id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19847205
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20d%E1%BB%8Bch%20B%E1%BA%A3o%20v%E1%BB%87%20Th%E1%BB%8Bnh%20v%C6%B0%E1%BB%A3ng
|
Chiến dịch Bảo vệ Thịnh vượng
|
Chiến dịch Bảo vệ Thịnh vượng (tiếng Anh: Operation Prosperity Guardian) là mật danh của chiến dịch quân sự do một liên minh đa quốc gia được Hoa Kỳ lãnh đạo tiến hành nhằm đáp trả các cuộc tấn công của Houthis vào hoạt động vận chuyển hàng hải ở Biển Đỏ.
Đọc thêm
Nội chiến Yemen (2014–nay)
Chiến dịch Earnest Will
Chiến dịch Lá chắn Đại dương
Chiến dịch Praying Mantis
Hội nghị An ninh Hàng hải quốc tế
Danh sách cuộc chiến tranh liên quan đến Anh Quốc
Danh sách cuộc chiến tranh liên quan đến Hoa Kỳ
Xung đột Hoa Kỳ–Houthis (2023–nay)
Không kích Yemen 2024
Tham khảo
Liên kết ngoài
Quan hệ quốc tế năm 2023
Quan hệ quốc tế năm 2024
Yemen năm 2023
Yemen năm 2024
Sự kiện tháng 12 năm 2023 tại Châu Á
Sự kiện tháng 1 năm 2024 tại Châu Á
Mật danh
Giao thông đường thủy quốc tế
Houthis
Lịch sử Biển Đỏ
Vịnh Aden
Ảnh hưởng của Chiến tranh Israel–Hamas 2023
Hoạt động quân sự liên quan tới Úc
Hoạt động quân sự liên quan tới Bahrain
Hoạt động quân sự liên quan tới Canada
Hoạt động quân sự liên quan tới Đan Mạch
Hoạt động quân sự liên quan tới Hy Lạp
Hoạt động quân sự liên quan tới Hà Lan
Hoạt động quân sự liên quan tới Na Uy
Hoạt động quân sự liên quan tới Singapore
Hoạt động quân sự liên quan tới Seychelles
Hoạt động quân sự liên quan tới Sri Lanka
Hoạt động quân sự liên quan tới Vương quốc Anh
Hoạt động quân sự liên quan tới Hoa Kỳ
Hải quân Hoa Kỳ thế kỷ 21
Nhiệm kỳ tổng thống Joe Biden
Quan hệ Úc – Yemen
Quan hệ Bahrain – Yemen
Quan hệ Canada – Yemen
Quan hệ Đan Mạch – Yemen
Quan hệ Hy Lạp – Yemen
Quan hệ Hà Lan – Yemen
Quan hệ Na Uy – Yemen
Quan hệ Seychelles – Yemen
Quan hệ Singapore – Yemen
Quan hệ Sri Lanka – Yemen
Quan hệ Vương quốc Anh – Yemen
Quan hệ Hoa Kỳ-Yemen
Biến cố Biển Đỏ
Hoạt động quân sự liên quan tới Vương quốc liên hiệp Anh
|
19847207
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%ACnh%20t%C6%B0%E1%BB%A3ng%20c%C3%B4ng%20ch%C3%BAng%20c%E1%BB%A7a%20Taylor%20Swift
|
Hình tượng công chúng của Taylor Swift
|
Nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift là một nhân vật được đưa tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, và kéo theo đó là cô đã nhận được rất nhiều lời bình luận của công chúng cũng như cách họ nhìn nhận về cuộc đời và sự nghiệp của cô. Hình tượng của Swift trước công chúng rất phức tạp. Sức nổi tiếng trên toàn cầu cũng như các khía cạnh tranh cãi trong sự nghiệp của cô đã trở thành chủ đề mà nhiều ấn phẩm khác nhau phân tích, xem xét và tranh luận. Giá trị truyền thông kiếm được của Swift ước tính đạt khoảng 130 tỷ đô la Mỹ tính đến năm 2023.
Swift là một nhân vật văn hóa trái chiều. Hình tượng của cô được xác định trên nhiều mối quan hệ xã hội học: Giữa cô, cộng đồng người hâm mộ của cô, những người gièm pha và các phương tiện truyền thông đại chúng. Ở giai đoạn đầu sự nghiệp khi còn là một ca sĩ hát nhạc đồng quê vào cuối thập niên 2000, Swift được phong tặng danh hiệu nhạc đại chúng là "Cục cưng của nước Mỹ" nhờ vào hình tượng cô gái hàng xóm. Đời tư hẹn hò của cô trở thành chủ đề được giới truyền thông lẫn báo lá cải săn đón và đồn đoán tràn lan trong nhiều năm, bất chấp cô đã miễn cưỡng thảo luận một cách công khai về vấn đề này.
Hiện tượng công chúng ngày càng quan tâm đến tin tức liên quan tới Swift được cho là nguyên nhân dẫn đến giới truyền thông càng ngày càng tập trung đưa tin về cô nhiều hơn. Những tranh chấp được công bố rộng rãi của Swift, chẳng hạn như với Kanye West, Katy Perry và Kim Kardashian, và những cuộc chia tay với những người bạn trai như Joe Jonas, John Mayer, Jake Gyllenhaal, Harry Styles và Tom Hiddleston đã ảnh hưởng đến nhận thức của công chúng về cô trong những năm 2010. Điều đó đã góp phần làm hoen ố hình ảnh của Swift, khiến cô trở thành mục tiêu của kỳ thị nữ giới và bị nhiều người nhận thức kiểu tiêu chuẩn kép, gồm có slut-shaming và miệt thị ngoại hình. Tuy nhiên, Swift vẫn là một trong những nghệ sĩ âm nhạc thành công nhất và được đông đảo mọi người trên thế giới tôn trọng cũng như được sự giúp đỡ nhiệt tình của cộng đồng người hâm mộ rộng lớn.
Chính những lời chê bai tiêu cực từ phía công chúng, nhà phê bình âm nhạc lẫn giới truyền thông đã tạo cảm hứng cho Swift sáng tác đa số các bài hát của cô, cũng như cho ra mắt album phòng thu thứ sáu đậm chủ đề về danh tiếng thù hận tên Reputation. Tuy nhiên, The Guardian cho rằng Swift đã "miễn nhiễm hoàn toàn với thù ghét" từ thập niên 2020, và cô vẫn luôn giữ vững hình tượng là nữ ca sĩ được yêu thích nhất và thành công nhất mọi thời đại. Câu chuyện cô bắt đầu hẹn hò với cầu thủ bóng bầu dục người Mỹ Travis Kelce vào năm 2023 đã có tác động đáng kể về mặt văn hóa ở Hoa Kỳ.
Swift được nhiều người trong giới truyền thông nhận xét là một doanh nhân thông thái, hình tượng nữ quyền, người ảnh hưởng chính trị, hình mẫu cho thế hệ Millennials và biểu tượng phong cách đường phố. Mặc dù chuyện Swift kín tiếng về chuyện chính trị trước kia thường xuyên bị đem ra mổ xẻ, nhưng cô vẫn được tán dương nhờ vào lời chỉ trích thẳng thắn của cô đối với Donald Trump, phân biệt chủng tộc và người da trắng thượng đẳng. Cô còn nhận được nhiều lời khen ngợi nhờ vào các hoạt động từ thiện đầy nhân từ rộng lượng, cất tiếng nói kêu gọi quyền lợi cho nghệ sĩ âm nhạc, sự thân thiện của cô với người hâm mộ, cũng như tầm ảnh hưởng đến văn hóa đại chúng và ngành công nghiệp âm nhạc của cô. Nhiều cuộc khảo sát chính trị khác nhau ở Hoa Kỳ đã công bố xếp hạng công khai thuận lợi của Swift. Các thương hiệu, sản phẩm, dịch vụ thường tận dụng hình tượng công chúng của cô để tăng cường hoạt động quảng bá tiếp thị. Các nhà phê bình cho rằng, vì Swift là một trong những người nổi tiếng đầu tiên trưởng thành và thành danh trong thời đại phương tiện truyền thông xã hội nên cô đã thúc đẩy mối quan hệ phức tạp giữa người nổi tiếng và ngành công nghiệp. Do đó, hình tượng trước công chúng của cô là đối tượng được nhiều cơ sở học thuật nghiên cứu. Cô còn nổi tiếng nhờ vào phong cách giao tiếp nhẹ nhàng thân thiện trong các cuộc phỏng vấn và sự nhiệt tình của cô tại các sự kiện công khai. Năm 2014, Swift đã ký hợp đồng thuê chuyên gia PR người Mỹ Tree Paine để làm người quảng bá truyền thông cho mình.
Cách nhìn nhận
Cuộc đời và sự nghiệp của ca-nhạc sĩ người Mỹ Taylor Swift là tâm điểm săn đón trong nền văn hóa người nổi tiếng toàn cầu. Do đó, cô được mệnh danh là "người phụ nữ nổi tiếng nhất hành tinh này" và "nữ hoàng văn hóa độc canh". Ở đầu sự nghiệp, Swift được cho là một thần tượng teen. Cô đã trở thành một nhân vật thống trị trong văn hóa đại chúng, và được gọi là biểu tượng nhạc pop. Nhiều ấn phẩm đã công nhận mức độ nổi tiếng trên toàn cầu và sức chạy đường dài của Swift là một kiểu danh tiếng chưa từng được chứng kiến kể từ thế kỷ 20. Theo lời của các nhà phê bình âm nhạc Sam Sanders và Ann Powers, Swift chính là "sự kết hợp thành công đáng ngạc nhiên giữa ngôi sao nhạc pop sáng chói tới hàng megawatt và ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác ca khúc trong phòng thu tại nhà tựa như phòng ngủ." Các phương tiện truyền thông còn cho rằng Swift là một nữ doanh nhân thông thái. Cô còn lừng danh nhờ vào công việc thiện nguyện đầy "hào phóng" của cô.
Swift được giới truyền thông gán cho cái tên "Cục cưng của nước Mỹ" trong thời kỳ đầu sự nghiệp nhờ vào hình tượng cô gái hàng xóm dễ mến. Cô nổi tiếng nhờ vào sự nhiệt tình thân thiện tại các lễ trao giải. Nhà báo đã viết về tính cách lịch sự và "cởi mở" của cô, gọi cô là "con cưng của giới truyền thông" và "giấc mơ của phóng viên". Tuy nhiên, The New York Times khẳng định vào năm 2013 rằng "lịch sử hẹn hò của cô ấy đã khuấy động một thứ được gọi là sự khởi đầu của phản ứng dữ dội" và đặt câu hỏi liệu cô có đang "khủng hoảng giữa cuộc đời" hay không. Swift đã luôn khó xử khi chia sẻ công khai về đời sống cá nhân, và cô cho đấy là "điểm yếu trong sự nghiệp". Cô là đối tượng mà báo chí không ngừng hao tổn giấy mực. Những người ghét bỏ Swift đã chỉ trích cô "có tính toán" và thao túng hình tượng bản thân, nhất là cuộc tranh chấp năm 2016 với rapper người Mỹ Kanye West. Các nhà phê bình văn hóa đã nhấn mạnh rằng cuộc đời và sự nghiệp của Swift đã phải hứng chịu vô số lần kỳ thị nữ giới và slut-shaming. Dẫu vậy, từ năm 2019 đến năm 2021, các cuộc khảo sát bên YouGov vẫn xếp cô là nữ nhạc sĩ được ngưỡng mộ nhất thế giới.
Swift sở hữu ba chú mèo: Meredith Grey, Olivia Benson và Benjamin Button. Các chú mèo của cô đã từng xuất hiện hoặc được nhắc khéo trong các video hoặc những tác phẩm của cô. Vì thế, cô được mệnh danh là một cat lady. Swift cũng là đối tượng của nhiều thuyết âm mưu, một số người bên chính trị cánh hữu lên tiếng cho rằng Swift truyền bá "phù thủy" và chủ nghĩa Satan, cô là một đặc vụ chính trị của Đảng Dân chủ, là người nhân bản của thành viên theo đạo Satan tên Zeena Lavey, hoặc cô là "người gây chiến tranh tâm lý Lầu Năm Góc" quen với việc dắt mũi dư luận. Trước khi cô công khai là người ủng hộ các gương mặt bên đảng Dân chủ vào năm 2018, một số người dùng theo phong trào cánh hữu khác alt-right trên mạng internet đã lên tin đồn cho rằng: Swift là một "công chúa thuộc chủng tộc Arya" theo chủ nghĩa tân quốc xã và lên chương trình nghị sự dành cho người da trắng thượng đẳng. Thế nhưng, Swift lại cực kỳ phản đối nạn phân biệt chủng tộc và da trắng thượng đẳng. Một nhóm nhỏ người hâm mộ đã đặt tên thuyết âm mưu về xu hướng tính dục của Swift là Gaylor, cho rằng Swift là một người phụ nữ đồng tính kín có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác.
Vị thế trong truyền thông
Trong truyền thông đại chúng, Swift và công trình âm nhạc của cô được vô số tập sách, phim ảnh và chương trình truyền hình khai thác làm chủ đề. Deadline Hollywood mệnh danh Swift chính là "bà hoàng của mọi phương tiện truyền thông". Điển hình, một cuốn sách dành cho trẻ em mang tựa đề Taylor Swift: The Little Golden Book Biography do Wendy Loggia chắp bút cùng với Elisa Chavarri phụ trách phần minh họa đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử 81 năm tuổi của Little Golden Books, với tổng số sách bán ra đạt một triệu bản chỉ trong vòng bảy tháng. Ngoài ra, quyển danh sách nhân vật của năm 2023, trong đó liệt kê Swift, do tạp chí tin tức Time in ấn đã thu được 238.808 lượt đặt mua trước với tốc độ phi mã (chưa tính đến doanh số đến từ sạp báo), trở thành sách ấn bản của Time bán chạy nhất kể từ ấn bản tháng 5 năm 2011 đưa tin về lễ cưới của Vương tôn William và Catherine Middleton, và quyển tạp chí này thì bán được 232.000 sách nếu lấy tổng doanh số cả trang web lẫn sạp báo cộng lại.
Mỗi lần Swift có mặt trong các chương trình truyền hình thì lượt theo dõi người xem lại đạt mức cao kỷ lục. Ví dụ như sau khi Swift xuất hiện ở nhiều trận đấu tại giải Bóng bầu dục Quốc gia (NFL) thì đã phá hàng loạt kỷ lục số lượng người xem, lượt mua vé lẫn doanh số bán hàng hóa cho giải đấu, mạng lưới và truyền hình. Đây còn được gọi là "Hiệu ứng Taylor Swift". Nhà báo USA Today Louie Villalobos công nhận Swift "đang giải cứu NFL và đã giúp tạo ra 122 triệu đô la Mỹ cho giá trị thương hiệu của NFL." Hơn nữa, một tập phim chương trình thi nhảy Dancing With the Stars đã tỏ lòng biết ơn Swift vì chính cô đã giúp chương trình thu về kỷ lục 7,8 triệu người xem trên tất cả các nền tảng chính thức, trở thành chương trình truyền hình đa nền tảng được xem nhiều nhất trên ABC kể từ khi ra mắt vào tháng 9 năm 2021.
Swift là nhân vật được giới truyền thông ưa thích lựa chọn để đưa tin nhằm mục đích thu hút một lượng độc giả rộng lớn, và những người nổi tiếng khác thường được hỏi về Swift "gần như liên tục". Scottie Andrew bên CNN bảo rằng việc cố tình "nhét" Swift vào những câu chuyện thời sự mà cô không có liên quan rõ ràng "đã trở thành trò tiêu khiển của những người sáng tạo nội dung". Giáo sư Bond Benton bên giao tiếp và truyền thông tại Đại học Bang Montclair đã nghiên cứu về hiện tượng và cho rằng "sự hiện diện của Swift dù ở bất cứ nội dung truyền thông nào cũng giúp tăng lượt xem của nội dung đó." Benton còn nói thêm, Swift chính là một "người giỏi thu hút ánh nhìn của người khác" không có chủ ý nhưng lại đáng tin cậy, và sở hữu độ phủ sóng khắp mặt báo mạnh đến mức lan truyền từ người này sang người khác giống "meme". Cô có khả năng lôi kéo cả fan lẫn anti-fan tranh luận sôi nổi và bàn tán đủ điều về cô, tăng cường tương tác đối với một bài báo hoặc một video, dẫn đến giới truyền thông cảm thấy bị "ràng buộc" phải nhồi nhét Swift vào nội dung họ đưa để tối đa hóa lợi nhuận thu được từ độc giả, bất chấp đúng sai. Tuy nhiên, tác dụng phụ của hiện tượng quá chú ý về Swift là "có thể khiến những người tiêu dùng [sách báo] cảm thấy cô ấy đang quá chiếm sóng nguồn cấp tin tức của họ."
Các cây bút đánh giá gọi mối quan hệ giữa cô và phương tiện truyền thông đại chúng là ví dụ của phức hệ giữa người nổi tiếng và ngành công nghiệp, có tác động phong phú đến nghệ thuật biểu diễn của Swift. Album phòng thu thứ sáu Reputation (2017) của cô bàn về danh tiếng và chỉ trích phức hệ đó, còn bộ phim tài liệu tiểu sử Miss Americana (2020) thì mang tính giải nghĩa việc đấy. Các phương tiện truyền thông như USA Today đã thuê một nhà báo để đặc biệt đăng tin riêng toàn thời gian về Swift. Theo tác giả Maura Johnston bên trang Entertainment Weekly, mọi cử chỉ hành động của Swift đều bị xét nét rất kỹ vì cô là "một trong những ngôi sao nhạc pop đầu tiên trưởng thành hoàn toàn trong kỷ nguyên vòng lặp tranh luận phản hồi vô tận của mạng xã hội với phức hệ người nổi tiếng và ngành công nghiệp". Meaghan Tobin và Pei-Lin Wu viết cho The Washington Post giải thích rằng bất chấp lệnh kiểm duyệt nghiêm ngặt ở Trung Quốc, "Swift vẫn tránh được sự giám sát... Trên thực tế, truyền thông nhà nước Trung Quốc dường như không có gì ngoài những lời khen ngợi dành cho [cô ấy]". Hình tượng trước công chúng của cô đã được nhiều cơ sở giáo dục khác nhau nghiên cứu về mặt học thuật trong bối cảnh rộng hơn, chẳng hạn như tại Đại học New York và Cao đẳng Âm nhạc Berklee.
Sự nổi tiếng và các cuộc tranh cãi
Nhiều người cho rằng Swift là một "nhân vật phân cực". Tiếng tăm đầy tranh cãi của cô đã có tác động bất lợi đến vị thế của cô trên các phương tiện truyền thông. Một số nhà báo sẵn sàng thẳng thắn phê bình chỉ trích hành động của cô, trong khi những người khác thì mặc nhiên tung tin lá cải không kiểm chứng, làm hình tượng báo giới của Swift ngày càng xấu đi. Tác giả Shaina Weatherhead bên trang web Collider viết rằng mọi cử chỉ hành động của Swift đều được "giám sát và đánh giá kỹ lưỡng", Clash bảo rằng Swift chính là cột thu lôi giữa lời khen và lời chê, và chuyên gia thương hiệu Jeetendehr Sehdev phát biểu với Fortune rằng "Mọi người vừa yêu vừa ghét cô ấy". Swift đã biến những lời chê bai đó thành cảm hứng âm nhạc của mình, và cho ra mắt những bài hát như "Shake It Off" (2014), "Look What You Made Me Do" (2017) và "You Need to Calm Down" (2019).
Năm 2014, Tree Paine trở thành chuyên gia tiếp thị cho Swift, và Swift chính là khách hàng ký hợp đồng đầu tiên và độc quyền duy nhất. Nhiều tờ báo viết rằng Paine chính là người đã dìu dắt Swift vượt ra những giây phút hoen ố, nhất là sau tranh cãi năm 2016 với West vì chuyện ra mắt đĩa đơn "Famous", phiên tòa tấn công tình dục năm 2017, chuyện phát biểu chính trị và lựa chọn của Swift trong cuộc bầu cử Mỹ giữa kỳ năm 2018, cuộc tranh cãi quyền sở hữu tác phẩm vào năm 2019, và một chùm tin đồn người nổi tiếng về Swift đến từ tài khoản mạng xã hội DeuxMoi vào năm 2023. Học giả tiếp thị quảng bá Nancy Marshall viết trên tờ Forbes rằng sự hiện diện khắp nơi của Swift đã "mang đến những bài học quý giá cho toàn bộ ngành công nghiệp PR." Người điều hành marketing Stacy Jones đã ước tính giá trị truyền thông kiếm được của Swift đạt 130 tỷ đô la Mỹ.
Câu chuyện tranh chấp công khai và những "mối hận thù" giữa các ngôi sao với Swift đã gây sự chú ý rộng khắp cõi mạng xã hội lẫn truyền thông. Cô bắt đầu bị giới truyền thông "đeo bám" quá nhiều vào năm 2012. Nhiều người nhận thấy một vài phương tiện truyền thông chính là nguyên nhân châm ngòi những màn "beef" kịch liệt giữa Swift và những người nổi tiếng khác, đặc biệt là phụ nữ. Swift từng có "mối thù" với những người nổi tiếng như Katy Perry và Nicki Minaj, và cả hai cũng đều công khai chuyện tương tự. Ngoài ra, một số tờ báo khác cũng cáo buộc Swift đã gây thù địch với Cardi B, Adele, Demi Lovato, SZA và Ariana Grande, bất chấp cô chưa từng một lần tương tác với họ và đã lên tiếng dập tắt tin đồn. Cô còn bị cho là có hận có thù với các bạn trai cũ Joe Jonas, John Mayer, Calvin Harris và Jake Gyllenhaal. Tuy nhiên, Kanye West vẫn là người đã gây tranh cãi về hình tượng của Swift trước công chúng nhiều nhất.
Knibbs nhận xét rằng Swift là một "công chúa nhạc đồng quê đang trên đà trở thành siêu sao" vào năm 2009, hóa thành "con rắn" vào năm 2016 và trở lại với tư cách là một "gã khổng lồ âm nhạc toàn diện" sau năm 2019. Bên cạnh đấy, Knibbs còn đưa ra một "bài nghiên cứu xuất chúng điển hình về cuộc đời đầy thăng trầm của ngôi sao nhạc pop thời hiện đại". Từ năm 2017 trở đi, Swift đã luôn trốn chạy trước việc bị soi mói quá mức, và trêu chọc khích bác truyền thông bằng âm nhạc của cô. Cô đã bán kèm tạp chí mang chủ đề album Reputation tại Target, bên trong có những lời bình phẩm đầy mỉa mai về đời cô nhằm nhại lại phần đầu đề của lá cải. Theo Carter Sherman chắp bút cho Vice, sau khi Swift đóng vai "nhân vật phản diện" từ năm 2016 đến năm 2018, sự tự nhận thức của công chúng lẫn phương tiện truyền thông càng ngày càng tăng. Điều đó đã góp phần giúp cho nền văn hóa đại chúng trải qua một "Cuộc hồi sinh Swift vĩ đại" vào năm 2020, và từ đấy hàn gắn hình tượng công chúng của cô.
Swift là nhân vật thường xuyên thu hút mọi ánh nhìn người hâm mộ và vô số thợ săn ảnh đến quay phim chụp hình. Cô đã từng lên tiếng về vấn đề quyền riêng tư và cho rằng bản thân cô "nhận thức rõ ràng rằng điều đó là không bình thường chút nào." Năm 2015, người hâm mộ của Swift đã bao vây sân bay quốc tế Narita tại thành phố Chiba, Nhật Bản để chờ chực cô hạ cánh, gây trễ hàng loạt chuyến bay khác. Vào năm 2022, cô nhận được nhiều lời chỉ trích trên mạng xã hội sau khi một công ty tiếp thị tên Yard tuyên bố rằng cô đứng đầu danh sách những người nổi tiếng có máy bay riêng tạo ra lượng khí thải nhà kính cao nhất năm đó, được tổng hợp dựa trên dữ liệu được tài khoản Twitter @CelebJets đăng tải. Người phát ngôn của Swift đã đáp trả lại rằng, "Máy bay phản lực của Taylor thường được người khác mượn sử dụng [...] Cho nên, việc chụp mũ hầu hết hoặc tất cả những chuyến bay này là của cô ấy là hoàn toàn không đúng."
Ồn ào với Kanye West
Mối quan hệ thù địch kéo dài nhiều thập kỷ giữa Swift và West đã ảnh hưởng cả danh tiếng lẫn cách nhìn nhận về mặt văn hóa ở hai bên. Tháng 9 năm 2009, tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2009, Swift giành được giải Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ cho bài hát "You Belong with Me" (2009) của cô và trở thành ca sĩ đồng quê đầu tiên và một trong những người trẻ tuổi nhất (ở tuổi 19) thắng được giải Video âm nhạc của MTV. Trong lúc Swift đang phát biểu bày tỏ sự biết ơn, West đã lao lên sân khấu và ngắt ngang cô bằng cách giật mic, tuyên bố "Ê, Taylor, tôi rất vui cho cô, tôi sẽ để cho cô nói xong sau, nhưng mà Beyoncé mới chính là người có một trong những video hay nhất mọi thời đại" ám chỉ đến ca khúc "Single Ladies" (2008). Swift sau đó lui về phía sau cánh gà. Tiếp đến, Beyoncé đã thắng được giải Video của năm vào tối hôm đó và mời Swift lên phát biểu nốt. Hành động của West đã vấp phải những chỉ trích nặng nề. Tổng thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ Barack Obama đã gọi West là "thằng ngu" trên sóng truyền hình. West đã đưa lời xin lỗi và cho rằng hôm đó "là ngày khó xử" nhưng sau đó rút lại lời nói. Tiếp đến, Swift đã trò chuyện bong đùa về sự cố trên Saturday Night Live vào tháng 11 năm 2009. Swift và West đã chụp chung một tấm hình tại giải Grammy lần thứ 57 vào năm 2015, và cô bảo họ làm bạn với nhau là nhờ có sự giúp đỡ của người bạn Jay-Z chung của cả hai.
Mối thù lại bùng lên sau khi West phát hành đĩa đơn năm 2016 "Famous" có chứa lời rap "Tao cảm thấy như tao và Taylor có thể vẫn còn làm tình với nhau được / Tại sao ư? Tao đã khiến con chó cái đó nổi tiếng" nhắc tới sự cố năm 2009. West khẳng định rằng Swift trước đó đã đồng ý với lời bài hát sau khi trao đổi qua điện thoại, trong khi Swift thì phản bác rằng cô không hề biết dòng rap đó sẽ gọi cô là "con chó cái". West cho phát hành video âm nhạc của "Famous" và trong đó có chứa hình nộm trần như nhộng của Swift, khiến cô phải gọi là "thứ khiêu dâm trả thù" vào năm 2019. Sau khi Swift "đá xéo" West trong bài phát biểu chiến thắng giải Album của năm cho 1989 tại Grammy lần thứ 58 (2016), rằng cô sẽ không để cho những kẻ gièm pha cho rằng họ đã làm mình nổi tiếng, người vợ lúc bấy giờ của West là Kim Kardashian đã tung ra đoạn video cắt ghép nhiều khúc cuộc gọi giữa Swift và West trên Snapchat nhằm chứng minh luận điểm của West. Thẻ "#TaylorSwiftisOverParty" trở thành xu hướng thịnh hành trên Twitter với những bài đăng trên mạng xã hội viral gọi Swift là kẻ "giả tạo, tính toán, dắt mũi, rắn độc, dối trá và không hề thực sự như vậy". Nhiều phương tiện truyền thông đã chỉ trích, "nhạo báng và tẩy chay" Swift. Chính những phản ứng dữ dội vừa kể đã khiến cho Swift phải rời xa ánh đèn sân khấu trong một năm, né tránh sự soi mói của báo giới cho đến khi ra mắt Reputation vào năm 2017. Một phần chủ đề trong album Reputation được lấy cảm hứng từ cuộc tranh cãi năm trước. Đến năm 2020, cuộc gọi hoàn chỉnh giữa West và Swift đã bị rò rỉ và chứng minh được rằng Swift không hề nói dối, dẫn đến "#KanyeWestisOverParty" trở thành xu hướng thịnh hành Twitter.
BBC gọi đây là "mối thù truyền kiếp khét tiếng nhất trong âm nhạc". Jones nhấn mạnh rằng chính vì cô quá lan tràn trên mặt báo ở các chu kỳ album Red và 1989 nên đó là lý do vì sao truyền thông dễ "quay lưng" với cô vào năm 2016, còn Grace Medford bên phía Vice thì cho rằng thành công sau này của Swift là do cô "phỉ báng" West. Tuy nhiên, sau năm 2020, các phương tiện truyền thông bắt đầu ca ngợi Swift vì đã giữ vững lập trường của mình. Năm 2023, Shaad D'Souza trên tờ The Guardian đã lên tiếng bảo rằng Swift đã trở nên "miễn nhiễm hoàn toàn với thù ghét" và tái khẳng định bản thân cô mới chính là ngôi sao nhạc pop được yêu thích trên thế giới.
Giới tính và nữ quyền
Swift là một người công khai ủng hộ nữ quyền và quyền được phá thai trên các phương tiện truyền thông. Sự nghiệp của cô đã được đem ra làm chủ đề nghiên cứu để giải thích các khía cạnh nữ quyền. Swift là người lên tiếng nói chỉ trích cách truyền thông đối đãi phụ nữ. Ví dụ, trong một buổi xuất hiện trên chương trình Tout le monde en parle, Swift phát biểu rằng cô "không thể chịu đựng nổi cái cách truyền thông nhìn nhận phụ nữ trẻ là đối thủ hơn là đồng minh." Bên cạnh đó, Swift cũng thường hay quyên góp số tiền cho các cuộc vận động nữ quyền và các chương trình trao quyền cho phụ nữ. Theo cuộc khảo sát năm 2023 của Morning Consult, 52% lượng fan của Swift ở Hoa Kỳ là phụ nữ, trong khi nam thì chiếm 48%.
Bị dòm ngó chuyện hẹn hò
Đời tư hẹn hò của Swift trở thành chủ đề mà được rất nhiều người quan tâm, không chỉ riêng truyền thông. Do vậy, các tờ báo lá cải thường dòm ngó các cuộc tình của cô và thúc đẩy một số hãng tin tức văn hóa đại chúng, nhà bình luận bảo thủ cũng như cộng đồng mạng đi sỉ nhục cô 'thay người yêu như thay áo' (slut-shaming). Giới truyền thông thích đồn đoán người nổi tiếng nào đứng đằng sau nguồn cảm hứng các bài hát của Swift. Theo lời của Rosen, chính các phương tiện đã phỉ báng Swift "là một kẻ kiss and tell hàng loạt, một rich kid quá ưu quyền, một người đàn bà xấu tính khéo đậy che bằng lớp mặc cảm nạn nhân" một phần là do giai điệu "chói tai" trong những bài hát đầu tiên của Swift. Tuy nhiên, Rosen cũng bảo rằng đã từng có "một sự tiêu chuẩn kép phân biệt giới tính trong việc giám sát từng lời nói chân thật của Swift, nhất là khi bạn để ý đến các thực trạng kỳ thị nữ giới trong các ca khúc của các rocker, rapper và những nghệ sĩ ballade indie râu ria xồm xoàm." Một số phương tiện truyền thông và nhà báo cũng gây tranh cãi vì đặt thành kiến, thường xuyên giật tít phỉ báng Swift nhằm mục đích câu view các độc giả quan tâm đến tình tiết "ngon ngọt" về cuộc đời của Swift.
Swift bắt đầu hẹn hò với cầu thủ bóng bầu dục Mỹ Travis Kelce từ khoảng tháng 8 năm 2023, và chuyện tình cảm giữa hai người đã gây ra tác động văn hóa không hề nhỏ. Billboard cho rằng Swift và Kelce "chính là cặp đôi nổi tiếng nhất thế giới hiện nay, liên tục gây chú ý hàng ngày bằng các hành động chỉ đơn giản là nắm tay nhau hoặc thưởng thức bữa tối cùng nhau." Mỗi lần Swift đến thưởng thức các trận đấu của đội Kelce (Kansas City Chiefs) tại giải Bóng bầu dục Quốc gia (NFL) là mỗi lần phá kỷ lục số lượng người theo dõi giải thể thao, trong đó có cả kỷ lục số lượng người xem là khán giả nữ. Chính NFL và NBC Sports còn phải lợi dụng quan hệ hẹn hò giữa Kelce và Swift để thu hút tương tác mạng xã hội và xúc tiến người xem các trận đấu trò chơi bóng bầu dục kế tiếp. Các kỷ lục được ghi nhận gồm có:
Trận Chiefs–Chicago Bears vào ngày 24 tháng 9 năm 2023: thu về 24,32 triệu người xem trên kênh Fox Sports, và đây là số lượng người xem truyền hình nhiều nhất dịp cuối tuần.
Trận Chiefs–New York Jets vào ngày 1 tháng 10 năm 2023: thu về 27 triệu người xem trên toàn bộ chương trình phát sóng NBC, khiến trận đấu trở thành chương trình truyền hình tối Chủ nhật được xem nhiều nhất kể từ sau Super Bowl LVII.
Trận Chiefs–Buffalo Bills vào ngày 21 tháng 1 năm 2024: thu về 50,393 triệu người xem, đánh dấu trận play-off NFL được xem nhiều nhất từ trước tới nay và là chương trình được xem nhiều nhất ở bất cứ mạng lưới phát sóng nào tính từ Super Bowl LVII.
Trận Chiefs–Baltimore Ravens vào ngày 28 tháng 1 năm 2024: thu về 55,5 triệu lượt xem, trở thành trận đấu vô địch AFC được xem nhiều nhất mọi thời đại.
Các nhà bình luận và nhà báo chuyên về văn hóa đại chúng bắt đầu phong Swift và Kelce là một siêu cặp đôi, và mệnh danh họ là "cặp đôi hoàng gia" của riêng nước Mỹ. Emily Yahr phát biểu qua The New York Times rằng cả Hoa Kỳ đang "vui vẻ ngắm nhìn trầm trồ" cặp đôi Swift và Kelce mà "đối với nhiều nhà quan sát là đã thỏa mãn chính xác hết mọi yêu cầu (checks all the right boxes)", còn Andrew Unterbeger thì viết rằng cặp đôi này đã nhận được "gần 100% lời đồng tình của công chúng" đơn giản là do "cảm thấy hợp: vận động viên toàn nước Mỹ đi hẹn hò với ngôi sao nhạc pop toàn nước Mỹ." Nhà báo Robert Armstrong lên tin cho Financial Times đã ví Kelce là một phối ngẫu hoàng gia và là "người bạn trai quan trọng nhất trên thế giới, thậm chí có lẽ là người bạn trai quan trọng nhất trong lịch sử loài người." Một tập phim truyền hình đặc biệt của Nightline bàn về chuyện hẹn hò và tác động của hai người, có tựa đề Taylor + Travis, được phát hành trên nền tảng Hulu vào tháng 11 năm 2023. Vào mùa lễ hội ma Halloween năm 2023, các trang phục hóa trang thành cặp đôi Kelce-Swift trở nên thịnh hành.
Mục tiêu của kỳ thị nữ giới
Các nhà báo đã luôn nhắm vào Swift để phát biểu kỳ thị nữ giới và slut-shaming, trong khi cô đã luôn lên tiếng đáp trả lại nhằm dập tắt mọi hình thức phân biệt giới tính. Swift còn đích thân chỉ ra rõ nhưng từ ngữ khinh thường phụ nữ được sử dụng để "cancel" cô trên các tờ báo lá cải và tiêu đề giật tít, cũng như những bình luận phân biệt giới tính gây ảnh hưởng đến danh dự và uy tín của cô. Cô cho rằng "đời sống hẹn hò của cô đã trở thành một trò tiêu khiển quốc gia" và không đồng tình cái cách mọi người "tầm thường hóa" hình tượng cô bằng câu nói ném đá giấu tay kiểu như "Ê, cẩn thận nha mày, cô ta sẽ viết một bài hát về mày đó". Một số người cho rằng Swift dễ trở thành mục tiêu cho nam giới trêu ghẹo chế nhạo và động chạm "cái tôi mong manh của nam giới". Thậm chí, họ còn nói cô đã "chọc giận các nhà phê bình nam vì trông không giống một người sexy" và thách thức nhãn quan nam giới. Theo Rosen, một số phương tiện truyền thông lẫn công chúng có định kiến tiêu chuẩn kép. Họ chỉ trích lời bài hát "có tính axit" của Swift về tình cũ, và mặc dù cũng tiếp tục sử dụng ngôn từ đó nhưng lại để khen ngợi các nghệ sĩ nam như Bob Dylan, Elvis Costello và Drake. Một số người trước kia là anti của Swift, thì ngày nay đã tự khiến trách cho hành vi coi thường phụ nữ một cách vô thức của họ. The Daily Telegraph cho rằng ăngten phủ sóng nạn phân biệt giới tính của Swift rất có ảnh hưởng quan trọng đối với ngành công nghiệp.
