title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Quốc hội Phần Lan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817012
|
Quốc hội Phần Lan là cơ quan lập pháp đơn viện của Phần Lan, được thành lập vào ngày 9 tháng 5 năm 1906.
Theo Hiến pháp Phần Lan, quyền lực tối cao của Nhà nước Phần Lan thuộc về nhân dân và được đại diện bởi Quốc hội. Quốc hội Phần Lan có 200 nghị sĩ, trong đó 199 nghị sĩ được bầu từ mười ba khu vực bầu cử của Phần Lan và một nghị sĩ được bầu từ Åland theo phương pháp phân bổ ghế D’Hondt.
Thẩm quyền đề xuất dự án luật cho Quốc hội thuộc về cả Chính phủ và các nghị sĩ. Quốc hội biểu quyết để thông qua dự luật, điều ước quốc tế; quyết định ngân sách nhà nước; giám sát hoạt động của Chính phủ; buộc Chính phủ từ chức; vô hiệu hoá phiếu phủ quyết của Tổng thống và sửa đổi Hiến pháp. Bản sửa đổi Hiến pháp cần được Quốc hội thông qua bằng phương thức biểu quyết trong hai kỳ họp liên tiếp hoặc thông qua với trên 134 phiếu thuận trong một kỳ họp duy nhất nếu cần thông qua bản sửa đổi Hiến pháp trong tình trạng khẩn cấp (sau khi được ít nhất 167 nghị sĩ chấp thuận thông qua khẩn cấp bản sửa đổi hiến pháp).
Các nghị sĩ được chia thành các nhóm tương ứng với đảng chính trị của họ, còn gọi là các nhóm nghị sĩ (, ). Trong số các thành viên của nhóm sẽ bầu chọn ra một trưởng nhóm và một phó trưởng nhóm – chịu trách nhiệm điều phối hoạt động của nhóm, thương thuyết với các nhóm nghị sĩ khác về chính sách của nhóm mình cùng một số trách nhiệm khác. Hoạt động của các nhóm nghị sĩ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình ra quyết định của Quốc hội.
Đảng Dân chủ Xã hội trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1916 từng giành được đủ số ghế để thành lập Chính phủ (103 ghế/101 ghế cần thiết) và là lần duy nhất mà một đảng giành được số ghế quá bán trong Quốc hội. Vì thế khi một đảng chính trị nhận được nhiều ghế trong Quốc hội nhất nhưng chưa đủ quá bán, họ sẽ thành lập một liên minh cầm quyền với các đảng khác nhằm đảm bảo thế đa số của phe Chính phủ. Một liên minh cầm quyền trong Quốc hội thường có ít nhất hai trong ba đảng lớn và lâu đời của Phần Lan, đó là đảng Dân chủ Xã hội, đảng Trung tâm và đảng Liên hiệp Dân tộc.
|
Quốc hội Phần Lan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817012
|
Các Bộ trưởng không nhất thiết phải là nghị sĩ Quốc hội.
Các phiên họp toàn thể của Quốc hội Phần Lan diễn ra mỗi tuần bốn lần từ thứ Ba đến thứ Sáu tại Tòa nhà Quốc hội (, ), nằm ở trung tâm thủ đô Helsinki.
Bầu cử Quốc hội.
Nghị sĩ Quốc hội Phần Lan được bầu chọn thông qua chế độ bầu cử đại diện tỷ lệ theo danh sách mở, nhiệm kỳ là bốn năm. Do hình thức đầu phiếu sớm ngày càng trở nên phổ biến, thời gian bỏ phiếu bầu nghị sĩ Quốc hội được rút ngắn lại từ hai ngày xuống còn một ngày và được ấn định vào ngày Chủ nhật thứ ba của tháng 4 trong năm diễn ra bầu cử.
Tất cả công dân Phần Lan từ mười tám tuổi trở lên có quyền tham gia bỏ phiếu vào ngày bầu cử. Cử tri không cần phải đăng ký để được bỏ phiếu và thường nhận được thư mời đi đầu phiếu thông qua hòm thư. Bất kỳ cử tri nào cũng có quyền tự ứng cử vị trí nghị sĩ quốc hội đại diện cho một khu vực bầu cử, ngoại trừ một số cá nhân như: quân nhân đang thực hiện nhiệm vụ, cán bộ tư pháp cấp cao, Tổng thống nước Cộng hòa Phần Lan và những cá nhân đang được giám hộ. Tất cả các đảng chính trị đều có quyền ghi danh ứng cử viên của đảng mình tại một khu vực bầu cử; trường hợp cá nhân hoặc tổ chức tự ứng cử tại một khu vực bầu cử thì bắt buộc phải nhận được đủ một số lượng nhất định từ cử tri để có quyền ghi danh tại khu vực bầu cử ấy.
Lãnh thổ Phần Lan được chia thành mười ba khu vực bầu cử Quốc hội. Số lượng nghị sĩ đại diện cho các khu vực bầu cử được phân bổ theo phương pháp D’Hondt và phụ thuộc vào dân số của khu vực ấy, ngoại trừ khu vực bầu cử Åland chỉ có một nghị sĩ đại diện trong Quốc hội.
Tổng thống Phần Lan có quyền kêu gọi tổ chức bầu cử sớm. Theo Hiến pháp hiện nay, chỉ sau khi nghe đề xuất từ Thủ tướng và tham vấn các nhóm nghị sĩ trong một phiên họp. Trước đây, Hiến pháp từng trao quyền cho Tổng thống đơn phương kêu gọi tổ chức bầu cử sớm.
Luật Bầu cử của Phần Lan không đặt ra một , dẫn tới việc tồn tại số lượng lớn đảng tham chính trong quốc hội.
|
Quốc hội Phần Lan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817012
|
Năm 2019, có đến chín đảng tham chính, trong đó có sáu đảng giành được từ mười lăm ghế trở lên. Tình trạng này cùng với sự khuyết thiếu ngưỡng tuyển cử khiến cho việc một đảng dành được số ghế quá bán trong Quốc hội là điều gần như bất khả thi. Trong lịch sử của Quốc hội Phần Lan, chỉ có một đảng từng giành được số ghế quá bán – đó là đảng Dân chủ Xã hội trong cuộc bầu cử năm 1916 với số ghế giành được là 103 trong tổng số 200 ghế. Và kể từ khi Phần Lan dành được độc lập vào năm 1917, chưa từng có đảng chính trị nào giành được từ 101 ghế trở lên để bảo toàn thế đa số trong Quốc hội. Do vậy phe chính phủ trong Quốc hội thường do thành viên của từ ba đến bốn đảng liên hiệp lại. Bên cạnh đó đã từng tồn tại một số chính phủ liên hiệp trong đó các đảng chấp chính có nền tảng tư tưởng rất khác biệt, đơn cử như khi phái theo chủ nghĩa xã hội và phái không theo chủ nghĩa xã hội không giành được đủ số ghế để nắm trọn phe chính phủ.
Mặc dù không tồn tại ngưỡng số phiếu bầu cử, nhiều khu vực bầu cử hiện nay có quy mô dân số giảm dần trong vòng một vài thập niên trở lại đây, thậm chí có khu vực chỉ cho phép bầu ra sáu nghị sĩ Quốc hội. Điều này khiến cho các đảng nhỏ khó giành được ghế nghị sĩ đại diện cho những khu vực bầu cử có quy mô dân số thấp.
Nghị sĩ Quốc hội.
Đối với Quốc hội, các nghị sĩ không làm việc với tư cách nhân viên và do đó không thể tự mình từ chức cũng như không thể bị sa thải trừ khi có sự phê chuẩn của Quốc hội. Các nghị sĩ tại nhiệm được hưởng quyền miễn trừ của đại biểu Quốc hội. Nếu như không có sự đồng thuận của Quốc hội, nghị sĩ sẽ không thể bị truy tố vì bất cứ điều gì họ làm hoặc nói ra trong một phiên họp hoặc một thủ tục bất kỳ.
|
Quốc hội Phần Lan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817012
|
Các nghị sĩ không bị ngăn cản hay cấm đoán khi thực hiện công việc của mình với tư cách thành viên Quốc hội; không bị buộc tội đối với hành vi vi phạm pháp luật của mình khi còn đang tại nhiệm trừ khi việc kết tội được 5/6 số nghị sĩ chấp thuận trong một cuộc biểu quyết; đối với các tội danh với hình phạt tối thiểu là sáu tháng tù, cơ quan chức năng có quyền bắt và giam, giữ nghị sĩ bất chấp quyết định của Quốc hội.
Hàng tháng mỗi nghị sĩ nhận một khoản thù lao () là 6.407 €, đã bao gồm thuế. Nghị sĩ có thâm niên không dưới 12 năm thì nhận thù lao là 6.887 €. Khoản thù lao này không phải là tiền lương về mặt pháp lý. Bên cạnh đó, hàng tháng tất cả các nghị sĩ được cấp một khoản sinh hoạt phí miễn thuế là 968,81 € (lên đến 1.809,15 €, có có hóa đơn). Nghị sĩ cư trú xa thành phố Helsinki sẽ được cấp một khoản tiền để chi cho căn hộ thứ hai tại đây. Nghị sĩ cũng được phép di chuyển miễn phí trong nước bằng các phương tiện như xe lửa, xe buýt hoặc máy bay để phục vụ cho công tác lập pháp; di chuyển miễn phí bằng tắc-xi nếu chỉ cần di chuyển trong vùng đô thị Helsinki. Quốc hội Phần Lan chịu trách nhiệm đối với vấn đề tài chính của mình và Bộ Tài chính có nghĩa vụ đưa dự toán ngân sách của Quốc hội vào ngân sách Nhà nước và không được điều chỉnh đề xuất trên theo ý kiến của Bộ.
Mỗi nghị sĩ có quyền chọn một trợ lý để giúp việc cho mình. Các trợ lý nghị sĩ do Văn phòng Quốc hội tuyển dụng và chịu sự quản lý của một nghị sĩ nhất định.
Nghị sĩ nào được Quốc hội bầu ra làm đại biểu Nghị viện châu Âu sẽ phải chọn tư cách thành viên của một trong hai nghị viện. Ngược lại, các nghị sĩ được phép kiêm nhiệm một chức danh nhà nước bất kỳ, thường là Ủy viên hội đồng điều hành cấp khu vực. Trong trường hợp một nghị sĩ nghỉ việc hoặc chết trong nhiệm kỳ, một cá nhân khác có số phiếu cao thứ nhì trong danh sách ứng viên của khu vực bầu cử nơi nghị sĩ đó thắng cử sẽ trở thành nghị sĩ thay thế.
|
Quốc hội Phần Lan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817012
|
Vị nghị sĩ thay thế này được chọn ra từ danh sách nghị sĩ dự bị được sắp xếp theo thứ tự số phiếu giảm dần và danh sách này được thông báo cùng lúc với thời điểm công bố kết quả bầu cử. Phần Lan không tổ chức bầu cử phụ để chọn ra nghị sĩ thay thế.
Nghị sĩ Quốc hội Phần Lan không bị hạn chế quyền được bàn về các vấn đề . Tuy nhiên, các nghị sĩ phải cư xử một cách trang trọng và tránh xúc phạm đến cá nhân người khác. Nếu như nghị sĩ vi phạm quy tắc trên, bài phát biểu của họ sẽ bị Chủ tịch Quốc hội cắt ngang. Người gây mất trật tự nghiêm trọng có thể bị Quốc hội phạt đình chỉ công tác trong 2 tuần với sự đồng thuận của trên 2/3 số nghị sĩ. Đối với nghị sĩ bị buộc tội cố ý phải chịu hình phạt tù giam hoặc bị buộc tội liên quan tới bầu cử với bất kỳ án phạt nào, Quốc hội có thể thông qua nghị quyết bãi nhiệm nghị sĩ ấy với tỷ lệ số phiếu tán thành trên 2/3.
Theo thống kê năm 22, tuổi của nghị sĩ Quốc hội Phần Lan tại điểm trung vị là 50 (tức là có 50% số nghị sĩ có tuổi đời không bé hơn 50), nghị sĩ lớn tuổi nhất là Erkki Tuomioja – 76 tuổi và trẻ tuổi nhất là – 28 tuổi. Năm 2019, có 94 nữ nghị sĩ được bầu vào Quốc hội, chiếm tỷ lệ 47%. Con số này giảm xuống 91 nghị sĩ do có một số người bị thay thế giữa nhiệm kỳ. Số công dân Phần Lan được sinh ra ở nước ngoài chiếm tỷ trọng 8% trong dân số của quốc gia này, tuy nhiên hiện tại chỉ có 4 nghị sĩ tại Quốc hội được sinh ra ở nước ngoài (chiềm 2% tổng số nghị sĩ), đó là (nơi sinh: Na Uy), (nơi sinh: Iraq), (nơi sinh: Somali) và (nơi sinh: Đan Mạch). Có 7% số nghị sĩ Quốc hội là người nói tiếng Thụy Điển, cao hơn một chút so với tỷ trọng số dân cư Phần Lan nói tiếng Thụy Điển (5,2%).
Nhóm nghị sĩ Quốc hội.
Đa phần các nghị sĩ Quốc hội làm việc theo nhóm, còn gọi là nhóm nghị sĩ Quốc hội (). Các nhóm này tương ứng với các đảng chính trị, tuy nhiên còn có các nhóm của những nghị sĩ bị loại khỏi nhóm của một đảng chính trị vì bất đồng chính kiến.
|
Quốc hội Phần Lan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817012
|
Từ tháng 4 năm 2019, có chín nhóm nghị sĩ đang hoạt động tại quốc hội, trong đó có một nhóm chỉ có một thành viên. Thành viên thuộc một nhóm nghị sĩ thường cố gắng hết sức để thống nhất quan điểm với nhau khi ra quyết định, bằng không thì họ sẽ ra quyết định thông qua một cuộc biểu quyết nội bộ. Sau đó quan điểm này của đảng sẽ được thể hiện thông qua lá phiếu của các thành viên trong một phiên biểu quyết của toàn Quốc hội. Điểm đặc biệt đó là các nhóm nghị sĩ tại Quốc hội ra quyết định độc lập với ý chí của ban lãnh đạo đảng của họ, và vị trí trưởng nhóm nghị sĩ của các đảng lớn được cho là có tầm ảnh hưởng về mặt chính trị tương đương với vị trí bộ trưởng trong nội các.
Mỗi nhóm nghị sĩ đều nhận được một khoản tài trợ để chi cho các hoạt động của mình và có thể thuê nhân viên giúp việc tại văn phòng của nhóm.
Thành lập chính phủ.
Tổng thống Phần Lan xin ý kiến Chủ tịch Quốc hội cùng một số đại diện của các nhóm nghị sĩ về việc thành lập nội các mới. Theo Hiến pháp Phần Lan, Thủ tướng do Quốc hội bầu ra và được Tổng thống phê chuẩn. Thủ tướng trong thực tế là chính trị gia có quyền lực nhất. Các bộ trưởng do Thủ tướng đề xuất lên và được Tổng thống bổ nhiệm. Quốc hội mặc dù không bổ nhiệm các Bộ trưởng nhưng có thể miễn nhiệm từng bộ trưởng bằng cách bỏ phiếu bất tín nhiệm. Tương tự, toàn bộ nội các cũng cần được Quốc hội tín nhiệm và phải từ chức nếu ngược lại.
Trước khi Thủ tướng được bầu, các nhóm nghị sĩ Quốc hội sẽ tiến hành thương thuyết về cương lĩnh và thành phần của chính phủ. Dựa trên kết quả thương thuyết, Tổng thống sẽ xin ý kiến Chủ tịch Quốc hội cùng các nhóm nghị sĩ và sau cùng sẽ xướng tên ứng cử viên Thủ tướng để Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua. Mặc dù Chính phủ Phần Lan hầu như mọi khi đều bao gồm đại diện của nhiều đảng, nhưng quá trình biểu quyết thông qua Thủ tướng thường diễn ra suôn sẻ nhờ có kỷ luật nội bộ đảng – nghĩa là các nghị sĩ thuộc cùng một liên minh sẽ bỏ phiếu giống nhau để bảo toàn thế đa số.
Ủy ban Quốc hội.
|
Quốc hội Phần Lan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817012
|
Ủy ban Quốc hội.
Trực thuộc bộ máy hoạt động của Quốc hội còn có mười bảy ủy ban, nghiên cứu đề xuất của Chính phủ và các nghị sĩ về pháp lý và ngân sách. Sau khi xin ý kiến chuyên gia và thảo luận về nội dung của đề xuất, các ủy ban có thể đề nghị chấp nhận đề xuất mà không cần sửa đổi, hoặc bác bỏ đề xuất, hoặc kiến nghị sửa đổi đề xuất, hoặc viết lại toàn bộ đề xuất.
Các ủy ban của Quốc hội gồm có Đại Ủy ban, Ủy ban Hiến pháp, Ủy ban Đối ngoại, Ủy ban Tài chính, Ủy ban Kiểm toán, Ủy ban Hành chính, Ủy ban Pháp luật, Ủy ban Giao thông – Liên lạc, Ủy ban Nông, Lâm nghiệp, Ủy ban Quốc phòng, Ủy ban Giáo dục, Ủy ban Xã hội và Y tế, Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Giám sát tình báo, Ủy ban Vì tương lai, Ủy ban Cuộc sống Lao động – Bình đẳng và Ủy ban Môi trường.
Số lượng thành viên trong mỗi Ủy ban được trình bày trong bảng sau.
Kỳ họp.
Quốc hội Phần Lan họp thường lệ mỗi năm hai kỳ, kỳ thứ nhất và kỳ thứ hai bắt đầu lần lượt từ tháng 1 đến tháng 6 và từ tháng 9 đến tháng 12. Trước khi bắt đầu mỗi kỳ họp thường niên, các lãnh đạo nhà nước cùng quan khách sẽ đến dự một buổi lễ đặc biệt tại Nhà thờ chính tòa Helsinki, sau đó trở về trụ sở Quốc hội để tiến hành nghi lễ tại đây, nơi Tổng thống Phần Lan phát biểu khai mạc kỳ họp.
Vào ngày đầu tiên của mỗi kỳ họp, Quốc hội chọn ra một chủ tịch và hai phó chủ tịch trong số các nghị sĩ Quốc hội thông qua hình thức bỏ phiếu dưới sự chủ tọa của vị nghị sĩ có thâm niên nhất. Ba nghị sĩ được bầu vào các chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch thứ nhất và Phó Chủ tịch thứ hai sẽ lần lượt tuyên thệ long trọng trước Quốc hội như sauː
Thành viên của Phái đoàn Phần Lan tại Hội đồng châu Âu và Hội đồng Bắc Âu được chỉ định tại mỗi kỳ họp của Quốc hội. Ngoài ra Quốc hội còn bầu ra năm nghị sĩ làm đại diện Quốc hội tại Tòa án luận tội cấp cao, phục vụ theo nhiệm kỳ bốn năm.
Lịch sử.
|
Quốc hội Phần Lan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817012
|
Lịch sử.
Quốc hội một viện hiện hành của Phần Lan hình thành sau khi cuộc cải cách nghị viện thành công vào năm 1906, diễn ra khi lực lượng Đế quốc Nga bị đánh bại trong chiến tranh Nga – Nhật. Cuộc chiến đã khiến cho Đế quốc Nga rơi vào tình trạng bất ổn, kích động tổng đình công với đỉnh điểm là Cách mạng Nga năm 1905 và sự ra đời của Duma Quốc gia, quốc hội đầu tiên của Nga. Vào thời kỳ này tại Phần Lan, một cuộc tổng đình công cũng nổ ra vào trung tuần tháng 11 năm 1905 để phản đối các chính sách Nga hóa mà họ cho là phi pháp. Ngày 1 tháng 11, lãnh đạo phe Lập hiến trong Thượng viện là Leo Mechelin đã trình bức thư "Thỉnh nguyện lớn" lên Toàn quyền Phần Lan Ivan Obolensky do ông soạn. Dưới sức ép của phong trào đình công, Sa hoàng Nikolai II đã dựa trên một phần văn kiện này để soạn và ban hành , trong đó tuyên bố chấm dứt (1899 – 1905). Cùng với đó, bản tuyên ngôn cũng hứa hẹn về việc thành lập một nghị viện dân cử của Phần Lan với hệ thống đầu phiếu phổ thông và trên cơ sở tôn trọng quyền con người. Sau khi chấp chính, Leo Mechelin đã chỉ đạo nội các của mình (Thượng viện Phần Lan, 1905 – 1908) thực hiện các đề mục trong bản Tuyên ngôn, qua đó chính thức thành lập thể chế dân chủ tự do tại Phần Lan. Tuy nhiên việc hiện thực hóa nội dung của Tuyên ngôn đã bị Đại thân vương Phần Lan Nikolai II hạn chế phần nào.
Vào tháng 12 năm 1905 tại Phần Lan, phiên họp bổ sung của Hội nghị các đẳng cấp đã được triệu tập để tiến hành cải cách nghị viện, trong đó thông qua một số luật trọng tâm đối với mục tiêu phát triển nền dân chủ, ví dụ như luật về quyền giám sát của Quốc hội đối với tính hợp pháp trong nhiệm vụ của các thành viên Nội các, luật về quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do hiệp hội và tự do in ấn. Một ủy ban soạn thảo hiến pháp do giáo sư chủ trì cũng được triệu tập nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của một bản Hiến pháp mới. Bản dự thảo hiến pháp trên được trình lên Sa hoàng vào tháng 3 năm 1906 và đến tháng 5 cùng năm thì trình sắc lệnh về Quốc hội cùng luật Bầu cử lên cho Hội nghị các đẳng cấp Phần Lan xem xét.
|
Quốc hội Phần Lan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817012
|
Các văn bản trên được Hội nghị thông qua vào ngày 1 tháng 6 năm 1906. Sa hoàng Nikolai II sau đó đã phê chuẩn những luật trên và truyền dụ cho phép các biện pháp cải cách có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1906.
Cuộc cải cách đã thay thế nghị viện bốn viện lâu đời nhất của châu Âu (từ thế kỷ 17) bằng một Quốc hội đơn viện, được coi là hình thức nghị viện hiện đại nhất thời đó. Cũng tại thời điểm này, quyền đầu phiếu phổ thông, công bằng cùng chế độ bầu cử đại diện tỷ lệ vẫn còn khá mới mẻ. Phần Lan trở thành quốc gia đầu tiên ở châu Âu trao quyền đầu phiếu cho phụ nữ cũng trong cuộc cải cách nghị viện này. Số lượng cử tri hợp pháp tăng lên gấp mười lần, lên tới con số 1.272.873 cử tri, khi tất cả công dân nam và nữ đều được cấp quyền bầu cử. Độ tuổi tối thiểu để công dân được quyền đầu phiếu hoặc tự ứng cử khi đó là hai mươi bốn tuổi.
