id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19851510
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ADt%20khu%20Long%20Nguy%C3%AAn
|
Mật khu Long Nguyên
|
Mật khu Long Nguyên là một khu vực địa lý của Việt Nam Cộng hòa, nơi có rừng rậm nằm giữa Quốc lộ 13 và đồn điền cao su Michelin, cách Sài Gòn khoảng về phía tây bắc, thuộc tỉnh Bình Dương, từng là nơi trú ẩn của mấy sư đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN).
Đây là nơi diễn ra nhiều hoạt động quân sự trong Chiến tranh Việt Nam, bao gồm Chiến dịch Bushmaster II và Chiến dịch Shenandoah II.
Tham khảo
Chiến khu Việt Nam
Chiến tranh Việt Nam
Chiến trường Việt Nam
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
Địa danh trong Chiến tranh Việt Nam
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
Căn cứ địa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
|
19851511
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ADt%20khu%20M%C3%A2y%20T%C3%A0o
|
Mật khu Mây Tào
|
Mật khu Mây Tào nằm ở dãy núi Mây Tào của Việt Nam Cộng hòa, một khu vực có rừng rậm nằm ở ngã tư các tỉnh Long Khánh, Phước Tuy và Bình Tuy, từng là nơi trú ẩn của mấy sư đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN). Khu vực này còn là nơi đặt tổng hành dinh của Sư đoàn 5 và Trung đoàn 275 QGPMNVN.
Đây là địa điểm diễn ra nhiều chiến dịch quân sự của Mỹ, Úc và New Zealand trong Chiến tranh Việt Nam.
Tham khảo
Chiến khu Việt Nam
Chiến tranh Việt Nam
Chiến trường Việt Nam
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
Địa danh trong Chiến tranh Việt Nam
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
Căn cứ địa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
|
19851514
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lo%E1%BA%A1i%20b%E1%BB%8F%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20ti%E1%BB%87n%20giao%20th%C3%B4ng%20d%C3%B9ng%20nhi%C3%AAn%20li%E1%BB%87u%20h%C3%B3a%20th%E1%BA%A1ch
|
Loại bỏ phương tiện giao thông dùng nhiên liệu hóa thạch
|
Các phương tiện giao thông chạy bằng nhiên liệu hóa thạch, chẳng hạn như xăng, dầu diesel, dầu hỏa và dầu mazut, đã được nhiều quốc gia lên kế hoạch loại bỏ dần. Loại bỏ phương tiện giao thông dùng nhiên liệu hóa thạch là một trong ba chương trình quan trọng nhất của quá trình loại bỏ nhiên liệu hóa thạch nói chung, hai chương trình còn lại là loại bỏ nhà máy điện dùng nhiên liệu hóa thạch để sản xuất điện và khử cacbon trong công nghiệp.
Nhiều quốc gia và thành phố trên thế giới tuyên bố họ sẽ cấm bán các phương tiện chở khách (chủ yếu là ô tô và xe buýt) chạy bằng nhiên liệu hóa thạch theo một lộ trình đã được lập kế hoạch. Dẫn đầu là Na Uy với 82,38% xe bán mới là xe điện vào năm 2023 và trên lộ trình 100% xe bán mới không phát thải vào 2025. Các kế hoạch này còn được nhắc đến bằng các từ ngữ như "cấm xe xăng", "cấm xe xăng dầu", hoặc "cấm diesel".
Một phương pháp loại bỏ dần phương tiện gây phát thải khác là sử dụng các vùng không phát thải ở các thành phố.
Bên cạnh phương tiện chở khách, một số nơi cũng đã ấn định ngày cấm tàu biển và xe tải chạy bằng nhiên liệu hóa thạch.
Bối cảnh
Có nhiều lý do để tiến đến cấm bán và lưu hành các phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch: giảm rủi ro sức khỏe từ các hạt ô nhiễm, đặc biệt là PM10 của động cơ diesel và các khí thải khác, đặc biệt là nitơ oxide; đáp ứng các mục tiêu về khí nhà kính quốc gia, chẳng hạn như CO2, theo các thỏa thuận quốc tế như Nghị định thư Kyoto và Thỏa thuận chung Paris; hoặc đảm bảo an ninh năng lượng cho quốc gia. Một nghiên cứu vào năm 2021 của Đại học Harvard ước tính khoảng 8 triệu người chết sớm mỗi năm do ô nhiễm gây ra bởi nhiên liệu hóa thạch, nhiều hơn tổng số người chết do các cuộc chiến tranh đương đại, do tội phạm có vũ trang, và do thuốc lá cộng lại. Chỉ cần 37% xe ở Trung Quốc là xe điện cũng có thể cứu được 15.000 người chết sớm vì ô nhiễm không khí mỗi năm. Thực thi việc cấm các phương tiện chạy bằng nhiên liệu hóa thạch đơn giản hơn so với thuế carbon hoặc loại bỏ nhiên liệu hóa thạch một cách tổng thể.
Ngành công nghiệp ô tô đang nỗ lực giới thiệu các loại xe điện để thích ứng với các lệnh cấm. Một nghiên cứu năm 2020 của Đại học Công nghệ Eindhoven cho thấy lượng khí thải trong quá trình sản xuất pin của ô tô điện mới nhỏ hơn nhiều so với giả định trong nghiên cứu IVL năm 2017 (khoảng 75 kg CO2/kWh) và tuổi thọ của pin li-ion cũng dài hơn nhiều so với suy nghĩ trước đây (ít nhất 12 năm với quãng đường 15.000 km hàng năm). Tính cả vòng đời sử dụng, từ khâu khai thác nguyên liệu, sản xuất, đến lúc dùng hết khấu hao, ô tô điện phát thải ít hơn ô tô chạy bằng dầu diesel hoặc xăng cùng phân khúc.
Có một số ý kiến cho rằng chỉ chuyển từ ô tô chạy bằng nhiên liệu hóa thạch sang ô tô điện vẫn đòi hỏi một tỷ lệ lớn đất đô thị dành cho ô tô. Việc sử dụng các loại phương tiện (điện) chiếm ít không gian, chẳng hạn như xe đạp, xe máy điện, hoặc thậm chí đi bộ trên những khoảng cách ngắn, đặc biệt là ở khu vực thành thị, sẽ giúp loại bỏ đường và bãi đậu xe cho ô tô, đồng thời cải thiện cơ sở hạ tầng và lối đi dành cho xe đạp (bao gồm cả vỉa hè). Mặc dù vẫn còn rất ít thành phố hoàn toàn không có ô tô (chẳng hạn như Venice), một số thành phố đang cấm tất cả ô tô ở một số khu vực.
Kế hoạch
Quốc tế
Tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc năm 2021 được tổ chức tại Glasgow, nhiều chính phủ và công ty đã ký một tuyên bố không ràng buộc về mặt pháp lý nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang ô tô và xe tải van không phát thải, gọi là Tuyên bố Glasgow. Tuyên bố này nêu lên mục tiêu tất cả ô tô và xe tải van mới không thải ra bất kỳ loại khí nhà kính nào ở ống xả vào năm 2035 tại các thị trường hàng đầu và đến năm 2040 trên toàn cầu. Mỹ và Trung Quốc (thị trường ô tô lớn nhất) và Đức (thị trường ô tô lớn nhất EU) không ký vào Tuyên bố này. Cũng vắng mặt trong danh sách ký kết còn có các nhà sản xuất ô tô lớn là Volkswagen, Toyota, Renault-Nissan và Hyundai-Kia.
Liên minh Châu Âu
Năm 2018, Đan Mạch đề xuất lệnh cấm trên toàn EU đối với ô tô chạy xăng và dầu diesel, nhưng đề xuất này bị cho là trái với quy định của EU. Vào tháng 10 năm 2019, Đan Mạch cập nhật đề xuất, với lộ trình loại bỏ dần phương tiện sử dụng nhiên liệu hóa thạch ở các quốc gia thành viên vào năm 2030 và được 10 quốc gia thành viên EU khác ủng hộ. Vào tháng 7 năm 2021, Pháp phản đối lệnh cấm ô tô chạy bằng động cơ đốt và đặc biệt là xe hybrid. Tuy nhiên, cùng thời gian này, Ủy ban Châu Âu đã đề xuất giảm 100% lượng khí thải đối với ô tô và xe tải van bán mới kể từ năm 2035. Vào ngày 8 tháng 6 năm 2022, Nghị viện Châu Âu đã bỏ phiếu ủng hộ đề xuất của Ủy ban Châu Âu, nhưng cần phải có thỏa thuận với các quốc gia thành viên Liên minh Châu Âu trước khi luật cuối cùng có thể được thông qua. Vào ngày 22 tháng 6 năm 2022, Bộ trưởng Tài chính Đức Christian Lindner tuyên bố rằng chính phủ của ông sẽ không đồng ý với lệnh cấm. Nhưng vào ngày 29 tháng 6 năm 2022, sau 16 giờ đàm phán, tất cả các bộ trưởng khí hậu của 27 quốc gia thành viên EU đã đồng ý với đề xuất của ủy ban (một phần của gói 'Fit for 55') để cấm bán xe đốt trong mới vào năm 2035 (thông qua '[triển khai] mục tiêu giảm 100% lượng khí thải CO2 vào năm 2035 đối với ô tô và xe tải van mới'). Luật "không phát thải CO2 cho ô tô và xe tải van mới vào năm 2035" đã được Nghị viện Châu Âu thông qua vào ngày 14 tháng 2 năm 2023.
Các quốc gia
Các thành phố và vùng lãnh thổ
Các nhà sản xuất
Đường sắt
Hoạt động điện hóa đường sắt đã diễn ra vì nhiều lý do không hẳn liên quan đến phát thải khí nhà kính, tuy vậy đầu thế kỷ 21 chứng kiến sự tăng tốc trong việc thay thế các đầu máy diesel bằng BEMU, hoặc đầu máy dùng nhiên liệu hydro, như Alstom Coradia iLint, hoặc đầu máy chạy điện dùng đường cấp điện trên không. Đến nay, Thụy Sĩ đã có toàn bộ đường sắt điện hóa, do khó khăn trong nhập khẩu than cho đầu máy hơi nước trong các cuộc chiến tranh, trong khi đất nước này có nhiều nhà máy thủy điện. Đường sắt Israel đang có kế hoạch điện hóa phần lớn hoặc toàn bộ mạng lưới. Ở California, chương trình Điện hóa Caltrain đã được phê duyệt năm 2016 và sẽ hoàn thành vào 2024.
Đường biển
Tại vùng biển di sản thế giới Geirangerfjord và Nærøyfjord ở Na Uy, các tàu bè đi qua không được phép phát thải từ 2026.
Các loại tàu thuyền không phát thải đã được nghiên cứu triển khai gồm loại dùng động cơ điện chạy pin và loại sử dụng động cơ tàu biển hạt nhân. Động cơ hạt nhân đã được sử dụng bởi hải quân nhiều nước, trong các tàu ngầm hạt nhân và tàu sân bay hạt nhân. Một số tàu phá băng hạt nhân cho mục đích dân dụng cũng đã được vận hành, như tàu Otto Hahn (Đức) NS Savannah (Hoa Kỳ), RV Mirai (Nhật Bản), tuy nhiên hiện nay chỉ còn tàu Sevmorput của Nga, chế tạo bởi Liên Xô vào những năm 1980, đang hoạt động cho mục đích phi quốc phòng. Liên Xô, và nay là Nga, cũng có một hạm đội tàu phá băng hạt nhân cho mục đích quốc phòng, hoạt động để duy trì thông thuyền cho Tuyến Biển Bắc. Thuyền buồm và thuyền mái chèo sử dụng nguồn năng lượng gió hoặc năng lượng sức người đã bị loại bỏ qua dòng phát triển của lịch sử, do tốc độ chậm và tốn nhân lực. Tuy nhiên, cũng có một số thử nghiệm phát triển các loại tàu thuyền năng lượng gió mới. Các du thuyền hoạt động bằng năng lượng mặt trời và nhiên liệu hydro cũng đã được thử nghiệm.
Đường không
Na Uy, và có thể các quốc gia Scandinavia khác, đang lên mục tiêu các chuyến bay nội địa không phát thải từ 2040.
Một trở ngại cho việc giảm phát thải ngành hàng không nằm ở mật độ năng lượng của công nghệ pin. Do đó, bên cạnh việc phát triển máy bay điện, cũng có đầu tư vào nhiên liệu hàng không bền vững, hoặc nhiên liệu điện tử (e-fuel) được sản xuất bằng quá trình điện hóa để tổng hợp nước và carbon dioxide thành hydrocarbon, thay thế nhiêu liệu hóa thạch.
Năm 2021, nhà máy e-fuel cho hàng không đã được vận hành ở Đức. Công suất sẽ đạt 8 thùng mỗi ngày vào 2022. Lufthansa sẽ là khách hàng chính của nhà máy này. Chiến lược phát thải ròng bằng không cho ngành hàng không Đức phụ thuộc nhiều vào e-fuel. Sản lượng e-fuel hiện nay còn nhỏ, và cần được nhanh chóng mở rộng; giá thành e-fuel còn cao, và hiện chưa có chính sách giá carbon hiệu quả cho ngành hàng không. Quy định hiện tại của CORSIA chỉ yêu cầu nhiên liệu hàng không bền vững phát thải không quá 90% so với nhiên liệu hóa thạch, khiến cho mục tiêu trung hòa carbon còn xa vời.
Đã có thử nghiệm máy bay hạt nhân trong Chiến tranh Lạnh, nhưng chưa có kết quả. Hiện nay, các chuyến bay ngắn có thể vận hành bằng máy bay điện, và nhiều nhà sản xuất đang nhắm đến thị trường taxi bay. Heart Aerospace đang lên kế hoạch cung cấp máy bay điện cho United Airlines vào năm 2026.
Xử lý phương tiện cũ
Đã xuất hiện thị trường buôn xe xăng dầu cũ từ Tây Âu sang Đông Âu, các nước Kavkaz, Trung Á và Châu Phi. Theo UNECE, tổng số phương tiện giao thông đường bộ sẽ tăng từ 1,2 tỷ năm 2020 lên 2,5 tỷ năm 2050, trong đó đa phần xe mua mới ở các nước phát triển. Số phương tiện ở các nước đang phát triển sẽ tăng khoảng 4 đến 5 lần từ 2020 đến 2050, đa phần sẽ là xe cũ được mua lại. Hiện chưa có thỏa thuận quốc tế hoặc khu vực nào điều tiết dòng xe cũ này. Riêng xe điện 2 bánh có thể được tiêu thụ mới ở các nước đang phát triển, nhờ giá rẻ.
Các xe động cơ đốt trong cũ không còn thỏa mãn quy định phát thải của các nước phát triển sẽ được xuất sang các nước đang phát triển, những nơi yêu cầu phát thải nới lỏng hơn. Tại một số nước đang phát triển, như Uganda, tuổi đời của xe nhập khẩu đã đang là 16,5 năm, và chúng sẽ còn được sử dụng tiếp khoảng 20 năm nữa. Hiệu suất nhiên liệu của những xe đó sẽ ngày càng kém khi chúng ngày càng trở nên cũ.
Một số giải pháp đã được đề xuất để giảm phát thải của lượng xe cũ:
Cấm xuất khẩu: Có đề xuất rằng Liên minh Châu Âu có thể quy định không cho xe phát thải cao rời EU. EU có thể sẽ xem xét lại các quy định quản lý việc vận chuyển và xuất khẩu rác thải, bao gồm xe cũ.
Cấm nhập khẩu: Có đề xuất ở nhiều quốc gia, bao gồm quốc gia đang phát triển, về việc cấm nhập khẩu xe cũ quá một ngưỡng tuổi thọ, tăng thuế hoặc phí đăng kiểm, tăng điều kiện đăng kiểm với xe cũ nhập khẩu.
Chuyển đổi xe cũ sang xe điện: Nhiều nhà sưu tập xe cổ đang có xu hướng chuyển đổi chúng sang sử dụng động cơ điện.
Quy định tái chế: Ủy ban Châu Âu đang xem xét kế hoạch bắt buộc tái chế ít nhất là một số thành phần của xe cũ, như vật liệu, pin. EU đã công bố Kế hoạch Hành động Kinh tế Tuần hoàn vào tháng 3 năm 2020, có nhắc đến việc xem xét lại Chỉ thị về Xe hết hạn để kích thích phát triển kinh tế tuần hoàn.
Chương trình tiêu hủy: các chính phủ có thể cung cấp các khoản trợ cấp, hoặc tín dụng, cho các chủ xe tự nguyện tiêu hủy xe động cơ đốt trong cũ và chuyển đổi sang xe mới sạch hơn. Ví dụ, thành phố Gent tặng 1000 € cho mỗi xe dầu tiêu hủy và 750 € cho mỗi xe xăng tiêu hủy; và đến tháng 12 năm 2019, đã có quỹ 1,2 tỷ € cho việc này.
Xem thêm
Loại bỏ nhiên liệu hóa thạch
Xe chạy điện
Xe hybrid
Xe hydro
Di chuyển thông minh
Cấm bay chặng ngắn
Chú thích
Tham khảo
Loại bỏ nhiên liệu hóa thạch
Phương tiện giao thông dùng điện
Thay đổi công nghệ
Giao thông thập niên 2020
Nhiên liệu hóa thạch
Danh sách liên quan đến sức khỏe
Biến đổi năng lượng
Công nghệ năng lượng tái tạo
Dự trữ năng lượng
Năng lượng trong giao thông
Kinh tế năng lượng
Khủng hoảng năng lượng
Danh sách kinh tế
Danh sách liên quan đến công nghệ
Phát triển bền vững
Tác động của biến đổi khí hậu
Carbon
Kinh tế học bền vững
Phát triển năng lượng
Chạy đua công nghệ
Công nghệ lỗi thời
Giảm thiểu biến đổi khí hậu
en:Phase-out of fossil fuel vehicles
|
19851518
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hacienda%20%28khu%20ngh%E1%BB%89%20d%C6%B0%E1%BB%A1ng%29
|
Hacienda (khu nghỉ dưỡng)
|
Hacienda từng là một khách sạn kiêm sòng bạc hoạt động từ năm 1956 đến 1996 trên Dải Las Vegas. Nơi đây thuộc sở hữu của Warren Bayley, chủ chuỗi Hacienda tại California. Tháng 6 năm 1956, Hacienda chào đón du khách với 266 phòng nghỉ sang trọng và hồ bơi - lớn nhất Las Vegas thời bấy giờ. Tuy nhiên, sòng bạc dự kiến đi kèm phải trì hoãn ra mắt do tranh cãi về vấn đề quản lý. Cuối cùng, vào ngày 17 tháng 10 năm 1956, sòng bạc chính thức hoạt động, góp phần đưa Hacienda trở thành điểm đến sôi động thu hút du khách.
Hacienda tọa lạc tại vị trí đắc địa, nằm ở đầu phía nam của Dải Las Vegas. Nhờ lợi thế này, Hacienda trở thành khu nghỉ dưỡng đầu tiên mà du khách từ California nhìn thấy khi lái xe đến thành phố. Vào thời điểm đó, Hacienda còn khá biệt lập so với các khu nghỉ dưỡng khác, tọa lạc cách xa khu vực sầm uất. Chính vì vị trí độc đáo này mà phần lớn du khách đều chọn lưu trú tại đây thay vì các khu nghỉ dưỡng khác. Hacienda cũng là khu nghỉ dưỡng đầu tiên ở Las Vegas hướng đến khách hàng gia đình. Nơi đây còn tiên phong khai thác dịch vụ đưa đón khách từ ngoài tiểu bang bằng máy bay vào năm 1962.
Năm 1964, sau khi ông Bayley qua đời, bà Judy Bayley - vợ ông - đã tiếp quản Hacienda. Bà trở thành người phụ nữ đầu tiên và duy nhất điều hành một sòng bạc tại Las Vegas vào thời điểm đó. Sau khi bà Judy qua đời vào năm 1971, khu nghỉ dưỡng được bán cho một nhóm nhà đầu tư. Họ đã xây dựng thêm một bãi đậu xe dành cho xe RV để đáp ứng nhu cầu của du khách. Năm 1977, Paul Lowden - một trong những chủ sở hữu trước đây - đã mua lại toàn bộ Hacienda. Bắt đầu từ thập niên 70, Hacienda tổ chức nhiều chương trình trượt băng và sau đó là màn trình diễn ảo thuật kéo dài 5 năm của Lance Burton. Năm 1979, nhà thờ nhỏ phía Tây được di dời đến khu đất của Hacienda. Hai tòa tháp khách sạn 11 tầng được xây dựng vào năm 1980 và 1991, nâng tổng số phòng lên 1.137.
Năm 1995, tập đoàn Circus Circus Enterprises mua lại Hacienda với dự định xây dựng một khu nghỉ dưỡng mới tại vị trí này. Hacienda chính thức đóng cửa vào ngày 1 tháng 12 năm 1996. Cuối tháng đó, khách sạn bị phá hủy bằng cách cho nổ tung trong một chương trình truyền hình đặc biệt chào đón năm mới. Các phần còn lại của khách sạn được dỡ bỏ hoàn toàn vào tháng 1 năm 1997. Tập đoàn Circus Circus Enterprises khai trương khu nghỉ dưỡng Mandalay Bay trên khu đất này vào năm 1999. Tên Hacienda được sử dụng cho một cơ sở kinh doanh khác, Khách sạn và Sòng bạc Hacienda, tọa lạc gần Thành phố Boulder, Nevada. Biển hiệu ngựa neon của Hacienda được bảo tồn và trưng bày tại trung tâm thành phố Las Vegas.
Lịch sử
Xây dựng và khai trương
Ban đầu Hacienda mang tên Lady Luck, là dự án khách sạn-sòng bạc do Carlton Adair đề xuất năm 1954. Adair hợp tác với Stanley Burke (chủ đất) và Warren "Doc" Bayley (chủ chuỗi nhà nghỉ Hacienda). Theo thỏa thuận, Adair quản lý sòng bạc, Burke sở hữu đất đai và tòa nhà, còn Bayley phụ trách khách sạn . Các chủ sở hữu dự kiến hoàn thành dự án trước khi khu nghỉ dưỡng Tropicana khai trương.
Dự án Lady Luck được Ủy ban Kế hoạch Quận Clark thông qua vào tháng 1 năm 1955 và bắt đầu xây dựng vào cuối năm đó . Tuy nhiên, do thiếu nguồn vốn đầu tư, dự án gặp khó khăn khi mới thi công được một nửa. Bayley đã tiếp quản dự án, đổi tên thành Hacienda và loại bỏ Adair khỏi danh sách đối tác. Sau đó, chỉ còn lại Bayley và Burke hợp tác với nhau. Bayley đồng ý thuê khu đất với giá 55.000 USD mỗi tháng trong 15 năm.
Kiến trúc sư Homer A. Rissman là người thiết kế Hacienda theo phong cách phổ biến tại Las Vegas thời bấy giờ, bao gồm tòa nhà trung tâm cho sòng bài, nhà hàng và các dãy nhà trọ. Rissman thiết kế các dãy nhà trọ nối liền với sòng bài bằng hành lang kính. Ban đầu, Hacienda có nhà hát ăn uống 300 chỗ ngồi. Tuy nhiên, do chi phí cho nghệ sĩ biểu diễn cao, chủ sở hữu quyết định chuyển đổi không gian thành nơi tổ chức hội nghị thay vì giải trí trực tiếp, và cung cấp dịch vụ giải trí trong phòng khách sạn.
Hacienda mở cửa khu khách sạn vào tháng 6 năm 1956. Do thiếu kinh nghiệm quản lý sòng bài, Bayley và Burke hợp tác với nhà đầu tư Jake Kozloff. Tuy nhiên, dự án gặp rào cản khi bị từ chối cấp phép vì Kozloff. Sau khi Kozloff rút lui, Hacienda được cấp phép và sòng bài bắt đầu hoạt động vào ngày 17 tháng 10 năm 1956. Với vốn đầu tư 6 triệu USD, Hacienda sở hữu 266 phòng và hồ bơi lớn nhất dải Las Vegas. Giống như các khách sạn Hacienda khác, khách sạn tại Las Vegas có biển hiệu đèn neon mô tả hình ảnh cao bồi cưỡi ngựa palomino, do YESCO thiết kế và trở thành một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của công ty.
Nằm ở đầu phía nam Dải Las Vegas, Hacienda là khu nghỉ dưỡng đầu tiên du khách từ California nhìn thấy. Vị trí biệt lập, bao quanh bởi sa mạc khiến nhiều người dự đoán Hacienda sẽ thất bại. Tuy nhiên, khu nghỉ dưỡng lại phát triển mạnh mẽ trong nhiều năm nhờ vị trí xa xôi, thu hút du khách lưu trú thay vì di chuyển đến các nơi khác. Hacienda cũng nổi tiếng nhờ vị trí gần Sân bay Quốc tế McCarran. Tuy nhiên, nơi đây chưa bao giờ đạt được thành công như các khu nghỉ dưỡng khác trên Dải như Dunes và Sands.
Năm 1957, chỉ vài tháng sau khi Hacienda chính thức đi vào hoạt động, Kozloff đã đệ đơn kiện lên tòa án, yêu cầu Hacienda thanh toán khoản nợ 71.000 USD từ khoản vay mua tài sản trước đây. Ba tháng sau đó, Burke tiếp tục đưa ra nhiều cáo buộc chống lại Bayley, đồng thời yêu cầu tòa án chuyển Hacienda vào quyền quản lý của mình. Bayley phản bác lại tất cả những cáo buộc này, trong đó có việc ông ta đã sử dụng sai mục đích nguồn vốn của Hacienda. Cuối năm 1957, bất chấp những tranh chấp đang diễn ra, kế hoạch xây dựng thêm phòng khách sạn tại Hacienda vẫn được triển khai.
Chiêu thị
Bayley liên tục sáng tạo để thu hút du khách. Ông thành lập Hacienda Airlines, cung cấp gói dịch vụ trọn gói từ Los Angeles đến Hacienda, bao gồm vé máy bay, phòng nghỉ và chip đánh bạc. Dịch vụ này thành công vang dội nhờ giá rẻ, quảng cáo rầm rộ và hướng đến khách bình dân. Sau đó, dịch vụ được mở rộng toan quốc. Hãng sử dụng 30 chiếc máy bay DC-3, DC-4 và Lockheed Constellations. Một điểm độc đáo là một chiếc máy bay có quầy bar piano với màn trình diễn âm nhạc của nam diễn viên Dick Winslow trong suốt chuyến bay . Hành khách còn được phục vụ rượu sâm panh và chiêm ngưỡng màn trình diễn nội y của các nữ tiếp viên hàng không trẻ đẹp, thu hút đông đảo du khách nam giới. Đến cuối năm 1960, Hacienda đã đón 150.000 du khách và trở thành nhà tiêu thụ rượu sâm panh California lớn nhất.
Năm 1962, Ủy ban Hàng không Dân dụng (CAB) ra lệnh đóng cửa các chuyến bay đến Hacienda. CAB cáo buộc khu nghỉ dưỡng này hoạt động như một hãng hàng không chở khách mà không có giấy phép. Hacienda phủ nhận điều này, khẳng định khách được miễn phí vé máy bay và chỉ thanh toán cho phòng ốc và thức ăn. Tuy nhiên, CAB cho rằng việc khách trả tiền trước khi lên máy bay về bản chất là mua vé máy bay.
Khu nghỉ dưỡng còn triển khai chương trình khuyến mãi "Hacienda Holiday" dành cho du khách, tặng kèm thẻ đánh bạc trị giá 10 USD trong gói dịch vụ trọn gói 16 USD. Năm 1958, hội đồng cấp phép của Quận Clark yêu cầu Hacienda tạm dừng chương trình này vì các thẻ chip có thể đổi lấy tiền mặt tại sòng bạc. Hội đồng cho phép sử dụng thẻ chip cho các dịch vụ khác, nhưng phản đối việc sử dụng trong sòng bạc vì lo ngại sẽ thúc đẩy hoạt động cờ bạc. Chương trình khuyến mãi này được duy trì trong ít nhất 20 năm sau đó và đổi tên thành Lễ hội Champagne Hacienda.
Hacienda tài trợ cho một kỷ lục bay ấn tượng vào cuối năm 1958. Hai phi công thay phiên nhau lái chiếc Cessna 172 bay qua vùng Tây Nam Hoa Kỳ trong 64 ngày liên tục. Tuy nhiên, chiến dịch quảng bá không đạt hiệu quả như mong muốn. Phải đến 30 ngày sau khi máy bay cất cánh, báo chí mới đưa tin về sự kiện này và họ cố tình không đề cập đến Hacienda. Dick Taylor, tổng giám đốc của Hacienda, cho biết: "Khi phát hiện ra sự gian lận, các tờ báo đã làm theo đúng nghĩa vụ của họ. Họ xóa tên Hacienda khỏi mọi bài báo, thậm chí xóa cả dòng chữ tên Hacienda được sơn rất lớn trên thân máy bay."
Thay đổi quyền sở hữu
Năm 1964, ông Bayley qua đời vì chứng bệnh nhồi máu cơ tim, để lại khu nghỉ dưỡng Hacienda cho người vợ góa Judith Bayley. Bà trở thành người phụ nữ duy nhất điều hành sòng bạc tại Las Vegas thời bấy giờ, được mệnh danh là "Đệ nhất phu nhân cờ bạc". Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm kinh doanh, bà gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý sòng bài và liên tục thua lỗ hàng trăm đô la trong những tháng đầu tiên. Dưới sự lãnh đạo của bà, Hacienda tập trung vào các dịch vụ giải trí dành cho gia đình như trò chơi shuffleboard và dịch vụ giữ trẻ. Phòng chờ Jewel Box được cải tạo và mở cửa trở lại vào năm 1965, tiếp theo là phòng chơi keno. Thị trưởng Las Vegas Oran Gragson đã tham dự cả hai sự kiện khai trương . Tuy nhiên, một ủy viên quận đã phản đối việc bổ sung trò chơi keno vì lo ngại nó sẽ tạo ra bầu không khí ồn ào náo nhiệt giống như khu vực Phố Fremont. Năm 1966, Ủy ban Quận Clark đe dọa đóng cửa Hacienda nếu bà Bayley không cải thiện khu nghỉ dưỡng mà công ty của bà đang xây dựng tại Mount Charleston.
Năm 1970, bà Bayley quyết định bán hết các khách sạn ở California, trừ một khách sạn ở El Segundo, để tập trung phát triển Las Vegas Hacienda. Tháng 12 năm 1971, bà Judy Bayley qua đời vì ung thư, hưởng thọ 56 tuổi. Tài sản của bà được chia cho trợ lý Joan Rashbrook và luật sư Calvin Magleby. Vài tuần sau, Magleby thông báo American Mining and Smelting Inc. sẽ mua lại Hacienda và dự kiến sẽ mở rộng, cải tạo khu nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, thương vụ này không thành. Cuối năm 1972, Hacienda được bán với giá 5 triệu USD cho một nhóm đầu tư gồm Allen R. Glick, Paul Lowden và Eugene Fresch. Lowden góp 250.000 USD để sở hữu 15% cổ phần của khu nghỉ dưỡng và đồng thời đảm nhiệm vị trí giám đốc giải trí.
Hacienda bắt đầu xây dựng Travel World vào năm 1973. Travel World là một khu công viên dành cho du khách sử dụng xe nhà lưu trú (RV) ngay cạnh khu nghỉ dưỡng. Năm 1974, Hacienda trở thành một phần của Argent Corporation, công ty do Allen R. Glick sở hữu và điều hành. Fresch và Lowden vẫn giữ lại một phần quyền lợi trong khu nghỉ dưỡng. Khu công viên RV Travel World chính thức mở cửa vào năm 1975 với 452 chỗ đỗ xe. Đây là một phần trong dự án cải tạo trị giá 7 triệu USD của Hacienda. Năm 1976, Argent tuyên bố bán Hacienda với giá 21 triệu USD cho doanh nhân Joseph Gennitti đến từ Hawaii. Gennitti cũng sẽ chịu trách nhiệm thanh toán khoản nợ hơn 11 triệu USD của khu nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, thỏa thuận này đã bị hủy bỏ do Gennitti không cung cấp cho Glick thông tin chi tiết về nguồn tài chính cho việc mua bán. Sau đó, hai nhóm đầu tư khác nhau đã bắt đầu đàm phán để mua lại Hacienda. Cuối năm 1976, các nhà điều tra tiểu bang phát hiện ra rằng tiền đã được chuyển từ các máy đánh bạc tại các sòng bạc của Glick, bao gồm cả Hacienda.
Tháng 1 năm 1977, Ông Paul Lowden, chủ tịch khách sạn Hacienda, đã mua lại toàn bộ phần lợi ích còn lại của khu nghỉ dưỡng từ Argent và Fresch với giá 21 triệu USD. Để huy động vốn cho thương vụ này, ông Lowden đã hợp tác với một số cá nhân khác. Tuy nhiên, Ban kiểm soát trò chơi Nevada nghi ngờ ông Lowden gian dối và cáo buộc rằng những người có hồ sơ không minh bạch sẽ âm thầm nắm quyền kiểm soát Hacienda thông qua ông. Ông Lowden phủ nhận cáo buộc này và khẳng định mình là người mua duy nhất. Ban kiểm soát đề nghị phản đối thương vụ mua bán, nhưng Ủy ban trò chơi Nevada đã bác bỏ đề xuất này. Chủ tịch ủy ban Harry Reid cho biết không có bằng chứng nào chứng minh cho cáo buộc của Ban kiểm soát, đồng thời chỉ trích các cơ quan kiểm toán "không làm tốt công việc điều tra". Thương vụ mua bán được hoàn tất vào tháng 7 năm 1977.
Từ năm 1978, khách sạn Hacienda bắt đầu cung cấp dịch vụ chia sẻ thời gian cho các phòng và dãy phòng cao cấp. Chương trình này thu hút 3.000 thành viên chỉ sau hai năm triển khai. Hacienda cũng hợp tác với Resort Condominiums International, một mạng lưới trao đổi giúp chủ sở hữu chia sẻ thời gian đổi chác căn hộ của họ với nhau. Năm 1979, nhà thờ nhỏ Western Chapel được di dời từ vị trí xa hơn về phía bắc dải Las Vegas đến khu đất của Hacienda để nhường chỗ cho Trung tâm Triển lãm Thời trang mới. Đến năm 1980, Hacienda sở hữu quán bít tết nổi tiếng The Charcoal Room. Cùng năm, Hacienda khởi công dự án mở rộng trị giá 30 triệu USD dự kiến hoàn thành vào cuối năm. Dự án bao gồm tòa tháp 11 tầng với 300 phòng, nâng tổng số phòng của khách sạn lên 538 phòng. Ngoài ra, trung tâm hội nghị Matador Arena rộng 22.000 mét vuông cũng được xây dựng. Matador Arena không chỉ phục vụ các hội nghị mà còn tổ chức các trận đấu quyền anh chuyên nghiệp được truyền hình hàng tháng.
Cuối năm 1982, ca sĩ Wayne Newton đã thảo luận về việc trở thành đồng sở hữu của hai khu nghỉ dưỡng Hacienda và Sahara trên dải Las Vegas cùng với Paul Lowden, chủ sở hữu của chúng. Tuy nhiên, sau hai tháng đàm phán, Newton đã từ bỏ ý định này vì đang cân nhắc mua lại các khu nghỉ dưỡng khác. Vào giữa thập niên 1980, khu công viên dành cho xe cắm trại mang tên Hacienda Adventure Camperland đã đi vào hoạt động . Khu công viên rộng 6,5 ha này bao gồm 451 khu cắm trại, một hồ bơi và sân chơi. Năm 1989, Lowden công bố kế hoạch trị giá 30 triệu USD để xây dựng thêm một tòa tháp 400 phòng và mở rộng sòng bạc. Tòa tháp được hoàn thành vào năm 1991, nâng tổng số phòng lên 1.137 phòng. Việc mở rộng cũng giúp tăng gấp đôi diện tích sòng bạc lên 1.800 mét vuông.
Những năm cuối
Vào những năm cuối cùng của hoạt động, Sòng bài & Khách sạn Hacienda thuộc sở hữu của tập đoàn Sahara Gaming Corporation do ông Lowden điều hành. Khu nghỉ dưỡng này gặp nhiều khó khăn khi các sòng bài & khách sạn mới mẻ và hiện đại hơn mọc lên gần đó, điển hình là Excalibur (1990) và Luxor (1993) do tập đoàn Circus Circus Enterprises sở hữu.
Tháng 9 năm 1994, Sahara Gaming tuyên bố nhận được nhiều lời đề nghị mua lại Hacienda với mức giá hấp dẫn. Tháng 1 năm 1995, ông Bill Bennett, cựu giám đốc và chủ tịch tập đoàn Circus Circus Enterprises, chính thức thông báo mua lại Hacienda cùng khu đất liền kề. Ông Bennett dự định đổi tên và khoác lên Hacienda chủ đề Nam Mỹ. Kế hoạch của ông bao gồm việc cải tạo toàn diện và mở rộng thêm 2.000 phòng khách sạn. Tuy nhiên, thương vụ mua bán gặp nhiều phức tạp do điều khoản ràng buộc trong hợp đồng, cho phép Circus Circus Enterprises quyền ưu tiên mua lại khu nghỉ dưỡng thay vì ông Bennett.
Ngay sau khi ông Bennett công bố kế hoạch mua lại Hacienda, tập đoàn Circus Circus đã nhanh chóng đệ đơn kiện nhằm ngăn chặn thương vụ này. Họ cáo buộc ông Bennett đã biết về dự định mua lại tài sản của tập đoàn Circus Circus nhưng vẫn cố tình tiếp tục thực hiện kế hoạch của mình. Hacienda sở hữu diện tích 47 mẫu đất, và Circus Circus mong muốn mua thêm 74 mẫu đất liền kề để xây dựng một khu nghỉ dưỡng mới thống nhất cả hai khu đất, kết nối với Luxor và Excalibur. Tháng 3 năm 1995, Bennett và Circus Circus đạt được thỏa thuận. Theo đó, Circus Circus sẽ mua lại Hacienda với giá 80 triệu USD và 74 mẫu đất liền kề với giá 73 triệu USD. Ông Lowden chia sẻ rằng việc không thể đạt được thỏa thuận với Liên minh Công nhân Ẩm thực là nguyên nhân chính dẫn đến quyết định bán Hacienda. Sau 40 năm hoạt động, Hacienda chính thức đóng cửa vào lúc 4 giờ chiều ngày 1 tháng 12 năm 1996.
Vào ngày 2 tháng 3 năm 1999, tập đoàn Circus Circus Enterprises chính thức khai trương khu nghỉ dưỡng Mandalay Bay, thay thế cho Hacienda trước đây. Tên gọi Hacienda vẫn được sử dụng cho Khách sạn và Sòng bài Hacienda tọa lạc tại Thành phố Boulder, Nevada. Ngoài ra, Đại lộ Hacienda, con đường chạy dọc khu đất Mandalay Bay, cũng giữ nguyên tên gọi để ghi dấu ấn lịch sử của khu nghỉ dưỡng Hacienda. Tuy nhiên, một phần nhỏ của đại lộ này đã được đổi tên thành Đường Mandalay Bay.
Chú thích
Las Vegas Strip
Khách sạn sòng bạc
|
19851519
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Atomic%20Puppet%20%28phim%29
|
Atomic Puppet (phim)
|
Atomic Puppet (tạm dịch: Rối nguyên tử) là một bộ phim hoạt hình do Jerry Leibowitz và Mark Drop sáng tạo và được sản xuất bởi hãng phim hoạt hình Mercury Filmworks của Canada, VFX của Pháp, công ty Technicolor và Gaumont Animation của Gaumont, trước đây được biết đến với tên Alphanim và sau này được gọi là Gaumont-Alphanim. Bộ phim được phát sóng trên Teletoon ở Canada, trên France 4 ở Pháp, trên Disney XD. Phim được công chiếu vào ngày 18 tháng 7 năm 2016 và kết thúc vào ngày 21 tháng 2 năm 2017. Tổng cộng có 26 tập đã được sản xuất.
Ở Việt Nam, phim cũng được chiếu trên kênh SAM - BTV11.
Bộ phim xoay quanh cuộc phiêu lưu của học sinh lớp bảy Joey Felt và cộng sự AP (Atomic Puppet) của cậu, một siêu anh hùng nổi tiếng thế giới, người đã bị biến thành một con rối tất xanh bất lực, cho đến khi được đặt vào tay Joey. Cùng nhau, cả hai hóa thân thành bộ đôi siêu anh hùng mới nhất của Mega City, đó là Atomic Puppet và Nuclear Boy.
Nhân vật
Joseph "Joey" Felt/Nuclear Boy (lồng tiếng bởi Eric Bauza)
Captain Atomic/Atomic Puppet/AP (lồng tiếng bởi Eric Bauza)
Pauline Bell (lồng tiếng bởi Lisa Norton)
Philip "Phil" Felt (lồng tiếng bởi Carlos Díaz)
Vivian Felt (lồng tiếng bởi Kristina Nicoll)
Abigail Felt (lồng tiếng bởi Katie Griffin)
Bubbles
Rex Bordeaux (lồng tiếng bởi David Huband)
Sergeant Subatomic (Mookie) (lồng tiếng bởi Peter Oldring)
Giáo sư Tite-Gripp (lồng tiếng bởi Rick Miller)
Naughty Kitty (lồng tiếng bởi Heather Bambrick)
Zorp (lồng tiếng bởi Robert Tinkler)
Mudman (lồng tiếng bởi Robert Tinkler)
Ms. Erlenmeyer/Nữ hoàng Mindbender (lồng tiếng bởi Kristina Nicoll)
Were-Chicken
Commander Atomic và Puppet Boy
Commander Cavalier (lồng tiếng bởi Robert Tinkler)
Robo-Ron (lồng tiếng bởi Martin Roach)
Crimson Beacon
Princess War Tickle (lồng tiếng bởi Kristina Nicoll)
Rudolph Mintenberg (lồng tiếng bởi Scott McCord)
Warren Beasley (lồng tiếng bởi Mark Edwards)
Thị trưởng (lồng tiếng bởi Kevin Hanchard)
Liên kết ngoài
Atomic Puppet trên IMDb
Phim hoạt hình
Siêu nhân nhí
Chương trình truyền hình siêu nhân
Chương trình truyền hình tiếng Anh
Phim truyền hình Canada
Sơ khai
Sơ khai phim hoạt hình
|
19851522
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Doanh%20thu%20qu%E1%BA%A3ng%20c%C3%A1o
|
Doanh thu quảng cáo
|
Doanh thu quảng cáo (Advertising revenue) là thu nhập bằng tiền mà các cá nhân và doanh nghiệp kiếm được từ việc hiển thị quảng cáo trả phí trên các trang Web, kênh phương tiện truyền thông xã hội hoặc các nền tảng mạng khác xung quanh nội dung đăng xuất bản trên mạng Internet. Theo thống kê vào tháng 9 năm 2018, thị trường quảng cáo trên Internet ở Mỹ được ước tính trị giá vào khoảng 111 tỷ USD, với thị phần chủ yếu được các công ty lớn là Google, Facebook, Amazon và Microsoft chia nhau nắm giữ. Các công ty này kiếm được doanh thu thông qua hình thức quảng cáo trực tuyến nhưng họ cũng đã khởi xướng các lộ trình để người dùng cá nhân và người có ảnh hưởng trên mạng xã hội kiếm thêm thu nhập cá nhân, các cá nhân và doanh nghiệp có thể kiếm doanh thu quảng cáo thông qua các mạng quảng cáo như Google AdSense, YouTube hoặc Outbrain.
Đại cương
Có nhiều phương pháp và nhà cung cấp dịch vụ khác nhau mà các cá nhân và tổ chức trực tuyến có thể sử dụng để kiếm thu nhập bằng tiền dưới dạng quảng cáo đi kèm với trang web hoặc nội dung truyền thông kỹ thuật số của chính họ sáng tạo và đăng lên/xuất bản. Những gã khổng lồ công nghệ kỹ thuật số hiện nay như Google, Facebook, YouTube, Amazon và Microsoft cho phép chủ sở hữu trang web và người tạo nội dung tham gia vào quan hệ đối tác và quảng cáo hiển thị từ phương tiện truyền thông trực tuyến của họ, những chủ sở hữu và người sáng tạo này sau đó có thể nhận được một phần doanh thu quảng cáo. Các cá nhân và tổ chức khi tham gia vào những nền tảng này có thể kiếm được thu nhập đáng kể thông qua doanh thu quảng cáo. Vào năm 2018, có thông tin cho rằng những người sáng tạo nội dung lớn trên YouTube như Jake Paul và PewDiePie mỗi người đã kiếm được hơn 15 triệu đô la thông qua việc kiếm tiền từ nội dung video trực tuyến của họ.
Doanh thu mà các cá nhân và tổ chức kiếm được từ các nguồn quảng cáo trực tuyến được coi là thu nhập chịu thuế ở nhiều quốc gia. Vào năm 2015, Cơ quan quản lý thuế Úc (Australian Taxation Office) đã xác nhận các vấn đề liên quan đến trạng thái thuế của doanh thu quảng cáo trực tuyến, nêu rõ rằng doanh thu này phải chịu thuế và người sáng tạo nội dung phải được coi là "nghệ sĩ biểu diễn". Ngoài ra, tại Hoa Kỳ, Cơ quan quản lý doanh thu nội địa (Internal Revenue Service) coi doanh thu quảng cáo trực tuyến phải chịu thuế. Đối với những người kiếm thu nhập từ các nền tảng công nghệ do Alphabet Inc. kiểm soát, bao gồm cả nền tảng Google và YouTube, thì Mẫu 1099 (mẫu khai thuế) sẽ được công ty cấp nếu một cá nhân hoặc nhóm kiếm được hơn 600 USD mỗi năm. Ngành quảng cáo không phải là không có tranh cãi. Công nghệ chặn quảng cáo gây rắc rối cho các công ty và cá nhân muốn kiếm tiền bằng cách hiển thị quảng cáo cùng với nội dung của họ. Theo báo cáo, phần mềm chặn quảng cáo được 17% số người trong độ tuổi 18–34 sử dụng và cho phép người dùng chặn quảng cáo khi truy cập một trang web nhất định, do đó loại bỏ khả năng người dùng nhấp vào một quảng cáo nhất định.
Các nền tảng
Google là một trong những nền tảng quảng cáo trực tuyến lớn nhất thế giới. Tính đến tháng 3 năm 2019, Google được ước tính sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hơn 90% tìm kiếm trên toàn cầu. Số liệu doanh thu quảng cáo kỹ thuật số của công ty Alphabet Inc. (chủ sở hữu của Google) xấp xỉ khoảng 39,92 tỷ USD vào năm 2018. Google và Facebook được cho là chỉ kiểm soát dưới 60% không gian tiếp thị trực tuyến của Hoa Kỳ. Một gã khổng lồ quảng cáo trực tuyến khác thuộc sở hữu của Alphabet Inc. là trang web chia sẻ video YouTube. Năm 2006, Google mua YouTube với giá 1,65 tỷ USD. Năm 2015, Bloomberg ước tính YouTube trị giá khoảng 70 tỷ USD, với hơn 30 triệu lượt truy cập trung bình hàng ngày. Những người tạo nội dung YouTube xuất bản và chia sẻ video của riêng họ có thể kiếm tiền từ chúng. Theo báo cáo, tỷ lệ doanh thu quảng cáo gần đúng được trả cho người tạo video kiếm tiền là 55%; vào năm 2013, thu nhập trung bình của người sáng tạo ước tính là 7,60 USD trên một nghìn lượt xem. Tính đến tháng 3 năm 2018, Facebook và Google ước tính nắm giữ thị phần tổng hợp chỉ dưới 60% không gian tiếp thị trực tuyến ở Hoa Kỳ.
Trong quý cuối cùng của năm 2018, Facebook đã báo cáo doanh thu quảng cáo trực tuyến của họ là 16,9 tỷ USD. Facebook cho phép các doanh nghiệp quảng cáo trên toàn bộ trang web của mình, sử dụng kiến thức chuyên sâu về nhân khẩu học và sở thích của người dùng để đảm bảo rằng bất kỳ quảng cáo nào cũng có cơ hội tiếp cận đối tượng mục tiêu cụ thể. Facebook tính phí cho mỗi lần nhấp chuột vào quảng cáo, được gọi là trả chi phí cho mỗi lần nhấp chuột. Facebook cũng cho phép các doanh nghiệp tăng khả năng hiển thị quảng cáo của họ ngoài những người dùng theo dõi hoặc thích chúng, Facebook tính phí dựa trên số lượng người mà một quảng cáo nhất định tiếp cận được. Năm 2012, Facebook mua ứng dụng chia sẻ hình ảnh Instagram với giá 1 tỷ USD. Vào thời điểm mua, Instagram đã có hơn 30 triệu lượt tải xuống. Tính đến năm 2019, Instagram có hơn 1 tỷ người dùng hoạt động hàng tháng và ước tính trị giá hơn 100 tỷ USD. Những người có ảnh hưởng trên Instagram được trả vài đô la cho mỗi nghìn lượt xem quảng cáo. Người ta dự đoán rằng Instagram sẽ kiếm được hơn 10 tỷ USD từ dịch vụ này hàng năm khi nó chuyển sang cuối năm 2019.
Tính đến năm 2018, Amazon được báo cáo là nền tảng quảng cáo trực tuyến lớn thứ ba và có doanh thu quảng cáo dự đoán ở mức trên 4 tỷ USD. Với con số báo cáo là 197 triệu lượt khách truy cập trực tuyến mỗi tháng, Amazon có phạm vi tiếp cận khách hàng rộng rãi tương tự như Google và Facebook. Amazon được cho là đã liên hệ với các gã khổng lồ truyền thông trực tuyến Buzzfeed và The New York Times với lời đề nghị rằng họ sẽ được trả tiền để giới thiệu hoặc quảng cáo sản phẩm trên trang Web của họ. Những quảng cáo như vậy sẽ bao gồm một liên kết đến trang Amazon nơi khách hàng tiềm năng có thể mua sản phẩm và đổi lại, các cơ quan truyền thông sẽ nhận được phần trăm tiền hoa hồng cho việc khách hàng mua các sản phẩm hàng hóa từ sàn Amazon. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2014, Amazon mua lại Twitch Interactive với giá 970 triệu USD. Năm 2018, Microsoft đại diện cho khoảng 4% trong số 111 tỷ USD ước tính của thị trường quảng cáo trực tuyến ở Hoa Kỳ. Microsoft sở hữu công cụ tìm kiếm Bing, chiếm hơn 6% lượng tìm kiếm trên Internet, và trang mạng xã hội LinkedIn. Microsoft kiếm được doanh thu quảng cáo thông qua các chương trình như Quảng cáo Bing. LinkedIn có hơn 500 triệu người dùng, vào năm 2018, có thông báo rằng LinkedIn dự kiến sẽ kiếm được khoảng 2 tỷ đô la hàng năm từ quảng cáo trên nền tảng này.
Chú thích
Quảng cáo trực tuyến
Quảng cáo
Doanh thu
|
19851535
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oleksandra%20Goretska
|
Oleksandra Goretska
|
Oleksandra Goretska (, sinh năm 2008) là vận động viên bơi nghệ thuật người Ukraina.
Tham khảo
Sinh năm 2008
|
19851541
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mandalay%20Bay
|
Mandalay Bay
|
Mandalay Bay là một khu nghỉ dưỡng kết hợp sòng bạc với 43 tầng cao nằm ở đầu phía Nam của Dải Las Vegas, thuộc thành phố Paradise, Nevada. Khu nghỉ dưỡng được Vici Properties sở hữu và MGM Resorts International điều hành. Khu nghỉ dưỡng này do Circus Circus Enterprises phát triển với tổng vốn đầu tư lên đến 950 triệu USD và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 2 tháng 3 năm 1999, tọa lạc trên vị trí trước đây của Hacienda.
Lịch sử
Khu nghỉ dưỡng Mandalay Bay hiện nay tọa lạc tại vị trí trước đây là khách sạn và sòng bài Hacienda, nằm ở khu vực cuối phía Nam của Dải Las Vegas. Vào năm 1995, tập đoàn Circus Circus Enterprises đã mua lại Hacienda với giá 80 triệu USD, đồng thời mua thêm một khu đất liền kề rộng 74 mẫu Anh (30 ha) ngay phía Nam với giá 73 triệu USD. Kế hoạch cho dự án khu nghỉ dưỡng mới mang tên Mandalay Bay được công bố vào tháng 6 cùng năm, với mục tiêu thay thế cho Hacienda.
Hacienda chính thức ngừng hoạt động vào ngày 1 tháng 12 năm 1996 . Kế hoạch thay thế được công bố ngay sau đó, khu nghỉ dưỡng mới có kinh phí đầu tư từ 800 triệu đến 1 tỷ USD. Dự án Paradise khởi công năm 1997 gặp sự cố lún đất vào năm 1998. Lõi tòa nhà sụt 43 cm, một phần khác lún 5 cm. Tin đồn về sự cố khiến giá cổ phiếu Circus Circus giảm. Vấn đề được giải quyết bằng cách lắp đặt 536 cọc siêu nhỏ với chi phí 8-10 triệu USD. Thiệt hại chỉ là những vết nứt nhỏ tại khu vực bãi đậu xe.
Tháng 2 năm 1998, dự án chính thức được đổi tên thành Mandalay Bay. Mandalay Bay tiêu tốn 950 triệu USD để xây dựng, trở thành dự án tốn kém nhất của Circus Circus cho đến nay. Công ty dự kiến chi hơn 10 triệu USD cho chiến dịch quảng cáo trên báo in và truyền hình trước khi khu nghỉ dưỡng khai trương.
Mandalay Bay chính thức mở cửa lúc 22:00 ngày 2 tháng 3 năm 1999, sau buổi lễ VIP với nhiều người nổi tiếng. Lễ khai mạc có bộ ba Anh em nhà Blues dẫn đầu đoàn rước 200 xe máy và cùng Bob Dylan biểu diễn tại House of Blues. Khu nghỉ dưỡng tạo ra 5.000 việc làm, 30% nhân viên đến từ các cơ sở Circus Circus khác. Sau sự kiện khai trương thành công, tập đoàn đổi tên thành Mandalay Resort Group vào năm 1999 để khẳng định vị thế của Mandalay Bay như tài sản hàng đầu.
Năm 2002, Mandalay Bay đã xin phép chính phủ Mỹ và Trung Quốc để nhập khẩu hai chú gấu panda để trưng bày tại khu nghỉ dưỡng . Mục đích là thu hút khách du lịch và đóng góp 50 triệu USD mỗi năm cho nỗ lực bảo tồn gấu trúc của Trung Quốc. Tuy nhiên, dự án bị chỉ trích là bóc lột động vật và cuối cùng không được chấp thuận. Năm 2003, Mandalay Bay mở rộng thêm trung tâm hội nghị và tòa tháp khách sạn thứ hai. Hai năm sau, khu nghỉ dưỡng được MGM Mirage mua lại. Năm 2006, Mandalay Bay bị điều tra vì vi phạm Đạo luật Người khuyết tật Hoa Kỳ và phải chi 20 triệu USD để sửa chữa. Cuối năm 2012, khu nghỉ dưỡng bắt đầu cải tạo lớn đầu tiên.
Tháng 1 năm 2020, Mandalay Bay trở thành địa điểm trước và sau trận đấu của Las Vegas Raiders. Cùng tháng, MGM Resorts thông báo bán Mandalay Bay cho liên doanh MGM Growth Properties và The Blackstone Group. MGM sở hữu 50,1% liên doanh, Blackstone sở hữu phần còn lại. MGM Resorts sẽ tiếp tục vận hành khu nghỉ dưỡng . Thỏa thuận hoàn tất vào tháng 2 năm 2020. Vici Properties mua MGM Growth vào tháng 4 năm 2022, sau đó mua lại cổ phần của Blackstone tại Mandalay Bay vào tháng 1 năm 2023.
Vụ xả súng năm 2017
Ngày 1 tháng 10 năm 2017, Stephen Paddock nổ súng từ phòng khách sạn tầng 32 xuống đám đông xem nhạc hội đối diện. Hắn ta giết 60 người, làm bị thương 867 người và tự sát trước khi cảnh sát đến. Đây là vụ xả súng hàng loạt nguy hiểm nhất do một tay súng đơn độc thực hiện trong lịch sử Hoa Kỳ.
Mandalay Bay vẫn mở cửa sau vụ xả súng , nhưng doanh thu giảm do lượng khách đến thăm ít hơn. Hàng trăm nhân viên bị sa thải. Lợi nhuận dần được cải thiện và khu nghỉ dưỡng phục hồi gần như hoàn toàn vào năm 2019.
Sau vụ xả súng, an ninh tại khu nghỉ dưỡng được tăng cường. MGM thông báo sẽ không cho thuê căn phòng của Paddock cho khách trong tương lai. Các tầng 31-34 được đánh số lại thành 56-59. Nhiều nạn nhân kiện MGM vì an ninh lỏng lẻo, và hai bên cuối cùng đã giải quyết với số tiền 800 triệu USD.
Đặc điểm
Khu nghỉ dưỡng Mandalay Bay rộng 120 mẫu Anh, bao gồm sòng bài rộng 147.992 ft vuông. Sòng bài ban đầu có 122 trò chơi trên bàn và 2.400 máy đánh bạc. Nơi đây từng có sòng bài thể thao lớn nhất Las Vegas với 31 màn hình tivi. Sàn sòng bài được cải tạo vào năm 2013, và khu vực cá cược thể thao được nâng cấp vào năm 2018.
Mandalay Bay mang chủ đề Biển Nam nhiệt đới với các đài phun nước và bể cá khắp khu nghỉ dưỡng. Sảnh khách sạn có bể cá hai tầng chứa 48.000 lít nước. Nổi bật nhất là Shark Reef, một bể cá 4.9 triệu lít với chủ đề cá mập, mở cửa vào năm 2000 và là thủy cung lớn nhất trên Strip. Trung tâm Sự kiện Mandalay Bay (nay là Michelob Ultra Arena) có 12.000 chỗ ngồi, được khánh thành vào năm 1999. Nơi đây tổ chức nhiều sự kiện giải trí và thể thao. Trung tâm Hội nghị Mandalay Bay, một trong những trung tâm lớn nhất Hoa Kỳ, được xây dựng sau vụ 11 tháng 9 và khai trương vào năm 2003. Hoạt động hội nghị đóng góp đáng kể vào doanh thu của khu nghỉ dưỡng.
Bảo tàng Kho báu Mandalay Bay từng là điểm nhấn của khu nghỉ dưỡng với bộ sưu tập tiền tệ quý hiếm trị giá hơn 40 triệu USD. Hai tờ 100.000 USD độc đáo là một trong những điểm thu hút du khách.
Khách sạn
Ngoài khách sạn chính, Mandalay Bay còn có hai khách sạn khác: Delano Las Vegas và Four Seasons (Khách sạn Bốn Mùa). Khách sạn Bốn Mùa chung tòa tháp với Mandalay Bay, còn Delano nằm ở tòa tháp riêng. Mandalay Bay có 3.209 phòng trong tòa tháp hình chữ Y, cao 43 tầng. Tòa tháp được trang trí bằng đèn neon vàng và gương màu vàng. Các tầng trên cùng được đánh số từ 60 đến 63, với Khách sạn Bốn Mùa chiếm tầng 35 đến 39 và Mandalay Bay quản lý tầng 40 đến 42. Một câu lạc bộ được gọi là Phòng Foundation hoạt động ở tầng trên cùng.
Ban đầu, khách sạn được biết đến với tên THEhotel tại Mandalay Bay khi chính thức ra mắt vào năm 2003. Sau đó, vào năm 2014, khách sạn được đổi tên thành Delano Las Vegas. Delano Las Vegas sở hữu 43 tầng cao cùng 1.117 phòng nghỉ, tất cả đều được thiết kế theo dạng dãy phòng sang trọng.
Ngay sau khi MGM mua lại khu nghỉ dưỡng Mandalay Bay vào năm 2006, một đợt nâng cấp phòng khách sạn đã được thực hiện. Một đợt cải tạo lớn hơn kéo dài từ năm 2015 đến năm 2016 với kinh phí 100 triệu USD đã được triển khai nhằm nâng cao chất lượng phòng ốc.
Khách sạn Bốn Mùa
Tháng 6 năm 1996, Circus Circus Enterprises đã bắt tay hợp tác với Khách sạn Bốn Mùa nhằm đưa vào vận hành một khách sạn cao cấp liền kề Mandalay Bay. Sau quá trình xây dựng, Khách sạn Bốn Mùa chính thức ra mắt cùng khu nghỉ dưỡng vào ngày 2 tháng 3 năm 1999, đánh dấu cột mốc quan trọng khi thương hiệu khách sạn sang trọng này lần đầu tiên đặt chân đến Las Vegas. Việc xây dựng Four Seasons mang mục tiêu cạnh tranh trực tiếp với các khu nghỉ dưỡng cao cấp khác trên Dải như Bellagio, góp phần nâng tầm trải nghiệm du lịch và khẳng định vị thế đẳng cấp của Mandalay Bay.
Khách sạn Bốn Mùa sở hữu 424 phòng nghỉ cùng một loạt tiện nghi cao cấp như nhà hàng, sảnh khách, spa, câu lạc bộ sức khỏe trong khuôn viên hai tầng riêng biệt nằm ở phía Nam khách sạn Mandalay Bay. Hầu hết các tiện nghi tại đây chỉ dành riêng cho khách lưu trú tại Khách sạn Bốn Mùa, tạo nên sự riêng tư và đẳng cấp. Khách sạn không có sòng bài, nhưng du khách Khách sạn Bốn Mùa có thể thoải mái tận hưởng sòng bài cùng các tiện nghi khác của Mandalay Bay.
Khách sạn Bốn Mùa nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ du khách kể từ khi khai trương vào năm 1999. Nơi đây liên tục được vinh danh với Giải thưởng Năm viên kim cương AAA, khẳng định chất lượng dịch vụ và tiện nghi đẳng cấp. Khách sạn Bốn Mùa là khách sạn đầu tiên tại Thung lũng Las Vegas đạt được giải thưởng danh giá này. Năm 2000, Khách sạn Bốn Mùa tiếp tục tạo dấu ấn khi trở thành khách sạn đầu tiên trong khu vực sở hữu bếp kosher chuyên biệt, đáp ứng nhu cầu ẩm thực đa dạng của du khách. Cuối năm 2012, khách sạn hoàn thành quá trình cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất và dịch vụ, mang đến trải nghiệm lưu trú hoàn hảo hơn cho du khách.
