id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19855239
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Living%20After%20Midnight
|
Living After Midnight
|
"Living After Midnight" là một bài hát của ban nhạc heavy metal người Anh Judas Priest. Bài hát ban đầu có mặt trong album British Steel (1980) - album đầu tiên của nhóm giành đĩa vàng tại Hoa Kỳ nhờ tiêu thụ hơn 500.000 bản (và sau cùng giành đĩa bạch kim nhờ tiêu thụ ít nhất một triệu bản). Ca khúc thể hiện chủ nghĩa khoái lạc, tinh thần nổi loạn ở cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980. Ca khúc nằm trong số những bài hát nổi tiếng nhất của ban nhạc.
Hoàn cảnh ra đời
Tựa bài hát ra đời khi Glenn Tipton đánh thức Rob Halford bằng tiếng đàn ầm ĩ lúc bốn giờ sáng, lúc ban nhạc trú tại Tittenhurst Park để thu âm British Steel. Halford nói với Tipton anh ta "thật sự sinh hoạt sau nửa đêm [living after midnight]", rồi Tipton đáp rằng bình luận của Halford là một cái tựa hay để đặt cho ca khúc mà anh đang sáng tác.
Video âm nhạc
Video âm nhạc (MV) của bài hát do Julien Temple làm đạo diễn và được thu trực tiếp tại Sheffield City Hall, bắt đầu bằng cảnh tay trống Dave Holland biểu diễn trên dàn trống vô hình. Trong khúc guitar solo, người hâm mộ ở hàng trước đánh mấy cây guitar làm từ bìa cứng (biểu tượng hâm mộ trứ danh của trào lưu làn sóng mới của nhạc heavy metal Anh).
Đón nhận
PopMatters nhận xét: "'Living After Midnight' vẫn làm một vài khán thính giả nhạc metal cổ hủ lâu năm tức giận, song dẫu bản nhạc hiệu tiệc tùng nhỏ này có nhàm chán đến đâu chăng nữa, câu hook của bài thật khó cưỡng và tuyệt vời, âm thanh của ban nhạc cho thấy chẳng có hại gì nếu vui vẻ một chút trong chốc lát. Bài hát có bề ngoài ngắn gọn, kỳ quặc, chủ nghĩa khoái lạc thì thể hiện vừa có chút ngây thơ, vừa ngọt ngào." BBC nhất trí rằng ca khúc "là hình ảnh ảnh cô đọng của loại nhạc metal mới thân thiện với đài phát thanh". Wayne Parry của Associated Press thấy rằng ca khúc cùng với "Hell Bent for Leather" và "You've Got Another Thing Comin'" là "tiêu chuẩn để đánh giá những bài nhạc metal khác".
Năm 2012, Loudwire xếp bài hát đứng thứ năm trong danh sách 10 bài hát hay nhất của Judas Priest, nhận xét: "Đây có lẽ là bài hay nhất của Judas Priest để bạn cùng hát"; vào năm 2019, Louder Sound liệt ca khúc ở hạng ba trong danh sách 50 bài hát của Judas Priest.
Bản cover
Ca khúc lần lượt được The Donnas chọn để cover trong album The Donnas Turn 21 (2001), rồi Saul Blanch lựa chọn đưa vào album tri ân Acero Argentino: Tributo a Judas Priest (2006), L.A. Guns chọn đưa vào đĩa Hell Bent Forever: A Tribute to Judas Priest (2008) và Iron Savior chọn làm bài tặng kèm trong album Condition Red (2002) phát hành tại Nhật Bản.
Ca khúc được Disturbed chọn thu âm cho đĩa CD Tribute to British Steel (2010) của tạp chí Metal Hammer ấn bản Liên hiệp Anh, kết hợp tiếng trống mở đầu của bài "Painkiller". Bài hát còn xuất hiện dưới dạng bài tặng kèm bày bàn trong một vài sản phẩm Asylum (2010), và cũng có mặt trong album tuyển tập mặt B The Lost Children (2011) của nhóm này.
Xếp hạng
Chú thích
Đĩa đơn của Columbia Records
Bài hát năm 1980
Đĩa đơn năm 1980
Video âm nhạc do Julien Temple đạo diễn
Bài hát do Glenn Tipton sáng tác
Bài hát do Rob Halford sáng tác
Bài hát do K. K. Downing sáng tác
Bài hát của Judas Priest
|
19855240
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Inochi%20ni%20Kirawarete%20iru.
|
Inochi ni Kirawarete iru.
|
là một bài hát vocaloid do Kanzaki Iori viết và sáng tác. Nhạc phẩm sử dụng chương trình Hatsune Miku của Vocaloid. Bản nhạc phát hành trên Niconico Douga vào ngày 6 tháng 8 năm 2017 và trên YouTube vào ngày 30 tháng 9 năm 2017.
Nội dung
Lời bài hát của nhạc phẩm không chứa đựng những câu chữ khuyến khích bất cứ ai, mà bắt đầu bằng việc bác bỏ những lời lẽ ấy. Tiếp nối, lời bài hát khắc họa sự mâu thuẫn giữa việc thờ ơ trước tổn thương của người khác và tận hưởng từng ngày cho riêng mình, đồng thời đặt ra vấn đề nếu bản thân không tôn trọng cuộc sống thì sẽ phải chịu cuộc sống ghét bỏ. Nhân vật chính "chúng ta" tiếp tục đấu tranh trong hoàn cảnh cuộc sống ghét bỏ, và tô vẻ cách chúng ta sống một cách tuyệt vọng.
Phát hành
Bài hát ra mắt trên Niconico Douga vào ngày 6 tháng 8 năm 2017 và trên YouTube vào ngày 30 tháng 9 năm 2017. Đây là nhạc phẩm đầu tiên của Kanzaki Iori được vinh danh trong Hall of Fame (1 triệu lượt xem trên Niconico Douga). JOYSOUND phát hành bản nhạc vào ngày 26 tháng 12 năm 2018.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Kanzaki Iori - Inochi ni Kirawarete iru. tại Youtube
Kanzaki Iori - Inochi ni Kirawarete iru. tại Niconico Douga
Bài hát năm 2017
Bài hát tiếng Nhật
Vocaloid
|
19855242
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/John%20C.%20C.%20Sanders
|
John C. C. Sanders
|
John Caldwell Calhoun Sanders (4 tháng 4 năm 1840 – 21 tháng 8 năm 1864) là một trong những Chuẩn tướng trẻ nhất của Quân đội Liên minh miền Nam trong Nội chiến Hoa Kỳ. Anh bị giết trong trận Globe Tavern dọc theo Đường sắt Weldon trong Cuộc vây hãm Petersburg, Virginia vào ngày 21 tháng 8 năm 1864.
Thân thế và học vấn
John C. C. Sanders sinh ngày 4 tháng 4 năm 1840, tại Tuscaloosa, Alabama. Anh lớn lên ở Clinton, Quận Greene, Alabama. Anh bắt đầu nhập học Đại học Alabama vào năm 1858 nhưng đã bỏ học để gia nhập Quân đội Liên minh miền Nam với cấp bậc binh nhì khi Nội chiến bùng nổ vào tháng 4 năm 1861.
Tham gia Nội chiến
John C. C. Sanders được bầu làm đội trưởng Đại đội E thuộc Trung đoàn 11 Bộ binh Tình nguyện Alabama vào ngày 11 tháng 6 năm 1861. Bộ binh 11 Alabama lần đầu tiên tham chiến tại trận Seven Pines. Trong suốt Chuỗi trận Bảy ngày tiếp theo, sau khi chiến đấu trong trận Gaines Mill, Sanders bị thương nặng ở chân do một mảnh đạn pháo trong trận Glendale (Frayser's Farm), ngày 30 tháng 6 năm 1862, tại Quận Henrico, Virginia. Tuy vậy, anh trở lại nắm quyền chỉ huy trung đoàn này vào ngày 11 tháng 8 năm 1862 trên cương vị là sĩ quan cao cấp đang thực thi nhiệm vụ. Anh lại bị thương trong trận Bull Run lần thứ hai vào ngày 30 tháng 8 năm 1862. Sanders chính thức được thăng cấp đại tá sau trận Antietam (Sharpsburg, Maryland), ngày 17 tháng 9 năm 1862, đây cũng là nơi khiến mặt anh bị thương do những viên đá văng ra từ một quả đạn pháo nổ.
Sanders từng tham chiến trong trận Fredericksburg, trận Salem Church và trận Gettysburg khiến anh bị thương ở đầu gối vào ngày 2 tháng 7 năm 1863. Trong thời gian hồi phục vết thương, anh còn làm chủ tọa tòa án phân khu trong tòa án quân sự. Anh quay trở lại trung đoàn của mình đúng lúc để chỉ huy họ trong Chiến dịch Overland. Anh còn chỉ huy lữ đoàn cũ của Cadmus M. Wilcox trong sư đoàn Quân đoàn III thuộc Binh đoàn Bắc Virginia dưới quyền Richard H. Anderson trong Chiến dịch Bristoe và Chiến dịch Mine Run. Sau đó, Chuẩn tướng Abner Monroe Perrin trở lại chỉ huy lữ đoàn, và Sanders quay về chỉ huy trung đoàn của mình cho đến khi Perrin hy sinh trong trận Spotsylvania Court House. Sanders còn dẫn dắt lữ đoàn của mình và giúp chiếm lại "Mule Shoe" Salient. Vì những hành động và quân công của mình tại Spotsylvania Court House, Sanders được thăng cấp chuẩn tướng vào ngày 31 tháng 5 năm 1864 khi mới 24 tuổi, theo điều khoản của luật Liên minh miền Nam cho phép bổ nhiệm các tướng lĩnh tạm thời.
Sanders được giao quyền chỉ huy một lữ đoàn thuộc các trung đoàn Alabama trước đây dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Cadmus M. Wilcox. Anh ấy đã thể hiện năng lực và lòng dũng cảm trong trận Cold Harbor và những trận giao tranh đầu tiên trong Cuộc vây hãm Petersburg. Là một phần của sư đoàn thuộc quyền Thiếu tướng William Mahone, lữ đoàn của Sanders đã tham gia phòng thủ phòng tuyến của quân miền Nam trong trận Crater, ngày 30 tháng 7 năm 1864, tại đây anh chỉ huy lữ đoàn của mình trong cuộc phản công của quân miền Nam.
Chuẩn tướng Sanders thiệt mạng trong một cuộc giao tranh dọc theo Đường sắt Weldon ở Virginia, nơi thường được gọi là trận Globe Tavern (còn gọi là Trận đường sắt Weldon lần thứ hai), vào ngày 21 tháng 8 năm 1864, khi anh bị bắn xuyên qua cả hai đùi và chảy máu đến chết trong vòng vài phút.
Hậu quả
Sanders được chôn cất tại Nghĩa trang Hollywood Richmond, Virginia. Eichers cho biết thi hài của Sanders được cải táng tại Alabama vào năm 1918.
Ghi chú
Chú thích
Tham khảo
Sifakis, Stewart. Who Was Who in the Civil War. New York: Facts On File, 1988. .
Boatner, Mark Mayo, III. The Civil War Dictionary. New York: McKay, 1988. . First published 1959 by McKay.
Eicher, John H., and David J. Eicher, Civil War High Commands. Stanford: Stanford University Press, 2001. .
Warner, Ezra J. Generals in Gray: Lives of the Confederate Commanders. Baton Rouge: Louisiana State University Press, 1959. .
Wert, Jeffry D. "Sanders, John Caldwell Calhoun" in Historical Times Illustrated History of the Civil War, edited by Patricia L. Faust. New York: Harper & Row, 1986. .
Sinh năm 1840
Mất năm 1864
Người Tuscaloosa, Alabama
Người quận Greene, Alabama
Cựu sinh viên Đại học Alabama
Nhân vật Alabama trong Nội chiến Hoa Kỳ
Chuẩn tướng Quân đội Liên minh miền Nam Hoa Kỳ
Quân nhân Liên minh miền Nam Hoa Kỳ thiệt mạng trong Nội chiến Hoa Kỳ
|
19855243
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/John%20H.%20Kelly
|
John H. Kelly
|
John Herbert Kelly (31 tháng 3 năm 1840 – 4 tháng 9 năm 1864) tại thời điểm thăng chức, là Chuẩn tướng trẻ nhất trong Quân đội Liên minh miền Nam. Anh trở thành một trong những vị tướng trẻ nhất chết trong Nội chiến Hoa Kỳ, ở tuổi 24. Cái chết của anh xảy ra khi đang giao tranh tại Franklin, Tennessee vào ngày 2 tháng 9 năm 1864, trong cuộc đột kích Tennessee của Thiếu tướng Joseph Wheeler vào tháng 8 và đầu tháng 9 năm 1864 hòng phá hủy tuyến đường sắt mà Thiếu tướng Quân đội Liên bang William Tecumseh Sherman đang sử dụng để tiếp tế cho đạo quân của ông từ Chattanooga, Tennessee trong Chiến dịch Atlanta.
Thân thế và binh nghiệp
John Herbert Kelly chào đời năm 1840 tại quê nhà ở Carrollton, Alabama với cha là Isham Kelly và mẹ là Elizabeth Herbert. Cha của Kelly qua đời khi ở Cuba lúc John lên bốn tuổi, và mẹ anh mất ba năm sau đó. Người bà tên Harriet Herbert Hawthorne nhận trách nhiệm chăm sóc đứa cháu trai mồ côi này. Khi John khoảng mười bảy tuổi, anh được điều động tới West Point thông qua sự giúp đỡ của chú mình là Nghị sĩ Philemon T. Herbert và một nghị sĩ họ hàng khác tên là William W. Boyce. Vài tháng trước khi tốt nghiệp vào năm 1861, bang Alabama quê hương của anh đã ly khai khỏi Liên bang. Nghe được tin này, Kelly bèn rời khỏi West Point và đi đến Montgomery.
Tham gia Nội chiến
Vừa đặt chân đến Montgomery, Kelly liền gia nhập Quân đội Liên minh miền Nam với cấp bậc thượng úy. Sau đó, anh được điều động đến Đồn Morgan rồi lưu lại đây cho đến mùa thu năm 1861. Trong thời gian đó Kelly rời khỏi Đồn Morgan cùng với Chuẩn tướng William J. Hardee đến Missouri. Chính tại đây anh được bổ nhiệm làm đại úy và sĩ quan phụ tá trong bộ tham mưu của Hardee. Năm 1862, Kelly được cất nhắc làm thiếu tá Tiểu đoàn 9 Bộ binh Arkansas, do anh chỉ huy trong trận Shiloh. Một tháng sau Kelly trở thành đại tá chỉ huy Trung đoàn 8 Bộ binh Arkansas.
Tháng 10 năm đó anh có mặt tại trận Perryville. Sau đó vào năm 1862, anh tham chiến trong trận Murfreesboro và bị thương. Kelly chỉ huy một lữ đoàn lớn tại Chickamauga bao gồm Trung đoàn 5 Kentucky, 58 North Carolina, 63 Virginia và Trung đoàn 65 Bộ binh Georgia. Anh để mất 300 lính ở Chickamauga trong vòng một giờ. Cũng trong trận đánh này khi đang dẫn quân giao chiến, Kelly đã mất một con ngựa do bị bắn từ phía dưới chân mình. Vì lòng dũng cảm thể hiện trong trận Chickamauga nên các tướng Cleburne, Liddell và Preston mới xin thăng chức cho Kelly. Tướng Cleburne nói với Bộ trưởng Chiến tranh Liên minh miền Nam James Seddon về Kelly, "Tôi biết không có sĩ quan nào tốt hơn cấp bậc của anh ta trong quân ngũ". Ngày 16 tháng 11 năm 1863, John Kelly được thăng cấp chuẩn tướng ở tuổi 23. Lữ đoàn của Kelly là một trong những nhân tố chủ chốt trong trận Pickett's Mill dẫn đến chiến thắng của quân Liên minh miền Nam.
Bị bắt và cái chết
Vào tháng 8 và tháng 9 năm 1864 Lữ đoàn của Kelly chiến đấu tại Franklin, Tennessee, trong cuộc đột kích của Wheeler vào tuyến tiếp tế bằng đường sắt của Sherman. Trong khi dẫn đầu cuộc tấn công trong trận giao tranh gần Franklin vào ngày 2 tháng 9, Kelly đã bị một xạ thủ bắn tỉa của quân Liên bang bắn trúng ngực. Kelly ngay lập tức được đưa đến Harrison House để các bác sĩ thăm khám. Trong lúc quân Liên minh miền Nam rút lui, vết thương của anh quá nặng không thể di chuyển và buộc phải bỏ lại để rồi bị quân Liên bang miền Bắc bắt giữ làm tù binh vào ngày 3 tháng 9. Kelly chết vào ngày hôm sau trên giường tại Harrison House.
John Herbert Kelly là một trong những vị tướng trẻ nhất chết trong Nội chiến ở tuổi 24.
Anh được chôn cất trong khu vườn của Harrison House ngay phía nam Franklin vào ngày qua đời. Người dân địa phương đã bỏ tiền ra mua cho Kelly một chiếc quan tài và bộ quần áo mới dùng để chôn cất anh, ngoại trừ chiếc áo khoác quân phục mà anh hay mặc khi qua đời. Sau đó vào năm 1866, thi hài của anh được chuyển đi và cải táng tại Nghĩa trang Magnolia ở Mobile, Alabama. Trại Cựu chiến binh Sons Of Confederate 1980 Gordo, Alabama được đặt tên này để vinh danh Kelly.
Ghi chú
Chú thích
Tham khảo
Welsh, Jack D. Medical Histories of Confederate Generals. Kent, Ohio: Kent State University Press, 1999.
Sifakis, Stewart. Who Was Who in the Civil War. New York: Facts On File, 1988. .
Eicher, John H., and David J. Eicher. Civil War High Commands. Stanford: Stanford University Press, 2001. .
Smith, Derek. The Gallant Dead: Union and Confederate Generals Killed in the Civil War. Mechanicsburg, PA: Stackpole Books, 2005.
Warner, Ezra J. Generals in Gray: Lives of the Confederate Commanders. Baton Rouge: Louisiana State University Press, 1959. .
Owen, Thomas McAdory and Marie Bankhead Owens. History of Alabama and Dictionary of Alabama Biography. Chicago: S.J. Clarke Publishing Company, 1921.
Brewer, Willis. Alabama, Her History, Resources, War Record, and Public Men: From 1540 to 1872. Spartanburg, SC: Reprint Co., 1975. Originally published 1872.
Evans, Clement A., ed. Confederate Military History: A Library of Confederate States History. 12 vols. Atlanta: Confederate Publishing Company, 1899. . Retrieved January 20, 2011.
Liên kết ngoài
Sinh năm 1840
Mất năm 1864
Người Mỹ chết trong tù
Người Carrollton, Alabama
Tử vong do súng ở Tennessee
Cựu học viên Học viện Quân sự Hoa Kỳ
Nhân vật Alabama trong Nội chiến Hoa Kỳ
Tù nhân chết trong trại giam của quân đội Hoa Kỳ
Chuẩn tướng Quân đội Liên minh miền Nam Hoa Kỳ
Tù binh chiến tranh trong Nội chiến Hoa Kỳ bị Hoa Kỳ giam giữ
Quân nhân Liên minh miền Nam Hoa Kỳ thiệt mạng trong Nội chiến Hoa Kỳ
|
19855251
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81
|
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á
|
Bơi nghệ thuật đã được tranh tài tại Đại hội Thể thao châu Á kể từ Đại hội 1994. Đại hội Thể thao châu Á hiện tại có sự cạnh tranh ở các nội dung đôi và đồng đội, nhưng trong các lần đại hội trước đây, nội dung đơn và hỗn hợp cũng được thi đấu.
Kỳ đại hội
Nội dung thi đấu
Bảng tổng sắp huy chương
Quốc gia tham dự
Danh sách huy chương
Liên kết ngoài
Sports 123: Asian Games
Hội đồng Olympic châu Á - Games
Tham khảo
Đại hội Thể thao châu Á
Môn thể thao tại Đại hội Thể thao châu Á
|
19855255
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aro
|
Aro
|
Aro có thể đề cập đến:
Årø, đảo nhỏ của Đan Mạch
Viết tắt của "aromantic" (vô ái), thiếu sự hấp dẫn lãng mạn
Aro, một nhân vật trong Twilight của Stephenie Meyer
|
19855260
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng%20Kh%E1%BA%A3%20Di
|
Trương Khả Di
|
Trương Khả Di ( ; sinh ngày 20 tháng 3 năm 1969) là một nữ diễn viên người Hồng Kông.
Sự nghiệp
Trương Khả Di là thành viên của ban nhạc nữ bốn thành viên "PP Gals" vào năm 1991. Nghệ danh của cô là "Tina" trong ban nhạc. Nhóm phát hành một album mang tên "PP Gals.DJ Boy" và tan rã vào năm 1991.
Cô đã tham gia cuộc thi sắc đẹp Hoa hậu Hồng Kông năm 1994 của TVB, lọt vào vòng chung kết nhưng không được xếp hạng. Tuy nhiên, cô đã giành được giải thưởng đặc biệt dành cho "nghệ sĩ tiềm năng" (最具演藝潛質獎) xuất sắc nhất và được ký hợp đồng với kênh này ngay sau đó.
Sự nghiệp của cô bắt đầu như một cơn lốc khi cô được mời đóng vai chính. Tuy nhiên, cô muốn bắt đầu lại từ đầu nên đã từ chối vai diễn này, chỉ nhận vai phụ trong một bộ phim khác. Nhiều người sẽ nói rằng sự nghiệp của cô ấy bắt đầu với bộ phim Huynh đệ song hành được đón nhận nồng nhiệt, nhưng một số khác lại cho rằng đó là với vai chính chính của cô trong "One Good Turn Deserves Another".
Sự nổi tiếng của các nghệ sĩ trên thị trường truyền hình Hồng Kông phụ thuộc nhiều vào mức độ nổi tiếng của các nhân vật trong loạt phim cũng như khả năng của các diễn viên và phải đến năm 1998, cô mới đạt được sự nổi tiếng rộng rãi với loạt phim "Huynh đệ song hành". Trong phim cô đóng vai một nhân vật dựa trên thần tượng tuổi teen Trần Bảo Châu của thập niên 60. Nhân vật này được đón nhận nồng nhiệt nhờ vai diễn Trần Bảo Châu xuất sắc của Di. Thành công vang dội dẫn đến phần tiếp theo, To Catch A Thief, bộ phim That Were The Days, và thậm chí cả đĩa CD bán chạy bằng bạch kim.
Cô đã đóng chung với nhiều diễn viên nam như La Gia Lương, Cổ Thiên Lạc, Vương Hỉ, Quách Tấn An, Mã Tuấn Vỹ, Mã Đức Chung, Trần Hào, Lâm Gia Đống, và nhiều người khác. Phản ứng hóa học của cô với La Gia Lương dẫn đến một số cặp đôi khác trong loạt phim khác. Lâm Gia Đống đã làm việc với Trương Mạn Ngọc trong Plain Love II, bộ phim đã xây dựng nên tình bạn bền chặt giữa hai người.
Năm 2003, cô đã giành được giải thưởng đáng mong muốn nhất mà một nữ diễn viên TVB có thể nhận được, Nữ diễn viên chính được yêu thích nhất, đánh bại các "hoa đán" khác, một thuật ngữ tiếng Quảng Đông mượn từ các vở opera Quảng Đông và gần tương ứng với các quan niệm hiện đại về nữ diễn viên chính, chẳng hạn như Tuyên Huyên, Trần Tuệ San và Quách Khả Doanh. Năm 2004, cô lại tham gia cuộc đua giành giải thưởng với loạt phim mới bao gồm "Câu chuyện của kẻ chinh phục" và "Chiến tranh và sắc đẹp". Tuy nhiên, việc quay phim cho dự án Trường hận ca của Thành Long/Quan Cẩm Bằng đã cản trở lễ trao giải và Lê Tư đã giành được giải thưởng.
Năm 2005, cô được chẩn đoán mắc căn bệnh Graves hiếm gặp, khiến cô không thể đóng phim "Au Revoir Shanghai" và cô được thay thế bởi Hướng Hải Lam. Sau 2 năm rời xa showbiz, cô mới hồi phục và Di đã nói trong một cuộc phỏng vấn rằng cô sẽ quay một bộ phim truyền hình dài tập mới vào tháng 8 năm 2007. Đông đảo người hâm mộ của cô khắp nơi đang háo hức chờ đợi bộ phim truyền hình mới của Trương Khả Di được ra mắt. Di cũng đã tổ chức cuộc thi Mr Hong Kong 2007 với Trịnh Du Linh.
Năm 2010, Di trở thành người phát ngôn cho thương hiệu chăm sóc da chống lão hóa RoC® của Pháp.
Đóng phim
Truyền hình nhiều tập
Phim
Tham khảo
Liên kết ngoài
Blog Sina chính thức của Trương Khả Di
Yahoo chính thức! Blog của Trương Khả Di
Trương Khả Di trên Sina weibo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1969
Nữ diễn viên truyền hình Hồng Kông
Bài viết có chữ Hán phồn thể
Bài viết có văn bản tiếng Trung Quốc
|
19855263
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lamborghini%20Sesto%20Elemento
|
Lamborghini Sesto Elemento
|
Lamborghini Sesto Elemento ("nguyên tố thứ 6") là mẫu xe phiên bản giới hạn hiệu suất cao được sản xuất bởi nhà sản xuất ô tô Lamborghini. Sesto Elemento được giới thiệu lần đầu tại Triển lãm ô tô Paris năm 2010.Tên của Sesto Elemento liên quan đến số nguyên tử của carbon, đề cập đến sợi carbon được sử dụng trong cấu tạo của nó.
Thiết kế và thông số kỹ thuật
Sesto Elemento được trang bị hộp số sàn tự động 6 cấp "e-gear" của Lamborghini và hệ dẫn động 4 bánh toàn thời gian, kết hợp với động cơ V10 5,2 lít mượn từ Gallardo Superleggera, tạo ra công suất 570 PS (419 kW; 562 mã lực) và mô-men xoắn 540 N⋅m (398 lbf⋅ft). Khung gầm, thân xe, trục truyền động, bánh xe và các bộ phận treo đều được làm bằng sợi carbon, giúp giảm trọng lượng tổng thể xuống còn 999 kg (2.202 lb), trọng lượng tương đương với những chiếc xe cỡ nhỏ. Sesto Elemento là chiếc xe đầu tiên sử dụng sợi carbon rèn (trong bồn và tay treo), một loại vật liệu carbon mới được phát triển bởi Lamborghini và Callaway Golf Company .
Động cơ được làm mát thông qua 10 lỗ lục giác đặc biệt trên nắp động cơ, trong khi hai cửa hút gió mát vào khoang động cơ đặt giữa và ống xả được bố trí ở cánh gió sau. Lamborghini tuyên bố thời gian tăng tốc 0–100 km/h (0–62 mph) là 2,5 giây, 0–200 km/h (0–124 mph) thời gian là 8,0 giây , và tốc độ tối đa vượt quá là 356 km/h (221 mph). Nội thất của Sesto Elemento nhìn chung trống trải, không có các tiện nghi trên xe như điều hòa không khí và âm thanh nổi. Sesto Elemento cũng thiếu ghế ngồi, thay vào đó có đệm xốp gắn trực tiếp vào khung xe bằng sợi carbon.
Sản xuất
Lamborghini đã công bố kế hoạch sản xuất 20 chiếc xe chỉ dành cho đường đua vào giữa năm 2011 với mỗi chiếc có giá 2.92 triệu USD. Vào thời điểm đó, Sesto Elemento là chiếc Lamborghini đắt nhất từng được sản xuất, cho đến khi Veneno được ra mắt, với giá xe lên tới 6.5 triệu USD. Do không có hứng thú với một chiếc xe đắt tiền và không được phép lưu thông trên đường, Lamborghini đã không thể tìm được 20 khách hàng sẵn sàng mua Sesto Elemento. Nhiều người tin rằng Lamborghini cuối cùng chỉ sản xuất 10 chiếc Sesto Elemento, thay vì 20 chiếc như kế hoạch. Điều này được chứng thực thông qua việc lưu giữ hồ sơ số nhận dạng xe, nhưng chưa được Lamborghini thừa nhận công khai.
Singapore là quốc gia nhận được nhiều ô tô hơn bất kỳ quốc gia nào khác với 4 chiếc ô tô được cập bến vào năm 2014, mặc dù một số đã rời khỏi đất nước này. Hoa Kỳ không nhận được Sesto Elemento, mặc dù một khung gầm trình diễn thỉnh thoảng được trưng bày tại Nhà máy Boeing Everett, vì Boeing đã hỗ trợ Lamborghini trong việc phát triển sợi carbon của họ.
Tham khảo
Xe hơi thể thao
|
19855264
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Teloloapan%20%28th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%29
|
Teloloapan (thành phố)
|
Teloloapan là thành phố thủ phủ khu đô thị Teloloapan, bang Guerrero, tây nam México.
Tham khảo
Tọa độ trên Wikidata
|
19855265
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ace
|
Ace
|
Ace(s), ACE(S) và các biến thể có thể đề cập đến:
Điện toán
ACE (định dạng tập tin nén)
Ace (trình soạn thảo), trình soạn thảo mã nguồn được viết bằng JavaScript.
Tiếng Aceh (mã ISO 639)
Jupiter Ace, máy tính thập niên 1980 của Anh
Lá bài
Át, một quân bài trong bộ bài Tây
Nhãn hiệu và công ty
Ace (nhãn hiệu), tên nhãn hiệu chất tẩy rửa Tide ở Mỹ Latinh
Samsung Galaxy Ace, điện thoại thông minh sản xuất bởi Samsung
Nhân vật
Portgas D. Ace, một nhân vật hư cấu trong One Piece
Ukiyo Ace, một nhân vật hư cấu trong Kamen Rider Geats
Quân sự
Ách (phi công), thuật ngữ trong hàng không quân sự
Vũ khí
Galil ACE, một loại súng trường
Khác
Ace, một thuật ngữ chỉ người vô tính
Xem thêm
(gồm ACE)
(gồm ACES)
|
19855272
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abacetus%20brunneus
|
Abacetus brunneus
|
Abacetus brunneus là một loài bọ chân chạy thuộc phân họ Pterostichinae. Loài này được Straneo mô tả lần đầu năm 1939.
Tham khảo
brunneus
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1939
|
19855273
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abacetus%20cameronus
|
Abacetus cameronus
|
Abacetus cameronus là một loài bọ chân chạy thuộc phân họ Pterostichinae. Loài này được Henry Walter Bates mô tả lần đầu năm 1886.
Tham khảo
cameronus
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1886
|
19855274
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abacetus%20candidus
|
Abacetus candidus
|
Abacetus candidus là một loài bọ chân chạy thuộc phân họ Pterostichinae. Loài này được Andrewes mô tả lần đầu năm 1942.
Tham khảo
candidus
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1942
|
19855275
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abacetus%20carinifer
|
Abacetus carinifer
|
Abacetus carinifer là một loài bọ chân chạy thuộc phân họ Pterostichinae. Loài này được Herbert Edward Andrewes mô tả lần đầu năm 1942.
Tham khảo
carinifer
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1942
|
19855279
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abacetus%20catalai
|
Abacetus catalai
|
Abacetus catalai là một loài bọ chân chạy thuộc phân họ Pterostichinae. Loài này được Jeannel mô tả lần đầu năm 1948.
Tham khảo
catalai
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1948
|
19855280
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abacetus%20catersi
|
Abacetus catersi
|
Abacetus catersi là một loài bọ chân chạy thuộc phân họ Pterostichinae. Loài này được Straneo mô tả lần đầu năm 1958.
Tham khảo
catersi
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1958
|
19855282
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Trumpetfish%20%28SS-425%29
|
USS Trumpetfish (SS-425)
|
USS Trumpetfish (SS-425) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chi Cá kèn. Hoàn tất quá trễ để có thể tham gia Thế Chiến II, chiếc tàu ngầm đã phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, lần lượt được hiện đại hóa trong các Dự án GUPPY II và Dự án GUPPY III, và hoạt động cho đến năm 1973. Con tàu được chuyển cho Brazil để tiếp tục phục vụ như là chiếc Goias (S-15) cho đến khi xuất biên chế vào năm 1990. Số phận sau cùng của con tàu không rõ.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Trumpetfish được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Cramp Shipbuilding Company ở Philadelphia, Pennsylvania vào ngày 23 tháng 8, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 13 tháng 5, 1945, được đỡ đầu bởi bà Oswald S. Colclough, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 29 tháng 1, 1946 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Raphael C. Benitez.
Lịch sử hoạt động
1946
Sau chuyến viếng thăm đến các cảng tại khu vực biển Caribe vào đầu năm 1946, Trumpetfish lên đường đi sang Trân Châu Cảng. Nó tham gia các hoạt động huấn luyện tại khu vực quần đảo Hawaii, bao gồm việc phóng ngư lôi đánh chìm tàu ngầm I-400 chiến lợi phẩm như một mục tiêu thực hành vào ngày 4 tháng 6, 1946. Quay trở lại vùng bờ Đông, nó hoạt động từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London tại New London, Connecticut, và vào cuối năm 1946 đã có chuyến đi thực tập dành cho học viên sĩ quan thuộc Học viện Hải quân Hoa Kỳ.
1947 - 1962
Sang mùa Hè năm 1947, Trumpetfish được hiện đại hóa trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY II). Thân tàu được làm suôn thẳng hơn, và bổ sung thêm ống hơi cùng một dàn ắc-quy công suất lớn hơn, giúp cải thiện đáng kể tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động.
Được điều động về Hải đội Tàu ngầm 4 đặt căn cứ tại Key West, Florida, Trumpetfish hoạt động huấn luyện và tập trận dọc theo vùng bờ Đông. Vào tháng 9, 1953, nó tham gia cuộc Tập trận Mariner trong khuôn khổ Khối NATO, rồi được phái sang phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải. Trong tháng 1 và tháng 2, 1956, nó đi sang vịnh Guantánamo, Cuba để hoạt động huấn luyện cùng hạm đội, rồi đến tháng 7 lại có chuyến đi thực tập cho học viên sĩ quan Học viện Hải quân Hoa Kỳ từ Annapolis, Maryland đến vịnh Guantánamo.
Đến mùa Thu năm 1956, Trumpetfish gia nhập một đội tìm-diệt tàu ngầm để biệt phái sang hoạt động tại Địa Trung Hải và vùng Trung Đông. Rời Norfolk, Virginia vào ngày 1 tháng 10, 1956, nó thực hành huấn luyện trên đường đi trước khi ghé đến Brest, Pháp. Khi vụ Khủng hoảng kênh đào Suez nổ ra, chiếc tàu ngầm đi hết tốc độ đến vịnh Souda, Crete để gia nhập Đệ Lục hạm đội và tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình. Sau khi xung đột chấm dứt, nó hoạt động huấn luyện phối hợp cùng Hải quân Ý trước khi quay trở về Key West vào ngày 28 tháng 1, 1957.
Trumpetfish tiếp nối các hoạt động thường lệ tại vùng bờ Đông cho đến ngày 29 tháng 8, 1957, khi nó lên đường đi sang vùng biển Châu Âu để tham gia các cuộc tập trận của Khối NATO. Nó quay trở về Key West vào ngày 25 tháng 10. Trong lượt phục vụ tiếp theo tại Địa Trung Hải vào năm 1959, con tàu đã đi ngầm dưới nước bằng ống hơi khi băng qua eo biển Bonifacio giữa các đảo Corse và Sardegna. Đến tháng 8, 1959, nó chuyển cảng nhà đến Charleston, South Carolina, rồi trong tháng 1 và tháng 2, 1960, con tàu hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương trước khi viếng thăm Scotland.
Sau đó Trumpetfish tham gia thực hành tại vùng biển Tây Đại Tây Dương trước khi được nâng cấp hiện đại hóa tại Xưởng hải quân Charleston trong khuôn khổ Chương trình GUPPY III. Thân tàu được kéo dài thêm một đoạn , được lắp đặt vũ khí và thiết bị điện tử tiên tiến, và nâng thêm tầm xa hoạt động. Sau khi hoàn tất nó quay trở lại hoạt động thường lệ từ căn cứ Charleston, và đã tham gia hoạt động phong tỏa Cuba trong vụ Khủng hoảng tên lửa Cuba vào tháng 10, 1962.
1963 - 1973
Trong những năm tiếp theo, xen kẻ với các hoạt động huấn luyện và tập trận thường lệ tại vùng bờ Đông và vùng biển Caribe, Trumpetfish thường xuyên được phái sang phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải. Nó trải qua đợt đại tu thường xuyên tại Xưởng hải quân Charleston trước khi tham gia các cuộc tập trận Plumb Bob I và Minibox trong năm 1965. Sang đầu năm 1966, con tàu có lượt hoạt động tại Địa Trung Hải trước khi tham gia cuộc tập trận Plumb Bob II.
Trong những năm tiếp theo, Trumpetfish hoạt động chủ yếu phục vụ cho huấn luyện chống tàu ngầm, cũng như tham gia các nhiệm vụ trinh sát và thử nghiệm thủy lôi. Nó rời Charleston vào ngày 12 tháng 1, 1970 để viếng thăm mũi Kennedy, hoạt động phối hợp cùng tàu ngầm trên đường đi. Con tàu ghé đến mũi Kennedy từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 1, rồi đi đến Fort Lauderdale, Florida để phục vụ cho Cơ sở thực nghiệm Phòng thí nghiệm Đạn dược Hải quân (NOLTF: Naval Ordnance Laboratory Test Facility) tại đây trong mười ngày. Sau đó nó phục vụ cho việc chạy thử máy của tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo ngoài khơi bờ biển Florida từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 2, rồi tham gia các cuộc tập trận Springboard và Exotic Dancer III.
Trumpetfish đi đến Philadelphia cho một đợt đại tu tại Xưởng hải quân Philadelphia vốn kéo dài đến tận tháng 12, 1970. Rời xưởng tàu, nó huấn luyện ôn tập dọc theo vùng bờ Đông trước khi đi sang khu vực Caribe, nơi nó huấn luyện phối hợp với tàu khu trục Đức Lütjens từ ngày 7 đến ngày 14 tháng 5. Sau khi tham gia đợt thử nghiệm thủy lôi hạm đội, nó được bảo trì thường lệ trong sáu tuần từ ngày 5 tháng 6, rồi chạy thử máy từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 7.
