title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Tổ chức lớn nhất, "Mouvement National Congolais" (MNC), là một mặt trận thống nhất mong muốn giành độc lập "trong thời điểm thích hợp". Mặt trận được thành lập theo một điều lệ, trong đó những người ký bao gồm Patrice Lumumba, Cyrille Adoula và Joseph Iléo. Lumumba trở thành nhân vật lãnh đạo và đến cuối năm 1959, đảng tuyên bố có tới 58.000 thành viên. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng MNC quá ôn hòa. Một số đảng khác nổi lên mang chủ nghĩa cấp tiến, ủng hộ hình thức liên bang hóa hoặc tập trung hóa và liên kết với các nhóm sắc tộc nhất định. Đối thủ chính của MNC là "Alliance des Bakongo" (ABAKO) do Joseph Kasa-Vubu lãnh đạo, một đảng cấp tiến hơn do người Kongo ở miền bắc ủng hộ, và "Confédération des Associations Tribales du Katanga" (CONAKAT) của Moïse Tshombe, một đảng theo chủ nghĩa liên bang mạnh mẽ ở tỉnh miền nam Katanga. Phân chia và phân cực Kalonji-Lumumba. Tuy là đảng lớn nhất trong số các chính đảng dân tộc chủ nghĩa ở châu Phi, nhưng MNC có nhiều phe phái khác nhau nên đưa ra lập trường khác nhau về một số vấn đề. Đảng ngày càng bị phân cực giữa các "évolués" ôn hòa và thành viên quần chúng cấp tiến hơn. Một phe cấp tiến và theo chủ nghĩa liên bang do Ileo và Albert Kalonji đứng đầu đã tách ra vào tháng 7 năm 1959, nhưng không thể khiến các thành viên MNC khác rời đảng hàng loạt. Phe bất đồng chính kiến có tên MNC-Kalonji (MNC-K), trong khi nhóm đa số trở thành MNC-Lumumba (MNC-L). Sự chia rẽ đã phân tách cơ sở ủng hộ của đảng thành những người trung thành với Lumumba, chủ yếu ở vùng miền đông bắc Stanleyville và những người ủng hộ MNC-K, phổ biến ở miền nam. Nhóm này bao gồm người Baluba, dân tộc của Kalonji. MNC-K sau đó đã thành lập một cartel với ABAKO và "Parti Solidaire Africain" (PSA) để kêu gọi một liên bang Congo thống nhất. Cuộc bầu cử năm 1960 đã biến thành một "cuộc trưng cầu dân ý chống Baluba" ở Kasai khi phái MNC-K của người Luba chiếm đa số nhưng không kiểm soát nổi chính quyền tỉnh. Thay vào đó, Lumumba đã thăng chức cho một ứng cử viên người Lulua, Barthélemy Mukenge, làm chủ tịch tỉnh trong khi Kalonji bị từ chối chức vụ bộ trưởng quan trọng trong chính phủ quốc gia của Lumumba.
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Kalonji từ chối lời đề nghị làm Bộ trưởng Nông nghiệp của Lumumba. Mukenge cố gắng thành lập một chính phủ đoàn kết, thậm chí còn đề nghị thành viên MNC-K Joseph Ngalula một vị trí trong nội các của mình. Ngalula cự tuyệt và vào ngày 14 tháng 6, MNC-K quyết định thành lập một chính phủ thay thế dưới sự lãnh đạo của ông. Kalonji không công nhận chính phủ này có bất kỳ thẩm quyền nào. Những người theo phe Kalonji cảm thấy bị chính quyền trung ương từ chối và gạt ra ngoài lề nên bắt đầu ủng hộ các đảng thay thế. Trong số đó, phái này ủng hộ đảng CONAKAT của Tshombe ở xứ Katanga lân cận vì lập trường liên bang mạnh mẽ của đảng này, phản đối quan niệm của Lumumba về một chính quyền đơn nhất có trụ sở tại thủ đô Léopoldville. Phe Kalonji ủng hộ CONAKAT chống lại đối thủ địa phương chính của họ, "Association Générale des Baluba du Katanga" (BALUBAKAT) do Jason Sendwe lãnh đạo, dù đảng này đại diện cho người Baluba của tỉnh Katanga, song ủng hộ chế độ tập trung. Phe phái Kalonji tin rằng họ đang hành động thay mặt cho toàn bộ Luba-Kasai, tạo ra sự thù địch giữa dân Luba-Kasai và người Luba-Katanga nhưng cũng không giành sự ủng hộ hoàn toàn của CONAKAT, phần lớn trong số họ có thành kiến ​​​​về chủng tộc đối với người Baluba và chỉ ủng hộ "những người Katanga chính thống". Ly khai. Khủng bố người Baluba. Cộng hòa Congo giành độc lập vào ngày 30 tháng 6 năm 1960, do tổng thống Kasa-Vubu và thủ tướng Lumumba lãnh đạo. Nghị viện Léopoldville đã triệu tập một tuần trước khi xem xét nội các của Lumumba và bỏ phiếu tín nhiệm. Trong phiên họp, Kalonji với tư cách đại biểu dân cử đã chỉ trích nội các được đề xuất, bày tỏ sự bất bình khi đảng của ông không được hỏi ý kiến ​​​​khi thành lập chính phủ và tuyên bố rằng ông tự hào không bị đưa vào nhóm "chống Baluba" và "chống Batshoke" coi khinh ước vọng của người dân Kasai. Ông cũng tuyên bố ý định khuyến khích người Baluba và Batshoke không tham gia vào chính phủ, ngoài ra còn thực hiện các bước riêng để thành lập một quốc gia có chủ quyền với thủ đô là Bakwanga.
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Ngày 26 tháng 6, các quan chức MNC-K kiến ​​nghị với Quốc hội Léopoldville phân chia tỉnh Kasai một cách hòa bình theo ranh giới do Kalonji đề xuất. Kiến nghị yêu cầu sửa đổi hiến pháp mới của Congo ("Loi fondamentale"), đã được một cơ quan lập pháp phân chia giữa các phe phái Lumumba và Kasa-Vubu tiếp nhận song không thể đạt thỏa thuận nào. Sau khi giành độc lập căng thẳng sắc tộc bùng lên trên khắp đất nước, phần lớn nhắm vào người Baluba, và một số cuộc đụng độ bạo lực đã xảy ra. Vào ngày 3 tháng 7, chính quyền trung ương đã ra lệnh bắt giữ đối thủ của chính phủ MNC-K Kasai, gây ra tình trạng bất ổn ở Luluabourg. Mặc dù từ chối các đề xuất trước đó về việc đưa người Luba trở lại tỉnh vào tháng 1 năm 1960, những người theo phe Kalonji chính thức kêu gọi người Baluba trên khắp Congo trở về "quê hương" Kasai vào ngày 16 tháng 7. Ban đầu, phái Kalonji dự tính chia đôi tỉnh Kasai nhằm thành lập một chính quyền MNC-K gần như tự trị và do người Luba thống trị. Tỉnh đề xuất được gọi là Nhà nước Liên bang Nam Kasai ("État fédératif du Sud-Kasaï"). Tuy nhiên, Kalonji nhanh chóng nhận ra rằng ông có thể lợi dụng sự hỗn loạn ở phần còn lại của Congo để đơn phương ly khai và tuyên bố vùng này độc lập hoàn toàn. Quyết định này đến gần hơn khi Nhà nước Katanga ("État du Katanga") do Tshombe lãnh đạo chính thức ly khai khỏi Congo ngày 11 tháng 7 năm 1960. Kalonji đến thăm Katanga vào đầu tháng 8 năm 1960, ngay sau khi nước này ly khai. Tại đây, ngày 8 tháng 8 ông tuyên bố Kasai "phải được tách rời bằng mọi giá." Ly khai. Vào ngày 9 tháng 8 năm 1960, Kalonji khi đó vẫn ở Katanga tuyên bố khu vực phía đông nam Kasai là Nhà nước Khai thác Nam Kasai ("État minier du Sud-Kasaï") mới hoặc Nhà nước tự trị Nam Kasai ("État autonome du Sud-Kasaï"). Tuy nhiên khác với Katanga, sự ly khai của Nam Kasai không có ý nghĩa rõ ràng rằng nước này ly khai khỏi Cộng hòa Congo. Thay vào đó, điều này giống các chính quyền địa phương tự tuyên bố ở tỉnh Équateur.
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Danh xưng "Nhà nước tự trị" được lựa chọn để củng cố lại niềm tin rằng việc ly khai không phản đối chủ quyền Congo, mà là thành lập một khu vực tại Congo do liên bang quản lý. Hành động này đã nhận một số sự ủng hộ từ các nhà báo, trí thức và chính khách ở Léopoldville. Thậm chí, một tờ báo gọi đây là "một mô hình mà nhiều quốc gia mới hiện đang mọc lên như nấm ở Congo có thể tận dụng, để thành lập một liên bang mới". Trên thực tế, Nam Kasai có mức độ độc lập cao hơn đáng kể so với một tỉnh thông thường và kết quả là đã tách khỏi Congo, bằng cách đơn phương đặt lãnh thổ dưới sự ủy trị liên bang. Nhà nước cũng không chuyển bất kỳ khoản thuế nào cho chính quyền trung ương và người dân địa phương — so sánh với quốc gia ly khai phía nam — còn gọi đây là "Tiểu Katanga". Các đại biểu của MNC-K ban đầu cũng từ chối ngồi trong ghế Quốc hội Congo ở Léopoldville. Quản lý. Khi đã ổn định quyền lực, Kalonji tự coi mình là "ông lớn" và người bảo trợ cho nguồn gốc quyền lực nhà nước. Các thủ lĩnh bộ lạc người Luba và các nhóm dân tộc khác có mối quan hệ thân thiết, giống như "khách hàng" với chính Kalonji và nhận được sự đối xử ưu đãi để đổi lấy các dịch vụ do chính quyền cung cấp. Đặc biệt, Kalonji phụ thuộc vào các thủ lĩnh bộ lạc để huy động lực lượng bán quân sự hỗ trợ quân đội Nam Kasai. Việc quản lý Nam Kasai rất phức tạp vì bản chất dễ biến đổi của nền chính trị Luba. Căng thẳng gia tăng giữa Kalonji và Ngalula, những người có ý tưởng khác nhau về cách điều hành nhà nước; Kalonji muốn chính phủ dựa trên truyền thống và các thủ lĩnh theo phong tục, trong khi Ngalula ưa chuộng hệ thống dân chủ và làm việc với tầng lớp trí thức. Nam Kasai có năm chính phủ khác nhau trong vài tháng đầu tiên tồn tại. Các vấn đề nội bộ trước mắt mà Nam Kasai phải đối mặt là số lượng lớn người tị nạn Luba chưa định cư và bất đồng nội bộ từ các nhóm thiểu số không phải Luba. Nhà nước có thể chuyển tiền từ xuất khẩu kim cương và hỗ trợ nước ngoài để tài trợ cho các dịch vụ công cộng, cho phép người tị nạn Luba được ổn định việc làm.
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Các dịch vụ xã hội "được vận hành tương đối tốt". Doanh thu nhà nước được ước tính lên tới tổng cộng 30.000.000 đô la hàng năm. Nam Kasai đưa ra ba bản hiến pháp, bản đầu tiên được ban hành vào tháng 11 năm 1960 và bản cuối cùng vào ngày 12 tháng 7 năm 1961. Hiến pháp tháng 7 đã thay đổi quốc gia thành Nhà nước Liên bang Nam Kasai ("État fédéré du Sud-Kasaï"), tuyên bố chính bản thân nước này "có chủ quyền và dân chủ" đồng thời là một phần của "Cộng hòa Liên bang Congo" giả định. Hiến pháp cũng quy định cơ quan lập pháp lưỡng viện, hạ viện bao gồm tất cả các đại biểu, thượng nghị sĩ quốc gia và dân biểu cấp tỉnh được bầu tại các khu vực bầu cử trong lãnh thổ Nam Kasai, và thượng viện gồm các thủ lĩnh truyền thống. Một hệ thống tư pháp đã được tổ chức, với các thẩm phán hòa giải, tòa án sơ thẩm và tòa phúc thẩm. Quốc gia có cờ và quốc huy, xuất bản công báo chính phủ riêng, "Moniteur de l'État Autonome du Sud-Kasaï," thậm chí còn sản xuất tem bưu chính và biển đăng ký xe riêng. Không giống như Katanga, Nam Kasai không duy trì cơ quan đại diện ngoại giao nào ở nước ngoài. Đồng franc Congo được giữ lại làm tiền tệ của nhà nước. Quân đội hay hiến binh Nam Kasai đã phát triển từ chỉ 250 thành viên khi mới thành lập lên gần 3.000 vào năm 1961. Lực lượng này được lãnh đạo bởi "Tướng" Floribert Dinanga 22 tuổi với sự hỗ trợ của chín sĩ quan châu Âu. Năm 1961, quân đội đã tiến hành một chiến dịch nhằm mở rộng quy mô lãnh thổ của nhà nước, gây tổn hại cho các nhóm sắc tộc lân cận. Mặc dù nhận được một số hỗ trợ từ Bỉ, lực lượng hiến binh được trang bị kém và liên tục thiếu nguồn cung cấp và đạn dược. Khi quyền lực chính phủ ở Nam Kasai được củng cố, chế độ dần trở nên quân phiệt và độc đoán. Các nhóm dân tộc không phải Luba ngày càng bị gạt ra rìa xã hội. Các đối thủ chính trị bị sát hại hoặc lưu đày, bao gồm cả Ngalula vào tháng 7 năm 1961. Những sắc tộc ngoài Luba trong khu vực, đặc biệt là người Kanyok, đã tiến hành nổi dậy liên tục chống lại chính phủ Nam Kasai, song chỉ ở mức độ hạn chế. Hỗ trợ từ quốc tế.
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Hỗ trợ từ quốc tế. Kalonji đã nỗ lực hết sức để quốc gia Nam Kasai được quốc tế công nhận và ủng hộ. Cường quốc thuộc địa cũ Bỉ không tin tưởng chính quyền trung ương Congo nên ủng hộ cả hai chính phủ Nam Kasai và Katanga. Giống như Katanga, Nam Kasai có các mỏ khoáng sản quan trọng bao gồm kim cương. Các công ty Bỉ có một khoản tiền lớn gắn liền với các mỏ trong khu vực. Công ty "Forminière" của Bỉ là nhà tài trợ chính của nhà nước và đã được Nam Kasai nhượng để đổi lấy quyền hỗ trợ tài chính. Sau khi ly khai, kim cương của Nam Kasai được định tuyến lại qua Congo-Brazzaville để xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Thu nhập tương đối lớn từ các công ty khai thác nghĩa là Nam Kasai có thể hỗ trợ các dịch vụ công cộng quan trọng và đối phó với số lượng lớn người tị nạn Luba di tản trong nước. Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, Kalonji được hỗ trợ bởi các cường quốc phương Tây và phái ôn hòa trong chính phủ Congo; họ coi ông vừa là một người ôn hòa thân phương Tây vừa là người chống cộng. Mặc dù cả Katanga lẫn Nam Kasai đều được ủng hộ bởi Nam Phi, Pháp và Liên bang Trung Phi, nhưng không quốc gia nào từng được công nhận ngoại giao một cách chính thức. Một phái đoàn Nam Kasai đến Nam Phi vào tháng 9 năm 1960 với một lá thư do Ngalula ký, yêu cầu Thủ tướng Hendrik Verwoerd viện trợ quân sự. Chính phủ Nam Phi từ chối cung cấp thiết bị quân sự nhưng thông báo với phái đoàn rằng họ có thể mua vũ khí hạng nặng được cung cấp trên thị trường Nam Phi. Sau cuộc đảo chính lật đổ Lumumba khỏi quyền lực, Kalonji đã cố gắng vun đắp mối quan hệ tốt đẹp với chính phủ Congo. Đặc biệt, Tướng Joseph-Désiré Mobutu đã có thể sử dụng Nam Kasai để hành quyết các đối thủ chính trị của mình và những người bất đồng chính kiến theo Lumumba, bao gồm cả Jean-Pierre Finant. Hoạt động như vậy đã khiến nhà nước ly khai mang biệt danh "sân sau của tên đồ tể quốc gia". Kalonji với tư cách "Mulopwe". Do tầm quan trọng của dân tộc Luba đối với Nam Kasai, Kalonji đã tận dụng sự ủng hộ từ chính quyền bộ lạc Luba truyền thống để tự phong làm "Mulopwe".
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Danh hiệu "Mulopwe" (thường được dịch là "Vua" hoặc "Hoàng đế") mang tính biểu tượng cao vì được sử dụng bởi những người cai trị Đế quốc Luba thời tiền thuộc địa và bị bãi bỏ từ những năm 1880. Bằng việc tự xưng là "Mulopwe", cùng với tên phụ "Ditunga" ("quê hương"), Kalonji ràng buộc chặt chẽ bản thân và nhà nước Nam Kasai với Đế quốc Luba nhằm tăng tính hợp pháp của quốc gia trong mắt người Baluba. Để tránh bị xem là không đúng đắn, danh hiệu này đã được trao cho cha của Kalonji vào ngày 12 tháng 4 năm 1961, nhưng ông ngay lập tức thoái vị để nhường ngôi cho con trai mình. Với việc Kalonji mang danh hiệu "Mulopwe" vào ngày 16 tháng 7, quốc hiệu đổi thành Vương quốc Liên bang Nam Kasai ("Royaume fédéré du Sud-Kasaï"). Việc Kalonji đảm nhận vị trí "Mulopwe" đã bị nhiều người Luba ở Nam Kasai chỉ trích nặng nề. Động thái này cũng bị phương tiện truyền thông phương Tây chế giễu. Kalonji vẫn được một số phe phái ngưỡng mộ, nhưng đã mất đi sự ủng hộ của các nhà cách mạng Nam Kasai, khi họ coi việc nâng cao địa vị ông mang chủ nghĩa cơ hội trắng trợn. Ngay sau khi tự phong danh hiệu, Kalonji đã bị 10 trong số 13 đại diện Nam Kasai tại Quốc hội Léopoldville lên án và công khai rời bỏ, bắt đầu sự tan rã của nhà nước ly khai. Sụp đổ và khôi phục. Chiến dịch tháng 8–9 năm 1960. Khi Nam Kasai ly khai, quân đội chính phủ (ANC) đang chiến đấu chống lại quân Katanga ở vùng Kasai. Nam Kasai nắm giữ các giao lộ đường sắt quan trọng mà quân đội Congo cần để lưu thông trong chiến dịch Katanga, do đó quốc gia này nhanh chóng trở thành một mục tiêu quan trọng. Nam Kasai cũng có nguồn tài nguyên khoáng sản lớn mà chính quyền trung ương rất muốn trả lại cho Congo. Chính phủ cũng hiểu sai quan điểm của Nam Kasai, tin rằng khu vực này đã tuyên bố độc lập hoàn toàn khỏi Congo và bác bỏ chủ quyền của nước này, giống như Katnga đã làm.Ban đầu Lumumba hy vọng rằng Liên Hợp Quốc (LHQ) sẽ giúp chính quyền trung ương đàn áp cả hai cuộc ly khai của người Katanga và Nam Kasai, khi tổ chức này đã cử lực lượng gìn giữ hòa bình đa quốc gia đến Congo vào tháng 7 năm 1960.
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Tuy nhiên, Liên Hợp Quốc tỏ ra miễn cưỡng, coi việc ly khai là vấn đề chính trị nội bộ và nhiệm vụ của chính họ là duy trì luật pháp và trật tự cơ bản. Bị cả Liên Hợp Quốc lẫn Hoa Kỳ từ chối, Lumumba tìm kiếm sự hỗ trợ quân sự từ quốc gia cộng sản Liên Xô. Trong vòng vài ngày sau cuộc ly khai với sự hỗ trợ hậu cần của Liên Xô, 2.000 quân ANC đã phát động một cuộc tấn công lớn vào Nam Kasai và sớm đạt thành công. Vào ngày 27 tháng 8, những người lính ANC tiến đến Bakwanga. Trong quá trình tấn công, ANC đã tham gia vào cuộc bạo lực sắc tộc giữa người Baluba và người Bena Lulua. Khi quân chính phủ đến Bakwanga, họ thả những tù nhân Lulua khỏi nhà tù và bắt đầu trưng dụng các phương tiện dân sự. Khi Bộ trưởng Bộ Công chính Nam Kasai David Odia phản đối, binh lính đã đánh ông và làm ông bị thương nặng. Nhiều người Baluba ban đầu chạy trốn trong kinh hoàng, nhưng sau đó bắt đầu chống cự bằng súng săn tự chế. Điều này khiến ANC gây ra một số vụ giết chóc thường dân Luba quy mô lớn. Vào tháng 9, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Dag Hammarskjöld, người gần đây đã triển khai một lực lượng gìn giữ hòa bình lớn tới Congo, gọi các vụ thảm sát là "một cuộc diệt chủng mới bắt đầu". Người Baluba cũng bị người Katanga tấn công từ phía nam. Các cuộc thảm sát thường có sự hợp tác của ANC và quân Katanga, trong đó khoảng 3.000 người Baluba đã bị giết. Tình trạng bạo lực từ cuộc tiến công đã khiến hàng nghìn thường dân Luba di cư, rời bỏ nhà cửa để thoát khỏi cuộc giao tranh; chỉ riêng hơn 35.000 người đã đến các trại tị nạn ở Élisabethville (thủ đô Katanga). Có tới 100.000 người tìm nơi ẩn náu ở Bakwanga. Các bệnh, đáng chú ý là bệnh kwashiorkor cũng như sốt rét, đậu mùa và thiếu máu, đã lan rộng và đạt đến "tỷ lệ dịch bệnh" trong số những người tị nạn Luba từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1960. Tổ chức Y tế Thế giới đã gửi một triệu liều vắc xin đậu mùa đến Nam Kasai để giải quyết vấn đề. Dịch bệnh xảy ra trước nạn đói lan rộng vào tháng 12, ước tính giết chết chừng 200 người mỗi ngày.