Ở nhiều phương tiện khác, Swift trở thành chủ đề cho vô số bình luận, "trò đùa giỡn", punch line và meme mạng xã hội đầy phân biệt giới tính. The New Feminist còn cho biết thêm không chỉ có đàn ông, ngay cả phụ nữ cũng ra sức bày tỏ thù ghét Swift. Tại giải Quả cầu vàng lần thứ 70 (tháng 1 năm 2013), người dẫn chương trình Tina Fey và Amy Poehler nói đùa về Swift sau khi tin lá cải tuần đó xác nhận Swift đã chia tay Connor Kennedy. Fey bảo rằng do Swift "mê trai nổi tiếng", cô nên tránh né con trai của nam diễn viên Michael J. Fox vì Fox đã hộ tống những người đoạt giải ra khỏi sân khấu tối hôm đó. Poehler không đồng ý và nói "Swift nên làm điều đó", rồi Fey nói vặn lại. Sau đó, trò đùa là chủ đề được đưa tin rộng rãi. Fey cũng từng nói đùa về đời tư hẹn hò của Swift. Hai tháng sau, lúc Vanity Fair hỏi về chuyện Fey và Poehler, Swift dẫn câu nói của Madeleine Albright: "có một nơi đặc biệt ở phía dưới địa ngục dành cho những người phụ nữ không giúp đỡ những người phụ nữ khác." Sau đó cô đã giải thích chi tiết:
Tháng 6 năm 2013, công ty bán lẻ Mỹ Abercrombie & Fitch đã trưng bày áo sơ mi có in chữ "More Boyfriends than T.S." (Nhiều bạn trai còn hơn T.S.). Sau khi vấp phải tẩy chay từ fan hâm mộ của Swift, nhà bán lẻ đã thu hồi toàn bộ. Nhà lãnh đạo Westboro Baptist Church tên Ben Phelps đã gọi Swift là "đứa bé điển hình cho những con đĩ trẻ của nước Mỹ diệt vong" nhằm chê trách cô sáng tác những bài hát "gian dâm và cổ xúy tội lỗi" và dự định lên kế hoạch biểu tình ngay tại buổi hòa nhạc của cô. Tháng 10 năm 2014, trên chương trình phát thanh Jules, Merrick & Sophie tại Úc, Swift cho biết cô bị "chỉ trích một cách bất công" về lời bài hát so với các đồng nghiệp nam:
Trong một cuộc phỏng vấn năm 2016, khi Swift được hỏi xin lời khuyên mà cô tự đưa cho bản thân mình năm 19 tuổi thì cô trả lời, "Này, bạn sẽ hẹn hò giống như một cô gái tuổi đôi mươi bình thường được phép làm vậy, nhưng bạn sẽ hóa thành cột thu lôi quốc gia để người khác slut-shaming bạn." Phỏng vấn vào năm 2019 cùng với DJ Zane Lowe người New Zealand trên Apple Music 1, Swift bảo rằng slut-shaming "đã theo [tôi] từ tuổi rất nhỏ, nên sẽ có đôi chút khó khăn. Đó là một trong những lần đầu tiên mà [tôi] kiểu-quào, chuyện này thật không công bằng." Trong bài viết "Why women say sorry too much and what to say — and do — instead" trên trang Australian Broadcasting Corporation (ABC), Kate Midena đã nêu ra những lời bình của Swift về những khó khăn vất vả của cô trong việc "xóa bỏ thói quen kỳ thị phụ nữ ở ngay não của chính tôi" trong Miss Americana. Midena còn viết rằng việc học cách nói lời xin lỗi là "một câu hỏi hóc búa mà phụ nữ đã mắc kẹt từ thời trung cổ" và các cô gái thường được dạy phải coi trọng sự đồng cảm hơn "những đặc điểm nam tính" về thể chất và cái đầu quyết đoán. Do vậy, họ "cảm thấy cần phải xoa dịu hành động của mình bằng một lời xin lỗi".
Vào ngày 1 tháng 3 năm 2021, Swift chỉ trích các tác giả của loạt phim Netflix mang tựa đề Ginny & Georgia vì đã sử dụng "trò đùa lười biếng vô cùng phân biệt giới tính" để slut-shaming cô. Cây viết Beth Ashley của Grazia viết phân biệt giới tính là lý do vì sao nam giới nổi tiếng như Pete Davidson được tôn vinh vì lịch sử hẹn hò "hào hoa" của mình, trong khi Swift thì lại bị "chọc quê và xa lánh". Tháng 1 năm 2024, vụ việc hình ảnh khiêu dâm deepfake do trí tuệ nhân tạo sản sinh có chứa gương mặt của Swift lan truyền khắp cõi mạng xã hội đã vấp phải chỉ trích và nảy sinh lời kêu gọi cải cách pháp luật từ Nhà Trắng và SAG-AFTRA. Twitter đã vào cuộc bằng cách chấm dứt hoạt động những tài khoản đăng tải những tấm hình nhạy cảm, trong đó có cả tài khoản sở hữu một tweet chụp màn hình những tấm ảnh deepfake mang về hơn 47 triệu lượt xem. Nền tảng thậm chí còn chặn tìm kiếm từ khóa "Taylor Swift" vì lý do "ưu tiên sự an toàn". Các thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Dick Durbin, Lindsey Graham, Amy Klobuchar và Josh Hawley tiếp đó đã đưa ra đạo luật DEFIANCE (Chống hình ảnh giả mạo thô tục rõ ràng và chỉnh sửa không có sự đồng thuận, Disrupt Explicit Forged Images and Non-Consensual Edit) cấm chỉ mọi phương tiện số giả mạo một người có thể nhận diện danh tính mà không có bất cứ sự đồng ý từ phía người đó.
Phanh phui nạn tấn công tình dục
Tháng 8 năm 2017, tại Tòa án Quận Hoa Kỳ của Quận Colorado diễn ra một phiên tòa tấn công tình dục gồm các bên thưa là cựu DJ David Mueller từng là nhân viên phát thanh KYGO-FM, và bên bị thưa là Swift vì tội phỉ báng. Anh ta bảo rằng Swift đã khiến anh ta bị sa thải một cách phi lý sau vụ việc Swift và Mueller gặp gỡ, chào hỏi, và chụp hình vào năm 2013. Swift cáo buộc Mueller là kẻ thò tay vào dưới váy và túm mông cô trong bức ảnh. Mueller đã bị đuổi khỏi buổi hòa nhạc sau khi Swift lên tiếng tố giác với mẹ cô cùng với đội ngũ của cô. KYGO đã sa thải Mueller ngay lập tức khi vụ việc được lan truyền đến đài phát thanh. Tháng 9 năm 2015, anh ta đâm đơn kiện Swift vì tội phỉ báng và xác nhận rằng anh ta chưa từng chạm váy của Swift, và anh ta bị mất việc và hủy hoại danh tiếng là do lời xuyên tạc của cô. Swift đã đâm đơn kiện ngược lại Mueller vì tội đe dọa và tấn công tình dục, và chỉ yêu cầu nhận tiền bồi thường thiệt hại là 1 đô la Mỹ. Cuối cùng, thẩm phán đã giải quyết theo hướng có lợi cho Swift.
Vụ việc vừa kể trở thành chủ đề thu hút sự chú ý rộng rãi của giới truyền thông do Swift là một người rất có tiếng. Trong một tuyên bố hậu phiên tòa, Swift tiết lộ rằng cô đã kiện ngược lại Mueller nhằm trao quyền cho các nạn nhân khác của vụ tấn công tình dục. BBC tuyên bố rằng phiên tòa tấn công tình dục của Swift có ý nghĩa về mặt văn hóa vì vụ việc đã giúp phanh phui những vụ tố giác sai sự thật liên quan tấn công tình dục về sau, đề cao tinh thần thông qua việc Swift từ chối rút lui bất chấp các luật sư bào chữa cố hết sức làm mất uy tín của cô, cùng với khoản bồi thường 1 đô la Mỹ được cho là mang tính biểu tượng. Các chiến lược gia thương hiệu cho rằng Swift "không chỉ cố gắng trao quyền cho những phụ nữ bình thường mà cô ấy không hề quen biết mà còn cả những đồng nghiệp trong ngành âm nhạc" thông qua vụ việc này. Chuyên gia quan hệ công chúng Marvet Britto đã tuyên bố Swift "thừa biết rằng việc cô thách thức chống lại những cáo buộc này không phải chỉ riêng mình cô mà còn cho các nghệ sĩ và những người đồng nghiệp khác. Hành động đó đã góp phần mở mang tầm mắt của toàn cầu đối với các vấn đề tấn công tình dục, mà trong nhiều vụ việc đó, vẫn chưa được tố giác hoặc bị ngó lơ hay bị gạt ra ngoài lề." Tháng 12 năm 2017, tạp chí Time đã phong tặng Swift danh hiệu "người đập tan sự im lặng" (Silence Breakers) trong ấn bản Nhân vật của năm. Elle cho rằng phiên tòa mang tính bước ngoặt này "nhằm mục đích không làm thủ phạm bị phá sản mà tạo tiền lệ cho các nghệ sĩ và phụ nữ khác trên khắp thế giới lên tiếng và buộc những kẻ rình rập phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại không thể khắc phục mà bọn họ gây ra." Ngoài ra, Swift còn đích thân trao 250.000 đô la Mỹ cho ca sĩ người Mỹ Kesha vào năm 2016 để hỗ trợ chi phí pháp lý cho vụ kiện tấn công tình dục của đồng nghiệp. Cô còn quyên góp cho quỹ Trái tim Vui vẻ nhằm ủng hộ nạn nhân bị tấn công tình dục năm 2017.
Quan điểm
Các nhà phê bình ghi nhận phong cách âm nhạc của Swift đã có sức ảnh hưởng đến các album do nữ ca sĩ nhạc đồng quê phát hành như Kacey Musgraves, Maren Morris và Kelsea Ballerini. Buổi biểu diễn guitar trên sân khấu của Swift đã góp phần gây nên "Hiệu ứng Taylor Swift", khiến cho doanh số bán guitar cho phụ nữ tăng cao đột biến, trong khi phụ nữ lại là nhóm nhân khẩu học luôn bị xem nhẹ. Chủ tịch Todd Cassetty của công ty Cassetty Entertainment phát biểu rằng, "mọi người đang cố gắng bắt chước" Swift và "rất nhiều phụ nữ trẻ đang cố gắng tìm kiếm tiếng nói của mình, nhưng rất nhiều người trong số họ đã khơi dậy được niềm cảm hứng cầm đàn guitar" là nhờ vào cô. Nhà báo Shah Ezayadi cho rằng thành công về mặt thương mại của Swift là nhờ vào "cách cô ấy khiến cho người nghe cảm thấy được đồng cảm, đặc biệt là khán giả nữ trẻ tuổi." Raza-Sheikh cho biết Swift là một phép thử văn hóa kiểu giấy quỳ (litmus test) và đặt câu hỏi, "liệu chúng ta có thể bắt đầu tôn trọng nghệ thuật do những người phụ nữ nổi tiếng sáng tạo ra được hay không, đặc biệt khi nghệ thuật ấy đã gợi mở những câu chuyện tình yêu và sự nữ tính trong đó?"
Chủ nghĩa nữ quyền là khía cạnh cốt lõi trong âm nhạc của Swift, đặc biệt từ năm 2014 trở về sau. Theo Rosen, Swift là người đang tồn tại ở phần cuối khiêm tốn của thời đại "Victoria" trong sắc màu của phong trào nữ quyền, và cô được so sánh với các ngôi sao nhạc pop như Beyoncé, Lady Gaga, Rihanna và Miley Cyrus vốn "đại diện cho nhạc pop nữ quyền theo phong cách tình dục hóa nặng nề kèm theo khai thác nhịp đập lớn và trang phục thiếu vải để giải quyết các câu hỏi về quyền lực và quyền tự quyết". Tuy nhiên, các bài hát của Swift thì "không hoàn toàn trong sáng hẳn: Tình dục vẫn hiện diện trong sự dồn dập của âm nhạc, và xuất hiện đầy thận trọng trong lời bài hát." Nhiều bài hát của cô đề cập đến chủ đề nữ quyền chẳng hạn như "I Did Something Bad" (2017), "The Man" (2019), "The Last Great American Dynasty" (2020), "Mad Woman" (2020), "Vigilante Shit" (2022) và "Would've, Could've, Should've" (2022). Các bài hát như "Nothing New" (2021), "Castles Crumbling" (2023) và "Slut!" (2023) có chứa quan điểm của Swift về việc trở thành phụ nữ trong mắt công chúng. Cây viết Kayla Bartsch biên tập cho National Review phát biểu rằng Swift nổi tiếng là nhờ vào "khả năng không gì sánh kịp của cô ấy trong việc nắm bắt được bản chất của người phụ nữ hiện đại." Theo nhà báo Sam Lansky của Time, Swift cho phép "mọi người, nhiều phụ nữ trong số đó, đặc biệt là các cô gái, những người đã có điều kiện chấp nhận sa thải, những lời mắng nhiếc và ngược đãi từ một xã hội coi cảm xúc của họ là thứ tầm thường" tin rằng cảm xúc lẫn nhận thức của họ là điều quan trọng.
Đĩa đơn "Blank Space" năm 2014 của Swift là một ca khúc phê bình châm biếm chủ nghĩa nữ quyền về vai diễn của cô trên các phương tiện truyền thông. Nhà báo chuyên mục Jessica Valenti viết cho The Guardian đã gọi video âm nhạc của cô là một "câu chuyện cổ tích về nữ quyền theo chủ nghĩa đen tối" nhằm tái hiện những trò "phiền nhiễu, điên rồ giống con trai" do truyền thông tung tin về Swift. Trong video âm nhạc của "The Man", Swift đóng vai một nhân cách nam khác tên là Tyler Swift nhằm chỉ ra một số ví dụ phổ biến về tiêu chuẩn kép trong nạn phân biệt giới tính gồm có đồ vật hóa tình dục, tình dục hóa, nam tính độc hại và chế độ phụ quyền. Paris Close của iHeartRadio cho rằng video âm nhạc của "The Man" đã chứng tỏ "đặc quyền của phái nam đã và đang ngạo mạn như thế nào ở đời thực".
Quan điểm nữ quyền của Swift cũng được xem xét thông qua những lần sáng tạo và đổi mới nghệ thuật trong sự nghiệp của cô. Nữ ca sĩ nói rằng, "các nghệ sĩ nữ mà tôi biết đã phải thay mới bản thân nhiều hơn 20 lần so với các nghệ sĩ nam, nếu không bạn sẽ mất việc" vì ngành công nghiệp âm nhạc đang cố "đào thải" các ngôi sao nhạc pop nữ ngay khi họ bước vào tuổi giữa 30. Một bài viết bên tạp chí Prospect năm 2020 có tựa đề "It's time to face the facts—our male pop stars need to try a bit harder" đã chỉ ra yêu cầu đối với các ngôi sao nhạc pop nữ rằng, họ phải "có ngoại hình cực kỳ ưa nhìn và buộc thay đổi hình tượng đó thường xuyên". Nhà phê bình Vanessa Friedman kiêm chủ chuyên mục thời trang của The New York Times đã nhìn nhận "bánh xe chuột hamster liên tục đổi mới" của Swift chính là một bài bình luận tổng hợp về những kỳ vọng rằng các ngôi sao nhạc pop nữ sẽ "tiết lộ những phiên bản mới của chính họ để chúng ta thưởng thức, cải tiến hình tượng cũ của họ với tủ quần áo mới vô tận", trong khi các ngôi sao nhạc pop nam thì không cần phải thay đổi gì nhiều. Jeff Nelson của People cho rằng Swift đã giáng một đòn mạnh vào trần kính đó, đập tan mọi kỳ vọng phân biệt giới tính và mở ra con đường cho thế hệ nghệ sĩ nữ tiếp theo.
Ở một góc độ trái ngược nhau, mặc dù Swift tự nhận mình là một người theo đuổi nữ quyền, nhưng việc xuất hiện trước công chúng năm 2014–2015 của cô và những bức hình chụp trên mạng xã hội cùng với các nữ ca sĩ và người mẫu thời trang mà giới truyền thông gọi là "hội bạn thân" (squad) của cô đã khiến một số người nghĩ rằng cô làm vậy để giữ tên tuổi của mình nổi bật trong giới phương tiện truyền thông người nổi tiếng. Một số nhà phê bình cho rằng chủ nghĩa nữ quyền của Swift thiếu tính xen kẽ, khiến cô bị coi là một nhà nữ quyền da trắng đang chơi thân với "nhóm mà thực sự trong đó chỉ là một nhóm độc quyền thân thiện giữa hầu hết là nữ diễn viên và siêu mẫu da trắng."
Ngoại hình
Hình ảnh thân thể và sức khỏe tâm thần
Swift thường xuyên nhận nhiều lời bình luận miệt thị ngoại hình trên tờ báo và mạng xã hội. Đa phần mọi người đều tập trung chỉ trích ngoại hình của cô và cho rằng cô "quá ốm" vào năm 2014 và khi cô tăng cân vào khoảng giữa năm 2017 và năm 2019. Swift đã từng lên tiếng về tác động của việc đưa tin về sức khỏe cá nhân cũng như những vấn đề như rối loạn ăn uống, rối loạn dị dạng cơ thể, chán ăn do tập luyện (anorexia athletica), lòng tự trọng và bắt nạt trên mạng. Cô tiết lộ trong Miss Americana rằng bản thân đã từng phải vừa "nhịn ăn" vừa tập luyện quá sức sau khi đọc những bài báo dựa trên những bức ảnh chiếc bụng "phát tướng" để tung tin rằng cô đang mang thai. Chính vì việc đó mà đã dấy lên những phản ứng và các cuộc tranh luận về sức khỏe tâm thần trong cộng đồng.
The Daily Targum nhận thấy rằng mặc dù Swift vốn là một chuyên gia trong việc xử lý những lời chỉ trích tiêu cực, song cô vẫn "không chịu nổi sự bất an dẫn đến vấn đề ăn uống. Việc này cho thấy ngay cả những người mạnh mẽ nhất trong chúng ta cũng dễ bị rối loạn ăn uống tiềm ẩn do môi trường độc hại của mạng xã hội". Giáo sư tâm thần học Jessica Gold tại đại học Washington ở St. Louis đã lên tiếng bình luận rằng, "trong khi các nhà lãnh đạo chính trị của chúng ta vẫn còn đang đau đầu trong việc xây dựng sự đồng thuận và truyền đạt mức độ nghiêm trọng của các vấn đề" như sức khỏe tâm thần thì Swift đã gửi đi một thông điệp mạnh mẽ bằng cách công khai về các vấn đề nan giải của mình, "một vấn đề có thể cứu rất nhiều mạng sống theo vô số cách". Ellen Ricks bên phía HelloGiggles cho rằng việc tiết lộ chuyện rối loạn của Swift đã khơi gợi cảm hứng và "nó có thể tác động như thế nào đến rất nhiều người vẫn đang chống chọi" cũng như "vẫn còn quá nhiều kỳ thị và thông tin sai lệch" xoay quanh đó. Nhà biên kịch Elana Fishman bày tỏ trong lúc bàn bạc về Miss Americana rằng, "thỉnh thoảng, tôi vẫn thấy mình chỉ trích bụng hoặc chân của bản thân trông như thế nào trong ảnh hoặc chiếc quần nào đó vừa vặn với mình ra sao. Từ giờ trở đi, bất cứ khi nào điều đó xảy ra, tôi sẽ lặp lại một câu mà Swift đã nói trong phim: 'Chúng tôi không làm điều đó nữa, vì thà nghĩ rằng mình trông béo còn hơn là trông ốm yếu'". Miss Americana cũng đã khiến cho những người chỉ trích Swift phải phản ứng, đơn cử diễn viên hài Nikki Glaser cho rằng lời nhận định của cô về việc gầy ốm xuất phát từ cảm giác bất an. Nhà báo Richard S. Hé đã giải thích ý định của bài đăng trên trang Vice năm 2016 mang tựa đề "Taylor Swift Isn't Like Other Celebrities, She's Worse" là nhằm mục đích "giải mã sự nhỏ mọn của mối quan hệ phức tạp giữa ngành công nghiệp và người nổi tiếng" nhưng không ngờ là đã chỉ trích Swift quá mức.
Nội dung video âm nhạc cho đĩa đơn "Anti-Hero" năm 2022 của Swift tập trung vào chủ đề những phiên bản cái tôi của Swift tương tác với nhau, và có chứa phân cảnh mà phiên bản Swift chán nản và giản dị đặt chân lên chiếc cân phòng tắm có đề dòng chữ "béo" khiến phiên bản ngôi sao nhạc pop quyến rũ Swift lắc đầu không đồng tình. Phân cảnh này đã vấp phải phản ứng trái chiều trên mạng xã hội, và một số người cáo buộc Swift thành kiến và kỳ thị người thừa cân (fatphobia). Một quan điểm trên trang The Cut thì cho rằng phân cảnh đó mang hàm ý "củng cố ý tưởng 'béo' là xấu". Số người khác thì bảo vệ ủng hộ Swift. Các nhà báo đến từ The Guardian, The Independent và The Daily Telegraph, cùng với chương trình truyền hình như The View đứng về phía Swift và lập luận rằng với tiền sử mắc chứng rối loạn ăn uống, cô không cần phải "tẩy trắng" chấn thương tâm lý của mình để làm cho tác phẩm của mình có thể "tiêu hóa" được đối với khán giả. Họ tuyên bố rằng video của "Anti-Hero" chỉ minh họa "bộ não hoạt động sai chức năng của cô ấy khi mắc chứng rối loạn ăn uống". Tuy nhiên, mặc dù video đã được chỉnh sửa để loại bỏ từ "béo" gây tranh cãi, nhưng cũng vấp phải chỉ trích. Maya Georgi bên NBC News đã lên tiếng đặt câu hỏi tại sao Swift lại "một lần nữa để cho những lời chỉ trích kiểm soát hành động của cô ấy" và cảm thấy cảnh quay này thực sự đã chứng tỏ "tác hại của những lời hùng biện về việc coi trọng cơ thể gầy ốm và coi thường những cơ thể phát tướng hơn đã gây ra" lớn đến mức nào cho Swift và những phụ nữ khác. Tomás Mier viết cho Rolling Stone bảo rằng Swift "đã phải tiết chế cách thể hiện nghệ thuật và lựa chọn khắc họa trải nghiệm sống của mình".
Phong cách thời trang và gu thẩm mỹ
Các nhà báo chuyên mục thời trang luôn bàn bạc về thời trang của Swift, và phong cách đường phố của cô nhận được nhiều lời hoan nghênh từ các nhà phê bình. Swift luôn là người sẵn sàng thay mới hình tượng và gu thẩm mỹ xuyên suốt sự nghiệp để đảm bảo phù hợp với từng chu kỳ album tương ứng cũng như chủ đề riêng biệt lẫn xu hướng thời trang tạo cảm hứng. "Sự tiến hóa phong cách" của cô cả ở trong lẫn ở ngoài âm nhạc trở thành chủ đề mà các sạp báo phân tích rộng rãi. Consequence cho rằng vẻ ngoài của Swift đã tiến lên từ "nghệ sĩ nhạc đồng quê cô gái hàng xóm trở thành ngôi sao nhạc pop, thậm chí là cả nhà thơ trong rừng sau hơn một thập kỷ". The Wall Street Journal cho rằng việc Swift phối hợp giữa nhãn hàng cao cấp với khá bình dân đã khiến phong cách của cô trở nên "tiếp cận được" và thường dẫn đến doanh số bán hàng lẫn hoạt động tương tác tăng cao kỷ lục ở những thương hiệu thời trang kém tiếng tăm mà cô lựa chọn.
Năm 2011, lúc Vogue hỏi các nhà thiết kế thời trang về "biểu tượng mới của phong cách người Mỹ" thì Tommy Hilfiger đã xướng tên Swift nhờ vào trang phục mùa hè "lôi cuốn" của cô. People vinh danh Swift là Người phụ nữ mặc đẹp nhất năm 2014 và gọi cô là "nữ hoàng phong cách đường phố". Năm 2015, Swift dành chiến thắng giải Phụ nữ của năm của Elle vì cô là "một biểu tượng phong cách" có khả năng "chuyển đổi liền mạch giữa phong cách đường phố sang trọng và những bộ váy thời trang cao cấp quyến rũ trên thảm đỏ", và đứng dầu danh sách Maxim Hot 100 năm 2015. Trong một bài viết năm 2018 của Vogue, nhà phê bình Francesca Wallace viết rằng Swift nổi tiếng là người đi theo phong cách thời trang "dễ tính, nữ tính" và "thanh lịch", kết hợp nơ, họa tiết và túi xách, tạo nên một phong cách đường phố "đáng để sao chép bắt chước".
Swift đồng chủ trì Met Gala năm 2016. Theo Kelsey Glein bên InStyle, Swift là chuyên gia về thời trang "ngoài công sở", thường xuyên phối trang phục đồng bộ, pha trộn yếu tố cổ điển, retro và "cool ngầu", họa tiết in hoa, giày Mary Jane hay Oxford, bốt Jimmy Choo và các phụ kiện khác của Aldo, Prada, Christian Louboutin, Elie Saab và Dolce & Gabbana. Vogue Australia coi Swift là một nhân vật có ảnh hưởng trong thời trang bền vững. Cô đã cho phát hành dòng thời trang bền vững vào năm 2019 cùng với Stella McCartney.
Tạo xu hướng
Âm nhạc, hình ảnh, trang phục phổ biến và các buổi hòa nhạc của Swift đã ảnh hưởng đến xu hướng thời trang và dẫn đến doanh số bán hàng tăng vọt. Cô đã góp phần làm cho son môi đỏ trở nên phổ biến, và đó cũng là một trong những họa tiết thời trang đặc trưng của Swift, đặc biệt là sau album Red nổi bật với đôi môi đỏ trên bức ảnh bìa. Swift còn giúp cho áo ghi lê và trang phục lịch sự không tay áo trở thành xu hướng trong thời trang nữ giới, cũng như làm niềm cảm hứng trang phục trong mùa lễ Halloween.
"Chiếc khăn quàng cổ" được nhắc đến trong lời bài hát tự truyện của "All Too Well" cũng đã trở thành món đồ đặc trưng gắn liền với Swift, và còn được truyền thông phong tặng là "một biểu tượng văn hóa đại chúng không thể tin được trong một vật thể vô tri", "một biểu tượng phổ quát cho con tim đau khổ", "bí ẩn văn hóa đại chúng tuyệt vời", "đèn bến tàu màu xanh lá cây của thời đại chúng ta", "phụ kiện huyền thoại" và "một nguồn tò mò về văn hóa". Theo Rob Sheffield, chiếc khăn quàng cổ có ý nghĩa quan trọng đối với danh sách đĩa hát của Swift đến mức nó "nên được nằm trong Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll." Sau khi phát hành bộ phim do cô tự đạo diễn All Too Well: The Short Film vào năm 2021, số lượt tìm kiếm trên Google về "ý nghĩa chiếc khăn đỏ của Taylor Swift" tăng vọt 1.400%.
Chính Internet đã góp phần không nhỏ trong việc hồi sinh phong cách Cottagecore thơ mộng bên căn nhà gỗ sau khi Swift sử dụng làm chủ đề, thúc đẩy doanh số bán áo liền quần Aran dệt tay ở Ireland và Mỹ. RTÉ đã đích thân cảm ơn Swift vì đã đưa cardigan "trở lại bản đồ" bằng album Folklore. Sau khi Evermore lên kệ, nhiều chiếc áo khoác vải dạ giống như Swift mặc trên ảnh bìa đã được bán sạch trên Farfetch ngay lập tức. Chuyến lưu diễn The Eras Tour đã làm gia tăng nhu cầu sắm ủng kim loại, mũ cao bồi và váy đính sequin. CNN đưa tin rằng các nhà bán lẻ thời trang đã tiếp thị sản phẩm của họ bằng cách nhắm mục tiêu đến những người tham gia chuyến lưu diễn. Nhiều thương hiệu quần áo khác nhau tạo ra nhiều loại mặt hàng lấy cảm hứng từ Swift cùng với "các kỷ nguyên" của cô, và họ đã đạt được doanh số bán hàng cao nhất trong năm.
Chính trị
Các nhà báo và tác giả viết về chính trị đã công nhận Swift là một nhân cách mạnh mẽ trong nền chính trị của nước Mỹ. Cô là nhạc sĩ có ảnh hưởng nhất về mặt chính trị, và cô đã sử dụng danh tiếng của mình để kêu gọi hành động chính trị. Các gương mặt đại diện cho chính phủ ở bên ngoài Hoa Kỳ cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Swift, chẳng hạn như: tổng thống Chile Gabriel Boric; Dân biểu Hạ viện Thái Lan Pita Limjaroenrat; cựu phó Tổng thống Philippines Leni Robredo; cựu thủ tướng Vương quốc Anh Liz Truss; William, Thân vương xứ Wales; và thẩm phán tòa án tối cao Mexico Arturo Zaldivar. Các tổ chức như Liên minh châu Âu đã thừa nhận ảnh hưởng chính trị của Swift, và nữ ca sĩ cũng đã từng được viện dẫn trong nhiều thủ tục pháp lý khác nhau.
Mối liên kết và nhân khẩu học
Swift là người theo chủ nghĩa tự do xã hội, và cô từng lên tiếng phản đối quyền lực thượng đẳng của người da trắng, phân biệt chủng tộc và cảnh sát tàn bạo ngay tại Hoa Kỳ. Cô là người ủng hộ quyền lựa chọn pro-choice trong việc phá thai, bình đẳng giới và quyền LGBT. Tuy nhiên, Swift cũng bị một số nhà phê bình theo chủ nghĩa tự do và bảo thủ chỉ trích. Những người theo chủ nghĩa tự do đã coi hoạt động tích cực của cô chỉ là trò diễn tuồng trước khán giả, còn những người theo chủ nghĩa bảo thủ thì ghen ghét vì cô là một người thẳng thắn, tự do đi theo "woke". Cô đã công khai tán thành các ứng cử viên Đảng Dân chủ Phil Bredesen và Jim Cooper trong cuộc bầu cử giữa kỳ Hoa Kỳ năm 2018 tại bang quê nhà Tennessee, cũng như Joe Biden và Kamala Harris cho cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2020, đồng thời chỉ trích các chính trị gia Đảng Cộng hòa Donald Trump và Marsha Blackburn.
Dữ liệu của Facebook từ năm 2014 tiết lộ rằng Swift là một trong những nghệ sĩ đã góp phần tạo nên thói quen nghe nhạc "trung bình hài lòng" của người thưởng thức theo Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa. Theo một cuộc khảo sát năm 2023 do The Times đưa tin, có 53% người Mỹ trưởng thành tự nhận mình người hâm mộ Swift, đạt mức tỷ lệ xếp hạng cao hơn cả Biden lẫn Trump. Nhà báo Ellie Austin giải thích rằng dù Swift theo cánh tả nhưng một số người cánh hữu vẫn "thèm muốn" cô vì cô có thể biến thành điểm tựa nhân khẩu học "đoàn kết" góp phần thu hẹp lại sự chia rẽ của nền chính trị nước Mỹ. Trong một cuộc khảo sát khác bên phía The New York Sun, Swift là lựa chọn phổ biến thứ ba cho tổng thống Mỹ, sau Trump và Biden. Cô cũng có tỷ lệ ưa thích cao nhất trong số tất cả các nhân vật của công chúng được khảo sát trong cuộc thăm dò toàn quốc của NBC News nhờ vào con số tỷ lệ 40% cử tri đã đăng ký nói rằng họ có "cái nhìn tích cực về Swift" và 16% người có quan điểm tiêu cực.
Cựu giám đốc truyền thông chiến lược của Nhà Trắng Alyssa Farah Griffin đã tuyên bố Swift là "người duy nhất" có thể đánh bại Trump trong một cuộc bầu cử. Cây viết Kevin Monnin bên The Hill cho rằng nhờ vào tầm ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ và lượng người theo dõi đông đảo, Swift "có thể đóng một vai trò then chốt cho nền dân chủ bằng cách đảm bảo Tổng thống Biden tái đắc cử và chấm dứt sự nghiệp chính trị của cựu Tổng thống Donald Trump." Nathan J. Robinson chắp bút cho Newsweek phát biểu rằng "chỉ Swift mới có thể thống nhất sự chia rẽ chính trị" của Hoa Kỳ. Michael A. Cohen nói thêm rằng "Swift có thể ảnh hưởng đến kết quả của cuộc bầu cử năm 2024." Ảnh hưởng chính trị của Swift càng được thể hiện rõ ràng sau những lời chỉ trích scandal bán vé bên Ticketmaster của bên lưỡng đảng. Nhà báo CNN Allison Morrow đã lên một bài viết mang tựa đề "One Nation, Under Swift" rằng những người hâm mộ Swift đã đoàn kết các đảng theo cách mà "Nhóm lập quốc đã không lường trước được". Brooke Schultz của Associated Press nhận thấy vấn đề này đã trở thành một cuộc vận động phong trào chính trị như thế nào và cho rằng cộng đồng người hâm mộ Swift là nhóm cử tri có sức ảnh hưởng lớn. Theo Morning Consult, xấp xỉ khoảng 55% người hâm mộ Swift ở Mỹ là đảng viên Đảng Dân chủ, 23% là đảng viên Đảng Cộng hòa và 23% là người bỏ phiếu độc lập.
Những chuyển biến
Lập trường phi chính trị
Swift từng là một nghệ sĩ đồng quê thờ ơ với chính trị và luôn luôn tránh né bàn bạc về các chủ đề chính trị trong thời kỳ đầu sự nghiệp của mình, và việc này được các nhà phê bình công nhận khi phân tích xem xét khoảng thời gian cô hoạt động dưới ngôi nhà Big Machine. Khi Swift được Time hỏi về cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào năm 2012 thì cô đã phát biểu: "Tôi đã luôn cố gắng giáo dục và tiếp nạp kiến thức cho bản thân nhiều nhất có thể. Nhưng tôi không lên tiếng chuyện chính trị vì việc đó có thể ảnh hưởng đến người khác. Và tôi không cho rằng chính mình đủ hiểu biết trong cuộc sống để định hướng mọi người nên bỏ phiếu cho ai." Mặc dù Swift là một nhân vật nổi tiếng nhưng các nhà báo vẫn chỉ trích cô thiếu hoạt động chính trị cho rằng hoạt động từ thiện của cô là không thỏa đáng. Trước động lực thúc đẩy chủ nghĩa thờ ơ chính trị của Swift, Trump gọi cô là hình mẫu "tuyệt vời" và các nhà lập pháp bảo thủ đã mời cô đến thăm điện Capitol Hoa Kỳ.
Swift vẫn là người thờ ơ trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016, không ủng hộ Hillary Clinton của Đảng Dân chủ lẫn không phát biểu chống lại Trump như một số người đã mong đợi. Các nhà phê bình đã đặt dấu chấm hỏi về chuyện Swift đã bỏ phiếu cho ai trong cuộc bầu cử sau khi cô đăng một bức ảnh bản thân xếp hàng tại trạm bỏ phiếu. Một khi cô chia sẻ bức ảnh cô mặc một bộ trang phục giống với bộ đồ Clinton từng mặc, USA Today đã lên tin đầu đề: "Taylor Swift đã bầu cho ai? Đây là lý do tại sao chiếc áo len của cô ấy lại gợi nhớ đến Hillary". Entertainment Weekly đã phân tích "nội dung Ngày bầu cử phổ biến nhất" trên Instagram và cho biết rằng chính bài đăng phi đảng phái "vô hại" của Swift mới kiếm được nhiều lượt thích nhất (2,1 triệu), kế đến là những bài đăng của những người công khai ủng hộ Clinton như Rihanna, Lovato, Kourtney Kardashian và Grande. Việc đó cho thấy Swift là một người bất thường trong văn hóa đại chúng, theo nhà phê bình Alyssa Bereznak của The Ringer. Nhà báo Nick Levine của BBC nhận thấy sự im lặng về mặt chính trị của cô "ngày càng dễ thấy".
Bị đeo bám chuyện chính trị xã hội và chủng tộc
Theo Bereznak, chủ nghĩa thờ ơ chính trị tuy trước đây có thể là "một chiến lược kinh doanh thuận lợi" đối với các ngôi sao nhạc pop, nhưng đối với những nhân vật tầm cỡ văn hóa mạnh mẽ như Swift, giới truyền thông sẽ phân tích chuyện "hành động, giao tiếp và công việc" dưới lăng kính chính trị. Năm 2017, Swift ủng hộ Tháng ba phụ nữ 2017 thông qua Instagram, và cô đã vấp phải sự chỉ trích từ cả người hâm mộ và giới phê bình. Họ cảm thấy hành động đó của Swift là hoàn toàn vô nghĩa vì cô đã từ chối chuyển hoạt động nữ quyền của mình sang chính trị. The Cut đưa ra nhận định rằng mặc dù Clinton nhận được sự ủng hộ cởi mở của Perry, Beyoncé, Jay-Z và Springsteen nhưng nếu như có sự tán thành công khai của Swift thì bà đã "có thể" trở thành Tổng thống ngay từ đầu. Medford cho rằng Swift sẽ không thể cứ sống mãi trong môi trường thờ ơ với chính trị như chân không, vì câu chuyện đã ngày càng "đáng chú ý đến chói tai". Nhân tiện chỉ trích việc cô chỉ sử dụng mạng xã hội chỉ để thông báo phát hành âm nhạc chứ không phải chính trị, Medford đã viết, "Việc có một nền tảng rộng lớn, có phạm vi tiếp cận rộng rãi như vậy mà chỉ sử dụng để thúc đẩy mục đích tham vọng của riêng cô đã phản ánh được con người cô rất kém cỏi, bất kể nền chính trị của cô có tiến bộ đến mức nào."
Một số cây bút phê bình cho rằng Swift im lặng chính trị là do một bộ phận đáng kể người hâm mộ của cô vào năm 2014 là những người hâm mộ đồng quê bảo thủ. Những lời chỉ trích chính trị xã hội gay gắt nhất đều xúm vào phê phán rằng Swift là một kẻ theo chủ nghĩa phát xít tiền điện tử (Crypto-fascism). Một số người theo chủ nghĩa da trắng thượng đẳng ở Hoa Kỳ đã lợi dụng chuyện Swift im lặng chính trị dai dẳng trong hai năm 2016 và 2017 để chứng minh rằng cô cũng là một người theo chủ nghĩa tân quốc xã giống họ. Một số trang web cực hữu tôn vinh cô là "Nữ thần Aryan" của họ, và chờ đợi Trump đắc cử để công bố "Chương trình nghị sự Aryan" của cô với thế giới. Các phương tiện truyền thông tự do đều yêu cầu Swift làm rõ lập trường chính trị của cô. Đến khi một bài đăng trên blog của trang web cánh tả PopFront cáo buộc rằng đĩa đơn "Look What You Made Me Do" là một cái gật đầu "tinh tế" cho phe cánh hữu, đội ngũ của Swift đã phản bác cho rằng bài đăng này là phỉ báng và yêu cầu PopFront "rút lại, dỡ bỏ bài đăng khỏi tất cả các nguồn truyền thông và ngừng hoàn toàn hành động đang thực hiện (cease and desist)" nếu không sẽ phải đối mặt với hậu quả pháp lý. Liên đoàn Tự do Dân sự Mỹ (ACLU) đã chỉ trích Swift về chuyện cô cố tình "ngăn chặn quyền tự do được hiến pháp bảo vệ".
Tuy nhiên, nhà báo Leah Donella của NPR khẳng định rằng không có lý do gì để cho rằng Swift là người theo chủ nghĩa da trắng thượng đẳng, "cô ấy không có liên kết với bất kỳ nhóm theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng nào. Cô ấy chưa bao giờ công khai đưa ra bất kỳ nhận xét nào theo chủ nghĩa thượng đẳng của người da trắng, cũng như chưa bao giờ bị buộc tội đưa ra những nhận xét đó một cách riêng tư." Donella cũng cho biết, những tuyên bố cho rằng Swift là người theo chủ nghĩa thượng đẳng của người da trắng đa phần chỉ dựa vào ngoại hình cô là người da trắng, "trông có vẻ là người da trắng và đi chơi với hầu hết là người da trắng", và chứng minh ý sau bằng các nghiên cứu năm 2014 rằng cứ 91 người bạn da trắng thì chỉ có 1 người da trắng làm bạn với duy nhất 1 người cùng da màu: "Đây không phải là chuyện của Taylor Swift. Đó là câu chuyện phân biệt cung cấp nhà ở/đa dạng nơi làm việc/lịch sử chung của nước Mỹ."