Trumpetfish cùng Lực lượng Đặc nhiệm 86 khởi hành vào ngày 23 tháng 7, 1971 cho một chuyến đi sang khu vực Nam Mỹ để tham gia cuộc Tập trận Unites XII. Sau khi đi đến Cartagena, Colombia vào ngày 6 tháng 8, chiếc tàu ngầm băng qua kênh đào Panama để đi dọc bờ biển Thái Bình Dương về phía Nam, băng qua đường xích đạo vào ngày 20 tháng 8 và viếng thăm cảng Callao, Peru vào ngày 30 tháng 8. Nó tập trận cùng Lực lượng Đặc nhiệm 86 trong hai tuần trước khi ghé đến Valparaíso, Chile vào ngày 17 tháng 9. Con tàu vượt eo biển Magellan và đi đến Punta Arenas, Chile vào ngày 4 tháng 10, rồi tham gia cuộc Tập trận Unites XII ngoài khơi bờ biển Đại Tây Dương. Trong tháng 3, nó viếng thăm Del Plata, Argentina và Rio de Janeiro, Brazil, rồi gia nhập trở lại cùng Lực lượng Đặc nhiệm 86 tại La Guaira, Venezuela vào ngày 2 tháng 12. Tách khỏi lực lượng bốn ngày sau đó, nó lên đường và về đến Charleston vào ngày 17 tháng 12.
Trumpetfish tiếp tục phục vụ cùng Hải đội Tàu ngầm 4 từ căn cứ Charleston suốt năm 1972, rồi lại hoạt động tại khu vực Caribe vào ngày 25 tháng 1, 1973. Sau khi tiến hành thử nghiệm ngư lôi ngoài khơi Newport, Rhode Island, nó hoạt động cùng tàu sân bay Anh ngoài khơi San Juan, Puerto Rico trong tháng 5 rồi quay trở về Charleston vào ngày 30 tháng 5. Chiếc tàu ngầm được bảo trì, rồi huấn luyện và thực hành phối hợp cùng Không đoàn Tuần tra 11 tại Jacksonville, Florida, trước khi quay trở về Charleston vào ngày 15 tháng 8 để chuẩn bị ngừng hoạt động.
Goias (S-15)
Tại Charleston vào ngày 15 tháng 10, 1973, Trumpetfish được cho xuất biên chế đồng thời rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân để chuyển giao cho chính phủ Brazil. Nó nhập biên chế cùng Hải quân Brazil như là chiếc Goias (S-15), tên được đặt theo tiểu bang Goiás của Brazil. Nó ngừng hoạt động và rút đăng bạ vào ngày 16 tháng 4, 1990 và số phận sau cùng không rõ.
Tham khảo
Ghi chú
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-425
Maritimequest USS Trumpetfish SS-425 Photo Gallery
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu được Hải quân Hoa Kỳ chuyển cho Hải quân Brazil
Tàu ngầm của Hải quân Brazil
Tàu thủy năm 1945
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II
|
19855284
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Tusk%20%28SS-426%29
|
USS Tusk (SS-426)
|
USS Tusk (SS-426) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên cá moruy chấm đen. Hoàn tất quá trễ để có thể tham gia Thế Chiến II, chiếc tàu ngầm đã phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, được hiện đại hóa trong Dự án GUPPY II, và hoạt động cho đến năm 1973. Con tàu được chuyển cho Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) để tiếp tục phục vụ như là chiếc ROCS Hai Pao (SS-792) (âm Hán-Việt: Hải Báo). Chiếc tàu ngầm vẫn nổi tại Căn cứ Hải quân Tả Doanh, Cao Hùng tính cho đến năm 2020.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Tusk được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Cramp Shipbuilding Company ở Philadelphia, Pennsylvania vào ngày 23 tháng 8, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 8 tháng 7, 1945, được đỡ đầu bởi bà Carolyn Park Mills, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 4, 1946 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Raymond A. Moore.
Lịch sử hoạt động
1946 - 1949
Tusk thực hiện chuyến đi chạy thử máy tại vùng biển Nam Mỹ với một lượt viếng thăm thiện chí các cảng Châu Mỹ La tin: Rio de Janeiro và Bahia, Brazil, Curaçao tại Tây Ấn thuộc Hà Lan, và Colón, Panama Canal, trước khi quay trở về New London, Connecticut vào tháng 6, 1946. Sau đó nó hoạt động dọc theo vùng bờ Đông giữa New London và Wilmington, North Carolina, rồi trong những tháng đầu năm 1947 đã tham gia thực hành chiến thuật hạm đội tại vùng biển trung tâm Đại Tây Dương.
Sau đợt đại tu kéo dài ba tháng tại Xưởng hải quân Philadelphia, Tusk tham gia nghiên cứu đại dương dọc Đại Tây Dương phối hợp cùng Đại học Columbia và Viện hải dương học Woods Hole, kéo dài cho đến tháng 10, 1947. Sau đó nó đi vào Xưởng hải quân Portsmouth để được hiện đại hóa trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY II). Các cải tiến bao gồm: thân tàu được làm suôn thẳng hơn; bổ sung thêm ống hơi để vận hành động cơ diesel ở độ sâu kính tiềm vọng; cùng một dàn ắc-quy công suất lớn hơn, giúp nâng tốc độ lặn dưới nước lên và kéo dài tầm xa hoạt động.
Quay trở lại hoạt động vào mùa Hè năm 1948, Tusk tiến hành chạy thử máy và tuần tra chiến tranh mô phỏng tại vùng kênh đào Panama trong tháng 6 và tháng 7. Nó viếng thăm Học viện Hải quân Hoa Kỳ tại Annapolis, Maryland trong tháng 8 để phô diễn các phát triển kỹ thuật tàu ngầm mới nhất. Con tàu quay trở lại hoạt động thường lệ tại vùng bờ Đông, trong phạm vi trải dài từ vùng biển Caribe ở phía Nam cho đến vòng Bắc Cực ở phía Bắc. Vào đầu năm 1949, Tusk phục vụ cùng Đội Phát triển Tàu ngầm 2 từ căn cứ Newport, Rhode Island, rồi đến tháng 7 đã tham gia cuộc tập trận đa quốc gia trong khuôn khổ Khối NATO và một lượt hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương, khi nó viếng thăm Derry, Bắc Ireland và Portsmouth, Anh.
Tai nạn tàu ngầm Cochino
Trong giai đoạn cuối của cuộc tập trận, Tusk hoạt động trong thành phần một đơn vị vốn bao gầm cả tàu ngầm . Vào ngày 25 tháng 8, 1948, đang khi di chuyển ngang qua một cơn mưa giông ngoài khơi bờ biển Na Uy, Cochino gặp tai nạn nổ một trong các ắc-quy. Tusk đã tiếp cận để giúp đỡ, trợ giúp y tế những người bị thương qua những chiếc bè cứu sinh. Một bè bị sóng đánh lật úp khiến một sĩ quan của Cochino cùng một nhân viên dân sự thuộc Văn phòng Tàu chiến bị rơi xuống nước biển vùng cực lạnh giá. Cả hai được cứu vớt, nhưng đang khi làm hô hấp nhân tạo để sơ cứu trên boong tàu, một cơn sóng lớn đã cuốn nhân viên dân sự nói trên cùng 11 thủy thủ của Tusk xuống biển; chỉ có bốn thủy thủ được cứu vớt. Sau đó Tusk hộ tống cho Cochino cố lết về cảng Hammerfest, Na Uy, nhưng đang khi trên đường đi một ắc-quy khác ở ngăn phía sau của Cochino lại bị nổ, và nước tràn vào trong con tàu tại vị trí bị hư hại. Trong hoàn cảnh biển động mạnh hết sức khó khăn, Tusk áp sát bên mạn Cochino và cứu được toàn bộ thủy thủ đoàn trước khi Cochino đắm tại tọa độ . Tusk sau đó quay trở về Hammerfest.
1951 - 1969
Khi quay trở về Hoa Kỳ, Tusk tiếp tục hoạt động tại vùng bờ Đông từ căn cứ New London để hỗ trợ cho Trường Tàu ngầm Hải quân, thực hiện những chuyến đi đến Halifax, Nova Scotia phía Bắc và Bermuda phía Nam. Vào giữa năm 1951, nó lại được điều về Đội Phát triển Tàu ngầm 2, và hoạt động xen kẻ với những đợt tập trận hạm đội cho đến mùa Hè năm 1952. Được chuyển sang Hải đội Tàu ngầm 10, nó tiếp tục hoạt động tại vùng bờ Đông từ căn cứ New London, rồi đến cuối năm 1952 được phái đi phục vụ trong sáu tháng cùng Đệ Lục hạm đội tại khu vực Địa Trung Hải. Nó tiếp tục hoạt động thường lệ từ New London sau khi quay trở về Hoa Kỳ vào mùa Hè năm 1953, và hoạt động tại vùng biển Caribe vào đầu năm 1954 trước khi có một chuyến đi khác sang vùng biển Bắc Âu. Chiếc tàu ngầm đã viếng thăm Belfast, Bắc Ireland và Glasgow, Scotland, đồng thời tham gia các cuộc tập trận trong khuôn khổ Khối NATO tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương.
Tusk tiếp tục nhịp điệu hoạt động thường lệ tại vùng bờ Đông trong những năm tiếp theo, và có thêm bốn lượt phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải trong giai đoạn 1954-1973. Vào mùa Thu năm 1961, con tàu tham gia cuộc tập trận trong khuôn khổ Khối NATO, rồi tiếp nối bằng cuộc tập trận phối hợp với Hải quân Hoàng gia Canada tại khu vực Tây Đại Tây Dương. Nó lại có chuyến đi huấn luyện sang Châu Âu cùng Khối NATO vào mùa Thu năm 1964. Vào mùa Xuân và mùa Hè năm 1966, nó có lượt phục vụ thứ ba cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải, rồi sang mùa Hè năm sau đã viếng thăm nhiều cảng khi tham gia cuộc tập trận của Khối NATO. Đến tháng 11, 1967, chiếc tàu ngầm lại tham gia cuộc tập trận phối hợp giữa Hoa Kỳ và Canada tại khu vực Tây Đại Tây Dương. Trong những năm 1968-1969, nó phục vụ huấn luyện cho các tàu ngầm hạt nhân và , rồi đến tháng 7, 1969, nó có lượt phục vụ thứ tư cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải trước khi quay trở về vùng bờ Đông vào tháng 10 năm đó.
Sau gần ba năm hoạt động thường lệ từ căn cứ New London, bao gồm một đợt đại tu tại Xưởng hải quân Charleston từ tháng 7 đến tháng 12, 1971, Tusk lên đường cho lượt hoạt động thứ năm, cũng là cuối cùng, tại Địa Trung Hải cùng Đệ Lục hạm đội. Hoàn tất đợt phục vụ vào tháng 10, 1972, con tàu quay trở lại hoạt động dọc theo vùng bờ Đông, chủ yếu tại khu vực New England. Tại New London, Connecticut vào ngày 18 tháng 10, 1973, Tusk được cho xuất biên chế đồng thời rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân, rồi đến ngày 18 tháng 10 được bán cho Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan).
ROCS Hai Pao (SS-792)
Chiếc tàu ngầm nhập biên chế cùng Hải quân Trung Hoa Dân Quốc như là chiếc ROCS Hai Pao (âm Hán-Việt: Hải Báo), thoạt tiên với số hiệu lườn SS-92, rồi SS-794, và sau cùng là SS-792. Điều kiện chuyển giao con tàu là nó chỉ được sử dụng thuần túy cho việc huấn luyện chống tàu ngầm, nên các ống phóng ngư lôi được bịt kín trước khi chuyển giao. Phía Đài Loan đã phục hồi các ống phóng vào năm 1976, và sau đó nhận được từ Ý kiểu ống phóng hiện đại hơn. Con tàu được cho là bị giới hạn hoạt động ở độ sâu không quả 100 mét. Chiếc tàu ngầm vẫn nổi tại Căn cứ Hải quân Tả Doanh, Cao Hùng tính cho đến năm 2020.
Tham khảo
Ghi chú
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-426
On Eternal Patrol – Additional Losses Sustained After World War II
USS COCHINO (SS-345) and USS TUSK (SS-426)
USS Tusk page
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu được Hải quân Hoa Kỳ chuyển cho Hải quân Trung Hoa Dân Quốc
Tàu ngầm của Hải quân Trung Hoa Dân Quốc
Tàu thủy năm 1945
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Tàu ngầm Trung Hoa dân quốc
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II
|
19855286
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3nh%20s%C3%A1t%20Li%C3%AAn%20bang%20%C3%9Ac
|
Cảnh sát Liên bang Úc
|
Cảnh sát Liên bang Úc hay Công an Liên bang Úc (tiếng Anh: Australian Federal Police, viết tắt: AFP), gọi tắt là Công an Úc, là cơ quan thực thi pháp luật liên bang chính và quốc gia của Chính phủ Úc với vai trò duy nhất là điều tra tội phạm và bảo vệ an ninh quốc gia của Khối thịnh vượng chung Úc. AFP là một cơ quan độc lập của Bộ Tư pháp và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tư pháp và trước Quốc hội Úc. Kể từ tháng 10 năm 2019, Ủy viên Cảnh sát Liên bang Úc là Reece Kershaw, trước đây là Ủy viên Cảnh sát Lãnh thổ Phía Bắc.
AFP tập trung vào việc ngăn chặn, điều tra và triệt phá tội phạm xuyên quốc gia, nghiêm trọng, phức tạp và có tổ chức bao gồm khủng bố và chủ nghĩa cực đoan bạo lực, tội phạm mạng, bóc lột trẻ em, buôn lậu ma túy và buôn người. AFP cũng chịu trách nhiệm cung cấp hoạt động giám sát cộng đồng ở Lãnh thổ Thủ đô Úc thông qua Cảnh sát ACT và các lãnh thổ phụ thuộc khác, cung cấp an ninh bảo vệ tại các sân bay lớn và bảo vệ chặt chẽ cho các quan chức bao gồm thủ tướng Úc và các cơ quan ngoại giao nước ngoài, cung cấp đào tạo thực thi pháp luật cho Các cơ quan đối tác châu Á-Thái Bình Dương, đóng vai trò là đại diện thực thi pháp luật và cảnh sát quốc tế của Australia, đồng thời đóng góp vào hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc trên toàn thế giới. AFP cũng là thành viên của Cộng đồng Tình báo Quốc gia và hợp tác chặt chẽ với Tổ chức Tình báo An ninh Úc, Lực lượng Biên phòng Úc và Ủy ban Tình báo Hình sự Úc.
Tham khảo
Cảnh sát theo quốc gia
|
19855288
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Tsuruse
|
Ga Tsuruse
|
là ga đường sắt nằm ở Thành phố Fujimi, Saitama, Nhật Bản, được quản lý bởi .
Lịch sử
Ga mở cửa vào 1 tháng 5 năm 1914.
Bố trí ga
Ga bao gồm một sân ga đảo phục vụ hai đường ray.
Ke ga
Vùng chung quanh
Lối ra phía đông
Chợ việt tsuruse
Công viên Yatsunomori(谷津の森公園)
Trung tâm cộng đồng Tsuruse thành phố Fujimi(富士見市鶴瀬公民館)
Tòa thị chính Fujimi(富士見市役所)
Lối ra phía tây
Alvis Tsuruse(アルビス鶴瀬)
Công viên Tsurasedai(つるせ台公園)
()
Trạm kế
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tōbu Ga Tsuruse
Ảnh liên quan tới Ga Tsuruse -
Nhà ga mở cửa vào 1914
T
|
19855291
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%D3%A8
|
Ө
|
Oe (Ө ө; in nghiêng: Ө ө) là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin.
Sử dụng
Ө được sử dụng trong bảng chữ cái tiếng Bashkir, Buryat, Kalmyk, Karakalpak, Kazakhstan, Komi-Yazva, Kyrgyz, Mông Cổ, Sakha, Selkup, Tatar, Tuvan.
Mã máy tính
Tham khảo
Chữ cái Kirin
Mẫu tự nguyên âm
|
19855298
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ecsenius%20bicolor
|
Ecsenius bicolor
|
Ecsenius bicolor là một loài cá biển thuộc chi Ecsenius trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1836.
Từ nguyên
Tính từ định danh bicolor trong tiếng Latinh có nghĩa là “hai màu”, hàm ý đề cập đến kiểu hình màu lam thẫm (thân trước) và vàng cam (thân trước) ở loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
Từ Maldives và Sri Lanka, E. bicolor có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Phoenix và quần đảo Samoa, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu, xa về phía nam đến rạn san hô Great Barrier và New Zealand (gồm cả quần đảo Kermadec). Ghi nhận của E. bicolor ở Hawaii (tức E. hawaiiensis) bắt nguồn từ một mẫu vật thu thập từ sà lan đến từ Guam, tuy nhiên loài này không lập quần thể ở đây và cũng không có mẫu vật nào được thu thập thêm kể từ đó. Ở Việt Nam, E. bicolor được ghi nhận tại bờ biển Ninh Thuận và Bình Thuận.
E. bicolor sống trong đầm phá và trên các rạn san hô ngoài khơi với hỗn hợp san hô và đá phủ tảo, độ sâu đến ít nhất là 25 m.
Mô tả
Tổng chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở E. bicolor là 11 cm. Loài này có 3 kiểu hình được ghi nhận: xanh đen/nâu xám ở thân trước với vàng cam ở thân sau (kiểu hình hai màu); duy nhất một màu nâu tía hoặc nâu sẫm khắp thân (kiểu hình đơn sắc); thân trên có màu nâu sẫm, dần chuyển sang vàng cam phía sau, một sọc đen dọc thân, thường kèm theo dải sọc trắng sáng ngay dưới, và thân dưới sọc có màu trắng (kiểu hình có sọc). Hai bên má của cả 3 kiểu hình có thể phớt hồng.
Số gai vây lưng: 11–12; Số tia vây lưng: 15–18; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 17–21; Số tia vây ngực: 12–14.
Losey (1972) cho rằng, kiểu hình hai màu của E. bicolor có thể bắt chước hai loài cá mào gà khác, Meiacanthus atrodorsalis và Plagiotremus laudandus. Theo ghi nhận của Springer (1988), M. atrodorsalis và P. laudandus ở Fiji và Tonga đều có màu vàng khắp cơ thể, một trường hợp không xảy ra ở nơi nào khác. Nếu E. bicolor thực sự bắt chước kiểu hình của hai loài này, nó có thể phải xuất hiện kiểu hình vàng toàn thân ở Fiji và Tonga (mặc dù kiểu hình này chưa được ghi nhận).
Phân loại
Theo nghiên cứu phát sinh chủng loại học của Allen và cộng sự (2019), E. bicolor có quan hệ gần nhất với Ecsenius springeri. E. springeri đặc biệt giống với kiểu hình có sọc của E. bicolor, tuy nhiên, E. springeri khác biệt ở sọc đen hẹp và ngắn hơn, sọc trắng rõ hơn ở ngay dưới sọc đen, nửa thân sau là màu cam và không có đường chéo màu hồng/cam phía sau mắt (nếu có thì rất mờ).
Sinh thái
Trứng của E. bicolor có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ.
Tham khảo
B
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Maldives
Cá Sri Lanka
Cá Myanmar
Cá Thái Lan
Cá Việt Nam
Cá Malaysia
Cá Philippines
Cá Nhật Bản
Cá New Guinea
Cá Tonga
Cá Fiji
Động vật được mô tả năm 1836
|
19855300
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quang%20ph%C3%A2n%20h%E1%BA%A1ch
|
Quang phân hạch
|
Quang phân hạch là một quá trình trong đó một hạt nhân nguyên tử hấp thụ tia gamma, trải qua quá trình phân hạch hạt nhân và tách thành hai hoặc nhiều mảnh.
Phản ứng được phát hiện vào năm 1940 bởi một nhóm nhỏ các kỹ sư và nhà khoa học vận hành Máy nghiền nguyên tử Westinghouse tại Phòng thí nghiệm nghiên cứu của công ty ở Forest Hills, Pennsylvania. Họ sử dụng chùm proton 5 MeV để bắn phá fluor và tạo ra các photon năng lượng cao, sau đó chiếu xạ các mẫu urani và thori.
Bức xạ gamma có năng lượng khiêm tốn, ở mức hàng chục MeV thấp, có thể gây ra sự phân hạch ở các nguyên tố phân hạch truyền thống như các nguyên tố thuộc họ actini: thori, urani, plutoni và neptuni. Các thí nghiệm đã được tiến hành với tia gamma năng lượng cao hơn nhiều, phát hiện ra rằng mặt cắt ngang của quá trình quang phân hạch thay đổi rất ít trong các phạm vi ở phạm vi GeV thấp.
Baldwin và cộng sự đã thực hiện các phép đo về hiệu suất phân hạch quang ở uranium và thorium cùng với việc tìm kiếm quang phân hạch ở các nguyên tố nặng khác, sử dụng tia X liên tục từ betatron 100-Mev . Sự phân hạch được phát hiện trong sự có mặt của nền tia X cường độ cao bởi buồng ion hóa vi sai và bộ khuếch đại tuyến tính, chất được nghiên cứu được phủ trên một điện cực của một buồng. Họ suy ra tiết diện tối đa vào cỡ 5×10−26 cm2 đối với uranium và một nửa tiết diện đó đối với thorium. Trong các phần tử khác được nghiên cứu, tiết diện phải nhỏ hơn 10−29 cm2.
Quang phân rã
Quang phân rã (còn gọi là biến đổi quang học) là một quá trình vật lý tương tự nhưng khác biệt, trong đó tia gamma năng lượng cực cao tương tác với hạt nhân nguyên tử và khiến nó chuyển sang trạng thái kích thích, trạng thái này ngay lập tức phân hủy bằng cách phát ra một hạt hạ nguyên tử.
Tham khảo
Vật lý hạt nhân
Hóa học hạt nhân
Tổng hợp hạt nhân
Phân hạch hạt nhân
|
19855302
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20h%C3%B3a%20Ph%E1%BA%ADt%20gi%C3%A1o
|
Văn hóa Phật giáo
|
Văn hóa Phật giáo (Culture of Buddhism) là một phạm trù rộng lớn được bao quát trên nhiều lĩnh vực, được thể hiện thông qua các yếu tố nghệ thuật Phật giáo, kiến trúc Phật giáo, âm nhạc Phật giáo và ẩm thực Phật giáo. Khi Phật giáo mở rộng từ tiểu lục địa Ấn Độ đã tiếp nhận các yếu tố văn hóa và nghệ thuật địa phương của các nước sở tại ở các khu vực khác của Châu Á, Phật giáo nhân gian đã tạo ra và mang lấy nội dung của văn hóa Phật giáo, đó là nhân tố để phát triển Phật giáo theo chiều rộng và chiều sâu cũng như phát triển văn hóa Phật giáo. Giáo lý Phật giáo qua các lời huấn dạy của các vị Tổ sư, Đại sư, luận gia, luận sư, các sư thuyết giảng làm cho văn hóa Phật giáo nhân gian càng thêm phong phú đa dạng. Với tinh thần nhà Phật "từ bi hỷ xả" và mục đích làm cho con người tự giác ngộ và cứu độ giải thoát kiếp khổ trầm luân cho chúng sinh thì lý tưởng nhân văn này là cội gốc tạo ra hệ thống văn hóa Phật giáo xuyên suốt từ quốc gia này đến quốc gia khác, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây.
Đại cương
Văn hóa là một phần của Phật giáo, ở đâu có Phật giáo thì ở đó có văn hóa, Phật giáo đi đến đâu trên thế giới thì văn hóa Phật giáo cũng đi đến đó. Nền văn hóa của châu Á nhìn chung là nền văn hóa của Phật giáo, nếu phương Đông là một khối và có điều gì khác với phương Tây thì phải tìm sự khác biệt ấy nơi tư tưởng chứa đựng bên trong Phật giáo, chính ở nơi tư tưởng, triết lý Phật giáo đã khiến các nền văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam những nước đại diện cho phương Đông có thể hòa hợp, dung chứa lẫn nhau. tạo nên sự thống nhất trong đa dạng. Văn hóa Phật giáo Việt Nam góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam Âm nhạc Phật giáo (Nhạc Phật hay nhạc Thiền) nổi bật bao gồm Honkyoku, nhạc Thiền, và Shomyo (声明).
Nghệ thuật Phật giáo bắt nguồn từ tiểu lục địa Ấn Độ trong các thế kỷ sau cuộc đời của Đức Phật Cồ Đàm lịch sử vào thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ V trước Công nguyên, trước khi phát triển thông qua sự tiếp xúc với các nền văn hóa khác và sự lan truyền của nó qua các nền văn hóa khác ở phần còn lại của Châu Á và thế giới. Giai đoạn đầu tiên, về cơ bản là trong phạm trù nghệ thuật của Ấn Độ, được tiếp nối từ khoảng thế kỷ thứ I Công nguyên, từ thời điểm đó, nghệ thuật Phật giáo đa dạng và phát triển khi thích nghi với các quốc gia mới nơi tín ngưỡng đang mở rộng và ảnh hưởng sâu đậm. Phật giáo phát triển về phía bắc qua Trung Á và vào Đông Á để hình thành nhánh nghệ thuật Phật giáo phía Bắc, và về phía đông đến tận Đông Nam Á để hình thành nhánh nghệ thuật Phật giáo phía Nam.
Ở Ấn Độ, nghệ thuật Phật giáo phát triển mạnh mẽ và thậm chí còn ảnh hưởng đến sự phát triển của nghệ thuật Hindu, cho đến khi Phật giáo gần như biến mất vào khoảng thế kỷ thứ X với sự mở rộng của Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Trong hình thức nghệ thuật Phật giáo sớm nhất, Đức Phật không được thể hiện dưới hình dạng con người mà thay vào đó được thể hiện bằng các dấu hiệu và biểu tượng như dấu chân hoặc một ngai vàng trống. Từ thế kỷ thứ năm trước Công nguyên. đến thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, các nghệ sĩ Ấn Độ đã sáng tác kinh điển xoay quanh các chủ đề về cuộc đời lịch sử của Đức Phật và các kiếp trước của Đức Phật. Giai đoạn này được định nghĩa là giai đoạn mang tính biểu tượng của nghệ thuật Phật giáo. Giai đoạn mang tính biểu tượng bắt đầu từ thế kỷ thứ I Công nguyên, theo đó Đức Phật được tạo ra những đặc điểm và tỷ lệ con người theo thực tế.
Sự khởi đầu của trường phái kiến trúc Phật giáo có thể bắt nguồn từ trước Công nguyên. Năm 255 khi hoàng đế A Dục vương (Asoka) của Vương triều Khổng tước (Mauryan) chọn Phật giáo là quốc giáo của đế chế rộng lớn của mình và khuyến khích việc sử dụng các di tích kiến trúc để truyền bá Phật giáo ở những nơi khác nhau. Hai loại cấu trúc gắn liền với Phật giáo thời kỳ đầu gồm bảo tháp (Stupa) và vihara. Chức năng ban đầu của bảo tháp là tôn kính và bảo vệ an toàn xá lợi của Phật Cồ Đàm, dấu tích sớm nhất về bảo tháp là ở Sanchi (Madhya Pradesh). Theo những thay đổi trong thực hành tôn giáo, các bảo tháp dần dần được hợp nhất thành chaitya-Grihas (các bảo tháp), đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, được minh họa bằng các quần thể hang động Ajanta và Ellora (Maharashtra). Tịnh xá được phát triển và ngày càng được chính thức hóa như Nālandā (Bihar). Các bảo tháp ban đầu chứa tro cốt của Đức Phật. Bảo tháp là những di tích hình mái vòm, được sử dụng để lưu giữ xá lợi của Phật tử hoặc để tưởng nhớ những sự kiện quan trọng của Phật giáo.
Xem thêm
Lịch sử Phật giáo
Bảo tàng văn hóa Phật giáo
Kinh điển Phật giáo
Văn hóa phương Đông
Chú thích
Liên kết ngoài
Sacred Visions: Early Paintings from Central Tibet, an exhibition catalog from The Metropolitan Museum of Art (fully available online as PDF), which contains material on Buddhist culture and art
Manuel Valencia, A conceptual Buddhist approach
Phật giáo
Văn hóa Đông Nam Á
|
19855312
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sapindus
|
Sapindus
|
Sapindus là tên khoa học của Chi bồ hòn đó là chi điển hình của Sapindales (bộ bồ hòn) và Sapindaceae (họ bồ hòn). Các loài trong chi này có nguồn gốc ở vùng ôn đới ấm và nhiệt đới trên thế giới: 2 loài đặc hữu ở Việt Nam.
Các loài
Các loài sau đây hiện được chấp nhận (tháng 2 2024):
Sapindus chrysotrichus - miền nam Việt Nam
Sapindus delavayi – Trung Quốc, Ấn Độ
Sapindus drummondii Hoa Kỳ (Arizona, Colorado, Louisiana, v.v.)
Sapindus emarginatus – Ấn Độ
Sapindus lippoldii - Cuba
Sapindus mukorossi - Đông Nam Á: bồ hòn, bồ hòn xà phòng, bòn hòn, lai patt (ghi âm tiếng Xtiêng).
Sapindus oahuensis - Hawaii)
Sapindus rarak - Đông Nam Á: bồ hòn, mao biện vô hoạn tử (phiên âm Hán - Việt).
Sapindus saponaria – Châu Mỹ, những hòn đảo Thái Bình Dương; 4 phân loài: du nhập vào châu Á - bồ hòn, vô hoạn tử (phiên âm Hán - Việt).
Sapindus sonlaensis - Sơn La
Sapindus tomentosus - Trung Quốc
Sapindus trifoliatus - Ấn Độ
Sapindus vitiensis - Samoa, Fiji)
Chú thích
Tham khảo
Sapindus
Cây châu Á
Nhóm loài do Carl Linnaeus đặt tên
|
19855314
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ki%E1%BA%BFn%20tr%C3%BAc%20Ph%E1%BA%ADt%20gi%C3%A1o
|
Kiến trúc Phật giáo
|
Kiến trúc Phật giáo (Buddhist architecture) được hình thành, phát triển ở tiểu lục địa Ấn Độ và phát triển đa dạng phong phú, độc đáo, đặc sắc. Kiến trúc Phật giáo phản ánh tư tưởng, tinh thần, triết lý và văn hóa Phật giáo, cũng chứa đựng giá trị lịch sử với những thăng trầm. Những ngôi chùa không chỉ là biểu hiện cụ thể của kiến trúc Phật giáo mà còn gắn liền với văn hóa dân tộc, là nơi truyền bá đạo đức, phản ánh phong tục, tập quán của nhân dân qua từng giai đoạn lịch sử. Ba loại công trình gắn liền với kiến trúc tôn giáo của Phật giáo sơ khai gồm tu viện (Vihara), Bảo tháp (phù đồ) nơi lưu giữ xá lợi của Đức Phật, và các đền thờ (Chánh điện) hoặc phòng cầu nguyện (Chaitya, còn được gọi là Chaitya grihas) sau này được gọi là điện thờ ở một số nơi. Bảo tháp là những di tích hình mái vòm, chức năng ban đầu của bảo tháp là lưu giữ xá lợi, trong cốt của Đức Phật Cồ Đàm hoặc để tưởng nhớ những sự kiện quan trọng của Phật giáo.
Những dẫn chứng về khảo cổ học sớm nhất về bảo tháp được biết đến là bảo tháp di tích nằm ở Vaishali, Bihar ở Ấn Độ.. Kiến trúc Phật giáo là một loại hình có số lượng nhiều, phong phú và dễ nhận biết nhất. Các di tích Phật giáo đồ sộ ở Ấn Độ (tháp Sanchi), Indonesia (Borobudur), Trung Quốc (Đôn Hoàng, Long Môn), ở Nhật Bản (chùa Vàng, chùa Đông Đại Tự), Việt Nam (chùa Keo, chùa Bút Tháp). Theo thời gian, diện mạo của những ngôi chùa dần đổi thay, trong đó có những công trình pha trộn nhiều trường phái kiến trúc, không còn mang dáng dấp tư tưởng, triết lý Phật giáo, nhiều ngôi chùa với những nét đẹp kiến trúc truyền thống dần bị mai một do cải tạo, cơi nới hay những công trình xây mới không kế thừa những giá trị, đặc trưng văn hóa truyền thống cũng như tư tưởng, tinh thần Phật giáo, thậm chí là gây phản cảm, giảm sút tính tôn nghiêm, đây là thực trạng diễn ra trên diện rộng ở Việt Nam.
Đại cương
Sự khởi đầu của trường phái kiến trúc Phật giáo có thể bắt nguồn từ trước Công nguyên. Năm 255 khi hoàng đế A Dục vương (Asoka) của Vương triều Khổng tước (Mauryan) chọn Phật giáo là quốc giáo của đế chế rộng lớn của mình và khuyến khích việc sử dụng các di tích kiến trúc để truyền bá Phật giáo ở những nơi khác nhau. Hai loại cấu trúc gắn liền với Phật giáo thời kỳ đầu gồm bảo tháp (Stupa) và vihara. Chức năng ban đầu của bảo tháp là tôn kính và bảo vệ an toàn xá lợi của Phật Cồ Đàm, dấu tích sớm nhất về bảo tháp là ở Sanchi (Madhya Pradesh). Theo những thay đổi trong thực hành tôn giáo, các bảo tháp dần dần được hợp nhất thành Chaitya-Grihas (các bảo tháp), đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, được minh họa bằng các quần thể hang động Ajanta và Ellora (Maharashtra). Tịnh xá được phát triển và ngày càng được chính thức hóa như Nālandā (Bihar).
Trên thế giới, có rất nhiều công trình kiến trúc Phật giáo đồ sộ, là nơi tu tập, hoằng dương Phật pháp, đồng thời là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế và du lịch của vùng miền. Những công trình Phật giáo gây chú ý nhiều cũng là các tu viện, quần thể của nhiều đền đài, tòa tháp. Và một trong đó là tu viện Erdene Zuu ở Mông Cổ, cũng là tu viện lâu đời nhất, công trình được Abtai Sain Khan xây dựng năm 1585, khi đạo Phật từ Tây Tạng du nhập Mông Cổ. Tu viện Ganden cũng là một tu viện đầu tiên của phái Gelug, và một trong 3 học viện Phật giáo lớn nhất Tây Tạng, và còn xa nhất trong 3 nơi này, Ganden trong thổ ngữ có nghĩa là sự hoan hỷ, lấy từ chữ Tusita nghĩa là cõi trời của Bồ tát Di Lặc. Tu viện Key Gompa cũng nằm cao tới 4.166m tuổi thọ đã hơn 1.000 tuổi, và là học viện tôn giáo của cả thung lũng Spiti thuộc Ấn Độ, xuất hiện thế kỷ XI là công trình tiêu biểu của kiến trúc du mục thế kỷ XIV, sau nhiều lần bị tấn công và tái thiết, để biến thành khối hình hộp không đều, với nhiều đền đài gối đầu lên nhau, và giống một pháo đài kiên cố hơn là trường tu.
Phật giáo và Ấn Độ giáo đến quần đảo Indonesia vào đầu thiên niên kỷ đầu tiên. Cấu trúc ngôi đền cổ nhất còn sót lại ở Java là ngôi đền Batujaya ở Karawang, Tây Java, có niên đại từ đầu thế kỷ thứ V sau Công nguyên., ví dụ đáng chú ý nhất là Borobudur thế kỷ thứ IX, một bảo tháp đồ sộ có hình dạng một kim tự tháp bậc thang phức tạp có sơ đồ bằng đá Mandala (Mạn Đà La). Các bức tường và lan can được trang trí bằng các bức phù điêu tinh xảo, có tổng diện tích bề mặt là 2.500 mét vuông. Xung quanh các bệ hình tròn là 72 bảo tháp lộ thiên, mỗi bảo tháp có tượng Phật.
Quần thể đền thờ Borobudur ở Indonesia được công nhận là ngôi chùa Phật giáo lớn nhất thế giới. Có 5 phong cách kiến trúc có thể được tìm thấy trong các ngôi chùa Phật giáo ở Hawaii. Các phong cách khác nhau tùy theo khoảng thời gian chúng được sử dụng. Ở Việt Nam thì chưa có sự thống nhất về biểu tượng Phật giáo chung để nhận diện kiến trúc Phật giáo Việt Nam mà các chùa sử dụng các biểu tượng chung của Phật giáo thế giới hoặc biểu tượng riêng trong từng hệ phái.
Chú thích
Peabody Essex Museum – Phillips Library: The Herbert Offen Research Collection – books and items on Buddhist architecture.
Kiến trúc Phật giáo
Nghệ thuật Phật giáo
Kiến trúc tôn giáo
|
19855322
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chung%20k%E1%BA%BFt%20C%C3%BAp%20FA%201922
|
Chung kết Cúp FA 1922
|
Trận chung kết Cúp FA 1922 giữa Huddersfield Town và Preston North End đã diễn ra tại sân vận động Stamford Bridge. Huddersfield đã giành chiến thắng với tỷ số tối thiểu, bàn thắng duy nhất được ghi bởi Billy Smith trên chấm phạt đền.
Tổng quan
Đây là trận đấu cuối cùng trước khi sân vận động Wembley được mở, và cũng là chiếc Cúp FA đầu tiên và duy nhất mà Huddersfield có được. Thủ môn của Preston là James Mitchell là cầu thủ đầu tiên (và duy nhất) đeo kính mắt trong trận chung kết Cúp FA.
Đây là trận chung kết đầu tiên được quyết định chỉ bằng một quả phạt đền và quyết định thổi phạt đền này đã gây tranh cãi, vì theo xác nhận của các đoạn băng thời sự, pha phạm lỗi đã diễn ra bên ngoài vòng cấm.
Chi tiết trận đấu
Đường đến Stamford Bridge
Huddersfield Town
Preston North End
Tham khảo
Liên kết ngoài
Đội hình trận chung kết Cúp FA
Bóng đá năm 1922
Chung kết Cúp FA
|
19855327
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%D0%98
|
И
|
I (И и; in nghiêng: И и) là một chữ cái được sử dụng trong hầu hết bảng chữ cái Kirin ngoại trừ tiếng Belarus.
И thường đại diện cho nguyên âm không tròn môi trước đóng (ví dụ: trong tiếng Nga), như cách phát âm của trong "machine", hoặc nguyên âm không tròn môi trước gần đóng , (ví dụ: trong tiếng Ukraina), giống như cách phát âm của trong "bin".
Lịch sử
И có nguồn gốc từ chữ cái Hy Lạp Eta (Η η), chữ Cyrillic có hình dạng cho đến thế kỷ 13.
Tên của chữ Cyrillic І trong bảng chữ cái Kirin cổ là (iže), có nghĩa là "cái nào".
