id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19849172
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%B1%20Vi%C3%AAn
|
Ngự Viên
|
Ngự Viên là một trong 5 vườn ngự uyển trong Hoàng thành Huế, được xây vào đầu thời vua Minh Mạng (1820).
Đặc điểm
Vườn nằm ở phía Đông Bắc, trong khu vực của Tử Cấm Thành.
Các công trình kiến trúc trong khu vườn được kiến tạo rất cầu kỳ như: điện Thiên Thân, đình Vọng Hà, hồ Ngọc Dịch, núi Tú Nhuận, tiểu Ngự Hà... Ngự Viên được xem như là một vườn hoa trong cung cấm, nơi các vị vua Nguyễn thường đến dạo chơi, thư giãn, làm thơ...
Ngự Viên được vua Thiệu Trị xếp làm thắng ảnh thứ năm của vùng đất Cố đô và đã được ca ngợi trong bài thơ Ngự Viên đắc nguyệt trong chùm thơ Thần kinh nhị thập cảnh.
Lịch sử
Vườn được xây vào đầu thời vua Minh Mạng (1820).
Tuy nhiên, từ thời vua Thành Thái (1889 – 1907) trở về sau, kiến trúc của Ngự viên đã có nhiều thay đổi, phần lớn công trình bị triệt giải, cảnh quan không được chú trọng.
Vào năm 1932, dưới thời vua Bảo Đại, tòa nhà Ngự Tiền Văn Phòng hai tầng được xây dựng tại nơi đây, và trở thành cơ quan thay cho Nội Các của thời vua Minh Mạng.
Tham khảo
Hoàng thành Huế
Di tích Cố đô Huế
Thần kinh nhị thập cảnh
Vườn thượng uyển Cố đô Huế
Tử Cấm thành (Huế)
|
19849173
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%B1%20Ti%E1%BB%81n%20V%C4%83n%20Ph%C3%B2ng
|
Ngự Tiền Văn Phòng
|
Ngự Tiền Văn Phòng (chữ Hán: 御前文房) là kiến trúc được xây dựng muộn nhất trong Tử Cấm thành, Hoàng thành Huế. Lầu Ngự Tiền Văn Phòng được xây dựng vào khoảng năm 1932, thời điểm vua Bảo Đại về nước chấp chính sau thời gian du học tại Pháp.
Đặc điểm
Lầu là nơi làm việc của Ngự Tiền Văn Phòng, cơ quan thay thế cho Nội Các từ thời vua Minh Mạng. Lầu nằm ở bên trái điện Kiến Trung. Phía trước lầu Ngự Tiền Văn Phòng trước tòa nhà là vườn Thiệu Phương viên cùng một hệ thống mương nước thông ra hồ Ngọc Dịch.
Lịch sử
Năm 1802 Nguyễn Ánh nhất thống Nam Bắc xong, lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Gia Long, lập ra "Thị Thư Viện" gồm một số văn thần hầu cận để phòng khi hỏi han việc chính trị và sai nghị thảo những dụ chỉ.
Đến năm 1820, vua Minh Mạng nối ngôi, đổi tên Thị Thư Viện thành “Văn Thư Phòng”, đến năm 1829 lại đổi thành "Nội Các" gồm có 4 viên quan tam tứ phẩm quản lãnh và đứng kế sau Lục bộ trên giấy tờ cũng như trên sân chầu.
Đến năm 1933, vua Bảo Đại bãi bỏ Nội Các lập ra "Ngự Tiền Văn Phòng" đứng đầu là Đổng lý. Các Đổng lý Ngự Tiền Văn Phòng là ông Phạm Quỳnh (1934-1944), ông Phạm Khắc Hòe (1944-1945).
Tham khảo
Tử Cấm thành (Huế)
Hoàng thành Huế
Di tích Cố đô Huế
|
19849182
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%A5c%20vi%E1%BB%87n%20%28Ho%C3%A0ng%20th%C3%A0nh%20Hu%E1%BA%BF%29
|
Lục viện (Hoàng thành Huế)
|
Lục viện (六院) là kiến trúc nằm trong Tử Cấm Thành, Hoàng thành Huế, là nơi ở và sinh hoạt của các phi tần nhà Nguyễn.
Đặc điểm
Thời Gia Long chỉ gồm có điện Trinh Minh (貞明殿) và viện Thuận Huy (順徽院) là nơi ở của các vị phi tần.
Từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836), các phi tần được sắp xếp theo cửu giai (9 bậc) gồm Nhất và Nhị giai phi, Tam và Tứ giai tần, Ngũ và Lục giai tiệp dư, Thất giai quý nhân, Bát giai mỹ nhân và Cửu giai tài nhân. Dưới tài nhân là Tài nhân vị nhập giai (tức người chờ tuyển vào làm Tài nhân). Dưới nữa là Cung nhân, Cung nga và Thị nữ. Tùy theo cấp bậc, các cung phi được sắp xếp chỗ ở trong Lục viện: điện Minh Trinh là nơi ở của các bà Phi; viện Thuận Huy là nơi ở bà tần; các Tiếp dư ở viện Đoan Huy (端徽院) các viện còn lại là viện Đoan Trang (端莊院), viện Đoan Tường (端祥院), viện Đoan Chính (端政院), viện Đoan Hòa (端和院) và viện Đoan Thuận (端順院) là nơi ở của các Quý nhân, Mỹ nhân, Tài nhân, Tài nhân vị nhập giai và các cung nữ.
Lịch sử
Năm Gia Long thứ 9 (1810), dựng viện Thuận Huy, ở phía tây sân sau của điện Càn Thành.
Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) dựng viện Đoan Trang theo hướng tây.
Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) lại dựng tiếp viện Đoan Tường theo hướng đông.
Năm Minh Mạng thứ 8 (1827) cho dụng viện Đoan Huy theo hướng nam, năm ở phía bắc hiên tây, ngay phía tây điện Cao Minh Trung Chính.
Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), cho làm viện Lý Thuận trong Đại Nội.
Đến năm Minh Mạng thứ 22 (1841, chưa đổi sang Thiệu Trị nguyên niên), dỡ bỏ 2 viện Lý Thuận và Đoan Trang dời vào làm ở vườn Vĩnh Trạch sau cung, gọi là Tả Hữu Tòng viện; nhà hậu đường gọi là Đông Tây Tòng viện để làm chỗ ở cho các cung nhân của triều trước.
Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), dựng viện Đoan Thuận theo hướng nam, nằm ở bên trong cửa Gia Tường, phía bắc của trường lang.
Đến năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) dựng viện Đoan Hòa theo hướng bắc trên nền cũ của viện Lý Thuận bên trong cửa Gia Tường, phía nam trường lang.
Như vậy tính đến thời Thiệu Trị, Lục viện đã có đến 11 viện từng được xây dựng bao gồm:
Thuận Huy viện, nơi ở của Tam và Tứ giai tần
Đoan Huy viện (端徽院), nơi ở của Ngũ và Lục giai tiệp dư.
Đoan Trang viện (端莊院), nơi ở của Thất giai quý nhân, Bát giai mỹ nhân và Cửu giai tài nhân. Viện có 5 cửa là: Đoan Gia, Ngưng Thụy, Thừa Ân, Phồn Chỉ, Diễn Phúc.
Đoan Tường viện (端祥院). Viện có 5 cửa là: Tường Giai, Tăng Thụy, Đàm Ân, Gia Chỉ, Tích Phúc
Đoan Thuận viện (端順院). Viện có 7 cửa là: Hanh Cát, Đoan Trinh, Phúc Khánh, Gia Trinh, An Hòa, Tích Phúc, Đàm Trạch.
Đoan Hòa viện (端和院). Viện Đoan Hòa có 7 cửa là: Tuy Hòa, Lý Hòa, Túc Hòa, Đức Hòa, Đôn Hòa, Trinh Hòa, Thuần Hòa.
Đoan Chính viện (端政院).
Lý Thuận viện, sau cải thành Tả Hữu tòng viện, dùng để làm nơi cho các cung phi triều trước.
Đông Tòng viện.
Tây Tòng viện.
Tần Trang viện.
và 1 điện là
Điện Trinh Minh dành cho các bà Nhất, Nhị giai phi.
Các viện này là nơi ở và sinh hoạt của các phi tần nhà Nguyễn, được gọi chung là Lục viện (六院).
Sau biến cố Tiêu thổ Kháng chiến của Việt Minh vào tháng 2 năm 1947, khu Lục viện đã bị phá huy chỉ còn lại hai viện là Đoan Trang và Đoan Huy. Sự kiện này được ông Nguyễn Bá Chí, chuyên viên của Trường Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) báo cáo trong bản tường trình về tình trạng Hoàng cung ở Huế. Hai viện này cuối cùng cũng bị dỡ bỏ, có lẽ trong thời gian vua Bảo Đại trở lại Việt Nam làm quốc trưởng.
Tham khảo
Tử Cấm thành (Huế)
Hoàng thành Huế
Di tích Cố đô Huế
|
19849183
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hermine%20x%E1%BB%A9%20Schaumburg-Lippe
|
Hermine xứ Schaumburg-Lippe
|
Hermine xứ Schaumburg-Lippe (tiếng Đức: Hermine zu Schaumburg-Lippe; Bückeburg, 5 tháng 10 năm 1845 – Regensburg, 23 tháng 12 năm 1930) là thành viên của Gia tộc Schaumburg-Lippe, vợ của Công tước Maximilian xứ Württemberg từ năm 1876 cho đến khi chồng qua đời năm 1888.
Gia đình và thiếu thời
Hermine sinh ngày 5 tháng 10 năm 1845 tại Bückeburg, thủ đô của Thân vương quốc Schaumburg-Lippe, dưới thời trị vì của ông nội là Georg Wilhelm I xứ Schaumburg-Lippe. Hermine là con gái lớn của Adolf I Georg xứ Schaumburg-Lippe và Hermine xứ Waldeck và Pyrmont (bấy giờ là Thân vương thế tử và thế tử phi xứ Schaumburg-Lippe). Các em của Hermine bao gồm Georg (sau là Thân vương xứ Schaumburg-Lippe), Hermann, Emma (1850–1850), Ida, Otto Heinrich, Adolf xứ Schaumburg-Lippe, chồng của Viktoria của Phổ, và Emma (1865–1868).
Dù có xuất thân cao quý nhưng Hermine và các em được nuôi dưỡng rất giản dị; một báo cáo ghi nhận rằng Hermine và các em "biết việc bếp hơn nhiều phụ nữ thuộc tầng lớp thấp hơn". Họ cũng được giáo dục tốt và có thể tự thảo luận về triết học và khoa học với những quý ông uyên bác trong thân vương quốc.
Hôn nhân
Ngày 16 tháng 2 năm 1876, Hermine kết hôn với Maximilian xứ Württemberg, con trai của nhà tự nhiên học và thám hiểm người Đức, Paul Wilhelm xứ Württemberg và Maria Sophia xứ Thurn và Taxis. Công tước Paul Wilhelm là thành viên của nhánh công tước và nhánh Silesia của Vương tộc Württemberg. Hermine và chồng không có con.
Qua đời
Ngày 23 tháng 12 năm 1930, Hermine qua đời tại Regensburg, tại 85 tuổi.
Tổ tiên
Tham khảo
Thân vương nữ Schaumburg-Lippe
Gia tộc Schaumburg-Lippe
Gia tộc Lippe
Vương tộc Württemberg
Sinh năm 1845
Mất năm 1930
CS1: giá trị quyển dài
Bài viết có văn bản tiếng Đức
|
19849184
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ida%20x%E1%BB%A9%20Schaumburg-Lippe
|
Ida xứ Schaumburg-Lippe
|
Ida Matilda Adelaide xứ Schaumburg-Lippe (tiếng Đức: Ida zu Schaumburg-Lippe; Bückeburg, 28 tháng 7 năm 1852 – Schleiz, 28 tháng 9 năm 1891) là Thân vương phi Reuß xứ Greiz với tư cách là vợ của Heinrich XXII Reuß xứ Greiz. Ida là mẹ của Hermine Reuß xứ Greiz, vợ thứ hai của Wilhelm II, Hoàng đế cuối cùng của Đức.
Gia đình và thiếu thời
Ida là con gái thứ ba và là người con thứ năm của Adolf I Georg xứ Schaumburg-Lippe và Hermine xứ Waldeck và Pyrmont. Các anh chị em của Ida bao gồm Hermine, Georg (sau là Thân vương xứ Schaumburg-Lippe), Hermann, Emma (1850–1850), Ida, Otto Heinrich, Adolf xứ Schaumburg-Lippe, chồng của Viktoria của Phổ, và Emma (1865–1868).
Dù có xuất thân cao quý nhưng Ida và các anh chị em được nuôi dưỡng rất giản dị; một báo cáo cho biết Ida và các anh chị em "biết việc bếp hơn nhiều phụ nữ thuộc tầng lớp thấp hơn". Ida cũng được tiếp nhận nền giáo dục tốt và có thể tự thảo luận về triết học và khoa học với những nquý ông uyên bác trong thân vương quốc.
Hôn nhân và hậu duệ
Ngày 8 tháng 10 năm 1872, Ida kết hôn với Heinrich XXII Reuß xứ Greiz, Thân vương xứ Reuß kể từ khi trưởng thành vào năm 1867.
Hai vợ chồng có những đứa con sau:
Heinrich XXIV, Thân vương Reuß xứ Greiz (1878–1927)
Emma (1881–1961) ∞ (1903) Bá tước Erich Künigl von Ehrenburg (1880–1930)
Marie (1882–1942) ∞ (1904) Nam tước Ferdinand von Gnagnoni (1878–1955)
Caroline (1884–1905) ∞ (1903) Wilhelm Ernst I xứ Sachsen-Weimar-Eisenach (1876–1923).
Hermine (1887–1947) ∞ I. (1907) Johann Georg xứ Schoenaich-Carolath (1873–1920); ∞ II. (1922) Cựu hoàng Wilhelm II của Đức (1859–1941).
Ida (1891–1977) ∞ (1911) Thân vương Christoph Martin III. xứ Stolberg-Roßla (1888–1949).
Qua đời
Ngày 28 tháng 9 năm 1891, Ida qua đời tại Schleiz ở độ tuổi 39.
Tổ tiên
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Thân vương nữ Schaumburg-Lippe
Gia tộc Schaumburg-Lippe
Gia tộc Lippe
Gia tộc Reuß
Sản phụ tử vong
Sinh năm 1852
Mất năm 1891
Bài viết có văn bản tiếng Đức
|
19849190
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%A7%20N%E1%BB%99i%20V%E1%BB%A5%20%28Ho%C3%A0ng%20th%C3%A0nh%20Hu%E1%BA%BF%29
|
Phủ Nội Vụ (Hoàng thành Huế)
|
Nội Vụ phủ (chữ Hán: 內務府) hay phủ Nội vụ, là cơ quan coi giữ tài sản, vật dụng cho Hoàng đế và hoàng gia tại nội cung nằm vế phía Đông Bắc của Hoàng thành Huế. Đây là cơ quan coi giữ kho tàng, của công và các hạng vàng ngọc châu báu, tơ lụa trong cung, đồng thời lo việc thu phát cất trữ các vật cống tiến. Vì vậy, trong Nội vụ phủ có nhiều Ty và cục thợ thủ công. Ngoài ra, Nội vụ phủ còn giữ trách nhiệm quản lý và sản xuất các vật dụng cho Hoàng đế và nội cung dùng, còn việc phân phối đều là cơ cấu Nữ quan, gọi là Lục thượng.
Đặc điểm
Nội vụ phủ thời Nguyễn bao gồm các thuộc viên và kho hàng như sau:
Điều hành phủ là 1 Thị lang, 2 Lang trung với các lại viên Chủ sự, Tư vụ, Bát cửu phẩm Thư lại, và Vị nhập lưu thư lại
Chuyên quản 2 kho vàng ngọc là 1 Viên ngoại lang:
Kho vàng bạc gồm 1 Chủ sự, 2 Bát cửu phẩm thư lại, 3 Vị nhập lưu thư lại
Kho châu ngọc gồm 1 Tư vụ, 1 Cửu phẩm thư lại, 3 Vị nhập lưu thư lại
Chuyên quản 2 kho Cẩm ngoan (gấm vóc và đồ quý) là 1 Viên ngoại lang:
Kho gấm vóc (tức kho cẩm) gồm 1 Chủ sự, 2 Bát cửu phẩm thư lại, 5 Vị nhập lưu thư lại
Kho trân ngoan (tức kho đồ quý) gồm 1 Tư vụ, 2 Bát cửu phẩm thư lại, 3 Vị nhập lưu thư lại
Chuyên quản 2 kho the lụa vật hạng là 1 Viên ngoại lang:
Kho the lụa gồm 1 Chủ sự, 2 Bát cửu phẩm thư lại, 3 Vị nhập lưu thư lại
Kho vật hạng gồm 1 Tư vụ, 2 Bát Cửu phẩm thư lại, 5 Vị nhập lưu thư lại
Chuyên quản 2 kho văn nhạc là 1 Viên ngoại lang:
Kho vóc hoa (chiếu đệm mây hoa) gồm 1 Chủ sự, 2 Bát cửu phẩm thư lại, 6 Vị nhập lưu thư lại
Kho nhạc khí gồm 1 Tư vụ, 1 Cửu phẩm thư lại, 3 Vị nhập lưu thư lại
Chuyên quản 2 kho tơ lụa là 1 Viên ngoại lang:
Kho hàng màu hoa gồm 1 Chủ sự, 2 Bát cửu phẩm thư lại, 5 Vị nhập lưu thư lại
Kho dược phẩm gồm 1 Tư vụ, 1 Bát phẩm thư lại, 4 Vị nhập lưu thư lại
Nội vụ phủ có Tiết thận ty quản lý các cục thợ như may, thêu, nhuộm, dệt, v.v.
Lịch sử
Tiền thân của Nội vụ phủ vào thời Gia Long là cơ quan có tên Nội đồ gia (內塗家) nằm bên trong Tử Cấm Thành.
Năm Minh Mạng nguyên niên (1820), vua Thánh Tổ đổi tên Nội đồ gia thành Nội vụ phủ.
Năm 1837, vua Minh Mạng cho dời phủ Nội Vụ ở vị trí hiện tại. Đây là nơi quản lý, chế tác và lưu giữ các loại vàng bạc, châu báu phục vụ cho triều đình nhà Nguyễn. Đây là một cơ sở hậu cần trực tiếp của nhà vua, đồng thời là một dạng ngân khố của nhà nước quân chủ cuối cùng ở Việt Nam.
Đến năm 1906, công trình được xây dựng lại theo kiến trúc Pháp, ngày nay chỉ còn lại tòa nhà chính hai tầng sót lại sau chiến tranh, vị trí gần cửa Hiển Nhơn thuộc khuôn viên Tử Cấm Thành.
Từ năm 1936 đến 1996, khu vực này liên tục thay đổi công năng từ trụ sở của tuần binh bảo vệ hoàng thành, trụ sở trường Cao đẳng Nghệ thuật Huế rồi trở thành Đại học Nghệ thuật Huế.
Hiện trạng
Trong hơn 100 năm tồn tại, tòa nhà được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Hiện tại, nơi này dùng để cất giữ các đồ dùng trang trí sau các buổi biểu diễn nghệ thuật trong kinh thành, đồng thời là trụ sở điều hành của một doanh nghiệp khai thác dịch vụ xe điện. Hiện tại, Phủ Nội Vụ có dấu hiệu xuống cấp nặng, lộ ra những khung sắt trên trần nhà. Nằm bên cạnh tòa nhà chính là những dãy nhà cấp bốn được xây dựng về sau này, hiện có tên gọi Không gian trình diễn nghề truyền thống Huế. Ở đây chủ yếu trưng bày và bán các đồ lưu niệm như nón lá, đèn lồng, áo dài, hoa giấy... bên cạnh đồ ăn uống cho khách du lịch sau hành trình tham quan khuôn viên rộng lớn của Đại Nội.
Tham khảo
Di tích Cố đô Huế
Hoàng thành Huế
|
19849222
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%9F%20h%E1%BB%AFu%20ch%C3%A9o
|
Sở hữu chéo
|
Sở hữu chéo (Cross ownership) là một phương pháp củng cố các mối quan hệ kinh doanh bằng cách sở hữu cổ phần trong các công ty mà một công ty nhất định kinh doanh. Sở hữu chéo cơ cấu ưu thế được gọi là sở hữu tuần hoàn. Ở Hoa Kỳ, "sở hữu chéo" cũng đề cập đến một loại hình đầu tư vào các tài sản truyền thông đại chúng khác nhau ở một thị trường. Các quốc gia được ghi nhận có mức độ sở hữu chéo cao như Nhật Bản Mặt tích cực của sở hữu chéo giúp gắn chặt mỗi doanh nghiệp với vận mệnh kinh tế của các đối tác kinh doanh, góp phần thúc đẩy tốc độ thay đổi kinh tế chậm. Sở hữu chéo cổ phiếu bị chỉ trích vì làm nền kinh tế trì trệ, gây lãng phí vốn có thể được sử dụng để nâng cao năng suất, gia tăng suy thoái kinh tế bằng cách ngăn chặn việc tái phân bổ vốn, giảm bớt quyền kiểm soát của cổ đông đối với lãnh đạo công ty. Sở hữu chéo dấn đến chi phối việc cho vay trong nội bộ hay trong hệ sinh thái không có lợi cho nền kinh tế, đặc biệt là đẩy giá bất động sản, đẩy bong bóng tài sản cố định trong nền kinh tế lên cao, tạo ra một khả năng tiềm ẩn trong báo cáo tài chính với dòng vốn ảo.
Đại cương
Ở Hàn Quốc, các tập đoàn lớn gia đình trị (Chaebol) từng tận dụng sở hữu chéo và cấu trúc kim tự tháp, được hưởng ưu đãi từ ngân hàng. Kết quả là hầu hết các chaebol lạm dụng đòn bẩy tài chính và kinh doanh đa ngành, tham gia cả những lĩnh vực không liên quan khiến nợ tăng mạnh. Theo số liệu năm 2001 của Ngân hàng Phát triển châu Á, 30 Chaebol hàng đầu chiếm 46% tổng tài sản doanh nghiệp của Hàn Quốc; các gia đình kiểm soát, nắm giữ khoảng 45% cổ phần trong 30 Chaebol này. Thông thường, các gia đình cử người thân vào nắm giữ nhiều vị trí quản lý nhưng không công khai, liệt kê đầy đủ. Các chaebol tin mình quá lớn để chính phủ có thể cho phép họ sụp đổ, điều này khuyến khích các Chaebol đầu tư quá mức, đa dạng hóa kinh doanh quá mức. Trung bình, 30 Chaebol hàng đầu sở hữu hơn 20 công ty con trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Các cá nhân tư nhân sở hữu khoảng 40% tổng số cổ phiếu niêm yết và kiểm soát khoảng 30% các công ty niêm yết.
Một số chuyên gia kinh tế Việt Nam cho rằng, sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam thực chất đã có từ khá lâu. Vấn đề sở hữu chéo ngân hàng tồn tại trên hệ thống tài chính Việt Nam từ năm 1997, khi Luật Các Tổ chức tín dụng ra đời có điều khoản cho phép ngân hàng sở hữu một tổ chức tài chính. Thời gian đầu chủ yếu do các ngân hàng quốc doanh góp vốn với tư cách cổ đông Nhà nước với mục đích giúp Nhà nước kiểm soát hoạt động của các ngân hàng cổ phần. Về sau, cùng với sự phát triển, các hình thức sở hữu chéo ngày càng đa dạng. Sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng còn có quá nhiều bất cập. và việc sở hữu chéo rất khó phát hiện.. Bản chất của sở hữu chéo của Việt Nam khác với khái niệm sở hữu chéo trên thế giới, đó là giới chủ đứng đằng sau chi phối và nắm quyền kiểm soát, cho vay thân hữu trong một hệ sinh thái. Để ngăn chặn sở hữu chéo, lũng đoạn ngân hàng, ngoài điều kiện cần là siết lại tỷ lệ sở hữu vốn, vẫn cần có sự giám sát chặt chẽ vấn đề quản trị ngay từ nội bộ ngân hàng và từ cơ quan quản lý nhà nước. Bởi trên thực tế, ngân hàng không chỉ đơn thuần là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ mà còn liên quan đến ngân quỹ, đến sự an toàn, an ninh tiền tệ quốc gia.
Chú thích
Tài chính
Sở hữu doanh nghiệp
Quản trị chiến lược
|
19849234
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ma%20thu%E1%BA%ADt%20t%C3%ACnh%20d%E1%BB%A5c
|
Ma thuật tình dục
|
Ma thuật tình dục (Tiếng anh: Sex magic) là bất kỳ loại hoạt động tình dục nào được sử dụng trong các hoạt động ma thuật, nghi lễ hoặc tôn giáo và tâm linh. Một thực hành ma thuật tình dục là sử dụng hưng phấn tình dục hoặc cực khoái với hình dung về một kết quả mong muốn. Một tiền đề được đặt ra bởi các pháp sư tình dục là khái niệm rằng năng lượng tình dục là một loại năng lượng mạnh mẽ có thể được khai thác để vượt qua thực tế nhận thức thông thường của một người.
Tham khảo
Sex magic
Ma thuật
Ma thuật nghi lễ
Tính dục
|
19849242
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BA%A5u%20%E1%BA%A5n%20ph%C3%B9%20thu%E1%BB%B7
|
Dấu ấn phù thuỷ
|
Dấu ấn phù thủy là một dấu hiệu cơ thể mà các thợ săn phù thủy tin rằng chỉ khi phát hiện ra trên một cá nhân một người nào đó thì kết luận họ là phù thủy, trong thời kỳ đỉnh cao của các phiên tòa xét xử phù thủy. Niềm tin về dấu ấn khác nhau, tùy thuộc vào địa điểm xét xử và lời buộc tội chống lại phù thủy. Việc sử dụng thuật ngữ này được tìm thấy sớm nhất vào thế kỷ 16, và đạt đến đỉnh cao vào năm 1645, nhưng sau đó về cơ bản biến mất vào năm 1700.
Dấu hiệu của Phù thủy được cho là dấu hiệu vĩnh viễn của Ác quỷ xuất hiện trên những người nhập môn nào đó để đóng dấu sự vâng lời và phục vụ của họ đối với hắn ta. Hắn ta được cho là tạo ra dấu ấn bằng cách cào móng vuốt của mình trên da thịt của họ, liếm da để tạo ra một mô hình hộp sọ chết, hoặc sử dụng bàn ủi nóng để tạo ra một hình xăm màu xanh hoặc đỏ. Ma quỷ được cho là đánh dấu cá nhân vào cuối các nghi thức bắt đầu về đêm.
Tham khảo
Witch's mark
Huyền bí
Phù thủy
|
19849247
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch%20s%E1%BB%AD%20ph%C3%A9p%20thu%E1%BA%ADt
|
Lịch sử phép thuật
|
Lịch sử của phép thuật kéo dài từ các nền văn hóa biết chữ sớm nhất, những người dựa vào bùa chú, bói toán và phép thuật để giải thích và ảnh hưởng đến các lực lượng tự nhiên. Ngay cả những xã hội không có ngôn ngữ viết cũng để lại những hiện vật thủ công, nghệ thuật hang động và di tích đã được giải thích là có mục đích kỳ diệu. Ma thuật và những gì sau này được gọi là khoa học thường được thực hành cùng nhau, với các ví dụ đáng chú ý về chiêm tinh học và giả kim thuật, trước khi Cách mạng Khoa học cuối thời kỳ Phục hưng châu Âu chuyển sang tách khoa học khỏi ma thuật trên cơ sở quan sát lặp lại. Mặc dù mất uy tín này, việc sử dụng ma thuật vẫn tiếp tục cả trong vai trò truyền thống của nó và trong số các nhà huyền bí học hiện đại, những người tìm cách thích nghi nó cho một thế giới khoa học.
Tham khảo
Huyền bí
|
19849250
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Video%20k%E1%BB%B9%20thu%E1%BA%ADt%20s%E1%BB%91
|
Video kỹ thuật số
|
Video kỹ thuật số (Digital video) là biểu diễn điện tử của hình ảnh trực quan chuyển động (video) dưới dạng dữ liệu kỹ thuật số được mã hóa. Điều này trái ngược với video analog, biểu thị hình ảnh trực quan chuyển động ở dạng tín hiệu analog. Video kỹ thuật số bao gồm một chuỗi hình ảnh kỹ thuật số được hiển thị liên tiếp nhanh chóng, thông thường ở vào khoảng 24, 30 hoặc 60 khung hình mỗi giây. Video kỹ thuật số có nhiều ưu điểm như dễ dàng sao chép, phát đa hướng, chia sẻ dữ liệu và lưu trữ. Ngày nay, nội dung video kỹ thuật số như TV show và phim cũng bao gồm nhạc nền âm thanh kỹ thuật số. Cơ sở của máy quay video kỹ thuật số là chất bán dẫn oxit kim loại (MOS) cảm biến hình ảnh.
Tổng quan
Video kỹ thuật số lần đầu tiên được quảng bá thương mại vào năm 1986 với định dạng Sony D1, ghi lại tín hiệu độ nét tiêu chuẩn video thành phần không nén ở dạng kỹ thuật số. Ngoài định dạng không nén, các định dạng video kỹ thuật số nén phổ biến hiện nay bao gồm MPEG-2, H.264 và AV1. Các tiêu chuẩn kết nối hiện đại được sử dụng để phát lại video kỹ thuật số bao gồm HDMI, DisplayPort, Giao diện hình ảnh kỹ thuật số (DVI) và giao diện kỹ thuật số nối tiếp (SDI). Video kỹ thuật số có thể được sao chép và tái tạo mà không làm giảm chất lượng. Ngược lại, khi các nguồn tương tự được sao chép, chúng gặp phải mất thế hệ. Video kỹ thuật số có thể được lưu trữ trên phương tiện kỹ thuật số như Đĩa Blu-ray, trên lưu trữ dữ liệu máy tính hoặc được phát trực tuyến qua Internet tới người dùng cuối những người xem nội dung trên màn hình máy tính cá nhân hoặc thiết bị di động hoặc smart TV kỹ thuật số. Cảm biến hình ảnh bán dẫn thực tế đầu tiên là thiết bị ghép điện tích (CCD), được phát minh vào năm 1969 do công của Willard S. Boyle, người đã đoạt giải Nobel cho công trình nghiên cứu vật lý của chính mình. Sau khi thương mại hóa cảm biến CCD vào cuối những năm 1970 đến đầu những năm 1980, ngành công nghiệp giải trí dần dần bắt đầu chuyển đổi sang hình ảnh kỹ thuật số và video kỹ thuật số từ video analog trong hai thập kỷ tiếp theo. Tiếp theo CCD là CMOS cảm biến pixel hoạt động (CMOS cảm biến), được phát triển vào những năm 1990.
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
The DV, DVCAM, & DVCPRO Formats – tech details, FAQ, and links
Standard digital TV and video formats.
Kỹ thuật số
|
19849268
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n%20vi%C3%AAn%20b%E1%BA%A3o%20v%E1%BB%87
|
Nhân viên bảo vệ
|
Nhân viên bảo vệ (Security guard) còn được gọi là Nhân viên an ninh (Security officer) hay bảo vệ xí nghiệp (Factory guard) hoặc bảo vệ cơ quan (Protective agent) là nhân sự làm việc cho chính quyền hoặc bên khối tư nhân để bảo vệ tài sản của bên sử dụng lao động (tài sản, con người, thiết bị, máy móc, tiền bạc) khỏi nhiều mối nguy cơ khác nhau (như tội phạm, trộm cắp, phá hoại, gây thiệt hại, hành vi không an toàn của người lao động) bằng cách thực thi các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và báo động. Nhân viên bảo vệ thực hiện điều này bằng cách duy trì sự hiện diện dễ thấy để ngăn chặn các hành động bất hợp pháp và hành vi không phù hợp, tìm kiếm (trực tiếp thông qua việc tuần tra hoặc gián tiếp bằng cách giám sát hệ thống báo động hoặc thông qua Camera giám sát) để phát hiện các dấu hiệu tội phạm hoặc các mối nguy hiểm khác (chẳng hạn như hỏa hoạn), thực hiện hành động để giảm thiểu thiệt hại (chẳng hạn như xét hỏi, khám xét, cảnh báo và áp tải những kẻ xâm phạm ra khỏi nơi có tài sản) và báo cáo mọi sự cố cho khách hàng của họ và dịch vụ khẩn cấp (chẳng hạn như cảnh sát hoặc dịch vụ y tế khẩn cấp), nếu phù hợp.
Các nhân viên an ninh thường được trang bị đồng phục đại diện cho thẩm quyền hợp pháp của họ để bảo vệ tài sản tư nhân. Nhân viên bảo vệ thường chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật, trong đó đặt ra các yêu cầu về tính đủ điều kiện (chẳng hạn như kiểm tra lý lịch tư pháp) và thẩm quyền được phép của nhân viên bảo vệ trong một khu vực pháp lý nhất định. Các cơ quan có thẩm quyền được phép đối với nhân viên bảo vệ khác nhau tùy theo quốc gia và khu vực pháp lý địa phương. Nhân viên an ninh được nhiều tổ chức thuê, bao gồm các doanh nghiệp, cơ quan, ban ngành chính phủ và các tổ chức phi lợi nhuận (ví dụ: nhà thờ và tổ chức từ thiện). Cho đến những năm 1980, thuật ngữ Người trông coi (Watchman) được áp dụng phổ biến hơn cho chức năng này, cách sử dụng đã có từ ít nhất là Thời Trung cổ.
Thuật ngữ này đã được chuyển sang Bắc Mỹ, nơi nó có thể thay thế bằng cụm từ người gác đêm cho đến khi cả hai thuật ngữ này được thay thế bằng các chức danh dựa trên bảo mật hiện đại. Nhân viên an ninh đôi khi được coi là người thực hiện chức năng kiểm soát tư nhân. Nhiều công ty bảo mật và bộ phận bảo mật độc quyền thực hành phương pháp "phát hiện, ngăn chặn, quan sát và báo cáo". Nhân viên an ninh không bắt buộc phải thực hiện việc bắt giữ, nhưng sẽ có thẩm quyền thực hiện bắt giữ công dân, hoặc hành động như một cơ quan thực thi pháp luật, chẳng hạn như theo yêu cầu của cảnh sát hoặc cảnh sát trưởng hoặc khi bắt quả tang. Ở Mỹ, tất cả các nhân viên an ninh cũng phải trải qua khóa đào tạo bổ sung do tiểu bang bắt buộc để mang vũ khí như dùi cui, súng cầm tay và bình xịt hơi cay (ví dụ: Cục An ninh và Dịch vụ Điều tra ở California có yêu cầu phải có giấy phép cho mỗi loại vũ khí, vật phẩm được liệt kê phải được mang theo khi làm nhiệm vụ).
Chú thích
Nghề nghiệp
|
19849275
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Joachim%20c%E1%BB%A7a%20Ph%E1%BB%95
|
Joachim của Phổ
|
Joachim Franz Humbert của Phổ (tên đầy đủ: Joachim Franz Humbert; 17 tháng 12 năm 1890 – 18 tháng 7 năm 1920) là con trai út và con thứ sáu của Wilhelm II của Đức, và Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg Joachim tự sát ở tuổi 29. Hoàng tử Joachim được đào tạo thành sĩ quan và đã tham gia Thế chiến thứ nhất . Trong chiến tranh, Joachim cũng được coi là ứng cử viên cho một số chế độ quân chủ mới thành lập ở châu Âu.
Chắt của Joachim là Đại vương công Georgiy Mikhaylovich, người thừa kế ấn định của Mariya Vladimirovna của Nga, người đòi quyền kế vị và đang tranh chấp địa vị gia chủ của Hoàng thất Nga.
Những năm đầu đời
Chào đời
Joachim sinh ngày 17 tháng 12 năm 1890, hai năm sau khi cha trở thành Hoàng đế Đức, tại Cung điện Berlin ở trung tâm Berlin. Joachim là con trai thứ sáu và là con trai út của Wilhelm II của Đức và Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg.
Giáo dục
Hoàng tử Joachim trải qua thời thơ ấu cùng các anh chị em của mình tại Cung điện Mới ở Potsdam, và những ngày đi học tại Dinh thự Prinzenhaus ở Plön, thuộc quê nhà Schleswig-Holstein của mẹ Hoàng tử.
Hôn nhân
Ngày 11 tháng 3 năm 1916 tại Berlin, Joachim kết hôn với Marie Auguste xứ Anhalt (10 tháng 6 năm 1898 – 22 tháng 5 năm 1983), con gái của Eduard I xứ Anhalt và vợ là Luise xứ Sachsen-Altenburg (con gái của Moritz xứ Sachsen- Altenburg và Auguste xứ Sachsen-Meiningen). Joachim và Marie -Auguste đã đính hôn trước đó vào ngày 14 tháng 10 năm 1915. Đám cưới được tổ chức tại Cung điện Bellevue với sự tham dự của cha và mẹ Joachim và Marie Auguste, cũng như những người thọ hàng thân thích khác. Hai vợ chồng tổ chức hôn lễ một cách đơn giản theo nghi thức của Giáo hội Luther.
Cặp vợ chồng có một con trai là Hoàng tôn Karl Franz Josef Wilhelm Friedrich Eduard Paul (15 tháng 12 năm 1916 tại Potsdam – 22 tháng 1 năm 1975 tại Arica, Chile). Cháu nội của hai người, Franz Wilhelm, kết hôn với Mariya Vladimirovna của Nga, người đòi quyền cai trị Đế quốc Nga.
Ứng cử viên cho ngai vàng
Ireland
Trong Lễ Phục sinh ở Dublin năm 1916, một số nhà lãnh đạo thuộc đảng Cộng hòa, gồm có Patrick Pearse và Joseph Plunkett, đã dự tính trao ngai vàng của Ireland độc lập cho Hoàng tử Joachim. Pearse và Plunkett nghĩ rằng nếu cuộc nổi dậy thành công và Đức giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, quốc gia Ireland độc lập sẽ theo chế độ quân chủ với Quốc vương có xuất thân là một Hoàng tử người Đức , tương tự như România và Bulgaria trước đó.
Việc Joachim không nói được tiếng Anh cũng được coi là một lợi thế, vì Hoàng tử có thể sẽ thúc đẩy việc sử dụng tiếng Ireland.
Trong hồi ký của mình, Desmond FitzGerald đã viết rằng:"Điều đó sẽ mang lại những lợi ích nhất định cho chúng tôi. Một phong trào phi Anh hóa sẽ diễn ra từ nguyên thủ quốc gia trở xuống, vì tiếng Anh sẽ là thứ xa lạ đối với vị nguyên thủ. Ông đương nhiên sẽ hướng đến người Ireland và Gael hơn, vì nhóm người theo theo phái phi dân tộc ở đất nước chúng tôi đã tỏ ra chống Đức một cách gay gắt...... Đối với thế hệ đầu tiên, đó sẽ là một lợi thế, khi có một người cai trị liên kết chúng ta với một cường quốc châu Âu, và sau đó, khi ta đã có sự chuẩn bị tốt hơn để tự lập, hoặc khi nhà cai trị ưu tiên lợi ích bản thân thay vì hành động theo lợi ích của quốc gia, ta sẽ có vị nguyên thủ mới hoàn toàn là người Ireland." Ernest Blythe nhớ lại rằng, vào tháng 1 năm 1915, ông nghe thấy Plunkett và Thomas MacDonagh bày tỏ sự ủng hộ đối với đề xuất tại một cuộc họp của Lực lượng Tình nguyện Ireland. Bulmer Hobson, thư ký của Lực lượng, là một trong số những người tham dự cuộc họp. Không có ai phản đối và bản thân Blythe cũng cho biết đề xuất này "vô cùng hấp dẫn".
Gruzia
Sau khi Gruzia tuyên bố độc lập sau Cách mạng Nga năm 1917, Joachim được đại diện của Đức là Bá tước Friedrich Werner von der Schulenburg và những người theo chủ nghĩa bảo hoàng ở Gruzia nhìn nhận là ứng cử viên cho ngai vàng Gruzia.
Litva
Hội đồng Litva tuyên bố nền độc lập của Litva vào ngày 16 tháng 2 năm 1918, nhưng hội đồng không thể thành lập chính phủ, cảnh sát hoặc các tổ chức nhà nước khác do sự hiện diện liên tục của quân đội Đức. Người Đức đã đưa ra nhiều đề xuất khác nhau nhằm sáp nhập Litva vào Đế quốc Đức, đặc biệt là Phổ.
Có một đề xuất trao vương miện của Litva cho Joachim. Người Litva phản đối đề xuất này và hy vọng sẽ bảo vệ nền độc lập của mình bằng cách tạo ra một chế độ quân chủ lập hiến riêng biệt. Ngày 4 tháng 6 năm 1918, người dân đã bỏ phiếu trao ngai vàng Litva cho quý tộc Đức Wilhelm Karl I xứ Urach.
Ly hôn và qua đời
Sau Cách mạng Đức vào tháng 11 năm 1918, Hoàng đế Wilhelm II buộc phải thoái vị, do đó Joachim bị tước bỏ tước vị và chức vụ. Không thể chấp nhận thân phận thường dân, Joachim rơi vào tình trạng trầm cảm. Ngày 31 tháng 5 năm 1918, Joachim được bác sĩ tâm thần Robert Gaupp kiểm tra và đã đệ trình một báo cáo kết luận rằng Hoàng tử "bị bệnh nan y, cả về tinh thần và thể chất. […] ông cực kỳ dễ bị kích động về mặt cảm xúc và tình dục", và "có khuynh hướng 'bùng phát cơn giận dữ dội và mất hết sự tự chủ'".
Mối quan hệ giữa Joachim và vợ đã bắt đầu xấu đi. Cặp đôi ly hôn ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Nguyên nhân trực tiếp của việc ly hôn không được công chúng biết đến. Theo một báo cáo, Marie Auguste trước đó đã bỏ chồng và con để bỏ trốn theo một người đàn ông khác, bị buộc phải đưa về nhà theo lệnh của Hoàng đế và đã đệ đơn ly hôn ngay khi chiến tranh kết thúc, khi Hoàng tức nhìn thấy rằng gia đình chồng đang ở giai đoạn sa sút nhất. Theo Hans von Gontard, người từng là quan chức hành chính của cựu hoàng, Joachim "tương đối mất kiểm soát và đã đánh vợ".
Sau khi ly hôn, Joachim đã tự bắn mình ở Potsdam vào ngày 18 tháng 7 năm 1920. Một nguồn tin cho biết Joachim đã gặp khó khăn về tài chính và bị "suy nhược tinh thần nặng". Anh trai của Joachim, Eitel Friedrich của Phổ nhận xét rằng em trai đã mắc chứng "loạn trí nặng nề". Phản ứng của cựu hoàng Wilhelm II trước tin con trai tự sát là sự giận dữ, nói rằng "thằng ngu đó lẽ ra cũng phải làm điều này với chúng ta và đặc biệt là với mẹ nó!" Mặc dù ban đầu Wilhelm II cố gắng thuyết phục vợ rằng cái chết của con trai út chỉ đơn giản là một tai nạn, nhưng Auguste Viktoria ngay lập tức nhận ra chuyện gì đã xảy ra và ngắt lời chồng: ""Thằng bé đã tự bắn mình! " Bà ấy rất muốn tin rằng cái chết của con là do tai nạn […] nhưng bà ấy biết rõ sự thật."
Hậu duệ
Hậu duệ duy nhất trong cuộc hôn nhân của Joachim và Marie Auguste là Karl Franz Josef Wilhelm Friedrich Eduard của Phổ (15 tháng 12 năm 1916 – 22 tháng 1 năm 1975).
Ngày 5 tháng 10 năm 1940, Karl Franz kết hôn với Henriette Hermine Wanda Ida Luise xứ Schönaich-Carolath (25 tháng 11 năm 1918 – 16 tháng 3 năm 1972). Hai người ly hôn vào ngày 5 tháng 9 năm 1946. Karl Franz là cha mẹ của ba đứa trẻ:
Franz Wilhelm Viktor Christoph Stephan của Phổ (sinh ngày 3 tháng 9 năm 1943), kết hôn với Mariya Vladimirovna của Nga, người đòi ngai vàng nước Nga. Con của hai vợ chồng làGeorgiy Mikhaylovich của Nga, Đại vương công Nga và Hoàng huyền tôn nước Phổ, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1981 tại Tây Ban Nha.
Friedrich Christian Ludwig của Phổ (3 tháng 9 năm 1943 – 26 tháng 9 năm 1943)
Franz Friedrich Christian của Phổ (sinh ngày 17 tháng 10 năm 1944).
Sau khi ly hôn, Hoàng tôn Karl Franz có một cuộc hôn nhân bất đăng đối với Luise Dora Hartmann (5 tháng 9 năm 1909 – 23 tháng 4 năm 1961) vào ngày 9 tháng 11 năm 1946. Hai người không có con và ly hôn vào năm 1959.
Cuộc hôn nhân cuối cùng của Karl Franz là với Eva Maria Herrera y Valdeavellano (10 tháng 6 năm 1922 – 6 tháng 3 năm 1987) vào ngày 20 tháng 7 năm 1959 tại Lima, Peru . Hai vợ chồng có hai con gái;
Alexandra Maria Augusta Juana Consuelo của Phổ (sinh ngày 29 tháng 4 năm 1960).
Désirée Anastasia Maria Benedicta của Phổ (sinh ngày 13 tháng 7 năm 1961).
Gia phả
Khắc họa trên phim ảnh
Joachim được thủ vai bởi nam diễn viên người Mỹ Jesse Plemons trong bộ phim phiêu lưu giả tưởng Jungle Cruise của Disney năm 2021.
Ghi chú
Tham khảo
Hoàng tử Đức
Vương tử Phổ
Vương thất Phổ
Hoàng gia Đức
Vương tử
Hoàng tử
Quân nhân quân đội Phổ
Quân nhân Đức tự tử
Sinh năm 1890
Mất năm 1920
Người tự sát ở Đức
Bản mẫu webarchive dùng liên kết wayback
Nguồn CS1 tiếng Đức (de)
|
19849276
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFp%20t%C3%A2n
|
Tiếp tân
|
Tiếp tân hay Lễ tân (Receptionist) là nhân viên đảm nhận vị trí hướng dẫn, hỗ trợ văn phòng hoặc hành chính. Công việc hướng dẫn thường được thực hiện tại khu vực chờ chẳng hạn như bàn tiền sảnh hoặc phòng lễ tân của một tổ chức, doanh nghiệp. Chức danh nhân viên lễ tân (Front desk) được gán cho người được một tổ chức thuê để tiếp nhận, ghi danh hoặc chào hỏi bất kỳ du khách, bệnh nhân hoặc khách hàng nào và trả lời các cuộc gọi điện thoại đến để hướng dẫn, giải đáp thắc mắc. Cụm từ Lễ tân được sử dụng trong nhiều khách sạn dành cho bộ phận hành chính, nơi nhiệm vụ của lễ tân cũng có thể bao gồm thao tác đặt phòng và bố trí phòng, thu xếp lượt phòng, đăng ký khách, ghi danh, công việc thu ngân, kiểm tra tín dụng-thanh toán, gửi giữ hộ chìa khóa và dịch vụ đưa nhận thư và tin nhắn. Những nhân viên lễ tân như vậy thường được gọi là nhân viên lễ tân hay Lễ tân khách sạn. Nhân viên lễ tân đảm nhiệm nhiều lĩnh vực công việc để hỗ trợ các doanh nghiệp mà họ làm việc, bao gồm đặt lịch hẹn, lên lịch, nộp hồ sơ, lưu trữ hồ sơ và các nhiệm vụ công việc văn phòng khác.