Nhà hàng
Mandalay Bay sở hữu 15 nhà hàng, trong đó 11 nhà hàng cho thuê. Hầu hết các nhà hàng mở cửa cùng khu nghỉ dưỡng vào năm 1999, ba nhà hàng còn lại sau đó mới mở cửa.
Nhà hàng Aureole do đầu bếp Charlie Palmer thiết kế từng là điểm nhấn ấn tượng tại Mandalay Bay. Lấy cảm hứng từ nhà hàng cùng tên ở Manhattan, Aureole Las Vegas sở hữu tháp rượu vang 4 tầng bằng kính và thép độc đáo, có thể chứa tới 10.000 chai rượu vang. Tuy nhiên, Aureole đã đóng cửa vào tháng 4 năm 2023, nhường chỗ cho Retro, một nhà hàng mới mang phong cách hoài cổ của hai đầu bếp anh em Bryan và Michael Voltaggio.
Trong văn hóa đại chúng
Năm 1999, Phim "Play It to the Bone" chọn Mandalay Bay làm bối cảnh cho một số cảnh quay. Năm 2003, Mandalay Bay tiếp tục xuất hiện trong phim "Las Vegas" (phần 1) với vai trò là khu nghỉ dưỡng hư cấu Montecito. Phim sử dụng sòng bạc, tiền sảnh và bể tạo sóng của Mandalay Bay trong quá trình quay. Năm 2014, Tập phim "Las Vegas" thuộc series "Modern Family" cũng được quay tại Mandalay Bay.
Chú thích
Liên kết ngoài
Las Vegas Strip
|
19851547
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20%C4%91o%C3%A0n%20S%C6%A1n%20H%E1%BA%A3i
|
Tập đoàn Sơn Hải
|
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tập đoàn Sơn Hải, thường được gọi là Tập đoàn Sơn Hải, là một doanh nghiệp xây dựng. Cho đến năm 2023, đây là nhà thầu công trình hạ tầng duy nhất tại Việt Nam có cam kết bảo hành chất lượng 5 đến 10 năm tại các công trình thi công.
Lịch sử
Tập đoàn Sơn Hải do ông Nguyễn Viết Hải thành lập vào ngày 13 tháng 4 năm 1998 tại Thành phố Đồng Hới, Tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Ngành nghề kinh doanh chính là xây dựng nhà các loại, xây dựng công trình đường sắt, đường bộ, san lấp mặt bằng, trồng trọt, kinh doanh bất động sản.
Tiểu sử ông Nguyễn Viết Hải
Nguyễn Viết Hải sinh ngày 12 tháng 10 năm 1966 tại xã Hòa Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Từ tháng 1 năm 1984 đến tháng 2 năm 1993, ông là cán bộ Công an tỉnh Quảng Bình. Từ ngày 1 tháng 6 năm 1994, ông nghỉ việc theo chế độ 176. Từ tháng 6 năm 1994 đến tháng 4 năm 1998, ông tham gia kinh doanh hộ cá thể tại phường Bắc Lý, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Từ tháng 4 năm 1998 đến tháng 2 năm 2010, ông trở thành Giám đốc Công ty Xây dựng tổng hợp Sơn Hải. Từ tháng 2 năm 2010 đến nay, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tập đoàn Sơn Hải.
Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng:
Huân chương Lao động hạng Ba năm 2019;
Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2003;
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải năm 2015;
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tài chính năm 2015;
Bằng khen của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam (năm 2015, 2016, 2017);
Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình (năm 2016, 2017, 2018);
Bằng khen của Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Bình (năm 2018, 2019, 2020)
Năm 2021, ông tham gia ứng cử và được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình nhiệm kỳ 2021–2026.
Thành viên chủ chốt
Năm 2023, Ông Nguyễn Viết Hải hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Sơn Hải, vị trí Giám đốc do ông Lê Thanh Hướng đảm nhiệm. Trong danh sách người đại diện theo pháp luật của Tập đoàn Sơn Hải còn 4 thành viên khác gồm ông Nguyễn Viết Vương, Nguyễn Thanh Hải, Ngô Minh Ngọc và Hoàng Minh Trường.
Quá trình hoạt động
Những gói thầu thuộc Dự án cao tốc Bắc – Nam phía Đông được Tập đoàn Sơn Hải thực hiện hoặc thực hiện một phần:
Gói thầu 10–XL thuộc dự án Mai Sơn – Quốc lộ 45 (Ninh Bình – Thanh Hóa)
Gói thầu XL–01 thuộc cao tốc Nghi Sơn – Diễn Châu bao gồm các hạng mục chính: Thi công xây dựng đoạn Km380+000 – Km389+900 (bao gồm khảo sát, thiết kế bản vẽ thi công), dự án thành phần cao tốc Bắc – Nam phía Đông đoạn Nghi Sơn – Diễn Châu.
Dự án đường cao tốc Nha Trang – Cam Lâm, có chiều dài 49,1 km. Chủ đầu tư là Tập đoàn Sơn Hải, doanh nghiệp dự án là Công ty TNHH Đầu tư đường cao tốc Nha Trang – Cam Lâm. Dự án này khánh thành vào ngày 18 tháng 6 năm 2023, vượt tiến độ 3 tháng.
Gói thầu XL–01 thuộc cao tốc Vũng Áng – Bùng có chiều dài 32,5 km, trong đó, đoạn qua Hà Tĩnh là 12,9 km
Gói thầu XL02: Thi công xây dựng đoạn Km337+500 ÷ Km368+350 (bao gồm khảo sát, TKBVTC) cao tốc Bắc – Nam phía Đông đoạn Vân Phong – Nha Trang
Gói thầu số 12–XL: Thi công xây dựng đoạn Km23+500 – Km70+091 (bao gồm khảo sát, thiết kế bản vẽ thi công) cao tốc Bắc – Nam phía Đông đoạn Hoài Nhơn – Quy Nhơn
Bị chơi xấu để hạ uy tín
Tập đoàn Sơn Hải tham gia dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1 và Quốc lộ 14 qua Tây Nguyên. Năm 2015, có nghi vấn bị đổ hóa chất phá hoại mặt đường Quốc lộ 1 đoạn qua Quảng Bình. Công an tỉnh Quảng Bình lấy mẫu gửi Cục Kỹ thuật hình sự (Bộ Công an) giám định, nhưng không thấy công bố chính thức kết quả điều tra, xác minh nghi can.
Tháng 10 năm 2023, Tập đoàn Sơn Hải phát hiện từ Km382 – Km384 thuộc địa phận xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) xuất hiện nhiều đoạn bong lớp nhựa bề mặt đường kéo dài chục hét. Đoạn đường này do Tập đoàn thi công, thông xe được một tháng thì phát hiện nhiều đoạn bị hư hỏng bề mặt vì hóa chất. Tập đoàn đã trình báo khẩn cấp các cơ quan chức năng của tỉnh Thanh Hóa.
Xích mích với chủ đầu tư
Tháng 6 năm 2023, Tập đoàn Sơn Hải là một thành viên trong liên danh nhà thầu thi công dự án cao tốc đoạn Nghi Sơn – Diễn Châu, cụ thể là gói thầu XL01 cao tốc Bắc – Nam. Tập đoàn gửi đơn đến Bộ GTVT, trong đơn viết rằng Tập đoàn bị chủ đầu tư gây khó dễ trong việc dự toán, nghiệm thu, thanh toán công trình. Cả Bộ Giao thông Vận tải và PMU6 đều lên tiếng khẳng định, đối với các dự án cao tốc Bắc – Nam, không có chuyện các PMU và cơ quan quản lý Nhà nước gây khó dễ, cản trở nhà thầu trong việc thi công, thanh toán dự án.
Xem thêm
Facebook của công ty
Tham khảo
|
19851550
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Spaghetti%20all%27assassina
|
Spaghetti all'assassina
|
Spaghetti all'assassina (tiếng Ý nghĩa là 'spaghetti của kẻ ám sát (giống cái)', ), hay còn được gọi là spaghetti bruciati (tiếng Ý nghĩa là 'spaghetti cháy', ) là một món mì spaghetti từ thành phố Bari, Ý. Cách chế biến của món mì này khác hoàn toàn so với các món mì spaghetti khác; thay vì được luộc trong nước muối và phục vụ trong nước sốt, mì được nấu trực tiếp trong chảo (theo truyền thống là chảo gang). Một nước sốt cà chua làm từ sốt cà được pha lỏng trong nước được thêm từ từ vào chảo cho mì hấp thụ dần, giống như cách nấu risotto. Khi hấp thụ nước sốt, mì được nấu chín ngay trong chảo, dần có màu vàng nâu, khi ăn có cảm giác giòn đặc trưng không món mì pasta nào khác có.
Lịch sử
Spaghetti all'assassina bắt đầu xuất hiện trên các thực đơn nhà hàng từ cuối thập kỷ 1960 đến đầu thập kỷ 1970. Nhiều người cho rằng nguồn gốc của món ăn này là nhà hàng Marc'Aurelio ở trung tâm thành phố Bari (giờ đã đóng cửa); một số người khác tin rằng nhà hàng Al Sorso Preferito mới là nguồn gốc của nó, tại đây món ăn này vẫn được phục vụ. Theo Felice Giovine, một sử gia ẩm thực vùng Puglia, spaghetti all'assassina bắt nguồn từ nhà hàng Al Sorso Preferito ở trung tâm thành phố Bari, nơi mà món ăn này được phát minh vào năm 1967 bời đầu bếp Enzo Francavilla từ Foggia theo sự yêu cầu từ hai khách hàng đến từ phía bắc nước Ý. Vì độ cay của món ăn mà họ nói đùa rằng Francavilla là một assassino ("kẻ sát nhân"), từ này sau đó được lấy để đặt tên cho món. Đây là phiên bản lịch sử nguồn gốc được chấp nhận bởi Accademia dell'Asassina, một nhóm các chuyên gia ẩm thực và tín đồ được thành lập năm 2013 ở Bari để bảo tồn công thức nấu ăn này.
Spaghetti all'assassina ngay lập tức được ưa chuộng và lan truyền khắp thành phố, nhưng tới thập kỷ 1980 thì nó bắt đầu biến mất dần. Vào năm 2013, nhờ Accademia dell'Assassina mà nó bắt đầu thịnh hành trở lại và nhận được sự chú ý vì được nhắc đến trong văn hóa đại chúng, phần lớn là từ tập Spaghetti all'assassina của series truyền hình Le indagini di Lolita Lobosco (2021) do đài RAI sản xuất.
Món ăn này bắt đầu lại được quan tâm gần đây vì được nhắc đến trong cốt truyện của hai cuốn tiểu thuyết Địa Trung Hải, Sette ricette d'autore và Spaghetti all'assassina.
Chế biến
Cách chế biến Spaghetti all'assassina cũng giống như cách chế biến món pasta risottata (), mì pasta nấu theo kiểu risotto, nghĩa là nấu trực tiếp trong nước sốt. Nước sốt dùng để nấu spaghetti all'assassina thường có nước và nước sốt cà chua pha theo tì lệ 1:1 hoặc 2:1; nếu dùng cà chua tươi xay nhuyễn thì phải dùng ít nước hơn. Khác với món pasta risottata, mì spaghetti được tiếp xúc trực tiếp với bề mặt chảo trước khi nước sốt được cho thêm vào. Việc này khiến cho mì được áp chảo và cháy khét, tạo nên cảm giác giòn khi ăn. Không khuyến khích sử dụng mì pasta được cắt với khuôn bằng đồng cho món spaghetti all'assassina, vì loại mì này sẽ cho ra quá nhiều tinh bột trong quá trình nấu, ngăn cản màu vàng nâu hình thành. Thường thì spaghetti all'assassina có vị cay, thường thì ớt khô xay, ớt bột hoặc ớt tươi được dùng để nêm nếm hoặc để trang trí. Nhà bình luận ẩm thực Rachel Roddy viết: "Như The Puglia Guys đã từng đăng trên trang blog của họ, all'assassina phải khét, giòn và cay."
Đánh giá
Trong một tập thuộc series thứ hai của chương trình du lịch Stanley Tucci: Searching for Italy của đài CNN, diễn viên, nhà văn và nhà làm phim người Mỹ Stanley Tucci gây sự chú ý tới món ăn này, và nhận xét cách chế biến của nó là sửng sốt: "Nói thật là tôi chưa bao giờ thấy bất cứ thứ gì như vậy… và tôi yêu nó."
Xem thêm
Pasta
Spaghetti
Risotto
Tham khảo
Liên kết ngoài
Spaghetti all'assassina
Món từ spaghetti
Ẩm thực Ý
|
19851558
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81n%20l%E1%BB%87%2070/2023/AL
|
Án lệ 70/2023/AL
|
Án lệ 70/2023/AL về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách là án lệ thứ 70 thuộc lĩnh vực lao động của hệ thống pháp luật Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua, Chánh án Nguyễn Hòa Bình ra quyết định công bố ngày 1 tháng 10 năm 2023, và có hiệu lực cho tòa án các cấp trong cả nước nghiên cứu, áp dụng trong xét xử từ ngày 1 tháng 11 năm 2023. Án lệ này dựa trên nguồn án là Quyết định giám đốc thẩm số 06/2022/LĐ-GĐT ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, nội dung xoay quanh hợp đồng lao động, việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với chủ thể là cán bộ công đoàn Việt Nam. Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học là đơn vị đề xuất để lựa chọn bản án này làm án lệ và là án lệ thứ 2 về lĩnh vực lao động của Việt Nam.
Vương Quốc Anh và Công ty KD ký kết hợp đồng lao động có thời hạn. Trước khi hết hạn hợp đồng thì người lao động được bầu làm Chủ tịch Công đoàn công ty, do đó 2 bên thỏa thuận gia hạn hợp đồng. Sau đó, người lao động tiếp tục được bầu làm Chủ tịch Công đoàn, trong khi đó công ty không đồng ý với việc gia hạn một lần nữa, do vậy đã chấm dứt hợp đồng với Chủ tịch Công đoàn đương nhiệm. Với quan điểm luật bảo vệ quyền lợi của cán bộ công đoàn, không thể chấm dứt hợp đồng khi còn đương nhiệm, Vương Quốc Anh đệ đơn khởi kiện Công ty KD, buộc bồi thường. Vụ án lao động này lần lượt qua sơ thẩm, phúc thẩm rồi giám đốc thẩm, để rồi đi đến kết luận cuối cùng trở về bản án sơ thẩm, tuyên công ty thắng kiện, đồng thời được lựa chọn làm án lệ thứ 2 của Án lệ Việt Nam.
Nội dung vụ án
Bối cảnh
Tại Khu công nghiệp Amata, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, vào tháng 3 năm 2015, Vương Quốc Anh được Công ty trách nhiệm hữu hạn KD Việt Nam nhận vào làm việc, thử việc 1 tháng, sau đó giao kết hợp đồng lao động thời hạn 12 tháng từ tháng 4, 2015—tháng 4, 2016, phân công làm công việc nhân viên kỹ thuật gia công với mức lương gần 7 triệu đồng/tháng. Ngày 21 tháng 11 năm 2015, Công đoàn Khu công nghiệp Biên Hòa thành lập Công đoàn cơ sở lâm thời của Công ty KD và Vương Anh được bầu làm Chủ tịch Công đoàn công ty, nhiệm kỳ từ 21 tháng 11, 2015—21 tháng 11, 2016. Trước khi hợp đồng lao động hết hạn ngày 24 tháng 3 năm 2016, Công ty KD ban hành văn bản quyết định không tái ký hợp đồng lao động với Vương Anh, sau đó quyết định gia hạn hợp đồng lao động từ ngày 26 tháng 4, 2016—25 tháng 11, 2016, tức là lúc hết nhiệm kỳ Ban Chấp hành Công đoàn Công ty.
Ngày 24 tháng 10 năm 2016, Ban Chấp hành Công đoàn Công ty KD tiến hành Đại hội lần thứ I, nhiệm kỳ 2016–2021, và Vương Anh tiếp tục được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Công đoàn. Ngày 25 tháng 11 cùng năm, khi hết thời hạn gia hạn, Công ty KD quyết định chấm dứt hợp đồng lao động Vương Anh khi ông đang giữ vị trí Chủ tịch Công đoàn công ty. Trong quá trình làm việc, Vương Anh hoàn thành nhiệm vụ, không bị xử lý kỷ luật.
Tranh tụng
Vương Quốc Anh đệ đơn gửi Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, khiếu kiện Công ty KD về việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, yêu cầu thanh toán tiền lương và bồi thường các khoản tổng cộng hơn với nội dung rằng:
Về phía Công ty KD trình bày rằng công ty đã ban hành quyết định không tái ký hợp đồng lao động với Vương Anh, gửi cho Vương Anh và Công đoàn Khu công nghiệp. Sau đó, Công ty KD biết được Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở tiến hành Đại hội và bầu Vương Anh làm Chủ tịch Công đoàn. Công ty gửi văn bản đến Công đoàn Khu công nghiệp Biên Hòa về việc chấm dứt hợp đồng lao động với Vương ANh nhưng không được chấp nhận. Công ty tiếp tục gửi văn bản đến Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai được hướng dẫn theo quy định của pháp luật. Công ty KD cho rằng việc chấm dứt hợp đồng lao động với Vương Anh đúng quy định nên không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của Vương Anh.
Tiền giám đốc thẩm
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa mở phiên lao động sơ thẩm tại trụ sở ở đường Nguyễn Du, phường Bửu Long. Tòa sơ thẩm tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Vương Anh. Ngày 5 tháng 12 năm 2019, nguyên đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.
Ngày 30 tháng 7 năm 2020, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai mở phiên lao động phúc thẩm tại trụ sở ở 310 Cách Mạng Tháng 8, khu phố 1, thành phố Biên Hòa. Tòa phúc thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng buộc bị đơn Công ty KD phải trả tiền lương trong thời gian nguyên đơn không được làm việc từ ngày 25 tháng 11, 2016—21 tháng 11, 2019 – ngày Tòa án xét xử sơ thẩm, bồi thường 2 tháng tiền lương do công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, tổng cộng 216,09 triệu đồng. Ngoài ra, bị đơn phải truy đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho nguyên đơn đầy đủ từ lúc không được làm việc đến phiên sơ thẩm, căn cứ trên lương cơ sở. Ngày 11 tháng 9 năm 2020, Công ty KD yêu cầu xem xét lại bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.
Ngày 22 tháng 4 năm 2022, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định kháng nghị bản án lao động phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm theo hướng giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.
Giám đốc thẩm
Ngày 26 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên giám đốc thẩm tại trụ sở ở 124 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, với chủ tọa là thẩm phán Võ Văn Cường, thành viên gồm thẩm phán Huỳnh Thanh Duyên, thẩm phán Tô Chánh Trung, kiểm sát viên Nguyễn Thị Ngát.
Nhận định của tòa án
Nguyên đơn Vương Quốc Anh và bị đơn Công ty KD ký hợp đồng lao động ngày 25 tháng 4 năm 2015, thời hạn 12 tháng, hết hạn ngày 25 tháng 4 năm 2016. Trong thời gian hợp đồng lao động có hiệu lực, công đoàn cơ sở Công ty KD được thành lập và nguyên đơn được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành lâm thời từ ngày 25 tháng 11 năm 2015, thời hạn 12 tháng để tiến hành đại hội bầu Ban Chấp hành công đoàn cơ sở trước ngày 25 tháng 11 năm 2016. Vì vậy, Công ty KD và nguyên đơn ký văn bản thỏa thuận về việc gia hạn hợp đồng lao động đến ngày 25 tháng 11 năm 2016, trong đó ghi rõ việc gia hạn thời gian tới khi kết thúc nhiệm kỳ Ban Chấp hành công đoàn vào ngày 25 tháng 11 năm 2016. Thỏa thuận gia hạn hợp đồng lao động nêu trên là phù hợp với quy định tại khoản 6 Điều 192 Bộ luật Lao động 2012 và Điều 25 Luật Công đoàn 2012. Song song với việc gia hạn hợp đồng lao động với nguyên đơn cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ Ban Chấp hành công đoàn như đã nêu trên, Công ty KD cũng có nhiều văn bản thông báo cho nguyên đơn và Công đoàn Khu công nghiệp Biên Hòa biết sẽ không tái ký hợp đồng lao động sau khi hết thời hạn gia hạn. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn thừa nhận có nhận được các quyết định, thông báo của Công ty KD về việc không tái ký hợp đồng lao động với ông.
Theo Hội đồng xét xử, tại thời điểm ngày 24 tháng 10 năm 2016, khi Ban Chấp hành công đoàn lâm thời của Công ty KD tiến hành Đại hội thì hợp đồng lao động của nguyên đơn chỉ còn thời hạn 1 tháng, nhưng nguyên đơn và Công đoàn Khu công nghiệp vẫn đưa ông vào danh sách bầu cử Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở để bầu là không phù hợp với văn bản hướng dẫn của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, do đó, việc nguyên đơn trúng cử Chủ tịch Công đoàn cơ sở là không hợp lệ về tiêu chuẩn người ứng cử, người trúng cử. Sau khi hết thời hạn gia hạn hợp đồng lao động, Công ty KD ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn là đúng quy định tại khoản 1 Điều 36 của Bộ luật Lao động 2012. Do đó, việc nguyên đơn khởi kiện cho rằng việc Công ty KD ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với ông trái pháp luật là không có cơ sở chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không đúng quy định của pháp luật.
Quyết định
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, tuyên hủy bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.
Hình thành án lệ
Sau khi quyết định giám đốc thẩm được ban hành vào cuối năm 2022, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học đã đề xuất lựa chọn làm án lệ nhằm xác định việc người sử dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách đang trong nhiệm kỳ, vượt qua bước đầu trở thành 1 trong 14 đề xuất của đầu năm 2023. Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với Liên minh châu Âu và Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức lấy ý kiến từ ngày 19 tháng 4 năm 2023. Sau đó, Hội đồng tư vấn án lệ được tổ chức họp nhằm thảo luận, cho ý kiến đối với nội dung của 14 dự thảo án lệ được đề xuất phát triển thành án lệ vào ngày 2 tháng 6. Trên cơ sở ý kiến góp ý của các thành viên Hội đồng tư vấn án lệ, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý các dự thảo án lệ, xin rút 5 dự thảo án lệ, đồng thời phiên họp kết luận đề xuất xem xét lựa chọn, thông qua 8 dự thảo án lệ và cân nhắc 1 dự thảo án lệ. Ngày 16 tháng 8, Hội đồng Thẩm phán họp và quyết định thông qua 7 trong 8 dự thảo, trong đó có quyết định giám đốc thẩm của vụ việc này, chính thức là Án lệ số 70/2023/AL.
Ghi chú
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
Website Án lệ Việt Nam của Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam.
Án lệ 70/2023/AL tại Website Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam.
Quyết định số 06/2022/LĐ-GĐT tại Website Công bố bản án.
Án lệ lao động Việt Nam
Án lệ Việt Nam năm 2023
|
19851563
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20s%C3%A2n%20bay%20Burbank%20%28%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20s%E1%BA%AFt%20cao%20t%E1%BB%91c%20California%29
|
Ga sân bay Burbank (Đường sắt cao tốc California)
|
Ga sân bay Burbank là một ga nằm trong hệ thống Đường sắt cao tốc California được đề xuất xây dựng ở Burbank, California, đặt tại Sân bay Hollywood Burbank, sẽ được xây dựng ở góc phần tư phía đông bắc của sân bay. Địa điểm xây dựng nhà ga được bao quanh bởi Phố Cohasset ở phía bắc, Đại lộ Winona ở phía nam và Đường Hollywood dọc theo đầu phía đông của khu sân bay.
Nhà ga kết nối Palmdale với Burbank và Burbank với Los Angeles cùng với các phần trong dự án tuyến đường sắt cao tốc California. Nhà ga chủ yếu nằm dưới lòng đất, nhưng có một tòa nhà trên cao và sẽ kết nối nhà ga với khu phức hợp nhà ga sân bay đã được di dời.
Các kế hoạch yêu cầu các đường hầm tiếp cận và hộp nhà ga hầu hết được xây dựng bằng phương pháp cắt và che — ngoại trừ những phần nằm dưới đường lăn D và đường băng 8-26, sẽ được xây dựng bằng Phương pháp khai thác tuần tự (SEM) để tránh sụt lún mặt đất.
Ga HSR được đề xuất tách biệt với ga Metrolink gần đó trên Tuyến Thung lũng Antelope, được gọi là Sân bay Burbank–Ga phía Bắc. Cơ quan quản lý sân bay điều hành dịch vụ đưa đón "theo yêu cầu" giữa nhà ga hiện tại và ga Metrolink này, nằm ngay phía đông bắc sân bay.
Có một ga Metrolink/Amtrak chung nhau ngay phía nam sân bay — được biết đến thông qua Tuyến Ventura County của Metrolink với tên gọi Sân bay Burbank–Nam và đi qua Sân bay Hollywood Burbank thông qua các chuyến tàu của Amtrak trên tuyến Pacific Surfliner. Khoảng cách của nhà ga đó có thể đi bộ đến nhà ga hiện tại của sân bay, nhưng sẽ xa hơn đáng kể khi nhà ga mới được mở cửa.
Liên kết ngoài
Burbank Airport Station - California High-Speed Rail
City of Burbank - High-Speed Rail
Hollywood Burbank Airport terminal relocation project website
Tham khảo
Nhà ga ở Quận Los Angeles, California
Tòa nhà và công trình ở Burbank, California
Nhà ga đường sắt dự kiến mở cửa vào năm 2030
Nhà ga Đường sắt Cao tốc California được đề xuất
|
19851566
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%A2m%20Thi%C3%AAn%20Gi%C3%A1m%20%28Hu%E1%BA%BF%29
|
Khâm Thiên Giám (Huế)
|
Khâm Thiên Giám (chữ Hán: 欽天監) được thành lập dưới thời Gia Long, là cơ quan chuyên quan sát, chiêm nghiệm thiên văn, dự báo thời tiết, làm lịch, báo giờ để định mùa vụ cho dân. Di tích Khâm Thiên Giám hiện nay tọa lạc tại số 82 đường Hàn Thuyên, phường Thuận Thành, Huế và đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng.
Lịch sử
Thời Gia Long, vua đổi tên cơ quan Tư thiên giám thành Khâm thiên giám tại Kinh sư và đặt các cơ quan Khâm thiên giám tại tỉnh với tên gọi là Chiêm hậu ty (占候司). Khâm thiên giám ban đầu có hơn 50 người, "đặt câu kê 1 viên, cai hợp 1 viên, chiêm hậu 3 viên, suất chiêu hậu sinh 50 viên".
Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), đặt Khâm thiên giám Giám chính trật Chánh ngũ phẩm, 2 Khâm thiên giám Giám phó trật Tòng ngũ phẩm, Ngũ quan chính trật Chánh lục phẩm, và 2 Linh đài lang trực Chánh thất phẩm, "định ngạch vị nhập lưu thư ở lại Khâm thiên giám là 30 viên, không cứ phải theo ngạch cũ nhiều đến 50 người". Đến thời Thiệu Trị, con số này giảm xuống, sách "Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ" chép: "Thiệu Trị năm thứ 3, chuẩn y lời tâu: Lại dịch ty Khác cẩn, tuân theo lời đình nghị, giảm bớt 5 phần 10, liệu để 20 tên, thường xuyên làm việc công".
Tại triều đình, Khâm thiên giám do một quan, là một vị đại thần đã đứng đầu một cơ quan khác, kiêm nhiệm với tên chức là Kiêm quản Khâm Thiên Giám sự vụ đại thần (兼管欽天監事大臣, vị đại thần kiêm quản việc Khâm thiên giám). Trong công việc hàng ngày, Khâm thiên giám được điều hành bởi 2 quan Giám chính, Giám phó cùng các thuộc viên là Ngũ quan chính, Linh đài lang, cùng các Bát cửu phẩm Thư lại và Vị nhập lưu Thư lại. Theo Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, "Quản lý đại thần do vua đặc cách chọn bổ, không nhất định viên nào. Giám chính đốc suất nhân viên thuộc hạ làm việc, giao phó cùng coi sóc việc trong giám làm người tá nhị. Ngũ quan chính Linh đài lang đều xem xét đốc suất nhân viên thuộc hạ, theo người cai quản, chia nhau giữ việc xem xét chiêm nghiệm, chánh bát phẩm chánh cửu phẩm thư lại xướng xuất những người vị nhập lưu theo thủ lĩnh làm các việc công".
Tại Chiêm hậu ty, đứng đầu ty là 1 viên Linh đài lang cùng với các Bát cửu phẩm Thư lại và Vị nhập lưu Thư lại điều hành.
Thời Nguyễn, Khâm thiên giám được biết nhiều đến trong dân chúng là cơ quan làm lịch mỗi năm khi Tết đến. Khâm Thiên Giám còn xem ngày lành tháng tốt để triều đình tổ chức những việc đại sự.
Dưới thời Minh Mạng, vua cho dựng Quan Tượng Đài trên góc Tây Nam Kinh thành Huế để làm nơi Khâm thiên giám quan sát thiên tượng.
Đầu thế kỷ 20, do người Pháp đã lập đài khí tượng cho toàn cõi Đông Dương tại Phù Liễn, nên việc sử dụng Quan Tượng Đài không còn cần thiết nữa và vai trò của Khâm thiên giám chỉ còn gói gọn trong những việc làm lịch, xem ngày giờ tốt xấu, đất đai và chọn huyệt mã.
Theo Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ, vào năm 1918 vua Khải Định cho dời Khâm Thiên Giám từ góc nam của Kinh thành Huế về khu Bộ Học trên đường Hàn Thuyên và không còn hoạt động kể từ ngày chấm dứt chế độ quân chủ.
Hiện trạng
Khâm Thiên Giám đã từng có 7 hạng mục công trình chính: Khâm Thiên Giám nha (nhà chính), cổng chính (nha môn), giếng nước, tường bao quanh, hai nhà tả hữu, bình phong, sân lát gạch vồ. Nhưng đến thời điểm hiện tại, toàn bộ các công trình trong khuôn viên Khâm Thiên Giám đều bị xuống cấp nghiêm trọng, biến dạng và sử dụng sai mục đích.
Năm 2013, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế lập dự án bảo tồn, trùng tu, tôn tạo di tích trình Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch và bộ ra văn bản đồng ý. Nhưng đến nay, dự án này vẫn chưa được thực hiện.
Tham khảo
Di tích Cố đô Huế
Kinh thành Huế
|
19851577
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Miron%20Zuckerman
|
Miron Zuckerman
|
Miron Zuckerman (sinh ngày 6 tháng 6 năm 1945) là một nhà tâm lý học người Mỹ và giáo sư tâm lý học tại Đại học Rochester. Ông được biết đến với việc nghiên cứu về nhận thức xã hội, giao tiếp phi ngôn ngữ và tâm lý học tôn giáo.
Ông đã chỉ đạo một phân tích tổng hợp vào năm 2013 cho thấy mối liên hệ tiêu cực giữa tôn giáo và trí thông minh.
Ông cũng từng nghiên cứu sự thiên vị vị kỷ, và phát hiện ra rằng mọi người đánh giá quá cao tầm quan trọng của bản thân họ trong các cuộc thảo luận nhóm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang giảng viên
Sinh năm 1945
Nhân vật còn sống
Giảng viên Đại học Rochester
Cựu sinh viên Đại học Harvard
Nhà tâm lý học Mỹ thế kỷ 20
Nhà tâm lý học xã hội Mỹ
Nhà tâm lý học Mỹ thế kỷ 21
|
19851581
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20Monaco
|
Quân chủ Monaco
|
Thân vương có chủ quyền Monaco (tiếng Pháp: Prince de Monaco) là quân chủ và nguyên thủ quốc gia của Thân vương quốc Monaco. Tất cả các Thân vương trị vì đều là thành viên của Nhà Grimaldi, mặc dù kể từ năm 1731 đã thuộc về các gia tộc khác (Goyon de Matignon hoặc Polignac) trong dòng dõi nam giới. Khi Thân vương Rainier III qua đời năm 2005, ông là vị quân chủ trị vì lâu nhất ở châu Âu. Gia tộc Grimaldi, đã cai trị Monaco trong 8 thế kỷ, là gia đình hoàng gia trị vì lâu nhất châu Âu.
Thân vương trị vì hiện nay là Albert II, lên ngôi vào tháng 4 năm 2005.
Tham khảo
Thân vương Monaco
Chính trị Monaco
|
19851591
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C6%B0%C6%A1ng%20M%E1%BB%85
|
Khương Mễ
|
Khương Mễ (1916 – 2004) là nhà quay phim, đạo diễn điện ảnh Việt Nam, ông chủ yếu hoạt động ở dòng phim tài liệu. Khương Mễ là người chế tạo thành công máy in phim và máy tráng phim thủ công phù hợp với điều kiện thiếu thốn lúc bấy giờ. Ông cũng được xem là người đầu tiên làm phim khoa học tại Việt Nam. Khương Mễ cùng với Mai Lộc, Lê Bích, Nguyễn Văn Khoái, Vũ Phi Lân là 5 người cùng đặt nền tảng cho điện ảnh Nam Bộ.
Tiểu sử
Khương Mễ sinh ngày 15 tháng 7 năm 1916 xã Tân Thuận, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, Liên bang Đông Dương, nay là xã Long Thuận, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Ông lớn lên tại Bà Rịa – Vũng Tàu và tham gia kháng chiến từ năm 1947 tại Đồng Tháp Mười.
Sự nghiệp
Vào năm 1939, Khương Mễ tham gia nhóm “Việt Nam phim” của Antoine Giàu với nhiều vai trò, trong đó ông là diễn viên đóng vai Phú Đức trong phim Một chiều trên sông Cửu Long. Khi Nam Bộ kháng chiến, cuối năm 1945, Khương Mễ vào bưng biền, tạm thời dừng các công việc làm phim.
Xây dựng Điện ảnh bưng biền
Năm 1947, Chính ủy Khu 8 là ông Nguyễn Văn Vịnh có ý muốn thành lập bộ phận làm phim phục vụ kháng chiến, đạo diễn Mai Lộc đã tiến cử Khương Mễ. Lúc này Khương Mễ đang công tác tại Ban Tuyên truyền Thủ Dầu Một ở Khu 7 đã được điều về Bộ Tư lệnh khu 8 Nam Bộ, thành lập và phụ trách Tổ nhiếp - điện ảnh. Là người duy nhất trong 38 thành viên đầu tiên có chút ít kinh nghiệm về phim ảnh, sau khi thuyết trình kế hoạch xây dựng Điện ảnh bưng biền, Khương Mễ được cấp 300 ngàn tiền Đông Dương để thâm nhập vào Sài Gòn tìm mua trang thiết bị. Tại Sài Gòn, Khương Mễ tìm đến bạn cũ là Nguyễn Văn Dĩ nhờ đặt mua máy móc từ Pháp. Hai tháng sau, các thiết bị máy móc được chở đến Sài Gòn, Khương Mễ cải trang làm một nhà tư sản để vào thành phố, sau khi tháo các bộ phận, ông lại cải trang thành công nhân đưa máy móc ra ngoại thành. Mặc dù đưa được máy móc đi an toàn nhưng ông Dĩ và một người hỗ trợ đã bị bắt và hy sinh. Khi lắp ráp lại, Khương Mễ phát hiện ra máy tráng phim được đặt mua là loại đời mới, hoàn toàn tự động và phải có điện để hoạt động, không như máy tráng phim ông từng biết trước đây. Ông bèn nghiên cứu sách tiếng Pháp Cinéma Amanach Prisma và hướng dẫn đồng đội tháo cỗ máy này để lắp ráp thành máy tráng phim thủ công. Năm 1948, tác phẩm đầu tiên của tổ làm phim là đoạn thời sự Trường Quân chính Khu 8, tiếp đấy là bộ phim tài liệu Trận Mộc Hóa được Mai Lộc, Vũ Sơn và Khương Mễ quay từ tháng 8 năm 1948 và công chiếu vào ngày 22 tháng 12 cùng năm, đây được coi là bộ phim tài liệu điện ảnh đầu tiên của nền điện ảnh cách mạng Việt Nam. Sau khi xem bộ phim, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ Lê Duẩn bày tỏ mong muốn các bộ phim tài liệu được sao chép thành nhiều bản để trình chiếu cho các đơn vị và nhân dân được xem. Theo ý tưởng này, Khương Mễ tiếp tục nghiên cứu và biến một chiếc máy quay trở thành máy in phim để sao chép. Trận Mộc Hóa trở thành bộ phim cách mạng đầu tiên của Việt Nam được chiếu rộng rãi tại Nam Bộ. Ông cùng đồng nghiệp đã cho ra đời những bộ phim tài liệu bằng các thiết bị tự chế và làm việc trên một những chiếc ghe đôi lúc được để trôi trên sông nước. Ngoài các phim tài liệu thông thường, Khương Mễ còn nghiên cứu để làm ra phim có kỹ xảo được gọi là phim hoạt hình – sử dụng các hình động kết hợp với người đóng – để cho ra tác phẩm đầu tiên thuộc dạng này là Hết đời đế quốc năm 1951. Bộ phim có sự tham gia của một tù binh Pháp và nghệ sĩ Nguyễn Hiền – Nguyên giám đốc Xưởng phim Giải Phóng.
Làm phim tại miền Bắc
Cuối năm 1950 đầu năm 1951, Điện ảnh Vệ quốc đoàn khu 8 trở thành Phòng Điện ảnh Nam Bộ. Theo yêu cầu của Phòng, các đạo diễn Nguyễn Phụ Cấn, Võ Thành Tắc, Nguyễn Công Son, Mai Lộc của Quân khu 8 cùng Nguyễn Thế Đoàn và Lê Minh Hiền của Quân khu 9 được cử ra Bắc quay phim cho Đại hội Đảng lần 2 ở Việt Bắc. Năm 1954, Khương Mễ cùng 22 nghệ sĩ khác cũng được tập kết ra Bắc để xây dựng cơ sở và đào tạo nhân lực cho Điện ảnh Việt Nam, thành lập Hãng phim truyện Việt Nam. Năm 1954, trong kế hoạch chuẩn bị chi việc sản xuất phim điện ảnh, Khương Mễ là quay phim chính cho tiểu Người chiến sĩ (tựa đề khác là Cô lái đò bến Chanh) do Trần Công đạo diễn. Ông tham gia quay phim cho một số tác phẩm như Biển động, Hai người lính, Vợ chồng A Phủ, Khói trắng, Lửa rừng.
Năm 1963, ông được phân công ghi hình một buổi tiếp khách của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trở lại miền Nam và cuối đời
Năm 1976, ông trở về miền Nam làm việc tại Xưởng phim Giải Phóng và tham gia làm một số bộ phim điện ảnh, phim truyền hình Cô Nhíp, Chuyện bên lề 30/4, Em bé đánh giày, Chiều sâu lòng đất...
Năm 1997, tại Liên hoan Phim Quốc tế Amiens lần thứ 17, Khương Mễ là khách mời danh dự và Điện ảnh kháng chiến Nam Bộ được dành riêng một gian triển lãm. Triển lãm với 25 bức ảnh đen trắng phóng to, 6 mô hình trang thiết bị phục chế, 2 quyển sách về điện ảnh bằng tiếng Pháp xuất bản năm 1947. Khương Mễ được Jean Pierre Garcia, chủ tịch của kỳ Liên hoan phim này, ví như Lumière của Tháp Mười. Chủ tịch ban giám khảo liên hoan phim là nữ diễn viên Sophie Baez cũng tuyên dương toàn bộ tác phẩm của ông và trao tặng ông huy chương Kỳ Lân Vàng – Licorne D'Or. Tại liện hoan phim, đạo diễn người Pháp Samual Aubin được biết đến Khương Mễ và rất hâm mộ ông, nên năm 1999, Samual đã sang Việt Nam đi tìm hiểu và năm 2001 lập đoàn làm phim tài liệu về Khương Mễ. Khi hoàn thành bộ phim lấy tựa đề Phòng tối của Khương Mễ (La chambre noire de Khuong Mé), với độ dài 63 phút, do Balthazar Productions sản xuất. Sự kiện công công chiếu do Phòng Hợp tác Văn hóa (Tổng Lãnh sự quán Pháp tại thành phố Hồ Chí Minh) và Viện Trao đổi Văn hóa với Pháp tổ chức ngày 26 tháng 3 năm 2003 tại IDECAF, nhân đợt kỷ niệm 50 năm ngày thành lập ngành điện ảnh Việt Nam. Dù đã nghỉ hưu nhưng phải đên năm 85 tuổi (2002) ông mới chính thức giải nghệ.
Khương Mễ cho ra mắt cuốn hồi ký Đời tôi và điện ảnh do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh phát hành. Sách gồm có 9 chương, kể về những diễn biến cuộc đời ông theo trình tự thời gian.
Khương Mễ qua đời ngày 18 tháng 6 năm 2004 tại Bệnh viện Thống Nhất.
Trong sự nghiệp của mình, Khương Mễ đã tham gia sản xuất bộ phim tài liệu đầu tiên của điện ảnh cả nước Trận Mộc Hóa (1948), quay một trong ba bộ phim truyện đầu tiên của điện ảnh cách mạng Việt Nam Vợ chồng A Phủ (1961), và đạo diễn bộ phim điện ảnh đầu tiên của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh là Cô Nhíp (1976).
Giải thưởng
Vinh danh
Năm 1977, Giải thưởng của Tiểu hội Á - Phi - Mỹ Latinh tại Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary, Tiệp Khắc
Năm 2006, Khương Mễ cùng Phạm Kỳ Nam được vinh danh tại Giải Cánh diều 2005.
Năm 2010, Khương Mễ cùng với các đạo diễn Phạm Văn Khoa, Nguyễn Hồng Nghi, Khương Mễ và Mai Lộc được vinh danh tại Lễ trao giải Cánh diều 2009.
Năm 2023, Khương Mễ cùng 107 tác phẩm và 326 cá nhân xuất sắc của điện ảnh Việt Nam được nêu tên trên Bức tường danh vọng của Giải cánh diều 2023.
Tác phẩm đạt giải thưởng
Tác phẩm
Vai trò đạo diễn / quay phim
Vai trò diễn viên
Tham khảo
Người An Giang
Mất năm 2004
Sinh năm 1916
Nghệ sĩ ưu tú Việt Nam
Họ Khương
Đạo diễn điện ảnh Việt Nam
|
19851592
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Steve%20Zuckerman
|
Steve Zuckerman
|
Stephen Edward "Steve" Zuckerman (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1947) là một đạo diễn truyền hình và sân khấu người Mỹ. Ông theo học tại Đại học Michigan và Trường Kịch nghệ Yale, và trở thành Phó Giám đốc Nghệ thuật của Nhà hát IRT sau khi tốt nghiệp. Tại đây, ông đã chỉ đạo biểu diễn các tác phẩm kịch nổi tiếng của Odets như "Clash By Night" và "Brand" của Henrik Ibsen.
Từ năm 1987, ông đã đảm nhiệm vai trò đạo diễn trong một số lượng lớn chương trình truyền hình, chẳng hạn như Full House, The Golden Girls, Murphy Brown, Empty Nest, Friends, The Drew Carey Show, Everybody Loves Raymond, Zoey 101, According to Jim, Melissa & Joey, Anger Management, vv....
Sự nghiệp điện ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Steve Zuckerman - Official Site
Sinh năm 1947
Đạo diễn truyền hình Mỹ
Đạo diễn sân khấu Mỹ
Nhân vật còn sống
Cựu sinh viên Đại học Michigan
Cựu sinh viên Trường Kịch nghệ David Geffen tại Đại học Yale
|
19851593
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Im%20Se-mi
|
Im Se-mi
|
Im Se-mi (sinh ngày 29 tháng 5 năm 1987) là một nữ diễn viên người Hàn Quốc. Cô được biết đến với các vai diễn trong các bộ phim truyền hình như True Beauty, When The Weather is Fine, Duty After School, The Worst of Evil, That Winter, the Wind Blows và Two Weeks.
Sự nghiệp
Vào tháng 1 năm 2019, Im đã ký hợp đồng với công ty mới YNK Entertainment.
Vào ngày 3 tháng 2 năm 2022, Im ký hợp đồng độc quyền với Noon Company sau khi hợp đồng của cô với YNK Entertainment hết hạn.
Đóng phim
Phim điện ảnh
Phim truyền hình
Chuỗi web
Chương trình tạp kỹ
Nhà hát
Giải thưởng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nữ diễn viên điện ảnh Hàn Quốc
Nữ diễn viên truyền hình Hàn Quốc
Nữ diễn viên Hàn Quốc thế kỷ 21
Nữ diễn viên từ Seoul
Cựu sinh viên Đại học nữ sinh Dongduk
|
19851594
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heike%20Monogatari
|
Heike Monogatari
|
là một tác phẩm văn học thuộc thể loại sử thi của Nhật Bản được sáng tác vào khoảng năm 1330, nói về cuộc nội chiến tranh giành quyền lực của gia tộc Taira và gia tộc Minamoto nhằm giành quyền cai trị đất nước Nhật Bản trong Chiến tranh Genpei diễn ra vào cuối thế kỷ 12 (1180–1185). Từ "Heike" (, Bình gia) có liên quan mật thiết đến chữ "Taira" (), trong đó, chữ"hei" là cách đọc on'yomi của kí tự Hán ngữ đầu tiên và chữ "ke" () có nghĩa là "gia đình". Chúng ta cần lưu ý rằng, trong thời kỳ Chiến tranh Genpei, từ "hei" được đọc thành "pei" và chữ "gen" () là ký tự Hán ngữ đầu tiên dùng để chi gia tộc Minamoto (tương tự với chữ "Genji" là ký tự phát âm theo kiểu on'yomi, ví dụ như tên nhân vật trong Truyện kể Genji) và cũng là ký tự chữ Hán dùng để ám chỉ gia tộc.
Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Anh ít nhất 5 lần, lần đầu được dịch bởi Arthur Lindsay Sadler vào năm 1918–1921. Một bản dịch hoàn chỉnh dài gần 800 trang đã được xuất bản bởi Hiroshi Kitagawa & Bruce T. Tsuchida vào năm 1975. Một bản dịch khác của Helen McCullough đã được xuất bản vào năm 1988. Một bản dịch rút gọn của Burton Watson đã được xuất bản vào năm 2006. Vào năm 2012, Royall Tyler đã hoàn thành bản dịch riêng của ông, đồng thời lồng ghép quan điểm chú trọng đến thể thức trình bày của tác phẩm nguyên gốc.
Tiểu thuyết gia lịch sử Eiji Yoshikawa đã xuất bản phiên bản kết xuất văn xuôi của tác phẩm trên tờ báo Asahi Weekly vào năm 1950 với tiêu đề là Tân truyện Heike (Shin Heike Monogatari).
Nghi vấn tác giả
Người ta cho rằng Bình gia truyện không có khả năng được sáng tác bởi một cá nhân đơn lẻ nào. Giống như hầu hết các tác phẩm sử thi khác, tác phẩm là kết quả của sự chắp vá các câu chuyện dân gian truyền miệng được minh họa qua những tấm thẻ biwa được gọi là biwa hōshi.
Nhà sư Yoshida Kenkō (1282–1350) đã đưa ra giả thuyết về tác giả của tác phẩm trong ấn phẩm Tsurezuregusa nổi tiếng của ông, được viết vào năm 1330. Theo lời Kenkō thì "Cựu Thống đốc vùng Shinano là Yukinaga, đã viết Bình Gia truyện () và yêu cầu một người đàn ông mù tên Shōbutsu tụng nó như một bài thánh ca". Ông cũng đề cập đến mối quan hệ mật thiết giữa những lá bài biwa và người đàn ông mù đó , vốn là một "tín đồ bẩm sinh của các văn kiện tôn giáo", và là người đã gửi cho Yukinaga "những thông tin ông ta sưu tầm được từ các samurai, từ cách họ cúi đầu, cho đến những chiến thuật của họ khi ở trên lưng ngựa. Yukinaga đã viết nó sau khi được cung cấp nhưng thông tin này".
Một trong những điểm mấu chốt trong giả thuyết này là ngôn ngữ viết trong tác phẩm. Chúng chính là sự kết hợp hóc búa giữa Hán ngữ và Nhật ngữ (wakan konkō shō), và được sáng tác trong nhiều ngày bởi duy nhất một tăng lữ có học thức như Yukinaga. Tuy nhiên, cuối cùng ta vẫn phải kết luận rằng, tác phẩm là thành quả của một quá trình dài thu thập các câu chuyện dân gian truyền miệng, cá nhân sáng tác ra nó không thể xác định một cách chính xác; có lẽ Yukinaga là người đầu tiên và duy nhất biên soạn lại kiệt tác văn học này dưới dạng văn học viết. Bên cạnh đó, với việc những mẩu chuyện trong đó được trình bày dưới dạng các thể thức khác nhau, mặc dù không mang nhiều ý nghĩa nhưng điều đó cho ta thấy rằng, đây là một tác phẩm mang tính chất sưu tầm hơn là do một cá nhân sáng tác.
Nguồn gốc và đề tài
Lịch sử thể loại Monogatari
Người Nhật đã cho phát triển một số chiến lược bổ sung để nắm bắt, bảo tồn và phổ biến các yếu tố thiết yếu của lịch sử dân tộc được chấp nhận rộng rãi trong quần chúng – chúng là các biên niên sử về vua chúa cũng như các sự kiện, tiểu sử của các danh nhân lịch sử, cùng với những câu chuyện quân sự được gọi là gunki monogatari . Thể loại văn học này được phát triển nhờ vào mối quan tâm đến việc ghi lại các hoạt động xung đột quân sự vào cuối thế kỷ 12. Các trận chiến lớn, các cuộc giao tranh nhỏ và các cuộc chiến mang tính cá nhân (cùng các nhân vật quân sự) đều được ghi chép, tường thuật và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác với các tác phẩm như Hōgen Monogatari (1156), Heiji Monogatari (1159–1160) ) và Heike Monogatari (1180–1185).
Trong mỗi tác phẩm thuộc thể loại monogatari này, các nhân vật trung tâm đều được phổ biến sâu rộng trong quần chúng, các sự kiện lớn được mọi người hiểu một cách khái quát và các vấn đề trong thời kỳ đó thường được chấp nhận như những yếu tố nền tảng của văn hóa Nhật Bản. Tính chính xác của mỗi ghi chép lịch sử này đã trở thành một chủ đề hấp dẫn để nghiên cứu sâu hơn; và có một số chi tiết tác phẩm đã được chứng minh chúng đã trải qua sự giám sát chặt chẽ, trong khi những "sự thật" hóa ra lại không chính xác.
Phiên bản phổ biến và nổi tiếng nhất của Bình Gia truyện ngày nay là bản được Kakuichi chắp bút năm 1371, thường được cho là một vở kịch hư cấu dựa trên Chiến tranh Genpei. Thay vì tập trung vào các chiến binh Genpei như cách mô tả thông thường, tác phẩm lại tập trung xoáy sâu vào "... chiến binh lý tưởng được truyền tụng qua những lời thánh ca ..." với nguồn cảm hứng đến từ việc tôn vinh và lý tưởng hoá hình tượng con người.
Đề tài chính
Câu chuyện Heike được xem là một bộ sưu tập những câu chuyện được truyền miệng bởi các nhà sư du hành, những người đã tụng những bài trong biwa, một loại nhạc cụ tương đồng với đàn tì bà. Phiên bản được biết đến nhiều nhất của Heike monogatari đã được tụng bởi một nhà sư mù tên là Kakuichi, vào năm 1371. Sau này, Chuyện kể Heike (còn gọi là "Bình Gia truyện) được coi là tác phẩm văn học cổ điển xuất sắc nhất trong nền văn học thời Trung cổ của Nhật Bản.
Hai chủ đề đạo đức xuyên suốt tác phẩm này là tinh thần samurai và đạo Phật.
Ở một mức độ nào đó, nội dung tác phẩm là cả một câu chuyện dài về những bậc anh hùng võ nghiệp – về lòng dũng cảm, sự độc ác, quyền lực, vinh quang, sự hy sinh và cả niềm hối tiếc. Đã có nhiều người nhấn mạnh về chủ nghĩa anh hùng mà tác phẩm đề cập tới, trong đó, những chi tiết về cái chết và sự dơ bẩn của hiện thực chiến tranh đã bị phớt lờ, những cái chết trong đó cũng đã được thẩm mỹ hóa: một ví dụ điển hình trong trường hợp thứ hai này là việc so sánh một võ sĩ bị đuối nước với hình ảnh chiếc lá phong trôi theo dòng nước ra xa nhằm xoa dịu đi tình thế khắc nghiệt của chủ thể.
Mặt khác, trong khi tác phẩm vẫn chấp nhận tầm quan trọng của những hình tượng quân sự hào hùng như Yoshitsune, song vẫn hướng đến việc chú trọng những tư tưởng Phật pháp, cũng như về số phận con người. Ngay từ đầu, chúng ta đã được biết rằng tác phẩm luôn được hướng đến quy luật vô thường trong Phật giáo, đặc biệt nhấn mạnh vào những điều may mắn mong manh của con người, cũng chính là dạng thức của sic transit gloria mundi ( "Trên trần thế không có gì là mãi mãi"). Chủ đề về thuyết vô thường (mujō) đã được thể hiện trong tác phẩm thông qua đoạn mở đầu được phổ biến rộng rãi như sau:
Trong tác phẩm, , hay cụm từ là một cụm từ được trích từ tác phẩm Humane King Sutra, với ý nghĩa đầy đủ là .
Hình mẫu tôn giáo thứ hai được biểu hiện trong Bình Gia truyện là một quan điểm khác của nhà Phật - nghiệp quả. Theo quy luật được gọi là "nghiệp chướng" ấy, ta phải đón nhận hậu quả của việc "gieo nghiệp" trong suốt nhiều năm cuộc đời sau đó. Do vậy, ta có thể thấy rằng, "nghiệp quả" sẽ giúp chúng ta giải quyết những khúc mắc xoay quanh cái ác về mặt tự nhiên và cả về mặt đạo đức. Bất kỳ người gieo nghiệp ác nào cũng phải chịu quả báo về sau. Điều này được thể hiện rõ thông qua chi tiết nhân vật Kiyomori gặp quả báo trong Bình Gia truyện; nhân vật này được khắc họa như một con người độc ác, để rồi phải gánh chịu nghiệp quả đau đớn với căn bệnh cướp đi sinh mạng ông ta.
Trọng tâm, các phần cấu thành và sức ảnh hưởng
Thuyết vô thường Phật giáo được thể hiện trong Bình Gia truyện chính là hình ảnh thu nhỏ cho sự sụp đổ của gia tộc Taira hùng mạnh – cũng chính là gia tộc samurai đã đánh bại gia tộc Minamoto (một gia tộc được Hoàng thất hậu thuẫn) vào năm 1161. Qua đó, ta có thể thấy rằng, gia tộc chiến binh Taira đã châm ngòi cho sự sụp đổ của chính nó bằng thái độ "ngủ quên trong chiến thắng", trở nên kiêu ngạo, hống hách và cuối cùng đã bị đả bại dưới tay gia tộc hồi sinh Minamoto vào năm 1185, dẫn đến sự thành lập Chính quyền samurai đầu tiên trong lịch sử.
Các tình tiết trong truyện được sắp xếp một cách tự nhiên và được phần cốt truyện được thiết kế lại theo dạng một chuỗi những câu chuyện kể đêm khuya. Mặc dù tư tưởng trong tác phẩm phần lớn chịu ảnh hưởng của Đạo Phật, song tác phẩm vẫn thể hiện nên tinh thần võ sĩ đạo cùng văn hóa chiến binh – vốn là nền móng của võ sĩ đạo (một cụm từ chỉ cách cư xử của những chiến binh Nhật Bản cổ đại). Bên cạnh đó, Bình Gia truyện cũng chứa một lượng lớn những câu chuyện về tình yêu đôi lứa, một chi tiết liên tưởng tới nền văn học huy hoàng của thời kỳ Heian.
Câu chuyện được chia đại khái thành ba phần. Nhân vật trung tâm của phần đầu câu chuyện là Taira no Kiyomori, người được miêu tả với tính cách kiêu ngạo, độc ác, tàn nhẫn, đến khi chết vẫn ôm mối hận trong lòng. Tác phẩm đã miêu tả cơ thể bốc cháy ngọn lửa thù hằn của Kiyomori với chi tiết phóng đại như việc cơ thể ông ta vẫn rất nóng ngay cả khi rơi xuống nước. Nhân vật chính trong phần hai tác phẩm là một vị tướng thuộc gia tộc Minamoto - tức Minamoto no Yoshinaka . Tiếp nối sau cái chết của Yoshitaka, nhân vật chính của phần ba là vị samurai vĩ đại, Minamoto no Yoshitsune, một thiên tài quân sự bị anh trai Minamoto no Yoritomo , vốn là người sắc sảo về chính trị, buộc tội phản phúc.
Như vậy, có thể nói rằng, Bình Gia truyện đã cung cấp tư liệu cho nhiều tác phẩm nghệ thuật sau này, từ kịch Noh kịch Kabuki, cho đến các bức tranh in mộc bản, tranh vẽ và thơ haiku ; thậm chí trong các tác phẩm hiện đại, Bình Gia truyện vẫn được sử dụng như một nguồn tài liệu tham khảo.
Cốt truyện
Hai chủ đề chính được đặt trong phần giới thiệu được nhiều người biết tới như "tiếng chuông của Gion Shōja: sự vô thường và sụp đổ của kẻ hùng mạnh" (chỉ Taira no Kiyomori).
Chương 1
Chương này mô tả sự trỗi dậy của gia tộc Taira và những xung đột ban đầu tại triều đình. Vị đại thần họ Taira đầu tiên được vào triều là Taira no Tadamori (1131). Sau khi Tadamori qua đời (1153), con trai ông là Kiyomori đóng vai trò then chốt trong việc giúp Thiên hoàng Go-Shirakawa đàn áp biến loạn Hōgen (1156) và cuộc bạo loạn Heiji (1159), từ đó gia tăng ảnh hưởng trong triều đình. Về sau, các thành viên gia tộc Taira dần nắm giữ các vị trí quan trọng trong triều đình, con gái của trọng thần Kiyomori tiến cung cho Thiên hoàng và hơn một nửa số tỉnh của Nhật Bản thời đó đều nằm dưới sự kiểm soát của họ Taira.
Một trong những tình tiết mô tả tính nết kiêu ngạo của Kiyomori là câu chuyện nổi tiếng về Giō, nàng vũ công bị Kiyomori thất sủng và xuống tóc đi tu.
Kiyomori và nhà Taira thậm chí còn dám tranh quyền với Nhiếp chính quan quyền lực Fujiwara no Motofusa. Tức giận trước sự chuyên quyền của nhà Taira, thượng thư Fujiwara no Narichika,Thượng hoàng Go-Shirakawa, tu sĩ Phật giáo Saikō cùng các đồng minh đã có buổi họp tại Shishigatani (dinh thự trụ trì chùa Shunkan ) và bàn về âm mưu lật đổ Kiyomori. Vì xảy ra sự xung đột giữa các con trai của Saikō và các sohei của chùa Enryaku-ji trên núi Hiei nên cốt truyện tạm thời bị đứt đoạn từ cảnh này. Sau đó, một trận hỏa hoạn lớn diễn ra vào ngày 27 tháng 5 năm 1177 đã thiêu rụi Hoàng cung toạ lạc ở kinh đô Heian .
Chương 2
Năm 1177, Thượng hoàng Go-Shirakawa xích mích với các sư sãi của chùa Enryaku-ji. Sau khi nghe lời đồn sẽ có cuộc hành thích tại Enryaku-ji, một trong những kẻ chủ mưu là Shishi-no-tani đã báo cho Taira no Kiyomori về âm mưu lật đổ này. Kết quả, nhà sư Saikō bị xử tử và những người khác bị lưu đày. Kiyomori tức giận khi biết Thượng hoàng cũng nhúng tay vào âm mưu hạ bệ mình và chuẩn bị vây bắt Thượng hoàng. Taira no Shigemori, người con cả đức hạnh của Kiyomori đã khuyên răn cha mình bằng cách nhắc nhở ông về giá trị của Nho giáo và lòng trung thành đối với Quân vương. Thượng thư Fujiwara no Narichika bị đày đến một hòn đảo và bị hành quyết một cách dã man. Những kẻ chủ mưu khác như Naritsune, Yasuyori và Shunkan đều bị lưu đày đến Kikaijima gần tỉnh Satsuma .
Trong khi đó, chùa Enryaku-ji bị phá hủy và một trận hỏa hoạn ở Zenkō-ji đã khiến một bức tượng Phật bị thiêu cháy. Người ta tin rằng sự bất thường này là điềm báo về sự việc chẳng lành sắp xảy đến với nhà Taira. Những người bị đày đến Kikaijima đã dựng lên một ngôi đền để cầu nguyện sớm ngày được trở lại kinh đô. Họ đã làm ra hàng nghìn bảo tháp, khắc tên từng người một và ném xuống biển. Một trong những mảnh bảo tháp ấy trôi dạt đến bờ, sau được đưa về kinh thành và cho gia đình Yasuyori xem. Tin về mảnh bảo tháp đến tai Thượng hoàng Go-Shirakawa và Kiyomori, những mảnh bảo tháp ấy khiến mọi người đều cảm động.
Chương 3
Con gái của Kiyomori, tức chính phi Taira no Tokuko bị mắc bệnh trong lúc mang thai. Căn bệnh của bà được cho là do những linh hồn giận dữ của những người bị hành quyết ( như Fujiwara no Narichika) và những người bị lưu đày. Taira no Kiyomori vì muốn mình có cháu trai mang huyết mạch Hoàng gia nên đã đồng ý ra lệnh ân xá. Con trai của Fujiwara no Narichika là Naritsune và Yasuyori được tha tội, nhưng Shunkan lại không được như thế. Ông bị bỏ lại một mình trên Kikaijima vì đã để những kẻ âm mưu chống Taira tụ họp tại tư dinh của mình. Một cảnh bi thảm nổi tiếng diễn ra sau khi Shunkan đập chân xuống đất trong tuyệt vọng.
