id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19852077
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20trung%20t%C3%A2m%20Krung%20Thep%20Aphiwat
|
Ga trung tâm Krung Thep Aphiwat
|
Ga trung tâm Krung Thep Aphiwat (, , ), trước đây gọi là Ga Bang Sue lớn (, , ; ), là một ga trung tâm ở Băng Cốc và hiện là trung tâm đường sắt của Thái Lan. Nó thay thế cho ga Ga Hua Lamphong từng là nhà ga trung tâm đường sắt, với dịch vụ đường sắt chặn dài được vận hành từ ngày 19 tháng 1 năm 2023. Nhà ga mở cửa từ ngày 2 tháng 8 năm 2021 như một phần của Tuyến SRT Đỏ, và từ tháng 5 năm 2021 đến tháng 9 năm 2022 nó được sử dụng trở thành trung tâm triển khai vắc-xin ngăn ngừa COVID-19. Nó liên kết với Ga Bang Sue MRT thông qua lối bộ hành ngầm.
Nó là ga đường sắt lớn nhất ở Đông Nam Á, với 26 ke ga—dài 600 mét. Nhà ga có diện tích sàn sử dụng là 274.192 m2. Nhà ga 15 tỉ baht được xây dựng trên phần đất thuộc sở hữu của SRT và sẽ có depot bảo dưỡng cho cả tàu diesel và điện. Lối đi bộ trên cao nối nhà ga với Bến xe buýt Mo Chit mới.
Hiện tại, các tàu liên tỉnh đường dài tại đây sẽ là ga cuối, trong khi các tàu chở khách thông thường tại các nhà ga sẽ tiếp tục đi đến Hua Lamphong và tiếp tục hoạt động tại Ga nút giao Bang Sue cũ.
Tên gọi
Tên Krung Thep Aphiwat nghĩa là "sự thịnh vượng của Bangkok". Tên được chọn bởi Vua Vajiralongkorn.
Lịch sử
Năm 2010 dưới thời của Thủ Tướng Abhisit Vejjajiva, Bộ giao thông vận tải quyết định dời ga đường sắt trung tâm của Băng Cốc (ga Hua Lamphong) đế khu vực ga nút giao Bang Sue, để trở thành ga trung tâm của hệ thống giao thông đường sắt. Vào năm 2013, bắt đầu công việc ký hợp đồng với Đường sắt Nhà nước Thái Lan (SRT), Sino-Thai Engineering Construction PCL, và Unique Construction and Engineering PCL cho hệ thống tuyến đường sắt ngoại ô Đỏ dự án bao gồm công trình dân dụng cho Ga Bang Sue lớn và một trung tâm bảo dưỡng. Vào tháng 12 năm 2020 nhà ga dân dụng đã hoàn thành.
Nhà ga trở thành trung tâm Vắc-xin COVID-19 từ ngày 24 tháng 5 năm 2021 đến ngày 30 tháng 9 năm 2022.
Vận hành chạy thử Tuyến SRT Đỏ, mở cửa công đồng, bắt đầu từ ngày 2 tháng 8 năm 2021.
Hợp đồng 33 triệu baht để lắp đặt một bảng tên mới để kỉ niệm nhà ga mới đã dừng lại vào tháng 1 năm 2023 sau khi cộng đồng lo lắng về giá cả.
Dịch vụ nội thành bắt đầu hoạt động tại nhà ga vào ngày 19 tháng 1 năm 2023, với 52 tàu đường dài với ga cuối ban đầu tại Bangkok (Hua Lamphong) được di chuyển đến nhà ga.
Bố trí ga
Nhà ga có 4 tầng, 3 tầng nổi và 1 tầng hầm:
Tầng hầm: Ga Bang Sue MRT, trên Tuyến MRT Xanh Dương, và chỗ đậu xe cho 1.624 phương tiện.
Tầng trệt: Nhà ga có khu vực bán vé và chờ. Đây sẽ là khu vực có máy lạnh duy nhất trong nhà ga.
Tầng 2: Ke ga với 12 đường ray. Tám đường sẽ phục vụ cho tàu diesel chặn dài (sẽ sớm điện hoá). Bốn đường ray sẽ phục vụ cho tàu Tuyến SRT Đỏ Đậm và Đỏ Nhạt.
Tầng 3: Ke ga tàu cao tốc với 10 đường ray. Bốn đường ray sẽ phục vụ cho AERA1 City và Đường sắt cao tốc Don Mueang–Suvarnabhumi–U-Tapao liên kết với các sân bay quốc tế Don Mueang, Suvarnabhumi và U-Tapao. Sáu đường sắt phục vụ cho đường sắt cao tốc (HSR) trong tương lai kết nối Nong Khai, Padang Besar, Thái Lan và Chiang Mai.
Ngoài ra kế hoạch nơi tưởng niệm Vua Rama V, còn gọi là "cha đẻ của đường sắt Thái Lan", mặc dù điều này dự kiến sẽ mở sau nhà ga.
Kho hàng Phahonyothin
Ga trung tâm Krung Thep còn là địa điểm của kho hàng Phahonyothin. Với diện tích khoảng 50 ray đường sắt, nó là kho hàng bằng đường sắt lớn nhất tại Thái Lan. Nó nằm cách 1,5 km từ nhà ga và nó là kho hàng lớn cho dịch vụ chuyển hàng xung quanh Thái Lan.
Kết nối xe buýt
Theo BMTA và Private Jointed các tuyến phục vụ bên dưới:
3 (Bến xe buýt Kamphaeng Phet - Mo Chit 2 - Khlong San)
3 (Bến xe buýt Kamphaeng Phet - Ga Mochit BTS) (tuyến vòng)
16 (Bến xe buýt Kamphaeng Phet - Mo Chit 2 - Surawong)
49 (Bến xe buýt Kamphaeng Phet - Ga Hua Lamphong) (tuyến vòng)
52 (Pak Kret - Đường Vibhavadi Rangsit - Mo Chit 2) (Chỉ đi đến Mo Chit 2)
67 (Bến xe buýt Kamphaeng Phet - Central Plaza Rama III)
77 (Central Plaza Rama III - Mo Chit 2) (Chỉ đi đến Mo Chit 2)
96 (Min Buri - Mo Chit 2) (thả khách tại nhà ga)
104 (Pak Kret - Đường Phahonyothin - Mo Chit 2) (Chỉ đi đến Mo Chit 2)
134 (Bua Thong Kheha - Mo Chit 2) (thả khách tại nhà ga)
136 (Khlong Toei - Mo Chit 2) (thả khách tại nhà ga)
138 (Bến tàu Phra Pradaeng - Mo Chit 2) (thả khách tại nhà ga)
138 (Ratchapracha - Mo Chit 2) (thả khách tại nhà ga)
145 (Pak Nam (Praeksa Bordin) - Mo Chit 2) (thả khách tại nhà ga)
145 (Mega Bangna - Mo Chit 2) (thả khách tại nhà ga)
157 (Bang Khae - Đường Phuttha Monthon 1 - Cao tốc - Tượng đài chiến thắng)
170 (Đường Phuttha Monthon 2 - Đường Charan Sanit Won - Mo Chit 2)
509 (Borommaratchachonnani - Đường Phuttha Monthon 2 - Mo Chit 2) (Chỉ đi đến Mo Chit 2)
517 (Bến xe buýt Kamphaeng Phet - Mo Chit 2 - KMITL)
536 (Pak Nam - Cao tốc - Mo Chit 2) (Chỉ đi đến Mo Chit 2)
Hình ảnh
Xem thêm
Ga Hua Lamphong
Tham khảo
Liên kết ngoài
Krung Thep Aphiwat
Krung Thep Aphiwat
Krung Thep Aphiwat
|
19852078
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/CONCACAF%20Nations%20League%202022%E2%80%9323
|
CONCACAF Nations League 2022–23
|
CONCACAF Nations League 2022–23 là mùa giải thứ hai của CONCACAF Nations League, một giải bóng đá quốc tế có với sự tham gia của các đội tuyển quốc gia đến từ 41 hiệp hội/liên đoàn bóng đá thành viên của CONCACAF. Vòng bảng của giải đấu bắt đầu vào ngày 2 tháng 6 năm 2022 và vòng đấu cuối cùng quyết định nhà vô địch được diễn ra từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 6 năm 2023 tại Sân vận động Allegiant ở Paradise, Nevada. Giải đấu này cũng đóng vai trò là vòng loại cho Cúp Vàng CONCACAF 2023.
đã giành chức vô địch lần thứ hai, sau khi đánh bại 2–0 ở trận chung kết.
Lịch trình
Thể thức của giải được công bố vào ngày . Do FIFA World Cup 2022 diễn ra vào cuối năm nên giải đấu được diễn ra vào tháng 6 năm 2022 đến tháng 3 năm 2023.
Thể thức
Tiebreakers
Thứ hạng của các đội ở mỗi bảng được xác định như sau (Điều 12.3):
Số điểm giành được trong tất cả các trận đấu vòng bảng (3 điểm/trận thắng, 1 điểm/trận hòa và 0 điểm/trận thua);
Hiệu số bàn thắng bại ở tất cả các trận vòng bảng;
Số bàn thắng ghi được trong tất cả các trận đấu vòng bảng;
Số điểm có được trong các trận đấu giữa các đội được đề cập;
Hiệu số bàn thắng bại trong các trận đấu giữa các đội được đề cập;
Số bàn thắng ghi được trong các trận đấu giữa các đội được đề cập;
Số bàn thắng sân khách ghi được trong các trận đấu giữa các đội được đề cập (nếu chỉ hòa giữa hai đội);
Điểm fair-play ở tất cả trận đấu vòng bảng (chỉ có thể áp dụng một điểm trừ cho một cầu thủ trong một trận đấu):
Thẻ vàng: −1 điểm;
Thẻ đỏ gián tiếp (2 thẻ vàng): −3 điểm;
Thẻ đỏ trực tiếp: −4 điểm;
Thẻ vàng và thẻ đỏ trực tiếp: −5 điểm;
Bốc thăm.
Hạt giống
Tất cả 41 đội tuyển quốc gia CONCACAF đều tham gia tranh tài. 4 đội đứng cuối mỗi bảng ở League A và League B từ mùa giải 2019–20 tụt xuống một bậc, trong khi bốn đội đứng đầu mỗi bảng ở League B và League C thăng lên. Các đội còn lại ở lại giải đấu tương ứng của họ.
Lễ bốc thăm vòng giải đấu diễn ra tại Miami (Florida, Hoa Kỳ) vào ngày 4 tháng 4 năm 2022 lúc 19h (theo giờ EDT). Mỗi bảng ở các League được bốc thăm bằng cách lựa chọn các đội từ nhóm 1 đến nhóm 3. Quy trình tương tự được thực hiện cho các bảng còn lại. Các đội được xếp hạt giống vào các nhóm theo Bảng xếp hạng CONCACAF.
League A
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Chung kết Nations League
Hạt giống
Bốn đội được xếp hạng dựa trên kết quả của họ ở vòng bảng để xác định các trận bán kết. Hạt giống thứ nhất đấu với hạt giống thứ tư và hạt giống thứ hai đấu với hạt giống thứ ba.
Sơ đồ
Tất cả trận đấu diễn ra theo Múi giờ Thái Bình Dương (UTC−7).
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
League B
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Xếp hạng các đội đứng thứ hai
Do bị loại, thứ hạng của tất cả các đội xếp thứ hai được sử dụng để xác định đội nào sẽ thay thế họ ở League A.
Xếp hạng các đội thứ ba
Vì đã thay thế ở Cúp Vàng, thứ hạng của tất cả các đội xếp thứ ba được sử dụng để xác định đội nào sẽ thay thế họ ở vòng sơ loại Cúp Vàng.
League C
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Danh sách ghi bàn
Nguồn:
Chú thích
Liên kết ngoài
|
19852080
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20Th%E1%BB%95%20%28Trung%20Qu%E1%BB%91c%29
|
Tiếng Thổ (Trung Quốc)
|
Tiếng Thổ () hay tiếng Monguor (cũng được viết là Mongour và Mongor) là một ngôn ngữ Mông Cổ thuộc nhánh Shirongol và là một phần của nhóm sprachbund Cam Túc–Thanh Hải (còn gọi là sprachbund Amdo). Có một số phương ngữ, hầu hết được người dân tộc Thổ sử dụng. Một hệ thống chữ viết đã được xây dựng cho tiếng Thổ Hỗ Trợ (Mongghul) vào cuối thế kỷ 20 nhưng ít được sử dụng.
Một số nhà ngôn ngữ học phân chia tiếng Thổ thành hai ngôn ngữ, cụ thể là tiếng Mongghul ở huyện tự trị dân tộc Thổ Hỗ Trợ và tiếng Mangghuer ở huyện tự trị dân tộc Hồi và Thổ Dân Hòa. Trong khi tiếng Mongghul chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tiếng Tạng Amdo, tiếng Mangghuer lại do tiếng Hán tác động. Theo chiều ngược lại, các phương ngữ địa phương của tiếng Trung như tiếng Cam Câu lại bị ảnh hưởng bởi tiếng Thổ.
Ngôn ngữ này không có liên hệ nào với tiếng Thổ tại Việt Nam, thuộc ngữ hệ Nam Á.
Số đếm
Các chữ số Mông Cổ như sau chỉ được sử dụng trong phương ngữ Mongghul, trong khi những người nói tiếng Mangghuer đã chuyển sang đếm bằng tiếng Trung. Lưu ý rằng trong khi chữ viết Mông Cổ chỉ có chữ arban cho "mười", tiếng Mông Cổ trung đại *harpa/n bao gồm *h có thể được tái tạo từ chữ viết này.
Tham khảo
Thư mục
Dpal-ldan-bkra-shis, Keith Slater, et al. (1996): Language Materials of China's Monguor Minority: Huzhu Mongghul and Minhe Mangghuer. Sino-Platonic papers no. 69.
Georg, Stefan (2003): Mongghul. In: Janhunen, Juha (ed.) (2003): The Mongolic languages. London: Routledge: 286-306.
Slater, Keith W. (2003): A grammar of Mangghuer: A Mongolic language of China's Qinghai-Gansu sprachbund. London/New York: RoutledgeCurzon.
Svantesson, Jan-Olof, Anna Tsendina, Anastasia Karlsson, Vivan Franzén (2005): The Phonology of Mongolian. New York: Oxford University Press.
Zhàonàsītú 照那斯图 (1981): Tǔzúyǔ jiǎnzhì 土族语简志 (Introduction to the Tu language). Běijīng 北京: Mínzú chūbǎnshè 民族出版社.
Liên kết ngoài
[The Tu ethnic minority http://www.china.org.cn/e-groups/shaoshu/shao-2-tu.htm]
ELAR archive of Mongghul language documentation materials
Ngôn ngữ chắp dính
Ngôn ngữ Nam Mông Cổ
Ngôn ngữ tại Thanh Hải
Người Thổ (Trung Quốc)
Ngữ hệ Mông Cổ
|
19852082
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%E1%BA%BB%20%C4%83n%20h%E1%BB%93n
|
Kẻ ăn hồn
|
Kẻ Ăn Hồn (tiếng Anh: The Soul Reaper) là một bộ phim điện ảnh Việt Nam thuộc thể loại kinh dị được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Thảo Trang ra mắt vào năm 2023 và là bộ phim kinh dị Việt có doanh thu phòng vé cao nhất tính đến hết năm 2023, và đây là bộ phim trong vũ trụ làng Địa Ngục do Trần Hữu Tấn làm đạo diễn, với sự tham gia diễn xuất của các diễn viên gồm Hoàng Hà, Võ Điền Gia Huy, Huỳnh Thanh Trực, Lan Phương, Lý Hồng Ân, NSUT Chiều Xuân.
Nội dung
Mở đầu phim là nhân vật Tam Quỷ dẫn chuyện, nói về nguồn gốc cùa cổ thuật rượu sợ người, khi đấy hắn ta đã chia sẻ muốn sở hữu cổ thuật đó phải có 5 mạng cùa những người đặc biệt; một đôi chân của kẻ chạy nhanh - một đôi tay của kẻ khéo léo - một lá gan của kẻ gan dạ - một cái đầu của kẻ thông minh và một trái tim của kẻ ác độc. Ngoài ra cũng cần đến máu tươi của thiếu nữ.
Chuyển cảnh sang một buổi tối tại làng Địa Ngục, một đám cưới linh đình đang chuẩn bị được tổ chức, lũ trẻ nhỏ thì tụ lại đọc bài vè quen thuộc. Khi đấy thằng Dương rủ lũ trẻ nhỏ kêu gọi người dân trong làng để đi xem rối nước do chính tay anh làm. Cùng lúc đó, Sang và Phong mặc một bộ hi phục rất xinh đẹp với một cái mặt nạ chuột, đang di chuyển, Phong bỗng thấy bóng dáng của một người phụ nữ, khi thấy rõ, Phong la hét hoảng sợ khi thấy một người phụ nữ đang nắm tay một cô gái đi vào làng. Lúc đó Phong nói cho Sang biết, những cậu ấy xem lại thì không thấy; sau đó cậu ấy khuyên cô ấy nghi ngơi. Phong bình tĩnh lại, cả 2 tiếp tục di chuyển. Lũ trẻ la hét ăn mừng vì cô dâu chú rể đã trở về, cả 2 đã có một ngày tuyệt vời khi cả làng đều tụ lại chúc mừng. Đang vui vẻ, Phong tiếp tục thấy người phụ nữ đấy, nhưng lần này rõ mặt hơn. Phong lại hoảng hốt hơn khi thấy người đàn bà ấy cầm một đứa con toàn máu, Sang thấy vậy, liền kêu gọi mọi người tìm kiếm người phụ nữ, nhưng kiểu bằng mọi cách rồi cũng không thể kiếm được. Khi ấy Cậu Khảm tìm đến cô Phong để chúc mừng đám cưới, nhưng mặt của cậu ta không được vui cho lắm. Sang vừa về, thấy vây liền né tránh cậu ta và về nhà.
Cả 2 đang say sưa trong giấc ngủ thì bỗng dưng bên ngoài có tiếng chuông, Phong dậy và nhìn cửa sổ thì thấy Bà Vạn đang lái đò. Phong thấy rồi nên lập tức kêu Sang dậy để thấy, nhưng khi Sang dậy thì bà ấy biến mất. Tới sáng, một người dân trong làng đã phát hiện ra thằng Dương đã bị chặt hết, từng bộ phận cách biệt nhau nhưng đôi tay đã biến mất. Lúc ấy làng đã bắt đầu điều tra vụ án này, cậu Sang thấy được một con hình nhân, cả làng đều hoang mang vì hình nhân thì liên quan gì đến thằng Dương. Cùng lúc đó, Minh đang bệnh, mẹ của Minh phải nhờ đến cậu Khảm để khám. Sau khi khám xong, Minh cảm ơn và quay về nhà, nhưng cô ấy cười như cô ấy đã kiếm được chân ái của chính mình. Cậu Khảm ra ngoài thì gặp cô Phong, khi ấy Phong thấy Minh và Khảm xứng đôi, nhưng Phong không hề biết người mà Khảm rất yêu thương lại chính là mình. Đang nói chuyện, Sang đến hỏi nhưng mặt như muốn đánh ghen. Sang dẫn Phong về nhà. Mấy ngày sau, bà Tám Kheo bỗng nhiên ra ngoài la làng nói là bé Hường mất tích. Người dân tìm kiếm từ ngày này qua ngày kia, và phát hiện là xác bé Hường nằm ở cánh đồng hoa, mắt và chân mất luôn, đặc biệt là có con hình nhân rất giống ở vụ thằng Dương. Người dân bắt đầu nghi ngờ có người xâm nhập vào làng. Những ngày hôm sau, ông Càn từ điên sang điên hơn khi con gái mình chết, gặp Phong và tự nhận là con gái mình, Khảm khi đó nói sự thật và ông Càn khi đó rất sốc, không dám tin, vừa chạy vừa khóc. Mấy ngày sau, người dân tiếp tục phát hiện cô Minh và bà Càn bỗng nhiên mất tích.
Người dân phát hiện ra bà Càn ở một bãi nước với một màu nước không thể nào kinh dị hơn, bà ấy bị phát hiện là mất lá gan, và tiếp tục có con hình nhân y hệt 2 người kia. Tới buổi tối, Phong tranh cãi với gia đình và Sang. Khi hai người đã chìm vào giấc ngủ, Phong nghe được tiếng động nào đó, rất lạ. Phong ra ngoài xem thì một hình ảnh kinh hoàng xuất hiện, Thập Nương đang ăn những con hình nhân rất ngon miệng, mồm thì đen thui, Phong xem vậy, tới khi Thập Nương phát hiện và đuổi theo, Phong chạy về nhà và gặp Thị Khôi. Cô lúc đấy vô cùng hoảng hốt, giải thích cho u nhưng khi xem lại thì không thấy. Ngày hôm sau, Ngọ và cả làng đến nhà đả đảo nhà ông Khôi, đòi rời khỏi làng. Ông Khôi liền can ngăn, nhưng cả làng không nghe lời và rời làng như bình thường, đến tối, một người trong làng bỗng nhiên mặt toàn máu, lỗ thì rất nhiều. Vì vậy, những người còn lại đều rất sợ, đòi về lại làng nhưng tới khi về thì chỉ còn Ngọ với những người may mắn, cùng lúc đó thì bên ông thầy đồ (tức cha cậu Khảm) bỗng nhiên bị thắt cổ, cùng lúc đó, Phong như bị nhập. Sáng ngày mai, Khảm phát hiện bố mình chết không còn đầu, Khàm sốc không nói nên lời. Liền tìm đến gia đình Phong để kiện. Cả làng khi đó đều nghĩ ông Khôi là kẻ luyện rượu. Phong cản lại, thì Sang liền nói bóng gió về việc Phong là người luyện rượu. Sau khi nói xong, cậu ấy đem những cái áo của Phong dính rất nhiều máu và khóc lóc tố cáo Phong và gia đình Phong. Khi đấy cậu Khảm như sụp đổ, cả làng thì đánh đập, chửi rủa gia đình Phong. Sang lúc đấy kêu mọi người bắt bọn họ lại. Nên cả làng bắt gia đình của Phong lẫn Phong. Người thì bắt, người thì vào nhà vứt hết đồ đạc vào người của bọn họ. Đến tối, Sang mặc chính bộ y phục lúc đám cưới đốt chính cha mẹ vợ. Cùng lúc đó, Phong bị trói, ông Càn thấy Phong bị vậy mà có người canh chừng, ổng đe dọa cầm dao, sau đó chạy vào cởi trói cho Phong. Sau đó Phong và Khảm vừa ra ngoài, liền tố cáo hắn ta là người luyện rượu, Khảm đưa bằng chứng là Sang giết cha của mình. Lúc đấy, Sang chính thức lên tiếng, khẳng định hắn là kẻ luyện rượu. Lúc đó, gợi tả lại câu chuyện là mẹ của Sang về ở chung với mẹ Phong, nhưng vì mẹ Sang rời khỏi làng nên mẹ Sang bị mồ hôi máu đầy thương tiếc, khi ấy Sang bị sôc tâm lý rất lớn, tìm cách giết làng, đang tìm cách thì Thập Nương xuất hiện, giới thiệu về một cổ thuật là rượu sọ người, cô ấy nói: "lấy 5 mạng người, đổi lấy một bình rượu; con lấy xác, ta lấy hồn" Và bà ta còn kêu là Sang phải thành thân với người có dòng màu thuần âm để kẻ ấy cho biết 5 người đấy. Hết gợi tả, Sang liền kêu Thập Nương với mỏ hỗn. Đòi là rượu sọ người của hắn, vừa kêu vừa la làng, đốt ông bà Khôi, lúc đấy ông Càn đến cản, và kết quả là còn cái đầu. Phong thấy vậy liền khóc lóc, kêu "CHA". Sang bắt đầu bắt Phong lại, Phong đang chạy trốn thì phát hiện cô Minh đang hiến máu dưới một bãi máu. Lúc đấy Sang phát hiện, liền lấy dao đâm, nhưng hụt.
Phong chọp thời cơ, liền lấy dao đâm ngược lại vào người Sang. Vừa đâm xong, cô ấy khóc lóc vì cô ấy còn rất yêu thương Sang. Đang khóc thì kế bên là cậu Sang đang leo lên đò của bà Vạn. Cùng lúc đó, Thập Nương xuất hiện và lại gần cô Phong, máu chảy vào miệng cô Phong như nước mưa. Khi ấy, Thập Nương thấy con hình nhân của Sang, liền chạy gần ăn. Phong khi ấy thấy cây đuốc của Thập Nương, liền vứt nó xuống bể máu. Thập Nương hoảng hốt, cuối cùng bị đom đóm đỏ ăn và biến mất. Sang lên đò thành công, Minh được cứu và đoàn tụ bên gia đình.
Những ngày sau, Phong sống một mình, Khảm với Minh cưới nhau. Kết thúc bộ phim.
Diễn viên
Hoàng Hà vai Cô Phong
Võ Điền Gia Huy vai Cậu Sang
Huỳnh Thanh Trực vai Cậu Khảm
Lan Phương vai Thập Nương
NSƯT Chiều Xuân vai bà Tám Kheo
Nguyễn Hữu Tiến vai ông Càn
Nguyễn Nghinh Lộc vai bà Càn
Lý Hồng Ân vai Cô Minh
Nguyễn Phước Lộc vai Thằng Ngọ
NSND Ngọc Thư vai Thị Khôi
Viết Liên vai ông Khôi
Và một số diễn viên khác
Phát hành
Quảng bá
Vào ngày 7 tháng 11 năm 2023, nhà sản xuất của Kẻ Ăn Hồn bất ngờ tung poster Đám cưới chuột và teaser trailer của phim. Khi ấy, vì hiệu ứng của bộ phim ăn khách Tết ở làng địa ngục mà phim được nhiều người biết đến. Sau poster đám cưới chuột, Kẻ Ăn Hồn tung loạt poster nhân vật ám chỉ việc cả làng trở thành vở rối nước kì quái nhất ở làng Địa Ngục. Cả ngôi làng quỷ ám đang bị một thế lực tà ác có liên quan đến cổ thuật rượu sọ người xâm chiếm và tiêu khiển. Trôi qua gần 1 tháng, Kẻ Ăn Hồn chính thức tung poster chính thức và trailer chính thức của phim, qua trailer chính thức, Kẻ Ăn Hồn tiết lộ cách thức điều chế rượu sọ người - một loại cổ thuật dân gian đã tồn tại từ lâu ở làng Địa Ngục, loại vu thuật này vốn mang lại sức mạnh cho những ai luyện nó, kẻ luyện rượu sọ người sẽ sở hữu sức mạnh có thể chiếm hồn đoạt xác, điều khiển âm binh, hồi sinh vong quỷ.
Hoãn chiếu
Trước một ngày chiếu phim (tức ngày 7 tháng 12 năm 2023), nhà sản xuất phim thông báo phim sẽ hoãn chiếu vì lý do muốn phim hoàn thiện hơn.Vì thông báo quá trễ nên gây ra một cuộc tranh cãi rất lớn. Và gần 1 tuần sau, vào ngày 13 tháng 12 năm 2023, Kẻ Ăn Hồn chính thức trở lại vào ngày 15 tháng 12 năm 2023 trên toàn quốc, đặc biệt là có suất chiếu đặc biệt từ 18 giờ ngày 14 tháng 12 năm 2023.
Đón nhận
Doanh thu phòng vé
Trong ngày có suất chiếu đặc biệt, phim đã đoạt hơn 4 tỷ đồng. Và ngày đầu tiên chiếu chính thức, phim chính thức thu được 100.000 vé xem phim. Tiếp tục đến ngày 18 tháng 12 năm 2023, phim chính thức bán hơn 400.000 vé. Hơn 1 tuần sau, vé càng tăng, từ 400.000 thành 700.000 vé. Sau 1 ngày, phim chính thức đoạt 55 tỷ.Và doanh thu kết luận của phim là 66.8 tỷ đồng. Khi ấy, Kẻ Ăn Hồn là phim điện ảnh VN cao nhất có doanh thu cao nhất cuối năm và là phim kinh dị Việt Nam có doanh thu cao nhất lịch sử phòng vé cho tới khi Quỷ cẩu vượt mặt.
Và vào cuối tháng 1 năm 2024, phim trở thành phim nước ngoài có doanh thu phòng vé cao nhất trong tuần tại Myanmar.
Ngày 24 tháng 2 năm 2024, phim chính thức trở thành phim Việt có doanh thu cao nhất mọi thời đại tại Myanmar. Sau 3 ngày, phim chính thức trở thành phim có doanh thu cao nhất trong ngày tại Campuchia.
Và ngày 15 tháng 3 năm 2024, bộ phim chính thức có mặt trên nền tảng phim ảnh Netflix.
Giải thưởng
Đánh giá
Theo Kenh14, Kẻ Ăn Hồn tiếp nối được tinh thần kinh dị đậm màu dân gian của Tết Ở Làng Địa Ngục, mang đến một phần tiền truyện tạm đáp ứng được sự mong mỏi của khán giả và fan. Tuy nhiên, phim cũng để lại nhiều thắc mắc bỏ ngỏ, những chi tiết “râu ria” dư thừa rơi rớt lại sau khi cao trào qua đi, cũng là những điểm chưa tốt mà chắc chắn bộ đôi Hoàng Quân - Trần Hữu Tấn phải gom góp và học hỏi thêm trong những tác phẩm kế tiếp.
Chú thích
Liên kết ngoài
Kẻ ăn hồn trên Facebook
Trailer chính thức trên Youtube
Phim Việt Nam
Phim năm 2023
Phim tiếng Việt
Phim quay tại Việt Nam
Phim kinh dị Việt Nam
Phim cổ trang Việt Nam
Phim của ProductionQ
Phim lấy bổi cảnh ở Hà Giang
Phim do Trần Hữu Tấn đạo diễn
Phim dựa theo tác phẩm của nhà văn
|
19852089
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oh%20My%20God%20%28th%E1%BB%83%20thao%20%C4%91i%E1%BB%87n%20t%E1%BB%AD%29
|
Oh My God (thể thao điện tử)
|
en:OMG (esports)
Oh My God (OMG) là 1 tổ chức thể thao điện tử Trung Quốc. Đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại OMG được thành lập vào tháng 5 năm 2012 và thi đấu tại giải đấu League of Legends Pro League (LPL). Đội tuyển đánh dấu lần đầu tiên xuất hiện tại giải chung kết thế giới ở giải vô địch thế giới Liên Minh Huyền Thoại mùa 3 năm 2013 và tiếp tục đủ điều kiện tham gia giải vô địch thế giới Liên Minh Huyền Thoại mùa 4 năm 2014.
Đội hình hiện tại
Tham khảo
Chú thích
Đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại ở Trung Quốc
|
19852090
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ninjas%20in%20Pyjamas
|
Ninjas in Pyjamas
|
en:Ninjas in Pyjamas
Ninjas in Pyjamas (NIP) là 1 tổ chức thể thao điện tử chuyên nghiệp, có trụ sở tại Thụy Điển và nổi tiếng với đội tuyển Counter-Strike của họ. Năm 2012, đội tuyển tái thiết đội hình Counter-Strike: Global Offensive khi trò chơi được phát hành. Bên cạnh Counter-Strike, tổ chức còn có đội tuyển thi đấu Valorant, Rainbow Six Siege, FC Online, Rocket League, Fortnite Battle Royale và Liên Minh Huyền Thoại. Trước đó họ cũng có đội tuyển thi đấu Overwatch, PUBG và Paladins.
Đội hình hiện tại
Tham khảo
Chú thích
Tổ chức thể thao điện tử
Tổ chức thể thao điện tử Thụy Điển
Đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại
|
19852093
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Louisenberg
|
Lâu đài Louisenberg
|
Lâu đài Louisenberg là một lâu đài ở đô thị Salenstein thuộc bang Thurgau của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ.
Xem thêm
Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ
Tham khảo
Louisenberg
|
19852104
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Meguro%20Ren
|
Meguro Ren
|
Meguro Ren (目黒蓮, Meguro Ren, sinh ngày 17 tháng 2 năm 1997, tại Tokyo) là một ca sĩ, diễn viên và người mẫu người Nhật Bản, là thành viên của nhóm nhạc nam Snow Man trực thuộc Smile Up (Starto), trước đây được biết đến là Johnny & Associates.
Tiểu sử
Ren Meguro gia nhập Starto vào tháng 10 năm 2010. Vào tháng 11 năm 2016, anh được chọn làm thành viên của Uchuu Six, một nhóm nhạc trước khi được ra mắt được thành lập trực thuộc Junior, một chi nhánh của Starto quản lý các thành viên và hoạt động của họ.
Vào ngày 17 tháng 1 năm 2019, Meguro được thêm làm thành viên mới của Snow Man, một nhóm nhạc Junior hiện có, cùng với hai thành viên nữa là Koji Mukai và Raul. Snow Man ra mắt chính thức vào ngày 22 tháng 1 năm 2020. Sau đó, ra mắt cùng với Snow Man nên Meguro đã rút khỏi Uchuu Six.
Vào ngày 11 tháng 8 năm 2021, Meguro hợp tác với bạn cùng công ty là Shunsuke Michieda trong bộ phim truyền hình chuyển thể live-action "My Love Mix Up!" vai chính đầu tiên của anh ngoài các dự án liên quan đến Snow Man.
Vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, Meguro được thông báo là sẽ đóng vai chính trong "Phase of the Moon", bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết đoạt giải Naoki lần thứ 157, "Tsuki no Michikake" (Moon Phases) của Shogo Sato, trên Twitter chính thức của bộ phim. Vào tháng 4 cùng năm, anh được thông báo sẽ đóng vai chính trong bộ phim live-action chuyển thể từ "As Long as We Both Shall Live" (My Happy Marriage) cùng với Mio Imada được phát hành vào năm sau. Vào ngày 14 tháng 7 năm 2023, anh đóng vai chính với tư cách solo đầu tiên trong bộ phim truyền hình Trillion Game.
