến thị trấn khác, và hoạt động mại dâm ở một địa phương cụ thể được điều chỉnh theo cách được chấp nhận thực tế (de facto) nếu không được chấp nhận theo cách hợp pháp (de jure), hoặc bị cấm. Việc quy định về mại dâm ở Anh kéo dài cho đến năm 1546, khi lo ngại về việc nhà chứa mại dâm đóng vai trò trong sự lây lan của bệnh síphilis đã khiến vua Henry VIII ban hành một lời tuyên bố hoàng gia. Lời tuyên bố này cấm hoạt động của tất cả các nhà chứa mại dâm ở Anh và chấm dứt "sự dung thứ" đối với những người bán dâm, được xem là "những người đồi trụy và không hạnh phúc". Thế kỷ 17 và 18. Trong thế kỷ 17 và 18, sự hiện diện của mại dâm ở Luân Đôn được ghi nhận thông qua việc xuất bản các thư mục. Một trong số đó là "The Wandering Whore", được xuất bản trong thời kỳ Phục hưng, liệt kê các con phố nơi có thể tìm thấy các gái mại dâm và vị trí của nhà chứa mại dâm."A Catalogue of Jilts, Cracks & Prostitutes" là một tác phẩm được xuất bản vào cuối thế kỷ 17, nó liệt kê các đặc điểm về ngoại hình của 21 phụ nữ mà bạn có thể tìm thấy xung quanh Nhà thờ St Bartholomew-the-Great trong sự kiện Bartholomew Fair tại khu vực Smithfield ở Luân Đôn.
Mại dâm tại Vương quốc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805786
"Harris's List of Covent Garden Ladies" là một tác phẩm được xuất bản trong nửa sau của thế kỷ 18 dưới hình thức một cuốn sách nhỏ gọn. Nó cung cấp thông tin về ngoại hình và khả năng tình dục của khoảng 120-190 gái mại dâm làm việc tại và xung quanh khu vực Covent Garden (nổi tiếng là một quận đèn đỏ) cùng với địa chỉ và giá cả của họ. Bullough đã đưa ra luận điểm rằng mại dâm ở Anh thế kỷ 18 mang lại lợi ích cho đàn ông ở mọi tầng lớp xã hội và là một phần không thể thiếu trong kinh tế đối với nhiều phụ nữ nghèo, và xã hội chấp nhận điều này. Tuy nhiên, việc cấm hoạt động nhà chứa mại dâm đã được đưa vào luật chống lại mất trật tự công cộng, ghi trong Đạo luật Disorderly Houses Act 1751. Vào cuối thế kỷ, ý kiến công cộng bắt đầu chuyển dịch phản đối ngành công nghiệp dâm ô, và những người cải cách đã đề xuất các biện pháp hành động từ phía các cơ quan chức trách. Thế kỷ 19. Trong thế kỷ 19, phong trào Tin lành đã chỉ trích mạnh mẽ gái mại dâm và khách hàng của họ, coi họ như tội nhân và phê phán xã hội vì dung thứ cho hoạt động này. Đạo luật Vagrancy Act 1824 đã thêm thuật ngữ "common prostitute" vào pháp luật Anh và áp đặt hình phạt lên các gái mại dâm, có thể bao gồm lao động cực khổ kéo dài tới một tháng. Đạo luật định rõ rằng Đạo luật Vagrancy Act 1824 cũng xem việc một người đàn ông sống dựa vào thu nhập của một gái mại dâm là một tội phạm. Hành vi này thường được gọi là "sống nhờ vào thu nhập vô đạo" và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của đạo luật. Trong thời kỳ Victoria, mại dâm được coi là một tội ác khủng khiếp và bị xem là đe dọa đến đạo đức và giá trị xã hội. Đặc biệt, phụ nữ trẻ và nam giới được coi là những nạn nhân của mại dâm, và toàn xã hội đều lên án hành vi này. Đạo luật Town Police Clauses Act 1847 được coi là một trong những văn bản pháp luật đầu tiên để giới hạn mại dâm trong thời Victoria. Nó cấm mại dâm chung tập trung tại các "nơi công cộng" như quán cà phê Anh. Thế kỷ 19, mại dâm thường là một nghề phổ biến trong tầng lớp công nhân. Đối với nhiều phụ nữ, việc trở thành gái mại dâm thường là một trường hợp tình cờ.