Giới thiệu
Nhiệm vụ kinh doanh của nhân viên lễ tân có thể bao gồm trả lời các câu hỏi, thắc mắc của khách về công ty và sản phẩm hoặc dịch vụ của công ty, tư vấn, hướng dẫn khách đến điểm đến của họ, phân loại và gửi thư, trả lời các cuộc gọi đến trên điện thoại nhiều đường dây hoặc vào đầu thế kỷ 20, là nhiệm vụ của một tổng đài, đặt lịch hẹn, sắp xếp hồ sơ, lưu trữ hồ sơ, đánh máy/nhập dữ liệu và thực hiện nhiều công việc văn phòng khác, chẳng hạn như gửi fax hoặc gửi email. Một số nhân viên lễ tân cũng có thể thực hiện nhiệm vụ ghi chép, biên bản, quản lý sổ sách hoặc thu ngân. Một số, nhưng không phải tất cả, các văn phòng có thể yêu cầu nhân viên lễ tân phục vụ cà phê hoặc trà, nước cho khách và giữ cho khu vực tiền sảnh gọn gàng.
Nhân viên lễ tân cũng có thể đảm nhận một số chức năng kiểm soát truy cập bảo vệ cho một tổ chức bằng cách xác minh danh tính nhân viên, cấp thẻ cho khách thăm quan, để ý, quan sát và báo cáo về bất kỳ người nào khả nghi hoặc hoạt động bất thường hoặc đáng ngờ nào, như vậy là kiêm luôn nhiệm vụ của nhân viên bảo vệ. Nhân viên lễ tân thường là người liên hệ kinh doanh đầu tiên mà một người sẽ gặp đầu tiên ở bất kỳ tổ chức nào. Vì là bộ mặt của tổ chức nên các tổ chức thường mong đợi nhân viên lễ tân luôn có thái độ điềm tĩnh, lịch sự, niềm nở, ân cần, hiếu khách và chuyên nghiệp, bất kể hành vi của khách có như thế nào. Một số phẩm chất cá nhân mà nhân viên lễ tân cần có để thực hiện công việc thành công bao gồm sự chu đáo, ngoại hình chỉn chu, có nhan sắc, sự chủ động, đáng tin, chín chắn, tế nhị, giữ bí mật, kín tiếng, và sự thận trọng, thái độ tích cực và đáng tin cậy. Đôi khi, công việc có thể căng thẳng do lễ tân phải tiếp xúc với nhiều người với nhiều tính cách khác nhau và phải thực hiện, hoàn thành nhiều nhiệm vụ cùng lúc một cách nhanh chóng.
Chú thích
Nghề nghiệp
|
19849282
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF%20v%E1%BB%81%20Trung%20l%E1%BA%ADp%20L%C3%A0o
|
Hiệp định Quốc tế về Trung lập Lào
|
Hiệp định Quốc tế về Trung lập Lào () là hiệp định quốc tế được ký kết tại Genève vào ngày 23 tháng 7 năm 1962 giữa 14 quốc gia, trong đó có Lào, là kết quả của Hội nghị Quốc tế về Giải quyết Vấn đề Lào, kéo dài từ ngày 16 tháng 5 năm 1961 đến ngày 23 tháng 7 năm 1962.
Liên bang Miến Điện, Campuchia, Canada, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Pháp, Ấn Độ, Cộng hòa Nhân dân Ba Lan, Việt Nam Cộng hòa, Thái Lan, Liên Xô, Vương quốc Liên hiệp Anh và Hoa Kỳ đã ký vào bản tuyên bố này. Nó tuyên bố nền trung lập của Chính phủ Hoàng gia Lào ngày 9 tháng 7 năm 1962 có hiệu lực như một thỏa thuận quốc tế vào đúng ngày ký kết là ngày 23 tháng 7.
Bối cảnh
Sau một thời gian ngắn Nhật Bản chiếm đóng Lào vào cuối Thế chiến thứ hai và tuyên bố độc lập của phe quốc gia Lào, Pháp đã tái chiếm Lào và phần còn lại của Liên bang Đông Dương, bao gồm Việt Nam và Campuchia. Trong cuộc nổi dậy về sau, thành viên cộng sản Đông Dương đã góp phần lập nên Pathet Lào, một phong trào dân tộc chủ nghĩa của Lào và là đồng minh của Bắc Việt/Việt Minh trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Sau thất bại của người Pháp, Hiệp định Genève năm 1954 xác lập chủ quyền của Lào. Năm 1960, cuộc nội chiến nổ ra giữa Quân đội Hoàng gia Lào dưới sự chi viện của Mỹ, chống lại quân nổi dậy Pathet Lào được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn.
Thỏa thuận
Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đề xuất một giải pháp thương lượng với Liên Xô và các bên quan tâm khác. Năm 1962, một hội nghị hòa bình ở Genève đã đưa ra Tuyên bố Trung lập Lào và một chính phủ liên hiệp ba thành phần gồm các phe thân Mỹ, thân cộng sản và trung lập.
14 bên ký kết cam kết tôn trọng nền trung lập của Lào và không can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào công việc nội bộ của Lào, lôi kéo Lào vào liên minh quân sự hoặc thiết lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ Lào. Chính phủ Lào cam kết ban hành các cam kết của mình theo hiến pháp và có hiệu lực pháp luật.
Hậu quả
Tuy nhiên, thỏa thuận gần như ngay lập tức bị Mỹ, Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chính Pathet Lào vi phạm. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tiếp tục cho 7.000 lính đồn trú ở Lào. Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã viện trợ quân sự cho Pathet Lào. Hoa Kỳ bắt đầu chiến dịch ném bom hỗ trợ cả Chính phủ Hoàng gia Lào và các nỗ lực của Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa. Pathet Lào liên tiếp tấn công và quấy rối các lực lượng trung lập.
Những vi phạm này là điển hình cho hành vi của tất cả các bên trong thời gian còn lại của Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai.
Năm 1959, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập tuyến đường tiếp tế đi qua lãnh thổ Lào “trung lập” nhằm chi viện cho lực lượng nổi dậy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Cộng sản gọi tuyến tiếp tế này là "Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn" (Đường Trường Sơn)”. Pathet Lào và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục sử dụng và cải thiện tuyến đường tiếp tế mà về sau gọi là Đường mòn Hồ Chí Minh.
Cụ thể hơn, trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhận được sự hợp tác của Pathet Lào để xây dựng và duy trì Đường mòn Hồ Chí Minh xuyên suốt chiều dài đất Lào. Hàng nghìn binh sĩ Việt Nam đóng quân tại Lào hòng duy trì mạng lưới đường bộ và đảm bảo an ninh cho nước này. Những quân nhân người Việt cũng đã chiến đấu bên cạnh Pathet Lào trong cuộc đấu tranh lật đổ chính phủ trung lập của Lào. Sự hợp tác này vẫn tiếp tục sau chiến tranh và cho tới khi phe cộng sản lên nắm toàn quyền ở Lào vào cuối năm 1975.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tuyên bố Trung lập Lào. Ký tại Genève, ngày 23 tháng 7 năm 1962
Lào năm 1962
Hiệp ước ký kết năm 1962
Hiệp ước có hiệu lực từ năm 1962
Quan hệ Hoa Kỳ-Lào
Hiệp ước của Pháp
Hiệp ước của Ấn Độ
Hiệp ước của Hoa Kỳ
Hiệp ước của Liên Xô
Hiệp ước của Canada
Hiệp ước của Thái Lan
Hiệp ước của Myanmar
Hiệp ước của Vương quốc Lào
Hiệp ước của Việt Nam Cộng hòa
Hiệp ước của Vương quốc Liên hiệp Anh
Hiệp ước của Cộng hòa Nhân dân Ba Lan
Hiệp ước của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Hiệp ước của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Hiệp ước của Vương quốc Campuchia (1953–1970)
|
19849283
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p%20%C6%B0%E1%BB%9Bc%20H%C3%B2a%20b%C3%ACnh%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n
|
Hiệp ước Hòa bình Nhân dân
|
Hiệp ước Hòa bình Nhân dân () do đại diện các tổ chức sinh viên Mỹ và Việt Nam phát triển vào tháng 12 năm 1970. Hiệp ước này là một phần trong nỗ lực hợp tác nhằm chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng cách vạch ra một số nguyên tắc mà tất cả các bên có thể đồng ý. Giới chính khách và truyền thông đều tán thành bản hiệp ước này bao gồm Eugene J. McCarthy, Daniel Berrigan, Phillip Berrigan, Noam Chomsky, Charles E. Goodell, I. F. Stone, George Wald, Erich Segal và Rock Hudson.
Văn bản
Cần biết rằng hai dân tộc Mỹ và Việt Nam không phải là kẻ thù. Cuộc chiến được thực hiện dưới danh nghĩa nhân dân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa nhưng không có sự đồng ý của chúng tôi. Nó tàn phá đất đai và con người Việt Nam. Nó làm cạn kiệt tài nguyên, tuổi trẻ và danh dự của nước Mỹ.
Chúng tôi đồng ý chấm dứt chiến tranh theo những điều kiện sau để nhân dân hai nước có thể sống trong niềm vui độc lập và có thể cống hiến hết mình để xây dựng một xã hội dựa trên sự bình đẳng của con người và tôn trọng Trái Đất. Khi từ chối chiến tranh, chúng tôi cũng từ chối mọi hình thức phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử chống lại mọi người dựa trên màu da, giai cấp, giới tính, nguồn gốc quốc gia và nhóm sắc tộc tạo thành nền tảng cho các chính sách chiến tranh, trong quá khứ và hiện tại, của chính phủ Hoa Kỳ.
1. Người Mỹ đồng ý rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam ngay lập tức.
2. Người Việt Nam cam kết rằng, ngay khi chính phủ Hoa Kỳ công bố ngày rút quân hoàn toàn, họ sẽ tiến hành thảo luận để bảo đảm trả tự do cho tất cả tù nhân Mỹ, kể cả các phi công bị bắt khi ném bom miền Bắc Việt Nam.
3. Sẽ có lệnh ngừng bắn ngay lập tức giữa quân đội Mỹ và quân đội do Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam lãnh đạo.
4. Họ sẽ tiến hành thảo luận về các thủ tục đảm bảo an toàn cho tất cả binh lính rút lui.
5. Người Mỹ cam kết chấm dứt sự áp đặt chế độ Thiệu-Kỳ-Khiêm đối với người dân miền Nam Việt Nam để bảo đảm quyền tự quyết của họ và để tất cả tù nhân chính trị được trả tự do.
6. Người Việt Nam cam kết thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời để tổ chức bầu cử dân chủ. Tất cả các bên đồng ý tôn trọng kết quả của cuộc bầu cử trong đó tất cả người dân miền Nam Việt Nam có thể tự do tham gia mà không có sự hiện diện của bất kỳ quân đội nước ngoài nào.
7. Việt Nam Cộng hòa cam kết tham gia thảo luận về các thủ tục nhằm đảm bảo an toàn và tự do chính trị cho những người dân miền Nam đã cộng tác với Mỹ hoặc với chế độ được Mỹ hỗ trợ.
8. Người Mỹ và người Việt Nam nhất trí tôn trọng độc lập, hòa bình và trung lập của Lào và Campuchia theo Hiệp định Genève năm 1954 và 1962, không can thiệp vào công việc nội bộ của hai nước này.
9. Dựa trên những điểm nhất trí này, chúng tôi cam kết chấm dứt chiến tranh và giải quyết mọi vấn đề khác trên tinh thần tự quyết và tôn trọng lẫn nhau vì độc lập và tự do chính trị của nhân dân Việt Nam và Hoa Kỳ.
Bằng việc phê chuẩn thỏa thuận này, chúng tôi cam kết thực hiện bất kỳ hành động nào phù hợp để thực hiện các điều khoản của Hiệp ước hòa bình chung này và đảm bảo được chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận.
Hội Sinh viên Quốc gia Việt Nam Cộng hòa
Hội Sinh viên Giải phóng miền Nam Việt Nam
Hội Sinh viên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Hiệp hội Sinh viên Quốc gia
Sài Gòn, Hà Nội và Paris, tháng 12 năm 1970
Ký tên:
Được Hội nghị Đại học Mới và Cuộc họp Phong trào Chicago thông qua, ngày 8 đến ngày 10 tháng 1 năm 1971
Tham khảo
Chính trị Việt Nam
Việt Nam Cộng hòa
|
19849294
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1nh%20s%C3%B2
|
Bánh sò
|
Bánh sò hay bánh ma-đơ-len (tiếng Pháp và tiếng Anh: madeleine, petite madeleine) là một loại bánh ngọt nhỏ truyền thống của người Commercy và Liverdun, hai xã ở Lorraine miền đông bắc nước Pháp. Đây là những chiếc bánh bông lan nhỏ hình vỏ sò đặc trưng nhờ nướng trong khay lõm có hình dạng như vậy.
Những chiếc bánh madeleine xuất hiện vào thế kỷ 18 do một người hầu gái tên Madeleine Paulmier làm để phục vụ Công tước xứ Lorraine.
Trong một số trường hợp, cốt bánh génoise sẽ được sử dụng do hương vị tương tự nhưng nhẹ hơn bánh bông lan. Công thức làm bánh truyền thống còn có thêm các loại hạt, thường là hạnh nhân, được nghiền mịn. Một số biến thể sử dụng thêm vỏ chanh để tạo vị tươi mát. Phiên bản bánh madeleine của Anh cũng sử dụng bột bánh génoise nhưng được nướng trong những chiếc khuôn nhỏ dạng cốc. Thành phẩm sẽ được quét một chút mứt và dừa sấy rồi phủ thêm mứt anh đào lên trên.
Hình ảnh
Tham khảo
Ẩm thực Pháp
|
19849301
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gladiator%202
|
Gladiator 2
|
Gladiator 2 là bộ phim thuộc thể loại sử thi lịch sử của Hoa Kỳ ra mắt năm 2024 và được đạo diễn bởi Ridley Scott. Đây đồng thời cũng là phần hậu truyện của Võ sĩ giác đấu (2000) với kịch bản sẽ do David Scarpa chấp bút cùng với sự tham gia diễn xuất của Paul Mescal, Denzel Washington, Joseph Quinn, Fred Hechinger, Pedro Pascal, Connie Nielsen và Derek Jacobi. Phim sẽ do Scott Free Productions sản xuất và được phân phối bởi Paramount Pictures và Universal Pictures.
Gladiator 2 được dự kiến sẽ phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 22 tháng 11, 2024.
Tiên đề
Lấy bối cảnh sau các sự kiện của phần phim Võ sĩ giác đấu, bộ phim sẽ là hành trình theo chân Lucius, người cháu của Commodus, và bây giờ đang là một cậu thanh niên trưởng thành.
Diễn viên
Paul Mescal thủ vai Lucius Verus. Đạo diễn Ridley Scott đã mô tả nhân vật này rằng anh đã được nhìn thấy lần cuối vào khoảng 15 năm trước, Lucius đã sống "ở một nơi hoang dã" và không có một kết nối gì với mẹ của anh ta và bây giờ bà vẫn nghĩ rằng anh đã chết. Trước đây, nhân vật này được thủ vai bởi Spencer Treat Clark trong Võ sĩ giác đấu (2000).
Denzel Washington thủ vai một kẻ đã từng là nô lệ và bây giờ hắn đã trở thành một tên lái thương hàng hóa, vũ khí giàu có và có một mối thù hằn với các hoàng đế.
Connie Nielsen thủ vai Lucilla, mẹ của Lucius đồng thời cũng là chị lớn của Commodus.
Derek Jacobi thủ vai Nguyên lão Gracchus, một thành viên của Viện Nguyên lão La Mã.
Joseph Quinn thủ vai Đồng Hoàng đế Caracalla
Fred Hechinger thủ vai Đồng Hoàng đế Geta
Pedro Pascal
May Calamawy
Lior Raz
Peter Mensah
Matt Lucas
Sản xuất
Phát triển
Vào tháng 6 năm 2001, quá trình phát triển phần tiếp theo của Võ sĩ giác đấu đã được bắt đầu dưới dạng tiềm năng của một phần tiền truyện hoặc hậu truyện với biên kịch David Franzoni đang tham gia đàm phán để tiếp tục trở lại chấp bút cho kịch bản của phim. Vào năm sau đó, một phần hậu truyện được thông báo đang được tiến hành với John Logan sẽ đảm nhận vai trò biên kịch của phim. Cốt truyện sẽ lấy bối cảnh sau 15 năm, bao gồm sự kiện Đội quân Cận vệ của Hoàng đế La Mã đang cầm quyền tại Rome và đứa con lớn Lucius đang tìm kiếm sự thật về người cha thực sự của mình. Franzoni đã kí kết để trở thành nhà sản xuất của phim vên cạnh Douglas Wick và Walter Parkes. Tháng 12, 2002, cốt truyện của phim được thông báo sẽ bao gồm cả những sự kiện tiền truyện liên quan đến nguồn gốc của Lucius cũng như là các sự kiện hậu truyện tiếp theo mô tả sự hồi sinh của Maximus. Các nhà sản xuất và Russell Crowe đã hợp tác cũng như nghiên cứu chuyên sâu về tín ngưỡng của người La Mã cổ đại đối với thế giới bên kia. Vào tháng 9, 2003, Ridley Scott xác nhận rằng kịch bản đã hoàn thành và đồng thời cũng thông báo rằng câu chuyện sẽ tập trung xoay quanh đứa con bí mật của Maximus là Lucius.
Tháng 5, 2006, Scott đã tuyên bố rằng dự án vẫn đang tiếp tục trong quá trình phát triển, tuy nhiên thì câu chuyện chính xác của bộ phim thì vẫn chưa được xác định. Nhà làm phim cũng khẳng định rằng tất cả các bộ óc sáng tạo có liên quan đến Võ sĩ giác đấu đang tìm cách để tiếp tục nơi mà câu chuyện kết thúc từ phần phim trước. Scott cũng chia sẻ thêm rằng Crowe ưa thích một yếu tố kỳ ảo đó là việc mang Maximus trở lại từ cõi chết, trong khi Scott tin rằng cách tiếp cận lịch sử có căn cứ vẫn là lựa chọn tốt hơn. Trong khi ông tin rằng bộ phim sẽ không được làm ra thì ông cũng xác nhận kế hoạch tiết lộ việc Lucius chính là con của Maximus và Lucilla. Ngoài ra, vị đạo diễn cũng thảo luận về những yếu tố cần thiết để kịch bản thêm phần phức tạp cùng với sự tham nhũng của La Mã trong phần hậu truyện tiềm năng này.
Tiền kỳ
Tháng 1 năm 2023, Paul Mescal được xác nhận tham gia vào phim, trong khi đó cũng có thông tin tiết lộ rằng Arthur Max và Janty Yates, thiết kế sản xuất và thiết kế trang phục từ phần phim đầu tiên, cũng sẽ trở lại tiếp tục vai trò của họ trong phần hậu truyện này. Scott chia sẻ rằng ông không hề biết đến sự nổi tiếng của Mescal cho đến khi ông xem anh trong bốn tập đầu tiên của miniseries Normal People trên BBC Three/Hulu, dẫn đến việc Scott đã xem toàn bộ miniseries như một câu chuyện của Gladiator 2 do kịch bản phim vẫn đang được Scarpa viết, và ông đã chọn Mescal vì khi nghĩ đến anh ta, ông cảm thấy điều thứ đó sẽ khiến anh ta giỏi giống như Crowe. Austin Butler, Richard Madden và Miles Teller cũng là những cái tên đã từng được cân nhắc để đảm nhận vai diễn chính của bộ phim. Nhưng cuối cùng, Mescal đã được chọn sau khi Daria Cercek và Michael Ireland xem được màn trình diễn của anh trong vở kịch A Streetcar Named Desire ở Nhà hát West End, và khẳng định rằng "các khán giả nữ [đã] hú hét" khi nam diễn viên cởi áo. Vào tháng 3, Barry Keoghan đã tham gia đàm phán để tham gia vào dàn diễn viên của phim với vai diễn Hoàng đế Geta trong khi Denzel Washington được thông báo sẽ tham gia dàn diễn viên của phim. Ngoài ra, John Mathieson xác nhận sẽ trở lại với vai trò quay phim trong phần hậu truyện này.
Đến tháng 4 năm 2023, có thông tin về việc Connie Nielsen và Djimon Hounsou sẽ trở lại với vai diễn Lucilla và Juba của họ, trong khi Joseph Quinn sẽ thủ vai nhân vật mới là Hoàng đế Caracalla. Vào tháng 3, 2023, Pedro Pascal, May Calamawy, Lior Raz, Derek Jacobi, Peter Mensah và Matt Lucas cũng lần lượt xác nhận sẽ tham gia vào dàn diễn viên của phim với Fred Hechinger đang trong quá trình thảo luận để đảm nhận vai diễn Hoàng đế Geta sau khi Keoghan từ chối do sự xung đột về lịch trình. Jacobi được thông báo sẽ tiếp tục thủ vai Nguyên lão Gracchus từ phần phim trước. Và tháng sau đó, Hechinger chính thức được xác nhận sẽ tham gia vào bộ phim. Vào tháng 12, Hounsou đã có thông báo rằng mặc dù ban đầu đã xác nhận tham gia vào dàn diễn viên của phim tuy nhiên anh sẽ không thể tiếp tục trở lại phần hậu truyện này do sự xung đột về lịch trình.
Quay phim
Quá trình sản xuất được dự kiến sẽ bắt đầu vào tháng 5 năm 2023 với Ouarzazate, Morocco sẽ được lựa chọn làm địa điểm quay phim. Vào tháng 4, công đoạn xây dựng trường quay đã được tiến hành trong thành phố. Và cũng trong hai tháng sau đó, quá trình quay phim cũng chính thức được bắt đầu với các địa điểm quay phim được bổ sung thêm là Malta và Vương quốc Anh sẽ diễn ra trong bốn tháng tiếp theo. Vào ngày 7 tháng 6, một sự cố hỏa hoạn đã xảy ra trong công đoạn quay phim đã làm 7 thành viên của đoàn làm phim bị chấn thương. Đến tháng 7, việc quay phim tiếp tục bị đình trệ do ảnh hưởng từ vụ việc Cuộc đình công của SAG-AFTRA 2023. Tuy nhiên đến ngày 4 tháng 12, quá trình quay phim cũng đã được tiếp tục diễn ra tại Malta và chính thức đóng máy vào ngày 17 tháng 1 năm 2024.
Việc sản xuất đã nhận được 47 triệu Euro tiền giảm giá để khuyến khích làm phim từ Malta đã giúp bộ phim đạt được kỷ lục về khoản tiền giảm giá lớn nhất được cung cấp cho việc sản xuất phim tại Liên minh Châu Âu.
Nhạc phim
Vào tháng 1 năm 2024, đã có thông tin tiết lộ rằng Harry Gregson-Williams sẽ đảm nhận vị trí soạn nhạc cho bộ phim, thay thế vai trò của Hans Zimmer từ phần phim trước.
Phát hành
Gladiator 2 được phát hành tại Hoa Kỳ bởi Paramount Pictures vào ngày 22 tháng 11, 2024 và đồng thời cũng được Universal Pictures phát hành ở thị trường quốc tế.
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim sử thi
Phim Mỹ
Phim tiếng Anh
Phim thập niên 2020
Phim lịch sử
Phim sử thi lịch sử
Phim Anh
|
19849305
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ctenogobiops%20crocineus
|
Ctenogobiops crocineus
|
Ctenogobiops crocineus là một loài cá biển thuộc chi Ctenogobiops trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1959.
Từ nguyên
Tính từ định danh crocineus bắt nguồn từ krókinos (κρόκινος trong tiếng Hy Lạp cổ đại) nghĩa là “màu vàng cam như saffron”, hàm ý đề có lẽ đề cập đến màu sắc của loài cá này khi còn sống.
Phân bố và môi trường sống
Từ Biển Đỏ và Đông Phi, C. crocineus có phân bố trải dài về phía đông đến Fiji, ngược lên phía bắc tới quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), xa về phía nam tới rạn san hô Great Barrier. Ở Việt Nam, C. crocineus được ghi nhận tại vịnh Nha Trang.
C. crocineus sống trên nền cát và đá vụn của rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 15 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở C. crocineus là 5,5 cm.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 11–12; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 9; Số tia ở vây ngực: 19.
Sinh thái
C. crocineus sống cộng sinh trong hang với tôm gõ mõ (Alpheus rapacida hoặc Alpheus rapax).
Tham khảo
C
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá biển Đỏ
Cá Ai Cập
Cá Sudan
Cá Kenya
Cá Seychelles
Cá Comoros
Cá Maldives
Cá Nhật Bản
Cá Việt Nam
Cá Thái Lan
Cá Philippines
Cá New Guinea
Cá Fiji
Động vật được mô tả năm 1959
|
19849313
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%202002%20%28play-off%20li%C3%AAn%20l%E1%BB%A5c%20%C4%91%E1%BB%8Ba%29
|
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 (play-off liên lục địa)
|
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 (play-off liên lục địa) là vòng loại cuối cùng của Giải vô địch bóng đá thế giới (FIFA World Cup) 2002, bao gồm 2 cặp đấu play-off liên lục địa (gồm 4 đội) để xác định 2 suất cuối cùng tham dự FIFA World Cup 2002. Họ đã thắng Ireland và Uruguay. Đây là lần cuối cùng một đội tuyển châu Âu giành được một suất tham dự World Cup thông qua một trận play-off liên lục địa; từ năm 2006 trở đi, các vòng loại châu Âu còn lại sẽ được xác định bằng trận play-off cấp châu lục.
Thể thức
4 đội tuyển từ 4 liên đoàn châu lục (AFC, CONMEBOL, OFC, và UEFA) được bốc thăm thành 2 cặp đấu.
Lễ bốc thăm thứ tự thi đấu của các trận play-off được tổ chức vào ngày 31 tháng 8 năm 2001 trong Đại hội FIFA ở Zürich, Thụy Sĩ.
Ở mỗi cặp đấu, các đội thi đấu hai lượt trận sân nhà và sân khách. Hai đội chiến thắng ở 2 cặp đấu giành quyền tham dự FIFA World Cup 2002 tại Hàn Quốc và Nhật Bản.
Các đội tham dự
Các trận đấu
Các trận lượt đi được tổ chức vào ngày (UEFA v AFC) và ngày (OFC v CONMEBOL). Các trận lượt về được tổ chức vào ngày (UEFA v AFC) và ngày (OFC v CONMEBOL).
UEFA v AFC
giành chiến thắng với tổng tỉ số 2–1 và giành quyền tham dự FIFA World Cup 2002.
OFC v CONMEBOL
giành chiến thắng với tổng tỉ số 3–1 và giành quyền tham dự FIFA World Cup 2002.
Danh sách ghi bàn
Có 7 bàn thắng được ghi trong 4 trận đấu, trung bình mỗi trận có 1,75 bàn thắng.
2 bàn thắng
Richard Morales
1 bàn thắng
Kevin Muscat
Yahya Golmohammadi
Ian Harte
Robbie Keane
Darío Silva
Chú thích
Tham khảo
|
19849315
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sisomphon%20Lovansay
|
Sisomphon Lovansay
|
Sisomphon Lovansay (; 7 tháng 7 năm 1916 – 24 tháng 2 năm 1993) là chính khách người Thái Đen và là thành viên của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Ông từng giữ chức Phó Chủ tịch Tòa án Nhân dân Tối cao.
Ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất và giữ một ghế trong cơ quan này cho đến Đại hội toàn quốc lần thứ 5.
Tham khảo
Thư mục
Sinh năm 1916
Mất năm 1993
Bộ trưởng Lào
Người Ratanakiri
Chính khách Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
Ủy viên Ban Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa II
Ủy viên Ban Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa III
Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa II
Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa III
Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa IV
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào khóa I
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa II
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa III
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa IV
|
19849316
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Samane%20Vignaket
|
Samane Vignaket
|
Samane Vignaket (; 3 tháng 3 năm 1927 – 22 tháng 7 năm 2016) là chính khách và Trung tướng người Lào, từng giữ chức Chủ tịch Quốc hội Lào đầu tiên từ năm 1993 đến năm 2006. Với tư cách là thành viên của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Vignaket từng là Ủy viên Bộ Chính trị các khóa IV, V, VI, VII và VIII và là Ủy viên Ban Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa III, bao gồm cả chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục từ năm 1988 đến năm 1991.
Cuộc đời và sự nghiệp
Vignaket chào đời ở tỉnh Phichit thuộc Vương quốc Xiêm La trong một gia đình người Việt nhập cư. (Trong tiểu sử chính thức trước khi qua đời, ông được xác định là sinh trưởng tại tỉnh Attapeu.) Năm 1975, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và giữ chức vụ này cho đến năm 1981. Vignaket được bầu làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào vào năm 1982 và một lần nữa vào năm 1986, tại nhiệm cho đến năm 1989. Trên cương vị này, ông phụ trách công tác tư tưởng và văn hóa của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
Qua đời
Ông qua đời lúc 00 giờ 24 phút sáng ngày 22 tháng 7 năm 2016, hưởng thọ 89 tuổi.
Tham khảo
Thư mục
Sinh năm 1927
Mất năm 2016
Người Phichit
Chủ tịch Quốc hội Lào
Chính khách Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
Ủy viên Ban Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa III
Ủy viên Ban Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa IV
Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa IV
Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa V
Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa VI
Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa VII
Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa VIII
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa II
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa III
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa IV
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa V
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa VI
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa VII
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa VIII
|
19849321
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%ADnh%20s%C3%A1ch%20ngu%20d%C3%A2n
|
Chính sách ngu dân
|
Trong lĩnh vực triết học, thuật ngữ chính sách ngu dân () nói đến việc định nghĩa và miêu tả về thực tiễn chống trí thức trong việc phổ biến thông tin có chọn lọc kỹ càng theo kiểu thâm sâu và không chuẩn xác nhằm giới hạn việc truy vấn và hiểu thêm về một chủ đề, lĩnh vực. Hai biểu hiện trong lịch sử và mang tính trí thức của "chính sách ngu dân" là: (1) việc giới hạn kiến thức có chọn lọc — đối lập với việc gieo rắc ươm mầm tri thức; và (2) sự bí hiểm có chọn lọc — thứ văn phong khó hiểu đặc trưng với sự mơ hồ có chọn lọc.
Ở thế kỷ 18, các nhà triết học thời kỳ Khai Sáng đã ốp thuật ngữ "obscurantist" trong tiếng Anh, tức kẻ thi hành chính sách ngu dân, để chỉ đến bất cứ kẻ thù nào của việc khai sáng tri thức và lan tỏa kiến thức tự do. Sang đến thế kỷ 19, nhằm phân biệt vô số các chính sách ngu dân trong lĩnh vực siêu hình học và thần học, từ chính sách ngu dân mang tính chất "tinh vi hơn" trong triết học phê phán của Immanuel Kant và chủ nghĩa hoài nghi trong triết học hiện đại, triết gia Friedrich Nietzsche có nói rằng: "The essential element in the black art of obscurantism is not that it wants to darken individual understanding, but that it wants to blacken our picture of the world, and darken our idea of existence."
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Obscurantism in religion – Islamic Research Foundation International
Sự làm mê muội
Chủ nghĩa chống trí thức
Tri thức
Lý thuyết triết học
Kỹ xảo tuyên truyền
|
19849324
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A3ng%20xanh
|
Mảng xanh
|
Mảng xanh hay Mảng xanh đô thị (Urban green space) hay không gian xanh là các khu vực không gian mở dành riêng cho công viên và các "không gian xanh" khác, bao gồm hệ thực vật, hệ thủy sinh, môi trường nước (thủy tụ) còn được gọi là không gian xanh và các loại khác của môi trường tự nhiên.. Hầu hết không gian mở đô thị là không gian xanh, nhưng đôi khi bao gồm các loại không gian mở khác. Cảnh quan của không gian mở đô thị có thể trải dài từ sân chơi đến môi trường được bảo trì kỹ lưỡng đến cảnh quan thiên nhiên tự nhiên không phải duy tu định kỳ. Nói chung thì mảng xanh được coi là mở cửa tự do dành cho công chúng, tuy vậy, không gian xanh đô thị đôi khi cũng thuộc sở hữu tư nhân, chẳng hạn như cơ sở giáo dục đại học, vườn cộng đồng và khuôn viên cơ quan hoặc khuôn viên, sân sau công ty. Các khu vực bên ngoài ranh giới thành phố, chẳng hạn như công viên quốc gia cũng như không gian mở ở nông thôn, ngoại thành, ngoại ô, không được coi là không gian mở đô thị. Những đường phố, quảng trường và quảng trường đô thị không phải lúc nào cũng được xác định là không gian mở đô thị trong quy hoạch sử dụng đất. Không gian xanh đô thị có ý nghĩa và tác động tích cực đến sức khỏe của các cá nhân và cộng đồng gần không gian xanh.
Tổng quan
Mảng xanh đô thị (bao gồm cả hoa, cỏ và các loại cây) cũng ngày càng được chú trọng và trở thành yếu tố tiên quyết của người dân khi lựa chọn nơi an cư, tầm quan trọng của mảng xanh đô thị, bao gồm hệ thống công viên, không gian cây xanh trên đường phố, các công trình xanh trong bệnh viện, trường học, cơ quan nhà nước, các dự án nhà ở, khu dân cư xanh. Không chỉ góp phần vào việc cải thiện cảnh quan, phát triển mảng xanh còn là yếu tố quan trọng để cải thiện chất lượng không khí, khử bụi, tiêu thụ khí CO2, giảm nhiệt độ ngoài trời, giúp con người vơi bớt những căng thẳng, nặng nề khi lưu thông trên đường hoặc an cư. Cây xanh là một trong những yếu tố giúp hạn chế ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn, đặc biệt là ở các đô thị lớn. Phát triển xanh, bền vững là xu thế tất yếu của các đô thị trong giai đoạn hiện nay. Trong điều kiện nhiệt độ ngày càng tăng, đặc biệt tại các khu vực đô thị là nơi mà nhiều diện tích xanh được thay bằng bê tông nên hấp thu nhiều nhiệt lượng, làm cho đô thị nóng lên, do đó cần có các giải pháp giảm nhiệt cho đô thị, trong đó có tăng cường mảng xanh.
Mảng xanh đô thị có ý nghĩa tương đương những công trình trong việc định vị đẳng cấp một thành phố. Mảng xanh đô thị giúp thành phố không phải tồn tại như khối bê tông vô hồn. Không có mảng xanh đô thị thì thành phố không khác gì sa mạc. Mảng xanh đô thị chính là phần mềm của một thành phố văn minh. Mảng xanh có tác dụng rất tích cực đến môi trường, không chỉ góp phần làm trong lành không khí (thải ra hơi nước làm giảm nhiệt độ, hút bớt khí CO2), tạo ra cảnh quan đô thị đẹp mắt mà còn có tác dụng giúp con người bớt căng thẳng, nặng nề. Ở mỗi con đường, mỗi góc phố có thêm một gốc cây xanh, thêm những bồn hoa, thêm những trảng cỏ, thêm được một góc công viên, sẽ có ý nghĩa. Dọc các tuyến đường trong thành phố, những điểm xanh với lá với hoa hiện ra làm mềm hẳn những khối bê tông, những mảng nhựa đường cứng nhắc, nóng chảy. Ở các công sở, các chung cư, nếu không có một góc công viên thì cũng có những chậu kiểng, bonsai để điểm tô thêm cho mỹ quan khu vực nên những năm gần đây, ở các cây cầu, các chung cư, các cao ốc được trang trí bằng những mảng xanh đẹp mắt. Hầu hết các thành phố phát triển trên thế giới đều không ngừng phát triển mảng xanh tạo bóng mát, cảnh quan, giảm khói bụi, thanh lọc khí độc.
Một lối đi xanh thường là con đường sử dụng chung dọc theo dải đất chưa sử dụng để phát triển hạ tầng ở khu vực thành thị hoặc nông thôn, dành cho mục đích giải trí hoặc bảo vệ môi trường. Lối đi xanh thường được tạo ra từ các tuyến đường sắt không sử dụng, đường dẫn kênh, quyền sử dụng đường đi của công ty tiện ích hoặc đất công nghiệp vô chủ. Lối đi xanh cũng có thể là công viên tuyến tính và có thể đóng vai trò là hành lang cho động vật hoang dã. Bề mặt của con đường có thể được trải nhựa và thường phục vụ nhiều người sử dụng: người đi bộ, người chạy bộ, người đi xe đạp, người trượt ván và người đi bộ đường dài. Một đặc điểm của đường xanh, theo định nghĩa của Hiệp hội lối đi xanh châu Âu là "dễ đi lại": tức là chúng có "độ dốc thấp hoặc bằng 0", để tất cả "những cư dân bao gồm cả những người bị suy giảm khả năng vận động có thể sử dụng chúng" Lối đi xanh có thảm thực vật, tuyến tính và kiêm dụng. Chúng kết hợp lối đi bộ và/hoặc đường xe đạp trong công viên tuyến tính. Trong thiết kế đô thị, chúng là một phần của việc lập kế hoạch cho đi lại bằng xe đạp và khả năng đi bộ. Tổ chức Sustrans của Anh, liên quan đến việc tạo ra đường dành cho xe đạp và đường xanh, tuyên bố rằng tuyến đường không có giao thông "phải được thiết kế trên giả định rằng mọi người sẽ sử dụng nó" và các biện pháp được thực hiện "để hỗ trợ người dùng khiếm thị và suy giảm khả năng vận động".
Tại Sài Gòn
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị thiếu trầm trọng mảng xanh, tỉ lệ phủ cây xanh quá thấp so với tiêu chuẩn, trung bình chỉ 0,55m2/người, thấp hơn so với các thành phố lớn khác (như Hà Nội là 2,06m2/người, Đà Nẵng thì 2,4m2/người, Hải Phòng đạt 3,41m2/người), thậm chí ở nhiều nơi công cộng, diện tích cây xanh bị thu hẹp. Khu vực nội thành, nhiều đồ án quy hoạch phân khu chưa quan tâm đúng mức để phát triển mảng xanh, khi xây dựng công trình đã có nhiều hàng cổ thụ bị đốn hạ. Nhiều tuyến đường có cây xanh nhưng còi cọc, trồng cách xa nhau, khó đủ khả năng lọc không khí. Các quận, huyện ngoại thành không có công viên có diện tích lớn để người dân vui chơi, thư giãn. Hiện nay, cây xanh được trồng trên vỉa hè mà phía dưới có nhiều công trình hạ tầng khác chen chúc nên ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tự nhiên của cây. Nguồn giống cây mang ra trồng ở một số nơi chưa đảm bảo yêu cầu về chất lượng, tuy được nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm, đầu tư về công tác nguồn cây giống nhưng nguồn chất lượng cây còn chưa đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng cũng như các tiêu chuẩn hiện hành. Công tác sản xuất nguồn cây giống chưa có sự đầu tư về chiều sâu và chưa có cái nhìn về lâu dài, việc áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới còn rất hạn chế.
Do đó, cần có quy định bằng hành lang pháp lý, các công trình đều hướng đến bảo vệ môi trường và cảnh quan tạo không gian xanh. Trên đường phố và nơi công cộng, ưu tiên không gian trồng cây, phát triển mảng xanh. Đô thị hóa cũng phải bảo tồn lợi ích thiên nhiên đã mang lại, mở đường, làm cầu, xây dựng công trình hãy xem xét tận dụng lại tối đa mảng xanh, nhất là loại cổ thụ lâu năm. Khuyến khích người dân, doanh nghiệp trồng cây phát triển mảng xanh. Tùy theo điều kiện có thể lồng ghép hình thành các công trình xanh, khu dân cư xanh. Tăng mật độ cây xanh tối đa với các dự án nhà ở, bệnh viện, trường học, cơ sở tư nhân, cơ quan nhà nước. Đồng thời có biện pháp chế tài các chủ đầu tư sử dụng sai mục đích đất dành cho cây xanh. Cần lập danh sách các loại cây tùy kích cỡ và chuẩn loại lâu năm xem như di sản để ưu tiên bảo tồn, điều chỉnh hạng mục công trình không ảnh hưởng, phát hiện kịp thời các dấu hiệu bất thường để xử lý, bảo vệ mảng xanh, nhất là loại cổ thụ.
Khi có một công trình mới thì ưu tiên thực hiện mảng xanh, không thu hẹp hay bỏ qua điều kiện mảng xanh và công viên đối với các dự án bất động sản, nhà ở, khu dân cư. Trồng cây ở bất kỳ nơi nào khi có thể từ khu nhà trọ đến trường học, bệnh viện, trụ sở làm việc, khoảnh đất trống, góc sân, mái hiên, ban công, trên bức tường hoặc cầu thang trong căn hộ chung cư. Mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp tùy thuộc điều kiện thực tế đều có giải pháp trồng cây, dây leo, rau quả, hoa kiểng vừa góp phần bảo vệ môi trường, phủ rộng sắc xanh tươi thắm cho thành phố. Trong khu dân cư hiện hữu, nơi đô thị hóa cao, những khu đất trống còn sót lại hãy ưu tiên làm công viên tạo cảnh quan và phục vụ cộng đồng. Khuyến khích chủ sở hữu phủ sắc xanh cho công trình, sáng kiến mái nhà hay bức tường xanh trồng cây hoặc tạo vườn rau trên sân thượng. Chính quyền tăng cường trồng cây trên các tuyến đường đang thiếu mảng xanh, khu đô thị mới, vùng ven nơi có quỹ đất công dồi dào. Lồng ghép quy hoạch theo hướng phát triển đô thị xanh các dự án bất động sản, khu dân cư với môi trường cảnh quan luôn xanh – sạch – đẹp, hạn chế vũ trường ồn ào, quán nhậu ngập tràn rượu bia.
Hình ảnh
Xem thêm
Vùng xanh
Rừng xanh
Công viên
Đô thị hóa
Bảo vệ môi trường
Chú thích
Đô thị
Khu bảo tồn
Quy hoạch đô thị
Thuật ngữ quy hoạch đô thị
|
19849332
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201990
|
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1990
|
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới (FFIA World Cup) 1990 là một chuỗi các trận đấu được tổ chức bởi 6 liên đoàn bóng đá châu lục thuộc FIFA để chọn ra 22 đội bóng cùng với nước chủ nhà () và đội đương kim vô địch () tham dự FIFA World Cup 1990. Mỗi liên đoàn (AFC, CAF, CONCACAF, CONMEBOL, OFC và UEFA) được phân bổ một số lượng nhất định trong số 24 suất tham dự giải đấu. Tổng cộng có 116 đội tham gia vòng loại.
Các đội tham gia
Tại thời điểm kết thúc đăng ký vào ngày 30 tháng 9 năm 1987, có tổng cộng 116 hiệp hội bóng đá đăng ký tham dự World Cup 1990. Con số tham dự này thấp hơn 5 đội so với giải đấu trước đó.
3 đội đã bị FIFA từ chối: , và do các khoản nợ tài chính chưa trả của họ, khiến số đội được chấp nhận giảm xuống còn 113. Với việc cả chủ nhà và đội chủ nhà đều tự động đủ điều kiện tham dự vòng chung kết, nên chỉ còn 111 quốc gia tranh tài ở vòng loại. , và lần đầu tiên góp mặt ở vòng loại World Cup.
7 đội đã rút lui mà không thi đấu một trận nào: , , , , , và . đã bị loại khỏi vòng loại trước khi thi đấu một trận đấu dành cho các cầu thủ quá tuổi ở vòng loại Thế vận hội Olympic 1988. đã rút lui ở vòng bảng CAF, nhưng đã chơi (thành công) ở vòng đầu tiên. Do đó, tổng số đội thi đấu ít nhất một trận tại Vòng loại FIFA World Cup 1990 là 105 (103 trong vòng loại).
Vòng loại các liên đoàn châu lục
Châu Đại Dương (OFC)
Vòng loại khu vực châu Đại Dương gồm 2 vòng:
Vòng 1: được vào thẳng vòng 2. , , và được bốc thăm chia cặp để đá play-off theo thể thức sân nhà và sân khách. Đội chiến thắng chung cuộc sẽ giành quyền vào vòng 2.
Vòng 2: và 2 đội thắng play-off ở vòng 1 được xếp vào một bảng duy nhất thi đấu theo bảng theo thể thức sân nhà và sân khách. Tổng cộng mỗi đội thi đấu 4 trận. Đội đứng đầu bảng sẽ giành quyền tham dự trận play-off liên lục địa với đội đến từ khu vực Nam Mỹ (CONMEBOL).
Chung cuộc, giành quyền tham dự trận play-off liên lục địa.
Châu Á (AFC)
Vòng loại khu vực châu Á gồm 2 vòng:
Vòng 1: 22 đội (lúc đầu có 25 đội, nhưng do có 3 đội rút lui nên còn 22 đội) được chia vào 6 bảng (4 bảng có 4 đội và 2 bảng còn lại có 3 đội). Các đội nhất bảng giành quyền vào vòng 2.
Vòng 2 (vòng chung kết): 6 đội được xếp vào một bảng thi đấu với nhau, đội nhất bảng và nhì bảng giành quyền tham dự FIFA World Cup 1990.
Kết quả (vòng cuối)
Châu Phi (CAF)
và bỏ cuộc.
Vòng loại khu vực châu Phi gồm 3 vòng:
Vòng 1: , , , , , , và (8 đội được xếp hạng cao nhất theo BXH FIFA) được vào thẳng vòng 2. 16 đội còn lại được chia cặp để thi đấu loại trực tiếp theo thể thức sân nhà và sân khách. Các đội chiến thắng chung cuộc sẽ tiến vào vòng 2.
Vòng 2 (vòng bảng): 16 đội (gồm 8 đội được vào thẳng và 8 đội thắng vòng 1) được xếp vào 4 bảng (mỗi bảng có 4 đội). Các đội trong cùng một bảng thi đấu loại trực tiếp theo thể thức sân nhà và sân khách. Đội đứng đầu ở mỗi bảng sẽ giành quyền vào vòng 3 (vòng chung kết).
Vòng 3 (vòng chung kết): 4 đội (đứng đầu các bảng ở vòng 2) thi đấu play-off theo thể thức sân nhà và sân khách, đội thắng sẽ giành quyền tham dự FIFA World Cup 1990.
Kết quả (vòng chung kết)
|}Cameroon và Ai Cập giành quyền tham dự FIFA World Cup 1990.
Châu Âu (UEFA)
Vòng loại FIFA World Cup 1990 khu vực châu Âu chỉ diễn ra duy nhất một vòng đấu. Theo đó, các đội được chia vào 7 bảng đấu, thi đấu theo thể thức sân nhà và sân khách. Các đội nhất bảng và 6 đội (trong số 7 đội) nhì bảng có thành tích tốt nhất sẽ giành quyền tham dự FIFA World Cup 1990.