Trong chữ số Kirin, И có giá trị là 8, tương ứng với chữ cái Hy Lạp Eta.
Các chữ cái liên quan và các ký tự tương tự
Η η : Chữ cái Hy Lạp Eta
H h : Chữ cái Latinh H
Ι ι : Chữ cái Hy Lạp Iota
I i : Chữ cái Latinh I
Й й : Chữ cái Kirin Short I
І і : Chữ cái Kirin Dotted I
Mã máy tính
Tham khảo
liên kết ngoài
Chữ cái Kirin
Mẫu tự nguyên âm
|
19855343
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A7ng%20l%E1%BB%9Bp%20s%C3%A1ng%20t%E1%BA%A1o
|
Tầng lớp sáng tạo
|
Tầng lớp sáng tạo () là mệnh đề khẳng định nằm trong nghiên cứu của nhà lý luận đô thị học người Mỹ Richard Florida, được sử dụng để chỉ đến một tầng lớp kinh tế xã hội ở mặt biểu hiện bên ngoài. Giáo sư Florida là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thịnh vượng Martin thuộc Trường Quản lý Rotman của Đại học Toronto, ông vẫn luôn bảo lưu quan điểm cho rằng tầng lớp sáng tạo là lực lượng nòng cốt thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở các đô thị hậu công nghiệp trên khắp thế giới nói chung cũng như tại Hoa Kỳ nói riêng.
Tham khảo
Chú thích
Tác phẩm được chú dẫn
Đọc thêm
On the Poverty of Experts: Between Academization and Deprofessionalization. Hartmann, Heinz, Hartmann, Marianne. 1982, vol 34, iss 2, pg 193
Florida, R. (2002). The Rise of the Creative Class: And How it's transforming work, leisure, community and everyday life. New York: Perseus Book Group
Fussell, Paul. Class, especially chapter titled "Class X". 1983.
Long, Joshua. 2010. Weird City: Sense of Place and Creative Resistance in Austin, Texas. University of Texas Press.
Montgomery, J. (2005). Beware 'the Creative Class'. Creativity and Wealth Creation Revisited. Local Economy, Vol. 20, No. 4, 337–343, November 2005
Ray, Paul H. and Sherry Ruth Anderson. The Cultural Creative. New York: Three Rivers Press, 2000
Nguồn tham khảo trên web
Cleveland, Harlan. "After Affluence, What?". October 1977. Aspen Instit Humanistic Studies November 3, 2005.
Saenz, Tara Keniry. "Portraits of U.S. High-Technology Metros: Income Stratification of Occupational Groups from 1980-2000". March 2005. U Texas, Austin November 31, 2005.
Liên kết ngoài
CreativeClass.com
Fennville: A Haven for the Creative Class - An article about the city of Fennville, Mich., which is an example of a city being transformed by the "creative class."
Creative Class Codes - County-level measures of creative class from USDA's Economic Research Service.
Creative Cities Conference - Lexington KY
Business Lexington interviews Richard Florida (audio MP3)
Từ mới thập niên 1860
Kinh tế học văn học nghệ thuật
Kinh tế học đô thị
Tầng lớp xã hội
Tầng lớp xã hội tại Việt Nam
Tầng lớp xã hội Hoa Kỳ
Ralph Waldo Emerson
|
19855347
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%BAng%20ta%20c%E1%BB%A7a%20t%C6%B0%C6%A1ng%20lai
|
Chúng ta của tương lai
|
"Chúng ta của tương lai" là một bài hát được thu âm bởi nam ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam Sơn Tùng M-TP nằm trong EP phòng thu đầu tay của anh, Chúng ta (2020). Bài hát được Sơn Tùng M-TP sáng tác và thể hiện, phát hành vào năm 2024 cùng với vai trò là đĩa đơn tiếp nối cho EP sau hơn 3 năm vắng bóng.
Ca khúc "Chúng ta của tương lai" sẽ là ca khúc thứ 2 nằm trong EP Chúng ta-Single
Quảng bá
Ngày 26 tháng 2 năm 2024, Sơn Tùng M-TP công bố show diễn "7-Minute Stage", đồng thời là show diễn đầu tiên dành cho ca khúc Chúng ta của tương lai, thời gian là 19:00 (tức 7:00 tối) ngày 7 tháng 3 năm 2024.
Phát hành
Vào rạng sáng ngày 8/3/2024, cụ thể là vào đúng 00:00 (00 giờ 00 phút), Sơn Tùng M-TP đã cho ra mắt bản Audio và MV "Chúng ta của tương lai" trên các nền tảng YouTube, Spotify và Apple Music.
Danh sách bài hát
Tải kỹ thuật số/phát trực tuyến
"Chúng ta của tương lai"
Tham khảo
Liên kết ngoài
Music Video trên YouTube
Bài hát của Sơn Tùng M-TP
Bài hát tiếng Việt
Bài hát Việt Nam
Bài hát nhạc trẻ
Bài hát năm 2024
|
19855348
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis
|
Basitropis
|
Basitropis là một chi bọ cánh cứng thuộc họ Anthribidae.
Loài
Chi này gồm các loài sau:
Basitropis affinis
Basitropis alienata
Basitropis angustifron
Basitropis angustifrons
Basitropis armata
Basitropis blanda
Basitropis brevis
Basitropis canaliculata
Basitropis concolor
Basitropis condensata
Basitropis contraria
Basitropis coquereli
Basitropis curtula
Basitropis delecta
Basitropis denticulata
Basitropis diluta
Basitropis dispar
Basitropis dolosa
Basitropis epipona
Basitropis eugonides
Basitropis euris
Basitropis ferrea
Basitropis figurata
Basitropis furtiva
Basitropis hamata
Basitropis humeralis
Basitropis illustris
Basitropis immaculata
Basitropis impar
Basitropis ingrata
Basitropis irresoluta
Basitropis jucunda
Basitropis longiclava
Basitropis longicollis
Basitropis longitarsis
Basitropis lutosa
Basitropis maculata
Basitropis modica
Basitropis mucida
Basitropis nitidicutis
Basitropis nubila
Basitropis oculata
Basitropis operta
Basitropis orientalis
Basitropis pallens
Basitropis pallida
Basitropis papuensis
Basitropis pardalis
Basitropis peregrina
Basitropis persimilis
Basitropis platypus
Basitropis proferta
Basitropis propinquua
Basitropis rectimargo
Basitropis relicta
Basitropis rostralis
Basitropis rotundata
Basitropis sedlaceki
Basitropis solitaria
Basitropis suavis
Basitropis tersa
Basitropis tessellata
Basitropis tessellatus
Basitropis truncalis
Basitropis tuberidorsis
Basitropis umbratilis
Basitropis valida
Basitropis vehemens
Basitropis werneri
Tham khảo
Liên kết ngoài
Basitropis Global Biodiversity Information Facility.
Basitropini
|
19855349
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phi%20Ti%E1%BA%BFn%20S%C6%A1n
|
Phi Tiến Sơn
|
Phi Tiến Sơn là nhà quay phim, biên kịch và đạo diễn điện ảnh Việt Nam, ông được biết đến qua các phim điện ảnh Em còn nhớ hay em đã quên, Lưới trời và gần đây là Đào, phở và piano, ông cũng tham gia đạo diễn một số phim truyền hình như Người thổi tù và hàng tổng, Lập trình cho trái tim, Nghề báo.
Tiểu sử
Phi Tiến Sơn sinh năm 1954 tại Hà Nội trong một gia đình bình dân, không có truyền thống nghệ thuật. Ông được bố mẹ cho phép tự lựa chọn nghề nghiệp, từng là học sinh khối chuyên toán các cấp. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, ông thi đỗ vào Đại học Bách Khoa Hà Nội.
Sự nghiệp
Phi Tiến Sơn nhập ngũ vào năm 1972, khi đất nước thống nhất, ông tiếp tục việc học tại trường Đại học Bách Khoa. Lúc bấy giờ sinh viên tại Hà Nội có phong trào trao đổi sách cho nhau, ông được một người bạn động viên theo ngành điện ảnh, người bạn này cho rằng năng khiếu logic của ông sẽ phát huy được với môn nghệ thuật này. Sau đó ông thi vào khoa Quay phim của Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Hà Nội. Sau năm học đầu tiên, Phi Tiến Sơn được cử đi học 8 năm tại Trường Đại học Điện ảnh và Truyền hình ở Cộng hòa Dân chủ Đức. Sau khi về nước, ông được phân công công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam, là tay máy chính của các phim điện ảnh Cạm bẫy tình, Những năm tháng đẹp... Ông giành giải Quay phim xuất sắc tại 3 kỳ liên hoan phim Việt Nam liên tiếp ở 3 hạng mục khác nhau. Năm 1990 – Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 9, với bộ phim video Lá ngọc cành vàng; năm 1993 – Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 10, ở hạng mục phim thiếu nhi Truyền thuyết tình yêu thần nước cùng với đồng quay phim Trần Quốc Dũng. năm 1995, với phim điện ảnh Giọt lệ Hạ Long tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 11.
Đầu những năm 1990, đạo diễn Nguyễn Hữu Phần dự định làm phim về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhưng bị Hãng phim truyện Việt Nam từ chối. Ông cùng Phi Tiến Sơn, Hoàng Nhuận Cầm, Lưu Trọng Ninh góp vốn thành lập Trung tâm Điện ảnh Trẻ. Sau đó bộ phim Em còn nhớ hay em đã quên ra đời và giành được giải Bông sen Bạc hạng mục Phim điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 9.
Vài năm sau đó, ông chuyển sang làm việc tại Hãng phim truyện I. Tại đây, bên cạnh vai trò quay phim, ông còn làm đạo diễn những bộ phim điện ảnh chính kịch, Năm 1998, ông làm đạo diễn phim truyền hình Người thổi tù và hàng tổng, bộ phim thành công giúp tên tuổi của ông trong cương vị đạo diễn bắt đầu được biết đến. Năm 2000, Phi Tiến Sơn đạo diễn và viết kịch bản phim điện ảnh Vào Nam ra Bắc, bộ phim đoạt ngay giải B của Hội Điện ảnh Việt Nam, và một giải thưởng của Bộ Quốc phòng. Năm 2002, bộ phim Lưới trời do ông đạo diễn giành được giải Cánh diều Vàng và Bông sen Bạc cho phim điện ảnh xuất sắc. Năm 2008, Phi Tiến Sơn được chọn đạo diễn dự án phim dài tập Trần Thủ Độ và người tình, ông đã thực hiện kịch bản cho 15 tập, lên kế hoạch tuyển diễn viên và ý tưởng. Sau chuyến công tác của ông tại Hàn Quốc, vị trí đạo diễn bất ngờ được chuyển sang cho Đào Duy Phúc.
Năm 2019, Phi Tiến Sơn cùng Đào Bá Sơn và Trần Vũ Thủy được chọn đồng đạo diễn phim điện ảnh Cậu vàng chuyển thể từ các tác phẩm văn học của nhà văn Nam Cao, sau thời gian chuẩn bị bộ phim được giao cho Trần Vũ Thủy đạo diễn chính còn Phi Tiến Sơn làm đạo diễn hình ảnh. Trong thời gian này ông cũng tham bộ phim chuyển thể văn học khác là Kiều, với vai trò biên kịch, Kiều và Cậu vàng đều bị xem là thảm họa điện ảnh của Việt Nam năm 2021.
Ông là tác giả kịch bản kiêm đạo diễn bộ phim lịch sử Đào, phở và piano, kịch bản của bộ phim được ông lên ý tưởng từ khoảng năm 2010 trong dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Sau hơn 10 năm, bộ phim được bấm máy vào năm 2022 và phát hành từ tháng 9 năm 2023. Bộ phim giành được giải Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 23. Đầu năm 2024, bộ phim bất ngờ trở thành hiện tượng phòng vé với số lượng người đặt mua kỷ lục, thậm chí trang web bán vé cũng bị sập bởi lượng truy cập lớn.
Đời tư
Vợ Phi Tiến Sơn từng là giảng viên Trường đại học Bách khoa, họ có hai người con.
Giải thưởng
Giải thưởng cá nhân
Giải thưởng cho tác phẩm
Tác phẩm
Tham khảo
Sinh năm 1954
Nhân vật còn sống
Nhà quay phim Việt Nam
Người Hà Nội
Cựu sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội
Đạo diễn điện ảnh Việt Nam
|
19855351
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20persimilis
|
Basitropis persimilis
|
Basitropis persimilis là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Jordan mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1916.
Tham khảo
persimilis
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1916
|
19855354
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20affinis
|
Basitropis affinis
|
Basitropis affinis là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Jordan mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1903.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1903
affinis
|
19855358
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20alienata
|
Basitropis alienata
|
Basitropis alienata là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Frieser, R mô tả khoa học lần đầu tiên năm 2004.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 2004
alienata
|
19855359
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20angustifron
|
Basitropis angustifron
|
Basitropis angustifron là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Jordan mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1933.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1903
angustifron
|
19855360
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20angustifrons
|
Basitropis angustifrons
|
Basitropis angustifrons là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Jordan mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1936.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1936
angustifrons
|
19855361
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20armata
|
Basitropis armata
|
Basitropis armata là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Jordan mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1903.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1903
armata
|
19855362
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20blanda
|
Basitropis blanda
|
Basitropis blanda là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Jordan mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1933.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1933
blanda
|
19855363
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anne%20Shirley
|
Anne Shirley
|
Anne Shirley là một nhân vật hư cấu được giới thiệu trong cuốn tiểu thuyết năm 1908 Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh của L. M. Montgomery. Shirley xuất hiện xuyên suốt bộ sách kinh điển, xoay quanh cuộc sống và gia đình của cô ở Đảo Hoàng tử Edward thế kỷ 19 và 20.
Quan niệm
Trong quá trình hình thành Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh, Montgomery đã được truyền cảm hứng từ những ghi chú mà cô đã viết khi còn là một cô gái trẻ kể về hai anh chị em đã bị gửi nhầm một cô gái mồ côi thay vì cậu bé mà họ đã yêu cầu, nhưng vẫn quyết định gửi nhầm. giữ cô lại. Cô đã rút ra những trải nghiệm thời thơ ấu của chính mình ở vùng nông thôn Đảo Hoàng tử Edward, Canada. Montgomery đã sử dụng một bức ảnh của Evelyn Nesbit mà cô đã cắt từ tạp chí Metropolitan Magazine của New York và treo trên tường phòng ngủ của cô, làm hình mẫu cho khuôn mặt của Anne Shirley và là lời nhắc nhở về "chủ nghĩa lý tưởng và tâm hồn tuổi trẻ" của cô.
Tiểu sử nhân vật hư cấu
Cuộc sống ban đầu của Anne
Anne Shirley sinh ra ở thị trấn hư cấu Bolingbroke, Nova Scotia với các giáo viên Walter và Bertha Shirley (nhũ danh Willis). Không có ngày sinh cụ thể nào được đưa ra, nhưng các tài liệu tham khảo trong các tác phẩm sau này cho thấy ngày sinh của cô là ngày 5 tháng 3 năm 1866. Anne mồ côi cha mẹ khi mới ba tháng tuổi, khi cha mẹ cô qua đời vì sốt thương hàn. Không có bất kỳ mối quan hệ nào khác, Anne được bà Thomas, quản gia của gia đình Shirleys, nhận nuôi. Sau cái chết của chồng - ông Thomas, Anne sống với gia đình Hammond gặp khó khăn trong nhiều năm và bị đối xử như một người hầu cho đến khi ông Hammond qua đời, sau đó bà Hammond chia các con của mình cho họ hàng và Anne được gửi đến trại trẻ mồ côi ở Hopetown. Cô tự coi mình là người bị cặp song sinh "nguyền rủa" - bà Hammond có ba cặp song sinh mà Anne đã giúp nuôi dưỡng.
Chuyển đến Chái nhà xanh, Avonlea
Năm 11 tuổi, Anne được đưa từ trại trẻ mồ côi Hopetown đến tỉnh lân cận Đảo Hoàng tử Edward, nơi mà cô coi như ngôi nhà thực sự của mình mãi mãi. Thật không may, cô đã đến nhầm - những người bảo trợ của cô, anh chị em Matthew và Marilla Cuthbert, muốn nhận nuôi một cậu bé để giúp đỡ họ trong trang trại của họ, nhưng người hàng xóm mà họ đã gửi tin nhắn chắc chắn rằng họ đã yêu cầu một bé gái thay thế. Matthew nhanh chóng bị mê hoặc bởi tinh thần tốt bụng, sự nhiệt tình quyến rũ và trí tưởng tượng sống động của cô gái và muốn cô ở lại Chái nhà xanh ngay từ lần đầu tiên. Phản ứng của bà Marilla là gửi cô trở lại trại trẻ mồ côi, nhưng cuối cùng bà đã bị thuyết phục "niềm vui sống" kỳ quặc của Anne và bởi thực tế là một người phụ nữ khác, cứng rắn hơn bà rất nhiều, đã sẵn sàng nhận Anne nếu bà Marilla từ chối giữ cô lại. Học giả người Mỹ Joseph Brennan lưu ý rằng đối với Anne "mọi thứ đều còn sống", khi cô tưởng tượng những cái cây ven đường chào đón cô đến Chái nhà xanh trong khi một cây mận nghiêng khiến cô nghĩ rằng nó đang đưa ra một tấm màn che chỉ dành cho cô. Anne đã có lúc nói "Maples là thứ mang tính xã hội" và thích Lover's Lane vì "...bạn có thể suy nghĩ thành tiếng ở đó mà không bị mọi người gọi là điên."
Anne có trí tưởng tượng tuyệt vời, được nuôi dưỡng bởi những cuốn sách thơ ca và lãng mạn, đồng thời có niềm đam mê với những cái tên và địa điểm đẹp và "lãng mạn". Khi nhìn thấy con đường rợp bóng cây táo đang nở hoa, cô im lặng một lúc trước khi đặt tên cho con đường là "Con đường trắng của niềm vui", khi theo dõi một cái ao ở trang trại Barry, cô đặt tên cho nó là "Hồ nước lấp lánh". Anne đã khao khát tình yêu tại trại trẻ mồ côi nơi cô sống và đối với cô, Chái nhà xanh là ngôi nhà duy nhất cô từng biết đến. Bản chất giàu trí tưởng tượng của Anne rất phù hợp với tính cách nồng nhiệt, ấm áp, đầy lạc quan và nhiệt tình của cô. Anne có bản tính bốc đồng khiến cô rơi vào đủ loại "vết xước", và cô xen kẽ giữa việc bị cuốn theo sự nhiệt tình hoặc ở trong "vực sâu tuyệt vọng". Học giả Elizabeth Watson đã quan sát một chủ đề lặp đi lặp lại, lưu ý rằng những quan sát của Anne về cảnh hoàng hôn phản ánh sự phát triển của chính cô. Trên Con đường trắng của niềm vui, Anne ngắm cảnh mặt trời lặn, đối với cô là một vinh quang nơi "bầu trời hoàng hôn được sơn màu tỏa sáng như một cửa sổ hoa hồng lớn ở cuối lối đi trong thánh đường". Đến cuối cuốn tiểu thuyết, khi Anne ngắm mặt trời lặn, nó đặt trên bối cảnh "Những bông hoa hạnh phúc thầm lặng", khi Anne dần yêu Gilbert.
Anne ban đầu gây ấn tượng không tốt với người dân thị trấn Avonlea bằng hành động bộc phát với người hàng xóm của Cuthberts, bà Rachel Lynde thẳng thắn buôn chuyện, nhưng điều này đã được sửa đổi bằng một lời xin lỗi cũng nhiệt tình không kém. Anne nhanh chóng trở thành 'bạn thân' với một cô gái ở trang trại lân cận, Diana Barry. Cùng với Matthew, Diana là "tâm hồn đồng điệu" của Anne. Với sự bộc phát với người hàng xóm của Cuthberts, bà Rachel Lynde thẳng thắn buôn chuyện, nhưng điều này đã được sửa chữa bằng một lời xin lỗi cũng nhiệt tình không kém.Tình bạn bị gián đoạn bởi sự thù địch tạm thời của mẹ Diana, sau khi Anne nhầm lẫn cho Diana say rượu nho tự làm của Marilla, nhầm nó với rượu mâm xôi. Anne nhanh chóng nhận được sự ân cần tốt đẹp của bà Barry khi cứu sống em gái của Diana, Minnie May. Minnie May bị yết hầu, Anne đã có thể chữa khỏi bằng một chai ipecac và kiến thức có được khi chăm sóc cho vô số cặp song sinh Hammond. Trong suốt thời thơ ấu của mình, Anne tiếp tục thấy mình gặp phải những "vết xước" tương tự, thường xuyên mắc phải những sai lầm và hiểu lầm chứ không phải lỗi của mình. Có lúc Anne "ngưỡng mộ đến mức điên rồ" một chiếc trâm cài thạch anh tím mà cô bị buộc tội ăn trộm, một tội ác mà cô phải thú nhận để được tham gia một chuyến dã ngoại. Anne có xu hướng thể hiện bản thân đối lập với những người lớn tuổi thông qua sự hài hước và tạo dựng mối quan hệ với Marilla Cuthbert thông qua sự hài hước. Anne mơ mộng và giàu trí tưởng tượng yêu cầu Marilla gọi cô là "Cordelia" và "Geraldine" vì Anne thích tưởng tượng mình là một người nào đó mà cô không phải vậy.
Anne cũng hình thành một mối quan hệ phức tạp với Gilbert Blythe, người hơn Anne hai tuổi nhưng đang học cùng trình độ với cô, việc học của anh bị gián đoạn khi cha anh bị ốm. Trong lần gặp đầu tiên với tư cách là bạn học, Gilbert đã trêu Anne bằng biệt danh "Cà rốt". Anne coi đó là một sự xúc phạm cá nhân do nhạy cảm với màu tóc của mình, đã trở nên tức giận đến mức đập vỡ tấm bảng của mình trên đầu anh ta. Khi giáo viên trừng phạt cô bằng cách bắt cô đứng trước lớp, và sau đó trừng phạt cô vì tội đi trễ bằng cách bắt cô ngồi cùng với "các cậu bé", đặc biệt là Gilbert Blythe, Anne đã hình thành một lòng căm thù lâu dài với Gilbert Blythe. Anne nói với Diana rằng "Gilbert Blythe đã làm tổn thương tôi vô cùng ". Xuyên suốt Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh, Gilbert nhiều lần bày tỏ sự ngưỡng mộ với Anne nhưng cô lạnh lùng từ chối anh. Mối hận thù của cô vẫn tồn tại ngay cả sau khi anh cứu cô khỏi màn tái hiện gần như thảm khốc vở kịch "Lancelot và Elaine" của Tennyson khi chiếc thuyền bị rò rỉ của cô chìm xuống ao. Sau tai nạn suýt chết người này, Gilbert đã cầu xin Anne trở thành bạn của anh nhưng cô do dự và từ chối, mặc dù cô sớm hối hận. Trong những năm học còn lại ở Avonlea, họ cạnh tranh với tư cách là những đối thủ trí tuệ để giành vị trí đứng đầu lớp, mặc dù cuộc cạnh tranh hoàn toàn mang tính thiện chí về phía Gilbert. Tuy nhiên, Anne thành lập "Câu lạc bộ kể truyện" ở tuổi 13, nơi cô kể câu chuyện về hai cô gái tên Cordelia và Geraldine (cả hai đều là bí danh mà cô đã nhận nuôi trước đó), cả hai đều yêu thích Bertram - một biến thể của Gilbert. Câu chuyện kết thúc với việc Cordelia đẩy Geraldine xuống sông để chết đuối cùng Bertram, điều này cho thấy Anne bị Gilbert thu hút trong tiềm thức. Gần cuối, Anne và Gilbert cùng nhau đi bộ đến Chái nhà xanh, nơi Gilbert chỉ nói đùa: "Bạn đã cản trở vận mệnh đủ lâu rồi." Ở phần cuối của Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh, Anne nhìn ra ngoài cửa sổ và ngưỡng mộ Avonlea như một "thế giới lý tưởng của những giấc mơ", qua đó cô nhìn thấy một "khúc cua" nhờ Gilbert. Bà Lynde ở đầu cuốn sách là người bận rộn tự cao của Avonlea, người thống trị cộng đồng. Ở phần cuối, cuốn sách gợi ý rằng Anne sẽ đóng vai tương tự, nhưng chỉ tốt hơn nhiều trong những năm tới.
Những năm trong nghề giáo viên ở Avonlea
Ngay sau khi tốt nghiệp trường công ở Avonlea, Anne và Gilbert đều đến Học viện Queen ở Charlottetown, nơi đào tạo họ để giảng dạy và học đại học. Họ chia nhau những giải thưởng danh giá nhất và vẫn là "kẻ thù" trong suốt quá trình học tại Queen's. Điểm số của Anne, đặc biệt là môn tiếng Anh, đã giúp cô giành được học bổng vào Cao đẳng Redmond, nhưng cái chết của Matthew và thị lực suy giảm của Marilla ở gần cuối Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh đã khiến Anne trì hoãn việc đăng ký học tại Redmond để cô có thể ở lại giúp việc tại Chái nhà xanh. Gilbert đã được bổ nhiệm làm giáo viên Avonlea vào năm sau, nhưng vì lòng tốt, thay vào đó anh đã nhận chức vụ tại Trường White Sands và nhường chức vụ Avonlea cho Anne. Cô cảm ơn anh vì sự hy sinh và họ đã sửa đổi, cuối cùng trở thành bạn bè sau 5 năm cạnh tranh căng thẳng. Anne đọc một số bài thơ của Virgil, nhưng từ bỏ cuốn sách vì vẻ đẹp của ngày hè ngập nắng và sự nghiệp giáo viên sắp tới của cô truyền cảm hứng cho cảm giác hạnh phúc và hòa hợp với thiên nhiên.
Trong Anne tóc đỏ làng Avonlea, Marilla quyết định nhận nuôi hai đứa con song sinh của chị họ mình là Davy và Dora (tiếp tục lời nguyền sinh đôi của Anne). Tuy nhiên, Anne đã tiếp thu họ, đặc biệt là Davy ngay lập tức. Anne học cách quản lý cặp song sinh thông qua sự kết hợp hài hước và hiểu biết. Ngoài công việc giảng dạy, Anne còn tham gia Hiệp hội Cải thiện Làng quê với công việc phá bỏ những ngôi nhà bỏ hoang xấu xí, sơn lại ngôi làng và trồng vườn ở ngã tư đường. Người hàng xóm xấu tính, ông Harrison công kích Anne là "kẻ đầu đỏ" ngồi "đọc tiểu thuyết bìa vàng". Khi một tác giả nổi tiếng - bà Morgan đến thăm Avonlea, Anne chào đón bà với chiếc mũi đỏ bừng do sai lầm khi bôi sai loại kem dưỡng da khi Anne phải mất nhiều thời gian để chuẩn bị gặp bà Morgan nổi tiếng thế giới, dẫn đến kết quả là hỗn loạn, mặc dù cuối cùng mọi việc đều diễn ra tốt đẹp. Cuộc gặp gỡ với bà Morgan đã truyền cảm hứng cho Anne thử viết lách, nơi bị mắc kẹt trong một chuồng gà bỏ hoang, cô viết ra cuộc đối thoại giữa những bông hoa và những chú chim trong vườn. Một vụ va chạm khác xảy ra tại trường của cô, khi Anne ép một học sinh ném một gói hàng vào bếp của trường mà không biết rằng gói hàng dẫn đến phạm pháp đó là pháo nổ. Năm sau, chồng của Rachel Lynde là Thomas qua đời và Rachel chuyển đến sống với Marilla tại Chái nhà xanh, để Anne tự do tiếp tục học tại trường Cao đẳng Redmond (dựa trên Đại học Dalhousie) ở Kingsport, Nova Scotia. Anne hài lòng vì năm sau Gilbert cũng sẽ đến Redmond. Sau đám cưới của cô bạn Lavendar, Anne lần đầu tiên nhận ra rằng có khả năng Gilbert dành tình cảm cho cô nhiều hơn là tình bạn, và "Trang thời con gái đã được lật, như bởi một ngón tay vô hình, và trang về thời phụ nữ đang ở trước mặt cô." với tất cả sự quyến rũ và bí ẩn, nỗi đau và niềm vui của nó." Anne một lần nữa đi dạo cùng Gilbert trong khi người kể chuyện lưu ý rằng "Phía sau họ là ngôi nhà đá nhỏ ẩn mình trong bóng tối. Nó cô đơn nhưng không bị bỏ rơi. Nó vẫn chưa kết thúc với những ước mơ, tiếng cười và niềm vui cuộc sống".
Cao đẳng Redmond
Trong Anne tóc đỏ ở đảo Hoàng tử Edward, cuộc sống học tập và xã giao của Anne nở rộ tại Redmond. Anne nói lúc đầu "Tôi sẽ học tập, trưởng thành và tìm hiểu về mọi thứ". Anne đến thăm ngôi nhà nơi cô sinh ra ở Bolingbroke và suy ngẫm sâu sắc về việc mẹ cô mất lúc còn rất trẻ nhưng ít nhất cũng biết được niềm vui của tình yêu. Trong thời gian ở Redmond, Anne viết hai câu chuyện, một trong số đó bị từ chối nhưng được Diana biến thành một câu chuyện thành công, và một câu chuyện khác bị bác bỏ vì không có cốt truyện. Câu chuyện "Averil's Atonement" của Anne được Diana biên tập thành một câu chuyện thành công và bán rất chạy, nhưng Anne coi phiên bản được xuất bản cuối cùng là một trò hề làm hỏng tầm nhìn nghệ thuật của cô. Tìm kiếm cảm hứng thi ca, Anne dành thời gian một mình trên Đảo Victoria (được đặt theo tên của nữ hoàng-hoàng hậu có đế chế trải dài khắp thế giới), Anne rút lui vào thế giới tưởng tượng của riêng mình giữa một khung cảnh "được bao phủ bởi ánh trăng u ám, trong khi nước cười quanh cô trong bản song ca của suối và nước".
Ở phần đầu cuốn tiểu thuyết, Anne và Gilbert mong chờ "bốn năm huy hoàng ở Redmond" đi lang thang đến Rừng Ma Ám, để nếm thử những "quả táo thơm ngon" nơi "dưới làn da hung dữ là thịt trắng, có gân trắng. màu đỏ; và bên cạnh hương vị táo đặc trưng của mình, họ còn có một hương vị hoang dã, thú vị nhất định". Học giả người Canada Elizabeth Waterson lưu ý những âm bội "khiêu dâm" trong cảnh nếm táo ở Rừng Ma Ám, là dấu hiệu cho thấy Anne bị thu hút bởi Gilbert mà bản thân cô cũng không hoàn toàn nhận thức được. Nơi lui tới yêu thích của Anne là Patty's Place, nơi cô và ba người bạn thân nhất của mình dành buổi tối bên lò sưởi, ba con mèo, hai con chó sứ và một chậu đầy hoa cúc tỏa sáng "xuyên qua bóng tối vàng như những mặt trăng màu kem".
Gilbert, người luôn yêu Anne cầu hôn cô nhưng cô từ chối anh. Vào thời điểm đó, tầm nhìn về tình yêu của Anne đã ăn sâu vào những tưởng tượng đa cảm và cô không nhận ra sự gần gũi của mình với Gilbert là tình yêu. Anne's gọi lời cầu hôn của Gilbert là "kỳ cục hoặc khủng khiếp". Cô tin rằng mình sẽ yêu hoàng tử của mình, người phù hợp với lý tưởng thời thơ ấu của cô là "cao, da ngăm và đẹp trai". Cảm thấy thất vọng sâu sắc, Gilbert giữ khoảng cách với Anne. Anne "kiêu ngạo" từ chối lời cầu hôn của Charlie Sloane. Anne sau đó chào đón sự tán tỉnh của Roy Gardner đẹp trai đen tối, người mà cô gặp vào một buổi chiều mưa tháng 11 năm học cơ sở. Sau khoảng một năm rưỡi tán tỉnh, anh cầu hôn trong công viên nơi họ gặp nhau, nhưng thay vào đó Anne lại kết thúc mối quan hệ của họ, nhận ra rằng cô không thực sự yêu anh và anh không thuộc về cuộc đời cô. Anne phản ứng một cách "dữ dội", "khốn khổ" và "tuyệt vọng" trước lời cầu hôn của anh. Anne trích dẫn một bài thơ của Tennyson: "Tình yêu trong phần tiếp theo tác động đến Định mệnh và vén bức màn che đậy những giá trị tiềm ẩn".
Sau khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Redmond với bằng Cử nhân, Anne hiện 22 tuổi, quay trở lại Avonlea và nhận ra rằng cuộc sống đã tiếp tục trôi qua—người bạn thời thơ ấu của cô, Jane đã kết hôn với một triệu phú, và người bạn thân nhất của cô là Diana Barry (nay là Diana) đã sinh con đầu lòng Anne vẫn không tin rằng mình yêu Gilbert thật lòng, nhưng cô thất vọng khi tình bạn của họ đã kết thúc và bối rối trước phản ứng của mình trước tin đồn rằng anh ấy yêu Christine Stuart, một sinh viên của Redmond.
Đính hôn với Gilbert
Khi trở về Avonlea sau khi ở cùng những người bạn Paul, Stephen và Lavendar Irving tại Echo Lodge, Anne biết rằng Gilbert bị bệnh thương hàn sắp chết. Anne thức canh trong phòng mình ở Chái nhà xanh vào đêm Gilbert hết cơn sốt, khi đó cô nhận ra rằng cô luôn yêu anh, chỉ khi đối mặt với viễn cảnh mất anh. Khi Gilbert khỏi bệnh, anh lại cầu hôn Anne và cô đã đồng ý. Gilbert mang đến cho cô một giấc mơ mùa thu "về một ngôi nhà có lò sưởi trong đó, một con mèo và một con chó, bước chân của những người bạn - và bạn!". Người ta giải thích rằng Christine đã đính hôn với một người khác từ lâu và Gilbert chỉ tỏ ra thân thiện khi được anh trai của Christine yêu cầu trông chừng cô ấy. Bạn của Anne, Phil Blake đã viết thư cho Gilbert, bảo anh nên "thử lại", và anh nhanh chóng hồi phục sau đó và nghe theo lời khuyên của cô. Anne và Gilbert một lần nữa dạo bước trong "khu rừng ma ám" với tư cách là "vua và hoàng hậu trong vương quốc cô dâu của tình yêu".
Lễ đính hôn của họ kéo dài trong ba năm. Chiếc nhẫn đính hôn của cô được cho là một vòng ngọc trai chứ không phải là một viên kim cương, một viên đá mà Anne nói luôn làm cô thất vọng vì nó không phải là màu tím đáng yêu mà cô từng mơ ước. Anne nhận công việc hiệu trưởng tại thị trấn lớn thứ hai của Đảo Hoàng tử Edward, Summerside, trong khi Gilbert hoàn thành khóa học ba năm trường y của mình. Trong thời gian này, Anne tiếp xúc với nhiều người lập dị khác nhau ở nơi làm việc và xung quanh thị trấn. Điều đáng chú ý là Anne đã vươn lên trở thành hiệu trưởng của trường Summerside, khiến cô ngang hàng với Gilbert. Vừa là hiệu trưởng vừa là giáo viên, Anne phải đối mặt với hiệu phó khó tính Katherine Brooke, người luôn tỏ ra thô lỗ với cô. Brooke công khai ghen tị với khả năng có được cuộc sống tốt đẹp của Anne và cố gắng lôi kéo cô ấy xuống mọi cơ hội. Anne trưởng thành giờ đây đã vượt lên trên những "vết xước" tuổi trẻ của mình và được thúc đẩy bởi mong muốn giúp đỡ người khác, nhận ra rằng sự khó chịu của Brooke là do lòng tự trọng thấp của cô và giúp cô tìm được một công việc phù hợp với mình hơn là dạy học.
Hôn nhân và làm mẹ
Anne và Gilbert cuối cùng kết hôn tại Green Gables, ngôi nhà mà Anne lớn lên và chuyển đến làng Four Winds, P.E.I. Ở đó, họ cư trú trong một ngôi nhà nhỏ mà Anne mệnh danh là "Ngôi nhà Mơ Ước", và Gilbert tiếp quản công việc hành nghề y tế của chú mình ở thị trấn Glen St. Mary gần đó. Anne ca ngợi "ngôi nhà trong mơ" của mình "giống như một chiếc vỏ sò màu kem mắc cạn trên bờ bến cảng", được bao quanh bởi những cây linh sam "giấu kín những bí mật" trong khi con đường dẫn vào nhà ngập tràn cây hoa nở rộ.Ngôi nhà nhìn ra bến cảng một bên và dòng suối lấp lánh ở thung lũng bên dưới. Vấn đề chính của Anne tại Ngôi nhà Mơ Ước là giúp đỡ người hàng xóm Leslie Moore, người có chồng bị tổn thương não sau một vụ tai nạn, và người cũng bị tổn thương về mặt tinh thần như chồng cô cũng bị tổn thương não.
Hai đứa con đầu lòng của Anne (một trong số đó đã không may qua đời khi còn nhỏ) được sinh ra tại Ngôi nhà Mơ Ước, trước khi Anne và Gilbert cùng gia đình đang phát triển của họ miễn cưỡng chuyển đến những khu nhà lớn hơn. Trong một khoảnh khắc suy ngẫm thần học, Anne đặt câu hỏi liệu cái chết của con cô có phải là "ý muốn của Chúa" hay không, sử dụng các cụm từ khám phá câu hỏi thần học về cái chết và nỗi đau trong một vũ trụ do một Chúa công chính chủ trì giống hệt với những gì Montgomery đã sử dụng trong nhật ký sau khi đứa con trai thứ hai của cô chết non. Sau sự mất mát của Anne, cô và Leslie gắn bó với nhau khi hai người phụ nữ chia sẻ câu chuyện đau đớn của họ khi họ "nói ra", khiến họ nắm tay nhau và tuyên bố: "Chúng ta mãi mãi là phụ nữ và là bạn bè". Anne và Gilbert sống phần đời còn lại ở Glen St. Mary, trong một ngôi nhà lớn mà họ đặt tên là Mái nhà bên ánh lửa. Họ có tổng cộng bảy người con trong khoảng thời gian từ 1895-1900: Joyce (hay "Joy") (chết rất sớm sau khi sinh tại Ngôi nhà của những giấc mơ), James Matthew ("Jem"), Walter Cuthbert, hai bé gái sinh đôi Anne ("Nan") và Diana ("Di"), Shirley (con trai út) và Bertha Marilla ("Rilla"). Anne khá ốm sau khi sinh cả Joyce và Shirley, nhưng đều hồi phục cả hai lần. Một vấn đề lớn đối với Anne nảy sinh khi người dì Mary Maria đáng ghét của Gilbert đến thăm và không chịu rời đi, hành hạ Anne bằng nhiều cách khác nhau.
