source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
Tăng hồng cầu là tình trạng số lượng các tế bào vận chuyển oxy trong máu, tủy xương hoạt động quá mạnh, tạo ra quá nhiều hồng cầu làm cho máu tăng độ quánh, cô đặc hơn và gây nguy cơ tắc nghẽn máu trong hệ tuần hoàn. Tăng hồng cầu thường gặp ở những người béo phì, tăng huyết áp, người bị bệnh động mạch vành… Tăng hồng cầu được xác định bằng cách đếm hồng cầu trong máu. Ở người bình thường, 1mm3 có 3,7 đến 4 triệu hồng cầu, những người có lượng hồng cầu dưới 3,5 triệu/ mm3 được xem là thiếu máu, và người có lượng hồng cầu trên 5triệu/ mm3 được xem là tăng hồng cầu. Tăng hồng cầu trong một số trường hợp được xem là một dạng ung thư máu thuộc dòng hồng cầu, bệnh tiến triển chậm và có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Người bị tăng hồng cầu thường có các biểu hiện như: Nhức đầu, chóng mặt, đau bụng, đau viêm các dây thần kinh. Da đỏ hoặc xanh tím ở mặt, môi, cổ và các đầy chi, đặc biệt là khi trời lạnh. Lách to, cứng nhẵn. Nghẽn mạch, tăng áp lực tâm thu và phì đại tim, gan to. Bệnh cũng có thể phối hợp với viêm bể thận, u nang thận…. Có nhiều nguyên nhân gây tăng hồng cầu trong máu, có thể do lượng oxy cung cấp cho cơ thể bị hạn chế, hoặc do một bệnh lý nào đó gây ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất hồng cầu. Ngoài ra, khi các tế bào hồng cầu quy tụ lại cùng một vị trí nhưng vấn đảm bảo duy trì số lượng cũng sẽ gây ra tình trạng huyết tương (chất lỏng trong máu) giảm đi mà số lượng tế bào hồng cầu lại tăng lên. Đây gọi là tăng nồng độ tế bào trong máu. Bên cạnh đó, một số bệnh về xương tủy cũng là nguyên nhân dẫn đến tăng hồng cầu trong máu khi mắc các bệnh như rối loạn tăng sinh tủy hoặc bệnh đa hồng cầu. Người bị bệnh thận cũng dễ mắc tình trạng hồng cầu tăng cao do tế bào hồng cầu được kích thích sản xuất nhiều hơn sau khi người bệnh thực hiện phẫu thuật thận hoặc bị ung thư thận. Tăng hồng cầu phát triển chậm trong khoảng thời gian từ 5 đến 20 năm, trong thời gian đó cơ thể bệnh nhân vẫn bình thường. Bệnh có lúc tăng lúc giảm, nếu được điều trị bệnh sẽ tiến triển chậm hơn và lượng hồng cầu có thể duy trì ở mức ổn định trong nhiều năm. Tuy nhiên, để biết rõ tình trạng sức khỏe của mình, bạn vẫn nên đến gặp bác sĩ theo định kỳ và thực hiện một số yêu cầu xét nghiệm. Tăng số lượng hồng cầu thường chỉ được phát hiện ra khi bác sĩ chỉ định xét nghiệm máu để xác định một bệnh lí nào đó của bạn và kết quả xét nghiệm cũng có thể sẽ xác định được nguyên nhân gây bệnh, hãy trao đổi với bác sĩ về kết quả xét nghiệm để nắm rõ tình trạng sức khỏe của mình. Trong trường hợp hồng cầu bị giảm không rõ lý do vui lòng xem: Triệu chứng giảm hồng cầu - nguyên nhân và cách chữa trị. Nếu bạn cần hỗ trợ hay có câu hỏi cần gửi tới bác sĩ Hello Doctor vui lòng gửi thông tin tại đây. Duy KhoaĐể phát hiện ra triệu chứng này. Tôi khuyên mọi người nên đi khám tổng quan, bởi cái này phải xét nghiệm mới có thể phát hiện được. Để phát hiện ra triệu chứng này. Tôi khuyên mọi người nên đi khám tổng quan, bởi cái này phải xét nghiệm mới có thể phát hiện được. Lê Diệu TườngCảm ơn bác sĩ đã giải đáp thắc mắc của tôi. Tôi sẽ thử làm theo lời khuyên của bác sĩ ạ. Cảm ơn bác sĩ đã giải đáp thắc mắc của tôi. Tôi sẽ thử làm theo lời khuyên của bác sĩ ạ.
Hồng cầu lưới
Hồng cầu lưới là giai đoạn đầu của hồng cầu trưởng thành, chiếm tỷ lệ bình thường khoảng 1% số hồng cầu trong máu ngoại vi. Hồng cầu lưới là giai đoạn biệt hóa và trưởng thành cuối cùng của hồng cầu trong tủy xương trước khi vào dòng máu tuần hoàn. Tên gọi hồng cầu lưới là do khi được nhuộm (bằng một số phương pháp nhất định) và quan sát dưới kính hiển vi, người ta thấy một cấu trúc dạng lưới trong bào tương của loại tế bào này. Trong quá trình trưởng thành của hồng cầu, nhân và các bào quan dần dần được loại bỏ. Trong giai đoạn hồng cầu lưới, tế bào không còn nhân nhưng những mảnh còn sót lại của nhân và các bào quan, kể cả RNA, đã tạo ra hình ảnh "lưới" nói trên. Khi nhuộm bằng phương pháp Romanowsky, hồng cầu lưới trông hơi xanh hơn các hồng cầu trưởng thành. Kích thước hồng cầu lưới cũng hơi lớn hơn, làm tăng chỉ số MCV (thể tích hồng cầu trung bình - tiếng Anh: mean corpuscular volume) trong công thức máu thực hiện bằng máy. Giới hạn bình thường của hồng cầu lưới trong máu ngoại vi dao động trong khoảng 0.2% đến 2.0%.
Bảng cân đối kế toán là một cáo cáo tài chính thể hiện số dư của các tài khoản tại một thời điểm. Bảng cân đối kế toán này cung cấp các số liệu về tất cả giá trị tài sản, nợ phải trả và nguồn vốn hiện có của một doanh nghiệp theo cơ cấu của tài sản và nguồn gốc hình thành các tài sản đó tại một thời điểm nhất định. Số liệu trên bảng cân đối kế toán phải thật chính xác và trung thực từng chi tiết. Do đó, việc lập bảng cân đối kế toán phải luôn cẩn trọng và đúng theo quy định mới của nhà nước trong năm 2021. Bảng cân đối kế toán được lập ra nhằm kiểm soát tình hình hoạt động kinh doanh trong một thời kỳ lập báo cáo và cung cấp số liệu cho các cơ quan quản lý doanh nghiệp có liên quan nhằm mục đích thông kê và kiểm soát doanh nghiệp. Mỗi số liệu báo cáo tài chính của kế toán đều được thực hiện dựa trên nguyên tắc chung của Bộ Tài Chính, và tất nhiên việc lập bảng cân đối kế toán phải đạt chuẩn mực kế toán số 21. Để hiểu rõ hơn về cách lập bảng cân đối kế toán bạn cần nắm thật chặt chẽ những nguyên tắc như sau:. Dài hạn: Tài sản và Nợ phải trả được thu hồi hay thanh toán từ 12 tháng trở lên kể từ lúc thông cáo. Dài hạn: Tài sản và Nợ phải trả được thu hồi hay thanh toán trong thời kỳ dài hơn một chu kỳ kinh doanh thông thường. – Đối với các doanh nghiệp do tính chất hoạt động nên không thể phân biệt chu kỳ kinh doanh thì các Tài sản và Nợ phải trả được thể hiện theo tính thanh khoản giảm dần. Nếu giữa công ty mẹ và chi nhánh trực thuộc không có tư cách pháp nhân thì công ty mẹ phải thực hành loại bỏ tất cả số dư trong nội bộ (các khoản thu, chi, cho vay nội bộ). Doanh nghiệp có thể không trình bày những định mức không có số liệu và đánh lại số thứ tự của các định mức theo nguyên tắc liên tiếp cho mỗi phần. Điều 112 Thông tư số 200/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính chỉ dẫn lập và thể hiện Bảng cân đối kế toán năm được ban hành ngày 09 tháng 05 năm 2014. Mẫu bảng cân đối kế toán B01 – DNN mới của năm 2021 (cột 1, 2 theo mẫu, cột 3 là hướng dẫn và được trình bày thành 2 cột số năm trước và năm nay theo mẫu). Không cần đề cập đến “Dự phòng giảm giá chứng khoán kinh doanh” do số liệu dự phòng giảm giá sẽ được giảm trực tiếp trong phần giá trị ghi vào sổ chứng khoán kinh doanh. Không cần đề cập đến định mức “Dự phòng đầu tư tài chính dài hạn” do số liệu dự phòng được ghi giảm trực tiếp vào giá trị ghi sổ của các khoản đầu tư. Không cần đề cập đến định mức “Dự phòng phải thu khó đòi” do số liệu này sẽ được ghi giảm trực tiếp vào sổ các khoản phải thu của doanh nghiệp. Không cần đề cập đến định mức “Dự phòng giảm giá hàng tồn kho” do số liệu dự phòng giảm giá được ghi giảm trực tiếp vào giá trị ghi sổ của hàng tồn kho. Các định mức liên quan đến tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình, tài sản cố định thuê tài chính, đình chỉ tài sản đầu tư được thể hiện theo giá trị ghi sổ sau khi đã đánh giá các tài sản trên. Không cần đề cập đến định mức “Nguyên giá” do giá trị trong sổ sách là cơ sở đánh giá lại. Không cần đề cập đến định mức “Hao mòn lũy kế” do số liệu khấu hao đã được ghi giảm trực tiếp vào các giá trị sổ sách của tài sản. Bên trên là một số thông tin về bảng cân đối kế toán và cách lập bảng cân đối kế toán cho các doanh nghiệp. Hy vọng với những chia sẻ được Dân Tài Chính gửi đến sẽ giúp bạn tìm hiểu được thông tin bổ ích hỗ trợ cho nhu cầu của bản thân và doanh nghiệp nhà mình nhé. Hải là một chuyên viên tài chính với 20 năm làm việc trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, kế toán và thuế, là người sáng lập website dantaichinh.com để chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm trong phân tích, lập kế hoạch và kiểm soát tài chính, kế toán quản trị và chính sách thuế, hệ thống ERP, phần mềm kế toán và Excel
Bảng cân đối kế toán
Trong kế toán tài chính, bảng cân đối hoặc báo cáo tình hình tài chính hoặc báo cáo tình hình tài chính là bản tóm tắt các số dư tài chính của một cá nhân hoặc tổ chức, cho dù đó là doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty quốc doanh, công ty TNHH tư nhân hoặc các tổ chức khác chẳng hạn như Chính phủ hoặc tổ chức phi lợi nhuận. Bảng cân đối liệt kê tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu vào một ngày cụ thể, chẳng hạn như ngày kết thúc năm tài chính của công ty. Bảng cân đối kế toán thường được mô tả là "cách nhìn nhanh về tình trạng tài chính của công ty". Trong bốn báo cáo tài chính cơ bản, bảng cân đối kế toán là báo cáo duy nhất áp dụng cho một thời điểm duy nhất trong năm của doanh nghiệp. Một bảng cân đối công ty tiêu chuẩn có hai phía: tài sản ở phía bên trái và tài chính ở bên phải. Tài chính bao gồm có hai phần, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Các loại tài sản chính thường được liệt kê đầu tiên và thường theo thứ tự thanh khoản.