Nam Mỹ (CONMEBOL)
Do được tham dự FIFA World Cup 1990 một cách tự động với tư cách là đương kim vô địch (FIFA World Cup 1986) nên khu vực Nam Mỹ chỉ còn 9 đội tranh vé dự FIFA World Cup 1990.
Các đội được chia vào 3 bảng (mỗi bảng có 3 đội). Các đội sẽ thi đấu với nhau theo thể thức sân nhà và sân khách. Hai đội nhất bảng có thành tích tốt nhất sẽ tham dự FIFA World Cup 1990. Đội nhất bảng còn lại sẽ tham dự vòng play-off liên lục địa với đại diện đến từ khu vực châu Đại Dương (OFC) để tranh tấm vé cuối cùng tham dự FIFA World Cup 1990.
và giành quyền tham dự FIFA World Cup 1990. tranh vé vớt với .
Bắc, Trung Mỹ và Caribe (CONCACAF)
Vòng loại khu vực CONCACAF cũng chính là Giải vô địch bóng đá CONCACAF 1989. Theo đó, đội vô địch và đội á quân giải đấu sẽ giành quyền tham dự FIFA World Cup 1990.
và giành quyền tham dự FIFA World Cup 1990.
Vòng play-off liên lục địa
Đội xuất sắc nhất khu vực châu Đại Dương (OFC) đối đầu với đội nhất bảng có thành tích kém nhất của khu vực Nam Mỹ (CONMEBOL) trong hai trận play-off sân nhà và sân khách. Đội thắng cuộc sẽ đủ điều kiện tham dự FIFA World Cup 1990.
Colombia giành chiến thắng với tổng tỉ số 1–0 và đủ điều kiện tham dự FIFA World Cup 1990.
Các đội vượt qua vòng loại
24 đội tham dự FIFA World Cup 1990 bao gồm:
Các cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
1990 FIFA World Cup Preliminaries at FIFA.com
Giải vô địch bóng đá thế giới 1990
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới
|
19849333
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kokurakita%2C%20Kitaky%C5%ABsh%C5%AB
|
Kokurakita, Kitakyūshū
|
là quận thuộc thành phố Kitakyūshū, tỉnh Fukuoka, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của quận là 183.407 người và mật độ dân số là 4.700 người/km2. Tổng diện tích của quận là 39,23 km2.
Tham khảo
Quận của thành phố Kitakyūshū
|
19849336
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moji%2C%20Kitaky%C5%ABsh%C5%AB
|
Moji, Kitakyūshū
|
là quận thuộc thành phố Kitakyūshū, tỉnh Fukuoka, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của quận là 93.842 người và mật độ dân số là 1.300 người/km2. Tổng diện tích của quận là 73,67 km2.
Tham khảo
Quận của thành phố Kitakyūshū
|
19849337
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wakamatsu%2C%20Kitaky%C5%ABsh%C5%AB
|
Wakamatsu, Kitakyūshū
|
là quận thuộc thành phố Kitakyūshū, tỉnh Fukuoka, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của quận là 80.533 người và mật độ dân số là 1.100 người/km2. Tổng diện tích của quận là 71,31 km2.
Tham khảo
Quận của thành phố Kitakyūshū
|
19849340
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%ADm%20Sonic%203
|
Nhím Sonic 3
|
Nhím Sonic 3 (tên tiếng Anh: Sonic the Hedgehog 3) là bộ phim hài hành động phiêu lưu dựa trên trò chơi điện tử cùng tên được sản xuất bởi Sega, đây sẽ là phần hậu truyện của Nhím Sonic (2020) và Nhím Sonic 2 (2022) và đồng thời cũng là phần phim liên kết với Knuckles (2024). Phim sẽ được đạo diễn bởi Jeff Fowler với kịch bản do Pat Casey, Josh Miller và John Whittington chấp bút cùng sự tham gia trở lại của dàn diễn viên cũ bao gồm James Marsden, Ben Schwartz, Tika Sumpter, Colleen O'Shaughnessey, Lee Majdoub và Idris Elba.
Diễn viên
Diễn viên lồng tiếng
Ben Schwartz lồng tiếng vai Nhím Sonic
Colleen O'Shaughnessey lồng tiếng vai Miles "Tails" Prower
Idris Elba lồng tiếng vai Knuckles the Echidna
Ngoài ra, nhân vật Shadow the Hedgehog cũng sẽ xuất hiện trong phim.
Diễn viên người đóng
James Marsden thủ vai Tom Wachowski
Tika Sumpter thủ vai Maddie Wachowski
Lee Majdoub thủ vai Đặc vụ Stone
Xem thêm
Danh sách phim dựa trên trò chơi điện tử
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim thập niên 2020
|
19849348
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wilhelmine%20c%E1%BB%A7a%20Ph%E1%BB%95%2C%20Th%C3%A2n%20v%C6%B0%C6%A1ng%20phi%20x%E1%BB%A9%20Oranje
|
Wilhelmine của Phổ, Thân vương phi xứ Oranje
|
Wilhelmine của Phổ (tiếng Đức: Wilhelmine von Preußen; tiếng Hà Lan: Wilhelmina van Pruisen; tiếng Anh: Wilhelmina of Prussia; tên đầy đủ: Friederike Sophie Wilhelmine; 7 tháng 8 năm 1751 tại Berlin – 9 tháng 6 năm 1820 tại Het Loo), cũng gọi là Wilhelmina của Phổ, là phối ngẫu của Willem V xứ Oranje và là người cai trị trên thực tế của phái bảo hoàng và phản cách mạng ở Hà Lan. Wilhelmine là con gái của August Wilhelm của Phổ và Luise Amalie xứ Braunschweig-Wolfenbüttel. Wilhelmine là Thân vương phi xứ Oranje tại vị lâu nhất.
Thân thế
Wilhelmine sinh ngày 7 tháng 8 năm 1751 tại Berlin, là con gái duy nhất và là người con thứ ba của August Wilhelm của Phổ và Luise Amalie xứ Braunschweig-Wolfenbüttel. Vương tôn nữ được rửa tội khoảng hai tháng sau đó và được đặt tên là Friederike Sophie Wilhelmine, được đặt theo Quốc vương Friedrich II Đại vương (bác), Friedrich Wilhelm I của Phổ (ông nội), Sophia Dorothea của Đại Anh (bà nội) và Friederike Sophie Wilhelmine của Phổ (bác bên nội). Wilhelmine được nuôi dưỡng bởi bà nội và sau khi bà nội qua đời, Wilhelmine được giám hộ bởi Elisabeth Christine xứ Braunschweig-Wolfenbüttel-Bevern, Vương hậu Phổ và cũng chính là bác bên ngoại của Wilhelmine.
Hôn nhân
Trước cả khi ra đời, bác gái bên nội của Wilhelmine là Luise Ulrike của Phổ, Vương hậu Thụy Điển, bấy giờ là trữ phi và đang mang thai (chính là Quốc vương Gustav III của Thụy Điển) đã đùa với "Hulla", tức là August Wilhelm hãy mau chóng có con gái:
Thậm chí hai năm sau đó, khi August Wilhelm chào mừng sự ra đời của con trai thứ hai là Heinrich, Vương hậu Luise Ulrike, dù vui mừng cho em trai nhưng vẫn bày tỏ sự không hài lòng khi August Wilhelm vẫn chưa có con gái:
Thậm chí là sau này, Luise Ulrike đã bày tỏ với anh trai Friedrich II mong muốn cho con trai Gustav kết hôn với Wilhelmine nhưng đã bị Friedrich II từ chối.
Ngày 4 tháng 10 năm 1767 tại Berlin, Wilhelmine kết hôn với Willem V xứ Oranje, Thống đốc Hà Lan cuối cùng. Người có công dàn xếp cuộc hôn nhân là Ludwig Ernst xứ Braunschweig-Wolfenbüttel, người bác bên ngoại của Wilhelmine. Mặt khác chính Quốc vương Friedrich II của Phổ cũng muốn Willem V kết hôn với cháu gái. Luận về thân phận, Wilhelmine có bậc xưng cao nhất trong triều đình Oranje là Royal Highness (Vương thân Điện hạ) trong khi chồng chỉ có bậc kính xưng thấp hơn là Serene Highness (tạm dịch: Điện hạ Cao trọng).
Theo ghi nhận đương thời, Wilhelmine và chồng có đời sống hôn nhân hạnh phúc. Wilhelmine được miêu tả là người " có học vấn tốt, thông minh, tràn đầy năng lượng và hòa đồng". Qua thời gian, Wilhelmine dần chiếm được sự tín nhiệm của chồng và Willem V đã thảo luận chính sự với vợ, điều này đồng thời cũng làm suy yếu vị thế thống trị của người bác Ludwig Ernst đối với chồng Wilhelmine. Và dù rằng là bác cháu, nhưng Wilhelmine lại có tư tưởng chính trị đối lập với Ludwig Ernst. Thậm chí, Thân vương phi còn bày tỏ sự bất mãn với Ludwig Ernst với Friedrich II và nhìn nhận rằng Lugwid Ernst không có khả năng cai trị.
Tham gia chính trị và cách mạng
Từ năm 1788, Wilhelmine được chồng cho xem các tài liệu quan trọng. Sau cuộc chiến tranh Anh-Hà Lan (1780–1784), khi hải quân Hà Lan không thể chống chọi với quân Anh, trách nhiệm bị quy về Willem V. Thân vương không thể đối phó được với sự nổi dậy mạnh mẽ của phe ái quốc dần can thiệp sâu vào chính quyền từ thị trấn này đến thị trấn khác. Năm 1785, Wilhelmine cùng gia đình buộc phải rời khỏi Den Haag và Willem V nghĩ đến việc thoái vị. Wilhelmine được khuyên rằng hãy để chồng thoái vị và lên nắm quyền, nhưng Thân vương phi không đồng ý. Năm 1786, gia đình của Wilhelmine đã chuyển đến Nijmegen do Cung điện Het Loo đã trở nên không còn an toàn vì các hoạt động quân sự diễn ra tại Veluwe gần đó.
Trong khi Willem V ở Amerfoort cùng quân đội trong nhiều tháng nhưng không dám tham chiến với phe ái quốc ở các tỉnh Hà Lan và Utrecht, Wilhelmine mong muốn khôi phục vị thế của gia đình. Thân vương phi đã thảo luận với chồng rằng bản thân lại muốn đến Den Haag cùng hai con trai để thăm dò phản ứng khi có mặt hai con, tuy nhiên việc này được nhìn nhận là quá nguy hiểm và Willem V cũng phản đối đề xuất này. Nhưng sau cùng Wilhelmine cũng có được sự chấp thuận của chồng. Sáng sớm ngày 28 tháng 6 năm 1787, Wilhelmine rời Nijmegen cùng với đoàn tùy tùng để đến Den Haag. Tuy nhiên, Thân vương phi cùng đoàn tùy tùng không thể đặt chân đến Holland vì bị người phe ái quốc chặn lại. Họ nghi ngờ về số lượng lớn ngựa được yêu cầu và Wilhelmine bị đưa dến làng Hekendorp và bị giữ lại ở một trang trại gần Goejanverwellesluis trong hai ngày. Yêu cầu cho phép đến Den Haag của Wilhelmine gửi đến Quốc hội bị từ chối.
Cả Wilhelmine và anh trai, Quốc vương Friedrich Wilhelm II của Phổ đều coi những sự việc này là một sự xúc phạm đối với Wilhelmine, vì Wilhelmine không chỉ là Thân vương phi xứ Oranje mà còn là một Vương nữ Phổ. Mặt khác, hành động này của Wilhelmine được coi là một cái bẫy đối với phe ái quốc. Friedrich Wilhelm II đã yêu cầu chính quyền ở Holland tạ lỗi với em gái nhưng bị từ chối. Kế đó, Wilhelmine đã nhờ anh trai can thiệp quân sự. Lúc này, Pháp, dù rằng thường giữ liên lạc với phe ái quốc, quyết định giữ thế trung lập. Anh đe dọa sẽ can thiệp vào cuộc chiến theo phe Thống đốc. Do đó phe ái quốc lâm vào thế thân đơn thế cô. Có sự đảm bảo từ phía Anh, ngày 13 tháng 9 năm 1787, Friedrich Wilhelm II, mặc dù mới nắm quyền được một năm, đã cho quân tấn công Cộng hòa Hà Lan tại biên giới tỉnh Gelderland. Phe ái quốc không thể địch lại với 20.000 quân Phổ. Ngày 20 tháng 9 năm 1787 Willem V trở lại Den Haag được khôi phục lại quyền lực. Hàng ngàn người thuộc phe ái quốc chạy trốn sang Pháp, nhà cửa của họ bị thiêu rụi và tài sản bị tước đoạt. Những người ở lại thì bị tước bỏ chức vụ, bị tra tấn thể xác và đôi khi bị đưa ra tòa để trả thù. Wilhelmine tham gia tái xây dựng bộ máy nhà nước bằng cách bổ nhiệm người của mình vào các vị trí bị bỏ trống.
Lưu vong và cuộc sống sau này
Năm 1795, phe ái quốc đã quay trở lại với sự hỗ trợ của quân Pháp, và Willem V cùng gia đình phải chạy trốn đến chỗ đồng minh là George III của Liên hiệp Anh. Ban đầu, cặp đôi sống ở Kew, sau đó chuyển đến Cung điện Hampton Court vào cuối tháng 2 năm 1795. Tại Anh, Wilhelmine sớm trở nên thân thiết với Vương hậu Charlotte và các Vương nữ Liên hiệp Anh. Năm 1802, Wilhelmine chuyển đến Nassau ở với chồng (Willem V trước đó đã đến Nassau vào cuối năm 1801). Mùa đông năm 1805, hai vợ chồng đến Braunschweig như thường lệ. Tuy nhiên, Willem V đã qua đời tại đây vào tháng 4 năm 1806. Sau đó, Wilhelmine và con gái - cả hai đều góa chồng vào năm 1806 - sống cùng với nhau.
Willem, con trai của Willem V và Wilhelmine đã đi cùng cha mẹ sống lưu vong, nhưng trở về Hà Lan vào năm 1813 để trở thành Thân vương rồi sau đó là Quốc vương Willem I của Hà Lan vào năm 1815, người sáng lập chế độ quân chủ Hà Lan hiện nay. Wilhelmine và con gái trở về Hà Lan vào ngày 10 tháng 1 năm 1814. Khi trở về, Wilhelmine được người dân tung hô là Vương mẫu hậu và được người dân gọi là Willemijn (tên gọi dành cho nữ ở Hà Lan có ý nghĩa là "người bảo vệ mạnh mẽ") và được nhìn nhìn nhận là Moeder des Vaderlands (Người Mẹ của Đất nước). Wilhelmine và con gái Louise sống ở Paviljoen Welgelegen ở Haarlem và tại đây, Wilhelime đã đón tiếp Aleksandr I của Nga khi Hoàng đế Nga đang trên đường đến Anh.
Qua đời
Ngày 9 tháng 6 năm 1820, Wilhelmine qua đời tại Cung điện Het Loo khi được 69 tuổi. Thái vương phi được chôn cất tại Nhà thờ Apeldoorn. Ngày 27 tháng 11 năm 1822, Wilhelmine được cải táng tại Hầm mộ Vương thất của Vương tộc Oranje-Nassau ở Delft.
Con cái
Wilhelmine và Willem V xứ Oranje có với nhau năm người con:
Một người con trai (23 – 24 tháng 3 năm 1769).
Frederica Louise Wilhelmina (28 tháng 11 năm 1770 tại Den Haag – 15 tháng 10 năm 1819 tại The Hague), kết hôn tại The Hague vào ngày 14 tháng 10 năm 1790 với Karl Georg August xứ Braunschweig-Wolfenbüttel (1766–1806), con trai của Karl Wilhelm Ferdinand xứ Braunschweig-Wolfenbüttel và Augusta của Đại Anh, không có hậu duệ.
Một người con trai (sinh và mất ngày 6 tháng 8 năm 1771).
Willem I, Quốc vương Hà Lan (24 tháng 8 năm 1772 – 12 tháng 12 năm 1843).
Willem Georg Frederik (15 tháng 2 năm 1774 The Hague – 6 tháng 1 năm 1799 tại Padova), không lập gia đình.
Gia phả
<center>
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn tài liệu
|-
|-
|-
Vương nữ Phổ
Vương tộc Hohenzollern
Vương nữ
Thân vương phi xứ Oranje
Vương tộc Oranje-Nassau
Sinh năm 1751
Mất năm 1820
Nguồn CS1 tiếng Pháp (fr)
|
19849352
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/RB%20Formula%20One%20Team
|
RB Formula One Team
|
Racing Bulls S.p.A, thi đấu với tư cách là Visa Cash App RB Formula One Team (viết tắt là VCARB), là một đội đua Công thức 1 của Ý bắt đầu tham gia và thi đấu kể từ năm 2024. Cùng với Red Bull Racing, RB Formula One Team là một trong hai đội đua Công thức 1 thuộc sở hữu của tập đoàn Red Bull GmbH của Áo. Được biết đến với tên gọi cũ là Scuderia AlphaTauri từ mùa giải 2020 đến 2023, đội được đổi tên thành RB Formula One Team cho mùa giải 2024. Các tay đua hiện tại của đội là Daniel Ricciardo và Yuki Tsunoda và lãnh đội là Laurent Mekies.
Lịch sử
Nguồn gốc
RB Formula One Team bắt nguồn từ Minardi. Minardi từng thi đấu ở Công thức 1 từ năm 1985 đến năm 2005 trước khi được Red Bull mua lại vào năm 2006 để trở thành đội chị em với Red Bull Racing. Từ năm 2006 đến 2019, đội thi đấu với tên gọi "Scuderia Toro Rosso" và được biết đến là đội đua đào tạo và phát triển những tay đua tài năng Red Bull trong tương lai, chẳng hạn như cựu tay đua Công thức 1 và nhà vô địch thế giới bốn lần người Đức Sebastian Vettel, tay đua Scuderia Ferrari hiện tại Carlos Sainz Jr., và đương kim vô địch thế giới và nhà vô địch thế giới ba lần Max Verstappen. Ngoài ra, tay đua hiện tại là Daniel Ricciardo đã từng thi đấu cho Toro Rosso từ năm 2012 đến năm 2013.
Vào năm 2020, Toro Rosso được đổi tên thành "AlphaTauri" để quảng bá thương hiệu thời trang AlphaTauri của Red Bull. Theo Franz Tost và Helmut Marko, việc thay đổi tên đội đua thành Scuderia AlphaTauri cũng đã xác nhận việc nâng cấp từ đội cấp dưới của Red Bull Racing lên thành đội chị em của Red Bull Racing.
Scuderia AlphaTauri đã được đổi tên thành "Visa Cash App RB Formula 1 Team" (viết tắt là VCARB) cho mùa giải 2024. Sau đó, tên gọi mới này bị người hâm mộ và giới truyền thông chỉ trích nặng nề. Edd Straw của The Race nói rằng tên gọi này là "tên đội tệ nhất trong lịch sử Công thức 1" và "nỗi xấu hổ đối với Red Bull và Công thức 1 nói chung", cho rằng cái tên "RB" thiếu "cá tính, bản sắc và tham vọng", có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với Red Bull Racing và tồn tại chỉ để buộc các nhà tài trợ được nhắc đến thường xuyên hơn.
Sử dụng động cơ Honda RBPT (2024–nay)
RB Formula One Team sẽ tham gia Giải đua xe Công thức 1 2024 cùng với các tay đua Daniel Ricciardo và Yuki Tsunoda. Đội sẽ tiếp tục sử dụng động cơ Honda-RBPT, động cơ mà đội vốn đã sử dụng kể từ năm 2018 khi còn thi đấu với tên gọi Scuderia Toro Rosso.
Sử dụng động cơ mang huy hiệu Ford (2026 trở đi)
Sau khi đội chị em Red Bull Racing chuyển đổi nhà cung cấp và đối tác bộ nguồn của Red Bull Ford Powertrains, RB Formula One Team cũng sẽ làm theo việc đối tác và Red Bull Ford Powertrains chính thức cung cấp động cơ từ mùa giải 2026 đến 2030.
Thống kê kết quả
Thống kê tổng thể
Chú thích:
* – Mùa giải đang diễn ra.
Tất cả các tay đua của RB Formula One Team
Chú thích
Các tay đua hiện tại đua cho đội được hiển thị bằng màu vàng.
Thống kê kết quả chi tiết
Chú thích
* – Mùa giải đang diễn ra.
Chú thích cho bảng trên
Tham khảo
Đội đua RB Formula One Team
Đội đua Công thức 1
Đội đua Công thức 1 Ý
Thành lập năm 2024
Thành lập năm 2024 ở Ý
Red Bull
|
19849356
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20Baux
|
Nhà Baux
|
Nhà Baux là một gia đình quý tộc Pháp đến từ miền Nam nước Pháp. Đó là một trong những gia đình giàu có và quyền lực nhất ở Provence thời trung cổ, được gọi là 'Race d'Aiglon'. Họ là những lãnh chúa độc lập với tư cách là người cai quản của Les Baux và Arles và nắm giữ quyền lực rất đáng kể ở cấp địa phương. Họ nắm giữ những thái ấp quan trọng và những vùng đất rộng lớn, bao gồm cả Thân vương quốc Orange.
Trong tiếng Pháp cổ: baux (và trong tiếng Provençal-Occitan, li baou) có nghĩa là 'vách đá, dốc đứng'. Khi sử dụng làm tên gia tộc, nó dùng để chỉ pháo đài tự nhiên nơi gia đình xây dựng, Château des Baux và ngôi làng bao quanh nó. Vách đá cung cấp một thung lũng núi để bảo vệ nguồn cung cấp thực phẩm của họ; sườn núi tự nhiên của dãy Alpilles cho phép kiểm soát tất cả các đường tiếp cận thành Les Baux-de-Provence và vùng nông thôn xung quanh, bao gồm cả đường lên và xuống sông Rhone, cũng như các đường tiếp cận từ Địa Trung Hải. Cùng với nhau, những lợi thế tự nhiên này đã khiến pháo đài không thể dễ dàng bị phá vỡ bởi kỹ thuật quân sự thời đó.
Gia tộc Baux ngày nay vẫn còn thịnh vượng ở Napoli với tư cách là một số gia đình quý tộc có nguồn gốc từ những người con trai nhỏ theo Charles xứ Anjou về phía Nam. Đặc biệt từ Bertrand, Lãnh chúa xứ Baux và Thân vương xứ Oranje, đã tạo ra ba nhánh của gia tộc, đã chuyển đến miền Nam nước Ý, tạo ra các nhánh Ý hóa Orsini del Balzo của các Bá tước xứ Avellino, Công tước xứ Andria và Thân vương xứ Taranto.
Sau cái chết của Alix des Baux, vị quân chủ có chủ quyền cuối cùng của Baux, lâu đài và thị trấn đã bị René xứ Anjou chiếm giữ, người đã trao chúng cho người vợ thứ hai của mình,Vương hậu Jeanne xứ Laval. Khi Provence được thống nhất với vương quyền, gần 150 năm sau có các thống đốc hoàng gia, bao gồm các lãnh chúa, các bá tước và thân vương. Les Baux trở thành trung tâm của đạo Tin Lành. Cuộc nổi dậy chống lại vương miện không thành công đã khiến Hồng y Richelieu ra lệnh phá bỏ lâu đài và các bức tường của nó vào năm 1632. Điều này đã được thực hiện với sự hỗ trợ của pháo binh.
Tham khảo
Thư mục
Nguồn từ Vicomtes de Marseille
Édouard Baratier, Ernest Hildesheimer et Georges Duby, Atlas historique...
and the table of Henry de Gérin-Ricard, Actes concernant les vicomtes de Marseille et leurs descendants...
Nguồn: Ancestors of the Lords of Baux section
Phả hệ
Georges de Manteyer, La Provence du premier au douzième siècle, études d'histoire et de géographie... (1908),
Juigné de Lassigny, Généalogie des vicomtes de Marseille...,
Fernand Cortez, Les grands officiers royaux de Provence au moyen-âge listes chronologiques...,
Papon, de Louis Moréri, du marquis de Forbin, Monographie de la terre et du château de Saint-Marcel, près Marseille: du Xe au XIXe siècle... ("Monograph of the land and the castle of Saint-Marcel, near Marseille, from the tenth to the nineteenth century ..."), Marseille, 1888
J. Berge, Origines rectifiées des maisons féodales Comtes de Provence, Princes d'Orange ..., France-Riviera, 1952
Poly, Jean-Pierre, La Provence et la société féodale (879-1166), Paris: Bordas, 1976,
Jacques Saillot, Le Sang de Charlemagne...
Nguồn: Simplified family tree section
Phả hệ
Gioacchino del Balzo di Presenzano, http://www.delbalzo.net/genealogia2.htm GENEALOGY Maison del Balzo/des Baux extensive bibliographyG.Noblemaire, Histoire de la Maison des Baux, Parigi: 1912 and 1975
J.Dunbabin, Charles I of Anjou, London/New York: 1998
E.Leonard,Les Angevins de Naples, Paris: 1954
Almanach of Gotha, 1888-1943
F. Mazel,La Noblesse et l'Eglise en ProvenceFin X – debut XIV siecle, L'Exemple des familles d'Agoult-Simiane, des Baux et de Marseilles, CTHS – Paris: 2002
H.Aliquot et R.Merceron,Armorial d'Avignon et Du Comtat Venaissin'', Avignon:1987
Cambridge Medieval History, Volumes I – IX, Cambridge: 1911
Cambridge Medieval History, Vol II, III, IV, Revised Edition 1996 -2003
Cambridge Modern History, Volumes I-XII, Cambridge: 1962-63
Liên kết ngoài
GENEALOGY Maison del Balzo/des Baux by Gioacchino del Balzo with extensive bibliography
Grand Armorial du Comtat Venaissin by Jean Gallian
History of Les Baux en Provence
Nhà Baux
Thân vương xứ Oranje
Bouches-du-Rhône
|
19849359
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B4%20h%C3%ACnh%20Keynes
|
Mô hình Keynes
|
Mô hình Keynes thể hiện các ý tưởng trung tâm trong Lý thuyết chung về Việc làm, Lãi suất và Tiền tệ của Keynes. Nó lần đầu tiên xuất hiện như một phần trung tâm của lý thuyết kinh tế vĩ mô khi được Paul Samuelson giảng dạy trong sách giáo khoa Kinh tế: Phân tích giới thiệu của ông. Mô hình (chéo) Keynes thể hiện tổng thu nhập (là Y trên trục hoành) và tổng chi tiêu dự kiến hoặc tổng chi tiêu (được dán nhãn là AD trên trục tung).
Tổng quan
Trong Mô hình Keynes, đường màu xanh dốc lên thể hiện tổng chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ của tất cả các hộ gia đình và doanh nghiệp, được tính thông qua một hàm số với biến số là thu nhập của họ. Đường 45 độ biểu thị đường Tổng Cung, thể hiện ý tưởng rằng, miễn là nền kinh tế đang hoạt động ở mức ít hơn mức toàn dụng lao động thì bất cứ thứ gì có cầu đều sẽ được cung cấp. Tổng chi tiêu và tổng thu nhập được đo bằng cách chia giá trị bằng tiền của tất cả hàng hóa được sản xuất trong nền kinh tế trong một năm nhất định chia cho chỉ số giá. Cấu trúc kết quả được gọi là Tổng sản phẩm quốc nội thực tế .
Tổng tất cả các khoản thu nhập kiếm được trong nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định bằng với tổng của tất cả các khoản chi tiêu, một đẳng thức có được từ Mô hình dòng thu nhập tuần hoàn . Nhưng không phải tất cả các khoản chi tiêu đều được lên kế hoạch. Ví dụ: nếu một nhà máy ô tô sản xuất 1.000 ô tô nhưng không phải tất cả đều được bán thì số ô tô chưa bán được sẽ được coi là đầu tư hàng tồn kho trong tài khoản GDP. Thu nhập mà những người sản xuất ra những chiếc ô tô đó kiếm được là một phần của tổng thu nhập và giá trị của tất cả ô tô được sản xuất là một phần của tổng chi tiêu. Nhưng chỉ có giá trị của những chiếc xe được bán mới là một phần của tổng chi tiêu theo kế hoạch.
Trong biểu đồ, mức thu nhập và chi tiêu cân bằng được xác định khi đường tổng cầu cắt đường 45 độ. Tại thời điểm này không có sự tích lũy hàng tồn kho ngoài ý muốn. Điểm cân bằng được ký hiệu là Y . Theo các giả định về các yếu tố quyết định tổng chi tiêu, đường AD phẳng hơn đường 45 độ và mức thu nhập cân bằng Y , là ổn định. Nếu thu nhập nhỏ hơn Y , tổng chi tiêu vượt quá tổng thu nhập và các doanh nghiệp sẽ thấy rằng hàng tồn kho của họ đang giảm. Họ sẽ thuê thêm công nhân và thu nhập sẽ tăng lên gây ra sự dịch chuyển về phía Y . Ngược lại, nếu thu nhập lớn hơn Y , tổng chi tiêu nhỏ hơn tổng thu nhập và các doanh nghiệp sẽ thấy rằng hàng tồn kho đang tăng lên. Họ sẽ sa thải công nhân và thu nhập sẽ giảm. Y là mức thu nhập duy nhất mà tại đó các doanh nghiệp không mong muốn thay đổi số lượng lao động mà họ tuyển dụng.
Tổng việc làm được xác định bởi nhu cầu lao động khi các công ty thuê hoặc sa thải công nhân để tuyển đủ lao động nhằm sản xuất hàng hóa được yêu cầu để đáp ứng tổng chi tiêu. Trong lý thuyết kinh tế Keynes, trạng thái cân bằng thường được giả định xảy ra khi có ít hơn mức toàn dụng lao động, một giả định được chứng minh bằng cách viện dẫn mối liên hệ thực nghiệm giữa việc làm và sản lượng được gọi là Định luật Okun.
Tổng chi tiêu có thể được chia thành bốn phần thành phần. Chúng bao gồm chi tiêu tiêu dùng C, chi tiêu đầu tư theo kế hoạch I p, chi tiêu chính phủ cho hàng hóa và dịch vụ G và xuất khẩu trừ nhập khẩu, NX . Trong cách trình bày đơn giản nhất của lý thuyết Keynes, nền kinh tế được giả định là tự cung tự cấp (ngụ ý rằng NX = 0), và đầu tư theo kế hoạch là ngoại sinh và được quyết định bởi động lực của các nhà đầu tư. Tiêu dùng là một hàm affine của thu nhập, C = a + bY trong đó hệ số độ dốc b được gọi là Xu hướng tiêu dùng cận biên . Nếu bất kỳ thành phần nào của tổng cầu, a, Ip hoặc G tăng lên, với một mức thu nhập Y nhất định, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển lên trên và giao điểm của đường AD với đường 45 độ sẽ dịch chuyển sang phải. Tương tự, nếu bất kỳ thành phần nào trong ba thành phần này giảm xuống, đường AD sẽ dịch chuyển xuống và giao điểm của đường AD với đường 45 độ sẽ dịch chuyển sang trái. Trong cuốn Lý thuyết tổng quát, Keynes giải thích Cuộc Đại suy thoái là sự dịch chuyển xuống dưới của đường AD do mất niềm tin kinh doanh và sụp đổ trong kế hoạch đầu tư.
Quá trình hình thành
Mô hình của Keynes là sự đơn giản hóa các ý tưởng có trong bốn chương đầu tiên của Lý thuyết tổng quát . Nó khác ở một số điểm đáng kể so với công thức ban đầu. Trong công thức ban đầu, Keynes đã hình dung ra một cặp hàm mà ông gọi là hàm tổng cầu và hàm tổng cung. Nhưng không giống như công thức trong sách giáo khoa của Samuelson, đây không phải là mối quan hệ giữa tổng chi tiêu thực và tổng thu nhập thực. Chúng được dự tính là mối quan hệ kết nối GDP và khối lượng việc làm. Keynes đã dành hẳn một chương trong cuốn Lý thuyết tổng quát, chương 4, để nói về việc lựa chọn đơn vị. Trong cuốn sách, ông chỉ sử dụng hai đơn vị: đơn vị tiền và giờ lao động. GDP có thể được đo lường rõ ràng bằng các đơn vị tiền tệ như đô la hoặc euro, nhưng chúng ta không thể cộng hàng tấn thép với kg cam. Keynes thừa nhận rằng lao động không đồng nhất, nhưng ông đề xuất giải quyết vấn đề đó bằng cách lập luận rằng nếu một bác sĩ phẫu thuật não được trả lương cao gấp mười lần so với một người thu gom rác thì bác sĩ phẫu thuật não đó đang cung cấp số "đơn vị lao động hiệu quả" gấp mười lần. Cách xây dựng này dẫn đến một công thức đo lường GDP khác có thể được xây dựng bằng cách chia giá trị đồng đô la của tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong một năm nhất định cho thước đo tiền lương.
Ban đầu của kinh tế học Keynes trong cuốn Lý thuyết tổng quát, Keynes đã từ bỏ khái niệm cổ điển rằng cung và cầu lao động luôn bằng nhau và thay vào đó, ông chỉ đơn giản loại bỏ đường cung lao động khỏi phân tích của mình. Sự thất bại của Keynes trong việc cung cấp một nền tảng vi mô thay thế cho lý thuyết của ông đã dẫn đến sự bất đồng về nền tảng của Kinh tế học Keynes.
Các giả định
Mô hình Keynes tạo ra trạng thái cân bằng căn cứ theo một số giả định. Đầu tiên, đường AD (màu xanh) dốc lên. Đường AD được giả định là dốc lên vì sự gia tăng sản lượng quốc gia sẽ dẫn đến sự gia tăng thu nhập khả dụng và do đó làm tăng tiêu dùng, tạo nên một phần của tổng cầu. Thứ hai, đường AD được giả định là có khởi điểm trục tung lớn hơn 0. Đường AD phải có khởi điểm dương để cắt đường 45 độ AD=Y. Nếu các đường không cắt nhau thì không có trạng thái cân bằng và không thể xác định được sản lượng cân bằng. Đường AD sẽ có khởi điểm dương miễn là luôn có nhu cầu nhất định - từ Chi tiêu của người tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu ròng hoặc chi tiêu của chính phủ - ngay cả khi không có sản lượng quốc gia. Độ dốc của đường AD dốc hơn khi giá trị số nhân cao hơn.
Xem thêm
Mô hình AD-AS
Mô hình IS–LM
Liên kết ngoài
Keynesian Cross bao gồm một applet thể hiện Keynesian Cross và cách nó phản ứng với những thay đổi trong các tham số cơ bản
Sơ đồ chéo Keynes của Fiona Maclachlan, Dự án trình diễn Wolfram .
Câu đố của tôi dành cho những người theo chủ nghĩa Keynes của Wannabee , Cửa sổ kinh tế của Roger Farmer .
Chú thích
|
19849363
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7ng%20H%C3%B9ng%20%28sinh%20n%C4%83m%201936%29
|
Đặng Hùng (sinh năm 1936)
|
Đặng Hùng, với nghệ danh Đặng Phải hay Bồng Sơn (ngày 4 tháng 12 năm 1936 – ngày 8 tháng 5 năm 2022) là nghệ sĩ múa người Việt Nam, ông tham gia lĩnh vực này với các vai trò từ diễn viên múa, biên đạo, nhà nghiên cứu và giảng viên.
Thuở thiếu thời
Đặng Hùng sinh ngày 4 tháng 12 năm 1936 tại Bồng Sơn, Hoài Nhơn, Bình Định; gia đình làm nghê may và buôn bán, ông có 8 anh chị em. Ông đã bộc lộ năng khiếu nghệ thuật từ nhỏ, sau khi học hết lớp 4, ông tham lao động hỗ trợ gia đình từ bán hàng đến làm phu xe, ông từng học qua võ thuật và thi đấu boxing. Ông bắt đầu hoạt động văn nghệ lúc 10 tuổi, tham gia du kích lúc 12 tuổi.
Sự nghiệp
Tập kết ra Bắc
Năm 1954, ông trúng tuyển vào Đoàn văn công Liên khu V rồi cùng đoàn tập kết ra Bắc; ngoài việc làm diễn viên, ông còn làm các công việc hậu trường, sau đó được cử đi học lớp phóng thanh với tương lai sẽ ở lại Liên khu. Năm 1958, bộ phận múa của Đoàn văn công được khôi phục, dù không có trong danh sách được chọn, Đặng Hùng vẫn cố gắng để tham gia học lớp đào tạo diễn viên do chuyên gia Triều Tiên - Chu Huệ Đức dạy, không những học tốt, ông còn truyền dạy lại nghệ thuật múa từ tuồng cổ cho lớp học này. Năm 1960, theo học học lớp đại học biên đạo múa dân gian Triều Tiên do chuyên gia Kim Tế Hoàn giảng dạy. Năm 1962, ông tốt nghiệp. Ngoài ra, với thể nghiểm đầu tiên của mình với hệ thống múa cổ truyền trên nền tảng nghệ thuật tuồng, Đặng Hùng còn đoạt huy chương vàng tại Liên hoan múa quốc tế ở Helsinki, Phần Lan với vở Tuần đuốc, tại liên hoan múa ở Sofia, Bulgaria với vở Con ngựa bất kham. Tác phẩm Con ngựa bất kham do ông vừa biên đạo vừa độc diễn, còn Tuần đuốc hiện đang được xếp vào loại hình múa di sản của quốc gia và có trong chương trình giảng dạy của Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh. Bài múa Chàprông cùng với Phiên chợ Chàm/Champa và Những cô gái Tháp Chàm là những tiết mục thường xuyên được biểu diễn của Đoàn Ca Múa nhân dân Miền Nam lúc bấy giờ. Riêng tiết mục Phiên chợ Chàm còn được Đoàn ca múa nhạc Bông Sen tiếp tục sử dụng cho đến những năm 1980.
Công tác tại miền Nam
Đầu năm 1964, sau khi kết thúc đợt diễn văn nghệ tại Campuchia, ông xin được về công tác tại chiến trường miền Nam và được phân về Đoàn Ca múa miền Nam. Vì sức khỏe không bảo đảm nên nguyện vọng đi B của ông không thực hiện được. Từ năm 1964 đến 1967, Nhà nước cử ông sang nghiên cứu múa dân gian tại Trung Quốc. Từ năm 1968 đến năm 1969, Đặng Hùng tham gia nhiều sự kiện giao lưu văn nghệ tại 6 quốc gia, giúp ông tích lũy thêm kiến thức và kinh nghiệm. Sau đó ông là thành viên đoàn chuyên gia nghệ thuật của Việt Nam được cử sang giúp đỡ nước bạn Lào, từ năm 1969 đến 1973. Năm 1974, Đặng Hùng được phân công làm công tác đạo nghệ thuật cho Đoàn nghệ thuật tổng hợp tại chiến trường Đông Hà, Quảng Trị.
Sau năm 1975
Sau năm 1975, ông được điều từ Đoàn ca múa miền Nam về Khu 6 và sau đó về tăng cường tại tỉnh Thuận Hải, xây dựng Đoàn ca múa kịch nhân dân Thuận Hải. Ban đầu lệnh điều động ông về đây làm việc trong 3 năm nhưng sau này được kéo dài thành 17 năm. Thời gian này, ông giữ vai trò Phó trưởng đoàn - Chỉ đạo nghệ thuật, ông đã nghiên cứu, sưu tầm chất liệu dân gian các dân tộc khu vực Nam Trung bộ như Raglai, Cơ Ho, Khmer, Chăm để sáng tạo hơn 30 tác phẩm múa dân gian. Tác phẩm Múa trống Paranưng và Múa quạt của ông được biểu diễn phục vụ cho chuyến bay vào vũ trụ của Phạm Tuân và Gorobatco.
Năm 1981, Đặng Hùng được cử sang Bulgaria học thêm nghệ thuật múa đương đại. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn học nghệ thuật Thuận Hải nhiệm kỳ I (từ 1986 đến 1993). Năm 1992, tỉnh Thuận Hải tách thành Bình Thuận và Ninh Thuận, ông xin về thành phố Hồ Chí Minh công tác. Tại đây, từ năm 1992 đến 1996, Đặng Hùng là nghiên cứu viên cao cấp của Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1999, Hội diễn Ca Múa Nhạc chuyên nghiệp toàn quốc tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, đã có 12 trong số 14 tác phẩm của ông tham dự hội diễn đã đạt giải. Trong đó có 1 huy chương vàng chương trình, 01 huy chương vàng Kịch múa, 10 vở múa khác giành được huy chương bạc. Ông cũng nhận được một phần thưởng từ Quỹ phát triển văn hóa Việt Nam – Thụy Điển. Năm 2006, ông nghỉ hưu để tập trung giảng dạy, nghiên cứu và sáng tác.
Sơ lược về sự nghiệp
Trong suốt sự nghiệp, Đặng Hùng xây dựng và sáng tác cho 59 đơn vị nghệ thuật tại Việt Nam với tổng số trên 300 tác phẩm múa, bốn vở kịch thuộc các thể loại khác nhau: múa đơn, múa đôi, múa tập thể, kịch múa. Đặng Hùng đã có được khoảng 80 giải thưởng nghệ thuật, trong đó có 46 tác phẩm được huy chương vàng, 35 tác phẩm được huy chương bạc và 1 huy chương vàng kịch hát mới.
Đặng Hùng từng giữ các chức vụ và vai trò: Trưởng Đoàn ca múa kịch nhân dân Thuận Hải; Ủy viên Hội đồng lý luận phê bình Văn học nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh; Ủy viên Ban lý luận phê bình văn học nghệ thuật Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Thuận Hải khóa II và khóa IV; Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội Nghệ sĩ múa Thành phố; Phó Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội Nghệ sĩ múa Việt Nam. Ông từ làm giám khảo Liên hoan nghệ thuật múa Thành phố Hồ Chí Minh lần 3 năm 2011.
Đời tư
Vợ ông là Nguyễn Thị Mười, từng là học trò của ông, bà Mười từng là giảng viên Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh.
Giải thưởng
Khen thưởng
Huân chương Lao động hạng I (1998)
Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng II.
Huy chương Chiến sĩ văn hóa.
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng II.
Huân chương Hữu nghị của Chính phủ Campuchia.
Huân chương nghệ thuật Chính phủ Campuchia.
Huy chương hữu nghị của Chính phủ Lào.
Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (2021).
Giải thưởng
Huy chương vàng quốc tế tại Helsinki
Huy chương vàng quốc tế tại Sofia
2 Huy chương Vàng liên hoan múa quốc tế
41 Huy chương Vàng quốc gia
32 Huy chương Bạc quốc gia
21 Giải thưởng của Hội Nghệ sĩ múa Việt Nam
Ngoài ra, Đặng Hùng được tặng thưởng Bằng khen của Thủ tướng, của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, của tỉnh Bình Thuận và Thành phố Hồ Chí Minh.
Danh hiệu
Đặng Hùng được phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú vào đợt I năm 1984 và Nghệ sĩ nhân dân vào đợt III năm 1993.
Đánh giá
Ông Lê Nguyên Hiều - Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Múa thành phố Hồ Chí Minh - từng nhận xét:
Tác phẩm
Sự kiện: Tổng đạo diễn dàn dựng các chương trình: Lễ hội Quy Nhơn 396 năm, Lễ hội đón thiên niên kỉ mới, Lễ hội kỉ niệm 210 năm, 215 năm Đống Đa – Tây Sơn
Ấn bản: Bước đầu tìm hiểu múa cung đình Chăm (1998), Phương pháp sáng tác múa (2001)
Múa: Phiên chợ Chàm (1966), Những cô gái Tháp Chàm (1968).
Múa: Tuần đuốc (múa đôi), Con ngựa bất kham (múa đơn), Hương sen ngày tết, Cánh cung nửa vầng trăng, Vui mùa thốt nốt, Khát vọng, Múa quạt, Đọa pụ (đội nước), Chiếc khăn Maom, Trống Paranưng, Roi, Khát vọng, Ước mơ, Niềm tin, Quà tặng em, Khúc nhạc rừng, Đi tìm thần Shiva, Vui lao động, Vũ khúc Raglai, Lời chào của biển, Chúng em vui, Mùa cá quê hương, Tình biển, Niềm vui thủy thủ, Óng ánh tơ vàng, Được mùa nghêu, Mùa trái chín, Mùa nước nổi,...
Vũ kịch: Lửa tình yêu, Nàng Amara, Sự tích Chol Chnam Thmay,...
Tham khảo
Người Bình Định
Biên đạo múa Việt Nam
Nghệ sĩ múa Việt Nam
Nghệ sĩ nhân dân Việt Nam
Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam
Người nhận giải thưởng Hồ Chí Minh
|
19849365
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A1ch%20V%C3%A2n%20Kh%C3%B4ng%20%C4%90%E1%BB%99
|
Bạch Vân Không Độ
|
Bạch Vân Không Độ (zh. 白雲智度 Baiyun Zhidu, 1 tháng 1 năm 1304 – 5 tháng 4 năm 1370), còn gọi là Bạch Vân Trí Độ, là Thiền sư Trung Quốc cuối đời Nguyên và đầu đời Minh, thuộc thế hệ thứ 20 tông Lâm Tế, thuộc phái Dương Kỳ và dòng Đoạn Kiều.
Sư họ Ngô, quê ở vùng Lệ Thủy, tỉnh Chiết Giang, mẹ là Diệp Thị. Năm 15 tuổi, Sư lễ Thiền sư Không Trung Giả ở Chùa Thiền Trí cầu xuất gia và thọ giới Cụ Túc. Sư chuyên tâm tu thiền, thực hành rất quyết liệt, bất kể lúc nào, nơi nào, ba năm Sư chẳng hề ngủ nghỉ. Sau Sư dựng Phúc Lâm Viện ở núi Bạch Vân để làm nơi tu tập và cần mẫn thâm nhập các Kinh Lăng Nghiêm, Viên Giác.
Trong quá trình tham học cầu pháp, Sư từng đến yết kiến nhiều vị Thiền sư nổi danh đương thời như Linh Nham Chi, Đoạn Nhai Nghĩa và đại ngộ dưới tòa của Thiền sư Vô Kiến Tiên Đổ sau 20 năm kể từ ngày bắt đầu học Thiền và được ấn khả. Kế đến sư yết kiến Thiền sư Vô Phương Phổ, Tiểu Ấn Đại Hân và được các vị này xác nhận đã đạt được ý chỉ sâu xa của Thiền tông. Niên hiệu Chí Chính thứ 4 (1344), Sư quay về Viện Phúc Lâm và cùng với vị Thiền tăng khác như Độc Chủng Đàm, Thành Sơn ngày đêm sách tấn lẫn nhau tiến tu, sợ rằng lui sụt đạo nghiệp.
Sau thời gian bảo nhậm công phu, sư bắt đầu khai pháp tại chùa này. Không lâu sau Sư lên núi Thiên Thai thăm Thiền sư Vô Kiến Tiên Đổ và nhận được truyền pháp. Sau khi tiên sư Tiên Đổ thị tịch, sư kế tiếp trụ trì chùa Hoa Đỉnh.