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Liên Hợp Quốc kêu gọi các quốc gia thành viên cứu trợ, và đến cuối tháng 1, chính phủ và viện trợ tư nhân đã giảm tỷ lệ tử vong xuống 75%. Sự hỗ trợ bổ sung dưới hình thức không vận thực phẩm khẩn cấp, bổ sung nhân viên y tế cùng hạt giống từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp đảm bảo rằng nạn đói gần như được giải quyết hoàn toàn vào tháng 3 năm 1961. Các nhân viên cứu trợ của Liên Hợp Quốc rút lui sau sự kiện Port Francqui tháng 4 năm 1961 do vấn đề an ninh lo ngại, mặc dù viện trợ lương thực tiếp tục được đưa đến biên giới. Các cáo buộc diệt chủng và sự tàn bạo của ANC được dùng làm cơ sở cho việc Kasa-Vubu cách chức Lumumba với sự hậu thuẫn của Mobutu vào tháng 9 năm 1960. Sau chiến dịch, nhà nước Nam Kasai đã có thể cung cấp viện trợ đáng kể cho những người tị nạn, khi nhiều người trong số họ đã được tái định cư và có công ăn việc làm. Tuy nhiên, cuộc xâm lược khiến nền kinh tế địa phương bị gián đoạn đáng kể; đến tháng 12, số lượng viên kim cương do Forminière cắt và số người công ty tuyển dụng đều giảm xuống còn vài nghìn. Chung sống và nỗ lực hòa giải. Bất chấp việc bị chiếm đóng, nhà nước Nam Kasai không bị giải thể mà cùng tồn tại với phần còn lại của Congo. Các đại biểu Congo, cũng như quân đội ANC và Liên Hợp Quốc nói chung có thể di chuyển quanh lãnh thổ mà không xung đột với chính quyền Nam Kasai trong khi chiến dịch lẻ tẻ của họ chống lại lực lượng Katanga vẫn tiếp tục. Một lệnh ngừng bắn do Liên Hợp Quốc bảo trợ vào tháng 9 năm 1960 đã tạm dừng xung đột Luba-Lulua, nhưng đến tháng 11, lực lượng Kalonji phá vỡ thỏa thuận ngừng bắn. Trong phần lớn thời gian, hiến binh Nam Kasai chiến đấu với dân quân Kanyok và Lulua trên khắp khu vực trong khi bạo loạn sắc tộc địa phương vẫn tiếp diễn. Vào tháng 1 năm 1961 Kasa-Vubu bay đến Bakwanga để gặp Kalonji. Chuyến thăm bắt đầu trong sự gay gắt khi Kasa-Vubu từ chối công nhận đội bảo vệ danh dự Nam Kasai có mặt tại sân bay và đi trên chiếc limousine treo cờ Nam Kasai được họ đưa tới. Kalonji cuối cùng đã gỡ bỏ lá cờ và hai người hòa giải.
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Vào giữa năm 1961, các hội nghị được tổ chức tại Coquilhatville (Mbandaka ngày nay) và sau đó tại Antananarivo, Madagascar nhằm cố gắng làm trung gian hòa giải giữa các phe ly khai và chính quyền trung ương trước một chính phủ nổi dậy ở Đông Congo do Antoine Gizenga lãnh đạo. Với việc Lumumba đã chết, giới chính trị hy vọng có thể tạo ra một hiến pháp liên bang giúp hòa giải ba bên. Tuy nhiên, các thỏa thuận lại gia tăng sự thiếu chắc chắn. Việc lật đổ Thủ tướng Nam Kasai Ngalula vào tháng 7 đã đẩy nhanh sự sụp đổ nội bộ. Ông thành lập đảng chính trị của riêng mình, Liên minh Dân chủ, để chống lại những người theo phe Kalonji. Cuối tháng đó, Quốc hội tái triệu tập với sự tham dự của Kalonji và các đại biểu Nam Kasai khác. Một chính quyền trung ương Congo mới được thiết lập vào ngày 2 tháng 8 trong đó Ngalula là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, và Kalonji quay trở lại Nam Kasai. Vào cuối tháng 10 năm 1961, ông cùng một số thủ lĩnh Lulua thành lập một liên minh mang tính biểu tượng trong nỗ lực chấm dứt xung đột bộ tộc Luba-Lulua. Vụ bắt giữ Kalonji. Vào ngày 2 tháng 12 năm 1961, Kalonji bị người cộng sản Christophe Gbenyemột cấp phó khác của mình buộc tội đã ra lệnh nhục hình một tù nhân chính trị ở Nam Kasai. Quốc hội bỏ phiếu loại bỏ quyền miễn trừ nghị viện của Kalonji; sau đó ông ta bị ANC bắt giữ ở Léopoldville. Một phái đoàn khoảng 400 trưởng lão bộ lạc Luba được cử đến Léopoldville để phản đối cũng bị bắt trong thời gian ngắn. Mobutu và tướng Victor Lundula đến thăm Bakwanga ngay sau đó. Ferdinand Kazadi lên nắm quyền với tư cách người đứng đầu nhà nước Nam Kasai. Ngày 9 tháng 3 năm 1962, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Cyrille Adoula, Quốc hội Léopoldville vừa tái triệu tập đồng ý sửa đổi Hiến pháp và trao cho Nam Kasai quy chế tỉnh chính thức. Đến tháng 4 năm 1962, các lực lượng Liên Hợp Quốc được lệnh chiếm đóng Nam Kasai nhằm thể hiện lập trường hiếu chiến mới của Tổng thư ký U Thant chống lại việc ly khai sau khi Hammarskjöld qua đời. Tại Léopoldville, Kalonji bị kết án 5 năm tù.
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Tuy nhiên vào ngày 7 tháng 9, ông đào tẩu và quay trở lại Nam Kasai với hy vọng giành lại vị trí chính thức trong các cuộc bầu cử địa phương và đứng đầu chính phủ, lấy lại quyền miễn trừ của mình. Đảo chính tháng 9–10 năm 1962. Khi sự bất mãn với hành động ly khai ngày càng tăng, Ngalula và những người di cư Nam Kasai khác ở Léopoldville âm mưu lật đổ chế độ Bakwanga. Vào tháng 9 năm 1962, chính phủ Léopoldville bổ nhiệm Albert Kankolongo, một cựu bộ trưởng trong chính phủ của Kalonji làm Đặc ủy viên ("commissaire extraordinaire") Nam Kasai, trao cho ông toàn quyền quân sự và dân sự để giải thể chính quyền địa phương. Ngalula đã gặp mặt Kankolongo để lãnh đạo một cuộc binh biến và đảo chính chống lại Kalonji. Trong đêm 29 rạng ngày 30 tháng 9 năm 1962, các chỉ huy quân sự ở Nam Kasai do Kankolongo lãnh đạo đã tiến hành một cuộc đảo chính ở Bakwanga chống lại chế độ Kalonji. Đài phát thanh Bakwanga kêu gọi tất cả sĩ quan của lực lượng hiến binh Nam Kasai hỗ trợ chính quyền trung ương với lời hứa rằng họ sẽ hòa nhập vào ANC với cấp bậc và mức lương hiện tại của họ. Kalonji và tướng Dinanga bị quản thúc tại gia, trong khi các bộ trưởng Nam Kasai khác bị giam trong một ngôi nhà. Kalonji và Dinanga trốn thoát vài ngày sau đó; vị cựu tổng thống bắt một xe tải đến Katanga. Kankolongo phản ứng bằng cách ngay lập tức đưa các bộ trưởng còn lại đến Léopoldville. Vào ngày 5 tháng 10 năm 1962, quân đội chính phủ trung ương lại đến Bakwanga để hỗ trợ binh sĩ nổi loạn và trấn áp những người cuối cùng trung thành với Kalonji, đánh dấu sự chấm dứt của nhà nước ly khai. Kalonji đến cư trú tại Kamina và cố gắng gặp Tshombe, nhưng bị Bộ trưởng Bộ Nội vụ Katanga Godefroid Munongo từ chối. Sau đó, ông trốn sang Paris trước khi định cư tại Barcelona ở Tây Ban Nha thời Franco. Hậu quả. Tại Kasai. Tháng 10 năm 1962, Nam Kasai tái sáp nhập vào Cộng hòa Congo. Quốc gia Katanga tiếp tục chống lại chính quyền trung ương cho đến khi sụp đổ vào tháng 1 năm 1963 sau khi các lực lượng Liên Hợp Quốc bắt đầu có thái độ hung hăng hơn dưới thời Thant.
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Nam Kasai là một trong 21 tỉnh chính thức được thành lập theo hiến pháp liên bang năm 1964 như một phần của bản thỏa thuận giữa chính quyền trung ương và địa phương. Khi chế độ Mobutu tiến hành tái cấu trúc nhà nước Congo từ năm 1965, họ giữ nguyên một vài tỉnh trong đó có Nam Kasai. Nhà nước sau đó lại tái cơ cấu tỉnh này để bao gồm địa bàn các huyện Kabinda và Sankuru, rồi đổi tên thành Đông Kasai ("Kasaï-Oriental"). Phần lớn binh lính Nam Kasai nhập ngũ ANC sau khi nhà nước bị giải thể nhưng gần 2.000 người trung thành quyết định ẩn náu, hy vọng Kalonji sẽ trở lại. Quân nổi dậy do tướng Mwanzambala lãnh đạo chiến đấu trong một cuộc chiến du kích chống lại chính quyền tỉnh mới cho đến năm 1963 khi họ cũng chấp nhận gia nhập ANC. Ngay sau khi kết thúc ly khai, thành phố Bakwanga được đổi tên thành Mbuji-Mayi theo tên con sông trong vùng nhằm thể hiện sự hòa giải giữa các sắc tộc Luba. Bất chấp điều đó, bạo lực giữa các phe phái Luba kéo dài đến năm 1964 và mãi đến năm 1965 mới đạt giải pháp chính trị khi J. Mukamba được bầu Chủ tịch tỉnh Nam Kasai. Khủng hoảng Congo chấm dứt. Năm 1965, Mobutu phát động cuộc đảo chính thứ hai chống lại chính quyền trung ương và tự ban bố tình trạng khẩn cấp. Sau khi củng cố quyền lực chính trị, Mobutu dần tăng cường quyền kiểm soát Congo. Không chỉ giảm số tỉnh, ông còn hạn chế quyền tự chủ của họ dẫn đến một nhà nước tập trung cao độ. Mobutu ngày càng bổ nhiệm nhiều người trong vây cánh vào các chức vụ quan trọng. Năm 1967, để chứng minh tính hợp pháp cá nhân ông thành lập Phong trào Cách mạng Bình dân (MPR), cho đến năm 1990 là đảng chính trị hợp pháp duy nhất trong nước theo hiến pháp do Mobutu tự sửa đổi. Năm 1971, quốc gia được đổi tên thành Zaire và nỗ lực loại bỏ mọi ảnh hưởng thuộc địa. Ông cũng quốc hữu hóa tài sản kinh tế thuộc sở hữu nước ngoài còn lại trong nước. Theo thời gian, chủ nghĩa thân hữu lan rộng tại Zaire cùng với sự tham nhũng và quản lý kinh tế yếu kém. Sự bất mãn với chế độ ở "Kasaï-Oriental" đặc biệt mạnh mẽ.
Nam Kasai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811275
Các vấn đề về chủ nghĩa liên bang, sắc tộc trong chính trị và tập trung hóa nhà nước đã không được giải quyết trong cuộc khủng hoảng. Điều này góp một phần khiến người dân Congo bớt tin tưởng vào nhà nước. Mobutu rất ủng hộ việc tập trung hóa nên đã sáp nhập các tỉnh và bãi bỏ phần lớn quyền lập pháp của họ vào năm 1965, ngay sau khi lên nắm quyền. Việc mất niềm tin vào chính quyền trung ương là một trong những lý do khiến Congo bị coi là nhà nước thất bại, góp phần kích động bạo lực giữa các phe ủng hộ chủ nghĩa liên bang dân tộc và địa phương hóa.
Huyết thống luận
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811287
Huyết thống luận (), là lý thuyết chính trị phổ biến từ Hồng vệ binh phái bảo thủ trong giai đoạn đầu của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc. Theo huyết thống luận, yếu tố xác định địa vị giai cấp của một người là địa vị giai cấp của gia đình họ. Điều này được thể hiện bằng đôi câu đối huyết thống “cha cách mạng con anh hùng, cha phản động con khốn nạn”. Mặc dù luận điểm này bị mất uy tín về mặt chính trị nhưng nó vẫn tiếp tục để lại tác động chính trị trong Cách mạng Văn hóa. Định nghĩa. Theo huyết thống luận, yếu tố xác định địa vị giai cấp của một người là địa vị giai cấp của gia đình họ. Bất kể vị thế hiện tại của một người, họ không thể được coi là một trong những người cách mạng trừ khi xuất thân gia đình của họ là bần nông hoặc trung nông, vô sản hoặc binh lính và thay vào đó sẽ bị cho là một trong cái gọi là năm loại đen. Trong một số trường hợp, các tiêu chí để trở thành thành viên của Hồng vệ binh chính xác đến mức vì mục đích của huyết thống luận, thân thế gia đình sẽ bắt nguồn từ ông bà hoặc họ hàng xa. Bản chất của lý thuyết này được tóm tắt bằng khẩu hiệu "cha cách mạng con anh hùng, cha phản động con khốn nạn". Các hoán vị khác của câu đối huyết thống này bao gồm cụm từ, "về cơ bản là như thế này" hoặc cụm từ "chính xác là như thế này", gợi ý rằng những người ủng hộ thuyết huyết thống có thể không đồng ý về trọng lượng mà nó nên có. Phát triển và phủ nhận. Trong thời kỳ sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới thành lập phải giải quyết việc xây dựng chính quyền, chuẩn mực và trật tự xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ xây dựng nhà nước này liên quan đến câu hỏi ai là người lãnh đạo tiếp theo ở đâu và tìm đâu ra (tức là trong các gia đình đã có các nhà lãnh đạo cách mạng, hoặc trong giới trẻ). Trong những trường hợp bình thường, chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc là các cá nhân không nên bị đánh giá chỉ dựa trên lý lịch giai cấp gia đình mà phải dựa trên thành tích chính trị của họ.
Huyết thống luận
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811287
Ngay từ lúc khởi đầu cuộc Cách mạng Văn hóa, các câu hỏi về di sản hay kế thừa đã lên đến đỉnh điểm, với một số con cái của cán bộ cấp cao đã chỉ trích việc nhấn mạnh vào hiệu suất chính trị như một phần trong "đường lối giai cấp xét lại" của Bành Chân. Huyết thống luận bắt đầu ở các trường trung học và lan rộng từ đó đến các trường đại học. Cuối tháng 7 năm 1966, các biến thể của câu đối huyết thống này bắt đầu xuất hiện giữa các nhóm Hồng vệ binh, với một số nhóm sinh viên khác nhau tuyên bố đã tạo ra nó. Theo quan điểm của những Hồng vệ binh đầu tiên này (còn gọi là "Cựu Hồng vệ binh"), nguồn gốc giai cấp là tiêu chí quan trọng nhất để trở thành thành viên của nhóm. Theo thứ tự địa vị giảm dần, đó là: (1) con quan chức quân đội, (2) con cán bộ nhà nước, (3) con nhà thuộc tầng lớp lao động, và (4) con nhà nông dân. Bất kỳ ai không thuộc "gốc gác đỏ" sẽ bị loại trừ và những người có "dòng máu thuần khiết nhất" vẫn được xem xét theo thứ bậc. Câu đối huyết thống đã gây ra tranh cãi lớn. Ngay sau khi nó xuất hiện, các cuộc tranh luận nổ ra chủ yếu trong hàng ngũ sinh viên Hồng vệ binh về cách diễn giải nguyên tắc này. Huyết thống luận ban đầu được phổ biến rộng rãi trong giới hoạt động xã hội sinh viên trong Cách mạng Văn hóa, nhưng sau bị phe theo tư tưởng Mao Trạch Đông chỉ trích mạnh mẽ. Sự phản đối kịch liệt của công chúng đối với huyết thống luận bắt đầu vào cuối năm 1966. Trần Bá Đạt là nhà lãnh đạo phe chủ nghĩa Mao đầu tiên đã lên tiếng chỉ trích câu đối huyết thống, nói rằng, "Một lý thuyết về 'thân thế đỏ' đã trở nên phổ biến gần đây. Những người thúc đẩy ngụy biện này thực sự đã tấn công và gạt con cái của công nhân và nông dân ra ngoài lề... Họ làm cho một số sinh viên bối rối và khuyến khích họ trình bày câu đối, 'Nếu cha là anh hùng thì con cũng là anh hùng'". Giang Thanh gây tiếng vang khi đảo ngược khẩu hiệu của huyết thống luận, và biện minh rằng nếu cha mẹ là nhà cách mạng thì con cái nên noi gương họ, nhưng cha mẹ phản động thì con cái đều là kẻ phản động.
Huyết thống luận
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811287
Năm 1966, học sinh trung học Ngộ La Khắc đã dám viết một cuốn sách nhỏ nổi tiếng có nhan đề "Xuất thân luận", đóng một vai trò quan trọng trong việc làm mất uy tín của huyết thống luận. Diễn giải tiếp theo. Theo quan điểm của học giả Alessandro Russo, huyết thống luận là một hình thức của "chủ nghĩa giai cấp sinh học" và "thủ đoạn về hệ tư tưởng" cuối cùng đã thất bại vì mức độ tham gia chính trị rộng rãi trong giai đoạn đầu của Cách mạng Văn hóa. Russo viết rằng ngay cả sau khi lý thuyết này bị mất uy tín về mặt chính trị, nó vẫn tiếp tục để lại tác động trong Cách mạng Văn hóa. Nhà sử học Rebecca Karl nhận xét rằng huyết thống luận có "tác động kỳ lạ là khiến đại đa số các nhà cách mạng cũ nghi ngờ. Xét cho cùng, hạt nhân của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thập niên 1920 và 1930 đều là thanh niên thành thị, có học thức cùng với một số con cháu gia đình địa chủ hoặc phú nông (ví dụ, bản thân Mao Trạch Đông)".
Xuất thân luận
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811288
Xuất thân luận (), còn được dịch là "Bàn về thân thế gia đình", "Thuyết về phả hệ giai cấp", là bài viết của Ngộ La Khắc được xuất bản vào tháng 1 năm 1967 trên "Tạp chí Cách mạng Văn hóa Trung học". Trong bài viết này, anh đã dám thách thức "thuyết huyết thống" do con cái các quan chức cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc truyền bá. Lý thuyết này từng được lưu hành rộng rãi trong xã hội Trung Quốc và gây ra những tác động tiêu cực nghiêm trọng từ quan điểm duy vật. Ngộ La Khắc bị buộc tội phản cách mạng và bị kết án tử hình vì chuyên luận nổi tiếng "Xuất thân luận". Bài viết của Ngộ La Khắc lặp lại lời chỉ trích của Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương về "thuyết huyết thống", đã gây ra phản ứng mạnh mẽ trên khắp đất nước Trung Quốc. Tháng 4 năm 1967, bài viết này bị dán nhãn là "cỏ độc lớn". Ngày 5 tháng 1 năm 1968, Ngộ La Khắc bị bắt và tống giam vào tù mãi cho đến ngày 5 tháng 3 năm 1970 mới bị đem ra xử tử. Đánh giá. Một số chuyên gia và học giả Trung Quốc mô tả "Xuất thân luận" là Tuyên ngôn Nhân quyền của Trung Quốc. Nhà sử học người Mỹ gốc Hoa Tống Vĩnh Nghị coi bản "Xuất thân luận" này là "tuyên ngôn nhân quyền trong bóng tối". "Xuất thân luận" đánh dấu tư duy độc lập đầu tiên ở Trung Quốc vào những năm 1960 đã phá vỡ khuôn khổ tư tưởng của Cách mạng Văn hóa, không tập trung vào cái gọi là "đường lối chính trị" thống trị sinh viên trong Cách mạng Văn hóa, mà tập trung vào các vấn đề xã hội thực sự. Vào thời điểm đó, tư tưởng của Ngộ La Khắc rất tiến bộ không chỉ bị những kẻ ủng hộ "thuyết huyết thống" là Hồng vệ binh chỉ trích mà còn bị nhiều tổ chức sinh viên tạo phản phê phán.
Sùng bái xoài
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811289
Sùng bái xoài (), là sự tôn kính hoặc thờ cúng quả xoài ở Trung Quốc đại lục trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Ngày 5 tháng 8 năm 1968, Mao Trạch Đông được Bộ trưởng Ngoại giao Pakistan Mian Arshad Hussain biếu một hộp xoài Sindhri rồi ông đem tặng lại cho Đội Tuyên truyền Tư tưởng Công nông Mao Trạch Đông đóng tại Đại học Thanh Hoa. Về sau này, xoài trở thành biểu tượng cho tình cảm của Mao Trạch Đông. Thay vì mang ra ăn, Đội Tuyên truyền Tư tưởng Công nông Mao Trạch Đông bèn bảo quản quả xoài bằng dung dịch formaldehyde, hoặc niêm phong trong sáp để tỏ lòng tôn kính Mao Chủ tịch. Việc Mao Trạch Đông tặng xoài cho công nhân và sự nổi lên của việc sùng bái xoài trùng khớp với bước ngoặt của Cách mạng Văn hóa, khi giai cấp công nhân bắt đầu lãnh đạo cuộc cách mạng này. Lịch sử. Tháng 5 năm 1966, Mao Trạch Đông phát động Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc. Một sản phẩm phụ của Cách mạng Văn hóa là sự hình thành của nhiều nhóm sinh viên ủng hộ Mao, được gọi là Hồng vệ binh, trên khắp đất nước. Mặc dù cùng chia sẻ hệ tư tưởng Mao Trạch Đông, nhưng Hồng vệ binh thường có những cuộc đối đầu bạo lực giữa các nhóm. Mùa xuân năm 1968, một cuộc xung đột mang tên Trận chiến Trăm ngày nổ ra ở Đại học Thanh Hoa. Trong đó, hai nhóm Hồng vệ binh đối lập là Binh đoàn Tỉnh Cương Sơn và phái 414 đã ném giáo mác, gạch đá và axit sunfuric vào nhau. Ngày 27 tháng 7 năm 1968, Mao liền cử 30.000 công nhân nhà máy Bắc Kinh thuộc Đội Tuyên truyền Tư tưởng Mao Trạch Đông Công nông tới ngăn chặn cuộc xung đột. Nửa tá công nhân thiệt mạng và hơn 700 người bị thương. Điều này khiến Mao chính thức giải tán Hồng vệ binh vào ngày hôm sau. Ngày 5 tháng 8 năm 1968, Ngoại trưởng Pakistan, Mian Arshad Hussain, đến thăm Mao và tặng ông một hộp xoài Sindhri. Một câu chuyện cạnh tranh về nguồn gốc tuyên bố rằng kẻ tặng xoài chính là người Miến Điện. Mao đưa chúng cho các công nhân đóng tại Đại học Thanh Hoa. Bản thân việc từ chối ăn trái cây của ông được coi là sự hy sinh cá nhân vì lợi ích của những người lao động.
