id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19847610
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87%20th%E1%BB%91ng%20b%C4%83ng%20t%E1%BA%A3i
|
Hệ thống băng tải
|
Hệ thống băng tải là thiết bị vận chuyển cơ khí phổ biến, dùng để di chuyển vật liệu từ nơi này đến nơi khác. Băng tải đặc biệt hữu ích cho vật liệu nặng/cồng kềnh, nhanh chóng, hiệu quả, ứng dụng rộng rãi trong sản xuất, tiêu dùng.
Xem thêm
Sản xuất chế tạo
Băng tải
Chú thích
Liên kết ngoài
The importance of conveyor and sortation systems for controlled growth (2:03 min. video)
Vận chuyển hàng hóa
|
19847619
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C4%83ng%20t%E1%BA%A3i%20x%C3%ADch
|
Băng tải xích
|
Băng tải xích là một loại hệ thống băng tải dùng để vận chuyển vật liệu trên các dây chuyền sản xuất. Băng tải xích bao gồm các mắt xích nối nhau, chạy trên các rãnh kín, dùng để kéo vật liệu di chuyển liên tục. Băng tải xích có thể được phân loại thành hai loại chính là băng tải xích lưới và băng tải xích tấm.
Hoạt động
Băng tải xích là thiết bị vận chuyển vật liệu phổ biến trong các nhà máy, xí nghiệp. Nguyên lý hoạt động của băng tải xích dựa trên một chuỗi xích khép kín, vừa truyền động vừa kéo vật liệu đi qua máng. Vật liệu có thể được đẩy trực tiếp bởi xích hoặc qua các bộ phận gắn trên xích. Hai đầu máng có bánh xích để dẫn hướng. Băng tải xích có thể được sử dụng để vận chuyển vật liệu trong khoảng cách lên đến 90 mét (300ft), tuy nhiên thông thường là dưới 30 mét (98ft).
Băng tải xích là một hệ thống vận chuyển vật liệu sử dụng xích chạy liên tục và được dẫn động bằng động cơ. Trên xích có gắn các giá treo riêng lẻ để treo vật liệu. Băng tải xích được sử dụng rộng rãi trong các dây chuyền lắp ráp, nhà máy sản xuất, và kho bãi để di chuyển sản phẩm theo một tuyến cố định hoặc khắp cơ sở.
Xem thêm
Hệ thống băng tải
Băng tải
Băng tải trục lăn
Chú thích
Liên kết ngoài
Vận chuyển hàng hóa
Truyền tải cơ năng
Kiểm soát cơ năng
|
19847620
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Batang%20Quiapo%20%28phim%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%29
|
Batang Quiapo (phim truyền hình)
|
FPJ's Batang Quiapo () là một bộ phim truyền hình chính kịch hành động-hài của Philippines được phát sóng bởi Kapamilya Channel. Được đạo diễn bởi Malu L. Sevilla, Darnel Joy R. Villaflor và Coco Martin, bộ phim có sự tham gia của Martin trong vai nhân vật chính. Nó dựa trên bộ phim hành động-hài cùng tên năm 1986 với sự tham gia của Fernando Poe Jr. và Maricel Soriano. Bộ phim được công chiếu lần đầu trên khối buổi tối Primetime Bida của mạng và trên toàn thế giới thông qua The Filipino Channel vào ngày 13 tháng 2 năm 2023, thay thế Mars Ravelo's Darna.
Bộ truyện cũng có sẵn để phát trực tuyến qua iWantTFC trên toàn thế giới.
Kịch bản
Một chàng trai trẻ tên Tanggol (Coco Martin) trở thành một trong những kẻ ngoài vòng pháp luật lớn nhất trong khu phố trong khi anh tìm đường sống để tồn tại ở Quiapo, Manila. Với hy vọng giành được tình cảm của cha mẹ, chiến công của anh đã đưa anh đến gần hơn với sự thật về danh tính của mình.
Diễn viên
Coco Martin vai Hesus Nazareno "Tanggol" A. Dimaguiba / Hesus Nazareno "Tanggol" A. Montenegro
Lovi Poe vai Monica "Mokang / Monique" Dimaculangan-Frias / Montenegro†
Ivana Alawi vai Kate Samly "Bubbles" Bersosa
Charo Santos vai Matilde "Tindeng" Asuncion
Precious Lara Quigaman vai Tindeng thời trẻ
Christopher de Leon as Ramon Montenegro / Albert Frias
Coco Martin vai Ramon thời trẻ
Lito Lapid vai Supremo "Primo" C. Medina
Jomari Angeles vai Primo thời trẻ
John Estrada vai Pat. Rigor Dimaguiba
Ejay Falcon vai Rigor thời trẻ
Cherry Pie Picache vai Ma. Teresa "Marites" Asuncion-Dimaguiba
Miles Ocampo với tư cách là Marites trẻ
Lorna Tolentino vai Amanda Salonga
Lara Fortuna vai là Amanda thời trẻ
Jaclyn Jose vai Jail Chief Supt./BGEN Dolores Espinas
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim truyền hình nhiều tập thập niên 2020
Phim truyền hình Philippines
|
19847627
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich%20I%20c%E1%BB%A7a%20W%C3%BCrttemberg
|
Friedrich I của Württemberg
|
Frederick I ( ; 6 tháng 11 năm 1754 – 30 tháng 10 năm 1816) là nhà cai trị Württemberg từ năm 1797 cho đến khi qua đời. Ông là công tước cuối cùng của Württemberg từ năm 1797 đến năm 1803, sau đó là Tuyển đế hầu đầu tiên và duy nhất của Württemberg từ năm 1803 đến năm 1806, trước khi Württemberg nâng lên thành một vương quốc vào năm 1806 với sự chấp thuận của Napoléon I. Ông được biết đến với thân hình to lớn của mình, cao khoảng và nặng .
Thư mục
Sauer, Paul. Der schwäbische Zar. Friedrich – Württembergs erster König. Stuttgart 1984.
Paul, Ina Ulrike. Württemberg 1797–1816/19. Quellen und Studien zur Entstehung des Modernen württembergischen Staates (Quellen zu den Reformen in den Rheinbundstaaten, Tập 7). München 2005.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Quốc vương Württemberg
Vương tộc Württemberg
Người nhận Huân chương Đại bàng trắng (Ba Lan)
Hội viên Hội Hoàng gia
Quân vương Tin Lành
Mất năm 1816
Sinh năm 1754
|
19847631
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wilhelm%20I%20c%E1%BB%A7a%20W%C3%BCrttemberg
|
Wilhelm I của Württemberg
|
William I ( ; 27 tháng 9 năm 178125 tháng 6 năm 1864) là vua của Württemberg từ ngày 30 tháng 10 năm 1816 cho đến khi ông qua đời.
Tham khảo
Thư mục
Đọc thêm
Constantin von Wurzbach : Württemberg, Wilhelm Friedrich Karl King, Biographisches Lexikon des Kaiserthums Oesterreich . Tập 58. LC Zamarski, Viên, 1889, tr. 246
Eugen Schneider: Wilhelm I. Friedrich Karl, König von Württemberg, Allgemeine Deutsche Biographie (ADB). Tập 43, Duncker & Humblot, Leipzig 1898, tr. 209–213.
Johannes Grauer: Wilhelm I., König von Württemberg. Ein Bild seines Lebens und seiner Zeit. Schwabenverlag, Stuttgart 1960.
Otto–Heinrich Elias: König Wilhelm I. (1816–1864). Robert Uhland (ed.) 900 Jahre Haus Württemberg . Kohlhammer, Stuttgart 1984, .
Eberhard Fritz: Die Verbesserung des Weinbaus ở Württemberg unter König Wilhelm I. (1816–1864). Tubingen 1994, .
Eberhard Fritz: König Wilhelm và Königin Katharina von Württemberg. Nghiên cứu về höfischen Repräsentation im Spiegel der Hofdiarien. Zeitschrift für Württembergische Landesgeschichte. 54/1995, tr. 157–177.
Otto-Heinrich Elias: 6.0.19. Wilhelm I. Sönke Lorenz, Dieter Mertens, Volker Press (ed.): Das Haus Württemberg. Tiểu sử của Ein Lexikon. Kohlhammer, Stuttgart 1997,, tr. 302–306.
Paul Sauer : Nhà cải cách auf dem Königsthron. Wilhelm I. von Württemberg. Stuttgart 1997, .
Jürgen Hagel: Cannstatt und seine Geschichte. Herausgegeben von Pro Alt-Cannstatt e. V., Silberburg-Verlag, Tübingen 2002, .
Gunter Haug: In stürmischen Zeiten – die Jugendjahre König Wilhelms I. von Württemberg ; nhà sử học La Mã . DRW-Verlag, Leinfelden-Echterdingen 2003, .
Liên kết ngoài
Quốc vương Württemberg
Vương tử Württemberg
Vương tộc Württemberg
Vương tử
Bắc Đẩu Bội tinh hạng nhất
Quân vương Tin Lành
Sinh năm 1781
Mất năm 1864
|
19847638
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich%20Eugen%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg
|
Friedrich Eugen xứ Württemberg
|
Friedrich Eugen xứ Württemberg (21 tháng 1 năm 1732 – 23 tháng 12 năm 1797) là Công tước Württemberg từ năm 1795 đến năm 1797. Sinh ra ở Stuttgart, ông là con trai thứ tư của Karl Alexander, Công tước xứ Württemberg với Maria Augusta xứ Thurn và Taxis.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cây gia phả với chân dung
Bức vẽ sau khi chết về ông khi còn trẻ của Adolph Menzel
Mất năm 1797
Sinh năm 1732
Công tước Württemberg thế kỷ 18
Quý tộc từ Stuttgart
Quân nhân Phổ trong Chiến tranh Bảy năm
Quân nhân người Stuttgart
Nhân vật trong cáccuộc chiến của Liên minh thứ nhất
Nhân vật trong các cuộc chiến tranh Silesian
|
19847648
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hwasal-2
|
Hwasal-2
|
Hwasal-2 (Tiếng Hàn: 《화살-2》형; Hanja: 화살-2型; phiên âm Hán-Việt: Mũi Tên-2) là một loại tên lửa hành trình chiến lược tầm trung (LACM) do Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên chế tạo, xuất hiện lần đầu tiên vào năm 2023. Nó được cho là một phiên bản cải tiến từ tên lửa hành trình trước đó là Hwasal-1 với tầm bắn xa hơn. Hwasal-2 có thể mang theo đầu đạn hạt nhân chiến thuật Hwasan-31.
Giới thiệu
Tên lửa Hwasal-1 xuất hiện lần đầu tiên trong triển lãm quốc phòng "Tự vệ-2021" tổ chức tại Bình Nhưỡng. Ngày 13 tháng 9 năm 2021, Hãng thông tấn Trung ương Triều Tiên KCNA tuyên bố nước này đã bắn thử thành công tên lửa hành trình chiến lược đầu tiên. Tên lửa đạt tầm bắn 1,500 km sau 7,580 giây và đã đánh trúng mục tiêu. Đây là loại tên lửa hành trình đầu tiên trong lịch sử của Triều Tiên có tầm bắn xa hơn 300 km.
Ngày 25 tháng 1 năm 2022, Triều Tiên bắn thử tên lửa hành trình Hwasal-1 lần thứ 2 từ xe mang phóng tự hành tại bờ biển tỉnh Hamgyong Nam. Tên lửa đã bay xa 1,800 km trong thời gian 9,137 giây. Vụ phóng này diễn ra cùng thời điểm với vụ phóng một loạt các tên lửa đạn đạo chiến thuật kiểu mới KN-23 của Triều Tiên, loại vũ khí được cho là có tính năng tương đương với loại Iskander của Nga.
Ngày 23 tháng 2 năm 2023, Triều Tiên tuyên bố phóng thử thành công 4 tên lửa hành trình Hwasal-1 và Hwasal-2 từ tỉnh Hamgyong Nam. Các hình ảnh do KCNA cung cấp sau đó cho thấy tên lửa bay với độ cao thấp ở sát mặt đất, gợi ý khả năng nó sử dụng công nghệ dẫn đường kết hợp đường viền địa hình (TERCOM) tương tự các tên lửa hành trình hiện đại khác như Kh-101 của Nga hay BGM-109 Tomahawk của Hoa Kỳ. Bản tin của KCNA cho biết vụ phóng nằm trong khuôn khổ cuộc diễn tập tấn công hạt nhân chiến thuật của quân đội Triều Tiên. Sau đó vào ngày 21 tháng 8 năm 2023 , nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un đã theo dõi một vụ phóng tên lửa Hwasal-2 từ tàu hộ vệ số hiệu 661 lớp Amnok thuộc biên chế Hạm đội biển Đông của Hải quân Nhân dân Triều Tiên. Ngày 6 tháng 9 cùng năm, ông Kim lại tới dự buổi lễ hạ thủy tàu ngầm mang tên lửa chiến lược số hiệu 841. Các hình ảnh được KCNA đăng tải về buổi lễ cho thấy tàu có 10 silo phóng thẳng đứng, trong đó có 4 silo lớn có lẽ để triển khai tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm Pukguksong-5 , còn lại là các silo để triển khai tên lửa hành trình Hwasal-2.
Xem thêm
Vũ khí có tính năng tương đương:
Kh-55
CJ-10
BGM-109
Tài liệu tham khảo
Tên lửa Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
Triều Tiên
Tên lửa hành trình
|
19847649
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ludwig%20Eugen%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg
|
Ludwig Eugen xứ Württemberg
|
Ludwig Eugen Johann (6 tháng 1 năm 1731 – 20 tháng 5 năm 1795) là công tước cai trị Württemberg từ năm 1793 cho đến khi ông qua đời năm 1795.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Công tước Württemberg thế kỷ 18
Quý tộc người Frankfurt am Main
Hiệp sĩ lông cừu vàng
|
19847651
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karl%20Christian%20Erdmann%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg-Oels
|
Karl Christian Erdmann xứ Württemberg-Oels
|
Karl Christian Erdmann xứ Württemberg-Oels (26 tháng 10 năm 1716 tại Wilhelminenort gần Bernstadt – 14 tháng 12 năm 1792 tại Oels) là Công tước cai trị xứ Württemberg-Oels và Bernstadt.
Tham khảo
Vương tộc Württemberg
Sinh năm 1716
Mất năm 1792
|
19847652
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karl%20Eugen%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg
|
Karl Eugen xứ Württemberg
|
Karl Eugene (tiếng Đức: Carl Eugen ; 11 tháng 2 năm 1728 – 24 tháng 10 năm 1793) là Công tước cai trị xứ Württemberg. Ông là con trai cả và là người kế vị của Charles Alexander với Marie Auguste xứ Thurn và Taxis.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Vua thiếu nhi
Hiệp sĩ Lông cừu vàng Áo
Mất năm 1793
Sinh năm 1728
Công tước Württemberg thế kỷ 18
Quý tộc người Brussels
|
19847655
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carl%20Rudolf%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg-Neuenstadt
|
Carl Rudolf, Công tước xứ Württemberg-Neuenstadt
|
Carl Rudolf (29 tháng 5 năm 1667, tại Neuenstadt am Kocher – 17 tháng 11 năm 1742, tại Neuenstadt am Kocher ) là Công tước cuối cùng cai trị xứ Württemberg-Neuenstad. Ông cũng là chỉ huy quân đội Đan Mạch và thống chế của Thánh chế La Mã.
Tham khảo
Liên kết ngoài
ADB
Thống chế Đức
Mất năm 1742
Sinh năm 1667
Công tước Württemberg thế kỷ 18
Quan nhiếp chính thế kỷ 18
Người Neuenstadt am Kocher
Quân nhân Württemberg
Tướng lĩnh của Đế quốc La Mã Thần thánh
|
19847657
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202013
|
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2013
|
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2013 được tổ chức trong khoảng thời gian chín ngày bắt đầu từ ngày 13 tháng 12 đến ngày 21 tháng 12 năm 2013. All games were held at Sân vận động Khúc côn cầu Theinphyu, Yangon.
Tóm tắt huy chương
Bảng tổng sắp huy chương
Quốc gia tham dự
Giải đấu Nam
Tất cả các giờ đều là Giờ Myanmar – UTC+6:30.
Vòng bảng
Bảng đấu Nam
Tranh huy chương đồng
Tranh huy chương vàng
Bảng xếp hạng cuối cùng
Giải đấu Nữ
Tất cả các giờ đều là Giờ Myanmar – UTC+6:30.
Vòng bảng
Bảng đấu Nữ
Trận tranh hạng năm và hạng sáu
Tranh huy chương đồng
Tranh huy chương vàng
Bảng xếp hạng cuối cùng
Tham khảo
Khúc côn cầu trên cỏ
2013
Khúc côn cầu trên cỏ năm 2013
Sự kiện thể thao ở châu Á tháng 12 năm 2013
|
19847660
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20Rama%20VII
|
Cầu Rama VII
|
Cầu Rama VII (, , ) là một cầu bắc qua sông Chao Phraya ở Băng Cốc và Nonthaburi, Thái Lan, nối Bang Sue và Bang Phlat. Làn đường kép với 3 làn đường mỗi bên. Cây cầu được đặt tên để vinh danh Vua Prajadhipok. Cây cầu được xây dựng với mục đích tăng hạ tầng và giảm lưu lượng xe tại nút giao cầu Rama VI.
Tham khảo
Rama
Rama
Rama
|
19847678
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Madame%20Web%20%28phim%29
|
Madame Web (phim)
|
Madame Web là phim điện ảnh siêu anh hùng Mỹ ra mắt năm 2024, dựa trên nhân vật cùng tên trong truyện tranh Marvel Comics. Phim do Columbia Pictures, Di Bonaventura Pictures, Marvel Entertainment sản xuất và được hãng Sony Pictures Releasing phát hành. Đây là phim thứ tư trong Vũ trụ Người Nhện của Sony. Đạo diễn phim là S. J. Clarkson, đồng viết kịch bản với Claire Parker, Matt Sazama và Burk Sharpless, phát triển trên bản thảo của Kerem Sanga, Sazama và Sharpless. Dàn diễn viên trong phim gồm có Dakota Johnson thủ vai chính Madame Web, Sydney Sweeney, Celeste O'Connor, Isabela Merced và Tahar Rahim.
Từ tháng 9 năm 2019, phim đã được Sony thực hiện với phần kịch bản do Sazama và Sharpless xây dựng trên bản nháp mà Sanga đã tạo trước đó. Clarkson bắt đầu tham gia dự án từ tháng 5 năm 2020, đánh dấu phim điện ảnh đầu tiên mà cô làm đạo diễn. Đầu năm 2022, nữ diễn viên Dakota Johnson được chọn đóng vai chính. Quá trình ghi hình bắt đầu từ giữa tháng 7 đến tháng 9 cùng năm ở Boston và Massachusetts, sau đó di chuyển tới thành phố New York từ giữa tháng 10 tới hết năm.
Madame Web được phát hành vào ngày lễ tình nhân 14 tháng 2 năm 2024.
Phân vai
Dakota Johnson vai Cassandra "Cassie" Webb / Madame Web: Một chuyên viên cấp cứu ở Manhattan có khả năng biết trước tương lai nhờ sở hữu khả năng tâm linh của "thế giới nhện"
Sydney Sweeney vai Julia Carpenter / Spider-Woman
Celeste O'Connor vai Mattie Franklin / Spider-Woman
Isabela Merced vai Anya Corazon / Araña
Tahar Rahim vai Ezekiel Sims
Ngoài ra, Mike Epps, Emma Roberts, Adam Scott và Zosia Mamet cũng sẽ góp mặt trong phim.
Phát hành
Madame Web được ra mắt vào ngày 14 tháng 2 năm 2024 ở định dạng IMAX. Lịch công chiếu ban đầu của phim là ngày 7 tháng 7 năm 2023, sau đó được lùi tới ngày 6 tháng 10 và 16 tháng 2 năm 2024.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim quay tại thành phố New York
Phim quay tại Massachusetts
Phim lấy bối cảnh ở thập niên 2000
Phim lấy bối cảnh ở thành phố New York
Phim Columbia Pictures
Phim siêu anh hùng của Mỹ
Phim hành động khoa học viễn tưởng Mỹ
Phim siêu anh hùng thập niên 2020
Phim tiếng Anh thập niên 2020
Phim Mỹ thập niên 2020
Phim năm 2024
|
19847684
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tsurui%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Tsurui, Hokkaidō
|
là một ngôi làng thuộc huyện Akan, phó tỉnh Kushiro, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 2.558 người và mật độ dân số là 4,5 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 571,84 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Làng của Hokkaidō
|
19847686
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zucchini
|
Zucchini
|
Zucchini là một cuốn tiểu thuyết thiếu nhi năm 1982 của Barbara Dana, do Eileen Christelow vẽ hình minh họa. Tập tiếp theo của cuốn sách có tên Zucchini Out West.
Nội dung
Cuốn sách kể về một cậu bé người New York, tên là Billy, cùng với chú chồn sương của cậu, tên là Zucchini. Trong cuốn sách có những chi tiết không chính xác về chồn, chẳng hạn như chúng là loài gặm nhấm ăn cỏ.
Giải thưởng
Cuốn sách đã giành được Giải thưởng Maud Hart Lovelace năm 1986 và Giải thưởng Sách thiếu nhi Land of Enchantment 1986-1987.
Lịch sử ấn hành
Chuyển thể
Cuốn tiểu thuyết đã được chuyển thể thành một tập của CBS Storybreak in 1985.
Tham khảo
Tiểu thuyết Mỹ năm 1982
Tiểu thuyết thiếu nhi Mỹ
Tiểu thuyết thiếu nhi về động vật
Chồn sương hư cấu
Sách của Harper & Row
Sách thiếu nhi năm 1982
CBS Storybreak
Sách thiếu nhi lấy bối cảnh ở New York (tiểu bang)
Truyện thiếu nhi Mỹ
|
19847696
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BA%A8m%20th%E1%BB%B1c%20Liechtenstein
|
Ẩm thực Liechtenstein
|
Ẩm thực Liechtenstein là một nền ẩm thực đa dạng và phong phú, chịu ảnh hưởng từ các quốc gia láng giềng như Thụy Sĩ và Áo. Pho mát và xúp là những phần không thể thiếu trong ẩm thực Liechtenstein. Các chế phẩm sữa cũng rất phổ biến bởi sự mở rộng của chúng. Bên cạnh đó, rau xanh, khoai tây và bắp cải là các loại rau phổ biến ở đất nước này. Các loại thịt được tiêu thụ rộng rãi bao gồm thịt bò, gà và lợn. Việc ăn 3 bữa một ngày là phổ biến và các bữa ăn thường được bày biện một cách thịnh soạn.
Món ăn và thức uống phổ biến
Món ăn
Măng tây thường được sử dụng rộng rãi
Bánh mì
Hafalaab xúp với giăm bông hoặc thịt xông khói và bánh bao được làm từ bột ngô
Kasknopfl bánh bao size nhỏ phủ pho mát hoặc hành tây
Gan
Muesli yến mạch cán chưa được nấu chín, trái cây và các loại hạt đã được ngâm trong nước hoặc nước trái cây
Pastry
Ribel một loại hạt ngũ cốc
Rösti một món ăn được chế biến với khoai tây nghiền thô được chiên. Nó có thể bao gồm các biến thể sử dụng thêm các thành phần bổ sung
Bánh mì kẹp
Saukerkas một loại pho mát được sản xuất ở Liechtenstein
Schnitzel một lát thịt mỏng được tẩm bột rồi chiên trong chất béo
Thịt hun khói
Torkarebl món cháo được làm từ hỗn hợp bột ngô, muối, sữa và nước
Wurst một loại xúc xích xông khói
Sữa chua
Thức uống
Bia
Cacao
Cà phê
Sữa loại thức uống được nhiều người Liechtenstein tiêu thụ
Rượu vang
Tham khảo
Đọc thêm
Bao gồm thông tin về ẩm thực Liechtenstein
Ẩm thực Liechtenstein
Văn hóa Liechtenstein
Ẩm thực châu Âu
|
19847698
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Qeshm%202008
|
Động đất Qeshm 2008
|
Động đất Qeshm 2008 () là trận động đất xảy ra vào lúc 06:30 (theo giờ địa phương), ngày 10 tháng 9 năm 2008. Trận động đất có cường độ 5.9 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 8 km. Hậu quả trận động đất đã làm 7 ngườ chết, 45 người bị thương.
Xem thêm
Danh sách trận động đất năm 2008
Danh sách trận động đất ở Iran
Tham khảo
Động đất tại Iran
Iran năm 2008
Động đất năm 2008
|
19847699
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7%20t%E1%BB%8Bch%20Th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20vi%E1%BB%87n%20%28Anh%29
|
Chủ tịch Thượng viện (Anh)
|
Chủ tịch Thượng viện là chủ tịch và là người có thẩm quyền cao nhất của Thượng viện trong Quốc hội Anh. Chức vụ này có vai trò tương đồng như Chủ tịch Hạ viện. Chủ tịch Thượng viện được bầu nên bởi các thành viên của Thượng viện với mong muốn trở thành một người công bình trong chức vụ và các quyền hạn.
Cho đến tháng Bảy năm 2006, chức vụ Chủ tịch Thượng viện được đảm nhận bởi Đại Chưởng ấn Anh. Theo Đạo luật Cải cách Hiến pháp năm 2005, chức vụ chủ tịch Thượng viện (như được gọi trong Đạo luật) đã trở thành một chức vụ riêng biệt, và có thể được trao cho một cá nhân khác ngoài Đại Chưởng ấn. Tuy nhiên, Đại Chưởng ấn tiếp tục đóng vai trò là người phát ngôn, chủ tịch của Thượng viện trong một thời gian ngắn sau khi Đạo luật được thông qua khi Thượng viện xem xét các thỏa thuận mới chức vụ Chủ tịch Thượng viện.
Chủ tịch Thượng viện đương nhiệm là John McFall, Nam tước McFall của Alcluith.
Lịch sử
Năm 2003, sau quyết bãi bỏ hoàn toàn chức vụ, vai trò của Đại Chưởng ấn của Thủ tướng Blair, một ủy ban của Thượng viện đã xem xét về vấn đề Chủ tịch Thượng viện, bao gồm cả tước hiệu của người được bầu làm Chủ tịch Thượng viện. Cũng theo đề xuất của ủy ban này, chức vị mới này sẽ có cái tên như chúng ta đã biết ngày nay - Chủ tịch Thượng viện, và từ 25 phó Chủ tịch đã giảm xuống còn 12. Cái tên "Chủ tịch Thượng viện" được chọn một phần vì nó đã được sử dụng bởi Ủy ban thường trực của Hoàng gia.
Vai trò (Đang dịch)
Vai trò chính của Chủ tịch Thượng viện là tham gia, đồng thời góp ý vào các cuộc tranh luận của Thượng viện về những quy tắc và thủ tục, đồng thời chịu trách nhiệm chính thức về an ninh tại các khu vực của Điện Westminster do Thượng viện quản lý, phát ngôn cho Thượng viện trong các dịp lễ và sự kiện, cũng như đại diện cho Thượng viện và các Đại sứ quán Anh ở nước ngoài.
Chức vụ này có đôi phần ít quyền hạn hơn so với Chủ tịch Hạ viện. Thượng viện phần lớn tự quản, và Chủ tịch Thượng viện cũng đóng một vai trò kém linh hoạt, chủ động hơn trong các cuộc tranh luận so với Chủ tịch Hạ viện. Ví dụ, khác với Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Thượng viện không thể yêu cầu các nghị sĩ trật tự, đề ra người phát biểu trước khi có nhiều luồng ý song song kiến được đưa ra cùng lúc, khai trừ các thành viên vi phạm các điều khoản Luật của Thượng viện, hoặc chọn các sửa đổi đối với dự luật—tất cả các chức năng này đều được thực hiện bởi toàn bộ Thượng viện, không đến từ cá nhân chủ tịch Thượng viện. Tương tự, trong khi các bài phát biểu tại Hạ viện được gửi trực tiếp tới Chủ tịch Thượng viện thì cũng là đang được gửi tới toàn thể Hạ viện; ..., và những bài phát biểu được bắt đầu với "Thưa lãnh quan" thay vì "Thưa Chủ tịch Thượng viện". Trên thực tế, nhiệm vụ duy nhất của Chủ tịch Thượng viện là chính thức đặt câu hỏi trước các cuộc bỏ phiếu, công bố kết quả của bất kỳ cuộc bỏ phiếu nào và đưa ra một số thông báo nhất định cho Thượng viện. (ví dụ như thông báo về cái chết của một nghị sĩ). Đồng thời,Chủ tịch Thượng viện có thể chấm dứt việc hoãn các cuộc họp Thượng viện trong những trường hợp khẩn cấp.
Chủ tịch Thượng viện đã đảm nhận hầu hết các nhiệm vụ mà Đại Chưởng ấn từng đảm nhiệm liên quan đến những vai trò nghị viện của chức vụ này. Tuy nhiên, Đại Chưởng ấn vẫn tiếp tục được thay mặt cho toàn thể Quốc hội đọc những bài phát biểu trước Nhà vua trong phần Lễ khai mạc của một buổi họp Quốc hội.
The debate was renewed with proposals put forward by a Leader's Group (an ad hoc committee) led by Alastair Goodlad. The proposals include allowing the Lord Speaker, during Question Time and ministerial statements, to take on the role of advising the House which party should speak next when there is a dispute. The Leader of the House of Lords, a Government minister, currently handles this task. The decision of who should speak would ultimately remain with the House. A similar proposal was made by the committee that initially discussed the new office. A further option would allow the Speaker even more power during Question Time, but it was not recommended by the Leader's Group. The Group's report has yet to be approved.
Like the Speaker of the House of Commons, but unlike the Lord Chancellor (who was also a judge and a government minister), the Lord Speaker is expected to remain non-partisan whilst in office. On election, the Lord Speaker resigns the party whip or crossbench group and certain outside interests to concentrate on being an impartial presiding officer.
Bầu cử (Đang dịch)
The Lord Speaker is elected for a maximum term of five years, and may serve a maximum of two terms. The election is conducted using the alternative vote method. Under amendments made on 3 May 2011, elections must be held by 15 July of the final year of a term, with the new term beginning on 1 September. When Helene Hayman, Baroness Hayman, was elected the first Lord Speaker, the Clerk of the Parliaments (the chief clerk of the House of Lords) announced the result, and the Lord Chamberlain announced the Queen's confirmation of the choice. The Lord Speaker thus elected then replaced the Lord Chancellor on the Woolsack.
Quyền lợi và nghĩa vụ (Đang dịch)
By Royal Warrant on 4 July 2006, the Queen declared that the Lord Speaker would have rank and precedence immediately after the Speaker of the House of Commons. The Lord Speaker earns a salary of £104,360, less than the Speaker of the House of Commons, though the Speaker of the House of Commons' salary includes £81,932 paid for being an MP. The Lord Speaker, like the Speaker of the House of Commons, is entitled to a grace and favour apartment in the Parliamentary Estate.
Like the Lord Chancellor, the Lord Speaker wears court dress with a plain black silk gown while presiding over the House and a black silk damask and gold lace ceremonial gown on state occasions. To date holders of the office have chosen not to wear a wig, as the Lord Chancellor previously did, though they do have the option. When presiding over debates, the Lord Speaker sits on the Woolsack.
Before each day's sitting of the House of Lords, the Lord Speaker forms part of a procession that marches from the Lord Speaker's residence to the Lords Chamber. The Lord Speaker is preceded by the Deputy Serjeant-at-Arms or Principal Doorkeeper of the House (who bears the Mace). The procession is joined by the Gentleman Usher of the Black Rod in the Prince's Chamber. Together, they move through the Not-content Lobby, entering the Chamber below the bar, and finish by walking up the Temporal (opposition) side toward the Woolsack. The Mace is placed on the Woolsack, where the Lord Speaker sits after a bishop has led the House in prayers.
When the Sovereign appoints Lords Commissioners to perform certain actions on his or her behalf (for example, to open or prorogue Parliament, or formally declare Royal Assent), the Lord Speaker is one of them. The other Lords Commissioners, by convention, are the Leader of the House (who has acted as the principal Commissioner since the Lord Chancellor's functions were transferred to the Lord Speaker), the leaders of the other two major parties in the Lords, and the Convenor of the Crossbenches.
New peers, upon being introduced in the House of Lords, shake hands with the Lord Speaker after taking the oath (or making affirmation).
