id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
19850055
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A0n%20giao%20d%E1%BB%8Bch%20t%C6%B0%C6%A1ng%20lai
Sàn giao dịch tương lai
Sàn giao dịch tương lai (Futures exchange) hay còn gọi là Thị trường tương lai (Futures market) là một sàn giao dịch tài chính trung tâm nơi mọi người có thể giao dịch các hợp đồng tương lai được tiêu chuẩn hóa do sàn giao dịch quy định. Đối tượng giao dịch tại sàn là các hợp đồng tương lai là hợp đồng phái sinh để mua hoặc bán số lượng cụ thể của một loại hàng hóa hoặc công cụ tài chính ở một mức giá xác định và thời gian giao hàng được ấn định trong tương lai. Sàn giao dịch tương lai cung cấp địa điểm giao dịch trên thực địa hoặc trên nền tảng điện tử, chi tiết về hợp đồng tiêu chuẩn, dữ liệu thị trường và giá cả, phòng thanh toán bù trừ, trao đổi tự điều chỉnh, cơ chế ký quỹ, thủ tục thanh toán, thời gian giao hàng, thủ tục giao hàng và các dịch vụ khác để thúc đẩy giao dịch hợp đồng tương lai. Tổng quan Các sàn giao dịch hợp đồng tương lai có thể được cơ cấu tổ chức dưới dạng tổ chức phi lợi nhuận (NGO) do thành viên sở hữu hoặc tổ chức có mục tiêu vì lợi nhuận. Các sàn giao dịch tương lai có thể được tích hợp dưới cùng một thương hiệu hoặc tổ chức với các loại sàn giao dịch khác, chẳng hạn như thị trường chứng khoán, thị trường quyền chọn và thị trường trái phiếu. Các sàn giao dịch hợp đồng tương lai do thành viên sở hữu phi lợi nhuận mang lại lợi ích cho các thành viên của họ, những người kiếm được tiền hoa hồng và doanh thu khi đóng vai trò là nhà môi giới hoặc nhà tạo lập thị trường. Các sàn giao dịch hợp đồng tương lai vì lợi nhuận kiếm được phần lớn doanh thu từ phí giao dịch và thanh toán bù trừ. Các sàn giao dịch hợp đồng tương lai thiết lập các hợp đồng tiêu chuẩn để giao dịch tại địa điểm giao dịch và sàn giao dịch thường chỉ định những điều sau: tài sản sẽ được giao trong hợp đồng, thỏa thuận giao hàng, thời gian giao hàng, công thức định giá cho thanh toán hàng ngày và cuối cùng, quy mô hợp đồng, vị thế và giới hạn giá. Đối với tài sản dự kiến sẽ được giao, các sàn giao dịch tương lai thường chỉ định một hoặc nhiều loại hàng hóa được chấp nhận để giao và bất kỳ điều chỉnh giá nào áp dụng cho việc giao hàng. Các địa điểm nơi tài sản được giao cũng được các sàn giao dịch tương lai chỉ định và họ cũng có thể chỉ định các địa điểm giao hàng thay thế và bất kỳ điều chỉnh giá nào có sẵn khi giao hàng đến các địa điểm thay thế. Địa điểm giao hàng đáp ứng các nhu cầu giao hàng, lưu trữ và tiếp thị cụ thể của tài sản có thể bàn giao. Sàn giao dịch tương lai cũng xác định số lượng tài sản có thể chuyển giao cho mỗi hợp đồng, từ đó xác định quy mô của hợp đồng. Quy mô hợp đồng quá lớn sẽ cản trở việc giao dịch và phòng ngừa rủi ro cho các vị thế nhỏ, trong khi quy mô hợp đồng quá nhỏ sẽ làm tăng chi phí giao dịch do có các chi phí liên quan đến mỗi hợp đồng. Trong một số trường hợp, các sàn giao dịch tương lai đã tạo ra các hợp đồng "nhỏ" để thu hút các nhà giao dịch khối lượng nhỏ hơn. Sàn giao dịch hợp đồng tương lai cung cấp quyền truy cập vào các trung tâm thanh toán bù trừ đứng giữa mọi giao dịch. Chú thích Understanding Derivatives: Markets and Infrastructure Federal Reserve Bank of Chicago, Financial Markets Group (archived 12 August 2013) Thị trường chứng khoán Sàn giao dịch chứng khoán
19850071
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%E1%BB%B3%20%C3%A1n%20tr%C3%AAn%20%C4%91%E1%BB%93i%20tuy%E1%BA%BFt
Kỳ án trên đồi tuyết
Kỳ án trên đồi tuyết (tiếng Pháp: Anatomie d'une chute, tiếng Anh: Anatomy of a Fall) là một bộ phim điện ảnh Pháp thuộc thể loại tâm lýgiật gânchính kịch ra mắt vào năm 2023 do Justine Triet viết kịch bản kiêm đạo diễn, với sự tham gia diễn xuất của Sandra Hüller, Swann Arlaud, Milo Machado Graner, Antoine Reinartz, Samuel Theis, Jehnny Beth, Saadia Bentaieb, Camille Rutherford, Anne Rotger và Sophie Fillières. Tác phẩm theo chân Sandra Voytermột nhà văn đang cố gắng đưa ra những bằng chứng để chứng minh mình vô tội trước cáo buộc sát hại người chồng của mình. Được khởi quay từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2022, bộ phim có buổi ra mắt tại liên hoan phim Cannes lần thứ 76 vào ngày 21 tháng 5 năm 2023, nơi đây bộ phim đã chính thức giành giải Cành cọ vàng và giải Palm Dog, đồng thời bộ phim cũng tham gia tranh giải Queer Palm. Tác phẩm được khởi chiếu tại Pháp vào ngày 23 tháng 8 năm 2023 và tại Việt Nam vào ngày 10 tháng 11 cùng năm, và nhận về những lời khen ngợi từ giới chuyên môn, đặc biệt nhấn mạnh về kịch bản, chỉ đạo đạo diễn và diễn xuất của Hüller, đồng thời bán được hơn một triệu lượt xem tại Pháp. Với việc được tiếp tục vang danh trên thị trường quốc tế, Kỳ án trên đồi tuyết đã nhận về hàng loạt giải thưởng cao quý, bao gồm hai giải Quả cầu vàng, sáu giải César, các giải BAFTA và giải Oscar cho hạng mục Kịch bản gốc xuất sắc nhất. Tham khảo Liên kết ngoài Kỳ án trên đồi tuyết tại Unifrance Kỳ án trên đồi tuyết tại Cineuropa Kỳ án trên đồi tuyết tại Liên hoan phim Cannes Phim năm 2023 Phim Pháp Phim tiếng Anh thập niên 2020 Phim tiếng Anh Phim tiếng Pháp Phim tiếng Đức Phim giành giải Quả cầu vàng cho Phim ngoại ngữ hay nhất Phim về nhà văn Phim quay tại Paris Phim chính kịch Pháp Phim chính kịch liên quan đến LGBT Phim và người giành giải Cành cọ vàng Phim có biên kịch giành giải BAFTA cho kịch bản gốc xuất sắc nhất Phim có biên kịch giành giải Oscar cho Kịch bản gốc xuất sắc nhất Phim về cái chết
19850103
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20C%C3%B4ng%20vi%C3%AAn%20l%E1%BB%9Bn%20Incheon
Ga Công viên lớn Incheon
Ga Công viên lớn Incheon (Tiếng Hàn: 인천대공원역, Hanja: 仁川大公園驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Jangsu-dong, Namdong-gu, Incheon. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Công viên lớn Incheon 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Công viên lớn Incheon Sangasan Chiyagogae Jangsu-dong Trung tâm thể thao thành phố đô thị Incheon Trung tâm đào tạo thanh thiếu niên thành phố đô thị Incheon Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Công viên lớn Incheon Công viên lớn Incheon Công viên lớn Incheon Công viên lớn Incheon Công viên lớn Incheon
19850105
https://vi.wikipedia.org/wiki/Masters%20of%20the%20Air%20%28phim%29
Masters of the Air (phim)
Masters of the Air là một bộ phim truyền hình ngắn tập về đề tài chiến tranh của Mỹ năm 2024, được biên kịch bởi John Shiban và John Orloff, và do Apple Studios, Playtone và Amblin Television đồng sản xuất. Bộ phim được dựa theo cuốn sách Masters of the Air: America's Bomber Boys Who Fought the Air War Against Nazi Germany của nhà sử học Donald L. Miller, có nội dung xoay quay những đóng góp của Liên đoàn Ném bom 100, một liên đoàn ném bom hạng nặng Boeing B-17 Flying Fortress của Không lực 8, Không lực Lục quân Hoa Kỳ, tại chiến trường châu Âu trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Masters of the Air là bộ phim đầu tiên được sản xuất bởi Apple Studios. Quá trình sản xuất phim được thực hiện chủ yếu ở Anh và bắt đầu vào năm 2021, nhưng bị trì hoãn bởi những ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Tập đầu tiên của Masters of the Air được công chiếu chính thức trên nền tảng Apple TV+ vào ngày 26 tháng 1 năm 2024. Diễn viên Diễn viên chính Austin Butler - Thiếu tá Gale "Buck" Cleven (1918-2006) Callum Turner - Thiếu tá John Egan (1915-1961) Anthony Boyle - Trung úy Harry Crosby (1919-2010) Barry Keoghan - Trung úy Curtis Biddick (1915-1943) Nikolai Kinski - Đại tá Harold Huglin (1906-1975) Stephen Campbell Moore - Thiếu tá Marvin S. Bowman Sawyer Spielberg - Trung úy Roy Frank Claytor (1917-2003) Isabel May - Marjorie "Marge" Spencer (1920-1953) James Murray - Đại tá Neil "Chick" Harding (1905-1978) Nate Mann - Trung úy/Đại úy Robert "Rosie" Rosenthal (1917-2007) Laurie Davidson - Trung úy Herbert Nash (1917-1943) Joanna Kulig - Paulina Louis Hofmann - Thiếu úy Ulrich Haussmann (1904-2001) Jamie Parker - Bác sĩ Huston Bel Powley - Trung úy ATS Alexandra "Sandra" Wingate Sam Hazeldine - Trung tá Albert P. Clark (1913-2010) Josiah Cross - Thiếu úy. Richard D. Macon (1921-2007) Branden Cook - Thiếu úy Alexander Jefferson (1921-2022) Ncuti Gatwa - Thiếu úy Robert H. Daniels (1919-1987) Jerry MacKinnon - Đại tá Benjamin O. Davis Jr. (1912-2002) Josh Dylan - Trung úy George F. Niethammer (1919-1945) Diễn viên phụ David Shields - Thiếu tá Everett E. Blakely (1919-2004) Matt Gavan - Đại úy Charles B. “Crankshaft” Cruikshank (1917-2010) Bailey Brook - Trung sĩ Charles K. "Kenny" Bailey (1919-2004) Kai Alexander - Trung sĩ Kỹ thuật William M. Quinn (1923-2013) Ben Radcliffe - Đại úy John D. Brady (1918-1999) Adam Long - Đại úy Bernard DeMarco (1918-1992) Darragh Cowley - Trung úy Glenn Graham (1918-1959) Jonas Moore - Đại úy Frank Murphy (1921-2007) Elliot Warren - Thiếu úy James R. Douglass Jordan Coulson - Thiếu úy Howard B. "Hambone" Hamilton (1923-1998) Louis Greatorex - Đại úy Joseph "Bubbles" Payne (1921-1944) Nathen Solly - Thiếu úy John L. Hoerr (1919-1959) Raff Law - Thượng sĩ Kenneth A. Lemmons (1923-2004) Samuel Jordan - Thượng sĩ John J. "Winks" Herrmann (1919-1986) James Frecheville - Thiếu tá William W. "Bill" Veal (1914-2005) Thomas Flynn - Barr Toby Eden - Billy Taylor Tom Joyner - Đại úy Robert "Stormy" Becker (1919-2009) Edward Ashley - Trung tá John B. "Jack" Kidd (1919-2013) Harry Ames - Đại úy August H. Gaspar (1917-2007) Spike White - Thiếu úy Charles A. Via (1917-1965) Nhân vật khách mời Liên đoàn Ném bom (Hạng nặng) 100 James Meunier - Thiếu úy Kenneth Lorch (1920-1987) George Smale - Thiếu úy Raymond J. Nutting (1918-1991) Oaklee Pendergast - Trung sĩ William M. "Baby Face" Hinton (1924-1943) Kieron Moore - Trung sĩ Tham mưu Clifford Starkey (1919-1985) Daniel Briggs - Trung sĩ Kỹ thuật William Crabb (1921-1998) Dean Ridge - Trung úy Richard L. Snyder (1912-1943) Sonny Ashbourne Serkis - Trung úy James Evans (1924-2009) Charlie Rix - Trung úy Glen Van Noy (1918-2002) Jojo Macari - Đại úy Oran E. Petrich (1920-1943) George Webster - Đại úy Glenn W. Dye (1921-2003) Lino Facioli - Trung úy Adams Freddy Carter - Trung úy David Friedkin (1912-1976) Francesco Piacentini-Smith - Trung sĩ Tham mưu Ray H. Robinson (1920-2005) Ben Spong - Thiếu tá Ollen O. Turner (1915-1991) Fionn O'Shea - Trung sĩ Tham mưu Steve Bosser Nitai Levi - Trung sĩ Paul A. Vrabec, Jr. (1919-1946) Jon Ewart - Thiếu úy William H. Couch (1921-2006) Max Hastings - Trung úy Kenneth Allen (1917-2001) Neil Pendleton - Trung sĩ Kỹ thuật William R. Stewart (1920-2002) John Hopkins - Bác sĩ, Đại úy Wendell C. Stover Elliott Ross - Trung úy Donald L. Strout (1920-1972) Louis Sparks - Trung sĩ Lester Saunders (1916-1943) Alex Boxall - Trung sĩ Kỹ thuật Monroe Thornton (1914-1978) Luke Coughlan - Trung sĩ Tham mưu James M. Johnson Phillip Lewitski - Trung úy Francis Harper (1918-1972) Josh Bolt - Trung úy Winifred "Pappy" Lewis Dean John-Wilson - Trung úy Clifford J. Milburn (1922-2000) Ian Dunnett Jnr - Thiếu úy Ronald C. Bailey (1916-2003) Riley Neldam - Trung sĩ Kỹ thuật Michael V. Boccuzzi (1921-2000) Jonathan Halliwell - Trung sĩ William J. DeBlasio (1924-2001) Adam Silver - Thiếu úy David Solomon Dimitri Leonidas - Trung sĩ George J. Petrohelos (1921-1991) Thomas Perry - Trung sĩ Harold E. "Harry" Clanton (1922-1943) Elan Butler - Thiếu úy Robert J. "Bob" Shoens (1921-2024) Corin Silva - Trung tá John M. Bennett (1908-1993) Ben Dilloway - Trung tá Wilbur W. Aring (1908-1980) Patrik Krivanek - Trung sĩ Tham mưu Joe F. Hruskocy (1914-2002) Christopher Lakewood - Đại tá Thomas S. Jeffery (1917-2008) Liên đoàn Tiêm kích 332 - Phi công Tuskegee Tomisin Ajani - Đại úy Erwin B. Lawrence (1919-1944) Darryl Mundoma - Thiếu úy Charles M. Bussey (1921 - 2003) Francis Lovehall - Đại úy Wendell O. Pruitt (1920-1945) Kwame Agyei - Thiếu úy Joseph Evans Gordon (1923-1944) Rahshan Wall - Trung úy Frederick D. Funderburg (1922-1944) Jonathan Jules - Trung úy Shelby F. Westbrook (1922-2016) Bradley Banton - Trung úy Lee "Buddy" Archer (1919-2010) Nhân vật khác Tommy Jessop - Tommy Alfie Tempest - Sammy Hurley Harriet Leitch - Tatty Spaatz Emma Canning - Helen Bronwyn James - Susie Lauren McQueen - Rose Robert Hands - Thiếu tá Gustav Simoleit, Phó giám đốc Trại tù binh Stalag Luft III Saro Emirze - Hanns Scharff, một chuyên gia thẩm vấn của Luftwaffe Phát hành Masters of the Air được công chiếu chính thức trên nền tảng Apple TV+ vào ngày 26 tháng 1 năm 2024. Các tập phim Sản xuất Tháng 10 năm 2012, có nhiều thông tin cho rằng Tom Hanks và Steven Spielberg sẽ tiếp tục đạo diễn một bộ phim truyền hình ngắn tập thứ ba về đề tài Chiến tranh Thế giới thứ hai. Bộ phim được cho là cốt truyện tương tự Band of Brothers và The Pacific, nhưng lần này tập trung vào những người lính bay thuộc Không lực 8, Không lực Lục quân Hoa Kỳ. Tháng 1 năm 2013, HBO xác nhận rằng họ đang sản xuất một bộ phim truyền hình ngắn tập được chuyển thể từ cuốn sách Masters of the Air: America's Bomber Boys Who Fought the Air War Against Nazi Germany của nhà sử học Donald L. Miller, với nội dung xoay quanh Liên đoàn Ném bom 100 của Không lực 8. Tháng 10 năm 2019, Apple thông báo đã đạt được thỏa thuận với các công ty sản xuất phim của Spielberg và Hanks để được cấp quyền phát trực tuyến loạt phim này độc quyền trên nền tảng Apple TV+ thay vì HBO. HBO sau đó xác nhận họ đã ngừng hợp tác sản xuất dự án phim trên. Tờ Deadline Hollywood dự đoán bộ phim này bao gồm 10 tập, có kinh phí sản xuất hơn 200 triệu USD, trong khi đó tờ The Hollywood Reporter cho rằng sẽ có chín tập phim với tổng kinh phí lên đến 250 triệu USD. Đây là bộ phim truyền hình ngắn tập đầu tiên của Apple TV+ được đưa vào sản xuất dưới sự điều hành và giám sát của công ty mẹ Apple Studios. Tháng 10 năm 2020, nhà làm phim Cary Joji Fukunaga xác nhận sẽ đạo diễn ba tập đầu tiên của bộ phim. Tháng 2 năm 2021, Austin Butler và Callum Turner được tuyển làm diễn viên chính của bộ phim, theo đó là Anthony Boyle và Nate Mann vào tháng 3, Raff Law, James Murray và Tommy Jessop vào tháng 4. Diễn viên Freddy Carter tiết lộ trong một buổi phỏng vấn vào tháng 5 rằng anh đã đựoc chọn làm diễn viên chính của Masters of the Air. Một số bức ảnh hậu trường cho thấy Barry Keoghan cũng sẽ góp mặt trong bộ phim. Tháng 6 năm 2021, Dee Rees được mời làm đạo diễn cho hai tập phim. theo đó là hai vợ chồng đạo diễn Anna Boden và Ryan Fleck vào tháng 7. Tháng 2 năm 2021, tờ báo Oxford Mail của Anh đưa tin rằng quá trình ghi hình và sản xuất phim đã được bắt đầu ở khu doanh trại Dalton (trước đây là sân bay RAF Abingdon trong Chiến tranh Thế giới thứ hai) của hạt Oxfordshire, Anh. Quá trình làm phim đã bị hoãn lại tạm thời vào tháng 7 sau khi có thêm nhiều ca dương tính với COVID-19 ở Anh. Bộ phim còn được bấm máy ở các khu vực khác như Newland Park, Chalfont St Peter và Hemel Hempstead. Nhà sản xuất đã áp dụng cộng nghệ phim trường ảo của Lux Machina để thực hiện một số phân cảnh buồng lái máy bay B-17 Flying Fortress. Đánh giá chuyên môn Trên hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, bộ phim nhận được 83% lượng đồng thuận dựa trên 69 đánh giá và đạt mức điểm trung bình là 8,0/10. Trang web cho biết "Nhờ vào quá trình sản xuất phim hoàn hảo và xây dựng nhân vật kỹ lưỡng, Masters of the Air có thể tự hào sáng ngang với các loại phim tiền nhiệm Band of Brothers và The Pacific." Trên trang Metacritic, bộ phim có điểm trung bình là 73 trên 100, dựa trên 40 lượt nhận xét. Rebecca Nicholson của The Guardian đã đánh giá bô phim đạt năm sao, gọi Masters of the Air là "một bộ phim truyền hình thực sự tuyệt vời" và đã lột tả được những trải nghiệm "ly kỳ nhưng không kém phần khủng khiếp" của những người phi công. Tuy nhiên, Emily Baker của tờ i chỉ cho bộ phim hai sao, viết rằng Masters of the Air "là bộ phim gây thất vọng lớn đầu tiên của năm 2024." Baker chỉ trích bộ phim có nhiều tình tiết kịch tính dễ đoán trước và cốt truyện, tính cách nhân vật "quá khuôn mẫu," đồng thời cho rằng bộ phim này "quá lỗi thời để cạnh tranh với các bộ phim truyền hình uy tín ngày nay." Xem thêm Twelve O'Clock High 12 O'Clock High Memphis Belle Baa Baa Black Sheep Tham khảo Liên kết ngoài Introducing The Mighty 8th Chương trình truyền hình tiếng Anh Phim Mỹ thập niên 2020 Phim chiến tranh Mỹ Phim lịch sử Phim về Thế chiến II Phim dựa theo sách Phim chính kịch dựa trên sự kiện có thật Phim do Steven Spielberg đạo diễn Phim lấy bối cảnh ở thập niên 1940 Không lực Lục quân Hoa Kỳ Phim truyền hình về hàng không Tác phẩm truyền hình bị tạm ngừng do đại dịch COVID-19
19850113
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Khu%20li%C3%AAn%20h%E1%BB%A3p%20c%C3%B4ng%20nghi%E1%BB%87p%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Juan
Ga Khu liên hợp công nghiệp quốc gia Juan
Ga Khu liên hợp công nghiệp quốc gia Juan (Incheon J Valley) (Tiếng Hàn: 주안국가산단(인천J밸리)역, Hanja: 朱安國家産團(仁川제이밸리)驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Gajwa-dong, Seo-gu, Incheon. Tên phụ của nhà ga là Incheon J Valley. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Khu liên hợp công nghiệp quốc gia Juan 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Khu liên hợp công nghiệp quốc gia Juan Sân vận động cộng đồng Dong-gu Songnim- dong, Dong-gu Cơ sở Namincheon Bách khoa Hàn Quốc 2 Sân tennis Gajwa thành phố Incheon Rinnai Hàn Quốc Incheon J Valley Trung tâm y tế thành phố đô thị Seoul Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Khu liên hợp công nghiệp quốc gia Juan Khu liên hợp công nghiệp quốc gia Juan Khu liên hợp công nghiệp quốc gia Juan Khu liên hợp công nghiệp quốc gia Juan Khu liên hợp công nghiệp quốc gia Juan
19850116
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Incheon%20Gajwa
Ga Incheon Gajwa
Ga Incheon Gajwa (Tiếng Hàn: 인천가좌역, Hanja: 仁川佳佐驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Gajwa-dong, Seo-gu, Incheon. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Incheon Gajwa 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Gajwa-dong Bệnh viện Naeun Trường tiểu học Sarim Garim Trường trung học Gajwa Trường trung học Garim Trung tâm phúc lợi hành chính Gajwa 3-dong Công viên thể thao Jinju Trung tâm phúc lợi hành chính Gajwa 2-dong Bưu điện Gajwa 2-dong Trường tiểu học Jeonji Geonji Trường trung học cơ sở Gajwa Thư viện Seo-gu của thành phố Incheon Trường tiểu học Incheon Gajwa Sale Shopping Chi nhánh Incheon Gajwa Gaseok-ro Sinjinmal-ro Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Incheon Gajwa Incheon Gajwa Incheon Gajwa Incheon Gajwa Incheon Gajwa
19850117
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Trung%20t%C3%A2m%20C%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BB%93ng%20Ph%E1%BB%A5%20n%E1%BB%AF%20ph%C3%ADa%20T%C3%A2y
Ga Trung tâm Cộng đồng Phụ nữ phía Tây
Ga Trung tâm Cộng đồng Phụ nữ phía Tây (Tiếng Hàn: 서부여성회관역, Hanja: 西部女性會館驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Seongnam-dong, Seo-gu, Incheon. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Trung tâm Cộng đồng Phụ nữ phía Tây 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Trung tâm Cộng đồng Phụ nữ phía Tây thành phố Incheon Ngã tư Geonji Ngã ba Geonji Trường trung học cơ sở Seoknam Trường Trung học Y tế Incheon Trường tiểu học Jeonji Geonji Trường trung học cơ sở Gajwa Bưu điện Gajwa 2-dong Trường trung học nữ sinh Yehwa Trường tiểu học Chunhwa Bonghwa Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Trung tâm Cộng đồng Phụ nữ phía Tây Trung tâm Cộng đồng Phụ nữ phía Tây Trung tâm Cộng đồng Phụ nữ phía Tây Trung tâm Cộng đồng Phụ nữ phía Tây Trung tâm Cộng đồng Phụ nữ phía Tây
19850118
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m%20B%E1%BA%B1ng%20%28nh%C3%A0%20c%C3%A1ch%20m%E1%BA%A1ng%29
Phạm Bằng (nhà cách mạng)
Phạm Bằng (1911–1947), thường gọi là Giáo Bằng, là một nhà cách mạng Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Cuộc đời Phạm Bằng sinh năm 1911 trong một gia đình nông dân ở làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, huyện Tiên Phước (tách ra từ phủ Tam Kỳ vào năm 1916), nay là thôn 2, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ, do trong làng không có trường học, ông phải lên phủ Tam Kỳ để học tập. Sau khi tốt nghiệp bậc Tiểu học trường Pháp - Việt, ông về quê dạy học ở trường Sơ cấp trên tổng. Cuối năm 1939, Tỉnh ủy viên Khưu Thúc Cự của Tỉnh ủy Quảng Nam đến Tiên Phước để bắt liên lạc với Phạm Bằng. Chưa được bao lâu, Khưu Thúc Cự bị bắt, ông bị mất liên lạc với tổ chức Đảng. Đến đầu năm 1941, theo chỉ thị của Tỉnh ủy, Tỉnh ủy viên Nguyễn Sắc Kim đến Tiên Phước để xây dựng chiến khu, đồng thời bắt nối lại với ông. Tháng 3 năm 1941, dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Sắc Kim, Chi bộ làng Thạnh Bình (chi bộ đầu tiên của huyện) được thành lập gồm Phạm Bằng, Đào Trợ, Lê Quyên, Huỳnh Hóa, do Phạm Bằng làm Bí thư. Trong khoảng thời gian 1941–1943, ông tích cực tham gia các phong trào đấu tranh, phát triển cơ sở Đảng. Tháng 5 năm 1943, do có kẻ khai báo, thực dân Pháp biết được căn nhà của ông là nơi liên lạc của tổ chức. Cuối tháng 5, ông bị bắt cùng với các đồng chí Phan Thị Nể, Nguyễn Hàng và bị kết án 1 năm tù, giam giữ tại Hội An. Năm 1944, ông ra tù, tham gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa. Ngày 18 tháng 8 năm 1945, ông cùng Phạm Toàn chỉ huy đội thanh niên vũ trang giành chính quyền ở tổng Tiên Giang Thượng và huyện lỵ Tiên Phước. Ngày 20 tháng 8, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Tiên Phước được thành lập do Phạm Bằng làm Chủ tịch. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, ông trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên. Tuy nhiên, do vết thương cũ từ thời bị giam giữ tái phát, ông buộc phải bỏ dở công tác để về quê dưỡng bệnh. Ngày 23 tháng 10 năm 1947, ông mất ở quê nhà. Gia đình Vợ ông là bà Huỳnh Thị Châu, là cháu họ của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng. Bà Châu cũng tham gia hoạt động cách mạng và bị bắt giam ở Hội An, mất năm 1944. Vinh danh Tên của ông được đặt cho một con đường ở quận Hòa Vang (Đà Nẵng). Ghi chú Chú thích Người Quảng Nam Nhà cách mạng Việt Nam Nhà giáo Việt Nam thời Pháp thuộc Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I