Sùng bái xoài
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811289
Các công nhân tin rằng xoài là biểu tượng của lòng biết ơn của Mao Chủ tịch. Món quà trái cây trùng hợp với việc chuyển giao quyền quản lý của Cách mạng Văn hóa từ giới trí thức Trung Quốc sang cho tầng lớp lao động. Rất ít người ở khu vực đó của Trung Quốc vào lúc bấy giờ biết xoài là quả gì, dẫn đến nhiều người sợ loại trái cây này và đem chúng ra so sánh với bàn đào trong thần thoại Trung Quốc. Những quả xoài ban đầu được bảo quản bằng hóa chất như formaldehyde và được trưng bày ở nhiều trường đại học Trung Quốc. Công nhân nhanh chóng bắt đầu tôn sùng những mô hình xoài bằng sáp và mang chúng diễu hành khắp đất nước, trừng phạt bất kỳ ai tỏ thái độ bất kính đều là thành phần phản cách mạng. Một nha sĩ ở trấn Phúc Lâm, huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam tên là Hàn đã nhìn thấy xoài và nói rằng nó không có gì đặc biệt và trông giống như khoai lang. Anh ta bị đưa ra tòa xét xử và kết án vì tội phỉ báng đầy ác ý, phải đem diễu hành công khai khắp thị trấn rồi sau đó xử tử bằng một phát súng vào đầu. Một chiếc xe tuần hành khổng lồ có hình giống như một giỏ xoài được mang ra diễu hành vào ngày 1 tháng 10 năm 1968, trong Lễ mừng Quốc khánh của Trung Quốc tại Quảng trường Thiên An Môn. Các bản sao xoài bằng sáp và nhựa có nhu cầu cao. Nhiều sản phẩm có chủ đề xoài khác nhau đã được bày bán, chẳng hạn như ga trải giường, giá để bàn trang điểm, khay và cốc tráng men, hộp đựng bút chì, xà phòng thơm mùi xoài và thuốc lá vị xoài, thường đi kèm với các khẩu hiệu yêu nước và hình ảnh của Mao. Một bộ huy chương được chế tác để kỷ niệm việc Mao tặng xoài, và huy hiệu Mao được sản xuất với hình quả xoài dưới mặt ông. Suy giảm. Sau hơn một năm, sự sùng bái xoài đã giảm đi đáng kể, và một số người thậm chí còn bắt đầu sử dụng xoài sáp làm nến khi mất điện. Năm 1974, khi Đệ nhất Phu nhân Philippines Imelda Marcos đến thăm Trung Quốc với một hộp xoài làm quà, vợ của Mao Trạch Đông là Giang Thanh đã cố gắng khơi lại lòng tôn kính xoài bằng cách tặng lại hộp xoài cho công nhân.
Sùng bái xoài
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811289
Giang Thanh sau đó đã đạo diễn một bộ phim tuyên truyền có tên là "Ca khúc xoài". Trong vòng một tuần sau khi bộ phim được phát hành, Giang Thanh bị bắt và "Ca khúc xoài" phải ngừng lưu hành. Điều này đánh dấu sự kết thúc của tệ sùng bái xoài. Xoài hiện đã phổ biến ở Trung Quốc và được coi là hàng tiêu dùng thông thường.
Nguyễn Xuân Phúc từ chức Chủ tịch nước
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811291
Việc Nguyễn Xuân Phúc từ chức Chủ tịch nước Việt Nam trước thềm Tết nguyễn đán năm 2023 được báo chí công bố vào ngày 17 tháng 1 năm 2023. Trước đó vài ngày ông Phúc vẫn đi chúc tết các nguyên lãnh đạo và thăm hội phật giáo Việt Nam, trong khoảng thời gian này đã xuất hiện tin đồn về việc Nguyễn Xuân Phúc từ chức Chủ tịch nước. Sau khi Uỷ ban Trung ương Đảng chấp nhận đơn thôi chức, ngày 18 tháng 1 năm 2023 Quốc hội Việt Nam đã họp bất thường để miễn nhiệm chức Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân đã giữ quyền Chủ tịch nước theo Hiến pháp. Ngày 4 tháng 2 năm 2023, ông Nguyễn Xuân Phúc bàn giao công tác cho bà Võ Thị Ánh Xuân. Theo các thông tin được công bố, ông Phúc từ chức để chịu trách nhiệm chính trị do một số thành viên thuộc chính phủ ông Phúc bị kỷ luật và bị bắt trong đó có hai bê bối lớn là vụ việc trục lợi từ các chuyến bay đưa công dân về nước trong đại dịch Covid-19 và nâng khống giá kit test của Việt Á. Các tờ báo đối lập Chính phủ Việt Nam còn đưa ra giả thiết ông và gia đình liên quan đến bê bối nâng giá xét nghiệm của Việt Á, tuy nhiên ông đã bác bỏ thông tin này. Bối cảnh. Nguyễn Xuân Phúc từ chức trong bối cảnh Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đẩy mạnh chiến dịch chỉnh đốn Đảng và chống tham nhũng. Ông buộc thôi làm Chủ tịch nước vì các quan chức từng thuộc Chính phủ ông Phúc khi ông còn làm Thủ tướng bị bắt hoặc bị kỷ luật. Theo thông cáo, ông chịu trách nhiệm chính trị của người đứng đầu khi để nhiều cán bộ, trong đó có 2 Phó Thủ tướng, 3 Bộ trưởng có vi phạm, khuyết điểm, gây hậu quả rất nghiêm trọng; 2 Phó Thủ tướng đã xin thôi giữ các chức vụ, 2 Bộ trưởng và nhiều cán bộ bị xử lý hình sự. Diễn biến. Xin từ chức.
Nguyễn Xuân Phúc từ chức Chủ tịch nước
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811291
Diễn biến. Xin từ chức. Ngày 17 tháng 1 năm 2023, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp để xem xét việc Nguyễn Xuân Phúc muốn thôi làm Chủ tịch nước, Trung ương Đảng sau đó dã đồng ý nguyện vọng thôi giữ các chức vụ, nghỉ công tác và nghỉ hưu của ông Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, an ninh nhiệm kỳ 2021 - 2026. Miễn nhiệm. Ngày 18 tháng 1 năm 2023, Quốc hội Việt Nam đã họp bất thường để tiến hành miễn nhiệm chức Chủ tịch nước và chức Đại biểu Quốc hội của Nguyễn Xuân Phúc. Quốc hội đã bỏ phiếu kín để thông qua nghị quyết về việc miễn nhiệm chức vụ chủ tịch nước nhiệm kỳ 2021 - 2026 và cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội khóa XV đối với ông Nguyễn Xuân Phúc. Với 465/482 đại biểu bỏ phiếu tán thành ông Phúc chính thức thôi làm Chủ tịch nước. Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân trở thành quyền Chủ tịch nước theo Hiến pháp. Bàn giao công tác. Ngày 4 tháng 2 năm 2023, tại Phủ Chủ tịch ông Phúc chính thức bàn giao công tác cho quyền Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân. Tại buổi bàn giao công tác ông Phúc nói rõ nguyên nhân thôi làm Chủ tịch nước: Ông bày tỏ sự trân trọng cảm ơn Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cơ quan trung ương, địa phương đã hết sức ủng hộ, giúp đỡ để ông hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Tại buổi lễ ông cũng khẳng định bản thân và gia đình không liên quan đến bê bối Việt Á. Tuy nhiên, phát ngôn này đã bị gỡ bỏ khỏi các trang báo. Phản ứng. Võ Thị Ánh Xuân bày tỏ cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo của ông Phúc với cá nhân bà cùng cơ quan: "Vừa qua nhận thức rõ trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước, nhân dân, ông đã gương mẫu chịu trách nhiệm chính trị của người đứng đầu Chính phủ nhiệm kỳ 2016 - 2021.
Nguyễn Xuân Phúc từ chức Chủ tịch nước
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811291
Vì một số cán bộ lãnh đạo dưới quyền vi phạm trong công tác phòng chống dịch COVID-19 nên làm đơn xin thôi giữ các chức vụ phân công, nghỉ công tác, nghỉ hưu. Được Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội đồng ý cho thôi giữ các chức vụ". Giáo sư về an ninh chiến lược tại National War College, Washington, ông Zachary Abuza, viết: "Ông Phúc được coi là một trong hai ứng cử viên hàng đầu được chọn để kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng làm tổng bí thư Đảng Cộng sản. Nhưng Trọng đã nghi ngờ ông ta do lập trường thân phương Tây và chủ nghĩa thực dụng trong chính sách của ông, cũng như các lợi nhuận từ đại công ty của gia đình ông." Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp nhà nghiên cứu cao cấp về chính trị thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) ở Singapore phát biểu với đài CNA rằng: "Tôi nghĩ lý do chính là vợ ông ta và một số thành viên trong gia đình ông bị cáo buộc dính líu đến một số vụ bê bối tham nhũng. Trong các tuyên bố chính thức, Đảng không đề cập đến những vấn đề tham nhũng vì tôi nghĩ Đảng muốn giữ thể diện cho ông ấy và để bảo vệ danh tiếng lẫn hình ảnh của Đảng."
JunD
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811295
Ca sĩ JunD tên thật là Nguyễn Đức Trung (sinh ngày 07 tháng 03 năm 1993 tại Yên Bái, là một nam ca sĩ người Việt Nam. Anh được biết đến khi tham gia chương trình Vote For Five năm 2022. Ngoài ra JunD còn từng được gọi với biệt danh ‘Hoàng Tử Ballad’, đạt được rất nhiều giải thưởng trong các cuộc thi hát tại Hà Nội. TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP. Trước khi bắt đầu sự nghiệp âm nhạc. JunD - Nguyễn Đức Trung sinh ra tại thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Anh từng chia sẻ rằng gia đình anh không ai theo nghệ thuật nhưng ngay từ khi còn bé anh đã bộc lộ khả năng ca hát của mình. Nên anh chỉ họ đến năm lớp 10 trường THPT Nguyễn Huệ thì anh đã quyết tâm theo đuổi ước mơ, từ bỏ việc học để lựa chọn việc thi vào trường Nghệ Thuật Quân Đội ngay giai đoạn đó. Trong khi mọi bản trẻ đang vòng tay yêu thương của bố mẹ ở độ tuổi này thì Nguyễn Đức Trung kiên trì, theo đuổi đam mê thì đã phải một mình xa gia đình lên Hà Nội để theo học Thanh nhạc tại Trường Đại học Văn hóa - Nghệ thuật Quân đội. Năm 2018: Đạt giải Ba cuộc thi ‘Giọng hát hay Hà Nội’. Năm 2018 là một Năm Nguyễn Đức Trung đạt được nhiều thành tích. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Văn hóa - Nghệ thuật Quân đội, anh tham gia một số chương trình ca hát và từng đạt giải ba cuộc thi Giọng hát hay Hà Nội; Sao mai Hà Tĩnh 2018. Năm 2019: Bắt đầu biểu diễn trong nhiều chương trình lớn. Ngày 26 tháng 12 năm 2019, Giải ba Giọng hát hay Hà Nội Đức Trung hát gây Quỹ nghĩa tình đoàn viên. Đức Trung đã tham gia biểu diễn trong chương trình ‘Sắc Xuân 2019’ tại Trụ sở Trung tâm Thông tấn Quốc Gia, Hà Nội với hai ca khúc Xuân có em và Khúc Xuân. Năm 2020 : Gây ấn tượng với Khán giả tại các chương trình truyền hình. JunD tham gia chương trình Sức Nước Ngàn Năm, số 73 của đài truyền hình VTV3 . Anh đã vượt qua hai đối thủ tham gia cùng và bước vào vòng cuối cùng của chương trình tại số này. Năm 2021: Xuất hiện nhiều hơn tại chương trình truyền hình Việt Nam và đạt các giải thưởng cao.
JunD
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811295
Giành tấm Huy chương vàng tại Liên hoan Ca múa nhạc chuyên nghiệp toàn quốc năm 2021 đợt 1 tổ chức tại Hải Phòng, Nguyễn Đức Trung có thể coi là “một ẩn số” đến từ Nhà hát Ca múa nhạc Thăng Long do Cục Nghệ Thuật biểu biễn - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức tại Hải Phòng với ca khúc Tiếng Gào của nhạc sĩ Tường Minh. Nguyễn Đức Trung nhận được cúp Gương mặt Nghệ Sĩ tiêu biểu ngành Nghệ thuật biểu diễn năm 2021 do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Cục Nghệ thuật biểu diễn trao tặng. Tháng 4 năm 2021, JunD còn được tham gia chuyến đi thăm và biểu diễn phục vụ chiến sỹ đang làm nhiệm vụ trên Quần đảo Trường Sa. Ca sĩ Đức Trung vừa cover ca khúc "Sài Gòn cố gắng lên" chương trình Music Like với chủ đề "Việt Nam sẽ chiến thắng", đã tạo được nhiều cảm tình với khán giả. JunD từng gây ấn tượng với khán giả khi thể hiện một bản Mashup hai bài dân gian “Gió đánh đò đưa - Còn duyên” trên nền bản nhạc phối hơi hướng hiện đại tại chương trình Sàn chiến Giọng hát 2021. JunD còn là khách mời của chương trình Sức nước ngàn năm số 33 của đài VTV3 Ngày 13 tháng 9, JunD tham gia chương trình Music Like - VTVCab cùng khách mời Hà Thơ và Huyền Yoko trong số đặc biệt ‘Việt Nam sẽ chiến thắng’. Năm 2022: Tham gia chương trình sống còn Vote For Five và đạt thành tích trong sản phẩm âm nhạc kết hợp. Đầu năm 2022, Nguyễn Đức Trung còn xuất hiện với tư cách là một trong ba khách mời chương trình Con đường âm nhạc (VTV) của ca sĩ - NSƯT Tấn Minh. Ngày 16 tháng 1 , JunD làm khách mời của chương trình Bữa trưa vui vẻ cùng ca sĩ Minh Ngọc. Ngày 28 tháng 3, JunD cùng chị Bảo Trâm Idol làm khách mời của chương trình Music Like - VTVCab với chủ đề ‘Vài lần đón đưa’. Tháng 7 năm 2022, JunD tham gia chương trình Vote For Five với số báo danh Đức Trung - 213. JunD đạt được nhiều vị trí cao trong các vòng thi. Nguyễn Đức Trung còn được lọt vào top những ứng viên nổi bật của Vote For Five. Cuối cùng anh đã dừng lại ở vòng bán kết, top 20 của chương trình với vị trí 15.
JunD
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811295
Ngày 21 tháng 10, Đức Trung chính thức thay đổi nghệ danh thành JunD và hoạt động với nghệ danh này trên con đường nghệ thuật của mình. Ngày 26 tháng 10, JunD bắt tay cùng ca sĩ Bảo Trâm Idol cho ra mắt sản phẩm “Không thể nhớ - Chẳng thể quên” đánh dấu sự bắt đầu với nghệ danh mới của mình. Bảo Trâm Idol hợp tác với giọng ca trẻ JunD, người bước ra từ cuộc thi Vote for five. Thay vì dùng tiêu đề cũ là Lạnh lẽo, họ đã đổi tên ca khúc thành Không thể nhớ, chẳng thể quên. Ca khúc mau chóng đạt hơn 1.5 triệu view trên Tiktok và hơn 1 triệu view trên Youtube sau 5 ngày ra mắt. Ngày 20/10 JunD được mời tham gia chương trình Mây Sài Gòn Live Stage (Mây Lang Thang) cùng với ca sĩ Ngọc Linh, Bảo TrâmIdol, Tăng Phúc, Trương Thảo Nhi, Phương Anh Idol. GIẢI THƯỞNG. = LIÊN KẾT NGOÀI =
Ca sĩ JunD - Nguyễn Đức Trung
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811299
__ĐỔI_HƯỚNG_NHẤT_ĐỊNH__
Dân Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811312
Dân Sinh có thể là:
Cụm Anh Tiên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811316
Cụm Anh Tiên, hay quần tụ Anh Tiên, được đánh thứ tự danh mục là Abell 426, là một cụm thiên hà nằm trong chòm sao Anh Tiên. Cụm có vận tốc hồi quy là 5155 km/s. Cụm Anh Tiên nằm cách Trái Đất khoảng 250 triệu năm ánh sáng, đường kính khoảng 11,6 triệu năm ánh sáng và chứa khối lượng gấp hơn 660 nghìn tỷ lần Mặt Trời. Cụm Anh Tiên là một trong những vật thể có khối lượng lớn nhất trong vũ trụ quan sát được, chứa cả ngàn thiên hà ẩn trong một đám mây khí. Bức xạ tia X. Nguồn tia X phát ra từ cụm Anh Tiên được phát hiện bởi tên lửa Aerobee vào năm 1970 và công bố vào năm 1971. Những quan sát chi tiết hơn từ vệ tinh Uhuru sau đó đã xác nhận, nguồn bức xạ này xuất phát từ NGC 1275, thiên hà nằm ở trung tâm cụm. Đây cũng là nguồn phát tia X cực mạnh trong cụm Anh Tiên. Do đó, cụm Anh Tiên là cụm thiên hà sáng nhất trên bầu trời khi được quan sát trong dải tia X. Kết hợp dữ liệu từ Đài quan sát tia X Chandra với các quan sát vô tuyến và mô phỏng máy tính, các nhà khoa học đã phát hiện ra một làn sóng khí nóng khổng lồ trong cụm Anh Tiên trải dài trên khoảng 200.000 năm ánh sáng, gấp đôi cả dải Ngân Hà. Làn khí này hình thành từ hàng tỷ năm trước, sau khi một cụm thiên hà nhỏ sượt qua cụm Anh Tiên làm nhiễu loạn khối khí, tạo ra một vòng khí lạnh xoắn ốc đang mở rộng. Sau khoảng 2,5 tỷ năm, khi khối khí đã đạt đến gần 500.000 năm ánh sáng tính từ trung tâm, những cuộn sóng khổng lồ hình thành và xoáy tròn trong hàng trăm triệu năm trước khi tan biến. Âm thanh của lỗ đen. Vào năm 2003, sau 53 giờ quan sát từ Chandra, các nhà thiên văn học từ Đại học Cambridge đã phát hiện ra rằng, sóng áp suất do lỗ đen ở trung tâm cụm Anh Tiên tỏa ra đã tạo nên những gợn sóng có thể được chuyển thành một nốt nhạc.
Cụm Anh Tiên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811316
Tuy nhiên, đó là một nốt nhạc mà con người không thể nghe thấy, bởi vì khoảng thời gian giữa các lần dao động của nó là 9,6 triệu năm, và thấp hơn 57 quãng tám dưới C. Vào năm 2022, các sóng âm đã được trích xuất và tổng hợp lại thành phạm vi nghe được của con người bằng cách nâng chúng lên 57 và 58 quãng tám so với ban đầu, có nghĩa là ta đang được nghe âm thanh cao hơn 144 triệu tỷ và 288 triệu tỷ lần so với tần số ban đầu của nó.
C.H. Robinson
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811318
C.H. Robinson là một công ty vận chuyển Mỹ chuyên về logistics bên thứ ba (3PL). Công ty cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hóa, quản lý vận chuyển, môi giới và kho bãi. C.H. Robinson cung cấp các dịch vụ vận chuyển bằng xe tải, hàng hóa trên xe tải, hàng hóa hàng không, vận chuyển đa phương thức và vận tải đường biển. Tổng quan về công ty. C.H. Robinson là một công ty vận tải Mỹ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực logistics bên thứ ba (3PL). Công ty có trụ sở chính tại Eden Prairie, Minnesota, và hoạt động trên toàn cầu với hơn 300 văn phòng và hơn 15.000 nhân viên tại Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu Á và Nam Mỹ. C.H. Robinson có hợp đồng với hơn 66.000 công ty vận chuyển, bao gồm cả công ty vận chuyển đường bộ, đường sắt, hàng không và vận chuyển biển. Ngoài ra, công ty cung cấp các dịch vụ khác như phân tích chuỗi cung ứng, hợp nhất hàng hóa, quản lý chương trình vận chuyển và báo cáo thông tin. C.H. Robinson còn sở hữu công ty con là Robinson Fresh, chuyên mua bán nông sản cho ngành công nghiệp dịch vụ thực phẩm thông qua việc hợp tác với các nhà sản xuất và nhà cung cấp nông sản độc lập. Doanh thu của C.H. Robinson chủ yếu đến từ hoạt động vận chuyển hàng hóa, chiếm khoảng 94% doanh thu ròng của công ty, phần còn lại là từ hoạt động mua sắm và tiếp thị nông sản tươi. Lịch sử. Xuất phát và giai đoạn đầu. Vào đầu thế kỷ 20, Charles Henry Robinson sở hữu một công ty môi giới bán buôn nhỏ chuyên cung cấp nông sản ở North Dakota và Minnesota. Ngày 11 tháng 4 năm 1905, ông hợp tác với hai anh em Nash và trở thành Chủ tịch đầu tiên của công ty. Nash Finch Company là nhà phân phối hàng buôn hàng đầu trong khu vực, sở hữu và điều hành chuỗi cửa hàng tạp hóa. Sau khi Charles Henry Robinson qua đời vào năm 1909, hai anh em Nash tiếp quản C.H. Robinson Company. C.H. Robinson trở thành đơn vị mua hàng cho Nash Finch Company khi công ty này mở rộng hoạt động ở Iowa, Minnesota, Wisconsin, Illinois và Texas. Vào những năm 1940, Ủy ban Thương mại Liên bang Mỹ (FTC) phát hiện rằng Nash Finch Company có "lợi thế về giá cả", và dựa trên Đạo luật Robinson-Patman năm 1936, C.H. Robinson Co. đã được chia thành hai công ty. Công ty đầu tiên, C.H. Robinson Co., được thành lập bởi các văn phòng bán nông sản cho các kho hàng của Nash Finch, và sở hữu bởi nhân viên của C.H. Robinson. Công ty thứ hai, C.H.
C.H. Robinson
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811318
Robinson. Công ty thứ hai, C.H. Robinson, Inc., vẫn thuộc sở hữu của Nash Finch. Mở rộng vào lĩnh vực logistics và vận chuyển bằng xe tải. C.H. Robinson bước vào lĩnh vực vận chuyển bằng xe tải sau khi Đạo luật Đường cao tốc Liên bang năm 1956 được thông qua và thương mại liên bang Mỹ mở rộng. Trước đây, C.H. Robinson và các nhà giao hàng khác thường dựa vào tàu hỏa để vận chuyển hàng hóa. Năm 1968, công ty bước vào lĩnh vực vận chuyển bằng xe tải dưới dạng một nhà vận chuyển hợp đồng có tên Meat Packers Express, có trụ sở tại Omaha, Nebraska. Ba năm sau, công ty hợp nhất Meat Packers Express với các nhà vận chuyển khác để thành lập Robco Transportation Inc., và sau đó được bán vào năm 1986. Vào giữa những năm 1960, C.H. Robinson Co. và C.H. Robinson, Inc. sáp nhập hoạt động của mình dưới tên C.H. Robinson Co. Nash Finch vẫn nắm giữ 25% cổ phần của công ty môi giới, trong khi nhân viên của C.H. Robinson sở hữu phần còn lại. Đến năm 1976, Nash Finch đã mua lại cổ phần và công ty trở thành công ty 100% sở hữu bởi nhân viên. C.H. Robinson tập trung vào sử dụng công nghệ mới nổi và đã áp dụng máy tính chủ IBM vào năm 1979. Đạo luật Vận chuyển Đường bộ năm 1980 đã giải phóng ngành vận chuyển tại Mỹ và tạo ra sự cạnh tranh tăng lên cho các nhà cung cấp logistics và các nhà giao hàng. C.H. Robinson đã tạo ra chương trình nhà vận chuyển hợp đồng, mở rộng hoạt động hợp đồng vận chuyển hàng hóa và định vị mình như một trung gian tìm nguồn hàng cho các nhà giao hàng. Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm trung bình của công ty, dựa trên số lượng hàng hóa vận chuyển, tăng gấp đôi và C.H. Robinson đã đạt doanh thu hơn 700 triệu đô la trong vòng năm năm. 40% doanh thu đến từ dịch vụ môi giới vận chuyển bằng xe tải, phần còn lại từ doanh số bán nông sản. Đổi tên và IPO. Công ty đổi tên thành C.H. Robinson Worldwide, Inc. vào năm 1997 và tiến hành IPO (Initial Public Offering - Đợt phát hành công khai lần đầu) để huy động 190 triệu đô la cho 101 nhân viên bán cổ phiếu của mình. Tổng giá trị thị trường ban đầu là 743 triệu đô la, và công ty bắt đầu niêm yết trên sàn NASDAQ với mã CHRW. Doanh thu tổng cộng năm 1997 đạt 1,79 tỷ đô la, trong khi doanh thu ròng đạt 206 triệu đô la, tăng 15,1% so với năm trước.
