id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19848104
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria%20Walpole
|
Maria Walpole
|
Maria Walpole (10 tháng 7 năm 1736 – 22 tháng 8 năm 1807) là một thành viên của Vương thất Anh. Thông qua cuộc hôn nhân đầu với James Waldegrave, Bá tước Waldegrave thứ 2 từ năm 1759 đến năm 1766, Maria được gọi là Bá tước phu nhân Waldegrave. Thông qua cuộc hôn nhân với William Henry của Đại Anh, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh năm 1766, Maria là Công tước phu nhân xứ Gloucester và Edinburgh.
Những năm đầu đời
Maria Walpole là con gái ngoài giá thú của Edward Walpole và Dorothy Clement. Ông nội của Maria là Robert Walpole, Bá tước xứ Orford, được coi là Thủ tướng đầu tiên của Vương quốc Liên hiệp Anh (1721–1741). Maria lớn lên tại Frogmore House ở Windsor, nhưng cha mẹ của Maria không kết hôn và tình trạng là con ngoại hôn đã ảnh hưởng xấu đến địa vị xã hội của Maria, bất chấp gốc gác của bà.
Bá tước phu nhân Waldegrave
Ngày 15 tháng 5 năm 1759, Maria kết hôn với James Waldegrave, Bá tước Waldegrave thứ 2 tại ngôi nhà ở Pall Mall của cha, Ngài Edward Walpole. Buổi lễ được cử hành bởi Frederick Keppel, Giám mục tương lai của Exeter, với các nhân chứng chính thức là Ngài Edward và em trai là Horace Walpole. Bá tước Waldegrave qua đời vào ngày 28 tháng 4 năm 1763. Hai vợ chồng có ba người con:
Elizabeth Waldegrave (1760–1816), kết hôn với em họ là George Waldegrave, Bá tước Waldegrave thứ 4. Ba người con trai của hai người đều trở thành Bá tước Waldegrave và tất cả các Bá tước Waldegrave sau này đều là hậu duệ của hai người.
Charlotte Waldegrave (1761–1808), kết hôn với George FitzRoy, Công tước thứ 4 xứ Grafton nhưng qua đời trước khi chồng trở thành Công tước. Tất cả các Công tước xứ Grafton sau này đều là hậu duệ của Charlotte và George.
Anne Horatia Waldegrave (1762–1801) kết hôn với Hugh Seymour, con trai của Hầu tước thứ 1 xứ Hertford. Con cháu của Anna và Hugh bao gồm Charles Spencer, Bá tước Spencer thứ 6 ; Diana Sencer, Thân vương phi xứ Wales; Vương tử William, Thân vương xứ Wales và Vương tử Harry, Công tước xứ Sussex. Trước khi kết hôn, Anne có thể đã bí mật đính hôn với Robert Bertie, Công tước thứ 4 xứ Ancaster (1756–1779), như chú của Anne là Horace Walpole và những người khác nói rằng Anne đã để tang cho vị Công tước trẻ tuổi phóng đãng.
Có một bức chân dung của Maria vào khoảng năm 1764–1765, ngay sau khi bà góa chồng, được vẽ bởi Joshua Reynolds, được trưng bày ở Triển lãm Nghệ thuật Công cộng Dunedin. Maria cũng ủy quyền cho Joshua Reynolds vẽ bức chân dung The Ladies Waldegrave vào năm 1780, với chủ thể là các con gái của Maria và James Waldegrave.
Công tước phu nhân xứ Gloucester và Edinburgh
Ngày 6 tháng 9 năm 1766, Maria kết hôn với Vương tôn William Henry của Đại Anh, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh, tại nhà riêng của Maria ở Pall Mall, Luân Đôn. Công tước là em trai của Quốc vương George III của Liên hiệp Anh. Cuộc hôn nhân được tiến hành bí mật vì Vương thất Anh sẽ không chấp thuận cuộc hôn nhân giữa một Vương tử và một góa phụ không thuộc dòng dõi Vương gia và xuất thân là con ngoại hôn. Hai vợ chồng sống tại Đồi Thánh Leonard ở Clewer, gần Windsor và có ba người con:
Sophia, Vương tằng tôn nữ Liên hiệp Anh (1773–1844)
Caroline, Vương tằng tôn nữ Liên hiệp Anh (1774–1775)
William Frederick, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh (1776–1834)
Cuộc hôn nhân với một thường dân của một người em trai khác của William Henry là Vương tôn Henry của Đại Anh, Công tước xứ Cumberland, đã dẫn đến việc thông qua Đạo luật Hôn nhân Vương thất năm 1772, yêu cầu tất cả hậu duệ của George II phải được sự chấp thuận của quân chủ để được kết hôn. Chỉ đến tháng 9 năm 1772, năm tháng sau khi Đạo luật được thông qua, Quốc vương George III mới biết về cuộc hôn nhân của William với Maria. Vì các điều khoản của Đạo luật không thể được áp dụng với các trường hợp trước khi Đạo luật được thông qua nên cuộc hôn nhân của Maria và William được coi là hợp pháp. Tuy nhiên, do sự tức giận của George III đối với cuộc hôn nhân, Maria không bao giờ được tiếp đón tại triều đình.
Caroline qua đời khi chỉ được 9 tháng tuổi, sau khi được tiêm phòng bệnh đậu mùa nhằm phòng tránh căn bệnh.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Vương tức Liên hiệp Anh
Vương tộc Hannover
Công tước phu nhân Liên hiệp Anh
Sinh năm 1736
Mất năm 1807
An táng tại Nhà nguyện St George, Lâu đài Windsor
Người Westminster
|
19848105
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Konrad%20II%20c%E1%BB%A7a%20Th%C3%A1nh%20ch%E1%BA%BF%20La%20M%C3%A3
|
Konrad II của Thánh chế La Mã
|
Konrad II ( – 4 tháng 6 năm 1039), còn được biết đến với tên gọi Konrad Già (Konrad der Ältere) hay Konrad nhà Salic (Konrad der Salier), là hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1027 cho đến khi qua đời năm 1039. Là vị hoàng đế đầu tiên trong số bốn hoàng đế nhà Salier trị vì trong một thế kỷ cho đến năm 1125, Konrad cai trị các vương quốc Đức (từ 1024), Ý (từ 1026) và Burgundy (từ 1033).
Tham khảo
Thư mục
at Google Books
Vương triều Salier
Mất năm 1039
Sinh năm 990
Sinh năm 989
Hoàng đế La Mã Thần thánh thế kỷ 11
An táng tại Nhà thờ Speyer
An táng tại Nhà thờ St. Martin, Utrecht
|
19848114
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heinrich%20III%20c%E1%BB%A7a%20Th%C3%A1nh%20ch%E1%BA%BF%20La%20M%C3%A3
|
Heinrich III của Thánh chế La Mã
|
Heinrich III (28 tháng 10 năm 1016 – 5 tháng 10 năm 1056) còn được gọi là the Black hay the Pious, là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1046 cho đến khi qua đời năm 1056. Là thành viên của nhà Salier, ông là con trai cả của Konrad II và Gisela của Schwaben.
Tham khảo
Thư mục
Norwich, John Julius. The Normans in the South 1016–1130. Longmans: London, 1967.
Hoàng tử
Vương triều Salier
Mất năm 1056
Sinh năm 1016
Công tước xứ Bayern thế kỷ 11
An táng tại Nhà thờ Speyer
Hoàng đế La Mã Thần thánh thế kỷ 11
|
19848123
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heinrich%20VI%20c%E1%BB%A7a%20Th%C3%A1nh%20ch%E1%BA%BF%20La%20M%C3%A3
|
Heinrich VI của Thánh chế La Mã
|
Heinrich VI (tháng 11 năm 1165 – 28 tháng 9 năm 1197), thành viên của triều đại Hohenstaufen, là Vua của Đức (Vua La Mã Đức) từ năm 1169 và Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1191 cho đến khi qua đời. Từ năm 1194 ông cũng là Vua của Sicily.
Tham khảo
Minnesänger
Vua Jure uxoris
Vương triều Staufer
Mất năm 1197
Sinh năm 1165
Hoàng đế La Mã Thần thánh thế kỷ 12
Vua Sicily thế kỷ 12
Hohenstaufen
Tử vong do sốt rét
An táng tại Nhà thờ Palermo
Nhà thơ Đức thế kỷ 12
Heinrich VI của Thánh chế La Mã
|
19848124
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anne%20Luttrell
|
Anne Luttrell
|
Anne Luttrell, Công tước phu nhân xứ Cumberland và Strathearn (24 tháng 1 năm 1743 – 28 tháng 12 năm 1808) là một thành viên của Vương thất Anh, vợ của Henry của Đại Anh, Công tước xứ Cumberland và Strathearn. Em gái của cô là Lady Elizabeth Luttrell, người bạn đồng hành và quản lý ngôi nhà của cô.
Những năm đầu đời
Anne Luttrell sinh ra ở Marylebone, Luân Đôn, là con gái của Simon Luttrell, sau này là Bá tước đầu tiên xứ Carhampton, và Judith Maria Lawes, con gái của Ngài Nicholas Lawes. Anne được rửa tội vào ngày 17 tháng 2 năm 1742 tại St Marylebone, Westminster, Middlesex, Anh tuy nhien một số nguồn khác lại ghi nhận là ngày 24 tháng 1 năm 1743. Em gái và tri kỷ của Anne, Elizabeth, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1744 tại Luân Đôn.
Cha của Anne là một thành viên của Hạ viện Anh trước khi được phong làm Nam tước Irnham vào năm 1768, Tử tước Carhampton vào năm 1781 và Bá tước xứ Carhampton vào năm 1785.
Hôn nhân
Anne kết hôn lần đầu với một Christopher Horton (đôi khi được gọi là Houghton) ở Catton Hall vào ngày 4 tháng 8 năm 1765.
Sau đó, Anne trở thành góa phụ và sau đó tái hôn với Vương tôn Henry của Đại Anh, Công tước xứ Cumberland và Strathearn, người con thứ sáu của Frederick, Thân vương xứ Wales và Augusta xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, và là em trai của George III của Liên hiệp Anh. Hai người kết hôn tại Phố Hertford ở Mayfair, Luân Đôn vào ngày 2 tháng 10 năm 1771.
Quốc vương George III không chấp thuận cuộc hôn nhân vì Anne là thường dân và đã qua một đời chồng. Sau đó, nhà vua đã thông qua Đạo luật Hôn nhân Vương thất năm 1772 để cấm bất kỳ hậu duệ nào của Quốc vương George II kết hôn mà không có sự đồng thuận của quân chủ, có hiệu lực cho đến khi Đạo luật Kế vị năm 2013 được thông qua, cùng với một số sửa đổi khác, trong đó chỉ bắt buộc sáu người đầu tiên trong danh sách kế vị ngai vàng phải có được sự đồng thuạn của quốc chủ. Vì các điều khoản của Đạo luật không thể được áp dụng đối với các trường hợp trước khi Đạo luật được thông qua nên cuộc hôn nhân của Anne và Công tước được coi là hợp pháp.
Gia đình Cumberland chuyển đến Dinh York, đổi tên thành Dinh Cumberland, ở Pall Mall và sống ở đó cho đến khi Henry qua đời vào năm 1790. Ngôi nhà trở thành tiều đình thay thế khi ngài Công tước có mâu thuẫn công khai với cha mẹ. Triều đình ở Cumberland là một thành công và em gái của Anne, Elizabeth Lutrell đã góp phần công lao không nhỏ. Elizabeth là nhân chứng trong đám cưới bí mật của chị gái và hai vợ chồng đã trao cho Elizabeth một gian phòng thuộc Dinh Cumberland. Tài chính của ngài Công tước được duy trì nhờ các bàn đánh bạc tại nhà của họ và Elizabeth đã quản lý chúng một cách tốt đẹp.
Năm 1800, Bà Thái Công tước đã chuyển giao dinh thự cho các ngân hàng đang giữ cầm cố của dinh thự.
Tính cách và ngoại hình
Horace Walpole đã viết "cử chỉ của cô ấy rất duyên dáng, rất đa dạng nhưng cũng vô cùng quen thuộc, đến nỗi thật dễ để nhìn thấu và cũng thật khó để cưỡng lại". Trong khi Anne thường được coi là một mỹ nhân, Horace Walpole lại nghĩ Anne chỉ "xinh xắn", ngoại trừ đôi mắt màu xanh lục mà Horace thừa nhận là bị mê hoặc. Đôi mắt của Anne có sức biểu cảm đáng chú ý và được thể hiện qua một số bức chân dung về Anne của Thomas Gainsborough, một trong số đó nằm trong bộ sưu tập của Hugh Lane.
Ghi chú
Trích dẫn
Liên kết ngoài
Vương tức Liên hiệp Anh
Vương tộc Hannover
Công tước phu nhân Liên hiệp Anh
Sinh năm 1743
Mất năm 1808
|
19848131
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich%20III%20c%E1%BB%A7a%20Th%C3%A1nh%20ch%E1%BA%BF%20La%20M%C3%A3
|
Friedrich III của Thánh chế La Mã
|
Friedrich III (21 tháng 9 năm 1415 – 19 tháng 8 năm 1493) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1452 cho đến khi qua đời vào năm 1493. Ông là vị vua thứ tư và hoàng đế đầu tiên của Nhà Habsburg.
Tham khảo
Thư mục
Heinig, Paul-Joachim. "The Court of Emperor Frederick III". In Princes Patronage and the Nobility: The Court at the Beginning of the Modern Age, cc. 1450–1650. Edited by Ronald G. Asch and Adolf M. Birke. New York: Oxford University Press, 1991. ISBN 0-19-920502-7.
Langmaier, Konstantin M. Erzherzog Albrecht VI. von Österreich (1418–1463), Ein Fürst im Spannungsfeld von Dynastie, Regionen und Reich (Forschungen zur Kaiser- und Papstgeschichte des Mittelalters, Beihefte zu J. F. Böhmer, Regesta Imperii 38, Köln, Weimar, Wien 2015.
Langmaier, Konstantin M. Kaiser Friedrich III. (1415–1493): des Reiches Erzschlafmütze? Der "schlafende Kaiser" als Klischee. In: Zeitschrift des Historischen Vereins für Steiermark. 111, 2020, 129–188 (currently the most scientific and modern study on Frederick III).
Liên kết ngoài
Entry about Frederick III, Holy Roman Emperor in the database Gedächtnis des Landes on the history of the state of Lower Austria (Lower Austria Museum)
Database "Sources on the Judiciary of Emperor Frederick III" (Quellen zur Gerichtsbarkeit Kaiser Friedrichs III. (1440–1493)
Joachim Laczny, Friedrich III. (1440–1493) auf Reisen. Die Erstellung des Itinerars eines spätmittelalterlichen Herrschers unter Anwendung eines historisch-Geographischen Informationssystems (his-GIS).
WDR-Zeitzeichensendung 1415 – Der Geburtstag von Kaiser Friedrich III.
Hiệp sĩ Garter
Mất năm 1493
Sinh năm 1415
Friedrich III của Thánh chế La Mã
Hoàng đế La Mã Thần thánh thế kỷ 15
Đại vương công Áo thế kỷ 15
Công tước xứ Styria
Công tước xứ Carinthia
Người Innsbruck
An táng tại Nhà thờ St. Stephen, Vienna
|
19848133
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%A1c%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt
|
Nhạc nước nghệ thuật
|
Nhạc nước nghệ thuật là hệ thống đài phun nước được thiết kế và lập trình phun nước theo nhạc, điều khiển màu đèn chiếu sáng theo nhạc. Đây là hệ thống đài phun nước có thiết kế và công nghệ hiện đại nhất hiện nay, thường được lắp đặt tại các địa điểm, vị trí trung tâm với mục đích trang trí cảnh quan và ngoài ra còn thu hút, thúc đẩy khách tham quan du lịch.
Khác với các đài phun nước thông thường, khi xem trình diễn nhạc nước, bạn sẽ được thưởng thức cả về phần nhìn và phần nghe. Các hiệu ứng phun nước đẹp mắt di chuyển theo điệu nhạc sẽ mang đến những trải nghiệm rất thú vị.
Thông thường hệ thống nhạc nước sẽ hoạt động theo một khung thời gian nhất định trong ngày, một show trình diễn có khoảng thời gian từ 10 tới 15 phút. Có những show được xem miễn phí và có show sẽ phải trả phí để được vào xem.
Một số công trình nhạc nước nghệ thuật nổi tiếng trên thế giới và là điểm đến du lịch của du khách như Đài phun nước Dubai, Nhạc nước tại khách sạn Bellagio...
Hay tại Việt Nam có thể đến xem miễn phí các show nhạc nước tại khu đô thị Vinhomes Times City, Nhạc nước phố đi bộ Nguyễn Huệ, Nhạc nước phố đi bộ TP Vinh, Nhạc nước tại các quảng trường như Võ Nguyên Giáp - Hồng Ngự, Quảng trường 26/3 Hà Giang...
|
19848139
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eternal%20Sunshine%20%28album%29
|
Eternal Sunshine (album)
|
Eternal Sunshine là album phòng thu thứ bảy của nữ ca sĩ người Mỹ Ariana Grande. Album được phát hành bởi hãng đĩa Republic Records vào ngày 8 tháng 3 năm 2024.
Bài hát "Yes, And?" được phát hành như một bài hát đơn của album vào 12 tháng 1, 2024.
Bối cảnh
Vào ngày 12 tháng 5, 2022, sau 19 tháng phát hành album phòng thu thứ sáu, Positions (2020), Ariana Grande đã chia sẻ rằng cô sẽ không thu âm thêm bất kỳ album phòng thu nào khác cho đến khi quay xong Wicked (2024), bộ phim được chuyển thể từ vở nhạc kịch Broadway cùng tên, trong đó, cô sẽ thủ vai nhân vật Glinda. Tháng 10 năm 2023, lần đầu tiên Grande đã bóng gió đùa giỡn về album mới sắp ra mắt bằng cách đăng tải một dòng chú thích trên nền tảng Instagram với nội dung "ag7: goat mother". Ngoài ra, một bộ ảnh bao gồm các bức ảnh của cô cùng nhà sản xuất cộng tác lâu năm người Thụy Điển Max Martin tại phòng thu Jungle City Studios ở Thành phố New York cũng xuất hiện.
Vào ngày 7 và 17 tháng 12, Grande đã chia sẻ loạt bức ảnh và đoạn phim trong quá trình làm việc tại phòng thu cũng như các đoạn tập tin âm thanh đã chỉnh sửa của cô. Trái ngược với những lần trước, cô đã tuyên bố rằng sẽ không có đoạn nhạc nào được tung ra trước cho bản thu âm sắp tới. Vào ngày 27 tháng 12, nữ ca sĩ đã chính thức xác nhận về việc phát hành album vào năm 2024 thông qua những tài khoản mạng xã hội của mình. Cô đã đăng một loạt video lên tài khoản Instagram của mình cho thấy việc cô đã khóc trong phòng thu âm và mẹ của cô bà Joan đang nhảy theo một bài hát mới của cô bên cạnh những người khác.
Tựa đề của album đã được nhá hàng thông qua hai Easter eggs. Đầu tiên là cảnh mở đầu trong MV đĩa đơn, "Yes, And?". Trong đó, có một tấm thẻ màu đỏ với dòng chữ viết tắt "AG7" ở mặt trước cùng tọa độ địa lý 41°03′59″N 71°95′45″W được đề cập bên dưới—được định vị tại Montauk, New York, địa điểm quay phim chính của bộ phim Eternal Sunshine of the Spotless Mind (2004) của ngôi sao Jim Carrey, người được Grande chia sẻ rằng cô chính là một người hâm mộ của anh. Lần thứ hai là khi Grande chia sẻ vài dòng thơ của Alexander Pope trong bài thơ "Eloisa to Abelard" trên Instagram của cô, và trong đó có ghi rằng: ""Eternal sunshine of the spotless mind!".
Tựa đề Eternal Sunshine chính thức được tiết lộ vào ngày 17 tháng 1 năm 2024 cùng với nhiều ảnh bìa cho đĩa nhạc khác nhau.
Phát hành và xây dựng thương hiệu
Eternal Sunshine được ra mắt vào ngày 8 tháng 3, 2024. Và sẽ được phat hành với bốn biến thể đĩa vinyl khác nhau. Đơn đặt hàng trước sẽ bắt đầu mở vào ngày 17 tháng 1, cũng là ngày album được công bố.
Ảnh bìa album
Grande đã tiết lộ ảnh bìa album của ca khúc đơn chính, "Yes, And?" vào tháng 1 năm 2024 sẽ là một trong các biển thể của ảnh bìa album. Tuy nhiên vài ngày sau đó, nó cũng được xác nhận sẽ là ảnh bìa chính của đĩa nhạc lần này. Ảnh được chụp bởi nhiếp ảnh gia Katia Temkin. Ảnh bìa sẽ là một bức ảnh mờ ảo cận cảnh phía bên trái khuôn mặt của Grande, và trong bức ảnh đó, cô sẽ đánh son môi cổ điển màu đỏ "Attention" thuộc thương hiệu mỹ phẩm R.E.M. Beauty's "On Your Collar" của cô.
Đĩa đơn
"Yes, And?", bài hát đơn chủ đạo của Eternal Sunshine, được phát hành vào ngày 12 tháng 1, 2024, thông qua dịch vụ phát trực tuyến. Ngoài ra, nó cũng được phát hành ở những định dạng khác bao gồm 7-inch, đĩa đơn và băng cassette. Video âm nhạc của bài hát được đạo diễn bởi Christian Breslauer và phát hành cùng ngày thông qua kênh Vevo của Grande trên YouTube. Tựa đề của bài hát cũng đã được Grande nhá hàng trước vài ngày phát hành khi cô đã chụp một tấm hình khi đang mặc một chiếc áo len với tên bài hát được in ở đằng trước.
Danh sách bài hát
Ghi chú
"The Boy Is Mine" được lấy cảm hứng từ đĩa đơn cùng tên năm 1998 của Brandy và Monica.
Tất cả các bài hát đều có tiêu đề được cách điệu bằng chữ viết thường ngoại trừ "Saturn Returns Interlude".
Lịch sử phát hành
Tham khảo
Liên kết ngoài
Album năm 2024
Album sản xuất bởi Ilya Salmanzadeh
Album của Ariana Grande
Album của Republic Records
Album sắp phát hành
|
19848149
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kamoenai%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Kamoenai, Hokkaidō
|
là một ngôi làng thuộc huyện Furuu, phó tỉnh Shiribeshi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 870 người và mật độ dân số là 5,9 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 147,71 km2.
Tham khảo
Làng của Hokkaidō
|
19848161
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Waruntorn%20Paonil
|
Waruntorn Paonil
|
Waruntorn Paonil (; sinh ngày 23 tháng 2 năm 1994), biệt danh Ink (), còn được biết đến với nghệ danh Ink Waruntorn, là một ca sĩ, diễn viên Thái Lan.
Vào năm 2006, cô bắt đầu sự nghiệp trong một video ca nhạc, trước khi trở thành thành viên nhóm nhạc pop Chilli White Choc, sau đó cô rời nhóm vào năm 2009. Vào năm 2015, cô trở lại với vai trò nghệ sĩ và cũng đảm nhận vai chính trong bộ phim lãng mạn chính trị Snap. Đĩa đơn solo đầu tiên của cô "Insomnia" đã đứng đầu bảng xếp hạng Thái Lan tại thời điểm đó.
Vào năm 2020, cô nhận được Giải MAMA cho hạng mục Nghệ sĩ châu Á xuất sắc nhất. Năm sau đó, cô bắt đầu sự nghiệp lồng tiếng cho bộ phim hoạt hình The Legend of Hei.
Cuộc sống
Sau khi hoàn thành trung học tại Đại học Srinakharinwirot trường thực hành Prasarnmit, Waruntorn trở thành sinh viên tại Khoa Âm nhạc của Khoa Mỹ thuật và Ứng dụng, Đại học Chulalongkorn, nơi cô học chuyên ngành hát cổ điển (opera). Trong suốt thời gian cô học tại Chulalongkorn, cô cũng từng là tay trống chính cho Trận đấu bóng đá thường niên Chula–Thammasat lần thứ 70 vào năm 2015. Cô hoàn thành việc học vào năm 2016 và được trao tặng Cử nhân nghệ thuật âm nhạc (bằng danh dự hạng hai). Trước khi tốt nghiệp, cô đã tổ chức một buổi hòa nhạc opera trong vòng một giờ gọi là Senior Voice Recital tại trường đại học vào ngày 27 tháng 4 năm 2016.
Điện ảnh
Danh sách đĩa nhạc
Đĩa đơn
Album phòng thu
Đĩa đơn mở rộng
Bài hát OST
Bài hát khác
Chuyến lưu diễn
Giải thưởng và đề cử
Tham khảo
Liên kết ngoài
Waruntorn Paonil at Boxx Music
Sinh năm 1994
Nhân vật còn sống
Waruntorn Paonil
Waruntorn Paonil
Waruntorn Paonil
|
19848163
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oplopomops%20diacanthus
|
Oplopomops diacanthus
|
Oplopomops diacanthus là loài cá biển duy nhất thuộc chi Oplopomops trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1943.
Từ nguyên
Tên chi này được ghép từ Oplopomus, một chi khác trong họ Cá bống trắng và hậu tố ópsis trong tiếng Hy Lạp cổ đại (ὄψις; “tương đồng”). Từ định danh diacanthus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: di (“hai”) và acanthus (“gai”), hàm ý đề cập đến hai ngạnh cứng, mỗi cái nằm phía trước mỗi vây lưng.
Phân bố và môi trường sống
O. diacanthus được ghi nhận từ quần đảo Ryukyu (Nam Nhật Bản) trải dài về phía nam đến bờ bắc Úc, băng qua khu vực Đông Nam Á ở Tây Thái Bình Dương, phía đông đến quần đảo Marshall và quần đảo Phoenix, phía tây đến Maldives. Ở Việt Nam, O. diacanthus được ghi nhận tại khu vực vịnh Nha Trang–vịnh Vân Phong.
O. diacanthus được tìm thấy trên nền cát và đá vụn nhuyễn gần các rạn san hô ở độ sâu khoảng 3–20 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở O. diacanthus là 7,5 cm. Thân màu xám, trong mờ, có đốm nâu và trắng bên dưới hàng vảy giữa. Vây đuôi tròn. Có vảy lược ở thân và gáy, má và nắp mang không có vảy.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 9–11.
Sinh thái
O. diacanthus xuất hiện trên nền cát sáng màu, thường ẩn mình một phần trong cát.
Tham khảo
D
Cá Thái Bình Dương
Cá Maldives
Cá Việt Nam
Cá Singapore
Cá Papua New Guinea
Cá Nhật Bản
Động vật quần đảo Marshall
Động vật Kiribati
Động vật được mô tả năm 1943
|
19848168
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Soyuz%207K-TM
|
Soyuz 7K-TM
|
Phiên bản Dự án thử nghiệm Apollo–Soyuz (ASTP) năm 1975 của tàu vũ trụ Soyuz (Soyuz 7K-TM) đóng vai trò là cầu nối công nghệ cho tàu vũ trụ Soyuz-T thế hệ thứ ba (T - транспортный, Transportnyi, nghĩa là vận chuyển) (1976–1986).
Tàu vũ trụ Soyuz phiên bản ASTP được thiết kế để sử dụng trong Dự án thử nghiệm Apollo–Soyuz với tên gọi Soyuz 19. Nó đã có những thay đổi về thiết kế để tăng khả năng tương thích với tàu vũ trụ của Hoa Kỳ. Soyuz ASTP sử dụng những tấm quang năng mới để đáp ứng việc gia tăng thời gian thực hiện nhiệm vụ, một cơ cấu ghép nối APAS-75 thay vì cơ chế chủ động tiêu chuẩn, và các chỉnh sửa đối với hệ thống kiểm soát môi trường để giảm áp suất cabin xuống 0,68 atm (69 kPa) trước khi ghép nối với Apollo. Một chiếc Soyuz ASTP dự phòng đã được phóng trong sứ mệnh Soyuz 22, với cổng ghép nối được thay bằng máy ảnh.
Sứ mệnh không người lái
Cosmos 638
Cosmos 672
Sứ mệnh có người lái
Soyuz 16
Soyuz 19 (Dự án thử nghiệm Apollo–Soyuz)
Soyuz 22
Thư viện ảnh
Liên kết ngoài
RSC Energia: Concept Of Russian Manned Space Navigation Development
Mir Hardware Heritage
David S.F. Portree, Mir Hardware Heritage, NASA RP-1357, 1995
Mir Hardware Heritage (wikisource)
Information on Soyuz spacecraft
OMWorld's ASTP Docking Trainer Page
NASA - Russian Soyuz TMA Spacecraft Details
Space Adventures circum-lunar mission - details
Tàu vũ trụ có người lái
Chương trình Soyuz
Dự án thử nghiệm Apollo–Soyuz
|
19848176
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fran%C3%A7oise%20x%E1%BB%A9%20Alen%C3%A7on
|
Françoise xứ Alençon
|
Françoise xứ Alençon (1490 – 14 tháng 9 năm 1550) là con gái lớn của René I xứ Alençon và Marguerite xứ Lorraine-Vaudémont, cũng như là em gái của Charles IV xứ Alençon.
Là em gái và là nữ thừa kế của Charles IV xứ Alençon, Françoise đã bị chị dâu là Marguerite xứ Angoulême, chị gái của Quốc vương François I của Pháp, chiếm lấy tước hiệu.
Tuy nhiên, con trai của Françoise là Antoine xứ Bourbon-Vendôme đã kết hôn với Juana III của Navarra, con gái của Marguerite với người chồng thứ hai là Enrique II của Navarra. Cháu trai của Françoise và Marguerite, Enrique của Borbón chính là Quốc vương nước Pháp và Navarra.
Gia đình
Năm 1505, Françoise kết hôn với François II xứ Longueville và có 2 người con:
Renée xứ Orléans-Longueville, Nữ Bá tước xứ Dunois (1508–1515), qua đời khi còn nhỏ
Jacques xứ Orléans-Longueville (1511–1512), qua đời khi còn nhỏ.
Vào ngày 18 tháng 5 năm 1513, Françoise kết hôn lần thứ hai với Charles IV xứ Vendôme và có 13 người con:
Louis xứ Bourbon (1514–1516), qua đời khi còn nhỏ.
Marie xứ Bourbon (1515–1538), ban đầu được dự tính là nàng dâu tương lai của James V của Scotland, thay thế cho Madeleine của Pháp và Bretagne nhưng không thành.
Marguerite xứ Bourbon (1516–1559), kết hôn năm 1538 François I xứ Nevers (1516–1561).
Antoine xứ Bourbon, Công tước xứ Vendôme (1518 – 1562), kết hôn năm 1548 Juana III của Navarra.
François xứ Bourbon (1519–1546), Bá tước xứ Enghien.
Madeleine xứ Bourbon (1521–1561), Viện mẫu Sainte Croix de Poitiers.
Louis xứ Bourbon (1522–1525), qua đời khi còn nhỏ.
Charles xứ Bourbon (1523–1590), Tổng giám mục Rouen.
Catherine xứ Bourbon (1525–1594), Viện mẫu Soissons.
Renée xứ Bourbon (1527–1583), Viện mẫu Chelles.
Jean xứ Bourbon, Bá tước xứ Soissons và Enghien (1528–1557), kết hôn năm 1557 với người em họ là Marie II xứ Saint-Pol (1539–1601).
Louis xứ Bourbon, Thân vương xứ Condé (7 tháng 5 năm 1530 – 13 tháng 3 năm 1569), kết hôn năm 1551 với Éléonore xứ Roye và tái hôn với 1565 Françoise xứ Orléans-Longueville vào năm 1565.
Léonore xứ Bourbon, Viện mẫu Fontevraud (1532–1611)
Tổ tiên
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Gia tộc Valois-Alençon
Vương tộc Bourbon
Công tước phu nhân xứ Vendôme
Công tước phu nhân xứ Longueville
Sinh năm 1490
Mất năm 1550
|
19848178
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nakanoto%2C%20Ishikawa
|
Nakanoto, Ishikawa
|
là thị trấn thuộc huyện Kashima, tỉnh Ishikawa, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 16.540 người và mật độ dân số là 180 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 89,45 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Ishikawa
|
19848200
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heinrich%20VII%20c%E1%BB%A7a%20Th%C3%A1nh%20ch%E1%BA%BF%20La%20M%C3%A3
|
Heinrich VII của Thánh chế La Mã
|
Heinrich VIII (Tiếng Latin thông tục: Arrigo; c. 1273 – 24 tháng 8 năm 1313), là Bá tước Luxembourg, Vua của Đức (Vua La Mã Đức) từ năm 1308 và Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1312. Ông là hoàng đế đầu tiên của Nhà Luxembourg.
Tham khảo
Thư mục
Kurt-Ulrich Jäschke, Peter Thorau (Bearbeiter): Die Regesten des Kaiserreichs unter Rudolf, Adolf, Albrecht, Heinrich VII. 1273–1313. 4. Abteilung: Heinrich VII. 1288/1308–1313, 1. Lieferung: 1288/1308 – tháng 8 năm 1309. Böhlau, Viên 2006, ( trực tuyến ).
Kurt-Ulrich Jäschke, Peter Thorau (Bearbeiter): Die Regesten des Kaiserreichs unter Rudolf, Adolf, Albrecht, Heinrich VII. 1273–1313. 4. Abteilung: Die Regesten des Kaiserreichs unter Heinrich VII. 1288/1308–1313, 2. Lieferung: 1. Tháng 9 năm 1309–23. Tháng 10 năm 1310. Böhlau, Cologne u. Một. 2014, ( trực tuyến ).
Michel Pauly (Ed.): Gouvernance européenne au bas moyen âge. Henri VII de Luxembourg et l’Europe des grandes dynasties. = Europäische Governance im Spätmittelalter Heinrich VII. von Luxemburg und die großen Dynastien Europas. Actes des 15es Journées Lotharingiennes, 14 – 17 octobre 2008, Université du Luxembourg. Linden, Luxemburg 2010,
Jones, Michael, The New Cambridge Medieval History, Vol. VI: c. 1300-c. 1415, Cambridge University Press, 2000
Kleinhenz, Christopher, Medieval Italy: an encyclopedia, Volume 1, Routledge, 2004
Bryce, James, The Holy Roman Empire, 1913
Sismondi, J. C. L., Boulting, William, History of the Italian Republics in the Middle Ages, 1906
Comyn, Robert. History of the Western Empire, from its Restoration by Charlemagne to the Accession of Charles V, Vol. I. 1851
William M. Bowsky, Henry VII in Italy, Lincoln, 1960.
Maria Elisabeth Franke, Kaiser Heinrich VII. im Spiegel der Historiographie, Köln/Weimar/Wien, 1992.
John A. Gades, Luxemburg in the Middle Ages, Brill, 1951.
Nhà Luxembourg
Người Luxembourg thế kỷ 14
Người Luxembourg thế kỷ 13
Mất năm 1313
Sinh thập niên 1270
Hoàng đế La Mã Thần thánh thế kỷ 14
Người Valenciennes
Bá tước Luxembourg
An táng tại Nhà thờ Pisa
Bá tước Châu Âu thế kỷ 13
Bá tước Châu Âu thế kỷ 14
|
19848202
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lothar%20III%20c%E1%BB%A7a%20Th%C3%A1nh%20ch%E1%BA%BF%20La%20M%C3%A3
|
Lothar III của Thánh chế La Mã
|
Lothar II hay Lothar III (1075 – 4 tháng 12 năm 1137), còn được gọi là Lothar xứ Süpplingenburg (Lothar von Süpplingenburg), là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1133 cho đến khi ông qua đời. Ông được bổ nhiệm làm Công tước xứ Sachsen vào năm 1106 và Vua của Đức vào năm 1125 trước khi lên ngôi hoàng đế ở Roma. Là con trai của bá tước Sachsen Gebhard xứ Supplinburg, triều đại của ông gặp nhiều biến động bởi hàng loạt những âm mưu của Hohenstaufen, Công tước Friedrich xứ Schwabia và Công tước Konrad xứ Franconia. Ông qua đời trên đường trở về sau một chiến dịch chống lại Vương quốc Sicily của người Norman.
Chú thích
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
Con dấu của Vua Lothar ở độ phân giải chất lượng cao được lấy từ bộ sưu tập của Lichtbildarchiv älterer Originalurkunden
Công tước xứ Sachsen
Hoàng đế La Mã Thần thánh thế kỷ 12
Nhà Süpplinburger
Lothar III của Thánh chế La Mã
|
19848206
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%90%E1%BB%91ng
|
Lương Đống
|
Lương Đống (tên đầy đủ là Quách Lương Đống, 4 tháng 4 năm 1924 – 28 tháng 9 năm 2011) là một họa sĩ thiết kế sân khấu người Việt Nam. Ông là người tiên phong trong kỹ thuật thiết kế “sân khấu bục bệ” vào năm 1962. Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1993.
Thiếu thời
Quách Lương Đống sinh ngày 4 tháng 4 năm 1924, tại xã Phước Long, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu (tỉnh Minh Hải cũ).
Sự nghiệp
Trước 1975
Lương Đống tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Gia Định, ông làm họa sĩ cho một hãng buôn tư nhân, một năm sau, ông nhập ngũ và được đã phân công làm họa sĩ trình bày cho báo Độc lập. Hai năm sau, ông được chuyển sang làm việc tại Sở Công an Nam bộ, tham gia thiết kế sân khấu cho một số vở cải lương và kịch nói.
Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, nhờ có sự giới thiệu của đạo diễn Chi Lăng, Thứ trưởng Bộ Văn hóa Hà Huy Giáp đã điều ông về Viện Nghiên cứu Mỹ thuật sân khấu cải lương – thuộc Bộ Văn hóa. Dựa trên kiến thức đã học và trải nghiệm, ông viết cuốn sách Hệ thống lý luận cơ bản về Mỹ thuật Sân khấu Việt Nam. Tác phẩm này được xem là cẩm nang cho những nghệ sĩ trẻ đi theo lĩnh vực mỹ thuật sân khấu ở Việt Nam.
Năm 1958, Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội, ông là người thiết kế sân khấu cho vở cải lương Nàng tiên Mẫu Đơn, của đạo diễn Chi Lăng. Cả ông và vở diễn đều giành dược Huy chương vàng cho cá nhân và tác phẩm.
Lương Đống đã tham gia thiết kế hàng trăm tác phẩm sân khấu cải lương, kịch nói, chèo, tuồng trong suốt sự nghiệp của mình. Năm 1962, ông được giao phụ trách lớp nghiên cứu mỹ thuật sân khấu miền Bắc. Trong năm này, vở Câu chuyện Iếc-kút được Đoàn kịch nói Trung Ương thực hiện với hơn 15 cảnh, việc chuyển đổi cảnh phải khẩn trương, không đủ thời gian để sử dụng trang trí tả thực. Ông đã sáng tạo ra loại “bục vạn năng”, có thể xoay chuyển, tháo lắp, hoán đổi linh hoạt. Năm 1964, ông được đề bạt làm giám đốc Nhà hát Cải lương Việt Nam. Năm 1972, với vở Âm mưu và hậu quả, ông tiếp tục sáng tạo khi sử dụng 2 cuộn vải tượng trưng cho 2 chiếc cột to, kéo lên kéo xuống thay cho các mô hình nội thất.
Sau 1975
Năm 1975, ông chuyển về Nam, làm việc tại Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang.
Ông từng đóng vai Hương Quản trong vở diễn Đời cô Lựu. Tháng 2 năm 1984, nghệ sĩ Lương Đống cùng đoàn nghệ sĩ của Thành phố Hồ Chí Minh đi biểu diễn "Đời cô Lựu" ở một số nước Tây Âu theo lời mời của UNESCO.
Năm 1985, Lương Đống nhậm chức Giám đốc của Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang. Ông từng có thời gian giảng dạy tại tại trường Sân khấu - Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1988, ông nghỉ hưu. Năm 1989, ông đã thiết kế khán phòng khiêm tốn của Sân khấu nhỏ 5B Võ Văn Tần thành một sân khấu kịch chuyên nghiệp với những kỹ thuật xử lý sân khấu sáng tạo, đóng góp to lớn trong việc ra đời và phát triển của Sân khấu Kịch 5B. Vở Tình nghệ sĩ năm 1992 gây chấn động khán giả với thiết kế sân khấu độc đáo, đưa Nhà hát Hòa Bình thành sân khấu có danh tiếng.
Ông còn tham gia thiết kế cho các vở cải lương thể nghiệm độc diễn như Diễn kịch một mình, Hoàng hậu hai vua, Lý Chiêu Hoàng, Hồn thơ ngọc, Độc thoại đêm.
Cuối đời
Ngày 20 tháng 2 năm 2004, trước sinh nhật lần thứ 80 của ông khoảng 2 tuần, Lương Đống được các bác sĩ trả về khi đã tắt thở. Trong lúc người nhà tổ chức tang lễ và chuẩn bị khâm liệm thì ông bất ngờ tỉnh lại. Một năm sau, ông được các đồng nghiệp tổ chức sinh nhật 1 tuổi, kỷ niệm ngày ông thoát khỏi cái chết.
Ông mất ngày 28 tháng 9 năm 2011 tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh suy tủy - viêm phổi tắc nghẽn.
Đời tư
Ông kết hôn với bà Thu, con gái của bà Nguyễn Thị Thập.
Vinh danh
Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1993 và huy hiệu 60 năm tuổi Đảng năm 2009.
Tháng 6 năm 2023, Lương Đống cùng một số cố nghệ sĩ sân khấu được Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất đưa đặt tên cho đường phố của thành phố Hồ Chí Minh.
Đánh giá
Tác phẩm
Tài liệu
Hệ thống lý luận cơ bản về mỹ thuật sân khấu Việt Nam
Các vở diễn đã dàn dựng
Âm mưu và hậu quả
Thái hậu Dương Vân Nga
Rạng ngọc Côn Sơn
Hòn đảo Thần Vệ nữ
Muôn dặm vì chồng
Chim Việt cành Nam
Tình nghệ sĩ
Những thước phim đời
Dư luận quần chúng
Con vịt mồi
Dạ cổ hoài lang
Giấc mộng kê vàng
Ngôi nhà không có đàn ông
Ngôi nhà của chúng ta
Chuyến tàu hoàng hôn…
Trầu cau, Ký ức, Số đỏ (Sân khấu Kịch Phú Nhuận)
Tham khảo
Người Bạc Liêu
Nghệ sĩ nhân dân Việt Nam
Người họ Quách tại Việt Nam
Họa sĩ Việt Nam
Kỹ thuật sân khấu
Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam
|
19848207
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ferdinand%20IV%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90%E1%BB%A9c
|
Ferdinand IV của Đức
|
Ferdinand IV (8 tháng 9 năm 1633 – 9 tháng 7 năm 1654) được phong làm Vua của Bohemia năm 1646, Vua Hungary và Croatia năm 1647, và Vua La Mã vào ngày 31 tháng 5 năm 1653. Ông cũng từng là Công tước xứ Cieszyn.
Tham khảo
Vua Hungary
Vua Bohemia
Vua Croatia
Hoàng tử Áo
Vương tử Hungary
Vương tử Bohemia
Vương tộc Habsburg
Hoàng tử
Vương tử
Người thừa kế chưa bao giờ lên ngôi
Sinh năm 1633
Mất năm 1654
Công tước xứ Teschen
Vua La Mã Đức thế kỷ 17
Quý tộc người Vienna
An táng tại Nhà thờ St. Stephen, Vienna
Nhà Habsburg thế kỷ 17
Vua Habsburg của Bohemia
|
19848213
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%90%E1%BB%91ng%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Lương Đống (định hướng)
|
Lương Đống có thể là tên của:
Triệu Lương Đống, tướng triều đại nhà Thanh, Trung Quốc.
Quách Lương Đống, họa sĩ sân khấu, nghệ sĩ nhân dân của Việt Nam
|
19848228
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Isabella%20Poyntz%2C%20H%E1%BA%A7u%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20phu%20nh%C3%A2n%20x%E1%BB%A9%20Exeter
|
Isabella Poyntz, Hầu tước phu nhân xứ Exeter
|
Isabella Poyntz (6 tháng 3 năm 1803 – 6 tháng 3 năm 1879), là Hầu tước phu nhân xứ Exeter với tư cách là vợ của Brownlow Cecil, Hầu tước thứ 2 xứ Exeter.
Thân thế
Isabella Poyntz là con gái của William Stephen Poyntz, một nghị sĩ thuộc Đảng Tự do, và Elizabeth Mary Browne. Isabella có hai người chị gái, một là Elizabeth Georgina Poyntz, kết hôn với Frederick Spencer, Bá tước Spencer thứ 4. Một người chị khác là Frances Selina Isabella Poyntz, kết hôn với Robert Cotton St. John Trefusis, Nam tước Clinton thứ 18. Sau khi ngài Nam tước qua đời, Frances tái hôn với Ngài nghị sĩ Horace Seymour. Isabella còn có hai người anh nhưng họ bị chết đuối trong một vụ tai nạn chèo thuyền năm 1815.
Gia đình Poyntz sở hữu những căn nhà ở Midgham House ở Berkshire và Cowdray Park ở West Sussex.
Hôn nhân và con cái
Ngày 12 tháng 5 năm 1824, Isabella kết hôn với Brownlow Cecil, Hầu tước thứ 2 xứ Exeter. Hai vợ chồng có những người con sau:
Mary Frances Cecil (mất năm 1917), kết hôn với Dudley Francis Stuart Ryder, Bá tước thứ 3 xứ Harrowby và không có hậu duệ.
William Alleyne Cecil, Hầu tước thứ 3 xứ Exeter (1825-1895).