19850119
https://vi.wikipedia.org/wiki/Telejornal%20%28RTP%29
Telejornal (RTP)
Telejornal là chương trình thời sự do Đài Phát thanh – Truyền hình Bồ Đào Nha (RTP) sản xuất. Phát sóng lần đầu vào ngày 18 tháng 10 năm 1959. Tham khảo Chương trình thời sự trên truyền hình
19850122
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chu%E1%BB%91i%20xi%C3%AAm
Chuối xiêm
Chuối xiêm (còn gọi là chuối sứ) là một giống chuối trồng nông nghiệp có nguồn gốc từ Thái Lan. Giống chuối này là một trong những loại cây ăn quả và cây trồng quan trọng nhất ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên toàn thế giới. Quả chuối xiêm chứa nhiều chất dinh dưỡng thường được ăn lúc chín vàng tươi hoặc chế biến thành nhiều món ăn khác. Hầu như tất cả bộ phận của cây chuối xiêm đều có công dụng hữu ích với người. Tên gọi Chuối xiêm có tên gọi địa phương tại Úc là 'Ducasse', tại Uganda là 'Kayinja'. Tên gọi pisang awak theo tiếng Malaysia được sử dụng phổ biến trong viện nghiên cứu. Ở Thái Lan, chúng được gọi là kluai nam wa (). Thuật ngữ nam wa được chuyển sang tiếng Khmer, theo đó chuối xiêm tại Campuchia có tên gọi chek nam va (). Nhưng tại tỉnh Surin nói tiếng Khmer của Thái Lan, chuối xiêm có tên chek sâ () hoặc chuối trắng. Giống chuối này có nhiều cách viết La tinh bao gồm 'Namwah Tall' (với chữ 'h' thừa). Trong tiếng Việt, chúng được gọi là chuối sứ hoặc chuối xiêm. Ở Philippines, chúng thường được gọi là lagkitan ở vùng Nam Tagalog hoặc botolan ở vùng Palawan. Là một dạng đột biến chắc khỏe, 'chuối xiêm lùn' được biết đến ở Mỹ với tên gọi Musa 'Dwarf Namwa' do công ty Agri-Starts phát triển; và trong tiếng Thái là kluai nam wa khom (). Phân loại Chuối xiêm có nguồn gốc từ Thái Lan, là giống lai giữa Musa acuminata và Musa balbisiana. Đa số các tài liệu đều cho rằng chuối xiêm thuộc nhóm giống chuối mang bộ gen ABB tam bội. Nhưng vẫn có tài liệu cho rằng giống này thuộc nhóm bộ gen AABB tứ bội. Danh pháp khoa học là Musa (ABB) 'Pisang Awak'. Danh pháp đồng nghĩa là: Musa paradisiaca var. awak. Tổng quan Quả chuối xiêm có hình dáng hai đầu thon và nhỏ, không dài, phần giữa to, trên vỏ có ba gờ và cuống dài. Khi chín vỏ vàng, mùi thơm, phần thịt trắng nõn và có vị ngọt nhẹ vừa phải và hơi chát. Chuối xiêm cho quả nhiều hạt khi nguồn phấn hoa dồi dào. Cây mọc cao . Trồng ven theo bờ kinh, mương, sông rạch... Chuối xiêm trồng từ 8 tháng đến 1 năm sẽ ra quả. Bụi chuối cách nhau khoảng 1 m. Mỗi năm bón phân cho chuối từ 1 - 2 lần. Tùy theo cây con khi trồng nhỏ hay lớn, từ ngày trổ quả đến chín khoảng 100 ngày. Sau khi thu hoạch buồng chuối sẽ tiến hành tỉa cây, lá cho thoáng để cây con dễ mọc lên. Sinh thái Cây chịu được khí hậu nắng nóng, chịu hạn tốt, thích hợp trồng ở vùng khô hạn. Chuối xiêm ưa ẩm và ưa sáng, thích nghi với điều kiện nhiệt đới nóng và ẩm. Lượng mưa trong năm cần phân bổ đều, khoảng 200–220 mm/tháng. Nhiệt độ lý tưởng khoảng từ 15-35 °C. Chuối có thể trồng trên nhiều loại đất, nhưng tốt nhất vẫn là đất phù sa có tầng mặt dày, tơi xốp, nhiều mùn, giàu dinh dưỡng, giữ ẩm và thoát nước tốt. Nếu đất có tầng canh tác mỏng, nhiều cát, nghèo chất hữu cơ hoặc nhiễm mặn sẽ khiến cây chuối sinh trưởng kém. Độ pH đất trồng chuối xiêm từ 5.0 - 7.0. Nếu đất quá chua hoặc kiềm quá sẽ khiến chất lượng quả ảnh hưởng, không ngọt và không thơm. Công dụng Ở Uganda, chuối xiêm (được người dân địa phương gọi là kayinja) được trồng để nấu bia chuối. Ở Campuchia, chuối xiêm (tiếng địa phương là chek nam va) được ưa chuộng hơn số khác vì có nhiều công dụng trong khi các giống chuối khác chỉ có giá trị về quả. Hoa chuối (ở giai đoạn ra hoa đực) và thân giả tuy có tính se nhưng được dùng làm rau ăn. Lá gấp lại được dùng làm hộp chứa các món cà ri hấp, ví dụ: cá hấp amok và ansom chek để hương thơm của lá chuối lan tỏa vào thức ăn đang nấu. Ở Việt Nam, chuối xiêm được ăn cả lúc chín vàng lẫn ăn sống lúc quả còn xanh. Quả còn dùng để chế biến rất nhiều món ăn như kem chuối, chè chuối, chuối chiên, chuối nướng, chuối luộc... Món "chuối nếp nướng" chế biến từ chuối xiêm, là một trong 9 món được CNN nhắc đến trong danh sách "Những món tráng miệng ngon nhất thế giới". Quả chuối xanh còn sống có thể được dùng trong các món rau ghém, ăn kèm món cuốn. Tại miền Tây Nam Bộ, hầu như tất cả bộ phận của cây chuối xiêm đều được người dân tận dụng để phục vụ cho đời sống. Ngoài quả chuối để ăn thì lá chuối được dùng để gói các món bánh truyền thống (bánh tét, bánh ít,...), cuống lá khô dùng làm dây buộc. Bắp chuối xiêm (tức hoa chuối theo cách gọi ở miền Tây Nam) sau khi đã trổ xong buồng được tận dụng để chế biến món ăn như trộn gỏi bắp chuối, thái sợi ăn kèm các món bún (như bún bò Huế, bún riêu cua, bún nước lèo, bún mắm, ...). Đặc biệt, người dân miền này cho rằng chỉ bắp chuối xiêm và chuối hột là ăn được, còn lại của các giống chuối khác thì không thể ăn do vị đắng, nhiều mủ. Xem thêm Chuối Danh sách giống chuối Chi Chuối Chuối rừng Tham khảo Chuối
19850124
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ninh%20An%20nh%C6%B0%20m%E1%BB%99ng
Ninh An như mộng
Ninh An Như Mộng (; tiếng Anh: Story of Kunning Palace) là một bộ phim truyền hình cổ trang của Trung Quốc do Chu Nhuệ Bân đạo diễn và iQiyi sản xuất. Bộ phim với sự tham gia diễn xuất của Bạch Lộc cùng dàn diễn viên chính Trương Lăng Hách, Vương Tinh Việt, Châu Tuấn Vỹ,... được khai máy ngày 21 tháng 5 năm 2022 và đóng máy ngày 8 tháng 9 năm 2022 . Bộ phim còn đạt kỷ lục về lượt đặt trước với hơn 7,4 triệu trên nền tảng iQiyi. Ngày 7 tháng 11 năm 2023, Ninh An Như Mộng chính thức lên sóng trên nền tảng iQiyi nội địa và iQiyi Quốc Tế. Nguyên tác Khương Tuyết Ninh vốn là đích nữ tiểu thư Khương gia nhưng bị một người thiếp đánh tráo với thứ nữ nên nàng từ nhỏ lớn lên ở thôn quê, không được dạy dỗ, không ai uốn nắn. Sau khi được đón về thì ganh ghét với chị gái (là thứ nữ con của người thiếp kia, nhưng sống dưới thân phận đích nữ), cướp nhân duyên của chị, gả cho vương gia Thẩm Giới. Về sau Thẩm Giới lên ngôi, nàng thành Hoàng hậu. Khương Tuyết Ninh có một thanh mai trúc mã là Yến Lâm – thế tử của Dũng Nghị hầu phủ. Yến Lâm rất tốt với nàng nhưng nàng lại chẳng có tình cảm nam nữ với ai, chỉ thích làm hoàng hậu nên khi hầu phủ xuống dốc, nàng tuyệt tình đi cưới người khác, từ đây Yến Lâm sinh hận. Sau khi làm Hoàng hậu nàng lại mang tư tình với vị quan thanh liêm là Trương Già. Trong triều bấy giờ có vị Đế sư hai triều, người này là biểu ca của Yến Lâm – thế tử Định Phi của Tiêu Quốc công phủ, sau vứt bỏ tên họ trở thành Thiếu sư Tạ Nguy quay lại trả thù triều đình và thân tộc. Khi ngai vàng đã sụp, Ninh Hậu câu dẫn Tạ Nguy không thành lại còn suốt ngày bị Yến Lâm đe dọa nên lựa chọn tự sát. Sau khi chết đã trùng sinh quay lại thời thiếu nữ, trở lại làm nhị tiểu thư Khương gia. Kiếp trước, Khương Tuyết Ninh một lòng muốn làm hoàng hậu nên đã lợi dụng hết người này đến người khác. Vậy mà, cuối cùng kết cục lại bị dồn đến bước đường cùng rồi tự sát. Sống lại một đời, lần này nàng không muốn làm hoàng hậu nữa. Nàng chỉ muốn sống một cuộc đời bình yên và ở bên cạnh một người mà nàng thầm thương nhớ bao lâu nay. Ngờ đâu, thế sự vô thường, cuối cùng nàng lại ở bên một người mà nàng từ trước đến nay đều chưa từng nghĩ đến. Nội dung Nội dung chủ yếu xoay quanh nhân vật Khương Tuyết Ninh (Bạch Lộc thủ vai) lợi dụng nhiều người, làm ra vô số chuyện thâm độc để thượng vị Hoàng hậu. Nào ngờ sau khi đã đạt được mục đích thì lại gặp phải tình cảnh cung biến, đi đến đường cùng phải tự sát. Mà ở thế giới song song khác, tác giả của bộ tiểu thuyết nổi tiếng Ninh An Như Mộng - Khương Ninh (Bạch Lộc thủ vai) không hài lòng với kết cục của nhân vật chính nên cô quyết định viết lại cuộc đời mới cho nhân vật. Trở lại thời điểm Khương Tuyết Ninh tự sát, khi tác giả sửa lại dòng sự kiện tiểu thuyết cũng là lúc vận mệnh nhân vật xoay chuyển. Đại Càn - Năm Vạn Trinh thứ 20, Khương Tuyết Ninh sống lại với thân phận thiếu nữ 18 tuổi (con thứ Khương phủ). Giờ đây, nàng chỉ mong tránh xa quyền lực và làm chủ cuộc sống của chính mình. Nhưng do nhầm lẫn, nàng vào cung với tư cách là thư đồng của Công chúa và trở thành học trò của Thiếu sư Thái tử Tạ Nguy (Trương Lăng Hách thủ vai). Ngoài việc học cũng như chấp nhận nghe theo dặn dò của Tạ Nguy, Khương Tuyết Ninh đã bí mật lên kế hoạch ngăn cản đại hoạ sắp tới của Yến Lâm (Châu Tuấn Vỹ thủ vai) - “Huyết Quán Lễ”. Thông qua kế hoạch của Ninh nhị và Tạ Nguy , tính mạng của Hầu phủ bước đầu giải nguy. Sau sóng gió “Huyết Quán Lễ”, Khương Tuyết Ninh lại vô tình vướng vào kế hoạch tiêu diệt loạn đảng Bình Nam Vương. Nàng và Trương Già (Vương Tinh Việt thủ vai) xâm nhập quân địch, trong lúc nguy hiểm, Khương Tuyết Ninh thậm chí còn lấy thân mình chắn tên cho Trương Già. Trải qua sinh tử nhưng cuối cùng hai người cũng không thể bên nhau. Địch quốc Đại Nguyệt tới xâm phạm quốc thổ, trưởng công chúa Thẩm Chỉ Y (Lưu Tá Ninh thủ vai) dứt khoát lên đường hòa thân. Khương Tuyết Ninh coi công chúa là bạn tốt, không thể trơ mắt nhìn công chúa chết như kiếp trước. Nàng theo Tạ Nguy lên phương Bắc thảo phạt Đại Nguyệt. Giữa trùng trùng nguy cơ, Tạ Nguy bảo vệ Khương Tuyết Ninh tới mức không tiếc tự tổn thương chính mình. Đồng hành cùng nhau, bọn họ dần dần nảy sinh tình cảm. Bấy giờ âm mưu của nhà họ Tiết dần dần bộc lộ, cũng liên quan tới chân tướng sự kiện Bình Nam Vương hai mươi năm về trước. Cuối cùng Khương Tuyết Ninh và Tạ Nguy liên thủ vạch trần chân tướng năm xưa, nàng cũng dùng tình cảm cảm hóa được Tạ Nguy, hai người trở thành quyến thuộc. Diễn viên tham gia Lưu ý: Sắp xếp theo thứ tự quan tuyên Lĩnh hàm chủ diễn/Nữ chủ Lĩnh hàm chủ diễn/Nam chủ Lĩnh hàm chủ diễn Chủ diễn Tuyến nhân vật Khương phủ Tham khảo Liên kết Phim cổ trang Phim truyền hình Trung Quốc Phim truyền hình Trung Quốc năm 2023 Phim dựa trên tiểu thuyết
19850126
https://vi.wikipedia.org/wiki/Boeing%20Bird%20of%20Prey
Boeing Bird of Prey
Boeing Bird of Prey là một loại máy bay thử nghiệm trình diễn công nghệ tàng hình thuộc dự án đen của Mỹ, được phát triển bởi McDonnell Douglas và Boeing vào thập niên 1990. Công ty tham gia dự án đã tài trợ 67 triệu USD, và đây là một chương trình có chi phí thấp so với nhiều chương trình khác có quy mô tương tự. Công nghệ và vật liệu phát triển cho Bird of Prey sau này được sử dụng trên máy bay chiến đấu không người lái Boeing X-45. Bird of Prey là một dự án nội bộ, do đó nó không được đặt tên định danh là máy bay-X. Mỹ không có kế hoạch đưa loại máy bay này vào sản xuất hàng loạt, và chỉ dùng cho trình diễn công nghệ. Thiết kế và phát triển Bộ phận Phantom Works của công ty McDonnell Douglas bắt đầu phát triển chiếc Bird of Prey vào năm 1992 tại Khu vực 51 ở bang Nevada. Tên của máy bay được lấy cảm hứng từ tàu chiến vũ trụ Klingon Bird of Prey trong loạt phim truyền hình Star Trek. Sau khi Boeing và McDonnell Douglas sáp nhập vào năm 1997, bộ phận Phantom Works trực thuộc công ty con Boeing Defense, Space & Security. Chuyến bay đầu tiên diễn ra vào năm 1996, và có thêm 39 chuyến bay nữa được thực hiện cho đến khi chương trình kết thúc vào năm 1999. Bird of Prey có thiết kế tàng hình để ngăn chặn việc bị phát hiện hoặc bị theo dõi, và được cho là đã từng trải qua thử nghiệm khả năng ngụy trang chủ động, nghĩa là bề mặt lớp vỏ có thể thay đổi màu sắc hoặc độ sáng để phù hợp với môi trường xung quanh. Vì là máy bay trình diễn nên Bird of Prey sử dụng động cơ tua-bin phản lực cánh quạt thuộc hàng thương mại có sẵn trên thị trường, còn hệ thống thủy lực phải điều khiển bằng thủ công thay vì bằng hệ thống máy tính giao diện điện tử (fly-by-wire). Điều này rút ngắn thời gian phát triển chế tạo và tiệt kiệm chi phí đáng kể. (Một chiếc máy bay thuộc loại sản xuất hàng loạt sẽ có bộ điều khiển bằng máy tính). Hình dạng của Bird of Prey đủ ổn định về mặt khí động học để có thể bay mà không cần chỉnh sửa bằng máy tính. Độ ổn định khí động học một phần là do lực nâng được tạo bởi mép cánh nhô ra dọc theo thân máy bay (chine) tương tự một số máy bay khác như SR-71 Blackbird. Điều này giúp cung cấp lực nâng cho phần mũi khi đang bay. Hình dạng này giúp máy bay ổn định mà không cần phải có đuôi ngang và bánh lái thẳng đứng thông thường, hiện là hình dạng tiêu chuẩn cho máy bay không người lái tàng hình sau này như X-45 và X-47, và chúng chính là những máy bay không đuôi sử dụng bánh lái kéo (phanh hơi ở đầu cánh sử dụng không đối xứng) để kiểm soát sự lúc lắc và sự lệch hướng. Ngày 18 tháng 10 năm 2002, Bird of Prey được công bố tên định danh ngầm là YF-118G. Trưng bày Bird of Prey được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ ở căn cứ không quân Wright-Patterson gần Dayton, Ohio vào ngày 16 tháng 7 năm 2003. Thông số kỹ thuật Dữ liệu lấy từ Jane's All The World's Aircraft 2003–2004 Đặc điểm tổng quát Phi hành đoàn: 1 người Chiều dài: 14,22 m (46 ft 8 in) Sải cánh: 6,91 m (22 ft 8 in) Chiều cao: 2,82 m (9 ft 3 in) Diện tích cánh: 20,4 m2 (220 ft2) Trọng lượng cất cánh tối đa: 3.356 kg (7.400 lb) Động cơ: 1 × Động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt Pratt & Whitney Canada JT15D-5C, cung cấp lực đẩy 14,2 kN (3.190 lbf) Hiệu suất bay Vận tốc tối đa: 482 km/h (299 dặm/giờ; 260 hải lý/giờ) Trần bay: 6.100 m (20.000 ft) Xem thêm Máy bay có sự phát triển liên quan Boeing X-45 Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương Lockheed Have Blue Northrop Tacit Blue McDonnell Douglas X-36 Boeing Model 853-21 Quiet Bird Tham khảo Jackson, Paul. Jane's All The World's Aircraft 2003–2004 . Coulsdon, Vương quốc Anh: Jane's Information Group, năm 2003. . Liên kết ngoài YF-118G Bird Of Prey: 'Chiến binh tàng hình' bị lãng quên trong lịch sử Máy bay quân sự Hoa Kỳ thập niên 1990 Máy bay tàng hình Mô tả ngắn khác với Wikidata Bài có mô tả ngắn Máy bay quân sự Boeing Máy bay không đuôi
19850137
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BA%A2nh%20kh%E1%BB%8Fa%20th%C3%A2n%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt
Ảnh khỏa thân nghệ thuật
Ảnh khỏa thân nghệ thuật là một thể loại nhiếp ảnh nghệ thuật mô tả cơ thể con người khỏa thân với sự nhấn mạnh vào hình thức, bố cục, nội dung cảm xúc và các phẩm chất thẩm mỹ khác. Khỏa thân đã là một chủ đề nổi bật của nhiếp ảnh kể từ khi được phát minh, và đóng một vai trò quan trọng trong việc thiết lập nhiếp ảnh như một phương tiện mỹ thuật. Sự khác biệt giữa nhiếp ảnh mỹ thuật và các thể loại phụ khác không phải là tuyệt đối, nhưng có những đặc điểm xác định nhất định. Sở thích khiêu dâm, mặc dù thường xuất hiện, chỉ là thứ yếu, phân biệt nhiếp ảnh nghệ thuật với cả nhiếp ảnh quyến rũ, tập trung vào việc thể hiện đối tượng của bức ảnh theo cách hấp dẫn nhất, và nhiếp ảnh khiêu dâm, có mục đích chính là kích thích tình dục người xem. Ảnh nghệ thuật cũng không được chụp để phục vụ bất kỳ mục đích báo chí, khoa học hoặc thực tế nào khác. Sự khác biệt giữa những điều này không phải lúc nào cũng rõ ràng, và các nhiếp ảnh gia, cũng như với các nghệ sĩ khác, có xu hướng đưa ra trường hợp riêng của họ trong việc mô tả tác phẩm của họ, mặc dù người xem có thể có đánh giá khác. Khỏa thân vẫn là một chủ đề gây tranh cãi trên tất cả các phương tiện truyền thông, nhưng hơn thế nữa với nhiếp ảnh do tính hiện thực vốn có của nó. Khỏa thân nam ít phổ biến hơn nữ và hiếm khi được trưng bày hoặc xuất bản. Việc sử dụng trẻ em làm đối tượng trong chụp ảnh khỏa thân đặc biệt gây tranh cãi. Tham khảo Khỏa thân Loại hình nghệ thuật thị giác
19850138
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shirahama%2C%20Wakayama
Shirahama, Wakayama
là thị trấn thuộc huyện Nishimuro, tỉnh Wakayama, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 20.262 người và mật độ dân số là 100 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 200,98 km2. Địa lý Đô thị lân cận Wakayama Tanabe Kozagawa Kamitonda Susami Khí hậu Tham khảo Thị trấn của Wakayama
19850142
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A0n%20giao%20d%E1%BB%8Bch%20ti%E1%BB%81n%20m%C3%A3%20h%C3%B3a
Sàn giao dịch tiền mã hóa
Sàn giao dịch tiền mã hóa (Cryptocurrency exchange) hay còn gọi là Sàn giao dịch tiền điện tử (Digital currency exchange/DCE) là một doanh nghiệp cho phép khách hàng thực hiện giao dịch tiền điện tử hoặc tiền kỹ thuật số để đổi lấy các tài sản khác, chẳng hạn như tiền định danh thông thường hoặc các loại tiền kỹ thuật số khác. Các sàn giao dịch có thể chấp nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng, chuyển khoản ngân hàng hoặc các hình thức thanh toán khác để đổi lấy tiền kỹ thuật số hoặc tiền điện tử. Một sàn giao dịch tiền điện tử có thể là một nhà tạo lập thị trường thường lấy chênh lệch giá thầu-chào bán làm hoa hồng giao dịch cho dịch vụ của mình hoặc cho một nền tảng phù hợp, chỉ tính phí (phí giao dịch). Một số công ty môi giới cũng tập trung vào các tài sản khác như cổ phiếu chẵng hạn như công ty Robinhood và eToro đều cho phép người dùng mua nhưng không rút tiền điện tử về ví tiền mã hóa. Tuy nhiên, các sàn giao dịch tiền điện tử chuyên dụng như Binance và Coinbase cho phép rút tiền điện tử. Sàn giao dịch tiền điện tử thường có thể gửi tiền điện tử đến ví tiền điện tử cá nhân của người dùng. Một số có thể chuyển đổi số dư tiền kỹ thuật số thành thẻ trả trước ẩn danh (Anonymous prepaid cards) có thể được sử dụng để rút tiền từ ATM trên toàn thế giới. trong khi các loại tiền kỹ thuật số khác được bảo đảm từ khối lượng hàng hóa thực tế như vàng. Những người tạo ra tiền kỹ thuật số thường độc lập với sàn giao dịch tiền kỹ thuật số tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch bằng tiền tệ. Trong một loại hệ thống, nhà cung cấp tiền kỹ thuật số (DCP) là các doanh nghiệp lưu giữ và quản lý tài khoản cho khách hàng của họ nhưng nhìn chung không trực tiếp phát hành tiền kỹ thuật số cho những khách hàng đó. Khách hàng mua hoặc bán tiền kỹ thuật số từ các sàn giao dịch tiền kỹ thuật số, những người chuyển tiền kỹ thuật số vào hoặc rời khỏi tài khoản khách hàng của nhà cung cấp (DCP). Một số sàn giao dịch là công ty con của nhà cung cấp (DCP), nhưng nhiều sàn giao dịch là doanh nghiệp độc lập về mặt pháp lý. Mệnh giá của số tiền được giữ trong tài khoản nhà cung cấp (DCP) có thể là tiền thật (hiện kim) hoặc tiền phi thực (Fictitious currency). Trao đổi tiền kỹ thuật số có thể là một hoạt động kinh doanh truyền thống hoặc kinh doanh trực tuyến. Là một doanh nghiệp truyền thống, nó trao đổi các phương thức thanh toán truyền thống và tiền tệ kỹ thuật số. Là một doanh nghiệp trực tuyến, nó trao đổi tiền điện tử và tiền tệ kỹ thuật số. Thông thường, các sàn giao dịch tiền kỹ thuật số hoạt động bên ngoài các nước phương Tây để tránh bị quản lý và truy tố. Tuy nhiên, họ xử lý các loại tiền tệ truyền thống của phương Tây và duy trì tài khoản ngân hàng ở một số quốc gia để tạo điều kiện gửi tiền bằng nhiều loại tiền tệ quốc gia khác nhau. Sàn giao dịch phi tập trung như Etherdelta, IDEX và HADAX không lưu trữ tiền của người dùng trên sàn giao dịch mà thay vào đó tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch tiền điện tử trong mạng ngang hàng. Các sàn giao dịch phi tập trung có khả năng ngạnh kháng đối chọi lại với các vấn đề bảo mật ảnh hưởng đến các sàn giao dịch khác, nhưng có khối lượng giao dịch thấp. (vào thời điểm tính đến năm 2018) Khởi phát Dịch vụ đầu tiên giao dịch tiền Bitcoin được gọi là New Liberty Standard và xuất hiện vào năm 2009, nhưng rất khó để gọi nó là sàn giao dịch tiền điện tử theo đúng nghĩa của từ này, nó giống một cuộc thử nghiệm hơn. Với sự trợ giúp của nó, có thể mua Bitcoin bằng USD. Trang web đã được ra mắt ngay cả trước khi có vụ mua pizza nổi tiếng với giá 10.000 BTC. Vào thời điểm đó, không ai thực sự biết cách xác định giá trị của Bitcoin so với đồng đô la. Sàn giao dịch New Liberty Standard đề xuất ý tưởng định giá một đồng tiền dựa trên chi phí điện năng sử dụng cho nó. Khoảng một năm sau, các sàn giao dịch tiền điện tử giống với các sàn giao dịch hiện đại hơn bắt đầu xuất hiện: TradeHill, Bitcoin Market, Mt. Gox. Sự phát triển tích cực nhất bắt đầu vào năm 2011. Trong số các sàn giao dịch đầu tiên vẫn đang hoạt động có Kraken, Huobi (HTX), OKX, Gate.io. Và mặc dù Bitcoin được hình thành chính xác như một công cụ tài chính phi tập trung, nhưng hóa ra việc tập trung hóa vẫn không thể thiếu khi nói đến khối lượng giao dịch lớn. Các loại trao đổi Trao đổi tiền điện tử có thể được phân loại theo nhiều thông số khác nhau: Có hoặc không có xác minh; Có hoặc không có tiền pháp định; Giao ngay, giao dịch tương lai, p2p; Phi tập trung (CEX) hoặc tập trung (DEX); Được quản lý hoặc không được kiểm soát; Có hoặc không có khả năng giảm tiền hoa hồng; Với giao dịch ký quỹ và không có đòn bẩy; Có và không có nền tảng IEO; Hoạt động ở một số khu vực pháp lý nhất định; Với trữ lượng được xác nhận hay không. Chú thích Tiền điện tử Bitcoin Tiền mã hóa
19850155
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81n%20l%E1%BB%87%2069/2023/AL
Án lệ 69/2023/AL