Phần Lan tổ chức cuộc tổng tuyển cử Quốc hội đầu tiên vào ngày 15 và 16 tháng 3 năm 1907. Các nghị sĩ của Quốc hội mới đã họp phiên toàn thể đầu tiên vào ngày 23 tháng 5 năm 1907 và nghi thức khai mạc kỳ họp thường niên được tổ chức hai ngày sau đó. Do phòng hội trường của tòa nhà Säätytalo không đủ sức chứa 200 nghị sĩ (trước đó là trụ sở của Viện thứ dân, với sức chứa khoảng 180 người), Quốc hội quyết định dời trụ sở về tòa nhà VPK Helsinki (tòa nhà Đội cứu hỏa tình nguyện thành phố Helsinki) cho tới năm 1911 thì dời về tòa nhà Heimola. Cả hai tòa nhà lịch sử này đều được phá dỡ vào thập niên 1960 để nhường chỗ cho các tòa nhà thương mại mới.
Vì Thượng viện nắm quyền quản lý kinh tế và chịu trách nhiệm về các khoản thu và tài sản của Đại Công quốc Phần Lan nên quyền lực của Quốc hội đối với lĩnh vực này trong thời gian mới thành lập bị hạn chế rất nhiều. Chỉ khi nào Thượng viện cần lập một sắc thuế mới để bổ sung vào nguồn thu của quốc gia thì mới phải chuyển xuống cho Quốc hội xem xét và phê chuẩn.
Ngày 6 tháng 12 năm 1917, tại tòa nhà Heimola, Quốc hội Phần Lan đã thông qua bản Tuyên ngôn độc lập Phần Lan.
|
Quốc hội Phần Lan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817012
|
Năm 1919, Luật Hiến pháp Phần Lan được phê chuẩn, quy định hình thức chính thể của Phần Lan và xác định vị thế của Quốc hội như sau: “Quyền lực tối cao của Nhà nước Phần Lan thuộc về nhân dân và được đại diện bởi Quốc hội”. Về sau đoạn trích này được giữ lại trong bản Hiến pháp hiện hành. Năm 1928, Luật Quốc hội được làm mới.
Trụ sở của Quốc hội Phần Lan hiện nay là Tòa nhà Quốc hội, được khánh thành và đưa vào sử dụng từ năm 1931.
Trong chiến tranh Liên Xô – Phần Lan, diễn ra từ ngày 1 tháng 12 năm 1939 đến ngày 12 tháng 2 năm 1940, sau khi các cuộc oanh tạc nổ ra, Quốc hội Phần Lan đã họp hai phiên toàn thể tại Nhà văn hóa công nhân phường Vallila, thành phố Helsinki. Tại một cuộc đàm phán bí mật bên lề các phiên họp, quốc hội đã quyết định dùng hội trường của trường tiểu học Sanssi thuộc thị trấn Kauhajoki làm trụ sở tạm thời. Sở dĩ Quốc hội quyết định dời nơi họp về thị trấn Kauhajoki là vì địa phương này nằm cách xa biên giới phía đông của Phần Lan và không sở hữu công trình nào có khả năng trở thành mục tiêu oanh tạc của Liên Xô như cảng biển hoặc sân bay. Việc di dời được thực hiện ngay vào lúc 3 giờ sáng ngày 1 tháng 12 năm 1939. Trước khi lên chuyến tàu về Kauhajoki kéo dài mười hai tiếng, các thành viên quốc hội và trợ lý của họ chỉ có vài giờ để thu dọn đồ đạc trong điều kiện thiếu ánh sáng tại hội trường nhà Quốc hội. Tại Kauhajoki, người dân nhận được tin Quốc hội dời nơi họp về đây khoảng một giờ đồng hồ trước khi chuyến tàu chở các nghị sĩ cập bến vào lúc 14 giờ 30 phút. Quốc hội tổ chức phiên họp toàn thể đầu tiên vào ngày 5 tháng 12 năm 1939. Trong suốt khoảng thời gian tại Kauhajoki, hoạt động của Quốc hội được giữ bí mật và không phải tất cả cư dân của thị trấn đều biết đến chuyện này.
Ngày 6 tháng 5 năm 1966, Quốc hội Phần Lan quy định thời gian chất vấn, theo đó nghị sĩ có quyền đặt câu hỏi cho các bộ trưởng trong thời gian cho phép.
|
Quốc hội Phần Lan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817012
|
Quốc hội Phần Lan tổ chức Lễ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập chế độ phổ thông đầu phiếu và nghị viện đơn viện vào ngày 1 tháng 6 năm 2006. Cùng lúc đó, Quốc hội Phần Lan còn phát hành một bộ sách dài mười hai tập về lịch sử của Quốc hội mang tên với tập đầu tiên và tập cuối cùng được ra mắt lần lượt vào các năm 2006 và 2008.
Trong khi số lượng nghị sĩ Quốc hội vẫn là hai trăm từ khi thành lập thì dân số của Phần Lan đã tăng đáng kể trong hơn một trăm năm qua. Cụ thể, dân số Phần Lan vào đầu thế kỷ 20 là 2.7 triệu người, tức cứ một nghị sĩ thì đại diện cho 13.500 người dân. Đến thập niên 2010, dân số Phần Lan tăng lên 5.4 triệu người và mỗi nghị sĩ đại diện cho 27.000 người.
|
Lutjanus buccanella
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817015
|
Lutjanus buccanella là một loài cá biển thuộc chi "Lutjanus" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1828.
Từ nguyên.
Từ định danh "buccanella" bắt nguồn từ "boucanella", tên thường gọi của loài cá này tại đảo Martinique, nơi mà mẫu định danh được thu thập.
Phân bố và môi trường sống.
"L. buccanella" có phân bố rộng rãi dọc Tây Đại Tây Dương, từ Bermuda và bang North Carolina dọc theo bờ đông nam Hoa Kỳ trải dài về phía nam, băng qua vịnh México (Florida Keys, cụm bãi ngầm Flower Garden, và từ Veracruz dọc theo bán đảo Yucatán) và khắp biển Caribe, và dọc theo bờ biển Nam Mỹ đến bang São Paulo (Brasil).
"L. buccanella" trưởng thành sống ở rạn san hô, trên nền đáy cát hoặc đá và gần các vách đá, được tìm thấy ở độ sâu ít nhất là 200 m.
Mô tả.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. buccanella" là 75 cm, thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 50 cm.
Lưng và thân trên có màu đỏ tươi đến cam, thân dưới và bụng màu xám bạc đến hơi đỏ. Mống mắt màu vàng kim đến vàng cam. Đốm đen lớn, nổi bật ở gốc vây ngực. Vùng vảy sẫm màu ở gốc vây lưng mềm. Ở cá con (chiều dài tiêu chuẩn khoảng từ 16 cm trở lại), thân màu nâu xám, phần trên của cuống đuôi, phần lớn vây lưng mềm, vây bụng và vây hậu môn cũng như toàn bộ vây đuôi có màu vàng hoặc vàng lục.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ở vây ngực: 16–18; Số vảy đường bên: 47–50.
Sinh thái.
Thức ăn của "L. buccanella" bao gồm cá nhỏ, các loài chân đầu, chân bụng và sống đuôi. Đỉnh điểm sinh sản của loài này ở Jamaica là vào tháng 4 và 9, mặc dù chúng có thể sinh sản quanh năm.
Ước tính tuổi thọ cao nhất ở "L. buccanella" dựa trên sỏi tai của một cá thể ở Brasil là 20 năm.
Giá trị.
"L. buccanella" được xem là một loại cá thực phẩm có thịt ngon, chủ yếu được bán ở dạng tươi sống, tuy nhiên chúng có thể mang độc tố ciguatera như đã được báo cáo ở Tiểu Antilles.
|
Trong đống tro tàn
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817016
|
Trong đống tro tàn là một cuốn sách hồi ký của đạo diễn phim tài liệu Trần Văn Thủy, in bởi "Người Việt Books" và phát hành lần đầu tại Hoa Kỳ tháng 11 năm 2016. Cuốn sách được xem là tác phẩm cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác của Trần Văn Thủy, bao gồm các chương thuật lại quãng đời làm nghề phim tài liệu cùng những lời di chúc của ông.
|
Ԃ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817017
|
Komi Dje (Ԃ ԃ, chữ nghiêng: "Ԃ" "ԃ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Molodtsov, một biến thể của bảng chữ cái Kirin. Nó chỉ được sử dụng trong chữ viết của tiếng Komi vào những năm 1920.
Chữ cái này được bắt nguồn từ chữ cái Komi De (Ԁ ԁ "Ԁ" "ԁ") với việc thêm vào một cái móc vào đuôi.
|
Ajiadō
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817021
|
, đôi khi được gọi là Ajiadō Animation Works, là một xưởng phim hoạt hình của Nhật Bản được thành lập vào năm 1978.
Lịch sử.
Công ty ban đầu được thành lập dưới tên bởi Shibayama Tsutomu, Kobayashi Osamu và Yamada Michishiro vào ngày 4 tháng 10 năm 1978.
Năm 1985, loại hình của công ty được đổi sang kabushiki gaisha. Năm 1990, Ajiadō thành lập công ty con ; ngoài ra trong năm 1998, công ty thành lập một bộ phận vẽ hoạt hình kỹ thuật số.
Tác phẩm.
Phim điện ảnh.
Danh sách phim điện ảnh sản xuất bởi Ajiadō, trong ngoặc đánh dấu ngày khởi chiếu:
|
Im Won-sik
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817028
|
Im Won-sik (; 24 tháng 6 năm 1919 – 26 tháng 8 năm 2002) là một nhạc trưởng, nhà soạn nhạc và nhà sư phạm âm nhạc người Hàn Quốc. Theo cáo phó của ông trên tờ "Asahi Shimbun", Won-sik được coi là "cha đẻ của thế giới âm nhạc cổ điển Hàn Quốc"; đồng thời ông còn được gọi là "Toscanini của Hàn Quốc."
Tiểu sử.
Im sinh ra ở Gishū, Heianhoku-dō, Chо̄sen (ngày nay là Uiju, tỉnh Bắc Pyongan, Bắc Triều Tiên) trong một gia đình theo đạo Cơ đốc giáo. Khi lên bốn tuổi, gia đình ông chuyển đến Cáp Nhĩ Tân ở Mãn Châu. Lần đầu tiên Won-sik được tiếp xúc với âm nhạc là khi ở nhà thờ, nơi ông được học chơi đàn đại phong cầm. Trong thời niên thiếu, Won-sik đã hỗ trợ kiếm sống gia đình bằng cách chơi piano tại rạp chiếu phim và hát thánh ca tại nhà thờ. Ông tốt nghiệp tại một trường âm nhạc do thành lập vào năm 1939. Năm sau, Won-sik đăng ký vào Học viện Âm nhạc Tokyo, nơi ông đươc dẫn dắt bởi Moroi Saburо̄. Won-sik có buổi ra mắt công chúng lần đầu ở học viện với tư cách là một nghệ sĩ dương cầm vào năm 1940. Khi sống ở Tokyo, ông kiếm sống bằng việc chuyển soạn nhạc phim. Sau khi tốt nghiệp năm 1942, Won-sik chuyển đến Manchukuo và được hợp tác với Dàn nhạc giao hưởng Harbin . Tại đây, ông có cơ hội được gặp Asahina Takashi, người mà Won-sik vốn rất ngưỡng mộ. Sau này Won-sik trở thành học trò duy nhất cũng như người bạn suốt đời của Asahina. Sau khi Chiến tranh Thái Bình Dương kết thúc, Won-sik đã giúp cho Asahina lẩn tránh khỏi những người lính Liên Xô tại nhà của mình và giúp Asahina thu xếp việc trở về Nhật Bản.
Sau khi rời khỏi Mãn Châu, Won-sik trở về quê hương. Vào tháng 1 năm 1948, ông chỉ huy buổi biểu diễn vở "La traviata" ở Seoul, vở opera hoàn chỉnh đầu tiên được công diễn ở Hàn Quốc. Tuy vậy những khó khăn về tài chính đối với cơ sở vật chất của dàn nhạc non trẻ này đã khiến ông buộc phải sang Hoa Kỳ để theo học tại Trường Juilliard. Khi ở Hoa Kỳ, ông được đào tạo riêng với Arnold Schoenberg và được học chỉ huy dàn nhạc do Serge Koussevitzky giảng dạy.
|
Im Won-sik
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817028
|
Năm 1949, Won-sik trở thành nhạc trưởng châu Á đầu tiên chỉ huy Dàn nhạc Giao hưởng Boston.
Won-sik trở lại Hàn Quốc vào năm 1949. Vào ngày 23 tháng 9 năm 1950, vị nhạc trưởng bị cảnh sát Hàn Quốc bắt và giam giữ với cáo buộc hợp tác với Triều Tiên trong thời gian nước này chiếm đóng Seoul một thời gian ngắn vào đầu năm đó. Năm 1953, Won-sik là người đồng sáng lập và sau này là hiệu trưởng của Trường Trung học Nghệ thuật Seoul. Sau đó, ông cũng là trưởng khoa và giáo sư tại Đại học Kyung Hee và Đại học Nghệ thuật Chugye. 3 năm sau, ông được bổ nhiệm làm giám đốc âm nhạc đầu tiên của Dàn nhạc giao hưởng KBS, vị trí mà ông đảm nhiệm cho đến năm 1970.
Khi nhà soạn nhạc Yun Isang bị bắt trong một vụ bê bối gián điệp vào năm 1967, Won-sik đã thay mặt Islang làm chứng, đồng yêu cầu trả tự do cho và tiếp tục việc biểu diễn âm nhạc của ông. Won-sik cũng đã chỉ huy buổi công diễn lần đầu Bản giao hưởng số 3 và bản concerto cho vĩ cầm của Islang tại Hàn Quốc.
Năm 1984, Won-sik được bổ nhiệm làm giám đốc âm nhạc của . Ông từ chức vào năm 1990 và được bổ nhiệm làm nhạc trưởng thường trực danh dự của dàn nhạc vào hai năm sau đó. Vị nhạc trưởng này cũng được bổ nhiệm làm nhạc trưởng thường trực danh dự của Dàn nhạc Giao hưởng KBS. Won-sik cũng đã đánh dấu lễ kỷ niệm vàng trong lần ra mắt sự nghiệp của mình bằng cách chỉ huy một chuyên đề gồm tất cả chín bản giao hưởng của Beethoven.
Khi Dàn nhạc giao hưởng Osaka đến Seoul để biểu diễn buổi hòa nhạc đầu tiên bên ngoài Nhật Bản vào năm 1971, giám đốc âm nhạc lúc bấy giờ là Asahina đã mời Won-sik cùng thực hiện việc chỉ huy dàn nhạc. Nhiều thập kỷ sau, họ đã lên kế hoạch tổ chức một buổi hòa nhạc chung để kỷ niệm Giải vô địch bóng đá thế giới 2002, nhưng điều đó không thể thực hiện được do Asahina qua đời vào tháng 12 năm 2001. Won-sik cùng với Wakasugi Hiroshi, Toyama Yūzō và Iwaki Hiroyuki đã biểu diễn tại buổi hòa nhạc tưởng nhớ Asahina vào ngày 7 tháng 2 năm 2002.
|
Im Won-sik
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817028
|
Buổi hòa nhạc World Cup với Dàn nhạc giao hưởng Tokyo mà ban đầu Won-sik dự định sẽ biểu diễn cùng Asahina lại được chỉ huy bởi mình ông vào ngày 1 tháng 6 năm 2002. Đây là buổi biểu diễn sẽ là lần cuối cùng của ông. Ngay sau đó, Won-sik được chẩn đoán mắc bệnh ung thư dạ dày giai đoạn cuối. Ông qua đời vài tuần sau đó vào ngày 26 tháng 8 tại Seoul.
|
Chủ nghĩa cộng hòa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817029
|
Chủ nghĩa cộng hòa () là một hệ tư tưởng chính trị tập trung vào quyền công dân trong một quốc gia được tổ chức như một nước cộng hòa. Về mặt lịch sử, nó nhấn mạnh ý tưởng tự trị và bao gồm từ quy tắc của thiểu số đại diện hoặc đầu sỏ đến chủ quyền nhân dân. Nó đã có những định nghĩa và cách giải thích khác nhau, và các cách này khác nhau đáng kể dựa trên bối cảnh lịch sử và phương pháp luận.
Chủ nghĩa cộng hòa cũng có thể đề cập đến cách tiếp cận khoa học phi ý thức hệ đối với chính trị và quản trị. Như nhà tư tưởng cộng hòa và tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ John Adams phát biểu trong phần giới thiệu cuốn sách nổi tiếng "A Defense of the Constitutions of Government of the United States of America" ("Bảo vệ Hiến pháp của Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ")"," "khoa học về chính trị là khoa học về hạnh phúc xã hội" và một nền cộng hòa là hình thức chính phủ đạt được khi khoa học về chính trị được áp dụng một cách thích hợp để tạo ra một chính phủ được thiết kế hợp lý. Thay vì mang tính ý thức hệ, cách tiếp cận này tập trung vào việc áp dụng một phương pháp khoa học cho các vấn đề quản trị thông qua nghiên cứu nghiêm ngặt và áp dụng kinh nghiệm và thử nghiệm trong quá khứ trong quản trị. Đây là cách tiếp cận có thể được mô tả tốt nhất để các nhà tư tưởng cộng hòa áp dụng, như Niccolò Machiavelli (được thể hiện rõ trong "Discourses on Livy"), John Adams và James Madison.
Từ "republic" (cộng hòa) bắt nguồn từ cụm danh từ Latinh "res publica" (công sản), dùng để chỉ hệ thống chính quyền xuất hiện vào thế kỷ 6 TCN, sau khi Lucius Junius Brutus và Collatinus trục xuất các vị vua La Mã.
Hình thức chính phủ này ở nhà nước La Mã đã sụp đổ vào cuối thế kỷ 1 TCN, nhường chỗ cho chế độ quân chủ về hình thức, nếu không muốn nói là trên danh nghĩa. Các nền cộng hòa được tái lập sau đó, chẳng hạn như Firenze thời Phục hưng hay nước Anh thời kỳ đầu hiện đại. Quan điểm về một nước cộng hòa đã trở thành một tư tưởng mạnh mẽ ở các thuộc địa Bắc Mỹ của Anh, nơi nó góp phần vào cuộc Cách mạng Mỹ.
|
Chủ nghĩa cộng hòa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817029
|
Ở châu Âu, nó đã đạt được ảnh hưởng to lớn thông qua Cách mạng Pháp và thông qua Đệ Nhất Cộng hòa Pháp (1792–1804).
|
Sự phong phú của các nguyên tố trong vỏ Trái Đất
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817032
|
Sự phong phú của các nguyên tố trong vỏ Trái Đất được thể hiện ở dạng bảng với mức độ phong phú ước tính của lớp vỏ đối với từng nguyên tố hóa học được biểu thị bằng mg/kg hoặc parts-per-million (ppm) theo khối lượng (10.000 ppm = 1%).
Không dễ để ước tính độ phong phú của các nguyên tố vì thành phần của lớp vỏ trên và dưới khá khác nhau và thành phần của lớp vỏ lục địa có thể thay đổi đáng kể theo từng vị trí.
|
Mộng Hồ Điệp
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817034
|
Mộng Hồ Điệp (; , tiếng Anh: To Sir, With Love) là bộ phim truyền hình Thái Lan được sản xuất bởi One 31 với sự góp mặt của các diễn viên chính Thanapat Kawila, Rachata Hampanont, Kitsakorn Kanogtorn, Saksit Tangthong, Piyathida Mittiraroch, Panward Hemmanee, Camilla Kittivat Kirn. Bộ phim được phát sóng vào thứ hai và thứ ba hằng tuần trên kênh One 31 từ ngày 3 tháng 10 đến 28 tháng 11 năm 2022. Bộ phim nói về một mối tình đồng giới (trong phim sử dụng là đoàn tụ ()). Bộ phim nhận được nhiều sự chú ý trước khi phát sóng vì chủ đề mới lạ và đón nhận nhiều phản hồi tốt sau khi phát sóng.
"Mộng Hồ Điệp" là bộ phim truyền hình tình cảm boy love Thái Lan đầu tiên được lên sóng truyền hình ở Việt Nam trên TodayTV vào lúc 20h00 từ thứ 2 đến thứ 7 hàng tuần, bắt đầu từ 14 tháng 8 năm 2023 đến 14/09/2023.
Nội dung.
Năm 1931, 5 dòng họ thương nhân gốc Hoa ở Xiêm La đã trở nên giàu có nhờ vào việc kinh doanh đã cùng nhau thành lập Thương hội Ngũ Long. Người đứng đầu và có quyền quyết định của thương hội là Lão gia Song. Ông có tài trong việc quản lý và kinh doanh, nhưng nội bộ trong gia đình dần trở nên chao đảo bởi phu nhân Li và người con trai cả Tian, vợ thứ Jan và người con trai thứ Yang và vợ hầu Bua.
Trong gia đình người Hoa, nam nhân được đề cao. Tian là bộ mặt của gia đình, người sẽ tạo nên thành công cho dòng tộc Song, người sẽ kế vị người đứng đầu Thương hội Ngũ Long.
Nhưng tình yêu nam-nam bị cản trở trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ.
Diễn viên.
Diễn viên chính.
Danh sách diễn viên chính trong phim:
Đánh giá.
Trong bảng dưới đây, biểu thị rating thấp nhất và biểu thị rating cao nhất.
|
Chủ nghĩa khu vực (chính trị)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817037
|
Chủ nghĩa khu vực (tiếng Anh: Regionalism) là một hệ tư tưởng chính trị ủng hộ tăng cường quyền lực chính trị, ảnh hưởng và quyền tự quyết của người dân ở một hoặc nhiều đơn vị hành chính. Nó tập trung vào "sự phát triển của một hệ thống chính trị hoặc xã hội dựa trên một hoặc nhiều" khu vực và/hoặc lợi ích quốc gia, quy tắc hoặc kinh tế của một khu vực cụ thể, nhóm khu vực hoặc thực thể địa phương khác, đạt được sức mạnh từ hoặc nhằm củng cố "ý thức và lòng trung thành với một khu vực riêng biệt với dân số đồng nhất", tương tự như chủ nghĩa dân tộc. Cụ thể hơn, "chủ nghĩa khu vực đề cập đến ba yếu tố riêng biệt: các phong trào đòi quyền tự trị lãnh thổ trong các quốc gia đơn nhất; tổ chức của nhà nước trung ương trên cơ sở khu vực để thực hiện các chính sách của mình, bao gồm các chính sách phát triển khu vực; phân cấp chính trị và quyền tự trị khu vực".
Các khu vực có thể được phân định bởi đơn vị hành chính, văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo và nhiều loại khác. Yêu cầu của những người theo chủ nghĩa khu vực diễn ra dưới các hình thức "mạnh mẽ", chẳng hạn như chủ quyền, chủ nghĩa ly khai, ly khai và độc lập, cũng như các chiến dịch ôn hòa hơn để có quyền tự trị lớn hơn (chẳng hạn như quyền quốc gia, phi tập trung hóa hoặc phân quyền). Nghiêm túc mà nói, những người theo chủ nghĩa khu vực ủng hộ các liên hiệp quốc gia hơn là quốc gia dân tộc đơn nhất và chính phủ trung ương. Tuy nhiên, họ có thể chấp nhận các hình thức trung gian của định lý phân quyền.