Các con của Anne tận hưởng một tuổi thơ hạnh phúc, thậm chí bình dị, dành phần lớn thời gian để vui chơi và phiêu lưu tại một vùng trũng gần đó mà chúng đặt tên là Thung lũng cầu vồng. Anne là một người mẹ dễ dãi, không bao giờ khắt khe với con mình và không phản đối khi chúng chơi trốn tìm với con của tân mục sư trong nghĩa trang. Khi một người bạn phản đối, Anne trả lời: "Tại sao ngay từ đầu họ lại xây ngôi nhà đó bên cạnh nghĩa địa?". Các con của Anne thường xuyên bị những đứa trẻ nghịch ngợm bắt nạt, đòi hỏi mẹ phải an ủi nhiều. Khi Shirley đọc về lý thuyết về phức hợp Jocasta trên một trong những tạp chí y khoa của Gilbert cùng với lời cảnh báo về việc các bà mẹ hôn con mình, cô nói: "Tất nhiên là đàn ông! Không người phụ nữ nào lại viết bất cứ điều gì ngớ ngẩn và độc ác như vậy". Tại một thời điểm, Anne cố gắng tiếp tục sự nghiệp viết lách của mình, xuất bản một cáo phó rất thơ mộng cho một người hàng xóm nhưng bị một biên tập viên tờ báo thô lỗ, thiếu hiểu biết chế giễu là "cáo phó", mặc dù nó được mọi người khác đón nhận nồng nhiệt. Bản thân Anne có một cuộc sống thoải mái, với một người giúp việc sống chung (Susan Baker), người điều hành công việc gia đình một cách hiệu quả và cũng là người chăm sóc chính cho Shirley sau khi Anne lâm bệnh khi sinh ra anh. Khi hồi phục, Anne nói: "Tôi thấy mình vẫn tiếp tục sống". Sau khi Anne hồi phục, cô tham gia vào nhiều ủy ban phụ nữ khác nhau trong thị trấn và đi du lịch đến Châu Âu cùng Gilbert để thực hiện chuyến du lịch kéo dài đến lục địa Châu Âu vào khoảng năm 1906.
Nhưng bóng ma của Thế chiến thứ nhất năm 1914 đã thay đổi mọi thứ, và cả ba chàng trai Blythe (cũng như hôn phu của Nan và Rilla) cuối cùng đều tình nguyện chiến đấu trong cuộc chiến. Gia đình Blythe theo sát chiến tranh sớm trở nên quen thuộc với những nơi xa xôi như Calais, Mons, Lodz, Ypres, Belgrade, Amiens, Prezemysl, Gallipoli, Antwerp và Kut al Amara. Walter nhạy cảm và thơ mộng, người con trai thứ hai của Anne tình nguyện, bị giết tại Courcelette năm 1916. Jem được liệt kê là mất tích khi chiến tranh kết thúc, nhưng sau một thời gian đau đớn năm tháng, cuối cùng sống sót trở lại, trốn thoát khỏi trại tù binh. Montgomery biết John McCrae, tác giả của bài thơ In Flanders Fields, và cô đã mô phỏng Walter một phần theo anh ta.
Bà ngoại Anne
Lần xuất hiện cuối cùng của Anne xảy ra trong bộ sưu tập The Blythes Are Quote. Trong tác phẩm này, có tông màu hơi u ám hơn so với các cuốn sách Anne trước đây, chúng ta thấy những cái nhìn thoáng qua về Anne trong một số truyện ngắn chủ yếu nói về những cư dân khác của Glen St. Mary, và lấy bối cảnh từ phần trước - từ Thế chiến thứ nhất đến đầu Thế chiến thứ hai. Cuốn sách cũng có một số bài thơ, được ghi riêng cho Anne và con trai bà là Walter (cộng với một bài do Walter bắt đầu và Anne hoàn thành sau khi ông qua đời).
Lần cuối cùng chúng ta nhìn thấy Anne già hơn và khôn ngoan hơn, hiện đã ngoài bảy mươi, vào những ngày đầu của Thế chiến thứ hai. "Bà Tiến sĩ Blythe", như bà thường được nhắc đến, là một nhân vật nổi tiếng, được nhắc đến nhiều ở Glen St. Mary, người được một số người yêu mến, mặc dù những cư dân khác tỏ ra ghen tị hoặc đố kỵ nhỏ nhen với cả Anne và gia đình cô. Trong khi Anne đã dịu dàng từ những ngày còn trẻ, cô và Gilbert vẫn hay trêu chọc nhau một cách ranh mãnh và tốt bụng. Cô vẫn tiếp tục đam mê nghề mai mối và còn làm thơ. Cô vẫn kết hôn với Gilbert và hiện là bà của ít nhất năm người, ba trong số họ đã đủ tuổi để nhập ngũ chiến đấu: con trai của Jem là Jem Jr. và Walter, và con trai của Rilla là Gilbert. Cũng được đề cập đến là Di, con gái của Nan và một cháu gái tên là "Anne Blythe", có thể là con của Jem hoặc Shirley.
Mặc dù Anne từ bỏ việc viết truyện ngắn ngay sau khi làm mẹ nhưng cô vẫn tiếp tục làm thơ trong suốt cuộc đời mình. Những bài thơ này thường xuyên được chia sẻ với những người còn lại trong gia đình, những người đưa ra nhận xét, phê bình và động viên. Tác phẩm sau này của Anne bày tỏ những khó khăn sâu sắc khi phải đối mặt với cái chết của Walter và ý tưởng về chiến tranh, một số nhân vật nhận xét rằng cả Anne và Gilbert đều không bao giờ giống nhau sau cái chết của Walter. Tuy nhiên, cặp đôi vẫn hết lòng vì nhau và gia đình, và khi câu chuyện kết thúc, vào khoảng năm 1940, Blythes vẫn là trụ cột trong cộng đồng của họ, những người đã tận hưởng cuộc hôn nhân kéo dài 50 năm.
Xuất hiện trong văn học
Ngoài Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh (1908), Anne còn là nhân vật trung tâm của các tiểu thuyết tiếp theo do Montgomery viết gồm:
Anne tóc đỏ làng Avonlea (1909), Anne tóc đỏ ở đảo Hoàng tử Edward (1915), Anne tóc đỏ và Ngôi nhà Mơ Ước (1917), Anne tóc đỏ dưới Mái nhà Bạch Dương (1936; tựa đề ở Anh là Anne of Windy Willows), và Anne dưới Mái nhà Bên Ánh Lửa (1939). Các cuốn sách khác trong bộ truyện Anne bao gồm Thung lũng cầu vồng (1919), tập trung vào những đứa con của Anne trong thời thơ ấu của chúng, và Rilla dưới Mái nhà Bên Ánh Lửa (1921), tập trung vào cuộc đời con gái út của Anne trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Anne cũng xuất hiện và được nhắc đến trong Biên niên sử Avonlea và Biên niên sử tiếp theo của Avonlea, mặc dù phần lớn câu chuyện trong các tập này là về các nhân vật khác. Trong The Blythes Are Quoted (xuất bản dưới dạng rút gọn là The Road to Yesterday và trong một phiên bản được phục hồi, không rút gọn vào năm 2009), Anne là một nhân vật ngoại vi trong vai một người bà có nhiều cháu, ít nhất ba trong số đó đang chuẩn bị nhập ngũ vào quân đội Canada trong những ngày đầu của Thế chiến thứ hai. Đây là một trong những câu chuyện cuối cùng Montgomery viết trước khi bà qua đời vào năm 1942.
Anne Shirley cũng xuất hiện trong Budge Wilson's Before Green Gables, phần tiền truyện của Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh được ủy quyền bởi những người thừa kế của L.M. Montgomery. Dựa trên thông tin cơ bản từ bộ truyện gốc, cuốn sách kể về 11 năm đầu thời thơ ấu của Anne Shirley, bắt đầu bằng niềm hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc hôn nhân của Bertha và Walter Shirley trước khi họ qua đời sớm.
Phim và truyền hình
Anne Shirley đã được nhiều nữ diễn viên thể hiện trong nhiều phiên bản điện ảnh, truyền hình, đài phát thanh và sân khấu kể từ năm 1919. Được Mary Miles Minter thủ vai trong Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh (1919), phim câm do William Desmond Taylor đạo diễn và Paramount Pictures phát hành. Bộ phim đã bị Montgomery chỉ trích nặng nề, người đã bác bỏ việc Mỹ hóa câu chuyện. Dawn O'Day đóng vai chính trong bản làm lại RKO tiếp theo, Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh (1934), đã thu được thành công về mặt thương mại đến mức O'Day được quảng bá vĩnh viễn là Anne Shirley trong phần tiếp theo năm 1940 và công việc tương lai của cô.
Trên truyền hình, Toby Tarnow đóng vai chính trong bộ phim chuyển thể âm nhạc của Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh (1956) được phát sóng trên CBC Television. Loạt phim Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh của BBC (1972) và phần tiếp theo của nó, Anne tóc đỏ làng Avonlea (1975), có Kim Braden làm nhân vật chính. Megan Follows đóng vai chính trong phim truyền hình Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh (1985), do Kevin Sullivan đạo diễn và CBC sản xuất. Follows đã thể hiện lại vai diễn của cô trong Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh: Phần tiếp theo và Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh: Câu chuyện tiếp theo (2000). Bộ phim đã nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình, các giải thưởng bao gồm Giải thưởng Peabody và Giải thưởng Emmy cho Chương trình dành cho trẻ em xuất sắc.
Cả Hannah Endicott-Douglas và Barbara Hershey đều có sự tham gia của Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh: Khởi đầu mới (2008), cũng do Sullivan đạo diễn. Ella Ballentine vai Anne trong Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh của L.M. Montgomery (2016) và hai phần tiếp theo, Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh: Những ngôi sao tốt (2017) và Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh: Lửa & Sương (2017) đã phát sóng trên YTV. Amybeth McNulty đóng vai chính trong bộ phim truyền hình nhiều tập của CBC/Netflix Anne tóc đỏ (2017–2019), bộ phim đã giành được Giải thưởng màn ảnh Canada cho Phim truyền hình chính kịch hay nhất hai lần và giúp McNulty giành được giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.
Đón nhận và di sản
Lennie Goodings, nhà xuất bản của Virago Press, đã chọn Anne làm nhân vật hư cấu yêu thích của mình, nói rằng, "Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh nóng nảy, hài hước và trên hết là đam mê không hề nao núng...[cô ấy] đối mặt với thế giới mà hoàn toàn không có gì khác ngoài sức mạnh tuyệt đối của tính cách cô ấy Tôi yêu cô ấy." Nữ diễn viên Christina Hendricks cho biết nhân vật này là lý do khiến cô nhuộm đỏ mái tóc vàng tự nhiên từ năm 10 tuổi.
Học giả người Anh Faye Hammill nhận xét rằng sự nổi tiếng của Shirley đến mức cô đã làm lu mờ người sáng tạo ra mình, L.M Montgomery vì biển số xe ở Đảo Hoàng tử Edward mang khẩu hiệu "P.E.I Home of Anne of Green Gables" chứ không phải "Nơi sinh P.E.I của L.M Montgomery". Nữ diễn viên Mary Miles Minter vai Shirley trong bộ phim chuyển thể năm 1919 của Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh, sau đó sự nghiệp của cô bị hủy hoại khi đạo diễn phim William Desmond Taylor bị sát hại vào năm 1922, và tên của cô đã bị hủy hoại trở thành nghi phạm, mặc dù cô chưa bao giờ bị buộc tội. Khi Minter cố gắng trở lại với tư cách là một nhà báo chuyên mục tư vấn vào cuối những năm 1920, cô đã sử dụng nghệ danh Anne Shirley trong nỗ lực khôi phục lại hình ảnh trong lành của mình, vốn đã bị hủy hoại bởi vụ bê bối giết người Taylor. Nữ diễn viên Dawn O'Day, người đóng vai Shirley trong bộ phim chuyển thể năm 1934 của Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh, thích nhân vật này đến mức cô đã đổi tên một cách hợp pháp thành Anne Shirley. Montgomery trong thời trẻ đã có những trải nghiệm về cái mà bà gọi là "tia chớp" - những khoảnh khắc lặng lẽ chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên khi bà đi dạo một mình, mang lại cho bà cảm giác ngây ngất và điều mà bà coi là nhận thức về một sức mạnh tinh thần cao hơn chạy xuyên qua thiên nhiên và cô. Bất chấp tuyên bố của Montgomery rằng Shirley không phải là tự truyện, những khoảnh khắc Shirley trải qua những khoảnh khắc giao tiếp thần bí với thiên nhiên gần như giống từng chữ với những mô tả của Montgomery về "tia sáng" trong nhật ký của cô.
Phần lớn sức hấp dẫn của tuyển tập Anne là do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa ngày càng gia tăng vào đầu thế kỷ 20, khiến nhiều người hoài niệm về một vùng nông thôn thơ mộng được lãng mạn hóa, nơi mọi người vẫn sống "cuộc sống giản dị", đó chính xác là cách các nhà xuất bản tiếp thị những tác phẩm về Anne vào thời điểm đó. Ở chính Canada, nhiều trí thức có xu hướng coi hiện đại là một hiện tượng đe dọa, và từ đó liên kết những khía cạnh khó chịu hơn của hiện đại với Hoa Kỳ, quốc gia vào thời điểm đó được coi là một quốc gia hung hãn, bắt nạt có ý định nuốt chửng các nước láng giềng. Phần lớn sức hấp dẫn của nhân vật Anne đối với các nhà phê bình Canada vào thời điểm đó là biểu tượng cho chất lượng cuộc sống lành mạnh, thân thiện của người Canada, nơi mọi người vẫn giữ được những giá trị truyền thống, không giống như các nhà văn Mỹ với nỗi ám ảnh về bạo lực và tình dục trong những câu chuyện lấy bối cảnh một môi trường đô thị phi cá nhân hóa. Hammill quan sát thấy rằng khi một số nhà văn Canada trẻ tuổi trong những năm 1920-30 cố gắng bắt chước các nhà văn Mỹ bằng những câu chuyện "thực tế" khó chịu tập trung vào tình dục và bạo lực ở các thành phố, họ đã bị các nhà phê bình tố cáo vì những câu chuyện "Mỹ" rõ ràng của họ ngụ ý rằng những câu chuyện như vậy không phải là "Canada". Khi quá trình đô thị hóa tăng tốc vào đầu thế kỷ 20, "văn học khu vực" miêu tả cuộc sống ở các vùng nông thôn đã trở nên phổ biến trong thế giới nói tiếng Anh, và ở Hoa Kỳ, văn học Canada được coi là một loại "văn học khu vực" giống như Canada với những vùng rừng và đất nông nghiệp rộng lớn cùng với di sản Anh, nơi người dân tự hào là một phần của đế quốc Anh, điều này đã tạo cho Canada một hình ảnh khá cổ kính ở Hoa Kỳ như một nơi lạc hậu, mộc mạc, nơi các giá trị truyền thống vẫn tồn tại. Giành được độc lập trong Chiến tranh Cách mạng, đối với người Mỹ vào đầu thế kỷ 20, việc người Canada gốc Anh lại muốn trở thành một phần của đế quốc Anh là điều gần như không thể hiểu nổi, điều này đã tạo cho Canada hình ảnh về một xã hội rất bảo thủ ở Hoa Kỳ trong kỷ nguyên này. Với những quan điểm này về Canada, nhiều người Mỹ có xu hướng chia sẻ quan điểm của người Canada về Shirley như một biểu tượng mang tính biểu tượng của Canada.
Brennan đã viết những cuốn sách Anne chắc chắn là người Canada gốc Anh vì người Canada gốc Pháp hiếm khi xuất hiện trong sách. Brennan viết: "Những giấc mơ của Anne biết nhiều về Camelot của Tennyson hơn là nền văn hóa phong phú của Tân Pháp, về những người du hành, cư dân của nó, về những nữ anh hùng như Maria Chapdelaine xuất hiện trong các bức thư của Canada (nhờ một cô gái trẻ lang thang đến từ Pháp) khi Anne của Montgomery đã ổn định cuộc sống ở nhà và làm mẹ. Avonlea không phải là Péribonka. Tuy nhiên, một nghệ sĩ bằng ngôn từ - và Montgomery là như vậy - không nên có lỗi vì im lặng về một nền văn hóa quá khác biệt của riêng cô ấy". Brennan lưu ý rằng các tác phẩm về Anne phản ánh "xã hội bảo thủ yên tĩnh" đó là Đảo Hoàng tử Edward vào thời Victoria với các nhân vật là những người theo đạo Tin lành gốc Anh và/hoặc gốc Scotland, và Anne ủng hộ Đảng Bảo thủ "đơn giản vì Matthew yêu quý của cô ấy đã bỏ phiếu bảo thủ".
Năm 1912, Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh được dịch sang tiếng Ba Lan và xuất bản dưới dạng ấn bản dành cho hải tặc ở Warszawa với cuốn sách được ghi là của "Anne Montgomery". Cuốn sách cực kỳ nổi tiếng ở Ba Lan và trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhóm kháng chiến Armia Krajowa (AK) đã phát hành các ấn bản của cuốn sách để nhắc nhở các thành viên của mình rằng họ đang chiến đấu vì điều gì. Ngay cả khi không có gì về Ba Lan trong tuyển tập Anne, AK vẫn coi cô là biểu tượng của những giá trị nhân văn mà họ đang bảo vệ. Trong một thời gian, Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh bị cấm ở Cộng sản Ba Lan, và cuốn sách được lưu hành dưới dạng samizdat vì Anne được coi là biểu tượng của chủ nghĩa cá nhân và không sẵn sàng phục tùng chính quyền, khiến cô trở thành nữ anh hùng nổi tiếng đối với những người đang gặp khó khăn chống lại chế độ độc tài cộng sản. Học giả người Canada Mary Henley Rubio đã đề cập khi đến thăm Warszawa vào năm 1984, nơi bà xem phiên bản Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh đang được trình diễn tại một nhà hát địa phương, và rằng khi khán giả biết cô đến từ Canada, cô thấy mình bị vây quanh bởi đám đông tất cả khán giả đều muốn có chữ ký của cô vì cô đến từ cùng một vùng đất với Anne yêu dấu của họ.
Akage no An (Anne tóc đỏ), tên gọi Shirley ở Nhật Bản, là một biểu tượng văn hóa cực kỳ nổi tiếng ở đất nước này. Từ thời Minh Trị Duy Tân cho đến năm 1945, hệ thống giáo dục Nhật Bản (do Bộ Lục quân và Hải quân phối hợp điều hành) được thiết kế để truyền bá học sinh vào "Bushido" ("con đường của chiến binh") là tính cách hung hãn. Mã chiến binh của Samurai được gọi là mục đích của các trường học ở Nhật Bản từ thời Minh Trị Duy Tân cho đến khi kết thúc Thế chiến thứ hai là đào tạo các cậu bé trở thành binh lính. Hệ thống giáo dục Nhật Bản không hề nao núng tôn vinh chiến tranh là hình thức hoạt động cao nhất của con người và ý tưởng rằng Hoàng đế Nhật Bản là một vị thần sống, với việc các cậu bé được dạy rằng chết vì Hoàng đế là vinh dự lớn nhất trong khi các cô gái được dạy đó là vinh dự lớn nhất là có con trai chết cho Hoàng đế. Cùng với chủ nghĩa quân phiệt của hệ thống giáo dục là tâm trạng bài ngoại rõ rệt và phân biệt chủng tộc rõ ràng với các giáo viên Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai khi nói với học sinh của họ rằng "quỷ trắng" Anh-Mỹ là những kẻ ăn thịt người và thức ăn yêu thích của họ là người châu Á. Là một phần của cải cách giáo dục trong thời kỳ Mỹ chiếm đóng (1945–52), người ta quyết định rằng học sinh Nhật Bản cần đọc thứ gì đó ít quân phiệt và bài ngoại hơn để đọc so với những văn bản tôn vinh Bushido và Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh đã được tạo ra bắt buộc đọc sách ở các trường học Nhật Bản vào năm 1952. Ngoài ra, như một phần của cải cách giáo dục ở Nhật Bản, đã có một nỗ lực nhằm giảm bớt tư tưởng bài ngoại tràn lan trước đây vốn đặc trưng cho việc giảng dạy của người Nhật cho đến năm 1945, và người ta cảm thấy tính cách lành mạnh, đáng yêu của Anne Shirley sẽ mang đến cho học sinh Nhật Bản một tấm gương về cách con người ở phương Tây không phải là "quỷ trắng" như chính phủ của họ đã nói với họ trong chiến tranh. Vì có rất nhiều trẻ mồ côi còn sót lại từ Thế chiến thứ hai ở Nhật Bản vào năm 1952, nhân vật Shirley ngay lập tức được yêu thích ở Nhật Bản và cô là một trong những nhân vật được yêu thích nhất ở Nhật Bản kể từ thời điểm đó. Phần lớn sức hấp dẫn của Akage no An nằm ở khả năng vượt lên trên mọi tình huống nhờ sự dũng cảm và sự sẵn sàng thách thức "con rồng đáng gờm nhất của Nhật Bản, người phụ nữ lớn tuổi hống hách."
Shirley nổi tiếng ở Nhật Bản đến mức có Học viện Anne ở Fukuoka dạy các cô gái nói tiếng Anh với giọng Hàng hải trong khi ở Okama có Trường Green Gables, một trường điều dưỡng dạy những phụ nữ trẻ cách cư xử như Shirley Hanako Muraoka, người phụ nữ Nhật Bản đã dịch cuốn Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh sang tiếng Nhật, đã trở thành người nổi tiếng chỉ nhờ dịch cuốn sách và vào năm 2014, NHK đã phát sóng một bộ phim truyền hình nhỏ có tựa đề Hanako to Anne kể về cuộc đời của Muraoka và cuộc đấu tranh của cô để cuốn Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh được dịch và xuất bản tại Nhật Bản. Muraoka đọc Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh vào năm 1939 và bắt đầu dịch cuốn sách cùng năm, nhưng phải đến năm 1952, bản dịch Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh của bà mới được xuất bản ở Nhật Bản. Hanako to Anne được phát sóng từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2014 đã thành công rực rỡ về mặt xếp hạng, nhận được lượng người xem trung bình 22% ở khu vực Kanto (khu vực đông dân nhất của Nhật Bản) và khiến lượng khán giả Nhật Bản tăng gấp đôi du khách đến đảo Hoàng tử Edward. Bộ phim có sự tham gia của Yuriko Yoshitaka trong vai Muraoka, gợi ý rằng có nhiều điểm tương đồng giữa cuộc đời của Muraoka và cuộc đời của Anne, và do đó là một kiểu kể lại cuộc đời của Anne vào cuối thời Minh Trị, Đại Chính và đầu thời kỳ Chiêu Hòa trong lịch sử Nhật Bản. Năm 1993, một công viên giải trí có tên Canada World được mở tại Hokkaido với điểm thu hút phổ biến nhất là bản phục dựng của Chái nhà xanh. Năm 2010, tờ Globe and Mail viết: "Gần như có thể tuyên bố rằng ngôi nhà thực sự của Anne không còn là vùng nông thôn Đảo Hoàng tử Edward nữa. Đó là Nhật Bản, nơi câu chuyện về Anne và bím tóc ngây thơ của Lucy Maud Montgomery vẫn rất nổi tiếng." rằng nó đã ăn sâu vào tâm thức dân tộc kể từ bản dịch gốc tiếng Nhật của cuốn sách với tựa đề Anne tóc đỏ vào năm 1952." Năm 2014, nhà ngoại giao Nhật Bản Eiji Yamamoto nói với một nhà báo của tờ Toronto Star: "Mặc dù là trẻ mồ côi nhưng Anne có tinh thần tự do, cô ấy nói bất cứ điều gì cô ấy muốn. Trong những năm sau Thế chiến thứ hai, người dân Nhật Bản rất nghèo. Có rất nhiều trẻ mồ côi. Và mọi người đã mất hy vọng. Họ lo lắng. Anne là người lạc quan. Cô ấy đã giúp mọi người có được lòng can đảm."
Học giả người Canada Janice Kulyk Keefer lưu ý rằng nhân vật Shirley được miêu tả trong phim và truyền hình đã được làm sạch so với cuốn sách, viết:
Cái chết, những quy luật đẫm máu của tự nhiên, sự chuyên chế của người lớn, bạo lực - tất cả đều đầu độc vị ngọt của... Arcadia. Tuy nhiên, tầm nhìn bình dị bị cắt xén bởi cái mà chúng ta có thể gọi là 'siêu bình dị', được hiện thực hóa thông qua sức mạnh của ma thuật, tưởng tượng, khuôn mẫu văn hóa đại chúng và chính ngôn ngữ. Cùng với nhau, 'mối đe dọa' và 'meta-idyll' tạo ra những ẩn ý mang tính lật đổ cho mỗi câu thành ngữ.
Vào năm 2019, công ty xuất bản Canada Bradan Press đã gây quỹ cộng đồng cho bản dịch tiếng Gaelic-Scotland của Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh có tựa đề Anna Ruadh, thông qua trang web gây quỹ cộng đồng Kickstarter. Cuốn sách được phát hành vào năm 2020 là bản dịch tiếng Gaelic-Scotland đầu tiên của Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lucy Maud Montgomery Resource Page
Anne of Green Gables Electronic Text
L.M. Montgomery Online - Trang web học thuật này bao gồm một blog, một thư mục phong phú về các tài liệu tham khảo, và một bộ phim hoàn chỉnh về tất cả các bản chuyển thể từ các văn bản của Montgomery.
Anne of Green Gables Centenary - Trang web này bao gồm thông tin về lễ kỷ niệm 100 năm tác phẩm Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh của Lucy Maud Montgomery.
Looking for Anne Trailer
Anne Shirley Character - Trang này chia sẻ cái nhìn sâu sắc về nhân vật Anne Shirley do Megan Follows thủ vai trong bộ phim kinh điển năm ngoái Anne of Green Gables.
Nhân vật nữ trong văn học
|
19855364
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BA%A8m%20th%E1%BB%B1c%20Ph%E1%BA%ADt%20gi%C3%A1o
|
Ẩm thực Phật giáo
|
Ẩm thực Phật giáo (Buddhist cuisine) là một phần của ẩm thực châu Á được các tu sĩ, tăng lữ Phật giáo (Bhikkhu/Tỳ kheo và Tỷ khâu ni) và nhiều tín đồ từ các khu vực chịu ảnh hưởng lịch sử của Phật giáo Đại thừa thực hành theo truyền thống văn hóa Phật giáo. Nền ẩm thực này gồm các món ăn chay hoặc thuần chay và dựa trên khái niệm của Pháp về Ahimsa (bất hại/cấm sát sinh). Việc ăn chay phổ biến trong các tín ngưỡng Pháp khác như Hindu giáo, đạo Jain và đạo Sikh, cũng như các tôn giáo Đông Á như Đạo giáo. Trong khi các Tỳ kheo và Tỳ khâu ni và một thiểu số tín đồ ăn chay quanh năm (ăn chay trường), nhiều tín đồ theo chế độ ăn chay của Phật giáo trong các ngày lễ. Những người theo đạo Phật tin rằng nấu ăn được coi là một hoạt động tâm linh nhằm tạo ra chất dinh dưỡng mà cơ thể cần để làm việc chăm chỉ và thiền định. Hầu hết các món ăn được coi là độc đáo của Phật giáo đều là món chay, nhưng không phải tất cả các truyền thống Phật giáo đều yêu cầu người tại gia hoặc tăng lữ phải ăn chay.
Tổng quan
Phật giáo nhìn chung không cấm ăn thịt tuy nhiên chỉ được ăn những thứ thịt thỏa mãn điều kiện tam tịnh nhục, Phật giáo đại thừa khuyến khích ăn chay để nuôi dưỡng lòng từ bi. Trong giới luật của Phật giáo, giới đầu là giới tránh sát sinh, hơn thế nữa phật tử còn thực hành tránh gây khổ đau cho chúng sinh, cho nên trên căn bản Phật giáo khuyến khích việc ăn chay nhưng cũng không cấm đoán ăn mặn. Phật giáo Nam Tông (Thượng tọa bộ) thường không ăn chay. (vẫn được ăn mặn, hay còn gọi là "cho gì ăn nấy") Tuy nhiên, những người xuất gia (tì kheo) nếu nghe tiếng con vật bị giết, thấy con vật bị giết hoặc nghi con vật đó bị giết để thết đãi mình thì không được ăn, nếu ăn thì sẽ phạm vào giới luật. Mỗi tông phái của Phật giáo Đại thừa lựa chọn những kinh điển khác nhau để làm theo, cho nên một số tông phái, bao gồm cả phần lớn các tông phái của Phật giáo Tây Tạng và Phật giáo Nhật Bản đều ăn thịt, trong khi nhiều tông phái khác của Phật giáo Trung Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc thực hành ăn chay.
Ăn chay chủ yếu gắn liền với truyền thống Đông Á và Đông Nam Á ở Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi nó thường được các vị tu sĩ và có thể được phật tử tuân theo vào các ngày lễ. Ăn chay theo Phật giáo đại thừa là không ăn tất cả các sản phẩm từ động vật cũng như một số loại rau trong chi Hành (có mùi thơm đặc trưng của hành và tỏi), có thể tương ứng với các loại cây hành, hẹ, tỏi, nén và kiệu gọi chung là ngũ tân. Người ăn chay là người sống theo chế độ ăn kiêng gồm ngũ cốc, các loại đậu, hạt, rau, trái cây, nấm, tảo, men và/hoặc một số thực phẩm không có nguồn gốc động vật khác (ví dụ như muối) nên còn gọi là ăn chay trong cách phân biệt với ăn mặn (tức là ăn thịt, không ăn chay). Trong Luật tạng của Phật giáo quy định các tăng lữ phải ăn không quá giờ ngọ. Hằng tháng vào những ngày trăng rằm và đầu tháng (mùng 1 và 15 âm lịch) gọi là ngày Bố Tát (tiếng Phạn gọi là Uposatha hay Upavasatha), là ngày định kỳ để thuyết giới, cùng nhắc nhở nhau về giới pháp để tu hành. Về sau được các nhà Phật học Đại thừa Trung Quốc dịch là ngày trai giới (齋) và Việt Nam dịch là ăn chay từ chữ trai đó thành chữ "chay". Ở Trung Quốc, vào thời nhà Tống, ẩm thực Phật giáo đã trở nên phổ biến đến mức các quán ăn chay xuất hiện, nơi các đầu bếp sử dụng các nguyên liệu như đậu, gluten, rau củ và nấm để tạo ra các loại thịt tương tự như thịt lợn, gà, trứng và trứng cua.
Chú thích
Liên kết ngoài
Shabkar.org: Vegetarianism as a way of life for Buddhists
Shojin Ryori: Vegetarian Cooking
Tantras on Buddhist food
Sutras on vegetarianism
Return To The Middle Kingdom: Chinese Vegetarian Eating in East Asia
Toshio Tanahashi
vegetarian-china.info
Daigo: a MICHELIN Guide Restaurant
Phật giáo
Phật giáo Trung Quốc
|
19855365
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20brevis
|
Basitropis brevis
|
Basitropis brevis là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Jordan mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1897.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1897
brevis
|
19855367
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20canaliculata
|
Basitropis canaliculata
|
Basitropis canaliculata là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Frieser, R. mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1997.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1997
canaliculata
|
19855368
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cu%20li%20kh%C3%B4ng%20bao%20gi%E1%BB%9D%20kh%C3%B3c
|
Cu li không bao giờ khóc
|
Cu li không bao giờ khóc (tiếng Anh: Cu Li Never Cries) là bộ phim điện ảnh độc lập thuộc thể loại chính kịch ra mắt vào năm 2024 do đạo diễn người Việt Nam Phạm Ngọc Lân chỉ đạo kiêm biên kịch. Phim được sản xuất bởi Trần Thị Bích Ngọc và Nghiêm Quỳnh Trang (đồng biên kịch), bên cạnh đó nhà sản xuất Phan Đăng Di tham gia với vai trò giám đốc sáng tạo, cùng với sự tham gia diễn xuất của NSND Minh Châu, Hà Phương, Ngô Xuân An, Hoàng Hà, Cao Sang và Thương Tín.
Phim được công chiếu ngày 20 tháng 2 năm 2024 tại Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 74 ở hạng mục Panorama và sau đó đã giành giải GWFF dành cho Phim đầu tay xuất sắc nhất.
Nội dung
Câu chuyện về một phụ nữ lớn tuổi ( Bà Nguyện - NSND Minh Châu) giữ chặt mối dây liên hệ với quá khứ và hai người trẻ tuổi (Vân - Hà Phương; Quang - Xuân An) đứng trước quyết định hôn nhân. Đời sống hiện tại và những dư âm phức tạp của lịch sử Việt Nam đan xen trong góc nhìn trầm mặc, chiêm nghiệm và thơ ca.
Diễn viên
NSND Minh Châu vai bà Nguyện
Hà Phương vai Vân, cháu bà Nguyện
Ngô Xuân An vai Quang
Hoàng Hà vai người phục vụ tại Club Thiên Đường
Cao Sang vai bạn thân Quang
Tâm Anh vai bé Tâm Anh
Thương Tín vai ông Sinh
NSƯT Thanh Hiền vai bà Sinh (mẹ của Quang)
Nguyễn Văn Thái vai ông trưởng họ
NSƯT Quốc Tuấn vai đồng nghiệp cũ
Kiều Trinh vai bà chủ cửa hàng sinh vật cảnh
Phí Linh vai nhân viên tiệm trang sức
Sản xuất
Culi không bao giờ khóc được Phạm Ngọc Lân và Nghiêm Quỳnh Trang bắt đầu biên kịch từ năm 2016. Đây là kịch bản điện ảnh đầu tiên do Phạm Ngọc Lân chấp bút. Do đại dịch COVID-19, quá trình ghi hình phim bị trì hoãn nhiều lần. Cuối năm 2022, dự án được tái khởi động, tiến hành ghi hình tại Hà Nội, Hòa Bình, Phú Thọ và Hà Tĩnh. Trước đó vào năm 2017, dự án phim từng nhận tài trợ cho phát triển kịch bản tại Liên hoan phim quốc tế Rotterdam và nhận quỹ L’Atelier tại Liên hoan phim Cannes.
Năm 2019, 2 dự án phim Culi không bao giờ khóc và Tro tàn rực rỡ được gửi đến Liên hoan phim quốc tế Locarno, dự án phim Culi không bao giờ khóc sau đó giành 2 giải thưởng ARTE Kino International - Locarno Open Doors và Sørfond - Locarno Open Doors do SEAFIC (Southeast Asia Fiction Film Lab) tài trợ tại Liên hoan phim này.
Công chiếu
Tháng 2 năm 2024, bộ phim ra mắt công chúng lần đầu trong hạng mục Panorama tại Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 74 và giành giải thưởng "Phim đầu tay xuất sắc nhất" tại đây, qua đó trở thành bộ phim Việt Nam đầu tiên đoạt giải thưởng này. Giải thưởng được tài trợ với số tiền 50.000 Euro, hỗ trợ bởi GWFF (Gesellschaft zur Wahrnehmung von Film- und Fernsehrechten), một cộng đồng chuyên bảo vệ quyền điện ảnh và truyền hình tại Đức.
Đón nhận
Đánh giá chuyên môn
Bộ phim nhận về đánh giá tích cực sau buổi công chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Berlin. Matthew Joseph Jenner của Hiệp hội phê bình phim Cinephile Quốc tế đánh giá 3.5/5 sao và nhận định bộ phim "là một nỗ lực hấp dẫn, mang đến những hiểu biết sâu sắc về quá khứ, đặc biệt là về cách quá khứ ảnh hưởng và định hướng cho hiện tại, giúp làm sáng tỏ hoặc phức tạp thêm những thách thức không thể tránh khỏi của cuộc sống hiện đại". Đồng thời, Matthew cũng đánh giá bộ phim đã "tham gia vào một phong trào cách tân phát triển mạnh mẽ nhằm giới thiệu Việt Nam là quê hương của những nhà làm phim tài năng và sâu sắc" và nhận định bộ phim có mối liên hệ chặt chẽ về mặt hình ảnh và chủ đề với các tác phẩm của những người tiền nhiệm như Bên trong vỏ kén vàng hay Cha và con và... và Tro tàn rực rỡ. Ông cũng dành lời khen cho diễn xuất "đáng chú ý" của NSND Minh Châu khi vào vai người bà "suy ngẫm về quá khứ và vượt qua những thách thức khi thương tiếc một người có mối quan hệ phức tạp với bà".
Giải thưởng và đề cử
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cu Li Không Bao Giờ Khóc (Cu Li Never Cries) trên Facebook
Cu Li Never Cries - Cu Li Không Bao Giờ Khóc trên trang Phamngoclan.com
Cu Li Never Cries trên trang Purple Tree Co.
Cu Li Never Cries trên trang Epicmedia Productions, Inc.
Cu Li Never Cries trên trang Storm Films
Cu Li Never Cries trên trang Acrobates Films
Co-Productions Films - Cu Li Never Cries trên trang E&W Films
Cu Li Never Cries trên trang Square Eyes Film.
Phim năm 2024
Phim Việt Nam
Phim Pháp
Phim Na Uy
Phim Singapore
Phim Philippines
Phim chính kịch
Phim chính kịch Việt Nam
Phim chính kịch Pháp
Phim tâm lý
Phim tâm lý Việt Nam
Phim tâm lý Pháp
Phim độc lập
Phim độc lập Pháp
Phim độc lập Việt Nam
Phim độc lập Na Uy
Phim tiếng Việt
Phim Việt Nam năm 2024
Phim Việt Nam thập niên 2020
Phim quay tại Việt Nam
Phim lấy bối cảnh ở Hà Nội
|
19855373
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%202026%20khu%20v%E1%BB%B1c%20ch%C3%A2u%20%C3%81%20%28V%C3%B2ng%203%29
|
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2026 khu vực châu Á (Vòng 3)
|
Vòng thứ ba của Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2026, cũng là Vòng thứ ba của Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2027, bắt đầu ngày 5 tháng 9 năm 2024 và sẽ kết thúc từ 10 tháng 6 năm 2025.
Thể thức
Tổng cộng có 36 đội được bốc thăm chia thành 9 bảng, mỗi bảng gồm 4 đội sẽ thi đấu theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm sân nhà và sân khách. Vòng loại này bao gồm 26 đội không cần phải thi đấu ở vòng đầu và thêm 10 đội chiến thắng ở vòng đầu tiên.