Brownlow Thomas Montagu Cecil (1827-1905)
Edward Cecil (1834-1862).
Adelbert Percy Cecil (1841–1889), là một thành viên của Giáo hội Plymouth Brethren và qua đời mà không lập gia đình ở Canada.
Victoria Cecil (1843-1932), kết hôn với William Charles Evans-Freke, Nam tước Carbery thứ 8 và có hậu duệ.
Năm 1867, chồng của Isabella qua đời. Isabella qua đời vào năm 1879, thọ 76 tuổi và được chôn cất cùng chồng trong nhà nguyện của gia đình Cecil tại Nhà thờ Thánh Martin, Stamford.
Tham khảo
Hầu tước phu nhân Liên hiệp Anh
Sinh năm 1803
Mất năm 1879
|
19848231
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ludwig%20I%2C%20%C4%90%E1%BA%A1i%20c%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Baden
|
Ludwig I, Đại công tước xứ Baden
|
Ludwig I (9 tháng 2 năm 1763 – 30 tháng 3 năm 1830) trở thành Đại công tước Baden vào ngày 8 tháng 12 năm 1818, sau cái chết của người cháu là Đại công tước Karl Ludwig Friedrich không có con. Bản thân ông cũng không có con trai nên cuối cùng ngai vàng đã được nhường lại cho người em cùng cha khác mẹ là Thân vương Leopold, một sản phẩm của quý tiện kết hôn vì mẹ của Leopold là người có tước vị không ngang hàng.
Ông đã đảm bảo sự hoạt động liên tục của Đại học Freiburg vào năm 1820, sau đó trường đại học này được gọi là Đại học Albert-Ludwig. Ông cũng thành lập trường Bách khoa Hochschule Karlsruhe vào năm 1825. Hochschule là trường kỹ thuật lâu đời nhất ở Đức.
Cái chết của Ludwig vào năm 1830 dẫn đến nhiều tin đồn. Cái chết của ông cũng đồng nghĩa với sự tuyệt tự của dòng họ Baden. Quyền kế vị sau đó thuộc về những đứa con của cuộc hôn nhân thứ hai quý tiện kết hôn của Đại công tước Karl Friedrich xứ Baden và Louise Karoline Geyer von Geyersberg, người được phong làm Nữ bá tước xứ Hochberg trong giới quý tộc Áo theo yêu cầu cá nhân của Karl Friedrich.
Sau cái chết của Ludwig, có nhiều cuộc thảo luận về một người đàn ông mười bảy tuổi bí ẩn tên là Kaspar Hauser, người dường như không biết từ đâu xuất hiện vào năm 1828. Mười bảy năm trước, con trai đầu lòng của Đại công tước tương lai Karl và người vợ Pháp là Stéphanie de Beauharnais chết trong hoàn cảnh sau này được miêu tả là bí ẩn. Vào thời điểm đó và cho đến ngày nay (năm 2007) vẫn có suy đoán rằng Hauser, người đã chết (có lẽ bị sát hại) vào năm 1833, chính là đứa trẻ đó.
Ludwig có một đứa con gái ngoài giá thú với tình nhân Katharina Werner (được trao tước vị Nữ bá tước xứ Langenstein và Gondelsheim năm 1818), Nữ bá tước Louise von Langenstein und Gondelsheim (1825–1900), người kết hôn năm 1848 với quý tộc Thụy Điển Carl Israel, Bá tước Douglas (1824–1898).
Tham khảo
Gia tộc Zähringen
Sinh năm 1763
Mất năm 1830
Đại Công tử Baden
Quân vương Tin Lành
Đại công tước xứ Baden
|
19848233
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Albrecht%20II%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90%E1%BB%A9c
|
Albrecht II của Đức
|
Albrecht II (10 tháng 8 năm 139727 tháng 10 năm 1439) là Vua của Đức từ năm 1438 đến 1439. Là thành viên Nhà Habsburg, ông trở thành Vương công Áo theo quyền thừa kế (với hiệu là Albrecht V). Sau cái chết của cha vợ là Hoàng đế La Mã Thần thánh Sigismund, Albrecht trở thành vua của Hungary, Croatia và Bohemia và giành được quyền cai trị Công quốc Luxembourg.
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
Tripota – Trier portrait database
Minh họa của Francesco Terzio từ năm 1569: Albertus II, Imp. ()
Chôn cất tại nhà thờ chính tòa Székesfehérvár
Hiệp sĩ Garter
Vua Hungary
Vương công Áo thế kỷ 15
Vua La Mã Đức thế kỷ 15
Vua Habsburg của Bohemia
Vua Croatia
Quý tộc người Vienna
Người Đế quốc La Mã Thần thánh thế kỷ 15
|
19848237
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20H%E1%BB%AFu%20Th%C3%AD
|
Nguyễn Hữu Thí
|
Nguyễn Hữu Thí (1899 – ?) là bác sĩ người Việt Nam từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Tiếp tế trong chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam từ tháng 4 cho đến tháng 8 năm 1945.
Tiểu sử
Nguyễn Hữu Thí sinh năm 1899, quê quán Đà Nẵng, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương, lúc thành niên ra Huế và Hà Nội học hành. Sau năm 1923, ông làm bác sĩ ở Phan Thiết cho đến năm 1934 rồi về lại Đà Nẵng mưu sinh.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Đế quốc Nhật tiến hành đảo chính lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Ngày 17 tháng 4 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại đã ban bố đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội các mới của Trần Trọng Kim.
Ngay khi vừa nhậm chức Thủ tướng, Trần Trọng Kim cũng nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của công tác chống nạn đói, cứu tế dân nghèo ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vì vậy, nội các đã lập riêng một bộ gọi là Bộ Tiếp tế do chính Nguyễn Hữu Thí làm Bộ trưởng, có nhiệm vụ chuyên lo liệu việc vận chuyển thóc gạo từ Nam Kỳ ra cứu tế dân đói ngoài Bắc Kỳ. Ngay sau lễ nhậm chức, ông lập tức được cử vào miền Nam tổ chức thu mua thóc gạo, tập trung tại các bến cảng nhỏ để tránh bị không quân Anh, Mỹ oanh tạc, sau đó trưng dụng thuyền nhỏ men theo ven biển chở ngay ra Trung Kỳ và Bắc Kỳ cứu dân đói.
Tuy vậy, thời kỳ ông đảm nhận chức Bộ trưởng Bộ Tiếp tế chỉ được một thời gian ngắn, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công khiến Thủ tướng Trần Trọng Kim cùng toàn thể nội các phải giải thể vào cuối tháng 8 năm 1945, bản thân ông cũng đệ đơn từ chức rồi thu dọn đồ đạc trở về Đà Nẵng và sinh sống tại đây cho đến khi qua đời.
Tham khảo
Sinh năm 1899
Năm mất không rõ
Họ Nguyễn
Người Đà Nẵng
Bác sĩ Việt Nam
Đế quốc Việt Nam
Bộ trưởng Việt Nam
Chính khách Việt Nam
|
19848242
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20H%C3%B9ng%20S%C6%A1n
|
Hoàng Hùng Sơn
|
Hoàng Hùng Sơn (1912 – 1946) là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I.
Cuộc đời
Hoàng Hùng Sơn là người Dao ở xã Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Năm 1943, Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh thành lập Khu Việt Minh Quang Trung trên địa phận các huyện Bạch Thông, Chợ Rã, Ngân Sơn và Chợ Đồn, ông hưởng ứng và tham gia phong trào. Cuộc họp của các đại biểu đã bầu ra Ủy ban Việt Minh khu Quang Trung, gồm Chủ nhiệm Lý Đức Thượng, Phó Chủ nhiệm Bàn Văn Hoan, hai Ủy viên Bàn Thành Công và Hoàng Hùng Sơn.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, ông cùng với Nông Văn Lạc được cử tri Bắc Kạn bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của tỉnh. Ngày 26 tháng 3, ông qua đời một thời gian ngắn sau kỳ họp đầu tiên của Quốc hội.
Tham khảo
Chú thích
Người Bắc Kạn
Người Dao
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I
|
19848244
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karl%2C%20%C4%90%E1%BA%A1i%20c%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Baden
|
Karl, Đại công tước xứ Baden
|
Karl (tiếng Đức: Karl Ludwig Friedrich; 8 tháng 6 năm 1786 – 8 tháng 12 năm 1818) là Đại công tước xứ Baden từ ngày 11 tháng 6 năm 1811, sau cái chết của ông nội là Karl Friedrich, tại vị cho đến khi qua đời vào năm 1818. Cha của ông là Đại công tử Karl Ludwig, người sẽ kế thừa ngai vàng Baden, nhưng đã qua đời trước cha của mình 10 năm, vì thế, ngai vàng đã để lại cho con trai trưởng của ông.
Tiểu sử
Cha của ông là Đại công tử Karl Ludwig, người thừa kế của Bá quốc Baden, được nâng lên thành một đại công quốc sau khi Đế chế La Mã Thần thánh giải thể vào năm 1806. Mẹ ông là Amalie xứ Hessen-Darmstadt, con gái của Ludwig IX, Bá tước xứ Hessen-Darmstadt. Ông là em rể của những nhà cai trị Maximilian I Joseph của Bayern, Aleksandr I của Nga và Gustav IV Adolf của Thụy Điển. Chị gái ông Đại công nữ Karoline là vương hậu của Bayern, chị gái Đại công nữ Louise là hoàng hậu Nga và chị gái Đại công nữ Frederica là vương hậu của Thụy Điển.
Năm 15 tuổi, Karl thực hiện chuyến hành trình đến thăm các em gái của mình tại St. Petersburg và Stockholm. Ông đang trên đường về nhà với cha thì cha ông qua đời do cú ngã từ xe vào ngày 15 tháng 12 năm 1801. Karl là nhân chứng cho vụ tai nạn này.
Do ảnh hưởng mạnh mẽ của Pháp đối với triều đình Baden, Karl buộc phải kết hôn với con gái nuôi của Hoàng đế Napoléon I là Stéphanie de Beauharnais, tại Paris vào ngày 8 tháng 4 năm 1806, bất chấp sự phản đối của chính ông cũng như của mẹ và các em gái ông. Karl rõ ràng thích người em họ là Vương nữ Auguste của Bayern hơn. Phải 5 năm sau cặp đôi mới sinh được người thừa kế.
Karl tham chiến năm 1807 với tư cách là người đứng đầu đội quân Baden dưới quyền Thống chế Lefebvre. Tại đây ông tham gia Vây hãm Danzig.
Năm 1808, Karl trở về bên ông nội. Sức khoẻ của ông nội xuống cấp do tuổi tác và Karl trở thành đồng nhiếp chính vương. Khi Karl được 25 tuổi, ông đã kế vị ngai vàng Baden khi ông nội Karl Frederich qua đời vào ngày 11 tháng 6 năm 1811.
Vào ngày 4 tháng 10 năm 1817, vì cả ông và những người con trai khác trong cuộc hôn nhân đầu tiên của ông nội đều không có con cháu nam nào còn sống, Karl xác nhận quyền kế vị của những người chú cùng cha khác mẹ của mình thuộc dòng dõi Hochberg - một cuộc hôn nhân quý tiện kết hôn, phong cho mỗi người tước hiệu Bá tử và Bá nữ xứ Baden, và địa vị Highness. Ông yêu cầu Đại hội thân vương ở Aachen vào ngày 20 tháng 11 năm 1818, chỉ vài tuần trước khi ông qua đời, xác nhận quyền kế vị của các con trai của Louise Caroline, Nữ bá tước Hochberg, người vợ thứ hai quý tiện kết hôn của Đại công tước Karl Frederich.
Nhưng tuyên bố kế vị Baden này đã gây ra những thách thức quốc tế. Đại hội Viên, vào năm 1815, đã công nhận các yêu sách cuối cùng của Đế quốc Áo và Vương quốc Bayern đối với các phần của Baden mà họ đã phân cắt cho Karl Frederich ở Thượng Pfalz và Breisgau, dự đoán rằng sau khi ông sắp chết, những vùng đất đó sẽ không còn là một phần của Đại công quốc Baden. Các tranh chấp đã được giải quyết bằng Hiệp ước Frankfurt năm 1819, theo đó Baden nhượng lại một phần Wertheim, vốn đã nằm trong Bayern, cho Vương quốc đó, sau đó quyền kế vị được giải quyết vào năm 1817 đã được Bayern và Áo công nhận.
Tham khảo
Sinh năm 1786
Mất năm 1818
Đại Công tử Baden
Đại công tước xứ Baden
Người Đức thế kỷ 18
Người Đức thế kỷ 19
Gia tộc Zähringen
Quý tộc từ Karlsruhe
Quân vương Tin Lành
Kaspar Hauser
|
19848247
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ludwig%20II%2C%20%C4%90%E1%BA%A1i%20c%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Baden
|
Ludwig II, Đại công tước xứ Baden
|
Ludwig II (tiếng Đức: Ludwig II; 15 tháng 8 năm 1824 – 22 tháng 1 năm 1858) là Đại công tước xứ Baden từ ngày 24 tháng 4 năm 1852 cho đến khi qua đời năm 1858. Ông là con trai của Leopold, Đại công tước xứ Baden và Vương nữ Sophie của Thụy Điển.
Ludwig kế vị cha mình làm Đại công tước xứ Baden vào ngày 24 tháng 4 năm 1852. Em trai ông là Đại công tử Friedrich giữ chức nhiếp chính vương và người thừa kế vì Ludwig mắc bệnh tâm thần. Đến năm 1856 Friedrich trở thành đại công tước trước khi Ludwig qua đời 2 năm. Ông cũng là công dân danh dự của Karlsruhe.
Tham khảo
Đại công tước xứ Baden
Đại Công tử Baden
Gia tộc Zähringen
Sinh năm 1824
Mất năm 1858
Quân vương Tin Lành
|
19848249
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alexandrine%20x%E1%BB%A9%20Baden
|
Alexandrine xứ Baden
|
Alexandrine xứ Baden (tiếng Đức: Alexandrine Luise Amalie Friederike Elisabeth Sophie; 6 tháng 12 năm 1820 – 20 tháng 12 năm 1904) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Coburg và Gotha từ ngày 29 tháng 1 năm 1844 đến ngày 22 tháng 8 năm 1893 với tư cách là vợ của Công tước Ernst II. Cô là con cả của Leopold, Đại công tước xứ Baden và Sofia Wilhelmina của Thụy Điển.
Tham khảo
Nguồn
Liên kết ngoài
Đại Công nữ Baden
Gia tộc Zähringen
Công tước phu nhân xứ Sachsen-Coburg và Gotha
Công tử phi Sachsen-Coburg và Gotha
Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha
Sinh năm 1820
Mất năm 1904
|
19848250
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/St%C3%A9phanie%20de%20Beauharnais
|
Stéphanie de Beauharnais
|
Stéphanie, Đại công tước phu nhân xứ Baden (tiếng Pháp: Stéphanie Louise Adrienne de Beauharnais; 28 tháng 8 năm 1789 – 29 tháng 1 năm 1860) là con gái nuôi của Hoàng đế Napoleon I vì thế giữ tước hiệu Hoàng nữ của Đệ Nhất Đế chế Pháp, được đích thân hoàng đế hôn phối cho Karl, Đại công tước xứ Baden.
Bà là con gái của Claude de Beauharnais, Bá tước thứ 2 xứ Roches-Baritaud, anh họ của Alexandre de Beauharnais, vì thế bà là chị họ đời thứ 2 của Eugène de Beauharnais và Hortense de Beauharnais, và là dì họ của Hoàng đế Napoleon III.
Tham khảo
Liên kết ngoài
A German article and portrait of her
Information and photo of her emerald and diamond necklace, worn in portrait above.
Sinh năm 1789
Mất năm 1860
Beauharnais
Vương tộc Bonaparte
Đại công tước phu nhân xứ Baden
Hoàng nữ Pháp
Người Pháp thế kỷ 18
Phụ nữ Pháp thế kỷ 18
Người Pháp thế kỷ 19
Phụ nữ Pháp thế kỷ 19
Người Đức thế kỷ 19
|
19848259
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sophie%20x%E1%BB%A9%20Sachsen-Coburg-Saalfeld
|
Sophie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld
|
Sophie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld (16 tháng 8 năm 1778 – 9 tháng 7 năm 1835) là Công nữ xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld. Thông qua hôn nhân, Sophie là Bá tước phu nhân xứ Mensdorff-Pouilly.
Những năm đầu đời
Sophie sinh ra ở Coburg, là người con cả của Franz xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Augusta Reuß xứ Ebersdorf, chị gái của Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha, Victorie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Léopold I của Bỉ. Do đó, Sophie là bác gái bên ngoại của Victoria của Anh và bên nội của Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Sophie có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với em gái Antoinette, và cả hai thường đến Lâu đài Fantaisie, nơi trú ẩn của những người Pháp di cư. Đó cũng là nơi Sophie gặp người chồng tương lai, Emmanuel von Mensdorff-Pouilly.
Hôn nhân và đời sống sau kết hôn
Ngày 23 tháng 2 năm 1804, Sophie kết hôn với Emmanuel tại Coburg. Năm 1818, Emmanuel được thăng lên hiệu Bá tước. Năm 1806, Emmanuel cư trú ở Saalfeld, dinh thự phụ của triều đình Coburg. Vì vậy, rất có thể Emmanuel đã tham gia trận Saalfeld, ông đã lấy lại hài cốt của Louis Ferdinand của Phổ từ chiến trường và bảo vệ nơi ở của cha vợ và gia đình trước quân Pháp.
Từ năm 1824 đến năm 1834, Sophie sống ở Mainz, nơi chồng là chỉ huy pháo đài liên bang; ở đây, Bà Bá tước thường được gọi là "Thân vương phi" (Fürstin). Sophie hoạt động tích cực với tư cách là một nhà văn và vào năm 1830, Sophie đã xuất bản tuyển tập truyện cổ tích lãng mạn có tên là Mährchen und Erzählungen. Sophie cũng nhận được Huân chương Đại Thập tự thuộc Huân chương Thánh Yekaterina.
Ngày 9 tháng 7 năm 1835, Sophie qua đời ở Tuschimitz, Bohemia và được chôn cất tại công viên Schloss Preitenstein, nơi ở của gia đình Mensdorff-Pouilly.
Con cái
Emmanuel và Sophie có sáu người con trai:
Hugo Ferdinand von Mensdorff-Pouilly (1806–1847).
Alphons, Bá tước xứ Mensdorff-Pouilly (1810–1894); kết hôn lần đầu vào năm 1843 với Nữ Bá tước Therese xứ Dietrichstein-Proskau-Leslie (1823–1856). Kết hôn lần thứ hai vào năm 1862 với Nữ Bá tước Maria Theresia xứ Lamberg (1833–1876).
Alfred Carl von Mensdorff-Pouilly (1812–1814).
Alexander von Mensdorff-Pouilly (1813–1871), Fürst von Dietrichstein zu Nikolsburg 1868, là Bộ trưởng Ngoại giao Áo và Thủ tướng Áo vào những năm 1860; kết hôn năm 1857 Nữ bá tước Alexandrine Maria von Dietrichstein-Proskau-Leslie (1824–1906).
Leopold Emanuel von Mensdorff-Pouilly (1815–1832).
Arthur August von Mensdorff-Pouilly (1817–1904); kết hôn lần đầu năm 1853 với Magdalene Kremzow (1835–1899), ly hôn năm 1882. Kết hôn lần thứ hai vào năm 1902 với Nữ Bá tước Bianca Albertina xứ Wickenburg (1837–1912).
Gia phả
Tham khảo
Công nữ Sachsen-Coburg-Saalfeld
Gia tộc Sachsen-Coburg-Saalfeld
Sinh năm 1778
Mất năm 1835
|
19848260
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Antoinette%20x%E1%BB%A9%20Sachsen-Coburg-Saalfeld
|
Antoinette xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld
|
Antoinette xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld (28 tháng 8 năm 1779 – 14 tháng 3 năm 1824) là Công nữ xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld. Thông qua người con trai Alexander của mình, Antoinette là tổ tiên của nhánh Công giáo cùa Vương tộc Württemberg ngày nay.
Thân thế
Antoinette sinh ra ở Coburg, là người con thứ hai của Franz xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Augusta Reuß xứ Ebersdorf, chị gái của Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha, Victorie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Léopold I của Bỉ. Do đó, Antoinette là bác gái bên ngoại của Victoria của Anh và bên nội của Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Ông bà ngoại của Antoinette là Heinrich XXIV Reuß xứ Ebersdorf và Karoline Ernestine xứ Erbach-Schönberg, và ông bà nội của Antoinette là Ernst Friedrich I xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld, và Sophie Antoinette xứ Braunschweig-Wolfenbüttel.
Ngày 17 tháng 11 năm 1798, Antoinette kết hôn với Alexander Friedrich Karl xứ Württemberg. Alexander là em trai của Sophie Dorothee xứ Württemberg, Hoàng hậu Nga, do đó là cậu của Aleksandr I và Nikolai I của Nga. Hai vợ chồng sống tại Nga và Alexander tiếp tục sự nghiệp quân sự và ngoại giao tại đây.
Antoinette qua đời ở Sankt-Petersburg. Antoinette được chôn cất ở Hầm mộ Công tộc ở Lâu đài Friedenstein ở Gotha. Chồng và hai người con Paul và Friedrich cũng an nghỉ tại đây.
Theo Vương hậu Luise của Phổ, Antoinette có thể có một người con ngoại hôn. Em trai của Vương hậu, Georg đã viết vào ngày 18 tháng 5 năm 1802 rằng: " [...] Cặp vợ chồng Württemberg đã không nói chuyện với nhau trong 2 năm, nhưng nàng ta (Antoinette) đang mang thai và chắc chắn người cha là Herr von Höbel, một kinh sĩ. Ta biết tất cả điều này từ Công tước xứ Weimar, và đó là sự thật. "
Huân chương
Antoinette được ghi nhận là một người có sức ảnh hưởng, được ban tặng Huân chương Đại Thập tự thuộc Huân chương Thánh Yekaterina của Nga.
Con cái
Marie xứ Württemberg (17 tháng 9 năm 1799 – 24 tháng 9 năm 1860), sống độc thân cho đến năm 33 tuổi và sau đó, vào ngày 23 tháng 12 năm 1832, Marie kết hôn với cậu của mình là Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha, và do đó trở thành mẹ kế của Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha, chồng của Victoria của Anh.
Paul xứ Württemberg (1800–1801) qua đời khi chỉ được một tuổi.
Alexander xứ Württemberg (20 tháng 12 năm 1804 – 28 tháng 10 năm 1881), kết hôn với Marie Christine của Pháp vào ngày 17 tháng 10 năm 1837 và có một con trai.
Ernst xứ Württemberg (11 tháng 8 năm 1807 – 26 tháng 10 năm 1868), kết hôn với Natalie Eischborn vào ngày 21 tháng 8 năm 1860 và có một cô con gái:
Alexandra von Grünhof (10 tháng 8 năm 1861 – 13 tháng 4 năm 1933), kết hôn với Robert von Keudell vào ngày 15 tháng 9 năm 1883 và có ba người con:
Walter von Keudell (17 tháng 7 năm 1884 – 7 tháng 5 năm 1973), kết hôn với Johanna von Kyaw vào ngày 6 tháng 2 năm 1912 và đã có bốn đứa con.
Otto von Keudell (9 tháng 2 năm 1887 – 12 tháng 5 năm 1972), kết hôn với Maria Momm (15 tháng 7 năm 1895 – 17 tháng 4 năm 1945) vào ngày 14 tháng 8 năm 1920 và có bảy người con. Otto tái hôn với Edelgarde von Stülpnagel vào ngày 5 tháng 9 năm 1947 và có bốn người con khác.
Hedwig von Keudell (13 tháng 4 năm 1891 – 11 tháng 10 năm 1987), kết hôn với Karl von der Trenck vào ngày 17 tháng 7 năm 1918 và có năm người con.
Friedrich Wilhelm Ferdinand xứ Württemberg (29 tháng 4 năm 1810 – 25 tháng 4 năm 1815), qua đời khi được bốn tuổi.
Gia phả
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn tài liệu
von Wiebeking, Carl Friedrich. Biographie des Herzogs Alexander zu Württemberg. München, 1835.
Sauer, Paul. "Alexander (I.)." In Das Haus Württemberg. Ein biographisches Lexikon, ed. Sönke Lorenz, Dieter Mertens and Volker Press. Stuttgart: Kohlhammer Verlag, 1997.
Liên kết ngoài
Công nữ Sachsen-Coburg-Saalfeld
Gia tộc Sachsen-Coburg-Saalfeld
Sinh năm 1779
Mất năm 1824
|
19848267
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Park%20Hwan-hee
|
Park Hwan-hee
|
Park Hwan-hee (Hangul: 박환희, Hanja: 朴焕熙, Hán-Việt: Phác Hoán Hy; sinh ngày 13 tháng 10 năm 1990) là một nữ diễn viên và người mẫu người Hàn Quốc trực thuộc công ty giải trí Image9coms. Cô bắt đầu được biết đến khi tham gia bộ phim truyền hình ăn khách Hậu duệ mặt trời năm 2016.
Đời tư
Park Hwan-hee kết hôn với rapper Bill Stax vào ngày 30 tháng 7 năm 2011 và ly hôn 15 tháng sau đó. Họ có với nhau bé trai tên là Shin Seop.
Danh sách phim
Phim truyền hình
Music video
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1990
Nhân vật còn sống
Họ Phác
Người Hàn Quốc
Diễn viên Hàn Quốc
Nữ diễn viên Hàn Quốc
Nữ diễn viên truyền hình Hàn Quốc
Nữ diễn viên Hàn Quốc thế kỷ 21
Nữ người mẫu Hàn Quốc
Nghệ sĩ Hàn Quốc sinh năm 1990
|
19848277
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karina%20%28ca%20s%C4%A9%29
|
Karina (ca sĩ)
|
Yu Ji-min (Hangul: 유지민, Hanja: 劉知珉, Hán-Việt: Lưu Trí Mẫn; sinh ngày 11 tháng 4 năm 2000), thường được biết đến với nghệ danh Karina, là một nữ ca sĩ, rapper kiêm vũ công người Hàn Quốc. Cô được biết đến là thành viên kiêm trưởng nhóm của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc aespa do SM Entertainment thành lập và quản lý. Ngoài ra, cô cũng là thành viên của siêu nhóm nhạc nữ Got the Beat.
Tiểu sử
Karina sinh ra và lớn lên ở Suwon, Gyeonggi-do, Hàn Quốc, trong một gia đình gồm có bố mẹ và một chị gái. Cô theo học tại trường Trung học Hansol cho đến khi được một tuyển trạch viên tài năng của SM phát hiện thông qua mạng xã hội. Sau đó cô gác lại việc học để tập trung đào tạo và lấy được chứng chỉ GED.
Sự nghiệp
Trước khi ra mắt
Karina lần đầu tiên được đại diện của SM Entertainment tuyển chọn thông qua mạng xã hội và được đào tạo 4 năm trước khi ra mắt. Trong thời gian làm thực tập sinh, Karina đã xuất hiện trong video âm nhạc của tiền bối cùng công ty Taemin với bài hát "Want" vào tháng 2 năm 2019 và trình diễn cùng anh trên một số chương trình âm nhạc trong những tuần quảng bá bài hát. Karina cũng xuất hiện cùng tiền bối Kai trong virtual showcase của Hyundai và SM, The All-New Tucson, Beyond DRIVE.
2020–nay: Ra mắt cùng aespa, Got the Beat và hoạt động solo
Ngày 27 tháng 10 năm 2020, SM tiết lộ Karina là thành viên thứ hai của aespa. Cô ra mắt với tư cách trưởng nhóm vào ngày 17 tháng 11 năm 2020 với đĩa đơn kỹ thuật số "Black Mamba".
Ngày 17 tháng 12 năm 2021, cô được công bố là một trong những thành viên của Got the Beat được ra mắt bởi SM cùng với Winter và các tiền bối khác như BoA, TaeYeon, Hyoyeon, Seulgi và Wendy.
Ngày 22 tháng 9 năm 2023, Karina phát hành đĩa đơn "Sad Waltz" cho loạt phim truyền hình Netflix Song of the Bandits. Ngày 30 tháng 11, có thông báo rằng Karina sẽ tham gia chương trình không có kịch bản của Netflix Agents of Mystery dự kiến phát sóng vào năm 2024.
Đời tư
Karina là một người theo đạo Công giáo, cô nói rằng tên rửa tội của cô là Katarina, đây là nguồn cảm hứng cho tên người dùng instagram của cô.
Hình ảnh và ảnh hưởng công chúng
Karina được SM giới thiệu là thành viên có nhiều tài năng từ vũ đạo, vocal và rap trước khi ra mắt. Tạp chí Paper ca ngợi Karina là một "vũ công với vũ đạo năng động, nhóm trưởng chu đáo và là một rapper thu hút trong nhóm của cô".
Năm 2021, Karina đứng đầu trong bảng xếp hạng thương hiệu dành cho nghệ sĩ K-pop ở Hàn Quốc trong hai tháng liên tiếp. Cô cũng đứng đầu hạng mục thần tượng nữ của Star News trong 8 tuần. Trong "Bảng xếp hạng thương hiệu thành viên nhóm nhạc nữ cá nhân" hàng tháng của Viện nghiên cứu kinh doanh Hàn Quốc, Karina đứng đầu trong cả số tháng 6 và tháng 7 và đứng thứ tư trong số tháng 10. Cô cũng được giới thiệu trong "Chương trình quảng bá du lịch" của Chính quyền thủ đô Seoul nhằm "giúp khách du lịch chiêm ngưỡng toàn cảnh thành phố và Bức tường pháo đài lịch sử của Seoul cũng như nghề làm đồ gốm ở Mullae-dong".
Danh sách đĩa nhạc
Hợp tác
OST
Sáng tác
Tất cả phần bản quyền của bài hát đều được điều chỉnh từ cơ sở dữ liệu của Hiệp hội Bản quyền Âm nhạc Hàn Quốc trừ khi có quy định khác.
Danh sách phim
Chương trình truyền hình
Music video
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2000
Nhân vật còn sống
Nữ ca sĩ Hàn Quốc thế kỷ 21
Nghệ sĩ Hàn Quốc sinh năm 2000
Nữ thần tượng Hàn Quốc
Họ Lưu
Người Hàn Quốc
Ca sĩ Hàn Quốc
Nữ ca sĩ Hàn Quốc
Người Gyeonggi
Aespa
Tín hữu Công giáo Hàn Quốc
|
19848289
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Valorant%20Champions%202023
|
Valorant Champions 2023
|
Giải đấu Valorant Champions 2023 là 1 giải đấu thể thao điện tử của bộ môn Valorant. Đây là lần thứ 3 giải đấu Valorant Champions được tổ chức, cũng là giải đấu toàn cầu quan trọng nhất của Valorant Champions Tour (VCT) trong mùa giải 2023. Giải đấu được tổ chức từ ngày 6 tháng 8 đến ngày 26 tháng 8, năm 2023 tại Los Angeles và Inglewood, California, Hoa Kỳ. 16 đội đủ điều kiện tham gia dựa trên kết quả của họ tại các giải đấu trong mùa giải, Masters Tokyo 2023, và vòng loại khu vực (Last Chance Qualifiers - LCQ).
"Ticking Away" được công bố là bài hát chủ đề của giải đấu, được sáng tác, sản xuất và biểu diễn bởi Grabbitz và bbno$.
Evil Geniuses trở thành đội Bắc Mỹ đầu tiên vô địch giải đấu Valorant Champions sau khi đánh bại Paper Rex tại trận chung kết với tỷ số 3–1.
Địa điểm
Los Angeles và Inglewood được lựa chọn làm nơi tổ chức giải đấu. Giải đấu được tổ chức tại Shrine Auditorium và Expo Hall trong phần lớn thời lượng giải đấu, và tại Kia Forum trong 3 ngày chung kết.
Các đội tham gia
Mười sáu đội đủ điều kiện tham gia giải đấu dựa trên thành tích vượt qua vòng loại giải đấu tương ứng của họ hoặc thông qua Vòng loại khu vực (Last Chance Qualifiers - LCQ). Ở mỗi khu vực, 3 đội đứng đầu trong vòng loại trực tiếp của giải đấu khu vực hoặc Masters Tokyo 2023 của khu vực EMEA ngay lập tức đủ điều kiện tham dự Valorant Champions, trong khi 7 đội còn lại phải thi đấu trong Vòng loại Vòng loại khu vực ở các khu vực tương ứng của họ bao gồm cả Trung Quốc. Đội đứng đầu Vòng loại khu vực, riêng khu vực EMEA là 2 đội đứng đầu, sẽ đủ điều kiện tham dự Valorant Champions. Các đội sau đủ điều kiện tham gia sự kiện:
Vòng bảng
Vòng bảng diễn ra từ ngày 7 – 14 tháng 8 năm 2023 (giờ Việt Nam).
16 đội sẽ được chia đều vào 4 bảng. Các đội sẽ thi đấu theo thể thức nhánh thắng nhánh thua GSL. 2 đội có thành tích cao nhất của mỗi bảng sẽ giành quyền vào Vòng loại trực tiếp (Play-off). Tất cả các trận đấu được phân định bằng thể thức .
Thể thức bốc thăm chia bảng
16 đội được bốc thăm chia thành 4 bảng, mỗi bảng 4 đội. Các đội cùng khu vực không thể xếp vào cùng một bảng. Nếu một đội được xếp vào cùng bảng với một đội khác trong khu vực của họ, họ sẽ được xếp vào nhóm hợp lệ tiếp theo ngoại trừ hạt giống EMEA LCQ #2 là Natus Vincere. Các trận đấu diễn ra dựa trên việc bốc thăm, trong đó các đội hạt giống số 1 đối đầu với các đội hạt giống số 4 và các đội hạt giống số 2 đối đầu với các đội hạt giống số 3 trong mỗi bảng. Những nhóm này được quyết định bởi thành tích của các đội tại Masters Tokyo và Vòng loại khu vực.
Nhánh đấu
Các đội in đậm là đội vào vòng tiếp theo.
Các số ở bên trái của mỗi đội là số mà đội được xếp hạt giống trong bảng của mình và các số ở bên phải cho biết số tỷ số trong trận đấu đó.
Các đội có lựa chọn cấm/chọn bản đồ (tức là đội hạt giống cao hơn hoặc đội ở nhánh trên) được đánh dấu bằng dấu hoa thị.
Bảng A
Ghi chú : Thời gian diễn ra các trận đấu được tính theo giờ Việt Nam (UTC+7).
Bảng B
Ghi chú : Thời gian diễn ra các trận đấu được tính theo giờ Việt Nam (UTC+7).
Bảng C
Ghi chú : Thời gian diễn ra các trận đấu được tính theo giờ Việt Nam (UTC+7).
Bảng D
Ghi chú : Thời gian diễn ra các trận đấu được tính theo giờ Việt Nam (UTC+7).
Vòng loại trực tiếp
Vòng loại trực tiếp diễn ra từ ngày 17 – 27 tháng 8 năm 2023 (giờ Việt Nam).
Vòng loại trực tiếp đuợc thi đấu theo thể thức loại kép. Tất cả các trận đấu đều được phân định bằng thể thức , ngoại trừ trận Chung kết nhánh thua và trận Chung kết Tổng, được phân định bằng thể thức .
Các đội tham gia
Tám đội đủ điều kiện tham dự vòng loại trực tiếp của giải đấu từ vòng bảng bao gồm :
Nhánh đấu
Các đội in đậm tiến vào vòng tiếp theo.
Các số ở bên trái của mỗi đội cho biết đội đó được xếp hạt giống trong nhánh, trong khi các số ở bên phải cho biết số ván mà đội đó đã thắng trong trận đấu đó.
Các đội có lựa chọn cấm/chọn bản đồ (tức là các đội hạt giống cao hơn hoặc nhóm trên) được đánh dấu bằng dấu hoa thị. Trong trường hợp các đội có cùng hạt giống từ các nhóm, sẽ tung đồng xu để xác định đội nào được chọn/cấm bản đồ. Các đội thắng khi tung đồng xu được biểu thị bằng hai dấu hoa thị.
Đối với trận Chung kết tổng, đội tiến lên từ nhánh thắng sẽ được cấm hai bản đồ đầu tiên và có quyền lựa chọn cấm/chọn bản đồ.
Ghi chú : Thời gian diễn ra các trận đấu được tính theo giờ Việt Nam (UTC+7).
Tiền thưởng
Riot Games đã nâng tổng số tiền thưởng cho giải đấu Valorant Champions năm 2023 lên 2,25 triệu USD, tăng từ mức 1 triệu USD của năm 2022. Đội chiến thắng Champions nhận được 1 triệu USD.
Tham khảo
Chú thích
Giải đấu Valorant
Giải đấu Valorant 2023
Giải đấu trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất
Giải đấu trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất 2023
|
19848295
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20B%C3%A1o%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Trần Báo (định hướng)
|
Trần Báo có thể là:
Trần Báo, tướng lĩnh cuối thời Minh đầu thời Thanh.
Trần Báo, nhân vật chính trị người Việt Nam.
|
19848304
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pasalubong
|
Pasalubong
|
Pasalubong là một truyền thống lâu đời của người Philippines, theo đó những người đi du lịch sẽ mang quà từ nơi họ đến về cho gia đình và bạn bè ở nhà. Pasalubong có thể là bất kỳ món quà gì, từ đồ ăn nhẹ địa phương đến đồ thủ công truyền thống. Pasalubong là một cách để thể hiện tình yêu và sự quan tâm của người đi du lịch dành cho những người ở nhà. Nó cũng là một cách để chia sẻ những trải nghiệm mới mẻ mà người đi du lịch đã có.
Chú thích
Truyền thống Philippines
Xã hội Philippines
|
19848311
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A0%20Gi%C3%A1ng%20sinh
|
Quà Giáng sinh
|
Quà Giáng sinh, hay còn gọi là quà Noel, là những món quà được trao tặng trong dịp lễ Giáng sinh. Quà Giáng sinh thường được trao đổi vào đêm vọng Lễ Giáng Sinh (24 tháng 12), ngày Giáng sinh (25 tháng 12) hoặc Đêm hiển linh (5 tháng 1). Theo truyền thống của đạo Cơ Đốc, việc tặng quà trong mùa Giáng sinh tượng trưng cho việc ba nhà thông thái (ba vua) hiến lễ cho Chúa Giê-su Hài đồng.
Xem thêm
Ngày tặng quà
Quà tặng
Giáng sinh
Chú thích
Đọc thêm
Cho đi
Truyền thống Giáng sinh
|
19848316
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ballerina%20%28phim%202024%29
|
Ballerina (phim 2024)
|
Ballerina là bộ phim điện ảnh thuộc thể loại hành động giật gân của Hoa Kỳ được đạo diễn bởi Len Wiseman với kịch bản do Shay Hatten chấp bút. Đây là phần phim ngoại truyện đầu tiên của loạt phim John Wick với bối cảnh xảy ra vào giữa Sát thủ John Wick: Phần 3 – Chuẩn bị chiến tranh (2019) và Sát thủ John Wick: Phần 4 (2023). Phim sẽ có sự tham gia của dàn diễn viên chính bao gồm Ana de Armas, Anjelica Huston, Gabriel Byrne, Lance Reddick, Catalina Sandino Moreno, Norman Reedus, Ian McShane và Keanu Reeves. Trong phim, Armas sẽ thủ vai Rooney, một vũ công ba lê kiêm sát thủ, cô sẽ săn lùng những kẻ đã từng sát hại gia đình của cô. Đây cũng sẽ là bộ phim cuối cùng có sự tham gia của Reddick sẽ được phát hành sau khi ông qua đời vào năm 2023.
Vào năm 2017, hãng phim Lionsgate đã mua bản quyền kịch bản đặc tả của Hatten, dẫn đền việc anh đã góp phần vào trong cốt truyện của phần phim Chuẩn bị chiến tranh và đồng thời cũng là biên kịch chính của phần phim Phần 4. Vào tháng 10 năm 2019, Wiseman chính thức được thuê để ngồi vào vị trí chỉ đạo bộ phim, bên cạnh đó đạo diễn của loạt phim, Chad Stahelski cũng đã xác nhận sẽ tham gia với vai trò nhà sản xuất phim vào tháng 5 năm 2020. Ballerina chính thức được công bố vào tháng 4, 2022 với de Armas được xác nhận sẽ thay thế Unity Phelan, người đã từng thủ vai nhân vật này ở phần phim Chuẩn bị chiến tranh, đảm nhận vai diễn chính của phim. Dàn diễn viên còn lại của bộ phim cũng lần lượt được tiết lộ vào tháng 11. Quá trình quay phim chính của phim được bắt đầu ngay sau đó tại Praha.
Bộ phim được dự kiến sẽ công chiếu vào ngày 7 tháng 6, 2024.
Tiền đề
Bối cảnh của phim được diễn ra giữa các sự kiện của hai phần phim Sát thủ John Wick: Phần 3 – Chuẩn bị chiến tranh và Phần 4, nữ sát thủ kiêm vũ công ba lê Rooney sẽ săn lùng những kẻ đã sát hại gia đình của cô.
Diễn viên
Ana de Armas thủ vai Rooney, một nữ vũ công ba lê đang tìm cách trả thù những kẻ đã sát hại gia đình của cô. Nhân vật này từng được thủ vai bởi Unity Phelan trong Sát thủ John Wick: Phần 3 – Chuẩn bị chiến tranh(2019).
Anjelica Huston thủ vai "The Director"
Keanu Reeves thủ vai John Wick, một sát thủ huyền thoại chuyên nghiệp, nổi tiếng bởi tài năng của chính anh ấy, và anh đang chạy trốn khỏi sự truy lùng của Hội đồng Tối cao.
Gabriel Byrne
Lance Reddick thủ vai Charon, phục vụ cao cấp của Khách sạn Continental Hotel tại New York, là bạn của Wiston Scott và người quen của John Wick. Đây là sẽ là lần xuất hiện cuối cùng của Reddick trong vai diễn Charon và đồng thời cũng là lần xuất hện trên màn ảnh cuối cùng của ông.
Catalina Sandino Moreno
Norman Reedus
Ian McShane thủ vai Winston Scott, chủ nhân bí ẩn của Khách sạn Continental Hotel và đồng thời là bạn của John Wick.
Sản xuất
Phát triển
Vào tháng 7, 2017, Lionsgate Films đã mua bản quyến bộ phim hành động giật gân Ballerina của Shay Hatten, Thunder Road Films sẽ sản xuất phim và trong khi đó, Hatten sẽ viết lại kịch bản để bộ phim trở thành một phần của loạt phim John Wick, với nhân vật tiêu đề, Rooney, sẽ trở thành nhân vật chính của phần phim thứ ba, tuy nhiên sau đó, nhân vật này đã được xuất hiện với vai trò vai diễn cameo trong Sát thủ John Wick: Phần 3 – Chuẩn bị chiến tranh và được thủ vai bởi Unity Phelan trước khi Ballerina được sản xuất. Tháng 10, 2019, Len Wiseman chính thức được thuê để ngồi vào vị trí đạo diễn của phim. Đến tháng 5 năm 2020, Stahelski đã cho biết rằng Wiseman đã được đọc kịch bản trước đó và ông đã tiếp cận hãng phim để trình bày cách mà ông sẽ phát triển dự án này dựa trên bản thảo của Hatten, và sự chứng minh khái niệm đó đã được đăng tải trước đó trên YouTube vào tháng 9, 2017.
Tuyển vai
Vào tháng 5, 2020, đã có thông tin về việc hãng phim đang tìm kiếm một gương mặt mới cho vai diễn chính của phim và Chloë Grace Moretz chính là hình mẫu tài năng mà hãng phim hướng đến. Tháng 10, 2021, Ana de Armas đã tham gia đàm phán để đảm nhận vai diễn nhân vật tiêu đề của phim, một vũ công ba lê kiêm sát thủ mang tên Rooney, thay thế cho nữ diễn viên Unity Phelan, người đã từng thủ vai nhân vật này trong phần phim Sát thủ John Wick: Phần 3 – Chuẩn bị chiến tranh (2019). Tại sự kiện CinemaCon vào tháng 4 năm 2022, hãng phim Lionsgate đã chính thức thông báo về việc Armas sẽ thủ vai nhân vật chính của phim. Tháng 11, 2022, tiếp tục có thông báo về sự trở lại của các diễn viên bao gồm Keanu Reeves, Ian McShane, Lance Reddick và Anjelica Huston và họ vẫn sẽ tiếp tục thủ vai các nhân vật từ các phần phim trước của mình; lần lượt là Sát thủ John Wick, Winston Scott, Charon và "the Director"; ngoài ra, bộ phim chính đánh dấu lần thứ ba hợp tác giữa bộ đôi diễn viên de Armas và Reeves, trước đây họ đã từng cộng tác với nhau trong hai bộ phim là Knock Knock (2015) và Exposed (2016). Vào tháng 12 năm 2022, Gabriel Byrne, Norman Reedus và Catalina Sandino Moreno là những cái tên tiếp theo được xác nhận sẽ tham gia vào các vai diễn phụ của phim chưa được tiết lộ.
Quay phim
Công đoạn quay phim ban đầu được dự kiến sẽ tiến hành vào mùa hè năm 2022, sau đó, quá trình quay phim chính cũng chính thức được bắt đầu vào ngày 7 tháng 11, 2022 tại Praha. Ballerina bắt đầu vào giai đoạn hậu kỳ vào tháng 2 năm 2023.
Nhạc phim
Nhạc của phim được dựng bởi sự hợp tác giữa Marco Beltrami và Anna Drubich và họ bắt đầu vào ngày 17 tháng 4, 2023.