Bài viết này giới thiệu các khái niệm cơ bản về phần mềm nguồn mở (PMNM), các đặc điểm, xu hướng phát triển, kinh nghiệm ứng dụng và khả năng ứng dụng tại nước ta. Đối tượng nhằm đến là những người sử dụng máy tính bình thường, các cấp lãnh đạo có liên quan đến ứng dụng tin học. Do đó các khái niệm, thuật ngữ cố gắng trình bày một cách dễ hiểu nhất (đôi khi có thể không chính xác, chặt chẽ như cần phải có). Các vấn đề nêu dưới đây có tính chất khái niệm, giới thiệu chung. Có thể tìm hiểu chi tiết, cách làm cụ thể qua ví dụ tại website Opera nêu dưới đây hoặc tại rất nhiều website hướng dẫn trên Internet. Phần mềm nguồn mở không phải là cái gì cao siêu, khó học, khó ứng dụng. Người có trình độ máy tính trung bình với những tài liệu hướng dẫn chi tiết bằng tiếng Việt tại đây, hoàn toàn có thể tự cài đặt, học sử dụng trong vòng một vài ngày cho các nhu cầu văn phòng thông thường, thay thế được Windows. Trong hơn nửa năm qua, tại văn phòng tập đoàn Vinashin đã thí điểm cài đặt bộ phần mềm Linux Kubuntu trên hơn 1/3 số máy tính cá nhân có kết nối vào mạng chung. Đến nay có thể thấy rằng về cơ bản, hoàn toàn có thể dùng phần mềm nguồn mở trong tin học văn phòng (kể cả trong giao dịch quốc tế) thay thế cho Windows và MS Office. Ngoài phần mềm trên máy tính cá nhân, phần mềm nguồn mở cũng có đầy đủ các loại dành cho máy chủ, các ứng dụng nghiệp vụ (lớn như ERP, chuyên nghiệp như chế bản, xử lý ảnh,…), các tiện ích (ghost, quét virus, mã hóa,….). Tất cả đều có trên Internet. Các hướng dẫn cài đặt, sử dụng cụ thể bằng tiếng Việt cũng như kinh nghiệm được nêu trong địa chỉ Opera nói trên. Phần mềm có thể download từ Internet hoặc liên hệ với Trung tâm Tin học. Ứng dụng phần mềm nguồn mở là một chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ và cũng là một trào lưu đang phát triển rất mạnh trên thế giới. Phần mềm nguồn mở thường miễn phí hoặc có phí hỗ trợ thấp hơn phần mềm bản quyền cũng loại nhiều. Có những phần mềm nguồn mở (đặc biệt là phần mềm máy chủ) có tính năng, độ tin cậy cao hơn phần mềm nguồn đóng và được sử dụng phổ biến hơn (ví dụ các phần mềm Mail server, Web server). Phần mềm nguồn mở kiểm soát được nội dung (trực tiếp hoặc gián tiếp) do đó đảm bảo an ninh máy tính. Virus và spyware hầu như không có nên cũng tránh được bị ăn cắp dữ liệu, hỏng dữ liệu và gián đoạn công việc khi phải diệt virus, cài lại máy. Dùng phần mềm nguồn mở ở quy mô lớn sẽ tạo thế độc lập tự chủ cho quốc gia, tránh bị lệ thuộc vào những nhà cung cấp phần mềm độc quyền, tạo cơ sở thương lượng đàm phán về giá. Khi lập một phần mềm máy tính, người lập trình đầu tiên phải viết một chương trình nguồn (hoặc mã nguồn – source code). Chương trình nguồn được viết bằng một trong các ngôn ngữ lập trình (C, Java, Fortran, v.v….) gồm các lệnh tạo nên nội dung chương trình mà mọi người đã học ngôn ngữ lập trình đó đều hiểu được. Đoạn chương trình trên gồm hai lệnh: đầu tiên tính biểu thức y=x+a sau đó chuyển đến thực hiện lệnh số 115. Sau đó chương trình nguồn được dịch (compile) sang ngôn ngữ máy (mã máy – binary code) là ngôn ngữ mà máy tính đọc hiểu và thực hiện được (nhưng người thì nói chung là không hiểu). Chương trình dưới dạng mã máy được cài lên ổ cứng máy tính để máy đọc và thực hiện các lệnh theo yêu cầu. Phần mềm nguồn mở (open source software) là những phần mềm được công bố cả mã nguồn và mã máy cho mọi người tự do: sử dụng, cho hoặc bán lại, tìm hiểu nội dung, thay đổi, cải tiến. tìm hiểu xem phần mềm làm việc như thế nào và sửa đổi nó phù hợp với nhu cầu của người dùng (đọc và sửa mã nguồn rồi biên dịch lại ra mã máy để chạy). Nghĩa là người dùng điều khiển phần mềm chứ không phải phần mềm điều khiển người dùng. cải tiến phần mềm và công bố sự cải tiến đó công khai sao cho mọi người đều có thể sử dụng (Tự do 3). Tuy nhiên, sự tự do nói trên cũng phải tuân theo một số điều kiện nhất định. Mỗi phần mềm nguồn mở được công bố kèm theo một giấy phép sử dụng (license). Có hàng chục loại giấy phép phần mềm nguồn mở khác nhau, tuân thủ các điều kiện cơ bản trên và khác nhau về các quy định chi tiết. Một trong các loại giấy phép phổ biến nhất là GPL (GNU General Public License). Đại đa số phần mềm nguồn mở là miễn phí. Tuy nhiên, cũng có những phần mở có thu phí dưới các hình thức khác nhau (phí hỗ trợ, nâng cấp, ….) nhưng đều rẻ hơn phần mềm nguồn đóng rất nhiều. Phần mềm nguồn đóng là những phần mềm chỉ được công bố dưới dạng mã máy (có thể miễn phí như Acrobat Reader hoặc có thu phí như Windows). Do đó người sử dụng chỉ có thể dùng phần mềm đúng như nó có, không thể tìm hiểu nội dung, sửa đổi, cải tiến gì được. Ngoài ra, các giấy phép phần mềm nguồn đóng quy định chặt chẽ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng (vd: chỉ được cài trên một máy, …. Phần mềm nguồn mở đầu tiên được công bố năm 1977 là hệ điều hành Unix BSD có thu phí tượng trưng. Phong trào phần mềm nguồn mở thực sự phát triển từ khi công bố hệ điều hành Linux đầu tiên tổ hợp phần nhân của Linus Torvads và hệ điều hành Unix GNU của Stallman vào năm 1991. Như vậy lịch sử phần mềm nguồn mở mới chỉ chưa đầy 20 năm. Hệ điều hành các máy chủ, từ cỡ lớn nhất (vd: mainframe System z của IBM chạy hệ điều hành SUSE Linux Enterprise Server) cho đến những loại máy chủ thông dụng nhất ( máy chủ web Apache, máy chủ email Qmail,… ). Các loại ứng dụng từ chuyên biệt như quản trị doanh nghiệp ERP (OpenBravo), cơ sở dữ liệu cỡ lớn Oracle, đến phổ thông như phần mềm văn phòng (OpenOffice) v.v…. Trước đây khoảng 5 năm, phần mềm nguồn mở còn rất khó học, khó sử dụng. Hiện nay, phần mềm nguồn mở đã phát triển đủ độ chín, có thể học cài đặt, sử dụng trên máy để bàn rất nhanh, không khó khăn gì. Ban đầu, phần mềm nguồn mở là một phong trào tự phát, các nhà lập trình làm việc tự nguyện ngoài giờ (và hiện cũng vẫn thế). Đến nay, phần mềm nguồn mở đã lớn mạnh, thực sự đang là một cuộc cách mạng lôi cuốn được các công ty tin học lớn hàng đầu thế giới như IBM, Oracle, Dell, Intel, … (nhấn vào tên các công ty để biết thêm nội dung) tham gia ở những mức độ, quy mô khác nhau. Quốc hội Pháp đang bắt đầu một cuộc cách mạng của riêng mình: chuyển từ Windows sang phần mềm nguồn mở. Khi Quốc hội họp vào tháng 6/2007 tới, các nghị sỹ sẽ làm việc trên 1154 máy tính chạy Ubuntu Linux. Ba công ty Brazin đang tiến hành khai triển các máy tính chạy Linux cho chương trình “Máy tính dành cho mọi người” của chính phủ Brazin. Dự kiến hàng tháng sẽ giao 10,000 máy, 50,000 máy đã được giao. Công ty không nói rõ tổng số máy sẽ giao là bao nhiêu. Tại triển lãm Giải pháp Linux Paris 30-1-2007, Hãng chế tạo ôtô lớn thứ hai châu Âu Peugeot Citroen đã ký với công ty phần mềm Novell hợp đồng khai triển 20,000 bộ Novell SUSE Linux cho máy tính cá nhân và 2,500 bộ phần mềm SUSE Linux Enterprise dành cho máy chủ. Hãng tin Bloomberg báo cáo rằng Linux đã chính thức thắng trên 14,000 máy tính của chính quyền bang Munich, Ðức sau một quá trình xem xét dài trong đó Microsoft đã giảm giá và đích thân Tổng Giám đốc Microsoft Steve Balmer đi vận động. HSBC, một ngân hàng lớn của Anh có 125 triệu khách hàng toàn cầu, 9,500 văn phòng với 284,000 nhân viên tại 76 nước, đã quyết định chuẩn hóa hệ thống Linux theo một hệ SUSE Linux (ngoài hạ tầng Windows, HSBC có khoảng vài nghìn máy chủ Linux). Hà lan thống nhất dùng phần mềm nguồn mở:Chính phủ Hà lan đã đặt ra thời hạn cuối cùng là tháng 4/2008, tất cả các cơ quan chính phủ phải bắt đầu sử dụng phần mềm nguồn mở. Những đơn vị nào dùng phần mềm bản quyền phải có luận chứng trình duyệt. Như vậy có thể thấy rằng phần mềm nguồn mở đang được sử dụng trong một phạm vi rất rộng (từ hành chính, sản xuất, ngân hàng đến đại chúng) tại các quốc gia tiến tiến nhất. Không có lý gì tại Việt nam với niềm tự hào về trí thông minh dân tộc và trình độ phát triển còn thấp lại không thể ứng dụng được. Tại Việt nam, phần mềm nguồn mở được coi là một hướng chiến lược trong phát triển tin học quốc gia. Tóm tắt một vài sự kiện gần đây:. ICTnews– Tất cả máy tính để bàn của ngành giáo dục cả nước sẽ chuyển sang sử dụng phần mềm văn phòng nguồn mở OpenOffice vào năm tới, coi đó là một chỉ tiêu thi đua. Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa gửi công văn yêu cầu các Sở Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học và cao đẳng trên cả nước khai thác và sử dụng bộ phần mềm văn phòng OpenOffice trong quản lý và giảng dạy. Trong công văn, Bộ Giáo dục và Đào tạo khẳng định phần mềm OpenOffice với các môđul soạn thảo văn phòng (Writer), bảng tính điện tử (Spreasheet), đồ hoạ (Draw), trình chiếu (Presentation) và cơ sở dữ liệu (Base) hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu sử dụng trong công tác giảng dạy, tương đương với Microsoft Office. Việc mua bản quyền phần mềm Microsoft Office của Microsoft sẽ do Cục Công nghệ thông tin (Bộ Giáo dục và Đào tạo) làm đầu mối, các đơn vị không được tự mua phần mềm này. Ông Quách Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết việc cài đặt OpenOffice dự kiến sẽ bắt đầu triển khai đồng loạt trong toàn ngành giáo dục trong năm 2008. Để “ốp” các đơn vị trong ngành thực hiện, ông Ngọc nói sẽ đưa việc ứng dụng công nghệ thông tin, trong đó có việc sử dụng phần mềm OpenOffice là chỉ tiêu thi đua trong ngành. Ngoài OpenOffice, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng yêu cầu các Sở Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học và cao đẳng sử dụng bộ gõ tiếng Việt mã nguồn mở Unikey và trình duyệt nguồn mở FireFox trong công tác giảng dạy. Hiện nay, toàn bộ các máy tính của các cơ quan Đảng đã được chuyển sang dùng bộ phần mềm văn phòng Open Office. Bộ Thông tin và Truyền thông đã thành lập Hội đồng tư vấn đánh giá OpenOffice và dự kiến sẽ có hướng dẫn việc dùng Open Office trong các cơ quan nhà nước. Xây dựng một phần mềm nguồn mở gần giống như lắp đồ chơi Lego. Trên Internet có rất nhiều gói phần mềm linh kiện miễn phí mà bạn có thể tùy ý lựa chọn và lắp ráp ra bất kỳ phần mềm nào tùy thích. Thậm chí, có thể lấy nguyên một hệ điều hành, thêm bớt sửa chữa theo ý mình, đặt một tên khác (một hệ điều hành Linux Vinashin chẳng hạn). Cũng có thể chọn lấy những “đồ chơi” đã lắp sẵn là các phần mềm ứng dụng, tải về cài lên máy để dùng. Linh kiện Lego thì không thay đổi được, còn các “linh kiện” phần mềm có thể tháo ra xem, thay đổi, sửa chữa tùy thích nếu bạn có đủ trình độ. Tóm lại là hoàn toàn tự do và miễn phí, bạn chỉ phải tuân theo giấy phép nguồn mở đi kèm phần mềm đó. Khi viết một phần mềm nguồn mở, bạn đã kế thừa công sức, trí tuệ của cả tập thể phần mềm nguồn mở trên toàn thế giới. Việc công khai mã nguồn là một yếu tố quan trọng đảm bảo tính trong sạch, an ninh cho phần mềm nguồn mở. Vì bất cứ ai cũng có thể xem được mã nguồn nên cũng không ai có thể cài các đoạn mã độc (ăn cắp dữ liệu, virus, tạo cổng hậu,…) mà không bị phát hiện. Cẩn thận hơn, có thể rà soát lại từng dòng mã nguồn, sau đó tự biên dịch sang mã máy để dùng. Đây là một ưu thế của phần mềm nguồn mở trong các lĩnh vực nhạy cảm về an ninh. Khi dùng các phần mềm mã đóng, ta chỉ có một chỗ dựa duy nhất là tin tưởng vào hãng viết ra phần mềm đó. Trước đây vài năm, ở Mỹ rộ lên tin đồn là Microsoft có để cổng hậu trong Windows theo yêu cầu của FBI. Mặc dù Microsoft ra sức thanh minh nhưng điều đó không thể có kiểm chứng độc lập. Một nghiên cứu về ứng dụng phần mềm nguồn mở trong quân sự xem tại đây . Một trong những khía cạnh an ninh và tiện dụngnổi bật của phần mềm nguồn mở hiện nay là nó hầu như không có virus và phần mềm gián điệp (spyware). Một nghiên cứu gần đây cho thấy hiện có khoảng 60.000 virus Windows (trong đó có vài trăm virus có sức tàn phá lớn), và khoảng 40 virus Linux (không có virus nào có sức tàn phá lớn). Một trong những lý do là những kẻ viết virus chưa tập trung vào Linux là môi trường còn ít phổ biến, nhưng đó không phải là lý do chủ yếu. Thiết kế an ninh tốt của các hệ Unix, Linux và nhiều lý do khác làm cho việc viết virus cho nó rất khó và cũng khó lan truyền, chi tiết xem thêm tại đây. Nếu như trước đây, virus Windows chỉ xóa file, làm hỏng hệ điều hành thì ngày nay các phần mềm gián điệp ăn cắp mật khẩu và thông tin gửi về cho chủ, tạo các cổng hậu trong máy cho người khác thâm nhập, điều khiển máy tính của bạn từ xa đang là mối lo cho nhiều tổ chức, doanh nghiệp trong thời buổi cạnh tranh hiện nay. Trên các hệ Linux hiện cũng có chương trình chống virus nhưng chủ yếu là virus Windows để tránh lây nhiễm khi giao tiếp sang máy Windows. Khi bắt buộc phải trả phí bản quyền thì phần mềm nguồn đóng tạo ra nhiều lãng phí. Mặc dù chỉ cần soạn văn bản dùng WinWord là đủ nhưng bạn buộc phải mua cả bộ MS Office. Chỉ cần duyệt và sửa bản vẽ đôi chút mà mua AutoCAD 4000USD là điều khó chấp nhận được. Nhất định đòi dùng Windows Vista sẽ kéo theo chi phí nâng cấp máy lớn. Phần mềm nguồn mở tạo cơ hội cho người sử dụng chọn đúng cái mình cần và hơn cái mình cần mà không mất một khoản phí nào. Để soạn văn bản có thể dùng các phần mềm ít tính năng như Abiword, Kword cho đến bộ OpenOffice hoàn chỉnh. Hệ điều hành Ubuntu có từ những bản dùng cho máy cũ, cấu hình thấp Xubuntu, đến bản đẹp cho máy mạnh Ubuntu có đồ họa 3 chiều và cả bản dành cho máy chủ Ubuntu Server. Bản Kubuntu (dùng nền đồ họa KDE) được chọn vì giao diện đẹp nhưng không cần máy cấu hình cao, giống Windows nên người dùng dễ làm quen, kết nối vào mạng Windows dễ dàng.
Phần mềm tự do nguồn mở
Phần mềm tự do nguồn mở (Tiếng Anh: Free and open-source software (Viết tắt là F/OSS, FOSS) hoặc Free/Libre/open-source software (Viết tắt là FLOSS)) là loại phần mềm được bao gồm Phần mềm tự do và Phần mềm nguồn mở. Có nghĩa là phần mềm sẽ cung cấp bất cứ người dùng quyền được sử dụng, sao chép, thay đổi và chỉnh sửa phần mềm mà không bị giới hạn. Mã nguồn được chia sẻ công khai để mọi người có thể chỉnh sửa, cải tiến phần mềm theo cách tự nguyện và tự do. Điều này trái ngược với Phần mềm độc quyền, là các phần mềm được cấp phép bản quyền hạn chế và mã nguồn thường bị ẩn khỏi người dùng. do - hạnh phúc") chứ không phải "miễn phí" (theo kiểu "miễn phí không mất tiền"), bởi "tự do" giá trị hơn "miễn phí".FOSS là một thuật ngữ bao gồm bao gồm cả phần mềm tự do và phần mềm nguồn mở, mặc dù mô tả mô hình phát triển tương tự, nhưng khác nhau về văn hóa và triết lý sử dụng làm nền tảng. Phần mềm tự do tập trung vào triết lý về các quyền tự do mà nó mang lại cho người sử dụng, trong khi đó phần mềm nguồn mở tập trung vào các cảm nhận thế mạnh của mô hình phát triển ngang hàng của nó.