Đội nhất và nhì mỗi bảng sẽ giành quyền vào vòng 3 và giành quyền tham dự Cúp bóng đá châu Á 2027. Đội đứng thứ ba và thứ tư sẽ giành quyền vào vòng loại thứ ba Cúp bóng đá châu Á 2027.
|
19855374
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nghi%C3%AAn%20c%E1%BB%A9u%20v%C4%83n%20h%C3%B3a
|
Nghiên cứu văn hóa
|
Nghiên cứu văn hóa (Cultural studies) là một lĩnh vực học thuật hậu ngành có tính chất chính trị nhằm khám phá động lực của văn hóa đặc biệt đương đại (bao gồm cả chính trị của văn hóa đại chúng) cũng như các nền tảng xã hội và lịch sử của văn hóa. Các nhà nghiên cứu văn hóa thường điều tra xem các thực tiễn văn hóa liên quan như thế nào đến các hệ thống quyền lực xã hội và chính trị, rộng lớn hơn được liên kết với hoặc vận hành thông qua các hiện tượng xã hội. Chúng bao gồm hệ tư tưởng, cấu trúc giai cấp, sự hình thành nên các quốc gia, dân tộc, khuynh hướng tình dục, giới tính và thế hệ. Sử dụng phân tích văn hóa, nghiên cứu văn hóa xem văn hóa không phải là các thực thể cố định, bị giới hạn, ổn định và rời rạc mà là các tập hợp thực tiễn và quy trình tương tác và thay đổi liên tục. Lĩnh vực nghiên cứu văn hóa bao gồm một loạt các quan điểm và thực tiễn về mặt lý thuyết và phương pháp luận. Mặc dù khác biệt với ngành nhân học văn hóa và lĩnh vực liên ngành của nghiên cứu dân tộc, nghiên cứu văn hóa dựa trên và đã đóng góp cho từng lĩnh vực này.
Đại cương
Ngành nghiên cứu văn hóa ban đầu được phát triển từ các học giả người Anh theo chủ nghĩa Marxist vào cuối những năm 1950, 1960 và 1970, sau đó được các học giả từ nhiều ngành khác nhau trên thế giới tiếp tục và chuyển đổi. Nghiên cứu văn hóa được thừa nhận là có tính chất liên ngành một cách triệt để và đôi khi có thể bị coi là phản kỷ luật. Mối quan tâm chính của những người thực hành nghiên cứu văn hóa là việc kiểm tra các lực lượng bên trong và thông qua đó những người có tổ chức xã hội tiến hành và tham gia vào việc xây dựng cuộc sống hàng ngày của họ. Trong thời kỳ nổi lên của chủ nghĩa tân tự do ở Anh và Mỹ, nghiên cứu văn hóa vừa trở thành một phong trào toàn cầu, vừa thu hút sự chú ý của nhiều đối thủ bảo thủ cả trong và ngoài các trường đại học vì nhiều lý do. Ngày nay, một phong trào sinh viên và học viên trên toàn thế giới với nhiều hiệp hội và chương trình học thuật, các hội nghị và ấn phẩm quốc tế hàng năm vẫn tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực này.
Phương pháp nghiên cứu của văn hóa học là tập hợp các phương thức, thao tác và biện pháp được sử dụng để phân tích văn hóa và, ở mức độ nhất định, tạo nên đối tượng của nghiên cứu văn hóa. Do văn hóa học là một lĩnh vực kiến thức tích hợp, thu thập kết quả nghiên cứu của một loạt khoa học chuyên ngành (nhân học văn hóa, nhân học xã hội, dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học, sử học), cho nên thao tác phân tích được thực hiện thông qua sự tổng hợp các phương pháp và mục đích nhận thức, tập hợp xung quanh một trung tâm là văn hóa và các bình diện của nó. Điều này đã cho phép tư duy lại nhiều quan niệm và khái niệm đang tồn tại trong khuôn khổ mỗi chuyên ngành hợp thành văn hóa học. Trong quá trình phân tích văn hóa học, các phương pháp cụ thể của từng chuyên ngành khác nhau được sử dụng một cách có chọn lọc, tính đến khả năng giải quyết các vấn đề, phân tích chúng trên phương diện văn hóa học. Chuyên ngành nghiên cứu văn hóa được xây dựng theo định hướng liên ngành, phối hợp giữa lý thuyết và thực hành, ứng dụng cao để trang bị nền tảng kiến thức, kỹ năng nghề phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành học như:
Cung cấp hệ thống kiến thức nền tảng và chuyên sâu về văn hóa: Các lý thuyết văn hoá học, toàn cầu hóa và các nền văn hóa thế giới, văn hoá truyền thống gắn với văn hóa vùng, địa phương, văn hóa đô thị và nông thôn; di sản văn hóa, văn hóa giới và gia đình, văn hóa đại chúng, công nghiệp văn hóa, những vấn đề văn hóa đương đại; cung cấp các kiến thức của nhiều lĩnh vực văn hoá ứng dụng như truyền thông, ngoại giao, xã giao, du lịch, kinh doanh, giải trí.
Cung cấp kỹ năng phát hiện, xây dựng ý tưởng, triển khai đề tài và dự án văn hóa; kỹ năng phỏng vấn, khảo sát thực địa để thu thập và xử lý thông tin; viết và biên tập nội dung tin tức về văn hóa cho các tòa soạn, tạp chí và các cơ quan thông tấn từ trung ương đến địa phương; sáng tạo và biên tập nội dung cho các sự kiện vui chơi giải trí, xây dựng kịch bản quảng bá marketing và quảng bá thương hiệu các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, xây dựng và phát triển văn hóa cộng đồng gắn với du lịch.
Một cách phân nhóm các phương pháp nghiên cứu văn hóa học khác bắt nguồn từ cách phân chia truyền thống trong lịch sử, chia các khoa học thành khoa học về tự nhiên và khoa học về tinh thần. Đến thế kỷ XX các nhà nghiên cứu bắt đầu nói đến việc sử dụng trong phân tích xã hội và phân tích văn hóa các phương pháp của nghiên cứu văn hóa nhân văn và nghiên cứu văn hóa xã hội theo hệ thuật ngữ của tư duy khoa học Nga. Khi nói về các ngành khoa học nhân văn, người ta muốn nói đến tổ hợp các phương pháp của nghiên cứu ngữ văn, nghiên cứu văn học, sử học, lý luận văn hóa, nghiên cứu tôn giáo, nghệ thuật học, dân tộc chí, nhân học văn hóa, triết học, đạo đức học. Khi nói đến các khoa học xã hội đã xếp vào nhóm này các phương pháp của kinh tế học, chính trị học, dân tộc học, xã hội học. Phương pháp luận đã có là những phương pháp luận đã được các nhà tư tưởng, các học thuyết, các quan điểm có uy tín đề xướng và hoàn thiện ở mức độ nhất định. Việc nghiên cứu và phát triển văn hóa sử dụng hai loại phương pháp luận chủ yếu là phương pháp luận coi văn hóa là sản phẩm của hoạt động và phương pháp luận coi văn hóa là nhân tố bên trong của sự phát triển xã hội, văn hóa được nghiên cứu chủ yếu theo thế giới quan và phương pháp luận mácxít. Phương pháp luận cho nhận thức và hoạt động thực tiễn với các phạm vi ứng dụng và trình độ khái quát rộng hẹp khác nhau là vấn đề luôn được quan tâm trong hầu hết các công trình, thậm chí trong từng công đoạn nghiên cứu văn hóa và con người.
Chú thích
Văn hóa
Văn hóa học
Khoa học xã hội
|
19855378
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%D0%A3%CC%83
|
У̃
|
U với dấu ngã (У̃ у̃; in nghiêng: У̃ у̃) là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin.
У̃ được sử dụng trong tiếng Khinalug đại diện cho nguyên âm tròn môi sau đóng được nguyên âm mũi /ũ/.
Tham khảo
Chữ cái Kirin
|
19855389
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99t%20Nhi%20Ch%E1%BB%89%20C%C3%A2n%20th%E1%BB%8B%20%28T%E1%BB%91ng%20Cung%20%C4%90%E1%BA%BF%29
|
Bột Nhi Chỉ Cân thị (Tống Cung Đế)
|
Nguyên triều Công chúa Bột Nhi Chỉ Cân thị (元朝公主孛儿只斤氏; ? - ?) là Công chúa Mông Cổ nhà Nguyên, con gái của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, hoàng đế sáng lập ra triều Nguyên trong lịch sử Trung Quốc. Bà kết hôn với Tống Cung Đế Triệu Hiển năm 1276 sau khi triều đình Tống thua trận trước quân Mông Cổ và Cung Đế bị bắt đến Thượng Đô, do vậy bà không được liệt kê là hậu phi nhà Tống.
Tiểu sử
Công chúa Bột Nhi Chỉ Cân thị, không rõ tên thật. Hành trạng của bà không được ghi nhiều. Theo ghi chép trong Sử tập của Lạp Thi Đặc phần kỷ Hốt Tất Liệt hãn, Lưỡng sơn mặc đàm của Trần Đình và Quốc các của Đàm Thiên, bà là con vợ lẽ của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt. Có thuyết nói bà là tông nữ.
Năm 1276, triều đình nhà Tống đầu hàng trước cuộc xâm lược mạnh mẽ của binh đoàn Mông - Nguyên. Đội quân Mông Cổ bắt Tống Cung Đế đến điện Đại An, Thượng Đô để diện kiến Nguyên Thế Tổ. Thương cho hoàn cảnh của Cung Đế, Thế Tổ vô cùng hậu đãi, phong Cung Đế làm Doanh quốc công, khai phủ nghi đồng tam ti và gả Công chúa Bột Nhi Chỉ Cân thị. Họ được ban sống ở Đại Đô. Có thể phong hiệu khi đó của Công chúa là [Doanh Quốc công phu nhân; 嘉国公夫人].
Năm Chí Nguyên 19 (1289), Nguyên Thế Tổ dời Doanh quốc công đến Thượng Đô. Để bảo toàn tông tộc triều Tống, tháng 10 ÂL năm 1288 Thế Tổ hạ lệnh Doanh quốc công đến sống ở đất Thổ Phiên. Khi này vợ chồng Công chúa có một con trai đặt tên Triệu Hoàn Phổ.
Mặc dù Doanh quốc công nhận nhiều đặc ân dưới thân phận cựu hoàng đế, bản thân Công chúa cũng tôn trọng phu quân, song ông không bao giờ quên mình là hoàng đế Nam Tống. Trước cảnh nước mất nhà tan, ông sáng tác thơ bày tỏ sự mong cầu bình yên cho triều đại Nam Tống, và nỗi căm thù vạn kiếp bất phục với Mông Nguyên. Do vậy, ông đã chọc giận hoàng đế Nguyên Anh Tông khi đó. Vào năm Chí Trị thứ ba (1323), mặc Công chúa cầu xin, Doanh quốc công vẫn bị Anh Tông xử tử ở Hà Tây. Triệu Hoàn Phổ nhờ có mẹ là Công chúa nên được tha. Khi Hồng cân quân khởi nghĩa, triều đình không muốn Hoàn Phổ lọt vào tay nghĩa quân Hán tộc nên dời đến Đôn Hoàng gần biên cương và canh phòng cẩn mật. Sau đó không còn ghi chép về Hoàn Phổ cũng như Công chúa.
Chú thích
Xem thêm
Hốt Tất Liệt
Tống Cung Đế
Công chúa nhà Nguyên
Người Mông Cổ
Nữ giới Mông Cổ
Bột Nhi Chỉ Cân
|
19855395
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Roberto%20Nevilis
|
Roberto Nevilis
|
Roberto Nevilis sinh ra ở Venezia, Ý vào năm 1879 và mất 1954 Ông là con trai của một thương gia giàu có và được giáo dục Tư thục,ông học tại Đại học Venice, sau khi ra trướng với tấm bằng bằng giáo dục. Sau khi tốt nghiệp, Nevilis làm giáo viên ở nhiều trường học ở Venice.
Chú thích
|
19855396
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nghi%C3%AAn%20c%E1%BB%A9u%20s%E1%BA%AFc%20t%E1%BB%99c
|
Nghiên cứu sắc tộc
|
Nghiên cứu sắc tộc (Ethnic studies) hay Nghiên cứu tộc người (Dân tộc chí) là nghiên cứu liên ngành về sự khác biệt chủ yếu là chủng tộc, sắc tộc (sắc dân/giống dân/tộc người) và quốc gia dân tộc người bản địa, cũng như về tình dục, giới tính và các dấu hiệu khác và quyền lực, được thể hiện thông qua cơ chế nhà nước, xã hội dân sự và các cá nhân. Nguồn gốc của việc nghiên cứu sắc tộc có trước kỷ nguyên dân quyền, ngay từ những năm 1900, trong thời gian này, nhà giáo dục và nhà sử học W. E. B. Du Bois bày tỏ sự cần thiết phải dạy lịch sử của người da đen. Tuy nhiên, Nghiên cứu Dân tộc được biết đến rộng rãi như một vấn đề thứ yếu nảy sinh sau kỷ nguyên dân quyền. Các nghiên cứu về sắc tộc ban đầu được hình thành để định hình lại cách mà các ngành cụ thể kể lại những câu chuyện, lịch sử, cuộc đấu tranh và chiến thắng của người da màu theo những gì được coi là thuật ngữ riêng của họ. Trong những năm gần đây, thuật ngữ này đã mở rộng trọng tâm của mình để bao gồm các câu hỏi về tính đại diện, phân biệt chủng tộc, lý thuyết hình thành chủng tộc, cũng như các chủ đề và cách tiếp cận liên ngành rõ ràng hơn. Ngược lại với nghiên cứu quốc tế, ban đầu được tạo ra để tập trung vào mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và các nước thuộc Thế giới thứ ba, nghiên cứu về dân tộc được tạo ra để thách thức chương trình giảng dạy hiện có và tập trung vào lịch sử của những người thuộc các dân tộc thiểu số khác nhau ở Hoa Kỳ.
Đại cương
Nghiên cứu dân tộc là một lĩnh vực học thuật bao trùm các ngành khoa học xã hội và nhân văn, ngành nghiên cứu này nổi lên như một lĩnh vực học thuật vào nửa sau thế kỷ XX một phần để đáp lại những cáo buộc mà các ngành khoa học xã hội và nhân văn truyền thống như nhân chủng học, lịch sử, văn học, xã hội học, khoa học chính trị, nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu khu vực vốn được hình thành từ quan điểm trọng Âu (Âu tâm luận) vốn có. Cuộc bãi khóa yêu cầu thành lập khoa Nghiên cứu Dân tộc diễn ra vào năm 1968 do Mặt trận Giải phóng Thế giới Thứ ba (TWLF), một nỗ lực chung của Hội Sinh viên Da đen, Tổ chức Sinh viên Mỹ Latinh, Liên minh Chính trị Mỹ gốc Á và Hiệp hội sinh viên người Mỹ bản địa. Đây là cuộc bãi khóa dài nhất của sinh viên trong lịch sử đất nước và dẫn đến việc thành lập Trường Nghiên cứu Dân tộc. Chủ tịch S.I.Hayakawa đã chấm dứt cuộc bãi khóa sau khi thực hiện một cách tiếp cận cứng rắn khi bổ nhiệm Tiến sĩ James Hirabayashi làm hiệu trưởng đầu tiên của Trường Nghiên cứu Dân tộc (nay là Trường Cao đẳng) tại Đại học Bang San Francisco.
Trong lịch sử, nghiên cứu tộc người có mối quan hệ quan trọng giữa người nghiên cứu và người được nghiên cứu hay quan hệ giữa người bản địa và nhà nghiên cứu. Khi các nhà nghiên cứu không phải là người bản địa đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến người bản địa nên bản địa học phê phán không chấp nhận điều đó coi như là một dạng thức bạo lực và gợi mở ra nhiều vấn đề về việc sản xuất tri thức và kiểm soát các dòng tri thức. Chủ nghĩa thực dân đã đưa quá trình sản xuất tri thức về người dân bản địa để phục vụ lợi ích của Nhà nước chứ không phải vì chính người dân bản địa. Họ cũng kiểm soát các dòng tri thức để quay lại nô dịch người bản địa. Nghiên cứu dưới sự chi phối của Chủ nghĩa thực dân đã trở thành một thứ quyền lực để tạo ra bạo lực và nô dịch người bản địa. Bản địa học phê phán cật lực phản đối quá trình sản xuất tri thức của Chủ nghĩa thực dân. Khi Chủ nghĩa thực dân bị phê phán mạnh mẽ trên cấp độ toàn cầu thì tái sinh dưới các dạng thức Chủ nghĩa thực dân bản địa, Chủ nghĩa thực dân hậu hiện đại với những mỹ từ hoa lệ hơn nhưng cơ bản thì tư tưởng nô dịch và lấy quá trình sản xuất tri thức để nô dịch người bản địa vẫn không thay đổi. Quá trình sản xuất tri thức về tộc người thường gắn với ba mục tiêu gồm phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhà cầm quyền, hệ thống chính trị, phục vụ lợi ích của nhà nghiên cứu và phục vụ lợi ích của đối tượng nghiên cứu.
Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận xét cho rằng các công trình nghiên cứu dân tộc học có đặc điểm nổi bật là hướng vào việc mô tả các khía cạnh và hiện tượng văn hoá của tộc người, tìm những nét văn hoá truyền thống và ít biến đổi, những miêu thuật dân tộc học như vậy cố gắng bao quát tất cả các mặt của đời sống tộc người, từ văn hoá vật chất đến quan hệ gia đình và xã hội, rồi những sinh hoạt của đời sống tinh thần rồi các tư liệu này thường được nhập vào một khuôn mẫu giải thích có sẵn, tìm mối liên hệ của chúng trong lịch sử. Dân tộc chí sử dụng các phương pháp dân tộc học thực địa (mô tả, phân loại, phương pháp tàn dư), ở những thập niên gần đây xuất hiện nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu muốn khắc phục những điểm hạn chế của cả cách mô tả dân tộc học. Phương pháp luận về tính cách dân tộc thực tế đã xuất hiện những ý kiến thường xuyên về thói hư tật xấu của tâm lý dân tộc. Nhưng cũng có những người dị ứng với bàn luận kiểu này, coi đó là sự xúc phạm, lo ngại người ngoài sẽ nghĩ xấu, nghĩ sai về dân tộc, mỗi dân tộc là một thực thể có tính đặc thù, duy nhất, mà các điểm tích cực hay tiêu cực là sản phẩm riêng được tạo nên bởi hoàn cảnh riêng. Mỗi dân tộc đều có các điểm tích cực và tiêu cực.
Xem thêm
Thuyết chủng tộc khoa học
Phân biệt chủng tộc
Thanh lọc sắc tộc
Kích cỡ dương vật người
Các dân tộc tại Việt Nam
Các sắc tộc Thái
Các nhóm sắc tộc ở Thái Lan
Sắc tộc học động vật
Chú thích
Liên kết ngoài
Arizona Students Protest New Law Banning Ethnic Studies Classes – video report by Democracy Now!
Association for Ethnic Studies
Nghiên cứu sắc tộc
Chủ nghĩa Hậu hiện đại
|
19855404
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%9B
|
Û
|
Û, û (u-mũ) là một chữ cái trong hệ thống chữ Latinh.
Ánh xạ ký tự
Xem thêm
Dấu mũ
Chữ cái Latinh có dấu phụ
Chữ cái Latinh
|
19855409
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20concolor
|
Basitropis concolor
|
Basitropis concolor là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Jordan mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1926.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1926
concolor
|
19855410
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20condensata
|
Basitropis condensata
|
Basitropis condensata là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Frieser, R. mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1995.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1995
condensata
|
19855412
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20contraria
|
Basitropis contraria
|
Basitropis contraria là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Frieser, R. mô tả khoa học lần đầu tiên năm 2004.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 2004
contraria
|
19855413
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20coquereli
|
Basitropis coquereli
|
Basitropis coquereli là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Wolfrum mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1953.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1953
coquereli
|
19855417
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Martin%20Helme
|
Martin Helme
|
Martin Helme (sinh ngày 24 tháng 4 năm 1976) là chính khách người Estonia. Trước đây, ông từng giữ chức vụ làm Bộ trưởng Tài chính Estonia từ ngày 29 tháng 4 năm 2019 đến ngày 26 tháng 1 năm 2021. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm lãnh đạo Đảng Bảo thủ Nhân dân Estonia kể từ ngày 4 tháng 7 năm 2020.
Tham khảo
Sinh năm 1976
Chính khách Estonia thế kỷ 21
Chính trị chống nhập cư ở châu Âu
Chính khách Đảng Bảo thủ Nhân dân Estonia
Nhà phê bình Chủ nghĩa đa văn hóa
Bộ trưởng Tài chính Estonia
Bộ trưởng Estonia
Lãnh đạo đảng phái chính trị Estonia
Nhân vật còn sống
Cựu sinh viên đại học Tartu
Người Tallinn
|
19855429
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/IM-1
|
IM-1
|
IM-1 hay TO2-IM, là chuyến bay đầu tiên của chương trình Dịch vụ tải trọng thương mại mặt trăng của NASA và cũng là chuyến bay thương mại đầu tiên thành công hạ cánh xuống Mặt Trăng. Công ty hàng không vũ trụ Hoa Kỳ Intuitive Machines đã thiết kế lớp tàu đổ bộ mặt trăng Nova-C và phát triển dạng đổ bộ mặt trăng IM-1 Odysseus được triển khai trên Mặt Trăng.
Con tàu Odysseus mang sáu tải trọng do NASA phát triển cùng với các tải trọng khác từ các khách hàng thương mại và giáo dục.
Đọc thêm
Luna 25
Chandrayaan-3
Peregrine Mission One
SLIM
Tham khảo
Liên kết ngoài
Intuitive Machines
Du hành không gian năm 2024
Florida năm 2024
Không gian năm 2024
Hoa Kỳ năm 2024
Khám phá Mặt Trăng
Tàu không gian Mặt Trăng
Hạ cánh trên Mặt Trăng
Trung tâm Vũ trụ Kennedy
|
19855431
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Basitropis%20curtula
|
Basitropis curtula
|
Basitropis curtula là một loài bọ cánh cứng thuộc chi Basitropis, trong họ Anthribidae. Loài này được Frieser, R. mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1995.
Tham khảo
Bọ cánh cứng được mô tả năm 1995
curtula
|
19855433
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%D0%AF%CC%86
|
Я̆
|
Ya với dấu trăng (Я̆ я̆; in nghiêng: Я̆ я̆) là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin.
Я̆ được sử dụng trong tiếng Khanty.
Chữ cái Kirin có dấu phụ
Chữ cái Kirin
|
19855441
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di%C3%AAm%20nghi%E1%BB%87p
|
Diêm nghiệp
|
Diêm nghiệp là ngành kinh tế và là lĩnh vực sản xuất có chức năng và nhiệm vụ khai thác và sản xuất muối gắn liền với các khu vực giáp biển. Diêm nghiệp (hay còn gọi là nghề làm muối) là một nghề truyền thống lâu đời của Việt Nam. Những người làm việc trong các ruộng muối được gọi là Diêm dân. Diêm nghiệp chủ yếu làm thủ công bằng sức lao động của con người và điều kiện thời tiết.
Các hộ gia đình làm muối không làm riêng lẻ mà thường hợp lại thành các hợp tác xã diêm nghiêp và làm các công việc bao gồm công đoạn phơi để tạo muối tinh, nghiền, sàng tuyển, tinh chế muối và các dịch vụ khác liên quan.
Các hoạt động diêm nghiệp
Xem thêm: Cách làm muối ở Việt Nam.
Nơi làm muối nổi tiếng Việt Nam
Việt Nam có bờ biển hơn 3.000 km trải dài từ Bắc xuống Nam, vì thế có nhiều địa phương vùng biển gắn liền với nghề làm muối, tập trung ở các tỉnh: Bạc Liêu, Bến Tre, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Nghệ An, Thanh Hóa...
Tỉnh Bạc Liêu
Nghề làm muối ở Bạc Liêu có truyền thống hơn 100 năm, tập trung ở hai huyện Hòa Bình và Đông Hải. Với thuận lợi là đường bờ biển dài nên Bạc Liêu được xem là "thủ phủ" của nghề muối với sản lượng muối hàng năm hơn 26 nghìn tấn. Thời vụ làm muối bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Ngày 30/9/2020, nghề làm muối ở Bạc Liêu đã được Bộ Văn hóa. Thể thao và Du lịch công nhân là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia.
Tỉnh Ninh Thuận
Lợi thế đường bờ biển dài hơn 105 km, thời tiết có nhiều nắng và gió giúp cho Ninh Thuận trở thành một trong những nơi sản xuất muối lớn của Việt Nam tồn tại trên 100 năm . Nghề làm muối chủ yếu tập trung ở các xã ven biển của huyện Ninh Hải và Thuận Nam. Thời vụ làm muối bắt đầu từ tháng 12 đến tháng hết tháng năm sau (Âm lịch). Cánh đồng muối nổi tiếng cả nước là Cà Ná, Phương Cựu, Đầm Vua... Đây cũng là địa điểm thu hút khách du lịch với vẻ đẹp tự nhiên và nét đẹp lao động.
Tỉnh Quảng Ngãi
Quảng Ngãi có đường bờ biển dài hơn 120 km, nghề làm muối của Quảng Ngãi tập trung chủ yếu ở Sa Huỳnh (huyện Đức Phổ) đã tồn tại hơn 100 năm. Đây là một trong những vựa muối lớn nhất Việt Nam với sản lượng muối mỗi năm từ 6,5-9,8 nghìn tấn. Ruộng muối Sa Huỳnh là địa điểm thu hút khách du lịch.
Diêm nghiệp tại các nước
Muối có thể sản xuất bằng phương pháp truyền thống và công nghiệp, nhưng tại một số nước vẫn sử dụng phương pháp truyền thống để sản xuất và khai thác muối. Đây là nét đặc trưng tạo nên sự nổi bậc của muối tại một số quốc gia như sau:
Peru: Ngôi làng Maras tọa lạc tại thung lũng Urbamba thuộc vùng núi Andes nổi tiếng với nghề làm muối truyền thống của Peru. Thời vụ làm muối bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11 cùng năm, với phương pháp làm muối dựa vào sự bốc hơi nước từ các hồ muối từ thượng nguồn con suối Qoripujio. Muối hồng là sản phẩm nổi tiếng của Maras và mỏ muối Maras cũng là địa điểm có cảnh quan thiên nhiên đẹp thu hút khách du lịch.
Thái Lan: Nghề làm muối truyền thống ở Thái Lan tập trung chủ yếu ở tỉnh Samut Sakhon, Điều kiện nắng nóng thích hợp mùa vụ bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Muối thu được dùng làm nguyên liệu chế biến mắm tôm, nước mắm, bảo quản thực phẩm.
Pháp: Vùng Guérande thuộc miền tây nước Pháp vẫn giữ nghề làm muối truyền thống với sản lượng muối mỗi năm gần 10 nghìn tấn. Vùng Guérande nối tiếng sản phẩm muối hoa đặc biệt. Ruộng muối ở Guérande là địa điểm thu hút khách du lịch.
Chú thích
|
19855446
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C5%A9%20biretta
|
Mũ biretta
|
Mũ biretta () là một loại mũ cứng có hình vuông, phía trên chia làm ba hoặc bốn múi, có khi trên đỉnh có chòm cầu mềm. Theo truyền thống, các giáo sĩ Kito giáo thường đội mũ biretta ba múi, đặc biệt là các giáo sĩ Công giáo cùng một số giáo sĩ Anh giáo hoặc Tin Lành Luther. Trong khi đó, mũ biretta bốn múi là một phần của bộ lễ phục dành riêng cho các cá nhân từng tốt nghiệp tiến sĩ tại một phân khoa Giáo hoàng ,một đại học Giáo hoàng hay là một phân khoa đại học bất kỳ. Một số trạng sư đôi khi cũng đội mũ biretta trong một phiên tòa, ví dụ như các trạng sư làm việc tại Quần đảo Eo Biển (thuộc Vương quốc Anh).
Nguồn gốc
Nguồn gốc của mũ biretta được cho là không rõ ràng. Nó từng được nhắc đến sớm nhất là vào thế kỷ thứ 10. Một trong những nguồn gốc khả dĩ của mũ biretta là chiếc mũ học vị thời kỳ giữa Trung Cổ, một loại mũ mềm mại và có hình vuông. Chiếc mũ học vị Trung Cổ này cũng là tiền thân của mũ vuông hay còn gọi là mũ tốt nghiệp dùng trong các cơ sở giáo dục đại học. Mũ biretta dường như đã trở thành một phần của phẩm phục chức sắc Công giáo sau khi một công nghị diễn ra tại Bergamo vào năm 1311 yêu cầu giới giáo sĩ "đội mũ biretta cũng như người giáo dân đội chiếc mũ thông thường". Chỏm cầu phía trên mũ (xưa gọi là ngù) về sau mới được thêm vào trên chóp mũ; những dạng thức sơ khai nhất của mũ biretta (đơn cử như mũ Canterbury) không có chỏm cầu đính kèm.
Mũ biretta trong phụng vụ
Phụng vụ Công giáo
Các giáo sĩ thuộc Giáo hội Latinh và thuộc mọi cấp bậc, bao gồm các hồng y, giám mục, linh mục, thầy phó tế và chủng sinh, có thể đội mũ biretta. Mũ biretta của hồng y được làm bằng lụa màu đỏ tươi. Sau Công đồng Vaticanô II, nghi lễ ban mũ galero cho các hồng y được thay bằng nghi lễ ban mũ biretta. Mũ biretta của giám mục thì làm bằng vải đỏ dâu (), còn của linh mục, thầy phó tế và chủng sinh thì làm bằng vải đen. Giáo hoàng không dùng mũ biretta.
Theo chỉ dẫn chữ đỏ của Sách phụng vụ Rôma cũ (phê chuẩn năm 1570 sau Công đồng Triđentinô) về nghi thức Lễ Đọc hay Lễ Thầm (), vị linh mục phải đội mũ biretta khi bước về phía bàn thờ, đến nơi rồi thì trao mũ lại cho lễ sinh, rồi lại đội lên để ra về sau khi thánh lễ kết thúc. Trong một Thánh lễ trọng thể, các thừa tác viên chức Thánh cũng đội mũ biretta khi đang an tọa.
Đặc điểm
Mũ biretta của hồng y không có chỏm cầu mềm ở trên đỉnh, trong khi mũ biretta của giám mục thì có một chỏm cầu mềm màu tím, các linh mục sau khi được bổ nhiệm một chức vụ tại thành Vatican ở bậc Giám chức thì đội mũ biretta màu đen cùng chỏm cầu màu đỏ, còn các linh mục triều và thầy phó tế bên triều thì đội mũ biretta màu đen với chỏm cầu màu đen (đôi khi không có chỏm cầu). Có một quan điểm phổ biến cho rằng các chủng sinh chỉ được phép đội mũ biretta không có chỏm cầu trên chóp, tuy vậy thì dường như không có quy định nào ràng buộc vấn đề này. Các linh mục thuộc một dòng tu hay một dòng hành khất có tu phục riêng (như dòng Thánh Biển Đức, dòng Thánh Phanxicô, dòng Thánh Đa Minh, v.v.) không đội mũ biretta, mà trong hầu hết các trường hợp, kể cả trong phụng vụ, các linh mục ấy sẽ đội mũ trùm của áo tu sĩ thay cho mũ biretta. Giới kinh sĩ thì có dùng mũ biretta, chẳng hạn như các kinh sĩ thuộc Hội kinh sĩ Prémontré thì đội mũ biretta màu trắng. Giới giáo sĩ dòng (tức là những tu sĩ thuộc các hội dòng chú trọng nhận lãnh thừa tác vụ linh mục, chẳng hạn như dòng Tên và dòng Chúa Cứu Thế) thì đội mũ biretta màu đen và không có chỏm cầu trên đỉnh. Những linh mục thuộc các hình thức sống cộng đồng khác, thí dụ như Hội dòng Nguyện Đường Thánh Philípphê Neri, thường cũng đội mũ biretta nhưng không có chỏm cầu trên đỉnh mũ. Giáo sĩ thuộc Viện Chúa Kitô Vua Linh mục Thượng phẩm thì sử dụng mũ biretta màu đen với chỏm cầu màu xanh lam.
Tham khảo
Hồng y
Lịch sử thời trang
Lịch sử trang phục
Lịch sử trang phục phương Tây
|
19855447
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%BA%20b%C3%B2%20%E1%BB%9F%20%C4%91%E1%BA%A3o%20Papaya
|
Chú bò ở đảo Papaya
|
Chú bò ở đảo Papaya () là loạt phim hoạt hình trên truyền hình dành cho lứa tuổi của Brasil do hãng Boutique Filmes và Birdo Studio sản xuất và được đồng phát hành bởi Boutique Filmes, Nickelodeon và NBCUniversal International Networks vào ngày 2 tháng 10 năm 2017.
Cốt truyện
Trên đảo Papaya, mỗi đứa trẻ nhận được một con bò ngay từ khi được sinh ra. Con bò này sẽ là người bạn thân nhất và người bảo vệ của chúng suốt đời. Mọi người đều có chú bò của riêng mình của họ ngoại trừ Cacupé. Cậu đã đến đảo một cách bí ẩn và ở lại với Sócrates, một con bò thần kinh bị bỏ đi.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức trên Boutique Filmes
Trang web chính thức trên Birdo Studio
Phim truyền hình ra mắt năm 2017
|
19855449
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn%20th%E1%BA%A7n
|
Thiên thần
|
Thiên thần có thể là:
Thần ở trên trời
Thiên sứ
|
19855463
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bahia%20%28t%C3%A0u%20chi%E1%BA%BFn%20Brazil%29
|
Bahia (tàu chiến Brazil)
|
Ít nhất năm tàu chiến của Hải quân Brazil từng được đặt cái tên Bahia, theo tên tiểu bang Bahia của Brazil:
là một tàu monitor sông được đóng năm 1864 và rút đăng bạ năm 1894
là một đóng năm 1909 và bị đắm năm 1945
Bahia (S-12) (1963), nguyên là , được chuyển giao năm 1963 và xuất biên chế năm 1972
Bahia (S-12) (1973), nguyên là , mua năm 1972 và xuất biên chế năm 1993
Bahia (G40) là một mua của Pháp vào năm 2015
Tên gọi tàu chiến Hải quân Brazil
|
19855465
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cu%E1%BB%99c%20%C4%91ua%20xe%20%C4%91%E1%BA%A1p%20to%C3%A0n%20qu%E1%BB%91c%20tranh%20C%C3%BAp%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%20Th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%20H%E1%BB%93%20Ch%C3%AD%20Minh%202024
|
Cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 2024
|
Cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 2024 hay Cúp Truyền hình 2024 là giải đấu lần thứ 36 của Cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh do Ban Thể dục - Thể thao, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và Tổng cục Thể dục Thể thao Việt Nam phối hợp tổ chức, dự kiến diễn ra từ ngày 3 tháng 4 đến ngày 30 tháng 4 năm 2024. Cuộc đua lần này bao gồm 25 chặng với tổng lộ trình 2702,8 km, bắt đầu bằng chặng đua quanh Quảng trường 7 tháng 5 tại thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên và kết thúc như thường lệ vào đúng ngày 30 tháng 4 năm 2024 tại Hội trường Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng cộng có 15 đội đua trên toàn quốc tham gia cuộc đua lần này.
Công bố
Thông tin về Cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 2024 được công bố vào tháng 3 năm 2024 trong một cuộc họp báo trước khi khởi tranh giải. Trước đó, ban tổ chức đã công bố lộ trình cuộc đua với tổng lộ trình dài 2702,8 km. Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh cho biết việc tổ chức này nhằm đánh dấu cột mốc kỷ niệm 49 năm ngày Giải phóng miền Nam - thống nhất đất nước, 138 năm ngày Quốc tế Lao động và hướng tới kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Danh sách tham dự
Đội đua xe đạp
Vinama Thành phố Hồ Chí Minh (VIN)
Thành phố Hồ Chí Minh New Group (HCM)
Tập đoàn Lộc Trời An Giang (TLT)
Gạo Hạt Ngọc Trời An Giang (GNT)
Dược Domesco Đồng Tháp (DDT)
Dopagan Đồng Tháp (DPG)
Pelio Kenda Đồng Nai (KEN)
Le Fruit Đồng Nai (LDN)
Quân khu 7 (QK7)
Quân Đội (QDO)
Hà Nội (HAN)
620 Châu Thới-Vĩnh Long (CVL)
620 Nông Nghiệp-Vĩnh Long (NVL)
Nhựa Bình Minh Bình Dương (NBM)
Thanh Hóa (THH)
Vận động viên
Lộ trình và kết quả từng chặng
Kết quả màu áo qua các chặng
Xếp hạng chung cuộc
Truyền hình
Tất cả 25 chặng đua sẽ được truyền hình trực tiếp trên các kênh HTV9 và HTV Thể Thao, cùng các hạ tầng mạng xã hội của HTV và ứng dụng HTVC.
Nhà tài trợ
Tôn Đông Á (tài trợ độc quyền)
Tham khảo
Thể thao Việt Nam năm 2024
Cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh
|
19855470
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%EA%9A%84
|
Ꚅ
|
Zhwe (Ꚅ ꚅ; in nghiêng: Ꚅ ꚅ) là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin. Hình dạng của Ꚅ là chữ ghép của chữ cái Kirin Ze (З з; З з) và Zhe (Ж ж; Ж ж).
Ꚅ được sử dụng trong tiếng Abkhaz, đại diện cho âm . Được thay thế bằng chữ Жә.
Mã máy tính
Chữ cái Kirin
|
19855475
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%D0%97
|
З
|
Ze (З з; in nghiêng: З з) là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin.
З thường đại diện cho âm , giống như cách phát âm của trong "zebra".
З được La Mã hóa bằng chữ cái Latinh .
Hình dạng của З rất giống với chữ số Ả Rập ba và không nhầm lẫn chữ Kirin E .