Năm thứ 24 (1364) niên hiệu Chí Chính, Sư được mời đến trụ trì Phổ Từ Tự, người học đến tham vấn có lúc lên đến 800 người.
Năm thứ 26 (1366) niên hiệu Chí Chính, Sư trụ trì tại Vũ Phong Tự.
Sư bình thường ít nói, nếu có người đến hỏi đạo thì Sư đem kinh nghiệm tu hành và chứng đạo của bản thân ra để chỉ dạy người. Sư cũng cấm đệ tử không được sưu tập hay ghi chép lại các lời thuyết dạy của sư nhưng có một vị tăng đã lén nhớ những bài pháp mà ông nghe được từ Sư và biên soạn thành sách. Từ sư đã đào tạo được một số đệ tử xuất gia ngộ được ý chỉ Thiền.
Năm Hồng Vũ thứ hai (1369), Vua Chu Nguyên Chương triệu tập các danh tăng trong thiên hạ về Kinh để tổ chức pháp sự. Sư tham dự xong thì trở về Hổ Bào rồi đến Hoa Đỉnh. Tháng hai năm này Sư có chút bệnh nên lại trở về Phúc Lâm. Đến ngày 5 tháng 4 năm 1370, Sư tắm rửa sạch sẽ, thay y phục, rồi viết kệ rằng:
Không có thế gian để từ
Không có môn đồ để biệt
Trong hư không rộng lớn
Đâu cần phải đóng cọc.
Viết kệ xong, Sư ném bút rồi thị tịch, thọ 67 tuổi, hạ lạp 52 năm. Đệ tử làm lễ trà tỳ thu nhặt được xá lợi năm màu, răng và tràng hạt vẫn còn nguyên không bị cháy. Môn đồ cất đình, xây tháp thờ xá lợi của sư ở phía Tây của chùa.
Nguồn tham khảo
Thiền sư Trung Quốc
Lâm Tế tông
|
19849366
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tobata%2C%20Kitaky%C5%ABsh%C5%AB
|
Tobata, Kitakyūshū
|
là quận thuộc thành phố Kitakyūshū, tỉnh Fukuoka, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của quận là 57.494 người và mật độ dân số là 3.500 người/km2. Tổng diện tích của quận là 16,61 km2.
Tham khảo
Quận của thành phố Kitakyūshū
|
19849367
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kokuraminami%2C%20Kitaky%C5%ABsh%C5%AB
|
Kokuraminami, Kitakyūshū
|
là quận thuộc thành phố Kitakyūshū, tỉnh Fukuoka, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của quận là 209.028 người và mật độ dân số là 1.200 người/km2. Tổng diện tích của quận là 171,5 km2.
Tham khảo
Quận của thành phố Kitakyūshū
|
19849368
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yahatahigashi%2C%20Kitaky%C5%ABsh%C5%AB
|
Yahatahigashi, Kitakyūshū
|
là quận thuộc thành phố Kitakyūshū, tỉnh Fukuoka, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của quận là 64.792 người và mật độ dân số là 1.800 người/km2. Tổng diện tích của quận là 36,26 km2.
Tham khảo
Quận của thành phố Kitakyūshū
|
19849371
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yahatanishi%2C%20Kitaky%C5%ABsh%C5%AB
|
Yahatanishi, Kitakyūshū
|
là quận thuộc thành phố Kitakyūshū, tỉnh Fukuoka, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của quận là 249.933 người và mật độ dân số là 3.000 người/km2. Tổng diện tích của quận là 83,13 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Quận của thành phố Kitakyūshū
|
19849372
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99p
|
Hộp
|
Hộp (Box) là một vật chứa đựng được thiết kế sử dụng để lưu trữ hoặc vận chuyển đồ bên trong nó. Hầu hết các loại hộp đều có các cạnh phẳng, song song, hình chữ nhật (thường là hình lăng trụ chữ nhật). Hộp có thể rất nhỏ (như hộp diêm) hoặc rất lớn (như thùng vận chuyển đồ nội thất) và có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, từ chức năng đến trang trí. Việc phát minh ra Container vận chuyển đa phương thức vở lớn bằng thép đã góp phần thúc đẩy toàn cầu hóa thương mại.
Tổng quan
Hộp có thể được làm từ nhiều loại vật liệu, vừa bền (chẳng hạn như gỗ và kim loại) vừa không bền (chẳng hạn như tấm sợi sóng và bìa các-tông, hay hộp giấy). Hộp kim loại dạng sóng thường được sử dụng làm thùng vận chuyển. Hộp có thể đóng mở bằng nắp, cửa hoặc nắp riêng. Chúng có thể được đóng chặt bằng chất kết dính, băng dính hoặc các cơ chế trang trí hoặc chức năng phức tạp hơn, chẳng hạn như chốt, móc hoặc khóa. Tùy thuộc vào ngôn ngữ và cách sử dụng, các thuật ngữ các-tông (Carton) và hộp/thùng đôi khi được sử dụng thay thế cho nhau. Tệp dạng hộp (Box file) được sử dụng trong văn phòng để lưu trữ giấy tờ và các tệp nhỏ hơn. Hộp hít (Snuff box) được làm với hai kích cỡ-hộp bỏ túi và hộp đựng chung được làm để sử dụng trên bàn. Hộp bỏ túi thường được làm để chứa một lượng nhỏ thuốc hít để tiêu thụ ngay - thường dùng cho một hoặc hai ngày. Một số trong số này được chế tạo và trang trí công phu, giàu chi tiết và được làm từ vật liệu quý hoặc đắt tiền như vàng, bạc và ngà voi và thường được trang trí bằng các tác phẩm nghệ thuật, kim khí quý và đá quý.
Chú thích
Tham khảo
Soroka, W, "Fundamentals of Packaging Technology", IoPP, 2002,
Yam, K. L., "Encyclopedia of Packaging Technology", John Wiley & Sons, 2009,
Snowman, A. Kenneth (1966). Eighteenth Century Gold Boxes of Europe, Faber & Faber.
Vật dụng
|
19849373
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leopold%20V%2C%20%C4%90%E1%BA%A1i%20c%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20%C3%81o
|
Leopold V, Đại công tước Áo
|
Leopold V, Đại công tước của Ngoại Áo (9 tháng 10 năm 1586 - 13 tháng 9 năm 1632) là con trai của Karl II, Đại công tước Áo, và là em trai của Hoàng đế Ferdinand II của Thánh chế La Mã, cha của Ferdinand Karl, Đại công tước của Áo. Ban đầu, ông là một giáo sĩ Công giáo La Mã, trở thành Giám mục vương quyền xứ Passau và xứ Strasbourg, cho đến khi từ chức để kết hôn, và nhận tước hiệu Đại công tước của Ngoại Áo bao gồm cả Bá quốc Tyrol.
Vợ của ông là Claudia de' Medici thuộc Nhà Medici, chủ nhân của Đại công quốc Toscana, bà là con gái út của Ferdinando I de' Medici.
Tham khảo
Sinh năm 1586
Mất năm 1632
Đại công tước Áo thế kỷ 17
Bá tước xứ Tyrol
Huân chương Lông cừu vàng
Giám mục vương quyền
|
19849375
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wicked%20%28phim%202024%29
|
Wicked (phim 2024)
|
Wicked (hay còn được gọi là Wicked: Phần Một) là bộ phim kỳ ảo nhạc kịch được đạo diễn bởi Jon M. Chu với kịch bản do Winnie Holzman và Stephen Schwartz chấp bút. Đây là phần đầu tiên của chuỗi phim hai phần được chuyển thể từ vở nhạc kịch Wicked của Holzman và Schwartz dựa trên tiểu thuyết Wicked: The Life and Times of the Wicked Witch of the Wes năm 1995 của Gregory Maguire và các nhân vật từ tiểu thuyết Phù thủy xứ Oz năm 1990 của L. Frank Baum cũng như là bộ phim chuyển thể cùng tên năm 1939. Phim sẽ có sự tham gia của hai diễn viên chính Cynthia Erivo và Ariana Grande bên cạnh những nhân vật phụ khác do Jonathan Bailey, Ethan Slater, Jeff Goldblum và Dương Tử Quỳnh thủ vai. Bộ phim sẽ lấy bổi cảnh tại Vùng đất Oz xoay quanh nhân vật Elphaba, một người phụ nữ có làn da màu xanh và cách cô khám phá ra con đường để bản thân trở thành Phù thủy ác phương Tây.
Diễn viên
Cynthia Erivo thủ vai Elphaba Thropp, một người phụ nữ trẻ được sinh ra với làn xanh màu xanh mà sau này sẽ trở thành thành Phù thủy ác phương Tây.
Ariana Grande thủ vai Glinda Upland, một người phụ nữ trẻ nổi bật mà sau này sẽ trở thành Phù thủy tốt phương Bắc.
Jonathan Bailey thủ vai Fiyero Tigelaar, Hoàng tử Winkie, người mà Elphaba và Glinda gặp gỡ tại trường.
Jeff Goldblum thủ vai Phù thủy xứ Oz.
Ethan Slater thủ vai Boq, một người Munchkin mang lòng yêu Glinda.
Michelle Yeoh thủ vai Quý bà Morrible, hiệu trưởng của Đại học Shiz.
Marissa Bode thủ vai Nessarose Thropp, cô em gái nhỏ của Elphaba, người yêu của Boq và sau này sẽ trở thành Phù thủy ác phương Đông.
Bowen Yang thủ vai Pfannee, bạn thời đại học của Glinda.
Bronwyn James thủ vai ShenShen, bạn thời đại học của Glinda.
Keala Settle thủ vai Cô Coddle, một nhân vật mới được tạo ra cho phim.
Aaron Teoh thủ vai Averic, bạn của Fiyero.
Colin Michael Carmichael thủ vai Giáo sư Nikidik, một giáo sư tại Đại học Shiz.
Adam James thủ vai Cha của Glinda, một nhân vật mới được tạo ra cho phim.
Hậu truyện
Ban đầu, phần phim được thông báo sẽ là một bộ phim điện ảnh, tuy nhiên đến tháng 4 năm 2022, bộ phim chính thức được xác nhận sẽ chia ra làm hai phần phim chính. Phần hầu truyện là Wicked: Phần Hai được dự kiến sẽ công chiếu vào ngày 26 tháng 11, 2025 trước khi bị thay đổi sang ngày 25 tháng 12, 2025 sau đó.
Chú thích
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim thập niên 2020
Phim Mỹ
Phim tiếng Anh
Phim nhạc kịch
Phim kỳ ảo
Phim kỳ ảo nhạc kịch
Phim sử thi của Mỹ
Phim kỳ ảo ca nhạc Mỹ
Phim về động vật
Phim về ảo thuật và các ảo thuật gia
Phim dựa trên tiểu thuyết Mỹ
Phim do Jon M. Chu đạo diễn
Phim bị hoãn do đại dịch COVID-19
Phim quay tại Buckinghamshire
Phim quay tại Vương quốc Liên hiệp Anh
Phim có cả phần người đóng và hoạt hình
Phim kỳ ảo ca nhạc
Phim của Universal Pictures
|
19849376
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7ng%20H%C3%B9ng%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Đặng Hùng (định hướng)
|
Đặng Hùng có thể là:
Đặng Hùng (1936 – 2022), Nghệ sĩ Nhân dân, biên đạo múa Việt Nam
Đặng Văn Hùng (1958 – ) Nghệ sĩ Nhân dân, vũ công Việt Nam, Giám đốc Nhà hát Bông sen
Đặng Văn Hùng (1956 –) Nghệ sĩ Nhân dân, nhà soạn nhạc, Đại tá quân đội thuộc Nhà hát Quân đội Việt Nam
Đặng Vũ Hiệp (1928 – 2008), bí danh Đặng Hùng, Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
|
19849377
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mufasa%3A%20The%20Lion%20King
|
Mufasa: The Lion King
|
Mufasa: The Lion King là bộ phim chính kịch nhạc kịch được đạo diễn bởi Barry Jenkins với kịch bản được chấp bút Jeff Nathanson, do Walt Disney Pictures và Pastel Productions sản xuất. Đây sẽ là một bộ phim hậu truyện live-action theo phong cách chủ nghĩa mô phỏng ảnh chụp CGI tương tự như phiên bản năm 2019 và phần phim gốc năm 1994, Vua sư tử. Phim sẽ có sự tham gia trở lại của Seth Rogen, Billy Eichner và John Kani trong các vai diễn cũ từ phần phim trước bên cạnh sự xuất hiện mới của Aaron Pierre và Kelvin Harrison Jr., lần lượt trong các vai là phiên bản trẻ của Vua Mufasa và người em trai nhỏ của anh là Scar.
Lồng tiếng
Aaron Pierre lồng tiếng vai Mufasa
Kelvin Harrison Jr. lồng tiếng vai Scar
Seth Rogen lồng tiếng vai Pumbaa
Billy Eichner lồng tiếng vai Timon
John Kani lồng tiếng vai Rafiki
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim tiếng Anh
Phim thập niên 2020
Phim nhạc kịch
Phim chính kịch
Phim nhạc kịch chính kịch
|
19849378
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Palworld
|
Palworld
|
là một trò chơi điện tử hành động-phiêu lưu sinh tồn của nhà phát triển Nhật Bản Pocket Pair. Bối cảnh của trò chơi được đặt trong một thế giới mở với các sinh vật được gọi là "Pal". Người chơi có thể chiến đấu và thu phục Pal và sử dụng chúng trong việc xây căn cứ, di chuyển và giao tranh. Palworld có thể chơi một mình, hoặc trực tuyến lên đến 32 người chơi trong một server. Được công bố vào năm 2021, trò chơi mở truy cập sớm cho Windows, Xbox One, và Xbox Series X/S vào tháng 1 năm 2024.
Nội dung cốt lõi hài hước của trò chơi, với súng đạn và những Pal được trang bị súng, đã đem lại biệt danh "Pokémon cầm súng" cho Palworld. Những yếu tố khác, như dùng những sinh vật đặc biệt này làm đồ ăn hay cho chúng làm việc trong mỏ quặng và nhà máy cũng gây được sự chú ý. Trò chơi nhìn chung nhận được phản hồi tốt, với những lời khen dành cho lối chơi, nội dung và cốt lõi châm biếm, nhưng bị chỉ trích bởi sự dựa dẫm vào sự hài hước gây shock cũng như những cơ chế và thiết kế không nguyên bản.
Palworld đã bán được tám triệu đơn vị trong sáu ngày đầu mở truy cập sớm và đạt hơn hai triệu người chơi cùng lúc trên Steam, trở thành trò chơi được chơi nhiều thứ hai ở trên nền tảng.
Lối chơi
Trong Palworld, người chơi sẽ điều khiển một nhân vật có thể chỉnh sửa từ góc nhìn thứ ba với mục tiêu khám phá Quần đảo Palpagos và tìm ra những bí mật của thế giới mở này Người chơi cần phải quản lý nuhwnxg chỉ số cá nhân, chế tạo công cụ, thu nhặt vật phẩm và xây căn cứ như là những điểm di chuyển nhanh. Những đồ vật ở trong trò chơi như vũ khí, công trình hay đồ trang trí sẽ được mở khóa thông qua hệ thống cây công nghệ.
Quần đảo là nơi sinh sống của hơn 100 sinh vật được gọi là Pal. Người chơi sẽ trực tiếp chiến đấu với chúng để làm suy yếu và thu phục những sinh vật này bằng cách sử dụng "Pal Spheres" (Cầu Pal). Pal cũng có thể được mua từ chợ đen thông qua những nhân vật không phải người chơi hoặc trao đổi với các người chơi khác. Sau khi thu phục được Pal, chúng có thể được gọi ra để chiến đấu, hoặc túc trực ở căn cứ và hỗ trợ những công việc như thu nhặt, xây dựng, nấu ăn, v.v., tùy thuộc vào hệ của chúng. Mỗi Pal có một Partner Skill (kỹ năng đồng hành), cho người chơi khả năng tận dụng chúng làm vũ khí hoặc phương tiện di chuyển.
Trò chơi có nhiều thế lực phản diện, như hội Rayne Syndicate, một phong trào giải phóng Pal, và lực lượng bảo vệ quần đảo, được dẫn đầu bởi những người huấn luyện Pal hùng mạnh sống ở trong những ngọn tháp trải đều trên quần đảo và là các trùm chính của game.
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trò chơi phiêu lưu hành động
Trò chơi điện tử early access
Trò chơi điện tử độc lập
Trò chơi điện tử một người chơi và nhiều người chơi
Trò chơi điện tử thế giới mở
Trò chơi điện tử khoa học viễn tưởng
Trò chơi điện tử sinh tồn
Trò chơi điện tử sắp ra mắt
Tranh cãi trò chơi điện tử
Trò chơi điện tử phát triển ở Nhật Bản
Trò chơi điện tử tùy chọn giới tính nhân vật chính
Trò chơi trên Windows
Trò chơi Xbox One
Trò chơi Xbox Series X và Series S
|
19849381
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nosferatu%20%28phim%202024%29
|
Nosferatu (phim 2024)
|
Nosferatu là bộ phim kinh dị phong cách gothic được đạo diễn và biên kịch bởi Robert Eggers, với sự tham gia của Bill Skarsgård trong vai diễn nhân vật ma cà rồng tiêu đề. Tiếp nối bộ phim Nosferatu the Vampyre (1979), đây chính là phần phim thứ hai được làm lại từ bộ phim cùng tên của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức năm 1922 của đạo diễn Henrik Galeen từ kịch bản do F. W. Murnau chấp bút và được xem như là một phiên bản chuyển thể "trái phép và không chính thức" của tiểu thuyết Dracula năm 1897 của nhà văn Bram Stoker.
Tiên đề
Diễn viên
Bill Skarsgård thủ vai Bá tước Orlok
Nicholas Hoult thủ vai Thomas Hutter
Lily-Rose Depp thủ vai Ellen Hutter
Aaron Taylor-Johnson thủ vai Friedrich Harding
Emma Corrin thủ vai Anna Harding
Willem Dafoe thủ vai Giáo sư Albin Eberhart Von Franz
Simon McBurney thủ vai Herr Knock
Ralph Ineson thủ vai Tiến sĩ Wilhelm Sievers
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim tiếng Anh
Phim thập niên 2020
Phim gothic
Phim kinh dị gothic
Phim kinh dị
Phim lấy bối cảnh ở Đức
Phim của Focus Features
Phim Gothic
|
19849383
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2m%20l%C3%BD%20ch%E1%BB%91ng%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20T%C3%A2y
|
Tâm lý chống phương Tây
|
Tâm lý chống phương Tây (Anti-Western sentiment) hay Nỗi sợ phương Tây (Westernophobia) đề cập đến sự phản đối, thiên vị thành kiến hoặc thù địch, bài xích trên diện rộng đối với người Tây Dương (người da trắng), văn hóa phương Tây hoặc các chính sách của thế giới phương Tây. Tâm lý bài bác này được nhận thấy trên toàn thế giới. Tâm lý bài phương Tây thường bắt nguồn từ chống chủ nghĩa đế quốc và sự chỉ trích chủ nghĩa thực dân đối với những gì họ đã hành xử với những thuộc địa trong quá khứ của các cường quốc phương Tây.
Dẫn luận
Ở Trung Đông, Chủ nghĩa liên Ả Rập và Chủ nghĩa Hồi giáo góp phần hình thành thái độ chống phương Tây. Các phong trào Thánh chiến (Jihad) với các nhóm như al-Qaeda và Nhà nước Hồi giáo (IS) coi các nước phương Tây là mục tiêu của khủng bố do nhận thấy những lời lẽ xúc phạm chống lại Hồi giáo và can thiệp quân sự vào các quốc gia Hồi giáo. Ở Châu Phi, những nhân vật như Patrice Lumumba và Mobutu Sese Seko đổ lỗi cho phương Tây về chủ nghĩa đế quốc ở khu vực sông Congo. Ở Ethiopia, sự phẫn nộ về chính trị nội bộ và giải quyết xung đột trong chiến tranh Tigray đã dẫn đến tâm lý chống phương Tây. Nhiều nước Mỹ Latinh thường ném ra những lời chỉ trích do sự can thiệp lịch sử của Mỹ và châu Âu. Ở châu Á đã chứng kiến tâm lý chống phương Tây ngày càng gia tăng kể từ những năm 1990, đặc biệt là ở Trung Quốc. Những bất bình trong lịch sử, chẳng hạn như "Bách niên quốc sỉ" (nỗi nhục trăm năm) góp phần làm tăng thêm sự nghi ngờ về động cơ của phương Tây. Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua "Chiến dịch giáo dục lòng yêu nước" đã làm tăng thêm thái độ này, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Ở Nga, tâm lý chống phương Tây đã được nhiều người tán thành. Các nhà lãnh đạo Nga có truyền thống bác bỏ chủ nghĩa tự do của phương Tây mà họ coi là mối đe dọa đối với quyền bá chủ của Nga trong khu vực.
Hiện tượng này thường trở nên trầm trọng hơn do ảnh hưởng từ các sự kiện đương thời. Trong những thập kỷ gần đây, cảm giác chống phương Tây đã được thúc đẩy từ các yếu tố như Chiến tranh Iraq, hỗ trợ cho Israel và các lệnh trừng phạt đối với các quốc gia như Iran. Trong nhiều trường hợp hiện đại, thái độ chống phương Tây được thúc đẩy từ tâm lý chống chủ nghĩa chống đế quốc, đặc biệt là chống lại các quốc gia được coi là có tội vì là di sản tội ác của Chủ nghĩa thực dân từ quá khứ và hiện tại, chẳng hạn như Đức, Vương quốc Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tâm lý chống phương Tây xảy ra ở nhiều nước, bao gồm cả phương Tây, đặc biệt là Mỹ và các quốc gia Châu Âu (Tây Âu). Tâm lý chống phương Tây trên diện rộng cũng tồn tại trong thế giới Hồi giáo chống lại người châu Âu và người Mỹ. Thái độ chống Mỹ bắt nguồn từ Sự hỗ trợ của Hoa Kỳ dành cho Israel, cuộc xâm lược Iraq năm 2003 và nhiều lệnh trừng phạt chống lại Iran. Samuel P. Huntington lập luận rằng sau Chiến tranh Lạnh, xung đột quốc tế về hệ tư tưởng kinh tế sẽ được thay thế bằng xung đột về sự khác biệt văn hóa.
Chú thích
Phương Tây
Phong trào
Chủ nghĩa bài Mỹ
Tâm lý bài châu Âu
|
19849384
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/The%20Lord%20of%20the%20Rings%3A%20The%20War%20of%20the%20Rohirrim
|
The Lord of the Rings: The War of the Rohirrim
|
The Lord of the Rings: The War of the Rohirrim là bộ phim hoạt hình kỳ ảo được đạo diễn bởi Kenji Kamiyama với kịch bản do Phoebe Gittins và Arty Papageorgiou chấp bút dựa trên câu chuyện được kể trong phụ lục từ tiểu thuyết Chúa tể những chiếc nhẫn của J. R. R. Tolkien. Phim sẽ được sản xuất bởi Warner Bros. Animation và New Line Cinema với công đoạn sản xuất hoạt hình do hãng Sola Entertainment đảm nhận. Đây là phần tiền truyện được lấy bối cảnh vào 261 năm trước các sự kiện xảy ra trong phần phim Chúa tể những chiếc nhẫn: Hai tòa tháp (2002), phim sẽ có sự tham gia lồng tiếng của Brian Cox trong vai Helm Hammerhand, một vị Vua huyền thoại của Rohan. Ngoài ra, phim cũng có sự tham gia của Miranda Otto, cô sẽ tiếp tục lồng tiếng vai diễn Éowyn từ chuỗi ba phim Chúa tể của những chiếc nhẫn bản người đóng.
The Lord of the Rings: The War of the Rohirrim sẽ được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 13 tháng 12, 2024 bởi Warner Bros. Pictures.
Tiền đề
Lấy bối cảnh 261 năm trước các sự kiện xảy ra trong Chúa tể những chiếc nhẫn: Hai tòa tháp, The War of the Rohirrim sẽ là câu chuyện xoay quanh Helm Hammerhand, vị Vua huyền thoại của Rohan, người sẽ đứng lên chống lại đoàn quân của Dunlendings. Và cái tên của anh chính đã được đặt cho thành trì Helm's Deep.
Lồng tiếng
Brian Cox lồng tiếng vai Helm Hammerhand
Miranda Otto lồng tiếng vai Éowyn
Gaia Wise lồng tiếng vai Hera
Luke Pasqualino lồng tiếng vai Wulf
Laurence Ubong Williams lồng tiếng vai Fréaláf Hildeson
Shaun Dooley lồng tiếng vai Freca
Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của Lorraine Ashbourne, Yazdan Qafouri, Benjamin Wainwright, Michael Wildman, Jude Akuwudike, Bilal Hasna và Janine Duvitski trong các vai diễn chưa được tiết lộ.
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim thập niên 2020
Phim tiếng Anh
Phim kỳ ảo
Phim Mỹ thập niên 2020
Phim Nhật Bản thập niên 2020
Hoạt hình phương Tây bị anime ảnh hưởng
Phim hoạt hình kỳ ảo Nhật Bản
Phim hoạt hình hãng Warner Bros. Animation
Phim hoạt hình hãng Warner Bros.
Phim của Warner Bros.
|
19849387
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Creature%20Commandos%20%28phim%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%29
|
Creature Commandos (phim truyền hình)
|
Creature Commandos là bộ phim truyền hình hoạt hình người lớn dựa trên một nhóm nhân vật cùng tên của DC Comics. Phim được sản xuất bởi DC Studios và Warner Bros. Animation, và là phần phim truyền hình đầu tiên của Vũ trụ DC (DCU) đồng thời cũng là bộ phim đầu tiên của loạt phim. Bộ phim sẽ tập trung vào một nhóm quái vật tập hợp cùng nhau để hoạt động ngầm và được lãnh đạo bởi Amanda Waller. Bảy tập phim sẽ được chấp bút bởi James Gunn.
Tiền đề
Bộ phim sẽ xoay quanh một nhóm các quái vật hoạt động ngầm được tập hợp vvafl ãnh đạo bởi Amanda Waller với tên gọi là Creature Commandos.
Diễn viên
Frank Grillo lồng tiếng vai Rick Flag Sr.: Thủ lĩnh của nhóm Creature Commandos và là cha của Rick Flag Jr, trưởng nhóm của Biệt đội cảm tử
Maria Bakalova lồng tiếng vai Công chúa Ilana Rostovic
Indira Varma lồng tiếng vai the Bride of Frankenstein: Một thành viên của nhóm Creature Commandos
Zoë Chao lồng tiếng vai Nina Mazursky: Một thành viên của nhóm Creature Commandos và là nhà khoa học về loài lưỡng cư
Alan Tudyk lồng tiếng vai Doctor Phosphorus: Một thành viên của nhóm Creature Commandos và mang trong mình một lượng phóng xạ vĩnh viễn
David Harbour lồng tiếng vai Eric Frankenstein: Một thành viên của nhóm Creature Commandos và là hình mẫu lý tưởng của Bride. Harbour đã mô tả nhân vật này là "vô cùng sặc sỡ" và chia sẻ đây là một bộ phim truyền hình "cực kỳ hài hước".
Sean Gunn lồng tiếng vai
G.I. Robot:Một thành viên của nhóm Creature Commandos và là một người máy được lập trình để tiêu diệt Đức Quốc xã
Weasel: Một thành viên của nhóm Creature Commandos và Biệt đội cảm tử. Gunn sẽ tiếp tục thủ vai nhân vật này từ phần phim Suicide Squad: Điệp vụ cảm tử (2021), và chia sẻ rằng câu truyện đằng sau của nhân vật Weasel sẽ được khám phá trong bộ phim truyền hình này.
Steve Agee lồng tiếng vai John Economos: Một đặc vụ A.R.G.U.S. và là trợ lý của Amanda Waller. Agee cũng sẽ tiếp tục thủ vai diễn này từ phần phim Suicide Squad: Điệp vụ cảm tử và Peacemaker (2022–nay)
Ngoài ra, phim còn có sự tham gia trở lại của Viola Davis trong vai Amanda Waller từ các phần phim thuộc DCEU trước. Anya Chalotra cũng sẽ lồng tiếng vai nhân vật Circe trong phim.
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim Mỹ
Phim thập niên 2020
Phim tiếng Anh
Phim truyền hình Mỹ
|
19849396
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bridgerton%20%28phim%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%29
|
Bridgerton (phim truyền hình)
|
Bridgerton là bộ phim truyền hình trực tuyến thuộc thể loại lịch sử giả tưởng-lãng mạn được sáng lập bởi Chris Van Dusen cho nền tảng Netflix. Bộ phim được dựa trên loạt tiểu thuyết cùng tên của Julia Quinn và cũng là chương trình đầu tiên có kịch bản của Shondaland cho Netflix. Bộ phim sẽ là hành trình xoay quanh một gia tộc hư cấu trong bối cảnh Thời kỳ Nhiếp chính tại Luân Đôn, trong mùa lễ hội vào đầu thập niên 1800 nơi mà các công tử và tiểu thư thuộc tầng lớp quý tộc và tiểu quý tộc tìm hiểu, kết hôn với nhau để tạo lập mối quan hệ ở tầng lớp thượng lưu.
Mùa đầu tiên của loạt phim được ra mắt lần đầu vào ngày 25 tháng 12, 2020. Và mùa thứ hai cũng được công chiếu vào ngày 25 tháng 3, 2022. Riêng mùa thứ ba sẽ được chia làm hai phần chính; với phần đầu tiên phát hành vào ngày 16 tháng 5, 2024 và sau đó, phần thứ hai sẽ được lên sóng vào ngày 13 tháng 6, 2024.
Mùa thứ hai đã xác lập được kỷ lục về số lượng người xem, vượt qua số lượng người xem của mùa đầu tiên, đã củng cố Bridgerton như một thương hiệu truyền thông theo lời của Entertainment Weekly. Vào tháng 4 năm 2021, mùa thứ tư cũng đã được xác nhận sẽ sản xuất. Vào tháng 5 năm 2023, Vương hậu Charlotte: Câu chuyện Bridgeton đã được công chiếu, phần ngoại truyện này sẽ tập trung vào nhân vật Vương hậu Charlotte từ Bridgeton
Nguồn
Liên kết ngoài
Official season 2 premiere screenplay
Chương trình truyền hình Mỹ
Chương trình truyền hình Netflix
|
19849399
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1%20s%E1%BB%A5p%20%C4%91%E1%BB%95%20c%E1%BB%A7a%20d%C3%B2ng%20h%E1%BB%8D%20Usher%20%28ch%C6%B0%C6%A1ng%20tr%C3%ACnh%20ng%E1%BA%AFn%20t%E1%BA%ADp%29
|
Sự sụp đổ của dòng họ Usher (chương trình ngắn tập)
|
Sự sụp đổ của dòng họ Usher (tên tiếng Anh: The Fall of the House of Usher) là bộ chương trình truyền hình ngắn tập trực tuyến thuộc thể loại chính kịch và kinh dị phong cách gothic, được sáng lập bởi Mike Flanagan. Tất cả 8 tập phim đều được phát hành trên nền tảng Netflix vào ngày 12 tháng 10, 2023 và được lần lượt xen kẽ đạo diễn bởi Flanagan hoặc Michael Fimognari, người sau này cũng đảm nhận vai trò quay phim chính cho toàn bộ chuỗi phim.
Diễn viên
Nhân vật chính
Carla Gugino thủ vai Vern
Bruce Greenwood và Zach Gilford thủ vai Roderick Usher
Graham Verchere thủ vai Roderick Usher lúc thiếu niên
Lincoln Russo thủ vai Roderick Usher lúc thiếu nhi
Mary McDonnell và Willa Fitzgerald thủ vai Madeline Usher
Lulu Wilson thủ vai Madeline Usher lúc thiếu niên
Kate Whiddington thủ vai Madeline Usher lúc thiếu nhi
Henry Thomas thủ vai Frederick Usher
William Kosovic thủ vai Frederick Usher lúc thiếu nhi
Kate Siegel thủ vai Camille L'Espanaye
Samantha Sloyan thủ vai Tamerlane Usher
T'Nia Miller thủ vai Victorine LaFourcade
Michael Trucco thủ vai Rufus Griswold
Katie Parker thủ vai Annabel Lee
Sauriyan Sapkota thủ vai Prospero "Perry" Usher
Matt Biedel thủ vai William "Bill-T" Wilson
Crystal Balint thủ vai Morella Usher
Ruth Codd thủ vai Juno Usher
Kyliegh Curran thủ vai Lenore Usher
Carl Lumbly thủ vai C. Auguste Dupin
Malcolm Goodwin thủ vai C. Auguste Dupin lúc trẻ
Mark Hamill thủ vai Arthur Gordon Pym
Nhân vật phụ
Paola Nuñez thủ vai Tiến sĩ Alessandra "Ali" Ruiz,
Igby Rigney thủ vai Toby
Aya Furukawa thủ vai Beth "Tina"
Daniel Jun thủ vai Julius
Nicholas Lea thủ vai Thẩm phán John Neal
Khách mời đặc biệt
Annabeth Gish thủ vai Eliza Usher
Robert Longstreet thủ vai William Longfellow
Sarah-Jane Redmond thủ vai Bà Longfellow
Molly C. Quinn thủ vai Jenny
JayR Tinaco thủ vai Faraj
Alex Essoe thủ vai Nhân chứng tòa án trong vụ án Dòng họ Usher
Nguồn
Liên kết ngoài
Chương trình truyền hình Mỹ
Chương trình truyền hình Netflix
Chương trình truyền hình năm 2023
|
19849400
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1%20tr%E1%BB%8B%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20T%C3%A2y
|
Giá trị phương Tây
|
Giá trị phương Tây (Western values) là một tập hợp các giá trị gắn liền với thế giới phương Tây với đặc trưng là thường thừa nhận tầm quan trọng của một thứ văn hóa cá nhân và đề cao quyền tự do cá nhân. Ban đầu, giá trị Tây phương thường được coi là có liên quan đến các giá trị Do Thái-Cơ Đốc giáo, mặc dù kể từ thế kỷ 20, giá trị phương Tây thường gắn liền với các khía cạnh chính trị xã hội khác của phương Tây, chẳng hạn như chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, chủ nghĩa nữ quyền, dân chủ tự do và di sản của cuộc cách mạng tình dục.
Dẫn luận
Các giá trị phương Tây đã được áp dụng phổ quát trong lịch sử trên khắp toàn cầu thế giới phần lớn là do sự cai trị của chủ nghĩa thực dân và được hấp thụ do sự thống trị hậu thuộc địa của phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng trong diễn ngôn xung quanh và sự biện minh về những hiện tượng này như là sứ mệnh khai sáng văn minh. Điều này đã gây ra một số phản đối đối với các giá trị phương Tây (tâm lý chống phương Tây) và thúc đẩy việc tìm kiếm các giá trị thay thế ở một số quốc gia, mặc dù một số người cho rằng các giá trị phương Tây đã củng cố nỗ lực cải thiện tình hình nhân quyền của các dân tộc ngoài phương Tây. và có tính chất toàn cầu hơn thường được giả định.
Chiến tranh thế giới buộc phương Tây phải tự xem lại mình về việc áp đặt các giá trị của mình cho chính mình, vì chiến tranh nội bộ và sự trỗi dậy của Đức Quốc xã ở Châu Âu, những kẻ công khai phản đối các giá trị phương Tây, đã làm suy yếu những giá trị này rất nhiều; sau Chiến tranh thế giới thứ hai và sự khởi đầu của kỷ nguyên hậu thuộc địa, các thể chế toàn cầu như Liên hợp quốc được thành lập trên cơ sở các giá trị phương Tây. Các giá trị phương Tây đã được sử dụng để giải thích nhiều hiện tượng liên quan đến sự thống trị và thành công toàn cầu của phương Tây, chẳng hạn như sự xuất hiện của khoa học và công nghệ hiện đại. Chúng đã được phổ biến khắp thế giới thông qua một số phương tiện, chẳng hạn như thông qua sự lan truyền của thể thao phương Tây. Sự ngưỡng mộ, sùng cuồng (Cult following), tôn thờ và chạy theo giá trị phương Tây ở cấp độ toàn cầu mà các giá trị phương Tây nắm giữ đã được một số người coi là dẫn đến sự mai một của các nền văn hóa và giá trị phi phương Tây.
Chú thích
Văn hóa phương Tây
Xã hội học
|
19849413
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Truy%E1%BB%81n%20th%C3%B4ng%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20T%C3%A2y
|
Truyền thông phương Tây
|
Truyền thông phương Tây (Western media) là phương tiện truyền thông đại chúng của thế giới phương Tây. Trong Chiến tranh Lạnh, truyền thông phương Tây đối lập với truyền thông Liên Xô. Phương tiện truyền thông phương Tây đã dần dần mở rộng sang các nước đang phát triển (thường là các nước không thuộc khối phương Tây) trên khắp thế giới. Tổ chức Phóng viên không biên giới của phương Tây đã đưa ra Chỉ số tự do báo chí trong đó chấm điểm cao nhất cho các quốc gia phương Tây trong năm 2018 như Na Uy, Thụy Điển, Hà Lan, Phần Lan, Thụy Sĩ, Jamaica, Bỉ, New Zealand, Đan Mạch và Costa Rica. Vào năm 2014, UNESCO cũng đã báo cáo cho rằng "quyền tự do xuất bản ở 27 quốc gia thuộc khu vực Tây Âu và Bắc Mỹ vẫn được duy trì thường xuyên".
Nguồn gốc của các phương tiện truyền thông phương Tây có thể bắt nguồn từ cuối thế kỷ XV, khi báo in bắt đầu hoạt động trên khắp Tây Âu. Sự xuất hiện của tin tức truyền thông vào thế kỷ XVII phải được coi là có mối liên hệ chặt chẽ với sự lan rộng của báo in, từ đó hình thành nên định nghĩa của xuất bản báo chí. Ở Anh, lĩnh vực báo chí phát triển trong thời kỳ biến động chính trị thách thức sự cai trị tuyệt đối của chế độ quân chủ Anh. Năm 1641, báo chí lần đầu tiên được phép xuất bản tin tức trong nước. Bất chấp sự kiểm soát chặt chẽ của giới tinh hoa chính trị đối với báo in nhằm hạn chế sự mở rộng của báo chí, ngành in ấn vẫn tiếp tục phát triển. Vào cuối thế kỷ XVIII, chỉ riêng ở Anh đã có hơn 10 triệu tờ báo được phân phát hàng năm.
Tác động
Bosah Ebo viết rằng: "trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ và Liên Xô đã tiến hành một chính sách ngoại giao truyền thông mạnh mẽ nhằm tạo ra hình ảnh của nhau trên bình diện quốc tế". Đài Tiếng nói Hoa Kỳ và Đài Châu Âu Tự do được Hoa Kỳ thành lập để đối lập với các phương tiện truyền thông do khối cộng sản toàn trị ở Khối phía Đông. Học giả James Schwoch viết: "Chương trình và sự phát triển truyền hình lấy cảm hứng từ phương Tây trong Chiến tranh Lạnh ở Đức và Châu Âu bắt đầu không hẳn là trường hợp của luồng thông tin tự do không bị cản trở từ Tây sang Đông, mà là một đối trọng mạnh mẽ ngăn cản, hoặc ngăn cản, Dòng chảy đầu tiên của bối cảnh truyền hình châu Âu có nguồn gốc từ Liên Xô".
Trong Chiến tranh Lạnh, các phương tiện truyền thông phương Tây dần dần được chấp nhận như một nguồn tin tức đáng tin cậy. Ở Đông Đức trước đây, các cuộc khảo sát tử phương Tây cho thấy hơn 91% người di cư từ phía Đông Đức sang nhận thấy các phương tiện truyền thông phương Tây đáng tin cậy hơn các phương tiện truyền thông ở Đông Đức. Biên tập viên Tariq Ali của New Left Review khẳng định rằng "khái niệm về báo chí tự do trên các phương tiện truyền thông phương Tây trong thế kỷ XX đã phát triển như một sự đối lập với mô hình độc quyền của Nhà nước của Liên Xô trước đây với mục đích thể hiện sự vượt trội của mình bằng cách đáp ứng sự đa dạng của các tiếng nói. Xét về những gì nó đăng tải và những gì nó thể hiện, các phương tiện truyền thông phương Tây đã đạt đến tột đỉnh trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh".
Mức độ đưa tin về nhân quyền toàn cầu đã tăng lên trên các phương tiện truyền thông của Global North từ năm 1985 đến năm 2000. Phân tích hồi quy về báo cáo nhân quyền của các tạp chí tin tức The Economist và Newsweek nhận thấy rằng "hai nguồn truyền thông này đưa tin về các hành vi vi phạm nhân quyền thường xuyên hơn khi chúng xảy ra ở các quốc gia có mức độ đàn áp nhà nước, phát triển kinh tế, dân số và sự chú ý của Tổ chức Ân xá Quốc tế cao hơn. Ngoài ra còn có một số bằng chứng cho thấy sự cởi mở về chính trị, số người chết vì chiến tranh và xã hội dân sự ảnh hưởng đến việc đưa tin, mặc dù những tác động này không mạnh mẽ". Năm 2008, một phân tích thực nghiệm về tác động của việc "réo tên và bôi nhọ" các chính phủ được cho là có vi phạm nhân quyền (từ các cơ quan truyền thông cũng như chính phủ và tổ chức phi chính phủ) cho thấy rằng "các chính phủ nhìn nhận việc chú ý đến các hành vi vi phạm thường áp dụng các biện pháp bảo vệ tốt hơn cho các quyền chính trị sau đó, nhưng chúng hiếm khi ngăn chặn hoặc có vẻ làm giảm bớt các hành động khủng bố". Nghiên cứu của phương Tây cũng cho thấy rằng: "Ở một số nơi, dư luận toàn cầu kéo theo nhiều đàn áp hơn trong thời gian ngắn, làm trầm trọng thêm sự bất an của các nhà lãnh đạo và thúc đẩy họ sử dụng hành vi có tính khủng bố, đặc biệt là khi các nhóm đối lập có vũ trang hoặc các cuộc bầu cử đe dọa quyền lực và sự độc quyền, độc tài của họ".
Chú thích
Truyền thông
Truyền thông tin tức
Văn hóa phương Tây
|
19849417
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%82u%202024%20%28B%E1%BA%A3ng%20A%29
|
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 (Bảng A)
|
Bảng A của Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 sẽ diễn ra từ ngày 14 đến ngày 23 tháng 6 năm 2024. Bảng này bao gồm nước chủ nhà Đức, Scotland, Hungary và Thụy Sĩ.
Các đội tuyển
Ghi chú
Bảng xếp hạng
Ở vòng 16 đội.
Đội đứng đầu bảng A sẽ gặp đội đứng thứ hai bảng C
Đội đứng thứ hai bảng A sẽ gặp đội đứng thứ hai bảng B
Đội đứng thứ ba bảng A có thể gặp đội đứng đầu bảng B, bảng E hoặc bảng F
Các trận đấu
Đức v Scotland
Hungary v Thuỵ Sĩ
Đức v Hungary
Scotland v Thuỵ Sĩ
Thuỵ Sĩ v Đức
Scotland v Hungary
Liên kết ngoài
Tham khảo
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024
|
19849438
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Komering
|
Người Komering
|
Người Komering (; Komering: Jolma Kumoring) là một dân tộc sống dọc theo Sông Komering ở tỉnh Nam Sumatra.
Bộ tộc Komering là một nhóm dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Lampung, xuất phát từ Kepaksian Sekala Brak ở Lampung. Có khoảng 530,000 người Komering trải rộng khắp Indonesia, thường xuất hiện dọc theo sông Komering, đi qua các khu vực như; huyện East Ogan Komering Ulu, Ogan Komering Ilir, và South Ogan Komering Ulu thuộc tỉnh Nam Sumatra.
Ngữ gốc
Nhìn chung, tên "Komering" được lấy từ một nhánh của sông Musi, tức là sông Komering, cho thấy rằng khu vực này là lãnh thổ của người Komering. Như cũng được viết bởi Zawawi Kamil (Menggali Babad & Sedjarah Lampung), nó được đề cập trong bài thơ bằng ngôn ngữ Komering Minanga;
Dịch sang tiếng Việt
Văn hóa
Nhà cửa và Kiến trúc
Hầu hết người Komering sống trong những căn nhà gọi là nhà chống đỡ, những ngôi nhà này phù hợp với điều kiện địa lý nơi người Komering đang sinh sống. Thông thường, những ngôi nhà chống đỡ này được gọi là Rumah Ulu hay nhà ulu.
Đặc điểm của ngôi nhà này là:
1. Thường những trụ nhà này khá cao, hoặc cao hơn 1 mét.
2. Có mái tam giác hoặc hình hộp cầu, đôi khi còn giống như một hình chóp.
3. Có một phòng trung tâm (kakudan và haluan), sân thượng hoặc (garang), phòng ngủ, cầu thang (ijan), và nhà bếp (pawon).
4. Khu vực dưới nhà thường được sử dụng làm kho hàng, hoặc nơi để lưu trữ củi và sản phẩm nông nghiệp, đôi khi còn xây các chuồng thú ở đây. Trong văn hóa hiện đại, điều này không còn được sử dụng nữa, người ta thường xây dưới nhà của họ thành một căn phòng mới để nhà có hai tầng.
5. Đối với những ngôi nhà ulu cổ (lambahan bahari), cửa sổ (rawang tingkap) thường được làm bằng gỗ, trong khi ngày nay thường sử dụng kính. Lý do là vì gỗ thường mục nát và có thể bị mối ăn, trong khi sử dụng kính là cách kinh tế và dễ kiếm ở các cửa hàng kính chuyên nghiệp.
6. Thường có một nơi đặc biệt ở góc nhà nơi sàn thường không được làm bằng tấm ván mà được làm bằng dải tre, đây là nơi tắm xác theo cách Hồi giáo. Bởi vì trong quá khứ không có công cụ tắm xác đặc biệt, và không thể nâng hạ xác để chỉ để tắm.
7. Những ngôi nhà ulu cổ thường có kích thước khá lớn, bởi vì nhà này có nhiều chức năng, như các lễ cưới, các buổi tiệc truyền thống và các cuộc họp được tổ chức trong phòng trung tâm (kakudan và haluan).
Ẩm thực và Đặc sản
1. Một món ăn đặc trưng của người Komering là Sambal Jok-jok, một loại tương ớt được làm từ t
ương ớt nước mắm, ớt, đường, muối, cây me và nước cam. Tương ớt này thường ăn kèm với cá nướng, rau sống và cơm ấm.
2. Kasuran, Kasuran là một loại lontong chỉ được cuộn như một chiếc nệm. Kasuran thường được ăn vào dịp lễ Eid al-Fitr và Eid al-Adha.
Ngôn ngữ
Người Komering thường sử dụng ngôn ngữ Komering làm phương tiện giao tiếp trong gia đình, tại trường giáo viên cũng thường dạy bằng ngôn ngữ này, mặc dù Komering không phải là ngôn ngữ chính thức ở trường. Còn khi gặp người ngoài khu vực hoặc khi rời khỏi khu vực, họ sử dụng tiếng Malay Palembang, tiếng Malay Palembang là ngôn ngữ thông dụng ở tỉnh Nam Sumatra. và cũng có những người sử dụng Tiếng Indonesia, thường là những người Komering đã sống ở các thành phố lớn trong thời gian dài.