Phát hành
Ballerina được chính thức công chiếu tại Hoa Kỳ và Vương quốc Anh vào ngày 7 tháng 6 năm 2024.
Hậu truyện
Vào tháng 3 năm 2023, nhà sản xuất Erica Lee đã tuyên bố rằng hãng phim đang có những dự kiến để phát triển tiếp tục một phần hậu truyện với sự tham gia trở lại của Ana de Armas.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim thập niên 2020
Phim tiếng Anh
Phim hành động
Phim giật gân
Phim hành động giật gân
Phim Mỹ năm 2024
Phim hành động năm 2024
Phim giật gân năm 2024
Phim hành động giật gân năm 2024
Phim hành động Mỹ
Phim giật gân Mỹ
Phim hành động giật gân Mỹ
Phim Mỹ thập niên 2020
Phim hành động thập niên 2020
Phim giật gân thập niên 2020
Phim hành động giật gân thập niên 2020
Phim báo thù
Phim báo thù năm 2024
Phim báo thù Mỹ
Phim báo thù thập niên 2020
Sát thủ John Wick
Phim ngoại truyện
Phim ngoại truyện Mỹ
Phim ngoại truyện thập niên 2020
Phim ngoại truyện năm 2024
Phim Lionsgate
Phim Summit Entertainment
Phim Thunder Road Films
Phim quay tại Praha
Phim được đạo diễn bởi Len Wiseman
Phim được sản xuất bởi Basil Iwanyk
Phim với kịch bản của Shay Hatten
|
19848318
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tirol%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Tirol (định hướng)
|
Tirol hay Tyrol là một vùng lịch sử ở Đông Anpơ, chia cắt năm 1919 thành Tây Áo và Bắc Ý.
Nó bao gồm:
có thể đề cập đến:
Tirol (bang của Áo)
Nam Tirol, tỉnh của Ý
Lịch sử
Bá quốc Tirol
|
19848319
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B3ng%20g%C3%B3i
|
Đóng gói
|
Đóng gói () là cách thức chứa đựng, bảo vệ, vận chuyển và bày bán sản phẩm bằng các vật liệu khác nhau. Bao bì có thể được làm từ nhiều loại vật liệu, tùy thuộc vào tính chất của sản phẩm và mục đích sử dụng. Đóng gói là một hoạt động quan trọng trong chuỗi cung ứng, giúp đảm bảo sản phẩm được vận chuyển an toàn và đến tay người tiêu dùng một cách nguyên vẹn.
Chú thích
Đóng gói
Quản lý sản phẩm
|
19848327
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alien%3A%20Romulus
|
Alien: Romulus
|
Alien: Romulus là bộ phim thuộc thể loại kinh dị khoa học viễn tưởng và cũng là phần phim độc lập của loạt phim Alien, lấy bởi cảnh giữa các sự kiện của hai bộ phim Alien (1979) và Aliens (1986). Phim được đạo diễn bởi Fede Álvarez, người đồng thời cũng là đồng biên kịch với Rodo Sayagues. Alien: Romulus có sự tham gia diễn xuất của các diễn viên bao gồm Cailee Spaeny, Isabela Merced, David Jonsson, Archie Renaux, Spike Fearn và Aileen Wu. Bộ phim phát hành tại các rạp phim vào ngày 16 tháng 8, 2024 và được phân phối bởi hãng 20th Century Studios.
Tiền đề
Cailee Spaeny đã chia sẻ với tờ Variety rằng Alien: Romulus sẽ lấy bối cảnh giữa các sự kiện giữa hai phần phim Alien (1979) và hậu truyện Aliens (1986).
Diễn viên
Cailee Spaeny
Isabela Merced
David Jonsson
Archie Renaux
Spike Fearn
Aileen Wu
Sản xuất
Sau thương vụ sáp nhập hãng phim 21st Century Fox vào công ty Walt Disney, vào sự kiện CinemaCon năm 2019, đã có thông tin xác nhận về việc một bộ phim Alien trong tương lai đang được phát triển. Tháng 3, 2022, thông tin về việc Fede Álvarez sẽ trở thành biên kịch kiêm đạo diễn của phim sau khi ông trình bày cốt truyện của mình đồng thời chia sẻ rằng nó sẽ "không kết nối" với các phần phim trước đó của loạt phim, và dự án này sẽ được phát hành trên Hulu tại Hoa Kỳ. Vào tháng 11, Cailee Spaeny bắt đầu tham gia đàm phán để đảm nhận vai chính của bộ phim. Vào tháng 3 năm 2023, Isabela Merced cũng được tiết lộ rằng cô cũng sẽ tham gia vào một vai diễn chưa được tiết lộ trong phim và nhân vật này sẽ đối đầu với nhân vật của Spaeny. Một tháng sau đó, David Jonsson, Archie Renaux, Spike Fearn và Aileen Wu cũng được xác nhận sẽ tham gia vào dàn diễn viên của phim trong các vai diễn bí mật. Tháng 11, 2023, bối cảnh của phim được tiết lộ sẽ diễn ra giữa các sự kiện của hai phần phim Alien (1979) và Aliens (1986) với nhân vật chính là một số thành viên của đội kỹ thuật từ các phần phim sau.
Quá trình quay phim chính được diễn ra tại Budapest từ ngày 9 tháng 3 đến ngày 3 tháng 7 năm 2023.
Phát hành
Ban đầu, Alien: Romulus được dự kiến sẽ phát hành trên nền tảng Hulu, tuy nhiên, sau đó, bộ phim đã được chuyển sang công chiếu tại các rạp vào ngày 16 tháng 8, 2024 và phân phối bởi hãng phim 20th Century Studios.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim thập niên 2020
Phim tiếng Anh
Phim kinh dị
Phim khoa học viễn tưởng
Phim kinh dị khoa học viễn tưởng
Phim Mỹ năm 2024
Phim kinh dị năm 2024
Phim khoa học viễn tưởng năm 2024
Phim kinh dị khoa học viễn tưởng năm 2024
Phim kinh dị Mỹ
Phim khoa học viễn tưởng Mỹ
Phim kinh dị khoa học viễn tưởng Mỹ
Phim Mỹ thập niên 2020
Phim kinh dị thập niên 2020
Phim khoa học viễn tưởng thập niên 2020
Phim kinh dị khoa học viễn tưởng thập niên 2020
Phim với kịch bản của Rodo Sayagues
Phim với kịch bản của Fede Álvarez
Phim được đạo diễn bởi Fede Álvarez
Phim được sản xuất Ridley Scott
Phim Scott Free Productions
Phim được quay tại Budapest
Phim phiêu lưu vũ trụ
Phim phiêu lưu vũ trụ Mỹ
Phim tiếng Anh thập niên 2020
Phim hành động giật gân Mỹ
Phim hành động khoa học viễn tưởng Mỹ
Phim tiếp nối Mỹ
Phim về trí tuệ nhân tạo
Phim về đời sống ngoài Trái Đất
Phim do Ridley Scott sản xuất
Phim quay tại Budapest
Phim hãng Scott Free Productions
|
19848333
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ruprecht%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90%E1%BB%A9c
|
Ruprecht của Đức
|
Ruprecht xứ Pfalz (; 5 tháng 5 năm 1352 – 18 tháng 5 năm 1410), đôi khi được gọi là Robert xứ Pfalz, một thành viên của Nhà Wittelsbach, là Tuyển đế hầu xứ Pfalz từ năm 1398 (với tên gọi Ruprecht III) và Vua nước Đức từ năm 1400 cho đến khi qua đời.
Tham khảo
Thư mục
Vương tộc Wittelsbach
Mất năm 1410
Sinh năm 1352
Vua La Mã Đức thế kỷ 14
Vua La Mã Đức thế kỷ 15
Người Amberg
|
19848343
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adolf%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90%E1%BB%A9c
|
Adolf của Đức
|
Adolf (khoảng 1255 – 2 tháng 7 năm 1298) là bá tước xứ Nassau từ khoảng năm 1276, được bầu làm Vua La Mã Đức từ năm 1292 cho đến khi bị phế truất bởi các tuyển đế hầu năm 1298. Ông chưa bao giờ được giáo hoàng trao vương miện hoàng đế. Ông là vị vua đầu tiên của Đế quốc La Mã Thần thánh bị phế truất mà không bị Giáo hoàng vạ tuyệt thông. Adolf chết trong Trận Göllheim chống lại người kế nhiệm Albert của Habsburg.
Tham khảo
Thư mục
Reinle,Christine (2003). "Adolf von Nassau", in Die deutschen Herrscher des Mittelalters, Historische Porträts von Heinrich I. bis Maximilian I. (The German rulers of the Middle Ages, Historical Portraits of Henry I to Maximilian I) (in German). München: Verlag C.H. Beck. ISBN <bdi>3-406-50958-4</bdi>. , pp. 360–371
, pp. 86 ff.
Liên kết ngoài
Bibliography of King Adolf of Nassau (1292–1298). .
.
.
Genealogies of the Middle Ages. .
Andreas Marchetti: Works on the Deposed Adolf of Nassau. . (PDF)
Vua tử trận
Mất năm 1298
Sinh năm 1255
Vua La Mã Đức thế kỷ 13
Người Công giáo La Mã thế kỷ 13
An táng tại Nhà thờ Speyer
Nhà Nassau-Weilburg
Người Donnersbergkreis
|
19848352
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A1ch%20N%C3%AA%20Phi%20th%E1%BB%A9%20nh%E1%BA%A5t
|
Sách Nê Phi thứ nhất
|
Sách Nê Phi thứ nhất (1. Nê Phi 1 hay First Nephi) tên đầy đủ là sách Nê Phi thứ nhất: Triều đại và Giáo vụ của ông (The First Book of Nephi: His Reign and Ministry) là cuốn đầu tiên của bộ sách Mặc Môn và là một trong bốn cuốn sách mang tên Nê Phi. Sách Mặc Môn là văn bản thiêng liêng dành cho các giáo hội trong Mặc Môn giáo hay Phong trào Thánh Hữu Ngày Sau, trong đó Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Giê Su Ky Tô (Giáo Hội LDS) là một phần quan trọng. Trong cuốn sách Nê Phi thứ nhất này, tác giả Nê Phi kể câu chuyện về những thử thách của gia đình ông và những phép lạ mà họ chứng kiến khi trốn thoát khỏi Giêrusalem, đấu tranh để sinh tồn trong vùng hoang dã, họ đóng một con tàu và đi thuyền đến vùng đất hứa (xứ Phong Phú), thường được đồng nhất là Châu Mỹ.
Về mặt cấu trúc kỹ thuật trình bày thì cuốn sách Nê Phi thứ nhất bao gồm hai thể loại đan xen lẫn nhau gồm một bản tường thuật lịch sử mô tả các sự kiện và cuộc trò chuyện đã xảy ra giữa các nhân vật trong gia tộc Lê Hi và bản chép còn lại là bản biên chép ghi lại các khải tượng, thị kiến, bài giảng, bài thơ và bài giảng giáo lý được Nê Phi và tổ phụ Lê Hi chia sẻ, truyền đạt lại đối với những người thân trong gia đình.. Phần đầu tiên của Nê Phi thứ nhất bao gồm phần tóm lược của Nê Phi về biên sử của cha ông là Lê Hi (1. Nê Phi 1-9). Phần thứ hai là lời tường thuật của chính Nê Phi về các sự kiện đã diễn ra và họ cùng nhau trải qua (1. Nê Phi 10-22). Bộ sách sau đó mang tên sách Nê Phi thứ hai là phần tiếp theo của câu chuyện này và thời điểm diễn ra ngay sau cuốn sách Nê Phi thứ nhất này.
Giới thiệu
Nê Phi (là con trai của Lê Hi và sau này là tổ phụ của người Nê Phi) chính là người đã viết ra cuốn sách này để đáp ứng lệnh truyền của Chúa là ông phải lưu giữ một biên sử của dân ông. Theo chính cuốn sách, đó là câu chuyện ở ngôi thứ nhất của một nhà tiên tri tên là Nê Phi về những sự kiện bắt đầu vào khoảng năm 600 trước Công nguyên và được ghi lại trên các bảng khắc của Nê Phi khoảng 30 năm sau. Nê Phi viết câu chuyện về sau trở thành cuốn Nê Phi thứ nhất vào khoảng năm 570 trước Công Nguyên, tức 30 năm sau khi ông và gia đình ông rời bỏ Giê Ru Sa Lem. Ông viết sách này khi đang ở trong xứ Nê Phi. Nê Phi có ý định viết sách này cho ba nhóm độc giả là các con cháu của cha ông, dân giao ước của Chúa trong những ngày sau cùng, và tất cả những người trên thế gian. Ông viết sách này để thuyết phục tất cả mọi người đến cùng Chúa Giê Su Ky Tô và được cứu. Nê Phi sử dụng những điều tương tự với Cuộc Xuất Hành của Môi-se như một kỹ thuật tu từ để khuyến khích và đoàn kết dân của ông, đây cũng là một mô típ về sự cải đạo. Nê Phi sử dụng cách thức xuất Hành để chứng minh quyền năng của Chúa và nói trắng ra là quyền năng tiên tri của chính ông ta. Nê Phi viết rằng Đức Chúa Trời đã ban cho Môi-se quyền năng rẽ Biển Đỏ, vậy tại sao Đức Chúa Trời không ban cho Nê Phi một quyền năng tương tự để biết "những sự phán xét sẽ đến" (1. Nê Phi 8:12).. Nê Phi nói rằng câu chuyện Xuất hành khỏi Ai Cập chứng minh rằng Đức Chúa Trời "quý trọng mọi xác thịt như một" và ưu ái cho những ai tuân giữ các lệnh truyền của Ngài.
Nê Phi đã sống ở đó trong thời gian giáo vụ của tiên tri Giê Rê Mi và thời gian trị vì của vua Sê Đê Kia. Nê Phi đã vâng lời trở lại Giê Ru Sa Lem với các anh của mình hai lần. Lần thứ nhất là để lấy các bảng khắc bằng đồng và lần sau để thuyết phục gia đình của Ích Ma Ên đi theo họ vào vùng hoang dã. Với sự giúp đỡ của Chúa, Nê Phi đóng tàu để mang gia đình ông và những người khác vượt đại dương đến vùng đất hứa. Khi Lê Hi chết, Chúa đã chọn Nê Phi làm người lãnh đạo của dân ông. Lê Hi và dân của ông đã cảm nhận được lòng thương xót và các phước lành của Thượng Đế khi họ tuân theo các giáo lệnh của Ngài. Lê Hi và Nê Phi tìm kiếm sự hướng dẫn từ Thượng Đế và nhận được sự hướng dẫn này qua những giấc mơ, khải tượng, cái la bàn Liahona và sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh. Nê Phi nhận được mục kích khải tượng và đã ghi lại toàn bộ thị kiến về lịch sử của thế gian cho ông thấy về khả năng toàn trí toàn thức của Thượng Đế, phép báp têm, giáo vụ của Chúa Giê Su Ky Tô, và việc Ngài bị đóng đinh, sự hủy diệt của dân Nê Phi. Thượng Đế đã giúp Nê Phi và các anh của ông lấy được các bảng khắc bằng đồng để họ có được thánh thư và cứu Lê Hi và dân của ông khỏi nạn đói trong vùng hoang dã và trên đại dương, an toàn mang họ đến đất hứa. Bản dịch gốc của tiêu đề không bao gồm tựa "Thứ nhất". Tựa đề Thứ nhất và Thứ hai đã được Oliver Cowdery thêm vào tựa đề sách Nê Phi khi chuẩn bị in sách ra.
Nội dung
Truyện ký về Lê Hi và vợ ông là Sa Ri A cùng bốn người con trai của ông là La Man (tổ phụ của người La Man), Lê Mu Ên, Sam, và Nê Phi. Chúa báo trước cho Lê Hi biết ông phải rời khỏi xứ Giê Ru Sa Lem vì ông đã tiên tri cho dân chúng biết về sự bất chính của họ và họ tìm cách hủy diệt mạng sống của ông. Ông cùng gia đình hành trình ba ngày trong vùng hoang dã. Nê Phi đem các anh mình trở lại xứ Giê Ru Sa Lem để tìm biên sử của người Do Thái. Truyện ký về những nỗi thống khổ của họ. Họ lấy các con gái của Ích Ma Ên làm vợ. Họ đem gia đình đi vào vùng hoang dã. Những sự đau đớn và những nỗi thống khổ của họ trong vùng hoang dã. Lộ trình của họ. Họ đến bên bờ đại dương. Các anh của Nê Phi nổi lên chống ông. Ông làm họ đuối lý và đóng một chiếc thuyền. Họ đặt tên nơi ấy là Phong Phú. Họ vượt đại dương đến đất hứa, và vân vân. Thiên ký thuật này viết theo truyện ký của Nê Phi, hay nói cách khác, thì Nê Phi đã ghi chép biên sử này.
Chương I (1): Nê Phi bắt đầu ghi chép biên sử của dân tộc ông. Lê Hi trông thấy trong khải tượng một cột lửa và được đọc sách tiên tri. Ông ca ngợi Thượng Đế, tiên báo sự hiện đến của Đấng Mê Si, và tiên tri về sự hủy diệt Giê Ru Sa Lem (sau này chính là sự kiện Vây hãm Jerusalem năm 587 TCN). Ông Lê Hi bị người Do Thái ngược đãi (Khoảng năm 600 TCN).
Chương II (2): Lê Hi dẫn gia đình đi vào vùng hoang dã gần Biển Đỏ. Họ bỏ lại tài sản của họ. Lê Hi dâng lễ vật hy sinh lên Chúa và dạy bảo các con trai của mình biết tuân giữ các lệnh truyền. La Man và Lê Mu Ên ta thán cha mình. Nê Phi biết vâng lời và cầu nguyện với đức tin; Chúa phán cùng ông và ông được chọn làm người cai trị các anh của ông (Khoảng năm 600 TCN).
Chương III (3): Các con trai của Lê Hi trở về Giê Ru Sa Lem để lấy các bảng khắc bằng đồng. La Ban không chịu trao các bảng khắc. Nê Phi khuyên nhủ và khuyến khích các anh mình. La Ban chiếm đoạt của cải của họ và toan giết họ. La Man và Lê Mu Ên đánh đập Nê Phi cùng Sam và bị một thiên sứ quở trách (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương IV (4): Nê Phi giết chết La Ban theo lệnh truyền của Chúa và rồi dùng mưu chước lấy được các bảng khắc bằng đồng. Giô Ram chọn theo gia đình Lê Hi vào vùng hoang dã (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương V (5): Bà Sa Ri A oán trách ông Lê Hi. Hai người vui mừng khi thấy các con trai mình trở về. Họ dâng của lễ hy sinh. Các bảng khắc bằng đồng chứa đựng các văn tập của Môi Se và các vị tiên tri. Các bảng khắc cho thấy Lê Hi thuộc con cháu Giô Sép. Lê Hi nói tiên tri về dòng dõi của ông và sự bảo tồn các bảng khắc (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương VI (6): Nê Phi ghi chép về những sự việc của Thượng Đế. Mục đích của Nê Phi là thuyết phục loài người đến với Thượng Đế của Áp Ra Ham để được cứu rỗi (Khoảng 600–592 TCN).
Chương VII (7): Các con trai của Lê Hi trở về Giê Ru Sa Lem và chiêu phục được Ích Ma Ên và gia đình của ông đi theo họ trong cuộc hành trình. La Man và những người khác nổi loạn. Nê Phi khích lệ các anh của mình nên có đức tin nơi Chú. Họ lấy dây thừng trói ông lại và tìm cách hủy diệt ông. Ông được giải thoát nhờ quyền năng của đức tin. Các anh của ông xin tha thứ. Lê Hi và nhóm người của ông dâng lễ vật hy sinh và của lễ thiêu (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương VIII (8): Lê Hi trông thấy mục kích một khải tượng về cây sự sống. Ông ăn trái của cây ấy và mong muốn gia đình mình cũng được ăn trái cây ấy. Ông còn trông thấy một thanh sắt, một con đường chật và hẹp chạy xuôi theo thanh sắt tới gốc cây và một đám sương mù tối đen nổi lên che kín dân chúng, một dòng sông và một tòa nhà rộng lớn vĩ đại. Sa Ri A, Nê Phi và Sam ăn trái cây ấy, nhưng La Man và Lê Mu Ên từ chối không ăn (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương IX (9): Nê Phi làm ra hai bộ biên sử. Mỗi bộ được gọi là các bảng khắc Nê Phi. Các bảng khắc lớn chứa đựng một lịch sử thế tục, còn các bảng khắc nhỏ phần lớn ghi chép về những vấn đề thiêng liêng (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương X (10): Lê Hi tiên đoán dân Do Thái sẽ bị những người Ba Bi Lôn bắt tù đày. Ông nói về sự hiện đến của Đấng Mê Si, tức là Đấng Cứu Rỗi, Đấng Cứu Chuộc, giữa dân Do Thái. Lê Hi còn nói về sự xuất hiện của một vị, là người sẽ làm phép báp têm cho Đấng Chiên Con của Thượng Đế. Lê Hi nói về cái chết và sự phục sinh của Đấng Mê Si. Ông so sánh sự phân tán và sự quy tụ của Y Sơ Ra Ên với cây ô liu. Nê Phi nói về Vị Nam Tử của Thượng Đế, về ân tứ Đức Thánh Linh và về sự cần thiết của sự ngay chính (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương XI (11): Nê Phi trông thấy Thánh Linh của Chúa và trong khải tượng được cho thấy cây sự sống. Ông trông thấy mẹ của Vị Nam Tử của Thượng Đế và biết được tấm lòng hạ cố của Thượng Đế. Ông trông thấy lễ báp têm, giáo vụ và sự đóng đinh trên thập tự giá của Chiên Con của Thượng Đế. Ông cũng trông thấy sự kêu gọi và giáo vụ của Mười Hai Vị Sứ Đồ của Chiên Con (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương XII (12): Nê Phi trông thấy trong mục kích khải tượng: Đất hứa; sự ngay chính, sự bất chính và sự suy đồi của dân cư trên đất hứa; sự hiện đến của Chiên Con của Thượng Đế giữa họ; cách thức Mười Hai Môn Đồ và Mười Hai Vị Sứ Đồ sẽ xét xử Y Sơ Ra Ên; và trạng thái ghê tởm và bẩn thỉu của những người sa vào vòng vô tín ngưỡng (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương XIII (13): Nê Phi trông thấy trong khải tượng giáo hội của quỷ dữ được thiết lập giữa Dân Ngoại; sự khám phá và chiếm hữu Châu Mỹ làm thuộc địa; nhiều phần quý báu và minh bạch trong Kinh Thánh bị thất lạc, hậu quả của tình trạng bội giáo của Dân Ngoại, sự phục hồi phúc âm, sự ra đời của một thánh thư ngày sau và sự xây đắp Si Ôn (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương XIV (14): Một vị thiên sứ nói cho Nê Phi biết về những phước lành và những sự rủa sả giáng xuống người Dân Ngoại. Chỉ có hai giáo hội: Giáo Hội của Chiên Con của Thượng Đế và giáo hội của quỷ dữ. Các Thánh Hữu của Thượng Đế ở khắp các quốc gia bị giáo hội vĩ đại và khả ố đó ngược đãi. Vị Sứ Đồ Giăng sẽ viết về ngày tận thế (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương XV (15): Dòng dõi của Lê Hi sẽ tiếp nhận phúc âm từ Dân Ngoại vào những ngày sau. Sự quy tụ của Y Sơ Ra Ên được ví như cây ô liu mà những cành cây thiên nhiên của nó sẽ được ghép lại. Nê Phi giải thích ý nghĩa của khải tượng về cây sự sống và nói về công lý của Thượng Đế trong việc chia cách kẻ ác với người ngay chính (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương XVI (16): Kẻ ác lấy sự thật làm điều khốn khó. Các con trai của Lê Hi kết hôn với các con gái của Ích Ma Ên.. Quả cầu Li A Hô Na hướng dẫn lộ trình của họ trong vùng hoang dã Những lời chỉ dẫn của Chúa được thỉnh thoảng viết ra trên quả cầu Li A Hô Na. Ích Ma Ên từ trần; gia đình của ông ta thán vì những nỗi khổ cực (Khoảng năm 600–592 TCN).
Chương XVII (17): Nê Phi được truyền lệnh đóng một chiếc tàu—Các anh của ông phản đối ông. Ông khuyên nhủ họ bằng cách kể lại lịch sử của những việc làm của Thượng Đế với Y Sơ Ra Ên. Nê Phi được đầy dẫy quyền năng của Thượng Đế. Các anh của ông bị cấm không được đụng tới người ông, kẻo họ sẽ bị héo đi như cây sậy khô (Khoảng năm 592–591 TCN).
Chương XVIII (18): Tàu đóng xong. Sự ra đời của Gia Cốp và Giô Sép được nói đến. Họ xuống tàu đi đến đất hứa. Các con trai của Ích Ma Ên và vợ của họ tham dự vào cuộc vui đùa lố bịch và nổi loạn Nê Phi bị trói và chiếc tàu bị một trận bão khủng khiếp đẩy lui. Nê Phi được mở trói và nhờ sự cầu nguyện của ông, bão tố ngừng thổi. Họ đến được đất hứa (Khoảng năm 591–589 TCN).
Chương XIX (19): Nê Phi làm các tấm bảng bằng khoáng kim và ghi chép lịch sử dân mình. Thượng Đế của Y Sơ Ra Ên sẽ đến sáu trăm năm sau kể từ ngày Lê Hi rời Giê Ru Sa Lem. Nê Phi nói về việc Ngài chịu những thống khổ và bị đóng đinh trên thập tự giá—Dân Do Thái sẽ bị khinh miệt và phân tán cho đến những ngày sau cùng khi họ quay trở lại cùng Chúa (Khoảng năm 588–570 TCN).
Chương XX (20): Chúa bày tỏ những mục đích của Ngài cho Y Sơ Ra Ên biết. Y Sơ Ra Ên đã được chọn trong lò gian khổ và sẽ ra khỏi Ba Bi Lôn. Đối chiếu với Ê Sai 48 (Khoảng năm 588–570 TCN).
Chương XXI (21): Đấng Mê Si sẽ là ánh sáng cho Dân Ngoại và sẽ giải thoát những kẻ ngục tù. Y Sơ Ra Ên sẽ được quy tụ lại với sức mạnh vào những ngày sau cùng. Các vua sẽ là dưỡng phụ của họ. Đối chiếu với Ê Sai 49 (Khoảng năm 588–570 TCN).
Chương XXII (22): Y Sơ Ra Ên sẽ bị phân tán trên khắp mặt đất. Dân Ngoại sẽ nuôi dưỡng Y Sơ Ra Ên bằng phúc âm vào những ngày sau cùng. Y Sơ Ra Ên sẽ được quy tụ lại và được cứu, còn những kẻ ác sẽ bị cháy thiêu như rơm rạ. Vương quốc của quỷ dữ sẽ bị hủy diệt và Sa Tan sẽ bị trói buộc (Khoảng năm 588–570 TCN).
Chương XXIII (23): Sự hủy diệt của Ba Bi Lôn là điển hình cho sự hủy diệt vào Ngày Tái Lâm. Đó sẽ là ngày thịnh nộ và trả thù. Ba Bi Lôn (thế gian) sẽ sụp đổ mãi mãi. Đối chiếu với Ê Sai 13 (Khoảng năm 559–545 TCN).
Chương XXIV (24): Y Sơ Ra Ên sẽ được quy tụ lại và thụ hưởng sự an nghỉ thời kỳ ngàn năm. Lu Xi Phe bị đuổi ra khỏi thiên thượng vì nổi loạn. Y Sơ Ra Ên sẽ chiến thắng Ba Bi Lôn (thế gian). Đối chiếu với Ê Sai 14 (Khoảng năm 559–545 TCN).
Chương XXV (25): Nê Phi hân hoan trong sự minh bạch. Những lời tiên tri của Ê Sai sẽ được hiểu rõ vào những ngày sau cùng. Dân Do Thái sẽ từ Ba Bi Lôn trở về, đóng đinh Đấng Mê Si trên thập tự giá, bị phân tán và trừng phạt. Họ sẽ được phục hồi khi họ tin nơi Đấng Mê Si. Ngài sẽ đến sáu trăm năm sau khi Lê Hi rời Giê Ru Sa Lem. Dân Nê Phi tuân giữ luật pháp Môi Se và tin nơi Đấng Ky Tô, tức là Đấng Thánh của Y Sơ Ra Ên (Khoảng năm 559–545 TCN).
Chương XXVI (26): Đấng Ky Tô sẽ thuyết giảng cho dân Nê Phi. Nê Phi thấy trước sự hủy diệt của dân ông. Họ sẽ nói lên từ bụi đất. Dân Ngoại sẽ thiết lập nhiều giáo hội giả và các tập đoàn bí mật. Chúa cấm loài người không được thực hành các mưu chước tăng tế (Khoảng năm 559–545 TCN)
Chương XXVII (27): Sự tối tăm và sự bội giáo sẽ bao phủ thế gian vào những ngày sau cùng. Sách Mặc Môn sẽ ra đời. Ba nhân chứng sẽ làm chứng về sách ấy. Người học thức không thể đọc được sách đã niêm phong. Chúa sẽ thực hiện một công việc lạ lùng và một điều kỳ diệu. Đối chiếu với Ê Sai 29 (Khoảng năm 559–545 TCN).
Chương XXVIII (28): Nhiều giáo hội giả được thành lập vào những ngày sau cùng. Họ sẽ giảng dạy những giáo điều sai lạc, vô ích và điên rồ. Sự bội giáo sẽ đầy dẫy vì các thầy giảng giả dối. Quỷ dữ sẽ gây cuồng nộ trong trái tim của loài người. Nó sẽ dạy dỗ loài người với mọi thứ giáo điều sai lạc (Khoảng năm 559–545 TCN).
Chương XXIX (29): Nhiều Dân Ngoại sẽ bác bỏ Sách Mặc Môn. Họ sẽ nói: Chúng tôi không cần cuốn Kinh Thánh nào khác nữa. Chúa phán dạy cùng nhiều dân tộc. Ngài sẽ phán xét thế gian theo như những điều được ghi chép trong các sách đó (Khoảng năm 559–545 TCN).
Chương XXX (30): Những người dân ngoại cải đạo sẽ được xem như dân giao ước. Nhiều dân La Man và dân Do Thái sẽ tin theo lời của Chúa và trở thành một dân tộc khả ái. Y Sơ Ra Ên sẽ được phục hồi và kẻ ác bị hủy diệt (Khoảng năm 559–545 TCN).
Chương XXXI (31): Nê Phi cho biết tại sao Đấng Ky Tô chịu phép báp têm. Loài người phải noi theo Đấng Ky Tô, chịu phép báp têm, tiếp nhận Đức Thánh Linh và kiên trì đến cùng để được cứu. Sự hối cải và phép báp têm là cổng vào con đường chật và hẹp. Cuộc sống vĩnh cửu đến với những ai biết tuân giữ các giáo lệnh sau phép báp têm (Khoảng năm 559–545 TCN).
Chương XXXII (32): Các thiên thần nói bằng quyền năng của Đức Thánh Linh. Loài người phải cầu nguyện để nhận được sự hiểu biết cho chính mình từ Đức Thánh Linh ban cho (Khoảng năm 559–545 TCN).
Chương XXXIII (33): Những lời của Nê Phi là chân thật. Những lời đó làm chứng về Đấng Ky Tô. Những ai tin Đấng Ky Tô sẽ tin những lời của Nê Phi, những lời đó sẽ đứng làm bằng chứng trước rào phán xét (Khoảng năm 559–545 TCN)
Xem thêm
Sách An Ma
Sách Abraham
Lời Thông sáng
Chú thích
Tham khảo
.
Liên kết ngoài
The First Book of Nephi from the official website of The Church of Jesus Christ of Latter-Day Saints
Mặc Môn giáo
Văn bản tôn giáo
|
19848361
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A9%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20qu%C3%A1n
|
Tứ phương quán
|
Tứ phương quán (tiếng Trung: 四方馆; tiếng Anh: Go East) là phim cổ trang hài của Trung Quốc được sản xuất vào năm 2023. Bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết 《Tây Vực Liệt Vương Ký》của tác giả Trần Tiệm. Tứ Phương Quán do Triệu Khởi Thần làm đạo diễn cùng với sự tham gia của các diễn viên Đàn Kiện Thứ, Châu Y Nhiên, Đỗ Thuần, Hám Thanh Tử. Bộ phim là câu chuyện của Nguyên Mạc, A Thuật, Vương Côn Ngô, Uất Trì Hoa cùng các chí sĩ tứ phương, những người mang lý tưởng cao cả, vì quốc gia và chính nghĩa mà sẵn lòng rèn giũa trưởng thành, dũng cảm tiến lên.
Bộ phim được khai máy vào ngày 5 tháng 7 năm 2023 và đóng máy vào 23 tháng 10 năm 2023 . Phim được dự kiến chiếu vào năm 2024.
Nội dung
Tại thành Trường Nhạc ở vương quốc Đại Ung có một vị cư dân tên là Nguyên Mạc, người thường ở tại cửa thành làm công tác cung cấp chứng nhận nhập thành cho người ngoại quốc. Không ngờ một ngày Nguyên Mạc vô tình bắt được một người lưu dân tới từ ngoại quốc tên là A Thuật có ý đồ trà trộn vào thành. Nguyên Mạc còn vô tình gặp gỡ Vương Côn Ngô, một vị tướng quân nơi biên quan bởi vì phạm sai lầm mà tới Tứ Phương Quán báo cáo công tác. Từ đây cuộc đời của Nguyên Mạc đã rẽ sang một phương hướng khác. Xưa nay chỉ thích sống tản mạn, lấy uống rượu làm niềm vui như Nguyên Mạc đã bị chủ nhân của Tứ Phương Quán kéo tới Tây viện trực thuộc Tứ Phương Quán làm việc, trở thành người một vị quan nhỏ chuyên phụ trách xử lý công tác ngoại giao với các quốc gia khác. Trời xui đất khiến, A Thuật trở thành Nguyên Mạc "tiểu tỳ nữ", Vương Côn Ngô trở thành Nguyên Mạc cấp trên, ngoài ra còn có nữ bá vương Uất Trì Hoa xuất thân hầu môn cũng tới Tứ Phương Quán làm việc. Nguyên Mạc từ bị cười nhạo là "phế vật" Tây viện dần dần trưởng thành lên sau mỗi lần phá giải các vụ án khó khăn.
Danh sách diễn viên
Nhân vật chính
Ngoài ra còn có sự tham gia của các diễn viên:
Tham khảo
https://weibo.com/7527272248/N8qa5fm9L?pagetype=profilefeed
https://weibo.com/7527272248/Np9RhbVyl?pagetype=profilefeed
https://baike.baidu.com/reference/56014369/533aYdO6cr3_z3kATP2CzPqiYCbHZYmovrXWA7VzzqIPmGapB4zkU4I74d8-8bllFQLPpdZhb9tahbejXkZE6fcSeOs3QLInm372UTfHz77l6Z5n2NwH49MXDe8B0a6zuwSv
https://baike.baidu.com/reference/56014369/533aYdO6cr3_z3kATPzamv6lZC_FZY796LDbAeFzzqIP0XOpTYDxFJE85cNx_fhqW1mb4sstMIFaxr3lCU1B7_YZeak0QLAmgy67Dm8
https://www.iq.com/album/%E5%9B%9B%E6%96%B9%E9%A6%86-2024-1yna9q18k7t?lang=en_us
Cổ trang
Hài kịch
Phim Trung Quốc
|
19848363
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich%20August%20II%20c%E1%BB%A7a%20Sachsen
|
Friedrich August II của Sachsen
|
Friedrich August II của Sachsen ( von Sachsen; 18 tháng 5 năm 1797 tại Dresden – 9 tháng 8 năm 1854 tại Brennbüchel, Karrösten, Tirol), là vị vua đời thứ 3 của Vương quốc Sachsen, thành viên của nhánh Albertine thuộc Triều đại Wettin.
Ông là con trai cả của Maximilian, Thái tử của Sachsen – con trai út của Tuyển đế hầu Friedrich Christian xứ Sachsen – với người vợ đầu tiên của ông, Caroline xứ Bourbon, Công nữ xứ Parma. Vì thế mà Friedrich August là cháu gọi 2 vị vua đầu tiên của Vương quốc Sachsen Friedrich August I và Anton I là bác.
Vợ đầu của ông là Nữ đại công tước Marie Caroline của Áo, vì thế ông là con rể của Hoàng đế Franz I của Áo, vợ thứ 2 của ông là Maria Anna của Bayern, con gái của Maximilian I Joseph, vị vua đầu tiên của Vương quốc Bayern. Dù có hai đời vợ, nhưng ông không có bất cứ người con hợp pháp nào, ngoại trừ 1 người con ngoài giá thú là Theodor Uhlig. Vì không có người thừa kế hợp pháp, cho nên sau khi qua đời bất ngờ vì tai nạn, ngai vàng của Sachsen đã được kế vị bởi người em trai út là Thân vương tôn Johann.
Tiểu sử
Khi được sinh ra đời, Friedrich August rõ ràng sẽ thừa kế ngai vàng Sachsen trong tương lai, vì cha của ông là Thân vương Maximilian là người duy nhất trong 3 con trai của Tuyển đế hầu Friedrich Christian có con thừa tự. Sau khi Anton I qua đời vào năm 1836, ngai vàng Sachsen sẽ được thừa kế bởi cha của Friedrich August, nhưng ông ấy đã từ bỏ quyền kế vị từ năm 1830, vì thế Friedrich August đã lên ngôi và lấy vương hiệu là Friedrich August III. Trước khi lên ngôi, ông là một sĩ quan trong Chiến tranh Liên minh thứ sáu, tuy nhiên, ông ít quan tâm đến vấn đề quân sự.
Đồng nhiếp chính với Vương quốc
Cách mạng Tháng Bảy năm 1830 ở Pháp đánh dấu sự khởi đầu của những xáo trộn ở Sachsen vào mùa thu năm đó. Người dân tuyên bố thay đổi hiến pháp và yêu cầu một nhiếp chính trẻ của vương quốc chia sẻ chính quyền với Vua Anton I. Vào ngày 1 tháng 9, Thân vương Maximilian từ bỏ quyền kế vị để nhường quyền thừa kế cho con trai của mình là Friedrich August, người được phong là Thân vương đồng nhiếp chính (Prinz-Mitregenten) của Sachsen. Vào ngày 2 tháng 2 năm 1832, Friedrich August đã mang lại Quyền tự chủ cho các thành phố. Ngoài ra, bằng một sắc lệnh ngày 17 tháng 3 năm đó, những người nông dân đã được giải phóng khỏi chế độ nông nô và sự phục tùng cha truyền con nối. Những cải cách tự do của ông nhanh chóng chấm dứt sự bất mãn người dân Sachsen.
Vua Sachsen
Vào ngày 6 tháng 6 năm 1836, Vua Anton I qua đời và Friedrich August lên kế vị. Là một người thông minh, ông nhanh chóng được dân chúng yêu mến như từ thời còn nhiếp chính. Vị vua mới giải quyết các vấn đề chính trị chỉ từ ý thức trách nhiệm thuần túy. Nhà vua hầu hết thích giao những việc này cho các bộ trưởng của mình hơn.
Một khu vực tài phán tiêu chuẩn cho Sachsen đã tạo ra Bộ luật Hình sự năm 1836. Trong các cuộc xáo trộn Cách mạng năm 1848 (Cách mạng Tháng Ba), ông đã bổ nhiệm các bộ trưởng theo chủ nghĩa tự do trong chính phủ, dỡ bỏ kiểm duyệt và bãi bỏ luật bầu cử tự do. Sau đó thái độ của nhà vua đã thay đổi. Vào ngày 28 tháng 4, Friedrich August II đã giải tán Nghị viện và vào năm 1849, ông buộc phải chạy trốn đến Pháo đài Königstein. Cuộc nổi dậy tháng Năm ở Dresden đã bị quân Sachsen và Phổ đè bẹp và Friedrich đã trở về kinh đô chỉ sau vài ngày.
Từ đó trở đi triều đại của ông được thái bình và thịnh vượng. Sau này Bá tước xứ Beust, lãnh đạo đảng Áo và phong kiến ở Sachsen, trở thành bộ trưởng chính và chỉ đạo chính sách của ông trong hầu hết các trường hợp.
Hành trình xuyên nước Anh và Scotland
Năm 1844, Friedrich August, cùng với bác sĩ riêng của ông là Carl Gustav Carus, đã có chuyến thăm không chính thức (ẩn danh) tới Vương quốc Anh và Scotland. Trong số những nơi họ đến thăm có Lyme Regis, nơi ông mua từ nhà sưu tập và buôn bán hóa thạch địa phương, Mary Anning, một bộ xương của loài Thằn lằn cá (ichthyosaur) bổ sung vào bộ sưu tập lịch sử tự nhiên phong phú của riêng ông. Đây không phải là một chuyến thăm cấp nhà nước, nhưng Nhà vua là khách mời của Nữ vương Victoria và Vương tế Albrecht tại Lâu đài Windsor, đã đến thăm nhiều thắng cảnh ở London và các thành phố đại học Oxford và Cambridge, đồng thời đi công du rộng rãi ở Anh, xứ Wales và Scotland.
Ngoài mối quan tâm đến hóa thạch, Friedrich August còn dành thời gian rảnh rỗi chủ yếu cho việc nghiên cứu thực vật học. Ông đã thực hiện các chuyến du ngoạn đến các quốc gia khác nhau và cuốn Flora Marienbadensis, oder Pflanzen und Gebirgsarten, gesammelt und beschrieben của ông được xuất bản ở Praha vào năm 1837.
Tử vong do tai nạn
Trong một chuyến hành trình ở Bá quốc Tirol, nhà vua gặp tai nạn tại Brennbüchel, khiến ông bị ngã trước một con ngựa và nó đã giẫm lên đầu ông. Vào ngày 8 tháng 8 năm 1854, ông qua đời tại Gasthof Neuner. Ông được chôn cất vào ngày 16 tháng 8 tại Katholische Hofkirche, Dresden. Để tưởng nhớ ông, Thái hậu Maria đã sắp xếp thành lập Königskapelle (Nhà nguyện của Vua) tại nơi xảy ra tai nạn, nơi này được thánh hiến một năm sau đó, một số thành viên cuối cùng của hoàng gia Sachsen, bao gồm Maria Emanuel, Bá tước xứ Meissen, đã được chôn cất bên cạnh nhà nguyện.
Hôn nhân và hậu duệ
Tại kinh đô Viên, Đế quốc Áo vào ngày 26 tháng 9 năm 1819 (theo ủy quyền) và một lần nữa ở Dresden, kinh đô của Sachsen vào ngày 7 tháng 10 năm 1819 (trực tiếp), Friedrich August kết hôn lần đầu với Nữ Đại Công tước Maria Caroline của Áo (Maria Karoline Ferdinande Theresia Josephine Demetria), con gái của Hoàng đế Franz I của Áo. Họ không có con.
Tại Dresden vào ngày 24 tháng 4 năm 1833, Friedrich August kết hôn lần thứ hai với Vương nữ Maria Anna của Bayern (Maria Anna Leopoldine Elisabeth Wilhelmine), con gái của Vua Maximilian I Joseph của Bayern. Giống như cuộc hôn nhân đầu tiên của ông, đây là cuộc hôn nhân không có con.
Nhạc sĩ Theodor Uhlig (1822–1853) là con ngoài giá thú của Friedrich August. Vì không có con hợp pháp, sau khi ông qua đời, Friedrich August đã được em trai ông là Thân vương tôn Johann kế vị.
Tổ tiên
Tham khảo
Tài liệu
Walter Fellmann: Sachsens Könige 1806–1918. Koehler&Amelang, München u. Berlin 2000, ISBN 3-7338-0233-0.
Maria Görlitz: Parlamentarismus in Sachsen. Königtum und Volksvertretung im 19. und frühen 20. Jahrhundert. Berlin 2011, ISBN 978-3-643-11073-2, S. 37–74.
Hans-Christof Kraus: Friedrich August II. (1836–1854) in: Frank-Lothar Kroll: Die Herrscher Sachsens. Markgrafen, Kurfürsten, Könige 1089–1918. C.H. Beck-Verlag, München 2007, ISBN 978-3-406-54773-7. S. 237–262.
Silke Marburg: Europäischer Hochadel – König Johann von Sachsen (1801–1873) und die Binnenkommunikation einer Sozialformation, Berlin 2008. ISBN 978-3-05-004344-9, S. 19, 150, 192, 292.
Albert Herzog zu Sachsen: Die Wettiner in Lebensbildern. Styria-Verlag, Graz u. a. 1995, ISBN 3-222-12301-2.
Bartolome Biasoletto: Reise Sr. Majestät des Königs Friedrich August von Sachsen durch Istrien, Dalmatien und Montenegro im Frühjahr 1838. Gottschalck, Dresden 1842 ().
Adolf von Deitenhofen: Fremde Fürsten in Habsburgs Heer 1848–1898, im Selbstverlage, 1898, S. 55.
Hiệp sĩ Lông cừu vàng Áo
Vua Sachsen
Vương tộc Wettin
Mất năm 1854
Sinh năm 1797
Quý tộc người Dresden
An táng tại Nhà thờ Dresden
Quân nhân Đức trong Chiến tranh Napoléon
Tử vong do tai nạn cưỡi ngựa ở Áo
|
19848366
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mitane%2C%20Akita
|
Mitane, Akita
|
là thị trấn thuộc huyện Yamamoto, tỉnh Akita, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 15.254 người và mật độ dân số là 62 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 247,98 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Akita
|
19848377
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20C%C3%BAp%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202000
|
Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2000
|
Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2000 là vòng loại do Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tổ chức để xác định các đội tham dự Cúp bóng đá châu Á 2000 (AFC Asian Cup 2000) cùng với đội chủ nhà và đương kim vô địch .