Sự vỡ mộng và lời xác nhận ủng hộ
Swift lần đầu tiên bày tỏ quan điểm chính trị của mình trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2018, được giới truyền thông gọi đây là hành động "đập tan sự im lặng về mặt chính trị của cô". Cô tán thành các đảng viên Đảng Dân chủ Phil Bredesen và Jim Cooper thông qua các bài đăng trên mạng xã hội vào ngày 18 tháng 10 năm 2018, trở thành chủ đề được truyền thông đưa tin rộng rãi và nhận được nhiều lời khen ngợi từ người hâm mộ, nhà báo, người nổi tiếng và Đảng Dân chủ. Ví dụ, đạo diễn Rob Reiner của This Is Spinal Tap đã tweet, "Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Taylor Swift vì đã lên tiếng. Cô có thể một mình thay đổi đất nước này đấy. Hãy gây ấn tượng cho người hâm mộ của cô thấy tiếng nói quan trọng và mạnh mẽ của họ đi. Nếu như cô đưa họ đến cuộc bỏ phiếu vào ngày 6 tháng 11, mọi thứ mà cô quan tâm sẽ được bảo vệ." Swift cũng chỉ trích ứng cử viên Đảng Cộng hòa Blackburn vì những chính sách "kinh khủng":
Swift đã bị những người theo chủ nghĩa Cộng hòa, những người theo chủ nghĩa Trump và những người ủng hộ cánh hữu "tẩy chay dữ dội". Bọn họ cảm thấy bị Swift "phản bội" và chỉ trích, slut-shame và chửi rủa cô trên mạng. Họ cho rằng cô đã "tự chấm dứt" sự nghiệp của mình bằng quyết định này và lẽ ra nên "câm miệng" và "lo làm nhạc đi". Ủy ban Quốc gia Đảng Cộng hòa Thượng viện đã đưa ra ý kiến rằng, "Nếu bạn chưa từng nghe, ngôi sao nhạc pop triệu phú Taylor Swift đã bước xuống từ tòa tháp ngà của cô ta để kêu gọi những người dân tiểu bang Tennessee chăm chỉ bỏ phiếu cho Phil Bredesen." Chủ tịch nhóm bảo thủ Turning Point USA tên Charlie Kirk đã tweet, "Cô vừa ủng hộ một đảng viên Đảng Dân chủ trong cuộc đua vào Thượng viện Tennessee với một tuyên bố lố bịch nói rằng Marsha Blackburn là một phụ nữ đang chống lại phụ nữ. Cô hoàn toàn chẳng biết chính bản thân cô đang nói cái gì nữa." Trump nói với các phóng viên rằng, "Tôi chắc chắn Taylor Swift không biết gì về cô ấy. Thôi thì cứ cho rằng tôi đã thích nhạc của Taylor ít hơn khoảng 25% đi, được chứ?".
Theo trang Vote.org, hơn 169.000 người đã đăng ký bỏ phiếu trong cuộc bầu cử năm 2018 trong vòng hai ngày tính từ lúc Swift đăng bài, trong khi chỉ có 59.000 người đăng ký bỏ phiếu trong 30 ngày trước đó. Các ấn phẩm ghi nhận đó là do "Hiệu ứng Taylor Swift". Theo một nghiên cứu thống kê của các học giả Gwendelyn Nisbett và Stephanie Dunn, câu chuyện và thông điệp của Swift trong bài đăng đã định hướng những người theo dõi cô, vươn xa sự gắn bó xã hội của người hâm mộ với cô. Nhà khoa học hành vi Simone Driessen đã viết rằng một số phương tiện truyền thông cho rằng việc "công khai" chính trị của Swift là một chiến lược để phát triển sự nghiệp của cô, còn những người khác thì coi việc các ngôi sao nhạc pop trong môi trường chính trị bắt buộc "phải thể hiện lập trường của họ đang đứng ở đâu".
Vào năm 2019, Swift tuyên bố rằng ngay từ lúc cô bắt đầu sự nghiệp nhạc đồng quê, Big Machine và các giám đốc điều hành hãng khác đã lấy tranh cãi của Dixie Chicks ra làm ví dụ và khuyên cô không nên nói chuyện chính trị. Swift đã gọi nhiệm kỳ tổng thống của Trump là một chế độ chuyên quyền, và cô đã bày tỏ hối hận vì đã không ủng hộ Clinton vào năm 2016. Tuy nhiên, cô cũng cho biết chính báo chí đã gây tác động tiêu cực vào thời điểm đó. Họ đã khiến cô cảm thấy bản thân "vô dụng" và "giống như một trở ngại". Swift nói thêm rằng Clinton đang bị những người theo chủ nghĩa Trump gọi là kẻ nói dối "dắt mũi" trên mạng. Đây cũng chính là lời nhận xét gay gắt mà Swift đã nhận được vào năm 2016 sau mối thù với cặp vợ chồng lúc bấy giờ West-Kardashian, và cô đã tự hỏi liệu cô có phải là gánh nặng đối với Clinton hay không: "Hãy nhìn xem, những con rắn có lông tụ lại thành bầy với nhau. Nhìn kìa, hai người phụ nữ dối trá. Hai người phụ nữ đáng ghét" Chính vì "hàng triệu người bảo tôi hãy biến mất", Swift quyết định rời xa ánh đèn sân khấu. Thành viên Emily Strayer của Chicks, đã phát biểu vào năm 2020 rằng Swift có nhiều quyền lực để thay đổi mọi thứ hơn tất cả bọn họ từng làm.
Ngoài ra, Swift còn gọi Blackburn là "Trump đội bộ tóc giả" sau khi thắng cử vào năm 2018 bằng cách "trở thành phụ nữ nộp đơn vào loại nam giới muốn chúng ta ở trong một thế giới khủng khiếp của những năm 1950." Blackburn trả lời vào tháng 7 năm 2021, tuyên bố những người theo chủ nghĩa tự do đang mong muốn xã hội phải đi theo chủ nghĩa xã hội Marxist là cấm phụ nữ biểu diễn hoặc sáng tạo thể loại âm nhạc mà Swift làm, từ chối quyền sở hữu trí tuệ cá nhân và Swift "sẽ là những người đầu tiên bị loại vì nhà nước sẽ phải phê duyệt âm nhạc của cô." Trong cuộc bầu cử năm 2020, Swift cho phép Biden và Harris và mượn bài hát phản đối "Only the Young" (2020) của cô tại chiến dịch tranh cử của họ. Nhân viên Seth Cohen của Forbes nhận thấy sự tham gia chính trị ngày càng tăng của Swift trong năm qua đã trở nên "đáng chú ý nhờ vào cách tiếp cận nổi bật và bài bình luận gây tiếng vang lớn." Trump cuối cùng đã thất bại trong cuộc tái tranh cử, và Biden được bầu làm tổng thống tiếp theo của Hoa Kỳ. Swift được cho là người nổi tiếng có ảnh hưởng ở hàng thứ hai trong việc đắc cử của Biden, sau LeBron James. The New York Times đã lên tin cho rằng chiến dịch bầu cử của Biden đã coi Swift là "mục tiêu tán thành lớn nhất và có ảnh hưởng nhất" trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2024, và Biden đã tính đến việc sử dụng "chiến lược Taylor Swift" để thu hút sự ủng hộ rộng rãi "đang lung lay" của ông. Những người ủng hộ phe Trump cáo buộc rằng Swift đang thông đồng với đảng Dân chủ, NFL và Travis Kelce để dàn xếp người bầu cử về phe Biden cùng với kết quả thi đấu cho đội Kansas City Chiefs tại trận Super Bowl LVIII.
Vận động
Phần này chỉ liệt kê ví dụ minh họa tiêu biểu và nổi bật nhất.
The New York Times đã từng công nhận tác động tích cực của Swift đối với cộng đồng LGBT dưới danh nghĩa một nghệ sĩ nhạc đồng quê sau khi phát hành video âm nhạc năm 2011 cho "Mean".
Time gọi "Welcome to New York" (2014) là "bài ca bình đẳng".
Ngày 23 tháng 3 năm 2018, Swift kêu gọi kiểm soát súng đạn, quyên góp cho các nạn nhân và March for Our Lives.
Vào ngày 1 tháng 6 năm 2019, cô đã tạo một bản kiến nghị trên Change.org nhằm kêu gọi các thượng nghị sĩ bỏ phiếu cho Đạo luật Bình đẳng đã được Hạ viện thông qua. Tính đến tháng 4 năm 2020, bản kiến nghị đã có hơn 704.000 chữ ký gồm có cả chữ ký của các thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ như Warren, Amy Klobuchar, Ed Markey, Kirsten Gillibrand, Tim Kaine và Cory Booker. Swift đã viết một lá thư cho thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa Tennessee Lamar Alexander và yêu cầu ông ủng hộ: "Cái này là dành cho công dân Mỹ bị từ chối việc làm hoặc nhà ở dựa trên người họ yêu hoặc việc họ là không phải người Mỹ đến tàn nhẫn".
Swift biểu diễn tại Stonewall Inn trong WorldPride NYC 2019.
Sau khi "You Need to Calm Down" được phát hành, số tiền quyên góp cho tổ chức phi chính phủ của LGBT GLAAD đã tăng đột biến nhờ vào lời bài hát có đề cập đến tên tổ chức. Giám đốc điều hành GLAAD tên Anthony Ramos cho biết, Swift "là một trong những ngôi sao nhạc pop lớn nhất thế giới. Việc cô ấy tiếp tục sử dụng nền tảng và âm nhạc của mình để hỗ trợ cộng đồng LGBTQ và Đạo luật Bình đẳng là một dấu hiệu thực sự của việc trở thành đồng minh." CEO Sarah Kate cho biết, Swift "tiếp tục sử dụng nền tảng của cô ấy để lên tiếng chống lại nạn phân biệt đối xử và tạo ra một thế giới mà mọi người có thể sống cuộc sống mà họ yêu thích. [...] Trong môi trường văn hóa và chính trị chia rẽ ngày nay, chúng ta cần nhiều đồng minh hơn như Taylor."
Ngày 26 tháng 8 năm 2019, sau khi giành giải Video của năm cho "You Need to Calm Down" tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2019, Swift lúc phát biểu đã kêu gọi khán giả ký vào bản kiến nghị và cho biết Nhà Trắng vẫn chưa có động tĩnh gì mặc dù đang có số lượng chữ ký "gấp năm lần mức cần thiết để đảm bảo được phản hồi". Ngày hôm sau, Phó thư ký báo chí Nhà Trắng lúc đó là Judd Deere đã đưa ra tuyên bố chỉ trích Đạo luật Bình đẳng. "You Need to Calm Down" đã từ đó trở thành một bài quốc ca dành cho người đồng tính.
Ngày 29 tháng 5 năm 2020, Swift chỉ trích các dòng tweet "khiêu khích" của Trump liên quan đến cuộc biểu tình George Floyd ở Minneapolis–Saint Paul. Sau các cuộc biểu tình rộng rãi, cô đã quyên góp cho Quỹ giáo dục và bảo vệ pháp lý NAACP cũng như phong trào Black Lives Matter, lên tiếng yêu cầu dỡ bỏ các tượng đài của Liên minh miền Nam ở Tennessee và kêu gọi ngày 19 tháng 6 (Juneteenth) trở thành ngày lễ quốc gia. Dòng tweet chỉ trích Trump của Swift đã trở thành dòng tweet được yêu thích nhất của cô, thu được hơn hai triệu lượt thích. Trong bài báo của Forbes mang nhan đề "Taylor Swift và dòng tweet có thể giúp hạ bệ một tổng thống", Cohen cho biết tiếng nói của Swift "có thể gây ra những cục diện chính trị to lớn" nhờ vào các cuộc khảo sát cho thấy phụ nữ da trắng và những người trẻ lần đầu đi bỏ phiếu, vốn đây là các nhóm nhân khẩu học yếu nhất của Trump. Cả hai đều được hình thành đáng kể một phần dựa trên cơ sở người hâm mộ của Swift tại Hoa Kỳ và "do đó sẽ là chìa khóa cho kết quả của cuộc bầu cử năm 2020."
Sau khi Swift đăng trên Instagram vào tháng 9 năm 2023 về ngày đăng ký cử tri quốc gia của Vote.org thì đã có hơn 35.000 người đăng ký bỏ phiếu, với tổng số lượt đăng ký tăng 23% và số người 18 tuổi cũng tăng 115% so với ngày đăng ký cử tri quốc gia đợt của năm 2022.
Hấp dẫn mọi thế hệ
Những bài luận phê bình đã sử dụng sự nghiệp của Swift để đánh dấu một sự thay đổi mô hình trong văn hóa đại chúng, và vinh danh cô là một nhân vật văn hóa của thế hệ Millennials. Theo Rosen, Swift là một "thợ hát thế hệ" đã kết hợp "giữa niềm vui sướng của những bài hát cổ điển với niềm lan tỏa quá mức trên mạng xã hội của thế hệ Millennials." Bác sĩ tâm thần Suzanne Garfinkle-Crowell cho rằng Swift là nhà thơ đoạt giải thế hệ đang sở hữu trong tay một bài hát có thể chạm tới mọi cảm xúc chính xác của người nghe. Bartsch cho rằng Swift chính là một triết gia. Một cuộc khảo sát năm 2023 cho biết so với toàn bộ đồng nghiệp hoạt động âm nhạc khác, Swift đã có tác động tích cực nhất đến sức khỏe tinh thần của giới trẻ.
Tác giả người Mỹ kiêm cha đẻ của thuật ngữ "millennial" Neil Howe đã xướng tên Swift là ví dụ điển hình về tinh thần của thế hệ Millennials. Năm 2010, các nhà bình luận Morley Winograd và Michael D. Hais bên The Christian Science Monitor cho rằng sự nổi tiếng của Swift đã báo hiệu cột mốc "trưởng thành trong âm nhạc" (musical coming-of-age) của thế hệ Millennials và "việc Swift và thế hệ của cô ấy chinh phục nền âm nhạc Mỹ một cách đắc thắng như họ đã làm với chính trị của nước này với cuộc bầu cử của Tổng thống Obama chỉ là vấn đề thời gian." Cựu Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ Michelle Obama, lúc trao giải cho Swift nhờ chính những hành động nhân đạo của cô vào năm 2012, đã khen ngợi cô là một nghệ sĩ "đã vươn lên dẫn đầu ngành công nghiệp âm nhạc nhưng cô gái ấy vẫn có thái độ sống thực tế (keeps her feet on the ground), là một người nào đó đã đập tan mọi kỳ vọng về những gì một cô gái 22 tuổi có thể đạt được".
Vào năm 2014, cây bút John McDuling bên Quartz cho biết Swift đang "nhanh chóng trở thành nghệ sĩ có ảnh hưởng nhất trong thế hệ của cô ấy" và cân nhắc xem liệu cô có thực sự là thế hệ thiên niên kỷ giống như Dylan, Springsteen hay Kurt Cobain hay không. National Post cho rằng một album được thế hệ Millennials tạo ra dành cho thế hệ Millennials như 1989 đã "đưa ra bản yêu sách cho cả một thế hệ", bắt nguồn từ nguyên do thế hệ Millennials trung bình "thường xuyên phải đối mặt với những chỉ trích mắng mỏ và lời nói nặng nề" giống như Swift, tất cả đều được thể hiện bằng âm nhạc của Swift. Tờ báo đã nhận định ca khúc "New Romantics" (2016) chính là một bài ca ngợi thiên niên kỷ.
Trong cuộc khảo sát của YPulse năm 2019, Swift là nhạc sĩ đại diện tốt nhất cho thế hệ Millennial (trong độ tuổi khoảng từ 19 đến 37 tuổi). Cô đại diện cho "nỗi lo lắng của thế hệ Millennials" theo cây viết Joelle Kidd biên soạn cho The Walrus. Tác giả cũng đã viết rằng thế hệ Millennials đang có xu hướng "ám ảnh về việc tự xét nét" giống Swift lúc chia sẻ những lo lắng của cô với thế hệ. Biên tập viên cấp cao Elena Nicolaou của tờ Today cũng đã công nhận Swift biến đổi văn hóa đám cưới của thế hệ thiên niên kỷ như thế nào.
Trong lúc bàn bạc về sức hấp dẫn từ thế hệ Z của Swift trong những năm 2020, Spanos tuyên bố rằng mặc dù Thế hệ Z vẫn chiếm một phần đáng kể trong số những người hâm mộ mới hơn của Swift nhưng mà họ vẫn "không thực sự hiểu về lịch sử văn hóa, các yếu tố chính trị xã hội và văn hóa đã hình thành nên một phụ nữ thiên niên kỷ như Taylor vì họ đã sinh ra và lớn lên sau ngần giai đoạn đó rồi". Do đó, một số người thuộc Thế hệ Z có thể cảm thấy một số bài hát và lời bài hát cũ của Swift nghe có vẻ "cringe". Vox và New Yorker xướng danh Swift là "Bruce Springsteen thế hệ thiên niên kỷ", rồi chỉ ra nhiều điểm tương đồng về mặt nghệ thuật và chính trị xã hội giữa sự nghiệp của Swift và Springsteen. Tương tự, The Times gọi Swift là "Bob Dylan của thời đại chúng ta" vào năm 2022 và "nữ hoàng xưng tội của nhạc pop Noughties". Các nhà báo cũng ghi nhận sự thành công ngày càng thịnh vượng của Swift trong thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh (baby boomer) và Thế hệ X, và họ được gọi là "các Swifties thâm niên".
Theo Morning Consult, 45% người hâm mộ Swift tại Hoa Kỳ là thế hệ trẻ, 23% là thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh, 21% là Thế hệ X và 11% là Thế hệ Z. Các cuộc khảo sát của YouGov đã xếp cô là nữ nhạc sĩ được ngưỡng mộ nhất thế giới từ năm 2019 đến năm 2021. Vào năm 2023, so với những người nổi tiếng và chính trị gia khác, Swift "đã đạt được mức độ yêu thích ròng cao nhất so với bất kỳ con số nào được kiểm nghiệm trong cuộc thăm dò quốc gia mới nhất của NBC News, với 40% cử tri đã đăng ký cho biết họ có cái nhìn tích cực về Swift, so với chỉ 16% là mang quan điểm tiêu cực," và 94% người hoàn toàn có thể nhận ra cô sau khi được nhắc tên.
Ngoài âm nhạc và kinh doanh, Swift còn được nhiều vận động viên thể thao thế hệ trẻ coi là hình mẫu chẳng hạn như Kobe Bryant, Jimmy Butler, Rob Gronkowski, Bryce Harper, Clayton Kershaw, Jessica Korda, Mikaela Shiffrin, Iga Świątek, Russell Westbrook, Emma Weyant Mikaela Shiffrin, và Serena Williams.
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Thư mục
Taylor Swift
Âm nhạc thập niên 2000
Âm nhạc thập niên 2010
Âm nhạc thập niên 2020
|
19847208
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Airtight%20Games
|
Airtight Games
|
Airtight Games là nhà phát triển trò chơi điện tử độc lập của Hoa Kỳ có trụ sở tại Redmond được thành lập vào năm 2004. Nó bao gồm các thành viên cũ của FASA Studio, Will Vinton Studios và Microsoft, với các thành viên chủ chốt bao gồm chủ tịch Jim Deal, giám đốc Matt Brunner và đồng sáng lập Ed Fries.
Lịch sử
Airtight Games được thành lập vào năm 2004 bởi nhóm nòng cốt đã cung cấp tựa game Xbox Crimson Skies: High Road to Revenge. Tựa game đầu tiên của họ là trò chơi hành động Dark Void năm 2010, do Capcom xuất bản và phát hành ở ba nền tảng là Microsoft Windows, PlayStation 3 và Xbox 360.
Vào năm 2012, nhà phát triển đã xuất bản một trò chơi nền tảng giải đố với Square Enix là nhà phát hành, có tên là Quantum Conundrum. Vào năm 2012 và 2013, nhà phát triển tiếp tục phát hành thêm hai trò chơi trên nền tảng hệ điều hành iOS. Soul Fjord, một trò chơi lai giữa roguelike/nhịp điệu được phát triển dưới dạng tựa độc quyền cho bảng điều khiển Ouya tồn tại thời gian ngắn và phát hành vào năm 2014.
Vào tháng 6 năm 2014, nhà phát triển phát hành trò chơi Murdered: Soul Suspect, do Square Enix xuất bản và phát hành cho các nền tảng Microsoft Windows, PlayStation 3, PlayStation 4, Xbox 360 và Xbox One. Thời điểm đó, 14 nhân viên bị sa thải và giám đốc Kim Swift đã gia nhập Amazon Game Studios. Airtight Games chính thức giải thể vào tháng 7 năm 2014.
Trò chơi
Tham khảo
Trang web chính thức
Công ty phát triển trò chơi điện tử
|
19847219
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Noto%2C%20Ishikawa
|
Noto, Ishikawa
|
là thị trấn thuộc huyện Hōsu, tỉnh Ishikawa, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 15.687 người và mật độ dân số là 57 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 273,27 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Ishikawa
Noto, Ishikawa
|
19847221
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%9Fi%20ngh%C4%A9a%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Slovakia
|
Khởi nghĩa Quốc gia Slovakia
|
Khởi nghĩa Quốc gia Slovakia (, viết tắt là SNP) là một cuộc khởi nghĩa quân sự được tổ chức bởi phong trào kháng chiến Slovakia trong Thế chiến thứ hai tại Trung Slovakia. Phong trào kháng chiến này chủ yếu được đại diện bởi các thành viên của Đảng Dân chủ, các đảng xã hội dân, và các đảng cộng sản. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu vào ngày 29 tháng 8 năm 1944 từ Banská Bystrica với mục tiêu chống lại quân Đức đã chiếm đóng lãnh thổ Slovakia và lật đổ chính phủ đồng minh của Jozef Tiso. Mặc dù phần lớn phong trào kháng chiến bị đánh bại bởi lực lượng Đức, nhưng các hoạt động du kích tiếp tục cho đến khi Quân Đỏ, Quân Czechoslovakia và Quân Độc lập Romania chiếm lãnh thổ Cộng hòa Slovakia vào năm 1945.
Trong thời kỳ hậu chiến, nhiều thực thể chính trị, chủ yếu là Đảng Cộng sản, đã cố gắng "bắt cóc" cuộc khởi nghĩa để tôn vinh họ. Chính quyền Cộng sản ở Czechoslovakia trình bày Cuộc khởi nghĩa như một sự kiện được khởi xướng và thống trị bởi lực lượng Cộng sản. Một số người theo chủ nghĩa dân tộc Slovakia, ngược lại, cho rằng cuộc khởi nghĩa là một âm mưu chống lại dân tộc Slovakia, vì một trong những mục tiêu chính của nó là đẩy bỏ chế độ của nhà nước đồng minh Slovakia và tái lập Czechoslovakia. Trên thực tế, nhiều phe phái đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa, trong đó có đơn vị của Quân đội Slovakia, phong trào kháng cự Dân chủ, du kích Cộng sản và lực lượng quốc tế. Do sự phân hóa này, Cuộc khởi nghĩa không có sự ủng hộ dân chủ rõ ràng. Tuy nhiên, những người tham gia và ủng hộ Cuộc khởi nghĩa đại diện cho mọi tôn giáo, tầng lớp, độ tuổi và phe phái chính trị chống Đức Quốc xã trong dân tộc Slovakia.
Bối Cảnh
Tình hình chính trị
Ngày 14 tháng 3 năm 1939, dưới sức ép mạnh mẽ từ Đế chế Thứ ba, Quốc hội Slovakia tuyên bố độc lập khỏi Cộng hòa Czechoslovakia và tuyên bố lập nên Nhà nước Slovakia. Phát triển chính trị của Slovakia trong sáu năm tiếp theo được xác định bởi tình trạng "quốc gia bảo hộ" của Đức Quốc xã. Trong "Hiệp định bảo hộ" ký ngày 23 tháng 3 năm 1939, Slovakia cam kết thực hiện chính sách ngoại giao và xây dựng quân đội của mình "chặt chẽ phối hợp" với Đế chế Đức và cung cấp "vùng bảo hộ" ở phần Tây của đất nước để Đế quốc thiết lập cơ sở quân sự và đồn trại. Trong "Biên bản mật về hợp tác kinh tế và tài chính," Đức cũng đảm bảo quyền lợi của mình đối với kinh tế Slovakia. Như một phản ứng, Đức cam kết "bảo vệ sự độc lập chính trị của Nhà nước Slovakia và tính toàn vẹn của lãnh thổ của nó."
Tham khảo
|
19847232
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cryptocentrus%20leptocephalus
|
Cryptocentrus leptocephalus
|
Cryptocentrus leptocephalus là một loài cá biển thuộc chi Cryptocentrus trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1876.
Từ nguyên
Từ định danh leptocephalus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: leptós (λεπτός; “gầy còm, mảnh khảnh”) và kephalḗ (κεφαλή; “cái đầu”), hàm ý đề cập đến phần đầu của loài cá này dẹt hơn nhiều so với Cryptocentrus diproctotaenia và Cryptocentrus liolepis, được Bleeker mô tả trong cùng một bài báo cáo.
Phân bố và môi trường sống
Từ quần đảo Yaeyama (Nam Nhật Bản) và Hồng Kông, C. leptocephalus có phân bố trải rộng khắp khu vực Đông Nam Á, trải dài về phía đông đến Fiji và Tonga, phía nam đến bờ tây bắc Úc và Nouvelle-Calédonie.
Ở Việt Nam, C. leptocephalus được ghi nhận ở quần đảo Nam Du, quần đảo Hà Tiên (Kiên Giang), vịnh Nha Trang và vịnh Vân Phong (Khánh Hòa).
C. leptocephalus sống trên nền phù sa, bùn cát và đá vụn của rạn san hô và đầm phá, bao gồm cả vùng ven rừng ngập mặn, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 18 m.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. leptocephalus là 12 cm. Cá có màu xanh lục phớt nâu, trắng hơn ở bụng. Có 6–7 vạch nâu mờ ở hai bên thân. Đầu, lưng và vây lưng có các đốm đỏ hồng viền trắng nhạt cùng nhiều đốm trắng nhỏ hơn. Ngoài ra còn các đốm nâu cam đến viền xanh lam trên vây lưng trước. Chỉ có cá con mới có vảy lược trên thân, cá trưởng thành không có đặc điểm này.
C. leptocephalus là loài dị hình giới tính. Con đực của cả hai loài đều có đốm trên vây lưng, trong khi con cái có các vệt sọc đỏ trên màng vây lưng.
Số gai ở vây lưng: 6–7; Số tia ở vây lưng: 10–11; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 10–11.
Tình trạng phân loại
Cryptocentrus melanopus từng được cho là một đồng nghĩa của C. leptocephalus nhưng có sự nhập nhằng trong việc phân loại hai loài, Hoese và cộng sự (2011) vẫn giữ lại danh pháp C. melanopus. Dải màu sẫm đầu tiên bên dưới vây lưng sau ở C. melanopus nghiêng hoàn toàn về phía trước vây hậu môn, tiếp theo là 4 dải xiên màu sẫm hẹp hơn (có khi hợp nhất còn 3), còn ở C. leptocephalus dải màu sẫm đầu tiên chồng lên một phần gốc trước của vây hậu môn, theo sau chỉ có 3 dải.
Sinh thái
C. leptocephalus sống cộng sinh trong hang với tôm gõ mõ.
Thương mại
C. leptocephalus là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh.
Chú thích
Tham khảo
L
Động vật được mô tả năm 1876
Cá Thái Bình Dương
Cá Nhật Bản
Cá Trung Quốc
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Thái Lan
Cá Malaysia
Cá Singapore
Cá Palau
Cá Fiji
Cá Tonga
|
19847233
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alejo%20V%C3%A9liz%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
|
Alejo Véliz (cầu thủ bóng đá)
|
Alejo Véliz (sinh ngày 19 tháng 9 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Sevilla tại La Liga, theo dạng cho mượn từ Tottenham Hotspur tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Đầu đời
Alejo Véliz sinh ra ở Gödeken, một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Santa Fe, cách thành phố Rosario khoảng 120 km. Khi mới 3 tuổi, anh bắt đầu chơi bóng cho câu lạc bộ ở địa phương. Năm 6 tuổi, anh cùng gia đình chuyển đến Bernardo de Irigoyen, một thị trấn khác ở Santa Fe, nơi anh sớm bắt đầu chơi ở Club Unión Deportivo y Cultural cho đến năm 16 tuổi.
Sự nghiệp thi đấu
Rosario Central
Cuối năm 2019, Véliz thử việc với Rosario Central, nhưng anh chỉ bắt đầu chơi cho câu lạc bộ hơn một năm sau đó vì các giải đấu trẻ đã bị tạm dừng do đại dịch COVID-19.
Véliz ra mắt chuyên nghiệp cho Rosario Central vào ngày 23 tháng 7 năm 2021, vào sân thay thế cho Alan Marinelli trong chiến thắng 1–0 trên sân nhà trước Deportivo Táchira ở vòng 16 đội Copa Sudamericana năm 2021.
Anh chỉ chơi một số trận trong mùa giải 2021 nhưng trong mùa giải tiếp theo, anh đã tạo ra bước đột phá, ghi bàn thắng đầu tiên vào ngày 2 tháng 5 năm 2022 trong trận thua 2-1 trên sân khách trước Club Atlético Huracán.
Anh ghi bàn thắng thứ 2 trong trận đấu tiếp theo, chiến thắng 3–1 trước Estudiantes. Đây cũng là trận đấu cuối cùng của thần tượng và người thầy của anh, Marco Ruben.
Vào ngày 21 tháng 7 năm 2022, Véliz ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng lịch sử 1-0 của Rosario Central trước Newell's Old Boys.
Tottenham Hotspur
Vào ngày 8 tháng 8 năm 2023, Véliz ký hợp đồng 6 năm với câu lạc bộ Tottenham Hotspur tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh với phí chuyển nhượng ước tính trị giá 13 triệu bảng. Anh ra mắt cho câu lạc bộ vào ngày 30 tháng 9 năm 2023, trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Liverpool, vào sân thay người ở phút 90. Vào ngày 28 tháng 12 năm 2023, Véliz ghi bàn thắng đầu tiên cho Tottenham trong trận thua 2-4 trước Brighton & Hove Albion.
Sự nghiệp quốc tế
Véliz lần đầu được triệu tập vào đội tuyển U-20 Argentina bởi huấn luyện viên Fernando Batista vào tháng 10 năm 2021. Anh tiếp tục được gọi bởi tân huấn luyện viên trưởng Javier Mascherano vào tháng 2 năm 2022 và trong mùa xuân tiếp theo.
Vào tháng 1 năm 2023, Véliz một lần nữa được gọi để tham gia Cúp bóng đá U-20 Nam Mỹ tại Colombia, nơi Argentina bị loại ở vòng bảng. Ở đây, anh đã thi đấu trong tất cả 4 trận, xuất phát ở trận gặp Paraguay và Peru.
Vào tháng 5 năm 2023, anh có tên trong đội hình Argentina tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2023, được tổ chức trên sân nhà. Vào ngày 20 tháng 5, anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên trong chiến thắng 2–1 trước Uzbekistan. Ba ngày sau, anh tiếp tục ghi bàn trong trận thắng 3–0 trước Guatemala.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Alejo Véliz
Sinh năm 2003
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Argentina
Cầu thủ bóng đá nam Argentina
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Rosario Central
Cầu thủ bóng đá Tottenham Hotspur F.C.
Cầu thủ bóng đá Sevilla FC
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Argentina
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá La Liga
Cầu thủ bóng đá Argentina ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Argentina ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Argentina
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Argentina
|
19847234
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alejo%20V%C3%A9liz
|
Alejo Véliz
|
Alejo Véliz có thể là:
Alejo Véliz (chính khách) (sinh năm 1957), chính khách người Bolivia
Alejo Véliz (cầu thủ bóng đá) (sinh năm 2003), cầu thủ bóng đá người Argentina
|
19847238
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Silbervogel
|
Silbervogel
|
Silbervogel (tiếng Đức "chim bạc") là một tên lửa nhiên liệu lỏng du hành dưới quỹ đạo được thiết kế bởi Eugen Sänger và Irene Bredt cuối những năm 1930 cho Đức quốc xã. Nó còn được biết đến dưới cái tên RaBo ( – "tên lửa ném bom"). Nó là một trong số nhiều thiết kế được tiến hành trong dự án Amerikabomber, được bắt đầu từ mùa xuân năm 1942, tập trung vào các máy bay ném bom chiến lược động cơ piston có khả năng bay qua biển Atlantic như Messerschmitt Me 264 và Junkers Ju 390, chỉ có hai nguyên mẫu được chế tạo và bay thử nghiệm. Khi Walter Dornberger cố gắng gây sự chú ý cho giới chức quân sự của Mỹ sau chiến tranh thứ hai, ông đã chọn thuật ngữ mang tính ngoại giao hơn là antipodal bomber.
Xem thêm
Boost-glide
Keldysh bomber
Spacecraft propulsion
Blue Streak (missile)
Rocket sled launch
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nghiên cứu và phát triển ở Đức Quốc xã
Vũ khí không gian
|
19847243
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ibou%20San%C3%A9
|
Ibou Sané
|
Ibou Sané (sinh ngày 28 tháng 3 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Sénégal hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Metz tại Ligue 1.
Sự nghiệp thi đấu
Metz
Vào ngày 22 tháng 7 năm 2023, Sané ký hợp đồng 5 năm với câu lạc bộ Metz tại Ligue 1. Trước đó, anh được cho là sẽ rời Génération Foot để đến Metz hai năm trước, nhưng chấn thương đầu gối vào tháng 11 năm 2021 đã khiến việc chuyển nhượng bị hoãn lại.
Sự nghiệp quốc tế
Sané là tuyển thủ trẻ người Sénégal. Anh đã giành được danh hiệu Cúp bóng đá U-20 châu Phi vào năm 2023, ra sân 2 lần và ghi 1 bàn thắng tại giải đấu.
Danh hiệu
Génération Foot
Ligue 1: 2022–23
U-20 Sénégal
Cúp bóng đá U-20 châu Phi: 2023
Tham khảo
Sinh năm 2005
Nhân vật còn sống
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Sénégal
Cầu thủ bóng đá nam Sénégal
Cầu thủ bóng đá Génération Foot
Cầu thủ bóng đá FC Metz
Cầu thủ bóng đá Championnat National 3
Cầu thủ bóng đá Championnat National
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá nam Sénégal ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Sénégal
|
19847246
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cockblock
|
Cockblock
|
Cockblock hoặc cock block, nghĩa đen chặn duơng vật/cu, là một thuật ngữ tiếng lóng của Hoa Kỳ để chỉ một hành động, dù cố ý hay không, ngăn cản người khác quan hệ tình dục. Hành vi như vậy được cho là được thúc đẩy bởi sự ghen hoặc cạnh tranh, mặc dù đôi khi nó là vô tình. Thuật ngữ này hoặc thuật ngữ cockblocker (kẻ chặn cu) cũng được sử dụng cho người tham gia vào hành vi cản trở hoặc can thiệp đó.
Nghiên cứu xã hội đã ghi lại các chuẩn mực giữa các nhóm đồng đẳng nam coi hành vi "ngăn chặn" là tiêu cực, điều này có thể khiến nam giới ít thách thức hành vi của nhau hoặc cản trở việc tiếp cận tình dục với phụ nữ, đôi khi ngay cả trong các trường hợp có thể xảy ra tấn công tình dục hoặc bạo lực bạn tình. Thuật ngữ này xuất hiện ít nhất là từ năm 1972, khi Edith Folb ghi lại việc sử dụng nó bởi thanh thiếu niên da đen thành thị ở Hoa Kỳ.
Marla Gibbs sử dụng cụm từ này trong bộ phim Lost & Found năm 1999.
Tham khảo
Quyến rũ
Tiếng lóng tình dục
Sơ khai tình dục
|
19847250
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Radu%20Dr%C4%83gu%C8%99in
|
Radu Drăgușin
|
Radu Matei Drăgușin (; sinh ngày 3 tháng 2 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người România hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Premier League Tottenham Hotspur và đội tuyển bóng đá quốc gia România.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Đội tuyển quốc gia
Danh hiệu
U-23 Juventus
Coppa Italia Serie C : 2019–20
Juventus
Coppa Italia: 2020–21
Siêu cúp Ý: 2020
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2002
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam România
Trung vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Juventus
Cầu thủ bóng đá U.C. Sampdoria
Cầu thủ bóng đá Genoa C.F.C.
Cầu thủ bóng đá Tottenham Hotspur F.C.
Cầu thủ bóng đá Serie C
Cầu thủ bóng đá Serie B
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia România
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia România
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia România
|
19847259
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anne%20c%E1%BB%A7a%20Anh
|
Anne của Anh
|
Anne của Anh, hay Anne Stuart (17 tháng 3 năm 16375 tháng 11 năm 1640) là con gái của Charles I của Anh và Henriette Marie của Pháp. Anne là một trong ba đứa con của cặp vợ chồng đã qua đời khi còn nhỏ.
Tiểu sử
Anne sinh ngày 17 tháng 3 năm 1637 tại Cung điện Thánh James, là con thứ sáu và con gái thứ ba của Charles I của Anh và Henriette Marie của Pháp. Các anh chị của Anne, theo thứ tự sinh là: Charles James, Công tước xứ Rothesay và Cornwall (13 tháng 5 năm 1629); Charles II của Anh; Mary Henrietta của Anh, Vương nữ Vương thất và Vương phi xứ Oranje; James II của Anh và Elizabeth của Anh. Anne được rửa tội theo Anh giáo tại Cung điện Thánh James vào ngày 30 tháng 3, bởi William Laud, Tổng giám mục Anh giáo của Canterbury . Anne chỉ sống để chứng kiến sự ra đời của hai người em: Catherine (29 tháng 6 năm 1639) và Henry của Anh, Công tước xứ Gloucester và qua đời trước khi người em gái út, Henrietta của Anh được sinh ra.
Qua đời
Anne qua đời vào ngày 5 tháng 11 năm 1640 vì bệnh lao phổi, khi chỉ mới được 3 tuổi. Vương nữ được chôn cất tại Tu viện Westminster, bên cạnh anh trai Charles James.