Con gái Tokuko của Kiyomori đã hạ sinh Thiên hoàng Antoku (1178). Cận thần trẻ tuổi trung thành của Shunkan là Ariō đã đến hòn đảo lưu đày và phát hiện Shunkan đang thoi thóp. Tuyệt vọng trước tin gia đình mình qua đời, Shunkan đã tự sát bằng cách tuyệt thực (1179). Việc nhà sư ấy ra đi trong đau khổ cũng như hiện tượng gió lốc tràn vào kinh thành được coi là dấu hiệu báo trước sự sụp đổ của gia tộc Taira.
Người con trai đức hạnh của Kiyomori là Taira no Shigemori đã có chuyến hành hương đến Kumano và cầu xin các vị thần an bài cho ông một cái chết nhanh chóng trong trường hợp nhà Taira sụp đổ. Một thời gian ngắn sau đó, ông lâm bệnh và qua đời. Nếu không có sự can gián của con trai, Kiyomori có thể gây ra cuộc binh biến để đối phó với Thượng hoàng Go-Shirakawa. Quả đúng như vậy, về sau ông ta dẫn quân đến Kyoto, sau đó lưu đày và cách chức 43 trọng thần triều đình, trong đó có cả Nhiếp chính quan Fujiwara no Motofusa. Tiếp theo, Kiyomori đã giam giữ Thượng hoàng trong một cung điện hoang phế mang tên Seinan (1179).
Chương 4
Thiên hoàng Takakura bị ép thoái vị và nhường ngôi cho cháu trai 3 tuổi của Kiyomori, tức Thiên hoàng Antoku sau này. Thượng hoàng Takakura đã khiến các nhà sư chùa Enryaku-ji tức giận với việc đến viếng Đền Itsukushima thay thế Enryaku-ji. Trước tình hình rối ren, Minamoto no Yorimasa đã thuyết phục Thân vương Mochihito, con trai thứ hai của Thượng hoàng Go-Shirakawa lãnh đạo lực lượng quân sự thuộc phe Minamoto chống lại nhà Taira và lên ngôi Tân đế. Thân vương Mochihito đưa ra lời kêu gọi lật đổ Taira bằng biện pháp quân sự. Cuộc chiến công khai giữa nhà Minamoto và nhà Taira được châm ngòi bởi việc Taira no Munemori - con trai của Kiyomori - đã sỉ nhục con trai của Minamoto no Yorimasa bằng cách tước đi con ngựa của đối phương và gọi nó bằng tên của người chủ.
Âm mưu chống gia tộc Taira đã bị Taira no Kiyomori phát hiện. Thân vương Mochihito chạy trốn đến Miidera để tránh sự truy lùng. Yorimasa và các nhà sư chùa Miidera đã đối đầu với lực lượng phe Taira tại cây cầu bắc qua sông Uji (năm 1180) . Các nhà sư đã chiến đấu một cách kiên cường bất khuất, song lực lượng Taira đã vượt qua sông và giành chiến thắng trong trận chiến. Yorimasa tự sát tại ngôi đền Byōdōin và Thân vương Mochihito bị ám sát trên đường đến Kōfuku-ji cùng đồng minh ở Nara . Một trong những người con trai của Thân vương Mochihito bị buộc phải xuất gia, nhưng một người con khác đã tháo chạy về phương bắc để gia nhập lực lượng thuộc phe phái nhà Minamoto. Kiyomori ra lệnh đốt chùa Miidera; sau đó, nhiều ngôi đền bị đốt cháy và người dân coi đó là điềm xấu cho nhà Taira .
Chương 5
Kiyomori dời đô từ Kyoto đến thành trì Fukuhara-kyō của mình vào năm 1180. Có cảnh về những bóng ma kỳ lạ xuất hiện trước Kiyomori như khuôn mặt đáng sợ, tiếng cười quỷ dị, đầu lâu chết chóc và những cơn ác mộng. Tin tức về tình trạng bất ổn ở các tỉnh phía đông (do Minamoto kiểm soát) đã được truyền đến kinh đô mới.
Nhà sư Mongaku được chọn làm nhân vật làm nền cho cuộc nổi dậy của Minamoto no Yoritomo. Mongaku được mô tả là một nhà tu khổ hạnh có sức mạnh kỳ diệu, người đã yêu cầu quyên góp ngân sách cho triều đình vào năm 1179. Sau khi bị Thượng hoàng Go-Shirakawa từ chối, ông ta đã gây loạn trong triều đình và bị lưu đày đến tỉnh Izu .
Tại Izu, Mongaku thuyết phục Minamoto no Yoritomo nổi dậy chống lại nhà Taira. Sau đó, ông ta đến Fukuhara và mang về Chiếu thư do Thượng hoàng phê chuẩn nhằm cho phép Minamoto no Yoritomo lật đổ Taira. Kiyomori cử một đoàn quân đi dẹp yên cuộc nổi loạn ở Yoritomo. Khi đến sông Fuji, phe Taira sau khi nghe những câu chuyện về sự hùng mạnh của các chiến binh phía đông đã lo sợ rằng phe Minamoto đông hơn họ. Vào ban đêm, một đàn chim nổi lên đã gây ra tiếng ồn lớn khiến quân Taira tưởng rằng họ bị tấn công nên hoảng sợ rút lui.
Dưới sức ép của các sư sãi và cận thần, Kiyomori đành phải dời đô về Kyoto. Nghe lời đồn về một cuộc khởi binh do nhà Taira lên kế hoạch, các nhà sư của chùa Kōfukuji (vốn ủng hộ cuộc binh biến của Thân vương Mochihito) đã nổi dậy và giết tên sứ giả do Kiyomori cử đến. Lực lượng Taira tới bao vây Nara và đốt cháy nhiều ngôi chùa quan trọng ( Tōdai-ji, Kōfuku-ji), cũng như các pho tượng và kinh Phật. Hai vị Thượng hoàng cùng các cận thần than thở về sự điêu tàn của Nara. Về sau, hành động xấu xa này đã được cho là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Kiyomori.
Chương 6
Năm 1181, Thượng hoàng Takakura băng thệ trong tình hình rối loạn xảy ra trong suốt nhiều năm qua. Kiso no Yoshinaka (anh họ của Minamoto no Yoritomo tại các tỉnh phía tây bắc) đã lên kế hoạch nổi dậy chống lại nhà Taira và thành lập một đội quân. Tin tức về cuộc nổi loạn do lực lượng chống nhà Taira đang tập hợp dưới sự lãnh đạo của Minamoto ở các tỉnh phía đông, Kyūshū, Shikoku đã được lan truyền. Với quân phe Taira lúc này, việc đối phó với tất cả các cuộc biến loạn dần trở nên khó khăn.
Trưởng tộc nhà Taira là Kiyomori đổ bệnh khiến tình hình càng thêm loạn. Cơ thể ông nóng như lửa đến nỗi có bao nhiêu nước cũng không thể làm dịu được. Bất cứ giọt nước nào phun vào người ông đều biến thành ngọn lửa và khói đen tràn ngập khắp căn phòng. Vợ của Kiyomori mơ thấy một chiếc xe ngựa bốc cháy sẽ đưa Kiyomori xuống Địa ngục để trừng phạt về việc đốt tượng Phật ở Tōdai-ji. Trước khi chết trong đau đớn, Kiyomori ước rằng đầu của đối thủ Minamoto no Yoritomo được treo trước mộ mình. Cái chết của ông ta vào năm 1181 đã trở thành điểm sáng trong việc minh hoạ về sự vô thường và sự sụp đổ của kẻ hùng mạnh. Kiyomori sẽ bị tra tấn nơi Địa ngục bởi chính những việc làm xấu xa của mình. Danh tiếng và quyền lực của ông ta giờ đây đã tan thành mây khói.
Ở phía đông, lực lượng Taira giành thắng lợi trong một số trận chiến, nhưng không thể đánh bại lực lượng Minamoto. Tuy vậy, một thế lực thần thánh đã xuất hiện để trừng phạt và giết chết thống đốc do Kiyomori bổ nhiệm nhằm dập tắt cuộc biến loạn của Kiso no Yoshinaka. Kiso no Yoshinaka về sau đã giành thắng lợi quan trọng trong trận chiến ở Yokotagawara (1182). Taira no Munemori, tân trưởng tộc Taira đã được phong một chức quan cao trong triều đình.
Chương 7
Năm 1183, nhà Taira tập hợp một đội quân lớn (chủ yếu đến từ các tỉnh phía Tây) và điều quân đi đánh phe Minamoto no Yoshinaka và Minamoto no Yoritomo.Tại phía bắc, quân đội Taira cướp bóc của cải thuộc các ngôi làng địa phương. Taira no Tsunemasa đã đến một hòn đảo để cầu nguyện và sáng tác một bài thơ. Tại Cuộc vây hãm Hiuchi, nhà Taira đã nhận được sự giúp đỡ từ một trụ trì trung thành và đánh bại quân đồn trú của Yoshinaka. Yoshinaka thỉnh cầu tại Đền Hachiman để cầu xin sự tương trợ đến từ lực lượng siêu nhiên cho trận chiến sắp tới. Yoshinaka tấn công quân Taira vào ban đêm từ phía trước và phía sau, buộc chúng phải rút lui và tiến xuống Thung lũng Kurikara, nơi hầu hết trong số 70.000 kỵ binh Taira bị đè bẹp thành từng lớp người chồng lên nhau. Tại núi Shio-no-yama, Yoshinaka giúp người chú Yoshiie đánh bại lực lượng Taira (kết quả là con trai của Kiyomori là Tomonori bị giết trong trận chiến). Quân đội Taira cũng bị đánh bại trong Trận chiến Shinohara . Trong khi đó, Yoshinaka thuyết phục các nhà sư ở Núi Hiei đứng về phía mình.
Trưởng tộc Taira là Taira no Munemori tháo chạy đến các tỉnh phía Tây cùng với Thiên hoàng Antoku và Tam chủng Thần khí (trong khi Thượng hoàng Go-Shirakawa tìm cách trốn thoát theo một hướng khác). Taira no Tadanori (anh trai của Kiyomori) trốn khỏi kinh đô và để lại một số bài thơ của mình cho nhà thơ nổi tiếng Fujiwara no Shunzei . Tsunemasa trả lại cây sáo trứ danh của mình cho chùa Ninna-ji .Tại Fukuhara-kyō, Munemori khiến mọi người cảm động với lời khẩu dụ tuân theo Thiên hoàng, sau đó phóng hỏa cung điện và dùng thuyền chạy trốn khỏi Fukuhara-kyō đến Kyūshū.
Chương 8
Thượng hoàng Go-Shirakawa trở lại kinh thành từ chùa Enryaku-ji cùng với quân đội của Minamoto no Yoshinaka. Ông ra chỉ dụ sắc phong Tân đế cho Thiên hoàng Go-Toba, và loại bỏ gia tộc Taira khỏi các vị trí trong triều đình.
Nhà Taira muốn thành lập thủ phủ mới ở Kyūshū, nhưng cuối cùng phải chạy trốn khỏi các chiến binh địa phương đứng về phía Thượng hoàng. Họ đến Yashima ở Shikoku, nơi họ phải sống trong những túp lều bé nhỏ thay cho chốn cung điện xa hoa.
Cuối năm 1183, Minamoto no Yoritomo (vẫn ở Kamakura) được Thượng hoàng Go-Shirakawa bổ nhiệm làm "Chinh di Tướng quân" (shōgun). Yoritomo tiếp đón sứ giả kinh thành hết sức trang trọng bằng việc mời ông ta đến dự tiệc và tặng cho ông ta nhiều món quà. Cách cư xử của Yoritomo hoàn toàn trái ngược với cách cư xử kiêu ngạo của Minamoto no Yoshinaka ở kinh thành. Sự thô lỗ và thiếu hiểu biết phép tắc của Yoshinaka được thể hiện một cách lố bịch trong một số cảnh: chọc cười cận thần,mặc áo choàng đi săn, không biết cách xuống xe ngựa.
Trong khi đó, nhà Taira đã lấy lại sức lực và tập hợp một đội quân hùng mạnh. Yoshinaka điều quân kháng cự, nhưng lần này nhà Taira đã chiến thắng trong trận chiến Mizushima. Sau chiến thắng trong Trận Muroyama, ảnh hưởng của họ đã tăng lên đáng kể .
Tại kinh đô, Yoshinaka đối đầu với Thượng hoàng Go-Shirakawa trong trận chiến tại Hōjūji và giành quyền kiểm soát kinh thành cũng như triều đình bằng vũ lực. Minamoto no Yoritomo đã phái Minamoto no Yoshitsune đến chấm dứt sự chuyên quyền của Yoshinaka.
Chương 9
Khi Minamoto no Yoshinaka chuẩn bị hành quân về phía Tây chống lại nhà Taira vào đầu năm 1184, đội quân do Minamoto no Yoshitsune chỉ huy đã đến tấn công ông từ phía đông. Cuộc đấu tranh trong nội bộ lực lượng Minamoto đã diễn ra sau đó. Yoshinaka cố gắng bảo vệ kinh thành, nhưng các chiến binh của Yoshitsune đã thành công vượt sông Uji và đánh bại lực lượng của Yoshinaka tại Uji và Seta. Yoshitsune chiếm quyền kiểm soát và canh giữ tư dinh của Thượng hoàng Go-Shirakawa nhằm tránh cho Thượng hoàng bị vây bắt bởi người của Yoshinaka. Yoshinaka hầu như không vượt qua được lực lượng của kẻ thù. Ông gặp người anh nuôi là Imai Kanehira và họ cố gắng trốn thoát khỏi sự truy đuổi của quân địch. Trong một cảnh được lan truyền rộng rãi, Yoshinaka đã bị giết khi con ngựa của ông bị mắc kẹt trong đống bùn lầy. Kanehira đánh trận cuối cùng và tự sát.
Trong khi phe Minamoto chiến đấu nội bộ trong kinh thành, phe Taira đã quay về Fukuhara và thiết lập phòng thủ tại thành trì Ichi-no-tani (gần khu vực ngày nay là Suma-ku, Kobe ). Quân đội của Minamoto no Yoshitsune tiến về phía tây để tấn công nhà Taira từ phía sau trong khi người anh cùng cha khác mẹ Noriyori của ông tiến lên tấn công doanh trại Taira từ phía đông. Yoshitsune lên kế hoạch tấn công bất ngờ vào Ichi-no-tani từ phía tây, cưỡi con ngựa già dẫn đoàn quân của mình băng qua những ngọn núi.
Trong khi đó, cuộc giao tranh ác liệt bắt đầu ở Ikuta-no-mori và Ichi-no-tani, nhưng không một bên nào giành được lợi thế. Kỵ binh của Yoshitsune đi xuống một con dốc lớn ở đèo Hiyodori và tấn công dứt khoát vào phía sau quân Taira. Quân Taira hoảng sợ và bỏ chạy lên thuyền. Taira no Tadanori (anh trai của Kiyomori, người đã đến thăm nhà thơ Shunzei ) bị giết. Taira no Shigehira (con trai của Kiyomori, người đã phóng hoả Nara ) bị người của ông bỏ rơi ở Ikuta-no-mori, sau bị bắt sống khi đang cố gắng tự sát.
Trong một đoạn truyện được lưu truyền rộng rãi, Taira no Atsumori (cháu trai nhỏ tuổi của Kiyomori) bị chiến binh dưới trướng Kumagai Naozane thách đấu. Naozane đã áp đảo thành công, nhưng không dám giết đối thủ vì nhớ đến đứa con trai nhỏ của mình. Nhìn thấy cảnh những người lính trẻ suýt bị giết hại, Naozane quyết định giết Atsumori và tìm thấy cây sáo của ông ta (về sau Naozane đã quyết định xuất gia). Quân Taira bị đánh bại và phải chạy trốn bằng thuyền xuôi về các hướng khác nhau.
Chương 10
Năm 1184, Taira no Shigehira (bị bắt sống) và đầu của những tên lính Taira bại trận được diễu hành trên đường phố thủ đô. Thượng hoàng Go-Shirakawa đề nghị Taira đổi Tam chủng thần khí để chuộc Shigehira, nhưng bị từ chối. Như vậy, chắc chắn sau đó Shigehira sẽ bị hành quyết. Shigehira lo rằng mình sẽ phải trả giá cho sự kiêu ngạo và hành động xấu xa trong quá khứ (đốt chùa Nara ), nên sau đó ông đã tình nguyện dâng hiến cho Phật giáo. Sư Hōnen (người sáng lập Phật giáo Tịnh độ tông ở Nhật Bản) đã phác thảo ngắn gọn những giáo lý thiết yếu (niệm danh hiệu A Di Đà, sám hối, đức tin sâu sắc đảm bảo vãng sinh về Tịnh độ). Shigehira đã có chuyến đi đến Kamakura . Trên hành trình dọc theo con đường mang tên Tōkaidō, Shigehira đã đi qua nhiều địa điểm gợi lên những liên tưởng về lịch sử và văn học.
Minamoto no Yoritomo tiếp đãi Shigehira, sau khi nghe ông ta tuyên bố rằng việc đốt ngôi đền Nara chỉ là một tai nạn. Trước khi gặp các nhà sư ở Nara, Shigehira được tiếp đón nồng hậu tại Izu (chuẩn bị nước tắm, rượu được phục vụ, một người phụ nữ xinh đẹp tên Senju-no-mae được cử đến hầu hạ Yoritomo, cùng một số bài hát mang ý nghĩa Phật giáo được biểu diễn cùng sáo. Shigehira cũng hát và chơi điệu sáo – sau khi Shigehira bị xử tử, Senju-no-mae xuống tóc làm ni.
Tại Yashima, Taira no Koremori, cháu trai của Taira no Kiyomori, đang đau buồn khi phải rời xa gia quyến tại kinh thành. Ông bí mật rời Yashima và đi lên núi Kōya. Ở đó, ông đã gặp một người đàn ông thánh thiện tên là Takiguchi Tokiyori.
Một câu chuyện về mối tình bi thảm đã được lồng ghép vào giai đoạn khi Tokiyori vẫn còn là cận thần trong triều: Ông từng đem lòng yêu một cô gái xuất thân thấp kém tên Yokobue. Cha ông phản đối cuộc hôn nhân của họ và Tokiyori xuống tóc quy y. Yokobue đến tìm ông, nhưng ông kiên quyết không chịu gặp. Về sau, ông đã đến núi Kōya và trở thành một nhà sư đáng kính với pháp hiệu Takiguchi. Yokobue xuống tóc làm ni và qua đời khi còn trẻ. Koremori đến gặp Takiguchi, sau đó đi tu và hành hương đến Kumano. Sau khi được Takiguchi truyền đạt giáo lý Tịnh độ tông của Phật giáo, Koremori đã từ bỏ chấp niệm của mình, trầm mình xuống biển tự vẫn. Tin tức về việc ông ta tự sát truyền đến Yashima (doanh trại quân đội Taira). Quân Taira bị tấn công tại Fujito và rút lui.
Chương 11
Năm 1185, một lực lượng nhỏ do Minamoto no Yoshitsune chỉ huy đổ bộ lên đảo Shikoku. Yoshitsune lên kế hoạch tấn công bất ngờ từ phía sau (đây là lần thứ hai triển khai kế sách này sau Trận Ichi-no-Tani ) vào thành trì nhàTaira trong Trận Yashima . Gia tộc Taira nghĩ rằng lực lượng chính của Minamoto đang tấn công họ nên hoảng sợ bỏ chạy theo đường thuỷ. Các chiến binh dưới trướng Taira bắn tên vào lực lượng của Yoshitsune. Taira no Noritsune, cháu trai của Kiyomori và là chỉ huy cầm đầu quân lính Taira bắn tên vào Minamoto no Yoshitsune, nhưng Tsuginobu, thuộc hạ của Yoshitsune đã chết để cứu chủ.
Một phân cảnh trong truyện được truyền bá rộng rãi đã miêu tả một phu nhân thuộc gia tộc Taira cầm một chiếc quạt đứng trên thuyền như một lời thách thức hướng tới các chiến binh Minamoto và Nasu no Yoichi, một cung thủ trẻ của nhà Minamoto đã khéo léo dùng mũi tên của mình bắn trúng chiếc quạt.
Trong cuộc giao tranh hỗn loạn trên bờ biển, Yoshitsune đã đánh mất cây cung của mình và liều mạng đến lấy lại cây cung đó. Cách giải thích phổ biến cho việc rằng Yoshitsune không muốn người họ Taira lấy được cây cung đó và chế giễu ông. Gia tộc Taira buộc phải rời Shikoku và rút lui về tỉnh Nagato (mũi phía nam của Honshū ).
Trước trận chiến cuối cùng mang tên Dan-no-ura, phe gia tộc Minamoto đã có được những đồng minh mới: trụ trì đền Kumano quyết định hỗ trợ nhà Minamoto sau khi dùng cách đá gà để xem vận mệnh cho nhà Minamoto (cụ thể, phe đồng minh đã viện trợ 200 chiếc thuyền) cùng 150 chiếc thuyền đến từ tỉnh Shikoku. Như vậy, số phương tiện hỗ trợ cho nhà Minamoto tổng cộng khoảng 3000 chiếc tàu, lớn hơn nhiều so với con số 1000 của nhà Taira.
Trước trận chiến, Yoshitsune đã có xích mích về việc dẫn đầu cuộc tấn công, thậm chí còn suýt đánh nhau với Kajiwara Kagetoki (chỉ huy quân Minamoto mang lòng đố kị với Yoshitsune).
Bắt đầu trận chiến, quân Taira hừng hực khí thế và đã gần như giành phần thắng nhờ cách sắp xếp khéo léo của các cung thủ trên thuyền. Sau màn bắn tên từ xa, lực lượng chính bắt đầu chiến đấu. Tuy nhiên, sau đó đã xuất hiện những điềm báo đến từ trời cao (cờ trắng hạ xuống trên thuyền quân Minamoto, nhiều cá heo bơi đến thuyền quân Taira), dường như đã báo trước thắng lợi của nhà Minamoto. Taguchi Shigeyoshi đến từ tỉnh Awa ở Shikoku đã phản bội nhà Taira và báo cho nhà Minamoto biết về những chiếc thuyền chở lực lượng chính của Taira đã được nguỵ trang từ trước. Các chiến binh từ Shikoku và Kyūshū cũng đổi phe và quay sang hỗ trợ nhà Minamoto.
Cảnh trận chiến được lồng ghép thêm một chi tiết cực kì bi thống: bà quả phụ Kiyomori ôm lấy vị Thiên hoàng nhỏ tuổi Antoku, cả hai đều chết do đuối nước. Nhiều người thuộc gia tộc Taira đã tự sát, hoặc bị quân đối thủ giết chết trong trận Dan-no-ura. Tomomori (con trai Kiyomori) tự tử. Taira no Noritsune, cháu trai của Kiyomori và là một chiến binh dũng mãnh đã thất bại trong cuộc chiến với Minamoto no Yoshitsune và hy sinh anh dũng. Trưởng tộc Taira là Taira no Munemori, cùng con gái Kiyomori là Taira no Tokuko bị bắt sống.
Sau trận chiến, Yoshitsune trở về kinh thành cùng Tam chủng thần khí (thanh kiếm thiêng đã bị mất) và các binh lính đối thủ bị bắt sống. Các tù binh phe Taira bị bắt và đem đi diễu hành dọc đường phố trong sự thương xót của mọi người. Yoshitsune giao Munemori cho Minamoto no Yoritomo ở Kamakura, nhưng sau khi bị Kajiwara Kagetoki vu tội tạo phản, Yoritomo nghi ngờ Yoshitsune và không cho phép ông được vào Kamakura nữa. Minamoto no Yoshitsune đã viết một Bức thư đến từ Koshigoe, nhằm liệt kê những chiến công trong quân ngũ và lòng trung thành của ông, song Yoritomo vẫn giữ ông ở lại kinh thành. Taira no Munemori và con trai ông Kiyomune bị xử tử, đầu của họ bị treo gần cổng nhà lao sát kinh thành.
Taira no Shigehira (con trai của Taira no Kiyomori, bị bắt trong trận Ichi-no-Tani ) được phép gặp vợ trước khi giao cho các nhà sư Nara quản thúc. Shigehira đặt hy vọng vào lòng từ bi và sự tái sinh của Phật A-di-đà ở miền cực lạc và cõi tịnh độ của vị Phật thiêng liêng ấy. Ông bị quân lính xử tử ngay trước mặt các nhà sư. Đầu của ông bị đóng đinh ở một nơi gần ngôi đền Nara. Sau khi hỏa táng đầu và thi thể ông, vợ ông quyết định xuống tóc làm ni.
Chương 12
Một trận động đất mạnh tấn công thủ phủ Heian. Sự ngờ vực của Minamoto no Yoritomo đối với Minamoto no Yoshitsune ngày càng lớn. Yoritomo cử sát thủ đi giết Yoshitsune (nhưng thất bại). Sau đó, Yoritomo giết chếtMinamoto no Noriyori (anh trai cùng cha khác mẹ của Yoshitsune), người luôn trung thành với Yoshitsune. Khi Yoritomo điều một đạo quân hùng mạnh do Hōjō Tokimasa chỉ huy đến khống chế, Yoshitsune chạy trốn khỏi kinh đô đến một tỉnh phía bắc.
Sau khi nắm quyền kiểm soát Bình An kinh, Tokimasa đã xử tử tất cả những người thừa kế tiềm năng của gia tộc Taira . Đã có người báo cho ông ta biết về tư dinh nơi gia đình Koremori (bao gồm cả Rokudai) đang ẩn náu. Rokudai (12 tuổi) là người thừa kế cuối cùng của gia tộc Taira. Rokudai bị bắt, nhưng vú nuôi của ông đã đi tìm nhà sư Mongaku ( xem Ch.5), sau đó sư đã đồng ý đến Kamakura để xin ân xá. Mongaku quay lại với một lá thư từ Yoritomo và cứu Rokudai ngay trước khi ông bị hành quyết. Yoritomo nghi ngờ Rokudai và buộc ông phải đi tu vào năm 1189, khi ấy ông mới 16 tuổi. Rokudai đã lên núi Núi Kōya và Kumano, nơi người cha Koremori của ông chết đuối.
Trong khi đó, một số thành viên gia tộc Taira bị phát hiện và hành quyết. Năm 1192, Thượng hoàng Go-Shirakawa qua đời, hưởng thọ 66 tuổi. Yoritomo, lúc này vì vẫn còn nghi ngờ về sự duy trì của dòng họ Taira nên ra lệnh xử tử Rokudai (khoảng hơn 30 tuổi). Dòng dõi Taira chấm dứt.
Sau khi Yoritomo qua đời năm 1199, nhà sư Mongaku, lúc này đã hơn 80 tuổi, lên kế hoạch cho cuộc binh biến để đưa một Thân vương lên ngai vàng. Âm mưu của ông bị phanh phui và Thượng hoàng Go-Toba lưu đày ông đến đảo Oki.
"Cuốn sách khai tâm"
Năm 1185, Taira no Tokuko đi tu và chuyển đến sống trong một túp lều cũ gần kinh đô. Cuộc sống của bà tràn ngập nỗi khổ đau trong sự ám ảnh về những ký ức vinh quang trong quá khứ. Sau trận động đất năm 1185, túp lều bị đổ nát.
Vào mùa thu năm 1185, Taira no Tokuko sống ẩn dật tại Phật đường hẻo lánh Jakkō-in ở vùng núi Ohara để tránh sự chú ý của dân chúng. Ở đó, bà đã cống hiến hết mình cho Phật giáo. Cảnh sắc thiên nhiên gợi lên hình ảnh về cõi Cực Lạc và vô thường hiện lên trong tâm trí.
Vào mùa xuân năm 1186, Thượng hoàng Go-Shirakawa đến thăm nơi bà sống ẩn dật trên núi. Bà đã trò chuyện với Thượng hoàng về nỗi đau khổ của con người và những ý tưởng của Phật giáo về đau khổ và tái sinh ở cõi tịnh độ.
Khi nhớ lại vinh quang trong quá khứ của nhà Taira và sự sụp đổ của gia tộc, bà đã so sánh những sự kiện trong cuộc đời mình với sáu cõi tái sinh . Bà cũng nhắc đến một giấc chiêm bao, trong đó bà đã nhìn thấy những người họ Taira, và họ yêu cầu bà cầu nguyện cho họ được cứu rỗi.
Tiếng chuông của Jakkō-in vang lên (song song với tiếng chuông của tu viện Gion trong những dòng đầu tiên của Truyện ) và Thượng hoàng rời nơi Phật đường hẻo lánh để về kinh. Những bất hạnh của nhà Taira đều quy hết cho Taira no Kiyomori vì những hành động xấu xa của hắn khi còn sống đã gây ra đau khổ cho cả gia tộc Taira. Năm 1191, Tokuko lâm bệnh. Trước lúc băng thệ, bà cầu nguyện với Phật A-di-đà và được Phật đón về miền cực lạc.
Cốt truyện bổ sung
Genpei Jōsuiki, còn được gọi là , là phần cốt truyện bổ sung gồm 48 cuốn của Heike Monogatari
Xem thêm
Danh sách nhân vật trong Heike Monogatari
Genji: Dawn of Samurai (trò chơi điện tử)
Genji: Days of the Blade (trò chơi điện tử)
Chiến tranh Genpei, 1180–1185
Biến loạn Hōgen, 1156
Câu chuyện về Hōgen hay Hōgen monogatari, một tác phẩm văn học ăn theo.
Biến loạn Heiji, 1159–1160
Truyện Heiji, còn gọi Heiji monogatari
Heikegani
Chuyện Bình gia (tiểu thuyết năm 2016, được chuyển thể thành bộ anime năm 2021)
Chú thích
Tham khảo
Brown, Delmer và Ichiro Ishida. (1979). Tương lai và quá khứ: bản dịch và nghiên cứu về 'Gukanshō', một cuốn lịch sử diễn giải về Nhật Bản được viết vào năm 1219. Berkeley: Nhà xuất bản Đại học California . ; OCLC 5145872
Kitagawa, Hiroshi và Bruce T. Tsuchida, biên tập. (1975). Câu chuyện về Heike. Tokyo: Nhà xuất bản Đại học Tokyo . ; ; ; ; OCLC 193064639
McCullough, Helen Craig . (1988). Câu chuyện về Heike . Stanford: Nhà xuất bản Đại học Stanford . ; OCLC 16472263
__. (1994). Genji và Heike. Các lựa chọn từ 'Truyện kể Genji' và 'Truyện kể về Heike'. Stanford: Nhà xuất bản Đại học Stanford .ISBN 0-8047-2258-7
Watson, Burton và Haruo Shirane. (2006). Câu chuyện về Heike (tóm tắt). New York: Nhà xuất bản Đại học Columbia .ISBN 9780231138024 ; ; OCLC 62330897
Tác phẩm khuyết danh
Bài viết có văn bản tiếng Nhật
Văn học Nhật Bản
Văn học thời Heian
Văn học Phật giáo Nhật Bản
Monogatari
Văn học trung đại
Sách lịch sử thế kỷ 13
Tài liệu lịch sử
|
19851603
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bryaninops%20natans
|
Bryaninops natans
|
Bryaninops natans là một loài cá biển thuộc chi Bryaninops trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1985.
Từ nguyên
Từ định danh natans trong tiếng Latinh có nghĩa là “trôi nổi”, hàm ý đề cập đến hành vi trôi lơ lửng của loài cá này, trái ngược với hành vi bám lấy san hô của đồng loại.
Phân bố và môi trường sống
Từ Bắc Biển Đỏ và Seychelles, B. natans có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall và quần đảo Cook, xa về phía nam đến Úc và đảo Rapa Iti, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, B. natans được ghi nhận tại quần đảo Trường Sa.
B. natans sống cộng sinh với một số loài san hô cành Acropora (đặc biệt là Acropora loripes và Acropora squarrosa ở Biển Đỏ), được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 33 m.
Loài bị đe dọa
Các quần thể san hô Acropora ở Ấn-Thái Dương đã suy giảm trung bình từ 25% đến 35% từ những năm 1990 đến 2010, và hiện tượng tẩy trắng san hô ngày càng gia tăng. Do B. natans cộng sinh chặt chẽ với Acropora nên được xếp vào nhóm Loài sắp bị đe dọa theo Sách đỏ IUCN.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở B. natans là 2,5 cm. Cơ thể gần như trong suốt, ngoại trừ phần bụng có màu vàng. Hốc mắt và mống mắt có màu hồng tươi.
Số gai vây lưng: 5–9; Số tia vây lưng: 7–9; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ngực: 14–17.
Sinh thái
Thức ăn của B. natans là động vật phù du. Tuổi thọ của loài này không quá 4–5 năm.
B. natans có thể phát huỳnh quang đỏ quanh mắt ở độ sâu mà ban ngày hầu như ánh sáng đỏ từ Mặt Trời không rọi xuống được.
Thương mại
B. natans được đánh bắt thương mại vì mục đích buôn bán cá cảnh.
Tham khảo
N
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá biển Đỏ
Cá Ả Rập
Cá Ai Cập
Cá Seychelles
Cá Madagascar
Cá Maldives
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Nouvelle-Calédonie
Động vật được mô tả năm 1985
|
19851604
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20n%C4%83m%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BB%A9c
|
Danh sách năm tại Đức
|
Đây là danh sách năm tại Đức. Xem thêm Niên biểu lịch sử Đức. Đối với những bài viết về những năm ở Đức đã được viết, hãy xem :Thể loại:Đức theo năm.
Thế kỷ 21
Thế kỷ 20
Thế kỷ 19
Thế kỷ 18
Thế kỷ 17
Xem thêm
Niên biểu lịch sử Đức
Danh sách năm theo quốc gia
Danh sách liên quan đến lịch sử Đức
Đức
|
19851617
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aero%20Nomad%20Airlines
|
Aero Nomad Airlines
|
Aero Nomad Airlines LLC là một hãng hàng không Kyrgyzstan có trụ sở tại thủ đô Bishkek. Hãng được thành lập vào năm 2021 và bắt đầu hoạt động vào tháng 11 năm 2021 với chuyến bay đầu tiên từ Kyrgyzstan đến Delhi, thủ đô của Ấn Độ. Hãng có 2 trạm trung chuyến. Trạm trung chuyến chính ở Bishkek còn trạm trung chuyến phụ ở Osh.
Lịch sử ra đời
Hãng hàng không này được thành lập vào năm 2020 và có dòng Airbus A320-200 đầu tiên vào tháng 10 năm 2021. Hãng đã nhận được Chứng chỉ khai thác máy bay (AOC) từ Cục Hàng không Dân dụng Kyrgyzstan vào ngày 5 tháng 11 năm 2021 và bắt đầu đi vào hoạt động với chuyến bay đầu tiên đến Delhi vào ngày 19 tháng 11 năm 2021. Aero Nomad Airlines hiện đang có kế hoạch mở rộng hoạt động tại các quốc gia và khu vực trong tương lai như Trung Quốc, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, khu vực châu Âu và Trung Đông.
Điểm đến
Tính đến tháng 2 năm 2024, hãng đã khai thác các điểm đến sau đây đến và đi từ Bishkek và Osh:
Đội máy bay
Tính đến tháng 3 năm 2023, hãng đã khai thác các loại máy bay sau:
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Hãng hàng không Kyrgyzstan
Khởi đầu năm 2021
Khởi đầu năm 2021 ở châu Á
Khởi đầu năm 2021 ở Kyrgyzstan
|
19851620
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B2a%20%C3%A1n%20t%E1%BB%91i%20cao%20Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n
|
Tòa án tối cao Nhật Bản
|
là cơ quan xét xử cấp cao nhất của Nhật Bản. Tòa án tối cao có nhiệm vụ giải thích Hiến pháp Nhật Bản và thực hiện quyền giám sát hiến pháp đối với luật, những văn bản pháp luật khác. Trụ sở Tòa án tối cao đặt tại Chiyoda, Tokyo.
Lịch sử
Tòa án tối cao Nhật Bản được thành lập tại Điều 81 Hiến pháp Nhật Bản vào năm 1947. Trong những năm đầu tiên, Tòa án tối cao tập trung giải thích phạm vi của quyền giám sát hiến pháp của Tòa. Năm 1948, Tòa án tối cao tuyên bố quyền giám sát hiến pháp của Tòa được thực hiện giống với quyền giám sát hiến pháp tại Hoa Kỳ. Năm 1952, Tòa án tối cao xác định quyền giám sát hiến pháp chỉ được áp dụng trong một vụ án cụ thể.
Vào thập niên 60 và 70, Tòa án tối cao trải qua một cuộc "khủng hoảng tư pháp" do xung đột giữa những thẩm phán già, bảo thủ và những thẩm phán trẻ, tiến bộ. Năm 1971, Tòa án tối cao không cho bổ nhiệm lại phó thẩm phán Miyamoto Yasauaki vì đã tham gia những tổ chức cánh tả. "Vụ Miyamoto" được đưa tin rầm rộ trên truyền thông và Tòa án tối cao bị những thẩm phán khác chỉ trích. Tuy chưa có thẩm phán nào không được bổ nhiệm lại kể từ đó nhưng Tòa án tối cao đã được cải tổ theo hướng bảo thủ do nhiều thẩm phán được bổ nhiệm trong số cán bộ lâu năm.
Nhiệm vụ và quyền hạn
Điều 81 Hiến pháp Nhật Bản quy định Tòa án tối cao là tòa án chung thẩm của Nhật Bản, có thẩm quyền quyết định tính hợp hiến của luật, mệnh lệnh, quy tắc và những văn bản pháp luật khác. Tòa án tối cao có quyền xét xử chung thẩm đối với những vụ án hình sự, dân sự, hành chính. Vì không thể từ chối thụ lý vụ án nên phần lớn công việc của Tòa án tối cao là xét xử chung thẩm vụ án của những tòa án cấp dưới.
Tòa án tối cao có nhiệm vụ quản lý các tòa án về tổ chức, ngân sách và biên chế. Chánh án Tòa án tối cao có nhiều quyền hạn về nhân sự tư pháp thông qua Ban Thư ký chung, bao gồm quyền quyết định luân chuyển, điều động, biệt phái thẩm phán. Viện Nghiên cứu và Đào tạo tư pháp thuộc Tòa án tối cao có nhiệm vụ đào tạo luật sư, công tố viên, thẩm phán đã đậu kỳ thi hành nghề luật quốc gia.
Quyền giám sát hiến pháp
Tuy có quyền tuyên bố luật là vi hiến nhưng Tòa án tối cao rất hiếm khi thực hiện quyền hạn này. Trong sáu thập kỷ đầu, Tòa án tối cao đã tuyên bố hủy bỏ chỉ tám đạo luật trong khi Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức đã hủy bỏ hơn 600 đạo luật, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã hủy bỏ hơn 900 đạo luật trong cùng khoảng thời gian. Ngoài ra, đã có ít nhất một trường hợp luật vi phạm hiến pháp nhưng chính quyền từ chối thi hành quyết định của Tòa án tối cao.
Nhiều lý do, quan điểm đã được đưa ra về tình trạng này. Một quan điểm tiêu cực là thẩm phán Tòa án tối cao chịu sự ảnh hưởng của Đảng Dân chủ Tự do và sẽ không hủy bỏ luật được Quốc hội thông qua nhằm duy trì mối quan hệ lành mạnh với Bộ Tư pháp và những bộ ngành khác. Có ý kiến cho rằng bộ máy nhà nước Nhật Bản là bảo thủ và sẽ không đề bạt thẩm phán có tư tưởng tiến bộ vào Tòa án tối cao. Về mặt lịch sử, có thể lập luận rằng ngành tư pháp Nhật Bản chịu sự ảnh hưởng của một truyền thống luật học Đức không cho phép tòa án hủy bỏ luật vi hiến, được phản ánh trong Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản, tạo thành một tiền lệ không can thiệp vào những vụ án nhạy cảm nhằm bảo đảm tính độc lập tư pháp.
Một quan điểm tích cực hơn là Cục Pháp chế Nội các đã xem xét kĩ lưỡng dự luật của chính phủ trước khi Quốc hội thông qua, cho nên Tòa án tối cao không cần phải thường xuyên hủy bỏ luật của Quốc hội vì lý do vi hiến. Cục Pháp chế Nội các gồm những cán bộ cấp cao và một vài thẩm phán, đã có thẩm phán được bổ nhiệm vào Tòa án tối cao.
Thành phần
Tòa án tối cao gồm một chánh án và 14 thẩm phán. Thẩm phán Tòa án tối cao được chia thành ba Tiểu ban có nhiệm vụ xét xử chung thẩm hầu hết các vụ án. Trong trường hợp giải thích hiến pháp thì Tòa án tối cao họp thành Ủy ban toàn thể gồm tất cả 15 thẩm phán để xem xét mà phải có ít nhất chín thẩm phán tham gia xét xử.
Thẩm phán Tòa án tối cao do Nội các bổ nhiệm. Chánh án do Thiên hoàng bổ nhiệm theo sự đề cử của Nội các. Thẩm phán Tòa án tối cao phải đủ 40 tuổi trở lên và am hiểu pháp luật. Tại cuộc bầu cử Chúng nghị viện đầu tiên sau khi một thẩm phán được bổ nhiệm sẽ tổ chức trưng cầu ý dân về lưu nhiệm, thẩm phán bị bãi nhiệm trong trường hợp đa số cử tri bỏ phiếu không tán thành. Chưa có thẩm phán Tòa án tối cao nào bị bãi nhiệm theo thể thức này. Ngoài ra, Hiến pháp Nhật bản quy định cứ mười năm thì tổ chức trưng cầu ý dân về lưu nhiệm nhưng hầu hết các thẩm phán được bổ nhiệm khi đã ít nhất 60 tuổi trở lên và phải nghỉ hưu vào 70 tuổi.
Một quy tắc bất thành văn trong việc bổ nhiệm thẩm phán Tòa án tối cao là phải phân bổ đồng đều giữa những ngành nghề luật khác nhau: thẩm phán, luật sư, công tố viên, giáo sư và công chức.
Trụ sở
Tòa án tối cao họp lần đầu tiên vào tháng 5 năm 1947 tại nơi làm việc của Viện cơ mật trong Hoàng cung Tokyo. Tháng 9 năm 1947, Tòa án tối cao dời về trụ sở Tòa án địa phương Tokyo. Kế hoạch ban đầu là Tòa án tối cao sẽ đặt trụ sở tại tòa nhà Đại thẩm viện, là cơ quan xét xử cấp cao nhất của Đế quốc Nhật Bản nhưng tòa nhà bị phá hủy trong Chiến tranh thế giới thứ hai mà phải đến tháng 10 năm 1949 mới được xây dựng lại. Tòa án tối cao sử dụng trụ sở cũ của Đại thẩm viện trong 25 năm.
Năm 1964, chính quyền tổ chức cuộc thi thiết kế trụ sở mới của Tòa án tối cao. Trong số 217 bài dự thi, thiết kế của một tập thể 17 người bao gồm kiến trúc sư Okada Shinichi được chọn. Tòa nhà được khởi công vào năm 1971 và khánh thành vào năm 1974. Trụ sở Tòa án tối cao hiện tại nằm ở Chiyoda, Tokyo. Vật liệu xây dựng là bê tông cốt thép và sử dụng đá granit trắng giống như trụ sở Đại thẩm viện. Tòa nhà gồm năm tầng trên mặt đất và hai tầng hầm.
Danh sách thẩm phán Tòa án tối cao
Những thẩm phán Tòa án tối cao đương nhiệm gồm:
Xem thêm
Chánh án Tòa án tối cao Nhật Bản
Luật pháp Nhật Bản
Hệ thống tư pháp của Nhật Bản
Chính trị Nhật Bản
Tham khảo
Đọc thêm
Hiroshi Itoh. The Supreme Court and Benign Elite Democracy in Japan. London: Routledge, 2010.
Liên kết ngoài
Supreme Court of Japan
Justices of the supreme court / Former Justices
Khởi đầu năm 1947 ở Nhật Bản
Tòa án hiến pháp
Tòa án tối cao quốc gia
Bài viết có văn bản tiếng Nhật
Tọa độ không có sẵn trên Wikidata
Hộp thông tin khung bản đồ không có ID quan hệ OSM trên Wikidata
|
19851621
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Knuckles%20%28phim%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%29
|
Knuckles (phim truyền hình)
|
Knuckles là bộ phim truyền hình ngắn tập được sáng tạo bởi John Whittington và Toby Ascher cho nền tảng chiếu phim trực tuyến Paramount+, dựa trên loạt trò chơi điện tử Sonic the Hedgehog được xuất bản bởi Sega. Đây sẽ là phần phim ngoại truyện của Nhím Sonic 2 (2022), và là một phần của loạt phim Nhím Sonic đồng thời cũng là bộ phim truyền hình người đóng đầu tiên của loạt phim.
Idris Elba sẽ tiếp tục trở lại lồng tiếng cho nhân vật Knuckles the Echidna từ phần phim Nhím Sonic 2 bên cạnh Adam Pally, người sẽ trở lại với vai diễn Wade. Bộ phim chính thức được công bố vào tháng 2 năm 2022 trong khuôn khổ sự kiện Nhà đầu tư của ViacomCBS với sự tham gia của Elba. Quá trình sản xuất của phim bắt đầu tại Luân Đôn, Vương quốc Anh vào tháng 4, 2024.
Knuckles sẽ được công chiếu trên Paramount+ vào đầu năm 2024.
Tiền đề
Lấy bối cảnh giữa các sự kiện của Nhím Sonic 2 (2022) và Nhím Sonic 3 (2024), bộ phim sẽ là hành trình theo chân Knuckles the Echidna và cách anh ta huấn luyện Phó Cảnh sát Trưởng Wade Whipple theo cách của các chiến binh Echidna.
Diễn viên
Nhân vật chính
Idris Elba lồng tiếng vai Knuckles the Echidna: Một con thú lông nhím màu đỏ với tính cách nóng nảy và nghiêm túc có siêu sức mạnh,Elba đã chia sẻ rằng bộ phim sẽ khám phá việc Knuckles trở thành "một con cá ra khỏi mặt nước" sau khi chuyển đến Trái Đất trong đoạn cuối của Nhím Sonic 2 (2022).
Adam Pally thủ vai Wade Whipple, Phó Cảnh sát Trưởng tại Green Hills, người sẽ được Knuckles huấn luyện để trở thành một Chiến binh Echidna.
Nhân vật phụ
Cary Elwes thủ vai "Pistol" Pete Whipple: Một vận động viên ném bóng lập dị với 27 lần vô địch và là họ hàng của Wade.
Edi Patterson
Julian Barratt
Scott Mescudi
Ellie Taylor thủ vai một nhân vật phản diện bí ẩn
Khách mời đặc biệt
Rory McCann
Tika Sumpter thủ vai Maddie Wachowski, mẹ nuôi của Knuckles và là một bác sĩ thú y địa phương tại Green Hills.
Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của Stockard Channing, Christopher Lloyd, Paul Scheer và Rob Huebel trong các vai diễn chưa được tiết lộ.
Tập phim
Các tập phim thứ hai đến thứ sáu sẽ lần lượt được biên kịch bởi John Whittington, Brian Schacter, James Madejski, Brian Schacter và John Whittington. Jorma Taccone, Carol Banker, Brandon Trost và Ged Wright sẽ cùng nhau thay phiên để chỉ đạo các tập phim.
Phát hành
Knuckles sẽ được ra mắt trên nền tảng trực tuyến Paramount+ vào đầu năm 2024.
Notes
Nguồn
Liên kết ngoài
Chương trình truyền hình Mỹ
Chương trình truyền hình tiếng Anh
|
19851633
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Electronica
|
Electronica
|
Electronica là một thể loại nhạc dựa trên nhạc điện tử nhằm mục đích để nghe hơn là để khiêu vũ và là một loại nhạc nổi tiếng vào những năm 1990. Tại Hoa Kỳ, thuật ngữ này được dùng để sử dụng cho loại nhạc điện tử nói chung.
Lịch sử
Trước thập niên 90s: nguồn gốc hình thành và bối cảnh của nước Anh
Việc sử dụng rộng rãi thuật ngữ "electronica" xuất phát từ tiếng Anh và có ảnh hưởng lớn từ nhạc experimental techno nhãn New Electronica, một trong những đơn vị hàng đầu những năm 1990 phát hành và hỗ trợ nhạc điện tử dựa trên hướng nhạc khiêu vũ tại nhà hơn là khiêu vũ chơi trên sàn, mặc dù từ "electronica" đã bắt đầu gắn liền với âm nhạc từ synthesizer ngay từ năm 1983 , khi một "Lễ hội Electronica nước Anh" lần đầu được tổ chức. Vào thời điểm đó electronica được biết đến là một loại "nhạc nghe điện tử", cũng ít nhiều đồng nghĩa với ambient techno và intelligent techno, nó được coi là khác biệt với các thể loại nhạc mới nổi khác ví dụ như jungle và trip hop.
Các nghệ sĩ Electronica sau này thành công trong thương mại âm nhạc và bắt đầu tạo những bản thu âm vào cuối những năm 1980, trước khi thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi, bao gồm luôn cả những thể loại như the Prodigy, Fatboy Slim, Daft Punk, the Chemical Brothers, the Crystal Method, Moby, Underworld và Faithless.
Giữa thập niên 90s: ảnh hưởng đến âm nhạc đại chúng
Khoảng giữa những năm 90, với sự thành công của big beat được thể hiện bởi Chemical Brothers và Prodigy tại Vương Quốc Anh, đồng thời được chú ý bởi các nghệ sĩ âm nhạc, bao gồm Madonna trong sự kết hợp của cô với William Orbit trong album Ray of Light và ca sĩ người Úc Dannii Minogue với album Girl năm 1997, âm nhạc thời kì này được sản xuất với kinh phí cao hơn, tăng về chất lượng của sản phẩm âm nhạc, với nhiều lớp hơn hầu hết các thể loại dance music khác, vì nó được hỗ trợ bởi hãng đĩa major record labels và MTV nó được coi là "điều lớn lao tiếp theo".
Theo một bài báo trên Billboard vào năm 1997, "sự kết hợp của câu lạc bộ cộng đồng với các Hãng đĩa độc lập" đã cung cấp môi trường thử nghiệm và tạo ra xu hướng trong đó các hoạt động electronica phát triển và trở thành xu hướng chủ đạo. Nó trích dẫn các nhãn hiệu của Hoa Kỳ như Astralwerks (the Chemical Brothers, Fatboy Slim, the Future Sound of London, Fluke), Moonshine (DJ Keoki), Sims, và City of Angels (the Crystal Method) vì đã đóng một vai trò quan trọng trong việc khám phá và tiếp thị những nghệ sĩ đã trở nên nổi tiếng trong làng nhạc điện tử.
Madonna và Björk được cho là chịu trách nhiệm đưa nhạc điện tử vào nền văn hóa mainstream, với những album của họ như Ray of Light (Madonna), Post và Homogenic (Björk).
Cuối thập niên 90s: sự hoà nhập của Mỹ
Trong năm 1997, ngành công nghiệp âm nhạc chính thống Bắc Mỹ đã áp dụng và ở một mức độ nào đó đã sản xuất nhạc điện tử như một thuật ngữ chung bao gồm các phong cách như techno, big beat, drum and bass, trip hop, downtempo, và ambient, bất kể nó có được các hãng indie quản lý hay không, nó phục vụ cho các hộp đêm "ngầm" và các cảnh rave, hoặc được các hãng lớn cấp phép và tiếp thị cho khán giả đại chúng như một giải pháp thay thế khả thi về mặt thương mại cho nhạc alternative rock.
Thành phố New York đã trở thành một trung tâm thử nghiệm và phát triển âm thanh điện tử, với các DJ và nhà sản xuất âm nhạc từ các khu vực đa dạng như Đông Nam Á và Brazil mang tác phẩm sáng tạo của họ đến các hộp đêm của thành phố đó.
Chú thích
Literature
James Cummins. 2008. Ambrosia: About a Culture – An Investigation of Electronica Music and Party Culture. Toronto, ON: Clark-Nova Books.
Tham khảo
Electronica
Đặc điểm và định nghĩa
Electronica được hưởng lợi từ những tiến bộ trong công nghệ âm nhạc, đặc biệt là các nhạc cụ điện tử, bộ tổng hợp, bộ phối âm nhạc, máy trống, và máy trạm âm thanh kỹ thuật số. Khi công nghệ phát triển, Khi công nghệ phát triển, các cá nhân hoặc nhóm nhỏ hơn có thể sản xuất các bài hát và bản ghi âm điện tử trong các phòng thu nhỏ hơn, thậm chí trong phòng thu dự án. Trong cùng thời gian đó, máy tính đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng các "samples" và "loops" âm nhạc làm bộ công cụ xây dựng các tác phẩm âm thanh. Điều này dẫn đến một thời kỳ thử nghiệm sáng tạo và phát triển các hình thức mới, một số trong đó được gọi là điện tử. Phạm vi ảnh hưởng rộng lớn, cả âm thanh và thành phần, được kết hợp trong bản ghi âm điện tử.
Electronica bao gồm nhiều loại hình và phong cách âm nhạc khác nhau, được liên kết bởi thiên hướng sản xuất điện tử một cách công khai; một phạm vi bao gồm các nghệ sĩ nổi tiếng hơn như Björk, Madonna, Goldfrapp, các nghệ sĩ
IDnhưts Autechrevànd Aphex Twin.
Sự khác biệt giữa các khu vực
Ngành công nghiệp âm nhạc mainstream ở Bắc Mỹ sử dụng thuật ngữ này như một danh mục chung để chỉ bất kỳ phong cách âm nhạc điện tử dựa trên dance nào có tiềm năng thu hút nhạc pop. AllMusic có trụ sở tại Mỹ vẫn phân loại nhạc điện tử là một thể loại cấp cao nhất, tuyên bố rằng nó bao gồm grooves, cũng như âm nhạc dành cho tai nghe và khu vực nghe nhạc chillout.
Ở những nơi khác trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Electronica cũng là một thuật ngữ rộng, nhưng gắn liền với âm nhạc không thiên về khiêu vũ, bao gồm các phong cách nghe nhạc điện tử tương đối experimental. Nó một phần trùng lặp với thứ được biết đến chủ yếu bên ngoài Vương quốc Anh là nhạc IDM (IDM).
|
19851641
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng%20C%C3%B4ng%20nh%C3%A2n%20C%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n%20%28Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n%29
|
Đảng Công nhân Cộng sản (Nhật Bản)
|
Đảng Công nhân Cộng sản () là một đảng cộng sản thân Liên Xô từng tồn tại ở Nhật Bản. Được thành lập vào tháng 11 năm 1966, Đảng chia thành ba phái vào tháng 12 năm 1971. Cơ quan ngôn luận là tờ báo Toitsu xuất bản từ tháng 2 năm 1967 đến tháng 12 năm 1971.
Tham khảo
Cựu đảng cộng sản
Khởi đầu năm 1966 ở Nhật Bản
Đảng Cộng sản ở Nhật Bản
Đảng chính trị không còn tồn tại ở Nhật Bản
Đảng chính trị thành lập năm 1966
Đảng chính trị giải thể năm 1986
Chấm dứt năm 1986 ở Nhật Bản
|
19851648
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng%20C%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n%20%C3%9Ac
|
Đảng Cộng sản Úc
|
Đảng Cộng sản Úc (CPA) là một đảng phái chính trị ở Úc được thành lập vào năm 1920. Từ thời kỳ đỉnh cao năm 1945, số đảng viên và ảnh hưởng của đảng liên tục suy giảm cho đến khoảng năm 1991 thì giải thể. Giống như hầu hết các đảng cộng sản ở phương Tây, đảng này tham gia rất nhiều vào phong trào lao động và công đoàn. Số lượng thành viên và ảnh hưởng của nó đã tăng lên đáng kể trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến trước khi đạt đến đỉnh cao vào năm 1945, khi có khoảng trên 22.000 đảng viên. Mặc dù đảng không giành được ghế nghị sĩ liên bang nhưng đảng viên Fred Paterson vẫn được bầu vào Quốc hội Queensland (đại diện cho Bowen) tại cuộc bầu cử bang năm 1944. Đảng từng nắm giữ các chức vụ tại hơn chục khu vực chính quyền địa phương trên khắp New South Wales và Queensland.
Tham khảo
Chú thíchThư mục
Đọc thêm
Stuart Macintyre, The Reds, 1998, Allen và Unwin. Tập đầu tiên của lịch sử lớn bao gồm nền tảng cho đến năm 1941.
Alastair Davidson, Đảng Cộng sản Úc: Lịch sử ngắn, 1969. Đến cuối những năm 1960.
Tom O'Lincoln, Into the Mainstream: The Decline of Australian Communism, January, 1985. ISBN 0-9590486-1-8.
Daisy Marchisotti, Land Rights: The Black Struggle, Brisbane: Queensland State Committee, Communist Party of Australia, 1978. ISBN 0909913323
Cựu đảng cộng sản
Chi bộ Quốc tế Cộng sản
Khởi đầu năm 1920 ở Úc
Chấm dứt năm 1991 ở Úc
Quan hệ Úc–Liên Xô
Đảng cộng sản ở Úc
Cựu đảng phái chính trị ở Úc
Chính trị cực tả ở Úc
Đảng Marxist ở Úc
Đảng chính trị giải thể năm 1991
Đảng chính trị thành lập năm 1920
Đảng Cộng sản Úc
|
19851654
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng%20C%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n%20%C3%81o
|
Đảng Cộng sản Áo
|
Đảng Cộng sản Áo (, KPÖ) là một đảng cộng sản hoạt động ở Áo. Được thành lập vào năm 1918 với tên gọi Đảng Cộng sản Đức-Áo (KPDÖ), đây là một trong những đảng cộng sản lâu đời nhất thế giới. KPÖ từng bị cấm trong giai đoạn từ 1933 đến 1945 dưới chế độ phát xít Áo và chính quyền Đức Quốc xã ở Áo sau sự kiện Anschluss năm 1938.
Đảng hiện giữ hai ghế (hội đồng lập pháp bang) ở Styrian và bốn ghế ở Salzburg , nhưng chưa có đại diện trong Hội đồng Quốc gia (, Quốc hội liên bang Áo) từ năm 1959. Trong cuộc bầu cử lập pháp tổ chức vào ngày 29 tháng 9 năm 2019, đảng chỉ giành được 0,7% số phiếu bầu (32.736 trên tổng số 4.835.469), thấp hơn nhiều so với mức tối thiểu 4% để giành được ghế trong Hội đồng Quốc gia. Ở cấp địa phương, KPÖ đã giữ ghế thị trưởng Graz, thành phố lớn thứ hai của Áo, kể từ năm 2021 và giữ hơn 130 ghế trong các hội đồng quận và thành phố trên toàn quốc.
Thư mục
Autorenkollektiv: Die Kommunistische Partei Österreichs. Beiträge zu ihrer Geschichte und Politik Globus-Verlag. Wien 1989
Walter Baier und Franz Muhri: Stalin und wir Globus-Verlag, Wien 1991,
Heinz Gärtner: Zwischen Moskau und Österreich. Die KPÖ - Analyse einer sowjetabhängigen Partei. In: Studien zur österreichischen und internationalen Politik 3 - : Braumüller, Wien 1979
Helmut Konrad: KPÖ u. KSC zur Zeit des Hitler-Stalin-Paktes Europa-Verlag, Wien München Zürich 1978, (Veröffentlichung des Ludwig Boltzmann Inst. f. Geschichte d. Arbeiterbewegung)
Manfred Mugrauer: Die Politik der KPÖ in der Provisorischen Regierung Renner Studien-Verlag (erscheint im September 2006),
Wolfgang Mueller: Die sowjetische Besatzung in Österreich 1945-1955 und ihre politische Mission Boehlau Verlag, Wien 2005,
Wolfgang Mueller, A. Suppan, N. Naimark, G. Bordjugov (Ed.). Sowjetische Politik in Österreich 1945–1955: Dokumente aus russischen Archiven
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ chính thức của KPÖ
Thanh niên Cộng sản Áo
KPÖ Graz
Chiến dịch cho Ernst-Kirchweger-House (EKH)
Đảng Cộng sản Áo trên Bách khoa toàn thư Áo
Khởi đầu năm 1918 ở châu Âu
Đảng phái chính trị Áo
Đảng Cộng sản Áo
Thành lập tại Cộng hòa Đức-Áo
Đảng chính trị thành lập năm 1918
|
19851660
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20%C4%91%C3%B4%20th%E1%BB%8B%20bang%20Guerrero
|
Khu đô thị bang Guerrero
|
Guerrero là bang nằm ở tây nam México, được chia thành 85 khu đô thị. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở của México năm 2020, Guerrero là bang đông dân thứ 13 với người và diện tích lớn thứ 14 với .
Các khu đô thị ở Guerrero nhận vị thế tự trị trong bang theo điều 115 Hiến pháp năm 1917. Theo nhiệm kỳ ba năm, công dân bầu ra một chủ tịch khu đô thị (còn gọi là thị trưởng) () theo hệ thống bỏ phiếu đa số, đồng thời bầu ra hội đồng khu đô thị (ayuntamiento) chịu trách nhiệm cung cấp tất cả dịch vụ công cho cử tri. Hội đồng không cố định số thành viên hay ủy viên (regidores y síndicos). Khu đô thị chịu trách nhiệm về dịch vụ công (như cấp thoát nước), đèn đường, an toàn công cộng và giao thông, bảo trì công viên, hoa viên và nghĩa trang công cộng. Khu cũng có thể hỗ trợ chính quyền bang và liên bang về giáo dục, y tế và cứu hỏa khẩn cấp, bảo vệ môi trường, bảo dưỡng di tích và địa danh lịch sử. Từ năm 1984, chính quyền khu đô thị có quyền thu thuế bất động sản và phí sử dụng, nhưng nguồn thu vẫn chủ yếu đến từ cấp cao hơn rót xuống.
Khu đô thị đông dân nhất Guerrero là Acapulco với 779.566 dân, còn ít người nhất là Atlamajalcingo del Monte với 5.811 dân. Về diện tích đất liền, lớn nhất là Coyuca de Catalán và nhỏ nhất là Alpoyeca .