Án lệ 69/2023/AL về thẩm quyền của Trọng tài thương mại trong việc giải quyết tranh chấp thỏa thuận bảo mật thông tin và không cạnh tranh là án lệ thứ 69 thuộc lĩnh vực dân sự của hệ thống pháp luật Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua, Chánh án Nguyễn Hòa Bình ra quyết định công bố ngày 1 tháng 10 năm 2023, và có hiệu lực cho tòa án các cấp trong cả nước nghiên cứu, áp dụng trong xét xử từ ngày 1 tháng 11 năm 2023. Án lệ này dựa trên nguồn án là Quyết định số 755/2018/QĐ-PQTT ngày 12/6/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nội dung xoay quanh các thỏa thuận về bảo mật thông tin và không cạnh tranh, thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại và thẩm quyền của Trọng tài thương mại. Thẩm phán chủ tọa giải quyết vụ việc dân sự của nguồn án là Phó Chánh án Tòa Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thị Thùy Dung, bà đã đề xuất lựa chọn nguồn án này làm án lệ. Vụ việc xuất phát từ hợp đồng lao động và thỏa thuận bảo mật thông tin và không cạnh tranh (gọi là NDA) giữa hãng Recess và Đỗ Trang, theo đó quy định trong trường hợp kết thúc hợp đồng lao động thì Đỗ Trang không được làm công việc kinh doanh nào tương tự, cạnh tranh với Recess. Sau đó, khi Đỗ Trang nghỉ việc và làm cho hãng khác cùng ngành thì Recess đã đệ đơn khởi kiện lên trọng tài thương mại, nhận được phán quyết thắng kiện. Sau đó, Đỗ Trang đệ đơn yêu cầu tòa án hủy phán quyết của trọng tài. Tòa quyết định bác yêu cầu của Đỗ Trang, tuyên phán quyết có hiệu lực, và từ đây quyết định này của tòa được lựa chọn làm án lệ, và là án lệ đầu tiên có nguồn án là quyết định giải quyết việc dân sự. Nội dung vụ án Tranh chấp và phán quyết trọng tài Ngày 10 tháng 10 năm 2015, chủ sở hữu của sàn giao dịch thương mại điện tử Lazada Việt Nam là Công ty trách nhiệm hữu hạn Recess và Đỗ Thị Mai Trang ký kết hợp đồng lao động với thời hạn 12 tháng từ ngày 10 tháng 10, 2015—31 tháng 10, 2016, thỏa thuận Đỗ Trang làm việc tại Recess với vị trí là Trưởng bộ phận tuyển dụng. Ngày 21 tháng 10 năm 2015, Recess và Đỗ Trang đã ký kết thỏa thuận bảo mật thông tin và không cạnh tranh, trong đó có nội dung: Recess và Đỗ Trang cũng thỏa thuận nếu xảy ra tranh chấp sẽ được giải quyết bằng phán quyết trọng tài thương mại. Ngày 1 tháng 11 năm 2016, Recess và Đỗ Trang tiếp tục ký kết hợp đồng lao động có thời hạn là 12 tháng từ ngày 1 tháng 11, 2016—31 tháng 10, 2017 với vị trí là Trưởng bộ phận tuyển dụng. Ngày 18 tháng 11 năm 2016, Đỗ Trang chấm dứt Hợp đồng lao động năm 2016 với Recess. Ngày 2 tháng 10 năm 2017, sau khi được biết Đỗ Trang đã ký kết hợp đồng lao động với một hãng khác hoạt động trong cùng ngành thì Recess đã nộp đơn khởi kiện Đỗ Trang về việc vi phạm khoản 1 Điều 3 NDA, kèm theo các chứng cứ gửi Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), theo đó yêu cầu Đỗ Trang bồi thường cho Recess số tiền hơn , bằng 3 lần tiền lương tháng liền kề trước khi Đỗ Trang đơn phương chấm dứt hợp đồng. Ngày 19 tháng 1 năm 2018, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam mở phiên họp giải quyết tranh chấp ở chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh tại tòa nhà VCCI, số 171 Võ Thị Sáu, Quận 3. Ngày 19 tháng 2, Hội đồng trọng tài đã ban hành phán quyết, theo đó chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn tiền bồi thường như yêu cầu, bị đơn phải chịu toàn bộ phí trọng tài của vụ tranh chấp này là 24,6 triệu đồng, do nguyên đơn đã nộp toàn bộ chi phí trọng tài nên yêu cầu bị đơn phải hoàn trả lại cho nguyên đơn, thanh toán tất cả trong vòng 30 ngày, trường hợp chậm thanh toán thì phải chịu lãi chậm trả 10% theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Phán quyết trọng tài này có giá trị chung thẩm. Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài Không đồng ý với phán quyết của VIAC, ngày 22 tháng 3 năm 2018, Đỗ Trang đã nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh với yêu cầu xem xét hủy toàn bộ nội dung phán quyết của VIAC. Thứ nhất, Đỗ Trang cho rằng cho rằng NDA vi phạm quy định về quyền làm việc của người lao động—khi cấm bà được làm việc cùng lĩnh vực, hoặc đối thủ cạnh tranh trong 12 tháng sau khi chấm dứt hợp đồng, và khi NDA vi phạm các hành vi bị nghiêm cấm theo Luật Việc làm 2013 mà VIAC vẫn công nhận NDA là đã vi phạm nguyên tắc tuân thủ pháp luật cũng như điều cấm tại Luật này. Thứ hai, bà cho rằng thủ tục trọng tài trái với quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 bởi phán quyết đã được lập vào ngày thứ 31 kể từ ngày diễn ra phiên họp của Hội đồng trọng tài—bắt đầu họp ngày 19 tháng 1 năm 2018, ban hành phán quyết ngày 19 tháng 2 năm 2018—và phán quyết trọng tài đã không được gửi đến bà ngay sau ngày ban hành tức phải ngày 20 tháng 2 năm 2018. Thứ ba, bà cho rằng thủ tục giải quyết tranh chấp không thuộc VIAC mà là thuộc về Tòa, bởi NDA là một phần của hợp đồng lao động, và VIAC không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động. Thứ tư, bà cho rằng VIAC đã sử dụng chứng cứ giả mạo trong quá trình xét xử. Giải quyết việc dân sự Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý việc dân sự, mở phiên họp giải quyết vào ngày 12 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở ở 131 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Thành, Quận 1, phiên họp được chủ tọa bởi Thẩm phán Nguyễn Thị Thùy Dung, 2 thẩm phán Ủ Thị Bạch Yến và Nguyễn Thị Phong, với sự tham gia của Kiểm sát viên Châu Hiệp Phát. Nhận định của tòa án Về thủ tục tố tụng, 19 tháng 2 năm 2018 là ngày công bố phán quyết của VIAC, Đỗ Trang nhận được vào ngày 27 tháng 2, đến ngày 22 tháng 3 thì nộp đơn yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài là còn trong thời hạn theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010. Về lý do của bị đơn Đỗ Trang rằng thoả thuận trọng tài vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và phán quyết của VIAC trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì Tòa viện dẫn các điều khoản: Hội đồng xét đơn tiếp tục viện dẫn Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC quy định: "Trong trường hợp bị đơn cho rằng thỏa thuận trọng tài không tồn tại, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì bị đơn phải nêu rõ trong Bản tự bảo vệ. Nếu bị đơn không nêu rõ điều đó trong bản tự bảo vệ thì bị đơn mất quyền phản đối". Theo tòa, trong Bản tự bảo vệ đề ngày 4 tháng 12 năm 2017 của bị đơn Đỗ Trang cũng như trong suốt quá trình tố tụng trọng tài, bị đơn không hề đưa ra bất cứ phản đối nào đối với thoả thuận trọng tài. Như vậy, bị đơn đã mất quyền phản đối về thoả thuận trọng tài theo quy định từ các điều khoản mà tòa viện dẫn. Về việc Đỗ Trang cho rằng NDA vi phạm quy định về quyền làm việc của người lao động tại Luật Việc làm 2013, Hội đồng xét đơn xét thấy Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào. Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng", theo đó trong trường hợp này, giữa Đỗ Trang với Rececess đã tự nguyện ký kết, khi ký Đỗ Trang là người có đầy đủ năng lực hành vi theo quy định của pháp luật, không bị ép buộc, lừa dối hay áp đặt ý chí để phải chấp nhận ký NDA. Do đó, NDA có hiệu lực. Việc VIAC công nhận hiệu lực của NDA là hoàn toàn đúng pháp luật. Về yêu cầu hủy phán quyết trọng tài vì "thủ tục trọng tài trái với các quy định của Luật Trọng tài thương mại" về thời gian ban hành, thời gian gửi, Hội đồng xét đơn viện dẫn Bộ luật Dân sự 2015 quy định: "Khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó" và "Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó". Phiên họp cuối cùng giải quyết vụ tranh chấp được tổ chức vào ngày 19 tháng 1 năm 2018, tuy nhiên do ngày 18 tháng 2 năm 2018, ngày thứ 30 kể từ ngày diễn ra phiên họp cuối cùng là ngày Chủ nhật, tức ngày nghỉ cuối tuần, nên VIAC ban hành phán quyết vào ngày 19 tháng 2 năm 2018 là vẫn còn trong thời hạn theo quy định viện dẫn nêu trên. Ngày 20–21 tháng 2 năm 2018 là ngày nghỉ lễ Tết Nguyên đán, nên theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015, thời hạn gửi phán quyết không thể kết thúc vào các ngày này, mà kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ của ngày làm việc tiếp theo, tức ngày 22 tháng 2 năm 2018. Do đó, phán quyết được gửi cho các bên trong ngày 22 tháng 2 là vẫn còn trong thời hạn quy định tại Luật Trọng tài thương mại. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà mối quan hệ giữa NDA và hợp đồng lao động, Hội đồng xét đơn viện dẫn Luật Trọng tài thương mại quy định: "Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài: Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại", cùng với việc Recess là thương nhân, có đăng ký kinh doanh, có hoạt động thương mại theo Luật Thương mại 2005. Do đó, thỏa thuận trọng tài thuộc thẩm quyền giải quyết của VIAC và trọng tài, nội dung này đã được VIAC kết luận. Bên cạnh đó, Luật Trọng tài thương mại quy định: "Trường hợp bị đơn cho rằng vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, không có thoả thuận trọng tài, thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì phải nêu rõ điều đó trong bản tự bảo vệ". Trong khi đó, tại Bản tự bảo vệ cũng như trong suốt quá trình tố tụng trọng tài, Đỗ Trang không đưa ra bất cứ phản đối nào đối với thẩm quyền của Trọng tài mà vẫn tiếp tục tố tụng trọng tài, vẫn tham gia phiên họp giải quyết tranh chấp. Như vậy, Đỗ Trang đã mất quyền phản đối về thẩm quyền của VIAC theo quy định tại Điều 13 Luật Trọng tài thương mại 2010 và hướng dẫn tại Điều 6 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP. Về mối quan hệ giữa NDA và hợp đồng lao động, Hội đồng xét đơn căn cứ vào các văn bản và quá trình tố tụng để kết luận NDA là hợp đồng độc lập so với hợp đồng lao động. Về lý do rằng chứng cứ do các bên cung cấp mà VIAC căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo thì Tòa xét thấy, Recess đã cung cấp cho VIAC và bị đơn thư xác nhận của ngân hàng và phiếu lương tháng liền kề trước hành vi vi phạm NDA của bị đơn, các chứng cứ này là các tài liệu do ngân hàng Recess xác nhận nên không thể xem là giả mạo. Hơn nữa căn cứ Luật Trọng tài thương mại, đây là phần nội dung, không thuộc thẩm quyền của hội đồng xét đơn. Quyết định Từ những nhận định trên, Hội đồng xét đơn của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định không chấp nhận yêu cầu của bị đơn Đỗ Trang về việc hủy phán quyết trọng tài của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, đồng thời quyết định của Hội đồng xét đơn là quyết định cuối cùng, các bên và VIAC không có quyền khiếu nại, kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị. Hình thành án lệ Đầu năm 2023, Thẩm phán Nguyễn Thị Thùy Dung đã đề xuất lựa chọn quyết định giải quyết việc dân sự cho mình chủ tọa này của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh làm án lệ góp phần xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại, và là 1 trong 14 đề xuất giai đoạn này. Sau đó, theo tiến trình lựa chọn, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với Liên minh châu Âu và Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức lấy ý kiến từ ngày 19 tháng 4 năm 2023. Sau đó, Hội đồng tư vấn án lệ được tổ chức họp nhằm thảo luận, cho ý kiến vào ngày 2 tháng 6. Trên cơ sở ý kiến góp ý của các thành viên Hội đồng tư vấn án lệ, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học xin rút 5 dự thảo án lệ. Ngày 16 tháng 8, Hội đồng Thẩm phán họp và quyết định thông qua 7 trong 8 dự thảo, trong đó có quyết định giám đốc thẩm của vụ án trên, chính thức là Án lệ số 69/2023/AL và là 1 trong 3 án lệ dân sự trong đợt lựa chọn này. Đối với án lệ này, các luật gia đã bình luận về 2 vấn đề chủ đạo là thẩm quyền giải quyết tranh chấp NDA của trọng tài và nội dung của NDA. Về thẩm quyền thì các quan điểm thống nhất rằng Án lệ 69 đã thống nhất việc trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về NDA. Còn đối với nội dung của NDA thì nhiều luật gia cho rằng NDA là hợp đồng bảo vệ cho người sử dụng lao động, đã phổ biến trên thế giới và dần phổ biển ở Việt Nam, Án lệ 69 chưa trực tiếp đề cập tới nội dung NDA, tuy nhiên cũng là cơ sở để người lao động lường trước rủi ro, tránh "bút sa gà chết" khi ký kết hợp đồng lao động. Ghi chú Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài Website Án lệ Việt Nam của Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam. Án lệ 69/2023/AL tại Website Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam. Quyết định 755/2018/QĐ-PQTT tại Website Công bố bản án. Án lệ dân sự Việt Nam Án lệ Việt Nam năm 2023
19850156
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Gajeong
Ga Gajeong
Ga Gajeong (Lu1 City) (Tiếng Hàn: 가정(루원시티)역, Hanja: 佳亭(루원시티)驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Gajeong-dong, Seo-gu, Incheon. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Gajeong 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Lu1 City Trung tâm phúc lợi hành chính Gajeong 2-dong Ngã tư Gajeong Trường tiểu học Incheon Gawon Trường tiểu học Incheon Gahyeon Trường trung học cơ sở Gahyeon Trường trung học Incheon Shinhyeon Trường trung học Incheon Choeun Hóa dầu SK Incheon Ga kế cận Tham khảo Gajeong Gajeong Gajeong Gajeong Gajeong
19850158
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%ADa%20%C4%91%E1%BB%95i%20c%C3%B3%20t%C3%ADnh%20xung%20%C4%91%E1%BB%99t%20l%E1%BB%A3i%20%C3%ADch%20%E1%BB%9F%20Wikipedia
Sửa đổi có tính xung đột lợi ích ở Wikipedia
Việc sửa đổi có tính xung đột lợi ích (XĐLI) ở Wikipedia xảy ra khi các biên tập viên sử dụng Wikipedia để đẩy mạnh lợi ích cho vị thế hoặc mối quan hệ bên ngoài của họ. Hình thức chỉnh sửa XĐLI được quan tâm nhất trên Wikipedia là chỉnh sửa trả phí cho mục đích quan hệ công chúng (PR). Một số quy định và hướng dẫn của Wikipedia có mặt nhằm chống lại sửa đổi có tính xung đột lợi ích, bao gồm Wikipedia:Xung đột lợi ích và Wikipedia:Công bố thông tin đóng góp được trả thù lao. Những tranh cãi được giới truyền thông đưa tin bao gồm việc nhân viên Quốc hội Hoa Kỳ sửa đổi bài viết về các thành viên Quốc hội năm 2006; Microsoft trả tiền cho một kỹ sư phần mềm để biên tập các bài viết về các tiêu chuẩn mã cạnh tranh vào năm 2007; công ty PR Bell Pottinger biên tập các bài viết về khách hàng của mình vào năm 2011; và phát hiện vào năm 2012 rằng các nghị sĩ Anh hoặc nhân viên của họ đã loại bỏ những lời chỉ trích khỏi các bài viết về các nghị sĩ đó. Các phương tiện truyền thông cũng đã viết về việc chỉnh sửa XĐLI của BP, Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ, Diebold, Portland Communications, Sony, Vatican và một số tổ chức khác. Vào năm 2012, Wikipedia đã tiến hành một trong những cuộc điều tra về rối lớn nhất của mình, khi các biên tập viên báo cáo hoạt động đáng nghi ngờ cho thấy 250 tài khoản đã được sử dụng để tham gia sửa đổi trả phí. Wikipedia đã truy tìm các sửa đổi của một công ty có tên là Wiki-PR và các tài khoản này đã bị cấm. Chiến dịch Orangemoody năm 2015 đã phát hiện ra một vụ sửa đổi trả phí khác, trong đó 381 tài khoản đã được sử dụng để moi tiền các doanh nghiệp nhằm tạo ra và có vẻ bề ngoài là bảo vệ các bài viết quảng bá về họ. Tham khảo Liên kết ngoài Wikimedia Foundation sends cease and desist letter to WikiPR Wikimedia Foundation Executive Director Sue Gardner’s response to paid advocacy editing and sockpuppetry Terms of Use William Beutler, "Paid with Interest: COI Editing and Its Discontents", in Wikipedia @ 20: Stories of an Incomplete Revolution, ed. by Joseph Reagle and Jackie Koerner (Cambridge, Massachusetts: The MIT Press, 2020), pp. 71–85 Bê bối doanh nghiệp Quan hệ công chúng Vụ bê bối giáo dục
19850159
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Ch%E1%BB%A3%20Gajeong%20Jungang
Ga Chợ Gajeong Jungang
Ga Chợ Gajeong Jungang (Tiếng Hàn: 가정중앙시장역, Hanja: 佳亭中央市場驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Gajeong-dong, Seo-gu, Incheon. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Chợ Gajeong Jungang 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Chợ Gajeong Jungang Công viên Columbia Trung tâm văn hóa Seo-gu Trung tâm phúc lợi hành chính Gajeong 3-dong Trường tiểu học Gaseok Gaseok Trường trung học Gajeong Shinhyeonwonchang-dong Trường tiểu học Icheon Shinhyeon Ngã tư Dokgol Bệnh viện Incheon Chamsarang Haneulchae APT Wonchang-ro Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Chợ Gajeong Jungang Chợ Gajeong Jungang Chợ Gajeong Jungang Chợ Gajeong Jungang Chợ Gajeong Jungang
19850163
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A0i%20kho%E1%BA%A3n%20r%E1%BB%91i
Tài khoản rối
Tài khoản rối, hay tài khoản con rối (tiếng Anh: sock puppet account) là danh tính giả trên mạng được sử dụng cho mục đích lừa dối. Thuật ngữ trong tiếng Anh ban đầu dùng để chỉ một con rối tay được làm từ một chiếc tất. Tài khoản rối bao gồm danh tính trực tuyến được tạo ra để ca ngợi, bảo vệ hoặc ủng hộ một cá nhân hoặc tổ chức, nhằm thao túng dư luận, hoặc để lách các hạn chế như xem tài khoản mạng xã hội mà người dùng bị chặn. Những tài khoản rối không được chào đón trong nhiều cộng đồng và diễn đàn trực tuyến. Xem thêm Gián điệp "On the Internet, nobody knows you're a dog" Sửa đổi có tính xung đột lợi ích ở Wikipedia Tấn công giả mạo Trojan Tham khảo Liên kết ngoài Sock puppet tại The Jargon File Thuật ngữ Internet Lừa dối
19850166
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thao%20t%C3%BAng%20Internet
Thao túng Internet
Thao túng Internet đề cập đến việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật số trực tuyến, bao gồm thuật toán, bot xã hội và lệnh tự động cho mục đích thương mại, xã hội, quân sự hoặc chính trị. Thao túng Internet và mạng xã hội là phương tiện chính để truyền bá phản thông tin do tầm quan trọng của nền tảng kỹ thuật số đối với việc sử dụng phương tiện truyền thông và giao tiếp hàng ngày. Khi được sử dụng cho mục đích chính trị, thao túng internet có thể được sử dụng để định hướng dư luận, phân cực dân chúng, lưu hành các thuyết âm mưu và ngăn tiếng nói của những người bất đồng chính kiến về chính trị. Việc thao túng Internet cũng có thể được thực hiện vì lợi nhuận, chẳng hạn như để gây hại cho các đối thủ chính trị hoặc doanh nghiệp và cải thiện danh tiếng thương hiệu. Thao túng Internet đôi khi cũng được sử dụng để mô tả việc thực thi có chọn lọc kiểm duyệt Internet hoặc vi phạm có chọn lọc tính tính trung lập Internet. Tham khảo Liên kết ngoài How technology is changing the way we think, diễn thuyết của Daniel Suarez trên YouTube How "Bots" Control Your Life, diễn thuyết của Daniel Suarez trên YouTube Make Putin pout with this creepy face-tracking tech, thao túng nét mặt Lừa dối
19850170
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0nh%20%C4%91%E1%BB%99ng%20c%E1%BB%A7a%20Wikimedia%20Foundation%20v%E1%BB%9Bi%20Wikipedia%20ti%E1%BA%BFng%20Trung%20n%C4%83m%202021
Hành động của Wikimedia Foundation với Wikipedia tiếng Trung năm 2021
Vào ngày 13 tháng 9 năm 2021, Wikimedia Foundation đã có hành động chính thức đối với Wikipedia tiếng Trung sau khi điều tra những người dùng từ Wikimedians of Mainland China (WMC hoặc WMCUG), một nhóm người dùng Wikipedia không liên kết. Vào lúc 16:13, ngày 13 tháng 9 năm 2021 GMT (00:13, ngày 14 tháng 9 năm 2021 Giờ Bắc Kinh), Wikimedia Foundation trên toàn cầu đã cấm bảy tài khoản chỉnh sửa Wikipedia, thu hồi quyền quản trị của 12 tài khoản và cảnh báo 12 người dùng khác. Bốn trong số mười quản trị viên tích cực nhất trên Wikipedia tiếng Trung đã bị thu hồi quyền. Những hành động này được công bố vào ngày 13 tháng 9 năm 2021 GMT bởi Maggie Dennis, Phó Chủ tịch phụ trách Sự Kiên cường và Bền vững Cộng đồng của Bộ phận Pháp lý tại Wikimedia Foundation. Tham khảo Liên kết ngoài meta:Office actions/September 2021 statement, thông báo về hành động của văn phòng Wikimedia Lịch sử Wikipedia Wikimedia Foundation Tranh cãi Wikipedia
19850179
https://vi.wikipedia.org/wiki/2C-B
2C-B
2C-B (4-bromo-2,5-dimethoxyphenethylamine) là một loại chất thức thần tổng hợp thuộc họ 2C, được Alexander Shulgin tổng hợp lần đầu vào năm 1974 và thường được sử dụng làm thuốc giải trí. Có rất ít thông tin khoa học liên quan đến dược động học và tác dụng dược lý của thuốc ở người. Các nghiên cứu hiện tại chủ yếu phân loại 2C-B là một chất kích thích và chất gây ảo giác, và ít phổ biến hơn là một entactogen (chất tạo sự xúc chạm bên trong), và empathogen (chất tạo trạng thái đồng cảm). 2C-B thường được dùng bằng đường uống, nhưng cũng có thể được bơm hoặc vape (hóa hơi). Trong sách PiHKAL của Shulgin, phạm vi liều lượng được liệt kê là 12–24 mg. Khi 2C-B được bán dưới dạng thuốc giải trí, nó thường ở dạng bột, ít phổ biến hơn ở dạng viên nang hoặc thuốc viên. Nó cũng được gọi bằng một số tên lóng. Tham khảo Liên kết ngoài Mục 2C-B trong PiHKAL Mục 2C-B trong PiHKAL • thông tin Erowid 2C-B vault—gồm các báo cáo từ người sửu dụng, cũng như báo cáo khoa học và của chính phủ Bảng liều dùng 2C-B Chất thức thần
19850204
https://vi.wikipedia.org/wiki/5-MeO-DMT
5-MeO-DMT
5-MeO-DMT (5-methoxy-N,N-dimethyltryptamine) hoặc O-methyl-bufotenin là một chất thức thần thuộc nhóm tryptamine. Nó được tìm thấy ở nhiều loài thực vật và cũng được tiết ra từ các tuyến của ít nhất một loài cóc, cóc Sông Colorado. Giống như họ hàng gần của nó là DMT và bufotenin (5-HO-DMT), nó đã được sử dụng làm chất entheogen ở Nam Mỹ. Các thuật ngữ tiếng lóng bao gồm Five-methoxy, the power, bufo và nọc độc cóc. Tham khảo Liên kết ngoài Mục 5-MeO-DMT tại Erowid Mục 5-MeO-DMT tại TiHKAL • thông tin Ayahuasca Chất thức thần
19850208
https://vi.wikipedia.org/wiki/Callogobius%20williamsi
Callogobius williamsi