Danh sách những Chủ tịch Thượng viện
Xem thêm
List of lord chancellors and lord keepers
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lord Speaker's official webpage
Chairs of upper houses
Constitution of the United Kingdom
House of Lords
|
19847705
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Christian%20Ulrich%20II%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg-Wilhelminenort
|
Christian Ulrich II, Công tước xứ Württemberg-Wilhelminenort
|
Christian Ulrich II (27 tháng 1 năm 1691 tại lâu đài Vielguth gần Oleśnica – 7 tháng 2 năm 1734 tại Stuttgart) là Công tước cai trị xứ Württemberg-Wilhelminenort.
Tham khảo
Johann Christian Benjamin Regehly: Geschichte und Beschreibung von Carlsruhe ở Oberschlesien, tr. 31
August B. Michaelis: Einleitung zu einer volständigen Geschichte der Chur- und Fürstlichen Häuser ..., p. 463
Mất năm 1734
Sinh năm 1691
Công tước Württemberg thế kỷ 18
Công tước Silesia
|
19847711
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karl%20Friedrich%20II%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg-Oels
|
Karl Friedrich II, Công tước xứ Württemberg-Oels
|
Karl Friedrich II của Württemberg-Oels (7 tháng 2 năm 1690 tại Merseburg – 14 tháng 12 năm 1761 tại Oleśnica) là công tước cai trị xứ Oels-Württemberg và nhiếp chính của Công quốc Württemberg.
Tham khảo
Johann Christian Benjamin Regehly: Geschichte und Beschreibung von Carlsruhe ở Oberschlesien, tr. 30
Karl Friedrich Pauli: Allgemeine preussische staats-geschichte, samt aller dazu gehörigen ... , P. 562
Carl Pfaff: Fürstenhaus và Land Württemberg ... , P. 141
Người nhận Huân chương Đại bàng trắng (Ba Lan)
Mất năm 1761
Sinh năm 1690
Công tước Württemberg thế kỷ 18
Nhiếp chính thế kỷ 18
Công tước Silesia
Người Merseburg
|
19847722
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jonny%20Kim
|
Jonny Kim
|
Jonathan Yong Kim (sinh ngày 5 tháng 2 năm 1984) là một thiếu tá hải quân, cựu đặc nhiệm SEAL, phi công hải quân, bác sĩ và phi hành gia NASA người Mỹ gốc Hàn.
Sinh ra và lớn lên tại California, Kim đã gia nhập Hải quân Hoa Kỳ vào đầu những năm 2000 trước khi nhận tấm Huân chương Sao bạc danh giá. Trong thời gian làm thủy thủ, Kim còn nhận bằng Cử nhân Nghệ thuật về toán học loại giỏi, đạt danh hiệu Tiến sĩ y khoa, và được chấp nhận vào Nhóm phi hành gia NASA 22 vào năm 2017. Anh đã hoàn thành khóa đào tạo phi hành gia vào năm 2020 và đang chờ chỉ định nhiệm vụ bay với chương trình Artemis.
Cuộc đời và giáo dục
Jonathan Yong Kim chào đời ngày 5 tháng 2 năm 1984 ở Los Angeles, California. Bố mẹ anh đã di cư từ Hàn Quốc đến Hoa Kỳ vào những năm đầu thập niên 1980, và cha anh vẫn chưa hoàn thành chương trình giáo dục trung học. Gia đình Kim mở một cửa hàng rượu ở South Los Angeles, còn mẹ anh làm giáo viên dạy thay ở một trường tiểu học trong khi nuôi nấng Kim cùng em trai. Năm 2018, trong một cuộc phỏng vấn với tập san Annals of Emergency Medicine, Kim mô tả bản thân là "điển hình của một đứa trẻ trầm tính và cực kỳ thiếu tự tin". Năm 2020, tờ Chosun Ilbo đưa tin rằng Kim từng là nạn nhân của bạo lực gia đình dưới bàn tay của cha mình; vào tháng 2 năm 2002, sau khi dùng súng đe dọa cả nhà, cha của Kim đã bị cảnh sát bắn chết trên gác mái.
Tại trường cấp ba Santa Monica, Kim đã nhận được điểm cao trong các môn học, bao gồm nhiều môn thuộc các khóa đào tạo Advanced Placement. Ngoài thời gian lên lớp, anh còn tham gia bơi lội và chơi bóng nước. Anh tốt nghiệp cấp ba vào năm 2002. Năm 2012, Kim nhận bằng Cử nhân Nghệ thuật hạng ưu về toán học của Đại học San Diego, và sau đó là bằng Tiến sĩ y khoa của Trường Y Harvard vào năm 2016. Anh là một trong số những người được chọn trở thành "Tillman Scholar" (tạm dịch: Học giả Tillman) của Quỹ Pat Tillman. Năm 2017, anh hoàn thành khóa thực tập y khoa về cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts và Bệnh viện Brigham and Women.
, Kim đã kết hôn và có ba người con.
Sự nghiệp
Hải quân Hoa Kỳ
Kim đã tìm hiểu và quyết định trở thành đặc nhiệm SEAL ở tuổi 16. Anh đầu tư những năm trung học còn lại của mình để rèn luyện thể chất cho sự khắc nghiệt của quá trình huấn luyện Chiến tranh Đặc biệt. Về quyết định này, Kim nói, "Gia nhập Hải quân là quyết định đúng đắn nhất mà tôi từng đưa ra trong đời vì nó đã biến đổi tôi hoàn toàn từ cậu bé sợ hãi, không có ước mơ nào thành một người bắt đầu tin tưởng vào bản thân mình."
Sau khi gia nhập Hải quân Hoa Kỳ vào năm 2002 với tư cách là thủy thủ nhập ngũ, Kim tốt nghiệp lớp 247 của khóa huấn luyện BUD/S và được bổ nhiệm vào SEAL Team 3 với quân hàm Special Warfare Operator. Anh đã hai lần được triển khai đến Trung Đông và tham gia hơn 100 nhiệm vụ chiến đấu với tư cách là lính cứu thương, lính bắn tỉa, hoa tiêu và lính trinh sát. Trong thời gian làm đặc nhiệm SEAL, Kim đã phục vụ cùng với các hạ sĩ bậc hai Marc Alan Lee và Michael A. Monsoor. Năm 2009, Kim được nhận vào chương trình STA-21. Sau khi tốt nghiệp Đại học San Diego vào năm 2012 và rời Quân đoàn Huấn luyện Sĩ quan Dự bị Hải quân, anh đã gia nhập Quân đoàn Y tá.
Ngày 6 tháng 6 năm 2022, Kim đã hoàn thành chuyến bay đơn đầu tiên trên chiếc Beechcraft T-6 Texan II ở Bộ tư lệnh Huấn luyện Không lực Hải quân, là một phần trong chế độ huấn luyện chung cho các phi hành gia NASA thuộc Hải quân Hoa Kỳ chưa có kinh nghiệm phi công quân sự trước đó. Sau khi được đào tạo thêm trên trực thăng Northrop T-38 Talon và TH-57, Kim đã chính thức hoàn thành khóa huấn luyện bay vào tháng 3 năm 2023 tại Trạm Không quân Hải quân Whiting Field, khiến anh trở thành nhân vật hiếm hoi đồng thời đủ tiêu chuẩn bác sĩ phẫu thuật bay và phi công hải quân.
Trong sự nghiệp Hải quân của mình, Kim đã được trao Huân chương Sao bạc, Huân chương Sao đồng (với chữ "V" in), Huân chương Tuyên dương của Hải quân và Thủy quân lục chiến (với chữ "V" in), và Ruy băng Hành động Chiến đấu. Theo Jocko Willink, Kim được trao tặng Ngôi sao Bạc vì đã có công giải cứu nhiều binh sĩ Iraq bị thương trước hỏa lực của kẻ thù. , Kim vẫn được xem là lính SEAL với cấp bậc thiếu tá hải quân.
NASA
Khi đang theo học tại Trường Y Havard, Kim đã gặp gỡ và được truyền cảm hứng bởi nhà du hành vũ trụ–bác sĩ Scott E. Parazynski để đăng ký làm ứng viên phi hành gia. Ngày 7 tháng 6 năm 2017, Kim là một trong 12 người được chọn từ hơn 18.300 ứng viên ban đầu để gia nhập Nhóm phi hành gia NASA 22. Anh báo cáo tại Trung tâm vũ trụ Johnson vào ngày 21 tháng 8 năm 2017, và tốt nghiệp khóa huấn luyện vào ngày 10 tháng 1 năm 2020.
Theo NASA, Kim sẽ làm việc tại Văn phòng Phi hành gia trong thời gian chờ đợi chỉ định nhiệm vụ bay. Ngày 9 tháng 12 năm 2020, NASA chính thức thông báo rằng Kim sẽ cùng 17 phi hành gia khác tham gia quá trình huấn luyện cho cuộc đổ bộ lên Mặt Trăng vào năm 2024.
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Sinh năm 1984
Nhà du hành vũ trụ Mỹ
Người Mỹ gốc Hàn Quốc
Nhân vật còn sống
Người Los Angeles
Phi công Hải quân Hoa Kỳ
Thủy thủ Hải quân Hoa Kỳ
|
19847728
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karl%20Alexander%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg
|
Karl Alexander xứ Württemberg
|
Karl Alexander của Württemberg (24 tháng 1 năm 1684 – 12 tháng 3 năm 1737) là Công tước xứ Württemberg từ năm 1698 cho đến khi qua đời, người cai trị Vương quốc Serbia với tư cách nhiếp chính từ năm 1720 đến năm 1733.
Tham khảo
Hiệp sĩ Lông cừu vàng Áo
Vua thiếu nhi
Mất năm 1737
Sinh năm 1684
Công tước Württemberg thế kỷ 18
Nhiếp chính thế kỷ 18
Quý tộc người Stuttgart
Chỉ huy quân đội Áo trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha
Tướng lĩnh của Đế quốc La Mã Thần thánh
Chiến tranh Áo-Thổ Nhĩ Kỳ (1716–1718)
|
19847731
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%E1%BA%BFt%20lu%E1%BA%ADn%20t%C6%B0%20v%E1%BA%A5n%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%B2a%20%C3%A1n%20Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF%20v%E1%BB%81%20t%C3%ADnh%20h%E1%BB%A3p%20ph%C3%A1p%20c%E1%BB%A7a%20vi%E1%BB%87c%20%C4%91e%20d%E1%BB%8Da%20ho%E1%BA%B7c%20s%E1%BB%AD%20d%E1%BB%A5ng%20v%C5%A9%20kh%C3%AD%20h%E1%BA%A1t%20nh%C3%A2n
|
Kết luận tư vấn của Tòa án Quốc tế về tính hợp pháp của việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân
|
Tính hợp pháp của việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân [1996] ICJ 3 là một vấn đề pháp luật quốc tế bước ngoặc. Tòa án Quốc tế có kết luận tư vấn rằng tuy thông thường sẽ vi phạm luật nhân đạo quốc tế nhưng không thể xác định việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân có hợp pháp hay không trong trường hợp sự tồn vong của một nhà nước đang lâm nguy. Tòa án Quốc tế kết luận rằng không có một nguồn của pháp luật quốc tế cho phép hoặc cấm việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân nhưng phải phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc và các nguyên tắc của luật nhân đạo quốc tế. Tòa án Quốc tế cũng kết luận các nước có nghĩa vụ thực hiện giải trừ hạt nhân.
Ngày 3 tháng 9 năm 1993, Tổ chức Y tế Thế giới yêu cầu Tòa án Quốc tế có một kết luận tư vấn về vấn đề này nhưng bị từ chối vì đã vượt quyền hạn của tổ chức. Tháng 12 năm 1994, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc yêu cầu một kết luận tư vấn và được Tòa án Quốc tế thụ lý đơn vào tháng 1 năm 1995.
Khả năng cấm sử dụng vũ khí hạt nhân trong xung đột vũ trang được , đại diện Hà Lan trong Ủy ban Pháp luật Quốc tế, đề cập lần đầu tiên vào ngày 30 tháng 6 năm 1950. Ngoài ra, chính phủ Ba Lan đề nghị Ủy ban Pháp luật Quốc tế xem xét việc sử dụng vũ khí hạt nhân có phải là một tội ác chống lại hòa bình hay không.
Yêu cầu của Tổ chức Y tế Thế giới
Ngày 3 tháng 9 năm 1993, Tổ chức Y tế Thế giới có yêu cầu một kết luận tư vấn như sau:
Tòa án Quốc tế xem xét yêu cầu của Tổ chức Y tế Thế giới từ năm 1993 đến năm 1996. Ban đầu Tòa án Quốc tế ấn định ngày 10 tháng 6 năm 1994 là hạn chót để đệ trình bản báo cáo bằng văn bản nhưng gia hạn đến ngày 20 tháng 9 năm 1994. Ngày 8 tháng 7 năm 1996, Tòa án Quốc tế biểu quyết bác đơn của Tổ chức Y tế Thế giới với 11 phiếu thuận, 3 phiếu chống, lấy lý do vấn đề vũ khí hạt nhân nằm ngoài nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ chức Y tế Thế giới.
Yêu cầu của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc
Ngày 15 tháng 12 năm 1994, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết A/RES/49/75K, yêu cầu Tòa án Quốc tế có kết luận tư vấn về vấn đề sau:
Nghị quyết được thông qua với 78 nước biểu quyết thuận, 43 nước biểu quyết chống, 38 nước biểu quyết trắng và 26 nước không tham gia biểu quyết. Yêu cầu được trình Tòa án Quốc tế vào ngày 19 tháng 12.
Ngay từ mùa thu năm 1993, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đã cân nhắc yêu cầu một kết luận tư vấn từ Tòa án Quốc tế theo đề nghị của Phong trào không liên kết. Sau khi một số nước sở hữu vũ khí hạt nhân trình bày quan điểm phản đối đơn của Tổ chức Y tế Thế giới thì Phong trào quyết định ra Tòa án Quốc tế. Tòa án Quốc tế ấn định ngày 20 tháng 6 năm 1995 làm ngày đệ trình các bản báo cáo bằng văn bản của các nước.
Tổng cộng 42 nước đệ trình các bản cáo bằng văn bản, là số lượng quốc gia tham gia tố tụng lớn nhất trước Tòa án Quốc tế. Trong năm thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, chỉ Trung Quốc không tham gia vụ việc. Trong ba nước có tiềm năng sở hữu vũ khí hạt nhân, chỉ Ấn Độ tham gia vụ việc. Nhiều nước đệ trình bản báo cáo là nước đang phát triển, thể hiện sự quan tâm, chú ý quốc tế chưa hề có đối với vấn đề vũ khí hạt nhân và sự sốt sắng tham gia tố tụng quốc tế của các nước đang phát triển trong thời kỳ hậu thuộc địa.
Từ ngày 30 tháng 10 đến ngày 15 tháng 11 năm 1995, Tòa án Quốc tế cho phép đệ trình các bản báo cáo bằng lời nói. 20 nước đệ trình bản báo cáo: Úc, Ai Cập, Pháp, Đức, Indonesia, México, Iran, Ý, Malaysia, New Zealand, Philippines, Qatar, Nga, San Marino, Samoa, Quần đảo Marshall, Quần đảo Solomon, Costa Rica, Anh, Hoa Kỳ, Zimbabwe và Tổ chức Y tế Thế giới. Ban Thư ký Liên Hợp Quốc nộp hồ sơ về quá trình soạn thảo, thông qua Nghị quyết 49/75K. Mỗi quốc gia, tổ chức có 90 phút để trình bày quan điểm về vụ việc. Ngày 8 tháng 7 năm 1996, Tòa án Quốc tế ra quyết định.
Quyết định của Tòa án Quốc tế
Thành phần
Tòa án Quốc tế gồm 15 thẩm phán do Đại Hội đồng và Hội đồng Bảo an bầu ra. Nhiệm kỳ của thẩm phán Tòa án Quốc tế là chín năm. Tòa án Quốc tế có thể có những kết luận tư vấn theo yêu cầu của một cơ quan Liên Hợp Quốc. Kết luận tư vấn không cấu thành một án lệ.
Phân tích của Tòa án Quốc tế
Răn đe và "đe dọa"
Tòa án Quốc tế xem xét việc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân trong những trường hợp nhất định với mục đích răn đe có hợp pháp hay không. Tòa án Quốc tế quyết định rằng nếu việc đe dọa tấn công hạt nhân trả đũa là cần thiết và cân xứng về mặt quân sự thì không nhất thiết là vi phạm pháp luật quốc tế.
Tính hợp pháp của việc sở hữu vũ khí hạt nhân
Tòa án Quốc tế xem xét tính hợp pháp của việc sở hữu vũ khí hạt nhân. Sau khi nghiên cứu các điều ước quốc tế, bao gồm Hiến chương Liên Hợp Quốc, Tòa án Quốc tế kết luận không có một điều ước quốc tế nào dứt khoát cấm sở hữu vũ khí hạt nhân
Tính hợp pháp của việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân
Tòa án Quốc tế xem xét việc sử dụng vũ khí hạt nhân có hợp pháp hay không dưới những điều khoản của Hiến chương Liên Hợp Quốc về việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Tòa án Quốc tế kết luận Hiến chương Liên Hợp Quốc không cấm hoặc cho phép sử dụng bất kỳ vũ khí cụ thể nào, bao gồm vũ khí hạt nhân. Một thứ vũ khí đã bị điều ước hoặc tập quán quốc tế cấm không thể trở thành hợp pháp chỉ vì được sử dụng vì một mục đích chính đáng theo Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Tòa án Quốc tế xem xét các điều khoản, quy định của các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế về vũ khí hạt nhân. Tòa án Quốc tế kết luận rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân không bị cấm theo những điều khoản của các công ước Den Haag 1889 và 1907 về vũ khí vi khuẩn hoặc hóa học.
Đối với những điều ước quốc tế về việc mua, sản xuất, sở hữu, triển khai và thử nghiệm vũ khí hạt nhân, Tòa án Quốc tế lưu ý rằng những điều ước này thể hiện sự quan tâm, lo ngại quốc tế đối với vũ khí hạt nhân và có thể được coi là báo hiệu khả năng cấm vũ khí hạt nhân trong tương lai nhưng tự bản thân nó không phải là một lệnh cấm. Đối với những điều ước quốc tế khu vực, Tòa án Quốc tế lưu ý rằng tuy thể hiện sự nhận thức của cộng đồng quốc tế về nguy cơ của vũ khí hạt nhân nhưng những điều ước này không cấu thành một tập quán quốc tế phổ biến cấm việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân.
Tập quán quốc tế cũng không cung cấp đủ cơ sở để xác định việc sở hữu vũ khí hạt nhân được công nhận là bất hợp pháp.
Sau cùng, Tòa án Quốc tế kết luận không có một sự xác tín pháp lý rằng việc sở hữu vũ khí hạt nhân là bất hợp pháp. Tuy vũ khí hạt nhân đã không được sử dụng trong chiến tranh từ năm 1945 và đã có vô số nghị quyết Liên Hợp Quốc lên án việc sử dụng vũ khí hạt nhân nhưng Tòa án Quốc tế kết luận những sự kiện này không cấu thành một tập quán quốc tế mới tuyệt đối cấm vũ khí hạt nhân.
Tuy nhiên, có nhiều luật nhân đạo quốc tế được áp dụng trong chiến tranh. Ví dụ: nước tham chiến không được tấn công thường dân và một số loại vũ khí sát thương không phân biệt bị cấm. Tòa án Quốc tế kết luận rằng những luật nhân đạo quốc tế này được áp dụng đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Tòa án Quốc tế không có kết luận về việc sử dụng vũ khí hạt nhân có hợp pháp hay không như một phương sách cuối cùng trong trường hợp sự tồn vong của một nhà nước đang lâm nguy.
Quyết định
Tòa án Quốc tế biểu quyết thông qua bảy kết luận:
Tòa án Quốc tế đồng ý thụ lý đơn yêu cầu kết luận tư vấn;
Pháp luật quốc tế không cho phép việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân;
Pháp luật quốc tế không cấm việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân;
Việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân mà trái với đoạn 4, điều 2 Hiến chương Liên Hợp Quốc và không đáp ứng yêu cầu của điều 51 là bất hợp pháp;
Việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân có thể phù hợp với những yêu cầu của pháp luật quốc tế được áp dụng trong xung đột vũ trang, đặc biệt là những nguyên tắc của luật nhân đạo quốc tế và những nghĩa vụ cụ thể của điều ước và cam kết khác trực tiếp liên quan tới vũ khí hạt nhân;
Việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân thông thường sẽ trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế được áp dụng trong xung đột vũ trang, đặc biệt là các nguyên tắc của luật nhân đạo quốc tế. Tuy nhiên, không thể xác định việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân có hợp pháp hay không trong trường hợp tự vệ, khi sự tồn vong của một nhà nước đang lâm nguy;
Các nước có nghĩa vụ thực hiện giải trừ hạt nhân một cách toàn diện, thiện chí dưới sự kiểm soát quốc tế nghiêm ngặt và hiệu quả.
Kết quả biểu quyết như sau:
Kết luận thứ sáu
Đối với kết luận thứ sáu, bảy thẩm phán Tòa án Quốc tế biểu quyết chống. Tuy nhiên, ba trong số bảy thẩm phán (Thẩm phán Shahabuddeen, Weeramantry và Koroma) giải thích rằng sở dĩ biểu quyết chống là vì họ cho rằng không có ngoại lệ cho nguyên tắc việc sử dụng vũ khí hạt nhân là bất hợp pháp (kể cả trường hợp sự tồn vong của một nhà nước đang lâm nguy). Thẩm phán Oda biểu quyết chống vì cho rằng Tòa án Quốc tế ngay từ đầu không nên thụ lý đơn yêu cầu kết luận tư vấn.
Trong ý kiến phản đối của mình, Phó Chủ tịch Schwebel lập luận rằng:
Và Thẩm phán Higgins lưu ý rằng bà không
Xem thêm
Luật nhân đạo quốc tế
Đảm bảo phá hủy lẫn nhau
Chiến tranh hạt nhân
Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân
Tham khảo
Thư mục tham khảo
Sands, Philippe; and Law, Helen; The United Kingdom's nuclear deterrent:Current and future issies of legality (PDF) for Greenpeace.
Singh, Rabinder; and Chinkin, Christine; The Maintenance and Possible Replacement of the Trident Nuclear Missile System Introduction and Summary of Advice for Peacerights
United Kingdom Permanent Representative to the Conference on Disarmament Britain's Nuclear Deterrent
United Nations General Assembly A/RES/49/75/K: Request for an advisory opinion from the International Court of Justice on the legality of the threat or use of nuclear weapons 90th plenary meeting 15 December 1994.
Weiss, Peter; Notes on a Misunderstood Decision: The World Court's Near Perfect Advisory Opinion in the Nuclear Weapons Case , website of the Lawyers' Committee on Nuclear Policy (LCNP) July 22, 1996
Văn bản của Tòa án Quốc tế
ICJ documents relating to the case
Legality of the threat or use of nuclear weapons (General List No. 95) 8 July 1996
Summary of the Advisory Opinion
Declarations of individual judges:
Declaration of President Bedjaoui
Declaration of Judge Herczegh
Declaration of Judge Shi
Declaration of Judge Vereshchetin
Declaration of Judge Ferrari Bravo
Separate Opinions of individual judges:
Separate Opinion of Judge Guillaume
Separate Opinion of Judge Ranjeva
Separate Opinion of Judge Fleischhauer
Dissenting Opinions of individual judges:
Dissenting Opinion of Vice-President Schwebel
Dissenting Opinion of Judge Oda
Dissenting Opinion of Judge Shahabuddeen
Dissenting Opinion of Judge Weeramantry
Dissenting Opinion of Judge Koroma
Dissenting Opinion of Judge Higgins
Đọc thêm
David, Eric; "The Opinion of the International Court of Justice on the Legality of the Use of Nuclear Weapons" (1997) 316 International Review of the Red Cross 21.
Condorelli, Luigi; "Nuclear Weapons: A Weighty Matter for the International Court of Justice" (1997) 316 International Review of the Red Cross 9, 11.
Ginger, Ann Fagan; "Looking at the United Nations through The Prism of National Peace Law," 36(2) UN Chronicle62 (Summer 1999).
Greenwood, Christopher; "The Advisory Opinion on Nuclear Weapons and the Contribution of the International Court to International Humanitarian Law" (1997) 316 International Review of the Red Cross 65.
Greenwood, Christopher; "Jus ad Bellum and Jus in Bello in the Nuclear Weapons Advisory Opinion" in Laurence Boisson de Chazournes and Phillipe Sands (eds), International Law, the International Court of Justice and Nuclear Weapons (1999) 247, 249.
Holdstock, Dougaylas; and Waterston, Lis; "Nuclear weapons, a continuing threat to health," 355(9214) The Lancet 1544 (29 April 2000).
Jeutner, Valentin; "Irresolvable Norm Conflicts in International Law: The Concept of a Legal Dilemma" (Oxford University Press 2017), .
McNeill, John; "The International Court of Justice Advisory Opinion in the Nuclear Weapons Cases--A First Appraisal" (1997) 316 International Review of the Red Cross 103, 117.
Mohr, Manfred; "Advisory Opinion of the International Court of Justice on the Legality of the Use of Nuclear Weapons Under International Law--A Few Thoughts on its Strengths and Weaknesses" (1997) 316 International Review of the Red Cross 92, 94.
Moore, Mike; "World Court says mostly no to nuclear weapons," 52(5) Bulletin of the Atomic Scientists, 39 (Sept-October 1996).
Moxley, Charles J.; Nuclear Weapons and International Law in the Post Cold War World (Austin & Winfield 2000), .
Quan hệ quốc tế năm 1996
Chính sách vũ khí hạt nhân
Bản mẫu webarchive dùng liên kết archiveis
Bản mẫu webarchive dùng liên kết wayback
|
19847733
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich%20August%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg-Neuenstadt
|
Friedrich August, Công tước xứ Württemberg-Neuenstadt
|
Frederick Augustus của Württemberg-Neuenstadt (12 tháng 3 năm 1654, tại Neuenstadt am Kocher – 6 tháng 8 năm 1716, tại Gochsheim ) là Công tước xứ Württemberg và cũng là Công tước xứ Württemberg-Neuenstadt.
Thư mục
Christoph Eberlein: Friedrich August (bằng tiếng Đức). Trong: Sönke Lorenz, Dieter Mertens, Volker Press (ed.): Das Haus Württemberg. Tiểu sử của Ein Lexikon. Kohlhammer, Stuttgart 1997,, tr. 224.
Gerhard Raff: Hie gut Wirtemberg allewege (bằng tiếng Đức). Tập 3: Das Haus Württemberg von Herzog Wilhelm Ludwig bis Herzog Friedrich Carl . Hohenheim, Stuttgart/Leipzig 2002,, trang 365–384.
Harald Schukraft: Kleine Geschichte des Hauses Württemberg (bằng tiếng Đức). Nhà xuất bản Silberburg, Tübingen 2006, .
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tài liệu lưu trữ của Đức: trang từ ADB
Hầm mộ gia đình ở Neuenstadt
Mất năm 1716
Sinh năm 1654
Công tước Württemberg thế kỷ 17
Công tước Württemberg thế kỷ 18
Người Neuenstadt am Kocher
|
19847734
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AF%20Lai%20Tay
|
Chữ Lai Tay
|
Chữ Lai Tay là chữ viết được sử dụng bởi người Tay Dọ ở huyện Quỳ Châu, Nghệ An, Việt Nam.
Tên gọi
Tên "Lai Tay" có nghĩa là "chữ viết của người Thái" trong tiếng Tay Dọ. Nó còn được gọi bằng nhiều tên khác chẳng hạn như chữ Tay Dọ, chữ Thái Nghệ An, chữ Thái Lai Tay, chữ thái Quỳ Châu.
Nguồn gốc
Chữ Lai Tay được phân loại là một chữ viết thuộc hệ chữ Khmer bởi nhà ngôn ngữ học Ferlus, và được chia làm hai nhóm:
Chữ viết trung tâm bao gồm chữ Sukhothai và chữ Fakkham (phát triển thành chữ Thái và chữ Lào hiện nay).
Chữ viết của dân tộc Thái, bao gồm các chữ Thái Đen, Thái Trắng, Thái Đỏ, Lai Tay và Lai Pao.
Ferlus cho rằng các sắc tộc Thái đều áp dụng cùng một mẫu chữ viết đầu tiên được vay mượn từ chữ Khmer, bằng cách tiếp xúc đơn giản trong quá trình trao đổi, không có sự học hỏi thích hợp. Sau đó người Thái nhập cư và chiếm lĩnh phần lớn Đông Nam Á. Các chữ viết ngoại biên vẫn giữ nhiều đặc điểm chữ viết nguyên thủy gốc Khmer, chẳng hạn như giá trị ngữ âm tiền Angkor của một số chữ cái, thiếu thứ tự chữ cái và chữ số. Các chữ viết dân tộc Thái được truyền bá sang Việt Nam sớm nhất là vào thế kỉ XVI.
Đặc điểm
Chữ Lai Tay có 29 phụ âm (trong đó có 8 phụ âm được đặt ở vị trí cuối âm tiết) và 13 ký tự nguyên âm (nhiều nguyên âm được đặt dưới phụ âm, số khác đặt bên phải). Khác với các chữ viết Thái khác, chữ viết này vẫn là chữ abugida thật sự, và phụ âm viết không có ký tự nguyên âm được phát âm bằng nguyên âm <o> ([ɔ]). Chữ viết có 9 chữ ghép cho các tổ hợp nguyên âm và phụ âm cuối.
Chữ viết này được viết dọc từ trên xuống dưới và từ phải sang trái theo mô hình chữ viết Trung Quốc. Sự đổi mới này là duy nhất ở Đông Nam Á và được giải thích rất rõ ràng bởi ảnh hưởng của chữ viết Trung Quốc; Các học giả Thái thấy thuận tiện hơn khi biên dịch từ chữ Thái sang chữ Trung để áp dụng hướng viết chung cho cả hai chữ viết. Bố cục của chữ viết này khác biệt rõ rệt so với các chữ viết lân cận và loại cũ dùng làm mô hình cho loại dọc không còn được xác định nữa.
Chữ viết không có ký hiệu thanh điệu và chủ yếu được viết không có dấu câu (trong một số bản viết tay giống hệt như các dấu câu Trung Quốc). Chữ viết không có chữ số và được đánh vần ra theo truyền thống.
Mức sử dụng chữ viết
Chữ Lai Tay không còn được sử dụng phổ biến nữa, nhưng có đủ bản viết tay cho phép nghiên cứu ngôn ngữ (một số học giả Tay Dọ già vẫn có thể đọc chúng). Các bản viết tay được bảo tồn trong cả bộ sưu tập riêng tư và cá nhân. Hiện nay chữ viết được giảng dạy và nghiên cứu trong các cộng đồng Tay Dọ, với sự giúp đỡ của UBND huyện và giáo viên.
Unicode
Chữ viết này đã được đề xuất để mã hóa vào Unicode.
Tham khảo
Liên kết ngoài
https://www.unicode.org/L2/L2022/22289-tai-yo-script.pdf
Chữ Brahmic
|
19847744
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0a%20B%E1%BA%A1ch%20Lan
|
Dưa Bạch Lan
|
Dưa Bạch Lan () là một loại dưa nổi tiếng ở địa phương được trồng gần Lan Châu, tỉnh Cam Túc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là một loại dưa lê, hình cầu đến gần giống dạng cầu và thường có vỏ màu trắng với thịt ngọt, màu trắng hoặc xanh nhạt. Trong các bức ảnh, quả dưa có màu vàng nhạt, cam hoặc trắng, với thịt màu xanh nhạt hoặc vàng mơ, khiến nó có hình dáng tương tự như các loại dưa khác trong nhóm trồng dưa thật. Nó cũng nặng do mật độ của thịt bên trong quả. Giống như các loại dưa lê khác, dưa Bạch Lan rất giàu Vitamin C và protein.