Khu đô thị
Ghi chú
Chú thích
Tư liệu
Đô thị bang Guerrero
|
19851662
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng%20C%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n%20%C3%9D
|
Đảng Cộng sản Ý
|
Đảng Cộng sản Ý (, PCI) là một đảng chính trị xã hội theo chủ nghĩa cộng sản và dân chủ ở Ý. Đảng được thành lập ở Livorno với tên Đảng Cộng sản Ý (, PCd'I) vào ngày 21 tháng 1 năm 1921, khi tách khỏi Đảng Xã hội Ý (PSI), dưới sự lãnh đạo của Amadeo Bordiga, Antonio Gramsci và Nicola Bombacci. Bị đặt ngoài vòng pháp luật trong chế độ phát xít Ý, đảng tiếp tục hoạt động bí mật và đóng vai trò quan trọng trong phong trào kháng chiến ở Ý. Con đường hòa bình và dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội (hay "Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Ý"), hiện thực hóa công cuộc cộng sản thông qua dân chủ, phản đối sử dụng bạo lực và áp dụng Hiến pháp Ý trong tất cả các bộ phận của nó, một chiến lược được khởi động dưới thời Palmiro Togliatti, trở thành động lực chính trong lịch sử của đảng.
Đổi tên vào năm 1943, PCI trở thành đảng phái chính trị lớn thứ hai của Ý sau Thế chiến thứ hai, nhận được sự ủng hộ của khoảng một phần ba số phiếu bầu trong thập niên 1970. Vào thời điểm đó, đây là đảng cộng sản lớn nhất ở phương Tây, có khoảng 2,3 triệu thành viên vào năm 1947, và tỷ lệ cao nhấủng hộ là 34,4% số phiếu bầu (12,6 triệu phiếu bầu) trong cuộc tổng tuyển cử Ý năm 1976. PCI là một phần của Quốc hội lập hiến Ý và chính phủ Ý từ năm 1944 đến năm 1947, khi Hoa Kỳ ra lệnh loại bỏ PCI và PSI khỏi chính phủ. Liên minh PCI–PSI tồn tại cho đến năm 1956; hai đảng tiếp tục nắm quyền ở cấp địa phương và khu vực cho đến những năm 1990. Ngoài giai đoạn 1944–1947 và sự hỗ trợ không thường xuyên cho phe trung tả (những năm 1960–1970) bao gồm cả PSI, PCI luôn nằm ở phe đối lập trong Quốc hội Ý cho đến khi giải thể vào năm 1991.
Thành phần PCI bao gồm những người theo chủ nghĩa Marx-Lenin và những người theo chủ nghĩa xét lại Marxist, với một phe dân chủ-xã hội tiêu biểu là Miglioristi. Dưới sự lãnh đạo của Enrico Berlinguer và ảnh hưởng của phe Miglioristi trong những năm 1970 và 1980, Chủ nghĩa Mác-Lênin đã bị loại bỏ khỏi điều lệ đảng. PCI đi theo xu hướng cộng sản Tây Âu tìm kiếm sự độc lập khỏi Liên Xô, và chuyển sang hướng xã hội chủ nghĩa dân chủ. Năm 1991, Đảng bị giải thể và tái lập với tên gọi Đảng Dân chủ Cánh tả (PDS), gia nhập Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa và Đảng Xã hội Châu Âu. Các thành viên cấp tiến hơn chính thức ly khai để thành lập Đảng Tái lập Cộng sản (PRC).
Đảng kỳ
Chú thích
Tham khảo
Thư mục
Aldo Agosti, "The Comintern and the Italian Communist Party in Light of New Documents," in Tim Rees and Andrew Thorpe (eds.), International Communism and the Communist International, 1919–43. Manchester: Manchester University Press, 1998.
Luigi Cortesi, Le origini del PCI. Laterza, 1972.
Franco Livorsi, Amadeo Bordiga. Editori Riuniti, 1976.
Paolo Spriano, Storia del Partito Comunista Italiano, vol. I Da Bordiga a Gramsci, Einaudi, 1967.
La nascita del Partito Comunista d'Italia (Livorno 1921), ed. L'Internazionale, Milano 1981.
La liquidazione della sinistra del P.C.d'It. (1925), L'Internazionale, Milano 1991.
La lotta del Partito Comunista d'Italia (Strategia e tattica della rivoluzione, 1921–1922), ed. L'Internazionale, Milano 1984.
Il partito decapitato (La sostituzione del gruppo dirigente del P.C.d'It., 1923–24), L'Internazionale, Milano 1988.
Partito Comunista d'Italia, Secondo Congresso Nazionale – Relazione del CC, Reprint Feltrinelli, 1922.
Liên kết ngoài
Lưu trữ lịch sử Cánh tả Cộng sản với hàng trăm tài liệu của PCd'I
Đảng Cộng sản Ý Lưu trữ tại marxists.org
sinistra.net Lưu trữ trực tuyến của cánh tả Cộng sản
Arrigo Cervetto, Đấu tranh giai cấp và Đảng Cách mạng, 1964
Tiểu sử của Arrigo Cervetto
Con đường đi tới chủ nghĩa xã hội của Ý, cuộc phỏng vấn của Eric Hobsbawm với Giorgio Napolitano; được dịch bởi John Cammett và Victoria DeGrazia
Đảng phái chính trị thành lập năm 1921
Chi bộ Quốc tế Cộng sản
Khởi đầu năm 1921 ở Ý
Chấm dứt năm 1991 ở Ý
Cựu đảng cộng sản ở Ý
Đảng xã hội dân chủ ở Châu Â
Quan hệ Ý–Liên Xô
Đảng phái chính trị giải thể năm 1991
|
19851663
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vercetti%20Regular
|
Vercetti Regular
|
Vercetti Regular (IPA /vərˈʧɛti ˈrɛɡjʊlər/), còn được biết đến với tên gọi Vercetti, là một phông chữ sans-serif miễn phí. Nó có thể được sử dụng cho các dự án thương mại và cá nhân. Nó đã được phát hành vào năm 2022 dưới giấy phép Licence Amicale, cho phép mọi người chia sẻ các tệp phông chữ với bạn bè và đồng nghiệp.
Vercetti Regular được truyền cảm hứng từ các yếu tố thiết kế nhân văn và hình học. Khi tạo ra Vercetti, các nhà thiết kế đã sử dụng các nguyên tắc từ một phông chữ nguồn mở trước đó được gọi là MgOpen Moderna.
Phông chữ này có 326 glyphs, bao gồm số, ký hiệu, dấu câu và dấu thanh. Điều này có nghĩa là nó có thể được sử dụng cho tất cả các ngôn ngữ ở châu Âu sử dụng bảng chữ cái Latin. Tải về có sẵn trong các định dạng tệp sau: OTF, TTF, WOFF, WOFF2.
Xem thêm
Arial
Unicode
OpenType
Typography
Phông chữ máy tính
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Licence Amicale
Minh hoạ loại chữ
Fonts In Use (Vercetti)
Phông chữ kiểu sans-serif
Phông chữ
Giới thiệu năm 2022
__CHỈ_MỤC__
__KHÔNG_LIÊN_KẾT_MỤC_MỚI__
|
19851676
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kim%20Min-gi
|
Kim Min-gi
|
Kim Min-gi ( ; sinh ngày 22 tháng 11 năm 2002), là một nam diễn viên người Hàn Quốc. Anh được biết đến nhiều nhất qua các vai diễn trong True Beauty (2020), Racket Boys (2021) và Under the Queen's Umbrella (2022).
Đóng phim
Phim truyền hình
Chuỗi web
Chương trình truyền hình
Giải thưởng
Ghi chú
Liên kết ngoài
Kim Min-gi at HM Entertainment
Tham khảo
sinh năm 2002
Nhân vật còn sống
Nam diễn viên Hàn Quốc thế kỷ 21
Nam diễn viên truyền hình Hàn Quốc
Nam diễn viên web series Hàn Quốc
Người Chuncheon
Diễn viên đến từ tỉnh Gangwon, Hàn Quốc
|
19851682
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B2a%20%C3%A1n%20qu%E1%BA%ADn%20Hoa%20K%E1%BB%B3
|
Tòa án quận Hoa Kỳ
|
Tòa án quận Hoa Kỳ (tiếng Anh: United States district court), hay còn gọi là Tòa án sơ thẩm Hoa Kỳ, là các tòa án sơ thẩm trong hệ thống tư pháp liên bang Hoa Kỳ. Ở mỗi quận tư pháp thì có một tòa án quận. Mỗi quận gồm một tiểu bang hoặc một phần của tiểu bang. Có ít nhất một trụ sở tòa án liên bang ở mỗi quận, và nhiều quận có nhiều trụ sở. Quyết định của tòa án quận có thể được kháng án lên tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ tại khu vực nơi tòa án tọa lạc, ngoại trừ một số vụ án đặc biệt được kháng án lên Tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ Khu vực Liên Bang hoặc thẳng lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ.
Tòa án quận là tòa án luật pháp, luật công lý, và luật biển, có thể xét xử các vụ án cả dân sự lẫn hình sự. Nhưng khác với các tòa án tiểu bang, tòa án quận bị giới hạn về thẩm quyền, và chỉ có thể xét xự các vụ án với các bên là người sinh sống ở các tiểu bang khác nhau, vấn đề về luật pháp liên hang, hoặc tội phạm liên bang.
Căn cứ pháp lý
Khác với Tòa án Tối cao được quy định trực tiếp trong Điều III của Hiến pháp, tòa án quận được thành lập bởi Quốc hội, căn cứ vào quyền lực được trao bởi Điều III, qua việc ban hành các luật liên bang, Đạo luật Tư pháp năm 1789. Hiến pháp không có quy định bắt buộc thành lập tòa án quận.
Trong khi soạn thảo và phê chuẩn Hiến pháp, một số người phản đối việc hệ thống tư pháp liên bang có quyền lực lớn cho rằng chỉ nên có một tòa án liên bang duy nhất là Tòa án Tối cao và tòa án này chỉ nên được xét xử phúc thẩm bản án từ các tòa án tiểu bang. Điều này có nghĩa là, các tòa án tiểu bang sẽ được xem như là tòa án liên bang dưới Điều I của Hiến pháp để xét xử các tranh chấp theo luật liên bang, những thẩm phán của các tòa này sẽ không được xem là công chức của chính quyền liên bang. Edward Carrington ủng hộ quan điểm này trong một bức thư gửi James Madison, và nó cũng được thảo luận bởi Alexander Hamilton trong cuốn Federalist số 81. Tuy nhiên, quan điểm này không được chấp nhận, và Quốc hội khóa thứ nhất đã thiết lập hệ thống tòa án quận mà vẫn còn hoạt động tới nay. Dù vậy, theo Hiến pháp, các tòa án tiểu bang vẫn có thẩm quyền song song với tòa quận trong đa số các vấn đề liên bang.
Khi Đạo luật Tư pháp được ban hành, 13 quận tư pháp được thành lập cho 11 tiểu bang đã phê chuẩn Hiến pháp tính tới thời điểm đó. Sau này khi Bắc Carolina và Rhode Island biểu quyết phê chuẩn Hiến pháp, mỗi bang được một quận tư pháp mới, tổng cộng là có 15 quận tư pháp.
Các vùng lãnh thổ (Vùng quốc hải) Guam, Quần đảo Bắc Mariana và Quần đảo Virgin thuộc Mỹ có một tòa án vùng lãnh thổ cho mỗi vùng; những tòa án này được gọi là "tòa án quận" và cũng có thẩm quyền như tòa án quận, nhưng khác ở chỗ đây là những tòa án được thành lập theo Điều IV Hiến pháp với thẩm phán giữ chức theo nhiệm kỳ 10 năm ,thay vì suốt đời như thẩm phán của tòa án quận được thành lập theo Điều III Hiến pháp.
Samoa thuộc Mỹ không có tòa án quận hay tòa án vùng lãnh thổ liên bang, vì vậy mà mọi vấn đề pháp lý liên bang được xét xử tại Đặc khu Columbia hoặc Hawaii. Trước đây Philippines là một phần của Hoa Kỳ nhưng không có trong hệ thống tư pháp liên bang.
Địa lý
Hiện có 89 quận tư pháp ở 50 tiểu bang, tổng cộng có 94 quận nếu tính thêm các vùng lãnh thổ. Mỗi bang, Đặc khu Columbia và Puerto Rico có ít nhất một quận tư pháp.
Mỗi bang có từ một đến bốn quận. Ở những bang có nhiều quận, các quận được đặt tên theo địa lý. Các bang có hai quận đặt tên quận là Bắc-Nam (Northern-Southern) hoặc Tây-Đông (Western-Eastern). Những bang có ba quận đặt thêm quận Trung (Middle), trừ bang Illinois có Quận Central thay vì Middle, và bang Oklahoma có các Quận Bắc, Tây và Đông. Trong số ba bang có bốn quận, New York và Texas đặt tên theo bốn hướng địa lý, trong khi California có Quận Trung và không có Quận Tây.
Các tòa án sơ thẩm liên bang khác
Có các tòa án sơ thẩm liên bang khác có thẩm quyền trên cả nước đối với một số loại vụ án, nhưng tòa án quận cũng có thẩm quyền song song trong nhiều vụ án này, và chỉ có tòa án quận mới có quyền xét xử các vụ án hình sự đối với dân thường.
Tòa án Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ xử lý các vụ án liên quan đến thương mại quốc tế và các vấn đề về hải quan. Tòa án Tranh chấp Liên bang Hoa Kỳ có đặc quyền xét xử mọi tranh chấp yêu cầu bồi thường tiền bạc từ chính quyền liên bang Hoa Kỳ, bao gồm tranh chấp hợp đồng, trưng dụng tài sản tư nhân trái phép bởi chính quyền liên bang, và các vụ kiện vì thương tật trên đất liên bang hoặc thương tật gây ra đối với các nhân viên liên bang. Tòa án Thuế Hoa Kỳ có thẩm quyền đối với các tranh chấp về thuế.
Thẩm phán
Chức danh chính thức của thẩm phán tòa án quận là "Thẩm phán Quận Hoa Kỳ" ("United States District Judge"). Các thẩm phán liên bang khác, bao gồm thẩm phán tòa án phúc thẩm khu vực và thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cũng có quyền xét xử tại các tòa án quận sau khi được phân công bởi chánh án khu vực hoặc Chánh án Hoa Kỳ. Số thẩm phán ở mỗi tòa án quận (và cơ cấu của cả hệ thống tư pháp) được quy định bới Quốc hội trong Bộ luật Hoa Kỳ. Tổng thống bổ nhiệm (và Thượng viện phê chuẩn) các thẩm phán liên bang, vì vậy mà người được bổ nhiệm thường có một số quan điểm chung với tổng thống. Ở các bang có thượng nghị sĩ thuộc chung đảng phái với tổng thống, thượng nghị sĩ có sức chi phối lớn trong quá trình bổ nhiệm, và theo thông lệ thì thượng nghị sĩ đó có quyền phủ quyết không chính thức đối với người do tổng thống đề cử.
Các phó thẩm phán (magistrate judge) liên bang được bổ nhiệm bởi mỗi tòa án quận theo luật quy định. Họ được bổ nhiệm với nhiệm kỳ 8 năm và có thể được tái bộ nhiệm. Phó thẩm phán có thể bị bãi nhiệm vì "thiếu khả năng, các vi phạm, sao lãng nhiệm vụ, hoặc tật nguyền về thể chất hay tâm thần". Chức phó thẩm phán là bước tiến tới chức thẩm phán quận.
Thẩm phán quận thường tập trung vào việc quản lý các vụ án, làm chủ tọa các phiên tòa, và viết các ý kiến trả lời đề nghị quan trọng của các bên trong vụ án, như đơn đề nghị phán quyết không qua xét xử (summary judgment). Kể từ thập kỷ 1960, các công việc thường ngày như giải quyết tranh chấp về bằng chứng thường được thẩm phán quận giao cho phó thẩm phán. Phó thẩm phán cũng được giao việc viết báo cáo và kiến nghị về những tranh chấp cho thẩm phán quận giải quyết, hoặc, nếu được các bên đồng thuận, phó thẩm phán được đảm nhiệm toàn bộ quyền hành xét xử vụ án.
Ngoại trừ các tòa án vùng lãnh thổ (Guam, Quần đảo Bắc Mariana và Quần đảo Virgin thuộc Mỹ), thẩm phán quận liên bang là thẩm phán theo Điều III Hiến pháp được bổ nhiệm suốt đời, và chỉ có thể bị bãi nhiệm khi vi phạm tiêu chuẩn "tư cách tốt". Cách thức duy nhất để bãi nhiệm thẩm phán là qua việc luận tội tại Hạ viện Hoa Kỳ và sau đó bị xét xử và kết tội bởi ⅔ số phiếu trong Thượng viện Hoa Kỳ. Mặt khác thì cho dù có bị bồi thẩm đoàn kết tội một tội danh hình sự nghiêm trọng, thẩm phán vẫn được quyền giữ chức cho tới khi về hưu hoặc qua đời. Trong lịch sử Hoa Kỳ, chỉ có 12 thẩm phán từng bị luận tội bởi Hạ viện, và chỉ có 7 thẩm phán bị Thượng viện kết tội sau đó. (Xem Luận tội tại Hoa Kỳ.)
Một thẩm phán đủ 65 tuổi trở lên (hoặc bị tàn tật) có thể về hưu hoặc bán về hưu (senior status) và tiếp tục làm việc. Thẩm phán bán về hưu không được tính vào số thẩm phán đương nhiệm trong quận và chỉ làm những công việc được chánh án quận giao, nhưng họ vẫn được giữ văn phòng (chambers) và nhân viên của mình. Nhiều thẩm phán bán về hưu vẫn làm việc toàn thời gian.
Tính tới năm 2010, có 678 thẩm phán quận.
Trong văn bản, thẩm phán liên bang được gọi là "The Honorable John/Jane Doe" ("Quý ngài/bà John/Jane Doe") hoặc "Hon. John/Jane Doe", và khi nói chuyện là "Judge" hoặc "Judge Doe" ("Thẩm phán Doe"), hoặc khi làm chủ tọa là "Your Honor" ("Thưa ngài").
Thư ký
Mỗi tòa án quận bổ nhiệm một thư ký (clerk), chịu trách nhiệm việc quản lý hồ sơ, bản ghi của tòa, thu lệ phí, tiền phạt và tiền bồi thường, và quản lý các công việc không mang tính tư pháp của tòa, bao gồm công nghệ thông tin, ngân sách, tài sản, nhân sự và tài chính. Thư ký có quyền bổ nhiệm phó thư ký, trợ lý và nhân viên để làm việc cho tòa án. Thư ký của tòa án quận phải sinh sống trong quận, trừ thư ký của tòa án Đặc khu Columbia và Quận Nam New York có thể sống trong khoảng 20 dặm xung quanh quận.
Bộ luật Tư pháp (28 U.S.C. § 751) quy định rằng thư ký được bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm bởi tòa án. Nghĩa vụ của thư ký được quy định bởi luật pháp, thông lệ của tòa và chính sách do Hội nghị Tư pháp Hoa Kỳ ban hành. Thư ký được bổ nhiệm qua lệnh của cả tòa án để phục vụ toàn bộ tòa án. Đừng nên nhầm lẫn vai trò của thư ký, phó thư ký và trợ lý thư ký với trợ lý thẩm phán, là người hỗ trợ thẩm phán nghiên cứu và soạn thảo phán quyết.
Để đủ điều kiện làm thư ký tòa án, thư ký phải có ít nhất 10 năm kinh nghiệm hành chính ở các cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp, với sự hiểu biết sâu rộng về tổ chức, thủ tục và nhân sự trong việc quản lý một tổ chức, và phải giữ chức quản lý cấp cao ít nhất 3 năm trong số 10 năm đó. Luật sư có thể thỏa mãn điều kiện 10 năm kinh nghiệm hành chính bằng 10 năm hành nghề luật sư. Thư ký không nhất thiết phải là luật sư được cấp phép hành nghề, nhưng một số tòa án ưu tiên người có bằng luật.
Thẩm quyền
Khác với một số tòa án tiểu bang, quyền xét xử của tòa án liên bang bị giới hạn nghiêm ngặt. Tòa án liên bang không nhất thiết có quyền để xét xử mọi vụ án được trình lên. Để được phép xét xử một vụ, Quốc hội phải cho phép tòa án xét xử loại vụ án đó.
Tòa án quận được phép mở phiên tòa xét xử sơ thẩm trong các loại vụ án sau:
Tranh chấp dân sự phát sinh dưới Hiến pháp, luật pháp liên bang, và các hiệp ước Hoa Kỳ;
Một số tranh chấp dân sự giữa công dân của các tiểu bang khác nhau hoặc giữa công dân của một tiểu bang với công dân nước ngoài;
Tranh chấp dân sự phát sinh dưới luật biển Hoa Kỳ;
Tố tụng hình sự do chính quyền liên bang Hoa Kỳ khởi tố;
Tranh chấp dân sự có một bên là chính quyền liên bang Hoa Kỳ; và
Nhiều loại vụ án và tranh chấp khác
Trong đa số các vụ án này, thẩm quyền của tòa án quận liên bang trùng với thẩm quyền của tòa án tiểu bang. Điều này có nghĩa là một nguyên đơn có quyền chọn khởi kiện ở tòa án liên bang hoặc tòa án tiểu bang. Quốc hội có quy định một thủ tục cho phép một bên của vụ án, thường là bị đơn, chuyển (remove) một vụ án từ tòa án tiểu bang sang tòa án liên bang, với điều kiện tòa án liên bang đó phải có quyền sơ thẩm vụ án. Nếu nguyên đơn cho rằng việc chuyển vụ án là không hợp lý, nguyên đơn có quyền đề nghị tòa án quận trả (remand) vụ án về tòa án tiểu bang. Đối với một số vụ án, như tranh chấp bằng sáng chế và bản quyền và truy tố hình sự liên bang, tòa án quận có đặc quyền xét xử, nghĩa là chỉ có tòa án liên bang mới có quyền xét xử các vụ án này.
Bên cạnh quyền xét xử sơ thẩm, tòa án quận cũng có quyền xét xử phúc thẩm một số lượng rất nhỏ các phán quyết, lệnh và sắc lệnh.
Luật sư
Để đại diện một bên ở tòa án quận, người đại diện phải là một luật sư được cấp phép và thường phải được kết nạp vào luật sư đoàn (admission to the bar) của tòa án đó. Ở Hoa Kỳ, không có một bài thi sát hạch riêng để luật sư hành nghề liên bang (ngoại trừ việc hành nghề ở Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ). Luật sư được cấp phép hành nghề ở tiểu bang nào thì thường được gia nhập luật sư đoàn của tòa án quận ở tiểu bang đó.
56 quận tư pháp (khoảng 60% tòa án quận) yêu cầu luật sư phải được cấp phép hành nghề ở bang mà tòa án tọa lạc. 39 quận còn lại (khoảng 40% tòa án quận) cho phép một số luật sư được cấp phép ở các bang khác, quy định điều kiện khác nhau giữa các tòa án. Ví dụ, các tòa án quận ở Thành phố New York (Quận Nam New York và Quận Đông New York) cho phép luật sư được cấp phép ở bang Connecticut hoặc Vermont hành nghề ở tòa, nhưng ngoài ra thì yêu cầu luật sư phải gia nhập luật sư đoàn bang New York. Chỉ có 13 quận chấp nhận luật sư được cấp phép ở bất kỳ tiểu bang nào.
Thường thì luật sư nộp đơn, nộp lệ phí và tuyên thệ kết nạp vào luật sư đoàn. Mỗi địa phương quy định khác nhau về hình thức tuyên lệ, bằng văn bản hay trực tiếp trước thẩm phán quận. Thường thì cần phải có một "người bảo lãnh" đã được kết nạp luật sư đoàn. Một số tòa án quận yêu cầu luật sư muốn gia nhập luật sư đoàn phải thi sát hạch luật liên bang, bao gồm các tòa án: Quận Nam Ohio, Quận Bắc Florida và Quận Puerto Rico.
Theo từng trường hợp một mà đa số tòa án liên bang cũng cho phép luật sư chưa được cấp phép ở quận tham gia vào vụ án (pro hac vice). Đa số tòa án quy định các luật sư pro hac vice phải có một luật sư đã gia nhập luật sư đoàn hỗ trợ.
Kháng án
Thường thì phán quyết của tòa án quận trong cả vụ ản dân sự và hình sự đều có thể được kháng án lên tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ tại khu vực tư pháp nơi tòa án quận tọa lạc, trừ một số phán quyết liên quan đến bằng sáng chế và một số vấn đề đặc biệt khác được kháng án lên Tòa án Phúc thẩm Hoa Kỳ Khu vực Liên bang, và trong một số trường hợp rất hiếm có thể kháng án trực tiếp lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ.
Tòa án quận lớn nhất và xét xử nhiều vụ án nhất
Quận Trung California là quận tư pháp đông dân nhất; nó bao gồm 5 hạt của vùng Đại Los Angeles. Thay vào đó, Thành phố New York và vùng đô thị xung quanh được chia thnhf Quận Nam New York (gồm Manhattan, The Bronx và Hạt Westchester) và Quận Đông New York (gồm Brooklyn, Queens, Đảo Staten, Hạt Nassau và Hạt Suffolk). Vùng ngoại ô Thành phố New York ở Connecticut và New Jersey thuộc thẩm quyền Quận Connecticut và Quận New Jersey.
Quận Nam New York và Quận Trung New York là hai quận có nhiều thẩm phán nhất, mỗi quận có 28 thẩm phán.
Vào năm 2017, tòa án xử lý nhiều hồ sơ hình sự nghiêm trọng nhất là Quận New Mexico, Quận Tây Texas, Quận Nam Texas, và Quận Arizona. Bốn quận này đều giáp biên giới với Mexico. Việc tăng cường biện pháp đối phó với nạn nhập cư trái phép dẫn đến việc 75% các hồ sơ vụ án hình sự trong 94 tòa án quận được nộp về bốn quận này cùng với Quận Nam California cũng giáp Mexico. Tòa án xử lý nhiều vụ tranh chấp bằng sáng chế hằng năm nhất là Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Đông Texas.
Tòa án quận cũ
Tòa án quận bị tách
Nhiều tòa án quận cũ bị bãi bỏ vì bị tách thành nhiều quận nhỏ hơn, gồm các Quận: Alabama, Arkansas, California, Florida, Georgia, Illinois, Indiana, Iowa, Kentucky, Louisiana, Michigan, Mississippi, Missouri, New York, Bắc Carolina, Ohio, Pennsylvania, Tennessee, Texas, Virginia, Washington, Tây Virginia, Wisconsin.
Những tòa án quận bị bãi bỏ khác
Trong số ít trường hợp, tòa án bị bãi bỏ vì được sáp nhập vào một tòa án quận khác. Trừ một trường hợp đặc biệt, điều này đã tái thiết lập một tòa án quận bị tách trước đó:
Giữa năm 1794 và 1797, Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Bắc Carolina được tách thành các Quận Edenton, New Bern và Wilmington.
Giữa năm 1801 và 1802, Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận New Jersey được tách thành Quận Đông New Jersey và Tây New Jersey.
Khi bang California gia nhập Hợp chúng quốc vào năm 1850, ban đầu tiểu bang được chia làm hai quận, Bắc và Nam. Quận Nam California bị bãi bỏ ngày 27 tháng 7 năm 1866 và cả bang được hợp thành một quận tư pháp với Quận Bắc California trở thành Quận California. 20 năm sau, vào ngày 5 tháng 8 năm 1886, Quốc hội tái thiết lập Quận Nam California.
Giữa năm 1911 và 1961, Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Nam Carolina được tách thành Quận Đông và Quận Tây bang Nam Carolina.
Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Đông Illinois bị bãi bỏ và thay thế bởi Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Trung Illinois vào ngày 2 tháng 10 năm 1978.
Có một số tòa án quận cũ khác không thuộc các trường hợp trên.
Giữa năm 1801 và 1802, Đặc khu Columbia và một phần lãnh thổ Maryland và Virgina được hợp thành Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Potomac, là tòa án quận Hoa Kỳ đầu tiên có thẩm quyền xuyên biên giới bang. Trong cùng khoảng thời gian này, Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Norfolk được thành lập trên một phần lãnh thổ khác của Virgina. Quận Maryland và Quận Virginia vẫn tồn tại trong khoảng thời gian này.
Từ năm 1801 đến 1802, và một lần nữa từ năm 1802 đến 1872, tiểu bang Bắc Carolina được chia thành Quận Albemarle, Cape Fear và Pamptico. Những tòa án này bị bãi bỏ khi tiểu bang được phân lại thành tòa án quận Hoa Kỳ tại Quận Đông và Tây của Bắc Carolina.
Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Orleans. Tòa án này được đổi tên thành Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Louisiana khi Lãnh thổ Louisiana trở thành Tiểu bang Louisiana.
Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Vùng Kênh đào. Tòa án này bị bãi bỏ vào ngày 31 tháng 3 năm 1982 trong quá trình bàn giao lại Vùng Kênh đào cho Panama. Những vụ án chờ xét xử lúc đó được bàn giao cho Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Đông Louisiana ở New Orleans.
Tòa án Hoa Kỳ tại Trung Quốc. Tòa án này hoạt động như một tòa án quận từ năm 1906 đến năm 1943. Tòa án này có thẩm quyền xét xử công dân Mỹ ở Trung Quốc.
Xem thêm
Tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ
Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ
Bộ Tư pháp Hoa Kỳ
Ghi chú
Tham khảo
Tư pháp Hoa Kỳ
Chính phủ Hoa Kỳ
|
19851687
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/The%20Tortured%20Poets%20Department
|
The Tortured Poets Department
|
The Tortured Poets Department là album phòng thu thứ mười một sắp được ra mắt của nữ ca sĩ kiêm sáng tác âm nhạc Taylor Swift, lên kế hoạch phát hành vào ngày 19 tháng 4, 2024 bởi Republic Records. Swift đã thông báo về album này tại Giải Grammy lần thứ 66 sau chiến thắng giải thưởng ở hạng mục Album giọng pop xuất sắc nhất cho album phòng thu thứ mười, Midnights (2022). Album sẽ bao gồm mười sáu bài hát, và bao gồm thêm một bài hát bổ sung mang tên "The Manuscript".
Bối cảnh và phát hành
Taylor Swift đã phát hành album phòng thu thứ mười của cô, Midnights, vào ngày 21 tháng 10, 2022, và đã đạt được thành công rộng rãi về mặt thương mại cũng như phê bình. Bên cạnh đó, cô cũng đã phát hành lại các album tái thu âm như Speak Now (Taylor's Version) và 1989 (Taylor's Version), vào năm 2023, như là một phần trong dự án tái thu âm của cô. Midnights cũng đã có được sáu đề cử Giải Grammy tại Giải Grammy lần thứ 66 vào ngày 4 tháng 2, 2024.
Swift đã nhá hàng việc phát hành album mới của cô bằng việc thay đổi tất cả những ảnh đại diện trên các nền tảng xã hội thành phiên bản trắng đen của ảnh bìa trước đó và bảo gồm cả ảnh bìa album của Midnights; những người hâm mộ của cô, những Swifties, cùng suy đoán trên cộng đồng mạng rằng Swift đang chuẩn bị phát hành Reputation (Taylor's Version), bản tái thu âm sắp tới của album thứ sáu của cô, Reputation (2017). Trang web của Swift dường như đã bị đánh sập và được thay thế bằng mã trạng thái HTTP 321 không tổn tại, cũng như là mã lỗi "hneriergrd", mà người hâm mộ của cô đã giải mã rằng đó là việc đảo chữ của từ ''red herring (cá trích đỏ)". Cô đã tham dự Lễ trao giải Grammy và thành công chiến thắng ở hai hạng mục Album giọng pop xuất sắc nhất và Album của năm cho album Midnights. Và trong phần phát biểu khi nhận giải thưởng của mình, cô đã tiết lộ về album phòng thu mới của mình, với tự đề là The Tortured Poets Department, và thông báo rằng ngày phát hành của album sẽ là 19 tháng 4, 2024. Cô cũng cho biết rằng mình đã giữ bí mật trong hai năm về album này. Ảnh bìa của album cũng đã được đăng tải trên các tài khoản mạng xã hội của cô, cùng với một bức ảnh chụp một tấm ghi chú viết tay có nội dung:
Album đã có sẵn để đặt hàng trước ngay sau bài đăng, cùng với một phiên bản bao gồm một bài hát bổ sung mang tên 'The Manuscript.'
Ảnh bìa album
Ảnh bìa của The Tortured Poets Department là bộ bức ảnh trắng-đen được chụp bởi Beth Garrabrant với hình ảnh Swift nằm trên giường trong một tư thế quyến rũ. Tạp chí People đã mô tả nó là một "chiếc bìa gợi cảm".
Danh sách bài hát
Ghi chú
"Loml" được viết cách điệu bằng chữ in thường
Lịch sử phát hành
Tham khảo
Album năm 2024
Album của Taylor Swift
Album của Republic Records
Album sắp phát hành
|
19851690
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wat%20Arun%20%28ph%C3%B3%20qu%E1%BA%ADn%29
|
Wat Arun (phó quận)
|
Wat Arun (, ) là một trong hai khwaeng (phó quận) của Bangkok Yai, Băng Cốc, ngoại trừ Wat Tha Phra. Có thể xem đây là một khu vực quan trọng về mặt lịch sử và du lịch.
Lịch sử
Khu vực được đặt tên theo Wat Arun, một ngôi đền cổ nổi tiếng trên thế giới nằm bên bờ sông Chao Phraya. Nó nổi bật với kiến trúc prang (tháp chùa phong cách Khmer) trở thành một trong những biểu tương, địa danh quan trọng của Băng Cốc và phía Thonburi, đồng thời cũng là con dấu của Tổng cục Du lịch Thái Lan (TAT).
Người ta nói rằng khi Vua Taksin trở về từ Chanthaburi đi đến Ayutthaya với đội binh của mình. Ông đi dọc theo dòng sông Chao Phraya và đến ngôi chùa này vào lúc mặt trời mọc, do đó đặt tên là "Wat Chaeng" hoặc tên chính thức là "Wat Arun", có nghĩa là "Chùa Bình Minh".
Khi Vua King Taksin thành lập thủ đô mới của Xiêm (hiện nay là Thái Lan), Thonburi, nằm bên trái bờ sông Chao Phraya, nơi hợp lưu của Khlong Bangkok Yai và sông Chao Phraya, đó là vị trí hiện tại ở đây (bao gồm mở rộng đến khu vực Bangkok Noi và quận Thon Buri ngày nay). Hoàng cung của ông được đặt cạnh Wat Arun bên bờ sông Chao Phraya, nơi mà ngày nay đã trở thành Trụ sở Hải quân Hoàng gia Thái Lan dưới tên gọi Hoàng cung Thonburi.
Văn phòng quận Bangkok Yai từng được đặt trong khu vực Wat Hong Rattanaram, một ngôi chùa nổi bật khác trong phó khu này vào năm 1915. Cho đến năm 1988, nó được di dời đến vị trí hiện tại trên Đường Ratchadaphisek gần Nút giao Tha Phra trong khu vực phó quận Wat Tha Phra.
Địa lý
Wat Arun nằm ở phía Đông của quận xung quanh bao bọc bởi nước ngoại trừ phía Tây, Đường Itsaraphap phân chia ranh giới giữa khu vực và Wat Tha Phra.
Các phó quận xung quanh bao gồm (theo chiều kim đồng hồ từ hướng Bắc): Siriraj và Ban Chang Lo của quận Bangkok Noi (đi qua Khlong Mon), Phra Borom Maha Ratchawang của quận Phra Nakhon (bắc qua sông Chao Phraya), Wat Kanlaya của quận Thon Buri (đi qua Khlong Bangkok Yai), và Wat Tha Phra thuộc quận đó.
Tham khảo
Phó quận của Băng Cốc
Quận Bangkok Yai
Khu dân cư trên sông Chao Phraya
|
19851691
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%82m%20rung%20l%E1%BB%A3i%20h%E1%BB%AFu%20thanh
|
Âm rung lợi hữu thanh
|
Âm rung lợi hữu thanh là một loại phụ âm. Phụ âm này được tượng trưng bằng chữ ‹r› trong Bảng mẫu tự ngữ âm quốc tế. Những người với bệnh cứng lưỡi sẽ cảm thấy khó khăn khi phát âm tiếng này.
Đặc trưng
Vị trí cấu âm của nó có thể là:
Răng,
lợi hoặc
sau lợi.
Tham khảo
Âm rung
Âm lợi
|
19851696
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20mu%E1%BB%91i
|
Cầu muối
|
Trong điện hóa học, cầu muối hay cầu ion là một thiết bị trong phòng thí nghiệm dùng để kết nối các nửa tế bào oxi hóa và khử của tế bào điện (tế bào volta), một loại tế bào điện hóa. Nó duy trì tính trung hòa điện trong mạch bên trong. Nếu không có cầu muối, dung dịch trong một nửa tế bào sẽ tích lũy điện tích âm và dung dịch trong nửa tế bào còn lại sẽ tích lũy điện tích dương khi phản ứng diễn ra, nhanh chóng ngăn chặn phản ứng tiếp theo và do đó ngăn chặn việc sản xuất điện. Cầu muối thường có hai loại: ống thủy tinh và giấy lọc.
Cầu ống thủy tinh
Một loại cầu muối bao gồm một ống thủy tinh hình chữ U chứa đầy chất điện phân tương đối trơ. Nó thường là sự kết hợp của các cation kali hoặc amoni và các anion chloride hoặc nitrat, có tính linh động tương tự trong dung dịch. Sự kết hợp này sẽ không phản ứng với bất kỳ hóa chất nào được sử dụng trong tế bào. Chất điện phân thường được gel hóa bằng agar-agar để giúp ngăn ngừa sự trộn lẫn các chất lỏng có thể xảy ra.
Độ dẫn điện của cầu ống thủy tinh phụ thuộc chủ yếu vào nồng độ của dung dịch điện phân. Ở nồng độ dưới mức bão hòa, việc tăng nồng độ sẽ làm tăng độ dẫn điện. Hàm lượng chất điện phân vượt quá mức bão hòa và đường kính ống hẹp có thể làm giảm độ dẫn điện.
Cầu lọc giấy
Giấy xốp như giấy lọc có thể được sử dụng làm cầu muối nếu được ngâm trong chất điện phân thích hợp như chất điện phân dùng trong cầu ống thủy tinh. Không cần chất keo hóa vì giấy lọc cung cấp môi trường rắn để dẫn điện.
Độ dẫn điện của loại cầu muối này phụ thuộc vào một số yếu tố: nồng độ dung dịch điện phân, kết cấu của giấy và khả năng hấp thụ của giấy. Nói chung, kết cấu mịn hơn và độ thấm hút cao hơn tương đương với độ dẫn điện cao hơn.
Có thể sử dụng đĩa xốp hoặc các tấm chắn xốp khác giữa hai nửa tế bào thay cho cầu muối; những điều này cho phép các ion đi qua giữa hai dung dịch đồng thời ngăn chặn sự trộn lẫn lớn của các dung dịch.
Tham khảo
Dụng cụ thí nghiệm
|
19851701
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Half-cell
|
Half-cell
|
Trong điện hóa học, half-cell là cấu trúc chứa điện cực dẫn điện và chất điện phân dẫn điện xung quanh được ngăn cách bởi lớp kép Helmholtz xuất hiện tự nhiên. Các phản ứng hóa học trong lớp này sẽ nhanh chóng bơm điện tích giữa điện cực và chất điện phân, dẫn đến sự chênh lệch điện thế giữa điện cực và chất điện phân. Phản ứng ở cực dương điển hình liên quan đến việc một nguyên tử kim loại trong điện cực bị hòa tan và vận chuyển dưới dạng ion dương qua lớp kép, làm cho chất điện phân thu được điện tích dương trong khi điện cực thu được điện tích âm. Sự chênh lệch điện thế ngày càng tăng tạo ra một điện trường cực mạnh bên trong lớp kép và điện thế tăng giá trị cho đến khi trường dừng các phản ứng bơm điện tích toàn phần. Hành động tự giới hạn này xảy ra gần như ngay lập tức trong một nửa ô bị cô lập; trong các ứng dụng, hai nửa ô khác nhau được kết nối một cách thích hợp để tạo thành một ô Galvanic.
Một half-cell tiêu chuẩn bao gồm một điện cực kim loại trong dung dịch nước 1 mol (1 mol/L) muối của kim loại, ở nhiệt độ 298 kelvin (25 °C).Chuỗi điện hóa, bao gồm các thế điện cực tiêu chuẩn và có liên quan chặt chẽ với chuỗi phản ứng, được tạo ra bằng cách đo sự chênh lệch điện thế giữa nửa tế bào kim loại trong mạch với half-cell hydro tiêu chuẩn, được nối với nhau bằng cầu muối.
Nửa tế bào hydro tiêu chuẩn:
2H+(aq) + 2e− → H2(g)
Các nửa ô của ô Daniell:
Phương trình gốc
Zn + Cu2+ → Zn2+ + Cu
Nửa cell (cực dương) của Zn:
Zn → Zn2+ + 2e−
Nửa tế bào (cực âm) của Cu:
Cu2 + 2e− → Cu
|
19851702
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pin%20acid%20chromic
|
Pin acid chromic
|
Pin acid chromic là loại pin sơ cấp sử dụng acid chromic làm chất khử cực. Acid chromic thường được tạo ra bằng cách acid hóa (với Acid sulfuric) dung dịch kali dichromat. Tên cũ của kali dichromat là kali bichromat, được gọi là pin Bichromate. Loại pin này hiện giờ không còn được sử dụng.
Lịch sử
Bài chi tiết: Lịch sử của pin
Cấu trúc
Các thành phần chính của pin gồm:
Anode, kẽm
Chất điện phân, acid sulfuric loãng
Chất khử cực, acid chromic
Cathode, carbon
Pin được tạo thành ở hai dạng - loại chất lỏng đơn, được quy cho Poggendorff và loại hai chất lỏng, được quy cho Fuller. Trong cả hai trường hợp, điện áp của pin này là khoảng 2 vôn.
Pin Poggendorff
Pin được đặt trong một chai thủy tinh cổ dài có tấm kẽm nằm giữa hai tấm carbon. Sau đó, chất điện phân và chất khử cực được trộn lẫn. Hỗn hợp này sẽ hòa tan tấm kẽm ngay cả khi không sử dụng tế bào nên có cơ chế nhấc tấm kẽm ra khỏi chất lỏng và cất vào cổ chai.
Pin Fuller
Pin được đặt trong một cái nồi bằng thủy tinh, hoặc đất nung tráng men. Cái này chứa dung dịch acid chromic, tấm carbon và một cái nồi xốp. Bên trong bình xốp có acid sulfuric loãng, thanh kẽm và một lượng nhỏ thủy ngân. Thủy ngân tạo thành một hỗn hống với kẽm và điều này làm giảm "tác dụng cục bộ", tức là sự hòa tan không mong muốn của kẽm khi tế bào không được sử dụng.
Xem thêm
Danh sách các loại pin
|
19851704
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pin%20B%E1%BA%A1c-Cadmi
|
Pin Bạc-Cadmi
|
Pin bạc-cadmium là loại pin sạc sử dụng kim loại cadmi làm cực âm, oxit bạc làm cực dương và chất điện phân gốc nước. Nó tạo ra khoảng 1,1 volt trên mỗi tế bào khi phóng điện và mật độ năng lượng riêng khoảng 40 watt/kg. Pin cadmium bạc cung cấp nhiều năng lượng hơn pin niken-cadmium có trọng lượng tương đương. Nó có tuổi thọ cao hơn tế bào bạc-kẽm, nhưng điện áp đầu cuối thấp hơn và mật độ năng lượng thấp hơn.Tuy nhiên, giá bạc cao và độc tính của cadmi đã hạn chế ứng dụng của nó.
Pin cadmium bạc đầu tiên được phát triển bởi Waldemar Jungner vào khoảng năm 1900, ông đã sử dụng chúng trong một chiếc ô tô điện trình diễn và công ty của ông đã sản xuất các tế bào này về mặt thương mại. Những tế bào ban đầu này có tuổi thọ ngắn và phải đến năm 1941, vật liệu phân cách cải tiến mới được sản xuất. được phát triển để ngăn chặn sự di chuyển của oxit bạc bên trong tế bào. Sự phát triển thương mại mới diễn ra trong những năm 1950, để tận dụng vòng đời tốt hơn của hệ thống bạc-cadmium so với bạc-kẽm. Giống như các hệ thống pin oxit bạc khác, pin bạc-cadmium có điện áp tương đối ổn định trong quá trình phóng điện. Tuy nhiên, hiệu suất tốc độ cao không tốt bằng pin bạc-kẽm. Để duy trì tuổi thọ hoạt động của tế bào, chúng có thể được vận chuyển ở trạng thái "khô" và người dùng cuối bổ sung chất điện phân ngay trước khi sử dụng.
Điện cực dương được làm bằng bột bạc thiêu kết dán trên lưới bạc làm bộ thu dòng điện; oxit bạc có thể được hình thành trong một quá trình riêng biệt hoặc có thể được hình thành trong lần sạc pin đầu tiên. Điện cực âm cadmium được tạo thành từ một lưới dán. Chất điện giải là dung dịch kali hydroxit trong nước. Các tế bào được cung cấp nắp thông hơi để ngăn phản ứng của chất điện phân với carbon dioxide trong không khí. Về mặt lý thuyết, cần khoảng 2 gam bạc cho mỗi ampe giờ công suất, nhưng các tế bào thực tế cần từ 3 đến 3,5 gam. Do điện áp sạc cao hơn điện áp phóng điện nên hiệu suất watt/giờ của tế bào bạc-cadmium là khoảng 70%; hiệu suất ampe giờ là khoảng 98%. Phương pháp sạc thông thường được khuyến nghị là sạc dòng không đổi ở tốc độ 10 hoặc 20 giờ (khôi phục dung lượng của pin trong 10 hoặc 20 giờ) và cắt sạc ở mức 1,6 volt mỗi cell. Các tế bào được sản xuất thương mại có công suất từ 2 đến 2500 ampe giờ, nhưng thường được tùy chỉnh cho các mục đích sử dụng cụ thể.
|
19851712
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nanj%C5%8D%2C%20Fukui
|
Nanjō, Fukui
|
là huyện thuộc tỉnh Fukui, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020 dân số của huyện là 10.002 người và mật độ dân số là 29 người/km2. Tổng diện tích của huyện là 343,7 km2.
Hành chính
Thị trấn
Tham khảo
Huyện của Fukui
|
19851715
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Obira%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Obira, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc Rumoi, phó tỉnh Rumoi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 2.994 người và mật độ dân số là 4,8 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 627,29 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19851716
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fletcher%20Moss%20Rangers%20FC
|
Fletcher Moss Rangers FC
|
Câu lạc bộ bóng đá Fletcher Moss Rangers là một câu lạc bộ bóng đá nghiệp dư cho các cầu thủ trẻ, có trụ sở tại Didsbury, Manchester, Anh, và được thành lập vào năm 1986. Những cựu cầu thủ nổi tiếng như Wes Brown, Jesse Lingard, Marcus Rashford và Tyler Blackett đã chọn con đường chuyên nghiệp bằng việc ký hợp đồng với đội bóng danh tiếng Manchester United và đại diện cho đội tuyển quốc gia Anh. Trong khi đó, Ravel Morrison đã chọn chơi cho đội tuyển Jamaica, và Keiren Westwood đại diện cho đội tuyển Ireland.
.
Cựu cầu thủ
Tosin Adarabioyo
Kyle Bartley
Tyler Blackett
Cameron Borthwick-Jackson
Reece Brown
Wes Brown
Lewis Chalmers
Andy Crompton
Zeki Fryers
Shaun Hobson
Jordy Hiwula
Jesse Lingard
Emma McDougall
Demetri Mitchell
Ravel Morrison
Warren Peyton
Marcus Rashford
Devonte Redmond
Ashley Smith-Brown
Cameron Stewart
Danny Webber
Danny Welbeck
Keiren Westwood
Ro-Shaun Williams
Tham khảo
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1986
Tọa độ trên Wikidata
|
19851748
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ayahuasca
|
Ayahuasca
|
Ayahuasca là một loại chế phẩm hướng thần ở Nam Mỹ, theo truyền thống được sử dụng bởi các nền văn hóa bản địa và những người chữa bệnh theo cổ truyền ở lưu vực Amazon và Orinoco cho các nghi lễ tâm linh, bói toán và chữa nhiều chứng bệnh tâm thần. Ban đầu chỉ giới hạn ở các khu vực của Peru, Brasil, Colombia và Ecuador, vào giữa thế kỷ 20, nó đã trở nên phổ biến ở Brasil trong bối cảnh xuất hiện các tôn giáo hỗn dung sử dụng ayahuasca làm bí tích, như Santo Daime, União do Vegetal và Barquinha, pha trộn các yếu tố của Shaman giáo Amazon, Cơ đốc giáo, thuyết thông linh Kardecist và các tôn giáo Brasil gốc Phi như Umbanda, Candomblé và Tambor de Mina, sau đó mở rộng sang một số quốc gia trên khắp các châu lục, đặc biệt là Hoa Kỳ và Tây Âu, mới bắt đầu ở Đông Âu , Nam Phi, Úc và Nhật Bản.
Tham khảo
Đọc thêm
Burroughs, William S. and Allen Ginsberg. The Yage Letters. San Francisco: City Lights, 1963.
Langdon, E. Jean Matteson & Gerhard Baer, eds. Portals of Power: Shamanism in South America. Albuquerque: University of New Mexico Press, 1992.
Shannon, Benny. The Antipodes of the Mind: Charting the Phenomenology of the Ayahuasca Experience. Oxford: Oxford University Press, 2002.
Taussig, Michael. Shamanism, Colonialism, and the Wild Man: A Study in Terror and Healing. Chicago: University of Chicago Press, 1986.
Liên kết ngoài
|
19851750
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ayahuasca%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Ayahuasca (định hướng)
|
Ayahuasca là chế phẩm từ nhiều loại thực vật có tính hướng thần.
Ayahuasca còn có thể đề cập đến:
Ayahuasca (album của Pelt), 2001
Ayahuasca (album của Baiyu), 2013
Ayahuasca: Welcome to the Work, album 2013 của Ben Lee
Banisteriopsis caapi, một trong những nguyên liệu chính của ayahuasca
"Ayahuasca" (bài hát), bài hát nhạc điện tử 2015 của Hoax23
"Ayahuasca" (bài hát), đĩa đơn 2016 của ca sĩ Thụy Điển-Ý Veronica Maggio
Ayahuasca (bài hát), đĩa đơn của Jonathan Roy trong album Life Distortions
|
19851752
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20ch%E1%BA%A5t%20th%E1%BB%A9c%20th%E1%BA%A7n
|
Danh sách chất thức thần
|
Đây là danh sách các chất thức thần thuộc nhiều nhóm hóa học khác nhau, bao gồm cả hợp chất tự nhiên và tổng hợp. Các hợp chất xuất hiện trong tự nhiên được đánh dấu bằng †.
Chất thức thần serotonergic (đồng vận thụ thể serotonin 5-HT2A)
Indol
Tryptamine (cụ thể hơn là tryptamine alkyl hóa)
Psilocin†, còn được gọi là '4-HO-DMT'; thành phần hoạt tính khác của chi nấm Psilocybe
Psilocybin†, còn được gọi là '4-PO-DMT'; thành phần hoạt tính chính của chi nấm Psilocybe
Bufotenin†, còn được gọi là '5-HO-DMT' và dimethylserotonin;; một thành phần khác của da và nọc của cóc Sông Colorado, hoạt tính thức thần của nó còn bị tranh cãi; cũng là chất chuyển hóa của 5-MeO-DMT
Baeocystin†, còn được gọi là '4-PO-NMT'; thành phần hoạt tính khác của chi nấm Psilocybe; hoạt tính thức thần của nó còn bị tranh cãi
Aeruginascin†, còn được gọi là '4-PO-N-TMT', thành phần hoạt tính của nấm Inocybe aeruginascens
5-MeO-DMT†, thành phần hoạt tính chính của da và nọc của cóc Sông Colorado, tiền chất của bufotenin qua khử methyl hóa
N,N-Dimethyltryptamine†, còn được gọi là 'DMT'; thành phần hoạt tính chính của chế phẩm ayahuasca của người Mỹ bản địa; hiện diện nội sinh ở nhiều loại thực vật và động vật, bao gồm con người, có thể là chất dẫn truyền thần kinh dạng amin vết.