42 đội bóng là thành viên của AFC tham dự tranh tài để chọn ra 10 đội bóng còn lại tham dự AFC Asian Cup 2004.
Thể thức
42 đội được chia vào 10 bảng (3 bảng có 5 đội, 7 bảng có 4 đội và một bảng còn lại có 3 đội). Các đội thi đấu với nhau một hoặc hai lượt trận (tùy bảng đấu) để chọn ra đội nhất bảng tham dự AFC Asian Cup 2004.
Các bảng đấu
Bảng 1
Bảng 2
Các trận đấu diễn ra ở Tehran, Iran.
Bảng 3
Bảng 4
Bảng 5
</onlyinclude>
Note: At the time this match was the largest score difference in FIFA A-level matches.
Bảng 6
Bảng 7
Bảng 8
Played in Bangkok, Thailand.
Bảng 9
Note: At the time this match was the largest score difference in FIFA A-level matches.
Bảng 10
Các đội vượt qua vòng loại
In đậm chỉ năm đội đó vô địch, in nghiêng chỉ năm đội đó là nước chủ nhà.
Liên kết ngoài
RSSSF Details
|
19848379
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A0y%20c%E1%BB%A7a%20Cha%20M%E1%BA%B9
|
Ngày của Cha Mẹ
|
Ngày của Cha Mẹ là một ngày lễ được tổ chức ở nhiều quốc gia trên thế giới nhằm tôn vinh và tri ân công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Ngày lễ này thường được tổ chức vào một ngày cụ thể trong năm, tùy thuộc vào phong tục của mỗi quốc gia. Vào năm 2012, Liên Hợp Quốc đã tuyên bố ngày 1 tháng 6 là Ngày Cha Mẹ trên toàn cầu. Đây là một ngày để ghi nhận "lòng hy sinh quên mình của cha mẹ dành cho con cái và sự cống hiến suốt đời để nuôi dưỡng mối quan hệ thiêng liêng này".
Tại các quốc gia
Hàn Quốc
Ở Hàn Quốc, Ngày của Cha Mẹ ( Eobeoinal) được tổ chức vào ngày 8 tháng 5 hàng năm. Trước đây, Hàn Quốc cũng có Ngày của Mẹ vào ngày 8 tháng 5. Tuy nhiên, vào năm 1973, hai ngày lễ này đã được gộp lại thành Ngày của Cha Mẹ. Sự thay đổi này nhằm thể hiện sự tôn kính, yêu thương và trân trọng của con cái dành cho cả cha và mẹ.
Hoa Kỳ
Ở Hoa Kỳ, Ngày của Cha Mẹ được tổ chức vào Chủ nhật thứ tư của tháng Bảy hàng năm. Đây là ngày lễ chính thức do Quốc hội Hoa Kỳ lập ra vào năm 1994 dưới thời Tổng thống Bill Clinton. Nghị quyết thành lập ngày lễ này () nhằm mục đích "ghi nhận, tôn vinh và hỗ trợ vai trò của cha mẹ trong việc nuôi dạy con cái." Nghị quyết được Thượng nghị sĩ Cộng hòa Trent Lott đề xuất và nhận được sự ủng hộ của Giáo hội Thống nhất.
Xem thêm
Các ngày nghỉ lễ ở Hàn Quốc
Ngày của Ông bà
Ngày của Mẹ
Ngày của Cha
Chú thích
Ngày Liên Hợp Quốc
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Bảy
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Sáu
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Năm
|
19848383
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khao%20poon
|
Khao poon
|
Khao poon (, ); hay còn biết đến với tên gọi Bún cà ri Hoàng gia Lào hay Laksa Lào và đôi khi được đánh vần là kapoon, khao poun hoặc khao pun) là một món ăn trứ danh trong nền ẩm thực Lào. Khao poon
là một loại bún gạo Lào thường được ăn kèm với thịt gà, cá hoặc thịt lợn giã nhuyễn trong nước dùng nước cốt dừa (hoặc không có) và nêm với các gia vị Lào truyền thống như nước mắm, padaek, lá chanh, riềng, tỏi, hành tím, ớt Lào và diếp cá. Các biến thể khác nhau của món ăn có mặt ở Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Campuchia, Singapore và Hoa Kỳ.
Lịch sử ra đời
Quá trình làm khao poon có thể do tổ tiên của người Lào mang lại khi họ di cư đến Tiểu vùng Sông Mekong Mở rộng từ miền Nam Trung Quốc. Cũng có khả năng món bún khao poon được các thương gia Trung Quốc giới thiệu đến Lào vì Luang Prabang và Viêng Chăn là một phần của tuyến đường thương mại cổ xưa với Trung Quốc. Người Lào đã làm món khao poon để bán ở chợ và để tiêu dùng từ rất lâu trước khi người Pháp vào những năm 1800.
Cà ri nước cốt dừa có lẽ đã được du nhập vào Lào trong thời kỳ Ấn hóa Lan Xang vào thế kỷ 14 bởi người Khmer, các thương nhân Ấn Độ, hoặc thậm chí ngay từ thế kỷ 7 bởi các tu sĩ Phật giáo. Vài thế kỷ sau, Lan Xang đã ký một hợp đồng với Công ty Đông Ấn Hà Lan và giao thương trực tiếp với thế giới qua các cảng của Campuchia.
Khao poon thường được mô tả là món bún cà ri dừa của Hoàng gia Lào do có màu đỏ tươi và vàng tượng trưng.
Công thức truyền thống cho các loại khao poon khác nhau phục vụ hoàng gia Lào có thể được tìm thấy trong bộ sưu tập các công thức nấu ăn viết tay của Phia Sing (1898-1967), đầu bếp riêng của nhà vua và người chủ trì nghi lễ. Công thức viết tay của ông được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1981.
Nhà văn và nhà làm phim người Mỹ, Harry Hervey (1900-1951), đã mô tả khao poon là một loại bún nấu nước dùng trong lời kể của ông về bữa tối do Hoàng thân Lào Phetsarath Rattanavongsa (1890-1959) mời tại Luang Prabang, Lào, trong chuyến du hành tới Đông Dương thuộc Pháp vào những năm 1920. Trong những năm 1950, André-Yvette Gouineau, chiến sĩ kháng chiến nổi tiếng người Pháp và anh hùng dân tộc của đất nước này, là một giáo sư tại Viêng Chăn, Lào, đã sưu tầm một số công thức nấu ăn truyền thống của Lào bao gồm cả khao poon. Gouineau mô tả khao poon là một "món bún ăn kèm với rau sống và nước xốt đặc biệt; rất bổ dưỡng."
Công thức của Gouineau giống với công thức làm món khao poon nam phrik của Phia Sing. Hai công thức nấu ăn đều bao gồm: sử dụng kết hợp thịt lợn và cá đã nấu chín rồi nghiền trong chày và cối cùng với gia vị và thảo mộc trước khi thêm hỗn hợp vào nước cốt dừa mới vắt, padaek và nước dùng. Món ăn được dùng kèm với hoa chuối thái mỏng, giá đỗ và bạc hà. Lớp cuối cùng của khao poon được mô tả tỉ mỉ trong công thức là "đổ bún vào đáy bát, thêm nhiều loại rau sống khác nhau tùy theo khẩu vị và sở thích và thêm thật nhiều nước xốt kem."
Biến thể
Có nhiều biến thể khác nhau của món khao poon, bao gồm:
Khao poon nam phik, hay còn được gọi là khao poon nam kathee (kèm nước cốt dừa)
Khao poon nam jaew (không có nước cốt dừa), khao poon nam par (kèm nước mắm)
Khao poon nam ped - Bún cà ri vịt Lào
Khao poon nam paa - Bún cà ri cá Lào
Khao poon nam gai - Bún cà ri gà Lào
Xem thêm
Mee ka tee
Bún (Việt Nam)
Laksa (Indonesia, Malaysia, Singapore)
Xúp
Tham khảo
Ẩm thực Lào
Bún
Cà ri
|
19848384
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/2024%20t%E1%BA%A1i%20L%C3%A0o
|
2024 tại Lào
|
Dưới đây là sự kiện trong năm tại Lào 2024.
Đương nhiệm
Sự kiện
Mất
Xem thêm
Tham khảo
Lào năm 2024
2024
2024
Châu Á năm 2024
Năm 2024 theo quốc gia
|
19848387
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Feodora%20Karola%20x%E1%BB%A9%20Sachsen-Meiningen
|
Feodora Karola xứ Sachsen-Meiningen
|
Feodora Karola xứ Sachsen-Meiningen (Feodora Karola Charlotte Marie Adelheid Auguste Mathilde; 29 tháng 5 năm 1890 – 12 tháng 3 năm 1972) là con gái của Friedrich Johann xứ Sachsen-Meiningen và Adelheid xứ Lippe-Biesterfeld. Thông qua hôn nhân, bà là Nữ Đại công tước xứ Sachsen-Weimar-Eisenach.
Thân thế
Feodora Karola là người con cả của Friedrich Johann xứ Sachsen-Meiningen, con trai thứ của Georg II xứ Sachsen-Meiningen và Adelheid xứ Lippe-Biesterfeld, con gái của Ernst xứ Lippe-Biesterfeld và Karoline xứ Wartensleben.
Hôn nhân
Trong chuyến thăm mùa hè tới cung điện Wilhelmshöhe, Feodora đã bị người họ hàng là Hoàng đế Wilhelm II của Đức thúc giục kết hôn với Wilhelm Ernst I xứ Sachsen-Weimar-Eisenach đang ở góa. Wilhelm Ernst đã phục vụ trong lực lượng pháo binh Phổ trong khoảng thời gian đó. Tuy nhiên, bất chấp là người có công tác hợp, Hoàng đế Wilhelm đã từ chối tham dự đám cưới. Điều này gây ra nhiều đồn đoán vì vợ chồng Hoàng đế rất thân thiết với Đại Công tước. Nhiều người cho rằng nguyên nhân là do sự thù địch giữa Wilhelm II và ông nội của Feodora là Georg II xứ Sachsen-Meiningen, người đã có một cuộc hôn nhân không đăng đối với Ellen Franz, dẫn đến gây đã làm mất lòng nhiều người, trong đó có Wilhelm II. Georg là người cai trị đương thời duy nhất của một lãnh thổ thuộc Đức chưa bao giờ đến thăm Hoàng đế khi Wilhelm II lên ngôi vào năm 1888, và cũng chưa bao giờ tiếp đón bất kỳ vị khách hoàng gia Đức nào tại triều đình của mình. Sự phản đối của Wilhelm thậm chí còn đáng ngạc nhiên hơn khi Hoàng đế đã cho phép người em họ Friedrich Wilhelm Viktor của Phổ kết hôn với một quý tộc có địa vị thấp hơn nhiều là Agatha xứ Hohenlohe-Schillingsfürst, đặc biệt hơn là khi cuộc hôn nhân giữa Friedrich Wilhelm Viktor và Agatha lại nghịch với quy định nghiêm ngặt của Vương tộc Hohenzollern.
Việc Hoàng đế Wilhelm II tẩy chay đám cưới đã gây phẫn nộ mạnh mẽ ở Sachsen-Meiningen đến nỗi, khi báo chí đưa tin rằng Wilhelm II sẽ không tham dự đám cưới, cung điện đã chính thức tuyên bố rằng Hoàng đế Wilhelm II không hề được mời đến hôn lễ.
Ngày 14 tháng 1 năm 1910 tại Meiningen, Feodora kết hôn với Wilhelm Ernst. Feodora là vợ thứ hai của Wilhelm Ernst (người vợ đầu tiên là Caroline Reuß xứ Grei, qua đời chỉ 18 tháng sau khi kết hôn và cũng không có con với Wilhelm Ernst). Cuộc hôn nhân đầu tiên của Wilhelm Ernst không hạnh phúc vì Caroline không thích triều đình Weimar, thậm chí là đã trốn sang Thụy Sĩ. Sau khi được thuyết phục trở lại triều đình, cái chết của Caroline ngay sau đó được một số người cho là do tự sát.
Đời sống cung đình
Tuy nhiên, Feodora cũng có đời sống hôn nhân không hạnh phúc; Triều đình Weimar thường được coi là một trong những nơi ngột ngạt và trọng lễ nghi nhất ở Đức. Một nguồn đã kể lại rằng:
"Triều đình ấy vây quanh các thành viên vương thất như một hình thức giam cầm, và trong khi Đại Công tước vẫn duy trì điều đó và quá bảo thủ để chấp nhận bất kỳ thay đổi nào, nó nghiền nát những thành viên có tâm hồn tự do hơn".Feodora không hạnh phúc trong không khí ngột ngạt của triều đình. Khi được 23 tuổi, có thông tin rò rỉ rằng Nữ Đại công tước đang ở viện điều dưỡng để chăm sóc sức khỏe. Nữ Đại công tước đã mắc phải một cơn bệnh sởi và sốt ban đỏ nghiêm trọng khi đến thăm một bệnh viện tâm thần do Feodora thành lập. Sự quan tâm ngày càng lớn của Feodora đối với bệnh viện đặc biệt này được cho là do Feodora không hạnh phúc tại triều đình và sự quan tâm này được coi là cách Feodora tìm kiếm lối thoát cho bản thân. Những nguyên tắc xã giao cực đoan cũng tạo nên khoảng cách giữa Feodora với chồng và các con. Mặc dù có các ghi nhận rằng Wilhelm Ernst không quá khắc nghiệt, nhưng một nguồn tin đã thuật về ngài Đại Công tước như sau:
"Một trong những vị quân chủ giàu có nhất ở châu Âu; điềm tĩnh, hành xử đúng mực, thấm nhuần niềm tự hào về chủng tộc và rất coi trọng về việc được Chúa xức dầu. Ông cũng là một trong những vị quân chủ Đức được kính trọng và đứng đắn nhất... Đại Công tước lại là người rất buồn tẻ, triều đình và môi trường cũng phản ánh khía cạnh của ông đến mức Weimar đã trở thành thủ đô buồn tẻ nhất ở châu Âu".Feodora rất được tầng lớp trung lưu và hạ lưu ở Weimar yêu mến; điều này phần lớn là do sự duyên dáng và lòng tốt của Nữ Đại công tước đối với người nghèo khổ và những người gặp khó khăn.
Cuộc sống sau này
Ngày 9 tháng 11 năm 1918, Wilhelm Ernst — cùng với các quân chủ Đức còn lại sau thất bại của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất — buộc phải thoái vị. Wilhelm Ernst do đó buộc phải từ bỏ ngai vàng và tất cả đất đai và cùng gia đình bỏ trốn đến điền trang riêng của gia đình ở Silesia, nơi cựu Đại Công tước qua đời 4 năm sau đó. Feodora qua đời vào ngày 12 tháng 3 năm 1972 tại Freiburg im Breisgau, Đức, thọ 81 tuổi.
Con cái
Feodora và chồng có bốn người con:
Gia phả
Ghi chú
Tham khảo
|-
Công nữ Sachsen-Meiningen
Gia tộc Sachsen-Meiningen
Đại Công tước phu nhân xứ Sachsen-Weimar-Eisenach
Gia tộc Sachsen-Weimar-Eisenach
Sinh năm 1890
Mất năm 1972
|
19848388
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20V%C4%83n%20T%C4%A9nh
|
Nguyễn Văn Tĩnh
|
Nguyễn Văn Tĩnh (1911 – ?), thường gọi là Tinh Hoa, là một chính khách Việt Nam. Ông từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I.
Cuộc đời
Nguyễn Văn Tĩnh là một tín hữu Công giáo thuộc giai cấp tư sản dân tộc. Gia đình ông mở một tiệm kinh doanh vải sợi may mặc ở giữa con phố lớn trong thành phố Thanh Hóa (nay là đường Trần Phú). Tháng 8 năm 1945, gia đình ông hưởng ứng Cách mạng Tháng Tám. Tháng 9, khi Chính phủ phát động lời kêu gọi Tuần lễ vàng để gây quỹ ngân sách quốc gia, gia đình ông đã đóng góp 100 lạng vàng.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, ông trúng cử Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa. Cuối tháng 2 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật đến Thanh Hóa để gặp mặt khích lệ tinh thần quần chúng cũng như đưa ra ý kiến để xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh "kiểu mẫu". Ông hưởng ứng và đóng góp 400 vạn trong tổng 600 vạn quỹ xây dựng tỉnh "kiểu mẫu".
Tháng 4 năm 1954, Nguyễn Văn Tĩnh bị bắt giữ và chịu án chung thân, bị Quốc hội truất tư cách Đại biểu. Năm 1957, ông được ân xá và tiếp tục công tác trong chính quyền tỉnh, trải qua hai cuộc kháng chiến. Ngày 1 tháng 4 năm 1976, ông nghỉ hưu ở tuổi 65 với mức lương chuyên viên bậc 3.
Chú thích
Người Thanh Hóa
Tín hữu Công giáo Việt Nam
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I
|
19848400
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kieuk
|
Kieuk
|
Kieuk (ký tự: ㅋ; ) là một phụ âm trong bảng chữ cái hangul của tiếng Hàn. Mã Unicode củaㅋ là U+314B. Theo IPA, âm này đọc là khi là phụ âm đầu và khi là phụ âm cuối đọc là
Cách viết
Sử dụng trong văn hóa đại chúng
Trong ngôn ngữ lóng dùng trên mạng xã hội ở Hàn Quốc, ㅋ (viết tắt của ) thể hiện tiếng cười. Khi ghép lại nhiều âm với nhau có thể hiểu như tiếng cười.
Tham khảo
Hangul jamo
|
19848401
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adelheid%20Erna%20x%E1%BB%A9%20Sachsen-Meiningen
|
Adelheid Erna xứ Sachsen-Meiningen
|
Adelheid Erna xứ Sachsen-Meiningen (tiếng Đức: Adelheid Erna von Sachsen-Meiningen; 16 tháng 8 năm 1891 – 25 tháng 4 năm 1971), là con gái của Friedrich Johann xứ Sachsen-Meiningen và Adelheid xứ Lippe-Biesterfeld. Năm 1914, bà kết hôn với Vương tử Adalbert và trở thành Vương tức Adalbert của Phổ.
Thân thế
Adelheid Erna xứ Sachsen-Meiningen sinh vào ngày 16 tháng 8 năm 1891 tại Kassel, miền trung nước Đức. Adelheid Erna là người con thứ hai của Friedrich Johann xứ Sachsen-Meiningen và Adelheid xứ Lippe-Biesterfeld. Cha bà là con trai áp chót của Georg III xứ Sachsen-Meiningen và Feodora xứ Hohenlohe-Langenburg. Mẹ bà là con gái của Ernst, Bá tước xứ Lippe-Biesterfeld, nhiếp chính của Thân vương quốc Lippe từ năm 1897 cho đến khi qua đời, và Karoline xứ Wartensleben. Adelheid Erna có tổng cộng sáu anh chị em, trong đó có Georg, tù nhân chiến tranh mất tại Cherepovets vào năm 1892 và Bernhard, sau trở thành gia chủ nhà Sachsen-Meiningen. Trong gia đình, Công nữ được gọi là Adi.
Hôn nhân
Vào ngày 3 tháng 8 năm 1914, khi chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Adelheid kết hôn với Vương tử Adalbert của Phổ, con trai thứ ba của Hoàng đế Wilhelm II của Đức và Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg, tại Wilhelmshaven, Schleswig-Holstein, Đức. Vào ngày 23 tháng 8 năm 1914, cha của Adelheid, Friedrich Johann xứ Sachsen-Meiningen mất do tham gia chiến tranh. Chưa đầy một tháng sau khi kết hôn, có tin đồn rằng Vương tử Adalbert thiệt mạng trong một trận chiến ở Bruxelles. Tháng 3 năm 1915, Vương tử Aldabert được thăng cấp thành Đại úy hải quân và Thiếu tá lục quân.
Adelheid và Adalbert có ba người con:
Viktoria Marina của Phổ (4 tháng 9 năm 1915 – 4 tháng 9 năm 1915) qua đời ngay sau khi sinh, mặc dù Adelheid được cho là đang ở "tình trạng ổn định".
Viktoria Marina của Phổ (11 tháng 9 năm 1917 – 21 tháng 1 năm 1981), kết hôn với Kirby Patterson (24 tháng 7 năm 1907–4 tháng 6 năm 1984) vào ngày 26 tháng 9 năm 1947. Hai vợ chồng có ba người con và một cháu trai:
Berengar Orin Bernhard Kirby Patterson (21 tháng 8 năm 1948-18 tháng 5 năm 2011) kết hôn với Pamela Knight vào năm 1994.
Marina Adelaide Emily Patterson (21 tháng 8 năm 1948-10 tháng 1 năm 2011) kết hôn với John Engel vào ngày 24 tháng 9 năm 1982. Hai người có một con trai:
William John Engel (17 tháng 2 năm 1983)
Dohna Maria Patterson (7 tháng 8 năm 1954) bà kết hôn với Stephen Pearl vào ngày 28 tháng 7 năm 1974.
Wilhelm Victor của Phổ (15 tháng 2 năm 1919 – 7 tháng 2 năm 1989), kết hôn tại Donaueschingen vào ngày 20 tháng 7 năm 1944 với Marie Antoinette, Nữ bá tước xứ Hoyos (Hohenthurm, 27 tháng 6 năm 1920 – Marbella, 1 tháng 3 năm 2004). Hai người có hai con, năm cháu và một chắt.
Cuộc sống sau này
Sau khi Wilhelm II thoái vị vào năm 1918, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Adalbert tìm nơi ẩn náu trên du thuyền của mình, nơi được một thủy thủ đoàn trung thành gìn giữ. Adelheid và các con nhanh chóng cố gắng đến với Aldabert bằng cách di chuyển bằng tàu hỏa từ Kiel. Tuy nhiên, kế hoạch buộc phải dời lại và ba mẹ con đến ở miền nam Bayern cùng với vợ chồng Vương tử Heinrich Franz của Bayern (cháu trai của Ludwig III của Bayern). Adelheid và các con sau đó đoàn tụ với chồng.
Adelheid qua đời vào ngày 25 tháng 4 năm 1971 tại La Tour-de-Peilz, Thụy Sĩ. Chồng của Adelheid, Aldabert đã qua đời trước đó 23 năm, vào ngày 22 tháng 9 năm 1948, tại cùng nơi mà Adelheid Erna qua đời.
Gia phả
Tham khảo
Công nữ Sachsen-Meiningen
Gia tộc Sachsen-Meiningen
Vương tức Phổ
Vương tộc Hohenzollern
Sinh năm 1891
Mất năm 1971
|
19848406
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ferrando%20I%20c%E1%BB%A7a%20Arag%C3%B3n
|
Ferrando I của Aragón
|
Ferrando I của Aragón (27 tháng 11 năm 1380 - 2 tháng 4 năm 1416 tại Igualada, Òdenacòn) còn được gọi là Fernando của Antequerhay hay Người công bằng (Người trung thực), là vua của Aragon, Valencia, Majorca, Sardinia và (trên danh nghĩa) Corsica, vua của Sicilia, công tước (danh nghĩa) của Athens và Neopatria, bá tước xứ Barcelona, Roussillon và Cerdanya (1412–1416). Ông cũng là nhiếp chính của Castile (1406–1416).
Tham khảo
Thư mục
TN Bisson, The Medieval Crown of Aragon .ISBN 0-19-820236-9
Liên kết ngoài
Ferdinand I của Catalonia-Aragon trong Hyperencyclopaedia Catalan
HJ Chaytor, Lịch sử Aragon và Catalonia, ch. 14, "'Thỏa hiệp' của Caspe".
La Monarquía Hispánica: Fernando I el de Antequera (1412-1416) (bằng tiếng Tây Ban Nha)
Nội dung Francesca Español Bertran trên lăng mộ của ông bằng tiếng Poblet (bằng tiếng Tây Ban Nha)
Vương tử Castilla
Vương tộc Trastámara
Mất năm 1416
Sinh năm 1380
Vua Aragón thế kỷ 15
Vua Sicilia thế kỷ 15
Vua Majorca
Vua Valencia
An táng tại Tu viện Poblet
Bá tước xứ Malta
Bá tước xứ Barcelona
|
19848414
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alifonso%20V%20c%E1%BB%A7a%20Arag%C3%B3n
|
Alifonso V của Aragón
|
Alifonso V của Aragón, hay Alifonso Hào hiệp (tiếng Catalan: Alfons el Magnànim) (139627 tháng 6 năm 1458) là Vua của Aragon và Vua của Sicilia (với tên gọi Alfonso V), người cai trị Vương quyền Aragon từ năm 1416 và Vua của Napoli (với tên gọi Alfonso I) từ năm 1442 cho đến khi qua đời. Ông đã tham gia vào cuộc chiến tranh tranh giành ngai vàng Vương quốc Napoli với Louis III của Anjou, Joanna II của Napoli và những người ủng hộ họ, cuối cùng thất bại và mất Napoli vào năm 1424. Ông chiếm lại vương quốc này vào năm 1442 và lên ngôi vua của Napoli. Ông cũng hoạch định các mối quan hệ ngoại giao với Đế quốc Ethiopia và là một nhân vật chính trị nổi bật của thời kỳ đầu Phục hưng.
Chú thích
Tham khảo
Thư mục
Đọc thêm
Vua Napoli
Vương tử Aragón
Vương tử Napoli
Vương tộc Trastámara
Vương tử
Hiệp sĩ Garter
Sinh năm 1396
Mất năm 1458
Vua Aragón thế kỷ 15
Vua Sicilia thế kỷ 15
Vua Napoli thế kỷ 15
Người Medina del Campo
Vua Majorca
Vua Valencia
Bá tước xứ Barcelona
An táng tại Tu viện Poblet
Bá tước xứ Malta
|
19848415
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Guildford%20Dudley
|
Guildford Dudley
|
Guildford Dudley (cũng được gọi là Guilford) (k. 1535 – 12 tháng 2 năm 1554) là một nhà quý tộc người Anh kết hôn với Jane Grey, người được tôn thành nữ vương nước Anh từ ngày 10 tháng 7 cho đến ngày 19 tháng 7 năm 1553 sau khi được tuyên bố là người thừa kế của Quốc vương Edward VI của Anh. Guildford Dudley được giáo dục theo chủ nghĩa nhân văn và kết hôn với Jane trong một đám cưới hoành tráng khoảng sáu tuần trước khi nhà vua qua đời. Sau khi cha của Guildford, Công tước xứ Northumberland, sắp xếp việc lên ngôi của Jane, Jane và Guildford dành thời gian cai trị ngắn ngủi của mình tại Tháp Luân Đôn. Họ vẫn ở trong Tháp khi chế độ của họ sụp đổ và ở đó tại các khu khác nhau với tư cách là tù nhân. Họ bị kết án tử hình vì tội phản quốc vào tháng 11 năm 1553. Nữ vương Mary I có ý muốn tha mạng cho họ, nhưng cuộc nổi loạn của Thomas Wyatt chống lại kế hoạch kết hôn với Felipe của Tây Ban Nha của Mary đã dẫn đến việc xử tử cặp vợ chồng trẻ, một biện pháp được nhiều người coi là quá khắc nghiệt.
Gia đình và hôn nhân
Guildford Dudley là con trai áp út còn sống của John Dudley, sau này là Công tước xứ Northumberland và vợ ông, Jane Guildford. Dòng dõi Dudley có nguồn gốc từ một gia đình tên là Sutton. Vào đầu thế kỷ 14, họ trở thành lãnh chúa của Lâu đài Dudley, tước vị mà Guildford được thừa kế từ ông nội Edmund Dudley, ủy viên viện cơ mật của Henry VII, người bị xử tử vào năm 1510 sau khi Henry VIII lên ngôi. Thông qua bà nội, Elizabeth Grey, Nữ nam tước thứ 6 xứ Lisle, Guildford là hậu duệ của các anh hùng trong Chiến tranh Trăm năm, Richard Beauchamp, Bá tước thứ 13 xứ Warwick và John Talbot, Bá tước thứ nhất xứ Shrewsbury.13 đứa con nhà Dudley lớn lên trong một gia đình theo đạo Tin lành và được giáo dục theo chủ nghĩa nhân văn. Dưới thời vị vua trẻ Edward VI, cha của Guildford trở thành Chủ tịch Hội đồng và trên thực tế đã cai trị nước Anh từ năm 1550 đến năm 1553. Nhà ghi chép biên niên sử Richard Grafton, người biết ông, đã mô tả Guildford là "một quý ông đẹp trai, đức độ và tốt bụng". Năm 1552, Northumberland cố gắng sắp xếp cuộc hôn nhân giữa Guildford và Margaret Clifford không thành công. Thay vào đó, vào mùa xuân năm 1553, Guildford đính hôn với Jane Grey, mười sáu tuổi. Jane Grey và Margaret Clifford đều là chắt gái của vua Henry VII, nhưng Jane có vị trí cao hơn trong thứ tự kế vị. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1553, ba đám cưới được tổ chức tại Durham Place, dinh thự thị trấn của Công tước xứ Northumberland. Guildford kết hôn với Jane; em gái ông là Katherine kết hôn với Henry Hastings, người thừa kế của Bá tước xứ Huntingdon; và em gái của Jane là Katherine kết hôn với Lãnh chúa Herbert, người thừa kế của Bá tước Pembroke Đó là một lễ hội hoành tráng với những cuộc đấu ngựa đấu thương, trò chơi và biểu diễn masque. Đối với trường hợp sau, hai đoàn hát khác nhau đã được thuê, một nam, một nữ. Các đại sứ Venezia và Pháp là khách mời, và có "một số lượng lớn dân thường ... và những người đứng đầu vương quốc". Guildford và một số người khác bị ngộ độc thực phẩm do "một sai lầm của người đầu bếp dùng sai lá".
Tuyên bố vương quyền
Trong chúc thư kế vị, vua Edward VI đã truyền ngôi cho Jane Grey, cháu ngoại của cô ruột mình là Mary Tudor, bỏ qua những người chị cùng cha khác mẹ của ông, Mary và Elizabeth. Sau cái chết của Edward vào ngày 6 tháng 7 năm 1553, Công tước Northumberland đảm nhận việc thực thi di chúc của Nhà vua. Các sứ giả của Đế quốc La Mã Thần thánh và Pháp tin chắc vào sự thành công của kế hoạch. Jane miễn cưỡng chấp nhận vương miện, bà đã nhượng bộ sau khi bị một nhóm quý tộc khiển trách, trong đó có cả cha mẹ của mình lẫn của chồng, trong khi Guildford tán thành bằng một cách đáng yêu hơn, với "những lời cầu nguyện và vuốt ve". Vào ngày 10 tháng 7, Jane và Guildford đã làm lễ bước vào Tháp Luân Đôn. Tại đó, Guildford muốn được phong làm vua; theo lời kể sau này của chính Jane, bà đã thảo luận rất lâu về vấn đề này với Guildford, người "đồng ý rằng nếu ông ấy được phong làm vua, ông sẽ được tôi phong, theo Đạo luật của Quốc hội". Tuy nhiên, Jane chỉ đồng ý phong ông làm Công tước xứ Clarence; Guildford trả lời rằng ông không muốn trở thành công tước mà là nhà vua. Khi Công tước phu nhân Northumberland nghe được cuộc tranh cãi, bà trở nên tức giận và cấm Guildford ngủ với vợ mình lần nào nữa. Bà cũng ra lệnh cho ông rời khỏi Tháp và về nhà, nhưng Jane nhất quyết yêu cầu ông ở lại triều đình bên cạnh bà.
Theo nhận xét sau đó của các đại sứ Vương thất, các cuộc họp hàng ngày của Hội đồng do Guildford chủ trì, người được cho là cũng đã ăn tối một mình và tự xưng hô theo phong cách vương giả. Antoine de Noailles, đại sứ Pháp, mô tả Guildford là "Vị vua mới". Triều đình ở Brussels cũng tin vào sự tồn tại của Vua Guildford.
Bị cầm tù
Vào ngày 10 tháng 7, cùng ngày với lời tuyên bố của Jane, một lá thư từ Mary Tudor đã được gửi đến London, nói rằng bà hiện là Nữ vương Anh và yêu cầu Hội đồng phải tuân theo. Mary đang tập hợp những người ủng hộ bà ở Đông Anglia; người ta quyết định ra sân chống lại bà sau một số cuộc thảo luận xem ai sẽ đi, trong đó Jane đảm bảo rằng cha bà sẽ không đi. Công tước xứ Northumberland hành quân đến Cambridge cùng quân đội của mình và trải qua một tuần không có hành động gì cho đến khi ông nghe tin vào ngày 20 tháng 7 rằng Hội đồng ở London đã tuyên bố ủng hộ Mary. Northumberland tự tôn xưng Mary Tudor ở chợ và bị bắt vào sáng hôm sau. Vào ngày 19 tháng 7, vài giờ trước lễ tuyên bố của Nữ vương Mary I ở London, lễ rửa tội cho một trong những đứa con của Quý ông Hưu trí đã diễn ra. Jane đã đồng ý làm mẹ đỡ đầu và mong muốn tên đứa trẻ là Guildford. Giám mục của Winchester, Stephen Gardiner, người đã bị giam trong Tháp trong 5 năm, đã vô cùng xúc phạm trước sự thật này khi nghe về nó.
Nhận thức được sự thay đổi ý định của các đồng nghiệp, cha của Jane, Công tước xứ Suffolk, từ bỏ quyền chỉ huy pháo đài và tôn xưng Mary I trên Tower Hill gần đó. Sau khi ông rời đi, vợ ông được thông báo rằng bà cũng có thể về nhà, trong khi Jane, Guildford và Công tước phu nhân xứ Northumberland không được phép làm vậy. Jane sau đó được chuyển từ căn hộ hoàng gia đến chỗ ở của Quý Cai ngục và Guildford bị giam trong Tháp Chuông. Ở đó, anh trai của ông Robert, đã sớm được đưa vào. Những người anh em còn lại của ông bị giam trong các tòa tháp khác, cũng như cha ông, khi đó là người nổi bật nhất bị lên đoạn đầu đài; Mary đã sẵn sàng tha mạng cho Jane và Guildford.
Jane và Guildford bị truy tố vào ngày 12 tháng 8, và Jane đã gửi một lá thư giải thích lên Nữ vương, "cầu xin sự tha thứ ... về tội lỗi mà bà ấy bị buộc tội, thông báo cho bệ hạ về sự thật của sự việc." Trong lời kể này, bà tự nhận mình là "người vợ yêu chồng". Vào ngày 13 tháng 11 năm 1553, Jane và Guildford bị xét xử tại Guildhall, cùng với Tổng giám mục Cranmer và các anh trai của Guildford là Ambrose và Henry. Tất cả họ đều bị kết tội phản quốc sau khi nhận tội. Guildford bị kết tội có ý định phế truất Nữ vương Mary I bằng cách gửi quân tới chỗ Công tước xứ Northumberland cũng như tuyên bố và tôn vinh Jane là Nữ vương.
Vào tháng 12, Jane được phép đi lại tự do trong vườn của Nữ vương. Trong khi đó, Robert và Guildford chỉ được ở trong Tháp. Jane và Guildford có thể đã có liên lạc với nhau, và một lúc nào đó Guildford đã viết một lời nhắn cho cha vợ mình trong cuốn sách cầu nguyện của Jane:Đứa con trai yêu thương và vâng lời của ông cầu chúc cho ngài cuộc sống lâu dài trên thế giới này với nhiều niềm vui và sự thoải mái như tôi từng mong ước cho chính mình và trong thế giới sắp tới niềm vui vĩnh cửu. Con trai khiêm tốn của cha cho đến chết, G. Dudley
Xử tử
Kế hoạch kết hôn với vua Felipe của Napoli và Sicilia (Felipe II tương lai của Tây Ban Nha) của Nữ vương Mary I đã vấp phải sự phản đối rộng rãi, không chỉ trong dân chúng mà còn giữa các Thành viên Quốc hội và các ủy viên hội đồng cơ mật. Cuộc nổi dậy của Thomas Wyatt vào đầu năm 1554, trong đó Công tước xứ Suffolk tham gia, xuất phát từ vụ này. Những kẻ chủ mưu không có ý định đưa Jane Grey lên ngai vàng một lần nữa. Tuy nhiên, ở đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng quân sự vào khoảng ngày 7 tháng 2, chính phủ đã quyết định xử tử Jane và chồng bà vì tội phản quốc mà cả hai đều bị kết tội. Đó cũng là cơ hội để loại bỏ những nguồn cảm hứng có thể gây ra tình trạng bất ổn trong tương lai và những lời nhắc nhở không mong muốn về quá khứ. Mary gặp rắc rối khi để họ hàng mình chết, nhưng bà đã chấp nhận lời khuyên của Hội đồng Cơ mật. Giám mục Gardiner đã thúc giục việc xử tử cặp vợ chồng trẻ trong một bài giảng trước triều đình, và đại sứ Vương thất Simon Renard vui mừng báo cáo rằng "Jane xứ Suffolk và chồng bà sẽ mất đầu."
Một ngày trước khi hành quyết, Guildford yêu cầu Jane gặp mặt lần cuối, nhưng bà từ chối, giải thích rằng điều đó "sẽ chỉ ... làm tăng thêm sự đau khổ và đau đớn của họ, tốt hơn hết là nên hoãn lại ... vì họ sẽ sớm gặp nhau ở nơi khác, và sống bị ràng buộc bởi những mối ràng buộc không thể tách rời." Khoảng 10 giờ sáng ngày 12 tháng 2, Guildford được dẫn đến Tower Hill, nơi có "nhiều ... quý ông" chờ đợi để bắt tay ông. Guildford có một bài phát biểu ngắn trước đám đông đang tụ tập, theo thông lệ. "Không có người cha thánh linh nào ở bên mình", ông đã quỳ gối cầu nguyện và xin mọi người cầu nguyện cho mình, "nhiều lần ngước mắt và đưa tay lên Chúa". Ông bị giết bằng một nhát rìu, sau đó thi thể của ông được chuyển trên một chiếc xe đẩy đến nhà nguyện Tháp St Peter ad Vincula. Nhìn khung cảnh từ cửa sổ, Jane kêu lên: "Ôi, Guildford, Guildford!" Ông được chôn cất trong nhà nguyện cùng với Jane, người cũng chết trong vòng một giờ sau đó.
Các vụ hành quyết không góp phần làm Mary hay chính phủ được lòng dân. Năm tháng sau cái chết của cặp đôi, John Knox, nhà cải cách nổi tiếng người Scotland, đã viết về họ là "những người vô tội ... chẳng hạn như theo luật công bằng và những nhân chứng trung thành không bao giờ có thể được chứng minh là đã xúc phạm chính họ." Về Guildford, nhà ghi chép biên niên sử Grafton đã viết mười năm sau: "ngay cả những người chưa từng nhìn thấy ông ta trước thời điểm hành quyết cũng đã khóc thương cho cái chết của ông."
Trong văn hóa đại chúng
Lãnh chúa Guildford Dudley được John Mills thể hiện trong bộ phim Tudor Rose năm 1936, Cary Elwes trong bộ phim Lady Jane năm 1986, và Jacob Avery trong bộ phim truyền hình dài tập năm 2022 Become Elizabeth.
Ghi chú
Chú thích
Tham khảo
Adams, Simon (2002): Leicester and the Court: Essays in Elizabethan Politics Manchester University Press
Adams, Simon (2008): "Dudley, Robert, earl of Leicester (1532/3–1588)" Oxford Dictionary of National Biography online edn. May 2008 (subscription required) Retrieved 2010-04-03
Alford, Stephen (2002): Kingship and Politics in the Reign of Edward VI Cambridge University Press
Bellamy, John (1979): The Tudor Law of Treason: An Introduction Routledge & Kegan Paul
Chapman, Hester (1962): Lady Jane Grey Jonathan Cape
de Lisle, Leanda (2008): The Sisters Who Would Be Queen: Mary, Katherine and Lady Jane Grey. A Tudor Tragedy Ballantine Books
Ives, Eric (2009): Lady Jane Grey: A Tudor Mystery Wiley-Blackwell
Jordan, W.K. and M.R. Gleason (1975): The Saying of John Late Duke of Northumberland Upon the Scaffold, 1553 Harvard Library
Loades, David (1996): John Dudley, Duke of Northumberland 1504–1553 Clarendon Press
Nichols, J. G. (ed.) (1850): The Chronicle of Queen Jane Camden Society
Porter, Linda (2007): The First Queen of England: The Myth of "Bloody Mary" St. Martin's Press
Richardson, G. J. (2008): "Dudley, Lord Guildford (c.1535–1554)" Oxford Dictionary of National Biography online ed. Oct 2008 (subscription required) Retrieved 2010-05-19
Tytler, P. F. (1839): England under the Reigns of Edward VI. and Mary Vol. II Richard Bentley
Wilson, Derek (1981): Sweet Robin: A Biography of Robert Dudley Earl of Leicester 1533–1588 Hamish Hamilton
Liên kết ngoài
Dòng họ Dudley
Phối ngẫu Vương thất Anh
Người bị xử tử bằng hình phạt chém đầu
|
19848417
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria%20Ana%20c%E1%BB%A7a%20B%E1%BB%93%20%C4%90%C3%A0o%20Nha
|
Maria Ana của Bồ Đào Nha
|
Maria Ana của Bồ Đào Nha, hay Maria Ana của Bragança (; tiếng Bồ Đào Nha: Maria Ana de Portugal hay Maria Ana de Bragança; of Portugal; von Portugal; tên đầy đủ: Maria Ana Fernanda Leopoldina Micaela Rafaela Gabriela Carlota Antónia Júlia Vitória Praxedes Francisca de Assis Gonzaga; 21 tháng 8 năm 1843 – 5 tháng 2 năm 1884) là một Vương nữ Bồ Đào Nha, con gái Nữ vương Maria II của Bồ Đào Nha và Phối vương Fernando II của Bồ Đào Nha.
Thân thế và thiếu thời
Maria Ana là con gái lớn và là người con thứ tư của Maria II của Bồ Đào Nha và Phối vương Fernando II của Bồ Đào Nha. Sau khi mẹ qua đời vào năm 1853, khi Maria Anna mới mười tuổi, bà đã trở thành quý cô nương có địa vị cao nhất trong triều đình cho đến khi anh cả của Maria Ana, Pedro V của Bồ Đào Nha, kết hôn với Stephanie xứ Hohenzollern-Sigmaringen vào tháng 5 năm 1858. Mặc dù trong giai đoạn đầu quen biết, hai chị em có mối quan hệ tốt, nhưng trong một bức thư viết năm 1859 gửi Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha, chồng của Victoria của Liên hiệp Anh, khi Stephanie đã qua đời, Pedro V đã đề cập rằng Maria Ana đã đưa ra những nhận xét không mấy tốt đẹp về vợ: "vì sự phù phiếm từ tính nữ của em ấy do địa vị thấp hơn (...)".
Mối quan hệ chị dâu em chồng dường như đã có những thăng trầm kể từ khi Stephanie đến Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1858 và kể từ đám cưới của Maria Anna vào tháng 5 năm 1859. Vương hậu viết về em chồng của mình như sau: "Về mọi mặt, em ấy giống Pedro hơn (...)", "Em ấy là một người quyến rũ, tốt bụng, rộng lượng, đặc biệt nhạy cảm so với tuổi, không có biểu hiện của sự ích kỷ, được tất cả chúng ta tôn trọng và yêu thương (...) Georg của Sachsen đã phát hiện ra một viên ngọc quý thực sự. Em ấy hạnh phúc và yêu Georg, nhưng con bé không thể nói về khoảnh khắc con bé sẽ rời xa gia đình mà không khóc. Điều chắc chắn là em ấy sẽ rời đi và để lại cho chúng ta một sự thiếu vắng khủng khiếp”. Anh trai của Maria Ana, Pedro V, cũng tuyên bố rằng Maria Ana là "viên ngọc quý của gia đình ta", trong một bức thư gửi Vương phu Albrecht.
Hôn nhân
Ngày 11 tháng 5 năm 1859, tại Cung điện Belém, Lisboa, Vương nữ Maria Ana kết hôn với Vương tử Georg của Sachsen (1832–1904), con trai thứ hai của Johann I của Sachsen, một người họ hàng từ nhánh Albrecht Công giáo của Vương tộc Wettin của Vương nữ. Vương hậu Stephanie đã cố gắng tổ chức một buổi lễ hoành tráng, nhưng cuối cùng, đám cưới diễn ra trong thầm lặng và không được chú ý ở cả Bồ Đào Nha và Sachsen. Đôi vợ chồng mới cưới trải qua những ngày đầu tiên tại Cung điện Belém. Trong thời gian ngắn ngủi ở Bồ Đào Nha sau lễ cưới, Vương tử George đã để lại ấn tượng không tốt với Vương thất Bồ Đào Nha vì "hầu như không nói chuyện với cô dâu" và không đến buổi biểu diễn kịch mà Vương tử được mời tham dự. Cũng trong buổi biểu diễn đó, nàng tân nương 15 tuổi Maria Ana được nhìn thấy đang khóc. Cặp đôi rời Sachsen vào ngày 14 tháng 5. Maria Ana không được phép đưa các thị tùng người Bồ Đào Nha đi cùng và chỉ được đi với anh trai Luís trong chuyến hành trình. Pedro V đã viết như sau về đám cưới:"Đám cưới của em gái ta với Vương tử George của Sachsen được tổ chức với nhiều sự phô trương hơn là hạnh phúc. Và theo đó là một sự đáng tiếc, vì cậu ta không để lại sự cảm thông nào và những người đã gặp cậu ta thường bỏ đi với ấn tượng không tốt".