C.H. Robinson
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811318
Vào tháng 1 năm 2023, Bob Biesterfeld từ chức Chủ tịch và CEO; công ty thông báo Scott Anderson được bổ nhiệm làm CEO tạm thời. Hoạt động cộng đồng. Công ty đã được công nhận về công việc với các tổ chức phi lợi nhuận và các hoạt động từ thiện và cộng đồng khác, bao gồm việc được chọn làm đối tác cuối cùng cho Giải thưởng Thành tựu Dài hạn năm 2015 của Tạp chí Kinh doanh Minnesota, nhằm "thể hiện cam kết lâu dài trong việc tác động tích cực đến cộng đồng phi lợi nhuận hoặc các nguyên nhân xứng đáng khác tại tiểu bang này." Quá trình mua lại. Bắt đầu từ năm 1989, C.H. Robinson bắt đầu mở rộng hoạt động logistics quốc tế bằng cách thành lập văn phòng tại Monterrey, Mexico. Năm 1992, họ mua lại C.S. Greene International để cung cấp thêm dịch vụ chuyển phát quốc tế, vận chuyển hàng không và container lạnh. Năm 1993, C.H. Robinson mua lại 30% cổ phần của Transeco, một công ty vận tải hàng đường bộ lớn ở Pháp, và sau đó mua lại toàn bộ công ty này. C.H. Robinson cũng mua lại các công ty như Daystar International, một nhà phân phối nước ép trái cây, và FoodSource. Họ cũng trở thành đối tác tiếp thị độc quyền cho Tropicana, Motts, Glory và Welch’s. Công ty tiếp tục mở rộng dịch vụ logistics bằng cách mua lại các công ty logistics địa phương như American Backhaulers, Inc., một công ty có trụ sở tại Chicago, với giá 136 triệu đô la vào năm 1999, và mua lại Trans-Consolidated Inc. có trụ sở tại Minnesota. Vào cuối những năm 1990, công ty bắt đầu mua lại các công ty để mở rộng dịch vụ vận chuyển và logistics của mình tại thị trường quốc tế. Các công ty mua lại bao gồm: Preferred Translocation Systems; Comexter Group có trụ sở tại Argentina; Norminter, một nhà cung cấp dịch vụ vận chuyển tại Tây Âu; Vertex Transportation Inc. có trụ sở tại New York; Smith Terminal International Services, một trong những nhà cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba lớn nhất tại Florida; Frank M. Viet GmbH Internationale Spedition, một nhà cung cấp dịch vụ logistics quốc tế có trụ sở tại Đức; Dalian Decheng Shipping Agency Co.; FoodSource Procurement LLC; Apreo Logistics S.A.; và các nhà cung cấp logistics lớn khác tại châu Âu, Ấn Độ, Trung Quốc và Bắc Mỹ. Năm 2012, C.H. Robinson mua lại Phoenix International với giá 635 triệu đô la và nâng cao khả năng vận chuyển hàng biển của mình gấp đôi.
C.H. Robinson
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811318
Công ty cũng mua lại công ty vận chuyển hàng Ba Lan Apreo Logisitics S.A., cung cấp dịch vụ vận chuyển đường bộ, hàng không và hàng biển trên khắp châu Âu. Năm 2012, công ty giới thiệu nền tảng công nghệ Navisphere. Dịch vụ này cung cấp cơ sở hạ tầng cho nhân viên, khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ của C.H. Robinson để quản lý hoạt động logistics chuỗi cung ứng, vận chuyển và nguồn cung trên quy mô toàn cầu. TMC, một phân khúc của C.H. Robinson, cung cấp hỗ trợ cho mạng lưới của C.H. Robinson thông qua dịch vụ Managed TMS, kết hợp phần mềm hệ thống quản lý vận chuyển (TMS) toàn cầu và quản lý logistics. Năm 2015, công ty hợp nhất dịch vụ vận chuyển và logistics để mở rộng vào thị trường vận chuyển hàng rời thấp hơn; công ty mua lại Freightquote, một công ty môi giới vận chuyển trực tuyến tư nhân. Vào ngày 28 tháng 1 năm 2020, C.H. Robinson mua lại Prime Distribution Services với giá 225 triệu đô la. Giao dịch này giúp công ty mở rộng vào quản lý kho với tổng diện tích kho hàng là 2,6 triệu feet vuông.
Văn Hóa (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811322
Văn Hóa có thể là:
Hầm Namsan số 2
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811332
Đường hầm Namsan 2 (Tiếng Hàn: 남산2호터널, Hanja: 南山二號-) là một đường hầm có chiều dài 1620m và rộng 9,6m nối Yongsan-dong, Seoul, Yongsan-gu và Jangchung-dong, Jung-gu, Seoul. Cả hai đầu lần lượt tiếp giáp với Noksapyeong-daero và Jangchungdan-ro và tên đường là Noksapyeong-daero 58-gil.
Hầm Namsan số 3
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811336
Đường hầm Namsan số 3 (Tiếng Hàn: 남산3호터널, Hanja: 南山三號-) là một đường hầm ống đôi, bốn làn, dài 1.270m nối liền Yongsan-dong, Seoul, Yongsan-gu, Seoul và Hoehyeon-dong, Jung-gu, Seoul. Nó là một phần của Noksapyeong-daero và được quản lý bởi Tổng công ty quản lý cơ sở vật chất Seoul. Nó đi qua Myeong-dong, Eulji-ro, Namdaemun-ro và Sogong-roở phía bắc, và kết nối với Cầu Banpo (Cầu Jamsu) và Central City qua Ga Noksapyeong trên Tàu điện ngầm Seoul tuyến 6 ở phía nam. Thu phí. Theo chính sách của Chính quyền thành phố Seoul, 2.000 won được tính là phí tắc nghẽn. Điều này cũng giống như Đường hầm Namsan số 1, vì vậy vui lòng tham khảo văn bản chính.
Cầu Godeok
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811340
Cầu Godeok (Tiếng Hàn: 고덕대교, Hanja: 高德大橋) là cây cầu bắc qua sông Hán với chiều dài 1.725m nối Godeok-dong, Gangdong-gu, Seoul và Topyeong-dong, Guri-si, Gyeonggi-do. Là một cây cầu đường cao tốc tạo thành Đường cao tốc Sejong–Pocheon, nó thuộc Đoạn 14 và nằm giữa Nút giao thông Namguri và Nút giao thông Gangdong. Chiều dài cầu khoảng 1.725 m, nhịp chính 540 m. Nhịp chính dài 540m tượng trưng cho 54 năm cuộc đời của Vua Sejong và có cùng chiều dài với Cầu Cảng Busan, một cây cầu dây văng ở Busan. Vì nó là một phần của dự án xây dựng Đường cao tốc Sejong–Pocheon, còn được gọi là 'Đường cao tốc Gyeongbu thứ 2', Chính phủ sẽ quan tâm đến nó và hoàn thành vào năm 2023.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Ruthenia Karpat () là một vùng lịch sử trên ranh giới giữa Trung và Đông Âu, hiện nay hầu hết nằm trong tỉnh Zakarpattia thuộc Tây Ukraina, và một phần nhỏ nằm tại miền đông Slovakia và vùng Lemko thuộc Ba lan. Từ khi người Hungary chinh phục bồn địa Pannonia vào cuối thế kỷ 9 cho đến khi kết thúc Thế chiến I (Hiệp ước Trianon năm 1920), hầu hết khu vực này là bộ phận của Vương quốc Hungary. Trong giai đoạn giữa hai thế chiến, khu vực là một phần của Tiệp Khắc. Trước khi bùng phát Thế chiến II, vùng bị Hungary sáp nhập. Sau chiến tranh, vùng trở thành một phần của Liên Xô, thuộc CHXHCNXV Ukraina Đây là một vùng đa dạng về dân tộc, hầu hết cư dân là những người tự xác nhận thuộc dân tộc Ukraina, Rusyn, Lemko, Boyko, Hutsul, Hungary, Romania, Slovak và Ba Lan. Trước Thế chiến II, nhiều người Do Thái cư trú trong khu vực, chiếm hơn 13% tổng dân số vào năm 1930. Từ nguyên. Tên gọi Ruthenia Karpat đôi khi được sử dụng cho khu vực xuyên biên giới liền kề của Ukraina, Slovakia và Ba Lan nơi có người Ruthenia cư trú. Cư dân Ruthenia địa phương tự nhận dạng theo nhiều cách: một số nhận là người Ukraina; hoặc người Nga; hoặc một nhóm người Slav riêng biệt và độc nhất gọi là người Rusyn. Để mô tả vùng đất quê hương, hầu hết người Rusyn sử dụng thuật ngữ "Zakarpattia" (Ngoại-Karpat; nghĩa đen "bên kia dãy núi Karpat"). Điều này trái ngược hoàn toàn với "Prykarpattia" ("Cận-Karpat"; "bên này dãy núi Karpat"), một vùng không chính thức tại Ukraina nằm ngay phía đông bắc của phần trung tâm dãy núi Karpat, có thể bao gồm phần chân đồi. Từ quan điểm của Hungary (mở rộng sang Slovakia và Czech), vùng thường được mô tả là Hạ (Cận) Karpat (nghĩa đen "bên dưới dãy núi Karpat"), dù về mặt chính thức thì tên gọi này chỉ nói đến một bồn địa dài và hẹp bao quanh sườn của dãy núi. Trong thời kỳ các nhà nước Hungary quản lý, khu vực được chính thức gọi bằng tiếng Hungary là Kárpátalja (nghĩa đen: "căn cứ của người Karpat") hoặc các vùng phía đông bắc của "Thượng Hungary" thời Trung cổ. Đến thế kỷ 16, vùng bị tranh chấp giữa chế độ quân chủ Habsburg và Đế quốc Ottoman. Tên tiếng Romania của khu vực là Maramureș, có vị trí địa lý ở phần phía đông và đông nam của vùng.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Trong thời kỳ Tiệp Khắc cai trị vào nửa đầu thế kỷ 20, khu vực này từng được gọi là "Rusinsko" (Ruthenia) hoặc "Karpatske Rusinsko", và sau đó là Rus Hạ Karpat (tiếng Czech và tiếng Slovak: "Podkarpatská Rus") hoặc Ukraina Hạ Karpat ("Podkarpatská Ukrajina"), và từ năm 1928 là Vùng đất Ruthenia Hạ Karpat. (tiếng Czech: "Země podkarpatoruská", tiếng Slovak: "Krajina podkarpatoruská"). Các tên thay thế không chính thức được sử dụng ở Tiệp Khắc trước Thế chiến II bao gồm Hạ Karpat ("Podkarpatsko"), Ngoại Karpat ("Zakarpatsko"), Ukraina Ngoại Karpat ("Zakarpatská Ukrajina"), Rus/Ruthenia Karpat ("Karpatská Rus") và đôi khi là Rus Hungary/Ruthenia (tiếng Czech: "Uherská Rus"; tiếng Slovak: "Uhorská Rus"). Khu vực này tuyên bố độc lập với tên gọi Karpat-Ukraina vào ngày 15 tháng 3 năm 1939, nhưng bị Hungary chiếm đóng và sáp nhập trong cùng ngày, và vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Hungary cho đến khi Thế chiến II kết thúc. Trong thời kỳ này, khu vực tiếp tục có một chính quyền đặc biệt và thuật ngữ "Kárpátalja" được sử dụng tại địa phương. Năm 1944–1946, khu vực này bị Quân đội Liên Xô chiếm đóng và là một thể chế chính trị riêng biệt được gọi là Ukraina Ngoại Karpat hoặc Ruthenia Hạ Karpat. Trong giai đoạn này, khu vực có được một số quyền lực gần như tự trị với cơ quan lập pháp riêng, trong khi vẫn nằm dưới sự quản lý của Đảng Cộng sản Ukraina Ngoại Karpat. Sau khi ký hiệp ước giữa Tiệp Khắc và Liên Xô cũng như quyết định của hội đồng khu vực, Ngoại Karpat gia nhập Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina với tên gọi tỉnh Zakarpattia. Khu vực này sau đó được gọi là "Zakarpattia" () hoặc "Ngoại Karpat", và đôi lúc là " Rus Karpat’" (), " Rus Ngoại Karpat’" (), hoặc " Rus Hạ Karpat’" (). Địa lý. Ruthenia Karpat nằm trên sườn phía nam của phần phía đông dãy núi Karpat, về phía đông và phía nam giáp với sông Tisza, và phía tây giáp với sông Hornád và sông Poprad. Khu vực này giáp với Ba Lan, Slovakia , Hungary và Romania, và là một phần của đồng bằng Pannonia. Khu vực này chủ yếu là nông thôn và cơ sở hạ tầng kém phát triển. Cảnh quan chủ yếu là đồi núi; nó được ngăn cách về mặt địa lý với Ukraina, Slovakia và Romania do các dãy núi và với Hungary do sông Tisza.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Hai thành phố lớn là Uzhhorod và Mukachevo, cả hai đều có dân số khoảng 100.000 người. Dân số của năm thành phố khác (bao gồm Khust và Berehovo) dao động trong khoảng 10.000 đến 30.000. Những điểm dân cư ở thành thị và nông thôn khác có dân số dưới 10.000 người. Lịch sử. Văn hóa tiền sử. Vào cuối thời đại đồ đồng trong thiên niên kỷ 2 TCN, khu vực mang đặc điểm của văn hóa Stanove;, tuy nhiên vào thế kỷ 6-3 TCN mới đạt được các kỹ năng gia công kim loại tiến bộ hơn khi có người Thracia đến từ phương nam mang theo văn hóa Kushtanovytsia. Trong thế kỷ 5-3, người Celt đến từ phương tây, mang theo các kỹ năng nấu chảy gang và văn hóa La Tène. Hai nhóm người Thracia-Celt cộng sinh trong một thời gian tại khu vực, sau đó xuất hiện người Bastarnae. Khi đó, người Scythia thuộc nhóm ngôn ngữ Iran và sau đó là một bộ lạc Sarmatia gọi là Iazyges hiện diện trong khu vực. Quá trình định cư của người tiền-Slav bắt đầu từ giữa thế kỷ 2 TCN và thế kỷ 2 CN, và trong Giai đoạn Di cư, khu vực là nơi người Hun và người Gepid (thế kỷ 4) và người Avar Pannonia (thế kỷ 6) từng đi qua. Người Slav định cư. Đến thế kỷ 8 và 9, các thung lũng trên sườn phía bắc và phía nam của dãy núi Karpat có bộ lạc Slav là người Croat Trắng định cư "dày đặc", họ có quan hệ mật thiết với các bộ lạc Đông Slav cư trú tại Prykarpattia, Volyn, Transnistria và Ukraina Dnepr. Trong khi một số người Croatia Trắng ở lại Ruthenia Karpat, những người khác di chuyển về phía nam đến Balkan vào thế kỷ thứ 7. Những người còn ở lại bị Kiev Rus' chinh phục vào cuối thế kỷ thứ 10. Người Hungary đến. Năm 896, người Hungary vượt qua dãy núi Karpat và di cư vào bồn địa Pannonia. Biên niên sử của Nestor viết rằng các bộ lạc Hungary chiến đấu chống lại người Volochi và định cư giữa những người Slav khi trên đường đến Pannonia. Thân vương Laborec để mất quyền lực do các động thái của quân Hungary và Kiev Rus'. Theo Gesta Hungarorum, người Hungary đánh bại liên minh quân Bulgaria và Byzantine vào đầu thế kỷ 10 trên đồng bằng Alpár. Trong thế kỷ 10 và hầu hết thế kỷ 11, lãnh thổ vẫn là một vùng biên giới giữa Vương quốc Hungary ở phía nam và Thân vương quốc Halych của Kiev Rus' ở phía bắc.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Người Slav từ phía bắc (Galicia) và phía đông– họ thực ra đến từ Podolia qua các đèo tại Transylvania – tiếp tục đến định cư với số lượng nhỏ tại nhiều nơi của vùng biên giới Karpat, được người Hungary và các tác giả thời Trung cổ khác gọi là Marchia Ruthenorum – Hành quân Rus'. Các di dân mới này và những người Slav đã định cư tại Ruthenia Karpat đến thế kỷ 11 được gọi là người Rus', hay người Rusyn. Các quý tộc Slav địa phương thường kết hôn với quý tộc Hungary ở phía nam. Thân vương Rostislav là một quý tộc Ruthenia không thể duy trì quyền thế gia tộc tại Kiev, ông cai quản phần lớn Ngoại Karpat từ năm 1243 đến năm 1261 cho cha vợ là Béla IV của Hungary. Tính đa dạng sắc tộc của lãnh thổ tăng lên cùng với làn sóng khoảng 40.000 người định cư Cuman đến bồn địa Pannonia sau thất bại của họ trước Vladimir II (Monomakh) vào thế kỷ 12 và thất bại cuối cùng của họ dưới tay người Mông Cổ vào năm 1238. Trong thời kỳ đầu của chính quyền Hungary, một phần của khu vực này được đưa vào khu vực biên giới Gyepű, trong khi phần còn lại thuộc thẩm quyền của các chính quyền hạt và được gộp vào các hạt Ung, Borsova và Szatmár. Sau đó, hệ thống hành chính hạt được mở rộng ra toàn bộ Ngoại Karpat, và khu vực này được phân chia giữa các hạt Ung, Bereg, Ugocsa và Máramaros. Vào cuối thế kỷ 13 và đầu thế kỷ 14, trong quá trình quyền lực trung ương của Vương quốc Hungary bị sụp đổ, khu vực này là một phần lãnh thổ của các nhà tài phiệt bán độc lập Amadeus Aba và Nicholas Pok. Từ năm 1280 đến năm 1320, phần phía tây bắc của Ruthenia Karpat là một phần của Vương quốc Galicia–Volyn. Giữa thế kỷ 12 và 15, khu vực này có lẽ bị thuộc địa hóa bởi các nhóm người vùng cao Vlach (Romania) theo Chính thống giáo Đông phương cùng với những người dân Ruthenia đi cùng. Ban đầu, người Romania được tổ chức thành tỉnh Maramureș, chính thức hợp nhất vào Hungary năm 1402. Tất cả các nhóm, bao gồm cả cư dân Slav địa phương, hòa trộn với nhau và tạo ra một nền văn hóa đặc trưng so với các khu vực chủ yếu nói tiếng Ruthenia. Theo thời gian, do sự cô lập về địa lý và chính trị với lãnh thổ chủ yếu nói tiếng Ruthenia, cư dân nơi đây phát triển những điểm đặc trưng. Bộ phận của Hungary và Transylvania.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Bộ phận của Hungary và Transylvania. Năm 1526, khu vực bị phân chia giữa Vương quốc Hungary của Nhà Habsburg và Vương quốc Đông Hungary. Bắt đầu từ năm 1570 Đông Hungary chuyển thành Thân vương quốc Transylvania, ngay sau đó rơi vào trong quyền tôn chủ của Ottoman. Phần đất Ngoại Karpat thuộc chính quyền Habsburg được đưa vào trong "főkapitányság" Thượng Hungary. Trong thời kỳ này, một yếu tố quan trọng trong bản sắc văn hóa Ruthenia là tôn giáo đã có bước tiến tiên phong. Liên minh Brest-Lytovsk (1595) và Ungvár (Uzhorod) (1646) được xác lập, khiến các nhà thờ Chính thống giáo Byzantine tại Karpat và Rus' Ngoại Karpat nằm dưới thẩm quyền của Roma, do vậy hình thành thứ gọi là "Unia" của các nhà thờ Công giáo Đông phương, nhà thờ Công giáo Ruthenia và nhà thờ Công giáo Hy Lạp Ukraina. Trong thế kỷ 17 (đến 1648) toàn bộ khu vực là bộ phận của Thân vương quốc Transylvania và từ năm 1682 đến năm 1685 phần tây bắc của khu vực nằm dưới quyền quản lý của nhà nước chư hầu Thượng Hungary của Ottoman, còn phần đông nam vẫn thuộc Transylvania. Từ năm 1699, toàn bộ khu vực cuối cùng trở thành bộ phận của chế độ quân chủ Habsburg, được phân chia giữa Vương quốc Hungary và Thân vương quốc Transylvania. Sau đó, toàn bộ khu vực được đưa vào Vương quốc Hungary. Sau năm 1867, khu vực được nhập về mặt hành chính vào Transleithania tức phần Hungary của Áo-Hung. Trong thế kỷ 19 và 20, nhiều nhóm dân tộc chủ nghĩa ganh đua để thống nhất hoặc liên kết với nhiều nhóm dân tộc khả dĩ khác nhau, tất cả đều lập luận rằng người Rus sẽ tốt hơn nếu đoàn kết với dân tộc đó vì an ninh. Nhiều nhóm sử dụng cấu trúc dân tộc của khu vực, như chứng minh bản chất Slav của người Rus, và do đó biện minh cho liên minh với Nga (hoặc sau này là một quốc gia Ukraina) dựa theo tuyên bố rằng người Rus là một phần của khối văn hóa Slav. Những người Rus hoặc Ruthenia này sẽ tranh luận về điểm này cho đến đầu những năm 1900 khi hành động được thực hiện. Giai đoạn 1918–1919. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, chế độ quân chủ Áo-Hung sụp đổ.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Trong phần lớn thời gian năm 1918-1919, khu vực này nằm dưới quyền kiểm soát của Cộng hòa Dân chủ Hungary độc lập mới được thành lập, với một thời gian ngắn thuộc quyền kiểm soát của Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina độc lập. Vào ngày 8 tháng 11 năm 1918, Hội đồng Dân tộc lần thứ nhất (Hội đồng Lubovňa) được tổ chức ở miền tây Ruthenia. Họ nêu mong muốn tách khỏi nhà nước Hungary mới thành lập nhưng không nêu rõ một giải pháp thay thế cụ thể nào — chỉ nói rằng nó phải liên quan đến quyền tự quyết. Các hội đồng khác, chẳng hạn như các cuộc họp của Hội đồng Dân tộc Karpat-Ruthenia ở Huszt (Khust) kêu gọi thống nhất với Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina. Chỉ đến đầu tháng 1 năm 1919, mới nghe thấy những lời kêu gọi đầu tiên ở Ruthenia về việc hợp nhất với Tiệp Khắc. Rus'ka Krajina. <section begin=ruskaKrajina/> Một số nhóm muốn quyền tự trị lớn hơn trong Cộng hòa Dân chủ Hungary; đáng chú ý nhất là Hội đồng Uzhhorod (ngày 9 tháng 11 năm 1918), tuyên bố là đại diện của người Rusyn và bắt đầu đàm phán với chính quyền Hungary. Kết quả là thông qua "Luật số 10" vào ngày 21 tháng 12 năm 1918, theo đó thành lập tỉnh "Rus'ka Krajina" tự trị của người Rusyn từ các khu vực người Rusyn cư trú tại bốn hạt phía đông (Maramorosh, Ugocha, Bereg, Ung. Vào ngày 5 tháng 2 năm 1919, một chính phủ lâm thời cho Rus'ka Krajina được thành lập. Hội đồng Rusyn bao gồm 42 đại biểu từ bốn hạt cấu thành và đứng đầu là Chủ tịch Orest Sabov. Tháng sau, vào ngày 4 tháng 3, các cuộc bầu cử được tổ chức để bầu chính thức 36 đại biểu. Sau bầu cử, nghị viện mới yêu cầu chính phủ Hungary xác định biên giới của khu tự trị; do không có lãnh thổ được thiết lập, các đại biểu lập luận rằng nghị viện là vô dụng. Vào ngày 21 tháng 3 năm 1919, Cộng hòa Dân chủ Hungary được thay thế bởi Cộng hòa Xô viết Hungary, họ tuyên bố sự tồn tại của "Rus'ka Krajina Xô viết". Các cuộc bầu cử được tổ chức vào ngày 6 và 7 tháng 4 năm 1919. Nghị viện ban đầu và Xô viết mới được bầu sau đó quyết định hợp nhất thành Hội đồng quản trị của Rus'ka Krajina.