Gia phả
<center>
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Vương nữ Anh
Vương nữ Scotland
Vương tộc Stuart
Vương nữ
Người Westminster
Chôn cất tại tu viện Westminster
Người Anh gốc Pháp
Người Scotland thế kỷ 17
Sinh năm 1637
Mất năm 1640
|
19847263
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Elizabeth%20c%E1%BB%A7a%20Anh
|
Elizabeth của Anh
|
Elizabeth Stuart (28 tháng 12 năm 1635 – 8 tháng 9 năm 1650) là con gái thứ hai của Charles I của Anh, Scotland và Ireland và Henriette Marie của Pháp.
Từ khi sáu tuổi cho đến khi qua đời ở tuổi mười bốn, Elizabeth là tù nhân của Quốc hội Anh trong thời kỳ Nội chiến Anh. Lời tường thuật đầy cảm xúc của Vương nữ về cuộc gặp cuối cùng với cha trước ngày Charles I bị hành quyết và những lời cuối cùng của Quốc vương với các con của mình đã được xuất bản trong nhiều tài liệu lịch sử về cuộc Nội chiến và chính bản thân Charles I.
Những lần đàm phán hôn nhân thất bại
Elizabeth sinh ngày 28 tháng 12 năm 1635 tại Cung điện Thánh James, là con gái thứ hai và người con thứ năm của Charles I của Anh và Henriette Marie của Pháp. Elizabeth được rửa tội tại đây vào 5 ngày sau, ngày 2 tháng 1, bởi William Laud, Tổng giám mục Canterbury. Năm 1636, Maria de' Medici, bà ngoại của Elizabeth, đã cố gắng hứa hôn cháu ngoại với con trai của Thân vương xứ Oranje, sau này là Willem II xứ Oranje. Mặc dù thực tế là Charles I cho rằng cuộc hôn nhân giữa một Vương nữ Anh với Thân vương xứ Oranje không đăng đối với địa vị của con gái, nhưng những rắc rối về tài chính và chính trị của nhà vua đã buộc Charles I phải cho chị gái của Elizabeth là Mary Henrietta, Vương nữ Vương thất, kết hôn với Willem.
Nội chiến
Khi Nội chiến Anh bùng nổ vào năm 1642, Elizabeth và em trai Henry, Công tước xứ Gloucester bị đặt dưới sự bảo hộ của Nghị viện Anh. Trong những năm tiếp theo, Nghị viện đã giao quyền giám hộ hai chị em cho một số quý tộc, trong số đó có Philip Herbert, Bá tước thứ 4 xứ Pembroke.
Năm 1642, Quốc hội giao quyền giám hộ Elizabeth và Henry cho Bá tước xứ Northumberland. Cùng năm đó, anh trai của hai chị em, James, Công tước xứ York, (sau là James II của Anh), đến thăm hai người. Tuy nhiên, Elizabeth được cho là đã khuyên anh trai nên rời đi vì mối nguy từ kẻ thù của họ.
Năm 1643, Elizabeth, khi ấy được bảy tuổi, bị gãy chân. Cùng năm đó, Vương nữ và Henry bị chuyển đến Chelsea. Elizabeth được giáo dục bởi Bathsua Makin cho đến năm 1644. Khi ấy, Elizabeth đã có thể đọc và viết bằng tiếng Do Thái, Hy Lạp, Ý, Latin và Pháp. Các học giả nổi tiếng khác đã dành tặng các tác phẩm cho Elizabeth và rất ngạc nhiên trước khả năng đọc các tác phẩm tôn giáo của Vương nữ.
Năm 1647, Quốc hội cho phép Elizabeth cùng các anh em trai Henry và James đến Maidenhead để gặp và ở với cha của họ trong hai ngày. Sau khi Quốc hội chuyển Charles I đến Cung điện Hampton Court, Charles I đến thăm các con của mình dưới sự chăm sóc của Bá tước xứ Northumberland tại Dinh thự Syon. Những chuyến thăm này kết thúc khi Charles I trốn đến Lâu đài Carisbrooke trên Đảo Wight; Elizabeth, khi ấy được mười tuổi, được cho là đã giúp anh trai James trốn thoát một lần nữa trong dưới lớp trang phục của phụ nữ.
Gia đình gọi Elizabeth là "Temperance" (tức là Tiết độ) vì bản chất tốt bụng của Vương nữ. Khi được 11 tuổi, Elizabeth được đại sứ Pháp đã mô tả là một "vẻ đẹp trẻ trung mới chớm nở" và là người có "duyên dáng, phẩm giá, thông minh và tinh tế", do đó Elizabeth có thể nhận đĩnh phẩm chất của những người khác nhau mà Vương nữ đã gặp cũng như là thấu hiểu những quan điểm khác nhau. Elizabeth có sức khỏe kém. Một cuộc kiểm tra hài cốt của Elizabeth vào thời Victoria cho thấy Vương nữ bị bệnh còi xương, gây ra các biến dạng ở vai và lưng, đầu gối bị chụm lại và ngón chân chim bồ câu. Những vấn đề này có thể khiến Elizabeth đi lại khó khăn. Thời niên thiếu, Elizabeth có khuôn mặt dài với quai hàm nhô ra và mái tóc màu đỏ nâu.
Khi Nghị viện quyết định loại bỏ hộ quản gia của Elizabeth vào năm 1648, Vương nữ 12 tuổi đã viết cho họ một lá thư phản đối quyết định được đưa ra:
Thượng viện thông cảm với hoàn cảnh khó khăn của Elizabeth và chỉ trích Hạ viện vì đã can thiệp vào Hộ gia Vương thất, đồng thời hủy bỏ quyết định. Tuy nhiên, Hạ viện yêu cầu những đứa trẻ phải được nuôi dưỡng như những tín hữu Tin lành sùng đạo; họ cũng bị cấm tham gia Triều đình ở Oxford, và bị giam giữ như những tù nhân tại Cung điện Thánh James. Tại một thời điểm, Quốc hội đã cân nhắc việc phong Henry thành Quốc vương thay thế, nhưng là một vị quân chủ lập hiến.
Hành quyết Charles I
Năm 1649, Quốc vương Charles I bị bắt giữ lần cuối. Oliver Cromwell và các thẩm phán khác ngay lập tức kết án tử hình Quốc vương. Vương nữ Elizabeth đã viết một lá thư dài gửi tới Quốc hội xin phép được cùng chị gái Mary Henrietta đến Hà Lan. Tuy nhiên, Quốc hội đã từ chối yêu cầu của Vương nữ cho đến sau cuộc hành quyết.
Ngày 29 tháng 1 năm 1649, Elizabeth và Henry, bấy giờ được mười ba tuổi gặp cha mình lần cuối cùng. Vương nữ viết lại cuộc gặp gỡ như sau: "Cha nói với tôi rằng ông rất vui khi tôi đến, và mặc dù cha không có nhiều thời gian để nói, nhưng đôi khi ông phải nói với ta điều mà ông chưa nói với người khác, hoặc viết thư gửi cho ta, bởi vì cha ta sợ rằng sự tàn nhẫn của họ nhiều đến mức họ sẽ không cho phép ông viết thư cho ta."
Elizabeth được cho là đã khóc rất nhiều đến nỗi Charles I đã hỏi con gái rằng liệu Elizabeth có thể nhớ được tất cả những gì Charles I đã nói với Vương nữ không. Elizabeth hứa sẽ không bao giờ quên và nói rằng bản thân sẽ ghi chép lại lời cha đã nói. Vương nữ đã viết hai bản tường thuật riêng biệt về cuộc gặp gỡ. Charles I đã yêu cầu con gái không được "đau buồn và dày vò bản thân vì cha" và mong con gái giữ vững đức tin Kháng Cách. Charles I bảo con gái đọc một số cuốn sách, trong số đó có Bishop Andrew's Sermons (Bài giảng của Giám mục Andrew), Ecclesiastical Polity (Chính thể Giáo hội) của Hooker và cuốn sách của Giám mục Laud chống lại Fisher, để con gái không sa đà vào lập trường của Giáo hội Công giáo.
Charles I cũng tặng cho con gái một cuốn Kinh Thánh trong buổi gặp gỡ.
Sau cái chết của Charles I, Elizabeth và Henry trở thành những mối quan ngại bất đắc dĩ. Joceline, Lãnh chúa Lisle, con trai của Bá tước xứ Northumberland, đã kiến nghị Nghị viện loại bỏ Elizabeth và Henry khỏi sự giám hộ của Northumberland. Nghị viện từ chối cho phép hai chị em đến Holland, thay vào đó giao hai chị em cho Edward Harrington chăm sóc; tuy nhiên, con trai của Harrington đã thành công cầu xin cho hai chị em được chăm sóc ở nơi khác.
Khối thịnh vượng chung
Nơi ở tiếp theo của Elizabeth và Henry là Dinh thự Penshurst, dưới sự chăm sóc của Robert Sidney, Bá tước thứ 2 xứ Leicester và vợ là Dorothy. Nghị viện đã chỉ thị cho gia đình Sidney không được làm hư bọn trẻ. Tuy nhiên, Dorothy đối xử rất tốt với Elizabeth. Để bày tỏ sự cảm kích, Elizabeth đã tặng Dorothy một viên ngọc quý từ bộ sưu tập của Vương nữ. Viên ngọc sau này trở thành trung tâm xung đột giữa Dorothy và các ủy viên Nghị viện được bổ nhiệm để giám sát tài sản cá nhân của vị vua quá cố.
Năm 1650, anh trai của Elizabeth, bấy giờ trên danh nghĩa là Charles II, đã đến Scotland để lên ngôi vương tại đây. Để đáp lại, Nghị viện đã chuyển Elizabeth đến Đảo Wight dưới sự giám hộ của Anthony Mildmay với mức lương hưu 3000 bảng một năm. Elizabeth phàn nàn rằng mình không đủ sức khỏe để đi nhưng những mối bận tâm của Vương nữ đều bị phớt lờ.
Qua đời
Trong quá trình di chuyển đến Đảo Wight, Elizabeth bị cảm lạnh và nhanh chóng mắc bệnh viêm phổi. Vương nữ qua đời vào ngày 8 tháng 9 năm 1650 tại Lâu đài Carisbrooke.
Một số nguồn tin nói rằng Elizabeth được tìm thấy đã qua đời với đầu được đặt trên cuốn Kinh thánh từ cha Vương nữ. Trong những ngày cuối đời, Elizabeth được những người xung quanh miêu tả là một đứa trẻ buồn bã. Ba ngày sau khi người ta phát hiện Vương nữ đã qua đời, Hội đồng Nhà nước đã cho phép Elizabeth cùng chị gái Mary đến Hà Lan. Elizabeth được chôn cất tại Nhà thờ Thánh Thomas, Newport trên Đảo Wight. Trên bia mộ của Elizabeth chỉ được đánh dấu bằng chữ cái "ES", tức là Elizabeth Stuart.
Hai trăm năm sau, Nữ vương Victoria, bấy giờ ở tại Điện Osborne, gần nơi chôn cất của Elizabeth, đã đặt mua một tác phẩm điêu khắc bằng đá cẩm thạch trắng về Elizabeth của nhà điêu khắc Carlo Marochetti. Tác phẩm điêu khắc mô tả Elizabeth là một thiếu nữ xinh đẹp, nằm áp má lên cuốn Kinh thánh. Cuốn Kinh Thánh được mở ra trang sách thuộc Phúc âm Thánh Mátthêu:
Phía trên tác phẩm điêu khắc là một tấm lưới, cho thấy Elizabeth từng là tù nhân; tuy nhiên, các song sắt bị phá vỡ cho thấy Elizabeth hiện đã được tự do và đã đến "chốn an nghỉ tuyệt vời" ("a greater rest"). Tấm bảng trên tác phẩm điêu khắc có nội dung như sau:
Những dòng kết thúc từ The Death of The Princess Elizabeth (Cái chết của Vương nữ Elizabeth) trong cuốn sách Lays of the English Cavaliers (Chốn Yên nghỉ của các Kỵ bình Anh) của John Jeremiah Daniel xuất bản năm 1866 đã tưởng nhớ lại hành động của Nữ vương Victoria dành cho Vương nữ Elizabeth:
Gia phả
<center>
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Green, M. A. E. Lives of the Princesses of England (1849–1855)
Vương nữ Anh
Vương nữ Scotland
Vương tộc Stuart
Vương nữ
Người Anh gốc Scotland
Người Anh thế kỷ 17
Người Scotland thế kỷ 17
Sinh năm 1635
Mất năm 1650
|
19847270
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Artem%20Dovbyk
|
Artem Dovbyk
|
Artem Oleksandrovych Dovbyk (; sinh ngày 21 tháng 6 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ukraina hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ La Liga Girona và đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1997
Nhân vật còn sống
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Ukraina
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Ukraina
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina
Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Ukraina
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
|
19847272
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Hoa%20Li%C3%AAn%201986
|
Động đất Hoa Liên 1986
|
Động đất Hoa Liên 1986 () là trận động đất xảy ra vào lúc 05:20:10 (TST), ngày 15 tháng 11 năm 1986. Trận động đất có cường độ 7.4 hoặc 6.8 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 33,8 km. Hậu quả trận động đất đã làm 15 người chết, 44 người bị thương.
Xem thêm
Danh sách trận động đất ở Đài Loan
Danh sách trận động đất năm 1986
Tham khảo
Động đất năm 1986
Đài Loan năm 1986
Hoa Liên
Động đất tại Hoa Liên
Động đất tại Đài Loan
|
19847273
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pointe%20La%20Rue
|
Pointe La Rue
|
Pointe La Rue (tiếng Pháp: Pointe La Rue) là một trong 25 quận tạo nên Seychelles và nằm trên đảo Mae. Tỉnh này có diện tích 3,9 km2, dân số thời điểm năm 2002 là 2.715 người.
Tham khảo
|
19847274
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20trung%20h%E1%BB%8Dc%20k%E1%BB%B9%20thu%E1%BA%ADt%20Seongsu
|
Trường trung học kỹ thuật Seongsu
|
Trường Trung học Kỹ thuật Seongsu (聖水工業高等學校) là một trường trung học công lập nằm ở Tàu điện ngầm Seoul tuyến 2, Seongdong-gu, Seoul.
lịch sử trường học
Ngày 20 tháng 2 năm 1997 : Được chấp thuận thành lập Trường Trung học Kỹ thuật Seongsu (2 lớp Khoa Cơ khí, 2 lớp Khoa Thiết kế Khuôn mẫu, 2 lớp Khoa Ô tô, 2 lớp Khoa Điện, 2 lớp Khoa Điện tử)
Ngày 1 tháng 3 năm 1998 : Lễ khánh thành Hiệu trưởng đầu tiên Kwon Hee-bok (bổ nhiệm 30 giáo viên trong đó có Phó hiệu trưởng Jin Ho-nam)
Ngày 2 tháng 3 năm 1998 : 502 tân sinh viên trúng tuyển lần đầu
Ngày 26 tháng 6 năm 1998 : Lễ khai giảng được tổ chức
Ngày 13 tháng 2 năm 2001 : Lễ tốt nghiệp lần thứ nhất
Ngày 30 tháng 6 năm 2010 : Sửa đổi quy định của trường học (tổ chức lại khoa: 1 lớp xe đạp sinh thái, 2 lớp sản xuất xanh, 2 lớp ô tô xanh, 2 lớp năng lượng xanh, 2 lớp điện tử xanh)
Ngày 1 tháng 10 năm 2010 : Được chỉ định là trường trung học chuyên biệt được hỗ trợ bởi Văn phòng Giáo dục (lĩnh vực xanh, thân thiện với môi trường)
Ngày 14 tháng 8 năm 2014 : Thay đổi tên bộ phận (Bộ phận Sản xuất Xanh → Bộ phận Máy móc, Bộ phận Ô tô Xanh → Bộ phận Ô tô, Bộ Năng lượng Xanh → Bộ phận Điện, Bộ phận Điện tử Xanh → Bộ phận Điện tử)
Ngày 1 tháng 9 năm 2020 : Được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng thứ 11 Baek Soo-gil
Ngày 4 tháng 2 năm 2021 : Lễ tốt nghiệp lần thứ 21
Ngày 2 tháng 3 năm 2021 : 23 tân sinh viên nhập học cho năm học 2021
tháng 2 năm 2024 : Lễ tốt nghiệp lần thứ 24 và bế giảng
Tham khảo
|
19847276
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%A1c%20Blues%20Sinchon
|
Nhạc Blues Sinchon
|
Sinchon Blues là nhóm nhạc rock / blues của Hàn Quốc .
Tham khảo
|
19847277
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A9y%20tr%E1%BA%AFng%20trong%20phim%20%E1%BA%A3nh
|
Tẩy trắng trong phim ảnh
|
Tẩy trắng (Whitewashing) là một phương thức tuyển diễn viên trong công nghiệp điện ảnh, trong đó các diễn viên da trắng được chọn vào những vai không phải người da trắng. Tẩy trắng là việc thực hiện tuyển diễn viên da trắng được giao vào vai mà lịch sử ghi nhận không phải da trắng, đây là một khái niệm được dùng trong điện ảnh nhằm ám chỉ việc sử dụng người da trắng cho các nhân vật bất kể chủng tộc, màu da. Theo định nghĩa của Merriam-Webster thì Tẩy trắng là "thay đổi...theo cách có lợi, đặc trưng hoặc phục vụ cho người da trắng: chẳng hạn như bố trí một diễn viên da trắng vào vai một người hoặc nhân vật hư cấu không phải da trắng".
Theo BBC, những bộ phim trong đó diễn viên da trắng đóng vai các chủng tộc khác bao gồm tất cả các thể loại. Người Mỹ gốc Phi vai trò và vai của các nhóm dân tộc ở Châu Á đã được tẩy trắng, cũng như các nhân vật từ thế giới cổ đại trong thể loại cổ điển và phim thần thoại. Tẩy trắng đang trở thành vấn nạn khủng khiếp ở kinh đô điện ảnh thế giới, tẩy trắng là việc nhà sản xuất (hoặc đạo diễn) một bộ phim sử dụng diễn viên da trắng đóng một vai diễn gốc da màu. Nhân vật bị tẩy trắng có thể là người gốc Phi, Latinh và gần đây thường là gốc Á. Đây vẫn là một khái niệm khá mới đối với người châu Á ở châu Á, nơi hầu hết các chương trình truyền hình địa phương và các bộ phim toàn là diễn viên cùng màu da.
Lịch sử
Hoạt động tẩy trắng đã diễn ra ở kinh đô điện ảnh từ kỉ nguyên phim đen trắng. Trường hợp đầu tiên là nhân vật Charlie Chan trong serie trinh thám cùng tên năm 1931. Vốn là người Trung Quốc, nhưng lên phim vai này lại do diễn viên Thụy Điển là Warner Oland đóng. Một năm sau, vai diễn Phúc Mãn Châu là người gốc Mông Cổ trong phim kinh dị Dr. Fu Manchu cũng rơi vào tay một diễn viên người Anh là Boris Karloff. Hàng loạt bộ phim sau đó như Dragon Seed, The Good Earth có nhân vật gốc Á đều được thể hiện bằng diễn viên da trắng. Từ thập niên 70 của thế kỉ trước đến nay, hành động “tẩy xóa màu da” này càng trở nên thô bạo. Giờ đây, các nhà làm phim Hollywood thậm chí còn thay đổi cả gốc gác nhân vật, cải tiến bối cảnh từ Đông sang Tây để tiện cho việc tuyển diễn viên da trắng. Chủ tịch Marvel là Kevin Feige đã thừa nhận sai lầm khi biến nhân vật gốc Á trong phim The Ancient One thành người da trắng trong loạt phim Doctor Strange.
Điển hình nhất chính là Dragonball: Evolution (2008) phiên bản điện ảnh của bộ truyện tranh Nhật nổi tiếng. Bối cảnh đậm chất châu Á đã bị ném sang một vùng hoang mạc giữa lòng nước Mỹ và nhân vật chính Songoku trở thành một thiếu niên da trắng. Hay như phim bom tấn Edge of Tomorrow (2014) cũng tương tự. Phim nói về cuộc chiến chống người ngoài hành tinh, được xào nấu đến mức chiến trường Nhật Bản chuyển thành Mỹ, quân đội Nhật thành quân đội Mỹ và hai nhân vật chính người Nhật được tài tử Tom Cruise cùng người đẹp Emily Blunt người Mỹ thể hiện. Bộ phim Ghost in the Shell của hãng DreamWorks, được chuyển thể từ phim hoạt hình kinh điển của Nhật Bản cũng tương tự. Người đẹp Scarlet Johansson được chọn vào vai chính Motoko Kusanagi. Một nữ diễn viên tóc vàng mắt xanh đóng một nhân vật tóc đen, mắt nâu đã là nực cười nhưng còn hài hơn khi nhân vật ấy có tên tiếng Nhật nhưng nói tiếng Anh đặc sệt giọng Mỹ.
Chú thích
Phân biệt chủng tộc
|
19847278
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20v%E1%BB%93
|
Bóng vồ
|
Croquet (Anh: /ˈkroʊkeɪ, -ki/ hoặc US: /kroʊˈkeɪ/) là một môn thể thao liên quan đến việc đánh bóng bằng gỗ hoặc nhựa bằng vồ qua các vòng (thường được gọi là "wickets" ở Hoa Kỳ) được nhúng trong sân cỏ.
Các biến thể
Trong tất cả các hình thức của môn cầu, cả cá nhân lẫn đội chơi đều luân phiên đánh bóng, ghi điểm bằng cách đưa chúng qua một cổ hố. Trò chơi kết thúc khi một người chơi hoặc đội chơi đạt được một số điểm được quy định trước. Có nhiều biến thể khác nhau khác nhau với nhau về cách và khi nào một cú đánh có thể được thực hiện hợp lệ, khi nào điểm được ghi, bố trí của sân, và điểm mục tiêu. Thông thường, trong các trò chơi xã hội, có thêm những biến thể không chuẩn để thích ứng với điều kiện chơi. Trong tất cả các phiên bản, người chơi ở mọi lứa tuổi và giới tính đều cạnh tranh trên cơ sở bình đẳng và được xếp hạng cùng nhau.
Hai phiên bản của trò chơi được trực tiếp quản lý bởi Liên đoàn Cầu thế giới, tổ chức các Giải đấu Thế giới cho cả cá nhân và đội chơi. Các biến thể khu vực khác phát triển song song vẫn phổ biến ở một số khu vực trên thế giới.
Tham khảo
Môn thể thao có nguồn gốc từ Vương quốc Liên hiệp Anh
Môn thể thao có nguồn gốc từ Anh
Môn thể thao cũ tại Thế vận hội Mùa hè
|
19847279
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sadibou%20San%C3%A9
|
Sadibou Sané
|
Sadibou Sané (sinh ngày 10 tháng 6 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Sénégal hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Metz tại Ligue 1.
Sự nghiệp thi đấu
Génération Foot
Sané giành chức vô địch Ligue 1 mùa giải 2022–23 với câu lạc bộ Génération Foot.
Metz
Vào ngày 22 tháng 7 năm 2023, anh gia nhập câu lạc bộ Metz theo bản hợp đồng 5 năm. Anh ra mắt cho đội bóng trong trận hòa 2–2 trước Reims tại Ligue 1 vào ngày 3 tháng 9 2023.
Sự nghiệp quốc tế
Sané là tuyển thủ trẻ người Sénégal. Anh có tên trong đội hình vô địch Cúp bóng đá U-20 châu Phi 2023, nhưng không tham gia một trận đấu nào tại giải đấu.
Danh hiệu
Génération Foot
Ligue 1: 2022–23
U-20 Sénégal
Cúp bóng đá U-20 châu Phi: 2023
Tham khảo
Sinh năm 2004
Nhân vật còn sống
Hậu vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Sénégal
Cầu thủ bóng đá nam Sénégal
Cầu thủ bóng đá Génération Foot
Cầu thủ bóng đá FC Metz
Cầu thủ bóng đá Championnat National 3
Cầu thủ bóng đá Championnat National
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá nam Sénégal ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Sénégal
Hậu vệ bóng đá nam
|
19847282
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cryptocentrus%20melanopus
|
Cryptocentrus melanopus
|
Cryptocentrus melanopus là một loài cá biển thuộc chi Cryptocentrus trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1860.
Từ nguyên
Từ định danh melanopus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: mélanos (μέλανος; “đen”) và poús (πούς; “chân”), hàm ý đề cập đến chóp đen trên vây bụng của loài cá này.
Tình trạng phân loại
Russell và cộng sự (2010) ghi chú rằng, C. melanopus là tên do Castelnau đặt cho bức vẽ của ông về một loài cá bống, sau đó Bleeker đã chính thức mô tả loài này dựa vào bức vẽ đó. Không có bất kỳ mẫu vật của loài này được thu thập khi đó. C. melanopus được xếp vào một đồng nghĩa cao cấp của Cryptocentrus leptocephalus.
C. melanopus đôi khi được xác định là C. singapurensis (Herre, 1936), một đồng nghĩa thứ cấp của C. leptocephalus. Hình vẽ mẫu gốc do Herre (1936) cung cấp nhìn chung phù hợp với mô tả của C. melanopus, nhưng lại xuất hiện những đốm nhỏ như loài C. leptocephalus. Mẫu định danh của C. singapurensis hiện còn lưu giữ (số hiệu CAS-SU 29087) cho thấy các đặc điểm giống với C. leptocephalus. Nhiều khả năng bức vẽ của Herre là sự pha trộn giữa mẫu gốc và các mẫu phụ (paratype). Do có sự nhập nhằng này và sự nhầm lẫn trong việc phân loại hai loài, Hoese và cộng sự (2011) vẫn giữ lại danh pháp Cryptocentrus melanopus.
Phân loại
C. melanopus đã được ghi nhận chắc chắn tại Singapore, Malaysia, Brunei, Việt Nam, Indonesia và Bắc Úc.
Mô tả
Trên đầu của C. leptocephalus và C. melanopus đều có thêm các chấm nhỏ ngoài các đốm đỏ hồng lớn hơn. C. melanopus có ít chấm nhỏ hơn, và những chấm này lớn hơn so với C. leptocephalus; có một vệt đỏ kéo dài chứ không phải là đốm tròn nhỏ ở phía trên gốc vây ngực như C. leptocephalus; một vệt đỏ kéo dài từ mắt xuống hàm (C. leptocephalus không có). Dải màu sẫm đầu tiên bên dưới vây lưng sau ở C. melanopus nghiêng hoàn toàn về phía trước vây hậu môn, tiếp theo là 4 dải xiên màu sẫm hẹp hơn (có khi hợp nhất còn 3), còn ở C. leptocephalus dải màu sẫm đầu tiên chồng lên một phần gốc trước của vây hậu môn, theo sau chỉ có 3 dải.
C. leptocephalus và C. melanopus cũng là những loài dị hình giới tính. Con đực của cả hai loài đều có đốm trên vây lưng, trong khi con cái có các vệt sọc đỏ trên màng vây lưng.
Tham khảo
M
Cá Thái Bình Dương
Cá Việt Nam
Cá Brunei
Cá Malaysia
Cá Singapore
Động vật được mô tả năm 1860
|
19847289
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/An%20to%C3%A0n%20cho%20nh%C3%A0%20b%C3%A1o
|
An toàn cho nhà báo
|
Sự an toàn cho các nhà báo bao gồm khả năng tiếp nhận, sản xuất và chia sẻ thông tin mà các nhà báo không phải đối mặt với các mối đe dọa về thể chất hoặc đạo đức. Đây là một khái niệm phức tạp vượt ra ngoài phạm vi an toàn thể xác và đi sâu vào những mối nguy hiểm khác nhau mà các nhà báo có thể gặp phải khi thực hiện quyền cơ bản về tự do ngôn luận.
Nhà báo có thể phải đối mặt với bạo lực và đe dọa khi thực hiện quyền tự do ngôn luận cơ bản của mình. Một loạt các mối đe dọa mà họ phải đối mặt bao gồm bị sát hại, bắt cóc, bắt giữ làm con tin, quấy rối trên mạng và ngoài đời, đe dọa, cưỡng bức mất tích, giam giữ và tra tấn tùy tiện. Các nhà báo nữ cũng phải đối mặt với những mối nguy hiểm cụ thể và đặc biệt dễ bị tấn công tình dục, từ hình thức xâm phạm tình dục có chủ đích—thường là để trả thù vì công việc của họ; đến bạo lực tình dục tập thể nhằm vào các nhà báo đang đưa tin về các sự kiện công cộng; hoặc lạm dụng tình dục các nhà báo đang bị tạm giam hoặc bị cầm tù. Nhiều tội ác trong số này không được báo cáo do sự kỳ thị khắc nghiệt về văn hóa và nghiệp vụ.
Càng ngày, các nhà báo, đặc biệt là các nhà báo nữ, càng phải đối mặt với tình trạng bị sỉ nhục và quấy rối trực tuyến, điển hình như diễn ngôn thù ghét, bắt nạt trên mạng, rình rập trên mạng, làm lộ địa chỉ sinh sống, troll, làm nhục công khai, đe dọa và dọa giết.
Chú thích
Báo chí
Tự do thể hiện
Kiểm duyệt
Nhân quyền
Bạo lực
|
19847298
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aleksandar%20Kara%C4%91or%C4%91evi%C4%87%2C%20Th%C3%A2n%20v%C6%B0%C6%A1ng%20x%E1%BB%A9%20Serbia
|
Aleksandar Karađorđević, Thân vương xứ Serbia
|
Alexander Karađorđević (; 11 tháng 10 năm 1806 – 3 tháng 5 năm 1885) là Thân vương xứ Serbia từ năm 1842 đến năm 1858 và là thành viên của Nhà Karađorđević. Ông được đưa lên ngai vàng Serbia sau khi Thân vương Miloš của Nhà Obrenović bị lật đổ, vì thế, trong suốt triều đại của mình, ông phải đương đầu với các âm mưu đến từ Nhà Obrenović với mục đích đòi lại ngai vàng.
Xung đột và cạnh tranh giữa 2 triều đại Karađorđević và Obrenović có nguồn gốc từ thời cha của Alexander là Karađorđe, bản thân cha của ông cũng đã phải bỏ mạng từ kế hoạch ám sát của người nhà Obrenović vào năm 1817. Kể từ đó, ngai vàng của Serbia liên tục đổi chủ qua lại giữa hai gia tộc này cho đến thời của Petar I thì người Nhà Karađorđević mới nắm luôn ngai vàng, cho đến khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ.
Năm 1858, Thân vương Alexander bị lật đổ vì từ chối tham gia Chiến tranh Krym đứng về phía nhóm đồng minh Đệ Nhị Đế chế Pháp, Đế quốc Anh và Đế quốc Ottoman chống là Đế quốc Nga. Ngai vàng Serbia một lần nữa lại quay trở lại với Nhà Obrenović, gia đình Alexander phải sống lưu vong.
Năm 1885, cựu vương Alexander qua đời, không chứng kiến được con trai của mình là Thân vương tử Petar phục hưng triều đại Karađorđević vào năm 1903, không dừng lại ở đó, Petar còn thống nhất nhiều nhà nước khác để lập ra Vương quốc của người Serb, Croat và Sloves, đưa triều đại Karađorđević đạt đến đỉnh cao quyền lực.
Tham khảo
Chú thích
Sinh năm 1806
Mất năm 1885
Quân chủ Chính thống giáo
Quân chủ Serbia thế kỷ 19
Quý tộc Serbia thế kỷ 19
Triều đại Karađorđević
|
19847311
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A5t%20b%E1%BA%A1i%20c%C3%B3%20th%E1%BB%83%20x%E1%BA%A3y%20ra
|
Thất bại có thể xảy ra
|
Thất bại có thể xảy ra () là học thuyết về sự phát triển của chủ nghĩa xã hội do Mao Trạch Đông đưa ra, cho rằng có nhiều khả năng chủ nghĩa xét lại sẽ dẫn đến việc khôi phục chủ nghĩa tư bản hơn là chủ nghĩa xã hội thực sự phát triển thành chủ nghĩa cộng sản.
Không giống như hầu hết những người ủng hộ chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mao thậm chí không coi chủ nghĩa xã hội là một sự phát triển có thể xảy ra từ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Thay vào đó, Mao tuyên bố rằng "[hầu hết] chủ nghĩa xét lại sẽ thắng, và chúng ta sẽ bị đánh bại". Giải pháp cho vấn đề này là nhấn mạnh thất bại có thể xảy ra, nhằm khiến quần chúng luôn trong tình trạng lo lắng trước các phần tử tư bản.
Cụ thể phát sinh sau chiến dịch phi Stalin hóa do Nikita Khrushchev theo đuổi, Mao đã chỉ ra điều mà ông coi là sự khôi phục hoàn toàn chủ nghĩa tư bản ở Liên Xô sau cái chết của Joseph Stalin như một bằng chứng cho thấy chủ nghĩa xã hội có thể bị lật đổ nhanh chóng như thế nào nếu quần chúng không được huy động vào việc đấu tranh chống lại cái mà Mao coi là gốc rễ chính của sự phục hồi tiềm năng của chủ nghĩa tư bản, chính đảng đó. Thay vì lo sợ nhất về tàn dư của xã hội tư bản, Mao cho rằng dưới chủ nghĩa xã hội, đảng tiên phong có thể trở thành kẻ ăn bám và thậm chí còn tuyên bố sự tồn tại của một "giai cấp quan liêu" đang chống lại công nhân. Ví dụ, Mao từng nói với André Malraux rằng "[C]hiến thắng là mẹ của nhiều ảo tưởng", ám chỉ cụ thể đến kết quả của chủ nghĩa xã hội.
Tham khảo
Lý thuyết chính trị
Cách mạng Văn hóa
Thuật ngữ tư tưởng Mao Trạch Đông
|
19847317
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Catherine%20Henriette%20de%20Bourbon
|
Catherine Henriette de Bourbon
|
Catherine Henriette de Bourbon (11 tháng 11 năm 1596 – 20 tháng 6 năm 1663) là người con gái ngoại hôn của Henri IV của Pháp và người tình lâu năm là Gabrielle d'Estrées. Catherine Henriette được hợp pháp hóa thân phận vào ngày 17 tháng 11 năm 1596 tại Tu viện St. Ouen ở Rouen và được gả cho một thành viên thuộc Gia tộc Guise.
Hậu duệ
Charles III, Công tước xứ Elbeuf (1620 – 4 tháng 5 năm 1692), kết hôn ba lần và có hậu duệ.
Henri (1622 – 3 tháng 4 năm 1648) không kết hôn, Tu viện trưởng Homblières.
François Louis, Bá tước xứ Harcourt (1623 – 27 tháng 6 năm 1694), kết hôn với Anne d'Ornano de Montlaur và có hậu duệ.
François Marie, Thân vương xứ Lillebonne (4 tháng 4 năm 1624 – 19 tháng 1 năm 1694), kết hôn ba lần và có hậu duệ.
Catherine (1626 – 1645), nự tu ở Port-Royal.
Marie Marguerite (1629 – 7 tháng 8 năm 1679) được gọi là Đức nữ xứ Elboeuf (Mademoiselle d'Elboeuf), qua đời mà không lập gia đình.
Tổ tiên
Tham khảo và ghi chú
Nguồn tài liệu
Vương tộc Bourbon (Pháp)
Con ngoài giá thú của quân vương Pháp
Con ngoại hôn của Quốc vương
Gia tộc Guise
Vương tộc Lorraine
Người Pháp thế kỷ 17
Sinh năm 1596
Mất năm 1663
|
19847324
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Orel%20Mangala
|
Orel Mangala
|
Orel Johnson Mangala (sinh ngày 18 tháng 3 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Lyon tại Ligue 1 theo dạng cho mượn từ câu lạc bộ Premier League Nottingham Forest và đội tuyển quốc gia Bỉ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Nottingham Forest FC
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Bỉ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bỉ
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Nottingham Forest F.C.
Cầu thủ bóng đá Hamburger SV
Cầu thủ bóng đá VfB Stuttgart
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1998
|
19847325
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Arthur%20Vermeeren
|
Arthur Vermeeren
|
Arthur Denis Vermeeren (sinh ngày 7 tháng 2 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Atlético Madrid và đội tuyển quốc gia Bỉ.
Danh hiệu
Royal Antwerp
Belgian Pro League: 2022–23
Cúp bóng đá Bỉ: 2022–23
Siêu cúp Bỉ: 2023
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ RBFA
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Bỉ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bỉ
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Royal Antwerp F.C.
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2005
|
19847326
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kusakabe%20Kana
|
Kusakabe Kana
|
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti Prime Agency→GG.
Tham khảo
Sinh năm 1995
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
|
19847327
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Malatya%201986
|
Động đất Malatya 1986
|
Động đất Malatya 1986 () là trận động đất xảy ra vào lúc 06:35:38 (TRT), ngày 5 tháng 5 năm 1986. Trận động đất có cường độ 6.1 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 9,6 km. Hậu quả trận động đất đã làm 15 người chết, 100 người bị thương.
Xem thêm
Danh sách trận động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ
Danh sách trận động đất năm 1986
Động đất Thổ Nhĩ Kỳ–Syria 2023
Tham khảo
Động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ
Động đất năm 1986
Thổ Nhĩ Kỳ năm 1986
Lịch sử Malatya
Thảm họa tại Thổ Nhĩ Kỳ năm 1986
|
19847328
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Olivier%20Deman
|
Olivier Deman
|
Olivier Deman (sinh ngày 6 tháng 4 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Werder Bremen tại Bundesliga và đội tuyển quốc gia Bỉ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Werder Bremen
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Bỉ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ
Sinh năm 2000
Nhân vật còn sống
|
19847330
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aster%20Vranckx
|
Aster Vranckx
|
Aster Jan Vranckx (sinh ngày 4 tháng 10 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ VfL Wolfsburg tại Bundesliga và đội tuyển quốc gia Bỉ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá A.C. Milan
Cầu thủ bóng đá VfL Wolfsburg
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Bỉ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bỉ
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2002
|
19847333
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jorne%20Spileers
|
Jorne Spileers
|
Jorne Spileers (sinh ngày 21 tháng 1 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Club Brugge.
Thống kê sự nghiệp
Tham khảo
Liên kết ngoài
Jorne Spileers tại trang web Club Brugge KN
Hồ sơ Bỉ tại FA Bỉ
Cầu thủ bóng đá Club Brugge KV
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division B
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bỉ
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2005
|
19847336
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ameen%20Al-Dakhil
|
Ameen Al-Dakhil
|
Ameen Al-Dakhil ( ; sinh ngày 6 tháng 3 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí trung vệ hoặc hậu vệ trái cho câu lạc bộ Burnley tại . Sinh ra ở Iraq, anh đại diện cho đội tuyển quốc gia Bỉ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
ACFF Profile
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ ở nước ngoài
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Burnley F.C.