Callogobius williamsi là một loài cá biển thuộc chi Callogobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2023. Từ nguyên Từ định danh williamsi đặt theo tên của Tiến sĩ Jeffrey Williams, người đã thu thập mẫu định danh của loài cá này. Phân bố C. williamsi mới chỉ được biết đến ở quần đảo Marquises, được thu thập ở độ sâu đến ít nhất là 30 m. Mô tả Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở C. williamsi là 3,3 cm. Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 9; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 6–7; Số tia vây ngực: 17–19; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 5. Tham khảo W Cá Thái Bình Dương Động vật được mô tả năm 2023
19850223
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bia%20chu%E1%BB%91i
Bia chuối
Bia chuối là một loại đồ uống có cồn nhẹ phổ biến khắp châu Phi. Bia được làm từ quá trình lên men của chuối nghiền. Cao lương, kê hoặc bột ngô được thêm vào như một nguồn men tự nhiên. Bia chuối có vị ngọt và hơi đục với thời hạn sử dụng là vài ngày trong điều kiện bảo quản thích hợp. Phương pháp chế biến và tỷ lệ nguyên liệu được dùng rất khác nhau tùy theo từng quốc gia và theo sở thích người nấu. Tên gọi Công thức truyền thống Bia chuối được làm từ giống chuối cao nguyên Đông Phi chín (nhưng không chín quá) (Musa acuminata Colla (AAA-EA), bộ vô tính Mbidde). Để chuối chín nhanh hơn, người ta đào một cái hố dưới đất, lót lá chuối khô rồi đốt lửa. Lá chuối tươi được đặt lên trên, sau đó đến những quả chuối chưa chín. Sau đó chúng được bao phủ bằng lá chuối tươi và thân cây chuối. Sau khoảng sáu ngày, chuối sẽ chín. Phương pháp này chỉ hiệu quả vào mùa khô. Vào mùa mưa, chuối được chín bằng cách đặt chúng lên một rào chắn gần bếp lửa. Hai loại chuối được dùng làm bia chuối: loại igikashi có vị gắt và loại igisahira có vị nhẹ hơn. Hỗn hợp bia chuối bao gồm 1/3 igikashi và 2/3 igisahira. Sau khi chín, chuối được lột vỏ. Chuối chưa đủ chín nếu không thể lột vỏ bằng tay. Sau khi lột vỏ, chuối được nhào cho đến khi mềm. Nước ép sau đó được lọc để lấy nước chuối trong, chứa glucose, sucrose và fructose. Sau đó được pha loãng cùng nước theo tỷ lệ 1:3. Cao lương được nghiền nhỏ, rang nhẹ rồi thêm vào nước ép. Hỗn hợp này được để lên men từ 18 đến 24 giờ rồi lọc. Sau khi lọc, bia được đóng gói trong chai thủy tinh hoặc chai nhựa. Trong sản xuất thương mại, bia trước tiên có thể được thanh trùng trước khi đóng gói để ngừng quá trình lên men và kéo dài thời hạn sử dụng. Bia chuối đôi khi được dùng trong các nghi thức và nghi lễ. Vi sinh Nấm men bia là vi sinh vật lên men chính cũng như vi khuẩn acid lactic, nấm men, nấm mốc và vi khuẩn hiếu khí, nhưng chúng chưa được xác định ở cấp độ loài. Thành phần thơm của bia chuối có liên quan đến các chất chuyển hóa thứ cấp như ester (ethyl isocyanoacetat, amoni acetat, ethyl ester và ethyl acetat), rượu (methyl alcohol, ethanol, 1-Propanol, propan-1,3-diol và cyclohexanol) và acid (acid acetic, acid propanoic, acid methyphosphonic, acid benzoic và acid 5-hexanoic). Thương mại Ở miền trung Uganda, trồng chuối và chế biến bia chuối là hoạt động kinh tế quan trọng đối với sinh kế của nông dân sản xuất nhỏ, đặc biệt đối với người chế biến chuối thành bia và rượu mạnh, cũng như đối với các tiểu thương nông thôn bán sản phẩm. Giống chuối hiện được trồng nhiều nhất để sản xuất bia là chuối xiêm (có tên địa phương là 'Kayinja', thuộc nhóm gen ABB), nhưng chuối tráng miệng 'Kisubi' (nhóm gen AB) và một số giống chuối thuộc nhóm EAHB AAA (ví dụ: 'Mbidde') cũng được trồng để vắt nước ép và pha chế. Chuỗi giá trị bia chuối ngắn và mang tính địa phương, hầu hết sản phẩm đều được tiêu thụ tại địa phương. Chỉ một lượng nhỏ bia chuối từ miền trung Uganda mới tìm được đường đến các trung tâm đô thị như thủ đô Kampala. Ở Nhật Bản, vườn thực vật nhiệt đới và cá sấu Atagawa đã hợp tác với nhà sản xuất bia Hansharo Beer Brewing để sản xuất ra loại bia chuối đầu tiên trên thế giới theo dây chuyền công nghệ hiện đại. Thương hiệu thương mại gồm có: Bia chuối Mongozo Raha Agashya Xem thêm Rượu vang chuối: một sản phẩm khác có thể được lấy từ chuối. Tham khảo Loại bia Ẩm thực Kenya Ẩm thực Uganda Ẩm thực Rwanda Ẩm thực Tanzania Chuối
19850226
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ADnh%20x%C3%A1c%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20%28ng%C3%B4n%20ng%E1%BB%AF%20h%E1%BB%8Dc%29
Tính xác định (ngôn ngữ học)
Trong ngôn ngữ học, tính xác định (tiếng Anh: definiteness) là một đặc trưng ngữ nghĩa của cụm danh từ nhằm để khu biệt những sở chỉ hay ý nghĩa mà có thể nhận diện được trong ngữ cảnh đã biết (tức cụm danh từ xác định) với những cụm danh từ không có tính chất như vậy (tức cụm danh từ bất xác định). Cụm danh từ xác định thì thường chỉ đến những sở chỉ đơn nhất, quen thuộc, cụ thể trong tiếng Anh như the sun hay Australia, ngược lại với những sở chỉ bất xác định ví dụ như an idea hay some fish. Biểu đạt tính xác định trong khắp các ngôn ngữ là khác nhau rất nhiều, vài ngôn ngữ như tiếng Nhật thì nói chung còn không đánh dấu tính xác định, cho nên cùng biểu đạt thì trong ngữ cảnh này thì có thể xác định, trong ngữ cảnh khác thì lại bất xác định. Trong các ngôn ngữ khác như tiếng Anh thì tính xác định thường được đánh dấu bằng cách chọn hạn định từ (ví dụ the hay là a). Song có những ngôn ngữ khác như tiếng Đan Mạch thì đánh dấu tính xác định thông qua hình thái của từ bằng cách thay đổi lên chính danh từ (ví dụ en mand (a man, người nào đó), manden (the man, cái người [đấy])). Khi tính xác định giới hạn ở phạm trù ngữ pháp Có những lúc cụm danh từ được đánh dấu là 'xác định' về mặt ngữ pháp nhưng trên thực tế lại không khả nhận diện. Ví dụ, câu the polar bear's habitat is the arctic (nơi sống của gấu vùng cực là bắc cực) không trỏ đến con gấu đơn nhất, quen thuộc, cụ thể nào, đây là hiện tượng hình thức và nghĩa không khớp nhau.[p. 84] Sở dụng trong các ngôn ngữ khác nhau Tiếng Anh Trong tiếng Anh, tính xác định thường được đánh dấu bằng các hạn định từ. Các hạn định từ nhất định, như a, an, many, hay some, cùng với số từ (vd, four items), thì thường hay đánh dấu cụm danh từ là bất xác định. Các hạn định từ khác, như the, that, cùng với cụm danh từ sở hữu cách (vd, my brother) thì thường hay đánh dấu cụm danh từ là xác định. Một số phép thử đã được đề ra để khu biệt cụm danh từ xác định với bất xác định. "Mỗi phép thử đều dựa vào trực giác, cũng dựa trên cả vài mức độ trong hiệu quả trên mặt ngữ pháp. Tuy nhiên, có cái nào tương ứng vừa vặn vào phạm trù hình thức không thì không rõ." Nếu cụm danh từ có thể đặt vào câu tồn tại chẳng hạn there is <cụm danh từ> at the door (ví dụ there are two wolves at the door), thì khả năng là danh từ bất xác định. Xem thử việc đặt câu hỏi which (tức câu hỏi lựa chọn) với cụm danh từ trong câu cho trước thì có được không hay là có cần không. Ví dụ: câu "Where did you park the car?" thì không cần hỏi lại là "Which car?" Ngôn ngữ khác Trong tiếng Basque, tính xác định được đánh dấu bằng mạo từ clitic phrasal.  ("woman", phụ nữ), (woman-ART: "the woman", người phụ nữ [đấy]), (woman beautiful-ART: "the beautiful woman", người phụ nữ xinh đẹp [đấy]) Trong tiếng Đan Mạch, tính xác định được đánh dấu thông qua hình thái của từ. Trong tiếng România: ("man", người), (man-ART: "the man", cái người [đấy]), (man-ART good: "the good man", cái người tốt [đấy]) hoặc (good-ART man: "the good man", cái người tốt [đấy]) Trong tiếng Albania, tính xác định được đánh dấu bằng phụ tố danh từ. ("boy", bé trai); (djal-ART: "the boy", cái thằng bé [đấy]); (djal-ART i madh: "the elder son", đưa con trai lớn đấy); ("girl", bé gái); (vajz-ART: "the girl", cái con bé [đấy]); (vajz-ART e bukur: "the pretty girl", cái con bé xinh [đấy]) Trong tiếng Ả-rập, ngữ xác định () có thể được phân biệt với ngữ bất xác định () dựa trên sự hiện diện của mạo từ xác định là al- () hoặc dựa trên hậu tố đại từ sở hữu để hình thành kết cấu iḍāfa. Tính từ mà mô tả danh từ xác định thì cũng được đánh dấu bằng mạo từ xác định al- ().  () có hai lần dùng (DEF-book-DEF-big, đúng nghĩa đen là "the book the big", quyển sách [đấy] nó to) Trong tiếng Hungary, động từ phù ứng với tính xác định của tân ngữ:  (read-1sg.pres.INDEF a book-ACC.sg: "I read a book", Tôi đọc quyển sách [nào đó]) versus (read-1sg.pres.DEF the book-ACC.sg: "I read the book", Tôi đọc quyển sách [đấy]) Trong tiếng Nhật, ( "I have a/the book", Tôi đang giữ quyển sách), bị mơ hồ giữa hai cách hiểu xác định và bất xác định. Các ngôn ngữ trong ngữ tộc German, ngữ tộc Rôman, ngữ tộc Celt, ngữ tộc Semit, ngôn ngữ bổ trợ quốc tế thì nói chung đều có mạo từ xác định, hay được để trước từ nhưng vài trường hợp thì để sau từ. Nhiều ngôn ngữ khác thì không có mạo từ. Vài ví dụ là tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Phần Lan và ngữ tộc Slav hiện đại ngoại trừ tiếng Bulgaria và tiếng Macedonia. Khi cần thiết, các ngôn ngữ thuộc nhóm này đều có thể biểu thị tính xác định bằng các phương tiện khác chẳng hạn như từ chỉ xuất.[cần số trang] Thường thấy rằng tính xác định có ảnh hưởng đến việc đánh dấu biến cách trong ngữ cảnh cú pháp nhất định. Trong nhiều ngôn ngữ, tân ngữ trực tiếp chỉ khi có tính xác định thì mới có đánh dấu riêng biệt. Ví dụ, trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tân ngữ trực tiếp trong câu ("I saw the man", tôi có thấy cái người [đấy]) được đánh dấu bằng hậu tố (biểu thị tính xác định). Tân ngữ trực tiếp mà thiếu hậu tố thì nghĩa là nó bất xác định, và nếu không có mạo từ bất xác định thì không còn là số ít rõ ràng nữa: ("I saw a man/I saw men", tôi có thấy (mấy) người [nào đó]). Trong tiếng Serbia-Croatia, trong nhóm ngôn ngữ gốc Balt là tiếng Latvia với tiếng Litva, và, ở mức độ thấp hơn trong tiếng Slovene, tính xác định có thể được thể hiện bằng cách biến đổi hình thái trên tính từ đặt trước danh từ. Dạng ngắn của tính từ thì được hiểu là bất xác định, còn dạng dài thì được hiểu là xác định hoặc đặc chỉ: dạng ngắn (bất xác định): Tiếng Serbia-Croatia: ("a new city", thành phố mới [nào đó]); tiếng Litva: ("a white book", quyển sách trắng [nào đó]); tiếng Latvia: ("a white house", ngôi nhà mới [nào đó]) dạng dài (xác định): ("the new city, a certain new city", thành phố mới [đấy], thành phố mới nọ); ("the white book, a certain white book", quyển sách trắng [đấy]); ("the white house", ngôi nhà trắng [đấy]) Xem thêm Đề–thuyết Tính đặc chỉ Chú thích Tham khảo Đọc thêm Aguilar-Guevara A, Pozas Loyo J, Vázquez-Rojas Maldonado V (eds.). 2019. Definiteness across languages. Berlin: Language Science Press. ISBN 978-3-96110-193-1. doi:10.5281/zenodo.3265959. Open Access. http://langsci-press.org/catalog/book/227. Hawkins, J.A. (1978) Definiteness and indefiniteness: a study in reference and grammaticality prediction. London:Croom Helm. Bài viết Definite từ Glottopedia Liên kết ngoài http://www.smg.surrey.ac.uk/features/morphosyntactic/definiteness/ doi 10.15126/SMG.18/1.06 Ngữ nghĩa học Thể loại ngữ pháp
19850228
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A1ng%20th%C3%A1i%20bi%E1%BA%BFn%20%C4%91%E1%BB%95i%20c%E1%BB%A7a%20%C3%BD%20th%E1%BB%A9c
Trạng thái biến đổi của ý thức
Trạng thái biến đổi của ý thức (tiếng Anh: Altered state of consciousness, ASC), hay trạng thái biến đổi của tâm thức, là bất kỳ tình trạng nào có khác biệt đáng kể so với trạng thái thức giấc bình thường. Đến trước năm 1892, thuật ngữ này được sử dụng trong bối cảnh có liên quan đến thôi miên, mặc dù vẫn còn tranh cãi về việc liệu thôi miên có được xác định là ASC theo định nghĩa hiện đại của nó hay không. Trường hợp sử dụng tiếp theo có thể truy lại được, là của Max Mailhouse từ bài thuyết trình năm 1904 của ông tại hội nghị, tuy nhiên, nó được xác định rõ như vậy vì có liên quan đến bệnh động kinh và vẫn được sử dụng đến nay. Trong giới hàn lâm, thuật ngữ này đã được Arnold M. Ludwig sử dụng sớm nhất vào năm 1966 và được Charles Tart phổ biến việc sử dụng từ năm 1969. Nó mô tả những thay đổi được gây ra trong trạng thái ý thức của một người, hầu như luôn là tạm thời. Một cụm từ đồng nghĩa là "trạng thái biến đổi của nhận thức". Xem thêm Giấc mơ sáng suốt Biến dạng nhận thức Tham khảo Nguồn "Harvard Heart Letter examines the costs of not getting enough sleep – Harvard Health Publications". Health.harvard.edu. 31 May 2012. Retrieved 2012-08-13. Aldridge, D., & Fachner, J. ö. (2005). Chapter 7: Music and drug-induced altered states of consciousness. (pp. 82–96) Louis Breger. (1967) Function of Dreams. Journal of Abnormal Psychology Monograph, Vol 72, No. 5, Part 2 of 2 Parts, 1–28 Meningitis - Topic Overview (December 8, 2010) from: Meningitis (Bacterial, Viral, and Fungal) Đọc thêm Beyerstein, Barry. "Altered States of Consciousness," in The Encyclopedia of the Paranormal, edited by Gordon Stein (Buffalo, N.Y.: Prometheus Books, 1996). Beyerstein, Barry. "The Myth of Alpha Consciousness", Skeptical Inquirer, 10, no. 1 [1985]. Blackmore, Susan J., Dying to Live : Near-death Experiences, (Buffalo, N.Y.: Prometheus Books, 1993). Bourguignon, Erika (1973). Religion, Altered States of Consciousness, and Social Change. Ohio State Univ. Press, Columbus. Full text Hoffman, Kay (1998). The Trance Workbook: Understanding and Using the Power of Altered States. Translated by Elfie Homann, Clive Williams, and Christliebe El Mogharbel. Translation edited by Laurel Ornitz. James, William (1902). The Varieties of Religious Experience Persinger, Michael. Neuropsychological Bases of God Beliefs (Praeger Pub Text., 1987). Roberts, T.B. "Chemical Input—Religious Output: Entheogens." Chapter 10 of Where God and Science Meet: Vol. 3: The Psychology of Religious Experience. Edited by Robert McNamara. Westport, CT: Praeger/Greenwood, 2006. Roberts, T.B. (Ed.) (2001). Psychoactive Sacramentals: Essays on Entheogens and Religion. San Francisco: Council on Spiritual Practices. Roberts, T.B. and P.J. Hruby. (1995–2002). Religion and Psychoactive Sacraments: An Entheogen Chrestomathy . Online archive Sacks, Oliver W. A leg to stand on (New York : Summit Books, 1984). Sacks, Oliver W. An anthropologist on Mars : seven paradoxical tales (New York : Knopf, 1995). Sacks, Oliver W. Awakenings, [1st. ed. in the U.S.] (Garden City, N.Y., Doubleday, 1974). Sacks, Oliver W. The man who mistook his wife for a hat and other clinical tales (New York : Summit Books, 1985). Shear, Jonathan. (2011). "Eastern Approaches to Altered States of Consciousness". Altering consciousness. volume 1: multidisciplinary perspectives. Spanos, Nicholas P. Multiple Identities and False Memories: A Sociocognitive Perspective (Washington, D.C.: American Psychological Association, 1996). Weinel, Jonathan (2012). "Altered States of Consciousness as an Adaptive Principle for Composing Electroacoustic Music". Unpublished PhD Thesis. Weinel, Jonathan (August 2010). "Bass Drum, Saxophone & Laptop: Real-time psychedelic performance software." eContact! 12.4 – Perspectives on the Electroacoustic Work / Perspectives sur l'œuvre électroacoustique. Montréal: Canadian Electroacoustic Community. Wier, Dennis R. (1995) Trance: From Magic to Technology. Transmedia. Ý thức Huyền bí học Khoa học thần kinh Tri giác
19850238
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20ph%E1%BA%A3n%20th%E1%BA%A7n
Chủ nghĩa phản thần
Chủ nghĩa phản thần (tiếng Anh: antitheism) là quan điểm triết học cho rằng nên phản đối chủ nghĩa hữu thần. Thuật ngữ này đã có một loạt các cách sử dụng khác nhau. Trong bối cảnh thế tục, nó thường ám chỉ sự phản đối trực tiếp với niềm tin vào bất kỳ vị thần nào. Từ nguyên Từ antitheism (hoặc có gạch nối anti-theism) đã được ghi lại trong tiếng Anh từ năm 1788. Nguồn gốc từ nguyên của từ này là anti và theos trong tiếng Hy Lạp. Từ điển tiếng Anh Oxford định nghĩa người theo chủ nghĩa phản thần là "người phản đối niềm tin vào sự tồn tại của một vị thần". Trích dẫn sớm nhất về ý nghĩa này có từ năm 1833. Thuật ngữ này có thể do Pierre-Joseph Proudhon đặt ra. Xem thêm Chủ nghĩa duy vật Chủ nghĩa tự nhiên (triết học) Chủ nghĩa vô thần nhà nước Tham khảo Nguồn Browne, Janet (2002). The Power of Place, Volume 2 of the Biography of Charles Darwin. Alfred Knopf Hitchens, Christopher (2001). Letters to a Young Contrarian (). New York: Basic Books. Maritain, Jacques (1953). The Range of Reason. London: Geoffrey Bles. Electronic Text Note: Chapter 8, The Meaning of Contemporary Atheism (p. 103–117, Electronic Text) is reprinted from Review of Politics, Vol. 11 (3) July 1949, p. 267–280 Electronic Text. A version also appears The Listener, Vol. 43 No.1102, 9 March 1950. pp. 427–429,432. Witham, Larry (2003). By Design, Encounter Books Wright, N.T. (2005). The Last Word, Harper San Francisco Phi tôn giáo Chống tôn giáo Phê bình tôn giáo Triết học tôn giáo Thí nghiệm tưởng tượng
19850251
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3n%20ghi%20nh%E1%BB%9B%20Zilch
Bản ghi nhớ Zilch
Bản ghi nhớ Zilch () là một tài liệu mật dài một trang của chính phủ Mỹ do Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger gửi cho Tổng thống Richard Nixon vào ngày 3 tháng 1 năm 1972, bàn về tình hình quân sự tại Lào trong chiến tranh Việt Nam. Trong bản ghi nhớ, bằng chữ viết tay của chính mình, Nixon mô tả chiến dịch ném bom kéo dài hàng thập kỷ của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á là một "thất bại", đạt được "zilch", bất chấp những bình luận trái ngược của công chúng. Chỉ một ngày trước đó, ngày 2 tháng 1, Nixon nói với phóng viên Dan Rather của đài CBS News trong một cuộc phỏng vấn rằng lần đánh bom này tỏ ra "rất, rất hiệu quả". Từng bị thất lạc khỏi Thư viện Richard Nixon, phóng viên Bob Woodward của tờ Washington Post đã phát hiện ra bản ghi nhớ này thuộc quyền sở hữu của Alexander Butterfield, cựu Phó Trợ lý cho Tổng thống Nixon từ năm 1969 đến năm 1973, mà về sau được Bob Woodward cho công bố trong cuốn sách của mình ra mắt năm 2015 có nhan đề The Last of the President's Men. Bất chấp đánh giá riêng của Nixon rằng lần ném bom này là một "thất bại", Mỹ vẫn tăng cường ném bom ở Đông Nam Á vào năm 1972. Chú thích Tham khảo Tài liệu mật Bản ghi nhớ Chính trị Hoa Kỳ 1972 Chiến tranh Việt Nam
19850252
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hang%20Viengxay
Hang Viengxay
Hang Viengxay là một mạng lưới hang động rộng lớn trên núi đá vôi ở tỉnh Huaphanh phía đông bắc Lào. Bốn trăm tám mươi hang động trong số này từng được Pathet Lào dùng làm nơi trú ẩn nhằm tránh khỏi bị máy bay Mỹ bắn phá trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Có tới 23.000 người sống trong các hang động này, trong đó có bệnh viện, trường học, tổng hành dinh của Pathet Lào, tiệm bánh, cửa hàng và thậm chí cả rạp hát. Khu vực này là nơi đóng quân của phe cộng sản đang chiến đấu với phe bảo hoàng tại Viêng Chăn. Các hang động được sử dụng để sinh sống và làm việc vì Không quân Mỹ đang ném bom khu vực này rất nặng nề. Người dân địa phương nói rằng nông dân phải làm ruộng vào ban đêm để tránh các cuộc ném bom. Viengxay từng là căn cứ của phe cộng sản (và là nơi giam giữ các quân nhân Mỹ bị bắt) vì nó gần biên giới Việt Nam để được sự hỗ trợ về mặt hậu cần và chính trị. Chính phủ Lào dự định quảng bá các hang động này như một điểm đến du lịch, tương tự như Địa đạo Củ Chi gần Thành phố Hồ Chí Minh ở Việt Nam và Đài tưởng niệm Cánh Đồng Chết gần Phnôm Pênh ở Campuchia. Đây là một địa điểm khác thường ở chỗ nó mang đến cơ hội khám phá một căn cứ cách mạng phần lớn còn nguyên vẹn. Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), Cơ quan Phát triển Hà Lan và Ngân hàng Phát triển châu Á được chính phủ Lào đề nghị giúp phát triển địa điểm này cho du khách quốc tế. Một kế hoạch dự án được soạn thảo cùng với Văn phòng Hang động và bắt đầu công việc triển khai, với bảng hiệu và thông dịch được cải thiện tại các địa điểm nêu trên. Tham khảo Lịch sử Lào Hang động Lào Hang trưng bày Địa lý tỉnh Huaphanh Chiến tranh Việt Nam Điểm tham quan ở Lào
19850253
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20khu%20C
Chiến khu C
Chiến khu C là khu vực ở Việt Nam Cộng hòa tập trung xung quanh thị trấn Katum bị bỏ hoang gần biên giới Campuchia, nơi tập trung mạnh mẽ hoạt động của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) trong chiến tranh Việt Nam. Khu vực này được cho là địa điểm chung của Trung ương Cục miền Nam, trụ sở cho các hoạt động chính trị và quân sự của cộng sản ở nửa phía nam Việt Nam. Địa lý Chiến khu C, nằm trong khu vực trực thuộc Quân đoàn III, là một khu vực của Việt Nam Cộng hòa có giá trị chiến lược cao do vị trí nằm giữa Campuchia và Sài Gòn cũng như thực tế đây là điểm xuất phát phổ biến của lực lượng QĐNDVN/MTDTGPMNVN và tuyến tiếp tế từ Đường mòn Hồ Chí Minh. Ranh giới chiến khu C nằm dọc theo biên giới Campuchia ở phía bắc và phía tây, còn ranh giới phía đông chạy song song với Quốc lộ 13. Khu vực này bao gồm các phần của tỉnh Tây Ninh, tỉnh Bình Long và tỉnh Bình Dương. Khu vực này được mô tả là những khu rừng không có lối đi xuyên qua các vùng núi và đầm lầy lầy lội khiến việc đi lại và vận chuyển trở nên vô cùng khó khăn. Tác chiến Chiến lược tổng thể được tuân thủ tập trung vào việc phá vỡ và giảm bớt những khu căn cứ mà từ đó QĐNDVN/MTDTGPMNVN có thể hành quân và đe dọa thủ đô Sài Gòn. Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã tiến hành những cuộc hành quân cỡ đơn vị nhỏ trong khu vực này, thường tái càn quét các khu vực đã khám phá trước đó và thiết lập một tuyến phòng thủ hiệu quả hơn dọc biên giới Campuchia nhằm ngăn chặn liên quân MTDTGPMNVN và QĐNDVN giành lại quyền tiếp cận những căn cứ ở các tỉnh phía Nam. Chiến khu C là nơi tổ chức một số hoạt động tác chiến của Mỹ trong suốt cuộc chiến bao gồm Chiến dịch Attleboro, Chiến dịch Birmingham và Chiến dịch Junction City (một trong những chiến dịch lớn nhất được tiến hành trong chiến tranh Việt Nam). Nhiều trận đánh ở Quân đoàn III đã không thể phát huy nổi do các cuộc tấn công trực tiếp vào vùng hoang dã, mà thay vào đó lại xảy ra với vô số trận giao tranh nhỏ, lẻ tẻ nằm cách xa nhau nhiều dặm. Chú thích Tham khảo Chiến tranh Việt Nam Chiến trường Việt Nam Chiến dịch quân sự trong Chiến tranh Việt Nam Căn cứ địa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