Theo nguồn tài liệu của phía Trung Quốc, loại dưa này được Phó Tổng thống Hoa Kỳ Henry A. Wallace giới thiệu đến Trung Quốc, chính ông đã tặng hạt dưa cho người dân địa phương khi đến thăm vào thập niên 1940. Wallace có nền tảng về nông nghiệp và đã thành lập một công ty hạt giống lớn mang tên Pioneer Hi-Bred. Đây là lý do tại sao người Trung Quốc đôi khi gọi loại dưa này là Hoa Lai Sĩ (; phát âm phỏng theo tên "Wallace").
Dưỡng chất
Giống như một loại dưa, dưa Bạch Lan chứa các hợp chất hoạt tính sinh học (BC) như polyphenol, carotenoid và axit béo. Dưa được coi là phương pháp chữa bệnh tự nhiên có vai trò phòng ngừa các bệnh mãn tính.
Tham khảo
Dưa
|
19847748
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Drita%20Ziri
|
Drita Ziri
|
Drita Ziri (sinh ngày 15 tháng 6 năm 2005) là một hoa hậu, người mẫu và MC đến từ Albania. Cô đăng quang Hoa hậu Trái Đất 2023 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam và trở thành người Albania đầu tiên đăng quang tại Tứ đại Hoa hậu. Cô cũng là người trẻ tuổi nhất ở thời điểm chiến thắng cuộc thi.
Các cuộc thi sắc đẹp
Hoa hậu Shqipëria 2022
Ziri tham gia và đăng quang Hoa hậu Shqipëria 2022 vào ngày 3 tháng 7 tại Himarë. Cô được trao vương miện bởi người tiền nhiệm là Anxhela Peristeri, giành quyền đại diện Albania tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn cầu 2022.
Hoa hậu Hoàn cầu 2022
Ziri tham gia cuộc thi và giành danh hiệu Á hậu 2, đồng thời thắng hai giải thưởng phụ là Trình diễn áo tắm đẹp nhất và Hoa hậu Ảnh.
Hoa hậu Trái Đất 2023
Ziri được chỉ định tiếp tục trở thành đại diện cho Albania tại cuộc thi Hoa hậu Trái Đất 2023 tại Việt Nam và xuất sắc giành ngôi vị cao nhất. Đăng quang ở tuổi 18, cô trở thành người trẻ tuổi nhất giành chiến thắng trong lịch sử cuộc thi, phá kỷ lục của Hoa hậu Trái Đất 2001 Catharina Svensson đến từ Đan Mạch đăng quang lúc 19 tuổi.
Liên kết ngoài
Tham khảo
|
19847757
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch%20s%E1%BB%AD%20phi%C3%AAn%20b%E1%BA%A3n%20iPadOS
|
Lịch sử phiên bản iPadOS
|
iPadOS là hệ điều hành di động dành cho máy tính bảng được phát triển bởi Apple Inc. Nó được phát hành lần đầu tiên dưới dạng bản tinh chỉnh và sửa đổi của iOS bắt đầu từ phiên bản 13.1 vào ngày 24 tháng 9 năm 2019. Trước khi phát hành iPadOS, iPad được phát hành cùng với hệ điều hành của iPhone, sau này được đổi tên thành iOS. Các phiên bản iPadOS mới được phát hành hàng năm, hầu hết đồng bộ với iOS, tvOS và watchOS.
Tổng quan
Phát hành
iPadOS 13
iPadOS 13 là bản phát hành chính đầu tiên của iPadOS, một nhánh của iOS dành riêng cho iPad nhằm chú trọng vào các tính năng đa nhiệm và các tính năng riêng biệt dành cho máy tính bảng. Nó đã được xuất hiện tại WWDC 2019 của Apple với bản xem trước và được phát hành vào ngày 24 tháng 9 năm 2019 với phiên bản 13.1.
Phiên bản này đã thêm chế độ tối cho giao diện và hỗ trợ Memoji cho iPad được trang bị chip Apple A9 hoặc các chip mới hơn. Các tùy chọn đa nhiệm mới đã được thêm vào để có thể hiển thị nhiều ứng dụng cùng lúc, bao gồm Split View và Slide Over. Các ứng dụng đã nhận được hỗ trợ về tính năng đa cửa sổ. Các cửa sổ này có thể được điều hướng bằng giao diện tương tự như Mission Control trên macOS. Safari đã có các phím tắt mới và trình quản lý tải xuống, đồng thời được đặt để hiển thị phiên bản trang web dành cho máy tính để bàn theo mặc định, thay vì phiên bản dành cho thiết bị di động. Một tính năng mới, Sidecar, cho phép iPad hoạt động như một màn hình thứ hai cho máy Mac, cho phép sử dụng Apple Pencil với các ứng dụng của máy Mac. Ứng dụng Tệp đã được hỗ trợ đối với các ổ đĩa ngoài, có thể kết nối với iPad bằng USB-C hoặc thông qua Bộ kết nối Camera Lightning dành cho iPad có cổng Lightning. Hỗ trợ sơ bộ cho chuột và bàn di chuột đã được thêm vào iPadOS 13, và nhận được sự hỗ trợ đầy đủ trong phiên bản iPadOS 13.4.
iPadOS 14
iPadOS 14 được phát hành vào ngày 16 tháng 9 năm 2020. Bản cập nhật này đã thêm các tiện ích mới trong Chế độ xem Hôm nay, một kệ ở bên trái màn hình chính đầu tiên. Giao diện hệ thống được tiêu chuẩn hóa cho Siri và các ứng dụng gọi thoại như Skype đã được thu nhỏ lại kích thước của thông báo để cho phép người dùng tiếp tục tương tác với ứng dụng đang mở. Spotlight đã được nhận các đề xuất tìm kiếm được cải thiện và kết quả tìm kiếm trên web chi tiết hơn. iPadOS 14 cũng bổ sung hỗ trợ gắn ổ cứng ngoài có hệ thống APFS được mã hóa.
iPadOS 15
iPadOS 16
iPadOS 17
Hỗ trợ phần cứng
Xem thêm
Lịch sử phiên bản iOS
Liên kết ngoài
– trang web chính thức
– trang web chính thức
Tham khảo
Danh sách hệ điều hành
Lịch sử phiên bản phần mềm
Hệ điều hành máy tính bảng
|
19847776
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jorge%20Lorenzo
|
Jorge Lorenzo
|
Jorge Lorenzo Guerrero (sinh ngày 4 tháng 5 năm 1987) là một cựu tay đua mô tô người Tây Ban Nha. Jorge Lorenzo từng 3 lần giành chức vô địch giải đua xe MotoGP các năm 2010, 2012 và 2015.
Sau khi giải nghệ, Jorge Lorenzo được ban tổ chức MotoGP tặng danh hiệu 'Huyền thoại MotoGP'. Trước đó, vào năm 2013, trường đua Jerez đã vinh danh Jorge Lorenzo bằng cách sử dụng tên của anh đặt tên cho góc cua số 13 của trường đua này.
Sự nghiệp
2002-2004: 125cc
Jorge Lorenzo bắt đầu đua xe chuyên nghiệp từ năm 2002, từ giải đua 125cc vô địch thế giới. Trong giai đoạn này anh sử dụng xe Derbi với số xe 48.
Lorenzo giành được chiến thắng thể thức 125cc đầu tiên ở chặng đua MotoGP Brazil 2003. Sang năm 2004 Lorenzo giành được thêm 3 chiến thắng để xếp hạng 4 chung cuộc, là thứ hạng cao nhất trong 3 năm anh thi đấu ở giải 125cc.
2005-2007: 250cc
Ở mùa giải 250cc đầu tiên (2005) thì Jorge Lorenzo sử dụng xe Honda. Anh có 6 lần lên podium nhưng không giành được chiến thắng nào.
Lorenzo thành công hơn sau khi chuyển sang sử dụng xe Aprilia RSW 250, đã liên tiếp giành được 2 chức vô địch các năm 2006 và 2007.
2008-2019: MotoGP
2008-2010: Lần đầu làm đồng đội với Valentino Rossi ở Yamaha
Năm 2008 Jorge Lorenzo được đội đua Yamaha chọn làm tay đua chính, làm đồng đội với tay đua nổi tiếng nhất thời kỳ này là Valentino Rossi.
Ra mắt sân chơi MotoGP, Lorenzo ngay lập tức đã tạo ấn tượng mạnh bằng việc giành được vị trí xuất phát đầu tiên (pole) ở 3 chặng đua đầu tiên của mùa giải 2008 và đã giành chiến thắng MotoGP đầu tiên ở chặng đua MotoGP Bồ Đào Nha. Chiến thắng này giúp cho Lorenzo chiếm được ngôi đầu trên bảng xếp hạng tổng. Tuy nhiên Lorenzo đã không giữ được phong độ đó trong phần còn lại của mùa giải, dần bị tụt xuống vị trí thứ 4 chung cuộc.
Năm 2009 Lorenzo đổi sang số xe 99. Anh cũng thi đấu ổn định hơn, giành được 4 chiến thắng chặng, để giành chức Á quân.
Mùa giải 2010, trong bối cảnh Valentino Rossi phải nghỉ thi đấu nhiều chặng đua ở giai đoạn giữa mùa giải thì Jorge Lorenzo đã vươn lên trở thành chủ lực của đội đua Yamaha. Đây là mùa giải mà Lorenzo giành được nhiều chiến thắng thể thức MotoGP nhất (9 chiến thắng) và đã giành được chức vô địch trước 3 chặng đua sau khi về đích thứ 3 ở chặng đua MotoGP Malaysia. Có thể nói chính Lorenzo là người đã chấm dứt kỷ nguyên thống trị MotoGP của Valentino Rossi.
2011-2012: Trở thành tay đua số 1 của Yamaha
Trong hai mùa giải 2011 và 2012 thì Jorge Lorenzo có đồng đội mới là tay đua người Mỹ Ben Spies. Ben Spies không tạo được những áp lực như Valentino Rossi nên Jorge Lorenzo giữ được danh hiệu tay đua số 1 của Yamaha một cách khá dễ dàng. Ở trên đường đua thì Lorenzo chủ yếu phải cạnh tranh với các tay đua Repsol Honda.
Mùa giải 2011 Lorenzo sử dụng số xe 01 để bảo vệ danh hiệu vô địch. Đầu mùa giải Lorenzo có phần lép vế hơn Casey Stoner. Đến cuối mùa giải Lorenzo lại bị chấn thương ở chặng đua MotoGP Úc, phải nghỉ 3 chặng đua cuối cùng.
Sang mùa giải 2012, Lorenzo phải đua với một tay đua Repsol Honda khác là Dani Pedrosa. Mặc dù dành được ít chiến thắng chặng hơn Pedrosa (6 so với 7) nhưng Lorenzo có kết quả cao hơn đối thủ ở các chặng đua còn lại. Ngoại trừ 2 chặng đua phải bỏ cuộc ở Assen và Valencia ra thì Lorenzo luôn cán đích ở 2 vị trí đầu tiên. Nhờ thế mà anh đã giành lại được chức vô địch sau chặng đua MotoGP Úc.
2013-2016: Lần thứ hai làm đồng đội với Valentino Rossi ở Yamaha
Năm 2013 Jorge Lorenzo tái hợp với Valentino Rossi. Hai tay đua Yamaha không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn phải vất vả đối phó với thế lực mới nổi Marc Marquez của đội đua Repsol Honda.
Lorenzo vẫn là chủ công của Yamaha ở mùa giải 2013, anh đã giành được tới 8 chiến thắng chặng, tức là nhiều hơn 2 chiến thắng so với Marc Marquez nhưng vẫn phải nhường chức vô địch cho đối thủ với chỉ 4 điểm ít hơn. Lý do chính là việc Lorenzo phải nghỉ chặng đua ở Đức vì chấn thương, đó cũng là chặng đua duy nhất trong mùa giải 2013 mà Lorenzo không có điểm số nào.
Mùa giải 2014 chứng kiến sự thống trị tuyệt đối của Marc Marquez. Phải chờ đến giai đoạn cuối mùa giải thì các tay đua Yamaha mới giành được chiến thắng. Với Lorenzo là những chiến thắng ở Aragon và Nhật Bản. Kết thúc mùa giải Lorenzo lần đầu xếp sau người đồng đội của mình kể từ năm 2009.
Mùa giải 2015 mặc dù giành được nhiều chiến thắng chặng hơn nhưng tính về điểm số thì Jorge Lorenzo mới là người phải đuổi theo Valentino Rossi trong cuộc đua vô địch. Chặng đua áp chót ở Malaysia xảy ra tình huống Valentino Rossi đạp ngã Marc Marquez. Vì lỗi này mà Rossi bị phạt phải xuất phát cuối cùng ở chặng đua cuối cùng của mùa giải ở Valencia. Jorge Lorenzo đã tận dụng tối đa cơ hội để giành chiến thắng và đoạt luôn chức vô địch, ghi được nhiều hơn Rossi 5 điểm.
Mùa giải 2016 là mùa giải cuối cùng Jorge Lorenzo thi đấu cho Yamaha. Anh giành được thêm 4 chiến thắng, xếp thứ 3 chung cuộc sau Marquez và Rossi.
2017-2018: Ducati
Năm 2017 Jorge Lorenzo chuyển sang thi đấu cho đội đua Ducati Corse. Việc chuyển từ chiếc xe động cơ Inline4 (Yamaha) sang chiếc xe động cơ V4 khiến cho Lorenzo gặp nhiều khó khăn ở mùa giải đầu tiên. Kết quả tốt nhất trong mùa giải 2017 của Lorenzo chỉ là 1 lần về đích ở vị trí thứ 2, đạt được ở chặng đua MotoGP Malaysia vào cuối mùa.
Phải mất hơn 1 năm làm quen với chiếc xe thì Lorenzo mới tìm lại hương vị chiến thắng ở mùa giải 2018, bắt đầu bằng chiến thắng chặng đua MotoGP Ý và ngay sau đó là chặng đua MotoGP Catalunya. Song đây cũng là thời điểm mà Lorenzo quyết định rời Ducati để chuyển sang Repsol Honda.
Cuối mùa giải 2018, Lorenzo bị chấn thương chân ở chặng đua MotoGP Aragon sau pha va chạm với Marc Marquez. Chấn thương này không những khiến anh phải nghỉ thi đấu nhiều chặng đua cuối mùa mà còn ảnh hưởng đến phong độ trong năm 2019.
2019: Honda
Năm 2019 Jorge Lorenzo chuyển sang thi đấu cho đội đua Repsol Honda theo bản hợp đồng có thời hạn 2 năm. Nhưng do bị nhiều chấn thương nên Lorenzo đã không có được thành tích tốt, hoàn toàn lép vế trước người đồng đội Marc Marquez.
Lorenzo và Honda đã thống nhất chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Đến cuối mùa giải 2019 Lorenzo thông báo giải nghệ.
Thống kê thành tích
Theo năm
Theo giải đua
Kết quả chi tiết
(Chữ in đậm nghĩa là tay đua giành pole, chữ in nghiêng nghĩa là tay đua giành fastest lap)
Tham khảo
Sinh năm 1987
Nhân vật còn sống
Tay đua MotoGP
|
19847780
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m%20Nh%C6%B0%20Ph%C6%B0%C6%A1ng
|
Phạm Như Phương
|
Phạm Như Phương (sinh ngày 25 tháng 11 năm 2003) là một vận động viên thể dục dụng cụ người Việt Nam. Cô đại diện cho Việt Nam tại Thế vận hội Trẻ Mùa hè 2018 và là thành viên của đội giành huy chương vàng nội dung đồng đội hỗn hợp đa môn.
Đầu đời
Như Phương sinh ở Hà Nội vào năm 2003.
Sự nghiệp thể dục dụng cụ
2017–18
Phạm Như Phương thi đấu tại Olympic Hopes Cup 2017 và đứng thứ 34 nội dung toàn năng.
Tại Giải vô địch trẻ châu Á, Phương đứng thứ 9 ở nội dung toàn năng. Cô được chọn để đại diện Việt Nam tại Thế vận hội Trẻ Mùa hè 2018. Cô là thành viên đội hỗn hợp đa môn có tên vận động viên thể dục dụng cụ người Mỹ Simone Biles; đội đó đã giành huy chương vàng.
2022
Phạm Như Phương tham dự Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 31. Cô đã cùng đội Việt Nam giành vị trí thứ hai nội dung đồng đội, ngoài ra cô giành huy chương bạc nội dung xà lệch và hai huy chương đồng ở nội dung cầu thăng bằng và thể dục tự do.
Giải nghệ
Tháng 1 năm 2024, Phạm Như Phương chia sẻ với báo Dân trí về việc giải nghệ.
Theo Như Phương, trước khi đi Mỹ hồi tháng 12 năm 2023 cô đã gửi đơn đến huấn luyện viên Nguyễn Hà Thanh và xin phép huấn luyện viên Nguyễn Thùy Dương, là hai huấn luyện viên trực tiếp quản lý của cô. Cả hai đã đồng ý. Tuy nhiên khi về Việt Nam, Phạm Như Phương mới biết mình đã bị loại khỏi danh sách tập huấn đội tuyển thể dục dụng cụ quốc gia năm 2024 vì đi nước ngoài không xin phép. Ngoài ra cô cũng cho rằng mình phải nộp lại tiền cho huấn luyện viên 10% tiền thưởng huy chương, 30-50% tiền thưởng nóng và khoản "quỹ lạ" 300.000 đồng mỗi tháng.
Ngày 15-1, Cục Thể dục thể thao cho biết đã nắm được và đang phối hợp với Liên đoàn Thể dục Việt Nam và Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia Hà Nội (nơi Như Phương từng tập luyện) để rà soát, xem xét, xử lý theo quy định, nếu có vi phạm. Trong khi đó, ông Bùi Trung Thiện - trưởng bộ môn thể dục Cục Thể dục thể thao - trả lời báo Tuổi trẻ về lý do Phạm Như Phương bị loại trong danh sách tập huấn: "Tháng 12, Như Phương xin nghỉ nhưng chưa có sự đồng ý từ ban huấn luyện lẫn bên trung tâm. [...] Về phía đội tuyển quốc gia, đầu năm 2024 bắt đầu tuyển chọn VĐV lên tập trung nhưng bạn ấy chưa từ nước ngoài về. VĐV không lên tập luyện thì không thể nào cho lên tập trung đội tuyển quốc gia được." và khẳng định vấn đề ăn chặn tiền thưởng "[...] của riêng địa phương. Ở đội tuyển quốc gia bao nhiêu năm qua không có việc này".
Trong khi đó, nhiều cựu vận động viên khác của đội tuyển thể dục dụng cụ quốc gia cũng đã tố cáo về việc phải nộp lại tiền thưởng huy chương, tiền thưởng nóng và đóng quỹ cho huấn luyện viên.
Lịch sử thi đấu
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2003
Vận động viên người Hà Nội
Nữ giới Việt Nam thế kỷ 21
|
19847782
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Todome%20no%20Ichigeki%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%29
|
Todome no Ichigeki (bài hát)
|
feat. Cory Wong là một bài hát của ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Nhật Bản Vaundy. Bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn độc quyền vào ngày 8 tháng 10 năm 2023 từ Stardust Records (SDR) / Sony Music Labels.
Tổng quan
Bài hát được phát hành sau tác phẩm trước đó là "ZERO" vào 9 ngày sau. Là bài hát chủ đề kết thúc của bộ anime truyền hình "SPY×FAMILY" mùa 2. Cory Wong tham gia với tư cách là nghệ sĩ chơi guitar.
Cô xuất hiện lần đầu tiên trên chương trình "Music Station" được phát sóng vào ngày 1/12/2023 và biểu diễn ba ca khúc, trong đó có ca khúc này.
Video ca nhạc
Bài hát được phát hành trên YouTube cùng thời điểm với việc phát sóng bộ hoạt hình. Nữ diễn viên Nagasawa Masami thủ vai chính, và câu chuyện lấy bối cảnh trên một con tàu du lịch sang trọng đang chìm, được mô tả bằng hình ảnh đen trắng. Video này được đạo diễn bởi Yuichi Kodama.
Danh sách bài hát
Đón nhận
Bảng xếp hạng âm nhạc
Xem thêm
Spy × Family (mùa 2)
Tham khảo
Spy × Family
Bài hát của Vaundy
Đĩa đơn năm 2023
Bài hát tiếng Nhật
Bài hát của Spy × Family
|
19847794
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg-Neuenstadt
|
Friedrich, Công tước xứ Württemberg-Neuenstadt
|
Friedrich của Württemberg-Neuenstadt (19 tháng 12 năm 1615, tại Stuttgart – 24 tháng 3 năm 1682, tại Neuenstadt am Kocher) là Công tước cai trị xứ Württemberg.
Cuộc đời
Friedrich là con trai thứ ba của Johann Friedrich, Công tước thứ 7 của Württemberg và Barbara Sophie xứ Brandenburg. Khi cha ông qua đời năm 1628, anh trai ông Eberhard III trở thành Công tước xứ Württemberg.
Friedrich theo học ở Tübingen năm 13 tuổi. Năm 1630, ông tham gia Grand Tour đi qua Strasbourg, Basel và Montpellier nhưng phải dừng lại ở Lyon do bị sốt nặng.
Năm 1638, anh trai ông là Eberhard III được Hoàng đế La Mã Thần thánh Ferdinand III trao lại một số phần đã mất của công quốc Württemberg trong khi Frederick bị lôi kéo vào phục vụ quân đội. Sau hòa ước Westphalia, dẫn đến việc Württemberg phục hồi nguyên vẹn lãnh thổ, Eberhard đã ký kết Fürstbrüderlicher Vergleich - một thỏa thuận chung được thực hiện giữa các anh em công tước. Công tước Eberhard III để lại cho anh trai Friedrich quyền sở hữu Neuenstadt, Möckmühl và Weinsberg, mặc dù vùng này không có chủ quyền và vẫn thuộc về Eberhard.
Friedrich đã phục dựng lâu đài Neuenstadt sau khi nó bị hư hại trong Chiến tranh Ba mươi năm và đến sống ở đó vào năm 1652. Ngày 7 tháng 6 năm 1653, ông kết hôn với Clara Augusta, con gái của Augustus the Younger xứ Brunswick.
Tham khảo
Thư mục
Harald Schukraft: Kleine Geschichte des Hauses Württemberg. Silberburg Publishing, Tübingen, 2006,
Liên kết ngoài
Tài liệu lưu trữ của Đức: trang từ ADB
Hầm mộ gia đình ở Neuenstadt
Mất năm 1682
Sinh năm 1615
Công tước Württemberg thế kỷ 17
Quý tộc người Stuttgart
|
19847797
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Silvius%20I%20Nimrod%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg-Oels
|
Silvius I Nimrod, Công tước xứ Württemberg-Oels
|
Silvius I Nimrod (2 tháng 5 năm 1622, Weiltingen – 24 tháng 4 năm 1664, Brzezinka ở Silesia) là Công tước đầu tiên của xứ Oels-Württemberg.
Tham khảo
Thư mục
Harald Schukraft: 4.3.1 Silvius Nimrod, trong: Sönke Lorenz, Dieter Mertens, Volker Press (eds.): Das Haus Württemberg. Ein biographisches Lexikon, Kohlhammer Verlag, Stuttgart, 1997,, tr. 205-206
Martin Feist: Sylvius Nimrod, Herzog von Oels, trong: Zeitschrift für Geschichte und Altertum Schlesiens, số 52, 1918, tr. 85–102
Liên kết ngoài
Mất năm 1664
Sinh năm 1622
Công tước Württemberg thế kỷ 17
|
19847798
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eberhard%20III%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg
|
Eberhard III, Công tước xứ Württemberg
|
Eberhard III, Công tước xứ Württemberg (16 tháng 12 năm 1614, tại Stuttgart – 2 tháng 7 năm 1674, tại Stuttgart) là Công tước cai trị xứ Württemberg từ năm 1628 cho đến khi ông qua đời năm 1674.
Tham khảo
Vua thiếu nhi
Mất năm 1674
Sinh năm 1614
Công tước Württemberg thế kỷ 17
Quý tộc người Stuttgart
An táng tại Stiftskirche, Stuttgart
Người Đức trong Chiến tranh Ba Mươi năm
|
19847799
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Julius%20Friedrich%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg-Weiltingen
|
Julius Friedrich, Công tước xứ Württemberg-Weiltingen
|
Julius Friedrich (3 tháng 6 năm 1588 tại Montbéliard – 25 tháng 4 năm 1635 tại Strasbourg) là công tước đầu tiên của xứ Württemberg-Weiltingen.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mất năm 1635
Sinh năm 1588
Công tước Württemberg thế kỷ 17
|
19847802
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Diane%20de%20France
|
Diane de France
|
Diane de France, Nữ Công tước xứ Angoulême (25 tháng 7 năm 1538 – 11 tháng 1 năm 1619) là con ngoại hôn của Henri II của Pháp và nhân tình người Ý Filippa Duci. Diane đóng một vai trò chính trị quan trọng trong Chiến tranh Tôn giáo Pháp và là người cho xây dựng Hôtel d'Angoulême ở Paris.
Diane được biết đến vì tri thức, trí thông minh cũng như là nhan sắc và tầm ảnh hưởng của mình dưới triều đại của Henri III và Henri IV của Pháp.
Thân thế
Diane de France sinh ngày 25 tháng 7 năm 1538, là con gái ngoại hôn của Trữ quân Pháp 18 tuổi Henri và Filippa Duci (), con gái của một tiểu quý tộc vùng Fossano ở Piemonte. Bấy giờ cha của Diane đang ở Moncalieri, miền bắc nước Ý để tham gia một chiến dịch quân sự. Không rõ Diane được sinh ra tại triều đình hay được đưa đến khi còn bé. Tại triều đình Pháp, việc chăm sóc và giáo dục Diane được giao cho tình nhân của Henri, Diane de Poitiers.
Henri đối xử rất tốt với con gái: hộ gia của Diane bao gồm một phó mẫu, các gia sư, thị nữ, hầu phòng và thậm chí cả một thợ may. Diane đã thể hiện khả năng học viết bằng tiếng Pháp một cách xuất sắc, điều này có thể thấy qua số lượng lớn các chữ viết vẫn còn tồn tại. Diane cũng được học tiếng Ý (ngôn ngữ thứ hai của triều đình), tiếng Tây Ban Nha và tiếng Latinh để phục vụ cho các nghi lễ tôn giáo. Việc giáo dục nghệ thuật của Diane cũng không bị bỏ qua: Diane cũng học chơi đàn lute và các nhạc cụ khác cũng như là học hát.
Diane không được hợp pháp hóa cho đến tận sau này, vào năm 1572 (không phải năm 1547 như niềm tin phổ biến trước đây).
Cuộc hôn nhân đầu tiên
Ngày 13 tháng 2 năm 1552, khi Diane de France mới mười ba tuổi, một thỏa thuận hôn nhân được ký kết giữa Diane và Orazio Farnese, Công tước xứ Castro. Lễ cưới diễn ra vào ngày 15 tháng 2 năm 1553 với sự tham dự của anh trai Orazio, Hồng y Alessandro Farnese và bao gồm các vũ hội hóa trang và lễ hội hóa trang đường phố. Tuy nhiên, ngày 18 tháng 7 năm 1553, Diane trở thành góa phụ chỉ sau 5 tháng kết hôn, khi Orazio bị giết khi phục vụ trong lực lượng Pháp trong cuộc bao vây Hesdin. Diane trải qua thời gian để tang chồng tại Lâu đài Chantilly, quê hương của Anne de Montmorency, Đốc quân Pháp, sau đó trở lại triều đình để phục vụ cho Caterina de' Medici.
Cuộc hôn nhân thứ hai
Diane kết hôn lần thứ hai với François de Montmorency, con trai cả của Anne de Montmorency thể theo thỏa thuận hôn nhân được ký kết ngày 3 tháng 5 năm 1557 và một buổi lễ diễn ra vào ngày 4 tháng 6 năm 1557 tại Lâu đài Villers-Cotterêts. Hai người có một con trai và đặt tên cho đứa trẻ là Anne theo tên ông nội, sinh vào cuối tháng 9 năm 1560 nhưng nhanh chóng qua đời trước ngày 15 tháng 10.
Ngày 22 tháng 6 năm 1563, sau cái chết của cha và sau đó là em trai cùng cha khác mẹ là François II, vị quốc vương mới, một người em trai cùng cha khác mẹ khác của Diane là Charles IX đã trao cho chị gái, thông qua Sắc lệnh bằng được ký kết tại Lâu đài Vincennes, Công quốc Châtellerault. Thu nhập khoảng 6.000 đồng livres hằng năm từ công quốc chính là khoản bù đắp cho món quà trị giá 50.000 đồng écu được hứa cho cuộc hôn nhân đầu tiên của Diane nhưng chưa bao giờ được ngân khố vương thất chi trả. Doanh thu từ công quốc này ít hơn nhiều so với số tiền Diane thiếu nợ. Sau cái chết của Charles X, Diane trở thành sủng thần của tân vương là Henri III. Vào tháng 2 năm 1576, Henri III ký trao cho chị gái các vùng đất và lãnh địa vùng Coucy và Folembray (cả hai đều thuộc tỉnh Aisne ngày nay), cũng như một số điền trang khác ở Bourbonnais.
Diane de France trở thành góa phụ lần thứ hai vào năm 1579, sau khi giúp chồng trở thành lãnh đạo của Politique, một nhóm tín hữu Công giáo ôn hòa ở Pháp, hoạt động vì hoà bình của vương quốc.
Cuộc sống sau này
Tháng 8 năm 1582, Henri III trao cho Diane Công quốc Angoulême để đổi lấy Công quốc Châtellerault và phong Diane tước vị Công tước xứ Angoulême (chỉ khi Diane còn sống và không thể truyền thừa cho hậu duệ). Tước hiệu mới đi kèm với sự giàu có ngày càng tăng, vì vậy vào năm 1584, Diane bắt đầu xây dựng một dinh thự mới ở Paris, Hôtel d'Angoulême (nay là Hôtel Lamoignon). Việc xây dựng bị gián đoạn bởi cuộc Chiến tranh Tôn giáo và chỉ được hoàn thành ở giai đoạn xây dựng thứ hai vào năm 1611.
Diane cũng nhận được nhiều sự kính trọng tại triều đình của Henri IV của Pháp, và giám sát việc giáo dục của con trai Henri IV là Louis XIII.
Diane qua đời vào ngày 11 tháng 1 năm 1619 tại Paris. Thông qua những bức thư còn sót lại của Nữ Công tước, Diane được nhìn nhận là một người phụ nữ dũng cảm và có lòng bao dung tuyệt vời.
Tổ tiên
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Cooper, Richard (2007). "Legate's Luxury: The Entries of Cardinal Alessandro Farnese to Avignon and Carpentras, 1553", pp. 133–161, in French Ceremonial Entries in the Sixteenth Century: Event, Image, Text, edited by Nicolas Russell and Hélène Visentin. Toronto: Centre for Reformation and Renaissance Studies. .
Knecht, RJ (1998). Catherine de' Medici . London: Longman. .
Lanza, Janine M. (2007). From Wives to Widows in Early Modern Paris: Gender, Economy, and Law. Ashgate Publishing. .
Lhote, Claude; Claude Troquet (2013). Diane, bâtarde du roi, princesse de la Renaissance, preface by B. Barbiche, professor emeritus of the École des Chartes . Éditions LULU.com.OCLC 923867218 .ISBN 9781291343731 .
Mariéjol, Jean-H. (1920). Catherine de Medicis (1519-1589) . Paris: Hachette.
Merrill, Robert V. (1935). "Những cân nhắc về 'Les Amours de I. du Bellay'", Ngữ văn hiện đại, tập. 33, không. 2 (tháng 11 năm 1935), trang 129-138. .
Pebay, Isabelle; Claude Troquet (1990). "Philippe Desducs, mère de Diane de France" , Bibliothèque de l'École des Chartes, volume 148, no. 1, pp. 151–160.
Pebay, Isabelle; Claude Troquet (1992). "Les hôtels d'Angoulême sous Diane de France", trang 88–97, in La rue des Francs-Bourgeois au Marais, edited by Béatrice de Andia and Alexandre Gady. Paris: Délégation à l'action artistique de la Ville de Paris..
Picot, Émile (1907). Les français Italianisants au XVIe siècle, volume 2 . Paris: Honoré Champion.
Setton, Kenneth M. (1984). The Papacy and the Levant (1204-1571). Volume IV. The Sixteenth Century from Julius III to Pius V. Philadelphia: The American Philosophical Society..