5-Bromo-DMT†
N-Methyl-N-ethyltryptamine, còn được gọi là 'MET'
N-Methyl-N-isopropyltryptamine, còn được gọi là 'MiPT'
N-Methyl-N-propyltryptamine, còn được gọi là 'MPT'
N,N-Diethyltryptamine, còn được gọi là 'DET'
N-Ethyl-N-isopropyltryptamine, còn được gọi là 'EiPT'
N-Methyl-N-butyltryptamine, còn được gọi là 'MBT'
N-Propyl-N-isopropyltryptamine, còn được gọi là 'PiPT'
N,N-Dipropyltryptamine, còn được gọi là 'DPT'
N,N-Diisopropyltryptamine, còn được gọi là 'DiPT'
N,N-Diallyltryptamine, còn được gọi là 'DALT'
N,N-Dibutyltryptamine, còn được gọi là 'DBT'
N-Ethyltryptamine, còn được gọi là 'NET'
N-Methyltryptamine†, còn được gọi là 'NMT'; hoạt tính thức thần của nó còn bị tranh cãi
Trimethyltryptamine, còn được gọi là 'TMT' (2,N,N-TMT, 5,N,N-TMT, và 7,N,N-TMT)
α-Methyltryptamine, còn được gọi là 'αMT' và 'AMT'; cũng có hoạt tính entactogenic
α-Ethyltryptamine, còn được gọi là 'αET' và 'AET'; cũng có hoạt tính entactogenic
α,N-DMT
α,N,N-Trimethyltryptamine, còn được gọi là 'α-TMT'
Ethocybin, còn được gọi là '4-PO-DET', 'CEY-19', và 'CEY-39'
4-HO-MET, còn được gọi là 'Metocin', 'Methylcybin', và 'Colour'
4-HO-DET, còn được gọi là 'Ethocin' và 'CZ-74'
4-HO-MPT, còn được gọi là 'Meprocin'
4-HO-MiPT, còn được gọi là 'Miprocin'
4-HO-MALT
4-HO-DPT, còn được gọi là 'Deprocin'
4-HO-DiPT, còn được gọi là 'Iprocin'
4-HO-DALT, còn được gọi là 'Daltocin'
4-HO-DBT
4-HO-DSBT
4-HO-αMT
4-HO-MPMI, còn được gọi là 'Lucigenol'
4-HO-TMT
4-HO-1,N,N-TMT, còn được gọi là '1-Me-4-HO-DMT' và '1-methylpsilocin'
4-HO-5-MeO-DMT, còn được gọi là 'Psilomethoxin'
4-AcO-DMT, còn được gọi là 'psiloacetin'
4-AcO-MET, còn được gọi là 'Metacetin'
4-AcO-MiPT
4-AcO-MALT
4-AcO-DET, còn được gọi là 'Ethacetin'
4-AcO-EiPT, còn được gọi là 'Ethipracetin'
4-AcO-DPT, còn được gọi là 'Depracetin'
4-AcO-DiPT, còn được gọi là 'Ipracetin'
4-AcO-DALT, còn được gọi là 'Daltacetin'
4-MeO-DMT
4-MeO-MiPT
5-MeO-NMT†
5-MeO-MET
5-MeO-MPT
5-MeO-MiPT, còn được gọi là 'Moxy'; cũng có hoạt tính entactogenic
5-MeO-MALT
5-MeO-DET
5-MeO-EiPT
5-MeO-EPT
5-MeO-PiPT
5-MeO-DPT
5-MeO-DiPT, còn được gọi là 'Foxy Methoxy'
5-MeO-DALT
5-MeO-αMT, cũng có hoạt tính entactogenic
5-MeO-αET, cũng có hoạt tính entactogenic
5-MeO-MPMI
5-MeO-2,N,N-TMT , còn được gọi là 'Indomethacin' và 'Indapex'
5-MeO-7,N,N-TMT
5-MeO-a,N-DMT, còn được gọi là 'α,N,O-TMS'
4-F-5-MeO-DMT
5-MeS-DMT
5-Me-MiPT, hoạt tính thức thần của nó còn bị tranh cãi
5-HO-DiPT
2-α-DMT
2-Me-DET
4-Me-αMT
4-Me-αET, cũng có hoạt tính entactogenic
7-Me-αET, cũng có hoạt tính entactogenic
4,5-DHP-AMT, còn được gọi là 'AL-37350A'
4,5-DHP-DMT
4,5-MDO-DMT
4,5-MDO-DiPT
5,6-MDO-DiPT
5,6-MDO-MiPT
5-Fluoro-αMT, cũng có hoạt tính entactogenic
6-Fluoro-αMT
6-Fluoro-DMT
N,N-Tetramethylenetryptamine, còn được gọi là 'Pyr-T'
4-HO-pyr-T
5-MeO-pyr-T
RU-28306, còn được gọi là '4,a-Methylene-N,N-DMT'
O-4310, còn được gọi là '6-Fluoro-1-Isopropyl-4-HO-DMT'
CP-132,484, còn được gọi là '4,5-DHP-1-Methyltryptamine'
Dẫn xuất benzofuran (không phải tryptamine về mặt kỹ thuật)
Dimemebfe, còn được gọi là '5-MeO-BFE'
5-MeO-DiBF
Ibogoids (có thể phân loại là tryptamine phức)
Ibogaine†
Voacangine†
Ergoline (cụ thể hơn là lysergamides, cũng có thể phân loại là tryptamine phức; cũng có sườn phenethylamine)
Lysergic acid diethylamide, còn được gọi là 'LSD' và 'acid'
Lysergic acid amide†, còn được gọi là 'LSA' và 'ergine'
N1-Methyl-lysergic acid diethylamide, còn được gọi là 'MLD-41'
N-Acetyl-lysergic acid diethylamide, còn được gọi là 'ALD-52'
1-Propionyl-lysergic acid diethylamide, còn được gọi là '1P-LSD'
1‐cyclopropanoyl‐d‐lysergic acid diethylamide, còn được gọi là '1cP-LSD'
1-valeryl-D-lysergic acid diethylamide, còn được gọi là '1V-LSD'
6-Allyl-6-nor-lysergic acid diethylamide, còn được gọi là 'AL-LAD'
6-Butyl-6-nor-lysergic acid diethylamide, còn được gọi là 'BU-LAD'
6-Ethyl-6-nor-lysergic acid diethylamide, còn được gọi là 'ETH-LAD'
1-Propionyl-6-Ethyl-6-nor-lysergic acid diethylamide, còn được gọi là '1P-ETH-LAD'
6-Propyl-6-nor-lysergic acid diethylamide, còn được gọi là 'PRO-LAD'
6-Cyclopropyl-6-nor-lysergic acid diethylamide, còn được gọi là 'CYP-LAD'
6-nor-Lysergic acid diethylamide, còn được gọi là 'PARGY-LAD'
Lysergic acid ethylamide, còn được gọi là 'LAE-32'
Lysergic acid α-hydroxyethylamide†, còn được gọi là 'LSH' và 'LAH'
Lysergic acid 2-butyl amide, còn được gọi là 'LSB'
Lysergic acid 3-pentyl amide, còn được gọi là 'LSP'
Lysergic acid methyl ester, còn được gọi là 'LSME'
Lysergic acid 2,4-dimethylazetidide, còn được gọi là 'LSZ' và 'LA-SS-Az'
Lysergic acid piperidine, còn được gọi là 'LSD-Pip'; hoạt tính thức thần của nó còn bị tranh cãi
N,N-Dimethyl-lysergamide, còn được gọi là 'DAM-57'
Methylisopropyllysergamide, còn được gọi là 'MIPLA'
N,N-Diallyllysergamide, còn được gọi là 'DAL'
N-Pyrrolidyllysergamide, còn được gọi là 'LPD-824'
N-Morpholinyllysergamide, còn được gọi là 'LSM-775'
1-methyl-lysergic acid butanolamide, còn được gọi là 'Methysergide'
Lysergic acid β-propanolamide†, còn được gọi là 'Ergonovine' và 'Ergometrine'
Lysergic acid 1-butanolamide†, còn được gọi là 'Methylergonovine', 'Methergine', và 'Methylergometrine'
Phenethylamine (cụ thể hơn là phenethylamine alkoxy-hóa)
Phenethylamine thay thế
Mescaline†, thành phần hoạt tính chính của vài loài xương rồng, như peyote và Xương rồng San Pedro
Lophophine†, còn được gọi là 'MMDPEA'; thành phần hoạt tính khác của vài loài xương rồng, như peyote và Xương rồng San Pedro (Trichocereus macrogonus var. pachanoi, đồng nghĩa Echinopsis pachanoi); cũng có hoạt tính entactogenic
Isomescaline
Cyclopropylmescaline
Thioisomescaline (2-TIM, 3-TIM, và 4-TIM)
4-Desoxymescaline
Jimscaline
Escaline
Metaescaline
Thiometaescaline (3-TME, 4-TME, và 5-TME)
Trisescaline
Thiotrisescaline (3-T-TRIS và 4-T-TRIS)
Symbescaline
Asymbescaline
Thiosymbescaline (3-TSB và 4-TSB)
Phenescaline
Allylescaline, còn được gọi là 'AL'
Methallylescaline
Proscaline
Isoproscaline
Metaproscaline
Thioproscaline
Buscaline
Thiobuscaline
α-ethylmescaline, còn được gọi là 'AEM'
Ariadne, còn được gọi là 'α-Et-DOM', '4C-D', và 'Dimoxamine'
Macromerine
MEPEA
TOM (2-TOM và 5-TOM)
Bis-TOM
TOMSO, còn được gọi là '2-methoxy-4-methyl-5-methylsulfinylamphetamine'
TOET (2-TOET và 5-TOET)
BOH
BOM, còn được gọi là 'β-Methoxy-mescaline'
β-D
4-D
DME
F-2
F-22
FLEA, còn được gọi là 'MDHMA'
MDPH
MDMP
Propynyl
Họ 2C (2,5-dimethoxy, 4-substituted phenethylamine)
βk-2C-B
2C-B
2CB-2EtO
2CB-5EtO
2CB-diEtO
2C-B-FLY
2C-B-BUTTERFLY
2C-C
2C-D
2CD-2EtO
2CD-diEtO
2CD-5EtO
2C-E
2C-EF
2C-F
2C-G (2C-G-1, 2C-G-2, 2C-G-3, 2C-G-4, 2C-G-5, 2C-G-6, và 2C-G-N)
2C-H
2C-I
2CI-2EtO
2C-iP
2C-N
2C-O
2C-O-4
2C-P
2C-SE
2C-T
2CT-5EtO
2C-T-2
2CT-2-2EtO
2CT-2-5EtO
2CT-2-diEtO
2C-T-4 (2C-T-4 và Ψ-2C-T-4)
2CT-4-2EtO
2C-T-7
2CT-7-2EtO
2C-T-8
2C-T-9
2C-T-13
2C-T-15
2C-T-16
2C-T-17
2C-T-19,
2C-T-21
2C-TFM
2C-YN
BOB, còn được gọi là 'β-Methoxy-2C-B'
BOD, còn được gọi là 'β-Methoxy-2C-D'
BOHD, còn được gọi là 'β-Hydroxy-2C-D'
HOT-2
HOT-7
HOT-17
Dẫn xuất Indane (không phải phenethylamine về mặt kỹ thuật)
2CB-Ind
Dẫn xuất Benzocyclobutene (không phải phenethylamine về mặt kỹ thuật)
2C-BCB, còn được gọi là 'TCB-2'
Dẫn xuất NBOMe
NBOMe-mescaline
2C-H-NBOMe, còn được gọi là '25H-NBOMe'
2C-C-NBOMe, còn được gọi là '25C-NBOMe'
2CBCB-NBOMe, còn được gọi là 'NBOMe-TCB-2'
2CBFly-NBOMe, còn được gọi là 'Cimbi-31'
2C-B-NBOMe, còn được gọi là '25B-NBOMe', 'M25B-NBOMe', 'BOM 2-CB', 'Cimbi-36', 'Nova', or 'New Nexus'
2C-I-NBOMe, còn được gọi là '25I-NBOMe', 'Cimbi-5', "Solaris", or "N-Bomb"
2C-TFM-NBOMe, còn được gọi là '25TFM-NBOMe'
2C-D-NBOMe, còn được gọi là '25D-NBOMe'
2C-G-NBOMe, còn được gọi là '25G-NBOMe'
2C-E-NBOMe, còn được gọi là '25E-NBOMe'
2C-P-NBOMe, còn được gọi là '25P-NBOMe'
2C-iP-NBOMe, còn được gọi là '25iP-NBOMe'
2C-CN-NBOMe, còn được gọi là '25CN-NBOMe'
2C-N-NBOMe, còn được gọi là '25N-NBOMe'
2C-T-NBOMe, còn được gọi là '25T2-NBOMe'
2C-T-4-NBOMe, còn được gọi là '25T4-NBOMe'
2C-T-7-NBOMe, còn được gọi là '25T7-NBOMe'
DMBMPP, analogue 2-benzylpiperidine của 25B-NBOMe
Dẫn xuất NBOH
2C-C-NBOH, còn được gọi là '25C-NBOH' và 'NBOH-2CC'
2C-B-NBOH, còn được gọi là '25B-NBOH'
2C-I-NBOH, còn được gọi là '25I-NBOH'
2C-CN-NBOH, còn được gọi là '25CN-NBOH' và 'NBOH-2C-CN'
Dẫn xuất NBMD
2C-I-NBMD, còn được gọi là '25I-NBMD'
Dẫn xuất NBF
2C-C-NBF, còn được gọi là '25C-NBF'
2C-B-NBF, còn được gọi là '25B-NBF'
2C-I-NBF, còn được gọi là '25I-NBF'
Amphetamine thay thế (alpha-methyl-phenethylamine)
3C family (3,5-dimethoxy, 4-substituted amphetamine)
3C-E
3C-P
3C-DFE
3C-BZ
DOx family (2,5-dimethoxy, 4-substituted amphetamine)
DOAM
DOB
Meta-DOB
Methyl-DOB
DOBU
DOC
DOEF
DOET, còn được gọi là 'DOE'
DOI
DOM, còn được gọi là 'STP'
Ψ-DOM
DON
DOPR
DOiPR
DOT, còn được gọi là 'Aleph' (Aleph-2, Aleph-4, Aleph-6, và Aleph-7)
Meta-DOT
Ortho-DOT
DOTFM
Dẫn xuất Phenylcyclopropylamine (không phải amphetamine về mặt kỹ thuật)
DMCPA
DMMDA
DMMDA-2
2,5-dimethoxy-3,4-dimethylamphetamine, còn được gọi là 'Ganesha'; (G-3, G-4, G-5, và G-N)
4-methyl-2,5-dimethoxymethamphetamine, còn được gọi là 'Beatrice', 'MDO-D', và 'MDOM'
2,N-dimethyl-4,5-methylenedioxyamphetamine, còn được gọi là 'Madam-6'
Dimethoxyamphetamine (2,4-DMA, 2,5-DMA, và 3,4-DMA)
Trimethoxyamphetamine (TMA-2, TMA-6)
Tetramethoxyamphetamine
Br-DragonFLY
TFMFly
2-Bromo-4,5-methylenedioxyamphetamine
4-Bromo-3,5-dimethoxyamphetamine
EEE
EEM
EME
EMM
EDMA
EIDA
Ethyl-J, còn được gọi là 'EBDB'
Methyl-J, còn được gọi là 'MDMB'
Ethyl-K, còn được gọi là 'EBDP'
Methyl-K, còn được gọi là 'MBDP' và 'UWA-91'
IDNNA
Iris
MDAI
MDMAI
MDAT
MDMAT
MDAL
MDBU
MDBZ
MDDM
MDIP
MDMEOET
MDMEO
MDOH, còn được gọi là 'MDH'
MDHOET
MDPL
MDCPM
MDPR
MEDA
MEM
Methyl-DMA
MMDA, còn được gọi là '3-methoxy-MDA' (2T-MMDA-3a và 4T-MMDA-2)
MMDA-2
5-Methyl-MDA
MEE
MME
MPM
DiFMDA
5-APB
6-APB, còn được gọi là 'Benzofury'
5-APDB
6-APDB
5-MAPB
5-MAPDB
6-MAPDB, hoạt tính thức thần của nó còn bị tranh cãi
6-MAPB
6-EAPB
5-EAPB
Para-Methoxyamphetamine, còn được gọi là 'PMA' và '4-MA'
Paramethoxymethamphetamine, còn được gọi là 'PMMA', 'Methyl-MA', và '4-MMA'
4-Ethylamphetamine, còn được gọi là '4-EA'
3-Methoxy-4-methylamphetamine, còn được gọi là 'MMA'
4-Methylmethamphetamine, còn được gọi là '4-MMA'
4-Methylthioamphetamine, còn được gọi là '4-MTA'
4-Fluoroamphetamine, còn được gọi là '4-FA', 'PAL-303', 'Flux', 'Flits', 'R2D2', và 'Miley'
Norfenfluramine, còn được gọi là '3-TFMA'
Para-Iodoamphetamine, còn được gọi là 'PIA', '4-iodoamphetamine', và '4-IA'
Para-Chloroamphetamine, còn được gọi là 'PCA', '4-chloroamphetamine', và '4-CA'
Benzoxazine (cụ thể hơn là benzoxazine cyclopropylethynyl-hóa)
Benzoxazine thay thế
Efavirenz, thành phần hoạt tính của Sustiva, Stocrin, và Efavir
Empathogen/entactogen (tác nhân giải phóng serotonin (5-HT))
Methylenedioxy-phenethylamine thay thế (MDxx)
MDMA, còn được gọi là 'Molly', và 'Mandy'
MDA, còn được gọi là 'Sass'
2,3-MDA, còn được gọi là 'ORTHO-MDA'
5-Methyl-MDA
MMDA, còn được gọi là '3-methoxy-MDA'
MDEA, còn được gọi là 'MDE'
MBDB
MDAL
MDBU
MDBZ
MDDM
MDIP
MDMEOET
MDMEO
MDOH, còn được gọi là 'MDH'
MDHOET
MDPL
MDCPM
MDPR
BDB, còn được gọi là 'MDB' và 'J'
MMDA-2
DiFMDA
EIDA
Ethyl-K, còn được gọi là 'EBDP'
Lophophine†, còn được gọi là 'MMDPEA'; thành phần hoạt tính chính của vài loài xương rồng, như peyote và Trichocereus macrogonus var. pachanoi (Xương rồng San Pedro)
Amphetamine thay thế (tính riêng; hầu hết các methylenedioxy-phenethylamine cũng trùng trong phân loại này)
EDMA
Para-Methoxyamphetamine, còn được gọi là 'PMA'
Paramethoxymethamphetamine, còn được gọi là 'PMMA' và 'Methyl-MA'
4-Ethylamphetamine, còn được gọi là '4-EA'
3-Methoxy-4-methylamphetamine, còn được gọi là 'MMA'
4-Methylmethamphetamine, còn được gọi là '4-MMA'
4-Methylthioamphetamine, còn được gọi là '4-MTA'
4-Fluoroamphetamine, còn được gọi là '4-FA', 'PAL-303', 'Flux', 'Flits', 'R2D2', và 'Miley'
Norfenfluramine, còn được gọi là '3-TFMA'
Para-Iodoamphetamine, còn được gọi là 'PIA', '4-iodoamphetamine', và '4-IA'
Para-Chloroamphetamine, còn được gọi là 'PCA', '4-chloroamphetamine', và '4-CA'
Cathinone thay thế
Methylone, còn được gọi là 'bk-MDMA' và 'MDMC'
Ethylone, còn được gọi là 'bk-MDEA' và 'MDEC'
Eutylone, còn được gọi là 'bk-EBDB'
Butylone, còn được gọi là 'bk-MBDB'
Pentylone, còn được gọi là 'bk-Methyl-K' và 'bk-MBDP'
4-Ethylmethcathinone, còn được gọi là '4-EMC'
3-Methylmethcathinone, còn được gọi là '3-MMC'
Benzofuran thay thế
5-APB
6-APB
5-APDB
6-APDB
5-MAPB
5-MAPDB
6-MAPDB, hoạt tính thức thần của nó còn bị tranh cãi
6-MAPB
5-EAPB
6-EAPB
5-MBPB
Tetralin thay thế
MDAT
MDMAT
6-CAT
Tetralinylaminopropane, còn được gọi là 'TAP' và '6-APT'
Indane thay thế
Trifluoromethylaminoindane, còn được gọi là 'TAI'
Ethyltrifluoromethylaminoindane, còn được gọi là 'ETAI'
5-Iodo-2-aminoindane, còn được gọi là '5-IAI'
MMAI
MDAI
MDMAI
Indanylaminopropane, còn được gọi là '5-APDI' và 'IAP'
Naphthalene thay thế
Naphthylaminopropane, còn được gọi là 'NAP' và 'PAL-287'
Phenylisobutylamine thay thế (alpha-ethyl-phenethylamine)
4-chlorophenylisobutylamine, còn được gọi là '4-chloro-α-ethylphenethylamine', '4-CAB', và 'AEPCA'
4-Methylphenylisobutylamine, còn được gọi là '4-MAB'
Ariadne, còn được gọi là 'α-Et-DOM', '4C-D', và 'Dimoxamine'
Tryptamine thay thế-alpha (-alkyl hóa)
α-methyltryptamine, còn được gọi là 'αMT' và 'AMT'
5-MeO-αMT
α-ethyltryptamine, còn được gọi là 'αET' và 'AET'
4-Me-αET
7-Me-αET
5-MeO-αET
5-MeO-MiPT
Cannabinoid (phối tử của thụ thể CB-1 cannabinoid)
Phytocannabinoid
Δ9-THC†, đồng vận;
11-hydroxy-Δ9-THC, đồng vận không phải là một phytocannabinoid về mặt kỹ thuật
CBD†
CBN†
THCV†
Cannabinoid tổng hợp
(C6)-CP 47,497
(C9)-CP 47,497
1-Butyl-3-(2-methoxybenzoyl)indole
1-Butyl-3-(4-methoxybenzoyl)indole
1-Pentyl-3-(2-methoxybenzoyl)indole
2-Isopropyl-5-methyl-1-(2,6-dihydroxy-4-nonylphenyl)cyclohex-1-ene
4-HTMPIPO
4-Nonylphenylboronic acid
5Br-UR-144
5Cl-APINACA
5Cl-UR-144
5F-3-pyridinoylindole
5F-AB-FUPPYCA
5F-ADB-PINACA
5F-ADBICA
5F-ADB
5F-AMB
5F-APINACA
5F-CUMYL-PINACA
5F-EMB-PINACA
5F-NNE1
5F-PB-22
5F-PCN
5F-PY-PICA
5F-PY-PINACA
5F-SDB-006
HHC
A-796,260
A-834,735
A-836,339
A-955,840
A-40174
A-41988
A-42574
AB-001
AB-CHFUPYCA
AB-CHMFUPPYCA
AB-CHMINACA
AB-FUBICA
AB-FUBINACA 2-fluorobenzyl isomer
AB-FUBINACA
AB-PICA
AB-PINACA
Abnormal cannabidiol
ADAMANTYL-THPINACA
ADB-CHMINACA
ADB-FUBICA
ADB-FUBINACA
ADB-PINACA
ADBICA
ADSB-FUB-187
Ajulemic acid
AM-087
AM-411
AM-630
AM-630
AM-679
AM-694
AM-855
AM-883
AM-905
AM-906
AM-919
AM-926
AM-938
AM-1220
AM-1221
AM-1235
AM-1241
AM-1248
AM-1346
AM-1387
AM-1714
AM-2201
AM-2232
AM-2233
AM-2389
AM-4030
AM-4113
AM-6527
AM-6545
AM-251
AM-281
AM-404
AMB-CHMINACA
AMB-FUBINACA
AMG-1
AMG-3
AMG-36
AMG-41
APICA
APINACA, còn được gọi là 'AKB48'
APP-FUBINACA
Arachidonoyl serotonin
ACEA
ACPA
Arvanil
AZ-11713908
BAY 38-7271
BAY 59-3074
BIM-018
Biochanin A
BML-190
Nabidrox (Canbisol)
Cannabicyclohexanol
Cannabipiperidiethanone
CAY-10401
CAY-10429
CAY-10508
CB-13
CB-25
CB-52
CB-86
CB-86
CBS-0550
CP 47,497
CP 55,244
CP 55,940
CUMYL-5F-PICA
CUMYL-BICA
CUMYL-PICA
CUMYL-PINACA
CUMYL-THPINACA
Dexanabinol, còn được gọi là 'HU-211'
Dimethylheptylpyran, còn được gọi là 'DMHP'
Drinabant, còn được gọi là 'AVE1625'
Dronabinol
EAM-2201
EMB-FUBINACA
FAB-144
FDU-NNE1
FDU-PB-22
FUB-144
FUB-APINACA
FUB-JWH-018
FUB-PB-22
FUBIMINA
Genistein
GW-405,833, còn được gọi là 'L-768,242'
GW-842,166X
Hemopressin
Hexahydrocannabinol
HU-210
HU-243
HU-308
HU-320
HU-331
HU-336
HU-345
HU-910
Ibipinabant, còn được gọi là 'SLV319'
IDFP
JNJ 1661010
JTE-907
JTE 7-31
JWH-007
JWH-015
JWH-018
JWH-019
JWH-030
JWH-051
JWH-073
JWH-081
JWH-098
JWH-116
JWH-122
JWH-133
JWH-139
JWH-147
JWH-149
JWH-161
JWH-164
JWH-167
JWH-175
JWH-176
JWH-182
JWH-184
JWH-185
JWH-192
JWH-193
JWH-194
JWH-195
JWH-196
JWH-197
JWH-198
JWH-199
JWH-200
JWH-203
JWH-210
JWH-229
JWH-249
JWH-250
JWH-251
JWH-302
JWH-307
JWH-359
JWH-369
JWH-370
JWH-398
JWH-424
JZL184
JZL195
Kaempferol
KM-233
L-759,633
L-759,656
LASSBio-881
LBP-1
Leelamine
Levonantradol, còn được gọi là 'CP 50,5561'
LH-21
LY-320,135
LY-2183240
MAM-2201
MDA-7
MDA-19
MDA-77
MDMB-CHMICA
MDMB-CHMINACA
MDMB-FUBINACA
Menabitan
MEPIRAPIM
Methanandamide, còn được gọi là 'AM-356'
MJ-15
MK-9470
MMB-2201
MN-18
MN-25, còn được gọi là 'UR-12'
Nabazenil
Nabilone
Nabitan
Naboctate
NESS-0327
NESS-040C5
NIDA-41020
NM-2201
NMP-7
NNE1
Nonabine
O-224
O-581
O-585
O-606
O-689
O-774
O-806
O-823
O-889
O-1057
O-1125
O-1184
O-1191
O-1238
O-1248
O-1269
O-1270
O-1376
O-1399
O-1422
O-1601
O-1602
O-1624
O-1656
O-1657
O-1660
O-1812
O-1860
O-1861
O-1871
O-1918
O-2048
O-2050
O-2093
O-2113
O-2220
O-2365
O-2372
O-2373
O-2383
O-2426
O-2484
O-2545
O-2654
O-2694
O-2715
O-2716
O-3223
O-3226
Oleoylethanolamide, còn được gọi là 'OEA'
Olvanil
Org 27569
Org 27759
Org 28312
Org 28611
Org 29647
Otenabant, còn được gọi là 'CP-945,598'
Palmitoylethanolamide, còn được gọi là 'PEA'
Parahexyl
PF-03550096
PF-04457845
PF-622
PF-750
PF-3845
PF-514273
PHOP
PipISB
Pirnabine
Pravadoline
Pregnenolone
PSB-SB-487
PSB-SB-1202
PTI-1
PTI-2
PX-1
PX-2
PX-3
QUCHIC, còn được gọi là 'BB-22'
QUPIC, còn được gọi là 'PB-22'
RCS-4
RCS-8
Rimonabant, còn được gọi là 'SR141716'
Rosonabant, còn được gọi là 'E-6776'
RTI-371
S-444,823
SDB-006
SER-601
SPA-229
SR-144,528
STS-135
Surinabant, còn được gọi là 'SR147778'
Taranabant, còn được gọi là 'MK-0364'
Tedalinab
THC-O-acetate
THC-O-phosphate
THJ-018
THJ-2201
Tinabinol
TM-38837
UR-144
URB-447
URB-447
URB-597
URB-602
URB-754
VCHSR
VDM-11
VSN-16
WIN 54,461
WIN 55,212-2
WIN 56,098
XLR-11
Yangonin
Khác
Harmaline†, alkaloid harmala†, và beta-carboline khác, thành phần hoạt tính trong ayahuasca; MAOI mạnh (có thể phân loại là indol)
Salvinorin A†
Salvinorin B methoxymethyl ether†
Salvinorin B ethoxymethyl ether†
Piperazine, như pFPP và TFMPP, thường được phân loại là chất kích thích
Myristicin† và elemicin†
Cryogenine (Vertine)†
Atropine†, scopolamine†, và hyoscyamine†
Ibotenic acid† và muscimol†
Tham khảo
.
|
19851755
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Johann%2C%20Tuy%E1%BB%83n%20h%E1%BA%A7u%20x%E1%BB%A9%20Sachsen
|
Johann, Tuyển hầu xứ Sachsen
|
Johann, Tuyển hầu xứ Sachsen (30 tháng 6 năm 1468 – 16 tháng 8 năm 1532), còn được gọi là Johann Kiên định (tiếng Đức: Johann, der Beständige) hay Johann Constant, là Tuyển hầu xứ Sachsen từ năm 1525 đến năm 1532. Ông là em trai của Friedrich III, Tuyển hầu xứ Sachsen và con trai thứ hai của Ernst, Tuyển hầu xứ Sachsen. Johann là vị tuyển đế hầu thứ 3 và áp chót của dòng Ernestin của Nhà Wettin, sau khi con trai của ông là Johann Friedrich lãnh đạo Liên minh Schmalkaldic thất bại trước phe Công giáo của Hoàng đế Karl V, lãnh thổ và ghế Tuyển đế hầu đã rơi vào tay của dòng Albertine, nhánh phụ của Nhà Wettin.
Ông nổi tiếng vì đã tổ chức Nhà thờ Lutheran ở Tuyển hầu xứ Sachsen ở cấp nhà nước và hành chính. Trong đó, ông được hỗ trợ bởi Martin Luther, người có "mô hình Sachsen" về một nhà thờ Lutheran cũng sẽ sớm được triển khai ngoài Sachsen, ở các vùng lãnh thổ khác của Đế chế La Mã Thần thánh.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Longer biography
|-
Tuyển hầu xứ Sachsen
Tuyển hầu thân vương tử Sachsen
Vương tộc Wettin
Sinh năm 1468
Mất năm 1532
|
19851763
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sacha%20Boey
|
Sacha Boey
|
Sacha Gaston Boey (sinh ngày 13 tháng 9 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh phải cho câu lạc bộ FC Bayern Munich tại Bundesliga.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Rennes
Boey ban đầu chơi ở Romainville, một thị trấn ngoại ô phía đông bắc Paris trước khi chuyển đến Red Star Paris ở Saint-Ouen-sur-Seine gần đó. Năm 2014, Boey chuyển đến trường bóng đá của Rennes ở vùng Bretagne và ra mắt Ligue 1 vào ngày 5 tháng 5 năm 2019, ngày thi đấu thứ 35, ở tuổi 18 trong trận hòa sân khách 2–2 gặp FC Toulouse khi vào sân thay người cho Hamari Traoré ở phút thứ 77. Trong mùa giải tiếp theo, anh chơi năm trận cho đến khi mùa giải này bị hủy vì đại dịch COVID-19. Anh cũng chơi một trận ở Siêu cúp, một trận ở Coupe de la Ligue và hai trận ở UEFA Europa League.
Cho mượn tại Dijon FCO
Boey gia nhập câu lạc bộ cùng giải vô địch quốc gia Dijon FCO dưới dạng cho mượn trong mùa giải 2020–21. Sau khi mùa giải này kết thúc, đội xuống Ligue 2.
Galatasaray
Vào ngày 26 tháng 7 năm 2021, Boey gia nhập Galatasaray và ký hợp đồng có thời hạn đến cuối mùa giải 2024–25. Vào ngày 5 tháng 8, anh ghi bàn thắng trong trận ra mắt cho câu lạc bộ trong trận hòa 1–1 trước St Johnstone ở vòng loại thứ ba Europa League 2021–22.
Boey trở thành nhà vô địch Süper Lig trong mùa giải 2022–23 cùng với Galatasaray sau khi đánh bại Ankaragücü với tỷ số 4–1 trên sân khách vào ngày 30 tháng 5 năm 2023. Galatasaray chính thức giành được chức vô địch thứ 23 trong lịch sử hai tuần trước khi giải vô địch quốc gia kết thúc. Anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Champions League cho câu lạc bộ trong trận hòa 2–2 trước Copenhagen vào ngày 20 tháng 9 năm 2023.
Bayern Munich
Vào ngày 28 tháng 1 năm 2024, Boey gia nhập câu lạc bộ Bundesliga Bayern Munich và ký hợp đồng có thời hạn đến ngày 30 tháng 6 năm 2028. Vụ chuyển nhượng này trị giá khoảng 30 triệu euro cộng thêm 5 triệu euro phụ phí. Vào ngày 3 tháng 2, anh có trận ra mắt cho Bayern Munich khi vào sân từ băng ghế dự bị để thay thế Noussair Mazraoui trong chiến thắng 3–1 trước Borussia Mönchengladbach.
Sự nghiệp quốc tế
Sinh ra ở Pháp, Boey là người gốc Cameroon và do vậy đủ điều kiện thi đấu cho cả hai quốc gia. Anh từng thi đấu cho các đội U-17 Pháp, U-18 Pháp và U-20 Pháp.
Boey ban đầu được chọn vào đội tuyển quốc gia Cameroon để tham dự Cúp bóng đá châu Phi 2021 nhưng bị loại khỏi đội hình cuối cùng. Vào tháng 3 năm 2022, Boey được đưa vào đội hình ban đầu của Cameroon cho trận đấu vòng loại FIFA World Cup 2022 gặp Algérie nhưng một lần nữa bị loại khỏi đội hình.
Huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Cameroon Rigobert Song tuyên bố vào tháng 9 năm 2022 rằng Cameroon đã liên hệ với Boey, nhưng đội tuyển quốc gia Cameroon sẽ không "đợi đợi mỗi ngày" để anh đưa ra quyết định về tương lai thi đấu quốc tế của mình.
Vào ngày 31 tháng 5 năm 2023, Boey được chọn vào đội tuyển U-21 quốc gia Pháp để tham dự giải vô địch U-21 châu Âu. Vào ngày 14 tháng 6 năm 2023, anh bị loại khỏi đội U-21 và được thay thế bởi Valentin Gendrey do chấn thương mắt cá chân.
Thống kê sự nghiệp
Danh hiệu
Galatasaray
Süper Lig: 2022–23
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sacha Boey tại FC Bayern Munich
Sinh năm 2000
Nhân vật còn sống
Người Pháp
Người Pháp gốc Cameroon
Cầu thủ bóng đá Pháp
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Hậu vệ bóng đá
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Stade Rennais F.C.
Cầu thủ bóng đá Dijon FCO
Cầu thủ bóng đá Galatasaray S.K.
Cầu thủ bóng đá Bayern München
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Championnat National 2
Cầu thủ bóng đá Championnat National 3
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-18 quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Pháp
Cầu thủ bóng đá Pháp ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Pháp ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức
|
19851767
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n%20Nh%C6%A1n%20Ph%E1%BB%A7%20%28Hu%E1%BA%BF%29
|
Tôn Nhơn Phủ (Huế)
|
Tôn Nhơn phủ (chứ Hán: 尊人府) hay Tông Nhân phủ là cơ quan của nhà Nguyễn chuyên trách các công việc của hoàng tộc, trông nom sổ sách của hoàng tộc, soạn thảo ngọc phả (gia phả dòng họ nhà vua), việc ghi chép ngày sinh và ngày mất cùng sơ yếu lý lịch của mọi thành viên trong hoàng tộc, cùng với việc thờ cúng đền miếu trong hoàng tộc.
Lịch sử
Vào thời vua Gia Long, năm Gia Long thứ 3 (1804), khi xây dựng hệ thống quan chế, đã đặt vị trí quản lý phủ Tông nhân (Tông nhân lệnh) ở trên cả bậc chánh nhất phẩm, hai vị trí xếp thứ nhì của phủ Tông nhân (tả hữu Tông chính Phủ Tông nhân) đều ở bậc chánh nhất phẩm.
Theo "Đại Nam thực lục", vào tháng Giêng năm Minh Mạng thứ 5 (1824), nhà vua "Cho Tông nhân phủ 1.000 quan tiền, phàm người tôn thất có việc hiếu hỷ thì những người tộc trưởng tùy theo xa gần, thân sơ dùng làm hai lễ hồng bạch (hồng là lễ hỷ, bạch là lễ tang), mỗi năm một lần tâu sổ chi tiết, cấp cho". Tháng 8 năm Minh Mạng thứ 17 (1836), bắt đầu đặt quan chức ở Tông nhân phủ bao gồm
Tông Nhân lệnh: 1 người
Tả Hữu Tông chính: 2 người
Tả hữu Tông nhân: lấy các Hoàng tử có tước Vương hoặc tước Công; coi việc sổ sách, xếp đặt tước lộc và phân chia ân lộc của Hoàng đế.
Tả Hữu Tông khanh: lấy các người tước Tam phẩm trong hàng Tôn Thất; văn võ mỗi hàng 1 người; phụ trách biên soạn sổ sách của Tôn Thất, xét thứ tự thừa ấm, tập ấm, phẩm trật cùng lương bổng.
Tư giáo: hàm Tòng lục phẩm; là tộc trưởng của các hệ 1, hệ 2, hệ 3, hệ 5, hệ 7, hệ 9; mỗi hệ 1 người. Lấy người trong Tôn Thất đã có quan chức tương ứng mà kiêm sung, nếu không đủ thì nâng lên cho khớp, sau đó mới bổ nhiệm chức này.
Ngoài ra còn có Thừa Biện ty, được quản lý bởi một Lang trung hàm Chính tứ phẩm; Viên ngoại lang hàm Chính ngũ phẩm cùng Chủ sự hàm Chính lục phẩm. Dưới nữa còn có Tư vụ hàm Chính thất phẩm cùng Thư lại, hàm Chính Bát Cửu phẩm. Chức Thư lại được điều động vô phụ tá các [Tư giáo] của các phòng hệ.
Khi Thiệu Trị Đế lên ngôi, vì kị huý tên riêng của vua là Miên Tông, và kị húy Thánh tổ Nhân hoàng đế Minh Mạng, chữ "tông" phải cải lại thành "tôn", và chữ “nhân” phải đọc trại thành “nhơn” do đó Tông Nhân phủ (宗人府) phải cải thành Tôn Nhơn phủ (尊人府).
Ban đầu, Tôn Nhơn phủ chỉ là nơi lưu giữ ghi chép, song về sau cơ quan này cũng có quyền hạn giải quyết các vấn đề có liên quan đến các Thân vương, Công tử và Công tôn trong hoàng tộc.
Thời Pháp thuộc, từ năm 1897, Hội đồng Tôn Nhơn phủ chịu sự kiểm soát trực tiếp của Toà Khâm sứ Trung Kỳ.
Đến năm 1945, sau khi triều Nguyễn cáo chung, Phủ Tôn Nhơn cũng không còn lý do gì để tồn tại. Tôn Nhơn Phủ chuyển đổi thành một tổ chức dòng họ lấy tên là Hội đồng trị sự Nguyễn Phước Tộc dưới sự cố vấn trực tiếp của Đức Từ Cung.
Kiến trúc
Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), Tôn Nhơn phủ mới có một trụ sở làm việc riêng biệt đặt ở phường Trung Thuận trong kinh thành Huế, với một căn nhà chính gồm hai gian ba chái và hai nhà phụ.
Sau mấy lần tu bổ vào các năm 1890 và 1903 triều Thành Thái, tòa Tôn Nhơn phủ lại được xây dựng mới vào năm 1909 triều Duy Tân, diện tích 19m x 18m, nền cao 0,95m; với tường xây có nhiều cửa cái và cửa sổ. Trên mái tòa nhà là hình ảnh "lưỡng long triều nguyệt" quen thuộc của người Việt xưa, miêu tả hai con rồng đang vờn mặt trăng.
Gian giữa tòa nhà là nơi làm việc của vị hoàng thân đứng đầu Tôn Nhơn phủ, còn hai gian kia dành làm văn phòng của hai vị phụ tá.
Trên vách và các cột có nhiều câu đối của các hoàng thân và đại thần trong triều, nội dung biểu dương người sáng lập ra phủ, ca ngợi dòng dõi hoàng gia hoặc cầu chúc triều đại được trường tồn.
Ngoài ra còn có hai bức tranh đợc treo trong tòa nhà chính: bức thứ nhất vẽ chân dung của một vài vị đại thần thuộc hoàng tộc; bức thứ hai vẽ khu vườn và tòa nhà Tôn Nhơn phủ.
Chú thích
Di tích Cố đô Huế
Kinh thành Huế
|
19851768
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Hawkbill
|
USS Hawkbill
|
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Hawkbill, theo tên loài đồi mồi:
là một trong biên chế từ năm 1944 đến năm 1946, rồi tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Hoàng Gia Hà Lan như là chiếc HNLMS Zeeleeuw (S803) từ năm 1953 đến năm 1970
là một trong biên chế từ năm 1971 đến năm 2000
Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
|
19851769
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/HNLMS%20Zeeleeuw
|
HNLMS Zeeleeuw
|
Hai tàu ngầm của Hải quân Hoàng gia Hà Lan từng được đặt cái tên HNLMS Zeeleeuw (S803), theo tên loài sư tử biển. Do cả hai mang cùng một số liệu lườn, chúng được phân biệt theo thứ tự xuất hiện.
HNLMS Zeeleeuw (1) nguyên là của Hải quân Hoa Kỳ được chuyển giao năm 1953 và phục vụ cho đến năm 1970
HNLMS Zeeleeuw (2) là một nhập biên chế năm 1990 và hiện vẫn đang hoạt động
Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoàng gia Hà Lan
|
19851770
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/HNLMS%20Walrus
|
HNLMS Walrus
|
Hai tàu ngầm của Hải quân Hoàng gia Hà Lan từng được đặt cái tên HNLMS Walrus (S802), theo tên loài hải mã. Do cả hai mang cùng một số liệu lườn, chúng được phân biệt theo thứ tự xuất hiện.
HNLMS Walrus (1) nguyên là của Hải quân Hoa Kỳ được chuyển giao năm 1953 và phục vụ cho đến năm 1970
HNLMS Walrus (2) là một nhập biên chế năm 1992 và ngừng hoạt động vào tháng 10, 2023
Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoàng gia Hà Lan
|
19851772
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u%20Duy%20Ninh
|
Lưu Duy Ninh
|
Alexei Klimovich Fedotov (; sinh năm 1955), còn được biết đến với tên Lưu Duy Ninh (), là một kỹ sư hàng không vũ trụ và doanh nhân người Nga. Ông là con trai của nhà hóa học hạt nhân Lưu Doãn Bân và là cháu nội của Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ.
Đầu đời
Lưu Duy Ninh sinh năm 1955 tại Moskva, cha là Lưu Doãn Bân, còn được biết đến với tên tiếng Nga là 'Klim' (Клим), và vợ người Nga của ông là Mara Fedotova. Vào lúc sinh ra, cha của Duy Ninh là sinh viên tốt nghiệp ngành hóa học phóng xạ tại Đại học Quốc gia Moskva. Ông nội của ông là Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ.
Năm 1957, theo yêu cầu của Lưu Thiếu Kỳ, Lưu Doãn Bân trở về Trung Quốc để làm việc trong chương trình vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Sau cha mình, Duy Ninh cùng em gái và mẹ đến Trung Quốc vào năm 1959, đây là lần cuối hai cha con gặp nhau. Do căng thẳng giữa Trung Quốc và Liên Xô, Mara đã ly hôn với Doãn Bân và trở về Liên Xô cùng hai con.
Năm 1960, Duy Ninh gặp ông nội mình nhân dịp Lưu Thiếu Kỳ đến thăm Liên Xô, đây là lần duy nhất Duy Ninh đích thân gặp ông nội mình. Trong Đại Cách mạng Văn hóa, Lưu Thiếu Kỳ bị tố cáo là "tẩu tư phái" và "kẻ phản quốc" rồi bị cách chức, dẫn đến việc Lưu Doãn Bân bị lên án là "gián điệp" và "tẩu tư phái". Ông bị Hồng vệ binh tra tấn và tự sát vào ngày 21 tháng 11 năm 1967 trong khi Lưu Thiếu Kỳ qua đời vào ngày 12 tháng 11 năm 1969 do bị ngược đãi và tra tấn trong lúc giam giữ.
Sự nghiệp
Trong lúc sống ở Liên Xô, Lưu Duy Ninh chưa bao giờ tiết lộ thân phận mình là cháu nội của Lưu Thiếu Kỳ. Ngoài ra, khi còn học trung học và tại nơi làm việc, ông cũng giữ kín thông tin này vì sợ bị KGB do thám khi quan hệ Trung-Xô dần xấu đi. Sau khi tốt nghiệp Đại học Hàng không Moskva, ông làm việc tại chương trình vũ trụ Liên Xô và Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga rồi trở thành kỹ sư cao cấp.
Năm 1998, theo yêu cầu của vợ Lưu Thiếu Kỳ là Vương Quang Mỹ, ông được Chính phủ Trung Quốc mời tham dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Lưu Thiếu Kỳ. Tuy nhiên, vì công việc của ông liên quan đến bí mật quân sự nên đơn xin phép đến Trung Quốc của ông bị khước từ. Vào thời điểm ông được phép đến Trung Quốc sau một thời gian dài chờ đợi chỉ thị từ chính quyền quân sự và Tổng cục An ninh Liên bang Nga, lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Lưu Thiếu Kỳ đã kết thúc.
Sau đó, Duy Ninh đệ đơn xin nghỉ hưu sớm nhưng cấp trên không chấp thuận. Ông sau đó kháng cáo lên tòa án và thắng kiện, rồi nghỉ hưu vào năm 1998. Vì công việc của ông liên quan đến bí mật nhà nước nên theo quy định, ông chỉ được ra nước ngoài 5 năm sau khi nghỉ hưu. Vào năm 2003, Duy Ninh lần đầu đến Trung Quốc và được họ hàng bên nội tiếp đón. Sau đó Duy Ninh đến thăm quê hương của ông nội tại thị trấn Hoa Minh Lâu ở Ninh Hương, Hồ Nam.
Kể từ đó, ông nhiều lần đến thăm Trung Quốc và vài năm sau, ông có được giấy phép cư trú lâu dài cho người nước ngoài và định cư tại quận Phiên Ngung, thành phố Quảng Châu. Hiện tại, ông điều hành một tổ chức phi thương mại ở Quảng Châu nhằm tạo điều kiện thuận lợi giao thương giữa Trung Quốc và Nga.
Gia đình
Lưu Duy Ninh và vợ có một con trai và con gái. Con gái ông là phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân Công nghiệp Nga-Châu Á và Hội đồng Doanh nghiệp Nga-Philippines.
Chú thích
Người Nga gốc Hoa
Kỹ sư Moskva
Doanh nhân Moskva
Gia tộc Lưu Thiếu Kỳ
Người Nga ở Trung Quốc
Cựu sinh viên Học viện Hàng không Moskva
Kỹ sư hàng không vũ trụ Nga
Kỹ sư hàng không vũ trụ Liên Xô
Doanh nhân Nga thế kỷ 21
|
19851776
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pin%20nickel%20oxyhydroxide
|
Pin nickel oxyhydroxide
|
Pin nickel oxyhydroxide (viết tắt NiOx, mã IEC: Z) là một loại pin sơ cấp. Nó không thể sạc lại và phải được xử lý sau một lần sử dụng. Pin NiOx có thể được sử dụng trong các ứng dụng có mức tiêu hao năng lượng cao như máy ảnh kỹ thuật số.
Pin NiOx được sử dụng trong các ứng dụng tiêu hao ít năng lượng, có tuổi thọ tương tự như pin kiềm. Pin NiOx tạo ra điện áp cao hơn (1,7V) so với pin kiềm (1,5V) có thể gây ra sự cố ở một số sản phẩm, chẳng hạn như thiết bị bằng bóng đèn sợi đốt (chẳng hạn như đèn pin) hoặc các thiết bị không có bộ điều chỉnh điện áp.
Cấu trúc
Pin nickel oxyhydroxide khác với pin kiềm tiêu chuẩn ở quy trình sản xuất và thành phần hóa học.
Sự khác biệt về mặt hóa học là việc bổ sung nickel oxyhydroxide vào mangan dioxide và than chì cho cathode, dẫn đến điện áp không tải là 1,7 V DC trên mỗi ô. Các tế bào duy trì điện áp trung bình cao hơn trong quá trình phóng điện so với pin kiềm, có thể gây ra chỉ báo sai trong thiết bị theo dõi điện áp pin dưới dạng chỉ báo về thời gian hoạt động còn lại.
Than chì có hạt mịn hơn ở cực âm và quy trình rót chân không (vacuum pouring process) đưa lượng chất điện phân cao hơn vào tế bào được sử dụng trong quá trình sản xuất tế bào nickel oxyhydroxide.
Chú thích
Liên kết ngoài
Can a New Disposable Battery Change Your Life? Parts of It, Maybe bởi David Pogue
New Consumer Primary Battery Chemistry Introduced after a 40-year Dryspell
Panasonic Oxyride Editorial Review - The Revolution in Battery Power
|
19851780
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Genji%20Monogatari%20Emaki
|
Genji Monogatari Emaki
|
, còn được gọi là Cuộn tranh Truyện kể Genji , là một cuộn giấy minh họa của tác phẩm văn học cổ điển Nhật Bản nổi tiếng - Truyện kể Genji. Cuộn tranh được xuất bản vào thế kỷ 12, có lẽ là khoảng năm . Vì lý do bảo tồn, các phần tranh còn sót lại hiện đã được tháo rời và gắn lại, song chúng chỉ đại diện cho một phần nhỏ của bản tranh gốc (nếu được hoàn chỉnh) và hiện nay, những mảnh tranh này được phân chia thành 2 nhóm và lần lượt trưng bày giữa hai bảo tàng ở Nhật Bản: Bảo tàng Nghệ thuật Tokugawa và Bảo tàng Gotoh, song chúng cũng chỉ được lưu giữ và trưng bày một thời gian ngắn trước khi trùng tu một lần nữa vì lý do bảo tồn. Cả hai nhóm tranh đều là Bảo vật Quốc gia của Nhật Bản . Những mảnh tranh này đã lưu trữ phần văn bản còn sót lại có niên đại sớm nhất của tác phẩm và cũng là sản phẩm hội hoạ cổ nhất còn sót lại theo truyền thống cuộn giấy minh họa tường thuật Yamato-e, ngày nay vẫn tiếp tục tác động đến nghệ thuật Nhật Bản. Những hình ảnh được vẽ trong cuộn giấy đã cho ta thấy sự phát huy đạt mức tuyệt diệu của truyền thống vẽ tranh cuộn cùng những quy ước đặc biệt trong hội hoạ tường thuật có thể đã được hình thành trong vài thế kỷ.
Lịch sử
Từ "emaki" bắt nguồn từ từ " " có nghĩa là "cuộn tranh". bao gồm hai kiểu dáng: 1. Những bức tranh được vẽ liền trên cùng một cuộn giấy, được chèn thêm chữ viết cùng một cuộn giấy, hoặc một số bức tranh đi kèm với các đoạn văn tường thuật; 2. Gồm các mảnh tranh rời rạc được chắp vá với nhau thành một cuộn giấy hoàn chỉnh. Cuộn tranh đầu tiên được biết đến là đã sản xuất tại Nhật Bản vào cuối thế kỷ thứ 9 hoặc thứ 10. Cuộn tranh Genji Monogatari được sản xuất vào đầu thế kỷ 12 và có lẽ là cuộn tranh đầu tiên còn sót lại từ thời kỳ đó. Như vậy, Genji Monogatari Emaki không chỉ là cuộn tranh tường thuật lâu đời nhất còn tồn tại mà còn là cuộn tranh lâu đời nhất còn tồn tại ở Nhật Bản mà không phải chịu sự chi phối của Phật giáo. Không rõ ngày tháng chính xác mà cuộn tranh được sản xuất, nhưng người ta ước tính nó nằm trong khoảng từ năm 1120 đến năm 1140, với mốc thời gian như vậy, nó được tạo ra chỉ hơn một thế kỷ sau khi Murasaki Shikibu viết tác phẩm gốc là Truyện kể Genji .
Sự khác biệt của cuộn tranh Genji Monogatari Emaki nằm ở chỗ: hầu hết các giá trị và phong cách nghệ thuật của nó khác xa so với phong cách nghệ thuật Trung Hoa, dẫn đến giả định rằng Genji Monogatari Emaki được sáng tạo dựa trên các loại hình nghệ thuật Nhật Bản. Mục đích của việc vẽ cuộn tranh là để cung cấp một mô tả trực quan, cũng như giải thích thêm về cuốn tiểu thuyết Truyện kể Genji .
Kích thước
Ban đầu, cuộn tranh nguyên gốc dài khoảng 450 feet, bao gồm hai mươi cuộn, chứa hơn 100 bức tranh và hơn 300 tờ thư pháp. Tuy nhiên, những cuộn còn sót lại của Genji Monogatari Emaki không thực sự mô tả đầy đủ về tác phẩm gốc , vì hiện tại chỉ còn khoảng 19 bức tranh, 65 trang văn bản và 9 mảnh tranh rời được lưu giữ tại Bảo tàng Nghệ thuật Tokugawa ở Nagoya và Bảo tàng Gotoh ở Tokyo . Nói chung, cuộn tranh còn sót lại chỉ chiếm khoảng 15% dung lượng cuộn tranh ban đầu.
Thiết kế
Cho đến nay, cuộn tranh vẫn được cho là tác phẩm của Fujiwara no Takayoshi, một họa sĩ cung đình nổi tiếng sống vào thế kỷ 12. Tuy nhiên, sau khi tiếp tục nghiên cứu, giả thuyết về tác giả cuộn tranh đã bị thay đổi và đến nay vẫn chưa thể xác định được tác giả cũng như nơi sản xuất ra cuộn tranh gốc. Do có nhiều kỹ thuật hội hoạ được sử dụng cùng lúc để tạo nên tác phẩm, có thể thấy rõ ràng là có nhiều nhà thư pháp và nghệ sĩ quen biết với Takayoshi đã tạo ra cuộn tranh này. Kỹ thuật dựng hình đặc trưng của cuộn tranh được gọi là "tsukuri-e" ;nghĩa đen là "bức tranh nhân tạo", là một kỹ thuật bổ sung cho loại hình yamato-e . Phong cách tsukuri-e hiếm khi được các họa sĩ nam sử dụng nhưng hầu như luôn được các họa sĩ nữ sử dụng. Phong cách này được nhắc đến trong cuốn tiểu thuyết hiện thực Truyện kể Genji, được mô tả với quá trình quét sơn lên một bức vẽ có hai màu đen trắng. Tác phẩm cũng đề cập đến chính người họa sĩ tạo ra bản tranh cuộn, trái ngược với các nghệ nhân thực hiện những bức vẽ đơn giản.
Yamato-e là một hình thức hội họa trong đó lớp giấy bên dưới được phủ hoàn toàn bằng bột màu đậm. Có bốn bước để tạo nên bức vẽ thuộc loại hình hội hoạ này. Ở bước đầu tiên, một loạt cảnh có hiệu ứng hình ảnh đáng chú ý sẽ được chọn từ tác phẩm gốc thuộc thể loại Monogatari. Ở bước thứ hai, tác phẩm được thực hiện bằng bản vẽ đen trắng. Các chất màu đã được thêm vào bản vẽ cơ bản còn các chi tiết sẽ được tô màu ở bước thứ ba. Ở bước cuối cùng, những đường màu đen ban đầu sẽ bị sơn che đi và được vẽ lại bằng mực để bức tranh trở nên nổi bật hơn. Khi quyết định trình bày cuốn tiểu thuyết Truyện kể Genji dưới dạng cuộn tranh, những người phụ trách muốn sử dụng một phong cách không gây ảnh hưởng đến hình ảnh của mọi người về cuốn tiểu thuyết. Cuối cùng, người ta quyết định thực hiện tất cả các khung cảnh yên bình, trang nhã và tĩnh lặng, phản ánh quan điểm thẩm mỹ chủ đạo của các nghệ sĩ và tầng lớp quý tộc cung đình đầu thế kỷ 12 đối với Truyện kể Genji .
Kỹ thuật hội hoạ
Genji Monogatari Emaki mang đặc trưng của hai kỹ thuật hội hoạ tiêu biểu: fukinuki yatai và hikime kagibana . Fukinuki yatai ( nghĩa đen là " thổi bay mái nhà") đề cập đến một dạng bài trí bố cục mang lại cái nhìn toàn cảnh về nội thất trong nội cảnh, phần mái và trần nhà bị loại khỏi bố cục bức tranh. Trong một số trường hợp, các phân vùng bên trong có thể bị bỏ qua. Có thể nói rằng, những nghệ nhân đã có cái nhìn vô cùng thực tế trong việc tái hiện lại kiến trúc nội thất thời kỳ này.
Phong cách hikime kagibana mô tả khuôn mặt của các nhân vật với các đặc điểm cơ bản giống hệt nhau: mắt xếch và mũi khoằm . Hầu như tất cả các nhân vật đều được vẽ với đường nét tượng tự ngoại trừ một trong số 19 tấm trong cuộn tranh. Một đặc điểm khác của Hikime Kagibana, là việc vẽ các khuôn mặt theo hướng nghiêng thay vì hướng chính diện, cụ thể, một góc xiên 30 độ so với phía trước và một góc vuông tạo ra một đường thẳng sẽ được dùng để phác hoạ mặt các nhân vật trong tranh. Với góc vuông, ta có thể nhìn thấy lông mày và khóe mắt nhưng không thể nhìn thấy mũi. Đây cũng chính là việc hư cấu hoá nhân vật, vì trên thực tế, ta không thể nhìn thấy khóe mắt của một người mà lại không thể nhìn thấy mũi của họ.
Các nét vẽ minh họa về kiến trúc xuyên suốt cuộn giấy rất chân thực, trái ngược với các nét vẽ siêu thực mô tả diện mạo con người. Điều này được cho là do các nhân vật trung tâm trong Truyện kể Genji không thuộc về cuộc sống đời thường mà ở một cuộc sống hư cấu khác xa lạ với độc giả.Họ đều là những hình tượng chỉ hiện diện trong thế giới tưởng tượng của một người đến từ quá khứ, nhằm mục đích để các cá nhân độc giả có thể tự khắc họa hình ảnh của mình về các nhân vật khi đọc tiểu thuyết. Nếu các nghệ nhân tạo ra những bức chân dung thực tế của nhân vật thì điều đó sẽ ảnh hưởng đến hình tượng nhân vật riêng của độc giả. Vì vậy, các nghệ nhân đã chọn sử dụng kỹ thuật vẽ siêu thực hikime kagibana để có thể bảo tồn hình ảnh cá nhân của các nhân vật trong lòng độc giả.
Mô tả khía cạnh cảm xúc
Mặc dù kỹ thuật hikime kagibana được sử dụng để vẽ khuôn mặt của các nhân vật dưới dạng siêu thực nhưng vẫn có thể nhận thấy rất nhiều cảm xúc được khắc hoạ từ đó. Một cách mà các nghệ nhân thể hiện cảm xúc cá nhân trên khuôn mặt của nhân vật là thông qua vị trí, kích thước và đặc điểm trên khuôn mặt của họ; chẳng hạn như độ dày của lông mày hoặc môi, góc của lông mày/mắt và khoảng cách giữa mắt và lông mày.
Ví dụ, chương 37 và 39 của tác phẩm đã miêu tả phu nhân Kumoi là một người phụ nữ trẻ có ý chí mạnh mẽ và trở thành con mồi cho sự ghen tuông quá mức. Để thể hiện cảm xúc cho nhân vật này, người ta sẽ vẽ lông mày đậm hơn một chút, đồng tử nhỏ thấp hơn chút, mắt hơi cụp xuống và phần môi trên dày hơn một chút.
Ngoài ra, còn có một cách khác để nghệ nhân có thể mô tả cảm xúc ở các nhân vật là vẽ khuôn mặt của họ theo góc nghiêng, làm cho người xem có cảm giác như các nhân vật đang nhìn đi chỗ khác, hoặc đang dùng tay che mặt. Các nghệ nhân cũng khắc họa những biểu cảm và cảm xúc riêng cho các nhân vật bằng cách sử dụng các yếu tố vô tri vô giác như sự vật ngoài tự nhiên, ví dụ như hình ảnh cỏ mùa thu và những giọt mưa đã được sử dụng xuyên suốt cuộn tranh; trong đó, cỏ mùa thu được dùng làm biểu tượng cho cảm xúc của con người.
Phong cách thư pháp
Các họa sĩ vẽ cuộn tranh minh hoạ Truyện kể Genji không chỉ sử dụng một phong cách thư pháp mà còn sử dụng nhiều phong cách khác nhau, ví dụ như họ đã sử dụng nhiều loại bút lông để vẽ nên những đường nét tinh tế và các kiểu khác có nét vẽ rõ ràng. Mục đích dùng để thưởng thức tính thẩm mỹ của phong cách thư pháp điêu luyện hơn là để đọc. Cũng vì phong cách thư pháp này nên người ta gần như không thể giải mã được những ký tự chữ viết trong Genji Monogatari Emaki. Thậm chí ngay cả trong số những người Nhật có trình độ học vấn cao nhất hiện nay, chỉ một số ít có thể giải mã thành công nó.[ cần dẫn nguồn ]
Mặc dù không rõ người Nhật thời đó có thể đọc chữ thư pháp tốt đến mức nào, nhưng nhiều người tin rằng chính họ cũng đã phải phải trải qua một giai đoạn rất khó khăn để có thể hiểu hết ý nghĩa của chữ viết trong bức Emaki này. Một lý do khác được đưa ra để giải thích cho việc sử dụng một phong cách viết khó đọc như vậy là vì kiểu viết dễ đọc hơn sẽ làm mất đi hiệu ứng hình ảnh.
Dẫn truyện
Các đoạn văn dẫn truyện được tìm thấy trong các cuộn tranh đặc biệt ở chỗ chúng được bảo tồn và được xem như những lời dẫn truyện cổ xưa nhất được biết đến nhiều nhất của Truyện kể Genji, những câu dẫn truyện trong đó khác biệt ở nhiều mặt so với chuẩn mực văn học Aobyoshi gắn liền với Fujiwara no Teika . Đoạn văn được tìm thấy trong emaki cũng như trong tác phẩm gốc đã cho phép các học giả có thể xác định các bản thảo còn tồn tại dường như đã từng được bảo tồn dưới dạng văn bản trước thời Teika. Nổi tiếng nhất trong số này là Yomei-bunko Genji.
Xem thêm
Bảo tàng Gotoh
Danh sách Bảo vật Quốc gia Nhật Bản (tranh vẽ)
Tham khảo
Nguồn
Morris, I. & Tokugawa, Y. (1971). Câu chuyện về cuộn giấy Genji . Nhật Bản: Công ty TNHH Quốc tế Kodansha.
Paine, Robert Treat, trong: Paine, RT & Soper A., "Nghệ thuật và kiến trúc Nhật Bản", Lịch sử nghệ thuật Pelican, tái bản lần thứ 3 năm 1981, Penguin (nay là Lịch sử nghệ thuật Yale),
(2000). Genji monogatari ( Truyện kể về Genji ). Lấy từ http://www.dartmouth.edu/~arth17/Genji.html
Sự hấp dẫn đầy phong cách của genji monogatari emaki. Lấy từ https://web.archive.org/web/20071018212210/http://www.geocities.com/sljohnson1980/genji1.htm
Emakimono
Nghệ thuật Nhật Bản
Quốc bảo Nhật Bản
Bài viết có văn bản tiếng Nhật
|
19851787
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Benedict%20Zuckermann
|
Benedict Zuckermann
|
Benedict Zuckermann (9 tháng 10 năm 1818 – 17 tháng 12 năm 1891) là một nhà khoa học Do Thái làm việc ở Wrocław.
Tác phẩm viết
"Über Sabbathjahrcyclus und Jubel Periode," Breslau, 1859 (được dịch sang tiếng Anh bởi A. Loewy, Luân Đôn, 1866);
“Über Talmudische Münzen und Gewichte,” Breslau, 1862;
"Katalog der Seminarbibliothek," phần i., ib. 1870 (ấn bản thứ 2, ib. 1876);
"Das Mathematische im Talmud," ib. 1878;
"Tabelle zur Berechnung des Eintrittes der Nacht," ib. 1892;
"Anleitung und Tabellen zur Vergleichung Jüdischer und Christlicher Zeitangaben," ib. 1893.
Ông cũng cộng tác không thường xuyên với "Monatsschrift für Geschichte und Wissenschaft des Judenthums".
Tham khảo
Nhà khoa học Śląsk (tỉnh)
Nhà thiên văn học Đức thế kỷ 19
Nhà toán học Đức thế kỷ 19
Người Do Thái Đức thế kỷ 19
Nhà khoa học Wrocław
Sinh năm 1818
Mất năm 1891
Giảng viên Đại học Breslau
|
19851798
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B9a%20b%C3%A3o%20khu%20v%E1%BB%B1c%20%C3%9Ac%202023%E2%80%9324
|
Mùa bão khu vực Úc 2023–24
|
Mùa bão khu vực Úc 2023–24 là khoảng thời gian trong năm khi hầu hết các cơn xoáy thuận nhiệt đới và cận nhiệt đới hình thành ở phía nam của Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương giữa 90°Đ và 160°Đ. Mùa bão chính thức bắt đầu vào ngày 26 tháng 7 năm 2023 và kết thúc vào ngày 2 tháng 5 năm 2024; tuy nhiên, một cơn xoáy thuận nhiệt đới có thể hình thành bất cứ lúc nào trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 7 năm 2023 đến ngày 30 tháng 6 năm 2024 và sẽ được tính vào tổng mùa. Trong mùa, các cơn xoáy thuận nhiệt đới sẽ được theo dõi chính thức bởi Cục Khí tượng Úc (BoM), Cơ quan Khí hậu và Địa vật lý Indonesia (BMKG) và Dịch vụ Thời tiết Quốc gia Papua New Guinea. Trung tâm Cảnh báo bão Liên hợp (JTWC) và các cơ quan khác như Dịch vụ Khí tượng thủy văn (FMS), Dịch vụ Khí tượng của New Zealand (MetService) và Météo-France tại La Réunion, cũng sẽ giám sát, theo dõi các khu vực của họ trong mùa.
Phạm vi bài viết này đề cập đến xoáy thuận nhiệt đới ở khu vực Úc. Các loại xoáy khác như xoáy thuận ngoại nhiệt đới, xoáy nghịch, polar low, polar high,... không đề cập đến trong bài viết này.
Dòng thời gian
Danh sách bão
Bão Jasper
Bão Anggrek
Vùng thấp nhiệt đới 03U
Bão Kirrily
Vùng thấp nhiệt đới 06U
Tên bão
Cục khí tượng Úc (BoM)
TCWC Jakarta
TCWC Port Moresby
|
19851800
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hugo%20Zuckermann
|
Hugo Zuckermann
|
Hugo Zuckermann (ngày 15 tháng 5 năm 1881, tại Eger (), Vương quốc Bohemia – Ngày 23 tháng 12 năm 1914, tại Eger) là một nhà thơ người Do Thái-Áo. Ông là người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái.
Zuckermann sinh ra ở Cheb. Năm 1907, cùng với các nhà văn Oskar Rosenfeld, Egon Brecher và nhiều người khác, ông đã thành lập một nhóm kịch của những người Do Thái để trình diễn các vở chính kịch tiếng Yiddish hiện đại bằng tiếng Đức. Sau đó, ông hành nghề luật sư ở Meran. Ông đã dịch nhiều bài thơ của Isaac Leib Peretz, Sholem Asch, Abraham Reisen, S. Schneir và nhiều nhà văn viết bằng Yiddish.
Tác phẩm
Meier M. Reschke, Hugo Zuckermann: A Great Jewish Leader, Vantage Pr., 1985.
Hugo Zuckermann, Gedichte (edited by ), R. Löwit Verlag, Wien, 1915.
Liên kết ngoài
Österreichisches Reiterlied
Austrian Cavalry Song (dịch bởi Margarete Münsterberg)
Sinh năm 1881
Mất năm 1914
Dịch giả thế kỷ 19
Nhà văn nam thế kỷ 19
Nhà văn nam Áo
Dịch giả từ tiếng Yiddish
Dịch giả sang tiếng Đức
Người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái Séc
Người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái Áo
Người Vương quốc Bohemia
Người Áo gốc Séc-Do Thái
Người Cheb
Dịch giả thế kỷ 20
|
19851807
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B9a%20b%C3%A3o%20T%C3%A2y%20Nam%20%E1%BA%A4n%20%C4%90%E1%BB%99%20D%C6%B0%C6%A1ng%202023%E2%80%9324
|
Mùa bão Tây Nam Ấn Độ Dương 2023–24
|
Mùa bão Tây Nam Ấn Độ Dương 2023–24 là một sự kiện đang diễn ra trong chu kỳ hàng năm về sự hình thành các xoáy thuận nhiệt đới. Mùa bão chính thức bắt đầu vào ngày 30 tháng 12, 2023. Những ngày này thường phân định giai đoạn mỗi năm khi xoáy thuận nhiệt đới và xoáy thuận cận nhiệt đới hình thành trong lưu vực, nằm ở phía tây 90°Đ và phía nam xích đạo. Xoáy thuận nhiệt đới và cận nhiệt đới trong lưu vực này được theo dõi bởi Trung tâm Khí tượng Chuyên ngành Khu vực ở Réunion.
Dòng thời gian
Danh sách bão
Bão Alvaro
Để chuẩn bị cho sự ảnh hưởng của bão, cơ quan khí tượng của Madagascar (Meteo Madagascar) đã đưa ra cảnh báo màu vàng cho các quận Morondava, Manja, Morombe và Toliara vào ngày 31 tháng 12 và cấp độ cảnh báo được nâng cấp lên cảnh báo đỏ một ngày sau đó khi Alvaro đổ bộ. Các thủy thủ trên khắp Maintirano và Toliara được khuyến cáo nên tránh xa vùng biển nguy hiểm. Một số khu vực của thành phố bị ngập lụt và nhiều người dân phải sơ tán khỏi nhà, sử dụng trường học và các ngôi làng xa xôi làm nơi tạm trú khi sơ tán. Các khu vực phía nam Madagascar cho biết cây cối bị bật gốc, mái nhà bị hư hại và cơ sở hạ tầng bị hư hại và cần phải có sự hỗ trợ khẩn cấp. Gần 33.000 người ở Madagascar bị ảnh hưởng bởi Alvaro, với hơn 17.000 người phải đi sơ tán. Các vùng Haute Matsiatra , Atsimo-Andrefana và Menabe phải gánh chịu hậu quả nặng nề của cơn bão.
Những người phải đi sơ tán đã được chuyển đến 36 trung tâm sơ tán. Khoảng 241 khu định cư bị phá hủy hoàn toàn, 426 ngôi nhà cùng 15 trường học bị hư hại. Có 19 người chết do ảnh hưởng của bão. Để ứng phó với thảm họa, Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) đã phân bổ gạo, dầu, màn chống muỗi và các dụng cụ khác cho các khu vực bị ảnh hưởng, với sự hợp tác của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID).