Hàng tồn kho là 1 loại tài sản ngắn hạn chiếm phần lớn trong tổng tài sản lưu động của doanh nghiệp, vì vậy quản lý hàng tồn kho có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhóm tài khoản hàng tồn kho được dùng để phản ánh trị giá hiện có và tình hình biến động hàng tồn kho của doanh nghiệp (nếu doanh nghiệp thực hiện kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên) hoặc được dùng để phản ánh giá trị hàng tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ kế toán của doanh nghiệp (nếu doanh nghiệp thực hiện kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ). Hàng tồn kho của doanh nghiệp là những tài sản được mua vào để sản xuất hoặc để bán trong kỳ sản xuất, kinh doanh bình thường, gồm:. Đối với sản phẩm dở dang, nếu thời gian sản xuất, luân chuyển vượt quá một chu kỳ kinh doanh thông thường thì không được trình bày là hàng tồn kho trên Bảng cấn đối kế toán mà trình bày là tài sản dài hạn. Đối với vật tư, thiết bị, phụ tùng thay thế có thời gian dự trữ trên 12 tháng hoặc hơn một chu kỳ sản xuất, kinh doanh thông thường thì không được trình bày là hàng tồn kho trên Bảng cấn đối kế toán mà trình bày là tài sản dài hạn. Các loại sản phẩm, hàng hóa, vật tư, tài sản nhận giữ hộ, nhận ký gửi, nhận ủy thác xuất nhập khẩu, nhận gia công… không thuộc quyền sở hữu và kiểm soát của doanh nghiệp thì không được phản ánh là hàng tồn kho. Kế toán hàng tồn kho phải được thực hiện theo quy định của Chuẩn mực kế toán “Hàng tồn kho” khi xác định giá gốc hàng tồn kho, phương pháp tính giá trị hàng tồn kho, xác định giá trị thuần có thể thực hiện được, lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và ghi nhận chi phí. Nguyên tắc xác định giá gốc hàng tồn kho được quy định cụ thể cho từng loại vật tư, hàng hoá, theo nguồn hình thành và thời điểm tính giá. Các khoản thuế không được hoàn lại được tính vào giá trị hàng tồn kho như: Thuế GTGT đầu vào của hàng tồn kho không được khấu trừ, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, thuế bảo vệ môi trường phải nộp khi mua hàng tồn kho. Khi mua hàng tồn kho nếu được nhận kèm thêm sản phẩm, hàng hóa, thiết bị, phụ tùng thay thế (phòng ngừa trường hợp hỏng hóc) thì kế toán phải xác định và ghi nhận riêng sản phẩm, phụ tùng thiết bị thay thế theo giá trị hợp lý. Giá trị sản phẩm, hàng mua được xác định bằng tổng giá trị của hàng được mua trừ đi giá trị sản phẩm, thiết bị, phụ tùng thay thế. Khi bán hàng tồn kho, giá gốc của hàng tồn kho đã bán được ghi nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ phù hợp với doanh thu liên quan đến chúng được ghi nhận và phù hợp với bản chất giao dịch. Trường hợp xuất hàng tồn kho để khuyến mại, quảng cáo thì thực hiện theo nguyên tắc:. a) Trường hợp xuất hàng tồn kho để khuyến mại, quảng cáo không thu tiền, không kèm theo các điều kiện khác như phải mua sản phẩm, hàng hóa…., kế toán ghi nhận giá trị hàng tồn kho vào chi phí bán hàng (chi tiết hàng khuyến mại, quảng cáo);. b) Trường hợp xuất hàng tồn kho để khuyến mại, quảng cáo nhưng khách hàng chỉ được nhận hàng khuyến mại, quảng cáo kèm theo các điều kiện khác như phải mua sản phẩm, hàng hóa (ví dụ như mua 2 sản phẩm được tặng 1 sản phẩm….) thì kế toán phải phân bổ số tiền thu được để tính doanh thu cho cả hàng khuyến mại, giá trị hàng khuyến mại được tính vào giá vốn (trường hợp này bản chất giao dịch là giảm giá hàng bán). Khi xác định giá trị hàng tồn kho cuối kỳ, doanh nghiệp áp dụng theo một trong các phương pháp sau:. a) Phương pháp tính theo giá đích danh: Phương pháp tính theo giá đích danh được áp dụng dựa trên giá trị thực tế của từng thứ hàng hoá mua vào, từng thứ sản phẩm sản xuất ra nên chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp có ít mặt hàng hoặc mặt hàng ổn định và nhận diện được. b) Phương pháp bình quân gia quyền: Theo phương pháp bình quân gia quyền, giá trị của từng loại hàng tồn kho được tính theo giá trị trung bình của từng loại hàng tồn kho đầu kỳ và giá trị từng loại hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo từng kỳ hoặc sau từng lô hàng nhập về, phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp. c) Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO): Phương pháp nhập trước, xuất trước áp dụng dựa trên giả định là giá trị hàng tồn kho được mua hoặc được sản xuất trước thì được xuất trước, và giá trị hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là giá trị hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất gần thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho. Mỗi phương pháp tính giá trị hàng tồn kho đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Mức độ chính xác và độ tin cậy của mỗi phương pháp tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý, trình độ, năng lực nghiệp vụ và trình độ trang bị công cụ tính toán, phương tiện xử lý thông tin của doanh nghiệp. Đồng thời cũng tuỳ thuộc vào yêu cầu bảo quản, tính phức tạp về chủng loại, quy cách và sự biến động của vật tư, hàng hóa ở doanh nghiệp. Đối với hàng tồn kho mua vào bằng ngoại tệ, phần giá mua phải căn cứ vào tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm phát sinh để ghi giá trị hàng tồn kho đã nhập kho (trừ trường hợp có ứng trước tiền cho người bán thì giá trị hàng tồn kho tương ứng với số tiền ứng trước được ghi nhận theo tỷ giá tại thời điểm ứng trước). Phần thuế nhập khẩu phải nộp được xác định theo tỷ giá tính thuế nhập khẩu của cơ quan Hải quan theo quy định của pháp luật. Chi tiết về kế toán chênh lệch tỷ giá được thực hiện theo quy định tại Điều 69 – hướng dẫn phương pháp kế toán chênh lệch tỷ giá hối đoái. Đến cuối niên độ kế toán, nếu xét thấy giá trị hàng tồn kho không thu hồi đủ do bị hư hỏng, lỗi thời, giá bán bị giảm hoặc chi phí hoàn thiện, chi phí bán hàng tăng lên thì phải ghi giảm giá gốc hàng tồn kho cho bằng giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho. Giá trị thuần có thể thực hiện được là giá bán ước tính của hàng tồn kho trong kỳ sản xuất, kinh doanh bình thường trừ (-) chi phí ước tính để hoàn thiện sản phẩm và chi phí ước tính cần thiết cho việc tiêu thụ chúng. Việc ghi giảm giá gốc hàng tồn kho cho bằng giá trị thuần có thể thực hiện được được thực hiện bằng cách lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Số dự phòng giảm giá hàng tồn kho được lập là số chênh lệch giữa giá gốc của hàng tồn kho lớn hơn giá trị thuần có thể thực hiện được của chúng. Tất cả các khoản chênh lệch giữa khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho phải lập ở cuối kỳ kế toán này lớn hơn khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho đã lập ở cuối kỳ kế toán trước, các khoản hao hụt, mất mát của hàng tồn kho, sau khi đã trừ (-) phần bồi thường do trách nhiệm cá nhân gây ra, và chi phí sản xuất chung không phân bổ, được ghi nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ.
Xác định cụ thể (hàng tồn kho)
Xác định cụ thể là một phương pháp xác định chi phí hàng tồn kho cuối kỳ. Nó đòi hỏi một số lượng vật lý chi tiết, để công ty biết chính xác có bao nhiêu hàng hóa được mang vào những ngày cụ thể vẫn còn tồn kho vào cuối năm. Khi tìm thấy thông tin này, số lượng hàng hóa được nhân với chi phí mua hàng của họ vào ngày mua hàng của họ, để lấy số cho chi phí hàng tồn kho cuối kỳ. Về lý thuyết, phương pháp này là phương pháp tốt nhất, vì nó liên quan đến hàng tồn kho cuối kỳ trực tiếp với giá cụ thể mà chúng được mua. Tuy nhiên, phương pháp này cho phép quản lý dễ dàng thao tác chi phí hàng tồn kho cuối kỳ, vì họ có thể chọn báo cáo rằng hàng hóa rẻ hơn đã được bán trước, do đó tăng chi phí hàng tồn kho cuối kỳ và giảm giá vốn hàng bán. Điều này sẽ làm tăng thu nhập. Ngoài ra, quản lý có thể chọn để báo cáo thu nhập thấp hơn, để giảm thuế mà họ cần phải trả. Phương pháp này cũng rất khó sử dụng trên hàng hóa có thể hoán đổi cho nhau.
Nam giới ai cũng mơ ước có được người tình xinh đẹp và một thân hình bốc lửa và có thể quan hệ tình dục với người tình của mình bất cứ lúc nào. Nhưng ước mơ đó chắc có lẽ khó trở thành hiện thực, người tình hoàn hảo như vậy chỉ có trong phim khoa học viễn tưởng. Nhưng nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp đồ chơi tình dục mà ước mơ tưởng chừng như hỏa huyền ấy nay đã có thể trở thành hiện thực, đó chính là nhờ vào sự xuất hiện của búp bê tình dục. Vậy búp bê tình dục là gì? Nó có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống tình dục của chúng ta hay không. Búp bê tình dục là một loại sex toy – đồ chơi tình dục được sản xuất bằng chất liệu silicon, simili, nhựa PVC…. Tất cả những chất liệu này đều có ưu nhược điểm riêng, phù hợp vời từng phân khúc, nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Búp bê tình dục là gì? Thực ra búp bê tình dục có hình dáng giống y chang cơ thể người thật, thậm chí còn đẹp hơn, cơ thể của búp bê tình dục sở hữu số đo ba vòng như một siêu mẫu đích thực. Mục đích ra đời của búp bê tình dục giúp chúng ta trải nghiệm được cảm giác quan hệ tình dục sung sướng và chân thật nhất nếu không muốn bước vào mối quan hệ, tình yêu phức tạp. Tất cả mọi người đều có thể sử dụng búp bê tình dục, bạn có thể lựa chọn búp bê có chỉ số chiều cao, cân nặng, giới tính, màu tóc …….mà mình yêu thích, miễn sao phù hợp với nhu cầu và điều kiện kinh tế của bản thân,. -Búp bê tình dục silicon: Búp bê tình dục được làm bằng chất liệu silicon cao cấp, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho sức khỏe người tiêu dùng, giúp người sử dụng đạt được khoái cảm tình dục sung sướng và chân thật nhất. Dòng búp bê cao cấp này còn có thể chuyển động được khớp tay khớp chân, nhờ đó giúp bạn có thể quan hệ tình dục bằng những tư thế mà mình yêu thích một cách dễ dàng. -Búp bê tình dục bơm hơi được làm từ chất liệu nhựa PVC, simili cao cấp. Ưu điểm nổi bật của sản phẩm là có thể thu xếp gọn gàng, thuận tiện cho việc cất dấu sau khi sử dụng. Sản phẩm búp bê tình dục bơm hơi thuộc phân khúc phổ thông nhờ đó phù hợp với điều kiện kinh tế của đại đa số khách hàng hiện nay. Giá của sản phẩm rơi vào khoảng từ 2 đến 3 triệu, với một chi phí như vậy bạn có thể sử dụng và đạt khoái cảm nhiều lần vì độ bền của sản phẩm là tương đối cao. Nam giới có thể sử dụng búp bê tình dục, có thể nói nam giới là đối tượng thích hợp để sử dụng búp bê tình dục nhất. Nhờ đó, nam giới có thể quan hệ tình dục bất cứ lúc nào cùng các em búp bê tình dục xinh đẹp mà không còn phải nghe lời càm ràm từ phía chị em phụ nữ. Số đo ba vòng của các em búp bê tình dục còn đẹp hơn cả người mẫu, nhờ đó nam giới tha hồ tận hưởng những phút giây sung sướng tuyệt vời. Nữ giới rất thích hợp sử dụng sản phẩm đồ chơi búp bê tình dục, chỉ cần tậu ngay cho mình một búp bê nam tính sáu múi chị em đã có thể thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình một cách kín đáo và đầu sung sướng. Những chị em có gia đình nếu có chồng đi công tác xa hoặc là lính hải đảo có thể sử dụng búp bê tình dục để tránh được việc phải ngoại tinh và giữ trọn tình thủy chung đối với người chồng đang công tác xa của mình. Các bạn gay cũng có thể sử dụng sản phẩm búp bê tình dục nếu vẫn còn đang bế tắc trong việc thể hiện cá tính của mình, vẫn chưa tìm được người tình trong mộng thì việc sử dụng búp bê giúp bạn giải tỏa được nhu cầu sinh lý một cách sung sướng nhất vừa không phải sợ ánh mắt soi mói của mọi người về giới tính của mình. Sử dụng búp bê tình dục giúp chúng ta có thể thỏa mãn nhu cầu tình dục bất cứ lúc nào mà không phải phụ thuộc vào tâm lý và cảm xúc của người bạn tình. Giúp chúng ta không phải xa đà vào những môi quan hệ yêu đương phức tạp, để dành thời gian cho việc tích lũy tiền bạc, kinh nghiệm và kiến thức cho bản thân, nhờ đó có một tương lai tươi sáng tốt đẹp hơn. Một lợi ích khác từ việc sử dụng búp bê tình dục mà chúng ta phải công nhận đó là giúp bạn tránh được những căn bệnh xã hội nguy hiểm lây lan qua đường tình dục không an toàn, nhờ đó bảo vệ sức khỏe cho bản thân được tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn. Hy vọng thông qua bài viết ngày hôm nay, các bạn đã có thể nắm được búp bê tình dục là gì? Nhờ có được những thông tin cần thiết này, bạn sẽ dễ dàng hơn trong việc ra quyết định mua sản phẩm.
Búp bê tình dục
Búp bê tình dục hay còn gọi là búp bê tình yêu (còn được biết đến với tên tiếng Anh là sex doll hoặc tên tiếng Nhật là ダッチワイフ/datchi waifu?/tức những người vợ Hà Lan) là một thể loại của công cụ hỗ trợ tình dục hay đồ chơi tình dục (sex toy) trong đó là những con búp bê được thiết kế và sử dụng cho mục đích giải quyết nhu cầu tình dục, nó được mô phỏng dựa trên kích thước, hình dáng như thật của một bạn tình để hỗ trợ chính cho việc thủ dâm. Búp bê tình dục có thể bao gồm toàn bộ cơ thể người với mặt, hoặc chỉ có đầu, xương chậu hoặc một phần cơ thể khác với các phụ kiện (âm đạo, hậu môn, miệng, dương vật) để kích thích tình dục. Các bộ phận đôi khi rung và có thể tháo rời hoặc hoán đổi cho nhau. Búp bê tình dục tồn tại dưới nhiều hình thức nhưng được phân biệt với robot tình dục, đó là những sáng tạo nhân hình được thiết kế để có thể tham gia vào các tương tác phức tạp hơn. Một số búp bê tình dục đầu tiên được tạo ra bởi các thủy thủ người Pháp (dame de voyage) và người Tây Ban Nha (dama de viaje) vào thế kỷ XVI, những người sẽ bị cô lập trong những chuyến hải trình dài ngày.