Nữ Công tước xứ Angoulême
Công tước xứ Angoulême
Vương tộc Valois-Angoulême
Con ngoài giá thú của quân vương Pháp
Con ngoại hôn của Quốc vương
Sinh năm 1538
Mất năm 1619
|
19847806
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh%20%C3%A2m%20c%E1%BB%A7a%20ph%C3%A9p%20thu%E1%BA%ADt
|
Thanh âm của phép thuật
|
Thanh âm của phép thuật (tiếng Anh: The Sound of Magic, tiếng Hàn: 안나라수마나라; RR: Annarasumanara) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc năm 2022 dựa trên webtoon Naver Annarasumanara của Ha Il-kwon do Do Kim Seong-yoon làm đạo diễn và Kim Min-jeong viết kịch bản. Bộ phim có sự tham gia của Ji Chang-wook, Choi Sung-eun và Hwang In-youp. Phim kể về câu chuyện của một pháp sư bí ẩn, Ri Eul bất ngờ xuất hiện trước mặt cô gái đánh mất giấc mơ của mình, Yoon Ah-yi và chàng trai bị buộc phải mơ, Na Il-deung. Bộ phim được phát hành vào ngày 6 tháng 5 năm 2022, độc quyền bởi Netflix.
Tóm tắt
Thanh âm của phép thuật là một bộ phim ca nhạc giàu cảm xúc xoay quanh Yoon Ah-yi, một học sinh nghèo theo học tại trường trung học Sewoon, người đã mất niềm tin vào phép thuật mà cô đam mê khi còn nhỏ. Trải qua nhiều bất hạnh, cô mong muốn được lớn nhanh hơn để trở thành người lớn, để có thể thoát khỏi những căng thẳng lớn và những khoản nợ đang đè nặng lên cô. Sau đó cô gặp Ri Eul, một pháp sư trưởng thành muốn tiếp tục được gọi là "đứa trẻ". Dưới sự khinh thường và nghi ngờ của cả xã hội, anh ta muốn khẳng định mình là một pháp sư thực sự, hỏi bất cứ ai anh gặp câu: "Bạn có tin vào phép thuật không?" Sau khi trở thành khách thường xuyên đến nơi ở của Ri Eul (nằm trong một công viên giải trí bị bỏ hoang kỳ lạ), Na Il-deung, bạn cùng bàn của Ah-yi, một sinh viên lạnh lùng và khá giả, bắt đầu nghe lén các bài học phép thuật của cô với pháp sư. Sớm bắt đầu tỏ ra thích cô ấy và chơi các trò ảo thuật. Sau cùng, cuộc sống của Ah-yi dần thay đổi khi cô trở thành tín đồ của Ri Eul, khiến bản thân một lần nữa trở thành người tin vào phép thuật và tiếp tục quyết định nghiêm túc theo đuổi ước mơ của mình.
Diễn viên
Chính
Ji Chang-wook vai Ri Eul / Ryu Min-hyuk
Nam Da-reum vai Ryu Min-hyuk lúc nhỏ
Một pháp sư bí ẩn sống trong một công viên giải trí bị bỏ hoang. Anh ấy muốn vẫn là một đứa trẻ ngay cả khi đã trở thành người lớn.
Choi Sung-eun vai Yoon Ah-yi
Joo Ye-rim vai Yoon Ah-yi lúc nhỏ
Một nữ sinh trung học nghèo, sống một mình với em gái luôn mong muốn sớm trở thành người lớn. Cô phải vật lộn để kiếm sống.
Hwang In-youp vai Na Il-deung
Choi Seung-hoon vai Na Il-deung lúc nhỏ
Một nam sinh trung học tài năng và giàu có nhưng lại tỏ ra lạnh lùng và ít nói, luôn đắm chìm trong việc học. Anh ấy là bạn cùng lớp của Ah-yi và dần có cảm tình với cô ấy. Tuy nhiên cuộc đời và sự nghiệp của anh đã thay đổi sau khi gặp Min-hyuk.
Phụ
Gia đình của Yoon Ah-yi
Jo Han-chul vai bố của Yoon Ah-yi's
Hong Jung-min vai Yoon Yoo-yi, em gái của Yoon Ah-yi's
Gia đình của Na Il-deung
Yoo Jae-myung vai bố của Na Il-deung
Kim Hye-eun vai mẹ của Na Il-deung
Trường Trung học Sewoon
Ji Hye-won vai Baek Ha-na, bạn cùng lớp của Yoon Ah-yi và Na Il-deung
Kim Bo-yoon vai Kim So-hee, bạn cùng lớp của Yoon Ah-yi và Na Il-deung
Oh So-hyun vai Seo Ha-yoon, bạn cùng lớp của Yoon Ah-yi và Na Il-deung
Lim Ki-hong vai giáo viên chủ nhiệm
Khác
Yoon Kyung-ho vai Kim Doo-shik, chủ cửa hàng tiện lợi
Choi Young-joon vai thám tử Kim
Kim Bada avai thám tử Park
Park Ha-na vai Min Ji-soo
Hong Seo-hee vai Min Ji-soo lúc nhỏ
Yoon Sa-bong vai Bà chủ nhà của Yoon Ah-yi
Ryu Kyung-soo vai nhân viên bán thời gian tại cửa hàng tiện lợi
Park Seul-gi vai Bella, Con vẹt của Ri Eul (voice appearance)
Woo Mi-hwa vai mẹ của Seo Ha-yeon.
Giải thưởng
Tham khảo
Chú thích
Liên kết ngoài
Annarasumanara at Line Webtoon
The Sound of Magic at Daum
Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2022
Phim truyền hình Hàn Quốc kết thúc năm 2022
Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên
Chương trình gốc Netflix
Phim truyền hình âm nhạc Hàn Quốc
Chương trình chiếu mạng Hàn Quốc
Tác phẩm truyền hình bị tạm ngừng do đại dịch COVID-19
Phim truyền hình của JTBC Studios
Phim truyền hình dựa trên webtoon của Hàn Quốc
|
19847809
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ludwig%20Friedrich%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg-M%C3%B6mpelgard
|
Ludwig Friedrich, Công tước xứ Württemberg-Mömpelgard
|
Ludwig Friedrich (29 tháng 1 năm 1586 – 26 tháng 1 năm 1631 tại Montbéliard) là Công tước cai trị xứ Württemberg-Mömpelgard.
Sinh ra tại Lâu đài Montbéliard, ông là người con thứ năm và là con trai thứ hai của Công tước Friedrich I xứ Württemberg với Sibylla xứ Anhalt.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mất năm 1631
Sinh năm 1586
Công tước Württemberg thế kỷ 17
Bá tước Mömpelgard
|
19847810
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich%20Achilles%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg-Neuenstadt
|
Friedrich Achilles, Công tước xứ Württemberg-Neuenstadt
|
Friedrich Achilles (5 tháng 5 năm 1591 – 30 tháng 12 năm 1631) là Công tước đầu tiên cai trị xứ Württemberg-Neuenstadt từ năm 1617 đến năm 1631.
Cuộc đời
Công quốc Württemberg-Neuenstadt là một nhánh con phân chi từ nhà Württemberg trong giai đoạn thế kỷ 17, 18 và được đặt theo tên thị trấn Neuenstadt.
Friedrich Achilles là con trai nhỏ thứ hai của Công tước Friedrich I. Sau hiệp ước Fürstbrüderlicher Vergleich - một thỏa thuận chung được thực hiện giữa các anh em công tước vào ngày 7 tháng 6 năm 1617 (lịch Julian: 28 tháng 5), các con trai của Friedrich I đã chia quyền thừa kế để con trai cả, Johann Friedrich đảm nhận quyền cai trị Công quốc Württemberg trong khi những người anh em còn lại nắm giữ các vùng đất khác.
Theo phân chia thừa kế, Friedrich Achilles khi đó 26 tuổi, được nhận Lâu đài Neuenstadt và khoản vốn hàng năm là 10.000 guilder. Ông chưa bao giờ kết hôn nên sau khi qua đời vào năm 1631, lâu đài đã thuộc về nhánh thừa kế trưởng của công quốc, trước khi Công quốc Württemberg-Neuenstadt được tái lập vào năm 1649 dưới thời Công tước Frederick.
Tham khảo
Axel Gotthard: Friedrich Achilles. In: Sönke Lorenz, Dieter Mertens, Volker Press (Hrsg.): Das Haus Württemberg. Ein biographisches Lexikon. Kohlhammer, Stuttgart 1997, ISBN 3-17-013605-4, S. 149.
Gerhard Raff: Hie gut Wirtemberg allewege. Band 2: Das Haus Württemberg von Herzog Friedrich I. bis Herzog Eberhard III. Mit den Linien Stuttgart, Mömpelgard, Weiltingen, Neuenstadt am Kocher, Neuenbürg und Oels in Schlesien. 4. Auflage. Landhege, Schwaigern 2014, ISBN 978-3-943066-12-8, S. 264–273.
Mất năm 1631
Sinh năm 1591
Công tước Württemberg thế kỷ 17
|
19847811
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Johann%20Friedrich%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg
|
Johann Friedrich, Công tước xứ Württemberg
|
Johann Friedrich (5 tháng 5 năm 1582, tại Montbéliard – 18 tháng 7 năm 1628) là Công tước cai trị Württemberg từ ngày 4 tháng 2 năm 1608 cho đến khi qua đời ngày 18 tháng 7 năm 1628.
Cuộc đời
Johann Friedrich là con trai cả của Frederick I và Sibylla xứ Anhalt. Ông sinh ra tại lâu đài Montbéliard, nơi ông rời đi năm 4 tuổi khi gia đình chuyển đến ở Stuttgart.
John Friedrich kết hôn với Barbara Sophie xứ Brandenburg (16 tháng 11 năm 1584 – 13 tháng 2 năm 1636), con gái của Joachim Friedrich, Tuyển hầu xứ Brandenburg.
Ngày 28 tháng 5 năm 1617, John Friedrich đã ký một thỏa thuận với một số anh em của mình. Người em lớn nhất của ông, Ludwig Friedrich được nhận vùng Montbéliard - vẫn chưa hoàn toàn độc lập với Công quốc Württemberg. Người em kế tiếp, Julius Friedrich thừa kế chủ quyền đối với Brenz và Weiltingen, dẫn đến hai nhánh họ mới trong Công quốc: Württemberg-Mömpelgard (chấm dứt năm 1723) và Württemberg-Weiltingen (chấm dứt năm 1792). Những người em khác của ông, Frederick Achilles và Magnus lần lượt thừa kế các lâu đài Neuenstadt và Neuenbürg. Vì cả hai người em sau này đều không lập gia đình nên khi chết tài sản của họ sau đó thuộc trở lại nhánh họ chính của Công quốc.
Tham khảo
Thư mục
Mất năm 1628
Sinh năm 1582
Công tước Württemberg thế kỷ 17
An táng tại Stiftskirche, Stuttgart
Người Mömpelgard
|
19847812
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich%20I%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg
|
Friedrich I, Công tước xứ Württemberg
|
Friedrich I (19 tháng 8 năm 1557 – 29 tháng 1 năm 1608) là Công tước cai trị xứ Württemberg. Ông con trai của George xứ Mömpelgard với Barbara xứ Hesse, con gái của Philip I xứ Hessen.
Tham khảo
Thư mục
Paul Friedrich von Stälin: "Friedrich I., Herzog von Württemberg". Trong: Allgemeine Deutsche Biographie (ADB). Tập. 8, trang 45–48.
Paul Sauer: Herzog Friedrich I. von Württemberg 1557-1608. Ungestümer Reformer und weltgewandter Autokrat. Stuttgart 2003.
Hiệp sĩ Garter
Mất năm 1608
Sinh năm 1557
Công tước Württemberg thế kỷ 16
Công tước Württemberg thế kỷ 17
Người Montbéliard
An táng tại Stiftskirche, Stuttgart
|
19847813
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eugen%20S%C3%A4nger
|
Eugen Sänger
|
Eugen Sänger (22 tháng Chín năm 1905 – 10 tháng Hai năm 1964) là kỹ sư hàng không vũ trụ người Áo được biết đến nhiều nhất nhờ những nghiên cứu của ông về thân nâng và động cơ ramjet.
Khởi đầu
Sänger sinh ra tại một thị trấn khai mỏ cũ Preßnitz (Přísečnice), gần Komotau vùng Bohemia, Đế quốc Áo-Hung. Ông học kỹ sư dân dụng tại Đại học Kỹ thuật Graz và Viên. Khi còn là sinh viên, ông đã được đọc cuốn sách của Hermann Oberth tựa đề Die Rakete zu den Planetenräumen ("Tiến vào không gian liên hành tinh bằng tên lửa"), cuốn sách đã thúc đẩy ông chuyển ngành học từ kỹ sư xây dựng sang ngành hàng không. Ông cũng tham gia hội tên lửa nghiệp dư tại Đức Verein für Raumschiffahrt (VfR – "Society for Space Travel") do Oberth thành lập.
Năm 1932 Sänger trở thành thành viên của SS và cũng là thành viên của Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa.
Sänger chế tạo phương tiện bay bằng tên lửa, làm luận văn của mình, nhưng trường Đại học không công nhận do nó phi thực tế.
Sänger được phép tốt nghiệp khi anh nộp một bài báo tầm thường hơn nhiều về trạng thái tĩnh của các giàn cánh. Sänger sau đó đã xuất bản luận án bị từ chối của mình với tựa đề Raketenflugtechnik ("Kỹ thuật bay tên lửa") vào năm 1933. Năm 1935 và 1936, ông xuất bản các bài báo về chuyến bay bằng tên lửa cho tạp chí Flug ("Chuyến bay") của Áo. Những bài báo của ông đã thu hút sự chú ý của (RLM, hay "Bộ Hàng không Đế chế") do coi ý tưởng của Sänger là phương thức chế tạo máy bay ném bom có khả năng tấn công đến nước Mỹ (dự án Amerikabomber). RLM cung cấp cho ôngvieenje nghiên cứu tiêng gần Braunschweig và cũng xây dựng nhà máy ô xy lỏng và một cơ sở thử nghiệm động cơ có lực đẩy 100 tấn. Vào thời điển này, việc tuyển dụng Sänger bị Wernher von Braun phản đối, coi ông là một mối đe dọa cho sự thống trị trong lĩnh vực nghiên cứu tên lửa của mình.
Máy bay ném bom dưới quỹ đạo
Sänger đồng ý lãnh đạo một nhóm nghiên cứu tên lửa tại Lüneburger Heide năm 1936. Ông dần phát triển một loại máy bay ném bom cất cánh từ đường ray nhờ tên lửa đẩy khởi tốc, bản thân máy bay cũng sẽ có động cơ riêng giúp nó leo cao tới rìa khí quyển và sau đó trượt dọc theo tầng bình lưu. Máy bay sẽ không thực sự bay lên tới quỹ đạo, mà nó trượt trên tầng cao của bầu khí quyển giúp nó có khả năng bay ở khoảng cách xa dựa theo một chuỗi những lần trượt như vậy. Thiết kế này được gọi dưới cái tên Silbervogel và hoạt động chủ yếu dựa trên lực đẩy tác dụng lên thân của máy bay để có thể thực hiện chuyến bay dưới quỹ đạo. Sänger được hỗ trợ trong việc tính toán nhờ Irene Bredt, người mà sẽ làm vợ ông vào năm 1951. Sänger cũng thiết kế cả động cơ tên lửa mà sẽ sử dụng trên máy bay của mình, có khả năng tạo ra 1 MN lực đẩy. Trong thiết kế này, ông là một trong những người tiên phong đưa ra gợi ý sử dụng nhiên liệu của tên lửa làm nguội động cơ, nhờ cho nó chạy vòng xung quanh vòn phun trước khi nó được đốt trong buồng đốt.
Đến năm 1942, Bộ công nghiệp hàng không Phát xít Đức hủy bỏ dự án cùng với các thiết kế lý thuyết do tập trung vào các công nghệ đã chín muồi. Sänger được gửi tới làm tại Deutsche Forschungsanstalt für Segelflug (DFS, hay "German Gliding Research Institute"-"Viện nghiên cứu tàu lượn Đức"). Tại đây ông đã phát triển nhiều kỹ thuật quan trọng trên động cơ ramjet, và làm việc trên máy bay đánh chặn Skoda-Kauba Sk P.14, cho đến khi kết thúc World War II.
Sau chiến tranh
Sau khi chiến tranh kết thúc, Sänger làm việc cho Chính phủ Pháp và vào năm 1949 thành lập Fédération Astronautique. Trong khi còn làm việc ở Pháp, Sänger là đối tượng của tình báo Liên Xô. Joseph Stalin đã cử con trai là Vasily và nhà khoa học Grigori Tokaty đến để mời ông về làm việc cho Liên Xô, nhưng đã không thành công. Có thông tin cho rằng Stalin đã chỉ đạo NKVD bắt cóc ông.
Năm 1951, ông trở thành Chủ tịch đầu tiên của International Astronautical Federation. Cùng năm đó, ông cưới Tiến sĩ Irene Bredt, cũng là nhà khoa học tên lửa, người đã giúp đỡ ông trong thiết kế Silbervogel.
Năm 1954, Sänger quay trở lại Đức và ba năm sau trở thành Giám đốc viện nghiên cứu lực đẩy phản lực tại Stuttgart. Từ năm 1961 đến 1963 ông là cố vấn cho Junkers trong thiết kế tàu vũ trụ sử dụng động cơ ramjet, nhưng không có thiết kế nào được chế tạo thực tế. Năm 1963, ông trở thành giáo sư toàn phần tại Đại học Kỹ thuật Berlin, ông đã đảm nhận chức vụ này cho đến khi qua đời. Các khám phá lý thuyết của Sänger trong giai đoạn này đã khai phá khả năng sử dụng photon cho động cơ đẩy tàu vũ trụ du hành liên hành tinh trong các hệ thống đẩy laser và buồm mặt trời.
Năm 1960, ông đã giúp Cộng hòa Ả Rập Thống nhất phát triển tên lửa Al-Zafir.
Ông qua đời tại Berlin, năm 1964. Mộ của Sänger nằm tại nghĩa trang "Alter Friedhof" vùng Stuttgart-Vaihingen. Những nghiên cứu của ông trên máy bay Silbervogel đã là tiền đề cho việc phát triển X-15, X-20 Dyna-Soar, và Space Shuttle programs.
Vinh danh
Xem thêm
Keldysh bomber
Laser propulsion
Silbervogel
Spacecraft propulsion
Ghi chú
Tham khảo
Books and technical reports
Saenger, Hartmut E and Szames, Alexandre D, From the Silverbird to Interstellar Voyages, IAC-03-IAA.2.4.a.07.
Other
Sinh năm 1905
Mất năm 1964
Nghiên cứu và phát triển ở Đức Quốc xã
Nhà khoa học tên lửa
|
19847820
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%B7%20M%C3%B4n%20Quan%20%28th%E1%BA%A7n%20tho%E1%BA%A1i%29
|
Quỷ Môn Quan (thần thoại)
|
Đối với các định nghĩa khác, xem Cổng địa ngục (định hướng).
Quỷ Môn Quan (tiếng Trung: 鬼門关) là cánh cổng dẫn đến địa ngục trong thần thoại Trung Hoa. Những người sau khi chết nếu linh hồn không được lên Thiên đàng thì sẽ phải đi qua cánh cổng này và chịu sự dẫn độ của các quỷ sai đưa xuống địa ngục để Diêm Vương phán xét và định đoạt. Theo quan niệm của người xưa cho rằng vào ngày rằm tháng 7 âm lịch (lễ Vu Lan) hàng năm, Quỷ Môn Quan sẽ mở cửa cho phép những linh hồn bị giam cầm hay bị đày đoạ trong địa ngục được phép đi lại trong dương gian đến hết tháng 7 âm lịch thì sẽ đóng cổng. Vậy nên người ta mới bảo rằng tháng 7 là tháng Cô hồn và tháng không tốt để làm những việc đại sự như cưới xin, mua nhà...
Tham khảo
Gate of the Ghosts
Địa ngục
|
19847827
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Death%27s%20Game
|
Death's Game
|
Death's Game () là một bộ phim truyền hình dài tập trên web của Hàn Quốc do Ha Byung-hoon viết kịch bản và đạo diễn, với sự tham gia của Seo In-guk và Park So-dam. Dựa trên webtoon cùng tên của Lee Won-sik và Ggulchan được đăng nhiều kỳ trên Naver vào năm 2019, phim mô tả câu chuyện về một người, trong lúc tuyệt vọng, bắt đầu cuộc sống mới bằng cái chết. Đây là bộ phim truyền hình gốc của TVING và có sẵn để phát trực tuyến trên nền tảng của nó và trên Amazon Prime Video ở một số khu vực được chọn ngoại trừ Hàn Quốc và Trung Quốc.
Bộ phim được chia thành hai phần: Phần 1 phát hành vào ngày 15 tháng 12 năm 2023 và Phần 2 phát hành vào ngày 5 tháng 1 năm 2024, lúc 12:00 (KST).
Tóm tắt
Bộ phim kể về Choi Yi-jae (Seo In-guk), người đang trên bờ vực rơi vào địa ngục, trải qua cái chết và tái sinh 12 lần do sự phán xét của Tử thần (Park So-dam).
Diễn viên
Diễn viên chính
Seo In-guk trong vai Choi Yi-jae: một người đàn ông mất ý chí sống sau khi liên tục không tìm được việc làm trong bảy năm.
Park So-dam trong vai Thần chết: một sinh vật bí ẩn đã kết án Yi-jae 12 vòng tử thần và tái sinh trước khi rơi xuống địa ngục.
Sự tái sinh của Yi-jae
Choi Si-won vai Park Jin-tae: con trai thứ 33 tuổi và là người kế thừa Tập đoàn Taekang.
Sung Hoon vai Song Jae-seop: một vận động viên thể thao mạo hiểm 38 tuổi.
Kim Kang-hoon trong vai Kwon Hyeok-su: một học sinh trung học 17 tuổi là mục tiêu của những kẻ bắt nạt ở trường.
Jang Seung-jo trong vai Lee Ju-hun: một người sửa chữa tổ chức bí mật 35 tuổi, người có thể giải quyết mọi yêu cầu của khách hàng.
Lee Jae-wook trong vai Cho Tae-sang: một võ sĩ võ thuật tổng hợp đầy tham vọng 21 tuổi đã từ bỏ ước mơ của mình vì hoàn cảnh gia đình và bị cầm tù vì lý do nào đó.
Lee Do-hyun trong vai Jang Geon-u: một người mẫu đẹp trai 24 tuổi và rất quyến rũ, luôn thu hút sự chú ý của mọi người ở bất cứ nơi nào anh ấy đi qua.
Kim Jae-wook trong vai Jeong Gyu-cheol: một họa sĩ bí ẩn 34 tuổi sinh ra trong một gia đình bình thường.
Oh Jung-se trong vai An Ji-hyeong: một thám tử 42 tuổi muốn trở thành một cảnh sát giỏi như cha mình.
Kim Won-hae vai người đàn ông vô gia cư.
Kim Mi-kyung vai mẹ của Yi-jae
Diễn viên phụ
Kim Ji-hoon vai Park Tae-woo: con trai đầu và CEO của Tập đoàn Taekang.
Go Youn-jung trong vai Lee Ji-su: một tiểu thuyết gia có mối quan hệ với Yi-jae từ khi họ còn là sinh viên đại học.
Yoo In-soo vai Lee Jin-sang: Bạn cùng lớp của Hyeok-su và là kẻ bắt nạt ở trường.
vai Park Jin-seop: Cha của Tae-woo và Jin-tae, đồng thời là người sáng lập Tập đoàn Taekang.
vai trùm tổ chức bí mật của Ju-hun
Choi Woo-jin trong vai Woo Ji-hun: một thám tử giết người và là đàn em của Ji-hyung.
Oh Ji-yul vai Woo Seul-gi: Con gái của Ji-hun.
Lim Ji-gyu trong vai Trưởng phòng Kim: Cánh tay phải của Park Tae-woo.
Khác
Kim Geon-ho vai nhân viên văn phòng / Lần tái sinh thứ 11 của Yi-jae
Park Yong vai tổng giám đốc
Kim Ha-eon vai young Jin-tae
Jung Min-joon vai young Tae-u
Jeon Seung-hoon vai Na Tae-seok
Seo In-geol vai Kim Seong-hyeop
Seo Woo-hyeok vai Han Jun-sang
Bae Gang-hee vai Kim Eun-jae
Jung Dong-geun vai người sửa chữa
Sự xuất hiện đặc biệt
Kim Sung-cheol vai Kim Hyeon-su (Tập 1)
Ryeoun vai PD trẻ nhất (Tập 1)
Các tập
Sản xuất
Vai Choi Yi-jae lần đầu tiên được giao cho Kang Ha-neul.
Vào ngày 13 tháng 1 năm 2023, đạo diễn Ha Byung-hoon đã thông báo rằng quá trình sản xuất đang trong giai đoạn casting cuối cùng và việc quay phim sẽ bắt đầu sớm nhất là vào tháng 2 và sẽ kéo dài trong khoảng sáu tháng.
Vào ngày 8 tháng 2 năm 2023,, Seo In-guk và Park So-dam được xác nhận là diễn viên chính của bộ phim. Vào ngày 21 tháng 2, JoyNews24 đưa tin rằng các diễn viên đã tiến hành đọc kịch bản đầy đủ vào ngày 14 và Seo In-guk bắt đầu quay phim vào ngày 20. Bản thân bộ phim truyền hình dài tập này cũng đánh dấu sự trở lại của Park sau khi cô tạm dừng hai năm để hồi phục sau bệnh ung thư tuyến giáp thể nhú.
Vào ngày 31 tháng 5 năm 2023, Dexter Studios thông báo rằng họ sẽ đồng sản xuất VFX của loạt phim với tổng kinh phí là 3.3 tỷ Won.
Phát hành
TVING xác nhận ngày phát hành Death's Game sẽ là 15 tháng 12 năm 2023.
Vào ngày 18 tháng 11 năm 2023, có thông báo rằng loạt phim này sẽ có sẵn để phát trực tuyến qua Amazon Prime Video ở 240 quốc gia và vùng lãnh thổ ngoại trừ Trung Quốc và Hàn Quốc.
Bộ phim được chia thành hai phần: Phần 1 được phát hành với bốn tập đầu tiên vào ngày 15 tháng 12 năm 2023, trong khi Phần 2 được phát hành với bốn tập còn lại vào ngày 5 tháng 1 năm 2024, lúc 12:00 (KST).
Phản hồi
Đánh giá của chuyên gia
Kim Hyun-seung của Cine21 nói rằng "nhiều tác phẩm đề cập đến thế giới bên kia, nhưng thế giới quan được xây dựng bởi [Death's Game] khá mới lạ". Ông cũng trích dẫn rằng "[Death's Game] đang nhận được những đánh giá tích cực về CG, điều hiếm thấy ở Hàn Quốc" và "hơi thất vọng vì tất cả các câu chuyện đều dựa vào hiệu ứng hình ảnh".
Lượng người xem
Amazon Prime Video đưa tin rằng bộ truyện này đã trở thành chủ đề nóng trên toàn thế giới kể từ khi Phần 1 được phát hành vào ngày 15. Đây là chương trình được xem nhiều nhất ở Indonesia và Thái Lan, đồng thời lọt vào Top 10 tại 43 quốc gia trên thế giới, bao gồm Úc, Brazil, Nhật Bản, Malaysia, Peru, Philippines, Singapore và Đài Loan vào tháng 12 năm 2023.
Tham khảo
External links
Death's Game on Amazon Prime Video
Death's Game at Naver Webtoon
Death's Game at Naver Webtoon
Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2023
Phim truyền hình Hàn Quốc kết thúc năm 2024
Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên
Phim truyền hình của JTBC Studios
Đầu thai trong truyền hình
Phim truyền hình dựa trên webtoon của Hàn Quốc
|
19847833
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bathygobius%20hongkongensis
|
Bathygobius hongkongensis
|
Bathygobius hongkongensis là một loài cá biển thuộc chi Bathygobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1986.
Từ nguyên
Từ định danh hongkongensis được đặt theo tên gọi của đảo Hồng Kông, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–ensis: hậu tố trong tiếng Latinh biểu thị nơi chốn).
Phân bố và môi trường sống
B. hongkongensis có phân bố giới hạn ở Tây Thái Bình Dương, chỉ được ghi nhận ở đảo Hồng Kông và đảo Đài Loan; quần đảo Ryukyu (Nam Nhật Bản); đảo Jeju (Hàn Quốc); vịnh Nha Trang (Việt Nam). Một ghi nhận của loài này tại bờ biển Andaman thuộc Nam Thái Lan.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở B. hongkongensis là 5 cm. Thân lốm đốm nâu sẫm ở lưng và trắng ở bụng. Vây lưng, vây đuôi và vây ngực có một số đốm nhỏ màu nâu. Tất cả các vây đều trong mờ, màu nâu nhạt.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9–10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 7–8; Số tia ở vây ngực: 20–22.
Tham khảo
H
Cá Thái Bình Dương
Cá Hàn Quốc
Cá Nhật Bản
Cá Trung Quốc
Cá Đài Loan
Cá Việt Nam
Động vật được mô tả năm 1986
|
19847835
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Valenciennea%20immaculata
|
Valenciennea immaculata
|
Valenciennea immaculata là một loài cá biển thuộc chi Valenciennea trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1981.
Từ nguyên
Tính từ định danh immaculata trong tiếng Latinh có nghĩa là “không có đốm”, hàm ý đề cập đến kiểu hình của loài cá này thiếu các sọc dọc như Valenciennea muralis.
Phân bố và môi trường sống
V. immaculata có phân bố rộng rãi ở khu vực Đông Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, từ bờ nam Trung Quốc và đảo Đài Loan trải dài về phía nam đến Úc, phía đông đến đảo New Ireland. Ở Việt Nam, V. immaculata được ghi nhận tại bờ biển Ninh Thuận và khu vực vịnh Nha Trang–vịnh Vân Phong.
Quần thể ở Bắc Thái Bình Dương có nhiều khác biệt về kiểu hình so với quần thể ở Úc, và bản thân quần thể Úc lại có sự khác biệt giữa hai bờ tây-đông. Cần có nhiều nghiên cứu phân loại về loài này.
V. immaculata sống trên nền đáy mềm (cát, bùn) gần các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 30 m.
Mô tả
Chiều dài tổng lớn nhất được ghi nhận ở V. immaculata là 13 cm. Cá có màu trắng phớt vàng hoặc tím hồng nhạt với cặp sọc cam trên thân viền xanh lam từ má kéo dài dọc theo mặt dưới đến gốc vây đuôi. Vây đuôi có dải trắng gần rìa.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 13–17; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 13–16; Số tia ở vây ngực: 18–20.
Sinh thái
V. immaculata thường sống thành đôi. Chúng rây từng ngụm cát để kiếm ăn và đào hang.
Thương mại
V. immaculata là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh.
Tham khảo
I
Cá Thái Bình Dương
Cá Đài Loan
Cá Trung Quốc
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Papua New Guinea
Động vật được mô tả năm 1981
|
19847839
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20%C4%90%E1%BA%A1i%20c%C6%B0%C6%A1ng%2C%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20H%C3%A0%20N%E1%BB%99i
|
Trường Đại học Đại cương, Đại học Quốc gia Hà Nội
|
Trường Đại học Đại cương là một trường đại học thành viên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội tồn tại từ năm 1996 đến năm 1998 với nhiệm vụ đào tạo kiến thức giáo dục đại cương trong quy trình đào tạo hai giai đoạn.
Lịch sử
Năm 1995, Bộ Giáo dục tiến hành cải cách đào tạo đại học với mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là đào tạo nền tảng cơ bản cho sinh viên các trường đại học trong nước. Đến năm 1996, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội - GS Nguyễn Văn Đạo ký quyết định thành lập 5 trường đại học trực thuộc bao gồm trường Đại học Đại cương và 4 trường đại học chuyên ngành: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Ngoại ngữ, Trường Đại học Sư phạm. Thời điểm này PGS Đặng Trần Phách lúc đó đang là Phó Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường Đại học Đại cương.
Trên cơ sở chương trình đào tạo đại học đại cương do Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng, trường Đại học Đại cương có nhiệm vụ đào tạo sinh viên trong thời gian 2 năm đầu, giúp sinh viên chuẩn bị kiến thức cơ sở để sau khi tốt nghiệp sinh viên theo học các chuyên ngành khác như y dược, kinh tài, sư phạm… theo nguyện vọng.