Tôn giáo
Tôn giáo của người Komering là Hồi giáo. Trước khi Hồi giáo đến, tôn giáo của họ bao gồm Tín ngưỡng Tâm linh, Phật giáo và Đạo Hindu. Hồi giáo được truyền bá bởi những người nhập cư từ Java, và trở nên ngày càng phổ biến dưới thời kỳ của Đế quốc Palembang Darussalam. Trong khi các tôn giáo khác như Kitô giáo cũng được theo đuổi, những tín đồ Kitô giáo Komering chỉ chiếm một phần nhỏ dân số.
Tham khảo
Nhóm sắc tộc ở Indonesia
Người bản địa Đông Nam Á
Nam Sumatra
|
19849443
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20Komering
|
Tiếng Komering
|
Tiếng Komering là một trong những ngôn ngữ bản địa của tỉnh Nam Sumatra, ngôn ngữ này là ngôn ngữ được nói ở khu vực Ogan Komering lớn hơn (Ogan Komering Ilir, Ogan Komering Ulu Timur, Ogan Komering Ulu Selatan và Ogan Komering Ulu), ngôn ngữ này có hai phương ngữ lớn là phương ngữ Ulu và phương ngữ Ilir.
Số lượng người nói khoảng 470.000 người, họ là người Komering. Phương ngữ Komering Ulu được sử dụng phổ biến ở vùng Ogan Komering Ulu, nhiều từ trong phương ngữ này vẫn bắt nguồn từ tiếng Lampung. trong khi Komering Ilir thường được sử dụng ở các khu vực Đông Ogan Komering Ulu và Ogan Komering Ilir, thì từ vựng lại bị ảnh hưởng nhiều hơn từ từ vựng tiếng Mã Lai Palembang.
Tham khảo
Ngôn ngữ tại Indonesia
|
19849445
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i%20M%C3%B9a%20h%C3%A8%202024%20%E2%80%93%20V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Nam
|
Khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè 2024 – Vòng loại Nam
|
Vòng loại nam cho nội dung khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội diễn ra từ tháng 8 năm 2023 đến tháng 1 năm 2024, từ giải đấu này sẽ xác định 12 đội tuyển cho giải đấu chính thức. Tất cả năm liên đoàn khu vực nằm dưới sự quản lý của FIH (Liên đoàn Khúc côn cầu Quốc tế) dự kiến sẽ có đại diện châu lục tham gia nội dung thi đấu khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội.
Nước chủ nhà Pháp đã nhận được một suất tham dự trực tiếp ở giải đấu nam sau khi đạt được vị trí thứ 25 hoặc cao hơn trong bảng xếp hạng khúc côn cầu FIH. Nửa số suất tham dự còn lại sẽ dành cho ba đội dẫn đầu ở mỗi giải tại hai giải đấu Vòng loại Thế vận hội Khúc côn cầu FIH riêng biệt.
Tổng quan
Mười hai đội tuyển sẽ tham gia giải đấu khúc côn cầu trên cỏ dành cho nam, trong đó mỗi Ủy ban Olympic Quốc gia sẽ đưa ra một danh sách bao gồm 16 vận động viên và hai vận động viên dự bị.
Quốc gia chủ nhà
Với tư cách là nước chủ nhà, Pháp đã nhận được một suất trực tiếp tham dự giải đấu nam sau khi họ đạt được vị trí thứ 25 hoặc cao hơn trong bảng xếp hạng khúc côn cầu trên cỏ FIH. Nếu các vận động viên khúc côn cầu người Pháp vô địch tại Giải vô địch EuroHockey 2023, số suất tham dự hai giải đấu sẽ tăng lên bảy, với suất còn lại dành cho đội có thứ hạng cao nhất trong số hai đội tuyển thua trong trận tranh huy chương đồng.
Các giải đấu vòng loại
Đội tuyển giành chiến thắng từ mỗi khu vực trong số năm liên đoàn châu lục (Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Á, Châu Âu và Châu Đại Dương) trong các giải đấu tương ứng được liệt kê dưới đây đã đảm bảo một suất tham dự cho Ủy ban Olympic Quốc gia tương ứng của họ:
Châu Phi – Đại hội Thể thao châu Phi 2023 sau đó được thay thế bằng Vòng loại Thế vận hội khu vực châu Phi 2023
Châu Mỹ – Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023
Châu Á – Đại hội Thể thao châu Á 2022
Châu Âu – Giải vô địch EuroHockey 2023
Châu Đại Dương – Cúp châu Đại Dương 2023
Vòng loại thông quá giải đấu wild card
Nửa còn lại của số lượng suất tham được phân bổ cho 8 đội thông qua hai Giải đấu Vòng loại Thế vận hội FIH () riêng biệt, được tổ chức vào tháng 1 năm 2024. Ba Ủy ban Olympic Quốc gia đủ điều kiện là phải đứng đầu khi kết thúc mỗi giải đấu đã đảm bảo suất để hoàn thành đủ số lượng đội gồm 12 đội cho Thế vận hội Paris 2024. Nếu nước chủ nhà Pháp đã giành chức vô địch Giải vô địch EuroHockey 2023 thì vị trí thứ bảy sẽ có trong OQT để cuối cùng được trao cho người có thứ hạng cao nhất trong số hai đội thua tại trận tranh huy chương đồng vào lúc nửa đêm của ngày cuối cùng tại giải đấu thứ hai.
Vào ngày 28 tháng 9 năm 2023, FIH thông báo rằng Oman sẽ tổ chức một giải đấu vòng loại thay vì Pakistan.
Các đội vượt qua vòng loại
Cúp châu Đại Dương 2023
Giải vô địch EuroHockey 2023
Các đội vượt qua vòng loại
Vòng sơ loại
Bảng A
Bảng B
Vòng chung kết
Thứ hạng cuối cùng
Đại hội Thể thao châu Á 2022
Đội tuyển vượt qua vòng loại
Vòng sơ loại
Bảng A
Bảng B
Vòng tranh huy chương
Bảng xếp hạng cuối cùng
Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023
Các đội vượt qua vòng loại
Vòng sơ loại
Bảng A
Bảng B
Vòng tranh huy chương
Bảng xếp hạng cuối cùng
Vòng loại Thế vận hội khu vực châu Phi 2023
Các đội vượt qua vòng loại
Vòng sơ loại
Bảng A
Bảng B
Vòng tranh huy chương
Bảng xếp hạng cuối cùng
Vòng loại Thế vận hội Khúc côn cầu FIH
Các đội vượt qua vòng loại
Xem thêm
Khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè 2024 – Vòng loại Nữ
Tham khảo
Nam
Vòng loại
Khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè – Vòng loại Nam
|
19849456
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Facundo%20Buonanotte
|
Facundo Buonanotte
|
Facundo Valentín Buonanotte (sinh ngày 23 tháng 12 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ Brighton & Hove Albion tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh và Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina.
Sự nghiệp thi đấu
Rosario Central
Buonanotte là sản phẩm của học viện Rosario Central. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho đội bóng khi vào sân thay người trong trận gặp Arsenal de Sarandí vào ngày 11 tháng 2 năm 2022. Trong trận đấu với Sol de Mayo tại Copa Argentina vào ngày 13 tháng 5 năm 2022, anh đã thực hiện thành công lượt sút luân lưu quyết định của trận đấu. Ngày hôm sau, 14 tháng 5 năm 2022, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Rosario Central. Anh ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên cho đội bóng trong chiến thắng 1–0 trước Sarmiento tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Argentina vào ngày 8 tháng 7 năm 2022.
Brighton & Hove Albion
Vào ngày 1 tháng 1 năm 2023, Buonanotte gia nhập học viện của câu lạc bộ Brighton & Hove Albion tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh với mức phí chuyển nhượng ước tính là 5,3 triệu bảng, cộng thêm 5,3 triệu bảng nếu như đáp ứng mục tiêu. Anh có trận ra mắt cho "Chim mòng biển" vào ngày 4 tháng 2, khi vào sân thay cho Tariq Lamptey ở phút thứ 75 khi Brighton thắng Bournemouth với tỷ số 1-0 nhờ bàn thắng ở phút 87 của Mitoma Kaoru. Buonanotte có trận đá chính cho Brighton vào ngày 28 tháng 2, chơi 69 phút trong chiến thắng 1–0 trên sân khách trước Stoke City tại Cúp FA. Buonanotte tạo ra một pha kiến tạo 4 ngày sau đó, giúp Danny Welbeck lập công trong chiến thắng 4–0 trên sân nhà trước West Ham. Cầu thủ 18 tuổi này có trận đá chính đầu tiên ở Premier League vào ngày 26 tháng 4, nơi anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ, mở tỉ số trong trận thua 1-3 trước Nottingham Forest.
Sự nghiệp quốc tế
Buonanotte được triệu tập lên Đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Argentina tham dự Maurice Revello Tournament 2022 ở Pháp. Vào tháng 1 năm 2023, anh một lần nữa được gọi lên đội U-20 quốc gia chuẩn bị cho Cúp bóng đá U-20 Nam Mỹ 2023.
Vào ngày 3 tháng 3 năm 2023, anh lần đầu tiên được triệu tập lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina cho các trận giao hữu với Panama và Curaçao. Anh có trận ra mắt quốc tế vào ngày 19 tháng 6, trong chiến thắng 2–0 trước Indonesia.
Đời tư
Buonanotte sinh ra ở Argentina, mang 2 quốc tịch Argentina và Ý.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2004
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Argentina
Cầu thủ bóng đá nam Argentina
Cầu thủ bóng đá Argentina ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Argentina ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
Tiền vệ bóng đá
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Rosario Central
Cầu thủ bóng đá Brighton & Hove Albion F.C.
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Argentina
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Argentina
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Argentina
|
19849459
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%82u%202024%20%28B%E1%BA%A3ng%20B%29
|
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 (Bảng B)
|
Bảng B
Các đội tuyển
Ghi chú
Bảng xếp hạng
Ở vòng 16 đội.
Đội đứng đầu bảng B sẽ gặp đội đứng thứ ba của bảng A, bảng D, bảng E hoặc bảng F.
Đội đứng thứ hai bảng B sẽ gặp đội đứng thứ hai của bảng A
Đội đứng thứ ba bảng B có thể gặp đội đứng đầu của bảng E hoặc bảng F
Các trận đấu
Tây Ban Nha v Croatia
Ý v Albania
Croatia v Albania
Tây Ban Nha v Ý
Albania v Tây Ban Nha
Croatia v Ý
Tham khảo
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024
|
19849460
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Callogobius%20sclateri
|
Callogobius sclateri
|
Callogobius sclateri là một loài cá biển thuộc chi Callogobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1879.
Từ nguyên
Từ định danh sclateri không rõ nghĩa, có lẽ được đặt theo Philip L. Sclater (1829–1913), luật sư kiêm nhà động vật học, đồng thời là Thư ký Hiệp hội Động vật học Luân Đôn và là người tiên phong trong lĩnh vực địa lý động vật học.
Phân bố và môi trường sống
Từ Biển Đỏ và Đông Phi, C. sclateri có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Mariana, ngược lên phía bắc tới quần đảo Ryukyu và quần đảo Ogasawara (Nhật Bản), xa về phía nam tới Úc và Polynésie thuộc Pháp. Ở Việt Nam, C. sclateri được ghi nhận tại vịnh Nha Trang.
C. sclateri sống trên nền cát, đá vụn và cả thảm cỏ biển của rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 37 m.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. sclateri là 7 cm. Cá có màu nâu nhạt hoặc trắng, có các vạch sẫm trên cơ thể.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 7.
Tham khảo
S
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá biển Đỏ
Cá Ai Cập
Cá Mozambique
Cá Seychelles
Cá Réunion
Cá Ấn Độ
Cá Nhật Bản
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Papua New Guinea
Động vật được mô tả năm 1879
|
19849468
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Megaselia%20conformipar
|
Megaselia conformipar
|
Megaselia confipar là một loài ruồi thuộc chi Megaselia trong họ Phoridae. Tên khoa học của loài này được Schmitz công bố lần đầu tiên vào năm 1958.
Tham khảo
Động vật được mô tả năm 1958
Megaselia
|
19849472
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Megaselia
|
Megaselia
|
Megaselia là một chi ruồi trong họ Phoridae.
Tham khảo
Phoridae
|
19849476
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Megaselia%20abalienata
|
Megaselia abalienata
|
Megaselia abalienata là một loài ruồi thuộc chi Megaselia trong họ Phoridae. Loài này được mô tả lần đầu tiên bởi Rudolf Beyer năm 1965.
Tham khảo
Megaselia
Động vật được mô tả năm 1965
|
19849495
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1%20tr%E1%BB%8B%20ch%C3%A2u%20%C3%82u
|
Giá trị châu Âu
|
Giá trị châu Âu (European values) là những chuẩn mực và giá trị mà người châu Âu được cho là có điểm chung và vượt lên trên bản sắc dân tộc hoặc bản sắc nhà nước. Ngoài việc giúp thúc đẩy hội nhập châu Âu, học thuyết này còn cung cấp cơ sở cho các phân tích mô tả đặc điểm về chính trị, kinh tế châu Âu và xã hội châu Âu như phản ánh bản sắc chung, nó thường gắn liền với giá trị của nhân quyền, dân chủ tự do và pháp quyền. Đặc biệt là ở Pháp thì "ý tưởng châu Âu" (l'idée d'Europe) gắn liền với giá trị chính trị bắt nguồn từ Thời đại Khai sáng và Chủ nghĩa Cộng hòa phát triển từ Cách mạng Pháp và Các cuộc cách mạng năm 1848 thay vì với bản sắc cá nhân hoặc cá nhân được hình thành từ văn hóa hoặc sắc tộc (chưa nói đến một cấu trúc "châu Âu" bao gồm các khu vực của lục địa không bao giờ bị ảnh hưởng từ chủ nghĩa duy lý hoặc chủ nghĩa Cộng hòa thế kỷ XVIII).
Dẫn luận
Cụm từ "những giá trị châu Âu" xuất hiện như một học thuyết chính trị vào những năm 1980 trong bối cảnh dự án hội nhập châu Âu và sự hình thành trong tương lai của Liên minh châu Âu. Cụm từ này được phổ biến rộng rãi trong Nghiên cứu Giá trị Châu Âu (EVS) vốn là một chương trình nghiên cứu dài hạn bắt đầu vào năm 1981, nhằm ghi nhận lại quan điểm về "các giá trị cơ bản của con người" của cư dân ở Châu Âu. Dự án đã phát triển từ một nhóm nghiên cứu về "các giá trị và sự thay đổi xã hội ở Châu Âu" do Jan Kerkhofs và Ruud de Moor (Đại học Công giáo ở Tilburg) khởi xướng. Tuyên bố cho rằng người dân Châu Âu có một tập hợp các chuẩn mực và giá trị chính trị, kinh tế và xã hội đặc biệt đang dần thay thế các giá trị quốc gia cũng được McCormick (2010) đặt tên là "Chủ nghĩa Châu Âu". "Các giá trị châu Âu" trái ngược với các giá trị ngoài châu Âu trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là trong sự phân chia Đông-Tây, "các giá trị châu Âu" bao gồm chủ nghĩa cá nhân và ý tưởng về nhân quyền trái ngược với xu hướng chủ nghĩa tập thể phương Đông.
Tuy nhiên, “các giá trị châu Âu” cũng bị nhìn nhận một cách phê phán, mặt “đen tối” của chúng không nhất thiết dẫn đến những kết quả hòa bình hơn trong quan hệ quốc tế.
Sự liên kết giữa "các giá trị châu Âu" với hội nhập châu Âu mà Liên minh châu Âu theo đuổi đã trở nên nổi bật với tiến trình mở rộng phía đông của EU trong hậu quả của Chiến tranh Lạnh. (mà ngày nay chính là sự mở rộng của NATO về phía Đông). Hiệp ước Lisbon năm 2007 tại điều 1A liệt kê một số "giá trị của Liên minh", bao gồm sự "tôn trọng phẩm giá con người, tự do, dân chủ, bình đẳng, pháp quyền và tôn trọng nhân quyền bao gồm quyền của những người thuộc nhóm thiểu số", viện dẫn "một xã hội trong đó có sự đa nguyên chính trị, không phân biệt đối xử, khoan dung, bác ái, đầy công lý, đoàn kết và bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới chiếm ưu thế".
Cuộc khảo sát Eurobarometer năm 2012 cho biết 49% số người được khảo sát mô tả các quốc gia thành viên khối Liên Âu (EU) là sự "gần gũi" về "giá trị chung" (giảm từ 54% năm 2008), với 42% mô tả chúng là "khác biệt" (tăng từ 34% năm 2008). Liên minh châu Âu tuyên bố các giá trị cơ bản của EU là "những giá trị chung cho các quốc gia thành viên trong một xã hội trong đó chủ nghĩa đa nguyên, không phân biệt đối xử, khoan dung, công lý, đoàn kết và bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới chiếm ưu thế". Đó là: nhân phẩm, tự do, dân chủ, bình đẳng, pháp quyền và nhân quyền. Những giá trị cơ bản này được xác định trong Hiệp ước Lisbon. Tâm lý chuộng Âu (Europhile) là tâm lý, tình cảm, thái độ của người yêu thích, ngưỡng mộ hoặc yêu thích văn hóa châu Âu, xã hội châu Âu, lịch sử châu Âu, ẩm thực châu Âu, âm nhạc châu Âu. Theo nghĩa hẹp hơn và thường mang tính miệt thị và thường được sử dụng nhiều nhất ở chính Châu Âu trong bối cảnh chính trị, tức là trong bối cảnh có thái độ không phê phán đối với Liên minh Châu Âu và đề cập đến các tổ chức và cá nhân có thái độ ủng hộ châu Âu một cách rõ ràng, trái ngược với Chủ nghĩa hoài nghi châu Âu và những người bài trừ châu Âu.
Chú thích
Châu Âu
|
19849504
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/The%20Tiger%27s%20Apprentice%20%28phim%202024%29
|
The Tiger's Apprentice (phim 2024)
|
The Tiger's Apprentice là một bộ phim hoạt hình giả tưởng của Mỹ dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên năm 2003 của Laurence Yep. Phim do Paramount Animation và Jane Startz Productions sản xuất, đạo diễn bởi Raman Hui, Paul Watling và Yong Duk Jhun từ kịch bản của David Magee và Christopher Yost. Phim có sự tham gia lồng tiếng của Henry Golding, Lucy Liu, Brandon Soo Hoo, Bowen Yang, Jo Koy, Sherry Cola, Leah Lewis, Sandra Oh và Michelle Yeoh.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim của Paramount Pictures
Phim võ thuật Mỹ
Phim hoạt hình tuổi mới lớn
Nhạc nền phim của Steve Jablonsky
Hoạt hình phương Tây bị anime ảnh hưởng
Phim hoạt hình về rồng
Phim chính kịch Mỹ
Phim năm 2024
Phim chưa ra mắt
|
19849505
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Atsuta%2C%20Nagoya
|
Atsuta, Nagoya
|
là quận thuộc thành phố Nagoya, tỉnh Aichi, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của quận là 66.957 người và mật độ dân số là 8.200 người/km2. Tổng diện tích của quận là 8,2 km2.
Tham khảo
Quận của Nagoya
|
19849507
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Luise%20Philippine%20c%E1%BB%A7a%20Ph%E1%BB%95
|
Luise Philippine của Phổ
|
Luise Philippine của Phổ (tiếng Đức: Luise Philippine von Preußen; tiếng Anh: Louise Philippine of Prussia; tên đầy đủ: Friederike Dorothea Luise Philippine; 24 tháng 5 năm 1770 – 7 tháng 12 năm 1836) là thành viên của Vương tộc Hohenzollern, cháu gái của Friedrich Đại vương, là con gái của August Ferdinand của Phổ và Anna Elisabeth Luise xứ Brandenburg-Schwedt.
Louise và chồng, Thân vương Antoni Radziwiłł, nổi tiếng vì sự bảo trợ cho âm nhạc cũng như vị trí nổi bật của họ trong xã hội Berlin. Luise Philippine cũng nổi tiếng vì là mẹ của Elisa Radziwiłł, tình yêu thuở thơ ấu của Hoàng đế Đức Wilhelm I nhưng không thể kết hôn vì sự bất bình đẳng về địa vị giữa Wilhelm I và Elisa.
Những năm đầu đời
Luise Philippine sinh ngày 24 tháng 5 năm 1770, tại Ordenspalais (Cung điện Hội Thánh Johann, đứng đầu bởi cha Vương tôn nữ) tại Berlin, là con gái thứ hai và là con thứ ba của August Ferdinand của Phổ và Anna Elisabeth Luise xứ Brandenburg-Schwedt. Tuy nhiên, cha ruột của Luise có thể là Bá tước Friedrich Wilhelm Carl von Schmettau. Sự ra đời của Luise là một nỗi thất vọng đối với gia đình, vì vào thời điểm đó, anh trai của Luise là Friedrich Heinrich Emil Karl của Phổ (1769–1773), là người thừa kế ngai vàng duy nhất của người bác là Friedrich II của Phổ. Mặc dù vậy, August Ferdinand vẫn hết lòng yêu thương và dành nhiều sự quan tâm cho con gái, trong khi mẹ của Luise lại tỏ ra ít yêu thương hơn. Gia đình Luise cuối cùng có bảy người con, hai gái và năm trai. Cả gia đình sống tại lãnh địa Friedrichsfelde ở Berlin.
Khi lớn tuổi hơn, Luise được giao cho một phó mẫu theo đức tin Luther là Phu nhân von Bielfeld. Phu nhân có cô con gái Lisette lớn hơn Luise ba tuổi và đảm nhiệm vai trò tháp tùng Vương tôn nữ. Lisette khiến Vương tôn nữ dành thời gian với các tiểu thuyết lãng mạn trước nhiều nữ giới cùng tuổi. Bielfeld có trình độ học vấn cao nhưng qua đời chỉ sau 5 năm, vào tháng 10 năm 1782. Bất chấp sự quan tâm của Phu nhân von Bielfeld đến giáo dục của Luise, việc học của Vương tôn nữ vẫn bị coi nhẹ và Luise đã quên hết phần lớn kiến thức đã học. Kết quả là, Phu nhân von Bielfeld đã rời bỏ vị trí phó mẫu trước khi qua đời không lâu sau đó, và được thay thế bởi một phó mẫu ba mươi tuổi đến từ vùng nông thôn là Fraulein von Keller; Luise và Keller sớm hình thành mối quan hệ gắn bó bền chặt. Trước đây, Bielfeld nhận thấy việc hoàn thành bài tập của Luise và đem chúng đến cho cha mẹ của Vương tôn nữ dễ dàng hơn, do đó Luise không thực sự tiến bộ nhiều trong học tập. Mặt khác, Keller có trình độ học vấn thấp hơn và cần được chỉ dẫn, do đó đã truyền cho Luise niềm đam mê học tập.
Ứng viên cho hôn nhân
Là cháu gái gọi bác của Friedrich II của Phổ, Luise thường là chủ đề của những cuộc dàn xếp hôn nhân. Một trong những đối tượng tiềm năng là Maximilian xứ Bayern, người thừa kế lâm thời của Karl Theodor xứ Bayern. Ngài tuyển hầu xứ Bayern đã cử một đại sứ đến Friedrichsfelde vào năm 1785, rất có thể là để kiểm tra diện mạo và phẩm chất của Luise. Tuy nhiên Luise được cho là còn quá trẻ vì Max muốn kết hôn với Vương tôn nữ trong vòng một năm; ngược lại, cha của Luise từ chối phải xa con gái cho đến khi Luise được mười tám tuổi. Maximilian ngay sau đó kết hôn với Auguste Wilhelmine xứ Hessen-Darmstadt .
Một ứng cử viên khác là Frederick của Liên hiệp Anh, Công tước xứ York và Albany, con trai thứ hai của George III của Liên hiệp Anh và Charlotte xứ Mecklenburg-Strelitz. Frederick đến Berlin vào năm 1786 để tham dự các cuộc diễn tập quân sự. Tuy nhiên, không có mối hôn sự nào giữa Luise và Frederick mà thay vào đó, có tin đồn rằng Frederick đang để ý đến Vương nữ Wilhelmine, cháu họ của Louise. Luise đã nói về vụ việc của ngài Công tước xứ York như sau: "Ta thiếu sự quyến rũ và thanh lịch, là người vụng về vì bản tính quá đỗi nhút nhát, ta không đủ khả năng để so với người cháu của mình. Công tước là một người đàn ông rất điển trai ...". Frederick sau đó kết hôn với một người cháu họ khác của Luise là Vương nữ Friederike Charlotte, con gái của anh họ Friedrich Willhem II của Phổ.
Hôn nhân và hậu duệ
Tháng 4 năm 1795, Thân vương Michał Hieronim Radziwiłł và vợ đến Berlin cùng con gái Christina và con trai Antoni; vào ngày 1 tháng 5, gia đình họ được trình diện tại triều đình ở Cung điện Bellevue. Nhà Radziwiłłs là một gia đình Công giáo người Ba Lan có dòng dõi các triều đại lâu đời và nổi tiếng nhất ở Ba Lan, đồng thời cũng sở hữu rất nhiều của cải. Gia đình họ rất được cha mẹ Luise yêu thích và thường xuyên ăn tối tại nhà của cha mẹ Vương tôn nữ. Thời gian trôi qua, Luise và Antoni bắt đầu muốn kết hôn với nhau. Trong khi nhiều thành viên trong gia đình ủng hộ cuộc hôn nhân thì mẹ của Vương tôn nữ lại không đồng ý. Tuy nhiên, cha mẹ Luise cuối cùng đã đồng ý mối hôn sự với điều kiện rằng Luise sẽ sống gần hai người.
Anh họ của Luise, Friedrich Wilhelm II của Phổ cũng đồng ý cho cuộc hôn nhân và hài lòng với việc cặp đôi sẽ định cư ở Berlin. Tuy nhiên, khi việc chuẩn bị cho lễ đính hôn của hai người đang được tiến hành, Friedrich Wilhelm đã trì hoãn việc trao đổi thư từ trong vài ngày một cách đáng ngạc nhiên. Cuối cùng, khi Quốc vương gửi một lá thư có nội dung rằng "Thân vương Anton không thuộc một gia tộc đang cai trị, nhà vua không thể chấp thuận lễ hứa hôn". Cha mẹ của Luise bị tổn thương nặng nề và đổ lỗi cho một trong những cố vấn của Friedrich WIlhelm II vì sự thay đổi quan điểm này. Trong một bức thư sau đó, Quốc vương bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với cuộc hôn nhân, nhưng cảm thấy bản thân bị ràng buộc bởi sự quan tâm của các bộ trưởng đối với quy tắc cung đình và nghi lễ truyền thống.
Năm 1796, Luise kết hôn với tử tước Antoni Radziwiłł. Mặc dù gia đình Antoni vô cùng giàu có và cao quý nhưng cuộc hôn nhân vẫn bị coi là không đăng đối khi so với Vương tộc Hohenzollern. Vương tức Thụy Điển Hedwig Elisabeth Charlotte xứ Holstein-Gottorp đã mô tả cặp đôi và quan điểm đương thời về cuộc hôn nhân của hai người ở Berlin vào thời điểm đến thăm nơi đây vào năm 1798:Một người phụ nữ sắc sảo và tài giỏi, một “quý bà” Pháp điển hình. Ta thấy rất thú vị khi quen biết với Vương tôn nữ, vì đức vua quá cố của ta đã yêu Vương tôn nữ và do đó nàng ta đã có thể trở thành Vương hậu của chúng ta nếu anh ấy trở thành quan phu. Chồng của nàng khá giả nhưng nhìn như một người hầu. Cuộc hôn nhân của hai người không tương xứng về địa vị, nhưng vì họ yêu nhau và vì chàng ta rất giàu có nên mọi chuyện đã được cho phép diễn ra. Tuy nhiên, Quốc vương, Vương hậu và toàn bộ vương thất không ưa nàng vì cuộc hôn nhân này, theo lời từ những con người có miệng lưỡi cay nghiệt, là cần thiết để tránh xa tai tiếng.Hai vợ chồng có bảy người con:
Cuộc sống sau này
Gia đình Luise cư trú tại Cung điện Radziwill ở Berlin. Luise là một người vợ hạnh phúc, và những buổi dạ hội cũng như tiệc chiêu đãi của cặp đôi được cho là thú vị hơn bất cứ thứ gì ở triều đình Phổ. Antoni là một nhạc sĩ xuất sắc và đã bảo trợ những nghệ sĩ xuất sắc nhất thời đó; bản thân Luise cũng có chung sở thích với chồng. Một du khách nhận xét về gia đình của hai người ở Berlin:"Tối thứ Năm, lần đầu tiên tôi đến nhà Vương tôn nữ Louisa, người đảm nhiệm vai trò tiếp khách mỗi đêm. Đức bà khá được yêu mến đây và là người tạo nên những buổi gặp gỡ ở đây. Đức bà có ngoại hình xấu xí, nhưng đặc biệt dễ chịu, và không đặt nặng hình thức. Chồng của bà, Thân vương Radziwill, là người đàn ông dễ mến nhất mà tôi từng gặp ở đây, và họ có rất nhiều đứa con xinh đẹp, đặc biệt là một bé gái mười tuổi, sinh vật nhỏ bé duyên dáng nhất mà tôi từng thấy, và là người đã khiến tôi vô cùng thích thú. Đứa nhỏ nhất, chín tháng tuổi, rất là xinh đẹp".Giống như nhiều quý phu nhân đương thời, Luise đã đến thăm các bệnh viện, hỗ trợ chữa trị cho binh lính trong Chiến tranh Napoléon; Luise và gia đình cũng góp phần hy sinh, chẳng hạn như việc loại bỏ mọi chuyến di đến Berlin, vì tất cả ngựa đều được gửi đến cho quân đội Phổ.
Năm 1815, chồng của Luise được bổ nhiệm làm Công tước-Thống đốc của Đại công quốc Posen, nơi Antoni chuyển đến cùng gia đình. Luise tham gia vào nhiều hoạt động xã hội khác nhau. Chính quyền của Antoni đã không thành công và gần như bất lực trong việc ngăn chặn quá trình Đức hóa khu vực, vì Antoni bị mắc kẹt giữa thần dân Ba Lan và chính quyền Phổ. Ngay sau khi Cuộc nổi dậy tháng 11 bùng nổ, Antoni bị tước bỏ mọi quyền lực, Đại công quốc bị bãi bỏ và quyền tự trị bị hủy bỏ. Posen bị sáp nhập trực tiếp vào Phổ và đổi tên thành Tỉnh Posen. Antoni trở về cung điện của mình ở Berlin và qua đời ở đó vào ngày 7 tháng 4 năm 1833. Antoni được chôn cất tại Thánh đường Poznań. Các con của Antoni với Luise đều đã nuôi dưỡng như những người Đức và không bao giờ quay trở lại Poznań; tuy nhiên, với tư cách là chủ sở hữu của trang viên Nieborów gần Warszawa và các khu đất rộng lớn của gia đình ở Belarus ngày nay, họ thường xuyên đến thăm các vùng khác của Ba Lan. Luise qua đời sau chồng ba năm, vào ngày 7 tháng 12 năm 1836.
Con gái của Luise và Vương tử Wilhelm của Phổ
Các con trai của Luise và chồng được nuôi dạy theo đức tin Công giáo, trong khi các con gái được giáo dục theo Thần học Calvin của Luise. Những đứa trẻ được nuôi dưỡng gần gũi với những người họ hàng thuộc Vương tộc Hohenzollern. Vì bằng tuổi nhau; con trai cả của hai vợ chồng trở thành bạn của Vương tử Wilhelm, sau này là Quốc vương Phổ và Hoàng đế Đức. Wilhelm có một khoảng thời gian sống ở Königsberg và trở nên rất gắn bó với con gái Elisa của hai vợ chồng, vì Elisa là niềm an ủi của Wilhelm khi mẹ qua đời vào năm 1810. Khi lớn tuổi hơn, Wilhelm mong muốn được kết hôn với Elisa. Để nâng cao địa vị của Elisa, đã có những thảo luận về việc Elisa được Aleksandr I của Nga hoặc người cậu August của Phổ nhận Elisa làm con nuôi, nhưng cả hai kế hoạch đều không nhận được sự ủng hộ của tất cả các bên liên quan. Những quý ngài uyên bác của triều đình Phổ cũng cố gắng nghiên cứu phả hệ của Elisa với hy vọng sẽ phát hiện ra mối quan hệ của Elisa với các vị Quốc vương Ba Lan trong lịch sử nhưng đã thất bại. Do đó, mong muốn kết hôn của hai người đã bị Quốc vương Friedrich Wilhelm III từ chối, vì Elisa bị coi là không đủ tương xứng với Wilhelm dù có mẹ là Vương tôn nữ Phổ. Kể cả khi nhận Elisa làm nghĩa nữ thì cũng không thay đổi được "dòng máu" của Elisa. Một yếu tố khác là vì liên hệ của những người họ hàng thuộc Gia tộc Mecklenburg của Vương hậu Luise quá cố trong cả triều đình Đức và Nga, những người không ưa cha của Elisa và phản đối cuộc hôn nhân. Hơn nữa, thân thế của Elisa bị coi là không đủ vương giả vì cha của Elisa không phải là một Thân vương cai trị.
Vì vậy, vào tháng 6 năm 1826, cha của Wilhelm, Quốc vương Friedrich Wilhelm III cảm thấy buộc phải yêu cầu con trai từ bỏ cuộc hôn nhân với Elisa. Wilhelm dành vài tháng tiếp theo để tìm kiếm một nàng dâu phù hợp hơn, nhưng Vương tử không từ bỏ mối quan hệ tình cảm với Elisa. Wilhelm được cử đến triều đình Weimar để tìm một người vợ phù hợp với mình và kết hôn với Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach, kém Vương tử mười bốn tuổi vào ngày 11 tháng 6 năm 1829. Cuộc hôn nhân giữa Wilhelm và Augusta không hạnh phúc. Wilhelm gặp em họ của mình, Elisa lần cuối cùng vào năm 1829. Elisa qua đời vì bệnh lao 5 năm sau đó và không lập gia đình.
Gia phả
<center>
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Liên kết ngoài
Vương tôn nữ Luise trên Allgemeine Deutsche Biographie
Vương nữ Phổ
Vương tộc Hohenzollern
Vương nữ
Người Berlin
Sinh năm 1770
Mất năm 1836
Nguồn CS1 tiếng Pháp (fr)
Bài viết có văn bản tiếng Đức
|
19849508
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Loi%20Choi%3A%20The%20Neo%20Pop%20Punk
|
Loi Choi: The Neo Pop Punk
|
Loi choi (tiếng anh là The Neo Pop Punk, cách điệu là LOI CHOI: The Neo Pop Punk) là album phòng thu đầu tay của nam ca sĩ Việt Nam Wren Evans. Được phát hành bởi monoX vào ngày 17 tháng 12 năm 2023, album gồm 11 bài hát, bao gồm các đĩa đơn "Việt Kiều" được phát hành vào ngày 25 tháng 5, "Call Me" phát hành vào ngày 15 tháng 8 và "Từng Quen" phát hành vào ngày 25 tháng 10 năm 2023.
Album mang về cho nam ca sĩ nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng Làn Sóng Xanh cho "Album của năm". Ngoài ra, album và đĩa đơn "Từng Quen" cũng được đề cử cho hạng mục Album của năm và Ca khúc của năm tại WeChoice Awards 2023.
Bối cảnh và phát hành
Sau 3 ngày hoãn lại so với lịch trình ban đầu, album "Loi Choi" của Wren Evans chính thức được phát hành vào ngày 17 tháng 12 năm 2023, và là album phòng thu đầu tiên sau EP Chiều Hôm Ấy Anh Thấy Màu Đỏ. Trước đó, anh cũng đã phát hành các đĩa đơn "Việt Kiều", "Call Me" và "Từng Quen".
Sáng tác
Nam ca sĩ tiết lộ tên album "Loi choi" xuất phát từ cách bố hay gọi anh ngày anh còn bé. Anh bộc bạch, trong quá trình mình đến với âm nhạc, dù bố không phải là người trong lĩnh vực này, nhưng vẫn luôn đứng sau ủng hộ và đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp của anh. Wren Evans cho rằng album chính là món quà mà anh muốn gửi tặng bố. Sau bài hát debut "Thích Em Hơi Nhiều", album Loi Choi một lần nữa có những bài nhạc retro gợi về âm nhạc những năm 2000, với những đoạn chuyển và chất liệu âm thanh kéo ta về lại 2023. Ngoài ra, album còn xuất hiện chất nhạc Flamenco đậm không gian nhiệt đới hay thể loại Jersey Club đang thịnh hành trong giới underground quốc tế.
Ca khúc "Cầu Vĩnh Tuy" có ý nghĩa vô cùng đặc biệt với nam ca sĩ vì đây là con đường anh đi qua mỗi khi đi học. Hình ảnh "em" được nhắc đến trong ca khúc này không phải là mối tình đầu hay bất cứ cô bạn gái nào của anh mà chính là đại diện cho cây cầu Vĩnh Tuy nói riêng và Hà Nội nói chung - tình yêu to lớn của anh.
Danh sách bài hát
Tất cả các ca khúc được viết bởi Wren Evans và Itsnk (trừ nơi ghi chú)
Đề cử và Giải thưởng
Tham khảo
Liên kết ngoài
MV "Việt Kiều" trên YouTube
MV "Call Me" trên YouTube
Audio "Từng Quen" trên YouTube
Album Loi Choi: The Neo Pop Punk trên Spotify • Apple Music • YouTube
Album năm 2023
Album nhạc Việt Nam
Album chủ đề tiếng Việt
Wren Evans
|
19849509
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rottenburg%20am%20Neckar
|
Rottenburg am Neckar
|
Rottenburg am Neckar (; Swabia: Raodaburg) là một thị trấn nằm trong khu hành chính (Landkreis) của huyện Tübingen, bang Baden-Württemberg, Đức.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Various memorials in Rottenburg at the Sites of Memory page
Württemberg
Tübingen (huyện)
|
19849512
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%82u%202024%20%28B%E1%BA%A3ng%20C%29
|
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 (Bảng C)
|
Các đội tuyển
Ghi chú
Bảng xếp hạng
Ở vòng 16 đội.
Đội đứng đầu bảng C sẽ gặp đội đứng thứ ba của bảng D, bảng E hoặc bảng F.
Đội đứng thứ hai bảng C sẽ gặp đội đứng thứ nhất của bảng A
Đội đứng thứ ba bảng C có thể gặp đội đứng đầu của bảng E hoặc bảng F
Các trận đấu
Slovenia v Đan Mạch
Serbia v Anh
Slovenia v Serbia
Đan Mạch v Anh
Anh v Slovenia
Đan Mạch v Serbia
Tham khảo
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024
|
19849513
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nehren%2C%20Baden-W%C3%BCrttemberg
|
Nehren, Baden-Württemberg
|
Nehren là một xã nằm ở huyện Tübingen, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tübingen (huyện)
|
19849515
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mashike%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Mashike, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Mashike, phó tỉnh Rumoi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 3.908 người và mật độ dân số là 11 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 369,64 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19849516
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Starzach
|
Starzach
|
Starzach là một xã thuộc huyện Tübingen, bang Baden-Württemberg ở Đức. Nơi đây nằm cách Tübingen khoảng 20 km về phía tây nam.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tübingen (huyện)
Khu dân cư trên lưu vực Neckar
Khu dân cư ven sông ở Đức
|
19849519
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Laufenburg%2C%20%C4%90%E1%BB%A9c
|
Laufenburg, Đức
|
Laufenburg là một thị trấn nằm ở huyện Waldshut, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây có dân số khoảng 4300 người (trong đó có 6 khu ngoại ô với 8300 người).
Tham khảo
Liên kết ngoài
Laufenburg (Baden)
Laufenburg AG
Laufenburg
Cửa khẩu Đức-Thụy Sĩ
Baden
Waldshut
Thành phố bị phân chia
|
19849520
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%82u%202024%20%28B%E1%BA%A3ng%20D%29
|
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 (Bảng D)
|
Các đội tuyển
Ghi chú
Bảng xếp hạng
Ở vòng 16 đội.
Đội đứng đầu bảng D sẽ gặp đội đứng thứ hai bảng F.
Đội đứng thứ hai bảng D sẽ gặp đội đứng thứ hai của bảng E
Đội đứng thứ ba bảng D có thể gặp đội đứng đầu của bảng B, bảng C hoặc bảng E
Các trận đấu
CXĐ v Hà Lan
Áo v Pháp
CXĐ v Áo
Hà Lan v Pháp
Hà Lan v Áo
Pháp v CXĐ
Tham khảo
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024
|
19849522
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/St%C3%BChlingen
|
Stühlingen
|
Stühlingen là một thị trấn thuộc huyện Waldshut, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm ở biên giới với Thụy Sĩ, có cửa khẩu đến làng Oberwiesen ở Schleitheim, cách Schaffhausen 15☃☃km về phía tây bắc
Tham khảo
Liên kết ngoài
Stuhlingen history, places of interest, destination
Baden
Cửa khẩu Đức-Thụy Sĩ
Waldshut
Thị trấn của bang Baden-Württemberg
Chấm dứt năm 1806
|
19849525
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Waldshut-Tiengen
|
Waldshut-Tiengen
|
Waldshut-Tiengen (; ) thường được gọi là Waldshut, là một thị trấn nằm ở phía tây nam bang Baden-Württemberg, Đức, ngay biên giới với Thụy Sĩ. Đây là huyện lỵ và đồng thời là đô thị lớn nhất ở Waldshut.
Tham khảo
Badisches Städtebuch; Band IV 2. Teilband aus "Deutsches Städtebuch. Handbuch städtischer Geschichte - Im Auftrage der Arbeitsgemeinschaft der historischen Kommissionen und mit Unterstützung des Deutschen Städtetages, des Deutschen Städtebundes und des Deutschen Gemeindetages, hrsg. von Erich Keyser, Stuttgart, 1959
Liên kết ngoài
Internetpräsenz Thị trấn Waldshut-Tiengen
Waldshut-Tiengen: hình ảnh và lịch sử
Waldshut, trong: Meyers Konversationslexikon
Baden
Cửa khẩu Đức-Thụy Sĩ
Waldshut
|
19849526
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/2024%20t%E1%BA%A1i%20Ba%20Lan
|
2024 tại Ba Lan
|
Dưới đây là sự kiện trong năm tại Ba Lan 2024.
Đương nhiệm
Sự kiện
Mất
Xem thêm
Tham khảo
Ba Lan năm 2024
Ba Lan thập niên 2020
Năm 2024 theo quốc gia
Châu Âu năm 2024
Năm của thế kỷ 21 ở Ba Lan
|
19849527
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wehr%2C%20Baden-W%C3%BCrttemberg
|
Wehr, Baden-Württemberg
|
Wehr là một thị trấn thuộc huyện Waldshut, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Bad Säckingen 9 km về phía bắc và cách Lörrach 18 km về phía đông.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web Wehr (bằng tiếng Đức)
Lịch sử Wehr, điểm đến (bằng tiếng Đức)
Baden
Waldshut
|
19849529
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wut%C3%B6schingen
|
Wutöschingen
|
Wutöschingen là xã tự quản nằm ở huyện Waldshut (Kreis), thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Tham khảo
Baden
Waldshut
|
19849530
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Me%C3%9Fstetten
|
Meßstetten
|
Meßstetten () là một thị trấn thuộc huyện Zollernalbkreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm trên dãy núi Swabian Jura, cách Balingen 24 km về phía đông nam.
Tham khảo
Württemberg
Zollernalb (huyện)
Thị trấn của bang Baden-Württemberg
|
19849531
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ostdorf
|
Ostdorf
|
Ostdorf là một khu ngoại ô thuộc thị trấn Balingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Stuttgart 75 km về phía nam.
Tham khảo
Stadtverwaltung Balingen. 800 Jahre Ostdorf. Balingen: SV Verlagsdruckerei, 2001. (rough translation - Ostdorf City Administration : 800 years)
Thị trấn của bang Baden-Württemberg
|
19849532
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng%20X%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20%E2%80%93%20c%C3%A1ch%20m%E1%BA%A1ng
|
Đảng Xã hội chủ nghĩa – cách mạng
|
Đảng Xã hội chủ nghĩa – cách mạng (, hay PSR), là một đảng chính trị lớn từng hoạt động mạnh vào thời kỳ muộn của Đế quốc Nga, hiện diện ở cả hai cuộc Cách mạng Nga 1917.
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
Programme of the Socialist Revolutionary Party
Party of Socialist Revolutionaries
Partija Socialistov-Revoljucionerov (Rossija) Archives at the International Institute of Social History
|
19849533
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jungingen
|
Jungingen
|
Jungingen là một xã thuộc huyện Zollernalbkreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi nằm gần lâu đài Burg Hohenzollern, cách Hechingen khoảng 5 km về phía đông.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Offizielle Internetseite der Gemeinde
|
19849535
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sheila%20Fitzpatrick
|
Sheila Fitzpatrick
|
Sheila Mary Fitzpatrick (sinh ngày 4 tháng 6 năm 1941) là sử gia người Úc có chuyên môn về lịch sử Liên Xô và Nga hiện đại. Cụ thể đối với vấn đề Đại Thanh trừng và thời đại Stalin, bà là người tiên phong đưa ra luận thuyết "lịch sử từ bên dưới" và ủng hộ "trường phái xét lại" [tức là xét lại tường thuật chống cộng toàn trị ở phương Tây đối với Liên Xô] về nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản. Bà cũng đã bình duyệt phê phán học thuyết toàn trị, đồng thời nêu bật sự khác biệt giữa Đức Quốc xã và Liên Xô trong cuộc tranh luận so sánh Đức Quốc Xã và chủ nghĩa Stalin.
Thư mục
Sách
Education and Social Mobility in the Soviet Union, 1921–1932. Cambridge University Press. 1979 1st ed.; paperback ed. 2002.
The Russian Revolution. Oxford University Press. 1st ed. 1982; 2nd revised ed. 1994; 3rd revised ed. 2007. . Translated into Braille, Czech, Italian, Korean, Polish, Portuguese, Russian, and Spanish.
The Cultural Front. Power and Culture in Revolutionary Russia. Cornell University Press. 1992.
Stalin's Peasants: Resistance and Survival in the Russian Village after Collectivization. Oxford University Press. 1st ed. 1994; paperback ed. 1996. Translated into Russian.
Everyday Stalinism: Ordinary Life in Extraordinary Times: Soviet Russia in the 1930s. Oxford University Press. 1st ed. 1999; paperback ed. 2000. Translated into Czech, French, Polish, Russian, and Spanish.
Tear Off the Masks! Identity and Imposture in Twentieth-Century Russia. Princeton University Press. 2005. Translated into Chinese and Russian.
A Spy in the Archives. Melbourne University Press. 2013. Translated into Turkish.