Mại dâm tại Vương quốc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805786
Trong thời kỳ này, công chúng bắt đầu quan tâm đến các vấn đề xã hội cụ thể. Đồng thời, xuất hiện một quan điểm lý tưởng về hình ảnh phụ nữ, như là "Thiên thần trong ngôi nhà". Sự gia tăng của đạo đức gia đình tầng trung và sự phân tách hoạt động giữa nam giới và nữ giới trong các lĩnh vực riêng biệt đã làm cho việc phụ nữ tìm được việc làm ngày càng khó khăn. Điều này dẫn đến sự gia tăng của các nghề như may vá, nhân viên cửa hàng, nông nghiệp, công việc nhà máy và làm người hầu gia đình, tất cả đều là các nghề có giờ làm việc dài và thu nhập thấp.Với thu nhập thấp này, phụ nữ phải dựa vào mại dâm để có thể nuôi sống chính mình và gia đình, đặc biệt là trong các gia đình mà người kiếm cơm chính không còn ở bên cạnh. Một nghiên cứu từ thời Victoria muộn đã chỉ ra rằng hơn 90% gái mại dâm tại nhà tù Millbank là con gái của "những người đàn ông lao động không chuyên nghiệp và nửa chuyên nghiệp", trong đó hơn 50% đã từng làm người giúp việc, và những người khác đã thực hiện các công việc như giặt là, dọn nhà và bán hàng trên đường phố. Trong thời kỳ Victoria, mức độ mại dâm ở Anh rất cao, tuy nhiên, việc xác định chính xác số lượng gái mại dâm hoạt động là khó khăn. Theo báo cáo tòa án từ năm 1857 đến 1869, mô hình mại dâm phổ biến hơn ở các cảng thương mại và các điểm nghỉ dưỡng, trong khi ít phổ biến hơn ở các thành phố chuyên sản xuất hàng hóa, trung tâm sản xuất vải bông và len, và trung tâm sản xuất vải len và len. "Westminster Review" đặt con số từ 50.000 đến 368.000. Điều này đưa mại dâm trở thành ngành nghề phụ nữ lớn thứ tư về quy mô. Một khó khăn trong việc đếm số lượng là trong thế kỷ 19, thuật ngữ "mại dâm" cũng được sử dụng để ám chỉ phụ nữ sống với đàn ông ngoài hôn nhân, phụ nữ có con ngoài giá thú, và những người có quan hệ tình dục vì niềm vui cá nhân chứ không phải vì tiền bạc. Các ước tính về số lượng gái mại dâm từ cảnh sát có thể khác nhau như sau: Tuy nhiên, bảng này chỉ đưa ra số liệu về các gái mại dâm được biết đến bởi cảnh sát.
Mại dâm tại Vương quốc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805786
Sự không đáng tin cậy của dữ liệu trong thế kỷ 19 đã làm cho việc xác định liệu mại dâm có gia tăng hay giảm trong thời kỳ này trở nên không rõ ràng. Tuy nhiên, không có nghi ngờ gì rằng trong thời kỳ Victoria, đặc biệt là vào những năm 1840 và 1850, công chúng đã tin rằng mại dâm và bệnh lây truyền qua đường tình dục (được gọi là bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục vào thời điểm đó) đang gia tăng.. Trong ý thức công chúng, nghệ sĩ kịch thường được liên tưởng đến mại dâm, và điều này phản ánh sự thiếu tôn trọng đối với phụ nữ thông qua việc họ xuất hiện trong các nơi giải trí công cộng. Một loạt sách nhỏ có tên là "The Swell's Night Guides" đã được xuất bản, liệt kê các lợi ích và hạn chế của các nhà hát khác nhau đối với những người đàn ông tìm niềm vui, và cung cấp lời khuyên về cách tiếp cận nghệ sĩ kịch. Sách cảnh báo các người đàn ông không nên trực tiếp đề nghị tiền mặt cho nghệ sĩ kịch, mà nên tuyên bố muốn thuê họ để tổ chức các buổi biểu diễn tư nhân. Một số gái mại dâm làm việc tại các khu vực đèn đỏ đã được chỉ định, trong khi những người khác làm việc trong các khu vực tự do của riêng họ. Các khu vực cảng của Luân Đôn có một số lượng lớn gái mại dâm, và đường Granby, gần ga Waterloo của Luân Đôn, nổi tiếng với "phụ nữ mặc nửa trần" trưng bày trên các cửa sổ. Gái mại dâm cũng có thể làm việc trong lực lượng vũ trang, chủ yếu là do bị cưỡng bức tình dục bởi các nhân viên và phải sống trong điều kiện khắc nghiệt tại các khu trại lính mà các người đàn ông phải trải qua. Các khu trại quân sự thường quá tải và không đủ hệ thống thông gió và vệ sinh. Một số lính được phép kết hôn, nhưng thậm chí cả họ cũng không được cung cấp trợ cấp để nuôi vợ, điều này đôi khi buộc họ phải bán dâm để kiếm sống. quy định về mại dâm trong lực lượng vũ trang là một biện pháp mà chính phủ áp dụng để kiểm soát sự lây lan của bệnh lây truyền qua đường tình dục trong quân đội. Vào năm 1864, một trong ba trường hợp bệnh trong quân đội là do các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Mại dâm tại Vương quốc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805786