Thời gian đầu mới thành lập Trường Đại học Đại cương không có cơ sở vật chất, phải nhờ đất của Đại Học Sư Phạm (nay là Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội) để dựng nhà lợp mái tôn cho khu hiệu bộ; giảng viên, lớp học, thư viện, phòng thí nghiệm phải nhờ của các trường đại học thành viên còn lại. Do nỗ lực hết sức nên chỉ 6 tháng sau Trường đã có thể khai giảng khoá đầu tiên
Năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định về việc xóa bỏ Trường Đại học Đại cương.
Tham khảo
|
19847854
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mary%20Tudor%2C%20B%C3%A1%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20phu%20nh%C3%A2n%20x%E1%BB%A9%20Derwentwater
|
Mary Tudor, Bá tước phu nhân xứ Derwentwater
|
Mary Tudor (16 tháng 10 năm 1673 – 5 tháng 11 năm 1726), Bá tước phu nhân xứ Derwentwater, là một nữ diễn viên và là con ngoại hôn của Charles II của Anh với tình nhân là Mary "Moll" Davis, một nữ diễn viên và ca sĩ.
Tiểu sử
Cuộc sống ban đầu và tước hiệu
Mary lớn lên trong một ngôi nhà nằm ở phía tây nam của Quảng trường Thánh James, gần Công viên St. James và Cung điện Whitehall, và ngay từ khi còn nhỏ, Mary đã được bao quanh bởi giới thượng lưu của theo chủ nghĩa Trung hưng quân chủ Anh. Mary theo bước mẹ và bắt đầu diễn xuất khi còn trẻ. Mary cũng tham gia nhiều buổi trình diễn được tổ chức tại triều đình của Quốc vương Charles II. Năm chín tuổi, Mary đã hát vai vị thần La Mã Cupid, đại diện cho ham muốn, tình yêu nhục cảm, sự hấp dẫn và tình cảm, cùng với mẹ, người đóng vai thần Venus, trong vở kịch Venus và Adonis. Và trong một vũ hội triều đình, Mary được ca ngợi là một trong những người khiêu vũ giỏi nhất, bên cạnh Công tước phu nhân xứ Norfolk và Graftorn.
Ngày 10 tháng 12 năm 1680, khi Mary được bảy tuổi, để xác thực công nhận quan hệ cha con, Mary được ban cho họ Tudor (như một sự thừa nhận có huyết thống với Vương tộc Tudor) và được hưởng địa vị của con gái một Bá tước. Vào tháng 9 năm 1683, Mary được cấp một trợ cấp hàng năm trị giá 1500 bảng Anh (xấp xỉ £239,585 ở năm 2021), và năm tháng sau, vào ngày 21 tháng 2, Mary được hưởng địa vị của con gái Công tước.
Hôn nhân và con cái
Ngày 18 tháng 8 năm 1687, khi được 14 tuổi, Công nương Mary Tudor kết hôn với Edward Radclyffe, Bá tước thứ 2 xứ Derwentwater (9 tháng 12 năm 1655 – 29 tháng 4 năm 1705) tại Little Parndon, Essex. Hai vợ chồng có bốn người con:
James Radclyffe, Bá tước thứ 3 xứ Derwentwater (1689–1716)
Mary Tudor Radclyffe
Charles Radclyffe (3 tháng 9 năm 1693 – 8 tháng 12 năm 1746)
Francis Radclyffe
Mary sống tách biệt khỏi Bá tước xứ Derwentwater vào tháng 6 năm 1699 và một chứng thư xác nhận hai vợ chồng ly thân được xác nhận vào ngày 6 tháng 2 năm 1700. Có người cho rằng Edward là tín hữu Công giáo La Mã và Mary từ chối cải đạo theo chồng, số khác thì cho rằng là do Mary không chung thủy.
Ngày 23 tháng 5 năm 1705, ngay sau cái chết của chồng, Mary tái hôn với Henry Graham. Henry Graham qua đời vào ngày 7 tháng 1 năm 1707. Vài tháng sau, vào ngày 26 tháng 8, Mary kết hôn lần thứ ba với Thiếu tá James Rooke và có một con gái với James Rooke.
Margaret Frances Disney Rooke (khoảng 1708-1720 1766) kết hôn với William Sheldon và có hậu duệ.
Qua đời
Mary qua đời tại Paris vào ngày 5 tháng 11 năm 1726, thọ 53 tuổi.
Tổ tiên
<center>
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Vương tộc Stuart
Con ngoại hôn của quân vương Anh
Con ngoại hôn của quân vương Scotland
Con ngoại hôn của Quốc vương
Người Anh thế kỷ 18
Người Scotland thế kỷ 17
Người Anh thế kỷ 17
Sinh năm 1673
Mất năm 1726
|
19847858
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/NGC%20404
|
NGC 404
|
NGC 404 là một thiên hà trường nằm trong chòm sao Tiên Nữ, cách Trái Đất khoảng 10 triệu năm ánh sáng. William Herschel là người đầu tiên phát hiện ra thiên hà này vào năm 1784, và chúng ta có thể quan sát được nó bằng kính thiên văn cỡ nhỏ. NGC 404 nằm ngay bên ngoài Nhóm Địa phương và dường như không bị ràng buộc hấp dẫn với nhóm này. Do chỉ nằm cách ngôi sao cấp hai Mirach trong phạm vi 7 phút cung, rất khó để quan sát hoặc chụp ảnh thiên hà này và vì vậy nó có biệt danh là "Bóng ma của Mirach".
Đặc trưng vật lý
NGC 404 là một thiên hà lùn dạng thấu kính rất biệt lập, có độ sáng nhỉnh hơn một chút và kích thước bé hơn Đám Mây Magellan Nhỏ. Không giống như nhiều thiên hà sơ khai khác, NGC 404 rất giàu hydro trung tính, tập trung phần lớn ở cặp vành đai lớn xung quanh nó. Thiên hà này cũng tồn tại sự hình thành sao ở cả trung tâm và các vùng ngoài cùng, mặc dù ở mức độ thấp.
Đĩa khí bên ngoài và sự hình thành sao của NGC 404 được cho là do một hoặc một số vụ sáp nhập với các thiên hà nhỏ hơn khoảng 1 tỷ năm trước kích hoạt. Các nhà thiên văn học đề xuất rằng NGC 404 có thể từng là một thiên hà xoắn ốc trước khi biến đổi thành một thiên hà thấu kính do sự kiện hợp nhất đó.
Phát xạ LINER
NGC 404 chứa một vùng vạch phát xạ hạt nhân ion hóa thấp (LINER), một loại vùng đặc trưng bởi sự phát xạ vạch quang phổ từ các nguyên tử bị ion hóa yếu. Ngoài ra, thiên hà này còn chứa một cụm sao hạt nhân và -có thể- một lỗ đen siêu lớn với khối lượng gấp vài chục nghìn lần khối lượng Mặt Trời.
Các phép đo khoảng cách
Ít nhất hai kỹ thuật đã được sử dụng để đo khoảng cách tới NGC 404. Phương pháp đo dao động độ sáng bề mặt hồng ngoại ước tính khoảng cách đến các thiên hà xoắn ốc dựa trên độ hạt bề ngoài chỗ phình ra của chúng. Khoảng cách đo được tới NGC 404 bằng kỹ thuật này vào năm 2003 là 9,9 ± 0,5 Mly (3,03 ± 0,15 Mpc).
Tuy vậy, NGC 404 đủ gần để các sao siêu khổng lồ đỏ có thể được chụp lại dưới dạng các tinh cầu riêng lẻ. Ánh sáng từ những ngôi sao này và kiến thức về cách chúng so sánh với các ngôi sao gần đó trong Ngân Hà cho phép đo trực tiếp khoảng cách tới thiên hà. Phương pháp này được gọi là đỉnh của nhánh sao khổng lồ đỏ (TRGB), cho ra khoảng cách ước tính tới NGC 404 là 10,0 ± 1,2 Mly (3,1 ± 0,4 Mpc). Tính trung bình lại, hai phép đo này cho ra khoảng cách ước tính là 10,0 ± 0,7 Mly (3,07 ± 0,21 Mpc).
Vệ tinh tiềm năng
Năm 2018, một vệ tinh tiềm năng của NGC 404, với định danh là Donatiello I, đã được phát hiện. Donatiello I là một thiên hà lùn hình cầu với rất ít sự hình thành sao. Khó khăn trong việc thiết lập khoảng cách chính xác tới thiên hà này khiến trạng thái vệ tinh của nó vẫn chưa được xác nhận.
Thư viện ảnh
Ghi chú
trung bình của (3,03 ± 0,15, 3,1 ± 0,4) = ((3,03 + 3,1) / 2) ± ((0,152 + 0,42)0,5 / 2) = 3,07 ± 0,21
Tham khảo
Liên kết ngoài
Encyclopedia of Astrobiology, Astronomy & Spaceflight Entry
Curdridge Observatory article
Thiên hà hình hạt đậu
Thiên hà trường
Thiên hà LINER
Chòm sao Tiên Nữ
Thiên thể NGC
Thiên thể UGC
Thiên thể PGC
Thiên thể phát hiện năm 1784
Siêu đám Xử Nữ
Khám phá bởi William Herschel
Được phát hiện bởi William Herschel
|
19847860
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A5p%20C%E1%BB%95%20C%C3%A1c
|
Cấp Cổ Các
|
Cấp Cổ Các () là thư viện tư nhân và cơ sở xuất bản do văn nhân thời Minh mạt Thanh sơ Mao Tấn sáng lập tại Giang Tô, với bộ sưu tập thư tịch lên tới 84.000 cuốn sách mà phần nhiều là những cuốn sách hay thời Tống, Nguyên, bản thân ông còn lấy Cấp Cổ Các làm tên cửa hiệu của mình. Theo quyển Tô Châu phủ chí (蘇州府志) thời Đồng Trị nhà Thanh, Cấp Cổ Các tọa lạc tại cầu Thất Lý bên ngoài cổng Nghênh Xuân, Thường Thục. Sau khi Mao Tấn qua đời, con trai thứ năm của ông là Mao Ỷ (hiệu là Cấp Cổ hậu nhân) kế thừa cơ nghiệp của cha mình. Cấp Cổ Các hiện nay không còn tồn tại và nền nhà này giờ đây thuộc về làng Tào Bang, thị trấn Sa Gia Bang, thành phố Thường Thục, tỉnh Giang Tô.
Lịch sử
Mao Tấn sinh vào cuối thời Minh năm Vạn Lịch thứ 27 (1599), nhiều lần đi thi không đỗ, sau này được mẫu thân Qua thị truyền cảm hứng, lập chí khắc in sách. Năm Thiên Khải thứ 6 (1626), phụ thân qua đời và ông được thừa kế hàng nghìn khoảnh ruộng. Sau khi nhận được sự ủng hộ của mẫu thân, ông đã bán bớt ruộng đất của mình, bỏ tiền thuê hơn 20 thợ khắc và bắt đầu khắc in sách. Năm Sùng Trinh thứ 15 (1642), Mao Tấn đã nhờ thông gia Vương Hàm vẽ bức tranh Ngu Sơn Mao thị Cấp Cổ Các đồ (虞山毛氏汲古閣圖) trong đó có chín gian phòng ốc và hai cái ao, trên ao có đình Nhị Như và đình Lục Quân, Mao từng “phê duyệt trong suốt mười năm” tại đình Lục Quân. Một trong hai cái ao bị nước sông tràn vào, còn ao kia bị lấp để tạo đất nông nghiệp vào thập niên 1970.
Sách khắc in
Những cuốn sách lớn hơn được khắc trong Cấp Cổ Các của Mao Tấn bao gồm Thập tam kinh (十三经), Thập thất sử (十七史), Tân đãi bí thư (津逮秘書) và Lục thập chủng khúc (六十種曲) cũng như nhiều cuốn sách quý hiếm và độc đáo khác nhau. Ông đã trả giá rất cao cho bộ sưu tập sách vở độc đáo của mình, từng dán trên cửa nhà đôi câu "Người khác trả giá một nghìn, chủ hiệu trả giá một nghìn hai trăm". Đến nỗi người dân địa phương có câu tục ngữ rằng: "Ba trăm lẻ sáu kế sinh nhai, chẳng thà bán sách cho họ Mao". Chi phí khắc in sách cũng rất cao, mỗi trang có giá ba lạng bạc. Giấy được sử dụng là giấy đặt làm từ Giang Tây, giấy mỏng có chữ Mao bên góc, giấy dày có chữ Mao đậm hơn, sách họ sao chép giống hệt sách gốc nên gọi là bản "Mao sao" (毛抄).
Sưu tầm
Bản Cấp Cổ Các rất được giới sưu tầm sách và văn nhân đời sau yêu thích, Ngô Vĩ Nghiệp từng viết Cấp Cổ Các ca (汲古閣歌) khen ngợi thành tích này. Bản do Mao Tấn biên soạn ban đầu gồm có Cấp Cổ Các giáo khắc thư mục (汲古阁校刻书目) chép lại 534 loại sách. Hối Đạo nhân thời Thanh lại biên soạn phần bổ di, thêm vào 44 loại sách, nâng tổng số lên 578 loại sách. Đào Tương cuối thời Thanh thích sưu tầm bản Cấp Cổ Các và có tổng cộng 540 loại sách khắc in. Minh Mao thị Cấp Cổ Các khắc thư mục lục (明毛氏汲古阁刻书目录) 1 quyển do Đào Tương biên soạn thu thập 623 loại sách, trong đó có 75 loại ông không sưu tầm được. Lời bàn trong phần đề tựa của Minh Mao thị Cấp Cổ Các khắc thư mục lục nói rằng "Bào Phương Cốc có một tập sách viết về sự tồn vong của bản khắc in Cấp Cổ" đó chính là Cấp Cổ Các khắc bản tồn vong khảo (汲古阁刻板存亡考) của Hối Đạo nhân, nhưng trên thực tế Hối Đạo nhân không phải tên là Bào Phương Cốc mà là Trịnh Đức Mậu thời Thanh.
Tham khảo
Tàng thư lâu Giang Tô
Thư viện ngừng hoạt động
Công trình kiến trúc Thường Thục
|
19847862
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Christian%20VI%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90an%20M%E1%BA%A1ch
|
Christian VI của Đan Mạch
|
Christian VI (30 tháng 11 năm 1699 – 6 tháng 8 năm 1746) là vua của Đan Mạch và Na Uy từ năm 1730 đến 1746. Là con trai cả của Frederik IV và Louise xứ Mecklenburg-Güstrow, ông là một chính trị gia tài giỏi, nổi tiếng với chế độ độc tài của mình. Ông là vị vua đầu tiên của Vương tộc Oldenburg không tham gia bất kỳ cuộc chiến nào. Khẩu hiệu của ông là " Deo et populo " (vì Chúa và dân chúng).
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
Dòng dõi Hoàng gia tại trang web của Chế độ quân chủ Đan Mạch
Christian VI tại trang web của Bộ sưu tập Hoàng gia Đan Mạch tại Lâu đài Rosenborg
Vua Đan Mạch
Vua Na Uy
Vương tử Đan Mạch
Vương tử Na Uy
Vương tộc Oldenburg (Đan Mạch)
Vương tộc Oldenburg
Vương tử
Công tước xứ Schleswig
Công tước xứ Holstein
Bá tước xứ Oldenburg
Chôn cất tại nhà thờ chính tòa Roskilde
Sinh năm 1699
Mất năm 1746
Vua Na Uy thế kỷ 18
Người Đan Mạch–Na Uy
Người Đan Mạch gốc Đức
Người Na Uy gốc Đức
|
19847865
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mori%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Mori, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kayabe, phó tỉnh Oshima, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 14.338 người và mật độ dân số là 39 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 368,27 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19847866
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Robin%20Hack
|
Robin Hack
|
Robin Hack (; sinh ngày 27 tháng 8 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người Đức hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ của Bundesliga là Borussia Mönchengladbach.
Sự nghiệp
Tháng 6/2019, Hack kí hợp đồng với 1. FC Nürnberg từ 1899 Hoffenheim với chi phí không được tiết lộ.
Sau 2 mùa giải tại Nürnberg, Hack chuyển tới Arminia Bielefeld vào tháng 8/2021, với thời hạn hợp đồng tới năm 2025.
Tuy nhiên, vào ngày 26/6/2023, Hack đã kí hợp đồng với Borussia Mönchengladbach với bản hợp đồng có thời hạn 4 năm, khi hợp đồng với Arminia Bielefeld chưa kết thúc.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1998
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá người Pforzheim
Cầu thủ bóng đá nam Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Đức
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá TSG 1899 Hoffenheim II
Cầu thủ bóng đá TSG 1899 Hoffenheim
Cầu thủ bóng đá 1. FC Nürnberg
Cầu thủ bóng đá Arminia Bielefeld
Cầu thủ bóng đá Borussia Mönchengladbach
Cầu thủ bóng đá Regionalliga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Đức
Người Đức thế kỷ 21
|
19847867
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Frederik%20IV%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90an%20M%E1%BA%A1ch
|
Frederik IV của Đan Mạch
|
Frederik IV của Đan Mạch ( tiếng Đan Mạch: Frederik ; 11 tháng 10 năm 1671 – 12 tháng 10 năm 1730) là vua của Đan Mạch và Na Uy từ năm 1699 cho đến khi qua đời. Ông là con trai của Christian V của Đan Mạch-Na Uy và Charlotte Amalie xứ Hessen-Kassel.
Cuộc đời
Tham khảo
Liên kết ngoài
Dòng dõi Hoàng gia tại trang web của quân chủ Đan Mạch
Frederik IV tại trang web của Bộ sưu tập Hoàng gia Đan Mạch tại Lâu đài Rosenborg
Frederik IV của Đan Mạch
Vua Đan Mạch
Vua Na Uy
Thái tử Đan Mạch
Thái tử Na Uy
Vương tử Đan Mạch
Vương tử Na Uy
Vương tộc Oldenburg (Đan Mạch)
Vương tộc Oldenburg
Vương tử
Công tước xứ Schleswig
Công tước xứ Holstein
Bá tước xứ Oldenburg
Người nhận Huân chương Đại bàng trắng (Ba Lan)
Chôn cất tại nhà thờ chính tòa Roskilde
Sinh năm 1671
Mất năm 1730
Vua Na Uy thế kỷ 18
Người Đan Mạch–Na Uy
Vua Đan Mạch thế kỷ 17
|
19847868
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Julian%20Weigl
|
Julian Weigl
|
Julian Weigl (sinh ngày 8 tháng 9 năm 1995) là cầu thủ bóng đá hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho Borussia Mönchengladbach. Weigl cũng đang là thành viên của Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức.
Sự nghiệp
1860 Munich
Borussia Dortmund
Benfica
Borussia Mönchengladbach
Đội tuyển quốc gia
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Danh hiệu
Borussia Dortmund
DFB-Pokal: 2016–17
DFL-Supercup: 2019
Benfica
Primeira Liga: 2022–23
Cá nhân
Facebook FA Bundesliga Cầu thủ mới của năm: 2016
VDV Cầu thủ mới của mùa giải: 2015–16
Tham khảo
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha
Nhân vật còn sống
Người từ Bad Aibling
Cầu thủ bóng đá người Thượng Bayern
Cầu thủ bóng đá nam Đức
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá TSV 1860 Munich
Cầu thủ bóng đá TSV 1860 Munich II
Cầu thủ bóng đá Borussia Dortmund
Cầu thủ bóng đá S.L. Benfica
Cầu thủ bóng đá Borussia Mönchengladbach
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Regionalliga
Cầu thủ bóng đá Primeira Liga
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Đức
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016
Cầu thủ bóng đá nam Đức ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam nước ngoài ở Bồ Đào Nha
Sinh năm 1995
Cầu thủ bóng đá Benfica
|
19847869
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Christian%20V%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90an%20M%E1%BA%A1ch
|
Christian V của Đan Mạch
|
Christian V (15 tháng 4 năm 164625 tháng 8 năm 1699) là Vua Đan Mạch và Na Uy từ năm 1670 cho đến khi qua đời năm 1699.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Dòng dõi Hoàng gia tại trang web của Chế độ quân chủ Đan Mạch
Christian V tại trang web của Hội sưu tập Hoàng gia Đan Mạch
Huân chương Hiệp sĩ Hoàng gia (Huân chương Dannebrog, do Christian V thành lập năm 1671) — Trang web chính thức của Quân chủ Đan Mạch
Chôn cất tại nhà thờ chính tòa Roskilde
Hiệp sĩ Garter
Bá tước xứ Oldenburg
Công tước xứ Holstein
Công tước xứ Schleswig
Mất năm 1699
Sinh năm 1646
Vua Đan Mạch thế kỷ 17
Vua Na Uy thế kỷ 17
Landskrona thế kỷ 17
Lịch sử quân sự Landskrona
Người Đan Mạch–Na Uy
Thái tử Đan Mạch
Thái tử Na Uy
|
19847870
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Luca%20Netz
|
Luca Netz
|
Luca Netz (sinh ngày 15/5/2003) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh trái cho Borussia Mönchengladbach.
Danh hiệu
Cá nhân
Fritz Walter Medal U19 Silver: 2022
Fritz Walter Medal U17 Bronze: 2020
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2003
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá người Berlin
Cầu thủ bóng đá nam Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Đức
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Hertha BSC II
Cầu thủ bóng đá Hertha BSC
Cầu thủ bóng đá Borussia Mönchengladbach
Cầu thủ bóng đá Borussia Mönchengladbach II
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Regionalliga
Cầu thủ bóng đá Hertha Berlin
|
19847871
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alassane%20Pl%C3%A9a
|
Alassane Pléa
|
Alassane Alexandre Pléa (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện thi đấu cho câu lạc bộ Borussia Mönchengladbach ở Bundesliga.
Thống kê
Câu lạc bộ
Quốc tế
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1993
Nhân vật còn sống
Người Villeneuve-d'Ascq
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp
Cầu thủ bóng đá nam Mali
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Olympique Lyonnais
Cầu thủ bóng đá AJ Auxerre
Cầu thủ bóng đá OGC Nice
Cầu thủ bóng đá Borussia Mönchengladbach
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Ligue 2
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá nam Pháp ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam nước ngoài ở Đức
Vận động viên thể thao Pháp ở Đức
Vận động viên người Pháp gốc Mali
Cầu thủ bóng đá Wasquehal Football
Vận động viên người Pháp da đen
|
19847872
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Manu%20Kon%C3%A9
|
Manu Koné
|
Emmanuel "Manu" Kouadio Koné (sinh ngày 17 tháng 5 năm 2001) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm cho câu lạc bộ Borussia Mönchengladbach.
Thống kê sự nghiệp
Tham khảo
Liên kết ngoài
Manu Koné trên Borussia Mönchengladbach website
Manu Koné trên Bundesliga website
Kouadio Koné trên LesViolets.com
Sinh năm 2001
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Cầu thủ bóng đá nam Bờ Biển Ngà
Cầu thủ bóng đá nam người Colombes
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá INF Clairefontaine
Cầu thủ bóng đá Paris FC
Cầu thủ bóng đá AC Boulogne-Billancourt
Cầu thủ bóng đá Toulouse FC
Cầu thủ bóng đá Borussia Mönchengladbach
Cầu thủ bóng đá Championnat National 3
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Ligue 2
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp
|
19847873
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rocco%20Reitz
|
Rocco Reitz
|
Rocco Reitz (sinh ngày 29 tháng 5 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện thi đấu cho câu lạc bộ Borussia Mönchengladbach.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2002
Cầu thủ bóng đá người Duisburg
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Đức
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Borussia Mönchengladbach
Cầu thủ bóng đá Sint-Truidense V.V.
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Regionalliga
Cầu thủ bóng đá Belgian Pro League
Cầu thủ bóng đá nam Đức ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam nước ngoài ở Bỉ
Vận động viên Đức ở Bỉ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Đức
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
|
19847877
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Frederik%20V%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90an%20M%E1%BA%A1ch
|
Frederik V của Đan Mạch
|
Frederik V của Đan Mạch (tiếng Đan Mạch và tiếng Na Uy: Frederik V; 31 tháng 3 năm 1723 – 14 tháng 1 năm 1766) là Quốc vương Đan Mạch và Na Uy và là Công tước xứ Schleswig-Holstein từ ngày 6 tháng 8 năm 1746 cho đến khi qua đời năm 1766. Là thành viên của Vương tộc Oldenburg, ông là con trai của Christian VI của Đan Mạch và Sophie Magdalene xứ Brandenburg-Kulmbach.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Andrup, Otto (1935). "Frederik V" (PDF). In Engelstoft, Povl; Dahl, Svend (eds.). Dansk Biografisk Leksikon (in Danish). Vol. 5 (2. ed.). Copenhagen: J.H. Schultz Forlag. pp. 251–256.
Bech, Claus; Eller, Povl (1980). "Frederik 5.". In Cedergreen Bech, Svend (ed.). Dansk Biografisk Leksikon (in Danish). Vol. 4 (3. ed.). Copenhagen: Gyldendal. ISBN 8700055514.
Busck, Jens Gunni (2019). Frederik V : a reign without ruler. Translated by Peter Sean Woltemade. Copenhagen: Historika. ISBN 9788772170404.
Feldbæk, Ole (1990). "Den lange fred" [The long peace]. In Olsen, Olaf (ed.). Gyldendal og Politikens Danmarkshistorie (in Danish). Vol. 9: 1700-1800. Copenhagen: Gyldendal og Politikens Forlag. ISBN <bdi>87-89068-11-4</bdi>.
Hille, G. (1873–1874). "Grev Adam Gottlob Moltkes Plan for Frederik den Femtes Regering" [Count Adam Gottlob Moltke's plan for Frederick the Fifth's Government]. Historisk Tidsskrift (in Danish). Den danske historiske Forening. row IV, volume IV: 43–64.
Holm, Edvard (1891). "Frederik V.". In Bricka, Carl Frederik (ed.). Dansk biografisk Lexikon, tillige omfattende Norge for tidsrummet 1537-1814 (in Danish). Vol. V (1st ed.). Copenhagen: Gyldendalske Boghandels Forlag. pp. 305–309.
Jespersen, Knud J.V.; Porskrog Rasmussen, Carsten; Raabyemagle, Hanne; Holstein, Poul (2010). Moltke, rigets mægtigste mand [Moltke, the most powerful man of the realm] (in Danish). Copenhagen: Gad. ISBN 9788712043546.
Johannessen, Finn Erhard (2001). "Frederik 5.". In Arntzen, Jon Gunnar (ed.). Norsk biografisk leksikon (in Norwegian). Vol. 3 (2. ed.). Oslo: Kunnskapsforlaget. ISBN 8257310077.
Klose, Olaf (1961), "Friedrich V.", Neue Deutsche Biographie (in German), vol. 5, Berlin: Duncker & Humblot, pp. 582–583; (full text online)
Krabbe, L. (1919). "Frederik V". Salmonsens konversationsleksikon (in Danish). Vol. VIII (2nd ed.). Copenhagen: J. H. Schultz Forlagsboghandel. p. 833-34. Archived from the original on 11 February 2017. Retrieved 10 February 2017.
Liebgott, Niels-Knud, ed. (2007). Det elegante liv : fra Frederik 5.s hof [The elegant life : from Frederik V's court] (in Danish). Copenhagen: De Danske Kongers Kronologiske Samling. ISBN 9788789542140.
Mentz, Søren (2023). Frederik 5. Den elskværdige europæer [Frederik V : the amiable European] (in Danish). Copenhagen: Gads Forlag. ISBN 9788712073093.
Scocozza, Benito (1997). "Frederik 5.". Politikens bog om danske monarker [Politiken's book about Danish monarchs] (in Danish). Copenhagen: Politikens Forlag. pp. 156–157. ISBN <bdi>87-567-5772-7</bdi>.
Liên kết ngoài
Dòng dõi Hoàng gia tại trang web của quân chủ Đan Mạch
Frederick V tại trang web của sưu tập Hoàng gia Đan Mạch tại Lâu đài Rosenborg
Caara Buckley, "The Sinking of a Bust Surfaces a Debate Over Denmark’s Past", New York Times, February 15, 2021
Frederik V của Đan Mạch
Vua Đan Mạch
Thái tử Đan Mạch
Thái tử Na Uy
Vương tử Đan Mạch
Vương tử Na Uy
Vương tộc Oldenburg (Đan Mạch)
Vương tộc Oldenburg
Vương tử
Chôn cất tại nhà thờ chính tòa Roskilde
Bá tước xứ Oldenburg
Công tước xứ Holstein
Công tước xứ Schleswig
Mất năm 1766
Sinh năm 1723
Vua Na Uy thế kỷ 18
Người Đan Mạch–Na Uy
Học viện Mỹ thuật Hoàng gia Đan Mạch
Vua Đan Mạch thế kỷ 18
|
19847888
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%ACnh%20To%C3%A0n%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Đình Toàn (định hướng)
|
Đậu Đình Toàn, sĩ quan
Hoàng Đình Toàn, thẩm phán
Nguyễn Đình Toàn
Nguyễn Đình Toàn (nghệ sĩ), sinh 1936
Nguyễn Đình Toàn (chính khách), sinh 1960, chính khách Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng
Nguyễn Đình Toàn (vận động viên), sinh 1986
Vũ Đình Toàn, nam diễn viên, đạo diễn sân khấu kiêm người dẫn chương trình truyền hình
|
19847893
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A0u%20s%E1%BA%AFc%20qu%E1%BB%91c%20gia
|
Màu sắc quốc gia
|
Màu sắc quốc gia (tiếng Anh: National color) thường là một phần của tập hợp các biểu tượng quốc gia của một đất nước. Nhiều bang và đất nước công nhận tập hợp các màu sắc làm "màu sắc quốc gia" của họ trong khi số khác lại có màu sắc quốc gia trên thực tế được sử dụng trở nên nổi tiếng. Màu sắc quốc gia thường xuất hiện trên nhiều phương tiện truyền thông, từ quốc kỳ cho đến những màu sắc được dùng trong thể thao.
Danh sách
Khác
Chú thích
|
19847899
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Charlotte%20FitzRoy%2C%20B%C3%A1%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20phu%20nh%C3%A2n%20x%E1%BB%A9%20Lichfield
|
Charlotte FitzRoy, Bá tước phu nhân xứ Lichfield
|
Charlotte Fitzroy, Bá tước phu nhân xứ Lichfield (5 tháng 9 năm 1664 – 17 tháng 2 năm 1718) là con ngoại hôn của Charles II của Anh với một trong những tình nhân nổi tiếng nhất của Quốc vương là Barbara Villiers, Công tước thứ 1 xứ Cleveland. Nổi tiếng với vẻ đẹp của mình, Charlotte kết hôn năm 12 tuổi với Edward Henry Lee, Bá tước thứ 1 xứ Lichfield, do đó trở thành Bá tước phu nhân xứ Lichfield.
Những năm đầu đời
Charlotte Fitzroy sinh vào ngày 5 tháng 9 năm 1664, là người con thứ tư và con gái thứ hai của Barbara Palmer, Bá tước phu nhân xứ Castlemaine, người con duy nhất của chỉ huy phe Bảo hoàng William Villiers, Tử tước Grandison thứ 2. Charlotte được giao cho một phó mẫu ở Dinh Berkshire chăm sóc.
Mẹ của Charlotte đã ly thân với chồng là Roger Palmer, Bá tước thứ 1 xứ Castlemaine, nhưng vẫn duy trì quan hệ hôn nhân với Roger Palmer. Castlemaine không có bất kỳ đứa con nào với vợ; trên thực tế, Charlotte và các anh chị em đều là con ngoại hôn của Bà Bá tước với Quốc vương Charles II. Charles II thừa nhận con gái và ban cho Charlotte họ FitzRoy - tức là "con của Quốc vương".