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Xô viết Hungary sụp đổ. Trước đó, vào tháng 7 năm 1918, những người nhập cư Rusyn tại Hoa Kỳ đã triệu tập và kêu gọi độc lập hoàn toàn; hoặc hợp nhất với Galicia và Bukovina; hoặc quyền tự trị. Họ tiếp cận chính phủ Mỹ và được thông báo rằng lựa chọn khả thi duy nhất là thống nhất với Tiệp Khắc. Lãnh đạo của họ là Gregory Zatkovich sau đó ký "Hiệp định Philadelphia" với Tổng thống Tiệp Khắc Tomáš Garrigue Masaryk, đảm bảo quyền tự trị của người Rusyn sau khi thống nhất với Tiệp Khắc vào ngày 25 tháng 10 năm 1918. Vào tháng 4 năm 1919, Tiệp Khắc thiết lập quyền kiểm soát trên thực địa, khi quân đội Tiệp Khắc-Romania được Pháp bảo trợ tiến vào khu vực. Họ đánh bại và nghiền nát lực lượng dân quân địa phương của Cộng hòa Xô viết Hungary mới thành lập. Những người cảm tình với cộng sản cáo buộc Tiệp Khắc và Romania thực hiện những hành động tàn bạo. Ngoại Karpat cùng một khu vực rộng lớn bị Romania chiếm đóng từ tháng 4 năm 1919 cho đến tháng 7 hoặc tháng 8 năm 1919, và sau đó lại bị nhà nước Hungary chiếm đóng. Vào tháng 5 năm 1919, một Hội đồng Dân tộc Trung ương được triệu tập tại Hoa Kỳ dưới sự chỉ đạo của Zatkovich và bỏ phiếu nhất trí chấp nhận việc hợp nhất Ruthenia Karpat vào Tiệp Khắc. Tại Ruthenia, vào ngày 8 tháng 5 năm 1919, một đại hội được tổ chức và tuyên bố tán thành quyết định của Hội đồng Uhro-Rusin Hoa Kỳ về hợp nhất với Tiệp Khắc trên cơ sở tự trị dân tộc hoàn toàn. Nhà văn cánh tả người Hungary Béla Illés tuyên bố rằng cuộc họp chẳng khác gì một trò hề, không có bất kỳ hình thức nào của một quy trình dân chủ, và được ra lệnh để tán thành việc sáp nhập vào Tiệp Khắc. Ông khẳng định thêm rằng Thủ tướng Pháp Clemenceau đích thân chỉ thị sáp nhập khu vực này vào Tiệp Khắc "bằng mọi giá", để tạo ra một vùng đệm ngăn cách Ukraina thuộc Liên Xô với Hungary, nằm trong chính sách chống cộng của Pháp. Thuộc Tiệp Khắc (1920–1938). Điều 53 của Hiệp ước St. Germain (ngày 10 tháng 9 năm 1919) trao quyền tự trị cho người Ruthenia Karpat, quyền tự trị này về sau được duy trì ở một mức độ nhất định theo Hiến pháp Tiệp Khắc.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Tuy nhiên, một số quyền đã bị Praha giữ lại, họ biện minh cho hành động của mình bằng cách tuyên bố rằng quá trình này sẽ diễn ra dần dần; và sự đại diện của người Ruthenia trong phạm vi quốc gia thấp hơn mong đợi. Ruthenia Karpat bao gồm các hạt Ung, Bereg, Ugocsa và Máramaros thuộc lãnh thổ Hungary cũ. Sau Hội nghị Hòa bình Paris, một số quốc gia khác (bao gồm Hungary, Ukraina và Nga) đã tuyên bố chủ quyền đối với Rus' Karpat. Tuy nhiên, quân Đồng minh có ít lựa chọn thay thế cho việc chọn Tiệp Khắc. Hungary đã thua trong cuộc chiến và do đó từ bỏ yêu sách của mình; Ukraina được coi là không khả thi về mặt chính trị; và nước Nga đang ở giữa một cuộc nội chiến. Ngoại Karpat trở thành một phần của Tiệp Khắc, nhưng điều quan trọng nhất đối với người Ruthenia không phải là họ sẽ gia nhập quốc gia nào, mà là họ được trao quyền tự trị trong đó. Sau khi phải trải qua quá trình Hungary hóa, ít người Rusyn Karpat muốn tiếp tục nằm dưới quyền cai trị của Hungary và họ muốn đảm bảo quyền tự quyết. Theo Hiến pháp Tiệp Khắc năm 1920, vùng đất cũ của Vương quốc Hungary là Đất Ruthenia ("Ruszka Krajna") chính thức được đổi tên thành Ruthenia Hạ Karpat ("Podkarpatská Rus"). Năm 1920, khu vực này được sử dụng làm đường dẫn vũ khí và đạn dược cho những người Ba Lan chống Liên Xô chiến đấu trong Chiến tranh Ba Lan-Xô viết ở ngay phía bắc, trong khi đó những người cộng sản địa phương phá hoại các đoàn tàu và cố gắng giúp đỡ phía Liên Xô. Trong và sau chiến tranh, nhiều người Ukraina theo chủ nghĩa dân tộc ở Đông Galicia đã chạy trốn đến Ruthenia Karpat vì họ phản đối sự cai trị của cả Ba Lan và Xô viết. Gregory Žatkovich được Tổng thống Masaryk bổ nhiệm làm thống đốc tỉnh vào ngày 20 tháng 4 năm 1920 và từ chức gần một năm sau đó, trở lại Hoa Kỳ. Lý do từ chức của ông là không hài lòng với biên giới với Slovakia. Ông là công dân Mỹ duy nhất từng giữ chức thống đốc của một tỉnh mà sau này trở thành một phần của Liên Xô. Rus' Hạ Karpat (1928–1938). Năm 1928, Tiệp Khắc được chia thành bốn tỉnh là Bohemia, Moravia-Silesia, Slovakia và Rus' Hạ Karpat.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Trong giai đoạn 1918–1938, chính phủ Tiệp Khắc cố gắng đưa Rus' Hạ Karpat ngang tầm với phần còn lại của Tiệp Khắc, dù có 70% dân số mù chữ, không có ngành công nghiệp và lối sống chăn nuôi gia súc. Hàng nghìn giáo viên, cảnh sát, nhân viên và doanh nhân Czech đến khu vực này. Chính phủ Tiệp Khắc xây dựng hàng nghìn km đường sắt, đường bộ, sân bay, hàng trăm trường học và tòa nhà dân cư. Tiếng Ukraina trong khu vực không bị đàn áp tích cực tại Tiệp Khắc trong thời kỳ giữa hai thế chiến, không giống như tại Ba Lan và Romania. 73% phụ huynh địa phương bỏ phiếu chống lại việc giáo dục tiếng Ukraina cho con họ trong một cuộc trưng cầu dân ý được tiến hành tại Rus' Hạ Karpat vào năm 1937. Karpat-Ukraina (1938–1939). Vào tháng 11 năm 1938, theo Quyết định Wien lần thứ nhất, Tiệp Khắc nhượng miền nam Rus' Hạ Karpat cho Hungary. Phần còn lại của Rus' Hạ Karpat được trao quyền tự trị, với Andrej Bródy là thủ tướng của chính phủ tự trị. Sau khi chính phủ từ chức vì một cuộc khủng hoảng, Avhustyn Voloshyn trở thành thủ tướng của chính phủ mới. Vào tháng 12 năm 1938, Rus' Hạ Karpat được đổi tên thành Karpat-Ukraina. Sau tuyên bố độc lập của Slovakia vào ngày 14 tháng 3 năm 1939 và việc Đức Quốc xã chiếm giữ các vùng đất của Czech vào ngày 15 tháng 3, Karpat-Ukraina tuyên bố độc lập với tên gọi Cộng hòa Karpat-Ukraina, với Avhustyn Voloshyn là người đứng đầu nhà nước, và ngay lập tức bị Hungary chiếm đóng và sáp nhập, khôi phục tạm thời các huyện cũ Ung, Bereg và một phần Máramaros. Tỉnh Hạ Karpat (1939–1945). Sau cuộc xâm lược của Hungary là một vài tuần khủng bố, trong đó hơn 27.000 người đã bị bắn chết mà không qua xét xử và điều tra. Hơn 75.000 người Ukraina trong khu vực quyết định xin tị nạn ở Liên Xô; trong số đó, gần 60.000 người đã chết trong các trại tù Gulag. Những người khác gia nhập tàn quân Tiệp Khắc. Sau khi giải thể Karpat-Ukraina, trên lãnh thổ bị sáp nhập tỉnh Hạ Karpat được thành lập và chia thành ba văn phòng chi nhánh hành chính là Ung (" Ungi közigazgatási kirendeltség"), Bereg ("Beregi közigazgatási kirendeltség") và Máramaros ("Máramarosi közigazgatási kirendeltség") cai quản lần lượt từ Ungvár, Munkács và Huszt, có ngôn ngữ chính thức là tiếng Hungary và tiếng Rusyn.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Năm 1939, điều tra dân số cho thấy 80.000 người Do Thái sống ở tỉnh tự trị Ruthenia. Sau khi Đức chiếm đóng Hungary (19 tháng 3 năm 1944), người Do Thái nói tiếng Hungary phải di cư và bị trục xuất. Trong Holocaust, 17 khu ghetto chính được thiết lập tại các thành phố ở Ruthenia Hạ Karpat, từ đó tất cả người Do Thái bị đưa đến Auschwitz để tiêu diệt. Chiến tranh kết thúc đã có tác động đáng kể đến cộng đồng người Hungary trong khu vực: 10.000 người đã chạy trốn trước khi quân đội Liên Xô đến. Nhiều người đàn ông trưởng thành còn lại (25.000) bị trục xuất sang Liên Xô; khoảng 30% trong số họ đã chết trong các trại lao động của Liên Xô. Liên Xô tiếp quản và kiểm soát (1944-1945). Liên Xô bắt đầu tiếp quản khu vực này với Cuộc tấn công chiến lược Đông Karpat vào mùa thu năm 1944. Vào ngày 28 tháng 10 năm 1944, sau khi kết thúc chiến dịch tấn công, phần lớn Ruthenia Hạ Karpat do Hồng quân bảo vệ. Phái đoàn chính phủ Tiệp Khắc do Bộ trưởng František Němec dẫn đầu đến Khust để thành lập chính quyền Tiệp Khắc lâm thời, theo hiệp ước giữa chính phủ Liên Xô và Tiệp Khắc ngày 8 tháng 5 năm 1944. Tuy nhiên, sau một vài tuần, Hồng quân và NKVD bắt đầu cản trở công việc của phái đoàn Tiệp Khắc. Thông tin liên lạc giữa Khust và trung tâm chính phủ lưu vong ở London bị cản trở và các quan chức Tiệp Khắc buộc phải sử dụng sóng phát thanh ngầm. Ngày 19 tháng 11 năm 1944 tại hội nghị ở Mukachevo, Đảng Cộng sản Zakarpattia Ukraina được thành lập. Hội nghị cũng quyết định hợp nhất Ruthenia Karpat với Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina, củng cố các ủy ban nhân dân với tư cách là cơ quan của chính quyền cách mạng, và tổ chức hỗ trợ cho Hồng quân. "Hội đồng Dân tộc Ngoại Karpat-Ukraina" được thành lập tại Mukachevo dưới sự bảo vệ của Hồng quân. Vào ngày 26 tháng 11, người đứng đầu ủy ban là Ivan Turyanitsa tuyên bố nguyện vọng của người dân Ukraina địa phương là tách khỏi Tiệp Khắc và gia nhập Ukraina thuộc Liên Xô. Sau hai tháng xung đột và đàm phán, phái đoàn chính phủ Tiệp Khắc rời Khust vào ngày 1 tháng 2 năm 1945, để lại khu vực nằm dưới quyền kiểm soát của Liên Xô.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Thời Liên Xô (1945-1991). Ngày 29 tháng 6 năm 1945, Tiệp Khắc ký hiệp ước với Liên Xô, chính thức nhượng lại khu vực này. Từ năm 1945 đến năm 1947, chính quyền mới của Liên Xô củng cố biên giới mới, và vào tháng 7 năm 1947 tuyên bố Ngoại Karpat là "khu vực cấm ở mức độ cao nhất", có các trạm kiểm soát trên các đèo nối khu vực với phần còn lại của Ukraina. Vào tháng 12 năm 1944, Hội đồng Dân tộc Ngoại Karpat-Ukraina thành lập một tòa án tại Uzhgorod để xét xử và kết án tất cả những người cộng tác với các chế độ trước đó - cả Hungary và Karpat-Ukraina. Một số nhà lãnh đạo Ruthenia như Andrej Bródy và Shtefan Fentsyk bị kết án và hành quyết vào tháng 5 năm 1946. Avgustyn Voloshyn cũng chết trong tù. Nhiều nhà hoạt động Karpat-Ruthenia thấy rằng không thể tìm được sự hòa giải với chế độ Xô viết như với tất cả các chế độ trước đó. Sau khi phá vỡ Giáo hội Công giáo Hy Lạp tại Đông Galicia vào năm 1946, chính quyền Liên Xô đã thúc đẩy các giáo xứ Công giáo Hy Lạp ở Ngoại Karpat quay trở lại Chính thống giáo. Vào tháng 1 năm 1949, giáo phận Công giáo Hy Lạp Mukachevo bị tuyên bố là bất hợp pháp; tài sản của nhà thờ bị quốc hữu hóa. Các tổ chức văn hóa cũng bị cấm, bao gồm Hiệp hội Dukhnovych thân Nga và Hiệp hội học thuật Hạ Karpat thân Ukraina. Sách và ấn phẩm mới đã được lưu hành, bao gồm "Zakarpatska Pravda" (130.000 bản). Đại học Quốc gia Uzhhorod được mở vào năm 1945 và hơn 816 rạp chiếu phim được mở đến năm 1967. Tiếng Ukraina là ngôn ngữ giảng dạy đầu tiên trong các trường học trong khu vực, tiếp theo là tiếng Nga và nó được sử dụng trong học viện. Hầu hết thế hệ mới đều có kiến ​​thức thụ động về ngôn ngữ Rusyn, nhưng không có kiến ​​thức về văn hóa địa phương. Trí thức Rusyn thế kỷ 19 bị coi là "thành viên của giai cấp phản động và công cụ của chủ nghĩa ngu dân Vatican". Bài quốc ca và thánh ca của Rusyn bị cấm biểu diễn trước công chúng. Các bài hát và văn hóa dân gian Karpat-Rusyn được quảng bá, và được giới thiệu như một biến thể địa phương của văn hóa Ukraina.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Năm 1924, Quốc tế Cộng sản tuyên bố tất cả cư dân Đông Slav của Tiệp Khắc (Rusyn, Karpat-Rus, Rusnak) là người Ukraina. Bắt đầu từ cuộc điều tra dân số năm 1946, tất cả người Rusyn đều được ghi là người Ukraina; bất kỳ ai bám vào cái tên cũ đều bị coi là kẻ ly khai và kẻ phản cách mạng tiềm năng. Tháng 2 năm 1945, Hội đồng Dân tộc tịch thu 53.000 ha ruộng đất của các đại địa chủ để chia lại cho 54.000 hộ nông dân (37% dân số). Tập thể hóa ruộng đất bắt đầu từ năm 1946; khoảng 2.000 nông dân đã bị bắt trong các cuộc biểu tình vào năm 1948-1949 và bị đưa đến các trại lao động khổ sai. Tập thể hóa được hoàn thành vào tháng 5 năm 1950, bao gồm cả những người chăn cừu miền núi. Theo kế hoạch hóa tập trung, Ngoại Karpat được xác định trở thành "vùng đất của vườn cây ăn quả và vườn nho" từ năm 1955 đến năm 1965, trồng 98.000 ha nhưng có ít kết quả. Nỗ lực trồng trà và cây có múi cũng thất bại do khí hậu. Hầu hết các vườn nho bị bứng gốc hai mươi năm sau, trong Chiến dịch chống rượu của Gorbachev năm 1985–87. Liên Xô cũng đẩy mạnh công nghiệp hóa ở Ngoại Karpat. Các nhà máy chế biến gỗ, hóa chất và thực phẩm thuộc sở hữu nhà nước được mở rộng, trong đó nhà máy thuốc lá tại Mukachevo và xưởng muối tại Solotvyno là những nhà máy lớn nhất. Do các tuyến di cư truyền thống đến Hungary hoặc Hoa Kỳ đã bị đóng cửa, người dân địa phương lúc này có thể chuyển sang làm việc thời vụ tại Nga. Dân số của khu vực tăng đều đặn trong thời kỳ Xô viết, từ 776.000 năm 1946 lên hơn 1,2 triệu năm 1989. Dân số thành phố Uzhgorod tăng gấp 5 lần, từ 26.000 lên 117.000 và Mukachevo tăng từ 26.600 đến 84.000. Sự gia tăng dân số này cũng phản ánh những thay đổi về nhân khẩu học. Hồng quân tiến đến cùng với sự ra đi của 5.100 người Hungary và 2.500 người Đức, trong khi 15–20.000 người Do Thái sống sót sau Holocaust cũng quyết định rời đi trước khi biên giới bị phong tỏa. Đến năm 1945, khoảng 30.000 người Hungary và Đức đã bị bắt và đưa đến các trại lao động ở Đông Ukraina và Siberia; dù được ân xá vào năm 1955 nhưng khoảng 5.000 người không quay lại.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Tháng 1 năm 1946, thêm 2.000 người Đức bị trục xuất. Đổi lại, một số lượng lớn người Ukraina và người Nga chuyển đến Ngoại Karpat, làm việc trong ngành công nghiệp, quân đội hoặc chính quyền. Đến năm 1989, khoảng 170.000 người Ukraina (chủ yếu từ Galizia gần đó) và 49.000 người Nga nhập cư sống tại Ngoại Karpat, ngôn ngữ chủ đạo tại các thành phố lớn chuyển sang tiếng Nga. Họ luôn bị coi là người mới đến (novoprybuli) do không có kết nối với vùng nông thôn nói tiếng Rusyn và Hungary. Ukraina độc lập (1991-). Ngày 24 tháng 8 năm 1991, Verkhovna Rada của Ukraina tuyên bố độc lập. Hội đồng của Uzhhorod đổi tên Quảng trường Lênin thành Quảng trường Nhân dân, và đến ngày 30 tháng 8 năm 1991, một tượng đài của Lenin trong thành phố đã bị dỡ bỏ. Tượng đài Lênin cũng bị dỡ bỏ tại các khu dân cư khác nhưng vấp phải phản đối trong một số trường hợp. Chính phủ Zakarpattia quyết định đặt cược vào các hành động ly khai. Hội đồng thành phố Mukachevo yêu cầu hội đồng khu vực Zakarpattia thông qua quyết định tuyên bố khu vực này là "vùng đất tự trị Zakarpattia của Ukraina". Hội đồng huyện Mukachevo yêu cầu hội đồng khu vực kiến ​​nghị Verkhovna Rada để "cấp cho tỉnh Zakarpattia quy chế cộng hòa tự trị". Quyết định sau đó được sự ủng hộ của hội đồng huyện Berehove, hội đồng thành phố Uzhhorod và hội đồng huyện Svalyava. Vào ngày 1 tháng 9 năm 1991 tại Mukachevo, Hiệp hội Karpat-Rusyn tổ chức một cuộc biểu tình với các khẩu hiệu chống Ukraina và cáo buộc về "cưỡng ép Ukraina hóa người Rusyn". Đến cuối tháng 9 năm 1991, tại tỉnh Zakarpattia đã hình thành hai phái chính trị đối lập. Một phái thân Ukraina thống nhất xung quanh Phong trào Dân tộc Ukraina, được hỗ trợ từ sinh viên của Đại học Nhà nước Uzhhorod và giáo phận Công giáo Hy Lạp Mukachevo. Phái còn lại bao gồm những người đồng tình với các cán bộ địa phương (từng là cộng sản), được hỗ trợ từ Hiệp hội Karpat-Rusyn, giáo phận Zakarpattia của Chính thống giáo Nga và đa số đại biểu hội đồng khu vực, họ có mục đích ngăn chặn cấp tình trạng tự trị cho khu vực. Tháng 12 năm 1991, Zakarpattia trở thành một phần của Ukraina độc ​​lập.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
92,59% cử tri của tỉnh Zakarpattia tán thành Tuyên ngôn Độc lập của Ukraina. Cùng ngày tại tỉnh Zakarpattia, một cuộc trưng cầu dân ý cấp khu vực cũng diễn ra. 78% cử tri bỏ phiếu cho quyền tự trị trong Ukraina, nhưng điều này không được cấp. Nhân khẩu. Tôn giáo. Theo một cuộc khảo sát năm 2015, 68% dân số của tỉnh Zakarpattia theo Chính thống giáo Đông phương, trong khi 19% theo Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ruthenia và 7% theo Công giáo La Mã. Những người theo đạo Tin Lành và những người theo đạo Cơ Đốc không liên kết lần lượt chiếm 1% và 3% dân số. Chỉ một phần trăm dân số không theo tôn giáo nào. Cộng đồng Chính thống giáo của Zakarpattia được chia như sau: Nhận dạng người Ukraina hoặc Rusyn. Ruthenia Karpat chủ yếu là nơi sinh sống của những người tự xác nhận là người Ukraina, nhiều người trong số họ có thể tự gọi mình là người Rusyn, Rusnak hoặc Lemko. Những nơi có người Rusyn sinh sống cũng trải rộng khắp các vùng liền kề thuộc dãy núi Karpat, bao gồm các vùng ngày nay thuộc Ba Lan, Slovakia, Hungary và Romania. Các khu định cư của người Ruthenia cũng tồn tại ở Balkan. Vào thế kỷ 19 và đầu của thế kỷ 20, cư dân của Ngoại Karpat tiếp tục tự gọi mình là "người Ruthenia" ("Rusyny"). Tên dân tộc học "Ukraina" đã thay thế "Ruthenia" ở miền đông Ukraina từ đầu thế kỷ, sau khi Liên Xô sáp nhập thì điều này cũng được áp dụng cho người Ruthenia/Rusyn ở Ngoại Karpat. Hầu hết cư dân ngày nay tự coi mình là người Ukraina theo sắc tộc, mặc dù trong cuộc điều tra dân số năm 2001, 10.100 người (0,8% trong tổng số 1,26 triệu người của tỉnh Zakarpattia) tự nhận mình là người Rusyn theo sắc tộc. Người Hungary. Điều tra dân số Áo-Hung năm 1910 cho thấy có 185.433 người nói tiếng Hungary trong khu vực, trong khi điều tra dân số Tiệp Khắc năm 1921 cho thấy có 111.052 người dân tộc Hungary và 80.132 người dân tộc Do Thái, nhiều người Do Thái là người nói tiếng Hungary. Phần lớn sự khác biệt trong các cuộc tổng điều tra này phản ánh sự khác biệt về phương pháp và định nghĩa hơn là sự suy giảm số lượng người Hungary hoặc nói tiếng Hungary trong khu vực. Theo điều tra dân số năm 1921, người Hungary chiếm khoảng 17,9% tổng dân số của khu vực.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã có tác động đáng kể đến cộng đồng người Hungary trong khu vực: 10.000 người đã chạy trốn trước khi quân đội Liên Xô tiến đến. Nhiều nam giới trưởng thành còn lại (25.000) bị trục xuất sang Liên Xô; khoảng 30% trong số họ chết trong các trại lao động của Liên Xô. Do tình hình phát triển kể từ năm 1938, dân số Ngoại Karpat là người Hungary và nói tiếng Hungary được ghi nhận khác nhau trong các cuộc điều tra dân số và ước tính khác nhau từ thời điểm đó: cuộc điều tra dân số năm 1930 ghi nhận 116.548 người dân tộc Hungary, trong khi cuộc điều tra dân số Hungary gây tranh cãi năm 1941 cho thấy có tới 233.840 người nói tiếng Hungary trong khu vực. Các ước tính sau đó cho thấy có 66.000 người dân tộc Hungary vào năm 1946 và 139.700 vào năm 1950, trong khi điều tra dân số của Liên Xô năm 1959 ghi nhận 146.247 người Hungary. Tính đến năm 2004, khoảng 170.000 (12–13%) cư dân của Ngoại Karpat tuyên bố tiếng Hungary là tiếng mẹ đẻ của họ. Người Hungary tại Hungary gọi người Hungary ở Ukraina là "kárpátaljaiak". Dân tộc khác. Các hồi ký và nghiên cứu lịch sử cung cấp nhiều bằng chứng cho thấy vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, quan hệ Rusyn-Do Thái nhìn chung là hòa bình. Năm 1939, hồ sơ điều tra dân số cho thấy 80.000 người Do Thái sống ở tỉnh tự trị Ruthenia. Người Do Thái chiếm khoảng 14% dân số trước chiến tranh; tuy nhiên, họ tập trung ở các đô thị lớn, đặc biệt là Mukachevo, nơi họ chiếm 43% dân số trước chiến tranh. Hầu hết trong số họ đã chết trong Holocaust. Người Đức Karpat có nguồn gốc chủ yếu là người Đức từ Bohemia, Moravia và các vùng lãnh thổ từ miền trung và miền đông nước Đức ngày nay, họ đến định cư từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18. Người Czech ở Ruthenia Karpat khác biệt về mặt văn hóa dân tộc với các nhóm Tây Slav khác như người Slovak, vì họ có nguồn gốc từ các nhóm nói tiếng Czech từ Bohemia và Moravia thay vì từ Slovakia. Có khoảng 25.000 người dân tộc Di-gan ở Ngoại Karpat ngày nay. Một số ước tính chỉ ra con số lên tới 50.000 nhưng rất khó để có được con số thực vì nhiều người Di-gan không đủ khả năng có được giấy tờ tùy thân cho bản thân và con họ.