Số lượng nhập viện do viêm nhiễm âm đạo và bệnh giang mai cũng rất cao, đạt đến 290,7 trên 1.000 quân sự tổng cộng. Quy định mại dâm nhằm giảm thiểu rủi ro lây truyền bệnh và bảo vệ sức khỏe của binh lính. Cuốn sách "Prostitution, Considered in Its Moral, Social, and Sanitary Aspects" của William Acton năm 1857 đã gây ra sự chú ý và tranh cãi về vấn đề mại dâm ở London. Cuốn sách này thể hiện sự lo ngại của tác giả về việc thành phố trở thành trung tâm sự suy đồi đạo đức tại Anh và bị xâm nhiễm bởi những gái mại dâm mang các bệnh lây truyền. Nó đã gợi mở cuộc tranh luận rộng rãi về các khía cạnh đạo đức, xã hội và vệ sinh của mại dâm, và tạo ra sự quan tâm công chúng đối với vấn đề này. William Acton lên án mức lương thấp của phụ nữ như một trong những lý do dẫn đến việc họ trở thành gái mại dâm. Ông cho rằng tình trạng kinh tế khó khăn và thiếu cơ hội việc làm khả dụng làm cho mại dâm trở thành một lựa chọn tương đối hợp lý cho phụ nữ đối mặt với khó khăn kinh tế. Quan điểm này khác biệt với quan niệm phổ biến trong các tầng lớp trung và thượng lưu, cho rằng việc phụ nữ trở thành gái mại dâm là do bản chất ham muốn tình dục và tính tội lỗi bẩm sinh. Vào những năm 1860, Luật Bệnh lây truyền qua đường tình dục đã được áp dụng ở Anh với mục tiêu giảm thiểu bệnh lây truyền qua đường tình dục. Hệ thống mại dâm được cấp phép theo mô hình của Pháp được áp dụng, trong đó các gái mại dâm phải chịu kiểm tra bắt buộc về bệnh lây truyền qua đường tình dục và được giam giữ cho đến khi khỏi bệnh. Những phụ nữ trẻ chính thức trở thành gái mại dâm và bị ràng buộc trong hệ thống này suốt đời. Sau cuộc vận động quốc gia dẫn đầu bởi Josephine Butler, hệ thống mại dâm được hợp pháp đã bị dừng lại vào năm 1886. Josephine Butler trở thành một nhà hoạt động xã hội quan trọng trong việc giúp giải thoát cho những phụ nữ mà bà đã giúp đỡ. Đạo luật Sửa đổi Luật Hình sự 1885 đã có những thay đổi quan trọng ảnh hưởng đến mại dâm.
Mại dâm tại Vương quốc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805786
Cụ thể, đạo luật này tăng cường việc truy tố tội mua bán gái trẻ cho mục đích mại dâm bằng cách sử dụng ma túy, đe dọa hoặc gian lận. Nó cũng đóng cửa các nhà chứa và nâng độ tuổi tối thiểu cho phụ nữ trẻ có thể bị cưỡng bức từ 12 lên 16 tuổi. Những thay đổi này nhằm bảo vệ quyền lợi và an toàn cho phụ nữ trẻ và giảm thiểu sự tàn ác và khủng bố trong ngành mại dâm. Việc áp dụng quy định cuối cùng này đã giảm nguồn cung gái trẻ, mà trước đây có nhu cầu cao nhất. Mã đạo luật mới về đạo đức đã có ý nghĩa là các người đàn ông lịch sự không dám để lộ việc sử dụng dịch vụ mại dâm. Điều này làm tăng sự thận trọng và giới hạn công khai về các hoạt động mại dâm. Những quy định này đặt nặng vào trách nhiệm cá nhân và đạo đức của mỗi người, đồng thời xây dựng một môi trường kín đáo hơn xung quanh các hoạt động mại dâm. Trong thời kỳ Victoria, mại dâm nam đồng tính đã tồn tại mặc dù bị coi là bất hợp pháp và bị cấm. Thông tin về mại dâm nam đồng tính trong thời kỳ này chủ yếu đến từ các vụ án tòa án và báo cáo. Có một số vụ báo cáo về việc đóng cửa nhà chứa mại dâm nam đồng tính hoặc quán rượu, tuy nhiên các địa điểm phổ biến nhất cho hoạt động mại dâm nam đồng tính là các công viên và các đường phố, đặc biệt là những đường phố gần các khu đồn. Điều này phản ánh sự tồn tại của một cộng đồng mại dâm nam đồng tính trong thời kỳ Victoria mặc dù nó bị xem là bất hợp pháp và bị xem là tội phạm. Thế kỷ 20. Trong giai đoạn sau của thế kỷ 20, đã có những nỗ lực nhằm hạn chế hoạt động mại dâm. Đạo luật Sexual Offences Act 1956 đã bổ sung các điều khoản xem việc quản lý nhà chứa mại dâm là một tội phạm. Đồng thời, Đạo luật Street Offences Act 1959 đã áp đặt các hạn chế mới để giảm mại dâm đường phố, theo đó "việc một gái mại dâm thường xuyên lẻn trốn hoặc dụ dỗ trong một con đường hoặc nơi công cộng với mục đích mại dâm là một tội phạm". Kết quả là, nhiều gái mại dâm đã rời khỏi đường phố vì sợ bị truy cứu pháp lý.