Các chữ cái liên quan khác và các ký tự tương tự
3: Chữ số ba
Ζ ζ: Chữ cái Hy Lạp Zeta
Z z: Chữ Latinh Z
Ʒ ʒ: Chữ Latinh Ezh
Ȝ ȝ: Chữ cái Latinh Yogh
Ɜ ɜ:
Ҙ ҙ: Chữ cái Kirin Dhe
Ӡ ӡ: Chữ cái Kirin Abkhazian Dze
Ԑ ԑ: Chữ Kirin Ze đảo ngược
Mã máy tính
liên kết ngoài
Tham khảo
Chữ cái Kirin
|
19855481
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%E1%BA%BF%20ho%E1%BA%A1ch%20kinh%20t%E1%BA%BF
|
Kế hoạch kinh tế
|
Kế hoạch kinh tế (Economic planning) hay còn gọi là việc lập kế hoạch kinh tế, ở góc độ quản lý nhà nước thì đây là hoạt động xây dựng kế hoạch kinh tế - xã hội là một cơ chế phân bổ tài nguyên dựa trên quy trình được tính toán bố trí nguồn lực để giải quyết vấn đề một cách tối đa hóa, cơ chế này được ràng buộc bằng quy trình "đến hẹn lại lên" để có được giải pháp của nó. Lập kế hoạch là một cơ chế phân bổ nguồn lực giữa và trong các tổ chức trái ngược với cơ chế thị trường. Đây là một cơ chế phân bổ theo cơ chế vận hành của chủ nghĩa xã hội, kế hoạch kinh tế thay thế thị trường yếu tố bằng quy trình phân bổ trực tiếp các nguồn lực trong một nhóm liên kết của các tổ chức sở hữu xã hội cùng nhau tạo thành bộ máy sản xuất của nền kinh tế.
Có nhiều hình thức lập kế hoạch kinh tế khác nhau tùy theo thủ tục và cách tiếp cận cụ thể của chúng. Mức độ tập trung hoặc phân cấp trong việc ra quyết định phụ thuộc vào loại cơ chế lập kế hoạch cụ thể được sử dụng. Ngoài ra, người ta có thể phân biệt giữa kế hoạch tập trung và kế hoạch phi tập trung. Một nền kinh tế chủ yếu dựa vào kế hoạch hóa được gọi là nền kinh tế kế hoạch. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, việc phân bổ nguồn lực được xác định bởi một kế hoạch sản xuất toàn diện trong đó xác định rõ các yêu cầu đầu ra. Việc lập kế hoạch cũng có thể dưới hình thức lập kế hoạch dự kiến trong nền kinh tế dựa trên thị trường, trong đó nhà nước sử dụng các công cụ thị trường để thúc đẩy các công ty độc lập đạt được các mục tiêu phát triển.
Đại cương
Có thể phân biệt giữa kế hoạch hóa các nguồn lực và kế hoạch tài chính (được chính phủ và các công ty tư nhân trong cơ chế chủ nghĩa tư bản thực hiện). Lập kế hoạch nguồn lực liên quan đến việc lập kế hoạch và phối hợp kinh tế được thực hiện theo các đơn vị vật chất tách rời trong khi lập kế hoạch tài chính liên quan đến các kế hoạch được xây dựng theo đơn vị tài chính (nguồn tiền). Các hình thức kế hoạch hóa kinh tế khác nhau đã được thể hiện trong các mô hình khác nhau của chủ nghĩa xã hội. Những phạm vi này từ các hệ thống lập kế hoạch phi tập trung dựa trên việc ra quyết định tập thể và thông tin phân tách đến các hệ thống lập kế hoạch tập trung được thực hiện bởi các chuyên gia kỹ thuật sử dụng thông tin tổng hợp để xây dựng kế hoạch sản xuất. Trong một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển đầy đủ, các kỹ sư và chuyên gia kỹ thuật, được giám sát hoặc bổ nhiệm một cách dân chủ, sẽ điều phối nền kinh tế về mặt đơn vị vật chất mà không cần hoặc sử dụng tính toán dựa trên cơ sở tài chính. Nền kinh tế của Liên Xô chưa bao giờ đạt đến giai đoạn phát triển này nên đã lập kế hoạch kinh tế về mặt tài chính trong suốt thời gian tồn tại của mình.
Việc lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong nền kinh tế thị trường gắn bó chặt với các nguồn lực xã hội và nguồn lực tài chính để có thể tối đa hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực trong quá trình thực hiện. Công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội gắn với nguồn lực tài chính được phân tích trên 3 khía cạnh: quy trình lập, nội dung các bản kế hoạch và phương pháp lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Phương pháp lập kế hoạch phát triển được đánh giá dựa trên 3 khía cạnh: phương pháp xây dựng nội dung thuyết minh của bản kế hoạch, phương pháp tính toán các chỉ tiêu và phương pháp dự báo nhu cầu nguồn lực và dự toán ngân sách trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Phương pháp xây dựng nội dung thuyết minh của bản kế hoạch còn hạn chế do chưa phát triển đầy đủ hệ thống thông tin cần thiết để thông kê phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế xã hội, chưa có sự so sánh chéo hay so sánh tương quan giữa các chỉ tiêu (thông qua hệ số co giãn).
Các công cụ phổ biến hỗ trợ công tác phân tích, đánh giá thực trạng như phân tích môi trường bên trong-bên ngoài, phân tích cây vấn đề, cây mục tiêu chưa được sử dụng phổ biến. Điểm hạn chế trong phương pháp đánh giá thực trạng là thiếu đánh giá về hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính thông qua đánh giá hiệu quả các dự án đầu tư công, đánh giá hiệu quả, hiệu lực của các chính sách, chương trình hành động đang triển khai theo khung logic, phân tích lợi ích–chi phí hay qua ý kiến phản hồi đánh giá lợi/hại (lợi bât cập hại) của các bên liên quan. Việc xác định mục tiêu kế hoạch chưa mang tính đột phá mà vẫn còn dàn trải trên tất cả các ngành và có sự lặp đi lặp lại qua nhiều giai đoạn, chưa có điểm nhấn, chưa hình thành những mối liên kết rõ ràng với sự sẵn có về nguồn lực. Các giải pháp kế hoạch mang tính chất mơ hồ, chưa rõ nét, khó hiện thực hóa. Các giải pháp chưa gắn với nguồn kinh phí thực hiện nên chưa tạo ra sự gắn kết giữa kế hoạch phát triển với nguồn lực tài chính.
Phương pháp tính toán các chỉ tiêu còn chưa khoa học, các chỉ tiêu kế hoạch là các chỉ tiêu định lượng, cần áp dụng các phương pháp dự báo khoa học để tính toán nhưng các chỉ tiêu trong bản kế hoạch đều được đưa ra dựa trên kinh nghiệm, so sánh năm trước - năm sau, các chỉ tiêu đề ra chưa khoa học, thiếu chính xác, mâu thuẫn giữa các chỉ tiêu kế hoạch. Phương pháp dự báo nhu cầu nguồn lực và dự toán ngân sách trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hạn chế do bị hạn chế trong phương pháp xác định các chỉ tiêu kế hoạch nên việc dự báo nhu cầu nguồn lực tài chính. Chưa có các hàm thể hiện mối tương quan giữa các mục tiêu phát triển với nguồn lực tài chính nên có tình trạng cân đối thiếu nguồn lực, chưa huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội để thực hiện các mục tiêu kế hoạch. Từ đó dẫn tới một thực tế là danh mục các dự án kèm theo các bản kế hoạch phát triển kinh tế xã hội mới chỉ dựa trên nguồn lực sẵn có, một vài nhu cầu cấp thiết mà chưa giải quyết vấn đề liệu các dự án có khả thi, hiệu quả, có ý nghĩa, dự án có được thẩm định về lợi ích–chi phí, lợi ích kinh tế-xã hội. Danh mục dự án cũng rơi vào tình trạng phải bổ sung, thay đổi nhiều lần do chưa dự báo hết các nguồn lực cũng như chưa bao phủ được hết các nhu cầu cấp thiết của địa phương trong kỳ kế hoạch.
Chú thích
Kế hoạch kinh tế
Học thuyết kinh tế
Hệ thống kinh tế
Chủ nghĩa xã hội
|
19855482
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/San%20Jer%C3%B3nimo%20de%20Ju%C3%A1rez
|
San Jerónimo de Juárez
|
San Jerónimo de Juárez là thành phố thủ phủ khu đô thị Benito Juárez, bang Guerrero, tây nam México.
Tham khảo
Tọa độ trên Wikidata
|
19855493
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chung%20k%E1%BA%BFt%20gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%20c%C3%A1c%20c%C3%A2u%20l%E1%BA%A1c%20b%E1%BB%99%202023
|
Chung kết giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2023
|
Chung kết giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2023 là trận đấu cuối cùng của Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2023, một giải đấu bóng đá quốc tế cấp câu lạc bộ do Ả Rập Xê Út tổ chức. Đây là trận chung kết thứ 20 trong khuôn khổ giải vô địch thế giới các câu lạc bộ, một giải đấu do FIFA tổ chức giữa những câu lạc bộ vô địch từ 6 liên đoàn liên lục địa (mỗi liên đoàn cử một đội đại diện), cũng như các nhà vô địch quốc gia của nước chủ nhà.
Trận đấu diễn ra tại King Abdullah Sports City ở Jeddah vào ngày 22 tháng 12 năm 2023 được so tài giữa câu lạc bộ Anh Manchester City, đại diện UEFA với tư cách là nhà đương kim vô địch UEFA Champions League với câu lạc bộ Brazil Fluminense, đại diện cho CONMEBOL với tư cách là nhà đương kim vô địch Copa Libertadores.
Manchester City giành chiến thắng với tỷ số 4–0 để giành chức vô địch FIFA Club World Cup lần đầu tiên của họ.
Những đội tham dự
Trong bảng dưới đây, các trận chung kết từ 2005 trở về trước, giải gắn với tên gọi FIFA Club World Championship, kể từ 2006 trở đi giải mới có tên gọi là FIFA Club World Cup.
Ghi chú: Ngày 27 tháng 10 năm 2017, FIFA chính thức công nhận các nhà vô địch của Cúp Liên lục địa là những nhà vô địch thế giới cấp câu lạc bộ, nhằm tạo công bằng với FIFA Club World Cup.
IC: Cúp Liên lục địa (1960–2004)
FCWC: Chung kết FIFA Club World Cup (2000, 2005–nay)
Đường đến trận chung kết
Trận đấu
Kết quả chi tiết
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trận đấu của Manchester City F.C.
|
19855529
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n%20B%C3%A1ch%20khoa%20Paris
|
Viện Bách khoa Paris
|
Viện Bách khoa Paris () là một trường đại học công nghệ công lập tọa lạc tại Palaiseau, Pháp. Trường bao gồm năm trường kỹ thuật grande école: , ENSTA Paris, ENSAE Paris, Télécom Paris và Télécom SudParis.
Cùng với Đại học Paris-Saclay, Viện Bách khoa Paris là một phần của dự án Paris-Saclay, một cơ sở học thuật và cụm kinh doanh nghiên cứu chuyên sâu đang được phát triển trên Plateau de Saclay gần Paris. Dự án tích hợp một số trường kỹ thuật và trung tâm nghiên cứu là một phần của các tổ chức nghiên cứu hàng đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trường đại học công nghệ này được thành lập xung quanh trường , một trong những trường grande école được tôn trọng và mang tính chọn lọc cao nhất tại Pháp. Trong số các cựu sinh viên và giáo viên của trường có năm người đạt giải Nobel, hai người đoạt huy chương Fields, ba tổng thống Pháp cùng nhiều CEO của các công ty Pháp và quốc tế.
Lịch sử
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, sự phát triển nhanh chóng của vật lý hạt nhân và hóa học đòi hỏi việc nghiên cứu cần phải được mở rộng hơn nữa. Trường Đại học Paris, trường và trường đã tìm kiếm thêm không gian ở miền Nam Paris gần Orsay. Nhánh phụ Orsay của Đại học Paris sau này trở thành một trường đại học độc lập, có tên là Trường Đại học Paris Sud. Năm 1976, trường được chuyển qua khu vực này, từ trung tâm thành phố Paris đến Palaiseau. Các học viện khác cũng chuyển đến đây trong các thập niên tiếp theo, nổi bật trong số đó có ENS Cachan, Télécom Paris, và ENSTA, như là một phần của dự án Paris-Saclay, là nỗ lực của quốc gia nhằm tập hợp lại các hoạt động liên quan đến việc nghiên cứu và kinh doanh.
Năm 2015, các học viện này được hợp nhất lại với nhau thành một cộng đồng các trường đại học (ComUE) với tên gọi Đại học Paris-Saclay. Việc hợp nhất này nhằm mục tiêu được công nhận là một trường đáp ứng đầy đủ yêu cầu về quy mô cũng như chất lượng, cũng như trở thành trường đại học Pháp hàng đầu tập trung về mặt nghiên cứu. Mỗi học viên thành viên vẫn giữ nguyên vai trò độc lập của mình nhưng đều sẽ đóng góp một phần đáng kể các nguồn lực hiện có và mới được đầu tư vào. Việc hợp nhất này theo một kiểu mẫu tương tự với những gì mà Đại học Oxford và Cambridge áp dụng, trong đó mỗi trường cơ sở cấu thành đều giữ tính độc lập của mình khi được hợp nhất lại dưới tên gọi 'đại học'.
Khi phải đối mặt với những bất đồng giữa các thành viên (các trường kỹ thuật và các trường đại học, Bộ Quốc phòng Pháp và Bộ Giáo dục Đại học), trường Đại học Paris-Sud đề xuất đổi tên thành Đại học Paris-Saclay vào năm 2017, trong đó các trường kỹ thuật chỉ được liên kết với các cơ sở đào tạo khác trong tương lai. Vào ngày 25 tháng 10 năm 2017, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron công bố thành lập trường đại học thứ hai tại Paris-Saclay, trường này sẽ tách khỏi Đại học Paris-Saclay và hợp nhất các trường kỹ thuật lại. Trường đại học này ban đầu có tên là "NewUni", và từ tháng 2 năm 2019 trở thành Viện Bách khoa Paris.
HEC Paris cũng tham gia trường đại học mới này nhưng không phải với vai trò thành viên. Các cơ sở nghiên cứu hoặc đào tạo cao hơn có thể gia nhập trường này trong tương lai. Đại học Paris-Saclay và Viện Bách khoa Paris đồng hợp tác trong một số chương trình thạc sĩ và tiến sĩ
Ngày 15 tháng 9 năm 2020, Viện và HEC Paris đồng sáng lập ra trung tâm nghiên cứu trí tuệ nhân tạo Hi! PARIS.
Xếp hạng đại học
Trên bảng xếp hạng quốc tế, Viện Bách khoa Paris xếp thứ 38 về tổng thể và thứ 12 về khả năng tuyển dụng sau đại học theo Bảng xếp hạng đại học thế giới QS. Trường được xếp hạng 71 theo Times Higher Education, 301-400 theo Shanghai Ranking, và hạng 41 toàn cầu theo CWUR Ranking.
Xem thêm
Danh sách trường đại học công lập tại Pháp theo cơ sở
Trường Y Paris-Saclay
Tham khảo
Liên kết ngoài
Paris-Saclay
Trường đại học và cao đẳng ở Paris
|
19855537
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%91i%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng%20giao%20d%E1%BB%8Bch
|
Khối lượng giao dịch
|
Khối lượng giao dịch (Volume/Trading volume) là số lượng (tổng số) của một đơn vị chứng khoán được giao dịch trong một khoảng thời gian nhất định (hoặc một bộ chứng khoán nhất định hoặc toàn bộ thị trường). Trong bối cảnh một phiên giao dịch chứng khoán trên một sàn giao dịch chứng khoán cụ thể thì khối lượng giao dịch thường được báo cáo là số lượng cổ phiếu được đổi chủ trong một ngày nhất định. Các giao dịch được đo lường trên sự thay đổi của Lưu lượng chứng khoán (Stock and flow) như cổ phiếu, trái phiếu, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai và hàng hóa. Trên sàn giao dịch chứng khoán thì Tổng khối lượng (Tổng KL) là khối lượng cổ phiếu được giao dịch trong một phiên.. Đây là số lượng cổ phiếu hoặc hợp đồng được giao dịch thành công trên thị trường trong một khoảng thời gian nhất định hay là tổng số cổ phiếu được khớp lệnh trong phiên giao dịch ngày hôm đó. Khối lượng giao dịch và nến giá là hai yếu tố chính tạo nên biểu đồ giá chứng khoán để cấu thành nên biểu đồ giá của mã chứng khoán (mã cổ phiếu) và có ý nghĩa trong dự báo thị trường chứng khoán.
Đại cương
Khối lượng trung bình của một loại chứng khoán trong một khoảng thời gian dài hơn là tổng số lượng giao dịch trong khoảng thời gian đó chia cho độ dài của khoảng thời gian đó. Do đó, đơn vị đo lường cho khối lượng trung bình là số cổ phiếu trên một đơn vị thời gian, thường là trên ngày giao dịch. Khối lượng giao dịch thường cao hơn khi giá chứng khoán thay đổi. Tin tức về tình hình tài chính, sản phẩm tung ra hoặc kế hoạch kinh doanh của công ty, dù tích cực hay tiêu cực, thường sẽ dẫn đến sự gia tăng tạm thời khối lượng giao dịch cổ phiếu của công ty đó. Những thay đổi về khối lượng giao dịch có thể làm cho chuyển động giá được quan sát trở nên quan trọng hơn. Khối lượng cổ phiếu giao dịch cao hơn là dấu hiệu cho thấy tính thanh khoản cao hơn trên thị trường. Đối với các nhà đầu tư tổ chức muốn bán một số lượng lớn cổ phiếu của một cổ phiếu nhất định, tính thanh khoản thấp hơn sẽ buộc họ phải bán cổ phiếu đó một cách chậm rãi trong thời gian dài hơn, để tránh thua lỗ do trượt giá.
Khối lượng giao dịch với khối lượng cổ phiếu đang lưu hành là hai đại lượng khác nhau. Khối lượng cổ phiếu đang lưu hành là toàn bộ cổ phiếu đã niêm yết trên sàn giao dịch, tính từ khi phát hành cho đến ngày giao dịch (là đại lượng cố định). Khối lượng giao dịch là số cổ phiếu được nhà đầu tư trao đổi mua bán với nhau trên sàn (là đại lượng lưu động theo đợt/lượt giao dịch). Khối lượng giao dịch là một chỉ báo trong phân tích kĩ thuật, cung cấp các manh mối về diễn biến của thị trường trong tương lai và giúp các nhà giao dịch tìm kiếm điểm vào/thoát lệnh. Khối lượng giao dịch lớn có thể cho các nhà đầu tư thấy triển vọng về thị trường hoặc chứng khoán, việc giá và khối lượng giao dịch tăng một cách đáng kể có thể là một dấu hiệu đáng tin cậy về một xu hướng giá tăng hoặc giá đảo chiều tăng. Việc giá và khối lượng giao dịch giảm một cách đáng kể có thể là dấu hiệu của một xu hướng giá giảm hoặc giá đảo chiều giảm. Theo quy luật cung-cầu thì khi khối lượng giao dịch mua cổ phiếu tăng thì giá cổ phiếu cũng sẽ được đẩy lên để cân bằng cung-cầu, khi nguồn cung nhiều (khối lượng giao dịch bán tăng trong khi nhu cầu không tương ứng) thì giá sẽ giảm xuống. Tại Hoa Kỳ theo quy định tại Quy tắc 144 của Đạo luật Chứng khoán năm 1933 đã hạn chế việc mua hoặc bán một lượng chứng khoán vượt quá một phần nhất định khối lượng giao dịch trung bình của nó, còn được gọi là dưới dạng khối lượng tương đối. Do đó, việc tính toán khối lượng giao dịch được quy định bởi Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Hoa Kỳ (SEC).
Chú thích
Chứng khoán
Thị trường chứng khoán
|
19855549
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%A5c%20%C4%90%C3%A0n%20%C3%A1p%20Ho%E1%BA%A1t%20%C4%91%E1%BB%99ng%20C%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n
|
Cục Đàn áp Hoạt động Cộng sản
|
Cục Đàn áp Hoạt động Cộng sản (, BRAC) là cơ quan cảnh sát mật mà Tổng thống Cuba Fulgencio Batista duy trì trong suốt thập niên 1950, vốn nổi tiếng về sự tàn bạo trong cuộc chiến chống lại Phong trào 26 tháng 7.
Cơ quan này nằm dưới sự lãnh đạo của Mariano Faget, kẻ thoạt đầu nổi danh với tư cách là thợ săn Đức Quốc xã trong thời kỳ Batista mới lên nắm quyền lần đầu tiên, từ năm 1940 đến năm 1944, khi ông còn là Giám đốc Văn phòng Điều tra Hoạt động của Kẻ thù (), một đơn vị phản gián nhắm vào những toán đặc vụ của Đức Quốc xã và Phát xít.
Ngày 7 tháng 12 năm 1955, toán đặc vụ BRAC đã nổ súng vào một cuộc biểu tình chống đối Batista do Liên đoàn Sinh viên Đại học ở Havana tổ chức. Một số người biểu tình, trong đó có Camilo Cienfuegos, bị thương khi cảnh sát nổ súng vào đám đông.
Sự phát triển của BRAC được CIA tài trợ và khuyến khích bắt đầu từ năm 1956.
Chú thích
Tham khảo
Cảnh sát mật
Cách mạng Cuba
Tổ chức chống cộng
Cựu cơ quan tình báo
Đàn áp chính trị ở Cuba
Cơ quan thực thi pháp luật Cuba
|
19855550
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n%20%C4%91%E1%BB%99i%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Cuba
|
Quân đội Quốc gia Cuba
|
Quân đội Quốc gia Cuba (tiếng Tây Ban Nha: Ejército Nacional de Cuba) từ năm 1935 gọi là Quân đội Lập hiến Cuba (tiếng Tây Ban Nha: Ejército Constitucional de Cuba) là quân đội của Cộng hòa Cuba tồn tại từ năm 1902 đến năm 1959.
Lịch sử
Quân đội Quốc gia Cuba là quân đội của nước Cộng hòa Cuba cho đến năm 1959. Quân đội này bị giải thể vào năm 1959 sau chiến thắng của Quân nổi dậy vốn là lực lượng vũ trang thuộc Phong trào 26 tháng 7 dưới sự lãnh đạo của Fidel Castro. Sau thắng lợi của Cách mạng Cuba năm 1959, đội quân này được Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba hiện tại thay thế.
Quân đội Quốc gia vốn dĩ là phương tiện đàn áp chính trong chính thể độc tài quân sự của Tướng Fulgencio Batista, kẻ nắm quyền cai trị Cuba từ năm 1952 đến năm 1959 cho đến khi chế độ của ông bị lực lượng cách mạng của Castro lật đổ.
Khí tài
Xe tăng
8 xe tăng Marmon Herrington CTMS-1TBI
24 xe tăng M3A1 Stuarts
7 xe tăng M4A3 (76) W HVSS General Sherman
15 xe tăng Comet (A34)
Máy bay
29 chiếc Republic Thunderbolt F-47D
7 chiếc Piper PA-20 Pacer
5 chiếc Piper PA-18-135 Super Cub
8 chiếc Lockheed T-33 Shooting Star Land/lease
16 chiếc Douglas B-26B & C Invader Land/Lease
4 chiếc Piper PA-22-150 Tri Pacer
3 chiếc Piper Pa-22-160 Tri Pacer
1 chiếc Piper PA-23-160 Apache
1 chiếc Aero Commander 560
2 chiếc Bell 47G-2
1 chiếc Douglas TB-26 Land/lease
6 chiếc De Havilland Beavers DHC-2
4 chiếc Curtiss Commandos C-46
Tham khảo
Cách mạng Cuba
Đơn vị quân sự Cuba
Lịch sử quân sự Cuba
|
19855557
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%A3p%20%C3%A2m%20guitar
|
Hợp âm guitar
|
Trong âm nhạc, hợp âm guitar là tập hợp các nốt nhạc chơi trên đàn guitar. Các nốt trong hợp âm thường đánh cùng một lúc, song có thể gảy chúng tuần tự theo hợp âm rải. Bấm hợp âm guitar phụ thuộc vào việc căng dây guitar (guitar tuning). Đa phần guitar sử dụng trong nhạc đại chúng có sáu dây với kiểu căng dây "chuẩn" của guitar cổ điển Tây Ban Nha, mà cụ thể là Mi–La–Rê–Sol–Si–Mi (từ dây đàn có cao độ thấp nhất đến cao nhất); ở kiểu căng dây chuẩn, quãng xuất hiện giữa các dây đàn cạnh nhau là quãng bốn ngoại trừ quãng ba trưởng (Sol, Si). Căng dây chuẩn cần có bốn hình hợp âm để cấu thành hợp âm trưởng ba nốt.
Có những dạng hợp âm riêng dành cho dòng hợp âm có chủ âm ở dây số ba, số bốn, số năm và số sáu. Ở cây guitar sáu dây với kiểu căng dây chuẩn, cần phải bỏ hoặc hạ một hoặc nhiều tông khi bấm hợp âm; đây là dạng hợp âm chủ hay quãng năm. Thứ tự các nốt trên cần đàn bằng kiểu căng dây chuẩn thường bắt buộc các nghệ sĩ guitar hoán đổi trật tự tông của các nốt nhạc trong hợp âm.
Có thể đơn giản hóa việc bấm các hợp âm thường bằng căng dây mở (open tunings) - đặc biệt thông dụng trong guitar của nhạc folk, blues và guitar cổ điển không xuất xứ từ Tây Ban Nha (ví dụ guitar cổ điển Anh và guitar cổ điển Nga). Chẳng hạn, vòng hợp âm Mười hai tiết nhịp blues điển hình chỉ sử dụng ba hợp âm, mà mỗi hợp âm lại bấm bằng cách dùng một ngón tay chèn sáu dây (theo kiểu căng dây mở). Căng dây mở đặc biệt được sử dụng với guitar thép và slide guitar. Căng dây mở giúp bấm các hợp âm bằng một ngón có quãng thuận hơn so với những loại căng dây khác - chúng sử dụng thang âm cân bằng, song đổi lại phải làm tăng quãng nghịch ở những hợp âm khác.
Có thể đơn giản hóa việc bấm các hợp âm guitar (có ba đến năm dây) bằng lớp căng dây khác gọi là căng dây thông thường, tức là các quãng giống nhau ở mỗi cặp dây liên tiếp. Căng dây thông thường gồm các loại căng dây ba trưởng, căng dây quãng bốn và căng dây quãng năm. Với mỗi loại căng dây thông thường, mẫu hình hợp âm có thể bị dịch chuyển chéo xuống cần đàn - đặc tính này giúp những người mới chơi học hợp âm dễ hơn và giúp cho khâu ứng tác của người chơi thành thạo dễ dàng hơn. Mặt khác, việc bấm các hợp âm 6 dây theo lối căng dây thông thường (ở các nốt Đô, Sol và Rê) lại khó khăn hơn.
Thông thường, nghệ sĩ guitar bấm kép các nốt nhạc trong hợp âm để tăng âm lượng - kĩ thuật ấy quan trọng với người chơi không có âm ly khuếch đại; các nốt bấm kép và thay đổi trật tự các nốt còn có thể làm thay đổi âm sắc của hợp âm. Cách này có thể tạo một "hợp âm" được cấu thành từ cùng nốt trên các dây khác nhau. Có thể bấm nhiều hợp âm có cùng nốt ở một hoặc nhiều vị trí trên cần đàn.
Nhạc lý cơ bản
Nhạc lý của hợp âm guitar tôn trọng các quy ước hòa âm của âm nhạc phương Tây. Những bàn luận về hợp âm guitar cơ bản phụ thuộc vào khái niệm cơ bản trong nhạc lý: mười hai nốt nhạc của quãng tám, các quãng, hợp âm và vòng hợp âm.
Quãng
Quãng tám gồm có mười hai nốt nhạc. Các nốt tự nhiên trong quãng tám cấu thành nên âm giai Đô trưởng, (Đô, Rê, Mi, Fa, So, La, Si và Đô).
Quãng giữa các nốt của âm giai nửa cung được liệt trong bảng trên, trong đấy chỉ quãng in đậm mới được thảo luận trong phần hợp âm cơ bản của bài viết này; những quãng ấy và các quãng bảy khác được thảo luận ở phần hợp âm trung bình. Đồng âm và quãng tám có tính quãng thuận đúng. Quãng tám trở nên phổ biến nhờ lối trình diễn của nghệ sĩ jazz Wes Montgomery. Quãng năm đúng cực kỳ quãng thuận, tức là việc đánh liên tiếp hai nốt nhạc từ quãng năm đúng sẽ nghe cực kỳ hài hòa.
Nửa cung là khoảng cách giữa hai nốt nhạc liền kề trên vòng nửa cung - nơi trình bày mười hai nốt trong một quãng tám.
Như đã hiển thị trong bảng trên, một nhóm quãng—quãng ba (trưởng và thứ), quãng năm đúng và quãng bảy thứ—được sử dụng ở những thảo luận về hợp âm guitar cơ bản sau đây.
Như đã kể, quãng năm đúng (P5) có tính hài hòa nhất, sau đồng âm và quãng tám. Phép giải thích về nhận thức hòa âm của con người liên quan đến cơ học của rung động dây cho tới âm học trong âm nhạc của sóng âm nhờ sử dụng phân tích hòa âm của chuỗi Fourier. Khi dùng một ngón tay hoặc móng đàn đánh vào dây đàn, nó rung động theo chuỗi hòa âm. Khi gảy dây Đô nốt mở, chuỗi hòa âm của nó bắt đầu bằng các nốt (Đô,Đô,Sol,Đô,Mi,Sol,Si,Đô). Hợp âm chủ gắn liền với chuỗi quãng tám, bắt đầu bằng quãng đồng âm (Đô,Đô), quãng táml (Đô,Đô), quãng năm đúng (Đô,Sol), quãng bốn đúng (Sol,Đô), và quãng ba trưởng (Đô,Mi). Đặc biệt, chuỗi quãng này chứa cả các quãng ba của hợp âm Đô trưởng {(Đô,Mi),(Mi,Sol)}.
Quãng năm đúng
Quãng năm đúng có mặt ở kỹ thuật chơi guitar và chuỗi các hợp âm. Chuỗi quãng năm xây dựng trên âm giai Đô trưởng được sử dụng để cấu thành nên bộ hợp âm ba, theo thảo luận dưới đây.
Vòng bậc năm
Kết hợp các quãng năm đúng ((Fa,Đô), (Đô,Sol), (Đô,Rê), (Rê,La), (La,Mi), (Mi,Si),...) sẽ cho ra chuỗi bậc năm (Fa,Đô,Sol,Rê,La,Mi,Si,...); chuỗi bậc năm này thể hiện toàn bộ các nốt của quãng tám. Chuỗi bậc năm này được sử dụng trong phần thảo luận về chuỗi hợp âm dưới đây.
Hợp âm năm
Các nghệ sĩ guitar gọi quãng năm đúng là hợp âm năm (power chord), họ đặc biệt chơi chúng trong nhạc blues và rock. Peter Townshend (nghệ sĩ của The Who) thể hiện các hợp âm năm với điệu quạt dây kiểu cối xay gió. Hợp âm năm thường được bấm cùng các nốt lặp lại ở quãng tám cao hơn.
Mặc dù đã hình thành, song thuật ngữ "power chord", hay hợp âm năm không nhất quán với định nghĩa thông thường về hợp âm trong nhạc lý - đòi hỏi ít nhất ba nốt riêng biệt ở từng hợp âm.
Hợp âm trong nhạc lý
Tổng quan tóm lược
Cần phải đánh giá nhạc lý của hợp âm để mang đến thuật ngữ học trong cuộc thảo luận về hợp âm guitar. Ba loại hợp âm (nhấn mạnh trong khâu giới thiệu cách chơi guitar) được nhắc tới. Ba hợp âm cơ bản này xuất hiện ở dạng chord-triples thông dụng trong nhạc phương Tây, mà triples được gọi là chuỗi ba hợp âm. Sau khi trình bày từng loại hợp âm, cần lưu ý vai trò của nó trong chuỗi ba hợp âm.
Những thảo luận trung gian về hợp âm có được nhờ cả các hợp âm lẫn chuỗi hợp âm từ phần phối hòa âm giai. Hợp âm guitar cơ bản có thể được cấu thành từ "xếp quãng ba" - tức là kết hợp các quãng hai hoặc quãng ba, mà ở đây mọi nốt thấp nhất đều đến từ âm giai.
Hợp âm bộ ba
Trưởng
Cả hợp âm trưởng và thứ là ví dụ điển hình của hợp âm bộ ba (triad) trong âm nhạc - chứa ba nốt riêng biệt. Hợp âm bộ ba thường được trình bày dưới dạng bộ ba có trật tự:
hợp âm chủ;
hợp âm ba - nằm trên hợp âm chủ một quãng ba trưởng (đối với hợp âm trưởng) hoặc quãng ba thứ (đối với hợp âm thứ);
hợp âm năm - vòng bậc năm đúng nằm trên hợp âm chủ; do đó hợp âm năm là bậc ba trên quãng bậc ba—một quãng ba thứ trên ba trưởng hoặc quãng ba trưởng trên ba thứ. Hợp âm bộ ba trưởng có một hợp âm chủ, một hợp âm ba trưởng và một hợp âm năm. (Quãng ba-trưởng của hợp âm trưởng bị thay bằng quãng ba-thứ trong hợp âm thứ.
Ví dụ, hợp âm bộ ba Đô-trưởng gồm các nốt-(hợp âm chủ, hợp âm ba, hợp âm năm) (Đô, Mi, Sol).
Tham khảo
Ghi chú
Chú thích
Tài liệu tham khảo
(Postscript file and PDF file)
(Second printing, corrected, 2008)
Zipped Microsoft Word Document
Kỹ thuật biểu diễn guitar
Hợp âm guitar
|
19855559
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Con%20C%C3%A1m
|
Con Cám
|
{{Infobox film
| tên = Con Cám
| hình = Áp phích phim Con cám_2024.jpg
| cỡ hình =
| ghi chú = Áp phích giới thiệu của phim
| đạo diễn = Trần Hữu Tấn
| sản xuất = Hoàng Quân
| biên kịch =
| dựa trên = Truyện cổ tích Tấm Cám
| âm nhạc =
| diễn viên =
| hãng sản xuất = ProductionQ
|phát hành = CJ CGV
| công chiếu = 2024 (Việt Nam)
| thời lượng = 110 phút
| quốc gia =
| ngôn ngữ = Tiếng Việt
}}Con Cám (tiếng Anh: Cursed Cinderella) là một bộ phim điện ảnh Việt Nam thuộc thể loại kinh dị được lấy cảm hứng từ truyện cổ tích Tấm Cám ra mắt vào năm 2024. Bộ phim đánh dấu sự trở lại của đạo diễn Trần Hữu Tấn và nhà sản xuất Hoàng Quân sau "Kẻ ăn hồn" (2023). Bộ phim này thay vì nói về phẩm chất tốt đẹp của Tấm như "Tấm Cám: Chuyện chưa kể"'' thì phim này sẽ nói về những phẩm chất đen tối của Tấm mà không ai lường trước được. Phim có sự tham gia diễn xuất của các diễn viên gồm Thúy Diễm, Quốc Cường, Hải Nam, NSƯT Ngọc Hiệp, Trần Thiên Tú và Lâm Thanh Mỹ.
Xem thêm
Tấm Cám: Chuyện chưa kể
Tấm Cám
Tham khảo
phim chưa ra mắt
phim của ProductionQ
phim năm 2024
phim Việt Nam
phim kinh dị Việt Nam
Phim do Trần Hữu Tấn đạo diễn
phim quay tại Việt Nam
phim dựa theo truyện cổ tích
|
19855562
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Beauty%20Newbie
|
Beauty Newbie
|
Beauty Newbie () là một bộ phim truyền hình lãng mạn Thái Lan với các diễn viên chính Baifern Pimchanok Luevisadpaibul và Win Metawin Opas-iamkajorn dựa trên tác phẩm webtoon nổi tiếng My ID Is Gangnam Beauty () của Ki Maeng-Gi. Sản phẩm này là sự hợp tác giữa GMMTV và Parbdee Tawesuk, cùng với Wattpad Webtoon Studio Công ty con Bắc Mỹ của Naver. Mui Aticha Tanthanawigrai, người trước đây từng là đạo diễn cho F4 Thailand: Boys Over Flowers và biên kịch cho Girl From Nowhere, sẽ chỉ đạo sản xuất bộ phim dài 14 tập này. Dự kiến bắt đầu bấm máy vào mùa hè năm 2023, phim truyền hình này đã được chiếu từ ngày 19 tháng 2 năm 2024.
Nội dung
Liu (Baifern Pimchanok Luevisadpaibul) là một cô gái trẻ bị bắt nạt hầu hết quãng đời do ngoại hình của cô. Để nổ lực trở thành một tân sinh viên của đại học, cô đã phẩu thuật thẩm mỹ và đạt được vẻ ngoài như bao người khác. Tuy nhiên, ca phẫu thuật trở nên 'quá thành công', khiến cô trở nên xinh đẹp tuyệt vời và thu hút nhiều sự chú ý trong khi cô chỉ muốn hòa nhập và không bị bắt nạt. Hơn thế nữa, một số người bắt đầu chế nhạo cô vì đã phẫu thuật quá nhiều trên khuôn mặt và gọi cô là vẻ đẹp nhân tạo. Guy (Win Metawin Opas-iamkajorn), chàng trai nổi tiếng học cùng trường trung học với Liu và biết rõ bộ dạng của cô trước khi phẫu thuật. Anh tiết lộ rằng ở trường trung học anh chưa bao giờ khinh thường Liu vì vẻ bề ngoài như những người khác. Cả hai nhanh chóng trở nên thân thiết, Guy dành hầu hết thời gian để ý đến Liu và bắt đầu quan tâm đến cô ấy. Nhưng sự thiếu tự tin và nỗi sợ chế giễu của Liu đã khiến cô từ chối tình cảm của anh ấy, đặc biệt mọi người trong trường đều nghĩ rằng người như Guy phải hẹn hò với một cô gái đẹp tự nhiên như Fay (Jane Ramida Jiranorraphat).
Diễn viên
Chính
Baifern Pimchanok Luevisadpaibul vai Liu.
(Nhân vật trong webtoon: Kang Mi-Rae)
Cô có đam mê những thứ liên quan đến nước hoa và học về hóa chất để theo đuổi ước mơ trở thành chuyên gia nước hoa. Cô gặp khó khăn trong việc hòa nhập vì không đáp ứng được tiêu chuẩn sắc đẹp của xã hội. Cô mong muốn một cuộc sống bình thường và tránh sự chú ý, nhưng sau khi bị bắt nạt, cô quyết định phẫu thuật thẩm mỹ trước khi vào đại học.