Người viết nhật ký Samuel Pepys ghi nhận rằng Charlotte có thể sẽ có triển vọng hôn nhân tốt: "Phu nhân Castlemayne [Barbara Villiers] của tôi sẽ vui vẻ nói rằng con gái của bà (không quá một hoặc hai tuổi) sẽ là thiếu nữ đầu tiên trong Triều đình sẽ kết hôn…”
Charlotte là người cháu gái yêu thích của James, Công tước xứ York, em trai của Charles II, người sau này trị vì nước Anh với trị hiệu là James II. Nhà sử học John Heneage Jesse đã viết về Charlotte Fitzroy như sau: "Chúng ta biết rất ít về Charlotte ngoại trừ việc cô ấy xinh đẹp." Khi còn nhỏ, Charlotte đã được vẽ bởi họa sĩ cung đình Peter Lely, Họa sĩ chính Thường trực của Charles II, trong đó Công nương ngồi cùng với một nam hầu cận người Ấn Độ, tay cầm một chùm nho và mặc trang phục lụa màu hồng. Ngày nay, bức tranh được treo ở Triển lãm Nghệ thuật York.
Nhà sử học nghệ thuật Anna Brownell Jameson đã mô tả Charlotte Fitzroy là người "có sắc đẹp sánh ngang với mẹ, nhưng lại không giống mẹ ở mọi khía cạnh còn lại."
Có vẻ như Charles II là một người cha đầy yêu thương đối với Charlotte. Năm 1682, Quốc vương đã viết cho con gái rằng: "Cha phải nói với con rằng cha rất vui khi biết con đã mang thai, và cha hy vọng được gặp con sớm, để cha có thể cảm thấy hạnh phúc khi nói với con rằng cha thương con đến nhường nào, và là cha tốt của bon, Charles Quốc vương".
Hôn nhân và con cái
Ngày 16 tháng 5 năm 1674, trước sinh nhật thứ mười, Công nương Charlotte đã ký thỏa thuận với Ngài Edward Lee, và hai ngườikết hôn vào ngày 6 tháng 2 năm 1677, vào năm Charlotte được mười ba tuổi. Khi Charles Stewart, Công tước thứ 6 xứ Lennox qua đời vào năm 1673, Edward được phong làm Bá tước xứ Lichfield. Của hồi môn của Charlotte được thỏa thuận là 18.000 bảng Anh và chồng Edward được nhận khoản trợ cấp 2.000 bảng Anh mỗi năm.
Hai vợ chồng có mười tám người con:
Charlotte Lee, Nam tước phu nhân Baltimore (13 tháng 3 năm 1678 (Phong cách cũ) – 22 tháng 1 năm 1721),
Kết hôn lần 1 với Benedict Calvert, Nam tước Baltimore thứ 4 và có sáu người con.
Kết hôn lần 2 Christopher Crowe, Quan chấp chính Leghorn và có bốn người con.
Charles Lee, Tử tước Quarendon (6 tháng 5 năm 1680 – 13 tháng 10 năm 1680).
Edward Henry Lee, Tử tước Quarendon (6 tháng 6 năm 1681 – 21 tháng 10 năm 1713).
Đại úy James Lee (13 tháng 11 năm 1682 – 1711).
Francis Lee (14 tháng 2 năm 1685).
Anne Lee, Phu nhân Anne Morgan (29 tháng 6 năm 1686 – mất 1716?), kết hôn với N Morgan.
Charles Lee (5 tháng 6 năm 1688 – 3 tháng 1 năm 1708).
George Henry Lee, Bá tước thứ 2 xứ Lichfield (12 tháng 3 năm 1690 – 15 tháng 2 năm 1743).
Francis Henry Fitzroy Lee (10 tháng 9 năm 1692 – mất 1730).
Elizabeth Lee (26 tháng 5 năm 1693 – 29 tháng 1 năm 1741).
Kết hôn lần 1 với Francis Lee, em họ. Có một con trai và hai con gái, người con cả, Elisabeth (mất năm 1736 tại Lyon) kết hôn với Henry Temple, con trai của Tử tước Palmerston thứ 1.
(2) Edward Young, năm 1731, tác giả cuốn Night-Thoughts, có một con trai. Có thông tin rằng Edward Young không bao giờ quên được cái chết của Elizabeth.
Barbara Lee (3 tháng 3 năm 1695 – mất năm 1729), kết hôn với George Browne, Nam tước thứ 3 xứ Kidington.
Mary Isabella Lee (6 tháng 9 năm 1697 – 28 tháng 12 năm 1697).
Fitzroy Lee (10 tháng 5 năm 1698 – chết trẻ).
Phó Đô đốc FitzRoy Henry Lee (2 tháng 1 năm 1700 – tháng 4 năm 1751), Thống đốc bang Newfoundland.
William Lee (24 tháng 6 năm 1701 – chết trẻ).
Thomas Lee (25 tháng 8 năm 1703 – chết trẻ).
John Lee (3 tháng 12 năm 1704 – chết trẻ).
Robert Lee, Bá tước thứ 4 xứ Lichfield (3 tháng 7 năm 1706 – 3 tháng 11 năm 1776).
Qua đời và di sản
Charlotte qua đời vào ngày 17 tháng 2 năm 1718, thọ 53 tuổi và được chôn cất tại Khu đất của Nhà thờ Các Thánh ở Spelsbury, Oxfordshire, Anh.
Một tòa nhà được xây dựng ngay bên cạnh ngôi nhà của Charlotte mà sau này được biết đến với cái tên là số 10 phố Downing.
Tổ tiên
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Vương tộc Stuart
Con ngoại hôn của quân vương Anh
Con ngoại hôn của quân vương Scotland
Con ngoại hôn của Quốc vương
Người Anh thế kỷ 18
Sinh năm 1664
Mất năm 1718
|
19847900
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%C3%AAn%20Nh%E1%BA%A5t%20K%E1%BB%B3
|
Viên Nhất Kỳ
|
Viên Nhất Kỳ (giản thể: 袁一琦, phồn thể: 袁一琦, bính âm: Yuán Yī Qí; sinh ngày 19 tháng 3 năm 2000) là một nữ ca sĩ và diễn viên người Trung Quốc trực thuộc công ty giải trí Công ty TNHH văn hóa truyền thông Thượng Hải Ti Ba Cô là thành viên thế hệ thứ 7 của nhóm nhạc nữ thần tượng SNH48 thuộc Team HII.
Sự nghiệp
Ngày 15 tháng 9 năm 2016, cô trở thành thành viên thế hệ thứ 7 của SNH48 và gia nhập SNH48 Team HII. Ngày 27 tháng 9, SNH48 giành giải Nhóm nhạc xuất sắc nhất năm trên BXH Bài hát mới châu Á. Ngày 17 tháng 10, SNH48 phát hành EP "Princess Cloak" cho SNH48's 3rd Annual Idol Popularity Finals Song Report. Ngày 5 tháng 11 cô tham gia SNH48’s 2nd Annual Fashion Awards. Ngày 21 tháng 12, cô cùng SNH48 phát hành EP “Khoảnh khắc đầu năm”.
Ngày 7 tháng 1 năm 2017, cô tham gia 3rd Annual Golden Melody Awards Concert của SNH48 GROUP và bài hát "The Ringtone" cô trình diễn cùng Team HII SNH48 đã giành vị trí thứ 48. Ngày 17 tháng 3, cô phát hành EP "Tương lai của chúng ta" cùng SNH48. Ngày 19 tháng 5, cô cùng SNH48 phát hành EP "Summer Pirates". Ngày 29 tháng 7, cô tham gia SNH48 GROUP 4th Annual Idol Popularity Finals Concert với ca khúc "Trái tim bay lượn" với vị trí thứ 56. Ngày 18 tháng 10, album "Dawn of Naples" được phát hành cùng SNH48. Ngày 8 tháng 11, MV đĩa đơn "Uniform Faith" do cô tham gia ghi hình báo cáo nhóm tổng tuyển cử lần thứ 4 đã chính thức ra mắt. Ngày 18 tháng 11, cô tham gia "SNH48 GROUP×MINA 3rd Annual Fashion Awards". Ngày 20 tháng 12, cô phát hành EP "Sweet festival" cùng SNH48.
Ngày 3 tháng 2 năm 2018, cô tham gia 4th Annual Golden Melody Awards Concert của SNH48 GROUP. Ca khúc "Một lần nữa yêu" do cô cùng Vương Vũ Huyên, Hoàng Ân Như, Thẩm Mộng Dao trình diễn giành vị trí thứ 9, và ca khúc "Hoa cùng lửa" cô biểu diễn cùng SNH48 Team HII cũng giành được vị trí thứ 49. Ngày 26 tháng 3, cô phát hành EP "Chương Nhạc Tương Lai" cùng SNH48. Ngày 7 tháng 4, cô lần đầu tiên tham gia SNH48 Idol Games và giành chức vô địch trong cuộc đua 25M * 8. Ngày 17 tháng 5, cô cùng SNH48 phát hành EP "Quy Luật Rừng Xanh". Ngày 28 tháng 7, cô tham gia "Chỉ Lệ Tiền Hành" 5th Annual Idol Popularity Finals Concert của SNH48 GROUP. Ngày 19 tháng 8, cô cùng SNH48 giành giải Nhóm nhạc xuất sắc nhất 2018 tại Asian New Song Chart. Ngày 27 tháng 10, cô tham gia "SNH48 GROUP x Mina 4th Annual Fashion Awards". Ngày 20 tháng 12, album “Now and Forever” được cô cùng SNH48 phát hành.
Ngày 19 tháng 1 năm 2019, cô tham gia 5th Annual Golden Melody Awards Concert của SNH48 GROUP, cô cùng Từ Tử Hiên, Ngô Triết Hàm, Dương Băng Di, Trương Di, Trương Đan Tam và Trương Quỳnh Dư thành lập nhóm 7 người DeMOON. Ngày 22 tháng 3, SNH48 phát hành album báo cáo "Our Journey" cho 5th Golden Melody Awards. Ngày 13 tháng 4, cô tham gia Idol Games lần thứ 2 của SNH48 GROUP và giành chức vô địch ở bộ môn nhảy cao. Ngày 25 tháng 5, SNH48 phát hành EP bình chọn độc quyền "Dream in a Summer" cho vòng chung kết lần thứ 6. Ngày 23 tháng 6, chương trình truyền hình Thiên Thiên Hướng Thượng của Đài truyền hình vệ tinh Hồ Nam do cô tham gia ghi hình đã được phát sóng. Ngày 27 tháng 7, trong tổng tuyển cử lần thứ 6 New Journey của SNH48 GROUP cô đã giành được vị trí thứ 21. Lần đầu xuất hiện tại buổi hòa nhạc cùng DeMOON, và trình diễn đĩa đơn chưa phát hành "Hồ Ly (Fox)". Ngày 23 tháng 8, với tư cách là thành viên của SNH48 GROUP TOP32, cô đã được mời tham dự SOBA Korea Awards 2019 thay mặt cho SNH48 và giành được Giải thưởng Nghệ sĩ làn sóng Hàn Quốc mới ngoài nước. Ngày 15 tháng 9, DeMOON đã phát hành EP đầu tiên của nhóm mang tên "DeMOON". Ngày 17 tháng 9, EP "Bài Hát Thời Gian" được phát hành cùng SNH48. Ngày 22 tháng 10, ca khúc cô tham gia quay MV "Brave or Not" cho lần tổng tuyển cử thứ 6 chính thức ra mắt. Ngày 17 tháng 11, cô tham dự Asian Music Festival 2019 cùng DeMOON và giành được Giải thưởng Nhóm nhạc nữ mới danh dự hàng năm. Ngày 21 tháng 12, cô tham gia 6th Annual Golden Melody Awards Concert của SNH48 GROUP, ca khúc "Cuộc gọi nhỡ" do cô trình diễn cùng Lý Vũ Kỳ giành được vị trí thứ 7 trong nhóm Vân Khả.
Ngày 29 tháng 5 năm 2020, chương trình thi đấu nhóm nhạc của kênh Tencent Video Chúng Ta Nhiệt Huyết cô tham gia được phát sóng. Ngày 15 tháng 6, MV ca khúc chủ đề "Trời Trong Rồi" trong EP cùng tên trong tổng tuyển cử lần 7 của SNH48 GROUP được ra mắt. Ngày 15 tháng 8, cô tham gia tổng tuyển cử lần 7 và giành được vị trí thứ 12. Ngày 8 tháng 9, đĩa đơn "Goodbye" được phát hành. Ngày 23 tháng 10, EP "Bộ ba tăng trưởng F.L.Y" được ra mắt cùng SNH48. Ngày 5 tháng 11, MV báo cáo của nhóm Ánh Sao cho lần tổng tuyển cử thứ 7 "How are you" được chính thức đăng tải. Ngày 10 tháng 11, cô phát hành đĩa đơn "I Don't Wanna Be With You". Ngày 22 tháng 12, single mừng năm mới "Happy Wonder World" được phát hành cùng SNH48 FAMILY GROUP. Ngày 25 tháng 12, MV ca khúc “Happy Wonder World” được phát hành trực tuyến.
Ngày 16 tháng 1 năm 2021, cô tham gia 7th Annual Golden Melody Awards Concert của SNH48 GROUP, cô cùng Đoàn Nghệ Tuyền giành được vị trí thứ 16 với ca khúc "9 to 9", và Team HII của cô cũng giành được Đội vinh quang của năm với ca khúc "Honor". Ngày 30 tháng 3, đĩa đơn "Can't See the Person Talking in the Mirror" được phát hành. Tháng 4, cô tham gia chương trình âm nhạc Youth and melody của kênh DRAGON TV với tư cách ca sĩ thuộc Siba Family Label, trong chương trình cô thể hiện ca khúc "Thiên Thiên". Ngày 26 tháng 5, EP "Flipped" được phát hành cùng SNH48. Ngày 28 tháng 6, đĩa đơn "Chỉ Một Lần Duy Nhất Của Chúng Ta" được ra mắt. Ngày 19 tháng 7, ca khúc "Youth Is a Blind Box" trong bộ phim The Day We Lit up the Sky được cô phát hành cùng Tôn Nhuế, Hứa Dương Ngọc Trác, Do Miểu và Trần Lâm. Ngày 7 tháng 8, cô tham gia tổng tuyển cử "48 Possibilities of the World" lần thứ 8 của SNH48 GROUP và giành được vị trí thứ hai.
Ngày 20 tháng 8 năm 2022 cô giành được vị trí thứ 3 trong tổng tuyển cử lần thứ 9 của SNH48 GROUP. Ngày 10 tháng 9, chương trình 50km Taohuawu cô tham gia của kênh Tencent Video được phát sóng.
Ngày 15 tháng 1 năm 2023, cô tham gia chương trình Kỳ ngộ tân niên dạ của Truyền hình vệ tinh Hà Nam cùng SNH48, cả nhóm trình diễn ca khúc "Thực dục tân niên", và điệu nhảy chủ đề năm mới "Thỏ vũ tân niên". Ngày 20 tháng 1, cô tham gia chương trình Gala Lễ hội mùa xuân truyền hình vệ tinh An Huy 2023. Ngày 5 tháng 2, cô tham gia Dạ tiệc lễ hội đèn lồng truyền hình vệ tinh An Huy 2023 cùng nhóm và trình diễn ca khúc "honor". Ngày 5 tháng 8, khi tham gia Annual Youth Ceremony 2023 của SNH48 GROUP và Siba Family 10th Anniversary Concert, "Mười năm tuổi trẻ, những vì sao tỏa sáng", Viên Nhất Kỳ đã giành được Giải Vàng dành cho thành viên có ảnh hưởng của năm và danh hiệu QUEEN cho mức độ nổi tiếng cao nhất năm.
Nhân Vật
Sở thích: Hát, trượt ván, chơi game.
Kĩ năng: Hát, chơi game, đánh trống, nhảy .
Thích chơi " Overwatch " và đã ghi được hơn 4.000 điểm nên được người hâm mộ gọi là cô gái 4.000 điểm.
Danh sách đĩa nhạc
EP
SNH48 EP
SNH48 Albums
Trình diễn sân khấu
Trình diễn hòa nhạc
Sáng tác
Danh sách phim
Chương trình truyền hình
Giải thưởng và đề cử
Đại ngôn, đại diện
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2000
Nhân vật còn sống
Họ Viên
Người Tứ Xuyên
Ca sĩ Trung Quốc
Nữ ca sĩ Trung Quốc
Nữ diễn viên Trung Quốc
Diễn viên Trung Quốc
Nghệ sĩ Trung Quốc sinh năm 2000
Thành viên của SNH48
CPop
|
19847910
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rausu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Rausu, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Menashi, phó tỉnh Nemuro, Hokkaido, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.722 người và mật độ dân số là 12 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 397,88 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Phó tỉnh Nemuro
Shibetsu
Phó tỉnh Okhotsk
Shari
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19847912
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Catherine%20Darnley%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20phu%20nh%C3%A2n%20x%E1%BB%A9%20Buckingham%20v%C3%A0%20Normanby
|
Catherine Darnley, Công tước phu nhân xứ Buckingham và Normanby
|
Catherine Darnley, Công tước phu nhân xứ Buckingham và Normanby (khoảng 1681 – 13 tháng 3 năm 1743), là người con ngoại hôn của James II của Anh, và đã kết hôn liên tiếp với hai nhà quý tộc người Anh.
Tiểu sử
Catherine Darnley là con gái của James II của Anh và tình nhân là Catherine Sedley, Bá tước xứ Dorchester. Catherine được ban cho họ Darnley, thể hiện mối liên hệ giữa Catherine và tổ tiên là Henry Stuart, Lãnh chúa Darnley. Có một số nghi ngờ về quan hệ cha con giữa Catherine Darnley và James II vì mẹ của Công nương là Catherine Sedley được cho là có những người tình khác. Theo sắc lệnh của vương thất, Công nương Catherine Darnley được hưởng địa vị dành cho con gái của Công tước. Phù hiệu của Catherine được James II phong tặng ngày nay được kết hợp với phù hiệu của Hầu tước xứ Normanby, cho thấy rằng James II đã chấp nhận Catherine là con ruột của mình.
Người chồng đầu tiên của Catherine là James Annesley, Bá tước thứ 3 xứ Anglesey, kết hôn vào ngày 28 tháng 10 năm 1699 tại Tu viện Westminster. Cặp đôi ly thân vào năm 1701 theo Đạo luật Quốc hội, với lý do là vì bản tính tàn ác của bá tước, và Bà Bá tước cho rằng James Annesley đã cố giết chết mình. Catherine quyết rời bỏ chồng trong khi James đang có gắng giữ ghế trong Thượng Nghị viện thông qua địa vị của Catherine. James mắc bệnh lao và qua đời sớm vào năm 1702.
Catherine và James có một con gái là Catherine Annesley (khoảng 1700–1736), kết hôn lần thứ nhất với William Phipps và lần thứ hai với John Sheldon (hoặc Skelton).
Ngày 16 tháng 3 năm 1706, Thái Bá tước phu nhân Catherine kết hôn với tư cách là vợ thứ ba của John Sheffield, Công tước thứ 1 xứ Buckingham và Normanby. Đám cưới diễn ra tại Nhà thờ St Martin-in-the-Fields. Công tước xứ Buckingham và Normanby là một người ủng hộ nhiệt thành của Quốc vương James II, lớn hơn Catherine khoảng ba mươi tuổi và hai vợ chồng có ba người con, hai trong số đó đã qua đời khi còn nhỏ:
John Sheffield, Hầu tước xứ Normanby (1710)
Robert Sheffield, Hầu tước xứ Normanby (1711-1715)
Edmund Sheffield, Công tước thứ 2 xứ Buckingham và Normanby (1716-1735), qua đời khi chưa lập gia đình.
Những cuộc hôn nhân trước đây của ngài công tước được cho là không hạnh phúc, nhưng John lại rất yêu Catherine, và người bạn của hai vợ chồng là Alexander Pope tuyên bố rằng "bất cứ khi nào hai người họ có bất kỳ sự đối lập quan điểm nào... John sẽ không chờ đến giờ ăn tối... hay cho đến khi Catherine trở về phòng cậu ấy, nhưng luôn bỏ sổ sách hoặc công việc để đến bên vợ và nói: "Em à, em và anh không bao giờ nên bất hòa; và mặc dù anh vẫn nghĩ rằng mình đúng, em cứ làm mọi sự theo ý hướng của em." Khi John qua đời vào năm 1721, Catherine đã kêu gọi Giáo hoàng và Francis Atterbury cho sản xuất một ấn bản tưởng niệm các bài thơ và các tác phẩm khác của người chồng quá cố.
Vì tất cả những người con của Catherine đều đã qua đời trước Catherine, tước hiệu công tước đã bị tuyệt tự và các tước vị cũng như tài sản của người chồng quá cố của Catherine được kế thừa bởi đứa con ngoài giá thú của John là Ngài Charles Herbert Sheffield, Tòng Nam tước thứ 1. Hậu duệ của con gái Catherine, Catherine Annesley gồm có Constantine Phipps, Nam tước Mulgrave thứ 1, Henry Phipps, Bá tước thứ 1 xứ Mulgrave, Sĩ quan Hải quân Vương thất Charles Phipps và Sĩ quan Quân đội Anh Edmund Phipps.
Tổ tiên
<center>
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Vương tộc Stuart
Con ngoại hôn của quân vương Anh
Con ngoại hôn của Quốc vương
Công tước phu nhân Anh
Bá tước phu nhân Anh
Chôn cất tại tu viện Westminster
Sinh thập niên 1680
Mất năm 1743
|
19847915
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20%C4%91i%E1%BB%83m%20kh%E1%BA%A3o%20c%E1%BB%95%20thung%20l%C5%A9ng%20Upano
|
Các địa điểm khảo cổ thung lũng Upano
|
Các địa điểm khảo cổ thung lũng Upano là một cụm các địa điểm khảo cổ trong rừng nhiệt đới Amazon. Các địa điểm này nằm ở thung lũng sông Upano ở phía đông Ecuador. Các địa điểm khảo cổ này bao gồm một số thành phố, mà các nhà khảo cổ cho rằng có khoảng 10.000 cư dân đã từng sinh sống tại đây, thời điểm hưng thịnh có thể đạt từ 15.000 - 30.000 dân từ năm 500 trước Công nguyên, là khu vực tập trung dân cư có trước bất kỳ xã hội Amazon nào từng được người ta biết đến hơn một thiên niên kỷ.
Lịch sử khai quật
Bằng chứng sớm nhất về việc định cư thời tiền hiện đại ở vùng Thung lũng Upano được tìm thấy vào thập niên 1970. , một nhà khảo cổ học thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia của Pháp, đã bắt đầu khai quật trong khu vực vào thập niên 1990. Việc thăm dò các địa điểm được tăng tốc sau khi chính phủ Ecuador tài trợ cho cuộc khảo sát bằng LIDAR đối với thung lũng Upano vào năm 2015, tạo điều kiện cho việc phát hiện thêm nhiều khu định cư hơn những gì đã được phát hiện trước đó. Nhóm của Rostain đã công bố những phát hiện của họ từ cuộc khảo sát LIDAR trên Science vào tháng 1 năm 2024.
Tham khảo
Khám phá khảo cổ thập niên 1970
Khám phá khảo cổ năm 2024
Khu dân cư được thành lập vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên
Địa điểm khảo cổ ở Ecuador
Văn hóa khảo cổ Nam Mỹ
Người bản địa tiền Colombia ở Amazon
Tỉnh Morona-Santiago
Rừng nhiệt đới Amazon
Rừng mưa Amazon
Khu dân cư thành lập thế kỷ 6 TCN
en:Upano Valley sites
|
19847916
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bihoro%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Bihoro, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Abashiri, phó tỉnh Okhotsk, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 18.697 người và mật độ dân số là 43 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 438,36 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19847922
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karoline%20Luise%20x%E1%BB%A9%20Hessen-Darmstadt
|
Karoline Luise xứ Hessen-Darmstadt
|
Karoline Luise xứ Hessen-Darmstadt (tiếng Đức: Karoline Luise von Hessen-Darmstadt; 11 tháng 7 năm 1723 – 8 tháng 4 năm 1783), là người vợ đầu tiên của Karl Friedrich xứ Baden và là con gái của Bá tước Ludwig VIII và Charlotte xứ Hanau-Lichtenberg. Bà có 2 hậu duệ trở thành Đại công tước xứ Baden, trước khi ngai vàng của Baden rơi vào tay hậu duệ của người vợ thứ 2 của Đại công tước Karl vì tuyệt tự dòng nam. Karoline được xem là một nghệ sĩ, một nhà khoa học, nhà sưu tập và chuyên gia thẩm mỹ.
Tiểu sử
Karoline Luise sinh ngày 11 tháng 7 năm 1723 là con gái duy nhất của Ludwig VIII xứ Hessen-Darmstadt và Charlotte xứ Hanau-Lichtenberg. Năm 1726, mẹ của Karoline Luise qua đời và Karoline được nuôi dưỡng bởi cha và ông bà ngoại ở Buchsweiler. Karoline Luise đã sớm được khen ngợi vì tính cách độc lập và sự đa tài của mình. Đã từng có dự tính gả Karoline Luise cho Công tước xứ Cumberland nhưng thất bại. Mặt khác, Karoline Luise cũng từng từ chối lời cầu hôn của Thân vương thế tử Johann Friedrich xứ Schwarzburg-Rudolstadt.
Ngày 28 tháng 1 năm 1751, Karoline Luise kết hôn với Phong địa bá tước (Landgraf) kém bốn tuổi Karl Friedrich xứ Baden-Durlach. Cuộc hôn nhân được dàn xếp để "thắt chặt mối quan hệ giữa hai bên gia đình nhưng dần trở thành một cuộc hôn nhân hạnh phúc vì tình cảm chân thành từ hai bên.
Bà được mô tả là một người phụ nữ có học thức, nói được 5 thứ tiếng và góp phần đưa kinh đô Karlsruhe của Baden trở thành trung tâm văn hoá ở Đức. Bá kết giao với Voltaire, Johann Gottfried Herder, Johann Kaspar Lavater, Johann Wolfgang von Goethe, Friedrich Gottlieb Klopstock, Christoph Willibald Gluck và Christoph Martin Wieland. Bà là thành viên của dàn nhạc cung đình Markgräflich Baden và Học viện Mỹ thuật Đan Mạch, bà có một phòng thí nghiệm được thành lập trong cung điện Karlsruhe.
Cô tự nuôi sống bản thân từ thu nhập của mình và quản lý một nhà máy sản xuất xà phòng và nến. Sức khỏe của bà bị xuống cấp do một cú ngã vào năm 1779, và bà qua đời vì đột quỵ trong chuyến đi cùng con trai. Bộ sưu tập của bà là nền tảng của Staatliche Kunsthalle Karlsruhe và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Bang Karlsruhe.
Con cái
Karl Ludwig (14 tháng 2 năm 1755 – 16 tháng 12 năm 1801), có con trai Karl Ludwig Friedrich trở thành Đại Công tước xứ Baden vào năm 1811.
Friedrich (29 tháng 8 năm 1756 – 28 tháng 5 năm 1817) kết hôn với Luise xứ Nassau-Usingen (16 tháng 8 năm 1776 – 19 tháng 2 năm 1829), con gái của Friedrich xứ Nassau-Usingen vào ngày 9 tháng 12 năm 1791.
Ludwig (9 tháng 2 năm 1763 – 30 tháng 3 năm 1830) kết hôn Katharina Werner xứ Langenstein năm 1818. Ludwig kế vị cháu trai Karl trở thành Đại Công tước xứ Baden năm 1818.
Một con trai (29 tháng 7 năm 1764 – 29 tháng 7 năm 1764)
Luise Auguste, Đại Công nữ Baden (8 tháng 1 năm 1767 – 11 tháng 1 năm 1767)
Tổ tiên
Tham khảo
|-
Gia tộc Hessen-Darmstadt
Gia tộc Zähringen
Sinh năm 1723
Mất năm 1783
Nhà côn trùng học Đức
|
19847929
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n%20%C4%91o%C3%A0n%20Donetsk%20s%E1%BB%91%201
|
Quân đoàn Donetsk số 1
|
Quân đoàn Lục quân Donetsk số 1 (tiếng Nga: 1-й Донецкий армейский корпус) là một đơn vị của Lục quân Nga thuộc biên chế của Quân khu Nam, nhưng trước đây vốn là một đơn vị dân quân của Cộng hòa Nhân dân Donetsk. Đơn vị chính thức được nhập vào Nga vào ngày 31 tháng 12 năm 2022 sau khi Nga sáp nhập lãnh thổ Donetsk chiếm đóng được.
Cơ cấu
Quân đoàn Lục quân Donetsk số 1 bao gồm khoảng sáu lữ đoàn bộ binh, một lữ đoàn pháo binh, một trung đoàn xe tăng:
Lữ đoàn xạ kích mô tô hóa cận vệ số 1 "Slavyansk" (số hiệu 00100)
Lữ đoàn xạ kích mô tô hóa số 5 "Oplot" (số hiệu 08805)
Lữ đoàn xạ kích mô tô hóa số 95
Lữ đoàn xạ kích mô tô hóa cận vệ số 110 (số hiệu 08826) (Trước đây là lữ đoàn xạ kích mô tô hóa số 100)
Lữ đoàn xạ kích mô tô hóa cận vệ số 114 (số hiệu 08818) (trước đây là trung đoàn xạ kích mô tô số 11)
Lữ đoàn xạ kích mô tô hóa cận vệ số 132 (số hiệu 08803) (trước đây là lữ đoàn xạ kích mô tô hóa số 3)
Lữ đoàn cao xạ cận vệ số 14 "Kalmius" (số hiệu 08802)
Trung đoàn xe tăng cận vệ số 10 (số hiệu 08810) (trước đây là tiểu đoàn xe tăng cận vệ số 10)
Tiểu đoàn Sparta
Xem thêm
Quân đoàn Lugansk-Severodonetsk Cận vệ số 2
Tham khảo
Quân đoàn của Liên bang Nga
Đơn vị quân đội Nga tham chiến tại Ukraine
|
19847937
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Engaru%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Engaru, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Monbetsu, phó tỉnh Okhotsk, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 19.241 người và mật độ dân số là 14 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 1.332,32 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19847938
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Egglestonichthys%20bombylios
|
Egglestonichthys bombylios
|
Egglestonichthys bombylios là một loài cá biển thuộc chi Egglestonichthys trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1997.
Từ nguyên
Từ định danh bombylios bắt nguồn từ bómbūx (βόμβυξ trong tiếng Hy Lạp cổ đại) nghĩa là “ong nghệ”, hàm ý đề cập đến kiểu hình của loài cá này giống với loài ong nghệ, cũng như cơ thể to chắc của nó.
Phân bố
E. bombylios ban đầu được biết đến ở ngoài khơi Lãnh thổ Bắc Úc, sau này được ghi nhận thêm tại khu vực vịnh Nha Trang–vịnh Vân Phong (Việt Nam) và bờ đông Trung Quốc.
E. bombylios được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 29 m.
Mô tả
Mẫu định danh của E. bombylios có chiều dài chuẩn lớn nhất là 4,5 cm. Mẫu vật thu thập từ Trung Quốc có chiều dài chuẩn là 5,4 cm.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9–10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 9–10; Số tia ở vây ngực: 20–22.
Phân loại
E. bombylios có quan hệ chặt chẽ với Larsonella pumilus và chi Priolepis.
Tham khảo
B
Cá Thái Bình Dương
Cá Trung Quốc
Cá Việt Nam
Động vật được mô tả năm 1997
|
19847941
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Duat
|
Duat
|
Duat (tiếng Ai Cập cổ đại: dwꜣt, phát âm "do-aht", Coptic: ⲧⲏ, còn xuất hiện như Tuat, Tuaut hoặc Akert, Amenthes, Amenti hoặc Neter-khertet) là thế giới ngầm trong thần thoại Ai Cập. Nó đã được thể hiện bằng chữ tượng hình như một ngôi sao trong vòng tròn: 𓇽. Thần Osiris được cho là chúa tể của thế giới ngầm. Ông là xác ướp đầu tiên được mô tả trong thần thoại Osiris và ông đã nhân cách hóa sự tái sinh và cuộc sống sau khi chết. Địa ngục cũng là nơi ở của nhiều vị thần khác cùng với Osiris.
Địa lý của Duat tương tự như phác thảo với thế giới mà người Ai Cập biết: Có những đặc điểm thực tế như sông, đảo, cánh đồng, hồ, gò đất và hang động, nhưng cũng có những hồ lửa tuyệt vời, những bức tường sắt và cây ngọc lam. Trong cuốn sách Hai cách (một văn bản quan tài) thậm chí còn có một hình ảnh giống như bản đồ của Duat.
