id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19849588
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Soulsoup%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%29
|
Soulsoup (bài hát)
|
là một bài hát của ban nhạc Nhật Bản Official Hige Dandism được hãng đĩa IRORI Records phân phối vào ngày 13 tháng 12 năm 2023.
Tổng quan
Vào ngày 30 tháng 10 năm 2023, có thông báo rằng một ban nhạc Official Hige Dandism đã viết "SOULSOUP" làm bài hát chủ đề cho bộ phim hoạt hình "Gia đình × Điệp viên Mã: Trắng" phát hành tại Nhật Bản vào ngày 22 tháng 12 năm 2023. Đây là lần thứ hai mà ban nhạc gắn bó với bộ truyện kể từ bài hát "Mixed Nuts", được sử dụng làm bài hát chủ đề mở đầu cho mùa đầu tiên của bộ anime Spy × Family. Đồng thời, một đoạn giới thiệu cho bộ phim sử dụng bài hát đã được phát hành và bạn có thể nghe thấy một phần của bài hát.
Vào ngày 8 tháng 12, một trang web dành riêng cho bài hát đã được tạo ra và một video teaser đã được phát hành.
Vào ngày 11 tháng 12, phiên bản đầy đủ của bài hát đã được phát hành lần đầu tiên trên chương trình radio "Rojiura Base" (FM FUJI), nơi thành viên Narazaki Makoto đóng vai trò khách mời.
Phát hành
Bài hát này được phát hành lần đầu sau tác phẩm trước đó là "Chessboard" 3 tháng và chỉ được phát hành bằng việc phân phối dưới dạng kỹ thuật số mà không có thông báo nào về việc bài hát sẽ được phát hành trong một album hay đĩa đơn CD nào.
Video âm nhạc
Bài hát được phát hành trên YouTube vào ngày 13 tháng 12 năm 2023. Các thành viên ban nhạc mặc những bộ đồ như những người học việc của đầu bếp trong quán ramen và kể chuyện với những vị khách hàng "độc đáo". Video âm nhạc cũng bao gồm các cảnh biểu diễn và cảnh hoạt hình của AC Department.
Vào ngày 17 tháng 1 năm 2024, hâu trường thực hiện video âm nhạc được phát hành trên YouTube.
Danh sách bài hát
Xem thêm
Gia đình × Điệp viên Mã: Trắng
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Tham khảo
Spy × Family
Đĩa đơn năm 2023
Bài hát tiếng Nhật
Bài hát của Official Hige Dandism
Bài hát của Spy × Family
|
19849589
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%83m%20kinh%20nghi%E1%BB%87m%20%28thu%E1%BA%ADt%20ng%E1%BB%AF%20tr%C3%B2%20ch%C6%A1i%29
|
Điểm kinh nghiệm (thuật ngữ trò chơi)
|
Điểm kinh nghiệm (Tiếng Anh: Experience point, exp hoặc XP) là một đơn vị đo lường được sử dụng trong các trò chơi nhập vai trên bàn (RPG) và trò chơi điện tử nhập vai để định lượng trải nghiệm và sự phát triển của một nhân vật người chơi xuyên suốt trò chơi. Điểm kinh nghiệm thường được thưởng cho nhân vật sau khi hoàn thành nhiệm vụ, vượt qua các trở ngại và đối thủ, cũng như sau khi thành công trong một màn nhập vai.
Trong nhiều RPG, các nhân vật thường bắt đầu khá yếu. Khi đạt được đủ một lượng điểm kinh nghiệm nhất định, nhân vật sẽ được "lên cấp" (level up), đạt đến giai đoạn phát triển nhân vật tiếp theo. Các sự kiện này thường sẽ tăng một số chỉ số nhân vật, ví dụ như lượng máu, mana, và sức mạnh tối đa, và đôi khi cũng sẽ cho nhân vật một số kỹ năng mới hoặc cải thiện những kỹ năng đã có. Lên cấp cũng có thể cho phép các nhân vật tiếp cận các khu vực hoặc vật phẩm khó khăn hơn.
Trong một số trò chơi nhập vai, đặc biệt là những trò chơi có nguồn gốc từ Dungeons & Dragons, điểm kinh nghiện được sử dụng để cải thiện nhân vật ở các cấp độ trải nghiệm riêng biệt; trong một số trò chơi,điểm kinh nghiệm có thể đựoc sử dụng cho một số kỹ năng hoặc thuộc tính nhất định do người chơi lựa chọn.
Trong hầu hết trò chơi, khi độ khó của các thử thách tăng lên, lượng điểm kinh nghiệm nhận đựoc sau khi hoàn thành các thử thách đó cũng sẽ tăng theo. Khi người chơi nhận được ngày càng nhiều điểm kinh nghiệm, lượng điểm kinh nghiệm cần thiết để lên cấp hoặc nhận một kỹ năng mới sẽ nhiều hơn trước. Ngược lại, một số trò chơi sẽ giữ nguyên số lượng điểm kinh nghiệm cho mỗi cấp nhưng lại giảm lượng điểm kinh nghiệm nhận đựoc cho cùng một nhiệm vụ trước khi nhân vật lên cấp. Do đó, khi nhân vật người chơi mạnh lên do nhận được điểm kinh nghiệm, người chơi cũng được khuyến khích chấp nhận những nhiệm vụ mới tương xứng với khả năng đã được cải thiện sau khi lên cấp.
Phân loại
Tiến độ dựa trên cấp độ
Trong nhiều trò chơi nhập vai, cụ thể như những trò chơi có nguồn gốc từ Dungeons & Dragons (D&D), tích lũy đủ một lượng điểm kinh nghiệm (XP) sẽ giúp nhân vật tăng "cấp độ," một con số đại diện cho kỹ năng và kinh nghiệm tổng thể của nhân vật. Để "lên cấp" nghĩa là cần tích lũy và đạt được đủ số lượng XP cần thiết cho cấp tiếp theo. Khi đạt được một cấp mới, kỹ năng hoặc chỉ số của một nhân vật sẽ được tăng lên, giúp nhân vật mạnh hơn và đủ khả năng để hoàn thành những nhiệm vụ khó hơn, bao gồm việc có thể chiến đấu một cách an toàn với kẻ thù mạnh hơn, có được quyền truy cập vào các khả năng mạnh hơn (như các kỹ năng phép thuật hoặc kỹ thuật chiến đấu), đồng thời có thể thực hiện, sửa chữa hoặc vô hiệu hóa các thiết bị máy móc phức tạp hơn hoặc giải quyết các nhiệm vụ ngày càng khó khăn.
Thông thường, cấp độ được liên kết với các lớp nhân vật và nhiều hệ thống trò chơi thường cho phép kết hợp các lớp khác nhau, giúp người chơi có thể tự do tùy chỉnh nhân vật do chính họ phát triển.
Một số hệ thống trò chơi sử dụng hệ thống điểm kinh nghiệm dựa trên cấp độ còn kết hợp khả năng có thể mua các thuộc tính cụ thể dựa trên một lượng điểm kinh nghiệm nhất định; Ví dụ, D&D phiên bản thứ 3 được dựa trên việc tạo ra các vật phẩm ma thuật xoay quanh một hệ thống tiêu tốn điểm kinh nghiệm (được gọi là đốt xp). Hệ thống d20 cũng đưa ra khái niệm về các lớp nhân vật cao cấp, tập hợp nhiều bộ cơ chế, lối phát triển nhân vật cũng như các yêu cầu nhất định thành một gói cụ thể có thể được "lên cấp" giống như một lớp thông thường.
Một số trò chơi giới hạn cấp độ mà người chơi có thể đạt được. Ví dụ như trong trò chơi trực tuyến RuneScape, không người chơi nào có thể đạt được cấp cao hơn 120, điều yêu cầu lượng kinh nghiệm tổng để đạt được là 104.273.167 điểm kinh nghiệm, đồng thời, không người chơi nào có thể đạt được hơn 200 triệu điểm kinh nghiệm. Một số trò chơi có giới hạn cấp độ động, trong đó giới hạn cấp độ phụ thuộc vào cấp độ của người chơi trung bình (vì vậy nó sẽ được tăng dần theo thời gian).
Tiến độ dựa trên hoạt động
Trong một số hệ thống, ví dụ như những trò chơi nhập vai trên bàn cổ điển như Traveller, Call of Cthulhu và Basic Role-Playing, và những trò chơi điện tử nhập vai như Dungeon Master, Final Fantasy II, The Elder Scrolls, series SaGa, và series Grandia, tiến độ được dựa trên sự tăng trưởng của các thông số cá nhân (kỹ năng, cấp độ và các đặc tính khác) của nhân vật, và không bị ảnh hưởng bởi việc thu thập các điểm kinh nghiệm (chung). Các kỹ năng và thuộc tính được thiết kết để có thể phát triển qua việc sử dụng nhiều lần. Một số nhà sáng tạo trò chơi cho rằng tiến độ dựa trên hoạt động sẽ khuyến khích người chơi tham gia vào các quá trình cày cuốc nhàm chán, ví dụ như cố tình nhận sát thương và tấn công các nhân vật đồng minh để tăng lượng máu trong Final Fantasy II.
Tiến độ tự do
Tiến độ tự do được sử dụng trong nhiều hệ thống nhập vai như GURPS, Hero System hay series World of Darkness. Nó cho phép người chơi có thể tùy chọn kỹ năng để nâng cấp bằng cách phân bổ "điểm". Mỗi thuộc tính nhân vật sẽ được gắn với một giá trị cụ thể để nâng cấp, ví dụ như việc một nhân vật có thể tốn 2 điểm để nâng cấp kỹ năng bắn cung lên một bậc, và 10 điểm để nâng cấp sự khéo léo tổng lên một bậc, hay có thể tốn 20 điểm để học một kỹ năng phép thuật mới.
Người chơi thường có thể tự sử dụng điểm theo ý muốn, góp phần làm tăng đáng kể khả năng kiểm soát của người chơi đối với sự phát triển của nhân vật, nhưng cũng đồng thời làm tăng độ phức tạp của trò chơi. Do đó, một số trò chơi thường đơn giản hóa việc sáng tạo và thăng cấp nhân vật bằng cách đề xuất các gói hoặc mẫu chọn trước của các bộ kỹ năng, chẳng hạn như người chơi có thể lựa chọn cho nhân vật của họ trở thành một "điều tra viên" bằng cách mua một gói bao gồm nhiều kỹ năng và khả năng, thay vì mua mỗi cái riêng biệt.
Tiến độ nạp tiền
Một hệ thống tiến độ nạp tiền sử dụng điểm kinh nghiệm để "mua" sự tăng trưởng của nhân vật như cấp lớp nhân vật, điểm kỹ năng, kỹ năng mới, thành tựu hoặc tăng phần thưởng tiết kiệm hay thuộc tính cơ bản, mỗi điểm sẽ được tốn một lượng điểm kinh nghiệm nhất định với các giới hạn dựa trên số lợi tức tối đa có thể được mua tại một thời điểm nhất định, thường là một lần trong mỗi phiên chơi. Mỗi khi điểm kinh nghiệm được sử dụng, chúng sẽ bị xóa khỏi hồ sơ nhân vật hay đánh dấu là đã sử dụng và không thể sử dụng lần nữa. Final Fantasy XIII và Warhammer Fantasy Roleplay là các ví dụ cụ thể cho các trò chơi sử dụng hệ thống tiến độ nạp tiền.
Hệ thống hỗn hợp
Một số trò chơi sử dụng các hệ thống tiến độ kết hợp từ hai hoặc nhiều hơn các yếu tố thuộc các loại kể trên. Ví dụ, trong phiên bản thứ ba của Dungeons & Dragons, khi cấp độ của một lớp nhân vật tăng, lớp ấy sẽ nhận được một số lượng điểm kỹ năng (số lượng cụ thể được tính toán dựa trên lớp nhân vật và thông số trí tuệ của nhân vật đó), và từ số điểm đó có thể được sử dụng để phát triển các kỹ năng khác nhau. Cấp độ của nhân vật (thường là tổng cấp độ của mọi lớp nhân vật) được sử dụng để quyết định cấp độ tối đa của kỹ năng, khi một kỹ năng có thể được nâng cấp và nhân vật đạt được thành tựu mới (một lớp các kỹ năng đặc biệt bao gồm các đòn tấn công đặc biệt, độ thông thạo các loại vũ khí, cũng như lợi tức trên các lượt tung súc sắc được sử dụng để quyết định kết quả của nhiều hành động khác nhau) và số lượng điểm kinh nghiệm cần thiết để lên cấp.
Trong Ragnarok Online, điểm kinh nghiệm được chia thành hai loại: điểm kinh nghiệm cơ bản và điểm kinh nghiệm nghề nghiệp. Nhận được điểm kinh nghiệm cơ bản sẽ tăng cấp độ cơ bản của nhân vật, đơn vị được sử dụng khi tính toán lượng HP và MP tối đa của nhân vật. Tăng cấp độ cơ bản cũng sẽ cho các điểm chỉ số, có thể được sử dụng để tăng các chỉ số khác nhau như sức mạnh, tốc độ, và trí truệ. Nhận được điểm kinh nghiệm nghề nghiệp sẽ tăng cấp độ nghề nghiệp của nhân vật, mỗi cấp nghề nghiệp sẽ cho một điểm kỹ năng, có thể sử dụng trong cây kỹ năng của nghề nghiệp đó nhằm nhận được khả năng mới, như kỹ năng phép thuật, đòn tấn công đặc biệt hay lợi tức bị động, hoặc tăng trưởng một khả năng đã có.
Video games
Since many early role-playing video games are derived from Dungeons & Dragons, most use a level-based experience system.
In many games, characters must obtain a minimum level to perform certain actions, such as wielding a particular weapon, entering a restricted area, or earning the respect of a non-player character. Some games use a system of "character levels", where higher-level characters hold an absolute advantage over those of lower level. In these games, statistical character management is usually kept to a minimum. Other games use a system of "skill levels" to measure advantages in terms of specific aptitudes, such as weapon handling, spell-casting proficiency, and stealthiness. These games allow the players to customize their characters to a greater extent.
Some games, particularly among MUDs and MMORPGs, place a limit on the experience a character gains from a single encounter or challenge, to reduce the effectiveness of power-leveling.
Perks
"Perks" are special bonuses that video game players can add to their characters to give special abilities. The term refers to the general usage of "perk" as an abbreviation of "perquisite". Perks are permanent rather than temporary and are progressively unlocked through experience points. The first video game to use the term "perks" to refer to such a mechanic was the 1997 role-playing video game Fallout.
Besides RPGs, perks have been used in various other video games in recent times, including first-person shooters such as Call of Duty 4: Modern Warfare (2007), Call of Duty: Modern Warfare 2 (2009), and Killing Floor (2009), as well as action games such as Metal Gear Online (2008).
Remorting
"Remorting" (also known as "rebirth", "ascending/ascension", "reincarnating", or "new game plus") is a game mechanic in some role-playing games whereby, once the player character reaches a specified level limit, the player can elect to start over with a new version of the character. The bonuses that are given are dependent on several factors, which generally involve the stats of the character before the reincarnation occurs. The remorting character generally loses all levels, but gains an advantage that was previously unavailable, usually access to different races, avatars, classes, skills, or otherwise inaccessible play areas within the game. A symbol often identifies a remorted character.
The term "remort" comes from MUDs, in some of which players may become immortal characters—administrative staff—simply by advancing to the maximum level. These users are generally expected to distance themselves from gameplay, and interaction with players may be severely limited. When an immortal chooses to vacate his or her position to resume playing the game—usually from level one just as with any new character—he or she is said to have remorted, "becoming mortal again".
Grinding
Grinding refers to the process of repeating one specific activity over and over. This is done, for example, by repeatedly participating in challenges, quests, tasks and events which reward experience points for performing repetitive, often menial challenges. This definition can also be used in multi-player games, but it is typically displaced by a much more charged meaning. A term intended to describe this style of play without pejorative connotation is optimization, also known as "XP farming".
Power-leveling
Power-leveling is using the help of another, stronger player to level a character more quickly than is possible alone.
Sharing
Games, that allow several characters participating in a single event (such as battle or quest completion), implement various methods of determining how and when experience gets shared between participants. These methods include: only last-hitting character, whose hit killed the enemy, getting experience (as in Fire Emblem series); unconditionally sharing experience among characters (as in D&D system); and giving experience based on each character's actions (as in Final Fantasy Tactics). In some online games, it is possible to join a group and gain experience, loot or other rewards, while providing little or no contribution to the group. This type of behaviour is referred to as leeching, particularly when it is done without the permission of other group members. In games which allow players to gain rewards by kill stealing, this is also considered a form of leeching. This is extremely common in games such as Dungeon Defenders, in which all players receive the same rewards regardless of their contributions.
Botting
Some players of online games use automated programs known as bots to grind or leech for them in order to progress with minimal effort. This practice often violates the terms of service. Bots are also commonly used in commercial operations in order to powerlevel a character, either to increase the sale value of the account, or to allow the character to be used for commercial gold farming.
Chú thích
Liên kết ngoài
Thuật ngữ trò chơi
Thuật ngữ trò chơi điện tử
Thuật ngữ trò chơi nhập vai
|
19849594
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%81m%20b%C3%A1o%20c%E1%BB%A7a%20qu%E1%BB%B7
|
Điềm báo của quỷ
|
Điềm báo của quỷ (tên tiếng Anh: The First Omen) là bộ phim thuộc thể loại kinh dị siêu nhiên của Hoa Kỳ được đạo diễn bởi Arkasha Stevenson với kịch bản do Stevenson, Tim Smith và Keith Thomas chấp bút dựa trên cốt truyện từ Ben Jacoby. Đây sẽ là phần phim tiền truyện của The Omen (1976), với cốt truyện sẽ xoay quanh một người phụ nữ Mỹ phụng sự tại một nhà thờ ở Roma và tại nơi đây, cô cũng đã vô tình phát hiện ra một âm mưu thâm độc nhằm tạo ra Kẻ phản Chúa. Phim sẽ có sự tham gia của Nell Tiger Free, Tawfeek Barhom, Sônia Braga, Ralph Ineson, Bill Nighy và được ra mắt vào ngày 5 tháng 4, 2024.
Diễn viên
Nell Tiger Free thủ vai Margaret
Sônia Braga thủ vai Silvia
Ralph Ineson thủ vai Cha Brennan
Bill Nighy thủ vai Lawrence
Tawfeek Barhom
Nicole Sorace
Sản xuất
Vào tháng 4, 2016, phần tiền truyện của The Omen đã được thông báo đang trong quá trình phát triển với Ben Jacoby sẽ đảm nhận vị trí biên kịch của phim và Antonio Campos đang được thảo luận để ngồi vào vị trí đạo diễn phim. Vào tháng 5, 2022, hãng 20th Century Studios đã chính thức bắt đầu phát triển dự án với Arkasha Stevenson sẽ tham gia chỉ đạo bộ phim này với tư cách là bộ phim đầu tay của cô. David S. Goyer, Keith Levine và Gracie Wheelan cũng sẽ tham gia sản xuất với nhãn hiệu Phantom Four, bên cạnh đó Tim Smith cũng sẽ đảm nhận vai trò giám đốc điều hành của phim. Nell Tiger Free chính thức được xác nhận sẽ tham gia bộ phim vào cuối tháng 8 năm 2022. Công đoạn quay phim cũng chính thức được hoàn thành vào tháng 1, 2023.
Phát hành
Bộ phim được phát hành bởi hãng 20th Century Studios vào ngày 5 tháng 4, 2024.
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim thập niên 2020
Phim tiếng Anh
Phim kinh dị
Phim siêu nhiên
Phim kinh dị siêu nhiên
Phim Mỹ năm 2024
Phim Mỹ thập niên 2024
Phim kinh dị năm 2024
Phim siêu nhiên năm 2024
Phim kinh dị siêu nhiên năm 2024
Phim kinh dị Mỹ
Phim siêu nhiên Mỹ
Phim kinh dị siêu nhiên Mỹ
Phim kinh dị thập niên 2020
Phim tiếng Anh thập niên 2020
Phim siêu nhiên thập niên 2020
Phim kinh dị siêu nhiên thập niên 2020
Phim được sản xuất bởi David S. Goyer
Phim về Kẻ phản Chúa
Phim của 20th Century Studios
Phim được đạo diễn bởi Arkasha Stevenson
Phim đạo diễn đầu tay
Phim tiền truyện
Phim tiền truyện Mỹ
Phim tiền truyện năm 2024
Phim tiền truyện thập niên 2020
Phim Mỹ thập niên 2020
|
19849596
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kaan%20Ayhan
|
Kaan Ayhan
|
Kaan Ayhan (sinh ngày 10 tháng 11 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí trung vệ hoặc hậu vệ phải cho câu lạc bộ Galatasaray tại Süper Lig. Sinh ra ở Đức, anh đại diện cho đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Galatasaray S.K.
Cầu thủ bóng đá U.S. Sassuolo Calcio
Cầu thủ bóng đá Eintracht Frankfurt
Cầu thủ bóng đá FC Schalke 04
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Tiền vệ bóng đá nam
Trung vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1994
|
19849597
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zeki%20%C3%87elik
|
Zeki Çelik
|
Mehmet Zeki Çelik (; sinh ngày 17 tháng 2 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ A S Roma tại Serie A và đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Zeki Çelik tại trang web AS Roma
Kỷ lục thi đấu
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá A.S. Roma
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Lille OSC
Cầu thủ bóng đá TFF First League
Cầu thủ bóng đá Bursaspor
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1997
|
19849598
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yusuf%20Yaz%C4%B1c%C4%B1
|
Yusuf Yazıcı
|
Yusuf Yazıcı (sinh ngày 29 tháng 1 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ Lille và đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Nga
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá PFC CSKA Moskva
Cầu thủ bóng đá Lille OSC
Cầu thủ bóng đá Trabzonspor
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Tiền vệ bóng đá nam
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1997
|
19849602
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%B0rfan%20Kahveci
|
İrfan Kahveci
|
İrfan Can Kahveci (sinh ngày 15 tháng 7 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Fenerbahçe tại Süper Lig và đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Gençlerbirliği
Sau thời gian thi đấu ở đội trẻ của Gençlerbirliği, Irfan Can có trận ra mắt đội một trong mùa giải 2014–2015 của Super Lig. Ngày 9 tháng 11 năm 2014, anh ghi bàn trong phút 63 trong trận đấu với Kasımpaşa. Anh kết thúc mùa giải với 6 bàn thắng trong 30 trận đấu ở cả liên đoàn và cúp.
Trong mùa giải thứ hai với Gençlerbirliği, anh có thêm 3 bàn thắng trong 33 trận đấu ở tất cả các giải đấu.
İstanbul Başakşehir
Ngày 26 tháng 12 năm 2016, Kahveci ký hợp đồng 4,5 năm với İstanbul Başakşehir. Ngày 2 tháng 12 năm 2020, anh ghi hat-trick trong trận đấu với RB Leipzig tại UEFA Champions League. Tuy nhiên, đội của anh đã thất bại với tỷ số 3–4. Điều này khiến anh trở thành cầu thủ thứ ba ghi hat-trick nhưng đội của anh thất bại tại Champions League, sau Ronaldo và Gareth Bale.
Fenerbahçe
Ngày 31 tháng 1 năm 2021, Fenerbahçe thông báo qua Twitter rằng Kahveci đã gia nhập đội. Anh ký hợp đồng 4,5 năm với Fenerbahçe với mức phí €7 triệu.
Ngày 4 tháng 3 năm 2021, anh ra mắt trong trận đấu với Antalyaspor tại Süper Lig, trận đấu kết thúc với tỷ số 1–1 tại Şükrü Saracoğlu Stadium. Tháng 10 năm 2021, anh ghi bàn đầu tiên trong trận đấu với Konyaspor, Fenerbahçe thất bại 1–2.
Trong mùa giải 2023–24, anh có một khởi đầu mạnh mẽ với HLV mới là huyền thoại đội bóng İsmail Kartal và trở thành một trong những cầu thủ chủ chốt đảm nhận nhiều trách nhiệm trên sân. Ngày 26 tháng 10 năm 2023, anh mặc áo Fenerbahçe trong trận thứ 100 của mình ở tất cả các giải đấu, đối đầu với Ludogorets Razgrad tại vòng bảng UEFA Europa Conference League, Fenerbahçe giành chiến thắng 3–1 tại Şükrü Saracoğlu Stadium.
Sự nghiệp quốc tế
Kahveci được HLV Fatih Terim triệu tập cho trận giao hữu của Đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ gặp Nga vào ngày 31 tháng 8 năm 2016 và trận Vòng loại World Cup 2018 tiếp theo gặp Croatia. Anh có trận ra mắt trong đội tuyển quốc gia vào ngày 23 tháng 3 năm 2018 trong trận thắng 1–0 trước Ireland. Trong trận giao hữu thứ hai của anh vào tháng 6 năm 2019, gặp Uzbekistan, anh có cơ hội ghi bàn quốc tế đầu tiên nhưng đá hỏng quả penalty ở phút 90. Tuy nhiên, Thổ Nhĩ Kỳ vẫn giành chiến thắng 2–0 nhờ cú đúp của Zeki Çelik.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại TFF
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ bóng đá Fenerbahçe S.K.
Cầu thủ bóng đá İstanbul Başakşehir F.K.
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Tiền đạo bóng đá nam
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1995
|
19849603
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%A1n%20%C3%A9p
|
Ván ép
|
Ván ép (Plywood) hay còn gọi là gỗ dán là tấm vật liệu được làm từ nhiều lớp gỗ tự nhiên lạng mỏng. Các lớp gỗ này được sắp xếp vuông góc theo hướng vân gỗ của mỗi lớp, rồi được ép vào nhau dưới nhiệt độ và áp suất cao với sự tham gia của các chất kết dính. Đây là loại ván gỗ ép được tạo ra từ nhiều lớp ván cắt mỏng có cùng kích thước xếp chồng lên nhau một cách liên tục theo hướng vân gỗ của mỗi lớp. Các lớp ván được dính lại bằng keo chuyên dụng sau đó được ép bằng máy ép thủy lực. Ván ép có khả năng chống nước, chịu lực tốt và có thể gia công để thích hợp với nhiều mục đích sử dụng khác nhau. Trong tiếng Anh thì Từ ply bắt nguồn từ động từ tiếng Pháp là plier, có nghĩa là "gấp" và từ động từ tiếng Latinh là plico, từ động từ tiếng Hy Lạp cổ: πλέκω.
Tổng quan
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết xuất hiện đầu tiên của gỗ dán trong các lăng mộ của Pharaoh tại Ai Cập vào khoảng 3500 năm Trước Công Nguyên. Khoảng một ngàn năm trước, người Trung Hoa đã biết bào mỏng gỗ và dán chúng lại với nhau để ứng dụng trong đồ nội thất. Vào năm 1797, Samuel Bentham vốn là một kỹ sư máy và kỹ sư đóng tàu người Anh đã đăng ký bản quyền sáng chế đối với một số loại máy lạng mỏng gỗ. Trong đăng ký sáng chế này, ông đã mô tả một khái niệm về việc dán các lớp gỗ lạng mỏng lại với nhau để tạo thành một tấm gỗ dày hơn và đây được coi là sự mô tả đầu tiên về khái niệm gỗ dán sử dụng ngày nay. Khoảng 50 năm sau, Immanuel Nobel là cha đẻ của nhà khoa học nổi tiếng Alfred Nobel đã nhận ra rằng, khi liên kết các lớp gỗ tự nhiên mỏng lại với nhau, sẽ tạo thành một tấm vật liệu với độ bền đáng kinh ngạc. trong ấn bản năm 1870, từ điển tiếng Pháp, Robert đã mô tả quy trình sản xuất ván lạng bằng máy tiện quay trong mục nhập Déroulage. do đó, người ta có thể cho rằng sản xuất ván ép bằng máy tiện quay là một quá trình đã được hình thành ở Pháp vào những năm 1860. Ván ép được du nhập vào Hoa Kỳ vào năm 1865.
Chú thích
Vật dụng
|
19849607
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mert%20G%C3%BCnok
|
Mert Günok
|
Fehmi Mert Günok (, sinh ngày 1 tháng 3 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá người Thổ Nhĩ Kỳ, đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Beşiktaş và đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Günok bắt đầu sự nghiệp của mình tại Kocaelispor và gia nhập Fenerbahçe vào năm 2001, nơi anh ở cho đến năm 2015. Tại đây, anh đã được thăng chức lên chuyên nghiệp, thi đấu ở cấp độ Süper Lig và giành được 2 danh hiệu Süper Lig. Anh gia nhập Bursaspor vào năm 2015, nơi anh ở trong vòng 2 mùa. Năm 2017, Günok ký hợp đồng với Başakşehir F.K., nơi anh giành được danh hiệu Süper Lig đầu tiên trong mùa giải 2019–20.
Günok đã đại diện cho đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ tại các giải đấu quốc tế từ cấp U16 từ năm 2004. Anh có trận đấu quốc tế đầu tiên ở cấp độ đội tuyển lớn vào năm 2012 và là thủ môn chính của đội tuyển trong giai đoạn vòng loại Euro 2020, nơi họ giành quyền vào vòng chung kết.
Trong sự nghiệp chuyên nghiệp của mình, Günok đã giành 3 danh hiệu Süper Lig, 2 Cúp Thổ Nhĩ Kỳ và 3 Siêu cúp Thổ Nhĩ Kỳ trong thời gian thi đấu cho Fenerbahçe và Istanbul Başakşehir.
Sự nghiệp câu lạc bộ == === Fenerbahçe = Günok bắt đầu sự nghiệp bóng đá tại cấp độ trẻ ở Kocaelispor từ năm 2000 đến 2001, nơi anh mô tả như "tham gia vài trận đấu khi cha tôi làm việc ở đó", trong khi Mahir, cha anh, đang làm HLV thủ môn. Sau đó, anh được phát hiện bởi các quan chức của Fenerbahçe vào năm 2001, tại Istanbul, trong một trận đấu trên sân nhỏ và gia nhập đội bóng nơi anh nhận được giấy phép thi đấu đầu tiên. Trong giai đoạn thi đấu ở cấp độ trẻ, anh ghi một bàn từ quả penalty trước Manisaspor trong trận đấu PAF Ligi vào ngày 9 tháng 3 năm 2008.
Günok ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên của mình trước mùa giải 2009–10. Anh là thủ môn thứ ba, sau Volkan Demirel và Volkan Babacan của Fenerbahçe ở mùa giải 2010–11.
Anh có trận ra mắt tại Süper Lig trước Antalyaspor vào ngày 15 tháng 8 năm 2010, thay thế khi Volkan Demirel bị chấn thương ở đầu hiệp hai, giữ sạch lưới. Günok duy trì vị trí trong đội hình xuất phát trong hai trận gặp Trabzonspor và Manisaspor,, nơi anh đã để lọt lưới 5 bàn. Trong trận đấu nhà với Trabzonspor, kết thúc với tỷ số 2–3, Günok cản phá quả penalty của tiền vệ người Argentina Gustavo Colman.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mert Günok at the Turkish Football Federation
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Beşiktaş J.K.
Cầu thủ bóng đá İstanbul Başakşehir F.K.
Cầu thủ bóng đá Bursaspor
Cầu thủ bóng đá Fenerbahçe S.K.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1989
|
19849609
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kerem%20Akt%C3%BCrko%C4%9Flu
|
Kerem Aktürkoğlu
|
Muhammed Kerem Aktürkoğlu (sinh ngày 21 tháng 10 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Galatasaray tại Süper Lig và đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Kerem Aktürkoğlu at the Turkish Football Federation
Cầu thủ bóng đá Galatasaray S.K.
Cầu thủ bóng đá İstanbul Başakşehir F.K.
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1998
|
19849611
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ferdi%20Kad%C4%B1o%C4%9Flu
|
Ferdi Kadıoğlu
|
Ferdi Erenay Kadıoğlu (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu ở vị trí hậu vệ hoặc tiền vệ cho câu lạc bộ Fenerbahçe ở Süper Lig và đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Danh hiệu
Fenerbahçe
Turkish Cup: 2022–23
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Eerste Divisie
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ bóng đá Fenerbahçe S.K.
Cầu thủ bóng đá NEC Nijmegen
Người Hà Lan gốc Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Hà Lan
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Tiền vệ bóng đá nam
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1999
|
19849613
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%B0smail%20Y%C3%BCksek
|
İsmail Yüksek
|
İsmail Yüksek (sinh ngày 26 tháng 1 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Fenerbahçe tại Süper Lig và đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
İsmail Yüksek at the Turkish Football Federation
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá TFF First League
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Bursaspor
Cầu thủ bóng đá Adana Demirspor
Cầu thủ bóng đá Balıkesirspor
Cầu thủ bóng đá Fenerbahçe S.K.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1999
|
19849614
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chikusa%2C%20Nagoya
|
Chikusa, Nagoya
|
là quận thuộc thành phố Nagoya, tỉnh Aichi, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của quận là 165.245 người và mật độ dân số là 9.100 người/km2. Tổng diện tích của quận là 18,18 km2.
Tham khảo
Quận của Nagoya
|
19849616
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bar%C4%B1%C5%9F%20Alper%20Y%C4%B1lmaz
|
Barış Alper Yılmaz
|
Barış Alper Yılmaz (sinh ngày 23 tháng 5 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Galatasaray tại Süper Lig và đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Danh hiệu
Galatasaray
Süper Lig: 2022–23
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá TFF First League
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Galatasaray S.K.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2000
|
19849617
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Berkan%20Kutlu
|
Berkan Kutlu
|
Berkan İsmail Kutlu (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Galatasaray. Sinh ra ở Thụy Sĩ, anh đại diện cho đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
SFL Profile
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Genoa C.F.C.
Cầu thủ bóng đá Galatasaray S.K.
Cầu thủ bóng đá Alanyaspor
Cầu thủ bóng đá FC Sion
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Thụy Sĩ
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1998
|
19849619
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Syfy
|
Syfy
|
Syfy (với tên cũ là Sci-Fi Channel sau này được rút ngắn thành Sci Fi rồi cách điệu thành SYFY) là một kênh truyền hình cáp của Mỹ, thuộc sở hữu của NBCUniversal Media Group vốn là một bộ phận và phân khúc kinh doanh của Comcast NBCUniversal. Ra mắt vào ngày 24 tháng 9 năm 1992, kênh Syfy phát sóng các chương trình liên quan đến thể loại khoa học viễn tưởng, phim kinh dị và giả tưởng. Tính đến tháng 1 năm 2016, Syfy là chương trình đã được cài sẵn cho 92,4 triệu hộ gia đình ở Mỹ.
Lịch sử
Năm 1989, tại Boca Raton, Florida, luật sư truyền thông và doanh nhân truyền hình cáp Mitchell Rubenstein cùng vợ và đối tác kinh doanh Laurie Silvers đã nghĩ ra ý tưởng cho Kênh khoa học viễn tưởng và đăng ký 8 trong số 10 nhà khai thác truyền hình cáp hàng đầu cũng như cấp phép độc quyền cho loạt phim truyền hình Anh Doctor Who (đã chuyển từ PBS sang Kênh khoa học viễn tưởng), Dark Shadows và loạt phim đình đám The Prisoner. Năm 1992, kênh này được Rubenstein và Silvers bán cho USA Networks, sau đó là liên doanh giữa Paramount Pictures và Universal Pictures. Rubenstein và Silvers trở thành phó chủ tịch của USA Networks. Người sáng tạo Star Trek Gene Roddenberry và tác giả Isaac Asimov đã được Rubenstein và Silvers tuyển dụng để phục vụ trong ban tư vấn ban đầu nhưng cả Roddenberry và Asimov đều đã qua đời vào thời điểm kênh cuối cùng ra mắt vào ngày 24 tháng 9 năm 1992. Rubenstein nhớ lại: Điều đầu tiên xuất hiện trên màn hình là "dành riêng cho những ký ức về Isaac Asimov và Gene Roddenberry".
Leonard Nimoy là người chủ trì nghi lễ tại bữa tiệc ra mắt kênh, được tổ chức tại Hayden Planetarium ở Manhattan. Vợ góa của Asimov là Janet và vợ góa của Roddenberry là Majel Barrett đều tham dự. Chương trình đầu tiên được chiếu trên mạng là bộ phim Chiến tranh giữa các vì sao. Từ năm 1992 đến năm 1999, Logo đầu tiên của mạng bao gồm một hành tinh có một chiếc nhẫn, được làm trông giống như Sao Thổ, với dòng chữ "SCI-FI CHANNEL" trên đó. Logo thứ hai của mạng, được sử dụng từ năm 1999 đến năm 2002, đã bỏ dấu gạch nối và bỏ cụm từ "Kênh" khỏi tên gọi. Logo "hành tinh có vành đai" thứ ba và cuối cùng có từ năm 2002 đến năm 2009 và được Lambie-Nairn thiết kế. Logo xuất hiện lần đầu vào ngày 2 tháng 12 năm 2002, với sự ra mắt của miniseries Steven Spielberg là Taken. Mạng Syfy cũng đã phát động một chiến dịch hình ảnh mới với khẩu hiệu "If", thể hiện khả năng vô hạn của trí tưởng tượng. Với trải nghiệm va chạm nhận dạng mô tả các tình huống siêu thực như một em bé thở ra lửa cũng như cảnh một người phụ nữ trong phòng khách hôn một con quái vật tai to, mắt bọ.
Vào ngày 16 tháng 3 năm 2009, NBCUniversal thông báo rằng Sci-Fi sẽ đổi tên thành "Syfy". Các quan chức của Sci-Fi cũng lưu ý rằng, không giống như thuật ngữ chung "khoa học viễn tưởng", đại diện cho toàn bộ thể loại, thuật ngữ "Syfy" dưới dạng cách viết giật gân có thể được bảo vệ bởi nhãn hiệu và do đó sẽ dễ dàng tiếp thị các hàng hóa hoặc dịch vụ khác mà không sợ nhầm lẫn với sản phẩm của các công ty khác. Việc sử dụng thuật ngữ "Syfy" đáng kể duy nhất trước đây liên quan đến khoa học viễn tưởng là do trang web SyFy Portal, trở thành Airlock Alpha sau khi bán thương hiệu này cho một công ty giấu tên vào tháng 2 năm 2009. Việc đổi tên đã được chào đón với những phản ứng tiêu cực ban đầu, với việc mọi người cố tình phát âm sai "Syfy" để chế nhạo việc đổi tên. Tên mới có hiệu lực từ ngày 7 tháng 7 năm 2009. Syfy kể từ đó đã bổ sung thêm các chương trình thực tế và tiến xa hơn khỏi các chương trình khoa học viễn tưởng, giả tưởng và đề tài kinh dị.
Chú thích
Tham khảo
Syfy Games
The story of a failed Sci Fi Channel venture.
Kênh truyền hình Mỹ
|
19849620
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cenk%20Tosun
|
Cenk Tosun
|
Cenk Tosun (; sinh ngày 7 tháng 6 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Beşiktaş tại Süper Lig và đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Beşiktaş JK
Trang web chính thức
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ ở nước ngoài
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Đức
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Crystal Palace F.C.
Cầu thủ bóng đá Everton F.C.
Cầu thủ bóng đá Beşiktaş J.K.
Cầu thủ bóng đá Eintracht Frankfurt
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1991
|
19849622
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Enes%20%C3%9Cnal
|
Enes Ünal
|
Enes Ünal (sinh ngày 10 tháng 5 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Getafe và đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại website Getafe CF
Kỷ lục thi đấu
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Real Valladolid
Cầu thủ bóng đá Villarreal CF
Cầu thủ bóng đá K.R.C. Genk
Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.
Cầu thủ bóng đá Bursaspor
Cầu thủ bóng đá La Liga
Cầu thủ bóng đá Eerste Divisie
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1997
|
19849624
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kenan%20Karaman
|
Kenan Karaman
|
Kenan Karaman (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ cho Schalke 04 tại 2. Bundesliga và đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web FC Schalke 04
Hồ sơ tại kicker.de
Kenan Karaman
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá FC Schalke 04
Cầu thủ bóng đá Beşiktaş J.K.
Cầu thủ bóng đá Hannover 96
Cầu thủ bóng đá TSG 1899 Hoffenheim
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Tiền đạo bóng đá nam
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1994
|
19849628
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Halil%20Dervi%C5%9Fo%C4%9Flu
|
Halil Dervişoğlu
|
Halil İbrahim Dervişoğlu (sinh ngày 8 tháng 12 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Galatasaray tại Süper Lig. Sinh ra ở Hà Lan, anh đại diện cho đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ .
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá Burnley F.C.
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Galatasaray S.K.
Cầu thủ bóng đá FC Twente
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ bóng đá Eerste Divisie
Cầu thủ bóng đá Brentford F.C.
Tiền đạo bóng đá nam
Người Hà Lan gốc Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1999
|
19849632
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yunus%20Akg%C3%BCn
|
Yunus Akgün
|
Yunus Akgün (sinh ngày 7 tháng 7 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Leicester City theo dạng cho mượn từ câu lạc bộ Galatasaray. Anh đại diện cho đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Yunus Akgün tại Galatasaray.org
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá TFF First League
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Leicester City F.C.
Cầu thủ bóng đá Adana Demirspor
Cầu thủ bóng đá Galatasaray S.K.
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Thổ Nhĩ Kỳ
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2000
|
19849633
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Miyoshi%2C%20Aichi
|
Miyoshi, Aichi
|
là thành phố thuộc tỉnh Aichi, Nhật Bản. Tính đế ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thành phố là 61.952 người và mật độ dân số là 1.900 người/km2. Tổng diện tích thành phố là 32,19 km2.
Tham khảo
Thành phố tỉnh Aichi
|
19849639
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Godzilla%20Minus%20One
|
Godzilla Minus One
|
là một bộ phim điện ảnh sử thi lấy đề tài quái vật ra mắt năm 2023 của Nhật Bản, do Yamazaki Takashi đạo diễn, biên kịch kiêm xử lý phần hiệu ứng hình ảnh, đồng thời được Toho Studios, Robot Communications sản xuất và phân phối bởi Toho. Đây là phần phim thứ 37 trong loạt Godzilla, tác phẩm điện ảnh Godzilla thứ 33 của nhà Toho, đồng thời cũng là bộ phim thứ năm trong Thời kỳ Lệnh Hòa thuộc chuỗi phim về quái vật này. Với sự tham gia diễn xuất của Kamiki Ryunosuke, Hamabe Minami, Yamada Yuki, Aoki Munetaka, Yoshioka Hidetaka, Ando Sakura cùng Sasaki Kuranosuke, tác phẩm xoay quanh cuộc đối đầu của người dân Nhật Bản thời kỳ hậu chiến với mối đe dọa khổng lồ mang tên Godzilla – thứ biến quốc gia này đang trong tình trạng mất hết tất cả trở về con số âm.
Sau khi ra mắt bộ phim The Great War of Archimedes vào năm 2019, đạo diễn Yamazaki đã được chỉ định để thực hiện một tác phẩm điện ảnh về Godzilla. Ngay sau đó, ông bèn dành ra ba năm để chắp bút phần kịch bản, vốn chịu ảnh hưởng từ Godzilla (1954), Hàm cá mập (1975), những tác phẩm do Miyazaki Hayao đạo diễn, Godzilla, Mothra and King Ghidorah (2001) và Shin Godzilla (2016). Ngoài ra, Yamazaki cũng từng phụ trách một số dự án về kaiju khổng lồ này, đơn cử như bộ phim Always Zoku Sanchōme no Yūhi (2007) cùng điểm tham quan quái vật tại công viên giải trí Seibu-en năm 2021. Vào tháng 2 năm 2022, công ty Robot thông báo rằng đạo diễn Yamazaki sẽ sớm xúc tiến quá trình chỉ đạo một bộ phim lấy đề tài kaiju. Quá trình ghi hình của Godzilla Minus One chủ yếu diễn ra ở hai vùng Kantō và Chūbu từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2022, sau đó xưởng phim Shirogumi giữ vai trò xử lý khâu hiệu ứng hình ảnh tại studio thuộc địa phận thành phố Chōfu từ tháng 4 năm 2022 đến tháng 5 năm 2023.
Godzilla Minus One ra mắt lần đầu tại Tòa nhà Shinjuku Toho vào ngày 18 tháng 10 năm 2023 và được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 3 tháng 11, nhân dịp kỷ niệm 70 năm ra đời của thương hiệu. Công ty con Toho International của Toho sau đó cũng phân phối bộ phim ở thị trường Bắc Mỹ vào ngày 1 tháng 12. Tác phẩm đã thu về hơn 100 triệu USD trên toàn thế giới so với kinh phí chỉ vỏn vẹn ở mức 10–15 triệu USD, đồng thời thiết lập nên một số cột mốc quan trọng, trong đó gồm cả việc vượt qua Shin Godzilla để trở thành phim điện ảnh của Nhật Bản về Godzilla thành công nhất mọi thời đại. Các nhà phê bình phương Tây đã dành nhiều lời khen ngợi cho phần hiệu ứng hình ảnh, lối chỉ đạo, cốt truyện, nhân vật, nhạc phim và tính hiện thực, ngoài ra còn so sánh tác phẩm một cách tích cực với những bộ phim gần đây của Hollywood. Godzilla Minus One cũng gặt hái được rất nhiều thành tích tại các lễ trao giải, bao gồm ba tượng vàng từ Hiệp hội phê bình phim Seattle, dẫn đầu 12 đề cử tại giải Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 47, cũng như vinh dự được xướng tên ở hạng mục Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất tại giải Oscar lần thứ 96, qua đó trở thành bộ phim về Godzilla đầu tiên nhận được đề cử và giành chiến thắng ở hạng mục đó. Một phiên bản đen trắng đặc biệt mang tên Godzilla Minus One/Minus Color đã ra mắt tại Nhật Bản vào ngày 12 tháng 1 năm 2024, trong khi Toho International thì dự kiến phát hành tác phẩm tại Mỹ vào ngày 26 tháng 1.
Nội dung
Vào năm 1945, khi Chiến tranh thế giới lần hai sắp sửa bước vào hồi kết, phi công kamikaze Shikishima Kōichi đã hạ cánh chiếc Mitsubishi A6M Zero của mình xuống căn cứ Nhật Bản đóng trên đảo Odo. Thợ máy trưởng Tachibana nghi ngờ rằng Shikishima đã trốn tránh nhiệm vụ vì tổ quốc quyết sinh bằng cách giả vờ như thể chiến đấu cơ của anh đang gặp trục trặc. Đêm hôm đó, một sinh vật to lớn giống khủng long tên Godzilla đã tấn công khu đồn trú và sát hại rất nhiều người. Trong cơn nguy khốn, Shikishima bỗng nhiên tê cóng đến nỗi không thể bắn con quái vật từ máy bay của mình rồi bị đánh bất tỉnh. Tachibana, người duy nhất sống sót sau cuộc tàn sát, vô cùng phẫn nộ và trách cứ Shikishima vì đã không hành động nên dẫn đến kết cục bi thương cho tất cả đồng đội trên đảo.
Shikishima trở về nhà và nhận ra rằng cha mẹ mình đã thiệt mạng trong vụ oanh tạc ở Tokyo. Do bị giằng xé bởi cảm giác tội lỗi của người sống sót, Shikishima quyết định làm công việc quét mìn và cưu mang một người phụ nữ tên Ōishi Noriko cùng đứa bé mồ côi Akiko, cả hai đều có người thân qua đời vì bom đạn. Trong khi đó, những vụ thử hạt nhân của Mỹ tại Đảo san hô vòng Bikini đã khiến Godzilla bị đột biến và trở nên mạnh mẽ hơn, đồng thời nó còn tiêu diệt một số tàu chiến của quốc gia này trước khi tiến tới Nhật Bản. Do căng thẳng với Liên Xô, Mỹ không thể đưa ra bất kỳ sự viện trợ nào với những tàu Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã ngừng hoạt động được Tướng Douglas MacArthur phê chuẩn. Mặc khác, chính phủ Nhật cũng lo ngại về việc sẽ gây ra hoảng loạn trên diện rộng nên quyết định không thông báo cho dân chúng về mối đe dọa này.
Tháng 5 năm 1947, Shikishima cùng đội tàu quét mìn của anh được giao nhiệm vụ ngăn chặn Godzilla tiếp cận Nhật Bản. Họ thả một quả mìn vào miệng Godzilla, kích nổ nó và gây ra thiệt hại đáng kể, thế nhưng mọi thứ đều trở thành công cốc khi con quái vật nhanh chóng hồi phục vết thương. Tàu tuần dương hạng nặng Takao bất ngờ xuất hiện và giao chiến với Godzilla, nhưng cũng không thoát khỏi kết cục bi thảm sau khi lãnh nguyên luồng tia nhiệt phóng ra từ miệng nó. Shikishima trở về Tokyo rồi kể cho nghe Noriko toàn bộ mọi chuyện về mình, cũng như cuộc gặp gỡ của anh với con quái vật ấy. Vài ngày sau, Godzilla xuất hiện tại Nhật Bản và tấn công quận Ginza – nơi Noriko làm việc. Cô sống sót thần kỳ sau cuộc tấn công đầu tiên và đoàn tụ với Shikishima giữa dòng người hoảng loạn. Do bị khiêu khích bởi hỏa lực của xe tăng, Godzilla liền quyết định sử dụng tia nhiệt và quét sạch gần như toàn bộ khu vực, dẫn đến cái chết của hàng chục nghìn người. Trước tình thế ấy, Noriko đã kịp đẩy Shikishima vào con hẻm trước khi bị thổi bay theo làn sóng xung kích đến từ vụ nổ. Đau buồn vì mất mát, Shikishima thề rằng sẽ trả thù cho người mình yêu thương.
Thất vọng vì sự bàng quan của chính phủ, một thành viên thuộc đội tàu quét mìn kiêm cựu kỹ sư hải quân tên Noda Kenji đã lập ra kế hoạch tiêu diệt Godzilla bằng cách dụ con quái vật đến Vịnh Sagami trước khi bao vây nó bằng những xi-lanh Freon rồi làm vỡ chúng, từ đó giảm đi sức nổi của nước và nhấn chìm Godzilla, khiến cho áp lực nước đè bẹp nó trước khi cơ thể kịp thích nghi. Nếu kế hoạch thất bại, những túi phao lớn sẽ được thổi phồng bên dưới Godzilla để kéo con quái thú quay trở lại mặt nước với hy vọng sẽ làm nó tắt thở do áp suất giảm đột ngột. Để thực hiện kế hoạch của mình, Noda cho tuyển dụng những cựu binh hải quân làm thủy thủ đoàn trên các tàu khu trục IJN đã được giải giáp vũ khí. Trong khi đó, Shikishima lại chiêu mộ Tachibana để sửa chữa chiếc máy bay chiến đấu Kyushu J7W Shinden bị bỏ xó suốt nhiều năm trời. Anh dự định sẽ kết liễu Godzilla bằng cách phi thẳng máy bay vào miệng nó rồi kích hoạt khối thuốc nổ được quấn trên thân. Trước khi rời đi, anh cũng không quên gửi gắm cô bé Akiko cho người hàng xóm Sumiko chăm sóc.
Godzilla xuất hiện trở lại và bị Shikishima dụ vào cái bẫy do hai tàu khu trục giăng ra. Nó sống sót sau cú chìm đầu tiên và nhai đứt dây cáp trước khi bị kéo trở lại. Với sự trợ giúp của một đội tàu kéo, mọi người đã thành công lôi Godzilla lên khỏi mặt nước. Tức giận trước điều đó, con quái vật quyết định sử dụng tia nhiệt để tiêu diệt toàn bộ hạm đội kẻ thù, thế nhưng Shikishima đã kịp thời xuất hiện rồi lao thẳng máy bay vào miệng nó khiến cho phần đầu nổ tung, sau đó nguồn năng lượng của tia nhiệt cũng xé toạt toàn bộ cơ thể con ác thú. Tất cả mọi người đều hò reo ăn mừng khi biết rằng Shikishima đã kịp kích hoạt bệ phóng nhảy dù và hạ cánh đến nơi an toàn, đồng thời vị cựu phi công còn nhớ lại lời khuyên của Tachibana, rằng anh hãy buông bỏ mặc cảm đè nặng trên vai và chọn cách sống tiếp phần đời còn lại.
Sau khi biết tin Noriki vẫn còn sống, Shikishima ngay lập tức chạy đến một bệnh viện, nhìn thấy cô đang nằm trên giường bệnh và hai người cùng nhau đoàn tụ với những giọt nước mắt hạnh phúc. Tuy vậy, cuộc chiến vẫn chưa kết thúc, bởi Godzilla đã bắt đầu quá trình tái sinh từ một tảng thịt đang dần chìm xuống đáy đại dương sâu thẳm.
Diễn viên
Kamiki Ryunosuke vai Shikishima Kōichi, cựu phi công kamikaze
Hamabe Minami vai Ōishi Noriko, bạn đời của Shikishima
Yamada Yuki vai Mizushima Shirō, một thủy thủ trẻ trên tàu Shinsei Maru
Aoki Munetaka vai Tachibana Sōsaku, cựu kỹ thuật viên thuộc Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản
Yoshioka Hidetaka vai Noda Kenji, cựu kỹ sư vũ khí của Hải quân
Ando Sakura vai Ōta Sumiko, hàng xóm của Shikishima
Sasaki Kuranosuke vai Akitsu Yōji, thuyền trưởng tàu Shinsei Maru
Nagatani Sae vai Akiko, con gái nuôi của Ōishi và Shikishima
vai Hotta Tatsuo, thuyền trưởng tàu khu trụcYukikaze
Yuya Endo vai Tadamasa Saitō
Danh sách diễn viên được lấy từ Kinema Junpo.
Sản xuất
Phát triển
Vào năm 2016, Toho Co., Ltd. đã phát hành một phần phim khởi động lại của chuỗi phim về quái vật Godzilla mang tên Shin Godzilla. Tác phẩm vô cùng thành công về cả mặt thương mại lẫn nghệ thuật, qua đó thúc đẩy đạo diễn Anno Hideaki cho ra mắt hai bộ phim tokusatsu khởi động lại khác gồm Shin Ultraman (2022) và Shin Kamen Rider (2023). Theo nhà sản xuất Yamada Kenji của Godzilla Minus One, Toho đã lên kế hoạch thực hiện một số phim điện ảnh Godzilla người đóng theo sau thành công của Shin Godzilla, tuy nhiên tất cả đều bị hủy bỏ vì họ cảm thấy chúng không xứng đáng với danh xưng "tác phẩm nối tiếp". Vào năm 2017, đồng đạo diễn Higuchi Shinji của Shin Godzilla đã tuyên bố tại hội nghị người hâm mộ G-Fest ở Hoa Kỳ rằng Toho sẽ không thực hiện bất kỳ bộ phim nào về Godzilla cho đến năm 2020, lý do là vì thỏa thuận của Toho với Legendary Pictures – hãng phim đang xây dựng thương hiệu Godzilla riêng – đã cấm họ phát hành những bộ phim lấy đề tài Godzilla cùng năm với Legendary. Năm 2018, giám đốc điều hành Toho Ota Keiji thông báo rằng Shin Godzilla sẽ không có bất kỳ phần phim nối tiếp nào, đồng thời bày tỏ sự quan tâm đến một vũ trụ Godzilla chung, tương tự như Vũ trụ Điện ảnh Marvel.
Năm 2019, Toho cho thành lập bộ phận "Godzilla Room" chuyên hoạch định phát triển những dự án Godzilla mới. Sau khi phát hành bộ phim The Great War of Archimedes trong cùng năm đó, nhà sản xuất Ichikawa Minami đã chỉ định đạo diễn nổi tiếng Yamazaki Takashi thực hiện một tác phẩm về Godzilla. Ông bắt đầu chuẩn bị cho dự án và định dành ra một năm để chắp bút phần kịch bản. Tuy nhiên, đại dịch COVID-19 đã buộc đoàn làm phim hoãn quay vài năm, dẫn đến việc kịch bản phải viết đi viết lại nhiều lần trong suốt khoảng thời gian đó.
Godzilla Minus One chính là lần thứ ba mà đạo diễn Yamazaki đưa nhân vật Godzilla vào trong tác phẩm của mình. Đầu tiên là bộ phim mang tên Always Zoku Sanchōme no Yūhi (2007), trong đó con quái vật xuất hiện ở cảnh mở đầu tác phẩm. Trong quá trình chuẩn bị sản xuất Minus One, ông cũng đã chỉ đạo và tạo hiệu ứng cho điểm tham quan mô phỏng chuyển động Godzilla the Ride: Giant Monsters Ultimate Battle (2021) thuộc Công viên giải trí Seibu-en.
Vào ngày 18 tháng 2 năm 2022, Robot Communications đã thông báo về bộ phim mang tiêu đề , thông qua quá trình tuyển vai trên trang web chính thức của họ. Robot cho biết tác phẩm sẽ do Yamazaki đạo diễn và được phân phối bởi Toho. Vào ngày tiếp theo, cây bút Ando Kenji của HuffPost đã đề cập đến những phỏng đoán của người hâm mộ trên mạng xã hội về việc liệu đây có phải là phiên bản làm lại của phần phim ra mắt năm 1954 hay không. Ando cũng lưu ý rằng đây là một tác phẩm sử thi lấy bối cảnh Nhật Bản thời hậu chiến từ năm 1945 đến năm 1947, đồng thời trích dẫn nhận xét của Yamazaki từ một cuộc phỏng vấn về lối miêu tả Godzilla của ông trong Always Zoku Sanchōme no Yūhi: "Bạn sẽ không thể nào có được Godzilla trừ khi đó là Thời kỳ Chiêu Hòa".
Toho tuyên bố rằng dự án kaiju giấu tên do Yamazaki đảm trách chính là một bộ phim lấy chủ đề Godzilla vào ngày 3 tháng 11 năm 2022, tại một sự kiện kỷ niệm sinh nhật lần thứ 68 của thương hiệu mang tên "Ngày Godzilla". Bên cạnh đó, công ty cũng tiết lộ rằng bộ phim đã hoàn thành việc công việc ghi hình và đang bước vào giai đoạn hậu kỳ, trong đó ngày phát hành dự kiến sẽ là 3 tháng 11 năm 2023. Yamazaki được bổ nhiệm làm biên kịch và giám sát hiệu ứng hình ảnh của tác phẩm. Trong cuộc họp báo vào ngày 13 tháng 12 năm 2022, trưởng phòng kế hoạch Usui Hisashi của Toho ngụ ý rằng bộ phim mới có liên quan đến phần phim đầu tiên ra mắt năm 1954.
Toho đã nộp đơn đăng ký nhãn hiệu cho tựa tiếng Nhật vào ngày 11 tháng 7 năm 2023, bên cạnh những cách đọc thay thế khác như . Đạo diễn Yamazaki cũng cho biết tiêu đề Anh–Nhật của Godzilla Minus One là do nhà sản xuất Abe Shūji nghĩa ra, đồng thời ông tin rằng Abe đã chịu ảnh hưởng từ quyển tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của nhà văn .
Kịch bản
Yamazaki nói rằng nỗi lo âu trải rộng toàn thế giới và sự bất tin của chính phủ trong đại dịch COVID-19 là một trong những nguồn cảm hứng chính để ông viết nên câu chuyện, đồng thời vị đạo diễn cũng hy vọng những điều đó sẽ được phản ánh đầy đủ trong bộ phim hoàn chỉnh. Yamazaki không muốn đặt bối cảnh phim ở Nhật Bản thời hiện đại và lấy ý tưởng từ thảm họa hạt nhân Fukushima 2011 vì ông tin rằng nó sẽ rất giống với Shin Godzilla (2016). Thay vào đó, vị đạo diễn quyết định xây dựng bối cảnh ở thời kỳ hậu chiến, qua đó tạo cơ hội cho Godzilla Minus One khám phá những chủ đề về phản chiến, tổn thương, hy vọng, mặc cảm tội lỗi cùng sự cứu chuộc. Ngoài ra, ông cũng tuyên bố rằng Godzilla tượng trưng cho quan điểm của Nhật Bản về thảm sát hạt nhân, tương tự như tác phẩm điện ảnh ra mắt năm 1954. Yamazaki quyết định đưa tàu tuần dương hạng nặng Takao, máy bay chiến đấu Shinden, tàu khu trục Yukikaze và Hibiki phim vì ông rất thích lịch sử quân sự nhưng lại chưa từng nhắc về chúng trước đây.
Khi viết kịch bản cho Godzilla Minus One, đạo diễn Yamazaki đã chịu nhiều cảm hứng từ bộ phim Godzilla, Mothra and King Ghidorah: Giant Monsters All-Out Attack (2001) của Kaneko Shusuke — một trong những tác phẩm về Godzilla mà ông yêu thích nhất. Tại buổi chiếu phim, ông đã phân trần với Kaneko rằng "Tôi đã quên béng đi nội dung của GMK trong một khoảng thời gian, nhưng lại tự động nghĩ về nó khi thảo ra kịch bản của -1.0. Dường như tôi đã hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi tác phẩm mà chẳng hề mảy may nhận ra điều đó". Bên cạnh đó, vị đạo diễn cũng thừa nhận Godzilla Minus One đã chịu nhiều dư âm từ phần phim năm 1954, Hàm cá mập (1975) của Steven Spielberg, các tác phẩm do Miyazaki Hayao đạo diễn, cũng như Shin Godzilla (2016). Gareth Edwards, người cầm trịch dự án Godzilla (2014), cho rằng Close Encounters of the Third Kind (1977) và Công viên kỷ Jura (1993) của Steven Spielberg cùng Dunkirk (2017) của Christopher Nolan cũng là những nguồn cảm hứng đáng kể đến bộ phim.
Trong lúc bàn về kết thúc của Godzilla Minus One, Yamazaki cảm thấy rằng "Nó sẽ mang âm hưởng điện ảnh hơn nếu không hạ màn một cách gọn gàng và hợp lý" cũng như cho biết thêm "Không chỉ là phát súng hiệu cho phần phim tiếp theo, nó còn giúp cho những nhân vật vẫn sống động trong con tim của khán giả."