19850257
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8Bnh%20Tam%20%C3%81
Vịnh Tam Á
Vịnh Tam Á () là một trong năm vịnh lớn ở thành phố Tam Á, tỉnh Hải Nam, Trung Quốc. Nằm ở bờ biển phía nam Hải Nam, ngay phía nam thành phố Tam Á, nơi đây có bãi biển dài 22 km. Vịnh này được một bán đảo ở phía đông bao bọc. Trong vịnh có hai hòn đảo tên là Tây Đảo và Đông Đảo. Khu nghỉ dưỡng nhân tạo Đảo Phượng Hoàng nằm trong vịnh gần cuối phía đông của bãi biển. Trong những năm gần đây, khi vùng nước của Vịnh Tam Á và những nơi khác được đề cập bên dưới đang trở nên trong hơn và sạch hơn, một số loài cá heo, bao gồm cả cá heo trắng Trung Quốc có nguy cơ tuyệt chủng, thỉnh thoảng xuất hiện dọc theo bờ biển, chúng không được coi là mục tiêu thu hút du lịch. Hình ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin du lịch cơ bản về Vịnh Tam Á Tam Á Vịnh Hải Nam Vịnh Trung Quốc Bãi biển Trung Quốc
19850258
https://vi.wikipedia.org/wiki/A%CC%8D
A̍, hay a̍, gọi là "A có dấu thanh dọc", là một chữ cái được sử dụng trong chính tả tiêu chuẩn, thống nhất ở Cộng hòa Dân chủ Congo và hệ thống Latinh hóa Bạch thoại để viết tiếng Mân Nam Đài Loan. Chữ cái này gồm chữ cái A và dấu thanh dọc ở phía trên. Sử dụng Cộng hòa Dân chủ Congo Trong cách viết chuẩn, thống nhất của Cộng hòa Dân chủ Congo sử dụng dấu thanh dọc để chỉ âm giữa trong các ngôn ngữ thanh điệu cần phân biệt về âm. Đài Loan Mã hóa kỹ thuật số Chữ cái A với dấu thanh dọc có thể được biểu diễn bằng Unicode dưới dạng phân tích thành các cặp ký tự sau, mỗi cặp bao gồm một chữ cái Latinh theo sau là dấu phụ. Xem thêm Chữ Latinh A Nguồn Draft of Proposal to add Latin characters required by Latinized Taiwanese Holo Language to ISO/IEC 10646 Chữ cái Latinh có dấu phụ
19850262
https://vi.wikipedia.org/wiki/Naganuma%2C%20Hokkaid%C5%8D
Naganuma, Hokkaidō
là thị trấn thuộc huyện Yūbari, phó tỉnh Sorachi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 10.289 người và mật độ dân số là 61 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 168,36 km2. Địa lý Khí hậu Tham khảo Thị trấn của Hokkaidō
19850263
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yahoo%21%20360%C2%B0%20Plus
Yahoo! 360° Plus
Yahoo! 360° Plus là một trang dịch vụ mạng xã hội và blog của Việt Nam do Yahoo! vận hành. Nền tảng này tương tự với Yahoo! 360° và là trang blog Yahoo! 360° bản địa duy nhất tính đến nay trên thế giới. Trang web được thành lập với nhiều dịch vụ mới khác dành cho Yahoo! Việt Nam ví dụ như Yahoo! Music (đã không còn hoạt động kể từ năm 2009). Tính đến tháng 1 năm 2010, số lượng người dùng đăng ký sử dụng blog này đã tăng lên mốc 1.500.000 tài khoản. Xem thêm Yahoo! Việt Nam Yahoo! 360° Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức của Yahoo! 360°plus Vietnam Yahoo! Mạng xã hội trực tuyến Phần mềm blog Dịch vụ lưu trữ blog Tài sản Internet thành lập năm 2008 Khoa học và công nghệ Việt Nam
19850268
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i%20M%C3%B9a%20h%C3%A8%202024%20%E2%80%93%20Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91%E1%BA%A5u%20N%E1%BB%AF
Khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè 2024 – Giải đấu Nữ
Giải đấu nữ bộ môn khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè 2024 là lần thứ 12 của nội dung thi đấu khúc côn cầu trên cỏ dành cho nữ tại Thế vận hội Mùa hè. Giải đấu sẽ diễn ra từ ngày 27 tháng 7 đến ngày 9 tháng 8 năm 2024. Tất cả các trận đấu sẽ diễn ra tại Sân vận động Olympic Yves-du-Manoir ở Paris, Pháp. Lịch thi đấu Ở vòng sơ loại, các trận đấu sẽ được thi đấu trên hai sân. Thể thức Mười hai đội trong giải đấu sẽ được chia thành hai bảng, mỗi bảng sáu đội, mỗi đội thi đấu theo thể thức vòng tròn một lượt trong bảng đấu của mình. Sau khi kết thúc giai đoạn thi đấu vòng tròn tính điểm, 4 đội đứng đầu mỗi bảng sẽ vào vòng tứ kết. Hai đội thắng ở trận bán kết gặp nhau trong trận tranh huy chương vàng, trong khi những đội thua ở trận bán kết thi đấu trong trận tranh huy chương đồng. Vòng loại Mỗi nhà vô địch châu lục từ năm liên đoàn đều nhận được một suất thi đấu. Pháp với tư cách là nước chủ nhà tự động vượt qua vòng loại. Các đội khác sẽ cần vượt qua vòng loại thông qua Vòng loại nữ Khúc côn cầu Thế vận hội FIH 2024. Trọng tài Vào ngày 12 tháng 9 năm 2023, 14 trọng tài đã được FIH bổ nhiệm. Irene Presenqui (ARG) Aleisha Neumann (AUS) Laurine Delforge (BEL) Liu Xiaoying (CHN) Hannah Harrison (ENG) Rachel Williams (ENG) Alison Keogh (IRE) Emi Yamada (JPN) Amber Church (NZL) Sarah Wilson (SCO) Cookie Tan (SGP) Annelize Rostron (RSA) Wanri Venter (RSA) Ayanna McClean (TTO) Vòng bảng Các bảng đấu được công bố vào ngày 22 tháng 1 năm 2024. Bảng A Bảng B Vòng đấu loại trực tiếp Sơ đồ Bảng xếp hạng cuối cùng Liên kết ngoài FIH website Tham khảo Giải đấu Nữ Nội dung thi đấu nữ tại Thế vận hội Mùa hè 2024
19850277
https://vi.wikipedia.org/wiki/Numata%2C%20Hokkaid%C5%8D
Numata, Hokkaidō
là thị trấn thuộc Uryū, phó tỉnh Sorachi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 2.909 người và mật độ dân số là 10 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 283,21 km2. Tham khảo Thị trấn của Hokkaidō
19850285
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zuccone
Zuccone
Lo Zuccone (), dịch từ tiếng Ý là "cái đầu lớn" hoặc "cái đầu hói"", là tên phổ biến được đặt cho một bức tượng đá cẩm thạch của Donatello. Bức tượng được làm cho tháp chuông của Nhà thờ chính tòa Firenze, Ý và hoàn thành từ năm 1423 đến 1425. Tác phẩm này còn được gọi là Tượng Prophet Habakkuk, vì nhiều người tin rằng tác phẩm khắc họa nhân vật Habakkuk trong Kinh Thánh, mặc dù Vasari nói rằng đó là tượng chân dung của Giovanni di Barduccio Cherichini. Bức tượng được biết đến bởi thể hiên chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên, khác với hầu hết các bức tượng được thực hiện vào thời điểm đó. Bức tượng được mô tả là tác phẩm điêu khắc bằng đá cẩm thạch quan trọng nhất của thế kỷ 15. Bức tranh hiện được trưng bày tại Museo dell'Opera del Duomo ở Firenze. Tham khảo Liên kết ngoài Florence Cathedral site (English) Tác phẩm điêu khắc của Donatello Nghệ thuật Phục hưng Sách Habakkuk Tác phẩm điêu khắc nam giới ở Ý Tác phẩm điêu khắc Firenze Tác phẩm điêu khắc bằng đá cẩm thạch Ý
19850290
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i%20M%C3%B9a%20h%C3%A8%202024%20%E2%80%93%20V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20N%E1%BB%AF
Khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè 2024 – Vòng loại Nữ
Vòng loại nữ cho nội dung khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội diễn ra từ tháng 8 năm 2023 đến tháng 1 năm 2024, từ giải đấu này sẽ xác định 12 đội tuyển cho giải đấu chính thức. Tất cả năm liên đoàn khu vực nằm dưới sự quản lý của FIH (Liên đoàn Khúc côn cầu Quốc tế) dự kiến ​​sẽ có đại diện châu lục tham gia nội dung thi đấu khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội. Nước chủ nhà Pháp đã nhận được một suất tham dự trực tiếp ở giải đấu nam sau khi đạt được vị trí thứ 25 hoặc cao hơn trong bảng xếp hạng khúc côn cầu FIH. Nửa số suất tham dự còn lại sẽ dành cho ba đội dẫn đầu ở mỗi giải tại hai giải đấu Vòng loại Thế vận hội Khúc côn cầu FIH riêng biệt. Tổng quan Mười hai đội tuyển sẽ tham gia giải đấu khúc côn cầu trên cỏ dành cho nữ, trong đó mỗi Ủy ban Olympic Quốc gia sẽ đưa ra một danh sách bao gồm 16 vận động viên và hai vận động viên dự bị. Quốc gia chủ nhà Với tư cách là nước chủ nhà, Pháp đã nhận được một suất trực tiếp tham dự giải đấu nữ sau khi họ đạt được vị trí thứ 25 hoặc cao hơn trong bảng xếp hạng khúc côn cầu trên cỏ FIH. Nếu các vận động viên khúc côn cầu người Pháp vô địch tại Giải vô địch EuroHockey 2023, số suất tham dự hai giải đấu sẽ tăng lên bảy, với suất còn lại dành cho đội có thứ hạng cao nhất trong số hai đội tuyển thua trong trận tranh huy chương đồng. Các giải đấu vòng loại Đội tuyển giành chiến thắng từ mỗi khu vực trong số năm liên đoàn châu lục (Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Á, Châu Âu và Châu Đại Dương) trong các giải đấu tương ứng được liệt kê dưới đây đã đảm bảo một suất tham dự cho Ủy ban Olympic Quốc gia tương ứng của họ Châu Phi – Đại hội Thể thao châu Phi 2023 sau đó được thay thế bằng Vòng loại Thế vận hội khu vực châu Phi 2023 Châu Mỹ – Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 Châu Á – Đại hội Thể thao châu Á 2022 Châu Âu – Giải vô địch EuroHockey 2023 Châu Đại Dương – Cúp châu Đại Dương 2023 Vòng loại thông quá giải đấu wild card Nửa còn lại của số lượng suất tham được phân bổ cho 8 đội thông qua hai Giải đấu Vòng loại Thế vận hội FIH () riêng biệt, diễn ra từ ngày 13 đến ngày 20 tháng 1 năm 2024. Ba Ủy ban Olympic Quốc gia đủ điều kiện là phải đứng đầu khi kết thúc mỗi giải đấu đã đảm bảo suất để hoàn thành đủ số lượng đội gồm 12 đội cho Thế vận hội Paris 2024. Các đội vượt qua vòng loại {| class="wikitable" |- !Giải đấu vòng loại!!Ngày diễn ra!!Chủ nhà/Quốc gia!!|Số suấttham dự!!Các đội tuyển vượtqua vòng loại |- |Quốc gia chủ nhà |13 tháng 9 năm 2017 |N/A |align=center|1 | |- |Cúp châu Đại Dương 2023 |10–13 tháng 8 năm 2023 | Whangārei |align=center|1 | |- |Giải vô địch EuroHockey 2023 |18–26 tháng 8 năm 2023 | Mönchengladbach |align=center|1 | |- |Đại hội Thể thao châu Á 2022 |25 tháng 9 − 7 tháng 10 năm 2023 | Hàng Châu |align=center|1 | |- |Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 |26 tháng 10 – 4 tháng 11 năm 2023 | Santiago |align=center|1 | |- |Vòng loại Thế vận hội khu vực châu Phi 2023|29 tháng 10 – 5 tháng 11 năm 2023 | Pretoria |align=center|1 | |- |rowspan=2|Giải đấu vòng loại Thế vận hội Mùa hè 2024 |rowspan=2|13–20 tháng 1 năm 2024 | Ranchi |align=center|3 | |- | Valencia |align=center|3 | |- !colspan=3|Tổng cộng !12 ! |} Cúp châu Đại Dương 2023 Giải vô địch EuroHockey 2023 Các đội vượt qua vòng loại Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Vòng chung kết Thứ hạng cuối cùng Đại hội Thể thao châu Á 2022 Đội tuyển vượt qua vòng loại Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Vòng tranh huy chương Bảng xếp hạng cuối cùng Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 Các đội vượt qua vòng loại Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Vòng tranh huy chương Bảng xếp hạng cuối cùng Vòng loại Thế vận hội khu vực châu Phi 2023 Các đội vượt qua vòng loại Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Vòng tranh huy chương Bảng xếp hạng cuối cùng Vòng loại Thế vận hội Khúc côn cầu FIH Các đội vượt qua vòng loại Xem thêm Khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè 2024 – Vòng loại Nam Tham khảo Nữ Vòng loại Khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè – Vòng loại Nữ
19850291
https://vi.wikipedia.org/wiki/Susan%20Zuccotti
Susan Zuccotti
Susan Sessions Zuccotti (sinh ngày 14 tháng 11 năm 1940) là một nhà sử học người Mỹ, chuyên nghiên cứu về Holocaust. Bà có bằng PhD về Lịch sử châu Âu hiện đại của Đại học Columbia. Cô đã giành được Giải thưởng Sách Do Thái Quốc gia về Nghiên cứu Holocaust, và Premio Acqui Storia – Primo Lavoro cho Italians and the Holocaust (1987). Bà cũng nhận được Giải thưởng Sách Do Thái Quốc gia về Quan hệ Do Thái-Kitô giáo, và Sybil Halpern Milton Memorial Prize của Hiệp hội Nghiên cứu Đức năm 2002 cho Under His Very Windows (2000). Bà kết hôn với nhà bất động sản John Zuccotti, nhưng chồng bà đã qua đời vào năm 2015. Zuccotti từng giảng dạy các khóa học về lịch sử Holocaust tại Barnard College và Trinity College. Nghiên cứu về vai trò của Vatican trong Holocaust Zuccotti lập luận trong Under His Very Windows rằng Giáo hoàng Piô XII biết về việc giết người Do Thái hàng loạt trong Holocaust và đã có thể hành động nhiều hơn để ngăn chặn nó. Sách The Italians and the Holocaust: Persecution, Rescue and Survival (Nebraska: Nhà xuất bản Đại học Nebraska, 1987) The Holocaust, the French, and the Jews (Nebraska: University of Nebraska Press,1993) Under His Very Windows: The Vatican and the Holocaust in Italy (New Haven: Nhà xuất bản Đại học Yale, 2000) Holocaust Odysseys: The Jews of Saint-Martin-Vésubie and Their Flight Through France and Italy (New Haven: Yale University Press, 2007) Pere Marie-Benoit and Jewish Rescue (Indiana: Nhà xuất bản Đại học Indiana, 2013) Tham khảo Nhà sử học về Holocaust Nhà sử học về Giáo hội Công giáo Nhà sử học Ý Nhà sử học Pháp Nhà sử học tôn giáo Mỹ Cựu sinh viên Trường Sau đại học Nghệ thuật và Khoa học Columbia Sinh năm 1940 Nhân vật còn sống Nữ nhà sử học Mỹ
19850293
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gobiopsis%20liolepis
Gobiopsis liolepis
Gobiopsis liolepis là một loài cá biển thuộc chi Gobiopsis trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1931. Từ nguyên Từ định danh liolepis được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: leîos (λεῖος; “mượt mà”) và lepís (λεπίς; “vảy cá”), hàm ý có lẽ đề cập đến vảy lược bao phủ loài cá này. Tình trạng phân loại Gobiopsis aporia đã được công nhận là một danh pháp đồng nghĩa của G. liolepis. Phân bố và môi trường sống Từ biển Andaman, G. liolepis có phân bố trải dài về phía đông đến đảo New Guinea, ngược lên phía bắc tới Nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Úc. Ở Việt Nam, loài này được biết đến tại vịnh Nha Trang (dưới danh pháp G. aporia). Mô tả Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở G. liolepis là 4,4 cm (thuộc về mẫu lectotype). Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 10; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 9; Số tia vây ngực: 20–21, Số vảy đường bên: 36–42. Tham khảo L Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Thái Lan Cá Nhật Bản Cá Việt Nam Cá New Guinea Động vật được mô tả năm 1931
19850294
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nicholas%20Mickelson
Nicholas Mickelson
Look So Nicholas Kengkhetkid Mickelson (; sinh ngày 24 tháng 7 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá hiện đang chơi ở vị trí hậu vệ phải cho câu lạc bộ Odense Boldklub tại giải vô địch quốc gia Đan Mạch. Sinh ra tại Na Uy, anh từng thi đấu cho các cấp độ đội tuyển dưới U-21 của Na Uy trước khi thi đấu cho đội tuyển Thái Lan. Cuộc sống cá nhân Mickelson sinh ra tại Skien có cha là người Na Uy và mẹ là người Thái Lan đến từ Phitsanulok. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1999 Hậu vệ bóng đá Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Thái Lan Cầu thủ Cúp bóng đá châu Á 2019 Hậu vệ bóng đá nam Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Na Uy
19850305
https://vi.wikipedia.org/wiki/Franklin%20%28phim%29
Franklin (phim)
Franklin (tạm dịch: Chú rùa Franklin) là một bộ phim hoạt hình dành cho trẻ mẫu giáo của Canada, dựa trên bộ truyện "Franklin the Turtle" của Brenda Clark và Paulette Bourgeois, do Nelvana sản xuất. Tiếp theo là bản chuyển thể CGI, Franklin and Friends. Loạt phim hoạt hình này cũng đã sản xuất một số phim: Franklin and the Green Knight (2000), Franklin's Magic Christmas (2001) và Back to School with Franklin (2003), cùng với bộ phim chiếu rạp: Franklin and the Turtle Lake Treasure (2006), đều do Nelvana sản xuất. Nội dung Franklin là một chú rùa con đang lớn lên, nhưng cậu "biết đếm, biết cài cúc áo và biết buộc dây giày". Cậu đến trường, sống trong một ngôi làng nhỏ tên là Woodland cùng với những người bạn và có nhiều chuyến phiêu lưu, vui chơi và học tập trong thế giới xung quanh, đôi khi có sự giúp đỡ của một người lớn như bố mẹ, ông bà cậu. Franklin thích bơi lội, nghệ thuật và thủ công (đặc biệt là vẽ), và yêu thích những chiếc bánh giả. Nhưng cậu luôn sợ bóng tối và giông bão. Franklin có một người bạn thân nhất tên là Gấu, cũng như một chiếc chăn màu xanh và một con chó bông màu xanh với đôi tai ngắn hơn màu tím tên là Sam. Trong những mùa trước, cậu ngủ với chiếc chăn và Sam. Khi Franklin sợ hãi trước giông bão, Sam và chiếc chăn màu xanh lam đã giúp cậu bình tĩnh hơn. Nhân vật Rùa Franklin (do Noah Reid lồng tiếng) Gấu (do Cody Jones/Luca Perlman/Mark McMulkin lồng tiếng) Hải Ly (do Leah Cudmore lồng tiếng) Thỏ (do Kyle Fairlie/Mitchell Eisner lồng tiếng) Cáo (do Gil Filar/Ali Mukaddam/Scott Beaudin lồng tiếng) Ốc Sên Sóc Lửng Gấu Mèo Và một số diễn viên khác. Đón nhận Bộ phim đã được các nhà phê bình và phụ huynh đón nhận nồng nhiệt. Joly Herman của Common Sense Media đã tuyên bố, "Franklin là một bộ phim hoạt hình tôn trọng người lớn tuổi và ngược lại. Không có than vãn, đánh nhau, la hét, khiêu khích hay bực tức. Franklin cuối cùng đã nêu một tấm gương tốt về bộ phim có trách nhiệm, và đây là bộ phim hoạt hình hiếm hoi tôn vinh sự hồn nhiên của tuổi thơ". Tham khảo Liên kết ngoài Chú rùa Franklin trên IMDb Phim hoạt hình Phim hoạt hình Anh Phim hoạt hình Canada Phim hoạt hình Mỹ Mẫu giáo Phim hoạt hình 1997
19850332
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20V%C4%83n%20Lai%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Nguyễn Văn Lai (định hướng)
Nguyễn Văn Lai có thể là: Nguyễn Văn Lai (1948 - 2022), Đại tá Công an nhân dân Việt Nam Nguyễn Văn Lai (sinh 1986), vận động viên điền kinh người Việt Nam Trang định hướng nhân danh
19850336
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bom%20h%E1%BA%A1t%20nh%C3%A2n%20B43
Bom hạt nhân B43
B43 là một loại bom nhiệt hạch thả rơi tự do của Hoa Kỳ có nhiều mức đương lượng nổ khác nhau và được sử dụng rộng rãi trên các máy bay tiêm kích bom và máy bay ném bom. Bom hạt nhân B43 được phát triển từ năm 1956 tại Los Alamos National Laboratory, bắt đầu được sản xuất từ năm 1959. Bom B43 được đưa vào trang bị trong quân đội Mỹ vào tháng Tư năm 1961. Đã có tổng cộng 2.000 quả bom loại này được sản xuất cho đến khi kết thúc sản xuất vào năm 1965. Một số phiên bản của bom có tích hợp dù. Bom B43 được chế tạo theo hai phiên bản là Mod 1 và Mod 2, môĩ phiên bản có năm lựa chọn đương lượng nổ khác nhau. Tùy theo các phiên bản mà bom B43 có đường kính in diameter, và chiều dài từ đến . Trọng lượng bom dao động từ . Bom có thể được thả rơi từ độ cao thấp nhất là , với lựa chọn ngòi nổ trên không, ngòi nổ chạm đất, rơi tự do, ngòi nổ va chạm và ngòi nổ giữ chậm. Đương lượng nổ từ 70 kilotons TNT cho đến 1 megaton TNT. Bom hạt nhân B43 sử dụng thiết kế Tsetse primary cho khối nhiệt hạch. Bom B43 là một trong số bốn loại bom nhiệt hạch rơi tự do được trang bị cho máy bay phản lực CF-104 Canada khi còn hoạt động tại Đức từ tháng Sáu năm 1964 đến năm 1972. Các phương tiện có khả năng mang bom B43 Các phương tiện có khả năng mang bom B43 gồm các máy bay tàu sân bay như A-3 Skywarrior, A-4 Skyhawk, A-5 Vigilante, A-6 Intruder, A-7 Corsair II, B-47 Stratojet, B-52 Stratofortress, B-58A Hustler, F-100 Super Sabre, F-105 Thunderchief, F-4 Phantom II, F-104 Starfighter, FB-111A, F-15E Strike Eagle, F-16 Fighting Falcon và F/A-18 Hornet. Máy bay B-1B Lancer cũng được dự định sẽ được trang bị B43, dù chưa rõ là nó có từng được trang bị bom B43 hay không trước khi chuyển sang trang bị các vũ khí thông thường. B43 cũng được sử dụng bởi máy bay chiến đấu Canberra và Valiant của Không quân Hoàng gia dưới sự chỉ huy của SACEUR. Mũi tên gãy Bom B43 chưa bao giờ được sử dụng trong chiến đấu, nhưng nó đã là nhân vật chính trong vụ tai nạn hạt nhân khi một chiếc A-4E Skyhawk, BuNo 151022, của tàu sân bay USS Ticonderoga (CVA-14) (trong đội hình Attack Squadron VA-56), bị rơi ngoài khơi Nhất Bản vào ngày 5 tháng Mười hai năm 1965 khi nó trượt ra khỏi thang nâng của tàu sân bay, chìm xuống độ sâu dưới mặt nước biển Thái Bình Dương, cách đảo Kikai . Cả phi công D. M. Webster, khung thân, và quả bom hạt nhân đều không được tìm thấy. Sự việc trên không được công bố và nó chỉ được đưa ra ánh sáng vào năm 1989 trong bản báo cáo của DoD tiết lộ về một quả bom B43 đương lượng nổ 1 Mt bị mất. Nhật Bản sau đó đã yêu cầu Mỹ cung cấp chi tiết thông tin về vụ việc. Loại biên Bom B43 được loại khỏi trang bị vào những năm 1980, và quả bom B43 cuối cùng đã được nghỉ hưu sau khi các loại bom mới hơn như B61 và B63 đi vào hoạt động. Xem thêm List of nuclear weapons Tsetse primary Tham khảo Link ngoài Allbombs.html data page at nuclearweaponarchive.org Video showing shipboard handling procedures for the B43 bomb
19850343
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20S%C3%A2n%20v%E1%BA%ADn%20%C4%91%E1%BB%99ng%20Asiad
Ga Sân vận động Asiad
Ga Sân vận động Asiad (Gongchonsageori) (Tiếng Hàn: 아시아드경기장(공촌사거리)역, Hanja: 아시아드競技場(公村四거리)驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Yeonhui-dong, Seo-gu, Incheon. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Sân vận động Asiad 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Hướng tới Sân vận động chính Incheon Asiad Ngã tư Gongchon Trường tiểu học Incheon Seogot Trường trung học cơ sở Seogot Trường trung học thiết kế Seoul Bệnh viện Yonsei Incheon Công viên trẻ em Ganchon Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Sân vận động Asiad Sân vận động Asiad Sân vận động Asiad Sân vận động Asiad Sân vận động Asiad
19850347
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Geombawi
Ga Geombawi
Ga Geombawi (Tiếng Hàn: 검바위역, Hanja: 黔바위驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Geomam-dong, Seo-gu, Incheon. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Geombawi 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Trung tâm phúc lợi hành chính Geomam Gyeongseo-dong Trường trung học cơ sở Ganjaeul Trường trung học Daein Trường trung học Seo Incheon Shinmyeong Sky View Nhà thờ Geomam-dong Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Geombawi Geombawi Geombawi Geombawi Geombawi