Tham khảo
Duat
Địa ngục
|
19847958
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Christian%20II%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90an%20M%E1%BA%A1ch
|
Christian II của Đan Mạch
|
Christian II (1 tháng 7 năm 1481 – 25 tháng 1 năm 1559) là một vị quân chủ Scandinavia thuộc Liên minh Kalmar, ông cai trị với tư cách là Vua Đan Mạch và Na Uy từ 1513 đến 1523, vua của Thụy Điển từ 1520 đến 1521. Từ năm 1513 đến năm 1523, ông đồng thời là Công tước Schleswig và Holstein cùng cai trị với chú Frederik.
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
Dòng nhánh Hoàng gia tại trang web của quân chủ Đan Mạch
Vương tử
Vua theo đạo Công giáo Rôma
Quân vương Tin Lành
Liên minh Kalmar
Công tước xứ Holstein
Công tước xứ Schleswig
Mất năm 1559
Sinh năm 1481
|
19847966
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Frederik%20I%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90an%20M%E1%BA%A1ch
|
Frederik I của Đan Mạch
|
Frederik I (tiếng Đan Mạch và ; ; ; 7 tháng 10 năm 1471 – 10 tháng 4 năm 1533) là Vua Đan Mạch và Na Uy. Ông là vị vua Công giáo cuối cùng trị vì Đan Mạch và Na Uy, khi các vị vua tiếp theo theo đạo Luther sau cuộc Cải cách Tin lành. Với tư cách là vua của Na Uy, Frederick được biết đến là chưa bao giờ đến thăm đất nước này. Triều đại của ông bắt đầu truyền thống lâu đời là gọi tên các vị vua Đan Mạch bằng Christian và Frederik.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
Dòng nhánh Hoàng gia tại trang web của quân chủ Đan Mạch
Vương tử
Người Đan Mạch thế kỷ 15
Công tước xứ Holstein
Công tước xứ Schleswig
Vua theo đạo Công giáo Rôma
Mất năm 1533
Sinh năm 1471
|
19847974
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Charles%20FitzRoy%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20th%E1%BB%A9%202%20x%E1%BB%A9%20Cleveland
|
Charles FitzRoy, Công tước thứ 2 xứ Cleveland
|
Charles Palmer, sau là Charles FitzRoy, Công tước thứ 2 xứ Cleveland, Công tước thứ 1 xứ Southampton, KG, (18 tháng 6 năm 1662 – 9 tháng 9 năm 1730), được gọi bằng tước hiệu nhã xưng là Nam tước Limerick trước năm 1670; Bá tước xứ Southampton từ năm 1670 đến năm 1675; và được biết đến là Công tước xứ Southampton từ năm 1675 cho đến năm 1709, khi Charles kế vị mẹ là Công tước xứ Cleveland.
Những năm đầu đời
Charles Palmer, sau là "FitzRoy", sinh ngày 18 tháng 6 năm 1662, là con trai của Charles II của Anh và tình nhân là Barbara Villiers, Công tước thứ 1 xứ Cleveland. Ban đầu, Charles được Roger Palmer, Bá tước thứ 1 xứ Castlemaine, chồng của Barbara, tuyên bố là con trai và là người thừa kế của mình trước khi Quốc vương Charles II công khai thừa nhận Charles là con trai của nhà vua.
Charles là người con lớn thứ ba trong số các người con của Charles II với Barbara Villiers. Ban đầu, vì được coi là con trai của Bá tước xứ Castlemaine, ngay từ khi sinh ra Charles đã được gọi là "Lãnh chúa Limerick", gọi theo tước hiệu cao thứ hai của ngài Bá tước là Nam tước Limerick. Sự ra đời của Charles trùng vào lúc vọ chồng Bá tước ly thân. Ngài Castlemaine, một tín hữu Công giáo La Mã, đã rửa tội cho Charles theo đức tin Công giáo, nhưng sáu ngày sau, Quốc vương đã cho Charles rửa tội một lần nữa với tư cách là một tín hữu Anh giáo.
Cuộc sống cá nhân
Năm 1670, khi tám tuổi, Charles đính hôn với Mary Wood, người con cũng như là người thừa kế duy nhất của Henry Wood, Tòng Nam tước thứ 1, nhưng với điều kiện là cuộc hôn nhân phải hoãn lại cho đến khi Mary được 16 tuổi. Sau cái chết của cha, Nữ Công tước xứ Cleveland ít nhiều đã ép buộc Mary ở với mình, với ý định nuôi dưỡng Mary cùng các con. Năm 1675, Charles FitzRoy được Vua cha Charles II phong tước hiệu Công tước xứ Southampton, cùng với các tước hiệu khác là Bá tước xứ Chichester và Nam tước Newbury. Charles kết hôn với Mary Wood vào năm 1679 nhưng cuộc hôn nhân chỉ kéo dài vài tháng vì Mary qua đời vì bệnh đậu mùa. Hai người cũng không có con chung.
Năm 1694, Charles tái hôn với Anne Pulteney, con gái của Ngài William Pulteney, ở Misterton, Leicestershire. Hai vợ chồng có sáu người con:
Grace FitzRoy, Bá tước phu nhân xứ Darlington, sinh ngày 28 tháng 3 năm 1697, kết hôn năm 1725 với Henry Vane, sau được phong là Bá tước xứ Darlington.
William FitzRoy, Công tước thứ 3 xứ Cleveland và Công tước thứ 2 xứ Southampton (19 tháng 2 năm 1698 – 18 tháng 5 năm 1774).
Charles Fitzroy (13 tháng 2 năm 1698 – 31 tháng 7 năm 1723).
Henry Fitzroy (17 tháng 8 năm 1701 – 1709).
Anne FitzRoy, (12 tháng 11 năm 1702 - 13 tháng 2 năm 1769), kết hôn với John Paddey.
Barbara FitzRoy, qua đời mà không lập gia đình.
Sau cái chết của mẹ vào năm 1709, Charles trở thành Công tước thứ hai xứ Cleveland, thông qua điều khoản bổ sung đặc biệt cho phép Charles thừa kế tước hiệu bất chấp là con ngoại hôn.
Charles FitzRoy qua đời vào ngày 9 tháng 9 năm 1730 và được chôn cất tại Tu viện Westminster. Tước hiệu của Charles được truyền thừa cho người con trai cả là William FitzRoy (1698–1774), William qua đời mà không có hậu duệ, do đó tất cả các tước hiệu của Charles trở lại với Vương quyền.
Tổ tiên
Ghi chú
Tham khảo
Công tước xứ Cleveland
Bá tước xứ Southampton
Vương tộc Stuart
Công tước Anh
Công tước thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh
Con ngoại hôn của quân vương Anh
Con ngoại hôn của quân vương Scotland
Con ngoại hôn của Quốc vương
Chôn cất tại tu viện Westminster
Hiệp sĩ Garter
Người Anh thế kỷ 18
Sinh năm 1662
Mất năm 1730
|
19847975
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Frederik%20II%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90an%20M%E1%BA%A1ch
|
Frederik II của Đan Mạch
|
Frederick II (1 tháng 7 năm 1534 – 4 tháng 4 năm 1588) là Vua của Đan Mạch và Na Uy, Công tước xứ Schleswig và Holstein từ năm 1559 cho đến khi ông qua đời.
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
Dòng nhánh Hoàng gia tại trang web của quân chủ Đan Mạch
Frederick II tại trang web của Bộ sưu tập Hoàng gia Đan Mạch
Hiệp sĩ Garter
Chôn cất tại nhà thờ chính tòa Roskilde
Quân vương Tin Lành
Công tước xứ Holstein
Công tước xứ Schleswig
Mất năm 1588
Sinh năm 1534
|
19847981
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Frederik%20III%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90an%20M%E1%BA%A1ch
|
Frederik III của Đan Mạch
|
Frederik III ( ; 18 tháng 3 năm 1609 – 9 tháng 2 năm 1670) là Vua của Đan Mạch và Na Uy từ năm 1648 cho đến khi qua đời vào năm 1670.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Dòng dõi Hoàng gia tại trang web của Chế độ quân chủ Đan Mạch
Frederik III tại trang web của Bộ sưu tập Hoàng gia Đan Mạch
Lex Regia (Konge-Lov)
Chôn cất tại nhà thờ chính tòa Roskilde
Công tước xứ Holstein
Công tước xứ Schleswig
Bá tước xứ Oldenburg
Mất năm 1670
Sinh năm 1609
|
19847998
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kristine%20Froseth
|
Kristine Froseth
|
Kristine Froseth (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1996) là một nữ diễn viên người Hoa Kỳ. Cô được biết đến với vai Kelly Aldrich trong loạt phim Netflix The Society và Alaska Young trong loạt phim Hulu Looking for Alaska. Năm 2022, cô đóng vai chính trong loạt phim Showtime The First Lady trong vai Betty Ford thời trẻ.
Tiểu sử
Froseth sinh ngày 21 tháng 9 năm 1995 tại Summit, New Jersey, với cha mẹ là người Na Uy. Tuổi thơ của cô trải qua những chuyến du lịch qua lại giữa Oslo và New Jersey do công việc của cha cô.
Danh sách phim
Điện ảnh
2017: Rebel in the Rye ... Shirley Blaney
2018: Sierra Burgess Is a Loser ... Veronica
2018: Apostle ... Ffion
2019: Prey ... Madeleine
2019: Low Tide ... Mary
2019: The Assistant ... Sienna
2021: Birds of Paradise ... Marine Elise Durand
2022: Sharp Stick ... Sarah Jo
2022: How to Blow Up a Pipeline ... Rowan
Truyền hình
2016: Junior ... Jess
2017: Let the Right One In ... Eli
2018: The Truth About the Harry Quebert Affair ... Nola Kellergan
2019: The Society ... Kelly
2019: Looking for Alaska ... Alaska Young
2020: When the Streetlights Go On ... Chrissy Monroe
2022: The First Lady ... Betty Ford (young)
2022: American Horror Stories ... Coby Rae Dellum
2023: The Buccaneers ... Nan St. George
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1996
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên truyền hình Mỹ
Nữ diễn viên điện ảnh Mỹ
Người Mỹ gốc Na Uy
Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 21
Nữ diễn viên điện ảnh Na Uy
Sinh năm 1995
Nữ diễn viên từ New Jersey
Nữ người mẫu Na Uy
|
19847999
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20n%C4%83m%20t%E1%BA%A1i%20Yemen
|
Danh sách năm tại Yemen
|
Đây là Danh sách năm tại Yemen.
Thế kỷ 20
Thập niên 1990: 1990, 1991, 1992, 1993, 1994, 1995, 1996, 1997, 1998, 1999
Thế kỷ 21
Thập niên 2000: 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009
Thập niên 2010: 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019
Thập niên 2020: 2020, 2021, 2022, 2023, 2024
Yemen theo năm
Lịch sử Yemen
Danh sách lịch sử Yemen
Danh sách năm theo quốc gia
|
19848001
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Glossogobius%20circumspectus
|
Glossogobius circumspectus
|
Glossogobius circumspectus là một loài cá nước lợ thuộc chi Glossogobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1883.
Từ nguyên
Tính từ định danh circumspectus trong tiếng Latinh có nghĩa là “thận trọng, kỹ lưỡng”, nhưng không có bằng chứng đề cập đến hàm ý của tên gọi.
Phân bố và môi trường sống
G. circumspectus được ghi nhận từ tỉnh Kagoshima (Nam Nhật Bản) và đảo Đài Loan trải dài về phía nam đến bờ bắc Úc (), băng qua khu vực Đông Nam Á ở Tây Thái Bình Dương, phía đông đến đảo New Guinea và quần đảo Solomon. Ở Việt Nam, G. circumspectus được ghi nhận tại lưu vực sông Mê Kông và khu vực vịnh Nha Trang–vịnh Vân Phong.
G. circumspectus được tìm thấy trên nền bùn, cát, sỏi ở vùng hạ lưu của các dòng nước ngọt, cách đất liền không quá 10 km, nhưng gần như luôn thấy ở vùng cửa sông và rừng ngập mặn. G. circumspectus là loài duy nhất trong chi sống trong rừng ngập mặn, trong khi các loài Glossogobius còn lại đều sống ở vùng nước ngọt.
Mô tả
Chiều dài tổng lớn nhất được ghi nhận ở G. circumspectus là 35 cm.
Tham khảo
C
Cá Thái Bình Dương
Cá Nhật Bản
Cá Đài Loan
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Thái Lan
Cá Malaysia
Cá Brunei
Cá New Guinea
Động vật quần đảo Solomon
Động vật được mô tả năm 1883
|
19848002
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shimamoto%2C%20%C5%8Csaka
|
Shimamoto, Ōsaka
|
là thị trấn thuộc huyện Mishima, tỉnh Ōsaka, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10, năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 30.927 người và mật độ dân số là 1.800 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 16,78 km2.
Tham khảo
Thị trấn Ōsaka
|
19848004
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BB%AFng%20qu%C3%BD%20c%C3%B4%20say%20x%E1%BB%89n
|
Những quý cô say xỉn
|
Những quý cô say xỉn (tiếng Hàn: 술꾼도시여자들, tiếng Anh: Drinker City Women/Work Later, Drink Now) là một bộ phim chiếu mạng dài tập của Hàn Quốc dựa trên tác phẩm Drinker City Women của Mikkang được đăng trên Kakao Webtoon, với sự tham gia diễn xuất của Lee Sun-bin, Han Sun-hwa, Jung Eun-ji và Choi Si-won. Mùa đầu tiên được phát sóng trên TVING gồm 12 tập từ ngày 22 tháng 10 đến ngày 26 tháng 11 năm 2021. Phần thứ hai được phát sóng trên TVING gồm 12 tập từ ngày 9 tháng 12 năm 2022 đến ngày 13 tháng 1 năm 2023.
Mùa đầu tiên được phát sóng lại trên mạng truyền hình tvN từ ngày 3 đến ngày 18 tháng 2 năm 2022, phát sóng thứ Tư và thứ Năm hàng tuần lúc 22:30 (KST) gồm 5 tập.
Tóm tắt
Bộ phim kể về câu chuyện của ba cô gái có niềm tin vào cuộc sống là một uống ly rượu vào cuối ngày.
Diễn viên
Chính
Lee Sun-bin vai Ahn So-hee
Một nhà văn tham công tiếc việc.
Han Sun-hwa vai Han Ji-yeon
Một huấn luyện viên yoga ngốc nghếch.
Jung Eun-ji vai Kang Ji-goo
Một Youtuber
Choi Si-won as Kang Book-goo
Giám đốc sản xuất giải trí (PD) và làm việc cùng bộ phận với Ahn So-hee.
Phụ
Han Ji-hyo vai Se Jin
Một cô gái không hề nhút nhát và có phong cách táo bạo.
Lee Hyun-jin as Ji-yong
Một anh chàng trẻ đẹp trai bị mắc kẹt trong tầm ngắm của Ji-yeon.
Lee Soo-min vai So-hyeon
Yoon Shi-yoon vai Han Woo-Joo/Mr. Nice Paper
Lee Yoon-ji vai Giáo viên dạy yoga
Diễn viên khách mời
Phần 1
Jung Eun-pyo vai bố của Ahn So-hee
Song Young-jae vai tàn xế Taxi
Kim Ji-seok vai Kim Hak Soo
Ha Do-kwon
Leeteuk
Song Jae-rim vai Song Pd
Jo Jung-chi vai bạn trai cũ của Ahn So-hee.
Park Yeong-gyu vai Tổng thống Park
Jung Seok-yong vai quản lý của Ahn So-hee
Shin Hyeon-seung vai Kang Jigu ex-boyfriend
Phần 2
Yoo In-young vai Kim Seon-jeong
Son Ho-jun
Jo Yu-ri vai Sieun
Jo Jung-chi vai bạn trai cũ của Ahn So-hee's
Lee Pil-mo vai bố của Han Ji-yeon
Tỉ lệ người xem
Tham khảo
Chú thích
Liên kết ngoài
Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2021
Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên
Chương trình chiếu mạng Hàn Quốc
Phim truyền hình dựa trên webtoon của Hàn Quốc
|
19848008
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201998
|
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1998
|
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới (FIFA World Cup) 1998 là một chuỗi các trận đấu được tổ chức bởi 6 liên đoàn bóng đá châu lục. Mỗi liên đoàn (AFC, CAF, CONCACAF, CONMEBOL, OFC và UEFA) được phân bổ số lượng nhất định đội bóng được tham dự FIFA World Cup 1998. Vòng loại được tổ chức nhằm chọn ra 32 đội bóng (trong số 174 đội tham gia vòng loại) từ 6 liên đoàn để tham dự FIFA World Cup 1998, trong đó chủ nhà và đương kim vô địch được vào thẳng không cần tham dự vòng loại.
Các đội vượt qua vòng loại
Phân bổ suất tham dự FIFA World Cup 1998
32 suất tham dự FIFA World Cup 1998 được phân bổ như sau:
Vòng loại các liên đoàn châu lục
Châu Á (AFC)
Có 36 đội là thành viên của AFC và FIFA tham dự vòng loại. Liên đoàn bóng đá châu Á được phân bổ 3,5 suất (trong tổng số 32 suất) tham dự FIFA World Cup 1998.
Vòng loại gồm 3 vòng như sau:
Vòng 1: 36 đội được chia vào 10 bảng (gồm các bảng 3 đội và các bảng 4 đội). Các đội trong 9 bảng (từ bảng 1 đến bảng 9) sẽ thi đấu vòng tròn 2 lượt với nhau để chọn ra đội nhất bảng vào vòng chung kết, riêng bảng 10 thì các đội chỉ thi đấu vòng tròn một lượt để chọn ra đội nhất bảng vào vòng chung kết. Tổng cộng có 10 đội được vào vòng chung kết
Vòng chung kết: 10 đội được chia thành 2 bảng (mỗi bảng có 5 đội). Các đội sẽ thi đấu theo thể thức sân nhà – sân khách để chọn ra đội nhất bảng tham dự FIFA World Cup 1998, hai đội đứng nhì bảng sẽ đá play-off.
Vòng play-off: 2 đội nhì bảng sẽ đá play-off một trận với nhau tại Malaysia. Đội thắng sẽ tham dự FIFA World Cup 1998, đội thua sẽ tham dự vòng play-off liên lục địa (với đại diện đến từ châu Đại Dương) để giành tấm vé cuối cùng tham dự FIFA World Cup 1998.
Bảng xếp hạng (vòng chung kết)
Vòng play-off (vòng 3)
Châu Phi
Có tổng cộng 38 đội đăng ký tham dự vòng loại. Tuy nhiên, và đều rút lui trước khi lễ bốc thăm diễn ra (nên chỉ còn 36 đội). Khu vực châu Phi được phân bổ 5 suất (trong số 32 suất) tham dự FIFA World Cup 1998.
Vòng loại gồm 2 vòng như sau:
Vòng 1: , , và (4 đội có thứ hạng FIFA cao nhất) được miễn vòng này và vào thẳng vòng chung kết. 32 đội còn lại được chia thành 16 cặp theo bốc thăm để thi đấu loại trực tiếp hai trận theo thể thức sân nhà – sân khách. Những đội chiến thắng sẽ tiến vào vòng chung kết.
Vòng chung kết: 20 đội (bao gồm 4 đội được vào thẳng và 16 đội vượt qua vòng 1) được chia thành 5 bảng (mỗi bảng có 4 đội). Các đội trong cùng bảng sẽ thi đấu với nhau theo thể thức sân nhà – sân khách. 5 đội đứng đầu bảng sẽ giành quyền tham dự FIFA World Cup 1998.
Bảng xếp hạng (vòng chung kết)
Bắc, Trung Mỹ và Caribe (CONCACAF)
Có 30 đội là thành viên của CONCACAF và FIFA tham dự vòng loại. , , , , và (6 đội có thứ hạng FIFA cao nhất) được vào thẳng vòng 3. 24 đội còn lại được chia thành hai khu vực dựa trên vị trí địa lý như sau:
Khu vực Caribe: 20 đội thi đấu theo ba lượt trận đấu loại trực tiếp trên sân nhà và sân khách để xác định 4 đội giành quyền vào vòng 3.
Khu vực Trung Mỹ: Bốn đội được xếp thành cặp để thi đấu loại trực tiếp theo thể thức sân nhà và sân khách. Hai đội chiến thắng sẽ tiến vào vòng thứ ba.
Ở vòng 3, 12 đội (bao gồm 6 đội được vào thẳng vòng 3 và 6 đội giành chiến thắng theo khu vực) được xếp vào 3 bảng (mỗi bảng 4 đội). Các đội thi đấu với nhau trên sân nhà và sân khách. Đội nhất và nhì bảng sẽ vào vòng chung kết.
Ở vòng chung kết, 6 đội (vượt qua vòng 3) thi đấu với nhau theo thể thức sân nhà và sân khách. 3 đội đứng đầu sẽ giành quyền tham dự FIFA World Cup 1998.
Bảng xếp hạng (vòng chung kết)
Nam Mỹ (CONMEBOL)
Tổng cộng có 10 đội CONMEBOL tham gia tranh tài. Khu vực Nam Mỹ được phân bổ 5 suất (trong tổng số 32 suất) tham dự FIFA World Cup 1998. (nhà đương kim vô địch) không cần tham dự vòng loại nên chỉ còn 9 đội tranh 4 suất còn lại.
Thể thức rất đơn giản. 9 đội sẽ thi đấu với nhau theo thể thức sân nhà và sân khách (mỗi đội sẽ đá 16 trận) để chọn ra 4 đội đứng đầu bảng tham dự FIFA World Cup 1998.
Bảng xếp hạng chung cuộc
Châu Đại Dương (OFC)
Có 10 dội tham dự vòng loại. Khu vực châu Đại Dương được phân bổ 0,5 suất (trong tổng số 32 suất) tham dự FIFA World Cup 1998.
Vòng loại gồm 3 vòng như sau:
Vòng 1: , , và (4 đội có thứ hạng FIFA cao nhất) được vào thẳng vòng 3. Sáu đội còn lại được chia thành 2 bảng (mỗi bảng 3 đội) gồm Melanesian Group và Polynesian Group, dựa trên khu vực địa lý. Các đội thi đấu với nhau một trận. Đội đứng đầu Melanesian Group sẽ tiến vào vòng 2. Đội đứng nhì Melanesian Group và đội đứng đầu của Polynesian Group sẽ tiến vào vòng play-off đầu tiên. Ở trận play-off, họ thi đấu với nhau theo thể thức sân nhà và sân khách. Đội thắng cuộc sẽ tiến vào vòng 2.
Vòng 2: 6 đội (bao gồm 4 đội được vào thẳng vòng này và 2 đội chiến thắng ở vòng 1) được chia thành 2 bảng (mỗi bảng 3 đội). Các đội thi đấu với nhau hai trận. Đội đứng đầu mỗi bảng sẽ tiến vào vòng chung kết.
Vòng chung kết: Hai đội thi đấu với nhau theo thể thức sân nhà và sân khách. Đội thắng sẽ giành quyền tham dự vòng play-off liên lục địa (với đại diện đến từ AFC).
Kết quả vòng chung kết
|}
Châu Âu (UEFA)
Tổng cộng có 50 đội UEFA tham gia tranh tài. UEFA được phân bổ 15 suất (trong tổng số 32 suất) tham dự FIFA World Cup 1998. Pháp (chủ nhà FIFA World Cup 1998) tự động vượt qua vòng loại. Do đó, 49 đội còn lại sẽ tham dự vòng loại để giành lấy 14 suất tham dự FIFA World Cup 1998.
49 đội được chia thành 9 bảng (gồm 4 bảng 6 đội và 5 bảng 5 đội). Các đội sẽ thi đấu với nhau theo thể thức sân nhà và sân khách. Đội đứng đầu bảng sẽ giành quyền tham dự FIFA World Cup 1998. Đội nhì bảng sẽ được xếp hạng theo thành tích của họ so với đội đứng thứ 1, 3 và 4 trong bảng của mình, đội có thành tích tốt nhất cũng sẽ vượt qua vòng loại. Đội á quân còn lại sẽ giành quyền tham dự Vòng play-off UEFA.
Ở vòng play-off, 8 đội được xếp cặp để thi đấu loại trực tiếp theo thể thức sân nhà và sân khách. Đội chiến thắng sẽ giành quyền tham dự FIFA World Cup 1998.
Bảng xếp hạng (vòng 1)
Vòng play-off
|}
Vòng play-off liên lục địa: AFC v OFC
Vòng này bao gồm một trận sân nhà và một trận sân khách giữa và . Các trận đấu lần lượt diễn ra tại Tehran và Melbourne.
Danh sách ghi bàn
19 bàn thắng
14 bàn thắng
Kazuyoshi Miura
Predrag Mijatović
12 goals
Iván Zamorano
11 goals
Marcelo Salas
Carlos Hermosillo
6 goals
Raúl Díaz Arce
Ali Daei
Choi Yong-soo
Savo Milošević
Chú thích
Liên kết ngoài
FIFA World Cup official site - 1998 World Cup qualification
RSSSF - 1998 World Cup Qualification
Giải vô địch bóng đá thế giới 1998
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới
|
19848011
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dr.STONE%20%28m%C3%B9a%201%29
|
Dr.STONE (mùa 1)
|
Dr.STONE là một bộ phim truyền hình anime Nhật Bản do TMS Entertainment sản xuất, dựa trên bộ truyện tranh cùng tên, được viết bởi Riichiro Inagaki, minh họa bởi Boichi và xuất bản trên tạp chí Weekly Shōnen Jump của Shūeisha. 3.700 năm sau khi ánh sáng bí ẩn biến toàn bộ người trên thế giới thành tượng đá, cậu bé thiên tài Senku Ishigami thoát khỏi trạng thái hóa đá, khi thế giới đã trở thành "Thế giới Đá" và tìm cách xây dựng lại nền văn minh nhân loại từ đầu. Bộ phim được đạo diễn bởi Shinya Iino, với Yuichiro Kido là người viết kịch bản và Yuko Iwasa là người thiết kế nhân vật. Kato Tatsuya, Hiroaki Tsutsumi và Yuki Kanesaka sáng tác nhạc cho bộ truyện. Mùa đầu tiên được phát sóng từ ngày 5 tháng 7 đến ngày 13 tháng 12 năm 2019 trên Tokyo MX và các kênh khác. Mùa đầu tiên bao gồm 24 tập. Anime này được Crunchyroll phát trực tuyến trên toàn thế giới bên ngoài Châu Á, và Funimation đã sản xuất một simuldub. Bản lồng tiếng Anh của anime bắt đầu được phát sóng trên khối lập trình Toonami của Adult Swim vào ngày 25 tháng 8 năm 2019.
Được sử dụng từ tập 1–13 là ca khúc chủ đề mở đầu đầu tiên là "Good Morning World!" của Burnout Syferences, trong khi ca khúc kết thúc đầu tiên là "Life" do Rude-α trình bày. Được sử dụng từ các tập 14–24 là nhạc chủ đề mở đầu thứ hai là do Pelican Fanclub trình bày, trong khi bài hát kết thúc thứ hai là do Saeki YouthK trình bày.
Các tập
Băng đĩa
Tiếng Nhật
Tiếng Anh
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
tại Crunchyroll
1
Mùa truyền hình Nhật Bản năm 2019
|
19848025
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%93n%20hoa
|
Phồn hoa
|
Phồn hoa () là một bộ phim truyền hình Trung Quốc do Vương Gia Vệ đạo diễn và chịu trách nhiệm sản xuất. Đây là một chuyển thể truyền hình từ tiểu thuyết Phồn hoa của nhà văn Kim Vũ Trừng. Lấy bối cảnh Thượng Hải vào thập niên 1990, bộ phim truyền hình này có sự tham gia của các diễn viên Hồ Ca, Mã Y Lợi, Đường Yên, và Tân Chỉ Lôi. Đây là bộ phim truyền hình đầu tiên trong sự nghiệp của Vương Gia Vệ và được coi là phần tiếp nối hai tác phẩm điện ảnh xuất sắc của ông là Tâm trạng khi yêu và 2046. Phồn hoa được công chiếu lần đầu tiên vào ngày 27 tháng 12 năm 2023 trên các nền tảng của CCTV-8 và Tencent Video.
Cốt truyện
Thượng Hải thập niên 1990 là thành phố tràn ngập cơ hội và những niềm hy vọng. A Bảo (Hồ Ca) nhờ vào những cơ hội của cải cách kinh tế và năng lực bản thân để vươn lên trong giới kinh doanh và trở thành cái tên trẻ tuổi Bảo Tổng được nhiều người kính nể trong giới kinh doanh ở phố Hoàng Hà. Trên bước đường đời, A Bảo không chỉ gặp rất nhiều trở ngại trên thương trường mà cuộc sống riêng của anh cũng có nhiều khúc mắc, nhất là trong mối quan hệ giữa anh và Linh Tử (Mã Y Lợi) và Uông Minh Châu (Đường Yên).
Bảng phân vai
Hồ Ca vai A Bảo
Mã Y Lợi vai Linh Tử
Đường Yên vai Uông Minh Châu
Tân Chỉ Lôi vai Lý Lý
Du Bổn Xương vai ông chú
Trần Long vai Đào Đào
Sản xuất
Tiền kỳ
Tháng 3 năm 2019, Vương Gia Vệ chính thức công bố kế hoạch chuyển thể tiểu thuyết Phồn hoa tại cuộc gặp mùa xuân của Hiệp hội biên kịch Hồng Kông. Theo đạo diễn họ Vương, ông đã ấp ủ tác phẩm này trong suốt 4 năm và đã chuẩn bị hoàn thành kịch bản chủ ý sẽ tiếp nối tuyến truyện của Tâm trạng khi yêu và 2046 với bối cảnh Thượng Hải với các diễn viên phải nói được tiếng Thượng Hải. Tháng 10 năm 2019, phó chủ tịch hãng Tencent Video công bố việc chuẩn bị tiền kỳ cho Phồn hoa đã hoàn thành và phim sẽ bắt đầu được quay từ mùa xuân năm 2020.
Tháng 3 năm 2020, Vương Gia Vệ đến Thượng Hải để chuẩn bị cho cả chuyển thể điện ảnh và truyền hình của Phồn hoa. Ngày 2 tháng 8 năm 2020, bộ phim truyền hình này chính thức được công bố tại hội nghị thường niên của Tencent Video với sự tham gia của diễn viên Hồ Ca Ngày 5 tháng 8 năm 2020, để tái hiện bối cảnh lịch sử của phim, các nhà sản xuất đã đăng báo kêu gọi người dân Thượng Hải hãy cung cấp cho đoàn làm phim các vật phẩm cũ của thập niên 1990. Bản thân Hồ Ca, Kim Vũ Trừng, và Vương Gia Vệ đã chia sẻ những chiếc máy khâu cũ, áo cưới, hay những chai rượu Thiệu Hưng để khuyến khích sự giúp đỡ của mọi người.
Tuyển chọn diễn viên
Ngày 2 tháng 8 năm 2020, các nhà làm phim chính thức công bố diễn viên Hồ Ca sẽ là người đảm nhận vai nam chính của bộ phim. Ngày 3 tháng 11 năm 2022, ba cái tên Mã Y Lợi, Đường Yên, và Tân Chỉ Lôi được hé lộ là những diễn viên sẽ đảm nhận ba vai nữ chính của phim.
Quay phim
Phồn hoa chính thức được bấm máy tại Thượng Hải vào ngày 10 tháng 9 năm 2020. Bối cảnh chính của phim là đường Hoàng Hà được xây dựng lại theo tỉ lệ 1:1 tại phim trường Thượng Hải ở quận Tùng Giang của Thượng Hải.
Tháng 10 năm 2022, giám đốc hình ảnh Bào Đức Hy tiết lộ đạo diễn Vương Gia Vệ sẽ quay mỗi tập phim dài 50 phút theo cách tiếp cận kiểu phim điện ảnh, vì vậy tổng thời gian quay cả bộ phim truyền hình này sẽ kéo dài tới trên 3 năm. Tháng 1 năm 2023, chủ tịch Tập đoàn điện ảnh Thượng Hải cho biết bộ phim sẽ được đóng máy và công chiếu trong năm 2023.