Vào ngày 23 tháng 10 năm 2023, Meguro tạo tài khoản instagram "sn_meguro.ren_official" ngay sau khi Trillion Game được quảng bá trên toàn thế giới thông qua Netflix.
Vào ngày 25 tháng 11 năm 2023, Meguro giành được giải Nam diễn viên mới xuất sắc tại Lễ trao giải TAMA Film Awards lần thứ 15 danh giá, ghi nhận công sức và tài năng của anh trong My Happy Marriage (2023) và Phases of the Moon (2022).
Sự nghiệp
Vai trò làm người mẫu
Tận dụng chiều cao và khả năng của mình, Meguro đã làm người mẫu, anh làm người mẫu cho Tạp chí 'FINEBOYS' từ tháng 11 năm 2018 cho đến nay.
Vào ngày 7 tháng 5 năm 2020, có thông báo rằng anh sẽ xuất hiện trên trang bìa với tư cách solo lần đầu tiên trên 'FINEBOYS' số tháng 6. Khi tạp chí được phát hành vào ngày 29 tháng 5 năm 2020, máy chủ web đã gặp sự cố trong 10 giây do hoạt động truy cập quá cao.
Ngoài ra, có thông báo cũng xác nhận rằng số tháng 6 và tháng 7 năm 2020 của FINEBOYS mà Ren Meguro xuất hiện trên trang bìa sẽ được tái bản, máy chủ web một lần nữa bị gặp sự cố trong 5 giây sau khi thông tin này được được công bố.
Sự nghiệp diễn xuất
Truyền hình
Điện ảnh
Giải thưởng cá nhân
Tham khảo
Sinh năm 1997
Nhân vật còn sống
Nam diễn viên điện ảnh Nhật Bản
Nam diễn viên Nhật Bản
Ca sĩ Nhật Bản
Nam diễn viên từ Tokyo
Ca sĩ từ Tokyo
|
19852125
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%B2%20ph%E1%BA%A3n%20%E1%BB%A9ng%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20si%C3%AAu%20t%E1%BB%9Bi%20h%E1%BA%A1n
|
Lò phản ứng nước siêu tới hạn
|
Lò phản ứng nước siêu tới hạn (SCWR) là khái niệm của lò phản ứng thế hệ thứ IV,được thiết kế như một lò phản ứng nước nhẹ (LWR) hoạt động ở áp suất siêu tới hạn (tức là lớn hơn 22,1 megapascal [3.210 psi]). Thuật ngữ tới hạn trong bối cảnh này đề cập đến điểm tới hạn của nước và không nên nhầm lẫn với khái niệm tới hạn của lò phản ứng hạt nhân.
Nước được làm nóng trong lõi lò phản ứng trở thành chất lỏng siêu tới hạn trên nhiệt độ tới hạn 374 °C (705 °F), chuyển từ chất lỏng giống nước lỏng hơn sang chất lỏng giống hơi bão hòa hơn (có thể được sử dụng trong tua bin hơi nước) , mà không trải qua quá trình chuyển pha sôi rõ rệt.
Ngược lại, các lò phản ứng nước áp lực (PWR) được thiết kế tốt có vòng làm mát chính bằng nước lỏng ở áp suất cận tới hạn, vận chuyển nhiệt từ lõi lò phản ứng đến vòng làm mát thứ cấp, nơi hơi nước để chạy tua-bin được tạo ra trong nồi hơi. (gọi là máy tạo hơi nước). Lò phản ứng nước sôi (BWR) hoạt động ở áp suất thậm chí còn thấp hơn, với quá trình đun sôi để tạo ra hơi nước diễn ra trong lõi lò phản ứng.
Máy tạo hơi nước siêu tới hạn là một công nghệ đã được chứng minh.
Sự phát triển của hệ thống SCWR được coi là một tiến bộ đầy hứa hẹn cho các nhà máy điện hạt nhân vì hiệu suất nhiệt cao (~45% so với ~33% đối với các lò phản ứng LWR hiện tại) và thiết kế đơn giản hơn. Tính đến năm 2012, khái niệm này đã được 32 tổ chức ở 13 quốc gia nghiên cứu.
Lịch sử
Các lò phản ứng làm mát bằng hơi nước siêu nhiệt hoạt động ở áp suất dưới tới hạn đã được thử nghiệm ở cả Liên Xô và Hoa Kỳ ngay từ những năm 1950 và 1960 như Nhà máy điện hạt nhân Beloyarsk, Pathfinder và Bonus của chương trình Operation Sunrise của GE. Đây không phải là SCWR. SCWR được phát triển từ những năm 1990 trở đi.Cả SCWR loại LWR với bình chịu áp của lò phản ứng và SCWR loại CANDU với ống áp suất đều đang được phát triển.
Cuốn sách năm 2010 bao gồm các phương pháp phân tích và thiết kế khái niệm như thiết kế lõi, hệ thống nhà máy, động lực học và điều khiển nhà máy, khởi động và ổn định nhà máy, an toàn, thiết kế lò phản ứng neutron nhanh, v.v.
Một tài liệu năm 2013 cho thấy việc hoàn thành thử nghiệm vòng lặp nhiên liệu nguyên mẫu vào năm 2015.Cuộc kiểm tra chất lượng nhiên liệu đã được hoàn thành vào năm 2014.
Một cuốn sách năm 2014 cho thấy thiết kế khái niệm lò phản ứng của lò phản ứng quang phổ nhiệt (Super LWR) và lò phản ứng nhanh (Super FR) và các kết quả thử nghiệm về tương tác thủy lực nhiệt, vật liệu và chất làm mát vật liệu.
Thiết kế
Chất điều tiết-làm mát
SCWR hoạt động ở áp suất siêu tới hạn. Chất làm mát đầu ra của lò phản ứng là nước siêu tới hạn. Nước nhẹ được sử dụng làm chất điều tiết neutron và chất làm mát. Trên điểm tới hạn, hơi nước và chất lỏng trở nên có cùng tỷ trọng và không thể phân biệt được, loại bỏ nhu cầu về bộ điều áp và máy tạo hơi nước (PWR), hoặc máy bơm phản lực/tuần hoàn, bộ tách hơi và máy sấy (BWR). Ngoài ra, bằng cách tránh sôi, SCWR không tạo ra các khoảng trống (bong bóng) hỗn loạn với mật độ thấp hơn và tác dụng điều tiết hơn. Trong LWR, điều này có thể ảnh hưởng đến quá trình truyền nhiệt và dòng nước, đồng thời phản hồi có thể khiến công suất lò phản ứng khó dự đoán và kiểm soát hơn. Cần phải tính toán kết hợp thủy lực trung tính và nhiệt để dự đoán sự phân bổ điện năng. Việc đơn giản hóa SCWR sẽ giảm chi phí xây dựng và cải thiện độ tin cậy và an toàn.
SCWR loại LWR sử dụng các thanh nước có khả năng cách nhiệt và SCWR loại CANDU giữ bộ điều tiết nước trong bể Calandria. Lõi lò phản ứng nhanh loại LWR SCWR sử dụng lưới thanh nhiên liệu chặt làm LWR có độ chuyển hóa cao. Phổ neutron nhanh SCWR có ưu điểm là mật độ năng lượng cao hơn, nhưng cần nhiên liệu oxit hỗn hợp plutonium và uranium sẽ có sẵn từ quá trình tái xử lý.
Thanh điều khiển
SCWR có thể sẽ có các thanh điều khiển được lắp vào phía trên, giống như được thực hiện trong PWR.
Vật liệu
Nhiệt độ bên trong SCWR cao hơn nhiệt độ trong LWR. Mặc dù các nhà máy nhiên liệu hóa thạch siêu tới hạn có nhiều kinh nghiệm về vật liệu nhưng nó chưa bao gồm sự kết hợp giữa môi trường nhiệt độ cao và bức xạ neutron cường độ cao. SCWR cần vật liệu lõi (đặc biệt là lớp bọc nhiên liệu) để chống lại môi trường. R&D tập trung vào:
Tính chất hóa học của nước siêu tới hạn dưới bức xạ (ngăn ngừa nứt ăn mòn do ứng suất và duy trì khả năng chống ăn mòn dưới bức xạ neutron và nhiệt độ cao)
Sự ổn định về kích thước và cấu trúc vi mô (ngăn ngừa sự giòn, duy trì độ bền và khả năng chống rão dưới bức xạ và nhiệt độ cao)
Vật liệu vừa chịu được điều kiện nhiệt độ cao, vừa không hấp thụ quá nhiều nơtron ảnh hưởng đến việc tiết kiệm nhiên liệu
Trong các chu trình làm mát một lần, chẳng hạn như SCWR và các nhà máy điện đốt hóa thạch siêu tới hạn, toàn bộ chất làm mát lò phản ứng được xử lý ở nhiệt độ thấp sau khi ngưng tụ. Đó là một lợi thế trong việc quản lý hóa học nước và nứt ăn mòn ứng suất của vật liệu kết cấu. Điều này không thể thực hiện được trong LWR do chất làm mát lò phản ứng nóng được tuần hoàn. Hoạt động R&D về vật liệu và hóa học nước phải được thực hiện với các đặc điểm xuyên suốt.
Ưu điểm
Nước siêu tới hạn có đặc tính truyền nhiệt tuyệt vời cho phép mật độ năng lượng cao, lõi nhỏ và cấu trúc ngăn chặn nhỏ.
Việc sử dụng chu trình Rankine siêu tới hạn với nhiệt độ thường cao hơn sẽ cải thiện hiệu suất (có thể là ~45 % so với ~33 % của PWR/BWR hiện tại).
Hiệu suất cao hơn này sẽ giúp tiết kiệm nhiên liệu tốt hơn và tải nhiên liệu nhẹ hơn, giảm nhiệt dư (phân hủy).
SCWR thường được thiết kế như một chu trình trực tiếp, trong đó hơi nước hoặc nước siêu tới hạn nóng từ lõi được sử dụng trực tiếp trong tuabin hơi. Điều này làm cho thiết kế đơn giản. Vì BWR đơn giản hơn PWR nên SCWR đơn giản và nhỏ gọn hơn rất nhiều so với BWR kém hiệu quả hơn có cùng công suất điện. Không có bộ tách hơi, máy sấy hơi, bơm tuần hoàn bên trong hoặc dòng tuần hoàn bên trong bình chịu áp. Thiết kế này là một chu trình trực tiếp, một lần, là loại chu trình đơn giản nhất có thể. Năng lượng nhiệt và bức xạ được lưu trữ trong lõi nhỏ hơn và mạch làm mát (sơ cấp) của nó cũng sẽ ít hơn so với BWR hoặc PWR.
Nước là chất lỏng ở nhiệt độ phòng, giá rẻ, không độc hại và trong suốt, giúp đơn giản hóa việc kiểm tra và sửa chữa (so với các lò phản ứng làm mát bằng kim loại lỏng).
Lò phản ứng SCWR neutron nhanh có thể là lò phản ứng tái tạo, giống như Lò phản ứng tiên tiến sạch và an toàn với môi trường được đề xuất và có thể đốt cháy các đồng vị Actinide tồn tại lâu dài.
SCWR nước nặng có thể tạo ra nhiên liệu từ thorium (gấp 4 lần uranium). Tương tự như CANDU, nó cũng có thể sử dụng uranium tự nhiên chưa được làm giàu nếu được cung cấp đủ lượng vừa phải.
Quá trình nhiệt có thể được cung cấp ở nhiệt độ cao hơn mức cho phép của các lò phản ứng làm mát bằng nước khác
Nhược điểm
Lượng nước tồn kho thấp hơn (do vòng sơ cấp nhỏ gọn) có nghĩa là khả năng tỏa nhiệt ít hơn để đệm các quá trình chuyển tiếp và tai nạn (ví dụ: mất dòng nước cấp hoặc sự cố mất chất làm mát lớn) dẫn đến tai nạn và nhiệt độ nhất thời quá cao đối với lớp phủ kim loại thông thường.
Tuy nhiên, nó không quá cao đối với tấm ốp inox. Phân tích an toàn của LWR loại SCWR cho thấy các tiêu chí an toàn được đáp ứng với giới hạn khi xảy ra tai nạn và chuyển tiếp bất thường bao gồm mất toàn bộ dòng chảy và mất chất làm mát do tai nạn.Không xảy ra hiện tượng đứt hai đầu vì do chu trình làm mát một lần. Lõi được làm mát bằng dòng chảy cảm ứng khi xảy ra sự cố mất chất làm mát. Kho chứa nước ở phần trên cùng của bình phản ứng đóng vai trò như một bộ tích lũy trong bình. Nguyên tắc an toàn của SCWR không phải là duy trì lượng chất làm mát tồn kho mà là duy trì tốc độ dòng chất làm mát lõi.Nó dễ dàng hơn để theo dõi mực nước tại các vụ tai nạn. Đã xảy ra lỗi trong tín hiệu mực nước trong vụ tai nạn ở Đảo Three Mile và những người vận hành đã tắt ECCS.
Áp suất cao hơn kết hợp với nhiệt độ cao hơn và nhiệt độ tăng cao hơn trong lõi (so với PWR/BWR) dẫn đến ứng suất cơ và nhiệt tăng lên trên vật liệu bình chứa, điều này khó giải quyết.
Tuy nhiên, thiết kế kiểu LWR, thành trong của bình áp lực lò phản ứng được làm mát bằng chất làm mát đầu vào là PWR. Vòi làm mát đầu ra được trang bị ống dẫn nhiệt. Thiết kế ống áp suất, trong đó lõi được chia thành các ống nhỏ hơn cho mỗi kênh nhiên liệu, có ít vấn đề hơn ở đây vì ống có đường kính nhỏ hơn có thể mỏng hơn nhiều so với các bình chịu áp đơn lớn và ống có thể được cách nhiệt ở bên trong bằng cách nhiệt bằng gốm trơ nên có thể hoạt động ở nhiệt độ thấp (nước calandria).
Cần phát triển và nghiên cứu vật liệu sâu rộng về hóa học nước siêu tới hạn dưới bức xạ.
Tuy nhiên, toàn bộ chất làm mát SCWR được làm sạch sau khi ngưng tụ. Đây là một lợi thế trong việc quản lý hóa học nước và nứt ăn mòn ứng suất của vật liệu kết cấu. Điều này không thể thực hiện được ở các LWR nơi chất làm mát nóng tuần hoàn.
Cần có các quy trình khởi động đặc biệt để tránh sự mất ổn định trước khi nước đạt đến điều kiện siêu tới hạn.
Tuy nhiên, tính không ổn định được quản lý bởi tỷ lệ công suất và tốc độ dòng chất làm mát dưới dạng BWR. Sự thay đổi mật độ chất làm mát ở SCWR nhỏ hơn so với BWR.
SCWR neutron nhanh cần lõi lò phản ứng tương đối phức tạp để có hệ số rỗng âm.
Tuy nhiên, lõi truyền dòng chất làm mát đơn là khả thi.
Như với tất cả các lựa chọn thay thế cho các thiết kế phổ biến hiện nay (chủ yếu là các loại lò phản ứng nhiệt làm mát bằng nước, điều tiết bằng nước dưới tới hạn), sẽ có ít nhà cung cấp công nghệ và linh kiện hơn cũng như ít chuyên môn hơn ít nhất là vào ban đầu so với công nghệ đã được chứng minh từ nhiều thập kỷ trước hoặc những cải tiến tiến hóa của nó như lò phản thế hệ ứng thứ III+.
Tuy nhiên, LWR được phát triển vào những năm 1950 dựa trên công nghệ năng lượng đốt hóa thạch dưới tới hạn. Sự thành công của LWR dựa trên kinh nghiệm đó.Các nhà máy điện đốt hóa thạch siêu tới hạn được phát triển sau những năm 1950. Các bộ phận như van, đường ống, tua-bin, máy bơm nước cấp và bộ gia nhiệt để vận hành ở áp suất bướm ga lên tới 30 MPa (4.400 psi) và nhiệt độ lên tới 630 °C (903 K; 1.166 °F) hiện có cho các ứng dụng thương mại.SCWR là sự phát triển tự nhiên của LWR. Khả năng cạnh tranh của LWR trên thị trường điện đang bị thách thức ở Hoa Kỳ do khí tự nhiên đá phiến từ các bản tóm tắt lịch sử của Dự báo chi phí điện năng (LCOE) bình đẳng của Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA) (2010-2020) trong Chi phí điện theo nguồn. LWR là thiết kế nổi bật với tỷ trọng sản xuất điện hạt nhân lớn nhất và hiện đang được cung cấp cho các công trình xây dựng mới trên thế giới. Động lực đổi mới cho thấy sự đổi mới không đến từ các công ty có thị phần lớn nhất.Việc so sánh SCWR và LWR không liên quan đến động lực đổi mới. Nếu lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR) có khả năng cạnh tranh thì phiên bản SMR của SCWR sẽ nâng cao lợi thế của nó.
Miếng chêm hóa học có thể hoạt động khác biệt đáng kể vì tính chất dung dịch của nước siêu tới hạn rất khác so với tính chất của nước lỏng. Hiện nay hầu hết các lò phản ứng nước áp lực đều sử dụng axit boric để kiểm soát khả năng phản ứng sớm trong quá trình đốt cháy.
Tuy nhiên, miếng chêm hóa học không thể được sử dụng trong SCWR cũng như BWR do hệ số rỗng chất làm mát dương. SCWR sử dụng nước borat làm thiết bị tắt thứ cấp tương tự như BWR.
Tùy thuộc vào thiết kế, việc tiếp nhiên liệu trực tuyến có thể là không thể. Trong khi CANDU có khả năng tiếp nhiên liệu trực tuyến thì các lò phản ứng điều tiết nước khác thì không.
Tuy nhiên, hệ số công suất của LWR ở Mỹ đã cao, trên 90%. SCWR loại bình chịu áp lực không yêu cầu tiếp nhiên liệu trực tuyến.
Xem thêm
Lò phản ứng thế hệ thứ IV
Breeder reactor
Lò phản ứng nước điều độ giảm, một khái niệm tương tự về mặt nào đó và trùng lặp với khái niệm SCWR, và đang được phát triển ngoài chương trình Thế hệ IV.
Lò phản ứng thế hệ thứ III
Lò phản ứng nước sôi tiên tiến (ABWR)
Lò phản ứng nước sôi đơn giản hóa kinh tế (ESBWR) (thế hệ thứ III+)
|
19852141
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Freudenfels
|
Lâu đài Freudenfels
|
Lâu đài Freudenfels là một lâu đài ở đô thị Eschenz thuộc bang Thurgau của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ.
Xem thêm
Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ
Tham khảo
Freudenfels
|
19852158
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chizu%2C%20Tottori
|
Chizu, Tottori
|
là thị trấn thuộc huyện Yazu, tỉnh Tottori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 6.427 người và mật độ dân số là 29 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 224,70 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Tottori
|
19852159
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/CONCACAF%20Nations%20League%20A%202022%E2%80%9323
|
CONCACAF Nations League A 2022–23
|
CONCACAF Nations League A 2022–23 là hạng đấu cao nhất của CONCACAF Nations League 2022–23, mùa thứ hai của giải đấu. League A quy tụ 12 đội bóng hàng đầu của CONCACAF tranh tài để chọn ra top 4 đội xuất sắc nhất. Vòng bảng được diễn ra từ ngày 2 tháng 6 năm 2022 đến ngày 28 tháng 3 năm 2023.
Vòng chung kết CONCACAF Nations 2022–23 được tổ chức vào tháng 6 năm 2023 với 4 đội xuất sắc nhất đến từ League A. Các trận đấu đều diễn ra trên Sân vận động Allegiant ở Paradise (Nevada, Hoa Kỳ).
4 đội giành quyền vào vòng chung kết CONCACAF Nations 2022–23 cũng chính là 4 đội ở League A giành quyền tham dự Cúp Vàng CONCACAF 2023.
đã giành chức vô địch lần thứ hai, sau khi đánh bại 2–0 ở trận chung kết.
Thể thức
League A bao gồm 12 đội. Giải đấu được chia thành 4 bảng (mỗi bảng có 3 đội). Các đội thi đấu theo thể thức vòng tròn tính điểm, sân nhà và sân khách trong suốt giai đoạn vòng bảng, với các trận đấu diễn ra trong thời gian thi đấu chính thức của FIFA vào tháng 6 năm 2022 và tháng 3 năm 2023. 3 đội đầu bảng cùng một đội nhì bảng xuất sắc nhất đủ điều kiện tham dự Vòng chung kết. Do thay đổi thể thức nên mùa giải này không có đội nào ở League A xuống hạng.
Sự thay đổi các đội
Sau đây là những thay đổi về đội của League A từ CONCACAF Nations League 2019–20:
Seeding
Lễ bốc thăm vòng giải đấu diễn ra tại Miami (Florida, Hoa Kỳ) vào ngày 4 tháng 4 năm 2022 lúc 19h (theo giờ EDT). Mỗi bảng ở các League được bốc thăm bằng cách lựa chọn các đội từ nhóm 1 đến nhóm 3. Quy trình tương tự được thực hiện cho các bảng còn lại. Các đội được xếp hạt giống vào các nhóm theo Bảng xếp hạng CONCACAF.
Các bảng đấu
Lch thi đấu đã được CONCACAF xác nhận vào ngày 6 tháng 4 năm 2022.
Tất cả trận đấu đều diễn ra theo Giờ EDT (UTC−4) do CONCACAF liệt kê (nếu khác sẽ được chú thích trong ngoặc đơn).
Bảng A
Bảng B
Group C
Group D
Vòng chung kết
Hạt giống
Bốn đội được xếp hạng dựa trên kết quả của họ ở vòng bảng để xác định các trận bán kết. Hạt giống thứ nhất đấu với hạt giống thứ tư và hạt giống thứ hai đấu với hạt giống thứ ba.
Sơ đồ
Tất cả trận đấu diễn ra theo Múi giờ Thái Bình Dương (UTC−7).
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Thống kê
Cầu thủ ghi bàn
Đội hình xuất sắc nhất
CONCACAF công bố đội hình sau đây là đội hình xuất sắc nhất của League A sau khi kết thúc vòng bảng.
Ghi chú
Chú thích
Liên kết ngoài
League A
2022–23
|
19852160
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chung%20k%E1%BA%BFt%20C%C3%BAp%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202023
|
Chung kết Cúp bóng đá châu Á 2023
|
Chung kết Cúp bóng đá châu Á 2023 là trận đấu cuối cùng của Cúp bóng đá châu Á 2023, lần thứ 18 của giải đấu bóng đá do Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tổ chức dành cho các đội tuyển bóng đá nam quốc gia. Trận đấu chứng kiến màn tranh tài giữa đội tuyển Jordan và đội tuyển chủ nhà Qatar, và được tổ chức tại sân vận động Lusail ở Lusail, Qatar vào ngày 10 tháng 2 năm 2024.
Jordan đã có lần đầu tiên vào đến trận chung kết của giải đấu sau khi lần lượt đánh bại Iraq, Tajikistan và Hàn Quốc ở vòng đấu loại trực tiếp. Họ đối đầu với đội chủ nhà kiêm đương kim vô địch của giải đấu, Qatar, đội bóng đang cố gắng tìm mọi cách để trở thành đội đầu tiên bảo vệ thành công chức vô địch tại Cúp bóng đá châu Á kể từ khi Nhật Bản bảo vệ thành công chức vô địch của mình vào năm 2004.
Qatar chính thức bảo vệ thành công chiếc cúp vô địch sau khi đánh bại Jordan với tỉ số 1–3.
Đường tới trận chung kết
Trận đấu
Tóm tắt
Chi tiết
Xem thêm
Danh sách trận chung kết Cúp bóng đá châu Á
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cúp bóng đá châu Á 2023
Chung kết cúp bóng đá châu Á
Sự kiện thể thao ở châu Á tháng 2 năm 2024
Trận đấu của đội tuyển bóng đá quốc gia Qatar
Trận đấu của đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan
Lusail
Sự kiện thể thao ở Qatar tháng 2 năm 2024
|
19852169
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alexander%20Shulgin
|
Alexander Shulgin
|
Alexander Theodore "Sasha" Shulgin (17 tháng 6 năm 1925 – 2 tháng 6 năm 2014) là một nhà hóa dược, hóa sinh, hóa hữu cơ, dược lý, dược tâm lý và tác giả người Mỹ. Ông được ghi nhận là người đã giới thiệu 3,4-methylenedioxymethamphetamine (MDMA, thường được gọi là "thuốc lắc") cho các nhà tâm lý học vào cuối thập niên 1970 để sử dụng trong dược phẩm tâm thần và để khám phá, tổng hợp và xét nghiệm sinh học cá nhân trên hơn 230 hợp chất hướng thần cho tiềm năng thức thần và entactogenic (tạo sự xúc chạm bên trong) của chúng.
Vào năm 1991 và 1997, ông và vợ là Ann Shulgin đã biên soạn các cuốn sách PiHKAL và TiHKAL (viết tắt của Phenethylamines and Tryptamines I Have Known And Loved – Các phenethylamine và tryptamine mà tôi đã biết và yêu), từ những cuốn sổ tay mô tả chi tiết công việc và trải nghiệm cá nhân của họ với hai họ chất hướng thần này. Shulgin đã thực hiện công việc quan trọng trong việc tổng hợp mô tả nhiều hợp chất này. Một số khám phá đáng chú ý của Shulgin bao gồm các hợp chất thuộc họ 2C (như 2C-B) và các hợp chất thuộc họ DOx (như DOM).
Một phần nhờ vào công việc sâu rộng của Shulgin trong lĩnh vực nghiên cứu chất thức thần và thiết kế hợp lý các loại chất thức thần, ông đã được mệnh danh là "cha đỡ đầu của chất thức thần".
Thư mục
Sách
Controlled Substances: Chemical & Legal Guide to Federal Drug Laws. Berkeley, Calif.: Ronin Publishing (1988). .
PiHKAL: A Chemical Love Story, with Ann Shulgin. Berkeley, Calif.: Transform Press (1991). .
TiHKAL: The Continuation, with Ann Shulgin. Berkeley, Calif.: Transform Press (1997). .
The Simple Plant Isoquinolines , with Wendy Perry. Berkeley, Calif.: Transform Press (2002). .
The Shulgin Index, vol. 1: Psychedelic Phenethylamines and Related Compounds, with Tania Manning and Paul Daley. Berkeley, Calif.: Transform Press (2011). .
Appendix B: Web Addresses for State Statutes on Phenethylamine Psychedelics.
Đóng góp cho sách
"A New Vocabulary," với Ann Shulgin. Trong: Entheogens and the Future of Religion, biên tập bởi Robert Forte. Berkeley, Calif.: Council on Spiritual Practices (1997). .
Lời tựa cho Chemical Warfare Secrets Almost Forgotten: A Personal Story of Medical Testing of Army Volunteers with Incapacitating Chemical Agents During the Cold War (1955–1975), của James S. Ketchum. Santa Rosa, California: ChemBooks (2006), tr. 331–333. . .
Sổ tay phòng thí nghiệm
Pharmacology Notes.
1960–1979. Lab notebooks of Dr. Shulgin
1963. "Psychotomimetic agents related to mescaline". Experientia 19: 127. 19
1963. "Composition of the myristicin fraction from oil of nutmeg". Nature 197: 379. 20
1963. "Concerning the pharmacology of nutmeg". Mind 1: 299–302. 23
1964. "3-methoxy-4,5-methylenedioxy amphetamine, a new psychotomimetic agent". Nature 201: 1120–1121. 29
1964. "Psychotomimetic amphetamines: methoxy 3,4-dialkoxyamphetamines". Experientia 20: 366. 30
1964. with H. O. Kerlinger. "Isolation of methoxyeugenol and trans-isoelemicin from oil of nutmeg". Naturwissenschaften 15: 360–361. 31
1965. "Synthesis of the trimethoxyphenylpropenes". Can. J. Chem. 43: 3437–3440. 43
1966. "Possible implication of myristicin as a psychotropic substance". Nature 210: 380–384. 45
1966. "The six trimethoxyphenylisopropylamines (trimethoxyamphetamines)". J. Med. Chem. 9: 445–446. 46
1966. with T. Sargent, and C. Naranjo. "Role of 3,4-Dimethoxyphenethylamine in schizophrenia". Nature 212: 1606–1607. 48
1967. with T. Sargent, and C. Naranjo. "The chemistry and psychopharmacology of nutmeg and of several related phenylisopropylamines". In D. H. Efron [ed.]: Ethnopharmacologic search for psychoactive drugs. U. S. Dept. of H. E. W., Public Health Service Publication No. 1645. Pp. 202–214. Discussion: ibid. pp. 223–229. 49
1967. with T. Sargent. "Psychotropic phenylisopropylamines derived from apiole and dillapiole". Nature 215: 1494–1495. 50
1967. with Sargent, T. W., D. M. Israelstam, S. A. Landaw, and N. N. Finley. "A note concerning the fate of the 4-methoxyl group in 3,4-dimethoxyphenethylamine (DMPEA)". Biochem. Biophys. Res. Commun. 29: 126–130. 52
1967. with Naranjo, C. and T. Sargent. "Evaluation of 3,4-methylenedioxyamphetamine (MDA) as an adjunct to psychotherapy". Med. Pharmacol. Exp. 17: 359–364. 53
1968. "The ethyl homologs of 2,4,5-trimethoxyphenylisopropylamine". J. Med. Chem. 11: 186–187. 54
1969. with T. Sargent and C. Naranjo. "Structure activity relationships of one-ring psychotomimetics". Nature 221: 537–541. 57
1969. "Recent developments in cannabis chemistry". J. Psyched. Drugs 2: 15–29. 58
1969. "Psychotomimetic agents related to the catecholamines". J. Psyched. Drugs 2(2): 12–26. 59
1970. "Chemistry and structure-activity relationships of the psychotomimetics". In D. H. Efron [ed.]. "Psychotomimetic Drugs". Raven Press, New York. Pp. 21–41. 60
1970. "The mode of action of psychotomimetic drugs; some qualitative properties of the psychotomimetics". Neur. Res. Prog. Bull. 8: 72–78. 61
1970. "4-alkyl-dialkoxy-alpha-methyl-phenethylamines and their pharmacologically-acceptable salts". U. S. Patent 3,547,999, issued December 15, 1970. 63
1971. with T. Sargent and C. Naranjo. "4-bromo-2,5-dimethoxyphenylisopropylamine, a new centrally active amphetamine analog". Pharmacology 5: 103–107. 64
1971. "Chemistry and sources". In S. S. Epstein [ed]. "Drugs of abuse: their genetic and other chronic nonpsychiatric hazards". The MIT Press, Cambridge, Mass. Pp 3–26. 65
1971. "Preliminary studies of the synthesis of nitrogen analogs of Delta1-THC". Acta Pharm. Suec. 8: 680–681. 66
1972. "Hallucinogens, CNS stimulants, and cannabis. In S. J. Mulé and H. Brill [eds.]: Chemical and biological aspects of drug dependence". CRC Press, Cleveland, Ohio. Pp. 163–175. 67
1973. "Stereospecific requirements for hallucinogenesis". J. Pharm. Pharmac. 25: 271–272. 68
1973. "Mescaline: the chemistry and pharmacology of its analogs". Lloydia 36: 46–58. 69
1973. "The narcotic pepper – the chemistry and pharmacology of Piper methysticum and related species". Bull. Narc. 25: 59–1974. "Le poivre stupéfiant – chemie et pharmacologie du Piper methysticum et des espéces apparentées". Bull. Stupéfiants 25: 61–77. 70
1973. with T. Sargent and C. Naranjo. "Animal pharmacology and human psychopharmacology of 3-methoxy-4,5-methylenedioxyphenylisopropylamine (MMDA)". Pharmacology 10: 12–18. 71
1974. with Kalbhen, D. A., T. Sargent, G. Braun, H. Stauffer, N. Kusubov, and M. L. Nohr. "Human pharmacodynamics of the psychodysleptic 4-bromo-2,5-dimethoxyphenylisopropylamine labelled with [82]Br". IRCS (Int. Res. Comm. Sys.) 2: 1091. 73
1975. with Sargent, T., D. A. Kalbhen, H. Stauffer, and N. Kusubov. "A potential new brain-scanning agent: 4-[77]Br-2,5-dimethoxyphenylisopropylamine (4-Br-DPIA)". J. Nucl. Med. 16: 243–245. 74
1975. with M. F. Carter. "Centrally active phenethylamines". Psychopharm. Commun. 1: 93–98. 75
1975. with Sargent, T., D. A. Kalbhen, G. Braun, H. Stauffer, and N. Kusubov. "In vivo human pharmacodynamics of the psychodysleptic 4-Br-2,5-dimethoxyphenylisopropylamine labelled with [82]Br or [77]Br". Neuropharmacology 14: 165–174. 76
1975. "The chemical catalysis of altered states of consciousness. Altered states of consciousness, current views and research problems". The drug abuse council, Washington, D. C. Pp. 123–134. 77
1975. "Drug use and anti-drug legislation". The PharmChem Newsletter 4 (#8). 79
1975. with D. C. Dyer. "Psychotomimetic phenylisopropylamines. 5. 4-alkyl-2,5-dimethoxyphenylisopropylamines". J. Med. Chem. 18: 1201–1204. 80
1975. with C. Helisten. "Differentiation of PCP, TCP, and a contaminating precursor PCC, by thin layer chromatography". Microgram 8: 171–172. 81
1975. with Helisten, C. "The detection of 1-piperidinodydlohexanecarbonitrile contamination in illicit preparations of 1-(1-phenylcyclohexyl)piperidine and 1-(1-(2-thienyl)cyclohexyl)piperidine". J. Chrom. 117: 232–235. 82
1976. "Psychotomimetic agents". In M. Gordon [ed.] "Psychopharmacological agents", Vol. 4. Academic Press, New York. Pp. 59–146. 83
1976. "Abuse of the term 'amphetamines'". Clin. Tox. 9: 351–352. 84
1976. "Profiles of psychedelic drugs. 1. DMT". J. Psychedelic Drugs 8: 167–168. 85
1976. "Profiles of psychedelic drugs. 2. TMA-2". J. Psychedelic Drugs 8: 169. 86
1976. with D. E. MacLean. "Illicit synthesis of phencyclidine (PCP) and several of its analogs". Clin. Tox. 9: 553–560. 87
1976. with Nichols, D. E. "Sulfur analogs of psychotomimetic amines". J. Pharm. Sci. 65: 1554–1556. 89
1976. with Sargent, T. and N. Kusubov. "Quantitative measurement of demethylation of [14]C-methoxyl labeled DMPEA and TMA-2 in rats". Psychopharm. Commun. 2: 199–206. 90
1976. with Standridge, R. T., H. G. Howell, J. A. Gylys, R. A. Partyka. "Phenylalkylamines with potential psychotherapeutic utility. 1. 2-amino-1-(2,5,-dimethoxy-4-methylphenyl)butane". J. Med. Chem. 19: 1400–1404. 91
1976. "Profiles of psychedelic drugs. 3. MMDA". J. Psychedelic Drugs 8: 331. 92
1977. "Profiles of psychedelic drugs. 4. Harmaline". J. Psychedelic Drugs 9: 79–80. 93
1977. "Profiles of psychedelic drugs. 5. STP". J. Psychedelic Drugs 9: 171–172. 94
1977. with Nichols, D. E., and D. C. Dyer. "Directional lipophilic character in a series of psychotomimetic phenethylamine derivatives". Life Sciences 21: 569–576. 95
1977. with Jacob, P. III, G. Anderson III, C. K. Meshul, and N. Castagnoli Jr. "Mononethylthio analogues of 1-(2,4,5-trimethoxyphenyl)2-aminopropane". J. Med. Chem. 20: 1235–1239. 96
Tham khảo
Liên kết ngoài
Alexander Shulgin Research Institute (ASRI)
"Dirty Pictures". Phim tài liệu. 2010.