Cuộc hôn nhân của hai người không hạnh phúc, theo Nhà sử học Eduardo Nobre, Vương tử Georg "không đáp ứng được những kỳ vọng và phẩm chất của nàng Vương nữ Bồ Đào Nha". Bất chấp những vấn đề của hai vợ chồng, họ có với nhau tám người con.
Mặc dù đã từ bỏ quyền kế vị ngai vàng Bồ Đào Nha khi kết hôn nhưng Maria Ana vẫn có thể trở thành Nữ vương nếu các anh em trai của Maria Ana không có hậu duệ. Tình trạng này suýt xảy ra vào năm 1861, khi Pedro V và người anh em khác của Vương nữ qua đời vì bệnh thương hàn và không có con cái. Tuy nhiên, giả thuyết này hoàn toàn bị gạt sang một bên khi người anh trai là Luís I kết hôn với Maria Pia của Ý và có hai con trai là Carlos I và Afonso Henriques của Bồ Đào Nha.
Khoảng năm 1883, con trai út của Maria Ana, Albert Karl của Sachsen lâm bệnh nặng. Maria Ana đã chăm sóc con trai trong vài tháng cho đến khi Vương tôn bình phục. Nỗ lực chăm con đã khiến Infanta qua đời vì kiệt sức vào ngày 5 tháng 2 năm 1884, trước khi chồng của Maria Ana trở thành Quốc vương. Chồng của Maria Ana, Georg không tái hôn trong suốt quãng đời còn lại.
Ở Bồ Đào Nha, anh trai thứ hai của Vương nữ là Vương tử Luís, sớm kế vị người anh cả, Pedro V trở thành Quốc vương Bồ Đào Nha.
Anh chồng của Maria Ana, Vương tử Albert kế vị cha chồng trở thành Quốc vương Sachsen và dựa vào việc Albert và vợ, Carola của Wasa, không thể có con. Con trai cả của Maria Ana gần như chắc chắn một ngày nào đó sẽ kế vị ngai vàng.
Con cái
Maria Ana đã qua đời trước cha, chồng và anh chồng là Albert I của Sachsen. Năm 1902, Georg kế vị anh trai trở thành Quốc vương Sachsen, và khi Georg qua đời vào năm 1904, con trai cả của Maria Ana trở thành Quốc vương Sachsen với trị hiệu Friedrich August III.
Gia phả
Ghi chú
Tham khảo
Vương nữ Bồ Đào Nha
Vương tộc Bragança
Vương tộc Bragança-Saxe-Coburgo-Gota
Vương nữ
Vương tức Sachsen
Vương tộc Wettin
Người Bồ Đào Nha thế kỷ 19
Tín hữu Công giáo Bồ Đào Nha
Sinh năm 1843
Mất năm 1884
Bài viết có văn bản tiếng Bồ Đào Nha
|
19848419
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria%20Ana%20Francisca%20c%E1%BB%A7a%20B%E1%BB%93%20%C4%90%C3%A0o%20Nha
|
Maria Ana Francisca của Bồ Đào Nha
|
Maria Ana Francisca của Bồ Đào Nha (tiếng Bồ Đào Nha: Maria Ana Francisca de Portugal; tên đầy đủ: Maria Ana Francisca Josefa Rita Joana; 7 tháng 10 năm 1736 – 16 tháng 5 năm 1813), là con gái của José I của Bồ Đào Nha và Mariana Victoria của Tây Ban Nha.
Tiểu sử
Maria Ana Francisca được sinh ra ở Lisboa vào ngày 7 tháng 10 năm 1736, là con gái thứ hai trong số bốn cô con gái của José I của Bồ Đào Nha và Mariana Victoria của Tây Ban Nha.
Maria Ana được coi là nàng dâu tiềm năng của Thái tử Louis Ferdinand của Pháp, nhưng Mariana Victoria đã từ chối mối hôn sự vì lịch sử chính Vương hậu đã từng được dự tính gả cho Louis XV của Pháp, cha của Louis Ferdinand và cũng là người đã hủy bỏ hôn ước với Mariana và gửi Vương hậu trở về Tây Ban Nha. Maria Ana Francisca không kết hôn, nhưng thay vào đó Vương nữ dành thời gian cho sở thích nghệ thuật của mình và xây dựng lại ngôi trường tu nổi tiếng Convento do Desagraveo do Santíssimo Sacramento ở Lisboa, nơi đã bị phá hủy trong trận động đất năm 1757, và Maria Ana đã khánh thành lại vào năm 1783.
Vương nữ đã trốn thoát khỏi Bồ Đào Nha cùng gia đình khi Napoléon Bonaparte ra lệnh xâm lược Bồ Đào Nha. Giống như chị gái là Nữ vương Maria I, Vương nữ mắc bệnh tâm thần trong những năm cuối đời và được chăm sóc ở Brasil bởi em gái Maria Benedita vốn sống cùng Vương nữ. Maria Ana qua đời ở Rio de Janeiro vào ngày 16 tháng 5 năm 1813 và thi hài của Vương nữ được chuyển đến Lisboa.
Gia phả
Tham khảo
Vương nữ Bồ Đào Nha
Vương tộc Bragança
Vương nữ
Người Bồ Đào Nha thế kỷ 19
Người Bồ Đào Nha thế kỷ 18
Sinh năm 1736
Mất năm 1813
Bài viết có văn bản tiếng Bồ Đào Nha
|
19848441
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Cadogan
|
Bá tước Cadogan
|
Bá tước Cadogan (tiếng Anh: Earl Cadogan; ) là một tước hiệu đã được tạo ra hai lần trong Đẳng cấp quý tộc Đại Anh, trao cho gia tộc Cadogan. Lần tạo ra thứ hai vào năm 1800, dành cho Charles Cadogan, Nam tước Cadogan thứ 3.
Gia tộc Cadogan có nguồn gốc từ xứ Wales, họ này được đánh vần là Cadwgan cho đến thế kỷ XV. Trong môn đua ngựa, gia đình sở hữu ngựa sử dụng màu xanh Eton, tương tự như màu ngọc lam của Đại học Cambridge, đã đăng ký năm 1889.
Tham khảo
Chú thích
Tham khảo
Attribution
Bá tước Anh
Bá tước thuộc Đẳng cấp quý tộc Đại Anh
Gia tộc Cadogan
Bá tước Cadogan
|
19848442
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Drama%20%28EP%20c%E1%BB%A7a%20aespa%29
|
Drama (EP của aespa)
|
Drama là đĩa mở rộng thứ tư của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc aespa. Album được phát hành bởi SM Entertainment vào ngày 10 tháng 11 năm 2023 với sáu bài hát, bao gồm cả đĩa đơn cùng tên.
Bối cảnh và phát hành
Tháng 2 năm 2023, trong buổi concert đầu tiên của nhóm, Synk: Hyper Line, cả nhóm đã biểu diễn các bài hát chưa được phát hành khi đó: "Hot Air Balloon", "YOLO" và "Don't Blink". Ngày 10 tháng 10, SM Entertainment thông báo rằng nhóm sẽ phát hành đĩa mở rộng thứ tư có tên Drama vào ngày 10 tháng 11. Một video teaser giới thiệu cũng được phát hành cùng ngày. Sáu ngày sau, lịch trình quảng bá cũng được công bố. Ngày 30 tháng 10, video teaser mood sample được tung ra, tiếp theo là video teaser highlight medley vào ngày 3 tháng 11. Ngày 6 tháng 11, các video teaser được lấy cảm hứng từ ý tưởng phim của Winter và Giselle đã được phát hành, cùng với các đoạn giới thiệu của Karina và Ningning vào ngày hôm sau. Ngày 9 tháng 11, teaser video âm nhạc "Drama" đã được phát hành. Đĩa mở rộng được phát hành cùng với video âm nhạc của "Drama" vào ngày 10 tháng 11.
Khái niệm
Theo SM Entertainment, Drama sẽ giới thiệu "những tính cách đang phát triển" của aespa với "âm nhạc mới mẻ" đồng thời "xây dựng [dựa trên] chủ đề tường thuật trước đó" vì nhóm "hiện đang thoát ra khỏi chấn thương do một loạt sự kiện gây ra với 'Synk Out' và 'Nhiệm vụ ảo ảnh' [trong cốt truyện của SMCU dành cho aespa]".
Sáng tác
Phiên bản tiêu chuẩn của Drama bao gồm sáu bài hát thuộc nhiều thể loại khác nhau bao gồm hip hop, dance và acoustic pop. Giống như các sản phẩm trước của nhóm, Drama sẽ "mang đến một chương mới cho truyền thuyết SMCU của họ" bằng cách viết câu chuyện thông qua "âm nhạc và hình ảnh độc đáo". Đĩa đơn chính "Drama" được mô tả là một bài hát hip-hop và dance có đặc điểm "âm thanh trống mạnh mẽ và âm trầm tổng hợp phức tạp" với lời bài hát nói về "thái độ tự tin rằng mọi câu chuyện đều bắt đầu với aespa". Ca khúc thứ hai "Trick or Trick" là một ca khúc nhạc dance với "âm trầm nặng" và "sức quyến rũ gây thôi miên". Ca khúc thứ ba "Don't Blink" là một bài hát mang hơi hướng đồng quê với "rusty synth" tập trung vào "giọng hát của aespa". Ca khúc thứ tư "Hot Air Balloon" có lời bài hát "mô tả cuộc hành trình hướng tới bầu trời với một người đặc biệt". Ca khúc thứ năm "YOLO" là một ca khúc pop-punk với "sự kết hợp giữa pop và guitar metal". Ca khúc thứ sáu "You" mang ca từ tràn ngập "sự chân thành đối với [người hâm mộ của nhóm]". Trong phiên bản kỹ thuật số đĩa đơn tiếng Anh "Better Things" đã phát hành trước đó của nhóm sẽ là bonus track, nổi bật là một bài hát dance "có nhịp độ nhanh" đặc trưng bởi "âm thanh bộ gõ nhịp nhàng" với ca từ về việc "bỏ qua những chuyện vô bổ" và " tập trung thời gian nhất định vào những việc có giá trị hơn".
Quảng bá
Drama ra mắt ở vị trí thứ ba trên Bảng xếp hạng Circle Album Chart của Hàn Quốc từ ngày 19–25 tháng 11 năm 2023. Tại Nhật Bản, EP ra mắt ở vị trí thứ 27 trên Billboard Japan Hot Albums ngày 15 tháng 11 năm 2023; trên bảng xếp hạng component, EP ra mắt ở vị trí thứ 11 ở Top Download Albums. Trên bảng xếp hạng Oricon, EP ra mắt ở vị trí thứ 11 trên Bảng xếp hạng Album, và vị trí thứ 10 trên Bảng xếp hạng Album tổng hợp ngày 27 tháng 11 năm 2023.
Tại Hoa Kỳ, Drama ra mắt ở vị trí thứ 33 trên bảng xếp hạng Billboard 200, và đứng thứ hai trên Billboard World Albums bảng xếp hạng ngày 25 tháng 11 năm 2023. Tại Vương quốc Anh, EP ra mắt ở vị trí thứ 10 trên Bảng xếp hạng lượt tải xuống album tại Vương quốc Anh của OCC, đứng thứ 33 về doanh số bán album tại Vương quốc Anh, và vị trí thứ 45 trên UK Physical Albums bảng xếp hạng ngày 17–23 tháng 11 năm 2023. Tại Úc, EP ra mắt ở vị trí thứ 4 trên ARIA Top 20 Hitseekers Albums Chart trong bảng xếp hạng ngày 20 tháng 11 năm 2023. Tại Pháp, EP ra mắt ở vị trí thứ 30 trên Album hàng đầu của SNEP trong bảng xếp hạng ngày 17 tháng 11 năm 2023. Tại Hungary, EP ra mắt ở vị trí thứ 19 trên Bảng xếp hạng MAHASZ Top Albums 40 trong bảng xếp hạng ngày 10–16 tháng 11 năm 2023. Tại Ba Lan, EP ra mắt ở vị trí thứ 28 trên OLiS của ZPAV trong bảng xếp hạng ngày 10–16 tháng 11 năm 2023. Tại Scotland, EP ra mắt ở vị trí thứ 43 trên Bảng xếp hạng Album Scotland của OCC trong bảng xếp hạng ngày 17–23 tháng 11 năm 2023. Tại Tây Ban Nha, EP ra mắt ở vị trí thứ 79 trên Bảng xếp hạng 100 Album hàng đầu của PROMUSICAE trên bảng xếp hạng ngày 10–16 tháng 11 năm 2023.
Đánh giá chuyên môn
Abbie Aitken viết cho tờ báo Clash gọi Drama là "một sự mở rộng đáng hoan nghênh đối với vũ trụ aespa [bằng cách] thể hiện sức mạnh thanh nhạc của [aespa] và làm nổi bật khả năng âm nhạc linh hoạt của họ". Cô kết luận rằng "câu chuyện hơi bối rối [bởi] năng lượng tổng thể, đặc biệt là từ [đĩa đơn chính], [khiến người nghe] cảm thấy hưng phấn [trong khi] háo hức muốn biết thêm".
Quảng cáo
Trước khi phát hành Drama, vào ngày 10 tháng 11 năm 2023, aespa đã tổ chức một sự kiện trực tiếp mang tên "Aespa Drama Countdown Live" trên YouTube, TikTok, Weverse và Idol Plus, nhằm giới thiệu đĩa mở rộng và kết nối với người hâm mộ của nhóm. Ngoài ra, nhóm còn khai trương một cửa hàng tạm thời có tên "Tuần lễ Aespa? Thành phố Drama?" tại Seoul, Hàn Quốc, diễn ra từ ngày 10 đến 26 tháng 11 để "kỷ niệm việc ra mắt đĩa mở rộng".
Danh sách bài hát
Bảng xếp hạng
Bảng xếp hạng tuần
Bảng xếp hạng tháng
Bảng xếp hạng cuối năm
Doanh số
Lịch sử phát hành
Tham khảo
EP năm 2023
EP tiếng Triều Tiên
EP của SM Entertainment
EP của Aespa
|
19848445
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A7u%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Salisbury
|
Hầu tước xứ Salisbury
|
Hầu tước xứ Salisbury (tiếng Anh: Marquess of Salisbury) là một tước hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Đại Anh. Nó được tạo ra vào năm 1789 cho Bá tước thứ 7 xứ Salisbury. Hầu hết những người nắm giữ danh hiệu này đều nổi bật trong đời sống chính trị ở Anh trong 2 thế kỷ qua, đặc biệt là Robert Gascoyne-Cecil, Hầu tước thứ 3 xứ Salisbury, người đã ba lần giữ chức Thủ tướng Anh vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Chú thích
Tham khảo
Burke's Peerage and Baronetage, ed. Charles Mosley, 107th edn., (London 2003), vol.III.
http://www.cracroftspeerage.co.uk/salisbury1789.htm
Đọc thêm
Cecil, David. The Cecils of Hatfield House: An English Ruling Family. Houghton Mifflin, 1973.
Liên kết ngoài
Hatfield House
Cranborne
Marquessate of Salisbury
Hầu tước thuộc Đẳng cấp quý tộc Đại Anh
Hầu tước Anh
Gia tộc Cecil
Hầu tước xứ Salisbury
|
19848446
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Robert%20Gascoyne-Cecil%2C%20H%E1%BA%A7u%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20th%E1%BB%A9%203%20x%E1%BB%A9%20Salisbury
|
Robert Gascoyne-Cecil, Hầu tước thứ 3 xứ Salisbury
|
Robert Arthur Talbot Gascoyne-Cecil, Hầu tước thứ 3 xứ Salisbury KG GCVO PC FRS DL;(; 3 tháng 2 năm 1830 – 22 tháng 8 năm 1903), được biết đến với tên gọi Lãnh chúa xứ Salisbury, là một chính khách và chính trị gia bảo thủ người Anh, từng giữ chức Thủ tướng Vương quốc Anh ba lần trong tổng cộng hơn 13 năm. Ông cũng từng là Bộ trưởng Ngoại giao trước và trong hầu hết nhiệm kỳ của mình. Ông tránh liên kết hoặc liên minh, duy trì chính sách "sự cô lập tuyệt vời" (Splendid isolation).
Lãnh chúa Robert Cecil, còn được gọi là Lãnh chúa Salisbury, lần đầu tiên được bầu vào Hạ viện vào năm 1854 và giữ chức Bộ trưởng Ấn Độ trong chính phủ Bảo thủ của Lãnh chúa Derby 1866–1867. Năm 1874, dưới thời Benjamin Disraeli, Salisbury trở lại làm Bộ trưởng Ấn Độ, và vào năm 1878, được bổ nhiệm làm ngoại trưởng và đóng vai trò lãnh đạo trong Hội nghị Berlin. Sau cái chết của Disraeli vào năm 1881, Lãnh chúa Salisbury nổi lên với tư cách là nhà lãnh đạo Đảng Bảo thủ trong Thượng viện Anh, với Stafford Northcote lãnh đạo đảng trong Hạ viện. Ông kế nhiệm William Ewart Gladstone làm thủ tướng vào tháng 6 năm 1885 và giữ chức vụ này cho đến tháng 1 năm 1886.
Khi Gladstone ủng hộ Quy tắc gia đình cho Ireland (Home Rule for Ireland), Lãnh chúa Salisbury đã phản đối ông và thành lập liên minh với những người theo chủ nghĩa Liên minh Tự do ly khai, giành chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử sau đó. Thành tựu lớn nhất của ông trong nhiệm kỳ này là giành được phần lớn lãnh thổ mới ở Châu Phi trong Cuộc tranh giành Châu Phi, tránh xảy ra chiến tranh hoặc đối đầu nghiêm trọng với các cường quốc khác. Ông vẫn giữ chức thủ tướng cho đến khi Đảng Tự do của Gladstone thành lập chính phủ với sự ủng hộ của những người theo chủ nghĩa dân tộc Ireland tại cuộc tổng tuyển cử năm 1892. Tuy nhiên, Đảng Tự do đã thua trong cuộc tổng tuyển cử năm 1895, và Lãnh chúa Salisbury lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng trở thành thủ tướng. Ông đã dẫn dắt nước Anh giành chiến thắng trong một cuộc chiến tranh gay gắt, gây tranh cãi chống lại người Boer, và lãnh đạo Đảng Liên minh giành được một chiến thắng bầu cử khác vào năm 1900. Ông nhường chức thủ tướng cho cháu trai mình là Arthur Balfour vào năm 1902 và qua đời vào năm 1903. Ông là thủ tướng cuối cùng tại vị từ Viện quý tộc.
Các nhà sử học đồng ý rằng Lãnh chúa Salisbury là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ và hiệu quả trong lĩnh vực đối ngoại, có tầm nhìn sâu rộng về các vấn đề. Paul Smith mô tả tính cách của mình là "thần kinh sâu sắc, trầm cảm, kích động, sống nội tâm, sợ thay đổi và mất kiểm soát, khiêm tốn nhưng có khả năng cạnh tranh phi thường." Là đại diện của tầng lớp quý tộc có đất, ông giữ quan điểm phản động, "Bất cứ điều gì xảy ra sẽ trở nên tồi tệ hơn, và do đó, lợi ích của chúng tôi là càng ít xảy ra càng tốt". Searle nói rằng thay vì coi chiến thắng của đảng mình vào năm 1886 là điềm báo về một Chủ nghĩa Bảo thủ mới và phổ biến hơn, ông mong muốn trở lại trạng thái ổn định như xưa, khi chức năng chính của đảng ông là kiềm chế chủ nghĩa tự do mị dân và dân chủ thái quá. Ông thường được xếp ở cấp cao nhất trong số các thủ tướng Anh.
Tham khảo
Xem thêm
Adonis, A. Making Aristocracy Work: The Peerage and the Political System in Britain, 1884–1914 (1993).
Benians, E.A. et al. eds. The Cambridge History of the British Empire Vol. iii: The Empire - Commonwealth 1870–1919' (1959) p. 915 and passim; coverage of Salisbury's foreign and imperial policies; online
Bentley, Michael. Lord Salisbury's World: Conservative Environments in Late-Victorian Britain (2001). online edition
Lord Blake and H. Cecil (eds.), Salisbury: The Man and His Policies (1987).
Bright, J. Franck. A History of England: Period V. Imperial Reaction Victoria 1880–1901 (vol 5, 1904); detailed political narrative; 295pp; online; also another copy
Brumpton, Paul R. Security and Progress: Lord Salisbury at the India Office (Greenwood Press, 2002) online edition
Cecil, Algernon. British Foreign Secretaries 1807-1916 (1927) pp 277–314. online
Cecil, C. Life of Robert, Marquis of Salisbury (4 volumes, 1921–32). online
This is a long biography, written in the context of 1911, with a Conservative point of view.
Cooke, A.B. and J. Vincent, The Governing Passion: Cabinet Government and Party Politics in Britain, 1885–86 (1974).
Grenville, J. A. S., Lord Salisbury and Foreign Policy: The Close of the Nineteenth Century (1964).
Jones, A.The Politics of Reform, 1884 (1972).
Kennedy, A. L. Salisbury 1830–1903: Portrait of a Statesman (1953).
Gibb, Paul. "Unmasterly Inactivity? Sir Julian Pauncefote, Lord Salisbury, and the Venezuela Boundary Dispute." Diplomacy and Statecraft 16#1 (2005): 23–55.
Gillard, D.R."Salisbury's African Policy and the Heligoland Offer of 1890," The English Historical Review, Vol. LXXV, 1960.
Thomas P. Hughes, "Lord Salisbury's Afghan Policy," The Arena, Vol. VI, 1892.
Jones, Andrew, and Michael Bentley, 'Salisbury and Baldwin', in Maurice Cowling. ed., Conservative Essays (Cassell, 1978), pp. 25–40.
Langer, William L. The Diplomacy of Imperialism: 1890–1902 (2nd ed. 1950), a standard diplomatic history of Europe
Lowe, C. J.Salisbury and the Mediterranean, 1886–1896 (1965).
Marsh, P. The Discipline of Popular Government: Lord Salisbury's Domestic Statecraft, 1881–1902 (1978).
Millman, R. Britain and the Eastern question, 1875–1878 (1979).
Otte, T. G. "A question of leadership: Lord Salisbury, the unionist cabinet and foreign policy making, 1895–1900." Contemporary British History 14#4 (2000): 1–26.
Otte, T. G. "'Floating Downstream'? Lord Salisbury and British Foreign Policy, 1878–1902", in Otte (ed.), The Makers of British Foreign Policy: From Pitt to Thatcher (Palgrave, 2002), pp. 98–127.
Paul, Herbert. A History of Modern England (vol 5, 1906), covers 1885–1895. online
Penson, Lillian M. "The Principles and Methods of Lord Salisbury's Foreign Policy." Cambridge Historical Journal 5#1 (1935): 87-106. online.
Roberts, Andrew. Salisbury: Victorian Titan (Weidenfeld and Nicolson, 1999), a standard scholarly biography; 940pp
Ryan, A. P. "The Marquis of Salisbury' History Today (April 1951) 1#4 pp 30-36; online.
Shannon, Richard The Age of Disraeli, 1868–1881: The Rise of Tory Democracy (1992).
Shannon, Richard The Age of Salisbury, 1881–1902: Unionism and Empire (1996). 569pp.
Seton-Watson, R. W. Britain in Europe, 1789–1914. (1938); comprehensive history online
Smith, Paul. 'Cecil, Robert Arthur Talbot Gascoyne-, third marquess of Salisbury (1830–1903)', Oxford Dictionary of National Biography, Oxford University Press, September 2004; online edn, October 2009, accessed 8 May 2010.
Steele, David. Lord Salisbury: A Political biography (1999). online edition
Steele, David. "Three British Prime Ministers and the Survival of the Ottoman Empire, 1855–1902." Middle Eastern Studies 50.1 (2014): 43–60.
Wang, Shih-tsung. Lord Salisbury and Nationality in the East: Viewing Imperialism in Its Proper Perspective (Routledge, 2019).
Warren, Allen. "Lord Salisbury and Ireland, 1859–87: Principles, Ambitions and Strategies." Parliamentary history 26.2 (2007): 203–224.
Weston, C. C. The House of Lords and Ideological Politics: Lord Salisbury's Referendal Theory and the Conservative Party, 1846–1922 (1995).
Sử học
Ellenberger, Nancy W. "Salisbury" in David Loades, ed. Reader's Guide to British History (2003) 2:1153–55
Goodlad, Graham, "Salisbury as Premier: Graham Goodlad Asks Whether Lord Salisbury Deserves His Reputation as One of the Great Victorian Prime Ministers," History Review #49. 2004. pp 3+. online
Lowry, Donal. The South African War Reappraised (Manchester UP, 2000).
Roberts, Andrew. "Salisbury," History Today, (Oct 1999), Vol. 49 Issue 10, p45-51
Nguồn thứ cấp
Paul Smith (ed.), Lord Salisbury on Politics. A Selection from His Articles in the Quarterly Review, 1860–83 (Cambridge University Press, 1972).
John Vincent (ed.), A Selection from the Diaries of Edward Henry Stanley, 15th Earl of Derby (1826–93) between September 1869 and March 1878 (London: The Royal Historical Society, 1994).
R. H. Williams (ed.), Salisbury–Balfour Correspondence: Letters Exchanged between the Third Marquess of Salisbury and his nephew Arthur James Balfour, 1869–1892 (1988).
Harold Temperley, and Lillian M. Penson, eds; Foundations of British Foreign Policy from Pitt (1792) to Salisbury (1902); Or, Documents, Old and New (1938) online edition
Robert Cecil Salisbury. Essays by the Late Marquess of Salisbury (1905) online
Temperley, Harold and L.M. Penson, eds. Foundations of British Foreign Policy: From Pitt (1792) to Salisbury (1902) (1938), primary sources pp 365 ff online
Liên kết ngoài
Robert Gascoyne-Cecil, 3rd Marquess of Salisbury on the Downing street website.
Salisbury, The Empire Builder Who Never Was – article by Andrew Roberts; historytoday.com
Ancestors of Lord Salisbury
Sinh năm 1830
Mất năm 1903
Thời Victoria
Hiệp sĩ Garter
Chỉ tịch Viện Quý tộc
Hầu tước xứ Salisbury
Gia tộc Cecil
Bộ trưởng Ngoại giao Vương quốc Liên hiệp Anh
Hội viên Hội Hoàng gia
Lãnh đạo đảng Bảo thủ (Anh)
Thành viên Cơ mật viện Vương quốc Liên hiệp Anh
Cựu học sinh Eton College
Người thời Victoria
Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh
|
19848451
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aymen%20Hussein
|
Aymen Hussein
|
Aymen Hussein Ghadhban Al Mafreajy (; sinh ngày 21 tháng 1 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá người Iraq thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Al-Quwa Al-Jawiya tại Giải bóng đá Ngoại hạng Iraq và đội tuyển bóng đá quốc gia Iraq.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Anh bắt đầu sự nghiệp cầu thủ của mình vào năm 2009 khi thi đấu cho đội trẻ của Al-Alam SC. Cuối mùa giải 2012–2013, anh được trao cơ hội thi đấu tại Giải bóng đá Ngoại hạng Iraq khi anh được trợ lỹ huấn luyện viên của câu lạc bộ Duhok, Khalid Mohammed Sabbar liên hệ và đề nghị một bản hợp đồng béo bở để thi đấu cho Duhok. Anh chuyển đến Al-Naft vào mùa đông năm 2015. Đỉnh cao trong sự nghiệp thi đấu của anh là mùa giải 2016–2017 khi anh đã ghi 12 bàn sau 10 trận ra sân cho Al-Naft, giúp đội bóng này dẫn đầu bảng xếp hạng, trước khi anh phải ngồi ngoài trong 3 tháng, từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2017 vì chấn thương. Al-Naft kết thúc mùa giải 2016–2017 với ngôi vị á quân của giải đấu, vị trí tốt nhất trong lịch sử của đội bóng này. Năm 2017, anh gia nhập "gã khổng lồ" Iraq Al-Shorta, để thay thế cho Marwan Hussein. Anh có trận ra mắt đội bóng này vào ngày 21 tháng 11, ghi một bàn thắng trong trận đấu với Karbalaa FC. Anh lập cú đúp trong thắng lợi 4–1 trước Al-Bahri, sau đó anh tiếp tục ghi bàn trong hai trận đấu nữa, qua đó kéo dài chuỗi trận liên tiếp mà anh đã ghi bàn lên con số 4. Ở trận đấu thứ 5, anh đá hỏng quả phạt đền những phút cuối, qua đó chấm dứt chuỗi trận liên tiếp mà anh đã ghi bàn ở con số 4. Vào ngày 2 tháng 2 năm 2018, anh rời Al-Shorta để trở lại thi đấu cho đội bóng cũ Al-Naft với vị huấn luyện viên mà anh ngưỡng mộ, Hassan Ahmed. Anh có trận ra mắt cho Al-Naft trong trận đấu với Al-Hudood và chính anh đã sút hỏng quả phạt đền trong trận đấu đó, cùng với trận gặp Naft Al-Wasat. Sau 5 trận tịt ngòi, anh cũng có bàn thắng đầu tiên cho Al-Naft trong chiến thắng 1–0 trước Al-Talaba vào tháng 4 năm 2018. Anh kết thúc mùa giải khi ghi được 11 bàn thắng sau 22 trận đấu cho Al-Naft tại mùa giải 2017–2018. Đội kết thúc mùa giải ở vị trí thứ ba. Vào ngày 15 tháng 9 năm 2018, anh chuyển sang thi đấu cho câu lạc bộ Sfaxien của Tunisia. Vào mùa hè năm 2021, anh gia nhập câu lạc bộ Umm Salal của Qatar. Vào ngày 23 tháng 8 năm 2023, anh đầu quân cho câu lạc bộ Raja CA của Maroc với bản hợp đồng có thời hạn 1 năm.
Sự nghiệp quốc tế
Aymen Hussein có trận đấu đầu tiên cho Iraq vào năm 2015 khi được triệu tập vào đội tuyển U-23 Iraq tham dự Giải vô địch bóng đá U-23 châu Á 2016 tại Qatar. Anh ghi bàn thắng quyết định trong trận tranh hạng ba với đội chủ nhà U-23 Qatar, giúp Iraq giành vé tham dự Thế vận hội Mùa hè 2016 được tổ chức tại Rio de Janeiro, Brasil, tuy nhiên, anh gặp phải chấn thương trong trận giao hữu gặp U-23 Syria nên không thể tham dự Olympic cùng toàn đội. Vào năm 2017, tại vòng loại giải vô địch bóng đá U-23 châu Á 2018, anh lập một cú repoker trong chiến thắng hủy diệt 8–0 của U-23 Iraq trước U-23 Afghanistan. Anh cũng ghi bàn thắng ấn định chiến thắng 2-0 trước U-23 Ả Rập Xê Út, qua đó giúp U-23 Iraq giành vé tham dự Giải vô địch bóng đá U-23 châu Á 2018. Tại vòng chung kết diễn ra trên đất Trung Quốc, anh ghi 2 bàn thắng sau 3 trận đấu, giúp U-23 Iraq giành vé vào tứ kết.
Vào ngày 26 tháng 8 năm 2015, anh có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển quốc gia Iraq, thi đấu trong trận giao hữu gặp Liban. Anh có bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp đội tuyển quốc gia trong trận đấu gặp Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất vào ngày 5 tháng 9 năm 2017, tại vòng loại thứ 3 của giải vô địch bóng đá thế giới 2018 khu vực châu Á. Anh cũng được triệu tập lên đội tuyển Iraq tham dự Cúp bóng đá vịnh Ả Rập lần thứ 23 diễn ra trên đất Kuwait, giải đấu mà Iraq đã vào đến bán kết sau khi để thua Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất sau loạt sút luân lưu.
Vào ngày 19 tháng 1 năm 2023, tại Cúp bóng đá châu Á 2023 diễn ra trên đất Qatar, anh lập cú đúp trong chiến thắng gây sốc 2–1 trước đội tuyển Nhật Bản, qua đó, lần đầu tiên đội tuyển Iraq thắng Nhật Bản sau 42 năm kể từ Đại hội Thể thao châu Á 1982 trên đất Ấn Độ, giúp Iraq giành vé vào vòng đấu loại trực tiếp sớm trước một lượt đấu. Ở trận đấu thuộc vòng 16 đội gặp đội tuyển Jordan, anh ghi bàn thắng nâng tỉ số lên 2–1, nhưng ngay sau đó anh phải nhận tấm thẻ vàng thứ hai và phải rời sân vì hành động ăn mừng khiêu khích đối thủ, dẫn đến trận thua ngược với tỷ số 2–3.
Tiểu sử và đời tư
Aymen Hussein sinh ngày 21 tháng 1 năm 1996 tại ngôi làng Al-Safra thuộc tiểu khu Al-Riyadh, phía tây nam Kirkuk nằm ở quận Hawija đầy hỗn loạn, bị tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) kiểm soát và là nơi xảy ra các cuộc không kích của Lực lượng đặc nhiệm liên hợp từ năm 2014 đến năm 2017. Cha anh, là sĩ quan của Lục quân Iraq, đã hy sinh khi đang làm nhiệm vụ trong một cuộc tấn công khủng bố của Al-Qaeda vào năm 2008. Anh trai của Ayman Hussein bị quân IS bắt cóc và cho tới nay vẫn chưa rõ tung tích. Mẹ và hai người em trai của anh phải sống lưu vong ngay trong Iraq, ở thành phố Kirkuk kể từ năm 2014.
Thống kê sự nghiệp
Tỷ số và kết quả liệt kê số bàn thắng mà Iraq ghi được, cột trước là biểu thị số bàn thắng của Hussein.
Danh hiệu
CS Sfaxien
Cúp Tunisia: 2018–2019
Al-Quwa Al-Jawiya
Giải bóng đá Ngoại hạng Iraq: 2020–2921
Cúp Liên đoàn Iraq: 2020–2021
Iraq
Cúp bóng đá vịnh Ả Rập: 2023
Danh hiệu cá nhân
Vua phá lưới Giải bóng đá Ngoại hạng Iraq: 2020–2021 (22 bàn thắng)
Đồng danh hiệu Vua phá lưới Cúp bóng đá vịnh Ả Rập: 2023 (3 bàn thắng)
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Aymen Hussein tại trang web của câu lạc bộ Sfaxien
Sinh năm 1996
Nhân vật còn sống
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ Cúp bóng đá châu Á 2019
Cầu thủ Cúp bóng đá châu Á 2023
Cầu thủ bóng đá Al-Markhiya SC
Cầu thủ bóng đá Al-Shorta SC
Cầu thủ bóng đá Al Jazira Club
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Iraq
Cầu thủ bóng đá nam Iraq
Cầu thủ bóng đá Qatar Stars League
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
|
19848457
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Song%20So-hee
|
Song So-hee
|
Song So-hee (Hangul: 송소희, Hanja: 宋素喜, Hán Việt: Tống Chiêu Hy, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1997), được biết đến rộng rãi với biệt danh "Cô gái âm nhạc truyền thống" là một ca sĩ minyo hoặc ca sĩ dân gian truyền thống Hàn Quốc. Cô trở nên nổi tiếng sau khi giành chiến thắng trong Cuộc thi Hát Quốc gia KBS năm 2008 khi mới 11 tuổi và được mệnh danh là thần đồng gugak. Chính phủ Hàn Quốc đã vinh danh cô với danh hiệu "Người Hàn Quốc xuất sắc nhất của năm" vào năm 2010.
Đầu đời và giáo dục
Song sinh ra tại Yesan, Chungcheongnam-do vào ngày 20 tháng 10 năm 1997. Cô là con gái lớn của ông Song Geun-yeong và bà Yang Bok-rye. Cô cũng có một người em gái là Song So-yeon.
Song thể hiện tài năng âm nhạc của mình khi còn rất nhỏ, điều mà sau này cô cho là do cha cô có thói quen hát minyo, một thể loại dân ca Hàn Quốc, cho cô nghe. Khi cô lên 5 tuổi, cha mẹ cô đăng ký cho cô vào học viện gugak để phát triển kỹ năng ca hát của cô. Cô theo học với các nhạc sĩ dân gian Park Seok-sun và Lee Ho-yeon, những người sau này được chính phủ Hàn Quốc xếp vào loại " Báu vật sống của quốc gia ". Cô đã học chơi nhạc cụ gõ truyền thống của Hàn Quốc dưới sự hướng dẫn của bậc thầy samul nori Lee Gwang-su.
Song theo học trường tiểu học Deoksan, trường trung học cơ sở Imseong và trường trung học phổ thông Hoseo, tất cả đều ở Chungcheongnam-do.Năm 2016, cô đăng ký vào Trường Âm nhạc của Đại học Dankook để học nhạc truyền thống.
Sự nghiệp
Song trở nên nổi tiếng khắp cả nước sau khi cô biểu diễn "Changbu Taryeong" tại Cuộc thi Hát quốc gia KBS 2008. Màn trình diễn của cô đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người xem. Cô đã giành được giải thưởng lớn trong cuộc thi và trở thành người đoạt giải thưởng lớn trẻ nhất trong lịch sử 29 năm của cuộc thi.
Kể từ đó, cô đã biểu diễn trên một số chương trình truyền hình nổi tiếng của Hàn Quốc như Star King , KBS Open Concert , và Yoondohyun's Love Letter . Cô đã hát những bài hát như "Changbu Taryeong", "Taepyongga", " Arirang ", "Batnori", "Gunbam Taryeong" và "Battuiwara" trên các chương trình này và trở nên nổi tiếng hơn.
Sự xuất hiện của cô trên Star King năm 2008 đã đưa cô đến với một cơ hội đào tạo quan trọng khác từ thạc sĩ Lee Ho-yoen , một chuyên gia về nghệ thuật minyo của Kyunggi . Ấn tượng với tài năng của So-hee, thạc sĩ Lee đã tình nguyện huấn luyện cô một cách thường xuyên. Minyo (dân ca Hàn Quốc) có nghĩa đen là "bài hát dân gian" và là thể loại nhạc truyền thống được người Hàn Quốc hát thường xuyên nhất. Minyo được phân loại thành năm phong cách theo khu vực: Kyunggi, Namdo, Seodo, Dongbu và Jeju Minyo. Kyunggi Minyo có truyền thống nổi tiếng ở khu vực trung tâm xung quanh Seoul.
"Cô ấy sinh ra đã có năng khiếu hát Minyo. Cô ấy có tông giọng cao và giọng trong trẻo (điều này rất cần thiết để hát minyo). Cô ấy cũng có khả năng cảm nhận cao độ đặc biệt giúp cô ấy có thể học các bài hát mới bằng dễ dàng. Ngoài ra, Bangulmok của cô ấy, một kỹ thuật hát âm nhạc truyền thống Hàn Quốc thật tinh tế"
Từ năm 2008, cô được mời biểu diễn ở nhiều sự kiện khác nhau, cả trong và ngoài nước. Các sự kiện trong nước chính của cô là Lễ kỷ niệm 60 năm thành lập Hàn Quốc năm 2008, Lễ hội văn hóa quốc tế Baekje năm 2010, Lễ hội Sori quốc tế Jeonju năm 2010 và Cuộc họp các đài truyền hình quốc tế Seoul năm 2011.
Sự nổi tiếng của cô nhanh chóng lan rộng khắp thế giới nhờ các video trực tuyến của cô cũng như dịch vụ phát lại trực tuyến các chương trình truyền hình Hàn Quốc mà cô biểu diễn, cho phép mọi người trên khắp thế giới xem các buổi biểu diễn của cô. Nhiều người trong số họ đã choáng váng trước màn trình diễn của cô và yêu cô và minyo.
Sự công nhận quốc tế như vậy đã mang lại cho cô cơ hội biểu diễn ở nước ngoài. Từ năm 2009, cô đã được mời biểu diễn tại các sự kiện chính thức và nhiều sự kiện trao đổi văn hóa ở nhiều quốc gia khác nhau bao gồm Nhật Bản , Nga và Hoa Kỳ . Trong số đó có thể kể đến như Giao lưu văn hóa Hàn Quốc - Nhật Bản năm 2009, lễ kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Hàn Quốc và Nga năm 2010, Lễ hội Hàn Quốc năm 2011 và sự kiện Khai trương Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc Ấn Độ năm 2012. Năm 2010, chính phủ đã chọn cô là " Người Hàn Quốc xuất sắc nhất của năm ", giải thưởng hàng năm dành cho người đã làm rạng danh và làm giàu cho đất nước. Năm 2014, Song hát " Arirang " tại lễ bế mạc Paralympic mùa đông Sochi vào ngày 10 tháng 3, đồng thời giành vị trí quán quân trong tập " Bài hát bất tử 2 " ngày 26 tháng 7.
Năm 2014, cô sớm chấm dứt hợp đồng độc quyền với Deokin Media sau vụ tấn công tình dục một ca sĩ đồng nghiệp dưới nhãn hiệu của anh trai CEO. Vụ kiện vi phạm hợp đồng sau đây đã kết thúc sau 6 năm vào năm 2019, tạo tiền lệ pháp lý cho việc các nghệ sĩ giải trí chấm dứt hợp đồng trước thời hạn.
Sau khi ký hợp đồng với Warner Music Korea , Song So-hee đã phát hành hai mini-album và một đĩa đơn: Bài hát mới năm 2015 , đĩa đơn "Love, Seasons" năm 2016 và Bài hát dân gian hiện đại năm 2018 (sự hợp tác với ban nhạc tổng hợp truyền thống Second Moon ).
Cô ký hợp đồng độc quyền với Magic Strawberry Sound vào năm 2022 và phát hành album đơn Journey to Utopia vào năm 2022 và đĩa đơn Infodemics hợp tác với Lee Ilwoo của Jambinai vào năm 2023.
Âm nhạc
Tham khảo
Nữ ca sĩ Hàn Quốc thế kỷ 21
Ca sĩ Hàn Quốc thế kỷ 21
Tín đồ Phật giáo Hàn Quốc
|
19848458
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Balochistan%202021
|
Động đất Balochistan 2021
|
Động đất Balochistan 2021 () là trận động đất xảy ra vào lúc 03:01 (theo giờ địa phương), ngày 7 tháng 10 năm 2021. Trận động đất có cường độ 5.9 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 9 km. Hậu quả trận động đất đã làm 42 người chết, 300 người bị thương.
Xem thêm
Động đất Ziarat 2008
Danh sách trận động đất năm 2021
Danh sách trận động đất ở Pakistan
Tham khảo
Động đất năm 2021
Động đất tại Pakistan
Động đất ở châu Á năm 2021
Thảm họa tại Pakistan năm 2021
|
19848462
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adalbert%20c%E1%BB%A7a%20Ph%E1%BB%95
|
Adalbert của Phổ
|
Adalbert của Phổ (tên đầy đủ: Adalbert Ferdinand Berengar Viktor; 14 tháng 7 năm 1884 – 22 tháng 9 năm 1948) là con trai của Wilhelm II của Đức với Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg.
Thân thế
Adalbert sinh ngày 14 tháng 7 năm 1884, là con trai thứ ba của Hoàng tôn Wilhelm của Đế quốc Đức và người Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg. Hoàng tằng tôn được sinh ra tại Dinh thự Marmorpalais ở Potsdam thuộc tỉnh Brandenburg, nơi cha mẹ Aldabert cư trú cho đến khi Wilhelm lên ngôi Hoàng đế với trị hiệu Wilhelm II vào năm 1888. Hoàng tử trải qua thời thơ ấu cùng các anh chị em của mình tại Cung điện Mới, cũng ở Potsdam, và những ngày đi học cùng các anh em trai tại Dinh thự Prinzenhaus ở Plön thuộc quê nhà Schleswig-Holstein của mẹ Hoàng tử.
Hôn nhân và con cái
Ngày 3 tháng 8 năm 1914 tại Wilhelmshaven, Đức, Aldabertket611 hôn với Adelheid Erna xứ Sachsen-Meiningen, thường gọi là "Adi" (16 tháng 8 năm 1891 – 25 tháng 4 năm 1971), con gái của Friedrich Johann xứ Meiningen và Adelheid xứ Lippe-Biesterfeld. Hai vợ chồng có ba người con, năm cháu, sáu chắt và hai chút:
Viktoria Marina của Phổ (thai chết ngày 4 tháng 9 năm 1915)
Viktoria Marina của Phổ (11 tháng 9 năm 1917 – 21 tháng 1 năm 1981), kết hôn với Kirby Patterson (24 tháng 7 năm 1907 – 4 tháng 6 năm 1984) vào ngày 26 tháng 9 năm 1947. Họ có ba người con và một cháu trai:
Berengar Orin Bernhard Kirby Patterson (21 tháng 8 năm 1948 – 18 tháng 5 năm 2011) kết hôn với Pamela Knight vào năm 1994.
Marina Adelaide Emily Patterson (21 tháng 8 năm 1948 – 10 tháng 1 năm 2011) kết hôn với John Engel vào ngày 24 tháng 9 năm 1982. Họ có một con trai:
William John Engel (17 tháng 2 năm 1983)
Dohna Maria Patterson (7 tháng 8 năm 1954) kết hôn với Stephen Pearl vào ngày 28 tháng 7 năm 1974.
Wilhelm Viktor của Phổ (15 tháng 2 năm 1919 – 7 tháng 2 năm 1989), kết hôn tại Donaueschingen vào ngày 20 tháng 7 năm 1944 Marie Antoinette, Nữ bá tước Hoyos zu Stichsenstein (Hohenthurm, 27 tháng 6 năm 1920 – Marbella, 1 tháng 3 năm 2004). Họ có hai con, năm cháu và hai chắt.