Những người ủng hộ chủ nghĩa khu vực thường tuyên bố rằng việc củng cố các cơ quan quản lý và quyền lực chính trị trong một khu vực, với một chính phủ tập trung, sẽ mang lại lợi ích cho người dân địa phương bằng cách cải thiện nền kinh tế khu vực hoặc địa phương, xét về trách nhiệm tài chính tốt hơn, phát triển khu vực, phân bổ nguồn lực, thực hiện các chính sách và kế hoạch địa phương, khả năng cạnh tranh giữa các khu vực và cuối cùng là cả nước, phù hợp với nguyên tắc bổ trợ.
|
Vanadi(II) sulfide
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817040
|
Vanadi(II) sulfide là một hợp chất vô cơ của vanadi và lưu huỳnh có công thức hóa học VS, tồn tại dưới dạng tinh thể màu nâu đen.
Tính chất vật lý.
Vanadi(II) sulfide tạo thành tinh thể lục phương màu nâu đen, nhóm không gian P 6/mmc, các hằng số mạng tinh thể "a" = 0,334 nm, "c" = 0,5785 nm, Z = 2.
Tính chất hóa học.
Hợp chất bị oxy hóa khi đun nóng trong không khí:
|
Onaga Takeshi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817041
|
(2 tháng 10 năm 1950 - 8 tháng 8 năm 2018) là chính trị gia người Nhật Bản. Onaga từng là thành viên của Hội đồng tỉnh Okinawa từ năm 1992 đến năm 1996, giữ chức vụ làm thị trưởng Naha từ năm 2000 đến năm 2014 trước khi được bầu làm thống đốc. Năm 2014, Onaga trở thành thống đốc thứ 7 tỉnh Okinawa cho đến khi qua đời vào năm 2018.
|
Samsung Galaxy Z Fold 5
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817044
|
Samsung Galaxy Z Fold 5 là điện thoại thông minh có thể gập lại dựa trên Android sẽ được tạo ra bởi Samsung Electronics. Nó được công bố vào ngày 26 tháng 7 năm 2023.
Thiết kế.
Màu sắc.
Tại thị trường Việt Nam, có ba phiên bản màu chính thức và hai phiên bản màu độc quyền, bao gồm: Kem Ivory, Xanh Icy, Đen Phantom, Ghi Urban, Xanh Downtown.
Phần mềm.
Samsung Galaxy Z Fold 5 xuất xưởng với One UI 5.1.1 dựa trên Android 13.
|
Đồng(II) laurat
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817045
|
Đồng(II) laurat là một hợp chất hữu cơ kim loại có công thức hóa học Cu(C11H23COO)2. Nó được xếp vào loại xà phòng kim loại, tức là dẫn xuất kim loại của một acid béo.
Điều chế.
Đồng(II) laurat có thể thu được bằng phản ứng giữa natri laurat và đồng(II) sulfat trong dung dịch nước ở 50–55 °C.
Tính chất vật lý.
Đồng(II) laurat tồn tại dưới dạng tinh thể màu xanh dương nhạt, không tan trong nước.
|
Gam trên centimet khối
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817063
|
Gam trên centimet khối là một đơn vị đo khối lượng riêng trong hệ thống CGS, thường được sử dụng trong hóa học, được định nghĩa là khối lượng tính bằng gam chia cho thể tích tính bằng centimet khối. Các ký hiệu SI chính thức là g/cm3, g·cm-3 hoặc g cm-3. Nó tương đương với đơn vị gam trên mililít (g/mL) và kilôgam trên lít (kg/L). Mật độ của nước là khoảng 1 g/cm3, vì gam ban đầu được định nghĩa là khối lượng của một centimet khối nước ở mật độ tối đa của nó ở 4°C.
Chuyển đổi.
1 g/cm3 tương đương với:
1 kg/m3 = 0.001 g/cm3 (chính xác)
1 lb/cu ft ≈ (xấp xỉ)
1 oz/US gal ≈ (xấp xỉ)
|
Kilôgam trên mét khối
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817064
|
Kilôgam trên mét khối (ký hiệu: kg·m−3 , hoặc kg/m3) là đơn vị mật độ trong Hệ đo lường quốc tế (SI), được định nghĩa bằng khối lượng tính bằng kilôgam chia cho thể tích tính bằng mét khối.
Khác.
Mật độ của nước là khoảng 1000 kg/m3 hoặc 1g/cm3, vì kích thước của gam ban đầu được dựa trên khối lượng của một centimet khối nước.
Trong hóa học, g/cm3 được sử dụng phổ biến hơn.
|
Lịch sử pháp lý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817082
|
Lịch sử pháp lý hay lịch sử luật pháp là nghiên cứu về cách mà luật pháp đã tiến hóa và lý do tại sao nó thay đổi. Lịch sử pháp lý gắn liền với sự phát triển của nền văn minh và hoạt động trong bối cảnh rộng lớn hơn của lịch sử xã hội. Một số nhà pháp lý và lịch sử luật pháp đã coi lịch sử pháp lý là việc ghi chép sự tiến hóa của các quy luật và giải thích kỹ thuật về cách những quy luật này đã tiến hóa với quan điểm hiểu rõ hơn về nguồn gốc của các khái niệm pháp lý; một số người coi lịch sử pháp lý là một nhánh của lịch sử trí tuệ. Các nhà sử học thế kỷ 20 đã nhìn nhận lịch sử pháp lý theo một cách tiếp cận nhiều ngữ cảnh hơn - nhiều hơn là theo suy nghĩ của sử học xã hội. Họ đã xem xét các cơ sở pháp lý như những hệ thống phức tạp của quy tắc, người chơi và biểu tượng và đã nhìn thấy những yếu tố này tương tác với xã hội để thay đổi, thích nghi, chống lại hoặc thúc đẩy một số khía cạnh của xã hội dân sự. Những nhà lịch sử pháp lý như vậy đã có xu hướng phân tích lịch sử vụ án từ các tham số của khoa học xã hội tìm hiểu, sử dụng phương pháp thống kê, phân tích phân biệt lớp giữa các đương sự, người yêu cầu và các người chơi khác trong các quy trình pháp lý khác nhau. Bằng cách phân tích kết quả vụ án, chi phí giao dịch và số lượng vụ việc đã giải quyết, họ đã bắt đầu phân tích về các cơ sở pháp lý, thực hành, thủ tục và bản tóm tắt mà đưa ra hình ảnh phức tạp hơn về luật pháp và xã hội so với việc nghiên cứu triết học pháp lý, pháp lý học và bộ luật dân sự có thể đạt được.
Thế giới cổ đại.
Luật pháp Ai Cập cổ đại, có từ khoảng 3000 TCN, dựa trên khái niệm Ma'at, và được đặc trưng bởi truyền thống, hùng biện, sự bình đẳng xã hội và công bằng. Đến thế kỷ 22 TCN, Ur-Nammu, một vị lãnh đạo Sumer cổ đại, đã xây dựng bộ luật đầu tiên còn tồn tại, bao gồm các câu lệnh theo trường hợp ("nếu... thì..."). Vào khoảng năm 1760 TCN, Vua Hammurabi đã phát triển thêm luật Babylon, bằng cách mã hóa và khắc vào đá.
|
Lịch sử pháp lý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817082
|
Hammurabi đặt một số bản sao của bộ luật của mình khắp vương quốc Babylon dưới dạng stelae, để toàn bộ công chúng có thể thấy; điều này sau đó được biết đến với tên là Codex Hammurabi. Bản sao đầy đủ nhất của những stelae này đã được phát hiện trong thế kỷ 19 bởi các nhà Assyri học người Anh, và từ đó đã được phiên âm hoàn toàn và dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau, bao gồm tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Pháp. Người Hy Lạp cổ đại không có một từ duy nhất cho "luật" như một khái niệm trừu tượng, mà giữ nguyên sự phân biệt giữa luật pháp thiên nhiên ("thémis"), sắc lệnh con người ("nomos") và phong tục ("díkē"). Tuy nhiên, Luật Hy Lạp cổ đại đã chứa những đổi mới hiến pháp lớn trong sự phát triển của dân chủ.
Nam Á.
Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc đại diện cho những truyền thống pháp lý riêng biệt, và từ lâu có các trường phái lý thuyết và thực hành pháp lý độc lập. "Arthashastra", được viết từ năm 400 TCN, và "Manusmriti" từ năm 100 TCN đã là những tác phẩm có ảnh hưởng ở Ấn Độ, các văn bản này được coi là chỉ dẫn pháp lý có uy tín. Triết lý trung tâm của Manu là sự dung thứ và đa dạng, và đã được trích dẫn khắp Đông Nam Á. Trong suốt quá trình Xâm lược Hồi giáo ở tiểu lục địa Ấn Độ, sharia đã được thiết lập bởi các sultanate và đế chế Hồi giáo, đặc biệt là Đế quốc Mughal's Fatawa-e-Alamgiri, được biên soạn bởi hoàng đế Aurangzeb và các học giả Hồi giáo khác. Sau thời kỳ thực dân của Anh, truyền thống Hindu, cùng với luật Hồi giáo, đã được thay thế bằng luật phổ thông khi Ấn Độ trở thành một phần của Đế chế Anh. Malaysia, Brunei, Singapore và Hồng Kông cũng áp dụng luật phổ thông.
Đông Á.
Truyền thống pháp luật Đông Á phản ánh một sự kết hợp độc đáo giữa các ảnh hưởng tôn giáo và thế tục. Nhật Bản là quốc gia đầu tiên bắt đầu hiện đại hóa hệ thống pháp luật của mình theo hướng phương Tây, bằng cách nhập khẩu một số phần của Luật dân sự Pháp, nhưng chủ yếu là Luật Dân sự Đức. Điều này phần nào phản ánh tầm quan trọng của Đức trong những năm cuối thế kỷ XIX.
|
Lịch sử pháp lý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817082
|
Tương tự, pháp luật truyền thống Trung Quốc đã nhượng chỗ cho việc hiện đại hóa trong những năm cuối thời kỳ đường Thanh dưới hình thức sáu bộ luật dân sự dựa chủ yếu vào mô hình pháp luật Đức của Nhật Bản. Ngày nay, pháp luật Đài Loan giữ sự tương quan gần nhất với các sự pháp từ giai đoạn đó, bởi vì sự chia rẽ giữa các người dân quốc gia của Chiang Kai-shek, đã trốn thoát đến đó, và của Mao Zedong, đã giành được quyền kiểm soát lục địa vào năm 1949. Cơ sở pháp lý hiện nay tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã được ảnh hưởng nặng nề bởi pháp luật Xã hội của Liên Xô, bất kể chúng thực chất làm phát triển pháp luật hành chính ở mức độ bỏ lỡ quyền của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, ngày nay, do quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng, Trung Quốc đã đang cải cách, ít nhất là về quyền kinh tế (nếu không tính đến quyền xã hội và chính trị). Luật hợp đồng mới năm 1999 đã đại diện cho một bước ngoặt xa rời sự thống trị của quản trị hành chính. Ngoài ra, sau cuộc đàm phán kéo dài mười lăm năm, vào năm 2001, Trung Quốc đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.
Pháp luật Hội thánh.
Lịch sử pháp luật của Hội thánh Công giáo là lịch sử của pháp luật giáo hội Công giáo, hệ thống pháp luật liên tục hoạt động lâu nhất ở phương Tây. Pháp luật giáo hội phát sinh muộn hơn pháp luật La Mã nhưng cổ xưa hơn các truyền thống pháp luật dân sự châu Âu hiện đại. Sự trao đổi văn hóa giữa pháp luật thế tục (La Mã/Ba tư) và pháp luật tôn giáo (pháp luật giáo hội) tạo nên "jus commune" và ảnh hưởng rất lớn đến cả pháp luật dân sự và pháp luật thông thường.
Lịch sử pháp luật Latin pháp luật giáo hội có thể chia thành bốn giai đoạn: "jus antiquum", "jus novum", "jus novissimum" và "Mã Luật Pháp luật". Liên quan đến Mã luật, lịch sử có thể chia thành "jus vetus" (mọi luật trước Mã luật) và "jus novum" (luật của Mã luật, hoặc "jus codicis"). pháp luật giáo hội Đông phương phát triển riêng biệt.
Vào thế kỷ 20, pháp luật giáo hội được codified tổng thể.
|
Lịch sử pháp lý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817082
|
Ngày 27 tháng 5 năm 1917, Giáo hoàng Benedict XV đã codified 1917 Mã Luật Pháp luật giáo hội.
John XXIII, cùng với ý định triệu tập Hội đồng Vatican II, đã thông báo ý định sửa đổi pháp luật giáo hội, dẫn đến 1983 Mã Luật Pháp luật giáo hội, ban hành bởi John Paul II vào ngày 25 tháng 1 năm 1983. John Paul II cũng đưa ra một kết luận cho quá trình dài codifying pháp luật giáo hội Đông phương chung cho tất cả 23 sui juris Đông phương giáo hội Công giáo vào ngày 18 tháng 10 năm 1990 bằng cách ban hành Mã Luật Pháp luật giáo hội Đông phương.
Pháp luật Hồi giáo.
Một trong những hệ thống pháp luật lớn phát triển trong thời Trung Cổ là pháp luật Hồi giáo và pháp lý học. Một số cơ quan pháp luật quan trọng đã được phát triển bởi các nhà lãnh đạo Hồi giáo trong thời kỳ cổ điển của pháp luật Hồi giáo và Fiqh. Một trong những cơ quan như vậy là "Hawala", một hệ thống chuyển giao giá trị giới hạn chuyển tiền phi chính thức sớm được đề cập trong các văn bản của pháp lý học Hồi giáo cùng với những năm 8th century. "Hawala" sau này cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của "Aval" trong pháp luật dân sự Pháp và "Avallo" trong pháp luật Italy.
Pháp luật châu Âu.
Đế chế La Mã.
Pháp luật La Mã đã bị ảnh hưởng mạnh bởi các giảng dạy Hy Lạp. Nó tạo thành sự nối liền với thế giới pháp lý hiện đại, qua các thế kỷ giữa sự tăng trưởng và suy thoái của Đế chế La Mã. Pháp luật La Mã, trong thời kỳ của Cộng hòa La Mã và Đế chế, đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ về thủ tục và không có một tầng lớp pháp lý chuyên nghiệp. Thay vào đó, một người ngoài (iudex) được chọn để phân xử. Các tiền lệ không được báo cáo, vì vậy mọi trường hợp phát triển đều được che giấu và gần như không thể nhận ra. Mỗi trường hợp phải được quyết định lại từ luật của nhà nước, điều phản ánh (lý thuyết) tính không quan trọng của quyết định của các thẩm phán đối với các trường hợp tương lai trong các hệ thống pháp luật dân sự ngày nay. Trong thế kỷ 6 sau Công nguyên ở Đông La Mã, Hoàng đế Justinian đã codify và tổng hợp các luật pháp đã tồn tại ở La Mã để những gì còn lại là một phần 20 của khối lượng văn bản pháp lý từ trước.
|
Lịch sử pháp lý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817082
|
Điều này trở thành được biết đến với tên gọi "Corpus Juris Civilis". Như một nhà lịch sử pháp luật đã viết, "Justinian có ý định nhìn lại kỷ nguyên vàng của pháp luật La Mã và nhằm khôi phục nó lên đỉnh cao mà nó đã đạt ba thế kỷ trước đó."
Thời Trung Cổ.
Trong Đế quốc Byzantine, Đạo Luật Justinian được mở rộng và tiếp tục có hiệu lực cho đến khi Đế chế suy tàn, mặc dù nó không bao giờ được giới thiệu chính thức vào phương Tây. Thay vào đó, sau khi Đế chế phương Tây suy tàn và tại các quốc gia La Mã trước đây, các tầng lớp cai trị phụ thuộc vào Đạo Luật Theodosian để cai trị dân địa phương và pháp luật tập quán Germanic cho người di cư Germanic - một hệ thống được biết đến với tên gọi là quyền dân - cho đến khi hai luật hòa quyện vào nhau. Vì hệ thống tòa án La Mã đã bị đổ sập, các tranh chấp pháp lý được phán xét theo tập quán Germanic bởi các cuộc họp của những người học làm luật trong các nghi lễ nghiêm khắc và trong phiên điều trần bằng lời nói dựa nặng vào bằng chứng.
Sau khi phần lớn phương Tây được kết hợp lại dưới triều đại Charlemagne, pháp luật trở nên tập trung nhằm củng cố hệ thống tòa án hoàng gia và do đó luật tòa án, và bãi bỏ quyền dân. Tuy nhiên, sau khi vương quốc của Charlemagne chia tách rõ rệt, châu Âu trở thành một xã hội phong kiến và pháp luật thường không được cai trị ở trên cấp hạt, đô thị hoặc chủ lãnh đạo, tạo ra một nền văn hóa pháp luật rất phi tập trung ưa thích sự phát triển của pháp luật tập quán dựa trên luật tùy chỉnh địa phương. Tuy nhiên, vào thế kỷ 11, các chiến binh thập tự chinh, sau khi đã cướp bóc Đế chế Byzantine, trở về với các văn bản pháp lý Byzantine bao gồm Đạo Luật Justinian, và các học giả tại Đại học Bologna là người đầu tiên sử dụng chúng để diễn giải các luật tùy chỉnh của họ. Các học giả pháp lý châu Âu thời Trung Cổ đã bắt đầu nghiên cứu Pháp luật La Mã và sử dụng các khái niệm của nó và đã chuẩn bị đường cho sự tái sinh một phần của Pháp luật La Mã thành pháp luật dân sự hiện đại ở một phần lớn thế giới.
|
Lịch sử pháp lý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817082
|
Tuy nhiên, có rất nhiều sự chống đối nên pháp luật dân sự cạnh tranh với pháp luật tùy chỉnh trong phần lớn thời Trung Cổ muộn.
Sau khi xâm chiếm Norman Anh, giới quan tối cao của vua Anh đã phát triển một tập hợp tiền lệ đã trở thành luật thông thường. Đặc biệt, Henri II đã thực hiện cải cách pháp luật và phát triển một hệ thống tòa án hoàng gia do một số ít thẩm phán sống tại Westminster và di chuyển khắp vương quốc. Henri II cũng đưa ra Đạo Luật Clarendon vào năm 1166, cho phép xử án bởi hội đồng xét xử và giảm số lượng phiên tòa tranh đấu. Louis IX của Pháp cũng thực hiện cải cách pháp luật quan trọng và, được truyền cảm hứng từ thủ tục tòa án hội thánh, mở rộng bằng chứng văn bản Pháp luật Canôn và hệ thống xét xử bằng chứng. Ngoài ra, các thẩm phán không còn di chuyển khắp địa bàn mà cố định ở các khu vực của họ và người xét xử được đề cử bởi các bên tham gia vào tranh chấp pháp lý thay vì bởi thuế phải. Ngoài ra, vào thế kỷ 10, Luật Thương nhân, được thành lập ban đầu dựa trên tập quán thương mại Châu Âu Bắc của người Scandinavian, sau đó được củng cố bởi Liên minh Hansa, hình thành để các nhà buôn có thể thương mại sử dụng các tiêu chuẩn quen thuộc, thay vì rất nhiều loại pháp luật địa phương phân mảnh - thủ tục pháp luật. Là tiền thân của pháp luật thương mại hiện đại, Luật Thương nhân nhấn mạnh tự do hợp đồng và tính chất chuyển nhượng tài sản.
Pháp luật chÂu Âu hiện đại.
Hai truyền thống pháp luật Châu Âu hiện đại chính là hệ thống pháp luật được viết thành mã của hầu hết Châu Âu lục địa, và truyền thống Anh dựa trên pháp lệnh tư pháp.
Khi chủ nghĩa dân tộc trở nên mạnh mẽ vào thế kỷ 18 và 19, "lex mercatoria" được hội nhập vào pháp luật địa phương của các quốc gia dưới các mã dân sự mới. Trong số đó, Mã Napoleon của Pháp và Bürgerliches Gesetzbuch của Đức trở nên có ảnh hưởng nhất. Khác với pháp luật tư pháp Anh, gồm những quyển sách về pháp lệnh tư pháp, mã trong những cuốn sách nhỏ dễ xuất khẩu và dễ áp dụng cho các thẩm phán. Tuy nhiên, ngày nay có dấu hiệu cho thấy pháp luật dân sự và tư pháp đang hội tụ.
|
Lịch sử pháp lý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817082
|
Pháp luật Liên minh chÂu Âu được viết thành hiệp định, nhưng phát triển thông qua tiền lệ được thiết lập bởi Tòa án Công lý chÂu Âu.
Pháp luật chÂu Phi.
Hệ thống pháp luật chÂu Phi dựa trên pháp luật tư pháp và dân sự. Nhiều hệ thống pháp luật ở chÂu Phi dựa trên phong tục và truyền thống dân tộc trước khi bị thuộc địa thống trị hệ thống ban đầu của họ. Nhân dân lắng nghe ý kiến của người lớn và phụ thuộc vào họ như người trung gian trong khi xảy ra tranh chấp. Một số quốc gia không lưu giữ hồ sơ viết, vì luật của họ thường được truyền miệng. Trong Đế quốc Mali, "Kouroukan Fouga", được công bố vào 1222-1236 sau CN là hiến pháp chính thức của nhà nước. Nó quy định các quy định trong cả hai vấn đề hiến pháp và dân sự. Các quy định của hiến pháp vẫn được truyền tải đến ngày nay bởi các griots dưới tuyên thệ. Trong thời kỳ thuộc địa, chính quyền ở chÂu Phi phát triển hệ thống pháp luật chính thức được gọi là Các Tòa án Bản địa. Sau khi thuộc địa, các tôn giáo chủ yếu đã ở lại là Đạo Phật, Đạo Hindu và Đạo Do Thái.
Hoa Kỳ.
Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ phát triển chủ yếu từ hệ thống pháp luật tư pháp Anh (ngoại trừ tiểu bang Louisiana, tiếp tục tuân theo hệ thống dân sự Pháp sau khi được công nhận là một tiểu bang). Một số khái niệm từ pháp luật Tây Ban Nha, như đạo ngược đặt trước và tài sản cộng đồng, vẫn tồn tại ở một số tiểu bang Hoa Kỳ, đặc biệt là các tiểu bang đã là phần của Đất Tặc Mexico vào năm 1848.