Erowid's Alexander Shulgin Vault
Transform Press – nhà xuất bản sách của Alexander Shulgin
Sinh năm 1925
Mất năm 2014
Nam nhà văn Mỹ thế kỷ 20
Nhà văn phi hư cấu Mỹ thế kỷ 20
Nam nhà văn Mỹ thế kỷ 21
Người Mỹ gốc Nga
Tử vong vì ung thư ở California
Chết vì ung thư gan
Cựu sinh viên Đại học Harvard
Thủy thủ Hải quân Hoa Kỳ
Cựu sinh viên Đại học California tại Berkeley
Nhà văn Berkeley, California
|
19852175
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gobiodon%20citrinus
|
Gobiodon citrinus
|
Gobiodon citrinus là một loài cá biển thuộc chi Gobiodon trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1838.
Từ nguyên
Tính từ định danh citrinus trong tiếng Latinh có nghĩa là “giống cam chanh”), hàm ý đề cập đến màu sắc vàng tươi của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
Từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi, G. citrinus có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Australes, ngược lên phía bắc tới Nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, G. citrinus được ghi nhận tại vịnh Nha Trang, Ninh Thuận, và quần đảo Trường Sa.
G. citrinus sống hội sinh với các loài san hô tán lớn thuộc chi Acropora, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 25 m.
Tình trạng phân loại
Bằng chứng phát sinh chủng loại học của Herler và cộng sự (2013) cho thấy, khoảng cách di truyền giữa quần thể G. citrinus Biển Đỏ và Tây Thái Bình Dương cách nhau hơn 3%. Loài tổ tiên của G. citrinus và nhóm chị em của nó đã phát triển từ thế Miocen muộn, sớm nhất trong chi Gobiodon.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở G. citrinus là 6,6 m. Loài này có màu vàng với hai sọc trắng xanh xuyên qua mắt; cặp sọc xanh thứ hai ở phía sau đầu (ở giữa hai sọc là đốm đen trên nắp mang). Một sọc trắng xanh khác dọc gốc vây lưng.
Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 9–11; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 9.
Sinh thái
Thức ăn của G. citrinus là các loài thủy sinh không xương sống nhỏ và động vật phù du. Chúng có thể tiết ra chất nhầy mang độc tố.
Thương mại
G. citrinus được đánh bắt thương mại trong ngành buôn bán cá cảnh và được bán với giá khoảng 0,5–2 USD một con. Loài này phát triển được trong điều kiện nuôi nhốt.
Tham khảo
C
Cá Thái Bình Dương
Cá biển Đỏ
Cá Ai Cập
Cá Iran
Cá Mozambique
Cá Madagascar
Cá Maldives
Cá Nhật Bản
Cá Việt Nam
Cá Singapore
Cá Philippines
Cá Nouvelle-Calédonie
Cá Tonga
Động vật được mô tả năm 1838
|
19852183
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n%20H%E1%BA%A3i%20Y%E1%BA%BFn
|
Tôn Hải Yến
|
Tôn Hải Yến (; sinh tháng 4 năm 1972) là một nữ chính trị gia người Trung Quốc, bà giữ chức Thứ trưởng Bộ Liên lạc Đối ngoại Đảng Cộng sản Trung Quốc từ tháng 6 năm 2023. Trước đó bà là Đại sứ Trung Quốc tại Singapore từ tháng 5 năm 2022 đến tháng 7 năm 2023.
Đầu đời
Tôn Hải Yến sinh năm 1972 tại thành phố Hà Gian, tỉnh Hà Bắc, bà kết nạp Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 4 năm 1990. Bà du học tại Khoa Luật của Đại học Kyushu ở Nhật Bản và đạt bằng thạc sĩ luật Nhật Bản vào năm 1997. Cùng năm, bà tốt nghiệp Khoa Luật Đại học Bắc Kinh với bằng thạc sĩ luật và năm 2008, bà nhận bằng tiến sĩ luật.
Sự nghiệp
Vào tháng 12 năm 1997, bà bắt đầu làm việc tại Bộ Liên lạc Đối ngoại Đảng Cộng sản Trung Quốc, cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng quan hệ với các đảng chính trị nước ngoài trên toàn thế giới. Trong thời gian làm việc tại Bộ Liên lạc Đối ngoại, bà đảm nhận nhiều vị trí như Giám đốc Văn phòng Nghiên cứu, Tổng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thế giới Đương đại Trung Quốc và Cục Thông tin và Truyền thông Công cộng, và người phát ngôn của bộ.
Từ tháng 3 năm 2008 đến tháng 1 năm 2009, bà tạm thời là phó bí thư quận Trương Điếm thuộc thành phố Truy Bác, Sơn Đông. Từ năm 2009, bà giữ chức Cục trưởng Cục Thứ nhất, Bộ Liên lạc, chịu trách nhiệm trao đổi với các nước ở Nam và Đông Nam Á.
Vào ngày 16 tháng 5 năm 2022, bà được bổ nhiệm giữ chức Đại sứ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Cộng hòa Singapore, khiến bà trở thành đại sứ Trung Quốc đầu tiên tại Singapore chưa từng làm việc tại Bộ Ngoại giao. Theo chuyên gia quan hệ quốc tế Bàng Trung Anh, mối liên hệ của Hải Yến với Bộ Liên lạc và chuyên môn của bà về ngoại giao liên đảng đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường quan hệ giữa Trung Quốc và Đảng Hành động Nhân dân ở Singapore. Vào ngày 31 tháng 5, bà đệ trình thư ủy nhiệm đến Tổng thống Singapore Halimah Yacob. Theo The Washington Post, việc làm đầu tiên của Hải Yến sau khi được bổ nhiệm làm đại sứ tại Singapore là họp với các cơ quan báo chí tiếng Hoa trực tuyến ở Singapore. Theo một biên tập viên có mặt tại cuộc họp, Tôn Hải Yến khuyến cáo họ tránh đưa tin về những đề tài nhạy cảm như vấn đề nhân quyền ở Tân Cương và Tây Tạng, họ nên kể những chuyện xác thực về Trung Quốc. Vào ngày 16 tháng 8 năm 2022, sau chuyến thăm Đài Loan của Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi ngày 2 tháng 8 năm 2022, Tôn Hải Yến tuyên bố rằng chuyến thăm "không chỉ vi phạm nguyên tắc một Trung Quốc của chính phủ Hoa Kỳ, xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, mà còn đe dọa sự ổn định của toàn khu vực" và sẽ không "bỏ qua thách thức này đối với chủ quyền của chúng tôi mà không có phản ứng phù hợp."
Vào tháng 9 năm 2022, bà giám sát việc ký kết thỏa thuận gia hạn gấu trúc Khải Khải và Gia Gia ở lại Khu bảo tồn động vật hoang dã Mandai đến năm 2027. Vào tháng 3 năm 2023, bà là một trong những viên chức tháp tùng Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long trong chuyến thăm Quảng Đông, Trung Quốc. Vào tháng 5 năm 2023, bà giám sát việc đơn giản hóa việc xin thị thực Trung Quốc cho người dân Singapore bằng cách tăng lần hẹn hàng ngày đối với các đơn xin thị thực khẩn cấp tại trung tâm dịch vụ xin thị thực tại đại sứ quán. Bà giúp tổ chức chuyến thăm của Đặc khu trưởng Hồng Kông Lý Gia Siêu tới Singapore vào tháng 7 năm 2023. Bà còn giám sát việc hợp tác giữa cộng đồng doanh nghiệp ở Trung Quốc và Singapore.
Nhiệm kỳ đại sứ tại Singapore của bà kết thúc vào tháng 7 năm 2023, sau khi được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Liên lạc Đối ngoại vào tháng 6 năm 2023, bà là Đại sứ Trung Quốc tại Singapore có thời gian phục vụ ngắn nhất. Bà trở thành người phụ nữ đầu tiên giữ chức Thứ trưởng tại Bộ Liên lạc Đối ngoại. Tại tiệc chiêu đãi tạm biệt, bà khen ngợi các hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp Trung Quốc tại Singapore là "nền tảng của mối quan hệ song phương lâu dài" và bà được lệnh trở về Trung Quốc để "tham gia hành trình vĩ đại của sự đổi mới [Trung Quốc]". Bà quay về Trung Quốc vào cuối tháng 7 năm 2023.
Gia đình
Bà đã kết hôn và có một con gái.
Chú thích
Chính khách từ Thương Châu, Hà Bắc
Cựu sinh viên Đại học Bắc Kinh
Viên chức chính quyền ở Sơn Đông
|
19852186
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/LGD%20Gaming
|
LGD Gaming
|
LGD Gaming là 1 tổ chức thể thao điện tử chuyên nghiệp Trung Quốc có trụ sở tại Hàng Châu. Đây là một trong những tổ chức thể thao điện tử lâu đời nhất ở Trung Quốc và hiện có người chơi thi đấu trong Dota 2, Vương Giả Vinh Diệu, Liên Minh Huyền Thoại, Overwatch, PUBG.
Đội tuyển Liên minh huyền thoại của họ thi đấu tại League of Legends Pro League (LPL), giải đấu Liên Minh Huyền Thoại chuyên nghiệp đỉnh cao nhất tại Trung Quốc.
Liên Minh Huyền Thoại
Lịch sử
LGD Gaming thành lập đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại của họ vào ngày 20 tháng 2 năm 2012, với Zhou "Bug" Qilin dẫn dắt đội. Sau TGA Grand Prix 2012, LGD đã đủ điều kiện tham dự Vòng chung kết khu vực Trung Quốc mùa 2, nhưng đã thất bại sau khi để thua Invictus Gaming. Vào năm 2013, Tencent đã tạo ra loạt giải vô địch đầu tiên của Trung Quốc, League of Legends Pro League (LPL). LGD đã không đủ điều kiện tham dự giải đấu trong cả mùa xuân và mùa hè, nhưng LGD đã thành công vào năm sau, khi họ đủ điều kiện tham dự LPL Mùa Xuân 2014. Cũng trong mùa giải đó, LGD đứng thứ năm và không đủ điều kiện tham dự Vòng loại trực tiếp (Play-offs). Tuy nhiên, trong mùa giải LPL Mùa hè 2014, LGD xếp thứ tư và đủ điều kiện tham dự Vòng loại trực tiếp, nơi họ thua EDward Gaming 0–3 ở vòng đầu tiên và Star Horn Royal Club 1–3 ở nhánh thua, LGD dừng chân tại ở vị trí thứ 4. LGD đã không thể vượt qua vòng loại Giải vô địch thế giới 2014 sau khi thua OMG ở vòng loại cuối cùng trong Vòng chung kết khu vực Trung Quốc 2014.
Sau khi không đủ điều kiện tham dự Giải vô địch thế giới 2014, LGD đã quyết định ký hợp đồng với các tuyển thủ Hàn Quốc với hy vọng đủ điều kiện vào năm sau, người đi đường dưới Gu "imp" Seung-bin, người đi đường trên Choi "Acorn" Cheon-ju và Lee "Flame" Ho-jong lần lượt được mua lại từ Samsung White, Samsung Blue và CJ Entus Blaze. LGD đứng thứ sáu trong mùa giải LPL Mùa Xuân 2015 với thành tích 7 thắng – 5 hoà – 10 thua, đủ điều kiện tham dự vòng loại trực tiếp. Ở vòng loại trực tiếp, họ đã gây bất ngờ ngoài sự mong đợi khi đánh bại cả OMG và Snake Esports, những đội lần lượt đứng thứ 3 và thứ 2, và cả hai trận LGD quét sạch cả 2 đối thủ với cùng tỉ số 3–0. Qua đó, LGD đủ điều kiện vào trận chung kết, nơi họ thua sát nút 2–3 trước EDward Gaming.
Đội hình hiện tại
Tham khảo
Tổ chức thể thao điện tử
Tổ chức thể thao điện tử Trung Quốc
Đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại ở Trung Quốc
|
19852187
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moana%202
|
Moana 2
|
Moana 2 là bộ phim hoạt hình của Hoa Kỳ thuộc thể loại nhạc kịch kỳ ảo và hành động-phiêu lưu được sản xuất bởi Walt Disney Animation Studios và do Walt Disney Pictures phát hành. Đây là tác phẩm thứ hai của loạt phim Moana và đồng thời cũng là phần hậu truyện của Hành trình của Moana (2016). Phim sẽ do Dave Derrick Jr. chỉ đạo (đây cũng là bộ phim đạo diễn đầu tay của anh) và được sản xuất bởi Osnat Shurer.
Moana 2 ban đầu được dự tính sẽ phát triển thành một bộ phim truyền hình vào năm 2020 với kế hoạch sẽ được phát trực tuyến trên nền tảng Disney+. Tuy nhiên vào tháng 2, 2024, kế hoạch đã được thay đổi thành một bộ phim hậu truyện chiếu rạp. Shurer đã xác nhận sẽ quay lại với vai trò nhà sản xuất, bên cạnh Derrick trong vị trí đạo diễn giúp anh trở thành người Samoa đầu tiên đạo diễn một bộ phim của Walt Disney Animation Studios. Ngoài ra, Mark Mancina và Opetaia Foa'i, nhà soạn nhạc kiêm đồng viết lời từ phần phim đầu tiên cũng xác nhận sẽ trở lại tiếp tục soạn nhạc cho phần hậu truyện này, trong khi Abigail Barlow và Emily Bear sẽ được thuê để viết các bài hát cho phim, thay thế cho Lin-Manuel Miranda từ phần phim trước.
Moana 2 sẽ được công chiếu tại Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 11, 2024.
Tiền đề
Sau khi nhận được những lời gọi bất ngờ từ những tổ tiên xa xôi đang tìm đường trở về của mình, Moana buộc lòng phải tiếp tục phiêu lưu đến vùng biển xa xôi của Châu Đại Dương và dấn thân vào vùng đại dương sâu thăm và nguy hiểm đã thất lạc từ lâu để thực hiện một hành trình không giống bất kỳ thứ gì mà cô từng đối mặt trước đây.
Sản xuất
Phát triển
Vào ngày 10 tháng 12, 2020, Giám đốc Sáng tạo của Walt Disney Animation Studios, Jennifer Lee đã chia sẻ rằng một bộ phim truyền hình nhạc kịch với tựa đề Moana dựa trên bộ phim cùng tên năm 2016 đang được phát triển cho Disney+. Ngày 4 tháng 8, 2021, có thông báo về việc Osnat Shurer sẽ quay lại để đảm nhận vai trò nhà sản xuất phim. Vào ngày 21 tháng 1 năm 2022, họa sĩ kịch bản của Moana là David Derrick Jr. thông báo rằng anh sẽ đạo diễn cho bộ phim truyền hình này và chính thức trở thành người Samoa đầu tiên đạo diễn một dự án của Walt Disney Animation Studios. Theo lời chia sẻ của Jared Bush, biên kịch của phần hậu truyện này và bộ phim gốc, dự án phim truyền hình này đang được phát triển song song với một bộ phim Moana được chuyển thể người đóng.
Vào tháng 2, 2024, CEO của Disney, ông Bob Iger đã thông báo rằng bộ phim truyền hình sẽ chính thức được làm lại để trở thành một bộ phim điện ảnh chiếu rạp.
Đồ họa hoạt hình
Phần đồ họa hoạt hình của phần phim này sẽ được xứ lý tại hãng phim tại Vancouver của Walt Disney Animation Studios, trong khi quá trình tiền kỳ và phát triển cốt truyện sẽ được tiến hành tại phân khu Burbank của hãng. Và đây cũng là dự án đầu tiên được thực hiện tại chi nhánh Vancouver.
Âm nhạc
Mark Mancina và Opetaia Foa'i, nhà soạn nhạc kiêm đồng viết lời từ phần phim đầu tiên cũng xác nhận sẽ trở lại tiếp tục soạn nhạc cho phần hậu truyện này, trong khi Abigail Barlow và Emily Bear sẽ được thuê để viết các bài hát cho phim, thay thế cho Lin-Manuel Miranda từ phần phim trước.
Phát hành
Moana 2 sẽ được công chiếu tại Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 11, 2024. Trước đó, bộ phim được dự kiến sẽ được phát triển thành một bộ phim truyền hình phát sóng độc quyền trên Disney+ vào năm 2024, thay vì năm 2023 như dự kiến ban đầu.
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim tiếng Anh
Phim thập niên
Phim nhạc kịch
Phim kỳ ảo
Phim hành động
Phim phiêu lưu
Phim hài nhạc kịch
Phim phiêu lưu hành động
Phim hoạt hình Mỹ thập niên 2020
Phim Mỹ thập niên 2020
Phim tiếng Anh thập niên 2020
Phim 3D Mỹ
Phim phiêu lưu hài hước Mỹ
Phim hoạt hình máy tính Mỹ
Phim phiêu lưu tưởng tượng của Mỹ
Phim kỳ ảo ca nhạc Mỹ
Phim tiếp nối Mỹ
Phim hoạt hình tuổi mới lớn
Phim về chuyến đi biển
Phim của Walt Disney Animation Studios
|
19852192
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich%20II%2C%20Tuy%E1%BB%83n%20h%E1%BA%A7u%20x%E1%BB%A9%20Sachsen
|
Friedrich II, Tuyển hầu xứ Sachsen
|
Friedrich Hòa nhã (tiếng Đức: Friedrich, der Sanftmütige; Frederick the Gentle; 22 tháng 8 năm 1412 – 7 tháng 9 năm 1464) là Tuyển hầu xứ Sachsen (1428–1464) và là Bá tước xứ Thuringia (1440–1445). Ông là tổ tiên của cả 2 dòng Ernestine và Albertine của Nhà Wettin, vì sau cái chết của ông, lãnh thổ được chia cho 2 người con trai, trong đó, Tuyển hầu xứ Sachsen để lại cho người con trưởng là Công tử Ernst, người sáng lập ra dòng Ernestine, trong khi đó người con thứ là Công tử Albrecht được trao cho Bá quốc Meissen cùng một số quận lân cận, và là người sáng lập ra dòng Albertine.
Tiểu sử
Friedrich sinh ra ở Leipzig, là con cả trong số 7 người con của Friedrich I, Tuyển hầu xứ Sachsen, và Catherine xứ Brunswick-Lüneburg.
Sau cái chết của cha mình vào năm 1428, ông cùng các em trai là Công tử William, Công tử Henry và Công tử Sigismund tiếp quản ngai vàng Sachsen. Năm 1433, người nhà Wettin cuối cùng đã ký kết hoà ước với Hussites và vào năm 1438, Friedrich đã lãnh đạo lực lượng Sachsen giành chiến thắng trong Trận Sellnitz. Cùng năm đó quốc hội liên bang đầu tiên của Sachsen được thành lập. Quốc hội nhận được quyền họp cùng nhau trong trường hợp có những đổi mới trong các vấn đề tài chính mà không cần người cai trị triệu tập.
Cũng trong năm 1438, người ta quyết định rằng Friedrich, được công nhận là tuyển đế hầu, được quyền bỏ phiếu đại diện cho Sachsen chọn ra Hoàng đế La Mã Thần thánh, điều này đồng nghĩa với việc, đối thủ của ông là Bernard IV, công tước xứ Saxe-Lauenburg bị truất quyền tuyển đế hầu. Friedich sau đó đã ủng hộ Albrecht II để được đảm bảo quyền tuyển đế hầu của mình, hai năm sau ông tiếp tục dùng là phiếu của mình ủng hộ Friedrich III lên ngôi hoàng đế.
Sau cái chết của người đồng cai trị là Henry vào năm 1435, và Sigismund buộc phải từ bỏ quyền cai trị và trở thành giám mục vàonăm 1440, Friedrich và William đã phân chia tài sản Sachsen. Trong Phân khu Altenburg năm 1445, William III nhận được phần Thuringia và Frankish, còn Friedrich nhận phần phía Đông của công quốc. Các mỏ vẫn là tài sản chung. Tuy nhiên, tranh chấp về việc phân chia tài sản đã dẫn đến Chiến tranh huynh đệ tương tàn Sachsen vào năm 1446, cuộc chiến này chỉ kết thúc vào ngày 27 tháng 1 năm 1451 với một hòa ước được ký kết tại Naumburg. Trong Hiệp ước Eger năm (1459), Tuyển đế hầu Friedrich, Công tước William III và vua Bohemia George của Podebrady đã ấn định biên giới giữa Bohemia và Sachsen, ở độ cao của Dãy núi Ore (tiếng Đức: Erzgebirge) và giữa sông Elbe mà vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Do đó, nó được xem là biên giới lâu đời nhất còn tồn tại của châu Âu.
Sau cái chết của Friedrich, ở Leipzig, cả hai con trai của ông là Ernst và Albrecht, lần đầu tiên cùng nhau nắm quyền quản lý chính quyền. Sau khi Công tước William III qua đời năm 1482 mà không có con thừa tự, Thuringia quay trở lại dòng dõi của Friedrich. Đến năm 1485, Hiệp ước Leipzig được ký kết giữa 2 anh em để phân chia tài sản của Sachsen, người anh cả Ernst tiếp nhận chức tuyển đế hầu và lập ra dòng Ernestine còn người em tiếp nhận bá quốc Meissen và các quận lân cận và sáng lập ra dòng Albertine.
Gia đình và hậu duệ
Tại Leipzig, Tuyển hầu xứ Sachsen vào ngày 3 tháng 6 năm 1431, Friedrich kết hôn với Margaret của Áo, con gái của Ernst, Công tước Áo và Cymburgis xứ Masovia. Họ có 8 người con:
Công nữ Amalia (Meissen, 4 tháng 8 năm 1436 – Rochlitz, 19 tháng 10 năm 1501), kết hôn vào ngày 21 tháng 3 năm 1452 với Ludwig IX, Công tước xứ Bayern.
Công nữ Anna (Meissen, 7 tháng 3 năm 1437 – Neustadt am Aisch, 31 tháng 10 năm 1512), kết hôn vào ngày 12 tháng 11 năm 1458 với Albrecht III Achilles, Tuyển hầu xứ Brandenburg
Công tử Friedrich (Meissen, 28 tháng 8 năm 1439 – Meissen, 23 tháng 12 năm 1451).
Công tử Ernst (Meissen, 24 tháng 3 năm 1441 – Colditz, 26 tháng 8 năm 1486).
Công tử Albrecht (Grimma, 31 tháng 7 năm 1443 – Emden, 12 tháng 9 năm 1500).
Công nữ Margaret (Meissen?, 1444 – Seusslitz?, khoảng ngày 19 tháng 11 năm 1498), Tu viện trưởng Seusslitz.
Công nữ Hedwig (Meissen?, 31 tháng 10 năm 1445 – Quedlinburg, 13 tháng 6 năm 1511), Tu viện trưởng Quedlinburg (1458).
Công tử Alexander (Meissen, 24 tháng 6 năm 1447 – Meissen, 14 tháng 9 năm 1447).
Tháng 7 năm 1455, chứng kiến Prinzenraub, với nỗ lực của một hiệp sĩ tên là Kunz von Kaufungen nhằm bắt cóc các con trai của Friedrich là Ernst và Albrecht. Mang họ đi từ Altenburg, Kunz đang trên đường đến Bohemia thì âm mưu vô tình bị phát hiện và các Công tử được giải cứu.
Tổ tiên
Tham khảo
Nguồn
Article in the ADB
Die Wettiner
Tuyển hầu xứ Sachsen
Bá tước Thuringia
Bá tước Meissen
Tuyển hầu thân vương tử Sachsen
Vương tộc Wettin
Sinh năm 1412
Mất năm 1464
Huân chương Lông cừu vàng
|
19852194
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Filippo%20Tamagnini
|
Filippo Tamagnini
|
Filippo Tamagnini (sinh ngày 30 tháng 1 năm 1972) là một chính khách người San Marino hiện đang là Đại chấp chính San Marino (người đứng đầu chính phủ của San Marino) cùng với Gaetano Troina kể từ ngày 1 tháng 10 năm 2023. Trước đó, ông đã từng nắm giữ cương vị này cùng với Maria Luisa Berti kể từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 1 tháng 10 năm 2011.
Tiểu sử
Tamagnini kết hôn với Tania Ercolani và có ba người con, hiện đang sinh sống ở Falciano. Ông tốt nghiệp chuyên ngành khảo sát tại học viện kỹ thuật "Belluzzi" ở Rimini và sau đó tốt nghiệp ngành kỹ thuật xây dựng tại Đại học Bologna. Trước tiên, ông là một nhân viên của một công ty kỹ thuật tư nhân, sau đó vào năm 2000, ông gia nhập văn phòng quy hoạch, sở đất đai với tư cách là chuyên gia đặc biệt trong lĩnh vực cải tạo đường bộ và địa chất thủy văn.
Vào năm 2000, Tamagnini gia nhập Đảng Dân chủ Kitô giáo San Marino và trở thành thành viên của Hội đồng Castello di Serravalle từ năm 2003 đến năm 2008. Trong giai đoạn 2008–2011, ông giữ chức vụ Đội trưởng. Năm 2008, ông được bầu vào Đại hội đồng lớn, nơi ông là thành viên của Ủy ban Y tế và Lãnh thổ của Ủy ban Thường trực về Các vấn đề Tư pháp và Văn phòng Ban Thư ký.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin về cuộc bầu cử tháng 4-tháng 10 năm 2011 (tiếng Ý)
Sinh năm 1972
Nhân vật còn sống
Nam giới San Marino
Chính khách San Marino
Chấp chính San Marino
|
19852195
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Santa%20Lucia%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%29
|
Santa Lucia (bài hát)
|
Santa Lucia () là một bài hát tiếng Napoli. Được sáng tác vào năm 1849 bởi Teodoro Cottrau. Đây là bài hát tiếng Napoli đầu tiên được dịch sang tiếng Ý.
Lời
Tiếng Napoli
Comme se frícceca
la luna chiena!
lo mare ride,
ll'aria è serena...
Vuje che facite
'mmiezo a la via?
Santa Lucia,
Santa Lucia!
(Lặp lại 2 lần)
Stu viento frisco
fa risciatare:
chi vo' spassarse
jenno pe mmare?
È pronta e lesta
la varca mia
Santa Lucia,
Santa Lucia!
(Lặp lại 2 lần)
La tènna è posta
pe' fa' 'na cena;
e quanno stace
la panza chiena
non c'è la mínema
melanconia.
Santa Lucia,
Santa Lucia!
(Lặp lại 2 lần)Pozzo accostare la varca mia
Santa Lucia, Santa Lucia!
Tiếng Ý
Tiếng Anh
Now 'neath the silver moon Ocean is glowing,
O'er the calm billows, soft winds are blowing.
Here balmy breezes blow, pure joys invite us,
And as we gently row, all things delight us.
Chorus:
Hark, how the sailor's cry joyously echoes nigh:
Santa Lucia, Santa Lucia!
Home of fair Poesy, realm of pure harmony,
Santa Lucia, Santa Lucia!
When o'er the waters light winds are playing,
Thy spell can soothe us, all care allaying.
To thee sweet Napoli, what charms are given,
Where smiles creation, toil blest by heaven.
Tham khảo
liên kết ngoài
"Santa Lucia" do Enrico Caruso hát
Bản nhạc miễn phí "Santa Lucia" cho piano
Thư viện miền công cộng hợp xướng
Bài hát của Elvis Presley
Dân ca Ý
Canzone napoletana
Ca khúc Giáng sinh
Bài hát năm 1849
|
19852196
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/P%C3%A1draig%20%C3%93%20C%C3%A9idigh
|
Pádraig Ó Céidigh
|
Pádraig Ó Céidigh (; sinh ngày 2 tháng 1 năm 1957) là một cựu chính khách độc lập người Ireland và là một doanh nhân từng giữ chức vụ thượng viện kể từ năm 2016 đến năm 2020, sau khi được chọn bởi Taoiseach. Ông cũng đã từng là chủ sở hữu của hãng hàng không Aer Arann Islands.
Ông từng giành được B.Comm. tại Đại học Galway vào năm 1978. Ông trở thành kế toán và sau đó là giáo viên tại Coláiste Iognáid, tiếp tục học luật và bắt đầu hành nghề với công ty riêng của mình trong thành phố.
Ông tranh cử không thành công cho một trong ba ghế Seanad được phân bổ cho khu vực Đại học Quốc gia Ireland, thua về chuyển nhượng mặc dù đứng thứ 3, nhưng đã được đề cử vào Seanad Éireann bởi thủ tướng Enda Kenny vào ngày 11 tháng 5 năm 2016.
Ó Céidigh từng là thành viên Hội đồng quản trị của Đài Phát thanh - Truyền hình Ireland trước khi được bổ nhiệm vào Seanad.
Vào tháng 3 năm 2018, ông tuyên bố ý định tham gia cuộc bầu cử tổng thống năm 2018 với tư cách là một ứng cử viên Độc lập, nhưng sau đó đã không tham gia cuộc bầu cử này.
Tham khảo
Doanh nhân
Giáo viên
Chính khách Ireland
Người Ireland thế kỷ 20
Người Ireland thế kỷ 21
|
19852197
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stoichkov%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha%29
|
Stoichkov (cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha)
|
Juan Diego Molina Martínez (sinh ngày 5 tháng 11 năm 1993), hay còn được biết đến với biệt danh Stoichkov, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ SD Eibar tại Segunda División. Anh đã có hơn 170 lần ra sân tại Segunda División và ghi hơn 60 bàn thắng cho Mallorca, Alcorcón, Sabadell và Eibar, chơi ở các cấp độ thấp hơn cho đến gần 25 tuổi.
Sự nghiệp thi đấu
Đầu sự nghiệp
Sinh ra ở San Roque, Cádiz, Andalucia, Stoichkov nhận được biệt danh theo tên tiền đạo của câu lạc bộ FC Barcelona những năm 1990, Hristo Stoichkov. Cha của anh, người đã gặp cầu thủ của Đội tuyển bóng đá quốc gia Bulgaria khi làm việc tại một quán bar ở Barcelona, muốn đặt tên cho con trai mình là Stoichkov nhưng đã bị mẹ anh phủ quyết.
Stoichkov từng thi đấu cho RCD Espanyol ở vùng Catalunya. Vào ngày 20 tháng 7 năm 2012, anh gia nhập CP Cacereño tại Segunda División B, nhưng dành phần lớn thời gian của mình cho đội dự bị.
Vào ngày 5 tháng 9 năm 2013, Stoichkov ký hợp đồng với CD San Roque tại Tercera División, nơi mà anh đã thi đấu khi còn trẻ. Trước mùa giải 2014–15, anh ra nước ngoài lần đầu tiên trong sự nghiệp và gia nhập Europa F.C. ở Gibraltar, thi đấu ở vòng loại UEFA Europa League trước khi gia nhập San Roque vào tháng 12 năm 2014.
Vào ngày 28 tháng 1 năm 2016, Stoichkov chuyển đến Real Balompédica Linense ở giải hạng ba. Anh ngay lập tức trở thành cầu thủ đá chính thường xuyên cho đội bóng và ghi 10 bàn thắng cho họ trong mùa giải 2017–18.
Mallorca
Vào ngày 6 tháng 7 năm 2018, Stoichkov ký hợp đồng 4 năm với RCD Mallorca, tân binh của Segunda División lúc bấy giờ. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho đội bóng vào ngày 7 tháng 9, khi vào sân ở hiệp hai thay cho Carlos Castro trong chiến thắng 1–0 trên sân nhà trước Cádiz CF.
Stoichkov ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên vào ngày 27 tháng 10 năm 2018, bàn gỡ hòa trong trận hòa 2–2 trên sân nhà trước UD Las Palmas. Anh đã đóng góp 3 bàn thắng ở giải quốc nội trong mùa giải 2018–19, góp phần giúp đội bóng thăng hạng lên La Liga.
Cho mượn tại Alcorcón
Vào ngày 20 tháng 7 năm 2019, Stoichkov gia nhập AD Alcorcón the bản hợp đồng cho mượn một năm. Trong mùa giải 2019–20, anh đứng thứ 4 trong danh sách vua phá lưới của giải đấu với 16 bàn thắng.