Ruthenia Karpat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811354
Ngoài ra, nhiều người Di-gan sẽ tự nhận là người Hungary hoặc Romania khi được chính quyền Ukraina hỏi. Cho đến nay, họ là nhóm dân tộc nghèo nhất và ít đại diện nhất trong khu vực và phải đối mặt với định kiến ​​gay gắt. Ngày nay, khoảng 30.000 người Romania sống tại khu vực này, chủ yếu ở Bắc Maramureș, xung quanh các thị trấn phía nam là Rahău/Rakhiv và Teceu Mare/Tiachiv và gần biên giới với Romania. Tuy nhiên, cũng có những người Romania tại Ruthenia Karpat sống bên ngoài Maramureș, chủ yếu ở làng Poroshkovo. Họ thường được gọi là "volohi" trong tiếng Romania và sống gần Ba Lan và Slovakia hơn Romania. Quan điểm phương Tây. Đối với độc giả thành thị châu Âu vào thế kỷ 19, Ruthenia là một trong những nguồn gốc của "Ruritania" hư cấu thế kỷ 19, một tỉnh nhỏ nông thôn nhất, mộc mạc nhất và sâu xa nhất bị lạc trong rừng núi. Đôi khi được tưởng tượng như là một vương quốc ở trung tâm châu Âu, Ruritania là bối cảnh của một số tiểu thuyết của Anthony Hope, đặc biệt là "The Prisoner of Zenda" (1894). Một nhà văn tên là Vesna Goldsworthy, trong "Inventing Ruritania: the imperialism of the imagination" (1998) đã đưa ra giả thuyết về nguồn gốc của những ý tưởng làm nền tảng cho nhận thức của phương Tây về "Phương Đông hoang dã" của Châu Âu, đặc biệt là của người Ruthenia và những người Slav nông thôn khác tại Thượng Balkan. Những ý tưởng được nhà văn này cho là có tính thích hợp cao đối với Ngoại Karpat, ông đã mô tả "một quá trình vô tội: một cường quốc văn hóa nắm bắt và khai thác tài nguyên của một khu vực, đồng thời áp đặt những ranh giới mới trên bản đồ tư duy của nó và tạo ra những ý tưởng, phản ánh lại, có khả năng định hình lại thực tế.” Quan điểm này không nhận được nhiều sự ủng hộ về mặt học thuật.
Tòa nhà Quốc hội (Hàn Quốc)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811355
Tòa nhà Quốc hội Hàn Quốc (Tiếng Hàn: 국회의사당, Hanja: 國會議事堂) là tòa nhà diễn ra các cuộc họp của Quốc hội Hàn Quốc. Địa chỉ là 1 Uisadang-daero, Yeongdeungpo-gu, Seoul. Tòa nhà Quốc hội hiện tại đã được sử dụng từ năm 1975, và trước đó, Văn phòng Trung tâm tại Cung điện Gyeongbokgung ở Jongno-gu, Seoul và tòa nhà quốc hội cũ ở Taepyeong-ro, Jung-gu đã được sử dụng. Lịch sử. Tòa nhà hiện tại được hoàn thành vào năm 1975. Trước năm 1975, chính phủ Hàn Quốc đã sử dụng Tòa nhà Hội đồng Thủ đô Seoul hiện tại, một hội trường công cộng được tạo ra trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Hàn Quốc. Phòng họp toàn thể có sức chứa 400 người, bề ngoài là để chuẩn bị cho các nhà lập pháp mới trong trường hợp thống nhất Triều Tiên xảy ra. Hội trường Kỷ yếu Quốc hội đã được sử dụng cho lễ nhậm chức của một số tổng thống Roh Tae-woo năm 1988, Kim Young-sam năm 1993, Kim Dae-jung năm 1998, Roh Moo-hyun năm 2003, Lee Myung-bak năm 2008, Park Geun-hye năm 2013, Moon Jae-in năm 2017 và Yoon Suk-yeol năm 2022. Thông tin. Trong tổng diện tích 800.000 pyeong ở Yeouido, địa điểm dành cho Quốc hội chiếm 100.000 pyeong. Diện tích tòa nhà là 24.636 pyeong, có 2 tầng dưới mặt đất và 6 tầng trên mặt đất, dài 122 mét và rộng 81 mét. Là một tòa nhà bê tông cốt thép, đây là tòa nhà quốc hội lớn nhất ở châu Á. 24 cây cột hình bát giác bằng đá granit đỡ tòa nhà, tượng trưng cho 24 tiết khí ở Hàn Quốc, và trung tâm được bao phủ bởi mái hình vòm có đường kính đáy là 64 mét. Mái vòm này bằng đồng vào thời điểm xây dựng, nhưng do các vấn đề như độ ẩm và mưa , nó đã trở thành màu xanh ngọc mà chúng ta thấy ngày nay. Nó cũng được cho là tượng trưng cho bản chất của nền dân chủ nghị viện, trong đó các ý kiến ​​khác nhau của người dân đi đến một kết luận duy nhất thông qua các cuộc thảo luận về ưu và nhược điểm. Có một hội trường quay ba tầng dưới mái vòm, và nó là một không gian trống cho đến mái nhà phía trên nó.
Tòa nhà Quốc hội (Hàn Quốc)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811355
Ở đây, rotender Hall có nghĩa là 'đấu thầu luật', và nó có nghĩa là luật được thông qua một cách nhẹ nhàng. Người ta chỉ trích vì gọi nó là sự biến đổi kỳ lạ của rotunda, nghĩa là tòa nhà hình tròn trong kiến ​​trúc. Để chuẩn bị cho việc thống nhất trong tương lai và tăng số lượng đại biểu Quốc hội, hội trường chính của Quốc hội có các ghế di động và có thể mở rộng lên tối đa 400 ghế. Ngoài ra, nó được thiết kế để chuẩn bị cho việc thực hiện hệ thống lưỡng viện, và hội trường chính hiện tại sẽ là hội trường chính của Hạ viện, và phòng họp hiện tại của Ủy ban Cân nhắc Đặc biệt về Ngân sách và Tài khoản sẽ được sử dụng làm phòng họp hội trường chính của Hạ nghị viện (100 chỗ ngồi). Trước tòa nhà chính của tòa nhà Quốc hội, nơi tổ chức phiên họp, có các tòa nhà như Hội trường , Thư viện Quốc hội , Nhà tưởng niệm Hiến pháp . Toàn bộ khu vực tòa nhà Quốc hội được xếp vào hạng công trình quan trọng quốc gia cấp "A" theo đơn đặt hàng của Bộ Quốc phòng Hàn Quốc nên cảnh sát Hàn Quốc luôn túc trực đảm bảo an ninh. Ngày 23 tháng 8 năm 2009, nó cũng được sử dụng trước sân tòa nhà Quốc hội trong lễ tang cấp nhà nước của cựu Tổng thống Kim Dae-jung.
Chu Đạo Cổ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811357
Chu Đạo Cổ (Hán tự: 朱道古; ? – 866) là thủ lĩnh Thổ Man làm hướng đạo cho các tướng của Nam Chiếu là Dương Tư Tấn và Đoàn Tù Thiên đem quân tấn công thành Tống Bình thuộc An Nam đô hộ phủ do nhà Đường trấn giữ vào đầu năm 863. Sau khi chiếm được Tống Bình, Chu Đạo Cổ bèn thống lĩnh 2.000 quân dưới quyền mình cùng 4.000 quân Nam Chiếu khác chèo vài trăm chiếc thuyền nhỏ ập vào tấn công đồn lũy của nhà Đường ở Xuân Châu vào tháng 6 năm 863. Chu Đạo Cổ bắt được một viên quan nhà Đường nhưng vấp phải sự phản công từ tướng trấn thủ đô hộ phủ. Quân Đường bèn lấy mười chiếc thuyền buồm và thuyền chiến lớn đâm vào hạm đội của loạn quân khiến 30 thuyền bên địch bị đánh chìm. Tháng 12 năm 866, tướng nhà Đường là Cao Biền dẫn viện binh tái chiếm An Nam đô hộ phủ rồi xử tử Chu Đạo Cổ cùng với các thủ lĩnh địa phương dấy loạn khác.
Đỗ Anh Hàn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811358
Đỗ Anh Hàn (Hán tự: 杜英翰; ? – 782), là thủ lĩnh Giao Châu quê ở làng Đường Lâm, Phong Châu thuộc An Nam đô hộ phủ, cùng với Phùng Hưng khởi binh chống lại nhà Đường trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba vào cuối thế kỷ 8. Lúc bấy giờ, quan đô hộ Cao Chính Bình cho tăng gấp đôi thuế khiến dân chúng địa phương bất mãn. Năm 782, Đỗ Anh Hàn ngầm bày mưu kế cho Phùng Hưng đem quân đến vây phủ khiến Cao Chính Bình lo sợ mà chết. Đỗ Anh Hàn đã được giao chỉ huy một cánh quân để tấn công vào phủ của Cao Chính Bình và đã hi sinh trong trận đánh đó.
Lý Do Độc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811359
Lý Do Độc (Hán tự: 李由獨; ? – ?), là tù trưởng người Thổ Man khởi binh nổi dậy chống lại nhà Đường ở Lâm Tây Nguyên (林西原, Cao nguyên Lâm Tây) thuộc An Nam đô hộ phủ vào khoảng giữa thế kỷ 9 dưới thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba. "Đại Việt địa dư toàn biên" của Nguyễn Văn Siêu chép rằng: "Lâm Tây nguyên ở phía tây Phong Châu, bên cạnh Lâm Tây Nguyên có động Thất Quán của người dân tộc thiểu số mà thủ lĩnh là Lý Do Độc (李猶獨), bộ thuộc có thêm các động như động Đào Hoa (桃花), tất cả đều giúp Trung Quốc canh phòng và thu thuế nơi biên ải với Nam Chiếu. "Đường thư" chép: Lâm Tây Nguyên trước có binh lính canh phòng cả vào mùa đông. Vào năm Đại Trung thứ tám (854) (thời vua Đường Tuyên Tông), Lý Trác, giữ chức đô hộ An Nam, đã bãi bỏ binh lính biên phòng và giao hết việc phòng biên cho thổ tù Lý Do Độc. Lý Do Độc ở vào thế cô lập không có đủ quân để canh phòng. Nhân đó, viên Thác Đông tiết độ sứ nước Nam Chiếu dụ dỗ mua chuộc ông ta theo về Nam Chiếu. Từ đó, An Nam bắt đầu bị Nam Chiếu xâm lấn. "Tân Đường thư" chép rằng: "An Nam Đô hộ phủ cai trị quản lĩnh châu Lâm Tây (林西州). Châu này có 2 huyện làː Lâm Tây và Cam Quất (甘橘)". Vùng đất Lâm Tây nguyên của Phong Châu hồi đó là khu vực ranh giới giữa An Nam đô hộ phủ và vương quốc Nam Chiếu ở Vân Nam ngày nay. Lý Do Độc tự mình chỉ huy một đạo quân địa phương gồm 6.000 người và được "Man Động Thất Quán" trợ giúp. Vùng đất huyện Hà Khẩu (châu Hồng Hà), huyện Mã Quan (châu Văn Sơn) tỉnh Vân Nam Trung Quốc ngày nay là là động Thất Quán (七綰洞), thuộc Lâm Tây Nguyên của An Nam đô hộ phủ. Lâm Tây nguyên ngày nay là địa bàn tỉnh Lào Cai của Việt Nam (林西原在老街省一帶). Động Đào Hoa (tức Đào Lâm) ngay nay có thể là trấn Liên Hoa Than của huyện Hà Khẩu và một phần huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam (các hướng trấn Đại Trại, Mãnh Kiều và Mã Yên Để) dọc hai bên bờ thượng nguồn sông Đào (桃江, tức sông Thao (洮江)).
Lý Do Độc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811359
Năm 860 thời vua Nam Chiếu Mông Thế Long, Thác Đông tiết độ sứ (拓東) được chia làm hai, phần phía nam lập thành Thông Hải đô đốc (通海都督) bao gồm cả vùng Lâm Tây nguyên sáp nhập từ An Nam đô hộ phủ. Quan đô hộ trước đây của An Nam là Lý Trác (cai trị khoảng năm 853–857) từ chối giao quyền đóng quân và thu tô thuế cho Lý Do Độc, đã đẩy vị tù trưởng này vào mối quan hệ gần gũi hơn với Nam Chiếu, kẻ thù đương thời của nhà Đường. Năm 857, Lý Do Độc và "Man Động Thất Quán" bèn quy phụ Nam Chiếu. Vua Nam Chiếu là Mông Khuyến Phong Hữu, (cha của Mông Thế Long), mới sai tướng đem thư sang mời ông thần phục. Lý Do Độc và thủ lĩnh các Man Động đã chấp nhận lời đề nghị làm chư hầu của vua Nam Chiếu. Tướng trấn thủ Thác Đông (Nam Chiếu) bèn gả cháu gái cho con trai thứ của Lý Do Độc, và chàng trai trẻ này trở thành một viên quan nhỏ phụng sự triều đình Nam Chiếu.
Lý Do Độc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811359
Vu Trung trong "Vân Nam địa phương duyên cách sử" có viết: "《蛮书》卷四说: “桃花人,本属安南林西原七绾洞主大首领李由独管辖。亦为境上戍卒,每年亦纳赋税。自大中八年(公元 854 年)被峰州(驻今越南永富省越池县)知州官申文状与李涿(安南经略使) ,请防冬将健六千人,不要味、真、登州界上防遏。其由独兄弟力不禁,被蛮拓东节度使与书信,将外甥嫁与李由独小男,补拓东押衙。自此之后,七绾洞悉为蛮收管。”林西原在今越南老街省。则属林西原的七绾洞,显然在今河口、马关一带。这一带地方在大中八年以前属安南都护府。大中八年以后,始为南诏拓东节度使收管,归属南诏。 Phiên âm: ""Man thư" quyển tứ thuyết: “Đào Hoa nhân, bản thuộc An Nam Lâm Tây Nguyên Thất Quán động chủ đại thủ lĩnh Lý Do Độc quản hạt。Diệc vị cảnh thượng thú tốt mỗi niên diệc nạp phú thuế。Tự Đại Trung bát niên (Công Nguyên 854 niên) bị Phong Châu (trú kim Việt Nam Vĩnh Phú tỉnh Việt Trì huyện) tri châu quan Thân Văn Trạng (申文状) dư Lý Trác (An Nam kinh lược sứ), thỉnh phòng đông tướng kiện lục thiên nhân, bất yếu Vị, Chân, Đăng châu giới thượng phòng át。Kì Do Độc huynh đệ lực bất cấm bị man (án chỉ Nam Chiếu) Thác Đông tiết độ sứ dư thư tín tướng ngoại sanh giá dư Lý Do Độc tiểu nam bổ Thác Đông áp nha (拓東押衙)。Tự thử chi hậu, Thất Quán Động tất vị man thu quản。” Lâm Tây Nguyên tại kim Việt Nam Lão Nhai tỉnh。Tắc thuộc Lâm Tây Nguyên đích Thất Quán Động, hiển nhiên tại kim Hà Khẩu, Mã Quan nhất đới。Giá nhất đới địa phương tại Đại Trung bát niên dĩ tiền thuộc An Nam đô hộ phủ。Đại Trung bát niên dĩ hậu, thủy vị Nam Chiếu Thác Đông tiết độ sứ thu quản, quy thuộc Nam Chiếu。"” Dịch nghĩa: Quyển 4 của "Man thư" có viết: "Tộc người Đào Hoa, nguyên thuộc quyền quản lý của của Thất Quán Động, Lâm Tây Nguyên, An Nam đô hộ phủ. Động chủ là đại thủ lĩnh Lý Do Độc.
Lý Do Độc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811359
Ông ta cũng phụ trách việc canh phòng biên giới An Nam với Nam Chiếu, đồng thời cũng nộp thuế hàng năm cho An Nam thuộc Đường. Từ năm Đại Trung thứ tám (năm 854), quan tri châu Phong Châu (nay là thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam) là Thân Văn Trạng nói với An Nam kinh lược sứ Lý Trác xin bỏ đội quân biên phòng mùa đông gồm 6.000 người, không canh biên giới các châu Vị, Chân và Đăng nữa. Anh em của Do Độc không kìm được người Nam Chiếu. Giữa lúc đó, viên Thác Đông tiết độ sứ của Nam Chiếu viết thư chiêu dụ Do Độc, và gả cháu gái đằng ngoại cho con trai của Lý Do Độc, rồi cử con trai Do Độc làm Thác Đông áp nha. Từ đó Lý Do Độc đem Thất Quán Động sáp nhập vào Nam Chiếu." Lâm Tây Nguyên nay là tỉnh Lào Cai của Việt Nam. Thất Quán Động ở cạnh Lâm Tây Nguyên, ngày nay chính là ở khu vực các huyện Hà Khẩu và Mã Quan. Từ năm Đại Trung thứ tám (năm 854) trở về trước, khu vực này thuộc về An Nam đô hộ phủ. Sau năm Đại Trung thứ tám, vùng Hà Khẩu, Mã Quan bắt đầu bị Thác Đông tiết độ sứ của Nam Chiếu tiếp quản và thuộc về Nam Chiếu.. Sách Tân Đường thư cũng chépː "安南桃林人者,居林西原,七綰洞首領李由獨主之,歲歲戍邊。李琢之在安南也,奏罷防冬兵六千人,謂由獨可當一隊,遏蠻之入。蠻酋以女妻由獨子,七綰洞舉附蠻,王寬不能制。三年,以湖南観察使蔡襲代之,發諸道兵二萬屯守,南詔憺畏不敢出。 (An Nam Đào Lâm nhân giả, cư Lâm Tây nguyên, Thất Quán động thủ lĩnh Lý Do Độc chủ chi, tuế tuế thú biên。Lý Trác chi tại An Nam, dã tấu bãi phòng đông binh lục thiên nhân, vị Do Độc khả đương nhất đội, át man chi nhập。Man tù dĩ nữ thê Do Độc tử, Thất Quán động cử phụ man, Vương Khoan bất năng chế。)". Dịch nghĩa làː Một người gốc Đào Lâm (桃林) ở An Nam, sống ở Lâm Tây Nguyên (林西原), là chúa Lý Do Độc (李由獨), thủ lĩnh của động Thất Quán (七綰洞), canh gác biên giới hàng năm.