Dưới nguyên tắc liên bang chủ nghĩa, mỗi tiểu bang có hệ thống tòa án riêng biệt, và có quyền lập pháp trong các lĩnh vực không được dành riêng cho chính phủ liên bang.
|
Pau Gasol
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817105
|
Pau Gasol Sáez (, ; sinh ngày 6 tháng 7 năm 1980) là cựu cầu thủ bóng rổ người Tây Ban Nha. Anh từng 6 lần được lựa chọn vào đội hình NBA All-Star và 4 lần vào đội hình All-NBA Team. Gasol giành 2 chức vô địch NBA liên tiếp cùng Los Angeles Lakers (2009 và 2010). Anh cũng là cầu thủ có quốc tịch ngoài Mỹ đầu tiên được trao giải thưởng NBA Rookie of the Year (Phát hiện của mùa giải NBA) năm 2002 trong màu áo Memphis Grizzlies. Gasol được công nhận rộng rãi là một trong những tiền phong chính xuất sắc nhất và là một trong những vận động viên bóng rổ châu Âu vĩ đại nhất mọi thời đại. Em trai của anh là Marc Gasol cũng là vận động viên bóng rổ chuyên nghiệp.
Gasol được Atlanta Hawks lựa chọn ở lượt thứ 3 ở kỳ draft năm 2001 nhưng ngay lập tức được đổi sang Vancouver Grizzlies. Anh vẫn đang giữ các kỷ lục về số lượt và điểm từ free throw tại Grizzlies. Sau 6 mùa giải tại Memphis, anh chuyển sang Los Angeles Lakers (2008–2014), Chicago Bulls (2014–2016), San Antonio Spurs (2016–2019) và Milwaukee Bucks (2019), trước khi giải nghệ tại đội bóng quê nhà FC Barcelona năm 2021.
Ở cấp độ đội tuyển quốc gia, Gasol từng đăng quang Giải vô địch bóng rổ thế giới vào năm 2006 tại Nhật Bản, 3 lần vô địch châu Âu EuroBasket (2009, 2011 và 2015), 2 Huy chương Bạc và 1 Huy chương Đồng tại Thế vận hội Mùa hè cho Đội tuyển bóng rổ quốc gia Tây Ban Nha. Anh cũng là chủ nhân danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất FIBA World Cup 2006 và Cầu thủ xuất sắc nhất EuroBasket 2009 và 2015. Gasol hiện vẫn là cầu thủ ghi nhiều điểm nhất lịch sử EuroBasket.
Từ năm 2021, Gasol là thành viên của Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC). Năm 2023, anh được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Bóng rổ Naismith.
|
Chủ nghĩa khu vực (quan hệ quốc tế)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817106
|
Trong quan hệ quốc tế, chủ nghĩa khu vực (tiếng Anh: regionalism) là một tư tưởng chính trị thể hiện ý thức chung về bản sắc và mục đích kết hợp với việc tạo ra và thực hiện các thể chế thể hiện bản sắc cụ thể và định hình hành động tập thể trong một khu vực địa lý. Chủ nghĩa khu vực là một trong ba yếu tố cấu thành hệ thống thương mại quốc tế (cùng với chủ nghĩa đa phương và chủ nghĩa đơn phương).
Các sáng kiến khu vực chặt chẽ đầu tiên bắt đầu vào những năm 1950 và 1960, nhưng dấu ấn dường như rất ít, ngoại trừ ở Tây Âu với việc thành lập Cộng đồng châu Âu. Một số nhà phân tích gọi những sáng kiến này là "chủ nghĩa khu vực cũ". Vào cuối những năm 1980, một đợt hội nhập khu vực mới (còn được gọi là "chủ nghĩa khu vực mới") bắt đầu và hiện vẫn tiếp tục. Một làn sóng mới về các sáng kiến chính trị thúc đẩy hội nhập khu vực đã diễn ra trên toàn thế giới trong hai thập kỷ qua. Các thỏa thuận thương mại khu vực và song phương cũng "mọc lên như nấm" sau thất bại của vòng đàm phán Doha.
Liên minh châu Âu có thể được phân loại là kết quả của chủ nghĩa khu vực. Ý tưởng đằng sau sự gia tăng bản sắc khu vực này là khi một khu vực trở nên hội nhập hơn về kinh tế, nó cũng sẽ cần thiết để hội nhập về mặt chính trị. Ví dụ về châu Âu đặc biệt có giá trị dưới góc độ này, vì Liên minh châu Âu, với tư cách là một tổ chức chính trị, đã phát triển sau hơn 40 năm hội nhập kinh tế bên trong châu Âu. Tiền thân của EU, Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) hoàn toàn là một thực thể kinh tế.
Định nghĩa.
Joseph Nye đã định nghĩa một khu vực quốc tế "là một số lượng hạn chế các quốc gia được liên kết bởi mối quan hệ địa lý và mức độ phụ thuộc lẫn nhau", và chủ nghĩa khu vực (quốc tế) là "sự hình thành các hiệp hội hoặc nhóm giữa các quốc gia trên cơ sở các khu vực".
|
Chủ nghĩa khu vực (quan hệ quốc tế)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817106
|
Tuy nhiên, định nghĩa này chưa bao giờ được chấp nhận rộng rãi, và một số nhà phân tích lưu ý, ví dụ, rất nhiều tổ chức khu vực được thành lập theo sáng kiến của các nước đang phát triển đã không thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa khu vực ở Thế giới thứ ba. Các nhà phân tích khác, chẳng hạn như Ernst B. Haas, nhấn mạnh sự cần thiết phải phân biệt các khái niệm hợp tác khu vực, hệ thống khu vực, tổ chức khu vực, hội nhập khu vực và chủ nghĩa khu vực.
Khu vực hóa.
Theo Cách tiếp cận Chủ nghĩa khu vực mới, chủ nghĩa khu vực trái ngược với khu vực hóa, khi nó là biểu hiện của các giao dịch thương mại và con người gia tăng trong một khu vực địa lý xác định. Chủ nghĩa khu vực đề cập đến một quá trình chính trị có chủ ý, thường được dẫn dắt bởi các chính phủ có mục tiêu và giá trị tương tự nhau nhằm theo đuổi sự phát triển chung trong một khu vực.Tuy nhiên, khu vực hóa chỉ đơn giản là xu hướng tự nhiên hình thành các khu vực hoặc quá trình hình thành các khu vực do sự tương đồng giữa các quốc gia trong một không gian địa lý nhất định.
Chính trị quốc gia.
Trong chính trị quốc gia (hay chính trị cấp thấp), chủ nghĩa khu vực là một khái niệm chính trị ủng hộ quá trình khu vực hóa, một quá trình phân chia một thực thể chính trị (thường là một quốc gia) thành các khu vực nhỏ hơn và chuyển giao quyền lực từ chính quyền trung ương cho các khu vực.
|
Pho mát hun khói
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817107
|
Pho mát hun khói là pho mát đã được xử lý đặc biệt bằng việc hun khói. Nó thường có vỏ ngoài màu vàng nâu mà đó là kết quả của quá trình đóng rắn này.
Quá trình hun khói.
Việc hun khói thường được thực hiện theo một trong hai cách: hun khói lạnh hoặc hun khói nóng. Phương pháp hun khói lạnh (có thể mất đến 1 tháng, tùy thuộc vào loại thực phẩm) hun khói thực phẩm ở nhiệt độ từ 20 đến 30 độ C (68 và 86 độ F). Hun khói nóng làm chín thực phẩm một phần hoặc hoàn toàn bằng cách xử lý thực phẩm ở nhiệt độ từ 40 đến 90 độ C (104 đến 194 độ F).
Một phương pháp khác, thường được sử dụng trong các loại phô mai rẻ tiền hơn, là sử dụng nước xông khói nhân tạo để tạo cho pho mát có hương vị khói và màu thực phẩm để tạo cho bên ngoài có vẻ như được hun khói theo cách truyền thống hơn.
Các loại pho mát hun khói phổ biến.
Một số loại pho mát hun khói thường được sản xuất và bán bao gồm pho mát Gruyère hun khói, Gouda hun khói (rookkaas), Provolone, Rauchkäse, Scamorza, Sulguni, Oscypek, Fynsk rygeost, và Cheddar hun khói.
|
Lutjanus viridis
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817108
|
Lutjanus viridis là một loài cá biển thuộc chi "Lutjanus" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1846.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "viridis" trong tiếng Latinh có nghĩa là “có màu xanh lục”, do loài cá này được mô tả và minh họa là có thân màu xanh lục với các sọc xanh lam đậm dọc hai bên lườn (thực ra loài này có màu vàng với các sọc xanh óng).
Phân bố và môi trường sống.
"L. viridis" có phân bố rộng rãi ở Đông Thái Bình Dương, từ phía nam bán đảo Baja California và cửa vịnh California trải dài về phía nam đến Peru, bao gồm quần đảo Revillagigedo, quần đảo Galápagos, đảo Malpelo, đảo Cocos và Clipperton xa bờ.
"L. viridis" sống xung quanh các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu độ sâu ít nhất là 60 m.
Mô tả.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. viridis" là 30 cm. Loài này có màu vàng tươi với 5 sọc ngang màu xanh lam óng viền đen, các vây đều màu vàng. Miệng tương đối lớn và dài. Những răng ở phía trước hàm thường to ra giống như răng nanh, mảng răng giữa vòm miệng hình chữ V, không nhô ra sau.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 14–15; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 16–17.
Sinh thái.
"L. viridis" đôi khi hợp thành đàn lớn vào ban ngày trên các rạn san hô hoặc mỏm đá.
Giá trị.
"L. viridis" chủ yếu quan trọng đối với nghề đánh bắt thủ công, thường được bán ở dạng tươi sống.
|
Man City (Ted Lasso)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817112
|
Man City là tập phim thứ 8 trong mùa thứ hai của loạt phim hài kịch về thể thao của Hoa Kỳ, "Ted Lasso", dựa trên cách nhân vật được điều hành bởi Jason Sudeikis trong một loạt quảng cáo cho kênh NBC Sports phát sóng các trận đấu tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh. Đây là tập tổng thể thứ 18 của bộ phim và được viết bởi nhà sản xuất kiêm điều hành Jamie Lee và được thực hiện bởi đạo diễn Matt Lipsey. Nó đã được phát hành trên Apple TV+ vào ngày 10 tháng 9 năm 2021.
Bộ phim kể về Ted Lasso, một huấn luyện viên bóng bầu dục đại học, người bất ngờ được bổ nhiệm vào chiếc ghế huấn luyện viên của một đội bóng viễn tưởng thi đấu tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh, AFC Richmond, mặc dù không có kinh nghiệm trong công tác làm huấn luyện viên bóng đá. Chủ tịch của đội bóng, Rebecca Welton, thuê Lasso với hy vọng anh ta sẽ thất bại như một phương tiện để trả thù chính xác chủ sở hữu trước đây của đội, Rupert, người chồng cũ không chung thủy của cô. Mùa giải trước chứng kiến Rebecca thay đổi ý định về hướng đi của câu lạc bộ và nhờ Ted cứu nó, mặc dù câu lạc bộ đã xuống hạng từ Premier League. Trong tập phim, AFC Richmond chuẩn bị đối đầu với Manchester City ở bán kết Cúp FA, trong khi Ted giúp Sharon hồi phục sau một sự cố.
Tập phim đã nhận được những đánh giá cực kỳ tích cực từ các nhà phê bình, những người khen ngợi màn trình diễn, sự phát triển của nhân vật và giọng điệu cảm xúc. Tuy nhiên, cốt truyện của Sam và Rebecca đã bị đón nhận một cách tiêu cực.
Cốt truyện.
Khi đang đạp xe, Sharon (Sarah Niles) vô tình bị một chiếc ô tô đâm trúng. Khi cô bị chấn động, Ted (Jason Sudeikis) đến bệnh viện để kiểm tra, để lại Roy (Brett Goldstein), Beard (Brendan Hunt) và Nate (Nick Mohammed). Roy cũng phải rời đi vì anh được gọi đến trường của cháu gái mình.
Cha của Sam (Toheeb Jimoh) gọi điện để thông báo rằng hành động của anh trong việc chống lại Dubai Air và chủ sở hữu của nó là Cerithium Oil đã khiến công ty bị trục xuất khỏi Nigeria và chúc mừng anh, điều này khiến Jamie (Phil Dunster) trở nên ghen tị. Sam cũng nhắn tin cho người hẹn hò với Bantr của mình mà không biết rằng đó là Rebecca (Hannah Waddingham) và hẹn gặp nhau để ăn tối, cô đã chấp nhận.
|
Man City (Ted Lasso)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817112
|
Bị bố ép mua vé xem trận bán kết Cúp FA trên Sân vận động Wembley, Jamie yêu cầu Higgins (Jeremy Swift) mua vé cho anh ở khu vực khó tiếp cận nhất của sân vận động, nhưng Higgins đã nhường ghế cho cha anh ở khu vực ghế VIP. Trong khi đó, Roy được giáo viên của Phoebe thông báo rằng cô đang bắt chước cách chửi thề của anh. Anh bảo Phoebe đừng làm việc đó nữa và cô đã đồng ý.
Sharon được xuất viện nhưng được bác sĩ khuyên rằng cô không thể đi một mình. Ted đi cùng cô về nhà, tìm thấy những chai rượu và rượu mạnh rỗng. Vào ban đêm, Sharon gọi cho Ted, cảm ơn anh đã giúp đỡ mình. Sam và Rebecca cuối cùng cũng gặp nhau, khiến cả hai ngạc nhiên. Bất chấp việc Rebecca đề nghị họ nên tạm dừng, Sam thuyết phục cô nên tiếp tục bữa tối mà họ rất thích. Khi anh đưa cô về nhà, cô hôn anh, mặc dù cả hai đều đồng ý rằng mọi chuyện sẽ không đi xa hơn thế.
Richmond tới Sân vận động Wembley, nơi họ sẽ gặp Manchester City. Trước trận đấu, Ted nói với ban huấn luyện rằng anh đã rời trận đấu trước của họ vì một cơn hoảng loạn, điều mà họ hiểu. Bất chấp sự quyết tâm của họ, Richmond để thua đậm với tỷ số 5–0 trong khi cha của Jamie, James (Kieran O'Brien), mặc chiếc áo đấu cũ của Jamie ở Manchester City, túm cổ anh từ khán đài. James vào phòng thay đồ và tiếp tục chế giễu Jamie và toàn đội vì trận thua của họ. Chán nản, Jamie đấm vào mặt anh ta, và Beard ném James ra ngoài. Jamie khóc trên vai Roy trong khi Ted run rẩy rời khỏi hiện trường. Anh gọi cho Sharon và cuối cùng cũng mở lòng về quá khứ của mình, thú nhận rằng cha của anh đã tự tử khi Ted mới 16 tuổi. Khi Ted trở lại câu lạc bộ, Beard đã quyết định rời đi trong đêm. Sau khi xem cuộc phỏng vấn sau trận đấu của Sam, Rebecca đã nhắn tin cho anh. Cô rời đi để gặp anh, chỉ để thấy anh ở trước cửa nhà cô. Họ hôn nhau khi Rebecca đóng cửa.
Phát triển.
Sản phẩm.
Tập phim được thực hiện bởi đạo diễn Matt Lipsey và được viết bởi nhà sản xuất kiêm điều hành Jamie Lee.
Đây là lần ghi công chỉ đạo thứ hai của Lipsey và lần ghi công thứ hai của Lee cho chương trình này.
Đánh giá của các nhà phê bình điện ảnh.
Man City đã nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình.
|
Man City (Ted Lasso)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817112
|
Myles McNutt của "The A.V. Club" cho tập phim điểm B và viết, "Tôi cảm thấy chúng ta đã đạt đến điểm trưởng thành trong bài diễn văn "Ted Lasso" mà tôi có thể dành thời gian kể chi tiết tôi thất vọng như thế nào với cốt truyện của Sam và Rebecca trong 'Man City' mà không làm hỏng các cuộc trò chuyện tuyệt vời mà chúng tôi đã có cho đến nay trong mùa giải này. Bởi vì mặc dù về tổng thể, tập phim đã thực hiện một số công việc tốt để chuyển chương trình sang màn thứ ba của mùa, nhưng việc giải quyết cốt truyện không phù hợp với tôi ở bất kỳ cấp độ nào.
Alan Sepinwall của "Rolling Stone" viết, "Mặc dù vậy, 'Man City' có thời lượng dài hơn 10 phút so với mức trung bình — về cơ bản là thời lượng của hai tập phim hài kịch tình huống chiếu liên tiếp nhau trên mạng hoặc của nhiều bộ phim truyền hình hiện đại. Nhưng nó không bao giờ có cảm giác dài, bởi vì nó kiếm được khoảng thời gian tương đối hoành tráng đó thời gian chạy. Phần này làm cho một số vòng cung của mùa này trở nên sôi nổi, ngay cả khi bản thân nó là một tập phim truyền hình được xây dựng thực sự tốt. Tất cả các phần khớp với nhau trong một cách thỏa mãn - nếu thường là buồn sâu sắc - xuyên suốt 45 phút đó, và nó nâng cao một số câu chuyện dài hơn mà không làm giảm trải nghiệm của phần này. Thật tuyệt vời."
Keith Phipps của "Vulture" đã cho tập phim 4 sao và viết, "Mất mát này sẽ để lại hậu quả. Jamie sẽ mất nhiều thời gian để hồi phục sau một lần bị sỉ nhục gấp đôi, và Beard sẽ làm gì có Chúa mới biết trong đêm ở Luân Đôn. Tinh thần của cả đội dường như bị suy sụp, và mặc dù Ted đã vượt qua màn đêm mà không đầu hàng trước cơn hoảng loạn, điều đó khiến anh suy sụp đến mức anh biết mình phải nói rõ với Sharon về một nguồn gốc rắc rối của mình: cái chết của cha anh do tự sát." Becca Newton của "TV Fanatic" cho tập phim 5 sao và viết, ""Ted Lasso" không phải là một chương trình vui vẻ, khẳng định cuộc sống bởi vì nó nghĩ rằng cuộc sống chẳng là gì ngoài việc bơi lội vô tận trong một bể chứa đầy tiền mặt và Sour Patch Kids.
|
Man City (Ted Lasso)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817112
|
Đó là một chương trình vui vẻ, khẳng định cuộc sống bởi vì nó thừa nhận những khía cạnh ít màu hồng hơn của cuộc sống. Vì vậy, mặc dù 'Man City' là phần đen tối nhất của chương trình cho đến nay, nó cũng có một số khoảnh khắc ấm áp nhất, thăng hoa nhất."
Linda Holmes của "NPR" thì viết, "Bộ phim hài kịch chân chính pha trộn một cách không hối lỗi các yếu tố kịch tính chân thực với sự ngớ ngẩn, một chương trình giống như "Barry" hay "The Marvelous Mrs. Maisel" hoặc "Fleabag" và "GLOW" hoặc "Insecure", mặc dù nó không hoàn toàn mới, nhưng nó đã tìm được chỗ đứng trong bối cảnh phát trực tuyến hiện tại mà cách đây 20 năm không nhất thiết phải tồn tại trừ một số trường hợp hiếm hoi. Và điều đó đưa chúng ta đến tập phim "Ted Lasso" tuần này." Còn Christopher Orr của tờ "The New York Times" thì viết, "Tôi chắc chắn rằng sẽ có nhiều ý kiến trái chiều về mối liên hệ giữa Rebecca và Sam. Và tôi nghĩ mọi người - bao gồm cả tôi! - nên chờ xem nó diễn ra như thế nào trước khi đưa ra kết luận chắc chắn. Nhưng có thể là tôi đã phóng đại (có hơi quá không?) mức độ mà cha của Sam đã nuôi dạy anh trở thành một quý ông."
Giải thưởng.
"TVLine" vinh danh Phil Dunster là "Người biểu diễn của tuần" cho tuần ngày 11 tháng 9 năm 2021, cho màn trình diễn của anh trong tập phim này. Trang này viết: ""Ted Lasso" Season 2 đã không có sự kịch tính cho đến khi đến với cậu con trai hoang đàng Jamie Tartt. Nhưng vào đầu tuần này, khi Jamie nhăn mặt trước một tin nhắn từ bố, bạn cảm thấy có điều gì đó đang âm ỉ. Nỗi kinh hoàng đó càng được khẳng định khi James và những nụ cười sảng khoái xuất hiện trong trận bán kết cho AFC Richmond – trong màu áo của đối thủ Man City. Tiếp theo là một cảnh căng thẳng giữa Jamie của Phil Dunster và nhạc pop của anh, người đến phòng thay đồ không chỉ để chế nhạo Jamie về việc thua (tồi tệ) trước câu lạc bộ mà anh đã chơi cùng trong một phút nóng nảy, mà còn coi những người bạn hiện tại của anh ấy là 'dân nghiệp dư'. Xuyên suốt bài diễn thuyết của James, Dunster đã cho chúng ta thấy Jamie nghiêm khắc, mặc dù rõ ràng là không hề lay chuyển. Bạn có thể nghe thấy tiếng cầu chì rít lên.
|
Man City (Ted Lasso)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817112
|
Cuối cùng, khi Jamie bấm giờ cho cha anh ấy, hãy xem lại và bạn sẽ thấy sự kết hợp của "Có phải tôi vừa đấm bố tôi không?" nỗi buồn và 'Chết tiệt, tôi đã làm!' giải quyết. Một cái ôm đầy nước mắt với Roy đã đánh dấu tác phẩm mang nhiều sắc thái nhất của Dunster."
|
Chonlathee Tharnthong
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817116
|
Chonlathee Tharnthong (; 31 tháng 8 năm 1937 – 21 tháng 7 năm 2023) là sáng tác luk thung Thái Lan và được biết đến với biệt danh là "Thiên thần nhạc (Luk thung)" (เทวดาเพลง) những bài hát của họ được nhiều người biết đến và trở thành ca sĩ làm rạng danh nền âm nhạc nước nhà. Ông được vinh danh bởi "Văn phòng Ủy ban Văn hóa Quốc gia Bộ Văn hóa" (hiện nay là Cục Xúc tiến Văn hóa Bộ Văn hóa) là Nghệ sĩ biểu diễn nghệ thuật toàn quốc 1999 (Nhà soạn nhạc Luk thung)
|
Jong Ajax
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817118
|
<ns>0</ns>
<revision>
<parentid>70490252</parentid>
<timestamp>2023-07-27T08:58:16Z</timestamp>
<contributor>
<ip>2405:4802:B292:CCB0:F9CE:10D1:6C9F:F9CB</ip>
</contributor>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format>
Jong Ajax () (tạm dịch là: "Ajax Trẻ"), còn được gọi là Ajax II hay Ajax 2, là một đội bóng đá hiệp hội Hà Lan , đội dự bị của Ajax. Đội có trụ sở tại Amsterdam và thi đấu tại Hà Lan Eerste Divisie.
|
Cơ quan Phát thanh Truyền hình Iran
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817125
|
Cơ quan Phát thanh Truyền hình Iran (tiếng Anh: "Islamic Republic of Iran Broadcasting"), (tiếng Ba Tư: صدا و سيمای جمهوری اسلامی ايران), (viết tắt: IRIB) là tổ chức phát sóng công cộng quốc gia thuộc sở hữu của . IRIB là một trong những tổ chức truyền hình lớn nhất ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. IRIB cũng là thành viên của Hiệp hội Phát thanh Truyền hình châu Á-Thái Bình Dương. IRIB có khoảng 13.000 nhân viên và 20 văn phòng chi nhánh trên toàn thế giới.