19850348
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thao%20t%C3%BAng%20%C4%91%C3%A1m%20%C4%91%C3%B4ng
Thao túng đám đông
Thao túng đám đông là việc sử dụng các kỹ thuật có chủ ý hoặc vô tình dựa trên các nguyên tắc tâm lý đám đông để thu hút, kiểm soát hoặc tác động đến mong muốn của đám đông nhằm hướng hành vi của họ tới một hành động cụ thể. Việc này phổ biến trong tôn giáo, chính trị, kinh doanh và có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc tán thành, không tán thành hoặc thờ ơ với một người, chính sách hoặc sản phẩm. Đạo đức của việc thao túng đám đông thường bị đặt vấn đề. Thao túng đám đông khác với tuyên truyền—mặc dù chúng có thể củng cố lẫn nhau để tạo ra kết quả mong muốn. Nếu tuyên truyền là "nỗ lực nhất quán, lâu dài nhằm tạo ra hoặc định hình các sự kiện nhằm tác động đến mối quan hệ của công chúng với một doanh nghiệp, ý tưởng hoặc nhóm", thao túng đám đông là lời kêu gọi hành động tương đối ngắn gọn khi mầm mống tuyên truyền (cụ thể hơn là "trước tuyên truyền") được gieo rắc và công chúng được tổ chức thành một đám đông. Người tuyên truyền thu hút quần chúng, ngay cả khi bị chia cắt, trong khi người thao túng đám đông thu hút một bộ phận quần chúng tập hợp thành đám đông (chẳng hạn như một cuộc biểu tình chính trị, một giáo đoàn hoặc một cuộc họp trại) trong thời gian thực. Tuy nhiên, trong những tình huống như tình trạng khẩn cấp quốc gia, người thao túng đám đông có thể tận dụng phương tiện thông tin đại chúng để nói chuyện với quần chúng trong thời gian thực như thể đang nói chuyện với một đám đông. Thao túng đám đông khác với kiểm soát đám đông, vốn phục vụ chức năng an ninh. Chính quyền địa phương sử dụng các phương pháp kiểm soát đám đông để giới hạn và giải tán đám đông, đồng thời ngăn chặn và ứng phó với các hành vi ngang ngược và trái pháp luật như bạo loạn và cướp bóc. Xem thêm Tham khảo Đọc thêm Alinsky, Saul. Rules for Radicals: A Practical Primer for Realistic Radicals. Vintage Books, 1989. Bernays, Edward L. Propaganda, 1928. Republished 2004, by Ig Publishing, Brooklyn, NY, with foreword by Mark Crispin Miller. Curtis, Adam. "The Century of the Self" (documentary). British Broadcasting Cooperation, 2002. Ellul, Jacques. Propaganda: The Formation of Men's Attitudes. Trans. Konrad Kellen & Jean Lerner. New York: Knopf, 1965. New York: Random House/ Vintage 1973 Humes, James C. The Sir Winston Method: The Five Secrets of Speaking the Language of Leadership. New York: HarperCollins Publishers, 1991. Johnson, Paul. Modern Times: The World from the Twenties to the Nineties. New York: HarperCollins Publishers, Inc., 2001. Lasswell, Harold. Propaganda Technique in World War I. Cambridge, MA: The M.I.T. Press, 1971. Smith Jr., Paul A. On Political War. Washington, DC: National Defense University Press, 1989. Tác động (xã hội và chính trị)
19850400
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mu%C3%B4n%20ki%E1%BA%BFp%20nh%C3%A2n%20duy%C3%AAn
Muôn kiếp nhân duyên
Muôn kiếp nhân duyên (tiếng Anh: Past Lives) là một bộ phim điện ảnh Mỹ thuộc thể loại lãng mạnchính kịch ra mắt vào năm 2023 do Celine Song viết kịch bản kiêm đạo diễn trong chính tác phẩm đầu tay của cô. Với sự tham gia diễn xuất của các diễn viên chính gồm Greta Lee, Teo Yoo và John Magaro, tác phẩm theo chân Nora và Hae-sunghai người bạn thời thơ ấu đều suy ngẫm về bản chất mối quan hệ giữa họ sau nhiều năm xa cách. Muôn kiếp nhân duyên có buổi công chiếu tại liên hoan phim Sundance vào ngày 21 tháng 1 năm 2023, và được khởi chiếu trên các cụm rạp tại Mỹ vào ngày 2 tháng 6 năm 2023 và tại Việt Nam vào ngày 29 tháng 9 cùng năm. Tác phẩm nhìn chung nhận về những lời khen ngợi từ giới chuyên môn và được Viện phim Mỹ cũng như Ủy ban Quốc gia về phê bình điện ảnh bầu chọn là một trong mười bộ phim xuất sắc nhất năm 2023. Bên cạnh đó, tác phẩm còn được đề cử năm giải Quả cầu vàng, trong đó có hạng mục Phim chính kịch hay nhất, và hai giải Oscar cho các hạng mục Phim hay nhất và Kịch bản gốc xuất sắc nhất. Tham khảo Liên kết ngoài Phim năm 2023 Phim Mỹ Phim tiếng Anh thập niên 2020 Phim tiếng Triều Tiên Phim của A24 Phim lãng mạn Mỹ Phim chính kịch Mỹ Phim tiếng Anh
19850407
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20EuroHockey%20Nam%202023
Giải vô địch EuroHockey Nam 2023
Giải vô địch EuroHockey Nam 2023 là mùa giải thứ 19 của Giải vô địch EuroHockey Nam, giải vô địch khúc côn cầu trên cỏ quốc tế dành cho nam ở Châu Âu được tổ chức hai năm một lần bởi Liên đoàn khúc côn cầu châu Âu. Giải đấu này được tổ chức cùng với giải đấu cùng tên dành cho nữ từ ngày 19 đến ngày 27 tháng 8 năm 2023 tại Warsteiner HockeyPark, ở Mönchengladbach, Đức. Hà Lan, với tư cách là đội tuyển giành chức vô địch, đủ điều kiện tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024, trong khi các đội khác ngoài xứ Wales và Pháp sẽ có cơ hội thứ hai tại Vòng loại Thế vận hội Khúc côn cầu FIH Nam 2024. Sáu đội xuất sắc nhất đủ điều kiện tham dự trực tiếp cho giải đấu tổ chức vào năm 2025, trong khi các đội xếp thứ bảy và thứ tám sẽ thi đấu ở Vòng loại Giải vô địch EuroHockey 2024. Trong trận chung kết, Hà Lan đánh bại Anh để giành chức vô địch lần thứ bảy. Vòng loại Cùng với nước chủ nhà Đức, ba đội đứng đầu bảng tại Giải vô địch EuroHockey 2021 và bốn đội đầu bảng tại Vòng loại Giải vô địch EuroHockey 2022 đã tham gia giải đấu nam. Đội hình Vòng sơ loại Tất cả các giờ đều là giờ địa phương (UTC+2). Bảng A Bảng B Phân loại hạng năm đến hạng tám Số điểm có được ở vòng sơ loại giành được từ những đội khác đã được chuyển sang. Phân loại hạng nhất đến hạng tư Sơ đồ Bán kết Tranh hạng ba và bốn Chung kết Thống kê và giải thưởng Bảng xếp hạng cuối cùng Cầu thủ ghi bàn Giải thưởng Các giải thưởng sau đây đã được trao khi kết thúc giải đấu. Xem thêm Giải vô địch EuroHockey Nam II 2023 Giải vô địch EuroHockey Nữ 2023 Liên kết ngoài Tham khảo Giải vô địch EuroHockey Nam Nam 1 Giải vô địch EuroHockey Giải đấu khúc côn cầu trên cỏ quốc tế tổ chức bởi Đức Giải vô địch EuroHockey Thể thao ở Mönchengladbach Thế kỷ 21 ở Mönchengladbach Khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè – Vòng loại Nam khu vực châu Âu Giải vô địch EuroHockey
19850408
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%ADu%20h%E1%BB%93
Hậu hồ
Hậu hồ hay còn gọi là hồ Nội Kim Thủy nằm ở mặt sau của Hoàng Thành Huế được đào năm 1804, nơi đây từng là một vườn thượng uyển, cảnh quan được vua Thiệu Trị xếp thứ sáu trong Thần kinh nhị thập cảnh. Đặc điểm Hậu hồ tức là hồ Nội Kim Thuỷ, ở mặt sau Hoàng Thành. Cửa sau là cửa Đại Bình, 3 gian 3 cửa, lợp ngói hoàng lưu ly, góc cửa có đeo nhạc (nguyên trước có làm lều chõng ở gian giữa, năm Minh Mạng thứ 20 làm lại đã bỏ đi). Bên trong cửa là cầu Kim Thuỷ 12 nhịp, ở trên làm 7 gian, kiểu hành lang dài, mái lợp ngói ván. Phía đông cầu Nội Kim Thuỷ, ở bờ nam có đình Thất Doanh. Cũng ở phía đông, đoạn góc Tử Cấm Thành, hai bên đều có đình. Đình ở hướng tây có biển ngạch đề Doanh Châu Tại Nhĩ. Về bên bờ bắc có nhà Tư Ấm, phía đông nó có lầu Nhật Thành. Hai công trình này đều xoay về phía bắc. Ở phía nam lầu Nhật Thành có nhà thuỷ tạ Thanh Khả Cư xoay mặt về hướng nam. Ở phía đông lại có hiên Ấm Lục xoay về hướng bắc. Phía nam hiện có hành lang chạy sát mặt nước, gọi là tạ Trừng Tâm. Về phía nam, chỗ chiết góc có Cát Vân đường. Phía đông nam là dinh Quảng Đức xoay về hướng bắc. Ở giữa hồ, ngang với nhà Tư Ấm ở phía nam và đình Thất Doanh, ở phía bắc là lầu Vô Hạn Ý xoay về hướng nam, 3 gian, 2 tầng, mái lợp ngói ván. Thông với nhà Tư Ấm ở phía bắc trước lầu Vô Hạn Ý có chiếc cầu nối bằng gỗ sam, nối liền với đình Thất Doanh. Ở phía đông, đối diện với tạ Trừng Tâm ở phía nam là đảo Doanh Châu. Ở đây có cầu Bình Kiều nối liền nhà Trừng Tâm với đảo. Trên đảo là gác Hải Tĩnh Niên Phong xoay mặt về phía nam, phía trước có cửa phường môn. Ở phía tây đảo, sát mặt nước có tạ Trừng Phương, đối diện với đình Doanh Châu Tại Nhĩ. Phía đông đảo có xưởng Thanh Tước, nơi đậu thuyền của vua. Ngoài ra, ở giữa hồ còn có đảo Trấn Bắc, phía bắc đảo có đình Dịch Hương thờ tượng Chân Võ Đế Quân bằng đồng, ở phía tây đảo có bãi đất gọi là bãi Như Ý. Phía bắc và phía nam cũng có các bãi. Bãi phía nam có hình bát giác, biển đề Bát Phong Tòng Luật. Bãi phía bắc có nhà tạ vuông, biển đề Tu Phong Bình Định. Tuy nhiên, tất cả những cảnh sắc và kiến trúc hoa lệ được miêu tả ở trên đến nay đã thay đổi rất nhiều. Tại khu vực hồ Nội Kim Thuỷ bây giờ chỉ còn lại các đảo mọc đầy cây cối và cỏ dại cùng một số dấu tích mờ nhạt của nền móng kiến trúc xưa. Ở trên đảo Doanh Châu, người ta cũng rất khó xác định được dấu vết của gác Hải Tĩnh Niên Phong trước đây. Trong văn thơ Cảnh quan Hậu hồ được miêu tả trong bài Cao các sinh lương, thuộc tập thơ Thần kinh nhị thập cảnh Đây là bài thơ vịnh cảnh thứ sáu với quang cảnh trên hồ Nội Kim Thuỷ trong đó gác Hải Tĩnh Niên Phong là chủ thể. Đây là một cái gác cao, xây dựng từ năm 1821 dưới thời Minh Mạng, trên đảo Doanh Châu bên trong Hoàng Thành. Dưới thời các vị vua đầu triều Nguyễn, toàn bộ khu vực phía đông bắc và phía bắc Hoàng Thành, từ vườn Cơ Hạ đến hết hồ Nội Kim Thuỷ, các công trình kiến trúc được xây dựng khá dày đặc và cầu kỳ. Đây chính là khu vực mà các vua Nguyễn thường ra dạo chơi, hóng mát, làm thơ. Để hiểu được phần nào về gác Hải Tĩnh Niên Phong có lẽ người ta cần hình dung được tổng thể kiến trúc của khu vực này. Tham khảo Di tích Cố đô Huế Hoàng thành Huế Thần kinh nhị thập cảnh Hệ thống thủy đạo Kinh thành Huế Vườn thượng uyển Cố đô Huế
19850412
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5%20s%C3%A1t%20h%E1%BA%A1i%20Harambe
Vụ sát hại Harambe
Harambe là một con khỉ đột ở Vườn thú và bách thảo Cincinnati. Vào ngày 28 tháng 5 năm 2016, một cậu bé khoảng 3 tuổi tên Isaiah trèo vào chuồng khỉ đột ở sở thú và bị Harambe 17 năm tuổi tóm và kéo đi. Lo sợ cho tính mạng của cậu bé, một nhân viên sở thú đã bắn chết Harambe. Sự việc này đã được ghi lại trên video và được lan truyền lên các dịch vụ tin tức trên khắp thế giới. Đã có rất nhiều tranh cãi về quyết định sát hại Harambe. Bối cảnh Những hình ảnh của sự việc này được ghi lại bằng điện thoại của một khách tham quan vườn thú. Trong đoạn video, Harambe dường như như đã tìm cách giúp đỡ Isaiah. Cá thể này nâng cậu bé dậy và kéo quần lên cho cậu. Tuy nhiên, khi đám đông la hét ngày càng to, Harambe đã quăng cậu bé vào góc hào nước trước khi đứng chắn trước mặt cậu. Những nhân chứng cho biết con khỉ không tỏ ra hung dữ đối với cậu bé. Tiếng kêu của đám đông được cho là nguyên nhân khiến Harambe bị kích động và nắm lấy chân, lôi Isaiah qua vùng nước và ra khỏi hào về chỗ ở của mình. Chỉ vài giây sau, Harambe bị bắn chết. Hậu quả Một số nhà linh trưởng học và nhà bảo tồn nói rằng vườn thú không có lựa chọn nào khác trong hoàn cảnh này và "họ đã làm điều đúng đắn". Harambe bị sát hại chỉ ngay 1 ngày sau sinh nhật lần thứ 17 của mình. Cậu bé trong sự việc được chẩn đoán chấn thương và được đưa đến bệnh viện nhi, sau đó được kết luận rằng vết thương của cậu không nguy hiểm đến tính mạng. Mẹ của cậu bé cũng trở thành nạn nhân của những vụ quấy rối trên mạng và phương tiện truyền thông. Vào ngày 6 tháng 6 năm 2016, công tố viên bang Ohio cho biết người mẹ sẽ không phải đối mặt với bất kỳ cáo buộc nào về hành vi sai trái. Vườn thú từng được điều tra bởi USDA và Hiệp hội Vườn thú và Thủy cung (AZA), nơi đặt ra các tiêu chuẩn cho vườn thú. Các chuyên gia về động vật linh trưởng như Jack Hanna và Jane Goodall đã lên tiếng bảo vệ hành động sát hại Harambe của sở thú. Tiến sĩ Emily Bethell, chuyên gia về khỉ kiêm giảng viên môn Hành vi của loài linh trưởng ở Đại học Liverpool John Moores đưa ra kết luận rằng ngôn ngữ cơ thể của con khỉ đột chỉ ra cá thể này không có ý định gây nguy hiểm cho Isaiah. Tác giả Amy Joyce – biên tập viên mục “Làm cha mẹ” của tờ Washington Post đã đưa ra một quan điểm khác về sự việc và có hàm ý cho rằng người mẹ cũng là nạn nhân trong sự việc. Harambe Harambe, một loài khỉ đột vùng đất thấp phía Tây được sinh ra tại Vườn thú Gladys Porter ở Brownsville, Texas, vào ngày 27 tháng 5 năm 1999. Cá thể này được đặt tên bởi Dan Van Coppenolle, một tham vấn viên địa phương. Ông được đặt tên Harambe vì đã giành chiến thắng trong cuộc thi đặt tên do sở thú tài trợ. Ông nghĩ ra cái tên này sau khi nghe bài hát "Harambe (Cùng nhau làm việc vì Tự do)" năm 1988 của Rita Marley, góa phụ của ca sĩ Bob Marley. Năm 2002, mẹ của Harambe là khỉ đột Kayla chết do ngạt khí cùng với cá thể con một tuổi Makoko tại vườn thú Gladys Porter ở Brownsville, Texas. Văn hóa đại chúng Một số meme trên internet đã được tạo ra và có sự khuyến khích mọi người dừng lại. Ở Úc, công chúng nói đã đùa giỡn về việc ủng hộ thi thể của Harambe vào trong cuộc bầu cử liên bang với tư cách là ứng cử viên không có tên trong danh sách bầu cử. Công ty Public Policy Polling đã đưa Harambe vào cuộc bỏ phiếu của họ cho cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ. Kết quả, Harambe nhận được 5% ủng hộ vào cuối tháng 7 năm 2016 (vượt qua ứng cử viên Đảng Xanh Hoa Kỳ Jill Stein) và đạt 2% vào tháng 8 năm 2016 (đồng hạng với Stein). Tham khảo Tử vong vì súng Cincinnati Hoa Kỳ năm 2016 Động vật nổi tiếng Tọa độ trên Wikidata Chi Khỉ đột
19850420
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Ch%E1%BB%A3%20Seokbawi
Ga Chợ Seokbawi
Ga Chợ Seokbawi (Tiếng Hàn: 석바위시장역, Hanja: 石바위市場驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Juan-dong, Michuhol-gu, Incheon. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Chợ Seokbawi 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga E-Mart 24 Chi nhánh ga chợ Seokbawi Chợ Seokbawi Công viên Seokbawi Trường trung học Incheon Trường tiểu học Kyungwon Trung tâm phúc lợi hành chính Juan 6-dong Bưu điện Nam Incheon Thư viện Juan Trung tâm phúc lợi hành chính Juan 4-dong Trường tiểu học Guwolseo Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Chợ Seokbawi Chợ Seokbawi Chợ Seokbawi Chợ Seokbawi Chợ Seokbawi
19850422
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20C%C3%B4ng%20vi%C3%AAn%20c%C3%B4ng%20d%C3%A2n
Ga Công viên công dân
Ga Công viên công dân (Khu Sáng tạo Văn hóa) (Bệnh viện Ain) (Tiếng Hàn: 시민공원(문화창작지대)(아인병원), Hanja: 市民公園(文化創作地帶)驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Juan-dong, Michuhol-gu, Incheon. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Công viên công dân 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Công viên Công dân (trước đây là Trung tâm Công dân Incheon) Khu sáng tạo văn hóa Chợ Juan Trung tâm mua sắm ngầm Juan-ro Nhà thờ Juan 1-dong Ga kế cận Tham khảo Ga công viên công dân Ga công viên công dân Ga công viên công dân Ga công viên công dân Ga công viên công dân
19850424
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Geomdan%20Sageori
Ga Geomdan Sageori
Ga Geomdan Sageori (Tiếng Hàn: 검단사거리역, Hanja: 黔丹四거리驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Wanggil-dong, Seo-gu, Incheon. Tên phụ của nhà ga là Bệnh viện Đông y Geomdansu. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Geomdan Sageori 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Ngã tư Geomdan Thị trấn ẩm thực Geomdan Trung tâm phúc lợi hành chính Geomdan 1-dong Bưu điện Geomdan Khu vực Geomdan Trường tiểu học Incheon Wanggil Trường trung học cơ sở Geomdan Trường tiểu học Incheon Geumgok Nghĩa trang công cộng Geomdan Trung tâm người cao tuổi Geomdan Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Geomdan Sageori Geomdan Sageori Geomdan Sageori Geomdan Sageori Geomdan Sageori
19850427
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Majeon
Ga Majeon
Ga Majeon (Tiếng Hàn: 마전역, Hanja: 麻田驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Majeon-dong, Seo-gu, Incheon. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Majeon 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Trường tiểu học Incheon Majeon Trường trung học cơ sở Majeon Trường tiểu học Incheon Wanjeong Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Majeon Majeon Majeon Majeon Majeon
19850428
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cho%20vay%20tu%E1%BA%A7n%20ho%C3%A0n
Cho vay tuần hoàn
Cho vay tuần hoàn (Rollover) hay Cho vay quay vòng (Revolving credit) là loại tín dụng (khoản vay) không có số lần thanh toán cố định, trái ngược với tín dụng trả góp (khoản vay trả góp - Installment loan). Thẻ tín dụng là một ví dụ về tín dụng quay vòng được người tiêu dùng sử dụng. Các cơ sở cho vay tuần hoàn của doanh nghiệp thường được sử dụng để cung cấp tính thanh khoản cho hoạt động hàng ngày của công ty. Đây là một thỏa thuận cho phép rút, hoàn trả và rút lại số tiền vay theo bất kỳ cách nào và số lần bất kỳ cho đến khi thỏa thuận hết hạn. Các khoản cho vay bằng thẻ tín dụng và thấu chi là các khoản cho vay quay vòng (xoay tua). Cho vay tuần hoàn (Rollover loan) là khoản vay mà ngân hàng cho phép người vay, sau một thời gian vay cụ thể, được tiếp tục nợ tiền vay sau ngày trả nợ khoản vay mà người vay đồng ý trả lãi suất ở mức cụ thể và phải trả lại tiền vay tại một thời gian cụ thể. Đại cương Cho vay quay vòng là việc tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận áp dụng cho vay đối với nhu cầu vốn có chu kỳ hoạt động kinh doanh không quá 01 (một) tháng, khách hàng được sử dụng dư nợ gốc của chu kỳ hoạt động kinh doanh trước cho chu kỳ kinh doanh tiếp theo nhưng thời hạn cho vay không vượt quá 03 (ba) tháng.. Đối với cho vay tuần hoàn (rollover) là việc tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận áp dụng cho vay ngắn hạn đối với khách hàng với điều kiện: Đến thời hạn trả nợ, khách hàng có quyền trả nợ hoặc kéo dài thời hạn trả nợ thêm một khoảng thời gian nhất định đối với một phần hoặc toàn bộ số dư nợ gốc của khoản vay; tổng thời hạn vay vốn không vượt quá 12 tháng kể từ ngày giải ngân ban đầu và không vượt quá một chu kỳ hoạt động kinh doanh; tại thời điểm xem xét cho vay, khách hàng không có nợ xấu tại các tổ chức tín dụng; trong quá trình cho vay tuần hoàn, nếu khách hàng có nợ xấu tại các tổ chức tín dụng thì không được thực hiện kéo dài thời hạn trả nợ theo thỏa thuận. Việc hoàn trả khoản vay quay vòng được thực hiện bằng cách giảm tổng số tiền vay theo lịch trình theo thời gian hoặc bằng cách hoàn trả tất cả các khoản nợ tồn đọng vào ngày chấm dứt. Một khoản vay quay vòng được thực hiện để tái cấp vốn cho một khoản vay quay vòng khác đáo hạn vào cùng ngày rút khoản vay quay vòng thứ hai được gọi là "khoản vay tuần hoàn" (Rollover loan), nếu được thực hiện bằng cùng loại tiền tệ và được rút bởi cùng một người vay với khoản vay quay vòng đầu tiên. Các điều kiện cần được đáp ứng để rút ra một khoản vay tái đầu tư thường ít khó khăn hơn so với các khoản vay khác. Khoản vay quay vòng là một công cụ tài chính đặc biệt linh hoạt vì nó có thể được người vay rút ra bằng các khoản vay đơn giản, nhưng cũng có thể kết hợp các loại hình hỗ trợ tài chính khác nhau trong đó có thể kết hợp thư tín dụng, đường dao động (nghĩa là khoản vay ngắn hạn được tài trợ sau thông báo trước một ngày) hoặc thấu chi trong các điều khoản của khoản vay tín dụng quay vòng. Chú thích Tín dụng Tài chính cá nhân
19850429
https://vi.wikipedia.org/wiki/SLIM
SLIM
Smart Lander for Investigating Moon (viết tắt là SLIM; tạm dịch: Tàu đổ bộ thông minh thăm dò Mặt Trăng) là một tàu đổ bộ Mặt Trăng của Cơ quan vũ trụ Nhật Bản (JAXA). Tàu đổ bộ này được ra mắt lần đầu vào năm 2021 nhưng đã bị trì hoàn đến năm 2023. Vào ngày 6 tháng 9 năm 2023 lúc 23:42 UTC (ngày 7 tháng 9 8:42 JST), XRISM đã được phóng thành công, và SLIM đã tách ra từ XRISM. Vào ngày 1 tháng 10 năm 2023, SLIM tiến hành di chuyển theo quỹ đạo mới hướng tới Mặt Trăng. Tàu đổ bộ đã đi vào thành công quỹ đạo Mặt Trăng vào ngày 25 tháng 12 năm 2023 và hạ cánh vào ngày 19 tháng 1 năm 2024 lúc 15:20 UTC, đưa Nhật Bản trở thành một trong những quốc gia đã đưa tàu vũ trụ hạ cánh mềm (soft landing) xuống Mặt Trăng, sau Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc và Ấn Độ. Nhiệm vụ Địa điểm hạ cánh của tàu SLIM là hố va chạm Shioli, cách nơi hạ cánh tàu Apollo 11 của NASA khoảng hơn 300 km. SLIM đã hạ cánh thành công xuống Mặt Trăng, nhưng lại tiếp đất với tư thế bị lộn ngược. Hai tàu thăm dò Mặt Trăng, được triển khai trong khi tàu đổ bộ đang lơ lửng ngay trước khi nó chạm xuống, đang hoạt động theo kế hoạch, với LEV-1 liên lạc độc lập với các trạm mặt đất Mặt Trăng. LEV-1 đã tiến hành 6 bước nhảy (hop) trên bề mặt Mặt Trăng. Hình ảnh được chụp tự động bởi Sora-Q (khả năng là nó chia sẻ với chiếc xe tự hành cùng loại) cho thấy SLIM đã hạ cánh một góc 90°, trên mũi của nó, do đó đã làm hỏng bị mất ống xả động cơ trong quá trình hạ xuống và thậm chí có thể làm hỏng ăngten hướng Trái Đất của nó. Dù bị lộn ngược nhưng tàu SLIM vẫn đạt mục tiêu hạ cánh chính xác trong phạm vi 100 mét so với vị trí mà JAXA xác định từ trước. Sau khi hạ cánh vào ngày 19 tháng 1 năm 2024, mức pin trên tàu SLIM giảm xuống còn 12%. Mức pin này khiến tàu tự động tắt nguồn để bảo vệ pin, cũng như dành nguồn năng lượng còn lại cho các hoạt động khôi phục. Trước khi ngừng hoạt động, SLIM đã đưa thành công 2 xe tự hành mini lên Mặt Trăng mà nó mang theo, LEV-1 và LEV-2. LEV-2 sẽ chụp ảnh bề mặt Mặt Trăng, còn LEV-1 truyền tín hiệu xuống trạm ở Trái Đất. Sau khi ngừng hoạt động vào ngày 19 tháng 1 năm 2024, những người điều hành chuyến bay này vẫn hy vọng rằng tàu đổ bộ sẽ hoạt động trở lại sau vài ngày nữa khi anh nắng Mặt Trời chiều vào các tấm pin Mặt Trời đang bị lệch hướng. Hai xe tự hành LEV-1 và Sora-Q tiếp tục hoạt động tự chủ theo kế hoạch. Vào ngày 29 tháng 1, tàu đổ bộ đã hoạt động trở lại sau một tuần ngừng hoạt động. JAXA cho biết họ đã thiết lập lại liên lạc với tàu đổ bộ và pin Mặt Trời của nó đang hoạt động trở lại sau khi thay đổi điều kiện ánh sáng cho phép nó đón được ánh sáng Mặt Trời. Tham khảo Nhật Bản năm 2023 Cơ quan vũ trụ Nhật Bản Chương trình không gian của Nhật Bản Tàu không gian Mặt Trăng