Cho mượn tại Sabadell
Vào ngày 5 tháng 10 năm 2020, Stoichkov gia nhập CE Sabadell FC dưới dạng cho mượn ở mùa giải 2020–21. Anh ghi 11 bàn thắng, trong đó có một cú đúp ở trận hòa 2–2 trên sân nhà với Girona FC, nhưng đội bóng phải xuống hạng vào cuối mùa.
Eibar
Vào ngày 21 tháng 7 năm 2021, Stoichkov chuyển đến SD Eibar bằng hợp đồng kéo dài 3 năm. Anh mở tài khoản của mình với hai bàn thắng trong chiến thắng 3–2 trước Real Sociedad B vào ngày 11 tháng 9, ghi thêm một cú đúp nữa để giành chiến thắng trên sân nhà trước Sporting de Gijón với tỷ số tương tự 8 ngày sau đó. Anh giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất tháng 10 với 3 bàn sau 5 trận.
Stoichkov bị đuổi khỏi sân lần đầu tiên trong sự nghiệp của mình vào ngày 6 tháng 3 năm 2022, trong trận thua 4–1 trước FC Cartagena, nơi anh đã ghi bàn thắng mở tỉ số trận đấu. Án treo giò của anh đã bị hủy bỏ khi Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha ra phán quyết rằng anh không từ chối cơ hội ghi bàn rõ ràng của đối thủ. Anh kết thúc mùa giải 2021–22 với 21 bàn thắng, xếp sau Borja Bastón và Cristhian Stuani, góp phần đưa Eibar lọt vào vòng play-off với vị trí thứ 3 chung cuộc.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1993
Nhân vật còn sống
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha
Cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá CP Cacereño
Cầu thủ bóng đá CD San Roque
Cầu thủ bóng đá Real Balompédica Linense
Cầu thủ bóng đá RCD Mallorca
Cầu thủ bóng đá AD Alcorcón
Cầu thủ bóng đá CE Sabadell FC
Cầu thủ bóng đá SD Eibar
Cầu thủ bóng đá Europa F.C.
Cầu thủ bóng đá Segunda División
Cầu thủ bóng đá Segunda División B
Cầu thủ bóng đá Tercera División
Cầu thủ bóng đá Divisiones Regionales de Fútbol
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Gibraltar
Cầu thủ bóng đá nam Tây Ban Nha ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Tây Ban Nha
|
19852208
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/LNG%20Esports
|
LNG Esports
|
LNG Esports là 1 tổ chức thể thao điện tử chuyên nghiệp Trung Quốc có trụ sở tại Tô Châu. LNG Esports được biết đến với cái tên Snake Esports từ khi thành lập vào năm 2013 cho đến khi được công ty Li-Ning mua lại vào năm 2019.
Đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại LNG Esports thi đấu tại giải đấu League of Legends Pro League (LPL), giải đấu Liên Minh Huyền Thoại chuyên nghiệp đỉnh cao nhất tại Trung Quốc. LNG chơi các trận đấu trên sân nhà tại Trung tâm thể thao điện tử quốc tế Dương Trừng ở Tô Châu.
Liên Minh Huyền Thoại
Đội hình hiện tại
Tham khảo
Tổ chức thể thao điện tử
Tổ chức thể thao điện tử Trung Quốc
Đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại ở Trung Quốc
|
19852216
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hiezu%2C%20Tottori
|
Hiezu, Tottori
|
là ngôi làng thuộc huyện Saihaku, tỉnh Tottori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 3.501 người và mật độ dân số là 830 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 4,2 km2.
Tham khảo
Làng của Tottori
|
19852219
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hino%2C%20Shiga
|
Hino, Shiga
|
là thị trấn thuộc huyện Gamō, tỉnh Shiga, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 20.964 người và mật độ dân số là 180 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 117,60 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Shiga
|
19852230
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sait%C5%8D%20Amiri
|
Saitō Amiri
|
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti T-Powers.
Sự nghiệp
Sau khi làm việc tại một quán cà phê hầu gái lâu năm tại Akihabara, cô đã ra mắt ngành phim khiêu dâm vào ngày 20/9/2019 với tư cách là nữ diễn viên độc quyền của Prestige với khẩu hiệu là "Người mẹ dâm đãng nhất Nhật Bản". Câu nói truyền thông của cô là "Trendy Angel kayo?" và cô thường bị trêu bởi mọi người bằng câu nói này.
Cô đã trở thành nữ diễn viên độc quyền của Idea Pocket từ tháng 11/2021.
Từ tháng 6 năm 2022, cô đã rời hợp đồng độc quyền và trở thành một nữ diễn viên tự do.
Tháng 5 năm 2023, cô xếp thứ 38 trong bảng "bầu cử nữ diễn viên phim khiêu dâm SEXY đang hoạt động 2023" của Asahi Geinō.
Trong bảng xếp hạng sàn bán hàng qua bưu điện của FANZA tuần ngày 23/10/2023, phim của cô "Vượt qua giới hạn! Thuốc kích dục làm cô ấy xuất tinh nhiều đến mức bất tỉnh, cực khoái khi thực hiện Kimeseku FUCK" (限界突破!媚薬で意識がぶっ飛ぶほどイカされまくる最高潮キメセクFUCK 斎藤あみり) (Maxing) đã vươn lên xếp thứ 9 ngay khi vừa phát hành.
Trong bảng xếp hạng sàn bán hàng qua bưu điện của FANZA tuần ngày 4 tháng 12, phim của cô "Bản phim về một câu chuyện của một cô gái gyaru nhiệt huyết cho phép sử dụng âm đạo của mình Lượng dōjin bán ra là hơn 150 nghìn bản! Đã 3 lần soán ngôi trong bảng xếp hạng dōjin FANZA! Một bản phim live-action của một bom tấn chưa từng có! Saitō Amiri" (入り浸りギャルにま○こ使わせて貰う話 実写版 同人売上15万部突破!FANZA同人ランキング3冠達成! 空前の大ヒット作品を実写化! 斎藤あみり) đã vươn lên xếp thứ 8 ngay khi vừa phát hành.
Đời tư
Lí do ra mắt ngành đến từ suy nghĩ "Nữ diễn viên khiêu dâm = Đáng yêu!" của cô. Cô đã nói rằng "Khi tôi nhận được lời mời vào ngành, tôi đã quyết định ra mắt ngay lập tức.". Cô rất ngưỡng mộ và là một người hâm mộ của Ogura Yuna.
Sở thích của cô là xem các nội dung 2D, trang điểm, mỹ dung học và theo dõi các thần tượng nữ. Những món ăn yêu thích của cô là các món cay, món Nhật và trái cây.
Tên dành cho những người hâm mộ cô là "Amitō" (あみ党).
Cô có nhiều người hâm mộ nữ và người hâm mộ trẻ.
Mục tiêu của cô khi làm nữ diễn viên khiêu dâm là "bán được".
Nhà văn phim khiêu dâm Kochi Katsutoshi đã nói về cô rằng "Cô ấy có tiềm năng lớn về cách quan hệ tình dục, vì các cảnh liếm dương vật của cô cơ bản là không dùng tay."
Tham khảo
Liên kết ngoài
斎藤あみり プレステージ専属AVデビュー記念特設ページ (Trang đặc biệt kỉ niệm Amiri Saito ra mắt Prestige) - Trang chính thức của Prestige
Sinh năm 1999
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
|
19852233
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wakasa%2C%20Tottori
|
Wakasa, Tottori
|
là thị trấn thuộc huyện Yazu, tỉnh Tottori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 2.864 người và mật độ dân số là 14 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 199,18 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Tottori
|
19852237
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/MOODYZ
|
MOODYZ
|
MOODYZ (ムーディーズ) là một nhà sản xuất phim khiêu dâm của Nhật Bản.
Cùng với S1 No. 1 Style (S1), hãng là hãng phim hoàn toàn đại diện cho tập đoàn WILL.
Liên kết ngoài
(Trang web dành cho người trên 18 tuổi)
Công ty sản xuất phim Nhật Bản
Khởi đầu năm 2000 ở Nhật Bản
|
19852242
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20ph%C3%A1i%20b%E1%BB%99%20ngo%E1%BA%A1i%20giao%20c%E1%BB%A7a%20%E1%BA%A4n%20%C4%90%E1%BB%99
|
Danh sách phái bộ ngoại giao của Ấn Độ
|
Mạng lưới ngoại giao của Ấn Độ thuộc vào hàng lớn nhất thế giới, phản ánh các liên kết của nước này trên thế giới, đặc biệt là tại các khu vực lân cận. Ngoài ra Ấn Độ còn có các phái bộ xa xôi tại Caribe và Thái Bình Dương, tại những nơi có cộng đồng người gốc Ấn lâu đời.
Ấn Độ là thành viên của Khối Thịnh vượng chung, các phái bộ ngoại giao của Ấn Độ tại thủ đô của các thành viên khác trong Khối được gọi là Cao ủy (High Commission). Tại các thành phố khác của các quốc gia trong Khối, Ấn Độ gọi một số cơ quan lãnh sự của họ là "phó cao ủy" (Assistant High Commission), nhưng các cơ quan tại thành phố Birmingham và Edinburgh của Anh và thành phố Hambantota của Sri Lanka được gọi là "tổng lãnh sự quán".
Tính đến tháng 3 năm 2022, Ấn Độ có 202 phái bộ hoạt động trên toàn cầu.
Phái bộ
Châu Á
Châu Âu
Châu Đại Dương
Châu Mỹ
Châu Phi
Tổ chức quốc tế
Hình ảnh
Phái bộ đóng cửa
Đại sứ quán dự kiến
Xem thêm
Quan hệ đối ngoại của Ấn Độ
Danh sách phái bộ ngoại giao tại Ấn Độ
Danh sách đại sứ và cao ủy Ấn Độ
Danh sách đại sứ và cao ủy tại Ấn Độ
Chính sách thị thực của Ấn Độ
Yêu cầu thị thực đối với công dân Ấn Độ
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Ministry of External Affairs of India
Indian embassies abroad
Quan hệ ngoại giao của Ấn Độ
|
19852243
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20ph%C3%A1i%20b%E1%BB%99%20ngo%E1%BA%A1i%20giao%20t%E1%BA%A1i%20%E1%BA%A4n%20%C4%90%E1%BB%99
|
Danh sách phái bộ ngoại giao tại Ấn Độ
|
Đây là danh sách các phái bộ ngoại giao tại Ấn Độ. Có 155 đại sứ quán/cao ủy đặt tại New Delhi, và nhiều quốc gia có lãnh sự quán tại các thành phố khác của Ấn Độ.
Hầu hết các phái bộ ngoại giao đặt tại Delhi nằm trong khu đoàn ngoại giao Chanakyapuri. Vào tháng 1 năm 2017, Hội đồng Bộ trưởng Liên bang phê chuẩn Khu Dwarka 24 trở thành khu đoàn ngoại giao thứ hai dành cho 39 quốc gia với diện tích , sau Chanakyapuri.
Danh sách này không bao gồm lãnh sự quán danh dự.
Phái bộ ngoại giao tại New Delhi
Đại sứ quán/Cao ủy
Các phái bộ khác
(Phái đoàn)
(Văn phòng liên lạc)
(Văn phòng đại diện)
(Trung tâm Kinh tế và Văn hóa)
UNHCR (Phái đoàn)
Phái bộ lãnh sự
Agartala
Ahmedabad
Bengaluru
Chandigarh
Chennai
(Trung tâm kinh tế và văn hóa)
Guwahati
Hyderabad
Kolkata
Mumbai
(dự kiến)
Panaji
Pondicherry
Thiruvananthapuram
Đại sứ quán không thường trú
Trú tại Bắc Kinh, Trung Quốc
Trú tại Đài Bắc, Đài Loan
Trú tại nơi khác
(Ankara)
(Kuwait)
(Kuala Lumpur)
(Riyadh)
(Riyadh)
(Jerusalem)
(Hà Nội)
(Kuwait)
(Abu Dhabi)
(Baku)
(Kuwait)
(Abu Dhabi)
(Kuala Lumpur)
Hình ảnh
Phái bộ đã đóng cửa
Phái bộ dự kiến
Xem thêm
Quan hệ ngoại giao của Ấn Độ
* Danh sách phái bộ ngoại giao của Ấn Độ
* Danh sách đại sứ và cao ủy của Ấn Độ
* Danh sách đại sứ và cao ủy tại Ấn Độ
* Chính sách thị thực của Ấn Độ
* Yêu cầu thị thực đối với công dân Ấn Độ
Tham khảo
India
Diplomatic missions
Phái bộ ngoại giao theo quốc gia công tác
Quan hệ ngoại giao của Ấn Độ
|
19852275
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mikata%2C%20Fukui
|
Mikata, Fukui
|
là huyện thuộc tỉnh Fukui, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020 dân số của huyện là 9.179 người và mật độ dân số là 60 người/km2. Tổng diện tích của huyện là 152,3 km2.
Hành chính
Thị trấn
Tham khảo
Huyện của Fukui
|
19852285
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mihama%2C%20Aichi
|
Mihama, Aichi
|
là thị trấn thuộc huyện Chita, tỉnh Aichi, Nhật bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 22.496 người và mật độ dân số là 490 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 46,20 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Aichi
Taketoyo
Tokoname
Minamichita
Tham khảo
Thị trấn của Aichi
|
19852288
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Timothy%20Leary
|
Timothy Leary
|
Timothy Francis Leary (22 tháng 10 năm 1920 – 31 tháng 5 năm 1996) là một nhà tâm lý học và tác giả người Mỹ nổi tiếng vì sự ủng hộ mạnh mẽ của ông đối với chất thức thần. Các đánh giá về Leary bị phân cực, từ nhà tiên tri táo bạo đến kẻ đáng khinh công khai. Theo nhà thơ Allen Ginsberg, ông là "anh hùng của ý thức Mỹ", và nhà văn Tom Robbins gọi ông là "nhà du hành thần kinh dũng cảm". Trong những năm 1960 và 1970, Leary đã bị bắt 36 lần. Tổng thống Richard Nixon mô tả ông là "người đàn ông nguy hiểm nhất nước Mỹ".
Là một nhà tâm lý học lâm sàng tại Đại học Harvard, Leary đã thành lập Dự án Psilocybin Harvard sau trải nghiệm khải thị về nấm ma thuật mà ông có được ở Mexico vào năm 1960. Ông lãnh đạo Dự án từ năm 1960 đến năm 1962, thử nghiệm tác dụng điều trị của lysergic acid diethylamide (LSD) và psilocybin, khi đó là hợp pháp ở Hoa Kỳ, trong Thí nghiệm Nhà tù Concord và Thí nghiệm Nhà nguyện Marsh. Các giảng viên khác của Harvard đã đặt câu hỏi về tính hợp pháp và đạo đức khoa học trong nghiên cứu của ông vì ông đã tự mình sử dụng chất gây ảo giác cùng với các đối tượng của mình và bị cáo buộc đã gây áp lực để sinh viên tham gia. Harvard sa thải Leary và đồng nghiệp Richard Alpert (sau này gọi là Ram Dass) vào tháng 5 năm 1963. Nhiều người chỉ biết đến chất thức thần sau vụ bê bối ở Harvard.
Leary tin rằng LSD có tiềm năng sử dụng trong điều trị tâm thần. Ông đã phát triển mô hình tám mạch của ý thức trong cuốn sách Exo-Psychology xuất bản năm 1977 và giảng bài, thỉnh thoảng tự gọi mình là "triết gia biểu diễn". Ông cũng phát triển triết lý mở rộng tâm trí và sự thật cá nhân thông qua LSD. Sau khi rời Harvard, ông tiếp tục công khai quảng bá chất thức thần và trở thành một nhân vật nổi tiếng trong văn hóa phản kháng của thập niên 1960. Ông đã phổ biến những câu cửa miệng quảng bá triết lý của mình, chẳng hạn như "turn on, tune in, drop out", "set and setting" và "think for yourself and question authority". Ông cũng viết và phát biểu thường xuyên về siêu nhân học, sự di cư vào không gian của con người, sự gia tăng trí thông minh và kéo dài sự sống (SMI²LE).
Tác phẩm
Sách
Sách và tác phẩm được Leary viết gồm:
Interpersonal Diagnosis of Personality (1957)
The Psychedelic Experience (1964)
Turn On, Tune In, Drop Out (1966/1999)
The Politics of Ecstasy (1968)
High Priest (1968)
Neurologic (1973)
What Does Woman Want? (1976)
Neuropolitique (1977)
Flashbacks (1983)
Chaos & Cyber Culture (1994)
The Delicious Grace of Moving One's Hand (1999)
Your Brain is God (2001)
Ghi chú
Tham khảo
Tác phẩm được chú thích
Đọc thêm
Liên kết ngoài
TimothyLeary.info – biography, archives, links, and more
Lectures from the Leary Archive in audio format
"Unlimited Virtual Realities for Everyone!" , ArtFutura, 1990.
Timothy Leary papers, 1910-2009, held by the Manuscripts and Archives Division, New York Public Library.
Image of Timothy Leary and his wife, Rosemary Woodruff holding a news conference in Los Angeles, California, 1969. Los Angeles Times Photographic Archive (Collection 1429). UCLA Library Special Collections, Charles E. Young Research Library, University of California, Los Angeles.
Văn hóa chất kích thích
Cựu tín hữu Công giáo Rôma
Cựu sinh viên Đại học California tại Berkeley
Lính Lục quân Hoa Kỳ
Nhân viên Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai
Người Mỹ gốc Ireland
Chết vì ung thư tuyến tiền liệt
Tử vong vì ung thư ở California
Sinh năm 1920
Mất năm 1996
|
19852295
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trip
|
Trip
|
Trip có thể đề cập đến:
Trip, một nhân vật trong Pokémon
Trip Hawkins (sinh 1953), doanh nhân Mỹ
Trip, một làng ở Bixad, Satu Mare, România
Tripping (tiếng Anh) nghĩa là ngã
Trip, một trải nghiệm thức thần do chất thức thần gây ra
Xem thêm
|
19852313
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/ARA%20Santiago%20del%20Estero
|
ARA Santiago del Estero
|
Năm tàu chiến của Hải quân Argentina từng được đặt cái tên ARA Santiago del Estero, theo tên tỉnh Santiago del Estero của Argentina:
ARA Santiago del Estero (1911) là một hạ thủy năm 1911 nhưng được bán cho Hy Lạp trước khi nghiệm thu
ARA Santiago del Estero (1932) được đóng tại Ý và trong biên chế từ năm 1933 đến năm 1960
ARA Santiago del Estero (S-12) nguyên là nhập biên chế năm 1960 và phục vụ cho đến năm 1971
ARA Santiago del Estero (S-22) nguyên là nhập biên chế năm 1971 và phục vụ cho đến năm 1981
ARA Santiago del Estero (S-44) dự định là một vào thập niên 1980 nhưng bị hủy bỏ khi đã hoàn tất khoảng 70%
Tên gọi tàu chiến Hải quân Argentina
|
19852314
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Evangelista%20Torricelli%20%28t%C3%A0u%20ng%E1%BA%A7m%20%C3%9D%29
|
Evangelista Torricelli (tàu ngầm Ý)
|
Bốn tàu ngầm của Hải quân Ý từng được đặt cái tên Evangelista Torricelli hoặc Torricelli, được đặt theo tên nhà khoa học Ý Evangelista Torricelli (1608-1647):
Torricelli (1918) là một hạ thủy năm 1918 và bị loại bỏ năm 1930
Evangelista Torricelli (1934) là một hạ thủy năm 1934 và được chuyển cho Tây Ban Nha năm 1937
Torricelli (1939) là một hạ thủy năm 1939 và bị đánh chìm năm 1940
Evangelista Torricelli (S 512) nguyên là được chuyển giao năm 1960 và bị tháo dỡ năm 1976
Tên gọi tàu chiến Hải quân Ý
|
19852320
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Th%C3%A1nh%20Duy%C3%AAn
|
Chùa Thánh Duyên
|
Chùa Thánh Duyên (chữ Hán: 聖緣寺) là một công trình kiến trúc phật giáo có nguồn gốc từ thế kỷ thứ 17 và do vua Minh Mạng trùng tu và xây lại vào các năm 1825 và 1836. Chùa tọa lạc tại núi Túy Vân, xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cảnh quan chùa và núi Túy Vân được vua Thiệu Trị xếp thứ 9 trong Thần kinh nhị thập cảnh.
Lịch sử
Núi là Thuý Vân, tục gọi là Tuý Vân, ngày nay thuộc vào địa phận hai làng Đông An và Hiền Vân, xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, cách thành phố Huế khoảng 30 km về phía đông nam, nằm ngay ven bờ đầm Cầu Hai. Theo các sử sách của triều Nguyễn, trước kia núi Thuý Vân gọi là núi Mỹ Am, trên núi có chùa Thánh Duyên.
Chùa ban đầu do chúa Nguyễn Phúc Tần (1620-1687) lập để cầu phúc cho dân địa phương. Xuân Nhâm Thân (1692), chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho tu sửa sơn son thếp vàng ngôi chùa cũ trên núi. Chùa bị phá hủy do chiến tranh vào nửa cuối thế kỷ XVIII.
Năm 1825, thời Minh Mạng trong một lần ngự giá đến cửa biển Tư Hiền, vua Minh Mạng đã đổi tên núi thành Thuý Hoa và cho trùng tu chùa, đặt tên là Thúy Hoa tự và đặt tên núi cũng là Thúy Hoa. Đến năm 1836, nhà vua lại quyết định cho "đại trùng kiến" toàn bộ chùa Thánh Duyên. Nhà vua cho xây thêm Đại Từ Các và tháp Điều Ngự, đặt tên chùa là Thánh Duyên tự.
Tới thời Thiệu Trị, vì kỵ húy tên Thái hậu Hồ Thị Hoa (vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị) nên núi Thúy Hoa được đổi tên thành Thúy Vân, người dân đọc chệch đi thành Túy Vân. Từ đó trở về sau, chùa Thánh Duyên còn được tu sửa nhiều lần nữa, nhưng đến ngày nay thì chùa đã ở trong tình trạng xuống cấp hết sức nghiêm trọng, cảnh trí tiêu điều vì ít được chăm sóc.
Kiến trúc
Sau khi xây lại năm 1936, quy mô của chùa gồm một toà điện chính 3 gian, 2 chái toạ lạc gần chân núi.
Ở lưng chừng núi là gác Đại Từ, 2 tầng, tầng dưới 3 gian 2 chái, tầng trên 3 gian. Xung quanh gác có tường bao bọc, mặt trước có nghi môn.
Trên đỉnh núi là tháp Điều Ngự 3 tầng, cao 3 trượng 6 thước 9 tấc (khoảng 15m).
Năm 1837, ở bên trái điện chính của chùa có dựng thêm một tăng xá 3 gian 2 chái để làm chỗ ăn ở cho các nhà sư. Ngoài ra còn có 2 nhà bếp, mỗi nhà đều 1 gian.
Dưới thời vua chúa Nguyễn, chùa Thánh Duyên là một trong những đại danh lam, được xếp vào hàng quốc tự của Huế (Thiên Mụ, Thánh Duyên, Diệu Đế,...). Nhiều vị cao tăng nổi tiếng như hoà thượng Liễu Đạo Chí Tâm, Tánh Khoát Huệ Cảnh, Tánh Thông Nhất Trí, Vĩnh Thừa, Giác Nhiên,... đã được cử đến đây để đảm nhận ngôi vị trụ trì.
Trong thơ ca
Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên cũng được xem là một trong những thắng cảnh bậc nhất của đất thần kinh. Các chúa và sau này là các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn cảnh sắc và đã làm rất nhiều thơ phú để ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả có lẽ vẫn là vua Thiệu Trị với bài thơ này. Điều đáng nói thêm là dưới thời Nguyễn, toàn bộ cảnh chùa và núi đã được vẽ vào đồ sứ men làm cùng 4 câu thơ thực và luận của bài thơ này.
Vua Thiệu Trị đã "xếp hạng" cảnh đẹp chùa Thánh Duyên và núi Túy Vân là cảnh sắc thứ 9 trong số 20 cảnh đẹp đất kinh kỳ qua bài thơ Vân Sơn thắng tích.
Chú thích
Thần kinh nhị thập cảnh
Di tích Cố đô Huế
Chùa Việt Nam
Chùa tại Thừa Thiên Huế
|
19852334
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amblyeleotris%20wheeleri
|
Amblyeleotris wheeleri
|
Amblyeleotris wheeleri là một loài cá biển thuộc chi Amblyeleotris trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1977.
Từ nguyên
Từ định danh wheeleri được đặt theo tên của Alwynne Cooper Wheeler, nhà ngư học người Anh (1929–2005), Phụ trách các loài cá tại Bảo tàng Anh, nhằm tri ân sự giúp đỡ của ông đối với các tác giả trong nghiên cứu về cá bống cộng sinh với tôm ở Seychelles (cũng là nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập).
Phân bố và môi trường sống
Từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi, A. wheeleri có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall và Fiji, ngược lên phía bắc tới Nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Nam Phi, Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, A. wheeleri được ghi nhận tại quần đảo Trường Sa, đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), Ninh Thuận và cù lao Câu.
A. wheeleri sống cộng sinh trong hang với các loài tôm gõ mõ, thường gặp nhất là với Alpheus ochrostriatus, được tìm thấy phổ biến trên nền đá vụn trong các rạn san hô, đáy cát và đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 40 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở A. wheeleri là 10 m. Loài này có màu trắng đến phớt vàng với 7 sọc từ nâu đỏ hoặc đỏ thẫm. Đầu và thân có các đốm xanh lam óng, đôi khi có trên cả vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi. Đầu còn có thêm nhiều vệt đỏ, kể cả khóe miệng.
Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 12; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 12.
A. wheeleri dễ bị xác định nhầm với Amblyeleotris fasciata, một loài có phân bố ở Đông Ấn - Tây Thái. Sọc đỏ của A. fasciata mảnh hơn so với A. wheeleri, và A. fasciata không có các đốm đỏ trên vây lưng như A. wheeleri.
Thương mại
A. wheeleri là một thành phần nhỏ trong ngành buôn bán cá cảnh.
Tham khảo
W
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá biển Đỏ
Cá Sudan
Cá Yemen
Cá Nam Phi
Cá Seychelles
Cá Madagascar
Cá Réunion
Cá Maldives
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Nhật Bản
Cá Papua New Guinea
Cá Nouvelle-Calédonie
Cá Palau
Cá Fiji
Động vật được mô tả năm 1977
|
19852356
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Sonnenberg
|
Lâu đài Sonnenberg
|
Lâu đài Sonnenberg là một lâu đài ở đô thị Stettfurt thuộc bang Thurgau của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ.
Lâu đài nằm trên sườn Immenberg ở độ cao .
Xem thêm
Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ
Tham khảo
Sonnenberg
|
19852357
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Eugensberg
|
Lâu đài Eugensberg
|
Lâu đài Eugensberg là một lâu đài ở đô thị Salenstein thuộc bang Thurgau của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ.
Xem thêm
Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ
Tham khảo
Eugensberg
|
19852365
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amblyeleotris%20fasciata
|
Amblyeleotris fasciata
|
Amblyeleotris fasciata là một loài cá biển thuộc chi Amblyeleotris trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1953.
Từ nguyên
Tính từ định danh fasciata trong tiếng Latinh có nghĩa là “có dải sọc”, hàm ý đề cập đến 5 dải sọc đỏ bao quanh thân của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
Theo Sách đỏ IUCN, A. fasciata có phân bố tập trung ở Thái Bình Dương, bao gồm đảo New Guinea, đảo Guam, quần đảo Marshall, Fiji, quần đảo Cook, rạn san hô Great Barrier và quần đảo Société.
A. fasciata sống cộng sinh với tôm gõ mõ Alpheus ochrostriatus, được tìm thấy trên nền cát của rạn san hô và tronng đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 20 m.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở A. fasciata là 8 cm. Loài này có màu trắng với 5 sọc đỏ. Đầu và thân bao phủ bởi các đốm vàng tươi. Đầu còn có thêm vệt đỏ ngay khóe miệng.
Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 10–14; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 10–12.
A. fasciata dễ bị xác định nhầm với Amblyeleotris wheeleri, một loài có phân bố rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Sọc đỏ của A. wheeleri dày hơn so với A. fasciata, và có thêm các đốm đỏ trên vây lưng.
Tình trạng phân loại
Theo phân tích phát sinh chủng loại học của Thacker và cộng sự (2011), A. fasciata là loài chị em gần nhất với Amblyeleotris yanoi, và đã tiến hóa khá xa với A. wheeleri.
Thương mại
A. fasciata là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh.
Tham khảo
F
Cá Thái Bình Dương
Cá New Guinea
Cá Fiji
Động vật được mô tả năm 1953
|
19852372
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karoline%20x%E1%BB%A9%20Baden
|
Karoline xứ Baden
|
Karoline xứ Baden (tiếng Đức: Friederike Karoline Wilhelmine von Baden; tiếng Hà Lan: Caroline van Baden; tiếng Anh: Caroline of Baden; 13 tháng 7 năm 1776 – 13 tháng 11 năm 1841) là Tuyển hầu phu nhân xứ Bayern và sau đó là Vương hậu đầu tiên của Bayern thông qua hôn nhân với Maximilian I Joseph của Bayern.
Thân thế
Karoline sinh ngày 13 tháng 7 năm 1776, là người con thứ hai của Karl Ludwig xứ Baden và Amalie xứ Hessen-Darmstadt. Karoline là em gái song sinh của Katharina Amalie Christiane Luise xứ Baden.
Hôn nhân
Karoline kết hôn với Maximilian, Công tước xứ Pfalz Zweibrücken tại Karlsruhe vào ngày 9 tháng 3 năm 1797. Hai năm sau đó Maximilian trở thành Tuyển hầu xứ Bayern. Do sự giải thể của Đế quốc La Mã Thần thánh vào năm 1806, tước vị Tuyển hầu tước trở nên lỗi thời và Maximilian Joseph được nâng địa vị lên thành Quốc vương Bayern, do đó Karoline là Vương hậu đầu tiên của Bayern từ ngày 1 tháng 1 năm 1806. Karoline có tám người con với chồng, trong đó có hai cặp sinh đôi.
Một thỏa thuận của cuộc hôn nhân là Karoline được phép giữ đức tin Kháng Cách và có mục sư Kháng Cách của riêng mình.
Qua đời
Karoline xứ Baden qua đời ngày 13 tháng 11 năm 1841, sống lâu hơn chồng bà mười sáu năm một tháng. Do theo đạo Tin lành, tang lễ của Vương hậu không được cử hành một cách xứng hợp, dẫn đến xảy ra sự phản đối từ công chúng: trong tang lễ của Karoline, tất cả các giáo sĩ Công giáo tham dự đều mặc trang phục bình thường thay vì lễ phục. Sự việc này đã khiến cho con riêng của chồng Karoline là Ludwig I của Bayern, vốn có thái độ gay gắt với đạo Tin lành dù đã kết hôn với Công nữ theo Kháng Cách là Therese xứ Sachsen-Hildburghausen có thái độ khoan dung hơn với đức tin Kháng Cách.
Con cái
Tổ tiên
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Françoise de Bernardy: "Stéphanie de Beauharnais, con nuôi de Napoléon et grande-duchesse de Bade" LAP Pais, 1977.
Đại Công nữ Baden
Gia tộc Zähringen
Vương hậu Bayern
Tuyển hầu phu nhân xứ Bayern
Phối ngẫu Vương thất Bayern
Vương tộc Wittelsbach
Sinh năm 1776
Mất năm 1841
Nguồn CS1 tiếng Pháp (fr)
|
19852375
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gnatholepis%20cauerensis
|
Gnatholepis cauerensis
|
Gnatholepis cauerensis là một loài cá biển thuộc chi Gnatholepis trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1853.
Từ nguyên
Từ định danh cauerensis được đặt theo tên gọi của làng Cauer, nằm trên bờ biển phía tây nam đảo Sumatra (nay thuộc Bengkulu), nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–ensis: hậu tố trong tiếng Latinh biểu thị nơi chốn).
Phân bố và môi trường sống
G. cauerensis có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Yemen dọc theo Đông Phi trải dài về phía đông đến tận quần đảo Hawaii và quần đảo Pitcairn, xa về phía bắc đến Nam Nhật Bản (gồm cả quần đảo Ogasawara), phía nam đến Nam Phi và Úc. Ở Việt Nam, G. cauerensis được ghi nhận tại vịnh Nha Trang và Ninh Thuận.
G. cauerensis sống trên nền đáy cát của rạn san hô, gần các tảng đá hoặc cụm san hô, độ sâu đến ít nhất là 58 m.
Tình trạng phân loại
Randall và Greenfield (2001) chỉ xem quần thể Hawaii như một phân loài của G. cauerensis do có cuống đuôi ngắn hơn (so theo chiều dài đầu), ở vây đuôi có một sọc sẫm màu dọc theo màng giữa các tia thay vì các đốm đen và có thêm các đốm nhỏ màu xanh óng ở thân dưới. Sau đó Randall (2009) đã nâng quần thể này lên thành bậc loài với danh pháp G. hawaiiensis. Larson và Buckle (2012) cho rằng không có sự khác biệt nhất quán về chiều dài cuống đuôi giữa bất kỳ loài Gnatholepis nào. Các vệt, hàng đốm đen trên vây đuôi G. cauerensis rất khác nhau, và mẫu vật Hawaii lại tương đồng với mẫu vật từ quần đảo Ogasawara, ngoài khơi Úc và Fiji. Những đốm nhỏ màu xanh ở phần dưới của đầu và thân cũng khác nhau, những mẫu vật có sắc tố đậm hơn thường xuất hiện những đốm nhạt này.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở G. cauerensis là 6 cm. Loài này có màu trắng, thân trong mờ với 5–7 hàng đốm nhỏ và/hoặc các vạch có màu sắc khác nhau (cam sẫm, nâu, đỏ nâu đến đen nhạt). Cùng với đó là khoảng 6 vệt đốm mờ màu nâu cam đến nâu tía dọc thân. Vạch đen dọc phía trên mỗi mắt có thể nối với nhau qua giữa hai hốc mắt, và một vạch khá băng qua má bên dưới mắt. Một vệt sẫm màu nhỏ (thường là hình chữ W) phía trên gốc vây ngực, với một đốm nhỏ màu vàng ở giữa.
Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 10–11; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 10–12; Số tia vây ngực: 12–18; Số vảy đường bên: 24–30.
Sinh thái
G. cauerensis sống đơn độc hoặc hợp thành nhóm. Thức ăn của G. cauerensis là các loài thủy sinh không xương sống nhỏ, vụn hữu cơ và tảo.
Tham khảo
C
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá biển Đỏ
Cá Oman
Cá Yemen
Cá Tanzania
Cá Mozambique
Cá Nam Phi
Cá Seychelles
Cá Mauritius
Cá Réunion
Cá Maldives
Cá Thái Lan
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Nhật Bản
Cá New Guinea
Cá Vanuatu
Cá Fiji
Cá Hawaii
Động vật được mô tả năm 1853
|
19852376
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nanae%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Nanae, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kameda, phó tỉnh Oshima, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 27.686 và mật độ dân số là 130 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 216,8 km2.
Tham khảo
|
19852384
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20%C4%90%E1%BA%A3o%20Tr%C3%A1c
|
Tiểu Đảo Trác
|
Tiểu Đảo Trác (小島卓) có thể là:
Kojima Suguru (1939 - ), chính trị gia Nhật Bản
Kojima Takashi (1973 - ), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
|
19852385
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/An%20%C4%90%C3%B4ng%20Huy
|
An Đông Huy
|
An Đông Huy (安東輝) có thể là:
Ando Akira (1995 - ), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
Ando Hikaru (1991 - ), thành viên của The Ceuticalz
Ando Teru (1995 - ), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
|
19852386
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aish%C5%8D%2C%20Shiga
|
Aishō, Shiga
|
là thị trấn thuộc huyện Echi, tỉnh Shiga, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 20.893 người và mật độ dân số là 550 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 37,97 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Shiga
|
19852387
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90or%C4%91e%20Petrovi%C4%87
|
Đorđe Petrović
|
Đorđe Petrović (; sinh ngày 8 tháng 10 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Premier League Chelsea và đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia.
Sự nghiệp thi đấu
FK Čukarički
Petrović là thành viên của học viện FK Čukarički từ năm 2014, được đôn lên đội 1 vào năm 2019, sau khi được cho mượn tại FK IMT ở mùa giải 2018–19. Petrović có 78 lần ra sân cho Čukarički, cũng như 4 lần ra sân tại Cúp bóng đá Serbia và 4 lần ra sân tại UEFA Europa Conference League.
New England Revolution
Mùa giải 2022
Vào ngày 6 tháng 4 năm 2022, Petrović ký hợp đồng với câu lạc bộ New England Revolution tại Major League Soccer theo bản hợp đồng kéo dài 3 năm với mức phí không được tiết lộ.
Petrović giữ sạch lưới trận đầu tiên cho câu lạc bộ vào ngày 26 tháng 6 năm 2022, với 6 pha cứu thua trong trận hòa 0–0 trước Vancouver Whitecaps. Những nỗ lực của anh đã giúp anh lọt vào Đội hình Tiêu biểu của vòng 16 MLS. Trong tháng 8, Petrović đã giữ sạch lưới 4 trận, không để đối thủ ghi bàn trong tổng cộng 371 phút. Anh kết thúc mùa giải 2022 với việc được đề cử cho giải thưởng Tân binh xuất sắc nhất của MLS và Thủ môn xuất sắc nhất năm của MLS.
Mùa giải 2023
Petrović đã có một khởi đầu thuận lợi trong mùa giải 2023, trở thành cầu thủ nhanh nhất trong lịch sử MLS có 5 pha cản phá phạt đền vào ngày 29 tháng 4 năm 2023. Theo dữ liệu được cung cấp bởi Opta Sports, Petrović đã vượt trội hơn về bàn thắng kì vọng (xGOT) với 16,2 ghi được kể từ khi anh gia nhập giải đấu. Không có thủ môn nào khác ghi được xGOT vượt quá 5,5 trong khung thời gian đó.
Petrović có trận giữ sạch lưới thứ 6 vào ngày 3 tháng 6 trước New York City FC trên Sân vận động Yankee. Petrović phải đối mặt với 20 cú sút trong trận đấu. Trong trận đấu, Tom Bogert của tờ The Athletic đã báo cáo rằng Petrović đang được Manchester United F.C. và Đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia theo dõi. Vào ngày 27 tháng 6, anh có tên trong danh sách tham dự trận MLS All-Star Game 2023, dẫn đầu giải với 160 pha cứu thua kể từ khi ra mắt. Vào ngày 20 tháng 7, Extratime Radio của MLS đã vinh danh anh là thủ môn của năm trong bài đánh giá giữa mùa giải của họ.
Vào ngày 30 tháng 7 năm 2023, tờ The Athletic đưa tin rằng Revolution đã từ chối mức phí chuyển nhượng "khoảng 8 triệu đô la cộng với các tiện ích bổ sung" từ FC Nantes và Nottingham Forest F.C. đối với Petrović. Do thương vụ bị từ chối, Petrović ngồi ngoài và không thi đấu trong trận đấu gặp Atlas F.C. tại Leagues Cup vào ngày 3 tháng 8.
Chelsea
Petrović gia nhập Chelsea vào ngày 26 tháng 8 năm 2023, ký bản hợp đồng kéo dài 7 năm với tùy chọn gia hạn thêm một năm. Mặc dù mức phí không được tiết lộ chính thức nhưng nó được cho là có giá trị 12,5 triệu bảng, cộng thêm 1,5 triệu bảng cho các tiện ích bổ sung.
Vào ngày 10 tháng 12 năm 2023, Petrović có trận ra mắt Premier League, khi vào sân thay thế cho Robert Sánchez bị chấn thương trong trận thua 2-0 trước Everton trên sân vận động Goodison Park, để thủng lưới một bàn trong thời gian bù giờ. Vào ngày 16 tháng 12, anh có trận đá chính đầu tiên và giữ sạch lưới trong chiến thắng 2–0 trước Sheffield United. 3 ngày sau, anh cản phá một quả phạt đền của Matt Ritchie trong trận tứ kết Cúp EFL với Newcastle United, kết thúc với tỷ số 1–1 trong 90 phút và 4–2 trên loạt luân lưu.
Sự nghiệp quốc tế
Petrović được triệu tập lên đội tuyển U-21 Serbia vào năm 2020, ra sân 1 lần trong trận gặp Ba Lan vào ngày 9 tháng 10 năm 2020. Anh có trận ra mắt quốc tế cho Serbia vào ngày 25 tháng 1 năm 2021, đá chính trong trận hòa 0–0 với Cộng hòa Dominica.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Danh hiệu
Cá nhân
MLS All-Star: 2023
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1999
Nhân vật còn sống
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Serbia
Cầu thủ bóng đá nam Serbia ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C.
Cầu thủ bóng đá Major League Soccer
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá nước ngoài tại Hoa Kỳ
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Serbia
|
19852390
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Bang%20Sue%20MRT
|
Ga Bang Sue MRT
|
Ga Bang Sue MRT (, ; mã BL11) là một ga tàu điện Bangkok MRT trên Tuyến MRT Xanh Dương, nằm gần Ga nút giao Bang Sue, Băng Cốc. Nó kết nối với Tuyến SRT Đỏ Đậm và Tuyến SRT Đỏ Nhạt tại Ga trung tâm Krung Thep Aphiwat nằm ở tầng trên. Biểu tượng của nó là màu xanh dương.
Bang Sue là trạm cuối của Tuyến MRT Xanh Dương giữa năm 2004 và 2017.
Bố trí ga
Biểu tượng của nó là màu xanh dương Nó là nhà ga ngầm dài 226m và sâu 12m.
Trước tháng 8 năm 2017, ga Bang Sue chỉ có một sân ga. Hiện nay, phần mở rộng toàn bộ đến Ga Tha Phra đã đi vào hoạt động và hai ke ga được sử dụng tại đây.
Ke ga 1 dịch vụ đi đến Ga Lak Song thông qua Phahon Yothin và Hua Lamphong.
Ke ga 2 dịch vụ đi đến Ga Tha Phra thông qua Tao Poon.
Xe buýt kết nối
50 (Cầu Rama VII - công viên Lumphini)
52 (Pak Kret - Ga Bang Sue MRT)
65 (Chùa Nonthaburi Pak Nam - Sanam Luang)
67 (Ga SRT Wat Samian Nari - Central Plaza Rama III)
70 (Làng Pracha Niwet 3 - Sanam Luang)
97 (Bộ Y tế Công đồng - Priest Hospital) (BMTA Ordinary Bus / Private Jointed Bus / Thaismile Bus)
97 (Bộ Y tế Công đồng - Tượng đài Chiến thắng) (BMTA Air-Con Bus)
1-33 (Bang Khen - Ga Bang Sue MRT)
2-17 (112 Old) (Ga Bang Sue MRT - Nút giao Pracha Nukul - Đại học Kasetsart) (Tuyến vòng)
Địa danh xung quanh
Ga trung tâm Krung Thep Aphiwat
SCG
Tham khảo
Bang Sue
Bang Sue
Bang Sue
|
19852391
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Johann%20Friedrich%20I%2C%20Tuy%E1%BB%83n%20h%E1%BA%A7u%20x%E1%BB%A9%20Sachsen
|
Johann Friedrich I, Tuyển hầu xứ Sachsen
|
Johann Friedrich I (30 tháng 6 năm 1503 tại Torgau – 3 tháng 3 năm 1554 tại Weimar), có biệt hiệu là Friedrich Hào hùng (tiếng Đức: Friedrich der Großmütige), ông là con trai của Tuyển đế hầu Johann và gọi Tuyển đế hầu Friedrich III là bác ruột. Tuy cha của ông chỉ là con thứ của Tuyển đế hầu Ernst, người sáng lập ra dòng Ernestine (nhánh chính của Nhà Wettin), nhưng vì bác ruột của ông, Friedrich III qua đời mà không có con thừa tự nên ngai vàng Sachsen đã được thừa kế bởi cha ông và sau cái chết của cha vào năm 1532, ông trở thành vị Tuyển hầu xứ Sachsen thứ 4 của dòng Ernestine và cũng là tuyển đế hầu cuối cùng của dòng này.
Cha và bác của Johann Friedrich là những nhà cai trị ủng hộ Cải cách Tin Lành và hết lòng bảo vệ Martin Luther khỏi sự bức hại của những người Công giáo trong Đế chế La Mã Thần thánh và Lãnh địa Giáo hoàng. Đến khi ông tiếp nhận ngôi tuyển đế hầu Sachsen, các cuộc xung đột giữa phe Tin Lành và Công giáo lên đến đỉnh điểm, ông đã được bầu làm thủ lĩnh của Liên minh Schmalkaldic, lãnh đạo các thân vương Tin Lành đối đầu với phe Công giáo do Hoàng đế Karl V của Thánh chế La Mã lãnh đạo.
Trong Trận Mühlberg, ngày 24 tháng 4 năm 1547, quân của Johann Friedrich thất bại, bản thân ông bị một vết chém ở bên trái khuôn mặt, để lại một vết sẹo biến dạng từ hốc mắt dưới xuống má. Ông bị Karl V bắt làm tù binh và đày đi lưu đày ở Worms, trước đó ông bị khép vào tội chết, nhưng sau được giảm xuống tù chung thân. Tài sản, ngôi vị và lãnh thổ của Tuyển hầu xứ Sachsen đã được hoàng đế La Mã Thần thánh trao lại cho người em họ Moritz, người đứng đầu nhánh Albertine, dòng thứ của nhà Wettin, kể từ đó, dòng Ernestine mất ngôi tuyển đế hầu cho đến khi Đế chế La Mã Thần thánh tan rã vào năm 1806. Sau khi Moritz xung đột với hoàng đế Karl V, hoàng đế đã trả tự do cho Johann Friedrich và trao cho ông lãnh thổ và tước hiệu Công tước xứ Sachsen. Sau cái chết của ông, những người con trai đã phân chia lãnh thổ, đây chính là dấu mốc tạo ra cái mà lịch sử Đức gọi là Các công quốc Ernestine.
Chú thích
Tham khảo
A. Beck, Johann Friedrich der Mittlere, 2 vols., Weimar, 1858
F. von Bezold, Geschichte der deutschen Reformation. Berlin, 1886
Biography on WHKLMA site
A Prince's Response to the Augsburg Interim, translated by Nathaniel J. Biebert (Red Brick Parsonage, 2015).
|-
Tuyển hầu xứ Sachsen
Tuyển hầu thân vương tử Sachsen
Vương tộc Wettin
Sinh năm 1503
Mất năm 1554
Quân vương Tin Lành
|
19852393
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gia%20%C4%90%E1%BA%B1ng%20%C4%90%E1%BA%A1i
|
Gia Đằng Đại
|
Gia Đằng Đại (加藤大) có thể là:
Kato Dai (2002 - ), cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp người Nhật Bản
Kato Masaru (1991 - ), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
|
19852394
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1%20ki%E1%BB%87n%20%28thuy%E1%BA%BFt%20t%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%91%E1%BB%91i%29
|
Sự kiện (thuyết tương đối)
|
Trong thuyết tương đối, một sự kiện là bất cứ điều gì xảy ra tại một thời điểm và địa điểm cụ thể trong không-thời gian. Ví dụ, một cái ly vỡ trên sàn là một sự kiện; nó xảy ra tại một địa điểm duy nhất và một thời điểm duy nhất. Nói một cách chính xác, khái niệm về sự kiện là một sự lý tưởng hóa, với ý nghĩa rằng nó chỉ ra tại một thời điểm và địa điểm cụ thể, trong khi bất kỳ sự kiện thực tế nào cũng phải có một phạm vi hữu hạn, cả về thời gian và không gian.
Một sự kiện trong vũ trụ được gây ra bởi tập hợp các sự kiện trong quá khứ nhân quả của nó. Một sự kiện đóng góp vào sự xảy ra của các sự kiện trong tương lai nhân quả của nó.
Khi chọn một hệ quy chiếu, người ta có thể gán tọa độ cho sự kiện: ba tọa độ không gian để mô tả vị trí và một tọa độ thời gian để chỉ định thời điểm mà sự kiện xảy ra. Bốn tọa độ này cùng nhau tạo thành một vectơ-4 liên quan đến sự kiện.
Một trong những mục tiêu của thuyết tương đối là xác định khả năng một sự kiện ảnh hưởng đến sự kiện khác. Điều này được thực hiện thông qua tenxơ mêtric, cho phép xác định cấu trúc nhân quả của không-thời gian. Khoảng cách giữa hai sự kiện có thể được phân loại thành các khoảng cách kiểu không gian, kiểu ánh sáng và kiểu thời gian. Chỉ khi hai sự kiện được tách ra bởi một khoảng cách kiểu ánh sáng hoặc kiểu thời gian thì một sự kiện mới có thể ảnh hưởng đến sự kiện khác.
Nguyên lý bất định
Khái niệm về một sự kiện trong thuyết tương đối như một điểm trong không-thời gian không còn đúng khi xem xét nguyên lý bất định, quy định rằng có một kích thước tối thiểu hoặc độ chính xác cho các phép đo được thực hiện trong vũ trụ, và không thể có độ chính xác tùy ý trong các phép đo. Điều này có tác động thực tế, ví dụ, gần một lỗ đen. Ở mọi nơi trong không-thời gian, có các cặp hạt ảo (còn được gọi là không thể đo lường) và phản hạt xuất hiện tự phát và sau đó biến mất, do nguyên lý bất định. Ngay cạnh chân trời sự kiện của một lỗ đen, một trong các thành phần của cặp hạt ảo và phản hạt (hoặc hạt hoặc phản hạt) bị hút vào lỗ đen, để lại phần còn lại được phát ra vào không-thời gian; đây là nguồn gốc của bức xạ Hawking.
P. W. Bridgman cho rằng khái niệm sự kiện không đủ cho vật lý học thao tác trong cuốn sách của ông "The Logic of Modern Physics".
Xem thêm
Tính tương đối của sự đồng thời
Tham khảo
Thuyết tương đối
|
19852396
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20L%C3%A2m%20Long%20Th%E1%BB%A5
|
Tiểu Lâm Long Thụ
|
Tiểu Lâm Long Thụ (小林竜樹) có thể là:
Kobayashi Ryuju (1989 - ), diễn viên người nhật bản
Kobayashi Tatsuki (1985 - ), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
|
19852399
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20L%C3%A2m%20Du
|
Tiểu Lâm Du
|
Tiểu Lâm Du (小林悠) có thể là:
Kobayashi Haruka (1985 - ), cựu phát thanh viên truyền hình TBS
Kobayashi Yu (1987 - ), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
|
19852400
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jack%20Hinshelwood
|
Jack Hinshelwood
|
Jack Luca Hinshelwood (sinh ngày 11 tháng 4 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Brighton & Hove Albion tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Sự nghiệp thi đấu
Brighton & Hove Albion
Hinshelwood gia nhập học viện của câu lạc bộ Brighton & Hove Albion khi mới 7 tuổi và đã nỗ lực thăng tiến ở các cấp độ trẻ của họ. Anh ra mắt đội U-18 vào tháng 3 năm 2021 và bắt đầu nhận học bổng cho mùa giải tiếp theo ở tuổi 16. Vào ngày 14 tháng 4 năm 2023, anh ký bản hợp đồng chuyên nghiệp với câu lạc bộ cho đến năm 2026. Anh có trận ra mắt chuyên nghiệp cho Brighton & Hove Albion, khi vào sân thay thế cho Deniz Undav trong trận thua 2–1 trước Aston Villa trên sân vận động Villa Park vào ngày 28 tháng 5 năm 2023. Anh đá chính trận đầu tiên trong trận thua 6–1 trước Aston Villa vào ngày 30 tháng 9.
Vào ngày 6 tháng 12 năm 2023, Hinshelwood ghi bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp, trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Brentford.
Sự nghiệp quốc tế
Hinshelwood là cầu thủ trẻ quốc tế Anh, đại diện cho U-18 Anh vào năm 2023.
Vào ngày 6 tháng 9 năm 2023, Hinshelwood có trận ra mắt đội tuyển U-19 Anh trong trận thua 0-1 trước Đức ở Oliva.
Đời tư
Hinshelwood xuất thân trong một gia đình có truyền thống thể thao. Ông cố Wally Hinshelwood, ông nội Paul, cha Adam, chú Martin và Danny đều là những cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp.
Phong cách thi đấu
Hinshelwood là một tiền vệ trung tâm chơi bóng với nhận thức chiến thuật tuyệt vời. Anh cũng có thể chơi ở vị trí trung vệ, nhưng có tầm ảnh hưởng tốt nhất đến trận đấu thông qua khả năng phân phối bóng và tầm nhìn phù hợp nhất với vai trò tiền vệ của anh. Anh là một cầu thủ thuận cả 2 tay, hiểu biết tốt về trận đấu và yêu thích tiến về phía trước.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2005
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Brighton & Hove Albion F.C.
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
|
19852401
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20L%C3%A2m%20C%E1%BB%ADu%20Ho%E1%BA%A3ng
|
Tiểu Lâm Cửu Hoảng
|
Tiểu Lâm Cửu Hoảng (小林久晃) có thể là:
Kobayashi Hisaaki (1978 - ), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
Kobayashi Teruaki (1979 - ), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
|
19852402
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20L%C3%A2m%20Th%C3%A0nh
|
Tiểu Lâm Thành
|
Tiểu Lâm Thành (小林誠) có thể là:
Kobayashi Makoto (cầu thủ bóng đá) (sinh 1990), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
Kobayashi Makoto (nhà vật lý) (sinh 1944), nhà vật lý Nhật Bản, người đoạt giải Nobel Vật lý năm 2008
Kobayashi Sei, nhà khoa học y tế người Nhật Bản
|
19852403
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/KT%20Rolster
|
KT Rolster
|
kt Rolster là một tổ chức thể thao điện tử đa ngành của Hàn Quốc được thành lập vào năm 1999 với Korea Telecom là nhà tài trợ chính. Là thành viên của Hiệp hội thể thao điện tử Hàn Quốc, KT Rolster nắm giữ một trong những đội StarCraft giàu có và thành công nhất trên thế giới, đồng thời là một trong những đội Liên Minh Huyền Thoại thành công tại Hàn Quốc.
Liên Minh Huyền Thoại
Lịch sử
Vào tháng 10 năm 2012, kt Rolster đã bổ sung thêm hai đội Liên Minh Huyền Thoại với các thành viên từ đội NaJin Shield và đội StarTale vừa tan rã.
kt Rolster lọt vào tứ kết của Chung kết thế giới 2015, Chung kết thế giới 2018, và Chung kết thế giới 2023.
Đội hình hiện tại
Thành tích
kt Arrows
Vô địch HOT6iX Champions Summer 2014
kt Bullets
Huy chương vàng Đại hội Thể thao Trong nhà và Võ thuật châu Á 2013
Vô địch Intel Extreme Masters Season VIII World
kt Rolster
Tứ kết Chung kết thế giới 2015
Vô địch KeSPA Cup 2017
Vô địch LCK Mùa Hè 2018
Tứ kết Chung kết thế giới 2018
Tứ kết Chung kết thế giới 2023
Tham khảo
Tổ chức thể thao điện tử
Tổ chức thể thao điện tử Hàn Quốc
Đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại ở Hàn Quốc
Đội tuyển StarCraft ở Hàn Quốc
|
19852404
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99%20Bi%C3%AAn%20Ngh%E1%BB%8B
|
Độ Biên Nghị
|
Độ Biên Nghị (渡辺毅, 渡邊毅) có thể là:
Watanabe Takeshi (sinh 1972), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
Watanabe Tsuyoshi (giáo dục) (sinh 1959), học giả giáo dục người Nhật Bản
Watanabe Tsuyoshi (cán bộ) (sinh 1963), quan chức nông, lâm nghiệp và thủy sản Nhật Bản.
|
19852405
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Swifties
|
Swifties
|
Swifties là cộng đồng người hâm mộ của ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift. Đây là cộng đồng mà được nhiều nhà báo cho là một trong những lực lượng fan hâm mộ lớn nhất và nhiệt tình nhất thế giới. Swifties còn nổi tiếng nhờ vào hoạt động sôi nổi cùng nữ ca sĩ thần tượng, sáng tạo, giao lưu cộng đồng và độ cuồng tín rất cao, do đó họ thường hay được đưa tin rộng rãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Các nhà phê bình cho rằng Swift đã tái định nghĩa mối quan hệ giữa nghệ sĩ và cộng đồng người hâm mộ nhờ vào việc nữ ca sĩ luôn luôn gắn bó thân thiện với các Swifties. Swift đã thường xuyên tương tác, giúp đỡ, trao từ thiện, bày tỏ biết ơn và ưu tiên quyền lợi người hâm mộ của mình nhất. Đáp lại, người hâm mộ của cô luôn sẵn sàng bày tỏ ủng hộ mạnh mẽ và quan tâm đến toàn bộ sản phẩm ca hát của cô ở mức độ chưa từng có, mặc kệ mọi sự tranh cãi của cô trên truyền thông. Không chỉ thế, Swifties còn ủng hộ, bảo vệ và bênh vực thần tượng của mình trong quá trình chuyển đổi thể loại âm nhạc, thay đổi nghệ thuật bất thình lình. Họ đã giúp đỡ động viên Swift vượt qua những tranh cãi rộng rãi như vấn đề quyền sở hữu âm nhạc năm 2019, tạo động lực thúc đẩy chính trị sau vụ việc Ticketmaster dẫn đến nhiều luật pháp được ban hành, kèm theo kích thích tăng trưởng nền kinh tế bằng tác động của chuyến lưu diễn The Eras Tour. Vốn là một người lừng danh trong việc ẩn ý, Swift đã chèn các easter egg và manh mối vào quá trình hoạt động âm nhạc, quảng bá và thời trang của bản thân và đã thu hút Swifties tham gia giải mã và tìm tòi. Đây là kiểu văn hóa xây dựng thế giới nằm trong vũ trụ âm nhạc của nữ ca sĩ.
Swifties đã tác động đến ngành công nghiệp âm nhạc trên nhiều mặt khác nhau. Họ đã tự vẽ nên chỗ đứng cho riêng họ tại văn hóa đại chúng và được trao nhiều giải thưởng. Nhiều bài nghiên cứu phân tích về mặt văn hóa khác nhau đã cho rằng Swifties là cộng đồng được quan tâm, một tiểu văn hóa và cận metaverse. Các học giả đã nghiên cứu Swifties về chủ nghĩa tiêu dùng, sáng tạo nội dung, vốn xã hội, hiện tượng sôi nổi theo tập thể, năng suất tổ chức và quan hệ nhân sinh. Dẫu vậy, nhiều thành phần trong lực lượng fan hâm mộ đã bị chỉ trích vì xâm phạm đời tư của Swift, tụ tập vây quanh ở những nơi có mặt nữ ca sĩ, và bắt nạt trên mạng những người dùng Internet hay người nổi tiếng nào nói xấu Swift. Thuật ngữ Swiftie(s) đã được đưa vào Từ điển tiếng Anh Oxford vào năm 2023.
Lịch sử
Taylor Swift bắt đầu sáng tác, thu âm và phát hành nhạc đồng quê vào năm 2006. Trước thời điểm phát hành đĩa đơn đầu tay "Tim McGraw" (2006), Swift đã biết cách sử dụng trang mạng xã hội. Cô là một trong những ca sĩ hát nhạc đồng quê đầu tiên tận dụng Internet để làm công cụ tiếp thị âm nhạc và quảng bá bản thân (trên Myspace) và giao lưu kết nối với người yêu thích âm nhạc của cô được phát trên trạm phát thanh. Swift đã tạo tài khoản MySpace của cô vào ngày 31 tháng 8 năm 2005, một ngày trước khi tài khoản hãng đĩa sau này Big Machine Records của cô được tạo ra. Các bài hát của Swift trên MySpace đã thu hút hơn 45 triệu lượt nghe, khiến cho CEO hãng đĩa Scott Borchetta phải đi thuyết phục các đài phát thanh đồng quê "mang bản tính đa nghi" về đối tượng khán giả yêu thích bài hát của Swift.
Swift phát hành album phòng thu đầu tay cùng tên tuổi của bản thân tại Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2006. Nhạc phẩm đã bán được 40.000 bản trong tuần đầu, rồi trở thành một sleeper hit nhờ vào doanh số bán hàng ổn định qua thời gian, và chạm đến triệu bản vào tháng 11 năm 2007. Taylor Swift thu về lượt tiêu thụ cao nhất trong tuần vào tháng 1 năm 2008 với 187.000 bản. Sức thành công của nhạc phẩm sleeper hit đã khiến cho Swift nhanh chóng nổi tiếng trong và vượt ra ngoài bối cảnh làng nhạc đồng quê. Taylor Swift dành ra 24 tuần đứng đầu bảng xếp hạng Top Country Albums Hoa Kỳ và trở thành album trụ hạng lâu nhất thập kỷ 2000 tại bảng xếp hạng toàn thể loại Billboard 200. Album kế tiếp Fearless được Swift cho phát hành vào tháng 11 năm 2008 và trở thành album bán chạy nhất năm 2009. Đĩa nhạc gặt hái thành công vang dội trên thị trường quốc tế ngoài vùng văn hóa tiếng Anh, mà những nơi ấy thì thể loại nhạc đồng quê kiểu Mỹ lại không mấy phổ biến. Các đĩa đơn "Love Story" và "You Belong with Me" trở thành bài hát đồng quê thành công trên trạm phát thanh nhạc pop, đưa Swift trở nên nổi tiếng và mở rộng lượng khán giả của cô nhiều hơn nữa. Thành công đó đã tạo dựng được lượng người hâm mộ dành riêng cho Swift ở các thị trường nước ngoài như Vương quốc Anh, Ireland, Brasil và Đài Loan. Những album tiếp theo đầy tính thử nghiệm, pha trộn nhiều thể loại nhạc pop, rock, điện tử, folk và alternative của Swift đã góp phần mở rộng ranh giới người hâm mộ và làm đa dạng nhiều thành phần người nghe trong âm nhạc của cô.
Từ nguyên
Từ "Swiftie" dùng để chỉ fan hâm mộ của Swift đã trở nên nổi tiếng từ cuối thập niên 2000. Đây là từ ghép giữa tên Swift với hậu tố "ie" (hoặc đôi khi "y" trong "Swifty"), trong tiếng Anh thì những từ mang hậu tố này có chức năng tí hon hóa, thể hiện ý nghĩa yêu thương. Swift phỏng vấn với Vevo vào năm 2012 và bảo rằng câu chuyện fan của cô tự gọi chính họ là "Swifties" trông thật "đáng yêu". Swift đã đăng ký thuật ngữ này làm thương hiệu vào tháng 3 năm 2017. Năm 2023, Từ điển tiếng Anh Oxford đã xếp Swiftie thuộc từ loại danh từ và thuật ngữ này có nghĩa là "một người hâm mộ nhiệt tình của ca sĩ Taylor Swift." Cũng theo từ điển, những từ thường kết hợp với Swiftie thành cụm đi chung (Collocation) là "fandom", "die-hard", "hardcore" và "self-proclaimed". Theo trang Dictionary.com, thuật ngữ Swiftie thường có nghĩa là "một người hâm mộ rất cuồng nhiệt và trung thành, trái ngược với việc chỉ là một người nghe bình thường."
Mối quan hệ với thần tượng
Swift là một ca-nhạc sĩ luôn luôn giữ tương tác vui vẻ thân thiết với những người hâm mộ Swifties. Bên cạnh đó, nhiều nhà báo cho rằng Swifties là nguyên nhân dẫn đến ảnh hưởng về mặt văn hóa của nữ ca sĩ. Theo The Washington Post, Swift và Swifties chính là mối quan hệ "một nhóm chơi thân trong đó có một người là bạn đáng quý nhất". The New York Times cho biết, nữ ca sĩ đã "cách mạng hóa" (tức là thay đổi làm mới) mối quan hệ mà người nổi tiếng có thể có với những người hâm mộ. Nhiều người hâm mộ cảm thấy gắn bó với Swift là do họ "đã trưởng thành cùng cô ấy và âm nhạc của cô ấy." Lora Kelley bên The Atlantic bảo rằng, Swift là người "thấu hiểu sức mạnh của kinh nghiệm hoạt động cùng với nhóm người [ủng hộ cô ấy]." Đối với một nghệ sĩ tầm cỡ toàn cầu như Swift thì việc cô vẫn còn giữ thân thiết quan tâm với người hâm mộ được cho là chỉ có một trên đời. Swift luôn sẵn sàng tương tác với Swifties trên mạng xã hội, cho họ quà tặng, tự tay mời họ đến những buổi hòa nhạc thân mật hoặc họp mặt, bất ngờ ghé thăm, tham dự một số hoạt động kỷ niệm của Swifties (như đám cưới và tiệc của cô dâu trước khi lên xe hoa) và phát vé miễn phí cho các fan hâm mộ kém may mắn hoặc bị lâm bệnh nặng. Thói quen theo dõi hoạt động người hâm mộ trên mạng của Swift được Swifties gọi là "Taylurking".
Tháng 6 năm 2010, Swift đã tổ chức buổi họp mặt kéo dài 13 tiếng thuộc một phần của lễ hội CMA tổ chức tại Nashville, Tennessee. Năm 2014, 2017 và 2019, cô tổ chức các buổi tiệc nghe nhạc "Secret Sessions" trước khi phát hành album dành cho người hâm mộ tại nhà cô và một sự kiện giáng sinh năm 2014 được fan đặt tên là "Swiftmas". Khi đó, Swift đích thân gửi từng gói quà giáng sinh sớm cho người hâm mộ và tự tay trao cho một số người may mắn. Swift đã từng viết nhạc nhằm bày tỏ niềm yêu quý với người hâm mộ chẳng hạn như "Long Live" (2010) và "Ronan" (2012). "Ronan" là một bài hát từ thiện nói về con trai bốn tuổi của một người hâm mộ đã qua đời vì căn bệnh u nguyên bào thần kinh. Năm 2023, nữ ca sĩ đã mời 2.200 người hâm mộ trên thế giới đến thưởng thức miễn phí buổi công chiếu bộ phim hòa nhạc Những kỷ nguyên của Taylor Swift của cô. Zoya Raza-Sheikh viết cho The Independent đã phát biểu rằng Swift "vẫn đi đầu trong việc đem lại trải nghiệm người hâm mộ để tiếp tục gia tăng lực lượng người theo dõi. Dù cho đó là lời mời riêng đến nhà của ca sĩ để tham gia các bữa tiệc nghe album, còn gọi là Secret Sessions, hay các buổi họp mặt trước biểu diễn, cô ấy vẫn tiếp tục đặt người hâm mộ của mình lên hàng đầu."