Bão Belal
MFR đã đưa ra cảnh báo bão màu vàng cho Réunion vào ngày 13 tháng 1, cảnh báo này đã được nâng cấp thành cảnh báo bão màu cam vào 15:00 UTC ngày hôm sau. Vào ngày 13 tháng 1, MMS đã đưa ra cảnh báo bão cấp I cho Mauritius. Vào ngày 14 tháng 1, MFR đã nâng cấp cảnh báo màu cam thành cảnh báo đỏ cho Réunion khi Belal tiếp cận hòn đảo. Ngày hôm sau, MFR đưa ra cảnh báo màu tím cho Réunion khi Belal áp sát biển. Thành mắt bão của Belal vẫn ở ngay ngoài khơi bờ biển phía Bắc của Réunion trong thời gian cơn bão tiệm cận gần bờ nhất. Bốn người chết do ảnh hưởng của bão ở Réunion. Khoảng 150.000 người sử dụng điện bị cắt điện, chiếm hơn một phần ba dân số trên đảo. Khoảng 37.000 người bị mất khả năng tiếp cận nước sạch tạm thời. Hai người chết ở Mauritius do ảnh hưởng của bão. Sau khi ảnh hưởng của cơn bão đi qua, người đứng đầu cơ quan khí tượng học của Mauritius đã từ chức sau khi cơ quan của ông bị cáo buộc "không đưa ra cảnh báo đầy đủ về tác động của cơn bão".
Bão Candice
Bão Anggrek
Áp thấp nhiệt đới 05S
Bão Djoungou
Bão Eleanor
Theo các báo cáo ban đầu, thiệt hại ở mức nhẹ đến vừa phải ở Mauritius và không có thiệt hại ở La Reunion. Tại Mauritius, bão gây gió mạnh và mưa lớn khiến ít nhất 2 người bị thương, việc mất điện đã ảnh hưởng đến 10.000 người, một số cột điện bị hư hỏng và cây đổ chắn ngang một số con đường. Miền Bắc là nơi bị thiệt hại nặng nề nhất.
Tên bão
Tham khảo
Mùa bão Tây Nam Ấn Độ Dương
|
19851808
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fufu
|
Fufu
|
Fufu (hoặc fufuo, foofoo, foufou ) là một loại bánh không nhân được làm từ bột ngũ cốc hoặc chuối và sắn trộn với nước rồi quết mịn, được tìm thấy trong nền ẩm thực ở khu vực Tây Phi. Đó là một từ tiếng Twi có nguồn gốc từ người Akan ở Ghana. Từ này đã được mở rộng để bao gồm một số biến thể được tìm thấy ở các quốc gia châu Phi khác, bao gồm Sierra Leone, Guinea, Liberia, Bờ Biển Ngà, Burkina Faso, Benin, Togo, Nigeria, Cameroon, Cộng hòa Dân chủ Congo, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Angola và Gabon.
Mặc dù nguyên liệu ban đầu của món fufu là sắn, chuối và khoai môn sọ, khoai mỡ (Ghana), nhưng nó cũng được làm theo những cách khác nhau ở các quốc gia Tây Phi khác. Ở Ghana, Bờ Biển Ngà và Liberia, họ sử dụng phương pháp trộn và giã riêng từng phần sắn luộc với chuối xanh hoặc khoai môn sọ, hoặc bằng cách trộn sắn/chuối hoặc bột khoai môn sọ với nước và khuấy đều trên bếp lửa. Độ dày của chiếc bánh sau đó được điều chỉnh theo sở thích cá nhân và được ăn cùng với súp giống như nước dùng. Ở Nigeria, fufu (akpu) chỉ được làm từ sắn lên men nên nó có độ đặc độc đáo so với ở các nước Tây Phi khác. Nó được ăn với nhiều loại súp với rau, nhiều thịt bò và cá. Trong những năm gần đây, các loại bột khác, chẳng hạn như semolina, bột bắp hoặc chuối nghiền, có thể thay thế bột sắn. Điều này phổ biến đối với những người ở cộng đồng hải ngoại hoặc các gia đình sống ở thành thị. Các gia đình ở nông thôn có đất nông nghiệp vẫn duy trì công thức sử dụng sắn ban đầu. Theo truyền thống, Fufu được ăn bằng tay và có thể chấm một viên nhỏ vào súp hoặc nước sốt đi kèm.
Tên gọi
Angola: ,
Benin: ,
Cameroon: ,
Cộng hòa Trung Phi:
Cộng hòa Dân chủ Congo và Cộng hòa Congo: , ,
Gabon:
Ghana: , ,
Guinea:
Haiti:
Bờ Biển Ngà: ,
Liberia:
Mozambique: sadja, sadza, xima
Nigeria: , , , ,
Sierra Leone:
Togo:
Ở châu Phi
Trước khi các thương nhân Bồ Đào Nha giới thiệu sắn đến châu Phi từ Brasil vào thế kỷ 16, fufu chủ yếu được làm từ khoai môn sọ, chuối và khoai mỡ. Phương pháp ăn fufu truyền thống là kẹp một ít fufu ra bằng tay phải và tạo thành một quả bóng tròn dễ nuốt, sau đó được nhúng vào xúp trước khi ăn.
Ở Bờ Biển Ngà
Từ foutou thường được sử dụng ở Bờ Biển Ngà. Foufou của người Bờ Biển Ngà là loại chuối ngọt được nghiền đặc biệt, trong khi foutou là một loại bột nhão đậm hơn được làm từ nhiều loại thực phẩm chủ yếu khác nhau như khoai, sắn, chuối, khoai môn hoặc hỗn hợp của bất kỳ thứ nào trong số đó.
Ở các vùng nói tiếng Pháp của Cameroon, nó được gọi là "couscous" (dễ nhầm lẫn với món ăn couscous ở khu vực Bắc Phi).
Mặc dù người dân ở Đông và Nam Phi có vẻ nhầm lẫn giữa fufu (hoặc fufuo) với loại ngô hoặc món bột ngô được gọi là ugali hoặc nshima, nhưng thực tế không phải vậy. Chúng đều giống nhau hay đúng hơn, ugali hoặc nshima có thể được tìm thấy ở Ghana, nơi nó được gọi là akple, nsihoo (etsew không có cám ngô) hoặc tuo zaafi, được làm từ bột ngô chưa lên men không giống như các loại thực phẩm bột ngô lên men khác như etsew, dokuno (kenkey), banku, fonfom, trong số những món khác tại Ghana.
Ở Ghana
Trong tiếng Twi, fufu hoặc fufuo có nghĩa là "nghiền hoặc trộn", một loại thực phẩm chủ yếu mềm và nhão. Nó được cho là bắt nguồn từ nơi ngày nay là Ghana, bởi người Ashante, người Akuapem, Akyem, người Bono và người Fante của nhóm dân tộc Akan và hiện được chấp nhận rộng rãi trên toàn quốc. Theo nhà sử học Miller, "từ Fufu theo nghĩa đen có nghĩa là màu trắng trong tiếng Twi." và có khả năng bắt nguồn từ màu trắng của thành phần sắn trong món fufu của người Ghana. Ở Ghana, nó được làm từ sắn luộc và/hoặc các loại củ khác như chuối hoặc khoai môn sọ. Nó chủ yếu được giã với nhau trong một chiếc vữa (woduro) bằng gỗ được sản xuất tại địa phương bằng chày gỗ (woma). Giữa các lần chày, hỗn hợp được đảo bằng tay và thêm nước dần dần cho đến khi trở thành một hỗn hợp sền sệt và mềm. hỗn hợp sau đó được tạo thành một tấm tròn và phục vụ. Việc phát minh ra máy làm fufu đã khiến việc chuẩn bị tốn it công sức hơn. Thức ăn được tạo thành được ăn cùng với súp lỏng (nkwan) chẳng hạn như súp nhạt (nkrakra nkwan), abenkwan (súp hạt cọ), nkatenkwan (súp bơ đậu phộng) và súp abunubunu. Ngày nay, món này còn có trong ẩm thực Bénin, ẩm thực Cameroon, ẩm thực Guinea, ẩm thực Cộng hòa Dân chủ Congo, ẩm thực Nigeria, và ẩm thực Togo, ăn kèm với xúp ớt cay, đậu bắp hoặc các món hầm khác. Sự phổ biến của Fufu ở các tiểu vùng Tây Phi đã được ghi nhận trong văn học do các tác giả ở khu vực. Ví dụ: nó được đề cập trong Things Fall Apart của Chinua Achebe: Fufu là món ăn chính của Đế quốc Ashanti. Ở Ghana, fufu, còn được gọi là fufuo, có màu trắng và dính (nếu chuối không được trộn lẫn với sắn khi giã).
Ở Nigeria
Ở Nigeria, fufu hay akpu là một loại thực phẩm phổ biến được làm từ sắn tươi hoặc sắn lên men. Phiên bản Fufu của Nigeria khác với phiên bản của Ghana. Tuy vậy, nó là thực phẩm chủ yếu ở cả hai quốc gia. Akpu, được viết chính xác là akpụ, trong tiếng Igbo nghĩa là sắn. Món ăn này cần vài ngày để hoàn thành, là một loại bột nhão ướt thường được ăn cùng xúp egusi. Theo truyền thống, Akpu được làm bằng cách gọt vỏ và rửa sắn sống cho đến khi nó có màu trắng. Sau đó, ngâm sắn trong nước 3–4 ngày, sắn sẽ được lên men và trở nên mềm. Sau đó nó được lọc bằng bầu hoặc rây xốp. Nước thừa sẽ nhanh chóng thoát ra ngoài bằng cách đổ hỗn hợp ướt vào bao tải, trên đó đặt một vật nặng và phẳng (ví dụ: tấm ván và gạch). Sau đó, bột nhão được giã và nặn thành những hình tròn lớn rồi đun nhỏ lửa từ 30–60 giây, sau đó được giã kỹ để tránh vón cục, nặn lại thành những hình tròn nhỏ hơn, đun sôi trong 10–15 phút rồi giã cho đến khi mịn. Món ăn này rất phổ biến trên khắp Nigeria, đặc biệt là ở phía Đông.
Ở Vùng biển Caribe
Ở các quốc gia vùng biển Caribe có người gốc Tây Phi, chẳng hạn như Cuba, Jamaica, Cộng hòa Dominica, Haiti và Puerto Rico, chuối, sắn hoặc khoai mỡ được nghiền với các nguyên liệu khác. Ở Cuba, món ăn vẫn giữ nguyên tên gốc châu Phi, được gọi đơn giản là fufú hoặc có thêm phần mở rộng như fufú de platano hoặc fufú de platano pintón. Trên các hòn đảo khác, fufú có tên mangú ở Cộng hòa Dominica, mofongo và funche ở Puerto Rico. Điều khiến món "fufú" vùng Caribe khác biệt với khu vực Tây Phi là kết cấu chắc hơn với hương vị đậm đà hơn. Khi di chuyển khỏi Cuba, lõi của fufú ít bánh mà có khối lượng nhất quán hơn.
Ở Haiti, nó được gọi là tonm tonm và foofoo. Nó chủ yếu được làm từ sa kê nhưng có thể được làm từ chuối hoặc khoai mỡ và thường được phục vụ với món hầm hoặc súp làm từ đậu bắp. Nó chủ yếu được tiêu thụ ở các vùng cực nam của Haiti, cụ thể là Grand'Anse và Sud. Thành phố Jérémie được coi là thủ đô của món tonmtonm Haiti.
Mofongo Puerto Rico, để phù hợp với truyền thống ẩm thực được cải tiến của vùng Caribe, có xu hướng hướng tới món fufú có mật độ cao hơn nhiều và gia vị đậm đà. Trong khi vẫn giữ nét đặc trưng châu Phi dễ thấy, mofongo đã vay mượn truyền thống của nền ẩm thực ở bán đảo Iberia để tạo ra món ăn làm từ chuối xanh và vàng chiên, sắn hoặc sa kê. Không giống như món fufú mềm mại hơn của vùng Caribe và Tây Phi, mofongo nhìn chung cứng hơn và giòn hơn. Để chế biến món mofongo, chuối xanh được chiên giòn một lần chứ không phải tostones chiên hai lần. Tiếp theo, chúng được nghiền trong 'pilon' (vữa) với tỏi băm nhỏ, muối, tiêu đen và dầu ô liu. Sau đó, hỗn hợp nghiền thu được sẽ được ép và vo tròn thành một quả cầu rỗng. Thịt, theo truyền thống là chicharrón, sau đó được nhồi vào những viên chuối xanh chiên giòn. Một số công thức nấu ăn yêu cầu thịt hoặc rau salsa criolla (liên quan đến nước xốt Creole của Mỹ) đổ lên trên. Trong món "mofongo relleno" thời thượng hơn, đặc trưng của miền tây Puerto Rico, hải sản ở khắp mọi nơi, bên trong và bên ngoài, như đã trích dẫn trước đây, được tẩm gia vị và nhồi thịt rồi ngâm trong nước luộc gà. Vì quá trình chuẩn bị phức tạp và các thành phần của món ăn, nhà thơ và blogger Arose N Daghetto đã gọi mofongo là một loại "fufú paella" và gọi nó là "ông bố lớn của fufú". Mặc dù gắn liền với việc chiên, luộc và nướng mofongo chuối có trước mofongo chiên và vẫn được ưa chuộng nhưng lại hiếm thấy ở Puerto Rico. Một món ăn gọi là funche được làm từ khoai môn, chuối xanh và vàng luộc rồi nghiền với bơ, tỏi và mỡ lợn từng rất phổ biến ở Puerto Rico. Sau khi nghiền, nó được vo thành từng viên và ăn với nước dùng làm từ hạt vừng. Funche được viết trong sách dạy nấu ăn đầu tiên của Puerto Rico vào khoảng những năm 1800, nhưng có lẽ có thể bắt nguồn từ những nô lệ châu Phi trên đảo. Funche ngày nay ở Puerto Rico là bột ngô nấu với nước cốt dừa và sữa.
Nước sốt rau hoặc fufú ở Khối Thịnh vượng chung Caribe không được chiên trước. Chuối không được sử dụng nhiều vì nó được sử dụng trong rất nhiều món ăn khác. Fufu thường là một phần hoặc được thêm vào nước xốt của xúp hoặc dùng kèm với món xúp. Ở Antigua và Barbuda, fufu được phục vụ như một phần của món ăn quốc gia nhưng được gọi là nấm và được làm bằng bột bắp và đậu bắp. Tương tự, ở Barbados, nó được dùng như một phần của món ăn quốc gia và được gọi là cou-cou và thay vào đó sử dụng bột bắp hoặc ít phổ biến hơn là sa kê, giống như một số món ăn khác ở các quần đảo Caribe thuộc Anh.
Dinh dưỡng
Về dinh dưỡng, 100g fufu khô chứa 2g protein, 0,1g chất béo và 8g carbohydrate. Có 267 kcal trong khẩu phần 100g fufu với nước. Fufu có hàm lượng cholesterol thấp và giàu kali, thường được bác sĩ kê cho những người bị hạ Kali máu.
Hình ảnh
Xem thêm
Ẩm thực châu Phi
Ragi mudde
Asida
Attiéké
Bazeen
Ẩm thực Cộng hòa Dân chủ Congo
Eba
Garri
Grits
Konkonte
Mămăliga
Mangú
Khoai tây nghiền
Mochi
Mofongo
Plakali
Poi
Polenta
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Microwavable instant fufu.
Ẩm thực châu Phi
Ẩm thực Angola
Ẩm thực Belize
Ẩm thực Burkina Faso
Ẩm thực Cameroon
Ẩm thực Caribe
Ẩm thực Trung Phi
Ẩm thực Cộng hòa Trung Phi
Ẩm thực Costa Rica
Ẩm thực Cuba
Ẩm thực Cộng hòa Dân chủ Congo
Ẩm thực Ecuador
Ẩm thực Gabon
Ẩm thực Ghana
Ẩm thực Guinea
Ẩm thực Haiti
Ẩm thực Igbo
Ẩm thực Bờ Biển Ngà
Ẩm thực Jamaica
Ẩm thực Liberia
Ẩm thực Mali
Ẩm thực Panama
Ẩm thực Nigeria
Ẩm thực Cộng hòa Congo
Ẩm thực Togo
Ẩm thực Tây Phi
Ẩm thực Yoruba
Món ăn quốc gia
|
19851817
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bryaninops%20tigris
|
Bryaninops tigris
|
Bryaninops tigris là một loài cá biển thuộc chi Bryaninops trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1985.
Từ nguyên
Từ định danh tigris bắt nguồn từ τίγρις trong tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là “con hổ”, hàm ý đề cập đến màu nâu với các vệt vàng của loài cá này, cũng như hành vi kín đáo như loài hổ của chúng.
Phân bố và môi trường sống
Từ Oman và Maldives cùng Chagos, B. tigris có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Société và quần đảo Hawaii, xa về phía nam đến rạn san hô Great Barrier, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản). Ở Việt Nam, B. tigris được ghi nhận tại đảo Phú Quốc. Loài này sau đó đã mở rộng phạm vi đến phía bắc Biển Đỏ, khi một cá thể được phát hiện ở ngoài khơi Hurghada (Ai Cập).
B. tigris sống cộng sinh với san hô đen Antipathes, được tìm thấy ở độ sâu khoảng 15–53 m.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở B. tigris là 3 cm. Thân trên trong suốt với 6–7 vạch ngắn có thể là màu vàng, cam sẫm hoặc đỏ, giữa mỗi vạch có một đốm nhỏ cùng màu. Một sọc trắng dọc phía trên cột sống. Thân dưới còn lại có màu cam sẫm đến đen phớt cam.
Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 7–8; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ngực: 12–14.
Sinh thái
Thức ăn của B. tigris là động vật phù du. Trứng được đẻ trên một đoạn cành san hô sau khi đã loại bỏ các polyp và được cá đực bảo vệ.
B. tigris là một trong những loài khó thấy nhất của chi Bryaninops vì chúng rất tiệp màu với vật chủ là san hô Antipathes. Antipathes có khung xương màu nâu sẫm đến đen, bên ngoài có màu cam, nâu đỏ, vàng hoặc trắng.
Tham khảo
T
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Ai Cập
Cá Oman
Cá Maldives
Cá Việt Nam
Cá New Guinea
Cá Palau
Cá Hawaii
Động vật được mô tả năm 1985
|
19851822
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20v%E1%BA%ADn%20%C4%91%E1%BB%99ng%20Ninh%20Thu%E1%BA%ADn
|
Sân vận động Ninh Thuận
|
Sân vận động Ninh Thuận, còn được gọi là Sân vận động Phan Rang là một sân vận động đa năng nằm ở phường Phước Mỹ, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Sân có sức chứa 16.000 khán giả. Đây là sân nhà của Câu lạc bộ bóng đá Ninh Thuận vào năm 2012.
Sân từng được chọn để làm nơi tổ chức Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia 2012 và Giải Bóng đá U-21 Quốc tế báo Thanh niên 2013. Vào năm 2023, câu lạc bộ bóng đá Bình Thuận đã mượn sân vận động Ninh Thuận để thi đấu do sân vận động Phan Thiết cần được sửa chữa.
Tham khảo
Phan Rang–Tháp Chàm
|
19851824
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B2ng%20Gia%20Huy
|
Phòng Gia Huy
|
Gia Huy Phong (sinh ngày 5 tháng 2 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức gốc Việt Nam đang chơi ở vị trí tiền đạo cánh hoặc tiền vệ cánh trái cho câu lạc bộ Viktoria Berlin.
Thời thơ ấu
Phòng Gia Huy sinh ra tại Berlin, cha anh là người Đồng Nai và mẹ anh là người Khánh Hòa.
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Anh bắt đầu sự nghiệp của mình ở đội trẻ của đội Frohnauer có trụ sở tại Berlin trước khi gia nhập học viện trẻ của Hertha BSC vào năm 2016. Anh được câu lạc bộ cho ra mắt vào năm 2018 và gia nhập Tennis Borussia Berlin trước khi ký hợp đồng với đội trẻ Wolfsburg. Anh đã được ra sân trong 3 trận đấu vòng bảng tại khuôn khổ UEFA Youth League 2021–22 nhưng đội của anh lại không thể lọt vào vòng tiếp theo.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Vào tháng 6 năm 2022, Anh gia nhập Viktoria Berlin, không lâu dau đó anh đã được thăng hạng lên đội một cho mùa giải 2023-24. Vào ngày 30 tháng 7 năm 2023, anh ấy đã ra mắt Regionalliga Nordost trong chiến thắng 2–1 trước Energie Cottbus. Anh ấy đã ghi bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp vào ngày 11 tháng 11 năm 2023 trước Hertha BSC II, bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 của câu lạc bộ.
Xem thêm
Danh sách cầu thủ bóng đá Việt Nam sinh ra ở nước ngoài
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2004
Cầu thủ bóng đá nam Đức
Người Đức gốc Việt
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Regionalliga
Vận động viên gốc Việt
|
19851835
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Catherine%20Zuckert
|
Catherine Zuckert
|
Catherine H. Zuckert (sinh năm 1942) là một nhà triết học chính trị Mỹ và là giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Notre Dame.
Sách
Postmodern Platos (Nhà xuất bản Đại học Chicago, 1996)
Natural Right and the American Imagination: Political Philosophy in Novel Form
Plato's Philosophers: The Coherence of the Dialogues (Nhà xuất bản Đại học Chicago, 2009)
Machiavelli's Politics (Nhà xuất bản Đại học Chicago, 2017)
The Truth about Leo Strauss (2006) cùng với Michael P. Zuckert, Nhà xuất bản Đại học Chicago
Leo Strauss and the Problem of Political Philosophy (2014) cùng với Michael P. Zuckert, Nhà xuất bản Đại học Chicago
Biên tập
Understanding the Political Spirit: From Socrates to Nietzsche
Political Philosophy in the 20th Century: Authors and Arguments (Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 2011)
Leo Strauss on Political Philosophy (Nhà xuất bản Đại học Chicago, 2018)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Catherine Zuckert
Đọc thêm
Natural Right and Political Philosophy: Essays in Honor of Catherine and Michael Zuckert. Edited by Lee Ward and Ann Ward. South Bend, IN: University of Notre Dame Press, 2013.
Nhà triết học Mỹ thế kỷ 21
Giáo sư đại học triết học Mỹ
Giảng viên Đại học Notre Dame
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1942
Nhà chính trị học
Nhà biên tập tập san chính trị học
Cựu sinh viên Đại học Chicago
Nữ nhà chính trị học
Nhà chính trị học Mỹ
|
19851843
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20lo%C3%A0i%20n%E1%BA%A5m%20psilocybin
|
Danh sách loài nấm psilocybin
|
Nấm psilocybin là loại nấm có chứa các chất gây ảo giác psilocybin, psilocin, baeocystin và norbaeocystin. Nấm được thu thập và trồng làm chất entheogen (chất nghi lễ tâm linh) và chất giải trí, mặc dù bị cấm ở nhiều quốc gia. Nhiều loại nấm psilocybin thuộc chi Psilocybe, dù nhiều loài thuộc vài chi khác cũng có chứa các chất này.
Các chi
Conocybe
Galerina
Gymnopilus
Inocybe
Panaeolus
Pholiotina
Pluteus
Psilocybe
Conocybe
Conocybe siligineoides R. Heim
Conocybe velutipes (Velen.) Hauskn. & Svrcek
Galerina
Galerina steglichii Besl
Gymnopilus
Gymnopilus aeruginosus (Peck) Singer (hình)
Gymnopilus braendlei (Peck) Hesler
Gymnopilus cyanopalmicola Guzm.-Dáv
Gymnopilus dilepis (Berk. & Broome) Singer
Gymnopilus dunensis H. Bashir, Jabeen & Khalid
Gymnopilus intermedius (Singer) Singer
Gymnopilus lateritius (Pat.) Murrill
Gymnopilus luteofolius (Peck) Singer (hình)
Gymnopilus luteoviridis Thiers (hình)
Gymnopilus luteus (Peck) Hesler (hình)
Gymnopilus palmicola Murrill
Gymnopilus purpuratus (Cooke & Massee) Singer (hình)
Gymnopilus subpurpuratus Guzmán-Davalos & Guzmán
Gymnopilus subspectabilis Hesler
Gymnopilus validipes (Peck) Hesler
Gymnopilus viridans Murrill
Inocybe
Inocybe aeruginascens Babos
Inocybe caerulata Matheny, Bougher & G.M. Gates
Inocybe coelestium Kuyper
Inocybe corydalina
Inocybe corydalina var. corydalina Quél.
Inocybe corydalina var. erinaceomorpha (Stangl & J. Veselsky) Kuyper
Inocybe haemacta (Berk. & Cooke) Sacc.
Inocybe tricolor Kühner
Hầu hết các loài trong chi này có độc.
Panaeolus
Panaeolus affinis (E. Horak) Ew. Gerhardt
Panaeolus africanus Ola'h
Panaeolus axfordii Y. Hu, S.C. Karunarathna, P.E. Mortimer & J.C. Xu
Panaeolus bisporus (Malencon and Bertault) Singer and Weeks
Panaeolus cambodginiensis (OlaĽh et Heim) Singer & Weeks. (Merlin & Allen, 1993)
Panaeolus chlorocystis (Singer & R.A. Weeks) Ew. Gerhardt
Panaeolus cinctulus (Bolton) Britzelm.
Panaeolus cyanescens (Berk. & Broome) Sacc.
Panaeolus fimicola (Fr.) Gillet
Panaeolus lentisporus Ew. Gerhardt
Panaeolus microsporus Ola'h & Cailleux
Panaeolus moellerianus Singer
Panaeolus olivaceus F.H. Møller
Panaeolus rubricaulis Petch (= Panaeolus campanuloides Guzmán & K. Yokoy.)
Panaeolus tirunelveliensis (Natarajan & Raman) Ew. Gerhardt
Panaeolus tropicalis Ola'h
Panaeolus venezolanus Guzmán (= Panaeolus annulatus Natarajan & Raman)
Pholiotina
Pholiotina cyanopus Stamets
Pholiotina smithii (Watling) Enderle (Galera cyanopes Kauffman, Conocybe smithii Watling)
Pluteus
Pluteus albostipitatus (Dennis) Singer
Pluteus americanus (P. Banerjee & Sundb.) Justo, E.F. Malysheva & Minnis (2014)
Pluteus brunneidiscus Murrill (1917).
Pluteus cyanopus Quél.
Pluteus glaucus Singer
Pluteus glaucotinctus E. Horak
Pluteus nigroviridis Babos
Pluteus phaeocyanopus Minnis & Sundb.
Pluteus salicinus (Pers. : Fr.) P. Kumm.
Pluteus saupei Justo & Minnis
Pluteus velutinornatus G. Stev. 1962.
Pluteus villosus (Bull.) Quél.
Psilocybe
A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z
A
Psilocybe acutipilea (Speg.) Guzmán
Psilocybe allenii Borov., Rockefeller & P.G.Werner
Psilocybe alutacea Y.S. Chang & A.K. Mills
Psilocybe angulospora Yen W. Wang & S.S. Tzean
Psilocybe antioquiensis Guzmán, Saldarriaga, Pineda, García & Velázquez
Psilocybe araucariicola P. S. Silva & Ram.-Cruz
Psilocybe atlantis Guzmán, Hanlin & C. White
Psilocybe aquamarina (Pegler) Guzmán
Psilocybe armandii Guzmán & S.H. Pollock
Psilocybe aucklandiae Guzmán, C.C. King & Bandala
Psilocybe aztecorum
Psilocybe aztecorum var. aztecorum
Psilocybe aztecorum var. bonetii (Guzmán) Guzmán
Psilocybe azurescens Stamets & Gartz
B
Psilocybe baeocystis Singer & A.H. Sm. emend. Guzmán
Psilocybe banderillensis Guzmán
Psilocybe brasiliensis Guzmán
Psilocybe brunneocystidiata Guzmán & Horak
C
Psilocybe caeruleoannulata Singer ex Guzmán
Psilocybe caerulescens
Psilocybe caerulescens var. caerulescens Murrill
Psilocybe caerulescens var. ombrophila (R. Heim) Guzmán
Psilocybe caerulipes (Peck) Sacc.
Psilocybe callosa
Psilocybe carbonaria Singer
Psilocybe chuxiongensis T.Ma & K.D.Hyde
Psilocybe collybioides Singer & A.H. Sm.
Psilocybe columbiana Guzmán
Psilocybe congolensis Guzmán, S.C. Nixon & Cortés-Pérez
Psilocybe cordispora R. Heim
Psilocybe cubensis (Earle) Singer
Psilocybe cyanescens Wakef. (non-sensu Krieglsteiner)
Psilocybe cyanofibrillosa Guzmán & Stamets
D
Psilocybe dumontii Singer ex Guzmán
E
Psilocybe egonii Guzmán & T.J. Baroni
Psilocybe eximia E. Horak & Desjardin
F
Psilocybe fagicola
Psilocybe fagicola var. fagicola
Psilocybe fagicola var. mesocystidiata Guzmán
Psilocybe farinacea Rick ex Guzmán
Psilocybe fimetaria (P.D. Orton) Watling
Psilocybe fuliginosa (Murrill) A.H. Sm.
Psilocybe furtadoana Guzmán
G
Psilocybe galindoi Guzmán
Psilocybe gallaeciae Guzmán & M.L. Castro
Psilocybe graveolens Peck
Psilocybe guatapensis Guzmán, Saldarriaga, Pineda, García & Velázquez
Psilocybe guilartensis Guzmán, Tapia & Nieves-Rivera
H
Psilocybe heimii Guzmán
Psilocybe herrerae Guzmán
Psilocybe hispanica Guzmán
Psilocybe hoogshagenii
Psilocybe hoogshagenii var. hoogshagenii "(= Psilocybe caerulipes var. gastonii Singer, Psilocybe zapotecorum R. Heim s. Singer)"
Psilocybe hoogshagenii var. convexa Guzmán (= Psilocybe semperviva R. Heim & Cailleux)
Psilocybe hopii Guzmán & J. Greene
I
Psilocybe inconspicua Guzmán & Horak
Psilocybe indica Sathe & J.T. Daniel
Psilocybe isabelae Guzmán
J
Psilocybe jacobsii Guzmán
Psilocybe jaliscana Guzmán
K
Psilocybe kumaenorum R. Heim
L
Psilocybe laurae Guzmán
Psilocybe lazoi Singer
Psilocybe liniformans
Psilocybe liniformans var. liniformans
Psilocybe liniformans var. americana Guzmán & Stamets
M
Psilocybe mairei Singer
Psilocybe makarorae Johnst. & Buchanan
Psilocybe mammillata (Murrill) A.H. Sm.
Psilocybe medullosa (Bres.) Borovička
Psilocybe meridensis Guzmán
Psilocybe meridionalis Guzmán, Ram.-Guill. & Guzm.-Dáv.
Psilocybe mescaleroensis Guzmán, Walstad, E. Gándara & Ram.-Guill.
Psilocybe mexicana R. Heim
Psilocybe moseri Guzmán
Psilocybe muliercula Singer & A.H. Sm. (= Psilocybe wassonii R. Heim)
N
Psilocybe naematoliformis Guzmán
Psilocybe natalensis Gartz, Reid, Smith & Eicker
Psilocybe natarajanii Guzmán (= Psilocybe aztecorum var. bonetii (Guzmán) Guzmán s. Natarajan & Raman)
Psilocybe neorhombispora Guzmán & Horak
Psilocybe neoxalapensis Guzmán, Ram.-Guill. & Halling
O
Psilocybe ovoideocystidiata Guzmán et Gaines
P
Psilocybe papuana Guzmán & Horak
Psilocybe paulensis (Guzmán & Bononi) Guzmán (= Psilocybe banderiliensis var. paulensis Guzmán & Bononi)
Psilocybe pelliculosa (A.H. Sm.) Singer & A.H. Sm.
Psilocybe pintonii Guzmán
Psilocybe pleurocystidiosa Guzmán
Psilocybe plutonia (Berk. & M.A. Curtis) Sacc.
Psilocybe portoricensis Guzmán, Tapia & Nieves-Rivera
Psilocybe pseudoaztecorum Natarajan & Raman
Psilocybe puberula Bas & Noordel.
Q
Psilocybe quebecensis Ola'h & R. Heim
R
Psilocybe rickii Guzmán & Cortez
Psilocybe rostrata (Petch) Pegler
Psilocybe rzedowskii Guzmán
S
Psilocybe samuiensis Guzmán, Bandala & Allen
Psilocybe schultesii Guzmán & S.H. Pollock
Psilocybe semilanceata (Fr. : Secr.) P. Kumm.
Psilocybe septentrionalis (Guzmán) Guzmán (= Psilocybe subaeriginascens Höhn. var. septentrionalis Guzmán)
Psilocybe serbica Moser & Horak (non ss. Krieglsteiner)
Psilocybe sierrae Singer (= Psilocybe subfimetaria Guzmán & A.H. Sm.)
Psilocybe silvatica (Peck) Singer & A.H. Sm.
Psilocybe singeri Guzmán
Psilocybe strictipes Singer & A.H. Sm.
Psilocybe stuntzii Guzman & Ott
Psilocybe subacutipilea Guzmán, Saldarriaga, Pineda, García & Velázquez
Psilocybe subaeruginascens Hohnel
Psilocybe subaeruginosa Cleland
Psilocybe subbrunneocystidiata P.S. Silva & Guzmán
Psilocybe subcaerulipes Hongo
Psilocybe subcubensis Guzmán
Psilocybe subpsilocybioides Guzmán, Lodge & S.A. Cantrell
Psilocybe subtropicalis Guzmán
T
Psilocybe tampanensis Guzmán & S.H. Pollock (hình)
Psilocybe tasmaniana Guzmán & Watling (1978)
Psilocybe thaiaerugineomaculans Guzmán, Karunarathna & Ram.-Guill.
Psilocybe thaicordispora Guzmán, Ram.-Guill. & Karun.
Psilocybe thaiduplicatocystidiata Guzmán, Karun. & Ram.-Guill.
U
Psilocybe uruguayensis Singer ex Guzmán
Psilocybe uxpanapensis Guzmán
V
Psilocybe venenata (S. Imai) Imaz. & Hongo (= Psilocybe fasciata Hongo; Stropharia caerulescens S. Imai)
W
Psilocybe wassoniorum Guzmán & S.H. Pollock
Psilocybe wayanadensis K.A. Thomas, Manim. & Guzmán
Psilocybe weilii Guzmán, Tapia & Stamets (hình)
Psilocybe weldenii Guzmán
Psilocybe weraroa Borovicka, Oborník & Noordel.
X
Psilocybe xalapensis Guzmán & A. López
Y
Psilocybe yungensis Singer & A.H. Sm.
Z
Psilocybe zapotecoantillarum Guzmán, T.J. Baroni & Lodge
Psilocybe zapotecocaribaea Guzmán, Ram.-Guill. & T.J. Baroni
Psilocybe zapotecorum
Tham khảo
Ảo giác
|
19851850
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cu%E1%BB%99c%20chi%E1%BA%BFn%20kh%C3%B4ng%20gian
|
Cuộc chiến không gian
|
Cuộc chiến không gian (tựa gốc tiếng Anh: For All Mankind) là một series phim chính kịch truyền hình thể loại khoa học viễn tưởng của Mỹ do Ronald D. Moore, Matt Wolpert, và Ben Nedivi sản xuất cho Apple TV+. Loạt phim kịch tính hóa một lịch sử thay thế mô tả "thế giới sẽ ra sao nếu cuộc chạy đua vào không gian chưa bao giờ kết thúc" sau khi Liên Xô thành công trong việc đổ bộ lên Mặt Trăng có phi hành đoàn đầu tiên trước Hoa Kỳ. Tiêu đề phim được lấy cảm hứng từ tấm bảng do phi hành đoàn Apollo 11 để lại trên Mặt Trăng, một phần có nội dung "We Came in Peace for All Mankind" ("Chúng tôi đến trong hòa bình cho toàn thể nhân loại").
Phim có sự tham gia của dàn diễn viên gồm Joel Kinnaman, Michael Dorman, Sarah Jones, Shantel VanSanten, Jodi Balfour, Wrenn Schmidt, Sonya Walger, và Krys Marshall. Cynthy Wu, Casey W. Johnson, và Coral Peña gia nhập dàn diễn viên chính từ mùa hai, và Edi Gathegi góp mặt từ mùa thứ ba. Loạt phim có những nhân vật lịch sử (do diễn viên thủ vai hoặc xuất hiện qua các đoạn phim lưu trữ) bao gồm các phi hành gia Apollo 11 Neil Armstrong, Buzz Aldrin và Michael Collins, phi hành gia nhóm Mercury Seven Deke Slayton, nhà khoa học tên lửa Wernher von Braun, phi hành gia Sally Ride, trưởng quản lý NASA Thomas Paine, giám đốc điều hành bay NASA Gene Kranz, Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Ted Kennedy và Gary Hart, cùng với các Tổng thống Mỹ Richard Nixon, Jimmy Carter, Ronald Reagan, George H. W. Bush và Bill Clinton.
Cuộc chiến không gian phát sóng lần đầu vào ngày 1 tháng 11 năm 2019. Phần thứ hai của loạt phim được giới phê bình đánh giá cao và nhận về đề cử Giải TCA cho Thành tựu xuất sắc trong lĩnh vực phim truyền hình. Vào tháng 7 năm 2022, phần thứ tư của loạt phim bắt đầu được sản xuất, và đã khởi chiếu vào ngày 10 tháng 11 năm 2023. Theo kế hoạch của các biên kịch, Cuộc chiến không gian sẽ có tổng cộng 7 mùa.
Giới thiệu chung
Ở một dòng thời gian khác vào năm 1969, phi hành gia Liên Xô Aleksey Leonov trở thành người đầu tiên hạ cánh xuống Mặt Trăng. Kết quả này gây nên sự suy sụp tinh thần tại NASA nhưng đồng thời cũng thúc đẩy cho các nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm bắt kịp đối thủ. Với việc Liên Xô nhấn mạnh sự đa dạng bằng cách đưa phụ nữ vào các cuộc đổ bộ tiếp theo, Hoa Kỳ buộc phải bắt kịp tốc độ bằng cách đào tạo phụ nữ và các nhóm thiểu số, những người phần lớn bị loại khỏi các chương trình không gian của Hoa Kỳ ở những thập niên ban đầu. Mỗi phần phim diễn ra tiếp nối sau 10 năm, với phần hai diễn ra vào những năm 1980, phần ba diễn ra vào những năm 1990, và phần bốn diễn ra vào những năm 2000.
Ronald D. Moore đã giải thích lịch sử trong thực tế khác với loạt phim như thế nào: "Sergei Korolev là cha đẻ của chương trình vũ trụ Liên Xô; trên thực tế, ông đã qua đời trong một chiến dịch ở Moskva (năm 1966) ... Và sau thời điểm đó, chương trình Mặt Trăng của họ thực sự không bao giờ kết hợp được với nhau... Điểm khác biệt của chúng tôi là Korolev vẫn còn sống, ... và ông đã hiện thực hóa chương trình hạ cánh xuống Mặt Trăng của họ."
Dàn diễn viên và nhân vật
Joel Kinnaman trong vai Edward "Ed" Baldwin, một trong những phi hành gia hàng đầu của NASA, hình mẫu ban đầu của ông dựa trên chỉ huy Apollo 10 Thomas P. Stafford
Michael Dorman trong vai Gordon "Gordo" Stevens (mùa 1–2), một phi hành gia và là bạn thân của Ed, dựa trên phi công mô-đun Mặt Trăng của Apollo 10 Gene Cernan
Sarah Jones trong vai Tracy Stevens (mùa 1–2), vợ của Gordo, người sau này cũng trở thành phi hành gia với tư cách là một trong "những phụ nữ của Nixon"
Shantel VanSanten trong vai Karen Baldwin (mùa 1–3; khách mời trong mùa 4), vợ của Ed, người sau này sở hữu quán rượu Outpost và sau đó trở thành người đứng đầu Helios Aerospace
Jodi Balfour trong vai Ellen Wilson (nhũ danh Waverly) (mùa 1–3; khách mời trong mùa 4), một phi hành gia và cũng là thành viên "những phụ nữ của Nixon", về sau cô trở thành trưởng quản lý NASA, thượng nghị sĩ và cuối cùng là tổng thống Hoa Kỳ sau cuộc bầu cử năm 1992.
Wrenn Schmidt trong vai Margo Madison, một kỹ sư của NASA được cố vấn bởi Wernher von Braun, lấy cảm hứng từ Margaret Hamilton
Sonya Walger trong vai Molly Cobb (mùa 2–3; nhân vật định kỳ trong mùa 1), một phi hành gia và là thành viên "những phụ nữ của Nixon", dựa trên Jerrie Cobb
Krys Marshall trong vai Danielle Poole (mùa 2–nay; nhân vật định kỳ trong mùa 1), một phi hành gia và là thành viên "những phụ nữ của Nixon"
Cynthy Wu trong vai Kelly Baldwin (nhũ danh Nguyễn Thị Hạnh) (mùa 2–nay), một nhà khoa học và là con gái nuôi của Ed và Karen
Casey W. Johnson trong vai Danny Stevens (mùa 2–3; khách mời trong mùa 4), một phi hành gia và là con trai của Gordo và Tracy
Jason David và Mason Thames trong vai Danny Stevens lúc nhỏ (nhân vật định kỳ trong mùa 1)
Coral Peña trong vai Aleida Rosales (mùa 2–nay), một cô gái nhập cư không giấy tờ có niềm đam mê với không gian và sau đó được Margo hỗ trợ
Olivia Trujillo trong vai Aleida Rosales lúc nhỏ (nhân vật định kỳ trong mùa 1)
Edi Gathegi trong vai Dev Ayesa (mùa 3–nay), người sáng lập Helios Aerospace, một công ty không gian tư nhân với mục tiêu hạ cánh xuống Sao Hỏa trước NASA và Liên Xô
Toby Kebbell trong vai Miles Dale (mùa 4), một cựu công nhân giàn khoan dầu ngoài khơi theo đuổi cơ hội việc làm mới trên Sao Hỏa
Tyner Rushing trong vai Samantha Massey (mùa 4), một công nhân trên thuộc địa Sao Hỏa
Svetlana Efremova trong vai Irina Morozova (mùa 4), một quan chức cấp cao của Liên Xô
Daniel Stern trong vai Eli Hobson (mùa 4), trưởng quản lý mới của NASA
Danh sách tập phim
Mùa 1 (2019)
Mùa 2 (2021)
Mùa 3 (2022)
Mùa 4 (2023–24)
Quá trình sản xuất
Phát triển
Theo Ronald D. Moore, ý tưởng về chương trình xuất hiện trong một bữa trưa với cựu phi hành gia NASA Garrett Reisman khi họ thảo luận về khả năng xảy ra một lịch sử thay thế trong đó người Liên Xô lên Mặt Trăng trước người Mỹ. Ngày 15 tháng 2 năm 2017, có thông báo rằng Apple đã đặt hàng sản xuất cho mùa một. Series do Ronald D. Moore, Matt Wolpert, và Ben Nedivi sáng tạo. Maril Davis giữ vai trò điều hành sản xuất cùng với Moore, Wolpert và Nedivi. Các công ty sản xuất liên quan đến loạt phim bao gồm Sony Pictures Television và Tall Ship Productions. Ngày 15 tháng 8 năm 2018, loạt phim chính thức mang tên gọi For All Mankind (được phát hành chính thức ở Việt Nam với tên gọi Cuộc chiến không gian). Mùa thứ hai bắt đầu được sản xuất vào tháng 9 năm 2019. Ngày 8 tháng 12 năm 2020, trước khi phát sóng mùa hai, Apple TV+ đã bắt đầu sản xuất mùa thứ ba. Ngày 22 tháng 7 năm 2022, mùa thứ tư bắt đầu được sản xuất.
Tuyển chọn
Tháng 8 năm 2018, truyền thông đưa tin Joel Kinnaman, Michael Dorman, Sarah Jones, Shantel VanSanten, và Wrenn Schmidt đã được tuyển chọn cho các vai chính và các diễn viên Eric Ladin, Arturo Del Puerto, và Rebecca Wisocky sẽ xuất hiện với tần suất định kỳ. Tháng 10 năm 2018, Jodi Balfour tham gia series với một vai chính.
Tháng 11 năm 2020, Cynthy Wu, Coral Peña và Casey W. Johnson được chọn vào các vai chính cho mùa hai. Ngoài ra, Krys Marshall và Sonya Walger cũng được nâng lên dàn diễn viên chính cho mùa này. Tháng 12 năm 2020, Michaela Conlin tham gia loạt phim với vai phụ cho mùa thứ hai. Tháng 6 năm 2021, Edi Gathegi gia nhập mùa ba như một trong những nhân vật chính. Đối với mùa bốn, Daniel Stern, Toby Kebbell, Tyner Rushing và Svetlana Efremova đã được tuyển chọn.
Quay phim
Quá trình quay phim bắt đầu vào tháng 8 năm 2018 ở Los Angeles, California. Tháng 3 năm 2019, The New York Times đưa tin việc quay phim đã hoàn tất. Mùa hai khởi quay vào ngày 24 tháng 12 năm 2019. Ngày 17 tháng 8 năm 2020, việc sản xuất mùa hai bị tạm dừng do COVID-19, và chỉ còn hai tập cuối là chưa hoàn thành. Mùa ba bắt đầu quay vào ngày 25 tháng 2 năm 2021 và đóng máy vào giữa tháng 9. Mùa bốn được quay từ tháng 8 năm 2022 và hoàn tất vào tháng 1 năm 2023.
Âm nhạc
Tất cả bài hát đều do Jeff Russo viết. Các bài của mùa 3 do Paul Doucette đồng sáng tác.
Soundtrack gốc mùa 1
Soundtrack gốc mùa 2
Soundtrack gốc mùa 3
Soundtrack gốc mùa 4
Phát hành
Mùa thứ nhất của Cuộc chiến không gian được phát sóng trên Apple TV+ vào ngày 1 tháng 11 năm 2019, bao gồm 10 tập, phát hành tập mới mỗi tuần cho đến ngày 23 tháng 4 năm 2021. Mùa thứ hai phát hành ngày 19 tháng 2 năm 2021, bao gồm 10 tập, phát hành tập mới mỗi tuần cho đến ngày 23 tháng 4 năm 2021. Mùa thứ ba phát hành ngày 10 tháng 6 năm 2022, bao gồm 10 tập, phát hành tập mới mỗi tuần cho đến ngày 12 tháng 8 năm 2022. Mùa thứ tư phát hành ngày 10 tháng 11 năm 2023, bao gồm 10 tập, phát hành tập mới mỗi tuần cho đến ngày 12 tháng 1 năm 2024.
Quảng bá
Ngày 11 tháng 2 năm 2021, trước khi mùa hai phát sóng, Apple đã phát hành một ứng dụng thực tế tăng cường trên App Store với tên gọi For All Mankind: Time Capsule. Ứng dụng đưa người dùng đi qua khoảng cách kéo dài hàng thập kỷ giữa phần một và phần hai, cho thấy mối quan hệ giữa các phi hành gia Gordo và Tracy Stevens cũng như con trai của họ là Danny Stevens. Tại Lễ trao giải Nghệ thuật Sáng tạo Primetime lần thứ 73, For All Mankind: Time Capsule đã giành chiến thắng hạng mục Outstanding Innovation in Interactive Programming (Đổi mới nổi bật trong lập trình tương tác).
Đối với mùa hai, Apple phát hành một podcast với tựa đề For All Mankind: The Official Podcast, được sản xuất với sự hợp tác cùng At Will Media, phát hành tập mới mỗi hai tuần bắt đầu từ ngày 19 tháng 2 năm 2021. Krys Marshall, diễn viên thủ vai Danielle Poole, là người dẫn chương trình. Podcast giới thiệu về hình ảnh hậu trường và cuộc phỏng vấn với những nhà khoa học, cựu phi hành gia, dàn diễn viên cũng như đoàn làm phim Cuộc chiến không gian.
Đối với mùa ba, Apple phát hành loạt video đồng hành có tiêu đề The Science behind For All Mankind với từng tập tương ứng từ mùa này. Người dẫn chương trình là Wrenn Schmidt, diễn viên thủ vai Margo Madison, và những chủ đề khoa học xuất hiện trong loạt phim sẽ được cô giải thích cũng như phân tích đầy đủ.
Đón nhận
Phản hồi của nhà phê bình
Mùa đầu tiên của Cuộc chiến không gian nhận về phản hồi tương đối tích cực. Trên website chuyên tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, mùa phim đạt 75% đồng thuận, với số điểm trung bình là 7/10 dựa trên 55 đánh giá. Website ghi lại sự nhất trí của các nhà phê bình như sau, "Mặc dù mùa phim hướng tới Mặt Trăng và rơi vào đâu đó trên quỹ đạo, nhưng tầm nhìn ấn tượng về lịch sử của Cuộc chiến không gian có khả năng thực sự thành công nếu tập trung vào những điều khiến nó trở nên khác biệt thay vì cứ an phận với những thứ giống nhau." Metacritic, sử dụng bình quân trọng số, cho số điểm 65 trên 100 dựa trên 22 lượt phê bình, cho thấy "các bài đánh giá nhìn chung là ý kiến tán thành".
Mùa thứ hai đạt 100% đồng thuận trên Rotten Tomatoes, với số điểm trung bình là 7,5/10 dựa trên 26 bài đánh giá. Sự nhất trí của các nhà phê bình được ghi lại như sau, "Chuyến bay thứ hai của Cuộc chiến không gian không phải là không có trục trặc, nhưng việc xây dựng nhân vật một cách thuyết phục và cảm giác ngạc nhiên mới mẻ đã đưa đến trải nghiệm hồi hộp khi xem." Trên Metacritic, phim có số điểm là 75 trên 100 dựa trên 7 phản hồi, cho thấy "các bài đánh giá nhìn chung là ý kiến tán thành".
Mùa thứ ba đạt 97% đồng thuận trên Rotten Tomatoes, với số điểm trung bình là 8,2/10 dựa trên 34 bài đánh giá. Các nhà phê bình nhất trí rằng, "Mùa thứ ba của Cuộc chiến không gian tiến xa tới tận Sao Hỏa trong khi vẫn duy trì sự tập trung ấm cúng vào dàn diễn viên chính ban đầu, mang đến chuyến phiêu lưu hoành tráng khác với một sự thân tình sâu sắc." Phim đạt 84 trên 100 điểm dựa trên 15 phản hồi trên Metacritic, cho thấy sự "hoan nghênh nhiệt liệt".
Mùa thứ tư đạt 100% đồng thuận trên Rotten Tomatoes, với số điểm trung bình là 8,2/10 dựa trên 24 bài đánh giá. Lời nhận xét được ghi trên website như sau, "Houston, không có vấn đề gì ở đây – Mùa thứ tư của Cuộc chiến không gian tập trung vào những gì loạt phim làm tốt nhất và tiến lên phía trước với một lịch sử xét lại kích thích sự tư duy." Tại Metacritic, phim có số điểm là 83 trên 100 dựa trên 11 bài đánh giá, cho thấy sự "hoan nghênh nhiệt liệt".
Giải thưởng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim truyền hình Mỹ ra mắt năm 2019
Phim truyền hình lịch sử thay thế
Chương trình gốc Apple TV+
Chương trình truyền hình của Sony Pictures Television
|
19851867
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/What%20Was%20I%20Made%20For%3F
|
What Was I Made For?
|
"What Was I Made For?" là một bài hát ballad của ca sĩ người Mỹ Billie Eilish. Bài hát nhận năm đề cử tại Giải Grammy lần thứ 66, bao gồm Thu âm của năm, thắng giải Bài hát của năm và Ca khúc nhạc phim hay nhất. Bài hát thắng Giải Oscar cho ca khúc gốc trong phim xuất sắc nhất tại Giải Oscar lần thứ 96.
Bảng xếp hạng
Bảng xếp hạng hàng tuần
Tham khảo
Đĩa đơn năm 2023
Bài hát năm 2023
Ballad thập niên 2020
Bài hát của Billie Eilish
Đĩa đơn của Atlantic Records
Đĩa đơn của Interscope Records
Đĩa đơn quán quân tại Ireland
Đĩa đơn quán quân tại Úc
Đĩa đơn quán quân tại Thụy Sĩ
Bài hát viết bởi Billie Eilish
Bài hát viết bởi Finneas O'Connell
Bài hát sản xuất bởi Finneas O'Connell
Bài hát sản xuất bởi Mark Ronson
Bài hát trong phim
Barbie
Pop ballad
Đĩa đơn quán quân UK Singles Chart
Giải Quả cầu vàng cho Ca khúc trong phim hay nhất
|
19851868
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20M%C3%B4ng%20C%E1%BB%95%20Khamnigan
|
Tiếng Mông Cổ Khamnigan
|
Tiếng Khamnigan (Хамниган кэлэ, chuyển tự: Khamnigan kele) là một ngôn ngữ Mông Cổ được nói ở phía đông hồ Baikal, trên lãnh thổ Nga, Mông Cổ và Trung Quốc.
Người Khamnigan (hay còn gọi là Tungus Ngựa hoặc Tungus Thảo nguyên) có nguồn gốc song ngữ, nói cả tiếng Mông Cổ và tiếng Tungus, được thừa hưởng từ tổ tiên hỗn hợp của họ. Sự song ngữ này dường như đã có từ vài thế kỷ trước. Ngôn ngữ Tungus của họ là tiếng Evenk (Khamnigan là tên tiếng Mông Cổ của người Evenk), trong khi tiếng Mông Cổ Khamnigan là một ngôn ngữ Mông Cổ riêng biệt, không phải phương ngữ tiếng Mông Cổ hay Buryat như được phân loại theo truyền thống ở Mông Cổ hoặc Nga. Tiếng Mông Cổ là ngôn ngữ chính; hai phương ngữ Evenk chỉ được một bộ phận dân cư sử dụng trong phạm vi gia đình.
Việc sử dụng ngôn ngữ này đã giảm ở Nga, nơi chỉ còn ít người nói, nhưng sự song ngữ Mông Cổ-Evenk vẫn còn rõ rệt ở Trung Quốc. Tiếng Evenk Khamnigan, mặc dù không phải là ngôn ngữ khác biệt với các phương ngôn Evenk khác, nhưng lại chịu ảnh hưởng nặng nề của tiếng Mông Cổ, đặc biệt là về từ vựng. Mặt khác, tiếng Mông Cổ Khamnigan là ngôn ngữ Mông Cổ bảo thủ nhất, hơi khác so với tiếng Mông Cổ trung đại, mặc dù hệ thống hài hòa nguyên âm đã bị gián đoạn. Có rất ít ảnh hưởng từ tiếng Evenk; chẳng hạn, tiếng Evenk Khamnigan có số nhiều về mặt ngữ pháp, tiếng Mông Cổ Khamnigan thì không.
Tiếng Khamnigan ở Mông Cổ đã đồng hóa mạnh mẽ với tiếng Mông Cổ Khalkha, và mặc dù có một số đặc điểm giống tiếng Buryat và mang phong cách riêng, về tổng thể nó giống với một phương ngữ của tiếng Khalkha, và đã mất đi vốn từ vựng Tungus đặc biệt của mình.
Phân bố
Tiếng Mông Cổ Khamnigan phân bố tại các địa phương sau:
: vùng Zabaykalsky
: tỉnh Khentii, tỉnh Dornod, tỉnh Töv
: Hulunbuir, Nội Mông
Cú pháp
Tiếng Mông Cổ Khamnigan theo cú pháp chủ-tân-động (SOV) tương tự các ngôn ngữ Mông Cổ khác. Các tiểu từ Mông Cổ chung bisi, buu, ugui được sử dụng để diễn đạt sự phủ định. Tiểu từ nghi vấn có định dạng gu, ví dụ: hain gu ("Tốt không?")
Từ vựng
Nguồn chính của các yếu tố từ vựng phi Mông Cổ là tiếng Nga và tiếng Trung Quốc. Các yếu tố Nga chiếm ưu thế trong lớp từ vựng văn hóa tiền hiện đại, ví dụ: ciuske (lợn), kartoobka (khoai tây), istool (bàn), laampa (đèn), trong khi nguồn hiện đại của những từ tương tự là tiếng Trung Quốc (Quan Thoại), ví dụ: suuliu (nhựa, từ bản địa là kůika), nangku (phích nước, từ bản địa là kaloon haba, "bình nóng"). Trong một số trường hợp, những từ mượn gốc Nga/Trung có thể đã được tiếng Khamnigan tiếp nhận thông qua các phương ngữ tiếng Mông Cổ.
Chữ viết
Chữ Kirin được sử dụng để viết tiếng Mông Cổ Khamnigan.
Các chữ kép дж và дз chỉ dùng tại Nga. Tại Mông Cổ, chúng được viết lần lượt là chữ ж và з đơn.
Số đếm
Tất cả đều là từ bản địa, và ngoại trừ koir, đều có loại hậu tố -n không ổn định.
Xem thêm
Người Khamnigan
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tóm tắt về tiếng Khamnigan tại World Atlas of Language Structures
Ngôn ngữ Trung Mông Cổ
Ngữ hệ Mông Cổ
Ngôn ngữ tại Trung Quốc
Ngôn ngữ tại Nga
Ngôn ngữ tại Mông Cổ
Ngôn ngữ hỗn hợp
|
19851869
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20lo%C3%A0i%20Psilocybe
|
Danh sách loài Psilocybe
|
Đây là danh sách các loài thuộc chi Psilocybe.
A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V U W X Y Z
A
Psilocybe acadiensis (Smith)
Psilocybe acutipilea (Speg.) Guzmán, hướng thần
Psilocybe aerugineomaculans (Hohn.) Singer & A.H. Smith
Psilocybe allenii Borov., Rockefeller & P.G.Werner
Psilocybe alutacea Y.S. Chang & A.K. Mills
Psilocybe angulospora Yen W. Wang & S.S. Tzean
Psilocybe angustipleurocystidiata Guzmán, hướng thần
Psilocybe antioquiensis Guzmán, Saldarr., Pineda, G. Garcia & L.-F. Velazquez, hướng thần
Psilocybe atlantis Guzmán, Hanlin & C. White, hướng thần
Psilocybe aquamarina (Pegler) Guzmán
Psilocybe araucariicola P. S. Silva, có thể có tính hướng thần
Psilocybe aucklandiae Guzmán, C.C. King & Bandala, hướng thần
Psilocybe aztecorum R. Heim
Psilocybe aztecorum var. bonetii (Guzman) Guzmán (còn có tên. Psilocybe bonetii Guzmán)
Psilocybe azurescens Stamets & Gartz
B
Psilocybe baeocystis Singer & A.H. Smith
Psilocybe banderillensis Guzmán
Psilocybe bohemica Šebek
Psilocybe brasiliensis Guzmán
Psilocybe brunneocystidiata Guzmán & Horak
C
Psilocybe cabiensis Guzmán, M.Torres & Ram.-Guill
Psilocybe caeruleoannulata Singer ex Guzmán
Psilocybe caerulescens
Psilocybe caerulescens Murrill var. caerulescens
Psilocybe caerulescens var. ombrophila (R. Heim) Guzmán
Psilocybe caerulipes (Peck) Sacc.
Psilocybe carbonaria Singer
Psilocybe chiapanensis Guzmán
Psilocybe chuxiongensis T.Ma & K.D.Hyde
Psilocybe cinnamomea J.F.Liang, Yang K.Li & Ye Yuan – China
Psilocybe collybioides Singer & A.H. Smith
Psilocybe columbiana Guzmán
Psilocybe congolensis Guzmán
Psilocybe coprinifacies (Rolland) Pouzar s. auct., non s. Herink, non s. Krieglsteiner
Psilocybe cordispora R. Heim
Psilocybe cubensis (Earle) Singer
Psilocybe cyanescens Wakef. (non sensu Krieglsteiner)
Psilocybe cyanofibrillosa Guzmán & Stamets
D
Psilocybe dumontii Singer ex Guzmán
E
Psilocybe egonii Guzmán & T.J. Baroni
Psilocybe eximia E. Horak & Desjardin
F
Psilocybe fagicola R. Heim & Cailleux
Psilocybe farinacea Rick ex Guzmán (còn có tên. Psilocybe albofimbriata (Rick) Singer)
Psilocybe fasciata Hongo
Psilocybe ferrugineolateritia Smith
Psilocybe fimetaria (P.D. Orton) Watling (còn có tên. Stropharia fimetaria P.D. Orton)
Psilocybe fuliginosa (Murrill) A.H. Smith
Psilocybe furtadoana Guzmán
Psilocybe fuscofulva Peck, không có tính hướng thần
G
Psilocybe galindoi Guzmán, Nova, Hedwigia
Psilocybe gallaeciae Guzmán
Psilocybe graveolens Peck
Psilocybe guatapensis Guzmán, Saldarriaga, Pineda, Garcia & Velazquez
Psilocybe guilartensis Guzmán, Tapia & Nieves-Rivera
H
Psilocybe heimii Guzmán
Psilocybe herrerae Guzmán
Psilocybe hispanica Guzmán
Psilocybe hoogshagenii R. Heim var. hoogshagenii (còn có tên. Psilocybe caerulipes var. gastonii Singer; Psilocybe zapotecorum R. Heim s. Singer)
Psilocybe hoogshagenii R. Heim var. convexa Guzmán (còn có tên. Psilocybe semperviva R. Heim & Cailleux)
I
Psilocybe inconspicua Guzmán & Horak
Psilocybe indica Sathe & J.T. Daniel
Psilocybe isabelae Guzmán
J
Psilocybe jacobsii Guzmán
Psilocybe jaliscana Guzmán
K
Psilocybe keralensis K.A. Thomas, Manim. & Guzmán
Psilocybe kumaenorum R. Heim
L
Psilocybe laurae Guzmán
Psilocybe lazoi Singer
Psilocybe liniformans var. liniformans Guzmán & Bas
Psilocybe liniformans var. americana Guzmán & Stamets
M
Psilocybe magnispora E. Horak, Guzmán & Desjardin
Psilocybe mairei Singer (còn có tên. Hypholoma cyanescens Maire; Geophila cyanescens (Maire) Kuhner & Romagn.; non Psilocybe cyanescens s. Krieglsteiner]
Psilocybe makarorae Johnst. & Buchanan
Psilocybe mammillata (Murrill) A.H. Smith
Psilocybe medullosa (Bres.) Borovička
Psilocybe meridensis Guzmán
Psilocybe meridionalis Guzmán, Ram.-Guill. & Guzm.-Dáv.
Psilocybe mescaleroensis Guzmán, Walstad, E. Gándara & Ram.-Guill.