Chỉ dẫn địa lý là thông tin về nguồn gốc của hàng hoá: từ ngữ; dấu hiệu; biểu tượng; hình ảnh để chỉ: một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương mà hàng hoá được sản xuất ra từ đó. Chất lượng, uy tín, danh tiếng của hàng hoá là do nguồn gốc địa lý tạo nên. Ví dụ "Made in Japan" (điện tử), "Vạn Phúc" (lụa tơ tằm); "Bát Tràng" (gốm, sứ). Một dạng chỉ dẫn địa lý đặc biệt là "Tên gọi xuất xứ hàng hoá". Nếu chỉ dẫn địa lý chỉ là tên gọi (địa danh) và uy tín, danh tiếng của sản phẩm đạt đến mức đặc thù gắn liền với vùng địa lý đó thì chỉ dẫn nhưư vậy đưược gọi là "Tên gọi xuất xứ hàng hoá". b) Thể hiện trên hàng hoá, bao bì hàng hoá hay giấy tờ giao dịch liên quan tới việc mua bán hàng hoá nhằm chỉ dẫn rằng hàng hoá nói trên có nguồn gốc tại quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác của loại hàng hoá này có được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý tạo nên. Nếu chỉ dẫn địa lý là tên gọi xuất xứ hàng hoá thì việc bảo hộ được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về tên gọi xuất xứ hàng hoá. Các thông tin địa lý đã trở thành tên gọi thông thường của hàng hoá, đã mất khả năng chỉ dẫn nguồn gốc địa lý thì không được bảo hộ dưới danh nghĩa là chỉ dẫn địa lý. Người có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý là mọi tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất hàng hoá mang chỉ dẫn đó tại lãnh thổ quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương tương ứng, với điều kiện hàng hoá do người đó sản xuất phải bảo đảm uy tín hoặc danh tiếng vốn có của loại hàng hoá đó. Chỉ dẫn địa lý là thông tin về nguồn gốc của hàng hoá: từ ngữ; dấu hiệu; biểu tượng; hình ảnh để chỉ: một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương mà hàng hoá được sản xuất ra từ đó. Chất lượng, uy tín, danh tiếng của hàng hoá là do nguồn gốc địa lý tạo nên. Ví dụ "Made in Japan" (điện tử), "Vạn Phúc" (lụa tơ tằm); "Bát Tràng" (gốm, sứ). Một dạng chỉ dẫn địa lý đặc biệt là "Tên gọi xuất xứ hàng hoá". Nếu chỉ dẫn địa lý chỉ là tên gọi (địa danh) và uy tín, danh tiếng của sản phẩm đạt đến mức đặc thù gắn liền với vùng địa lý đó thì chỉ dẫn nhưư vậy đưược gọi là "Tên gọi xuất xứ hàng hoá". b) Thể hiện trên hàng hoá, bao bì hàng hoá hay giấy tờ giao dịch liên quan tới việc mua bán hàng hoá nhằm chỉ dẫn rằng hàng hoá nói trên có nguồn gốc tại quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác của loại hàng hoá này có được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý tạo nên. Nếu chỉ dẫn địa lý là tên gọi xuất xứ hàng hoá thì việc bảo hộ được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về tên gọi xuất xứ hàng hoá. Các thông tin địa lý đã trở thành tên gọi thông thường của hàng hoá, đã mất khả năng chỉ dẫn nguồn gốc địa lý thì không được bảo hộ dưới danh nghĩa là chỉ dẫn địa lý. Người có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý là mọi tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất hàng hoá mang chỉ dẫn đó tại lãnh thổ quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương tương ứng, với điều kiện hàng hoá do người đó sản xuất phải bảo đảm uy tín hoặc danh tiếng vốn có của loại hàng hoá đó.
Chỉ dẫn địa lý
Chỉ dẫn địa lý (tiếng Anh: geographical indication hay GI) là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ một quốc gia, khu vực hay địa phương; nguồn gốc địa lý của chúng bảo đảm chất lượng, danh tiếng hoặc đặc tính bản địa. Bảo hộ chỉ dẫn địa lý được bắt đầu ở Pháp vào đầu thế kỷ 20 với những vấn đề liên quan tới hai thuật ngữ “chỉ dẫn nguồn gốc” (Indication of source) và “tên gọi xuất xứ hàng hoá” (Appllations of orgin).Thuật ngữ “chỉ dẫn nguồn gốc” xuất hiện sớm nhất, từ xa xưa, được hình thành từ việc gắn các dấu hiệu trên sản phẩm để phân biệt sản phẩm hàng hoá trong quá trình lưu thông trên thị trường. Những dấu hiệu này xác định được người tạo ra sản phẩm, cũng có thể xác định nơi tạo ra sản phẩm. Chỉ dẫn nguồn gốc được đề cập đầu tiên trong Công ước Paris (1883) về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tuy nhiên vẫn chưa rõ khái niệm và dấu hiệu của chỉ dẫn nguồn gốc. Đến năm 1981, Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa quốc tế đã quy định về chỉ dẫn nguồn gốc khá rõ: “Bất kì sản phẩm nào mang chỉ dẫn sai lệch và lừa dối mà qua đó, một trong số các quốc gia thành viên của Thoả ước Madrid hoặc một địa điểm tại nước đó được chỉ dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp là nước hoặc địa điểm xuất xứ hàng nhập khẩu vào bất kì quốc gia thành viên nào của thảo ước đều bị tịch thu”.
Người đẹp say ngủ (tiếng Nhật: 眠れる美女 Nemureru bijo) là tiểu thuyết dài 5 chương của văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari, được tác giả sáng tác dựa trên một kịch bản sân khấu kabuki nhan đề Những mỹ nữ của Eguchi công diễn khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản. Xã hội Nhật Bản bấy giờ tồn tại một dạng lầu xanh đặc biệt dành riêng cho những ông già không còn chút sinh khí, nhưng vẫn ham tận hưởng nhục dục và lạc thú bên một trinh nữ “mà không muốn phải chịu bất cứ một hậu quả nào về sau”. Lầu xanh đó được Kawabata Yasunari gọi là “căn phòng kín đáo chứa người đẹp say ngủ”. Ở đó, đối tượng thẩm mỹ của những ông già là những cô gái rất đẹp, trinh trắng, tuổi chưa đến hai mươi, đã được gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, hoàn toàn khỏa thân trong tình trạng mất tri giác. Hành vi thẩm mỹ của những ông già là được thoải mái ngắm nghía, vầy vò những vẻ đẹp lõa lồ vô tri đang say ngủ, đồng thời thả mình trôi theo dòng ý thức miên man về nhân thế. Ông già Eguchi, nhân vật chính của tác phẩm, “mặc dù vẫn tiếp tục gần gũi với phụ nữ nên chưa thuộc loại cần nghỉ ngơi hoàn toàn” (Người đẹp say ngủ, tr. 16), nhưng đã đến căn nhà có người đẹp ngủ vì tò mò. Năm đêm trong căn nhà đó, bên cạnh những cô gái khác nhau với những vẻ đẹp khác nhau, ông già Eguchi đã trở thành điển hình của nghệ thuật thưởng thức cái đẹp theo cách vừa tinh tế vừa cực đoan. Tất cả nội dung ấy của Người đẹp say ngủ được đặt trong một hình thức nghệ thuật luôn song hành những yếu tố tương phản đậm đặc, chủ yếu là những tương phản về không-thời gian nghệ thuật; chi tiết nghệ thuật; miêu tả ngoại hình và khắc họa thế giới nội tâm v.v. Chủ đề cứu thế dưới quan niệm Phật giáo (Phổ Hiền bồ tát hóa thân thành kỹ nữ nhằm cứu rỗi và phổ độ chúng sinh) của tác phẩm được PGS.TS. Trần Lê Bảo giải mã trong bài viết “Giải mã tác phẩm Người đẹp say ngủ của Y.Kawabata” in trên tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á. Gabriel García Márquez, nhà văn Columbia đoạt Nobel văn học năm 1992, rất thích Người đẹp say ngủ và đánh giá nó là một trong những kiệt tác của văn chương đương đại. Dựa trên tác phẩm này, Márquez đã phóng tác một truyện ngắn mang tựa đề Chuyến bay của người đẹp ngủ say. Độc giả Márquez cũng có thể cảm nhận được phảng phất phong vị Người đẹp say ngủ của Kawabata qua tác phẩm Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi
Người đẹp say ngủ
Người đẹp say ngủ (tiếng Nhật: 眠れる美女 Nemureru bijo) là tiểu thuyết dài 5 chương của văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari, được tác giả sáng tác dựa trên một kịch bản sân khấu kabuki nhan đề Những mỹ nữ của Eguchi công diễn khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản. Xã hội Nhật Bản bấy giờ tồn tại một dạng lầu xanh đặc biệt dành riêng cho những ông già không còn chút sinh khí, nhưng vẫn ham tận hưởng nhục dục và lạc thú bên một trinh nữ "mà không muốn phải chịu bất cứ một hậu quả nào về sau". Lầu xanh đó được Kawabata Yasunari gọi là "căn phòng kín đáo chứa người đẹp say ngủ". Ở đó, đối tượng thẩm mỹ của những ông già là những cô gái rất đẹp, trinh trắng, tuổi chưa đến hai mươi, đã được gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, hoàn toàn khỏa thân trong tình trạng mất tri giác. Hành vi thẩm mỹ của những ông già là được thoải mái ngắm nghía, vầy vò những vẻ đẹp lõa lồ vô tri đang say ngủ, đồng thời thả mình trôi theo dòng ý thức miên man về nhân thế.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp vừa qua đời ngày 20/3/2021 tại Hà Nội, sau một thời gian bệnh, hưởng thọ 71 tuổi (1950-2021). Ông được biết đến là một nhà văn tiêu biểu của Việt Nam, nổi lên vào giai đoạn “cởi trói văn nghệ”, khi tác phẩm “Tướng về hưu” của ông được phổ biến năm 1986 gây tiếng vang. Thời điểm này là lúc văn đàn Việt Nam có một dòng văn chương mới, phản ánh con người xã hội thực hơn là những gò bó trong ý thức chính trị. “Tướng về hưu” cùng với “Những thiên đường mù” của Dương Thu Hương, “Ly thân” của Trần Mạnh Hảo, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Thiên sứ” của Phạm Thị Hoài hay phim “Chuyện tử tế” của Trần Văn Thuỷ là theo dòng văn học đó, mà có những nhận định là dòng văn học phản kháng. Chỉ vài năm sau “cởi trói” thì văn học Việt Nam lại bị “trói lại”, nhưng tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả. Giáo sư Peter Zinoman, trưởng khoa Sử của Đại học Berkeley: “Điều nổi bật về Nguyễn Huy Thiệp là hầu như mọi người đều đồng ý rằng ông đã tạo nguồn cảm hứng cho giới độc giả tinh tường nhận ra ông là một nhà văn xuất sắc mang tính khai phá của thời hậu thuộc điạ. Việt Nam vừa mất đi một bậc thầy văn học thực sự.”. Qua truyền thông xã hội, đã có nhiều dòng trạng thái viết về nhà văn trên Face Book. “Nhà văn xuất hiện muộn màng ở tuổi gần 40 vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, chỉ với vài truyện ngắn đầu tay đã đủ làm cho văn đàn dậy sóng với giọng văn phũ phàng trần trụi mà vẫn thiết tha yêu cuộc sống của ông. Quả thật, đối với tôi NHT đúng là một hiện tượng của văn học Việt.”. “Ngay từ khi truyện ‘Tướng về hưu’ của ông xuất hiện trên báo Văn Nghệ vào ngày 20 tháng 6 năm 1987, Nguyễn Huy Thiệp đã làm chấn động người đọc không chỉ về nội dung truyện mà còn cả về bút pháp dửng dưng lạnh lùng đến rợn người để chuyên chở đến cho người đọc một thông điệp cũng rợn người không kém.”. “Nhớ lại ngày đó, khi đọc truyện này, rồi tiếp sau đó là nhiều truyện khác mà đặc biệt là truyện ‘Không có vua’, tôi đã bàng hoàng nhận ra rằng đang có một cái gì đó sai rất nghiêm trọng trong xã hội thời hậu chiến ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền Bắc, rằng các truyền thống văn hoá của Việt Nam đang bị phá hủy đến tận gốc rễ, và đồng thời cũng lờ mờ thấy được nguyên nhân sâu xa của vấn đề. Đến bây giờ thì nguyên nhân đó chắc chắn ai cũng đã thấy rõ, chẳng cần phải bàn thêm.”. “Tôi luôn phản đối việc thần thánh hóa người trần. Con người, dù anh có là ai, tài năng tới đâu, đức độ tới đâu, vẫn vô vàn khiếm khuyết. Nhưng tôi tin thần linh, cùng những huyền hoặc. Tôi nghĩ Nguyễn Huy Thiệp đã viết văn như thần viết. Truyện ông hay không phải do học tập cần cù rèn luyện. Thượng đế đã chọn ông…”. Berkeley nói chuyện và tham dự hội luận về văn học Việt Nam thời đổi mới. Tôi đã viết bài tường thuật về sự kiện này . Hôm nay tóm lược lại các nét chính. Năm đó nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua Mỹ là chuyến đi thứ hai. Lần này gây sôi nổi hơn chuyến trước vì cùng lúc ông có mặt tại Hoa Kỳ, một đoàn kịch nói từ Hà Nội đem vở “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ qua diễn tại vài đại học ở Quận Cam, thủ đô của người Việt ở Hoa Kỳ, mà ngày trình diễn đã có những người Việt biểu tình trước cửa nhà hát. Hôm nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nói chuyện ở Đại học Berkeley cũng có vài chục người biểu tình. Họ chống việc giao lưu văn hoá với chế độ cộng sản Việt Nam. Mở đầu buổi nói chuyện tại Đại học Berkeley, giáo sư sử học Peter Zinoman giới thiệu tiểu sử nhà văn và nhấn mạnh truyện ngắn “Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp, đã được chính ông dịch sang tiếng Anh, bị nhà nước coi là nói xấu chế độ, cùng những dòng văn chương khác như của Dương Thu Hương, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đăng đàn bằng tiếng Việt, giáo sư Zinoman dịch sang tiếng Anh, đề tài: “Quan hệ giữa thời thế với văn học”. Ông chỉ nói về thời thế và số phận người làm văn học tại Việt Nam, không nói về lịch sử. Theo Nguyễn Huy Thiệp anh hùng tạo thời thế là không có tính hiện thực. Thời thế tạo anh hùng mới đúng với số phận của nhà văn vì trong một nước nhược tiểu, yếu tố khách quan là chủ yếu, yếu tố chủ quan chỉ là phù trợ. Ông không coi truyện “Tướng về hưu” là tác phẩm xuất sắc nhất trong số 40 truyện ngắn và kịch mà ông đã viết về tình yêu, nỗi buồn, khao khát tự