Cầu thủ bóng đá Standard Liège
Cầu thủ bóng đá nam Iraq
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bỉ
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2002
|
19847337
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%20Ho%C3%A0ng%20n%C6%B0%C6%A1ng%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Chi Hoàng nương (định hướng)
|
Hoàng nương có thể là:
Tên chi thực vật Crepis, còn gọi là chi Sâm hoàn dương hay Cải đồng.
Tên chi thực vật Youngia.
|
19847338
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C5%8Cyamazaki%2C%20Ky%C5%8Dto
|
Ōyamazaki, Kyōto
|
là thị trấn thuộc huyện Otokuni, Kyōto, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 15.953 người và mật độ dân số là 2.700 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 5,97 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Kyōto
|
19847339
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn%20Rubizhne
|
Trận Rubizhne
|
Trận Rubizhne là một trận giao tranh ở Rubizhne diễn ra giữa quân Nga với quân Ukraina như một phần của chiến dịch miền Đông Ukraina và chiến dịch Donbas trong sự kiện Nga xâm lược Ukraina năm 2022. Trận Rubizhne bắt đầu vào ngày 15 tháng 3 năm 2022 và kết thúc vào ngày 12 tháng 5 năm 2022 với kết quả thắng lợi nghiêng về phía Nga và Cộng hòa Nhân dân Lugansk. Sau cuộc chiến này cũng có ít nhất 13 thường dân thiệt mạng và 14 người bị thương do giao tranh trong thành phố.
Diễn biến
Vào khoảng 15 giờ ngày 28 tháng 2 năm 2022, lực lượng Nga bắt đầu pháo kích vào Sievierodonetsk là trung tâm hành chính của Luhansk Oblast nằm ngay phía đông nam của Rubizhne. Theo Serhiy Haidai, thống đốc tỉnh Luhansk thì đã có một người đã thiệt mạng và một số người bị thương. Các đường ống dẫn khí đốt cũng bị trúng đạn pháo. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2022, giao tranh đã được báo cáo đã diễn ra ở hầu hết các ngôi làng gần Sievierodonetsk. Lực lượng Nga tiếp tục pháo kích vào thành phố, trong đó có một phòng tập thể dục của trường học được dùng làm hầm tránh bom. Không có trường hợp tử vong nào được báo cáo. Đến 15h20 ngày hôm đó (ngày 2 tháng 3 năm 2022), một quan chức Ukraina cho biết lực lượng Nga đã cố gắng tiến vào thành phố nhưng bị đẩy lui. Những ngày sau đó, Haidai tuyên bố rằng giao tranh đang diễn ra ở ngoại ô Lysychansk, Sievierodonetsk và Rubizhne.
Vào ngày 20 tháng 4 năm 2022, lực lượng Nga và LPR tiến vào Rubizhne chiếm được khu vực trung tâm thành phố. Tính đến ngày 26 tháng 4 năm 2022, quân đội Nga đang dần tiến về phía tây và phía nam thành phố trong nỗ lực bao vây lực lượng Ukraina. Truyền thông Ukraina đưa tin vào ngày 3 tháng 5 rằng máy bay Nga đã ném bom một phương tiện vận tải chuyên chở ngũ cốc ở Rubizhne. Máy nâng ngũ cốc thuộc sở hữu của Golden AGRO LLC và khai trương vào năm 2020 đã bị phá hủy hoàn toàn. Ngoài ra, vào ngày 3 tháng 5 năm 2022, ngôi làng Mykhailivka gần Rubizhne cũng bị pháo kích. Tu viện Barbarian của Elijah và Hiệu trưởng Tu viện St. Elijah Barbarian Theodosius của Chernihiv ở Mykhailivka, Parthenius qua đời. Vào ngày 4 tháng 5 năm 2022, lực lượng Ukraina tuyên bố rằng lực lượng Nga đã cố gắng giành toàn quyền kiểm soát Rubizhne nhưng không thành công. Có thông tin cho rằng lực lượng Nga đã chiếm giữ Rubizhne và thị trấn Voevodivka gần đó vào ngày 12 tháng 5 năm 2022. BBC tuyên bố rằng trong cuộc chiến giành Rubizhne, có tới 1500 quả đạn pháo mỗi ngày đã được bắn trước khi quân Nga tiến lên chiếm lấy cứ điểm này.
Chú thích
Nga xâm lược Ukraina 2022
Tác chiến đô thị
|
19847341
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Matz%20Sels
|
Matz Sels
|
Matz Willy Els Sels (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Strasbourg tại Ligue 1 và đội tuyển quốc gia Bỉ.
Danh hiệu
Gent
Belgian Pro League: 2014–15
Siêu cúp Bỉ: 2015
Newcastle United
EFL Championship: 2016–17
Anderlecht
Siêu cúp Bỉ: 2017
Strasbourg
Coupe de la Ligue: 2018–19
Cá nhân
Thủ môn Bỉ xuất sắc nhất mùa giải: 2015–16
Thủ môn xuất sắc nhất mùa giải Ligue 1: 2021-22
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ ở nước ngoài
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Bỉ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bỉ
Cầu thủ bóng đá R.S.C. Anderlecht
Cầu thủ bóng đá Newcastle United F.C.
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1992
|
19847343
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thomas%20Kaminski
|
Thomas Kaminski
|
Thomas Kaminski (sinh ngày 23 tháng 10 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Luton Town tại Premier League.
Tham khảo
Thomas Kaminski đã viết về Anderlecht ở Kortrijk, nieuwsblad.be, ngày 13 tháng 6 năm 2016
Liên kết ngoài
Thomas Kaminski tại trang web Luton Town FC
i
(
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ ở nước ngoài
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Danish Superliga
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Luton Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Blackburn Rovers F.C.
Cầu thủ bóng đá Anorthosis Famagusta F.C.
Cầu thủ bóng đá R.S.C. Anderlecht
Cầu thủ bóng đá Beerschot A.C.
Cầu thủ bóng đá A.F.C. Tubize
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Bỉ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bỉ
Cầu thủ bóng đá nam Bỉ
Thủ môn bóng đá nam
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1992
|
19847358
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Charlevoix%201870
|
Động đất Charlevoix 1870
|
Động đất Charlevoix 1870 () là trận động đất xảy ra vào lúc 16:30 (theo giờ địa phương), ngày 20 tháng 10 năm 1870. Trận động đất có cường độ 6.6 richter, không rõ tâm chấn độ sâu. Hậu quả, trận động đất đã làm 6 người thiệt mạng.
Xem thêm
Danh sách trận động đất ở Canada
Danh sách trận động đất ở Hoa Kỳ
Động đất Charlevoix 1663
Tham khảo
Canada năm 1870
Động đất năm 1870
Động đất tại Québec
Québec năm 1870
Thiên tai năm 1870
|
19847382
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202017
|
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017
|
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017 diễn ra tại Sân vận động Khúc côn cầu Quốc gia ở Bukit Jalil.
Lịch thi đấu
Sau đây là lịch thi đấu của giải đấu khúc côn cầu trên cỏ:
Quốc gia tham dự
Giải đấu Nam
Vòng bảng
Giải đấu Nữ
Vòng bảng
Tóm tắt huy chương
Bảng tổng sắp huy chương
Danh sách huy chương
Tham khảo
Liên kết ngoài
2017
Khúc côn cầu trên cỏ
Đại hội Thể thao Đông Nam Á
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017
|
19847390
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202017%20%E2%80%93%20Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91%E1%BA%A5u%20Nam
|
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017 – Giải đấu Nam
|
Giải đấu khúc côn cầu trên cỏ dành cho nam tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017 được tổ chức từ ngày 22 đến ngày 29 tháng 8 tại Malaysia. Giải đấu này, bao gồm 5 đội tuyển Đông Nam Á thi đấu ở nội dung nam.
Tất cả các trận đấu đều diễn ra tại Sân vận động Khúc côn cầu Quốc gia ở Bukit Jalil.
Lịch thi đấu
Sau đây là lịch thi đấu của giải đấu khúc côn cầu trên cỏ dành cho nam:
Quốc gia tham dự
Bao gồm 5 đội sau đây đã tham gia giải đấu.
(INA)
(MAS)
(MYA)
(SGP)
(THA)
Trọng tài
Chia bảng
Không có lễ bốc thăm chính thức vì chỉ có 5 đội tham gia giải đấu này. Tất cả các đội sẽ được tự động gộp vào làm một nhóm.
Kết quả
Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Malaysia (UTC+8).
Vòng bảng
Tranh huy chương đồng
Tranh huy chương vàng
Xem thêm
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017 – Giải đấu Nữ
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017
Khúc côn cầu trên cỏ
|
19847395
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cryptocentrus%20leucostictus
|
Cryptocentrus leucostictus
|
Cryptocentrus leucostictus là một loài cá biển thuộc chi Cryptocentrus trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1872.
Từ nguyên
Từ định danh leucostictus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: leukós (λευκός; “trắng”) và stiktós (στικτός; “có đốm”), hàm ý đề cập đến những đốm tròn nhỏ, màu trắng bao phủ phần thân dưới của loài cá này.
Tình trạng phân loại
C. leucostictus tạo thành một nhóm phức hợp loài với 6 loài khác là Cryptocentrus liolepis, Cryptocentrus malindiensis, Cryptocentrus maudae, Cryptocentrus nigrocellatus, Cryptocentrus niveatus và Cryptocentrus albidorsus. Đặc trưng của nhóm này là có thân rất mảnh, sọc trắng ở giữa đầu, thường kéo dài ra toàn thân. Tên chi có sẵn cho nhóm này là Iotogobius, nhưng cần có những nghiên cứu sâu hơn để làm sáng tỏ cách phân loại của nhóm.
Phân bố và môi trường sống
Nhiều ghi nhận về sự xuất hiện của C. leucostictus có thể là do nhầm lẫn với loài C. albidorsus. Theo Sách đỏ IUCN (bản 2021) thì C. leucostictus chỉ được biết đến ở Úc, Indonesia, Papua New Guinea, Samoa thuộc Mỹ, Fiji và Tonga.
Ở Việt Nam, C. leucostictus được ghi nhận ở quần đảo Nam Du và quần đảo Hà Tiên (Kiên Giang), nhưng không rõ liệu đó có phải là sự xác định sai loài hay không.
C. leucostictus sống trên nền cát thô và đá vụn nhuyễn của rạn san hô và đầm phá, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 25 m.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. leucostictus là 12 cm. Cá có màu nâu sẫm, môi, mõm và đỉnh đầu có màu trắng, rải rác một số vệt trắng ở phía sau.
Số gai ở vây lưng: 6–7; Số tia ở vây lưng: 10–11; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 9–10.
Sinh thái
C. leucostictus sống cộng sinh trong hang với tôm gõ mõ Alpheus.
Thương mại
C. leucostictus hiếm khi được thấy trong ngành buôn bán cá cảnh.
Tham khảo
L
Cá Thái Bình Dương
Cá Việt Nam
Cá Fiji
Cá Tonga
Động vật quần đảo Solomon
Động vật Samoa thuộc Mỹ
Động vật được mô tả năm 1872
|
19847405
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%20h%C3%BAt%20kh%C3%A1ch%20du%20l%E1%BB%8Bch
|
Thu hút khách du lịch
|
Thu hút khách du lịch (Tourist attraction) là những địa điểm yêu thích mà khách du lịch thu hút ghé thăm, thường vì giá trị tự nhiên hoặc giá trị văn hóa vốn có hoặc được trưng bày triễn lãm, ý nghĩa lịch sử, vẻ đẹp tự nhiên hoặc được thiết kế xây dựng, mang lại sự thư giãn và giải trí. Kỳ vọng của khách du lịch khi đến thăm một địa điểm cụ thể có liên quan đến một số điểm đặc sắc của điểm đến đã chọn như nét văn hóa đa dạng, đậm đà bản sắc, kiến trúc độc đáo, ẩm thực phong phú, cơ sở hạ tầng thuận lợi, cảnh quan sạch đẹp, nhiều sự kiện thu hút, mua sắm nhộn nhịp. Những đặc điểm này thu hút mọi người đến điểm đến và góp phần vào trải nghiệm chung của một chuyến đi.
Mục đích chính cuối cùng của các điểm tham quan là thu hút sự chú ý của khách du lịch để họ có thể đến một địa điểm cụ thể và khám phá các điểm tham quan khác nhau trong kỳ nghỉ. Do đó, trong ngành lữ hành và du lịch, các điểm tham quan đóng một vai trò đặc biệt quan trọng vì điều này thu hút khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Trong khi một số điểm du lịch mang đến cho du khách trải nghiệm đáng nhớ với mức phí vào cửa hợp lý hoặc thậm chí miễn phí, thì những điểm khác có thể có chất lượng thấp và định giá quá cao đối với hàng hóa và dịch vụ (như vé vào cửa, đồ ăn và quà lưu niệm) nhằm thu lợi quá mức từ khách du lịch, những nơi như vậy thường được gọi là bẫy du lịch, ở Việt Nam là tình trạng chặt chém du khách gây bức xúc.
Đại cương
Các địa điểm có vẻ đẹp tự nhiên như bãi biển, khu nghỉ dưỡng trên đảo, công viên thiên nhiên, núi non, sa mạc và những khu rừng, là những ví dụ về các điểm du lịch truyền thống mà mọi người có thể ghé thăm. Các điểm du lịch văn hóa có thể bao gồm các địa điểm lịch sử (di chỉ, di tích), các địa điểm lịch sử quan trọng sự kiện, tượng đài, đền thờ cổ, vườn thú, thủy cung , bảo tàng và phòng trưng bày nghệ thuật, vườn thực vật, những tòa nhà và công trình kiến trúc (chẳng hạn như pháo đài, lâu đài, thư viện, di tích nhà tù, tòa nhà chọc trời, cầu), công viên giải trí và các lễ hội, bảo tàng lịch sử sống, nghệ thuật công cộng (tác phẩm điêu khắc, tượng, bức tranh tường, phù điêu), khu vực các dân tộc cộng đồng, đường sắt cổ và sự kiện văn hóa. Các chuyến tham quan nhà máy, di sản công nghiệp, xưởng thủ công và nghệ thuật sáng tạo là đối tượng của các khu vực văn hóa ngoại vi (Cultural niches) như du lịch công nghiệp và du lịch sáng tạo. Nhiều địa điểm du lịch cũng là phong cảnh sạch đẹp. Nhưng các sự kiện thể thao như bóng đá, đua xe Công thức 1 hay đua thuyền buồm cũng có thể thu hút khách du lịch.
Các điểm thu hút khách du lịch cũng được tạo ra để tận dụng những truyền thuyết, những tin tức giật gân như địa điểm được cho là có sự xuất hiện của Vật thể bay không xác định (UFO) gần Roswell, New Mexico và nơi được cho là quái vật hồ Loch Ness trong truyền thuyết ở Scotland. Các cộng đồng sắc tộc có thể trở thành điểm thu hút khách du lịch, chẳng hạn như Phố Tàu ở Mỹ và khu phố người da màu Brixton ở Luân Đôn của Anh. Khách du lịch cũng tìm kiếm những trải nghiệm ẩm thực đặc sắc của địa phương như ẩm thực đường phố ở các đô thị châu Á hoặc tham gia thưởng thức các đặc sản tại các lễ hội ẩm thực hoặc văn hóa quán cà phê ở Trung Âu. Đặc biệt, di sản văn hóa và các địa điểm riêng lẻ của Di sản Thế giới UNESCO đã phát triển thành các điểm thu hút khách du lịch. Nếu có quá nhiều khách du lịch thường xuyên lui tới những địa điểm riêng lẻ, điều này có thể dẫn đến ô nhiễm môi trường, xuống cấp di tích và sự xung khắc với người dân địa phương, chẳng hạn như ở Barcelona hay Venice. Liên quan đến toàn bộ chủ đề này, đã có danh sách các điểm đến không được khuyến khích với khách du lịch khi có ý định tham quan.
Có vô số danh sách và đánh giá về các điểm du lịch. Số liệu thống kê về du khách, ý nghĩa văn hóa, vẻ đẹp hay tuổi đời lịch sử đều được sử dụng và chúng luôn phản ánh đánh giá cá nhân của tác giả. Đôi khi người ta đặc biệt nhấn mạnh rằng địa điểm du lịch đặc biệt này vẫn chưa nằm trong tâm điểm của ngành du lịch quốc tế. Một số điểm tham quan được quốc tế biết đến hoặc nhắm mục tiêu vào thị trường quốc gia hoặc địa phương. Một số điểm tham quan được dành riêng cho người dân địa phương hoặc hiếm khi được quảng cáo vì các tuyến giao thông chính và sân bay chính ở quá xa. Tại Hoa Kỳ, chủ sở hữu và nhà tiếp thị các điểm tham quan quảng cáo các điểm du lịch trên các bảng quảng cáo dọc hai bên đường cao tốc và đường bộ, đặc biệt là ở các vùng sâu vùng xa. Các điểm du lịch thường phát tờ rơi quảng cáo miễn phí để trưng bày tại khu vực nghỉ ngơi, trung tâm thông tin, nhà hàng thức ăn nhanh và ở phòng hoặc hành lang nhà nghỉ. Trong các thành phố, hay nội đô thì việc đi thuyền tham quan và xe buýt ngắm cảnh đôi khi rất phổ biến.
Giải pháp
Nghiên cứu của các nhà khoa học tại Đại học Barcelona đã chỉ ra 7 kỳ vọng phổ biến của khách du lịch khi lựa chọn một điểm đến, gồm văn hóa, kiến trúc, ẩm thực, cơ sở hạ tầng, cảnh quan, sự kiện, thương mại, các yếu tố này gọi là “sản phẩm du lịch”. Soi chiếu vào ngành du lịch, từ hình mẫu thành công của các nước có thể thấy sản phẩm du lịch tốt sẽ tạo dựng chỗ đứng cho điểm đến. Các hoạt động xúc tiến, quảng bá điểm đến sẽ chỉ phát huy hiệu quả nếu có sẵn nền tảng từ sản phẩm tốt. Tại Việt Nam, hiện nay, một số điểm đến cũng bắt đầu xuất hiện những hệ sinh thái du lịch-giải trí-nghỉ dưỡng đẳng cấp, với dịch vụ chuyên nghiệp mang tầm quốc tế, trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn để thu hút khách quốc tế và đặc biệt là giới nhà giàu như tại Phú Quốc, loạt khu nghỉ dưỡng cao cấp như JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay Resort, New World Phu Quoc Resort, Premier Village Phu Quoc Resort do Sun Group đầu tư đã biến nơi đây trở thành điểm đến quen thuộc của giới tỷ phú, minh tinh thế giới.
Cần thiết nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý điểm đến, đảm bảo chất lượng dịch vụ lữ hành, lưu trú, vận chuyển du lịch, hướng dẫn viên du lịch, quản lý tốt điểm đến để xây dựng hình ảnh đẹp cho du lịch địa phương, chính sách phối kết hợp giữa các địa phương, đơn vị, công tác quản lý điểm đến, nhân lực du lịch, khi làm du lịch văn hóa, di sản bền vững thì những người làm du lịch cần hiểu và tôn trọng văn hóa bản địa, tránh làm mất đi nét bản sắc địa phương, vấn đề quản lý điểm đến, đặc biệt là quan tâm đến yếu tố môi trường, cảnh quan, rác thải, xử lý vấn nạn chặt chém, nâng giá, cũng cần có chiến lược và sự chuẩn bị, trong đó yếu tố xây dựng sản phẩm dài ngày cần phải được chú trọng nên cần sự liên kết chặt chẽ hơn từ các cơ quan quản lý, địa phương và đơn vị du lịch. Có những công ty du lịch đã có những thiết kế tour mới theo hướng tiết kiệm hơn, tối ưu chi phí cho hành trình tour để không giảm chất lượng và không tăng giá bán như thêm trải nghiệm tàu hỏa, xe khách trong tour thay vì đi máy bay, lựa chọn thực đơn phù hợp với từng đối tượng du khách.
Để hiện thực hóa được mục tiêu và về đích trước hoặc đúng kế hoạch đầu từ vấn đề chính sách thị thực (Visa) là yếu tố rất quan trọng và đầu tiên cần được giải quyết để thu hút khách quốc tế. Yếu tố quyết định lựa chọn điểm đến của du khách đầu tiên là giá trị, hình ảnh điểm đến, tiếp theo là điều kiện tiếp cận điểm đến trong đó có chính sách thị thực, tăng thời gian miễn thị thực cho du khách, nhất là các nước châu Âu có thị thực ngắn ngày nhưng lại có thời gian di chuyển dài, tránh tình trạng khách đến hạn visa phải quay về, dẫn đến giảm mức cạnh tranh của du lịch, ngoài ra, cần có đường bay thẳng thuận tiện. Đồng thời, việc xây dựng và triển khai công tác xúc tiến, quảng bá đúng trọng tâm, trọng điểm được coi là nhiệm vụ quan trọng, cần quan tâm hàng đầu, bên cạnh yêu cầu xây dựng các sản phẩm du lịch đặc sắc kích thích khách chi tiêu cao, lưu trú dài ngày, cần đặc biệt quan tâm tới công tác xúc tiến, quảng bá ở những thị trường du lịch trọng điểm, thúc đẩy các hoạt động ngoại giao văn hóa, xây dựng các chương trình văn hóa lồng ghép trong các hoạt động ngoại giao để quảng bá hình ảnh đất nước, con người và văn hóa.
Chú thích
Du lịch
|
19847412
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chris%20Wood
|
Chris Wood
|
Christopher Grant Wood (sinh ngày 7 tháng 12 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người New Zealand hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Nottingham Forest tại Premier League và đội tuyển bóng đá quốc gia New Zealand.
Tham khảo
Sinh năm 1991
Nhân vật còn sống
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia New Zealand
Cầu thủ bóng đá New Zealand
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Newcastle United F.C.
Cầu thủ bóng đá Nottingham Forest F.C.
Cầu thủ bóng đá Leicester City F.C.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia New Zealand
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội của New Zealand
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2010
Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2017
Cầu thủ bóng đá Barnsley F.C.
Cầu thủ bóng đá Birmingham City F.C.
Cầu thủ bóng đá Brighton & Hove Albion F.C.
Cầu thủ bóng đá Bristol City F.C.
Cầu thủ bóng đá Burnley F.C.
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2012
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2020
Cầu thủ bóng đá Ipswich Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Leeds United F.C.
Cầu thủ bóng đá Millwall F.C.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia New Zealand
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá West Bromwich Albion F.C.
|
19847415
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Tsukuba
|
Đại học Tsukuba
|
() là một trường đại học quốc gia nằm tại thành phố Tsukuba, tỉnh Ibaraki, Nhật Bản.
Tham khảo
Đại học Tsukuba
Tsukuba, Ibaraki
Dự án Đại học Toàn cầu
Khởi đầu năm 1872 ở Nhật Bản
Đại học Quốc gia Nhật Bản
|
19847416
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cu%E1%BB%99c%20phi%C3%AAu%20l%C6%B0u
|
Cuộc phiêu lưu
|
Cuộc phiêu lưu (Adventure) là một trải nghiệm hoặc công việc thú vị thường táo bạo, đôi khi đầy rủi ro mạo hiểm. (chẵng hạn như những chuyến thám hiểm). Cuộc phiêu lưu có thể là các hoạt động có tính nguy hiểm như du lịch mạo hiểm, khám phá, thám hiểm, nhảy dù, leo núi, lặn bằng bình dưỡng khí, đi bè trên sông hoặc hoạt động khác thể thao mạo hiểm. Các cuộc phiêu lưu thường được thực hiện để tạo ra kích thích tâm lý hoặc để đạt được mục tiêu lớn hơn, chẳng hạn như theo đuổi kiến thức mà chỉ có thể đạt được bằng các hoạt động kiểu đại loại như vậy. Trải nghiệm mạo hiểm sẽ tạo ra tâm lý kích thích, hưng phấn có thể được hiểu là tiêu cực (ví dụ như sợ hãi) hoặc tích cực (ví dụ như dòng chảy tâm lý). Đối với một số người, bản thân cuộc phiêu lưu đã trở thành một mục tiêu theo đuổi lớn lao. Theo nhà thám hiểm André Malraux, trong tác phẩm Man's Fate (1933) đã tuyên bố xanh rờn: "Nếu một người không sẵn sàng liều mạng thì phẩm giá của anh ta ở đâu?". Tương tự, Helen Keller cũng tuyên bố xanh rờn rằng "Cuộc sống hoặc là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm hoặc sẽ chẳng là gì cả". Ở Hoa Kỳ có ấn phẩm Tạp chí Phiêu lưu (Adventure magazine) xuất bản năm 1910, miêu tả về các cuộc phiêu lưu, chuyến mạo hiểm trên khắp thế giới đã được công chúng Mỹ đón nhận rộng rãi.
Đại cương
Các hoạt động mạo hiểm ngoài trời thường được thực hiện vì mục đích giải trí hoặc giải khuây, đơn cử là trò đua xe mạo hiểm và du lịch mạo hiểm, những đơn cử như các hoạt động mạo hiểm cũng có thể dẫn đến học tập kiến thức, chẳng hạn như những hoạt động do các nhà thám hiểm và tiên phong của nhà thám hiểm người Anh Jason Lewis thực hiện, sử dụng các cuộc phiêu lưu để thu hút tính bền vững toàn cầu rút ra bài học từ việc sống trong những giới hạn môi trường hữu hạn trong các chuyến thám hiểm để chia sẻ với học sinh. Giáo dục mạo hiểm có chủ ý sử dụng những trải nghiệm đầy thử thách cho học tập. Tác giả Jon Levy gợi ý rằng một trải nghiệm phải đáp ứng một số tiêu chí để được coi là một cuộc phiêu lưu: Hãy đáng chú ý—tức là đáng nói đến; Liên quan đến nghịch cảnh hoặc rủi ro được nhận thức; Mang lại sự phát triển cá nhân (đi một ngày đàng học một sàng khôn). Các cuộc phiêu lưu mạo hiểm là đề tài kinh điển cho nhiều tác phẩm văn học, điện ảnh có thể kể đến như:
Những cuộc phiêu lưu của Tintin (chuyển thể thành Những cuộc phiêu lưu của Tintin (phim hoạt hình) và Những cuộc phiêu lưu của Tintin (phim))
Những cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes và Những cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes và bác sĩ Watson, chuyển thể thành bộ phim Những cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes (phim truyền hình, 1984)
Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn
Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer
Những cuộc phiêu lưu của Pinocchio
Cuộc phiêu lưu của Scooby-Doo!
Gulliver du kí (Những cuộc Phiêu lưu của Gulliver)
Những cuộc phiêu lưu bất tận
Cuộc phiêu lưu ở xứ sở rồng
Những cuộc phiêu lưu của Sinbad
Cuộc phiêu lưu của Alice vào xứ sở thần tiên
Những cuộc phiêu lưu của Sarah Jane
Sáu người bạn đồng hành
Pokémon: Cuộc phiêu lưu của Pippi
Pokémon: Chuyến phiêu lưu của Pikachu và Koko
Doraemon: Nobita và hiệp sĩ rồng (Cuộc phiêu lưu vào lòng đất)
Doraemon: Nobita và chuyến phiêu lưu vào xứ quỷ
Doraemon: Nobita và chuyến phiêu lưu vào xứ quỷ (phim 2007)
Bác sĩ Dolittle: Chuyến phiêu lưu thần thoại
Frozen: Chuyến phiêu lưu của Olaf
Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karik và Valia
Những cuộc phiêu lưu của Mít Đặc và các bạn
Những cuộc phiêu lưu mới của Akmal
Những cuộc phiêu lưu của nhà quý tộc Florisel
Những cuộc phiêu lưu của Vasya Kurolesov (hoạt hình)
Những cuộc phiêu lưu khó tin của người Ý trên đất Nga
Những cuộc phiêu lưu của chiếc vali màu vàng
Những cuộc phiêu lưu mới của những kẻ báo thù không bao giờ bị bắt
Nữ tù binh Kavkaz, hay những cuộc phiêu lưu mới của Shurik
Kế hoạch «Y» và những cuộc phiêu lưu khác của Shurik
Cuộc phiêu lưu của chú mèo Filemona
Dế Mèn phiêu lưu ký của nhà văn Tô Hoài
Cuộc phiêu lưu của Văn Ngan tướng công của nhà văn Vũ Tú Nam
Cuộc phiêu lưu của Hai Lúa
Cuộc phiêu lưu của Ong Vàng
Chú thích
Liên kết ngoài
Martin Feeney Going on a journey: Life in Year 10
Website of the Research Unit "Philology of Adventure": ongoing research project on the literary history of the adventure pattern
What is an adventure? A definition of "adventure", "hero" and "epic" with an illustration of the hero's journey.
Du lịch
Phiêu lưu
|
19847419
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cryptocentrus%20pavoninoides
|
Cryptocentrus pavoninoides
|
Cryptocentrus pavoninoides là một loài cá biển thuộc chi Cryptocentrus trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1849.
Từ nguyên
Từ định danh pavoninoides được ghép bởi hai âm tiết: pavoninus trong tiếng Latinh (“của loài chim công”) và hậu tố eidḗs trong tiếng Hy Lạp cổ đại (ειδής; “giống như”), hàm ý không rõ, có lẽ đề cập đến những đốm trắng xanh trên đầu của loài cá này trống giống những đốm xanh lam trên lông công.
Tình trạng phân loại
C. leucostictus tạo thành một nhóm phức hợp loài với 3 loài khác là Cryptocentrus insignitus, Cryptocentrus cebuanus và Cryptocentrus pretiosus. Tên chi có sẵn cho nhóm này là Batman, nhưng cần có những nghiên cứu sâu hơn để làm sáng tỏ cách phân loại của nhóm.
Phân bố và môi trường sống
C. pavoninoides được ghi nhận tại quần đảo Andaman và Nicobar (Ấn Độ), đảo Phuket (Thái Lan), Singapore, Indonesia (tới đảo Sulawesi), Malaysia và Philippines. Ở Việt Nam, C. pavoninoides được ghi nhận tại quần đảo Nam Du, quần đảo Hà Tiên (Kiên Giang) và vịnh Vân Phong (Khánh Hòa).
C. pavoninoides sống trên nền đáy bùn và cát của rạn san hô và đầm phá, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 15 m.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. pavoninoides là 15 cm. Cá thường có màu nâu với các vạch mờ ở hai bên thân. Đầu có các chấm xanh lam óng. Vây lưng trước có từ 2 đến 5 đốm đen hình trứng nằm giữa vây, từ gai thứ nhất đến gai thứ sáu. Vây bụng màu đen.
C. pavoninoides là loài dị hình giới tính. Cá đực có màu nâu với ba vạch màu sẫm mờ với các đốm xanh lam rải rác trên thân, trong khi cá cái có màu vàng với 8–10 sọc nâu rõ rệt và không có đốm xanh hai bên thân.
Số gai ở vây lưng: 6–7; Số tia ở vây lưng: 11; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 10.
Sinh thái
C. pavoninoides sống cộng sinh trong hang với tôm gõ mõ.
Thương mại
C. pavoninoides là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh, được bán với giá khoảng 30–35 USD một con.
Tham khảo
P
Động vật được mô tả năm 1849
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Ấn Độ
Cá Thái Lan
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Malaysia
Cá Singapore
|
19847421
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20Chi%E1%BA%BFc%20C%E1%BB%91c%20V%C3%A0ng%20cho%20n%E1%BB%AF%20di%E1%BB%85n%20vi%C3%AAn%20ch%C3%ADnh%20xu%E1%BA%A5t%20s%E1%BA%AFc%20nh%E1%BA%A5t
|
Giải Chiếc Cốc Vàng cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất
|
Giải Chiếc Cốc Vàng cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (tiếng Trung :金爵奖最佳女演员) là giải thưởng được trao cho các nữ diễn viên trong hạng mục tranh giải chính tại Liên hoan phim quốc tế Thượng Hải.
Người chiến thắng
Xem thêm
Giải thưởng Liên hoan phim
Liên hoan phim Quốc tế Thượng Hải
|
19847424
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202017%20%E2%80%93%20Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91%E1%BA%A5u%20N%E1%BB%AF
|
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017 – Giải đấu Nữ
|
Giải đấu khúc côn cầu trên cỏ dành cho nữ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017 được tổ chức từ ngày 21 đến ngày 28 tháng 8 tại Malaysia. Giải đấu này, bao gồm 5 đội tuyển Đông Nam Á thi đấu ở nội dung nam.
Tất cả các trận đấu đều diễn ra tại Sân vận động Khúc côn cầu Quốc gia ở Bukit Jalil.
Lịch thi đấu
Sau đây là lịch thi đấu của nội dung nữ môn khúc côn cầu trên cỏ:
Quốc gia tham dự
Năm đội sau đây đã tham gia giải đấu.
(INA)
(MAS)
(MYA)
(SGP)
(THA)
Trọng tài
Chia bảng
Không có lễ bốc thăm chính thức vì chỉ có 5 đội tham gia giải đấu này. Tất cả các đội sẽ được tự động gộp vào làm một nhóm.
Kết quả
Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Malaysia (UTC+8).
Vòng bảng
Tranh huy chương đồng
Tranh huy chương vàng
Xem thêm
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017 – Giải đấu Nam
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Tham khảo
Giải đấu Nữ
Khúc côn cầu trên cỏ nữ năm 2017
|
19847429
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Keldysh%20bomber
|
Keldysh bomber
|
Keldysh bomber là một thiết kế phương tiện bay dưới quỹ đạo động cơ tên lửa của Liên Xô, dựa trên những nghiên cứu của Eugen Sänger và Irene Bredt khi thực hiện dự án Silbervogel.
Phát triển
Trong những tuần cuối cùng của World War II, các nghiên cứu của người Đức tại Peenemünde đã được tình báo Liên Xô điều tra, trong số đó có tổng công trình sư chế tạo động cơ tên lửa Alexey Isayev, người đã tìm thấy bản sao của báo cáo của Sänger và Bredt. Sau đó các kỹ sư tên lửa Liên Xô đã tiến hành dịch tài liệu và chuyển trực tiếp cho Stalin.
Tháng Mười một năm 1946, Viện nghiên cứu NII-1 NKAP đã được thành lập với sự lãnh đạo của nhà toán học Mstislav Vsevolodovich Keldysh nhằm nghiên cứu và phát triển công nghệ dựa trên thiết kế của Sänger–Bredt. Năm 1947, nghiên cứu chỉ ra rằng mức tiêu thụ nhiên liệu cao trong thiết kế tên lửa của Sänger khiến ý tưởng này không thể thực hiện trong thời gian ngắn. 95% khối lượng ban đầu của phương tiện bay sẽ là khối lượng nhiên liệu đẩy. Tuy nhiên, sử dụng đường ray trượt cùng với động cơ tên lửa khởi tốc để đẩy để cất cánh và động cơ ramjet để duy trì sẽ là phù hợp. Tuy nhiên, sử dụng động cơ tên lửa để cất cánh và động cơ ramjet để gia tốc sẽ có độ hiệu quả lớn hơn so với nguyên mẫu của Sänger và Bredt và có thể cung cấp thêm cho máy bay 22% trọng tải vô ích và vẫn đạt được vận tốc 5 km/s trên phạm vi 12.000 km. Tên lửa đẩy khi cất cánh sử dụng năm trong số sáu động cơ tên lửa RKDS-100, sử dụng nhiên liệu LOX/Kerosene và trên đỉnh của tên lửa đẩy sẽ là máy bay ném bom, với tổng lực đẩy đạt 5 đến 6 MN trên quãng đường 3 km ray cất cánh. Sau khi gia tốc 5 g trong khoảng 10 đến 11 s, tên lửa đạt vận tốc 500 m/s, phương tiện bay sẽ tách ra và cất cánh, nó sẽ sử dụng một động cơ RKDS-100 cung cấp khoảng 1 MN lực đẩy, nhưng giờ sẽ được bổ trợ thêm lực đẩy nhờ hai động cơ ramjet gắn ở hai đầu cánh. Sau khi đạt đến độ cao 60.000 ft, vận tốc Mach 3 và tách bỏ động cơ ramjet, động cơ tên lửa vẫn còn hoạt động khi đó sẽ giúp phương tiện bay rởi khỏi bầu khí quyển, và du hành dưới quỹ đạo. Người ta cho rằng các phát triển của phương tiện bay này phải đến giữa những năm 1950 mới có thể triển khai trên thực tế nhưng đến lúc này, thiết kế của Keldysh đã trở nên lỗi thời trước các thiết kế khác tiên tiến hơn. Tuy nhiên, công việc nghiên cứu đã là tiền đề cho các tên lửa hành trình động cơ ramjet như EKR, MKR, Buran, và Burya. Tuy nhiên khi Burya đạt đến giai đoạn bay thử nghiệm, thì đã đến thời của loại ICBM mạnh hơn rất nhiều là R-7.
Cấu hình
Phương tiện bay 100 tấn có khả năng gia tốc đến 500 m/s chạy đà trên đường ray nhờ 6 động cơ tên lửa RKDS-100 với tổng lực đẩy 600 tấn. Vận tốc đủ để tách động cơ khởi tốc đạt được sau 11 giây kích hoạt động cơ.
Sau khi tách khỏi đường ray, máy bay tiếp tục leo cao nhờ động cơ chính RKDS-100 và hai động cơ ramjet gắn ở hai đầu mút cánh, giúp nó gia tốc đến độ cao 20 km và đạt tốc độ lớn hơn Mach 3.
Tên lửa sẽ có khả năng tiếp tục hoạt động sau khi động cơ ramjet đã hết nhiên liệu trên độ cao lớn; đạt xung lực đẩy riêng 285 giây, lực đẩy 100 tấn, và sử dụng chất đẩy là liquid oxygen/kerosene.
Đặc tính kỹ thuật
Đặc tính chung
Loại: Máy bay ném bom dưới quỹ đạo
Khối lượng phóng:
Tổng chiều dài: 28 m
Phóng từ: Rocket
Tình trạng: Đã hủy bỏ
Động cơ đẩy khởi tốc
Động cơ: 5/6 × RKDS-100
Dài: 14 m (45 ft)
Đường kính: 3,6 m (11,8 ft)
Lực đẩy: ()
Oxidizer: LOx
Combustible: Kerosene
Keldysh bomber (Tầng 1)
Động cơ: 1 × RKDS-100, 2 × động cơ ramjet
Tốc độ : Mach 3
Tầm hoạt động:
Độ cao bay:
Đầu đạn:
Dài: 28 m
Đường kính: 3,6 m
Sải cánh: 15 m
Diện tích cánh: 126 m²
Xem thêm
Silbervogel
Spacecraft propulsion
X-20 Dynasoar
Tham khảo
Liên kết ngoài
Astronautix.com
Quan hệ Đức-Liên Xô
Vũ khí không gian
|
19847432
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lynja
|
Lynja
|
Lynn Yamada Davis (31 tháng 7 năm 1956 - 1 tháng 1 năm 2024) là một người Mỹ nổi tiếng với các bộ phim TikTok và YouTube Shorts lan truyền của mình. Cô cũng được biết đến nhiều hơn trên mạng với cái tên Lynja. Tính đến tháng 1 năm 2024, "Cooking with Lynja" đã có hơn 9,8 triệu người đăng ký YouTube và 19,1 triệu người theo dõi TikTok. Nó được khen ngợi vì các chỉnh sửa có phong cách nhanh và tham chiếu đến các meme trực tuyến.