Nhờ số lượng người hâm mộ đông đảo, Swift là một trong những người được theo dõi nhiều nhất trên mạng xã hội. Theo giám đốc điều hành bán vé Nathan Hubbard, Swift là nhạc sĩ đầu tiên "chỉ bán vé gần như trực tuyến." Nhà phê bình Brittany Spanos bên Rolling Stone cho rằng Swift đã phát triển cộng đồng người hâm mộ của mình trên mạng xã hội: "Cô ấy đã sử dụng Tumblr ngay từ thuở hoàng kim của nền tảng đó. Khỏi bàn đến Twitter và hiện nay, cô ấy đang sử dụng TikTok để bình luận video của mọi người." Một phần Swifties thống trị ở TikTok được gọi là "SwiftTok". Các biệt danh thường được Swifties sử dụng cho Swift gồm có "Blondie" (do mái tóc màu vàng của cô), "T-Swizzle" (nhờ lời bài hát trong ca khúc parody "Thug Story" năm 2009 của Swift cùng với nhà sản xuất thu âm Người Mỹ T-Pain) và "Cả ngành công nghiệp âm nhạc" (nhờ vào sức ảnh hưởng của cô đối với ngành công nghiệp âm nhạc). Các Swifties người Trung Quốc đã gọi cô là "Môi Môi" (霉霉, Meimei), cách chơi chữ của chữ Hán "Môi" (霉, Mei) có nghĩa là "kém may mắn" do phương tiện truyền thông Trung Quốc quen gọi như vậy.
Swift sẵn sàng quyên góp chi phí trang trải các khoản vay học tập, hóa đơn y tế, tiền thuê nhà hoặc các loại chi tiêu khác cho người hâm mộ. Năm 2018, cô đã mua một căn nhà cho một fan vô gia cư và đang mang thai. Nhờ vào khoản đóng góp to lớn của Swift cho người hâm mộ mắc bệnh bạch cầu trên GoFundMe vào năm 2015 mà nền tảng huy động vốn từ cộng đồng phải nới lỏng chính sách lại. Năm 2023, hàng nghìn Swifties đã chung tay đóng góp 125.000 đô la Mỹ thông qua GoFundMe nhằm trao tặng gia đình của một người bạn Swiftie bị một tài xế say rượu tông chết trên đường về nhà sau buổi hòa nhạc của Swift. Phần lớn số lượt quyên góp trong đó đều là 13 đô la Mỹ, và đó cũng chính là con số yêu thích của Swift.
Truyền thuyết và cộng đồng
Nhiều tay viết báo cho rằng sự phô trương ầm ỹ xoay quanh sự nghiệp âm nhạc và người nổi tiếng của Swift đã trở thành một thế giới tách biệt. Họ còn gọi đó là một chủ đề "vũ trụ" âm nhạc để các Swifties phân tích suy luận. Bởi Swift nổi tiếng là người tận dụng muôn hình vạn trạng trứng phục sinh (easter egg) và "thân thiết với fan của ấy tới mức bất thường", nên cô đã trở thành nguồn gốc của thần thoại trong văn hóa đại chúng. Trang phục, phụ kiện, cách phát âm, mã màu và các con số đã trở thành các easter egg để Swift đặt vào nhạc phẩm của cô. Cộng đồng Swifties cũng nổi tiếng nhờ việc tung giả thuyết fan, mổ xẻ từng chút và lồng ghép nhiều yếu tố mà họ cho rằng đó là dấu hiệu hay easter egg. Theo cây viết Bruce Arthur của tờ Toronto Star, "Swift được các fan theo dõi, và các fan lại là người tôn vinh dâng hiến bản chất thần thoại của cô ấy lên vị thế tầm cỡ nghệ thuật Đế quốc Đông La Mã (Byzantine), vừa phức tạp vừa hóc búa vừa tựa như Chúa Cứu thế."
Glamour và The Washington Post đã gọi truyền thuyết là Vũ trụ Điện ảnh Taylor Swift. Entertainment Weekly bảo rằng đó là Vũ trụ âm nhạc Taylor Swift, "một ngôi sao nhạc pop nổi tiếng cùng với tài năng đưa ra gợi ý phi thường, còn người hâm mộ [của cô ấy] thì biến mọi thông tin trở thành một cuộc khai quật khảo cổ trên mạng trực tuyến." Phía The Guardian, Adrian Horton cho rằng "Swiftverse" là một tiểu văn hóa của truyền thông được xây dựng nên nhờ "nhiều năm gầy dựng thế giới và củng cố truyền thuyết Swiftian", còn Alim Kheraj thì viết báo rằng Swift đã biến nhạc pop trở thành "một trò chơi giải đố nhiều người chơi" với sự tham gia của lực lượng fan hâm mộ, và đó cũng là chuyện mà nhiều nghệ sĩ khác cũng muốn có được và đã cố thực hiện.
Cây viết tạp chí Andrew Unterberger bên Spin cho rằng biểu tượng là "những yếu tố không thể tách rời trong trải nghiệm của Taylor Swift" và là chìa khóa để hiểu các tác phẩm ca nhạc của cô. Theo Caroline Mimbs Nyce bên The Atlantic, cộng đồng người hâm mộ của Swift là một cận metaverse, là "một cộng đồng ảo khổng lồ được tách ra từ một nền tảng duy nhất dựa trên thế giới xung quanh Taylor Swift, chỉ còn thiếu đúng không gian ảo 3D để tham gia nữa thôi." Ở góc nhìn của Yahr, Swift là người thích lồng ghép "manh mối, gợi ý và câu đố" vào tác phẩm, các bài đăng trên mạng xã hội và các cuộc phỏng vấn của cô. Bên cạnh đó, cô là người ưa chuộng trong việc xây dựng tượng đài huyền thoại về bản thân mà người hâm mộ tin rằng có thể ẩn chứa ý nghĩa nào đó bên trong và họ sẽ cố gắng giải mã. Ví dụ như ngày phát hành, tiêu đề bài hát hoặc album hoặc một yếu tố nghệ thuật nào đó. Madeline Merinuk của Today đã để ý những quả trứng phục sinh của Swift, lúc đầu chỉ đơn giản là những thông điệp ngắn ẩn trong bao bì đĩa CD phức tạp, qua nhiều thời gian thì đã trở nên sáng tạo và phức tạp hơn nhiều. Các phương tiện đã gọi những bài phân tích chuyên môn là "Swiftology". Đơn cử "chiếc khăn quàng cổ" trong lời bài hát "All Too Well" đã là một chủ đề thần thoại.
Swift cũng là một ca sĩ đi đầu trong việc chọn chủ đề ra mắt và quảng bá album, hay còn gọi là "những kỷ nguyên". Mỗi kỷ nguyên được đặc trưng theo gu thẩm mỹ, bảng màu, tâm trạng và phong cách thời trang. Swift còn là người luôn sẵn sàng thay mới hình tượng và phong cách của bản thân xuyên suốt sự nghiệp, khiến cho Ashley Lutz đảm nhận tạp chí Fortune phải công nhận rằng hành động đó đã giúp mở rộng nhiều đối tượng hâm mộ của cô. Biên tập viên cấp cao của Today tên Elena Nicolaou đã lên bài báo cho biết phần lớn Swifties đều thuộc thế hệ Millennials, và họ đã đưa văn hóa Swiftie vào các lễ cưới và những sự kiện khác của họ ở ngoài đời.
Đặc điểm xã hội học
Swifties được cho là một cộng đồng người hâm mộ trung thành với độ hoạt động sôi nổi cũng như sáng tạo cùng Swift rất cao. Những người hâm mộ cuồng nhiệt ở nước ngoài như Trung Quốc sẵn sàng dịch lời bài hát của Swift và tổ chức các sự kiện quy mô lớn liên quan đến nữ ca sĩ thần tượng. Hành động Swifties đón nhận nồng nhiệt album Reputation ra mắt sau vụ tranh cãi năm 2016 đã chứng tỏ một điều rằng: Không cần biết Swift đã thay đổi trong tông màu nghệ thuật cũng như công chúng nhận thức hình tượng của cô ra sao, họ vẫn giữ cam kết trung thành tuyệt đối với nữ ca sĩ thần tượng. Billboard đã viết rằng, việc các album tái thu âm thành công chưa từng có chính là bằng chứng rõ ràng hơn của lòng trung thành của các Swifties đối với Swift. Theo lời phát biểu của Willman, việc tái thu âm thành công đã lan truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ khác đi "vũ khí hóa người hâm mộ trong các tranh chấp kinh doanh của họ". Tác giả Amanda Petrusich cho rằng lòng trung thành của Swifties vừa "mạnh mẽ vừa đáng sợ". Cây viết phê bình từ trang The Guardian mang tên Rachel Aroesti cho hay, "Bạn không thể tranh cãi với lượng người hâm mộ của cô ấy được. Họ không những là những người cực kỳ cuồng tín mà lại còn đông đúc đến khó tin."
Nhiều nguồn xuất bản đã gọi hiện tượng chủ nghĩa tiêu dùng mua sắm hoặc tham gia bất cứ thứ gì liên quan tới Swift chính là "Hiệu ứng Taylor Swift". Theo các nhà khoa học kinh doanh Brendan Canavan và Claire McCamley, mối quan hệ giữa Swift và Swifties đại diện cho chủ nghĩa tiêu dùng hậu hiện đại. Nhà xã hội học Brian Donovan cho rằng, "Sự điên cuồng diễn ra xoay quanh Swift trong việc tôn thờ anh hùng đầy bất chấp mặc dù có thể dễ dàng cho qua một bên. Thật vậy, các Swifties đã cho thấy sức mạnh của cộng đồng người hâm mộ trong việc tạo ra các mối liên kết xã hội còn vươn ra xa khỏi chủ nghĩa tiêu thụ." Anh ca ngợi khả năng của Swift trong việc "tận dụng hiệu quả tư duy sưu tầm của cộng đồng người hâm mộ cô ấy". Arthur cho biết, "Dù mọi người thích nhìn nhận Swifties là một trường hợp cực đoan nhưng về hình thức hoạt động [của nhóm fan này] thì lại giống như [nhóm fan] trong thể thao."
Sự cuồng nhiệt của người hâm mộ Swift (gọi là "Swiftmania") được nhiều nhà báo đơn cử như Jon Bream của Star Tribune cho là tương đồng với Beatlemania phiên bản thế kỷ 21. Bream cho rằng "Swift đã đạt được một nền văn hóa độc canh không thể tưởng tượng được: một sự chuyển đổi của hệ chủ nghĩa tư tưởng thời đại Beatlemania". Các chương trình truyền hình và loạt phim nào mà có sự tham gia của Swift thường đạt được lượng người xem cao nhất là nhờ Swifties. Ngoài những nghệ sĩ âm nhạc coi Swift là người có ảnh hưởng, chẳng hạn như Olivia Rodrigo, Halsey và Camila Cabello, nhiều ngôi sao khác cùng tự nhận bản thân là Swifties.
Tác động đối với ngành công nghiệp
Swifties là nhân tố hàng đầu trong việc thành công thương mại của Swift, nhờ vào sự ủng hộ rộng rãi của họ dành cho cô. Swift còn nổi tiếng là nghệ sĩ có doanh số tiêu thụ đĩa CD và đĩa than cao ngất ngưỡng bất chấp bối cảnh làng nhạc thế kỷ 21 đã đa phần chuyển đổi sang công nghiệp kỹ thuật số. Từ 2014 đến 2015, Swift đã đấu tranh với các ông lớn dịch vụ phát nhạc trực tuyến Spotify và Apple Music nhằm thay đổi luật để bảo vệ tính toàn vẹn nghệ thuật dành cho nghệ sĩ âm nhạc. Cô đích thân tuyên bố album nhạc pop đầu tiên của cô 1989 sẽ không được đưa lên Spotify nhằm phản đối chính sách trả công "nhỏ giọt" của nền tảng dành cho nhạc sĩ. Một số nhà báo chẳng hạn như Nilay Patel bên Vox đã chỉ trích quan điểm của Swift khi cho rằng Internet đã giết chết định dạng album và nhiều người hâm mộ sẽ chẳng còn muốn đi mua đĩa CD của Swift nữa. Nhiều gương mặt trong ngành cảm thấy rằng việc Swift dứt áo rời khỏi làng nhạc đồng quê và nền tảng phát trực tuyến sẽ gây ảnh hưởng đến doanh số bán album của cô. Đến cả các tờ báo còn dự đoán 1989 sẽ không thể bán được hơn triệu bản tuần đầu tương tự như các album Speak Now (2010) và Red (2012) trước đó của cô. Tuy nhiên, album 1989 của Swift vẫn đạt được thành công chưa từng có bất chấp thiếu đi phát trực tuyến, là nhờ được fan mua sắm CD từ Target và tiêu thụ được 1,28 triệu bản trong tuần đầu. Trong thập niên 2020, Swifties cũng được ghi nhận là một trong nguyên nhân dẫn đến sự hồi sinh của đĩa nhạc vinyl. Các phiên bản LP album của Swift được lên kệ độc quyền tại những doanh nghiệp nhỏ, góp phần tạo doanh thu cho họ.
Người hâm mộ của Swift còn giúp gia tăng độ lan tỏa cuộc tranh chấp bản thu hoàn chỉnh năm 2019 của cô với Big Machine và doanh nhân người Mỹ Scooter Braun, đồng thời họ còn giúp Swift đạt được thành công sau nhiều nỗ lực tái thu âm. Một bản kiến nghị trực tuyến do một người hâm mộ đưa ra trên trang web Change.org, trong đó yêu cầu Braun và Borchetta "ngừng bắt giữ nghệ thuật của Swift làm con tin", đã thu hút 35.000 lượt ủng hộ ký tên trong vòng ba tiếng đầu tiên. Giám đốc điều hành Michael Jones của Change.org đã cho rằng cuộc vận động là "một trong những kiến nghị bùng nổ nhất trên nền tảng trong tháng này". Tuy nhiên, Braun tuyên bố rằng Swift đã "vũ khí hóa" người hâm mộ của mình bằng cách công khai tranh chấp. Swifties cũng giúp phát hiện ra Tập đoàn Carlyle (đối tác làm ăn của Braun) đã cung cấp vũ khí cho nội chiến tại Yemen, và được chính các tờ báo như The New York Times đưa tin xác nhận.
Các hoạt động của Swift, gồm âm nhạc lẫn các chuyến lưu diễn hòa nhạc như The Eras Tour, đã gây tác động đến nền kinh tế. Nguyên nhân được đưa ra là do Swifties làm nhu cầu đi du lịch, thuê nhà ở, mua sắm mỹ phẩm, thời trang và đồ ăn gia tăng "đột biến" giúp thúc đẩy mạnh mẽ doanh thu du lịch tại các thành phố lên cao ngất ngưỡng. Los Angeles Times phát biểu rằng Swifties là một mô hình kinh tế vi mô. Tháng 11 năm 2022, câu chuyện quản lý đợt bán vé trước The Eras Tour đầy yếu kém của Ticketmaster đã vấp phải chỉ trích và giám sát rộng rãi của công chúng và chính trị. Do nhu cầu của fan "cao đến mức ra tới ngoài vũ trụ" nên trang web Ticketmaster đã bị sập mà vẫn bán được 2,4 triệu vé, khiến Swift phá kỷ lục trở thành nghệ sĩ có số lượng vé hòa nhạc bán ra nhiều nhất trong một ngày. Ticketmaster lên tiếng cho rằng vụ sập web là do lưu lượng truy cập internet "chưa từng có trong lịch sử". Người hâm mộ và các nhóm tổ chức người tiêu dùng đã cáo buộc Ticketmaster lừa dối và độc quyền. Sức phẫn nộ của người hâm mộ đã khiến cho một số thành viên Quốc hội Hoa Kỳ tuyên bố rằng việc sáp nhập của Ticketmaster và công ty mẹ Live Nation Entertainment đã dẫn đến dịch vụ không đạt tiêu chuẩn và đẩy giá vé cao. Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã tổ chức điều tra bên phía Live Nation–Ticketmaster, trong khi một số người hâm mộ đã đâm đơn kiện các công ty về tội cố ý lừa dối, gian lận, ấn định giá và vi phạm luật chống độc quyền. Dưới sức ép của tổng thống Mỹ Joe Biden, Ticketmaster và các công ty bán vé khác đã đồng ý chấm dứt phí rác (junk fees), tức là các khoản phí bổ sung được tiết lộ khi kết thúc quá trình mua vé. Entertainment Weekly và The A.V. Club đề xuất "Swifties vs. Ticketmaster" là một trong những tin tức văn hóa lớn nhất năm 2022. Nhà báo CNN Allison Morrow đã viết trong một bài báo có tựa đề "One Nation, Under Swift" rằng người hâm mộ đoàn kết các bên chống lại Ticketmaster theo cách mà "Nhóm lập quốc đã không lường trước được".
Sau khi chứng kiến xu hướng bữa tiệc khiêu vũ theo chủ đề Swift trên thế giới càng ngày càng tăng, các nhà bình luận trong ngành nhận thấy rằng vị thế văn hóa của Swift đã trở thành yếu tố quan trọng trong bối cảnh âm nhạc thế kỷ 21, giúp cho các hộp đêm thu lợi nhuận từ cô bằng cách tổ chức các sự kiện chuyên biệt dành cho người hâm mộ. Điển hình là một bữa tiệc có tên gọi "Swiftogeddon", khởi điểm chỉ là một sự kiện Swiftie chỉ diễn ra một lần tại Luân Đôn mà giờ đã phát triển thành chuyến tham quan câu lạc bộ ban đêm trên toàn nước Anh cháy sạch vé vào mỗi cuối tuần. Các chương trình truyền hình thực tế Mỹ như Dancing with the Stars và The Voice đã tổ chức các đêm đặc biệt theo chủ đề Swift vào năm 2023. Xu hướng của cộng đồng Swifties cũng đã truyền cảm hứng cho nhiều thương hiệu khác nhau. The A.V. Club tuyên bố rằng "thông thường, các ngôi sao nhạc pop là sản phẩm và fandom là người tiêu dùng", nhưng mà Swifties là sản phẩm của chính họ. Ví dụ, cụm từ "seemingly ranch" đã nên phổ biến sau khi một tài khoản hâm mộ trên Twitter sử dụng để viết mô tả hình chụp đồ ăn nhanh của Swift tại trận đấu Giải Bóng bầu dục Quốc gia (NFL), kéo theo đó là một loạt các meme và khiến cho các công ty đồ ăn như Heinz, McDonald's, KFC, Hidden Valley và Primal Kitchen phải bắt chước áp dụng lên sản phẩm và quá trình tiếp thị của họ.
Nhân khẩu học
Theo một cuộc khảo sát năm 2023 của Morning Consult tại Hoa Kỳ, 53% người trưởng thành tự nhận mình là fan của Swift, trong đó hết 44% cho rằng bản thân là Swifties và 16% là fan "cuồng nhiệt" của cô. Trong số những người hâm mộ thì nữ chiếm 52% và nam chiếm 48%. Về mặt chủng tộc, 74% người hâm mộ là người da trắng, 13% là người da đen, 9% là người gốc Á, và 4% là thuộc chủng tộc khác. Ở chính trị, xấp xỉ khoảng 55% người hâm mộ Swift ở Mỹ là đảng viên Đảng Dân chủ, 23% là đảng viên Đảng Cộng hòa và 23% là người bỏ phiếu độc lập. Về mặt thế hệ, 45% thuộc thế hệ Millenials, 23% thuộc thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh, 21% thuộc thế hệ X và 11% thuộc thế hệ Z. Các nhà báo cũng từng ghi nhận sự gia tăng lượng người hâm mộ của Swift thuộc thế hệ X và thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh, được gọi là "các Swifties thâm niên".
Vai trò chính trị
Brooke Schultz bên Associated Press tuyên bố Swifties là nhóm cử tri có sức ảnh hưởng lớn trong nền chính trị Hoa Kỳ khi cho rằng "sức mạnh và quy mô tuyệt đối của cộng đồng người hâm mộ cô Swift đã dấy lên những cuộc bàn tán xôn xao về bất bình đẳng kinh tế, dường như hoàn toàn là tượng trưng cho vụ việc Ticketmaster". Theo cuộc khảo sát của The Times vào năm 2023, 53% người Mỹ trưởng thành tự nhận mình là "fan" của Swift, một con số tỷ lệ mà nhà báo Ellie Austin cho rằng đến cả Biden lẫn Trump "cũng phải nằm mơ mới có được". Austin giải thích rằng mặc dù bản thân Swift đi theo cánh tả nhưng một số người bảo thủ vẫn "thèm muốn" cô, khiến nữ ca sĩ trở thành nhân tố quyết định trong nền chính trị Hoa Kỳ. Tháng 5 năm 2023, Texas đã thông qua dự luật có tiêu đề "Save Our Swifties" nhằm cấm sử dụng bot để mua vé số lượng lớn. Các dự luật tương tự đã được đưa ra ở nhiều tiểu bang khác nhau của Hoa Kỳ và Quốc hội Hoa Kỳ. Trên phương diện quốc tế, các ứng cử viên tổng thống như Gabriel Boric ở Chile và Leni Robredo ở Philippines đã kêu gọi hoặc quảng bá bản thân với Swifties trong các chiến dịch bầu cử tương ứng của họ.
Giải thưởng và đề cử
Chỉ trích
Swifties đã vấp phải chỉ trích vì một số hành vi nhất định. Nhiều nhà báo đã lên án một số hành động ngoài đời mà Swifties dành cho Swift gồm có xâm phạm đời tư thần tượng quá mức. Người hâm mộ cũng hay bao vây tại nhiều địa điểm công cộng nơi thần tượng xuất hiện. Chính Swift đã lên tiếng về vấn đề thiếu sự riêng tư nhiều lần. Trong bộ phim tài liệu Miss Americana, lúc Swift rời khỏi căn hộ Tribeca đầy fan và phóng viên bao vây ngoài cửa thì cô bảo cô "cực kỳ hiểu được sự thật rằng điều đó là không bình thường chút nào." Một số Swifties cũng bị chỉ trích vì những hành vi tấn công, quấy rối, đưa những lời dọa giết và doxing những ngôi sao, nhà báo hay người dùng Internet bắt nguồn từ nhiều lý do, chủ yếu là do những người vừa kể buông lời không hay về Swift. Sau cuộc tranh chấp quyền sở hữu tác phẩm, Braun tuyên bố rằng anh đã nhận được những lời dọa giết từ Swifties. Vice gọi fandom là một "cộng đồng tuy chào đón bình đẳng nhưng vẫn là một cộng đồng khép kín và bị giam giữ vào nỗi đau của văn hóa người nổi tiếng vừa phi thực tế vừa ám ảnh".
Gaylor
Gaylor là một thuyết âm mưu cho rằng Swift là một người đồng tính kín. Một nhóm nhỏ Swifties tự gọi mình là "Gaylor" đã ủng hộ và quảng bá tin đồn này khi bảo rằng Swift đang thả "dấu hiệu" cho thấy cô thuộc giới tính thứ ba thông qua âm nhạc, lối sống. Trong khi đó, nữ ca sĩ lên tiếng bảo rằng cô không phải là người thuộc cộng đồng LGBT mà cô là đồng minh của LGBT. Các Gaylor đặc biệt tập trung đẩy thuyền Swift với Karlie Kloss, Dianna Agron hoặc cả hai người, cho rằng Swift đã từng hẹn hò với họ trong quá khứ và chỉ trích nữ ca sĩ thần tượng vì queerbaiting nếu như cô lên tiếng mình không đồng tính. Đa số Swifties cũng chỉ trích thuyết âm mưu Gaylor vì quá lố, độc hại và thiếu tôn trọng Swift. Các nhà báo cũng bác bỏ vì thuyết âm mưu đã xâm phạm đời tư người khác và vô căn cứ. Các Gaylor đã lên tiếng rằng thông qua một số bài hát của Swift thì họ đã xác nhận nữ ca sĩ yêu phụ nữ và có quan hệ tình cảm với các nữ diễn viên Emma Stone và Cara Delevigne. Họ khẳng định rằng bài hát năm 2023 của Swift "When Emma Falls in Love" là lời thú nhận tình cảm giữa cô với Stone mặc dù Swift và Stone chỉ gọi nhau là bạn thân trên các phương tiện truyền thông. Tuy nhiên, phần lớn Swifties đã thực sự xem cuộc tình trong quá khứ giữa Stone và diễn viên Andrew Garfield mới chính là nguồn cảm hứng cho bài hát. Trong phần mở đầu của album 1989 (Taylor's Version), Swift khẳng định rằng tình bạn với các đồng nghiệp nữ của cô đã bị tình dục hóa theo cách tương tự như truyền thông lá cải đồn đoán đưa tin rộng rãi giữa Swift với đồng nghiệp nam. Một bài báo mang tựa đề "Look What We Make Taylor Swift Do" vào tháng 1 năm 2024 trên The New York Times do Anna Marks biên tập đã suy đoán Swift là một người đồng tính kín hoàn toàn dựa trên cách nhìn nhận lời bài hát và gu thẩm mỹ của Swift của Marks. Bài báo này đã vấp phải những chỉ trích từ Swifties và những độc giả khác. CNN Business đưa tin rằng những người quản lý của Swift cảm thấy bài báo "xâm phạm đời tư, không đúng sự thật và không phù hợp". Các Gaylor thậm chí còn cho rằng Swifties bày tỏ kỳ thị đồng tính với họ.
Nghiên cứu học thuật
Swifties là chủ đề được báo chí và giới hàn lâm quan tâm. Họ tập trung nghiên cứu Swifties về vốn xã hội, đặc điểm tiêu dùng và quan hệ nhân sinh. Theo các nhà nghiên cứu Cristina López và Avneesh Chandra về văn hóa Internet, "hoạt động sáng tạo nội dung phong phú, hiểu biết về kỹ thuật số, năng suất tổ chức và đôi khi là những hành vi xấu xa trên mạng [của các Swifties]" cũng là đối tượng đáng để nghiên cứu. Donovan phân biệt "những người hâm mộ Taylor Swift" với Swifties, cho rằng Swifties là một tiểu văn hóa đặc trưng nhờ vào hiện tượng sôi nổi theo tập thể, không giống như những cộng đồng người hâm mộ khác. Một số nhà ngôn ngữ học gọi ngôn ngữ dựa trên lời bài hát và do người hâm mộ mã hóa của Swifties là "fanilect". López và Chandra đã xuất bản một bản đồ mạng lưới vào năm 2023 và chia Swifties thành sáu phe phái riêng biệt dựa trên các tương tác trực tuyến và chủ đề thảo luận. Nhiều trường đại học đã từng tổ chức các câu lạc bộ hâm mộ nhằm tôn vinh Swift.
Tham khảo
Taylor Swift
Cộng đồng người hâm mộ âm nhạc
|
19852407
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Samrong
|
Ga Samrong
|
Ga Samrong (, ) là một ga trên Tuyến Sukhumvit thuộc BTS Skytrain, và MRT Tuyến Vàng, ở Samut Prakan, Thái Lan.
Vận hành thử BTS bắt đầu vào tháng 3 năm 2017, nhà ga chính thức được khánh thành bởi Thủ tướng Prayut Chan-o-cha vào ngày 3 tháng 4 năm 2017, hành khách có thể sử dụng miễn phí dịch vụ trong vòng một tháng từ ngày 4 tháng 4 năm 2017. Nó là ga cuối phía Đông của tuyến, cho đến khi mở cửa thêm nhà ga trên Tuyến Sukhumvit mở rộng (phía Đông) vào ngày 6 tháng 12 năm 2018. Nó là một trong bốn nhà ga BTS có đảo ga, cùng với Ga Siam, Ha Yaek Lat Phrao và Wat Phra Sri Mahathat. Một số chuyến tàu sẽ dừng ở đây vào giờ cao điểm.
Vận hành thử Tuyến Vàng mở vào ngày 3 tháng 6 năm 2023 giữa Ga Samrong và Hua Mak vận hành toàn tuyến đến Lat Phrao vào ngày 19 tháng 6 năm 2023.
Hình ảnh
Tham khảo
Xem thêm
Bangkok Skytrain
Samrong
Samrong
|
19852409
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Konstantin%20Rodzaevsky
|
Konstantin Rodzaevsky
|
Konstantin Vladimirovich Rodzaevsky (; – 30 Tháng 8 1946) là lãnh đạo của Đảng Phát Xít Nga, được làm ra khi ông đang lưu vong ở Mãn Châu, Rodzaevsky cũng là tổng biên tập của Nash Put'. Sau khi quân Bạch Vệ ở Nội chiến Nga thất bại, Rodzaevsky và những người theo ông đi đến lưu vong ở Mãn Châu vào năm 1925. Ông đã bị NKVD dụ dỗ quay trở lại Liên Xô và bị tử hình.
Đầu đời
Konstantin Vladimirovich Rodzaevsky được sinh ra ở một thị trấn nhỏ ở thành phố Blagoveshchensk, trung tâm hành chính của tỉnh Amur vào ngày 11 tháng 8 năm 1907, Gia đình của Konstantin thuộc vào tầng lớp trung lưu. Ông Vladimir Ivanovich, bố của Konstantin là một quý ông làm công chứng viên có bằng luật. Mẹ của ông, Nadezhda Mikhailovna xuất thân từ một gia đình Blagoveshchensk cũ và nuôi dậy Konstantin cùng với em trai, Vladimir, và hai chị gái, Nadezhda và Nina, Konstantin đã có lúc trở thành thành viên của
Komsomol trong thời niên thiếu.
Trở thành lãnh đạo đảng Phát Xít Nga
Rodzaevsky chạy trốn khỏi Liên Xô và đến Mãn Châu vào năm 1925. Ở Harbin, Ông đã vào học viện luật pháp và gia nhập Tổ chức Phát Xít Nga, Vào ngày 26 tháng 5, 1931 Ông trở thành Tổng Thư Ký của Đảng Phát Xít Nga mới được thành lập; Vào năm 1934, Đảng Phát Xít Nga hợp nhất với Tổ chức Phát Xít Nga của Anastasy Vonsyatsky, Rodzaevsky trở thành lãnh đạo của Đảng.
Mãn Châu Quốc
Rodzaevsky có khoảng 12 nghìn người theo mình dưới thời Mãn Châu Quốc. Trong lễ kỷ niệm 2.600 năm thành lập Đế quốc Nhật Bản, Rodzaevsky, với một nhóm người được chọn, bày tỏ lòng kính trọng đối với Thiên hoàng Hirohito tại lễ kỷ niệm chính thức trong khu vực.
Đảng Phát Xít đã đặt một chữ vạn lớn được chiếu sáng tại chi nhánh của họ ở Mãn Châu Lý, cách biên giới Liên Xô ít nhất 3 km. Nó được giữ cả ngày lẫn đêm để thể hiện quyền lực chống lại chính phủ Liên Xô.
Chiến tranh thế giới thứ 2 và tử hình
Tham khảo
Sinh năm 1907
Mất năm 1946
|
19852414
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C5%8Dra%2C%20Shiga
|
Kōra, Shiga
|
là thị trấn thuộc huyện Inukami, tỉnh Shiga, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 6.362 người và mật độ dân số là 470 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 13,63 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Shiga
|
19852418
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hanwha%20Life%20Esports
|
Hanwha Life Esports
|
Hanwha Life Esports (HLE) là một tổ chức thể thao điện tử Hàn Quốc có trụ sở tại Seoul thuộc sở hữu của Hanwha Life Insurance. Đội thi đấu bộ môn Liên Minh Huyền Thoại và Kart Rider, và đang thi đấu tại LCK, giải đấu chuyên nghiệp cấp cao nhất của Hàn Quốc dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại.
Vào giữa năm 2018, HLE đã mua lại đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại và suất LCK của Tigers. Tại Chung kết thế giới 2015, HLE (với tư cách là KOO Tigers) đứng thứ hai bảng đấu trong vòng bảng, trước khi đánh bại KT Rolster và Fnatic lần lượt ở tứ kết và bán kết. Đội kết thúc với vị trí á quân sau khi đối mặt với SK Telecom T1 trong trận chung kết ở Berlin, Đức.
HLE (với tư cách là ROX Tigers) đã giành được danh hiệu LCK đầu tiên sau khi giành quyền vào vòng play-off giải LCK Mùa hè 2016. Tại Chung kết thế giới 2016, đội đã về đích ở vị trí thứ ba sau khi để thua SK Telecom T1 ở bán kết với tỉ số 2-3, mặc dù đã dẫn trước 2-1 trong loạt Bo5.
Lịch sử
Giai đoạn Tigers
2014
Tigers là một đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại có trụ sở tại Hàn Quốc, được thành lập vào tháng 11 năm 2014 do công ty YY của Trung Quốc tài trợ. Danh sách ban đầu, được công bố dưới cái tên HUYA Tigers, bao gồm các thành viên cũ của NaJin Sword, NaJin Shield, và Incredible 1: Smeb (Top), Lee (Jungle), KurO (Mid), PraY (AD Carry) và GorillA (Hỗ trợ) bao gồm đội hình ban đầu, với NoFe là huấn luyện viên. Ngay sau khi thành lập, đội đã đủ điều kiện tham dự vòng loại League of Legends Champions Korea (LCK) Mùa Xuân, lần đầu tiên trong vòng bảng trên Team Avalanche. Họ đã chiến thắng 2-1 trong trận chung kết và đã thành công trong việc giành chức vô địch SBENU Mùa Xuân năm 2015. Trong mùa giải tiếp theo, HUYA Tigers đã giành vị trí thứ ba với KT Rolster, với 7 điểm. Họ đổi tên thành GE Tigers vào đầu Mùa Xuân.
2015
GE Tigers bắt đầu là đội hàng đầu tại Hàn Quốc trong mùa giải đầu tiên của họ tại LCK, ở vị trí đầu tiên với tỷ số trận đấu 7-0 và trận đấu 14-2 vào cuối tuần 6 của Mùa Xuân. Vị trí này đã thu hút họ được mời đến Intel Extreme Masters Season IX hồi tháng 3.
Tại giải vô địch thế giới, Koo Tigers đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng với tỷ số 4-2 và tiến đến vòng bảng. Họ đánh bại KT Rolster 3-1 trong trận tứ kết. Vào ngày 24 tháng 10 năm 2015, họ đã thực hiện cú quét sạch 3-0 trước Fnatic ở bán kết, nhưng chỉ dừng lại ở vị trí á quân sau khi để thua trước SKT 3-1 ở chung kết.