Qua đời
Adalbert qua đời tại La Tour-de-Peilz, Thụy Sĩ, thọ 64 tuổi.
Gia phả
Tham khảo
Hoàng tử Đức
Vương tử Phổ
Vương tộc Hohenzollern
Hoàng tử
Vương tử
Sinh năm 1884
Mất năm 1948
|
19848463
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eitel%20Friedrich%20c%E1%BB%A7a%20Ph%E1%BB%95
|
Eitel Friedrich của Phổ
|
Eitel Friedrich của Phổ (tên đầy đủ: Wilhelm Eitel Friedrich Christian Karl;7 tháng 7 năm 1883 – 8 tháng 12 năm 1942) là con trai thứ hai của Hoàng đế Wilhelm II của Đức với người vợ đầu tiên, Công chúa Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg.
Tiểu sử
Eitel Friedrich sinh ngày 7 tháng 7 năm 1883, là con trai thứ hai của Hoàng tôn Wilhelm của Phổ và Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg. Hoàng tằng tôn được sinh ra tại Dinh thự Marmorpalais của Potsdam thuộc tỉnh Brandenburg, nơi cha mẹ Hoàng tằng tôn cư trú cho đến khi Wilhelm lên ngôi Hoàng đế với trị hiệu Wilhelm II vào năm 1888. Hoàng tử trải qua thời thơ ấu cùng các anh chị em của mình tại Cung điện Mới, cũng ở Potsdam, và những ngày đi học cùng các anh em trai tại Prinzenhaus ở Plön tại quê nhà Schleswig-Holstein của mẹ Hoàng tử.
Ngày 27 tháng 2 năm 1906, Eitel Friederich kết hôn với Sophie Charlotte xứ Oldenburg (2 tháng 2 năm 1879 Oldenburg – 29 tháng 3 năm 1964 Westerstede) tại Berlin. Hai người ly hôn vào ngày 20 tháng 10 năm 1926 vì lý do là Sophie Charlotte ngoại tình trước xảy ra chiến tranh. Hai người cũng không có con.
Lớn lên trong quân đoàn thiếu sinh quân của Lâu đài Plön, Hoàng tử Eitel đã ở tiền tuyến từ đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất và bị thương tại Bapaume, nơi Eitel chỉ huy Đội cận vệ đầu tiên của Phổ. Eitel Friedrich tạm thời nhượng quyền chỉ huy cho Bá tước Hans von Blumenthal, nhưng đã quay trở lại trước cuối năm. Một năm sau đó, Hoàng tử được điều động sang Mặt trận phía Đông. Mùa hè năm 1915, khi đang trên chiến trường ở Nga thì Eitel tình cờ gặp được Manfred von Richthofen, người vừa va chạm với sĩ quan cấp trên là Bá tước Holck. Hai người họ đã trốn trong một hàng cây gần đó để tránh quân đội Nga nhưng hóa ra họ là lính ném lựu đạn, lính canh và sĩ quan của Hoàng tử Eitel.
Năm 1907, có thông tin cho rằng Thành viên của Reichstag Otto, Arendt đã đề xuất nâng Alsace-Lorraine thành một Đại Công quốc trong đế quốc, với Eitel Friedrich là quân chủ; mặc dù Hoàng đế Wilhelm II bày tỏ sự quan tâm nhưng cuối cùng đề xuất vẫn không thành.
Sau chiến tranh, Eitel Friedrich tham gia vào giới bảo hoàng và tổ chức cựu quân nhân Der Stahlhelm. Năm 1921, tòa án hình sự Berlin kết luận Hoàng tử đã phạm tội lừa đảo chuyển tiền đến 300.000 đồng Mark và phạt Eitel 5000 Mark.
Gia phả
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Schench, G. Handbuch über den Königlich Preuβischen Hof und Staat fur das Jahr 1908 . Berlin, Phổ, 1907.
Hoàng tử Đức
Vương tử Phổ
Vương tộc Hohenzollern
Hoàng tử
Vương tử
Sinh năm 1883
Mất năm 1942
|
19848464
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20d%E1%BB%A5c%20%E1%BB%9F%20Trung%20Qu%E1%BB%91c
|
Giáo dục ở Trung Quốc
|
Trong hệ thống giáo dục Trung Quốc, giáo dục chủ yếu được quản lý bởi hệ thống giáo dục công lập do nhà nước điều hành, nằm dưới sự quản lý của Bộ Giáo dục. Tất cả công dân đều phải tham gia ít nhất là chín năm học, được gọi là giáo dục bắt buộc chín năm, được chính phủ tài trợ.
Giáo dục bắt buộc bao gồm sáu năm học cấp tiểu học, thường bắt đầu từ sáu tuổi và kết thúc vào mười hai tuổi, tiếp theo là ba năm học cấp trung học cơ sở và ba năm học cấp trung học phổ thông.
Các luật pháp ở Trung Quốc quy định hệ thống giáo dục bao gồm Nghị định về Bằng cấp Học vị, Đạo luật Giáo dục Bắt buộc, Đạo luật Giáo viên, Đạo luật Giáo dục, Đạo luật Giáo dục Nghề nghiệp và Đạo luật Giáo dục Đại học.
Năm 2020, Bộ Giáo dục báo cáo việc có thêm 34,4 triệu học sinh mới gia nhập giáo dục bắt buộc, đưa tổng số học sinh tham gia giáo dục bắt buộc lên 156 triệu. Năm 2003, chính phủ trung ương và địa phương ở Trung Quốc hỗ trợ 1.552 cơ sở giáo dục đại học (cao đẳng và đại học), cùng với 725.000 giáo sư và 11 triệu sinh viên của họ.
Năm 1985, chính phủ Trung Quốc đã hủy bỏ việc tài trợ giáo dục đại học bằng thuế, buộc các ứng viên đại học phải cạnh tranh để giành học bổng dựa trên khả năng học vụ của họ. Vào đầu những năm 1980, chính phủ cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học tư nhân đầu tiên, do đó tăng số lượng sinh viên đại học và những người có bằng tiến sĩ từ năm 1995 đến 2005.
Đầu tư của Trung Quốc vào nghiên cứu và phát triển đã tăng 20% mỗi năm từ năm 1999, vượt qua mốc 100 tỷ đô la vào năm 2011. Đến năm 2006, có đến 1,5 triệu sinh viên ngành khoa học và kỹ thuật tốt nghiệp từ các trường đại học Trung Quốc. Đến năm 2008, Trung Quốc đã công bố 184.080 bài báo trong các tạp chí quốc tế nổi tiếng - tăng gấp bảy so với năm 1996. Năm 2017, Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ với số lượng bài báo khoa học cao nhất. Năm 2021, có 3.012 trường đại học và cao đẳng (xem Danh sách trường đại học ở Trung Quốc) ở Trung Quốc, và 147 trường Đại học Quốc gia, được coi là một phần của nhóm đại học chất lượng cao (Double First Class), chiếm khoảng 4,6% tổng số cơ sở giáo dục đại học ở Trung Quốc.
Trung Quốc cũng đã trở thành điểm đến hàng đầu cho sinh viên quốc tế và đến năm 2013, Trung Quốc là quốc gia phổ biến nhất ở châu Á đối với sinh viên quốc tế và đứng thứ ba trên toàn thế giới. Trung Quốc hiện là điểm đến hàng đầu trên toàn cầu cho sinh viên người Bắc Phi nói tiếng Anh và là quốc gia có số lượng sinh viên quốc tế lớn thứ hai trên thế giới. Có 17 trường đại học Trung Quốc được liệt kê trong danh sách 200 trường đại học hàng đầu thế giới, chỉ đứng sau Hoa Kỳ và Vương quốc Anh theo Hệ thống xếp hạng tổng hợp năm 2023 của các bảng xếp hạng đại học ảnh hưởng nhất thế giới (ARWU+QS+THE).
Thượng Hải, Bắc Kinh, Giang Tô và Chiết Giangđã vượt qua tất cả các hệ thống giáo dục khác trong Chương trình Đánh giá Sinh viên Quốc tế. Hệ thống giáo dục của Trung Quốc đã được chú ý vì sự tập trung vào việc ghi nhớ thông tin và chuẩn bị cho kỳ thi.
Lịch sử
Nâng cao học vị dân chúng là trung tâm của giáo dục trong những năm đầu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 1949, tỷ lệ biết chữ chỉ từ 20-40%. Chính phủ cộng sản tập trung vào việc cải thiện biết chữ thông qua cả hệ thống học tập chính thức và các chiến dịch biết chữ. Trong 16 năm đầu của quốc hội cộng sản, số học sinh tiểu học tăng gấp ba lần, số học sinh trung học tăng gấp 8,5 lần và số sinh viên đại học tăng gấp bốn lần.
Kể từ sau Cách mạng Văn hóa (1966-1976), hệ thống giáo dục ở Trung Quốc đã được định hình theo hướng hiện đại hóa kinh tế. Năm 1985, chính phủ trung ương chuyển trách nhiệm về giáo dục cơ bản cho chính quyền địa phương thông qua "Quyết định về Cải cách Cơ cấu Giáo dục" của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Với kế hoạch cải cách giáo dục vào tháng 5 năm 1985, chính quyền kêu gọi việc có chín năm giáo dục bắt buộc và thành lập Bộ Giáo dục (được tạo ra trong tháng tiếp theo). Cam kết chính thức đối với việc cải thiện giáo dục nơi nào cũng rõ ràng nhất là sự tăng lớn đáng kể về nguồn lực cho giáo dục trong Kế hoạch 5 nămt (1986-1990), với số nguồn lực tăng 72% so với kế hoạch trước đó (1981-1985). Năm 1986, 16,8% ngân sách nhà nước được dành cho giáo dục, so với 10,4% vào năm 1984.
Do liên tục thay đổi trong nội bộ Đảng, chính sách chính thức đã luân phiên giữa những mệnh lệnh tư tưởng và những nỗ lực thiết thực để thúc đẩy giáo dục quốc gia. Đại nhảy vọt (1958-1960) và Phong trào Giáo dục Xã hội (1962-1965) nhằm chấm dứt tình trạng đặc quyền học thuật sâu sắc, thu hẹp khoảng cách xã hội và văn hóa giữa công nhân và nông dân, giữa dân thành thị và dân quê, và loại bỏ xu hướng của học giả và nhà trí thức coi thường lao động tay chân. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, việc tạo ra sự bình đẳng xã hội toàn diện là ưu tiên hàng đầu.
Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc sau thời kỳ Mao Trạch Đông xem giáo dục là nền tảng của Bốn Hiện Đại. Đầu những năm 1980, giáo dục về khoa học và công nghệ trở thành một trọng tâm quan trọng của chính sách giáo dục. Đến năm 1986, việc đào tạo nhân sự tay nghề và mở rộng kiến thức khoa học và kỹ thuật đã được ưu tiên hàng đầu. Mặc dù các môn nhân văn được coi là quan trọng, nhưng kỹ năng nghề nghiệp và kỹ thuật được coi là quan trọng nhất để đáp ứng mục tiêu hiện đại hóa của Trung Quốc.
Sự đổi hướng của ưu tiên giáo dục cũng tương đồng với chiến lược phát triển kinh tế của Đặng Tiểu Bình. Sự chú trọng cũng được đặt vào việc đào tạo sâu rộng của đội ngũ lãnh đạo đã được đào tạo trước đó, người sẽ tiếp tục chương trình hiện đại hóa trong những thập kỷ tiếp theo. Một sự tập trung mới vào khoa học và công nghệ hiện đại đã dẫn đến việc thực hiện một chính sách hướng ngoại, khuyến khích học và mượn kiến thức từ nước ngoài cho đào tạo nâng cao trong một loạt các lĩnh vực khoa học, bắt đầu từ năm 1976.
Bắt đầu từ Hội nghị Toàn quốc lần thứ Ba của Ban Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 12 năm 1978, các nhà trí thức được khuyến khích theo đuổi nghiên cứu để hỗ trợ Bốn Hiện Đại Hóa và, miễn là họ tuân thủ với "Bốn nguyên tắc cơ bản" của Đảng, họ được có tư duy khá tự do. Khi Đảng và chính phủ xác định rằng cấu trúc của bốn nguyên tắc quan trọng đã bị kéo giãn vượt quá giới hạn chấp nhận được, họ có thể hạn chế biểu hiện trí thức.
Văn học và nghệ thuật cũng trải qua một sự phục hồi lớn vào cuối những năm 1970 và những năm 1980. Các hình thức truyền thống lại phồn thịnh, và nhiều loại văn hóa và biểu hiện nghệ thuật mới được giới thiệu từ nước ngoài.
Năm 2003, Bộ Giáo dục của Trung Quốc kêu gọi việc thêm nội dung giáo dục môi trường trong toàn bộ chương trình giáo dục công lập từ năm đầu tiên của trường tiểu học đến năm thứ hai của trường trung học phổ thông.
Phát triển
Từ những năm 1950, Trung Quốc đã triển khai giáo dục bắt buộc chín năm cho khoảng một phần năm dân số thế giới. Đến năm 1999, giáo dục tiểu học đã được tổng hợp ở 90% Trung Quốc, và giáo dục bắt buộc chín năm hiện đang áp dụng cho khoảng 85% dân số. Ngân sách giáo dục do chính phủ trung ương và các tỉnh thay đổi theo khu vực, và ở các vùng nông thôn, ngân sách thường thấp hơn đáng kể so với các khu vực đô thị lớn. Gia đình bổ sung tiền được cung cấp cho trường học bởi chính phủ bằng học phí.
Đối với giáo dục không bắt buộc, Trung Quốc áp dụng một cơ chế chi phí chung, đặt học phí ở một tỷ lệ nhất định so với chi phí. Đồng thời, để đảm bảo sinh viên từ gia đình có thu nhập thấp có cơ hội tiếp cận giáo dục đại học, chính phủ đã khởi xướng các biện pháp hỗ trợ, với chính sách và biện pháp như học bổng, chương trình học làm việc và trợ cấp cho sinh viên có khó khăn về kinh tế, giảm hoặc miễn giảm học phí và trợ cấp của nhà nước.
Tỉ lệ mù chữ ở nhóm tuổi trẻ và trung niên đã giảm từ trên 80% xuống còn 5%. Hệ thống đã đào tạo khoảng 60 triệu chuyên gia cấp trung hoặc cao cấp và gần 400 triệu lao động đạt đến trình độ trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông. Hiện nay, có 250 triệu người Trung Quốc có ba cấp độ giáo dục (tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông), gấp đôi tốc độ tăng trưởng so với trên thế giới trong cùng thời kỳ. Tỉ lệ nhập học trường tiểu học đã đạt 98,9%, và tỉ lệ nhập học trung học cơ sở là 94,1%. Đến năm 2015, các trường tiểu học và trung học cơ sở (trung học cơ sở) do chính phủ vận hành ở Trung Quốc có 28,8 triệu học sinh.
Sinh viên Trung Quốc đã đạt được nhiều huy chương vàng hàng năm tại nhiều Cuộc thi Olympic Khoa học Quốc tế như Olympic Sinh học Quốc tế,Olympic Vật lý Quốc tế, Olympic Quốc tế về Thiên văn học và Vật lý thiên văn, Olympic Tin học Quốc tế, Olympic Khoa học Trái đất Quốc tế, Olympic Toán học Quốc tế, Olympic Vật lý Quốc tế và Olympic Hóa học Quốc tế. Đến năm 2022, Trung Quốc đứng đầu bảng xếp hạng về tổng số huy chương tại Olympic Toán học Quốc tế từ khi tham gia lần đầu vào năm 1985. Trung Quốc cũng đứng đầu bảng xếp hạng về tổng số huy chương tại Olympic Vật lý Quốc tế, Olympic Hóa học Quốc tế và Olympic Tin học Quốc tế.
Theo cuộc khảo sát năm 2009 từ Chương trình Đánh giá Sinh viên Quốc tế (PISA), một đánh giá toàn cầu về hiệu suất học thuật của học sinh 15 tuổi do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) tiến hành, học sinh Trung Quốc, đặc biệt là từ Thượng Hải, đã đạt được kết quả tốt nhất trong toán học, khoa học và đọc hiểu. OECD cũng phát hiện rằng ngay cả ở một số khu vực nông thôn cực kỳ nghèo, hiệu suất cũng gần bằng trung bình của OECD. Trong khi điểm trung bình trên quốc tế được báo cáo, xếp hạng của Trung Quốc được lấy từ chỉ một số khu vực chọn lọc. Kết quả PISA 2018 cho thấy học sinh ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Giang Tô và Chiết Giang đứng đầu bảng xếp hạng về đọc hiểu, toán học và khoa học và trẻ em học sinh Trung Quốc hiện nay được coi là thông minh nhất thế giới. Tổng thư ký của OECD, Angel Gurria, nói rằng học sinh từ bốn tỉnh Trung Quốc này "đã vượt xa đồng đẳng họ học sinh từ tất cả 78 quốc gia tham gia khác" và 10% học sinh có điều kiện kinh tế xã hội thấp nhất ở bốn khu vực này "cũng có kỹ năng đọc tốt hơn so với học sinh trung bình ở các quốc gia của OECD, cũng như có kỹ năng tương tự như 10% học sinh được hưởng lợi nhiều nhất ở một số quốc gia của OECD." Ông cảnh báo rằng bốn tỉnh và thành phố này "rất xa là đại diện cho Trung Quốc." Tuy nhiên, dân số của họ lên tới hơn 180 triệu người, và kích thước mỗi khu vực tương đương với một quốc gia của OECD bình thường, ngay cả khi thu nhập của họ thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của OECD. "Những thành tựu của họ càng trở nên ấn tượng hơn khi mức thu nhập của bốn khu vực Trung Quốc này thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của OECD".
Vào những năm 1980, Chương trình MBA ít người biết đến, nhưng đến năm 2004 đã có 47,000 người học MBA, được đào tạo tại 62 trường MBA. Nhiều người cũng đăng ký các chứng chỉ quốc tế, như EMBA và MPA; gần 10,000 sinh viên MPA đang theo học tại 47 trường đại học, bao gồm Đại học Bắc Kinh và Đại học Tsinghua. Thị trường giáo dục đã phát triển mạnh mẽ, với đào tạo và kiểm tra chứng chỉ chuyên nghiệp, như máy tính và ngoại ngữ, đang thịnh hành. Giáo dục liên tục là xu hướng, một lần học trường đã trở thành học suốt đời.
Đầu tư vào giáo dục đã tăng lên trong những năm gần đây; tỷ lệ ngân sách chung được cấp cho giáo dục đã được tăng lên một điểm phần trăm mỗi năm kể từ năm 1998. Theo một chương trình của Bộ Giáo dục, chính phủ sẽ xây dựng một hệ thống tài chính giáo dục phù hợp với hệ thống tài chính công, tăng cường trách nhiệm của chính phủ ở mọi cấp độ trong đầu tư giáo dục, và đảm bảo rằng phân bổ tài chính của họ cho chi phí giáo dục tăng nhanh hơn so với doanh thu thường xuyên của họ. Chương trình cũng đề ra mục tiêu của chính phủ là đầu tư giáo dục sẽ chiếm 4% GDP trong một khoảng thời gian tương đối ngắn.
Chính sách giáo dục
Chính sách cải cách giáo dục toàn diện của Đặng Tiểu Bình, liên quan đến mọi cấp độ của hệ thống giáo dục, nhằm thu hẹp khoảng cách giữa Trung Quốc và các quốc gia phát triển khác. Do đó, việc hiện đại hóa giáo dục là quan trọng để hiện đại hóa Trung Quốc, bao gồm cả việc chuyển quyền quản lý giáo dục từ trung ương xuống cấp địa phương như là phương tiện được chọn để cải thiện hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, quyền lực tập trung không được bỏ qua, như được chứng minh bằng việc thành lập Bộ Giáo dục.
Mục tiêu của cải cách trong lĩnh vực học thuật là nâng cao và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; tăng cường số lượng trường học và giáo viên đủ chất lượng, cũng như phát triển giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật. Một tiêu chuẩn đồng nhất cho chương trình học, sách giáo trình, kỳ thi và chất lượng giáo viên (đặc biệt là ở cấp trung học cơ sở) đã được thiết lập, và sự tự trị lớn và sự biến động trong và giữa các vùng tự trị, các tỉnh và các đô thị trực thuộc trung ương đã được chấp nhận. Hơn nữa, hệ thống tuyển sinh và phân công công việc trong giáo dục đại học đã được thay đổi, với việc giảm kiểm soát của chính phủ đối với các trường đại học và cao đẳng.
Chuyển giao lưu truyền thống của ý thức xã hội chủ nghĩa qua các thế hệ là cam kết rõ ràng của hệ thống giáo dục Trung Quốc. Năm 1991, Đảng cộng sản đã bắt đầu Chiến dịch Giáo dục Yêu nước trên toàn quốc. Trọng tâm chính của chiến dịch là trong lĩnh vực giáo dục, và sách giáo trình đã được sửa đổi để giảm bớt các câu chuyện về đấu tranh giai cấp và nhấn mạnh vai trò của Đảng trong việc chấm dứt thế kỷ nhục nhã. Như một phần của chiến dịch, các Cơ sở Giáo dục Yêu nước đã được thành lập, và các trường từ cấp tiểu học đến cấp đại học đã được yêu cầu đưa học sinh đến các địa điểm có ý nghĩa đối với Cách mạng Trung Quốc.
Tại một hội nghị giáo dục quốc gia tổ chức tại Bắc Kinh vào ngày 10 tháng 9 năm 2018, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình nhấn mạnh sự quan trọng của việc giảng dạy Chủ nghĩa Xã hội Trung Quốc cho thanh thiếu niên của đất nước, nhằm tạo điều kiện cho sự ủng hộ Đảng Cộng sản và các chính sách của nó.
Kế hoạch Năm năm của Trung Quốc là một phương tiện quan trọng để điều phối chính sách giáo dục.
Hệ thống giáo dục
Luật giáo dục bắt buộc
Đạo luật về Giáo dục Bắt buộc Chín Năm (中华人民共和国义务教育法), có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1986, đã xác lập các yêu cầu và thời hạn để đạt được giáo dục toàn diện phù hợp với điều kiện địa phương và đảm bảo quyền của trẻ em tuổi học đến ít nhất chín năm (sáu năm giáo dục tiểu học và ba năm giáo dục trung học). Quốc hội ở các cấp độ địa phương sẽ, dựa trên một số hướng dẫn và theo điều kiện địa phương, quyết định các bước, phương pháp và thời hạn để thực hiện giáo dục bắt buộc chín năm theo các hướng dẫn được tổ chức bởi chính quyền trung ương. Chương trình này nhằm đưa các khu vực nông thôn, nơi có bốn đến sáu năm giáo dục bắt buộc, đồng bộ với các khu vực thành thị. Các bộ giáo dục đã được kêu gọi đào tạo hàng triệu công nhân chuyên nghiệp cho tất cả các nghề nghiệp và nghề nghiệp và cung cấp hướng dẫn, chương trình học và phương pháp để tuân thủ theo chương trình cải cách và nhu cầu hiện đại hóa.
Các cơ quan chính quyền cấp tỉnh sẽ phát triển kế hoạch, ban hành các sắc lệnh và quy tắc, phân phối quỹ cho các huyện và quản lý trực tiếp một số trường trung học quan trọng. Các cơ quan huyện sẽ phân phối quỹ cho mỗi chính quyền thị trấn, nơi sẽ đền bù cho bất kỳ thiếu sót nào. Các cơ quan huyện sẽ giám sát giáo dục và giảng dạy và quản lý trực tiếp các trường trung học phổ thông, các trường sư phạm, các trường đào tạo nghề cho giáo viên, các trường nghề nghiệp nông nghiệp và các trường tiểu học và trung học mẫu giáo. Các trường còn lại sẽ được quản lý riêng biệt bởi chính quyền huyện và thị trấn.
Đạo luật giáo dục bắt buộc chín năm chia Trung Quốc thành ba loại: các thành phố và các khu vực kinh tế phát triển ở các tỉnh ven biển và một số khu vực phát triển ở phía nội địa; thị trấn và làng với sự phát triển trung bình; và các khu vực kinh tế lạc hậu.
Đến tháng 11 năm 1985, loại hình đầu tiên - các thành phố lớn và khoảng 20% các huyện (chủ yếu ở các khu vực phía biển và đông nam của Trung Quốc) - đã đạt được giáo dục 9 năm tự do. Đến năm 1990, các thành phố, các khu vực phát triển kinh tế ở các đơn vị cấp tỉnh ven biển, một số khu vực nội địa đã phát triển (khoảng 25% dân số Trung Quốc), và các khu vực nơi giáo dục trung học cơ sở đã được phổ biến đã nhắm đến việc có giáo dục trung học cơ sở tự do.
Người lập kế hoạch giáo dục nghĩ đến rằng vào giữa thập kỷ 1990, tất cả các công nhân và nhân viên ở các khu vực ven biển, các thành phố nội địa và các khu vực phát triển trung bình (với tổng dân số từ 300 triệu đến 400 triệu người) sẽ có giáo dục bắt buộc 9 năm hoặc giáo dục nghề nghiệp và 5% dân số trong các khu vực này sẽ có giáo dục đại học, xây dựng nền tảng trí tuệ vững chắc cho Trung Quốc. Ngoài ra, người lập kế hoạch mong đợi rằng giáo dục trung học và đại học sẽ tăng lên vào năm 2000.
Loại hình thứ hai được nhắm đến dưới Đạo luật Giáo dục Bắt buộc Chín Năm bao gồm các thị trấn và làng với sự phát triển trung bình (khoảng 50% dân số Trung Quốc), nơi giáo dục tự do dự kiến sẽ đạt đến cấp giáo dục trung học cơ sở vào năm 1995. Giáo dục kỹ thuật và cao cấp cũng được dự kiến sẽ phát triển theo tỷ lệ tương tự.
Loại hình thứ ba, các khu vực kinh tế lạc hậu (nông thôn) (khoảng 25% dân số Trung Quốc), sẽ phổ cập giáo dục cơ bản mà không có lịch trình cụ thể và ở các cấp độ khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế địa phương, mặc dù nhà nước sẽ cố gắng hỗ trợ phát triển giáo dục. Nhà nước cũng sẽ hỗ trợ giáo dục ở các khu vực dân tộc thiểu số. Trong quá khứ, các khu vực nông thôn, thiếu một hệ thống giáo dục tiểu học chuẩn hóa và tự do, đã sản xuất ra những thế hệ người mù chữ; chỉ có 60% số học sinh tốt nghiệp tiểu học của họ đạt đến các tiêu chuẩn đã đề ra.
Là một ví dụ khác về cam kết của chính phủ đối với giáo dục bắt buộc chín năm, vào tháng 1 năm 1986, Hội đồng Nhà nước soạn thảo một dự luật được thông qua tại Kỳ họp thứ 14 của Uỷ ban Thường trực Quốc hội nhân dân lần thứ 6, nói rằng bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào tuyển dụng thanh thiếu niên trước khi họ hoàn thành 9 năm học sẽ bị coi là bất hợp pháp. Dự luật cũng ủy quyền giáo dục tự do và cung cấp trợ cấp cho sinh viên thuộc các gia đình gặp khó khăn tài chính.
Giáo dục tiểu học miễn phí, mặc dù có luật giáo dục bắt buộc, vẫn chỉ là một mục tiêu chưa thực hiện được trong toàn bộ Trung Quốc. Vì nhiều gia đình gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản học phí, một số trẻ em buộc phải rời trường sớm hơn mục tiêu chín năm.
Hệ thống 9 năm được gọi là "Chín Năm - Một Chính sách", hoặc "九年一贯制" trong tiếng Trung. Thông thường, nó đề cập đến sự hợp nhất giáo dục tiểu học và trung học. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, học sinh có thể trực tiếp nhập học vào trung học cơ sở. Các lớp học trong các trường thực hiện Hệ thống 9 năm thường được gọi là Lớp 1, Lớp 2, và tiếp theo đến Lớp 9.
Đặc điểm chính của Hệ thống 9 năm:
Liên tục. Học sinh hoàn thành giáo dục từ tiểu học đến trung học.
Nguyên tắc gần gũi. Học sinh nhập học vào trường gần nơi ở thay vì thi vào trường trung học.
Thống nhất. Các trường thực hiện Hệ thống 9 năm thực hiện quản lý thống nhất trong quản lý trường, giảng dạy và giáo dục.
Năm 2001, chính phủ Trung Quốc khởi động "Kế hoạch hai miễn và một trợ cấp". Học sinh đến từ gia đình nghèo học giáo dục bắt buộc ở các khu vực nông thôn được miễn phí phí linh tinh và phí sách, và học sinh ở ký túc xá được trợ cấp từ từ về sinh sống. Năm 2007, tất cả học sinh nông thôn học giáo dục bắt buộc từ gia đình nghèo đều được hưởng chính sách hai miễn và một trợ cấp, tổng cộng khoảng 50 triệu học sinh. Bắt đầu từ năm 2017, chính sách hai miễn và một trợ cấp dưới hệ thống thống nhất nông thôn-đô thị sẽ được thực hiện.
Giáo dục cơ bản
Giáo dục cơ bản ở Trung Quốc bao gồm giáo dục mẫu giáo, giáo dục bắt buộc chín năm từ tiểu học đến trung học cơ sở, giáo dục trung học phổ thông tiêu chuẩn, giáo dục đặc biệt cho trẻ em tàn tật và giáo dục cho những người mù chữ.
Trung Quốc có hơn 200 triệu học sinh tiểu học và trung học, cùng với trẻ em mẫu giáo, chiếm một sáu của tổng dân số. Vì lý do này, Chính phủ Trung ương đã ưu tiên giáo dục cơ bản như một lĩnh vực chủ chốt của xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển giáo dục.
Trong những năm gần đây, giáo dục trung học phổ thông đã phát triển ổn định. Năm 2004, số học sinh nhập học là 8.215 triệu, gấp 2,3 lần so với năm 1988. Tỷ lệ nhập học trung học phổ thông trên toàn quốc đã đạt 43,8%, vẫn thấp hơn so với các nước phát triển khác.
Chính phủ đã tạo ra một quỹ đặc biệt để cải thiện điều kiện ở các trường tiểu học và trung học của Trung Quốc, cho các công trình xây dựng mới, mở rộng và xây dựng lại cơ sở hạ tầng xuống cấp. Chi phí giáo dục đối với mỗi học sinh tiểu học và trung học đã tăng lên đáng kể, thiết bị giảng dạy và nghiên cứu, sách và tài liệu được cập nhật và đổi mới mỗi năm.
Mục tiêu của chính phủ cho sự phát triển của hệ thống giáo dục cơ bản ở Trung Quốc là tiếp cận hoặc đạt đến mức của các nước phát triển trung bình vào năm 2010.
Các tốt nghiệp của các trường tiểu học và trung học ở Trung Quốc đạt điểm cao cả về kỹ năng cơ bản và kỹ năng tư duy; tuy nhiên, do sức khỏe kém, học sinh nông thôn thường bỏ học hoặc thiếu thành tích.
Tham quan
Giáo dục Trung Quốc
|
19848471
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oxyurichthys%20auchenolepis
|
Oxyurichthys auchenolepis
|
Oxyurichthys auchenolepis là một loài cá biển thuộc chi Oxyurichthys trong họ cá bống Oxudercidae. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1876.
Từ nguyên
Từ định danh auchenolepis được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: aukhénos (αὐχένος; “cổ, gáy”) và lepís (λεπίς; “vảy cá”), hàm ý đề cập đến lớp vảy ở chóp gáy của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
O. auchenolepis được ghi nhận từ tỉnh Wakayama và Kōchi (Nhật Bản) cùng Hồng Kông trải dài về phía nam đến bờ bắc Úc, băng qua khu vực Biển Đông ở Tây Thái Bình Dương, một số ảnh chụp còn cho thấy loài này mở rộng phạm vi đến tận Pakistan. Ở Việt Nam, O. auchenolepis được ghi nhận tại khu vực vịnh Nha Trang–vịnh Vân Phong và vịnh Hạ Long.
O. auchenolepis sống trên nền đáy bùn, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất khoảng 70 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở O. auchenolepis là 13 cm.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 13; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 14; Số tia ở vây ngực: 21–25; Số vảy đường bên: 52–72.
Tham khảo
A
Cá Thái Bình Dương
Cá Nhật Bản
Cá Trung Quốc
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Thái Lan
Cá Singapore
Động vật được mô tả năm 1876
|
19848496
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Afonso%20VI%20c%E1%BB%A7a%20B%E1%BB%93%20%C4%90%C3%A0o%20Nha
|
Afonso VI của Bồ Đào Nha
|
Afonso VI (; 21 tháng 8 năm 164312 tháng 9 năm 1683), được biết đến với biệt danh " Kẻ chiến thắng " (), là vị vua thứ hai của Bồ Đào Nha thuộc Nhà Braganza, trị vì từ năm 1656 cho đến khi ông qua đời.
Tham khảo
Thư mục
Quốc vương Bồ Đào Nha
Vương tử Bồ Đào Nha
Công tước xứ Bragança
Vương tộc Bragança
Vương tử
Vua thiếu nhi
Sinh năm 1643
Mất năm 1683
An táng tại Tu viện São Vicente de Fora
Vua Bồ Đào Nha thế kỷ 17
Quý tộc Lisboa
|
19848499
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Timothy%20Busfield
|
Timothy Busfield
|
Timothy Busfield (sinh ngày 12 tháng 6 năm 1957) là một nam diễn viên và đạo diễn truyền hình người Mỹ. Ông được biết đến với vai diễn Elliot Weston trong phim truyền hình Thirtysomething, vai Mark trong Field of Dreams và thủ vai Danny Concannon trong bộ phim truyền hình The West Wing. Busfield được đề cử giải Primetime Emmy cho vai diễn phụ xuất sắc nhất của ông trong phim Thirtysomething (1991). Busfield đồng thời là nhà sáng lập Theater for Children, Inc, một tổ chức nghệ thuật phi lợi nhuận tại California.
Tài liệu tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1957
Nam diễn viên truyền hình Mỹ
Đạo diễn truyền hình Mỹ
Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 20
Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 21
Nhà soạn kịch Mỹ thế kỷ 20
Nam diễn viên sân khấu Mỹ
Nhân vật còn sống
|
19848500
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pedro%20II%20c%E1%BB%A7a%20B%E1%BB%93%20%C4%90%C3%A0o%20Nha
|
Pedro II của Bồ Đào Nha
|
Dom Pedro II (Peter II ; 26 tháng 4 năm 1648 – 9 tháng 12 năm 1706), biệt danh o Pacífico, là Vua Bồ Đào Nha từ năm 1683 cho đến khi qua đời, sau khi giữ quyền nhiếp chính cho anh trai Afonso VI từ năm 1668. Ông là con út trong năm người con của João IV và Luisa de Guzmán.
Tham khảo
Thư mục
BRAGA (Paulo Drumond) – D. PEDRO II. UMA BIOGRAFIA / TRIBUNA DA HISTÓRIA / 2006. Tiểu sử tốt nhất của nhà vua.
PERES (Damião) – A DIPLOMACIA PORTUGUESA / E A SUCESSÃO DE ESPANHA / (1700–1704) / PORTUCALENSE EDITORA, LDª / 1931. Tác phẩm kể lại những sự kiện đã qua trong cuộc chiến tranh giành quyền kế vị, dưới thời trị vì của D. Peter II, quan trọng của lịch sử quan hệ ngoại giao lúc bấy giờ.
PEREIRA (Ana Cristina Duarte) – PRINCESAS E INFANTAS DE PORTUGAL / (1640–1736) / EDIÇÕES COLIBRI / 2008 / 2008. Tác phẩm đề cập đến nhiều hoàng tử và trẻ sơ sinh khác nhau của Bồ Đào Nha, hợp pháp và bất hợp pháp, từ năm 1640 đến năm 1736, từ quan điểm cá nhân và chính trị, truy tìm lộ trình của những nữ chính khách này trong quá trình hợp pháp hóa và củng cố triều đại Braganza.
LOURENÇO (Maria Paula Marçal) – D. PEDRO II / CÍRCULO DE LEITORES / 2006. Tác phẩm là một phần trong bộ sưu tập tiểu sử của các vị vua Bồ Đào Nha và kể lại cuộc đời và thời đại của D. Peter II.
Nhiếp chính Bồ Đào Nha
Vương tộc Bragança
Mất năm 1706
Sinh năm 1648
Công tước xứ Beja
Vương tử Bồ Đào Nha
Vua Bồ Đào Nha thế kỷ 17
Vua Bồ Đào Nha thế kỷ 18
An táng tại Tu viện São Vicente de Fora
Quý tộc người Lisbon
|
19848502
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Last%20Twilight
|
Last Twilight
|
Last Twilight (tiếng Thái: ภาพนายไม่เคยลืม, tạm dịch: Chưa từng quên hình bóng người) là bộ phim truyền hình Thái Lan phát sóng năm 2023 với sự tham gia của Jirataphol Potiwihok (Jimmy) và Tawinan Anukoolprasert (Sea).
Bộ phim được đạo diễn bởi Noppharnach Chaiwimol và sản xuất bởi GMMTV. Đây là một trong 19 dự án phim truyền hình trong năm 2023 được GMMTV giới thiệu trong sự kiện "GMMTV 2023 Diversely Yours" vào ngày 22 tháng 11 năm 2022. Bộ phim được phát sóng vào lúc 20:30 (ICT), thứ Sáu trên GMM 25, bắt đầu từ ngày 10 tháng 11 năm 2023. Bộ phim kết thúc vào ngày 26 tháng 1 năm 2024.
Diễn viên
Diễn viên chính
Tawinan Anukoolprasert (Sea) vai Day
Jirataphol Potiwihok (Jimmy) vai Mhok
Diễn viên phụ
Pakin Kunaanuwit (Mark) vai Night (anh trai Day)
Tipnaree Weerawatnodom (Namtan) vai Phojai (người yêu cũ Mhok)
Thipakorn Thitathan (Ohm) vai August
Rachanun Mahawan (Film) vai Gee
Premsinee Ratanasopa (Cream) vai Mhon (mẹ của Day và Night)
Kunchanuj Kengkarnka (Kun) vai Aon
Thasorn Klinnium (Emi) vai Pla
Apiwit Reardon (Rang) vai Pae
Thames Sanpakit vai Singha
Nhạc phim
|
19848503
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A1ch%20An%20Ma
|
Sách An Ma
|
Sách An Ma (Book of Alma) tên đầy đủ là Sách An Ma: Con trai của An Ma (The Book of Alma: The Son of Alma) là một trong những cuốn sách tạo thành tập sách Mặc Môn. Tiêu đề đề cập đến An Ma con (Alma the Younger) vốn là một nhà tiên tri và "trưởng phán quan" của dân Nê Phi. Sách An Ma là cuốn thánh thư dài nhất trong Sách Mặc Môn và bao gồm sáu mươi ba chương chiếm gần một phần ba dung lượng của toàn tập sách Mặc Môn. Cuốn sách ghi lại 39 năm đầu tiên của điều mà Nê Phi gọi là "triều đại của các phán quan", một thời kỳ trong đó quốc gia Nê Phi áp dụng một chính phủ thần quyền lập hiến trong đó cơ quan tư pháp và hành pháp các nhánh của chính phủ đã được kết hợp với nhau.
Tác phẩm này là Thiên ký thuật của An Ma, ông là con trai của An Ma và là vị trưởng phán quan đầu tiên cai trị dân Nê Phi, và cũng là thầy tư tế thượng phẩm cai quản Giáo hội. Thiên ký thuật về chế độ các phán quan cùng những trận chiến và những cuộc tranh chấp trong dân chúng. Đây cũng là một thiên ký thuật nói về trận chiến giữa dân Nê Phi và dân La Man theo biên sử của An Ma vốn là vị trưởng phán quan đầu tiên. Bài giảng của An Ma về đức tin cho dân Giô Ram trong sách An Ma được sử dụng rộng rãi để giải thích quá trình hình thành và phát triển đức tin.. Theo John W. Welch, dựa trên sự xuất hiện của các yếu tố sau đây trong sách An Ma, thì buổi lễ đền thờ của người Nê Phi sử dụng các họa tiết đền thờ quen thuộc, bao gồm: Hình ảnh sáng tạo phong phú về sự sa ngã của Adam và Eva, Sự cứu chuộc, ban hành Các điều răn, đối mặt với sự phán xét, lối vào mang tính biểu tượng để bước vào sự hiện diện của Chúa.
Nội dung
Sách An Ma ghi lại lịch sử của con người trong thời gian 40 năm sau khi dân chúng đã chấp thuận chế độ được đề nghị. Vào lúc cuối thời gian trị vì của mình, Vua Mô Si A đã đề nghị rằng chế độ quân chủ phải được thay thế bằng một chế độ các phán quan do dân chúng chọn ra. Chế độ được đề nghị phải được đặt trên các luật pháp do Thượng Đế ban cho do các phán quan điều hành, là những người được dân chúng chọn ra. Nguyên tắc về quyền tự quyết là nền tảng của chế độ đã được đề nghị thay vì là một nhà vua, những cá nhân sẽ chấp nhận trách nhiệm và sự giải trình để hành động đúng theo luật pháp. Các chương cuối của biên sử An Ma gồm các chương 43 đến 62 đã thuật lại một thời kỳ thử thách và khó khăn. Trong thời gian 19 năm này, dân chúng đương đầu với những thử thách chính trị nội bộ, những đe dọa ở bên ngoài và hầu như cuộc xung đột thường xuyên có vũ trang. Vào thời các quan xét (phán quan/thẩm phán), có một đạo quân gồm 135.000 lính Mi-đi-an (Midianites), A-ma-léc (Amalekites) và những dân khác đóng quân trong đồng bằng đối diện với Mô-rê (Moreh).
Hệ thống chính quyền của họ đã hai lần bị đe dọa trong nội bộ bởi những người tìm cách lên làm vua và tước đoạt quyền của người dân để chọn người lãnh đạo và được tự do thờ phượng. Tương tự như thế, những người này phải tự bảo vệ mình khỏi nhiều cuộc tấn công bên ngoài của dân La Man là những kẻ quyết tâm hủy diệt chính quyền Nê Phi và bắt dân Nê Phi làm nô lệ. Kinh tế bị gián đoạn bởi nhiều thử thách này, mặc dù đã không được đề cập đến một cách cụ thể, có thể là một thử thách đáng kể cho dân chúng. Trong khi sưu tập biên sử thiêng liêng, Mặc Môn đã cung cấp một bài tường thuật chi tiết về thời kỳ này. Trong sách An Ma, chương 20, Am Môn (Ammon) và La Mô Ni (Lamoni) đã đi đến thành phố Mi Đô Ni (Middoni) vì mục đích tìm kiếm và giải thoát anh trai A Rôn (Aaron) của Am Môn (Ammon) ra khỏi nhà tù. Và tiếng nói của Chúa đã đến với Am Môn mà rằng: "Ngươi chớ đi lên xứ Nê Phi, vì này, vua xứ đó sẽ tìm cách giết ngươi; nhưng ngươi hãy đến xứ Mi Đô Ni; vì này, anh của ngươi là A Rôn, và cả Mơ Lô Ki cùng An Ma đang bị cầm tù". Và A Mi Na Đáp (Aminadab) trả lời chúng rằng: "Các người phải hối cải, và cầu khẩn lên tiếng nói ấy cho đến lúc nào các người có đức tin nơi Đấng Ky Tô, là Đấng mà An Ma, A Mu Léc, và Giê Rôm (Zeezrom) đã giảng dạy cho các người biết và khi nào các người làm được như vậy thì đám mây đen tối sẽ được dời đi không còn bao phủ các người nữa".
Các nhân vật
Các nhân vật được đề cập đến trong sách An Ma bao gồm:
An Ma con (Alma the Younger)
Gideon
Nephihah
Những người con của Mosiah gồm:
Ammon
Aaron
Omner
Himni
Amulek
Zoram
Ammon
Melek
Lehonti
Helaman
Shiblon
Corianton
Đội trưởng Moroni
Hai ngàn chiến binh
Teancum
Laman
Gid
Teomner
Pahoran
Hagoth
Moronihah
Nehor
Amlici
Korihor
Zoram
Zerahemnah
Amalickiah
Morianton
Ammoron
Vì vua
Gidoni
Zeezrom
Lamoni
Những kẻ chống đối Nê Phi là Lê Hi
Xem thêm
Sách Nê Phi thứ nhất
Sách Abraham
Lời Thông sáng
Chú thích
Tham khảo
.
Liên kết ngoài
Story of the Book of Mormon - Alma: An educational summary of this book
Mặc Môn giáo
Văn bản tôn giáo
|
19848505
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jos%C3%A9%20I%20c%E1%BB%A7a%20B%E1%BB%93%20%C4%90%C3%A0o%20Nha
|
José I của Bồ Đào Nha
|
Dom José I (,; 6 tháng 6 năm 1714 – 24 tháng 2 năm 1777) biệt danh Nhà cải cách (tiếng Bồ Đào Nha: o Reformador), là Vua của Bồ Đào Nha từ ngày 31 tháng 7 năm 1750 cho đến khi qua đời.
Là con thứ ba và là con trai thứ hai của Vua João V, José trở thành người thừa kế của cha mình khi anh trai ông, Pedro, Vương tử Brasil qua đời. Năm 1729, ông kết hôn với Infanta Mariana Victoria, con gái lớn của Philip V của Tây Ban Nha. José và Mariana Victoria có bốn cô con gái: Maria, Mariana, Doroteia và Benedita.