Một cuốn tiểu thuyết chuyển thể do Yamazaki chắp bút đã được phát hành ở Nhật Bản bởi Shueisha vào ngày 8 tháng 11 năm 2023.
Thiết kế
Thiết kế của quái vật Godzilla trong Minus One là một trong những kiểu dáng mới lấy từ Godzilla the Ride. Do chịu ảnh hưởng từ Godzilla, Mothra and King Ghidorah: Giant Monsters All-Out Attack, nên ban đầu Yamazaki đã hình dung sản phẩm của mình sẽ có "đôi mắt hình bán nguyệt", tuy nhiên người phụ trách làm mẫu Taguchi Kosuke lại vẽ nó thành "hình quả hạnh", sau cùng cho ra lò thành phẩm là "đôi mắt hình quả hạnh màu vàng". Yamazaki cũng giải thích thêm rằng kể từ khi đoàn làm phim tạo ra phiên bản Godzilla này ở dạng kỹ thuật số, nó đã "giúp mang lại nhiều chi tiết hơn so với bất kỳ sản phẩm thủ công nào. Vì vậy, chúng tôi có thể tăng độ phân giải của tỷ lệ và làm cho chúng trở nên thật sự, thật sự sắc nét, từ đó khoác lên cho nó một vẻ ngoài vô cùng hung tợn. Về nửa dưới của Godzilla, chúng tôi đã làm cho nó có cảm giác nặng nề và dày đặc theo cách khiến người xem cảm thấy giống như một ngọn núi và hình bóng tam giác đang băng xuyên qua không gian. Hãy tưởng tượng đến Tàu khu trục Ngôi sao trong Chiến tranh giữa các vì sao."
Yamazaki đã cố gắng biến Godzilla trong tác phẩm này trở thành phiên bản đáng sợ với người xem nhất. Đội ngũ đã tạo hình con quái vật sao cho nó thể hiện sự dữ tợn, bạo liệt và năng động, vừa có mặt tĩnh, vừa có khía cạnh giống thần. Vây lưng của nó có phần "nhọn và hung bạo hơn" so với phiên bản Godzilla the Ride, như thể năng lượng tái tạo của nó đang trở nên mất kiểm soát. Yamazaki tuyên bố rằng nhóm cũng đã cố gắng biến Godzilla trở thành "kẻ nguy hiểm nhất trong lịch sử", kèm theo lời nhận định "khán giả ngày nay đã quá khôn ngoan và quen thuộc trước những kỹ xảo tân thời, nhưng tôi vẫn muốn cho họ trải nghiệm thứ cảm giác mới mẻ và sợ hãi, hệt như cha ông ta đã từng cảm nhận vào buổi đầu nhìn thấy con quái thú ấy bước lên màn ảnh rộng".
Tuyển vai
Trong quá trình tiền sản xuất, nhà sản xuất Ichikawa Minami đã đề nghị các diễn viên Kamiki Ryunosuke và Hamabe Minami hóa thân thành một cặp đôi trong phim, tương tự như họ đã làm trong series truyền hình chính kịch Ranman (2023) của NHK. Theo đạo diễn Yamazaki, giới truyền thông đã chỉ trích quyết định này vì tin rằng điều đó sẽ khiến họ lặp lại mô típ với tác phẩm thuộc nhà đài Nhật Bản, khi có thông báo cho biết hai người sẽ sắm vai chính trong phim tại cuộc họp báo vào ngày 4 tháng 9 năm 2023. Yamazaki cũng thừa nhận rằng ông đã tuyển nam diễn viên Sasaki Kuranosuke vào vai Thuyền trưởng Akitsu Yōji nhờ màn trình diễn của anh trong tác phẩm Hiyokko (2017) thuộc chuỗi phim truyền hình dài kỳ Asadora, vốn có ảnh hưởng rất lớn đến vị đạo diễn.
Yamazaki đã tìm cách chọn ra những gương mặt tài năng có thể lột tả chân thực những con người sống trong Thời kỳ Chiêu Hòa, đồng thời khiến cho sự hiện diện của Godzilla trong bộ phim trở nên chân thật hơn. Quyết định tuyển vai của ông không bị ảnh hưởng quá nhiều từ những tác phẩm Godzilla trước đó, bởi bộ phim này chủ yếu khắc họa cuộc sống của người dân bình thường hồi thập niên 1940 thay vì các chính trị gia, quan chức, nhà khoa học hay quân nhân thuộc Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Lý do cho điều này xuất phát từ việc Yamazaki muốn khán giả đồng cảm và kết nối với các nhân vật, bất chấp bối cảnh đặt ở thời kỳ hậu chiến tranh.
Con gái nuôi của Ōishi và Shikishima ban đầu được dự định là một cậu bé. Sau cuộc gặp với diễn viên nhí Nagatani Sae, đạo diễn Yamazaki đã xoắn tay thay đổi phần kịch bản để cô bé có thể góp mặt trong bộ phim. Khi được hỏi làm cách nào để khiến Nagatani khóc trong một số cảnh, vị đạo diễn trả lời rằng "Đơn giản thôi, vì tôi đã tìm ra một thiên tài đích thực".
Ghi hình
Quá trình quay phim chính diễn ra tại những địa điểm thuộc vùng Kantō và Chūbu (ở tỉnh Aichi và Nagano) của đảo Honshu, bắt đầu từ ngày 17 tháng 3 năm 2022 và chính thức đóng máy vào khoảng ngày 11 tháng 6. Theo trang web của Robot, bộ phim sẽ lấy bối cảnh từ năm 1945 đến năm 1947, do đó sẽ có những hạn chế về kích cỡ trang phục, kiểu tóc (nam giới để tóc dài phải uốn đi) và màu tóc (không chấp nhận việc nhuộm màu) của các nhân vật phụ. Trong khi đó, những cảnh biển trong phim thì được ghi hình tại Hồ Hamana và Biển Enshū. Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2022, một số doanh nghiệp cộng đồng gần sông Tenryū đã giúp đoàn làm phim chỉnh sửa và bảo dưỡng thuyền để quay các cảnh hạm đội ở Enshū. Các địa điểm quay phim khác bao gồm Tòa thị chính ở Okaya, Nagano, Bảo tàng Tưởng niệm Không đoàn Hải quân Tsukuba ở Kasama, Địa điểm Căn cứ Không Hải quân Kashima cũ ở Miho và Công viên Thể thao Tổng hợp Shimodate ở Chikusei.
Trong quá trình sản xuất, những phân cảnh có sự xuất hiện của máy bay tiêm kích Kyushu J7W Shinden đã được hiện thực hóa một phần thông qua việc xây dựng một bản sao có tỷ lệ 1:1, trong đó chỉ tồn tại một mẫu duy nhất và nằm bên ngoài Nhật Bản, trong bộ sưu tập của Trung tâm Steven F. Udvar-Hazy ở Chantilly, Virginia. Yamazaki nói rằng "Ban đầu, ngân sách không cho phép chúng tôi chế tạo bất kỳ phần nào của [máy bay]" nhưng "nghĩ xa hơn thì, với kế hoạch B, chúng tôi có thể tìm ra một bảo tàng sẵn lòng mua lại đạo cụ sau khi bộ phim được thực hiện, điều này giúp bù đắp cho kinh phí phải bỏ ra để sản xuất chiếc máy bay ngay từ ban đầu". Vì vậy, sau khi hoàn thành công đoạn quay phim, bản sao máy bay đã được vận chuyển đến và trưng bày tại Bảo tàng Tưởng niệm Hòa bình Tachiarai ở Chikuzen, Fukuoka vào tháng 7 năm 2022. Khi ấy, Toho đã tặng lại bản sao với tư cách ẩn danh và chỉ tiết lộ vai trò của họ trong quá trình chế tạo mô hình sau khi Minus One ra mắt.
Hiệu ứng hình ảnh
Tất cả 610 cảnh kỹ xảo trong Godzilla Minus One đều được xử lý bởi đội ngũ gồm 35 nghệ sĩ tại studio thuộc chi nhánh Chōfu của Shirogumi, dưới sự giám sát của Yamazaki và chỉ đạo của Shibuya Kiyoko. Theo chương trình đặc biệt về Yamazaki do TV Shinshu thực hiện và lên sóng năm 2023, đội ngũ đã bắt đầu thực hiện phần kỹ xảo cho Godzilla Minus One vào tháng 4 năm 2022. Shirogumi đã bật mí điều này qua việc mở một cuộc tuyển chọn những nhà soạn nhạc và thiết kế hiệu ứng hình ảnh cho bộ phim vào tháng 4 năm 2022, trong đó viết rằng quá trình hậu sản xuất đã bắt đầu và công đoạn xử lý hiệu ứng hình ảnh dự kiến diễn ra từ thời gian đó cho đến tháng 1 năm sau. Tuy nhiên, họ đã thay đổi lịch trình thành tháng 11 năm 2022 cho đến tháng 2 năm 2023. Ngoài ra, trang web của đội ngũ cũng cho biết phần mềm làm hoạt hình 3D mà họ sử dụng cho công đoạn thiết kế là Houdini và Maya, còn Nuke thì dùng trong khâu tổng hợp. Giai đoạn hậu kỳ chính thức kết thúc vào cuối tháng 5 năm 2023, sau khi hoàn thành xong phần hiệu ứng hình ảnh.
Đội ngũ kỹ xảo đã cố gắng tạo ra những phân cảnh biển nước cho bộ phim, đặc biệt là khi Godzilla tàn phá mọi thứ. Yamazaki thừa nhận rằng "Điều đó đã gây áp lực rất lớn lên phần mềm kết xuất ảnh của chúng tôi, vậy nên chúng tôi đã tạo ra rất nhiều dữ liệu trong quá trình thực hiện, nhiều đến nỗi khi cộng dồn tất cả lại thì con số lên tới hơn một petabyte. Cuối cùng, chúng tôi đã xóa dữ liệu ra khỏi màn ảnh rồi khởi tạo lại khi đang mở ổ cứng."
Trong một cuộc trò chuyện trên sân khấu với đồng đạo diễn Higuchi Shinji của Shin Godzilla, Yamazaki cho biết những cảnh tàn phá và chết chóc trong Minus One đều chịu ảnh hưởng từ hiệu ứng hình ảnh của Higuchi trong tác phẩm Gamera 3: Revenge of Iris do Shusuke Kaneko chỉ đạo.
Âm nhạc và hiệu ứng âm thanh
Cộng tác viên lâu năm của đạo diễn Yamazaki, Satō Naoki, là người chịu trách nhiệm soạn nhạc cho tác phẩm. đã phát hành Godzilla Minus One Original Soundtrack dưới định dạng CD tại Nhật Bản vào ngày 28 tháng 10 năm 2023, theo sau đó là phiên bản đĩa nhựa giới hạn được công bố vào ngày 24 tháng 11. Ngày 19 tháng 1 năm 2024, Toho thông báo rằng Waxwork Records sẽ phát hành nhạc phim dưới dạng đĩa nhựa và việc đặt trước chính thức diễn ra vào ngày hôm đó.
Trong quá trình soạn nhạc, Satō đã dựa vào những bộ anime điện ảnh của hãng Studio Ghibli để làm chất liệu sáng tác cho những phân cảnh gây xúc động mạnh, còn phần âm nhạc do Akira Ifukube viết thì được dùng để làm bật nổi lên các phân đoạn có sự xuất hiện của kaiju. Bên cạnh đó, những nhạc phim cổ điển mà Ifukube thực hiện cho các tác phẩm Godzilla (1954), King Kong vs. Godzilla (1962) và Mothra vs. Godzilla (1964) cũng được sử dụng trong một số cảnh quay nhất định.
Inoue Natsuko là người đảm nhiệm khâu xử lý hiệu ứng âm thanh cho bộ phim. Cô cảm thấy rằng mình có nghĩa vụ tái tạo lại tiếng gầm nguyên bản của Godzilla bằng hệ thống âm thanh hiện đại. Sau khi thử qua nhiều cách để giữ nguyên âm thanh, Inoue cảm thấy chúng vẫn chưa đủ "đô" nên cô quyết định ghi âm ngoài trời và sử dụng tiếng vang để tăng cường âm thanh. Cô đã cho phát tiếng gầm tại Sân vận động ZOZO Marine để tạo ra hiệu ứng âm thanh mà cô mong muốn, đồng thời tin rằng đây là sân vận động duy nhất có thể đáp ứng những yêu cầu đặt ra do nơi đây trang bị những chiếc loa cỡ lớn, không có trần nhà, rộng rãi và hơi dốc. Khi nhớ lại quá trình tăng âm lượng tiếng gầm tại sân vận động, Inoue nói rằng "Tôi sẽ không bao giờ quên đi cái cảm xúc khi mà phát nó từ chiếc loa toa bự nhất đằng sau bảng thông báo điện tử". Yamazaki nhớ lại "Tôi cảm thấy rùng mình khi nghĩ rằng những người thật sự giáp mặt với Godzilla sẽ nghe thấy thứ âm thanh ấy."
Nhà sản xuất Abe Gō thừa nhận rằng đoàn làm phim đã sử dụng tiếng ồn từ tàu hỏa trong phân cảnh Godzilla tấn công đoàn tàu 63 series, bởi họ muốn cải thiện tính chân thực của thời hậu chiến trong tác phẩm thông qua những âm thanh lấy từ thực tế.
Quảng bá
Vào ngày 12 tháng 6 năm 2023, tài khoản Twitter của bộ phim đã bắt đầu đăng tải thông tin về tất cả những tác phẩm Godzilla người đóng của Toho theo kiểu đếm ngược mỗi ngày, trước tiên là phần phim Shin Godzilla. Ngày 11 tháng 7 cùng năm, Toho chính thức vén màn về dự án phim kaiju của hãng mang tên Godzilla Minus One. Tác phẩm được công bố kèm theo teaser, poster (do Yamazaki thiết kế) và ngày phát hành ấn định đối với thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, người ta cũng tung ra những mặt hàng có liên quan đến bộ phim vào ngày hôm sau, song hành với chúng là một bức ảnh toàn thân của Godzilla.
Vào ngày 13 tháng 7, Tamashii đã công bố về món đồ chơi Godzilla thuộc dòng sản phẩm S.H. MonsterArts do Sakai Yuki chế tác và nằm dưới sự kiểm soát của Yamazaki, dựa trên dữ liệu 3D từ bộ phim. Một loạt các sản phẩm tiền phát hành cũng như khu trưng bày quảng bá bộ phim cũng góp mặt tại triển lãm "The Visual World-crafting of YAMAZAKI Takashi , Film Director" tại quê nhà Matsumoto của đạo diễn Yamazaki, bắt đầu từ ngày 15 tháng 7 và kết thúc vào ngày 29 tháng 10. Ngoài ra, một bức tượng Godzilla cao 2 mét đã được trưng bày tại Lễ hội Summer Wonder vào ngày 30 tháng 7. Theo yêu cầu của Toho, Fukushi Hiroaki đã dành ra một tháng để thực hiện bức tượng Godzilla mang tên "Godzilla Neputa" nhằm quảng bá bộ phim tại sự kiện Aomori Nebuta Matsuri diễn ra từ ngày 4 đến 8 tháng 8.
Toho đã công bố trailer chính thức kèm theo áp phích chiếu rạp, dàn diễn viên trung tâm và nhân sự đoàn làm phim vào ngày 4 tháng 9. Vào ngày 14 tháng 9, 15 cảnh quay và hình ảnh của Godzilla lấy từ bộ phim đã được tung ra. Bên cạnh đó, vé xem phim đặt trước (thông qua Mubichike Online) cũng như các tờ rơi thông báo ngày ra rạp cũng được công bố vào ngày tiếp theo. Ngày 14 tháng 9, SciFi Japan cho biết Godzilla Minus One vẫn lọt top thịnh hành trên mạng xã hội ở cả Nhật Bản lẫn Hoa Kỳ, trong đó đoạn trailer đã cán mốc 9 triệu lượt xem trên nền tảng YouTube.
Trong một cuộc họp báo ngày 25 tháng 9, Hamamatsu, thành phố tiếp giáp với Hồ Hamana (nơi diễn ra một số cảnh quay trong phim), đã thông báo rằng họ sẽ quảng bá cho bộ phim để biến nơi này thành một địa điểm thu hút khách du lịch, bằng cách chuẩn bị "chuyến du ngoạn trên hồ" diễn ra vào cuối tháng 10. Vào ngày 7 cùng tháng, những cảnh phim hậu trường của Godzilla Minus One đã được phát sóng trên Channel 4 thuộc TV Shinshu, là một phần của chương trình đặc biệt về Yamazaki do Yoshioka Hidetaka dẫn chuyện. Hơn một tuần sau, Toho tuyên bố rằng Godzilla Minus One sẽ là phim điện ảnh Nhật Bản đầu tiên sử dụng định dạng quay toàn cảnh 270 độ ScreenX.
Vào ngày 18 tháng 10, Yamazaki cùng các ngôi sao của bộ phim đã tham dự buổi ra mắt thảm đỏ dọc theo Tuyến phố Godzilla ở Kabukichō, Shinjuku. Tấm thảm đỏ này dài 50,1 mét, tương đương với chiều cao của Godzilla trong Minus One. Sau đó, các đài truyền hình khắp Nhật Bản bắt đầu phát sóng chương trình đặc biệt về Godzilla Minus One vào cuối tháng 10, bao gồm các cuộc phỏng vấn với Yamazaki, Kamiki và Hamabe, cũng như những cảnh quay hậu trường tác phẩm. Vào ngày 23 tháng 10, Yamazaki, Kamiki và Hamabe đã đặt chân lên thảm đỏ tại buổi khai mạc Liên hoan phim quốc tế Tokyo lần thứ 36. Để quảng cáo cho bộ phim tại thị trường nội địa, thương hiệu nước giải khát Cheerio đã cho ra mắt loại đồ uống Chūhai có tên gọi "Godzilla Energy " vào ngày 6 tháng 11.
Buổi trình chiếu các phim Godzilla
Vào ngày 24 tháng 8, có thông báo cho rằng để nổ phát súng cho việc phát hành Godzilla Minus One, Yamazaki đã chọn ra "4 tác phẩm Godzilla tiêu biểu nhất" nhằm công chiếu vào tháng 9 và tháng 10. Một buổi "talk show" thường sẽ diễn ra trước mỗi buổi chiếu, trong đó đạo diễn Higuchi Shinji của Shin Godzilla và Shin Ultraman (2022) đảm nhiệm vai trò khách mời cho bộ phim Godzilla phát hành năm 1954, còn nhà thiết kế trang phục Murase Keizō là khách mời của tác phẩm Ghidorah, the Three-Headed Monster (1964). Hai bộ Godzilla tiếp theo lần lượt là Godzilla, Mothra and King Ghidorah: Giant Monsters All-Out Attack (2001) của Shusuke Kaneko cùng phiên bản Shin Godzilla trắng đen do Anno Hideaki, Higuchi và Onoue Katsuro thực hiện. Bên cạnh đó, Kaneko và Anno cũng là khách mời tại các chương trình trò chuyện về tác phẩm của họ.
Dự án hợp tác
Godzilla Minus One được quảng bá tại sân vận động Tokyo Dome, hợp tác cùng đội bóng chày Yomiuri Giants trong trận đấu với Tokyo Yakult Swallows diễn ra vào ngày 1 tháng 10. Sau đó, một video "cộng tác đặc biệt" và bức tượng Godzilla cao 3,6 mét đã xuất hiện tại khu vực này. Ngày 27 tháng 9, Fujita Kanko tuyên bố rằng công viên giải trí suối nước nóng Hakone Kowakien Yunessun tọa lạc tại Hakone, Kanagawa sẽ tổ chức một sự kiện hợp tác với bộ phim từ ngày 20 tháng 10 năm 2023 đến ngày 8 tháng 1 năm 2024.
Phát hành
Godzilla Minus One đã tổ chức buổi ra mắt toàn cầu tại rạp chiếu Toho Cinemas bên trong Tòa nhà Shinjuku Toho vào ngày 18 tháng 10 năm 2023. Những đánh giá đầu tiên về tác phẩm đã gọi đây là một "kiệt tác". Bên cạnh đó, Godzilla Minus One cũng là bộ phim bế mạc Liên hoan phim quốc tế Tokyo lần thứ 36 diễn ra ngày 1 tháng 11, được chiếu song song với phụ đề tiếng Anh. Nhân dịp 70 năm ra đời của thương hiệu, Toho đã phát hành phim trên phạm vi toàn quốc vào ngày 3 tháng 11, hơn nữa đây cũng là thời điểm mà phiên bản Godzilla đầu tiên (1954) đổ bộ tại các rạp chiếu ở Nhật Bản. Ngoài ra, Godzilla Minus One còn góp mặt tại hơn 500 cụm rạp tại xứ sở mặt trời mọc dưới dạng IMAX, Dolby Cinema, 4DX, MX4D và ScreenX, qua đó trở thành đợt phân phối nội địa có quy mô lớn nhất của Toho. Một số địa điểm nhất định cũng trình chiếu bộ phim với phụ đề Anh ngữ vào ngày 23 tháng 11.
Buổi ra mắt và công chiếu phim ở Mỹ đã được tổ chức tại Cụm rạp Hiệp hội Đạo diễn Hoa Kỳ thuộc Los Angeles vào ngày 10 tháng 11 năm 2023, với sự tham dự của đạo diễn Yamazaki cùng diễn viên Kamiki. Sau đó, trang web Polygon cũng cho trình chiếu tác phẩm tại Rạp Frida thuộc địa phận Santa Ana vào ngày 27 tháng 11, kế đến là buổi chiếu ở Manhattan do Cộng đồng Nhật Bản chủ trì vào ngày 28 tháng 11, rồi sau cùng là tại một số cụm rạp lớn trải dài khắp nước Mỹ trong ngày tiếp theo. Công ty con Toho International trực thuộc chi nhánh Hoa Kỳ đã phát hành bộ phim tại 1.000 cụm rạp trên toàn Bắc Mỹ vào ngày 1 tháng 12, kèm theo đó là phụ đề tiếng Anh. Kể từ ngày 15 trở đi, Godzilla Minus One đã mở rộng đến 2.600 rạp ở xứ sở cờ hoa. Nhà làm phim Dave Filoni là người phụ trách trình chiếu tác phẩm tại Lucasfilm vào ngày 9 tháng 1 năm 2024, đồng thời sự kiện ấy còn có sự góp mặt của Yamazaki. Trong khi đó, cả hai phiên bản có màu lẫn đen trắng của tác phẩm đều sẽ ngừng chiếu tại quốc gia này vào ngày 1 tháng 2 năm 2024.
Đón nhận
Doanh thu phòng vé
Godzilla Minus One đã ra mắt ở vị trí số một tại phòng vé Nhật Bản, thu về 1,04 tỉ yên (7,8 triệu USD) với 648.577 vé bán ra trong ba ngày đầu công chiếu. Trong tuần đầu tiên xuất trận, tác phẩm đã mang về 1,2 triệu USD từ 49 rạp chiếu IMAX, qua đó trở thành phim người đóng Nhật Bản có đợt mở màn lớn nhất ở định dạng này. Godzilla Minus One tiếp tục giữ vững ngôi vương trong ba ngày cuối tuần liên tiếp trước khi bị Tonde Saitama ~Biwako Yori Ai o Komete~ vượt mặt vào cuối tuần thứ tư. Tính đến ngày 28 tháng 1 năm 2024, phim đã thu về 5,59 tỷ yên từ 3,63 triệu vé tại Nhật Bản.
Tại Hoa Kỳ và Canada, phim được phát hành song song với Animal, Renaissance: A Film by Beyoncé, Silent Night và The Shift, đồng thời người ta dự đoán rằng tác phẩm sẽ thu về 11–12 triệu USD từ 2.308 rạp trong tuần đầu công chiếu. Godzilla Minus One đã mang về 4,7 triệu USD trong ngày đầu tiên, trong đó gồm 2,1 triệu USD từ các suất chiếu sớm vào thứ Tư và thứ Năm. Tác phẩm tiếp tục ra mắt với 11 triệu USD, xếp ở vị trí thứ ba và phá vỡ kỷ lục mở màn cuối tuần tại Hoa Kỳ đối với một bộ phim người đóng Nhật Bản. Ở Bắc Mỹ, Godzilla Minus One cũng trở thành tác phẩm nước ngoài có màn chào sân thành công nhất năm 2023 (vượt qua cả Thanh gươm diệt quỷ: Đường đến làng rèn gươm) đồng thời trở thành phim điện ảnh người đóng Nhật Bản ăn khách nhất lịch sử. Vào ngày 17 tháng 12, Godzilla Minus One chính thức trở thành phim Nhật Bản có doanh thu cao thứ sáu mọi thời đại tại Hoa Kỳ. Tác phẩm sau đó ngay lập tức trở thành một trong hơn 50 bộ phim có hiệu suất phòng vé vượt mức 40 triệu USD ở xứ sở cờ hoa trong năm 2023. Mặt khác, phim cũng mở màn ở vị trí thứ hai trong tuần đầu công chiếu tại Brasil và thu về 816.891 bảng ở Vương quốc Anh. Tờ Deadline tuyên bố rằng việc Godzilla Minus One được phát hành rộng rãi chính là "một trong những ván cược thành công nhất từ trước đến nay của Nhật Bản". Kể từ ngày 10 tháng 1 năm 2024, Godzilla Minus One đã trở thành phim điện ảnh Nhật Bản có doanh thu cao thứ hai tại Hoa Kỳ, thậm chí còn vượt qua cả Thanh gươm diệt quỷ: Chuyến tàu vô tận nhưng vẫn xếp dưới Gekijōban Pocket Monsters: Mewtwo no Gyakushū (1998). Godzilla Minus One tiếp tục giữ vững kỷ lục là phim nói tiếng Nhật có doanh thu phòng vé cao nhất tại thị trường Mỹ, đánh bại Ký sinh trùng (2019) của đạo diễn Bong Joon-ho để trở thành tác phẩm phi Anh ngữ ăn khách thứ ba mọi thời đại.
Godzilla Minus One đã thu về 55.109.545 USD tại Hoa Kỳ và Canada; 36.810.707 USD trong thị trường Nhật Bản; 1,335,289 USD ở Úc; 204.195 USD tại Đức; 5.169.426 USD đối với Mexico; 225.061 USD tại Hà Lan; 220.304 USD tính riêng Bồ Đào Nha; 154.198 USD tại Ý; 218.162 USD ở New Zealand; 122.150 USD tại Na Uy; 228.148 USD ở Tây Ban Nha và 3.185.119 USD khi phát hành tại Anh Quốc. Vào ngày 12 tháng 1 năm 2024, Toho tuyên bố rằng doanh thu của bộ phim đã cán mốc 14 tỷ yên (96,44 triệu USD) trên toàn thế giới, chính thức vượt qua Shin Godzilla để trở thành tác phẩm về Godzilla do Nhật Bản sản xuất ăn khách nhất lịch sử, với tổng doanh thu ước tính khoảng 106.514.662 USD trên toàn cầu.
Đánh giá chuyên môn
Godzilla Minus One đã đón nhận sự hoan nghênh nhiệt liệt từ cả giới chuyên môn lẫn mộ điệu khán giả. Tờ The Hollywood Reporter cho biết các nhà phê bình Mỹ đều đồng loạt ca ngợi kỹ xảo kinh phí thấp, cốt truyện cảm động về con người, cũng như cách sử dụng hình ảnh kaiju để nêu bật lên hiện thực về xã hội, đồng thời nhiều ý kiến cũng tỏ ra ủng hộ bộ phim hơn so với những tác phẩm gần đây của Hollywood. CBR ghi nhận rằng nhiều người đã xem đây là một trong những phim điện ảnh xuất sắc nhất 2023, ngoài ra còn là tác phẩm Godzilla hay nhất từng được thực hiện. Những khán giả Mỹ do CinemaScore khảo sát đã chấm bộ phim điểm "A" trên thang điểm từ A+ đến F, trong khi các cuộc thăm dò mà PostTrak thực hiện thì cho thấy tác phẩm có số điểm tích cực 92%, trong đó 83% khán giả khẳng định rằng sẽ giới thiệu phim với người khác.
Nhà phê bình Tim Grierson từ Screen International cảm thấy rằng "có một sự sùng bái đối với con quái vật khổng lồ đáng sợ trong Godzilla Minus One; khán giả có thể hân hoan vì sự tàn phá mà nó gây ra, nhưng Yamazaki lại hiểu thấu được những ẩn ý đầy tăm tối về xã hội xuất phát từ con quái vật ấy." Tạp chí Time Out đã chấm 4 trên 5 sao cho bộ phim, kèm theo nhận định "chân thành và đáng kinh ngạc", còn Godzilla thì "hệt như một tên khốn kiếp đáng sợ". Trong khi đó, cây bút Katie Rife đến từ IGN lại ca ngợi bộ phim "mang lại nhiều hy vọng hơn" so với Shin Godzilla, đồng thời còn "nổi trội hơn trong âm nhạc và sự cảm động, tuy nhiên lại ít kinh khủng hơn và chứa đựng nhiều niềm tự hào hơn, thậm chí còn gợi lại một giai đoạn đau thương trong lịch sử Nhật Bản". Nhà phê bình Richard Whittaker của The Austin Chronicle nhận xét rằng bộ phim có mạch truyện giàu cảm xúc, đồng thời những hành động của quái vật có thể giúp nó sánh ngang với Ikiru (1952) do Kurosawa Akira đạo diễn và Godzilla (1954) của nhà làm phim Honda Ishirō.
Richard Kuipers của tạp chí Variety nhận xét rằng với "cốt truyện đầy cảm xúc" và "hơi thở nguyên tử phóng ra từ Godzilla", bộ phim đã trở thành "đỉnh cao trong toàn bộ loạt tác phẩm". Trong khi đó, Collider lại mô tả đây là "một tác phẩm lấy đề tài quái vật chặt chẽ, hiếm khi mắc phải sai lầm" do "biết cách cân bằng giữa cảnh tượng ngoạn mục và hành động căng thẳng, đồng thời hướng đến những chủ đề phức tạp hơn về chiến tranh và mất mát". James Berardinelli đã ca ngợi phần hiệu ứng, cảnh tượng, kịch bản, thiết kế bối cảnh và âm thanh, kỹ thuật quay phim, cũng như quá trình phát triển nhân vật, rồi sau đó đưa ra lời nhận định rằng "đây là một bộ phim Godzilla xuất sắc – thậm chí có thể là tác phẩm hay nhất từ trước đến nay từng được chiếu trên màn ảnh". Trong khi đó, nhà phê bình Christy Lemire đã chấm điểm 9 cho bộ phim kèm theo lời bình: "Bạn chắc chắn sẽ có cảm tình với tất cả nhân vật và những lựa chọn mà họ đưa ra, điều đó góp phần làm tăng thêm sức nặng cảm xúc trong một tác phẩm đáng lẽ phải giật gân nhưng thực chất lại là một bộ phim hành động thoát ly cuộc sống hoàn toàn hấp dẫn." Trong một bài viết trên tờ The Times, Kevin Maher nhận định rằng "Người Nhật đã làm Hollywood phải bẽ mặt khi tung ra bộ phim về quái vật xuất sắc nhất kể từ King Kong (2005) của Peter Jackson" và bổ sung thêm "Những tác phẩm Godzilla của Hollywood, với chi phí xấp xỉ 200 triệu USD, có vẻ như còn tệ hơn cả thế". Andy Lea, khi viết bài đánh giá cho Daily Express, đã cho Godzilla Minus One điểm 5 tuyệt đối. Với ý kiến tương tự như Maher, anh cảm thấy rằng "phiên bản Godzilla này đã giẫm đạp đối thủ đến từ Hoa Kỳ vào tro bụi", đồng thời "những phân đoạn hành động diễn ra vô cùng căng thẳng và kịch tính, cùng với đó là dàn nhân vật ba chiều hoàn toàn mới mẻ".
Dana Stevens không tiếc lời ca tụng "Diễn xuất đầy đau khổ và dễ thương tổn của Kamiki là một yếu tố quan trọng khiến nhân vật chính mà anh sắm vai trở nên đáng nhớ". Mặt khác, Stevens lại nhận thấy Yamazaki đã dành một thời gian dài để viết nên phần kịch bản, điều đó làm cho ông "quan tâm đến những điều khác ngoài mấy con bò sát bị nhiễm phóng xạ", chẳng hạn như "làm thế nào để mưu sinh trong một nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá", hoặc liệu nhân vật của Kamiki có "chấp nhận thứ tình cảm mà Noriko và cô con gái nuôi của họ luôn sẵn nguyện dành cho anh ấy hay không". Trong khi đó, cây bút Satō Daisuke từ IGN Japan đã tán dương màn trình diễn của Kamiki nhưng tin rằng những nhân vật khác, đặc biệt là Noriko do Hamabe thủ diễn, là ví dụ quá rập khuôn về người Nhật trong thời đại Chiêu Hòa. Anh cảm thấy cái cách mà bộ phim khắc họa về người phụ nữ có thể làm dấy lên tranh cãi, đồng thời tỏ ra bất an đối với việc khán giả ngày nay chấp nhận điều đó. Matt Schley từ The Japan Times cũng chỉ trích các nhân vật và cho rằng họ "kém hấp dẫn", "một màu" so với bộ phim, hơn nữa còn nhận xét: "Phần lớn kịch bản, chẳng hạn như bài phát biểu khích lệ tinh thần ở cuối phim khi một cựu chỉ huy hải quân kêu gọi người của ông đứng lên chiến đấu, là một trong những thứ khiến người xem phải trợn ngược mắt." Trong bài viết của mình trên South China Morning Post, James Marsh cho biết các nhà phê bình đã chỉ trích bộ phim vì "khuyến khích việc tạo ra một chương trình nghị sự ủng hộ quân đội", còn các nhân vật chính diện thì "cùng nhau đoàn kết để chỉ trích kịch liệt chính phủ của họ, vốn đã buộc nhiều công dân phải lãng phí mạng sống vì một lý do đáng ngờ". Anh cũng xếp hạng Godzilla Minus One là phim châu Á hay nhất năm 2023.
Trong cuộc thăm dò ý kiến thường niên trên trang IndieWire, 158 nhà phê bình quốc tế đã đồng thuận xếp Godzilla Minus One ở vị trí thứ 30. Nhiều cây bút đến từ RogerEbert.com, trong đó có Matt Zoller Seitz, đã đưa bộ phim vào danh sách những tác phẩm mà họ yêu thích nhất năm, đồng thời Leonard Maltin cũng nhắc đến cái tên Godzilla Minus One khi ông viết về những bộ phim ra mắt năm 2023 mà mình yêu mến. Trong khi đó, ấn phẩm Quad-City Times đưa ra lời nhận định "Đây chính là điều tuyệt vời nhất năm mà người ta có thể đưa lên màn bạc". Những cây bút đến từ trang Collider thì vinh danh Godzilla Minus One là phim điện ảnh Nhật Bản hay nhất năm, đồng thời xếp thứ tư trong danh sách phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc nhất, thứ hai nếu tính theo thể loại khoa học viễn tưởng, cũng như là tác phẩm hay thứ 11 khi xét về tổng thể. Bên cạnh đó, Collider cũng cho Godzilla Minus One đứng hạng 20 trong danh sách "25 bộ phim phát hành trong thập niên 2020 xuất sắc nhất tính đến thời điểm hiện tại". không ngần ngại cho bộ phim dẫn đầu danh sách "Top 20", trong khi Deadline thì liệt tác phẩm vào hàng ngũ "Phim nước ngoài xuất sắc nhất", còn Digital Trends và MovieWeb lại vinh danh đây là phim hành động hay thứ hai trong năm, đồng thời tỏ lời ca ngợi "một trong những (nếu không phải là) tác phẩm đề tài quái vật xuất sắc nhất thập kỷ", Paste xếp Godzilla Minus One thứ ba trong danh sách phim khoa học viễn tưởng tốt nhất năm, Time Out cho tác phẩm đứng ở vị trí thứ 11 trong bảng xếp hạng phim xuất sắc nhất 2023, còn TheWrap thì đưa nó vào danh sách "Top 10 bộ phim hành động đỉnh nhất năm 2023". Bên cạnh đó, Godzilla Minus One cũng góp mặt trong "Best Picture Reminder List" của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh tại mùa Giải Oscar lần thứ 96. Ngoài ra, tạp chí Forbes đã vinh danh tác phẩm với tư cách là phim Godzilla hay thứ năm mọi thời đại.
Đánh giá của người trong ngành
Godzilla Minus One đã nhận về vô vàn lời khen từ những cái tên cộm cán trong giới điện ảnh. Anno Hideaki, đồng chỉ đạo bộ phim Shin Godzilla, ca ngợi rằng tác phẩm "đã làm rất tốt" cũng như đánh giá cao khả năng kỹ thuật của phim, đồng thời nhận xét Nhật Bản đã có bước tiến lớn về mặt kỹ xảo. Trong khi đó, đạo diễn Gareth Edwards của Godzilla (2014) lại cảm thấy có phần "ghen tị", nói thêm rằng "đây chính là những thứ mà Godzilla nên có" và tác phẩm này xứng đáng "được nhắc đến như một ứng cử viên nặng ký cho danh hiệu phim Godzilla hay nhất mọi thời đại". Tại buổi ra mắt phim tại Mỹ, đạo diễn của Chúa tể Godzilla: Đế vương bất tử (2019) là Michael Dougherty đã nói với Yamazaki và Kamiki rằng bộ phim thật "tuyệt vời". Nam diễn viên Seth Green thì cho hay "Đây là một bộ phim chứa đựng rất nhiều cảm xúc, và tôi vô cùng xúc động về nó." Guillermo del Toro ghi nhận về "Tham vọng và mục tiêu của bộ phim ở quy mô chiếu rạp" rồi gọi đây là "Một điều kỳ diệu". Nhà làm phim người Anh Edgar Wright đã bày tỏ sự yêu mến với bộ phim và khuyến khích nên xem tác phẩm. Ngoài ra, Adam Wingard (đạo diễn của Godzilla đại chiến Kong và Godzilla x Kong: Đế chế mới), Joe Dante, James Ponsoldt cùng Juel Taylor đã liệt bộ phim vào danh sách những tác phẩm phát hành năm 2023 mà họ yêu thích nhất. Nhà sáng lập kiêm Giám đốc điều hành Blumhouse Productions Jason Blum cũng rất thích Godzilla Minus One và bày tỏ mong muốn Yamazaki sẽ thực hiện một tác phẩm cho Blumhouse trong tương lai.
Kevin Smith đã gọi Godzilla Minus One là "bộ phim Godzilla hay nhất mà tôi từng xem", đồng thời bổ sung thêm luận điểm "cốt truyện về con người cũng thú vị như những cảnh kinh khủng nhất của Godzilla. Chúng tôi đã lớn lên cùng nhân vật này, một gã mặc trang phục cao su giẫm đạp lên những tòa nhà cũng chưa bao giờ đáng sợ đến thế. Phân đoạn quay cảnh đầu thằng cha đó trên mặt nước hay như cảnh đuổi theo một chiếc thuyền chết tiệt, tất cả đều quá sức đáng sợ. Nó hệt như trong Hàm cá mập vậy các bạn. Tôi không thể tin được là phải mất một thời gian dài như thế để ai đó thốt lên rằng 'Hãy làm Hàm cá mập đi, nhưng là với Godzilla nhé'. Thật tuyệt vời". Một số nhà làm phim, chẳng hạn như John Landis, đã nói chuyện với Yamazaki cùng ba thành viên khác thuộc đội hiệu ứng hình ảnh khi họ đang có mặt tại Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh vào ngày 13 tháng 1 năm 2024, trong lúc đó một vài người đã rỉ tai với ông rằng họ tin Godzilla Minus One chính là tác phẩm xuất sắc nhất năm 2023. Nhà sáng tạo Matt Fraction và Chris Black của series Monarch: Legacy of Monsters cũng khen ngợi cốt truyện và chủ đề của bộ phim, hơn nữa Black còn thấy rằng nó đủ sức sánh ngang với tác phẩm của họ cũng như vũ trụ điện ảnh Monsterverse của Legendary.
Nhà thiết kế trò chơi video Kojima Hideo đã tán dương bộ phim như sau: "Godzilla, nội dung, kỹ xảo, phần nhạc hiệu, sự xuất hiện của cô Hamabe cùng tràng pháo tay sau đó" là "chẳng có gì ngoài điểm cộng", đồng thời còn nói đùa rằng "kết quả là +120 điểm, vậy nên tôi sẽ thay đổi tựa đề". Tác giả bộ truyện One Piece, Oda Eiichiro cảm thấy tác phẩm rất "tuyệt vời" và đã cho anh nguồn cảm hứng để xem những phần phim khác của thương hiệu. Họa sĩ manga Akasaka Aka đánh giá tuyến truyện về con người "rất xuất sắc" rồi thừa nhận rằng anh đã bật khóc trong một vài phân cảnh. Nhà sản xuất truyền hình thì nhận xét Godzilla Minus One "vừa cũ vừa mới", đồng thời "sức mạnh của Godzilla đã khiến tôi nổi da gà rất nhiều lần". Trong khi đó, tay bass của ban nhạc alternative rock Bump of Chicken là đã gọi đây là "một bộ phim thực sự tuyệt vời", nói thêm rằng "theo nhiều cách khác nhau, cơ thể tôi đã tê cứng sau khi xem xong tác phẩm". Nghệ sĩ hài Osada Shohei đã xem bộ phim đến tận ba lần, bày tỏ rằng nó "thật sự quá đỗi hấp dẫn".
Hiệu suất phòng vé ở Hoa Kỳ
Một số nhà báo và nhà phân tích truyền thông Mỹ đã đánh giá rằng thành công về mặt thương mại lẫn chuyên môn của Godzilla Minus One ở Hoa Kỳ thậm chí còn vượt qua cả những bom tấn gần đây của Hollywood (đặc biệt là các phim siêu anh hùng), cũng như bàn về cách mà bộ phim mang lại hiệu ứng hình ảnh ấn tượng với người xem dù chỉ có kinh phí thấp hơn 15 triệu USD – một con số rất nhỏ đối với các phim ở Hollywood. Nhà phân tích cấp cao Paul Dergarabedian của Comscore cho rằng thành công của Godzilla Minus One chính là nhờ "tư duy đột phá hoặc có quan điểm độc nhất, hoặc không cố sao chép lại những gì thành công trước đó". Ông đã cho sánh bộ phim với những tác phẩm thành công tương tự ra mắt năm 2023 – chẳng hạn như Oppenheimer, Barbie và Sound of Freedom – vì chúng đều mang đến cho người xem những trải nghiệm mới mẻ, khác thường. Dergarabedian lập luận rằng khán giả không phải ngán ngẩm vì Godzilla hay những tác phẩm lấy đề tài hành động, mà thay vào đó là "những bộ phim dở như hạch". Trong khi đó, Saba Hamedy từ NBC News cho thấy Godzilla Minus One đã chứng minh việc các phim hành động sử dụng nhân vật "xào đi nấu lại" vẫn có thể gặt hái thành công.
Cây bút Sam Williamson của trang Collider chỉ ra rằng thành công vang dội của Godzilla Minus One chính là do ngân sách ít ỏi của tác phẩm. Anh cho biết luật lao động mà Nhật Bản đề ra đã khuyến khích các xưởng phim giữ chi phí thấp đến mức gây bất lợi cho dàn diễn viên cũng như đội ngũ làm phim. Bên cạnh đó, nam diễn viên người Nhật Furutachi Kanji cũng tuyên bố rằng quốc gia này thiếu đi những liên đoàn của diễn viên và nhà làm phim, khiến cho họ phải đối mặt với "môi trường làm việc tồi tệ suốt nhiều giờ liền cùng mức lương bèo bọt", từ đó dẫn đến tình trạng bóc lột sức lao động.
Tranh cãi về kinh phí
Kinh phí làm ra Godzilla Minus One là một trong những đề tài được bàn tán sôi nổi trên khắp các diễn đàn lẫn báo chí. Người ta cho rằng ngân sách của phim chiếm chưa đến 10% so với tác phẩm Godzilla trước đó là Godzilla đại chiến Kong (2021), do hãng Legendary của Mỹ sản xuất. Tuy nhiên, con số chính xác vẫn còn là một dấu hỏi lớn, đồng thời một số tuyên bố ước tính về chi phí thực hiện tác phẩm đã bị bác bỏ bởi đạo diễn Yamazaki Takashi.
Yamazaki cho biết kinh phí của Godzilla Minus One lớn hơn 1 tỷ yên (7 triệu USD), nhưng lại thấp hơn mốc 3 tỷ yên (20 triệu USD). Nhiều nguồn tin — trong đó có Variety, IGN, BBC, The Times, Slate và The Hollywood Reporter — đều tuyên bố rằng chi phí làm ra tác phẩm đạt khoảng 15 triệu USD (khoảng ), tuy nhiên đạo diễn Yamazaki đã phủ nhận thông tin này tại Tokyo Comic Con 2023 bằng cách tuyên bố rằng "Ước gì nó nhiều đến thế". Nhà phê bình phim tuyên bố rằng số tiền đó "loanh quanh khoảng 2 tỷ yên" trong khi Motohiko Tokuriki từ Yahoo! Japan, Atsuo Nakayama của Nikkei xTREND và Hosoki Nobuhiro từ Eiga.com đều thống nhất ở con số 1,5 tỷ (10 triệu USD). Vào tháng 1 năm 2024, tờ Hindustan Times đưa tin rằng ngân sách tác phẩm là 10 triệu USD còn Vulture thì khẳng định chắc nịch "những báo cáo về kinh phí chính xác để làm ra Minus One là khác nhau, tuy nhiên nó lại nằm đâu đó trong khoảng 10 đến 15 triệu USD".
Thành tựu
Godzilla Minus One đã mang về một đề cử ở hạng mục Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất tại Lễ trao Giải Oscar lần thứ 96, qua đó trở thành tác phẩm Godzilla đầu tiên vinh dự được xướng tên Giải Oscar, đồng thời cũng là ứng cử viên Nhật Bản đầu tiên lọt vào danh sách đề cử ở hạng mục đó. Tại Lễ trao giải của Hiệp hội phê bình phim Austin lần thứ 19, Godzilla Minus One đứng thứ sáu trong bảng xếp hạng Phim hay nhất năm, cũng như đem về tượng vàng cho Phim quốc tế xuất sắc nhất. Bên cạnh đó, phim cũng giật được ba đề cử Giải thưởng điện ảnh châu Á, bốn đề cử Giải Ruy băng Xanh (thắng ba giải, gồm Phim hay nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho Kamiki, và Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Hamabe), bốn đề cử Giải thưởng phim Hochi (thắng giải Đạo diễn xuất sắc nhất cho Yamazaki), sáu đề cử Giải thưởng phim Hochi Mainichi (đoạt giải Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất cho Kamijō Asato), cũng như bốn đề cử từ Hiệp hội phê bình phim Seattle, sau đó thành công đem về tượng vàng hạng mục Phim quốc tế xuất sắc nhất, Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất cho Yamazaki và Kiyoko Shibuya, cũng như Phản diện của năm cho Godzilla). Godzilla Minus One đã càn quét Giải Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 47 với 12 đề cử trong tay, bao gồm Phim của năm, Đạo diễn xuất sắc nhất, Kịch bản xuất sắc nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất và Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, trở thành tác phẩm được xướng tên nhiều nhất tại lễ trao giải năm đó.
Phần hậu truyện tiềm năng
Đạo diễn Yamazaki Takashi xác nhận rằng vẫn chưa tổ chức bất kỳ cuộc thảo luận nào về việc xúc tiến phần tiếp theo, tuy nhiên ông lại bày tỏ mong muốn chỉ đạo tác phẩm ấy. Yamazaki cho hay nếu có cơ hội cầm trịch dự án Godzilla thứ hai, ông sẽ thực hiện một hậu truyện "tiếp nối về những nhân vật" cũng như cuộc sống của họ sau những sự kiện xảy ra trong Godzilla Minus One. Ở một vài cuộc thảo luận khác, vị đạo diễn có nhắc đến việc bộ phim tiếp theo sẽ xuất hiện một kaiju phản diện chiến đấu với Godzilla, đồng thời ngụ ý rằng tác phẩm ấy sẽ khám phá về lời nguyền mà Godzilla để lại trên nước Nhật, tương tự như Tatari-gami (Tà thần) trong Mononoke Hime (1997) của Hayao Miyazaki. Nữ diễn viên Hamabe Minami cũng cho biết bộ phim này có thể là phần mở đầu của một series mới, rồi dọa rằng "Nếu điều đó xảy ra thì tôi có thể sẽ là kẻ giẫm đạp và nghiền nát mọi người".
Khả năng về việc thực hiện phần phim tiếp theo đã được thảo luận ngay tại sự kiện giao lưu sau buổi công chiếu phiên bản đen trắng của Godzilla Minus One ở Tokyo vào ngày 12 tháng 1 năm 2024, với sự tham dự của một số diễn viên, trong khi đạo diễn Yamazaki thì góp mặt dưới hình thức trực tuyến từ xa do lúc đó ông đang ở Hoa Kỳ. Vị đạo diễn cũng bày tỏ mong muốn cho các nhân vật trong phim quay trở lại đại dương trong phần tiếp theo. Trong khi đó, nam diễn viên Yamada Yuki lại đề xuất ý tưởng cho nhân vật Noriko (thủ vai bởi Hamabe) trở thành chìa khóa để xác định vị trí của Godzilla, vì theo cách giải thích của anh thì cô ấy đang sở hữu những tế bào quái vật.
Nhà sản xuất Ichikawa Minami tin rằng Toho sẽ dành thời gian để thực hiện dự án Godzilla người đóng tiếp theo: "Những bộ phim hay đều cần đến chất lượng. Chúng tôi luôn muốn có những ý tưởng tuyệt vời, một kịch bản xuất sắc, một đạo diễn tài năng, cùng với đó là dàn diễn viên phù hợp, để có thể làm việc một cách tỉ mỉ và chăm chút nhất. Godzilla xứng đáng nhận được sự tận tâm ấy."
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn
Liên kết ngoài
Official website
American website
United Kingdom website
German website
Godzilla Minus One tại Toho
Phim năm 2023
Phim Nhật Bản thập niên 2020
Phim tận thế
Phim khủng long
Phim lấy bối cảnh năm 1945
Phim lấy bối cảnh năm 1946
Phim lấy bối cảnh năm 1947
Phim lấy bối cảnh ở Tokyo
Phim lấy bối cảnh ở Thái Bình Dương
Phim quay tại Tokyo
Phim IMAX
Phim về Chiến tranh Thái Bình Dương
Phim khởi động lại
Phim Toho
Phim giành giải Oscar cho hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất
|
19849649
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jonas%20Deichmann
|
Jonas Deichmann
|
Jonas Deichmann (sinh ngày 15 tháng 4 năm 1987 tại Stuttgart) là một nhà văn, diễn giả truyền cảm hứng và nhà thám hiểm người Đức. Anh nắm giữ nhiều kỷ lục thế giới xoay quanh hoạt động đạp xe, cuộc thi triathlon và sức bền. Jonas được biết đến trên toàn thế giới với biệt danh "Forrest Gump của Đức".
Trình Độ Học Vấn
Jonas từng theo học chuyên ngành Kinh Doanh Quốc Tế tại các trường đại học ở Thụy Điển, Brazil, Singapore, Đan Mạch và Ấn Độ. Anh lấy bằng Cử Nhân Quản Trị Kinh Doanh và Kinh Tế tại Trường Kinh Doanh Quốc Tế Jönköping vào năm 2012. Sau đó, Jonas tiếp tục nhận bằng Thạc sĩ từ Trường Kinh Doanh Copenhagen vào năm 2014.
Thành Tích Thám Hiểm
Jonas đã thực hiện thành công nhiều cuộc thám hiểm đa dạng, trong đó có những chuyến đi đã xô đổ cũng như xác lập loạt kỷ lục thế giới.
Năm 2017, anh đã đạp xe hơn 14 nghìn cây số từ Cabo da Roca ở Bồ Đào Nha đến Vladivostok ở Nga để rồi thiết lập 2 kỷ lục Guinness Thế Giới trong hành trình này.
Năm 2018, anh tiếp tục đạp xe từ Alaska (Vịnh Prudhoe) đến Argentina (Ushuaia) với khoảng thời gian hoàn thành kỷ lục là 97 ngày.
Năm 2019, Jonas hoàn thành chuyến hành trình dài 18.000 km từ điểm cực bắc của châu Âu đến điểm cực nam của châu Phi. Tổng cộng anh đã dành ra 72 ngày, 7 giờ và 27 phút cho toàn bộ hành trình này. Đây là kỷ lục thế giới mới, nhanh hơn 30 ngày so với kỷ lục của người tiền nhiệm.
Năm 2020, Jonas đã hoàn thành cuộc thi ba môn phối hợp triathlon vòng quanh nước Đức, với quãng đường dài gấp 16 lần Ironman.
Năm 2021, Jonas chinh phục cuộc thi triathlon dài nhất thế giới, tương đương với khoảng cách của 120 cuộc triathlon cộng lại với 450 km bơi, 20.000 km đạp xe và 5.000 km chạy. Ở cuộc thi triathlon này, anh được quốc tế biết đến với biệt danh "Forrest Gump của Đức".
Năm 2023, Jonas đã đạp xe 11 nghìn km từ Thành Phố New York đến Los Angeles và sau đó chạy cùng quãng đường này để quay trở lại New York rồi về đích cùng với Giải Marathon New York.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Crossing America (Youtube)
Sinh năm 1987
Nhà văn Đức
Nhà thám hiểm Đức
Nhân vật còn sống
Deichmann, Jonas
Người đi bộ đường dài
Diễn giả truyền cảm hứng
|
19849654
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aten%20%28th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%29
|
Aten (thành phố)
|
Aten, được gọi chính xác là Aten rực rỡ mặc dù ban đầu được các nhà khảo cổ gọi là Sự trỗi dậy của Aten, là tàn tích của một thành phố Ai Cập cổ đại trên bờ tây sông Nin ở Khu lăng mộ Thebes gần Luxor. Được đặt tên theo thần mặt trời Aten của Ai Cập, thành phố này dường như vẫn còn tương đối nguyên vẹn trong hơn ba thiên niên kỷ. Kể từ khi cuộc khai quật bắt đầu vào cuối năm 2020, đây trở thành đô thị lớn nhất thuộc loại này ở Ai Cập cổ đại. Với mức độ bảo tồn đáng chú ý, nơi này đã được so sánh với Pompeii.
Bản đồ
Xem thêm
Malkata, còn được gọi là Aten rực rỡ
Ghi chú
Tham khảo
Thư mục
Khám phá khảo cổ năm 2021
Địa điểm khảo cổ ở Anh
Aten giáo
Thành phố ở Ai Cập cổ đại
Khu dân cư thành lập thiên niên kỷ 4 TCN
Khu dân cư cũ ở Ai Cập
Khu lăng mộ Thebes
Địa điểm khảo cổ ở Ai Cập
|
19849655
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Friederike%20Charlotte%20c%E1%BB%A7a%20Ph%E1%BB%95
|
Friederike Charlotte của Phổ
|
Friederike Charlotte của Phổ (tên đầy đủ: Friederike Charlotte Ulrike Katharina; 7 tháng 5 năm 1767 – 6 tháng 8 năm 1820) là Vương nữ Phổ khi sinh ra và là Vương tức Liên hiệp Anh thông qua hôn nhân. Friederike Charlotte là người con duy nhất của Friedrich Wilhelm II của Phổ và Elisabeth Christine Ulrike xứ Braunschweig-Lüneburg cũng như là vợ của Frederick của Liên hiệp Anh, Công tước xứ York và Albany, con trai thứ hai của George III của Liên hiệp Anh và Sophie Charlotte xứ Mecklenburg-Strelitz.
Thiếu thời
Friederike Charlotte sinh ra ở Charlottenburg vào ngày 7 tháng 5 năm 1767, là con cả của Friedrich Wilhelm II của Phổ và là con duy nhất của Friedrich Wilhelm II với người vợ đầu tiên, cũng như là chị họ, Elisabeth Christine Ulrike xứ Braunschweig-Wolfenbüttel.
Tại thời điểm chào đời, người ông bác không con của Friederike Charlotte là Friedrich II Đại vương đang trị vì nước Phổ. Cha của Friederike là cháu trai của Friedrich II và là người thừa kế ngai vàng, còn mẹ là cháu gái của nhà vua. Cuộc hôn nhân của cha mẹ Friederike không hạnh phúc vì hai người có quá nhiều khác biệt. Sau vài cuộc tình với các nhạc sĩ và sĩ quan, mẹ của Friederike hoài thai vào năm 1769. Elisabeth Christine Ulrike do đó âm mưu trốn khỏi Phổ cùng người tình nhưng bị phản bội và bị bắt, gây ra một vụ bê bối công khai. Một cuộc ly hôn nhanh chóng được chấp thuận, và Elisabeth Christine Ulrike bị quản thúc tại lâu đài Stettin trong bảy mươi mốt năm cho đến khi qua đời ở tuổi 93 vào năm 1840, hai mươi năm sau cái chết của Friederike Charlotte, đứa con duy nhất của Elisabeth Christine Ulrike.
Friederike khi ấy mới hai tuổi vào thời điểm mẹ bị bắt giam và không bao giờ gặp lại mẹ nữa. Friedrich II được ghi nhận là đã cảm thương mẹ của Vương tằng tôn nữ và giao Friederike Charlotte cho vợ là Elisabeth Christine xứ Braunschweig-Wolfenbüttel-Bevern chăm sóc và nói rằng: "Nàng chỉ còn lại đứa trẻ tội nghiệp này và con bé không thể nương tựa vào ai ngoại trừ nàng; hãy để đứa trẻ ở trong gian phòng hiện đang do cháu gái ta sinh sống. Friederike Charlotte được ghi nhận là đã có một tuổi thơ hạnh phúc với Vương hậu Elisabeth Christine không con. Vương hậu yêu quý cháu gái cũng như là nghĩa nữ của mình và Friederike luôn giữ liên lạc thông qua thư từ với mẹ nuôi tong suốt cuộc đời.
Hôn nhân
Ngày 29 tháng 9 năm 1791 tại Cung điện Charlottenburg, Friederike Charlotte kết hôn với Frederick của Liên hiệp Anh, Công tước xứ York và Albany, con trai thứ hai của George III của Liên hiệp Anh và Sophie Charlotte xứ Mecklenburg-Strelitz. Lễ kết hôn thứ hai được tổ chức tại Cung điện Buckingham vào ngày 23 tháng 11. Friederike Charlotte nhận được sự chào đón nhiệt tình ở Luân Đôn.
Cuộc hôn nhân giữa Friederike Charlotte và Công tước xứ York được dàn xếp nhằm sinh ra người thừa kế cho ngài vàng Anh, vì Quốc vương George IV của Liên hiệp Anh, bấy giờ là Thân vương xứ Wales vào thời điểm đó đã bí mật kết hôn và tình trạng hôn nhân của Thân vương đang rất phức tạp. Được biết, George IV, vào thời điểm đó, mặc dù bất hợp pháp, đã kết hôn với Maria Fitzherbert, cho rằng bản thân không cần phải có một cuộc hôn nhân đăng đối vì những người em trai lớn đã kết hôn với Vương nữ ngoại quốc và có thể sinh ra người thừa kế. Friederike Charlotte đã được chọn để gả đi theo ý muốn của Friedrich II. Quốc vương Phổ đã cho George III đọc một bức thư từ Friederike Charlotte để George III nhận thấy phẩm chất dịu dàng và tình cảm ở Friederike. Bức thư đã khiến George III hài lòng và hỏi cưới Friederike cho con trai.
Trước thông tin về cuộc hôn nhân, mẹ chồng tương lai của Friederike, Vương hậu Charlotte đã viết cho Vương hậu Elisabeth Christine rằng: "Nếu có điều gì có thể khiến ta hài lòng hơn trước sự lựa chọn của con trai, thì đó chính là sự quan tâm sâu sắc mà Bệ hạ dành cho cuộc sống của Vương tằng tôn nữ", đứa trẻ của ngài, và ta đảm bảo với ngai rằng một Vương nữ được ngài nuôi dưỡng, và là người mà ngài đánh giá cao, sẽ tìm thấy ở ta không chỉ một người mẹ mà còn là một người bạn; và ta hy vọng rằng khi có được tình bạn của Vương tằng tôn nữ, ta cũng sẽ được hưởng một phần tình cảm của ngài, điều đó sẽ rất có ý nghĩa to lớn với ta." Vương hậu Charlotte đã giữ lời, khi Friederike Charlotte viết thư gửi cho Elisabeth Christine, Friederike đã bày tỏ bản thân được mẹ chồng đối xử tốt và cảm thấy được chào đón nồng nhiệt như thế nào ở Anh, khi từng ở hàng giờ trong Hạ viện và chăm chú lắng nghe một cách thích thú các bài phát biểu chính trị đến nỗi hàng giờ trôi qua chỉ tựa vài phút.
Tuy nhiên, cuộc hôn nhân không hề hạnh phúc và sau ba năm, rõ ràng là Công tước và Công tước phu nhân xứ York sẽ không có con với nhau. Bên cạnh việc quốc hội sẽ trả các khoản nợ của Frederick nếu Vương tử kết hôn, thì từ năm 1794 Friederike Charlotte cũng không còn mong đợi có con nữa. Điều này đã khiến Thân vương xứ Wales đồng ý dàn xếp một cuộc hôn nhân hợp pháp. Friederike Charlotte và Frederick ly thân và Công tước phu nhân lui về Oatlands Park, Weybridge và sống tại đây cho đến khi qua đời. Mối quan hệ của hai người sau khi ly thân dường như rất thân thiết, nhưng chưa bao giờ có hy vọng về việc tái hợp.