On Stalin's Team: The Years of Living Dangerously in Soviet Politics. Princeton University Press. 1st ed. 2015; paperback ed. 2017. Translated into Czech, French, German, Greek, Polish, Russian, and Spanish.
Mischka's War: A European Odyssey of the 1940s. Melbourne University Press & I. B. Tauris. 2017.
White Russians, Red Peril: A Cold War History of Migration to Australia. La Trobe University Press. 2021.
The Shortest History of the Soviet Union. Old Street Publishing. 2022
Bài viết
"Ascribing Class: The Construction of Social Identity in Soviet Russia" (1993). The Journal of Modern History. 65: (4). .
"Vengeance and Ressentiment in the Russian Revolution" (2001). French Historical Studies. 24: (4).
"Politics as Practice: Thoughts on a New Soviet Political History" (2004). Kritika. 5: (1).
"Happiness and Toska: A Study of Emotions in 1930s Russia" (2004). Australian Journal of Politics and History. 50: (3).
"Social Parasites: How Tramps, Idle Youth, and Busy Entrepreneurs Impeded the Soviet March to Communism" (2006). Cahiers du monde russe et soviétique. 47: 1–2. .
"The Soviet Union in the Twenty-First Century" (2007). Journal of European Studies. 37: (1).
"A Spy in the Archives" (2010). London Review of Books. 32 (23): 3–8.
Đánh giá
Liên kết ngoài
Carnig, Jennifer; Harmes, William; Koppes, Steve. "Five faculty members elected as fellows of American academy". The University of Chicago Chronicle. 24 (17).
David-Fox, Michael; et al. (2007). "An Interview with Sheila Fitzpatrick". Kritika: Explorations in Russian and Eurasian History. 8(3): 479–486.
Harms, William (8 June 1995). "Graduate Teaching Award".
Harms, William (5 December 2002). "Fitzpatrick one of five distinguished scholars to receive Mellon grant".
University of Chicago. The University of Chicago Chronicle. 14 (19).
University of Sydney. The University of Chicago Chronicle. 22 (5).
ABC Conversations – Sheila Fitzpatrick on working inside a secret Soviet 60s society.
Sinh năm 1941
Nữ nhà văn Mỹ thế kỷ 21
Thành viên Học viện Mỹ thuật và Khoa học Mỹ
Nhà sử học cộng sản
Nhân vật còn sống
|
19849537
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mai%20Ph%E1%BA%A1t%20S%C3%A1u%20Ngh%C3%ACn%20R%C6%B0%E1%BB%9Fi
|
Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi
|
Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi là tên khai sinh của một người Việt Nam sinh năm 1987, trú tại thôn Quảng Đại, xã Đại Cường, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Cái tên này do ông Mai Xuân Cán đặt cho con trai mình nhằm phản ứng lại với chính quyền vì phạt tiền đẻ con quá kế hoạch. Sau khi trở nên nổi tiếng, tên khai sinh trên đã trở thành chủ đề của nhiều câu chuyện hài và tạo ra các cuộc thảo luận xoay quanh việc đặt tên con phù hợp.
Nguồn gốc
Năm 1987, ông Mai Xuân Cán – làm nghề lái đò, cán bộ tại thôn Quảng Đại – đã sinh người con trai thứ năm. Đứa con này là kết quả của việc có thai ngoài ý muốn, dù trước đó hai vợ chồng ông đã đi đặt vòng tránh thai. Vì không tuân thủ chính sách kế hoạch hóa gia đình, Ủy ban nhân dân xã Đại Cường buộc ông phải nộp phạt sáu nghìn năm trăm đồng (sáu nghìn rưởi đồng theo cách gọi địa phương) mới cho đăng ký khai sinh. Bởi số tiền này ở thời đó là quá lớn, không thể kham đủ, vợ chồng ông Cán đã tìm mọi cách xin chủ tịch xã và trưởng công an xã tha không làm tới nhưng bị gây khó dễ. Trong cơn ức chế, ông quyết định lấy tên Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi, đại diện cho số tiền phạt, để đặt cho con trai mình nhằm phản ứng lại với lệnh phạt này. Khi mới biết hành động của ông, bạn bè, người thân và cán bộ ủy ban xã đã đến khuyên can ông từ bỏ việc đặt tên con "kỳ quặc", nhưng ông Cán nhất quyết từ chối. Bởi cái tên không hề phạm vào bất cứ điều nào trong các quy tắc đặt tên, chính quyền địa phương cuối cùng buộc phải chấp nhận Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi làm tên khai sinh cho con trai ông.
Phản ứng
Trường hợp đặt tên khai sinh này lần đầu được báo Tuổi Trẻ đưa tin vào năm 2006. Kể từ đó, Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi đã trở thành chủ đề của các truyện hài, châm biếm và là đề tài bàn luận sôi nổi về vấn đề đặt tên phù hợp cho con. Ăn theo sự vụ này, cũng tại thôn Quảng Đại đã có một người cha khác đặt tên con mình là Mai Phạt Ba Ngàn Rưởi, với ý nghĩa tượng trưng cho số tiền mà người này phải chịu phạt vì khai sinh con quá muộn so với quy định. Về sau, một số trường hợp đặt tên tương tự đã được nhiều báo chí đưa tin, như cha mẹ đặt tên con là Phan Hết Gas Hết Số, Từ Nay Tôi Xin Thôi, Nguyễn Văn Tặc Răng, v.v.. Các trường hợp này hoặc xuất phát từ những biến cố, cảm xúc nhất thời của cha mẹ lúc đứa trẻ mới ra đời, hoặc bắt nguồn từ quan niệm đặt tên con xấu để dễ nuôi hơn.
Khi Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi vào cấp II, do cái tên kỳ lạ của mình, cậu đã phải chịu sự bắt nạt từ các bạn đồng trang lứa và bỏ học mất hai năm. Lúc này, ông Mai Xuân Cán vẫn giữ nguyên tên con và không có ý định đổi. Một phần nguyên do khác là vì ông không biết thực hiện những thủ tục đổi tên phức tạp. Ngược lại, ông còn lấy việc thay tên này để yêu cầu Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi chăm chỉ học hành. Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi đã trở lại trường sau đó và tiếp tục lên cấp III, rồi tốt nghiệp đại học ngành kỹ sư điện loại giỏi. Ngày 1 tháng 9 năm 2005, khi đã đủ 18 tuổi, Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi được người chị ruột là Mai Thị Nga giúp đổi lại tên hợp pháp thành Mai Hoàng Long.
Năm 2016, trong thời gian thảo luận dự thảo mới Luật Hộ tịch, Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi đã được dẫn ra như một trường hợp tiêu biểu cho việc thiếu các quy tắc đặt tên cần thiết, dẫn đến cha mẹ đặt tên con "kỳ dị" và gây khó xử cho những người làm tư pháp tại địa phương. Nhiều ý kiến trước đó cũng kêu gọi nhà nước Việt Nam ban hành một khung pháp luật cụ thể để đặt tên cho con, không phạm vào thuần phong mỹ tục và gây ảnh hưởng xấu đến đứa trẻ.
Xem thêm
Tên người Việt Nam
Tham khảo
Sinh năm 1987
Người Quảng Nam
Nhân vật còn sống
Người họ Mai tại Việt Nam
|
19849539
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i%20M%C3%B9a%20h%C3%A8%202004
|
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2004
|
Bóng đá tại Thế vận hội mùa hè 2004 bắt đầu vào ngày 11 tháng 8 (hai ngày trước lễ khai mạc) và kết thúc vào ngày 28 tháng 8.
Giải đấu diễn ra 4 năm/lần, kết hợp với Thế vận hội (Olympic) Mùa hè. Các hiệp hội bóng đá trực thuộc FIFA được cử đội tuyển bóng đá U-23 nam và đội tuyển bóng đá nữ của họ. Giải đấu nam cho phép tối đa 3 cầu thủ quá tuổi tham gia đội U-23.
Các sân vận động tổ chức
Nam
Nữ
Chú thích
Liên kết ngoài
Olympic Football Tournaments Athens 2004 – Men, FIFA.com
Olympic Football Tournaments Athens 2004 – Women, FIFA.com
Official result book – Football
Tham khảo
Bóng đá năm 2004
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2004
Giải đấu bóng đá Olympic
|
19849542
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20ty%20%C4%90%C3%B4ng%20%E1%BA%A4n%20cai%20tr%E1%BB%8B%20%E1%BA%A4n%20%C4%90%E1%BB%99
|
Công ty Đông Ấn cai trị Ấn Độ
|
Công ty Đông Ấn cai trị Ấn Độ (, đôi khi là Company Raj, từ ) được cho là bắt đầu sau khi Nawab của Bengal Siraj ud-Daulah bị đánh bại trong Trận Plassey vào năm 1757, và một người được Công ty Đông Ấn Anh (Công ty) hậu thuẫn là Mir Jafar lên thay thế; hoặc từ khi Công ty được cấp diwani, tức quyền thu thuế tại Bengal và Bihar vào năm 1765; hoặc vào năm 1773 khi Công ty bãi bỏ quyền cai trị địa phương (Nizamat) tại Bengal và thành lập thủ đô tại Calcutta, bổ nhiệm Toàn quyền đầu tiên là Warren Hastings, và trực tiếp tham gia quản lý. Sau Khởi nghĩa Ấn Độ 1857 và Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1858, quyền cai trị của Công ty Đông Ấn kết thúc, Văn phòng Ấn Độ của Chính phủ Anh đảm nhận quản lý trực tiếp Ấn Độ dưới chế độ mới Raj thuộc Anh.
Bành trướng và lãnh thổ
Công ty Đông Ấn Anh (English East India Company) được thành lập vào năm 1600, dưới tên gọi Công ty của các thương gia London buôn bán vào Đông Ấn. Công ty bắt đầu có chỗ đứng tại Ấn Độ khi họ thành lập thương quán tại Masulipatnam trên bờ biển phía đông của Ấn Độ vào năm 1611, và được Hoàng đế Mughal Jahangir cấp quyền thành lập thương quán tại Surat vào năm 1612. Năm 1640, sau khi được Đế quốc Vijayanagara ở phía nam cấp phép tương tự, một thương quán được thành lập tại Madras trên bờ biển phía đông nam. Bồ Đào Nha tặng đảo Bombay nằm không xa Surat cho Anh làm của hồi môn trong cuộc hôn nhân giữa Công chúa Bồ Đào Nha Catarina với Charles II, Công ty được cho thuê đảo vào năm 1668.
Sau Chiến tranh Anh-Mughal, Hoàng đế Aurangzeb cũng cho phép Công ty hiện diện trên bờ biển phía đông; một thương quán được thành lập tại Calcutta nằm xa bờ biển và thuộc đồng bằng sông Hằng. Trong thời gian này, các "công ty" khác—do Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp và Đan Mạch thành lập—cũng đang mở rộng ở mức độ tương tự trong khu vực, việc Công ty Đông Ấn Anh có bước khởi đầu kém nổi bật tại vùng ven biển Ấn Độ không phải là bước khởi đầu ấn tượng trong quá trình người Anh hiện diện lâu dài trên tiểu lục địa Ấn Độ.
Robert Clive lãnh đạo Công ty giành chiến thắng trong Trận Plassey năm 1757 và trong Trận Buxar (tại Bihar) năm 1764, giúp củng cố quyền lực của công ty và buộc Hoàng đế Shah Alam II phải để cho công ty làm diwan (quan thu thuế) của Bengal, Bihar và Orissa. Nhờ đó, đến năm 1773 Công ty trở thành thế lực cai trị thực tế một khu vực rộng lớn thuộc đồng bằng hạ du sông Hằng. Họ cũng dần mở rộng lãnh địa ra xung quanh Bombay và Madras. Sau Chiến tranh Anh-Mysore (1766–1799) và Chiến tranh Anh-Maratha (1772–1818), Công ty kiểm soát các khu vực rộng lớn tại phía nam sông Sutlej. Từ khi Đế quốc Maratha bị đánh bại, Công ty không còn mối đe doạ nào từ thế lực bản địa nữa.
Công ty có hai hình thức bành trướng quyền lực chính. Đầu tiên là sáp nhập hoàn toàn các quốc gia Ấn Độ, sau đó là quản lý trực tiếp đối với các khu vực quan trọng, những nơi này được gọi chung là Ấn Độ thuộc Anh. Các khu vực được sáp nhập bao gồm các tỉnh Tây-Bắc (bao gồm Rohilkhand, Gorakhpur và Doab) (1801), Delhi (1803), Assam (Vương quốc Ahom 1828), và Sindh (1843). Punjab, tỉnh Biên giới Tây-Bắc và Kashmir bị sáp nhập sau Chiến tranh Anh-Sikh 1849-1856; tuy nhiên Kashmir ngay lập tức được bán đi theo Hiệp ước Amritsar (1850) cho vương triều Dogra của Jammu, và trở thành một phiên vương quốc. Năm 1854, Berar được sáp nhập, và hai năm sau đến lượt Oudh.
Hình thức khẳng định quyền lực thứ hai là các hiệp ước, theo đó các nhà cai trị Ấn Độ có quyền tự chủ hạn chế trong nội bộ nhưng thừa nhận quyền bá chủ của Công ty. Do Công ty hoạt động trong điều kiện tài chính hạn chế, nên họ phải thiết lập nền tảng "chính trị" cho quyền cai trị của mình. Các liên minh phụ thuộc (subsidiary alliance) với các vương công Ấn Độ trong 75 năm đầu tiên Công ty cai trị là nền tảng ủng hộ quan trọng nhất. Đầu thế kỷ 19, lãnh thổ của các vương công này chiếm tới 2/3 diện tích Ấn Độ. Khi một quân chủ Ấn Độ có khả năng nắm vững lãnh thổ của mình và muốn tham gia vào một liên minh như vậy, Công ty sẽ hoan nghênh vì cho rằng phương pháp cai trị gián tiếp sẽ không mất chi phí kinh tế như khi quản lý trực tiếp, hoặc chi phí chính trị để giành được ủng hộ từ bên ngoài.
Đổi lại, Công ty đảm nhận bảo vệ các đồng minh lệ thuộc này và tôn trọng truyền thống khi đối xử với họ. Các liên minh phụ thuộc tạo ra các phiên vương quốc dưới quyền các maharaja theo đạo Hindu và các nawab theo đạo Hồi. Các phiên vương quốc nổi bật là: Cochin (1791), Jaipur (1794), Travancore (1795), Hyderabad (1798), Mysore (1799), các nhà nước Nội Sutlej (1815), đại lý Trung Ấn (1819), Cutch và các lãnh thổ Gaikwad Gujarat (1819), Rajputana (1818), và Bahawalpur (1833).
Công ty Đông Ấn Anh cũng ký kết các hiệp ước với nhiều quân chủ Afghanistan và với Ranjit Singh của Punjab, nhằm đối trọng với các kế hoạch của Ba Tư tại miền tây Afghanistan được Nga ủng hộ. Năm 1839, Công ty tiến hành Chiến tranh Afghanistan lần thứ nhất (1839-42). Tuy nhiên, khi người Anh bành trướng lãnh thổ của họ tại Ấn Độ, Nga cũng làm vậy tại Trung Á, hình thành đấu trường cho Ván Cờ Lớn.
Toàn quyền
Các toàn quyền tạm thời (locum tenens) không được đưa vào bảng này trừ khi có một sự kiện lớn xảy ra trong nhiệm kỳ của họ.
Quy định cai trị của Công ty
Trước khi Clive giành chiến thắng tại Plassey, phần lớn lãnh thổ của Công ty Đông Ấn tại Ấn Độ là các đô thị trung tâm Calcutta, Madras và Bombay. Các khu vực này do "hội đồng đô thị" quản lý, có thành phần gồm toàn các thương nhân, họ hầu như được tự trị nhưng thỉnh thoảng không quản lý được địa bàn. Các hội đồng này hầu như không có đủ quyền hạn để có thể quản lý hiệu quả các vấn đề địa phương của mình. Chính phủ Anh thiếu giám sát tổng thể các hoạt động của Công ty Đông Ấn, kết quả là các quan chức Công ty hoặc đồng minh của họ thực hiện một số hành vi lạm dụng nghiêm trọng. Ấn Độ trở thành tâm điểm chú ý của công chúng Anh nhờ chiến thắng của Clive, và việc Công ty được trao cho diwani (quyền thu thuế) của vùng Bengal giàu có. Hoạt động quản lý tiền tệ của công ty bị nghi vấn, đặc biệt là khi công ty bắt đầu lỗ ròng nhưng một số nhân viên của Công ty lại trở về Anh với khối tài sản lớn (biệt danh "Nabob"), theo tin đồn lúc bấy giờ thì họ có được chúng theo cách bất lương. Từ năm 1772 về trước, Công ty cần các khoản vay từ chính phủ Anh để duy trì hoạt động, và phía London lo ngại rằng các hành vi tham nhũng của Công ty có thể sớm lan rộng vào hoạt động kinh doanh và đời sống công cộng của Anh. Các quyền lợi và nghĩa vụ của chính phủ Anh liên quan đến các lãnh thổ mới của công ty cũng được thẩm tra. Quốc hội Anh sau đó tổ chức một số cuộc điều tra, và họ ban hành Đạo luật Điều chỉnh vào năm 1773 dưới thời Thủ tướng Huân tước North, theo đó thiết lập các quy định "để quản lý tốt hơn các sự vụ của Công ty Đông Ấn.
Mặc dù bản thân Huân tước North muốn nhà nước Anh tiếp quản các lãnh thổ của Công ty, nhưng ông bị nhiều phía kiên quyết phản đối, bao gồm một số người trong Thành phố London và Quốc hội Anh. Kết quả là thỏa hiệp trong Đạo luật Điều chỉnh, theo đó mặc dù ngụ ý Quân chủ Anh có chủ quyền tối thượng đối với các lãnh thổ mới này, nhưng khẳng định rằng Công ty có thể trở thành thế lực có chủ quyền nhân danh Quân chủ. Công ty đồng thời sẽ chịu giám sát và quy định của chính phủ và quốc hội Anh. Theo Đạo luật, Hội đồng quản trị (Court of Directors) của Công ty được yêu cầu phải trình tất cả các thông tin liên quan đến các vấn đề dân sự, quân sự và thu thuế tại Ấn Độ để chính phủ Anh xem xét kỹ lưỡng. Đối với việc quản lý các lãnh thổ tại Ấn Độ, đạo luật khẳng định quyền tối cao của tỉnh Pháo đài William (Bengal) đối với các tỉnh Pháo đài St. George (Madras) và Bombay. Đạo luật cũng bổ nhiệm một Toàn quyền (Warren Hastings) và bốn ủy viên hội đồng để điều hành tỉnh Bengal (và giám sát hoạt động của Công ty tại Ấn Độ). "Các tỉnh lệ thuộc bị cấm chỉ tiến hành chiến tranh hoặc lập các hiệp ước mà không được tán thành từ trước của Toàn quyền-trong hội đồng (Governor-General-in-Council) Bengal, ngoại trừ trường hợp cấp thiết. Thống đốc của các tỉnh này về tổng thể phải tuân theo mệnh lệnh của Toàn quyền-trong Hội đồng và chuyển giao cho người này thông tin về tất cả các vấn đề quan trọng." Tuy nhiên, ngôn từ mơ hồ của Đạo luật khiến nó có thể được diễn giải theo nhiều cách; do đó, chính quyền tại Ấn Độ tiếp tục gặp khó khăn do bất hoà giữa các thống đốc tỉnh, giữa các thành viên của hội đồng, giữa Toàn quyền và Hội đồng của ông. Đạo luật Điều chỉnh cũng cố gắng giải quyết nạn tham nhũng thường thấy tại Ấn Độ: Kể từ đó, công chức của công ty bị cấm tham gia vào hoạt động mua bán tư nhân tại Ấn Độ hoặc nhận tặng phẩm từ người dân Ấn Độ.
Năm 1783, Liên minh Fox–North cố gắng cải cách chính sách thuộc địa bằng một dự luật do Edmund Burke đưa ra, nhằm chuyển giao quyền lực chính trị tại Ấn Độ từ Công ty Đông Ấn sang một ủy ban quốc hội. Dự luật được Bộ trưởng Ngoại giao Charles James Fox ủng hộ nhiệt tình và được Hạ viện thông qua, nhưng bị Thượng viện phủ quyết do áp lực từ Quốc vương George III. Quốc vương sau đó giải tán chính phủ và thành lập một bộ mới dưới quyền đối thủ của Fox là William Pitt Trẻ. Đạo luật Ấn Độ của Pitt để cho Công ty Đông Ấn nắm quyền kiểm soát chính trị tại Ấn Độ, nhưng thành lập một uỷ ban kiểm soát tại Anh để giám sát sự vụ của Công ty, và để ngăn chặn các cổ đông của Công ty can thiệp vào việc quản lý Ấn Độ. Uỷ ban Kiểm soát bao gồm sáu thành viên, trong đó có ngoại trưởng và bộ trưởng tài chính. Vào khoảng thời gian này, cũng có tranh luận sâu rộng trong Quốc hội Anh về vấn đề quyền đất đai tại Bengal, ngày càng nhiều người ủng hộ quan điểm của Philip Francis rằng tất cả đất đai tại Bengal phải được cho là "bất động sản và tài sản thừa kế của các địa chủ và gia đình bản địa".
Đạo luật Ấn Độ của Pitt lưu tâm đến các báo cáo về việc công chức Công ty tại Bengal lạm dụng và tham nhũng, và ghi nhận các khiếu nại rằng nhiều rajah, zemindar, polygar, talookdar và địa chủ đã bị tước đoạt một cách bất công đất đai, quyền hạn, quyền lợi và đặc quyền của họ. Đồng thời, các giám đốc công ty lúc này đang nghiêng về quan điểm của Francis rằng thuế đất tại Bengal phải được cố định và kéo dài, tạo tiền đề cho Dàn xếp Vĩnh viễn (Permanent Settlement). Đạo luật Ấn Độ của Pitt cũng đặt thêm một số chức vụ hành chính và quân sự tại mỗi tỉnh, bao gồm: một thống đốc và ba ủy viên hội đồng, một trong số đó là tổng tư lệnh lục quân cấp tỉnh. Mặc dù quyền lực giám sát của Toàn quyền tại Bengal đối với Madras và Bombay được mở rộng, nhưng các tỉnh lệ thuộc này vẫn tiếp tục thực hiện một số quyền tự chủ, kéo dài cho đến khi các thuộc địa của Anh được mở rộng đến mức liền kề nhau và thông tin liên lạc nhanh chóng hơn trong thế kỷ tiếp theo.
Huân tước Cornwallis trở thành toàn quyền mới vào năm 1786. Ông có nhiều quyền lực hơn Hastings, và được ủng hộ từ vị bộ trưởng Henry Dundas đầy quyền lực-là người chịu trách nhiệm về chính sách tổng thể cho Ấn Độ. Từ năm 1784 trở đi, chính phủ Anh có tiếng nói cuối cùng trong việc bổ nhiệm mọi quan chức quan trọng tại Ấn Độ. Quyết định bổ nhiệm chức vụ cấp cao chủ yếu dựa vào mối quan hệ chính trị cá nhân thay vì khả năng hành chính. Thông lệ này khiến nhiều ứng cử viên toàn quyền được chọn từ giới quý tộc địa chủ thuộc phe bảo thủ tại Anh, nhưng cũng có một số người theo chủ nghĩa tự do như Huân tước William Bentinck và Huân tước Dalhousie.
Nỗ lực luận tội Warren Hastings cũng định hình quan điểm chính trị tại Anh; phiên tòa bắt đầu vào năm 1788 và kết thúc vào năm 1795 với kết quả là Hastings được trắng án. Mặc dù nỗ lực này chủ yếu do Edmund Burke điều phối, nhưng nó cũng thu hút ủng hộ từ bên trong chính phủ Anh. Burke cáo buộc Hastings phạm tội tham nhũng và chỉ hành động theo ý mình, không quan tâm đến luật pháp và cố tình gây đau khổ cho người khác tại Ấn Độ. Những người bảo vệ Hastings phản bác rằng ông hành động phù hợp với phong tục và truyền thống Ấn Độ. Các bài phát biểu của Burke tại phiên tòa nhận được tán thành, và tập trung chú ý vào Ấn Độ. Tuy nhiên, Hastings cuối cùng vẫn được trắng án, một phần là do chủ nghĩa dân tộc hồi sinh tại Anh sau Cách mạng Pháp. Dù sao thì nỗ lực của Burke đã có tác dụng tạo dựng ý thức trách nhiệm trong công chúng Anh trong việc Công ty Đông Ấn cai trị Ấn Độ.
Chẳng bao lâu sau, xuất hiện bất bình trong giới thương gia London về việc Công ty Đông Ấn được cấp độc quyền vào năm 1600, họ cho rằng điều này không còn cần thiết. Sự độc quyền này nhằm tạo điều kiện thuận lợi để cạnh tranh với Hà Lan và Pháp tại một khu vực xa xôi. Do đó trong Đạo luật Hiến chương 1813, Quốc hội Anh gia hạn hiến chương của Công ty nhưng chấm dứt việc độc quyền, ngoại trừ liên quan đến trà và thương mại với Trung Quốc, mở cửa Ấn Độ cho tư nhân đầu tư và các nhà truyền giáo. Khi Anh ngày càng gia tăng quyền lực tại Ấn Độ, Quân chủ và Quốc hội Anh cũng tăng cường giám sát sự vụ của Ấn Độ. Đến thập niên 1820, công dân Anh có thể giao dịch kinh doanh hoặc tham gia vào công việc truyền giáo tại ba tỉnh, được Quân chủ bảo hộ.
Cuối cùng, theo các điều khoản trong Đạo luật Saint Helena 1833, Quốc hội Anh thu hồi độc quyền của Công ty trong thương mại với Trung Quốc, và biến họ thành một thuộc cấp cho chính quyền Ấn Độ thuộc Anh. Chức vụ toàn quyền Bengal được đổi tên thành toàn quyền Ấn Độ. Toàn quyền và hội đồng hành chính của ông được trao quyền lực duy nhất về lập pháp đối với toàn bộ Ấn Độ thuộc Anh. Do lãnh thổ của Anh tại phía bắc Ấn Độ lúc này đã mở rộng đến tận Delhi, Đạo luật cũng cho phép thành lập tỉnh Agra. Sau khi sáp nhập Oudh vào năm 1856, lãnh thổ này đã được mở rộng và cuối cùng trở thành tỉnh Thống nhất Agra và Oudh. Ngoài ra, vào năm 1854, Anh bổ nhiệm chức vụ phó thống đốc tại Bengal, Bihar và Odisha, để Toàn quyền tập trung vào việc quản lý toàn bộ Ấn Độ.
Thu thuế
Bengal trước năm 1765 vẫn áp dụng hệ thống thu thuế của Đế quốc Mughal, theo đó các zamindar (người nắm giữ đất đai) thu thuế thay mặt cho hoàng đế Mughal, quan chức đại diện cho hoàng đế là diwan giám sát hoạt động của họ. Trong hệ thống này, các loại quyền lợi liên quan đến đất đai không thuộc sở hữu của riêng một "chủ đất", mà do một số bên chia sẻ, gồm nông dân trồng trọt, zamindar và nhà nước. Zamindar có vai trò là bên trung gian thu tiền thuê từ người trồng trọt, giữ lại một phần theo tỷ lệ cho mình rồi nộp phần còn lại cho nhà nước dưới hình thức thuế đất. Theo hệ thống Mughal, đất đai thuộc về nhà nước chứ không thuộc về zamindar, người này chỉ có thể chuyển nhượng quyền thu tiền thuê đất. Sau Trận Buxar năm 1764, Công ty Đông Ấn được trao diwani hay quyền lãnh chúa của Bengal. Họ nhận thấy mình thiếu hụt các nhà quản trị được đào tạo, đặc biệt là những người quen thuộc với phong tục và pháp luật địa phương; do đó việc thu thuế được chuyển giao cho trung gian. Hành động này của công ty trong việc thu thuế đất có thể đã làm trầm trọng thêm tác động của nạn đói Bengal 1769–1770, khi có 7-10 triệu người có thể đã chết, chiếm từ ¼ đến ⅓ dân số của tỉnh. Tuy nhiên, công ty lại có rất ít cứu trợ, dù dưới hình thức giảm thuế hoặc các nỗ lực cứu trợ, tác động kinh tế và văn hóa từ nạn đói được cảm nhận trong nhiều thập niên sau, và trở thành chủ đề trong cuốn tiểu thuyết Anandamath của Bankim Chandra Chatterjee trong một thế kỷ sau.
Năm 1772, dưới thời Warren Hastings, Công ty Đông Ấn tiếp quản quyền trực tiếp thu thuế tại tỉnh Bengal (gồm Bengal và Bihar ngày nay), thành lập Ban Thu thuế có văn phòng tại Calcutta và Patna, đồng thời chuyển hồ sơ thu thuế thời Mughal từ Murshidabad đến Calcutta.
Năm 1773, sau khi Oudh nhượng lại nước chư hầu Benaras, hệ thống thu thuế được mở rộng đến lãnh thổ này, do một công sứ của Công ty phụ trách. Đến năm sau, với mục đích ngăn chặn tham nhũng, quan thu thuế cấp huyện (district collectors) của Công ty được thay thế bằng các hội đồng cấp tỉnh tại Patna, Murshidabad và Calcutta, còn những người thu thuế Ấn Độ sẽ làm việc tại cấp huyện. Chức danh "quan thu thuế" (collector) phản ánh "hoạt động thu thuế đất có tính chất trung tâm trong chính phủ tại Ấn Độ: Đây là chức năng chính của chính phủ, và nó định hình các thể chế cũng như mô hình hành chính".
Công ty kế thừa hệ thống thu thuế từ Đế quốc Mughal, theo đó gánh nặng thuế của người trồng trọt là nặng nhất, khi 1/3 sản lượng được dành để nộp cho đế quốc; chính sách thu thuế của Công ty có cơ sở từ hệ thống này. Tuy nhiên, có sự khác biệt lớn trên khắp Ấn Độ về phương pháp thu thuế; do sự phức tạp này, một Ủy ban Kinh lý (Committee of Circuit) đi đến các huyện thuộc tỉnh Bengal mới mở rộng để thực hiện dàn xếp 5 năm, bao gồm các cuộc thanh tra và đánh thuế tạm thời. Các quan chức Công ty hướng tới hai mục tiêu trong chính sách thu thuế: Thứ nhất là duy trì sự cân bằng nhiều nhất có thể về quyền lợi và nghĩa vụ giữa nông dân trồng trọt trên đất và các bên trung gian thu thuế thay mặt cho nhà nước; và thứ hai là xác định những lĩnh vực trong nền kinh tế nông thôn có thể tối đa hóa về thu thuế và an ninh. Mặc dù cuộc dàn xếp thu thuế lần đầu tiên này về cơ bản giống với mô hình từ thời Mughal, nhưng Công ty đã tạo ra nền tảng cho sự phát triển của cả thông tin và bộ máy quan liêu.
Năm 1793, toàn quyền mới là Huân tước Cornwallis ban hành quy định dàn xếp vĩnh viễn trong việc thu thuế đất tại cấp tỉnh, đây là quy định kinh tế-xã hội đầu tiên tại Ấn Độ thuộc địa. Các raja và taluqdar được công nhận là zamindar theo các điều khoản dàn xếp, và họ được yêu cầu thu tiền thuê đất từ nông dân và trả thuế cho công ty. Quy định được đặt tên là vĩnh viễn (permanent) vì ấn định thuế đất vĩnh viễn để đổi lấy quyền tài sản đất đai cho các zamindar; xác định bản chất quyền sở hữu đất đai trong tỉnh, đồng thời trao cho các cá nhân và gia đình quyền tài sản riêng biệt trên đất bị chiếm giữ. Do thuế được cố định vĩnh viễn nên nó được ấn định ở mức cao, lên tới 3 triệu bảng Anh tại Bengal theo mức giá 1789–1790. Theo Dàn xếp Vĩnh viễn (Permanent Settlement) nếu các zamindar không thanh toán thuế đúng hạn, họ sẽ bị tước quyền zamindar. Theo một ước tính, con số này cao hơn 20% so với nhu cầu ngân khố trước năm 1757. Trong thế kỷ tiếp theo, một phần là do kết quả của các cuộc khảo sát đất đai, phán quyết của tòa án và việc bán tài sản, thay đổi đó đã mang tính thực tế. Các lý thuyết kinh tế đương thời ảnh hưởng đến việc phát triển chính sách thu thuế này, theo đó nông nghiệp được cho là động lực phát triển kinh tế, và kết quả là nhấn mạnh đến nhu cầu ấn định thuế để khuyến khích tăng trưởng Kỳ vọng đằng sau việc dàn xếp vĩnh viễn này là khi cố định thuế thì sẽ khuyến khích các zamindar tăng sản lượng bình quân và diện tích đất được canh tác, vì họ có thể giữ lại lợi nhuận từ sản lượng tăng thêm; ngoài ra còn có dự tính rằng bản thân đất đai sẽ trở thành một dạng tài sản có thể mua bán hoặc thế chấp trên thị trường. Một kỳ vọng nữa là các zamindar nhận biết lợi ích tốt nhất của mình, nên sẽ không đưa ra những yêu cầu vô lý đối với giai cấp nông dân.
Tuy nhiên, những kỳ vọng này không được hiện thực hoá, khi nông dân tại nhiều vùng của Bengal phải chịu gánh nặng do nhu cầu của tầng lớp trên ngày càng tăng, luật mới ít bảo vệ các các quyền lợi truyền thống của họ. Zamindar ép buộc nông dân phải lao động thường xuyên hơn, do họ phải trồng cây thương mại để đáp ứng nhu cầu thu thuế của Công ty. Mặc dù việc trồng cây thương mại trong khu vực không phải là mới, nhưng lúc này nó đã thâm nhập sâu hơn vào xã hội làng quê, và khiến làng quê dễ hứng chịu tổn thất hơn trước các thế lực thị trường. Bản thân các zamindar thường không thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng do công ty đặt ra cho họ; nhiều người do đó vỡ nợ, và theo một ước tính có tới 1/3 đất đai của nhóm này bị bán đấu giá trong hai thập niên đầu tiên sau Dàn xếp Vĩnh viễn. Các chủ sở hữu mới thường là các nhân viên của Công ty thuộc tầng lớp Brahmin và Kayastha, họ giỏi nắm bắt hệ thống mới, và một số người nhờ đó mà trở nên phát đạt.
Các zamindar không bao giờ có thể thực hiện những cải tiến tốn kém trên đất đai giống như dự tính trong Dàn xếp Vĩnh viễn, họ nhanh chóng trở thành những người cho nông dân thuê đất. Ở nhiều khu vực, đặc biệt là miền bắc Bengal, họ ngày càng phải chia sẻ khoản thu với những người trung gian được gọi là jotedar, những người này giám sát việc canh tác trong các làng. Kết quả là nông nghiệp tại Bengal vẫn là lĩnh vực canh tác tự cung tự cấp gồm vô số mảnh ruộng nhỏ.
Hệ thống zamindar là một trong hai cách dàn xếp thu thuế chính khi Công ty Đông Ấn cai trị Ấn Độ. Tại miền nam Ấn Độ, Thống đốc Madras tương lai là Thomas Munro đã thúc đẩy hệ thống ryotwari hay còn gọi là hệ thống Munro, theo đó chính phủ dàn xếp trực tiếp về thuế đất với nông dân (ryot). Hệ thống này được Alexander Read thử nghiệm lần đầu trên quy mô nhỏ tại lãnh thổ lấy được sau chiến tranh với Tipu Sultan. Sau đó, Thomas Munro phát triển hệ thống này, dần mở rộng khắp miền nam Ấn Độ. Điều này một phần là do hậu quả của tình trạng hỗn loạn trong Chiến tranh Anh-Mysore, khiến cho tầng lớp địa chủ lớn không thể vươn lên. Ngoài ra, Munro và những người khác cảm thấy rằng ryotwari gần gũi hơn với thực tiễn truyền thống trong khu vực, và tiến bộ hơn về mặt tư tưởng, cho phép lợi ích từ việc Công ty cai trị đến được với những tầng lớp thấp nhất của xã hội nông thôn. Trọng tâm của hệ thống ryotwari là một lý thuyết về tiền thuê kinh tế—và dựa trên định luật cho thuê của David Ricardo—do James Mill theo chủ nghĩa vị lợi thúc đẩy, ông xây dựng chính sách thu thuế của Ấn Độ từ năm 1819 đến năm 1830. "Ông tin rằng chính phủ là lãnh chúa tối cao về đất đai và không nên từ bỏ quyền 'tô lợi' của mình, tức là lợi nhuận còn lại trên vùng đất màu mỡ khi đã thanh toán lương và các chi phí làm việc khác." Một nguyên tắc cơ bản khác của hệ thống dàn xếp tạm thời mới này là phân loại các cánh đồng theo loại đất và sản lượng, mức giá cho thuê trung bình được cố định trong thời gian dàn xếp. Theo Mill, việc đánh thuế thuê đất sẽ thúc đẩy nền nông nghiệp năng suất cao, đồng thời ngăn chặn "giai cấp địa chủ ký sinh" xuất hiện. Mill ủng hộ các dàn xếp ryotwari, bao gồm việc chính phủ đo đạc và đánh giá từng lô đất (có giá trị trong 20 hoặc 30 năm), và sau đó đánh thuế theo độ phì nhiêu của đất. Tuy nhiên, bất chấp các nguyên tắc trong hệ thống ryotwari, hệ thống thứ bậc đẳng cấp tại các làng miền nam Ấn Độ vẫn chưa hoàn toàn biến mất, chẳng hạn như các tù trưởng làng vẫn tiếp tục nắm quyền, và các nông dân trồng trọt đôi khi không thể đáp ứng được yêu cầu về thuế. Trong thập niên 1850, một vụ bê bối nổ ra khi một số đại lý thu thuế là người Ấn Độ của Công ty bị phát hiện sử dụng tra tấn để hoàn thành yêu cầu thu thuế.
Thu thuế đất là hoạt động hành chính trọng yếu của các chính phủ tại Ấn Độ dưới thời Công ty cai trị. Bên ngoài tỉnh Bengal, phần lớn lượng công việc của các viên chức công vụ Ấn Độ là khảo sát và đo đạc liên tục lặp đi lặp lại trên các lô đất, đánh giá chất lượng đất, ghi nhận các quyền lợi về đất. Sau khi Công ty mất đi quyền kinh doanh, thu thuế trở thành nguồn thu đơn lẻ quan trọng nhất của chính phủ, chiếm gần một nửa tổng thu nhập vào giữa thế kỷ 19. Tuy nhiên, chính phủ Ấn Độ ở trong tình trạng mắc nợ trong 33 năm vào giai đoạn 1814-1859. Do Công ty mở rộng lãnh địa, số tiền thu được chỉ đủ để trả lương cho bộ máy chính quyền và cảnh sát yếu kém, cũng như cho lục quân, ngay cả trong những năm không bị thâm hụt.
Lục quân và công vụ
Khi Hastings trở thành toàn quyền đầu tiên vào năm 1772, một trong những công việc đầu tiên của ông là nhanh chóng mở rộng lục quân cấp tỉnh. Những người lính hiện hữu (Sepoy) đến từ Bengal và nhiều người trong số họ từng chiến đấu chống lại người Anh trong Trận Plassey. Do người Anh lúc này nghi ngờ họ, Hastings đã chuyển sang tuyển mộ binh sĩ ở xa hơn về phía tây, lúc này nguồn tuyển chính của bộ binh Ấn Độ là phía đông Awadh và các vùng đất xung quanh Banaras bao gồm Bihar. Trong hai trăm năm, quân đội của Đế quốc Mughal tuyển mộ binh sĩ từ người thuộc đẳng cấp cao Rajput và Brahmin theo đạo Hindu tại vùng nông thôn trong khu vực này, họ được gọi là Purbiya ("người phía đông"). Công ty Đông Ấn tiếp tục thông lệ này trong 75 năm tiếp theo, và lượng binh sĩ này chiếm tới 80% lục quân tỉnh Bengal. Người Anh tại Malabar cũng chuyển đổi quân đội Thiyyar (Thiyya pattalam) thành một trung đoàn đặc biệt tập trung tại Thalassery, mang tên Trung đoàn Thiyyar vào năm 1904. Nhằm tránh xích mích trong hàng ngũ, Công ty cũng nỗ lực điều chỉnh hoạt động quân sự để phù hợp với yêu cầu tôn giáo. Do đó, những người lính này ăn trong những nơi riêng biệt; việc phục vụ tại hải ngoại là không bắt buộc vì nó được cho là khiến đẳng cấp của họ bị ô uế; và lục quân nhanh chóng chính thức công nhận các lễ hội Hindu. Tuy nhiên, sự động viên về nghi lễ này khiến chính phủ có nguy cơ gặp phải phản đối hay nổi loạn, nếu các sepoy phát hiện ra hành vi xâm phạm đặc quyền của họ.
Lục quân Bengal tham gia các chiến dịch quân sự tại các khu vực khác của Ấn Độ và tại nước ngoài: từng là lực lượng hỗ trợ quan trọng cho lục quân yếu kém của tỉnh Madras trong Chiến tranh Anh–Mysore lần thứ ba năm 1791, cũng như tại Java và Ceylon. Không như binh lính trong quân đội của các quân chủ Ấn Độ, các sepoy Bengal nhận được mức lương cao và ổn định, do Công ty tiếp cận được nguồn thu thuế dồi dào của Bengal. Không lâu sau, lục quân Bengal được đánh giá cao nhờ có công nghệ súng hỏa mai mới và được hải quân hỗ trợ. Các sepoy có kỷ luật tốt, mặc áo khoác đỏ, và các sĩ quan người Anh bắt đầu khơi dậy "một loại kính sợ trong lòng đối thủ của họ. Tại Maharashtra và Java, các sepoy được cho là hiện thân của thế lực ma quỷ, đôi khi là hiện thân của các anh hùng chiến binh cổ xưa. Các quân chủ Ấn Độ chọn áo khoác serge màu đỏ cho quân lính và thuộc hạ của họ, để mượn danh tiếng từ phẩm chất đó."
Năm 1796, do áp lực từ hội đồng quản trị Công ty tại London, các nhóm lục quân Ấn Độ được tổ chức lại và thu hẹp trong nhiệm kỳ của Toàn quyền John Shore. Tuy nhiên, sức mạnh lục quân gia tăng do các chiến dịch của Wellesley vào những năm cuối thế kỷ 18. Vì vậy đến khi xảy ra binh biến Vellore vào năm 1806, tổng quân số của lục quân ba tỉnh là 154.500 người, là một trong những quân đội thường trực lớn nhất trên thế giới khi đó.
Khi Công ty Đông Ấn mở rộng lãnh thổ, họ bổ sung thêm các "quân đoàn địa phương" không chính quy, lực lượng này không được huấn luyện bài bản như lục quân. Sau Chiến tranh Anh-Sikh năm 1846, một lữ đoàn biên phòng được thành lập tại Các quốc gia Đồi Nội Sutlej, chủ yếu để phục vụ công việc của cảnh sát. Vào năm 1849, "Lực lượng không chính quy Punjab" được bổ sung tại biên giới. Hai năm sau, lực lượng này gồm có "3 khẩu đội dã chiến hạng nhẹ, 5 trung đoàn kỵ binh và 5 trung đoàn bộ binh". Đến năm sau, "một đại đội đồn trú được bổ sung, ... trung đoàn bộ binh thứ sáu (được thành lập từ Quân đoàn Lạc đà Sind) được tăng thêm vào năm 1853, và có thêm một khẩu đội miền núi vào năm 1856". Công ty cũng thành lập một đội quân địa phương sau khi sáp nhập Nagpur vào năm 1854, và "Lực lượng không chính quy Oudh" được tăng thêm sau khi sáp nhập Oudh vào năm 1856. Sau hiệp ước năm 1800, Nizam của Hyderabad duy trì quân dự phòng gồm 9.000 kỵ binh và 6.000 bộ binh, do các sĩ quan của Công ty Đông Ấn chỉ huy; vào năm 1853, sau khi đàm phán về một hiệp ước mới, đội quân này được giao cho Berar và không còn là một phần của quân đội Nizam.
Trong khởi nghĩa Ấn Độ năm 1857, gần như toàn bộ lục quân Bengal đã nổi dậy, cả quân chính quy lẫn không chính quy. Có ý kiến cho rằng sau khi Công ty Đông Ấn sáp nhập Oudh vào năm 1856, nhiều sepoy đã lo lắng do sợ mất đi bổng lộc của giới quý tộc địa chủ, và do dự đoán khả năng các khoản thuế từ đất đai sẽ tăng lên. Khi người Anh giành thắng lợi trong các cuộc chiến hoặc trong việc sáp nhập, phạm vi quyền tài phán của họ được mở rộng, binh lính lúc này có thể phải phục vụ tại những nơi ít quen thuộc (như trong Chiến tranh Anh-Miến Điện năm 1856), cũng như không còn được nhận tiền "phục vụ tại nước ngoài" như trước, và gây ra sự bất bình trong hàng ngũ. Tuy nhiên, lục quân Bombay và Madras, và đạo quân Hyderabad vẫn trung thành. Lực lượng không chính quy Punjab còn đóng vai trò tích cực trong việc trấn áp cuộc binh biến. Cuộc khởi nghĩa dẫn đến việc tái tổ chức hoàn toàn lục quân Ấn Độ vào năm 1858 tại Raj thuộc Anh mới.
Công vụ
Các cải cách được khởi xướng sau năm 1784 có mục đích là nhằm tạo ra một nền công vụ ưu tú, có những thanh niên Anh rất tài năng cống hiến toàn bộ sự nghiệp của họ. Đào tạo nâng cao được đẩy mạnh, đặc biệt là tại Học viện Công ty Đông Ấn (East India Company College, cho đến năm 1853). Haileybury nhấn mạnh về Anh giáo và đạo đức, cũng như đào tạo sinh viên về các ngôn ngữ cổ điển của Ấn Độ. Nhiều sinh viên tin theo chủ nghĩa Whig, chủ nghĩa phúc âm, và chủ nghĩa vị lợi, cho rằng họ có bổn phận đại diện cho quốc gia và hiện đại hóa Ấn Độ. Khi nhiều nhất có khoảng 600 người trong số này quản lý trong ngành hải quan, thuế vụ, hệ thống tư pháp và nền hành chính chung của Raj.Colin Newbury, "Patronage and Professionalism: Manning a Transitional Empire, 1760–1870". Journal of Imperial and Commonwealth History (2013) 42#2 pp: 193–213. Chính sách ban đầu của Công ty nằm trong "chủ nghĩa Đông phương", theo đó điều chỉnh theo lối sống và phong tục của người dân Ấn Độ và không cố gắng cải cách chúng. Điều này thay đổi sau năm 1813, khi các lực lượng cải cách tại mẫu quốc Anh hợp tác để biến Công ty thành một tác nhân giúp Anh hoá và hiện đại hoá Ấn Độ, đặc biệt là từ lực lượng phúc âm, Whig và vị lợi. Các nhà truyền giáo Cơ Đốc bắt đầu hoạt động, nhưng có ít người Ấn Độ cải đạo. Raj cấm chỉ tập tục sati (thiêu góa phụ) và thuggee (băng cướp), và nâng cao địa vị của phụ nữ. Các trường học được thành lập và có dạy tiếng Anh. Tuy nhiên, thập niên 1830 và 1840 không phải là thời kỳ thịnh vượng: Sau khi chi mạnh tay cho lục quân, Công ty còn lại rất ít tiền để tiến hành các dự án công trình công cộng quy mô lớn hoặc các chương trình hiện đại hóa.