Cô là cựu sinh viên MIT, đã có 29 năm làm nhân viên tại Phòng thí nghiệm AT&T. Ở tuổi sáu mươi ba, niềm đam mê tạo video của cô bắt đầu vào năm 2020. Cô đã nhận được ba Giải thưởng Streamy kể từ khi video của cô trở nên phổ biến rộng rãi.
Cuộc sống và sự nghiệp
Lynn T. Yamada sinh ra ở Thành phố New York vào ngày 31 tháng 7 năm 1956, với Mabel Fujisake và Tadao Yamada. Cô là một người Mỹ gốc Nhật thuộc thế hệ thứ ba. Cô theo học tại trường trung học Fort Lee khi lớn lên ở Fort Lee, New Jersey.
Cô học tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), nơi cô tốt nghiệp năm 1977 với bằng kỹ sư dân dụng. Cô giám sát The Tech, tờ báo sinh viên, với tư cách là chủ tịch khi còn là sinh viên MIT. Cô làm việc cho chính phủ sau khi tốt nghiệp, đảm bảo rằng các cơ sở liên bang có thể tiếp cận được. Cô tiếp tục tốt nghiệp Trường Kinh doanh Columbia với bằng quản trị kinh doanh và y tế công cộng.
Davis đã có 29 năm làm kỹ sư hệ thống và quản lý dự án tại Phòng thí nghiệm AT&T.
Sinh năm 1956
Mất năm 2024
Nữ giới Mỹ thế kỷ 21
Người Mỹ gốc Nhật
YouTuber Mỹ
Chết vì ung thư
Cựu sinh viên Viện Công nghệ Massachusetts
|
19847434
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh%20vi%E1%BB%87n%20Al-Shifa
|
Bệnh viện Al-Shifa
|
Bệnh viện Al-Shifa (tiếng Ả rập: مستشفى الشفاء/Mustašfā š-Šifāʾ) là khu phức hợp y tế và bệnh viện trung tâm lớn nhất ở dải Gaza, tọa lạc ở khu vực phía bắc Rimal ở thành phố Gaza. Nơi đây ban đầu là một doanh trại của Quân đội Anh, địa điểm này được chính phủ Palestine chuyển đổi thành cơ sở chăm sóc sức khỏe có tên gọi là Dar al-Shifa vào năm 1946. Bệnh viện được mở rộng trong thời kỳ Ai Cập chiếm đóng và sau đó là sự chiếm đóng của Israel vào những năm 1980. Trong thế kỷ 21, bệnh viện này là tâm điểm trong cuộc xung đột Gaza-Israel. Trong Chiến tranh Israel-Hamas năm 2023, ban quản lý bệnh viện tại al-Shifa cho biết bệnh viện tràn ngập những người bị thương và sắp chết, hoạt động quá tải với sức chứa 700 giường và đang thiếu nhiên liệu, giường bệnh và vật tư y tế. Bệnh viện cũng là nơi ở của hàng ngàn người Palestine phải di dời đang tìm nơi trú ẩn khỏi các cuộc không kích trong chiến tranh.
Vào ngày 3 tháng 11 năm 2023, giữa lúc cao trào của cuộc xâm lược Dải Gaza năm 2023 của Israel, một cuộc không kích của Israel đã đánh trúng một đoàn xe cứu thương, khiến hàng chục người bị thương và một số người thiệt mạng. Theo phía Israel, thì xe cứu thương này đang được Hamas sử dụng để vận chuyển máy bay chiến đấu và vũ khí của Hamas nhưng phía Hamas phủ nhận cáo buộc này. Theo các quan chức Gaza, xe cứu thương đang vận chuyển những bệnh nhân bị thương nặng từ bệnh viện đến đường giao cắt Rafah với Ai Cập. Hiệp hội Trăng lưỡi liềm đỏ Palestine cho biết cuộc tấn công đã giết chết 15 người. Tổng thư ký Liên Hiệp quốc (UN) là Antonio Guterres cho biết ông "kinh hoàng trước vụ tấn công được báo cáo ở Gaza nhằm vào đoàn xe cứu thương bên ngoài bệnh viện Al-Shifa" trong khi người đứng đầu Tổ chức Y tế Thế giới là Tedros Adhanom Ghebreyesus cho biết ông "hoàn toàn bị sốc".
Vào ngày 7 tháng 11 năm 2023, tổ chức Human Rights Watch xác định nước đôi rằng cuộc tấn công này "rõ ràng là bất hợp pháp và cần được điều tra như một tội ác chiến tranh có thể xảy ra", lưu ý rằng xe cứu thương và các phương tiện vận chuyển y tế khác phải được phép hoạt động và được bảo vệ trong mọi trường hợp" nhưng dù phải tuyên bố như vậy nhưng tổ chức này cũng không quên nhấn mạnh thêm rằng việc sử dụng xe cứu thương cho mục đích quân sự cũng sẽ trái với quy tắc chiến tranh, nhưng Human Rights Watch lại không tìm thấy bằng chứng nào về điều họ vừa tuyên bố. Tờ báo The Washington Post cũng tuyên bố không có vũ khí hoặc cá nhân mặc trang phục quân sự nào được nhìn thấy trong các video mà họ đã xem xét và tổ chức Human Rights Watch sau đó cũng cho biết họ "không tìm thấy bằng chứng cho thấy xe cứu thương đang được sử dụng cho mục đích quân sự".
Cáo buộc từ phương Tây
Trong Chiến tranh Gaza (2008–2009), phần lớn thông tin trên các phương tiện truyền thông đến từ các phóng viên đưa tin từ bệnh viện. Trong Chiến tranh Gaza năm 2014, Tổ chức Ân xá Quốc tế đã báo cáo rằng Hamas đang sử dụng những khu vực bị bỏ hoang trong khuôn viên bệnh viện để giam giữ và tra tấn những người được cho là cộng tác viên người Palestine. nhưng Các bác sĩ Na Uy Erik Fosse và Mads Gilbert, những người đang làm việc tại bệnh viện, tuyên bố rằng họ không thấy bất kỳ bằng chứng nào về hoạt động quân sự tại bệnh viện trong chiến tranh.
Truyền thông phương Tây cho rằng Hamas đã đưa một số con tin đến bệnh viện sau cuộc tấn công vào Israel vào tháng 10 năm 2023 dẫn đến bệnh viện đã bị đột kích vào ngày 15 tháng 11 năm 2023 dưới sự chiếm đóng của lực lượng Israel, lực lượng này báo cáo đã tìm thấy một số vũ khí hạng nhẹ trong bệnh viện. Cuộc đột kích đã bị các chính phủ, các cơ quan của Liên hợp quốc và các tổ chức viện trợ nhân đạo chỉ trích khá gay gắt trong đó, người đứng đầu Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) gọi đó là hành động "hoàn toàn không thể chấp nhận được". Israel đã bị một số cơ quan báo chí cáo buộc tiến hành một cuộc chiến tuyên truyền liên quan đến bệnh viện Al-Shifa, và các nhân viên y tế tại al-Shifa đã cáo buộc Israel trực tiếp gây ra cái chết của những thường dân đang được điều trị tại al-Shifa, bao gồm cả những đứa trẻ sinh non. Sau đó một cái hầm được tìm thấy ở ngoài rìa bệnh viện, và nhiều chuyên gia phương Tây nhanh chóng xác nhận rằng nó giống với các đường hầm của những chiến binh khác.
Nhưng nhiều nguồn tin cho biết các boongke này được chính tay Israel xây dựng vào những năm 1980 trong quá trình xây dựng bệnh viện trong khi một số nguồn tin cho biết công trình này còn bao gồm cả các đường hầm này. Bệnh viện này đã trải qua một đợt cải tạo và mở rộng lớn của Israel. Dự án được thiết kế các kiến trúc sư người Israel là Gershon Tzapor và Benjamin Edelson thiết kế tại văn phòng của họ ở Tel Aviv, cả hai đều có nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng các bệnh viện tiêu chuẩn cao. Một cuộc điều tra của France24 kết luận rằng những hình ảnh do IDF công bố có đặc điểm trùng khớp với các đường hầm do Hamas xây dựng. Họ cũng lưu ý rằng các đường hầm được tìm thấy dưới tòa nhà Qatari, được xây dựng sau khi Israel rút khỏi Gaza.
Trong Chiến tranh Israel–Hamas năm 2023, Israel và Hoa Kỳ tuyên bố rằng một khu phức hợp rộng lớn tồn tại bên dưới bệnh viện đang được do Hamas sử dụng làm "căn cứ hoạt động chính", điều mà Hamas và ban quản lý bệnh viện phủ nhận cáo buộc từ Mỹ. Sau khi Israel công bố bằng chứng video vào ngày 22 tháng 11 năm 2023, nhiều hãng thông tấn kết luận rằng bằng chứng không đủ chứng minh việc Hamas sử dụng trung tâm chỉ huy. Tờ New York Times cũng cho biết bằng chứng không cho thấy bằng chứng thuyết phục về một mạng lưới đường hầm rộng lớn, trong khi Haaretz vẫn kết luận rằng Hamas đã sử dụng bệnh viện cho mục đích quân sự. Tổ chức Ân xá Quốc tế cho biết vào ngày 23 tháng 11 năm 2023 rằng "Tổ chức Ân xá Quốc tế cho đến nay chưa thấy bất kỳ bằng chứng đáng tin cậy nào chứng minh cho tuyên bố của Israel rằng al-Shifa đang đặt một trung tâm chỉ huy quân sự" và rằng "Quân đội Israel cho đến nay vẫn chưa cung cấp được bằng chứng đáng tin cậy" cho cáo buộc này. Vào ngày 2 tháng 1 năm 2024, tình báo Hoa Kỳ xác nhận đánh giá của mình rằng Hamas đã sử dụng Bệnh viện Al-Shifa làm trung tâm chỉ huy và bắt giữ các con tin Israel, đề cập trong một đánh giá rằng Hamas "đã sử dụng khu phức hợp bệnh viện al-Shifa và các địa điểm bên dưới nó để chỉ huy cơ sở hạ tầng, thực hiện các hoạt động chỉ huy và kiểm soát nhất định, cất giữ một số vũ khí và giữ ít nhất một vài con tin"
Trước cuộc đột kích của quân đội Israel vào bệnh viện ngày 15 tháng 11 năm 2023, chính phủ Israel đã ra tối hậu thư kêu gọi sơ tán hoàn toàn khỏi tòa nhà này. Cuộc sơ tán này, được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) coi là "bản án tử hình" và đã bị các nhân viên y tế từ chối vì không muốn bỏ lại bệnh nhân để thoát thân. Theo các nhân viên y tế, vào ngày xảy ra cuộc đột kích, bệnh viện có 22 bệnh nhân được chăm sóc đặc biệt, 36 trẻ sinh non và hơn 2.000 người phải sơ tán. IDF nói rằng vũ khí, đạn dược và một trung tâm chỉ huy tác chiến đã được phát hiện trong tòa nhà, bao gồm một số súng trường tấn công và lựu đạn được tìm thấy trong phòng MRI của bệnh viện này, một cáo buộc một phía này đã bị Hamas bác bỏ. BBC News và CNN đã tiến hành phân tích video và kết luận rằng quân đội Israel dường như đã xếp đặt lại hoặc bỏ thêm vũ khí vào bệnh viện để phục vụ cho chuyến tham quan của giới truyền thông. BBC News cũng đưa tin họ đã tìm thấy một đoạn video của Israel với những khám phá được cho là đã được chỉnh sửa mặc dù Người phát ngôn của IDF tuyên bố rằng đoạn phim đó chưa được chỉnh sửa và chỉ được quay một lần.
Chú thích
Gaza
|
19847444
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nicolas%20Seiwald
|
Nicolas Seiwald
|
Nicolas Seiwald (sinh ngày 4 tháng 5 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ RB Leipzig tại Bundesliga và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá RB Leipzig
Cầu thủ bóng đá Red Bull Salzburg
Cầu thủ bóng đá FC Liefering
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2001
|
19847446
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Florian%20Grillitsch
|
Florian Grillitsch
|
Florian Grillitsch (sinh ngày 7 tháng 8 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự hoặc trung vệ cho câu lạc bộ TSG Hoffenheim tại Bundesliga và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web AFC Ajax
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ bóng đá AFC Ajax
Cầu thủ bóng đá TSG 1899 Hoffenheim
Cầu thủ bóng đá Werder Bremen
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ bóng đá Regionalliga
Cầu thủ bóng đá 3. Liga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Tiền vệ bóng đá nam
Sinh năm 1995
Nhân vật còn sống
|
19847447
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kevin%20Danso
|
Kevin Danso
|
Kevin Danso (sinh ngày 19 tháng 9 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Lens tại Ligue 1 và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá RC Lens
Cầu thủ bóng đá Southampton F.C.
Cầu thủ bóng đá FC Augsburg
Cầu thủ bóng đá Milton Keynes Dons F.C.
Cầu thủ bóng đá Reading F.C.
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Regionalliga
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Trung vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1998
|
19847448
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%E1%BA%A1%20th%E1%BB%A7%20%C4%91%C6%A1n%20%C4%91%E1%BB%99c%20%E1%BB%9F%20Flesqui%C3%A8res
|
Xạ thủ đơn độc ở Flesquières
|
Xạ thủ đơn độc ở Flesquières là huyền thoại về một sĩ quan pháo binh người Đức đã tiêu diệt 16 xe tăng Anh tại Flesquières, Pháp, trong ngày đầu tiên của trận Cambrai vào ngày 20 tháng 11 năm 1917. Xe tăng Anh đã thành công trong cuộc tấn công vào ngày 20 tháng 11, ngoại trừ tại địa điểm Flesquières, tại đây nhiều chiếc xe tăng đã bị pháo binh Đức tiêu diệt. Hai ngày sau đó, Thống chế Douglas Haig – Tổng tư lệnh của Anh đã đến thị sát chiến trường đã được một sĩ quan Anh kể lại rằng nhiều xe tăng đã bị phá hủy bởi một sĩ quan pháo binh của Đức, kẻ vẫn chiến đấu sau khi lính của ông ta bỏ chạy; ông sau này cũng tử vong tại ngay cứ điểm của họ. Haig đưa nội dung này vào công văn báo cáo tháng 3 năm 1918 về trận chiến. Công văn đưa ra một giải trình hợp lý cho việc không có tiến triển ở chiến trường Flesquières và là lời nhắc nhở binh lính của Haig về tầm quan trọng của hợp đồng chặt chẽ giữa bộ binh và xe tăng.
Sau chiến tranh, câu chuyện đã được kể lại trong nhiều tác phẩm khác nhau, mặc dù lịch sử chính thức và các tác phẩm khác của Anh viết về trận chiến chỉ coi đó là huyền thoại. Trong thời kỳ hậu chiến, người Đức, đặc biệt là Đảng Quốc xã rất muốn tôn vinh xạ thủ đơn độc như một anh hùng và đã nỗ lực xác định danh tính của ông ta. Năm 1929, một tác phẩm của Trung úy Đức Quốc xã là Erwin Zindler đã xác định Unteroffizier (hạ sĩ) Johannes Joachim Theodor Krüger của Đội Pháo binh số 8, Trung đoàn pháo binh dã chiến 108, chính là xạ thủ đơn độc. Việc nhận dạng này có thể là giả mạo; Krüger bị thương nặng trong trận chiến và đã chết trong thời gian bị quân Anh giam giữ vào ngày 10 tháng 12. Các cựu thành viên của Trung đoàn pháo binh dã chiến 108 đề nghị Feuerwerksleutnant (trung tá) Behrmann, chỉ huy Đội Pháo binh số 9, là nhân vật có nhiều khả năng hơn, mặc dù đơn vị của ông này đóng tại Marcoing vào ngày diễn ra trận chiến đó.
Bối cảnh
Do thất vọng trước sự bế tắc của tình thế chiến tranh chiến hào, quân Anh đã phát triển xe tăng làm vũ khí để chọc thủng tuyến phòng thủ của quân Đức. Xe tăng được triển khai lần đầu tiên trong trận Somme vào tháng 9 năm 1916 nhưng chúng dễ bị sa lầy trong bùn. Tư lệnh Quân đoàn xe tăng là Chuẩn tướng Hugh Elles đã đề xuất một cuộc tấn công vào vùng đất gần Cambrai, khu vực đó có thổ nhưỡng chủ yếu là đá phấn cứng, ngoài ra ít xảy ra giao tranh và bề mặt đất đai không có hố do đạn pháo cày xới. Phòng tuyến của quân Đức ở đây được củng cố nghiêm ngặt và được cho là khó có thể bị tấn công, được điều hành bởi các đơn vị tái phối trí sau các tổn thất ở những nơi khác trên tiền tuyến.
Vào lúc 6:20 sáng ngày 20 tháng 11 năm 1917, sau một cuộc pháo kích ngắn, một cuộc tấn công của Anh đã được phát động. Cuộc tấn công bao gồm 500 xe tăng và binh lính từ 8 sư đoàn bộ binh và 5 sư đoàn kỵ binh. Cuộc tấn công đạt thắng lợi ở phía đông Flesquières, với phòng tuyến của quân Đức bị quân Anh tràn ngập và xe tăng Anh đã tiến lên tới 5 dặm (8 km). Tại Flesquières, nơi đây phòng tuyến của quân Đức được bảo vệ bởi một sườn núi, Thiếu tướng Anh là George Harper, chỉ huy Sư đoàn 51 Cao nguyên đã lệnh giữ bộ binh tuyến sau và thúc các xe tăng tiến về phía trước mà không được bộ binh yểm trợ. Các xe tăng hứng chịu hỏa lực pháo binh dã chiến của Đức, 16 chiếc bị vô hiệu hóa.
Những cuộc tiến quân xa hơn đã đạt được thành công ở những nơi khác trên mặt trận vào những ngày tiếp theo nhưng quân tiếp viện của Đức đã nhanh chóng tới Cambrai và các cuộc phản công của họ từ ngày 30 tháng 11 đã lấy lại lãnh thổ bị chiếm. Trận chiến kết thúc vào ngày 6 tháng 12. Quân Anh chỉ chiếm được ít đất đai trên mặt trận nhưng đã cho thấy xe tăng có thể phá vỡ tuyến phòng thủ vững chắc nhất.
Huyền thoại
Tổng tư lệnh Anh là Thống chế Sir Douglas Haig cho rằng việc không xuyên thủng được phòng tuyến của quân Đức tại Flesquières đã cản trở một cuộc đột phá rộng hơn mà lẽ ra kỵ binh của ông có thể tận dụng được. Ông đến thị sát chiến trường vào ngày 22 tháng 11 và chứng kiến xác 12 xe tăng Anh. Haig đã được một nhân chứng kể lại rằng các xe tăng đã bị hạ gục bởi pháo binh Đức. Lời kể cho biết các lính pháo binh Đức đã bỏ chạy trước cuộc tiến lên của xe tăng Anh nhưng một sĩ quan Đức đã tập hợp một số người còn lại giữ vững vị trí chiến đấu, và đã vô hiệu hóa 8 hoặc 9 xe tăng Anh. Các nguồn tin khác kể rằng viên sĩ quan đã tự mình điều khiển khẩu pháo và đã tiêu diệt được từ 5 đến 16 xe tăng.
Một lời kể khác tuyên bố đã chứng kiến thi thể của xạ thủ pháo binh Đức là của Đại úy Geoffrey Dugdale, một sĩ quan tham mưu của Lữ đoàn 60 thuộc Sư đoàn 20 (Hạng nhẹ) Anh, chính ông này đã chứng kiến phòng tuyến của quân Đức bị chiếm vào chiều ngày 20 tháng 11. Geoffrey Dugdale kể rằng "điều đầu tiên chúng tôi đến là một vị trí pháo dã chiến của Đức, mọi khẩu pháo đều không hoạt động, ngoại trừ một khẩu. Tại đây, có một sĩ quan Đức duy nhất đã chết. Trước mặt sĩ quan Đức là năm chiếc xe tăng mà rõ ràng là ông ta đã thành công trong việc hạ gục bởi chính một mình ông ta. Một người dũng cảm". Nguồn tin của Dugdale là một trong những nguồn tin được chuyển đến cho Haig. Đơn vị của Dugdale đóng quân tại Villers-Plouich, cách Flesquières khoảng 5 km về phía nam, mặc dù câu chuyện có thể gắn liền với địa điểm đó vì đây là nơi xảy ra tổn thất lớn nhất về xe tăng Anh. Dù vậy, lời kể của Dugdale cũng không đưa ra bằng chứng thực tế nào cho thấy viên sĩ quan Đức vận hành pháo một mình, vì đồng đội của sĩ quan này có thể đã rút lui thay vì bị giết cùng với ông ta.
Vào ngày 24 tháng 11, theo lời kể của một sĩ quan trong tiểu đoàn 1, Vệ binh xứ Wales, rằng chỉ huy lữ đoàn của họ đã ra lệnh cho họ tìm thi thể của một sĩ quan Đức, được cho là một thiếu tá và tiến hành chôn cất. Mặc dù họ đã tiến hành tìm kiếm nhưng thi thể vẫn không được tìm thấy.
Haig viết trong nhật ký của mình rằng xạ thủ đơn độc có thể diệt nhiều nhất là 9 xe tăng. Ông coi câu chuyện này là một lời nhắc nhở hữu ích cho binh lính của mình về tầm quan trọng của việc phối hợp chặt chẽ bộ binh với xe tăng để đóng vai trò thực hiện trinh sát và chiến đấu quét sạch các vị trí pháo binh của quân Đức.
Câu chuyện đã tạo cho Haig một lời giải trình thỏa đáng cho việc tiến quân không thành công ở Flesquières, và mang lại sự động viên cho các đội xe tăng Anh đã không đột phá được trên mặt trận. Trên thực tế, Sư đoàn bộ binh 54 của Đức thời gian gần đó đã tham gia một khóa huấn luyện chống tăng cụ thể, điều này có thể giải thích cho sự thành công lớn hơn của họ trong việc chống lại cuộc tấn công của Anh so với các đơn vị khác của Đức.
Haig đã đưa lời kể về xạ thủ đơn độc trong công văn báo cáo về trận chiến, đăng trên tờ London Gazette vào ngày 1 tháng 3 năm 1918 và được đưa tin rộng rãi trên các tờ báo đương thời. Haig có lẽ dự định câu chuyện sẽ giải thích sự thất bại ở Flesquières, mặc dù Thiếu tướng JFC Fuller, người giúp lập kế hoạch tấn công đã tỏ ra khó chịu vì Haig đã đưa nội dung đó vào. Haig cũng bị chỉ trích vì ca ngợi sự dũng cảm của xạ thủ đơn độc mà không khen ngợi sự dũng cảm của các đội xe tăng của ông. Người ta cũng cho rằng lời kể của Haig có thể nâng cao tinh thần của quân Đức và dẫn đến việc đặt câu hỏi về giá trị sử dụng của xe tăng, liệu nhiều chiếc như vậy có thể bị hạ chỉ vì một khẩu pháo hay không.
Di sản
Sau chiến tranh, câu chuyện về xạ thủ đơn độc được kể lại trong nhiều hồi ký và sách lịch sử, bao gồm cả hồi ký của Chuẩn tướng John Charteris – giám đốc tình báo của Haig, hồi ký viết năm 1931; lịch sử Mặt trận phía Tây của Sir Arthur Conan Doyle (xuất bản 1916–1920) và lịch sử chiến tranh của Philip Gibbs năm 1920. Gibbs kể lại cảnh một người lính thuộc lực lượng Cao Nguyên (Highland) đã giết xạ thủ đơn độc Đức bằng lưỡi lê, sau khi nói "you're a brave man but you've got to dee [die]" ("bạn là một người dũng cảm nhưng bạn phải chết"). Các lời kể khác là chủ đề trong các bài viết của Quân đội Anh năm 1935 và trong các bài báo do Thiếu tá Archibald Becke viết trên Tạp chí Pháo binh Hoàng gia (Journal of the Royal Artillery).
Phi công ách của Quân đoàn Bay Hoàng gia James McCudden, đã viết về cuộc tấn công Cambrai trong cuốn hồi ký năm 1918 của ông Five Years in the Royal Flying Corps rằng "cuộc tiến công đã bị chặn đứng tại Flesquières bởi một khẩu pháo Hun chống tăng, khiến một bộ phận nhất định trong lực lượng phòng tuyến của chúng ta phải dừng lại trong 24 giờ. Khi xạ thủ chống tăng bị tiêu diệt, chúng ta lại có thể tiến lên. Người ta phát hiện xạ thủ này là một sĩ quan, toàn bộ đội pháo binh của ông đã chết, ông ta đã tự mình điều khiển khẩu pháo và hạ gục 14 xe tăng. Một sĩ quan xe tăng của chúng ta đánh giá rất cao lòng dũng cảm của người sĩ quan Đức này. Tất nhiên nếu thời tiết tốt thì khẩu pháo chống tăng này sẽ bị máy bay ném bom tầm thấp của chúng ta phát hiện và hạ gục ngay lập tức, nhưng thời tiết đã khiến Quân đoàn Bay Hoàng gia không thể làm gì được vào quá trình yểm trợ và cản trở rất nhiều đến bước tiến của chúng ta".
Trong những năm sau chiến tranh, một số tác giả Anh đã cố gắng hạ uy tín của câu chuyện. Điều này bao gồm sĩ quan Quân đoàn xe tăng, Thiếu tá Frederick Hotblack, người đã băng ngang qua khu vực chiến trường vào ngày 21 tháng 11 và lưu ý các vị trí của những chiếc xe tăng bị vô hiệu hóa không thể nào từ một khẩu súng, hay một khẩu đội pháo có thể làm được. Ông lưu ý rằng nếu có bất kỳ sĩ quan nào được tìm thấy tại khẩu đội pháo, người đó chỉ có thể là một chỉ huy bộ binh Đức bị thương, được đưa đến vị trí pháo để được an toàn mà thôi. Chỉ huy Wilfred Miles, tác giả cuốn lịch sử chính thức của chính phủ Anh về Trận Cambrai, đã cố gắng giải quyết vấn đề. Ông tìm thấy nhiều nguồn tin mâu thuẫn và ghi nhận nỗ lực của Elles nhằm điều tra vụ việc, bao gồm cả việc liên lạc với nhà sử học chính thức bên phía Đức về trận chiến này. Elles không thể chứng minh câu chuyện và tài liệu lịch sử mà Miles ghi lại sự việc đó chỉ xem nó như một truyền thuyết.
Đối với người Đức, đặc biệt là Đảng Quốc xã, họ muốn tôn vinh xạ thủ đơn độc như một tấm gương về chủ nghĩa anh hùng trong Quân đội Đức nhưng gặp khó khăn trong việc xác định danh tính người đàn ông này vì họ đã mất rất ít sĩ quan pháo binh trong ngày đầu tiên của trận chiến. Sự chú ý này chính thức tập trung vào Trung đoàn pháo binh dã chiến 108, đơn vị được điều động đến Flesquières. Lời kể về xạ thủ đơn độc không được Trung úy Erwin Zindler đề cập đến trong lịch sử trung đoàn năm 1919, mặc dù cuốn hồi ký cá nhân của ông viết năm 1929 có đề cập đến hành động này và cho rằng nó là của Unteroffizier Johannes Joachim Theodor Krüger của Đội pháo binh số 8. Zindler lúc đó là một người Đức Quốc xã cuồng nhiệt và lòng trung thành của ông với đảng cũng như chủ nghĩa dân tộc Đức mạnh mẽ có thể đã khiến ông đã đưa tin sai về sự việc này. Zindler thừa nhận rằng Krüger, với tư cách là một hạ sĩ quan, không khớp với lời kể của quân Anh về một sĩ quan pháo binh đơn độc nhưng cho biết sau khi thảo luận với chỉ huy Đội pháo binh số 8, Trung úy Behrmann, ông ta là người duy nhất phù hợp với hoàn cảnh trận chiến đó. Krüger thực sự sống sót sau trận chiến, bị thương nặng do trúng một phát súng và bị bắt làm tù binh. Ông qua đời tại một bệnh viện của Anh gần Dieppe vào ngày 10 tháng 12 và được chôn cất tại Nghĩa trang Quân đội Mont-Huon. Vị trí pháo binh của Kruger nằm cách nhà máy đường Flesquières khoảng 1 km (0,6 mi) về phía đông vào ngày đầu tiên của trận chiến.
Nguồn tin của Zindler đã được chấp nhận rộng rãi vào thời điểm đó và được cả hai bên về sau kể lại. Hiệp hội các đồng chí cũ của Trung đoàn pháo binh dã chiến 108 (Old Comrades Association of the 108th Field Artillery Regiment) đã phản đối việc quy kết này vào năm 1931, thay vào đó cho rằng xạ thủ đơn độc là Trung úy Karl Müller của Đội pháo binh số 9, ông đã thiệt mạng trong trận chiến vào ngày 20 tháng 11. Đội pháo của Müller tuyên bố đã phá hủy 12 xe tăng vào ngày 20 tháng 11, nhiều nhất so với bất kỳ khẩu đội pháo nào của Đức ngày hôm đó, nhưng có một điều, đội pháo lại được đặt tại Marcoing, nằm cách Flesquières khoảng 3 km về phía đông. Một đài tưởng niệm người xạ thủ đơn độc được dựng lên ở Cologne vào năm 1936. Trong Thế chiến thứ hai, đài tưởng niệm bị hư hại do vụ đánh bom của quân Đồng minh và bị các kỹ sư Anh dỡ bỏ ngay sau đó. Một doanh trại được đặt theo tên của Krüger ở Kusel nhưng đã đóng cửa.
Xem thêm
Bóng ma Kyiv
Đại tá Toon
Lôi Phong
Tham khảo
Pháp năm 1917
Người mà sự tồn tại gây tranh cãi
Truyền thuyết tuyên truyền
|
19847449
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phillip%20Mwene
|
Phillip Mwene
|
Phillipp Mwene (sinh ngày 29 tháng 1 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Mainz 05 tại và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Liênkết ngoài
Hồ sơ tại trang web PSV Eindhoven
Phillipp Mwene tại kicker.de
Hồ sơ OEFB
Cầu thủ bóng đá PSV Eindhoven
Cầu thủ bóng đá 1. FSV Mainz 05
Cầu thủ bóng đá 1. FC Kaiserslautern
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ bóng đá 3. Liga
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1994
|
19847451
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Philipp%20Lienhart
|
Philipp Lienhart
|
Philipp Lienhart (sinh ngày 11 tháng 7 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ SC Freiburg tại Bundesliga và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá Real Madrid
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Tercera División
Trung vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1996
|
19847452
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maximilian%20Entrup
|
Maximilian Entrup
|
Maximilian Entrup (sinh ngày 25 tháng 7 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo đang chơi cho câu lạc bộ Hartberg tại Austrian Football Bundesliga và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Áo
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1997
|
19847457
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Romano%20Schmid
|
Romano Schmid
|
Romano Christian Schmid (sinh ngày 27 tháng 1 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ Werder Bremen tại Bundesliga và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Áo
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Werder Bremen
Cầu thủ bóng đá FC Liefering
Cầu thủ bóng đá SK Sturm Graz
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2000
|
19847458
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heinz%20Lindner
|
Heinz Lindner
|
Heinz Lindner (; sinh ngày 17 tháng 7 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Sion tại Swiss Challenge League và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá FC Sion
Cầu thủ bóng đá Eintracht Frankfurt
Cầu thủ bóng đá FK Austria Wien
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1990
|
19847459
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sea%20Dragon
|
Sea Dragon
|
Sea Dragon () là một dự án tên lửa đẩy quỹ đạo hai tầng hạng siêu nặng được phóng từ dưới biển của Aerojet vào năm 1962, với Robert Truax là người dẫn đầu. Mặc dù đã nhận được một số sự quan tâm từ cả NASA và nhà máy đóng tàu Todd, dự án đến nay vẫn chưa được hiện thực hóa.
Với chiều dài 150 m (490 ft) và đường kính 23 m (75 ft), Sea Dragon sẽ là tên lửa lớn nhất thế giới nếu được chế tạo. Tuy nhiên, về mặt tải trọng khi bay đến quỹ đạo Trái Đất tầm thấp (LEO), nó chỉ ngang bằng với Hệ thống chuyên chở liên hành tinh (Interplanetary Transport System, tiền thân của SpaceX Starship) khi cả hai đều có tải trọng thiết kế là 550 tấn.
Thiết kế
Ý tưởng cơ bản của Truax là sản xuất một loại bệ phóng hạng nặng với chi phí thấp, một khái niệm hiện gọi là "big dumb booster". Để giảm chi phí vận hành, bản thân tên lửa sẽ được phóng từ đại dương, vốn đòi hỏi rất ít hệ thống hỗ trợ. Một hệ thống két dằn lớn được gắn vào đáy vòi phun hình chuông của tầng thứ nhất dùng để "nâng" tên lửa thẳng đứng cho phi vụ phóng. Theo hướng này, trọng tải ở đầu tầng thứ hai sẽ nằm ngay trên mực nước, giúp dễ dàng cho việc tiếp cận. Truax đã thử nghiệm hệ thống cơ bản này trong các chương trình Sea Bee và Sea Horse. Để giảm giá thành của tên lửa, ông dự định chế tạo nó bằng những vật liệu rẻ tiền, cụ thể là tấm thép dày 8 mm. Tên lửa sẽ được chế tạo tại một công ty đóng tàu ven biển và được kéo ra đại dương để chuẩn bị phóng. Nó sẽ tận dụng những lợi thế kỹ thuật rộng lớn với các vật liệu đơn giản bền chắc để nâng cao hơn nữa độ tin cậy, giảm chi phí và độ phức tạp. Hệ thống này ít nhất sẽ có thể tái sử dụng một phần bằng cách thâm nhập và phục hồi một cách thụ động các phần tên lửa để cho phép cải tạo và phóng lại.
Tầng thứ nhất được cung cấp năng lượng bởi một động cơ đẩy 36.000.000 kgf (350 MN; 79.000.000 lbf) đốt cháy RP-1 và LOX (oxy lỏng). Áp suất bể chứa là 32 atm (3.200 kPa; 470 psi) đối với RP-1 và 17 atm (1.700 kPa; 250 psi) đối với LOX, cung cấp áp suất buồng đốt 20 atm (2.000 kPa; 290 psi) lúc cất cánh. Khi tên lửa bay lên cao, áp suất giảm xuống và cuối cùng đốt cháy hết sau 81 giây. Đến thời điểm này, phương tiện đã đi được 40 km theo chiều cao và 32 km theo chiều ngang, đạt tốc độ 6.437 km/h (0,001788 km/s). Đối với một kế hoạch thông thường, tầng này đã hoàn thành nhiệm vụ và sẽ được xử lý bằng một cuộc lao xuống tốc độ cao ở cự ly khoảng 290 km. Các kế hoạch phục hồi tầng thứ nhất cũng đã được nghiên cứu.
Tầng thứ hai cũng được trang bị một động cơ rất lớn, trong trường hợp này là động cơ đẩy 6.000.000 kgf (59 MN; 13.000.000 lbf) đốt hydro lỏng và LOX. Nó cũng là một dạng động cơ pressure-fed giống tầng thứ nhất, duy trì áp suất không đổi 7 atm (710 kPa; 100 psi) trong suốt quá trình đốt cháy 260 giây. Đến thời điểm đó, phương tiện đã đi được quãng đường 229 km theo chiều cao và 940 km theo chiều ngang. Điểm đặc biệt ở tầng này là vòi phun hình chuông của nó có thể mở rộng được để cải thiện hiệu suất, với tỷ lệ mở rộng thay đổi trong khoảng từ 7:1 đến 27:1 khi bay lên cao. Chiều cao tổng thể của tên lửa cũng được rút ngắn phần nào bằng cách làm nhọn "mũi" của tầng thứ nhất để nó có thể nằm bên trong vòi phun tầng thứ hai.
Một trình tự phóng điển hình bắt đầu bằng việc tên lửa được cải tạo lại rồi ghép chung với hàng hóa và két dằn trên bờ. RP-1 cũng được tải vào thời điểm này. Sau đó, tên lửa sẽ được kéo đến bãi phóng, nơi LOX và LH2 được sản xuất tại chỗ bằng phương pháp điện phân; Truax đề xuất sử dụng một tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân làm nguồn cung cấp năng lượng trong giai đoạn này. Các két dằn, cũng đóng vai trò là nắp đậy và bảo vệ cho vòi phun hình chuông tầng thứ nhất, sau đó sẽ được đổ đầy nước, làm chìm tên lửa theo phương thẳng đứng với tầng thứ hai ở phía trên mực nước. Tiếp theo, các cuộc kiểm tra phút cuối có thể được tiến hành và tên lửa sẽ bắt đầu phóng.
Tên lửa có thể mang trọng tải lên tới đến LEO. Chi phí tải trọng, vào năm 1963, được ước tính vào khoảng từ 59 USD đến 600 USD mỗi kg (khoảng 500 USD đến 5.060 USD mỗi kg theo thời giá năm 2020). TRW (Space Technology Laboratories) đã tiến hành đánh giá chương trình và thông qua thiết kế cũng như chi phí dự kiến của nó. Tuy nhiên, áp lực ngân sách đã dẫn đến việc đóng cửa Future Projects Branch, chấm dứt công việc chế tạo các bệ phóng siêu nặng mà họ đã đề xuất cho sứ mệnh có người lái lên Sao Hỏa.
Sea Dragon trong tác phẩm giả tưởng
Sea Dragon đã xuất hiện trong tập cuối mùa 1 của series Cuộc chiến không gian trên Apple TV+. Loạt phim lấy bối cảnh ở một dòng thời gian lịch sử thay thế, khi kỷ nguyên chạy đua không gian ở thập niên 1960 chưa bao giờ kết thúc. Trong cảnh hậu danh đề diễn ra vào năm 1983, một tên lửa Sea Dragon đang được phóng từ Thái Bình Dương để tiếp tế cho thuộc địa trên Mặt Trăng của Hoa Kỳ. Một phi hành gia nói bằng giọng lồng tiếng rằng phi vụ phóng từ biển sẽ được dùng làm thước đo an toàn vì hàng hoá trên đó bao gồm cả plutoni. Sea Dragon tiếp tục xuất hiện trong mùa 2 của loạt phim, khi tải trọng lớn của nó được dùng để tiếp tế cho căn cứ Mặt Trăng mở rộng và là đối tượng được nhắm đến trong cuộc phong tỏa Mặt Trăng của Liên Xô.