Friederike được mô tả là:" người thông minh và hiểu biết rộng; đức bà là người ưa thích giao thiệp và chán ghét mọi hình thức và nghi lễ, nhưng ngay cả trong những cuộc giao thiệp gần gũi nhất, đức bà luôn giữ phong thái đứng đắn nhất định", và:"có lẽ không có người nào trong tình cảnh như vậy lại có thể được yêu mến hơn." Năm 1827 (sau khi Vương nữ qua đời), Friederike được gọi là: "một người phụ nữ nhỏ bé vô hại nhưng lập dị, có niềm yêu thích đặc biệt với chó và mèo, có vài khía cạnh thể hiện tính nghiêm nghị của người Đức trong nghi thức xã giao gia đình, khiến chỗ của Vương nữ có bầu không khí của Potsdam, và có một điểm hấp dẫn có thể thu hút một người chồng trẻ, một người lính và một vương tử." Cờ bạc đặt cược cao được cho là đã diễn ra tại Oatlands. Friederike Charlotte nuôi rất nhiều chó và dường như rất tận tâm với khỉ Bố chồng Friederike từng nhận xét con dâu rằng: "Tình cảm hiện hữu vào khi không có con cái thì động vật là đối tượng thể hiện tình cảm." Khi Friederike qua đời, chồng của Vương nữ được mô tả là đã rất đau buồn và muốn những di nguyện trong di chúc của Friederike cần được thực hiện.
Qua đời
Friederike Charlotte qua đời vào ngày 6 tháng 8 năm 1820, tại Công viên Oatlands, Weybridge, Surrey, Anh và được tưởng nhớ thông qua một tượng đài do người dân ở Weybridge dựng lên và đặt tại Monument Green, Weybridge.
Gia phả
<center>
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Vương nữ Phổ
Vương tộc Hohenzollern
Vương nữ
Vương tức Liên hiệp Anh
Vương tức Hannover
Công tước phu nhân xứ York
Công tước phu nhân xứ Albany
Vương tộc Hannover
Người Berlin
Người Đức thế kỷ 19
Người Đức thế kỷ 18
Mất năm 1820
Sinh năm 1767
Nguồn CS1 tiếng Pháp (fr)
|
19849661
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Faisal%20Halim
|
Faisal Halim
|
Muhammad Faisal bin Abdul Halim (sinh ngày 7 tháng 1 năm 1998 tại Mengkuang Titi, Pulau Pinang, Malaysia), còn được biết đến với biệt danh Mickey, là một cầu thủ bóng đá người Malaysia chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Selangor và đội tuyển bóng đá quốc gia Malaysia.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Faisal Halim sinh ngày 7 tháng 1 năm 1998 tại Mengkuang Titi, Pulau Pinang, Malaysia. Anh bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp từ năm 17 tuổi khi thi đấu cho đội U-19 của câu lạc bộ Penang tại Giải bóng đá Ngoại hạng Malaysia. Anh có trận đấu ra mắt và ghi một bàn thắng trong trận thua 2–3 của Penang trước PDRM tại Cúp Malaysia 2015. Anh là một trong số những cầu thủ trẻ nhất được triệu tập lên Penang tham dự Cúp Malaysia 2015. Vào tháng 11 năm 2015, anh ký hợp đồng thi đấu cho câu lạc bộ Pahang. Anh có trận đấu đầu tiên cho đội bóng này trong trận hòa 2–2 của Pahang trước T–Team. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Pahang trong trận thua 1–3 trước Selangor vào ngày 27 tháng 2 năm 2016. Anh rời Pahang vào ngày 31 tháng 11 năm 2020 sau 5 năm gắn bó với đội bóng này. Trong màu áo của Pahang, anh đã có 60 lần ra sân, ghi được 9 bàn thắng và có 4 pha kiến tạo. Vào ngày 6 tháng 12 măm 2020, anh ký hợp đồng có thời hạn 2 năm với câu lạc bộ Terengganu và mặc áo số 7 trong mùa giải 2021. Anh có trận đấu đầu tiên ra mắt Tegengganu vào ngày 6 tháng 3 năm 2021 trong chiến thắng 2–1 trước UiTM ngay trên sân khách. Anh có bàn thắng đầu tiên cho Terangganu trong chiến thắng 2–0 trước Perak ngay trên sân nhà. Vào ngày 23 tháng 11 năm 2022, anh quyết định chia tay Terangganu sau khi mùa giải 2022 kết thúc. Anh thi đấu trận chia tay Tegangganu trong trận thua 2–3 trước Selangor tại bán kết Cúp Malaysia 2022. Vào ngày 22 tháng 12 năm 2022, anh ký hợp đồng với Selangor theo dạng chuyển nhượng tự do. Anh có trận đấu ra mắt Selangor vào ngày 26 tháng 2 năm 2023 trong trận khai mạc mùa giải 2023 với câu lạc bộ Kelantan United và giành thắng lợi với tỷ số 1–0. Anh có bàn thắng đầu tiên cho Selangor vào ngày 31 tháng 3 năm 2023 trong thắng lợi 3–1 trước Kuala Lumpur City. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2023, anh lập cú đúp trong chiến thắng hủy diệt Kelantan với tỷ số 11–2.
Sự nghiệp quốc tế
Vào ngày 2 tháng 6 năm 2019, anh có trận đấu ra mắt đội tuyển quốc gia Malaysia trong trận giao hữu gặp Nepal. Vào tháng 11 năm 2021, anh được triệu tập vào danh sách 24 cầu thủ của đội tuyển Malaysia tham dự Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2020 diễn ra trên đất Singapore. Anh chỉ thi đấu một trận duy nhất, trong trận thảm bại 1–4 trước Indonesia. Vào tháng 11 năm 2022, anh được triệu tập trong danh sách các cầu thủ đội tuyển Malaysia tham dự Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2022. Vào ngày 21 tháng 11 năm 2022, anh ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 trước Myanmar. Trong trận đấu thứ hai của Malaysia tại vòng bảng, anh lập cú đúp trong chiến thắng 5–0 trước Lào. Trong trận bán kết của giải đấu, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận thua với tổng tỷ số 1–3 sau hai lượt đấu trước Thái Lan. Vào ngày 27 tháng 1 năm 2023, anh lọt vào đội hình 11 cầu thủ tiêu biểu của giải đấu do AFF công bố. Vào ngày 26 tháng 12 năm 2023, anh được triệu tập lên đội tuyển Malaysia tham dự Cúp bóng đá châu Á 2023 được tổ chức trên đất Qatar. Tại trận đấu cuối cùng của vòng bảng, anh cùng Arif Aiman Hanapi và Romel Morales ghi bàn giúp Malaysia gây sốc khi cầm hòa Hàn Quốc với tỷ số 3–3, tuy nhiên Malaysia vẫn phải dừng bước ngay từ vòng bảng với chỉ vỏn vẹn 1 điểm.
Tham khảo
Sinh năm 1998
Nhân vật còn sống
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ Cúp bóng đá châu Á 2023
Cầu thủ bóng đá Đại hội Thể thao châu Á 2018
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Malaysia
|
19849662
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wilhelmine%20c%E1%BB%A7a%20Ph%E1%BB%95%2C%20V%C6%B0%C6%A1ng%20h%E1%BA%ADu%20H%C3%A0%20Lan
|
Wilhelmine của Phổ, Vương hậu Hà Lan
|
Wilhelmine của Phổ (tiếng Đức: Wilhelmine von Preußen; tiếng Anh: Wihelmine of Prussia; tên đầy đủ: Friederike Luise Wilhelmine; 18 tháng 11 năm 1774 – 12 tháng 10 năm 1837) là Vương hậu đầu tiên của Hà Lan với tư cách là vợ Willem I của Hà Lan. Wilhelmine người bảo trợ cho nghệ thuật.
Thân thế
Wilhelmine sinh ra ở Potsdam, là con thứ tư trong số tám người con được sinh ra bởi Friedrich Wilhelm II của Phổ và Friederike Luise xứ Hessen-Darmstadt. Quá trình nuôi dạy của Wilhelmine bị chi phối bởi triều đại nghiêm ngặt của người ông bác của Vương nữ là Friedrich II Đại vương, nhưng nhìn chung có rất ít thông tin về tuổi trẻ của Wilhelmine. Vương nữ được hưởng một nền giáo dục truyền thống dành cho thiếu nữ đương thời và được dạy về may vá và nghệ thuật, đồng thời được mô tả là xinh đẹp và ngọt ngào. Wilhelmine thường được gọi là "Mimi".
Hôn nhân
Ngày 1 tháng 10 năm 1791, Wilhelmine kết hôn với người em họ William của Hà Lan, con trai của Thống đốc Willem V xứ Oranje và Wilhelmine của Phổ tại Berlin. Cuộc hôn nhân được sắp đặt như một phần của liên minh giữa Vương tộc Oranje-Nassau và Phổ, nhưng trên thực tế, đó cũng là một cuộc hôn nhân vì tình yêu và trở thành một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Đôi vợ chồng trẻ đến sống tại Cung điện Noordeinde ở Den Haag.
Năm 1795, Pháp xâm lược Cộng hòa Hà Lan, và gia đình Thân vương phải sống lưu vong. Ban đầu họ ở lại Anh và chuyển đến Berlin từ năm 1796. Tại Berlin, cặp đôi sống ở "Niederländischen Palais" (Cung điện Hà Lan). Năm 1806, Wilhelmine một lần nữa buộc phải chạy trốn khỏi quân đội Pháp và định cư trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn ở Ba Lan.
Wilhelmine trở lại Den Haag vào đầu năm 1814.
Vương hậu Hà Lan
Wilhelmine trở thành Vương hậu Hà Lan vào năm 1815. Vào thời điểm đó, Hà Lan bao gồm cả đất nước Bỉ ngày nay. Triều đình chia thời gian của họ cho hai người và chia mùa đông giữa The Hague và Brussels, còn mùa hè giữa Het Loo và Laeken. Wilhelmine đích thân đến thăm Berlin mỗi năm một lần cho đến khi qua đời, và thường ở tại "Niederländischen Palast" trong mỗi chuyến thăm. Wilhelmine cũng đại diện vương thất Phổ trong thời gian ở Berlin, cũng như tham dự các vùng lãnh địa của mình ở Silesia. Vương hậu Wilhelmine là người khiêm nhường và và không có vai trò trọng yếu nào với tư cách là Vương hậu. Wilhelmine được gia đình yêu quý nhưng không được lòng dân, và bị chỉ trích ở Hà Lan vì cô lập vương thất, và sau đó là Bỉ vì phong cách thời trang Đức của Vương hậu. Bắt đầu từ năm 1820, sức khỏe của Wilhelmine trở nên tồi tệ và sau năm 1829, Vương hậu hiếm khi xuất hiện trước công chúng, mặc dù Wilhelmine vẫn tiếp tục thực hiện các chuyến đi đến Berlin và thăm hỏi họ hàng.
Vương hậu có sự yêu thích với hội họa và thường tham dự các cuộc triển lãm, và giúp bảo vệ các viện bảo tàng cũng như hỗ trợ cho các họa sĩ. Bản thân Wilhelmine là một sinh viên nghệ thuật và được coi là người có năng khiếu và rồi trở thành thành viên danh dự của Học viện Mỹ thuật Vương thất ở Amsterdam. Wilhelmine là học trò của Friedrich Bury, tài trợ cho chuyến du học Ý của Bonaventura Genelli và hỗ trợ việc cải tạo bảo tàng vương thất.
Vương hậu qua đời tại Cung điện Noordeinde ở Den Haag năm 1837, thọ 62 tuổi và được an táng trong Nhà thờ Mới ở Delft.
Con cái
Gia phả
<center>
<center>
Tham khảo
Wilhelmina van Pruisen (bằng tiếng Hà Lan)
Liên kết ngoài
|-
|-
Vương nữ Phổ
Vương tộc Hohenzollern
Vương nữ
Vương hậu Hà Lan
Thân vương phi xứ Oranje
Vương tộc Oranje-Nassau
Vương thất Hà Lan
Người từ Potsdam
Người Đức thế kỷ 18
Người Đức thế kỷ 19
Sinh năm 1774
Mất năm 1837
Nguồn CS1 tiếng Pháp (fr)
|
19849683
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A1ch%20%E1%BB%90c%20Thanh%20C%E1%BB%A7ng
|
Thạch Ốc Thanh Củng
|
Thạch Ốc Thanh Củng (zh. 石屋清珙 Shiwu Qinggong, 1272-1352) là một vị Thiền sư Trung Quốc đời Nguyên, thuộc phái Dương Kỳ và phái Phá Am của tông Lâm Tế. Sư được biết đến là một nhà ẩn sĩ và thi sĩ nổi tiếng của Trung Quốc với nhiều bài thơ còn được lưu truyền đến ngày nay. Dòng Thiền Lâm Tế của Sư được truyền vào bán đảo Triều Tiên thông qua hai đệ tử là Bạch Vân Cảnh Nhàn và Thái Cổ Phổ Ngu.
Cơ duyên và hành trạng
Sư họ Văn, sinh vào năm Hàm Thuần thứ 8 (1275) thời Nam Tống, quê ở Thường Thục, Giang Tô, mẹ tên là Lưu Thị. Lúc mẹ sinh ra Sư, có ánh sáng lạ xuất hiện. Năm 20 tuổi, sư theo Pháp sư Duy Vĩnh ở Sùng Phước tự xuất gia. Đến năm 23 tuổi, sư thọ giới Cụ túc.
Tham học với Cao Phong
Đầu tiên, Sư lên núi Thiên Mục tham yết Thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu. Cao Phong hỏi: "Ông đến đây vì việc gì?" Sư trả lời: "Con vì cầu pháp mà đến!" Cao Phong bảo: "Pháp vốn không dễ cầu. Ông muốn cầu thì phải đốt ngón tay làm hương mới được!" Sư nói: "Nhưng chính con thấy Hoà thượng ngay trước mắt. Làm sao Pháp có thể che dấu được?" Thiền sư Cao Phong nghe vậy hài lòng thầm chấp nhận cho sư theo mình tham học và trao cho Sư câu thoại đầu "Vạn pháp quy nhất" để tham cứu.
Dù đã ở hội của Thiền sư Cao Phong hơn ba năm nhưng chỉ đạt được chút ít sở đắc nên Sư chán nản đến bái tạ để đi nơi khác tham học. Thiền sư Cao Phong bèn chỉ sư đến tham học với vị huynh đệ đồng thờ Thiền sư Tuyết Nham Tổ Khâm làm thầy là Thiền sư Cập Am Tông Tín (zh. 及庵宗信).
Đắc pháp nơi Cập Am
Băng qua sông Trường Giang, Sư tới được chổ của Thiền sư Cập Am Tông Tín, lúc này đang trụ tại chùa Tây Phong gần Kiến Dương. Cập Am hỏi Sư đã được dạy những gì, Sư nêu lại câu thoại "Vạn pháp quy nhất". Cập Am hỏi ý nghĩa của câu thoại này là gì nhưng sư im lặng. Cập Am nói: "Đó chỉ là tử cú (câu chết). Ông đã nhặt được thứ rác rưởi đó ở đâu vậy?" Sư đảnh lễ và xin Cập Am chỉ dạy. Cập Am dạy Sư tham câu thoại "Nơi chư Phật trụ, đừng dừng lại; Nơi chư Phật không trụ, hãy mau đi qua." Sư không hiểu nhưng vẫn quyết định ở lại với Cập Am.
Một ngày nọ, Cập Am hỏi sư về câu thoại trên và Sư đáp: "Khi lên ngựa, thấy được con đường." Cập Am không hài lòng và nhắc nhở Sư thêm một lần nữa. Sư lại rời đi nhưng khi xuống núi lúc thấy một cái đình thì sư bỗng nhiên đại ngộ. Sư quay lại gặp Cập Am và nói: "Khi chư Phật trụ, đừng dừng lại. Đó là tử cú. Khi chư Phật không trụ, hãy mau đi qua. Đó cũng là tử cú. Bây giờ con đã hiểu được hoạt cú (lời sống)." Cập Am hỏi Sư hiểu được gì, Sư liền đáp: "Thời tiết thanh minh lúc mới mưa, Hoàng Ly đầu càng hót rõ ràng." Cập Am gật đầu ấn chứng và tiên đoán rằng: "Về sau ta và ông sẽ ngồi chung một khám."
Hoằng pháp
Khi Cập Am đến trụ trì tại đạo tràng ở Hồ Châu, Sư được giao quản lý tạng kinh các. Hoà thượng Cập Am nói với đại chúng về Sư rằng: "Người này là cá vảy vàng trong biển pháp."
Lúc Cập Am dời tới chùa Linh Ẩn hoằng pháp, sư cũng được cử đến dạy Thiền cho các tăng sĩ khác trong chùa.
Đầu tiên Sư đến trú tại Phước Nguyên tự, sau lui về ẩn cư tại Thiên Hồ sơn ở gần Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang, lúc này sư khoảng 40 tuổi. Tại đây sư bắt đầu sống cuộc đời của một người ẩn sĩ xa lánh thế tục. Dù thiếu thốn về vật chất nhưng Sư không bao giờ nhờ cậy sự giúp đỡ của đàn việt, nếu không có thức ăn thì sư uống tạm nước để sống. Sư tính tình hiền lành, thương người, thương vật. Sư có sáng tác nhiều bài "sơn thi" mang đậm tính Thiền học, nhân văn, có ý nghĩ cảnh tỉnh người đời. Hoàng hậu Nhà Nguyên vì quý trọng đức hạnh của Sư nên ban tặng cho sư một tấm y ca-sa Kim lan.
Tháng 7 năm thứ 12 (1352) niên hiệu Chí Chính đời Nguyên, vào buổi sáng, sau khi nói lời từ biệt với các môn đệ, Sư thị tịch, thọ 81 tuổi. Vua Cao Ly ban thụy là Phật Từ Huệ Chiếu Thiền sư.
Sau khi Sư tịch, huynh đệ đồng môn của Sư là Thiền sư Bình Sơn Sử Lâm (trụ trì của Tịnh Từ tự) đã đến núi Thiên Hồ và thu gom một nửa di vật của Sư và gửi sang Cao Ly cho pháp tử của Sư là Thiền sư Bạch Vân Cảnh Nhàn và Thái Cổ Phổ Ngu. Các vị này đã xây một ngôi chùa để bảo quản và thờ cúng các di vật trên.
Tác phẩm
Các tác phẩm do chính Sư sáng tác hoặc được đệ tử sưu tập còn lưu truyền đến nay là:
Thạch Ốc Thanh Củng Thiền Sư Sơn Cư Thi (zh. 石屋清珙禪師山居詩)
Thạch Ốc Thanh Củng Thiền Sư Ngữ Lục (zh.石屋清珙禪師語錄)
Thạch Ốc Thanh Củng Thiền Sư Thi Tập (zh. 石屋珙禪師詩集)
Ngoài ra một số sách về văn học cũng có đưa các bài thơ của Sư vào như Cổ Kim Thiền Tảo Tập (zh. 古今禪藻集) là 25 bài, Nguyên Thi Tuyển (zh. 元詩選) là 33 bài và Tống Nguyên Thi Hội (zh. 宋元詩會) là 12 bài.
Một bài thơ trong Sơn Cư Thi thể hiện tính nhân văn, khuyên người hướng thiện của Sư:
Hán văn
三 十 餘 年 住 崦 西。
钁 頭 邊 事 不 吾 欺。
一 園 春 色 熟 茶 筍。
數 樹 秋 風 老 栗 梨
山 頂 月 明 長 嘯 夜
水 邊 雲 暖 獨 行 時
舊 交 多 在 名 場 裡
竹 戶 長 開 待 阿 誰
Phiên âm
Tam thập dư niên trú yêm tây
Quắc đầu biên sự bất ngô khi
Nhất viên xuân sắc thục trà duẩn
Số thụ thu phong lão lật lê
Sơn đỉnh nguyệt minh trường khiếu dạ
Thuỷ biên vân noãn độc hành thời
Cựu giao đa tại danh trường lý
Trúc hộ trường khai đãi a thuỳ?
Dịch nghĩa
Dư ba mươi năm yêm tây trú
Việc cầy bừa nào có thiếu đâu
Một vườn Xuân sắc toàn trà nụ
Vài cây giẻ, lê đón gió Thu
Hát suốt đêm trăng, trên đỉnh núi
Bên dòng nước, mây ấm trôi đi
Bạn cũ đều trong trường danh lợi
Cửa tu mở rộng chờ ai ni?
Một bài Sơn Thi khác mà Sư dùng đối tượng bên ngoài (cảnh) để thể hiện triết lý vô tâm của Thiền tông:
Hán văn
松 下 雙 扉 泠 不 扃
一 龕 金 像 照 青 燈
眠 雲 野 鹿 驚 回 夢
落 澗 獼 猴 墜 折 藤
得 意 看 山 山 轉 好
無 心 合 道 道 相 應
多 時 不 向 門 前 去
蘚 葉 苔 花 積 幾 層
Phiên âm
Tùng hạ song phi lãnh bất quynh
Nhất kham kim tượng chiếu thanh đăng
Miên vân dã lộc kinh hồi mộng
Lạc giản mi hầu truỵ chiết đằng
Đắc ý khán sơn sơn chuyển hảo
Vô tâm hợp đạo đạo tương ưng
Đa thời bất hướng môn tiền khứ
Tiển diệp đài hoa tích kỷ tầng.
Dịch nghĩa
Dưới tòng hai cửa lạnh, không đóng
Tượng vàng trong khám chiếu thanh đăng
Mây và nai rừng kinh tỉnh mộng
Dưới suối bầy khỉ rơi, bám cành
Đắc ý, nhìn núi, núi chuyển tốt
Vô tâm hợp đạo, đạo tương ưng
Nhiều khi không đi ra cửa trước
Hoa lá, rong rêu đã mấy từng.
Tham khảo
Thiền sư Trung Quốc
Lâm Tế tông
Nhà thơ
Nhà thơ Trung Quốc
Nhà thơ Trung Quốc thời Nguyên
|
19849706
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Talking%20to%20Yourself
|
Talking to Yourself
|
"Talking to Yourself" là bài hát của nữ ca sĩ người Canada Carly Rae Jepsen nằm trong album phòng thu thứ sáu của cô mang tên The Loneliest Time (2022). Jepsen đã viết bài hát này với nhạc sĩ sáng tác bài hát Simon Wilcox, cùng với bộ đôi Benjamin Berger và Ryan Rabin của Captain Cuts. Captain Cuts cũng đảm nhiệm kiêm vai trò nhà sản xuất của bài hát. Hai hãng thu âm School Boy và Interscope Records chính thức phát hành "Talking to Yourself" làm đĩa đơn thứ ba của The Loneliest Time vào ngày 16 tháng 9 năm 2022. Bài hát đi theo thể loại nhạc dance-pop và synth-pop, với nội dung kể về một cô gái nhớ nhung tình cũ và tự vấn liệu anh ta có còn nhớ tới mình hay không.
"Talking to Yourself" nhận được đánh giá tích cực từ giới chuyên môn cho phần sản xuất gây nghiện cùng chất nhạc khiến người nghe phải nhảy nhót theo. Các nhà phê bình âm nhạc dành lời khen ngợi cho phần điệp khúc của bài hát, và phần ca từ của tác phẩm cũng nhận được một số lời bình luận chuyên sâu. Bài hát đứng ở vị trí thứ 8 trên bảng xếp hạng Billboard Japan Hot Oversea Songs. Một video âm nhạc cho "Talking to Yourself" cũng được đăng tải trên kênh YouTube của nữ ca sĩ cùng ngày bài hát được phát hành trên các nền tảng nghe và tải nhạc trực tuyến.
Bối cảnh và phát hành
Trong quá trình thực hiện chuyến lưu diễn The Dedicated Tour, Carly Rae Jepsen bắt đầu thu thập ý tưởng cho album phòng thu thứ sáu của mình kể từ tháng 2 năm 2020. Sức sáng tạo của cô ngày một mạnh mẽ hơn sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Nữ ca sĩ đã biến không gian văn phòng cũ trong căn hộ của cô tại Los Angeles thành một phòng thu tại gia. Ngày 1 tháng 8 năm 2022, Jepsen thông báo rằng album phòng thu mới có tựa đề The Loneliest Time sẽ được phát hành vào ngày 21 tháng 10 năm 2022. Album được quảng bá trước bằng hai đĩa đơn "Western Wind" và "Beach House" trong năm 2022.
Jepsen đã viết "Talking to Yourself" cùng với nhạc sĩ sáng tác bài hát Simon Wilcox cùng với bộ đôi Benjamin Berger và Ryan Rabin của Captain Cuts. Captain Cuts cũng đóng vai trò nhà sản xuất của bài hát. Ngày 13 tháng 9 năm 2022, Jepsen chia sẻ một đoạn cắt dài 17 giây của bài hát lên các mạng xã hội kèm lời nhắn: "Với The So Nice Tour sẽ diễn ra trong gần một tuần nữa, tôi không tài nào kiềm chế được… 'Talking To Yourself' sẽ tới vào thứ Sáu tuần này nên các bạn có thể học thuộc lời trước khi chúng ta gặp nhau nhé!". Ba ngày sau, hai hãng thu âm School Boy và Interscope Records phát hành "Talking to Yourself" làm đĩa đơn thứ ba của The Loneliest Time, kèm theo đó là một video âm nhạc được đăng tải trên kênh YouTube của nữ ca sĩ.
Biên soạn
"Talking to Yourself" có độ dài 2 phút 53 giây. Bộ đôi Captain Cuts sản xuất bài hát và thực hiện phần kỹ thuật âm thanh cùng với Rob Kinelski và Eli Heisler; trong khi phần lập trình được thực hiện bởi Berger và Wilcox. Trevor Rabin chơi phần guitar, Emily Lazar và Chris Allgood thực hiện phần master, còn Kinelski thì đảm nhiệm vai trò phối khí. Qua phần ca từ của "Talking to Yourself", Jepsen nhớ lại mối quan hệ trước đây với người yêu cũ và tự hỏi liệu anh ta có còn tình cảm với cô hay không. Cô bị ám ảnh bởi anh và nghĩ đến việc anh không thể ngủ được vào ban đêm nếu không có cô. Bài hát không nói rõ đó là một mối quan hệ nghiêm túc, mối quan hệ tình bạn cùng lợi ích hay chỉ là một người mà cô từng cảm nắng. Theo Ben Kaye của Consequence, bài hát "dành cho những người ở phe chiến thắng của cuộc chia tay".
"Talking to Yourself" là một bài hát nhạc dance-pop và synth-pop rộn ràng, sở hữu nhịp điệu mạnh mẽ và mang âm hưởng của âm nhạc thập niên 1980. Bài hát bao gồm một đoạn guitar độc tấu, mà theo cây viết Gem Stokes của Clash thì đoạn nhạc này như đang "đấu chọi với tiếng synthesier". Theo nhà báo Maura Johnston của Entertainment Weekly, "tiếng đàn guitar bị bóp méo từ thập niên 1980 như luồn lách qua giọng hát đầy quyết đoán của Jepsen", cùng với đó là "đoạn bass sắc như dao cạo và nhịp nhạc đầy kiên quyết". Chris DeVille của trang Stereogum cho rằng bài hát gợi nhớ tới chất nhạc "mô phỏng thập niên 1980" xuất hiện xuyên suốt trong hai album Emotion (2015) và Dedicated (2019) của Jepsen, còn Jeffrey Davies của PopMatters thì nhìn nhận "Talking to Yourself" thừa hưởng "chất nhạc pop đầy lấp lánh và vô tư" trong các tác phẩm âm nhạc trước đây của nữ ca sĩ. Cây viết Peter Piatkowski cũng từ PopMatters thì lại gọi dòng nhạc của "Talking to Yourself" là new wave.
Đánh giá chuyên môn
Phần sản xuất của bài hát nhìn chung nhận được nhiều đánh giá tích cực. Emily Zemler của Rolling Stone miêu tả "Talking to Yourself" là một ca khúc lạc quan và là bài "quốc ca nhạc dance-pop". Trang Consequence thì lựa chọn "Talking to Yourself" là "Bài hát của tuần" và cây viết Mary Siroky cho rằng bài hát này "có sức lan tỏa mạnh mẽ" với "đoạn bass gây nghiện đặc trưng và đoạn điệp khúc đậm chất sâu tai". Kaye tin rằng "Talking to Yourself" đã đạt đến "điểm ngọt ngào giữa sự quyến rũ và cảm giác sẵn-sàng-lên-sàn-quẩy". Nhà phê bình Ben Devlin của MusicOMH gọi tác phẩm là "hit lớn đầu tiên" trong danh sách bài hát của The Loneliest Time và so sánh phần đầu của ca khúc với các tác phẩm của Divinyls. Cây bút Sam Franzini của The Line of Best Fit thì gọi "Talking to Yourself" là một trong số "những viên ngọc pop quý giá" của album và tôn vinh bài hát là "một trong những bom tấn của Jepsen". Viết cho The A.V. Club, Gabrielle Sanchez miêu tả "Talking to Yourself" là một "đĩa đơn đầy mê hoặc [...] với phần điệp khúc đầy lan tỏa". Nhà phê bình Olivia Horn của Pitchfork thì nhận định bài hát có những điểm khiến ta liên tưởng tới "hai phiên bản Dua Lipa khác nhau được cắt và dán lại một chỗ".
Một số cây viết đưa ra những lời nhận xét về phần ca từ của "Talking to Yourself". Siroky gọi bài hát là "ám ảnh không hề nao núng", và nữ nhà báo cũng cho rằng bài hát như nói thay lời của những kẻ đang "mất lý trí" và mang đến cho người nghe "hương vị của những điều sắp xảy ra", đồng thời thể hiện khả năng cảm thụ nhạc pop thiên tài của Jepsen. Todd Dedman của Beats Per Minute cho rằng bài hát gợi lại "ý tưởng về việc tàng hình trong một mối quan hệ" được thể hiện trong ca khúc "When I Needed You" thuộc album Emotion. Viết cho AllMusic, cây bút Heather Phares tin rằng "Talking to Yourself" thể hiện "cảm giác vừa tách biệt vừa được kết nối", một mô típ chạy xuyên suốt trong The Loneliest Time; anh cũng gọi bài hát là "điệu pop vô thực từ thập niên 1980 với phần điệp khúc bùng nổ".
Đội ngũ sản xuất
Danh sách đội ngũ thực hiện được lấy từ phần ghi chú của album The Loneliest Time.
Captain Cuts – sản xuất, kỹ thuật âm thanh
Carly Rae Jepsen – nhạc sĩ sáng tác bài hát
Simon Wilcox – nhạc sĩ sáng tác bài hát, lập trình âm thanh
Benjamin Berger – nhạc sĩ sáng tác bài hát, lập trình âm thanh
Ryan Rabin – nhạc sĩ sáng tác bài hát
Eli Heisler – kỹ thuật âm thanh
Trevor Rabin – guitar
Emily Lazar – master
Chris Allgood – master
Rob Kinelski – phối khí, kỹ thuật âm thanh
Xếp hạng
Tham khảo
Đĩa đơn năm 2022
Bài hát năm 2022
Bài hát của Carly Rae Jepsen
Đĩa đơn của Interscope Records
Đĩa đơn của Schoolboy Records
Bài hát viết bởi Carly Rae Jepsen
Bài hát viết bởi Simon Wilcox
Bài hát viết bởi Ben Berger
Bài hát viết bởi Ryan Rabin
Bài hát sản xuất bởi Captain Cuts
|
19849707
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Beriev%20A-100
|
Beriev A-100
|
Beriev A-100 là một loại máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm trên không (AEW&C) do Nga phát triển để thay thế Beriev A-50 trong biên chế của Lực lượng Hàng không Vũ trụ. Loại máy bay này được chế tạo dựa trên máy bay vận tải Ilyushin Il-76MD-90A, với hệ thống điện tử hàng không và hình dáng tương tự như A-50U, nhưng được trang bị radar mạng quét điện tử chủ động mới Vega Premier.
Thiết kế và phát triển
Quân đội Nga lên kế hoạch tăng cường bổ sung A-100 và sau đó tiến tới thay thế phi đội Beriev A-50 hiện tại. Hợp đồng phát triển A-100 đã được ký kết với Vega Radio Engineering Corporation (Công ty Cổ phần Kỹ thuật Vô tuyến Vega) vào năm 2006. Máy bay này có thiết kế dựa trên chiếc Il-76MD-90A (Il-476), trang bị bốn động cơ tua-bin phản lực cánh quạt mới PS-90A-76, có công suất mạnh hơn 15% so với động cơ D-30KP của Il-76. Hình dáng bên ngoài của A-100 tương tự như A-50, với hệ thống radar chính đặt trong một mái vòm xoay gắn trên hai thanh chống phía trên thân máy bay. Radar AESA Vega Premier trong vòm có thiết bị lái điện tử theo góc nâng, còn góc phương vị được điều khiển bằng chuyển động quay của mái vòm. Hệ thống này cứ sau 5 giây sẽ quay tròn một lần, giúp radar nâng cao khả năng theo dõi các mục tiêu chuyển động nhanh. Ngoài radar mới, A-100 sẽ có hệ thống tác chiến điện tử mới, hệ thống định vị mới và hệ thống liên lạc mới, trong đó có ăng-ten liên lạc vệ tinh.
A-100 có thể phát hiện các mục tiêu trên không ở khoảng cách hơn 600 km (370 dặm) và tàu chiến ở khoảng cách gần 400 km (250 dặm).
Phiên bản A-100LL là một phòng thí nghiệm bay, phát triển dựa trên khung thân A-50, được sử dụng để kiểm tra hoạt động của các hệ thống trên A-100. Chuyến bay đầu tiên của A-100LL diễn ra vào ngày 21 tháng 4 năm 2017.
Tháng 4 năm 2020, một nguồn tin trong ngành quân sự Nga cho biết Lực lượng Hàng không Vũ trụ sẽ bắt đầu nhận Beriev A-100 vào năm 2024, trước mắt là để bổ sung và cuối cùng là thay thế Beriev A-50 và A-50U.
Tháng 2 năm 2022, trang web The Drive tuyên bố rằng các biện pháp trừng phạt đối với Nga đã khiến dự án này bị trì hoãn.
Ngày 9 tháng 2 năm 2022, A-100 thực hiện chuyến bay đầu tiên với hệ thống radar được bật hoạt động.
Thông số kỹ thuật (Il-476)
Đặc điểm tổng quát
Chiều dài: 46,59 m (152 ft 10 in)
Sải cánh: 50,5 m (165 ft 8 in)
Chiều cao: 14,76 m (48 ft 5 in)
Diện tích cánh: 300 m2 (3.200 ft2)
Động cơ: 4 × Động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt Aviadvigatel PS-90-76, mỗi động cơ cung cấp lực đẩy 142 kN (32.000 lbf)
Hiệu suất bay
Vận tốc tối đa: 900 km/h (560 dặm/giờ; 490 hải lý/giờ) / Mach 0,82
Xem thêm
Máy bay có sự phát triển liên quan
Ilyushin Il-76
KJ-2000
DRDO AEW&CS
Beriev A-50
Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương
Boeing E-3 Sentry (Block G)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin về Beriev A-100 trên trang Global Security
Máy bay bốn động cơ phản lực
Máy bay AWACS
Mô tả ngắn khác với Wikidata
Bài có mô tả ngắn
Máy bay Beriev
Máy bay cánh cao
|
19849732
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/2004%20t%E1%BA%A1i%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha
|
2004 tại Tây Ban Nha
|
Dưới đây là sự kiện trong năm tại Tây Ban Nha 2004.
Đương nhiệm
Sự kiện
Tháng 3
11 tháng 3: Vụ đánh bom xe lửa Madrid 2004.
Mất
Tham khảo
Tây Ban Nha năm 2004
Tây Ban Nha thập niên 2000
Năm 2004 theo quốc gia
Châu Âu năm 2004
Năm của thế kỷ 21 ở Tây Ban Nha
|
19849733
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Digambara
|
Digambara
|
Digambara (trong tiếng Ấn Độ có nghĩa là "khoác lên mình cả bầu trời" là một trong hai trường phái Kỳ Na giáo lớn ở Ấn Độ, gồm trường phái Digambara (lõa thể) trường phái còn lại là Śvētāmbara (áo trắng). Truyền thống tu giữa dòng Digambara và dòng Śvētāmbara có những khác biệt về mặt lịch sử hình thành, từ quy định về trang phục, đền thờ và hình tượng thờ, thái độ đối với các nữ tu sĩ, truyền thuyết của họ cho đến các văn bản kinh sách mà họ coi là quan trọng. Giáo phái Digambara ở Ấn Độ coi khỏa thân là biểu hiện cao nhất chứng tỏ trạng thái tự do về tinh thần của các thầy tu. Họ không còn bị chi phối từ những xúc cảm thường tình, không còn băn khoăn trước cách nhìn nhận, đánh giá của người đời. Từ Digambara trong tiếng Ấn Độ có nghĩa là "khoác lên mình cả bầu trời" (sky-clad), điều này đã phản ánh phần nào lý do tại sao các thầy tu Digambara luôn trong tình trạng khỏa thân.
Tu sĩ Digambara (Digambara Sādhu) trân trọng đức tính không bám chấp và không sở hữu bất kỳ của cải vật chất nào. Họ là một Sādhu trong truyền thống Digambar của Kỳ Na giáo, và như vậy là một người chiếm giữ nhánh cao nhất của tứ phân Sangha. Họ còn được gọi là Nirgranth có nghĩa là "một người không có bất kỳ ràng buộc nào". Tu sĩ Digambar Sādhus có 28 giới thuộc bao gồm việc tuân thủ năm lời thề tối cao là Ahimsa (không gây thương tích), lẽ thật, không trộm cắp, sống độc thân và không sở hữu. Tu sĩ Digambar Sādhu chỉ được phép mang theo một chiếc chổi lông vũ, một quả bầu nước và kinh sách bên mình. Các thầy tu Digambara tuyệt nhiên không mặc bất cứ một loại quần áo nào, họ chỉ mang theo bên mình một chiếc chổi được bện từ lông công để xua đuổi nhẹ nhàng những con côn trùng và một quả bầu khô đựng nước để rửa tay chân, họ không được tắm.
Thực hành
Trường phái Digambara hướng những người tu hành tới lối sống cổ xưa của những người tiền sử với niềm tin tín ngưỡng rất đơn giản, ban sơ. Những thầy tu Digambara phải sống một cuộc đời khổ hạnh mà theo họ như thế mới là tu hành đích thực. Họ cũng không bao giờ sở hữu bất cứ tài sản nào, vì vậy, ngay cả chăn chiếu, giường ngủ cũng chẳng có, họ sống đúng nghĩa là những kẻ hành khất, nay đây mai đó, màn trời chiếu đất. Các thầy tu Digambara phải tuân theo những nguyên tắc rất khắt khe là phải nhịn đói vài ngày trong tuần, ăn ít hơn những gì cơ thể đòi hỏi, không sở hữu tài sản, từ bỏ những thói quen thường tình (tắm, đánh răng, cạo râu, cắt tóc), tìm tới sống ở nơi u tịch, hành xác (để mặc cơ thể trần trụi trước nắng mưa và ánh nhìn của người đời).
Các thầy tu Digambara coi tu hành là con đường đơn độc, vì vậy họ thường sống một mình, không quan trọng việc xây dựng quan hệ thân thiết với những người xung quanh. Họ không di chuyển bằng các loại phương tiện, chỉ đi bộ, không được ở bất cứ đâu lâu hơn một ngày (trừ khi trời mưa quá nặng hạt khiến họ không thể đi tiếp), phải ăn chay trường, đi xin ăn từng bữa ăn, họ không xin ăn bằng bát mà bằng hai bàn tay khum lại, cứ thế họ ăn mà không được dùng bất cứ đũa bát nào. Họ không đi các nhà xin ăn mà chỉ đứng ở một chỗ chờ người dân mang đồ ăn tới cho, họ cũng không xin nhiều, chỉ cần lòng bàn tay chứa đầy đồ ăn là không xin thêm nữa. Thường các thầy tu im lặng, nhưng nếu buộc phải nói thì họ sẽ nói đạo lý và những triết lý. Các thầy tu Digambara coi việc khỏa thân như một điều kiện tối cần thiết để thực sự trở thành một kẻ hành khất với tâm thế tự do, được cứu rỗi linh hồn khỏi những tham sân si.
Xem thêm
Khỏa thân trong tôn giáo
Aghori
Ẩn sĩ
Cô độc
Sự đoan trang
Tham khảo
Chú thích
Tu sĩ
Kỳ Na giáo
|
19849734
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ctenogobiops%20pomastictus
|
Ctenogobiops pomastictus
|
Ctenogobiops pomastictus là một loài cá biển thuộc chi Ctenogobiops trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1977.
Từ nguyên
Tính từ định danh pomastictus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: pôma (πῶμα; “nắp đậy”) và stiktós (στικτός; “có đốm”), hàm ý đề cập đến các đốm ở rìa trên nắp mang của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
Từ biển Andaman, C. pomastictus có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Mariana và Fiji, ngược lên phía bắc tới quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), xa về phía nam tới bờ bắc Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, C. pomastictus được ghi nhận tại vịnh Nha Trang.
C. pomastictus sống trên nền cát và đá vụn của thảm cỏ biển, rạn san hô và đầm phá, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 15 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở C. pomastictus là 8 cm. Cá có màu xám nhạt. Hai bên thân có bốn hàng đốm vạch màu nâu sẫm (hàng giữa bên thân có các đốm lớn nhất, có đốm nhỏ màu vàng cam giữa mỗi cặp đốm nâu hàng này). Đầu và thân rải rác những đốm nhỏ màu vàng nâu. Phần gốc vây ngực có đốm trắng.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 11–12; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 11–12.
Sinh thái
C. pomastictus sống cộng sinh trong hang với tôm gõ mõ (đặc biệt là Alpheus djeddensis hoặc Alpheus ochrostriatus).
Thương mại
C. pomastictus là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh.
Tham khảo
P
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Thái Lan
Cá Việt Nam
Cá Malaysia
Cá Đài Loan
Cá Nhật Bản
Cá Philippines
Cá New Guinea
Cá Palau
Cá Fiji
Động vật được mô tả năm 1977
|
19849735
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20m%E1%BA%ABu%20%28ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%29
|
Người mẫu (nghệ thuật)
|
Một người mẫu nghệ thuật tạo dáng, thường là khỏa thân, cho các nghệ sĩ quan sát như một phần của quá trình sáng tạo, cung cấp sự tham khảo về cơ thể con người trong một tác phẩm nghệ thuật. Là một nghề nghiệp, người mẫu đòi hỏi công việc thể chất thường xuyên vất vả để giữ các tư thế trong khoảng thời gian cần thiết, công việc thẩm mỹ để thực hiện nhiều tư thế thú vị và công việc cảm xúc để duy trì một vai trò không rõ ràng về mặt xã hội. Mặc dù vai trò của người mẫu khỏa thân đã được xác định rõ ràng như một phần cần thiết của hoạt động nghệ thuật, nhưng ảnh khỏa thân nơi công cộng vẫn mang tính vi phạm và người mẫu có thể dễ bị kỳ thị hoặc bóc lột. Các nghệ sĩ cũng có thể nhờ gia đình và bạn bè tạo dáng cho họ, đặc biệt là đối với các tác phẩm có nhân vật mặc trang phục.
Phần lớn nhận thức của công chúng về người mẫu nghệ thuật và vai trò của họ trong việc sản xuất các tác phẩm nghệ thuật đều dựa trên thần thoại, sự kết hợp giữa người mẫu nghệ thuật với người mẫu thời trang hoặc biểu diễn khiêu dâm, cũng như hình ảnh đại diện của người mẫu nghệ thuật trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một trong những trò lố lâu năm là ngoài việc cung cấp chủ đề cho một tác phẩm nghệ thuật, người mẫu có thể được coi là nàng thơ hoặc nguồn cảm hứng nếu không có họ thì nghệ thuật sẽ không tồn tại. Một câu chuyện phổ biến khác là người mẫu nữ làm tình nhân của một nam nghệ sĩ, một số người trong số họ trở thành vợ. Không có nhận thức nào của công chúng bao gồm kinh nghiệm làm người mẫu của chính người mẫu chuyên nghiệp , hiệu suất của nó ít liên quan đến tình dục.
Bắt đầu từ thời Phục hưng, việc vẽ hình người được coi là cách hiệu quả nhất để phát triển kỹ năng vẽ. Trong kỷ nguyên hiện đại, người ta đã khẳng định rằng tốt nhất nên vẽ từ cuộc sống, thay vì từ các khuôn thạch cao hoặc sao chép các hình ảnh hai chiều như ảnh chụp. Ngoài ra, một nghệ sĩ có mối liên hệ về mặt cảm xúc hoặc sự đồng cảm với việc vẽ một con người khác mà không thể tồn tại với bất kỳ chủ đề nào khác. Cái được gọi là lớp học cuộc sống đã trở thành một phần thiết yếu của chương trình giảng dạy tại các trường cao đẳng nghệ thuật . Trong môi trường lớp học , nơi mục đích là học cách vẽ hoặc vẽ hình người với đủ hình dạng, độ tuổi và sắc tộc khác nhau, bất kỳ ai có thể giữ tư thế đều có thể là người mẫu.
Tham khảo
Model art
Khỏa thân
|
19849744
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng%20V%C4%A9nh%20T%E1%BB%91ng
|
Trương Vĩnh Tống
|
Trương Vĩnh Tống (11 tháng 3 năm 1884 – 21 tháng 8 năm 1974) là cựu giáo sư và chính khách người Việt Nam. Ông từng giữ chức Tổng trưởng Ngoại giao Quốc gia Việt Nam dưới thời Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm. Ông là con út của học giả Trương Vĩnh Ký.
Tiểu sử
Ông sinh ngày 11 tháng 3 năm 1884 ở Chợ Lớn, trong một gia đình trí thức Công giáo người Việt Nam. Tên thánh của ông là Nicolas. Cha ông là Trương Vĩnh Ký, một học giả nổi tiếng người Việt. Thuở nhỏ ông học ở Sài Gòn, sau khi học xong năm 1903 thì vào làm thư ký cho chính phủ Nam Kỳ. Năm 1928, ông buộc phải nghỉ hưu. Sau đó, ông trở thành giáo sư và chuyên tâm nghiên cứu và giảng dạy tiếng Việt. Năm 1947, ông tham gia cuộc họp gồm nhiều nhân vật thuộc các nhóm và phe phái chống cộng ở Việt Nam tại Hồng Kông do cựu hoàng Bảo Đại tổ chức. Cuộc họp thảo luận về tương lai chính trị của Việt Nam. Năm 1952, ông được mời giữ chức Tổng trưởng Ngoại giao Quốc gia Việt Nam dưới quyền Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm. Ông cũng từng là cố vấn cốt lõi cho Bộ Giáo dục. Vợ ông là Trần Thị Lộ, cựu Chủ tịch Hội Dục Anh ở Sài Gòn về nuôi dạy trẻ mồ côi.
Cuộc sống ở Pháp
Đầu những năm 1960, Trương Vĩnh Tống cùng gia đình di cư sang Pháp và sống ở đó cho đến cuối đời. Vợ ông Trần Thị Lộ qua đời ngày 20 tháng 4 năm 1967. Ông qua đời ngày 21 tháng 8 năm 1974 ở Paris, Pháp, hưởng thọ 90 tuổi.
Tác phẩm
Đạo Lý Người Xưa
Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi
Tham khảo
Sinh năm 1884
Mất năm 1974
Họ Trương
Người Việt di cư tới Pháp
Bộ trưởng Quốc gia Việt Nam
Chính khách Quốc gia Việt Nam
Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam
|
19849746
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20%C4%91%C3%AAm
|
Bơi đêm
|
Bơi đêm (tên tiếng Anh: Night Swim) là bộ phim kinh dị siêu nhiên của Hoa Kỳ được đạo diễn và biên kịch bởi Bryce McGuire (đây cũng là tác phẩm đầu tay của anh), dựa trên bộ phim ngắn cùng tên năm 2014 của McGuire và Rod Blackhurst. Phim sẽ có sự tham gia chính của Wyatt Russell và Kerry Condo. Với cốt truyện về một gia đình nhỏ phát hiện ra sự thật về việc bể bơi sau sân nhà của họ bị ma ám.
Jason Blum và James Wan sẽ đồng sản xuất phim dưới nhãn hiệu Blumhouse Productions và Atomic Monster, và đây cũng đánh dấu bộ phim đầu phim được phát hành sau vụ sát nhập vào ngày 2 tháng 1, 2024.
Bơi đêm được phát hành tại Hoa Kỳ bởi Universal Pictures vào ngày 5 tháng 1, 2024 và nhận được nhiều lời chỉ trích từ các nhà phê bình với doanh thu thu được là 44 triệu đô la Mỹ.
Cốt truyện
Lưu ý: Phần sau đây có thể tiết lộ trước nội dung của bộ phim
Bối cảnh quá khứ:
Năm 1992, một đêm nọ, cô gái trẻ tuổi tên Rebecca ra bể bơi của gia đình để lấy chiếc thuyền đồ chơi cho người em trai ốm nặng, Tommy. Trong khi đang cố gắng lấy cái thuyền, một thứ gì kéo cô ấy xuống nước.
Bối cảnh hiện tại:
Gia đình Waller - Ray, Eve, 2 người con Izzy và Elliot tìm nơi ở mới sau khi Ray buộc phải rút khỏi sự nghiệp bóng chày do bệnh tật của anh. Họ chọn một căn nhà có bể bơi ở sau, bởi theo họ cái bể này sẽ phần nào làm thuyên giảm tình trạng của Ray. Trong khi dọn dẹp, anh làm xước tay mình. Khi người bảo trì tới kiểm tra, mọi người phát hiện rằng bể lấy nước từ dòng nước ngầm trong khu vực.
Càng dành nhiều thời gian trong bể như một liệu trình tâm lý, bệnh của Ray đỡ hơn. Tuy nhiên, Eve cảm thấy lo lắng về sự thay đổi này của chồng. Izzy và Elliot bị tấn công bởi một thứ gì đó trong bể, còn con mèo của gia đình thì mất tích. Trong một bữa tiệc bể bơi, người môi giới bất động sản với họ - Kay, đã tiết lộ, con gái của chủ cũ là Rebecca Summers đã chết đuối trong bể từ năm 1992. Chỉ một lúc sau khi Kay nói, Ray có biểu hiện dìm một đứa trẻ xuống nước và suýt tự làm mình đuối nước. Hành vi này được cho là do căn bệnh tâm lý của anh.
Eve sau đó gặp được mẹ của Rebecca, Lucy. Lucy giải thích rằng dòng suối ngầm đổ đầy bể bơi là một dòng suối chữa lành, nhưng để sử dụng được cần hiến tế một ai đó. Lucy chọn Rebecca để cứu lấy Tommy khỏi căn bệnh nan y kia. Eve hoảng sợ nhận ra, dù Ray được chữa lành bởi nước trong bể, một đứa trẻ trong gia đình sẽ phải hi sinh.
Khi Eve trở về nhà, Ray đang bị hoàn toàn điều khiển bởi thực thể trong bể bơi. Ray đang cố gắng dìm Elliot dưới nước đồng thời giết hại Izzy. Eve cố gắng cứu Elliot, trong khi Izzy đối mặt với thực thể đang điều khiển cha mình và tấn công với một cái gậy bóng chày. Eve và Elliot - đang bất tỉnh được linh hồn của Rebecca đưa trở lại mặt nước. Với tình trạng của Elliot, cùng với sự tấn công của Izzy, Ray lấy lại được khả năng điều khiển bản thân, và để ngăn chặn thực thể tấn công con mình, anh lựa chọn hi sinh.
Kết phim: Eve, Izzy và Elliot lựa chọn ở lại căn nhà để không một ai là nạn nhân nữa. Họ cho người lấp đầy bể.
Diễn viên
Wyatt Russell thủ vai Ray Waller
Kerry Condon thủ vai Eve Waller
Amélie Hoeferle thủ vai Izzy Waller
Gavin Warren thủ vai Elliot Waller
Jodi Long thủ vai Lucy Summers
Nancy Lenehan thủ vai Kay
Eddie Martinez thủ vai Coach E
Elijah J. Roberts thủ vai Ronin
Rahnuma Panthaky thủ vai Tiến sĩ Sridhar
Ben Sinclair thủ vai nhân viên sữa chửa hồ bơi
Ellie Araiza thủ vai Angel
Sản xuất
Nhạc phim
Danh sách bài hát
Phát hành
Tiếp nhận
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim tiếng Anh
Phim thập niên 2020
Phim kinh dị
Phim siêu nhiên
Phim kinh dị siêu nhiên
Phim đạo diễn đầu tay
Phim Mỹ thập niên 2020
Phim tiếng Anh thập niên 2020
Phim của Blumhouse Productions
Phim về gia đình bất thường
Phim do Jason Blum sản xuất
Phim quay tại Los Angeles
Phim làm lại của Mỹ
Phim của Universal Pictures
|
19849750
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Erik%20Durm
|
Erik Durm
|
Cầu thủ bóng đá nam Đức ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Regionalliga
Cầu thủ bóng đá 3. Liga
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá 1. FC Kaiserslautern
Cầu thủ bóng đá Eintracht Frankfurt
Cầu thủ bóng đá Huddersfield Town A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Borussia Dortmund
Cầu thủ bóng đá Borussia Dortmund II
Cầu thủ bóng đá 1. FSV Mainz 05 II
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2014
Cầu thủ vô địch UEFA Europa League
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Đức
Cầu thủ bóng đá nam Đức
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1992
Erik Durm (sinh ngày 12 tháng 5 năm 1992) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức, từng thi đấu ở vị trí hậu vệ toàn diện.
Sự nghiệp
Anh bắt đầu sự nghiệp câu lạc bộ của mình vào năm 1998 tại học viện của SG Rieschweiler, trước khi chuyển đến học viện của 1. FC Saarbrücken vào năm 2008, nơi anh trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất mùa giải 2009–2010 với 13 bàn thắng. Tháng 7 năm 2010, Durm nhập học vào học viện của Mainz 05 và giành chiến thắng trong Cúp Liên đoàn Thanh niên Đức năm 2010–11, sau đó, Durm ra sân lần đầu tiên và chơi trận duy nhất trong mùa giải 2010–11 cho đội hình dự bị của Mainz 05 vào ngày 4 tháng 12 năm 2010 trước SV Elversberg trong Regionalliga Đức.
Trong mùa giải 2011–12, Durm chuyển sang đội hình dự bị của Mainz 05 và ghi bảy bàn thắng trong 10 trận đầu tiên của Mainz 05 II. Sau đó, Durm tiếp tục ghi hai bàn thắng trong chiến thắng 3–0 trước đội hình dự bị của Eintracht Frankfurt vào ngày 7 tháng 10 năm 2011. Sau khi ghi chín bàn thắng trong nửa đầu mùa giải 2011–12, Durm ghi bốn bàn thắng trong nửa sau của mùa giải và vào tháng 1 năm 2012, cả Mainz 05 và Borussia Dortmund đều đưa ra đề nghị hợp đồng chuyên nghiệp cho Durm, nhưng Durm từ chối đề nghị từ Mainz 05 để ký hợp đồng với BVB.
Borussia Dortmund
Trong mùa giải 2012–13, Durm ký hợp đồng với Borussia Dortmund cho đến tháng 6 năm 2014 và trở thành thành viên của đội hình của Borussia Dortmund II tham gia ở giải bóng đá hạng ba của Đức. Trong mùa giải 2012–13 giải hạng ba, vào ngày 21 tháng 7 năm 2012, Durm ra mắt bóng đá chuyên nghiệp của mình trong một trận đấu cho Borussia Dortmund II trước VfL Osnabrück. Ngày 18 tháng 5 năm 2013, Durm xuất hiện trong trận đấu thứ 38 và cuối cùng trong một chiến thắng 1–0 trước đội hình dự bị của VfB Stuttgart.
Trong mùa giải Bundesliga 2013–14, Durm được đưa vào đội một của Borussia Dortmund và, vào ngày 10 tháng 8 năm 2013, anh ra sân lần đầu tiên cho BVB trong Bundesliga; vào sân ở phút thứ 87 thay cho Robert Lewandowski như một cầu thủ dự bị trong chiến thắng 4–0 trước FC Augsburg. Durm ra mắt tại UEFA Champions League vào ngày 1 tháng 10 năm 2013 trong trận thắng 3–0 trước câu lạc bộ Pháp Olympique Marseille.
Tham khảo
|
19849772
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Filip%20%C4%90uri%C4%8Di%C4%87
|
Filip Đuričić
|
Filip Đuričić (; sinh ngày 30 tháng 1 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Panathinaikos tại Super League Greece và đội tuyển quốc gia Serbia.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Serbia ở nước ngoài
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ bóng đá Panathinaikos
Cầu thủ bóng đá U.S. Sassuolo Calcio
Cầu thủ bóng đá U.C. Sampdoria
Cầu thủ bóng đá R.S.C. Anderlecht
Cầu thủ bóng đá Southampton F.C.
Cầu thủ bóng đá 1. FSV Mainz 05
Cầu thủ bóng đá Benfica
Cầu thủ bóng đá SC Heerenveen
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Serbia
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1992
|
19849773
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Callogobius%20okinawae
|
Callogobius okinawae
|
Callogobius okinawae là một loài cá biển thuộc chi Callogobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1908.
Từ nguyên
Từ định danh okinawae được đặt theo tên gọi của đảo Okinawa, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập.
Phân bố và môi trường sống
Từ phía nam Nhật Bản (gồm cả quần đảo Ryukyu), C. okinawae có phân bố trải dài về phía nam đến bang Queensland (Úc), xa về phía nam tới đông đến quần đảo Marshall và Vanuatu. Ở Việt Nam, C. okinawae được ghi nhận tại vịnh Nha Trang.
C. okinawae sống trên nền đáy bùn ở cửa sông và trong vũng thủy triều, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 12 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở C. okinawae là 5 cm. Cá có màu nâu sẫm với nhiều vệt đen, bụng nhạt màu hơn. Vây lưng có nhiều đốm. Gốc vây ngực có vệt màu sẫm ở phần trên. Vây đuôi màu nâu, hình mũi giáo. Vây bụng và vây hậu môn màu trắng.
C. okinawae có hình thái gần giống với Callogobius hasseltii.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 8.
Tham khảo
O
Cá Thái Bình Dương
Cá Nhật Bản
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Vanuatu
Cá Papua New Guinea
Động vật quần đảo Marshall
Động vật được mô tả năm 1908
|
19849776
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sa%C5%A1a%20Luki%C4%87
|
Saša Lukić
|
Saša Lukić ( , ; sinh ngày 13 tháng 8 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia hiện thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Fulham tại Premier League và đội tuyển quốc gia Serbia.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Fulham FC
Thành tích thi đấu
Cầu thủ bóng đá nam Serbia ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Fulham F.C.
Cầu thủ bóng đá Torino F.C.
Cầu thủ bóng đá FK Teleoptik
Cầu thủ bóng đá FK Partizan
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá La Liga
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
Cầu thủ bóng đá nam Serbia
Tiền vệ bóng đá nam
Sinh năm 1996
Nhân vật còn sống
|
19849778
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Filip%20Mladenovi%C4%87
|
Filip Mladenović
|
Filip Mladenović (; sinh ngày 15 tháng 8 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Panathinaikos tại Super League Greece và đội tuyển quốc gia Serbia.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Filip Mladenović tại Utakmica.rs
Cầu thủ bóng đá nam Serbia ở nước ngoài
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
Cầu thủ bóng đá Panathinaikos
Cầu thủ bóng đá Legia Warsaw
Cầu thủ bóng đá Standard Liège
Cầu thủ bóng đá 1. FC Köln
Cầu thủ bóng đá FC BATE Borisov
Cầu thủ bóng đá Sao Đỏ Beograd
Cầu thủ bóng đá FK Borac Čačak
Cầu thủ bóng đá Ekstraklasa
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Serbia
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Serbia
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1991
|
19849779
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vanja%20Milinkovi%C4%87-Savi%C4%87
|
Vanja Milinković-Savić
|
Vanja Milinković-Savić (, ; sinh ngày 20 tháng 2 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Torino tại Serie A và đội tuyển quốc gia Serbia.
Danh hiệu
U20 Serbia
Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới: 2015
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
Cầu thủ bóng đá nam Serbia ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Standard Liège
Cầu thủ bóng đá Torino F.C.
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Ekstraklasa
Cầu thủ bóng đá Serie B
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Manchester United F.C.
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia
Cầu thủ bóng đá nam Serbia
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1997
|
19849780
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Uro%C5%A1%20Ra%C4%8Di%C4%87
|
Uroš Račić
|
Uroš Račić (; sinh ngày 17 tháng 3 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Sassuolo tại Serie A và đội tuyển quốc gia Serbia.
Danh hiệu
Sao Đỏ Belgrade
SuperLiga Serbia: 2015–16, 2017–18
Valencia
Cúp Nhà Vua Tây Ban Nha: 2018–19
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
Cầu thủ bóng đá nam Serbia ở nước ngoài
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha
Cầu thủ bóng đá Segunda División
Cầu thủ bóng đá La Liga
Cầu thủ bóng đá U.S. Sassuolo Calcio
Cầu thủ bóng đá S.C. Braga
Cầu thủ bóng đá F.C. Famalicão
Cầu thủ bóng đá CD Tenerife
Cầu thủ bóng đá Valencia CF
Cầu thủ bóng đá Sao Đỏ Beograd
Cầu thủ bóng đá OFK Beograd
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia
Cầu thủ bóng đá nam Serbia
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1998
|
19849782
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Darko%20Lazovi%C4%87
|
Darko Lazović
|
Darko Lazović (; sinh ngày 15 tháng 9 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ Hellas Verona tại Serie A và đội tuyển quốc gia Serbia.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Darko Lazović tại Utakmica.rs
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Hellas Verona F.C.
Cầu thủ bóng đá Genoa C.F.C.