Thương mại
Sau khi Công ty Đông Ấn giành được quyền thu thuế tại Bengal vào năm 1765, họ gần như ngừng nhập khẩu vàng bạc để thanh toán cho hàng hóa nhập về Anh như trước.
Giống như thời Đế quốc Mughal, tiền thuế đất thu được tại tỉnh Bengal được dùng cho các cuộc chiến của công ty tại các nơi khác của Ấn Độ. Do đó trong giai đoạn 1760–1800, cung ứng tiền tệ của Bengal bị suy giảm nghiêm trọng; kinh tế suy sụp còn bắt nguồn từ việc đóng cửa một số xưởng đúc tiền tại địa phương và giám sát chặt chẽ các xưởng còn lại, ấn định tỷ giá hối đoái, và tiêu chuẩn hóa tiền xu. Ấn Độ thay đổi vị thế trong giai đoạn 1780–1860, từ một nơi xuất khẩu hàng hóa gia công và nhận thanh toán bằng vàng bạc, trở thành một nơi xuất khẩu nguyên liệu thô và mua hàng tiêu dùng. Trong thập niên 1750 hầu hết bông và lụa mịn được xuất khẩu từ Ấn Độ sang các thị trường châu Âu, châu Á, châu Phi; nhưng đến một phần tư thứ hai của thế kỷ 19, hầu hết hàng xuất khẩu của Ấn Độ là nguyên liệu thô, chủ yếu là bông thô, thuốc phiện và bột chàm. Ngoài ra, từ cuối thế kỷ 18, ngành công nghiệp bông của Anh bắt đầu vận động chính phủ đánh thuế hàng nhập khẩu của Ấn Độ, trong khi cho phép họ tiếp cận thị trường Ấn Độ. Bắt đầu từ thập niên 1830, hàng dệt của Anh bắt đầu xuất hiện tại Ấn Độ và nhanh chóng tràn ngập thị trường, giá trị nhập khẩu hàng dệt tăng từ 5,2 triệu bảng vào năm 1850 lên 18,4 triệu bảng vào năm 1896. Nội chiến Hoa Kỳ cũng có tác động lớn đến nền kinh tế bông của Ấn Độ: Do chiến tranh bùng nổ, các nhà sản xuất tại Anh không còn tiếp cận được bông Mỹ; do đó nhu cầu về bông Ấn Độ tăng vọt và giá nhanh chóng tăng gấp bốn lần. Điều này khiến nhiều nông dân Ấn Độ chuyển sang trồng bông để kiếm tiền nhanh; tuy nhiên đến khi chiến tranh kết thúc vào năm 1865, nhu cầu lại giảm mạnh, khiến nền kinh tế nông nghiệp lại chịu một cuộc suy thoái khác.
Vào thời điểm này, Công ty Đông Ấn cũng bắt đầu phát triển mua bán với Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ 19, nhu cầu về trà Trung Quốc tại Anh tăng mạnh; vì nguồn cung tiền tại Ấn Độ bị hạn chế và Công ty không thể vận chuyển vàng bạc từ Anh, nên họ đã quyết định chọn hình thức thanh toán sinh lợi nhất là thuốc phiện, vì mặt hàng này có thị trường ngầm quy mô lớn tại Đại Thanh và được trồng tại nhiều nơi của Ấn Độ. Tuy nhiên, do chính quyền Trung Quốc cấm nhập khẩu và tiêu thụ thuốc phiện, Công ty Đông Ấn tham gia Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất. Theo Điều ước Nam Kinh để kết thúc chiến tranh, Công ty có được quyền tiếp cận năm cảng của Trung Quốc, và Hồng Kông được nhượng lại cho Quân chủ Anh. Đến cuối nửa đầu thế kỷ 19, xuất khẩu thuốc phiện chiếm 40% kim ngạch xuất khẩu của Ấn Độ.
Một mặt hàng xuất khẩu lớn khác là bột chàm, nhưng nó có tính thất thường, sản phẩm được chiết xuất từ chàm tự nhiên được trồng tại Bengal và miền bắc Bihar. Năm 1788, Công ty Đông Ấn đề nghị ứng trước cho 10 chủ đồn điền người Anh để trồng cây chàm; tuy nhiên do Dàn xếp Vĩnh viễn không cho phép người châu Âu mua đất nông nghiệp, nên họ quay sang ứng tiền trước để nông dân địa phương trồng cây chàm, và thỉnh thoảng còn cưỡng ép họ. Quần áo màu xanh lam được ưa chuộng tại châu Âu vào đầu thế kỷ 19, và đồng phục màu xanh lam cũng phổ biến trong quân đội; do đó nhu cầu về thuốc nhuộm ở mức cao. Tuy nhiên, nhu cầu về thuốc nhuộm của châu Âu không ổn định, và cả chủ nợ lẫn người trồng trọt đều phải gánh chịu rủi ro khi thị trường sụp đổ vào năm 1827 và 1847. Sự bất mãn của nông dân Bengal cuối cùng dẫn đến khởi nghĩa chàm vào năm 1859–60, khiến sản xuất bột chàm tại đây phải chấm dứt. Tuy nhiên, việc sản xuất bột chàm tại Bihar vẫn tiếp tục cho đến thế kỷ 20; huyện Champaran là một trung tâm sản xuất chàm và đến năm 1917 là nơi chiến lược phản kháng bất bạo động của Mohandas Karamchand Gandhi có thử nghiệm ban đầu.
Hệ thống pháp luật
Trước khi người Anh giành được Bengal vào giữa thế kỷ 18, hệ thống tư pháp khu vực này do Nawab của Bengal điều hành, ông tham gia các vụ án trong khung tội tử hành tại thủ phủ Murshidabad. Cấp phó của ông gọi là Naib Nāzim và tham gia giải quyết những vụ án ít quan trọng hơn một chút. Một hệ thống quan tòa được phân cấp có thẩm quyền với các vụ án thông thường, gồm có faujdār, muhtasil và kotwāl. Tại các vùng nông thôn, các zamindar—các lãnh chúa nông thôn có quyền kế tập về thu tiền thuê đất từ nông dân—cũng có quyền thi hành công lý. Họ ít phải chịu giám sát thường lệ, chỉ được yêu cầu báo cáo phán quyết trong các vụ án tử hình cho Nawāb.
Các Hiến chương Hoàng gia dần trao cho Công ty Đông Ấn nhiều quyền lực hơn trong việc thi hành công lý tại các đô thị thủ phủ Madras, Bombay và Calcutta. Theo hiến chương do Charles II cấp vào năm 1683, Công ty được trao quyền thành lập "tòa án tư pháp" (courts of judicature), mỗi tòa án bao gồm một luật sư và hai thương gia. Quyền này được gia hạn trong các hiến chương sau đó của James II và William III vào năm 1686 và 1698. Tuy nhiên, vào năm 1726, Hội đồng quản trị của Công ty nhận thấy cần có thêm hệ thống tư pháp theo tập quán cho cư dân châu Âu tại các đô thị thủ phủ tỉnh, và kiến nghị Quốc vương thành lập Tòa án Thị trưởng (Mayor's Courts). Thỉnh cầu này được chấp thuận, mỗi tòa án thị trưởng có một thị trưởng và chín ủy viên hội đồng. Loại toà án này có thẩm quyền xét xử các vụ kiện giữa người châu Âu với nhau, được lập ra tại Pháo đài William (Calcutta), Madras và Bombay. Các phán quyết do tòa án thị trưởng đưa ra có thể được kháng cáo lên chính quyền cấp tỉnh, và khi số tiền tranh chấp lớn hơn 4.000 rupee thì có thể kháng cáo tiếp lên Xu mật viện Quốc vương (King-in-Council). Năm 1753, các tòa án thị trưởng được gia hạn, tòa án thỉnh cầu (Courts of Requests) được lập ra để xử các vụ kiện liên quan đến số tiền ít hơn 20 rupee. Cả hai loại tòa án đều do Hội đồng quản trị Công ty Đông Ấn quản lý.
Sau khi Công ty giành chiến thắng trong Trận Buxar, họ giành được Diwāni của Bengal vào năm 1765. Quyền này không chỉ có thu thuế mà còn gồm thi hành tư pháp dân sự tại Bengal. Tuy nhiên, việc quản lý tư pháp hình sự vẫn thuộc về Nawāb , và luật Hồi giáo vẫn được giữ nguyên đối với các vụ án hình sự. Tuy nhiên, Công ty cho thuê quyền liên quan đến Diwāni cho các quan chức Ấn Độ từng thực hiện chúng. Kiểu sắp xếp tạm thời này tiếp tục cho đến năm 1771 dù có nhiều xáo trộn, Hội đồng quản trị của Công ty sau đó quyết định trao cho Công ty quyền tài phán đối với cả vụ án hình sự và dân sự.
Warren Hastings đến Calcutta trong vai trò là Toàn quyền đầu tiên, ông quyết tâm cải tổ tổ chức của công ty, đặc biệt là các vấn đề tư pháp. Diwāni adālat (tòa án dân sự sơ thẩm) được thành lập tại mỗi huyện trong vùng nội địa (Mofussil). Người chủ trì các tòa án này là các thẩm phán Zilā châu Âu do Công ty tuyển dụng, người hỗ trợ giải thích luật tục Ấn Độ là các pandit đạo Hindu và các qazi Hồi giáo. Tuy nhiên, đối với những khiếu nại nhỏ, người xử lý là các hộ tịch viên (registrar) và ủy viên hội đồng (commissioners) người Ấn Độ, được gọi là Sadr Amīn và Munsif. Giám sát họ là các toà án dân sự phúc thẩm cấp tỉnh, mỗi tòa gồm bốn thẩm phán người Anh. Tất cả đều nằm dưới thẩm quyền của Sadr Diwāni Adālat, hay Toà án tối cao phúc thẩm dân sự (Chief Civil Court of Appeal), bao gồm thống đốc tỉnh và hội đồng của ông, có các quan chức Ấn Độ hỗ trợ.
Công ty thành lập các tòa án tư pháp hình sự (court of criminal judicature) cấp tỉnh tại vùng nội địa; bao gồm các quan chức tòa án Ấn Độ (pandit và qazi), do các quan chức của Công ty giám sát. Ngoài ra, còn thành lập các tòa án kinh lý (Court of circuit) có thẩm quyền phúc thẩm trong các vụ án hình sự, thường do các thẩm phán của tòa phúc thẩm dân sự chủ trì. Tất cả đều nằm dưới quyền quản lý của Sadr Nizāmat Adālat hay Tòa án tối cao phúc thẩm hình sự (Chief Court of Criminal Appeal).
Hạ viện khi này bắt đầu ngày càng giám sát công việc của Công ty Đông Ấn. Sau khi một ủy ban đưa ra báo cáo chỉ trích các tòa án thị trưởng, Quân chủ ban hành hiến chương về hệ thống tư pháp mới tại tỉnh Bengal. Quốc hội Anh ban hành Đạo luật Điều chỉnh năm 1773, theo đó Xu mật viện Quốc vương thành lập tòa án tối cao (Supreme Court) tại đô thị thủ phủ, tức là Pháo đài William. Tòa án bao gồm một chánh án và ba quan toà cấp dưới; tất cả bốn thẩm phán đều được chọn từ giới luật sư tố tụng. Tòa án tối cao thay thế tòa án thị trưởng; nhưng tòa án kinh lý vẫn tồn tại. Theo hiến chương, tòa án tối cao có thẩm quyền thi hành tất cả các loại quyền tài phán trong khu vực Bengal, Bihar và Odisha, chỉ khi số tiền tranh chấp vượt quá 4.000 rupee thì phán quyết của họ mới có thể bị kháng cáo lên Xu mật viện. Cả đạo luật và hiến chương đều không nói gì về mối quan hệ giữa nhánh tư pháp (tòa án tối cao) và nhánh hành pháp (toàn quyền); cũng không nói gì về Adālat (cả Diwāni và Nizāmat) do Warren Hastings tạo ra vào một năm trước. Trong tòa án tối cao mới, các vụ án dân sự và hình sự đều được diễn giải và truy tố theo luật Anh. Tuy nhiên, các thẩm phán và viên chức luật trong Sadr Adālat không có kiến thức về luật Anh. Theo lệnh của Toàn quyền thì họ chỉ được yêu cầu "tiến hành dựa theo tính công bằng, công lý và lương tâm tốt, trừ khi luật Hindu hoặc Muhammadan có quy định, hoặc một số Quy định được áp dụng rõ ràng".
Do đó, có khả năng tòa án tối cao và Sadr Adālats hành động đối lập nhau, và sẽ xảy ra nhiều tranh chấp. Nỗ lực quá sớm của Hastings trong việc bổ nhiệm Chánh án Elijah Impey làm quan toà của Sadr Diwāni Adālat chỉ làm tình hình thêm phức tạp.
Đạo luật Tuyên bố (Declaration Act) năm 1781 của Quốc hội Anh bãi bỏ việc bổ nhiệm này. Đạo luật miễn cho nhánh hành pháp khỏi thẩm quyền của tòa án tối cao, công nhận Sadr Adālats tồn tại độc lập. Nó còn ngăn chặn các cuộc chiến pháp lý trong tương lai bằng cách không cho tòa án tối cao có thẩm quyền trong vấn đề thu thuế (Diwāni), hoặc các quy định của chính phủ do Quốc hội Anh ban hành. Tình trạng này tiếp tục đến năm 1797, khi có một Đạo luật mới mở rộng thẩm quyền toà án tối cao đến tỉnh Benares và mọi nơi trong tỉnh Bengal khi đó. Đến khi thành lập Các tỉnh được nhượng lại và chinh phục (Ceded and Conquered Provinces) vào năm 1805, thẩm quyền được mở rộng xa về phía tây đến tận Delhi.
Một quá trình thay đổi pháp lý tương tự diễn ra tại hai tỉnh còn lại là Madras và Bombay. Tuy nhiên, các tòa án thị trưởng lúc đầu được nâng lên thành tòa án quan tòa (Recorder's Court) bằng cách bổ sung một thống sứ pháp lý (legal president). Các tòa án tối cao tại Madras và Bombay lần lượt được thành lập vào năm 1801 và 1823. Tỉnh Madras là nơi đầu tiên dựa vào trưởng lão làng và panchāyat để giải quyết các khiếu nại nhỏ. Hệ thống tư pháp này tại ba tỉnh tồn tại trong thời gian Công ty Đông Ấn cai trị, chỉ có thay đổi lớn vào năm 1861.
Giáo dục
Các quan chức của Công ty Đông Ấn quan tâm đến vấn đề giáo dục người Ấn Độ ngay từ khi họ bắt đầu cai trị tại Bengal. Trong hai thập niên cuối thế kỷ 18 và thập niên đầu thế kỷ 19, các quan chức Công ty theo đuổi chính sách hòa giải với văn hóa bản địa, đặc biệt là trong chính sách giáo dục. Đến thế kỷ 19, tỷ lệ biết chữ của người Ấn Độ được đồn đại là chưa bằng một nửa so với mức 18,33% của năm 1951. Cihính sách này nhằm hỗ trợ ba mục tiêu: "để bảo trợ cho nền văn hóa của chính người Ấn Độ, nâng cao kiến thức về Ấn Độ, và sử dụng kiến thức đó trong chính phủ".
Một số nhà quản trị như Warren Hastings ủng hộ mục tiêu thứ nhất, ông dự tính để Công ty là bên kế thừa một đế chế vĩ đại, và cho rằng việc ủng hộ học tiếng bản địa phù hợp với vai trò đó. Năm 1781, Hastings thành lập Madrasa 'Aliya tại Calcutta để nghiên cứu các ngôn ngữ Ả Rập và Ba Tư, cùng luật Hồi giáo. Vài thập niên sau, dân chúng bản địa có quan điểm tương đồng, được nhà cải cách bảo thủ người Bengal là Radhakanta Deb bày tỏ là "Những nhà cai trị quốc gia có nghĩa vụ duy trì phong tục và tôn giáo của thần dân họ".
Mục tiêu thứ hai được thúc đẩy vì một số quan chức Công ty lo ngại họ sẽ bị cho là kẻ thống trị ngoại bang. Họ lập luận rằng Công ty nên cố gắng thu phục thần dân của mình bằng cách vượt xa những người cai trị trước đó trong việc ủng hộ việc học tập kiến thức bản địa. Do niềm tin này, Trường Phạn ngữ Benares được thành lập tại Varanasi vào năm 1791. Việc thúc đẩy kiến thức về Châu Á giúp thu hút các học giả đến phục vụ cho Công ty. William Jones thành lập Hiệp hội Asiatick tại Calcutta vào năm 1784, không lâu sau ông thúc đẩy luận án nổi tiếng về nguồn gốc chung của ngữ hệ Ấn-Âu.
Mục tiêu thứ ba xuất phát từ triết lý đương thời của một số quan chức Công ty là họ sẽ trở thành những nhà quản trị tốt hơn nếu thông thạo hơn về ngôn ngữ và văn hóa của Ấn Độ. Kết quả là thành lập Trường Fort William tại Calcutta vào năm 1800. Trường này về sau đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các ngôn ngữ Ấn Độ hiện đại và Phục hưng Bengal. Những người ủng hộ các mục tiêu này được gọi là "người theo chủ nghĩa Đông phương". Nhiều quan chức hàng đầu của Công ty như Thomas Munro và Mountstuart Elphinstone chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa Đông phương, và cảm thấy rằng chính phủ của Công ty nên đáp ứng những kỳ vọng của người Ấn Độ. Chủ nghĩa Đông phương chiếm ưu thế trong chính sách giáo dục cho đến thập niên 1820, được phản ánh trong việc thành lập Trường Phạn ngữ Poona tại Pune vào năm 1821 và Trường Phạn ngữ Calcutta vào năm 1824.
Tuy nhiên, những người ủng hộ "Anh học" (Anglicist) nhanh chóng phản đối những người theo chủ nghĩa Đông phương. Những người Anh học ủng hộ việc giảng dạy bằng tiếng Anh để truyền đạt cho người Ấn Độ những điều mà họ cho là kiến thức phương Tây hiện đại. Những người phúc âm nổi bật trong nhóm này, sau năm 1813 thì họ quan tâm đến truyền bá niềm tin Cơ đốc; họ cũng tin vào việc sử dụng thần học để thúc đẩy cải cách xã hội tự do, chẳng hạn như bãi bỏ chế độ nô lệ. Chủ tịch Công ty Đông Ấn Charles Grant hỗ trợ nền giáo dục do nhà nước tài trợ tại Ấn Độ sớm hơn 20 năm trước khi một hệ thống tương tự được thiết lập tại Anh. Trong số những người bạn phúc âm thân thiết của Grant, có William Wilberforce theo chủ nghĩa bãi nô, và Toàn quyền Ấn Độ John Shore. Trong thời kỳ này, nhiều nhà truyền giáo Trưởng lão Scotland cũng hỗ trợ nhà cầm quyền Anh truyền bá giáo dục kiểu Anh, và thành lập nhiều trường danh tiếng như Trường Giáo hội Scotland (1830), Trường Wilson (1832 ), Trường Cơ đốc Madras (1837), và Trường Elphinstone (1856).
Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa vị lợi cũng chủ trương Anh học, dẫn đầu là James Mill. Ông bắt đầu đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình chính sách của Công ty. Những người theo chủ nghĩa vị lợi tin vào giá trị đạo đức của nền giáo dục giúp ích cho xã hội, và của việc thúc đẩy giảng dạy các "kiến thức hữu ích". Những giảng dạy "hữu ích" này giúp người Ấn Độ trở nên phù hợp hơn với bộ máy quan liêu đang phát triển của Công ty. Đến đầu thập niên 1830, những người chủ trương Anh học đã chiếm thế thượng phong trong việc hoạch định chính sách giáo dục tại Ấn Độ. Nhiều ý tưởng vị lợi được áp dụng trong Biên bản về Giáo dục Ấn Độ của Thomas Babbington Macaulay vào năm 1835, có ảnh hưởng đến chính sách giáo dục tại Ấn Độ trong thế kỷ tiếp theo.
Do tiếng Anh ngày càng được sử dụng làm ngôn ngữ giảng dạy, đến năm 1837 thì tiếng Ba Tư bị bãi bỏ địa vị ngôn ngữ chính thức trong cơ quan hành chính và tòa án của Công ty. Tuy nhiên, giáo dục song ngữ cũng trở nên phổ biến, và một số tổ chức như Trường Phạn ngữ Poona bắt đầu dạy cả tiếng Phạn và tiếng Anh. Con trai của Charles Grant là Thống đốc tỉnh Bombay Robert Grant có ảnh hưởng trong việc lập kế hoạch thành lập Trường Y tế Grant vào năm 1845. Vào năm 1852–1853, một số công dân Bombay gửi kiến nghị tới Quốc hội Anh để ủng hộ thành lập và tài trợ thích đáng cho giáo dục đại học tại Ấn Độ. Trước các kiến nghị này, quan chức đứng đầu về sự vụ Ấn Độ trong chính phủ Anh là Charles Wood gửi Bản thông báo Giáo dục 1854 tới Toàn quyền Ấn Độ Huân tước Dalhousie. Bản thông báo phác thảo kế hoạch rộng lớn về giáo dục do nhà nước tài trợ tại Ấn Độ, bao gồm:
Thành lập Sở Giảng dạy công cộng tại mỗi tỉnh của Ấn Độ thuộc Anh.
Thành lập các trường đại học theo mô hình Đại học London (gồm nhiều trường liên kết) tại mỗi đô thị thủ phủ tỉnh (tức Madras, Bombay, và Calcutta)
Thành lập các trường đào tạo giáo viên cho các cấp học
Duy trì các trường cao đẳng và trung học hiện có của Chính phủ, và tăng số lượng của chúng khi cần thiết.
Tăng mạnh số trường học bằng tiếng bản địa ở cấp tiểu học tại các làng.
Thực thi hệ thống trợ cấp cho các trường tư thục.
Sở Giảng dạy công cộng (Department of Public Instruction) được thành lập vào năm 1855. Đại học Calcutta được thành lập vào tháng 1 năm 1857, tiếp theo là Đại học Bombay vào tháng 6 năm 1857, và Đại học Madras vào tháng 9 năm 1857. Đại học Bombay bao gồm ba tổ chức trực thuộc: Tổ chức Elphinstone, Trường Y tế Grant và Trường Phạn ngữ Poona. Chính quyền của Công ty cũng thành lập hàng loạt trường trung học tại các tỉnh, và chính sách này tiếp tục trong thời kỳ Quân chủ cai trị từ năm 1858. Đến năm 1861, có 230.000 học sinh đang theo học tại các cơ sở giáo dục công tại bốn tỉnh (gồm tỉnh Tây-Bắc), trong đó có 200.000 học sinh tiểu học. Hơn 5.000 trường tiểu học và 142 trường trung học được thành lập trong các tỉnh này. Trong khởi nghĩa Ấn Độ năm 1857, một số nhà lãnh đạo dân sự như Khan Bhadur Khan của Bareilly nhấn mạnh rằng chương trình giáo dục mới của Công ty đe dọa đến tôn giáo của dân chúng; tuy nhiên, số liệu thống kê lịch sử chỉ ra rằng điều này thường không xảy ra. Ví dụ, trong huyện Etawah thuộc tỉnh Tây-Bắc lúc bấy giờ (Uttar Pradesh), trong giai đoạn 1855–1857, Công ty cho mở gần 200 trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông, dựa vào thuế từ người dân, tình hình tương đối yên tĩnh và các trường học vẫn mở cửa trong cuộc khởi nghĩa.
Cải cách xã hội
Vào nửa đầu thế kỷ 19, người Anh thực hiện cải cách luật pháp nhằm chống lại những tập tục của người Ấn Độ mà họ cho trái đạo lý. Chỉ riêng luật pháp thì hầu như không thể thay đổi xã hội Ấn Độ đến mức để họ tiếp thu nền tảng lý tưởng lẫn đạo đức của cuộc cải cách. Ví dụ, xã hội Hindu thuộc đẳng cấp cao ở các vùng nói tiếng Ấn-Arya của Ấn Độ từ lâu đã không tán thành các góa phụ tái hôn, nhằm bảo vệ danh dự và tài sản gia đình. Ngay cả những góa phụ vị thành niên cũng phải sống một cuộc sống khổ hạnh và bị phủ nhận. Đạo luật Goá phụ Hindu tái hôn, 1856 được ban hành trong những năm Công ty suy tàn, giúp cung cấp các biện pháp bảo vệ pháp lý nhằm chống lại việc góa phụ theo đạo Hindu tái hôn bị mất một số quyền lợi thừa kế, nhưng không gồm quyền thừa kế từ người chồng quá cố. Tuy nhiên, rất ít góa phụ thực sự tái hôn. Một số nhà cải cách Ấn Độ như Raja Ram Mohan Roy và Ishwar Chandra Vidyasagar thậm chí còn cấp tiền cho những người kết hôn với góa phụ, nhưng những người này thường bỏ rơi vợ mới của họ.
Bưu chính
Dịch vụ bưu chính
Trước năm 1837, trên lãnh địa của Công ty Đông Ấn tại Ấn Độ không có dịch vụ bưu chính công cộng phổ thông. Dịch vụ chuyển phát nhanh giúp kết nối các thị trấn quan trọng với thủ phủ tỉnh, còn các cá nhân chỉ sử dụng tiết kiệm do vấn đề chi phí. Tình hình này thay đổi theo Đạo luật XVII vào năm 1837, khi chính phủ của Công ty thành lập và điều hành dịch vụ bưu chính công cộng. Bưu điện được thành lập tại các đô thị chính, và những người quản lý bưu điện được bổ nhiệm. Người quản lý bưu điện của các đô thị thủ phủ tỉnh chịu trách nhiệm về các dịch vụ bưu chính chính yếu giữa các tỉnh, và còn giám sát một số bưu điện cấp tỉnh. Ngược lại, người thu thuế cấp huyện (District collector, ban đầu là người thu thuế đất) chỉ đạo các bưu điện huyện, bao gồm cả các dịch vụ bưu chính địa phương. Dịch vụ bưu chính yêu cầu thanh toán trước bằng tiền mặt, tiền phí thường thay đổi tùy theo trọng lượng và khoảng cách. Ví dụ: phí gửi một lá thư từ Calcutta đến Bombay là một rupee; tuy nhiên, giá từ Calcutta đến Agra là 12 anna (hoặc 3/4 rupee) cho mỗi tola (3/8 ounce).
Đạo luật Bưu chính Ấn Độ năm 1854 được thông qua sau khi nhận được khuyến nghị của một ủy ban đánh giá vào năm 1850. Theo đạo luật này, toàn bộ sở bưu chính do một "Tổng giám đốc" (Director-General) lãnh đạo; Postmaster-General quản lý hệ thống bưu chính của các tỉnh lớn (như tỉnh Bombay), còn Presidency Postmaster quản lý tại các tỉnh ít quan trọng (như Ajmer-Merwara). Tem bưu chính được áp dụng vào thời điểm này, và giá cước bưu chính được cố định theo trọng lượng, không còn phụ thuộc vào khoảng cách giao hàng. Mức giá thư nội địa thấp nhất là nửa anna cho tola, 1 anna cho tola và 2 anna cho 1 tola, giảm đáng kể so với mức giá của 17 năm trước. Bưu điện Ấn Độ vận chuyển thư, báo, bưu thiếp, kiện sách và bưu kiện. Số lượng hàng được vận chuyển tăng đều đặn; đến năm 1861 (ba năm sau khi Công ty kết thúc cai trị), có tổng cộng 889 bưu điện được mở và gần 43 triệu lá thư và hơn 4,5 triệu tờ báo được giao hàng năm.
Điện báo
Trước khi điện báo ra đời, từ "telegraph" đã được sử dụng cho tín hiệu bằng cờ hoặc đèn (semaphore). Trong giai đoạn 1820–1830, Chính phủ Công ty Đông Ấn ở Ấn Độ đã nghiêm túc xem xét việc xây dựng các tháp tín hiệu trên suốt tuyến từ Calcutta đến Bombay, mỗi tháp cao 100 feet (30 m) và cách nhau 8 mile (12,8 km). Mặc dù những tòa tháp này cũng được xây dựng tại Bengal và Bihar nhưng chưa có mạng lưới semaphore trên toàn Ấn Độ. Điện báo trở nên khả thi vào giữa thế kỷ đó, khiến việc truyền tín hiệu thủ công trở nên lỗi thời.
W. B. O'Shaughnessy là giảng viên hoá học tại Trường Y tế Calcutta, ông được phép tiến hành chạy thử dịch vụ điện báo từ Calcutta dọc theo sông Hooghly đến Diamond Harbour vào năm 1851. Bốn văn phòng điện báo cũng được mở dọc sông trong cùng năm, chủ yếu phục vụ hoạt động kinh doanh liên quan đến vận tải biển. Máy thu điện báo được sử dụng trong thử nghiệm là gavanô kế do O'Shaughnessy thiết kế và sản xuất tại Ấn Độ. Khi thử nghiệm được cho là thành công, Toàn quyền Ấn Độ là Huân tước Dalhousie xin phép Hội đồng quản trị của Công ty để xây dựng đường dây điện báo từ "Calcutta đến Agra, Agra đến Bombay, Agra đến Peshawar, và Bombay đến Madras, kéo dài trên 3.050 mile (4.908 km) và bao gồm 41 văn phòng". Công ty nhanh chóng cấp phép, đến tháng 2 năm 1855 thì tất cả các đường dây điện báo được xây dựng xong, truyền đi các tin nhắn trả phí. Dụng cụ của O'Shaughnessy được sử dụng trên khắp Ấn Độ đến đầu năm 1857, sau đó nó được thay thế bằng dụng cụ Morse. Đến năm 1857, mạng điện báo đã mở rộng tới 4.555 mile (7.330 km) đường dây và 62 văn phòng, và đã vươn xa tới khu nghỉ dưỡng vùng cao Ootacamund trên vùng đồi Nilgiri và cảng Calicut trên bờ biển phía tây nam Ấn Độ. Trong khởi nghĩa Ấn Độ 1857, hơn 700 mi (1.126 km) đường dây điện báo đã bị quân khởi nghĩa phá hủy, chủ yếu là tại tỉnh Tây-Bắc. Tuy nhiên, Công ty Đông Ấn vẫn có thể sử dụng các đường dây nguyên vẹn còn lại để gửi cảnh báo đến nhiều tiền đồn. Do đó, công nghệ mới đã khẳng định rõ giá trị về chính trị, và các đường dây bị phá hủy được xây dựng lại trong năm tiếp theo và mạng lưới còn được mở rộng thêm 2.000 mile (3.218 km).
Cuộc thử nghiệm của O'Shaughnessy năm 1851–52 bao gồm cả đường dây trên không và đường dây ngầm; đường dây ngầm bao gồm các đoạn đi dưới sông Hooghly và Haldi. Đường dây trên không được thi công bằng cách hàn các thanh sắt không cách điện, dài feet (4,1 m) và rộng 3/8 inch (9,5 mm). Những đường dây này nặng 1.250 pound/mile, được giữ trên cao bằng những cọc tre dài 15 feet (4,6 m), cắm xuống đất với khoảng cách bằng nhau, và được phủ một lớp nhựa than đá và hắc ín để cách điện. Đường dây dưới nước được sản xuất tại Anh, và bao gồm dây đồng được bọc bằng mủ cây gutta-percha. Một đường dây dưới nước có chiều dài 2.070 yard (1,9 km) bên dưới sông Hooghly tại Diamond Harbour, và một đường dây khác dài 1.400 yard qua sông Haldi tại Kedgeree.
Công việc xây dựng các đường dây dài, từ Calcutta đến Peshawar (qua Agra), Agra đến Bombay, và Bombay đến Madras bắt đầu vào năm 1853. Vật liệu dẫn điện được chọn cho các đường dây này giờ đây nhẹ hơn và cột chống chắc chắn hơn. Gỗ được sử dụng làm cột chống, bao gồm gỗ tếch, chai, lãnh sam, gỗ cứng hoặc gỗ đen (Terminalia elata). Một số đoạn có cột chống vững chắc đồng đều; như tuyến Bombay-Madras dài 322 mile (518 km) có các cột đá granit cao 16 feet (4,87 m). Một số dây hoặc thanh dẫn điện đã được cách điện, vật liệu cách điện được sản xuất tại Ấn Độ hoặc Anh; các đoạn dây khác vẫn không được cách điện. Đến năm 1856, ống sắt bắt đầu được sử dụng làm cột chống, và được sử dụng ngày càng nhiều vào nửa sau thế kỷ 19 trên khắp Ấn Độ.
Đạo luật điện báo đầu tiên của Ấn Độ là Đạo luật XXXIV của Quốc hội Anh vào năm 1854. Đến khi dịch vụ điện tín công cộng được hình thành vào năm 1855, mức phí được cố định là một rupee cho mỗi 16 từ cho mỗi 400 mile (643 km) truyền tin. Mức phí tăng gấp đôi đối với các bức điện được gửi từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng. Mức giá này được giữ cố định cho đến năm 1882. Vào năm 1860–61, tức hai năm sau khi Công ty chấm dứt cai trị, Ấn Độ có 11.093 mile (17.852 km) đường dây điện báo và 145 văn phòng điện báo. Năm đó, công chúng đã chi trả 500.000 rupee cho phí điện báo, trong khi chi phí hoạt động của Cục Điện báo Ấn Độ là 1,4 triệu rupee và chi phí tài sản cố định tính đến cuối năm tổng cộng là 6,5 triệu rupee.
Đường sắt
Năm 1845, các nhà thầu tư nhân tại Anh nộp đơn đăng ký để xây dựng mạng lưới đường sắt rộng khắp tại Ấn Độ. Hội đồng quản trị của Công ty Đông Ấn chuyển tiếp chúng tới Toàn quyền Ấn Độ là Huân tước Dalhousie, và yêu cầu một báo cáo khả thi. Hội đồng quản trị lo ngại rằng ngoài những khó khăn thông thường, có thể còn gặp phải một số vấn đề đặc biệt tại Ấn Độ như lũ lụt, bão nhiệt đới tại các khu vực ven biển, thiệt hại do "côn trùng và thảm thực vật nhiệt đới um tùm", và khó khăn trong việc tìm kiếm kỹ thuật viên đủ trình độ với chi phí hợp lý. Do đó, họ đề xuất xây dựng ba tuyến thử nghiệm và đánh giá hiệu suất của chúng.
Năm 1849, các hợp đồng được trao cho Công ty Đường sắt Đông Ấn Độ để xây dựng tuyến đường sắt dài 120 mile (193 km) từ Howrah-Calcutta đến Raniganj; trao cho Công ty Đường sắt Đại Bán đảo Ấn Độ tuyến từ Bombay đến Kalyan cách đó 30 mi (48 km); và cho Công ty Đường sắt Madras tuyến dài 39 mile (62 km) từ thành phố Madras đến Arkonam. Công việc xây dựng đường sắt bắt đầu vào năm 1849 trên tuyến Đường sắt Đông Ấn Độ với kinh phí 1 triệu bảng Anh, nhưng chặng đầu tiên được hoàn thành là đoạn Bombay đến Thane dài 21 mile (33,8 km) vào năm 1853.
Huân tước Dalhousie thảo luận về tính khả thi của mạng lưới đường sắt Ấn Độ trong Biên bản Đường sắt 1853. Vị toàn quyền này ủng hộ mạnh mẽ việc triển khai đường sắt nhanh chóng và rộng khắp tại Ấn Độ, chỉ ra những lợi ích về chính trị, xã hội và kinh tế. Ông khuyến nghị rằng trước tiên nên xây dựng một mạng lưới đường trục, kết nối khu vực nội địa với cảng chính của mỗi tỉnh, và giữa các tỉnh. Ông đề xuất các đường trục như sau: (i) từ Calcutta thuộc tỉnh Bengal trên bờ biển phía đông đến Lahore thuộc vùng Punjab ở phía tây bắc; (ii) từ Agra tại trung-bắc Ấn Độ đến thành phố Bombay trên bờ biển phía tây; (iii) từ Bombay đến thành phố Madras trên bờ biển phía đông nam; và (iv) từ Madras đến bờ biển Malabar phía tây nam. Đề xuất này nhanh chóng được Ban giám đốc chấp nhận.
Trong thời gian này, các tuyến thử nghiệm đang được xây dựng. Chặng đầu tiên của tuyến Đường sắt Đông Ấn Độ là tuyến khổ rộng từ Howrah đến Pandua được khánh thành vào năm 1854, và toàn bộ tuyến đến Raniganj hoạt động vào thời điểm khởi nghĩa Ấn Độ 1857. Đường sắt Đại Bán đảo Ấn Độ được phép mở rộng tuyến thử nghiệm tới Poona. Phần mở rộng này yêu cầu lên dốc tại thung lũng Bor Ghat thuộc dãy Tây Ghat, đoạn này dài mile (25,3 km) với chênh lệch độ cao 1.831 feet (558 m). Công việc xây dựng bắt đầu vào năm 1856 và hoàn thành vào năm 1863, tuyến này có tổng cộng 25 đường hầm.
Ba công ty (năm công ty khác được ký hợp đồng vào năm 1859) đều là công ty cổ phần có trụ sở tại Anh, có vốn sản xuất được huy động bằng bảng Anh. Các công ty được đảm bảo mỗi năm nhận được 5% số vốn bỏ ra, và được chia một nửa lợi nhuận. Mặc dù Chính phủ Ấn Độ chỉ cung cấp đất nền miễn phí, nhưng họ có trách nhiệm tiếp tục trả 5% tiền vốn trong trường hợp lỗ ròng. Không lâu sau, mong đợi về lợi nhuận giảm dần do chi phí tăng lên.
Công nghệ xây dựng đường sắt vẫn còn mới mẻ tại Ấn Độ, và chưa có chuyên môn kỹ thuật đường sắt tại đây; do đó tất cả các kỹ sư đều đến từ Anh. Những kỹ sư này không quen thuộc với ngôn ngữ và văn hóa của Ấn Độ, cũng như với đặc điểm địa chất và các yêu cầu kỹ thuật đi kèm tại Ấn Độ. Ấn Độ chưa từng có một dự án xây dựng lớn và phức tạp như vậy, và chưa tổ chức được nguồn lao động bán lành nghề để hỗ trợ các kỹ sư. Công trình được thực hiện từng bước, theo cách hết sức thận trọng và cẩn thận, nhưng về sau bị chỉ trích là "được xây dựng theo tiêu chuẩn vượt xa nhu cầu thời đại đó".
Mặc dù việc xây dựng đường sắt bắt đầu trong những năm cuối Công ty cai trị, nhưng những năm này đã đặt nền móng, và công việc này sẽ được tiến hành nhanh chóng trong nửa thế kỷ sau. Đến đầu thế kỷ 20, Ấn Độ đã có hơn 28.000 mile (45.000 km) đường sắt, kết nối hầu hết các khu vực nội địa với các cảng Karachi, Bombay, Madras, Calcutta, Chittagong và Rangoon, và tạo thành mạng lưới đường sắt lớn thứ tư trên thế giới.
Kênh đào
Công ty Đông Ấn lần đầu tiến hành xây dựng các công trình thủy lợi từ năm 1817. Khi đó họ chủ yếu mở rộng hoặc gia cố các công trình trước đó của Ấn Độ, các dự án này được giới hạn ở vùng đồng bằng phía bắc Delhi và các vùng đồng bằng ven sông của tỉnh Madras. Một con đập nhỏ tại đồng bằng sông Kaveri thuộc miền nam Ấn Độ được xây dựng khoảng 1.500 năm trước và được gọi là Đại Anicut. Năm 1835–36, Arthur Cotton cho gia cố thành công con đập, và điều này thúc đẩy nhiều dự án thủy lợi trên sông. Xa hơn về phía bắc, một số đập được xây trên sông Tungabhadra vào thế kỷ 16; chúng cũng được mở rộng dưới thời người Anh cai trị.
Tại vùng đồng bằng phía trên Delhi, kênh đào Tây Jamna được xây dựng vào giữa thế kỷ 14, dài 150 mile (241 km), tưới tiêu cho vùng Hissar của Đông Punjab. Kênh đào Đông Jamna hay kênh đào Doab dài 129 mile (207 km), bắt nguồn từ bờ tả của Jamna. Đến thế kỷ 18, cả hai kênh đào đều rơi vào tình trạng hư hỏng và đóng cửa. Kênh đào Tây Jamna được các kỹ sư Lục quân Anh sửa chữa, và mở lại vào năm 1820. Kênh đào Doab được mở lại vào năm 1830. Chúng được cải tạo đáng kể khi bờ kè được nâng lên độ cao trung bình 9 ft trong khoảng 40 mile.
Xa hơn về phía tây tại vùng Punjab, kênh đào Hasli dài 130 mile (209 km) được xây dựng từ trước đó. Kênh đào lấy nước từ sông Ravi và cung cấp nước cho các thành phố Lahore và Amritsar, được người Anh mở rộng thành kênh đào Bari Doab trong giai đoạn 1850–1857. Hơn nữa, vùng Punjab có nhiều hệ thống tưới tiêu thô sơ bằng các "kênh ngập nước". Chúng bao gồm các rãnh đào lộ thiên bên bờ sông và không có điều tiết, và được sử dụng tại cả Punjab và Sindh trong nhiều thế kỷ. Các thống đốc người Sikh và Pathan của Mughal tại Tây Punjab cho tạo nhiều kênh đào như vậy ở Multan, Dera Ghazi Khan và Muzaffargarh, chúng vẫn hoạt động hiệu quả vào thời điểm Anh thôn tính Punjab vào năm 1849–1856 (giai đoạn nắm quyền của Hầu tước Dalhousie).
Công trình mới đầu tiên của người Anh, tức không có nguồn gốc từ người Ấn Độ, là kênh sông Hằng (Ganges), được xây dựng từ năm 1842 đến năm 1854. Đại tá John Russell Colvin khởi xướng kênh đào này vào năm 1836, kiến trúc sư của công trình là Proby Thomas Cautley ban đầu chùn bước trước ý tưởng đào kênh qua vùng đất thấp rộng lớn để dẫn nước đến vùng cao khô hạn. Công ty Đông Ấn phải chi trả 2.300.000 rupee để cứu trợ trong nạn đói Agra 1837–1838, sau đó ý tưởng về một kênh đào trở nên hấp dẫn hơn đối với Hội đồng quản trị của Công ty do cân nhắc về ngân sách. Năm 1839, Toàn quyền Ấn Độ là Huân tước Auckland cấp kinh phí cho Cautley để khảo sát đầy đủ vùng đất trên hướng đi dự kiến của kênh. Hơn nữa, do nạn đói nên Hội đồng quản trị mở rộng đáng kể phạm vi của kênh đào ra toàn bộ khu vực Doab.
Tuy nhiên, sự nhiệt tình này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Toàn quyền kế nhiệm là Huân tước Ellenborough dường như ít hứng thú với các công trình công cộng quy mô lớn, và ngăn cản cấp nguồn vốn lớn cho dự án trong suốt nhiệm kỳ của ông. Chỉ đến khi có Toàn quyền mới là Huân tước Hardinge vào năm 1844 thì dự án kênh đào sông Hằng mới lại có kinh phí. Ông quay trở lại Anh vào năm 1845 để hồi phục sức khỏe, chuyến đi này cho ông cơ hội nghiên cứu các công trình thủy lực đương đại tại Anh và Ý. Vào thời điểm ông trở lại Ấn Độ, còn có nhiều người ủng hộ kênh đào hơn. Việc xây dựng kênh đào do Cautley giám sát lúc này được tiến hành mạnh mẽ. Huân tước Dalhousie chính thức khai trương kênh sông Hằng vào năm 1854, có tổng vốn đầu tư là 2,15 triệu bảng Anh. Kênh dài 350 mile (563 km), cùng 300 mile tuyến nhánh, trải dài từ đầu kênh tại Hardwar, chia thành hai nhánh tại Nanau gần Aligarh, nhánh phụ hợp lưu với sông Hằng tại Cawnpore (nay là Kanpur) và nhánh chính hợp lưu với sông Jumna (nay là Yamuna) tại Etawah. Theo nhà sử học Ian Stone:
Chú thích
Tham khảo
Lịch sử tổng thể
.
Bayly, C.A. The Raj: India and the British 1600–1947 (1990)
Lawson, Philip (1993). The East India Company: A History (Routledge) excerpt and text search
Riddick, John F. (2006). The History of British India: A Chronology excerpt and text search, covers 1599–1947
Riddick, John F. (1998). Who Was Who in British India, Covers 1599–1947.
Chuyên khảo và tuyển tập
Chakrabarti, D.K. 2003. The Archaeology of European Expansion in India, Gujarat, c. 16th–18th Centuries (2003) Delhi: Aryan Books International
Chaudhuri, Kirti N. The Trading World of Asia and the English East India Company: 1660–1760 (Cambridge University Press, 1978)
.
.
Das, Amita; Das, Aditya. Defending British India against Napoleon: The Foreign Policy of Governor-General Lord Minto, 1807–13 ( Rochester: Boydell Press, 2016) . online review
Erikson, Emily. Between Monopoly and Free Trade: The English East India Company, 1600–1757 (Princeton University Press, 2014)
Gilmour, David. The Ruling Caste: Imperial Lives in the Victorian Raj (New York: Farrar, Straus and Giroux, 2005).
.
Hossain, Hameeda. The Company weavers of Bengal: the East India Company and the organization of textile production in Bengal, 1750–1813 (Oxford University Press, 1988)
.
.
Bài viết trên tạp chí hoặc tuyển tập
Lịch sử cổ điển và công báo
Allan, J., and Sir T. Wolseley Haig. The Cambridge shorter history of India (edited by Henry Dodwell. 1934) pp 399–589
Thompson, Edward, and G. T. Garratt. Rise and fulfilment of British rule in India'' (Macmillan and Company, 1934.) 699pp; from 1599 to 1933
Đọc thêm
Liên kết ngoài
India từ Quốc hội Mỹ
Pakistan từ Quốc hội Mỹ
Thành lập năm 1757
Giải thể năm 1858
Quốc gia và lãnh thổ thành lập năm 1757
Công ty Đông Ấn Anh
Cựu quốc gia ở Nam Á
|
19849552
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7ng%20H%C3%B9ng%20%28sinh%20n%C4%83m%201958%29
|
Đặng Hùng (sinh năm 1958)
|
Đặng Văn Hùng hay Đặng Hùng (sinh năm 1958) là nam diễn viên và biên đạo múa Việt Nam, ông từng là Giám đốc Nhà hát ca múa nhạc dân tộc Bông Sen.
Tiểu sử
Đặng Văn Hùng sinh ngày 8 tháng 7 năm 1958 tại Hà Nội, quê gốc xã Hậu Lộc nay thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. ông có một em trai sinh đôi là nghệ sĩ múa Đặng Văn Sơn – bố của thủ môn bóng đá Đặng Văn Lâm.