19850431
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Wanjeong
Ga Wanjeong
Ga Wanjeong (Tiếng Hàn: 완정역, Hanja: 完井驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Dangha-dong, Seo-gu, Incheon. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Wanjeong 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Trung tâm phúc lợi hành chính Geomdan 4-dong Ngã tư Wanjeong Bệnh viện hàng đầu Geomdan Trường trung học cơ sở Dangha Trường trung học Incheon Semu Bệnh viện Đông y Myeongjang Hướng tới khu đô thị mới Geomdan Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Wanjeong Wanjeong Wanjeong Wanjeong Wanjeong
19850435
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karl%20Zuchardt
Karl Zuchardt
Karl Zuchardt (10 tháng 2 năm 1887 – 12 tháng 11 năm 1968) là một nhà văn chuyên về tiểu thuyết lịch sử người Đức. Zuchardt sinh ra ở Leipzig, Vương quốc Sachsen. Năm 1961, ông nhận được Giải thưởng Nghệ thuật Martin Andersen Nexø của thành phố Dresden. Ông qua đời tại Dresden. Các tác phẩm của ông gồm có Der Spiessrutenlauf, Stirb Du Narr! (ghi chép về cuộc đời chính trị của Sir Thomas More), và Wie lange noch Bonaparte? Sinh năm 1887 Mất năm 1968 Nhà văn Leipzig Tiểu thuyết gia lịch sử Đức Nam tiểu thuyết gia Đức Tiểu thuyết gia Đức thế kỷ 20 Nam nhà văn Đức thế kỷ 20
19850439
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria%20Zuchowicz
Maria Zuchowicz
Maria Halina Białous-Zuchowicz (2 tháng 2 năm 1930 - 24 tháng 11 năm 2020) là một vận động viên trượt băng nghệ thuật người Ba Lan. Bà nguyên là Phó chủ tịch Hiệp hội trượt băng nghệ thuật Ba Lan, thành viên của Hiệp hội Luật Thể thao Ba Lan, phó chủ tịch Tòa án Trọng tài Ủy ban Thế vận hội Ba Lan, thẩm phán Tòa án Công lý Lausanne. Tiểu sử Bà sinh ngày 2 tháng 2 năm 1930 tại Warszawa. Từ năm 1948 đến năm 1952, bà là thành viên của đội trượt băng quốc gia. Bà là một bình luận viên lâu năm của các cuộc thi trượt băng cho Đài Truyền hình Ba Lan. Bà qua đời vào ngày 24 tháng 11 năm 2020 tại Warszawa. Tham khảo Thư mục Kto jest kim w Polsce, ấn bản IV (Beata Cynkier và đồng nghiệp), Warszawa 2001, tr. 1094–1095 Sinh năm 1930 Mất năm 2020 Vận động viên Poznań Luật sư Ba Lan thế kỷ 21 Luật sư Ba Lan thế kỷ 20 Nữ luật sư Ba Lan Nữ luật sư thế kỷ 20 Nữ luật sư thế kỷ 21 Nữ giới Ba Lan thế kỷ 20
19850458
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zuck%20Bucks
Zuck Bucks
Zuck Bucks là một tên gọi được cho là của một loại tiền kỹ thuật số có thể đang được phát triển bởi Meta Platforms. Tên gọi này cũng gợi nhắc đến một loại tiền điện tử cùng tên được tạo ra để chế giễu những nỗ lực trước đây của Meta Platforms trong việc tạo ra một loại tiền điện tử thành công như Diem. Tham khảo Ứng dụng Meta Platforms
19850485
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lycoris%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Lycoris (định hướng)
Lycoris trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là chạng vạng. Các cách dùng khác gồm: Lycoris, chi thực vật thuộc họ Amaryllidaceae Lycoris, một nhân vật trong franchise đa phương tiện truyền thông .hack Lycoris (công ty), một công ty phần mềm, được Mandriva mua lại năm 2005 Lycoris Black, một nhân vật từ loạt tiểu thuyết Harry Potter Lycoris Recoil, một chương trình truyền hình anime do A-1 Pictures sản xuất
19850497
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eo%20bi%E1%BB%83n%20Kalmar
Eo biển Kalmar
Eo biển Kalmar () là một eo biển nằm ở biển Baltic, nằm giữa đảo Öland và tỉnh Småland của Thụy Điển. Eo biển Kalmar có chiều dài khoảng và chiều rộng từ và . Cầu Öland bắc qua eo biển, được khánh thành vào ngày 30 tháng 9 năm 1972. Tham khảo Eo biển biển Baltic Eo biển Thụy Điển Tọa độ trên Wikidata
19850504
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20s%E1%BA%AFt%20cao%20t%E1%BB%91c%20Don%20Mueang%E2%80%93Suvarnabhumi%E2%80%93U-Tapao
Đường sắt cao tốc Don Mueang–Suvarnabhumi–U-Tapao
Đường sắt cao tốc Don Mueang–Suvarnabhumi–U-Tapao, còn được gọi là Dự án đường sắt cao tốc nối 3 sân bay () là dự án tuyến đường sắt cao tốc thứ hai tại Thái Lan, dự kiến mở cửa vào năm 2029 giữa Sân bay quốc tế Don Mueang, Sân bay quốc tế Suvarnabhumi và Sân bay quốc tế U-Tapao. Nó sẽ được quản lý bởi Asia Era One Company Limited, một đại diện bởi liên hiệp Charoen Pokphand Group Company, Limited (CP) và đối tác Ch. Karnchang PLC. (CK), Bangkok Expressway and Metro PLC. (BEM), Italian-Thai Development PLC. (ITD) và China Railway Construction Corporation Limited (CRCC). Dự án này là một phần của Hành lang kinh tế phía Đông của Thái Lan. Dịch vụ Điểm kết nối Mở rộng Dự án mở rộng giai đoạn 2 sẽ kéo dài đến Trat tuy nhiên nghiên cứu năm 2020 đang đặt ra câu hỏi về giá trị của nó. Tham khảo Don Mueang Đường sắt cao tốc Thái Lan
19850515
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Tr%E1%BA%A7n
Tổng thống Trần
Tổng thống Trần có thể là: Trần Thủy Biển (1950-), Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (2000–2008) Trần Văn Hương (1902-1982), Tổng thống Việt Nam Cộng hòa (1975)
19850516
https://vi.wikipedia.org/wiki/Higashi%2C%20Kumamoto
Higashi, Kumamoto
là quận thuộc thành phố Kumamoto, tỉnh Kumamoto, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của quận là 189.524 người và mật độ dân số là 3.800 người/km2. Tổng diện tích của quận là 50,19 km2. Tham khảo Quận của Kumamoto (thành phố)
19850517
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20L%C3%BD
Tổng thống Lý
Tổng thống Lý có thể là: Lý Đăng Huy (1923-2020), Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (1988–2000) Lý Tông Nhân (1890–1969), Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (1949–1950) Xem thêm Tổng thống Lee
19850519
https://vi.wikipedia.org/wiki/Suzuki%20Zaion
Suzuki Zaion
là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nhật gốc Mỹ hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Belgian Pro League Sint-Truidense V.V. và đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản. Cuộc đời Suzuki sinh ra ở Little Rock, Arkansas, Mỹ. Anh có bố là người Mỹ gốc Ghana và mẹ là người Nhật. Gia đình anh sau đó chuyển đến Nhật Bản, định cư ở Urawa, Saitama, nơi Suzuki lớn lên. Tham khảo Sinh năm 2002 Cầu thủ bóng đá
19850520
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20T%C6%B0%E1%BB%9Fng
Tổng thống Tưởng
Tổng thống Tưởng có thể là: Tưởng Giới Thạch (1887-1975), Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (1948–1949) Tưởng Kinh Quốc (1910–1988), Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (1978–1988)
19850523
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trimma%20benjamini
Trimma benjamini
Trimma benjamini là một loài cá biển thuộc chi Trimma trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1996. Từ nguyên Từ định danh benjamini được đặt theo tên của Peter Benjamin, làm việc tại Phòng thí nghiệm phim Benjamin (Toronto), người đã tham gia nhiều cuộc thám hiểm. Phân bố và môi trường sống Từ vịnh Nha Trang (Việt Nam), T. benjamini có phân bố trải dài về phía đông đến Tonga và quần đảo Samoa, ngược lên phía bắc tới quần đảo Marshall, xa về phía nam đến rạn san hô Great Barrier và Nouvelle-Calédonie. T. benjamini sống trên các rạn san hô ở độ sâu đến ít nhất là 90 m (thường thấy ở độ sâu từ 4 đến 35 m). Tình trạng phân loại Theo nghiên cứu của Winterbottom và cộng sự (2014), dường như có ba nhóm đơn bội ở T. benjamini đụa trên phân tích các mẫu vật thu thập từ Palau (nhóm 1), quần đảo Raja Ampat (nhóm 2), rạn san hô Great Barrier - Nouvelle-Calédonie - đảo New Britain (nhóm 3). Mô tả Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở T. benjamini là 3 cm. Cá có màu đỏ, đầu có một vạch màu xanh lam xám từ rìa dưới trước mắt đến giữa hàm. Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9–10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 8–10. Sinh thái T. benjamini sống đơn độc hoặc hợp thành những nhóm lỏng lẻo, ăn sinh vật phù du. Tuổi thọ cao nhất được ghi nhận ở loài cá này là 140 ngày, với thời gian cá bột ở vùng nước nổi trung bình là 24% tuổi thọ tối đa. Tham khảo B Cá Thái Bình Dương Cá Việt Nam Cá Philippines Cá Palau Cá Papua New Guinea Cá Nouvelle-Calédonie Cá Tonga Động vật được mô tả năm 1996
19850524
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B3%20T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Ti%C3%AAu
Phó Tổng thống Tiêu
Phó Tổng thống Tiêu có thể là: Tiêu Mỹ Cầm (1971–), Phó Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (2024–) Tiêu Vạn Trường (1939-), Phó Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (2008–2012)
19850525
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B3%20T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Tr%E1%BA%A7n
Phó Tổng thống Trần
Phó Tổng thống Trần có thể là: Trần Kiến Nhân (1951-), Phó Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (2016–2020) Trần Thành (1897-1965), Phó Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (1954–1965) Trần Văn Hương (1902-1982), Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa (1971–1975)
19850527
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B3%20T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20L%C3%BD
Phó Tổng thống Lý
Phó Tổng thống Lý có thể là: Lý Đăng Huy (1923-2020), Phó Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (1984–1988) Lý Nguyên Thốc (1923–2017), Phó Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (1990–1996) Lý Tông Nhân (1890–1969), Phó Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (1948–1954)
19850530
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shinshinotsu%2C%20Hokkaid%C5%8D
Shinshinotsu, Hokkaidō
là một ngôi làng thuộc huyện Ishikari, phó tỉnh Ishikari, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 3.044 người và mật độ dân số là 39 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 78,04 km2. Địa lý Đô thị lân cận Phó tỉnh Ishikari Ebetsu Tōbetsu Phó tỉnh Sorachi Iwamizawa Tsukigata Khí hậu Tham khảo Làng của Hokkaidō
19850538
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Yun
Tổng thống Yun
Tổng thống Yun có thể là: Yun Bo-seon (1897–1990), Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc (1960–1962) Yoon Suk-yeol (1960–), Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc (2022–)
19850541
https://vi.wikipedia.org/wiki/Blaa
Blaa
Blaa (phát âm: ), hoặc Blaa Waterford, là một loại bánh mì ổ nhỏ màu trắng, có nguồn gốc xuất xứ từ Waterford, Ireland. Chúng hiện được sản xuất tại Waterford và South County Kilkenny. Mô tả Blaa có 2 loại: "mềm" và "giòn". Blaa mềm có vị hơi ngọt của mạch nha, nhẹ nhưng chắc, tan trong miệng. Khi cắn miếng blaa giòn đầu tiên, sau đó nhai với vị mạch nha tinh tế và dư vị đắng dễ chịu từ lớp vỏ sẫm màu được chế biến kỹ. Blaa đôi khi bị nhầm lẫn với một loại bánh tương tự được gọi là bap; tuy nhiên, blaa có hình vuông, mềm hơn và bột nhão hơn, và được nhận biết rõ ràng nhất qua bột mì trắng được rắc lên trước khi nướng. Tiêu dùng Được sử dụng trong bữa sáng với bơ, chúng cũng được ăn vào những thời điểm khác nhau trong ngày với nhiều loại nhân khác nhau (bao gồm cả loại thịt ăn trưa chế biến sẵn, thường được gọi là "red lead"). Breakfast blaa (bao gồm trứng, thịt lợn muối xông khói và xúc xích) phổ biến hơn breakfast roll ở Waterford. Có tổng cộng 12.000 chiếc blaa được bán ra mỗi ngày bởi bốn tiệm bánh còn lại: Walsh's Bakehouse, Kilmacow Bakery, Barron's Bakery & Coffee House và Hickey's Bakery. Trong số bốn tiệm bánh còn lại, chỉ có hai tiệm còn lại ở Waterford. Blaa nhanh chóng mất đi độ tươi ngon, vậy bạn nên thưởng thức trong vòng vài giờ sau khi mua. Lịch sử ra đời Một số nguồn tin cho rằng blaa được du nhập vào Waterford vào cuối thế kỷ 17 bởi tín hữu Huguenot. Truyền thuyết này gây tranh cãi vì mặc dù bột mì tồn tại vào thế kỷ 17, nó không được sử dụng rộng rãi cho đến khi được sản xuất hàng loạt trong cuộc cách mạng công nghiệp. Giải thưởng Vào ngày 19 tháng 11 năm 2013, Blaa Waterford đã được khối Liên Âu trao tặng giải thưởng Đặc sản truyền thống và chỉ định địa phương của Liên Âu. Xem thêm Ẩm thực Ireland Bánh mì ổ nhỏ Danh sách loại bánh mì Tham khảo Liên kết ngoài Tài liệu đặc tả cho việc áp dụng ‘Waterford Blaa PGI’ Công thức Bánh mì Ẩm thực Ireland
19850543
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Park
Tổng thống Park
Tổng thống Park có thể là: Park Chung-hee (1917–1979), Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc (1963–1979) Park Geun-hye (1952–), Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc (2013–2017)
19850545
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Kim
Tổng thống Kim
Tổng thống Kim có thể là: Kim Dae-jung (1924–2009), Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc (1998–2003) Kim Young-sam (1927–2015), Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc (1993–1998)
19850546
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Lee
Tổng thống Lee
Tổng thống Lee có thể là: Lee Myung-bak (Lý Minh Bác; 1941–), Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc (2008–2013) Lee Seung-man (1875–1965), Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc (1948–1960) Xem thêm Tổng thống Lý
19850547
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Roh
Tổng thống Roh
Tổng thống Roh có thể là: Roh Moo-hyun (1946–2009), Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc (2003–2008) Roh Tae-woo (1932–2021), Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc (1988–1993)
19850548
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karl%20Hein%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
Karl Hein (cầu thủ bóng đá)
Karl Jakob Hein (sinh ngày 13 tháng 4 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Estonia hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Arsenal tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh và Đội tuyển bóng đá quốc gia Estonia. Sự nghiệp thi đấu Nõmme United Hein bắt đầu sự nghiệp cầu thủ trẻ của mình tại câu lạc bộ JK Loo năm 8 tuổi, trước khi chuyển đến đội trẻ của câu lạc bộ Nõmme United vào năm 2015. Anh có 5 lần ra sân cho Nõmme United ở Esiliiga B, trước khi gia nhập học viện Arsenal F.C. vào tháng 5 năm 2018. Arsenal Hein ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với câu lạc bộ vào tháng 5 năm 2019. Anh có tên trong ghế dự bị của Arsenal lần đầu tiên vào ngày 29 tháng 10 năm 2020, trong trận đấu gặp Dundalk tại UEFA Europa League. Sau khi chơi cho đội một Arsenal ở chuyến du đấu hè trước mùa 2021–22, bao gồm cả trận gặp Hibernian, Hein đã ký hợp đồng dài hạn mới với Arsenal vào ngày 17 tháng 9 năm 2021. Vào ngày 10 tháng 11 năm 2022, Hein có trận ra mắt đội một Arsenal trong trận gặp Brighton & Hove Albion, diễn ra trên Sân vận động Emirates ở vòng ba Cúp EFL, để thủng lưới từ quả đá phạt trực tiếp của Danny Welbeck khi Arsenal thua 3–1. Cho mượn tại Reading Vào ngày 24 tháng 1 năm 2022, Reading thông báo về việc ký hợp đồng với Hein theo dạng cho mượn từ Arsenal cho đến hết mùa giải 2021–22. Sự nghiệp quốc tế Hein đã từng khoác áo Estonia ở cấp độ U-17, U-19 và U-21. Anh có trận ra mắt quốc tế cho Estonia vào ngày 5 tháng 9 năm 2020, trong trận thua 0-1 trước Gruzia tại UEFA Nations League. Thống kê sự nghiệp Câu lạc bộ Quốc tế Danh hiệu Quốc tế Cúp Baltic: 2020 Cá nhân Cầu thủ trẻ Estonia xuất sắc nhất năm: 2020, 2021 Tham khảo Sinh năm 2002 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Estonia Cầu thủ bóng đá Estonia ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh Thủ môn bóng đá Cầu thủ bóng đá Reading F.C. Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C. Cầu thủ bóng đá FC Nõmme United Cầu thủ bóng đá English Football League Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Estonia Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Estonia Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Estonia Thủ môn bóng đá nam
19850556
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20h%C3%B3a%20v%C3%A0%20phong%20t%E1%BB%A5c%20c%E1%BB%A7a%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Tr%C3%A1ng
Văn hóa và phong tục của người Tráng
Dân tộc Tráng sở hữu một bề dày truyền thống văn hóa và đa dạng phong tục tập quán. Truyện kể Người Tráng ở Quảng Tây và Vân Nam có một bề dày truyền thống về truyện kể dân gian và truyện kể thành văn. Truyện kể dân gian dân tộc Tráng thường ở dạng diễn xướng bằng lời ca tiếng hát. Có vô vàn những truyện kể dân gian, thần thoại, truyền thuyết cũng như các thiên sử thi và điệu hát. Trải qua hơn một ngàn năm, họ sử dụng chữ Tráng vuông để viết ra vô vàn các dạng văn tự, bao gồm các làn điệu dân ca, kịch sân khấu, thơ, kinh kệ, thư từ, khế ước và giấy tờ thuế má, sổ sách của triều đình. Xem thêm Người Tráng Văn hóa và phong tục của người Tráng Vân Nam Tham khảo Eric Johnson và Wang Mingfu. 2008. "Zhuang cultural and linguistic heritage". SIL International and the Nationalities Publishing House of Yunnan. Văn hóa Quảng Tây Người Tráng
19850557
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B3%20T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Nguy%E1%BB%85n
Phó Tổng thống Nguyễn
Phó Tổng thống Nguyễn có thể là: Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011), Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa (1967–1971) Nguyễn Ngọc Thơ (1908-1976), Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa (1956–1963) Nguyễn Văn Huyền (1911-1995), Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa (1975)
19850558
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Zuckenriet
Lâu đài Zuckenriet
Lâu đài Zuckenriet là một lâu đài ở đô thị Niederhelfenschwil thuộc bang St. Gallen của Thụy Sĩ. Đây là một di sản có ý nghĩa quốc gia của Thụy Sĩ. Xem thêm Danh sách lâu đài ở Thụy Sĩ Tham khảo Tài sản văn hóa có ý nghĩa quốc gia ở St. Gallen Lâu đài ở St. Gallen
19850562
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Dokjeong
Ga Dokjeong
Ga Dokjeong (Tiếng Hàn: 독정역, Hanja: 篤亭驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Baekseok-dong, Seo-gu, Incheon. Lịch sử 5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Dokjeong 30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 Bố trí ga Xung quanh nhà ga Ngã tư Dokjeong E-Mart Chi nhánh Geomdan Megabox Chi nhánh Geomdan Trường trung học Baekseok Trường trung học trang sức Hàn Quốc Trường trung học Incheon Semu Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Dokjeong Dokjeong Dokjeong Dokjeong Dokjeong
19850572
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20%C4%91%E1%BA%A1i%20%C4%91%C3%B4%20th%E1%BB%8B%20h%C6%A1n%20m%E1%BB%99t%20tri%E1%BB%87u%20d%C3%A2n%20%E1%BB%9F%20%E1%BA%A4n%20%C4%90%E1%BB%99
Danh sách đại đô thị hơn một triệu dân ở Ấn Độ
Ấn Độ là một quốc gia tại Nam Á, có diện tích lớn thứ bảy và đông dân nhất thế giới. Ấn Độ bao gồm 28 bang và 8 lãnh thổ liên bang. Cuộc điều tra nhân khẩu chính thức đầu tiên của Ấn Độ được tiến hành vào năm 1872, và được tổ chức mười năm một lần kể từ năm 1951. Cuộc điều tra nhân khẩu chính thức năm 2011 đã được tiến hành. Theo Chính phủ Ấn Độ, một vùng kết tụ đô thị (urban agglomeration) là một khu vực đô thị lan rộng liên tục tạo thành một đô thị và các khu phát triển liền kề (OGs); hoặc hai thị trấn trở lên tiếp giáp nhau về mặt địa lý, có hoặc không có các khu phát triển. Một khu kết tụ đô thị phải bao gồm ít nhất một đô thị theo luật định, và tổng dân số không được ít hơn 20.000 theo điều tra nhân khẩu năm 2001. Trong các điều kiện địa phương khác nhau, có những sự kết hợp khác cũng được cho là kết tụ đô thị, do đáp ứng điều kiện cơ bản về sự tiếp giáp. Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, có 53 khu kết tụ đô thị hoặc thành phố có dân số từ 1 triệu người trở lên. Danh sách Sau đây là danh sách các vùng kết tụ đô thị tại Ấn Độ. Các vùng kết tụ thành phố/đô thị có màu đậm là thủ phủ của bang hoặc lãnh thổ liên bang, hoặc thủ phủ là một phần của vùng kết tụ đô thị đó. Xem thêm Danh sách thành phố tại Ấn Độ theo dân số Danh sách vùng đô thị đông dân nhất Ấn Độ Danh sách bang của Ấn Độ theo dân số Nhân khẩu Ấn Độ Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Office of the Registrar General & Census Commissioner, India Thành phố Ấn Độ Danh sách thành phố
19850576
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20C%C3%BAp%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%81%201996
Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 1996
Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 1996 là một chuỗi các trận đấu giữa 33 đội là thành viên của Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) nhằm chọn ra 10 đội bóng cùng với chủ nhà và đương kim vô địch tranh tài tại AFC Asian Cup 1996. Thể thức Vòng loại chỉ diễn ra duy nhất một vòng. Các đội được chia vào 10 bảng thi đấu với nhau theo thể thức vòng tròn một lượt hoặc sân nhà - sân khách (tùy bảng đấu). Đội nhất bảng sẽ giành quyền tham dự AFC Asian Cup 1996 (được tổ chức tại UAE). Kết quả Bảng 1 Bảng 2 Bảng 3 Bảng 4 Bảng 5 Bảng 6 Bảng 7 Bảng 8 Bảng 9 Bảng 10 Các đội vượt qua vòng loại In đậm chỉ năm vô địch, in nghiêng chỉ năm đội đó là nước chủ nhà Chú thích Liên kết ngoài Stokkermans, Karel. "Asian Nations Cup 1996". RSSSF. Courtney, Barrie "1996 MATCHES". RSSSF Xem thêm Cúp bóng đá châu Á 1996 Bóng đá châu Á năm 1996 Vòng loại Cúp bóng đá châu Á
19850586
https://vi.wikipedia.org/wiki/Andrew%20J.%20Evans%20Jr.
Andrew J. Evans Jr.