Cầu thủ bóng đá Sao Đỏ Beograd
Cầu thủ bóng đá FK Borac Čačak
Cầu thủ bóng đá nam Serbia ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Serbia
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1990
|
19849783
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mijat%20Ga%C4%87inovi%C4%87
|
Mijat Gaćinović
|
Mijat Gaćinović (, ; sinh ngày 8 tháng 2 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ AEK Athens tại Greek Super League và đội tuyển quốc gia Serbia.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Người Serb Bosna và Hercegovina
Cầu thủ bóng đá nam Serbia ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá AEK Athens F.C.
Cầu thủ bóng đá Panathinaikos
Cầu thủ bóng đá TSG 1899 Hoffenheim
Cầu thủ bóng đá Eintracht Frankfurt
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bosna và Hercegovina
Cầu thủ bóng đá nam Bosna và Hercegovina
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Serbia
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Serbia
Cầu thủ bóng đá nam Serbia
Tiền vệ bóng đá nam
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1995
|
19849785
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1t%20tri%E1%BB%83n%20kinh%20doanh
|
Phát triển kinh doanh
|
Phát triển kinh doanh (Business development) là việc tạo ra giá trị lâu dài cho một tổ chức từ khách hàng, thị trường và các mối quan hệ giữa các cá nhân, khách hàng. Đây là tập hợp con của các lĩnh vực kinh doanh, thương mại và lý thuyết tổ chức. Phát triển kinh doanh có thể được hiểu là bất kỳ hoạt động nào của một tổ chức nhỏ hoặc lớn, doanh nghiệp phi lợi nhuận hoặc vì lợi nhuận phục vụ mục đích phát triển doanh nghiệp theo một cách nào đó. Phát triển kinh doanh được coi là một chiến thuật tiếp thị. Các mục tiêu hướng tới bao gồm xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường, thu hút người dùng mới và đổi mới nhận thức nhưng chức năng chính của phát triển kinh doanh là tận dụng các đối tác để bán hàng cho đúng khách hàng và tạo cơ hội để giá trị doanh nghiệp được duy trì lâu dài. Để thành công trong phát triển kinh doanh, quan hệ đối tác phải được xây dựng trên các mối quan hệ bền chặt.
Ngoài ra, hoạt động phát triển kinh doanh có thể được thực hiện nội bộ hoặc bên ngoài từ một nhà tư vấn phát triển kinh doanh. Phát triển kinh doanh bên ngoài có thể được tạo điều kiện thông qua Hệ thống lập kế hoạch, được chính phủ áp dụng để giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, việc xây dựng danh tiếng cũng đã được chứng minh là giúp tạo điều kiện phát triển kinh doanh. Phát triển kinh doanh đòi hỏi các nhiệm vụ và quy trình để phát triển và thực hiện các cơ hội tăng trưởng trong và giữa các tổ chức. Điều này có nghĩa là tận dụng khách hàng, thực hiện quan hệ đối tác chiến lược, sử dụng thị trường và xây dựng danh tiếng của công ty. Phát triển đối tác (Partner development) là cách tiếp cận lấy khách hàng làm trung tâm để phát triển kinh doanh, được đức rút ra từ lý thuyết khuôn khổ phát triển khách hàng do Steve Blank phổ biến. Quan hệ đối tác chiến lược là bất kỳ mối quan hệ nào với các tổ chức khác có thể giúp phát triển cơ sở khách hàng, tập trung vào một khách hàng lý tưởng, chuyển sang thị trường mới hoặc giúp doanh nghiệp phát triển những thế mạnh mới mẻ.
Dẫn luận
Trong các nghiên cứu học thuật hạn chế về chủ đề này, phát triển kinh doanh được khái niệm hóa hoặc liên quan đến các dự án riêng biệt, các phương thức tăng trưởng cụ thể và các đơn vị tổ chức, hoạt động và thực tiễn. Sorensen đã tích hợp những quan điểm khác nhau này với những hiểu biết sâu sắc từ Giám đốc điều hành, nhà phát triển kinh doanh cấp cao và nhà đầu tư mạo hiểm từ các công ty công nghệ cao thành công trên toàn thế giới và phát biểu rằng: Phát triển kinh doanh được định nghĩa là các nhiệm vụ và quy trình liên quan đến việc chuẩn bị phân tích các cơ hội tăng trưởng tiềm năng cũng như hỗ trợ và giám sát việc thực hiện các cơ hội tăng trưởng, nhưng không bao gồm các quyết định về chiến lược và việc thực hiện các cơ hội tăng trưởng. Trong thực tế, thuật ngữ phát triển kinh doanh và tác nhân của nó, nhà phát triển kinh doanh, đã phát triển thành nhiều cách sử dụng và ứng dụng.
Ngày nay, các ứng dụng của nhiệm vụ phát triển kinh doanh và nhà phát triển kinh doanh hoặc nhà tiếp thị trong các ngành và tầm quốc gia, bao gồm mọi thứ từ lập trình viên công nghệ thông tin, kỹ sư chuyên ngành, hoạt động tiếp thị nâng cao hoặc quản lý tài khoản thứ nhất, và phát triển mối quan hệ và bán hàng cho khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng, bởi lý do này, rất khó để phân biệt các đặc điểm độc đáo của chức năng phát triển kinh doanh và liệu các hoạt động này có phải là nguồn lợi nhuận hay không. Nghiên cứu có hệ thống gần đây về chủ đề phát triển kinh doanh đã chỉ ra rằng các đường nét của một chức năng mà phát triển kinh doanh mới nổi có vai trò duy nhất trong quy trình quản lý đổi mới. Chức năng phát triển kinh doanh dường như đã hoàn thiện hơn trong các ngành công nghệ cao, và đặc biệt là các ngành dược phẩm và công nghệ sinh học.
Phát triển chiến lược kinh doanh dựa trên các ý tưởng khả thi và mục tiêu được doanh nghiệp định hướng nhằm mang đến lợi nhuận cho doanh nghiệp. Phát triển kinh doanh là một trong những công việc liên quan đến marketing tại doanh nghiệp, nhiệm vụ chính của các nhân viên phát triển kinh doanh chính là phát triển chiến lược kinh doanh, công việc chính của các nhân viên tại vị trí này là tạo mối quan hệ dài hạn giữa các đối tác khách hàng. Các nhân viên đảm nhận công việc này chính là những người xây dựng và đưa ra chiến lược lâu dài như phát triển các mối quan hệ nằm trong định hướng của doanh nghiệp. Trong khi chuyên gia kinh doanh sẽ tìm cách thu hút các thị trường mục tiêu thì nhóm tiếp thị sẽ điều chỉnh các kỹ năng tiếp thị và ngân sách tiếp thị để tạo ra tài liệu điều đó cho phép sự hấp dẫn mục tiêu đó xảy ra, tạo ra mối quan hệ hợp tác bổ sung và các mối quan hệ lâu dài. Các chuyên gia có thể phát triển kế hoạch, trong khi nhóm tiếp thị tạo nội dung tiếp thị. Vị trí nhân viên phát triển kinh doanh (Business development manager) trong các doanh nghiệp thường được coi trọng và được trả một mức lương tương đối cao. Nhân viên đảm nhận vị trí này có nhiệm vụ thuyết phục khách hàng tìm hiểu, mua và dùng thử sản phẩm do doanh nghiệp cung cấp, bằng cách đưa ra các tư vấn và kỹ năng tốt nhất dành cho khách hàng.
Chú thích
Kinh doanh
Quản trị chiến lược
|
19849786
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1i%20B%C3%A1%20%C4%90%E1%BA%A1t
|
Thái Bá Đạt
|
Thái Bá Đạt (sinh ngày 23 tháng 3 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ PVF-CAND tại V.League 2 và Đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Việt Nam.
Tiểu sử
Sinh ra ở tỉnh Thanh Hóa, Bá Đạt bắt đầu sự nghiệp cầu thủ trẻ của mình khi chơi cho câu lạc bộ Viettel Sầm Sơn ở địa phương. Vào năm 2014, sau khi tham dự vòng loại Giải bóng đá U-11 quốc gia, Bá Đạt đã nhận được sự chú ý từ huấn luyện viên Nguyễn Duy Đông của U-15 PVF. Được sự đồng ý của cha mẹ, Bá Đạt gia nhập Trung tâm đào tạo bóng đá trẻ PVF. Năm 2020, Bá Đạt cùng đội bóng giành chức vô địch Giải U-15 Quốc gia. 2 năm sau, năm 2022, với tư cách là đội trưởng đội U-17 PVF, Bá Đạt đã đưa đội bóng giành chức vô địch Giải bóng đá Vô địch U-17 Quốc gia Việt Nam. Anh là vua phá lưới của giải với 5 bàn thắng và giành danh hiệu "Cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu". Màn trình diễn của anh tại giải đấu khiến anh trở thành một trong những tiền vệ trẻ triển vọng nhất theo đánh giá của truyền thông Việt Nam.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Bá Đạt thi đấu cho PVF tại Giải bóng đá hạng Nhì Quốc gia Việt Nam trong mùa giải 2022 và 2023, nơi PVF cán đích ở các vị trí thứ 7 và thứ 4 chung cuộc.
Vào ngày 5 tháng 11 năm 2023, Bá Đạt có trận ra mắt chuyên nghiệp cho câu lạc bộ PVF-CAND, trong trận hòa 0–0 trước SHB Đà Nẵng tại V.League 2. Tiếp đó, vào ngày 3 tháng 12 năm 2023, anh đã ghi một cú đúp giúp đội nhà có được trận hòa 2–2 trước Long An.
Sự nghiệp quốc tế
Vào tháng 3 năm 2022, Bá Đạt tham gia tập huấn tại Đức với U-17 Việt Nam và thi đấu một số giao hữu với đội trẻ của các câu lạc bộ Bundesliga.
Đầu năm 2023, Bá Đạt có tên trong danh sách 23 cầu thủ của U-20 Việt Nam tham dự Cúp bóng đá U-20 châu Á 2023, nhưng không xuất hiện trong bất kỳ trận đấu nào còn Việt Nam dừng bước ngay từ vòng bảng.
Vào tháng 8 năm 2023, anh được triệu tập lên đội tuyển U-23 Việt Nam và tham dự vòng chung kết Giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á 2023. Anh đá chính lần đầu tiên trong trận gặp U-23 Lào tại vòng bảng. Bá Đạt tiếp tục xuất hiện trong trận chung kết với Indonesia, khi anh vào sân thay cho Nguyễn Minh Quang ở hiệp phụ. Hai đội kết thúc với tỷ số hòa không bàn thắng sau 120 phút và phải bước vào loạt đá luân lưu. Bá Đạt đã thực hiện thành công lượt sút thứ 6, qua đó giúp Việt Nam giành chức vô địch U-23 Đông Nam Á lần thứ 2 liên tiếp.
Danh hiệu
Câu lạc bộ
PVF
Giải bóng đá Vô địch U-15 Quốc gia Việt Nam: 2020
Giải bóng đá Vô địch U-17 Quốc gia Việt Nam: 2022
Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia Việt Nam: 2023
U-23 Việt Nam
Giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á: 2023
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia: 2023
Tham khảo
Sinh năm 2005
Nhân vật còn sống
Người Thanh Hóa
Cầu thủ bóng đá Thanh Hóa
Cầu thủ bóng đá nam Việt Nam
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam
Cầu thủ giải bóng đá hạng nhì quốc gia Việt Nam
Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá PVF-CAND
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Việt Nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam
|
19849787
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ACnh%20y%C3%AAu%20trong%20s%C3%A1ng
|
Tình yêu trong sáng
|
Tình yêu trong sáng, hay còn gọi là tình yêu thuần khiết hay ở các nước phương Tây thường gọi là tình yêu kiểu Platon, là một dạng tình yêu mà ở đó không tồn tại hoặc lờ đi, làm thăng hoa hay thậm chí làm thuần khiết hóa các yếu tố lãng mạn và ham muốn tình dục, tuy nhiên tình yêu kiểu này lại có nhiều hàm ý hơn là một tình bạn đơn thuần.
Tham khảo
Thư mục
K. Sharpe, Criticism and Compliment. Cambridge, 1987, ch. 2.
T. Reeser, Setting Plato Straight: Translating Platonic Sexuality in the Renaissance. Chicago, 2015.
Burton, N., MD (25 June 2016). These Are the 7 Types of Love. Psychology Today. Retrieved 3 May 2018.
Messman, S. J., Hause, D. J., & Hause, K. S. (2000). "Motives to Remain Platonic, Equity, and the Use of Maintenance Strategies in Opposite-Sex Friendships." Journal of Social and Personal Relationships, 17 (1), 67–94.
Mish, F. C. (Ed.). (1993). Merriam-Webster's collegiate dictionary: Tenth Edition. Springfield, MA: Merriam-Webster, Inc. .
Rojcewicz, R. (1997). "Platonic love: dasein's urge toward being." Research in Phenomenology, 27 (1), 103.
Miller, P. A. (2013). "Duras and platonic love: The erotics of substitution." Comparatist, 37 83–104.
Benardete, S. (1986). Plato's Symposium. Chicago, IL: University of Chicago Press. .
Herrmann, F. (2013). "Dynamics of vision in Plato's thought." Helios, 40 (1/2), 281–307.
Liên kết ngoài
Plato on Friendship and Eros – Stanford Encyclopedia of Philosophy
Friendship
Love
Non-sexuality
Philosophy of love
|
19849793
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dr.STONE%20%28m%C3%B9a%202%29
|
Dr.STONE (mùa 2)
|
Dr.STONE là một bộ phim truyền hình anime Nhật Bản do TMS Entertainment sản xuất, dựa trên bộ truyện tranh cùng tên, được viết bởi Riichiro Inagaki, minh họa bởi Boichi và xuất bản trên tạp chí Weekly Shōnen Jump của Shūeisha. 3.700 năm sau khi ánh sáng bí ẩn biến toàn bộ người trên thế giới thành tượng đá, cậu bé thiên tài Senku Ishigami thoát khỏi trạng thái hóa đá, khi thế giới đã trở thành "Thế giới Đá" và tìm cách xây dựng lại nền văn minh nhân loại từ đầu.
Phần thứ hai của Dr.STONE có tựa đề: Dr.STONE: Stone Wars, được phát sóng từ ngày 14 tháng 1 đến ngày 25 tháng 3 năm 2021. tập trung vào câu chuyện của phần "Stone Wars" trong manga, trong đó Senku và Dân làng Ishigami của Vương quốc Khoa học gây chiến với Vương quốc Sức mạnh của Tsukusa. Phần này được Crunchyroll phát trực tuyến trên toàn thế giới bên ngoài Châu Á, trong khi Funimation sản xuất một simuldub. Mùa thứ hai gồm 11 tập. Phần tiếp theo của bộ anime đã được công bố sau khi tập cuối cùng của mùa thứ hai được phát sóng. Bản lồng tiếng Anh của Stone Wars được phát sóng trên khối lập trình Toonami của Adult Swim từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 25 tháng 7 năm 2021.
Bài hát mở đầu là do Fujifabric thể hiện, trong khi bài hát kết thúc là "Voice?" (声? , "Koe?" ) do Hatena (はてな) trình bày.
Các tập
Tập tóm tắt đặc biệt
Băng đĩa
Tiếng Nhật
Tiếng Anh
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
tại Crunchyroll
(Stone Wars)
2
Mùa truyền hình Nhật Bản năm 2021
|
19849795
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20c%C3%A1c%20thi%C3%AAn%20h%C3%A0%20g%E1%BA%A7n%20nh%E1%BA%A5t
|
Danh sách các thiên hà gần nhất
|
Đây là danh sách các thiên hà đã biết trong phạm vi 3,8 megaparsec (12,4 triệu năm ánh sáng) tính từ Hệ Mặt Trời, bao gồm khoảng 50 thiên hà thuộc Nhóm Địa phương lớn và một số thiên hà là thành viên của các nhóm thiên hà lân cận (nhóm M81, M83) và 1 số thiên hà không thuộc về nhóm nào.
Danh sách này nhằm phản ánh kiến thức hiện tại: không phải tất cả các thiên hà trong bán kính 3,8 Mpc đều đã được phát hiện. Các thiên hà lùn gần đó vẫn đang được phát hiện và các thiên hà nằm phía sau mặt phẳng trung tâm của Dải Ngân hà cực kỳ khó phân biệt. Bất kỳ thiên hà nào cũng có thể che dấu một thiên hà khác nằm ngoài nó. Các phép đo khoảng cách giữa các thiên hà có độ không đảm bảo lớn. Các số liệu được liệt kê là sự tổng hợp của nhiều phép đo, một số trong số đó có thể có các thanh lỗi riêng lẻ được siết chặt đến mức không còn chồng chéo với nhau.
Danh sách
Xem thêm
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
T
Thiên hà
T
T
Khoảng cách
|
19849798
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nishi%2C%20Kumamoto
|
Nishi, Kumamoto
|
là quận thuộc thành phố Kumamoto, tỉnh Kumamoto, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của quận là 91.177 người và mật độ dân số là 1.000 người/km2. Tổng diện tích của quận là 89,33 km2.
Tham khảo
Quận của Kumamoto (thành phố)
|
19849801
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%90%E1%BB%A9c
|
Lương Đức
|
Lương Đức hay Nguyễn Lương Đức (sinh ngày 15 tháng 7 năm 1939) là nhà đạo diễn, biên kịch, nhà quay phim và viết lời bình phim tài liệu khoa học của điện ảnh Việt Nam, ông được mệnh danh là người “nghệ thuật hóa dòng phim khoa học". Trong sự nghiệp của mình, ông đã tham gia sản xuất hơn 100 phim khoa học và phim tài liệu, trong số đó, ông đạo diễn hơn 50 phim khoa học, 7 phim tài liệu và phim video “Bỉ vỏ”, nhiều bộ phim đoạt giải thưởng cao trong các kỳ Liên hoan phim Việt Nam.
Tiểu sử
Nguyễn Lương Đức, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1939 ở làng Phượng Đình, xã Hoằng Anh, huyện Hoằng Hóa – nay là phố Thượng Đình, phường Tào Xuyên, thành phố Thanh Hóa. Năm 14 tuổi, Lương Đức được nhận học bổng toàn phần cùng 24 kg gạo mỗi tháng, mong muốn ban đầu của ông chỉ là được làm công nhân lái máy cày. Đầu năm 1955, Lương Đức được gọi ra Hà Nội vừa học phổ thông, vừa học chính trị, ông được tuyển đi học tại Việt Nam học xá ở Trung Quốc. Ông đăng ký học chuyên ngành quay phim nhưng không thành vì nhà trường đã hết chỉ tiêu. Năm 1956, ông nằm trong tốp 35 người đạt điểm cao nhất được cử đi học tại Leipzig, Cộng hòa Dân chủ Đức. Ông trở thành người đầu tiên của ngành điện ảnh Việt Nam được đào tạo chính quy ở Đông Âu.
Sự nghiệp
Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Điện ảnh và Vô tuyến truyền hình năm 1962, dù đủ tiêu chuẩn để ở lại Đông Đức học tiếp nhưng Lương Đức lại từ chối các lời mời của Bộ Ngoại giao Đức mà trở về nước làm việc. Ông theo đuổi dòng phim khoa học. Từng được đi và học hỏi cách làm phim nhiều nơi trên thế giới, ông nhận thấy ở Việt Nam dòng phim khoa học lúc bấy giờ chưa được định hình cụ thể, cách làm còn lạc hậu, nội dung còn nghèo nàn. Lương Đức được cử đi công tác đào tạo điện ảnh cho Vương quốc Lào trong vòng hai năm, được xem là người đặt nền móng đầu tiên cho dòng phim khoa học của Lào. Năm 1964, ông về công tác tại Xưởng phim Thời sự Tài liệu Việt Nam và từng có thời gian giữ vai trò là Xưởng trưởng.
Khi Lương Đức về nước, dòng phim khoa học đã xuất hiện tại Việt Nam từ thập niên 1950, nhưng nội dung còn nghèo nào, thủ pháp đơn điệu, thiên về cách làm phim thời sự. Để tăng sức hấp dẫn cho phim khoa học, Lương Đức đã tận dụng thủ pháp của phim hoạt hình, kịch, phim tài liệu. Với các tác phẩm “Cá mè đẻ nhân tạo” năm 1965 và “Chú ý thuốc trừ sâu”, “Bệnh đạo ôn hại lúa”, ông đã tìm ra những phương pháp mới cho dòng phim khoa học vốn được coi là khô cứng, khuôn phép. Bộ phim tài liệu Đất Hạ Long do ông đạo diễn năm 1985 đã giành được Giải đặc biệt lại Liên hoan phim quốc tế Moskva và 3 giải cho âm nhạc, lời bình và quay phim xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 7.
Cuối năm 1989, Lương Đức cùng các đạo diễn, Nghệ sĩ nhân dân Vũ Lệ Mỹ và Lê Mạnh Thích làm 4 tập phim video “Bỉ vỏ” dựa theo truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyên Hồng. Đây là một trong những bộ phim đạt danh thu cao nhất của Điện ảnh Việt Nam vào năm 1990 – 1991.
Ông đặt ra 3 tiêu chí trong sản xuất phim: tận dụng yếu tố bi – hài; Tạo tình huống gây chú ý, hưng phấn cho người xem; quan tâm tới thẩm mỹ, mỗi khuôn hình là một chủ đề.
Năm 1997, Lương Đức được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Năm 2012, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật cho lĩnh vực Điện ảnh với hai tác phẩm do ông làm đạo diễn: Chú ý thuốc trừ sâu và Đất Tổ nghìn xưa.
Năm 2020, Lương Đức nghỉ hưu. Tại Lễ trao giải Cánh diều 2019, Ban tổ chức đã chiếu phim tôn vinh ông, cùng với đạo diễn Trần Văn Thủy, vì những đóng góp với dòng phim khoa học và phim tài liệu. Dù nghỉ hưu nhưng Lương Đức vẫn tiếp tục giảng dạy tại trường Đại học Sân khấu Điện ảnh. Lương Đức là thành viên Ban giám khảo hạng mục Phim tài liệu / khoa học của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ nhất, lần thứ 17, chương trình Táo truyền hình 2010, Liên hoan phim môi trường toàn quốc lần thứ 7, chủ tịch Ban giám khảo hạng mục Phim tài liệu / khoa học giải Cánh diều 2017, Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 23.
Đời tư
Trong thời gian học tập ở Đức, trong một cuộc giao lưu với sinh viên Trường Đại học Sư phạm Potsdam nhân dịp Quốc khánh Việt Nam, Lương Đức tình cờ gặp được Rosemarie Fischer. Vì du học sinh Việt Nam bị cấm yêu công dân của nước sở tại nên tình cảm của hai người cũng cần phải giấu kín. Nhưng Fischer lại công khai mối tình với mục đích giữ chân người yêu khi Lương Đức sắp kết thúc chương trình học. Ông Phạm Ngọc Thuần, Đại sứ của Việt Nam tại Đức rất thông cảm cho hai người.
Fischer là cháu một cán bộ ngoại giao cao cấp của Đức, bà tìm mọi cách tháo gỡ những vướng mắc pháp lý ở cả hai nước để tổ chức lễ cưới. Mẹ của Fischer cũng rất nhiệt tình muốn giữ chân Lương Đức ở lại. Trước khi về nước, Lương Đức được tin ông và bà Fischer sắp có con. Sau năm 1975, Fischer vẫn đơn thân nuôi con, bà luôn có ý định sang Việt Nam nhưng Lương Đức tìm cách khuyên nhủ bà đi bước nữa. Sau khi bà kết hôn với người chồng mới, ông vẫn giữ liên lạc với hai mẹ con bà.
Tác phẩm
Ấn bản
Chuyện đời, chuyện nghề (Tự truyện - 2000 - Nhà xuất bản Thế Giới)
Điện ảnh
Bỉ vỏ (Phim video - 1989) - đồng đạo diễn: Vũ Lệ Mỹ, Lê Mạnh Thích
Nơi chiến tranh đi qua (Phim ngắn - 1997)
Vì cuộc sống bình yên (Phim ngắn - 2000)
Phim khoa học
Cá mè đẻ nhân tạo (1965)
Hóc đường thở (1967)
Bệnh đạo ôn hại lúa
Chớ coi thường (1985)
Năng lượng khí sinh vật
Vì tính mạng con người (1961)
Chú ý thuốc trừ sâu
Làng tranh Đông Hồ (1986)
Vườn chim Minh Hải (1981)
Rừng Cúc Phương (1984)
Đất Hạ Long (1984)
Cá trôi Ấn (1988)
Tuổi thơ trong lòng hợp tác (1968)
Đánh cá đèn
Nuôi trai cấy ngọc
Phim tài liệu
Tôi thật lòng hối hận
Nỗi đau sau cuộc chiến (Nhà sản xuất)
Mỏ Vàng Danh những ngày cuối năm
Quảng Ninh - Hội tụ và lan toả (2013)
Đảo khỉ
Mỹ Lai
Nhịp cầu hữu nghị Việt - Đức (2015)
Hạt gạo đầu tiên
Đồng khởi
Vào cửa không mất tiền
Pônpốt là ai
725 năm chiến thắng Bạch Đằng (2013)
Xuân về hoa nở
20 năm sau - chất độc da cam
Tổ quốc Việt Nam nhìn từ vũ trụ (1981)
Làng quan họ
Ngư dân Vịnh Mốc
Phụ nữ ba đảm đang
Tây Hồ
Đường qua Tây Nguyên (1991)
Phi công mặc áo ngủ (1967)
Đường chúng ta đi (1977 - Quay phim)
Thành đồng Tổ quốc
Đất tổ ngàn xưa
Vì cuộc sống bình yên (2000 - Nhà sản xuất)
Vì âm thanh cuộc sống (1976)
Nói và làm
Yên trí không sao (1973)
Tôi sử dụng ngày công như thế nào
Tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam
Cộng tác cùng hãng phim Heynoski: Thành đồng Tổ quốc, Chiến dịch Phượng Hoàng, Khi ngày đó đã đến, Sơn Mỹ, Campuchia chết và hồi sinh, Angkar...
Giải thưởng
Vinh danh
Nghệ sĩ ưu tú (1984).
Nghệ sĩ Nhân dân (1997).
Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (2012).
Huân chương Lao động hạng Nhất.
Huân chương Kháng chiến hạng Ba.
Huy hiệu Bác Hồ.
Giải thưởng cho tác phẩm
Các tác phẩm của Lương Đức đã giành được 2 Bông sen Vàng, 8 Bông sen Bạc, Cánh diều Bạc và nhiều giải quốc tế.
Giải thưởng cá nhân
Tham khảo
Người Thanh Hóa
Sinh năm 1939
Nhân vật còn sống
Người họ Nguyễn tại Việt Nam
Đạo diễn điện ảnh Việt Nam
Nhà quay phim Việt Nam
Nghệ sĩ nhân dân Việt Nam
Phim và người giành giải Liên hoan phim Việt Nam
Phim và người giành giải Cánh diều
|
19849807
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20t%E1%BA%ADp%20phim%20Pok%C3%A9mon%20b%E1%BB%8B%20lo%E1%BA%A1i%20b%E1%BB%8F
|
Danh sách tập phim Pokémon bị loại bỏ
|
Pokémon hay còn được biết với tên trong tiếng Nhật là Pocket Monsters (ポケットモンスター?) là một loạt phim hoạt hình được phát sóng trên truyền hình tại Nhật Bản từ ngày 1 tháng 4 năm 1997 trên TV Tokyo. Đây là một phần của nhượng quyền thương mại truyền thông thương hiệu Pokémon, dựa trên loạt trò chơi video Pokémon của The Pokémon Company. Ở Việt Nam, một số phần series đã được công chiếu.
Các loạt phim hoạt hình Pokémon được chia thành bảy phần phát sóng liên tục ở Nhật Bản, chia ra bởi các phiên bản của loạt trò chơi video anime lấy cảm hứng từ phần Original, Ruby & Sapphire, Diamond & Pearl, Black & White, XY, Sun & Moon, Pokémon Journeys và phần mới nhất là Pokémon Horizon. Khi phát sóng quốc tế, bảy phần phim này được chia thành 25 mùa riêng biệt.
Trong số hơn 1000 tập đã được phát sóng trong số này, vì nhiều lí do, mà một số tập phim không được ra mắt hay phát sóng ở Nhật Bản cũng như bị cấm phát tại một số khu vực, quốc gia và vùng lãnh thổ. Sau đây là các tập phim Pokémon bị loại bỏ, bị cấm và bị trì hoãn một thời gian.
Các tập phim bị cấm/loại bỏ (toàn cầu)
Tập 38
Nằm trong phần phim đầu tiên của của loạt phim, nó còn được gọi là tập phim "Pokémon Shock", được phát sóng lần đầu vào ngày 16 tháng 12 năm 1997 tại Nhật Bản. Tập phim có sử dụng cảnh đèn chớp xanh đỏ trong các vụ nổ từ tên lửa vắc-xin gây ra với hai kỹ xảo hoạt họa được sử dụng ngay thời điểm đó có tên là "paka paka" và "flash" (đáng chú ý nhất là khoảng phút thứ 20 với thời lượng đèn chớp khoảng 5 giây với tần suất 12 Hz).
Sau khi phát sóng tại thời điểm đó, 685 người xem đã nhập viện (hầu hết là trẻ em) với những triệu chứng như co giât, chóng mặt,... Sau khi ghi nhận sự việc, đài truyền hình điều hành sản xuất và phát sóng tập phim này là TV Tokyo đã gửi thông điệp xin lỗi công khai đến toàn thể người dân Nhật Bản, đồng thời bộ phim đã tạm dừng phát sóng khoảng 4 tháng để tiến hành điều tra. Kể từ đó trở đi, tập phim này bị cấm phát sóng trên toàn cầu, đồng thời Porigon và các hình thái tiến hóa liên quan hạn chế xuất hiện trong một số tập phim sau này.
Tập 377
Nằm trong phần phim Advanced Generation, ban đầu được phát sóng vào ngày 4 tháng 11 năm 2004. Tập phim có phân đoạn về việc Satoshi và nhóm bạn bị cuốn bởi trận động đất do Namazun gây ra. Phân cảnh này có liên quan đến trận động đất ở Chūetsu, Niigata tại Nhật Bản vào ngày 23 tháng 10 năm 2004, do vậy tập phim này không được phát sóng và đã được thay thế bằng tập phim khác.
Tập 682 và tập 683
Nằm trong phần phim Best Wishes, đây là 2 tập phim nói về trận chiến giữa nhóm Rocket với nhóm Plasma. Ban đầu cả 2 tập phim được phát sóng trong ngày 17 và 24 tháng 3 năm 2011, tuy nhiên cả 2 tập phim này không được phát sóng do ảnh hưởng của trận động đất và sóng thần Tōhoku vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. 2 tập phim này hiện đã được thay thế, dù vậy một số chi tiết của 2 tập phim không được phát sóng trước đó được đề cập trong các tập phim sau này. Dù 2 tập phim đó không còn được phát sóng, tuy nhiên vào năm 2023 thì phần kịch bản của 2 tập phim chưa được phát sóng này đã được hé lộ.
Các tập phim bị cấm/loại bỏ (phiên bản tiếng Anh)
Tập 18
Nằm trong phần phim đầu tiên của của loạt phim, phát sóng lần đầu vào ngày 29 tháng 7 năm 1997 tại Nhật Bản. Trong tập phim có phân cảnh Kojiro mặc váy chéo và mặc bộ ngực bơm hơi cho một cuộc thi sắc đẹp, dẫn đến gây tranh cãi bởi đó là một yếu tố gây phản cảm khiến cho tập phim này bị trì hoãn phát sóng phiên bản tiếng Anh cho đến khi phát sóng vào ngày 24 tháng 6 năm 2000 với thời lượng 18 phút. Sau lần phát lại vào tháng 8 năm 2000, tập phim hiện đã không còn được phát sóng và phân phối bên ngoài Châu Á.
Tập 35
Nằm trong phần phim đầu tiên của của loạt phim, phát sóng lần đầu vào ngày 25 tháng 11 năm 1997 tại Nhật Bản. Tập phim không được phát sóng ở nhiều khu vực bên ngoài Nhật Bản bởi nhiều lí do, nhưng lí do chính ở việc tập phim có sử dụng các phân cảnh sử dụng súng chĩa vào các nhân vật, nhất là cảnh Kaiser chĩa súng vào Satoshi. Mặc dù mang tính đe dọa, tuy nhiên vì mang tính bạo lực nên tập phim hiện không có phiên bản tiếng Anh.
Tập 65
Nằm trong phần phim đầu tiên của của loạt phim, phát sóng vào ngày 5 tháng 10 năm 1997 tại Nhật Bản. Phiên bản lồng tiếng Anh được phát sóng vào ngày 11 tháng 12 năm 1999, tuy nhiên tập phim này đã ngừng phân phối và phát sóng các lần tiếp theo ở do những cáo buộc về Rougela là một khuôn mẫu chủng tộc của người Mỹ gốc Phi bởi Carole Boston Weatherford. Mặc dù vẫn có thể theo dõi trên VHS và trong bộ DVD Indigo League Volume 3 DVD Pack Set và đã được cung cấp trên Cartoon Network Video. Tuy nhiên, tập phim này hiện không được phát sóng lại phiên bản tiếng Anh trên Netflix, Pokémon TV, đồng thời trong lần phân phối lại bộ DVD Indigo League Volume 3 DVD Pack Set đã gỡ bỏ tập phim đó.
Tập 92 và tập 101
Nằm trong phần phim đầu tiên của của loạt phim, phát sóng trong tháng 5 và tháng 6 năm 1999 tại Nhật Bản. Phiên bản lồng tiếng Anh phát sóng vào tháng 2 và tháng 4 năm 2000, nhưng hiện đã bị cấm phân phối trên Pokémon TV, Netflix và trong lần phân phối lại bộ DVD Adventures On The Orange Islands vì xuất hiện một vai khách mời nhỏ của Rougela kể từ tháng 4 năm 2013.
Tập 252
Nằm trong phần phim đầu tiên của của loạt phim, phát sóng vào ngày 30 tháng 5 năm 2002 tại Nhật Bản. Tập phim tập trung nhiều về nhân vật Rougela - nhân vật đang gây tranh cãi về ngoại hình ở Mỹ, không giống như các tập phim từng phát sóng phiên bản tiếng Anh rồi sau đó ngừng phát sóng, tập phim này bị cấm phát sóng hoàn toàn ngoài một số khu vực Châu Á.
Tập 1005
Nằm trong phần phim Sun & Moon, phát sóng lần đầu vào ngày 1 tháng 3 năm 2018. Tập phim không được phát sóng phiên bản tiếng Anh do trong phim chứa phân cảnh Satoshi sơn mặt tối giống như mặt đen trong nửa sau của tập phim, để bắt chước ngoại hình của một Passimian. Blackface được coi là một khuôn mẫu chủng tộc tiêu cực của người Mỹ gốc Phi ở Hoa Kỳ.
Các tập phim bị cấm/loại bỏ (phiên bản tiếng Nhật)
Pikachu & Pichu
Là tập phim ngắn thứ 7 về Pikachu, được phát sóng vào ngày 8 tháng 4 năm 2000 tại Nhật Bản và ngày 6 tháng 4 năm 2001 tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên tập phim ngắn này bị cấm ở Nhật Bản kể từ năm 2009 do người dẫn chuyện là Noriko Sakai bị bắt vì tàng trữ ma túy.
Các tập phim bị cấm/loại bỏ (phiên bản tiếng Hàn)
Khi Pokémon phát sóng tại Hàn Quốc, thời điểm đó do vấn đề kiểm duyệt nội dung Nhật Bản tại Hàn Quốc, một số tập phim đã bị cấm phát sóng tại Hàn Quốc. Điều này ảnh hưởng đến cốt truyền do một số tập có liên quan đến nhau. Các tập phim bị cấm kéo dài cho đến phần Advanced Generation, bao gồm:
Tập 4: Bị cấm do có Samurai
Tập 20: Bị cấm do liên quan đến một số sự kiện văn hóa Nhật Bản.
Tập 26: Bị cấm do quần áo truyền thống Nhật Bản của Erika mặc trong cửa hàng nước hoa.
Tập 32: Bị cấm do tập phim có một số mô tả về văn hóa Nhật Bản, bao gồm ninja và kabuki.
Tập 58: Bị cấm do mô tả quần áo và kiến trúc truyền thống của Nhật Bản.
Tập 75: Bị cấm do quần áo giống samurai của Otoshi
Tập 79: Bị cấm do quần áo truyền thống Nhật Bản của Jeanette Fisher.
Tập 132: Bị cấm do tháp Madatsubomi giống với kiến trúc truyền thống của Nhật Bản.
Tập 133: Bị cấm do phong cách truyền thống của Nhật Bản trong quần áo của Falkner
Tập 142: Bị cấm không rõ lí do
Tập 178: Bị cấm do tập trung công khai vào văn hóa Nhật Bản.
Tập 183 và tập 184: Bị cấm không rõ lí do
Tập 185: Bị cấm do sự nổi bật của chị em Kimono, những người có trang phục dựa trên văn hóa Nhật Bản.
Tập 196: Bị cấm do Pokémon sumo đấu vật, một phong cách chiến đấu của Nhật Bản.
Tập 203: Bị cấm do chương trình bói toán tương tự như truyền thống Thần đạo.
Tập 228: Bị cấm do sự nổi bật của chị em Kimono, những người có trang phục dựa trên văn hóa Nhật Bản.
Tập 229: Bị cấm do có chứa các yếu tố của văn hóa Nhật Bản, chẳng hạn như đấu vật sumo và geisha.
Tập 331 và tập 332: Hai tập phim này không bao giờ được phát sóng tại Hàn Quốc, mặc dù đây có thể là vấn đề kiểm duyệt, vì chúng được phát hành trên DVD. Mặt khác, hai tập phim này không xuất hiện trên trang web Pokémon tại Hàn Quốc.
Các tập phim bị cấm/loại bỏ (khác)
Phần lớn các tập phim Pokémon khi phát sóng có bao gồm phiên bản tiếng Anh, phiên bản tiếng Hàn và phiên bản tiếng Nhật. Tuy nhiên, một số tập phim dù không bị cấm hay loại bỏ toàn cầu, nhưng ở một số quốc gia đặc thù thì không được phát sóng. Các tập phim đó bao gồm:
Tập 45: Bị cấm ở Thổ Nhĩ Kỳ vì không rõ lý do cho đến khi Netflix phân phối phần đầu tiên của phim thì tập phim này được phát trở lại.
Tập 348: Bị cấm ở một số khu vực, trong đó có Ireland và Aruba do cáo buộc rằng định dạng "trận chiến về giới tính" của tập phim.
Các tập phim bị trì hoãn
Các tập phim Pokémon khi phát sóng sẽ theo lịch trình kế hoạch của từng khu vực, tuy nhiên đã có một số tập phim không được phát sóng theo kế hoạch. Các tập phim này bị trì hoãn hoặc bị cấm một thời gian sau đó được phát sóng trở lại. Các tập phim đó bao gồm:
Tập 851: Nằm trong phần phim XY, ban đầu sẽ được phát sóng ở Nhật Bản vào ngày 24 tháng 4 năm 2014 nhưng đã bị hoãn và thay thế bởi tập phim khác do vụ lật phà Sewol diễn ra vào ngày 16 tháng 4 năm 2014. Sau đó vài tháng, tập phim này được phát sóng lần đầu tại Hàn Quốc vào ngày 8 tháng 8 năm 2014 trước khi phát sóng trở lại tại Nhật Bản vào ngày 20 tháng 11 năm 2014.
Tập 19: Nằm trong phần phim đầu tiên của của loạt phim, tập phim này bị tạm cấm 2 lần khi phát sóng phiên bản tiếng Anh tại Hoa Kỳ. Lần cấm đầu tiên diễn ra vào năm 2001 sau vụ tấn công khủng bố vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, tập phim đó không được phân phối một thời gian cho đến khi Cartoon Network phát sóng tập phim đó. Lần cấm thứ 2 diễn ra vào năm 2005 do liên quan đến vụ cơn bão Katrina, nhưng chỉ cấm một vài tuần trước khi phát sóng lại.
Tập 23: Nằm trong phần phim đầu tiên của của loạt phim, tập phim này bị cấm tạm thời khi phát sóng phiên bản tiếng Anh tại Hoa Kỳ vào năm 2001 sau vụ tấn công khủng bố vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, sau đó tập phim này được phát sóng trở lại bình thường.
Tập 696: Nằm trong phần phim Best Wishes, ban đầu dự định phát sóng vào ngày 7 tháng 4 năm 2011 tại Nhật Bản. Tuy nhiên, tập phim này bị hoãn phát sóng cho đến ngày 23 tháng 6 năm 2011 do ảnh hưởng của trận động đất và sóng thần Tōhoku vào ngày 11 tháng 3 năm 2011.
Từ tập 1110 cho đến tập 1114: Nằm trong phần phim Journeys, ban đầu sẽ được phát sóng tại Nhật Bản trong khoảng tháng 4 và tháng 5 năm 2020 nhưng bị hoãn sang tháng 6 và tháng 7 cùng năm do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.
Chú thích
|
19849816
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%D0%A7
|
Ч
|
Che hay Cha, Chu (Ч ч; dạng in nghiêng: Ч ч) là một chữ cái thuộc hệ chữ cái Kirin.
Hình thức
Chữ Che (Ч ч) giống chữ H viết thường lộn ngược trong tiếng Latinh, cũng như giống chữ số 4, đặc biệt ở dạng số hoặc dạng mở.
Lịch sử
Trong hệ thống chữ cái Kirin cổ, Ч tên là (črĭvĭ), có nghĩa là "sâu".
Trong hệ thống chữ cái Kirin, Ч có giá trị là 90.
Mã máy tính
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chữ cái Kirin
Ngôn ngữ tại Nga
|
19849825
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%E1%BA%BF%20ho%E1%BA%A1ch%20t%C3%A0i%20ch%C3%ADnh
|
Kế hoạch tài chính
|
Kế hoạch tài chính (Financial plan) là sự đánh giá toàn diện về mức lương hiện tại và tình trạng tài chính trong tương lai của một cá nhân bằng cách sử dụng các biến số hiện tại đã biết để dự đoán thu nhập cá nhân, giá trị tài sản và kế hoạch rút tiền trong tương lai. Kế hoạch tài chính là một phần của quản lý tài chính, thường bao gồm việc tổ chức quản lý túi tiền (ngân quỹ) của một cá nhân và đôi khi bao gồm một loạt các bước hoặc mục tiêu cụ thể để chi tiêu và tiết kiệm trong tương lai. Kế hoạch này phân bổ thu nhập trong tương lai cho nhiều loại chi phí khác nhau, chẳng hạn như tiền thuê nhà hoặc sử dụng dịch vụ tiện ích, đồng thời dành một phần thu nhập để tiết kiệm ngắn hạn và dài hạn. Kế hoạch tài chính đôi khi được gọi là kế hoạch đầu tư, nhưng trong tài chính cá nhân, kế hoạch tài chính có thể tập trung vào các lĩnh vực cụ thể khác như quản lý rủi ro, bất động sản, học phí đại học hoặc chuẩn bị cho giai đoạn hưu trí.
Trong kinh doanh, "dự báo tài chính" hoặc "kế hoạch tài chính" cũng có thể đề cập đến dự báo thu nhập và chi phí hàng năm cho công ty, bộ phận hoặc bộ phận Cụ thể hơn, kế hoạch tài chính cũng có thể đề cập đến ba loại báo cáo gồm: báo cáo tài chính (bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập và báo cáo lưu chuyển tiền tệ) được lập trong kế hoạch kinh doanh. Kế hoạch tài chính cũng có thể là ước tính nhu cầu tiền mặt và quyết định về cách huy động tiền mặt, chẳng hạn như thông qua vay nợ (đòn bẩy tài chính) hoặc phát hành thêm cổ phiếu trong một công ty. Lưu ý rằng kế hoạch tài chính khi đó có thể hàm chứa báo cáo tài chính tương lai, tương tự nhưng khác với báo cáo của ngân sách. Kế hoạch tài chính là sự kết hợp của các báo cáo tài chính riêng và phản ánh tất cả các loại giao dịch (hoạt động, chi phí và đầu tư) theo thời gian. Sách giáo khoa được sử dụng trong các trường đại học cung cấp các khóa học liên quan đến lập kế hoạch tài chính cũng thường không định nghĩa thuật ngữ kế hoạch tài chính.
Doanh nghiệp
Kế hoạch tài chính là toàn bộ tổng quan về kế toán tài chính của một công ty. Kế hoạch tài chính hoàn chỉnh bao gồm tất cả các kỳ và loại giao dịch. Đó là sự kết hợp của các báo cáo tài chính độc lập chỉ phản ánh tình trạng quá khứ, hiện tại hoặc tương lai của công ty. Kế hoạch tài chính là tập hợp các báo cáo tài chính trong quá khứ, hiện tại và tương lai, chẵng nạn như một khoản chi phí tốn kém (trong quá khứ và hiện tại) từ một vấn đề hoạt động thường được trình bày trước khi phát hành báo cáo tài chính tương lai đề xuất giải pháp cho vấn đề hoạt động nói trên. Sự nhầm lẫn xung quanh thuật ngữ "kế hoạch tài chính" có thể xuất phát từ thực tế là có nhiều loại báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính riêng thể hiện kết quả tài chính trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai. Cụ thể hơn, báo cáo tài chính cũng chỉ phản ánh những danh mục cụ thể có liên quan. Ví dụ, hoạt động đầu tư không được trình bày đầy đủ trong bảng cân đối kế toán.
Có hai loại "báo cáo viễn cảnh tài chính": dự báo tài chính và dự ước tài chính và cả hai đều liên quan đến khoảng thời gian hiện tại/tương lai. Báo cáo viễn cảnh tài chính là loại báo cáo tài chính theo khoảng thời gian có thể phản ánh tình trạng tài chính hiện tại/tương lai (dự phóng) của một công ty sử dụng ba báo cáo/báo cáo tài chính chính: báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và bảng cân đối kế toán. "Báo cáo tài chính dự phóng có hai loại gồm dự báo và dự ước. Dự báo dựa trên tình hình tài chính dự kiến của ban quản lý, kết quả hoạt động và dòng tiền. Mặc dù việc sử dụng phổ biến thuật ngữ "kế hoạch tài chính" thường đề cập đến một loạt các bước hoặc mục tiêu chính thức và được xác định, nhưng vẫn có một số nhầm lẫn về mặt kỹ thuật về ý nghĩa thực sự của thuật ngữ "kế hoạch tài chính" trong ngành.
Ngành tài chính kế toán có trách nhiệm và vai trò riêng biệt. Khi các sản phẩm công việc được kết hợp lại sẽ tạo ra một bức tranh hoàn chỉnh, một kế hoạch tài chính tổn quát. Nhà phân tích tài chính nghiên cứu dữ liệu và sự kiện (quy định/tiêu chuẩn) được xử lý, ghi lại và được kế toán viên trình bày. Thông thường, nhân viên tài chính nghiên cứu kết quả dữ liệu - nghĩa là điều gì đã xảy ra hoặc điều gì có thể xảy ra - và đề xuất giải pháp cho sự kém hiệu quả. Các nhà đầu tư và tổ chức tài chính phải nhìn thấy cả vấn đề và giải pháp để đưa ra quyết định sáng suốt. Kế toán viên và nhà hoạch định tài chính đều tham gia vào việc trình bày các vấn đề và giải quyết những vấn đề kém hiệu quả, do đó, kết quả và giải thích đều được đưa ra trong một kế hoạch tài chính. Khi soạn thảo kế hoạch tài chính, công ty nên thiết lập phạm vi lập kế hoạch, đó là khoảng thời gian của kế hoạch, cho dù đó là ngắn hạn (thường là 12 tháng) hay dài hạn (hai đến năm năm). Ngoài ra, các dự án riêng lẻ và đề xuất đầu tư của từng đơn vị hoạt động trong công ty phải được tổng hợp và coi như một dự án lớn, quá trình này được gọi là tổng hợp.
Cá nhân
Bước sang năm mới là giai đoạn cần lập kế hoạch tài chính cá nhân. Theo các chuyên gia, khi có bản kế hoạch tài chính phù hợp, mỗi người sẽ có cách xử lý tiền bạc hợp lý, chủ động ứng phó với các biến động cuộc sống để đi tới thành công. Các nguyên tắc lưu ý gồm ác định mục tiêu trong ngắn và dài hạn, đánh giá tình hình tài chính của bản thân, xác định khoảng cách giữa hiện tại và mục tiêu, rà soát định kỳ là các bước để lập kế hoạch tài chính cá nhân. Có 4 bước để lập công thức xây dựng kế hoạch tài chính cá nhân, thường cho 5 năm tiếp theo như:
Xác định mục tiêu tài chính trong ngắn hạn và dài hạn (Biết mình muốn gì)
Đánh giá tình hình tài chính của bản thân (Biết mình đang ở đâu) trong đó lưu ý loại mục tiêu thu nhập, chi tiêu, đầu tư, bảo hiểm, thừa kế, hưu trí
Xác định khoảng cách giữa hiện tại và mục tiêu để tìm ra kế hoạch phù hợp để đạt mục tiêu hoặc điều chỉnh mục tiêu (Biết mình cần làm gì và có thể làm gì)
Thực hiện theo kế hoạch đã đề ra và rà soát định kỳ (Làm và kiểm tra) để điều chỉnh các kế hoạch đã vạch ra nếu như không còn phù hợp với tình hình thực tế.
Chú thích
Tài chính cá nhân
Hoạch định
Quản lý tài chính
|
19849826
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20b%E1%BA%A1n%20t%C6%B0%E1%BB%9Fng%20t%C6%B0%E1%BB%A3ng%20%28phim%29
|
Những người bạn tưởng tượng (phim)
|
Những người bạn tưởng tượng (tên tiếng Anh: IF hay Imaginary Friends) là bộ phim hoạt hình người đóng thuộc thể loại hài kỳ ảo về những người bạn tưởng tượng được biên kịch, đạo diễn kiêm đồng sản xuất bởi John Krasinski. Phim sẽ có sự tham gia của dàn diễn viên người đóng bao gồm Ryan Reynolds, Krasinski, Cailey Fleming, Fiona Shaw, Alan Kim và Liza Colón-Zayas bên cạnh các diễn viên lồng tiếng như Phoebe Waller-Bridge, Louis Gossett Jr. và Steve Carell.
Những người bạn tưởng tượng được dự kiến sẽ phát hành tại Hoa Kỳ bởi Paramount Pictures vào ngày 17 tháng 5, 2024.
Tiền đề
Một cô bé nhỏ mang tên Bea có khả năng nhìn thấy những người bạn tưởng tượng của mọi người, hay gọi tắt là những IF, những người đã bị những đứa trẻ mà họ giúp đỡ bỏ rơi. Đồng thời, Bea cũng vô tình phát hiện ra rằng người hàng xóm, Người đàn ông tầng trên, cũng có khả năng tương tự cô.
Diễn viên
Ryan Reynolds thủ vai Người đàn ông tầng trên, hàng xóm của Bea
Cailey Fleming thủ vai Bea
John Krasinski
Fiona Shaw thủ vai Bà ngoại
Alan Kim thủ vai Benjamin
Liza Colón-Zayas
Bobby Moynihan
Lồng tiếng
Steve Carell lồng tiếng vai Blue
Phoebe Waller-Bridge lồng tiếng vai Blossom
Louis Gossett Jr. lồng tiếng vai Gấu
Emily Blunt lồng tiếng vai Kỳ lân
Matt Damon lồng tiếng vai Bông hoa
Maya Rudolph lồng tiếng vai Ally
Jon Stewart lồng tiếng vai Rô bốt
Sam Rockwell lồng tiếng vai SDog
Sebastian Maniscalco lồng tiếng vai Nhà ảo thuật chuột
Christopher Meloni lồng tiếng vai Cosmo
Richard Jenkins lồng tiếng vai Mô hình hoạt hình
Awkwafina lồng tiếng vai Octocat
Vince Vaughn
Sản xuất
Vào tháng 10 năm 2019, Paramount Pictures đã thành công trả giá cao hơn Lionsgate và Sony cũng như những hãng phim khác để lấy được bản quyền Imaginary Friends và dự án sẽ được phát triển bởi John Krasinski và Ryan Reynolds với Krasinski sẽ đảm nhận vai trò biên kịch kiêm chỉ đạo bộ phim. Tháng 5 năm 2021, hãng Sunday Night Productions của Krasinski và Maximum Effort của Reynolds đã ký kết hợp đầu đầu tiên với Paramount. Vào tháng 10, 2021, Phoebe Waller-Bridge và Fiona Shaw xác nhận tham gia vào dàn diễn viên của phim. Đến tháng 1, 2022, Steve Carell, Alan Kim, Cailey Fleming và Louis Gossett Jr. là những cái tên tiếp theo sẽ tham gia vào bộ phim. Bộ phim sẽ là lần tái hợp giữa Krasinski và Carell, cả hai đã từng tham gia bộ phim The Office (2005–2013) trước đây. Tháng 8, 2022, Bobby Moynihan được thông báo sẽ tham gia vào dàn cast của phim. Tại sự kiện CinemaCon 2023 vào tháng 4 năm 2023, toàn bộ dàn diễn viên lồng tiếng và người đóng của phim đã chính thức được công bố.
Quay phim
Công đoạn quay phim chính được bắt đầu vào ngày 31 tháng 8, 2022 với Janusz Kamiński sẽ đảm nhận vai trò quay phim, và chính thức được đóng máy vào đầu tháng 5 năm 2023.
Âm nhạc
Vào tháng 1, 2024, Krasinski đã tiết lộ rằng Michael Giacchino sẽ tham gia soạn nhạc cho bộ phim.
Phát hành
Những người bạn tưởng tượng được dự kiến sẽ công chiếu tại các phim vào ngày 17 tháng 5, 2024 bởi Paramount Pictures. Tuy nhiên, lịch công chiếu ban đầu của phim lần lượt là 17 tháng 11, 2023 và 24 tháng 5, 2024.
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim thập niên 2020
Phim tiếng Anh
Phim hài
Phim kỳ ảo
Phim hài kỳ ảo
Phim hoạt hình Mỹ thập niên 2020
Phim tiếng Anh thập niên 2020
Phim tưởng tượng hài hước của Mỹ
Nhạc nền phim của Michael Giacchino
Phim của Paramount Pictures
|
19849831
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bad%20Boys%20IV
|
Bad Boys IV
|
Bad Boys IV là bộ phim bộ đôi cảnh sát thuộc thể loại hài hành động được đạo diễn bởi Adil & Bilall với kịch bản do Chris Bremmer chấp bút. Phim sẽ được sản xuất bởi 2.0 Entertainment, Don Simpson/Jerry Bruckheimer Films và Westbrook Studios, đây sẽ là phần hậu truyện của Những gã trai hư trọn đời (2020) và đồng thời cũng là phần phim thứ tư của loạt phim Những gã trai hư. Phim sẽ có sự tham gia trở lại của Will Smith, Martin Lawrence, Vanessa Hudgens, Alexander Ludwig và Paola Núñez trong các vai diễn từ phần phim trước của họ, với Tasha Smith sẽ thay thế Theresa Randle, người đã đảm nhận vai diễn Theresa Burnett từ ba phần phim trước.
Dàn diễn viên mới sẽ bao gồm Eric Dane, Ioan Gruffudd, DJ Khaled, Rhea Seehorn và Joyner Lucas. Bộ phim sẽ được công chiếu vào ngày 14 tháng 6, 2024 bởi Sony Pictures Releasing dưới nhãn hiệu Columbia Pictures.
Phát hành
Vào tháng 7, 2023, bộ phim được thông báo sẽ công chiếu tại các rạp vào ngày 14 tháng 6 năm 2024.
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim tiếng Anh
Phim thập niên 2020
Phim bộ đôi cảnh sát
Phim hài
Phim hành động
Phim hài hành động
|
19849833
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3n%20l%C3%BD%20ti%E1%BB%81n%20t%C3%BAi
|
Quản lý tiền túi
|
Quản lý tiền túi (hay túi tiền hoặc hầu bao) trong kinh tế học gọi đầy đủ là ngân quỹ cá nhân (Personal budget/tiền túi) chỉ về ngân sách của một người hay ngân sách hộ gia đình (Household budget) ngân sách của một hoặc nhiều người sống trong cùng nơi ở là kế hoạch điều phối nguồn lực (thu nhập cá nhân) để cân đối, bù đắp chi phí của một cá nhân hoặc hộ gia đình. (tương ứng với kế hoạch tài chính cá nhân). Hầu bao cá nhân thường được dành dụm, chắt chiu để giúp một cá nhân hoặc một hộ gia đình kiểm soát chi tiêu và đạt được các mục tiêu tài chính của họ. Việc lập kế hoạch tiêu xài có thể giúp mọi người cảm thấy kiểm soát tài chính của mình tốt hơn và giúp họ không chi tiêu quá mức (phải móc hầu bao, bỏ tiền túi chi trả) và tiết kiệm tiền dễ dàng hơn. Những người biết quản lý tiền của mình ít có khả năng mắc các khoản nợ lớn (tiền khô cháy túi) và có nhiều khả năng có cuộc sống về hưu thoải mái và sẵn sàng cho những trường hợp khẩn cấp.
Phương pháp
Trong hình thức cơ bản nhất của việc tạo quỹ dành dụm tiết kiệm, một người cần tính toán thu nhập ròng, theo dõi chi tiêu của họ trong một khoảng thời gian nhất định, đặt mục tiêu dựa trên thông tin đã thu thập trước đó, lập kế hoạch để đạt được những mục tiêu này và điều chỉnh chi tiêu của họ dựa trên kế hoạch. Có nhiều phương pháp lập ngân sách để giúp người dân thực hiện điều này. Phương pháp này bao gồm việc đánh giá tình hình tài chính của một người, đặt ra các mục tiêu tài chính thực tế, phân bổ thu nhập, theo dõi chi tiêu và điều chỉnh chi tiêu, đồng thời thường xuyên xem xét và điều chỉnh tài khóa. Những bước này có thể giúp các cá nhân kiểm soát tài chính tốt hơn và đạt được các mục tiêu tài chính của mình. Ngày nay, một số phần mềm và ứng dụng di động quản lý tài chính cá nhân đã được phát triển để giúp mọi người quản lý túi tiền của họ. Một số trong số chúng có thể được sử dụng để lập ngân sách và theo dõi chi phí, một số khác chủ yếu cho danh mục đầu tư của một người, có cả tùy chọn miễn phí và trả phí.
Phương pháp bỏ phong bì (lập sổ chi tiêu bằng tiền mặt): Đối với phương pháp này, mọi người cần sử dụng tiền mặt thay vì Thẻ ghi nợ hoặc thẻ tín dụng. Họ cần phân bổ thu nhập ròng của mình thành các danh mục (ví dụ: cửa hàng tạp hóa), rút tiền mặt được phân bổ cho từng danh mục chi tiêu và bỏ chúng riêng vào từng phong bì. Bất cứ khi nào họ muốn mua một thứ gì đó thuộc một trong các hạng mục chi, họ chỉ cần lấy phong bì được chỉ định để không thể chi tiêu quá mức. Phương thức gửi tiết kiệm phụ: Phương pháp này là một biến tấu của ngân quỹ chi trả đầu tiên cho chính bạn, trong đó mọi người tạo nhiều tài khoản tiết kiệm, mỗi mục tiêu cho một mục tiêu cụ thể (chẳng hạn như một kỳ nghỉ hoặc một chiếc ô tô mới) và mỗi mục tiêu có một số tiền cần đạt được mục tiêu đó vào một ngày cụ thể. Sau đó, họ chia số tiền cần thiết theo dòng thời gian để tính toán số tiền họ nên tiết kiệm mỗi tháng.
Với cách thức "Quy tắc chi tiêu: 50/30/20" là một kế hoạch đơn giản giúp sắp xếp các chi phí cá nhân thành ba loại: "nhu cầu" (những nhu cầu cơ bản), "mong muốn" và tiết kiệm. Sau đó, 50% thu nhập ròng của một người sẽ dành cho việc đáp ứng nhu cầu, 30% dành cho việc thõa mãn mong muốn và 20% dành cho dành dụm tiết kiệm. Thanh toán cho mình theo phương pháp đầu tiên (Quy tắc 80/20): Trong việc chi trả cho bản thân ngân sách đầu tiên, trước tiên mọi người phải tiết kiệm ít nhất 20% thu nhập ròng của mình và sau đó thoải mái chi tiêu 80% còn lại. Họ cũng có thể chọn ngân sách 70/30, 60/40 hoặc 50/50 để tiết kiệm nhiều hơn. Phần quan trọng nhất của phương pháp này là tách tiền tiết kiệm của bạn ra trước khi chi tiêu vào bất cứ thứ gì khác. Trong phương pháp lập ngân sách dựa trên số 0, tất cả thu nhập ròng của một người phải được phân bổ trước khi chi tiêu. Lập ngân sách dựa trên số 0 không bao gồm việc chia thu nhập thành các loại chi phí khác nhau, đảm bảo rằng tất cả các khoản tiền đều được giao cho một mục đích và vào cuối tháng sẽ có số dư bằng không trong ngân quỹ.
Chú thích
Tài chính
Tài chính cá nhân
|
19849841
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%91c%20xo%C3%A1y%20t%E1%BB%AD%20th%E1%BA%A7n
|
Lốc xoáy tử thần
|
Lốc xoáy tử thần (tên tiếng Anh: Twisters) là bộ phim thảm họa của Hoa Kỳ được đạo diễn bởi Lee Isaac Chung từ kịch bản do Mark L. Smith chấp bút. Phim được sản xuất bởi Frank Marshall và Patrick Crowley, đây sẽ là phần hậu truyện độc lập của bộ phim Twister. Phim sẽ có sự tham gia của Daisy Edgar-Jones, Glen Powell và Anthony Ramos. Bộ phim được dự kiến sẽ phát hành tại Hoa Kỳ bởi Universal Pictures và do Warner Bros. Pictures ở thị trường quốc tế vào ngày 19 tháng 7, 2024.