Quảng bá và công chiếu
Ngày 7 tháng 6 năm 2021, đoạn phim ngắn giới thiệu (trailer) đầu tiên của phim với tựa đề Thời quang như thủy () được công bố với sự xuất hiện của nhân vật A Bảo do Hồ Ca thủ diễn. Ngày 3 tháng 11 năm 2022, trailer thứ hai của phim với tựa đề Phồn hoa tự cẩm () được giới thiệu với sự xuất hiện của ba nhân vật nữ chính của phim cùng bối cảnh của đường Hoàng Hà. Bộ phim chính thức được công chiếu lần đầu tiên từ ngày 27 tháng 12 năm 2023 đến 9 tháng 1 năm 2024 trên các nền tảng của CCTV-8 và Tencent Video trong khung giờ vàng (19:30) với thời lượng 46 phút mỗi tập, kéo dài tổng cộng 30 tập.
Đánh giá
Sau khi bộ phim kết thúc công chiếu lần đầu tiên vào ngày 9 tháng 1 năm 2023, bộ phim được trên 210.000 người dùng của trang Douban chấm điểm trung bình 8.4/10.
Tham khảo
Phim truyền hình Trung Quốc 2023
Phim truyền hình chuyển thể từ tiểu thuyết Trung Quốc
Phim truyền hình lấy bối cảnh Thượng Hải
Phim truyền hình lấy bối cảnh thập niên 1990
Phim do Vương Gia Vệ đạo diễn
|
19848028
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20T%C3%BAc%20V%C6%B0%C6%A1ng
|
Trung Túc Vương
|
Trung Túc Vương (chữ Hán:忠肅王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số nhân vật lịch sử ở khu vực Á Đông thời phong kiến.
Danh sách
Ngụy Trung Túc Vương Trương Toàn Nghĩa thời Hậu Đường.
Tấn Trung Túc Vương (hoặc Sở Trung Túc Vương) Tiêu Hiếu Tiên đời nhà Liêu.
Quảng Bình Trung Túc quận vương Hoàn Nhan Thừa Huy đời nhà Kim.
Cao Ly Trung Túc Vương (gọi tắt theo thụy hiệu dài Trung Túc Ý Hiếu Đại Vương)
Hàm Ninh Trung Túc Vương Tinh Cát đời nhà Nguyên, truy tặng.
Vũ Ninh Trung Túc Vương Triệt Lý đời nhà Nguyên, truy tặng.
Trung Túc Vương là tước hiệu của Lê Lai thời Hậu Lê.
Xem thêm
Trung Túc công
Trung Vương
Túc Vương
Cung Túc Vương
Định Túc Vương
Chiêu Túc Vương
Văn Túc vương
Đoan Túc vương
Thụy hiệu
|
19848052
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rudolf%20II%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20%C3%81o
|
Rudolf II, Công tước Áo
|
Rudolf II ( – 10 tháng 5 năm 1290), một thành viên của nhà Habsburg, là Công tước của Áo và Styria từ năm 1282 đến 1283.
Tham khảo
Vương tử
Mất năm 1290
Sinh năm 1270
Công tước Áo thế kỷ 13
Công tước Styria
An táng tại Nhà thờ St. Vitus
Nhà Habsburg thế kỷ 13
|
19848053
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201990%20khu%20v%E1%BB%B1c%20ch%C3%A2u%20%C3%81
|
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1990 khu vực châu Á
|
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới (FIFA World Cup) 1990 khu vực châu Á được tổ chức nhằm chọn 2 đội bóng là thành viên của Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) tham dự FIFA World Cup 1990 tại Ý.
25 đội tham dự vòng loại để giành suất dự FIFA World Cup 1990. , , và rút lui mà không thi đấu vòng loại.
Hai đội bóng châu Á giành quyền tham dự FIFA World Cup 1990 là và .
Thể thức
Vòng loại gồm 2 vòng như sau:
Vòng 1: bỏ cuộc trước khi lễ bốc thăm diễn ra. Do đó, 25 đội còn lại được chia vào 6 bảng (một bảng có 5 đội, các bảng còn lại có 4 đội). được chuyển từ bảng 5 sang bảng 4 do rút lui. Các đội thi đấu với nhau theo thể thức sân nhà và sân khách; riêng ở bảng 4 thì các đội thi đấu với nhau hai lần tại Hàn Quốc và Singapore. Đội đứng đầu bảng sẽ tiến vào vòng chung kết.
Vòng chung kết: 6 đội nhất bảng ở vòng 1 được xếp vào một bảng duy nhất. Các đội sẽ thi đấu với nhau một trận để chọn ra đội nhất và đội nhì bảng tham dự FIFA World Cup 1990.
Vòng 1
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Bảng 5
Bảng 6
Vòng chung kết
Bảng xếp hạng
Kết quả
Các đội vượt qua vòng loại
Có 2 đội giành quyền tham dự FIFA World Cup 1990.
Danh sách ghi bàn
7 bàn thắng
Hwang Sun-Hong
6 bàn thắng
Ma Lin
Ahmed Radhi
Mahmoud Yaseen Al-Soufi
5 bàn thắng
Dollah Salleh
4 bàn thắng
Mai Chao
Kim Yong-Se
Darimosuvito Tokijan
Adnan Al Talyani
3 bàn thắng
Mohsen Garousi
Farshad Pious
Chu Gyong-Sik
Kim Pung-Il
Hwangbo Kwan
Noh Soo-Jin
Nizar Mahrous
Abdul Razaq Ibrahim
2 bàn thắng
Tang Yaodong
Wang Baoshan
Tim Bredbury
Nang Yan Leung
Herry Kiswanto
Karim Bavi
Hussein Saeed
Mohamed Al-Diabaz
Khaled Khalil Awad
Ali Marwi
Salah Al-Hasawi
Han Hyong-Il
Ri Hyok-chon
Mansoor Muftah
Fahad Al-Bishi
Majed Abdullah
Mohaisen Al-Jam'an
Saadoun Al-Suwaiti
Darimosuvito Devaraj
Salim Moin
Ahmad Satter
Cho Min-Kook
Choi Sang-Kuk
Lee Tae-Ho
Zuhair Bakhit
Khalid Ismaïl
Khaleel Mubarak
1 bàn thắng
Mohammad Aslam
Badal Das
Wasim Iqbal
Rumman Bin Wali Sabbir
Jia Xiuquan
Liu Haiguang
Xie Yuxin
Zhang Xiaowen
Leslie Santos
Inyong Lolumbuman
Mustaqim
Mustamu Yessy
Mohammad Hassan Ansarifard
Sayed Ali Eftekhari
Sirous Ghayeghran
Samad Marfavi
Natiq Hashim
Habib Jafar
Ismail Mohammed Sharif
Kenta Hasegawa
Takumi Horiike
Hisashi Kurosaki
Osamu Maeda
Takashi Mizunuma
Katsuyoshi Shinto
Rateb Al-Dawoud
Abdulaziz Al-Hajeri
Fahad Yousef Al-Sovayed
Kurapiah Gunalan
Azizol Abu Haniffah
Lim Teong Kim
Kim Gwang-Mon
Tak Yong-Bin
Yun Jong-Su
Mohamed Ali Hamoud
Nasser Khaleefa
Ali Sharafat
Saleh Eid Al-Mehaizaa
Jumah Salem Joher
Adel Mubarak Khamis
Mansour Sulaiti
Fahad Al-Musaibeah
Ahmed Madani
Yousuf Al-Thunayan
Arj Changatamilman
Tay Peng Kee
Choi Soon-Ho
Chung Hae-Won
Chung Yong-Hwan
Kim Joo-sung
Lee Hak-Jong
Lee Young-Jin
Park Kyung-Hoon
Walid Al-Nasser
Walid Abou El-Sel
Abdul Latif Helou
Mohammed Jakalan
Prasert Changmool
Piyapong Pue-On
Abdulaziz Mohamed
Abdulrahman Mohamed
1 bàn phản lưới nhà
Oh Yong-Nam (trong trận gặp )
Ghi chú
Liên kết ngoài
Asian Zone at FIFA.com
Tham khảo
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới khu vực châu Á
|
19848057
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/2024%20t%E1%BA%A1i%20Yemen
|
2024 tại Yemen
|
Dưới đây là sự kiện trong năm tại Yemen 2024.
Đương nhiệm
Sự kiện
Đang diễn ra
12 tháng 1 – Hiện tại: Không kích Yemen 2024
Tháng 1
Sinh
Mất
Tham khảo
Yemen năm 2024
Yemen thập niên 2020
Năm 2024 theo quốc gia
Châu Á năm 2024
Năm của thế kỷ 21 ở Yemen
|
19848061
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%BAa%20%C4%90%C3%B4n%20Ho%C3%A0ng
|
Múa Đôn Hoàng
|
Múa Đôn Hoàng () là một loại hình vũ đạo Trung Quốc kết hợp giữa văn hóa truyền thống và nghệ thuật hiện đại. Múa Đôn Hoàng lấy cảm hứng từ những chuyển động cơ thể trong các bức bích họa ở hang Đôn Hoàng (chẳng hạn như trong hang Mạc Cao), cũng như các nhạc cụ và bản nhạc được tìm thấy ở Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, miền Tây Trung Quốc. Điệu múa này thể hiện sự kết hợp giữa những phong cách múa dân tộc từ miền Trung và miền Tây Trung Quốc. Bản thân điệu múa cũng chịu ảnh hưởng của hình tượng Phật tử và Phật giáo.
Nguồn cảm hứng
Hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng có nhiều loại hình nghệ thuật như vũ đạo và âm nhạc. Hang động này chứa đầy hình ảnh khiêu vũ đã truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ múa hiện đại ở Trung Quốc. Hình tượng apsara đang bay (Phi Thiên) từ các hang động cũng là nguồn cảm hứng.
Danh sách điệu múa
Quan Âm nghìn tay
Đây là tác phẩm đương đại do biên đạo múa Trương Kế Cương dàn dựng. Điệu múa này được Đoàn Nghệ thuật Biểu diễn Người Khuyết tật Trung Quốc biểu diễn mà các vũ công trong nhóm đều bị khiếm thính.
Mô tả khác trên truyền thông
Mưa Hoa trên Con đường Tơ lụa, một vở kịch múa được Học viện Nghệ thuật Cam Túc Đôn Hoàng trình diễn tại Bắc Kinh vào ngày 23 tháng 5 năm 1979.
Hình ảnh
Tham khảo
Tác phẩm vũ đạo Trung Quốc
Âm nhạc dân gian Trung Quốc
|
19848063
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Samsung%20Galaxy%20S24
|
Samsung Galaxy S24
|
Samsung Galaxy S24 là điện thoại thông minh cao cấp chạy hệ điều hành Android thuộc dòng Galaxy S series được thiết kế, sản xuất và bán ra bởi Samsung Electronics. Dòng điện thoại này là sự kế thừa của Galaxy S23 series và được công bố vào ngày 17 tháng 1 năm 2024, tại Galaxy Unpacked 2024 ở San Jose, California.
Lịch sử
Samsung Galaxy S24, S24+ và S24 Ultra được ra mắt vào ngày 17 tháng 1 năm 2024.
Tổng quan
Galaxy S24 series bao gồm ba thiết bị có cùng dòng sản phẩm và kích thước màn hình như Galaxy S23 trước đó. Galaxy S24 có màn hình phẳng 6.2-inch (155 mm). Galaxy S24+ có phần cứng tương tự ở dạng lớn hơn 6.7-inch (168 mm). Đứng đầu dòng sản phẩm, Galaxy S24 Ultra có màn hình phẳng 6.8-inch (173 mm). S24 và S24+ được trang bị Snapdragon 8 Gen 3 tại Hoa Kỳ, Trung Quốc và Úc. Và Samsung Exynos 2400 được trang bị ở phần còn lại của thế giới bao gồm cả Hàn Quốc, trong khi S24 Ultra được trang bị Snapdragon 8 Gen 3 ở mọi thị trường.
Thiết kế
Samsung Galaxy S24, S24+ hiện có bảy màu: Đen Onyx, Tím Cobalt, Vàng Amber, Xám Marble, Xanh Sapphire, Xanh lục Jadeite, Cam cát Sandstone. Và Samsung Galaxy S24 Ultra hiện có bảy màu: Đen Titan, Tím Titan, Vàng Titan, Xám Titan, Xanh dương Titan, Xanh lục Titan, Cam Titan.
Xanh Sapphire, Xanh lục Jadeite, Cam cát Sandstone, Xanh dương Titan, Xanh lục Titan và Cam Titan độc quyền trên samsung.com.
Thông số kỹ thuật
Phần cứng
Chipset
Galaxy S24 Ultra sử dụng chip Qualcomm Snapdragon 8 Gen 3 for Galaxy trên toàn thế giới trong khi đó S24+ và S24 sử dụng chip Qualcomm Snapdragon 8 Gen 3 for Galaxy tại thị trường Mỹ, Canada và Trung Quốc, sử dụng chip Samsung Exynos 2400 cho các thị trường còn lại trên toàn cầu.
Màn hình
Galaxy S24 series có màn hình "Dynamic LTPO AMOLED 2X" hỗ trợ HDR10+, độ sáng tối đa 2600 nits và công nghệ "dynamic tone mapping" technology. Tất cả các model đều sử dụng cảm biến vân tay siêu âm trên màn hình. Tốc độ làm tươi thấp nhất là 1 Hz và cao nhất tới 120 Hz.
Galaxy S24 Ultra sử dụng kính Gorilla Glass Armor trên màn hình. Corning tuyên bố loại kính mới này có khả năng phản chiếu kém hơn 75% so với bề mặt kính thông thường.
Camera
Galaxy S24 và S24+ có cảm biến rộng 50 MP, cảm biến tele 10 MP và cảm biến siêu rộng 12 MP. S24 Ultra có cảm biến rộng 200 MP, cảm biến tele cận cảnh 50 MP, cảm biến tele 10 MP và cảm biến siêu rộng zoom 5× 12 MP. Camera trước sử dụng cảm biến 12 MP trên cả ba model.
Pin
Galaxy S24, S24+ và S24 Ultra lần lượt có pin Li-ion 4.000 mAh, 4.900 mAh và 5.000 mAh
Kết nối
Samsung Galaxy S24 và S24+ hỗ trợ kết nối 5G SA/NSA/Sub6, Wi-Fi 6e, và Bluetooth 5.3. Samsung Galaxy S24 Ultra còn hỗ trợ thêm Wi-Fi 7.
Samsung Galaxy S24, S24+ và S24 Ultra hỗ trợ kết nối 5G SA/NSA/Sub6, Wi-Fi 7 và Bluetooth 5.3.
Bộ nhớ và lưu trữ
Phần mềm
Samsung Galaxy S24 series được phát hành chạy sẵn Android 14 với phần mềm One UI 6.1. Chúng đi kèm với 7 năm cập nhật phần mềm và bảo mật.
Chúng sử dụng AI tổng hợp Gemini Nano trên thiết bị của Google, đã được Pixel 8 Pro sử dụng.
Xem thêm
Samsung Galaxy S series
Tham khảo
Liên kết ngoài
Galaxy S24 & S24+ – Trang web chính thức
Galaxy S24 Ultra – Trang web chính thức
Thiết bị Android
Điện thoại di động Samsung
Samsung Galaxy
Điện thoại thông minh
Điện thoại di động có nhiều camera phía sau
Điện thoại di động được giới thiệu năm 2024
Phablet
|
19848065
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tactical%20Missiles%20Corporation
|
Tactical Missiles Corporation
|
JSC Tactical Missiles Corporation (KTRV) (, КТРВ) hay Tập đoàn tên lửa chiến thuật là một công ty chủ chốt của Nga trong sản xuất vũ khí (đặc biệt là tên lửa), có trụ sở đặt tại thành phố Korolyov, tỉnh Moskva.
Lịch sử
Tactical Missiles Corporation được thành lập dựa trên Zvezda-Strela bởi sắc lệnh của Tổng thống Nga số 84, ký ngày 24 tháng Một năm 2002.
Zvezda-Strela là nhà thiết kế và chế tạo hệ thống tên lửa chính của Nga, bao gồm phòng thiết kế thực nghiệm Zvezda, cùng với một loạt các phòng thiết kế khác, nhà máy chế tạo tên lửa Strela, và nhà máy chế tạo đặt tại Kostroma và Bendery Moldova. Tập đoàn từng là thành phần của Nhóm các nhà sản xuất khí cụ đặc biệt Spetstekhnika.
Cơ cấu của Tactical Missiles Corporation được mở rộng theo sắc lệnh №591 ngày 9/5/2004 và №930 ngày 20/7/2007.
Tập đoàn bị trừng phạt bởi New Zealand sau khi Nga tấn công Ukraine năm 2022.
Có báo cáo cho rằng tháng Chín năm 2023 tập đoàn tên lửa chiến thuật đã tăng gấp đôi sản lượng vũ khí chính xác so với sáu tháng trước đó. Cũng có báo cáo vào tháng Một năm 2024 rằng kể từ tháng Hai năm 2022 tập đoàn đã tăng sản lượng các vũ khí chính xác lên gấp năm lần.
Tổ chức
Tập đoàn bao gồm các công ty:
Vympel NPO
MKB Raduga
Region SSPE
NPO Mashinostroyeniya
PO Strela
PZ Mashinostroitel
NPO Electromechanics
Avangard
UNIIKM
Smolensk Aviation Plant
Taganrog Krasny Gidropress Plant
IBC Iskra
PJSC Salute
Turayevo ICD Soyuz
Ural Design Bureau Detail
Central Design Bureau of Automation
ANPP TEMP AIR
Azov optical-mechanical plant
Research Institute of Machine Building
RCH Globe
SIC ASK
Trading House Star - Boom
711 Aircraft Repair Plant
Gidropribor
Plant Motor
Verhneufaleysky Uralelement
Research Institute of Maritime Thermal Technology
Dagdizel Plant
Electrodraught
Tên lửa/bom
Kh-23 (AS-7 "Kerry")
Kh-25 (AS-10 "Karen")
Kh-27 (AS-12 "Kegler")
Kh-29 (AS-14 "Kedge")
Kh-31 (AS-17 "Krypton")
Kh-35 (AS-20 "Kayak")
Kh-38
Kh-59
Kh-69
R-77
R-27
R-73
R-33
R-37
LMUR (Izdelie 305)
Ngư lôi
APR-3M
VA-111 Shkval supercavitating torpedo
Bom dẫn đường
UPAB 1500
Tham khảo
Link ngoài
|
19848075
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Negros%202012
|
Động đất Negros 2012
|
Động đất Negros 2012 là trận động đất xảy ra vào lúc 11:49 (PST), ngày 6 tháng 2 năm 2012. Trận động đất có cường độ 6.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Không có cảnh báo sóng thần cho trận động đất này. Hậu quả trận động đất đã làm 113 người chết, 112 người bị thương.
Thang địa chấn
Xem thêm
Danh sách trận động đất năm 2012
Động đất Bohol 2013
Danh sách trận động đất ở Philippines
Tham khảo
Động đất tại Philippines
Động đất năm 2012
Philippines năm 2012
Lịch sử Negros Oriental
Lịch sử Cebu
Thảm họa tại Philippines năm 2012
Sự kiện tháng 2 năm 2012 ở Philippines
|
19848086
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Beyond%20the%20Blackboard
|
Beyond the Blackboard
|
Beyond the Blackboard là một bộ phim chính kịch truyền hình Hallmark Hall of Fame với sự tham gia của Emily VanCamp và Treat Williams . Nó dựa trên cuốn hồi ký của Stacey Bess có tựa đề Không ai không yêu ai .
Cốt truyện
Câu chuyện diễn ra vào năm 1987 và kể về một giáo viên trẻ và mẹ của hai đứa trẻ, mới tốt nghiệp đại học, cuối cùng lại dạy những đứa trẻ vô gia cư tại một ngôi trường không tên. Với sự hỗ trợ của chồng, cô đã vượt qua nỗi sợ hãi và định kiến để mang lại cho những đứa trẻ này sự giáo dục xứng đáng.
Quay phim
Bộ phim này được quay xung quanh bối cảnh tại Albuquerque, New Mexico.
Đây là dự án đầu tiên của Emily VanCamp and Treat Williams since Everwood.
Diễn viên
Emily VanCamp — Stacey Bess
Paola Andino - Maria
Timothy Busfield — School District HR Representative
Steve Talley — Greg Bess
Treat Williams — Dr. Warren
Isabella Acres — Dana
Melissa Schroeder - Terri
Liam McKanna - Danny
Phát hành
Phim được phát sóng vào ngày 24 tháng 4 năm 2011 trên CBS ; đây là bộ phim Hallmark Hall of Fame cuối cùng được phát sóng trên mạng đó, bộ phim đã bị hủy loạt phim do xếp hạng thấp.
Tài liệu tham khảo
Liên kết ngoài
Watch Beyond the Blackboard at SpiritClips.com.
phim truyền hình 2011
phim năm 2011
Phim chính kịch tiểu sử năm 2011
Phim chính kịch tiểu sử Mỹ
Phim mạng CBS
Phim tiểu sử về nhà giáo dục
Phim về người vô gia cư
Phim dựa trên tiểu sử
Phim lấy bối cảnh năm 1987
Phim quay ở New Mexico
Các tập phim Hallmark Hall of Fame
Phim của đạo diễn Jeff Bleckner
Phim truyền hình chính kịch Mỹ
Phim nói tiếng Anh của thập niên 2010
Phim Mỹ thập niên 2010
Sơ khai phim truyền hình chính kịch Mỹ
|
19848087
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%20v%C3%A0%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Thế giới và Việt Nam
|
Thế giới và Việt Nam là một cơ quan báo chí trực thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Lịch sử
Được thành lập vào năm 1989, tiền thân của báo Thế giới và Việt Nam là Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế và Báo Quốc tế. Người sáng lập ra tờ báo này là cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch.
Ngày 30 tháng 9 năm 2016, báo điện tử Thế giới và Việt Nam được ra mắt.
Ngày 17 tháng 7 năm 2017, báo điện tử Thế giới và Việt Nam ra mắt phiên bản tiếng Anh.
Lãnh đạo
Tổng Biên tập: Nguyễn Trường Sơn.
Phó Tổng Biên tập: Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Vũ Quang Tùng, Hoàng Diễm Hạnh.
Tham khảo
Liên kết ngoài
.
Phiên bản tiếng Anh chính thức.
Báo điện tử Việt Nam
Báo chí tiếng Việt
|
19848093
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pha%20l%C3%AA%20Lothair
|
Pha lê Lothair
|
Mặt pha lê Lothair (còn được gọi là Pha lê Lothar hoặc Pha lê Susanna) là một mặt tròn làm bằng thạch anh trắng được chạm khắc, nguồn gốc từ vùng Lotharingia ở tây bắc châu Âu. Mặt pha lê này khắc chạm mô tả những cảnh trong câu chuyện Kinh thánh về Susanna, có niên đại từ năm 855–869. Pha lê Lothair là một hiện vật trong bộ sưu tập của Bảo tàng Anh.
Mô tả
Nguyên bản của vật phẩm là một mặt pha lê thạch anh tròn trong suốt ("tinh thể đá"), có đường kính 11,5 cm (4,5 inch). Mặt pha lê thạch anh được khắc chạm chìm với tám cảnh mô tả câu chuyện của Susanna và các Trưởng lão, được mô tả trong Sách Đa-ni-en (nhưng được người Kháng Cách/Tin Lành coi là một phần của Ngụy thư). Cảnh đầu tiên là Susanna bị các trưởng lão buộc tội và lên án vì tội ngoại tình. Daniel can thiệp để chấn vấn các trưởng lão, lật tẩy lời dối trá của họ và kết án tử hình họ bằng cách ném đá. Ở cảnh cuối cùng, Susanna được tuyên bố vô tội. Những cảnh này đi kèm với những dòng chữ ngắn gọn bằng tiếng La tinh được rút ra từ Kinh thánh Vulgate."
Các hình khắc trên mặt pha lê được thực hiện theo phong cách năng động và độc đáo của vùng Rheims thời sơ kỳ trung cổ, bắt nguồn từ những bản phác thảo bằng tay chẳng hạn như trong Thi Thiên Utrecht. Mặt pha lê được bao quanh bởi một giá đỡ bằng đồng mạ vàng thế kỷ 15 với viền trang trí họa tiết lá, từng được cho rằng là của biểu tượng Thánh Eligius (khoảng 588 – 660), vị thánh bảo trợ của thợ kim hoàn.
Niên đại
Mặt pha lê có khắc dòng chữ LOTHARIVS REX FRANCORVM IVSSIT ("Lothair, Vua của người Frank, đã sai khiến [làm ra vật phẩm này]"). Dòng chữ ấy có vẻ nói đến Lothair II, hay "Lothar" trong tiếng Đức. Lothair đời trước tự phong cho mình là imperator (hoàng đế), trong khi Lothair II chỉ tự gọi mình là rex (vua), giống như vị chủ nhân của viên pha lê được mô tả; do đó có khả năng là nó được tạo ra vào thời Lothair II, có lẽ là vào khoảng giữa thế kỷ thứ 9, làm cho nó trở thành một ví dụ muộn của nghệ thuật thời nhà đế quốc Carolus.
Lịch sử
Không có thông tin gì về lịch sử của mặt pha lê Lothair trước thế kỷ thứ 10. Vào khoảng thời gian này, bá tước vùng Florennes tên là Eibert, đem cầm tạm cho một giáo sĩ của Rheims để đổi lấy một con ngựa tốt. Sau đó vị bá tước này quay lại đòi chuộc nhưng vị giáo sĩ sau đó phủ nhận việc sở hữu mặt pha lê. Nổi giận vì lời phủ nhận này, bá tước Eibert kéo lính đốt cháy luôn nhà thờ mà ông giáo sĩ này đang trốn khiến ông này phải bỏ chạy ra ngoài và bị bắt lại lục soát, qua đó người ta tìm thấy ông giáo sĩ này đang giữ mặt pha lê Lothair. Sau khi thu lại được mặt pha lê Lothair, ông bá tước Eibert giữ nó một khoảng thời gian. Về sau để chuộc tội đốt nhà thờ, Eibert đã thành lập Tu viện Waulsort (nay thuộc nước Bỉ hiện đại), và quyên tặng mặt pha lê này cho tu viện, nơi nó được lưu trữ cho đến thế kỷ 18. Đôi khi trong suốt thời kỳ này, nó được các tu viện trưởng sử dụng để buộc chặt áo choàng của họ trong thánh lễ.
Năm 1793, lực lượng cách mạng Pháp đã cướp phá tu viện Waulsort và ném mặt pha lê xuống sông Meuse, việc được cho là đã khiến mặt pha lê bị nứt. Vào thế kỷ 19, mặt pha lê Lothair đã bị đánh cắp và bị gỡ hết đồ trang sức trang trí. Sau đó nó xuất hiện trở lại trong tay một nhà buôn người Bỉ, người này tuyên bố rằng mặt pha lê đã được vớt lên từ lòng sông và bán nó cho một nhà sưu tập Pháp với giá 12 franc. Tiếp đến, mặt pha lê Lothair được bán lại cho chính trị gia Đảng Tự do người Anh Ralph Bernal với giá 10 bảng anh. Năm 1855, mặt pha lê Lothair được Augustus Wollaston Franks đại diện cho Bảo tàng Anh mua lại trong một cuộc đấu giá bộ sưu tập của Bernal tại nhà đấu giá Christie's với giá 267 bảng Anh.
Mặt pha lê Lothair là Hiện vật thứ 53 trong chương trình Lịch sử thế giới qua 100 vật thể (A History of the World in 100 Objects) của BBC Radio 4 năm 2010, do Giám đốc Bảo tàng Anh, Neil MacGregor lựa chọn và trình bày.
Diễn giải ý nghĩa
Mặt pha lê Lothair là một trong số ít ỏi những viên đá quý được chạm khắc kiểu Carolus được tạo ra cho các thành viên của triều đình, mặc dù hình dạng của nó không giống bất kỳ vật phẩm nào khác. Một viên đá quý có chân dung của Lothair II, có lẽ là ấn triện cá nhân của ông, đã được đặt vào Lễ rước Thánh giá Lothair ở Nhà thờ Aachen một trăm năm sau khi ông qua đời. Một số cách giải thích đã được đưa ra về chức năng của viên pha lê cũng như ý nghĩa và tầm quan trọng của nó đối với triều đình nhà Lothair; ý nghĩa của nó không rõ ràng và nó là chủ đề gây tranh cãi liên tục giữa các học giả.
Chủ đề của viên pha lê gợi ý rằng nó được dùng để trưng bày tại triều đình như một biểu tượng cho vai trò của nhà vua trong việc thực thi công lý. Thiết kế của nó có thể ám chỉ đến tấm giáp ngực của công lý mà Kohen Gadol (Thầy Thượng Tế) của người Do Thái đeo. Theo cách giải thích này, mặt pha lê có thể là một nỗ lực thể hiện một cách trực quan trách nhiệm của người cai trị trong việc cung cấp công lý, sử dụng câu chuyện song song trong Kinh thánh để khuyến khích nhà cai trị đề cao lý tưởng trị vì khôn ngoan được ví dụ bằng các vị vua công chính trong kinh Cựu Ước. Ngoài ra, chủ đề của viên pha lê tượng trưng cho mối quan hệ lý tưởng hóa giữa Giáo hội Công giáo La Mã và nhà nước, với Susanna đại diện cho Giáo hội Công giáo La Mã được bảo vệ khỏi kẻ thù bởi những quyết định chính đáng của người cai trị.
Valerie Flint đã lập luận rằng mặt pha lê có liên quan đến cuộc ly hôn gay gắt của Lothair và người vợ Theutberga, người mà ông cáo buộc phạm tội loạn luân và phá thai. Câu chuyện Susanna mô tả sự minh oan của một người vợ bị buộc tội sai về tội tình dục và loại tinh thể đá làm ra nó đã được người Frank sử dụng như một tấm bùa hộ mệnh. Flint gợi ý rằng viên pha lê được tạo ra vào năm 865, khi Lothar tạm thời hòa giải với vợ mình, vừa nhằm mục đích khiển trách nhà vua về hành vi của ông vừa như một tấm bùa bảo vệ vua và nữ vương khỏi cái xấu ác.
Bài liên quan
Thánh giá Lothair
Pha lê Saint-Denis
Chú thích
Xem thêm
Flint, Valerie I. J. "Susanna and the Lothar Crystal: A Liturgical Perspective". Early Medieval Europe 4:1 (1995), 61–86.
Liên kết ngoài
British Museum page on the Lothair Crystal
Thế kỷ 9
Đế quốc Carolus
Trung cổ
Mỹ thuật Công giáo
Lotharingia
Thạch anh
|
19848096
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paola%20Andino
|
Paola Andino
|
Paola Nicole Andino (sinh ngày 22 tháng 3 năm 1998) là một nữ diễn viên người Mỹ được biết đến với vai chính Emma Alonso trong loạt phim Nickelodeon, Every Witch Way.
Tiểu sử
Andino sinh ra ở Bayamón, Puerto Rico, và chuyển đến Dallas, Texas, khi mới ba tuổi cùng với bố mẹ và anh trai. Khi còn nhỏ, cô đã khiêu vũ cạnh tranh với tư cách là thành viên của Studio khiêu vũ Footlights của Lewisville khi mới 10 tuổi, cô bắt đầu tham gia các lớp học diễn xuất với Antonia Denardo tại Denardo Talent Ventures ở Lewisville. Sau khi làm khách mời trong một tập của Grey's Anatomy, vào năm 2011, cô đóng vai chính trong bộ phim Hallmark Hall of Fame của Beyond the Blackboard.
Vào tháng 12 năm 2013, cô nhận vai Emma Alonso, nữ chính trong loạt phim Every Witch Way, bắt đầu phát sóng vào tháng 1 năm 2014. Andino tiếp tục trở thành khách mời trong phần phụ của chương trình Học viện Wits trong 2 tập. Cô cũng là ngôi sao khách mời định kỳ trên Queen of the South. Với vai diễn này, cô đã được đề cử là Nữ diễn viên trẻ xuất sắc nhất tại Best Young Actress lần thứ 29 Imagen Awards.
Quay phim
Liên kết ngoài
Tài liệu tham khảo
Sinh năm 1998
Diễn viên người Mỹ gốc Puerto Rico
Nữ diễn viên nhí người Mỹ
Nữ diễn viên truyền hình Mỹ
Người sống tại Bayamón, Puerto Rico
People from Bayamón, Puerto Rico
Nữ diễn viên đến từ Dallas
Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 21
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.