Lý Do Độc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811359
Lý Trác (李琢), là Quan đô hộ phủ, cũng ở An Nam, tuyên bố rút bỏ 6000 binh lính phòng biên mùa đông, và bảo với Lý Do Độc hãy dùng đội thổ binh duy nhất thuộc quyền để mà kiềm chế sự xâm nhập của Nam Chiếu. Vua Nam Chiếu kết thông gia với Lý Do Độc. Độc đem toàn bộ động Thất Quán theo về Nam Chiếu, mà Vương Khoan (王寬) không thể kiểm soát được. (Đúng ra ở đây là Vương Thức vì Vương Khoan làm đô hộ An Nam năm 861). Lý Do Độc và các bộ tộc miền núi bất mãn khác đã công khai đứng về phía Nam Chiếu, thành lập "đội cảm tử Áo Trắng" ("Bạch Y một mệnh quân") và hợp sức với quân Vân Nam, cùng với người miền xuôi mang chiến tranh đến các làng ngay giữa đô hộ phủ. Sự hỗn loạn và bạo động đã tàn phá miền bắc Giao Châu cho đến khi tình hình tạm thời yên ổn trong một thời gian ngắn vào năm 858 khi quan đô hộ mới nhậm chức là Vương Thức đặt chân đến đây.
Mohamed Apandi Ali
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811361
Mohamed Apandi Ali là một luật sư và chính khách người Malaysia, ông từng là Vụ trưởng Công tố viên tổng của Malaysia từ năm 2015 đến 2018. Sáu tháng sau khi nhậm chức, ông đã xác nhận rằng Thủ tướng Najib Razak không có hành vi vi phạm trong các vụ án 1Malaysia Development Berhad (1MDB) và SRC International, và đánh dấu cuộc điều tra "không có hành động tiếp theo". Về sự nghiệp. Ngày 27 tháng 7 năm 2015, Thủ tướng lúc đó Najib Razak bất ngờ miễn nhiệm Vụ trưởng Công tố viên Malaysia Abdul Gani Patail và bổ nhiệm Apandi thay thế ông. Apandi làm Vụ trưởng Công tố viên đến khi bị Thủ tướng lúc đó Mahathir Mohamad miễn nhiệm vào ngày 4 tháng 6 năm 2018. Tranh cãi & chỉ trích. Vụ bê bối 1Malaysia Development Berhad. Tại một cuộc họp báo vào ngày 26 tháng 1 năm 2016, Apandi đã xác nhận Thủ tướng Najib Razak không có hành vi vi phạm liên quan đến việc chuyển tiền từ công ty chính phủ Malaysia, SRC, vào tài khoản ngân hàng cá nhân của ông. Apandi tuyên bố ông hài lòng rằng số tiền đó xuất phát từ một khoản quyên góp cá nhân từ gia đình hoàng gia ở Ả Rập Xê Út, đã được hoàn trả và đánh dấu cuộc điều tra không có hành động tiếp theo. Tuy nhiên, tại cuộc họp báo, Apandi đã mâu thuẫn bản thân bằng cách trình bày hai biểu đồ dòng tiền giả mạo cho thấy khoản quyên góp từ Ả Rập Xê Út nhưng thực tế là số tiền đó xuất phát từ SRC. Cơ quan Chống tham nhũng Malaysia đã tiết lộ rằng họ có ý định chuyển quyết định của Apandi không có hành động tiếp theo cho một ủy ban đánh giá độc lập. Cựu Chủ tịch MCA, Lâm Lương Thực, đã thách thức kết luận của Apandi. "Mọi người đều bị sốc... Tôi đã có một bữa tối với một cựu bộ trưởng và ông ta hỏi tôi đặt tên một người được nhận 2,6 tỷ RM và trả lại. Điều này không thể đúng. Bạn tin điều đó sao? Nếu bạn trả lại 10 RM mà tôi đã cho bạn, thì không sao (nhưng không phải là 2,6 tỷ RM)... Bạn đang coi người dân là người ngốc." Ngày 11 tháng 5 năm 2018, Thủ tướng lúc đó Mahathir Mohamad cho biết ông sẽ xem xét lại việc của Apandi, và cho rằng ông "làm suy yếu uy tín của mình".
Mohamed Apandi Ali
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811361
Mahathir tố cáo Apandi đã vi phạm luật bằng cách giấu chứng cứ về việc biển thủ tiền tại công ty đầu tư quốc gia 1MDB. Ngày 14 tháng 5 năm 2018, Mahathir đình chỉ công tác của Apandi. Apandi và ba quan chức khác bị cấm rời khỏi Malaysia. Ngày 4 tháng 6 năm 2018, Apandi bị miễn nhiệm làm Vụ trưởng Công tố viên và được thay thế bởi Tommy Thomas. Ngày 15 tháng 4 năm 2021, trong phiên phúc thẩm vụ án kháng cáo của Najib Razak đối với sự kết án của Tòa án Cấp cao về lạm dụng quyền hạn, vi phạm niềm tin tội phạm và rửa tiền, luật sư chủ tọa V Sithambaram đã trích dẫn các kết luận của Tòa án Cấp cao. Tòa án Cấp cao lưu ý rằng hai biểu đồ dòng tiền mà Apandi trình bày trong cuộc họp báo ngày 26 tháng 1 năm 2016 rõ ràng cho thấy số tiền vào tài khoản của Najib thực tế là từ công ty chính phủ Malaysia, SRC, chứ không phải từ quyên góp Ả Rập hoặc bất kỳ nguồn khách. Trong bản án từ chối kháng cáo của Najib, Tòa án phúc thẩm đã trích dẫn hai biểu đồ dòng tiền như bằng chứng cho sự tội của Najib. Ngày 27 tháng 7 năm 2022, Charles Santiago, nghị sĩ Klang, đã gửi báo cáo cảnh sát về việc Apandi lạm dụng quyền lực trong việc che giấu các cuộc điều tra về vụ án SRC International và 1MDB. Ngày hôm sau, Phó trưởng Cảnh sát Selangor, Sasikala Devi Subramaniam, tiết lộ rằng cảnh sát liên bang đã khởi tố một cuộc điều tra đối với Apandi theo Điều 217 của Bộ luật Hình sự về lạm dụng quyền lực, trong quá trình xử lý các cuộc điều tra về 1MDB, hiện đã giải thể. Vụ kiện phỉ báng. Ngày 5 tháng 7 năm 2019, Apandi đệ đơn kiện ông Lim Kit Siang, thành viên Quốc hội vùng Iskandar Puteri và cố vấn của Đảng Hành động Dân chủ, liên quan đến một bài viết có tựa đề "Nguy hiểm khi nghĩ rằng Malaysia đang trên con đường chính trị" mà ông Lim đã đăng vào ngày 6 tháng 5 năm 2019. Apandi cho rằng bài viết đã vu khống ông bằng cách nói rằng ông liên quan đến tội phạm và đã giúp đỡ trong vụ bê bối 1MDB, là một người thiếu đạo đức và chính trực, không có đạo đức và chính trị, đã lạm dụng quyền lực khi ông là Luật sư Tổng thời điểm đó.
Mohamed Apandi Ali
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811361
Ngày 23 tháng 5 năm 2022, Thẩm phán Azimah Omar của Tòa án Cấp cao đã bác bỏ vụ kiện của Apandi và yêu cầu Apandi phải trả số tiền 80.000 RM cho Lim để đền bù chi phí. Thẩm phán Azimah cho biết rằng Lim đã thành công trong việc bảo vệ quan điểm công bằng và đặc quyền. "Thật vậy, hành động và không hành động của nguyên đơn dường như đã hỗ trợ cho 1MDB và những người (giả định) liên quan... Tài liệu của bị đơn (Lim) đã cung cấp bằng chứng rõ ràng để chứng minh nhận định của ông ta, và các bằng chứng đó đã cung cấp căn cứ hợp lý để điều tra nguyên đơn về những việc che giấu trong vụ 1MDB". Trong bản án có tổng cộng 100 trang, Thẩm phán Azimah Omar nhận xét rằng Apandi dường như không quan tâm và đôi khi tự mâu thuẫn khi làm chứng trong vụ kiện chống lại Lim Kit Siang. Sau đó, Apandi đã kháng án bản án này. Đề xuất tự do cho tên truy nã Indonesia. Năm 2009, doanh nhân Indonesia Djoko Tjandra bị kết án về tội tham nhũng liên quan đến Ngân hàng Bali. Ông đã trốn sang Papua New Guinea và sau đó là Malaysia. Vào ngày 22 tháng 7 năm 2020, cựu Tổng công tố viên Indonesia, Muhammad Prasetyo, kể lại rằng Apandi đã cá nhân yêu cầu ông rút kết án của Djoko và cho phép ông trở về Indonesia mà không bị truy tố. "Malaysiakini" đã liên hệ với Apandi để nhận ý kiến nhưng ông đã từ chối.
Trinh Xương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811363
Trinh Xương có thể là:
Kiến Nhân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811366
Kiến Nhân có thể là:
Queen's Club Championships 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811367
Queen's Club Championships 2023 (còn được biết đến với cinch Championships vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt nam chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân cỏ ngoài trời tại Queen's Club ở Luân Đôn, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland từ ngày 19 đến ngày 25 tháng 6 năm 2023. Đây là lần thứ 120 giải đấu được tổ chức và là một phần của ATP Tour 500 trong ATP Tour 2023. Nội dung đơn ATP. Vận động viên khác. Đặc cách: Bảo toàn thứ hạng: Miễn đặc biệt: Vượt qua vòng loại: Thua cuộc may mắn: Nội dung đôi ATP. Vận động viên khác. Đặc cách: Vượt qua vòng loại: Thua cuộc may mắn:
Kento
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811368
Kento có thể là:
Vinh Tân (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811369
Vinh Tân có thể là:
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811371
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường là cơ quan trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực chất lượng, an toàn thực phẩm, bảo quản, chế biến và phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo phân cấp, uỷ quyền của Bộ trưởng. Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường được thành lập trên cơ sở hợp nhất Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản và Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường được quy định tại Quyết định số 1588/QĐ-BNN-TCCB ngày 19/4/2023 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nhiệm vụ và quyền hạn. Theo Điều 2, Quyết định số 1588/QĐ-BNN-TCCB ngày 19/4/2023 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường có các nhiệm vụ, quyền hạn trong các lĩnh vực chính: 1. Trình Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: a) Các dự thảo: luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị định, nghị quyết của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản pháp luật khác về quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm, bảo quản, chế biến và phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản theo phân công của Bộ; b) Chiến lược, quy hoạch, cơ chế, chính sách và các chương trình, dự án, đề án về quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm, bảo quản, chế biến và phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản theo phân công của Bộ trưởng. 2. Xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật; kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn, hàng năm; quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật; tiêu chuẩn quốc gia về quản lý chuyên ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Cục theo phân công của Bộ trưởng và quy định của pháp luật; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền ban hành.
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811371
3. Ban hành các văn bản cá biệt và hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ thuộc phạm vi quản lý của Cục. 4. Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án; tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Cục. 5.
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811371
5. Quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và chất lượng, an toàn thực phẩm (ATTP): a) Tham mưu phối hợp với các bộ, ngành, các cơ quan, đơn vị liên quan của Bộ xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, chương trình, kế hoạch, đề án, dự án về chất lượng, an toàn thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý của Bộ; b) Tham mưu tổng hợp, báo cáo giải trình trước Quốc hội và Chính phủ; tổng hợp báo cáo tổng thể về công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, chất lượng, ATTP nông lâm sản và thủy sản; tham gia các tổ chức liên ngành, tổ chức quốc tế về chất lượng, ATTP nông lâm sản và thủy sản theo phân công của Bộ trưởng; c) Tham mưu xây dựng, sửa đổi, bổ sung danh mục sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn (sản phẩm, hàng hóa nhóm 2) thuộc phạm vi quản lý của Bộ; d) Chủ trì tổ chức triển khai các nhiệm vụ thuộc chương trình phối hợp của Chính phủ, của Bộ với các tổ chức chính trị xã hội; của Bộ với các bộ, ngành, tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, các hội, hiệp hội ngành hàng về chất lượng, an toàn thực phẩm nông lâm sản và thủy sản; đ) Tổ chức triển khai công tác phổ biến giáo dục chính sách pháp luật và thông tin truyền thông về chất lượng, ATTP nông lâm sản và thủy sản; e) Tổ chức thực hiện các hoạt động giám sát, đánh giá, cảnh báo, xử lý, truyền thông và quản lý nguy cơ ATTP đối với thực phẩm nông lâm sản và thủy sản tiêu dùng trong nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ; g) Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cán bộ chuyên trách của ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn về quản lý chất lượng, ATTP nông lâm sản và thủy sản theo quy định của pháp luật; h) Tham mưu Bộ phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng và phát triển chỉ dẫn địa lý đối với sản phẩm nông lâm sản và thủy sản thuộc lĩnh vực được giao và theo phân công của Bộ trưởng. 6.
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811371
6. Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản: a) Tổ chức phổ biến, hướng dẫn, hỗ trợ cơ sở chế biến, bảo quản, kinh doanh độc lập nông lâm sản và thuỷ sản tuân thủ các quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về chất lượng, ghi nhãn hàng hoá sản phẩm nông lâm sản và thuỷ sản; b) Tổ chức kiểm tra, giám sát việc tuân thủ, áp dụng các quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về chất lượng, ghi nhãn, bao gói sản phẩm, hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm nông lâm sản và thủy sản tại các cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh độc lập; c) Tổ chức triển khai thực hiện kiểm tra, truy xuất nguồn gốc, xử lý vi phạm về chất lượng, ghi nhãn hàng hóa sản phẩm nông lâm sản và thủy sản đối với các cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh độc lập nông lâm sản và thủy sản. 7. Quản lý an toàn thực phẩm nông lâm sản và thủy sản: a) Tổ chức thực hiện, hướng dẫn thẩm định, chứng nhận đủ điều kiện ATTP; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về ATTP đối với: Cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh độc lập sản phẩm thực phẩm có nguồn gốc thực vật; Cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh độc lập sản phẩm thực phẩm có nguồn gốc động vật; Cơ sở thu gom, sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh sản phẩm thủy sản; Cơ sở sản xuất sản phẩm thực phẩm hỗn hợp, phối chế, gia vị; Cơ sở sản xuất nhiều loại sản phẩm thực phẩm thuộc quản lý của 02 cơ quan thuộc Bộ trở lên; cơ sở sản xuất nhiều loại sản phẩm thực phẩm thuộc thẩm quyền quản lý của 02 cơ quan quản lý chuyên ngành trở lên nhưng sản phẩm có sản lượng lớn nhất thuộc thẩm quyền của Bộ; Chợ đầu mối, chợ đấu giá, cơ sở kinh doanh thực phẩm nông lâm sản và thủy sản; Cơ sở sản xuất nước đá cho sản xuất, chế biến nông lâm sản và thủy sản; Cơ sở sản xuất kinh doanh dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến thực phẩm thuộc phạm vi quản lý theo quy định.
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811371
b) Tổ chức thực hiện việc thẩm tra, kiểm tra và cấp chứng nhận ATTP, an toàn dịch bệnh đối với thuỷ sản xuất khẩu, giấy chứng nhận lưu hành tự do, chứng nhận nguồn gốc, xuất xứ hoặc giấy chứng nhận khác có liên quan đối với thực phẩm thủy sản xuất khẩu theo quy định của pháp luật. c) Tổ chức thực hiện các chương trình giám sát quốc gia về ATTP xuất khẩu theo yêu cầu của nước nhập khẩu đối với thủy sản và sản phẩm thủy sản; cảnh báo, ngăn chặn và khắc phục sự cố ATTP; kiểm tra, giám sát việc thực hiện truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý đối với thực phẩm không bảo đảm an toàn thuộc phạm vi quản lý được phân công và theo quy định của pháp luật; xử lý, tháo gỡ vướng mắc kỹ thuật về ATTP trong xuất nhập khẩu thủy sản và sản phẩm thủy sản. d) Công bố danh sách quốc gia, vùng lãnh thổ và danh sách các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm thủy sản được phép xuất khẩu vào Việt Nam theo thẩm quyền được quy định tại các Thỏa thuận hợp tác giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với Việt Nam. 8.
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811371
8. Về quản lý hoạt động đánh giá sự phù hợp: a) Tham mưu phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị liên quan thuộc Bộ để xây dựng, trình phê duyệt mạng lưới cơ sở kiểm nghiệm kiểm chứng ATTP quốc gia; b) Thẩm định, đánh giá, cấp giấy đăng ký lĩnh vực hoạt động, chỉ định, công nhận và quản lý hoạt động của các phòng, đơn vị thử nghiệm, kiểm nghiệm, kiểm chứng, tổ chức đánh giá sự phù hợp về chất lượng, an toàn thực phẩm, sản phẩm hàng hoá, quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ thuộc lĩnh vực thuỷ sản và thuộc quản lý của 02 cơ quan thuộc Bộ trở lên; c) Đánh giá chỉ định phòng kiểm nghiệm kiểm chứng về ATTP phục vụ quản lý nhà nước và yêu cầu của người dân, doanh nghiệp; kết luận cuối cùng khi có sự khác biệt về kết quả kiểm nghiệm ATTP giữa các cơ quan kiểm nghiệm thuộc lĩnh vực của Bộ quản lý; d) Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật đối với các phòng, đơn vị thử nghiệm, kiểm nghiệm, kiểm chứng, tổ chức đánh giá sự phù hợp về chất lượng, an toàn thực phẩm, sản phẩm hàng hoá, quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật; đ) Công bố kết quả kiểm nghiệm an toàn thực phẩm thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật; e) Đầu mối của Bộ phối hợp với cơ quan liên quan thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ về thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế và thừa nhận lẫn nhau đối với kết quả đánh giá sự phù hợp. 9.
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811371
9. Về bảo quản, chế biến, vận chuyển nông lâm sản và thủy sản: a) Hướng dẫn, kiểm tra thực hiện chiến lược, đề án, chương trình, cơ chế, chính sách phát triển lĩnh vực chế biến gắn với sản xuất và thị trường; hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch; b) Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về điều kiện đối với cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển hàng hóa nông lâm sản và thủy sản; c) Hướng dẫn, đánh giá, hỗ trợ nâng cao năng lực chế biến nông lâm sản và thủy sản; d) Tiếp nhận hồ sơ, xem xét công nhận hoặc hủy bỏ công nhận, phổ biến tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển thực phẩm nông lâm sản và thủy sản; đ) Tổng hợp báo cáo về tình hình sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển nông lâm sản và thủy sản thuộc phạm vi quản lý của Bộ; e) Triển khai các chương trình, đề án, dự án về thu gom, xử lý, sơ chế, chế biến phụ phẩm nông lâm sản và thủy sản dùng làm thực phẩm theo phân công, phân cấp của Bộ. 10. Về phát triển nông nghiệp hữu cơ: a) Tham mưu tổng hợp, phối hợp trình Bộ ban hành cơ chế, chính sách, chương trình, đề án, dự án phát triển nông nghiệp hữu cơ và bảo quản, chế biến, phát triển thị trường sản phẩm nông nghiệp hữu cơ; b) Tham mưu tổng hợp báo cáo và hợp tác quốc tế trong phát triển nông nghiệp hữu cơ và bảo quản, chế biến, phát triển thị trường sản phẩm nông nghiệp hữu cơ; c) Tổ chức phổ biến, tập huấn triển khai thực hiện chính sách, quy định pháp luật về phát triển nông nghiệp hữu cơ tại các công đoạn sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh độc lập nông lâm sản và thủy sản; d) Tổ chức kiểm tra, thanh tra tổ chức chứng nhận, cơ sở sơ chế, chế biến, kinh doanh và sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trong trường hợp cần thiết theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền. 11.
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811371
11. Về phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản: a) Đàm phán kỹ thuật mở cửa thị trường: - Đầu mối tổng hợp báo cáo đề xuất công tác đàm phán kỹ thuật về ATTP mở cửa thị trường xuất, nhập khẩu nông lâm sản và thủy sản; - Trực tiếp tổ chức đàm phán kỹ thuật về ATTP mở cửa thị trường đối với thực phẩm thủy sản, sản phẩm phối chế. b) Phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản: - Tham mưu Bộ phối hợp với Bộ Công Thương xây dựng chính sách, chiến lược, chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, chương trình phát triển thương hiệu quốc gia và các chương trình phát triển thị trường khác có liên quan; - Tham mưu Bộ trình Chính phủ ban hành chương trình xúc tiến thương mại nông lâm sản và thủy sản, chương trình phát triển thương hiệu nông lâm sản và thủy sản chủ lực; - Tham mưu Bộ ban hành kế hoạch hàng năm về phát triển thương hiệu, xúc tiến thương mại và phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản; thực hiện các nhiệm vụ cơ quan thường trực Ban chỉ đạo phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản của Bộ; - Tổng hợp, đề xuất nghiên cứu nhu cầu, yêu cầu của các thị trường; tổ chức cập nhật, phổ biến cho các bên liên quan về quy định kỹ thuật, thông tin thị trường và thị hiếu tiêu dùng nông lâm thủy sản; - Tham mưu tổ chức thực hiện các nhiệm vụ xúc tiến thương mại, phát triển thị trường theo phân công của Bộ; - Quản lý dịch vụ tư vấn, hỗ trợ phát triển thương hiệu nông lâm sản và thủy sản. 12. Thực hiện nhiệm vụ quản lý đầu tư và xây dựng công trình theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng. Tham gia thẩm định các chương trình, dự án đầu tư chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý của Cục. 13. Tổ chức thực hiện công tác thống kê; xây dựng, quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu thuộc phạm vi quản lý của Cục. 14. Thực hiện công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực chất lượng, ATTP, bảo quản, chế biến và phát triển thị trường thuộc phạm vi quản lý của Cục. 15. Tổ chức, phối hợp thực hiện nghiên cứu khoa học, thực hiện chuyển giao ứng dụng công nghệ, bảo vệ môi trường, trong lĩnh vực chất lượng, ATTP, bảo quản, chế biến và phát triển thị trường theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng. 16.
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811371
16. Thực hiện hợp tác quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế và các chương trình, dự án quốc tế theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng và quy định pháp luật. 17. Thực hiện cải cách hành chính theo chương trình, kế hoạch, đề án cải cách hành chính của Bộ và quy định của pháp luật. 18. Về quản lý tổ chức, hoạt động dịch vụ công: a) Trình Bộ cơ chế, chính sách về cung ứng dịch vụ công; thực hiện xã hội hoá các hoạt động cung ứng dịch vụ công; định mức kinh tế - kỹ thuật, tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng và các quy định về dịch vụ sự nghiệp công thuộc phạm vi quản lý của Cục; b) Hướng dẫn, kiểm tra các tổ chức thực hiện dịch vụ công trong ngành, lĩnh vực theo quy định của pháp luật. 19. Quản lý tổ chức bộ máy, danh mục vị trí việc làm, biên chế, cơ cấu ngạch công chức, hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng. Thực hiện chế độ, chính sách, thi đua, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đối với công chức, viên chức, người lao động theo theo quy định. 20. Hướng dẫn, kiểm tra đối với hoạt động của các hội, hiệp hội trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Cục; tham gia ý kiến về công nhận ban vận động thành lập hội và điều lệ hội thuộc chuyên ngành được giao quản lý theo quy định. 21. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành theo quy định của pháp luật; tiếp công dân; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng. 22. Quản lý tài chính, tài sản và các nguồn lực khác được giao; tổ chức quản lý việc thu, sử dụng phí, lệ phí thuộc phạm vi quản lý của Cục theo quy định của pháp luật. 23.