IRIB cung cấp các dịch vụ phát thanh và truyền hình trong và ngoài nước bao gồm 12 kênh truyền hình trong nước, 4 kênh truyền hình quốc tế, 30 kênh truyền hình địa phương. Một nửa trong tổng số 30 kênh truyền hình địa phương được phát sóng bằng các ngôn ngữ thiểu số ở Iran, ví dụ như tiếng Azerbaijan, tiếng Kurd hay phương ngữ của tiếng Ba Tư. IRIB cung cấp 12 đài phát thanh cho khán giả trong nước, 30 đài phát thanh dành cho khán giả hải ngoại và nước ngoài. Nhật báo nổi tiếng của Iran là Jam-e Jam thuộc sở hữu của IRIB.
Chỉ trích.
Sự cô lập của ngành công nghiệp điện ảnh Iran đã buộc các nhà làm phim phải định hướng lại đài truyền hình quốc gia. Một số thậm chí còn khuyến khích tảo hôn và chế độ đa thê, những hủ tục lỗi thời, tình trạng trọng nam khinh nữ bị phần lớn người dân Iran phản đối quyết liệt.
Trong bối cảnh xung đột gia tăng với Hoa Kỳ, hàng loạt cơ sở an ninh của Iran đã nổi lên như một nhà sản xuất chính của các bộ phim và truyền hình bom tấn tập trung vào sức mạnh của Lực lượng Vệ binh Cách mạng và các cơ quan tình báo của họ. Thậm chí, Iran tràn ngập các phiên bản nội địa phức tạp và không còn loại hình điện ảnh tự chất vấn, lật đổ từng cho phép xã hội đối thoại công khai với chính mình.
Cáo buộc nhận tội sai.
Một nghiên cứu được công bố vào tháng 6 năm 2020 bởi Tư pháp Iran và Liên đoàn Nhân quyền Quốc tế cho biết IRIB đã phát sóng lời thú tội có khả năng bị chèn ép của 355 tù nhân kể từ năm 2010. Các cựu tù nhân cho biết họ đã bị đánh đập và nhận được những lời đe dọa bạo hành tình dục khi phương tiện truyền thông để những lời khai không đúng sự thật một cách tùy tiện.
Trừng phạt.
Hoa Kỳ.
|
Cơ quan Phát thanh Truyền hình Iran
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817125
|
Trừng phạt.
Hoa Kỳ.
Văn phòng Kiểm soát Tài sản Nước ngoài của Bộ Ngân khố Hoa Kỳ cho biết, IRIB đã bị trừng phạt theo sắc lệnh hành pháp số 13628.
Liên minh châu Âu.
Liên minh châu Âu đã đưa IRIB vào danh sách bị trừng phạt vào tháng 12 năm 2022 với lý do đàn áp các cuộc biểu tình Mahsa Amini.
Sau lệnh cấm, Eutelsat đã cắt sóng vĩnh viễn các kênh truyền hình của IRIB cho toàn Châu Âu qua vệ tinh Hot Bird vào ngày 21 tháng 12 năm 2022.
|
MiSaMo
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817129
|
MiSaMo (, thường được viết cách điệu là MISAMO), là nhóm nhỏ chính thức đầu tiên của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc TWICE được thành lập bởi JYP Entertainment. Nhóm bao gồm các thành viên người Nhật Bản của TWICE là: Momo, Sana và Mina. Nhóm ra mắt vào năm 2023 với Mini Album: "Masterpiece".
Tên gọi.
Tên của nhóm MiSaMo, là từ ghép được tạo nên từ 2 chữ cái đầu của tên các thành viên: Mina, Sana và Momo. Trước khi thành lập nhóm nhỏ này, các thành viên của cũng thường dùng "MiSaMo" để nhắc đến chính họ.
Lịch sử thành lập.
Năm 2012, Sana và Momo ban đầu được lên kế hoạch ra mắt trong một nhóm nhạc nữ bốn thành viên tại Nhật Bản; tuy nhiên, JYP đã tạm hoãn kế hoạch do mối quan hệ Hàn-Nhật xấu đi sau vụ tranh chấp Liancourt Rocks. Vào năm 2015, các thành viên đã tham gia Mnet 's "Sixteen", một chương trình sống còn cạnh tranh để quyết định đội hình debut của Twice. Vào tháng 2 năm 2023, JYP thông báo rằng MiSaMo sẽ ra mắt với một mini album / EP gồm bảy bài hát, bao gồm cả "Bouquet", ban đầu được phát hành cho bộ phim truyền hình của TV Asahi "", vào ngày 26 tháng 7. Nhóm dự kiến sẽ tổ chức buổi giới thiệu đầu tay mang tên "MiSaMo Japan Showcase 2023" trong năm ngày tại Osaka và Yokohama, bắt đầu từ ngày 22 tháng 7.
|
Jamsil
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817134
|
Jamsil (, 蠶室, Tằm Thất) có thể là:
|
Freedom (EP của Justin Bieber)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817135
|
Freedom là đĩa đơn mở rộng (EP) thứ hai của ca sĩ người Canada Justin Bieber. Đây cũng là EP đầu tiên được Bieber phát hành kể từ "My World" (2009). Nó được phát hành bất ngờ vào ngày 4 tháng 4 năm 2021, bởi Def Jam Recordings. EP là phần tiếp theo của album phòng thu thứ sáu của Bieber "Justice", được phát hành vài tuần trước ngày 19 tháng 3 năm 2021. EP được lấy cảm hứng từ nhạc phúc âm.
Bối cảnh và bài hát.
"Freedom" là một EP lấy cảm hứng từ nhạc phúc âm, là cách Bieber bày tỏ tình yêu của mình với Chúa khi anh bắt đầu hành trình tìm kiếm để hiểu rõ hơn về bản thân và quá khứ của mình thông qua lăng kính niềm tin tôn giáo của mình. EP bắt đầu với ca khúc chủ đề cùng tên Freedom, mang âm hưởng của dòng nhạc Afrobeat, hợp tác với Beam. Các bài hát tiếp theo, "All She Wrote" có sự góp mặt của Brandon Love và Chandler Moore và đoạn cắt R&B từ "We're in This Together", Bieber chuyển sang rap về sự nổi tiếng của anh ấy và "cần được giải thoát", với phần sau cốt truyện ám chỉ đến việc năm 2014, cảnh sát bất ngờ đột kích vào nhà của anh ta ở Los Angeles sau khi bị cáo buộc đã ném trứng vào nhà hàng xóm và kết thúc bằng lời cầu nguyện cho những người đang lắng nghe và gia đình của họ. Ca khúc thứ tư, "Where You Go I Follow" có sự góp mặt của Moore, Pink Sweats và Judah Smith, Bieber hát về sự phục sinh của Chúa Giê-su. Anh hợp tác cùng với Moore, Smith và Tori Kelly trong ca khúc thứ năm, "Where Do I Fit In", họ nhắc về Chúa Giê-su và tình yêu vô điều kiện của ngài dành cho mọi người. Ca khúc cuối cùng, "Afraid to Say" với sự góp giọng của Lauren Walters, chuyển hướng tập trung vào phần nhạc guitar hơn khi Bieber đã bày tỏ ý kiến về việc Văn hóa tẩy chay.
Sự đón nhận.
Những phản hồi.
Halle Kiefer đã so sánh "Freedom" với album phòng thu thứ sáu của Bieber, "Justice", nói rằng cả hai đều thấy anh ấy "đang suy ngẫm về trạng thái tồn tại và tinh thần của sự tồn tại của mình". Emlyn Travis, viết cho MTV News, cho rằng EP Freedom đã "giúp Bieber định nghĩa lại bản thân và định hướng cho tương lai của mình". Tomás Mier từ "People" đã viết rằng "Bieber đang truyền tải tâm hồn của mình thông qua bài hát".
|
Freedom (EP của Justin Bieber)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817135
|
Brad Wheeler của "The Globe and Mail" cho rằng EP có hơi hướng "trần tục" và nó được coi là "chỉ quan tâm tới chính mình", đồng thời nói thêm, "Anh ấy không phục vụ ai đó - anh ấy đang phục vụ chính mình."
Hiệu suất thương mại.
"Freedom" ra mắt ở vị trí thứ 172 trên bảng xếp hạng "Billboard" 200 của Hoa Kỳ. EP đã được bán ra hơn 7.000 đơn vị album tương đương trong chưa đầy năm ngày trong tuần theo dõi đầu tiên. Đây là bài hát đầu tiên của Bieber có mặt trên bảng xếp hạng Top Christian Albums, ra mắt ở vị trí thứ ba trong tuần của ngày 17 tháng 4 năm 2021. Tất cả sáu bài hát của EP đồng thời lọt vào bảng xếp hạng Hot Christian Songs, cũng trở thành lần góp mặt đầu tiên Bieber ở đó.
Xếp hạng.
|
Hamburg European Open 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817139
|
Hamburg European Open 2023 là một giải quần vợt nam và nữ thi đấu trên mặt sân đất nện ngoài trời. Đây là lần thứ 117 (nam) và lần thứ 21 (nữ) giải đấu được tổ chức. Giải đấu là một phần của ATP Tour 500 trong ATP Tour 2023 và WTA 250 trong WTA Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Am Rothenbaum ở Hamburg, Đức từ ngày 24 đến ngày 30 tháng 7 năm 2023.
Nội dung đơn ATP.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
Bảo toàn thứ hạng:
Vượt qua vòng loại:
Thua cuộc may mắn:
Nội dung đôi ATP.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
Vượt qua vòng loại:
Thua cuộc may mắn:
Nội dung đơn WTA.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
Miễn đặc biệt:
Vượt qua vòng loại:
Nội dung đôi WTA.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
|
Hạt Đại diện Tông tòa Anatolia
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817142
|
Hạt Đại diện Tông tòa Anatolia (; ) là một Hạt Đại diện Tông tòa của Giáo hội Công giáo Rôma có lãnh thổ bao gồm vùng phía đông Anatolia thuộc Thổ Nhĩ Kỳ.
Hạt Đại diện Tông tòa Anatolia không thuộc một Giáo tỉnh nào. Khác với các cơ quan theo nghi lễ Latinh khác, Hạt Đại diện chịu sự quản lí của Bộ Giáo hội Đông phương, đồng thời phụ thuộc trực tiếp vào Tòa Thánh.
Nhà thờ chính tòa của Hạt Đại diện Tông tòa là Nhà thờ chính tòa Thiên sứ truyền tin ở İskenderun. Ngoài ra, Hạt Đại diện còn có một nhà thờ chính tòa đôi là Nhà thờ chính tòa đôi Thánh Antôn thành Padova tại Mersin.
Thống kê.
Đến năm 2020, Hạt Đại diện Tông tòa bao phủ diện tích 450 nghìn km², gồm 6 giáo xứ và hai giáo hội truyền giáo để phục vụ một nghìn người Công giáo Thổ Nhĩ Kỳ và người Công giáo nhập cư từ Syria, Iraq, Iran, Afghanistan, và Pakistan.
|
Hạt Đại diện Tông tòa Pakse
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817153
|
Hạt Đại diện Tông tòa Pakse (; ) là một Hạt Đại diện Tông tòa của Giáo hội Công giáo Rôma tại phía nam nước Lào.
Là một Hạt Đại diện Tông tòa, Hạt Đại diện Tông tòa Pakse được giao cho một Giám mục hiệu tòa quản lí, đồng thời không thuộc một Giáo tỉnh nào, thay vào đó là chịu sự quản lí trực tiếp của Tòa Thánh thông qua Bộ Truyền giáo.
Nhà thờ chính tòa của Hạt Đại diện Tông tòa là Nhà thờ chính tòa Thánh Tâm ở Pakxe.
Lịch sử.
Hạt Đại diện Tông tòa được thành lập vào ngày 12/6/1967 với tên Hạt Đại diện Tông tòa Pakse / Paksé (tiếng Pháp), trên lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Savannakhet.
Thống kê.
Hạt Đại diện Tông tòa bao phủ diện tích 45,000 km², là Hạt Đại diện Tông tòa nhỏ nhất tại Lào. Hạt Đại diện Tông tòa bao gồm các tỉnh Champasack, Attapeu, Saravane, và Sekong, nhưng đa số người Công giáo chỉ sống ở Champasack và Saravane. Đến năm 2016, Hạt Đại diện Tông tòa chỉ có khoảng 15.000 giáo dân (1,3%) trên dân số 1,3 triệu người, trong đó một nửa số giáo dân là người dân tộc thiểu số. Hạt Đại diện Tông tòa bao gồm 46 giáo xứ và 7 linh mục (6 linh mục triều, 1 linh mục dòng), 22 tu sĩ (10 nam, 12 nữ) và 16 chủng sinh. Ngoài ra còn có 19 nữ tu từ Dòng Nữ Tu Bác Ái và Dòng Nữ Tu Thánh Maria Thánh Giá.
|
Vào đời
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817176
|
Vào đời là một tiểu thuyết của nhà văn Hà Minh Tuân, xuất bản lần đầu năm 1963 bởi Nhà xuất bản Văn học, Hội Nhà văn Việt Nam. Thời điểm mới ra mắt, tác phẩm từng trở thành tâm điểm chỉ trích nặng nề bởi giới văn nghệ lẫn báo chí miền Bắc Việt Nam vì nội dung phản ánh chân thực không khí xã hội thời kỳ phục hồi kinh tế. Cuốn sách bị coi là một "vụ án văn học" lớn kể từ phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm và đã tạo ra những hệ lụy đáng kể tới cuộc đời lẫn sự nghiệp văn chương của Hà Minh Tuân. Phải nhờ những cải cách trong thời kỳ Đổi Mới, sách mới được tái bản trở lại tới người đọc vào năm 1991.
Nội dung.
Đặt trong bối cảnh cuối những năm thập niên 1950, Sen là một cô thiếu nữ sinh ra trong gia đình công chức ở Hà Nội. Vì nhà nghèo nên Sen đã phải dở dang việc học, từ bỏ giấc mơ sư phạm để đi kiếm tiền phụ cha mẹ nuôi hai em nhỏ. Tuy nhiên bố mẹ lại muốn ép cô kết hôn với một bác sĩ vừa mất vợ đến hỏi. Sen từ chối và bỏ nhà trong đêm đi lập nghiệp nơi khác. Nhờ lời gợi ý của cô bạn Loan, Sen đã đăng ký vào làm cho một công trường xây dựng nhà máy cơ khí hiện đại mang tên Tháng Tám ở ngoại thành Hà Nội.
Thời gian đầu đến đây, vì bỡ ngỡ trước môi trường mới, những công việc nặng nhọc đã choán hết sức lực của Sen và khiến cô nhiều lúc suy tưởng tới việc bỏ về nhà. Nhờ sự hỗ trợ của bí thư chi đoàn Trần Lưu cùng chị đồng nghiệp Bổn, Sen dần làm quen với nếp sinh hoạt, lao động tập thể và được điều làm giáo viên dạy văn hóa cho các nhân viên của công trường. Trần Lưu cũng thầm đem lòng cảm mến nghị lực của Sen nhưng lại không đủ dũng cảm để nói thành lời. Bi kịch một ngày nọ đã ập đến Sen khi trong một lần đi trên đường khuya về, cô bị hai tên công nhân là Mai và Song bịt mắt lại rồi giở trò đồi bại, hãm hiếp khiến cô mang thai. Giữa những ngày nằm sốt li bì vì bị ốm, Sen âm thầm mang niềm đau xót tủi hổ cho riêng mình. Không lâu sau Sen được cử đi học cơ khí để về phục vụ cho phân xưởng mới xây xong.
|
Vào đời
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817176
|
Thời gian này cô đã làm quen và nảy sinh tình cảm với Hiếu, một đại đội trưởng chuyển ngành và là đồng lớp của Sen. Hiếu đã chấp nhận đứa con trong bụng Sen lúc biết sự tình và cả hai đi đến kết hôn với nhau.
Bắt đầu cuộc sống mới khi cùng chồng trở lại nhà máy cơ khí Tháng Tám, Sen đã làm việc miệt mài không kể ngày đêm và đạt được nhiều thành tích trong lao động. Trong khi đó Hiếu lại dần tha hóa, biến chất trong suy nghĩ và hành động, một phần là vì cái chết oan của người bố trong Cải cách ruộng đất, phần khác là sự dụ dỗ, a dua của Mai và Song vận động chống lại lãnh đạo quan liêu trong nhà máy. Những xung đột về hệ tư tưởng đã khiến mối quan hệ vợ chồng giữa Sen và Hiếu ngày càng xa cách.
Sau khi Sen sinh tiếp đứa con trai thứ hai tên Học, Hiếu cũng dần bỏ bê gia đình, đàn đúm với hội bạn làm nhiều chuyện sai trái bất chấp sự khuyên can của vợ. Vì nghi ngờ Sen có tình ý với Trần Lưu, cơn giận trong Hiếu ngày càng dâng lên khiến anh không còn giữ được lời hứa với Sen và luôn đay nghiến cô về nỗi đau trong quá khứ. Rồi một ngày bất ngờ bé Học bị bại liệt, Hiếu khi biết tin không những không thông cảm với Sen mà cho rằng Sen đã thông đồng với Trần Lưu để giết con rồi bỏ nhà đi. Không lâu sau, những việc làm mờ ám của Hiếu – Mai – Song đã dần lộ tẩy; Hiếu bị khai trừ khỏi nhà máy và phải lao động cải tạo tại một nông trường trên Tây Bắc. Những biến cố dồn dập ập đến tưởng chừng phải khiến Sen gục ngã trước số phận, nhưng cô vẫn toàn tâm toàn ý cống hiến sức lực và thời gian cho công việc, để rồi được lên báo, được vinh danh là một "chiến sĩ thi đua". Kết truyện, Trần Lưu đã mạnh dạn gửi một bức thư đến Sen, bày tỏ tình cảm thầm kín bấy lâu nay dành cho cô và lời từ chối trong thâm tâm Sen vì niềm mặc cảm với thân phận của mình.
Bối cảnh và xuất bản.
Giai đoạn 1960-1975, văn học Việt Nam đã chứng kiến sự ra đời của nhiều tác phẩm về đề tài "xây dựng xã hội chủ nghĩa" nhằm thỏa mãn nhu cầu mới của bạn đọc. Các tác giả Nguyễn Khải, Võ Huy Tâm, Chu Văn đã xuất bản một số tiểu thuyết liên quan đến đề tài trên.
|
Vào đời
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817176
|
Mặc dù Việt Nam lúc này vẫn đang trong không khí xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, song sự chống đối lẫn nhau giữa hai nước lớn thuộc khối xã hội chủ nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc về chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều khi đó cũng đã ít nhiều tác động đến đời sống chính trị Việt Nam, trong đó có giới phê bình nghệ thuật.
Vào mùa hè năm 1963, sau vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, Đảng Lao động Việt Nam tiếp tục phát động một chiến dịch đặc biệt trên báo chí vạch trần các khuynh hướng văn học và nghệ thuật có biểu hiện tán thành tư tưởng không phù hợp. Theo nhà nghiên cứu Martin Grossheim (2013), chiến dịch này phản ánh đường lối quân phiệt của Đảng trong việc xây dựng đất nước chủ nghĩa xã hội và thống nhất hai miền bằng vũ lực. Hàng loạt các tác phẩm như "Mở hầm" (Nguyễn Dậu), "Những người thợ mỏ" (Nguyễn Huy Tâm) hay "Đống rác cũ" (Nguyễn Công Hoan) đã bị đưa vào vòng phê phán và bị cho là những sáng tác có "vấn đề", "ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại".
Vào cuối thập niên 1960, Hà Minh Tuân chuyển ngành từ quân đội sang làm giám đốc Nhà xuất bản Văn học (cũ), một cơ sở được thành lập sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Trước "Vào đời", ông từng có trong tay hai cuốn tiểu thuyết sử thi "Trong lòng Hà Nội" (1957) và "Hai trận tuyến" (1960) – đều là những tác phẩm mang khuynh hướng ngợi ca và nhận về sự phê bình tích cực từ công chúng đương thời. Năm 1963, sau sự kiện hai Nhà xuất bản là Nhà xuất bản Văn học (cũ) và Nhà xuất bản Văn hóa sáp nhập lại thành Nhà xuất bản Văn học (mới), các nhân sự của nhà xuất bản Văn học cũ từ trụ sở 38 phố Hai Bà Trưng đã chuyển về tòa biệt thự 49 Trần Hưng Đạo. Hà Minh Tuân vẫn tiếp tục đảm nhận chức vụ giám đốc và đã cho in tiểu thuyết thứ ba của mình là "Vào đời". "Vào đời" trước đó được viết trong hai năm 1962 – 1963 và in tại nhà máy in Tiến bộ, xong trong tháng 4 năm 1963 rồi nộp lưu chiểu cùng tháng.
|
Vào đời
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817176
|
Điều này có nghĩa là cuốn sách – với độ dài 330 trang và 32 chương – đã ra mắt tại Hà Nội từ đầu quý II năm 1963. Vì nhận thức được rằng rất có thể tác phẩm của mình sẽ không được phép phát hành nên Hà Minh Tuân đã bỏ qua bước nhờ biên tập rồi tự ký giấy cho phép xuất bản "Vào đời" với tư cách là giám đốc của nhà xuất bản.
Phân tích.
Âm hưởng chủ đạo của "Vào đời" là "ca ngợi và khẳng định sự chiến thắng, vươn lên của con người trước mọi hoàn cảnh" gắn liền với "thái độ phê phán những khía cạnh tiêu cực của hiện thực xã hội". Hà Minh Tuân trong tiểu thuyết này đã gợi lên không khí thi đua sản xuất và tình cảm hữu ái giữa người và người với nhau, sự hỗ trợ của các nhân vật dành cho nhân vật chính Sen trên bước đường vào đời. Điều này được thể hiện qua các không gian đại cảnh chi phối toàn bộ tác phẩm như trong công trường nhà máy, nhà máy và những đại hội thi đua... Theo nhà văn Tô Hoài, khi viết cuốn tiểu thuyết này Hà Minh Tuân đã chịu ảnh hưởng lớn của một số tiểu thuyết dịch của Ba Lan như "Mùa gặt". Chính tác giả tiếu thuyết cho biết những câu chuyện ông khắc họa đều xuất phát từ hoàn cảnh có thực và không hư cấu; tất cả được thu thập từ một chuyến đi thực tế đến nhà máy cơ khí Trung quy mô. Ông đã được cấp chiếc thẻ ra vào, một chiếc giường con và bàn viết.