Win Metawin Opas-iamkajorn vai Guy.
(Nhân vật trong webtoon: Do Kyung-Seok)
Guy nổi tiếng trong trường với sự thông minh, giàu có và vẻ điển trai của mình. Tuy nhiên, những trải nghiệm trong quá khứ cùng với gia đình đã khiến anh trở nên khép mình và đề phòng. Điều này khiến cho những người khác khó có thể tiếp cận anh, khiến mọi người coi anh ta là người xa cách hoặc khó tiếp cận.
Jane Ramida Jiranorraphat vai Faye.
(Nhân vật trong webtoon: Hyun Soo-Ah)
Một cô gái nổi tiếng trong khoa hóa, nổi tiếng với vẻ đẹp tự nhiên. Mặc dù với vẻ ngoài ngọt ngào và thông minh, cô ấy thực sự khao khát sự chú ý và sẽ cố gắng rất nhiều để có được nó, bao gồm cả việc vận dụng tính cách dịu dàng và ngây thơ của cô ấy để giành lấy sự chú ý từ người khác.
Great Sapol Assawamunkong vai Saint.
(Nhân vật trong webtoon: Yeon Woo-Young)
Giáo viên trợ giảng khoa hóa học, người có tình cảm với Liu.
Vai phụ
Drake Sattabut Laedeke vai Mok
Louis Thanawin Teeraphosukarn vai Film
Aou Thanaboon Kiatniran vai Jerry
Emi Thasorn Klinnium vai Anne
Ployphach Phatchatorn Thanawat vai Mimi
Jobpy Veravarong Kankranchana vai Paula
Mike Chinnarat Siriphongchawalit vai Mac
Pod Suphakorn Sriphothong vai Third
Est Supha Sangaworawong vai Note
Atom Pracharapon Thepsukdee vai Jo
Jeab Sopitnapa Chumpanee vai Linda (mẹ của Guy)
Um Amarin Nitibhon vai Kroekphon (cha của Guy)
Jaoying Krongkwan Nakornthap vai Gale (em của Guy)
Khách mời
Ciize Rutricha Phapakithi vai Milin
Pompam Niti Chaichitathorn vai Nam
Mick Metas Opas-iamkajorn vai Guy (lúc trung học)
Winwa Nutta Punyathanathamrong vai Liu (lúc trung học)
Pu Yuwadee Ruangchai vai Sunee (mẹ của Liu)
Gokhai Jumpol Thongtan vai Sompoj (cha của Liu)
Pan Pajaree Nantarat vai Da
Oil Yannawee Khuptawetin vai mẹ của Faye
Chayapat Siriposop vai bà ngoại của Faye
Weeravit Vongrouempibool vai Pun
Hlung Kamthorn Lorjitramnuay vai Ake
Kung Wannasiri Srivarathanabul vai Phen
Earth Niroth Ruencharoen vai Gun
Meen Chayanee Chaladthanyakij vai giáo viên tổng phụ trách
Beambeam Kamonporn Kosriyarakwong vai Nene
Nhạc phim
Tham khảo
Liên kết ngoài
GMMTV
Trailer chính thức
Beauty Newbie tại IMDb
Chương trình truyền hình của GMMTV
Chương trình gốc GMM 25
Phim truyền hình dựa trên webtoon của Hàn Quốc
Phim truyền hình Thái Lan ra mắt năm 2024
Phim truyền hình Thái Lan kết thúc năm 2024
|
19855577
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Keit%20Pentus-Rosimannus
|
Keit Pentus-Rosimannus
|
Keit Pentus-Rosimannus (sinh ngày 3 tháng 3 năm 1976) là chính khách người Estonia. Trước đây, bà từng giữ chức vụ làm Bộ trưởng Tài chính Estonia, Bộ trưởng Ngoại giao Estonia và Bộ trưởng Môi trường Estonia. Hiện tại, bà là thành viên của Tòa án Kiểm toán châu Âu kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2023.
Tham khảo
Sinh năm 1976
Nhân vật còn sống
Chính khách Estonia thế kỷ 21
Nữ chính khách Estonia thể kỷ 21
Bộ trưởng Môi trường Estonia
Nữ bộ trưởng ngoại giao
Chính khách Đảng Cải cách Estonia
Thành viên Nghị viện Estonia
Bộ trưởng Ngoại giao Estonia
Chính khách từ Tallinn
Cựu sinh viên đại học Tallinn
Cựu sinh viên đại học Tartu
Nữ bộ trưởng tài chính
|
19855580
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kieran%20Culkin
|
Kieran Culkin
|
Kieran Kyle Culkin (nghệ danh: Kieran Culkin, sinh ngày 30 tháng 9 năm 1982) là nam diễn viên người Mỹ. Anh từng thủ vai Roman Roy trong phim truyền hình Succession của đài HBO từ năm 2018 đến 2023, vai diễn mang về cho nam diễn viên một giải Quả cầu vàng và một giải Primetime Emmy.
Kieran bắt đầu sự nghiệp với tư cách là một diễn viên nhí từ phim điện ảnh Home Alone (1990) và sau đó là Father of the Bride (1991), Home Alone 2: Lost in New York (1992), The Mighty (1998), The Cider House Rules (1999). Năm 2002, anh có vai diễn đột phá trong phim Igby Goes Down (2002) và nhờ đó có được một đề cử giải Quả cầu vàng. Anh cũng xuất hiện trong các phim như: Scott Pilgrim vs. the World (2010), Margaret (2011), Wiener-Dog (2016) và No Sudden Move (2021). Năm 2006, anh tham gia sân khấu kịch Broadway với vở 24 Hour Plays, năm 2014, anh trở lại với vai Kenneth Longergan trong vở This Is Our Youth.
Tiểu sử
Kieran Kyle Culkin sinh ngày 30 tháng 9 năm 1982 tại New York. Cha anh là Christopher Cornelius "Kit" Culkin, một cựu diễn viên sân khấu kịch Broadway. Mẹ anh là Patricia Brentrup, một phụ nữ gốc North Dakota, gặp Kit khi bà đang làm cảnh sát phân luồng giao thông ở Sundance, Wyoming.
Cả hai quen nhau và chuyển tới New York, họ sinh được bảy người con là: Shane (1976), Dakota (1978 - 2008), Macaulay (1980), Kieran, Quinn (1984), Christian (1987) và Rory (1989). Kit còn có một người con gái riêng là Jennifer (1970 - 2000).
Cô của Kieran là diễn viên Bonnie Bedelia.
Đời tư
Culkin kết hôn với một người phụ nữ tên Jazz Charton vào ngày 8 tháng 6 năm 2013. Họ sinh được hai người con, một gái vào tháng 9 năm 2019 và một trai vào tháng 8 năm 2021.
Danh sách phim
Điện ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nam diễn viên đến từ thành phố New York
Nhân vật còn sống
Người giành giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phim chính kịch truyền hình xuất sắc nhất
Người Mỹ gốc Ireland
Nam diễn viên truyền hình Mỹ
Nam diễn viên sân khấu Mỹ
Nam diễn viên điện ảnh Mỹ
Nam diễn viên thiếu nhi Mỹ
Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 21
Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 20
Sinh năm 1982
|
19855584
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gamurs
|
Gamurs
|
GAMURS Group, được biết đơn giản là Gamurs, là một trang xuất bản truyền thông và giải trí về esports. Được thành lập vào năm 2014, tập đoàn hiện điều hành nhiều thương hiệu tập trung vào thị trường tin tức giải trí và thể thao điện tử, bao gồm các trang web: Dot Esports, We Got This Covered, The Mary Sue, Prima Games và Escapist. GAMURS có trụ sở tại Sydney, Australia và văn phòng tại Austin, Texas.
Lịch sử
Vào năm 2010, Riad Chikhani và Phillip Luu, cả hai khi ấy mới 14 tuổi, đã sáng lập nên Rune Gear, một cổng thông tin trực tuyến dành cho trò chơi RuneScape. Năm 17 tuổi, họ đã bán doanh nghiệp để tập trung vào việc học. Việc thành lập cổng thông tin này đã thúc đẩy hai người phát triển hoạt động kinh doanh tương tự nhưng dành cho nhiều trò chơi hơn, mà sau này trở thành GAMURS Group.
GAMURS bắt đầu hoạt động với hình thức giống một trang mạng xã hội sau khi tham gia chương trình NRMA Jumpstart được điều hành bởi Slingshot Accelerator. Sau khi chương trình kết thúc, công ty đã huy động được 500.000 USD trong vòng tài trợ hạt giống. Sau đó GAMURS đã mua lại hai nền tảng TeamFind và CSGOTeamFinder. Vào ngày 14 tháng 2 năm 2016, hai trang web được hợp nhất để cung cấp dịch vụ tìm kiếm đội và người chơi dành cho hai tựa game Counter-Strike: Global Offensive và Liên Minh Huyền Thoại. GAMURS đã huy động được thêm 500.000 USD trong một vòng tài trợ hạt giống khác vào tháng 4 năm 2016.
Vào 26 tháng 4 năm 2016, GAMURS đã mua lại các trang web xuất bản thể thao điện tử khác bao gồm eSports-Nation.com, GoldPer10 và eSports.guru. Sau khi hoàn tất việc mua lại, ba nền tảng trên đã được hợp nhất, biến GAMURS trở thành nhà cung cấp nội dung cho các tựa game như Call of Duty: Black Ops III, Halo 5: Guardians, Hearthstone và Overwatch. Vào ngày 11 tháng 6, GAMURS đã cho ra mắt EsportsWikis, một bộ bách khoa toàn thư trực tuyến dành riêng cho esports. Vào ngày 19 tháng 9, công ty đã mua lại hãng tin tức thể thao điện tử SplitPush.net. Vào ngày 19 tháng 9, GAMURS đã mua lại Dot Esports từ The Daily Dot.
Vào ngày 9 tháng 11 năm 2020, GAMURS mua lại Pro Game Guides, một thư viện hướng dẫn chơi game. Vào ngày 28 tháng 6 năm, 2021, GAMURS đã mua lại We Got This Covered, một trang web về phim, truyền hình, truyện tranh và văn hóa giải trí. Vào ngày 17 tháng 11, công ty mua lại trang web The Mary Sue, một nơi nhằm làm nổi bật phụ nữ trong không gian văn hóa "geek" và cung cấp nơi dành cho những bộ phận thiểu số hoặc ít sự đại diện có thể lên tiếng.
Vào ngày 3 tháng 1 năm 2022, GAMURS toong báo rằng họ đã thâu tóm Prima Games, một công ty truyền thông trò chơi. Vào ngày 10 tháng 2, họ cũng thông báo đã mua lại Twinfinite, một trang web tập trung về tin tức, đánh giá, tính năng về ý kiến về trò chơi điện tử. Vào ngày 30 tháng 9, công ty đã xác nhận rằng họ đã mua lại một loạt các trang web từ Enthusiast Gaming, bao gồm Destructoid, The Escapist, PC Invasion và Siliconera. Công ty đồng thời sa thải tổng biên tập của The Escapist vào tháng 11 năm 2023 vì đã khiến cho một số cộng tác viên của trang web — nổi bật là Ben "Yahtzee" Croshaw của Zero Punctuation — từ chức và thành lập một công ty mới do nhân viên làm chủ.
Tham khảo
Mua bán và sáp nhập năm 2016
Mua bán và sáp nhập năm 2020
Mua bán và sáp nhập năm 2021
Mua bán và sáp nhập năm 2022
Trang web trò chơi điện tử
|
19855592
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carroll%20Edward%20Adams
|
Carroll Edward Adams
|
Carroll Edward Adams Jr. (7 tháng 6 năm 1923 – 12 tháng 5 năm 1970) là Thiếu tướng người Mỹ và là một trong những sĩ quan quân đội cấp cao nhất của Mỹ thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam. Ông là chỉ huy trưởng Liên đoàn 937 Công binh Lục quân Mỹ. Adams đã thiệt mạng trong vụ tai nạn trực thăng UH-1 giống như Thiếu tướng John A. B. Dillard. Ông cũng là viên chỉ huy máy bay trực thăng.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1923
Mất năm 1970
Chuẩn tướng
Tướng Lục quân Hoa Kỳ
Quân nhân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai
Quân nhân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Triều Tiên
Quân nhân Hoa Kỳ thiệt mạng trong Chiến tranh Việt Nam
|
19855593
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/John%20A.%20B.%20Dillard
|
John A. B. Dillard
|
John A. B. Dillard (1 tháng 9 năm 1919 – 12 tháng 5 năm 1970) là Thiếu tướng người Mỹ tử trận ngày 12 tháng 5 năm 1970 tại miền Nam Việt Nam. Tướng Dillard là một trong năm sĩ quan quân đội Mỹ thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam.
Thân thế
Tướng Dillard đã kết hôn với Betty L. Hawkins và có ba người con gồm John A. B. thứ 3, Gerry và Revalee.
Học vấn
Tướng Dillard tốt nghiệp Học viện Quân sự Virginia, khóa 1942 với bằng Cử nhân Kỹ thuật Xây dựng.
Binh nghiệp
Dillard từng là Trung đội trưởng và Đại đội trưởng tham chiến ở châu Âu trong Thế chiến thứ hai.
Trong chiến tranh Triều Tiên từ tháng 7 năm 1952 đến tháng 7 năm 1953, ông giữ chức vụ Sĩ quan Tác chiến Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 25 Bộ binh tại Hàn Quốc.
Tháng 11 năm 1969, Tướng Dillard được bổ nhiệm vào miền Nam Việt Nam trên cương vị là Tư lệnh Bộ Tư lệnh Công binh.
Cái chết
Ngày 12 tháng 5 năm 1970, Thiếu tướng Dillard và 9 người Mỹ khác thiệt mạng khi chiếc trực thăng UH-1 chở họ bị trúng hỏa lực địch và rơi ở Tây Nguyên, cách Pleiku 10 dặm (16 km) về phía Tây Nam và cách Sài Gòn 220 dặm (350 km) về phía Tây Bắc. Ngoài ra còn có Đại tá Carroll Edward Adams Jr. (sau khi mất mới được thăng cấp Chuẩn tướng), chỉ huy trưởng Liên đoàn 937 Công binh cũng tử vong.
Dillard được chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1919
Mất năm 1970
Tướng Lục quân Hoa Kỳ
Cựu sinh viên Học viện Quân sự Virginia
Chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington
Quân nhân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai
Quân nhân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Triều Tiên
Quân nhân Hoa Kỳ thiệt mạng trong Chiến tranh Việt Nam
|
19855598
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91ua%20%C3%B4%20t%C3%B4%20C%C3%B4ng%20th%E1%BB%A9c%201%20Bahrain%202024
|
Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain 2024
|
Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain 2024 (tên chính thức là Formula 1 Gulf Air Bahrain Grand Prix 2024) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 2 tháng 3 năm 2024 tại Trường đua Bahrain International ở Sakhir, Bahrain. Chặng đua này là chặng đua mở màn của Giải đua xe Công thức 1 2024.
Bối cảnh
Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain 2024 được tổ chức từ ngày 29 tháng 2 đến ngày 2 tháng 3 với tư cách là chặng đua mở màn của Giải đua xe Công thức 1 2024.
Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain 2024 diễn ra lúc 18:00 giờ địa phương (UTC+3) vào thứ Bảy, ngày 2 tháng 3 năm 2024, trở thành chặng đua mở màn của một giải đua xe Công thức 1 được tổ chức vào ngày Thứ Bảy kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 Nam Phi 1982. Sự kiện này được tổ chức vào thứ Bảy để tuân thủ các quy định yêu cầu tối thiểu một tuần giữa các chặng đua, vì Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út tiếp theo đó sẽ diễn ra vào ngày 9 tháng 3. Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út 2024 đã được dời lại một ngày để tránh xung đột với ngày 10 tháng 3, ngày khởi đầu tháng Ramadan.
Danh sách các tay đua và đội đua
Danh sách các tay đua và đội đua cho chặng đua này không có thay đổi nào so với danh sách các tay đua và đội đua tham gia mùa giải. Thêm vào đó, không có thêm tay đua dự bị nào được điền tên để tham gia sự kiện này.
Lựa chọn hợp chất lốp
Nhà cung cấp lốp xe Pirelli mang đến các hợp chất lốp C1, C2 và C3 (ba loại cứng nhất trong dòng sản phẩm của Pirelli), lần lượt được tiêu chuẩn hóa là cứng (hard), trung bình (medium) và mềm (soft) để các đội sử dụng trong suốt sự kiện này.
Tường thuật
Buổi đua thử
Ba buổi đua thử được tổ chức tại Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain. Buổi đua thử đầu tiên được tổ chức vào ngày 29 tháng 2 năm 2024 lúc 14:30 giờ địa phương (UTC+3). Daniel Ricciardo của Racing Bulls đứng đầu buổi đua thử này trước cặp tay đua McLaren, Lando Norris và Oscar Piastri với thời gian nhanh nhất là 1:32,689 phút. Buổi đua thử thứ hai được tổ chức vào lúc 18 giờ địa phuơng (UTC+3) cùng ngày. Lewis Hamilton của Mercedes đứng đầu buổi đua thử thứ hai trước đồng đội George Russell và Fernando Alonso của Aston Martin với thời gian nhanh nhất là 1:30,374 phút. Buổi đua thử thứ ba và cuối cùng được tổ chức vào ngày 1 tháng 3 năm 2024 lúc 15:30 giờ địa phương (UTC+3). Carlos Sainz Jr. của Ferrari đứng đầu buổi đua thử thứ ba trước người đồng huơng Fernando Alonso của Aston Martin và Max Verstappen của Red Bull Racing với thời gian nhanh nhất là 1:30,824 phút.
Vòng phân hạng
Vòng phân hạng được tổ chức vào ngày 1 tháng 3 năm 2024 lúc 19:00 giờ địa phương (UTC+3) và bao gồm ba phần với thời gian ròng là 45 phút. Các tay đua có 18 phút ở phần đầu tiên (Q1) để tiếp tục tham gia phần thứ hai (Q2) của vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua dẫn đầu phần này lọt vào phần tiếp theo. Sau khi Q1 kết thúc, Carlos Sainz Jr. của Ferrari đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:29,909 phút trong khi cả hai tay đua Kick Sauber, Logan Sargeant và cả hai tay đua Alpine bị loại.
Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba (Q3) và cuối cùng của vòng phân hạng. Sau khi Q2 kết thúc, Charles Leclerc của Ferrari đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:29,165 phút trong khi cả hai tay đua RB, Lance Stroll, Alexander Albon và Kevin Magnussen bị loại.
Phần thứ ba (Q3) và cuối cùng kéo dài mười hai phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên được xác định sẵn cho cuộc đua. Với thời gian nhanh nhất là 1:29,179 phút, Max Verstappen giành vị trí pole trước Charles Leclerc và George Russell.
Cuộc đua chính
Cuộc đua chính được tổ chức vào ngày 2 tháng 3 năm 2024 lúc 18:00 giờ địa phương (UTC+3) và bao gồm 57 vòng đua.
Max Verstappen giành chiến thắng tại cuộc đua trước đồng đội Sergio Pérez và Carlos Sainz Jr. Đồng thời, anh đạt được cú Grand Slam thứ năm trong sự nghiệp sau khi xuất phát ở vị trí pole, dẫn đầu mọi vòng đua và giành vòng đua nhanh nhất. Các tay đua còn lại ghi điểm tại Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain là Charles Leclerc, George Russell, Lando Norris, Lewis Hamilton, Oscar Piastri, Fernando Alonso và Lance Stroll.
Kết quả
Vòng phân hạng
Cuộc đua chính
Chú thích
– Bao gồm một điểm cho vòng đua nhanh nhất.
Bảng xếp hạng sau cuộc đua
Bảng xếp hạng các tay đua
Lưu ý: Chỉ có mười vị trí đứng đầu được liệt kê trên bảng xếp hạng này.
Bảng xếp hạng các đội đua
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chặng đua Công thức 1 năm 2024
Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain
|
19855601
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Polo%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Polo (định hướng)
|
Polo là môn thể thao đồng đội chơi trên lưng ngựa.
Polo còn có thể đề cập đến:
Địa danh
Xã Polo, Quận Carroll, Arkansas
Polo, Illinois, Hoa Kỳ, một thành phố
Valenzuela (Philippines), một thành phố trong vùng đô thị Manila có tê cũ là Polo
Polo, Valenzuela, một barangay
Bác La, Huệ Châu, Quảng Đông, Trung Quốc
Tên người
Marco Polo, thương gia và nhà thám hiểm Ý
Trang phục
Áo polo hay áo thun cổ bẻ
Cổ polo hay cổ lọ, một loại áo
Xem thêm
Pố Lồ, một xã ở Hà Giang, Việt Nam
Bóng nước (tiếng Anh: water polo)
|
19855604
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/TCG%20Oru%C3%A7%20Reis
|
TCG Oruç Reis
|
Ít nhất ba tàu chiến của Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ từng được đặt cái tên TCG Oruç Reis hay Oruçreis, theo tên hạm trưởng Oruç Reis (khoảng 1474–1518) thời kỳ Đế quốc Ottoman:
TCG Oruç Reis (1942) là một được một xưởng tàu Anh đóng cho Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng bị Hải quân Anh trưng dụng năm 1940 như là chiếc HMS P611. Nó được hoàn trả cho Thổ Nhĩ Kỳ năm 1942 và hoạt động như là chiếc TCG Oruç Reis cho đến khi tháo dỡ vào năm 1957
TCG Oruçreis (S-337), nguyên là được chuyển giao năm 1971 và xóa đăng bạ năm 1987
TCG Oruçreis (F-245) là một hạ thủy năm 1994 và hiện vẫn đang phục vụ
Tên gọi tàu chiến Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ
|
19855607
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20t%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Moldova%202024
|
Bầu cử tổng thống Moldova 2024
|
Bầu cử tổng thống Moldova 2024 () dự kiến sẽ được tổ chức vào tháng 11 năm 2024 tại Moldova.
Hệ thống bầu cử
Điều kiện ứng cử viên
Theo Điều 78, khoản 2 của Hiến pháp Moldova xác định bốn điều kiện mà một ứng cử viên cho chức vụ tổng thống:
Công dân có quốc tịch Moldova.
Độ tuổi là 40 trở lên.
Thường trú tại Moldova tối thiểu 10 năm
Có khả năng nói được ngôn ngữ bản xứ.
Điều 80 của Hiến pháp cũng quy định giới hạn nhiệm kỳ: Một cá nhân không phục vụ quá 2 nhiệm kỳ liên tiếp.
Tham khảo
Bầu cử năm 2024 ở châu Âu
Moldova năm 2024
Bầu cử năm 2024
Bầu cử tổng thống Moldova
|
19855610
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Narutomaki
|
Narutomaki
|
hay là một loại kamaboko hoặc surimi được sản xuất tại Nhật Bản. Mỗi lát naruto có hình xoắn ốc màu hồng hoặc đỏ, giống với xoáy nước Naruto ở eo biển Naruto giữa đảo Awaji và Naruto, Tokushima trên đảo Shikoku, Nhật Bản.
Sản xuất
Thành phố Yaizu, Shizuoka được biết đến là nơi sản xuất naruto.
Sử dụng
Naruto là thành phần phổ biến trên các món mì Nhật Bản như ramen kiểu Tokyo. Ở một số vùng của Nhật Bản, cũng được sử dụng như một thành phần của oden và nimono.
Tham khảo
Ramen
Ẩm thực Nhật Bản
Bài viết có văn bản tiếng Nhật
|
19855618
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di%20B%C3%A1o%20VTV%20%28b%C3%A1o%29
|
Thời Báo VTV (báo)
|
Thời Báo VTV (VTV Times) là một tờ báo điện tử ở Việt Nam, và trực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam. Tờ báo được cấp phép hoạt động từ tháng 12 năm 2023. Nhằm thực hiện các yêu cầu, mục tiêu của Đảng và Chính phủ.
Lịch sử hình thành
Báo điện tử Thời Báo VTV được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp giấy phép hoạt động số 483/GP-BTTTT cấp ngày 29/12/2023. Ngày 01-01-2024 được sắp xếp, tổ chức lại Báo điện tử VTV News và Tạp chí Truyền hình thành Thời báo VTV.
Lãnh đạo
Tổng Biên tập: Vũ Thanh Thủy
Phó Tổng Biên tập:
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Phạm Quốc Thắng
Các ấn phẩm
Báo in
Báo in Sóng VTV - VTV ONAIR được xuất bản vào thứ Ba hàng tuần
Báo điện tử
Báo điện tử VTV (VTV Online)
Tham khảo
Báo chí Việt Nam
Báo điện tử Việt Nam
Sơ khai báo chí
|
19855619
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1nh%20m%C3%AC%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20trong%20v%C4%83n%20h%C3%B3a%20%C4%91%E1%BA%A1i%20ch%C3%BAng
|
Bánh mì Việt Nam trong văn hóa đại chúng
|
Bánh mì là một loại bánh mì kẹp của Việt Nam được cải biên từ món baguette của Pháp, với lớp vỏ ngoài giòn tan, ruột mềm, còn bên trong là phần nhân. Sau khi người Pháp xâm lược và cai trị Việt Nam từ giữa thế kỷ 19, bánh mì đã bắt đầu có mặt ở quốc gia này và ngày càng phổ biến trong những thập niên tiếp theo. Sau khi được biến tấu lại cho nhỏ gọn hơn vào những 1950, món ăn đã chính thức định hình với sự xuất hiện của cửa hàng Bánh mì Hòa Mã. Đến thập niên 1970, nhiều người dân bản địa đã đã di cư sang Hoa Kỳ, châu Âu và Úc, mang theo công thức bánh mì kẹp thịt của người Việt vượt qua biên giới và trải dài khắp toàn cầu.
Bánh mì Việt Nam là đề tài thường xuyên được khai thác trong các tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là từ năm 2020 trở đi, trải rộng trên nhiều lĩnh vực như văn chương, phim ảnh truyền hình, âm nhạc, hội họa và nhiếp ảnh. Một vài tác phẩm trong số đó đã trở nên nổi tiếng và nhận về nhiều đánh giá tích cực từ cộng đồng, tuy nhiên cũng có trường hợp làm dấy nên tranh cãi và phân cực ở phía người xem. Bên cạnh đó, một số hội thảo, lễ hội và các hoạt động kỷ niệm, tôn vinh cũng xoay quanh món bánh này, thậm chí còn có ý kiến đề xuất việc lấy ngày 24 tháng 3 làm "Ngày bánh mì Việt Nam". Ngoài ra, món bánh còn được Google Doodle tổ chức tôn vinh giữa đại dịch COVID-19 trên trang chủ ở nhiều quốc gia, cũng như xuất hiện trong Từ điển tiếng Anh Oxford cùng một số từ điển khác.
Tác phẩm nghệ thuật
Văn chương
Dù là món ăn rất phổ biến, nhưng bánh mì lại ít khi được đưa vào văn chương. Thế hệ học sinh ra đời sau năm 1975 có nhiều người thuộc lòng các câu thơ của Phan Thị Vàng Anh trong sách giáo khoa tiểu học: "Hôm nay trời nắng chang chang/Mèo con đi học chẳng mang thứ gì/Chỉ mang một chiếc bút chì/Và mang một mẩu bánh mì con con". Bên cạnh đó, một số nhà thơ khác như Linh Châu, Kiên Giang và Hoàng Hải Thủy cũng từng nhắc đến bánh mì trong những tác phẩm do họ sáng tác. Đồng thời, Lê Văn Nghĩa – một nhà văn sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn – có niềm đam mê với món này đến nỗi ông đã đưa nó vào khá nhiều cuốn sách của mình như Hạt bụi bên nhau; Chú chiếu bóng, nhà ảo thuật, tay đánh bài, và tụi con nít xóm nhỏ Sài Gòn năm ấy và đặc biệt là truyện dài Mùa Hè năm Petrus. Một số tiệm bánh nổi tiếng ở Sài Gòn cũng từng góp mặt trong tiểu thuyết Cám ơn em đã yêu anh của nhà văn Duyên Anh. Không chỉ xuất hiện trong những tác phẩm viết bằng tiếng Việt, bánh mì còn xuất hiện trong một vài đầu sách Anh ngữ như Of Monkey Bridges and Bánh Mì Sandwiches: from Saigon to Texas của Oanh Ngo Usadi. Ngoài ra, người ta còn cho món bánh ấy vào các bài ca dao, tục ngữ thời hiện đại.
Điện ảnh và truyền hình
Bánh mì Việt Nam được nhắc đến nhiều trong phim truyền hình Bánh mì ông Màu phát sóng trên HTV7, với nội dung xoay quanh nhân vật ông Màu – cựu chủ tịch của một công ty bất động sản – đã từ bỏ sự nghiệp vì muốn thực hiện ước mơ của mẹ mình còn dang dở là phát triển chuỗi cửa hàng bánh mì Việt. Các nhà sản xuất hy vọng rằng bộ phim này sẽ góp phần quảng bá món bánh mì Việt Nam. Đạo diễn Nguyễn Quang Minh cũng cho biết: "Bánh mì ngon cần hai yếu tố: nước xốt và nhân. Trong phim sẽ khai thác sâu vào hai yếu tố này. Trong đó, hai loại nhân là xíu mại trứng muối và ba rọi xốt tiêu đen". Tác phẩm đã có buổi ra mắt tại thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 2 tháng 10 năm 2020.
Một tác phẩm khác có liên quan đến bánh mì Việt Nam là Vua bánh mì, với phần kịch bản được mua bản quyền từ Hàn Quốc. Bánh mì trong phim là loại bánh được sản xuất trong nhà máy, mang yếu tố hiện đại. Tuy nhiên, đạo diễn Phương Điền cho biết anh chỉ lấy cốt truyện, còn "chuyện làm bánh phải thuần Việt Nam". Để vào vai, diễn viên Cao Minh Đạt cùng một số người khác đã phải đi học làm bánh tại công ty sản xuất bánh chuyên nghiệp, ngoài ra các phân cảnh chế biến cũng được chỉnh sửa phù hợp với nền văn hóa Việt Nam. Ngoài những tác phẩm trên, bánh mì còn góp mặt trong một số bộ phim tài liệu gồm Sandwiches That You Will Like năm 2002 của mạng truyền thông công cộng PBS, chương trình Street Food được phát hành trên nền tảng Netflix, cũng như trong một tập của show truyền hình thực tế It's Supertime.
Âm nhạc
Ở lĩnh vực này, bánh mì đã xuất hiện trong một số tác phẩm gây tiếng vang lớn và trở thành một trào lưu trên mạng xã hội. Ca khúc "Bánh mì không" của Đạt G và Du Uyên phát hành năm 2019 được lấy cảm hứng từ tiếng rao bánh mì trên những con hẻm của Sài Gòn. Do đây là thứ đồ ăn gắn liền với tuổi thơ của Đạt G nên từ lâu anh đã ấp ủ ý định đưa bánh mì vào âm nhạc. Sau khi ra mắt, nhạc phẩm đã gây tiếng vang lớn và được khán giả đón nhận nồng nhiệt.
Trong sự kiện quảng bá bánh mì diễn ra vào năm 2020, Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh cùng nhạc sĩ Nguyễn Hải Phong đã cho ra mắt bài hát "Tôi yêu bánh mì Sài Gòn" nhân dịp kỷ niệm 9 năm từ "banh mi" được đưa vào từ điển Oxford. Ê-kíp sáng tác đã thực hiện bài hát bằng cách kết hợp ngũ âm với giai điệu vè, đàn nhị truyền thống, phối khí trên nền nhạc hiện đại. Năm 2021, tác giả Lương Kim Long đã sáng tác nên ca khúc "Bánh mì Sài Gòn, đặc biệt thương nhau" do giọng ca Phú Hiển thể hiện, với phong cách nhạc pop cùng màu sắc tươi vui và lạc quan. Sau khi phát hành trên mạng xã hội, tác phẩm đã nhận về những lời khen từ cả giới chuyên môn lẫn khán giả.
Vào năm 2023, rapper Phúc Du đã tung ra nhạc phẩm "Yêu anh đi mẹ anh bán bánh mì", trong đó nhân vật chính của bài hát đã mượn lời tỏ tình một cô gái để bày tỏ tình cảm chân thành dành cho mẹ mình. Kể từ khi công bố, bài hát ngay lập tức gây sốt trong cộng đồng mạng và trở thành một trào lưu kéo dài đến tận nửa năm, thu hút sự tham gia của rất nhiều bạn trẻ lẫn nghệ sĩ người Việt.
Hội họa
Bánh mì đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm hội họa của giới trẻ Việt Nam thời hiện đại. Đầu tháng 3 năm 2020, một nhóm nghệ sĩ trẻ đã cùng nhau vẽ bộ tranh với đề tài xoay quanh ổ bánh mì, tập trung vào những biến tấu trải dài khắp ba miền Việt Nam. Trong khoảng thời gian 9 tiếng thực hiện bộ tranh, các họa sĩ đã chọn ra những loại bánh mì quen thuộc nhất với bản thân để giới thiệu đến khán giả. Ngày 24 tháng 3 năm 2020, Google đã tổ chức tôn vinh bánh mì Việt Nam trên trang chủ tìm kiếm ở một số quốc gia – bao gồm Việt Nam, Canada, Úc và Nhật Bản – với hình vẽ Doodle do tác giả Olivia Huỳnh, một hoạ sĩ gốc Việt đang làm việc tại Google thực hiện. Hình vẽ Doodle này dựa trên phiên bản thử nghiệm của một đồng nghiệp cùng nhóm, lấy cảm hứng từ những xe bánh mì khắp phố phường Việt Nam. Khoảng hai tháng sau, món ăn tiếp tục xuất hiện trong một dự án nghệ thuật trực tuyến mang tên More of Something Good, với các tác phẩm do những họa sĩ minh họa đang sinh sống ở Úc thực hiện.
Tháng 8 năm 2021, vào lúc Thành phố Hồ Chí Minh đang nằm trong giai đoạn giãn cách xã hội do những ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 tại Việt Nam, anh Nguyễn Sơn Tùng đã cùng người bạn họa sĩ minh họa sáng tác nên bộ tranh Đói bụng Sài Gòn ơi. Bộ tranh này bao gồm 11 bức vẽ, xoay quanh những món ăn quen thuộc như phở, cơm tấm, bánh mì và hủ tiếu gõ,... Vào tháng 9 năm 2022, họa sĩ Lê Sa Long đã bắt đầu thực hiện một dự án hội họa với nội dung xoay quanh ổ bánh mì, được anh thể hiện theo phong cách pop art. Cũng trong thời điểm đó, một nam thanh niên người Philippines tên Daniel Tingcungco đã công bố bộ sưu tập tranh vẽ về ẩm thực Việt Nam do anh bắt tay minh họa, trong đó không thể thiếu món bánh mì Việt Nam.
Nhiếp ảnh
Vào năm 2021, một bức ảnh với điểm nhấn là ổ bánh mì đặt giữa phông nền của những mái nhà ở phố cổ Hội An đã đạt hơn 16.000 lượt yêu thích trên trang cộng đồng nhiếp ảnh quốc tế National Geographic. Nhiếp ảnh gia Trần Tuấn Việt, chủ nhân của bức ảnh trên, chia sẻ rằng anh đã bắt trọn khoảnh khắc này trong một chuyến đi tới Đà Nẵng và Hội An, thế nhưng đến tận 5 năm sau thì anh mới chọn tác phẩm này để tham gia một thử thách do National Geographic phát động. Bên cạnh đó, một bộ ảnh lấy chủ đề bánh mì do nghệ sĩ Nelly Nguyen thực hiện đã gây tranh cãi dữ dội vì cách thể hiện bị cho là quá phản cảm.
Sự kiện
Năm 2011, thuật ngữ "banh mi" đã được công nhận trong Từ điển tiếng Anh Oxford kèm theo ghi chú "Là loại sandwich của Việt Nam gồm một chiếc bánh mì (theo truyền thống được nướng bằng cả bột gạo lẫn bột mì) với nhiều loại nguyên liệu khác nhau, thường là thịt, rau ngâm và ớt." Hơn mười năm sau, món bánh tiếp tục xuất hiện trong từ điển của Merriam-Webster với định nghĩa là một loại sandwich thường có vị cay trong ẩm thực Việt Nam. Cùng với đó, nó còn góp mặt trong những từ điển khác như Từ điển tiếng Anh Collins hoặc Từ điển Di sản Hoa Kỳ về Ngôn ngữ Anh.
Tháng 5 năm 2018, giải thưởng James Beard được tổ chức và tiệm bánh Đông Phương đã giành chiến thắng ở hạng mục "James Beard Foundation America's Classics". Trong khuôn khổ Miss Universe của cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ thế giới 2018 tại Thái Lan, H'Hen Niê đã mặc một chiếc váy có hình giỏ bánh mì, qua đó thu hút được nhiều sự chú ý ở cả trong lẫn ngoài nước. Ý tưởng cho mẫu váy này đến với nhà thiết kế Phạm Phước Điền khá bất ngờ, giữa lúc anh đang cạn ý tưởng. Anh kể "Trong một buổi đi làm về, tôi thấy hình ảnh người nước ngoài đứng xếp hàng mua bánh mì và thưởng thức trong sự vui vẻ, hạnh phúc. Thế là tôi đặt bút vẽ với quyết tâm quảng bá văn hóa ẩm thực của Việt Nam ra thế giới".
Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đã phối hợp với Hiệp hội Văn hóa Ẩm thực Việt Nam nhằm tổ chức các hoạt động kỷ niệm, tôn vinh, giới thiệu rộng rãi hơn đến bạn bè và du khách quốc tế về nét đặc sắc của bánh mì Việt Nam thông qua tuần lễ "Tôi yêu Bánh mì Sài Gòn", bắt đầu diễn ra từ ngày 24 đến 31 tháng 3 năm 2020. Đây là chương trình nằm trong chuỗi hoạt động về chiến dịch truyền thông "Du lịch ẩm thực" Thành phố Hồ Chí Minh - Giai đoạn 1 mang tên "Bánh mì Sài Gòn." Tuần lễ này đã nhận được sự tham gia, hưởng ứng của rất nhiều doanh nghiệp du lịch, thương hiệu bánh mì, doanh nhân cũng như các văn nghệ sĩ. Vào ngày 25 tháng 2 năm 2020, trong khi cách ly 20 người Hàn Quốc tại Việt Nam để phòng bệnh virus corona 2019, khu cách ly đã cung cấp cho họ món bánh mì thịt và bỗng chốc món ăn này trở thành tâm điểm chú ý một lần nữa bởi vì thái độ của người ăn. Ngày 24 tháng 3 cùng năm, Google Doodle đã tổ chức tôn vinh bánh mì Việt Nam giữa đại dịch COVID-19 trên trang chủ ở nhiều quốc gia, ngoài ra đây cũng là thời điểm mà bánh mì được đưa vào từ điển Oxford 9 năm về trước.