Sau cái chết của cha mình vào năm 1750, José trở thành vua Bồ Đào Nha. Triều đại của ông đã chứng kiến những sự kiện lớn: trận động đất chết người ở Lisbon năm 1755 và cuộc xâm lược Bồ Đào Nha của Tây Ban Nha-Pháp năm 1762. José qua đời năm 1777 và được kế vị bởi con gái lớn của ông, Nữ hoàng Dona Maria I.
Tham khảo
Thư mục
Vương tử Bồ Đào Nha
Vương tộc Bragança
Tín hữu Công giáo Bồ Đào Nha
Mất năm 1777
Sinh năm 1714
Vua Bồ Đào Nha thế kỷ 18
An táng tại Tu viện São Vicente de Fora
Quý tộc người Lisbon
|
19848515
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pedro%20III%20c%E1%BB%A7a%20B%E1%BB%93%20%C4%90%C3%A0o%20Nha
|
Pedro III của Bồ Đào Nha
|
Dom Pedro III (,; 5 tháng 7 năm 1717 – 25 tháng 5 năm 1786) biệt danh Người xây dựng, là Vua của Bồ Đào Nha từ ngày 24 tháng 2 năm 1777 cho đến khi qua đời năm 1786 với tư cách người đồng cai trị với vợ mình là Maria I.
Tham khảo
Thư mục
Mất năm 1786
Sinh năm 1717
Phối ngẫu Vương thất Bồ Đào Nha
Vương tử Bồ Đào Nha
Vương tộc Bragança
Vua Jure uxoris
Vua Bồ Đào Nha thế kỷ 18
An táng tại Tu viện São Vicente de Fora
Quý tộc người Lisbon
|
19848521
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BA%A4n%20%C4%90%E1%BB%99%20thu%E1%BB%99c%20%C4%91%E1%BB%8Ba
|
Ấn Độ thuộc địa
|
Ấn Độ thuộc địa (), là tên gọi một phần Tiểu lục địa Ấn Độ bị các cường quốc thực dân châu Âu chiếm đóng trong Thời đại Khám phá. Các cường quốc châu Âu ngoài chiếm đóng lãnh thổ còn độc chiếm trong lĩnh vực thương mại, đặc biệt trong buôn bán gia vị. Ấn Độ được biết tới là vùng đất thịnh vượng giàu có từ thế kỷ XIII, các quốc gia châu Âu đã sử dụng tài chính để tìm kiếm con đường thương mại trên biển ngắn nhất đến Ấn Độ, trong quá trình này Christopher Columbus đã khám phá châu Mỹ năm 1492, đồng thời các cường quốc châu Âu thực hiện thuộc địa hóa châu Mỹ. Vào năm 1498, Vasco da Gama sau hành trình đi qua mũi Hảo Vọng đã đến Kozhikode một thương cảng lớn của Ấn Độ. Quốc vương Kozhikode là Manavikraman Raja đã đồng ý cho phép buôn bán tại thành, chính thức thiết lập mối liên kết thương mại trực tiếp với Ấn Độ. Sau đó một thời gian, Hà Lan là quốc gia tiếp theo thiết lập thương mại với Ấn Độ đặt trụ sở chính tại Tích Lan, việc mở rộng thương mại sang Ấn Độ bị gián đoạn sau thất bại trong Trận Colachel trong Chiến tranh Travancore–Hà Lan.
Trong sự cạnh tranh thương mại với nhau, một loạt các quốc gia châu Âu như Hà Lan, Anh, Pháp, Đan Mạch-Na Uy đều thiết lập các điểm giao thương ở Ấn Độ vào đầu thế kỷ XVII. Đầu thế kỷ XVIII, một số Đế chế hùng mạnh tại Ấn Độ suy yếu, các tiểu quốc nhỏ bất ổn ngày càng bị thực dân châu Âu thao túng. Vào cuối thế kỷ XVIII, Anh và Pháp tranh giành quyền thống trị Ấn Độ thông qua việc chiến tranh ủy nhiệm cho các tiểu vương hoặc cũng có thể can thiệp quân sự trực tiếp. Năm 1799, Anh kết thúc cuộc chiến kéo dài với Vương quốc Mysore, tiểu quốc được Pháp ủng hộ vũ khí trang thiết bị, Anh đã nhanh chóng mở rộng quyền cai trị lên phần lớn Tiểu lục địa Ấn Độ trong khi đó Pháp suy giảm ảnh hưởng. Đến giữa thế kỷ XIX, Đế quốc Anh đã giành quyền kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp với hấu hết các vùng Ấn Độ.
Ấn Độ, trong thời kỳ thuộc địa, là thành viên sáng lập Hội Quốc Liên, đồng thời là thành viên sáng lập Liên Hợp Quốc tại San Francisco năm 1945. Năm 1947, Ấn Độ giành được độc lập và bị chia cắt thành Lãnh thổ tự trị Ấn Độ và Lãnh thổ tự trị Pakistan.
Bồ Đào Nha
|
19848539
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%91c%20%C4%91%E1%BB%99%20Th%C3%A2m%20Quy%E1%BA%BFn
|
Tốc độ Thâm Quyến
|
Tốc độ Thâm Quyến () là một thuật ngữ ban đầu được sử dụng trong giai đoạn đầu của cải cách kinh tế Trung Quốc để mô tả quá trình xây dựng nhanh chóng Tòa nhà Quốc Mậu ở Thâm Quyến, Trung Quốc. Là tòa nhà cao nhất Trung Quốc vào thời điểm đó, Tòa nhà Quốc Mậu do Công ty TNHH Tập đoàn Cục Kỹ thuật Xây dựng 3 Trung Quốc xây dựng, tự hào có tiến độ xây dựng hiệu quả, trong đó việc hoàn thành mỗi tầng chỉ mất ba ngày.
Thuật ngữ này được dùng để mô tả sự phát triển nhanh chóng của Thâm Quyến trong vai trò là một trong những đặc khu kinh tế đầu tiên của Trung Quốc, được gọi là "Thung lũng Silicon của Trung Quốc" và "Thành phố Tức thời". Kể từ năm 1979, Thâm Quyến đã chuyển đổi từ một làng chài nhỏ thành một trong những trung tâm công nghệ quan trọng nhất thế giới với mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất ở Trung Quốc đại lục. Vào năm 1984 và 1992, Đặng Tiểu Bình, nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc lúc bấy giờ và là "Kiến trúc sư trưởng công cuộc cải cách và mở cửa", đã thực hiện các chuyến thị sát tới Thâm Quyến, tán thành "tốc độ Thâm Quyến" và mô hình phát triển của các đặc khu kinh tế.
Tham khảo
Bùng nổ kinh tế
Tự do hóa kinh tế
Kinh tế Thâm Quyến
Cải cách ở Trung Quốc
Lịch sử kinh tế Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
|
19848540
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B2a%20nh%C3%A0%20Qu%E1%BB%91c%20M%E1%BA%ADu
|
Tòa nhà Quốc Mậu
|
Tòa nhà Quốc Mậu (, hay còn gọi là Trung tâm Ngoại thương Quốc tế) là một tòa tháp văn phòng và là một trong những nhà chọc trời sớm nhất ở thành phố Thâm Quyến, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Quá trình xây dựng nhanh chóng công trình này được mệnh danh "tốc độ Thâm Quyến".
Nằm ở ngã ba đường Gia Tân và đường Nam Nhân Dân, quận La Hồ, tòa nhà cao 160 mét và bao gồm 50 tầng. Việc xây dựng bắt đầu vào ngày 1 tháng 11 năm 1982 và hoàn thành 37 tháng sau đó vào ngày 29 tháng 12 năm 1985. Điều này khiến thành phố có sự phát triển nhanh chóng với biệt danh "Tốc độ Thâm Quyến". Đây là tòa nhà cao nhất Trung Quốc sau khi hoàn thành.
Tòa nhà tọa lạc trên một khu đất rộng 20.000 mét vuông và diện tích sàn xây dựng là 100.000 mét vuông. Nó chủ yếu bao gồm không gian văn phòng (tầng 5-43, ngoại trừ tầng 24) nhưng có nhà hàng xoay ở tầng 48 và 49 và sân bay trực thăng trên đỉnh tòa nhà. Năm tầng đầu tiên là không gian bán lẻ.
Tham khảo
Quận La Hồ
Nhà bán lẻ ở Trung Quốc
Nhà chọc trời ở Thâm Quyến
Tòa nhà văn phòng hoàn thành năm 1985
Tòa nhà văn phòng chọc trời ở Thâm Quyến
|
19848543
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tryssogobius%20porosus
|
Tryssogobius porosus
|
Tryssogobius porosus là một loài cá biển thuộc chi Tryssogobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2007.
Từ nguyên
Tính từ định danh porosus trong tiếng Latinh có nghĩa là “đầy lỗ nhỏ”, hàm ý đề cập đến các lỗ ở trước nắp mang và trên nắp mang, là đặc điểm trưng chính của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
T. porosus được ghi nhận tại đảo Hải Nam và đảo Đài Loan, sau này được ghi nhận tại khu vực vịnh Nha Trang–vịnh Vân Phong.
T. porosus được tìm thấy ở độ sâu trong khoảng 18–100 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở T. porosus là gần 2,8 cm.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 10; Số tia ở vây ngực: 20–21; Số vảy đường bên: 23–28.
Tham khảo
P
Cá Thái Bình Dương
Cá Trung Quốc
Cá Đài Loan
Cá Việt Nam
Động vật được mô tả năm 2007
|
19848546
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%82u%202004
|
Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2004
|
Vòng loại Giải vô địch bóng đá châu Âu (UEFA Euro) 2004 được tổ chức từ ngày – .
50 đội bóng được chia vào 10 bảng (mỗi bảng có 5 đội). Các đội trong bảng thi đấu hai lượt trận sân nhà và sân khách với nhau. Đội nhất bảng sẽ giành quyền tham dự UEFA Euro 2004, các đội nhì bảng sẽ được chia cặp đá play-off hai lượt trận sân nhà và sân khách để chọn ra đội thắng cuộc tham dự UEFA Euro 2004.
được tự động tham dự UEFA Euro 2004 do là nước chủ nhà của giải đấu.
Các đội vượt qua vòng loại
Tính điểm
Nếu có từ 2 đội trở lên bằng điểm khi hoàn thành các trận đấu vòng bảng, các tiêu chí sau sẽ được áp dụng để xác định thứ hạng:
Số điểm đạt được cao hơn trong các trận đấu vòng bảng giữa các đội được đề cập.
Hiệu số bàn thắng bại vượt trội so với các trận đấu vòng bảng giữa các đội được đề cập.
Số bàn thắng ghi được cao hơn trong các trận đấu vòng bảng giữa các đội được đề cập.
Số bàn thắng được ghi trên sân khách cao hơn trong các trận đấu vòng bảng giữa các đội được đề cập.
Nếu vẫn có từ hai đội trở lên đồng hạng, tiêu chí 1 đến tiêu chí 4 sẽ được xét lại. Nếu vẫn đồng hạng thì áp dụng tiêu chí 6 và tiêu chí 7.
Kết quả tất cả trận đấu vòng bảng: (1) Hiệu số bàn thắng bại cao hơn; (2) Số bàn thắng ghi được nhiều hơn; (3) Số bàn thắng ghi được trên sân khách cao hơn; (4) Điểm fair-play
Bốc thăm.
Hạt giống
Lễ bốc thăm diễn ra vào ngày tại Santa Maria da Feira, Bồ Đào Nha. 50 đội được chia thành 5 nhóm bốc thăm dựa trên Hệ số UEFA (tính điểm dựa trên vòng loại UEFA Euro 2000 và vòng loại World Cup 2002. Tuy nhiên, danh sách các đội hạt giống có một số thay đổi:
(hạng 11) được xếp hạt giống số 1 với tư cách là đương kim vô địch (người giữ danh hiệu). Do đó, tất cả các đội xếp trên họ từ 1 đến 10 sẽ bị tụt xuống một vị trí hạt giống thấp hơn thứ hạng của họ.
(hạng 4) không được xếp hạt giống do tự động vượt qua vòng loại với tư cách là nước chủ nhà. Do đó, tất cả các đội xếp dưới họ đều được xếp lên một vị trí hạt giống cao hơn vị trí xếp hạng của họ..
10 bảng đấu được thành lập bằng cách bốc thăm một đội từ mỗi nhóm hạt giống (trong tổng số 5 nhóm).
Chú thích: Hệ số UEFA đã tự động được tính đến khi tính toán xếp hạng, rằng một số đội chỉ thi đấu một trong hai giải đấu vòng loại trước đó. Vì và tự động đủ điều kiện tham dự UEFA Euro 2000 với tư cách là đồng chủ nhà nên hệ số này chỉ tính đến thành tích tại vòng loại FIFA World Cup 2002 của họ. cũng đã tự động vượt qua vòng loại FIFA World Cup 2002 với tư cách là nhà vô địch FIFA World Cup 1998, nghĩa là hệ số chỉ sử dụng kết quả tại vòng loại UEFA Euro 2000 của .
Bảng tóm tắt
Các bảng đấu
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Bảng 5
Bảng 6
Bảng 7
Bảng 8
Bảng 9
Bảng 10
Vòng play-off
|}
Danh sách ghi bàn
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
UEFA Euro 2004 at UEFA.com
Bóng đá châu Âu 2002–03
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004
Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu
|
19848547
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ryu%20Hyuk-in
|
Ryu Hyuk-in
|
Ryu Hyuk-in (; 1934 - 1999) là một nhà báo và chính khách Hàn Quốc. Ông từng là Thư ký cấp cao về các vấn đề chính trị của Nhà Xanh và Cục trưởng thứ tư. Quê của ông ở Jeonju.
Tiểu sử
Ông là một nhà báo, từng chủ nhiệm chuyên mục chính trị của Dong-a Ilbo.
Dưới thời Park Chung-hee, ông từng là Chánh văn phòng Tổng thống năm 1973, đại sứ Hàn Quốc tại Bồ Đào Nha, giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS), và Cục trưởng Cục Thông tin Công cộng từ ngày 9 tháng 10 năm 1992 đến ngày 25 tháng 2 năm 1993.
Gia đình
Vợ: He Ang (Hứa Ưởng)
Con trai : Ryu Seok-choon (Liễu Tích Xuân, sinh năm 1955) - Giáo sư, Khoa Xã hội học, Đại học Yonsei
Con trai : Ryu Seok-jin (Liễu Tích Tân, 1958 - 2022) - Giáo sư Khoa học Chính trị và Quan hệ Quốc tế, Đại học Sogang
Con rể : Choi Geum-rak (Thôi Kim Lạc, sinh năm 1958) - Cố vấn, Công ty Luật Lee & Ko
Cháu gái ngoại: Lee In-yong (Lý Nhân Dũng, 1957 ) - Cựu phóng viên MBC, nhân viên của của Samsung Electronics) (con trai của chị gái)
Tham khảo
Sinh năm 1934
Mất năm 1999
Người Andong
Nhà báo Hàn Quốc
Cục trưởng Cục Thông tin Công cộng Hàn Quốc
|
19848552
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cryptocentrus%20caeruleomaculatus
|
Cryptocentrus caeruleomaculatus
|
Cryptocentrus caeruleomaculatus là một loài cá biển thuộc chi Cryptocentrus trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1933.
Từ nguyên
Từ định danh caeruleomaculatus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: caeruleus (“xanh dương”) và maculatus (“có đốm”), hàm ý đề cập đến những đốm nhỏ màu xanh óng nằm rải rác trên cơ thể của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
Từ quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), C. caeruleomaculatus có phân bố trải dài về phía nam đến Tây Úc và rạn san hô Great Barrier, băng qua vùng biển Đông Nam Á, phía đông đến quần đảo Caroline và quần đảo Solomon. Ở Việt Nam, C. cinctus được ghi nhận tại vịnh Nha Trang và vịnh Hạ Long.
C. caeruleomaculatus sống trong các đầm phá và trên rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 30 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở C. caeruleomaculatus là 10 cm. Cá có màu nâu xám, nhiều chấm xanh óng trên đầu và thân. Có những đốm tròn màu nâu đen ở giữa thân với các dải sọc mờ dọc hai bên hông. Đầu cũng có những chấm đỏ, cũng như các đốm tròn đỏ trên vây lưng và vây hậu môn kèm theo các sọc vàng nâu.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9–10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 9; Số tia ở vây ngực: 15–17.
Tình trạng phân loại
C. caeruleomaculatus tạo thành nhóm phức hợp loài với Cryptocentrus strigilliceps và Cryptocentrus altipinna. Đặc trưng của nhóm này là có vảy lược bao phủ cả nửa thân sau.
Sinh thái
C. caeruleomaculatus sống cộng sinh trong hang với tôm gõ mõ.
Thương mại
C. caeruleomaculatus có thể là một thành phần trong hoạt động buôn bán cá cảnh.
Tham khảo
C
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Nhật Bản
Cá Việt Nam
Cá Thái Lan
Cá Singapore
Cá Philippines
Cá Papua New Guinea
Cá Palau
Động vật quần đảo Solomon
Động vật được mô tả năm 1933
|
19848553
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shibetsu%20%28th%E1%BB%8B%20tr%E1%BA%A5n%29
|
Shibetsu (thị trấn)
|
là thị trấn thuộc huyện Shibetsu, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 5.023 người và mật độ dân số là 8 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 624,49 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19848560
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Geto%20Suguru
|
Geto Suguru
|
là một nhân vật hư cấu từ bộ manga Chú thuật hồi chiến 0 của Akutami Gege. Suguru là một Chú thuật sư vô cùng mạnh mẽ, đồng thời cũng là người bạn thân thiết nhất của Gojo Satoru. Trong phần tiền truyện, anh giữ vai trò của một phản diện chính và có khao khát chiếm hữu Nữ hoàng lời nguyền Orimoto Rika, lúc bấy giờ đang đeo bám theo nhân vật chính của bộ truyện là Okkotsu Yuta. Bên cạnh đó, Suguru còn xuất hiện trong những đoạn hồi tưởng của Chú thuật hồi chiến, qua đó khám phá sâu hơn về tình bạn của anh với Satoru cũng như lần chạm trán cuối cùng giữa hai người. Trong mạch truyện chính, anh bị Chú nguyền sư xâm chiếm cơ thể vì thuật thức của hắn có thể cho phép bản thân hoán đổi bộ não với mục tiêu. Đích đến cao cả nhất mà Kenjaku muốn nhắm đến chính là thúc đẩy loài người tiến hóa thông qua Chú lực để gây dựng nên thời kỳ hoàng kim mới của Chú thuật, tương tự như thời đại Heian diễn ra cách đây hàng nghìn năm.
Sensui Shinobu, nhân vật phản diện trong bộ manga Hành trình U Linh Giới do Togashi Yoshihiro sáng tác, chính là nguồn cảm hứng để Gege tạo ra Suguru, đồng thời vị tác giả cũng muốn khám phá về định kiến thông qua nhân vật của mình. Trong khi đó, Kenjaku lại chịu ảnh hưởng từ gã phản diện Orochimaru trong loạt Naruto, cả hai đều là những kẻ bất tử sử dụng vật chứa để duy trì sự sống cho bản thân. Trong bản chuyển thể anime của Chú thuật hồi chiến, Geto Suguru được seiyū Sakurai Takahiro thể hiện bằng tiếng Nhật, trong khi Lex Lang thì đảm trách vị trí lồng giọng sang ngôn ngữ Anh.
Kể từ khi ra mắt, nhân vật Geto Suguru đã nhận về vô số lời khen ngợi từ giới phê bình nhờ vai trò của một phản diện gây ấn tượng mạnh khi chiến đấu với Yuta và bạn bè đồng môn trong Chú thuật hồi chiến 0, đồng thời còn phát triển mối quan hệ sâu sắc với Gojo Satoru vào lúc mà cốt truyện dần hé mở về sự gắn kết của hai người. Tuy nhiên, việc Suguru bị chiếm quyền điều khiển cơ thể trong mạch truyện chính đã dẫn đến nhiều phản ứng trái chiều vì ảnh hưởng của nó đến câu chuyện và chính bản thân nhân vật này.
Ý tưởng và sáng tạo
Akutami Gege đã tạo ra hình mẫu Geto Suguru dựa trên nhân vật phản diện Sensui Shinobu trong bộ manga Hành trình U Linh Giới của Togashi Yoshihiro. Mặc dù vậy, vị tác giả lại tỏ ra không hài lòng với đứa con tinh thần của mình. Nhân vật Suguru vốn được xây dựng như một kẻ có tam quan lệch lạc, bị vây quanh bởi định kiến và luôn nhanh chóng buông lời phán xét người khác. Bên cạnh đó, cái tên Geto cũng bắt nguồn từ khu nghỉ mát trượt tuyết Geto Kogen ở Nhật Bản. Khi viết về quá khứ của nhân vật này, Gege muốn nhấn mạnh sự thay đổi rõ rệt của Suguru sau khi rời khỏi Giới Chú thuật cùng sự căm ghét ngày càng lớn đối với những người bình thường. Một trong những cuộn giấy biểu ngữ của Suguru trong loạt truyện cũng có liên quan đến bộ manga Zombiepowder của Kubo Taito.
Gege đã quyết định để Suguru trở thành bạn thân của Gojo Satoru sau khi vị tác giả nghiên cứu về áo choàng của tu sĩ Phật giáo, đồng thời nhận thấy rằng kiểu áo Gojo-gesa rất phù hợp với họ của Satoru. Ngoài ra, Gege cũng muốn sử dụng những cái tên cắt nghĩa để thể hiện tính cách của các nhân vật: Satoru (悟, Ngộ) tức là thiên tài bẩm sinh, còn Suguru (傑, Kiệt) là loại người không ngừng nỗ lực để trở nên xuất chúng. Hơn nữa, Gege cũng xây dựng Suguru như một nhà sư trong phần tiền truyện, qua đó ngụ ý về việc nhân vật này sáng lập một giáo phái sai trái khi đang giả dạng làm thầy tu, trong khi ngoài đời thực thì lớp người này lại nhận được sự kính trọng và tin tưởng từ những cá nhân khác, từ đó làm bật nổi lên sự tương phản của hai thái cực trên.
Sau khi tiết lộ rằng Geto Suguru thực chất đã chết trong Chú thuật hồi chiến 0, còn Suguru ở dòng thời gian chính lại là do kẻ khác giả mạo, tác giả Gege cho biết ký ức cơ thể từ một trong những cánh tay của nhân vật này khi nghe thấy giọng Satoru vang lên đã ám chỉ rằng Suguru vẫn đang vật lộn với Kenjaku trong cơ thể của chính mình. Đồng thời, vị tác giả cũng so sánh Kenjaku với nhân vật Orochimaru từ bộ truyện Naruto do Kishimoto Masashi sáng tác nhằm lý giải cho cái chết của Suguru. Gege khẳng định Suguru rất mạnh mẽ và tin rằng anh có thể giành chiến thắng trước Yuta nếu không phân tán chiến lực sang Shinjuku và Kyoto. Chiêu thức mạnh nhất của anh, Uzumaki, được lấy cảm hứng từ loạt manga kinh dị cùng tên do Itō Junji viết lời và minh họa. Mặc dù vậy, Gege lại không muốn chi tiết này trùng lặp quá nhiều vì lo rằng nó sẽ giống như một bản đạo nhái của tác phẩm gốc.
Đối với bản chuyển thể điện ảnh của Chú thuật hồi chiến 0, nhà biên kịch Seko Hiroshi nhận xét rằng để phù hợp với thời lượng hai giờ của bộ phim, ông sẽ cần bổ sung thêm những tình tiết mới như quá khứ của Okkotsu Yuta cùng mối quan hệ giữa Satoru và Suguru. Khi nhìn lại, Hiroshi nhận thấy rằng tất cả các phân cảnh hành động ở nửa cuối phim đều rất thú vị, trong đó gồm cả những trường đoạn có sự góp mặt của Gojo, Yuta, Geto và Rika. Bên cạnh đó, việc đưa Gojo Satoru vào tác phẩm cũng là lẽ tự nhiên khi các nhà sáng tạo muốn tập trung khắc họa mối quan hệ của nhân vật này với Geto Suguru. Tuy nhiên, đạo diễn Park Sunghoo khẳng định rằng những nhân viên trong đội ngũ sản xuất không muốn cho hai nhân vật ấy chiếm quá nhiều thời lượng trong phim, bởi cốt truyện tác phẩm chủ yếu tập trung vào Yuta và Rika. Mặt khác, biên kịch Hiroshi lại tiết lộ rằng đội ngũ đã mở rộng trận chiến cuối cùng của Yuta và Suguru bằng cách vẽ thêm cảnh Suguru nôn ra máu.
Diễn viên lồng tiếng
Sakurai Takahiro, diễn viên lồng tiếng Nhật cho Suguru, từng tỏ ra ấn tượng trước sự "oách xà lách" của các nhân vật chính. Takahiro đã đọc manga Chú thuật hồi chiến 0 trước cả khi bộ phim bước vào giai đoạn bấm máy, điều đó khiến anh cảm thấy rất sốc sau khi biết được bí mật của Kenjaku. Bên cạnh đó, nam diễn viên cũng rất ngạc nhiên vì mối quan hệ thân thiết giữa Geto và Gojo. Mặc dù đây là lần đầu tiên Suguru và Yuta tương tác với nhau, nhưng Takahiro đã quá quen mặt với Ogata Megumi (diễn viên lồng tiếng cho Okkotsu) sau khi làm việc cùng nhau trong những tác phẩm trước đó.
Diễn viên lồng tiếng Lex Lang rất chuộng lối xây dựng nhân vật của Suguru, dẫu cho đây là phản diện chính của bộ phim. Anh nói rằng Suguru sở hữu một số giá trị mà từ đó mang lại chiều sâu bên trong nhân vật này. Ngoài ra, Lang cũng tỏ ra thích thú xen lẫn ngạc nhiên với sự pha trộn giữa các yếu tố kinh dị lẫn chiến đấu trong tác phẩm, cũng như cách mà Geto Suguru sử dụng sức mạnh của mình. Nam diễn viên nhận định bộ phim đã làm rất tốt trong việc khắc họa Suguru, đặc biệt là qua những đoạn hồi tưởng về thời trẻ của nhân vật này lúc còn là một Chú thuật sư.
Xuất hiện
Geto Suguru là Chú thuật sư được xếp hạng Đặc cấp, một trong những học trò do Yaga Masamichi giảng dạy, đồng thời còn là bạn học cũ của Gojo Satoru và Ieiri Shoko. Thuật thức của Suguru cho phép anh hấp thụ và kiểm soát những lời nguyền tự nhiên cũng như sử dụng chúng trong chiến đấu. Trong thời gian theo học tại Trường Cao chuyên Chú thuật Tokyo, Suguru là một học sinh xuất sắc, thậm chí còn đứng ngang hàng với cả Satoru. Trong Chú thuật hồi chiến 0, anh được mọi người biết đến với dã tâm săn lùng nguyền hồn của cô gái trẻ Orimoto Rika, khi ấy đang đeo bám theo nhân vật chính kiêm học trò của Satoru – Okkotsu Yuta. Lợi dụng lúc Satoru vắng mặt, Suguru đã dễ dàng đánh bại Yuta cùng những người bạn của cậu ta. Trong thời khắc sinh tử, Yuta quyết định đồng tâm hiệp lực với Rika hòng đánh bại kẻ thù của mình. Đổi lại, Suguru cũng sử dụng chiêu thức mạnh nhất mang tên để đối phó với hai người bọn họ, nhưng rốt cuộc vẫn hứng chịu thất bại nặng nề. Sau khi rời khỏi chiến trường với cánh tay không còn nguyên vẹn, Suguru tự nhủ với mình rằng sẽ quay trở lại để đoạt lấy Rika. Thế nhưng, anh bỗng gặp lại dáng hình quen thuộc của Satoru rồi bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm tươi đẹp thời niên thiếu, sau đó yêu cầu người bạn năm xưa ra tay kết liễu mình.
Đoạn hồi tuởng trong Chú thuật hồi chiến chủ yếu tập trung khắc họa quá khứ của Geto Suguru cùng những sự kiện có ảnh hưởng lớn đến giới Chú thuật sau này. Khi anh và Satoru đang là học sinh năm hai, họ được giao nhiệm vụ hộ tống Tinh tương thể Amanai Riko để cô bé có thể hợp nhất với Ngài Tengen. Tuy nhiên, sự can thiệp của Fushiguro Toji đã khiến kế hoạch hoàn toàn đổ vỡ: hai Chú thuật sư trẻ tuổi bị đánh bại, còn Riko thì thiệt mạng. Sau khi Satoru hồi phục trở lại rồi giết chết Toji, Suguru đã bắt đầu lung lạc tinh thần và nghi ngờ bản chất nhiệm vụ của mình với tư cách là một Chú thuật sư, đồng thời còn tỏ ra khó chịu khi phải bảo vệ những người bình thường. Anh quyết định thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó và thề rằng sẽ tiêu diệt hết mọi Phi thuật sư trên thế giới, từ đó ngăn chặn những lời nguyền ngày càng sinh sôi. Suguru lập tức đào tẩu khỏi Trường Cao chuyên và thảm sát thường dân ở một ngôi làng bằng sức mạnh của mình. Sau đó, Satoru đối mặt với Geto rồi chất vấn về tội ác mà anh đã gây ra, nhưng lại không thể xuống tay sát hại bạn mình. Cuối cùng, Satoru đành phải để Suguru rời đi.
Mặc dù Suguru có vẻ như vẫn còn sống trong mạch truyện chính, nhưng danh tính thật của anh đã được tiết lộ trong cuộc tái ngộ với Satoru. Thực chất cơ thể anh đã bị một kẻ khác sử dụng thuật thức để chiếm hữu, thông qua việc hoán đổi bộ não cho nhau. Tên giả mạo ấy giải thích ý định sử dụng khả năng của Suguru nhằm phục vụ mưu đồ riêng, trước đây hắn cũng từng giả dạng thành . Sau đó, hắn bèn sử dụng Uzumaki để điều khiển linh hồn của những người bị đánh dấu và giải phóng ra hàng loạt nguyền hồn khác nhau, đưa thế giới trở lại thời Heian trước khi rời đi. Sau biến cố Shibuya, toàn bộ Tokyo bỗng chốc trở thành tử địa và tràn ngập những nguyền hồn. Người ta cũng biết được rằng Kenjaku — kẻ chủ mưu của toàn bộ mọi chuyện — đang có ý đồ lợi dụng trạng thái dễ bị tổn thương của Tengen để hợp nhất ông ta với toàn bộ nhân loại.
Geto Suguru dự kiến sẽ xuất hiện với tư cách là một nhân vật có thể chơi được trong tựa game đối kháng Jujutsu Kaisen: Cursed Clash phát hành vào năm 2024.
Đón nhận
Sự đón nhận của giới phê bình đối với Geto Suguru nhìn chung rất tích cực. Khi đánh giá về bản điện ảnh ra mắt năm 2022 trên trang web Polygon, cây bút Cezary Jan Strusiewicz đã gọi đây là một phản diện thú vị với "tính cách rất chi sôi nổi". Bên cạnh đó, một số ý kiến cũng so sánh nhân vật này với ác nhân Magneto của Marvel Comics vì cả hai đều có khao khát thống trị bằng những thế lực siêu nhiên. Nhà phê bình Jemima Sebastian của tờ IGN đã so sánh anh với Gellert Grindelwald trong series Harry Potter, đồng thời vạch ra những điểm tương đồng trong lý tưởng vô đạo của họ với nhân vật chính về việc khiến thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Cô cũng thuật lại lời nói của Suguru trong phim, rằng anh chẳng mảy may quan tâm đến bọn Phi thuật sư trong lúc giải thích cặn kẽ về kế hoạch không tưởng của mình. Trong bài đánh giá viết trên Fandom Post, Kestrel Swift cho biết anh rất thích câu chuyện của Suguru và mong rằng những tác phẩm trong tương lai sẽ ngày càng xoáy sâu hơn vào tình bạn giữa Gojo với nhân vật ấy, tuy nhiên lại nhận định Suguru là một phản diện chẳng mấy nổi bật như những bộ phim khác. Tờ Manga News cũng đồng tình với ý kiến khai thác thêm về tình bạn của Gojo với Geto. Trong khi đó, tác giả Daniel Feathers đến từ Fandom Post thì cho rằng phần lồng tiếng của Lex Lang ở bản chuyển ngữ tiếng Anh là hay nhất trong toàn bộ tác phẩm.
Cây bút Lauren Tidmarsh từ Comic Book Resources đã xem Suguru và Itadori Yuji là giải cấu trúc của hình mẫu anh hùng, đồng thời viện dẫn những lý do giống nhau khiến họ trở thành Chú thuật sư để bảo vệ người khác. Tuy nhiên, cả hai nhân vật đều có cách nhìn nhận khác nhau trước thất bại, từ đó dẫn lối cho họ đi theo những con đường đối nghịch. Tình bạn của Yuji với Fushiguro Megumi đã giúp cậu đưa ra quyết định tích cực hơn, trái ngược với sự cô lập mà Suguru phải chịu đựng. Sau khi có bản chuyển thể anime về thời niên thiếu của Suguru và Satoru, cây viết Ana Diaz của Polygon nhận thấy rằng một số người hâm mộ đã tạo ra những tác phẩm dōjinshi lan truyền rộng rãi với nội dung xoay quanh hai người họ. Trong khi đó, cả James Beckett từ Anime News Network lẫn Charles Hartford từ Why Thought đều dành lời ca ngợi đối với cách thể hiện mối quan hệ của hai nhân vật, cũng như diễn tả cảnh Geto rơi vào điên loạn.
Ở cảnh cao trào trong anime Chú thuật hồi chiến 0, sau khi tìm đường tháo chạy do thất bại thảm hại trước Yuta, Suguru bỗng gặp lại Satoru và rồi chết dưới tay anh ta. Điều này đã khiến một số khán giả xem phim bối rối vì Suguru vẫn xuất hiện trong series truyền hình, vốn lấy bối cảnh một năm sau những sự kiện diễn ra trong bản điện ảnh. Thế nhưng, anime lại không giải thích việc tại sao Geto Suguru vẫn còn sống, còn tác giả Gege thì tuyên bố rằng người hâm mộ phải đọc manga để biết thêm thông tin. Sau khi sự thật về Kenjaku được tiết lộ, Lauren Tidmarsh tin rằng khả năng cao Suguru đã giữ lại ký ức của mình với dẫn chứng là khi cánh tay anh đột nhiên quay sang tấn công cơ thể trước mặt Gojo. Tuy vậy, Manga News lại đưa ra nhận định trái chiều với tình tiết này, trong đó một cây bút cho rằng nó đã hủy hoại mọi thứ về Suguru do cốt truyện của anh đã bị Kenjaku làm cho lưu mờ, còn một ý kiến khác thì cảm thấy rằng giờ đây Gojo, một trong những nhân vật mạnh nhất bộ truyện, có thể bị đánh bại bởi tên Geto nhân dạng mới này.
Để quảng bá cho Chú thuật hồi chiến 0, công ty may mặc Uniqlo đã tung ra loạt áo có in hình Geto. Trong một cuộc bình chọn về độ nổi tiếng của các nhân vật được thực hiện vào năm 2021, Geto xếp ở vị trí thứ 12. Vào lần bầu chọn tiếp theo, thứ hạng của anh đã tăng vọt lên vị trí số 4. Tác giả Gege cũng bình luận về sự nổi tiếng của Geto trong Ngày Valentine và lưu ý rằng điều đó có thể liên quan đến việc phát hành phần phim điện ảnh.
Ghi chú
Tham khảo
Nhân vật anime và manga có sức mạnh phi thường
Pháp sư trừ tà hư cấu
Kẻ giết người hàng loạt hư cấu
Nhân vật nam trong anime và manga
|
19848567
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n%20Th%E1%BA%A5t%20Ni%E1%BB%87m
|
Tôn Thất Niệm
|
Tôn Thất Niệm (1 tháng 12 năm 1928 – 12 tháng 11 năm 2017) là bác sĩ và chính khách người Việt Nam, cựu Thượng nghị sĩ thời Đệ Nhị Cộng hòa và từng giữ chức Tổng trưởng Bộ Y tế Việt Nam Cộng hòa vào tháng 4 năm 1975.
Tiểu sử
Tôn Thất Niệm chào đời ngày 1 tháng 12 năm 1928 ở Huế, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương. Ông nội tên Tôn Thất Hân là một quan chức triều Nguyễn. Cha là Tôn Thất Hối được bổ nhiệm làm Công sứ đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa tại Trung Hoa Dân Quốc, về sau không thể ra nhậm chức vì một lý do nào đó.
Năm 1958, ông làm bác sĩ điều trị tại Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt. Năm 1961, ông giữ chức Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Ban Mê Thuột. Năm 1962, ông đảm nhận chức Giám đốc Y tế Sở Y tế tỉnh Ban Mê Thuột.
Ngày 5 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Bá Cẩn nhậm chức Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, ông được bổ nhiệm làm Tổng trưởng Bộ Y tế trong nội các Nguyễn Bá Cẩn vào ngày 14 tháng 4. Ngày 28 tháng 4, Nguyễn Bá Cẩn từ chức sau khi Tổng thống Trần Văn Hương từ nhiệm, hai ngày sau, tân Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng khi Quân đội Bắc Việt tiến vào Dinh Độc Lập. Về sau, ông chạy thoát sang Mỹ với thân phận người tị nạn chính trị và tham gia khóa học dự bị của Ủy ban Giáo dục dành cho Sinh viên Tốt nghiệp Cao đẳng Y tế Nước ngoài (ECFMG) tại Trung tâm Khoa học Y tế Đại học Oklahoma từ tháng 9 đến tháng 12 năm đó.
Tháng 1 năm 1976, ông thi lấy chứng chỉ ECFMG và được nhận vào thực tập tại Trung tâm Khoa học Y tế Đại học Oklahoma từ tháng 7 đến tháng 6 năm sau.
Đời tư
Tôn Thất Niệm tin theo Phật giáo, lấy pháp danh Tâm Huy, đã lập gia đình và có tất cả 4 người con. Ông thông thạo tới ba thứ tiếng gồm tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh. Ngoài ra, ông cũng thích hát hò và nổi tiếng vì hát hay.
Vinh danh
Đệ nhất hạng Y tế Bội tinh
Đệ nhất hạng Xã hội Bội tinh
Đệ nhất hạng Kỹ thuật Bội tinh
Đệ nhất hạng Chương Mỹ Bội tinh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin về Tôn Thất Niệm
Sinh năm 1928
Mất năm 2017
Họ Tôn
Người Huế
Bác sĩ Việt Nam
Phật tử Việt Nam
Bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa
Chính khách Việt Nam Cộng hòa
Thượng nghị sĩ Việt Nam Cộng hòa
|
19848568
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n%20Th%E1%BA%A5t%20H%E1%BB%91i
|
Tôn Thất Hối
|
Tôn Thất Hối (1901 – 1975) là quan chức triều Nguyễn và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, con trai thứ chín của Tôn Thất Hân, từng được bổ nhiệm làm Công sứ Việt Nam Cộng hòa tại Trung Hoa Dân Quốc, sang thăm Đài Loan với tư cách đặc phái viên mừng lễ Sinh nhật Ngô Đình Diệm nhưng vì lý do nào đó không đảm nhiệm chức Công sứ nữa.
Tiểu sử
Phụ thân của Tôn Thất Hối là Tôn Thất Hân, quan chức triều Nguyễn, ông lại là hậu duệ của Cương Quận công Nguyễn Phúc Trăn, con trai thứ ba của Chúa Hiền xứ Đàng Trong Nguyễn Phúc Tần, ông thuộc nhánh xa của dòng họ Tôn Thất thứ năm.
Năm 1940, ông được bổ nhiệm làm Quản đạo tỉnh Lâm Viên ở Đà Lạt. Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, ông được cử làm Đại biểu Chính phủ đầu tiên tại Tây Nguyên.
Ngày 17 tháng 12 năm 1955, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Cộng hòa. Ngày 27 tháng 10 năm 1956, ông bay từ Hồng Kông đến Đài Bắc trên cương vị là đặc phái viên mừng sinh nhật Tổng thống Ngô Đình Diệm để chúc mừng sinh nhật Tổng thống Tưởng Giới Thạch, đồng thời cũng đã chọn địa điểm và thực hiện công tác chuẩn bị thiết lập công sứ quán. Ngày 7 tháng 11 năm 1956, ông rời Đài Loan và trở về Việt Nam. Ban đầu ông dự kiến đến Đài Loan để đảm nhận chức Công sứ vào cuối tháng đó, rồi sau ông mới biết tin phía Trung Hoa Dân Quốc tạm thời không cử Công sứ đến Việt Nam vào thời điểm hiện tại, cùng các vấn đề với Hoa kiều ở Việt Nam. Sau này, ông được điều động sang làm Công sứ Việt Nam tại Lào, và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa bèn bổ nhiệm Nguyễn Công Viên làm Công sứ đầu tiên tại Trung Hoa Dân Quốc.
Ông còn có cậu con trai tên Tôn Thất Niệm là bác sĩ, ca sĩ và chính khách Việt Nam Cộng hòa.
Tham khảo
Sinh năm 1901
Mất năm 1975
Họ Tôn
Người Huế
Quan lại nhà Nguyễn
Hoàng tộc nhà Nguyễn
Chính khách Việt Nam Cộng hòa
Nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa
|
19848574
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adelheid%20x%E1%BB%A9%20Hohenlohe-Langenburg
|
Adelheid xứ Hohenlohe-Langenburg
|
Adelheid xứ Hohenlohe-Langenburg (20 tháng 7 năm 1835 – 25 tháng 1 năm 1900) là con gái của Ernst I xứ Hohenlohe-Langenburg và Feodora xứ Leiningen. Thông qua hôn nhân với Friedrich VIII xứ Schleswig-Holstein, Adelheid là Công tước phu nhân xứ Schleswig-Holstein.
Thân thế
Adelheid sinh ra là con gái thứ hai trong gia đình sáu người con. Cha mẹ của Adelheid là Ernst I xứ Hohenlohe-Langenburg và Feodora xứ Leiningen. Mẹ của Feodora là chị cùng mẹ khác cha với Victoria của Anh, do đó Feodora là cháu gái gọi dì của Nữ vương Victoria và là chị họ của Edward VII của Anh. Trong gia đình, Adelheid được gọi là Ada.
Lời cầu hôn của Napoléon III
Năm 1852, không lâu sau khi trở thành Hoàng đế nước Pháp, Napoléon III đã ngỏ ý hỏi cưới Adelheid với cha mẹ của Thân vương nữ sau khi bị Carola của Thụy Điển từ chối. Mặc dù chưa từng gặp Adelheid, nhưng những lợi ích chính trị mà cuộc hôn nhân đối với Hoàng đế là rất rõ ràng vì cuộc hôn nhân giữa hai người sẽ mang lại sự cao quý cho dòng tộc Bonaparte và có thể thúc đẩy một liên minh chặt chẽ hơn giữa Pháp và Anh, vì Adelheid là cháu gái của Nữ vương Victoria. Tuy nhiên, đề xuất này vấp phải sự phản đối của Nữ vương Victoria và cha của Adelheid. Napoléon III cũng từ bỏ việc theo đuổi một người phối ngẫu có xuất thân vương giả và thay vào đó hỏi cưới Eugenia xứ Montijo, Nữ Bá tước xứ Teba, người trước đó đã từ chối lời đề nghị trở thành tình nhân của Hoàng đế.
Hôn nhân và con cái
Ngày 11 tháng 9 năm 1856, Adelheid kết hôn với Frederick VIII xứ Schleswig-Holstein. Hai vợ chồng có bảy đứa con:
Friedrich xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg (3 tháng 8 năm 1857 – 29 tháng 10 năm 1858), qua đời khi chỉ được mười bốn tháng tuổi.
Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg (22 tháng 10 năm 1858 – 11 tháng 4 năm 1921), kết hôn với Wilhelm II của Đức vào ngày 27 tháng 2 năm 1881 và có bảy người con.
Karoline Mathilde xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg (25 tháng 1 năm 1860 – 20 tháng 2 năm 1932), kết hôn với Friedrich Ferdinand I xứ Schleswig-Holstein vào ngày 19 tháng 3 năm 1885. Họ có sáu người con.
Friedrich Gerhard xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg (20 tháng 1 năm 1862 – 11 tháng 4 năm 1862), qua đời khi mới được hai tháng tuổi.
Ernst Günther II, Công tước xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg (11 tháng 8 năm 1863 – 21 tháng 2 năm 1921), kết hôn với Dorothea xứ Sachsen-Coburg và Gotha vào ngày 2 tháng 8 năm 1898.
Louise Sophie xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg (8 tháng 4 năm 1866 – 28 tháng 4 năm 1952), kết hôn với Friedrich Leopold của Phổ vào ngày 24 tháng 6 năm 1889 và có bốn người con.
Feodora Adelheid xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg (3 tháng 7 năm 1874 – 21 tháng 6 năm 1910), nhà văn và họa sĩ.
Thông qua con cái, Adelheid là mẹ vợ của Wilhelm II của Đức và là tổ mẫu của Carl XVI Gustaf của Thụy Điển và Felipe VI của Tây Ban Nha.
Cuộc sống sau này
Cùng với chồng, Adelheid ban đầu cư trú tại Dłużek, ở Hạ Lausitz, nhưng đã chuyển đến Kiel vào năm 1863 khi Friedrich trở thành người thừa kế hợp pháp của các công quốc Schleswig-Holstein. Họ quay trở lại Dłużek chỉ ba năm sau đó, sau Chiến tranh Áo-Phổ và các công quốc bị Phổ sáp nhập. Trong những năm tiếp theo, cặp đôi di chuyển luân phiên giữa Dłużek, Gotha và lãnh địa của gia đình tại Przemków. Friedrich qua đời vào năm 1880, không lâu trước khi con gái lớn Auguste Viktoria của hai vợ chồng đính hôn với người thừa kế của nước Phổ. Sau cuộc hôn nhân của con gái vào tháng 2 năm 1881, Adelheid định cư ở Dresden và chỉ quan tâm quan tâm đến hội họa và âm nhạc.