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim thập niên 2020
Phim tiếng Anh
Phim thảm họa
|
19849859
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alienoid%202
|
Alienoid 2
|
Alienoid 2: Đa chiều hỗn chiến () là một bộ phim hành động khoa học kỳ ảo của Hàn Quốc năm 2024 do Choi Dong-hoon đạo diễn với sự tham gia của Ryu Jun-yeol, Kim Tae-ri và Kim Woo-bin. Đây là phần thứ hai của bộ phim Alienoid năm 2022, kể câu chuyện các nhân vật cố gắng cứu mọi người bằng cách trở về hiện tại cùng những bí mật ẩn giấu được tiết lộ trong cuộc chiến khốc liệt giành thanh Gươm Thần. Phim được phát hành vào ngày 10 tháng 1 năm 2024, ở định dạng IMAX, 4DX và ScreenX.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim IMAX
Phim của CJ Entertainment
Phim về đời sống ngoài Trái Đất
Phim đề tài du hành thời gian
Phim năm 2024
|
19849869
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Masaki%20K%C5%8D
|
Masaki Kō
|
là một diễn viên phim khiêu dâm đồng tính người Nhật Bản. Trong số những diễn viên nổi tiếng trong ngành phim khiêu dâm đồng tính Nhật Bản, Masaki là diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản đầu tiên công khai mình là người đồng tính cả trong phim lẫn đời thực. Với sự nghiệp bắt đầu từ năm 2009 đến năm 2013, anh tham gia khoảng 200 bộ phim.
Tiểu sử
Masaki sinh ngày 20 tháng 7 năm 1983 tại Morioka, tỉnh Iwate. Khi học cấp hai, anh thường đến Shinjuku Ni-chōme, khu đồng tính ở Tokyo, sau khi tìm hiểu về nơi này qua tạp chí dành cho người đồng tính nam Peanuts. Anh sau đó học đại học ở Sapporo, đồng thời làm tiếp viên hàng không và lao động tình dục. Sau khi tốt nghiệp, anh làm urisen (mại dâm nam) tại một quán bar đồng tính nam ở Nakano, Tokyo.
Năm 2009, anh được công ty sản xuất Japan Pictures tìm kiếm và tuyển vào làm diễn viên phim người lớn đồng tính. Trong khi Masaki lúc đầu xuất hiện trong các bộ phim với vai trò là một ("người đàn ông đeo kính", thuật ngữ chỉ một nam diễn viên khiêu dâm muốn che giấu danh tính bằng cách đeo kính bơi hoặc kính râm màu), anh từ bỏ quy tắc này để trở thành một trong những diễn viên phim khiêu dâm đồng tính nam đầu tiên ở Nhật Bản công khai xuất hiện trong các bộ phim người lớn mà không che giấu danh tính của mình. Masaki lấy cảm hứng từ nội dung khiêu dâm châu Âu và dùng những gì anh cho là có nét trình diễn "phương Tây" trong các bộ phim của mình; điều này chủ yếu gồm đến việc diễn xuất với vai trò là một người đồng tính nam, trái ngược với các kịch bản khiêu dâm đồng tính nam đặc trưng của Nhật Bản tập trung vào các kịch bản lỗi thời hoặc bạo dâm liên quan đến các diễn viên dị tính. Masaki đã tham gia khoảng 200 bộ phim trong sự nghiệp kể từ năm 2009 đến năm 2013.
Bên cạnh việc đóng phim khiêu dâm, Masaki còn làm người mẫu đồ lót và một go-go boy. Anh là người ủng hộ việc xét nghiệm HIV và sử dụng bao cao su, và đẩy mạnh các sáng kiến tình dục an toàn ở Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan. Năm 2012, anh xuất hiện trong video âm nhạc cho đĩa đơn "How Beautiful You Are" của nghệ sĩ Hamasaki Ayumi, miêu tả anh hôn người bạn đời lúc đó là Tien Tien.
Masaki bị viêm phúc mạc và trải qua nhiều cuộc phẫu thuật để điều trị căn bệnh này. Vào ngày 18 tháng 5 năm 2013, anh qua đời ở tuổi 29 do viêm ruột thừa và nhiễm trùng huyết do vỡ manh tràng.
Tác động
Masaki được coi là một trong những diễn viên phim khiêu dâm đồng tính nam nổi tiếng và thành danh nhất ở Nhật Bản, Rich Bellis của The Awl viết rằng Masaki "đã tạo nên sự nổi tiếng trong một công việc nơi mà chưa từng tồn tại trước đây". Masaki là diễn viên phim khiêu dâm đồng tính Nhật Bản đầu tiên công khai mình là người đồng tính cả trong phim lẫn đời thực, và là một trong những ví dụ điển hình nhất về một diễn viên phim khiêu dâm đồng tính Nhật Bản trở nên chuyên nghiệp sau khi vào ngành công nghiệp nanpa (săn tìm nghiệp dư).
Học giả Thomas Baudinette coi Masaki là "định nghĩa của ikanimo-kei" (nghĩa là "kiểu đồng tính nam lộ"), một thuật ngữ trong văn hóa đồng tính Nhật Bản chỉ những người đồng tính nam có thể chất khỏe mạnh, điển trai, tham gia vào cuộc sống về đêm và theo xu hướng thời trang. Baudinette cho rằng sự nổi tiếng của Masaki một phần có thể là do hình thể đầy nam tính của mình kết hợp với việc anh công khai là một người đồng tính nam, điều này cho phép anh "đại diện cho một hình mẫu về quan điểm đồng tính 'nam tính' một cách rõ ràng nhằm thu hút những người đàn ông đồng giới Nhật Bản", trái ngược với bối cảnh truyền thông Nhật Bản vào thời điểm đó có đầy rẫy những "diễn viên hài đảo trang [...] được hiểu là người đồng tính thường xuyên xuất hiện như đối tượng hài hước trên các chương trình truyền hình tạp kỹ Nhật Bản."
Ghi chú
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
"We Are Out! Kou & Tenten", serialized documentary featuring Masaki and his partner by Vice Japan (Japanese with English subtitles)
Koh Masaki on Twitter
Nam diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
Diễn viên phim khiêu dâm đồng tính nam
|
19849872
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fusigobius%20duospilus
|
Fusigobius duospilus
|
Fusigobius duospilus là một loài cá biển thuộc chi Fusigobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1985.
Từ nguyên
Từ định danh duospilus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: dúo (δύο; “hai”) và spílos (σπίλος; “chấm, đốm”), hàm ý đề cập đến hai đốm đen trên vây lưng của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
Từ Đông Phi, F. duospilus có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii và quần đảo Marquises, ngược lên phía bắc tới phía nam Nhật Bản (gồm cả quần đảo Ogasawara), xa về phía nam đến Úc (gồm cả đảo Lord Howe). Ở Việt Nam, F. duospilus được ghi nhận tại vịnh Nha Trang, cũng như tại quần đảo Trường Sa.
F. duospilus sống trên nền cát trong các hốc, lõm trên rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 46 m.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở F. duospilus là 6 cm. Cá có màu xám trong mờ với các vệt đốm màu nâu cam. Vây lưng trước có hai đốm đen. Có đốm đen trên cuống đuôi.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 8.
Sinh thái
F. duospilus có thể sống đơn độc hoặc theo nhóm. Loài này có thể phát huỳnh quang đỏ ở độ sâu mà ban ngày hầu như ánh sáng đỏ từ Mặt Trời không rọi xuống được.
Tham khảo
D
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Mozambique
Cá Nam Phi
Cá Madagascar
Cá Mauritius
Cá Maldives
Cá Nhật Bản
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Hawaii
Động vật được mô tả năm 1985
|
19849874
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%81n%20t%E1%BA%A3ng%20m%E1%BA%A1ng
|
Nền tảng mạng
|
Nền tảng mạng (Web platform) là một tập hợp các công nghệ được phát triển dưới dạng tiêu chuẩn mở do World Wide Web Consortium (Hiệp hội WWW) và các cơ quan tiêu chuẩn hóa khác như Nhóm làm việc về công nghệ ứng dụng siêu văn bản mạng (WHATWG), Unicode Consortium (Hiệp hội Unicode), Internet Engineering Task Force (Lực lượng Chuyên trách về Kỹ thuật Liên mạng-IETF) và Ecma International (Hiệp hội các nhà sản xuất máy tính châu Âu) thực hiện. Đây là một thuật ngữ hạ vị được World Wide Web Consortium giới thiệu bởi vào năm 2011 và sau đó được Giám đốc điều hành W3C là ông Jeff Jaffe định nghĩa là "một nền tảng cho sự đổi mới, hợp nhất và hiệu quả chi phí".
Việc xác lập Web platform được xây dựng trên nền Evergreen-web (nơi diễn ra các bản cập nhật phần mềm tự động, nhanh chóng, hợp tác với nhà cung cấp, tiêu chuẩn hóa và cạnh tranh) đã cho phép để bổ sung các khả năng mới đồng thời giải quyết các rủi ro về bảo mật thông tin và quyền riêng tư. Ngoài ra, các nhà phát triển được phép xây dựng nội dung có thể tương tác trên nền tảng gắn kết. Nền tảng Web bao gồm các công nghệ—ngôn ngữ máy tính và API—ban đầu được tạo ra liên quan đến việc xuất bản Trang Webs. Điều này bao gồm HTML, CSS, SVG, MathML, WAI-ARIA, ECMAScript, WebGL, Web Storage, Indexed Database API, Web Components, WebAssembly, WebGPU, Web Workers, WebSocket, Geolocation API, Server-Sent Events, DOM Events, Media Fragments, XMLHttpRequest, Cross-Origin Resource Sharing, File API, RDFa, WOFF, HTTP, TLS 1.2, and IRI.
Chú thích
Internet
|
19849878
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20t%C3%A2m%20%C4%91i%E1%BB%81u%20h%C3%A0nh%20m%E1%BA%A1ng
|
Trung tâm điều hành mạng
|
Trung tâm điều hành mạng (Network operations center - NOC) còn được gọi là Trung tâm quản lý mạng (Network management center) là một hoặc nhiều địa điểm mà từ đó diễn ra các hoạt động giám sát mạng và kiểm soát mạng hoặc quản lý mạng được thực hiện qua mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc mạng vệ tinh liên lạc. Một trung tâm hoạt động mạng là một vị trí trung tâm mà từ đó nhà quản trị mạng quản lý, kiểm soát và giám sát một hoặc nhiều trang mạng. Chức năng tổng thể của Trung tâm (nhà mạng) là duy trì hoạt động mạng tối ưu trên một loạt các nền tảng mạng, phương tiện và các kênh truyền thông. Những Trung tâm điều hành mạng sớm nhất bắt đầu vào những năm 1960. Trung tâm Điều khiển Mạng được tập đoàn AT&T khánh thành tại New York vào năm 1962, sử dụng bảng trạng thái để hiển thị thông tin chuyển mạch và định tuyến, trong thời gian thực, từ các thiết bị chuyển mạch thu phí quan trọng nhất của AT&T. Tập đoàn AT&T sau đó đã thay thế Trung tâm Điều khiển Mạng này bằng một Trung tâm điều hành mạng được hiện đại hóa vào năm 1977 và đặt tại Bedminster, New Jersey.
Trung tâm điều hành mạng được triển khai bởi các tổ chức kinh doanh, tiện ích công cộng, các trường đại học và Cơ quan chính phủ giám sát tổ hợp môi trường mạng yêu cầu tính khả dụng cao. Trung tâm mạng lưới hoạt động đóng vai trò là đầu mối chính để xử lý sự cố phần mềm, phân phối phần mềm và cập nhật định tuyến và quản lý tên miền phối hợp với mạng lưới chi nhánh và giám sát hoạt động. Kỹ thuật viên có nhiều màn hình trên bàn làm việc với màn hình phụ sử dụng các hệ thống giám sát bảo hiểm từ bàn làm việc. Mạng trung tâm hoạt động xử lý các vấn đề một cách thứ bậc để nếu một vấn đề không được giải quyết trong một khung thời gian cụ thể, mức độ tiếp theo được thông báo để tăng tốc độ giải quyết vấn đề. Nhân viên Trung tâm điều hành mạng chịu trách nhiệm giám sát một hoặc nhiều mạng về các điều kiện nhất định có thể cần sự chú ý đặc biệt để tránh dịch vụ xuống cấp. Các tổ chức có thể vận hành nhiều Trung tâm vận hành mạng để quản lý các mạng khác nhau hoặc để cung cấp dự phòng về mặt địa lý trong trường hợp một địa điểm không hoạt động. Ngoài việc giám sát mạng lưới cơ sở hạ tầng liên quan và bên trong và bên ngoài, Trung tâm điều hành mạng có thể giám sát mạng xã hội để bắt đầu xử lý các sự kiện gây rối.
Chú thích
Internet
Phòng
|
19849879
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B2ng%20%C4%91i%E1%BB%81u%20khi%E1%BB%83n
|
Phòng điều khiển
|
Phòng điều khiển (Control room) hay Phòng điều hành (Operations room) là một không gian trung tâm nơi có thể giám sát và kiểm soát một cơ sở vật chất lớn hoặc dịch vụ phân tán về mặt vật lý. Phòng điều khiển thường là một phần của trung tâm chỉ huy lớn hơn. Mục đích của phòng điều khiển là kiểm soát sản xuất và đóng vai trò là không gian trung tâm nơi có thể giám sát và kiểm soát một cơ sở vật chất lớn hoặc dịch vụ phân tán về mặt vật lý. Phòng điều khiển trung tâm được sử dụng phổ biến trong các nhà máy vào những năm 1920. Phòng điều khiển của các cơ sở quan trọng thường được bảo mật chặt chẽ và công chúng không thể tiếp cận được. Nhiều màn hình điện tử và bảng điều khiển thường xuất hiện và cũng có thể có khu vực tường hiển thị (Display wall) lớn hiển thị từ tất cả các vị trí bên trong không gian làm việc. Bản thân một số phòng điều khiển được giám sát video và ghi âm liên tục vì mục đích đảm bảo an ninh và trách nhiệm nhân sự.
Đại cương
Nhiều phòng điều khiển được sử dụng, vận hành trên cơ sở làm việc liên tục thông tầm "24/7/365" và có thể có nhiều người trực mọi lúc (chẳng hạn như thực hiện "quy tắc hai người"), để đảm bảo cảnh giới liên tục. Các không gian phòng điều khiển có mục đích đặc biệt khác có thể được thiết lập tạm thời cho các dự án đặc biệt (chẳng hạn như sứ mệnh oceanographicexplorer) và đóng cửa hoặc tháo dỡ sau khi dự án kết thúc. Thiết kế của phòng điều khiển kết hợp các tính năng công thái học và thẩm mỹ bao gồm luồng giao thông tối ưu, âm thanh, ánh sáng cũng như đảm bảo điều kiện sức khỏe và sự an toàn của người lao động, nhân viên kỹ thuật cao. Những cân nhắc về mặt công thái học xác định vị trí của con người và thiết bị để đảm bảo rằng người vận hành có thể dễ dàng di chuyển vào, ra và xung quanh phòng điều khiển, đồng thời có thể tương tác với nhau mà không gặp bất kỳ trở ngại nào trong các tình huống khẩn cấp và hạn chế tiếng ồn và những phiền nhiễu khác ở mức tối thiểu.
Phòng điều khiển thường được tìm thấy trong các khu vực như:
Nhà máy điện hạt nhân và trạm phát điện khác
Nhà máy lọc dầu và nhà máy hóa chất
Các hãng hàng không, nơi họ thường được gọi là trung tâm kiểm soát không lưu hoạt động và chịu trách nhiệm điều phối, giám sát và hỗ trợ hoạt động chuyến bay
Các cơ sở giao thông chính như hệ thống cầu, đường hầm, kênh và việc vận chuyển nhanh, nơi thường có nhân viên túc trực 24 giờ một ngày để giám sát và báo cáo về tắc nghẽn giao thông và ứng phó với các trường hợp khẩn cấp xảy ra
Các căn cứ quân sự (có quy mô từ silo tên lửa đến NORAD), còn được gọi là phòng hoạt động)
Trung tâm NASA (Bộ điều khiển chuyến bay làm việc ở một số "phòng điều khiển chuyến bay" trong trung tâm điều khiển chuyến bays; các cơ sở liên kết, chẳng hạn như Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực có phòng điều khiển riêng)
Trung tâm dữ liệu được vi tính hóa, thường phục vụ người dùng từ xa ở nhiều múi giờ
Trung tâm điều hành mạng
Các tổ chức lớn như trường đại học, bệnh viện, cơ sở nghiên cứu lớn (như phòng thí nghiệm máy gia tốc hạt), nhà tù an ninh nghiêm ngặt/biệt giam và công viên giải trí
Dịch vụ khẩn cấp bao gồm cảnh sát, dịch vụ cứu hỏa và dịch vụ y tế khẩn cấp
Trung tâm cuộc gọi/Trung tâm tổng đài có thể sử dụng chúng để giám sát thông tin liên lạc đến và đi của đại diện dịch vụ khách hàng và để cung cấp giám sát chung
Các trung tâm điều hành đường sắt, chẳng hạn như Trung tâm điều phối Harriman của Liên minh Thái Bình Dương, kiểm soát các hoạt động đường sắt trên hàng ngàn dặm đường sắt. Nhân viên của bộ phận Điều phối viên tàu tại các cơ sở này suốt ngày đêm để quản lý hoạt động đường sắt hiệu quả. Ở Anh, chúng thường được điều hành riêng biệt bởi từng công ty điều hành tàu hoặc bởi Network Rail, và bao gồm cả đội tàu và nguồn cung cấp đầu máy toa xe.
Chú thích
Điều khiển học
Phòng
Chỉ huy và kiểm soát
|
19849881
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fusigobius%20humeralis
|
Fusigobius humeralis
|
Fusigobius humeralis là một loài cá biển thuộc chi Fusigobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2001.
Từ nguyên
Tính từ định danh humeralis trong tiếng Latinh có nghĩa là “ở cánh tay”), hàm ý đề cập đến đốm đen ở vùng vây ngực của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
Từ Comoros và Maldives, F. humeralis có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Société, ngược lên phía bắc tới quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), xa về phía nam đến Úc (gồm cả đảo Giáng Sinh và rạn san hô Ashmore) và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, F. humeralis được ghi nhận tại vịnh Nha Trang. Quần thể được cho là F. humeralis ở Biển Đỏ thực ra là Fusigobius humerosus, một loài mới được mô tả gần đây.
F. humeralis sống trên nền cát và đá vụn, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 30 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở F. humeralis là 4,4 cm. Cá trong mờ với các đốm nhỏ màu vàng cam sẫm trên đầu và thân (các đốm trên đầu xếp thành hàng xiên). Một đốm đen tròn có kích thước bằng hoặc lớn hơn đồng tử ở ngay phía trên gốc vây ngực, đốm đen thứ hai có cùng kích thước ở giữa gốc vây đuôi.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 8; Số tia ở vây ngực: 17–19.
Tham khảo
H
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Comoros
Cá Maldives
Cá Nhật Bản
Cá Đài Loan
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Nouvelle-Calédonie
Động vật được mô tả năm 2001
|
19849884
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%A5m%20m%C3%A1y%20ch%E1%BB%A7
|
Cụm máy chủ
|
Cụm máy chủ (Server farm/Server cluster) là một tập hợp máy chủ (Server), thường được duy trì bởi một tổ chức để cung cấp chức năng máy chủ liên hoàn vượt ra khả năng tự cung cấp và công suất đáp ứng của một máy chủ đơn lẻ. Cụm máy chủ thường bao gồm hàng ngàn máy tính cần một lượng điện năng lớn để chạy vận hành và làm mát. Ở mức hiệu suất tối ưu, một cụm máy chủ có chi phí tài chính và môi trường rất lớn. Cụm máy chủ thường bao gồm các máy chủ dự phòng có thể đảm nhận chức năng của các máy chủ chính có thể bị lỗi hoặc bị tấn công mạng. Nhóm máy chủ thường được sắp xếp với Bộ chuyển mạch (Network switch) và/hoặc Bộ định tuyến (Router) cho phép liên lạc giữa các phần khác nhau của cụm và người dùng của cụm máy chủ. Cụm máy chủ thường gắn máy tính, bộ định tuyến, bộ nguồn và thiết bị điện tử liên quan trên giá 19 inch trong phòng máy chủ hoặc trung tâm dữ liệu. Cụm máy chủ thường được sử dụng cho điện toán cụm.
Đại cương
Nhiều siêu máy tính hiện đại bao gồm các trang trại máy chủ khổng lồ gồm bộ xử lý tốc độ cao được kết nối bằng Ethernet hoặc các kết nối tùy chỉnh như Infiniband hoặc Myrinet. Web hosting là cách sử dụng phổ biến của cụm máy chủ, một hệ thống như vậy đôi khi được gọi chung là "trang trại web". Các mục đích sử dụng khác của cụm máy chủ bao gồm mô phỏng khoa học (chẳng hạn như động lực học chất lỏng tính toán) và kết xuất hình ảnh do máy tính 3D tạo. Các cụm máy chủ đang ngày càng được sử dụng thay thế hoặc bổ sung cho máy tính lớn bởi các doanh nghiệp lớn. Trong các nhóm máy chủ lớn, lỗi của một máy tính riêng lẻ là một sự kiện phổ biến: các nhóm máy chủ lớn cung cấp dự phòng kỹ thuật, chuyển đổi dự phòng tự động và cấu hình lại cụm máy chủ một cách nhanh chóng.
Hiệu suất của các trang trại máy chủ lớn nhất (hàng nghìn bộ xử lý trở lên) thường bị giới hạn bởi hiệu suất của các hệ thống làm mát của trung tâm dữ liệu và tổng chi phí điện thay vì bởi hiệu suất của bộ xử lý. Máy tính trong trang trại máy chủ hoạt động với tần suất 24/7 và tiêu thụ một lượng điện năng rất lớn. Vì lý do này, tham số thiết kế quan trọng cho cả hệ thống lớn và hệ thống liên tục có xu hướng là hiệu suất trên mỗi watt thay vì chi phí cho hiệu suất cao nhất hoặc (hiệu suất cao nhất/(đơn vị * chi phí ban đầu)). Ngoài ra, đối với các hệ thống tính khả dụng cao phải chạy liên tục 24/7 (không giống như các siêu máy tính có thể cung cấp năng lượng theo nhu cầu và cũng có xu hướng chạy ở mức sử dụng cao hơn nhiều), cần chú ý nhiều hơn đến các tính năng tiết kiệm năng lượng như biến tốc độ xung nhịp và khả năng tắt cả bộ phận máy tính, bộ phận xử lý và toàn bộ máy tính (WoL và ảo hóa) theo để yêu cầu mà không hạ thấp dịch vụ.
Mạng kết nối các máy chủ trong cụm máy chủ cũng là một yếu tố thiết yếu trong hiệu suất tổng thể, đặc biệt khi chạy các ứng dụng xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ. EEMBC EnergyBench, SPECpower và Hội đồng hiệu suất xử lý giao dịch TPC-Energy là các điểm chuẩn được thiết kế để dự đoán hiệu suất trên mỗi watt trong cụm máy chủ. Công suất sử dụng của mỗi giá thiết bị có thể được đo tại bộ phân phối điện. Một số máy chủ có phần cứng theo dõi nguồn điện để những người điều hành nhóm máy chủ có thể đo lượng điện năng mà mỗi máy chủ sử dụng.
Năng lượng được toàn bộ cụm máy chủ sử dụng có thể được báo cáo dưới dạng hiệu quả sử dụng năng lượng hoặc hiệu quả cơ sở hạ tầng trung tâm dữ liệu. Theo một số ước tính, cứ 100 watt tiêu tốn để chạy máy chủ thì cần thêm khoảng 50 watt nữa để làm mát chúng. Vì lý do này, việc xác định vị trí đặt của cụm máy chủ có thể quan trọng như việc lựa chọn bộ xử lý để đạt được hiệu quả sử dụng điện năng. Iceland là nơi có khí hậu lạnh quanh năm cũng như nguồn cung cấp carbon trung tính điện địa nhiệt giá rẻ, đang xây dựng hệ mạng lưu trữ cụm máy chủ lớn đầu tiên. Cáp quang đang được lắp đặt từ Iceland đến Bắc Mỹ và Châu Âu để cho phép các công ty ở đó đặt máy chủ của họ ở Iceland. Các nước khác có điều kiện thuận lợi như Canada, Phần Lan Thụy Điển và Thụy Sĩ đang cố gắng thu hút các trung tâm dữ liệu điện toán đám mây. Ở những quốc gia này, nhiệt từ máy chủ có thể được đặt ngoài với giá rẻ hoặc được sử dụng để sưởi ấm các tòa nhà, do đó làm giảm mức tiêu thụ năng lượng của các máy sưởi thông thường.
Chú thích
Internet
Phòng
|
19849886
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fusigobius%20humerosus
|
Fusigobius humerosus
|
Fusigobius humerosus là một loài cá biển thuộc chi Fusigobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2023.
Từ nguyên
Tính từ định danh humerosus trong tiếng Latinh có nghĩa là “ở cánh tay”), hàm ý rằng loài cá này giống với loài chị em của chúng, Fusigobius humeralis (hậu tố osus dùng để chuyển danh từ thành tính từ).
Phân bố và môi trường sống
F. humerosus mới chỉ được biết đến ở khu vực Biển Đỏ (gồm cả vịnh Aqaba), kéo dài về phía nam đến vịnh Aden. Chúng sống trên nền cát và đá vụn của rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 15 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở F. humerosus là gần 4 cm. Cá trong mờ với các đốm nhỏ màu vàng cam sẫm trên đầu và thân, bên trong mỗi đốm và xung quanh có các tế bào sắc tố. Một đốm đen tròn có kích thước bằng hoặc lớn hơn đồng tử ở ngay phía trên gốc vây ngực, đốm đen thứ hai có cùng kích thước ở giữa gốc vây đuôi.
Mống mắt của F. humerosus chỉ có một màu (hiếm khi vàng), so với mống mắt có các vệt đỏ cam ở phía trước và trên đối với F. humeralis. Ngoài ra, hai loài cũng có sự khác biệt về các đặc điểm hình thái khác.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 8–9; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 8; Số tia ở vây ngực: 17–18.
Tham khảo
H
Cá Ấn Độ Dương
Cá biển Đỏ
Cá Israel
Cá Ai Cập
Cá Ả Rập
Cá Yemen
Động vật được mô tả năm 2023
|
19849887
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B2ng%20m%C3%A1y%20ch%E1%BB%A7
|
Phòng máy chủ
|
Phòng máy chủ (Server room) là một căn phòng thường là được lắp điều hòa dành cho máy chủ hoạt động liên tục của hệ thống máy tính. Toàn bộ tòa nhà hoặc trạm dành cho mục đích này được gọi là trung tâm dữ liệu (Data center), các phòng máy chủ được liên kết với nhau trong một cụm địa điểm gọi là cụm máy chủ (Server farm). Các máy tính trong phòng máy chủ thường là hệ thống không đầu có thể được vận hành từ xa thông qua phần mềm KVM switch hoặc quản trị từ xa, chẳng hạn như Secure Shell, VNC, và phần mềm máy tính từ xa. Khí hậu, môi trường nhiệt độ, độ ẩm là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến mức tiêu thụ năng lượng và tác động đến môi trường làm việc của phòng máy chủ. Ở những khu vực có khí hậu thuận lợi cho việc làm mát và nguồn điện tái tạo dồi dào, tác động môi trường sẽ ở mức vừa phải hơn. Vì vậy, những nước có điều kiện thuận lợi như Canada, Phần Lan,, Thụy Điển, và Thụy Sĩ đang cố gắng thu hút các công ty kinh doanh mạng tới đặt phòng máy chủ ở đó.
Cấu tạo
Việc xây dựng một máy chủ hoặc phòng máy tính đòi hỏi sự chú ý chi tiết đến năm cân nhắc thiết kế chính: Đầu tiên là địa điểm đặt phòng máy chủ. Vị trí phòng máy tính hoặc máy chủ là điều cần cân nhắc đầu tiên, ngay cả trước khi xem xét cách bố trí nội dung của phòng. Hầu hết các nhà thiết kế đều đồng ý rằng, nếu có thể, phòng máy tính không nên được xây dựng ở nơi một trong các bức tường của nó là bức tường bên ngoài của tòa nhà. Các bức tường bên ngoài thường khá ẩm ướt và có thể chứa các ống nước có thể vỡ, bị rò rĩ và làm ướt thiết bị bên trong. Tránh cửa sổ bên ngoài có nghĩa là tránh rủi ro về an ninh và đỗ vỡ. Tránh cả tầng trên cùng (tầng thượng) và tầng hầm đồng nghĩa với việc tránh ngập úng, dột trong trường hợp nước mưa ngấm từ mái nhà, sân thượng.
Cuối cùng, các phòng máy chủ phải được đặt ở vị trí trung tâm vì có hệ thống cáp ngang kéo dài từ phòng này đến các thiết bị trong các phòng khác. Nếu phòng máy tính tập trung không khả thi thì tủ máy chủ ở mỗi tầng có thể là một lựa chọn. Đây là nơi đặt máy tính, thiết bị mạng và điện thoại trong tủ và mỗi tủ được xếp chồng lên nhau trên sàn mà chúng được sử dụng. Ngoài mối nguy hiểm của các bức tường bên ngoài, các nhà thiết kế cần đánh giá mọi nguồn nhiễu điện từ tiềm ẩn ở gần phòng máy tính. Thiết kế một căn phòng như vậy có nghĩa là tránh xa các máy phát vô tuyến và nhiễu điện từ các nhà máy điện hoặc phòng thang máy. Các cân nhắc thiết kế vật lý khác bao gồm từ kích thước phòng, kích thước cửa và lối vào (để đưa thiết bị vào và ra) cho đến tổ chức cáp, an ninh vật lý và lối vào bảo trì.
Thứ hai là điều hòa không khí. Thiết bị máy tính tạo ra nhiệt và nhạy cảm với nhiệt độ, độ ẩm và bụi, nhưng cũng cần các yêu cầu về khả năng phục hồi và chuyển đổi dự phòng rất cao. Duy trì nhiệt độ và độ ẩm ổn định trong phạm vi dung sai chặt chẽ là rất quan trọng đối với độ tin cậy của hệ thống công nghệ thông tin. Trong hầu hết các phòng máy chủ, hệ thống "điều khiển chặt chẽ điều hòa không khí", còn được gọi là hệ thống PAC (điều hòa không khí chính xác), đều được lắp đặt. Các hệ thống này kiểm soát nhiệt độ, độ ẩm và lọc bụi hạt trong phạm vi dung sai chặt chẽ 24 giờ một ngày và có thể được giám sát từ xa. Chúng có thể có cảnh báo tự động tích hợp khi các điều kiện trong phòng máy chủ vượt quá dung sai xác định. Thiết kế điều hòa không khí cho hầu hết các phòng máy tính hoặc máy chủ sẽ khác nhau tùy thuộc vào các cân nhắc thiết kế khác nhau, nhưng nhìn chung chúng thuộc một trong hai loại: cấu hình "dòng lên" (up-flow) và "dòng xuống" (down-flow).
Cấu hình đường đi nóng/đường đi lạnh chuyển hướng về phía trước của mỗi hàng khác để hai hàng quay mặt vào nhau và quay lưng về hàng tiếp theo. Điều này tránh việc khí nóng của một dãy kệ bị hút vào cửa hút làm mát của dãy liền kề. Các ống dẫn hoặc lỗ thông hơi của điều hòa không khí được đặt giữa hai mặt trước vì hầu hết các lỗ thông hơi của thiết bị đều có lỗ thông hơi từ trước ra sau. Một nhược điểm của cấu hình lối đi nóng/lối đi không khép kín là có một lượng đáng kể sự hòa trộn không kiểm soát hoặc bỏ qua của không khí nóng và lạnh bên ngoài thiết bị. Trong cấu hình ngăn chặn lối đi, một trong các lối đi được tường bao bọc cũng như trần nhà và cửa ra vào để tạo ra một không gian khép kín. Ngăn chặn lối đi không cho phép trộn lẫn không khí nóng và không khí lạnh. Điều này buộc tất cả sự chuyển đổi không khí lạnh sang nóng xảy ra bên trong thiết bị. Cần chú ý cẩn thận để tránh các khe hở của giá đỡ hoặc rò rỉ luồng không khí khác khiến mặt trước của giá đỡ trở thành một bức tường liên tục của lối đi chứa hàng.
Mục tiêu chính của hệ thống phòng cháy là phát hiện và cảnh báo cháy ở giai đoạn đầu, sau đó kiểm soát đám cháy mà không làm gián đoạn hoạt động kinh doanh và không đe dọa nhân viên trong cơ sở. Công nghệ chữa cháy phòng máy chủ đã có từ lâu kể từ khi có phòng máy chủ. Theo truyền thống, hầu hết các phòng máy tính đều sử dụng khí Halomethane, nhưng chất này đã được chứng minh là không thân thiện với môi trường (làm suy giảm tầng ozone) và không an toàn cho con người. Các phòng máy tính hiện đại sử dụng kết hợp các loại khí trơ như nitrogen, argon và carbon dioxide. Các giải pháp khác bao gồm các tác nhân hóa học sạch như FM200 và cả các giải pháp không khí thiếu oxy để giữ mức dưỡng khí ở mức thấp. Để ngăn chặn hỏa hoạn lan rộng do cáp dữ liệu và dây sinh nhiệt, các tổ chức cũng đã sử dụng ống plenum cable được bọc bằng ống FEP. Loại nhựa này làm giảm sự sinh nhiệt và bảo vệ vật liệu kim loại một cách hiệu quả. Nếu hệ thống máy tính trong phòng máy chủ làm nhiệm vụ quan trọng thì việc loại bỏ điểm lỗi duy nhất và lỗi ở chế độ chung có thể có tầm quan trọng. Mức độ dự phòng mong muốn được xác định từ các yếu tố như liệu tổ chức có thể chịu đựng được sự gián đoạn trong khi hệ thống chuyển đổi dự phòng được kích hoạt hay chúng phải liền mạch mà không có bất kỳ tác động kinh doanh nào. Ngoài vấn đề dự phòng phần cứng máy tính, vấn đề chính cần cân nhắc ở đây là cung cấp nguồn điện chuyển đổi dự phòng và làm mát.
Chú thích
Internet
Phòng
Máy chủ
|
19849890
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%D0%A4
|
Ф
|
Ef hay Fe (Ф ф; dạng in nghiêng: Ф ф) là một chữ cái Kirin, Ф thường đại diện âm xát môi răng vô thanh , giống như cách phát âm của trong "fill, f lee, hay f all". Ф được La Mã hóa là .
Lịch sử
Ф có nguồn gốc từ chữ Phi (Φ φ) trong bảng chữ cái Hy Lạp. Hợp nhất và loại bỏ chữ Fita (Ѳ) trong bảng chữ cái tiếng Nga vào năm 1918.
Tên của Ф trong bảng chữ cái Kirin cổ là фрьтъ (fr̥tŭ hay frĭtŭ).
Trong hệ thống chữ số Kirin, Ф có giá trị 500.
Các chữ cái liên quan và các ký tự tương tự khác
Φ φ/ϕ : chữ cái Hy Lạp Phi
Ѳ ѳ : chữ cái Kirin Fita
F f : chữ cái Latinh F
Ờ : chữ cái Armenia Piwr
Q q: chữ cái Latinh Q
Ჶ ჶ: Fi (chữ cái)
Mã máy tính
Liên kết ngoài
Tham khảo
Chữ cái Kirin
|
19849895
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Harta%2C%20Ba%20Lan
|
Harta, Ba Lan
|
Harta là một ngôi làng nằm ở xã Dynów, huyện Rzeszowski, tỉnh Podkarpackie, Ba Lan. Làng có kiểu một đường trục xuyên suốt tọa lạc tại chân đồi Dynowskie, trong trũng suối cùng tên trải ra các quả đồi chung quanh.
Harta là làng quý tộc được thành lập theo luật German cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15. Văn bản đề cập đầu tiên là vào năm 1429. Làng từng thuộc quyền sở hữu các gia tộc Kmita, Denowski, Tarnowski, Wapowski, Ogiński và Skrzyński. Là một trong những tâm điểm lớn cho phong trào nông dân thế kỷ 20, Harta là nơi diễn ra khởi nghĩa nông dân năm 1937.
Về mặt lịch sử, làng từng thuộc xứ Sanok, huyện Brzozów, tỉnh Przemyśl. Giữa thế kỷ 20, làng trở thành gromada độc lập. Trong giai đoạn 1934–1954 và từ 1973 đến nay, làng trực thuộc xã Dynów.
Harta là một trong những làng lớn nhất vùng phụ cận và toàn tỉnh Podkarpackie. Dân số năm 2022 là 2.045 người. Làng mang nét nông nghiệp điển hình, nhà máy cuối cùng của làng thuộc hãng sữa địa phương đã phá sản vào thập niên 1990.
Harta có giáo xứ Công giáo thánh Nicôla, gồm hai nhà thờ là nhà thờ giáo xứ cùng tên và nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi. Làng có trường tiểu học được xây dựng theo chương trình thiên niên kỷ Ba Lan vào thập niên 1960.
Các hiệp hội văn hóa và xã hội hoạt động trong làng bao gồm: Trạm cứu hỏa tình nguyện, Ban nhạc kèn đồng, câu lạc bộ Hiến máu từ thiện, ban nhạc dân gian Młoda Harta, câu lạc bộ săn bắn Sarenka, câu lạc bộ bóng đá Orzeł Harta và Hiệp hội phát triển văn hóa và nông thôn Harta. Làng có nghề chưng cất rượu truyền thống được bảo tồn.
Vị trí
Về mặt địa lý, làng Harta nằm trên vùng Karpat lưu vực sông San, phía đông chân đồi Dynowskie, trải dài từ 49°50′ đến 49°53′ vĩ độ Bắc và 22°10′ đến 22°15′ kinh độ Đông.
Ranh giới địa chính Harta: phía bắc giáp làng Dylągówka và Szklary của xã Hyżne, phía tây giáp làng Piątkowa và Futoma của xã Błażowa, phía đông giáp làng Bachórz, phía nam giáp làng Ulanica và thị trấn Dynów.
Trong Hệ thống định danh và địa danh Ba Lan ( -SIMC), Harta có mã định danh 0601484.
Hợp phần
Harta gồm ba hợp phần chính: Harta Dolna (Hạ Harta) và Harta Górna (Thượng Harta) có từ làng gốc thời trung cổ và Lipnik vốn là thị trấn tách biệt riêng. Hệ thống phân khu lãnh thổ quốc gia chính thức TERYT phân biệt 18 vùng nông thôn Harta, được liệt kê trong bảng dưới đây. Ngoài ra, tên các ấp mang tính truyền thống lịch sử là: Bajorka, Boginki, Czerwonka, Czerwonki, Góry, Hałasówka, Jawornik, Księży Las, Leszczyna, Limarzyska, Niziny, Olszyny, Fern, Pieczarki, Piekło, Poręby, Przydatki, Szmuliska và Zalesie.
Điều kiện tự nhiên
Harta nằm trong thung lũng sông cùng tên là tả ngạn sông San dài 11,1 km. Hai bờ sông là những dãy núi phủ rừng trải dài từ tây bắc đến đông nam, ngăn cách làng với các thị trấn lân cận. Điểm thấp nhất của làng là 242 m so với mực nước biển, còn lại đa phần đều nằm ở độ cao 250–300 m, một số ngọn đồi phía nam thấp hơn 390 m (đỉnh Góra Wysoka 364 m) còn phía bắc là khoảng 410 m. Đỉnh cao nhất của dãy phía bắc và toàn bộ làng là Czabajka 416 m so với mực nước biển.
Rừng Czarny Las và Księży Las phía bắc ngăn cách Harta với làng Dylągówka, còn rừng Ulanki phía nam ngăn cách với Ulanica. Czarny Las do Lâm trường Kańczuga quản lý, với diện tích rừng 410 ha ở Harta. Rừng Harta thuộc lâm trường chân núi Kapat của khu vực rừng vùng Karpat.
Harta thuộc hai khu vực bảo tồn:
Khu bảo tồn cảnh quan Przemyśl-Dynowski, tạo thành vùng đệm cho Công viên cảnh quan chân đồi Przemyśl,
Khu bảo tồn đặc biệt Natura 2000 chân đồi Przemyśl.
Diện tích nông thôn đến năm 2023 chủ yếu là đất nông nghiệp (tổng cộng 55,8% diện tích địa chính), bao gồm cây trồng trên đất canh tác (78,3%), thảo điền (9,9%) và đồng cỏ (11,8%). Rừng, diện tích phủ thực vật (cây gỗ và cây bụi) chiếm 35,1% (độ che phủ rừng ở mức trung bình trong xã và mức cao trong huyện). Đất xây dựng và thông tin liên lạc chiếm 8,4% tổng diện tính.
Không có hồ nước nào lớn hơn "Ao ở Domino" rộng 2,2 ha nằm ở rìa nam. Thập niên 1960-1970 vẫn có ao lớn khác nhưng bị lấp làm sân bóng đá năm 2014. Có hồ chứa nước nhỏ giữa khu dân cư.
Động thực vật
Diện tích rừng ở Harta chủ yếu là rừng thấp Lśw với phần nhỏ rừng ngập nước ven sông. Các loài cây phổ biến nhất là linh sam bạc, thông Scots và sồi, bên cạnh đó là các loài sồi, trăn, tần bì, phong và thông. Tầng dưới có các đại diện cây bụi như cơm cháy đen, cơm cháy đỏ, hắc mai, phỉ và tầm xuân. Thực vật phủ thì có chua me, mâm xôi và kinh giới. Harta không có di tích tự nhiên nào.
Trong rừng Harta có thể tìm thấy các loài động vật như cáo, chồn hôi, chồn, lửng, thỏ rừng, chuột sóc, sóc, hoặc thậm chí thú lớn như hươu và lợn rừng. Các loài chim đại diện là diều hâu, cú, gà lôi, cò, gà gô và chim cút.
Khí hậu
Chân đồi Dynowskie có khí hậu ôn hòa rõ ràng hơn so với các dãy Beskid Niski và Bieszczady ngay phía nam nó, thuộc đới khí hậu cận núi ôn đới lục địa.
Nhiệt độ trung bình hàng năm 1991–2020 là khoảng 8,5 °C. Nhiệt độ trung bình tháng 1 là -2 °C, tháng 7 là 18,5–19 °C. Nhiệt độ cao nhất là 30-31 °C vào tháng 7 và thấp nhất là −16-−15 °C vào tháng 1.
Mùa sinh trưởng kéo dài trung bình 225–230 ngày. Số giờ nắng trung bình hàng năm dao động từ 1.700 đến 1.750 giờ.
Lượng mưa trung bình hàng năm là từ 700 đến 750 mm. Ngày phủ tuyết trung bình là khoảng 70 ngày trong năm, nhưng có biến động lớn giữa các năm, như khoảng 20 ngày trong mùa 2019/2020 đến hơn 130 ngày trong mùa 1995/1996. Dông lốc xảy ra trung bình 33–35 ngày một năm.
Gió Tây Nam và gió Tây chiếm ưu thế vào mùa hè, còn mùa thu và mùa đông chủ yếu là gió Đông Nam và gió Đông. Cũng thường có gió phơn mạnh thổi từ phía nam. Khí hậu còn chịu ảnh hưởng của sông San chảy về phía nam Harta.
Địa danh
Có hai giả thuyết về nguồn gốc German của cái tên Harta. Trong số những người định cư đầu tiên có nhiều người Đức, tên họ được chép trong tài liệu từ năm 1453. Vào thế kỷ 15, Harta là làng duy nhất ở huyện Dynów và là một trong số ít làng ở xứ Sanok mà phần lớn cư dân mang họ Đức.
Giả thuyết đầu tiên cho rằng xuất phát từ từ Hart trong tiếng Thượng Đức trung cổ có nghĩa là "đất cứng, khó canh tác, cần nhiều công sức".
Giả thuyết thứ hai dựa trên nghĩa từ Hart trong tiếng Thượng Đức cổ là "dãy đồi nhiều cây cối rậm rạp". Giả thuyết này còn cho rằng hậu duệ người Saxon từ Silesia hoặc Morava đến đây định cư.
Phù hiệu
Tuy không phải cấp hành chính có được biểu tượng chính thức về mặt pháp lý, năm 2009 nhân lễ kỷ niệm 580 năm văn bản đầu tiên đề cập đến làng, Harta đã có phù hiệu chính thức. Biểu tượng do Weronika Helwin và Wiesław Walat thiết kế theo sáng kiến của Hiệp hội phát triển văn hóa và nông thôn Harta. Phù hiệu mô phỏng theo gia huy Zaremba của nhà Skrzyński. Nhà Skrzyński là chủ sở hữu cuối cùng của làng từ giữa thế kỷ 18 cho đến giữa hai cuộc thế chiến.
Phù hiệu Harta được mô tả: "trên tấm khiên có dải ngang chia làm hai phần, một nửa con sư tử đen, thè ra lưỡi đỏ, hai chân trước giơ lên sao cho chân trái dưới chân phải, đuôi cũng vểnh lên bắt nguồn từ phía đáy màu đỏ". Màu đỏ tượng trưng cho dũng khí cản đảm.
Phù hiệu được in trên các tài liệu, ấn phẩm về làng và cho các tổ chức văn hóa xã hội. Như logo của trạm cứu hỏa tình nguyện dùng phù hiệu này kết hợp với các biểu tượng khác đặt trên biểu ngữ, cũng như mặt tiền tòa nhà trạm cứu hỏa.
Lịch sử
Giai đoạn đầu
Con người đã định cư tại Harta ngày nay từ thời tiền sử. Các cuộc khảo cổ thập niên 1970 đã phát hiện các bằng chứng về những khu định cư thời đồ đá mới ở thung lũng sông San. Tại vị trí sân vận động ngày nay có tìm được một mảnh tước đá lửa và mảnh vỡ thuyền tiền sử. Tiếp tục mở rộng khai quật, các nhà khảo cổ tìm thấy chiếc rìu đá ở Harta Dolna, dấu vết của nền văn hóa Corded Ware.
Đồng thời cũng có bằng chứng về con người thời La Mã ở Harta Dolna chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Przeworsk đã phát triển. Hàng chục mảnh kim khí thời đó đã được tìm thấy ở ba địa điểm khác nhau bao gồm: gốm xám, cho thấy con người đã sống ở Harta ít nhất là từ thế kỷ 12 đến thế kỷ thứ 5 TCN cho đến thế kỷ 4.
Từ đó dẫn đến việc thành lập làng Harta có thể xảy ra thời Kazimierz III giống như nhiều thị trấn lân cận khác. Chủ sở hữu đầu tiên là Piotr Kmita mang gia huy Szreniawa. Các lãnh địa này cùng với Dubiecko, Iskań, Stupnica và Ruszelczyce được vua Władysław II Jagiełło phong thưởng năm 1389. Piotr mất năm 1409, để lại tài sản cho con trai là Piotr Lunak Kmita. Thủ phủ lãnh địa là làng Bachórz cho đến đầu thế kỷ 15 thì thị trấn Dynów tiếp nhận chức năng hành chính và vị thế đô thị vùng.
Tương truyền Harta Dolna (Antiqua) được các tù binh trong trận Grunwald thành lập khoảng 1410–1412 do nhà quý tộc Strzałkowski lãnh đạo. Harta Górna (Nova) bắt đầu hình thành khoảng 1440–1445 từ cư dân Harta Dolna và vùng phụ cận, cũng như những người Tatar bị chủ nhân Harta khi ấy là Małgorzata bắt giữ gần Lviv. Theo truyền thống, trung tâm làng nằm gần nhà thờ ngày nay, khớp với các luận điểm khảo cổ học.
Ngôi làng được thành lập theo luật German, nhưng hiện không còn giữ được tài liệu pháp lý ghi rõ địa điểm nào. Văn bản đầu tiên còn giữ được đề cập đến Harta là từ ngày 1 tháng 1 năm 1429, khi trưởng làng Wienczko ("Wienczkone sculteto de Harta") là người làm chứng về vị trí làng Kąkolówka gần đó. Cùng năm đó, Piotr Kmita cam kết trả địa tô của làng cho Piotr Smolicki là người sau này đứng đầu Sanok. Năm 1429 hiện được coi là năm thành lập làng để tổ chức kỷ niệm truyền thống.
Đại diện làng Harta cũng có mặt tại các sự kiện khác. Trưởng làng Wienczko tham gia làm chứng cho nhà thờ ở Błażowa năm 1432, trưởng làng Nicolao làm chứng cho Futoma năm 1439. Năm 1491, Andrzej con trai Jerzy đến từ Harta đăng ký vào Học viện Krakow, và sau đó rất có thể đã được phong tước quý tộc năm 1509.
Sau khi Piotr Lunak qua đời năm 1430, Harta thuộc sở hữu con trai ông Jan tên Tępy (hoặc Jan làng Bachórz). Sau khi Jan qua đời năm 1434, tài sản vào tay vợ góa ông là Barbara. Đến lượt Barbarađể lại gia sản cho các con nhưng còn nhỏ tuổi nên được chủ lâu đài Przemyśl Mikołaj Kmita quản lý thay. Khi các con Barbara qua đời năm 1436, em gái Jan là Małgorzata buộc tội Mikołaj Kmita chiếm đoạt gia sản. Năm 1441, sau 5 năm tranh chấp pháp lý, bà thắng kiện và được tiếp quản.
Małgorzata kết hôn với Jan Goligyan làng Strzałkowo và có một trai là Stanisław Denowski (còn được gọi là Stanisław Strzałkowski). Sau khi Jan qua đời, Małgorzata tái hôn với Przingpełk Mościc đến từ Wielki Koźmin.
Năm 1460, thời bà Małgorzata, giáo xứ Harta được thành lập. Tài liệu gốc về sự kiện này đã bị mất trong chiến tranh Thụy Điển. Việc này có thể do Giám mục Przemyśl Mikołaj xứ Błażejów thực hiện khi quản hạt giai đoạn 1452–1474. Cũng trong năm 1460, mẹ con Małgorzata đã dựng nhà thờ thánh Nicôla bằng gỗ đầu tiên tại Harta. Małgorzata mất năm 1464; Stanisław Denowski làm chủ, ông cũng thiệt mạng khi hành quân tới Silesia năm 1475.
Sau Stanisław, con trai ông là Jan Denowski tiếp nhận gia sản. Jan làm thị vệ Sanok, có vợ là Jadwiga Zarembianka đến từ Kalinowa; nhưng hai người không có con cho đến khi mất năm 1493. Anh em họ của Jan là Piotr và Mikołaj thuộc gia tộc Rzeszowski kế thừa gia sản. Năm 1496, Harta và những lãnh địa xung quanh được bán cho Jan Amor Tarnowski, đến lượt ông lại để lại cho trai mình là Jan Amor con.
Năm 1503, Harta và vùng phụ cận lần đầu tiên bị chiến tranh tàn phá. Người Tatar hỏa thiêu Dynów (vua Aleksander Jagiellończyk sau đó miễn thuế cho thị trấn) để đáp trả việc Jan I Olbracht đánh Bukovina.
Khi ấy, Harta gồm hai thị trấn: Harta Antiqua (Harta cũ, nay là Harta Dolna) và Harta Nova (Harta mới, nay là Harta Górna) được đề cập trong nhiều nguồn tư liệu thế kỷ 15, sau đó hợp nhất thành một. Hợp phần thứ ba là Lipnik, chỉ được nhắc đến lần đầu tiên năm 1735. Cuối thế kỷ 15 và 16, trong làng có một cối xay gió và một quán trọ, bản thân làng và dân làng cũng thường bị thế chấp để trả nợ.
Thế kỷ 16-18
Năm 1523, Harta thuộc sở hữu nhà Wapowski khi Piotr và Hieronim mua với giá 11.400 złoty. Andrzej là con trai Piotr kế thừa làng, ông kết hôn với Katarzyna Maciejewska nhà Ciołek. Năm 1574, Samuel Zborowski giết Andrzej, vợ góa Katarzyna và con trai bà Jan Stanisław nhận làng. Năm 1596, Katarzyna qua đời, Jan đồng sở hữu với vợ là Katarzyna xứ Stremberg.
Năm 1624, Harta và vùng phụ cận bị phá hủy khi Hãn Temir xâm lược, nhiều dân làng bị giết hoặc bị bắt đi làm nô lệ. Những người này hầu hết được hồi hương sau khi Hãn Temir thua trận Martynów.
Năm 1632, con trai Jan Stanisław là Karol và Mikołaj Wapowski kế thừa gia sản. Vài năm sau, nhà thờ mới được xây dựng trên nền nhà thờ cũ đã bị phá hủy. Khoảng năm 1640, giám mục Piotr Gembicki nhà Nałęcz đã thánh hiến trong thời gian chức vụ 1636–1642.
Từ năm 1640, thông tin của làng có trong Sổ địa chính Sanok (). Theo sổ này, Harta khi ấy có 5 cánh đồng đất canh tác tương đương 120 ha (so sánh với số liệu 1.500 ha năm 2018). Có một cối xay trong làng. Danh sách còn liệt kê ba hộ điền chủ (zgrodnik) và sáu hộ nông nô (komornik); ước tính dân số Harta khi ấy là từ 95 đến 110 người.
Năm 1644, anh em Wapowski phân chia tài sản; Mikołaj nhận Bachórz rồi bán cho Jerzy Kazimierz Krasicki, còn Karol nhận Dynów, Harta, Lipnik, Wesoła, Łubno, Kazimierówka và bán cho Marcin Konstanty Krasicki. Marcin lại giao Harta cho con trai mình là Jerzy. Năm 1687, Jerzy qua đời, vợ ông là Teofila Czartoryska kế thừa. Teofila tái hôn với Đại hetman Litva Grzegorz Antoni Ogiński. Năm 1709, con gái Teofila và Grzegorz là Eufrozyna tiếp quản, có chồng là Piotr Pac. Sau đó lại truyền tiếp cho con gái Elżbieta, vợ Piotr Ożarowski.
Làng bị phá hủy nhiều lần trong khoảng thời gian này. Năm 1655, làng bị quân Thụy Điển phá trong Chiến tranh Ba Lan-Thụy Điển. Năm 1657, George II Rákóczi dẫn quân Transylvania hỏa thiêu một phần Dynów và nhiều làng xung quanh. Năm 1691, Dynów hưởng đặc quyền nhằm "phát triển thành bị tàn phá kể từ chiến tranh Hungary" cho thấy mức độ tàn khốc lớn như thế nào.
Năm 1702, Harta nằm trong khu vực bị ảnh hưởng của Đại chiến Bắc Âu, cũng như Augustus II và Stanisław Leszczyński tranh giành ngai vàng Ba Lan. Tháng 11 năm ấy, tướng Thụy Điển Magnus Stenbock sai quân đánh Dynów, do chủ nhân Grzegorz Ogiński là người ủng hộ Augustus II. Quân Thụy Điển thất bại nhưng vẫn tàn phá được Dynów. Hai phe đều tiến hành cướp bóc vùng này. Vài năm sau, sau trận Poltava, Sa hoàng Pyotr I cũng kéo quân Nga qua cướp phá. Ngoài chiến tranh thì khoảng năm 1711, Harta cũng bị lụt và nạn dịch châu chấu.
Nhà Skrzyński
Giữa thế kỷ 18, nhà Skrzyński từ Skrzynno ở Masovia là chủ nhân Harta. Đầu tiên là Józef Skrzyński (1668–1763) chuyển đến ở sau khi mua Harta, Lipnik, Laskówka và Kolorowa từ Aniela nhũ danh Ogińska, vợ Feliks Parys và chị gái Eufrozyna Ogińska.
Tiếp theo đến con trai Józef là Ignacy Skrzyński. Ignacy ghi dấu trong lịch sử làng khi xây dựng nhà thờ mới ở Harta Dolna theo phong cách Phục hưng và Baroque trong những năm 1779–1804.
Con trai Ignacy là Wincenty Skrzyński làm chủ Harta ít nhất từ năm 1810. Wincenty chủ yếu tham gia buồn tiền, là người tham vọng và có mục tiêu trở thành bá tước. Ông đóng góp vào sự phát triển kinh tế tại vùng này: trại cừu (năm 1824 có 1.300 con cừu) xưởng kéo sợi ở Harta, các nông sản từ Bachórz được đánh giá cao tại hội chợ triển lãm. Chăn nuôi cừu mở ra các xưởng dệt nhỏ. Tháng 1 năm 1850, Wincenty qua đời, tài sản chia cho vợ góa và năm con trai, theo đó Harta và Bartkówka thuộc phần người con thứ hai là Ignacy.
Năm 1846, hưởng ứng nổi dậy ở Galicia, nông dân Harta cũng đứng lên làm loạn. Nhưng quy mô bạo loạn nhỏ so với Bachórz gần đó, nơi trang viên Skrzyński bị phá hủy và một số nông dân thiệt mạng.
Thế kỷ 19, dưới quyền sở hữu nhà Skrzyński, Harta đã phát triển nhanh chóng. Năm 1860 dựng cối xay nước. Trước năm 1877 có xưởng cưa bên cạnh cối xay. Đến năm 1880 thì có xưởng chưng cất rượu, xưởng nấu bia và xưởng xén lông cừu hoạt động trong làng. Cối xay hoạt động nhờ ao chứa nước gần đó, độ sâu thay đổi từ 1,2 đến 3 mét. Ở mức nước thấp, cối xay cho ra 2 giạ bột mịn hoặc 4 giạ bột mì nguyên hạt mỗi ngày (tương ứng khoảng 250 hoặc 500 lít), còn ở mức cao là 6 giạ bột mịn hoặc 10 giạ bột mì nguyên hạt (750 và 1250 l). Xưởng cưa xử lý được 3 mẻ một ngày.
Văn hóa xã hội cũng phát triển. Năm 1863, cha xứ xây dựng nhà thờ giáo xứ mới. Thập niên 1880, nhà thờ có thêm tháp chuông. Năm 1889, nhà thờ có thêm các nhà nguyện và hàng rào bao quanh. Năm 1875, trường làng một lớp được mở ở Harta Dolna. Năm 1899, trường mới mở tại Harta Górna, có tòa nhà mới vào năm 1912.
Từ năm 1869-1874, Ignacy trao gia sản Harta và vùng phụ cận cho con trai là Zdzisław. Năm 1872, Zdzisław cưới nữ bá tước Celina Dunin-Borkowska nhà Łabędź. Năm 1927, Zdzisław qua đời, Celina đồng thừa kế Harta với anh trai Zdzisław là đại sứ Ba Lan tại Vatican Władysław. Năm 1934, Celina qua đời. Chủ nhân lãnh địa cuối cùng là cháu gái bà - nữ bá tước Maria Celina Kazimiera nhà Łabędź.
Thế chiến thứ nhất
Năm 1914, Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Tháng 8, quân Áo tổng động viên gần Dynów, và bắt đầu trưng thu lương thực thực phẩm với quy mô lớn vào tháng 9. Sau đó, quân Áo rút về Pháo đài Przemyśl phía sau phòng tuyến sông Dunajec. Cuối tháng 9, tướng Radko Dimitriev dẫn Tập đoàn quân 3 Nga tiến vào vùng này nhằm chiếm Przemyśl nhưng thất bại. Quân Áo tập hợp lại phá vỡ vòng vây trong tuần đầu tiên của tháng 10. Chiến sự diễn ra gần Harta cùng những địa điểm khác. Ngày 8 tháng 10 năm 1914, trên những ngọn đồi phía đông làng, quân Áo đánh bại một đơn vị nhỏ quân Nga. Chỉ vài tuần sau, vào tháng 11, Tập đoàn quân 3 lại vượt sông San về phía tây và quân Nga bắt đầu vây hãm Przemyśl lần hai.
Lính Nga không quấy rối dân làng, không xảy ra các vụ cướp bóc (khác quân Circassia và Cossack vẫn hay cướp bóc dân thường). Quân Nga cho phép người Ba Lan vẫn quản lý hành chính trong vùng với lòng khoan dung đặc biệt. Để bảo vệ danh tiếng cá nhân và quân đội, tướng Dimitriev chỉ cho phép trưng thu lương thực, thức ăn gia súc và chỗ ở tại khu nông thôn.
Năm 1914-1915, quân Áo cố tái chiếm Dynów nhưng bất thành. Tháng 3 năm 1915, Przemyśl thất thủ, toàn vùng do quân Nga kiểm soát. Ngày 11 tháng 5 năm 1915, quân Nga rút lui trước khi phe Liên minh Trung tâm phản công. Ngày 12, tướng August von Mackensen chỉ huy quân Đức tiến vào Dynów. Mặt trận Nga gần như sụp đổ hoàn toàn, Áo giữ Dynów cho đến hết chiến tranh. Ngày 28 tháng 10 năm 1918, Ủy ban thanh lý Ba Lan () lên nắm quyền ở Galicia và trao lại cho chính quyền trung ương Ba Lan từ ngày 7 tháng 3 năm 1919.
Giữa hai thế chiến
Ngay khi kết thúc chiến tranh, các tổ chức xã hội ở Harta phát triển nhanh chóng. Năm 1907, trong chuyến giám mục viếng thăm, hiệp hội Công giáo-xã hội ra đời liên kết với ngân hàng tiết kiệm Raiffeisen có từ một năm trước đó.
Harta phát triển phong trào hợp tác xã. Năm 1908, Hợp tác xã sữa "Pomoc" được thành lập. Năm 1938, các cổ đông đóng góp dựng xưởng chế biến sữa bò trong làng. Nông dân tham gia Mạng lưới Nông nghiệp điều hành một cửa hàng trong làng. Mạng lưới Nông nghiệp (sau này lấy tên là Hợp tác xã Thương nghiệp Rolnik) nằm trong Mạng lưới kết nối Nông nghiệp ở Dynów từ năm 1918, sau Thế chiến thứ hai chuyển thành Hợp tác xã Samopomoc Chłopska. Năm 1929, trong làng có xưởng chưng cất rượu, quỹ tiết kiệm Stefczyk, nhà máy xay xát, xưởng cưa, xưởng đóng ngói, xưởng khai thác gỗ, 5 cửa hàng tạp hóa và một cửa hàng rượu.