Sự nghiệp
Với năng khiêu bơi lội, dự định ban đầu của Đặng Hùng là theo đuổi bộ môn này và sẽ học tại trường thiếu sinh quân ở Thủy Nguyên - Hải Phòng, chị gái ông là người trong đội ngũ tuyển chọn sinh viên múa, vì không tìm được chỉ tiêu nên bà đã chọn Đặng Hùng và Đặng Sơn. Năm 1972, anh em Đặng Hùng được tuyển vào Trường Múa Việt Nam. Năm 1980, Đặng Hùng và Vương Linh, người sau này là vợ ông, đại diện Việt Nam dự thi một cuộc thi ballet quốc tế và họ là hai trong số bốn người tốt nghiệp khóa 9 được Nhà nước gửi sang Liên Xô. Đặng Hùng được đào tạo tại Trường Đại học Nghệ thuật Sân khấu Moskva. Tháng 4 năm 1986, sau khi tốt nghiệp đại học múa tại Liên Xô, ông trở về nước, ông công tác tại Nhà hát Giao hưởng Nhạc – Vũ kịch Việt Nam. Đến năm 1988, Đặng Hùng cùng vợ con chuyển vào miền Nam và công tác tại Đoàn ca múa nhạc Bông Sen. Tại đây, ông trải qua nhiều vị trí từ diễn múa dần trở thành đoàn trưởng, phó giám đốc rồi giám đốc Nhà hát.
Đặng Hùng cùng với vợ mở lớp dạy múa từ năm 1995, sau này trở thành Đoàn múa Những Ngôi Sao nhỏ.
Đời tư
Đặng Hùng và Đoàn Vương Linh quen nhau năm 1972, khi cùng học tại Trường Múa Việt Nam. Nhung đến năm 1980, khi hai người cùng được gửi sang Liên Xô đào tạo mới nảy sinh tình cảm. Năm 1983, sau khi về nước ít hôm để tổ chức ăn hỏi, đám cưới của họ diễn ra trong hội trường ký túc xá đại học ở Moskva do Thanh Bạch làm chủ hôn.
Con gái lớn của họ là Linh Nga sinh năm 1986, tại Liên Xô, cô hiện tại là một nghệ sĩ múa có tiếng được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, cô được gọi là Công chúa làng múa hay Thiên nga của làng múa Việt Nam. Con trai út của họ là Hùng Minh, sinh năm 1995, anh theo ngành quản trị du lịch.
Tham khảo
Người Thanh Hóa
Nghệ sĩ múa Việt Nam
Biên đạo múa Việt Nam
Nghệ sĩ nhân dân Việt Nam
Người họ Đặng tại Việt Nam
|
19849556
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marguerite%20Louise%20c%E1%BB%A7a%20Orl%C3%A9ans
|
Marguerite Louise của Orléans
|
Marguerite Louise của Orléans (28 tháng 7 năm 1645 – 17 tháng 9 năm 1721) là một Vương tôn nữ Pháp, con gái của Vương tử Gaston của Pháp, Công tước xứ Orléans, vì thế bà gọi vua Louis XIII là bác và vua Henry IV của Pháp là ông nội. Sau đó bà trở thành Đại công tước phụ nhân xứ Toscana sau khi kết hôn với người cai trị của nó là Đại công tước Cosimo III de' Medici.
Marguerite theo chủ nghĩa tự do và có cách cư xử ngang ngược ngay từ khi còn nhỏ, vì thế mà mối quan hệ của bà với chồng và gia đình chồng rất khó khăn và thường cay đắng, với nhiều lần kêu gọi hòa giải từ Vua Louis XIV. Tuy nhiên, cặp vợ chồng này vẫn có với nhau 3 đứa con, gồm có: Đại công tử Ferdinando, Tuyển hầu tước phu nhân xứ Pfalz-Neuburg Anna Maria Luisa và Đại công tước tương lai Gian Gastone.
Vào tháng 6 năm 1675, 5 năm sau khi chồng kế vị đại công quốc và 4 năm sau khi đứa con út chào đời, Marguerite Louise và chồng ly thân và bà trở về Pháp với tiền trợ cấp tại một tu viện ở ngoại ô Paris. Ở Pháp, bà tỏ ra ít có xu hướng tôn trọng các quy ước xã hội quản lý cuộc sống của một phụ nữ cùng đẳng cấp với bà và tỏ ra là cái gai đối với chính quyền Toscana và chế độ quân chủ Pháp.
Ở cuộc sống sau này, cuối cùng bà đã áp dụng những cách cư xử thông thường hơn, đảm nhận các công việc ngoan đạo và thậm chí cải tổ tu viện trở thành nơi cư trú thứ hai của bà ở ngoại ô Paris. Nhiều năm trôi qua, sức khỏe của bà suy giảm nghiêm trọng và nỗi đau buồn khi phải để tang con trai cả của mình, Đại công tử Ferdinando, người mà bà thực sự yêu mến. Được thừa kế độc lập về mặt tài chính, bà mua một căn nhà ở Paris, từ đó bà dành phần cuối đời của mình để làm từ thiện và duy trì thư từ với người thân.
Tham khảo
Trích dẫn
Thư mục
Acton, Harold (1980). The Last Medici. Macmillan.
Hibbert, Christopher (1979). The Rise and Fall of the House of Medici. Penguin. .
Pitts, Vincent Joseph (2000). La Grande Mademoiselle at the Court of France. The Johns Hopkins University Press. .
Strathern, Paul (2003). The Medici: Godfathers of the Renaissance. Vintage. .
Young, G.F. (1920). The Medici: Volume II. John Murray.
Liên kết ngoài
|-
Sinh năm 1645
Mất năm 1721
Đại Công tước phu nhân xứ Toscana
Vương nữ Pháp
Vương nữ Pháp (Bourbon)
Vương nữ Pháp (Orléans)
Vương tộc Bourbon
Vương nữ
Nhà Medici
|
19849559
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%82u%202024%20%28B%E1%BA%A3ng%20E%29
|
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 (Bảng E)
|
Các đội tuyển
Ghi chú
Bảng xếp hạng
Ở vòng 16 đội.
Đội đứng đầu bảng E sẽ gặp đội đứng thứ ba bảng A, bảng B, bảng C hoặc bảng D
Đội đứng thứ hai bảng E sẽ gặp đội đứng thứ hai của bảng D
Đội đứng thứ ba bảng E có thể gặp đội đứng đầu của bảng B hoặc bảng C
Các trận đấu
Romania v CXĐ
Bỉ v Slovakia
Slovakia v CXĐ
Bỉ v Romania
Slovakia v Romania
CXĐ v Bỉ
Tham khảo
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024
|
19849566
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Missile%20Defense%20Agency
|
Missile Defense Agency
|
Missile Defense Agency (MDA) hay Cục phòng thủ tên lửa à một cơ quan trực thuộc Bộ quôc phòng Hoa Kỳ có trách nhiệm phát triển các biện pháp phòng thủ tên lửa trước các loại tên lửa đạn đạo của đối phương. Tiền thân của cơ quan này là chương trình Strategic Defense Initiative (SDI) được khởi xướng từ năm 1983 bởi tổng thống Mỹ Ronald Reagan dưới sự chỉ huy của Lt. General James Alan Abrahamson. Nó mang tên Bộ phận nghiên cứu phát triển công nghệ trực thuộc Strategic Defense Initiative dưới sự lãnh đạo của Tiến sĩ James Ionson, các nghiên cứu phần lớn dựa trên các nghiên cứu cơ bản tại các phòng thí nghiệm quốc gia, trong các trường đại học và tại các công ty công nghiệp. Những chương trình này được duy trì bằng các khoản đầu tư cho các nhà nghiên cứu hàng đầu trong các lĩnh vực vật lý năng lượng cao, vật liệu tiên tiến, siêu máy tính, và các ngành khoa học khác. Khoản đầu tư tài trợ trực tiếp hỗ trợ cho nghiên cứu của các nhà khoa học hàng đầu, dựa trên khoản tài trợ cho quân sự của Chính phủ Mỹ. Năm 1993 nó được đổi tên thành Ballistic Missile Defense Organization và đổi thành Missile Defense Agency từ năm 2002. Hiện tại giám đốc của Cục phòng thủ là Đô đốc Hải quân Jon A. Hill.
Sự thây đổi đột ngột trong chiến lược tác chiến sau khi Liên Xô sụp đổ đã dẫn đến việc tổng thống Bill Clinton tập trung vào các mối đe dọa từ các tên lửa đạn đạo tầm trung và các mối đe dọa tương tự, và đổi tên Cục phòng thủ thành Tổ chức phòng thủ tên lửa đạn đạo-Ballistic Missile Defense Organization, BMDO. Tổng thống George W. Bush tiếp tục đổi tên thành Missile Defense Agency từ năm 2002.
Missile Defense Agency là đơn vị mà một phần nào đó cũng đảm nhận trách nhiệm cho việc phát triển các hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo BMD, gồm Patriot PAC-3, Aegis BMD, THAAD và Ground-Based Midcourse Defense với giá thành 194 tỉ đô la. Cục cũng dẫn đầu trong việc phát triển một số dự án khác, bao gồm Multiple Kill Vehicle và Multi-Object Kill Vehicle, Kinetic Energy Interceptor và Airborne Laser. Là một phần trong chương trình SDI và BMDO, MDA tiếp tục được nhận khoản đầu tư nhiên cứu trong lĩnh vực vật lý năng lượng cao, siêu máy tính, siêu vật liệu và một số ngành vật lý mũi nhọn khác.
Xem thêm
Joint Functional Component Command for Integrated Missile Defense
United States Strategic Command
National Missile Defense
Tham khảo
Liên kết ngoài
Official website
United States Department of Defense agencies
Government agencies established in 2002
2002 establishments in the United States
Khởi đầu năm 2002 ở Hoa Kỳ
|
19849569
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%82u%202024%20%28B%E1%BA%A3ng%20F%29
|
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 (Bảng F)
|
Các đội tuyển
Ghi chú
Bảng xếp hạng
Ở vòng 16 đội.
Đội đứng đầu bảng F sẽ gặp đội đứng thứ ba bảng A, bảng B hoặc bảng C
Đội đứng thứ hai bảng F sẽ gặp đội đứng đầu của bảng D
Đội đứng thứ ba bảng F có thể gặp đội đứng đầu của bảng B hoặc bảng C
Các trận đấu
Thổ Nhĩ Kỳ v CXĐ
Bồ Đào Nha v Séc
CXĐ v Séc
Thổ Nhĩ Kỳ v Bồ Đào Nha
CXĐ v Bồ Đào Nha
Séc v Thổ Nhĩ Kỳ
Tham khảo
Liên kết ngoài
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024
|
19849571
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87u%20nh%E1%BA%A3y%20Latinh
|
Điệu nhảy Latinh
|
Điệu nhảy Latinh (Latin dance) hay Vũ điệu Latinh là một thể loại nhận diện chung và là một thuật ngữ trong các cuộc thi khiêu vũ cặp đôi đề cập đến các loại hình khiêu vũ và múa dân gian chủ yếu là có nguồn gốc từ Châu Mỹ Latinh. Thể loại khiêu vũ Latinh trong các cuộc thi khiêu vũ thể thao quốc tế bao gồm các điệu Cha-cha-cha, Rumba, Samba, Paso doble. Khiêu vũ Latin là sự kết hợp hoàn hảo của nhiều phong cách khiêu vũ khác nhau từ các nền văn hóa trên khắp thế giới, tạo ra một phong cách khiêu vũ bao gồm thời đại mới của văn hóa Mỹ Latinh. Những ảnh hưởng bắt nguồn từ phong cách điệu nhảy Tây Phi, người Mỹ gốc Phi và châu Âu đều góp phần tạo nên nhiều điệu nhảy Latinh này như Salsa, Mambo, Merengue, Rumba, Cha-cha-cha, Bachata và Samba. Những nền văn hóa này không chỉ định hình phong cách khiêu vũ này mà còn trong âm nhạc ở châu Mỹ Latinh.
Âm nhạc trở thành động lực cho điệu nhảy Latinh vì nó hướng dẫn các bước nhảy bằng nhịp điệu, tốc độ và cảm giác mà nó gợi lên, từ tràn đầy năng lượng đến sự gợi cảm. Nhiều nhịp nhảy trong số này đến từ âm nhạc dân gian Châu Âu, nhịp nhảy Tây Phi và nhạc Jazz của người Mỹ gốc Phi. Nhiều khu vực Mỹ Latinh khác nhau đã phát triển các phong cách nhảy độc lập và từ mỗi thể loại hoặc sự kết hợp của các phong cách, một thể loại khác nhau đã ra đời. Theo lịch sử nhịp điệu, điệu nhảy Latinh phát triển theo thời gian và các bước riêng lẻ dần thay đổi tiết mục của từng điệu nhảy. Nó có nhiều hình thức khác nhau và nhiều phong cách hiện đại hóa, điều này tạo ra một vấn đề vì nó đang rời xa nguồn gốc bản địa, châu Âu và châu Phi. Một kiểu nhảy Aerobic phổ biến được gọi là Zumba được cho là chịu ảnh hưởng của nhịp điệu và bước nhảy Latinh. Tuy nhiên, có những bất đồng giữa các vũ công Latinh về việc liệu điệu nhảy Zumba có phải là điệu nhảy Latinh thực sự hay không.
Đại cương
Các điệu nhảy đường phố Latin bao gồm Salsa, Mambo, Merengue, Rumba, Bachata, Bomba và Plena. Có nhiều điệu múa phổ biến vào đầu thế kỷ XX, nhưng hiện nay chỉ còn được quan tâm như Danzón của Cuba là một ví dụ điển hình. Perreo là một điệu nhảy của Puerto Rico gắn liền với âm nhạc Reggaeton chịu ảnh hưởng của Jamaica và Caribe. Các điệu múa dân gian của Argentina là Chacarera, Escondido và Zamba, cũng như Tango từng là một điệu nhảy phổ biến cho đến giữa thế kỷ XX. Cueca là điệu múa dân gian của Chile. Các điệu múa dân gian của Uruguay là Pericon, Polka, Ranchera, vũ điệu Candombe cũng là một điệu nhảy đường phố và diễu hành phổ biến ở các thành phố. Các điệu múa dân gian điển hình của Bolivia là Morenada, Kullawada, Caporales và Tinku mới được sáng tạo ra thời gian gần đây. Ở Colombia, một trong những điệu nhảy điển hình là Cumbia.
Điệu nhảy Latinh bắt nguồn từ ảnh hưởng của người châu Mỹ bản địa, Iberia và Tây Phi. Nguồn gốc bản địa sớm nhất của điệu nhảy Latinh đến từ người Aztec, người Guarani, người Aymara, người Inca và người Tehuelches cùng những tộc người bản địa khác. Khi các nhà thám hiểm đi biển ở thế kỷ XVI trở về Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha họ đã mang theo những câu chuyện về người dân bản địa. Theo Rachel Hanson, không ai biết những truyền thống khiêu vũ này đã được hình thành bao lâu, nhưng chúng đã được phát triển và nghi thức hóa khi người châu Âu quan sát thấy và điều này cho thấy những ảnh hưởng của người bản địa này đã trở thành nền tảng cho điệu nhảy Latinh. Những người định cư Công giáo đã hợp nhất văn hóa bản địa với nền văn hóa của riêng họ và kết hợp các vị thánh và câu chuyện Công giáo vào điệu nhảy. Người châu Âu bị quyến rũ bởi điệu nhảy có độ bốc cao, và các vũ công phối hợp cùng nhau một cách nhịp nhàng.
Sau khi người châu Âu mang ảnh hưởng của người Aztec/người Inca vào thế kỷ XVI, họ đã kết hợp phong cách riêng của mình vào điệu nhảy. Vì các điệu múa của người Aztec/Inca được biểu diễn theo nhóm nên nhiều điệu múa của châu Âu được cả nam và nữ biểu diễn. Đây là một tục lệ mới vì các điệu nhảy châu Âu cấm các bạn nhảy nam và nữ đụng chạm vào nhau. Lợi ích của phong cách khiêu vũ như vậy cho phép đánh giá cao âm nhạc và hòa nhập xã hội, trở thành hình thức khiêu vũ Latinh. Chuyển động và nhịp điệu mang ảnh hưởng của châu Phi đã để lại dấu ấn lâu dài trong điệu nhảy Latin. Khi những nô lệ châu Phi bị buộc phải đến châu Âu vào những năm 1500, văn hóa của người châu Phi da đen mang đến những phong cách như những chuyển động cơ bản, đơn giản (nhấn mạnh vào phần trên cơ thể, phần thân hoặc bàn chân) và những chuyển động phức tạp như sự phối hợp của các bộ phận cơ thể khác nhau và những động tác phức tạp.
Chú thích
Văn hóa Mỹ Latinh
Vũ điệu Latinh
|
19849572
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn%20k%E1%BA%BFt%20carbon%E2%80%93carbon
|
Liên kết carbon–carbon
|
Liên kết carbon–carbon hay liên kết C–C (tiếng Anh: Carbon–carbon bond) là một loại liên kết cộng hóa trị giữa hai nguyên tử carbon. Dạng liên kết phổ biến nhất là liên kết đơn, gồm hai hạt electron dùng chung, mỗi hạt từ một trong hai nguyên tử. Liên kết đơn C–C là liên kết sigma và được hình thành giữa một orbital lai hóa quanh cả hai nguyên tử carbon. Các orbital ở ethan có dạng lai hóa orbital sp3, nhưng vẫn có các liên kết đơn được hình thành giữa các nguyên tử carbon dưới các dạng lai hóa khác (ví dụ: sp2 với sp2). Trên thực tế, các nguyên tử carbon trong liên kết đơn không nhất thiết phải có mức độ lai hóa giống nhau. Chúng cũng có thể hình thành liên kết đôi trong các hợp chất alken hoặc liên kết ba trong các hợp chất alkyn. Một liên kết đôi được hình thành với một orbital lai hóa sp2 và một orbital p không tham gia vào quá trình lai hóa. Một liên kết ba được hình thành với một orbital lai hóa sp và hai orbital p từ mỗi nguyên tử. Các orbital p tạo thành liên kết pi.
Chuỗi và phân nhánh
Carbon là một trong số ít nguyên tố có thể tạo ra chuỗi dài các nguyên tử của chính nó, một đặc tính được gọi là catenation. Đặc tính này kết hợp với năng lượng liên kết C–C tạo ra một số lượng lớn các dạng phân tử khác nhau. Nhiều loại trong số này là thành phần cấu trúc quan trọng của sự sống, vì vậy các hợp chất carbon còn có một lĩnh vực nghiên cứu riêng: hóa hữu cơ.
Phân nhánh phổ biến trong cấu trúc liên kết C–C. Các nguyên tử carbon trong phân tử được phân loại theo số lượng carbon lân cận mà chúng liên kết:
Carbon bậc một có một carbon liên kết.
Carbon bậc hai có hai carbon liên kết.
Carbon bậc ba có ba carbon liên kết.
Carbon bậc bốn có bốn carbon liên kết.
Trong "các phân tử hữu cơ có cấu trúc phức tạp", chính sự định hướng ba chiều của liên kết C–C tại locus bậc bốn quyết định hình dạng của phân tử. Hơn nữa, locus bậc bốn được tìm thấy trong nhiều phân tử nhỏ có hoạt tính sinh học, chẳng hạn như cortisone và morphin.
Năng lượng và chiều dài liên kết
Liên kết đơn C–C có năng lượng liên kết yếu hơn C-H, O-H, N-H, H-H, H-Cl, C-F và nhiều liên kết đôi hoặc ba, và tương đương với liên kết C-O, Si-O, P-O và S-H. Dù vậy, liên kết đơn C–C thường được coi là mạnh.
Các giá trị nêu trên biểu thị năng lượng phân ly liên kết C–C thường gặp. Đôi khi vẫn có các ngoại lệ có thể đi chệch khỏi phạm vi này.
Các trường hợp đặc biệt
Liên kết đơn C–C dài, yếu
Nhiều trường hợp đặc biệt khác được xác định có liên kết C–C kéo dài. Ví dụ, hợp chất Ph2C=C6H5-CPh3 có một liên kết C–C kéo dài 159,7 picomet. Chính liên kết này có thể đảo ngược và dễ dàng bị phá vỡ ở nhiệt độ phòng trong dung dịch:
Trong phân tử hexakis(3,5-di-tert-butylphenyl)ethan còn yếu hơn nữa, khi năng lượng phân ly liên kết để tạo thành gốc triarylmethyl ổn định chỉ là 8 kcal/mol. Cũng là hậu quả của sự dày đặc trong không gian nghiêm trọng, hexakis(3,5-di-tert-butylphenyl)ethan có liên kết vào trung tâm rất dài với chiều dài 167 pm.
Liên kết đôi C–C xoắn, yếu
Cấu trúc của tetrakis(dimethylamino)ethylene (TDAE) bị biến dạng rất nhiều. Góc nhị diện của hai đầu N2C là 28º, mặc dù khoảng cách C=C bình thường là 135pm. Hợp chất gần đẳng cấu tetraisopropylethylene cũng có khoảng cách C=C là 135 pm, nhưng lõi C6 của nó có dạng phẳng.
Liên kết ba C–C ngắn, mạnh
Ở thái cực ngược lại, liên kết đơn C–C trung tâm của diacetylen rất mạnh ở mức 160 kcal/mol, do liên kết đơn nối với hai nguyên tử cacbon lai hóa sp. Liên kết đa C–C nhìn chung mạnh hơn, ví dụ: liên kết đôi của ethylen và liên kết ba của axetylen đã được xác định có năng lượng phân ly liên kết lần lượt là 174 và 230 kcal/mol. Một liên kết ba rất ngắn có chiều dài 115 pm đã được quan sát thấy ở các loại iodonium [HC≡C–I+Ph][CF3SO3–], do phần iodonium hút electron mạnh.
Tham khảo
Hóa hữu cơ
Liên kết hóa học
|
19849578
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%AF%20ho%C3%A0ng%20l%E1%BB%9Bp%20h%E1%BB%8Dc
|
Nữ hoàng lớp học
|
là một bộ phim truyền hình Nhật Bản kể về Maya Akutsu (Yūki Amami) một giáo viên mới tại trường tiểu học Hanzaki, người quyết tâm trở thành cô giáo quỷ dữ để giáo dục và âm thầm bảo vệ học sinh của mình. Tập cuối của bộ phim đã ghi nhận chỉ số rating người xem cao nhất vùng Kantō là 25,3%. Vào ngày 17 và 18 tháng 3 năm 2006, hai tập tiền truyện đặc biệt đã được phát sóng và ghi nhận chỉ số rating cao nhất là 21,2%.
Bộ phim được Hàn Quốc làm lại vào năm 2013 với tên gọi tương tự, trong đó có sự tham gia của nữ diễn viên Go Hyun-jung trong vai cô giáo.
Nhân vật
Lớp 6-3
Yūki Amami vai Maya Akutsu (Trong tập đặc biệt học của cô từng đổi thành "Tomitsuka Maya")
Nhân vật chính là một giáo viên lạnh lùng vừa mới chuyển đến và trở thành giáo viên chủ nhiệm lớp 6-3. Cô có thể làm mọi việc một cách hoàn hảo như: khiêu vũ, bơi lội, điều dưỡng, chiến đấu và hơn thế nữa. Cô không bao giờ cười và luôn vô cảm như một chiếc mặt nạ Noh. Lần duy nhất cô cười là khi Kanda Kazumi nói Aloha với cô sau khi vào cấp hai. Trang phục của cô thường là quần áo cổ cao màu đen, tóc búi tròn (ở phần 2 của tập đặc biệt là tóc đuôi ngựa). Nếu làm đổ món cà ri phục vụ bữa trưa, học sinh sẽ không được ăn trưa, không được phép sử dụng nhà vệ sinh trong giờ học, ném bài kiểm tra của học sinh bị điểm kém, ép buộc những người bị điểm thấp nhất hoặc những người chống lại cô phải dọn dẹp vệ sinh, những học sinh điểm cao sẽ có đặc quyền, vẫn cho học sinh đến trường trong kỳ nghỉ hè..., giáo viên này có vẻ rất lạnh lùng và vô tâm, nhưng trên thực tế không phải như vậy...
Ngoài ra, cha của đồng nghiệp Shiori Tendo có thể là người duy nhất biết về quá khứ của cô.
Mirai Shida vai Kazumi Kanda
Một cô gái bình thường đang học lớp 6 tiểu học và luôn mong muốn tạo nên những kỷ niệm đẹp. Dù thế nào đi nữa, cô cũng không thể hiểu được ý nghĩa đằng sau mọi việc mà giáo viên chủ nhiệm của cô làm, đồng thời cô tiếp tục bị phản bội bởi những người bạn cùng lớp mà cô luôn coi là đáng tin cậy. Tuy nhiên, cô vẫn luôn bảo vệ những “người bạn” đã phản bội mình và tin rằng điều kỳ diệu sẽ xảy ra trong lớp của mình. Và cô đã vô tình trưởng thành hơn trong “cuộc chiến” với cô Maya, đồng thời dẫn dắt cả lớp vượt qua nhiều khó khăn khác nhau.
Naruki Matsukawa vai Yūsuke Manabe
Sống với ông nội, người điều hành một cửa hàng bán đồ ăn nhanh. Một nhân vật cực kỳ vui vẻ hay pha trò nhưng lại có quá khứ bi thảm khi bị mẹ ruột bỏ rơi. Sau này, cậu quen với cuộc sống bình dị và buông thả... Dù có suy nghĩ như vậy nhưng sau này cậu lại trở thành người đầu tiên trong lớp hiểu được suy nghĩ của Kazumi và cậu dần trưởng thành vì điều này. Vào ngày lễ tốt nghiệp, cuối cùng cậu cũng đoàn tụ với mẹ mình, người đã xa cách 7 năm (Maya đã tìm kiếm mẹ cậu và thuyết phục bà đến dự lễ tốt nghiệp của con trai).
Mayuko Fukuda vai Hikaru Shindō
Học sinh đầu tiên hoàn thành bài kiểm tra và đạt điểm tối đa. Cô ấy cũng có ý thức mạnh mẽ về công lý và là một cô gái thiên tài. Tuy nhiên, vì cha cô (người mà cô rất yêu quý) đã bỏ rơi cô vì "công việc" và cô mất đi người bạn thân nhất vì mẹ, Shindo trở nên ghét mẹ và khép mình trong thế giới nội tâm, cô lập bản thân với thế giới. Mặc dù cô vốn luôn hoài nghi nhưng đã lấy lại được nhiệt huyết ban đầu sau khi gặp Kazumi (một người bạn tốt thực sự) và cùng với Kazumi dẫn dắt các bạn trong lớp.
Anzu Nagai vai Hisako Baba
Một học sinh gặp khó khăn cả trong học tập lẫn thể thao. Cô là người sống nội tâm và không có bạn tốt trong lớp. Cô rất thích vẽ tranh. Cô đã phản bội Kazumi, người từng trở thành bạn thân nhất của cô và trở thành "người giám sát" của lớp. Nhưng sau đó, dưới sự cảm thông sâu sắc của Kazumi, cô đã đưa ra tuyên bố sẽ luôn tiến bước cùng với Kazumi.
Hikari Kajiwara vai Erika Sato
Cho đến lớp 5, cô là "bạn tốt" của Kazumi. Đôi khi cô ấy hành động ích kỷ, cướp ví của bạn cùng lớp nhưng lại đổ lỗi cho Kazumi. Tuy nhiên, sau khi mọi người biết ai là kẻ trộm thực sự cô trở nên bị bỏ rơi và nảy sinh ý định phóng hỏa lớp học của trường. May mắn thay, cô đã được Maya ngăn chặn kịp thời.
Trường tiểu học Hanzaki
Shigeru Izumiya vai hiệu trưởng.
Lịch phát sóng
Xếp hạng chương trình dành cho khu vực Kanto. Phụ đề là từ DVD, nhưng một số phụ đề không rõ ràng, chẳng hạn như sách hướng dẫn chính thức "The Book" có phụ đề khác nhau.
Tập đặc biệt
Giải thưởng
Giải thưởng của Hiệp hội Phát thanh Truyền hình Thương mại Nhật Bản.
Giải thưởng NAB 2006 (Xuất sắc).
Giải thưởng Galaxy lần thứ 43 (Giải khuyến khích).
Giải thưởng Xuất sắc của Quỹ Văn hóa Phát thanh Truyền hình lần thứ 32.
Giải thưởng Kuniko Mukaida lần thứ 24 (Kazuhiko Yukawa).
Bài hát chủ đề và nhạc phim
EXILE "EXIT" (24 tháng 8 năm 2005, rhythm zone)
Yorihiro Ike "The Queen's Classroom Original Soundtrack" (15 tháng 9 năm 2005)
Yorihiro Ike "The Queen's Classroom Special Edition -The Best Selection of Hiroshi Ikese-" (5 tháng 4 năm 2006)
Các sản phẩm liên quan
Sách
The Queen's Classroom - Japan TV (12 tháng 9 năm 2005)
The Queen's Classroom: The Book Episodes 1 &; 2 - Japan TV (17 tháng 3 năm 2006)
Kịch bản (Tập 1 và Tập cuối)
DVD
The Queen's Classroom vol.1 - 4 (21 tháng 12 năm 2005)
The Queen's Classroom DVD-BOX (21 tháng 12 năm 2005)
The Queen's Classroom Specials "Episode 1 - Fallen Angels" và "Episode 2 - The Devil's Advent" (21 tháng 6 năm 2006, )
The Queen's Classroom Special DVD-BOX (21 tháng 6 năm 2006)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim truyền hình Nhật Bản
|
19849579
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Willian%20Pozo-Venta
|
Willian Pozo-Venta
|
Willian Pozo-Venta Angell (sinh ngày 27 tháng 8 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá người Cuba hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ KTP tại Veikkausliiga. Từng là tuyển thủ trẻ của Na Uy, anh đại diện cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Cuba.
Sự nghiệp thi đấu
Đầu sự nghiệp
Vào năm 2015, Pozo-Venta thử việc tại câu lạc bộ Stoke City sau khi chơi cho học viện trẻ của Metz. Trước mùa giải 2018, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ Zimbru Chișinău từ Follo. Tiếp đó, trước mùa giải 2020, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ Strømmen tại Na Uy. Vào ngày 27 tháng 8 năm 2021, anh chuyển đến câu lạc bộ Notodden ở Giải hạng hai Na Uy.
KTP
Vào ngày 13 tháng 1 năm 2023, Pozo-Venta ký hợp đồng một năm với câu lạc bộ KTP tại Veikkausliiga.
Sự nghiệp quốc tế
Sinh ra ở Cuba, Pozo-Venta chuyển đến Na Uy năm 4 tuổi, và đã từng là tuyển thủ trẻ quốc tế của Na Uy.. Anh có trận ra mắt quốc tế cho Cuba trong chiến thắng 5–0 trước Quần đảo Virgin thuộc Anh tại Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 vào ngày 2 tháng 6 năm 2021.
Bàn thắng quốc tế
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin cá nhân
Sinh năm 1997
Nhân vật còn sống
Tiền đạo bóng đá nam
Người Na Uy gốc Cuba
Cầu thủ bóng đá nam Cuba
Cầu thủ bóng đá Na Uy
Cầu thủ bóng đá Cuba ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Na Uy ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Moldova
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Na Uy
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Phần Lan
Cầu thủ bóng đá Follo FK
Cầu thủ bóng đá FC Zimbru Chișinău
Cầu thủ bóng đá Stomil Olsztyn S.A.
Cầu thủ bóng đá Strømmen IF
Cầu thủ bóng đá Notodden FK
Cầu thủ bóng đá Kotkan Työväen Palloilijat
Cầu thủ Giải bóng đá hạng Nhất Na Uy
Cầu thủ Giải bóng đá hạng Nhì Na Uy
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Moldova
Cầu thủ bóng đá Veikkausliiga
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Cuba
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Na Uy
Cầu thủ Cúp Vàng CONCACAF 2023
|
19849583
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BA%A2nh%20khi%C3%AAu%20d%C3%A2m
|
Ảnh khiêu dâm
|
Ảnh khiêu dâm là một phong cách nhiếp ảnh nghệ thuật có tính chất khiêu dâm, khêu gợi tình dục hoặc khiêu khích tình dục. Ảnh khiêu dâm thường được phân biệt với chụp ảnh khỏa thân, trong đó có các đối tượng chụp ảnh khỏa thân không nhất thiết phải khêu gợi tình dục, hoặc không cần phải phô bày cơ thể để lộ điểm nhạy cảm, có tính chất khiêu dâm. Ảnh khiêu dâm thường được định nghĩa là tục tĩu và thiếu giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên, ranh giới giữa nghệ thuật và nội dung khiêu dâm đã được tranh luận cả về mặt xã hội và pháp lý, và nhiều nhiếp ảnh gia đã tạo ra tác phẩm cố tình bỏ qua những khác biệt này.
Ảnh khiêu dâm thường được sử dụng cho mục đích thương mại, bao gồm các mặt hàng được sản xuất hàng loạt như phim khiêu dâm, lịch, người đẹp và cho các tạp chí dành cho nam giới, chẳng hạn như Penthouse và Playboy, nhưng nhiều nhiếp ảnh gia nghệ thuật cũng đã tìm hiểu vấn đề hình ảnh khiêu dâm hoặc khiêu dâm. Ngoài ra, đôi khi những bức ảnh khiêu dâm chỉ được sở hữu bởi nhiếp ảnh gia của đối tượng.
Những người tham gia chụp ảnh khiêu dâm bao gồm người mẫu chuyên nghiệp, người nổi tiếng và nghiệp dư. Các nghệ sĩ giải trí nổi tiếng thường ít khi tạo dáng khỏa thân để chụp ảnh. Phần lớn các bức ảnh khiêu dâm là phụ nữ, nhưng đôi khi có sự xuất hiện hình ảnh khiêu dâm là đàn ông.
Tham khảo
Erotic photography
Khỏa thân
Tính dục
Khiêu dâm
|
19849584
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Space%20Invaders
|
Space Invaders
|
là một trò chơi shoot 'em up trò chơi điện tử arcade được phát triển và phát hành bởi Taito tại Nhật Bản vào năm 1978, và được cấp phép cho Midway Manufacturing để phân phối ở nước ngoài. Thường được coi là một trong những trò chơi video có ảnh hưởng nhất trong lịch sử, Space Invaders là trò chơi bắn súng cố định đầu tiên và đặt ra khuôn mẫu cho thể loại này. Mục tiêu của người chơi là đánh bại từng đợt người ngoài hành tinh đang lao xuống bằng cách di chuyển laser theo chiều ngang để kiếm được nhiều điểm nhất có thể.
Nhà thiết kế Tomohiro Nishikado đã lấy cảm hứng từ các trò chơi bắn súng mục tiêu Bắc Mỹ như Breakout (1976) và Gun Fight (1975), cũng như các câu chuyện khoa học viễn tưởng như cuốn tiểu thuyết The War of the Worlds (1897), bộ anime Space Battleship Yamato (1974), và bộ phim Star Wars (1977). Để hoàn thiện quá trình phát triển, anh phải thiết kế phần cứng tùy chỉnh và công cụ phát triển. Ngay sau khi ra mắt, Space Invaders đã ngay lập tức đạt được thành công thương mại; đến năm 1982, nó đã có doanh thu 3.8 tỷ đô la Mỹ (tương đương với tỷ đô la Mỹ khi điều chỉnh theo chỉ số ), với lợi nhuận ròng là 450 triệu đô la Mỹ (tương đương với tỷ đô la Mỹ theo chỉ số ). Điều này khiến nó trở thành trò chơi video bán chạy nhất và sản phẩm giải trí có doanh thu cao nhất vào thời điểm đó, và cũng là trò chơi video có doanh thu cao nhất mọi thời đại.
Space Invaders được coi là một trong những trò chơi video có ảnh hưởng nhất mọi thời đại. Nó mở đầu cho thời kỳ thời đại vàng của trò chơi điện tử arcade. Nó là nguồn cảm hứng cho nhiều trò chơi điện tử và nhà thiết kế trò chơi thuộc nhiều thể loại khác nhau, và đã được chuyển đổi và phát hành lại dưới nhiều hình thức khác nhau. Phiên bản trên Atari VCS năm 1980 đã làm tăng gấp bốn lần doanh số bán của VCS, trở thành ứng dụng giết chết đầu tiên cho console trò chơi điện tử. Phổ quát hơn, hình ảnh người ngoài hành tinh pixel đã trở thành biểu tượng văn hóa pop, thường được hiểu là biểu tượng của trò chơi video tổng thể.
Gameplay
Space Invaders là một trò chơi fixed shooter trong đó người chơi di chuyển một laser cannon theo chiều ngang dọc dưới cùng màn hình và bắn vào những người ngoài hành tinh ở phía trên. Những người ngoài hành tinh ban đầu xuất hiện dưới dạng năm hàng mười một, di chuyển qua lại như một nhóm, và dịch chuyển xuống mỗi khi chúng đến mép màn hình. Mục tiêu là loại bỏ tất cả những người ngoài hành tinh bằng cách bắn chúng. Trò chơi kết thúc ngay lập tức nếu những người xâm lược đạt được đến đáy màn hình. Những người ngoài hành tinh cố gắng phá hủy pháo của người chơi bằng cách phóng các tia lửa. Pháo laser được bảo vệ một phần bởi những chiếc bunker phòng thủ tĩnh, gradually được phá hủy từ trên xuống bởi những người ngoài hành tinh và, nếu người chơi bắn khi ở dưới một trong chúng, phần dưới cũng bị phá hủy.
Khi những người ngoài hành tinh bị tiêu diệt, chuyển động của chúng và âm nhạc đồng thời tăng tốc. Việc tiêu diệt tất cả những người ngoài hành tinh đưa đến một làn sóng khác bắt đầu ở phía thấp hơn, một vòng lặp có thể tiếp tục vô tận. Một "tàu bí ẩn" đặc biệt sẽ đôi khi di chuyển qua phía trên màn hình và trao điểm thưởng nếu bị phá hủy.
Phát triển
Space Invaders được phát triển bởi nhà thiết kế người Nhật Bản Tomohiro Nishikado, người đã dành một năm để thiết kế và phát triển phần cứng cần thiết để sản xuất nó. Trò chơi là một phản ứng với trò chơi arcade Breakout (1976) của Atari. Nishikado muốn chuyển đổi cùng một cảm giác thành tựu và căng thẳng từ việc phá hủy mục tiêu một cách từng bước, kết hợp nó với các yếu tố của các trò chơi bắn bắn súng. Trò chơi sử dụng một bố cục tương tự như Breakout nhưng với cơ chế trò chơi khác; thay vì đánh một quả bóng để tấn công các đối tượng tĩnh, người chơi được cấp quyền bắn đạn vào kẻ thù đang di chuyển.
Nishikado đã thêm vào một số yếu tố tương tác mà ông thấy thiếu sót trong các trò chơi video trước đó, như khả năng của kẻ thù phản ứng với sự di chuyển và phản lực lại, cùng với một game over được kích hoạt bởi việc kẻ thù giết chết người chơi (entweder bằng cách bị trúng hoặc kẻ thù đạt đến đáy màn hình) thay vì chỉ là một bộ hẹn giờ hết giờ. Ông thay thế bộ hẹn giờ, phổ biến trong các trò chơi arcade vào thời điểm đó, bằng những người ngoài hành tinh đang giảm dần và có tác dụng tương tự, nơi gần họ đến, thời gian còn lại của người chơi càng ít.
Thiết kế kẻ thù ban đầu bao gồm xe tăng, máy bay chiến đấu và tàu chiến. Tuy nhiên, Nishikado không hài lòng với cách chúng di chuyển; các hạn chế kỹ thuật làm cho việc mô phỏng chuyến bay trở nên khó khăn. Con người sẽ dễ mô phỏng hơn, nhưng nhà thiết kế coi việc bắn họ là không đạo đức. Sau khi chứng kiến sự ra mắt của bộ anime Space Battleship Yamato năm 1974 tại Nhật Bản, và đọc một bài viết về Star Wars (1977), ông nghĩ đến việc sử dụng một chủ đề vũ trụ. Nishikado lấy cảm hứng cho những người ngoài hành tinh từ một tiểu thuyết của H. G. Wells, The War of the Worlds, và tạo ra các hình ảnh bitmap ban đầu sau những con người ngoài hành tinh giống như bạch tuộc. Thiết kế của những người ngoài hành tinh khác được mô phỏng theo mực và cua. Trò chơi ban đầu có tên là Space Monsters theo một bài hát phổ biến ở Nhật Bản vào thời điểm đó sau đó đã được đổi thành Space Invaders bởi cấp trên của nhà thiết kế.
Tham khảo
Trò chơi điện tử một người chơi
Trò chơi điện tử phát triển ở Nhật Bản
Trò chơi điện tử về người ngoài hành tinh xâm lược
Game arcade
Trò chơi Game Boy
Trò chơi Game Boy Advance
Trò chơi Game Boy Color
Trò chơi MSX
Trò chơi NEC PC-9801
Trò chơi PlayStation
Trò chơi PlayStation Network
Trò chơi PlayStation Portable
Trò chơi Super Nintendo Entertainment System
Trò chơi trên iOS
Trò chơi trên thiết bị di động
Trò chơi trên Windows
Trò chơi Virtual Console
|
19849586
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Morgan%20Reid
|
Morgan Reid
|
Morgan Nicole Reid Allen (sinh ngày Morgan Nicole Reid; 13 tháng 6 năm 1995) là một cựu cầu thủ bóng đá người Mỹ, thi đấu ở vị trí hậu vệ. Cô đã thi đấu trong đội đại học tại Duke University trước khi được đội North Carolina Courage chọn trong vòng tư thứ tại 2018 NWSL College Draft.
Thời thơ ấu
Reid sinh ra tại Cleveland, Ohio. Cô lớn lên ở Cary, North Carolina và học tại trường trung học tư thục Cardinal Gibbons High School ở Raleigh, North Carolina, thi đấu cả bóng đá và bóng rổ. Cô là một người chiến thắng Letterman trong cả bốn năm và là cầu thủ xuất sắc nhất đội bóng đá hai lần cũng như là điểm bắt đầu của đội bóng rổ. Vào năm 2011, khi còn là sinh viên năm hai, Reid được mời tham gia Trại bóng đá Quốc gia Hoa Kỳ ở California, có cơ hội tham gia Đội tuyển Quốc gia Bóng đá trẻ Hoa Kỳ.
Trong bóng đá, cô dẫn dắt đội của mình đến chức vô địch Quốc gia 2013, ghi bàn vào lưới St. Stephens High School trong trận chung kết. Cô được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất của NCSCA và Gatorade Player of the Year cho tiểu bang North Carolina năm 2014, xếp hạng là cầu thủ số 1 trong Khu vực Nam Đại Tây Dương.
Blue Devils của Duke (2014–17)
Reid học tại Duke University từ năm 2014 đến 2017, nơi cô nhận bằng cử nhân ngành sinh học tiến hóa và là một thành viên tỏa sáng bốn lần trên ACC Honor Roll. Cô là người bắt đầu suốt bốn năm cho đội Duke Blue Devils, tham gia tổng cộng 92 trận. Trong năm cuối cùng, cô giúp đội bóng giành được kỷ lục 18 trận giữ sạch lưới trước khi có thêm một trận trong bán kết College Cup 2017 trước UCLA. Tuy nhiên, Duke bị loại sau loạt đá luân lưu trên luân lưu. Reid đã từng vào tới trận chung kết College Cup vào năm 2015, nhưng cuối cùng thất bại 1–0 trước đội Penn State.
Sự nghiệp câu lạc bộ
North Carolina Courage (2018)
Tháng 1 năm 2018, Reid được chọn trong vòng tư thứ (tổng cộng 38) của 2018 NWSL College Draft. Cô không có trận đấu nào tại NWSL cho Courage nhưng đã xuất hiện dự bị trong hai trận giao hữu với các đội French Division 1 Paris Saint-Germain và Olympique Lyon trong khuôn khổ 2018 Women's International Champions Cup. Courage giành chiến thắng trong giải đấu.
Orlando Pride (2019–20)
Vào ngày 4 tháng 4 năm 2019, Reid đã được giao cho đội Orlando Pride trong trao đổi cho một lựa chọn vòng tư thứ tại 2020 NWSL College Draft. Cô đã có trận ra mắt chuyên nghiệp cạnh tranh vào ngày 11 tháng 5 năm 2019, bắt đầu trong trận đấu với Portland Thorns FC. Cô đã được giải nhiệt vào cuối mùa 2020 sau khi vắng mặt suốt cả năm do chấn thương và được đưa lên wire tái nhập và sau đó không được chọn.
Giải nghệ
Tháng 11 năm 2022, Reid tiết lộ cô đã nghỉ hưu do đau hông nặng nề. Sau năm lần bị chẩn đoán sai, cô cuối cùng đã được chẩn đoán có một vết nứt labral đòi hỏi phẫu thuật sau khi thăm một chuyên gia tại Viện Hông Hoa Kỳ ở Chicago.
Sự nghiệp quốc tế
Reid là thành viên của đội tuyển Nữ dưới 17 tuổi của Hoa Kỳ giành chiến thắng tại Giải vô địch Nữ dưới 17 tuổi CONCACAF 2012. Sau đó, cô là thành viên của đội tuyển tham gia Azerbaijan tại World Cup Nữ dưới 17 tuổi FIFA 2012. Đội không tiến xa từ vòng bảng dựa vào hiệu số bàn thắng, lần đầu tiên một đội bóng bị loại mà không thua trận. Năm 2014, cô được gọi vào trại dưới 20 tuổi bởi Michelle French.
Đời tư
Reid lớn lên trong một gia đình hướng thể thao. Bố mẹ cô gặp nhau tại Ohio State University vào cuối những năm 80, cha cô là thành viên của đội đấu vật và mẹ cô chơi bóng rổ. Ông nội của cô, George Reid, cũng là một võ sĩ đấu vật nổi tiếng và là một HLV nổi tiếng, đặc biệt là làm HLV trưởng tại University of Georgia. Năm 2010, ông được nhập vào Đại học Danh dự Võ địch Quốc gia. Ba anh em trai của cô, Justin, Jake và Jason, đều chơi bóng rổ, trong khi em gái nhỏ Madison chơi bóng đá và là thành viên của North Carolina Courage Development Academy trước khi cam kết với Clemson vào năm 2020.
Reid bắt đầu hẹn hò với cầu thủ bóng rổ nam đội bóng rổ nam của Duke, Grayson Allen, khi cả hai đều theo học tại Duke. Họ đã đính hôn vào tháng 2 năm 2022 và kết hôn vào ngày 23 tháng 7 năm 2022.
Danh hiệu
Duke Blue Devils *Atlantic Coast Conference Mùa giải thường lệ: 2017 *Chung kết Giải bóng đá nữ đại học: 2015
North Carolina Courage
Nhà vô địch NWSL: 2018
NWSL Shield: 2018
Women's International Champions Cup: 2018
Hoa Kỳ U17
Giải nữ dưới 17 tuổi CONCACAF: 2012
Tham khảo
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.