Psilocybe mesophylla Guzmán, J. Q. Jacobs & Escalona
Psilocybe mexicana R. Heim
Psilocybe moseri Guzmán
Psilocybe muliercula Singer & A.H. Smith (còn có tên. Psilocybe wassonii R. Heim)
N
Psilocybe natalensis Gartz, Reid, Smith & Eicker
Psilocybe natarajanii Guzmán (còn có tên. Psilocybe aztecorum var. bonetii (Guzman) Guzmáns. Natarajan & Raman]
O
Psilocybe oaxacana Guzmán, Escalona & J. Q. Jacobs*
Psilocybe ovoideocystidiata Guzmán et Gaines
P
Psilocybe papuana Guzmán & Horak
Psilocybe paulensis (Guzmán & Bononi) Guzmán (còn có tên. Psilocybe banderiliensis var. paulensis Guzmán & Bononi)
Psilocybe pelliculosa (A.H. Smith) Singer & A.H. Smith
Psilocybe pericystis Singer
Psilocybe pintonii Guzmán
Psilocybe pleurocystidiosa Guzmán
Psilocybe plutonia (Berk. & M.A. Curtis) Sacc.
Psilocybe portoricensis Guzmán, Tapia & Nieves-Rivera
Psilocybe pseudoaztecorum Natarajan & Raman (còn có tên. Psilocybe aztecorum var. aztecorum sensu Natarajan & Raman; Psilocybe subaztecorum''' Guzmán, 1995)
Psilocybe puberula Bas & Noordel.
Q
Psilocybe quebecensis Ola'h & R. Heim
R
Psilocybe rickii Guzmán & Cortez
Psilocybe rostrata (Petch) Pegler
Psilocybe ruiliensis Psilocybe rzedowskii Guzmán
S
Psilocybe samuiensis Guzmán, Bandala & Allen
Psilocybe schultesii Guzmán & S.H. Pollock
Psilocybe semiangustipleurocystidiata Guzmán, Ram.-Guill. & M.Torres
Psilocybe semilanceata (Fr. : Secr.) Kumm. (còn có tên. Psilocybe semilanceata var. caerulescens (Cooke) Sacc.: Psilocybe cookei Singer; non Psilocybe callosa (Fr. : Fr.) Quel., which is Psilocybe strictipes Singer & A.H. Smith]
Psilocybe septentrionalis (Guzman) Guzmán (còn có tên. Psilocybe subaeriginascens Hohn. var. septentrionalis Guzmán )
Psilocybe serbica Moser & Horak (non ss. Krieglsteiner)
Psilocybe sierrae Singer (còn có tên. Psilocybe subfimetaria Guzmán & A.H. Sm.)
Psilocybe silvatica (Peck) Singer & A.H. Smith
Psilocybe singeri Guzmán
Psilocybe singularis Guzmán, Escalona & J. Q. Jacobs
Psilocybe strictipes Singer & A.H. Smith (còn có tên. Psilocybe callosa (Fr. : Fr.) Quel. s.Guzmán, 1983; Psilocybe semilanceata var. obtusa Bon; Psilocybe semilanceata var. microspora Singer)
Psilocybe stuntzii Guzmán & Ott
Psilocybe subacutipilea Guzmán, Saldarriaga, Pineda, Garcia & Velazquez
Psilocybe subaeruginascens Hohn. var. subaeruginascens Psilocybe subaeruginosa Cleland
Psilocybe subcaerulipes Hongo
Psilocybe subcubensis Guzmán
Psilocybe subheliconiae Guzmán, Ram.-Guill. & M.Torres
Psilocybe subhoogshagenii Guzmán, M.Torres & Ram.-Guill.
Psilocybe subpsilocybioides Guzmán, Lodge & S.A. Cantrell
Psilocybe subtropicalis Guzmán
T
Psilocybe tampanensis Guzmán & S.H.PollockPsilocybe tasmaniana Guzmán & Watling
Psilocybe thaicordispora Guzmán, Ram.-Guill. & Karun.
Psilocybe thaiaerugineomaculans Guzmán, Karun. & Ram.-Guill.
Psilocybe thaiduplicatocystidiata Guzmán, Karun. & Ram.-Guill.
Psilocybe tuxtlensis Guzmán 1983
U
Psilocybe uruguayensis Singer ex Guzmán
Psilocybe uxpanapensis Guzmán
V
Psilocybe venenata (S. Imai) Imaz. & Hongo (còn có tên. Stropharia caerulescens S. Imai)
Psilocybe verae-crucis Guzmán & Perez-Ortiz
W
Psilocybe washingtonensis A.H.Sm.
Psilocybe wayanadensis K.A. Thomas, Manim. & Guzmán
Psilocybe weldenii Guzmán
Psilocybe weraroa Borov., Oborník & Noordel.
Psilocybe weraroa var. subsecotioides Y
Psilocybe yungensis Singer & A.H. Smith (còn có tên. Psilocybe yungensis var. diconica Singer & A.H. Smith; Psilocybe yungensis var. acutopapillata Singer & A.H. Smith; Psilocybe isaurii Singer; Psilocybe acutissima R. Heim; Psilocybe subyungensis Guzmán)
Z
Psilocybe zapotecoantillarum Guzmán, T.J. Baroni & Lodge
Psilocybe zapotecocaribaea Guzmán, Ram.-Guill. & T.J. Baroni
Psilocybe zapotecorum R. Heim emend. Guzmán (còn có tên. Psilocybe candidipes Singer & A.H. Sm., Psilocybe aggericola Singer & A.H. Sm., Psilocybe aggericola var. alvaradoi Singer & A.H. Sm., Psilocybe zapotecorum f. elongata R. Heim, Psilocybe bolivarii Guzmán, Psilocybe barrerae Cifuentes & Guzmán, Psilocybe sanctorum Guzmán, Psilocybe microcystidiata Guzmán & Bononi, Psilocybe zapotecorum var. ramulosum Guzmán & Bononi, Psilocybe zapotecorum var. ramulosa Guzmán & Bononi, Psilocybe ramulosa Guzmán & Bononi, Psilocybe subzapotecorum Guzmán, Psilocybe pseudozapotecorum Guzmán, and Psilocybe chaconii'' Guzmán, Escalona & Ram.-Guill.)
Xem thêm
Nấm psilocybin
Tham khảo
|
19851871
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C6%B0%C6%A1ng%20r%E1%BB%93ng%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%20th%E1%BA%A7n
|
Xương rồng hướng thần
|
Nhiều loại xương rồng được biết đến là có tác dụng hướng thần, có chứa các alkaloid phenethylamine như mescaline. Tuy nhiên, hai chi chính mang tính nghi lễ (dân gian) là Echinopsis, trong đó các loài có hoạt tính hướng thần mạnh nhất xuất hiện trong nhóm xương rồng San Pedro (bao gồm Echinopsis pachanoi, đồng nghĩa Trichocereus pachanoi, Echinopsis peruviana, đồng nghĩa Trichocereus peruvianus và Echinopsis lageniformis, đồng nghĩa Trichocereus bridgeii) và Lophophora, với Lophophora williamsii là loài có hoạt tính hướng thần mạnh nhất. Một số loài khác thuộc các chi khác cũng có hoạt tính hướng thần, mặc dù không phải lúc nào cũng được sử dụng với mục đích nghi lễ.
Loài
Xương rồng cầu
Lophophora williamsii (peyote)
Các "peyote" khác
Ariocarpus fissuratus
Coryphantha compacta (syn. C. palmeri)
Pelecyphora aselliformis
Pelecyphora strobiliformis
Lophophora diffusa
Ariocarpus retusus
Ariocarpus agavoides; kotschoubeyanus; và các loài khác
Astrophytum asterias; capricorne; myriostigma; và các loài khác
Aztekium ritteri; và các loài khác
Coryphantha elephantidens; macromeris (var. runyonii); palmeri; và các loài khác
Echinocactus grandis; grusonii; platyacanthus; visnaga; và các loài khác
Epithelantha micromeris; và các loài khác
Leuchtenbergia principis'''; và các loài khácLophophora speciesMammillaria craigii; grahamii (var. oliviae); heyderi; (Dolichothele) longimamma; (Solisia) pectinifera; (Mamillopsis) senilis; sonorensis; và các loài khácObregonia denegriiStrombocactus disciformisTurbinicarpus laui; lophophoroides; jauernigii; (Pelecyphora) pseudopectinatus; schmiedickeanus; và các loài khác
Khác
Các loại xương rồng có hoạt tính hướng thần và/hoặc dược liệu khác ở Bắc Mỹ.Carnegiea giganteaEchinocereus salm-dyckianus (var. scheeri); triglochidiatus; và các loài khácPachycereus pecten-aboriginum; pringleiXương rồng hình cây và hình cột
EchinopsisEchinopsis lageniformis (syn. Trichocereus bridgesii)Echinopsis macrogona (syn. Trichocereus macrogonus), > 0.01-0.05% MescalineEchinopsis pasacana ssp. atacamensisEchinopsis pachanoi (syn. Trichocereus pachanoi)Echinopsis peruviana (syn. Trichocereus peruvianus)Echinopsis scopulicola (syn. Trichocereus scopulicolus), 0.82% mescaline theo khối lượng khô trong lớp xanh bên ngoài.Echinopsis spachiana (syn. Trichocereus spachianus), Mescaline; MescalineEchinopsis tacaquirensis subsp. taquimbalensis (syn. Trichocereus taquimbalensis), > 0.005-0.025% mescalineEchinopsis terscheckii (syn. Trichocereus terscheckii, Trichocereus werdemannianus) > 0.005-0.025% Mescaline; mescaline 0.01%-2.375%
Echinopsis valida (syn. E. validus), 0.025% mescalineEchinopsis werdermannianusKhác
Các loại xương rồng có hoạt tính hướng thần và/hoặc dược liệu khác ở Nam Mỹ
Austrocylindropuntia cylindrica (syn. Opuntia cylindrica), MescalineArmatocereus laetusBrowningia spp.
Cylindropuntia echinocarpa (syn. Opuntia echinocarpa), Mescaline 0.01%, DMPEA 0.01%, 4-hydroxy-3-5-dimethoxyphenethylamine 0.01%
Cylindropuntia spinosior (syn. Opuntia spinosior), Mescaline 0.00004%, 3-methoxytyramine 0.001%, tyramine 0.002%, 3-4-dimethoxyphenethylamine.Epostoa lanataMatucana madisoniorumNeoraimondia macrostibasOpuntia acanthocarpa MescalineOpuntia basilaris Mescaline 0.01%, plus 4-hydroxy-3-5-dimethoxyphenethylamineSelenicereus grandiflorusStetsonia coryne''
Xem thêm
N,N-Dimethyltryptamine
Nấm psilocybin
Tham khảo
Liên kết ngoài
www.cactus-mall.com
Thực vật Texas
Thực vật New Mexico
Thực vật Đông Bắc México
Thực vật Zacatecas
|
19851877
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Exhuma%3A%20Qu%E1%BA%ADt%20m%E1%BB%99%20tr%C3%B9ng%20ma
|
Exhuma: Quật mộ trùng ma
|
Exhuma: Quật mộ trùng ma (tên , Tiếng Anh: Exhuma) là bộ phim thần bí, kỳ bí và giật gân của Hàn Quốc được đạo diễn và biên kịch bởi Jang Jae-hyun với sự tham gia diễn xuất của Choi Min-sik, Kim Go-eun, Yoo Hae-jin và Lee Do-hyun. Bộ phim sẽ kể về việc khai quật một ngôi mộ đáng nghi ngại và những hậu quả khủng khiếp được chôn giấu bên dưới đó.
Bộ phim đã được chọn trong phần Diễn đàn tại Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 74 tổ chức từ ngày 15 đến 25 tháng 2 năm 2024, nơi mà bộ phim sẽ được công chiếu toàn cầu. Tại thị trường Hàn Quốc và Việt Nam, bộ phim được ấn định ngày công chiếu tại các rạp lần lượt là ngày 22 tháng 2, 2024 và 15 tháng 3, 2024.
Diễn viên
Choi Min-sik thủ vai Kim Sang-deok, một thầy phong thủy
Kim Go-eun thủ vai Hwa-rim, một pháp sư
Yoo Hae-jin thủ vai Yeong-geun, một người hộ tang
Lee Do-hyun thủ vai Bong-gil, một pháp sư
Phát hành
Exhuma: Quật mộ trùng ma sẽ được công chiếu toàn cầu vào tháng 2, 2024 như là một phần của Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 74 tại Diễn đàn.
Bộ phim cũng sẽ được phát hành tại Hàn Quốc bởi Showbox Co., Ltd vào ngày 22 tháng 2 năm 2024. Tại thị trường Việt Nam, phim sẽ ra mắt vào ngày 15 tháng 3 năm 2024 và được phân phối bởi Galaxy Studio.
Nguồn
Liên kết ngoài
Exhuma at Berlinale
Phim năm 2024
Phim tiếng Triều Tiên
Phim Hàn Quốc
Phim thập niên 2020
Phim kỳ bí
Phim chính kịch
|
19851880
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pin%20s%C6%A1%20c%E1%BA%A5p
|
Pin sơ cấp
|
Pin sơ cấp là pin (pin Galvanic) được thiết kế để sử dụng một lần và loại bỏ, không thể sạc lại bằng điện và tái sử dụng như pin thứ cấp (pin sạc). Nói chung, phản ứng điện hóa xảy ra trong tế bào (cell) là không thể đảo ngược, khiến tế bào không thể sạc lại được. Khi sử dụng pin sơ cấp, các phản ứng hóa học trong pin sẽ sử dụng hết các hóa chất tạo ra năng lượng; khi chúng không còn nữa, pin sẽ ngừng sản xuất điện. Ngược lại, trong pin thứ cấp, phản ứng có thể được đảo ngược bằng cách cho dòng điện chạy vào tế bào bằng bộ sạc pin để sạc lại, tái tạo các chất phản ứng hóa học. Các tế bào sơ cấp được sản xuất với nhiều kích cỡ tiêu chuẩn để cung cấp năng lượng cho các thiết bị gia dụng nhỏ như đèn pin và radio cầm tay.
Pin sơ cấp chiếm khoảng 90% trong thị trường pin trị giá 50 tỷ USD, nhưng pin thứ cấp đang giành được thị phần. Khoảng 15 tỷ pin sơ cấp bị vứt đi trên toàn thế giới mỗi năm, hầu như tất cả đều nằm ở bãi rác. Do chứa các kim loại nặng độc hại, acid và kiềm mạnh nên pin là chất thải nguy hại. Hầu hết các thành phố đều phân loại chúng như vậy và yêu cầu xử lý riêng. Năng lượng cần thiết để sản xuất pin lớn hơn khoảng 50 lần năng lượng chứa trong đó. Do hàm lượng chất gây ô nhiễm cao so với hàm lượng năng lượng nhỏ nên pin sơ cấp bị coi là công nghệ lãng phí, không thân thiện với môi trường. Chủ yếu là do doanh số bán các thiết bị không dây và công cụ không dây không thể cung cấp năng lượng tiết kiệm bằng pin chính ngày càng tăng và đi kèm với pin sạc tích hợp, ngành công nghiệp pin thứ cấp đã có mức tăng trưởng cao và đang dần thay thế pin chính trong các sản phẩm cao cấp.
Xu hướng sử dụng
Vào đầu thế kỷ XXI, các loại pin sơ cấp bắt đầu mất thị phần vào tay các loại pin thứ cấp do chi phí tương đối của tế bào thứ cấp giảm. Nhu cầu năng lượng của đèn pin đã giảm nhờ việc chuyển từ bóng đèn sợi đốt sang diode phát sáng.
Thị trường còn lại phải chịu sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các phiên bản riêng hoặc không có nhãn hiệu. Thị phần của hai nhà sản xuất hàng đầu Hoa Kỳ là Energizer và Duracell đã giảm xuống còn 37% vào năm 2012. Cùng với Rayovac, ba nhà sản xuất này đang cố gắng chuyển người tiêu dùng từ kẽm–carbon sang pin kiềm đắt tiền hơn, bền hơn.
Các nhà sản xuất pin phương Tây đã chuyển hoạt động sản xuất ra nước ngoài và không còn sản xuất pin kẽm–carbon ở Hoa Kỳ nữa.
Trung Quốc đã trở thành thị trường pin lớn nhất, với nhu cầu được dự đoán sẽ tăng nhanh hơn bất kỳ nơi nào khác và cũng đã chuyển sang sử dụng pin kiềm. Ở các nước đang phát triển khác, pin dùng một lần phải cạnh tranh với các thiết bị chạy bằng năng lượng gió và sạc giá rẻ đang ngày càng phổ biến.
So sánh giữa pin sơ cấp và pin thứ cấp
Các pin thứ cấp (pin sạc) nói chung sử dụng tiết kiệm hơn so với các tế bào sơ cấp. Chi phí ban đầu cao hơn và chi phí mua hệ thống sạc có thể được dàn trải theo nhiều chu kỳ sử dụng (từ 100 đến 1000 chu kỳ); ví dụ, trong các dụng cụ điện cầm tay, sẽ rất tốn kém nếu thay thế bộ pin chính dung lượng cao sau mỗi vài giờ sử dụng.
Pin sơ cấp không được thiết kế để sạc lại giữa quá trình sản xuất và sử dụng, do đó, thành phần hóa học của pin phải có tốc độ tự xả thấp hơn nhiều so với các loại pin thứ cấp cũ hơn; nhưng họ đã mất đi lợi thế đó khi phát triển các loại pin thứ cấp có thể sạc lại với tốc độ tự phóng điện rất thấp như pin NiMH, có khả năng giữ điện đủ lâu để bán dưới dạng sạc trước.
Các loại pin thứ cấp phổ biến (cụ thể là NiMH và Li-ion) do điện trở trong thấp hơn nhiều nên không bị mất công suất lớn như kiềm, kẽm carbon và kẽm chloride ("pin nặng" hoặc "pin siêu nặng") gây ra với dòng điện cao.
Pin dự trữ đạt được thời gian lưu trữ rất dài (có thể từ 10 năm trở lên) mà không bị giảm dung lượng, bằng cách tách rời các bộ phận của pin một cách vật lý và chỉ lắp ráp chúng khi sử dụng. Những công trình như vậy đắt tiền nhưng được sử dụng trong các ứng dụng như đạn dược, có thể được lưu trữ trong nhiều năm trước khi sử dụng.
Phân cực
Yếu tố chính làm giảm tuổi thọ của tế bào sơ cấp là chúng bị phân cực trong quá trình sử dụng. Điều này có nghĩa là hydro tích tụ ở cực âm và làm giảm hiệu quả của tế bào. Để giảm tác động của sự phân cực trong các tế bào thương mại và kéo dài tuổi thọ của chúng, phương pháp khử cực hóa học được sử dụng; nghĩa là, một tác nhân oxy hóa được thêm vào tế bào để oxy hóa hydro thành nước. Mangan dioxide được sử dụng trong tế bào Leclanché và tế bào kẽm–carbon, và acid nitric được sử dụng trong tế bào Bunsen và tế bào Grove.
Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để làm cho các tế bào đơn giản tự khử cực bằng cách làm nhám bề mặt của tấm đồng để tạo điều kiện cho việc tách bong bóng hydro nhưng ít thành công. Khử cực điện hóa trao đổi hydro lấy kim loại, chẳng hạn như đồng (ví dụ như pin Daniell) hoặc bạc (ví dụ như pin oxide bạc).
Thuật ngữ
Cực dương và cực âm
Cực pin (điện cực) phát triển cực điện áp dương (điện cực carbon trong pin khô) được gọi là cực âm và điện cực có cực âm (kẽm trong pin khô) được gọi là cực dương. Đây là sự đảo ngược của thuật ngữ được sử dụng trong pin điện phân hoặc ống chân không nhiệt điện. Lý do là các thuật ngữ cực dương và cực âm được xác định bởi hướng của dòng điện chứ không phải bởi điện áp của chúng. Cực dương là cực mà qua đó dòng điện thông thường (điện tích dương) đi vào tế bào từ mạch ngoài, trong khi cực âm là cực mà qua đó dòng điện thông thường rời khỏi tế bào và chạy vào mạch ngoài. Vì pin là nguồn điện cung cấp điện áp để cho dòng điện chạy qua mạch ngoài nên điện áp trên cực âm phải cao hơn điện áp trên cực dương, tạo ra một điện trường hướng từ cực âm sang cực dương, để buộc điện tích dương ra khỏi cực âm thông qua điện trở của mạch ngoài.
Bên trong pin, cực dương là điện cực nơi xảy ra quá trình oxy hóa, vì nó cho các electron đi ra khỏi nó vào mạch ngoài. Cực âm là điện cực nơi xảy ra quá trình khử hóa học vì nó nhận các electron từ mạch điện.
Bên ngoài tế bào, thuật ngữ khác nhau được sử dụng. Khi cực dương truyền điện tích dương cho chất điện phân (do đó còn lại lượng electron dư mà nó sẽ tặng cho mạch điện), nó sẽ tích điện âm và do đó được kết nối với cực được đánh dấu "−" ở bên ngoài tế bào. Trong khi đó, cực âm cung cấp điện tích âm cho chất điện phân, do đó nó trở nên tích điện dương (cho phép nó nhận electron từ mạch điện) và do đó được kết nối với cực được đánh dấu "+" ở bên ngoài pin.
Sách giáo khoa cũ đôi khi chứa các thuật ngữ khác nhau có thể gây nhầm lẫn cho người đọc hiện đại. Ví dụ, sách giáo khoa năm 1911 của Ayrton và Mather mô tả các điện cực là "tấm dương" và "tấm âm".
Xem thêm
Lịch sử của pin
Pin
Tái chế pin
Danh sách kích thước pin
Danh sách các loại pin
So sánh các loại pin
Chú thích
Pin
|
19851928
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Daisen%2C%20Tottori
|
Daisen, Tottori
|
là thị trấn thuộc huyện Saihaku, tỉnh Tottori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 15.370 và mật độ dân số là 81 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 189,83 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Tottori
Yonago
Kōfu
Hōki
Kotoura
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Tottori
|
19851935
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A2y%20S%E1%BB%9F%20H%E1%BB%AFu%20Ch%C3%ADnh%20M%C3%ACnh
|
Cây Sở Hữu Chính Mình
|
Cây Sở Hữu Chính Mình (Tree That Owns Itself) là một cây sồi trắng mà theo truyền thuyết, có quyền sở hữu pháp lý đối với chính nó và tất cả đất trong bán kính 2,4 m (8 ft) xung quanh cây. Có tên gọi khác là là Cây sồi Jackson, cây này ở ngã tư Phố South Finley và Dearing ở Athens, Georgia, Mỹ. Cây nguyên bản, được cho là đã bắt đầu sống từ khoảng thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 18, đã bị đổ vào năm 1942. Một cây mới được trồng từ một hạt giống của cây cũ tại cùng vị trí đó và tồn tại tới ngày nay, đôi khi được gọi là Con của Cây Sở Hữu Chính Mình (Son of the Tree That Owns Itself). Cả hai cây đã xuất hiện trên nhiều ấn phẩm quốc gia Hoa và cây này là một địa điểm nổi tiếng địa phương.
Tham khảo
"I Am So Great" by Cecily Iddings, a poem referencing the Tree That Owns Itself
Hoa Kỳ
|
19851939
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Bachtobel
|
Lâu đài Bachtobel
|
Lâu đài Bachtobel là một lâu đài ở đô thị Weinfelden thuộc bang Thurgau của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ.
Xem thêm
Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ
Tham khảo
Bachtobel
|
19851940
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Jeanjaquet
|
Lâu đài Jeanjaquet
|
Lâu đài Jeanjaquet là một lâu đài ở đô thị Cressier thuộc bang Neuchâtel của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ.
Xem thêm
Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ
Château
Tham khảo
Lâu đài Thụy Sĩ
|
19851944
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20ph%E1%BB%A9c%20h%E1%BB%A3p%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20Seoul
|
Khu phức hợp Chính phủ Seoul
|
Khu phức hợp Chính phủ Seoul (Tiếng Hàn: 정부서울청사, Hanja: 政府서울廳舍), trước đây gọi là Khu phức hợp Chính phủ Trung ương (Tiếng Hàn: 정부중앙청사) là khu phức hợp tòa nhà văn phòng chính phủ ở Jongno-gu, Seoul, Hàn Quốc.
Nó có một tòa nhà chính và hai tòa nhà phụ. Vào năm 2022, khu phức hợp này được một số Bộ của Hàn Quốc sử dụng, bao gồm Ủy ban Dịch vụ Tài chính, Bộ Hành chính và An ninh và Bộ Thống nhất.
Giao thông
Tàu điện ngầm
● Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 3 : Ga Gyeongbokgung
● Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 5 : Ga Gwanghwamun
Xe bus
● Số 111, Số 1002, Số 790, Số 799 (Xe bus đô thị Gyeonggi-do)
● Số 1711, Số 7016, Số 7018, Số 7022, Số 7212, Số Jongno 09, Số Jongno 11 (Xe bus xanh, xe bú làng)
● Số 101, Số 103, Số 109, Số 150, Số 160, Số 260, Số 270, Số 271, Số 273, Số 370, Số 401, Số 402, Số 405, Số 406, Số 421, Số 470, Số 471, Số 501, Số 506, Số 600, Số 602, Số 606, Số 700, Số 702A, Số 702B, Số 703, Số 704, Số 707, Số 710, Số 720, Số 721 (Xe trung chuyển)
● Số 1000, Số 1005-1, Số 1200, Số 1900, Số 2000, Số 2500, Số 5500-1, Số 5500-2, Số 8600, Số 9401, Số 9401, Số 9703, Số 9709, Số 9714 (Xe bus diện rộng)
● Số M7106, Số M7111, Số M7119 (Xe bus tốc hành đô thị)
● Số 6002, Số 6701 (Xe bus sân bay)
Xem thêm
Khu phức hợp Chính phủ Daejeon
Bộ Hành chính và An ninh (Hàn Quốc)
Tham khảo
Công trình xây dựng hoàn thành năm 1970
|
19851945
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%82u%202000%20%28B%E1%BA%A3ng%20A%29
|
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2000 (Bảng A)
|
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2000 (bảng A) bắt đầu từ ngày đến ngày . Kết thúc vòng bảng, giành vị trí nhất bảng, nhì bảng; đây cũng là hai đội giành quyền vào tứ kết. Còn và lần lượt đứng thứ ba và thứ tư tại bảng đấu; hai đội bị loại.
Các đội bóng
Notes
Bảng xếp hạng
Các trận đấu
Đức vs Romania
Bồ Đào Nha vs Anh
</onlyinclude>
Romania vs Bồ Đào Nha
Anh vs Đức
Anh vs Romania
Bồ Đào Nha vs Đức
Xem thêm
Chú thích
Liên kết ngoài
UEFA Euro 2000 Group A
|
19851949
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83n%20T%C4%A9nh%20Phong
|
Tiển Tĩnh Phong
|
Tiển Tĩnh Phong (, ; sinh ngày 15 tháng 5 năm 1998. Là nam ca sĩ sáng tác và diễn viên Hồng Kông, Top 5 của chương trình tìm kiếm tài năng ca hát "Thanh mộng truyền kỳ" mùa 1 của TVB. Hiện tại là nghệ sĩ hợp đồng người quản lý TVB, nam ca sĩ "Âm nhạc Ái Bạo" trực thuộc TVB Music Group. Ngày 11/1/2022 phát hành đơn khúc cá nhân đầu tiên "Sự may mắn của một người" (一個人的幸運), chính thức ra mắt với tư cách cá nhân.
Trải nghiệm cá nhân
Cuộc sống trước khi ra mắt
Tiển Tĩnh Phong từng theo học tại trường Tiểu học La Salle và Trung học La Salle. Năm 2019, Tiển Tĩnh Phong tham gia chương trình tìm kiếm tài năng "Toàn dân tạo tinh II" do ViuTV Hồng Kông tổ chức, vòng thi đấu đầu tiên biểu diễn bài hát "Linh hồn gặp gỡ" (靈魂相認), thành công vào top 60, lần tiếp theo biểu diễn bài hát "Tu luyện tình yêu" (修煉愛情), nhưng vì không được cố vấn nào chọn vào nhóm nên bị loại ở top 48, cuối cùng không thành công ra mắt làm ca sĩ. Năm 2020, tốt nghiệp Đại học Hồng Kông với bằng Cử nhân Quản trị Kinh doanh (Kế toán và Tài chính).
Năm 2020 đến nay: Tham gia "Thanh mộng truyền kỳ" và ra mắt
Trong năm 2020, Tiển Tĩnh Phong tham gia chương trình tìm kiếm tài năng ca hát "Thanh mộng truyền kỳ" do TVB Hồng Kông tổ chức, và chính thức được đào tạo về nhạc pop và biểu diễn sân khấu từ người sáng lập "Học viện âm nhạc Tinh Cách Lưu Hành" - Cao Thần Duy. Trước khi thi đấu anh ấy đã ký hợp đồng hợp đồng người quản lý TVB và hợp đồng ca sĩ với Giải trí Tinh Mộng.
Ngày 19/7/2021, Tiển Tĩnh Phong lấy được số điểm cao nhất từ ban giám khảo nhờ vào bài hát "Điều anh hoài niệm" (我懷念的) trong hiệp 1 đêm chung kết chương trình "Thanh mộng truyền kỳ", cộng thêm số phiếu từ khán giả cuối cùng xếp hạng 4.
Ngày 12-15/8/2021, anh cùng các huấn luyện viên và 14 thí sinh khác biểu diễn 4 ngày trong concert tốt nghiệp "聲·夢飛行 First Live On Stage" tại sân vận động Macpherson Vượng Giác, là concert bán vé công khai đầu tiên mà anh tham gia. Tháng 12 cùng năm, phim âm nhạc học đường TVB "Thanh xuân bản ngã" phát sóng, trong phim đóng vai "Diệp Á Trì", là lần đầu tiên tham gia diễn xuất trong phim truyền hình, và cùng Hà Tấn Lạc hợp tác hát nhạc chủ đề cho phim cùng tên.
Ngày 11/1/2022, Tiển Tĩnh Phong phát hành đơn khúc cá nhân đầu tiên "Sự may mắn của một người" (一個人的幸運), là nam ca sĩ "Âm nhạc Ái Bạo và học viên "Thanh mộng truyền kỳ" đầu tiên ra mắt. Ngày 18 cùng tháng, video biểu diễn bài hát "Đêm tối không đến nữa" (黑夜不再來) mà anh biểu diễn trong tập 9 chương trình "Thanh mộng truyền kỳ" đạt 1 triệu lượt xem trên Youtube.
Quá trình thi đấu
Toàn dân tạo tinh II
Thanh mộng truyền kỳ
Á Châu siêu tinh đoàn
Tác phẩm diễn xuất
Phim truyền hình/ chiếu mạng
Chương trình truyền hình
Tác phẩm âm nhạc
Bài hát sáng tác cho người khác
Thành tích bài hát phát đài
(*)Đang lên bảng
(-)Chưa thể lên bảng
(×)Không có phát đài
Concert
Concert phi cá nhân
Khách mời concert
Giải thưởng và đề cử
Tư liệu tham khảo
Liên kết ngoài
Họ Tiển
Sinh năm 1998
Diễn viên Hồng Kông
Ca sĩ Hồng Kông
Diễn viên của TVB
Thí sinh series Thanh mộng truyền kỳ
LOONG 9
|
19851962
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A2n%20v%E1%BA%ADt%20Mi%E1%BB%81n%20%C4%91%E1%BA%A5t%20h%E1%BB%A9a
|
Danh sách nhân vật Miền đất hứa
|
Đây là danh sách các nhân vật trong bộ truyện tranh Miền đất hứa.
Quan niệm và sáng tạo
Tác giả Kaiu Shirai muốn tạo ra những nhân vật "lạc quan và đầy hy vọng" để lặp lại những anh hùng trong bộ truyện của Weekly Shōnen Jump. Anh cho rằng Emma là hình ảnh thu nhỏ của thái độ tích cực, Norman là trụ cột của nhóm còn Ray thì có tính cách trái ngược và đen tối hơn. Ban đầu, Emma là một nhân vật kém quyết đoán và năng động, Norman có tâm trạng "nhẹ nhàng" hơn, còn Ray thì "cực đoan hơn", nhưng Shirai và biên tập viên của bộ truyện, Suguru Sugita, đã quyết định điều chỉnh các đặc điểm và tính cách của các nhân vật, điều gì đó, theo Sugita, vẫn tiếp tục khi series tiếp tục. Sugita nghĩ rằng nhân vật nữ chính sẽ không đủ nổi tiếng để được đăng nhiều kỳ trên tạp chí shōnen và đề nghị Shirai thay đổi bối cảnh nhân vật, tạo một phiên bản mà Emma là con trai, nhưng không thành công. Sugita sau đó cho rằng vì các bộ phim của Studio Ghibli, trong đó có các nhân vật nữ chính và một nhân vật nam hỗ trợ cô, rất nổi tiếng trên toàn thế giới nên họ nghĩ rằng việc có một nhân vật nữ chính sẽ không thành vấn đề. Theo Shirai, việc lựa chọn Emma làm nhân vật chính trong bộ truyện tranh chủ yếu là do anh quan tâm đến việc khám phá mối quan hệ đối lập giữa mẹ và con gái hơn là sự đối lập giữa mẹ và con trai. Anh ấy nói thêm rằng, khi còn là một cô gái, Emma có quyền lựa chọn trở thành "Mẹ" hoặc cố gắng chạy trốn, và đối với Shirai, điều đó thú vị hơn về mặt cốt truyện.
Shirai đã tạo ra nền tảng các bức vẽ với hình ảnh và biểu cảm của từng nhân vật và họa sĩ của manga, Posuka Demizu, đã tinh chỉnh các đặc điểm và thái độ của họ. Demizu xen kẽ hai phong cách vẽ dành cho trẻ em và ác quỷ. Cô thích vẽ cả hai, vì trẻ em khiến cô nhớ lại khoảng thời gian cô đang vẽ tranh minh họa và lũ quỷ xuất hiện theo sở thích cá nhân vì "tất cả những điều đó thật tuyệt vời và đáng sợ". Demizu cũng đã thiết kế quái vật cho trò chơi điện tử. Theo Shirai, họ đã sớm hình dung ra thiết kế của những con quỷ và các nhân vật mới, để có thời gian suy nghĩ kỹ về nó và không vội vã theo nhịp độ xuất bản hàng tuần. Tuy nhiên, Demizu đã hoàn thành xong các nhân vật trong một hoặc hai ngày, như Shirai đã đề cập làm ví dụ rằng thiết kế con ngựa của Sonju được hình thành, sản xuất và xác nhận trong một ngày. Shirai nhấn mạnh rằng anh hiếm khi thấy ai nhanh nhẹn và tự tin như Demizu.
Nhân vật chính
Emma (エマ, Ema)
Lồng tiếng bởi: Sumire Morohoshi
Đóng bởi: Minami Hamabe
Emma là một cô bé 11 tuổi. Cô là một trong những đứa trẻ mồ côi lớn tuổi nhất sống ở Nhà Grace Field. Cô có tính cách lạc quan và tích cực hơn nhiều so với Norman và Ray. Hơn nữa, cô thường xuyên đạt được 300 điểm tối đa trong các bài kiểm tra hàng ngày và thể lực của cô rất cao, nhưng cô muốn theo kịp tốc độ bình thường của mình. Tóc của cô là một loại tóc ngắn màu cam, có hai lọn tóc bay từ đỉnh đầu. Cô có xu hướng duy tâm và cố gắng biến những điều thực tế không thể thành có thể. Cô cũng yêu gia đình mình hơn bất cứ điều gì. Emma đặc biệt được yêu thích trong ngôi nhà, nơi cô chơi đùa và chăm sóc những đứa trẻ nhỏ. Sau khi biết được sự thật, cô hợp sức với các anh chị em của mình trốn khỏi nhà cùng mười bốn đứa trẻ khác.
Ray (レイ, Rei)
Lồng tiếng bởi: Mariya Ise
Đóng bởi: Kairi Jyo
Ray là một cậu bé 11 tuổi sống ở Nhà Grace Field. Cậu là người thực dụng, thường đạt điểm tối đa trong các bài kiểm tra hàng ngày của trại trẻ mồ côi và là một người có kiến thức đọc sách. Sau đó cậu được Emma và Norman kể về kế hoạch trốn khỏi ngôi nhà, nhưng thực tế, cậu đã biết về sự thật và danh tính của ngôi nhà từ khi còn nhỏ. Tương tự như vậy, cậu ta đang bí mật làm gián điệp cho mẹ mình, Isabella. Không chỉ vậy, cậu còn thỏa thuận với bà với tư cách hai bên cộng tác, mang đến cho bà những thông tin mới nhất về cả gia đình. Nhưng cậu ta yêu cầu một phần thưởng cho mỗi nhiệm vụ cậu làm, để chuẩn bị một chiến lược trong bóng tối. Thực ra cậu không thích học hay đọc sách nhiều nhưng vẫn kiên trì để phát huy tối đa giá trị của bản thân, trở thành món hàng đặc biệt của nhà. Lúc đầu, cậu ta từ bỏ trẻ sơ sinh và khăng khăng rằng chỉ những người lớn tuổi mới trốn thoát, nhưng vì Emma không muốn bỏ ai ở lại nên cậu ta bị thuyết phục và hợp tác với cô. Tuy vậy, khi họ trốn thoát khỏi nhà thành công, cậu thề sẽ bảo vệ gia đình mình trong tương lai. Cậu là con ruột của Isabella, bà biết được Ray là con ruột của mình khi cậu luôn hát bài hát của Leslie mà cậu đã nghe khi còn trong bụng bà.
Norman (ノーマン, Nōrman)
Lồng tiếng bởi: Maaya Uchida
Đóng bởi: Rihito Itagaki
Norman là một trong những đứa trẻ mồ côi lớn tuổi nhất sống ở Nhà Grace Field. Cậu ấy là một cậu bé 11 tuổi. Các bài kiểm tra của cậu luôn đạt điểm tối đa. Cậu ta nhắm đến việc trốn khỏi nhà với sự hợp tác của Emma và Ray. Cậu có tính cách tốt bụng, đồng tình với kế hoạch trốn thoát cùng mọi người của Emma, dù cậu ấy nghĩ điều đó gần như là không thể. Hơn nữa, cậu là người lý trí nhất trong số những đứa trẻ và cũng rất giỏi trong việc thương lượng tâm lý. Đột nhiên, có ai đó quyết định rằng cậu sẽ phải được chuyển khỏi trại trẻ mồ côi trước sinh nhật lần thứ 12 của mình. Emma và những người khác tưởng rằng cậu đã chết, nhưng khi Norman được chuyển đi, Peter Ratri xuất hiện với tư cách là cha nuôi của cậu, và được gửi đến một đồn điền mới tên là Lambda Λ7214 để bị nữ hoàng ăn thịt. Cậu ta cũng sống với những đứa trẻ ăn được khác trong một cái cây khổng lồ từng được cho là nơi sinh sống của quỷ và sử dụng tên Minerva để hướng dẫn Emma và những người khác đến với cậu ta.
Nhà Grace Field
Isabella (イザベラ, Izabera)
Lồng tiếng bởi: Yūko Kaida
Đóng bởi: Keiko Kitagawa
Những đứa trẻ trong trại trẻ mồ côi gọi bà là "Mẹ" của chúng, Isabella là một phụ nữ 31 tuổi, người chăm sóc những đứa trẻ ở đó. Bà có làn da trắng, đôi mắt tím và mái tóc dài màu nâu sẫm được buộc thành búi thấp. Isabella sinh ra và lớn lên tại Nhà Grace Field, nơi cô sống một cuộc sống hạnh phúc cho đến khi người yêu của cô, Leslie, bị chuyển đi, điều này mang đến cho cô nỗi đau tột cùng. Không lâu sau khi Leslie rời đi, Isabella phát hiện ra có điều gì đó không ổn với trại trẻ mồ côi khi cô cố gắng chạy trốn, và phát hiện ra rằng 'trại trẻ mồ côi' của cô được bao quanh bởi một vách đá bao quanh nó xa đến mức cô có thể nhìn thấy. 'Mẹ' của cô, Sarah, đã thuyết phục cô rằng việc trốn thoát là không thể và cuộc sống tốt nhất mà cô có thể phấn đấu là trở thành 'mẹ' của những đứa trẻ khác ở trại trẻ mồ côi. Khi Isabella được chuyển đi ở tuổi 12, có lẽ cô đã được biết toàn bộ sự thật và bắt đầu quá trình đào tạo để trở thành 'mẹ' tại Trụ sở chính Grace Field và cuối cùng được giao phụ trách Nhà máy 3. Trong khi tỏ ra vô cùng yêu thương và trìu mến với những người những đứa trẻ khác, bà ta thực sự rất lôi kéo, xảo quyệt và thoạt nhìn có vẻ như hoàn toàn tách biệt với số phận bi thảm của chúng. Sau đó người ta tiết lộ rằng bà là mẹ ruột của Ray, và vì nghĩ rằng việc trốn thoát là không thể nên bà đã cố gắng mang lại cho tất cả những đứa trẻ một cuộc sống hạnh phúc nhất có thể trước khi chúng được chuyển đi. Bà được giữ sống sau cuộc trốn thoát của bọn trẻ nhờ kỹ năng và trí tuệ vượt trội của mình và được đề nghị làm người Bà (Grandma), thay cho việc bà đã bị đổ lỗi việc lũ trẻ trốn thoát. Bà đảm nhận vị trí này, nhưng chỉ để giúp đỡ những đứa trẻ khi chúng chắc chắn sẽ quay lại để giải cứu những đứa em của mình.
Krone (クローネ, Kurōne)
Lồng tiếng bởi: Nao Fujita
Đóng bởi: Naomi Watanabe
Được bọn trẻ biết đến với cái tên "Sister Krone", Krone là một phụ nữ 26 tuổi bất ngờ được giới thiệu để giúp Isabella điều hành trại trẻ mồ côi và mong muốn trở thành mẹ. Cô ấy là một người phụ nữ cao, cơ bắp và đáng sợ. Cô có mái tóc đen ngắn bồng bềnh với đôi mắt nâu, đôi môi căng mọng và làn da ngăm đen. Trong khi vị trí hiện tại của Krone mang lại cho cô một cuộc sống tốt đẹp, cô lại khao khát chiếm đoạt vị trí của mình và trở thành 'Mẹ' tiếp theo của Nhà Grace Field. Giống như Isabella, cô sinh ra và lớn lên tại Grace Field, bên trong tâm cô cực kỳ xảo quyệt, lôi cuốn nhưng lại ẩn chứa vẻ ngoài tình cảm và ấm áp. Điểm khác biệt duy nhất của Krone so với Isabella là sự hung hãn dữ dội, phù hợp với vóc dáng to lớn và đáng sợ của cô. Ban đầu có ý định gây ra một vụ bê bối bằng cách giúp bọn trẻ trốn thoát và gài bẫy Isabella, cô đã tiết lộ thông tin cho Norman và Emma nhiều lần, nhưng cuối cùng lại bị giết bởi Isabella và 'Bà', những người luôn thông đồng với nhau suốt thời gian qua. Trước khi chết, cô để lại cho Norman một Cây bút hứa (Promised pen) từ một đồng minh tên là William Minerva như một minh chứng cho cuộc đấu tranh cuối cùng của cô chống lại cái chết.
Don (ドン, Don)
Lồng tiếng bởi: Shinei Ueki
Đóng bởi: Soma Santoki
Don là một cậu bé 10 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cậu ta có làn da ngăm đen, đôi mắt đen, mái tóc đen ngắn bù xù và vóc dáng khá cao. Don là người ồn ào, nói nhiều và vui tính. Cậu ấy cũng tỏ ra là người có phần cạnh tranh và quan tâm sâu sắc đến gia đình của mình. Cậu và Gilda là hai đứa trẻ đầu tiên được Emma, Ray và Norman chọn để lên kế hoạch trốn thoát. Cậu ta trốn khỏi nhà cùng với những anh chị em còn lại trên 5 tuổi.
Gilda (ギルダ, Giruda)
Lồng tiếng bởi: Lynn
Đóng bởi: Miyu Ando
Gilda là một cô bé 10 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cô ấy có đôi mắt nâu, mái tóc ngắn, thẳng màu ô liu được tạo kiểu bob và đeo kính tròn. Gilda được biết đến là người điềm tĩnh, ít nói và nhút nhát nhưng cũng có khả năng quan sát cao. Cô có cái nhìn sâu sắc và đưa ra những quyết định sáng suốt. Cùng với Emma, Gilda giúp chăm sóc những đứa trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh trong nhà. Cô trốn khỏi nhà cùng với những anh chị em trên 5 tuổi của mình.
Nat (ナット, Natto)
Lồng tiếng bởi: Shizuka Ishigami
Đóng bởi: Fuga Shibazaki
Nat là một cậu bé 9 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cậu ấy có mái tóc ngắn màu nâu vàng, đôi mắt nâu và chiếc mũi cao. Nat là một cậu bé vui tính và hơi tự ái, thích chơi piano các bài hát cho anh chị em của mình nghe. Đôi khi cậu cũng tỏ ra hơi hèn nhát. Cậu ta trốn khỏi nhà cùng với những anh chị em còn lại trên 5 tuổi.
Anna (アンナ, An'na)
Lồng tiếng bởi: Ai Kayano
Đóng bởi: Leilani Akimoto
Anna là một cô bé 9 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cô ấy có đôi mắt xanh và mái tóc dài, thẳng màu vàng được buộc thành hai bím. Anna là một cô gái trong sáng, hiền lành và rất yêu thương gia đình. Mặc dù bản tính trầm lặng nhưng cô có ý chí mạnh mẽ và tốt bụng với mọi người. Cô trốn khỏi nhà cùng với những anh chị em trên 5 tuổi của mình.
Lannion (ラニオン, Ranion)
Lồng tiếng bởi: Yūko Mori
Đóng bởi: Kousei Kimura
Lannion là một cậu bé 7 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cậu bị mất một chiếc răng và có đôi mắt xanh, tàn nhang và mái tóc ngắn màu vàng được tạo kiểu thành một chiếc gai giống như một củ hành tây. Lannion là bạn thân nhất của Thoma và cả hai cùng thích chơi khăm và nghịch ngợm. Cậu ta trốn khỏi nhà cùng với những anh chị em còn lại trên 5 tuổi.
Thoma (トーマ, Tōma)
Lồng tiếng bởi: Mari Hino
Đóng bởi: Motota Mizoguchi
Thoma là một cậu bé 7 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cậu ta bị mất một chiếc răng và có đôi mắt một mí màu xám và mái tóc ngắn màu đen dựng thành ba phần hình bầu dục ở phía trên bên phải và phía dưới bên trái của đầu. Thoma là bạn thân nhất của Lannion và cả hai cùng thích chơi khăm và nghịch ngợm. Cậu ta trốn khỏi nhà cùng với những anh chị em còn lại trên 5 tuổi.
Conny (コニー, Konī)
Lồng tiếng bởi: Ari Ozawa
Đóng bởi: Asada Halo
Conny là một cô bé 6 tuổi trước đây sống tại Nhà Grace Field. Cô bé có đôi mắt xanh và mái tóc vàng được tết thành bím. Cô bé đặc biệt thân thiết với Don và nổi tiếng vì luôn mang theo món đồ chơi nhồi bông yêu thích của mình, Little Bunny, bên mình. Cô được chuyển đi vào tháng 10 năm 2045. Sau khi cô qua đời, thi thể của Conny được Norman và Emma phát hiện, giúp họ nhận ra sự thật đằng sau trại trẻ mồ côi.
Dominic (ドミニク, Dominiku)
Lồng tiếng bởi: Mari Hino
Đóng bởi: Adinan
Dominic là một cậu bé 6 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cậu ấy có làn da rám nắng, mái tóc ngắn màu trắng và đôi mắt nâu to. Dominic là một cậu bé năng động, đã trốn khỏi nhà cùng với những người anh chị em trên 5 tuổi của mình.
Yvette (イベット, Ibetto)
Lồng tiếng bởi: Nao Shiraki
Đóng bởi: Girard Sara
Yvette là một cô bé 5 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cô ấy có mái tóc đen dài, xù xì và đôi mắt nâu. Yvette là một họa sĩ đã trốn khỏi nhà cùng với các anh chị em trên 5 tuổi của mình.
Chris (クリス, Kurisu ) / Christie (クリスティー, Kurisutī)
Lồng tiếng bởi: Hiyori Kono
Đóng bởi: Rupert Palmer
Chris, còn được gọi là "Christie", là một cậu bé 5 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cậu ta có mái tóc ngắn màu xanh đậm và đôi mắt xanh. Chris đầy tò mò và trốn khỏi nhà cùng với những người anh chị em trên 5 tuổi còn lại của mình. Chris dành phần lớn thời gian của nửa sau câu chuyện trong tình trạng hôn mê do bị Andrew và nhóm của anh bắn vào đầu khi họ đột kích vào nơi trú ẩn.
Mark (マルク, Maruku)
Lồng tiếng bởi: Yoshino Aoyama
Đóng bởi: Kit Furuhashi
Mark là một cậu bé 5 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cậu ấy hơi thừa cân và có mái tóc ngắn màu nâu được cắt thành hình bát úp và đôi mắt xanh. Mark thích ăn uống và trốn khỏi nhà cùng với các anh chị em trên 5 tuổi của mình.
Jemima (ジェミマ, Jemima)
Lồng tiếng bởi: Erisa Kuon
Đóng bởi: Ariana
Jemima là một cô bé 5 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cô ấy có làn da ngăm đen, đôi mắt nâu và mái tóc nâu sẫm được búi thấp về phía sau. Jemima là một tay bắn súng siêng năng đã trốn thoát khỏi nhà cùng với những người anh chị em còn lại trên 5 tuổi của cô.
Alicia (アリシア, Arishia )
Lồng tiếng bởi: Yoshino Aoyama
Đóng bởi: Misora Shimura
Alicia là một cô bé 5 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cô ấy có mái tóc vàng được buộc cao thành đuôi ngựa và đôi mắt nâu nhạt. Alicia là một cô nàng tomboy trốn khỏi nhà cùng với những người anh chị em trên 5 tuổi của mình.
Rossi (ロッシ一, Roshi)
Lồng tiếng bởi: Coco Hayashi
Rossi là một cậu bé 5 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cậu ấy có làn da trắng, mái tóc ngắn màu trắng và đôi mắt nhỏ màu xanh lá cây. Rossi là một cậu bé tinh tế, thận trọng và đã trốn khỏi nhà cùng với những người anh chị em còn lại trên 5 tuổi của mình.
Phil (フィル, Firu)
Lồng tiếng bởi: Hiyori Kono
Đóng bởi: Morito Mori
Phil là cậu bé 4 tuổi được coi là thông minh nhất trong số những đứa trẻ 4 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cậu có làn da rám nắng, mái tóc đen ngắn và đôi mắt to màu xanh. Cậu ấy có khả năng quan sát cao và tìm ra sự thật đằng sau trại trẻ mồ côi chỉ bằng cách nghiên cứu lời nói và hành vi của các nhân vật khác. Tuy vậy, cậu không nói gì về điều đó trong trường hợp giả thuyết của mình sai. Cậu ta dẫn tất cả trẻ em từ 4 tuổi trở xuống ở lại trại trẻ mồ côi, trong khi tất cả trẻ em từ 5 tuổi trở lên trốn thoát.
Sherry (シェリー, Sherī ) / Shelly (シェリー, Sherī)
Lồng tiếng bởi: Erisa Kuon
Đóng bởi: Shizuku Ota
Sherry, còn được gọi là "Shelly", là một cô bé 4 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cô có làn da sáng, tàn nhang, mắt xanh và mái tóc màu cam nhạt dài ngang vai với dây buộc tóc màu đỏ. Sherry là một cô gái thời trang, yêu Norman và thân thiết với Phil. Cô phải ở lại cùng những đứa trẻ nhỏ hơn tại Nhà Grace Field, trong khi những đứa trẻ trên 5 tuổi trốn thoát.
Marnya (マーニャ, Mānya)
Lồng tiếng bởi: Erisa Kuon
Đóng bởi: Sayuki Miyajima
Marnya là một cô bé 4 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cô có đôi mắt nâu và mái tóc ngắn màu nâu được tết thành bím. Marnya yêu 'Mẹ' của mình, Isabella. Cô phải ở lại cùng những đứa trẻ nhỏ tại Nhà Grace Field, trong khi những đứa trẻ trên 5 tuổi trốn thoát.
Naila (ナイラ, Naira)
Lồng tiếng bởi: Yūko Mori
Đóng bởi: Domerichi Eden Kina
Naila là một cô bé 4 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cô ấy có đôi mắt nâu và mái tóc vàng sẫm được buộc thành đuôi ngựa cao. Naila đi theo nhịp độ của riêng mình và là bạn tốt của Mark. Cô phải ở lại cùng những đứa trẻ nhỏ hơn tại Grace Field, trong khi những đứa trẻ trên 5 tuổi trốn thoát.
Vivian (ニーナ, Bibian)
Lồng tiếng bởi: Erika Harlacher
Đóng bởi: Dahlia N
Vivian là một bé gái 3 tuổi sống tại Nhà Grace Field. Cô ấy có mái tóc ngắn màu nâu được tạo kiểu bob và đôi mắt nhỏ màu xanh lá cây chéo. Vivian là một cô gái trầm tính ở lại cùng những đứa trẻ nhỏ tại Grace Field, trong khi những đứa trẻ trên 5 tuổi trốn thoát.
Chamberlain (チェンバレン, Chenbaren)
Lồng tiếng bởi: Nao Shiraki
Đóng bởi: Nbaiare
Chamberlain là một cậu bé 3 tuổi sống tại Grace Field. Cậu ta có làn da ngăm đen, đôi mắt đen hình bầu dục và mái tóc xoăn đen. Chamberlain thường có sự hóm hỉnh. Cậu ở lại cùng những đứa trẻ nhỏ hơn tại Grace Field, trong khi những đứa trẻ trên 5 tuổi trốn thoát.
Eugene (エゥゲン, Eugen)
Lồng tiếng bởi: Coco Hayashi
Eugene là một cậu bé 3 tuổi sống tại Grace Field. Cậu có mái tóc ngắn màu nâu với phần tóc mái dài che đi đôi mắt. Eugene là một cậu bé chu đáo ở lại cùng những đứa trẻ nhỏ tại Grace Field, trong khi những đứa trẻ trên 5 tuổi trốn thoát.
Tom (トム, Tomu)
Lồng tiếng bởi: Erisa Kuon
Đóng bởi: Ishizuka Rikuto
Tom là một cậu bé 3 tuổi sống tại Grace Field. Cậu ấy có mái tóc nâu nhạt dựng ngược và đôi mắt xếch. Tom là một cậu bé vô tư ở lại cùng những đứa trẻ nhỏ tại Grace Field, trong khi những đứa trẻ trên 5 tuổi trốn thoát.
Damdin (ダムディン, Damudin)
Lồng tiếng bởi: Coco Hayashi
Đóng bởi: Svediozas
Damdin là một cậu bé 3 tuổi sống tại Grace Field. Cậu ta có đôi mắt xanh đậm và mái tóc đen xoăn ngắn. Damdin là một cậu bé thức dậy sớm. Cậu ở lại cùng những đứa trẻ nhỏ hơn tại Grace Field, trong khi những đứa trẻ trên 5 tuổi trốn thoát.
Nina (ニーナ, Nīna)
Lồng tiếng bởi: Yoshino Aoyama
Đóng bởi: Risa Kaneko
Nina là một bé gái 3 tuổi sống tại Grace Field. Cô có đôi mắt nâu hình bầu dục và mái tóc ngắn màu vàng được tạo kiểu bob. Nina là một cô gái kiên quyết ở lại cùng những đứa trẻ nhỏ tại Grace Field, trong khi những đứa trẻ trên 5 tuổi trốn thoát.
Quỷ
Nhân vật phản diện chính của bộ truyện, những con quái vật được gọi là những con quỷ, bao gồm nhiều hình dạng khác nhau; những con quái vật hoang dã, nhiều mắt mang đặc tính của động vật và thực vật mà chúng ăn thịt. Những con quỷ ăn thịt người mang hình dáng giống con người to lớn với nhiều ngón và đeo mặt nạ bọc thép để bảo vệ đôi mắt trung tâm, cơ quan thực sự quan trọng duy nhất của chúng. Những con quỷ thống trị tài trợ cho hệ thống nông nghiệp để cung cấp cho chúng nguồn thịt người sẵn sàng sử dụng, thứ mà chúng cần để duy trì tri giác và đôi khi cho bản chất của quái vật là săn lùng con người.
Mujika (ムジカ, Mujika)
Lồng tiếng bởi: Atsumi Tanezaki
Mujika là một con quỷ sống trong khu rừng bên ngoài trang trại Grace Field. Cô có mái tóc dài màu tím được tết thành bím che đi một phần sừng và đeo một chiếc mặt nạ có hai lỗ nằm dọc. Cô có nước da nhợt nhạt và mặc một chiếc áo choàng màu trắng xanh. Mujika được sinh ra với khả năng giữ lại những đặc điểm và trí tuệ của con người mà không cần phải ăn thịt người. Cô cùng với Sonju tin vào nguyên tắc tôn giáo là không ăn thịt con người được nuôi trong các trang trại. Mujika và Sonju nghe được thông tin về “hàng hóa” đã trốn thoát khỏi trang trại Grace Field và quyết định cứu Emma cùng những người khác trốn thoát khỏi bọn quỷ truy đuổi. Cô và Sonju dạy Emma và Ray cùng với bọn trẻ những kỹ năng sinh tồn cơ bản.
Sonju (ソンジュ, Sonju)
Lồng tiếng bởi: Shin'ichirō Kamio
Sonju là một con quỷ sống bên ngoài trang trại Grace Field. Anh là một con quỷ tương đối cao và gầy, đội mũ trùm đầu và đeo mặt nạ che toàn bộ khuôn mặt, khi cởi ra sẽ lộ ra những chiếc răng nanh sắc nhọn bất thường. Anh ta có một chiếc sừng ở giữa trán và cánh tay của anh được quấn hoàn toàn bằng một miếng băng. Người ta thường thấy anh mang theo một ngọn giáo và là một thợ săn lành nghề. Sonju đã cứu Ray khỏi bị bọn chó quỷ săn truy đuổi khỏi trang trại. Sonju tin vào cùng tôn giáo với Mujika, do đó cực lực phản đối việc ăn thịt người từ trang trại. Tuy vậy, anh lại khá háo hức muốn ăn thịt người lại khi dân số tăng lên một cách tự nhiên. Sonju vẫn giữ một tính cách khắc kỷ và điềm tĩnh, nhưng ở một mức độ nhất định lại bị bọn trẻ tò mò và quan tâm đến sự an toàn của chúng. Anh kể cho Emma và Ray nghe về việc sau một cuộc chiến tranh kéo dài, thế giới đã bị chia cắt thành Nhân giới và Quỷ giới thông qua một hợp đồng có tên "Lời hứa". Anh cũng là em trai của Leuvis và Nữ hoàng Legvalima.
Legavalima (レグラヴァリマ, Reguravarima)
Legvalima là Nữ hoàng của Quỷ giới. Cùng với những người đứng đầu khác nhau của Gia tộc Ratri, Legravelima là một trong những thủ phạm chính của lời hứa và là một trong những trở ngại chính cho việc giải phóng những đứa trẻ khỏi trang trại khỏi bàn tay của lũ quỷ. Bà khao khát món thịt người chất lượng cao nhất từ hắn ta, vì bà cho rằng mình cao cấp hơn những người khác rất nhiều. Ngoài ra, vì muốn thống trị Quỷ Giới nên bà đã giết cha mình để chiếm lấy ngai vàng. Mặc dù bây giờ bà đã có được một cuộc sống xa hoa mới nhưng bà vẫn thiếu một thứ: thịt người hoàn hảo. Khi bà nghe nói về Norman, đứa trẻ có bộ óc vĩ đại nhất, bà đã từ chối để cậu bị Quỷ vương ăn thịt - Hắn. Vì vậy, bà đã gửi anh đến Lambda, tất cả chỉ vì bà muốn tự mình nuốt chửng cậu. Trong hồi tưởng về 700 năm trước, khi các tầng lớp quỷ thấp hơn đang chết đói và sắp bị thoái hóa, cựu Lãnh chúa Geelan đã chủ trương tặng một số loại thịt cao cấp cho người dân. Thay vào đó, Legvalima quyết định ép các tầng lớp thấp hơn chết đói, tiêu hủy và cuối cùng tự ăn thịt mình, vì điều đó sẽ giải quyết được vấn đề dân số của chúng. Bà cũng là chị của Leuvis và Sonju.
মশ্লয়/Hắn (彼, Kare)
Hắn, còn được gọi là মশ্লয়, là vua của tất cả quỷ và quỷ giới. Tên thật của hắn ta không được con người biết rõ, hắn ta sống một mình trong một chiều không gian đặc biệt, nơi không áp dụng các quy luật về thời gian và vật lý. Bên cạnh hắn là một con rồng bí ẩn chỉ có một mắt trên đầu, giống với mặt dây chuyền và vòng cổ mà Mujika đã tặng cho Emma. Bất cứ ai cố gắng liên lạc với Hắn đều phải trải qua một nghi lễ và thử thách đặc biệt bao gồm những câu đố siêu hình kỳ lạ. Hắn khá nhỏ con, có vẻ ngoài như một đứa trẻ. Nguồn gốc của hắn ta không rõ ràng, nhưng hắn ta là người có khả năng thực hiện Lời hứa thay mặt cho lũ quỷ. Một ngàn năm trước, Hắn đã thực hiện một thỏa thuận với Julius Ratri, người được biết đến với cái tên "Lời hứa" - ác quỷ và con người sẽ bị chia cắt giữa hai thế giới, không thể tiếp cận nhau. Thế giới loài người sẽ không còn bị quỷ ăn thịt, và đổi lại, lũ quỷ sẽ được phép chăn nuôi những con người mắc kẹt trong thế giới của chúng. Gia tộc Ratri cũng được giao nhiệm vụ duy trì "Lời hứa", Julius Ratri buộc phải ở lại Quỷ giới. Đối với quỷ, Hắn tuyên bố Tifari, một lễ hội hàng năm mà đỉnh cao là món thịt người ngon nhất được nuôi trong trang trại sẽ được dâng lên Hắn như một sự tri ân.