Năm 1867, Thủ tướng Otto von Bismarck đã hoàn thành việc sáp nhập các Công quốc Schleswig-Holstein vào Vương quốc Phổ. Adelheid cùng gia đình chuyển Przemków, nơi Friedrich VIII tiếp quản các lãnh địa vùng Augustenburg ở Przemków sau khi cha qua đời cũng như là các lãnh địa ở Thụy Điển và Lâu đài Gravenstein. Những năm sau này, Adelheid bắt đầu có các biểu hiện của bệnh tâm thần và đã bùng phát trong khoảng thời gian đàm phán hôn nhân giữa con gái cả của Adelheid là Auguste Viktoria và Wilhelm của Đức.
Chồng của Adelheid qua đời vào ngày 14 tháng 1 năm 1880. Tại lễ tang của chồng ở Przemków, Adelheid lên cơn cuồng loạn và làm la hét khi linh mục đang giảng lễ. Adelheid bị đưa vào viện tâm thần vài năm sau và qua đời tại Dresden vào ngày 25 tháng 1 năm 1900. Adelheid được chôn cất ở Lâu đài Przemków.
Một hòn đảo nhỏ ở Đất Zemlya Frantsa-Iosifa, Đảo Adelaidy (Остров Аделаиды), được đặt theo tên Adelheid bởi Đoàn Thám hiểm Bắc Cực của Áo-Hung.
Gia phả
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thân vương nữ Hohenlohe-Langenburg
Gia tộc Hohenlohe-Langenburg
Sinh năm 1835
Mất năm 1900
|
19848578
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Feodora%20x%E1%BB%A9%20Hohenlohe-Langenburg
|
Feodora xứ Hohenlohe-Langenburg
|
Feodora xứ Hohenlohe-Langenburg (tên đầy đủ: Feodora Victoria Adelheid; 7 tháng 7 năm 1839 – 10 tháng 2 năm 1872) là con gái của Ernst I xứ Hohenlohe-Langenburg và Feodora xứ Leiningen. Thông qua hôn nhân với Georg II xứ Sachsen-Meiningen, Feodora là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Meiningen từ năm 1866 cho đến khi qua đời vào năm 1872.
Gia đình
Feodora là người con út trong gia đình sáu người con, cha mẹ của Feodora là Ernst I xứ Hohenlohe-Langenburg và Feodora xứ Leiningen. Mẹ của Thân vương nữ là chị cùng mẹ khác cha với Victoria của Anh, do đó Feodora là cháu gái gọi dì của Nữ vương Victoria. Anh chị em của Feodora bao gồm Karl Ludwig II, Elise, Hermann I, Viktor, và Adelheid xứ Hohenlohe-Langenburg.
Công tước phu nhân xứ Sachsen-Meiningen
Feodora gặp người chồng tương lai (cũng như là em họ bốn đời) khi Công tử Georg đang trên đường đến Ý. Georg đã có một đời vợ là Charlotte Friederike của Phổ. Bất chấp nỗi mất mát, Georg vẫn tiếp tục tìm kiếm người mẹ cho hai đứa con. Feodora và Georg gần như đính hôn ngay lập tức. Vào ngày 23 tháng 10 năm 1858, hai người kết hôn tại Langenburg. Đôi vợ chồng có ba người con trai.
Tuy nhiên, cuộc hôn nhân của họ không hạnh phúc vì Georg chưa bao giờ thực sự quên đi cái chết của Charlotte và tính khí của Feodora không phù hợp với vị trí mà Feodora đang có. Công tử phu nhân không phải là người có thành tựu tri thức hay nghệ thuật và cũng không có mong muốn cải thiện. Dù vậy, Georg vẫn nỗ lực để vợ được giáo dục về những khía cạnh này. Georg là người rất yêu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật sân khấu. Mẹ của Feodora đồng thuận với hành động của con rể và nhận định rằng "con rể đã rất đúng khi để cho nàng dâu của mình tham dự các bài học, học vẽ và nghe về các bài giảng về lịch sử". Tuy nhiên, Georg sớm nhận ra rằng Feodora sẽ không bao giờ hóm hỉnh và thông minh như Charlotte. Sau cái chết của đứa con trai thứ ba, Feodora tránh xa Meiningen càng lâu càng tốt. Năm 1866, Georg kế vị trở thành Công tước xứ Sachsen-Meiningen, do đó Feodora trở thành đệ nhất phu nhân của công quốc.
Feodora mắc bệnh ban đỏ vào tháng 1 năm 1872 và qua đời vào tháng sau. Bất chấp nhiều khác biệt giữa hai vợ chồng, Georg vẫn yêu vợ. Khi Feodora bị bệnh, Georg đã rất đau buồn và gửi điện tín cho bố mẹ vợ hai lần mỗi ngày. Vào năm sau, Georg tái hôn với Ellen Franz, một cựu nữ diễn viên.
Con cái
Ernst Bernhard xứ Sachsen-Meiningen (27 tháng 9 năm 1859 – 29 tháng 12 năm 1941), kết hôn với Katharina Jensen (được phong là Nam tước von Saalfeld) vào ngày 20 tháng 9 năm 1892 và có sáu người con.
Friedrich Johann xứ Sachsen-Meiningen (12 tháng 10 năm 1861 – 23 tháng 8 năm 1914), kết hôn với Adelheid xứ Lippe-Biesterfeld vào ngày 24 tháng 4 năm 1889 và có sáu người con.
Viktor xứ Sachsen-Meiningen (14 tháng 5 năm 1865 – 17 tháng 5 năm 1865) qua đời khi chỉ được ba ngày tuổi.
Gia phả
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Liên kết ngoài
Thân vương nữ Hohenlohe-Langenburg
Gia tộc Hohenlohe-Langenburg
Công tước phu nhân xứ Sachsen-Meiningen
Gia tộc Sachsen-Meiningen
Sinh năm 1839
Mất năm 1872
|
19848583
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carlo%20III%20c%E1%BB%A7a%20Napoli
|
Carlo III của Napoli
|
Carlo III của Napoli, Károly II của Hungary hay Charles xứ Durazzo còn được gọi là Kẻ cai trị ngắn ngủi (1345 – 24 tháng 2 năm 1386), là Vua của Napoli và Vua của Jerusalem từ năm 1382 đến 1386 với danh hiệu Carlo III, Vua Hungary từ năm 1385 đến 1386 với danh hiệu Károly II. Năm 1383, ông kế vị Công quốc Achaea sau cái chết của James xứ Baux.
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
Armorial of the House Anjou-Sicily
Nhà Anjou-Sicily
Người bị Giáo hội Công giáo Rôma phạt vạ tuyệt thông
Vua Croatia
Vua Hungary
Mất năm 1386
Sinh năm 1345
Vua Napoli thế kỷ 14
Nhà Anjou-Durazzo
Vua Albania
Vua Napoli
Người Hungary bị ám sát
Vua bị sát hại thế kỷ 14
|
19848584
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20v%E1%BA%ADn%20%C4%91%E1%BB%99ng%20%C4%91a%20n%C4%83ng
|
Sân vận động đa năng
|
Sân vận động đa năng (Multi-purpose stadium) là một loại sân vận động được thiết kế để dễ dàng sử dụng cho nhiều loại sự kiện thể thao. Mặc dù bất kỳ sân vận động nào cũng có khả năng tổ chức nhiều loại hình thể thao hoặc sự kiện, nhưng khái niệm này thường đề cập đến một chỉ đạo thiết kế cụ thể nhấn mạnh tính đa chức năng (kiêm dụng, lưỡng dụng) hơn là tính chuyên biệt trong mục đích sử dụng, khai thác công năng của cơ sở vật chất. Mô hình sân vận động đa năng này đã lần đầu xuất hiện vào những năm 1920 ở New England.
Tổng quan
Sân vận động đa chức năng được sử dụng phổ biến nhất ở Canada và Hoa Kỳ, nơi hai môn thể thao đồng đội ngoài trời phổ biến nhất là bóng bầu dục Canada hoặc bóng bầu dục Mỹ và bóng chày với yêu cầu cơ sở vật chất hoàn toàn khác nhau. Bóng đá sử dụng sân hình chữ nhật, trong khi bóng chày được chơi trên sân bóng chày có hình thoi và có vành sân ngoài rộng. Vì sân bóng chày Canada lớn hơn sân bóng chày Mỹ, nên các thông số kỹ thuật thiết kế cho các cơ sở của Canada có phần ít khắt khe hơn. Thiết kế đặc biệt để chứa cả hai thường là hình bầu dục, mặc dù một số thiết kế sau này sử dụng Octorad. Mặc dù việc xây dựng sân vận động theo cách này có nghĩa là các đội thể thao và chính phủ có thể chia sẻ chi phí nhưng nó cũng đặt ra một số thách thức.
Ở Bắc Mỹ, các sân vận động đa năng chủ yếu được xây dựng trong những năm 1960 và 1970 làm sân nhà chung cho các đội Major League Baseball và National Football League hoặc Canadian Football League. Một số sân vận động đã được cải tạo để có thể bố trí đa năng trong những năm 1980. Loại sân vận động này gắn liền với kỷ nguyên ngoại ô hóa, trong đó nhiều đội thể thao theo chân người hâm mộ của họ rời khỏi các thành phố lớn để đến những vùng đất rẻ hơn, quỹ đất dồi dào hơn. Chúng thường được xây dựng gần đường cao tốc và có bãi đậu xe lớn nhưng hiếm khi được kết nối với phương tiện công cộng. Vì các sân vận động đa năng hiếm khi lý tưởng cho cả hai môn thể thao thường được tổ chức trong đó, nên chúng không còn được ưa chuộng vào những năm 1990, với SkyDome (ở Canada) mở cửa vào năm 1989 là sân vận động cuối cùng được hoàn thành để phục vụ bóng chày và bóng đá. Với việc hoàn thành Khu liên hợp thể thao Truman ở Thành phố Kansas vào năm 1973, một mô hình sân vận động được xây dựng theo mục đích đã được đặt ra.
Kể từ khi Oriole Park at Camden Yards mở cửa vào năm 1992, hầu hết các sân vận động thể thao giải đấu lớn đã được xây dựng riêng cho một môn thể thao, mặc dù một số ít sân vận động NFL (ví dụ: Seattle, Atlanta, Charlotte) đã được xây dựng với sự cân nhắc về khả năng sử dụng sân vận động cho Giải bóng đá lớn hoặc bóng đá quốc tế. Các sân phù hợp cho bóng đá hầu như luôn phù hợp như nhau cho cả hai môn bóng bầu dục và 2031 Rugby World Cup dự kiến sẽ sử dụng các sân vận động giống như NFL và MLS. Các môn thể thao mùa đông, đặc biệt là sân trượt băng tốc độ, có thể là sân vận động đa năng. Cũng góp phần vào sự ra đời của sân vận động đa năng là việc người Mỹ sử dụng ô tô ngày càng tăng, đòi hỏi các sân vận động thể thao chuyên nghiệp được bao quanh bởi bãi đậu xe, hầu hết các thành phố đều thiếu không gian hợp lý cho những sân vận động như vậy gần trung tâm thành phố của họ, vì vậy các sân vận động đa năng thường được xây dựng ở vùng ngoại ô với việc dễ dàng lái xe ra vào đường cao tốc.
Chú thích
Sân vận động
Sân vận động đa năng
|
19848585
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5%20h%E1%BB%8Fa%20ho%E1%BA%A1n%20Kokurakita%202024
|
Vụ hỏa hoạn Kokurakita 2024
|
xảy ra vào lúc 15:10 (theo giờ địa phương), ngày 3 tháng 1 năm 2024, tại một tòa nhà gần khu phố ẩm thực Torimachi Shokudo-gai thuộc quận Kokurakita, thành phố Kitakyūshū, tỉnh Fukuoka, Nhật Bản. Hậu quả vụ cháy không gây thương vong về người, nhưng vụ cháy đã làm 35 cửa hàng bị thiêu rụi. Vụ cháy đã đánh dấu ngày thứ ba liên tiếp Nhật Bản xảy ra tai nạn, sau vụ va chạm hai máy bay và động đất.
Diễn biến
Vụ cháy bắt đầu vào khoảng 15:10 ngày 3 tháng 1, một nồi lẩu trong nhà hàng có dấu hiệu bất thường rồi bốc cháy. Lửa bắt đầu bùng lên và nhanh chóng lan sang các tòa nhà lân cận. Lúc 18:00, đám cháy vẫn chưa dập tắt được.
Vụ cháy được kiểm soát lúc 4:00 ngày 4 tháng 1, nhưng hiện trường vẫn còn bốc khói. Lực lượng cứu hỏa xác nhận vào lúc 8:50, đám cháy đã được khống chế hoàn toàn.
Hậu quả
Theo Sở cứu hỏa, không có báo cáo thương vong nào được xác nhận. Lửa đã thiêu rụi 35 cửa hàng, với diện tích khoảng 2.900 km2.
Phản ứng
Tham khảo
Nhật Bản năm 2024
Thảm họa tại Nhật Bản năm 2024
Hỏa hoạn tại Nhật Bản
Hỏa hoạn năm 2024
|
19848588
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lajos%20II%20c%E1%BB%A7a%20Hungary
|
Lajos II của Hungary
|
Lajos II (; ; ; ; 1 tháng 7 năm 1506 – 29 tháng 8 năm 1526) là Vua của Hungary, Croatia và Bohemia từ năm 1516 đến 1526.
Tham khảo
Thư mục
Takings, Endorser: II. Lajos kinkily fiat (A Son of King Louis II Jagiellon), Salado (Periodical Centuries), pp.& NBS;183–185, 1903
Liên kết ngoài
Người Hungary thế kỷ 16
Vua thiếu nhi
Vua tử trận
Vua Hungary
Chôn cất tại nhà thờ chính tòa Székesfehérvár
Vua Croatia
Mất năm 1526
Sinh năm 1506
Vua Bohemia thời trung cổ
|
19848589
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20li%C3%AAn%20h%E1%BB%A3p%20th%E1%BB%83%20thao
|
Khu liên hợp thể thao
|
Khu liên hợp thể thao (Sports complex) hay Khu phức hợp thể thao là một nhóm tổ hợp các cơ sở thể dục thể thao sử dụng đa chức năng và liên kết với nhau như sân vận động điền kinh, sân vận động dành riêng cho bóng đá (sân vận động bóng đá), sân vận động bóng chày, bể bơi và Đấu trường trong nhà, sân vận động Olympic. Khu vực này là khu liên hợp thể thao, rèn luyện sức khỏe. Làng Olympic (Olympic Park) cũng là một loại hình phức hợp giải trí và thể thao.
Các khu liên hợp
Azadi Sport Complex (Khu liên hợp thể thao Azadi)
Cebu City Sports Complex (Khu liên hợp Trung tâm thể thao thành phố Cebu)
Dasana Indah Sport City
Davao City–UP Sports Complex
Davao del Norte Sports Complex
Deli Sport City
Doyo Baru Sport Complex
Gelora Bung Karno Sports Complex
Gelora Bung Tomo Sports Complex
Rizal Memorial Sports Complex (Khu liên hợp thể thao tưởng niệm Rizal)
Jerusalem Sports Quarter
Jakabaring Sport City
Jalak Harupat Sports Complex
JRD Tata Sports Complex
Kalinga Stadium
Lukas Enembe Sport Complex
Malaysia National Sports Complex
Marikina Sports Center
Mimika Sport Complex
Nanjing Olympic Sports Center (Trung tâm thể thao Olympic Nam Kinh)
New Clark City Sports Complex
Olympic Green
Panaad Park and Sports Complex
Rawamangun Sports Complex
Shree Shiv Chhatrapati Sports Complex (Khu liên hợp thể thao Shree Shiv Chhatrapati)
Seoul Sports Complex (Khu liên hợp thể thao Seoul)
Siliwangi Sport Complex
Singapore Sports Hub
The Sports Hub Trivandrum
Anella Olímpica
Athens Olympic Sports Complex
Faliro Coastal Zone Olympic Complex
First Direct Arena
Foro Italico
Goudi Olympic Complex
Headingley Stadium
Hellinikon Olympic Complex
Horsfall Stadium
Manchester Regional Arena
Odsal Stadium
Olympiapark Berlin
Park Avenue (stadium)
Prioritet Serneke Arena
Queen Elizabeth Olympic Park
Torino Olympic Park
Camden Yards Sports Complex
ESPN Wide World of Sports Complex
Gateway Sports and Entertainment Complex
Meadowlands Sports Complex
Olympic Park, Montreal
South Philadelphia Sports Complex
Truman Sports Complex
Whistler Olympic Park
Ballarat Sports Events Centre
Canberra International Sports & Aquatic Centre
Marden Sports Complex
Marrara Sporting Complex
Maroochydore Multi Sports Complex
Melbourne Sports and Entertainment Precinct
Moreton Bay Central Sports Complex
Murray Sporting Complex
Piggabeen Sports Complex
Queensland Sport and Athletics Centre
Springvale Indoor Sports Centre
South Pine Sports Complex
Sydney Olympic Park
Willows Sports Complex
Atanasio Girardot Sports Complex (Khu liên hợp thể thao Atanasio Girardot)
Barra Olympic Park (Công viên Olympic Barra)
Deodoro Olympic Park
Xem thêm
Địa điểm thể thao
Sân vận động đa năng
Sân vận động
Thể thao
|
19848597
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/J%C3%A1nos%20Z%C3%A1polya
|
János Zápolya
|
János Zápolya hay Szapolyai (; ; ; ; 1487 – 22 tháng 7 năm 1540), là Vua Hungary (với tên gọi János I) từ năm 1526 đến 1540. Trong quá trình cai trị, quyền lực của ông bị tranh chấp bởi Ferdinand I, người cũng tự xưng là Vua Hungary. Ông giữ danh hiệu Thống quân Transylvania từ năm 1510 đến năm 1526.
Tham khảo
Thư mục
Chôn cất tại nhà thờ chính tòa Székesfehérvár
Vua Croatia
Vua Hungary
Người Hungary thế kỷ 16
Người Hungary thế kỷ 15
Mất năm 1540
Sinh năm 1487
Người Hungary gốc Croatia
Người Hungary gốc Litva
Người Hungary gốc Ba Lan
Vương quốc Đông Hungary
Công tước xứ Opole
Bá tước xứ Székelys
|
19848614
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/J%C3%A1nos%20Sigismund%20Z%C3%A1polya
|
János Sigismund Zápolya
|
János Sigismund Zápolya hay Szapolyai ( ; 7 tháng 7 năm 1540 – 14 tháng 3 năm 1571) là Vua của Hungary từ năm 1540 đến 1551 và từ 1556 đến 1570, Thân vương đầu tiên của Transylvania từ năm 1570 đến khi qua đời. Ông là con trai duy nhất của Vua János I với Isabella của Ba Lan. János I cai trị một phần Vương quốc Hungary với sự hỗ trợ của Quốc vương Ottoman Suleiman; các vùng còn lại được cai trị bởi Ferdinand I nhà Habsburg, người cai trị Áo và Bohemia. Hai vị vua đã ký kết một hiệp ước hòa bình vào năm 1538 thừa nhận quyền cai trị toàn Hungary của Ferdinand sau khi János I chết. Mặc dù vậy không lâu sau khi János Sigismund chào đời và trên giường bệnh, János I đã trao lại vương quyền của mình cho con trai. Những người trung thành nhất của János I đã bầu János Sigismund làm vua,nhưng ông không được trao vương miện Thần Thánh của Hungary.
Tham khảo
Thư mục
Người Hungary thế kỷ 16
Mất năm 1571
Sinh năm 1540
Vua Hungary
Công tước xứ Opole
Vương quốc Đông Hungary
An táng tại Nhà thờ Thánh Michael, Alba Iulia
Quý tộc người Budapest
|
19848626
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leave%20the%20World%20Behind%20%28phim%29
|
Leave the World Behind (phim)
|
Leave the World Behind là một bộ phim kinh dị tâm lý về chủ đề ngày tận thế của Mỹ năm 2023, do Sam Esmail viết kịch bản và đạo diễn. Phim dựa trên cuốn tiểu thuyết năm 2020 của Rumaan Alam. Phim có sự tham gia của Julia Roberts, Mahershala Ali, Ethan Hawke, Myha'la và Kevin Bacon/
Leave the World Behind đã có buổi ra mắt tại AFI Fest vào ngày 25 tháng 10 năm 2023. Phim được phát hành giới hạn tại một số rạp chọn lọc vào ngày 22 tháng 11 năm 2023, trước khi được Netflix phát hành trực tuyến vào ngày 8 tháng 12 năm 2023.
Dàn diễn viên
Sản xuất
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim về gia đình
Phim tận thế
Phim thảm hoạ của Mỹ
Phim quay tại New York
Phim dựa trên tiểu thuyết Mỹ
Phim gốc Netflix
Phim tiếng Anh thập niên 2020
Phim Mỹ thập niên 2020
Phim năm 2023
|
19848628
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81n%20l%E1%BB%87%2064/2023/AL
|
Án lệ 64/2023/AL
|
Án lệ 64/2023/AL về định khung hình phạt và tình tiết định khung tăng nặng "có tổ chức" trong tội "bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản" là án lệ thứ 64 thuộc lĩnh vực hình sự của hệ thống pháp luật Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua, Chánh án Nguyễn Hòa Bình ra quyết định công bố ngày 1 tháng 10 năm 2023, và có hiệu lực cho tòa án các cấp trong cả nước nghiên cứu, áp dụng trong xét xử từ ngày 1 tháng 11 năm 2023. Án lệ này dựa trên nguồn là Quyết định giám đốc thẩm số 15/2022/HS-GĐT ngày 04/10/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, nội dung xoay quanh tội "bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản", tranh luận về việc "định khung hình phạt" và việc xác định hành vi phạm tội có tổ chức. Án lệ này cho Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao đề xuất.
Trong vụ án của án lệ này, xuất phát điểm từ việc vay nợ không trả, người vay trốn vào Thành phố Hồ Chí Minh, chủ nợ bèn lập mưu giả mạo, dụ dỗ người nợ trở lại Hà Nội thông qua tình cảm trai gái, cùng với một nhóm người bắt cóc người vay nhằm tạo áp lực lên gia đình của người vay để thu hồi lại khoản nợ. Song việc bất thành, cả nhóm đầu thú. Trong quá trình tố tụng, tội danh được kết luận cho chủ nợ và đồng bọn là "tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản", tòa cấp sơ thẩm tuyên tình tiết tăng nặng là các bị cáo "chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng", tuy nhiên sau khi kháng cáo, tình tiết này bị tòa cấp phúc thẩm bác bỏ. Sau cùng, với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, vụ án được giám đốc thẩm theo hướng định khung tăng nặng tình tiết "chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng" dù chưa chiếm được trên thực tế, đồng thời với tình tiết phạm tội "có tổ chức", giao lại cho tòa cấp sơ thẩm xét xử lại.
Nội dung vụ án
Tháng 8 năm 2018, Trần Văn Nam cho Lưu Mạnh Tuấn vay 150 triệu đồng, sau đó nhiều lần đòi nợ nhưng bất thành. Trong giai đoạn này, Tuấn bỏ trốn Nam để vào Thành phố Hồ Chí Minh, Nam bèn mượn tài khoản Zalo của người quen là Nguyễn Diệu Linh, mạo danh Linh để kết bạn, nói chuyện và hẹn Tuấn đi chơi ở Tam Đảo, Vĩnh Phúc vào chiều ngày 15 tháng 1 năm 2019. Ngày 12 tháng 1 năm 2019, Nam lập mưu bắt giữ Tuần để đòi nở, rủ một nhóm người cùng tham gia gồm Linh, Nguyễn Quang Trường, Nguyễn Văn Đắc, Phan Văn Quyền. Nhóm người đã chuẩn bị các vật dụng như gậy rút, bình xịt hơi cay, bật lửa điện và còng số 8. Khoảng 14 giờ 30 phút (UTC+07:00) ngày 15 tháng 1, Nam bảo Đắc thuê xe taxi của tài xế Trịnh Anh Tùng để chở cả bọn ra sân bay Nội Bài. Trong quá trình di chuyển, Nam bàn bạc cách thức bắt giữ Tuấn để đòi nợ, và tài xế Tùng biết rõ phi vụ này. Trên xe, Linh nhận được điện thoại của Tuấn thông báo 19 giờ (UTC+07:00) cùng ngày sẽ đến Nội Bài. Khoảng 15 giờ (UTC+07:00), tài xế Tùng chở cả nhóm đến sân bay Nội Bài và thuê 2 phòng nghỉ gần sân bay. Tại đây, nhóm nói cho tài xế Tùng biết kế hoạch bắt giữ Tuấn, cụ thể kế hoạch là phân công Linh thuê xe taxi khác đi trước đón Tuấn, tài xế Tùng chở mọi người theo sau, đến khi taxi của Linh và Tuấn dừng lại thì nhờ tài xế Tùng đỗ xe phía sau để mọi người chạy lên bắt giữ Tuấn. Tài xế Tùng đồng ý với sự phân công của nhóm.
Khoảng 19 giờ 20 phút (UTC+07:00) ngày 15 tháng 1, Linh đón Tuấn và thuê xe taxi đi theo hướng Tam Đảo. Nhóm đi theo sau. Trên xe, Nam đưa cho Đắc và Trường mỗi người 1 gậy rút, đưa cho Quyền bình xịt hơi cay. Đi được khoảng 15 km thì xe taxi chở Linh và Tuấn dừng lại, nhóm cũng dừng lại sau lưng. Nhóm xuống xe và chạy sang xe taxi của Tuần. Trường đưa Linh sang xe của tài xế Tùng, Nam mở cửa sau bên trái, Đắc mở cửa sau bên phải, Quyền mở cửa trước ghế phụ xe taxi của Tuấn và xịt hơi cay vào mặt Tuấn. Nam và Đắc dùng gậy đánh, tay đấm mặt Tuấn cho đến khi Tuấn xin trả tiền nợ thì mới dừng lại. Nam và Đắc giữ tay Tuấn, đưa còng số 8 để khóa một đầu vào tay phải của Tuấn, một đầu khóa vào gầm ghế lái. Đắc lấy áo trùm đầu Tuấn và yêu cầu lái xe đi về hướng Bắc Ninh. Đến Bắc Ninh, nhóm đem Tuấn về giữ tại kho tập kết phế liệu của Trường. Đến kho, Nam lấy điện thoại của Tuấn và xóa hết tin nhắn, lịch sử cuộc gọi giữa Tuấn và Linh. Quyền kiểm tra và giữ lại ví, thẻ ATM, chứng minh nhân dân, trả lại 2,7 triệu đồng cho Tuấn. Sau đó, nhóm đưa Tuấn xuống xe, đưa vào nhà vệ sinh. Quyền dùng còng số 8 khóa tay Tuấn, dùng dây trói 2 tay ra phía sau, dùng băng dính quấn vào tay, bịt miệng Tuấn. Nam và Đắc đi taxi về nhà Nam để lấy dây xích dài khoảng 1,5 m nhằm trói Tuấn rồi đi mua đồ ăn và quay lại nhà kho. Nam trả tiền và tài xế Tùng đi về. Sau đó, cả nhóm và Tuấn ngồi ăn tại kho. Lúc ngồi ăn, Quyền bảo Tuấn trả tiền cho Nam thì sẽ được thả. Ăn xong, Quyền và Đắc chuyển Tuấn ra góc kho bên phải, dùng băng dính buộc chân, tay bên trái của Tuấn, tay phải vẫn khóa bằng còng số 8 buộc với dây xích vào cột sắt trong kho để Tuấn không trốn hoặc tự tử được. Khoảng 24 giờ (UTC+07:00) ngày 15 tháng 1, cả nhóm về, còn Đắc và Quyền ở lại kho trông giữ Tuấn.
Trưa ngày 16 tháng 1, cả nhóm tập trung tại nhà kho. Nam đưa điện thoại bắt Tuấn gọi về nhà, bảo người nhà chuyển tiền vào tài khoản của Tuấn và rút tiền trả nợ cho Nam. Khoảng 13 giờ (UTC+07:00) cùng ngày, Đắc gọi anh tài xế Tùng đến nhà kho đón Đắc, trong khi đó Nam đấm Tuấn, đưa điện thoại bắt Tuấn gọi về nhà, yêu cầu gia đình chuyển 150 triệu vào tài khoản của Tuấn. Lúc này, Tuấn gọi cho vợ cũ, nói việc bị bắt giữ vì nợ tiền và nhờ vợ cũ sang nhà bảo bố mẹ Tuấn đi vay tiền chuyển vào tài khoản của Tuấn thì anh mới được thả. Tuy nhiên, bởi đã ly hôn nên vợ cũ không làm theo lời Tuấn. Sau đó, Tuấn gọi cho cô ruột, nói đang nợ tiền, bị bắt, đánh, trói và bảo cô ruột nhắn bố mẹ vay tiền cứu anh. Người cô ruột đến nhà thông báo nhưng bố mẹ Tuấn không có tiền gửi. Sau đó, Tuấn gọi cho một người bạn, nói rằng nợ tiền và đang bị giữ ở Bắc Ninh, nhờ bạn chuyển tiền để anh được thả về. Khoảng 14 (UTC+07:00) giờ ngày 16 tháng 1, không thấy người nhà Tuấn chuyển tiền nên Quyền, Nam dùng điếu cày, bình cứu hỏa đánh Tuấn. Tối cùng ngày, Linh thuê taxi về Hà Nội, Nam mượn xe ô tô cùng Đắc đưa Tuấn về phòng trọ của Quyền, và Quyền lấy dây xích trói Tuấn vào chân giường, Đắc, Trường về. Quyền giữ Tuấn từ ngày 17 tháng 1 đến sáng ngày 18 tháng 1. Ở phòng trọ của Quyền, Tuấn nhờ Nam chụp ảnh việc bị đánh và trói gửi cho người bạn đã nhờ trước đó, đồng thời gọi cho chị họ để gia đình tin và chuyển tiền vào tài khoản của Tuấn để trả nợ cho Nam. Nam bảo Tuấn nói với chị họ rằng nếu không chuyển tiền trả nợ thì Nam chặt tay, và chị họ đồng ý lo tiền chuộc, trả nợ cho Tuấn. Khoảng 01 giờ (UTC+07:00) ngày 19 tháng 1, tài xế Tùng chở Quyền, Đắc, Tuấn ra nghĩa trang huyện Yên Phong, dọa đốt Tuấn. Sau đó, tài xế Tùng chở Quyền, Đắc, Tuấn đến quán karaoke, đưa Tuấn lên phòng 701 và trông giữ Tuấn, Đắc và tài xế Tùng đi về. Khoảng 8 giờ (UTC+07:00) ngày 19 tháng 1, Đắc đến thay Quyền trông giữ Tuấn, tiếp tục bắt Tuấn gọi điện về nhà yêu cầu chuyển tiền và kiểm tra tài khoản của Tuấn thì thấy có gần 39 triệu đồng, trong đó: tiền có sẵn trong tài khoản là gần 24 triệu đồng, tiền chị họ chuyển hồi 10 giờ 12 phút (UTC+07:00) ngày 19 tháng 1 là 10 triệu đồng và hồi 10 giờ 30 phút (UTC+07:00) ngày 19 tháng 1 là 5 triệu đồng.
Khoảng 11 giờ (UTC+07:00) ngày 19 tháng 1, Đắc đưa Tuấn đến trụ sở công an đầu thú. Sau đó, các thành viên còn lại của nhóm lần lượt đầu thú.
Tiền giám đốc thẩm
Ngày 8 tháng 10 năm 2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh mở phiên hình sự sơ thẩm ở trụ sở tại phường Hòa Long, thành phố Bắc Ninh. Tòa sơ thẩm tuyên cả nhóm phạm "tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản" với tình tiết "chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng", xử phạt lần lượt: Nam 42 tháng tù; Quyền và Đạt 36 tháng tù; Linh, Trường, tài xế Tùng đều 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Ngày 21 tháng 10 cùng năm, Nam, Quyền và Đạt kháng cáo, đề nghị Tòa án xem xét lại tội danh, giảm hình phạt và cho các bị cáo hưởng án treo.
Ngày 30 tháng 10 năm 2020, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên phúc thẩm tại trụ sở ở ngõ 2 Tôn Thất thuyết, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Tòa phúc thẩm nhận định rằng nhóm của Nam phạm "tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản" nhưng chưa chiếm đoạt số tiền 150 triệu đồng, do đó không quy về tình tiết "chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng", tuyên chấp nhận kháng cáo, xử phạt giảm tội, cụ thể là: Nam và Quyền 24 tháng tù; Đắc 24 tháng tù cho hưởng án treo; Linh, Trường và tài xế Tùng 18 tháng tù cho hưởng án treo.
Ngày 31 tháng 8 năm 2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Lê Minh Trí ký quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, theo đó kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm của Tòa cấp cao Hà Nội về phần trách nhiệm hình sự đối với nhóm tội phạm của Nam. Viện trưởng đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án hình sự phúc thẩm và bản án hình sự sơ thẩm về phần trách nhiệm hình sự của nhóm tội phạm để xét xử sơ thẩm lại theo hướng áp dụng quy về tình tiết phạm tội "có tổ chức", "chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng" đối với tất cả các bị cáo, tăng hình phạt và không cho hưởng án treo đối với các bị cáo chủ mưu, cầm đầu và thực hành tích cực.
Giám đốc thẩm
Ngày 4 tháng 10 năm 2023, với yêu cầu kháng nghị của Viện trưởng, Hội đồng Thẩm phán đã nhất trí mở phiên xét xử giám đốc thẩm tại trụ sở tòa ở số 48 đường Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trong quá trình xét xử này, Hội đồng xét xử tập trung vào nội dung vụ việc để đưa ra quyết định.
Nhận định của Tòa án
Về tội danh, dựa trên nội dung vụ án về việc Tuấn vay tiền Nam, không trả được nên trốn vào Thành phố Hồ Chí Minh nên Nam đã nghĩ cách bắt giữ Tuấn để đòi nợ, bàn bạc với nhóm Quyền, Đắc, Linh, Trường và tài xế Tùng, đã dùng dây trói, đánh, bắt nhốt Tùng từ khoảng 19 giờ 20 phút (UTC+07:00) ngày 15 tháng 1 năm 2019 đến khoảng 11 giờ (UTC+07:00) ngày 19 tháng 1 cùng năm để gây áp lực, nhằm mục đích buộc Tuấn phải thông báo cho gia đình chuyển 150 triệu đồng vào tài khoản của Tuấn để trả nợ cho Nam, theo đó các hành vi nêu trên đã đủ yếu tố cấu thành tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 169 Bộ luật Hình sự, nhất trí với Tòa sơ thẩm, phúc thẩm về tội danh này. Về định khung hình phạt, Hội đồng xét xử nhận định rằng các bị cáo thực hiện hành vi bắt giữ, trói, nhốt, đánh Tuấn nhằm gây áp lực để Tuấn phải gọi cho gia đình, người thân chuyển số tiền 150 triệu đồng đã vay của Nam vào tài khoản của Tuấn, trả nợ cho Nam thì Tuấn mới được thả về. Như vậy, mục đích của chuỗi hành vi bắt giữ, trói, nhốt, đánh Tuấn mà các bị cáo thực hiện là nhằm chiếm đoạt số tiền 150 triệu đồng của gia đình Tuấn. Việc chị họ của Tuấn mới chuyển vào tài khoản của Tuấn 2 lần với tổng số tiền là 15 triệu đồng và trong tài khoản của Tuấn có sẵn gần 24 triệu đồng nhưng các bị cáo chưa buộc Tuấn rút số tiền này để đưa cho các bị cáo thì vẫn không làm thay đổi mục đích chiếm đoạt ban đầu của các bị cáo là 150 triệu đồng. Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với số tiền 150 triệu đồng là mục đích chiếm đoạt của các bị cáo từ khi bắt đầu việc bắt giữ Tuấn. Các bị cáo phải bị xét xử về "tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản" với tình tiết định khung hình phạt "chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng".
Tình tiết "chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng" là tình tiết định khung tăng nặng của khoản 1 Điều 169 Bộ luật Hình sự nên vẫn tuân theo nguyên tắc cấu thành hình thức của khoản 1, theo đó số tiền chiếm đoạt để định khung ở đây vẫn phải xem xét theo mục đích chiếm đoạt của các bị cáo khi thực hiện hành vi bắt giữ Tuấn. Việc Tòa phúc thẩm cho rằng cụm từ "nhằm chiếm đoạt tài sản" ở khoản 1 và cụm từ "số tiền chiếm đoạt" ở khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự phải được hiểu khác nhau, theo đó cụm từ "nhằm chiếm đoạt tài sản" ở khoản 1 được hiểu là chỉ cần các bị cáo có mục đích chiếm đoạt tài sản của gia đình người bị bắt cóc, còn thực tế có chiếm đoạt được hay không không ảnh hưởng đến cấu thành tội phạm; còn cụm từ "số tiền chiếm đoạt" ở khoản 2 được hiểu là phải chiếm đoạt được số tiền này trên thực tế thì mới cấu thành tội phạm ở khung tăng nặng là không có căn cứ.
Trong vụ án này, bị cáo Nam là người khởi xướng; trực tiếp rủ các bị cáo khác tham gia việc bắt giữ Tuấn; trực tiếp chuẩn bị các công cụ, phương tiện phạm tội như còng số 8, dây trói, xịt hơi cay; đồng thời là người lên kế hoạch, phân công nhiệm vụ cho các bị cáo khác từ việc dùng Zalo của bị cáo Linh mạo danh để kết bạn, rủ Tuấn từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội, chọn địa điểm đón, phân công Linh đi đón, chọn địa điểm, thời gian để xe taxi chở Linh và Tuấn phải tạm dừng dọc đường để đồng bọn tiếp cận, bắt giữ Tuấn, chọn địa điểm nhốt, phân công người trông giữ. Do vậy, có thể kết luận Nam là người tổ chức, cầm đầu, chủ mưu. Các bị cáo khác là người thực hành, giúp sức tích cực cho Nam trong kế hoạch. Giữa Nam và các bị cáo khác có sự cấu kết chặt chẽ, các bị cáo khác đều thực hiện nhất quán theo sự chỉ đạo của Nam. Hành vi bắt giữ, trói, nhốt, đánh Tuấn nhằm chiếm đoạt số tiền 150 triệu đồng của gia đình Tuấn kéo dài từ ngày 12 tháng 1 đến ngày 19 tháng 1 năm 2019. Do đó, hành vi của các bị cáo có dấu hiệu của phạm tội "có tổ chức". Tòa sơ thẩm không nhận định tình tiết trên là thiếu sót, đồng thời xử phạt các bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (từ 5 năm đến 12 năm tù) là không nghiêm.
Về hình phạt, Hội đồng xét xử nhận định rằng Nam là người khởi xướng, giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu; các bị cáo Quyền, Đắc khi được Nam rủ tham gia đã giúp sức tích cực, có hành vi bắt giữ, trói, đánh, đe dọa bị hại nên có vai trò thứ 2 sau Nam. Trường, tài xế Tùng có vai trò thứ 3 trong vụ án, trong đó tài xế Tùng mặc dù không được bàn bạc từ trước tham gia giữa quá trình theo sự chỉ đạo của Nam. Bị cáo Linh có hành vi cho Nam mượn tài khoản Zalo để kết bạn, hẹn Tuấn, tham gia đón và đưa Tuấn ến điểm hẹn theo kế hoạch, tuy nhiên, khi nhóm bắt giữ Tuấn thì Linh đã bỏ về Hà Nội và không tham gia nữa. Do đó, Linh giữ vai trò thấp nhất trong vụ án. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, Hội đồng xét xử nhận thấy các bị cáo đều ra đầu thú, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và ăn năn hối cải, đã bồi thường cho bị hại 20 triệu đồng và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho tất cả các bị cáo. Do đó, các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ. Ngoài ra, một số bị cáo có tình tiết giảm nhẹ khác như có bố, mẹ, ông, bà nội, ngoại được tặng thưởng huân, huy chương kháng chiến; tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo Đắc có công tố giác 2 vụ án về cướp tài sản và trộm cắp tài sản được Công an huyện Yên Phong ghi nhận, bị cáo Nam cung cấp thông tin để cơ quan điều tra bắt giữ đối tượng mua bán trái phép chất ma túy, được chính quyền địa phương xác nhận đã tự nguyện tham gia tích cực trong phong trào chống Đại dịch COVID-19. Về nhân thân, các bị cáo Nam, Quyền, Đắc, Linh đều có nhân thân tốt, bị cáo Trường và Tùng tuy từng bị xét xử nhưng đã được đương nhiên xóa án tích trước khi phạm tội trong vụ án này.
Quyết định
Với những nhận định trong phiên giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử ban hành quyết định chấp nhận quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội; hủy bản án phúc thẩm, sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh để xét xử sơ thẩm lại.
Hình thành án lệ
Sau khi quyết định giám đốc thẩm được ban hành vào cuối năm 2022, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học đã đề xuất lựa chọn làm án lệ nhằm nhấn mạnh tình tiết định khung tăng nặng "có tổ chức" trong "tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản", vượt qua bước đầu trở thành 1 trong 14 đề xuất của đầu năm 2023. Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với Liên minh châu Âu và Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức lấy ý kiến từ ngày 19 tháng 4 năm 2023, thông qua hội thảo các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn; và trực tuyến công khai trên trang tin điện tử án lệ. Sau đó, Hội đồng tư vấn án lệ được tổ chức họp nhằm thảo luận, cho ý kiến đối với nội dung của 14 dự thảo án lệ được đề xuất phát triển thành án lệ vào ngày 2 tháng 6. Sau khi nghe đại diện Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học trình bày báo cáo tóm tắt về các dự thảo án lệ đưa ra lấy ý kiến, các thành viên Hội đồng đã thảo luận, đưa ra các ý kiến bình luận, đánh giá và góp ý chi tiết đối với từng dự thảo án lệ. Trên cơ sở ý kiến góp ý của các thành viên Hội đồng tư vấn án lệ, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý các dự thảo án lệ, xin rút 5 dự thảo án lệ, đồng thời phiên họp kết luận đề xuất xem xét lựa chọn, thông qua 8 dự thảo án lệ và cân nhắc 1 dự thảo án lệ. Ngày 16 tháng 8, Hội đồng Thẩm phán họp và quyết định thông qua 7 trong 8 dự thảo, trong đó có quyết định giám đốc thẩm của vụ việc này, chính thức là Án lệ số 64/2023/AL.
Ghi chú
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
Website Án lệ Việt Nam của Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam.
Án lệ 64/2023/AL tại Website Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam.
Quyết định giám đốc thẩm số 15/2022/HS-GĐT tại Website Công bố bản án, quyết định của Tòa án nhân dân tối cao.
Án lệ hình sự Việt Nam
Án lệ Việt Nam năm 2023
|
19848644
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C4%83m%20m%E1%BB%9Bi%20%C3%82m%20l%E1%BB%8Bch
|
Năm mới Âm lịch
|
Năm mới Âm lịch hay Tết Âm lịch (tiếng Anh: Lunar New Year) là tên gọi chung cho sự bắt đầu một năm mới tính theo âm lịch và âm dương lịch. Âm lịch được xây dựng dựa trên pha của Mặt Trăng còn âm dương lịch dựa trên cả pha và dương lịch. Sự kiện này được nhiều nền văn hóa tổ chức theo các cách khác nhau và vào những ngày khác nhau.
Phong tục
Năm mới Âm lịch là ngày lễ được hàng triệu người trên toàn cầu kỷ niệm, đánh dấu kỳ trăng non đầu tiên trong lịch địa phương. Tuy gọi là ngày năm mới âm lịch nhưng thực tế nó được tính trên cả âm lịch và âm dương lịch.
Ngày năm mới hay Tết ở Trung Quốc được tính dựa trên âm dương lịch và thường diễn ra vào khoảng cuối tháng 1 - đầu tháng 2, tức kỳ trăng non thứ hai ngay sau ngày đông chí, hoặc kỳ thứ ba nếu đó là năm nhuận. Tết ở các quốc gia khác như Hàn Quốc (Seollal) và Việt Nam (Tết Nguyên Đán) cũng trùng với ngày này nhưng khác về số ngày kỷ niệm và tập tục. Tại Malaysia, Singapore, nơi có những cộng đồng lớn người Hoa sinh sống, cùng với Brunei, ngày này được gọi là "Tết Trung Quốc" (Chinese New Year).
Ngày năm mới truyền thống của các nước Myanmar, Campuchia, Lào, Sri Lanka, Thái Lan được tính theo Phật lịch và thường rơi vào khoảng giữa tháng 4.
Trong tiếng Anh và ở những quốc gia nói tiếng Anh như Mỹ, Năm mới Âm lịch còn được gọi với tên "Chinese New Year", điều này đã tạo ra một số ý kiến phản đối do ngày này không chỉ được tổ chức ở Trung Quốc và bởi người Trung Quốc. Chính vì vậy, nhiều phương tiện truyền thông sử dụng tên gọi "Lunar New Year" để tránh gây tranh cãi.
Năm mới Hồi giáo trong lịch Hồi giáo (còn được gọi là Tết Hijri) cũng được tính theo âm lịch và thường rơi vào một ngày trong khoảng từ tháng 6 tới tháng 8.
Tham khảo
Tài liệu
Lễ mừng năm mới
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.