Vào tháng 10 năm 2022, nhiều hiệp hội, trường đại học và công ty đã bắt tay thực hiện một hội thảo khoa học mang tên "Hành trình bánh mì Việt Nam: Từ giao thoa văn hóa ẩm thực đến giá trị thương hiệu quốc gia", với mục đích góp phần quảng bá văn hóa bản địa cũng như thúc đẩy kích cầu du lịch Thành phố Hồ Chí Minh. Hội thảo quy tụ sự tham gia của hơn 1.000 người, từ những đầu bếp nổi tiếng trên thế giới cho đến đội ngũ chuyên gia ẩm thực trong và ngoài nước, cùng các giảng viên và sinh viên của nhiều trường đại học khác nhau. Tại đây, các khách mời trình bày tham luận theo 4 chủ đề khác nhau, từ lịch sử hình thành món ăn cho đến sức hấp dẫn của bánh mì Việt với thế giới.
Năm 2023, Hiệp hội Du lịch và Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ hội bánh mì Việt Nam lần thứ nhất, diễn ra từ ngày 30 tháng 3 đến hết ngày 2 tháng 4 và quy tụ 120 gian hàng của các đơn vị nhà hàng, tiệm bánh cũng như nhà cung cấp hàng đầu tại thành phố. Ngoài bánh mì truyền thống, các loại bánh mì que, bánh mì Pháp hoặc những biến tấu theo nhiều phong cách khác nhau cũng được giới thiệu tại đây. Trong buổi tổng kết, người ta ghi nhận rằng lượng khách tham dự lễ hội đã chạm mốc 100.000 người, vượt xa kỳ vọng của ban tổ chức. Bên cạnh đó, bà Nguyễn Thị Khánh – Chủ tịch Hiệp hội Du lịch TP.HCM – cũng chính thức công bố đề xuất việc lấy ngày 24 tháng 3 làm "Ngày bánh mì Việt Nam".
Tháng 8 năm 2023, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã công nhận mô hình tháp bánh mì trưng bày tại Lễ hội ẩm thực Festival biển Nha Trang là "Mô hình thác bánh mì lớn nhất Việt Nam". Tác phẩm được tạo thành từ hơn 800 ổ bánh mì đặc ruột với kích thước từ 10–60 cm, qua đó giúp nó đạt chiều cao 3,2 m và chiều dài 6 m. Vào cuối tháng 9 cùng năm, đội ngũ đầu bếp và thợ bánh của công ty TNHH liên doanh SAF–Việt đã cho ra lò ổ bánh mì khổng lồ với chiều dài gần 1,7 m, rộng hơn 0,5 m, cao 0,3 m và đạt cân nặng đến 11 kg, được công nhận là ổ bánh mì lớn nhất từng được thực hiện.
Tham khảo
Chủ đề trong văn hóa đại chúng
|
19855620
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam%20v%C6%B0%C6%A1ng%20Th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%202024
|
Nam vương Thế giới 2024
|
Nam vương Thế giới 2024 là cuộc thi Nam vương Thế giới lần thứ 11. Cuộc thi sẽ diễn ra vào tháng 9 năm 2024 tại Việt Nam. Nam vương Thế giới 2019 - Jack Heslewood đến từ Anh sẽ trao lại danh hiệu cho người kế nhiệm vào cuối đêm chung kết.
Thông tin cuộc thi
Kết quả
Thứ hạng
Thí sinh tham gia
21 thí sinh xác nhận sẽ tham gia cuộc thi:
Các cuộc thi quốc gia
Chú ý
Trở lại
Lần cuối tham gia vào năm 2012:
Tham khảo
Cuộc thi sắc đẹp năm 2024
|
19855633
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A3i%20su%E1%BA%A5t%20qua%20%C4%91%C3%AAm
|
Lãi suất qua đêm
|
Lãi suất qua đêm (Overnight rate) nói chung là lãi suất mà ngân hàng lớn sử dụng để vay và cho vay lẫn nhau trong thị trường qua đêm. Lãi suất qua đêm hay còn gọi lãi suất liên ngân hàng qua đêm là mức lãi suất mà các tổ chức tín dụng sẵn sàng trả cho các khoản vay ngắn hạn trong thời gian từ hôm nay đến ngày mai. Lãi suất qua đêm là một thước đo quan trọng để đo lường mức độ thanh khoản của thị trường tài chính và tính linh hoạt của các tổ chức tài chính. Ở một số quốc gia (ví dụ: Hoa Kỳ), lãi suất qua đêm có thể là lãi suất mà ngân hàng trung ương nhắm tới để tác động đến chính sách tiền tệ. Ở hầu hết các quốc gia, ngân hàng trung ương cũng là người tham gia thị trường cho vay qua đêm và sẽ cho một số nhóm ngân hàng cho vay hoặc vay tiền. Bằng cách điều chỉnh lãi suất qua đêm, ngân hàng trung ương có thể tác động đến việc vay và cho vay của các tổ chức tín dụng. Khi ngân hàng tăng lãi suất qua đêm, tổ chức tín dụng sẽ phải trả nhiều hơn để vay vốn, điều này có thể làm giảm đầu tư và tiêu dùng, từ đó kiềm chế lạm phát hoặc khi giảm lãi suất qua đêm, ngân hàng khuyến khích việc vay vốn và đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Có thể có lãi suất qua đêm được công bố thể hiện mức trung bình của lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay; một số loại hoạt động qua đêm có thể được giới hạn ở các ngân hàng đủ điều kiện. Tên chính xác của lãi suất qua đêm sẽ khác nhau tùy theo từng quốc gia.
Đại cương
Trong suốt một ngày, các ngân hàng sẽ chuyển tiền cho nhau, cho ngân hàng nước ngoài, cho khách hàng lớn và các đối tác khác thay mặt cho khách hàng hoặc trên tài khoản của chính họ. Vào cuối mỗi ngày làm việc, ngân hàng có thể thừa hoặc thiếu vốn (hoặc thiếu hoặc dự trữ vượt mức trong ngân hàng dự trữ phân đoạn). Các ngân hàng có tiền thặng dư hoặc dự trữ vượt mức có thể cho vay (thường bằng bội số tỷ lệ dự trữ hợp pháp, nếu có) hoặc gửi chúng vào các ngân hàng khác, những người vay từ họ. Lãi suất qua đêm là số tiền phải trả cho ngân hàng cho vay. Các ngân hàng cũng sẽ chọn vay hoặc cho vay trong thời gian dài hơn, tùy thuộc vào nhu cầu dự kiến và cơ hội sử dụng tiền ở nơi khác. Hầu hết ngân hàng trung ương sẽ công bố lãi suất qua đêm mỗi tháng một lần. Ví dụ: ở Canada, Ngân hàng Canada đặt băng thông mục tiêu cho lãi suất qua đêm mỗi tháng là +/- 0,25% xung quanh lãi suất qua đêm mục tiêu của mình. Ngân hàng Canada không can thiệp vào thị trường qua đêm miễn là lãi suất qua đêm vẫn nằm trong phạm vi mục tiêu, nhưng Ngân hàng sẽ sử dụng dự trữ của mình để cho vay hoặc vay trên thị trường qua đêm để đảm bảo rằng lãi suất qua đêm nằm trong phạm vi đã công bố.
Lãi suất qua đêm là thước đo tính thanh khoản hiện hành trong nền kinh tế. Lãi suất qua đêm thường được sử dụng để kiểm soát dòng tiền trong nền kinh tế và đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Nó có thể được điều chỉnh bởi ngân hàng trung ương để ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức tín dụng và sự mua bán tiền tệ trên thị trường. Trong điều kiện thanh khoản thắt chặt, lãi suất qua đêm tăng vọt. Lãi suất qua đêm cũng có thể tăng vọt do sự thiếu niềm tin giữa các ngân hàng, như đã thấy trong cuộc khủng hoảng thanh khoản năm 2008. Để đo lường tình hình thanh khoản, sự chênh lệch giữa lãi suất phi rủi ro và lãi suất qua đêm được xem xét. TED spread là một chỉ báo thanh khoản của Hoa Kỳ, là sự khác biệt giữa LIBOR và tín phiếu Kho bạc. Lãi suất qua đêm thường được ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau như tình hình kinh tế, lạm phát, chính sách tiền tệ, cung và cầu vốn, và tình hình tài chính toàn cầu. Ngân hàng trung ương thường có vai trò quan trọng trong việc xác định lãi suất qua đêm, bằng cách điều chỉnh lãi suất căn cứ để ổn định nền kinh tế và kiểm soát lạm phát. các công dụng của lãi suất qua đêm đối với nền kinh tế có thể kể đến như:
Kiểm soát lạm phát: Lãi suất qua đêm được sử dụng như một công cụ để kiềm chế sự gia tăng của giá cả và duy trì ổn định kinh tế. Lãi suất qua đêm đóng vai trò quan trọng trong chính sách tiền tệ của một quốc gia. Ngân hàng trung ương thường sử dụng lãi suất qua đêm để kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế và ổn định tài chính.
Thúc đẩy đầu tư: Mức lãi suất qua đêm thấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc vay vốn và đầu tư vào các dự án phát triển, sản xuất và kinh doanh.
Hỗ trợ hoạt động ngân hàng: Lãi suất qua đêm ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của ngân hàng, tạo điều kiện cho hoạt động vay vốn và kinh doanh của ngân hàng.
Định hình chính sách tiền tệ: Lãi suất qua đêm có mối quan hệ mật thiết với chính sách tiền tệ của một quốc gia, giúp ngân hàng trung ương điều chỉnh tín dụng và kiểm soát tài chính. Lãi suất qua đêm đóng vai trò quan trọng trong quyết định vay và cho vay của các ngân hàng. Khi lãi suất qua đêm tăng, ngân hàng sẽ đặt ra mức lãi suất cao hơn cho vay tiền, làm gia tăng chi phí vay vốn của cá nhân và doanh nghiệp ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính và đầu tư của các bên liên quan.
Bảo vệ giá trị tiền tệ: Lãi suất qua đêm đóng vai trò trong việc bảo vệ giá trị tiền tệ khỏi sự mất giá và duy trì sức mua của người dân.
Thúc đẩy sự phát triển kinh tế: Lãi suất qua đêm ảnh hưởng đến việc mở rộng sản xuất, tạo việc làm và đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
Giao dịch ngắn hạn: Lãi suất qua đêm cung cấp cơ hội cho các tổ chức tín dụng vay và cho vay ngắn hạn, tạo sự linh hoạt và thanh khoản trong thị trường tài chính.
Lãi suất qua đêm chỉ thường được nhắc đến trong giao dịch giữa các ngân hàng thương mại với nhau nhưng người dân và doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền qua đêm và các ngân hàng đang tìm mọi cách để vét từng đồng vào hệ thống ngân hàng. Gửi tiết kiệm qua đêm là hình thức gửi tiết kiệm ngắn hạn trong vòng 24 giờ của khách hàng cá nhân thông qua tiền gửi cá nhân và tiền gửi tiết kiệm, có tính thanh khoản cao, giúp khách hàng quản lý dòng vốn hiệu quả. Khách hàng có thể gửi tiền nhiều lần bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản và được hưởng lãi sau 24 giờ tính từ thời điểm khách gửi. Phương thức gửi tiền tiết kiệm qua đêm đơn giản và được các ngân hàng hỗ trợ như gửi tiền tiền mặt, chuyển khoản và được gửi nhiều lần. Tiền của khách hàng sẽ được hưởng lại sau 24 giờ tính từ thời điểm khách hàng gửi với mức lãi suất cạnh tranh giữa các ngân hàng. Phần tiền lời sẽ được nhập vào vốn gốc và sẽ tự động tái tục kỳ hạn cũ với mức lãi suất ban đầu. Sản phẩm gửi tiết kiệm qua đêm mang lại cho các ngân hàng lợi ích, các ngân hàng lớn có thể sử dụng nguồn vốn này và sử dụng nó thành tiền vốn vay cho thị trường với mức lãi suất cao hơn, với những ngân hàng nhỏ đây là cơ hội giúp giảm áp lực thanh khoản, có thêm nguồn tiền để luân chuyển linh động hơn mỗi ngày.
Chú thích
Tín dụng
Lãi suất
|
19855645
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A1n%20m%E1%BB%A9c%20t%C3%ADn%20d%E1%BB%A5ng
|
Hạn mức tín dụng
|
Hạn mức tín dụng (Line of credit/Credit limit/Room) là một tiện ích tín dụng được ngân hàng hoặc tổ chức tài chính khác mở ra cho khách hàng là chính phủ, doanh nghiệp hoặc cá nhân cho phép khách hàng rút tiền tại tổ chức tín dụng khi khách hàng cần tiền. Một tổ chức tài chính cung cấp một khoản tín dụng cho doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng trong một khoảng thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng hay giới hạn tín dụng là số tiền tối đa của khoản tín dụng mà tổ chức tài chính hoặc người cho vay khác sẽ cấp cho con nợ đối với một giới hạn mức tín dụng cụ thể (đôi khi được gọi là giới hạn tín dụng, hạn mức rút tiền hoặc hạn mức thương mại). Ngân hàng hoặc tổ chức tài chính thường sẽ tính phí cho việc thiết lập hạn mức tín dụng. Lệ phí thường bao gồm chi phí xử lý đơn đăng ký, thực hiện kiểm tra bảo mật, phí pháp lý, sắp xếp tài sản thế chấp, đăng ký.
Hạn mức tín dụng là số tiền tối đa mà ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng cho phép người dùng chi tiêu trên thẻ tín dụng, số tiền này có thể được xác định dựa trên nhiều yếu tố như thu nhập, điểm tín dụng, lịch sử tín dụng và hồ sơ tài chính cá nhân của người đăng ký thẻ. Hạn mức tín dụng có thể được điều chỉnh theo yêu cầu và thỏa thuận giữa người dùng và nhà cung cấp thẻ. Ở góc độ quản lý ngân hàng thì hạn mức tín dụng hay còn gọi là room tín dụng là việc ngân hàng Trung ương phân bổ tổng hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại và còn giao hạn mức tín dụng cụ thể cho từng ngân hàng thương mại căn cứ vào các tiêu chí về quá trình hoạt động, khả năng quản trị ngân hàng và kiểm soát rủi ro, đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động. Hạn mức tín dụng là một công cụ để thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, nhằm hạn chế mức dư nợ tín dụng tối đa đến với nền kinh tế của tổ chức tín dụng. Về bản chất là công cụ hành chính, trực tiếp can thiệp vào thị trường tín dụng ngân hàng nên cần loại bỏ một khi điều kiện thị trường cho phép.
Đại cương
Hạn mức tín dụng có nhiều hình thức, chẳng hạn như giới hạn thấu chi, nhu cầu vay, mục đích đặc biệt, xuất khẩu tín dụng cả gói, cho vay có kỳ hạn, chiết khấu, mua hóa đơn thương mại, cho vay tuần hoàn kiểu truyền thống qua thẻ tín dụng, là một nguồn tiền có thể dễ dàng rút ra theo ý muốn của người đi vay. Lãi suất chỉ được trả trên số tiền thực sự được rút ra. Hạn mức tín dụng có thể được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc có thể không có tài sản bảo đảm (vay tín chấp). Hạn mức tín dụng thường được các ngân hàng, tổ chức tài chính và các tổ chức cho vay tiêu dùng được cấp phép khác mở rộng cho những khách hàng đáng tin cậy (mặc dù một số hạn mức tín dụng dành cho mục đích đặc biệt có thể không có yêu cầu về mức độ tín nhiệm) để giải quyết các nhu cầu dòng tiền biến động của khách hàng. Số tiền tối đa mà khách hàng được phép rút từ hạn mức tín dụng thường được gọi là giới hạn tín dụng/hạn mức rút tiền hoặc thấu chi. Thuật ngữ hạn mức tín dụng thường được sử dụng cho thẻ tín dụng trong khi thuật ngữ thấu chi được sử dụng phổ biến hơn cho tài khoản ngân hàng.
Ở góc độ chi tiêu, giao dịch cá nhân, khi mở thẻ tín dụng, ngân hàng sẽ cấp cho chủ thẻ một hạn mức nhất định. Hạn mức thẻ tín dụng là số tiền tối đa ngân hàng cung cấp để khách hàng chi tiêu mua sắm và thanh toán cho các nhu cầu cá nhân. Mỗi ngân hàng phát hành thẻ sẽ có hạn mức tín dụng tối thiểu và hạn mức tôi đa. Số tiền này khác nhau cho từng loại thẻ phát hành. Trong cùng một sản phẩm thẻ, hạn mức tín dụng của mỗi người cũng khác nhau. khi cấp hạn mức thẻ tín dụng, ngân hàng sẽ dựa vào một số yếu tố như thu nhập cá nhân là yếu tố quan trọng quyết định đến hạn mức thẻ tín dụng, khi thu nhập càng cao và ổn định thì hạn mức tín dụng được phê duyệt càng cao, khi xét duyệt hồ sơ đăng ký tín dụng, ngân hàng sẽ kiểm tra các thông tin lịch sử tín dụng giúp ngân hàng đánh giá khả năng thanh toán dư nợ tín dụng. Hạn mức tín dụng được ngân hàng quyết định dựa trên uy tín cá nhân của khách hàng. Các yếu tố thường được ngân hàng lấy làm cơ sở để xem xét hạn mức thẻ tín dụng như chức vụ, nghề nghiệp, trình độ, cư trú, khả năng thanh toán của mỗi chủ thẻ, thói quen tiêu dùng, lịch sử trả nợ trong quá khứ của chủ thẻ và nhiều thông tin khác.
Ở góc độ kiểm soát tín dụng ngân hàng, ở Việt Nam thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quy định về phương thức cho vay theo hạn mức. Theo đó, tổ chức tín dụng xác định và thỏa thuận với khách hàng một mức dư nợ cho vay tối đa được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Trong hạn mức cho vay, tổ chức tín dụng thực hiện cho vay từng lần. Một năm ít nhất một lần, tổ chức tín dụng xem xét xác định lại mức dư nợ cho vay tối đa và thời gian duy trì mức dư nợ này. Ngoài ra, còn phương thức là tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi mức cho vay dự phòng đã thỏa thuận. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức cho vay dự phòng nhưng không vượt quá 01 năm. Ngân hàng Nhà nước giao toàn bộ hạn mức tín dụng cho các nhà băng ngay đầu năm với định hướng tăng trưởng cả hệ thống năm (phân bổ hạn mức tín dụng) dựa trên diễn biến thực tế, nhà điều hành cấp chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng và chủ động điều chỉnh hạn mức (room) cho từng nhà băng, mà không yêu cầu họ phải gửi đề nghị cấp thêm.
Các ý kiến phân tích cho rằng cơ chế giao hạn mức tăng trưởng tín dụng ngay từ đầu năm sẽ giúp các ngân hàng chủ động kế hoạch huy động vốn và cho vay, nhưng về bản chất vẫn là cơ chế xin-cho, dễ phát sinh rủi ro đạo đức, dễ phát sinh tiêu cực. Chỉ nên xem cơ chế này là biện pháp tạm thời, ngắn hạn, cần minh bạch thông tin về tiêu chí định lượng cấp hạn mức tín dụng, công khai toàn hệ thống ngân hàng. Cần tính đến lộ trình xóa bỏ cơ chế này để thúc đẩy tính hiệu quả của thị trường tín dụng. Nếu quốc gia nào tự tin thiết lập được cơ chế quản lý các thị trường hiệu quả, thì không cần thiết sử dụng đến công cụ mang tính mệnh lệnh hành chính như cấp hạn mức tín dụng cho các ngân hàng và hạn mức tín dụng cần phải được xóa bỏ để thị trường tín dụng ngân hàng vận hành theo đúng cơ chế và quy luật thị trường. Khi chưa có biện pháp căn cơ để hạn chế hoạt động đầu cơ, thì việc đặt ra hạn mức tín dụng cho vay của các ngân hàng là cần thiết. Nhờ cơ chế này, đảm bảo các thị trường bị đầu cơ tấn công có những điểm dừng nhất định, không tạo ra những hậu quả lớn đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, quy định cấp mức tín dụng sẽ tạo ra cơ chế xin-cho vì ngân hàng thương mại muốn có lợi nhuận thì phải có được hạn mức cho vay lớn, muốn tăng mức cho vay thì càng phải xin Ngân hàng Nhà nước cấp thêm hạn mức sẽ càng tốn thêm chi phí giao dịch của ngân hàng từ đó đẩy lãi suất cho vay lên cao.
Chú thích
Tín dụng
|
19855646
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%87n%20ph%C3%A1p%20b%E1%BA%A3o%20%C4%91%E1%BA%A3m
|
Biện pháp bảo đảm
|
Biện pháp bảo đảm (Security interest) là quyền hợp pháp của chủ nợ đối với con nợ để thực hiện các biện pháp trong việc xử lý tài sản của con nợ đã thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ (thường được gọi là tài sản thế chấp/Tài sản đảm bảo)) cho phép chủ nợ có quyền truy đòi tài sản nếu con nợ khi vi phạm nghĩa vụ trong việc thanh toán hoặc thực hiện các nghĩa vụ được bảo đảm. Một trong những ví dụ phổ biến nhất về biện pháp bảo đảm là thế chấp, ví dụ như một người vay tiền ngân hàng để mua một căn nhà và họ thế chấp căn nhà đó để nếu họ không trả được khoản vay, ngân hàng có thể bán căn nhà và sử dụng số tiền thu được để cấn trừ vào khoản nợ. hoặc trong chứng khoán là hoạt động giao dịch ký quỹ. Mặc dù hầu hết các biện pháp bảo đảm được tạo ra theo thỏa thuận giữa các bên (thông qua hình thức hợp đồng, thỏa thuật thế chấp tài sản), nhưng cũng có thể phát sinh biện pháp bảo đảm thông qua các quy định pháp luật.
Đại cương
Hầu hết các biện pháp bảo đảm được người sở hữu tài sản trao cho chủ nợ để đảm bảo khoản nợ của chính họ. Nhưng một người cũng có thể dùng tài sản của mình để thế chấp, bảo đảm cho khoản nợ của người khác (thường được gọi là bảo đảm của bên thứ ba) hay còn gọi là bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba được công nhận rộng rãi trong các nền pháp luật tiên tiến như Anh, Pháp hay Úc. Biện pháp bảo đảm là những cách thức, giải pháp nhằm hỗ trợ, khẳng định, bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng, thỏa thuận một cách chắc chắn. Biện pháp bảo đảm đi liền, không tách rời với nghĩa vụ chính trong hợp đồng, giao dịch chính. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đẩy đủ các nghĩa vụ đã cam kết, thì bên có quyền có thể áp dụng biện pháp bảo đảm đã thỏa thuận hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng để buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết nhằm bảo đảm quyền lợi cho mình.
Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, nếu không có thỏa thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại. Trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Bộ luật Dân sự năm 2015 của Việt Nam có quy định 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự tại Điều 292 bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, tín chấp và cầm giữ tài sản. Bên bảo đảm bao gồm bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký cược, bên ký quỹ, bên mua trong hợp đồng mua bán tài sản có bảo lưu quyền sở hữu, bên bảo lãnh, trong trường hợp tín chấp, bên có nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ đối với biện pháp cầm giữ.
Chú thích
Tham khảo
Tín dụng
|
19855647
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022
|
Bóng nước tại Đại hội Thể thao châu Á 2022
|
Bóng nước tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức tại Trung tâm thể thao Hoàng Long, Hàng Châu, Trung Quốc từ ngày 25 tháng 9 đến 7 tháng 10. Chín quốc gia với tám đội nam và bảy đội nữ tham gia giải đấu.
Lịch thi đấu
Bảng tổng sắp huy chương
Danh sách huy chương
Quốc gia tham dự
Nam
Bảng A
Bảng B
Nữ
Bảng xếp hạng cuối cùng
Nam
Nữ
Tham khảo
Môn thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022
2022
Đại hội Thể thao châu Á
Đại hội Thể thao châu Á 2022
|
19855652
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cruz%20Grande
|
Cruz Grande
|
Cruz Grande là thành phố thủ phủ khu đô thị tự trị Florencio Villarreal, bang Guerrero, tây nam México.
Tham khảo
Tọa độ trên Wikidata
|
19855655
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/The%20A.V.%20Club
|
The A.V. Club
|
The A.V. Club là một trang web báo chí và giải trí trực tuyến có các bài đánh giá, phỏng vấn và các bài viết khác đề cập đến lĩnh vực điện ảnh, âm nhạc, truyền hình, sách, trò chơi và các yếu tố khác của phương tiện truyền thông văn hóa đại chúng. The A.V. Club được thành lập vào năm 1993 dưới vai trò một chuyên trang bổ sung cho ấn phẩm châm biếm The Onion. Dù The A.V. Club là một phần mới được xuất hiện trong sự kiện ra mắt trang web của The Onion năm 1996, mục này lại không có phần hiển thị đáng kể trên trang web vào thời điểm đó.
Năm 2005, trang web này được thiết kế lại và đặt The A.V. Club ở vị trí nổi bật hơn. Không giống như The Onion, The A.V. Club và các trang web khác thuộc sở hữu của G/O Media lại không mang tính châm biếm. Tên của ấn phẩm ám chỉ đến các câu lạc bộ nghe nhìn (AV) tiêu biểu của các trường trung học Mỹ.
Lịch sử
Năm 1993, năm năm sau khi thành lập The Onion, Stephen Thompson, sinh viên Đại học Wisconsin–Madison, đã cho ra mắt mục giải trí trên tờ báo này. "A.V. Club" là "câu lạc bộ nghe nhìn". Ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 20, nhiều trường trung học có câu lạc bộ dành cho học sinh muốn sử dụng và tìm hiểu về loa, máy chiếu cũng như các thiết bị âm thanh và video đời đầu khác. Năm 1996, cả The Onion và The A.V. Club được ra mắt trên Internet. The A.V. Club ban đầu là một phần phụ của tên miền theonion.com.
Mục bổ sung này sau đó được chuyển sang tên miền riêng là theavclub.com, trước khi được mua lại tên miền avclub.com ngắn hơn vào năm 2005. Thay đổi thứ hai trùng hợp với việc thiết kế lại kết hợp với những góp ý của người đọc và nội dung blog. Năm 2006, trang web lại chuyển đổi mô hình nội dung của mình để thêm các nội dung định kỳ hàng ngày thay vì hàng tuần. Một số cộng tác viên đã trở thành cây viết chính và biên tập viên tự do của chuyên trang. Tháng 12 năm 2004, Stephen Thompson rời vị trí biên tập viên sáng lập của The A.V. Club.
Theo Sean Mills, chủ tịch lúc bấy giờ của The Onion, trang web của The A.V. Club đạt mốc hơn 1 triệu lượt người truy cập vào tháng 10 năm 2007. Vào cuối năm 2009, trang web này được cho là đã nhận được hơn 1,4 triệu lượt người truy cập và 75.000 bình luận mỗi tháng. Vào thời kỳ đỉnh cao, bản in của tờ The A.V. Club đã được bày bán ở 17 thành phố khác nhau. Các nội dung mang tính bản địa hóa của trang web cũng được duy trì, với các bài đánh giá và tin tức liên quan đến các thành phố cụ thể. Phiên bản in và bản web bản địa hóa dần bị ngừng phát triển và vào tháng 12 năm 2013, ấn phẩm in đã ngừng sản xuất ở ba thị trường cuối cùng.
Ấn phẩm
Giải thưởng
năm 2017, The A.V. Club thắng Giải Eisner cho Tạp chí định kỳ/Báo chí liên quan đến truyện tranh xuất sắc nhất (dành cho tác phẩm xuất bản năm 2016). Giải thưởng thuộc về các cây viết Oliver Sava, Caitlin Rosberg, Shea Hennum và Tegan O'Neil. Giải thưởng cũng thuộc về biên tập viên Caitlin PenzeyMoog.
Danh sách cuối năm và cuối thập kỷ của A.V. Club
Bắt đầu từ năm 1999, chỉ có danh sách do cá nhân tác giả viết mới được xuất bản. Bắt đầu từ năm 2006, The A.V. Club bắt đầu xuất bản các bảng xếp hạng album và phim cuối năm trên trang web, cùng với các danh sách do cá nhân các cây viết chấp bút. Ngoài ra, danh sách cuối thập kỷ đã được xuất bản cho những năm 2000 và 2010. Bảng xếp hạng hàng năm cho truyền hình bắt đầu vào năm 2010.
Album của năm
Phim điện ảnh của năm
Chương trình truyền hình của năm
Tham khảo
Liên kết ngoài
A.V. Club
Truyền thông đại chúng Chicago
|
19855657
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m%20Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20Giang
|
Phạm Trường Giang
|
Phạm Trường Giang, sinh năm 1968, là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam, cấp bậc hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương, Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Kế hoạch và tài chính, Bộ Công an (Việt Nam).
Sự nghiệp
Thiếu tướng Phạm Trường Giang sinh năm 1968, quê quán huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Trước khi được điều động, luân chuyển, bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Công an tỉnh Phú Thọ, ông Giang là Phó Giám đốc Công an tỉnh Hải Dương.
Ngày 18 tháng 4 năm 2023, tại Hà Nội, Bộ Công an tổ chức lễ công bố Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an về công tác cán bộ đối với Đại tá Phạm Trường Giang, Giám đốc Công an tỉnh Phú Thọ.
Theo đó, Đại tá Phạm Trường Giang, Giám đốc Công an tỉnh Phú Thọ đến nhận công tác, giữ chức vụ Cục trưởng Cục Kế hoạch và tài chính, kể từ ngày 1 tháng 5 năm 2023
Tháng 7 năm 2023, Ông được Chủ tịch nước Thăng cấp bậc hàm Thiếu tướng.
Lịch sử thụ phong cấp bậc hàm
Tham khảo
|
19855658
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i%20M%C3%B9a%20h%C3%A8%201996%20%E2%80%93%20V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Nam%20khu%20v%E1%BB%B1c%20ch%C3%A2u%20%C3%81
|
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 1996 – Vòng loại Nam khu vực châu Á
|
Vòng loại bóng đá nam Thế vận hội Mùa hè 1996 khu vực châu Á là giải đấu vòng loại của Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) cho giải bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 1996 ở Atlanta, Hoa Kỳ. Hai mươi lăm đội tuyển Olympic nam của châu Á đã thạm dự vòng loại để cạnh tranh cho ba suất thi đấu chính thức được phân bổ tại vòng chung kết Thế vận hội. Quá trình vòng loại bắt đầu từ ngày 20 tháng 5 năm 1995 và kết thúc vào ngày 27 tháng 3 năm 1996.
Hàn Quốc, Nhật Bản và Ả Rập Xê Út là ba đội tuyển đã giành chiến thắng ở vòng cuối cùng và đủ điều kiện tham dự Thế vận hội.
Thể thức thi đấu
Cấu trúc vòng loại như sau:
Vòng 1: 25 đội tuyển được chia thành 8 bảng, gồm một bảng bốn đội và bảy bảng ba đội. Trong mỗi bảng các đội sẽ thi đấu vòng tròn hai lượt tính điểm trên sân nhà và sân khách. Đội đứng đầu mỗi bảng đấu tiến vào vòng thứ hai.
Vòng 2: 8 đội tuyển vượt qua vòng một được chia thành hai bảng, mỗi bảng bốn đội; trong mỗi bảng các đội sẽ thi đấu vòng tròn một lượt. Hai đội đứng đầu mỗi bảng sẽ giành quyền vào vòng bán kết, nơi các đội sau đó sẽ tiến hành đấu loại trực tiếp cho đến trận đấu cuối cùng. Ba đội xếp hạng cao nhất sẽ giành quyền tham dự Thế vận hội Mùa hè.
Vòng 1
Tám đội đứng đầu ở tám bảng đấu lọt vào vòng kế tiếp.
Bốc thăm
Lễ bốc thăm cho vòng 1 được tổ chức vào ngày 23 tháng 11 năm 1994 tại trụ sở FIFA ở Zurich, Thụy Sĩ. 25 đội tuyển được chia thành hai khu vực: khu vực phía Đông với các bảng A-C, và khu vực phía Tây cho các bảng D-H.
Các bảng đấu
Bảng 1
Các trận đấu của bảng 1 diễn ra từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 29 tháng 7 năm 1995.
Bảng 2
Các rận đấu của bảng 2 diễn ra tại Suphanburi, Thái Lan từ ngày 26 tháng 5 đến ngày 30 tháng 5 năm 1995, và tại Nagoya, Nhật Bản từ ngày 8 tháng 6 đến ngày 14 tháng 6 năm 1995.
Bảng 3
Các trận đấu của bảng 3 diễn ra từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 26 tháng 8 năm 1995.
Bảng 4
Các trận đấu của bảng 4 diễn ra từ ngày 7 tháng 10 đến ngày 29 tháng 10 năm 1995.
Bảng 5
Các trận đấu của bảng 5 diễn ra từ ngày 20 tháng 5 đến ngày 7 tháng 10 năm 1995.
Bảng 6
Các trận đấu của bảng 6 diễn ra từ ngày 24 tháng 8 đến ngày 28 tháng 9 năm 1995.
Bảng 7
Các trận đấu của bảng 7 diễn ra từ ngày 13 tháng 9 đến ngày 22 tháng 10 năm 1995.
Bảng 8
Các trận đấu của bảng 8 diễn ra từ ngày 15 tháng 9 đến ngày 20 tháng 10 năm 1995.
Vòng 2
Tất cả các trận đấu của vòng 2 diễn ra tại Malaysia từ ngày 16 đến ngày 27 tháng 3 năm 1996. Tám đội tuyển từ vòng loại thứ nhất sẽ thi đấu trong một giải đấu đầy đủ thu nhỏ với giai đoạn vòng bảng và giai đoạn loại trực tiếp. Ba trong số bốn đội lọt vào bán kết sẽ đủ điều kiện tham dự Thế vận hội Mùa hè tại Atlanta, Hoa Kỳ.
Bốc thăm
Lễ bốc thăm cho vòng 2 được tổ chức tại trụ sở FIFA ở Zurich, Thụy Sĩ vào ngày 23 tháng 11 năm 1994, cùng ngày diễn ra lễ bốc thăm của vòng đầu tiên. Kết quả bốc thăm ban đầu được xác định như sau.
Vì lễ bốc thăm được tiến hành trước khi vòng thứ nhất bắt đầu nên các đội được đi tiếp vào vòng trong chưa được xác định tại thời điểm. Sau đó vào ngày 5 tháng 1 năm 1996, Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) đã tổ chức một buổi lễ bốc thăm riêng tại Kuala Lumpur, Malaysia để xác nhận lịch thi đấu của các trận vòng loại cuối cùng. Kết quả bốc thăm đã được xác định như sau.
Vòng bảng
Bảng A
Bảng B
Vòng đấu loại trực tiếp
Trong trận tranh hạng ba, nếu không xác định được đội thắng trong 90 phút của cả hai hiệp đấu, sẽ tiến hành thi đấu tiếp 30 phút hai hiệp phụ (có áp dụng luật bàn thắng vàng) để chọn ra đội thắng giành vé tới vòng chung kết Thế vận hội. Nếu hai đội vẫn hòa nhau trong hiệp phụ, loạt sút luân lưu sẽ được sử dụng để xác định đội thắng.
Trong trận chung kết, nếu tỷ số hòa sau thời gian thi đấu chính thức, cả hai đội sẽ được tuyên bố là đội chiến thắng chung cuộc mà không cần đến hiệp phụ hoặc loạt sút luân lưu.
Sơ đồ
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Đội vô địch
Cầu thủ ghi bàn
Các đội vượt qua vòng loại
Ba đội tuyển sau đây từ AFC đã vượt qua vòng loại để tham dự Thế vận hội Mùa hè 1996 tại Atlanta, Hoa Kỳ.
Ghi chú
Tham khảo
Bóng đá châu Á năm 1995
Bóng đá châu Á năm 1996
Giải đấu bóng đá quốc tế tổ chức bởi Malaysia
|
19855666
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa%20To%E1%BA%A1i
|
Hoa Toại
|
Hoa Toại (; 1439–1513) là một học giả, kỹ sư, nhà phát minh và nhà in người Trung Quốc quê ở Vô Tích, Giang Tô vào thời nhà Minh. Ông thuộc dòng họ Hoa giàu có nổi tiếng khắp vùng. Hoa Toại nổi tiếng với việc phát minh ra loại máy in ấn kiểu chữ động bằng kim loại đầu tiên của Trung Quốc vào năm 1490.
In ấn kiểu chữ động bằng kim loại
Kỹ thuật in ấn kiểu chữ động bằng kim loại đã được phát minh tại Triều Tiên vào đầu thế kỷ 13, nhưng không có bằng chứng cụ thể nào cho thấy kỹ thuật in ấn kiểu chữ động bằng kim loại của Hoa Toại bị ảnh hưởng bởi kỹ thuật in ấn của Triều Tiên.
Xem thêm
Danh sách các phát minh của Trung Quốc
Lịch sử in ấn ở Đông Á
Khoa học và công nghệ thời nhà Tống
Ghi chú
Tham khảo
Trích dẫn
Nguồn
Công trình được trích dẫn
Needham, Joseph (1986). Science and Civilization in China: Volume 5, Part 1. Taipei: Caves Books Ltd.
Sinh năm 1439
Mất năm 1513
Nhà phát minh Trung Quốc
Học giả nhà Minh
Người Vô Tích
|
19855667
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20%E2%80%93%20Nam
|
Bóng nước tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Nam
|
Giải đấu nam của nội dung Bóng nước tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 tại Hàng Châu, Trung Quốc, được tổ chức từ ngày 2 đến ngày 7 tháng 10 năm 2023 tại Trung tâm Bơi lội & Lặn - Trung tâm Thể thao Hoàng Long. Đại hội Thể thao châu Á sẽ đóng vai trò là giải đấu vòng loại khu vực châu Á cho Thế vận hội Mùa hè 2024 ở Paris.
Đội hình thi đấu
Vòng sơ loại
Tất cả cá giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00)
Bảng A
Bảng B
Vòng chung kết
Sơ đồ
Tứ kết
Bán kết hạng 5–8
Bán kết
Trận tranh hạng bảy
Trận tranh hạng năm
Tranh huy chương đồng
Tranh huy chương vàng
Bảng xếp hạng cuối cùng
Tham khảo
Nam
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.