Xem thêm
Aquarius (tên lửa)
Chú thích
Tham khảo
Đọc thêm
Sea Dragon tại Astronautix.com.
Liên kết ngoài
Truax Engineering Multimedia Archive
Sea Dragon Concept Volume 1 (tóm tắt), LRP 297 (NASA-CR-52817), 1963-01-28.
Sea Dragon Concept Volume 2, LRP 297, 1963-02-12.
Sea Dragon Concept Volume 3 (kế hoạch chương trình sơ bộ), LRP 297 (NASA-CR-51034), 1963-02-12.
Liên kết kênh YouTube:
Encyclopedia Astronautica, Sea Dragon
Big Dumb Rocket
YouTube, Sea Dragon - 8.14 TMRO - Chương trình phỏng vấn về "Sea Dragon"
Tìm kiếm "Sea Dragon Concept" tại NASA Technical Report Server để đọc nghiên cứu thiết kế chưa được phân loại:
Sea Dragon Concept Volume 1 (tóm tắt), LRP 297 (NASA-CR-52817), 1963-01-28.
Sea Dragon Concept Volume 3 (kế hoạch chương trình sơ bộ), LRP 297 (NASA-CR-51034), 1963-02-12.
Tên lửa đẩy NASA
|
19847460
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aulopareia%20unicolor
|
Aulopareia unicolor
|
Aulopareia unicolor là một loài cá biển thuộc chi Aulopareia trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1849.
Từ nguyên
Tính từ định danh unicolor trong tiếng Latinh nghĩa là “đơn sắc”, hàm ý đề cập đến một kiểu màu duy nhất của loài cá này là vàng nâu.
Phân bố và môi trường sống
A. unicolor có phân bố không liên tục trong khu vực Đông Ấn - Tây Thái, bao gồm phía đông bắc Ấn Độ, bờ nam Thái Lan, Malaysia và đảo Java (Indonesia). Ở Việt Nam, A. unicolor được ghi nhận tại cửa Ba Lạt và khu vực vịnh Nha Trang–vịnh Vân Phong.
A. unicolor lần đầu tiên được ghi nhận ở Địa Trung Hải, khi mà 6 mẫu vật của loài này được thu thập tại bờ biển Port Said và Damietta (Ai Cập). Do không phải là loài bản địa nên những cá thể này có thể theo nước dằn tàu thoát ra ngoài hoặc là do sự thả cá cảnh.
A. unicolor thường được tìm thấy trên nền đáy mềm như bùn ven rừng ngập mặn và cửa sông, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 6 m.
Mô tả
Chiều dài tổng lớn nhất được ghi nhận ở A. unicolor là 11,8 cm. Cá thường có màu nâu vàng với nhiều đốm màu xanh sáng ở hai bên thân. Cá con có một đốm đen nhỏ trên cuống đuôi (mờ hơn khi trưởng thành). Vây bụng có màng liên kết. Có vảy lược, ngoại trừ cằm và bụng là vảy láng, đầu trơn; vùng chẩm và phía trên của xương nắp mang có vảy láng.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia vây ở vây hậu môn: 9.
Tham khảo
U
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Ấn Độ
Cá Trung Quốc
Cá Việt Nam
Cá Thái Lan
Động vật được mô tả năm 1849
|
19847462
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Andreas%20Ulmer
|
Andreas Ulmer
|
Andreas Ulmer ( sinh ngày 30 tháng 10 năm 1985) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Red Bull Salzburg tại Austrian Football Bundesliga và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ người chơi tại Austria-Archiv.at
Số liệu thống kê bóng đá Guaridan
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá Red Bull Salzburg
Cầu thủ bóng đá FK Austria Wien
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Hậu vệ bóng đá nam
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1985
|
19847463
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karim%20Onisiwo
|
Karim Onisiwo
|
Karim Onisiwo (sinh ngày 17 tháng 3 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí tiền đạo hoặc tiền vệ cánh cho câu lạc bộ Mainz 05 tại Bundesliga và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web 1. FSV Mainz 05
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ bóng đá 3. Liga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá 1. FSV Mainz 05 II
Cầu thủ bóng đá 1. FSV Mainz 05
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Tiền đạo bóng đá nam
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1992
|
19847464
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Andreas%20Weimann
|
Andreas Weimann
|
Andreas Weimann (; sinh ngày 5 tháng 8 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí tiền đạo hoặc tiền vệ cho câu lạc bộ Bristol City tại và đội tuyển quốc gia Áo.
Danh hiệu
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Bristol City: 2021–22
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web của Bristol City FC
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Bristol City F.C.
Cầu thủ bóng đá Wolverhampton Wanderers F.C.
Cầu thủ bóng đá Derby County F.C.
Cầu thủ bóng đá Watford F.C.
Cầu thủ bóng đá Aston Villa F.C.
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1991
|
19847466
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Daniel%20Bachmann
|
Daniel Bachmann
|
Daniel Bachmann (sinh ngày 9 tháng 7 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Watford tại EFL Championship và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Profile at Austrian Football Association
Cầu thủ bóng đá Watford F.C.
Cầu thủ bóng đá Bury F.C.
Cầu thủ bóng đá Wrexham A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Stoke City F.C.
Cầu thủ bóng đá FK Austria Wien
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá National League (bóng đá Anh)
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1994
|
19847467
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gernot%20Trauner
|
Gernot Trauner
|
Gernot Trauner (; sinh ngày 25 tháng 3 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Feyenoord tại Eredivisie và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá Feyenoord Rotterdam
Cầu thủ bóng đá LASK
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo
Tiền vệ bóng đá nam
Trung vệ bóng đá
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Áo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1992
|
19847468
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dejan%20Ljubi%C4%8Di%C4%87
|
Dejan Ljubičić
|
Dejan Ljubičić (sinh ngày 8 tháng 10 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ 1. FC Köln tại Bundesliga và đội tuyển quốc gia Áo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá 1. FC Köln
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1997
|
19847472
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Teqball
|
Teqball
|
Teqball là một môn thể thao với trái bóng được chơi trên một cái bàn cong, kết hợp các yếu tố của Sepak takraw và bóng bàn. Các cầu thủ sẽ chơi một trái bóng bằng bất kỳ bộ phận nào của cơ thể ngoại trừ cánh tay và bàn tay. Teqball có thể được chơi giữa hai người chơi dưới dạng trò chơi nội dung đơn hoặc giữa bốn người chơi dưới dạng nội dung đôi đồng đội. Trò chơi được đại diện ở cấp độ quốc tế bởi Liên đoàn Teqball quốc tế (FITEQ). Một số cầu thủ bóng đá đẳng cấp thế giới đã bị trò chơi này thu hút và sau khi được thêm vào chương trình của Đại hội thể thao bãi biển châu Á 2021 và Đại hội thể thao châu Âu 2023, môn thể thao này hiện đang hướng tới để đưa vào Olympic.
Giới thiệu
Teqball là môn thể thao kết hợp giữa bóng đá, bóng bàn và thi đấu đối kháng gián tiếp. Môn thể thao này mới ra đời tại Hungary vào năm 2014 do cựu cầu thủ Gabor Borsanyi, doanh nhân Gyorgy Gattyan và nhà khoa học máy tính Viktor Huszar sáng lập. Chỉ trong một thời gian ngắn Teqball đã phát triển một cách nhanh chóng, thu hút hàng triệu người chơi trên toàn thế giới. Teqball là môn thể thao phát triển nhanh nhất thế giới. Teqball trở thành môn thể thao được công nhận nhanh nhất thế giới vào tháng 8 năm 2018 khi cơ quan quản lý cao nhất FITEQ được Ủy ban Olympic châu Á (OCA) chính thức công nhận. Vào tháng 6 năm 2019, Teqball đã được Hiệp hội Ủy ban Olympic Quốc gia Châu Phi (ANOCA) chính thức công nhận. Vào tháng 11 năm 2020, FITEQ đã được cấp tư cách thành viên chính thức của Hiệp hội các liên đoàn thể thao quốc tế toàn cầu.
Liên đoàn Teqball quốc tế (FITEQ) hiện có 122 liên đoàn quốc gia, hơn 2.000 câu lạc bộ trên khắp thế giới và hơn 1.800 trọng tài được đào tạo. FITEQ đã tổ chức được 3 kỳ World Cup (2017, 2018, 2019). Môn thể thao này cũng được sự công nhận của Hội đồng Olympic Châu Á (OCA), Hội đồng Olympic Châu Đại dương (ONOC), Hội đồng Olympic Châu Phi (ANOCA) và dự kiến sẽ được đưa vào nội dung thi đấu tại Olympic 2028. Đến nay, Teqball hiện có 140 liên đoàn quốc gia, nó được xếp vào môn thể thao mới phát triển nhanh nhất của lịch sử thể thao thế giới. Hiện nay Teqball phổ biến và được chơi rất nhiều ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Teqball cũng phát triển rất nhanh tại Bắc Mỹ và Nam Mỹ.
Luật chơi của nó là kết hợp giữa bóng bàn, bóng chuyền và bóng đá, đá đôi, hoặc đá đơn, không được sử dụng tay và không được dùng cơ thể khống chế bóng hai nhịp liên tiếp. Hiện nay ở nhiều trung tâm đào tạo bóng đá, học viện thì thường trang bị các bàn Teqball để cầu thủ giải trí và hoàn thiện kỹ thuật với quả bóng. Dụng cụ chơi đơn giản là một quả bóng và chiếc bàn bóng bàn được thiết kế cong theo quy chuẩn của FITEQ. Teqball không xa lạ với các cầu thủ thế giới. Cựu danh thủ Ronaldinho còn là đại sứ của môn thể thao gồm một quả bóng và chiếc bàn cong, Ronaldinho, một bậc thầy về kỹ thuật bóng đá là đại sứ toàn cầu của Teqball. Cầu thủ Neymar và các đồng đội ở PSG vẫn thường giải trí với môn Teqball. Các vận động chơi môn này hiện nay ấn tượng nhất vẫn là các cầu thủ Brazil họ giỏi kỹ thuật và tinh tế với trái bóng nên xem họ thi đấu rất thích mắt. Teqball là môn thể thao phù hợp với người Việt Nam vì nó đòi hỏi sự khéo léo, ít có ảnh hưởng hay tác động từ trọng tài bên ngoài. Môn này dễ chơi, không có va chạm và phù hợp để phát triển ở Việt Nam. Đối tượng phát triển là vận động viên một số môn thể thao có kỹ thuật tương đồng như bóng đá, cầu mây, đá cầu.
Chú thích
Xem thêm
Teqball tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023
Đại hội Thể thao Đông Nam Á
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2025
Soft Tennis tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023
Cờ ốc
Cờ tưởng
Tarung Derajat
Võ gậy
Bokator
Kun Khmer
Mô tô nước
Bi sắt
Trò chơi với bóng
Biến thể bóng đá
Thể thao trong nhà
|
19847482
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sonic%20CD
|
Sonic CD
|
là một trò chơi platform năm 1993 được phát triển bởi Sega cho Sega CD. Điều khiển nhân vật Nhím Sonic, người chơi cố gắng bảo vệ một thiên thể ngoài Trái Đất, Little Planet, khỏi Tiến sĩ Eggman.
Sonic CD dự định ban đầu sẽ là một port của trò chơi Sonic the Hedgehog (1991) cho hệ máy Sega Genesis, nhưng sau đó được phát triển thành một dự án riêng biệt.
Ghi chú
Chú thích
Liên kết ngoài
Website chính thức. .
Sonic CD tại MobyGames.
|
19847502
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20Rama%20IV
|
Cầu Rama IV
|
Cầu Rama IV (, , ) là một cây cầu bắc qua sông Chao Phraya ở khu vực Pak Kret, tỉnh Nonthaburi, ngoại ô Băng Cốc.
Cầu Rama IV bắc qua sông Chao Phraya, kết nối phó huyện Bang Tanai và Pak Kret tại huyện Pak Kret, phía Đông Bắc tỉnh Nonthaburi. Nó không liên quan đến Đường Rama IV tại Băng Cốc ngày nay.
Cây cầu được xây dựng từ cuối năm 2003 bởi Sở Đường Nông thôn (DRR) để giảm bớt giao thông, và là một phần của Đường Chaeng Watthana (Cao tốc 304) và đường Chaiyaphruek. Tổng kinh phí xây dựng 1.511,72 triệu baht.
Công trình được hoàn thành vào cuối năm 2006. Vua Bhumibol (Rama IX) đặt tên nó là 'Rama IV' để tưởng nhớ Vua Mongkut (Rama IV). Vua Vajiralongkorn (Rama X, khi ông còn là Hoàng tử) đã cùng với vợ ông là Công chúa Srirasmi chủ trì lễ chính thức khai mạc tưởng niệm vào ngày 21 tháng 8 năm 2008.
Chùa Wat Bo và Bến thuyền Pak Kret (P33) nằm bên dưới chân cầu bên bờ Pak Kret. Trong khi Ko Kret nhỏ hơn nằm bên cánh trái cầu (bên phía Pak Kret).
Tham khảo
Rama IV
Rama IV
Rama IV
Khởi đầu năm 2008 ở Thái Lan
Công trình xây dựng tỉnh Nonthaburi
|
19847511
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mats%20Wieffer
|
Mats Wieffer
|
Mats Wieffer (sinh ngày 16 tháng 11 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Feyenoord tại Eredivisie và đội tuyển quốc gia Hà Lan.
Danh hiệu
Feyenoord
Eredivisie: 2022–23
Cá nhân
Đội hình của tháng Eredivisie: Tháng 8 năm 2023
Tham khảo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan
Cầu thủ bóng đá Eerste Divisie
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ bóng đá Feyenoord Rotterdam
Cầu thủ bóng đá FC Twente
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1999
|
19847513
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mark%20Flekken
|
Mark Flekken
|
Mark Maria Hubertus Flekken (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Brentford tại Premier League và đội tuyển quốc gia Hà Lan.
Danh hiệu
SC Freiburg
Á quân DFB-Pokal: 2021–22
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Regionalliga
Cầu thủ bóng đá 3. Liga
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Brentford F.C.
Cầu thủ bóng đá Alemannia Aachen
Cầu thủ bóng đá Roda JC Kerkrade
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1993
|
19847517
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Joey%20Veerman
|
Joey Veerman
|
Johannes Cornelis Maria Veerman (sinh ngày 19 tháng 11 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ PSV Eindhoven tại Eredivisie và đội tuyển quốc gia Hà Lan.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web PSV Eindhoven
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Hà Lan
Cầu thủ bóng đá PSV Eindhoven
Cầu thủ bóng đá SC Heerenveen
Cầu thủ bóng đá Eerste Divisie
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1998
|
19847518
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quilindschy%20Hartman
|
Quilindschy Hartman
|
Quilindschy Hartman (sinh ngày 14 tháng 11 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Feyenoord tại Eredivisie và đội tuyển quốc gia Hà Lan.
Danh hiệu
Feyenoord
Eredivisie: 2022–23
Tham khảo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Hà Lan
Cầu thủ bóng đá Feyenoord Rotterdam
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2001
|
19847519
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bart%20Verbruggen
|
Bart Verbruggen
|
Bart Verbruggen (sinh ngày 18 tháng 8 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Brighton & Hove Albion tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan.
Sự nghiệp thi đấu
Đầu sự nghiệp
Verbruggen được sinh ra ở Zwolle và lớn lên ở Breda. Anh bắt đầu chơi bóng tại câu lạc bộ WDS '19. Thông qua học viện của thủ môn Arno van Zwam, anh gia nhập câu lạc bộ NAC Breda vào năm 2014. Vào tháng 10 năm 2019, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với câu lạc bộ. Tuy Verbruggen không chơi một trận đấu chính thức nào cho NAC nhưng vẫn được coi là một tài năng sáng giá.
Anderlecht
Verbruggen gia nhập câu lạc bộ Anderlecht vào năm 2020 từ NAC Breda. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho đội bóng vào ngày 2 tháng 5 năm 2021, trong trận hòa 2–2 trước Club Brugge tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ. Vào ngày 23 tháng 2 năm 2023, anh cản phá cả 3 quả phạt đền trong loạt sút luân lưu của Ludogorets Razgrad tại UEFA Europa Conference League 2022–23, giúp đội giành chiến thắng với tỷ số 3–0 sau khi hòa chung cuộc 2–2.
Brighton & Hove Albion
Vào ngày 3 tháng 7 năm 2023, Brighton & Hove Albion thông báo về việc ký hợp đồng với Verbruggen theo bản hợp đồng kéo dài 5 năm. Verbruggen được chọn thi đấu thay cho Jason Steele trong trận thua 3-1 trên sân nhà trước West Ham vào ngày 26 tháng 8, trận thua đầu tiên của đội bóng trong mùa giải.
Sự nghiệp quốc tế
Trẻ
Đội tuyển quốc gia
Vào ngày 17 tháng 3 năm 2023, Verbruggen nhận được cuộc gọi chính thức đầu tiên lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan chuẩn bị cho 2 trận đấu gặp Pháp và Gibraltar tại Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2024. Anh có trận ra mắt quốc tế vào ngày 13 tháng 10 năm 2023, trong trận thua 1-2 trước Pháp.
Danh hiệu
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của câu lạc bộ Anderlecht: 2022–23
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2002
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Hà Lan
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
Thủ môn bóng đá
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá NAC Breda
Cầu thủ bóng đá R.S.C. Anderlecht
Cầu thủ bóng đá RSCA Futures
Cầu thủ bóng đá Brighton & Hove Albion F.C.
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division B
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Hà Lan ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bỉ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Hà Lan
|
19847525
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thijs%20Dallinga
|
Thijs Dallinga
|
Thijs Dallinga (sinh ngày 3 tháng 8 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Toulouse tại Ligue 1 và đội tuyển quốc gia Hà Lan.
Danh hiệu
Toulouse
Coupe de France: 2022–23
Cá nhân
Vua phá lưới Eerste Divisie: 2021–22
Tham khảo
Liên kết ngoài
Người Hà Lan thế kỷ 21
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Hà Lan
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Eerste Divisie
Cầu thủ bóng đá FC Groningen
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2000
|
19847529
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jordy%20Clasie
|
Jordy Clasie
|
Jordy Clasie (; sinh ngày 27 tháng 6 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ AZ Alkmaar tại Eredivisie.
Danh hiệu
Feyenoord
Johan Cruyff Shield: 2018
Southampton
Á quân Cúp EFL: 2016–17
Club Brugge
Belgian Pro League: 2017–18
Hà Lan
Hạng ba FIFA World Cup: 2014
Tham khảo
Liên kết ngoài
Jordy Clasie tại Voetbal International
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan ở nước ngoài
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2014
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ bóng đá AZ Alkmaar
Cầu thủ bóng đá Club Brugge KV
Cầu thủ bóng đá Southampton F.C.
Cầu thủ bóng đá Feyenoord Rotterdam
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Hà Lan
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1991
|
19847530
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BB%B1%20%C3%A1n%20b%C3%A3%20%C4%91%E1%BA%ADu%20ph%E1%BB%A5
|
Dự án bã đậu phụ
|
Dự án bã đậu phụ () là một cụm từ tiếng Trung dùng để mô tả một tòa nhà được xây dựng tồi tàn, đôi khi chỉ gọi đơn giản là Công trình đậu phụ hay Nhà đậu phụ. Cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã đặt ra cụm từ này trong chuyến thăm năm 1998 tới thành phố Cửu Giang, tỉnh Giang Tây để mô tả một hệ thống đê lũ được xây dựng ẩu trên sông Dương Tử. Cụm từ này được sử dụng nổi bật khi đề cập đến những tòa nhà bị sập trong thảm họa động đất Tứ Xuyên năm 2008.
Tổng quan
Ở Trung Quốc, thuật ngữ bã đậu phụ (những mảnh còn sót lại sau khi làm đậu phụ) được sử dụng rộng rãi như một phép ẩn dụ cho công việc kém chất lượng, do đó có hàm ý rằng "dự án bã đậu phụ" là một dự án được thực hiện kém cỏi. Sự phổ biến những “dự án đậu phụ” là do tình trạng tham nhũng và hối lộ tràn lan ở Trung Quốc, vì “tiền của dự án bị các quan chức bỏ qua, để lại ít nguồn tài trợ cho vật liệu chất lượng, nhân viên có trình độ và tay nghề chấp nhận được” trong khi “số dự án thường được cấp cho các công ty có nhiều mối quan hệ chính trị hơn là trình độ chuyên môn". Hơn nữa, những "dự án tưởng niệm" thường được gấp rút hoàn thành để đánh dấu một ngày kỷ niệm của nhà nước. Ví dụ, vào năm 2007, một cây cầu ở tỉnh Hồ Nam vốn đang được đẩy nhanh để thông xe nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập chính quyền địa phương, đã bị sập trong quá trình thi công, khiến 64 người thiệt mạng. Cuối cùng, chính quyền địa phương đành dựa vào nguồn thu từ xây dựng bao gồm phí bán và chuyển nhượng đất, nên họ có động cơ thúc đẩy tăng trưởng nhanh chóng và không bị cản trở, bao gồm cả việc nhắm mắt làm ngơ trước những công trình xây dựng kém tiêu chuẩn.
Sau khi đến thăm Trung Quốc vào đầu năm 2011, nhà báo Canada Lawrence Solomon tuyên bố rằng nhiều người Trung Quốc "lo ngại rằng 'đập đậu phụ' có thể bị vỡ, dẫn đến hàng trăm nghìn nạn nhân ở hạ lưu". Theo kiến trúc sư Trung Quốc Lý Hổ, những dự án bã đậu phụ ở Trung Quốc có rất nhiều tòa nhà không có sai sót trong xây dựng. Ông cho biết trong hầu hết các trường hợp, những công trình này được xây dựng kém không bị sập mà chỉ bị giảm tuổi thọ hoặc bị rò rỉ. Một cuộc khảo sát vào tháng 2 năm 2023 cho thấy có gần 600 triệu tòa nhà ở Trung Quốc gặp rủi ro về thiên tai.
Động đất Tứ Xuyên năm 2008
Trong trận động đất Tứ Xuyên năm 2008, nhiều ngôi trường bị sập; dẫn đến cái chết của học sinh. Những tòa nhà này được dùng làm ví dụ cho các dự án bã đậu phụ. Vụ sập nhà có liên quan đến cáo buộc tham nhũng trong việc xây dựng trường học ở Trung Quốc.
Ngày 15 tháng 5 năm 2008, Geoffery York của tờ The Globe and Mail đưa tin rằng những tòa nhà xây dựng kém chất lượng thường gọi là "công trình đậu phụ" vì giới xây dựng đã bớt xén bằng cách thay thế thanh thép bằng dây sắt mỏng dùng để gia cố bê tông; xài xi măng kém chất lượng, nếu có; và sử dụng ít gạch hơn mức cần thiết. Bài báo dẫn lời một người dân địa phương nói rằng “các cơ quan giám sát đã không kiểm tra xem liệu nó có đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia hay không".
Giới truyền thông do nhà nước kiểm soát phần lớn đã phớt lờ các trường học bã đậu phụ, theo chỉ thị của cơ quan tuyên truyền. Những bậc phụ huynh, tình nguyện viên và nhà báo tới chất vấn chính quyền đều bị giam giữ và đe dọa. Để làm im lặng vụ việc, cảnh sát chống bạo động đã giải tán sự phản đối của phụ huynh; chính quyền lập rào chắn xung quanh các trường học; và đám quan chức đã ra lệnh cho giới truyền thông Trung Quốc ngừng đưa tin về các vụ sập trường học.
Biến đổi khí hậu
Khí thải xây dựng
Quá trình xây cất công trình bã đậu phụ xuất phát từ việc làm nhanh, kém chất lượng, thường sử dụng vật liệu rẻ tiền, nhanh chóng, chủ yếu là bê tông. Việc xây dựng và đổ bê tông không đạt tiêu chuẩn quá nhanh dẫn đến cơ sở hạ tầng xây dựng kém, gây ra các vấn đề khi xảy ra thiên tai như trận động đất Vấn Xuyên. Sản xuất bê tông góp phần tạo ra một lượng lớn khí nhà kính. Từ năm 1980 đến năm 2011, Trung Quốc dẫn đầu về sản xuất xi măng/bê tông, trong thời gian hai năm sản xuất nhiều xi măng hơn lượng xi măng do Mỹ sản xuất trong thế kỷ 20. Tất cả hoạt động sản xuất xi măng này đã dẫn đến lượng khí thải nhà kính khổng lồ, sự đóng góp của Trung Quốc vào lượng khí nhà kính chỉ từ xi măng đã ngang bằng với tổng lượng khí thải nhà kính của một số quốc gia. Trung Quốc đang sử dụng rất nhiều xi măng và việc tiêu xài nhanh chóng đã gây ra nạn xây dựng công trình đậu phụ. Vấn nạn thi công đậu phụ chỉ dẫn tới nhiều công trình xây dựng hơn, vì sau trận động đất Tứ Xuyên, Trung Quốc đã hoàn thành gần 29.692 dự án nhằm xây dựng lại các khu vực bị ảnh hưởng bởi trận động đất. Ngay cả khi không có thiên tai, các công trình xây dựng của Trung Quốc vẫn thất bại, "Một phóng viên Úc đã đếm được bốn cây cầu bị sập chỉ trong chín ngày vào tháng 7 năm 2012". Các quan chức Trung Quốc cũng thừa nhận những vấn đề này, đưa ra tuổi thọ của các tòa nhà và thậm chí còn cảnh báo về những vụ sập trong tương lai của các tòa nhà khi chúng cũ đi và đạt được tuổi thọ nhất định. Ngay cả trong những nỗ lực tái thiết, việc xây dựng cặn đậu phụ vẫn còn phổ biến, các nguồn tin từ quận Vĩnh Thành sau động đất cho biết họ đã chuyển đến những tòa nhà đã có vết nứt trên tường của những căn hộ mới xây của họ. Tuy nhiên, việc xây cất vẫn tiếp tục ở Trung Quốc vì trong khoảng thời gian 2011-2014, người ta dự đoán rằng Trung Quốc sẽ có một tòa nhà chọc trời mới được xây dựng cứ 5 ngày một lần. Hoạt động xây dựng góp phần tạo ra khoảng 40% lượng khí thải GHG trên thế giới, phần lớn lượng khí thải này đến từ các vật liệu được sử dụng, như bê tông -Vật liệu xây dựng đặc trưng của bã đậu phụ- và những loại vật liệu khác.
Hiệu ứng tổng thể
Liên quan đến việc xây dựng bã đậu phụ là những dự án hoành tráng hơn mà chính phủ Trung Quốc thực hiện, nhiều dự án trong số đó hoàn toàn không cần thiết cho mục đích của họ và chỉ đơn giản được dùng làm công cụ để cho nước ngoài biết rằng Trung Quốc đã phát triển. Bằng cách phân bổ các nguồn lực tốt nhất của đất nước cho các thành phố giàu có, các vùng nông thôn của Trung Quốc phải hứng chịu những thảm họa cơ sở hạ tầng lặp đi lặp lại, điều này không chỉ dẫn đến việc tiêu tốn nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn để xây dựng lại mà còn dẫn đến tình trạng ô nhiễm gây ra trong giai đoạn sập nhà ban đầu. Ngành xây dựng của Trung Quốc là tác nhân đáng kể gây ra cuộc khủng hoảng khí hậu tổng thể, và mặc dù Trung Quốc đã có kế hoạch giảm lượng khí thải carbon của quốc gia bằng năng lượng tái tạo và nâng cấp thiết bị công nghiệp, phần lớn các khu vực nông thôn và nghèo của Trung Quốc vẫn tiếp tục phụ thuộc vào các mặt hàng chủ lực như xi măng và loại thép thải ra lượng khí thải carbon lớn. Kết quả, như được minh họa bởi các dự án cặn đậu phụ, là sự sụp đổ và sử dụng tài nguyên thiên nhiên tái diễn. Ngoài những công trình yếu kém còn có các khu vực làm việc tệ hại (ví dụ: nhà máy) đã dẫn đến các sự kiện tàn khốc như cháy nhà máy, rò rỉ đường ống và nổ tại nơi làm việc.
Tham khảo
Lỗi kỹ thuật
Công trình dân dụng
Công trình kiến trúc sụp đổ ở Trung Quốc
Thành ngữ đặc biệt trong tiếng Trung Quốc hiện đại
|
19847531
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kenny%20Tete
|
Kenny Tete
|
Kenny Joelle Tete (sinh ngày 9 tháng 10 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Fulham tại và đội tuyển quốc gia Hà Lan.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Fulham FC
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Hà Lan
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Championnat National 2
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Eerste Divisie
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ bóng đá Fulham F.C.
Cầu thủ bóng đá Olympique Lyonnais
Cầu thủ bóng đá Jong Ajax
Cầu thủ bóng đá AFC Ajax
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1995
|
19847532
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Owen%20Wijndal
|
Owen Wijndal
|
Owen Wijndal (sinh ngày 28 tháng 11 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Antwerp tại Belgian Pro League theo dạng cho mượn từ Ajax . Anh đại diện cho đội tuyển quốc gia Hà Lan.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Profile trên AFC Ajax website
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Royal Antwerp F.C.
Cầu thủ bóng đá AFC Ajax
Cầu thủ bóng đá AZ Alkmaar
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Eerste Divisie
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1999
|
19847533
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%A1n%20c%E1%BA%A7u
|
Ván cầu
|
Ván cầu (Springboard hay Diving board) là dụng cụ thể thao được sử dụng trong bộ môn thi đấu nhảy cầu cho vận động viên thi đấu làm bàn đạp để dậm đà và bật nhảy, đây là một tấm ván có cấu tạo giá thể có tính chất như là một chiếc lò xo, tức là một lò xo uốn tuyến tính thuộc loại công xôn (Cantilever). Ván cầu lò xo thường được cố định bằng bản lề ở một đầu (để có thể lật lên khi không sử dụng) và đầu còn lại thường treo trên bể bơi, với một điểm ở giữa bản lề và phần cuối nằm trên một điểm tựa có thể điều chỉnh được. Ván cầu hiện đại được làm từ nhôm nguyên khối ép đùn. Hiệu Maxiflex Model B cung cấp những tấm ván cầu được sử dụng trong tất cả các sự kiện thi đấu lớn. Bề mặt chống trơn trượt của tấm ván được tạo ra bằng nhựa epoxy, được hoàn thiện bằng một lớp đá lửa silica và alumina ở giữa các lớp nhựa trên cùng. Loại nhựa được xử lý bằng nhiệt này có màu nước để phù hợp với nước trong hồ bơi sạch.
Cơ chế
Hằng số lò xo của ván cầu thi đấu thường được điều chỉnh bằng một điểm tựa nằm ở khoảng giữa của ván cầu. Ván cầu thường được vận hành theo chế độ tuyến tính trong đó chúng gần như tuân theo định luật Hooke. Khi vận động viên bật nhảy thì sự kết hợp giữa hằng số khối lượng của vận động viên và hằng số độ cứng của ván cầu dẫn đến tần số cộng hưởng có thể điều chỉnh được bằng cách hằng số lò xo (được đặt từ vị trí điểm tựa). Vì hệ thống thu được ở chế độ gần như tuyến tính nên nó có thể được mô hình hóa khá chính xác theo bậc hai phương trình vi phân. Thông thường, tần số cộng hưởng có thể được điều chỉnh trong phạm vi tỷ lệ là 2:1 hoặc tỷ lệ 3:1.
Điểm tựa trên ván cầu thi đấu dao động trong phạm vi 0,61m và được đặt bằng một bánh xe có chân có kích thước xấp xỉ 0,35m tính theo đường kính.. Đối với các vận động viên, khi thi đấu họ sẽ khởi động khi lên ván cầu, nếu ván có điểm tựa sẽ thay đổi nó thành chế độ vừa vặn. Vận động viên sẽ đi đến cuối ván, nếu ván có lỗ hình miếng phô mai ở cuối, thì bắt đầu khoảng 2 inch (5,1 cm) trước chúng, không thì bắt đầu từ khoảng một feet rưỡi từ cuối. Khi bước thứ ba chạm vào ván, vung tay lên bên tai, đưa đầu gối đến mức eo ít nhất, cách đất khoảng 2 inch4 inch (5,110,2 cm) từ cuối ván cầu. Thao tác thực hiện cú Gainer trên ván cầu khi phóng ra khỏi ván cầu, giữ cho cơ thể chắc để thực hiện cú nhào lộn ngược lại trước khi tiếp nước.
Các thao tác dành cho nhảy cầu mềm, bao gồm hai tư thế nhún bật nhảy là lấy đà và bật nhảy hướng trước, thực hiện 3 bước về phía trước từ phía sau của ván cầu, có thể cần thử nghiệm để tìm điểm khởi đầu hoàn hảo trên ván, thông thường, cần khoảng 5 bước từ cuối ván cầu. Bước thứ tư nên dài hơn và phóng đại hơn 3 bước trước sẽ đưa chân về phía trước đến cuối của ván cầu. Nhún để tạo độ nảy của ván, khi bạn hạ xuống trên cạnh ván cầu, uốn cong đầu gối, khi ván cầu nâng lên, bắt đầu duỗi thẳng đầu gối. Góc nhảy ra khỏi ván cầu bằng cách nâng chân khi bạn lên đỉnh của bước nhảy. Bắt đầu ở mặt sau của ván cầu và thực hiện ba đến năm bước. Bước cuối cùng, nên ở gần mép cầu, đừng nhảy khỏi cầu mà hãy nhảy thẳng lên không trung.
Cú nhảy từ ván nhảy cầu sẽ có hình dạng như nửa phía trước của một đường parabol. Về chiều cao của ván cầu so với mực nước hồ bơi là cả một lịch sử. Bức tranh của họa sĩ người Mỹ Norman Rockwell có tựa đề Boy on High Dive (1947) vẽ một cậu bé (con trai út của Rockwel, Peter) đang nhìn qua một chiếc bàn đạp gỗ điển hình của thời kỳ đầu thế kỷ 20 ở độ cao 20 feet. và cũng từng có vụ việc luật sư Jan Eric Peterson và Fred Zeder đã kiện thành công nhà sản xuất ván lặn, nhà xây dựng hồ bơi và Viện Bể bơi và Spa Quốc gia (NSPI) về độ sâu không phù hợp của hồ bơi. Vụ kiện trị giá hàng triệu đô la cuối cùng đã được giải quyết vào năm 2001 với số tiền bồi thường lên đến 6,6 triệu đô la Mỹ (8 triệu đô la sau khi tính lãi suất) có lợi cho nguyên đơn.
Hình ảnh
Chú thích
Xem thêm
Máng trượt nước (Water slide)
Thuyền tham quan (BoatSnap)
Công viên nước (Water park)
Biển nhân tạo (Beach club)
Tắm nước đá (Ice hole bathing)
Nhà tắm công cộng (Public bathing)
Dụng cụ thể thao
Nhảy cầu
|
19847534
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Julien%20Faubert
|
Julien Faubert
|
Julien Alex Thomas Faubert (sinh ngày 1 tháng 8 năm 1983) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp đã từng thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh phải hoặc hậu vệ phải. Sinh ra ở Pháp, anh thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp trước khi thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Martinique năm 2014. Anh được biết đến trong làng bóng đá vì vụ chuyển nhượng theo dạng cho mượn từ West Ham United sang Real Madrid đầu năm 2009.
Sự nghiệp câu lac bộ
Cannes và Bordeaux
Sinh ra ở Le Havre, Faubert đăng ký vào học viện của Cannes năm 1998 và bắt đầu sự nghiệp ở vị trí hậu vệ phải, nhưng với khả năng tạt bóng nhanh chóng, anh chơi ở vị trí tiền vệ cánh phải cũng như ở vị trí tiền vệ. Anh có trận ra mắt cho đội một của Cannes vào mùa giải 2002–03. Anh dần dần nổi tiếng với tư cách là một thành viên quan trọng của đội và cuối cùng đã lọt vào mắt xanh của một số đội bóng ở Ligue 1. Anh ký hợp đồng với Bordeaux vào năm 2004 và chơi 96 trận ở giải VĐQG cũng như ở UEFA Champions League cho đội.
West Ham United
Vào ngày 23 tháng 6 năm 2007, tờ báo thể thao Pháp L'Équipe đưa tin rằng Faubert sắp chuyển sang Rangers với giá 6,5 triệu euro (4,3 triệu bảng). Tuy nhiên, vào ngày 1 tháng 7, anh được West Ham United ký hợp đồng 5 năm với giá 6,1 triệu bảng. Anh bị đứt gân achilles trong trận giao hữu trước mùa giải vào ngày 17 tháng 7 trước câu lạc bộ đội bóng đá Séc Sigma Olomouc khiến anh phải nghỉ sáu tháng để bình phục. Theo kế hoạch trở lại sân cỏ, Faubert được ra sân ở đội dự bị trong trận gặp đội dự bị của Aston Villa vào tháng 1 năm 2008. Cuối cùng anh đã chơi trận ra mắt cho Hammers khi vào sân thay người muộn trong trận gặp Fulham tại Boleyn Ground vào ngày 12 tháng 1 năm 2008. Mùa giải đầu tiên của anh ở Anh được đánh dấu bởi chấn thương liên tục và anh chỉ ra sân 8 lần ở Premier League lẫn FA Cup.
Cho mượn tại Real Madrid
Faubert được phép nói chuyện với Real Madrid vào ngày 30 tháng 1 năm 2009. Thương vụ này hoàn tất vào ngày 31 tháng 1 khi anh ký hợp đồng với Real Madrid theo một bản hợp đồng cho mượn có thời gian 6 tháng đến cuối mùa giải 2008–09 với mức phí được báo cáo là 1,5 triệu bảng. Faubert có trận ra mắt cho Real Madrid vào ngày 7 tháng 2 năm 2009 trong chiến thắng 1–0 trước Racing de Santander. Trong thời gian cho mượn tại Real Madrid, anh đã bỏ lỡ buổi tập vì nhầm tưởng mình được nghỉ. Anh kết thúc thời gian cho mượn tại Real Madrid mà chỉ chơi hai trận.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Danh sách bàn thắng cho Pháp
Tỷ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Pháp trước, cột tỷ số cho biết tỷ số sau mỗi bàn thắng của Faubert.