KooTV đã ngừng tài trợ cho đội vào tháng 11, và đổi tên thành chỉ là Tigers. Vào tháng 1 năm 2016, đội một lần nữa đổi tên, lần này là ROX Tigers.
2016
Ở LCK Mùa Xuân 2016, ROX Tigers kết thúc vòng bảng ở vị trí thứ nhất, và gặp SKT T1 trong trận chung kết. ROX Tigers gây ấn tượng với thế giới bằng sự thống trị của họ ở Hàn Quốc và lối chơi gần như hoàn hảo trong vòng bảng. Không may, một lần nữa bản lĩnh của nhà vô địch thế được thể hiện, SKT T1 chiến thắng ROX Tigers với tỉ 3-1, ROX Tigers kết thúc LCK Mùa Xuân ở vị trí thứ 2.
Mùa Hè 2016, những chú hổ lại một lần nữa nắm thế độc tôn ở vòng bảng, cùng với việc đại kình địch SKT thất bại đầy bất ngờ trước KT, ROX Tigers dễ dàng trừng phạt những sai lầm của đối thủ, nhất là cú trừng phạt còn 2 máu của người đi rừng phía KT là Score để có chức vô địch LCK đầu tiên của mình.
Đến Chung kết thế giới 2016 với tư cách hạt giống số 1 Hàn Quốc, ROX Tigers băng băng tiến vào bán kết. Duyên số lại đẩy họ gặp SKT, một lần nữa, những chú hổ lại dừng bước trước SKT với tỉ số 2-3 đầy tiếc nuối.
Cuối mùa giải 2016, toàn bộ đội hình của họ giải tán khiến người hâm mộ vô cùng tiếc nuối cho một đội tuyển tài năng và gắn bó với nhau.
2017
Ngày 22 tháng 12 năm 2016, ROX Tigers đã công bố đội hình mới cho mùa giải 2017 bao gồm: Đường Trên: "Shy" Sang Myun Park, "Lindarang" Man Heung Heo.Đi rừng: "Seonghwan" Seong Hwan Yoon, Đường giữa: "Mickey" Young Min Son, Xạ thủ: "Sangyoon" Sang Yoon Kwon, Hỗ trợ: "Key" Han Ki Kim. Với những thành viên nổi bật như Shy, Mickey hay hỗ trợ đầy tiềm năng của ESC Ever mùa trước – Key. ROX Tigers 2017 hứa hẹn sẽ là một đội tuyển đáng gờm tại LCK. Tuy nhiên, khi LCK Mùa Hè 2017 kết thúc, ROX Tigers chỉ có được vị trí thứ 7 với hiệu số thắng-thua là 6-12.
Khi LCK Mùa Hè khởi tranh, ROX Tigers không có nhiều thay đổi trong đội hình và vì vậy, họ cũng kết thúc giải với vị trí thứ 7 với hiệu số thắng-thua cũng là 6-12.
Giai đoạn HLE
2018
Giữa năm 2018, Hanwha Life Insurance mua lại đội Liên Minh Huyền Thoại và suất thi đấu LCK của ROX Tigers. Đội sau đó được đổi tên thành Hanwha Life Esports (HLE). Họ hoàn thành giải Mùa Hè ở vị trí thứ 6 và do đó không đủ điều kiện để tiến đến vòng play-off.
Đội hình hiện tại
Tham khảo
Chú thích
Các đội thể thao điện tử có trụ sở tại Hàn Quốc
Đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại Hàn Quốc
|
19852421
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Delulu
|
Delulu
|
Delulu là một từ lóng trên mạng dùng để mô tả niềm tin rằng một người có thể tác động đến vận mệnh của chính mình thông qua sức mạnh ý chí tuyệt đối. Được viết chế tác từ từ "delusional" trong tiếng Anh, thuật ngữ này có nguồn gốc từ các cộng đồng K-pop, trong đó thuật ngữ "delulu" được sử dụng để chỉ những cá nhân có mối quan hệ cận xã hội với những người nổi tiếng và hy vọng một ngày nào đó sẽ được gặp họ. Thuật ngữ này sau đó đã được Gen Z và Gen Alpha sử dụng, trở nên phổ biến thông qua các xu hướng được lan truyền trên TikTok, ví dụ như câu nói hài hước "Delulu is the solulu", tạm dịch là "Hoang tưởng chính là cách giải quyết vấn đề của bạn".
Nguồn gốc
Bắt nguồn từ từ "delusional" trong tiếng Anh, thuật ngữ "Delulu" có nguồn gốc từ một cộng đồng mạng bị ảnh hưởng bởi văn hóa K-pop, chẳng hạn như diễn đàn OneHallyu hoạt động khoảng năm 2013 và 2014. Những diễn đàn này nổi tiếng về tính độc hại và thuật ngữ "Delulu" thường được sử dụng với thái độ xúc phạm. Được sử dụng như một tính từ hoặc một danh từ, nó dùng để chỉ những cá nhân nuôi dưỡng hy vọng viển vông được gặp một người nổi tiếng mà họ hâm mộ, cho thấy mối quan hệ cận xã hội được đặc trưng bởi niềm tin hoang tưởng. Thuật ngữ này cũng thường được sử dụng trong bối cảnh nói đùa về việc họ đang tự lừa dối mình.
Một lĩnh vực quan trọng khác mà thuật ngữ "delulu" xuất hiện trong văn hóa K-pop là việc sử dụng nó xung quanh việc vận chuyển và văn hóa stanning, dùng để chỉ những người hâm mộ theo dõi bất kỳ tương tác nào giữa hai người nổi tiếng làm bằng chứng trong số họ đang hẹn hò hoặc đang có một mối quan hệ nào đó.
Sử dụng
Kể từ cuối năm 2022, thuật ngữ này đã trở lại trong thế hệ Gen Z và Gen Alpha do có nhiều xu hướng khác nhau trên các nền tảng như TikTok và Instagram được lan truyền. Tính đến tháng 12 năm 2023, TikTok đã ghi nhận hơn 5 tỷ lượt xem của hashtag #delulu. Nhiều nhà sáng tạo nội dung đã chấp nhận thuật ngữ "delulu", bao gồm việc kết hợp nó như một phần của video dạng ngắn của họ trên các nền tảng như vậy. Câu cửa miệng "Delulu is the solulu" do những người có tầm ảnh hưởng tạo ra, ngụ ý rằng sự tự tin là giải pháp cho các quyết định liên quan đến công việc.
Bất chấp nguồn gốc mang tính xúc phạm của nó, thuật ngữ "delulu" có một ý nghĩa mới. Ở thời kỳ hiện đại, nó được dùng để biểu thị niềm tin rằng một người có thể tác động đến vận mệnh của chính mình thông qua sức mạnh ý chí tuyệt đối, tạo nên sự tương đồng với phong trào "biểu hiện" do Oprah Winfrey khởi xướng vào những năm 2000 hoặc phong trào "giả mạo cho đến khi bạn làm được" phổ biến trong những năm 1970.
Tham khảo
Tiếng lóng Internet
Meme Internet được giới thiệu năm 2022
Từ mới
|
19852424
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C6%B0ng%20L%E1%BB%AF
|
Hưng Lữ
|
Hưng Lữ (viết: ) là một họ của Nhật Bản. Những người mang họ này đáng chú ý có họ bao gồm:
Kōrogi Satomi (sinh năm 1962), diễn viên lồng tiếng, người kể chuyện Nhật Bản
Koroki Shinzo (sinh năm 1986), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
Tham khảo
Họ người Nhật Bản
|
19852425
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rai%203
|
Rai 3
|
Rai 3 (trước đây là Rete 3) là kênh truyền hình Ý điều hành bởi đài truyền hình quốc gia RAI thuộc sở hữu nhà nước, lên sóng vào ngày 15 tháng 12 năm 1979. Các chương trình của kênh chủ yếu tập trung vào nền văn hóa của khu vực. Kênh luôn được coi là kênh thiên tả nhất của truyền hình Ý; đối thủ cạnh tranh trực tiếp là Rete 4 của Mediaset.
Các chương trình bằng tiếng nước ngoài
Ở vùng Thung lũng Aosta, Rai 3 phát sóng một số chương trình bằng tiếng Pháp với thời lượng chưa đầy 3 giờ một tuần.
Ở vùng Trentino-Nam Tirol, Rai Südtirol chia sẻ giờ phát sóng với Rai 3 khi không phát sóng.
Ở vùng Friuli-Venezia Giulia, Rai 3 BIS (TDD Furlanija Julijska Krajina) là một kênh truyền hình chuyên biệt phát sóng hàng ngày từ 18:40 với một bản tin thời sự và các chương trình bằng tiếng Slovene. Theo thỏa thuận hợp tác song phương giữa Ý và Slovenia, các chương trình bằng tiếng Slovene do Rai 3 Bis sản xuất cũng được phát sóng trên TV Koper-Capodistria và Slovenija 2.
Chương trình
Các chương trình được phát sóng trên kênh bao gồm:
TG3, bản tin thời sự chính trên kênh Rai 3
TGR, bản tin thời sự khu vực
Gazebo
Doc3
Che tempo che fa
Chi l'ha Visto?
Vieni via con me
Sabrina – Cô phù thủy nhỏ
Law & Order
Friends
Desperate Housewives
The Defenders
The Spaghetti Family
Glob
Thanh tra Gadget
Melevisione
Buongiorno Estate
UEFA Europa League (trực tiếp 1 trận/1 ngày thi đấu, phát sóng các trận bán kết theo luật 8/99 nếu có ít nhất một câu lạc bộ Ý tham gia)
UEFA Europa Conference League (trực tiếp 1 trận/1 ngày thi đấu, phát sóngcác trận bán kết theo luật 8/99 nếu có ít nhất một câu lạc bộ Ý tham gia)
Logo của kênh
Tham khảo
Đọc thêm
Delio De Martino, Per una storia di Raitre. Premessa di Raffaele Nigro, Bari, Levante Editori, 2009, .
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Truyền hình Ý
Đài truyền hình Ý
Đài truyền hình tiếng Ý
Truyền thông Ý
Truyền hình thể thao
Khởi đầu năm 1979
Khởi đầu năm 1979 ở Ý
Khởi đầu năm 1979 ở châu Âu
Kênh truyền hình của RAI
|
19852428
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99%20Bi%C3%AAn%20C%C6%B0%C6%A1ng
|
Độ Biên Cương
|
Độ Biên Cương (渡辺剛, 渡邊剛) có thể là:
Watanabe Gō (sinh năm 1958), bác sĩ phẫu thuật tim mạch người Nhật Bản
Watanabe Takeshi (sinh năm 1967), người chơi đàn phím người Nhật Bản
Watanabe Tsuyoshi (sinh năm 1997), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
|
19852430
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/ARA%20Santa%20Fe
|
ARA Santa Fe
|
Ít nhất sáu tàu chiến của Hải quân Argentina từng được đặt cái tên ARA Santa Fe, theo tên tỉnh Santa Fe của Argentina:
là một do hãng Yarrow Shipbuilders, London đóng dựa trên , và bị đánh chìm ngoài khơi Uruguay vào năm 1897
là một hạ thủy năm 1911 nhưng được bán cho Hy Lạp trước khi được nghiệm thu vào năm 1912
là một đóng tại Ý và trong biên chế từ năm 1933 đến năm 1956
ARA Santa Fe (S-11), nguyên là , được Hoa Kỳ chuyển giao năm 1960 và bị tháo dỡ năm 1974
ARA Santa Fe (S-21), nguyên là , được Hoa Kỳ chuyển giao năm 1971, bị Hải quân Anh chiếm trong cuộc Chiến tranh Falklands năm 1982 và bị đánh chìm năm 1985
dự định là một vào thập niên 1980 nhưng không thể hoàn tất do Argentina gặp suy thoái kinh tế.
Tên gọi tàu chiến Hải quân Argentina
|
19852434
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Valenciennea%20strigata
|
Valenciennea strigata
|
Valenciennea strigata là một loài cá biển thuộc chi Valenciennea trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1782.
Từ nguyên
Tính từ định danh strigata trong tiếng Latinh có nghĩa là “có các dải màu”, hàm ý đề cập đến vệt sọc màu xanh lam viền đen từ khóe miệng kéo dài đến nắp mang của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
V. strigata có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Marquises và Tuamotu, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, phía nam đến Nam Phi và Úc (gồm cả đảo Lord Howe).
Ở Việt Nam, V. strigata được ghi nhận ở cù lao Chàm, đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), bờ biển Ninh Thuận, cù lao Câu (Bình Thuận) cùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
V. strigata sống phổ biến trên các rạn san hô ngoài khơi và trong đầm phá, trên nền đáy cứng (đá) lẫn mềm (cát), được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 25 m.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở V. strigata là 18 cm. Cá có màu xám nhạt với phần đầu màu vàng đặc trưng. Sọc xanh lam từ khóe miệng băng qua dưới mắt đến nắp mang, sọc mảnh hơn màu trắng xanh ở gốc vây ngực. Gai vây lưng thứ hai đến thứ tư kéo dài thành sợi ở cá thể hơn dài 4,5 cm. Vây đuôi tròn, dài hơn đầu.
Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 17–19; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 16–19; Số tia vây ngực: 20–23.
Sinh thái
Thức ăn của V. strigata là các loài thủy sinh không xương sống và cá nhỏ hơn, cũng như trứng các loài cá khác. Chúng ăn bằng cách lọc từng ngụm cát.
V. strigata tăng trưởng đạt đỉnh điểm vào mùa xuân. Chúng là loài đơn phối ngẫu. Các cặp ở gần nhau và gần hang của chúng. Cá cái kiếm ăn với tốc độ cao hơn cá đực, trong khi cá đực dành nhiều thời gian hơn để trông coi hang. Cá cái đẻ trứng với chu kỳ 13 ngày một lần, cá đực bảo vệ trứng trong hang trong vòng 2–3 ngày. Cả hai giới đều ưa thích bạn tình to lớn. Cá đực chọn cá cái lớn vì khả năng đẻ trứng tỉ lệ theo kích thước, ngược lại cá đực lớn hơn có khả năng bảo vệ cá cái tốt hơn. Ngoài ra, cá cái còn có một dải sắc tố sẫm màu hình lưỡi liềm trên bụng giống như đang mang thai, cũng có thể là dấu hiệu tăng cường sự tiếp tục kết đôi.
Thương mại
V. strigata là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh.
Tham khảo
S
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Kenya
Cá Tanzania
Cá Nam Phi
Cá Comoros
Cá Mauritius
Cá Réunion
Cá Maldives
Cá Việt Nam
Cá Singapore
Cá New Guinea
Cá Philippines
Cá Nhật Bản
Cá Fiji
Cá Tonga
Cá Vanuatu
Động vật được mô tả năm 1782
|
19852435
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng%20K%C3%ADnh
|
Vương Kính
|
Vương Kính ( ; 12 tháng 12 năm 1926 - 6 tháng 2 năm 2020) là một nhà khảo cổ học người Trung Quốc có trọng tâm nghiên cứu là các địa điểm thời tiền sử ở đồng bằng Giang Hán . Là một trong những nhà nữ khảo cổ học đầu tiên của Trung Quốc, bà là thành viên của nhóm khám phá nền Văn hóa Khuất Gia Lĩnh thời kỳ đồ đá mới . Sau đó, bà đã lãnh đạo cuộc khai quật các địa điểm lớn bao gồm mỏ đồng cổ Đồng Lục Sơn và di chỉ Bàn Long Thành thời nhà Thương . Bà từng là lãnh đạo Đội Khảo cổ học tỉnh Hồ Bắc, Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc và Chủ tịch Hiệp hội Khảo cổ học Hồ Bắc.
Sự nghiệp
Vương Kính sinh ngày 12 tháng 12 năm 1926 tại Hoàng Bi, Hồ Bắc, Trung Hoa Dân Quốc. Bà tốt nghiệp Trường Sư phạm Nữ sinh số 2 Hồ Bắc năm 1949.。
Bà làm việc tại Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc từ năm 1954 và tham gia chương trình đào tạo khảo cổ học do Bộ Văn hóa, Viện khảo cổ Viện Khoa học xã hội Trung Quốc và khoa lịch sử Đại học Bắc Kinh phối hợp thực hiện.
Bà là một trong những nhà nữ khảo cổ học đầu tiên của Trung Quốc tham gia cuộc khai quật khảo cổ học ở đồng bằng Giang Hán và phát hiện ra nền văn hóa Khuất Gia Lĩnh thời kỳ đồ đá mới; sau đó bà đã tham gia khai quật Di chỉ Thạch Gia Hà ở Thiên Môn, Phương Ưng Đài ở Vũ Xương và Mao Gia Chủy ở Kỳ Xuân.
Sau đó, bà lãnh đạo Đội khảo cổ tỉnh Hồ Bắc khai quật mỏ đồng cổ Đồng Lục Sơn ở Đại Dã , di chỉ Bàn Long Thành thời nhà Thương ở Hoàng Bi, di chỉ Thất Lý Hà ở huyện Phòng, và Lăng mộ Mã Sơn số 1 ở Giang Lăng. Từ năm 1980 đến năm 1996 bà giữ chức vụ Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc và Chủ tịch Hiệp hội Khảo cổ học Hồ Bắc. Năm 1989, bà làm cố vấn cho Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc. Bà nghỉ hưu năm 1990. Năm 1993, bà làm cố vấn cho Hiệp hội Nghiên cứu Vũ Hán.
Vào ngày 6 tháng 2 năm 2020, bà qua đời vì bệnh lao cột sống ngực ở Vũ Hán, thọ 93 tuổi.
Đóng góp
Trọng tâm nghiên cứu chính của bà là các di chỉ thời tiền sử ở đồng bằng Giang Hán. Công trình tiên phong của bà đã giúp thiết lập khuôn khổ của các nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới ở khu vực trung lưu sông Dương Tử. Bà đã khám phá sự tương tác văn hóa giữa Trung Nguyên và vùng Dương Tử, đồng thời giúp hiểu sâu hơn về công nghệ luyện kim của Trung Quốc cổ đại.
Tham khảo
|
19852441
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1i%20ph%E1%BA%A3n%20%C4%91%E1%BB%99ng%20Qu%E1%BB%91c%20d%C3%A2n%20%C4%90%E1%BA%A3ng
|
Phái phản động Quốc dân Đảng
|
Phái phản động Quốc dân Đảng () còn gọi là Chính phủ phái phản động Quốc dân Đảng (国民党反动派政府), Tập đoàn thống trị phản động Quốc dân Đảng (国民党反动统治集团), Phái ngoan cố Quốc dân Đảng (国民党顽固派), là từ miệt thị chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc và Trung Quốc Quốc dân Đảng. Từ tháng 4 năm 1927 khi Tưởng Giới Thạch thành lập Chính phủ Quốc dân Nam Kinh cho đến năm 1949 khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc chiếm được Nam Kinh trong chiến dịch vượt sông Trường Giang, thời kỳ này được Đảng Cộng sản Trung Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi là "Hai mươi hai năm nền thống trị phản động của Quốc dân Đảng".
Tổng quan
Bắt đầu từ thập niên 1910, từ "phản động" dần trở thành một thuật ngữ mang tính cách mạng ở Trung Quốc đại lục. Ngày 15 tháng 6 năm 1922, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ban hành "Chủ trương của Đảng Cộng sản Trung Quốc về tình hình hiện nay", lần đầu tiên sử dụng khái niệm "phản động" nhằm ám chỉ quân phiệt Bắc Dương Đoàn Kỳ Thụy và những "quân phiệt phản động" khác. Lúc bắt đầu Quốc-Cộng hợp tác lần thứ nhất , Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hình thành khái niệm phái tả và phái hữu Quốc dân Đảng. Ban đầu, Đảng Cộng sản Trung Quốc không coi phái hữu Quốc dân Đảng là phái phản động.
Tháng 8 năm 1925, Liêu Trọng Khải bị ám sát. Sự hiểu biết của Đảng Cộng sản Trung Quốc rằng phái hữu Quốc dân Đảng là "phái phản động" tiếp tục ngày càng sâu sắc. Tháng 4 năm 1927, sau khi Tưởng Giới Thạch phát động sự kiện ngày 12 tháng 4, Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản đã hoàn toàn chống lại nhau. Sau này, các tác giả của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mô tả việc Tưởng Giới Thạch phát động Biến cố ngày 12 tháng 4 và thành lập Chính phủ Quốc dân riêng biệt ở Nam Kinh là "dấu hiệu cho thấy phái hữu Quốc dân Đảng đã trở thành phái phản động".
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, "Tuyên bố của Đảng Cộng sản Trung Quốc về vụ Tưởng Giới Thạch thảm sát nhân dân cách mạng" do Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ban hành đã phân biệt Tưởng Giới Thạch với Trung Quốc Quốc dân Đảng và chỉ có đặc điểm Tưởng Giới Thạch mới bị coi là "kẻ phản cách mạng". Sau vụ sáp nhập Ninh Hán diễn ra vào tháng 9, nhiều phe phái khác nhau của Quốc dân Đảng đã đoàn kết nhằm đả kích Đảng Cộng sản. Vào lúc này, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hoàn toàn coi Quốc dân Đảng và Chính phủ Quốc dân là phái phản cách mạng và phản động.
Cách sử dụng
Ngoài thuật ngữ phái phản động Quốc dân Đảng, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa còn sử dụng các thuật ngữ tương tự như phái ngoan cố Quốc dân Đảng, chính phủ phái phản động Quốc dân Đảng, chính phủ phản động Quốc dân Đảng, tập đoàn phản động Quốc dân Đảng, chính quyền phản động Quốc dân Đảng, v.v... để chỉ Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (Chính phủ Quốc dân) dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch và Trung Quốc Quốc dân Đảng, cũng như Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc (Quốc dân Cách mạng Quân). Để nêu bật "độc tài cá nhân" của Tưởng Giới Thạch, người ta gọi là chính quyền Tưởng Giới Thạch, băng đảng Tưởng Giới Thạch, tập đoàn Tưởng Giới Thạch, tập đoàn thống trị phản động Tưởng Giới Thạch, chính phủ độc tài Tưởng Giới Thạch, chính phủ bán nước Tưởng Giới Thạch, quân Tưởng, v.v... Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông thường sử dụng thuật ngữ phái ngoan cố Quốc dân Đảng trong các bài viết của mình trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc sau khi dời sang Đài Loan năm 1949 vẫn còn bị Đảng Cộng sản Trung Quốc gọi là phái phản động Quốc dân Đảng.
Ý nghĩa của những từ như vậy cũng thay đổi do những người dùng khác nhau và những thời kỳ khác nhau. Trong nội chiến Quốc-Cộng lần thứ hai, phái phản động Quốc dân Đảng được phái Đảng Dân chủ ngoài Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản nhắc đến, tức những phần tử "ích kỷ, ngoan cố, phản động và phản dân chủ" bên trong Trung Quốc Quốc dân Đảng là "phe đương quyền" và "phe hiếu chiến" của Quốc dân Đảng. Nó không bao gồm Tưởng Giới Thạch, lãnh đạo Trung Quốc Quốc dân Đảng lúc bấy giờ. Sau đó phạm vi này được mở rộng. Từ các nhà lãnh đạo Trung Quốc Quốc dân Đảng cho đến các quan chức quan trọng của các cơ quan khác nhau của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc do họ lãnh đạo, "từ các khía cạnh quân sự, chính trị đến kinh tế", họ đều thuộc phái phản động Quốc dân Đảng.
Tuyên truyền
Trong lĩnh vực tuyên truyền chính trị của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, có một quan niệm cố hữu cho rằng đảng, chính quyền và quân đội do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo ngang hàng với phái phản động Quốc dân Đảng. Người ta thường tin rằng Tưởng Giới Thạch và "phái phản động Quốc dân Đảng" đại diện cho lợi ích của giai cấp đại địa chủ và đại tư sản. Một số học giả Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đồng ý gọi Quốc dân Đảng trong nội chiến Quốc-Cộng là "phái phản động Quốc dân Đảng", thế nhưng Chính phủ Quốc dân và Quốc dân Cách mạng Quân do Quốc dân Đảng lãnh đạo trong kháng chiến chống Nhật không nên bị gọi là "phái phản động Quốc dân Đảng". Đối với Chính phủ Quốc dân trước khi dời sang Đài Loan năm 1949 và Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, thuật ngữ không mang nghĩa xúc phạm là Chính phủ Quốc dân Đảng. Khi chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xử lý vấn đề Đài Loan, họ có thể gọi Tập đoàn Tưởng Giới Thạch và nhà đương cục Đài Loan là chính phủ Trung Hoa Dân Quốc.
Tham khảo
Thuật ngữ cách mạng
Chính phủ Tưởng Giới Thạch
Từ miệt thị chính trị Trung Quốc
Quan hệ Quốc-Cộng (Trung Hoa Dân Quốc)
Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc
Tên gọi Trung Hoa Dân Quốc của Đảng Cộng sản Trung Quốc
|
19852444
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Suzuki%20Akimasa
|
Suzuki Akimasa
|
là chính khách người Nhật Bản. Trước đây, ông từng là thành viên của Đảng Dân chủ Tự do từ 1991-2001 và 2005-2023. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm quận trưởng Ōta kể từ ngày 27 tháng 4 năm 2023.
Tham khảo
Sinh năm 1958
Chính khách Tōkyō
|
19852445
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bad%20trip
|
Bad trip
|
Một bad trip là một thuật ngữ mô tả phản ứng tâm lý bất lợi cấp tính đối với các tác động được tạo ra dưới ảnh hưởng của các chất hướng thần, cụ thể là chất gây ảo giác. Với sự sàng lọc, chuẩn bị và hỗ trợ thích hợp trong môi trường được quản lý, những điều này thường lành tính. Ví dụ, một bad trip với psilocybin thường gây ra lo âu, bối rối, kích động và loạn thần dữ dội. Chúng biểu hiện dưới dạng một loạt cảm xúc, chẳng hạn như lo âu, hoang tưởng, cảm giác không thể lay chuyển được về cái chết sắp xảy ra và không thể tránh khỏi của một người hoặc trạng thái kinh hoàng không nguôi mà họ tin rằng sẽ tồn tại sau khi hết tác dụng của chất này. Tính đến năm 2011, không có dữ liệu chính xác về tần suất các chuyến đi tồi tệ.
Các bad trip có thể trở nên trầm trọng hơn do sự thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu trách nhiệm của người dùng hoặc thiếu sự chuẩn bị và môi trường thích hợp cho trip, và thường phản ánh những căng thẳng tâm lý chưa được giải quyết bị kích hoạt trong quá trình trải nghiệm. Trên môi trường nghiên cứu lâm sàng, các biện pháp phòng bị bao gồm sàng lọc và chuẩn bị cho người tham gia, đào tạo những người giám sát sẽ có mặt trong quá trình trải nghiệm, và việc lựa chọn môi trường vật lý phù hợp có thể giảm thiểu khả năng bị căng thẳng tâm lý. Các nhà nghiên cứu cho rằng sự hiện diện của "trip sitter" chuyên nghiệp (tức là người giám sát) có thể làm giảm đáng kể những trải nghiệm tiêu cực liên quan đến một bad trip. Trong hầu hết các trường hợp lo âu nảy sinh trong trải nghiệm thức thần được giám sát, sự trấn an từ người giám sát là đủ để giải quyết; tuy nhiên, nếu tình trạng căng thẳng trở nên nghiêm trọng, nó có thể được điều trị bằng thuốc, ví dụ như bằng diazepam, một benzodiazepine.
Nhà tâm thần học Stanislav Grof đã viết rằng những trải nghiệm thức thần khó chịu không nhất thiết là không lành mạnh hoặc không mong muốn, cho rằng chúng có thể có khả năng chữa lành tâm lý, dẫn đến sự đột phá và giải quyết các vấn đề tâm linh còn khúc mắc. Từ các lời tự sự, tác giả của một nghiên cứu năm 2021 trên 50 người sử dụng chất thức thần cho thấy nhiều người mô tả các bad trip là nguồn hiểu biết sâu sắc hoặc thậm chí là những bước ngoặt trong cuộc đời.
Hệ quả
Bad trip có thể gây ra rối loạn tri giác dai dẳng gây ảo giác (HPPD).
Xem thêm
Trạng thái biến đổi của ý thức
Khủng hoảng hiện sinh
Sử dụng thuốc giải trí
Giấc mơ sáng suốt
Trải nghiệm ngoài cơ thể
Dùng thuốc quá liều
Hậu chấn tâm lý
Trải nghiệm thức thần
Chất gây ảo giác
Loạn thần
Set và setting
Cái chết của bản ngã
Tham khảo
Liên kết ngoài
Crisis Intervention in Situations Related to Unsupervised Use of Psychedelics
Psychedelic Crisis FAQ: Helping someone through a bad trip, psychic crisis, or spiritual crisis
Psychedelic Harm Reduction
Psychedelic Harm Reduction and Policy lecture in the Psychedelic Science in the 21st Century conference in 2010.
Psychedelics in the Psychiatric ER - Julie Holland, M.D. lecture in the Psychedelic Science in the 21st Century conference in 2010.
The Psychedelic crisis (bad trip) entry at Drugs-Wiki
Văn hóa chất kích thích
Psychedelia
Say thuốc
|
19852447
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bad%20Trip
|
Bad Trip
|
Bad Trip có thể đề cập đến:
Bad trip, trải nghiệm đáng sợ và khó chịu do thuốc hướng thần gây ra
Bad Trip (phim), phim hài 2020 có sự tham gia của Eric Andre
Bad Trip (bài hát), bài hát của Jhené Aiko
"Bad Trip", bài hát 2022 của Lauv từ All 4 Nothing
Xem thêm
Bad Acid Trip, ban nhạc metal Mỹ
|
19852449
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%B3%20%C4%90%C3%B4ng%20th%E1%BB%95i%20b%E1%BA%A1t%20gi%C3%B3%20T%C3%A2y
|
Gió Đông thổi bạt gió Tây
|
Gió Đông thổi bạt gió Tây (), còn được dịch thành gió Đông áp đảo gió Tây, gió Đông vượt qua gió Tây, có nghĩa là chủ nghĩa xã hội sẽ chiếm ưu thế so với chủ nghĩa tư bản, là một khẩu hiệu của Chủ tịch Mao Trạch Đông vào đầu thập niên 1950, khi ông gọi gió Đông là trại xã hội chủ nghĩa và gió Tây là xã hội tư bản phương Tây. Hàm ý của tuyên bố này là thế lực chủ nghĩa xã hội đã vượt qua thế lực chủ nghĩa đế quốc.
"Gió Đông thổi bạt gió Tây" đã được Mao Trạch Đông mượn từ tiểu thuyết cổ điển Hồng lâu mộng theo lời của Lâm Đại Ngọc rằng, "trong tất cả mọi nhà, hoặc không phải gió Đông thổi bạt gió Tây thì chính là gió Tây áp đảo gió Đông". Trong cuốn sách này, Đông và Tây không được coi là đại diện cho các tập hợp niềm tin hoặc giá trị khác nhau.
Tham khảo
Trung Quốc thập niên 1950
Trung Quốc thời đại Mao Trạch Đông
Thuật ngữ tư tưởng Mao Trạch Đông
Hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc
|
19852450
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amagi%2C%20Kagoshima
|
Amagi, Kagoshima
|
là thị trấn thuộc huyện Ōshima, phó tỉnh Ōshima, tỉnh Kagoshima, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 5.517 người và mật độ dân số là 69 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 80,4 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Kagoshima
Tokunoshima
Isen
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Kagoshima
|
19852452
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%E1%BA%B9o%20d%E1%BA%BBo%20g%E1%BA%A5u
|
Kẹo dẻo gấu
|
Kẹo dẻo gấu hay gummy bear (tiếng Đức: Gummibär) là một loại kẹo cao su dẻo hương trái cây có nguồn gốc từ Đức. Kẹo dài khoảng 2–3 cm, đúc hình con gấu với thành phần chính là gelatin, đường, tinh bột, hương liệu và màu thực phẩm.
Lịch sử
Kẹo có nguồn gốc từ Đức, nơi nó được gọi là (kẹo cao su gấu dẻo). Ban đầu người ta sử dụng gum arabic, một loại chất làm dày và ổn định, để chế biến kẹo.
Năm 1920, Hans Riegel Sr., một người thợ làm bánh đến từ Bonn, thành lập công ty bánh kẹo Haribo. Năm 1922, lấy cảm hứng từ những con gấu được huấn luyện để diễn xiếc hội chợ ở châu Âu trong thế kỷ 19, ông đã phát minh ra Tanzabär (chú gấu nhảy), một loại kẹo cao su nhỏ giá rẻ, vị trái cây dành cho cả trẻ em và người lớn. Phiên bản nhỏ hơn sau này của nó là Goldbär (gấu vàng). Ngay cả trong thời kỳ siêu lạm phát ở Cộng hòa Weimar cũ, kẹo Haribo vẫn giữ giá rẻ khi một cặp kẹo bán tại các ki-ốt chỉ có giá một pfennig. Thành công của Tanzabär đã trở thành tiền đề cho phiên bản kẹo gấu vàng sau này của hãng vào 1967.
Sản xuất
Sự thành công và nổi tiếng của kẹo dẻo gấu đã giúp phát triển thêm nhiều mẫu mã và kiểu dáng khác như kẹo hình giun, ếch, anh đào, táo, burger. Một số công ty sản xuất những viên kẹo dài và nặng tới vài kilogram.
Dinh dưỡng
Kẹo dẻo gấu và các loại kẹo dẻo nói chung được xếp vào nhóm thực phẩm chứa calo rỗng, tức thực phẩm có ít chất dinh dưỡng mà chủ yếu là đường, chất béo và cồn. Vì vậy, việc tiêu thụ nhiều kẹo này có thể dẫn tới thèm ăn và tăng cân.
Với kết cấu dẻo đặc trưng, kẹo cũng có thể bám vào kẽ răng, gây sâu răng.
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Haribo Goldbears
Kẹo
|
19852454
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Koumansetta%20rainfordi
|
Koumansetta rainfordi
|
Koumansetta rainfordi là một loài cá biển thuộc chi Koumansetta trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1940.