Ở mặt tiêu cực của "Vào đời", Hà Minh Tuân không né tránh khi "thể hiện bộ mặt xã hội và tương quan giai cấp trong một thời kỳ lịch sử". Ông đặt trọng tâm câu chuyện vào Sen – như là đại diện cho cả một thế hệ thanh niên "đang sa lầy". Nhà văn đã dựng lên hai tuyến nhân vật tốt và xấu trong truyện: một bên là những mối quan hệ yêu thương đùm bọc nhau, còn một bên là tầng lớp lãnh đạo quan liêu trong xưởng cơ khí và những cảnh ngộ lầm than bởi xã hội thời kỳ quá độ xã hội chủ nghĩa. Trong đó, vấn đề quan liêu và chống quan liêu đã được đặt làm vấn đề "then chốt" xuyên suốt nội dung tiểu thuyết. Không khí của Hà Nội "ảm đạm" cũng hiện ra qua những đoạn miêu tả của nhân vật được viết bởi Hà Minh Tuân.
|
Vào đời
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817176
|
Ông cũng tập trung khắc họa các nhân vật phản diện, vốn là điều bị hạn chế trong văn học Việt Nam những năm thập niên 60-70.
Có những chi tiết tiêu cực được Hà Minh Tuân miêu tả trong truyện đã khiến ông vướng phải tranh cãi. Chi tiết đầu tiên là việc đề cập tới sai lầm trong Cải cách ruộng đất, với việc dẫn ra tình tiết bố của nhân vật Hiếu là một bộ đội phục viên nhưng bị quy sai thành phần địa chủ mà uất ức thắt cổ tự tử, từ đó gây nên những diễn biến trong con người nhân vật này khi "không đủ sáng suốt và bình tĩnh để lý sự rạch ròi về những chuyện sai lầm đã xảy ra trong cải cách ruộng đất". Nhà văn cũng nhắc đến vấn nạn hiếp dâm ở mức độ "khá nghiêm trọng" tại Việt Nam những năm thế kỷ 20 khi đặt ra tình tiết nhân vật chính Sen bị cưỡng bức bởi hai công nhân mà có bầu. Hay chi tiết lãnh đạo đuổi việc công nhân, bắt giam công nhân và đánh đập; công nhân biểu tình đòi bắt "bỏ rọ" chủ nhà máy hoặc chi tiết nhân vật phản diện giả làm trung tá, đại tá đi tống tiền, lừa tình cũng được cho là nguyên do gây "nhiễu" những cái được của tiểu thuyết, và lối tư duy nhị nguyên của đại đa số người dân thời điểm đó, trong bối cảnh xã hội đó khiến "Vào đời" trở thành tâm điểm của những phê bình lúc ra đời.
Tiếp nhận.
Đương thời.
Miền Bắc Việt Nam.
"Vào đời" khi mới ra mắt không có quá nhiều dư luận để tâm, ngoại trừ một bài báo đăng trên "Tiền phong" phê bình tác phẩm. Chỉ đến khi một chính khách lớn thời đó là Nguyễn Chí Thanh đọc được sách rồi chuyển vấn đề văn học thành vấn đề chính trị, phát động một chiến dịch "đánh "Vào đời"" thì sự việc mới được mổ xẻ đồng loạt bởi báo chí miền Bắc. "Vào đời" đã trở thành trường hợp tiêu biểu hơn cả so với những đợt phê phán các tác phẩm khác cùng thời khi rơi vào tầm chỉ trích của vô số cơ quan ngôn luận từ Trung ương đến thành phố. Tất thảy đều tập trung phê phán điểm nhìn và những tình huống trong cuốn tiểu thuyết, đặc biệt là tình tiết liên quan đến vụ Cải cách ruộng đất.
|
Vào đời
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817176
|
Một đợt phê phán "Vào đời" trên diện rộng đã diễn ra trong hơn 2 tháng, bắt đầu từ bài báo sớm nhất đăng ngày 13 tháng 6 năm 1963 và bài cuối cùng là trên tuần báo "Văn nghệ" ngày 16 tháng 8 năm 1963.
Theo ước tính của nhà văn Mai Ngữ, có đến 60 bài viết đã liên tục được đăng tải trên vô số tờ báo, tạp chí khác nhau hướng mũi công kích vào "Vào đời"; cao điểm trong vòng hơn một tháng đã có 46 bài báo được đăng tải. Tổng cộng số bài phê bình "Vào đời" chỉ trong năm 1963 gần chạm mốc trăm bài hoặc hơn. Tuy nhiên những bài không được đăng lên báo còn lớn hơn rất nhiều, đơn cử chỉ báo "Tiền phong" ghi nhận "mỗi ngày nhận được từ 20 đến 30 bài của thanh niên thuộc đủ các thành phần xã hội [...] gửi đến phát biểu ý kiến phê phán cuốn tiểu thuyết này". Tiểu thuyết đã bị phê phán một cách gay gắt, bị quy kết theo cách vô cùng nặng nề khi bị cho là mang nặng tư tưởng xét lại hiện đại; chủ nghĩa cá nhân "suy bại và yếu ớt"; "phi vô sản, phi mác-xít". Cuốn sách hầu như không được ra mắt sâu rộng mà chỉ bị đưa ra làm một trường hợp để nhắc nhở với tinh thần phê phán, bị coi là một "con bệnh nguy hiểm" được "tập trung mổ xẻ" với các lý do gồm: "thiếu tính Đảng, xuyên tạc sự thật, bôi đen chế độ, bóp méo hình ảnh người lính cách mạng". Có ý kiến mạnh bạo hơn đã xếp "Vào đời" vào hàng "phản động" hay truyện mang "tư tưởng, thế giới quan tiểu tư sản" gắn với "triết lý hưởng lạc, sa đoạ, lối sống gấp kiểu Mĩ"".
Bên cạnh tính tư tưởng trong nội dung, "Vào đời" cũng bị cho là một quyển truyện "kém cỏi" về mặt phản ánh hiện thực nghệ thuật và xây dựng tình tiết, nhân vật.
|
Vào đời
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817176
|
Tiêu biểu, nhà văn Nguyễn Đình Thi – chủ nhiệm của báo "Văn nghệ" – đã viết một bài tự phê bình đồng nghiệp của mình, chỉ ra những khuyết điểm trong tác phẩm như "viết sơ sài và bằng phẳng"; "nhiều nét chi tiết rải rác, có chi tiết lắp đi lắp lại, có chi tiết đưa ra tùy tiện, chẳng dính dáng gì đến cốt truyện"; "cố thêu dệt nhiều tình tiết éo le, gai góc, pha vào truyện những chất “lâm ly hấp dẫn” [...] làm cho người đọc phát ngán và bực bội". Ông cũng chỉ trích Hà Minh Tuân đã "chắp vá đủ thứ chi tiết và hiện tượng, lượm lặt lung tung" vì sự non yếu trong tay nghề và "nghèo vốn sống, thiếu hiểu biết về thực tế ở công trường nhà máy".
Trong số những luồng ý kiến chỉ trích "Vào đời", hầu hết tác giả của chúng đều xuất phát từ cán bộ làm công tác tư tưởng ở các cơ sở sản xuất, những nhân vật của Đoàn thanh niên, Công đoàn, công tác lý luận, mặt trận; những người tự xưng là quân nhân, còn tại ngũ hoặc đã chuyển ngành. Tất cả đều chỉ dùng biệt hiệu và không dùng tên thật. Những tờ báo vào cuộc hăng hái nhất cũng đều xuất phát trong giới này như "Lao Động", "Cứu Quốc"; riêng "Tiền phong" thì đưa tin nhiều nhất với gần 10 bài báo dài. Những ý kiến từ dư luận đã trở thành tiên phong và mang yếu tố quyết định, lôi cuốn giới văn nghệ sĩ phải vào cuộc để chỉ trích "Vào đời". Các nhà phê bình văn học Hồng Chương, Như Phong là những người đã phê phán "Vào đời" sớm nhất và tích cực nhất. Ngay cả báo "Văn nghệ" cũng phải lên tiếng xin lỗi vì thời điểm ra mắt sách đã không lớn tiếng phê phán mà chỉ viết bài điểm sách và phê phán lướt qua "nhẹ nhàng".
Tối ngày 3 tháng 7 năm 1963, nhiều văn nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Kim Lân và vô số nhà văn khác đã họp tại trụ sở Hội Nhà văn ở số 65 phố Nguyễn Du, Hà Nội để phê phán cuốn truyện và chỉ ra những "sai lầm nghiêm trọng" trong tư tưởng của "Vào đời" sau phần trình bày của Hà Minh Tuân.
|
Vào đời
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817176
|
Vì áp lực dư luận, nhất là sau hai bài báo trên tờ "Nhân Dân" cùng đặt ra câu hỏi về trách nhiệm của đơn vị xuất bản sách, đến ngày 6 tháng 7 năm 1963, tân giám đốc Nhà xuất bản Văn học (mới) Hoàng Trung Thông phải tiếp tục tự phê bình khuyết điểm của nhà xuất bản và của người tiền nhiệm đối với việc in cuốn "Vào đời" trước toàn thể các đồng chí khác tại Hội nghị thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.
Miền Nam Việt Nam.
Trong dư luận miền Nam, vụ "Vào đời" không thực sự được nhiều người biết đến, ngoại trừ một bài nhận xét dài của tác giả Sông Thai viết cho tạp chí "Văn Học" (1966). Trong đó, ông đã xem "Vào đời" là một "thành công mới" của Hà Minh Tuân vì sự "cân đối giữa nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật", công nhận tác phẩm "Vào đời" khi "không bóp méo sự thật và thiếu thành thực để thổi phồng những cái lẻ tẻ thành rộng lớn, bao trùm" và có tác dụng "khai thông cho những xu thế bế tắc, trốn tránh, hoặc xu nịnh, tô hồng xã hội". Người viết cũng đồng thời mỉa mai thái độ của chính quyền miền Bắc với tác phẩm và tác giả, từ đó cho thấy một nhà văn còn "lương tâm [...] bất chấp mọi đe dọa, cực hình của những bàn tay hung hãn luôn luôn can thiệp vào văn nghệ".
Hậu thế.
Sau khi Việt Nam bước vào thời kỳ Đổi Mới, giới phê bình văn học Việt Nam đã có những quan điểm khách quan hơn với "Vào đời". Cuốn sách được coi là một tác phẩm "vượt lên trước tín hiệu cho phép" khi "phản ánh trung thực" những khía cạnh lúc đó bị coi là sai lệch nhưng đã trở thành những vấn đề còn tồn tại trong xã hội Việt Nam cho tới nhiều thập kỷ sau, cho thấy tinh thần "dự báo hiện thực" của tác phẩm. Đối với Lại Nguyên Ân (2015), ông đã xem "Vào đời" là một tác phẩm "không nên xem thường" khi từng gây sóng gió dư luận giữa những năm thập niên 1960 bởi "động tới những gì không hề là bề ngoài của đời sống xã hội đương thời" hay ít nhất là "thách thức những cái nhìn đang bị quy phạm hóa theo những giáo điều".
|
Vào đời
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817176
|
Tiến sĩ Nguyễn Lương Hải Khôi của Đại học Oregon (2021) thì so sánh "Vào đời" với các tác phẩm trước đó khi đã thực sự dựng nên thế giới xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc hiện ra với những "chấn thương" thực sự, trong đó nhân vật Sen bị "đẩy vào bước đường cùng"; chồng cô bị tổn thương bởi cải cách ruộng đất mà "ghê tởm xã hội phong kiến trá hình" rồi đi vào con đường chống đối, bị tù tội.
Khía cạnh dư luận của "Vào đời" cũng được nhiều học giả đưa ra phân tích và liên hệ. Viết trong một bài nghiên cứu đăng trên tập san "Journal of Vietnamese Studies", tác giả Grossheim đã nhìn nhận việc Hà Minh Tuân và cuốn "Vào đời" của ông bị rơi vào tầm ngắm dù là một đảng viên trung thành đã cho thấy một sự "nghịch lý". Theo Giáo sư Trần Đình Sử, việc tiểu thuyết bị cho là "miêu tả không chân thực" đã cho thấy sự "áp đặt tư duy" trong việc quy định sẵn bản chất, và khi tác phẩm viết khác đi bản chất này thì bị cho là không chân thực, khiến sự chân thực "không khách quan". Học giả Ngô Văn Tuần (2013) cũng phân tích về chất lượng nội dung và phương pháp phê bình của các bài phê phán văn học đối với "Vào đời". Theo đó, tác giả nhận định tất cả những bài viết này là tiêu biểu cho lối "phê bình suy diễn" từ ấn tượng của chủ quan người viết mà không thông qua phân tích nội dung, cấu trúc truyện; lối "nói theo" khi hầu hết chúng đều có chung một luận điểm, giọng văn giống nhau; và việc các tác giả chỉ "bắt lấy" một vài chi tiết nhà văn nói về vấn đề tiêu cực để gán ghép cho tác phẩm không nằm trong chỉnh thể nội dung của truyện. Người viết nhấn mạnh rằng việc thiếu tính dân chủ, sự đối thoại giữa giới phê bình và nghệ sĩ đã trở thành điểm thiếu sót đáng kể nhất trong cuộc phê bình này, không phát huy được sự phát triển của chức năng phê bình văn học.
Tuy vậy, vẫn có những cây bút phê bình tác phẩm về phương diện biểu hiện, lối viết.
|
Vào đời
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817176
|
Viết trên tờ tạp chí "Văn học" năm 1998, nhà phê bình Trần Trọng Đăng Đàn đã nhìn nhận "Vào đời" là một tác phẩm "không tốt" vì gây "hiệu quả xấu cho quần chúng độc giả", dù vẫn ghi nhận ý định tốt ban đầu của tác giả khi bắt tay vào việc xây dựng nên tác phẩm. Trong khi đó, nhà văn Vũ Thư Hiên trong cuốn hồi ký "Đêm giữa ban ngày" đánh giá "Vào đời" là một "bước lùi về tay nghề của Hà Minh Tuân" về mặt bút pháp, nhận xét rằng truyện mới chỉ chạm "sơ sơ" đến những tiêu cực trong xã hội Việt Nam đương thời. Tác giả Trần Thư cuốn "Tử tù xử lí nội bộ" cũng đồng quan điểm, nhận xét tác giả viết không hay và "nhiều chỗ sượng", đồng thời cho rằng nếu "Vào đời" không vướng phải vụ phê phán thì cuốn sách "chắc cũng có ít độc giả".
Tác động và di sản.
Cuốn sách đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới sự nghiệp văn chương và gia đình của Hà Minh Tuân. Sau vụ việc này, ông bị giáng hai cấp trong quân đội từ Trung tá xuống Đại úy, đồng thời phải viết một bản kiểm điểm rồi bị cách chức giám đốc Nhà xuất bản Văn học; còn cuốn "Vào đời" thì bị thu hồi. Đa số nguồn ghi nhận ông đã chuyển về làm cho Tổng cục Thủy sản một thời gian. Nhưng theo nguồn từ báo "Việt Luận" thì ông bị buộc phải đi lao động cải tạo ở bến Chương Dương, công việc là khuân gỗ và kéo gỗ về nhà máy. Án kỷ luật từ vụ "Vào đời" cũng bị cho là lý do chính khiến mối quan hệ của Hà Minh Tuân với người vợ đầu tiên tan vỡ. Trường hợp của "Vào đời" sau này đã được chính khách Lê Đức Thọ dẫn ra để làm tiền đề cho Vụ án Xét lại Chống Đảng.
Trong suốt nhiều thập kỷ sau vụ bê bối, tiểu thuyết vẫn bị chính quyền coi như một cuốn sách xấu; bằng chứng là có các nhà văn đã đề cập đến tình tiết nhân vật của mình do khen ngợi hay lưu giữ cuốn sách mà bị thải hồi hoặc bị bắt đi lao động cải tạo. Nhờ những cải cách trong Đổi Mới của nhà nước và Cởi Mở về văn học mà cuối cùng "Vào đời" đã được tái bản trở lại vào năm 1991.
|
Vào đời
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817176
|
Điều này được thực hiện thể theo nguyện vọng của nhà văn Hà Minh Tuân, chỉ một năm trước khi ông qua đời vào 1992. Nhà văn Như Phong – người đầu tiên và nhiệt tình nhất khi từng phê bình "Vào đời" – là người đã cho in lại tiếu thuyết này. Trước đó, một thời gian sau khi Như Phong lên nhậm chức giám đốc Nhà xuất bản Văn học (1965), ông đã giúp đưa Hà Minh Tuân trở lại cơ quan cũ và làm trợ lý của mình từ năm 1975, cũng như tạo điều kiện cho Hà Minh Tuân xuất bản truyện dài "Vẻ đẹp bình dị" (1977) – là tác phẩm cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác của tác gia.
"Vào đời" sau này đã được coi là tác phẩm "để đời" của Hà Minh Tuân, giúp đem về cho nhà văn Giải thưởng Cống hiến Hội Nhà văn Việt Nam năm 2017 và đưa ông vào danh sách đề cử Giải thưởng Nhà nước năm 2020.
|
Ѡ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817177
|
Omega (Ѡ ѡ, chữ nghiêng: "Ѡ" "ѡ") là một chữ cái được sử dụng trong bảng chữ cái Kirin cổ. Tên và dạng viết hoa của nó bắt nguồn từ chữ cái Hy Lạp Omega (Ω ω).
Trong một số hình dạng, nó trông giống như chữ cái Kirin We.
Không giống như trong tiếng Hy Lạp, các ngôn ngữ Slav chỉ có một âm duy nhất, vì vậy Omega ít được sử dụng so với chữ cái Kirin O (О о), bắt nguồn từ chữ cái Hy Lạp Omicron. Trong văn bản ustav cũ hơn, Omega được sử dụng chủ yếu cho giá trị số của nó là 800, và hiếm khi xuất hiện ngay cả trong các từ trong tiếng Hy Lạp. Trong các bản thảo bán ustav sau này, nó được sử dụng cho mục đích trang trí, cùng với phiên bản "" của nó và "Ѻ ѻ".
Tiếng Slav Giáo hội cổ hiện đại đã phát triển các quy tắc nghiêm ngặt cho việc sử dụng các mẫu chữ này.
Một biến thể khác của omega là omega văn hoa/đẹp đẽ, được sử dụng như một thán từ, "O!". Nó được thể hiện trong Unicode 5.1 bằng ký tự sai tên là "omega với dấu titlo" (). Nó có nguồn gốc từ chữ cái omega trong tiếng Hy Lạp với dấu hỏi (psili) và dấu mũ (perispomeni), cùng với cả hai dấu (Ὦ ὦ), cũng được sử dụng trong câu cảm thán tương ứng trong tiếng Hy Lạp cổ đại.
|
Đảo chính Niger 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817179
|
Vào ngày 26 tháng 7 năm 2023, các binh sĩ thuộc lực lượng bảo vệ tổng thống của Niger đã bắt giữ Tổng thống Mohamed Bazoum. Đại tá Amadou Abdramane đã tuyên bố trên truyền hình lật đổ tổng thống, đóng cửa biên giới quốc gia, đình chỉ các cơ quan nhà nước, bãi bỏ hiến pháp và ban hành lệnh giới nghiêm khi tuyên bố thành lập chính quyền quân sự. Đây là cuộc đảo chính quân sự lần thứ 5 kể từ khi Niger giành độc lập vào năm 1960.
Bối cảnh.
Kể từ khi giành độc lập khỏi Pháp vào năm 1960, Niger đã trải qua bốn cuộc đảo chính quân sự. Lần gần đây nhất là vào năm 2021 khi những người bất đồng chính kiến quân sự cố gắng chiếm dinh tổng thống hai ngày trước lễ nhậm chức của tổng thống đắc cử Bazoum, tổng thống đầu tiên của đất nước nhậm chức từ một người tiền nhiệm được bầu. Cuộc đảo chính cũng xảy ra sau các sự kiện tương tự ở các nước láng giềng như Guinea, Mali và Burkina Faso kể từ năm 2020. Vì thế khu vực này có cái tên gọi là vành đai đảo chính.
Các nhà phân tích chính trị cho biết lạm phát kinh tế và tham nhũng của chính phủ là nguyên nhân dẫn đến cuộc nổi dậy xảy ra. Liên Hợp Quốc xếp Niger đứng cuối bảng trong Chỉ số phát triển con người và cũng phải hứng chịu các cuộc nổi dậy của các phần tử cực đoan như Al-Qaeda, Nhà nước Hồi giáo (IS) và Boko Haram, mặc dù quân đội của quốc gia này đã được huấn luyện và có căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và Pháp.
Diễn biến.
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2023, Cộng đồng Kinh tế của các Quốc gia Tây Phi (ECOWAS) đã quyết định giữ nguyên lựa chọn can thiệp quân sự vào Niger. do đó mở đường cho việc huy động một lực lượng chủ yếu bao gồm quân đội Nigeria và Senegal..
|
Giáo phận Kyōto
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817182
|
() là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Nhật Bản. Địa giới của Giáo phận bao gồm các tỉnh Kyōto, Shiga, Nara, và Mie. Nhà thờ chính tòa Thánh Phanxicô Xaviê, còn được biết đến với tên gọi Nhà thờ Kawaramachi () là nhà thờ chính tòa của giáo phận.
|
Bộ Phát triển Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817191
|
Bộ Phát triển Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa () là cơ quan phụ trách công tác dân tộc thiểu số và thi hành các chính sách hỗ trợ người Thượng của Việt Nam Cộng hòa.
Lịch sử.
Năm 1967, Paul Nưr được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Phát triển Sắc tộc đầu tiên.
Tháng 6 năm 1971, Nay Luett thay thế Paul Nưr lên làm Bộ trưởng Bộ Phát triển Sắc tộc tiếp theo.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chính quyền các cấp Việt Nam Cộng hòa bị giải thể. Sau khi Bộ Phát triển Sắc tộc bị bãi bỏ, cựu Bộ trưởng Bộ Phát triển Sắc tộc và các lãnh đạo người Thượng khác ở miền Nam Việt Nam đã bị chế độ mới bắt giữ sau khi trở về quê hương và chịu cảnh giam cầm trong những điều kiện khắc nghiệt.
Danh sách Bộ trưởng Bộ Phát triển Sắc tộc.
Bộ trưởng Bộ Phát triển Sắc tộc (1967–1975).
Bộ Phát triển Sắc tộc đã trải qua hai nhiệm kỳ Bộ trưởng kể từ khi thành lập cho đến khi giải thể, đó là Paul Nưr người Ba Na và Nay Luett người Gia Rai, cả hai đều bị chế độ mới bắt giữ sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 và bị tống giam vào các trại cải tạo.
|
Bộ Thương mại Việt Nam Cộng hòa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817192
|
Bộ Thương mại Việt Nam Cộng hòa () tiền thân là Bộ Kinh tế Việt Nam Cộng hòa () là cơ quan cao nhất chịu trách nhiệm về các vấn đề kinh tế, thương mại và mậu dịch của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Phần lớn thời gian từ khi thành lập năm 1949 cho đến khi giải thể do Sài Gòn thất thủ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, trụ sở Bộ Thương mại đặt tại số 59, đường Gia Long, Quận 1, Sài Gòn.
Lịch sử.