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811371
23. Hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ đối với hệ thống chuyên ngành chất lượng, chế biến và phát triển thị trường hoặc đơn vị đầu mối phụ trách lĩnh vực quản lý chất lượng, chế biến và phát triển thị trường tại các địa phương. 24. Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật và phân công của Bộ trưởng. Cơ cấu tổ chức. Các tổ chức tham mưu. "(Theo Khoản 2, Điều 3, Quyết định số 1588/QĐ-BNN-TCCB ngày 19/4/2023 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)" Các cơ quan trực thuộc. "(Theo Khoản 3, Điều 3, Quyết định số 1588/QĐ-BNN-TCCB ngày 19/4/2023 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)" Các đơn vị sự nghiệp công lập. "(Theo Khoản 4, Điều 3, Quyết định số 1588/QĐ-BNN-TCCB ngày 19/4/2023 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)"
Queen's Club Championships 2023 - Đơn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811380
Carlos Alcaraz là nhà vô địch, đánh bại Alex de Minaur trong trận chung kết, 6–4, 6–4. Với chức vô địch, Alcaraz giành lại vị trí số 1 bảng xếp hạng đơn ATP từ Novak Djokovic. Đây là danh hiệu đầu tiên trên mặt sân cỏ của Alcaraz. Matteo Berrettini là đương kim vô địch, nhưng rút lui trước trận đấu vòng 1.
Xã Thanh Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811383
Xã Thanh Đức có thể là một trong số các địa danh Việt Nam sau đây:
Queen's Club Championships 2023 - Đôi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811384
Ivan Dodig và Austin Krajicek là nhà vô địch, đánh bại Taylor Fritz và Jiří Lehečka trong trận chung kết, 6–4, 6–7(5–7), [10–3]. Với chức vô địch, Krajicek giành lại vị trí số 1 bảng xếp hạng đôi ATP từ Wesley Koolhof và Neal Skupski. Nikola Mektić và Mate Pavić là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 1 trước Koolhof và Skupski.
Xã Thạnh Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811386
Xã Thạnh Đức có thể là một trong số các địa danh Việt Nam sau đây:
Dion Charles
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811389
Dion Elie Charles (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Bolton Wanderers tại EFL League One. Sinh ra tại Anh, anh đại diện cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Bắc Ireland. Sự nghiệp thi đấu. Blackpool. Charles được sinh ra tại Preston, Lancashire. Sau khi vượt qua đội trẻ của câu lạc bộ Blackpool, anh có tên trên băng ghế dự bị, trong trận gặp Barnsley ở mùa giải 2013–14, kết thúc với thắng lợi 1–0 tại sân vận động Bloomfield Road vào ngày 10 tháng 8 năm 2013. AFC Fylde. Trước khi rời Blackpool, Charles đã gia nhập câu lạc bộ AFC Fylde tại Conference North theo hợp đồng kéo dài 1 năm. Vào ngày 12 tháng 8 năm 2014, anh ra mắt đội bóng trong trận thua 0-3 trước Stalybridge Celtic, vào sân thay cho Richie Allen ở phút thứ 80. Anh ghi bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 5–0 trước Colwyn Bay 13 ngày sau. Anh ghi thêm 3 bàn thắng nữa trước khi gia nhập Skelmersdale United theo dạng cho mượn một tháng vào tháng 11. Vào ngày 15 tháng 8 năm 2015, Charles mở đầu chiến dịch mùa giải 2015–16 của mình bằng 2 bàn thắng trong trận hòa 2–2 trước Gainsborough Trinity. Cùng ngày, anh ấy đã ký một hợp đồng mới có thời hạn hai năm, đồng thời được gọi triệu tập vào đội tuyển Anh C. Vào ngày 23 tháng 1 năm 2016, Charles ghi bàn thắng thứ 10 trong mùa giải của mình, trong trận thua 3–2 trên sân nhà trước Worcester City. Fleetwood. Vào ngày 11 tháng 7 năm 2016, Charles gia nhập Fleetwood Town tại EFL League One theo bản hợp đồng hai năm. Một ngày sau, câu lạc bộ cũ của Charles, AFC Fylde đã chỉ trích Fleetwood Town, sau khi họ tin rằng cầu thủ này vẫn còn hợp đồng với câu lạc bộ National League North. Vào tháng 9 năm 2015, Fylde thông báo rằng Charles đã ký hợp đồng mới có thời hạn hai năm, tuy nhiên, Hiệp hội bóng đá Anh đã ra mắt và thông báo rằng không có bằng chứng nào về việc này. Do đó, điều này có nghĩa là Fleetwood đủ điều kiện để ký hợp đồng với anh ấy theo dạng chuyển nhượng tự do. Vào ngày 9 tháng 11 năm 2016, anh ra mắt trong trận đấu thuộc khuôn khổ EFL Trophy gặp Carlisle United, Fleetwood thua 4–2 trên sân khách.
Dion Charles
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811389
Vào ngày 18 tháng 3 năm 2017, Charles gia nhập Halifax Town tại National League North dưới dạng cho mượn cho đến khi kết thúc mùa giải 2016–17. Cùng ngày, anh có trận ra mắt trong trận thua 1-0 trên sân nhà trước Gloucester City, thi đấu 63 phút trước khi bị thay thế bởi Adam Morgan. Một tuần sau, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 3–0 trước FC United of Manchester, ghi bàn mở tỉ số ở phút thứ 10. Vào ngày 22 tháng 7, Charles tái gia nhập Halifax Town theo dạng cho mượn 6 tháng. Anh đã ra sân 12 lần trước khi trở lại Fleetwood vào tháng 1 năm 2018. Southport. Vào ngày 12 tháng 1 năm 2018, Charles gia nhập câu lạc bộ Southport tại National League North với một mức phí không được tiết lộ. Accrington Stanley. Vào ngày 12 tháng 8 năm 2019, Charles gia nhập Accrington Stanley theo bản hợp đồng hai năm với mức phí không được tiết lộ. Anh ra mắt đội bóng 5 ngày sau đó, khi vào sân thay người ở phút thứ 76 cho Courtney Baker-Richardson trong trận hòa 1-1 trước AFC Wimbledon. và vào ngày 20 tháng 8, anh ấy vào sân từ băng ghế dự bị sau 30 phút và ghi bàn trong trận thua 3–2 trên sân nhà trước Shrewsbury Town. Anh ấy đã ghi tổng cộng 9 bàn sau 40 trận trên mọi đấu trường, bao gồm bàn thắng gỡ hòa trên chấm 11m trong trận hòa 3–3 trước Bristol Rovers vào ngày 7 tháng 9, và một pha lập công trong chiến thắng 7–1 trên sân nhà trước Bolton Wanderers vào ngày 23 tháng 11, trong đó anh kiến ​​tạo và kiếm được một quả phạt đền. Trong mùa giải 2020–21, Charles là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ 5 của League One với 19 bàn thắng, giúp Stanley cán đích ở vị trí thứ 11. Điều này bao gồm một cú hat-trick trong chiến thắng 6–1 trên sân nhà trước Bristol Rovers vào ngày 2 tháng 2 năm 2021. Bolton Wanderers. Vào ngày 1 tháng 1 năm 2022, Charles gia nhập Bolton Wanderers tại EFL League One theo bản hợp đồng kéo dài 3,5 năm với mức phí không được tiết lộ được báo cáo là 320.000 bảng Anh. Đây là lần đầu tiên kể từ khi Wanderers ký hợp đồng với đồng đội của Charles Josh Magennis vào năm 2018, câu lạc bộ đã trả phí chuyển nhượng cho một cầu thủ. Vào ngày 11 tháng 2 năm 2023, trong trận đấu thứ 5000 của Bolton tại giải đấu, anh lập một cú hat-trick, giúp đội nhà giành chiến thắng 5-0 trước Peterborough United.
Dion Charles
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811389
Vào ngày 2 tháng 4, anh ra sân ngay từ đầu trong trận Chung kết EFL Trophy 2023. Anh đã ghi bàn thắng thứ 2, giúp đội nhà đánh bại Plymouth Argyle 4-0 để giành chức vô địch của giải đấu. Charles ghi được 21 bàn thắng trong mùa giải 2022–23, số bàn thắng nhiều nhất đối với một cầu thủ Bolton trong một mùa giải sau 22 năm. Sự nghiệp quốc tế. Vào tháng 3 năm 2021, Charles được gọi triệu tập lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Bắc Ireland để chuẩn bị cho Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022. Anh ra mắt quốc tế cho đội tuyển quốc gia nước này trong trận thua 2–1 trước Hoa Kỳ vào ngày 28 tháng 3 năm 2021. Thường được biết đến với cái tên "Churg" trong số những người ủng hộ Bắc Ireland, anh đã ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên trong chiến thắng trước San Marino vào ngày 24 tháng 3 năm 2023. Danh hiệu. Bolton Wanderers
Thống nhất Trung Mỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811390
Thống nhất Trung Mỹ, đôi khi được gọi là Chủ nghĩa dân tộc Trung Mỹ (tiếng Anh: Central Americanism), là liên hiệp chính trị được đề xuất gồm các quốc gia Trung Mỹ (Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras và Nicaragua). Liên hiệp này đã từng tồn tại trong thời kỳ Cộng hòa Liên bang Trung Mỹ. Nó khác với Hệ thống Hội nhập Trung Mỹ, vốn là một sáng kiến ​​ngoại giao tương tự như Liên minh châu Âu. Hiện tại, tổ chức dân sự "Movimiento Ciudadano para la Integración Centroamericana" ("Phong trào Công dân vì Hội nhập Trung Mỹ") được thành lập vào năm 2014, đang tích cực hoạt động vì sự thống nhất Trung Mỹ. Tổ chức có các chi nhánh ở El Salvador, Guatemala, Honduras (ngoài một số chi nhánh địa phương), Nicaragua và ở Cộng đồng người Trung Mỹ ở các nước ngoài khu vực (Úc, Ý, Tây Ban Nha và Hoa Kỳ). Tổ chức không có chi nhánh ở Costa Rica. Chính trị gia đầu tiên đưa ra đề xuất này là Tướng Augusto César Sandino từ Nicaragua. Trong khi đó, Tổng thống El Salvador Nayib Bukele là nhân vật chính trị đầu tiên trong thời hiện đại đề xuất thống nhất Trung Mỹ, bao gồm cả Panama. Lịch sử. Nỗ lực khôi phục Cộng hòa Liên bang Trung Mỹ đã tồn tại kể từ khi nó bị giải thể. Một trong những trường hợp được biết đến nhiều nhất là khi Tổng thống tự do Guatemala Justo Rufino Barrios, với sự hỗ trợ của Honduras và Hoa Kỳ, cố gắng tái lập Liên bang Trung Mỹ trong Chiến tranh thống nhất Barrios. Nhưng nỗ lực đã kết thúc khi ông chết trong trận Chalchuapa. Trong suốt thế kỷ 20, các lực lượng cánh tả là các nhóm chủ yếu đề xuất thống nhất Trung Mỹ thành một đơn vị chính trị duy nhất. Năm 1925, Đảng Xã hội Trung Mỹ được Farabundo Martí và những người El Salvador lưu vong khác thành lập tại Guatemala, và sau đó cũng hoạt động với tư cách là Đảng Cộng sản Trung Mỹ. Vào những năm 1970, Đảng Cách mạng Công nhân Trung Mỹ nổi bật lên với hoạt động đặc biệt tích cực ở El Salvador và Honduras. Ngày 12 tháng 9 năm 1946, tại Santa Ana, El Salvador đã diễn ra cuộc gặp của các nguyên thủ quốc gia lễ ký kết Hiệp định Santa Ana giữa El Salvador và Guatemala. Hai nước đã đồng ý nghiên cứu các điều kiện cho phép thống nhất chính trị Trung Mỹ thông qua một Ủy ban gồm ba người được chỉ định bởi mỗi chính phủ đã đăng ký thỏa thuận.
Thống nhất Trung Mỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811390
Thỏa thuận được để ngỏ cho Costa Rica, Honduras và Nicaragua cùng tham gia. El Salvador đã phê chuẩn hiệp định vào ngày 19 tháng 11. Một số đảng vẫn tích cực đề xuất thống nhất Trung Mỹ, như Phong trào Chủ nghĩa xã hội Honduras ("Movement to Socialism of Honduras"), Đảng Xã hội Trung Mỹ mới ("Central American Socialist Party") và Đảng Công nhân Costa Rica. Trong những năm gần đây, Tổng thống El Salvador Nayib Bukele đã đưa ra lời kêu gọi thúc đẩy hội nhập khu vực sâu rộng hơn, và cuối cùng hướng đến một quốc gia Trung Mỹ thống nhất hiện đại.
Nghi Hoa (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811396
Nghi Hoa có thể là:
Cúp Baltic 2022
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811397
Cúp Baltic 2022 là lần thứ 29 mà giải đấu được tổ chức, một giải đấu bóng đá quốc tế với sự góp mặt của các nước Baltic. Iceland đã giành được danh hiệu đầu tiên của họ và là đội khách mời đầu tiên trong giải đấu từng giành được nó. Thể thức. Năm nay, Iceland là khách mời của giải đấu, tham gia cùng với Estonia, Latvia và Litva, do đó thể thức đấu loại trực tiếp lần đầu tiên được áp dụng kể từ Cúp Baltic 2012. Loạt sút luân lưu được sử dụng để phân định thắng thua nếu trận đấu kết thúc với tỷ số hòa sau 90 phút thi đấu chính thức.
Anomura
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811401
Anomura (đôi khi là Anomala) là một nhóm động vật giáp xác mười chân, bao gồm cua ẩn sĩ và những loài khác như cua alaska, tôm ngồi xổm. Mặc dù tên của nhiều loài dị thường bao gồm từ "cua", nhưng tất cả những con cua thực sự đều thuộc nhóm chị em với phân bộ Anomura, Brachyura (hai nhóm cùng nhau tạo thành nhánh Meiura).
Coenobita rugosus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811410
Coenobita rugosus là một loài cua ẩn sĩ trên đất liền có nguồn gốc từ Indonesia, Úc và bờ biển phía đông châu Phi đến tây nam Thái Bình Dương. Mô tả. C. rugosus có bốn chân đi bộ, một càng nhỏ, một càng lớn và có râu. Khi bị đe dọa, C. rugosus có thể tạo ra âm thanh 'chiếp chiếp' bằng cách cọ xát chiếc càng lớn của nó vào vỏ như một bộ máy dạng chân. C.rugosus thường kí sinh trong vỏ của loài Naticidae C. rugosus có nhiều màu khác nhau tùy thuộc vào lượng dinh dưỡng và các màu phổ biến bao gồm xanh lá cây, nâu và nâu vàng, nhưng đen, trắng, hồng và xanh dương cũng đã được quan sát thấy. Chúng có thể được phân biệt với các loài cua ẩn sĩ trên cạn khác bằng các đường vân rõ rệt (dấu khâu) trên càng lớn của chúng. Coenobita compressus và Coenobita perlatus cũng có những sọc này ở mức độ thấp hơn nhưng có thể dễ dàng phân biệt với C. rugosus theo kích thước và màu sắc; đặc biệt là trường hợp của C. perlatus có màu đỏ nổi bật khi trưởng thành. Chúng có thể dài 15 mm (0,59 in) và cuống mắt của chúng có màu cát và có thể có một sọc nâu ở đáy mắt. Cặp dưới cùng của antena thứ hai có màu cam nhạt. Móng lớn của chúng có 7 đường gờ ở phần trên và thường có lông ở mặt trong của cả hai móng. Ở cặp chân đi cuối cùng, ở đốt thứ hai, nó phẳng hơn và màu nhạt hơn. Bụng ngắn và béo. Cũng như các loài cua ẩn sĩ trên cạn khác, C. rugosus là loài ăn xác thối và sẽ ăn thực vật, cá chết, trái cây và các mảnh vụn khác.
Nicky Cleșcenco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811411
Nicky Serghei Cleșcenco (sinh ngày 23 tháng 7 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo chạy cánh trái cho câu lạc bộ Petrocub, cho mượn từ Sion II. Sinh ra tại Ireland, anh đại diện cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Moldova. Sự nghiệp thi đấu. Cleșcenco chơi cho Dacia Buiucani ở cấp độ trẻ, trước khi chuyển tới Bồ Đào Nha vào năm 2014 để thi đấu cho học viện của Sporting CP và União de Leiria. Trong mùa giải 2019–20, anh có 6 lần ra sân cho đội 1 União de Leiria tại Campeonato de Portugal. Vào tháng 2 năm 2021, anh gia nhập đội dự bị của Sion tại Promotion League. Sự nghiệp quốc tế. Cleșcenco ra mắt quốc tế cho Moldova vào ngày 3 tháng 6 năm 2021, khi vào sân ở phút thứ 87 cho Dan Spătaru trong trận thua 2-0 trước Thổ Nhĩ Kỳ, diễn ra ở Paderborn. Đời tư. Cleșcenco được sinh ra tại Dublin, Cộng hòa Ireland, và là con trai của cựu cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên Serghei Cleșcenco, người ghi nhiều bàn thắng thứ 2 của đội tuyển Moldova.
Dương Văn Khoa (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811412
Dương Văn Khoa có thể là:
Vú em dạy yêu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811420
Vú em dạy yêu (tựa gốc tiếng Anh: No Hard Feelings) là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại hài tình dục của Mỹ do Gene Stupnitsky đạo diễn. Phim phát hành năm 2023, do Stupnitsky và John Phillips đồng viết kịch bản. Dàn diễn viên trong phim gồm Jennifer Lawrence và Andrew Barth Feldman, cùng với các diễn viên phụ Laura Benanti, Natalie Morales và Matthew Broderick. Dự án phim được công bố vào tháng 10 năm 2021 khi hai hãng Sony Pictures Releasing và Columbia Pictures giành chiến thắng trong phiên đấu thầu sản xuất với Apple Original Films, Netflix và Universal Pictures. Jennifer Lawrence đảm nhận vai nữ chính kiêm sản xuất, Gene Stupnitsky trực tiếp chỉ đạo phim. Phần lớn dàn diễn viên được tuyển chọn trong khoảng từ tháng 9 đến tháng 10 năm 2022. Quá trình ghi hình bắt đầu từ cuối tháng 9 đến tháng 11 cùng năm ở nhiều địa điểm trong quận Nassau, New York. Phim được Sony Pictures Releasing phát hành vào ngày 23 tháng 6 năm 2023. Sản xuất. Tháng 10 năm 2021, Sony Pictures giành chiến thắng trước Apple, Netflix và Universal Pictures để phát hành một dự án phim 18+ do Jennifer Lawrence sản xuất kiêm đóng chính, cùng với đạo diễn Gene Stupnitsky. Lawrence, Alex Saks, Marc Provissiero, Naomi Odenkirk và Justine Polsky đảm nhiệm vai trò sản xuất, trong khi Stupnitsky đồng biên kịch với John Phillips. Tháng 9 năm 2022, Andrew Barth Feldman được tuyển vào vai nam chính Percy, Matthew Broderick và Laura Benanti vai cha mẹ, Ebon Moss-Bachrach vai Gary. Tháng 10, Natalie Morales và Scott MacArthur tham gia dự án. Giai đoạn ghi hình phim bắt đầu từ cuối tháng 9 tới tháng 11 cùng năm.
Nghi Hòa (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811428
Nghi Hòa có thể là:
Stefan Posch
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811433
Stefan Posch (; sinh ngày 14 tháng 5 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá người Áo hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Bologna tại Serie A, cho mượn từ 1899 Hoffenheim, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Áo. Sự nghiệp thi đấu. Bologna. Vào ngày 1 tháng 9 năm 2022, Posch gia nhập câu lạc bộ Bologna tại Serie A theo dạng cho mượn với quyền chọn mua và nghĩa vụ mua có điều kiện. Sự nghiệp quốc tế. Posch ra mắt quốc tế cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Áo vào ngày 11 tháng 6 năm 2019, trong trận đấu thuộc khuôn khổ Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2020 gặp Bắc Macedonia, khi vào sân thay cho Aleksandar Dragović ở đầu hiệp 2.
Burial of the Coffin
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811437
Burial of the Coffin (hay Chôn cất quan tài) là một truyền thống đã có từ năm 1948 của cổ động viên hai câu lạc bộ bóng đá Anh, Blackburn Rovers và Preston North End. Sau khi câu lạc bộ xuống hạng, một chiếc quan tài sẽ được đưa đến tầng hầm của câu lạc bộ Trades Halls ở cầu Bamber. Lễ "chôn cất" này sẽ còn đi kèm theo một cuộc diễu hành trên đường phố dẫn tới cầu Bamber, chiếc quan tài cũng được làm riêng cho hai đội bóng để đánh dấu mốc xuống hạng. Sự kiện này sẽ diễn ra mỗi khi một trong hai đội bóng trên phải xuống hạng, chôn xuống xong, một khi đội bóng giành quyền thăng hạng thì chiếc quan tài bị chôn xuống đó sẽ được đào lên. Nghi lễ này bắt đầu vào năm 1948, sau khi Blackburn phải xuống hạng đến giải hạng Hai cũ, một người bán rau ở khu Bamber Bridge đã chất đầy rau củ vào một chiếc quan tài và chôn nó xuống, tượng trưng cho việc đội bóng xuống hạng. Số rau củ được chôn xuống đó có ý nghĩa đại diện cho các cầu thủ trong đội bóng, nhưng ngày nay thì một hình nộm có tên là Chucky sẽ được cho mặc áo của câu lạc bộ và đặt vào trong quan tài. Lịch sử. Sau khi Blackburn giành quyền thăng hạng lên giải bóng đá Ngoại hạng Anh vào năm 2000, chiếc quan tài được đem đi diễu hành dọc con đường Station Road, đoàn diễu hành gồm năm chiếc xe lễ hội, ban nhạc, các vũ công, lính cứu hỏa và những người sẽ ăn mặc giống các vị giám mục và tu nữ. Một lễ tang được tổ chức vào đầu mùa giải 2011-12, chính xác là ngày 24 tháng 7 năm 2011, sau khi Preston bị xuống hạng đến EFL League One ở mùa giải trước đó. Lễ chôn cất này bắt đầu từ đường Church Road ở phía Nam đường Station Road ở khu Bamber Bridge, gần khu nhà công cộng Ye Old Hob Inn. Một lễ tang khác được diễn ra sau khi Blackburn xuống hạng từ giải Ngoại hạng sau 11 năm liên tục trụ ở giải đấu này, tuy nhiên thì lễ hội lần này được tổ chức ở Blackburn, dưới sự hướng dẫn và giám sát của cảnh sát. Lễ đưa tang kéo dài từ quán pub Fox and Hounds ở đường Albion Road cho đến quán pub Aqueduct ở đường Bolton Road gần sân vận động Ewood Park. Lần gần nhất quan tài của Preston được đào lên là vào Chủ nhật, ngày 12 tháng 7 năm 2015 sau khi đội giành quyền thăng hạng lên EFL Championship từ League One.