do và về bất lực của con người trước sự ngu dốt. Nguyễn Huy Thiệp kể cho người nghe câu chuyện về Ngô Thời Nhậm, một nhà thơ ở Thế kỷ 19 bị đồng bào mình bắt giam và đánh đau quá mà chỉ nói: “Gặp thời thế, thế thời phải thế”. Ông không muốn bình luận về câu nói đó, chỉ khẳng định một điều: “Trong thâm tâm, tôi đã và đang chống lại thời thế”. NHT: Trước hết phải đọc những tác phẩm của tôi. Các bạn nên đọc thơ Việt Nam. – “Vàng lửa”, “Kiếm sắc”, “Nguyễn Thị Lộ” trong đó có nhắc đến những nhân vật lịch sử như Gia Long, Quang Trung Nguyễn Huệ, Nguyễn Trãi mà theo những điều nhà văn viết ra là những tài liệu lịch sử do nhà văn sưu tầm được khi sống trên vùng thượng du Việt Bắc. Tôi không đồng ý với cách dựng nhân vật lịch sử đó. Xin hỏi nhà văn, những truyện đó là sự thật lịch sử hay hư cấu?. – Ông nói “Tướng về hưu” không phải là tác phẩm ưng ý nhất, nhưng đó là tác phẩm khiến ông nổi tiếng. NHT: “Tướng về hưu” chỉ là một món ăn đưa ra. Nhưng không phải là món ngon nhất. Tôi muốn viết về tình yêu như Roméo và Juliette. – Tôi mới qua Mỹ hơn một năm. Lúc còn ở trong nước có đọc các tác phẩm của ông. Cùng thời ông có Lưu Quang Vũ soạn vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” cũng mang tính phản kháng chế độ. Tại sao Lưu Quang Vũ bị giết cả nhà, còn nhà văn vẫn ung dung. Có phải cộng sản đưa nhà văn ra để đánh bóng chế độ?. NHT: Tôi không liên quan gì đến Lưu Quang Vũ cả. Mỗi người có một số phận. Xã hội tự nó như thế, không cần ai làm đẹp, đánh bóng. Bạn cứ viết đi rồi biết. Đứng trong sự nguy hiểm về tình cảm, về tài chánh và nguy hiểm về chính trị nữa. Tôi sợ nhất hiểm hoạ tình cảm và tài chánh. Chỉ hai thứ đó cũng đã đủ giết một nhà văn Việt Nam rồi. NHT: Chống thời thế cũng như chống lại số phận của tôi. Số phận con người như một giòng sông. Không đắp đê tìm cách chống nó thì nó cuốn phăng đi. Chúng ta chống lại nó nhưng vẫn bị nó cuốn đi. NHT: Số phận của chúng ta đều rất xấu. Cô cứ sống đi rồi cô sẽ hiểu điều đó. Cô không hiểu những thê thảm, đau đớn của một người danh tiếng. Năm hai mươi tuổi tôi có viết một câu chuyện về một chàng trai trẻ ở Hua Tát, sống cuộc đời tiếng tăm nhưng khi về già thì nói rằng: sống một cuộc đời bình thường là khó nhất. NHT: Những năm đầu rất thú vị. Có nhiều cơ hội tốt. Gần đây khi có khủng hoảng kinh tế Á châu thì có những khó khăn với các nhà văn Việt Nam. Riêng tôi năm năm đầu viết nhiều. Sau đó không viết được. Gần đây lại viết nhiều. Tôi đang tìm cách vượt lên như Việt Nam đang tìm cách vượt qua khó khăn. – Ông nói nước Việt Nam đi sau thế giới 50 năm. Vậy Việt Nam cần làm gì và cộng đồng thế giới cần làm gì?. NHT: Có lẽ phải là văn hoá. Không phải là kinh tế. Việt Nam cần cả một cộng đồng nhân hậu, lương thiện. Nhưng đấy là một mơ mộng ảo tưởng. – Trong “Tướng về hưu” có nhân vật Kim Chi là cô gái đẹp mà lấy anh chồng tên Tuân chẳng ra gì, như là: hoa nhài cắm bãi cứt trâu. Đó có phải là điển hình về phụ nữ Việt?. Kim Chi không phải là điển hình. Có nhiều người đàn bà Việt Nam cũng lấy chồng không ra gì. Nhưng vai trò của người đàn bà Việt Nam bây giờ tốt hơn so với thời trước. Trong hai mươi năm gần đây, phụ nữ Việt Nam được đi học, có kiến thức, được chồng kính nể hơn. – Tôi không hiểu biết nhiều về chính sách đổi mới. Tôi hỏi đơn giản và cũng muốn ông trả lời đơn giản là có tự do phát biểu ý kiến ở Việt Nam không?. – “Tướng về hưu” đưa ra hình ảnh một viên tướng, sau bao nhiêu năm chiến đấu, nay trở về với xã hội phải chứng kiến bao điều xấu, bao tệ nạn xã hội và cuối cùng ông đi tìm cái chết. So với mười năm trước khi “Tướng về hưu” ra đời, tình trạng xã hội Việt Nam bây giờ xấu hơn lúc đó, giống vậy hay khá hơn?. NHT: Tệ hơn trước. Có thể là vì trước đó cũng có những tệ nạn xã hội mà đã được che dấu đi. – Anh viết văn, Dương Thu Hương cũng là người viết văn, thế sao bà ấy bị theo dõi, rắc rối. Giữa anh và Dương Thu Hương có gì khác biệt?. NHT: Dương Thu Hương là người can đảm hơn tôi. Bà ấy có tham vọng chính trị. Tôi không can đảm bằng bà ấy nhưng có thể tôi khôn hơn bà ấy. NHT: Lúc trước có khó khăn. Mấy năm trước công an đã vào nhà tịch thu một số bản thảo. Đó là tâm tình, suy nghĩ của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khi ông nói chuyện tại Đại học Berkeley tháng 10/1998. Đã 23 năm qua, số phận nhà văn Việt từ “cởi trói” 1986 đến nay ra sao? Nguyễn Huy Thiệp mở quán ăn trong nước không thành công, xuất bản thêm vài tác phẩm nhưng không sâu sắc như trước. Bảo Ninh, Trần Mạnh Hảo không có thêm tác phẩm gây chú ý. Chỉ vì văn học lại bị “trói lại”. “Nghe nói Hội nhà văn sẽ đứng ra lo tang lễ. Tôi, một độc giả, một người bạn của ông trân trọng điều đó. Mong thay, sau khi mồ ông yên mả ông đẹp, linh hồn ông theo dòng sông trôi đi tìm thấy con gái thủy thần, người ta sẽ cấp phép in ấn – phát hành cho cuốn tiểu thuyết võ hiệp ông viết xong đã mấy năm nay, đã long đong hết nhà xuất bản này sang nhà xuất bản khác mà chưa có phép.”. Nguyễn Huy Thiệp: “Vàng lửa”, “Kiếm sắc” chỉ là những cảnh giác đối với xã hội * Đã 23 năm qua, số phận nhà văn Việt từ “cởi trói” 1986 đến nay ra sao? Nguyễn Huy Thiệp mở quán ăn trong nước không thành công, xuất bản thêm vài tác phẩm nhưng không sâu sắc như trước. Bảo Ninh, Trần Mạnh Hảo không có thêm tác phẩm gây chú ý. Chỉ vì văn học lại bị “trói lại”.
Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp (29 tháng 4 năm 1950 - 20 tháng 3 năm 2021) là nhà văn đương đại Việt Nam trong địa hạt kịch, truyện ngắn và tiểu thuyết với những góc nhìn mới, táo bạo. Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn (1986) nhưng được coi là người đạt đỉnh cao nghệ thuật của truyện ngắn với một loạt tác phẩm như: Tướng về hưu, Không có vua, Tuổi 20 yêu dấu, Những ngọn gió Hua Tát, Những người thợ xẻ, Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết. Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950 tại Thái Nguyên, quê ở huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Năm 1960, gia đình chuyển về quê, định cư ở xóm Cò, thôn Khương Hạ, xã Khương Ðình, huyện Thanh Trì (nay là phường Khương Đình, quận Thanh Xuân), Hà Nội. Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và, theo ông, bị đưa về làng dạy học tại Tây Bắc đến năm 1980, vì bố ông có làm việc với Pháp cho nên lý lịch ông bị xếp vào loại "không sạch".
Thái giám Cao Bồ Tát đã cả gan dám thông dâm với Phùng Hoàng hậu. Tên thái giám này đã cả gan dám thông dâm với Phùng Hoàng hậu, tức Phùng Nhuận, em gái cùng cha khác mẹ với Hoàng hậu Phùng Thanh, vợ của Hiếu Văn Đế. Trong lúc Hiếu Văn Đế đi trinh phạt mở rộng bờ cõi, hoàng hậu Phùng Nhuận với bản tính lẳng lơ vẫn đau đớn nỗi khát vọng được “yêu”. Tên thái giám Cao Bồ Tát khôi ngô, nhờ sự ma mãnh vượt qua vòng tịnh thân nhưng vẫn còn “của quý”, danh là thái giám nhưng thực chất vẫn là đàn ông. Khi biết thông tin này, Phùng Hoàng hậu đã âm thầm lén lút để thông dâm với Cao Bồ Tát. Chuyện động trời này dù nhiều cung nữ, thái giám biết nhưng không dám hé nửa lời với ai vì thế lực của Phùng Hoàng hậu quá lớn. Thế nhưng, chuyện qua lại của thái giám họ Cao với Phùng Hoàng hậu cuối cùng cũng đến tai vua Hiếu Văn Đế. Sau khi điều tra, biết là sự thật, ông ta nổi giận lôi đình, vờ như chưa biết chuyện gì để âm thầm lên kế hoạch trị tội người vợ dâm đãng. Hiếu Văn Đế ra lệnh cho bắt toàn bộ người của Cao Bồ Tát để tra khảo. Biết không thế giấu, thái giám họ Cao đã khai toàn bộ quá trình thông dâm với Phùng Hoàng hậu và nhận được sự trừng phạt thích đáng. Thái giám - hoạn quan vốn là những người đàn ông được đưa vào hậu cung làm nô bộc cho Hoàng đế, vì vậy dù có nhiều hoạn quan quyền lực khuynh đảo triều chính, song không có ai dám nhòm ngó ngôi thiên tử. Thế nhưng, trong lịch sử 3.000 năm của thái giám Trung Quốc vẫn có một người đường đường chính chính trở thành Hoàng đế - Tào Đằng, ông nội Tào Tháo. Tào Đằng (tự Quý Hưng) là con thứ 3 của Tào Tiết, từ nhỏ đã bị đưa vào cung làm hoạn quan thời kỳ An đế nhà Hán. Đặng Thái hậu, mẹ An đế thấy Đằng người tuổi còn trẻ lại trung thực, thì chọn làm người hầu cho thái tử đọc sách. Tào Đằng làm việc cẩn thận chu đáo nên rất được thái tử yêu quý, sau đó kết đôi với con gái họ Ngô, nhận con nhà Hạ Hầu làm con nuôi – tức Tào Tung, cha của Tào Tháo. Sau khi Thuận đế lên ngôi, Tào Đằng được nhận chức Trung thường thị. Làm việc hơn 30 năm đều rất cẩn thận, được hoàng đế rất ưu ái. Sau khi Hán Thuận đế băng hà, con trai mới vừa đầy 2 tuổi là Hán Xung Đế kế vị, chưa đầy một năm sau đã bị chết. Tào Đằng cùng các trung thần lập Lưu Trí (Hán Hoàn đế) lên ngôi, nhờ thế mà chức vị được thăng tới Đại trường thu - chức vị cao nhất của hoạn quan, lại còn được phong thêm Phí đình hầu. Sau khi Tào Đằng chết, con nuôi là Tào Tung (tức là cha của Tào Tháo) kế thừa tước vị. Thấy thế cuộc hỗn loạn, Tào Tung từ quan trở về Lạc Dương. Trên đường đi, người được giao nhiệm vụ hộ tống Tào Tung đã sai binh lính giết chết ông. Tào Tháo sau đó đã hai lần phát động binh mã đánh Từ Châu để trả thù cho cha mình. Năm 216, Tào Tháo ép Hán Hiến Đế ra chiếu phong mình làm Ngụy Vương, lập con thứ hai là Tào Phi làm thế tử. Năm 220, Tào Tháo chết, Tào Phi lên ngôi quyết định lật đổ nhà Hán, chính thức lên ngôi Hoàng đế, lập nên nhà Ngụy. Sau khi lên ngôi, Tào Phi truy tôn cha - Tào Tháo là Thái tổ Vũ Hoàng đế. Rồi mãi tới khi Tào Duệ, cháu của Tào Tháo kế vị mới truy tôn cho Tào Đằng làm Cao Hoàng đế, Tào Tung làm Thái Hoàng đế. Sau khi nhà Ngụy bị tiêu diệt, danh hiệu của Tào Tung, Tào Đằng, Tào Tháo đều được nhà Tấn giữ nguyên. Chính vì lý do này, Tào Đằng trở thành một trong số 6 vị Hoàng đế của nhà Tào Ngụy và cũng là hoạn quan duy nhất trong lịch sử được phong làm Hoàng đế. Thái giám đã lũng đoạn, thao túng triều đình và thảm sát nhiều người vô tội nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc là Ngụy Trung Hiền (tên thật là Lý Tiến Trung, người Túc Ninh, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc). Thời trẻ, Ngụy Trung Hiền nổi tiếng mê cờ bạc và phải trốn chủ nợ đến Bắc Kinh sau đó được tuyển vào cung làm thái giám. Thông minh, giỏi "nịnh hót" nên tên thái giám này được Khách Thị, vú nuôi của vua Hy Tông thương yêu và nâng đỡ. Con đường tiến thân của hắn càng thuận buồm xuôi gió khi vua Hy Tông lên ngôi. Ngụy Trung Hiền được phong làm Bỉnh bút Thái giám - đứng đầu các hoạn quan trong vương triều, được ở gần Hoàng thượng, phê đáp tấu chương, truyền đạt thánh chỉ. Hắn lôi kéo nhà vua trẻ vào các cuộc ăn chơi, bỏ bê triều chính. Ngụy Trung Hiền được vua ban cho hai chữ "Trung Hiền" quyền hành ngang với Tể tướng. Được vua Hy Tông tin tưởng giao cho việc trông coi Đông Xưởng, cơ quan đặc vụ của triều đình, thế lực của Ngụy Trung Hiền càng được củng cố và lớn mạnh. Ngụy Trung Hiền nắm mọi quyền lực trong triều bao gồm Đông Xưởng, Tây Xưởng, Nội Xưởng, khống chế việc triều chính, đưa người thân tín vào nắm các vị trí quan trọng trong nội các. Hắn được coi là người quyền lực thứ hai sau vua Hy Tông. Nội các triều Minh trở thành cơ quan của riêng nhà họ Ngụy. Nhiều quan lại trong triều bái lạy hắn để được thăng quan, thậm chí các quan tranh nhau nhận hắn là cha, ông nội. Nắm quyền lực trong tay, Ngụy Trung Hiền càng hách dịch, tàn nhẫn. Hắn cài cắm mật vụ khắp nơi, tố cáo những người chống đối. Những ai không theo phe hắn đều bị loại ra khỏi nội các, thậm chí bị sát hại. Ngụy Trung Hiền sử dụng thuộc hạ cướp bóc của dân cống nạp cho hắn.
Ngụy Trung Hiền
Ngụy Trung Hiền (chữ Hán: 魏忠賢; 1568 - 16 tháng 10 năm 1627) là một trong những đại hoạn quan nổi tiếng nhất và nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người cầm đầu "Đảng hoạn quan" dưới thời Minh Hy Tông trong việc lũng đoạn triều chính, thâu tóm mọi quyền lực trong tay, đồng thời tiêu diệt tất cả những người không cùng phe cánh với mình một cách không khoan nhượng. Triều Minh dưới thời Hy Tông suy tàn một cách trầm trọng một phần lớn là do Ngụy Trung Hiền. Ngụy Trung Hiền là người Túc Ninh tỉnh Hà Bắc, lúc đầu tên là Ngụy Tiến Trung. Lúc trẻ ông đã máu mê cờ bạc, ăn chơi trác táng, có vợ và một con trai. Vì thua hết tiền, nợ nần chồng chất, ông bèn trốn vào tiệm rượu, bị bọn đòi nợ chửi mắng, đánh đập, thấy hổ thẹn, phẫn uất cùng cực mà quyết định tự thiến rồi thay tên đổi họ là Lý Tiến Trung, trốn đến Bắc Kinh và được tuyển vào cung năm 1589, đổi lại tên cũ là Ngụy Tiến Trung. Tiến Trung nương dựa vào làm thủ hạ của vú nuôi vua Hy Tông là Khách thị (客氏), lời nói nịnh nọt nên rất được Khách thị thương yêu.