Danh sách bàn thắng cho Martinique
Tỷ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Martinique trước, cột tỷ số cho biết tỷ số sau mỗi bàn thắng của Faubert.
Danh hiệu
Bordeaux
Coupe de la Ligue: 2006–07
Coupe de France: 2012–13
West Ham United
Play-off Football League Championship: 2012
Tham khảo
Liên kết ngoài
Julien Faubert – French league stats tại lfp.fr
Hồ sơ của Julian Faubert tại Premier League
What happened to Julien Faubert? tại Realmadridnews.com
Sinh năm 1983
Nhân vật còn sống
Người Pháp
Người Martinique
Người Pháp gốc Martinique
Người Le Havre
Cầu thủ bóng đá Pháp
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Cầu thủ bóng đá Martinique
Cầu thủ bóng đá nam Martinique
Tiền vệ bóng đá
Tiền vệ bóng đá nam
Hậu vệ bóng đá
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá AS Cannes
Cầu thủ bóng đá FC Girondins de Bordeaux
Cầu thủ bóng đá West Ham United F.C.
Cầu thủ bóng đá Real Madrid
Cầu thủ bóng đá Elazığspor
Cầu thủ bóng đá Kilmarnock F.C.
Cầu thủ bóng đá FC Inter Turku
Cầu thủ bóng đá Borneo F.C.
Cầu thủ bóng đá ÉFC Fréjus Saint-Raphaël
Cầu thủ bóng đá Championnat National
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá La Liga
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Championnat National 2
Cầu thủ bóng đá Scottish Professional Football League
Cầu thủ bóng đá Veikkausliiga
Cầu thủ bóng đá Liga 1 (Indonesia)
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Martinique
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Pháp
Cầu thủ bóng đá Pháp ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Pháp ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Martinique ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Martinique ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Scotland
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Phần Lan
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Indonesia
|
19847537
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Charles%20I%20x%E1%BB%A9%20Bourgogne
|
Charles I xứ Bourgogne
|
Charles I (Charles Martin; ; ; 10 tháng 11 năm 1433 – 5 tháng 1 năm 1477), biệt danh the Bold (tiếng Đức: der Kühne; tiếng Hà Lan: de Stoute; ), là Công tước xứ Burgundy từ năm 1467 đến 1477.
Tham khảo
Tài liệu
Đọc thêm
Putnam, Ruth, Charles the Bold, Công tước cuối cùng của Burgundy 1433–1477 (GP Putnam's Sons, 1908)
.
Liên kết ngoài
Công tước xứ Bourgogne
Bá tước xứ Bourgogne
Bá tước xứ Hainaut
Bá tước xứ Artois
Bá tước xứ Charolais
Gia tộc Valois-Bourgogne
Hiệp sĩ Garter
Người từ Dijon
Sinh năm 1433
Mất năm 1477
|
19847539
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20qu%E1%BA%A7n%20v%E1%BB%A3t%20%C3%9Ac%20M%E1%BB%9F%20r%E1%BB%99ng%202024
|
Giải quần vợt Úc Mở rộng 2024
|
Giải quần vợt Úc Mở rộng 2024 là một giải quần vợt Grand Slam được diễn ra tại Melbourne Park, từ ngày 14–28 tháng 1 năm 2024. Đây là lần thứ 112 Giải quần vợt Úc Mở rộng được tổ chức, lần thứ 56 trong Kỷ nguyên Mở, và là giải Grand Slam đầu tiên trong năm. Giải đấu bao gồm các nội dung đơn, đôi và đôi nam nữ dành cho các vận động viên chuyên nghiệp. Các vận động viên trẻ và xe lăn sẽ tham dự ở nội dung đơn và đôi. Giống như những năm trước, nhà tài trợ chính của giải đấu là Kia.
Novak Djokovic là đương kim vô địch nội dung đơn nam. Aryna Sabalenka là đương kim vô địch nội dung đơn nữ.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử trận mở màn Giải quần vợt Úc Mở rộng diễn ra vào Chủ Nhật.
Dưới đây là những thay đổi của giải đấu năm 2024 so với các giải đấu trước:
Các trận đấu vòng 1 diễn ra trong ba ngày, thay vì hai ngày.
Các trận đấu ban ngày trên các sân chính, Rod Laver Arena và Margaret Court Arena, diễn ra tối đa hai trận thay vì ba trận để tránh các trận đấu kéo dài đến tờ mờ sáng, chẳng hạn như trận đấu giữa Andy Murray và Thanasi Kokkinakis vào năm 2023, kết thúc lúc 4:05 sáng theo giờ địa phương. Lịch thi đấu trên sân John Cain Arena vẫn giữ nguyên.
Số lượng phiên trận đấu của giải đấu đã tăng từ 47 lên 52 khi có thêm ngày thi đấu.
Tóm tắt kết quả
Tóm tắt từng ngày
Hạt giống đơn
Hạt giống đôi
Nhà vô địch
Đơn nam
vs.
Đơn nữ
vs.
Đôi nam
/ vs. /
Đôi nữ
/ vs. /
Đôi nam nữ
/ vs. /
Đơn nam xe lăn
vs.
Đơn nữ xe lăn
vs.
Đơn xe lăn quad
vs.
Đôi nam xe lăn
/ vs. /
Đôi nữ xe lăn
/ vs. /
Đôi xe lăn quad
/ vs. /
Đơn nam trẻ
vs.
Đơn nữ trẻ
vs.
Đôi nam trẻ
/ vs. /
Đôi nữ trẻ
/ vs. /
Điểm và tiền thưởng
Phân phối điểm
Dưới đây là bảng phân bố điểm cho từng giai đoạn của giải đấu.
Vận động viên chuyên nghiệp
Vận động viên xe lăn
Vận động viên trẻ
Tiền thưởng
Tổng số tiền thưởng của Giải quần vợt Úc Mở rộng 2024 tăng 13.07% lên mức kỷ lục giải đấu là A$86,500,000.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của Giải quần vợt Úc Mở rộng
ATP Tour 2024
WTA Tour 2024
Quần vợt Úc năm 2024
Quần vợt năm 2024
|
19847541
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moseushi%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Moseushi, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Uryū, phó tỉnh Sorachi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 2.693 người và mật độ dân số là 55 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 48,55 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19847544
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20vi%C3%AAn%20V%C4%83n%20h%C3%B3a%20v%C3%A0%20L%E1%BB%8Bch%20s%E1%BB%AD%20Dongdaemun
|
Công viên Văn hóa và Lịch sử Dongdaemun
|
Công viên Văn hóa và Lịch sử Dongdaemun () là một công viên ở Jung-gu, Seoul, Hàn Quốc. Nó nằm ở vị trí của Sân vận động Dongdaemun trước đây.
Nó mở cửa quanh năm, vào mọi giờ. Từ 7 giờ tối đến nửa đêm, có một vườn hoa hồng nhân tạo có đèn thắp sáng. Bạn có thể đến công viên từ ga Công viên Văn hóa & Lịch sử Dongdaemun của Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul.
Công viên có một số điểm tham quan, bao gồm Cổng nước Yigansumun, Bảo tàng lịch sử Dongdaemun, Phòng triển lãm địa điểm khai quật Dongdaemun, Đài tưởng niệm sân vận động Dongdaemun, hội trường sự kiện và Dongdaemun Design Plaza.
Khi sân vận động bị phá hủy, 1.000 di tích và 44 công trình xây dựng, trong đó cổ nhất là từ thời Joseon đã được phát hiện.
Thư viện
Tham khảo
Liên kết ngoài
VisitKorea—Dongdaemun History & Culture Park (bằng Tiếng Anh)
Dongdaemun history Museum & Stadium Memorial (bằng Tiếng Anh)
Công viên ở Seoul
Khởi đầu năm 2009
Quận Trung, Seoul
|
19847545
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Fukui%201948
|
Động đất Fukui 1948
|
là trận động đất xảy ra vào lúc 16:13:31 (JST), ngày 28 tháng 6 năm 1948. Trận động đất có cường độ 6.8 hoặc 7.1 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Hậu quả trận động đất đã làm 3.769 người chết, 22.203 người bị thương.
Xem thêm
Danh sách trận động đất ở Nhật Bản
Danh sách trận động đất năm 1948
Tham khảo
Nhật Bản năm 1948
Động đất năm 1948
Lịch sử Fukui
Động đất Thời kỳ Chiêu Hòa
Shindō 7
|
19847560
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/FMV-B1
|
FMV-B1
|
FMV-B1 là loại vũ khí phá vật cản sử dụng động cơ tên lửa đẩy nhiên liệu rắn do Viện Tên lửa- Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự (Bộ Quốc phòng) nghiên cứu và chế tạo thành công từ năm 2016. FMV-B1 được sử dụng trong huấn luyện sẵn sàng chiến đấu với nhiệm vụ phá hủy hàng rào dây thép gai, cảm biến, bãi mìn,...bố trí quanh hệ thống trận địa phòng ngự của đối phương.
Lịch sử
Trong tác chiến phòng ngự, đối phương thường bố trí hệ thống dây kẽm gai xen kẽ các loại mìn, hầm chông, cạm bẫy ,...để bảo vệ trận địa phòng ngự của chúng. Chiều dài của bãi mìn và hàng rào dây kẽm gai bao trọn chiều dài của trận địa phòng ngự, chiều sâu từ hàng chục tới hàng trăm mét. Trước đây trong chiến tranh Đông Dương và phần lớn thời gian của chiến tranh Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam thường sử dụng bộc phá ống để phá hủy các hàng rào dây kẽm gai và bãi mìn này, mở đường cho lực lượng chủ lực đột phá vào trận địa phòng ngự của đối phương. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là khiến cho người sử dụng bộc phá phải đối mặt trực tiếp với hỏa lực của địch, gây ra nhiều hy sinh, tổn thất. Từ đó nảy sinh yêu cầu phải chế tạo một vũ khí phá vật cản có thể cho phép bộ đội phá hủy hàng rào kẽm gai và bãi mìn từ khoảng cách an toàn và có hiệu quả cao hơn.
Trong giai đoạn sau của cuộc chiến tranh Việt Nam , Viện Kỹ thuật quân sự đã thiết kế và chế tạo thành công vũ khí phá vật cản FR trên cơ sở tham khảo vũ khí phá vật cản UZE của Liên Xô.Hệ thống dùng động cơ tên lửa ĐKB làm động lực kéo, khi chiến đấu, một đầu dây cáp buộc cố định vào hàng rào, đầu còn lại buộc cố định vào động cơ tên lửa và điểm hỏa. FR phá được hàng rào dây thép gai trên mặt đất có độ dốc từ 180 đến 200, mở cửa rộng từ 5-6m, có thể phá sạch mìn và rào chiều sâu từ 70-75m. Khi phát hỏa, động cơ tên lửa kéo theo một dây cáp mềm gắn liền với hàng chục ống bộc phá bay về phía trước. Đến cự ly đã định, cả động cơ tên lửa và toàn bộ số ống bộc phá bị cọc neo giữ lại, theo quán tính số bộc phá được rải đều trên diện rộng và phát nổ, phá hủy hàng rào kẽm gai và bãi mìn của địch. Loại vũ khí này được sử dụng thành công lần đầu trong trận tiến công điểm cao 544 mở màn Chiến dịch Trị Thiên ngày 30 tháng 3 năm 1972. Sau đó, nó được sử dụng nhiều lần trong các trận tiến công căn cứ Ái Tử, trận tiến công chi khu quân sự Thượng Đức năm 1974,...Tuy nhiên FR còn một số điểm yếu như chiều sâu cửa mở còn hạn chế, các khối thuốc nổ điểm hỏa không đều dẫn tới hiệu quả phá vật cản trong nhiều trận đánh còn chưa đạt yêu cầu.
Sơ lược cấu tạo và nguyên lý hoạt động
Cấu tạo của vũ khí phá vật cản FMV-B1 gồm: Bệ phóng; động cơ; điểm hỏa cơ khí ; 11 module nổ ; hộp neo hãm; cọc neo và ngòi nổ cơ khí. Các bộ phận này có thể tháo rời và lắp ráp nhanh chóng giúp đảm bảo khả năng cơ động trong chiến đấu. Nguyên lý hoạt động của vũ khí FMV-B1 là sử dụng động cơ tên lửa nhiên liệu rắn kéo chuỗi nổ mềm dài liên tục. Khi điểm hỏa, tầng 1 của động cơ hoạt động , tạo ra vận tốc rời bệ đủ cho hoạt động ổn định trên quỹ đạo, đồng thời kéo toàn bộ chuỗi nổ lên khỏi mặt đất. Áp suất của tầng 1 đảm bảo bởi các loa phụt rời dạng côn, gắn trên cụm loa phụt ở đuôi động cơ. Tầng 2 được kích hoạt bởi bộ giữ chậm lắp ở cụm trung gian giữa 2 tầng lực đẩy.Tên lửa đưa chuỗi nổ đến hàng rào nhiều lớp, bãi mìn và được kích nổ bằng ngòi nổ cơ khí giữ chậm hỏa thuật.
Ưu điểm nổi bật của FMV-B1 so với vũ khí phá rào FR trước đó là :sử dụng bộ phóng với kết cấu dạng trượt đơn giản, sử dụng động cơ nhiên liệu rắn thuận tiện cho việc triển khai trên nhiều loại địa hình. FMV-B1 cũng sử dụng cáp thép thay cho thang dây mang thuốc nổ của FR, cáp thép này có chức năng liên kết bộ phóng với chuỗi nổ, cáp có độ dài vừa đủ để chuỗi nổ không bị ảnh hưởng bởi luồng phụt của động cơ khi động cơ hoạt động. Ngòi nổ được lắp ở đầu cuối của chuỗi nổ. Chuỗi nổ neo là các đoạn chuỗi nổ dạng mềm được cố định trên dây trục và có thể tách rời thành 11 module thuận tiện cho mang vác. Hệ thống neo hãm dạng mềm trên cơ sở kết hợp hãm bằng lực cản khí động dù hãm với neo hãm bằng dây mềm có độ đàn hồi lớn. Việc sử dụng khối nổ dạng rắn và cáp thép giúp FMV-B1 có độ tin cậy cao hơn và truyền nổ tốt hơn, đều hơn so với vũ khí FR.
Với các cải tiến nêu trên, FMV-B1 có thể tạo cửa mở rộng từ 6-9m, sâu vào bên trong lớp rào gần 200m, cửa mở đối với bãi mìn chống tăng rộng từ 4–6 m. Tầm bắn tối đa do nhà sản xuất công bố: 200–260 m.
Lịch sử trang bị
Năm 2014, nhóm đề tài "Nghiên cứu thiết kế chế tạo vũ khí phá vật cản cho bộ binh (FMV-B1)" của Viện Tên lửa- Viện Khoa học và Công nghệ quân sự do đại tá, PGS.TS Trịnh Hồng Anh làm chủ nhiệm đề tài đã báo cáo kết quả nghiên cứu của dự án. Từ đầu năm 2017, FMV-B1 được xưởng X-55 -Cục Quân huấn sản xuất loạt nhỏ để phục vụ công tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu trong toàn quân. Cũng trong năm này, vũ khí FMV-B1 đã lần đầu tham gia diễn tập bắn đạn thật quy mô lớn do Bộ Quốc phòng tổ chức vào ngày 19 tháng 11 tại Trường bắn quốc gia khu vực 1. Hiện nay vũ khí này đã được sản xuất loạt quy mô lớn.
Phiên bản
FMV-08: Bản thử nghiệm thế hệ đầu tiên, thử nghiệm thành công năm 2010.
FMV-B1 : Bản tiêu chuẩn, sản xuất hàng loạt từ năm 2017.
FMV-B gắn trên xe cơ giới: phiên bản thử nghiệm FMV-B1 với lượng nổ lớn hơn, gắn trên xe bọc thép M 113. Trong một lần bắn thử, lượng nổ bị kích nổ ngay trên xe đã phá hủy toàn bộ phương tiện. Không bao giờ đi vào sản xuất loạt.
FMV-T2: Phiên bản sử dụng để mở cửa mở cho xe tăng. Động cơ có lực đẩy mạnh hơn, chuỗi nổ có sức công phá xấp xỉ 960 kg thuốc nổ TNT. Lần đầu giới thiệu trong diễn tập ĐT-23 tháng 12 năm 2023.
Xem thêm
Vũ khí trang bị có cùng vai trò, tính năng:
UR-77
Giant Viper
Python Minefield Breaching System
M58 MICLIC
Tài liệu tham khảo
Thiết bị quân sự Việt Nam
Việt Nam
Vũ khí
Vũ khí Việt Nam
|
19847583
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20%C4%91%C3%A0i%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%20ph%C3%A1t%20s%C3%B3ng%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i%20M%C3%B9a%20h%C3%A8%202024
|
Danh sách đài truyền hình phát sóng Thế vận hội Mùa hè 2024
|
Thế vận hội Mùa hè 2024 ở Paris được nhiều đài truyền hình phát sóng trên phạm vi toàn thế giới. Giống như các năm trước, Olympic Broadcasting Services đóng vai trò truyền tải thông tin trên phạm vi toàn cầu nhằm giúp các đài truyền hình địa phương sử dụng. Tại nhiều vùng lãnh thổ, bản quyền phát sóng Thế vận hội 2022 và 2024 được gộp lại với nhau, nhưng một số đơn vị cũng đã có bản quyền cho Thế vận hội các năm tiếp theo.
Phát sóng
Tại Pháp, bản quyền phát sóng Thế vận hội Mùa hè 2024 trong nước được sở hữu bởi Warner Bros. Discovery (trước đây là Discovery Inc.) thông qua Eurosport, trong đó bản quyền phát sóng miễn phí được chuyển giao cho đài truyền hình công cộng France Télévisions.
Tham khảo
Thế vận hội Mùa hè 2024
|
19847586
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mikhail%20Dmitriyevich%20Skobelev
|
Mikhail Dmitriyevich Skobelev
|
Mikhail Dmitriyevich Skobelev (tiếng Nga: Михаи́л Дми́триевич Ско́белев; 29 tháng 9 năm 1843 – 7 tháng 7 năm 1882), một vị tướng Nga, nổi tiếng nhờ cuộc chinh phục Trung Á và chủ nghĩa anh hùng trong Chiến tranh Nga - Thổ Nhĩ Kỳ 1877–1878.
Skobelev sinh năm 1843 tại Sankt-Peterburg. Cha là tướng Dmitry Ivanovich Skobelev, mẹ là nhà từ thiện Olga Skobeleva. Ông được đào tạo thành sĩ quan tham mưu tại Học viện Bộ Tổng tham mưu (Đế quốc Nga)
Ông đã tham gia các chiến dịch quân sự lớn như: Khởi nghĩa Tháng giêng, Chiến dịch Khivan năm 1873, Trận Makhram, các trận Bảo vệ Shipka, Trận Harmanli, Trận Svistov, Cuộc vây hãm Plevna, trận Lovcha trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ, trận vây hãm Geok Tepe trong Cuộc thám hiểm Akhal Tekke. Mặc bộ quân phục màu trắng và cưỡi trên một con ngựa trắng, và luôn ở trong tình trạng căng thẳng nhất trong cuộc chiến, ông được binh lính của mình biết đến và tôn sùng với biệt danh "Tướng Trắng" (và được người Thổ Nhĩ Kỳ gọi là "Pasha Trắng"). Trong một chiến dịch ở Khiva, các đối thủ người Turk của ông gọi ông là "goz ganly" hay "Đôi mắt Máu".
Cuối đời, ông còn hoạt động chính trị tích cực và theo chủ nghĩa dân tộc Nga và chủ nghĩa quân phiệt Đại Slavơ - những xu hướng chính trị nổi lên ở Nga sau này được Sa hoàng Aleksandr Đệ tam theo đuổi. Ông là một những người tiên phong của chủ trương "nước Nga là của người Nga"
Ông qua đời ngày 7 tháng 7 năm 1882 tại Moskva khi mới 38 tuổi. Việc Skobelev qua đời sớm khiến cho Nga mất đi một nhà lãnh đạo quân sự tài ba và điều này đã được chứng minh trong Chiến tranh Nga – Nhật đầu thế kỷ XX.
Thống chế Anh Bernard Montgomery đánh giá Skobelev là "chỉ huy giỏi nhất" thế giới từ năm 1870 đến năm 1914 và viết về khả năng lãnh đạo "khéo léo và đầy cảm hứng" của ông.Francis Vinton Greene cũng đánh giá cao Skobelev. Victor Kamenir đánh giá Skobelev là một trong bốn tướng lĩnh "bất tử" của Nga. Tạp chí Russia Beyond xếp Skobelev vào hàng mười danh tướng mọi thời đại của Nga.
Tham khảo
Tướng lĩnh Đế quốc Nga
Người theo chủ nghĩa dân tộc Nga
|
19847589
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt%20Th%C3%A0nh%20l%C3%A2u
|
Nhật Thành lâu
|
Nhật Thành lâu (chữ Hán: 日成樓) là kiến trúc lầu hai tầng nằm ở phía đông điện Càn Thành, phía nam Thái Bình lâu. Trước đây là vị trí của điện Minh Thận. Theo một số tác giả, ngôi lầu nầy là Phật điện của vua trong Tử Cấm Thành. Lối lên lầu cũng được làm hành lang che. Nhật Thành lâu bị tàn phá trong các năm 1947 và 1968, chỉ còn lại nền lầu. Năm 2018, lầu đã được phục dựng lại trên nền cũ.
Lịch sử
Công trình này được xây dựng vào năm 1841 dưới thời vua Thiệu Trị, kiến trúc lầu gồm có 2 tầng, là Phật điện của nhà vua trong Tử Cấm Thành. Vào thời kỳ cuối nhà Nguyễn, đây là nơi mà đức Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại) và các bà trong nội cung thường lui tới để đọc kinh, niệm Phật, cầu an…
Lầu Nhật Thành bị tàn phá trong các năm 1947 và năm 1968, chỉ còn lại phần nền của công trình.
Năm 2018, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã cho phục dựng lại công trình này.
Chú thích
Tử Cấm thành (Huế)
Kiến trúc cổ Việt Nam
|
19847597
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn%20k%E1%BA%BFt%20h%E1%BB%8Fng
|
Liên kết hỏng
|
Liên kết hỏng là hiện tượng các siêu liên kết bị mất khả năng trỏ đến các tập tin đích đến, trang web hoặc máy chủ sau một thời gian do tài nguyên đó đã bị chuyển sang địa chỉ truy cập mới hoặc trở nên không khả dụng vĩnh viễn (thường là do bị xóa). Liên kết (link) mà không còn trỏ đến đối tượng chỉ định còn được gọi là link hỏng, link chết. Thuật ngữ gốc bên tiếng Anh là link rot hoặc broken link.
Giới học thuật và nghiên cứu đã lựa chọn khảo sát tỷ lệ liên kết hỏng do tính chất quan trọng và tác động tiêu cực của hiện tượng này đối với việc chia sẻ và bảo toàn thông tin trên mạng Internet. Kết quả ước tính cho thấy có sự chênh lệch số liệu tỷ lệ đáng kể giữa các bài nghiên cứu. Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã lên tiếng cảnh báo rằng hiện tượng liên kết hỏng có thể gây mất những dữ liệu quan trọng, làm ảnh hưởng đến hệ thống luật pháp và nhu cầu học thuật.
Liên kết hỏng xảy ra ở nhiều nguyên nhân khác nhau, chẳng hạn như di dời, xóa bỏ tệp đích, lỗi máy chủ, hết hạn tên miền gây báo lỗi HTTP 404. Giải pháp ngăn chặn liên kết hỏng chủ yếu là tạo URL cố định, di dời nội dung sang nơi tồn tại lâu hơn, tạo liên kết ít bị hỏng, dùng dịch vụ lưu trữ liên kết sẵn có, hoặc sửa chữa liên kết hỏng.
Nghiên cứu
Vì tính chất quan trọng và sức ảnh hưởng của hiện tượng liên kết hỏng đối với việc tra cứu và lưu trữ thông tin, nhiều cuộc nghiên cứu đã tiến hành thu thập và truy tìm số liệu liên quan đến hiện tượng trong hệ thống mạng lưới toàn cầu World Wide Web, trong các tài liệu học thuật sử dụng URL để trích dẫn nguồn nội dung từ web, và trong thư viện số.
Một bài nghiên cứu năm 2002 cho biết rằng hiện tượng liên kết hỏng ở thư viện số xảy ra chậm hơn ở trên web, và nhận thấy cứ một năm thì có khoảng 3% đối tượng không còn truy cập được (tương đương với chu kỳ bán rã gần 23 năm). Tiếp đến, một bài nghiên cứu năm 2003 đã nhận thấy rằng, cứ 200 liên kết thì sẽ có 1 liên kết bị hỏng mỗi tuần, ứng với chu kỳ bán rã 138 tuần. Tỷ lệ này lại một lần nữa được xác nhận trong bài nghiên cứu năm 2016–2017 về liên kết ở Yahoo! Directory (vốn dĩ trang này đã ngưng cập nhật vào năm 2014 sau 21 năm vận hành và phát triển) và nhận thấy chu kỳ bán rã của các liên kết thư mục là 2 năm.
Một nghiên cứu năm 2004 đã chứng minh các tập hợp con của các liên kết trang web (chẳng hạn như các liên kết trỏ đến đến các loại tập tin cụ thể hoặc các liên kết được các tổ chức học thuật lưu trữ) có thể có chu kỳ bán rã khác nhau rõ rệt. Các URL liên quan đến xuất bản (báo chí, học thuật,...) dường như có tuổi thọ cao hơn URL bình thường. Nhằm củng cố, một nghiên cứu năm 2015 của Weblock đã phân tích hơn 180.000 liên kết đến từ các tài liệu tham khảo trong tập hợp toàn văn của 3 nhà xuất bản truy cập mở lớn và cho biết, chu kỳ bán rã rơi vào khoảng 14 năm. Đây ngầm chứng minh một nghiên cứu năm 2005 đó chính là phân nửa số URL đến từ các bài viết bên D-Lib Magazine vẫn còn hoạt động sau 10 năm.
Những bài khác thì cho rằng tỷ lệ xảy ra hiện tượng liên kết hỏng ở các tài liệu học thuật cao hơn, với mức chu kỳ bán rã được đề xuất thông thường rơi vào 4 năm hoặc hơn. Bài nghiên cứu năm 2013 bên BMC Bioinformatics phân tích gần 15.000 liên kết chỉ mục trích dẫn Web of Science của Thomson Reuters và nhận thấy tuổi thọ trung bình của các trang web đạt 9,3 năm và chỉ có 62% trang là được lưu trữ. Kế đến vào năm 2021, một nghiên cứu về các liên kết bên ngoài trên các bài báo New York Times được xuất bản từ năm 1996 đến năm 2019 cho thấy chu kỳ bán rã rơi vào khoảng 15 năm (nhưng lại khác biệt đáng kể, tùy thuộc vào chủ đề nội dung). Bài nghiên cứu còn cho biết thêm, 13% liên kết tuy vẫn còn hoạt động nhưng không còn cung cấp nội dung ban đầu nữa. Hiện tượng này được gọi là trôi dạt nội dung (content drift).
Quan trọng hơn, một bài báo cáo vào năm 2013 cho biết, có tới 49% là liên kết hỏng trên tổng số liên kết được dẫn trong các quyết định của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Một nghiên cứu năm 2023 đã theo dõi các trang tổng quan về đại dịch COVID-19 tại Hoa Kỳ và nhận thấy rằng: 23% số URL trang tổng quát của tiểu bang đã bị thay đổi vào tháng 4 năm 2023, so với thời điểm tháng 2 năm 2021.
Nguyên nhân và hậu quả
Liên kết hỏng xảy ra ở nhiều nguyên nhân khác nhau: Đối tượng mà trang web trỏ đến bị xóa mất, máy chủ lưu trữ trang đích ngừng hoạt động, bị gỡ bỏ khỏi dịch vụ cung cấp lưu trữ hoặc bị chuyển sang một tên miền mới. Từ năm 1999, các chuyên gia đã lưu ý về vấn đề lưu trữ lượng lớn tài liệu trên ổ cứng rằng, "một lỗi ổ đĩa có thể giống như đi đốt thư viện ở Alexandria." Ngoài ra, hoạt động đăng ký tên miền có thể sẽ hết hạn hoặc được sang nhượng cho bên khác, cũng là nguyên nhân gây ra hiện tượng liên kết hỏng.
Một số lý do:
Thay đổi cấu trúc và hệ thống trang web gây biến đổi URL lưu trữ (ví dụ có thể sẽ bị đổi thành ).
Di dời nội dung trước kia cho xem miễn phí sang nội dung chặn paywall yêu cầu đăng ký.
Thay đổi kiến trúc máy chủ dẫn đến mã như PHP hoạt động khác so với ban đầu.
Nội dung trang động chẳng hạn như kết quả tìm kiếm thay đổi theo thiết kế.
Xóa trang đích và/hoặc nội dung của nó.
Người dùng nhập liệu thông tin trong link (như tên đăng nhập).
Bộ lọc nội dung hay tường lửa chặn không cho người dùng truy cập.
Hết hạn đăng ký tên miền.
Hậu quả của hiện tượng liên kết hỏng đó chính là không tìm được tập tin đích và trả về mã lỗi như HTTP 404 (404 Không thể tìm thấy). Hoặc là, khiến cho liên kết bị "trôi dạt" và chuyển sang cung cấp nội dung khác so với dự định ban đầu của tác giả liên kết gốc. Do đó, liên kết hỏng có khả năng gây mất dữ liệu cũng như nguồn tham chiếu, làm ảnh hưởng đến chất lượng nghiên cứu hệ thống luật pháp và tính toàn vẹn trong học thuật.
Giải pháp và nhận diện
Phương pháp cơ bản để tránh hiện tượng hỏng liên kết đó chính là tạo các URL cố định không thay đổi theo thời gian. Tim Berners-Lee và những người tiên phong phát triển web khác đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lên kế hoạch ngăn chặn URL hỏng.
Bên cạnh đó, giải pháp có thể kể đến gồm có: liên kết đến các nguồn chính chứ không phải nguồn thứ cấp và ưu tiên các trang web ổn định; hạn chế sử dụng liên kết trỏ đến tài nguyên trên trang cá nhân của nhà nghiên cứu; sử dụng URL sạch hoặc chuẩn hóa URI; sử dụng liên kết cố định hoặc mã nhận diện thường trực như ARK, DOI, tham khảo Handle System, PURL, hoặc CAS. Người dùng Internet cần phải tránh liên kết đến các tài liệu không phải là trang web hoặc deep linking, và thường xuyên lưu trữ nội dung dự phòng vào các trang lưu trữ web chẳng hạn như Internet Archive, WebCite, archive.today, Perma.cc, Amber, hoặc Arweave.
Một số chiến lược xử lý các liên kết được đề xuất như: sử dụng cơ chế chuyển hướng chẳng hạn như HTTP 301 để tự động đưa trình duyệt và trình thu thập thông tin tới nội dung được di chuyển sang nơi khác; sử dụng hệ thống quản lý nội dung trang web có thể tự động cập nhật liên kết khi nội dung trong cùng một trang web được di chuyển hoặc tự động thay thế liên kết bằng URL chuẩn và tích hợp tìm kiếm các tài nguyên vào trang HTTP 404.
Người ta có thể phát hiện các liên kết bị hỏng bằng thủ công hoặc tự động. Các phương pháp tự động có thể kể đến gồm có plug-in dành cho hệ thống quản lý nội dung cũng như các trình kiểm tra liên kết bị hỏng độc lập như Xenu's Link Sleuth. Tuy nhiên, trình kiểm tra tự động có thể không nhận diện ra được các liên kết trả về mã lỗi 404 mềm hoặc các liên kết tuy trả về phản hồi 200 OK nhưng lại trỏ đến nội dung đã bị thay đổi.
Đọc thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Future-Proofing Your URIs
Chất lượng dữ liệu
Hết hạn sản phẩm
URL
|
19847598
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9D%20sinh%20th%E1%BB%B1c%20kh%C3%AD
|
Thờ sinh thực khí
|
Thờ sinh thực khí hay tín ngưỡng phồn thực là việc thờ cúng cơ quan sinh sản, sinh sản, quan hệ tình dục,.... Thờ cúng sinh thực khí là một phần của tín ngưỡng dân gian của nhân loại, thờ cúng thiên nhiên. Nó đã xuất hiện từ thời xã hội nguyên thủy của con người, và vẫn có thể được nhìn thấy trong các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau cho đến hiện tại.
Bởi vì con người cổ đại không thể hiểu được hành vi tình dục và hiện tượng sinh sản của chính họ, cho nên tạo cảm giác bí ẩn và kinh ngạc. Từ những khám phá khảo cổ học hiện đại, các hình thức thờ cúng sinh thực khí khác nhau có thể được tìm thấy trong các bức tượng, hình vẽ về các vị thần và nữ thần còn sót lại từ các nền văn hóa cổ đại khác nhau. Thờ sinh thực khí là một biểu tượng của sự sống và sáng tạo, và có thể được chia thành ba loại: thờ cúng khả năng sinh sản, thờ cúng bộ phận sinh dục và thờ cúng quan hệ tình dục.
Tham khảo
Tín ngưỡng phồn thực
Tín ngưỡng
Tín ngưỡng dân gian
|
19847599
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A5c%20th%E1%BB%9D%20%E1%BA%BFch
|
Tục thờ ếch
|
Tục thờ ếch hay tín ngưỡng thờ ếch là hình thức thờ cúng con ếch được cho xuất phát từ nền văn hoá của người Bách Việt. Theo sử sách ghi lại thì người Bách Việt chủ yếu sống bằng nghề nông từng sinh sống ở phía nam Trung Quốc như khu vực Quảng Đông, Phúc Kiến, khu vực người choang của Quảng Tây, khu vực dân tộc Lê ở Lương Sơn của tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Nam, Hải Nam. Do khả năng sinh sản mạnh mẽ của con ếch nên việc thờ cúng ếch cũng được cho là tín ngưỡng thờ sinh thực khí. Một số tác phẩm nghệ thuật được tìm thấy của nhà nước Nam Việt đã phản ánh sự kết hợp giữa văn hóa đồng bằng Trung Bộ và tín ngưỡng thờ ếch.
Tham khảo
Frog Worship
Động vật trong văn hóa đại chúng
Tín ngưỡng thờ động vật
|
19847600
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20S%E1%BB%9F%20Sinh
|
Trần Sở Sinh
|
Trần Sở Sinh (sinh ngày 25 tháng 7 năm 1981) là một ca sĩ, nghệ sĩ guitar Trung Quốc.
Đời tư
Trần Sở Sinh sinh ra ở Tam Á, Hải Nam. Gia đình anh gốc ở Phổ Ninh, Quảng Đông. Từ nhỏ, anh đã thích chơi guitar và ca hát. Anh ấy cũng giỏi các môn thể thao như Kungfu, bóng đá và câu cá. Thời trung học, anh chơi và hát ở quán bar gần đó vào cuối tuần. Năm 2000, ở tuổi 19, Trần Sở Sinh chuyển đến Thâm Quyến để khám phá các cơ hội. Bắt đầu với công việc trong một nhà hàng do người thân điều hành, anh sớm tập trung phát triển sự nghiệp ca hát - gặp gỡ các nhạc sĩ cùng thời và biểu diễn cho các câu lạc bộ trong thành phố.
Sự nghiệp
Với các kỹ năng ca hát được phát triển, Trần Sở Sinh đã có cơ hội tham gia vào một số chương trình và cuộc thi âm nhạc, và được khán giả đánh giá cao. Năm 2001, Trần Sở Sinh đã giành được giải thưởng tiềm năng nhất tại Giải thưởng MTV Asia, được tổ chức tại Thượng Hải. Năm 2003, anh đã được trao tặng danh hiệu quán quân của cuộc thi ca sĩ quán rượu quốc gia, được tổ chức tại Trường Sa, Hồ Nam, và ký hợp đồng với EMI. Năm 2007, anh được trao cúp quán quân "Super Boy" và ký hợp đồng với E.E. Media. Tuy nhiên, anh đã được hủy hợp đồng vào tháng 1 năm 2009 với lý do cá nhân.
Có ai nói với em rằng 《有没有人告诉你》
E.E. Media phát hành 1 album vào tháng 7 2007, 13, với 13 người đứng đầu của chương trình "Super Boy" năm đó, bao gồm single đầu tiên của Trần Sở Sinh Có ai nói với em rằng《有没有人告诉你》.
Thì ra tôi không bao giờ cô đơn 《原来我一直都不孤单》
Tháng 11 2007, EP đầu tiên Thì ra tôi không bao giờ cô đơn《原来我一直都不孤单》được phát hành, bao gồm các bản chính thức Thì ra tôi không bao giờ cô đơn, Có ai nói với em rằng《有没有人告诉你》 và Kiếm tìm《寻找》, vào thêm vào một số bài mới La La La《啦啦啦》 và một cover Sing của ban nhạc Anh quốc "Travis".
Tác phẩm
Albums và EP (đĩa mở rộng)
Phim ảnh
Oh My God (2015)
Forever Young (2018)
Từ thiện
Một bộ phim ngắn thúc đẩy các hoạt động từ thiện ở Quý Châu, được sản xuất bởi SZTV vào năm 2009, anh đã hát bài hát chủ đề Trẻ em trên núi'《大山的孩子》.
Nguồn
Link mở rộng
Weibo Trần Sở Sinh
Baidu Trần Sở Sinh
1981 births
Nhân vật còn sống
Chaoshanese people
People from Sanya
Singers from Hainan
Super Boy contestants
|
19847608
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202015
|
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015
|
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015 được tổ chức tại Sân vận động Khúc côn cầu Sengkang, Singapore từ ngày 6 đến 13 tháng 6 năm 2015. Huy chương được trao tại giải đấu dành cho cả nam và nữ.
Quốc gia tham dự
Tổng cộng có 144 vận động viên đến từ 5 quốc gia sẽ tranh tài ở môn khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015:
Lịch thi đấu
Sau đây là lịch thi đấu của giải đấu khúc côn cầu trên cỏ:
Danh sách huy chương
Bảng tổng sắp huy chương
Giải đấu Nam
Vòng sơ loại
Vòng tranh huy chương
Tranh huy chương đồng
Tranh huy chương vàng
Bảng xếp hạng cuối cùng
Giải đấu Nữ
Vòng sơ loại
Vòng tranh huy chương
Tranh huy chương đồng
Tranh huy chương vàng
Bảng xếp hạng cuối cùng
Liên kết ngoài
Tham khảo
2015
Đại hội Thể thao Đông Nam Á
Khúc côn cầu trên cỏ
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.