Tiền thân là Bộ Kinh tế Quốc gia Việt Nam, được thành lập năm 1949. Sau cuộc trưng cầu dân ý năm 1955, chính thể Việt Nam Cộng hòa được thành lập, Bộ Kinh tế Quốc gia Việt Nam được tổ chức lại thành Bộ Kinh tế Việt Nam Cộng hòa, đến năm 1973 thì cải tổ thành Bộ Thương mại Việt Nam Cộng hòa cho đến khi giải thể vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
|
Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817193
|
Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa () là cơ quan cao nhất chịu trách nhiệm về đối ngoại và hoạt động ngoại giao của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Phần lớn từ khi thành lập năm 1949 cho đến khi giải thể do Sài Gòn thất thủ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, trụ sở Bộ Ngoại giao đặt tại số 6 đường Alexandre de Rhodes, Quận 1, Sài Gòn.
Lịch sử.
Tiền thân là Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam được thành lập vào năm 1949. Sau cuộc trưng cầu dân ý năm 1955, chính thể Việt Nam Cộng hòa hình thành, Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam được tổ chức lại thành Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa cho đến khi giải thể vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Danh sách Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Dưới đây là danh sách Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa từ năm 1949 cho đến khi Sài Gòn thất thủ năm 1975:
|
Louangphabang (định hướng)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817207
|
Louangphabang hay Luang Prabang ở Lào có thể là:
|
601 (số)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817210
|
601 (sáu trăm linh một) là một số tự nhiên ngay sau 600 và ngay trước 602.
|
Giáo phận Nagoya
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817215
|
() là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Nhật Bản. Địa giới của Giáo phận bao gồm các tỉnh Aichi, Gifu, Fukui, Ishikawa, và Toyama. Nhà thờ chính tòa Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, còn được biết đến với tên gọi Nhà thờ Nunoike () là nhà thờ chính tòa của giáo phận.
|
Lai Bâng
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817216
|
Thóng Lai Bâng (sinh ngày 16 tháng 9 năm 2001 tại Thành phố Hồ Chí Minh), thường được biết đến với biệt danh Lai Bâng, Bângg, Bánh, Lai Bánh hay Thóng "Bângg" Lai Bâng, là một vận động viên thể thao điện tử chuyên nghiệp bộ môn đấu trường trận chiến trực tuyến Liên Quân, cựu tuyển thủ quốc gia Việt Nam bộ môn Liên Quân tham dự Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021, đội trưởng đội tuyển thể thao điện tử Saigon Phantom. Từng được xem là "thần đồng" của tựa game Liên Quân tại Việt Nam, anh được đánh giá là một trong những game thủ Liên Quân hàng đầu thế giới và là một trong những người chơi đi rừng xuất sắc nhất bộ môn này ở Việt Nam.
Cùng với các đồng đội của mình tại Saigon Phantom, anh đã có 5 chức vô địch Đấu trường Danh vọng, trong đó có 4 chức vô địch liên tiếp, với 2 lần được chọn làm FMVP của giải đấu. Anh cũng vinh dự ba lần góp mặt trong đội hình xuất sắc nhất của các giải đấu Liên Quân cấp độ quốc tế. Đỉnh cao sự nghiệp của tuyển thủ này là chức vô địch thế giới APL 2023 được tổ chức tại Thái Lan, nơi anh vinh dự trở thành FMVP của giải đấu.
Tiểu sử.
Lai Bâng sinh ngày 16 tháng 9 năm 2001 trong một gia đình gốc Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nhận thấy niềm đam mê với trò chơi điện tử ngay từ khi còn nhỏ, năm lớp 10, Bâng đã quyết định nghỉ học và tập trung hoàn toàn vào việc theo đuổi sự nghiệp thể thao điện tử chuyên nghiệp. Thành công bước đầu của anh là thành tích 6 lần đạt danh hiệu top 1 server Liên Quân Việt Nam, 3 lần top 1 server Liên Quân Đài Loan và vô địch hầu hết các giải đấu bán chuyên. Điều đó khiến Bâng được cộng đồng Liên Quân Việt Nam chú ý từ sớm. Trước khi bắt đầu sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp, anh từng có một thời gian tham gia cày thuê xếp hạng Liên Quân và là một streamer với một lượng người xem đông đảo. Với kĩ năng xuất sắc, anh được nhiều người đặt cho biệt danh "thần đồng".
Sự nghiệp.
2020.
Tháng 3 năm 2020, Lai Bâng bắt đầu sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp của mình trong màu áo đội tuyển Saigon Phantom sau một năm bị cấm thi đấu vì tham gia cày thuê xếp hạng.
|
Lai Bâng
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817216
|
Ngay trong mùa giải đầu tiên thi đấu, anh đã để lại nhiều ấn tượng với nhiều pha thi đấu xuất sắc, đưa Saigon Phantom đến trận chung kết Đấu trường Danh vọng mùa Xuân 2020 và chỉ chịu thua trước đội tuyển vô địch mùa giải đó là Team Flash. Trong khuôn khổ loạt trận Showmatch 1vs1 – The Solo God của Chung kết Đấu trường Danh vọng mùa Xuân 2020, Lai Bâng đã lọt vào trận chung kết và chỉ để thua trước tuyển thủ ADC đang có phong độ cao với tỉ số 1-2. Tại giải đấu Arena of Valor Premier League 2020 tổ chức vào tháng 7, đội tuyển Saigon Phantom và Lai Bâng đã lọt vào đến tứ kết.
Đấu trường Danh vọng mùa Đông 2020 chứng kiến một Lai Bâng thi đấu bùng nổ khi giành danh hiệu MVP của giải, qua đó gián tiếp giúp Saigon Phantom vô địch sau thắng lợi 4-1 trước Box Gaming tại chung kết. Tại giải đấu Arena of Valor International Championship 2020 tổ chức vào cuối năm, Saigon Phantom của Lai Bâng đã lọt vào chung kết gặp đội tuyển MAD Team của Đài Loan, tuy nhiên họ không thể làm nên bất ngờ và giành ngôi á quân sau thất bại 2-4. Mặc dù thất bại, cá nhân Lai Bâng có lần đầu tiên lọt vào đội hình xuất sắc nhất giải đấu.
2021.
Tại Đấu trường Danh vọng mùa Xuân 2021, Saigon Phantom lại bị Team Flash đánh bại với tỉ số 0-4 và chấp nhận về nhì. Tại giải đấu vô địch thế giới Arena of Valor World Cup 2021, Saigon Phantom cùng Team Flash và V Gaming là 3 đại diện của Việt Nam tham dự giải. Saigon Phantom đã đánh bại V Gaming để trở thành đại diện duy nhất còn sót lại của Việt Nam đi tiếp tại giải đấu. Tuy nhiên do chênh lệch trình độ Saigon Phantom đã thua 0-4 trước MOP qua đó xếp thứ 3 chung cuộc. Mặc dù Saigon Phantom chỉ xếp ở vị trí thứ ba chung cuộc nhưng cá nhân Lai Bâng đã có lần thứ 2 lọt vào đội hình xuất sắc nhất giải đấu với danh hiệu MVP ở vị trí đi rừng với số mạng hạ gục cao nhất giải đấu.
Tại Đấu trường Danh vọng mùa Đông 2021, Saigon Phantom đánh bại V Gaming sau 7 ván đấu với tỉ số 4-3, qua đó có lần thứ 3 đăng quang tại giải đấu cấp quốc nội. Anh cũng có lần đầu tiên đạt danh hiệu FMVP của giải. Tại giải đấu Arena of Valor International Championship 2021 tổ chức cuối năm, Saigon Phantom dừng bước ở bán kết sau thất bại 3-4 trước dtac Talon.
|
Lai Bâng
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817216
|
Giải đấu solo 1v1 bên lề Arena of Valor International Championship 2021, Lai Bâng đã xuất sắc vượt qua 14 tuyển thủ từ nhiều đội tuyển khác để lên ngôi vô địch với số tiền thưởng 10.000 đô la Mỹ.
2022.
Tại Đấu trường Danh vọng mùa Xuân 2022, Lai Bâng và Saigon Phantom bảo vệ thành công chức vô địch của mình sau chiến thắng 4-0 trước V Gaming. Qua đó nâng tổng số lần lên ngôi vô địch của đội tuyển này lên con số 4 lần. Cá nhân Lai Bâng có lần thứ 3 vô địch trong màu áo Saigon Phantom. Vòng tuyển chọn SEA Games 31 tổ chức vào tháng 3, Saigon Phantom dưới sự dẫn dắt của đội trưởng Lai Bâng đã giành chiến thắng trước V Gaming để trở thành đại diện của đội tuyển Liên Quân Việt Nam tranh tài tại kỳ SEA Games tổ chức tại Hà Nội. Tuy nhiên, đội tuyển Saigon Phantom chỉ giành được huy chương bạc sau khi để thua đội tuyển Liên quân Thái Lan, với nòng cốt là đội tuyển Talon trong trận chung kết với tỉ số 1-4. Kỳ Arena of Valor International Championship 2022 tổ chức giữa năm chứng kiến một Saigon Phantom thi đấu không thành không khi phải dừng bước ngay tại vòng bảng.
Vượt qua những thất bại liên tiếp vào giữa năm, Lai Bâng đã xuất sắc quay trở lại, giúp Saigon Phantom chiến thắng trong trận chung kết Đấu trường Danh vọng mùa Đông 2022 với tỉ số 4-3, qua đó cân bằng thành tích 5 lần vô địch quốc nội của Team Flash. Riêng cá nhân Lai Bâng, anh có lần thứ hai giành danh hiệu FMVP của giải. Thành tích này giúp anh lọt vào đội hình xuất sắc nhất liên khu vực. Kỳ Arena of Valor Premier League 2022 tổ chức vào cuối năm tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, Saigon Phantom và Lai Bâng đã xuất sắc đánh bại những đối thủ rất mạnh để tiến vào trận chung kết. Anh đặc biệt gây ấn tượng với cú Mega Kill (hạ gục liên tiếp 5 mạng) trong trận đấu với Bruriram United Esports. Mặc dù vậy, anh và các đồng đội không thể tạo ra bất ngờ và để thua Bacon Time với tỉ số 1-4 ở trận chung kết.
2023.
Đấu trường Danh vọng mùa Xuân 2023 chứng kiến sự bùng nổ của Lai Bâng khi vượt qua ADC để trở thành tuyển thủ có nhiều danh hiệu MVP nhất lịch sử giải đấu. Anh đạt được thành tích này chỉ sau 6 mùa giải thi đấu chuyên nghiệp, vượt xa thành tích mà ADC đạt được trong 9 mùa giải thi đấu chuyên nghiệp.
|
Lai Bâng
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817216
|
Chưa dừng lại ở đó, anh và các đồng đội còn thiết lập kỉ lục lần thứ sáu vô địch Đấu trường Danh vọng với chiến thắng 4-2 trước V Gaming trong trận chung kết tổng, qua đó đưa Saigon Phantom trở thành đội tuyển giàu thành tích và truyền thống nhất trong lịch sử Liên Quân Việt Nam. Kỳ Arena of Valor Premier League 2022 tổ chức vào giữa năm tại Thái Lan tiếp tục chứng kiến phong độ thăng hoa của Lai Bâng. Anh và các đồng đội đã đánh bại đội đương kim vô địch của giải là Bacon Time với tỉ số 4-1 để có lần đầu tiên cùng Saigon Phantom lên ngôi tại một giải đấu quốc tế. Riêng Lai Bâng cũng có lần đầu tiên đạt danh hiệu FMVP của một giải đấu quốc tế. Anh cũng có lần thứ ba lọt vào đội hình xuất sắc nhất của một giải đấu quốc tế.
Cuộc sống cá nhân.
Lai Bâng có bạn gái là Trang Six. Cả hai được cho là bắt đầu hẹn hò từ năm 2017. Cô sinh năm 2000, từng là sinh viên của Trường Đại học FPT. Ngoài ra, Lai Bâng còn là bạn thân của cựu tuyển thủ ADC.
|
Giáo phận Takamatsu
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817220
|
() từng là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Nhật Bản. Địa giới của Giáo phận bao gồm 4 tỉnh thuộc vùng Shikoku. Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ lên trời, còn được biết đến với tên gọi Nhà thờ Sakuramachi () từng là nhà thờ chính tòa của giáo phận.
|
Sản xuất công nghiệp
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817221
|
Sản xuất công nghiệp là thước đo sản lượng của lĩnh vực công nghiệp của nền kinh tế. Lĩnh vực công nghiệp bao gồm sản xuất, khai thác mỏ và hạ tầng. Mặc dù những lĩnh vực này chỉ đóng góp một phần nhỏ vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP), nhưng chúng rất nhạy cảm với lãi suất và nhu cầu của người tiêu dùng. Điều này làm cho sản xuất công nghiệp trở thành một công cụ quan trọng để dự báo GDP trong tương lai và hiệu quả kinh tế. Số liệu sản xuất công nghiệp cũng được ngân hàng trung ương sử dụng để đo lường lạm phát, vì mức sản xuất công nghiệp cao có thể dẫn đến mức tiêu dùng không kiểm soát được và lạm phát nhanh.
Mặt kinh tế.
Sản xuất công nghiệp bao gồm sản xuất tư bản và hàng tiêu dùng. Hàng hóa trung gian cũng được gộp vào trước (như máy móc, tàu thuyền). Ngành xây dựng không được tính là sản xuất công nghiệp, bởi vì sản xuất xây dựng là một loại hình sản xuất công nghiệp đặc biệt. Trái ngược với các loại hình sản xuất công nghiệp thông thường (sản xuất ô tô, cơ khí, công nghiệp dệt may...), sản xuất xây dựng được thực hiện trên các công trường xây dựng cho các tòa nhà hoặc tòa nhà và không đứng yên như sản xuất công nghiệp.
Nếu sản xuất công nghiệp chiếm ưu thế trong một nước, nó được gọi là nước công nghiệp. Sản xuất công nghiệp có thể được thực hiện cho cả tự túc và xuất khẩu. Điển hình của sản xuất công nghiệp là sản xuất hàng loạt. Tiêu chuẩn hóa sản phẩm, nhờ đó hàng hóa sử dụng tốt hơn việc sử dụng kinh tế quy mô trong ngành công nghiệp lớn và các công ty lớn có xu hướng tăng lên.
Thống kê.
Về giá trị tuyệt đối (nhưng bao gồm cả ngành xây dựng), Trung Quốc dẫn đầu vào năm 2017 với 4.950 tỷ đô la Mỹ, tiếp theo là Mỹ (3.520 tỷ đô la Mỹ), Nhật Bản (1.450 tỷ đô la Mỹ) và Đức (1.015 tỷ đô la Mỹ).
Sản xuất công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm nội địa tương ứng ở các quốc gia có trong danh sách, do đó các quốc gia này đều được coi là các quốc gia công nghiệp hóa.
|
Đài Truyền hình Quốc gia Togo
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817278
|
Đài Truyền hình Quốc gia Togo (tiếng Pháp: "Télévision Togolaise") là đài truyền hình quốc gia của Togo có trụ sở chính tại thành phố Lomé, Togo.
|
Bukit
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817291
|
Bukit (tiếng Indonesia và tiếng Mã Lai là một đồi) có thể là một trong số các địa danh thế giới Mã Lai sau đây:
|
Bukit Timah (định hướng)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817294
|
Bukit Timah (tiếng Indonesia và tiếng Mã Lai là một đồi thiếc) có thể là:
|
Trận Timor
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817295
|
Trận Timor diễn ra tại Timor thuộc Bồ Đào Nha và Timor thuộc Hà Lan trên đảo Timor trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Quân đội Nhật Bản đánh chiếm hòn đảo này từ ngày 19 tháng Hai năm 1942 và bị kháng cự bởi một lực lượng nhỏ và trang bị kém của quân Đồng Minh – được gọi là Lực lượng Chim sẻ – phần lớn đến từ Úc, Anh quốc và Đông Ấn thuộc Hà Lan. Sau ba ngày chiến đấu, quân Nhật đã buộc phần lớn quân Đồng Minh phải đầu hàng, tuy nhiên vài trăm biệt kích Australia tiếp tục tiến hành chiến dịch đột kích phi quy ước. Họ được hỗ trợ bởi máy bay và tàu thủy phần lớn đặt căn cứ tại Darwin, Australia khoảng 650 km về phía Đông Nam qua Biển Timor. Trong các trận chiến sau đó, người Nhật chịu tổn thất nặng, nhưng cuối cùng họ vẫn đủ sức kìm chế quân Úc.
Trận Timor tiếp diễn đến tận ngày 10 tháng Hai năm 1943 khi lực lượng Úc cuối cùng triệt thoái khỏi hòn đảo, làm cho họ là lực lượng trên bộ của Đồng Minh cuối cùng rút khỏi Đông Nam Á sau các cuộc tấn công của Nhật Bản năm 1941 – 1942. Kết quả là nguyên một sư đoàn Nhật Bản bị đứng chân tại chỗ trên đảo Timor trong hơn sáu tháng, làm cho lực lượng này không thể triển khai tiếp ở một nơi khác. Mặc dù Bồ Đào Nha đứng trung lập trong chiến tranh, nhưng nhiều người dân Timor thuộc Bồ Đào Nha và người Âu Bồ Đào Nha vẫn đánh lại Nhật Bản cùng với Đồng Minh hoặc hỗ trợ họ với thức ăn, nơi ẩn nấp và những thứ khác. Vài người Timor tiến hành kháng cự sau khi người Úc rút đi tuy phải trả giá đắt và hàng chục ngàn người Timor đã thiệt mạng trong sự chiếm đóng của Nhật Bản mà kéo dài đến khi chiến tranh kết thúc năm 1945.
Bối cảnh.
Cho đến cuối năm 1941, đảo Timor được phân chia chính trị giữa hai thế lực thực dân: Bồ Đào Nha ở phía Đông với thủ phủ Dili và phần đất Ocussi bị chia tách nằm ở phần Tây, còn Hà Lan ở phía Tây với trung tâm hành chính tại Kupang. Lực lượng phòng thủ của Hà Lan gồm 500 người tập trung ở Kupang, trong khi đó lực lượng Bồ Đào Nha tại Dili chỉ khoảng 150 người.
|
Trận Timor
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817295
|
Tháng Hai năm 1941, chính phủ Úc và Hà Lan đồng ý với nhau rằng trong trường hợp Nhật Bản tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai trong phe Trục, Úc sẽ cung cấp quân lính và máy bay để củng cố Timor thuộc Hà Lan. Bồ Đào Nha vẫn giữ vị thế trung lập. Như vậy, sau cuộc tấn công của Nhật Bản tại Trân Châu Cảng, một lực lượng nhỏ Australia – được biết đến với tên Lực lượng Chim sẻ - đến Kupang vào ngày 12 tháng Mười Hai năm 1941. Trong cùng thời gian, hai đơn vị tương đương của Úc cũng được gửi đến củng cố Ambon và Rabaul.
Lực lượng Chim sẻ lúc đầu được chỉ huy bởi Trung tá William Leggatt, và bao gồm Tiểu đoàn 2/40th, một đơn vị biệt kích – Đại đội độc lập số 2 – dưới quyền Thiếu tá Alexander Spence, và một khẩu đội pháo phòng thủ bờ biển, tổng cộng khoảng 1400 quân. Bên cạnh đó, quân Đông Ấn thuộc Hà Lan tại Timor dưới quyền Trung tá Nico van Straten bao gồm Tiểu đoàn đồn trú Timor và các vùng phụ thuộc, một đại đội từ Tiểu đoàn bộ binh số VIII, một đại đội bộ binh dự bị, một trung đội súng máy từ Tiểu đoàn bộ binh XIII và một khẩu đội pháo binh. Lực lượng hỗ trợ đường không bao gồm 12 máy bay ném bom hạng nhẹ Lockheed Hudson thuộc phi đoàn số 2, Không lực hoàng gia Australia. Lực lượng Chim sẻ ban đầu được triển khai quanh Kupang, và sân bay quan trọng chiến lược Penfui ở góc Tây Nam của hòn đảo, trong khi các đơn vị khác đóng ở Klapalima, Usapa Besar và Babau, trong khi một căn cứ hậu cần được đặt xa hơn về phía Đông tại Champlong.
Cho đến thời điểm đó, Chính phủ Bồ Đào Nha khước từ sự hợp tác với phe Đồng Minh, căn cứ trên tuyên bố trung lập và dự định gửi 800 quân tinh nhuệ từ Mozambique đến Timor để chống lại một cuộc tấn công giả định của Nhật Bản. Dù sao, điều này làm cho sườn quân Đồng Minh bị đe dọa nghiêm trọng, và vào ngày 17 tháng Mười Hai một đội quân hỗn hợp Hà Lan – Úc gồm 400 người tiến đến chiếm đóng Timor thuộc Bồ Đào Nha. Để phản ứng lại, Thủ tướng Bồ Đào Nha kháng nghị các chính phủ Đồng Minh, trong khi thống đốc Timor thuộc Bồ Đào Nha tuyên bố ông ấy đã bị bắt để duy trì sự trung lập.
|
Trận Timor
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817295
|
Phần lớn quân Hà Lan và toàn bộ Đại đội độc lập 2/2nd sau đó di chuyển sang Timor thuộc Bồ Đào Nha và dàn thành nhiều nhóm nhỏ trong cả khu vực.
Timor thuộc Bồ Đào Nha trung lập ban đầu không nằm trong danh sách mục tiêu chiến tranh của người Nhật, nhưng sau cuộc chiếm đóng nói trên của Đồng Minh, sự trung lập đã bị vi phạm nên Nhật Bản quyết định đánh chiếm khu vực này.</ref>
Chính phủ Bồ Đào Nha và Anh quốc đã đạt được thỏa thuận về sự rút lui của lực lượng Đồng Minh khỏi Timor thuộc Bồ Đào Nha, thay vào bằng sự gửi quân của Bồ Đào Nha đến thay thế họ. Ngày 28 tháng Một năm 1942, lực lượng Bồ Đào Nha xuất phát từ Mozambique hướng đến Timor nhưng không kịp đến trước cuộc tấn công của Nhật Bản.
Các sự kiện khơi mào.
Tháng Một năm 1942, lực lượng Đồng Minh trên đảo Timor trở thành mắt xích then chốt trong "Hàng rào Malay", phòng ngự bởi liên quân ngắn hạn Mĩ-Anh-Hà Lan-Australia dưới quyền chỉ huy của Tướng Sir Archibald Wavell. Sĩ quan hỗ trợ Úc được tăng viện đến Kupang vào 12 tháng Hai, bao gồm William Veale, người trở thành chỉ huy lực lượng Đồng Minh tại Timor. Trong thời gian này, nhiều thành viên của Lực lượng Chim sẻ do chưa quen với điều kiện nhiệt đới mắc sốt rét và một số bệnh khác. Sân bay Penfui ở Timor thuộc Hà Lan cũng trở thành một mắt xích đường hàng không quan trọng cho lực lượng Australia và Hoa Kì chiến đấu ở Philippines dưới quyền Tướng Douglas MacArthur. Penfui bị không quân Nhật tấn công vào 26 và 30 tháng Một 1942, dù sao các cuộc không kích bị cản trở bởi phòng không Anh quốc và các tiêm kích P-40 của Mĩ, 11 trong số đó xuất kích từ Darwin. Sau đó , 500 quân Hà Lan và Khẩu đội phòng không hạng nhẹ số 79 của Anh đến củng cố cho Timor, trong khi một lực lượng tăng viện Mĩ – Úc được lên kế hoạch đến hòn đảo vào tháng Hai.