Từ nguyên
Từ định danh rainfordi được đặt theo tên của Edward Henry Rainford (1853 – 1938), một người trồng nho kiêm nhà tự nhiên học nghiệp dư làm việc tại Sở Nông nghiệp Queensland, người đã thu thập nhiều mẫu vật cho Bảo tàng Úc, bao gồm cả loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
Từ quần đảo Ryukyu, K. rainfordi có phân bố trải dài về phía nam đến bờ bắc Úc (gồm cả rạn san hô Great Barrier), về phía đông đến quần đảo Marshall và Tonga, phía tây đến Côn Đảo và quần đảo Trường Sa(Việt Nam).
K. rainfordi sống trên các rạn san hô ngoài khơi và trong đầm phá, nơi có nền đáy cát, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 30 m.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở K. rainfordi là 18 cm. Cá có màu xám than với 5 sọc ngang màu cam sẫm đến đỏ. Trên lưng trên có một hàng đốm trắng. Có đốm đen viền vàng ở vây lưng sau, một đốm đen khác ở gốc vây đuôi trên.
Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 15–17; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 15–17; Số tia vây ngực: 16–18.
Thương mại
K. rainfordi là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh.
Tham khảo
R
Cá Thái Bình Dương
Cá Nhật Bản
Cá Việt Nam
Cá New Guinea
Cá Philippines
Cá Fiji
Cá Tonga
Cá Vanuatu
Động vật được mô tả năm 1940
|
19852467
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ichikawamisato%2C%20Yamanashi
|
Ichikawamisato, Yamanashi
|
là thị trấn thuộc huyện Nishiyatsushiro, tỉnh Yamanashi, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 14.700 người và mật độ dân số là 200 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 75,18 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Yamanashi
|
19852470
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moritz%2C%20Tuy%E1%BB%83n%20h%E1%BA%A7u%20x%E1%BB%A9%20Sachsen
|
Moritz, Tuyển hầu xứ Sachsen
|
Moritz xứ Sachsen (21 tháng 3 năm 1521 – 9 tháng 7 năm 1553) là Công tước xứ Sachsen từ năm 1541 đến 1547, và sau là Tuyển hầu xứ Sachsen từ năm 1547 cho đến khi qua đời vào năm 1553. Ông là tuyển đế hầu đầu tiên của dòng Albertine, nhánh dưới của Nhà Wettin. Sau khi qua đời vào năm 1553, không có con trai thừa tự, Tuyển hầu xứ Sachsen đã được thừa kế bởi em trai út của ông là Công tước August.
Sau Hiệp ước Leipzig năm 1485, ông nội của Moritz là Công tước Albert được người anh trưởng là Ernst, Tuyển hầu xứ Sachsen chia cho Bá quốc Meissen và các quận xung quanh, và chính thức sáng lập ra dòng Albertine. Trong khi đó, nhánh trưởng là dòng Ernestine thì cai trị Tuyển hầu xứ Sachsen. Đến đời của ông, nhờ thao túng các liên minh và tranh chấp thông minh của mình, Moritz đã giành được Tuyển hầu xứ Sachsen từ tay của người anh họ đời thứ 3 là Johann Friedrich của dòng Ernestine vào năm 1547, kể từ đó, dòng Albertine của ông đã nắm quyền đứng đầu Triều đại Wettin và nắm 1/8 phiếu tuyển đế hầu để bầu ra Hoàng đế La Mã Thần thánh cho đến khi đế chế này xụp đổ vào năm 1806. Chính dòng Albertine của ông cũng sở hữu Vương quốc Sachsen và nâng triều đại Wettin lên hàng vương tộc ở châu Âu. Tuy không có ảnh hưởng quốc tế nhiều như dòng Ernestine, nhưng dòng Albertine cũng đã ảnh hưởng lâu dài trong Đế chế La Mã Thần Thánh và lịch sử Ba Lan.
Tham khảo
Literature
Georg Voigt, Moritz von Sachsen, Leipzig 1876.
Erich Brandenburg, Moritz von Sachsen, Bd. I, Leipzig 1899.
Günther, Wartenberg, Landesherrschaft und Reformation. Moritz von Sachsen und die albertinische Kirchenpolitik bis 1546. Weimar 1988.
Karlheinz Blaschke, Moritz von Sachsen. Ein Reformationsfürst der zweiten Generation. Göttingen 1983.
Johannes Herrmann, Moritz von Sachsen. Beucha 2003.
Hans Baumgarten, Moritz von Sachsen, Berlin 1941.
Hof und Hofkultur unter Moritz von Sachsen (1521–1553), hrsg. von André Thieme und Jochen Vötsch, unter Mitarbeit von Ingolf Gräßler im Auftrag des Vereins für sächsische Landesgeschichte, Beucha 2004.
Hans-Joachim Böttcher, Anna Prinzessin von Sachsen (1544-1577) - Eine Lebenstragödie, Dresden 2013, .
Sinh năm 1521
Mất năm 1553
Tuyển hầu xứ Sachsen
Công tử Sachsen
Vương tộc Wettin
Dòng Albertine
Quân vương Tin Lành
|
19852485
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Albrecht%20III%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Sachsen
|
Albrecht III, Công tước xứ Sachsen
|
Albrecht III xứ Sachsen (27 tháng 1 năm 1443 – 12 tháng 9 năm 1500) có biệt danh là Albrecht Táo bạo hay Albrecht Dũng cảm, ông là người lập ra dòng Albertine, nhánh thứ của Nhà Wettin. Sau khi cha của ông là Friedrich II, Tuyển hầu xứ Sachsen qua đời vào năm 1464, ông trở thành người đồng cai trị Tuyển hầu xứ Sachsen cùng anh trai là Ernst, Tuyển hầu xứ Sachsen (người lập ra dòng Ernestine). Đến năm 1485, Hiệp ước Leipzig được ký kết giữa hai anh em, Albrecht được nhận Bá quốc Meissen và các quận xung quanh, trong khi đó Ernst thì tiếp nhận ngai vàng tuyển hầu xứ Sachsen. Đến năm 1547, thời cháu nội của ông là Công tước Moritz, dòng Albertine đã trở thành Tuyển hầu xứ Sachsen, đẩy dòng chính Ernestine xuống.
Tham khảo
|-
|-
Công tước xứ Sachsen
Tuyển hầu thân vương tử Sachsen
Vương tộc Wettin
Dòng Albertine
Sinh năm 1443
Mất năm 1500
Huân chương Lông cừu vàng
|
19852487
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn%20Andriivka
|
Trận Andriivka
|
Trận Andriivka là một trận đánh trong cuộc phản công 2023 của Ukraina, diễn ra ở làng Andriivka, Bakhmut, từ 25/7 tới 15/9. Đây là 1 trong 14 làng được Lực lượng Vũ trang Ukraina giải phóng trong cuộc phản công của. Trận đánh tại làng này bắt đầu từ 25 tháng 7 năm 2023 khi quân đội Ukraina tiến vào làng và kết thúc vào ngày 15 tháng 9 khi Oleksandr Syrskyi tuyên bố họ kiểm soát hoàn toàn ngôi làng này. Theo nguồn Telegram từ phía Lữ đoàn Tấn công Riêng biệt số 3 thì họ đã tiêu diệt hoàn toàn phe phòng thủ tại đây là Lữ đoàn Cơ giới Riêng biệt số 72 cùng chỉ huy của họ.
Liên kết
|
19852488
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leo%20Castledine
|
Leo Castledine
|
Leo Alexander Francis Castledine (sinh ngày 20 tháng 8 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Chelsea tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Sự nghiệp thi đấu
Chelsea
Sinh ra ở Kingston Upon Thames, nơi chỉ cách Trung tâm huấn luyện Cobham 15 phút di chuyển, Castledine bắt đầu sự nghiệp của mình với Chelsea, đội bóng yêu thích của anh khi lớn lên. Anh đã thi đấu 2 năm cho Chelsea trước khi chuyển đến AFC Wimbledon năm 7 tuổi. Khi trưởng thành, anh cũng chơi môn bóng bầu dục liên hiệp và được ghi danh vào học viện ưu tú của câu lạc bộ chuyên nghiệp Harlequins.
Bắt đầu sự nghiệp của mình với Wimbledon với vai trò phòng ngự, anh chuyển lên hoạt động ở vị trí tiền vệ. Ổn định tốt với vai trò mới của mình, anh đã tham gia vào chuyến du đấu trước mùa giải của đội U-18 Wimbledon ở Ý, chơi cùng với các cầu thủ hơn anh 4 tuổi và tiếp tục ra mắt đội U-18 vào năm 2019 - trở thành cầu thủ Wimbledon trẻ nhất từ trước đến nay làm như vậy.
Một năm sau, vào tháng 3 năm 2020, anh tái gia nhập Chelsea, gọi Mason Mount và Jack Grealish là những cầu thủ yêu thích hiện tại của anh. Anh ký bản hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với "The Blues" vào tháng 8 năm 2022, sinh nhật lần thứ 17 của mình và được gọi vào tập luyện cùng đội 1.
Castledine có trận ra mắt chuyên nghiệp cho Chelsea, khi vào sân thay người trong chiến thắng 6-1 trước Middlesbrough tại trận bán kết lượt về Cúp EFL vào ngày 24 tháng 1 năm 2024.
Sự nghiệp quốc tế
Castledine đã đại diện cho Anh ở các cấp độ U-15, U-17 và U-18.
Vào ngày 15 tháng 11 năm 2023, Castledine ghi bàn trong trận ra mắt đội tuyển U-19 Anh trong chiến thắng 6–0 trước România ở Marbella.
Đời tư
Anh là con trai của cựu cầu thủ Wimbledon và người dẫn chương trình truyền hình, Stewart Castledine, cũng như cựu người dẫn chương trình Homes Under the Hammer, Lucy Alexander. Leo cũng có một người chị gái, Kitty, nữ diễn viên hiện đang đóng vai chính trong vở kịch EastEnders.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Tham khảo
Sinh năm 2005
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá AFC Wimbledon
|
19852489
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20trong%20nh%C3%A0%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202005
|
Giải vô địch bóng đá trong nhà châu Á 2005
|
Giải vô địch bóng đá trong nhà châu Á 2005 () là mùa giải thứ bảy của Giải vô địch bóng đá trong nhà châu Á, giải đấu bóng đá trong nhà dành cho các đội tuyển bóng đá trong nhà quốc gia hàng đầu châu Á do Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tổ chức. Giải đấu được tổ chức từ ngày 22 tháng 5 đến ngày 4 tháng 6 năm 2005 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Một số lượng kỷ lục 24 đội tham dự đã được ghi nhận cho giải lần này, trong đó có bốn đội lần đầu góp mặt tại giải đấu là Bhutan, Qatar, Turkmenistan và đội chủ nhà Việt Nam.
Lần đầu tiên trong giải đấu, AFC đã giới thiệu một thể thức thi đấu mới nhằm tăng cơ hội cọ xát cho các đội tuyển của châu lục, theo đó sáu đội đầu bảng và hai đội nhì bảng xuất sắc nhất sẽ lọt vào vòng đấu loại trực tiếp thông thường để tranh giải Cúp vàng, trong khi 16 đội bóng còn lại sẽ lọt vào vòng tranh giải Cúp bạc. Đây cũng là lần cuối cùng Giải vô địch bóng đá trong nhà châu Á được tổ chức như một sự kiện mở, trước khi vòng loại bắt đầu được tiến hành kể từ năm 2006.
Iran đã đánh bại Nhật Bản trong trận chung kết để giành chức vô địch thứ bảy liên tiếp.
Địa điểm
Bốc thăm
Lễ bốc thăm diễn ra vào ngày 4 tháng 3 năm 2005 tại khách sạn Rex, Thành phố Hồ Chí Minh. 24 đội tham dự được chia thành sáu bảng, trở thành giải vô địch bóng đá trong nhà châu Á có quy mô lớn nhất kể từ khi được thành lập vào năm 1999.
Kết quả bốc thăm
Kết quả bốc thăm như sau:
Đội hình
Mỗi đội phải đăng ký một đội hình gồm 14 cầu thủ, trong đó có tối thiểu hai thủ môn.
Vòng bảng
Sáu đội đứng đầu mỗi bảng và hai đội nhì bảng có thành tích tốt nhất sẽ lọt vào vòng tranh giải Cúp vàng, các đội còn lại vào vòng tranh Cúp bạc.
Các tiêu chí
Các đội được xếp hạng theo điểm (thắng 3 điểm, hòa 1 điểm, thua 0 điểm), và nếu bằng điểm, các tiêu chí sau đây sẽ được áp dụng theo thứ tự để xác định thứ hạng:
Hiệu số bàn thắng bại trong tất cả các trận đấu vòng bảng;
Số bàn thắng ghi được trong tất cả các trận đấu vòng bảng;
Điểm thu được trong các trận đấu bảng giữa các đội liên quan;
Hiệu số bàn thắng trong các trận đấu bảng giữa các đội liên quan;
Số bàn thắng ghi được trong các trận đấu bảng giữa các đội liên quan;
Sút luân lưu nếu chỉ có hai đội bằng điểm và gặp nhau ở lượt đấu cuối cùng của vòng bảng;
Điểm thẻ phạt (điểm số ít hơn tính theo số thẻ vàng và đỏ nhận được trong các trận đấu vòng bảng);
Bốc thăm.
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Xếp hạng các đội nhì bảng đấu
Vòng tranh Cúp bạc
Vòng bảng thứ hai
Bảng I
Bảng J
Bảng K
Bảng L
Vòng đấu loại trực tiếp
Trong vòng đấu loại trực tiếp, loạt sút luân lưu sẽ được sử dụng để xác định đội thắng cuộc nếu hòa sau thời gian thi đấu chính thức.
Bán kết
Chung kết
Vòng tranh Cúp vàng
Vòng bảng thứ hai
Bảng G
Bảng H
Vòng đấu loại trực tiếp
Trong vòng đấu loại trực tiếp, hiệp phụ (có áp dụng luật bàn thắng vàng) và loạt sút luân lưu sẽ được sử dụng để xác định đội thắng cuộc nếu hòa sau thời gian thi đấu chính thức.
Bán kết
Chung kết
Giải thưởng
Cầu thủ ghi bàn
23 bàn
Vahid Shamsaei
21 bàn
Kenichiro Kogure
13 bàn
Taji Abdullayev
12 bàn
Hassan Huthut
Panuwat Janta
11 bàn
Hayssam Atwi
Khaled Takaji
Abdulaziz Al-Kuwari
10 bàn
Abdul-Karim Ghazi
Mahmoud Itani
Nader Hajjar
Lee Sang-keun
9 bàn
Mohammed Hassanain
Lee Kyung-min
8 bàn
Emil Kenjisariev
Hashem Al-Shurafa
Hazem Hajjar
Rashid Al-Dosari
Anucha Munjarern
Joe Nueangkord
Yilham Ilmuradov
7 bàn
Viernes Ricardo Polnaya
Mohammad Hashemzadeh
Hossein Soltani
Wameedh Shamil
Kensuke Takahashi
Ahmad Al-Asfour
Khalid Gharib
Prasert Innui
Abdulla Buriev
Nikolay Odushev
6 bàn
Wu Zhuoxi
Yan Fei
Zhang Jiong
Andi Irawan
Majid Raeisi
Mohsen Zareei
Nurjan Djetybaev
Rafat Rabee
Lertchai Issarasuwipakorn
Pattaya Piemkum
Bahodir Ahmedov
5 bàn
Zhang Xi
Leung Chi Kui
Sayan Karmadi
Jaelani Ladjanibi
Zaid Watheq
Kenta Fujii
Nawaf Al-Otaibi
Rabih Abu Chaaya
Ng Boon Leong
Khurshed Makhmudov
Agajan Resulov
Aleksandr Korolev
Anvar Mamedov
Farruh Zakirov
Lê Quốc Khương
Nguyễn Tuấn Thành
4 bàn
Wang Xiaoyu
Yang Du
Chang Fu-hsiang
Hsueh Ming-wen
Vennard Hutabarat
Zaman Majid
Yuki Kanayama
Takuya Suzumura
Fawzi Al-Mass
Faizul Abdul Gaffar
Ahmed Abdalhadi
Mustafa Yasin
Alexander Borromeo
Narongsak Khongkaew
Furkat Kudratov
Saidolimhon Sharafutdinov
3 bàn
Passang Tshering
Li Jian
Xiong Sui
Chen Kun-shan
Ho Kuo-chen
So Sheung Kwai
Wahyu Triyanto
Mohammad Reza Heidarian
Javad Maheri
Yasir Hameed
Raed Khalf
Daniar Abdyraimov
Andrey Pestryakov
Hassan Hammoud
Ibrahim Hammoud
Serge Said
Ho Wai Tong
Leong Lap San
Mohd Saiful Mohd Noor
Anton del Rosario
Mohsin Ali
Cho Jae-suk
Oh Su-taek
Eradzh Nasikhov
Shavkatbek Muhitdinov
Ilhom Yusupdjanov
Tham khảo
Liên kết ngoài
Futsal Planet
RSSSF
Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh
Giải đấu bóng đá trong nhà quốc tế tổ chức bởi Việt Nam
Bóng đá Việt Nam năm 2005
Bóng đá trong nhà châu Á năm 2005
Giải vô địch bóng đá trong nhà châu Á
|
19852492
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99%20Bi%C3%AAn%20Tr%C3%A1c
|
Độ Biên Trác
|
Độ Biên Trác (渡辺卓) có thể là:
Watanabe Takashi (sinh năm 1947), doanh nhân người Nhật Bản
Watanabe Taku (sinh năm 1971), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
|
19852497
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bahrain%2010%E2%80%930%20Indonesia
|
Bahrain 10–0 Indonesia
|
Vào ngày 29 tháng 2 năm 2012, và đối đầu nhau trong khuôn khổ Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 khu vực châu Á (vòng 3). Trận đấu được diễn ra tại Sân vận động Quốc gia Bahrain ở Riffa (Bahrain). Đó là trận thắng đậm nhất của Bahrain và trận thua đậm nhất của Indonesia. Trận đấu này được biết đến nhờ cuộc điều tra được FIFA kêu gọi sau đó.
Trước trận đấu này, Bahrain cần ghi 9 bàn và thua trận tiếp theo trước để vượt qua Qatar và đi tiếp vào Vòng 4. Cuối cùng, Qatar có bàn gỡ hòa ở phút 83 nên trận đấu kết thúc với tỷ số 2–2 và do đó Qatar đi tiếp. của Bahrain.
Trước trận đấu
Bảng xếp hạng (bảng E) trước ngày thi đấu cuối cùng:
Trước trận đấu, Bahrain phải thắng với cách biệt 9 bàn mới có cơ hội đi tiếp.
Trước trận đấu, Indonesia đã thua cả 5 trận ở vòng loại, để thủng lưới 16 bàn.. Mâu thuẫn nội bộ trong Liên đoàn bóng đá Indonesia khiến họ ngăn cản tất cả cầu thủ Indonesia Super League thi đấu. Họ chỉ cử những cầu thủ chơi ở Indonesian Premier League, mặc dù các cầu thủ quốc gia Indonesia giỏi hơn và giàu kinh nghiệm hơn chơi ở Indonesia Super League. Indonesia được cho là có những cầu thủ thiếu kinh nghiệm thi đấu vì tình huống này.
Trước trận đấu này, trận thua kỷ lục của Indonesia là 9–0, trước , diễn ra vào năm 1974.
Trong 6 lần gặp nhau trước trận, mỗi đội thắng 2 trận và hòa 2 trận. Cả hai đội đã gặp nhau trước đó ở vòng này tại Sân vận động Gelora Bung Karno ở Jakarta (Indonesia), với chiến thắng 2–0 thuộc về Bahrain. Trước vòng loại, lần gặp nhau gần nhất giữa hai đội diễn ra trong khuôn khổ vòng bảng AFC Asian Cup 2007 vào ngày 10 tháng 7 năm 2007, khi đó Indonesia (đồng chủ nhà AFC Asian Cup 2007) thắng 2–1.
Tóm tắt trận đấu
Indonesia khởi đầu trận đấu với một đội hình thiếu kinh nghiệm, không có cầu thủ nào có trên 12 lần khoác áo đội tuyển quốc gia. Đây cũng là trận ra mắt quốc tế của 8 cầu thủ trong đội hình xuất phát của Indonesia (trừ Syamsidar, Irfan Bachdim và Ferdinand Sinaga).
Indonesia sớm nhận bàn thua khi thủ thành Syamsidar của họ phải nhận thẻ đỏ ngay trong 3 phút đầu tiên. Sau khi Bahrain thực hiện quả phạt đền, họ tiếp tục được hưởng tổng cộng 4 quả phạt đền trong trận đấu, trong đó có 3 quả trong hiệp một, mặc dù thủ môn vào sân thay người Indonesia Andi Muhammad Guntur đã cản phá được hai trong số đó.
Chi tiết trận đấu
Bài viết về trận đấu
Sau trận đấu, Indonesia kết thúc vòng 3 với thành tích chung cuộc tệ nhất trong số 20 đội thi đấu, không ghi được điểm nào trong vòng đấu và để thủng lưới tổng cộng 26 bàn thua. Bahrain cũng không vượt qua vòng loại với 2 trận thắng, 3 trận hòa và 1 trận thua.
Chú thích
Liên kết ngoài
Official match report at FIFA.com
Tham khảo
Bóng đá châu Á năm 2012
|
19852519
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A0u%20th%E1%BB%B1c%20ph%E1%BA%A9m
|
Màu thực phẩm
|
Màu thực phẩm hay màu phụ gia (tiếng Anh: food coloring) là những chất hóa học như thuốc nhuộm, sắc tố có khả năng tạo màu cho thực phẩm, giúp chúng trở nên đẹp và thu hút hơn. Chất tạo màu có thể ở dạng lỏng, bột hoặc gel. Ngoài đồ ăn, chúng cũng được sử dụng trong mỹ phẩm, dược phẩm, đồ thủ công và các thiết bị y tế. Màu thực phẩm có hai dạng là tự nhiên và nhân tạo/tổng hợp.
Sử dụng
Với con người, màu sắc có thể ảnh hưởng đến sự cảm nhận huơng vị của thực phẩm hay đồ uống, từ bánh, kẹo cho tới rượu vang. Thông thường, mục đích của thêm màu phụ gia là mô phỏng lại màu sắc mà người dùng coi nó là tự nhiên, ví dụ như thêm màu đỏ vào mứt anh đào. Trong một số trường hợp khác, thêm màu nhằm mục đích tạo hiệu ứng bất ngờ, như việc hãng Heinz ra mắt sốt cà chua màu xanh lá vào năm 2000 trong khi vốn dĩ nó màu đỏ. Dưới đây là một số công dụng của màu thực phẩm:
Làm món ăn trông ngon miệng, bắt mắt hơn
Bù đắp cho sự phai màu trong trường hợp thực phẩm tiếp xúc với ánh sáng, không khí, nhiệt độ, độ ẩm trong thời gian dài
Thay đổi màu sắc tự nhiên của sản phẩm
Thêm màu vào những đồ ăn vốn không có màu, giúp chúng trở nên thu hút
Tăng khả năng nhận dạng sản phẩm, ví dụ như hương vị kẹo hoặc liều lượng thuốc
Lịch sử
Việc sử dụng màu thực phẩm được cho là đã xuất hiện từ khoảng năm 1500 TCN tại Ai Cập, nơi mà những người làm kẹo thường thêm các loại chiết xuất phụ gia để tăng mỹ quan của sản phẩm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
FDA/CFSAN Food Color Facts
Natural Food Colors (Food-Info)
Report on the Certification of Color Additives by U.S. FDA
NATCOL: What are natural food colours?
CSPI: Food Dyes Pose Rainbow of Risks
Phụ gia thực phẩm
Màu thực phẩm
|
19852522
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bathygobius%20fuscus
|
Bathygobius fuscus
|
Bathygobius fuscus là một loài cá biển thuộc chi Bathygobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830.
Từ nguyên
Tính từ định danh fuscus trong tiếng Latinh có nghĩa là “sẫm màu”, hàm ý đề cập đến màu nâu đen khi mẫu vật của loài cá này ngâm trong alcohol.
Phân bố và môi trường sống
B. fuscus có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi trải dài về phía đông đến đảo Wake, quần đảo Line và quần đảo Gambier, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản và Hàn Quốc, phía nam đến Nam Phi và Úc (gồm cả đảo Norfolk). Ở Việt Nam, B. fuscus được ghi nhận tại quần đảo Cát Bà và vịnh Nha Trang.
B. fuscus xuất hiện chủ yếu ở các vùng biển ven bờ, ưa môi trường sống có cát và đá vụn với san hô mềm, tuy nhiên cũng có thể tìm thấy chúng ở cửa sông, và đôi khi tiến vào cả các dòng nước ngọt.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở B. fuscus là 12 cm. Thân màu nâu vàng với các vệt đốm nâu sẫm khắp cơ thể. Mỗi vảy có một chấm màu xanh lam nhạt, tạo thành hàng trên thân. Vây lưng và vây đuôi cũng có những chấm xanh. Dải vàng ở rìa vây lưng.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 8.
Sinh thái
Thức ăn của B. fuscus là động vật giáp xác, cá nhỏ hơn và tảo.
Ở các loài cá, việc lẻn thụ tinh với trứng của con cái là chiến thuật sinh sản phổ biến nhất của những con đực là "người thứ ba". Một nghiên cứu cho thấy, những cá thể B. fuscus đực là "người thứ ba" có nồng độ tinh trùng cao hơn trong tinh hoàn và sống lâu hơn so với tinh trùng của những cá thể đực "chủ nhà", mặc dù không phát hiện thấy sự khác biệt nào về kích thước tinh trùng. Điểm độc đáo của B. fuscus là cá đực đều tích tụ chất nhầy chứa tinh trùng lên tổ, từ đó tinh trùng trôi theo trong nước. Những đặc điểm này của những con đực lén lút góp phần nâng cao khả năng thụ tinh thành công của chúng.
Thương mại
B. fuscus không có giá trị thủy sản ở một số nơi (như Ấn Độ), nhưng đôi khi cũng được bán tươi ở các chợ cá (ở Campuchia).
Ở Việt Nam, B. fuscus đã được nuôi thành công.
Tham khảo
F
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá biển Đỏ
Cá Mozambique
Cá Nam Phi
Cá Madagascar
Cá Mauritius
Cá Maldives
Cá Thái Lan
Cá Campuchia
Cá Việt Nam
Cá Malaysia
Cá Singapore
Cá New Guinea
Cá Philippines
Cá Nhật Bản
Cá Hàn Quốc
Động vật được mô tả năm 1830
|
19852524
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wat%20Rong%20Khun
|
Wat Rong Khun
|
Wat Rong Khun (), còn được gọi là Chùa Trắng, là một ngôi chùa Phật giáo và là một trong những ngôi chùa dễ nhận biết nhất ở Pa O Don Chai, huyện Mueang, Chiang Rai, Thái Lan. Ngôi chùa nằm bên ngoài thị trấn Chiang Rai thu hút lượng lớn khách du lịch cả Thái Lan và khách nước ngoài, khiến nó trở thành địa điểm thu hút nhất Chiang Rai. Chùa Trắng được tạo ra bởi nghệ sĩ quốc gia Chalermchai Kositpipat, người đã thiết kế, xây dựng, và mở cửa đón khách du lịch vào năm 1997.
Phần cấu trúc chính của chùa được làm từ khung bê tông cơ bản và mái gỗ. Nhưng khi nhìn từ xa, nó dường như được chế tạo từ sứ lấp lánh, khi đến gần gơn, có thể thấy rõ hiệu ứng lấp lánh có được nhờ sự kết hợp giữa lớp sơn trắng và lớp tráng trong suốt. Bên ngoài được trang trí bằng thạch cao trắng và lớp kính tích hợp.
Lịch sử
Vào cuối thế kỷ 20th, Wat Rong Khun ban đầu trong tình trạng tồi tệ trong sửa chữa. Kinh phí không đủ để cải tạo. Chalermchai Kositpipat, một nghệ sĩ địa phương đến từ Chiang Rai, quyết định xây dựng hoàn toàn ngôi chùa và tài trợ cho dự án bằng tiền của chính mình. Đến nay, Chalermchai đã bỏ ra 1.080 triệu baht cho dự án. Nghệ sĩ dự tính khu vực xung quanh chùa sẽ trở thành trung tâm học tập và thiền. Kositpipat xem ngôi chùa là một lễ vật dang lên Đức Phật và tin rằng dự án sẽ mang lại cho anh cuộc sống bất tử. Ngày nay công việc đang được tiến hành, nhưng dự kiến sẽ không được hoàn thành cho đến năm 2070.
Du lịch
Công trình được mở cửa quanh năm. Quyên góp được chấp nhận tại đây, nhưng không được vượt quá 10.000 baht, Chalermchai từ chối chịu sự ảnh hưởng của các nhà tài trợ lớn.
Vé vào công là 100 baht cho khách địa phương và nước ngoài.
Hình ảnh
Xem thêm
Wat Phra That Doi Chom Thong
Wat Phra Kaew, Chiang Rai
Hsinbyume Pagoda – Chùa Trắng tại Myanmar
Le Palais idéal
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thư viện hình ảnh
Địa điểm du lịch Chiang Rai
Điêu khắc Thái Lan
Nghệ thuật đương đại Thái
|
19852532
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pa%20O%20Don%20Chai
|
Pa O Don Chai
|
Pa O Don Chai () là một tambon (phó huyện) của Mueang Chiang Rai, Chiang Rai, Thái Lan. Vào năm 2005 mật độ dân số tại đây là 9.849 người. Tambon bao gồm 21 xã.
Tham khảo
Tambon của tỉnh Chiang Rai
Khu dân cư ở tỉnh Chiang Rai
|
19852542
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/TCG%20Pirireis
|
TCG Pirireis
|
Hai tàu ngầm của Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ từng được đặt cái tên TCG Pirireis (S-343), theo tên Đô đốc Đế quốc Ottoman Piri Reis (khoảng 1465–1554), và là một người vẽ bản đồ nổi bật. Vì được đặt cùng một số hiệu lườn S-343, hai con tàu được phân biệt theo thứ tự hiện diện:
TCG Pirireis (1960) nguyên là được chuyển giao năm 1960 và phục vụ cho đến năm 1973
TCG Pirireis (1983) nguyên là , được chuyển giao năm 1980 và ngừng hoạt động năm 2004
Tên gọi tàu chiến Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ
|
19852544
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Menhaden
|
USS Menhaden
|
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Menhaden, theo tên loài cá mòi dầu:
là một tàu tuần tra và tàu kéo trong biên chế từ năm 1917 đến năm 1919
là một trong biên chế từ năm 1945 đến năm 1946 và từ năm 1951 đến năm 1971
Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
|
19852545
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20t%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Syria%202021
|
Bầu cử tổng thống Syria 2021
|
Bầu cử tổng thống Syria 2021 () được tổ chức vào ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại Syria. Đây là cuộc bầu cử tổng thống lần thứ hai kể từ khi kể từ khi Đảng Ba'ath cầm quyền vào năm 1963 và đất nước xảy ra nội chiến vào năm 2011. Tổng thống Bashar al-Assad giành tuyệt đối với tỷ lệ 95,19% phiếu bầu, hai ứng cử viên còn lại là Abdallah Saloum Abdallah và Mahmoud Ahmed Marei lần lượt giành 1,5% và 3,31% phiếu bầu. Với kết quả trên, Bashar al-Assad tái đắc cử nhiệm kỳ tổng thống lần thứ tư.
Tuy nhiên, cuộc bầu cử trên nhận được sự chỉ trích từ phương Tây và phe đối lập. Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức và Ý cáo buộc bầu cử thiếu tự do, công bằng và dân chủ, đồng thời không công nhận kết quả bầu cử; trong khi phe đối lập coi cuộc bầu cử mang tính chất trò hề.
Kết quả
Tham khảo
Syria năm 2021
Bầu cử năm 2021
Bầu cử ở châu Á năm 2021
Sự kiện tháng 5 năm 2021 ở châu Á
Bầu cử tổng thống Syria
Chính trị Syria thập niên 2020
|
19852547
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Blankenbach
|
Blankenbach
|
Blankenbach là một đô thị nằm ở huyện Aschaffenburg, vùng Hạ Franconia (Unterfranken) thuộc bang Bayern, Đức.
Tham khảo
Aschaffenburg (huyện)
|
19852548
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gro%C3%9Fostheim
|
Großostheim
|
Großostheim (hoặc Grossostheim) là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg, thuộc Regierungsbezirk Unterfranken, bang Bayern, Đức.
Tham khảo
Đọc thêm
Wolfgang Hartmann: 1200 Jahre Großostheim . Großostheim 1999
Frank Schmelz: Lineare humangene Gehölz- und Saumstrukturen im Bachgau (Gmde. Großostheim, Lkrs. Aschaffenburg) . Gießen 2001
Liên kết ngoài
Cổng thông tin lịch sử chính vùng Hạ Bavaria
Großostheim trong thời kỳ Quốc xã, tài liệu
|
19852549
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heigenbr%C3%BCcken
|
Heigenbrücken
|
Heigenbrücken là một đô thị nằm ở huyện Aschaffenburg, thuộc Regierungsbezirk Unterfranken, bang Bayern, Đức. Nơi đây có dân số khoảng 2.200 người.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của cộng đồng
Aschaffenburg (huyện)
|
19852550
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heimbuchenthal
|
Heimbuchenthal
|
Heimbuchenthal là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg, thuộc Regierungsbezirk Unterfranken, bang Bayern, Đức.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Aschaffenburg (huyện)
|
19852552
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heinrichsthal
|
Heinrichsthal
|
Heinrichsthal là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg, thuộc Regierungsbezirk Unterfranken, bang Bayern, Đức.
Tham khảo
Aschaffenburg (huyện)
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.