Andrew Julius Evans Jr. (11 tháng 11 năm 1918 – 25 tháng 12 năm 2001) là một thiếu tướng Không quân Hoa Kỳ và phi công ách, ông đã bắn phá hủy sáu máy bay quân địch trong trận không chiến và hai máy bay địch trên mặt đất trong Thế chiến II. Ông còn phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên, ông thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu trước khi bị bắt làm tù binh. Sau khi được trả tự do, ông thực hiện nhiệm vụ trong Chiến tranh Việt Nam trước khi giải ngũ vào năm 1973. Đầu đời Evans sinh ngày 11 tháng 11 năm 1918 tại Charleston, South Carolina. Sau khi tốt nghiệp trung học Columbus ở Columbus, Georgia, ông theo học tại The Citadel ở Charleston. Năm 1937, ông theo học tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point và tốt nghiệp năm 1941 với bằng cử nhân khoa học và được sắc phong hàm thiếu úy. Binh nghiệp Thế chiến II Sau khi tốt nghiệp tại West Point, Evans tham gia khóa huấn luyện phi công của Quân đoàn Không quân Hoa Kỳ tại phi trường Randolph, Texas. Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện này, ông là phi công điều khiển chiếc P-39 Airacobra ở Iceland. Sau khi trở về Hoa Kỳ, ông chỉ huy Phi đoàn Chiến đấu số 533 và 448, điều khiển chiếc P-47 Thunderbolts. Ông theo học Đại học Chỉ huy và Tham mưu ở Fort Leavenworth, Kansas, trước khi được chỉ định vào Liên đoàn chiến đấu số 357 tại RAF Leiston ở Anh tại Mặt trận Tác chiến Châu Âu vào mùa thu năm 1944. Khi điều khiển chiếc P-51 Mustang trong trận không chiến, ông bắn hạ chiếc Focke-Wulf Fw 190 trên bầu trời Magdeburg, Đức, vào ngày 27 tháng 11 năm 1944, đây là chiến công đầu tiên của ông. Ngày 14 tháng 1 năm 1945, ông bắn hạ 4 chiếc Fw 190 trên bầu trời Berlin, Đức, với tổng số 57½ máy bay tiêm kích Đức bị các phi công chiến đấu thuộc Phi đoàn số 357 bắn hạ. Chiến công cuối cùng của ông trong chiến tranh là chiếc Messerschmitt Bf 109 trên bầu trời Gütersloh, Đức, vào ngày 24 tháng 3 năm 1945, nâng tổng số chiến công lên sáu. Trong Thế chiến II, Evans thực hiện 129 nhiệm vụ chiến đấu và được công nhận khi phá hủy 6 máy bay quân địch trong trận không chiến, ông trở thành phi công ách và 2 chiếc bị phá hủy trên mặt đất khi oanh tạc các sân bay của quân địch. Giữa chiến tranh Sau khi Thế chiến II kết thúc, Evans được chỉ định trở thành tư lệnh của Liên đoàn chiến đấu số 357 khi đóng quân tại Neubiberg, Đức. Năm 1946, ông trở lại Hoa Kỳ và từ tháng 3 năm 1946 đến tháng 8 năm 1947, ông phục vụ bộ tham mưu của Đại học Không quân Hoa Kỳ tại Căn cứ Không quân Maxwell, Alabama. Ông sau đó theo học tại Trường Tham mưu và Chỉ huy Không quân từ tháng 8 năm 1947 đến tháng 6 năm 1948. Sau đó ông phục vụ trong Bộ Tổng Tham mưu tại Tổ chức Tham mưu trưởng Liên quân ở Washington, D.C., từ tháng 6 năm 1948 đến tháng 6 năm 1950. Sau đó, ông trở thành sĩ quan điều hành của Tham mưu trưởng Không quân Hoa Kỳ, từ tháng 7 năm 1950 đến tháng 7 năm 1951, rồi được bổ nhiệm làm đại tá vào tháng 1. Từ tháng 8 năm 1951 đến tháng 6 năm 1952, ông theo học tại Đại học Chiến tranh Không quân Hoa Kỳ tại Căn cứ Không quân Maxwell, Alabama. Chiến tranh Triều Tiên Vào tháng 6 năm 1952, Đại tá Evans được chỉ định trở thành phó tư lệnh Không đoàn máy bay đánh bom số 49 trong Chiến tranh Triều Tiên. Đóng quân tại Căn cứ Không quân Taegu, Hàn Quốc, ông thực hiện các nhiệm vụ trên chiếc F-84 Thunderjet. Trong nhiệm vụ thứ 67 vào ngày 27 tháng 3 năm 1953, ông bị bắn hạ và bị lực lượng cộng sản bắt giữ làm tù binh, khiến ông trở thành tù binh cấp cao nhất của Không quân Hoa Kỳ. Trong lúc là tù binh, ông bị biệt giam và sau khi những người bắt giữ phát hiện Evans từng phục vụ cho Tham mưu trưởng Không quân Hoa Kỳ qua tờ báo quân sự Stars and Stripes, ông bị gây sức ép buộc phải thú nhận đã phạm tội ác chiến tranh. Ông khước từ điều đó và bị tra tấn. Evans được trả tự do vào tháng 9 năm 1953; cho đến khi được quân đội Hoa Kỳ coi là mất tích trong chiến đấu. Hậu chiến Sau khi Evans quay về Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 1953, ông trở thành giảng viên tại Đại học Chiến tranh Không quân. Vào tháng 1 năm 1956, ông trở thành tư lệnh của Liên đoàn chiến đấu số 414 tại Oxnard, California, được trang bị F-89 Scorpions. Từ tháng 1 năm 1957 đến tháng 9 năm 1959, ông là phó tư lệnh Khu phòng không New York tại Căn cứ Không quân McGuire, New Jersey, ông điều khiển hai chiếc F-89 và F-101 Voodoos. Nhiệm vụ kế tiếp của ông vào tháng 7 năm 1960 với tư cách là tư lệnh Sư đoàn Không quân số 65 tại Căn cứ Không quân Torrejon ở Tây Ban Nha, ông điều khiển chiếc F-102 Delta Daggers. Trên cương vị này, ông chịu trách nhiệm chỉ đạo chung nhiệm vụ huấn luyện và phòng không với tư lệnh phòng không Tây Ban Nha. Evans trở lại Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1963 và được bổ nhiệm vào Văn phòng Phó Tham mưu trưởng Nghiên cứu và Phát triển tại căn cứ Không quân Hoa Kỳ ở Lầu Năm Góc, làm chủ nhiệm kế hoạch phát triển. Tháng 6 năm 1964, ông trở thành chủ nhiệm phát triển với nhiệm vụ bổ sung là phụ tá đặc biệt cho phó tham mưu trưởng phụ trách nghiên cứu và phát triển cho lực lượng phản công. Vào tháng 8 năm 1968, ông được bổ nhiệm giữ chức tư lệnh Trung tâm Tác chiến Không quân Hoa Kỳ tại Căn cứ Không quân Eglin ở Florida. Trong Chiến tranh Việt Nam, Evans thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu bằng chiếc F-4 Phantom II trên bầu trời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vào tháng 10 năm 1970, ông đảm nhận chức vụ phó tư lệnh Không quân số 7/Không quân số 13, đóng quân tại Căn cứ Không quân Hoàng gia Thái Lan Udorn ở Thái Lan. Vào tháng 7 năm 1971, ông được bổ nhiệm làm tư lệnh Đội quân Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Thái Lan và trưởng Đoàn Cố vấn Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Thái Lan, những chức vụ quân sự cuối cùng trước khi ông giải ngũ khỏi Không quân Hoa Kỳ vào năm 1973. Qua đời Evans qua đời vào dịp lễ Giáng sinh năm 2001, ở tuổi 83. Ông được an táng tại Nghĩa trang quốc gia Arlington theo nghi thức quân đội, bên cạnh người vợ Claire, bà qua đời vào năm 1973. Tang lễ của ông gồm một chuyến bay biểu diễn của 4 chiếc F-15 Eagles. Chiến công Huân chương Huân chương được trao gồm: Chú thích Ghi chú Tham khảo Phi công Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai Phi công Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam Thiếu tướng Không quân Hoa Kỳ
19850599
https://vi.wikipedia.org/wiki/Teshio%2C%20Hokkaid%C5%8D
Teshio, Hokkaidō
là thị trấn thuộc huyện Teshio, phó tỉnh Rumoi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đế ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 2.950 người và mật độ dân số là 8,3 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 353,31 km2. Địa lý Khí hậu Tham khảo Thị trấn của Hokkaidō
19850609
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trimma%20naudei
Trimma naudei
Trimma naudei là một loài cá biển thuộc chi Trimma trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1957. Từ nguyên Từ định danh naudei được đặt theo tên của nhà vật lý Stefan Meiring Naudé (1904–1985), Chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Nam Phi. Phân bố và môi trường sống Từ Comoros, T. naudei có phân bố trải dài về phía đông đến Philippines và đảo Sulawesi, ngược lên phía bắc tới quần đảo Ryukyu, xa về phía nam đến Mauritius. Ở Việt Nam, T. naudei được ghi nhận tại vịnh Nha Trang. T. naudei sống trên các rạn san hô ngoài khơi và trong đầm phá, trên nền đá vụn hoặc cát mịn, độ sâu đến ít nhất là 30 m. Mô tả Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở T. naudei là 3,5 cm. Cá có màu đỏ cam với 7 đốm trắng ở gần lưng, và có 4 đốm gần bụng (từ cuống đuôi đến tia vây hậu môn cuối). Đầu có nhiều đốm cam. Một vạch đen trên gốc vây ngực. Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 7–8; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 7–9. Phân loại Theo nghiên cứu của Winterbottom và cộng sự (2014), T. naudei là loài chị em gần nhất với Trimma lantana, và cùng nằm trong nhóm Trimma caesiura. Sinh thái Thức ăn của T. naudei bao gồm động vật giáp xác và trùng tia. Tham khảo N Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Seychelles Cá Comoros Cá Mauritius Cá Maldives Cá Thái Lan Cá Việt Nam Cá Philippines Cá Đài Loan Cá Nhật Bản Động vật được mô tả năm 1957
19850613
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eo%20bi%E1%BB%83n%20Kitan
Eo biển Kitan
hay là eo biển ngăn cách đảo Awaji với Wakayama, tỉnh Wakayama, Nhật Bản và nối Vịnh Osaka ở phía bắc với Kênh Kii ở phía nam. Tổng chiều rộng là 11 km, nhưng quần đảo Tomogashima giảm khoảng cách bắc qua một cây cầu được đề xuất. Eo biển Kitan là một phần của Công viên quốc gia Setonaikai. Xem thêm Eo biển Akashi Tham khảo Eo biển Nhật Bản Địa mạo Wakayama
19850616
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alfredo%20Cappellini%20%28t%C3%A0u%20chi%E1%BA%BFn%20%C3%9D%29
Alfredo Cappellini (tàu chiến Ý)
Ba tàu chiến của Hải quân Ý từng được đặt cái tên Alfredo Cappellini hoặc Comandante Cappellini, được đặt theo Trung tá Hải quân Alfredo Cappellini (1828-1866), anh hùng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập thứ ba của Ý: Alfredo Cappellini là một tàu monitor hạ thủy năm 1915 và bị đắm năm 1917 Comandante Cappellini là một hạ thủy năm 1939, bị Đức chiếm năm 1943 và đổi tên thành UIT-24, rồi bị Nhật Bản chiếm năm 1945 và đổi tên thành I-503, và cuối cùng bị tháo dỡ năm 1946 Alfredo Cappellini (S 507), nguyên là , được Hoa Kỳ chuyển giao năm 1966 và bị tháo dỡ năm 1977 Tên gọi tàu chiến Hải quân Ý
19850623
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pass%C3%A9%20simple
Passé simple
Passé simple (, quá khứ đơn, quá khứ, hoặc quá khứ lịch sử), còn được gọi là passé défini (, quá khứ xác định) là một thì trong tiếng Pháp (tương đương với thì passé composé) được sử dụng chủ yếu trong văn bản chính thức (gồm lịch sử và văn học) và lời nói trang trọng. Giống như các thì quá khứ khác, passé simple sử dụng khi một hành động nào đó bắt đầu hoặc kết thúc và đã hoàn thành trong một thời gian xác định. Trong văn bản nó thường được sử dụng để tường thuật. Cách dựng thì passé simple Mặc dù passé simple là thì phổ biến trong tiếng Pháp kể cả được sử dụng trong các cuốn sách cho trẻ em người Pháp, thì này thường không được giảng dạy cho người nươc ngoài cho đến khi vào các lớp học tiếng Pháp nâng cao. Thì passé simple thường hình thành bằng cách loại bỏ hai chữ cuối trong động từ nguyên mẫu và thêm đuôi thích hợp. Ba lớp động từ thường chính trong tiếng Pháp (-er, -ir, -re) được chia trong thì passé simple theo cách sau: Một số động từ bất quy tắc phổ biến: Nhiều động từ bất quy tắc khác dễ dàng nhận biết được vì passé simple thường giống với phân từ quá khứ. Ví dụ, il courut (anh ấy chạy) là từ courir, trong đố phân từ quá khứ là couru. Tuy nhiên một số động từ hoàn toàn bất quy tắc. Naitre (được sinh ra) có phân từ quá khứ né nhưng passé simple mới có (ví dụ) je naquis (tôi sinh ra). Cách sử dụng passé simple Thì passé simple được sử dụng để thể hiện: một sự kiện hay hành động có khoảng thời gian dài hoặc ngắn đã được hoàn thành, nhưng không nhất thiết phải xa về mặt thời gian: Le Général de Gaulle vécut 80 ans. General de Gaulle sống được 80 năm. En 1991, l'équipe de France de tennis gagna la coupe Davis. Vào năm 1991, đội Pháp đã thắng cúp Davis. một chuỗi sự kiện được hoàn thành, được coi là các điểm trong thời gian: ... l'image fut bonne ... cela parut pour son entourage l'essentiel ... on sentit tout de même ... son épouse lui fit signe de ... ... ấn tượng rất tốt ... đó dường như là điều cần thiết đối với đoàn tùy tùng của anh ấy ... tuy nhiên họ cảm thấy ... vợ anh ra hiệu cho anh ... kết hợp và trái ngược với thì chưa hoàn thành diễn tả bối cảnh hoặc chuỗi các sự kiện: Puis, il tourna le robinet de l'évier, se lava les mains, s'essuya au linge accroché sous le grêle tuyau ... Et elle guettait ses moindres gestes ... Sau đó anh ta mở vòi, rửa tay và lau khô bằng khăn treo trên ống mỏng. ... Và cô ta quan sát chuyển động nhỏ nhất của anh ... Cách sử dụng hiện đại Trong khi ngôn ngữ văn học và tinh tế vẫn sử dụng thì passé simple, ngôn ngữ nói thông thường tiêu chuẩn đã thay thì passé simple cho passé composé, tức là khi nói tiếng Pháp, không còn một sắc thái nào giữa hai thì đó nữa: Passé composé « Je suis arrivé. » ("Tôi đã đến." Tôi đã tới thị trấn nhưng có lẽ tôi vừa mới đến.) và Passé simple « J'arrivai. » ("Tôi đã đến." Tôi đã tới thị trấn nhưng có thể tôi không còn ở đây.) Cách sử dụng địa phương Trong tiếng Pháp nói hiện đại, thì passé simple thưc tế đã biến mất, nhưng tiếng Pháp địa phương có các biến thể, ví dụ như Langue d'oïl (nhóm ngôn ngữ Oïl) ở vùng phía Bắc nước Pháp có "mangea" được thay thể bởi "mangit": « Malheureux comme le chien à Brisquet, qui n'allit qu'une fois au bois, et que le loup le mangit. » Thật bất hạnh như con chó của Brisquet, nó chỉ vào rừng một lần và bị sói ăn thịt. Ở Canada, thì passé simple vẫn tiếp tục sử dụng do tương tác với tiếng Anh, ít nhất là nhiều hơn ở Pháp. Thì này tương đương với cả "passé composé" và "passé simple". Trong tiếng Pháp nói hiện đại, passé simple đôi khi được sử dụng như một trò đùa để làm cho câu nghe có vẻ hợm hĩnh hơn hoặc tinh tế hơn, đặc biệt là sau ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ hai số nhiều, hiếm khi được sử dụng trong tiếng Pháp đương đại, ngay cả trong viết. Tham khảo Thì Ngữ pháp tiếng Pháp
19850625
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B3%20t%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Johnson
Phó tổng thống Johnson
Phó Tổng thống Johnson có thể là: Richard Mentor Johnson (1780–1850), Phó Tổng thống Hoa Kỳ (1837–1841) Andrew Johnson (1808-1875), Phó Tổng thống Hoa Kỳ (1865) Lyndon B. Johnson (1908-1973), Phó Tổng thống Hoa Kỳ (1961–1963)
19850626
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trimma%20okinawae
Trimma okinawae
Trimma okinawae là một loài cá biển thuộc chi Trimma trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1949. Từ nguyên Từ định danh okinawae được đặt theo tên gọi của đảo Okinawa, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập. Tình trạng phân loại Theo nghiên cứu của Winterbottom và cộng sự (2014), có 8 nhóm đơn bội ở T. okinawae dựa trên phân tích các mẫu vật thu thập từ Palau (nhóm 1), Fiji (nhóm 3), Nouvelle-Calédonie (nhóm 4), Brunei (nhóm 5), Nhật Bản (nhóm 6a), đảo Đài Loan (nhóm 6b), đảo New Britain - Raja Ampat (nhóm 7). Hai nhóm đã được mô tả là loài hợp lệ là Trimma ukkriti ở đảo Phuket (Nam Thái Lan, trước đây là nhóm 2) và Trimma readerae (rạn san hô Great Barrier, trước đây là nhóm 8). Mặc dù có một số biến dị hình thái về số vảy trước lưng, độ sâu của rãnh giữa hai mắt, chiều dài gai vây lưng thứ hai và kiểu hình (đặc biệt là các vệt sọc trên má, nắp mang và màu sắc tổng thể), nhưng chưa có sự khác biệt nhất quán nào được công bố cho đến nay. Phân bố và môi trường sống Theo như nghiên cứu trên, T. okinawae là một phức hợp gồm nhiều loài, và T. okinawae thực sự có lẽ chỉ giới hạn ở Nhật Bản. T. okinawae sống trên các rạn san hô và gần hải miên, độ sâu đến ít nhất là 35 m. Mô tả Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở T. okinawae là 3,5 cm. Gai thứ hai của vây lưng trước ngắn, chạm tới tia thứ hai của vây lưng sau. Má (phía dưới và sau mắt) có các vạch dọc màu đỏ cam. Sinh thái T. okinawae đực là loài đa thê, và con cá cái lớn nhất hậu cung sẽ chuyển đổi giới tính sau khi cá đực thống trị bị loại bỏ. Sự xuất hiện của mô buồng trứng ở cá đực cho thấy T. okinawae đực có thể quay trở lại thành cá cái. Một thí nghiệm cho thấy, cá cái sau khi thay đổi giới tính và trở thành cá đực, chúng sẽ quay trở lại thành cá cái nếu có sự xuất hiện của một con cá đực lớn hơn. Thí nghiệm này nhằm chứng minh T. okinawae là một loài lưỡng tính hai chiều. Lãnh thổ cá đực bao trùm lên lãnh thổ của những con cá cái trong hậu cung. Vào buổi sáng của ngày sinh sản, cá đực sẽ ở tại một địa điểm. Cá cái sẽ ghé thăm địa điểm này và giao phối với con đực. Quá trình sinh sản diễn ra với chu kỳ 4–5 ngày trong mùa sinh sản từ tháng 6 đến tháng 9 (Nhật Bản). Tham khảo O Cá Thái Bình Dương Cá Nhật Bản Động vật được mô tả năm 1949
19850629
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Adams
Tổng thống Adams
Tổng thống Adams có thể là: John Adams (1735-1826), Tổng thống Hoa Kỳ (1797–1801) John Quincy Adams (1767-1848), Tổng thống Hoa Kỳ (1825–1829)
19850630
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marie-Laurent%20Cordier
Marie-Laurent Cordier
Maria Lôrenxô Phanxicô Xaviê Cordier M.E.P. (1 tháng 5 năm 1821 – 14 tháng 8 năm 1895) là một nhà truyền giáo và giám mục người Pháp. Ông là Đại diện Tông tòa thứ hai của Địa phận Cao Miên. Tiểu sử Sau khi được thụ phong linh mục vào ngày 20 tháng 6 năm 1847 tại Gap, ông vào học tại Chủng viện của Hội Thừa sai Paris từ ngày 1 tháng 7 cùng năm đến ngày 29 tháng 3 năm 1848 rồi rời nước Pháp để đi truyền giáo tại địa phận Tây Đàng Trong (lúc ấy bao trùm cả Vương quốc Campuchia). Đến năm 1850 thì Tòa Thánh thiết lập Địa phận Cao Miên trên cơ sở toàn bộ lãnh thổ Vương quốc Campuchia, và linh mục Cordier được bổ nhiệm làm chính xứ Battambang. Hai năm sau, năm 1852, ông được Giám mục Gioan Clauđiô Mịch đưa sang làng Queue-de-Buf, nằm về phía bắc tỉnh Xiang Taeng thuộc Vương quốc Champasak (nay thuộc vùng Nam Lào) để truyền giáo. Vì bị bệnh, ông chuyển về Phnôm Pênh rồi sống cùng cộng đoàn tín hữu Công giáo người Hoa tại huyện Koh Sotin, bên bờ sông Mê Công. Thấy bệnh tình không thuyên giảm, ông quay về nước Pháp vào năm 1862. Không lâu sau linh mục Cordier khỏi bệnh hoàn toàn và tiếp tục thực hiện sứ vụ của mình. Năm 1864, ông về làm chính xứ Ba-nam (nay thuộc thị trấn Neak Loeang) và gầy dựng mọi thứ từ con số không. Ông tích cực bảo vệ các bổn đạo khỏi quân nổi loạn, nuôi sống họ trong lúc đói kém và giúp họ biết cách sử dụng các tài nguyên sẵn có. Xem thêm Sinh năm 1821 Mất năm 1895 Hội Thừa sai Paris Nhà truyền giáo người Pháp
19850632
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yoo%20Seung-jun
Yoo Seung-jun
Yoo Seung-jun (Hangul: 유승준; Hanja: 劉承俊; Hán-Việt: Lưu Thừa Tuấn; sinh ngày 15 tháng 12 năm 1976), được biết với tên tiếng Anh Steve Yoo, là một nam ca sĩ, vũ công, rapper, và diễn viên người Mỹ gốc Hàn, một trong những thần tượng K-pop nổi tiếng nhất tại Hàn Quốc kể từ khi ra mắt vào năm 1997. Sự nghiệp ca nhạc của Yoo kết thúc vào năm 2002, khi anh bị cáo buộc tội danh trốn tránh nghĩa vụ quân sự của Hàn Quốc bằng cách trở thành công dân Hoa Kỳ. Sau đó, anh không được phép nhập cảnh vào Hàn Quốc. Kể từ đó, Yoo tiếp tục hoạt động với tư cách một diễn viên ở Trung Quốc. Anh được khán giả biết đến với vai diễn Kim Ngột Truật trong phim truyền hình dã sử Tinh Trung Nhạc Phi và Công tử Văn trong phim điện ảnh Đại Binh Tiểu Tướng. Tiểu sử Yoo Seung-jun sinh ngày 15 tháng 12 năm 1976 tại Seoul, Hàn Quốc. Anh và gia đình chuyển đến Mỹ năm 13 tuổi và định cư tại Buena Park, California. Yoo đã thực hiện các đoạn băng demo về kỹ năng rap và vũ đạo của mình rồi gửi chúng cho Brothers Entertainment, cuối cùng anh được trúng tuyển và rời California để bắt đầu sự nghiệp ca sĩ. Sự nghiệp hoạt động 1997: Ra mắt công chúng Yoo ra mắt với tư cách ca sĩ tại Hàn Quốc vào năm 1997. Album đầu tiên của anh, "West Side" đã trở thành một cú hit với đĩa đơn đầu tay "Gawi". Cùng với đĩa đơn khác là "I Love You, Noona", anh đã giành giải "Người mới xuất sắc nhất của năm" tại nhiều lễ trao giải. Yoo trở nên nổi tiếng với điệu nhảy đặc trưng "Gawi", trong đó anh và các vũ công phụ của mình xếp hàng chéo nhau để thực hiện các động tác giống nhau cùng một lúc. "West Side" cuối cùng bán được hơn một triệu bản. 1998 Vào mùa hè năm 1998, anh phát hành album thứ hai "For SALE" với ca khúc chủ đề "Na Na Na" ("나나나"), album và video âm nhạc của Yoo đã đứng đầu bảng các xếp hạng. Trong MV có sự tham gia của nữ diễn viên Choi Ji-woo, người đóng vai một giáo viên thực tập trong khi Yoo trong vai một học sinh quấy phá. Nhiều người coi đây là album thành công nhất trong sự nghiệp của Yoo, vì nó đã giúp anh giành được giải "Nghệ sĩ xuất sắc nhất của năm". Album này lần nữa bán được 1 triệu đĩa. 1999 Năm 1999, anh tiếp tục phát hành album thứ ba "Now Or Never", trong đó có đĩa đơn ăn khách "Passion". Cuối năm đó, Yoo phát hành album thứ tư "Over and Over", bao gồm ca khúc "Vision". 2000 Trong thời gian này, anh bắt đầu mở rộng sự nghiệp của mình sang Trung Quốc và Đài Loan, với việc phát hành đĩa đơn "Can't Wait", hợp tác với ca sĩ Đài Loan Yuki. "Now or Never" đứng đầu bảng xếp hạng Hàn Quốc với doanh số tuần đầu tiên là 879.000 album được bán ra, lập kỷ lục về doanh số tuần đầu tiên cao nhất từ trước đến nay. Album cuối cùng đã bán được gần 1,5 triệu bản. Anh cũng phát hành video âm nhạc cho hai bài hát tiếng Hàn của mình vào năm đó là "Wish You Could Find" và "Yesterday, Today & Tomorrow", phần sau thể hiện một hình ảnh sành điệu hơn. 2001 Năm 2001, anh phát hành album thứ sáu "Infinity" với đĩa đơn "Wow". Mặc dù được mặt đánh giá thấp hơn về mặt chuyên môn và thương mại so với ba album trước đó của anh, "Infinity" vẫn ra mắt ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng với doanh số tuần đầu tiên là 359.961 bản. Album đã đạt được doanh số hơn 600.000. 2002: Trục xuất khỏi Hàn Quốc Yoo từng nhiều lần tuyên bố trên truyền hình rằng anh sẽ hoàn thành nghĩa vụ quân sự bắt buộc. Nhưng vào năm 2002, ngay trước khi phải nhập ngũ, anh đã tiến hành nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Chính phủ Hàn Quốc coi đây là một hành động đào ngũ và đã trục xuất anh, cấm anh không được nhập cảnh vào nước này vĩnh viễn. 2003-2007: Hậu trục xuất Năm 2003, bố vợ của anh qua đời ở Hàn Quốc. Bộ Tư pháp Hàn Quốc cho phép Yoo nhập cảnh tạm thời vào Hàn Quốc trong thời gian hai ngày. Năm 2006, anh góp mặt trong bài hát "Single Person" của rapper H-Eugene. Video âm nhạc của bài hát không thể hiện hình ảnh của Yoo, nhưng cho thấy bóng của anh đang thực hiện vũ đạo. Năm 2007, anh phát hành album thứ bảy "Rebirth of YSJ" dành tặng những người hâm mộ đã sát cánh bên anh qua những thăng trầm trong sự nghiệp. Album được thực hiện dưới sự hợp tác của đội ngũ sản xuất đến từ Mỹ, Trung Quốc và Hàn Quốc. Trong đó, anh cho ra mắt các đĩa đơn "Missing U", "Breakin' Love", "One For Me" và "Fireworks". 2008-nay Tháng 6 năm 2008, Yoo ký hợp đồng 15 năm với công ty quản lý giải trí của Thành Long để trở thành diễn viên. Kể từ đó, anh đã cố gắng tạo dựng tên tuổi của mình bằng cách tiếp tục sự nghiệp ca hát và diễn xuất ở Trung Quốc đại lục. Vào tháng 2 năm 2010, Yoo xuất hiện lần đầu trong bộ phim Đại Binh Tiểu Tướng với vai Công tử Văn. Cũng trong năm đó, anh phát hành video âm nhạc bằng tiếng Hàn và tiếng Trung cho đĩa đơn "My World". Vào năm 2015, có thông báo rằng Yoo sẽ xuất hiện trong bộ phim Dragon Blade. Năm 2019, anh phát hành hai đĩa đơn bằng tiếng Hàn là "Another Day" và "People Don't Know" cùng video âm nhạc cho cả hai bài hát. Năm 2022, Yoo được ghi danh làm sinh viên tại Chủng viện Westminster California. Đời tư Năm 2011, trước thông báo của mạng truyền hình Hàn Quốc Seoul Broadcasting System về việc tổ chức một cuộc thăm dò công khai về việc liệu người Hàn Quốc có nghĩ rằng Yoo Seung-jun nên được phép quay lại Hàn Quốc hay không, anh nói rằng mình không có kế hoạch quay trở lại. Vào tháng 12 năm 2013, có tin đồn rằng lệnh cấm đối với Yoo đã được dỡ bỏ và anh có thể nhập cảnh vào Hàn Quốc. Tuy nhiên, vào tháng 1 năm 2014, Hiệp hội Nhân lực Quân sự Hàn Quốc đã đưa ra tuyên bố phủ nhận thông tin này. Vào ngày 19 tháng 5 năm 2015, Yoo xuất hiện trong một video mà anh đã chia sẻ về câu chuyện trốn nghĩa vụ quân sự của mình vào năm 2002. Anh đã quỳ gối để cầu xin được quay trở lại Hàn Quốc, hứa rằng sẽ "làm bất cứ điều gì cần thiết" và chấp nhận bất kỳ điều kiện nào mà chính phủ Hàn Quốc đưa ra. Vào ngày 23 tháng 2 năm 2017, sau phiên tòa, Yoo đã thua kiện trong lần kháng cáo thứ hai và cũng là cuối cùng vì anh không được phép quay lại Hàn Quốc cũng như không thể kháng cáo lệnh cấm nhập cảnh trong tương lai. Ngày 11/7/2019, Tòa án Tối cao Hàn Quốc đã gửi vụ thưa kiện đã khép lại trước đó của Yoo lên Tòa án tối cao Seoul. Vào ngày 15 tháng 11 năm 2019, tòa phúc thẩm đã đảo ngược quyết định trước đó và đưa ra phán quyết có lợi cho Yoo, cho phép anh có cơ hội quay lại Hàn Quốc. Sau khi bị trục xuất khỏi Hàn Quốc vào năm 2002, Yoo chuyển đến sống ở Bắc Kinh, Trung Quốc. Ngay sau đó, anh đến định cư tại Los Angeles, California. Yoo kết hôn với vợ là Christine Oh vào năm 2004 và có 4 người con. Vào tháng 10 năm 2019, Yoo ra mắt kênh YouTube cá nhân, nơi anh đăng video về thói quen tập luyện hàng ngày của mình. Yoo là một học viên Taekwondo trong thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp của anh. Anh đã thể hiện kỹ năng võ thuật của mình trên các chương trình truyền hình Hàn Quốc. Năm 2010, khi được làm khách mời trong chương trình Asia Uncut, anh cho biết mình (vào thời điểm quay phim) đã đạt đai đen tam đẳng. Danh sách album đã phát hành Album phòng thu Extended plays Compilations and live albums 98 Live Album (1998) New Release + English Version (1999) All That Yoo Seung Jun (1999) Gold Techno Remix (2000) Hidden Story (2001) Best & J Duet Collection (2001) Yoo Seung Jun 2002 Live (2002) Phim đã tham gia Phim điện ảnh Đại Binh Tiểu Tướng (2010) Ngạnh Hán 2 (2011) Scheme With Me (2012) 12 Con Giáp (2012) Thái Cực Hiệp (2013) Tử Chiến Đài Hades (2013) Gà Trống Nuôi Con (2014) Bậc Thầy Chia Tay (2014) Kiếm Rồng (2015) Ngộ Không Truyện: Tử Hà Tiên Tử (2015) Crazy Fist (2017) Romantic Warrior (2017) Invictus Basketball (2017) Blade Master Li Bai (2019) Phim truyền hình Tinh Trung Nhạc Phi (2013) Năm Thành Hóa Thứ Mười Bốn (2020) Giải thưởng và đề cử Golden Disc Awards Mnet Asian Music Awards Seoul Music Awards Nguồn tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1976 Nhân vật còn sống Người trốn chế độ quân dịch bắt buộc Nam ca sĩ Hàn Quốc Ca sĩ K-pop Ca sĩ tiếng Triều Tiên Nam ca sĩ thế kỷ 21 Ca sĩ Trung Quốc thế kỷ 21 Người nhập cư Hàn Quốc tại Trung Quốc Ca sĩ Trung Quốc Nghệ sĩ Trung Quốc sinh năm 1976 Người họ Lưu Nam diễn viên Seoul Nam thần tượng Hàn Quốc