Tuy nhiên dù được mọi người gọi với cách thức nào thì đây là dòng máy có khả năng chuyển đổi năng lượng, có thể biến đổi các dòng cơ năng thành điện năng để phục vụ nhu cầu của người dùng và phải luôn đảm bảo được dưới dạng điện xoay chiều. Như khái niệm lý thuyết máy phát điện xoay chiều cũng đã nói như trên. Máy phát điện xoay chiều là một thiết bị vô cùng hữu ích trong đời sống hàng ngày. Bởi lẽ chúng có thể cung cấp lượng điện năng cần thiết khi nguồn điện chính bị hư hỏng. Bạn thử nghĩ mà xem hiện nay nhu cầu sử dụng các thiết bị điện năng đang ngày càng trở nên phổ biến hơn. Ví dụ như nồi cơm, điều hòa, tủ lạnh, máy giặt, tivi, máy tính, máy nước nóng. Vì thế một khi nguồn điện bị ngắt thì mọi thứ dường như ngưng đọng. Mọi quá trình sinh hoạt bình thường đều trở nên trì trệ. Hơn nữa nếu mà trong các ngành công nghiệp lớn chẳng hạn. Một khi bị mất điện thì bao nhiêu hàng hóa trở nên hư hỏng hết. Cho nên máy phát điện xoay chiều chính là giải pháp tối ưu nhất để hạn chế vấn đề ấy. Máy phát điện xoay chiều được chia thành 2 loại chính. Bao gồm máy phát điện xoay chiều 1 pha và máy phát điện xoay chiều 3 pha. Tuy nhiên trước tiên bạn hãy cùng tìm hiểu về máy phát điện xoay chiều 1 pha nhé. Máy phát điện xoay chiều 1 pha được cấu tạo từ 2 bộ phận chính. Trong đó bao gồm phần cảm và phần ứng:. Phần cảm hay còn được gọi là ROTO. Chúng có chức năng tạo ra từ thông biến thiên thông qua hệ thống nam châm quay. Dạng nam châm này thường là nam châm điện. Phần ứng thì bao gồm hệ thống các cuộn dây điện. Chúng có kích thước tương đương nhau và cố định trên một vòng tròn. Theo lý thuyết về máy phát điện xoay chiều thì phần ứng luôn đứng yên nên được gọi là STATO. Nguyên lý hoạt động của máy phát điện 1 pha rất đơn giản. Một khi ROTO quay từ thông chạy qua các cuộn dây bắt đầu biến thiên. Lúc này trong cuộn dây sẽ xuất hiện một lượng hiệu suất điện động cảm ứng. Suất điện động này sẽ được chuyển ra bên ngoài để sử dụng. Về lý thuyết máy phát điện xoay chiều 3 pha này bạn có thể dễ dàng nắm gọn. Cụ thể máy phát điện xoay chiều 3 pha là dòng máy bao gồm 1 hệ thống có 3 dòng điện xoay chiều. Dòng điện này có cùng biên độ, cùng tần số tuy nhiên chúng lại lệnh pha với nhau. Độ lệch pha này tương đương dự kiến khoảng 2/3. Hơn nữa riêng 3 cuộn dây của phần ứng cũng được thiết kế lệch nhau 1/3 vòng trên STATO. ROTO là 1 nam châm điện được nuôi dưỡng bằng các dao động 1 chiều chúng có thể xoay quanh trục cố định. Việc xoay quanh trục như vậy nhằm tạo ra được một lượng từ trường biến thiên phù hợp. STATO bao gồm 3 cuộn dây có thiết kế giống hệt nhau từ kích thước cho đến số vòng. Chúng được bố trí ngay trên vòng tròn lệch với nhau 1 góc khoảng chừng 120 độ. Ngoài ra máy phát điện 3 chiều còn có bộ chỉnh lưu, bạc lót, giá đỡ, bộ điều chỉnh điện. Kết hợp với cánh quạt, puli và các nắp đậy. Vận hành dựa trên hiện tượng cảm ứng điện từ, hoạt động theo một nguyên lý được lắp đặt sẵn. Khi nam châm bắt đầu quay trong cuộn dây thì điện áp cũng sẽ hình thành, chúng được sinh ra ngay ở giữa 2 đầu cuộn dây. Phần điện áp này sau khi sinh ra sẽ tạo nên một dòng điện xoay chiều. - Ở máy phát điện xoay chiều 1 pha thì tùy thuộc vào công suất của máy mà có stato và rôt khác nhau. Đối với máy phát điện xoay chiều 1 pha công suất thấp thì phần cảm sẽ ứng với stato (phần đứng yên), phần ứng sẽ ứng với roto (phần quay), đối với các dòng máy phát điện xoay chiều công suất cao thì sẽ được bố trí ngược lại. Trong khi đó ở máy phát điện 3 pha thì phần cảm luôn là roto và phần ứng là stato. - Dải công suất của máy phát điện xoay chiều 3 pha có thể lên tới vài nghìn KVA trong khi máy phát 1 pha thường chỉ có các dòng máy công suất nhỏ. - Máy phát điện 3 pha có thể cung cấp điện năng tiêu thụ cho các thiết bị điện 3 pha hoặc 1 pha ( cần có thiết bị chia pha ). Trong khi đó máy phát điện xoay chiều 1 pha chỉ có thể cung cấp cho các nguồn tải là các thiết bị điện 1 pha. - Ở máy phát điện xoay chiều 3 pha phần ứng luôn là 3 cuộn dây giống nhau về kích thước, số vòng và được đặt lệch 120 độ. Ở máy phát 1 pha số cuộn dây thay đổi theo công suất máy. Mỗi loại máy phát điện xoay chiều sẽ có ưu nhược điểm riêng đáp ứng từng nhu cầu sử dụng khác nhau. Việc lựa chọn máy phát điện 1 pha hay 3 pha còn tùy thuộc vào nguồn tải của bạn là 1 pha hay 3 pha và cả môi trường sử dụng. - Đối với nhu cầu sử dụng máy phát điện trong gia đình hay các văn phòng công ty vừa và nhỏ thì máy phát điện 1 pha là lựa chọn thích hợp. Bởi dòng máy này có giá thành phải chăng, có thể sử dụng trực tiếp với các nguồn tải 1 pha mà không cần phải qua thiết bị chuyển đổi. - Đối với môi trường cần tiêu thụ lượng lớn điện năng như các xí nghiệp, khu chế xuất, bệnh viện,. thì máy phát điện xoay chiều 3 pha mới có thể cung cấp đủ điện năng cần thiết.Các dòng máy phát điện công suất lớn có thể hoạt động liên tục trong thời gian dài giúp bổ sung việc thiếu điện hoặc mất điện đột xuất đảm bảo cho các hoạt động diễn ra liền mạch tránh gây ra thiệt hại không đáng có. Bình Chánh Củ Chi là một trong những khu vực thường xuyên gặp phải sự cố mất điện nhiều nhất. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu sử dụng điện quá lớn nên dẫn đến tình trạng mất điện, vì thế ở Bình Chánh thường xuyên xảy ra mất điện. Trong thời đại hiện nay có rất nhiều tổ chức và cá nhân đều sử dụng máy phát điện, đây là là cơ hội không nên bỏ qua cho bạn có thêm thu nhập cực khủng khi kinh doanh máy phát điện. Muốn tìm hiểu chi tiết hơn thì hãy xem bài viết bên dưới. Nhà nghỉ, khách sạn luôn có một lượng khách rất đông trong mùa du lịch. Vì vậy lượng điện được sử dụng sẽ rất là lớn, điều này có thể sẽ gây ra một vài sự cố không đáng có.
Máy phát điện xoay chiều
Máy phát điện xoay chiều là một máy phát điện chuyển đổi năng lượng cơ học thành điện năng dưới dạng của điện xoay chiều. Vì lý do chi phí và đơn giản, hầu hết các phát điện sử dụng một từ trường quay với một thiết bị cố định. Đôi khi người ta cũng sử dụng một máy phát điện xoay chiều tuyến tính có phần bao ngoài quay còn từ trường lại đứng yên. Về nguyên tắc, bất kỳ máy phát điện tạo ra điện xoay chiều nào cũng có thể được gọi là một phát điện xoay chiều, nhưng thường là từ này đề cập đến các máy làm quay trục do ô tô và các động cơ đốt trong điều khiển. Máy phát điện xoay chiều sử dụng nam châm vĩnh cửu để tạo từ trường được gọi là magneto. Máy phát điện xoay chiều dùng trong nhà máy điện được thúc đẩy bằng tuốc bin hơi nước được gọi là máy phát điện tuốc bin. Các máy phát điện 3 pha 50 Hz hay 60 Hz loại lớn trong các nhà máy điện sản xuất ra hầu hết năng lượng điện của thế giới, sau đó điện năng được hệ thống điện lưới phân phối.
Ngoại hạng Anh là giải đấu hấp dẫn nhất thế giới với giá trị bản quyền truyền hình cao chót vót. Trải qua lịch sử hàng trăm năm tồn tại và phát triển, đã có nhiều đội bóng đá vô địch tại giải đấu Premier League. Dưới đây là danh sách các đội vô địch Ngoại hạng Anh nhiều nhất mà chúng tôi tổng hợp được. Cùng theo dõi nhé!. Giải bóng đá Ngoại hạng Anh có tên tiếng anh Là Premier League, là hạng đấu cao nhất của các giải bóng đá ở Anh. Giải đấu được thành lập vào năm 1992 và hiện tại là giải đấu bóng đá được xem nhiều nhất trên thế giới. Quỷ đỏ là đội bóng giàu truyền thống nhất nước Anh và đội bóng vô địch nhiều nhất giải Premier League. Liverpool là đội giàu thành tích thứ 2 trong lịch sử giải quốc nội Anh với 18 lần vô địch: 1900–01, 1905 – 06, 1921 – 22, 1922 – 23, 1946 – 47, 1963 – 64, 1965 – 66, 1972 – 73, 1975 – 76, 1976 – 77, 1978 – 79, 1979 – 80, 1981 – 82, 1982 – 83, 1983 – 84, 1985 – 86, 1987 – 88, 1989 – 90. Nhưng kể từ Premier League ra đời, đội chủ sân Anfield chưa một lần được hưởng niềm vui chiến thắng. Đặc biệt, họ đã tiến rất gần đến ngai vàng mùa giải 2018-19, chỉ kém nhà ĐKVĐ Manchester đúng 1 điểm. Vì vậy, đây là nỗi ám ảnh và cũng là mục tiêu lớn nhất mà Liverpool hướng tới ở mùa giải tới. Ngoài ra, thành tích giành cúp vàng năm 2004, vô địch và bất bại suốt 38 vòng đấu, đến bây giờ vẫn là kỷ lục không đội bóng nào tái lập. Nhưng kể từ đó tới nay, CLB liên tục trải qua những thăng trầm, mất đi nhiều trụ cột quan trọng và phải cạnh tranh với những thế lực nổi lên như Man City, Chelsea hay Tottenham. Mùa giải vừa rồi, Villa xếp thứ 5 tại Championship và giành chiến thắng trận chung kết play-off với Derby, qua đó trở lại Premier League sau 3 năm vắng bóng. Hiện giờ gần như mất tích ở đấu trường, liên tục lên rồi xuống hạng ở giải đấu cao nhất nước Anh Premier League. Mùa giải vừa qua, Sunderland kết thúc ở vị trí thứ 5, vào đến trận chung kết play-off nhưng thua Charton trong cuộc chiến thăng hạng Championship. Đương kim vô địch của Premier League, và là đội bóng mạnh nhất nước Anh trong những năm gần đây, Man City liên tiếp gặt hái những thành công với 6 lần vô địch: 1936–37, 1967–68, 2011–12, 2013–14, 2017–18, 2018–19. Mùa giải vừa qua, Man xanh có 3 chức vô địch giải quốc nội, được cho là sẽ thống trị bóng đá Anh trong vài năm tới. Là một trong những đội bóng được nhắc đến nhiều nhất đầu thế kỷ 21 với 6 lần vô địch: 1954–55, 2004–05, 2005–06, 2009–10, 2014–15, 2016–17. Họ vừa trải qua một mùa bóng thành công với chức vô địch Europa League, nhưng liên tục nhận tổn thất lớn về lực lượng. Newcastle cán đích ở vị trí thứ 13 trên bảng xếp hạng trong mùa giải vừa qua. Là một trong những CLB lâu đời nhất thế giới với 4 lần vô địch giải Ngoại hạng Anh: 1902–03, 1903–04, 1928–29, 1929–30. Cho đến nay, đây vẫn là CLB duy nhất đến từ giải hạng hai mà vô địch một danh hiệu lớn của nước Anh. Tuy nhiên, tại giải đấu Ngoại hạng Anh đội bóng xuống hạng và chưa có dấu hiệu trở lại. Như vậy, bài viết trên guadalajaracultura.com đã cung cấp đến bạn đọc danh sách các đội bóng vô địch Ngoại hạng Anh nhiều nhất. Mong rằng những kiến thức mà chúng tôi cung cấp sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về bóng đá thế giới.
Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2008–09
Giải bóng đá ngoại hạng Anh mùa bóng 2008–09 (tên chính thức là Barclays Premier League) là Giải bóng đá ngoại hạng Anh lần thứ mười bảy kể từ khi tổ chức lần đầu tiên vào năm 1992. Giải diễn ra từ ngày 16 tháng 8 năm 2008 đến ngày 24 tháng 5 năm 2009. Đội đương kim vô địch Manchester United bảo vệ chức vô địch lần thứ 10. Có tổng cộng 20 đội tham dự giải bao gồm 17 đội đã tham dự giải năm trước và 3 đội lên từ hạng nhất. Bàn thắng đầu tiên do cầu thủ Samir Nasri của câu lạc bộ Arsenal ghi vào lưới đội mới lên hạng West Bromwich Albion vào phút thứ tư của trận đấu diễn ra vào ngày 16 tháng 8. Cầu thủ Gabriel Agbonlahor của câu lạc bộ Aston Villa là người đầu tiên ghi hat-trick (3 bàn 1 trận) trong trận đấu với Manchester City ngày 17 tháng 8. Manchester United kết thúc mùa giải bằng trận hòa có tỉ số 0–0 với Arsenal vào ngày 16 tháng 5 năm 2009. Đây là lần thứ 11 họ vô địch Premier League qua đó san bằng 18 lần vô địch các giải bóng đá cao nhất nước Anh với Liverpool.
Các khoản chi phí có thể phân thành 2 loại: Chi phí cố định và chi phí biến đổi. là các khoản chi phí không thay đổi tùy thuộc vào quy mô sản xuất hoặc mức doanh số như tiền thuê nhà, thuế tài sản, tiền bảo hiểm hoặc chi trả lãi vay. là những khoản chi phí thay đổi theo quy mô sản xuất hoặc doanh số như lao động, nguyên liệu hoặc chi phí hành chính. Chi phí biến đổi cộng chi phí cố định bằng tổng chi phí sản xuất. Trong khi tổng chi phí biến đổi thay đổi cùng với sự gia tăng của sản xuất hoặc doanh số thì tổng chi phí cố định không đổi. Giá cả của sản phẩm hoặc dịch vụ phải cao hơn chi phí biến đổi để sản xuất và bán sản phẩm hoặc dịch vụ đó. Tất cả những đơn đặt hàng sẽ góp phần thanh toán các khoản chi phí cố định và tạo ra lợi nhuận. Trong trường hợp không thể định giá cao hơn, ví dụ như nếu muốn có thêm một khách hàng mới - người rất quan tâm tới giá cả thì có thể đưa ra mức giá thấp hơn giá thông thường nhưng ít nhất là phải bằng chi phí biến đổi. Ví dụ, một doanh nghiệp sản xuất xà phòng có chi phí biến đổi là 6.000 đồng / gói và tổng chi phí cố định là 400.000.000đ mỗi năm. Nếu mỗi năm doanh nghiệp bán được 160.000 gói xà phòng thì mỗi gói xà phòng bán ra cần ít nhất là 2.500đ. (400.000.000đ/160.000) để góp phần bù đắp chi phí cố định nếu không muốn thua lỗ. Nếu doanh nghiệp bán xà phòng với giá thấp hơn 6.000đ/gói (chi phí biến đổi của mỗi gói), thì sẽ bị lỗ trên mỗi gói bán ra và không thể bù đắp được chi phí cố định. Bán 160.000 gói với mức giá 6.000đ/gói, công ty sẽ bị lỗ 400.000.000đ mỗi năm và không thể bù đắp được chi phí cố định. Nếu doanh nghiệp bán với giá 8.500đ thì sẽ đạt tới điểm hòa vốn tại mức doanh số bán 160.000 gói được bán ra, (8.500đ - 6.000đ= 2.500đ) x 160.000 = 400.000.000đ = chi phí cố định). Bán xà phòng với giá 10.000đ, doanh nghiệp sẽ có lời khi bán được 80.000 gói, (10.000đ - 6.000đ = 4.000đ) x 160.000 = 640.000.000đ (cao hơn 240.000.000đ so với chi phí cố định). Nếu bán được nhiều hơn hoặc ít hơn 80.000 gói, thì lợi nhuận sẽ cao hơn hoặc thấp hơn tương ứng.