Leuvis (レウウィス, Reuisu ) / Lewis (ルイス, Ruisu)
Leuvis, còn được gọi là "Lewis", là một quý tộc thuộc nhóm quỷ được gọi là "Kẻ săn". Với tư cách là một Kẻ săn, hắn ta làm việc cùng vớil lãnh chúa Bayon, kẻ cung cấp cho trại trẻ mồ côi Grand Valley để cung cấp con người cho khu bảo tồn săn bắn bí mật của Leuvis, Goldy Pond, để lũ quỷ săn lùng con người. Leuvis thích thú với cảm giác hồi hộp khi săn lùng trẻ con loài người, nhưng lại cảm thấy nhàm chán với việc hắn có thể giết một cách quá dễ dàng. Chỉ khi cảm giác hồi hộp khi gặp được người có ý muốn giết mình, như Emma, đến thì hắn mới quyết định thực hiện trò chơi săn bắn một cách nghiêm túc. Leuvis là một con quỷ cao gầy, coi mạng sống của con người chẳng khác gì một trò chơi để giải trí. Hắn ta độc ác, tàn bạo và tàn nhẫn, không hề tỏ ra hối hận hay do dự khi giết những đứa trẻ. Hắn ta cũng là em trai của Nữ hoàng Legravelima và anh trai của Sonju, đồng thời là thành viên của Hoàng gia ở Quỷ Giới.
Palvus (パルバス, Parubasu)
Palvus là bạn đồng hành của Leuvis và là một nhân vật phản diện nhỏ trong arc Ao vàng. Nó là một con quỷ nhỏ, màu tím, có một mắt và có đặc điểm cơ thể của một con khỉ. Trên đầu đội một chiếc vương miện nhỏ. Palvus hoạt động như một con vật cưng của Leuvis, và người ta thường thấy nó trên vai Leuvis và đôi khi đóng vai trò như một "cặp mắt thứ hai" đối với hắn ta.
Bayon (バイヨン, Baiyon)
Lãnh chúa Bayon thuộc nhóm quỷ được gọi là "Kẻ săn trộm". Hắn ta là chủ sở hữu của khu bảo tồn săn người bí mật Ao vàng, nơi hắn ta săn những đứa trẻ mồ côi ở đó. Một thiên niên kỷ trước, Bayon đã gặp một số con quỷ để thảo luận về cách chúng nên ăn con người khi gần đây chúng bị cấm làm như vậy do "Lời hứa". Khi lũ quỷ phàn nàn, Bayon đã nghĩ ra giải pháp xây dựng trang trại để “nuôi dưỡng” thanh niên loài người nhằm thỏa mãn nhu cầu ăn thịt người của lũ quỷ, cũng như để tuân thủ hiệp ước. Vì vậy, giải pháp của Bayon đã được chấp nhận và đưa vào như một phần của hiệp ước. Khoảng 200 năm sau khi thành lập trang trại, Bayon được bầu làm nhà đầu tư và quản lý một số trang trại. Nhiều năm sau, Bayon, Leuvis, Nous, Nouma, Luce và một số con quỷ khác tràn qua một thị trấn hoang vắng của con người tên là Ao vàng, nơi chúng biến thành nơi săn bắn khi những đứa trẻ con người bị mua hoặc tình cờ đến nơi này một cách tình cờ bị ném vào bãi săn để Bayon và bọn chúng đi săn.
Bayon II (バイヨン, Baiyon)
Bayon II là nhân vật phản diện trong arc Cuvitidala. Hắn ta là con trai của chủ sở hữu Ao vàng, Lãnh chúa Bayon, và là một trong những người đứng đầu của Năm Gia tộc Nhiếp chính. Không giống như phần lớn các hoàng gia và người đứng đầu Ngũ Gia tộc Nhiếp chính, Bayon II quan tâm đến thường dân quỷ hơn là tiền bạc và quyền kiểm soát thế giới của mình. Bayon II ngưỡng mộ cựu Lãnh chúa Geelan vì là một con quỷ vị tha, luôn quan tâm đến cấp dưới của mình. Tuy nhiên, sự ngưỡng mộ của Bayon II đối với cựu Lãnh chúa đã giảm sút khi ông ta xâm chiếm Tifari và tiết lộ rằng ông ta và những người theo ông đã tiêu diệt các gia đình hoàng gia để phục kích những người đứng đầu. Sau đó hắn ta bị Geelan giết sau khi kẻ này xâm nhập vào thủ đô hoàng gia để trả thù.
Yverk (イヴェルク, Iveruku)
Lồng tiếng bởi: Motoki Sakuma
Yverk là nhân vật phản diện trong arc Cuvitidala. Ông là một công tước đồng thời là một trong những người đứng đầu của Năm gia tộc nhiếp chính. Yverk là một con quỷ cao lớn mặc quần áo trang trọng. Giống như hầu hết các hoàng gia khác và những người đứng đầu khác của Năm Gia tộc Nhiếp chính, Yverk quan tâm nhiều hơn đến tiền bạc của mình và quyền kiểm soát thế giới đối với hạnh phúc của thường dân quỷ. Là người đứng đầu gia tộc tương ứng của mình, Yverk là một con quỷ mạnh mẽ và nghiêm khắc, người thường xuyên khiển trách Dozza về cách cư xử và hành vi của hắn ta. Yverk rất tôn trọng nữ hoàng, ngay lập tức quỳ gối chào bà mỗi khi bà bước vào phòng. Ông ta bị Geelan giết sau khi kẻ này xâm nhập vào thủ đô hoàng gia để trả thù.
Cha của Ayshe (アイシェの父, Aishe no chichi)
Cha của Ayshe là một con quỷ giấu tên, người trước đây làm việc tại một trong những trang trại cao cấp và sau đó đã chọn sống cả đời với cô con gái nuôi Ayshe và những chú chó cưng của ông. Khi còn trẻ, một ngày nọ, khuôn mặt của con quỷ bị mất hình dạng, và bên phải khuôn mặt của ông ta phát triển một khối phồng lớn, che khuất mắt và lỗ chân lông nhỏ xíu - bản thân ông ta gọi đó là lời nguyền. Nhiều năm sau, ông làm nhân viên tại một trong những trang trại cao cấp và chịu trách nhiệm xử lý những đứa trẻ sơ sinh bị dị tật về thể chất. Một ngày nọ, ông nhìn thấy một đứa trẻ sơ sinh có vết bớt lớn che phía bên phải khuôn mặt. Ông ngay lập tức nảy sinh mối liên hệ với đứa trẻ, vì cả hai người đều có khuyết điểm trên khuôn mặt bên phải. Điều này khiến ông phải mang đứa trẻ về nhà thay vì vứt bỏ cô bé. Ông sớm nghỉ việc tại các trang trại và sống với cô con gái mới nhận nuôi mà ông đặt tên là Ayshe. Con quỷ chăm sóc Ayshe, chơi đùa với cô, dạy cô ngôn ngữ của quỷ và con người, giáo dục cô và cho cô ăn uống tử tế. Khuyết điểm trên khuôn mặt mà con quỷ không còn cảm thấy như một lời nguyền đối với ông nữa, vì ông đã tìm được cuộc sống hạnh phúc và yêu thương bên con gái mình. Bi kịch ập đến với hai cha con một ngày nọ, khi Norman và nhóm của anh đột kích vào ngôi nhà của con quỷ. Khi cha của Ayshe nghe thấy sự náo loạn của họ, ông đã bảo Ayshe hãy trốn đi. Cha của Ayshe sau đó bị Zazie, thuộc hạ của Norman, giết chết. Norman và nhóm của cậu đã "giải cứu" Ayshe vì tin rằng cô là kẻ bị quỷ dữ giam giữ và đưa cô đến Nơi ẩn náu thiên đường, nơi cô trở thành một nữ xạ thủ lão luyện để một ngày nào đó trả thù cho cha mình bằng cách giết những kẻ sát hại ông.
Demon Emma (エマ, Ema)
Lồng tiếng bởi Xanthe Huynh
Demon Emma là nhân vật chỉ xuất hiện trong anime. Cô ấy là một cô gái quỷ trẻ tốt bụng và chu đáo, có mái tóc ngắn màu tím và đeo một chiếc mặt nạ có hai chiếc sừng nhỏ trên đó. Trong khi ngôi làng quỷ đang bị Norman tấn công và loại thuốc khiến quỷ bị thoái hóa, Demon Emma đã ra ngoài tìm kiếm ông nội của cô, Vylk. Trong khi cô đang tìm Vylk, Norman đã đứng sau cô và định đâm sau lưng cô. Tuy nhiên, Vylk đã gọi cô ấy và cô đã đi đến chỗ ông. Khi thuốc đến tay hai con quỷ, Vylk không bị thoái hóa, nhưng cô thì bị. Con quỷ già bảo Demon Emma uống máu của ông để đưa cơ thể cô trở lại hình dạng ban đầu. Sau đó, khi bọn trẻ đang ở đền thờ, Demon Emma xin lỗi Norman về cách lũ quỷ đã đối xử với cậu và những con người khác. Khi Vylk gọi Demon Emma, Emma tỏ ra bối rối. Hai Emma mỉm cười với nhau và cả hai cùng Vylk đi đến lối ra.
Ao vàng
Còn được gọi là Khu A08-63, Ao vàng ban đầu là căn cứ của William Minerva dành cho những người trốn thoát và nằm dưới lòng đất để tránh bị phát hiện. Nó bị lũ quỷ phát hiện và trở thành khu bảo tồn bí mật để săn lùng con người, thuộc sở hữu của lãnh chúa quỷ Bayon. Nạn nhân của hắn là những đứa trẻ mà hắn mua từ các trang trại cao cấp (chủ yếu là Trại trẻ mồ côi Grand Valley), nhưng đôi khi cũng săn trộm con người từ thế giới bên ngoài. Dưới đây là một số cư dân con người của Ao vàng:
Zack (ザック, Zakku)
Zack là một chàng trai 18 tuổi sinh ra và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Grand Valley. Anh được chuyển đến Ao vàng để trở thành con mồi cho những kẻ săn lùng. Zack rất giỏi trong việc cứu trợ và cuối cùng anh được Lucas tuyển dụng vào Nhóm kháng chiến Ao vàng, trở thành bác sĩ của họ cùng với Sandy. Anh ta cao, có nước da ngăm đen và có một vết sẹo trên mặt. Anh có mái tóc đen ngắn, nhọn hướng lên trên và đeo một chiếc khăn rằn che kín toàn bộ trán. Anh cũng mặc một chiếc áo khoác thỉnh thoảng che đi phần dưới của khuôn mặt. Zack là người lực lưỡng, sử dụng vũ khí và trốn thoát rất giỏi, vì vậy, anh không bao giờ nao núng khi nhìn thẳng vào cái chết. Đây là lý do tại sao anh ta được mệnh danh là cựu chiến binh giàu kinh nghiệm nhất trong số những đứa trẻ ở AO vàng, và chính anh luôn là người liều mạng trong các cuộc đi săn. Anh ấy đã cứu sống Nigel và những đứa trẻ khác vô số lần, thể hiện lòng vị tha và lòng trung thành của mình.
Oliver (オリバー, Oribā)
Oliver là một cậu bé 17 tuổi sinh ra và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Grand Valley. Anh được chuyển đến Ao vàng để trở thành con mồi cho những kẻ săn lùng. Cùng với Lucas, anh thành lập một tổ chức kháng chiến để tiêu diệt Ao vàng và bọn quỷ đi săn. Với tư cách là người lãnh đạo phong trào Kháng chiến Ao vàng, anh đã nhận được rất nhiều sự tin tưởng từ các đồng đội của mình. Nhiều đến mức họ bắt đầu gọi anh là thủ lĩnh của họ. Oliver là một chàng trai trẻ có chiều cao trung bình, có mái tóc trắng bù xù với một vệt đỏ ở bên trái và đôi mắt đỏ. Oliver là một người có ý chí mạnh mẽ và quan tâm sâu sắc đến hạnh phúc của đồng đội. Anh cũng có mối hận thù sâu sắc với Những kẻ săn vì tất cả những tổn hại và đổ máu mà chúng đã gây ra.
Sandy (サンディ, Sandi )
Sandy là một cậu bé 17 tuổi sinh ra và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Grand Valley. Anh ta được chuyển đến Ao vàng để trở thành con mồi cho những kẻ săn lùng. Cuối cùng, anh được Lucas tuyển dụng vào nhóm kháng chiến, trở thành người hỗ trợ cứu trợ của họ cùng với Zack. Sandy có mái tóc xoăn màu xanh lá cây, đôi mắt mở to và đeo những chiếc kẹp tóc nhiều màu sắc cũng như mặc một chiếc áo vest màu xanh đậm. Anh là người đã đưa cho Emma những chiếc kẹp tóc mà cô dùng ở Ao vàng. Tính cách và phong thái của anh trái ngược với Zack. Sandy là một người vui vẻ và tích cực trong số bạn bè của mình, luôn nhanh chóng đưa ra lời động viên hoặc nụ cười. Giống như những đứa trẻ Ao vàng khác, anh ấy trung thành và quan tâm sâu sắc đến các đồng đội của mình. Trong trận chiến Ao vàng, Sonya và Sandy chiến đấu chống lại Nous và Nouma.
Sonya (ソーニヤ, Souniya )
Sonya là một cô gái 17 tuổi sinh ra và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Grand Valley. Cô được chuyển đến Ao vàng để trở thành con mồi cho bọn săn lùng. Sonya đóng vai trò là Chỉ huy thứ hai của Lực lượng kháng chiến Ao vàng. Sonya đeo kính và có mái tóc xanh được tết thành bím với những đốm tàn nhang trên mặt. Sonya có kỹ năng tính nhẩm và tổng hợp dữ liệu để sử dụng để chống lại lũ quỷ. Cô ấy là một cô gái điềm tĩnh và lạnh lùng, suy nghĩ logic, lập kế hoạch và không ngần ngại ra lệnh cho người khác xung quanh.
Paula (ポーラ, Pōra)
Paula là một cô gái 17 tuổi sinh ra và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Grand Valley. Cô được chuyển đến Ao vàng để trở thành con mồi cho bọn săn lùng. Sau khi đến Ao vàng, cô tham gia nhóm kháng chiến, nơi cô phụ trách việc cung cấp lương thực. Paula là một cô gái có làn da trắng với mái tóc đen dài được chải một phần. Cô mặc quần áo tối màu và đeo khăn rằn che miệng. Paula trung thành và quan tâm như tất cả những đứa trẻ ở Ao vàng. Tuy nhiên, cô ấy khá dè dặt và không nói nhiều. Paula có kỹ năng bắn tỉa lũ quỷ bằng súng của mình.
Nigel (ナイジェル, Naijeru)
Nigel là một cậu bé 16 tuổi sinh ra và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Grand Valley. Anh ta được chuyển đến Goldy Pond để trở thành con mồi cho những kẻ săn trộm săn lùng. Ngay sau khi đến Goldy Pond, Nigel chứng kiến cái chết của em gái mình, Lala dưới bàn tay của Luce, điều này khiến anh vô cùng đau buồn. Nigel từng là thợ cơ khí cho Lực lượng kháng chiến Goldy Pond. Anh ta cũng phụ trách kho dự trữ đạn. Anh ta mặc một chiếc áo len đơn giản, quần dài và đội một chiếc mũ Aviator với kính bảo hộ hình chữ nhật bị vỡ. Nigel quan tâm sâu sắc đến bạn bè của mình, đặc biệt là Zack, người mà anh ấy kính trọng và Gillian. Anh ấy sẵn sàng hy sinh bản thân mình vì họ và vì những điều tốt đẹp hơn. Mặc dù có cái đầu thông minh nhưng không phải lúc nào anh ấy cũng suy nghĩ thấu đáo trước khi hành động. Anh ấy dễ dàng lo lắng và giả vờ có kế hoạch khi Gillian hỏi anh ấy sẽ làm gì tiếp theo. Theo mô tả của Gillian, Nigel là một người rất lý trí. Trong trận chiến Goldy Pond, Nigel giúp Gillian chiến đấu với Luce và những người hầu cận của anh ta. Trong khi hoàn thành vai trò xoay quanh việc nhắm mục tiêu chính xác và cẩn thận, Nigel sở hữu phản xạ cực kỳ nhạy bén và có thể phản ứng nhanh trước nguy hiểm. Anh ta đã thể hiện kỹ năng bắn súng xuất sắc trong việc sử dụng súng bắn tỉa của mình và cũng có kỹ năng bảo trì và sửa chữa máy móc.
Pepe (ぺぺ, Pepe )
Pepe là một cậu bé 16 tuổi sinh ra và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Grand Valley. Cậu ta được chuyển đến Ao vàng để trở thành con mồi cho những kẻ săn lùng. Sau khi đến Ao vàng, cậu tham gia nhóm kháng chiến, nơi cậu phụ trách việc cung cấp lương thực. Pepe có làn da ngăm đen và mái tóc đen buộc đuôi ngựa. Cậu ấy cũng đeo một chiếc kính râm. Cậu chăm chỉ, tháo vát và tự tin. Cậu ấy rất quan tâm đến đồng đội của mình và ghét nhìn thấy họ bị thương. Pepe được cho là có mối quan hệ tốt với họ mặc dù cậu mới gia nhập cách đây không lâu. Cậu ấy cũng rất giỏi nấu ăn sáng tạo.
Gillian (ジリアン, Jirian)
Gillian là một cô gái 15 tuổi sinh ra và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Grand Valley. Cô được chuyển đến Ao vàng để trở thành con mồi cho bọn săn lùng. Không lâu sau khi đến Ao vàng, Gillian chứng kiến cái chết của chị gái mình, Emilia dưới bàn tay của Luce, điều này khiến cô vô cùng đau buồn. Quyết tâm trả thù, Gillian tham gia nhóm kháng chiến, nơi cô phụ trách cung cấp lương thực. Gillian là một cô gái có mái tóc vàng nhạt dài ngang vai và đôi mắt xanh nhạt. Cô ấy hầu như luôn được nhìn thấy với nụ cười tươi trên khuôn mặt, làm nổi bật bản chất hướng ngoại của mình. Cô đội một chiếc mũ len làm bằng len màu hồng được phủ bằng những miếng vá do cô tự làm từ những chú hề nhồi bông ở Ao vàng, cùng với một chiếc áo khoác màu xanh lá chanh có nhiều ghim hơn do mình tự làm. Gillian là một cô gái có tinh thần cao và hướng ngoại, điều này khiến cô nổi bật so với những thành viên còn lại của nhóm, những người hầu hết có bản chất nghiêm túc. Gillian có kỹ năng bắn và giết quỷ. Như được thể hiện trong arc trận chiến ở Ao vàng, cô ấy sử dụng hai khẩu súng chứa đầy đạn dược để hạ gục lũ quỷ.
Violet (バイオレット, Baioretto)
Violet là một cô bé 13 tuổi sinh ra và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Grand Valley. Cô được chuyển đến Goldy Pond để trở thành con mồi cho bọn săn trộm săn lùng. Violet nuôi dưỡng lòng căm thù mạnh mẽ đối với Những kẻ săn trộm sau khi chứng kiến chúng giết gia đình cô. Quyết tâm báo thù, Violet tham gia Goldy Pond Resistance, nơi cô đảm nhận vai trò canh gác. Cô cũng là người đầu tiên chạm trán Emma tại Goldy Pond. Violet có mái tóc pixie màu tím với đôi mắt màu tím. Cô ấy thường bị nhầm là một cậu bé giống như Emma nghĩ khi lần đầu gặp cô ấy. Trong trận chiến Goldy Pond, Violet đã chiến đấu cùng Sandy, Sonya và Paula để chống lại Nous và Nouma. Violet và Paula đã có thể bắn tỉa Nouma khi Sonya làm vỡ mặt nạ của cô ấy.
Adam (アダム, Adamu)
Adam là một cựu thí nghiệm sinh ra và lớn lên ở Lambda. Sau khi được chuyển đến Ao vàng, cậu trở thành người gác cổng của quân kháng chiến. Kết quả của các thí nghiệm được thực hiện trên cậu ta tại Lambda, Adam có thân hình to lớn và đồ sộ, với khung hình rộng, cánh tay thon dài và cực kỳ cơ bắp, một lượng nhỏ mái tóc vàng ngắn thưa thớt và khuôn mặt tròn với chiếc mũi to. Adam cũng có những đường gân nổi rõ trên cơ thể, trong đó rõ ràng nhất là hai đường gân trên trán và cậu ấy cao hơn nhiều so với những đứa trẻ khác ở Ao vàng. Tính cách của Adam nói chung vẫn chưa được biết đến, nhưng cậu ta thiếu năng lực tinh thần đáng kể, thậm chí Leuvis còn gọi cậu là "kẻ đơn giản " và "không có khả năng suy nghĩ phức tạp". Bất chấp khả năng chiến đấu mạnh mẽ và bản chất giản dị của Adam, cậu có vẻ thân thiện với những đứa trẻ khác, bằng chứng là sự tương tác của cậu với chúng sau khi mọi người quay trở lại Nơi trú ẩn B06-32.
Theo (ティオ, Tio)
Theo là một cậu bé 12 tuổi sinh ra và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Grand Valley. Một lúc nào đó, cậu được chuyển đến Ao vàng để trở thành con mồi cho bọn săn trộm săn lùng. Theo đặc biệt thân thiết với anh trai mình, Jake và em gái, Monica và bị tàn phá và tổn thương khi Leuvis giết họ. Sau đó, anh tham gia nhóm cùng với Emma để đánh bại lũ quỷ ở Ao vàng. Theo là một cậu bé có chiều cao dưới mức trung bình. Cậu ta có đôi mắt thường nhắm và mái tóc ngắn được vuốt ngược ra sau đầu. Do phải chạy trốn khỏi bọn săn trộm, trang phục của Theo dính đầy bụi bẩn và máu. Theo là một cậu bé vui vẻ, yêu thương anh chị em của mình, Monica và Jake, rất lâu, gắn bó với họ ngay cả khi Emma ra lệnh cho họ tách ra và chạy trốn khỏi lũ quỷ. Theo rất biết ơn Emma vì đã cứu cậu và cực kỳ coi thường Leuvis vì đã giết anh chị em của mình. Cậu ta dùng dao để tự vệ trước bọn quỷ đi săn. Trước khi Theo, cùng với Jake và Monica được gửi đến Ao vagf, Theo được biết là từng sống trong cùng trại trẻ mồ côi với cả hai. Cậu ấy, Jake và Monica được biết đến là những người rất thân thiết trong suốt thời gian họ ở trại trẻ mồ côi, coi nhau như anh em ruột thịt.
Lambda Λ7214
Lambda Λ7214, còn được gọi là Lambda, là một trung tâm nghiên cứu nơi thực hiện nhiều thí nghiệm khác nhau trên trẻ em và con người từ nhiều trang trại khác nhau. Sau khi được chuyển đến từ trang viên Grace, Norman được gửi đến Lambda Λ7214, nơi cậu được thử nghiệm. Norman cuối cùng đã dẫn đầu một nhóm trốn thoát khỏi Lambda và phá hủy nó trong quá trình này.
Vincent (ヴィンセント, Vinsento)
Lồng tiếng bởi: Hidenori Takahashi
Vincent là một chàng trai trẻ và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Glory Bell và được chuyển đến Lambda. Anh ta cao, có làn da ngăm đen và có những vết khâu trên đỉnh đầu hói và đôi mắt xanh lục. Người ta thường thấy Vincent mặc áo sơ mi dài tay màu trắng bên dưới áo vest đen, quần đen, cà vạt và đeo kính. Anh ấy có kiến thức về điều trị y tế.
Cislo (シスロ, Shisuro)
Lồng tiếng bởi: Yoshiki Nakajima
Cislo là một cậu bé 17 tuổi sinh ra và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Goodwill Ridge, cậu được chuyển đến Lambda cùng với người bạn của mình, Barbara. Cislo có đôi mắt đen và mái tóc đen ngắn với chữ "X" màu trắng trên đỉnh đầu. Cậu ta mặc quần yếm màu xanh lá cây với áo sơ mi đen bên trong, cùng với găng tay đen. Cislo có thân hình vạm vỡ và chiến đấu với quỷ bằng một cặp côn nhị khúc.
Barbara (バーバラ, Bābara)
Lồng tiếng bởi: Chika Anzai
Barbara là một cô gái 16 tuổi sinh ra và lớn lên tại trại trẻ mồ côi Goodwill Ridge, cô được chuyển đến Lambda cùng với bạn của cô, Cislo. Barbara cực kỳ căm thù lũ quỷ do những thí nghiệm đau đớn mà chúng bắt cô phải trải qua. Cô ăn thịt lũ quỷ như một hình thức trả thù. Barbara có đôi mắt nâu và kiểu tóc nâu thành kiểu đuôi ngựa rất dài và tóc mái gợn sóng. Người ta thường thấy cô mặc một chiếc áo ba lỗ màu đen có in hình ngôi sao màu vàng, áo khoác màu đỏ, quần đùi màu xanh và đôi bốt màu xám đậm.
Zazie (ザジー, Zajī )
Lồng tiếng bởi: Hidenori Takahashi
Zazie là một cậu bé 5 tuổi sinh ra và lớn lên ở Lambda. Anh ta có vóc dáng của một người trưởng thành là kết quả của các thí nghiệm được thực hiện trên anh. Zazie đội một chiếc túi giấy trên đầu và có kỹ năng chiến đấu với quỷ bằng hai thanh kiếm dài đeo sau lưng.
Hayato (ハヤト, Hayato)
Hayato là cậu bé 2 tuổi sinh ra tại một trang trại sản xuất hàng loạt và được chuyển đến Lambda. Hayato vui vẻ và tràn đầy năng lượng. Cậu ta có mái tóc vàng nhọn, đôi mắt xanh lục và thường đeo một chiếc băng đô màu trắng. Anh ấy là bạn tốt của Jin.
Jin (ジン, Jin)
Jin là cậu bé 2 tuổi sinh ra tại một trang trại sản xuất hàng loạt và được chuyển đến Lambda. Jin đeo mặt nạ đen che mũi miệng và sử dụng giáo thành thạo. Anh có mái tóc đen được buộc lại thành kiểu đuôi ngựa ngắn và cao. Anh thường mặc một chiếc áo choàng có mũ trùm đầu có gắn một chiếc ghim hình con cú và là bạn tốt của Hayato.
Gia tộc Ratri
Tộc Ratri hay còn gọi là Gia tộc Ratri là một tộc người đã ký hiệp ước cổ xưa mang tên "Lời hứa" hơn 1000 năm trước, tách biệt con người và quỷ ở hai thế giới, nhằm chấm dứt cuộc chiến giữa hai chủng tộc trên trái đất. Gia tộc Ratri giám sát hệ thống canh tác nuôi con người và duy trì "Lời hứa".
Peter Ratri (ピーターラートリー, Pītā Rātorī)
Lồng tiếng bởi: Yoshimasa Hosoya
Đóng bởi: Tōri Matsuzaka
Peter Ratri là một người đàn ông 29 tuổi sinh ra trở thành người đứng đầu thứ 36 và hiện tại của Gia tộc Ratri và sau đó được tiết lộ là nhân vật phản diện chính thực sự. Anh là em trai của James Ratri, đồng thời là hậu duệ của Julius Ratri. Peter tự ái, ác độc và tàn nhẫn, không hề tỏ ra hối hận về hành động của mình cũng như không thông cảm cho những đứa trẻ bị ăn tại trang trại. Anh ta coi mình là "cha" của những đứa trẻ và coi chúng chẳng khác gì đồ ăn. Peter cực kỳ trung thành với Gia tộc Ratri và sẵn sàng giết bất cứ ai mà anh coi là "kẻ phản bội" gia đình, kể cả chính anh trai mình.
William Minerva (ウィリアム・ミネルヴァ, Wiriamu Mineruva) / James Ratri (ジェームズ・ラトリ, Jeimuzu Rātorī)
Lồng tiếng bởi: Yasuyuki Kase
William Minerva là bí danh và tên thật là "James Ratri". James là người đứng đầu thứ 35 của Gia tộc Ratri. Anh là anh trai của Peter Ratri, đồng thời là hậu duệ của Julius Ratri. James là một người đàn ông bí ẩn, thông minh và phức tạp, anh ngày càng chán ghét ý tưởng hy sinh những đứa trẻ vô tội cho quỷ ăn thịt. Sau khi phát hiện ra những đứa trẻ ở trang trại thực chất là hậu duệ của đồng minh của Julius Ratri, anh quyết định tổ chức giúp bọn trẻ trốn thoát bằng cách gieo những manh mối ẩn giấu để bọn trẻ khám phá trong nhiều cuốn sách khác nhau mà không báo cho những người 'mẹ'. Anh ta là người tạo ra Promised Pen dùng làm bản đồ của Thế giới Quỷ. Anh cũng xây dựng những nơi trú ẩn an toàn trong Quỷ Giới bao gồm Nơi trú ẩn B06-32 và Ao Vàng cho những đứa trẻ trốn thoát đến sống. Vai trò người đứng đầu Gia tộc Ratri của James cuối cùng đã được truyền lại cho em trai của anh, Peter, người đã xử tử anh vì tội là "kẻ phản bội" gia đình.
Andrew (アンドリュー, Andoryū)
Andrew là thành viên của Gia tộc Ratri, người làm thuộc hạ trung thành và là sát thủ cho Peter Ratri. Hắn ta là một người đàn ông khắc kỷ, tâm thần và tàn nhẫn, người đã dẫn đầu một nhóm binh lính phục kích Nơi trú ẩn B06-32 và bắt những đứa trẻ bên trong theo lệnh của Peter, dẫn đến nơi đó bị phá hủy. Andrew có tiền sử phục kích và phá hủy những nơi trú ẩn an toàn do William Minerva xây dựng cho những kẻ trốn thoát, cũng như giết chết những đứa trẻ trốn thoát khỏi trang trại. Andrew coi bọn trẻ không gì khác hơn là thức ăn và gọi chúng là "những đứa trẻ gia súc".
Mike Ratri (マイク・ラートリー, Maiku Rātorī)
Mike Ratri là chú của James và Peter Ratri, đồng thời là người đứng đầu ủy nhiệm hiện tại của gia tộc ở Nhân giới. Ông là một người đàn ông trung niên rất coi trọng công việc của mình. Khi trẻ em và người lớn từ trang trại đến Nhân giới, Mike chào đón họ. Ông ta thông báo cho những người trốn thoát rằng mình biết về "mật mã vững chắc" và gia tộc của ông sẽ không làm hại họ nữa. Ông ta cung cấp cho những người trốn thoát nguồn cung cấp và một nơi để ở, đồng thời giúp hỗ trợ tìm kiếm Emma sau khi cô mất tích.
Danh sách nhân vật trong anime và manga
|
19851964
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Parpan
|
Lâu đài Parpan
|
Lâu đài Parpan là một lâu đài ở đô thị Churwalden thuộc bang Graubünden của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ.
Xem thêm
Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ
Tham khảo
Churwalden
|
19851969
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Thunstetten
|
Lâu đài Thunstetten
|
Lâu đài Thunstetten là một lâu đài ở đô thị Thunstetten thuộc bang Bern của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ.
Xem thêm
Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ
Tham khảo
|
19851971
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Unterhof
|
Lâu đài Unterhof
|
Lâu đài Unterhof là một lâu đài ở đô thị Diessenhofen thuộc bang Thurgau của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ.
Xem thêm
Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ
Tham khảo
Unterhof
|
19852005
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/2022%20Valorant%20Champions
|
2022 Valorant Champions
|
Giải đấu Valorant Champions 2022 là 1 giải đấu thể thao điện tử của bộ môn Valorant. Đây là lần thứ 2 giải đấu Valorant Champions được tổ chức, cũng là giải đấu toàn cầu quan trọng nhất của Valorant Champions Tour (VCT) trong mùa giải 2022. Giải đấu được tổ chức từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 18 tháng 9, năm 2022 tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ.
"Fire Again" là bài hát chính thức của giải đấu, được trình bày bởi Ashnikko.
là đương kim vô địch, nhưng không thể vượt qua vòng loại sau khi thua G2 Esports ở VCT 2022: Vòng loại khu vực (Last Chance Qualifiers - LCQ) của khu vực EMEA.
LOUD lên ngôi vô địch giải đấu Valorant Championship sau khi xuất sắc đánh bại OpTic Gaming trong trận chung kết với tỉ số 3–1.
Địa điểm thi đấu
Istanbul là thành phố được chọn để đăng cai giải đấu. Giải đấu được tổ chức tại Volkswagen Arena Istanbul.
Các đội tham gia
16 đội đủ điều kiện tham gia giải đấu Valorant Champions, với 10 đội đủ điều kiện thông qua thứ hạng với số điểm kiếm được trong suốt mùa giải, trong khi 6 đội còn lại đủ điều kiện thông qua Vòng loại khu vực (LCQ). Các đội sau đủ điều kiện tham gia:
Vòng bảng
Vòng bảng diễn ra từ ngày 31 tháng 8 – 8 tháng 9 năm 2022. 16 đội sẽ được chia đều vào 4 bảng. Các đội sẽ thi đấu theo thể thức nhánh thắng nhánh thua GSL. 2 đội có thành tích cao nhất của mỗi bảng sẽ giành quyền vào Vòng loại trực tiếp (Play-off). Tất cả các trận đấu được phân định bằng thể thức .
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Vòng loại trực tiếp
Vòng loại trực tiếp diễn ra từ ngày 9 – 18 tháng 9 năm 2022, tại Volkswagen Arena Istanbul. Vòng loại trực tiếp đuợc thi đấu theo thể thức loại kép. Tất cả các trận đấu đều được phân định bằng thể thức , ngoại trừ trận Chung kết nhánh thua và trận Chung kết Tổng, được phân định bằng thể thức .
Tiền thưởng
Tham khảo
Chú thích
Giải đấu Valorant
Giải đấu Valorant 2022
Giải đấu trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất
Giải đấu trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất 2022
en:2022 Valorant Champions
|
19852018
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Don%20Mueang
|
Ga Don Mueang
|
Ga Don Mueang (, ) là một nhà ga ở Băng Cốc. Nó nằm đối diện Sân bay Quốc tế Don Mueang. Hiện nay nó phục vụ cho Tuyến SRT Đỏ Đậm và tàu liên tỉnh đường dài trên Tuyến Bắc và Đông Bắc thuộc Đường sắt Nhà nước Thái Lan. Tại đây có một cầu bộ hành liên kết trực tiếp nhà ga mới với sân bay.
Lịch sử
Ga Don Mueang mở cửa vào năm 1898 như một phần của tuyến đường sắt đầu tiên của Thái Lan nối Băng Cốc và Ayutthaya. Cấu trúc ban đầu của nó được đặt bên phía sân bay. Tuy nhiên, nó được di chuyển sau khi hoàn thành Đường Vibhavadi Rangsit. Một nhà ga mới đã được xây dựng vào năm 2013 phù hợp với việc xây dựng Tuyến SRT Đỏ Đậm. Đây là một nhà ga trên cao mới nằm cách nhà ga cũ 700 mét, nằm trên nhà ga Talat Mai Don Mueang cũ. Nó gồm có hai tầng, tầng thấp gồm có 4 ke ga dành cho tuyến liên tỉnh đường dài và tàu đi lại, trong khi 4 ke ga ở trên dành cho Tuyến SRT Đỏ Đậm.
Tuyến Đỏ Đậm bắt đầu dịch vụ chạy trên cao vào ngày 2 tháng 8 năm 2021. Tàu đường dài đi vào hoạt động trên nhà ga cao vào ngày 19 tháng 1 năm 2023, đồng thời đóng cửa ga tầng trệt trong cùng ngày.
Bố trí ga
Hình ảnh
Tham khảo
Don Mueang
Don Mueang
Don Mueang
Don Mueang
Don Mueang
|
19852026
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Michael%20Zuckert
|
Michael Zuckert
|
Michael P. Zuckert (born July 24, 1942) là một nhà triết học chính trị Mỹ và là giáo sư chính trị học tại Đại học Notre Dame. Zuckert được trao bằng cử nhân tại Đại học Cornell năm 1964. Ông hoàn thành bằng thạc sĩ và tiến sĩ tại Đại học Chicago lần lượt vào năm 1967 và 1974.
Sách
Launching Liberalism: John Locke and the Liberal Tradition (Nhà xuất bản Đại học Kansas, 2002)
The Natural Rights Republic (Nhà xuất bản Đại học Notre Dame)
Natural Rights and the New Republicanism (Nhà xuất bản Đại học Princeton, 1994)
The Truth about Leo Strauss (2006) cùng với Catherine Zuckert, Nhà xuất bản Đại học Chicago
Leo Strauss and the Problem of Political Philosophy (2014) cùng với Catherine Zuckert, Nhà xuất bản Đại học Chicago
The Spirit of Religion and the Spirit of Liberty (Nhà xuất bản Đại học Chicago, 2017)
Lincoln and Democratic Statesmanship (Nhà xuất bản Đại học Kansas, 2020)
A Nation So Conceived: Abraham Lincoln and the Paradox of Democratic Sovereignty (Nhà xuất bản Đại học Kansas, 2022)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Michael Zuckert
Đọc thêm
Natural Right and Political Philosophy: Essays in Honor of Catherine and Michael Zuckert. Edited by Lee Ward and Ann Ward. South Bend, IN: University of Notre Dame Press, 2013.
Nhà triết học Mỹ thế kỷ 21
Giáo sư triết học Mỹ
Giảng viên Đại học Notre Dame
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1942
Nhà triết học chính trị
Nhà biên tập tập san chính trị học
Cựu sinh viên Đại học Chicago
Cựu sinh viên Đại học Cornell
Nhà chính trị học Mỹ
|
19852027
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rachel%20Zuckert
|
Rachel Zuckert
|
Rachel Elizabeth Zuckert (sinh ngày 6 tháng 1 năm 1969) là một nhà triết học và giáo sư triết học người Mỹ tại Đại học Northwestern.
Bà được biết đến với chuyên môn trong lĩnh vực triết học Kant.
Sách
Kant on Beauty and Biology: An Interpretation of the Critique of Judgment, Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 2007.
Herder's Naturalist Aesthetics, Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 2019.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Rachel Elizabeth Zuckert tại Đại học Northwestern
Rachel Zuckert - Herder's Naturalism on Vimeo
Sinh năm 1969
Nhà triết học Mỹ thế kỷ 21
Giáo sư triết học Mỹ
Cựu sinh viên Đại học Chicago
Giảng viên Đại học Northwestern
Nhân vật còn sống
Học giả Kant
Học giả Heidegger
Nữ nhà triết học Mỹ
Thành viên Quỹ Quốc gia về Nhân văn học
Nữ giới Mỹ thế kỷ 21
|
19852030
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zuckertia
|
Zuckertia
|
Zuckertia là một chi thực vật thuộc họ Đại kích được mô tả lần đầu năm 1858. Chi này chỉ chứa duy nhất một loài, Zuckertia cordata, là loài bản địa của México và Trung Mỹ.
Tham khảo
Plukenetieae
Thực vật Nam Mexico
Thực vật Trung Mỹ
Đơn vị phân loài do Henri Ernest Baillon đặt tên
|
19852034
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jovan%20Zucovi%C4%87
|
Jovan Zucović
|
Jovan Zucović (; sinh ngày 17 tháng 4 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá người Serbia thi đấu ở vị trí hậu vệ cho Ulaanbaatar City.
Sự nghiệp
Vào tháng 1 năm 2020, Zucović gia nhập Ulaanbaatar City ở Mông Cổ dưới thời của huấn luyện viên Vojislav Bralušić.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1990
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Kraljevo
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Serbia
Cầu thủ bóng đá FK Smederevo 1924
Cầu thủ bóng đá FK Jedinstvo Ub
Cầu thủ bóng đá FK Sinđelić Beograd
Cầu thủ bóng đá FK Sloga Kraljevo
Cầu thủ bóng đá FK Dinamo Vranje
Cầu thủ bóng đá Ulaanbaatar City FC
Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Serbia
Cầu thủ bóng đá nam Serbia ở nước ngoài
Vận động viên Serbia ở Thụy Điển
Cầu thủ bóng đá nam nước ngoài ở Thụy Điển
Cầu thủ bóng đá nam nước ngoài ở Mông Cổ
|
19852036
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20Kalmyk%20Sart
|
Tiếng Kalmyk Sart
|
Tiếng Kalmyk Sart là một phương ngữ Oirat Trung Mông Cổ có nguy cơ tuyệt chủng và không được nghiên cứu đầy đủ, được nói bởi người Kalmyk Sart ở huyện Ak-Suu, vùng Issyk-Kul, Kyrgyzstan.
Lịch sử
Tiếng Kalmyk Sart trở thành biến thể khác biệt sau khi những người nói tiếng này tách khỏi cộng đồng nói tiếng Oirat lớn hơn ở khu vực nay là Tân Cương vào khoảng năm 1864 và chuyển đến bờ hồ Issyk-Kul. Kể từ đó, ngôn ngữ này đã phát triển tách biệt với các phương ngữ Mông Cổ khác và có mối liên hệ chặt chẽ với tiếng Kyrgyz, một ngôn ngữ Turk. Nghiên cứu gần đây cho thấy ảnh hưởng đáng kể về mặt hình thái, âm vị học và từ vựng tiếng Kyrgyz đối với tiếng Kalmyk Sart.
Tình trạng ngôn ngữ
Tiếng Kalmyk Sart là một ngôn ngữ bị đe dọa nghiêm trọng, chủ yếu trong giao tiếp thường ngày giữa người cao tuổi ở khu vực nông thôn. Hầu như tất cả mọi người đều nói được ba thứ tiếng, sử dụng thông thạo tiếng Kyrgyz và tiếng Nga bên cạnh tiếng mẹ đẻ. Những thành viên trẻ hơn của cộng đồng dân tộc thường ít hoặc không nói tiếng Kalmyk Sart.
Chữ viết
Trong lịch sử, tiếng Kalmyk Sart được viết bằng chữ Todo và đôi khi là phiên bản địa phương của chữ Ả Rập. Cả hai chữ viết này đều không còn được sử dụng vào đầu những năm 1940. Năm 1934, một dạng chính tả dựa trên bảng chữ cái Latinh tồn tại trong thời gian ngắn đã được đưa vào. Ngày nay, tiếng Kalmyk Sart hiếm khi được sử dụng trong văn bản, nhưng chữ Kirin Kalmyk được dùng để viết nó ra.
Tham khảo
Ngôn ngữ tại Kyrgyzstan
Ngôn ngữ Trung Mông Cổ
|
19852040
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fred%20J.%20Wiseman
|
Fred J. Wiseman
|
Frederick J. Wiseman hay Fred J. Wiseman (10 tháng 11 năm 18754 tháng 10 năm 1961) là phi công người Mỹ. Wiseman được biết đến là người đầu tiên trên thế giới vận chuyển bưu phẩm bằng đường hàng không. Trong suốt cuộc đời mình, Wiseman được coi là một trong những phi công thành công nhất.
Tiểu sử
Wiseman sinh tại Thung lũng Sonoma, trong một trang trại nằm giữa Glen Ellen và Santa Rosa, California, Hoa Kỳ. Sau khi hoàn thành chương trình tốt nghiệp tại California, ông bắt đầu tham gia vào công việc kinh doanh xe đạp và ô tô. Năm 23 tuổi, ông chuyển đến Santa Rosa và định cư tại đây.
Trước khi trở thành phi công, Wiseman là một tay đua xe hơi có tiếng. Ông đã tham gia nhiều trận đua và không ít lần giành giải vô địch tại các hội chợ tiểu bang. Một số người nói rằng niềm đam mê bất tận với ngành hàng không của Wiseman đến từ sự kiện lễ thăm quê nhà của anh em nhà Wright diễn ra vào năm 1909 và cuộc triển lãm hàng không lớn đầu tiên được tổ chức tại Los Angeles.
Ngày 3 tháng 2 năm 1910, Wiseman tuyên bố từ giã sự nghiệp đua xe và dấn thân vào ngành hàng không. Ông cùng với hai người bạn là M. W. Peters và Julian Pierre cùng nhau chế tạo thành công một chiếc máy bay, đây là chiếc máy bay đầu tiên được chế tạo thành công bởi một người California. Chiếc máy bay được trang bị động cơ Hall-Scott với công suất 50 mã lực. Wiseman đã lái chiếc máy bay này và thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 24 tháng 4 năm 1910.
Wiseman được đánh giá cao nhờ vào khả năng tự học và thành công, đặc biệt là kỹ năng điều khiển máy bay của mình. Trong thời kỳ này, các phi công nghiệp dư có thể điều khiển máy bay lên không trung trong vài giây nhưng do thiếu hướng dẫn, kinh nghiệm đường bay, cũng như phương pháp chế tạo máy bay và sức mạnh động cơ vào thời điểm đó gây trở ngại cho các phi công không thể thực hiện các chuyến bay liên tục hoặc hạ cánh an toàn.
Wiseman sau đó trở thành giám đốc điều hành của Standard Oil Co. Ông mất ngày 4 tháng 10 năm 1961.
Chuyến bay vận chuyển thư đầu tiên
Wiseman đã bí mật tạo ra một chiếc máy bay tại một nhà kho ở Trang trại Laughlin, Windsor. Chiếc máy bay này được thiết kế nhằm phục vụ công việc vận chuyển thư tín bằng con đường hàng không, một bước ngoặc đầy hứa hẹn chưa từng có trong ngành vận tải. Chiếc máy bay của Wiseman được lấy cảm hứng từ mẫu thiết kế chiếc Wright Flyer của anh em nhà Wright, Wiseman đã lấy nguyên bản từ những hình chụp chiếc Wright Flyer và đưa vào hình mẫu chiếc máy bay do ông chế tác. Chuyến bay thử nghiệm đầu tiên thành công vào ngày 13 tháng 2 năm 1911. Sau đó, chiếc máy bay đã được tháo dỡ và được lắp rắp tại khu hội chợ Sonoma-Marin ở Petaluma. Wiseman đã bay đến Santa Rosa và chuyển thành công một bức thư có đóng dấu của thị trưởng Petaluma cho thị trưởng tại thành phố này. Việc chuyển giao lá thư được thực hiện chính thức theo sự chấp thuận của Cục Bưu điện Hoa Kỳ.
Dịch vụ chuyển phát thư tín qua đường hàng không do Wiseman thực hiện kéo dài với thời gian bay tổng công 12 phút, trong đó bao gồm vận chuyển một bịch tế phẩm và 50 bản sao của báo Santa Rosa Press Democrat, đã khẳng định sự ra đời của dịch vụ chuyển phát thư qua đường hàng không đầu tiên trên thế giới. Trước đó, tổng thời gian kết thúc chuyến bay được dự kiến ngắn hơn so với thời gian chính thức được ghi nhận, nhưng việc Wiseman đã hai lần hạ cánh trong khoảng thời gian bay đã khiến cho hành trình kéo dài hơn dự kiến. Chiếc máy bay bay với độ cao 100 feet (khoảng 30 m) cách mặt đất và đạt tốc độ 70 dặm một giờ (tương ứng 110 km/h). Chiếc máy bay này về sau được trưng bày tại Viện Smithsonian vào năm 2007.
Tham khảo
Chú thích
Sinh năm 1875
Mất năm 1961
Nhà phát minh Mỹ thế kỷ 20
Nhà tiên phong hàng không
|
19852047
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20Oirat%20Torgut
|
Tiếng Oirat Torgut
|
Torgut hay Torghud là một phương ngữ tiếng Oirat được nói ở Tân Cương, miền tây Mông Cổ và miền đông Kalmykia (là cơ sở cho tiếng Kalmyk, ngôn ngữ tiêu chuẩn văn học của khu vực này). Do đó, nó có nhiều người nói hơn bất kỳ phương ngữ Oirat nào khác. Torgut được nghiên cứu nhiều hơn những phương ngữ Oirat khác được sử dụng ở Trung Quốc.
Phân bố
Phương ngữ Torgut được nói ở miền đông Kalmykia thuộc Nga, huyện Bulgan thuộc tỉnh Khovd ở Mông Cổ và khu tự trị Tân Cương của Trung Quốc, chủ yếu ở ba khu vực riêng biệt ở phía tây bắc. Sečenbaγatur và cộng sự đưa ra một danh sách đầy đủ các khu vực Tân Cương nói tiếng Oirat (trong nhiều trường hợp là Torgut), bao gồm cả một số nơi ở phía đông bắc Tân Cương: các châu tự trị Bayangol và Bortala, các huyện Hoboksar và Dörbiljin và thành phố Ô Tô ở địa khu Tháp Thành, các huyện Küriye, Tekes và Nilka ở châu Ili, địa khu Altay, địa cấp thị Hami, châu Xương Cát và thủ phủ Tân Cương, Ürümqi. Ở một mức độ nào đó, sự phân bổ này có thể gắn liền với lịch sử của bộ tộc Torgut, một trong bốn thành viên quan trọng của liên minh thị tộc "Dörben Oirat".
Tham khảo
Thư mục
Birtalan, Ágnes (2003): Oirat. In: Janhunen 2003: 210-228.
Bläsing, Uwe (2003): Kalmuck. In: Janhunen 2003: 229-247.
Bulaγ-a (2005): Oyirad ayalγu-yin sudulul. Ürümči: Sinǰiyang-un arad-un keblel-ün qoriy-a.
Coloo, Ž. (1965): Zahčny aman ajalguu. Ulaanbaatar: ŠUA.
Coloo, Ž. (1988): BNMAU dah' mongol helnij nutgijn ajalguuny tol' bichig: ojrd ajalguu. Ulaanbaatar: ŠUA.
Janhunen, Juha (ed.) (2003): The Mongolic languages. London: Routledge.
Sečenbaγatur, Qasgerel, Tuyaγ-a, B. ǰirannige, U Ying ǰe (2005): Mongγul kelen-ü nutuγ-un ayalγun-u sinǰilel-ün uduridqal. Kökeqota: Öbür mongγul-un arad-un keblel-ün qoriy-a.
Svantesson, Jan-Olof, Anna Tsendina, Anastasia Karlsson, Vivan Franzén (2005): The Phonology of Mongolian. New York: Oxford University Press.
Ubushaev, N.N. (1979). Fonetika torgutskogo govora kalmytskogo yazyka. Elista: Kalmyk book publishing house.
Liên kết ngoài
Ngôn ngữ chắp dính
Ngôn ngữ Trung Mông Cổ
Ngôn ngữ tại Trung Quốc
Ngôn ngữ tại Mông Cổ
Ngôn ngữ tại Nga
|
19852056
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Bildegg
|
Lâu đài Bildegg
|
Lâu đài Bildegg là một lâu đài ở đô thị Zihlschlacht-Sitterdorf thuộc bang Thurgau của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ.
Xem thêm
Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ
Tham khảo
Bildegg
|
19852060
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Seeburg
|
Lâu đài Seeburg
|
Lâu đài Seeburg là một lâu đài ở đô thị Kreuzlingen thuộc bang Thurgau của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ.
Xem thêm
Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ
Tham khảo
Seeburg
|
19852063
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/PAW%20Patrol%3A%20Phim%20si%C3%AAu%20%C4%91%E1%BA%B3ng
|
PAW Patrol: Phim siêu đẳng
|
PAW Patrol: Phim siêu đẳng (tên tiếng Anh: PAW Patrol: The Mighty Movie) là bộ phim hoạt hình siêu anh hùng hài hước của Canada dựa trên bộ phim truyền hình nổi tiếng PAW Patrol: Đội chó cứu hộ siêu đẳng được sáng lập bởi Keith Chapman. Đây là phần phim hậu truyện của PAW Patrol: Phim đội đặc nhiệm siêu đẳng (2021), được đạo diễn bởi Cal Brunker, đồng biên kịch với Bob Barlen chấp bút dựa trên cốt truyện của Brunker, Barlen và Shane Morris. Phim sẽ có sự tham gia lồng tiếng của dàn diễn viên từ bản truyền hình bao gồm Christian Corrao (lồng tiếng cho Marshall), Luxton Handspiker (lồng tiếng cho Rubble), Callum Shoniker (lồng tiếng cho Rocky), and Ron Pardo (lồng tiếng cho both Cap'n Turbot và Thị trưởng Humdinger). Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của dàn diễn viên mới bao gồm Mckenna Grace (lồng tiếng cho Skye), Taraji P. Henson, Marsai Martin, Christian Convery (lồng tiếng cho Chase), Kim Kardashian, Chris Rock, Lil Rel Howery, Serena Williams, North West, Saint West, James Marsden, Kristen Bel và Finn Lee-Epp trong vai Ryder, đây cũng là vai lồng tiếng đầu tiên của anh. Phim sẽ là hành trình theo chân những chú cún con của Đội cứu hộ PAW Patrol vô tình có được siêu năng lực từ những viên pha lê của chúng và cả bọn cùng nhau hợp sức để ngăn chặn Thị trưởng Humdinger và đồng bọn với của hắn là Nhà khoa học điên Victoria Vance tàn phá Thành phố Phiêu lưu.
Bộ phim sẽ do Spin Master Entertainment sản xuất và được phân phối ở thị trường Canada bởi Elevation Pictures, trong khi Paramount Pictures (dưới nhãn hiệu là Nickelodeon Movies) sẽ đảm nhận việc phân phối tại thị trường quốc tế. Đây là phần phim thứ hai được sản xuất dưới nhãn hiệu Spin Master Entertainment. Kế hoạch về phần hậu truyện này được bắt đầu vào tháng 8 năm 2021 khi Brunker chia sẻ rằng anh rất thích thú trước việc để làm một phần hậu truyện sau sự thành công của phần đầu tiên. Dự chán chính thức được bật đèn xanh bởi Spin Master vào tháng 11 năm 2021 với kế hoạch sẽ ra mắt vào ngày 13 tháng 10, 2023 trước khi bị dời ngày công chiếu sang tháng 9 năm 2023 với việc Brunker sẽ trở lại vị trí chỉ đạo bộ phim.
Hậu truyện
Vào ngày 26 tháng 9, 2023, Spin Master đã thông báo rằng phần phim thứ ba đang được phát triển và dự kiến sẽ công chiếu vào năm 2026.
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim năm 2023
Phim Canada
Phim tiếng Anh
Phim thập niên 2020
Phim hài
Phim siêu anh hùng
Phim hoạt hình Mỹ thập niên 2020
Phim tiếng Anh thập niên 2020
Phim siêu anh hùng thập niên 2020
Phim hoạt hình máy tính Canada
Phim dựa trên loạt phim truyền hình
Phim của Paramount Pictures
|
19852065
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bilibili%20Gaming
|
Bilibili Gaming
|
Bilibili Gaming (BLG) là tổ chức thể thao điện tử chuyên nghiệp có trụ sở tại Trung Quốc. Được thành lập vào tháng 12 năm 2017, khi Bilibili, một trang web chia sẻ video của Trung Quốc, mua lại đội hình Liên Minh Huyền Thoại của I May. Tổ chức đã mở rộng sang trò chơi Overwatch vào tháng 3 năm 2019 với việc thành lập đội học viện Overwatch Contender cho Hangzhou Spark, một đội Overwatch thuộc sở hữu của Bilibili. Cuối năm đó, đội Overwatch của BLG đã giành chiến thắng trong giải đấu LanStory Cup Mùa Hè 2019.
Liên Minh Huyền Thoại
Lịch sử
Bilibili gia nhập đấu trường Liên Minh Huyền Thoại chuyên nghiệp vào ngày 17 tháng 12 năm 2017 với việc mua lại suất tham dự giải đấu LPL của I May. Đội sau đó được đổi tên thành Bilibili Gaming.
Sau khi lọt vào vị trí thứ 2 ở LPL Mùa Xuân 2023, đội đã đủ điều kiện tham dự giải đấu MSI lần đầu tiên trong lịch sử.
Đội hình hiện tại
Valorant
Đội hình hiện tại
Tham khảo
Tổ chức thể thao điện tử
Tổ chức thể thao điện tử Trung Quốc
Đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại ở Trung Quốc
Đội tuyển Valorant
|
19852072
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yazan%20Al-Naimat
|
Yazan Al-Naimat
|
Yazan Abdallah Ayed Al-Naimat (; sinh ngày 4 tháng 6 năm 1999 tại Wadi Al-Seer, Jordan) là một cầu thủ bóng đá người Jordan chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Al Ahli tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Qatar và đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Yazan Al-Naimat từng thi đấu cho đội trẻ của Sahab. Năm 2018, anh thi đấu lên đội 1 và có trận ra mắt giải vô địch quốc gia Jordan khi mới 19 tuổi. Tại Giải bóng đá chuyên nghiệp Jordan 2021, anh ghi 21 bàn thắng và trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai giải đấu.
Năm 2021, bất chấp lời chiêu mộ từ các câu lạc bộ châu Âu, anh quyết định thi đấu cho Al Ahli, với bản hợp đồng có thời hạn 2,5 năm với mức lương định giá 245.000 euro. Anh có trận đấu ra mắt Al-Ahli và có được một pha kiến tạo trong thắng lợi tối thiểu 1–0 trước Qatar SC. Một tuần sau, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Al-Ahli trong chiến thắng 1–0 trước Umm Salal.
Sự nghiệp quốc tế
Tại Giải vô địch bóng đá U-23 Tây Á 2021, anh cùng đội tuyển U-23 Jordan giành chức vô địch giải đấu; ghi được 2 bàn thắng trong đó có 1 bàn thắng ở trận chung kết và nhận danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu. Anh có trận ra mắt đội tuyển Jordan trong thắng lợi 2–0 trước Tajikistan trong một trận giao hữu vào tháng 2 năm 2021. Cuối năm đó, anh được triệu tập lên đội tuyển Jordan tham dự Giải vô địch bóng đá các quốc gia Ả Rập 2021. Tại giải đấu này, anh ghi được 2 bàn thắng ở vòng bảng, giúp Jordan giành vé vào vòng tứ kết. Tại vòng tứ kết, anh ghi được một pha lập công trong trận thua 1–3 trước đội tuyển Ai Cập; sau đó, anh được nhận danh hiệu Chiếc giày đồng. Vào tháng 1 năm 2024, anh được triệu tập lên đội tuyển Jordan tham dự Cúp bóng đá châu Á 2023 được tổ chức tại Qatar. Trong trận bán kết của giải đấu, anh cùng với Musa Al-Taamari ghi hai bàn thắng giúp Jordan đè bẹp Hàn Quốc với tỷ số 2–0, qua đó giúp Jordan có lần đầu tiên giành vé thi đấu trận chung kết trong lịch sử các kỳ Cúp bóng đá châu Á.
Bàn thắng quốc tế
Tỷ số và kết quả liệt kê số bàn thắng mà Jordam ghi được, cột trước là biểu thị số bàn thắng của Al-Naimat.
Danh hiệu
U-23 Jordan
Giải vô địch bóng đá U-23 Tây Á: 2021
Jordan
Á quân Cúp bóng đá châu Á: 2023
Danh hiệu cá nhân
Chiếc giày đồng Giải vô địch bóng đá các quốc gia Ả Rập: 2021
Cầu thủ xuất sắc nhất Giải vô địch bóng đá U-23 Tây Á: 2021
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1999
Nhân vật còn sống
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ Cúp bóng đá châu Á 2023
Cầu thủ bóng đá Al Ahli SC (Doha)
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan
Cầu thủ bóng đá nam Jordan
Cầu thủ bóng đá Qatar Stars League
|
19852074
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anyone%27s%20Legend
|
Anyone's Legend
|
Anyone's Legend (AL), có tiền thân là Rogue Warriors (RW), là đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại chuyên nghiệp Trung Quốc, hiện đang thi đấu tại giải đấu cao nhất của môn thể thao điện tử Liên Minh Huyền Thoại tại Trung Quốc, LPL.
Lịch sử
ASUS ROG thành lập đội tuyển với tên gọi Rogue Warriors vào ngày 15 tháng 12 năm 2017. Đội hình đầu tiên bao gồm Mouse, Flawless, Doinb, Smlz và killua.
Vào ngày 24 tháng 3 năm 2020, người đi rừng WeiYan đã bị đuổi khỏi Rogue Warriors sau khi một cuộc điều tra nội bộ xác định rằng anh ta có liên quan đến âm mưu dàn xếp tỷ số. Tổ chức này sau đó đã bị phạt 3 triệu CN¥ (khoảng 423,687.50 US$ vào thời điểm đó) bởi Riot Games vì che đậy cho WeiYan
Đội hình hiện tại
Tham khảo
Tổ chức thể thao điện tử
Tổ chức thể thao điện tử Trung Quốc
Đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại
|
19852075
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Frauenfeld
|
Lâu đài Frauenfeld
|
Lâu đài Frauenfeld là một lâu đài ở đô thị Frauenfeld thuộc bang Thurgau của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ.
Xem thêm
Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ
Tham khảo
Frauenfeld
|
19852076
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C6%B0%C6%A1ng%20ng%E1%BB%AF%20Alasha
|
Phương ngữ Alasha
|
Alasha (, một số phương ngữ Mông Cổ đọc là ; chữ Mông Cổ: , chữ Kirin Mông Cổ: Алшаа , , Hán Việt: A Lạp Thiện), hay Alaša-Eǰen-e, là một biến thể thuộc ngữ hệ Mông Cổ với đặc điểm pha trộn tiếng Oirat và tiếng Mông Cổ. Trong lịch sử, nó từng thuộc về Oirat nhưng đã chịu ảnh hưởng của tiếng Mông Cổ. Nó có hơn 40.000 người nói ở minh Alxa, Nội Mông, Trung Quốc và bao gồm hai phương ngữ phụ, Alasha chính và Eǰene.
Âm vị học
"nhỏ" so với "nhóm", nên . , do đó quá trình phi vòm hóa âm tắc xát diễn ra đối với và ở bất kỳ vị trí nào ngoại trừ trước *i. 'mở ra' so với 'đến', do đó phải là /ɪ/. Âm tiết tối đa mang tính CVCC, ví dụ: dạng hội thoại của "chống lại".
Tham khảo
Thư mục
(2005):
Söngrüb (1988): In: 1. Beijing, : 160-197.
Svantesson, Jan-Olof, Anna Tsendina, Anastasia Karlsson, Vivan Franzén (2005): The Phonology of Mongolian. New York: Oxford University Press.
Ngôn ngữ Trung Mông Cổ
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.