Giáo hội Công giáo có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển xã hội. Năm 1925, Hội nam thanh niên Công giáo được thành lập với 47 thành viên. Cuối thập niên 1930, Harta có các hiệp hội công giáo theo giới tính và cả cho nữ giới trẻ. Giới trẻ cũng tham gia Hiệp hội Thanh niên Nông thôn Cộng hòa Ba Lan Wici. Năm 1936, Hiệp hội Trường học () được thành lập tại Harta Górna, có thư viện cố định và di động cùng phòng đọc và phòng sinh hoạt chung. Hiệp hội có 87 thành viên, thực hiện công tác giáo dục và thực hiện các hoạt động giáo dục, bao gồm cả Đại học tại chức phổ thông Nông thôn Chủ nhật. Năm 1937, có 158 người được đào tạo do hiệp hội tổ chức (phổ thông, dạy nghề). Ngoài ra còn có tổ chức biểu diễn sân khấu.
Từ nửa sau thế kỷ 19, sau khi có quyền tự chủ vào nửa sau thế kỷ 19, đời sống chính trị Galicia bắt đầu phát triển. Năm 1895, Đảng Nhân dân () được thành lập, có vị trí đặc biệt vững chắc. Thập niên 1930, Harta có ba chi hội đảng: Harta-Lipnik, Harta-Środek và Harta-Górna. Tháng 1 năm 1938, đảng phô diễn sức mạnh và sự ủng hộ khi gần 200 đại biểu từ các huyện xung quanh về dự họp mặt dịp Giáng sinh.
Quan điểm chính trị của cư dân Harta cũng được minh họa rõ ràng qua kết quả bầu cử vào Hạ viện (Hạ viện lập pháp năm 1919 và Cộng hòa Ba Lan từ 1922), nông dân và dân thường ủng hộ nhiệt tình, bất chấp kích động chính trị gay gắt và sự chống đối từ người thừa kế dòng họ Skrzyński cùng các linh mục.
Trong cuộc bầu cử vào Hạ viện năm 1919 tại Harta, Đảng Nhân dân Ba Lan Piast đã giành được 99,2% số phiếu hợp lệ, với tỷ lệ cử tri đi bầu hợp lệ cũng là 99,2%; giúp cho đảng có được 6,7% tổng số phiếu bầu trong huyện. Các cuộc bầu cử tiếp theo năm 1922, 1928 và 1930 có tỷ lệ cử tri đi bầu thấp hơn nhưng cũng có chiến thắng quyết định cho đảng nhân dân. Năm 1922, Piast giành chiến thắng với 95,7% số phiếu ở Harta. Năm 1928, Đảng Nông dân () giành chiến thắng với 95,4% số phiếu. Năm 1930, liên minh Centrolew của các đảng đối lập cũng giành chiến thắng với 89,9% số phiếu.
Sau Thế chiến thứ nhất, dân số làng quá đông nhưng lại thiếu nam giới và lực lượng lao động. Đất nông nghiệp bị manh mún nhiều và mức sống thấp. Thu nhập chỉ ở mức tối thiểu: cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, một trang trại rộng 5 ha thu được 300 zloty Rhine và chi phí hàng năm lên tới 538 zloty. Cuộc sống nông dân bấp bênh vì hay bị mất mùa: vụ mùa năm 1897 bị ghi lại là tồi tệ; còn tháng 6 năm 1898, mưa đá tàn phá nặng nề hàng chục trang trại đã gieo hạt. Cải cách nông nghiệp và chia thửa trang viên đã phần nào cải thiện tình hình, nhà Skrzyński chia lại các trang trại ở Harta và Lipnik. Tuy vậy, quy mô phân chia không lớn, như Lipnik chỉ chia 9,4 ha năm 1929 và 24,6 ha nữa năm 1931, trong khi lãnh địa của Zdzisław Skrzyński ở Harta lên tới 818 ha (31,9% tổng diện tích đất trong làng).
Harta có tỷ lệ di cư rất cao. Năm 1913, 580 người (bao gồm cả làng Szklary) định cư ở nước ngoài. Chủ yếu là Hoa Kỳ, Pháp, Đức và Latvia, những nơi có nhiều công việc thời vụ. Dù vậy, huyện Brzozów năm 1939 vẫn có khoảng 35.000 người "không có việc làm".
Thập niên 1930, khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến Harta, nơi đa phần lớn dân số kiếm sống trên các thửa đất nhỏ. Sản xuất nông nghiệp suy giảm cộng với thất nghiệp và nghèo đói. Kế hoạch xây dựng tuyến đường sắt Rzeszów–Błażowa–Brzozów–Sanok thất bại cũng cản trở sự phát triển. Khu công nghiệp trung tâm () không giúp cải thiện đời sống người dân. Tình trạng sức khỏe chung ngày càng sa sút, suy dinh dưỡng gây ra nhiều bệnh tật, trong đó nhiều nguyên nhân do bệnh lao. Năm 1906 xảy ra dịch sốt phát ban ở Harta; còn năm 1921 lại có dịch lỵ tả. Nhiều người lâm cảnh nợ nần vì giá nông sản suy giảm nhưng lại không được giảm tô thuế. Cảnh sát đã tham gia trừng phạt bắt bớ một số nông nô (bailiff). Năm 1938, xưởng chưng cất rượu bị cháy trong vài ngày.
Trước tình hình kinh tế xã hội như vậy, Ban chấp hành tối cao Đảng Nhân dân phải tuyên bố đình công toàn quốc kéo dài 10 ngày. Nông dân không bán nông sản và cũng hạn chế đến trang trại làm việc. Harta diễn ra cuộc họp chi tiết cho vấn đề này, cắt cử cả nhân sự theo dõi và canh gác, từ đó dẫn đến đình công toàn huyện Brzozów. Ngày 15 tháng 8 năm 1937, tại quảng trường họp chợ ở Dynów đã diễn ra mít tinh. Hôm sau, 16 tháng 8, nông dân lập ra các đồn bốt trên những lối dẫn tới Dynów. Ngày 17 tháng 8, cảnh sát Dynów ra tay đàn áp triệt hạ nông dân.
Đỉnh điểm xảy ra ngày 19 tháng 8. Buổi sáng, đông người tụ tập ở Bachórz và bị cảnh sát giải tán. Tin tức lan nhanh khắp vùng, ngay trong ngày, 5.000 người đổ ra tập trung tại ngã tư gần nhà máy ở Harta, rào chắn đường từ Przemyśl đến Krosno. Buổi tối, cảnh sát được huy động đến. Từ trong đám đông bắn ra một phát súng vào cảnh sát và họ nổ súng đáp trả. Hai người chết tại chỗ (Andrzej Galej từ Harta và Stanisław Surmacz từ Laskówka), một người (Józef Potoczny từ Harta) bị thương và tử vong sau đó (theo các nguồn tin khác, Potoczny chỉ bị thương nặng ở chân) và sáu người bị thương nặng.
Sau khi giải tán cuộc đình công, cảnh sát bình định các làng xung quanh. Huyện Brzozów có 119 trang trại bị phá hủy, 77 ở Harta; nhà cửa, công cụ và cây trồng bị phá hủy. 128 người bị bắt (24 người từ Harta) đưa đi giam tại Brzozów và Lviv. Trong các phiên tòa sau đó ở Rzeszów, 6 người bị kết án từ 1,5 đến 3 năm tù.
Vụ việc năm 1937 kết thúc bằng việc sát hại cảnh sát trưởng Jan Kunik tại Dynów ngày 14 tháng 9, một cảnh sát khác bị thương nặng, không tìm ra thủ phạm. Đảng Nhân dân tiếp tục lên kế hoạch phá hủy đường sá và cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc nhằm hạn chế chính quyền can thiệp nhanh khi nổ ra đình công. Kế hoạch bị gián đoạn do Thế chiến II bùng nổ năm 1939.
Thế chiến thứ hai
Đêm 6 ngày 7 tháng 9 năm 1939, sở chỉ huy Tập đoàn quân Karpat của tướng Kazimierz Fabrycy đóng ở Bachórz. Ngày 12 tháng 9, Trung đoàn bộ binh 17 Ba Lan đụng độ quân Đức do trung tá Beniamin Kotarba chỉ huy ở gần Harta. Ngày 13 tháng 9, thống chế Đức Wilhelm List chỉ huy Tập đoàn quân 14 tiến vào, kết thúc chiến dịch tháng 9 tại vùng này.
Khi Đức chiếm đóng, dân chúng buộc phải giao nộp gia súc, lợn và ngũ cốc, nếu không sẽ bị xử tử. Dịch bệnh lan tràn như lao, kiết lỵ năm 1941 và thương hàn năm 1942. Quân Đức thường xuyên bắt giết. Ngày 21 tháng 5 năm 1943, quân Đức giết bảy người ở Harta và bắt khoảng 50 người đến trại lao động Szebnie, rồi đến trại Auschwitz, nhiều người đã không thể trở về. Quân Đức cũng hay tổ chức rà soát cướp bóc, điển hình là tấn công nhà thờ giáo xứ Harta ngày 1 tháng 12 năm 1942, giết chết cha xứ Andrzej Trzyna.
Harta có một ít người Do Thái trước chiến tranh (16 người năm 1938) và có những trường hợp người Do Thái được che giấu trong thời gian bị chiếm đóng. Từ năm 1941 đến tháng 9 năm 1943, Józef Lejba người Do Thái ẩn náu tại đây nhưng bị chỉ điểm và bị Đức Quốc xã bắn chết. Người che giấu ông là Katarzyna Kiszka thì bị đưa đến trại Auschwitz và qua đời tháng 6 năm 1944.
Từ năm 1940, Đảng Nhân dân Racławice âm mưu tổ chức phong trào kháng chiến. Một năm sau, phong trào nhập vào Liên minh đấu tranh vũ trang. Từ đầu năm 1944, phong trào trở thành đơn vị tiền đồn Dynów trong Armia Krajowa với 63 lính. Lúc đầu, binh lính không được tranh bị đầy đủ nhưng sau đó cải thiện hơn nhờ quân Đồng minh thả vũ khí xuống, một trong số đó diễn ra vào đêm 27-28 tháng 4 năm 1944 tại rừng Paproć.
Tháng 4 năm 1944, quân Đức rút khỏi mặt trận phía Đông đến vùng này. Cuối tháng 7, Armia Krajowa phát động Chiến dịch Burza (Bão táp) huy động tiền đồn Dynów và Błażów tấn công quân Đức, phá hủy xe cộ và thu giữ vũ khí, đạn dược.
Sau ngày 23 tháng 7, nổ ra giao tranh giữa quân Đức và Liên Xô. Trận chiến chính là tranh giành Dynów diễn ra từ chiều 26 đến sáng 28 tháng 7, tàn quân Đức buộc phải bỏ chạy. Tập đoàn quân 38 Phương diện quân Ukraina 1 dưới sự chỉ huy của tướng Kirill Moskalenko kiểm soát Dynów.
Harta không bị người Ukraina thanh trừng sắc tộc như diễn ra ở Dynów và vùng phụ cận, khi mà nhiều thị trấn bị phá hủy, trong đó có Dylągowa và Pazwoloma.
Ngày 14-19 tháng 3 năm 1945, NKVD đến bình định Dynów và vùng phụ cận, quân Ba Lan phòng thủ lại tưởng rằng chỉ đang giao tranh với người Ukraina thôi, kết quả một số người thiệt mạng và hàng trăm người bị bắt. Chín người Harta cùng hàng chục người trong đó bị bắt đến trại lao động Bajdayevka gần Novokuznetsk một tháng sau. Họ phải ở đó bốn tháng và được thả về Ba Lan tháng 8 năm 1945.
Tháng 2 năm 1945, Armia Krajowa bắt đầu quá trình giải thể tại Dynows và kết thúc ngày 30 tháng 4 trong cuộc họp chỉ huy tại Harta, chuyển sang tiếp tục hoạt động ngầm, thuộc nhóm Hiệp hội Tự do và Độc lập ( -WiN) được thành lập cuối năm. Đầu năm 1946, mạng lưới WiN ở Dynów trực thuộc WiN Brzozów.
Các tổ chức ngầm tại Harta có hành động tiêu biểu như thu 11.000 zloty tại hội xuân làng để mua vũ khí, xử tử hai dân làng vào tháng 11 năm 1945 vì tội trộm cướp. Tháng 5 năm 1946, chính quyền tiến hành hoạt động quy mô lớn nhằm tiêu diệt các tổ chức ngầm. Đồng thời, sau khi ban bố luật ân xá năm 1947, tổ chức ngầm tại Harta tách khỏi Brzozów và ngừng hoạt động mùa xuân năm đó.
Hậu chiến và đương đại
Sau khi kết thúc Thế chiến II, Harta và vùng phụ cận dần phát triển. Cải cách nông nghiệp và nỗ lực tập thể hóa không thành công, rồi đến thành lập trang trại quốc doanh. Dân chúng phản đối nên dù có kế hoạch nhưng Harta không bị lập trang trại như vậy. Chỉ có hãng sữa trong làng bị quốc hữu hóa.
Thập niên 1950, đường làng được cải tạo theo sáng kiến xã hội. Kèm theo đó là sự ra đời của xưởng gạch phục vụ cho các kế hoạch xây dựng tiếp theo như nhà cộng đồng, trường học và trạm cứu hỏa.
Không gian cộng đồng dân gian vốn được người sáng lập TSL Antoni Kusy đề xuất cho Harta Górna và tổ chức diễn thuyết phổ biến cho cộng đồng Harta. Tuy vậy, nó cũng gây gánh nặng cho hoạt động của trường học, nên xuất hiện ý tưởng phải có được tòa nhà riêng. Ý tưởng này trở lại trong cuộc họp cộng đồng năm 1957 và thành lập ủy ban xây dựng. Tháng 6 năm 1962, khai trương nhà văn hóa cộng đồng.
Ngay sau đó, Harta tiến hành xây dựng trường học mới và hoàn tất năm 1963. Đây được coi là công trình thiên niên kỷ của huyện Brzozów. Tháng 6 năm 1963, trường Bohaterów Walk Chłopskich (Anh hùng nông dân tranh đấu) khai giảng niên khóa mới.
Năm 1964, Đội cứu hỏa tình nguyện tiếp nhận xưởng gạch để nâng cấp và bắt đầu nung gạch để xây dựng trạm cứu hỏa, kéo dài đến 12 năm. Năm 1976, tòa nhà Đội cứu hỏa tình nguyện Harta hoàn tất và đưa vào sử dụng. Từ nửa cuối thập niên 1960 cho đến thập niên 1970, Harta xây dựng được tòa nhà giảng dạy gọi là "nhà nông học".
Giữa năm 1952, làng có sóng phát thanh. Cuối thập niên 1950, sau nhiều năm nỗ lực, quá trình điện khí hóa mới bắt đầu và kéo dài hai thập kỷ. Tháng 6 năm 1958, các trang trại đầu tiên được kết nối với lưới điện, và toàn bộ quá trình hoàn tất năm 1974.
Ngày 18 tháng 8 năm 1957, đài tưởng niệm được dựng lên tại địa điểm nhân kỷ niệm nông dân nổi dậy năm 1937. Tháng 6 năm 1963, trường tiểu học mới ở Harta Dolna cũng đặt theo tên này. Năm 1984, đài tưởng niệm được tái thiết và tôn tạo, đồng thời dựng một tháp (obelisk) trước cổng trường năm 1987.
Năm 1975, trong quá trình hợp nhất các doanh nghiệp nhỏ thành tổ hợp lớn, Hợp tác xã Sữa ( -OSM) huyện Brzozów tiếp quản xưởng sữa Harta rồi vài tháng sau lại chuyển giao cho OSM Przemyśl. Khi ấy, xưởng sữa là cơ sở công nghiệp lớn duy nhất của làng; có 36 người làm việc năm 1970. Xưởng chuyên sản xuất bơ và một số loại pho mát như pho mát Baltic.
Đầu thập niên 1990, Harta có những thay đổi to lớn. Theo quyết định 24 tháng 2 năm 1991, công ty sữa Harta (46 người) tách khỏi OSM Przemyśl để đứng độc lập. Nhưng vài tháng sau, OSM Przemyśl rút lại quyết định và tuyên bố phá sản, xưởng sữa Harta cũng bị phát mại. Harta cố gắng cứu lấy nhà máy nhưng không thành (huy động tiền từ Quỹ tái cơ cấu nông nghiệp và bán xưởng sữa tư nhân Błażowa).
Đầu thập niên 1990 cũng bắt đầu xây dựng đường dẫn khí đốt qua Harta, cũng như hạ tầng kết nối cáp điện thoại. Đường ống dẫn khí đốt từ mỏ Husów gần Łańcut đến Bachórz và xa hơn tới Harta là ý tưởng của phó thủ tướng năm 1982–1988 Zbigniew Szałajda sống ở Dynów. Ủy ban Khí hóa Làng Harta được thành lập cho mục đích này, được tài trợ đóng góp từ nhiều nguồn, Quỹ Hỗ trợ Làng Ba Lan và các quỹ Châu Âu. Quá trình khí hóa kết thúc năm 1994 và tuyến điện thoại hoàn thành năm 1999.
Thế kỷ 21, Harta nhận một số khoản đầu tư lớn như: xây dựng phòng thể dục tại trường học ở Harta Dolna, hai lần cải tạo tuyến giao thông chính của huyện, mở rộng mạng lưới đường nông thôn, và cải tạo Nhà cộng đồng, trạm cứu hỏa và nhà thờ ở Harta Górna, cùng một phần nhà thờ ở Harta Dolna. Làng cũng có cáp quang Internet chạy tới. Harta được kết nối một phần với mạng lưới thoát nước. Một số tổ chức văn hóa xã hội được thành lập: ban nhạc Młoda Harta , Hiệp hội phát triển văn hóa và nông thôn Harta, Câu lạc bộ hiến máu danh dự Nadzieja và câu lạc bộ thể thao Orzeł Harta.
Hành chính
Trong lịch sử, Harta thuộc xứ Sanok tại Chervona Rus'. Sau khi được Kazimierz Đại đế sáp nhập vào vương quốc Ba Lan 1340–1349 (Dynów năm 1341), khu vực thuộc vào tỉnh Ruthenia tồn tại trong thế kỷ 14-18 (giai đoạn ngắn thuộc Hungary năm 1364–1387). Sau phân chia Ba Lan lần thứ nhất năm 1772, vùng này được sáp nhập vào Vương quốc Galicia và Lodomeria. Ban đầu, Harta thuộc huyện Przemyśl hạt Sambor, rồi thuộc huyện Sanok từ năm 1782. Năm 1853, Harta thuộc huyện Dubiecko, rồi huyện Brzozów theo phân cấp hành chính năm 1867-1868, cho đến tận năm 1975. Cũng trong năm 1868, một khu vực tư pháp bao gồm Harta được thành lập với trụ sở ở Dynów.
Thời Galicia, một điền trang chiếm khoảng 39% diện tích (5% dân số năm 1900) được tách ra khỏi Harta. Ngày 1 tháng 8 năm 1919, như toàn bộ nước Áo, các hợp phần Harta được thống nhất hành chính.
Trong suốt thời gian này, Harta là đơn vị cấp xã của huyện Brzozów (từ ngày 1 tháng 9 năm 1921 thuộc tỉnh Lwów). Một xã trưởng là Antoni Nowak, về sau trở thành thượng nghị sĩ Ba Lan. Đến năm 1934, Harta thuộc hợp tác xã Dynów.
Khi Thế chiến II bùng nổ, Harta là trấn biên thuộc huyện Kraków của Generalgouvernement (Chính quyền Đức tại Ba Lan bị chiếm đóng). Năm 1939-1941, vùng này thuộc hạt Sanok, và năm 1941–1944 thuộc hạt Krosno. Tháng 8 năm 1944, chính quyền cộng sản Ba Lan mới khôi phục lại phân cấp hành chính tiền chiến. Một năm sau, Harta được sáp nhập vào hạt Brzozów tỉnh Rzeszów mới thành lập.
Chủ tịch tại Harta là:
1954–1965: Andrzej Wąsowicz,
1965–1972: Andrzej Gudyka.
Ngày 1 tháng 1 năm 1973, theo cải cách phân cấp hành chính năm 1972, xã Dynów được tái lập gồm Harta cùng với 8 làng khác. Ngày 1 tháng 6 năm 1975, do bỏ đơn vị hành chính cấp huyện, xã này thuộc tỉnh Przemyśl. Phần còn lại của huyện Brzozów thì được chia vào tỉnh Krosno.
Cải cách năm 1999 dẫn đến thay đổi về trung tâm hành chính. Năm 1993, theo yêu cầu chính quyền địa phương xã Dynów, bản đồ huyện sơ bộ cho thấy quy hoạch thuộc huyện Rzeszów. Ngày 1 tháng 1 năm 1999, đề xuất được đáp ứng và có hiệu lực, Harta thuộc huyện Rzeszów, tỉnh Podkarpackie.
Harta là làng thuộc xã tự trị Dynów, có diện tích 25,66 km². Tư cách pháp lý được cập nhật thông qua mới nhất vào ngày 30 tháng 6 năm 2022. Hội đồng làng nhiệm kỳ 2018-2024 gồm 7 người do Bogdan Stetko làm chủ tịch, còn Maria Pałac đảm nhận chức vụ trưởng làng.
Dân làng bầu chọn một ủy viên hội đồng vùng tại bốn khu vực bầu cử (năm 1992–1994 có 6 ứng viên còn giai đoạn 1994–2002 có 5 người).
Nhân khẩu học
Theo Điều tra dân số quốc gia năm 2021, ngày 31 tháng 3 năm 2021 có 2.061 người sống tại Harta: 1.033 nam và 1.028 nữ. Làng Harta chiếm khoảng 30% tổng dân số xã Dynów. Mật độ trung bình 80 người/km² là một trong những vùng có mật độ dân số cao nhất xã.
Cũng đối chiếu theo đó, dân số Harta đứng thứ nhất trên 9 vùng phi đô thị khác của xã, thứ 23/84 toàn huyện và 120/1.488 toàn tỉnh.
Dân số Harta tương đối ổn định trong suốt chiều dài lịch sử. Cuối thế kỷ 18, Harta là nơi sinh sống của khoảng 650 cư dân. Dân số tăng rất nhanh (mức tăng tự nhiên năm 1799 lên tới 31‰) và đạt mức 1.000 người cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Cuối thập kỷ 1820, tốc độ tăng chậm lại, nhưng đến 1830 tăng trở lại và duy trì đà tăng cho đến thập niên 1880. Sau đó, tốc độ tăng trưởng chậm lại, dân số đạt cao nhất năm 1910 và suy giảm đáng kể sau Thế chiến I.
Harta cũng luôn có sắc tộc và tôn giáo đồng nhất trong suốt lịch sử. Năm 1777, chỉ có 2 gia đình Do Thái trong 131 hộ ở Harta. Một thế kỷ rưỡi sau, theo điều tra dân số năm 1921, chỉ 2/2.483 người không có quốc tịch Ba Lan, 98,9% dân số theo Công giáo (1% theo Do Thái giáo).
Tỷ lệ nữ giới thay đổi đáng kể so với trung bình 100 năm giới. Đầu thế kỷ 20, tỷ lệ nữ giới là 104%, tăng lên 110% sau Thế chiến, đạt kỷ lục 117% năm 1970, sau đó giảm dần và thấp nhất 96,4% năm 2022.
Còn theo độ tuổi cũng chỉ có biến động chậm chạp. Năm 2002, 26,1% dân số Harta chưa đến tuổi lao động và 19,1% quá tuổi. Trong hai thập kỷ sau đó, tỷ lệ thay đổi và theo điều tra dân số năm 2021, nhóm trước tuổi lao động giảm 6,4% xuống 19,7%, còn người cao tuổi tăng 2,1% lên 21,2%. Dân số trong độ tuổi lao động tăng từ 54,8% năm 2002 lên 59,1% năm 2021.
Tỷ suất sinh tử trong hai thập niên đầu thế kỷ 21 tương đối ổn định và dao động từ khoảng 10 đến 25 cho cả hai (trừ năm 2021 có 32 người chết). Tỷ lệ di cư thuần ở Harta khác biệt lớn so với toàn xã: năm 2019–2022 là 1,9‰, so với mức mức 4,3‰ của xã Dynów.
Kinh tế
Theo dữ liệu REGON từ năm 2022, có 135 đơn vị kinh doanh hoạt động tại làng Harta. Chỉ 2 trong số đó thuộc khu vực công, còn 133 thuộc khu vực tư nhân.
Trong số đó, đại đa số (120 doanh nghiệp) là hộ kinh doanh cá thể. Bên cạnh đó là 5 công ty thương mại và 1 công ty dân sự.
Ngành kinh tế nhiều nhất trong làng là xây dựng với 48 doanh nghiệp. Thứ nhì là buôn bán và sửa chữa xe có động cơ. 18 doanh nghiệp tham gia bán buôn và bán lẻ, 9 doanh nghiệp khác chuyên sửa chữa phương tiện vận tải.
Các ngành nghề ít hơn bao gồm:
công nghiệp chế biến (12 doanh nghiệp),
vận tải và kho bãi (7)
chăm sóc sức khỏe và trợ giúp xã hội (7)
nông, lâm, ngư nghiệp (6),
hoạt động chuyên môn, khoa học kỹ thuật (5),
dịch vụ lưu trú, ăn uống (4)
giáo dục (4)
Còn lại là các hộ kinh tế đơn lẻ.
Harta hầu hết là các doanh nghiệp nhỏ. Chỉ có 5 trong số đó thuộc nhóm từ 10 đến 49 nhân viên; 130 đơn vị còn lại ít hơn 10 người lao động.
Nông nghiệp
Làng Harta chủ yếu làm nông. Trước năm 2018 mang đặc điểm manh mún, dư thừa lao động và khả năng tiếp thị sản phẩm yếu kém.
Đất Harta được xếp loại trung bình. Năm 2023, 55% đất canh tác xếp loại loại IV; còn 41% là đất loại III. Với đồng cỏ, nhiều nhất là đất loại IV 54%, tiếp đến là loại V chiếm 26%.
Năm 2013, Harta có 648 trang trại với diện tích từ 1 ha trở lên.
Tổng diện tích tất cả các trang trại ở Harta năm 2018 là khoảng 1.791 ha (69,8% diện tích toàn làng). Tỷ lệ này giảm nhẹ theo thời gian; so tương ứng năm 1970 là 1.869 ha chiếm 72,8% còn năm 1931 là 1.906 ha chiếm 74,3%.
Cây trồng phổ biến là ngũ cốc (lúa mì), khoai tây và cỏ cho gia súc. Các trang trại chủ yếu nuôi bò sữa, lợn và thỏ.
Hạ tầng
Đường giao thông
Đường chính dẫn đến Harta thay đổi theo thời gian. Cho đến cuối thế kỷ 18 đầu 19, đường khởi phát từ giao lộ trên tuyến đường hoàng gia được xây đắp trong những năm 1772–1774 trên cơ sở tuyến giao thương đã tồn tại từ thời Trung Cổ (nay là tỉnh lộ 884), chạy qua Lipnik giống như ngày nay tới nhà thờ mới rồi rẽ về phía nhà thờ Thánh Mikołaja, tiếp tục dọc theo đường thôn "Okrajce" hướng về phía khu rừng. Con đường này nối thẳng tới Nowy Borek. Đường chạy qua khu nhà cửa thì ít quan trọng hơn, cũng bắt đầu từ giao lộ trên đi tới Piątkowa khi ấy chưa tồn tại. Đường này được gọi là huyện lộ "Tyczyn".
Trong suốt thế kỷ 19, đường dần mang nét hiện đại ngày nay, định hình ngay sau Thế chiến II, khi có đường nối tới đầu tây bắc (đường trước đó chạy dọc theo "Mątewki").
Ngày nay, trục giao thông chính là huyện lộ 1426R. Đường chạy theo hướng tây bắc-đông nam, hầu hết các nhà đều dọc theo tuyến đường này theo cách bố trí làng tuyến tính điển hình. Các công trình còn lại nằm ở nhiều thôn; một số nằm gần tỉnh lộ 835 chạy qua đầu phía đông và 884 chạy qua đầu phía nam. Năm 2022, hệ thống đường bộ bổ sung thêm 8 đoạn đường đô thị với tổng chiều dài 14,1 km cùng nhiều đường dẫn vào đồng ruộng và nhà ở. Phần lớn đường sá (75 km) đều được rải nhựa năm 2015.
Chính huyện lộ 1426R cũng được cải tạo và hiện đại hóa nhiều lần, như vào thập niên 1950, năm 2004 và năm 2022–2023.
Tỉnh lộ và huyện lộ giúp kết nối thuận tiện với các trung tâm hành chính, như Dynów cách 6 km và Błażowa cách 10 km), tỉnh lỵ Rzeszów cách 32 km.
Giao thông công cộng có 9 điểm dừng xe buýt, 7 điểm trên huyện lộ (Harta Góra, Harta Szkoła Górna, Harta Ciepła Połać, Harta Środek, Harta Szkoła, Harta Luzbark) và 2 điểm dừng trên tỉnh lộ 884 (Hart, Harta Krzywda). Các tuyến như sau:
Dynów – Rzeszów (cùng các tuyến con Bachórz – Rzeszów, Dubiecko – Rzeszów, Nozdrzec – Rzeszów), qua huyện lộ 1426R, các hãng vận tải chịu trách nhiệm là PKS Rzeszów, PKS Przemyśl, AGMAR và Polbus.
Dynów – Wesoła, trên tỉnh lộ 884, do PKS Przemyśl khai thác.
Song song với tỉnh lộ 835, tuyến đường sắt khổ hẹp Dynów -Przeworsk chạy dọc theo rìa đông làng. Harta không có ga xe lửa, gần nhất phải đi đến Szklary và Bachórz.
Xây dựng
Năm 2023, Harta có tổng cộng 1.581 nóc nhà, chủ yếu thuộc hai loại: phục vụ nông nghiệp (827 nhà, chiếm 52,3%) và dân cư (644 nhà, chiếm 40,7%).
Đa số nhà cửa thuộc sở hữu tư nhân. Năm 2022, với tư cách chính quyền địa phương, xã Dynów quản lý 8 ngôi nhà: Agronomówka, cơ sở thiết bị và giao thông, trạm cứu hỏa tình nguyện, nhà giáo viên, nhà cộng đồng, trường tiểu học số 1, trường tiểu học số 2 và cối xay lịch sử.
4 tòa do xã quản lý (Agronomówka, nhà cộng đồng, nhà giáo viên và trường Tiểu học số 1) có tổng cộng 13 căn hộ với diện tích 614,08 m².
Nhà cửa trong làng thấp, chủ yếu là một hoặc hai tầng. Năm 2023, 38% là nhà gỗ (28% nhà ở), 60% là nhà gạch (72% nhà ở). Trung bình mỗi nhà (bao gồm nơi làm việc và nhà ở) có diện tích 111 m², năm xây trung bình từ 1975. Riêng nhà ở là 112 m², năm xây trung bình từ 1973. Năm 2023, Harta có 664 địa chỉ, số thứ tự trải từ 1 đến 580.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Mạng lưới điện tới Harta do Chi nhánh PGE Dystrybucja SA ở Zamość quản lý, thuộc vùng điện Przemyśl. Gần nhất là trạm điện Dynów, làng và toàn bộ xã thuộc phạm vi trạm chuyển mạch "Widełka" và nhà máy thủy điện Solina. Harta được khí hóa hoàn toàn; đường dẫn khí đốt do Karpackie Zakłady Gazownictwa ở Tarnów cung cấp thông qua Nhà máy khí đốt ở Jarosław. Có một tuyến cáp quang chạy qua, do OST vận hành ở Tyczyn.
Harta không có đường ống cấp nước. Năm 2020, chỉ có 12 hộ tại ấp Krzywdy phía nam có hệ thống thoát nước, chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Năm 2022, Nhà máy Nước, Nước thải và Nhà ở Dynów gom nước thải dẫn đến nhà máy xử lý nước thải ở Bachórz gần đó.
Công ty Gospodarka Komunalna ở Błażowa chịu trách nhiệm thu gom và xử lý rác thải cho Harta. Năm 2021, công ty phục vụ được 1.689 cư dân nông thôn, chiếm 82,5% dân số thường trú.
Không có bưu cục nào ở Hara, mã bưu chính riêng của làng là 36-067. Trước đó, từ năm 1973 đến đầu thập niên 1980, Harta có mã bưu chính 36-241 còn cuối thập niên 1990 đầu 2000 là 37-757.
An ninh
Khu vực Harta do đồn cảnh sát ở Dynów quản lý, có một sĩ quan cảnh sát đặc trách tuần tra khu số 6 bao gồm Harta, Łubno, Ulanica và Wyręby.
Các hoạt động cứu hộ và chữa cháy do Sở cứu hỏa ở Dynów và trạm cứu hỏa tình nguyện Harta đảm nhận.
Trạm cứu hỏa tình nguyện Harta
Trạm cứu hỏa tình nguyện Harta có nguồn gốc từ năm 1912. Đội 10 người khi ấy đã dập tắt đám cháy và cứu lấy tài sản cho người dân. Trang bị chỉ có móc, xô và vòi gỗ.
Thập niên 1930, đội được trang bị dụng cụ bằng thiếc làm tại địa phương, hoạt động tốt hơn đồ bằng gỗ. Đội vẫn hoạt động trong Thế chiến II và được giao một xe cứu hỏa vận hành bằng tay năm 1943.
Sau chiến tranh, Józef Domin đứng đầu đội cứu hỏa tình nguyện cho đến khi qua đời năm 1979. Năm 1948, nhờ cộng đồng đóng góp cũng như Sở cứu hỏa huyện Brzozów hỗ trợ, Harta mua máy bơm động cơ để chữa cháy. Thập niên 1960, đội có thêm một xe cứu thương quân sự nhưng tình trạng rất tệ, thường xuyên hỏng hóc và bị bán đi vài năm sau.
Năm 1964, đội cứu hỏa tình nguyện tiếp quản xưởng gạch, cải tạo và bắt đầu sản xuất gạch xây dựng trạm cứu hỏa. Được Phòng cháy chữa cháy tỉnh, huyện và các tổ chức xã hội hỗ trợ, tòa nhà trạm cứu hỏa được được khai trương năm 1976.
Thập niên 1980, khi Jan Drewniak lãnh đạo, đội bị trì trệ cho đến tận năm 1990 mới hồi sinh trở lại. Năm 1992, đơn vị được tặng thưởng Huân chương Vàng "Công trạng trong lực lượng Cảnh sát chữa cháy". Năm 1990–1998, trạm được cải tạo, và từ năm 1996, trạm có biển và biểu ngữ riêng.
Năm 2002, đội trưởng Drewniak qua đời và Artur Szczutek lên thay. Ông quyết định kế hoạch bổ sung trang thiết bị vì vỏn vẹn khi ấy chỉ có một bơm và một ô tô GLM 8/8 Żuk. Năm 2005, sau nhiều nỗ lực, lính cứu hỏa đã nhận được phương tiện cứu hộ và cứu hỏa GBA 2.3/16 mới. Năm 2008, trạm mua thêm 2 xe mới: Mercedes 1124 GBA 2/20 và Polonez hiện đang hoạt động.
Ngày 29 tháng 5 năm 2008, đội được gia nhập hệ thống cứu nạn cứu hỏa quốc gia và tổ chức lễ gia nhập long trọng vào tháng 10. Năm 2010, Đội cứu hỏa thanh niên được thành lập gồm 22 người.
Năm 2012, Đội Cứu hỏa Tình nguyện Harta kỷ niệm 100 năm thành lập; cộng đồng tặng biểu ngữ mới cùng tượng thánh quan thầy Florian được dựng kế bên. Một năm sau, đội mua lại Volkswagen Transporter T4. Năm 2013–2023, trạm cứu hỏa đã dần được cải tạo: cải tạo nhà bếp và thiết bị vệ sinh, thay mái năm 2017, cải tạo sảnh năm 2023.
Y tế
Dịch vụ y tế tại Harta được các đơn vị sau cung cấp:
Trung tâm Y tế Nông thôn Harta tại tầng trệt Nhà cộng đồng Harta Górna.
Chi nhánh Harta của DANFARM MED.
Cả hai đều có dịch vụ đa khoa. Ngoài ra, Trung tâm Y tế Nông thôn còn cung cấp dịch vụ y tá cộng đồng. Công ty DANFARM còn dùng cơ sở chung làm nhà thuốc.
Dân làng cũng có thể khám chuyên khoa tại Phòng khám huyện Dynów và Trung tâm Y tế DYNMED. Trên địa bàn cũng có một phòng khám thú y.
Di sản
Danh mục đăng ký di tích của Ủy ban di sản quốc gia Ba Lan ghi nhận 3 di tích ở Harta.
Đầu tiên là khu phức hợp nhà thờ giáo xứ, sổ bộ A-1201 đăng ký ngày 5 tháng 2 năm 1993. Bao gồm:
Nhà thờ Thánh Nicholas xây năm 1779–1804 và mở rộng năm 1889,
Tháp chuông xây năm 1886 hoặc 1889,
Tư thất linh mục từ nửa sau thế kỷ 19,
Khu hàng rào với bốn nhà nguyện, xây năm 1889.
Thứ hai là nhà nguyện nghĩa trang (số A-1006 đăng ký ngày 27 tháng 1 năm 1993) xây đầu thế kỷ 20.
Cuối cùng là cối xay nước được đăng ký ngày 8 tháng 5 năm 1997 với số A-1008. Cối xay nước bắt đầu hoạt động năm 1860, được hiện đại hóa hai lần năm 1936 và 1948. Ngày nay, động cơ điện được dùng thay thế và máy nghiền không còn được dùng cho mục đích sản xuất nữa.
Năm 2012, hồ sơ di tích xã Dynów xác định tổng cộng 22 tòa nhà lịch sử tại Harta. Ngoài danh mục toàn quốc ở trên, còn có:
nhà giáo sĩ xây năm 1863
nhà gỗ: số 178 từ nửa sau thế kỷ 19, số 57 từ cuối thế kỷ 19, số 123, 148 và 168 từ đầu thế kỷ 20 và số 176 từ năm 1921,
trại: nhà ở và chuồng gia súc số 110 từ đầu thế kỷ 20,
nhà nguyện gạch: cạnh nhà số 37 từ thế kỷ 19, cạnh nhà số 178 từ nửa sau thế kỷ 19, cạnh nhà số 138 từ năm 1888 và cạnh nhà số 30, 188 và 191 từ đầu thế kỷ 19 và 20,
nhà nguyện cột gỗ cạnh nhà số 160 từ năm 1867.
Tượng đài và tưởng niệm
Đài tưởng niệm ở Harta:
Đài tưởng niệm những người đã ngã xuống trong khởi nghĩa nông dân Harta, nguyên bản có hình đại bàng đậu trên lưỡi hái đặt trên bệ đá được Chủ tịch Hội đồng tỉnh Rzeszów Wacław Rózga khánh thành ngày 18 tháng 8 năm 1957. Ngày 10 tháng 6 năm 1984, phiên bản mới do Bogusław Kędzierski sáng tạo thay lưỡi hái bằng hình cỏ ba lá là biểu tượng Đảng Nhân dân.
Đài tưởng niệm 50 năm khởi nghĩa nông dân khánh thành ngày 7 tháng 6 năm 1987 trước trường tiểu học.
Hòn đá kỷ niệm với hai tấm bảng được khánh thành vào tháng 9 năm 2019 dành riêng cho người Do Thái Józef Lejba bị Đức Quốc xã giết hại năm 1943, và Katarzyna Kiszka chết trong trại Auschwitz năm 1944.
Bảng kỷ niệm vụ chín cư dân Harta bị bắt đi Siberia năm 1945, khánh thành ngày 20 tháng 9 năm 2020 trên tòa nhà trường tiểu học.
Đài tưởng niệm những người đấu tranh giành độc lập nhân kỷ niệm 100 năm Ba Lan giành lại độc lập (1918) và Trận Warszawa (1920); khánh thành ngày 12 tháng 9 năm 2021.
Văn hoá
Ban nhạc kèn đồng
Ban nhạc kèn đồng Harta được Jan Smyczyński thành lập năm 1924. Khi ấy, Jan vốn là nhạc công organ trong nhà thờ, ông đã tạo ra những sáng tác đầu tiên cho ban, một số vẫn được trình diễn ngày nay. Linh mục quản xứ Andrzej Trzyna, thượng nghị sĩ về sau Antoni Nowak và nông dân Michał Duplaga đã tặng những cây kèn đầu tiên cho ban. Lúc đầu ban nhạc có 23 thành viên.
Năm 1927, Smyczyński rời đến Sokolniki gần Lviv và cũng lập một ban kèn đồng tại đó. Ban có chỉ huy mới là nhạc sĩ quân đội chuyên nghiệp Franciszek Kmiotek. Ông đã bổ sung tiết mục mới và cho trình diễn lấy kinh phí tại lễ hội. Năm 1936, ban tham gia lễ hội thu hoạch toàn quốc ở Spała và Đại hội Đảng Nhân dân ở Nowosiółki năm 1938.
Trong Thế chiến II, ban nhạc ngừng hoạt động. Nhạc cụ được cất giữ trong nhà xứ. Nhưng sau khi linh mục quản xứ Trzyna bị giết năm 1941, một thành viên đã đem đi giấu.
Sau chiến tranh, năm 1947, Jan Smyczyński trở về Harta và chỉ huy ban nhạc cho đến khi qua đời năm 1955. Năm 1948, ban nhạc chiến thắng cuộc thi tại Brzozów nhưng không được trao giải vì không nằm trong đội cứu hỏa. Trở về, ban nhạc liền gia nhập Đội cứu hỏa tình nguyện Harta.
Sau khi Jan Smyczyński qua đời, Antoni Kiełbasa có nhiều kinh nghiệm với dàn quân nhạc liền trở thành nhạc trưởng. Ban nhạc tiếp tục trình diễn. Dù cơ sở vật chất được cải tiến nhưng đến thập niên 1980, số lượng thành viên suy giảm, nhạc cụ cũ kỹ từ lúc thành lập gần như phải thanh lý.
Đầu thập niên 1990, ban quản lý mới của Đội cứu hỏa tình nguyện ngoài việc phát triển đội còn hồi sinh ban nhạc. Năm 1992, nghệ sĩ organ Harta Edward Ryba được chỉ huy ban nhạc mới. Quy mô ban nhạc 13 người thập niên 1980 đã tăng lên 30 người 10 năm sau. Ban nhạc cũng đi trình diễn xa hơn. Năm 1997, ban tham gia hòa nhạc cùng các ban kèn đồng khác nhân chuyến thăm Krosno của Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Sau Edward Ryba, Antoni Kiełbasa làm nhạc trưởng. Đến năm 2000, giáo viên nhạc trung học địa phương Andrzej Sowa làm nhạc trưởng mới. Những năm tiếp theo, ban được trang bị nhạc cụ mới. Năm 2004, nhạc trưởng Sowa thành lập ban nhạc dân gian "Młoda Harta" nên không còn chỉ huy ban kèn đồng tốt được nữa nên bị Edward Laska thay thế năm 2009. Năm 2012, ban kèn đồng được trao huy hiệu vàng của Hiệp hội hợp xướng và dàn nhạc Ba Lan.
Câu lạc bộ săn bắn Sarenka
Lịch sử các câu lạc bộ săn bắn ở Harta và xã Dynów bắt đầu từ năm 1952, khi những người thuê đất rừng lập nhóm ở Dynów. Đứng đầu là Andrzej Wąsowicz, về sau trở thành chủ tịch Hội đồng huyện ở Harta. Đầu năm 1954, Câu lạc bộ săn bắn Jedność ở Dynów được thành lập.
Ngày 8 tháng 3 năm 1957, câu lạc bộ họp lại chia làm hai: số 2 ở Hart và số 4 ở Szklary sau này lấy tên là Sarenka. Năm 1967, câu lạc bộ chuyển đến tái hợp thành một tại Harta. Mâu thuẫn nội bộ khiến Sarenka đóng cửa năm 1979.
Ngày 4 tháng 7 năm 1981, ủy viên hội đồng tỉnh Przemyśl Stanisław Błoński nỗ lực tái lập dưới tên Câu lạc bộ săn bắn Sarna ở Harta. Năm 1990, câu lạc bộ đổi về tên cũ Sarenka. Năm 1992, câu lạc bộ có biểu ngữ riêng. Năm 1999, câu lạc bộ được trao Huân chương săn bắn. Từ tháng 4 năm 2001, câu lạc bộ có Đội Tín hiệu Săn bắn. Năm 2017, câu lạc bộ có tổng cộng 102 thành viên.
Câu lạc bộ săn bắn Sarenka thuê hai khu săn bắn số 142 và 158 với diện tích 8.660 ha. Câu lạc bộ trực thuộc Hội đồng Hiệp hội săn bắn Ba Lan cấp huyện Rzeszów.
Ban nhạc dân gian Młoda Harta
Chỉ huy ban kèn đồng Andrzej Sowa đã thành lập ban nhạc dân gian Młoda Harta tại trường tiểu học. Phong cách bắt nguồn từ Sowów (Cú) tại Piątkowa trước đó kết hợp với nhạc dân gian xung quanh.
Thành lập tháng 12 năm 2004, chỉ vài tuần sau, ban nhạc đã có buổi diễn ra mắt trước cư dân Harta. Album đầu tiên được thu âm tại Đài phát thanh Rzeszów. Cuối xuân 2006, ban nhạc nhận giải đặc biệt trong cuộc thi Pogórzańska Nuta ở Dynów. Năm 2005–2009, ban giành giải quán quân tại Lễ hội Thanh niên Quốc gia Bukowskie ở Bukowsko, cũng như được trình diễn tại Lễ hội quốc gia của các ban nhạc, nhạc cụ và ca sĩ dân gian ở Kazimierz Dolny.
Năm 2006 và 2008, ban xuất hiện trên kênh Rzeszów của Telewizja Polska và trên Đài phát thanh Rzeszów. Năm 2009, phát hành thêm hai album nữa. Năm 2011, phát hành album thứ tư về nhạc thôn quê. Ban nhạc cũng giành được nhiều giải thưởng: đứng thứ 3 trong Liên hoan Karpat quốc tế ở Trzcinica năm 2011, giải Baszta trong Liên hoan ban nhạc dân gian lần thứ 47, giải ca sĩ và nhạc cụ trong Kazimierz Dolny năm 2013 và Giải thưởng của Hội đồng tỉnh Podkarpackie năm 2008 và 2013. Ban nhạc đứng vị trí cao nhất trong Mít tinh nhạc công chũm chọe quốc gia các năm 2015, 2016, 2021 và 2022.
Năm 2015, ban nhạc phát hành album kỷ niệm 10 năm thành lập và biểu diễn trong Polskie Radio Program II (Chương trình phát thanh Ba Lan II). Năm 2017, ban nhạc có 11 thành viên.
Tháng 7 năm 2022, người sáng lập ban nhạc Andrzej Sowa qua đời. Việc này không ảnh hưởng đến hoạt động của ban, họ tiếp tục có các buổi diễn và nhận giải thưởng ngay năm đó.
Hiệp hội phát triển văn hóa và nông thôn Harta
Ý tưởng thành lập một hiệp hội tập hợp các nhà hoạt động xã hội từ Harta nảy sinh vào thời điểm chuẩn bị hoa mừng vụ mùa thu hoạch tháng 8 năm 2008. Ngày 20 tháng 9 năm 2008, Hiệp hội phát triển văn hóa và nông thôn Harta chính thức được thành lập và triển khai hoạt động. Ngày 4 tháng 12, hiệp hội được đăng ký với 20 thành viên. Ưu tiên hàng đầu là kế hoạch kỷ niệm 580 năm thành lập làng vào năm 2009 gồm nhiều sự kiện (văn nghệ, trình diễn sơ cứu, tham quan và hoạt động thể thao cho trẻ em), đỉnh điểm là tổ chức Lễ hội Dożynki vào tháng 8.
Năm 2010, hiệp hội cải tạo tầng hầm trường tiểu học thành phòng sinh hoạt chung cho các em, đồng thời là trụ sở hội. Năm 2015, nơi này cũng trở thành phòng làm việc của trưởng làng và phòng họp hội đồng thôn. Hội cũng tham gia tổ chức quyên góp thường niên tại nghĩa trang giáo xứ.
Truyền thống chưng cất rượu
Việc làm rượu tại nhà ở Harta đã có từ trước Thế chiến II. Đầu thế kỷ 20, một tuyến đường sắt khổ hẹp được xây dựng để vận chuyển củ cải đường đến nhà máy đường ở Przeworsk. Đường dùng để sản xuất rượu, ngay tại xưởng chưng cất nhưng bị hỏa hoạn thiêu rụi năm 1938.
Ngày nay, Harta vẫn là "thủ phủ chưng cất tư nhân" toàn vùng. Thức uống gọi là "hartini" hoặc "hartianka". Không có công thức chế biến rượu cụ thể nào, nhưng thành phần chính là đường, cùng ít lúa mạch đen, trái cây hoặc hương thỏi. Thường quá trình chưng cất diễn ra hai lần để tăng chất lượng hương vị.
Việc chế "hartini" cho nhà dùng vẫn phổ biến ở Harta. Sản phẩm Harcki bimber (Ánh trăng Harta) ra mắt Hội chợ Thực phẩm Truyền thống lần thứ 3 "Lễ hội hương vị Podkarpacie" năm 2010. Thức uống này được đưa vào Leksykon Podkarpackich Smaków (Từ vựng hương vị Podkarpacie) xuất bản năm 2012.
Các khía cạnh văn hóa khác
Tại trường tiểu học ở Harta Dolna có chi nhánh số 3 của Thư viện công cộng vùng Dynów (trụ sở tại Bachórz). Năm 2022, có 7.344 tập sách cho độc giả cũng như 3 máy tính dùng tra cứu. Chi nhánh số 4 nằm ở nhà cộng đồng Harta Górna thì đã bị đóng cửa năm 2021.
Ngày 4 tháng 4 năm 2008, nhân kỷ niệm Ngày Sức khỏe Thế giới, đội cứu hỏa sáng kiến lập ra Câu lạc bộ Hiến máu từ thiện Nadzieja. Từ năm 2009, câu lạc bộ tham gia tổ chức các sự kiện hiến máu ở Rzeszów. Trong 10 năm 2008 đến 2018, câu lạc bộ thu được tổng cộng 373,1 lít máu. Năm 2014, câu lạc bộ trở thành thành viên Hiệp hội Hiến máu từ thiện Cộng hòa Ba Lan (HDK RP).
Tháng 12 năm 2017, một chi bộ Hiệp hội Piłsudski được thành lập tại Harta gồm 15 thành viên.
Giáo dục
Trường tiểu học Bohaterów Walk Chłopskich
Harta có một trường giáo xứ ít nhất từ giữa thế kỷ 17, theo tư liệu về các chuyến giám mục viếng thăm. Trường làng Harta bắt đầu hoạt động từ đầu thế kỷ 19.
Những năm 1874–1893, chính quyền cấp kinh phí cho hệ thống giáo dục Galicia, dùng để trợ cấp trường học hiện có và xây dựng trường mới. Luật thành lập trường được ban hành năm 1860. Ngày 27 tháng 4 năm 1875, Hội đồng trường quốc gia thành lập Trường học Nhân dân một lớp ở Harta, mở rộng lên hai lớp năm 1893. Giáo viên là Adam Krynicki cho đến năm 1917. Ban đầu, trường bằng gỗ nằm ở vị trí không thuận lợi, nên về sau chủ đất Zdzisław Skrzyński đã hỗ trợ xây dựng tòa nhà mới.
Ngay sau Thế chiến I, trường có hai phòng học và bốn giáo viên. Hiệu trưởng Wojciech Gładysz cố gắng xây dựng một ngôi trường mới; thành lập Ủy ban Tái thiết Trường học năm 1924 nhưng đến tận năm 1937 mới bắt đầu hoạt động. Nỗ lực của Gładysz được hồi đáp khi Ban Giáo dục ở Lviv gửi 18 mét khối gỗ để cải tạo trường cũng như nhận được 170 đô la từ cộng đồng Ba Lan tại Hoa Kỳ.
Năm học 1924-1925, trường chỉ còn hai giáo viên: hiệu trưởng Gładysz và cô giáo Maria Stanisława Barańska. Quản lý trường và lãnh đạo Hội đồng trường học khi ấy là Piotr Nowak. Năm 1931, có 171 học sinh theo học tại trường.
Vào nửa cuối thập niên 1920, trường chuyển đổi lên 3 lớp. Năm học 1937-1938, trường học ở Harta Dolna được chuyển thành trường trung học công lập. Từ đó cho đến hết niên khóa 2021-2022, có tổng cộng 2.219 học sinh đã tốt nghiệp.
Trong Thế chiến II, trường bị quân Đức chiếm đóng hai lần, cơ sở vật chất bị phá hỏng. Khi bị chiếm đóng, ngoài trường học công khai chính thức còn có lớp học ngầm diễn ra trong khuôn viên trường cũ, thậm chí tổ chức được cả kỳ thi tốt nghiệp trung học. Hết chiến tranh, đến năm 1952 mới xuất hiện ý tưởng xây trường mới trở lại. Năm 1959, Quỹ xã hội toàn quốc được thành lập để xây dựng các trường học thiên niên kỷ. Người dân Harta đóng góp rất hào phóng. Năm 1961, quỹ này tại Harta dẫn đầu toàn huyện Brzozów, cả về giá trị thu về lẫn tỷ lệ giải ngân.
Những năm tiếp theo, xưởng gạch ra đời để lấy nguyên liệu xây trường. Trường mới chính thức khai trương vào năm 1963. Đây là một trong những trường thiên niên kỷ được xây dựng nhằm kỷ niệm 1000 năm thành lập nhà nước Ba Lan, đồng thời là trường đầu tiên ở huyện Brzozów. Trường được đặt tên Bohaterów Walk Chłopskich (Anh hùng nông dân tranh đấu) kỷ niệm Khởi nghĩa nông dân năm 1937.
Do cải cách giáo dục, năm 1999, Khu liên hợp trường học số 2 được thành lập tại Harta, gồm một trường tiểu học và trung học cơ sở. Đến cải cách tiếp theo năm 2017, đóng cửa các trường trung học cơ sở năm 2019. Trong 20 năm hoạt động, trường có tổng cộng 476 học sinh đã tốt nghiệp.
Những năm 2002–2005, nhà thi đấu được xây dựng cạnh trường học. Năm 2007-2008, thay thế mái tòa nhà và cải tạo mặt tiền. Năm 2009, một sân chơi dựng phía trước trường. Năm 1999, Krzysztof Kędzierski trở thành hiệu trưởng.
Trường tiểu học Bronisław Markiewicz
Trường học đầu tiên ở Harta Górna được mở năm 1899. Cơ sở là nhà thái ấp cũ đã xuống cấp, nên hiệu trưởng về sau Wojciech Gładysz đã phải cố gắng huy động vốn để xây dựng tòa nhà mới.
Chính quyền chấp thuận đưa vào chiến dịch xây dựng 30 trường học mới ở Galicia, khởi công tháng 9 năm 1911. Tháng 10 năm 1912, tòa nhà mới được đưa vào sử dụng. Cùng năm, huyện cũng thành lập trường tiểu học hai lớp mới riêng sau đó chuyển lên ba lớp vào thập niên 1920.
Niên khóa 1924-1925, trường có hai giáo viên là Józef và Aniela Wojdanowski. Năm 1931, có 122 học sinh theo học tại trường.
Thập niên 1950, người quản lý là Franciszek Makary đã cải tạo lớn lại ngôi trường. Do trường không có phòng thể dục nên đã tận dụng hội trường ở nhà cộng đồng.
Ngày 14 tháng 10 năm 2007, trường được mang tên của giáo sĩ được phong thánh Bronisław Markiewicz quản xứ Harta những năm 1867–1870. Những năm sau đó, số lượng theo học bắt đầu giảm do tình hình nhân khẩu học thấp nói chung cũng như học sinh đăng ký các trường khác. Tuy cư dân phản đối, nhưng trường phải thu hẹp từ 8 xuống 3 lớp năm 2020, rồi giải thể hoàn toàn năm 2023.
Du lịch
Chiến lược phát triển của xã và kế hoạch đổi mới Harta đều tập trung vào phát triển du lịch địa phương.
Không có tuyến du lịch nổi tiếng nào chạy qua Harta, ngoài tuyến đường xe đạp khép kín Błażowa - Piątkowa - Harta - Dynów - Ulanica - Futoma - Błażowa, được gọi là "Đường mòn các thị trấn Galicia".
Các tuyến du lịch chạy gần Harta là:
Rzeszów - Grybów dài 428,8 km, chạy qua từ giao lộ tỉnh lộ 884 với đường Grunwaldzka ở Dynów đến ranh giới Bachórz.
Dylągówka – Piątkowa dài 5,3 km, chạy qua rừng phía tây bắc Harta.
Có hai trang trại du lịch nông nghiệp ở Harta là Pierogówka và Kryjówka.
Tôn giáo
Giáo xứ Công giáo Harta trùng khớp với ranh giới địa chính. Giáo xứ được thành lập năm 1460 do công lãnh chúa khi ấy Małgorzata Mościcowa và con trai Stanisław Denowski (Strrzałkowski). Giáo xứ thuộc giáo phận Dynów từ cuối thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 18 và từ giữa thế kỷ 19.
Ban đầu, giáo xứ Harta bao gồm Bachórz, Laskówka và Szklary. Sau thay đổi năm 1909 và 1930, các bộ phận mới này được hợp nhất thành những giáo xứ mới ở Bachórz và Szklary.
Giáo sĩ nổi tiếng nhất gắn liền với giáo xứ Harta là Chân phước Bronisław Markiewicz, từng làm cha xứ Harta giai đoạn 1867–1870.
Năm 2020, cha xứ Harta là Tomasz Węgrzyński.
Trong suốt lịch sử, giáo xứ Harta đã trải qua 3 nhà thờ xứ:
Nhà thờ gỗ dựng năm 1460, của người sáng lập Małgorzata Mościcowa và Stanisław Denowski, bị phá hủy trong chiến tranh,
Nhà thờ thứ hai được xây dựng vào khoảng năm 1640, được giám mục Piotr Gembicki thánh hiến; cũng bị hỏa hoạn thiêu rụi.
Nhà thờ gạch, do lãnh chúa Ignacy Skrzyński xây dựng năm 1779–1804.
Nhà thờ được mở rộng và cải tạo nhiều lần, gần nhất là mặt tiền năm 2004. Năm 1969, nhà thờ bị cháy nhưng được trùng tu năm sau đó.
Nhà thờ ở Harta Górna được xây dựng năm 1984–1987 và được cung hiến cho Đức Mẹ Mân Côi ngày 11 tháng 11 năm 1987. Đây là nhà thờ nhánh của giáo xứ. Trước khi có nhà thờ, các buổi lễ diễn ra trong nhà nguyện nhỏ gần đó xây từ đầu thế kỷ 20.
Gần cả hai nhà thờ đều có nghĩa trang. Nghĩa trang giáo xứ có nhà nguyện do nhà Skrzyński xây đầu thế kỷ 20 làm nơi chôn cất cho gia đình. Nghĩa trang ở Harta Górna do giáo dân tự phát khi bắt đầu xây nhà thờ năm 1986, đến năm 1993 thì được hợp pháp hóa.
Ngoài ra còn có một số nhà nguyện và thánh giá ven đường làng, bảy trong số đó đã được đưa vào sổ đăng ký di tích xã.
Thiểu số Công giáo Đông phương Hy Lạp thuộc giáo xứ Bachórz chung sống trước Thế chiến I. Ngoài ra còn một số ít người theo Do Thái giáo thuộc qahal ở Dynów.
Thể thao
Câu lạc bộ bóng đá Orzeł Harta được thành lập hè 2005 theo sáng kiến của Łukasz Potoczny. Ông giữ chức chủ tịch câu lạc bộ, tham gia các giải đấu địa phương và có được thành công nhất định.
Đến năm 2007, Wiesław Domin trở thành huấn luyện viên cho câu lạc bộ. Đội giành quán quân trong Giải bóng đá vùng năm 2006 và đứng thứ 3 Giải bóng đá Giáo hoàng.
Câu lạc bộ tham gia hạng B mùa giải 2008/09. Ngày 10 tháng 8 năm 2008, đội ra sân gặp Orzeł Wysoka Łańcucka và thua 0–1. Đội không thể thăng hạng nên tiếp tục chơi ở hạng đấu này. Thành tích cao nhất là vị trí thứ 4 trong 3 mùa giải liên tiếp: 2013/14, 2014/15 và 2015/16.
Câu lạc bộ cũng tham gia Cúp bóng đá Ba Lan trong bảng Podkarpacki ZPN – Rzeszów–Dębica vào các mùa giải 2009/10 (bị loại ở vòng 1) và 2012/13 (bị loại ở vòng 2 sau khi đánh bại Dynovii Dynów).
Ban đầu, câu lạc bộ chọn sân nhà sân vận động Pogórza Bachórz gần đó. Kể từ mùa giải 2014/15 thì đội có sân riêng xây dựng năm 2012–2014. Có phòng thay đồ cho cầu thủ và phòng tắm tại nhà cối xay cũ. Cũng từ mùa giải này, công ty HYDRO-MET là nhà tài trợ chính, nên câu lạc bộ có tên đầy đủ là KS HYDRO-MET Orzeł Harta.
Trang phục thi đấu là xanh vàng và đen trắng.
Nhân vật liên quan
Bronisław Markiewicz (1842–1912) – Chân phước Giáo hội Công giáo, cha xứ những năm 1867–1870.
Antoni Nowak (1874–1957) – trưởng làng Harta, thượng nghị sĩ Cộng hòa Ba Lan nhiệm kỳ 2 năm 1928–1930.
Ignacy Skrzyński (1805–1896) – chủ nhân Harta, đại biểu Quốc hội Galicia.