Trong khi ấy, Rabaul thất thủ vào tay Nhật vào 23 tháng Một, sau đó là Ambon vào 3 tháng Hai.
|
Trận Timor
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817295
|
Sau đó, vào 16 tháng Hai, một đoàn công voa chuyển quân tăng viện (Tiểu đoàn tình nguyện 2/4th của Úc và Tiểu đoàn Pháo binh số 49 của Mĩ) và hậu cần đến Kupang – hộ tống bởi tàu tuần dương hạng nặng USS Houston, khu trục hạm USS Peary và hai tàu tuần tra HMAS Swan và Warrego – chịu cuộc không kích mãnh liệt của Nhật Bản và buộc phải quay lại Darwin mà không thể cập cảng ở Timor. Lực lượng Chim sẻ không thể củng cố hơn thêm và trong khi Nhật Bản tiến lên hoàn thành công cuộc đánh chiếm Đông Ấn thuộc Hà Lan, Timor trở thành mục tiêu hoàn toàn hợp lí tiếp theo.
Trận đánh.
Nhật Bản đánh chiếm Timor thuộc Bồ Đào Nha, 19-20 tháng Hai 1942.
Trong đêm 19 rạng 20 tháng Hai năm 1942, 1500 quân Nhật thuộc Trung đoàn 228, Sư đoàn 38, Quân đoàn XVI, dưới quyền Đại tá Sadashichi Doi, bắt đầu đổ bộ lên Dili. Ban đầu, các tàu thủy chở quân của Nhật bị nhầm với tàu chở quân Bồ Đào Nha dự kiến củng cố, quân Đồng Minh bị bất ngờ. Tuy thế, Đồng Minh được chuẩn bị tốt, và lực lượng đồn trú bắt đầu cuộc rút lui có kỉ luật và được yểm trợ bằng lực lượng biệt kích Úc đóng ở sân bay. Theo người Úc, 200 quân Nhật bị tiêu diệt bởi biệt kích trong những giờ đầu của trận đánh nhưng phía Nhật lại cho rằng họ chỉ tổn thất có 7 người.
Một đơn vị biệt kích khác của Úc, kém may mắn hơn, rơi vào vòng vây của Nhật một cách tình cờ. Mặc dù đã đầu hàng nhưng quân Nhật đã tàn sát tất cả trừ một người (theo nhà sử học quân sự Brad Manera). Bị Nhật áp đảo, lực lượng Úc còn lại rút về phía Nam và phía Đông vào vùng núi nội địa. Van Straten và 200 quân Đông Ấn thuộc Hà Lan tiến về phía ranh giới Tây Nam.
Nhật Bản đổ bộ lên Timor thuộc Hà Lan, 19-20 tháng Hai 1942.
Cùng đêm đó, quân Đồng Minh ở Timor thuộc Hà Lan cũng hứng chịu những cuộc không kích mãnh liệt, nó làm cho không quân Australia rút về nước. Tiếp theo sau cuộc bỏ bom, phần lớn trung đoàn 228 của Nhật gồm 2 tiểu đoàn tất cả khoảng 4000 người đổ bộ lên phía sông Paha ở Tây Nam hòn đảo, nơi mà không được phòng thủ. Năm xe tăng siêu nhẹ Type 94 cũng đổ bộ lên để yểm trợ bộ binh.
|
Trận Timor
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817295
|
Quân Nhật tiến về phía Bắc, cắt rời các vị trí Hà Lan ở phía Tây và tấn công các vị trí của Tiểu đoàn 2/40th ở Penfui. Một đại đội Nhật Bản thọc sâu về phía Đông Bắc tới Usua, nhằm chia cắt cuộc rút lui của quân Đồng Minh. Phản ứng lại, Sở chỉ huy Lực lượng Chim sẻ ngay lập tức di chuyển xa hơn về phía Đông, hướng Champlong.
Leggatt ra lệnh phá hủy sân bay, nhưng đường lui của Đồng Minh hướng Champlong đã bị cắt bởi 300 lính thủy đánh bộ nhảy dù Nhật thuộc Lực lượng Đổ bộ đặc biệt Hải quân Yokosuka số 3 đổ bộ đường không xuống gần Usua, 22 km phía Đông Kupang. Lính dù Nhật đánh chiếm Usua và triển khai các vị trí phòng thủ ở một ngọn đôi gần đó mà có thể bao quát con đường chính đến Usua. Sở chỉ huy Lực lượng Chim sẻ tiếp tục di chuyển về phía Đông, và quân của Leggatt tiến hành cuộc tấn công liên tục và ác liệt nhằm vào quân dù, thậm chí bằng lưỡi lê, nhằm nhanh chóng tràn tới vị trí của Nhật. Đến sáng 23 tháng Hai, Tiểu đoàn 2/40th đã tiêu diệt tất cả lính dù Nhật trốn vào rừng già (trừ hai người). Lực lượng Chim sẻ tiếp tục cuộc triệt thoái về Champlong, nhưng vào cuối buổi sáng hôm đó, hậu quân của đoàn công voa bị tăng siêu nhẹ Nhật Bản tấn công. Cuộc tấn công tạm dừng khi một cặp máy bay ném bom Nhật cố oanh tạc đoàn công voa nhưng lại bỏ bom nhầm tốp tăng siêu nhẹ, làm 3 chiếc tăng siêu nhẹ bị phá hủy. Trong buổi chiều, họ bị vây bởi một tiểu đoàn Nhật Bản. Trong tình thế thiếu đạn dược, suy kiệt và nhiều người thương nặng, Leggatt chấp nhận yêu cầu đầu hàng từ người Nhật tại Usua. Tiểu đoàn 2/40th có 84 người chết và 132 bị thương trong cuộc chiến, và gấp 2 lần số đó chết khi là tù binh chiến tranh trong hai năm rưỡi sau đó. Veale và Sở chỉ huy Lực lượng Chim sẻ - bao gồm 290 lính Úc và Hà Lan tiếp tục vượt biên giới sang phía Đông và hợp binh với Đại đội độc lập 2/2.
Biệt kích Australia tiếp tục kháng cự, tháng Hai – tháng Tám 1942.
Đến cuối tháng Hai năm 1942, Nhật Bản đã kiểm soát phần lớn Timor thuộc Hà Lan và phần bao quanh Dili ở phía Đông Bắc.
|
Trận Timor
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817295
|
Lúc sao, lực lượng Australia vẫn trụ ở phía Nam và phía Đông hòn đảo. Đại đội độc lập 2/2nd được huấn luyện đặc biệt theo phong cách đặc công và có kĩ sư và điện báo viên riêng, mặc dù họ thiếu xe cộ và vũ khí nặng. Biệt kích Úc ẩn vào sau các dãy núi của Timor thuộc Bồ Đào Nha và từ đó họ tiến hành các cuộc đột kích nhằm vào quân Nhật, dựa vào sự giúp đỡ của người địa phương.
Trong các hoạt động quân sự khá là nhỏ như thế, thuyền kayak gấp quân sự được đưa vào sử dụng bởi Lực lượng Chim sẻ và các Đại đội độc lập, khi họ có thể sau đó thâm nhập tốt hơn vào các vùng đông đúc và màu mỡ ven biển để theo dõi địch quân, đột kích và giải cứu tù binh mà để lộ thông tin ít nhất có thể. Tại Timor, lần đầu tiên trong lịch sử Đông Nam Á thuyền kayak gấp được dùng cho chiến tranh.
Mặc dù các quan chức Bồ Đào Nha – dưới quyền Thống đốc Manuel Ferreira de Carvalho vẫn tiếp tục tuyên bố trung lập và phụ trách các vấn đề dân sự, nhưng người Âu Bồ Đào Nha và dân Đông Timor địa phương có thiện cảm với Đồng minh, do đó họ có thể dùng hệ thống điện thoại địa phương để liên lạc nội bộ và lấy tin tức tình báo về các hoạt động của Nhật Bản. Dù sao, quân Đồng Minh ban đầu không vận hành thiết bị vô tuyến và không thể liên lạc với Australia nhằm thông báo về sự tiếp tục kháng cự của họ.
Nhật Bản phản công, tháng Tám 1942.
Vào tháng Tám, Sư đoàn 48 Nhật Bản – chỉ huy bởi Trung tướng Yuitsu Tsuchihashi – bắt đầu hành quân từ Philippines đến Timor và đóng tại Kupang, Dili và Malacca, giải vây cho đơn vị của Ito. Tsuchihashi sau đó tiến hành của phản công quy mô lớn trong một cố gắng đẩy quân Úc về một góc bờ biển phía Nam hòn đảo. Các khối quân Nhật tiến về phía Nam – hai từ Dili và một từ Manatuto ở bờ biển phía Đông Bắc. Một đơn vị khác Đông tiến từ Timor thuộc Hà Lan để tấn công các vị trí Hà Lan ở trung tâm phía Nam hòn đảo. Cuộc tiến công kết thúc vào ngày 19 tháng Tám 1942 khi phần lớn lực lượng Nhật rút về Rabaul, nhưng lẽ ra sớm hơn họ đánh chiếm trung tâm Maubisse và cảng phía Nam Beco.
|
Trận Timor
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817295
|
Người Nhật cũng tuyển mộ được số lượng ấn tượng thường dân Timor, họ sẽ cung cấp tin tức tình báo về Đồng Minh. Trong lúc đó, vào cuối tháng Tám, một cuộc xung đột song song bắt đầu khi người dân Maubisse nổi dậy chống Bồ Đào Nha.
Trong tháng Chín, phần lớn quân Nhật thuộc Sư đoàn 48 bắt đầu đến để phụ trách chiến dịch. Người Úc cũng gửi lực lượng củng cố, trong đội hình 450 quân tinh nhuệ thuộc Đại đội độc lập 2/4th – được biết đến dưới tên "Lực lượng Lancer" đến Timor vào 23 tháng Chín. Tàu khu trục HMAS Voyager bị mắc cạn tại cảng phía Nam Betano khi cho quân đổ bộ và bị bỏ lại khi nó bị không kích. Thủy thủ đoàn được cứu an toàn bởi HMAS Kalgoorlie và Warrnambool vào ngày 25 tháng Chín và chiếc tàu bị hủy nổ sau đó. Vào ngày 27, Nhật Bản cho một mũi thọc sâu từ Dili đến xác tàu Voyager, nhưng không thành công đáng kể.
Úc triệt thoái, tháng Mười Hai 1942 – tháng Hai 1943.
Vào cuối năm 1942, cơ hội để Đồng Minh tái chiếm đảo Timor đã trở nên xa vời, khi mà có tới 12.000 quân Nhật trên đảo và các biệt kích càng phải đụng độ nhiều hơn với địch quân. Các quan chức cao cấp của Australia ước tính rằng họ sẽ phải dùng tới 3 sư đoàn Đồng Minh với sự yểm trợ mạnh mẽ của không quân và hải quân để chiếm lại hòn đảo. Thực vậy, với nỗ lực của phía Nhật để làm mòn người Úc và tách họ khỏi sự hỗ trợ địa phương trở nên hiệu quả hơn, những người lính biệt kích thấy rằng hoạt động quân sự của họ trở nên ngày càng không vững vàng. Cũng giống như vậy, trong khi quân đội Australia phải tham gia những trận đánh ở New Guinea ngăn người Nhật đổ bộ với tổn thất nặng nề, các nguồn lực khi đó thật thiếu thốn để tiếp tục trận chiến ở Timor. Như vậy, từ đầu tháng Mười Hai, các hoạt động quân sự của Úc tại Timor khép lại dần.
Vào ngày 11-12 tháng Mười Hai năm 1942, những người còn lại của cái ban đầu là Lực lượng Chim sẻ - trừ một vài sĩ quan – được sơ tán cùng thường dân Bồ Đào Nha, bởi tàu khu trục Hà Lan HNLMS Tjerk Hiddes. Sau đó, trong tuần đầu tiên của tháng Một, quyết định sơ tán Lực lượng Lancer đã được đưa ra.
|
Trận Timor
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817295
|
Trong đêm mùng 9, rạng mùng 10 tháng Một năm 1943, phần lớn binh sĩ của 2/4th và 50 người Bồ Đào Nha được đón bởi tàu khu trục HMAS Arunta. Một nhóm tình báo nhỏ được biết đến dưới tên Lực lượng S được giữ lại, nhưng sự hiện diện của họ nhanh chóng bị người Nhật phát hiện. Bằng các thuyền kayak gấp, với phần còn lại của Lực lượng Lancer, Lực lượng S đã tới mũi cực Đông của đảo Timor, nơi mà Đơn vị Đặc biệt Z của Anh – Úc đang hoạt động. Họ được sơ tán bởi tàu ngầm USS Gudgeon của Mĩ vào 10 tháng Hai. Trong giai đoạn cuối cùng của trận đánh này, 40 biệt kích Úc đã chết, trong khi 1.500 lính Nhật được tin rằng đã tử trận.
Kết cục.
Nhìn vào tổng quan, trong khi chiến dịch ở Timor có giá trị chiến lược nhỏ, các biệt kích Australia đã ngăn chặn một sư đoàn đầy đủ của Nhật được sử dụng trong giai đoạn sớm hơn của Chiến dịch New Guinea, trong cùng thời gian gây ra một sự thiệt hại không cân xứng cho phía Nhật. Trái lại với các trận chiến ở Java, Ambon hay Rabaul, hoạt động của Australia ở Timor thành công hơn nhiều, tuy nó phần lớn được coi là cố gắng tượng trưng trước sức mạnh áp đảo của Nhật Bản. Nó chứng tỏ rằng trong tình huống không thuận lợi, chiến thuật phi quy ước có thể linh hoạt và kinh tế hơn các chiến thuật quy ước, khi mà tài nguyên không có sẵn cho phía Đồng Minh vào thời điểm đó. Trong thời gian chiến tranh, nhiều người dân Timor chết do sự trả thù của Nhật Bản nhằm vào dân thường. Số lượng tử vong do chiến tranh của dân thường vào khoảng 40.000 đến 70.000.
Cuối cùng, Quân đội Nhật giữ quyền kiểm soát Timor đến tận khi họ đầu hàng tháng Chín năm 1945. Vào ngày 5 tháng Chín năm 1945, sĩ quan chỉ huy của Nhật gặp thống đốc Bồ Đào Nha tại Timor, trao lại quyền lực cho ông ta và để quân Nhật dưới quyền kiểm soát của người Bồ Đào Nha. Vào ngày 11 tháng Chín, Đơn vị Timor của Australia tới cảng Kupang và chấp nhận sự đầu hàng của toàn bộ lực lượng Nhật Bản trên đảo từ quan chức cao cấp của Nhật tại đây, Đại tá Kaida Tatsuichi của Trung đoàn xe tăng số 4.
|
McCain Foods
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817296
|
McCain Foods Limited là một công ty đa quốc gia của Canada chuyên sản xuất thực phẩm đông lạnh, được thành lập vào năm 1957 ở Florenceville, New Brunswick, Canada.
Đây là nhà sản xuất các sản phẩm khoai tây đông lạnh lớn nhất thế giới. Các đối thủ cạnh tranh chính của công ty là Simplot và Lamb Weston.
Lịch sử.
McCain Foods được đồng sáng lập vào năm 1957 bởi hai anh em Harrison McCain và Wallace McCain với sự giúp đỡ của hai người anh trai của họ.
Trong năm đầu tiên sản xuất, công ty đã thuê 30 nhân viên và thu về hơn 150.000 đô la doanh thu. Trong những năm 1970–1990, công ty đã mở rộng sang các thị trường thực phẩm chế biến sẵn khác bao gồm pizza và rau đông lạnh.
Tính đến năm 2017, công ty là nhà sản xuất các sản phẩm khoai tây đông lạnh lớn nhất thế giới và có hơn 20.000 nhân viên và 47 cơ sở sản xuất ở 6 châu lục. Công ty tạo ra doanh thu hàng năm hơn 8,5 tỷ đô la Canada.
Dựa trên doanh thu năm 2014, đây là công ty tư nhân lớn thứ 19 ở Canada, theo báo cáo về kinh doanh của tờ "The Globe and Mail". Nancy McCain, thuộc gia đình McCain, đã kết hôn với cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Canada Bill Morneau. Năm 2020, McCain Foods đã giành được Giải thưởng Lausanne Index - Thực phẩm đóng gói Tốt nhất.
Vận hành ở Vương quốc Anh.
Công ty con của McCain Foods tại Vương quốc Anh có một nhà máy ở Scarborough, Bắc Yorkshire, và là nhà tài trợ trước đây của một sân vận động trong thị trấn cho đến khi đội bóng bị giải thể vào ngày 20 tháng 6 năm 2007. Ngoài ra còn có một nhà máy ở Whittlesey, Cambridgeshire và một kho lạnh ở Easton, Lincolnshire.
Một vụ kiện pháp lý trong đó Công ty TNHH Thực phẩm McCain (GB) kiện Công ty TNHH Eco-Tec (Châu Âu) đã được quyết định bởi Tối cao Pháp viện Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland vào năm 2011. McCain đã ra lệnh cho một hệ thống nhằm loại bỏ hydro sulfide từ khí biogas được sản xuất trong nhà máy xử lý nước thải của nó, điều này sẽ cho phép khí tạo ra năng lượng và nhiệt cho nhà máy Whittlesey. Hệ thống được chứng minh là "không thể vận hành thành công" và vì vậy McCain đã kiện đòi bồi thường. Phán quyết của tòa án xác nhận rằng Eco-Tec đã vi phạm hợp đồng của họ.
|
McCain Foods
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817296
|
Về mặt pháp lý, tòa án đã áp dụng một cách tiếp cận bao hàm rộng rãi đối với phạm vi tổn thất mà McCain phải gánh chịu và những thiệt hại do chúng gây ra, từ chối coi một số hạng mục là "thiệt hại do hậu quả" mà Eco-Tec tìm kiếm sự bảo vệ theo một hợp đồng với điều khoản loại trừ.
|
Giáo phận Saitama
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817297
|
() là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Nhật Bản. Địa giới của Giáo phận bao gồm các tỉnh Saitama, Tochigi, Gunma, và Ibaraki. Nhà thờ chính tòa Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, còn được biết đến với tên gọi Nhà thờ Urawa () là nhà thờ chính tòa của giáo phận.
|
Giáo phận Yokohama
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817304
|
() là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Nhật Bản. Địa giới của Giáo phận bao gồm các tỉnh Kanagawa, Shizuoka, Nagano, và Yamanashi. Nhà thờ chính tòa Thánh Tâm, còn được biết đến với tên gọi Nhà thờ Yamate () là nhà thờ chính tòa của giáo phận.
|
Odie
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817306
|
Odie là một con chó hư cấu xuất hiện trong truyện tranh "Garfield" của Jim Davis. Anh ấy cũng đã xuất hiện trong loạt phim truyền hình hoạt hình ' và ', hai phim điện ảnh live-action lẫn CGI và ba phim hoàn toàn từ CGI.
Xuất hiện.
Odie là một con chó lông vàng, tai nâu, đuôi đen. Trong các bộ phim hoạt hình/người đóng trên loạt phim Garfield, anh ta được miêu tả là một sự kết hợp giữa dachshund/chó sục lông xù.
Anh ấy có một cái lưỡi to và vẻ ngoài lười biếng. Sau tháng 10 năm 1997, anh ấy bắt đầu đi bộ thường xuyên bằng hai chân, thay vì bốn chân, như Garfield. Trong bộ phim điện ảnh chuyển thể Garfield: The Movie, khả năng đi lại của Odie, và quan trọng hơn là nhảy bằng hai chân, khiến anh ấy nhận được rất nhiều sự chú ý và là một điểm cốt truyện chính trong suốt bộ phim. Anh ta được Garfield coi là một "kẻ lười biếng" trong một số đoạn phim trước đó, và sau đó Garfield cảm thấy thông cảm hơn về Odie.
Lịch sử.
Cái tên này xuất phát từ một quảng cáo đại lý xe hơi được viết bởi Jim Davis, trong đó có sự góp mặt của Odie the Village Idiot. Davis thích cái tên Odie và quyết định sử dụng lại nó. Khi Garfield lần đầu tiên được gửi, Davis đã gọi Odie là "Spot". Sau đó, anh ấy đến thăm họa sĩ truyện tranh Mort Walker để cho anh ấy xem một phần Garfield, và Walker nói với Davis "Tôi có một con chó tên là Spot". Khi Davis hỏi "Thật sao?", Walker trả lời "Vâng, trong , một trong những truyện tranh của tôi". Davis đổi tên Spot thành Odie.
Odie lần đầu tiên xuất hiện trong truyện vào ngày 8 tháng 8 năm 1978; ngày được coi là sinh nhật của anh. Ban đầu anh ta là thú cưng của bạn cùng phòng của Jon Arbuckle, Lyman, nhưng Lyman đã biến mất khỏi loạt phim sau khoảng năm năm mà không có lời giải thích, sau đó quyền sở hữu Odie được chuyển giao cho Jon thay thế. Tuy nhiên, có bốn phần từ giải thích những gì đã xảy ra với Lyman và cách họ tìm thấy anh ta.
Giống như Garfield, Odie từng được vẽ đứng bằng bốn chân nhưng bây giờ chủ yếu đứng trên hai chân. Odie đã từng xuất hiện để nói chuyện trong một truyện tranh nào đó, nhưng đó chỉ là giấc mơ của Garfield.
|
Yêu tinh (phim 1982)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19817307
|
Poltergeist là một bộ phim kinh dị siêu nhiên của Mỹ năm 1982 do Tobe Hooper đạo diễn và được viết bởi Steven Spielberg, Michael Grais và Mark Victor dựa trên một câu chuyện của Spielberg. Phim có sự tham gia của JoBeth Williams, Craig T. Nelson và Beatrice Straight, và được sản xuất bởi Spielberg và Frank Marshall. Phim tập trung vào một gia đình ngoại ô có ngôi nhà bị xâm nhập bởi những hồn ma độc ác bắt đi cô con gái út của họ.
"Poltergeist" là một thành công lớn về mặt thương mại và phê bình, trở thành bộ phim có doanh thu cao thứ tám trong năm 1982. Trong những năm kể từ khi phát hành, phim đã được công nhận là một tác phẩm kinh dị kinh điển. Nó đã được đề cử ba giải Oscar, được Hiệp hội phê bình phim Chicago vinh danh là bộ phim đáng sợ thứ 20 đã từng được thực hiện và cảnh búp bê chú hề tấn công được xếp ở vị trí thứ 80 trong "100 khoảnh khắc đáng sợ nhất trong phim" của Bravo. "Poltergeist" cũng xuất hiện ở vị trí thứ 84 tại 100 Years...100 Thrills, danh sách những bộ phim gây thót tim nhất nước Mỹ của Viện phim Hoa Kỳ
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.