Chi phí cố định
Chi phí cố định (trong kinh tế học vi mô) hay Định phí (trong kế toán quản trị) là những phần chi phí kinh doanh không thay đổi theo quy mô sản xuất, nếu xét trong một khuôn khổ công suất sản xuất nhất định. Ví dụ, tiền thuê cửa hàng của một doanh nhân có thể không phụ thuộc vào doanh thu hoặc một nhà sản xuất đồ may mặc phải trả một khoản tiền thuê mặt bằng cố định, không phụ thuộc vào sản lượng quần áo ông may được. Trong khi đó chi phí khả biến (biến phí) có thể tăng hay giảm cùng với mức tăng giảm sản lượng sản xuất. Ví dụ như chi phí mua nguyên vật liệu, tiền lương cho công nhân. Cùng với chi phí khả biến, chi phí cố định (ký hiệu FC) là một trong hai thành phần của tổng chi phí. Trong công thức tính đơn giản chi phí tổng cộng = chi phí cố định + chi phí biến đổi. Trong kinh tế học vi mô và kinh doanh còn có các khái niệm về chi phí trung bình và chi phí cận biên liên quan đến các khái niệm chi phí cố định và chi phí thay đổi.
Thẻ điểm cân bằng – Balanced Scorecard (viết tắt là BSC) là một công cụ để quản lý chiến lược kinh doanh một cách hiệu quả. Những doanh nghiệp xây dựng một sơ đồ phân tầng thẻ điểm cân bằng thường hoạt động tốt hơn nhiều so với các công ty còn lại. Mô hình thẻ điểm cân bằng được nói đến đầu tiên bởi Tiến Robert Kaplan và Tiến sĩ David Norton. Tiến Robert Kaplan giảng dạy tại Trường kinh doanh Harvard còn Tiến sĩ David Norton là người sáng lập và giám đốc của The Palladium Group – tổ chức của các nhà tư vấn chiến lược có trụ sở tại Hoa Kỳ. Tiến sĩ Robert Kaplan và David Norton lần đầu tiên công bố các nghiên cứu của mình về Balanced Scorecard tại một bài báo trên Tạp chí kinh doanh Harvard với tiêu đề “The Balanced Scorecard—Measures that Drive Performance” vào năm 1992. Bài báo nghiên cứu này đã thu hút đông đảo sự quan tâm của các nhà kinh tế, phân tích chiến lược trên toàn thế giới. Bốn quan điểm chủ chốt trong BSC.Quan điểm tài chính.Quan điểm khách hàng.Quy trình nội bộ.Quy trình năng lực.Sự hài lòng của nhân viên.Năng suất lao động. 6 lợi ích của những doanh nghiệp lập chiến lược BSC.Có tầm nhìn và hoạch định chiến lược tốt hơn.Truyền thông tốt hơn.Liên kết đội ngũ làm việc bền vững.Quản lý tốt và ra quyết định nhanh hơn.Dễ dàng theo dõi các chỉ số.Làm việc tập trung vì một mục tiêu. Có nhiều định nghĩa về thẻ điểm cân bằng, tuy nhiên về cơ bản thẻ điểm cân bằng (Balanced Scorecard) viết tắt: BSC là một công cụ sử dụng để đo lường hiệu quả của quá trình hoạt động so với các kế hoạch chiến lược do công ty đề ra trước đó. Thẻ điểm cân bằng thường được sử dụng trong quá trình lập kế hoạch kinh doanh để đảm bảo mọi nỗ lực hoạt động của công ty phù hợp với chiến lược và tầm nhìn tổng thể của doanh nghiệp. Thông qua thẻ điểm cân bằng, doanh nghiệp hoàn toàn có thể đánh giá chính xác quy trình hoạt động thông qua các con số, bảng dữ liệu thực tế với 4 khía cạnh chủ đạo cho sự sống còn bao gồm: Tài chính, Quy trình kinh doanh, Khách hàng, Năng lực tổ chức. Thông qua BSC, doanh nghiệp có thể liên kết tầm nhìn sứ mệnh với các mục tiêu cụ thể trong dài hạn, phương pháp kinh doanh, chỉ tiêu và kế hoạch chiến lược. Về cơ bản, BSC được chia thành 4 hạng mục (hay còn gọi là 4 quan điểm) và nó rất quan trọng đối với sự thành bại của bất kỳ doanh nghiệp nào. Đối với tất cả các doanh nghiệp thì mục tiêu lớn nhất đó là doanh thu và lợi nhuận. Chính vì vậy trong tất cả các quan điểm, tiền bạc luôn được xếp tại vị trí số một. Tất cả mục tiêu, hoạt động nào mang lại nguồn thu cho doanh nghiệp đều được xếp nằm trong mục tài chính. Tăng biên độ lợi nhuận / sản phẩm (tăng giá bán, giảm giá thành sản xuất). Mục tiêu của quan điểm tài chính đó là làm thế nào để tạo ra lợi nhuận trong tương lai, tăng trưởng như thế nào, nó sẽ tạo ra bao nhiêu lợi tức cho nhà đầu tư. Những dữ liệu của tài chính thường được nhìn nhận qua quá khứ của doanh nghiệp, năm trước có được bao nhiêu thị phần, doanh thu ra sao và năm nay sẽ thế nào. Tăng trưởng dự tính…. Một thước đo khác của tài chính đó là lưu lượng tiền mặt doanh nghiệp có trong tay hoặc tổng số tài sản của doanh nghiệp/ nợ vay. Nó thể hiện nguồn lực của doanh nghiệp trong mắt các nhà đầu tư và năng lực cạnh tranh trên thị trường. Mục này tập chung chủ yếu vào vấn đề khách hàng, khách hàng có thể là các nhà phân phối hoặc người tiêu dùng cuối. Khi các mục tiêu tài chính đã được thiết lập, phần tiếp theo đó là điều chỉnh về hạng mục khách hàng của doanh nghiệp. Lúc này doanh nghiệp cần biết chính xác được mình sẽ mang lại những giá trị gì cho khách hàng, làm cách nào để có được họ, họ đang ở đâu trên thị trường. Độ bao phủ, nhận diện thương hiệu trên kênh Marketing online (hoặc truyền thống) ra sao. Ở góc độ khách hàng trong BSC, các nhà hoạch định tập trung chủ yếu vào việc xác định tập khách hàng đích, cách tiếp cận họ như thế nào, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường… Thước đo cốt lõi thường sẽ tập trung trong các vấn đề như: duy trì nhóm khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới, khả năng sinh lời trên mỗi khách hàng. Được rồi, sau khi đã thống kê đưa ra được 2 thước đo phía trên tiếp theo là quy trình nội bộ. Doanh nghiệp cần thực hiện các quy trình nào để có được khách hàng và đạt được các mục tiêu tài chính đã đề ra. Nếu không vạch ra các quy trình để thực hiện hai mục tiêu tài chính, khách hàng thì tất cả nó chỉ là viễn cảnh được vẽ ra trên giấy. Mỗi doanh nghiệp đều hướng đến một tập khách hàng đích riêng, cho nên quy trình thường không hoàn toàn giống nhau. Một số gạch đầu dòng ví dụ về quy trình nội bộ cần thiết…. Quy trình nội bộ là cách để các nhà quản lý nắm bắt và điều tiết toàn bộ hoạt động trong tổ chức. Và quy trình đó phải nhất quán, xuyên suất trong toàn bộ hệ thống công ty. Vấn đề lớn nhất trong quy trình nội bộ đó là kiểm soát hoạt động của tổ chức, việc yêu cầu các bộ phận thực hiện đúng các quy trình giúp doanh nghiệp có thể tăng chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Quy trình này thường phải được theo dõi và kiểm soát hàng ngày, hàng tuần. Để đạt được kết quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần thực sự chú ý tới hai yêu tố then chốt đó là nhu cầu của khách hàng đối với dịch vụ sản phẩm và chất lượng dịch vụ/ sản phẩm từ nhà cung cấp. Một số tài liệu còn gọi quy trình này là quy trình học tập và phát triển, quan điểm này tập trung vào năng lực của con người, thành viên đội nhóm trong doanh nghiệp. Các chỉ số được lấy làm thước đo trong quan điểm năng lực thường bao gồm: sự hài lòng của nhân viên, khả năng và năng suất lao động trong đội ngũ nhân sự, văn hóa doanh nghiệp và sự thỏa mãn của nhân sự, sự gắn kết… Ví dụ cơ bản. Sự hài lòng của nhân viên sẽ giúp năng suất lao động tăng lên rất nhiều, yếu tố này quyết định tới tinh thần làm việc trong đội ngũ, thái độ đối với đồng nghiệp và khách hàng của người lao động. Có thể đo lường giá trị này thông qua các cuộc khảo sát, phỏng vấn trực tiếp hoặc quan sát cách mà nhân viên làm việc. Năng suất lao động quyết định đến sản lượng sản phẩm trên mỗi nhân viên, sản lượng lao động có thể là các khoản vay được thực hiện, số sản phẩm hoàn thành, tổng số hồ sơ được thực hiện trong một thời gian đo lường nhất định. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, những doanh nghiệp tạo ra được quy chuẩn BSC thường có khả năng hoạt động tốt hơn những doanh nghiệp còn lại với 6 lý do cơ bản sau. BSC giúp doanh nghiệp có được một quy chuẩn hoạt động với tầm nhìn chiến lược rộng hơn, nó có thể giúp các nhà lãnh đạo xác đinh được toàn bộ các hoạt động trong từng bộ phận của doanh nghiệp, phân tích chúng và tìm ra các điểm yếu, điểm mạnh và điều chỉnh một cách hợp lý. Việc tạo ra một bản đồ BSC sẽ khiến doanh nghiệp hoạt động đồng bộ hơn, tạo ra được hiệu suất lao động tốt hơn đối với nhân viên và giữa các bộ phận. Quy trình sẽ giúp đội nhóm, nhân viên hiểu được rõ hơn về văn hóa, mục tiêu trong tương lai của doanh nghiệp. Nó như vẽ ra một bức tranh toàn cảnh khiến con người có thêm động lực làm việc và gắn kết. Việc tạo ra một đích đến trong tương lai sẽ khiến đội ngũ có thể hiểu nhiều hơn về tầm nhìn của doanh nghiệp, tâm huyết làm việc tăng cao, mang văn hóa doanh nghiệp truyền thông ra bên ngoài. Quy trình BSC giúp các tổ chức vạch ra được các mục tiêu chiến lược cho sự thành công, nó khiến nhân sự có thể nhìn nhận được “viễn cảnh của tương lai”. Tạo ra nhiều động lực làm việc hơn, gắn kết đội nhóm lao động vì mục tiêu chung. Việc quản lý thông qua BSC sẽ khiến các nhà lãnh đạo tập trung hơn vào các mục tiêu bởi họ chính là người tạo ra nó và hiểu rõ về nó. Các nhà quản lý sẽ thấy được các chỉ số được đo lường và biết được “lỗi đang sảy ra ở đâu”. Từ đó có thể hiệu chỉnh và đưa ra các quyết định sửa đổi, bổ xung một cách nhanh chóng. Các chỉ số tiêu chuẩn được thể hiện rõ ràng, minh bạch trong mọi báo cáo. Nó giúp các cấp quản lý trong hệ thống doanh nghiệp có thể quan sát một cách trực qua cho từng bộ phận riêng biệt. Các báo cáo sẽ tập trung vào các vấn đề mấu chốt như việc triển khai chậm chạp một kế hoạch đang vướng mắc ở giai đoạn nào, hiệu quả của một phòng ban ra sao… Việc này hết sức quan trọng, giúp các nhà quản lý có thể nhìn nhận và giám sát các bộ phận thực hiện kế hoạch của họ. Việc hướng nhân sự, đội nhóm tổ chức làm việc theo một đích đến không hề đơn giản, nó đòi hỏi rất nhiều yếu tố. Khi cả một tập thể làm việc hăng say vì một mục tiêu chung nó tạo ra hiệu quả vô cùng to lớn, giúp doanh nghiệp phát triển bền vững nhanh chóng. Trong khi nhiều doanh nghiệp ưu tiên thứ tự của 4 loại quy trình trong thẻ điểm cân bằng thì có những doanh nghiệp khác lại vận dụng nó một cách linh hoạt hơn bằng cách loại bỏ hoặc lông ghép các chỉ tiêu với nhau. Ví dụ với các tổ chức phi lợi nhuận, họ có thể loại bỏ quan điểm tài chính. Nhưng các tổ chức này vẫn tồn tại một yếu tố đó là chi phí quản lý. Trong trường hợp này họ có thể đưa yếu tố chi phí vào quan điểm quy trình nội bộ của doanh nghiệp. Kể cả đối với các doanh nghiệp cơ bản, họ không nhất thiết phải tuân thủ theo các bước của quy trình BSC, có nhiều doanh nghiệp đặt mốc số 1 cho thẻ khách hàng, mốc số 2 cho tài chính, nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp thực hiện ngược lại. Cho nên, doanh nghiệp không cần cứng nhắc dập khuân tuần tự theo các bước như ở trên. Có thể linh hoạt điều chỉnh các thẻ điểm làm sao cho phù hợp nhất với quy trình và mô hình kinh doanh của mình. Kênh Blog chia sẻ thông tin về SEO và kinh doanh Online. Biznow hoan nghênh quý bạn là các Bloger, nhà văn tự do, các doanh nghiệp cùng lĩnh vực hợp tác xây dựng nội dung chia sẻ nhiều các kiến thức và kinh nghiệm bổ ích tới người dùng. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để nhận các chính sách hợp tác nội dung mang lại nhiều lợi ích nhất có thể.
Bảng điểm cân bằng
Bảng điểm cân bằng (tiếng Anh: Balanced Scorecard - BSC) là phương pháp quản lý hiện đại dựa trên mục tiêu, theo đó định hướng phát triển của doanh nghiệp được thể hiện bằng các chỉ tiêu, các mục tiêu được tổ chức đó xây dựng một cách hài hòa, cân đối dựa trên các ưu tiên quan trọng của tổ chức, doanh nghiệp. Hệ thống này giúp định hướng hành vi của toàn bộ các hệ thống trong công ty - giúp mọi người cùng hướng tới mục tiêu chung cũng như sự phát triển bền vững của doanh nghiệp và làm cơ sở cho hệ thống quản lý và đánh giá công việc. Khái niệm Bảng điểm cân bằng trong ngành kế toán quản trị đã tạo lập nên điểm khởi đầu cho khái niệm về mục tiêu tổng thể của một doanh nghiệp là tạo ra giá trị kinh tế dài hạn. Do vậy, mặc dù những đo lường tài chính về hiệu quả của doanh nghiệp hàng quý, hàng năm sẽ vẫn được sử dụng để cung cấp một báo cáo về hiệu quả hoạt động hiện thời, nhưng những thước đo tài chính này cần phải được bổ sung bằng những nhân tố tác động tới hiệu quả tài chính dài hạn.