Zdzisław Skrzyński (1846–1927) – chủ nhân Harta, đại biểu Quốc hội Galicia.
Ghi chú
Chú thích
Tư liệu
Liên kết ngoài
Trang web làng
Trang web của Trạm cứu hỏa tình nguyện Harta
Trang web giáo xứ Harta
Trang web câu lạc bộ HDK "Nadzieja"
Trang web của trường tiểu học Anh hùng nông dân tranh đấu
Làng ở Ba Lan
Rzeszowski
|
19849899
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/VAM-1
|
VAM-1
|
VAM-1 là một loại máy bay nhẹ được chế tạo bởi Hội Cơ học Việt Nam trong những năm 2000.
Phát triển
Ngày 18 tháng 4 năm 2003, thủ tướng Phan Văn Khải kí công văn số 55/TB-VPCP–18/4/2003, cho phép Hội Cơ học Việt Nam nghiên cứu một loại máy bay cánh quạt nhỏ, nhẹ, hai chỗ ngồi. Ngày 28 tháng 3 năm 2004, máy bay VAM-1 lăn thử trước 200 người tại Sân bay Phước Bình. Máy bay được thử nghiệm với động cơ Rotax, tốc độ quay 6.400 vòng trên phút, lăn ở và thu được kết quả tốt. Nhưng sau đó, dự án vẫn phải chờ một năm để được giấy phép bay. Ngày 8 tháng 12 năm 2005, phi công Phạm Duy Long đã bay thử nghiệm lần đầu với chiếc VAM-1.
Năm 2006, Nguyễn Văn Đạo, một trong những người quản lí dự án, chết sau khi bị tai nạn giao thông. Từ đó, dự án VAM-1 gặp nhiều khó khăn và bị hủy bỏ.
Thông số kĩ thuật
Tham khảo
Máy bay chế tạo tại Việt Nam
Giới thiệu năm 2004
|
19849907
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20th%C6%B0%C6%A1ng%20%E1%BB%9F%20Kolkata%2C%20%E1%BA%A4n%20%C4%90%E1%BB%99
|
Tiểu thương ở Kolkata, Ấn Độ
|
Cộng đồng tiểu thương ở Kolkata, Ấn Độ ước tính phát sinh khoảng 275.000 giao dịch kinh doanh trị giá 87,72 tỷ rupee (tương đương 2 tỷ USD) trong năm 2005. Ở thành phố Côn-ca-ta, trước đây gọi là Calcutta, thủ phủ của bang Tây Bengal (Ấn Độ), có khoảng 80% lề đường và vỉa hè bị lấn chiếm bởi các tiểu thương, người bán hàng rong và người nhập cư bất hợp pháp. Tại nhiều quốc gia, người bán hàng rong sử dụng vỉa hè, mặt đường hoặc những địa điểm công cộng khác để buôn bán hàng hóa và dịch vụ của mình nhưng tại Kolkata, quy mô lớn của nó đã dành được sự quan tâm đặc biệt của các nhà chức trách và luật pháp.
Xem thêm
Tiểu thương
Người bán hàng rong
Văn hóa tiểu thương Hồng Kông
Tham khảo
Kinh tế Kolkata
Bán lẻ ở Ấn Độ
Kolkata
|
19849910
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong%20h%E1%BA%ADu
|
Phong hậu
|
Phong hậu () là một bộ phim truyền hình trực tuyến của Hàn Quốc năm 2023 do Moon Ji-young viết kịch bản, Oh Jin-seok đạo diễn. Phim có sự tham gia của Kim Hee-ae, Moon So-ri và Ryu Soo-young, được phát hành trên Netflix vào ngày 14 tháng 4 năm 2023.
Giải thưởng
Listicle
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim truyền hình Hàn Quốc kết thúc năm 2023
Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2023
Chương trình gốc Netflix
Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên
Chương trình chiếu mạng Hàn Quốc
Phim truyền hình của AStory
|
19849916
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20m%E1%BA%ABu%20khi%C3%AAu%20d%C3%A2m
|
Người mẫu khiêu dâm
|
Người mẫu khiêu dâm là người mẫu tạo dáng chụp ảnh gợi cảm hoặc khiêu dâm được sử dụng trong triển lãm, phòng trưng bày nghệ thuật, sách, tạp chí, lịch cũng như ở các định dạng khác, chủ yếu là internet, DVD và tạp chí. Người mẫu khiêu dâm tạo dáng một cách rõ ràng, thay vì theo phong cách nghệ thuật hoặc ngụ ý mà không phải mọi thứ đều được thể hiện. Người mẫu có thể chụp ảnh khỏa thân hoặc mặc nội y, đồ bơi, v.v. Không cần bằng cấp nào để làm người mẫu khiêu dâm ngoài độ tuổi hợp pháp. Các chủ đề được sử dụng trong chụp ảnh khiêu dâm có thể rất đa dạng và người mẫu và nhiếp ảnh gia có quyền quyết định nội dung buổi chụp sẽ bao gồm những gì, vì vậy người mẫu phải nhận thức được giới hạn của mình.
Người mẫu chụp ảnh khiêu dâm đôi khi được coi là một loại hình hoạt động mại dâm. Nó thường được kết hợp với các loại hình mại dâm khác như một phần của nền kinh tế tự do. Các ví dụ bao gồm tình dục qua điện thoại, người mẫu tôn sùng, người mẫu webcam, diễn xuất khiêu dâm, khiêu vũ khiêu dâm, múa đùi, Massage khiêu dâm, gái gọi, tiếp viên câu lạc bộ tình dục, công việc dominatrix và hẹn hò qua đường.
Tham khảo
Khiêu dâm
Nghề mẫu
Ảnh khiêu dâm
|
19849918
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A0o%20m%E1%BB%ABng%20%C4%91%E1%BA%BFn%20Samdal-ri
|
Chào mừng đến Samdal-ri
|
Chào mừng đến Samdal-ri () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc do Kwon Hye-joo viết kịch bản, Cha Young-hoon đạo diễn, có sự tham gia của Ji Chang-wook và Shin Hye-sun. Phim được phát sóng trên JTBC từ ngày 2 tháng 12 năm 2023 đến ngày 21 tháng 1 năm 2024 (KST), có sẵn để phát trực tuyến trên TVING ở Hàn Quốc và trên Netflix ở một số khu vực được chọn.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim truyền hình của JTBC Studios
Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên
Phim truyền hình Hàn Quốc kết thúc năm 2024
Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2023
Phim truyền hình của JTBC
Phim truyền hình hài kịch lãng mạn Hàn Quốc
|
19849922
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Flex%20X%20Cop
|
Flex X Cop
|
Flex X Cop ( ) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc có sự tham gia của các diễn viên Ahn Bo-hyun và Park Ji-hyun. Phim được công chiếu trên kênh SBS TV vào ngày 26 tháng 1 năm 2024 (KST), có sẵn để phát trực tuyến trên Disney+ ở một số khu vực được chọn.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2024
Phim truyền hình lãng mạn Hàn Quốc
Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên
Phim truyền hình SBS, Hàn Quốc
Phim truyền hình hành động Hàn Quốc
Phim truyền hình hài Hàn Quốc
Phim truyền hình tội phạm Hàn Quốc
Phim truyền hình của Studio S
|
19849923
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sejak%3A%20M%C3%AA%20ho%E1%BA%B7c%20qu%C3%A2n%20v%C6%B0%C6%A1ng
|
Sejak: Mê hoặc quân vương
|
Sejak: Mê hoặc quân vương () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc có sự tham gia của Jo Jung-suk, Shin Se-kyung và Lee Shin-young. Phim được phát sóng trên tvN từ ngày 21 tháng 1 năm 2024 (KST), có sẵn để phát trực tuyến trên TVING ở Hàn Quốc và trên Netflix ở một số khu vực được chọn.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2024
Phim truyền hình của Studio Dragon
Phim truyền hình tâm lý tình cảm Hàn Quốc
Phim truyền hình lãng mạn Hàn Quốc
Phim truyền hình tvN (Hàn Quốc)
Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên
Phim truyền hình lấy bối cảnh nhà Triều Tiên
Phim truyền hình lịch sử Hàn Quốc
|
19849925
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gobiodon%20quinquestrigatus
|
Gobiodon quinquestrigatus
|
Gobiodon quinquestrigatus là một loài cá biển thuộc chi Gobiodon trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1837.
Từ nguyên
Từ định danh quinquestrigatus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: quinque (“năm”) và strigatus (“dải màu”), hàm ý đề cập đến 5 rãnh dọc màu xanh óng ở hai bên đầu của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
Từ vịnh Nha Trang (Việt Nam), G. quinquestrigatus có phân bố trải dài về phía đông đến Tonga và quần đảo Société, ngược lên phía bắc tới Nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Úc và Nouvelle-Calédonie. Ghi nhận của G. quinquestrigatus ở Biển Đỏ là nhầm lẫn với Gobiodon rivulatus. G. quinquestrigatus cũng xuất hiện ở vùng biển Singapore.
G. quinquestrigatus sống hội sinh với san hô nhánh Acropora (đặc biệt là Acropora nasuta), được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 70 m.
Tình trạng phân loại
G. quinquestrigatus có hai kiểu hình được ghi nhận: G. quinquestrigatus theo nghĩa hẹp và G. sp. D (theo Munday và cộng sự (1999)). Các bằng chứng phát sinh chủng loại học cho thấy, G. quinquestrigatus và G. sp. D là hai loài chị em, và tổ tiên chung gần nhất của chúng là chị em với Gobiodon rivulatus. G. sp. D được ghi nhận ở đảo New Britain (Papua New Guinea) và Maldives.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở G. quinquestrigatus là 4,5 cm. G. quinquestrigatus thực sự có 5 vạch màu xanh óng trên đầu, và những đường này vẫn còn ở con trưởng thành. Đầu màu nâu cam và phần thân còn lại màu nâu sẫm. Còn G. sp. D có thân màu đỏ, các vạch xanh khá mờ trên đầu và các vây sẫm nâu hơn. G. sp. D có một dải hẹp màu xanh óng dọc theo gốc vây lưng. Đặc điểm này không có, hoặc gần như rất mờ nhạt ở G. quinquestrigatus.
Số gai ở vây lưng: 6–7; Số tia ở vây lưng: 10–11; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 8–9.
Sinh thái
Thức ăn của G. quinquestrigatus là các loài thủy sinh không xương sống nhỏ và động vật phù du. Một loại độc tố tương tự grammistin đã được phát hiện trên cơ thể G. quinquestrigatus.
G. quinquestrigatus sống theo cặp đơn phối ngẫu. Cá đực chăm sóc trứng trên cành san hô. Ở các cặp G. quinquestrigatus, cá đực lớn hơn cá cái, còn cá cái phát triển nhanh hơn bạn tình cho đến khi đẻ trứng. Loài này lưỡng tính, có khả năng thay đổi giới tính theo cả hai chiều (cá cái sau khi chuyển thành cá đực vẫn có thể quay trở lại thành cá cái).
Tham khảo
Q
Cá Thái Bình Dương
Cá Nhật Bản
Cá Đài Loan
Cá Việt Nam
Cá Singapore
Cá Malaysia
Cá Philippines
Cá Nouvelle-Calédonie
Cá Tonga
Động vật được mô tả năm 1837
|
19849930
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%E1%BB%8Bch%20l%C3%BD%20k%E1%BA%BB%20s%C3%A1t%20nh%C3%A2n
|
Nghịch lý kẻ sát nhân
|
Nghịch lý kẻ sát nhân () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc có sự tham gia của các diễn viên Choi Woo-shik, Son Suk-ku và Lee Hee-joon. Dựa trên Naver Webtoon cùng tên của Kkomabi, phim kể câu chuyện về một chàng trai vô tình giết chết kẻ sát nhân hàng loạt và một thám tử không ngừng truy đuổi anh ta. Phim được phát hành trên Netflix vào ngày 9 tháng 2 năm 2024.
Tham khảo
Liên kết ngoài
A Killer Paradox trên Naver Webtoon
A Killer Paradox trên Naver Webtoon
Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2024
Phim truyền hình dựa trên webtoon của Hàn Quốc
Chương trình gốc Netflix
Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên
Chương trình gốc sắp tới của Netflix
|
19849936
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/A%20Shop%20for%20Killers
|
A Shop for Killers
|
A Shop for Killers () là một bộ phim truyền hình trực tuyến của Hàn Quốc do Lee Kwon viết kịch bản và đạo diễn với sự tham gia của Lee Dong-wook và Kim Hye-jun. Dựa trên tiểu thuyết The Killer's Shopping Mall của Kang Ji-young, phim kể về một cô gái mồ côi được người chú đã nhận nuôi và dạy dỗ, một ngày bắt buộc trở thành người điều hành trung tâm mua sắm bí ẩn của chú để lại. Phim được công chiếu trên Disney+ vào ngày 17 tháng 1 năm 2024, tại một số khu vực được chọn và trên Hulu ở Hoa Kỳ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chương trình chiếu mạng Hàn Quốc
Truyền hình tiếng Triều Tiên
Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2024
|
19849940
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%A5y%20Gi%E1%BA%A3n%20T%E1%BB%AD
|
Ngụy Giản Tử
|
Ngụy Giản Tử có thể là:
Danh sách
Xuân Thu Tấn quốc Khanh đại phu Ngụy Giản tử
Ngụy Giản Tử Lư Thừa Nghiệp, Ngụy huyện khai quốc tử đời nhà Đường.
Xem thêm
Giản tử
Giản bá
Thành Giản Bá
An Giản công
Văn Giản công
Thụy hiệu
|
19849943
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C5%8Ci%2C%20Fukui
|
Ōi, Fukui
|
là thị trấn thuộc huyện Ōi, tỉnh Fukui, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 7.910 người và mật độ dân số là 37 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 212,19 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Fukui
Obama
Takahama
Shiga
Takashima
Kyōto
Ayabe
Nantan
Tham khảo
Thị trấn của Fukui
|
19849945
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C5%8Ci%20%28huy%E1%BB%87n%29
|
Ōi (huyện)
|
là huyện thuộc tỉnh Fukui, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020 dân số của huyện là 18.236 người và mật độ dân số là 64 người/km2. Tổng diện tích của huyện là 284,6 km2.
Hành chính
Thị trấn
Tham khảo
Huyện của Fukui
|
19849946
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marco%20Aurelio%20Robles
|
Marco Aurelio Robles
|
Marco Aurelio Robles Méndez (8 tháng 11 năm 1905, tại Aguadulce – 14 tháng 4 năm 1990, tại Miami) là Tổng thống Panama từ ngày 1 tháng 10 năm 1964 đến ngày 30 tháng 9 năm 1968. Ông học tại Đại học Panama và Đại học Sorbonne. Trước khi làm tổng thống, ông từng đảm nhiệm các phái bộ ngoại giao ở Pháp và Vương quốc Anh, đồng thời giữ chức Bộ trưởng Bộ Tư pháp (1960–1964).
Robles là anh họ của tổng thống tiền nhiệm, Roberto Francisco Chiari Remón. Vào ngày 16 tháng 4 năm 1990, ông qua đời tại Miami sau một cơn bạo bệnh kéo dài.
Tham khảo
Sinh năm 1905
Mất năm 1990
Tổng thống Panama
Bộ trưởng tư pháp Panama
|
19849949
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Demetrio%20B.%20Lakas
|
Demetrio B. Lakas
|
Demetrio Basilio Lakas Bahas (29 tháng 8 năm 1925 tại Colón, Panama – 2 tháng 11 năm 1999 tại Thành phố Panama) là Tổng thống thứ 27 của Panama từ ngày 19 tháng 12 năm 1969 đến ngày 11 tháng 10 năm 1978.
Là con trai của những người nhập cư Hy Lạp, Lakas sinh ra ở Colón. Sau khi học tại các trường học địa phương, ông tốt nghiệp Đại học Texas Tech năm 1953 và được vinh danh là cựu sinh viên xuất sắc năm 1970. Lakas có biệt danh là "Jimmy người Hy Lạp" do nguồn gốc của ông ấy.
Tổng thống
Lakas rất nổi tiếng trong giới doanh nhân Panama. Sau khi Tướng Omar Torrijos sống sót sau cuộc đảo chính quân sự chống lại ông vào ngày 16 tháng 12 năm 1969, Torrijos bổ nhiệm ông làm chủ tịch chính phủ lâm thời. Nhiệm kỳ tổng thống của Lakas chủ yếu diễn ra dưới thời cai trị của sĩ quan quân đội Omar Torrijos, và được đánh dấu bằng sự kiểm duyệt truyền thông và đàn áp các phong trào đối lập. Ông cũng đàm phán Hiệp ước Torrijos–Carter năm 1977 chuyển giao quyền kiểm soát Kênh đào Panama từ Mỹ cho Panama.
Qua đời
Ông qua đời vào ngày 2 tháng 11 năm 1999 ở tuổi 74 tại Thành phố Panama vì bệnh tim.
Tham khảo
Sinh năm 1925
Mất năm 1999
Tổng thống Panama
|
19849953
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20t%C3%A2m%20ch%E1%BB%89%20huy
|
Trung tâm chỉ huy
|
Trung tâm chỉ huy (Command centerthường được gọi là phòng tác chiến) là bất kỳ nơi nào được sử dụng để cung cấp quyền chỉ huy tập trung cho một mục đích nào đó. Mặc dù thường được coi là căn cứ quân sự nhưng chúng có thể được chính phủ hoặc doanh nghiệp sử dụng trong nhiều trường hợp khác. Thuật ngữ "phòng trực chiến" cũng thường được sử dụng trong lĩnh vực chính trị để chỉ các nhóm truyền thông theo dõi và lắng nghe giới truyền thông và công chúng, trả lời các câu hỏi và tổng hợp ý kiến để xác định hướng hành động tốt nhất. Nếu tất cả các chức năng của trung tâm chỉ huy được đặt trong một căn phòng thì phòng này thường được gọi là phòng điều khiển. Tuy nhiên, trong các nhóm quản lý doanh nghiệp, thuật ngữ "phòng tác chiến" vẫn được sử dụng thường xuyên, đặc biệt khi nhóm đang tập trung vào chiến lược và chiến thuật cần thiết để hoàn thành một số mục tiêu mà doanh nghiệp cho là quan trọng. Trung tâm chỉ huy là nơi trung tâm thực hiện các mệnh lệnh và nhiệm vụ giám sát, còn được gọi là trụ sở chính hay đại bản doanh.
Phòng dã chiến trong nhiều trường hợp khác với trung tâm chỉ huy vì một phòng có thể được thành lập để đối phó với một cuộc khủng hoảng cụ thể, chẳng hạn như phương tiện truyền thông gặp sự cố bất lợi bất ngờ và phòng tác chiến được triệu tập để suy nghĩ, tìm ra cách đối phó với nó. Một tập đoàn lớn có thể có nhiều phòng tác tranh để giải quyết các mục tiêu hoặc khủng hoảng khác nhau. Trung tâm chỉ huy cho phép một tổ chức hoạt động như được thiết kế, sắp đặt thực hiện các hoạt động hàng ngày bất kể điều gì đang xảy ra xung quanh nó, theo cách mà không ai nhận ra nó ở đó nhưng mọi người đều biết ai chịu trách nhiệm khi có rắc rối. Về mặt khái niệm, trung tâm chỉ huy là nguồn lãnh đạo và hướng dẫn để đảm bảo rằng dịch vụ và trật tự được duy trì, chứ không phải là trung tâm thông tin hoặc bàn trợ giúp/phòng hướng dẫn. Nhiệm vụ của nó đạt được bằng cách giám sát môi trường và phản ứng với các sự kiện, từ tương đối vô hại đến khủng hoảng lớn, sử dụng các quy trình được xác định trước.
Phân loại
Có nhiều loại Trung tâm chỉ huy, chúng bao gồm:
Quản lý Trung tâm dữ liệu: Đảm nhiệm việc giám sát việc quản lý tập trung và kiểm soát vận hành đối với các hệ thống máy tính thiết yếu đối với hầu hết các doanh nghiệp, thường được đặt trong các trung tâm dữ liệu và phòng máy tính lớn.
Quản lý ứng dụng doanh nghiệp: Đảm bảo các ứng dụng quan trọng đối với khách hàng và doanh nghiệp luôn sẵn có và hoạt động như thiết kế.
Quản lý dân sự: Đảm nhiệm việc giám sát việc quản lý trung tâm và kiểm soát các chức năng hoạt động dân sự. Nhân viên tại các trung tâm đó giám sát môi trường đô thị để đảm bảo an toàn cho người dân và vận hành đúng cách các dịch vụ quan trọng của chính quyền, điều chỉnh các dịch vụ theo yêu cầu và đảm bảo sự di chuyển liên tục phù hợp.
Quản lý khẩn cấp và khủng hoảng: Ra mệnh lệnh chỉ đạo nhân lực, nguồn lực, thông tin và kiểm soát các sự kiện để ngăn chặn khủng hoảng/khẩn cấp và giảm thiểu/tránh tác động nếu xảy ra sự cố.
Các dạng trung tâm chỉ huy:
Trung tâm chỉ huy (CC hoặc ICC)
Trung tâm dữ liệu, hệ thống máy tính, quản lý sự cố, ứng phó sự cố
Trung tâm điều hành mạng (NOC)
Thiết bị và hoạt động mạng
Trung tâm điều hành chiến thuật (TOC)
Hoạt động quân sự
Cảnh sát và tình báo
Trung tâm điều hành an ninh (SOC)
Cơ quan an ninh
Cơ quan chính phủ
Quản lý giao thông
CCTV
Trung tâm điều hành khẩn cấp (EOC)
Các dịch vụ khẩn cấp
Trung tâm điều hành kết hợp (COS)
Kiểm soát không lưu
Dầu khí
Phòng điều khiển
Phát tin
Âm thanh hình ảnh (AV)
Mô phỏng và đào tạo
Trung tâm chỉ huy truyền thông xã hội
Giám sát, đăng tải và phản hồi trên các trang truyền thông xã hội
Ở doanh nghiệp
Trung tâm chỉ huy cho phép hiển thị và quản lý toàn bộ hoạt động dịch vụ theo thời gian thực. Tương tự như trung tâm kiểm soát không lưu, trung tâm chỉ huy cho phép các tổ chức xem trạng thái của các cuộc gọi và dịch vụ liên lạc toàn cầu, theo dõi các kỹ thuật viên dịch vụ và bộ phận dịch vụ trên một màn hình. Ngoài ra, các cam kết với khách hàng hoặc thỏa thuận cấp độ dịch vụ (SLA) đã được thực hiện cũng có thể được lập trình vào trung tâm chỉ huy và được giám sát để đảm bảo tất cả đều được đáp ứng và khách hàng hài lòng. Trung tâm chỉ huy rất phù hợp cho các ngành mà việc điều phối dịch vụ tại hiện trường (con người, thiết bị, bộ phận và công cụ) là rất quan trọng. Phòng tác chiến cũng có thể được sử dụng để xác định chiến lược kinh doanh hoặc thúc đẩy các nỗ lực kinh doanh thông minh. Như:
Trung tâm chỉ huy bảo mật của Intel
Trung tâm chỉ huy doanh nghiệp của Dell
Trung tâm chỉ huy tàu con thoi và ISS của NASA tại Houston
Văn hóa đại chúng
Những cảnh trong phòng chỉ huy ở Trung tâm chỉ huy chuyên xử lý các tình huống khủng hoảng được xuất hiện thường xuyên trong tiểu thuyết ly kỳ và phim hành động. Ngoài ra, một số phim tài liệu đã được quay với các cảnh trong bối cảnh phòng điều khiển của Trung tâm chỉ huy ngoài đời thực.
Fail-Safe - một bộ phim kinh dị về Chiến tranh Lạnh năm 1964 do Sidney Lumet đạo diễn, dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên năm 1962 của Eugene Burdick và Harvey Wheeler miêu tả một câu chuyện hư cấu về cuộc khủng hoảng hạt nhân trong Chiến tranh Lạnh.
The Prisoner - bộ phim truyền hình dài tập của Anh năm 1967 (17 tập), kể về một cựu điệp viên bí mật người Anh bị bắt cóc và giam giữ làm tù nhân tại một khu nghỉ dưỡng bí ẩn ở một ngôi làng ven biển, nơi những kẻ bắt giữ anh cố gắng tìm hiểu lý do tại sao anh đột ngột xin nghỉ việc.
The Take of Pelham One Two Three (1974) - một bộ phim kinh dị Mỹ năm 1974 do Joseph Sargent đạo diễn và Edgar J. Scherick sản xuất, và có sự tham gia của Walter Matthau, Robert Shaw, Martin Balsam và Héctor Elizondo. Peter Stone chuyển thể kịch bản từ cuốn tiểu thuyết cùng tên năm 1973 của Morton Freedgood (dưới bút danh John Godey) kể về một nhóm tội phạm bắt những hành khách trên một chiếc xe Tàu điện ngầm Thành phố New York đông đúc làm con tin để đòi tiền chuộc.
Hội chứng Trung Quốc - một bộ phim kinh dị của Mỹ năm 1979 kể về câu chuyện của một phóng viên truyền hình và người quay phim của cô ấy phát hiện ra những che đậy an toàn tại nhà máy điện hạt nhân. Phim có sự tham gia của Jane Fonda, Jack Lemmon và Michael Douglas, cùng với Douglas cũng là nhà sản xuất của bộ phim này.
GoldenEye - phim điệp viên năm 1995 và thứ 17 trong loạt phim James Bond, có 2 phòng điều khiển trong Trung tâm chỉ huy được sử dụng cho Chỉ huy và điều khiển của một vũ khí dựa trên một vệ tinh hư cấu, nguyên bản gốc phòng điều khiển trung tâm chỉ huy này thuộc Liên Xô và một bản sao được Tổ chức tội phạm Janus chế tạo, đây những kẻ đã chiếm hữu vệ tinh vì mục đích bất chính.
Minority Report - một bộ phim kinh dị khoa học viễn tưởng neo-noir của Mỹ năm 2002 do Steven Spielberg đạo diễn, và dựa trên truyện ngắn của cùng tên của Philip K. Dick. Phim lấy bối cảnh chủ yếu ở Washington DC và Bắc Virginia vào năm 2054, nơi "PreCrime", một Sở cảnh sát chuyên trách, bắt giữ tội phạm dựa trên kiến thức biết trước do ba nhà ngoại cảm được gọi là "Precogs" cung cấp.
Phòng điều khiển - phim tài liệu năm 2004 về Al Jazeera và mối quan hệ của nó với Bộ Tư lệnh Trung ương Hoa Kỳ (CENTCOM), cũng như các tổ chức tin tức khác đưa tin về cuộc xâm lược Iraq của Mỹ năm 2003.
Tham khảo
Điều khiển
Phòng
|
19849970
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alie%20Sesay
|
Alie Sesay
|
Alie Sesay (sinh ngày 2 tháng 8 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Khánh Hòa tại V.League 1. Sinh ra tại Anh, anh đại diện cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Sierra Leone.
Sự nghiệp thi đấu
Đầu sự nghiệp
Sesay từng có mặt tại học viện Arsenal, trước khi gia nhập Leicester City vào năm 2010. Vào ngày 15 tháng 3 năm 2013, anh cùng với Callum Elder ký hợp đồng chuyên nghiệp với Leicester City.
Colchester United (mượn)
Vào ngày 24 tháng 1 năm 2014, Sesay gia nhập Colchester United dưới dạng cho mượn trong phần còn lại của mùa giải. Vào ngày 26 tháng 2, anh có trận ra mắt câu lạc bộ, trong trận thua 0-1 trước Sheffield United, khi vào sân thay cho Brian Wilson người ở phút thứ 46.
Cambridge United (mượn)
Vào tháng 10 năm 2015, Sesay gia nhập câu lạc bộ Cambridge United tại League Two theo hợp đồng cho mượn một tháng.
Barnet F.C.
Sesay đã hợp đồng 18 tháng với Barnet vào ngày 15 tháng 1 năm 2016. Anh rời đội bóng theo sự đồng ý của cả hai vào ngày 31 tháng 1 năm 2017 sau chỉ 5 lần ra sân ở giải quốc nội trong mùa giải 2016–17.
IK Frej
Sau khi nhận được sự quan tâm từ AFC Eskilstuna vào tháng 1 năm 2017, Sesay gia nhập IK Frej vào tháng sau đó. Anh rời câu lạc bộ giữa mùa giải 2018 sau khi đóng vai trò đội trưởng.
Chania
Vào ngày 6 tháng 8 năm 2018, Sesay gia nhập câu lạc bộ Chania tại Football League. Sesay kết thúc mùa giải với tư cách là cầu thủ xuất sắc năm, giúp đội bóng giữ sạch lưới 12 trận sau 25 lần ra sân.
FC Arda Kardzhali
Vào ngày 9 tháng 8 năm 2019, Sesay gia nhập câu lạc bộ Arda Kardzhali tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Bulgaria theo bản hợp đồng kéo dài 2 năm.
Zira FK
Vào ngày 14 tháng 1 năm 2020, Sesay gia nhập câu lạc bộ Zira tại Giải bóng đá Ngoại hạng Azerbaijan theo bản hợp đồng kéo dài 18 tháng.
Sabail FK
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2021, Sesay gia nhập câu lạc bộ Sabail tại Giải bóng đá Ngoại hạng Azerbaijan. Anh ra mắt cho đội bóng vào ngày 13 tháng 2, đá chính trong trận thua 0-3 trước Sumgayit.
Persebaya Surabaya
Vào ngày 12 tháng 6 năm 2021, Sesay gia nhập câu lạc bộ Persebaya Surabaya tại Liga 1. Sesay ra mắt đội một vào ngày 11 tháng 9 năm 2021, trong trận đấu với Persikabo 1973.
PSIS Semarang
Sesay là cầu thủ ngoại binh được PSIS đăng ký cho mùa giải 2022–23, được ban lãnh đạo đội bóng đưa về để làm cho hàng phòng ngự đội bóng trở nên vững chắc hơn.
Lee Man
Vào ngày 20 tháng 1 năm 2023, Sesay gia nhập câu lạc bộ Lee Man tại Giải bóng đá Ngoại hạng Hồng Kông.
Khánh Hòa
Sau khi thử việc thất bại tại Kelantan FC, Sesay gia nhập Khánh Hòa của V.League 1.
Sự nghiệp quốc tế
Sesay được triệu tập lên đội tuyển Sierra Leone lần đầu tiên vào tháng 10 năm 2014, và ra mắt quốc tế vào ngày 11 tháng 10 năm 2014, trong trận đấu gặp Cameroon tại Vòng loại Cúp bóng đá châu Phi 2015.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Danh hiệu
Cá nhân
Đội hình xuất sắc nhất mùa giải Liga 1: 2021–22
Tham khảo
Sinh năm 1994
Nhân vật còn sống
Hậu vệ bóng đá nam
Trung vệ bóng đá
Người Luân Đôn
Cầu thủ bóng đá Anh
Cầu thủ bóng đá Sierra Leone
Cầu thủ bóng đá Anh ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Sierra Leone ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Leicester City F.C.
Cầu thủ bóng đá Colchester United F.C.
Cầu thủ bóng đá Cambridge United F.C.
Cầu thủ bóng đá Barnet F.C.
Cầu thủ bóng đá IK Frej
Cầu thủ bóng đá AO Chania F.C.
Cầu thủ bóng đá FC Arda Kardzhali
Cầu thủ bóng đá Zira FK
Cầu thủ bóng đá Sabail FK
Cầu thủ bóng đá Persebaya Surabaya
Cầu thủ bóng đá PSIS Semarang
Cầu thủ bóng đá Lee Man FC
Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Khánh Hòa
Cầu thủ bóng đá Superettan
Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam
Cầu thủ bóng đá Football League (Hy Lạp)
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bulgaria
Cầu thủ Giải bóng đá Ngoại hạng Azerbaijan
Cầu thủ bóng đá Liga 1 (Indonesia)
Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Hồng Kông
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thụy Điển
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Hy Lạp
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Azerbaijan
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Indonesia
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Hồng Kông
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bulgaria
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Malaysia
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Việt Nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Sierra Leone
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá nam Anh
|
19849971
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20V%C4%83n%20ph%C3%B2ng%20Namdong-gu
|
Ga Văn phòng Namdong-gu
|
Ga Văn phòng Namdong-gu (Tiếng Hàn: 남동구청역, Hanja: 南洞區廳驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Mansu-dong, Namdong-gu, Incheon.
Lịch sử
5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Văn phòng Namdong-gu
30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2
Bố trí ga
Xung quanh nhà ga
Văn phòng Namdong-gu
Hội đồng Namdong-gu
Trung tâm Y tế Công cộng Namdong-gu
Văn phòng Giáo dục Dongbu của Thành phố Incheon
Chợ truyền thống Jangseung Baeki
Trường tiểu học Icheonmansu
Trường trung học cơ sở Chungseong
Trung tâm phúc lợi hành chính Mansu 1-dong
Trung tâm phúc lợi hành chính Mansu 6-dong
Viện Đào tạo Công nghệ Xây dựng
Trường tiểu học Namdong
Căn hộ Daedong
Trung tâm văn hóa và thể thao Namdong
Tổng công ty đô thị Incheon
Trường tiểu học Jangsu Incheon
Sân vận động bóng bầu dục Namdong Asia (sân nhà của Hyundai Steel Red Angels, giải bóng đá nữ WK League)
Nhà thi đấu Namdong (sân nhà Tòa thị chính thành phố Incheon dành cho nữ H-League)
Trường Cheongseon
Cơ quan việc làm Hàn Quốc cho người khuyết tật Trung tâm đào tạo người khuyết tật phát triển Incheon
Hình ảnh
Ga kế cận
Tham khảo
Văn phòng Namdong-gu
Văn phòng Namdong-gu
Văn phòng Namdong-gu
Văn phòng Namdong-gu
Văn phòng Namdong-gu
|
19849973
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Mansu%20%28Incheon%29
|
Ga Mansu (Incheon)
|
Ga Mansu (Tiếng Hàn: 만수역, Hanja: 萬壽驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Mansu-dong, Namdong-gu, Incheon.
Lịch sử
5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Mansu
30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2
Bố trí ga
Xung quanh nhà ga
Trường trung học nữ sinh Munil
Trường trung học cơ sở Mansu
Trường tiểu học Insu Insu
Trường tiểu học Incheon Saemal
Trường trung học nữ sinh Mansu
Chợ Mansu
Tổng công ty quản lý thành phố Namdong-gu
Trung tâm phúc lợi hành chính Mansu 5-dong
Ga kế cận
Tham khảo
Mansu
Mansu
Mansu
Mansu
Mansu
|
19849977
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shika%2C%20Ishikawa
|
Shika, Ishikawa
|
là thị trấn thuộc huyện Hakui, tỉnh Ishikawa, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 18.630 người và mật độ dân số là 75 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 246,76 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Ishikawa
Nanao
Wajima
Hakui
Anamizu
Nakanoto
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Ishikawa
|
19849978
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Ch%E1%BB%A3%20Moraenae
|
Ga Chợ Moraenae
|
Ga Chợ Moraenae (Tiếng Hàn: 모래내시장역, Hanja: 모래내市場驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Guwol-dong, Namdong-gu, Incheon.
Lịch sử
5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Chợ Moraenae
30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2
Bố trí ga
Xung quanh nhà ga
Chợ Moraenae
Công viên khu thể thao Guwol
Trường tiểu học Jeju Jeonggak
Trường trung học cơ sở Jeonggak Jeonggak
Trung tâm phúc lợi hành chính Mansu 3-dong
Trường tiểu học Indong Indong
Phòng khám Đông y Baekje
Ga kế cận
Tham khảo
Chợ Moraenae
Chợ Moraenae
Chợ Moraenae
Chợ Moraenae
Chợ Moraenae
|
19849980
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Seokcheon%20Sageori
|
Ga Seokcheon Sageori
|
Ga Seokcheon Sageori (Tiếng Hàn: 석천사거리역, Hanja: 石泉四거리驛) là ga tàu điện ngầm của Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 nằm ở Guwol-dong, Namdong-gu, Incheon.
Lịch sử
5 tháng 10 năm 2015: Tên ga được quyết định là Ga Seokcheon Sageori
30 tháng 7 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2
Bố trí ga
Xung quanh nhà ga
Ngã tư Seokcheon
Trường tiểu học Seokcheon
Trường trung học cơ sở Guwol
Trung tâm phúc lợi hành chính Guwol 1-dong
Bệnh viện phục hồi chức năng Miju Hall
Ganseok-dong Geumho Eoullim
Trường tiểu học Sanga Sanga
Trường tiểu học Sangincheon
Trung tâm cộng đồng Ganseok 2-dong
Hướng tới ga Ganseok Ogeori
Bệnh viện Gil Đại học Gachon
Hướng tới làng vận động viên Guwol Asiad
Ga kế cận
Tham khảo
Seokcheon Sageori
Seokcheon Sageori
Seokcheon Sageori
Seokcheon Sageori
Seokcheon Sageori
|
19849983
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bitconnect
|
Bitconnect
|
Bitconnect hay BitConnect là một loại hình tiền điện tử theo mô hình nguồn mở lưu hành vào năm 2016 đến năm 2018 liên quan đến một chương trình đầu tư năng suất cao (High-yield investment program) vốn là một loại kế hoạch Ponzi đa cấp. BitConnect ra mắt vào ngày 15 tháng 3 năm 2016 và là một mô hình tài chính ứng dụng công nghệ hoạt động như một sàn cho vay tiền điện tử sinh lãi được cung cấp bởi một công ty có tên Bitconnect LTD và sở hữu đồng tiền riêng, công ty này xếp thứ 25 trên bảng xếp hạng và có giá trị vốn hóa hơn 2 tỷ USD. Bitconnect từng là một trong những nền tảng cho vay tiền kỹ thuật số phổ biến nhất trên thế giới với dịch vụ cho vay (Lending) và đa cấp (MLM hay Multi-level Marketing). Sau khi quản trị viên nền tảng này đóng nền tảng kiếm tiền vào ngày 16 tháng 1 năm 2018 và hoàn trả khoản đầu tư của người dùng sau sự cố giá trị đồng xu 92%, niềm tin đã mất đi và giá trị của đồng xu giảm mạnh xuống dưới 1 đô la từ mức cao trước đó là gần 525 đô la.
Hoạt động
Bitcoin là tiền mã hóa phân tán đầu tiên được tạo ra vào năm 2009 và kể từ đó rất nhiều đơn vị tiền mã hóa tương tự khác được tạo ra. Các đơn vị tiền tệ này sử dụng hệ thống quản lý phi tập trung thay vì các hệ thống trung tâm như các đơn vị tiền tệ điện tử và ngân hàng khác. Tuy nhiên, khác với Bitcoin hay các loại tiền kỹ thuật số khác, hình thức của Bitconnect gần giống với hoạt động ủy thác của các quỹ tài chính trên thế giới, huy động vốn của các nhà đầu tư và trả lãi hàng tháng, một dạng của đa cấp tiền ảo. Trong khi các quỹ ủy thác huy động lãi suất thấp hơn nhiều thì lãi suất của Bitconnect cao dao động từ 30 đến 40%/tháng, cao hơn rất nhiều so với các quỹ ủy thác. Còn với đa cấp, khi một nhà đầu tư giới thiệu cho các nhà đầu tư khác tham gia vay Bitconnect sẽ nhận được tiền hoa hồng. Bitconnect còn phát hành đồng tiền kỹ thuật số riêng và tham gia thị trường cuối năm 2016, là một trong những vụ ICO thành công nhất lịch sử với giá trị tăng hơn gấp 3.000 lần trong vòng một năm. Từ giá khởi điểm là 0,12 USD, đến cuối năm 2017 có lúc Bitconnect đã chạm mốc kỷ lục gần 400 USD, tức tăng đến hơn 3.000 lần.
Trong một chương trình huy động vốn, BitConnect giới thiệu giải pháp dùng bot giao dịch tự động. Nhà đầu tư được hứa hẹn có thể thu về lợi nhuận 40% mỗi tháng, lợi nhuận hàng năm có thể đạt 3.700%. BitConnect đã xây dựng một kế hoạch Ponzi với phương thức lấy tiền của nhà đầu tư sau trả cho nhà đầu tư trước hay có thể nói là dùng tiền của người đến trước trả cho người đến sau. Thuật ngữ "chương trình đầu tư năng suất cao" do tổ chức đưa ra, thực ra chỉ là một hình thức lừa đảo, hứa hẹn lợi nhuận cao từ mô hình đầu tư bằng cách trả tiền cho các nhà đầu tư trước bằng số tiền đầu tư của các nhà đầu tư mới. Với cách triển khai dựa trên chương trình cho vay và tập trung vào việc kiếm được lợi nhuận lớn càng nhanh càng tốt, BitConnect đã thu hút nhiều nhà đầu tư trên thế giới, trước khi ôm tiền của các nhà đầu tư bỏ trốn.
Dự án tạo ra một đồng tiền số là BitConnect Coin (BCC), có thể trao đổi bằng Bitcoin hoặc các loại tiền điện tử phổ biến khác. BitConnect hứa hẹn lợi nhuận cao từ các chương trình cho vay lấy lãi của họ, yêu cầu người dùng phải gửi Bitcoin cho công ty. Đồng Bitcoin sau đó được chuyển đổi thành một đơn vị khác, có tên gọi là BitConnect Coin (BCC), và được BitConnect quản lý. Những người ủng hộ BitConnect lần lượt cho thấy lợi tức đầu tư có lợi nhuận cao của họ nhờ cải tiến cấu trúc liên kết của nền tảng này, cho phép khách hàng kiếm được nhiều tiền hơn sau khi mời gọi những người khác đăng ký. Mô hình này được nhìn nhận là có nhiều điểm giống với hệ thống đa cấp. BitConnect cũng đồng thời lên sàn ICO cho một tiền ảo khác có tên là BitConnectX. Mặc dù không có bất kỳ báo cáo hay các quy tắc cơ bản nào đi sau BitConnectX, nhưng BitConnect khẳng định rằng đây là một mã nguồn mở, một đồng tiền ảo được xây dựng dựa trên blockchain và mã hóa phân quyền, cho phép thanh toán ngay lập tức cho bất kỳ ai với mức phí giao dịch tối thiếu. Điểm khiến BitConnect thành công trong chiến lược của mình đó là sự hiếu kỳ của các nhà đầu tư trước công nghệ mới, bất chấp sự thiếu đi các nguyên tắc cơ bản đằng sau mỗi đồng tiền ảo.
Phanh phui
Ủy ban chứng khoán Mỹ phát hiện rằng BitConnect đã phạm tội gian lận trong nhiều lĩnh vực, bao gồm các chương trình cho vay và lấy lãi. BitConnect cố tình không tiết lộ thông tin tài chính và các khoản tiền phải trả cho nhà đầu tư khi mua BitConnect Coin trong ví BitConnect QT đi kèm với lãi suất cao hơn 120% mỗi năm. Người sáng lập sàn BitConnect bị cáo buộc lừa đảo 2 tỷ USD từ hàng nghìn nhà đầu tư, bằng cách hứa hẹn lợi nhuận 40% mỗi tháng. Kumbhani nói dối về khả năng sinh lời của BitConnect, dụ dỗ nhà đầu tư và vi phạm luật bảo vệ những người tham gia dự án. Ngày 17 tháng 1 năm 2018, trên trang chủ của Bitconnect đã đăng tải thông báo chính thức dừng hoạt động cho vay và tạm thời đóng sàn giao dịch nội bộ. Công ty này cũng cho biết sẽ rút đồng tiền kỹ thuật số đã phát hành ra khỏi thị trường. Bitconnect cho biết có 3 nguyên nhân chính dẫn đến việc dừng hoạt động này. Thứ nhất, các tin tức tiêu cực trên phương tiện truyền thông khiến cho các nhà đầu tư cảm thấy thiếu tự tin vào nền tảng này. Thứ hai, Bitconnect đã nhận được 2 yêu cầu dừng hoạt động từ Sở giao dịch chứng khoán tại các bang Texas và Bắc Carolina. Thứ ba, hacker đã liên tục tấn công hệ thống khiến các giao dịch liên tục bị từ chối.
Ngay sau thông báo đầy bất ngờ của Bitconnect, nhà đầu tư đã đồng loạt bán tháo đồng tiền này. Từ mức khoảng hơn 400 USD, giá Bitconnect giảm sâu và mất tới 93%. Không chỉ phổ biến trên thế giới, Bitconnect cũng được rất nhiều nhà đầu tư tại Việt Nam biết đến và tham gia. Vì thế, động thái này đã gây tâm lý hoang mang trên diện rộng, nhà đầu tư nháo nhào tìm cách để gỡ vốn. Không ít nhà đầu tư Việt Nam mất cả trăm triệu sau biến động của Bitconnect dù trước đó đã có nhiều cảnh báo về việc sàn tiền ảo này hoạt động theo mô hình đa cấp biến tướng. Sau khi sàn tiền ảo Bitconnect gần như sập hoàn toàn, đóng cửa các mảng hoạt động chính như cho vay lãi suất cao (Lending) hay giao dịch (Exchange), tất cả những gì nhà đầu tư nhận về là đền bù dưới dạng đồng tiền ảo BCCoin do sàn này phát hành nhưng sau đó đồng tiền ảo với mã BCC đã mất hơn 90% giá trị chỉ sau một đêm do làn sóng bán tháo cắt lỗ của các nhà đầu tư, khiến tài sản của nhiều người chơi Bitconnect bốc hơi chỉ sau ít giờ.
Xem thêm
OneCoin
Bitcoin
Blockchain
Tiền ảo
Tiền điện tử
Tiền mã hóa
Đa cấp
Chú thích
Tiền ảo
Tiền mã hóa
|
19849985
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/VCard
|
VCard
|
vCard, hay còn gọi là VCF (tệp tin ảo cho danh bạ), là định dạng chuẩn để lưu trữ danh bạ điện tử. vCard có thể được đính kèm vào email, tin nhắn MMS, website, chat, thẻ NFC và mã QR. Nó chứa đựng thông tin như tên, địa chỉ, số điện thoại, email, website, logo, hình ảnh và thậm chí cả ghi âm.
Chú thích
Liên kết ngoài
vCard 4.0 at its developer CalConnect
describing the vCard format version 4
vCard and vCalendar (old versions) from the Internet Mail Consortium in the Internet Archive
Định dạng tập tin
Tiêu chuẩn Internet
|
19849995
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/British%20Steel%20%28album%29
|
British Steel (album)
|
British Steel là album phòng thu thứ sáu của ban nhạc heavy metal người Anh Judas Priest, được Columbia Records phát hành vào ngày 11 tháng 4 năm 1980. Đây là album đầu của ban nhạc có sự góp mặt của tay trống Dave Holland trong đội hình.
Tổng quan
Trong British Steel, ban nhạc tái trình bày thứ âm thanh mang tính thương mại mà họ đã định hình trong album Killing Machine. Lần này họ đã bỏ đi một vài chủ đề ca từ đen tối vốn là yếu tố nổi bật ở những sản phẩm trước, song vẫn giữ lại phần nào đó. Trong lần xuất hiện trên podcast "Rolling Stone Music Now" của đài phát thanh Sirius vào tháng 6 năm 2017, Rob Halford cho biết ban nhạc đã lấy cảm hứng từ AC/DC sau khi hỗ trợ họ biểu diễn trong một tour ở Châu Âu vào năm 1979. British Steel được thu âm tại Tittenhurst Park (tư gia của cựu Beatle Ringo Starr), sau khi khởi động lỗi ở Startling Studios (cũng nằm trong sân của tư dinh Tittenhurst Park), do ban nhạc thích dùng nhà của Starr hơn chính phòng thu âm. Sample kỹ thuật số vốn chưa được thông dụng trong ngành thu âm lúc bấy giờ, vì thế ban nhạc đã sử dụng công nghệ analog thu tiếng đập các chai sữa để đưa vào "Breaking the Law", cũng như nhiều tiếng động trong "Metal Gods" mà gậy bắn bi-a và khay đựng dao kéo tạo ra. Đây là album đầu của Judas Priest có sự tham gia của tay trống Dave Holland, và nhạc phẩm được phát hành ở Liên hiệp Anh với giá chiết khấu 3,99 bảng Anh. Các bài hát gồm "Breaking the Law", "United" và "Living After Midnight" được phát hành làm đĩa đơn.
Album được tái hậu kiểm vào năm 2001 với hai bài tặng kèm bổ sung. Bài phòng thu tặng kèm "Red, White, and Blue" được sáng tác trong thời gian thu nháp album Twin Turbos (tiền thân của Turbo) và thu âm tại Compass Point Studios ở Nassau vào tháng 7 năm 1985. Bài tặng kèm thứ hai là một màn trình bày trực tiếp bài "Grinder" - được thu âm vào ngày 5 tháng 5 năm 1984 ở Los Angeles, nằm trong tour diễn Defenders of the Faith.
Năm 2009, Judas Priest khởi động tour diễn kỷ niệm 30 năm ra đời tại Mỹ bằng việc trình bày trực tiếp toàn bộ British Steel lần đầu tiên. Những album khác mà Judas Priest trình bày trực tiếp toàn bộ các bài là Defenders of the Faith và Rocka Rolla, song chẳng album nào được phát theo thời lượng đĩa LP gốc hoặc ở chính tour diễn ấy (dẫu cho sản phẩm LP gốc ra mắt ở Hoa Kỳ có thứ tự phát nhạc khác so với bản ở Liên hiệp Anh).
Sản phẩm album kỷ niệm 30 năm ra đời có đính kèm một đĩa DVD và CD thu lại một liveshow vào ngày 17 tháng 8 năm 2009 tại Nhà thi đấu Hard Rock Seminole ở Hollywood, Florida, nằm trong tour kỷ niệm 30 năm ra đời British Steel. Phiên bản trình bày trực tiếp toàn bộ các bài từ British Steel ở sản phẩm này cũng được bày bán dưới dạng nội dung nhạc số ở loạt trò chơi video Rock Band - bắt đầu vào ngày 11 tháng 5 năm 2010.
Đánh giá chuyên môn
Album đã nhận được những đánh giá tích cực từ giới phê bình. AllMusic chấm album 5/5 sao, giải thích rằng album "khởi đầu những ngày huy hoàng của heavy metal ở thập niên 1980" và "Vẫn có những lát cắt hỗn độn tiếng kim loại với tiết tấu nhanh ở cả hai bài 'Rapid Fire' và 'Steeler' trong album, cộng thêm bản nhạc u sầu hơn, giàu hiệu quả trong 'Metal Gods.
Rolling Stone và BBC Music đều cực kỳ hưởng ứng album, còn trang PopMatters chấm album điểm 8/10. Năm 2017, nhạc phẩm đứng thứ ba trong danh sách "100 album nhạc metal vĩ đại nhất mọi thời đại" của Rolling Stone. Album cũng có mặt trong cuốn sách 1001 Albums You Must Hear Before You Die.
Trong buổi phỏng vấn với podcast Educate Ebony của Wall of Sound, Max Cavalera nhận định rằng British Steel là album "thrash metal thiết yếu" mà mọi người cần nghe và nói "Tôi cam đoan rằng bạn có thể đi hỏi Metallica, nếu không có British Steel thì cũng chẳng có họ đâu." British Steel còn được tạp chí The Guardian xem là "đĩa nhạc theo đúng định nghĩa heavy metal của chúng ta hơn bất kì sản phẩm nào khác".
Danh sách ca khúc
Bản phát hành ở Hoa Kỳ (1980)
Các bản khác
Bản kỷ niệm 30 năm – đĩa CD/DVD trực tiếp tặng kèm
Xếp hạng
Chứng nhận
Chú thích
Album của Columbia Records
Album năm 1980
Album của Judas Priest
Album sản xuất bởi Tom Allom
|
19850023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20thi%E1%BA%BFp%20c%C3%B4ng%20vi%E1%BB%87c
|
Danh thiếp công việc
|
Danh thiếp công việc () còn gọi là Name Card, là một tấm thẻ nhỏ gọn, chứa thông tin liên lạc của cá nhân hoặc doanh nghiệp. Nó thường được trao đổi trong các buổi gặp gỡ kinh doanh hoặc các sự kiện xã hội. Thông tin trên danh thiếp thường bao gồm tên, chức danh, công ty, địa chỉ, số điện thoại, email và website. Ngày nay, danh thiếp có thể bao gồm cả các nền tảng mạng xã hội như Facebook, LinkedIn và Twitter.
Trước đại dịch COVID-19, ước tính khoảng 7 tỷ danh thiếp được in trên toàn thế giới mỗi năm. Tuy nhiên, đại dịch đã khiến doanh số bán danh thiếp giảm mạnh. Đến giữa năm 2021, doanh số bán danh thiếp đã bắt đầu phục hồi, cho thấy nhu cầu sử dụng danh thiếp vẫn còn quan trọng trong thời đại kỹ thuật số.
Xem thêm
hCard
vCard
Danh thiếp
Chú thích
Văn phòng phẩm
Danh thiếp
Sản phẩm giấy
|
19850027
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A2n%20v%E1%BA%ADt%20trong%20Monster
|
Danh sách nhân vật trong Monster
|
Bộ truyện tranh Monster có dàn nhân vật do Naoki Urasawa tạo ra. Câu chuyện xoay quanh Kenzo Tenma, một bác sĩ phẫu thuật người Nhật sống ở Đức, cuộc sống của anh rơi vào tình trạng hỗn loạn sau khi dính líu đến Johan Liebert, một trong những bệnh nhân cũ của anh, người được tiết lộ là một kẻ tâm thần nguy hiểm.
Lưu ý: Thông tin nhân vật có thể tiết lộ nội dung của tác phẩm.
Nhân vật chính
Kenzo Tenma
Lồng tiếng bởi: Hidenobu Kiuchi
Kenzo Tenma (天馬 賢三, Tenma Kenzō) là một bác sĩ giải phẫu thần kinh người Nhật làm việc tại Bệnh viện Eisler Memorial ở Düsseldorf. Người ta biết rất ít về thời thơ ấu của Tenma ngoài cha và anh trai cũng là bác sĩ và mối quan hệ gia đình của anh ngày càng nhạt đi khi anh rời Nhật Bản đến Đức. Anh là một người nhân đạo, quan tâm đến cuộc sống của người khác và lòng tốt của anh ấy ảnh hưởng đến những người mình gặp. Kỹ năng phẫu thuật của anh ấy đã giúp anh trở thành Trưởng bác sĩ giải phẫu thần kinh. Anh đã được đính sẵn sẽ kết hôn với Eva Heinemann, con gái của Giám đốc bệnh viện Heinemann. Khi một cậu bé bị thương do bị súng bắn vào đầu được đưa đến vào năm 1986, Tenma chuẩn bị phẫu thuật thì Trưởng khoa Phẫu thuật, Bác sĩ Oppenheim và Giám đốc Heinemann bảo anh phải phẫu thuật thị trưởng, người đến sau cậu bé. Sau cơn khủng hoảng và cắn rứt lương tâm, Tenma đã cứu sống cậu bé đến trước trong khi thị trưởng không may qua đời. Tại một bữa tiệc, Tenma cầu xin sự tha thứ từ Giám đốc Heinemann, người mà anh nghĩ đã tha thứ cho mình thì ông quyết định đẩy anh vào danh sách đen và bổ nhiệm Bác sĩ Boyer làm Trưởng bác sĩ giải phẫu thần kinh mới. Eva cũng kết thúc đám cưới và chia tay anh. Nhiều tuần sau, Tenma nhận được tin từ cảnh sát rằng Giám đốc Heinemann, Bác sĩ Oppenheim và Bác sĩ Boyer đã bị sát hại một cách bí ẩn. Chủ tịch hội đồng bổ nhiệm phong Tenma là Trưởng khoa phẫu thuật để thế vào dàn nhân sự, Eva cố gắng hòa giải và muốn quay lại với anh, nhưng Tenma đã phớt lờ cô.
Chín năm sau, Tenma biết rằng vụ giết hại các bác sĩ được thực hiện bởi cậu bé mà anh đã cứu khi cậu bé giờ đã trưởng thành, Johan Liebert, thực hiện một vụ khác ngay trước mặt anh. Johan cũng là kẻ chủ mưu vụ giết người hàng loạt các cặp vợ chồng trung niên trên khắp nước Đức. Cảm thấy tội lỗi, anh quyết tâm tìm Johan và kết thúc cuộc đời của "con quái vật" mà anh cảm thấy có trách nhiệm vì đã "đánh thức" nó, đồng thời trốn tránh Thanh tra Lunge, người nghi ngờ Tenma về vụ giết người chín năm trước. Trong nhiệm vụ giết Johan, Tenma gần như phải lẩn trốn nhiều lần vì bị coi là tình nghi tội phạm sát nhân liên hoàn cho đến cuộc đối đầu cuối cùng của anh với Johan ở Ruhenheim. Khi Johan muốn Tenma giết mình, hắn ta đe dọa cậu bé Wim khi người cha say rượu của cậu nhầm Johan với một con quái vật và bắn hắn ta. Sau khi Johan được đưa đến bệnh viện bằng trực thăng, Tenma đã chữa trị cho hắn và được xóa bỏ mọi cáo buộc. Sau đó, anh gia nhập Bác sĩ không biên giới, đến thăm mẹ của Johan và cũng đến thăm Johan đang hôn mê trong bệnh viện cảnh sát.
Johan Liebert
Lồng tiếng bởi: Nozomu Sasaki
Johan Liebert (ヨハン・リーベルト, Yohan Rīberuto) là con trai song sinh lớn của nhà Liebert, có cha là Michael là cố vấn thương mại Đông Đức đã đào thoát sang phía Tây. Hắn ta là "monster - con quái vật" và là nhân vật phản diện chính của bộ truyện. Bí ẩn về quá khứ của hắn là trọng tâm của cốt truyện. Hắn đã được gọi là một con quái vật, được ví như Adolf Hitler thứ hai và chính là ác quỷ. Johan Liebert bị bắn vào đầu khi còn nhỏ khi cha mẹ hắn bị giết tại nhà, nhưng được bác sĩ Tenma cứu thoát khỏi cái chết. Hắn tuyên bố yêu em gái sinh đôi, Anna của mình và tỏ ra một số lòng trung thành với cô. Johan đã dành phần đời của mình ở nhiều nơi khác dưới những cái tên khác nhau. Hắn sở hữu sức hút và trí thông minh nhưng cũng xảo quyệt, lôi kéo và lừa dối; trong khi mình có vẻ tốt bụng, nhân hậu và yêu thương trẻ em, nhưng thực ra lại lạnh lùng, tàn nhẫn và về cơ bản là không có khả năng đồng cảm. Hắn sử dụng tài năng của mình để thao túng và khiến người khác phải làm theo ý hắn, thường không có kết quả rõ ràng ngoài việc gây ra đau khổ và sự tàn phá về mặt tinh thần. Mục tiêu của hắn là giết tất cả những người biết đến sự tồn tại của mình. Hắn ta đồng cảm với những kẻ giết người khác, khám phá ra bí mật của họ. Sau khi gây ra cái chết của Peter Čapek, hắn dàn dựng Vụ thảm sát Ruhenheim và có cuộc chạm trán cuối cùng với Tenma. Khi Johan đe dọa Wim để Tenma bắn hắn ta, Johan đã bị Herbert, người cha say rượu của Wim, bắn phải. Hắn ta được đưa đến bệnh viện bằng trực thăng, với vết đạn được Tenma chữa trị. Hôn mê, hắn được Tenma đến thăm trong bệnh viện cảnh sát. Trang cuối cùng cho thấy giường của hắn trống rỗng, gợi ý một cách mơ hồ rằng Johan đã trốn khỏi bệnh viện.
- "Điều duy nhất mà tất cả mọi người đều bình đẳng... đó là cái chết." (Trích từ Johan)
Tiếp nhận quan trọng về nhân vật Johan
Johan thường xuyên xuất hiện trong danh sách những nhân vật phản diện xuất sắc nhất trong anime, manga và tiểu thuyết. Johan đứng đầu trong danh sách "20 nhân vật phản diện vĩ đại nhất trong Anime" của tạp chí Paste, với Toussaint Egan nói rằng Johan là "Bất chấp tất cả những gì anh ta có thể đạt được trong quá trình thực hiện Monster của Naoki Urasawa - thao túng hơn 50 người để giết chỉ thông qua gợi ý, đổ tội cho người đàn ông (Tenma) đã cứu mạng mình vì tội giết người, điều hành một hoạt động rửa tiền quy mô lớn ở trung tâm nước Đức và điều phối một mạng lưới giết người trong bóng tối để thực hiện mệnh lệnh của mình— Johan không có khả năng đặc biệt nào để nói đến, ngoài sở hữu trí thông minh. Không có cuốn sổ ma thuật nào có khả năng giết chết bất cứ ai có tên được viết trên các trang của nó, không có vật tổ xấu xa nào ban cho anh ta phước lành của số phận thần thánh, không có gì cả. Johan là một con người, không hơn không kém, và đó chính xác là những gì tạo nên anh thật đáng sợ."
Mục tiêu cuối cùng của Johan là xóa bỏ sự tồn tại của chính mình. Để làm được điều đó, hắn cần phải giết tất cả những ai từng gặp mình, rồi tự sát. Tầm nhìn của hắn về một cái kết thực sự cuối cùng sẽ khiến nỗi đau khổ suốt đời của mình chấm dứt, và sẽ không còn ai còn sống chứng kiến bất kỳ điều gì trong số đó.
"Không có gì đặc biệt khi được sinh ra. Không có gì cả. Hầu hết vũ trụ chỉ là cái chết, không có gì hơn. Trong vũ trụ này của chúng ta, sự ra đời của một sự sống mới ở một góc nào đó trên hành tinh của chúng ta chẳng qua là một tia sáng nhỏ bé, không đáng kể. Chết là chuyện bình thường, sống làm gì?” Trích từ Johan
Nina Fortner
Lồng tiếng bởi: Mamiko Noto
Anna Liebert (アンナ・リーベルト, Anna Rīberuto) là em gái song sinh của Johan, người duy nhất sống sót về thể chất không hề hấn gì trong đêm cha mẹ cô bị giết và anh trai cô Johan bị bắn trong một vụ trộm bất thành. Sau khi cô và Johan biến mất, cô được gia đình Fortner từ Heidelberg nhận nuôi, nơi cô được đặt tên là Nina Fortner (ニナ・フォルトナー, Nina Forutonā). Nina là một cô gái trẻ ngọt ngào, tốt bụng, đáng yêu, chăm chỉ và thông minh. Cô dường như có một cuộc sống hạnh phúc khi là sinh viên luật tại Đại học Heidelberg và là một học viên aikido, nhưng phát hiện ra có những phần trong quá khứ của mình mà cô không nhớ nổi. Lúc đầu, cô bị mất trí nhớ do chấn thương tâm lý sau vụ tấn công. Cô sống rất yên bình cho đến khi Johan liên lạc với cô vào ngày sinh nhật thứ 20 của họ và khiến vợ chồng nhà Fortner bị giết. Sau đó, cô đuổi theo Johan, bằng những phương pháp khác và vì một lý do khác với Tenma. Mặc dù Nina không chia sẻ chứng rối loạn tâm thần của anh trai mình nhưng họ có những nỗi sợ hãi tương tự liên quan đến quá khứ của họ. Mặc dù Nina chủ yếu là một người theo chủ nghĩa hòa bình nhưng cô ấy sẽ đe dọa (hoặc giết) ai đó nếu mình cảm thấy cần thiết hoặc để bảo vệ người khác. Trong một buổi thôi miên với Bác sĩ Gillen, tính cách của cô thay đổi và cô tấn công anh ta. Khi cô lấy lại hoàn toàn ký ức của mình, tiết lộ rằng cô chính là cặp song sinh được Franz Bonaparta đưa đến Biệt thự Hoa Hồng Đỏ của ông ta khi ông phạm tội giết người hàng loạt. Bonaparta sau đó bảo cô hãy quên những gì mình nhìn thấy và chạy trốn và đừng "trở thành quái vật". Cô cũng là người đã bắn vào đầu Johan theo sự thúc giục của chính anh ta, sau khi anh giết gia đình Liebert. Cô có mặt tại Thảm sát Ruhenheim, nơi cô nói với anh trai mình rằng cô đã tha thứ cho anh ta và cố gắng khuyên can Tenma đừng bắn Johan. Cuối truyện, Nina sắp tốt nghiệp đại học và dự định theo học trường luật.
Thanh tra Lunge
Lồng tiếng bởi: Tsutomu Isobe
Heinrich Lunge (ハインリッヒ・ルンゲ, Hainrihhi Runge) là một thám tử từ BKA (Bundeskriminalamt - cục điều tra liên bang Đức) được giao phụ trách vụ án giết người tại Bệnh viện Eisler Memorial. Ban đầu Lunge cho rằng Johan được Tenma tưởng tượng như một cái cớ, nhưng dần dần tin rằng Tenma bị bệnh đa nhân cách; với việc Tenma cố ép "Johan" lộ diện. Ông ta dường như không có cảm xúc, điều này cho phép ông dấn thân vào mọi trường hợp mà ông ta làm việc. Sự tận tâm của ông đối với công việc phải trả giá bằng cuộc sống cá nhân của mình; Trong suốt bộ phim, vợ và đứa con gái đang mang thai đã bỏ ông ta. Điều ông ta yêu thích nhất là công việc của mình; Lunge đã bỏ lỡ cơ hội gặp cháu trai của mình lần đầu tiên để gặp những người bạn của Tenma đến từ Nhật Bản. Lunge có trí nhớ tuyệt vời, "nhập dữ liệu" vào đầu bằng cách thực hiện động tác gõ bằng tay. Sự cứng rắn của ông ta khiến một nghi phạm giết người phải tự sát, làm cấp trên phải loại Lunge khỏi mọi vụ án của ông. Sau vụ cháy Đại học Munich, Lunge biết được rằng Johan thực sự tồn tại. Sau đó, ông có một "kỳ nghỉ" ở Praha để truy tìm Franz Bonaparta, tác giả của cuốn sách có thể tiết lộ nguồn gốc của Johan. Lunge đến Ruhenheim, gặp Grimmer và Tenma; xin lỗi Tenma vì những sai lầm của mình, ông bắt đầu cuộc đấu với Roberto. Ông ấy bày tỏ sự hối tiếc; trong cuộc chiến với Roberto, ông có vẻ tức giận khi nghe Roberto nói rằng vợ ông ấy đã hạnh phúc như thế nào khi ở bên một người đàn ông khác, và cháu trai của ông đã coi người đàn ông đó như ông nội của mình. Cả hai đều bị thương trong vụ đấu súng; Lunge sống sót, trong khi Roberto chết vì vết thương của mình. Trong khi được cáng chở đến bệnh viện, ông đổ lỗi cho Roberto về Vụ thảm sát Ruhenheim và nói rằng Roberto về cơ bản phải chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra ở đó. Không rõ tại sao, nhưng có vẻ như ông ấy làm vậy để bảo vệ Tenma. Sau vụ thảm sát Ruhenheim, Lunge đến thăm mộ của Wolfgang Grimmer cùng với Jan Suk và Fritz Verdemann. Ông cũng nói với họ rằng ông là giáo sư tại học viện cảnh sát và đã nối lại mối quan hệ với con gái mình.
Dieter
Lồng tiếng bởi: Junko Takeuchi
Dieter (ディーター, Dītā) là một cậu bé mà Tenma gặp trong quá trình tìm kiếm Johan. Khi Tenma gặp cậu lần đầu tiên, cậu là một đứa trẻ mồ côi dưới sự chăm sóc của một người đàn ông tên là Hartmann; Tenma sau đó phát hiện ra rằng Dieter bị Hartmann hành hạ thể chất và tâm lý. Hartmann có kế hoạch biến Dieter thành một Johan khác bằng cách áp dụng điều kiện tương tự được sử dụng trong trại trẻ mồ côi 511 Kinderheim, nhưng không thành công. Dieter sau đó trở nên hạnh phúc hơn sau khi được Tenma cứu khỏi sự ngược đãi của Hartmann. Dieter đi theo Tenma trong cuộc tìm kiếm Johan để cậu bé ngăn Tenma trở thành kẻ sát nhân (vì cậu bé yêu quý anh). Sau đó, cậu hợp tác với Nina để giúp cô tìm hiểu thêm về quá khứ của mình và hỗ trợ tinh thần cho cô khi những ký ức đau buồn của cô hiện lại (vì cậu bé cũng bị ngược đãi tương tự). Dieter dường như đã tiếp thu một số niềm tin và sự lạc quan của Tenma về cuộc sống khi cậu gặp một cậu bé ở bệnh viện tên là Martin bị ảnh hưởng bởi Johan và dường như đã bị Johan dụ dỗ đứng trên gờ của tòa nhà cao tầng, nói rằng nó giống như một trò chơi. Cậu bé kể lại những gì cậu đã nghe Johan nói về sự sống, cái chết và nỗi sợ hãi, đồng thời cố gắng dụ Dieter đi dọc theo trên gờ của một tòa nhà cao với đôi mắt nhắm nghiền. Dieter từ chối, nói rằng cậu muốn sống, muốn trải nghiệm những điều mới mẻ và muốn nhìn thấy khuôn mặt của những người mình yêu thương; cậu ấy lặp lại những gì cậu đã nghe Tenma nói: "Ngày mai rồi sẽ tốt hơn". Dieter giúp Nina tìm hiểu thêm về quá khứ của cô. Vào cuối bộ truyện, cậu gặp lại Otto Heckel, người đã yêu cầu Dieter cung cấp thông tin mà ông đã tìm được về nơi ở của mẹ của cặp song sinh Liebert cho Tenma.
Eva Heinemann
Lồng tiếng bởi: Mami Koyama
Eva Heinemann (エヴァ・ハイネマン, Eva Haineman) là vợ sắp cưới của Tenma và là con gái của Giám đốc Bệnh viện Eisler Memorial. Cô hời hợt, hách dịch, ồn ào, khắt khe và lôi kéo. Cô cũng độc ác, hay chế nhạo, hạ thấp phẩm giá và ghét việc không làm theo ý mình. Mặc dù cô yêu Tenma nhưng đôi khi cô ấy lại đối xử không tốt với anh. Sau khi cha cô giáng chức Tenma vì không tuân theo mệnh lệnh của ông, cô đã nhẫn tâm chia tay anh. Vụ sát hại giám đốc Heinemann (cha cô) đã gây tổn thất tinh thần nặng nề cho cô. Cô cố gắng làm hòa với Tenma nhưng anh lặng lẽ từ chối cô. Vài năm và ba cuộc hôn nhân thất bại sau đó, cô gặp Thanh tra Lunge, nơi cô hồi tưởng về khoảng thời gian ở bên Tenma. Hoài niệm, Eva đến thăm Tenma tại bệnh viện và cố gắng bắt đầu lại từ đầu với anh. Khi Eva bị từ chối một lần nữa, cô đã bực bội và cảnh cáo anh ta. Cô trở thành một kẻ nghiện rượu cay đắng, sử dụng tiền thu được từ việc dàn xếp ly hôn để hỗ trợ cho cuộc sống của mình. Mặc dù cô không nghi ngờ Tenma đã gây ra cái chết cho cha cô, nhưng cô vẫn vô cùng hy vọng được thấy anh phải chịu đựng cảnh trong tù để trả thù cho việc anh đã từ chối cô. Có thời điểm, cô có một mối tình lãng mạn chớm nở với người làm vườn của mình, nhưng sau khi thấy vợ cũ đến thăm con gái anh ta vào dịp Giáng sinh, Eva đã đốt nhà mình trong cơn hận thù và ganh ghét. Eva đã theo dõi Tenma chín năm trước và nhìn thấy Johan Liebert vào đêm hắn bắn Adolf Junkers. Vì vậy, cô ta trở thành mục tiêu của Roberto. Peter Čapek và "The Baby" thuê Martin đưa cô đến Frankfurt và canh gác, nơi cô cố gắng biến Martin thành bản sao của Tenma. Khi Martin chết sau một cuộc đấu súng, Eva bị tàn phá nặng nề. Mặc dù Tenma bảo cô đi tàu đến Munich để gặp bác sĩ Reichwein và nói với cảnh sát những gì cô biết về Johan, nhưng thay vào đó cô lại lên kế hoạch trả thù những kẻ chịu trách nhiệm cho cái chết của Martin và mua một khẩu súng. Eva tìm thấy Kristoff Sievernich (chịu trách nhiệm một phần về cái chết của Martin) và cố gắng giết anh ta nhưng không thành công. Cô được cứu bởi Tenma, người đã làm Sivernich bị thương. Eva sau đó được nhìn thấy cùng Dieter tại nhà bác sĩ Reichwein, nơi cô đề cập rằng cảnh sát không tin câu chuyện của cô rằng Johan Liebert là thủ phạm. Trong thời gian này, Eva bỏ rượu sang hút thuốc lá. Vào cuối bộ truyện, cô trở thành một người trang trí nội thất, người đã giải tỏa sự tức giận của mình với Tenma và nỗi đau buồn dành cho Martin khi cô đến thăm bác sĩ Reichwein, cô cũng đã thay đổi là đụng chạm gì đến rượu nữa và tính cách cũng tốt phần nào. Trong Another Monster, Eva giải thích rằng cô rời bỏ Tenma sau khi Giám đốc Heinemann giáng chức anh ta vì cha cô cần một cánh tay phải mà ông có thể đặt toàn bộ niềm tin vào. Eva vẫn nhấn mạnh rằng việc phá bỏ hôn ước là quyết định tỉnh táo của chính cô.
Werner Weber
Werner Weber (ヴェルナー・ウェーバー, Verunā Wēbā) là một nhà báo tự do và là nhân vật chính của Another Monster. Anh ấy đã phỏng vấn những người có liên quan đến cuộc đời của Kenzo Tenma và Johan Liebert, từ những người bạn thời thơ ấu của Tenma, Eva Heinemann, Thanh tra Lunge, Rudi Gillen, Karl Neumann, Jan Suk, Karel Lanke và những người khác. Anh ta bị giết bởi Hermann Führ ở cuối "Another Monster".
Nhân vật phụ
Giám Đốc Heinemann
Lồng tiếng bởi: Masaru Ikeda
Udo Heinemann (ウド・ハイネマン, Udo Haineman) là Giám đốc Bệnh viện Eisler Memorial. Ông giám sát Tenma cùng các bác sĩ và bác sĩ phẫu thuật khác. Tenma không hài lòng với chính sách của bệnh viện khi anh được lệnh phẫu thuật cho một ca sĩ opera thay vì một công nhân xây dựng người Thổ Nhĩ Kỳ đến trước. Tenma cứu được ca sĩ, nhưng người công nhân xây dựng đã chết do bác sĩ Becker trì hoãn điều trị. Khi cặp song sinh Liebert được đưa đến, Tenma đang định phẫu thuật cho người anh trai thì trưởng khoa phẫu thuật, Bác sĩ Oppenheim và Giám đốc Heinemann ra lệnh anh phải phẫu thuật cho Thị trưởng, người đến sau cặp song sinh. Khi Tenma nói với Giám đốc Heinemann rằng anh ta là người duy nhất có thể phẫu thuật thành công cho Johan và nhờ bác sĩ Boyer xử lý thị trưởng, Heinemann phớt lờ yêu cầu của Tenma vì ông nghĩ cứu sống Thị trưởng thì chắc chắn sẽ tăng tài trợ cho bệnh viện Eisler Memorial của ông. Quyết định phẫu thuật cho Johan của Tenma khiến các bác sĩ khác phải tranh nhau che chở cho anh vào phút cuối dẫn đến cái chết của Thị trưởng. Giám đốc Heinemann tuyên bố trong một cuộc họp báo rằng Thị trưởng Roedecker đã chết vì nhồi máu não và họ đã cố gắng hết sức để cứu ông. Khi Tenma xin lỗi Giám đốc Heinemann tại một bữa tiệc ở bệnh viện vì những gì đã xảy ra với Thị trưởng Roedecker, Heinemann nói với anh rằng đừng lo lắng về điều đó và ông chỉ nói Tenma làm theo trái tim mình. Tuy nhiên, bác sĩ Boyer sẽ đảm nhận vị trí bác sĩ giải phẫu thần kinh trưởng để thay thế Tenma. Mặc dù Giám đốc Heinemann vẫn cho phép Tenma tiếp tục công việc bác sĩ phẫu thuật của mình, nhưng ông sẽ không nhận giấy tờ từ anh trước hội nghị thượng đỉnh sức khỏe tiếp theo và sẽ không giới thiệu anh nếu anh giám chuyển sang bệnh viện khác làm. Tức giận về những gì Giám đốc Heienmann đã làm, Tenma ngồi bên cạnh Johan Liebert đang bất tỉnh và nghe anh ca ngợi thái độ của Heinemann lẫn than rằng thà ông ta (chỉ giám đốc Heinemann) chết đi thì hơn. Giám đốc Heinemann sau đó ra lệnh cho Bác sĩ Oppenheim nhờ Bác sĩ Boyer trông chừng cặp song sinh sau khi nghe tin Tenma đang trông chừng chúng. Giám đốc Heinemann sau đó được phát hiện đã chết khi ông, Bác sĩ Oppenheim và Bác sĩ Boyer bị đầu độc bởi kẹo do Johan để lại. Cái chết của giám đốc Heinemann đã ảnh hưởng nặng nề đến Eva, người đã rơi nước mắt trong đám tang của cha cô.
Bác sĩ Oppenheim
Lồng tiếng bởi: Nobuaki Fukuda
Bác sĩ Oppenheim (オッペンハイム, Oppenhaimu) là Trưởng khoa Phẫu thuật tại Eisler Memorial, phục vụ dưới quyền Udo Heinemann. Ông ta nhờ Tenma phẫu thuật cho ca sĩ opera F. Rosenbach trong khi bác sĩ Becker điều trị cho công nhân xây dựng Thổ Nhĩ Kỳ. Khi cặp song sinh Liebert đến trước, ông đưa cho Tenma chiếc điện thoại của mình để Giám đốc Heinemann ra lệnh cho Tenma phẫu thuật cho Thị trưởng Roedecker trước. Khi Thị trưởng Roedecker chết trong khi phẫu thuật, bác sĩ Oppenheim đã mắng Tenma vì đã để anh ta chết. Ông ta nói với Tenma rằng anh đã nộp báo cáo của mình cho Giám đốc Heinemann và cái chết của Thị trưởng Roedecker là lỗi của Temna khi anh ta, Boyer và bác sĩ khác bỏ đi. Giám đốc Heinemann sau đó ra lệnh cho Bác sĩ Oppenheim giao Bác sĩ Boyer phụ trách cặp song sinh sau khi ông nghe tin Tenma đang theo dõi họ. Cùng với Giám đốc Heinemann và Bác sĩ Boyer, Bác sĩ Oppenheim được phát hiện đã chết khi cả ba bị đầu độc bằng viên kẹo do Johan Liebert để lại. Cái chết của Bác sĩ Oppenheim khiến chủ tịch hội đồng quản trị phải nhường chức vụ của những bác sĩ đã chết cho Tenma.
Bác sĩ Becker
Lồng tiếng bởi: Yasuyoshi Hara
Bác sĩ Becker (ベッカー, Bekkā) là bác sĩ phẫu thuật tại Eisler Memorial. Trong khi bác sĩ Tenma đang điều trị cho ca sĩ opera F. Rosenbach theo lệnh của bác sĩ Oppenheim, thì bác sĩ Becker xử lý ca phẫu thuật cho một công nhân xây dựng người Thổ Nhĩ Kỳ chết vì chậm trễ điều trị. Khi cặp song sinh Liebert được đưa đến, ông ấy đã giúp Tenma phẫu thuật cho Johan. Sau cái chết của Thị trưởng Roedecker, Becker đến thăm Tenma hỏi xem ông có nghe tin gì từ Giám đốc Udo Heinemann không. Khi Giám đốc Heinemann, Bác sĩ Oppenheim và Bác sĩ Boyer được phát hiện đã chết, thì ông cùng Tenma và một y tá phát hiện ra rằng cặp song sinh Liebert đã biến mất. Sau đám tang của Giám đốc Heinemann, Bác sĩ Becker và Tenma được tiếp cận bởi Thanh tra Weisbach và Lunge, những người đang tìm kiếm manh mối.
Thám tử Weisbach
Lồng tiếng bởi: Ryuji Nakagi
Benjamin Weisbach (ベンヤミン・ヴァイスバッハ, Ben'yamin Vaisubahha) là thám tử cảnh sát Nordrhein-Westfalen, người đầu tiên điều tra vụ giết người của nhà Liebert. Tại bệnh viện, ông cố ép Anna Liebert nhớ tên cô và anh trai cô. Sau đám tang của Heinemann, ông và thanh tra Lunge tiếp cận Tenma để tìm manh mối. Chín năm sau, Weisbach sắp nghỉ hưu khi đưa kẻ sát nhân bị bắt Rheinhardt Dinger đến đồn cảnh sát. Lúc đó ông gặp Rudi Gillen, người đang thẩm vấn những kẻ sát nhân có những vụ giết người không phù hợp với phương thức hoạt động của chúng. Khi cả hai thẩm vấn lại Rheinhardt, họ được dẫn dắt bởi một manh mối dẫn đến Johan Liebert.
Otto Heckel
Lồng tiếng bởi: Yoshito Yasuhara
Otto Heckel (オットー・ヘッケル, Ottō Hekkeru) là một tên trộm răng khểnh tình cờ gặp Tenma ở chương 17 khi hắn đột nhập vào nhà một nạn nhân giết người nơi Tenma đang điều tra. Heckel không quan tâm đến việc giải quyết bí ẩn xung quanh con quái vật; ông chỉ bận tâm đến việc kiếm tiền nhanh chóng bằng mọi cách cần thiết. Tuy nhiên, Tenma và Heckel phải dựa vào nhau để tồn tại. Heckel trở thành bạn của Dieter vào khoảng thời gian Tenma gặp "The Baby". Vào cuối bộ truyện, ông ta xuất hiện trở lại và nói với Dieter rằng mình đã tìm được mẹ của cặp song sinh Liebert cho Tenma.
"The Baby"
Lồng tiếng bởi: Kazuo Kumakura
"The Baby" (赤ん坊, Akanbō) là một nhà lãnh đạo Đức Quốc xã với chiều cao thấp hơn mức bình thường. Hắn ta coi Johan là một người lãnh đạo chủng tộc Arya khuôn mẫu, người có thể trở thành Adolf Hitler tiếp theo để đưa nước Đức trở nên nổi tiếng. Baby làm việc cho bốn cá nhân sẵn sàng chào đón Johan với tư cách là một nhà lãnh đạo chính trị bất chấp việc Nina và Tenma liên tục nhấn mạnh rằng Johan không có hứng thú. Hắn ta hy vọng có thể sử dụng Nina làm mồi nhử để ép buộc Johan và như một biện pháp phòng ngừa để bảo vệ hắn (và các thành viên khác trong nhóm) khỏi Johan. Việc này không thành công khi Johan giết chết một trong bốn thành viên của tổ chức. Baby lần đầu tiên xuất hiện với Nina từ sau tấm màn đỏ, nhảy theo bài "Be My Baby". Hắn ta bị giết bởi một vũ công thoát y được Johan thuê trong một âm mưu tiêu diệt Peter Čapek và tổ chức của ông ta.
Tướng Wolf
Lồng tiếng bởi: Kōichi Kitamura
Tướng Helmut Wolf (ヘルムート・ヴォルフ, Herumūto Vorufu) là một người lính già là người đầu tiên tìm thấy cặp song sinh, đã đặt tên cho Johan (tên của cậu bé trong cuốn sách ảnh có tên The Monster without a Name - Con Quái Vật Vô Danh) và gửi cậu đến 511 Kinderheim. Mặc dù là thành viên của tổ chức cánh hữu với mục tiêu đưa Johan trở thành nhà lãnh đạo của nước Đức, Wolf thực sự không muốn biến Johan trở thành Quốc trưởng thời hiện tại. Gia đình và những người quen của ông đã bị Johan giết chết, dạy cho ông sự cô đơn thực sự. Wolf yêu cầu Tenma giết Johan giúp ông ta. Tenma gặp lại Wolf trên giường bệnh sau khi Biệt thự Hoa Hồng Đỏ bị phá hủy; trước khi chết, ông cầu xin Tenma nói tên mình để làm bằng chứng cho sự tồn tại của ông.
Rudi Gillen
Lồng tiếng bởi: Takayuki Sugo
Rudi Gillen (ルディー・ギレン, Rudī Giren) là một nhà tội phạm học và là một trong những bạn học cũ của Tenma ở trường đại học (cựu sinh viên của Bác sĩ Reichwein). Anh giúp đỡ Tenma bằng cách cứu anh khỏi bị bắt và thu thập thông tin về Johan từ những tên tội phạm mà Johan đã gặp. Gillen có cái nhìn sâu sắc về Johan và động cơ của anh ta, nhưng vẫn bối rối trước hành động của Johan. Gillen sau đó đưa ra liệu pháp thôi miên cho Nina, trong đó cô cố gắng tấn công anh. Gillen và Thanh tra Weisbach sau đó thẩm vấn những kẻ sát nhân đã giết những người không phù hợp với phương thức hoạt động của chúng. Sau đó anh đi cùng Nina đến thị trấn ở Ruhenheim, nơi họ gặp một số người mà Tenma đã sơ tán. Anh ta yêu cầu một trong những người lớn đưa bọn trẻ đến điều trị tại bệnh viện và yêu cầu chính quyền đến Ruhenheim nhanh nhất có thể. Gillen sau đó được nhìn thấy cùng Nina khi Johan bị Herbert Knaup bắn. Trong Another Monster, Gillen viết một cuốn sách bán chạy về Johan và chuỗi vụ giết người của hắn. Anh tin rằng Johan vẫn còn ở bệnh viện, nhưng nghĩ tốt nhất không nên phỏng vấn hắn nếu có tỉnh lại.
Roberto
Lồng tiếng bởi: Nobuyuki Katsube
Roberto (ロベルト, Roberuto) là một người đàn ông to lớn, vạm vỡ và là một trong số những người đến từ trại trẻ mồ côi 511 Kinderheim mà Johan kiểm soát. Hắn ngưỡng mộ Johan, thường xuyên làm vệ sĩ và sát thủ cho anh. Khi gặp Nina Fortner lần đầu tiên, mặc dù Johan không muốn làm hại em gái mình nhưng Roberto đã để cô bị người của hắn giết vì muốn bảo vệ Johan (mặc dù Nina sống sót sau đó). Trong số tay sai của Johan, Roberto xuất hiện thường xuyên nhất với tư cách là kẻ thù của Tenma và Eva. Hắn ta bị Tenma bắn và dường như rơi từ ban công xuống biển lửa trong lễ tặng thư viện cho trường Đại học Munich, nhưng trở lại cải trang làm luật sư cho Tenma với bí danh Alfred Baul (アルフレート・バウル, Arufurēto Bauru). Phần lớn trung thành với Johan, hắn gầy hơn và cánh tay phải của hắn ta phần lớn trở nên vô dụng vì trúng đạn của Tenma. Trong khi Roberto không biết gì về quá khứ của mình thì có ý kiến cho rằng hắn ta là cháu trai của một cựu cảnh sát mật cấp cao Tiệp Khắc tên là Karel Lanke. Lanke kể câu chuyện về người em gái cùng chồng bị bắn khi cố vượt Bức tường Berlin để vào Tây Đức; chỉ có con trai của họ, Adolf Reinhart (アドルフ・ラインハルト, Adorufu Rainharuto), sống sót sau cuộc tấn công. Với tư cách là người giám hộ hợp pháp của Adolf, Lanke đã ký giấy chuyển cháu trai của mình đến 511 Kinderheim. Wolfgang Grimmer có thể là người duy nhất nhớ đến hắn, coi hắn như một người bạn trong thời gian họ ở trại trẻ mồ côi; Grimmer nhớ rằng một trong những đồ uống yêu thích của Adolf là ca cao. Roberto bị Thanh tra Lunge làm trọng thương trong Vụ thảm sát Ruhenheim, nhưng vẫn cố gắng giết Franz Bonaparta, kẻ định bắn Johan, trước khi chết vì vết thương đạn.
Hans Georg Schuwald
Lồng tiếng bởi: Michio Hazama
Hans Georg Schuwald (ハンス・ゲオルグ・シューバルト, Hansu Georugu Shūbaruto), được biết đến với biệt danh "Ma cà rồng xứ Bavaria" (バイエルンの吸血鬼, Baierun no Kyūketsuki), là một doanh nhân thành đạt, sống ẩn dật, bị liệt hai chân và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế châu Âu. Gần như bị mù, Schuwald thuê một số sinh viên từ Đại học Munich và để từng người (mỗi ngày một sinh viên khác nhau) đọc sách tiếng Latinh cho ông nghe. Ông có một đứa con trai với một cô gái điếm tên là Margot Langer. Mặc dù người ta tin rằng ông đã ở đó khi Karl được sinh ra nhưng vì lý do nào đó mà ông đã bỏ rơi hai mẹ con. Trong khi buổi lễ tặng thư viện cho trường Đại học Munich của ông là mục tiêu của Johan trong một kế hoạch gây ra khủng bố, thì chính quyền (bao gồm cả Thanh tra Lunge) tin rằng Schuwald là mục tiêu thực sự và Tenma phải chịu trách nhiệm. Trước khi Tenma rời đi Praha, ông nhờ Karl chuyển một tin nhắn cho Schuwald về mẹ của cặp song sinh Liebert sống ở Praha. Schuwald sau đó trải qua quá trình trị liệu với bác sĩ Reichwein và thuê Fritz Verdemann để bảo vệ Tenma khi anh bị bắt. Sau vụ thảm sát Ruhenheim ở cuối truyện, Schuwald được thông báo về tình trạng hiện tại của Tenma và mong muốn được gặp lại anh vào một ngày nào đó.
Margot Langer
Lồng tiếng bởi: Atsuko Tanaka
Margot Langer (giả) lồng tiếng bởi: Kazuko Yanaga
Margot Langer (マーゴット・ランガー, Māgotto Rangā) là một gái điếm và là mẹ của con trai (Karl Neumann) với chồng Hans Georg Schuwald. Tên thật của cô ấy là Helenka Novakova (ヘレンカ・ノヴァコバー, Herenka Novakobā). Khi cô và một người bạn nhập cư trái phép vào Đức từ Praha, bạn của cô đã bị bắt. Nhưng Margot đã thành công và làm gái mại dâm, người cuối cùng trở thành người yêu của Schuwald. Nhiều năm sau khi sinh ra Karl, cô đã đuổi anh đi vì tình yêu của người mẹ để anh không bị coi là "con trai của một gái điếm". Người ta gợi ý rằng sau khi nghỉ hưu, cô sống với Johan trong tình bạn và kể cho anh nghe về quá khứ của cô và mẹ anh. Tuy nhiên, người ta cũng ám chỉ rằng Johan đã giết Margot. Blue Sophie, người sau này lấy tên Margot đóng giả, sau đó cũng bị Johan phát hiện và ra lệnh Roberto giết bà. Sau đó được tiết lộ rằng người bạn cũ của Margot là mẹ của cặp song sinh Liebert.
Karl Neumann
Lồng tiếng bởi: Tomokazu Seki
Karl Neumann (カール・ノイマン, Kāru Noiman) là sinh viên tại Đại học Munich, là con trai của Schuwald và Langer (người mẹ đã gửi anh đi để có một cuộc sống tốt đẹp hơn). Karl dành phần lớn thời thơ ấu của mình trong sự chăm sóc của nhiều gia đình nhận nuôi, cho đến khi có một gia đình là Neumann nhận nuôi anh và tử tế chăm sóc; anh tỏ ra yêu thương và chăm sóc họ như cha mẹ thật của mình. Neumann cố gắng đến gần Schuwald mà không để ông ta biết rằng anh là con trai ông ta. Anh cũng liên quan đến bí ẩn về cái chết của một sinh viên, và sự biến mất của Johan Liebert sau khi bộ sưu tập sách của cha anh bị phá hủy trong địa ngục trong một buổi lễ ở thư viện trường đại học. Sau khi hòa giải với cha mình, anh vẫn là trợ lý riêng của Schuwald. Sau đó anh đối mặt với thanh tra Lunge và cho ông ta xem một bức ảnh của Johan. Theo lệnh của cha mình, anh gặp Tenma ở ga xe lửa và tiết lộ rằng mẹ của cặp song sinh sống ở Praha. Khi Tenma bị bắt, Schuwald đã yêu cầu Karl thuê Fritz Verdemann đại diện cho Tenma, và Neumann có mặt khi Nina quay lại trị liệu với bác sĩ Gillen. Ở cuối truyện, Karl nói với cha mình về tung tích của Tenma sau Vụ thảm sát Ruhenheim. Trong Another Monster được tiết lộ rằng anh đã lấy họ của Schuwald và sống hạnh phúc với cha mình. Anh đang phải đối mặt với những thách thức về quan hệ cha con của mình với tư cách là con trai của Schuwald.
Lotte Frank
Lồng tiếng bởi: Kyoko Hikami
Lotte Frank (ロッテ・フランク, Rotte Furanku) là một sinh viên tại Đại học Munich, người đang cố gắng chiếm được trái tim của Karl Neumann, vì vậy cô đã hỗ trợ anh điều tra về người cha và người mẹ quá cố của anh. Khi Karl từ chối (và vô tình làm bẽ mặt) cô bằng cách nhờ người khác thay thế (Karl hối lộ cậu ta bằng tiền) đi nhảy với cô, cô đã đau buồn và được Nina an ủi; họ nhanh chóng trở thành bạn bè. Lotte cũng muốn biết về những bí ẩn đằng sau Johan Liebert và cái chết của người sinh viên làm việc cùng họ cho Schuwald. Lotte và Karl được nhìn thấy cùng nhau khi Anna quay lại thăm những người khác một thời gian ngắn và đưa Dieter đi cùng Bác sĩ Reichwein. Không biết cô ấy và Karl có phải là một cặp hay không nhưng họ dường như vẫn là bạn bè.
Richard Brown
Lồng tiếng bởi: Hiroshi Arikawa
Richard Brown (リヒァルト・ブラウン, Rihyarudo Buraun) là một điều tra viên tư nhân được Schuwald thuê để điều tra vụ tự tử (rõ ràng) của một sinh viên tên Edmund Farren. Trước đây làm việc cho Sở cảnh sát Munich, Richard rời khỏi sở sau khi bắn chết một nghi phạm vị thành niên trong tình trạng say rượu. Ít lâu sau, vợ và con gái bỏ ông vì chứng nghiện rượu. Ông có quen Reichwein để vượt qua cơn nghiện của mình, đang hàn gắn lại cuộc sống của mình và đã hòa giải được một phần với gia đình. Trong quá trình điều tra về vụ tự sát của Farren, Brown trở nên nghi ngờ Johan Liebert. Ông bắt đầu nhìn vào quá khứ của chàng trai trẻ và nhận thấy mối liên hệ với một số vụ chưa giải được trước đây của ông ta. Nhận thức được sự nghi ngờ từ ông, Johan giáp mặt với Brown và dẫn ông ta lên sân thượng trong khi thảo luận về vụ việc dẫn đến ông bị cảnh sát sa thải. Johan khẳng định rằng Brown không say rượu khi bắn nghi phạm, nhưng tự thuyết phục bản thân ông rằng ông ta có tội và Johan đưa ông ta chai rượu. Brown sau đó được phát hiện đã chết sau khi rơi từ mái nhà xuống cùng với một chai rượu whisky bị vỡ. Cảnh sát cho rằng đó là vụ tự sát hoặc tai nạn. Tuy nhiên, Bác sĩ Reichwein tin rằng ông đã bị sát hại vì Richard từ chối uống bất cứ loại rượu nào ngoại trừ rượu Scotch chính hãng.
Bác sĩ Reichwein
Lồng tiếng bởi: Ichirō Nagai
Julius Reichwein (ユーリウス・ライヒワイン, Yūriusu Raihiwain) là một nhà tâm lý học chuyên tư vấn và hỗ trợ phục hồi người nghiện rượu. Ông ta bị cuốn vào bí ẩn xung quanh "quái vật" sau khi một trong những bệnh nhân của mình (Richard Brown) được cho là chết trong một vụ tai nạn say rượu khi đang điều tra Johan Liebert. Sau đó, ông trở thành người giám hộ cho Dieter (giúp đỡ Tenma) và chăm sóc tâm lý cho Nina, Eva và những người khác.
Wolfgang Grimmer
Lồng tiếng bởi: Hideyuki Tanaka
Wolfgang Grimmer (ヴォルフガング・グリマー, Vorufugangu Gurimā) là một nhà báo tự do đang nghiên cứu về 511 Kinderheim, người bị lôi kéo vào cuộc tìm kiếm Johan khi anh giúp đỡ Tenma. Gần như luôn mỉm cười, anh ấy có vẻ là một người đàn ông thân thiện, lịch sự và tốt với trẻ em. Tuy nhiên anh ta dường như có một mặt tối; từng là đối tượng ở 511 Kinderheim, anh đã phát triển một nhân cách khác: một chiến binh hung hãn bảo vệ chính mình khi anh bị căng thẳng, người mà anh gọi là "Steiner Tuyệt Vời" (超人シュタイナー), sau một chương trình truyền hình mà anh ấy xem khi còn nhỏ. Do được đào tạo làm gián điệp sau thời gian ở 511 Kinderheim, anh thừa nhận mình không giỏi bày tỏ cảm xúc. Grimmer đề cập với Tenma rằng anh đã kết hôn và có một cậu con trai. Một ngày nọ, con trai anh đột ngột tắt thở; mặc dù đã cố gắng hết mức có thể nhưng anh không thể làm gì được. Khi anh đến dự đám tang của con trai mình, vợ anh bị sốc và tức giận trước khuôn mặt tỏ ra không đau buồn của anh. Tuy nhiên, cuối cùng anh cũng có thể bộc lộ cảm xúc của mình khi một đứa trẻ tên Milos, một trong những người bạn của anh suýt đi vào con đường giống Johan. Grimmer đến Ruhenheim dưới bí danh là cậu Neumeyer (ノイマイヤー) và gặp Thanh tra Lunge. Khi Vụ thảm sát Ruhenheim bắt đầu, Wolfgang đe dọa cặp vợ chồng già, anh nhận ra người chồng giả vờ liệt hai chân và người vợ, cả hai đưa súng cho người dân ở thị trấn. Khi Grimmer bị trọng thương thì đã kích hoạt "Steiner tuyệt vời" của anh, tấn công các tay súng. Khi hấp hối, anh tâm sự với Tenma rằng anh đã khuất phục trước cơn tức giận của mình (làm tăng khả năng bản ngã thay thế của anh là một bộ lọc tâm lý mà anh dùng để biện minh cho hành động bạo lực của mình); sau đó anh ta chết trước mặt Tenma, Franz Bonaparta và Wim Gnaup.
Jan Suk
Lồng tiếng bởi: Hisayoshi Suganuma
Jan Suk (ジャンスク, Jan Suku) là một thanh tra của cảnh sát Praha đang cố gắng giải quyết bí ẩn liên quan đến cái chết của thanh tra cấp trên Zeman. Zeman đang điều tra cái chết của một cựu hiệu trưởng tại trại trẻ mồ côi 511 Kinderheim, với Grimmer là nghi phạm, thì Jan Suk phát hiện ra Zeman đang làm việc với cảnh sát mật Tiệp Khắc. Khi Cục trưởng Havrik, Chánh thanh tra Patera và Thanh tra Janáček (tất cả đều có mối liên hệ với cảnh sát mật) bị đầu độc một cách bí ẩn bằng kẹo do Johan Liebert (lúc đó đang giả dạng Anna Liebert) tặng cho Thanh tra Janáček, Jan Suk đang bị nghi ngờ và mọi chuyển động của anh ta bị theo dõi. Anh tâm sự với Anna Liebert (Johan giả dạng em gái mình), một phụ nữ tóc vàng mà Suk gặp ở quán bar. Hai thanh tra cảnh sát bị Johan giết trong căn hộ của Suk. Suk lấy được một đoạn băng do cựu hiệu trưởng 511 Kinderheim để lại và cùng Wolfgang Grimmer trốn trong một tòa nhà bỏ hoang, nhưng bị thương nặng bởi những người tìm kiếm nó. Có những điểm tương đồng giữa Tenma và Suk: cả hai đều là những chàng trai trẻ có triển vọng trong nghề nghiệp, bị cuốn vào một mạng lưới các sự kiện với tư cách là nghi phạm chính. Grimmer sau đó gửi một bức thư cho cảnh sát để nhận trách nhiệm và miễn tội cho Jan Suk liên quan đến cái chết của các sĩ quan cảnh sát. Sau đó anh và Verdemann hợp tác để khám phá sự thật về Franz Bonaparta. Vào cuối bộ truyện, Jan Suk đến thăm mộ Grimmer cùng với Thanh tra Lunge và Fritz Verdemann.
Karel Lanke
Lồng tiếng bởi: Yoshisada Sakaguchi
Karel Lanke (カレル・ランケ, Kareru Ranke) là cựu đội trưởng của lực lượng cảnh sát mật Tiệp Khắc muốn gặp Tenma và Grimmer. Grimmer yêu cầu một thỏa thuận để lấy đoạn băng và tài liệu nghiên cứu của Petrov cho một bên không rõ danh tính ở Đức để đổi lấy sự an toàn của Suk. Trong khi họ không đồng ý, Lanke đề cập đến Franz Bonaparta (một tác giả sách hình minh họa sống trong một dinh thự phủ đầy hoa hồng đỏ, người đã chăm sóc cặp song sinh Liebert). Khi họ xác nhận sự an toàn của Suk, Grimmer và Tenma đồng ý chỉ để Lanke nghe đoạn băng. Tuy nhiên, họ phát hiện ra tài liệu nghiên cứu đã biến mất; đoạn băng đã được Johan Liebert ghi lại với lời nhắn dành cho Tenma. Thanh tra Lunge sau đó đến thăm Lanke để biết thông tin về Franz Bonaparta.
Fritz Verdemann
Lồng tiếng bởi: Ryūsuke Ōbayashi
Fritz Verdemann (フリッツ・バーデマン, Furittsu Bādeman) là một luật sư được cư dân Düsseldorf thuê sau khi Tenma bị bắt ở Praha. Verdemann đã tự xưng là luật sư bào chữa, bào chữa cho chính cha mình (người đã chết trong tù vì nghi ngờ là gián điệp, trước khi được minh oan). Anh ấy đã kết hôn và trong suốt bộ phim, vợ anh sinh con gái của họ. Verdemann thích nghe bài "Over the Rainbow" của Phù thủy xứ Oz bản 1939. Anh ta được thanh tra Lunge đến thăm, người đang tìm kiếm manh mối về Franz Bonaparta. Verdemann nói với Tenma rằng anh không biết Alfred Baul chính là Roberto cải trang, nhắm vào Eva. Tiết lộ rằng Verdemann đã tìm thấy những ghi chú do cha mình viết, cho thấy bố của anh thực sự là gián điệp. Sau đó anh hợp tác với Suk để tìm hiểu sự thật về quá khứ của Franz Bonaparta và cha anh. Vào cuối bộ truyện, Verdemann, Jan Suk và Thanh tra Lunge đến thăm mộ của Wolfgang Grimmer. Trong Another Monster được tiết lộ rằng anh ta có một số ghi chú nghiên cứu của Grimmer về 511 Kinderheim và đang tìm kiếm một tập phim Incredible Magnificent Steiner mà Grimmer muốn xem. Verdemann cũng là luật sư của Gunter Milch trong Another Monster, khiến ông hứa sẽ không trốn khỏi nhà tù nữa để đổi lấy việc Verdemann minh oan cho ông ta.
Gunter Milch
Lồng tiếng bởi: Shigeru Chiba
Gunter Milch (ギュンター・ミルヒ, Gyuntā Miruhi) là một kẻ bị kết án, khi còn nhỏ, đã bị nhốt trong tủ khi bố mẹ ông đi làm. Trong suốt cuộc đời phạm tội, ông ta đã bị bắt và trốn thoát 12 lần. Ông gặp Tenma, người đã bị bắt ở Praha và bị dẫn độ, tại đồn cảnh sát Düsseldorf trong lần bắt giữ gần đây nhất của ông ta. Khi Milch đề cập đến kế hoạch trốn thoát tiếp theo của mình, Tenma quyết định đi cùng ông khi Roberto (cải trang Alfred Baul) nói với Tenma rằng hắn sẽ giết Eva. Khi Tenma và Milch đang được chuyển đến nhà tù, đối tác của Milch là Gustav là mồi nhử. Kế hoạch thất bại khi Gustav công khai tình yêu của mình và hứa sẽ làm trong sạch vì bạn gái của mình, Helene. Quên việc, anh đứng giữa đường và bị xe thóc (đang chở Tenma và Milch) đâm trúng phải. Nắm lấy súng của Gustav, Tenma buộc lính canh thả anh ta và Milch. Sau khi đưa Gustav đến Bệnh viện Eisler Memorial, Milch và Tenma chia tay nhau, Milch dự định đến Tunisia. Trong Another Monster được tiết lộ rằng Milch đã bị bắt và vào tù một lần nữa, hứa với luật sư Fritz Verdemann rằng ông ta sẽ không trốn thoát nếu có thể đưa ông ra ngoài.
Jaromir Lipski
Lồng tiếng bởi: Hiroaki Hirata
Jaromir Lipski (ジャロミール・リプスキー, Jaromīru Ripusukī) là một nghệ sĩ múa rối thất bại ở Praha, người gặp Nina khi cô đi ngang qua thành phố để truy đuổi Johan. Được truyền cảm hứng từ cô ấy, Lipski bắt đầu thực hiện một chương trình mới với một con rối mới giống cô. Tuy nhiên, Lunge sớm phát hiện ra Lipski là con trai của Franz Bonaparta. Lipski tiết lộ rằng cha anh đã cấm anh tham gia các buổi đọc sách tại Biệt thự Hoa hồng đỏ do anh "thiếu tài năng". Thời gian trôi qua và Poppe có những suy nghĩ thứ hai về công việc của mình, anh ấy hơi có thiện cảm với con trai mình. Một tấm bưu thiếp Poppe đã gửi cho anh ấy giúp Lunge xác định được vị trí của Ruhenheim. Tenma đến thăm anh ta và hướng tới Franz Bonaparta, dẫn Tenma đến Ruhenheim. Quá khứ của Lipski được tiết lộ trong Another Monster; mẹ anh là một nữ diễn viên trong các vở kịch ngầm. Lipsky vui hơn và các buổi biểu diễn múa rối của anh ngày càng được chú ý nhiều hơn; anh cũng đã phát triển mối quan hệ với một người phụ nữ thích các buổi biểu diễn của anh ấy. Lipsky ghi công Nina, người đã cho anh thấy rằng anh có thể hạnh phúc.
Martin Reest
Lồng tiếng bởi: Shuuichi Ikeda
Martin Reest (マルティン・レースト, Marutin Rēsuto) bị vào tù 8 năm vì bắn bạn gái và người tình của cô ấy. Sau khi ra tù, anh làm việc cho Baby. Martin ghét uống rượu vì tuổi thơ của anh với một người mẹ nghiện rượu. Mặc dù cô chưa bao giờ đánh anh ta nhưng cô đã khiến anh kiệt sức khi cố gắng giữ cô ra khỏi quán bar. Một đêm nọ, khi cô từ chối về nhà với anh, Martin (mệt mỏi vì say rượu) đã bỏ cô trên đường một mình và cô chết cóng. Peter Čapek tuyển anh ta để đưa Eva Heinemann đến Frankfurt và làm vệ sĩ cho cô. Eva đi cùng anh ta để tránh bị Roberto giết. Trong một quán bar, họ trao đổi những câu chuyện về cuộc sống lãng mạn của mình. Eva cố gắng biến anh thành hình ảnh chính xác của Tenma. Martin gặp Tenma tại một quán ăn và đánh anh ta, bảo Tenma hãy quên Eva đi. Tối hôm đó, Tenma chĩa súng vào Martin, người mô tả Eva chỉ Johan tại một trong những bữa tiệc của Peter để Peter có thể giới thiệu Kristoff Sievernich với Johan. Martin sau đó được Peter bảo giết Eva, nhưng anh đã không làm vậy. Thay vào đó anh lại yêu cầu Eva bỏ trốn cùng mình. Sau đó, anh gặp Sievernich, người bằng cách nào đó biết được rằng Martin đã bỏ mẹ anh cho đến chết và bạn gái của anh đã cầu xin Martin bắn cô ấy, nhưng anh đã bỏ đi; Khi đang làm vậy, anh nghe thấy tiếng súng và quay lại thì biết rằng cô đã tự sát. Tức giận trước cái chết của cô, Martin đã giết bạn trai cũ nhưng không bao giờ khai với cảnh sát rằng cô đã tự bắn mình. Martin sau đó cảnh báo Eva về một âm mưu nhằm vào mạng sống của cô và cho phép cô trốn thoát với kế hoạch gặp lại sau đó. Anh bị bắn vào bụng trong cuộc đấu súng bởi một nhóm do Peter Čapek cử đến để giết Eva. Bạn của Martin đưa anh đến gặp Tenma để anh có thể kể cho anh nghe về Peter, những thí nghiệm đang tiếp tục và cuộc gặp gỡ của anh với Kristoff trước khi chết.
Peter Čapek
Lồng tiếng bởi: Nobuo Tanaka
Peter Čapek (ペトル・チャペック, Petoru Chapekku) là cá nhân cuối cùng trong tổ chức: một người đàn ông bí ẩn đeo kính cận, tóc trắng, chịu trách nhiệm về nhiều sự cố trong Monster. Ông ta là người có cấp bậc cao nhất trong tổ chức và cố gắng kiểm soát "con quỷ" bằng cách cho Johan gặp Kristoff Sievernich. Thời trẻ, Čapek là học trò của Franz Bonaparta và tham gia thí nghiệm trên cặp song sinh Liebert. Khi Čapek đến Frankfurt, ông bắt đầu đọc sách cho trẻ em nghe, nhưng chúng thay đổi, trở nên tự sát, bạo lực và tàn sát lẫn nhau. Čapek là bạn cũ của nha sĩ Milan Kolasch, người đã đổ lỗi cho Peter về vụ bạo loạn giết chết những người thân yêu của ông. Čapek nghĩ rằng mọi thứ đang diễn ra tốt đẹp, nhưng sau đó Johan nói rõ với ông rằng mọi thứ đang diễn ra đúng theo kế hoạch của chính Johan. Kolasch cố gắng ám sát Peter tại một hội nghị nhưng bị cảnh sát bắn. Čapek bị sốc trước hành động của Kolasch. Sau cái chết của "The Baby", ông giả vờ như mọi thứ đều trong tầm kiểm soát khi ông ta biết rõ mọi thứ đang diễn ra không ổn. Trong cơn hoang tưởng, khi bị đưa về biệt thự của mình, Čapek đã giết vệ sĩ của mình khi cho rằng đang cố giết mình; người vệ sĩ thực sự đang với lấy chiếc bật lửa của mình nhưng ông ta tưởng là lấy súng bắn ông. Čapek sau đó đưa Nina đến chỗ Johan đang đợi họ. Sau khi Tenma ngăn cản vụ tự sát của Nina, Čapek nhìn thấy Tenma và nói với anh rằng Johan đang tìm Franz Bonaparta. Khi các vệ sĩ khác của Čapek phát hiện ra ông đã giết đồng đội của họ, ông ta bị một người trong số họ bắn vào đầu trong khi tự hỏi Johan và Franz đang cố gắng tạo ra thứ gì.
Kristoff Sievernich
Lồng tiếng bởi: Masashi Hironaka
Kristoff Sievernich (クリストフ・ジーヴァーニッヒ, Kurisutofu Jīvānihhi) là đệ tử của Johan và là một người sống sót khác của 511 Kinderheim; anh được gia đình Sivernich mua lại từ những kẻ buôn trẻ em. Con trai của một chính trị gia, anh ta được chiều chuộng. Anh và Johan đồng ý đoàn tụ 10 năm sau khi trốn khỏi trại trẻ mồ côi; họ được giới thiệu tại một bữa tiệc bởi Eva Heinemann (người được thuê để chỉ điểm Johan). Người cha dượng quá cố của anh là một trong bốn cá nhân trong tổ chức tân Quốc xã và Sivernich có khả năng sẽ kế nhiệm ông. Anh ta có những phẩm chất tương tự như Johan, đe dọa Martin bằng cách nhắc nhở anh ta về những gì đã xảy ra với mẹ và vợ Martin. Giống như Johan, Sievernich có vẻ điềm tĩnh và vui vẻ trước mặt người khác nhưng lại nổi tiếng với nụ cười "rùng rợn" khi nói về cái chết và sự thật. Anh có sở trường khám phá bí mật và có thể đọc hiểu con người rất tốt. Không có thông tin gì khác về Sivernich, ngoại trừ việc Johan hoặc tổ chức đã cố gắng biến anh ta thành con quái vật thứ hai. Giống như Johan, anh ta có vẻ lôi cuốn và thân thiện. Tuy nhiên, thái độ của anh có thể nhanh chóng thay đổi khi có ai đó đe dọa kế hoạch của anh ấy. Khi Eva nhìn thấy Sievernich, cô bắn một phát cảnh cáo vào tai anh ta. Anh nổi cơn thịnh nộ giết người, buộc tội cô đã hủy hoại khuôn mặt của mình và hứa sẽ trả thù khi anh ta thống trị thế giới. Bị Tenma bắn vào chân, anh được đưa đến bệnh viện gần nhất sau khi Tenma biết được tung tích của Johan.
Franz Bonaparta
Lồng tiếng bởi: Nachi Nozawa
Franz Bonaparta (フランツ・ボナパルタ, Furantsu Bonaparuta) là người chịu trách nhiệm về thí nghiệm ưu sinh dẫn đến sự ra đời của cặp song sinh Liebert, đồng thời là tác giả của những cuốn sách dùng để dạy dỗ những đứa trẻ của Biệt thự Hoa Hồng Đỏ; đáng chú ý là cuốn Quái vật Vô Danh, từ đó Johan lấy tên và phương thức hoạt động của mình. Những câu chuyện của ông đầy ẩn dụ và biểu tượng, thường có quái vật là nhân vật quan trọng. Hầu hết cũng ủng hộ ý tưởng rằng bản chất con người chứa đựng khả năng trở thành thiện hoặc ác, mặc dù các tác phẩm của ông có xu hướng tố cáo loài người hơn là nâng đỡ nó. Ông là cha của Jaromir Lipski, người đã nhận được một tấm bưu thiếp từ ông, sau đó chỉ Thanh tra Lunge đến Ruhenheim, nơi Franz điều hành khách sạn Versteck. Bonaparta có lẽ phải chịu trách nhiệm về cái chết của cha của cặp song sinh, vì mẹ của họ tin tưởng mạnh mẽ vào điều đó. Ông ấy được cho thấy (trong đoạn hồi tưởng) dành nhiều thời gian để vẽ cô ấy, mặc dù cô coi thường ông; thề rằng cô sẽ không bao giờ tha thứ cho ông ta, và khi cô chết, các con cô sẽ trả thù cho cô. Bonaparta tiết lộ danh tính của mình cho Lunge và Grimmer sau khi Grimmer đe dọa một người đàn ông đang ngồi xe lăn với người vợ đẩy, cả hai đã tạo điều kiện thuận lợi cho Vụ thảm sát Ruhenheim bằng cách đưa súng cho người dân. Bonaparta ăn năn về hành động của mình sau khi chứng kiến cái chết của Grimmer. Ông ta nói với Tenma rằng mình đã yêu mẹ của cặp song sinh ngay từ cái nhìn đầu tiên, đồng thời thú nhận rằng ông đã giết bất cứ ai biết về sự tồn tại của cô và cặp song sinh. Bonaparta thừa nhận tội lỗi của mình vì đã tạo ra con quái vật là Johan và cố gắng giết hắn ta nhưng thay vào đó, lại bị giết bởi Roberto đang hấp hối trước mặt Tenma. Tên thật của ông ấy là Klaus Poppe (クラウス・ポッペ, Kurausu Poppe). Là tác giả viết sách dành cho trẻ em, ông sử dụng nhiều bút danh như Emil Scherbe (エミル・シェーベ, Emiru Shēbe), Jakub Farobek (ヤコブ・ファロベック, Yakobu Farobekku) và Helmuth Voss (ヘルムート・フォス, Herumūto Fosu), ngoài tên thật của ông ấy.
Wim Gnaup
Lồng tiếng bởi: Akiko Yajima
Wim Gnaup (ヴィム・クナウプ) sống ở Ruhenheim và làm việc tại một khách sạn thuộc sở hữu của Franz Bonaparta. Cậu bé bị người cha say rượu Herbert hành hạ và bị ba đứa trẻ bắt nạt vì chiếc xe đạp cũ của cậu ta, chúng gọi cậu lẫn cái xe là "rác rưởi". Khi tụi bắt nạt ăn trộm chiếc xe đạp của Wim, chúng nói với cậu rằng nó đang ở trong "ngôi nhà của ma cà rồng" trên đồi. Khi bước vào căn nhà, cậu gặp Thanh tra Lunge và Wolfgang Grimmer (người đã cho cậu biết chiếc xe đạp của mình ở đâu). Wim sau đó bị bọn bắt nạt đánh đập và cướp tiền mua rượu của cha cậu. Sau khi chúng rời đi, cậu được một cặp vợ chồng lớn tuổi tiếp cận, họ hỏi liệu cậu có muốn trả thù không và đưa cho cậu một khẩu súng. Sau một đợt bắt nạt khác, Wim muốn sử dụng khẩu súng mà cậu nhận được trong khi Vụ thảm sát Ruhenheim bắt đầu. Khi Grimmer tìm thấy Wim nơi lũ trẻ kẻ bắt nạt hiện đã chết, anh thấy rằng Wim ít nhất chưa sử dụng súng của mình và cũng biết là cậu bé không biết ai đã giết chúng. Điều này được đề cập đến Franz Bonaparta, người nói với Wim rằng cậu bé đã làm đúng khi không sử dụng súng. Khi Nina và Bác sĩ Gillen đến, Wim nhận ra Nina từ những bức vẽ có hình cô lúc bé và Johan trong "ngôi nhà của ma cà rồng" trên đồi. Wim kể cho Bonaparta về sự xuất hiện của Nina khi Johan đến, và nhìn thấy Roberto bị thương bắn Bonaparta trước khi ông kịp giết Johan. Johan sau đó đe dọa Wim bắt Tenma phải giết nhưng bị cha của Wim bắn. Khi Herbert bị chính quyền bắt đi thẩm vấn, Wim nói rằng cha cậu đã bảo vệ mình. Cậu bé được Nina và bác sĩ Gillen an ủi.
Herbert Gnaup
Lồng tiếng bởi: Eiji Hanawa
Herbert Gnaup (ヘルベルト・クナウプ) là một kẻ nghiện rượu thất nghiệp, là người say rượu trong thị trấn và là người cha bỏ bê của Wim. Cơn say của anh đã khiến vợ anh bỏ rơi anh với con trai mình và anh bị người dân Ruhenheim chế nhạo. Vì sự lười biếng của mình, anh ta bắt Wim làm việc vặt cho mình và ngược đãi cậu bé. Giống như con trai mình, Herbert được cặp vợ chồng lớn tuổi tiếp cận và đưa cho một khẩu súng. Trong Vụ thảm sát Ruhenheim, anh lên kế hoạch trả thù những khách quen của một quán rượu địa phương, những người thường xúc phạm anh ta và tính bắn họ chỉ để phát hiện ra mọi người bên trong đều đã chết. Khi vụ thảm sát tiếp tục, Herbert đi tìm con trai mình và bắt đầu mất đi khả năng nhận thức xung quanh. Khi nhìn thấy Johan đang đe dọa Wim, Herbert bị ảo giác và nhìn thấy một con quái vật là Johan. Hoảng sợ, anh ta bắn vào đầu Johan. Khi cảnh sát đến, Herbert bị đưa đi thẩm vấn.
Viera Černá
Lồng tiếng bởi: Gara Takashima, Houko Kuwashima (trẻ)
Viera Černá là mẹ của Johan và Anna/Nina, đồng thời là bạn của Margot Langer. Những đứa con của cô được tạo ra như một phần trong thí nghiệm của Franz Bonaparta. Cô học kỹ thuật di truyền tại Đại học Mendel. Cô không hề hay biết rằng một thành viên trong quân đội đã được lệnh phải có con với cô. Nhưng sau khi thực sự yêu nhau, anh đã nói cho cô biết sự thật và họ cùng nhau bỏ trốn. Tuy nhiên, họ đã bị ngăn lại và cô ấy bị giữ trái với ý muốn của mình cho đến khi sinh con, trong khi người cha (người yêu của cô) có lẽ đã bị giết. Ở cuối bộ truyện, người ta tiết lộ rằng cô ấy vẫn còn sống và thường xuyên được Tenma đến thăm ở miền Nam nước Pháp. Dựa trên cuộc trò chuyện của họ, cô ấy vẫn có ác cảm với Bonaparta vì đã giết người yêu của cô. Có vẻ như cô ấy vẫn còn bị ám ảnh bởi những sự kiện đó. Tên thật của cô đã được tiết lộ bởi một người bạn của cô trong Another Monster.
Danh sách nhân vật trong anime và manga
|
19850037
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Borderlands%20%28phim%29
|
Borderlands (phim)
|
Borderlands là bộ phim của Hoa Kỳ thuộc thể loại khoa học viễn tưởng hài hành động được đạo diễn bởi Eli Roth với kịch bản do Roth và Joe Crombie chấp bút, dựa trên loạt trò chơi điện tử cùng tên được phát triển bởi Gearbox Software và do 2K phân phối. Phim sẽ có sự tham gia của dàn diễn viên bao gồm Cate Blanchett, Kevin Hart, Jack Black, Bobby Lee và Jamie Lee Curtis.
Borderlands được công chiếu vào ngày 9 tháng 8, 2024 và được phát hành bởi Lionsgate Films.
Diễn viên
Cate Blanchett thủ vai Lilith
Kevin Hart thủ vai Roland
Jack Black thủ vai Claptrap
Jamie Lee Curtis thủ vai Tiến sĩ Patricia Tannis
Ariana Greenblatt thủ vai Tiny Tina
Florian Munteanu thủ vai Krieg
Haley Bennett
Édgar Ramírez thủ vai Atlas
Bobby Lee thủ vai Larry
Olivier Richters thủ vai Krom
Janina Gavankar thủ vai Chỉ huy Knoxx
Gina Gershon thủ vai Mad Moxxi
Cheyenne Jackson thủ vai Jakobs
Charles Babalola thủ vai Hammerlock
Benjamin Byron Davis thủ vai Marcus
Steven Boyer thủ vai Scooter
Ryann Redmond thủ vai Ellie
Ngoài ra, Penn Jillette cũng sẽ có một vai diễn khách trong phim là một nhà truyền giáo đang giám sát một đám cưới, sau màn tham gia lồng tiếng cho nhân vật Pain trong Borderlands 3.
Xem thêm
Danh sách phim dựa trên trò chơi điện tử
Nguồn
Liên kết ngoài
Phim năm 2024
Phim Mỹ
Phim tiếng Anh
Phim thập niên 2020
Phim hài hành động
Phim hài
Phim hành động
Phim khoa học viễn tưởng
Phim Mỹ thập niên 2020
Phim tiếng Anh thập niên 2020
Phim hành động hài Mỹ
Phim hành động khoa học viễn tưởng Mỹ
Phim về đời sống ngoài Trái Đất
Phim do Avi Arad sản xuất
Nhạc nền phim của Steve Jablonsky
Phim quay tại Budapest
Phim của hãng Lionsgate
Phim người đóng dựa trên trò chơi điện tử
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.