Vương tử Andrew, Công tước xứ York (tên đầy đủ: Andrew Albert Christian Edward, sinh vào ngày 19 tháng 2 năm 1960), là người con thứ ba và cũng là con trai thứ hai của Nữ vương Elizabeth II và Vương tế Philip, Công tước xứ Edinburgh. Vào thời điểm ông ra đời, ông đứng thứ 2 trong danh sách thừa kế các ngai vàng của Vương quốc Anh và Khối thịnh vượng chung. Vương tử Andrew ngoài các tước hiệu hoàng gia như: Vương tử, Công tước xứ York thì ông còn là chuẩn đô đốc Hải quân Hoàng gia Anh, trong đó ông phục vụ như là một phi công máy bay trực thăng hoạt động nhiệm vụ và hướng dẫn. Ông từng tham gia Chiến tranh Falklands. Ngày 23 tháng 7 năm 1986, Vương tử Andrew kết hôn với cô Sarah Ferguson. Cuộc hôn nhân không mấy êm đẹp và nồng thắm, đến ngày 30 tháng 5 năm 1996 thì hai người ly dị, cuộc li hôn hoàng gia này đã thu hút nhiều dư luận và tốn nhiều giấy mực của truyền thông Anh thời bấy giờ. Cũng như thực hiện các nhiệm vụ khác nhau của Hoàng gia, ông làm Đặc phái viên của Vương quốc Anh về thương mại quốc tế và đầu tư đến tháng 7 năm 2011.
Vương tế Philip, Công tước xứ Edinburgh
Vương tế Philip, Công tước xứ Edinburgh (còn gọi là Vương tôn Filippos của Hy Lạp và Đan Mạch; 10 tháng 6 năm 1921 – 9 tháng 4 năm 2021) là chồng của Nữ vương Elizabeth II từ ngày 20 tháng 11 năm 1947, và là phối ngẫu của Nữ vương từ ngày 6 tháng 2 năm 1952. Trước đây Philip là vương tôn của Hy Lạp và Đan Mạch, và vì vậy là thành viên của Nhà Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg của Đan Mạch-Đức, nhưng đã từ bỏ tước hiệu này ngay trước khi kết hôn và lấy họ ông bà ngoại, để được gọi là Đại úy Philip Mountbatten. Trước ngày cưới, Philip được Quốc vương George VI trao tước hiệu His Royal Highness rồi trở thành Công tước xứ Edinburgh, Bá tước xứ Merioneth và Nam tước Greenwich vào ngày hôm sau. Nữ vương Elizabeth đã phong Philip làm Prince of the United Kingdom năm 1957. Là chồng của một Nữ vương thường xuyên đi công du và là người đứng đầu Khối thịnh vượng chung, Vương tế Philip thường xuất hiện trước công chúng, và là một hình ảnh công chúng nổi tiếng trong các quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung.
Cây Trà hay cây Chè có tên khoa học là Camellia sinensis là loài cây mà lá và chồi của chúng được sử dụng để sản xuất trà – đừng nhầm với cây hoa trà). Tên gọi sinensis có nghĩa là “Trung Quốc” trong tiếng Latinh. Các danh pháp khoa học cũ còn có Thea bohea và Thea viridis. Người Á Đông biết dùng trà trước tiên trong lịch sử. Tuy nhiên người ta biết dùng trà vào thời nào vẩn là câu hỏi chưa giải đáp được. Theo một thần thoại Trung Quốc và Nhật Bản, một thiền sư Tây Trúc ở Trung Quốc nhân vì không muốn ngủ quên trong lúc ngồi thiền, đã cắt đứt hai mí mắt vứt xuống đất. Tự nhiên từ đó nảy sinh ra cây trà và người dùng trà đầu tiên là các thiền sư, họ uống trà để tâm trí được bình thản và quên buồn ngủ trong khi ngồi thiền. Với huyền thoại Nhật Bản, vị thiền sư này không ai khác chính là Bodai Daruma ( Bồ đề đạt ma). Thật sự thì chúng ta có thể biết rỏ hơn là trà đã được dùng trước thời tổ Đạt Ma mang Thiền Tông vào Đông Độ ( Khoảng cuối thế kỉ thứ 5 SCN) khá lâu. Tuy nhiên, huyền thoại này có ý nghĩa thật sự là trà, nghệ thuật dùng trà như ta sẽ thấy, quả thật có rất nhiều liên quan đối với thiền gia, đạo gia. Chính những vị này đã dùng trà đầu tiên và hơn nữa, đã biến trà thành một nghệ thuật tinh vi. Một huyền thoại phổ thông nữa là trà được biết đến từ thời thần nông ( Khoảng 3000 năm TCN). Thần nông như chúng ta biết vẩn được các dân tộc á đông coi như vị thần đã dạy con người biết đến nông nghiệp nên được gọi là Thần Nông. Thần nông lại sai mặt trời tỏa sáng và hơi nóng giúp cho cây cỏ sống được nên cũng có tên khác là Viêm đế ( Vua coi về sức nóng). Nên nhớ theo truyện cổ nhân gian Việt Nam thì người Việt Nam đều là con cháu vua Thần Nông :” Đế Minh là con cháu 3 đời họ Viêm Đế Thần Nông, sinh ra Đế Nghi. Đi tuần về phía nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên, sinh ra lộc tục… Phong Lộc Tục ( con được gọi Kinh Dương Vương) để trị phương Nam, lấy tên nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, sau đó lại lấy con gái Long Vương ở Hồ Động Đình sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Lông Quân…”( truyện họ Hồng Bàng, Lĩnh Nam Chích Quái). Thần Nông (2737 -2697 TCN) là một trong Tam Hoàng, ba ông vua đầu tiên của Trung Quốc trong huyền sử ( theo tài liệu về sử học và khảo cổ học thì người ta mới chỉ công nhận có thời nhà Thương (Ân), 1384 – 1111 TCN, cho đến ngày nay có dấu vết rỏ ràng, là chính sử). Những thế kỉ về trước các học giải sử gia Việt Nam đã thường tỏ ý nghi ngờ về truyền thuyết họ Hồng Bàng là con cháu Thần Nông, và cho rằng ông cha tạo ra huyền thoại đó chỉ vì lòng tự ái dân tộc, muốn cho rằng Việt Nam cũng ngang hàng với Trung Quốc vì cũng có cùng một ông tổ xa xưa… Những năm gần đây, giới học giả với các tài liệu về cổ nhân học và khảo cổ học bắt đầu bàn bạc bác lai thuyết thiên di. Nhưng tôi lại cho rằng, ( Thần Nông có thể là một bộ lạc hoặc nhiều bộ lạc hoặc một người lãnh đạo bộ lạc) chính là người Việt cổ. Chính những người này đã dạy dân tộc Trung Quốc biết đến nghề nông. Chứng cứ hiển nhiên là giới nhiên cứu quốc tế đã khẳng định bằng phương pháp đo phóng xạ Carbon các cổ vật, để chứng minh Việt Nam đã biết đến Nông Nghiệp trước Trung Quốc khoảng 500 năm. Các di tích mới đào được ở vùng Ân Khư, ngày ấy là huyện An Dương, tỉnh Hồ Nam (Kinh củ thời nhà Thương ) đã cho thấy có rất nhiều cổ vật có dấu vết Lạc Việt : từ các hình cá sấu, trâu, voi, trĩ đến loại đồ gốm đen… Cũng nên biết ngay tên Thần Nông ( Shen – nung), dù đã là tiếng Hán cũng vẩn còn giữ được cấu trúc việt ngữ ( đúng theo cấu trúc chữ hán phải là nông thần giống như Viêm đế). Trở lại với huyền thoại Thần Nông đã biết dùng trà. Các học giả cổ của Trung Quốc đã dẩn chứng trong sách Bản Thảo ( là quyển sách cổ nhất về y học Trung Quốc, vừa được Bắc Kinh cho dịch ra ngoại văn). Triết gia Chu Hi (1130 – 1200) có lẻ là người đầu tiên dựa vào dẩn chứng ngôn ngữ, dẩn theo các nhóm tân học cận đại như trường hợp Lâm Ngữ Đường. Theo họ chu trong Lễ Ký và kinh thi ( Những tác phẩm xuất hiện khoảng 1000 – 500 TCN) đã có nhắc đến ” trà”. Các học giả đông tây kết luận, như vậy người á đông đã biết đến ” trà” hàng năm sáu trăm năm trước công nguyên. Hơn nữa, sách Nhĩ Nhã ( một quyển tự điển đầu tiên của nhân loại vẫn được coi là do Chu Công (1100 TCN) viết, sau đó được Tử Hạ ( 500 TCN) học trò khổng tử san nhuận và đến đời nhà Hán, Quách phác (276 – 324 SCN) viết phần chú thích và chia thành 16 phần là nhà cửa kiến trúc, vật dụng, cỏ cây, cầm thú…) trong Thảo Mộc Môn đã nói đến ” trà”. Nhưng vấn đề ở đây là chữ ” trà” trong tất cả thư tịch cổ nói trên : Kinh Thi, Nhĩ Nhã, Lễ Ký, đều viết ngày nay đọc là ” Đồ”, chỉ khác chữ ” Trà” một nét nhỏ. Vậy ” Đồ” là “Trà” ? Trong sách Nhĩ Nhã thì đã nói đến ” Khổ Đồ” và các cổ tịch cũng nói đến đặc tính đắng chát ( khổ) của ” đồ” . Sách thuyết văn của Hứa Thận viết năm 121 SCN lại nói rỏ hơn là ” Ming” là tên búp non hái từ cây Đồ. Thế mà ” Ming ” ( cũng đoc là ” Mính” hay ” Dánh” theo âm Hán Việt) thì xưa nay cũng thường dùng lẫn lộn với chữ ” Trà”. Như vậy đã chứng minh được sự thực người Á Đông biết đến trà từ nhiều năm trước Công Nguyên ? Sự thực cho đến ngày nay theo khoa học về cây cỏ ( Botany) thì người ta biết được cây Đồ cũng có vị đắng giống trà. Đồ có tên khoa học là Sonchus Oleraceus. Như vậy đồ khác xa cây trà (Camellia Sinensis). Cây Đồ vẩn còn được người Trung quốc dùng đến ngày nay dưới một tên bình dân là ” khổ trà ” ( trà đắng). Vì vậy, vấn đề lại trở nên rắc rối hơn. Quả thật theo cổ thư tịch người Trung Quốc đã biết dùng ” Đồ” làm đồ uống từ năm sáu trăm năm trước Công Nguyên, nhưng vẩn chưa thể chứng minh là thời đó ” Đồ” với ” Trà” là một hay là hai. Chúng ta chỉ biết chắc chắn là đến thời nhà Đường (từ năm 618), trà đã là một món đồ uống rất phổ thông trong xã hội Trung Quốc. Có nhiều tên để gọi trà, nhưng sau khi quyển trà kinh ra đời ( khoảng giữa thế kỷ thứ 8 ) thì danh xưng trà đã thay thế cho tất cả các danh xưng khác. Cây trà không phải là thổ sản của Trung Quốc , hiện nay cả thế giới uống trà. Tất cả giống trà này đều lấy từ cây trà Trung Quốc ( Camellia Sinensis). Tất cả đều công nhận rằng người Trung Quốc dạy cho tất cả loài người biết uống trà. Nhưng có một sự kiện đáng ghi nhận là người ta không tìm thấy cây trà hoang ở Trung Quốc. Cho đến khoảng năm 1935 khi người Anh khai thác Ấn Độ để làm sở trà (hiện nay Ấn Độ sản xuất trà nhiều thứ nhì sau Tích Lan) với giống trà Trung Quốc, thì vô tình người ta mới thấy một loại cây rừng ở vùng cực Đông Bắc Ấn Độ, Vùng Assam, từ trước vốn chưa ai biết kể cả dân bản xứ. Loại cây này cao đến hơn 30 mét. Và sau khi nghiên cứu, các nhà thực vật học mới giật mình : Đây là cây trà, cây trà nguyên thủy cùng họ cùng chủng và cùng gốc với cây trà Trung Quốc. Có lẽ, chúng ta quen nhìn loại trà trong vườn trà ở Trung Quốc hay Việt Nam, thường rất thấp để tiện hái và cũng vì cứ 5, 6 năm lại phải cắt trụi đi cho cây sinh cành mới ( giống như nho ) nên không thể biết cây trà nếu mọc tự nhiên là một loại thân mộc. Cây trà Trung Quốc vì đã bị thuần hóa cả ngàn năm nên nếu không cắt cũng đã cao đến hơn 20 mét. Vì vậy, loại ” Hầu trà” trong truyền thuyết chính là loại cây trà này. Sau khi tìm được cây trà rừng ở Assam người ta còn tiếp tục tìm đươc các cây trà rừng trạng thái thiên nhiên ở các vùng biên giới Ấn Độ, Tây Tạng, Miến Điện, Trung Quốc. Đó cũng là vùng đất biên giới Vân Nam và đồng ý vùng này mới là nơi có cây trà mọc tự nhiên đầu tiên. Nếu nhìn bản đồ Lạc Việt từ thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang cho đến thời hai bà Trưng khởi nghĩa, ta thấy vùng đất này cũng là biên giới Lạc Việt, dù tên là ” Nam Chiếu ” , ” Đại lý”, ” Tây thục” … thì xưa đều thuộc về Quế Lâm của ta. Loại trà rừng này chỉ khác là cho nước đậm hơn, nhưng kém hương hơn loại trà Trung Quốc. Ở đây, tôi chưa vội kết luận rằng chính người cổ Việt đã giới thiệu cây trà cho Trung Quốc, chỉ biết tạm ở đây rằng về cổ thư tịch ở Việt Nam có rất muộn, lại bị quân Minh tàn phá tất cả. Cổ thư tịch cổ nhất Việt Nam, tôi chỉ thấy trong sách An Nam chí Lược của Lê Tắc, một người phản quốc qua Tầu lưu vong, viết khoảng năm 1271, rằng năm Tống Thái Tổ thứ 8 (971), vua Đinh Liễn Việt Nam đã phải cống cho Trung Quốc ngà voi, sừng tê, trà thơm … (Khai bảo tứ niên… Thái Tổ chiếu Liễn vi tiết – đô – sứ, An Nam đô hộ. Bát niên ngũ nguyệt cống kim, bạch, tê giác, tượng nha, hương trà…). Trà Kinh của Lục Vũ cũng khẳng định : ” trà là loại cây quý ở phương nam…” Sách Quảng Bác vật chí cũng viết : “Trà ở Giao Chỉ xanh như rêu, vị cay, nóng…”.Tất cả những cổ thư tịch này, kể cả An Nam Chí Lược, cũng đều là sách của Trung Quốc. Thế giới biết đến trà càng muộn hơn nữa. Marco Polo có nói đến trà, nhưng phải đến năm 1559 với sự xuấn bản ba cuốn sách. Trà đạo, tiếng Nhật: chanoyu (茶の湯) hoặc chadō (茶道), được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức trà trong văn hóa Nhật Bản, Trà đạo được phát triển từ khoảng cuối thế kỷ 12. Theo truyền thuyết của Nhật Bản, vào khoảng thời gian đó, có vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn “Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký” (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà. Từ đó, dần dần công dụng giúp thư giãn lẫn tính hấp dẫn đặc biệt của hương vị trà đã thu hút rất nhiều người dân Nhật đến với thú uống trà. Họ đã kết hợp thú uống trà với tinh thần Thiền của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo (chado, 茶道), một sản phẩm đặc sắc thuần Nhật. Từ việc đơn giản uống trà, chuyển sang cách pha và uống trà, rồi nghi thức thưởng thức trà cho đến khi đúc kết thành trà đạo, đây là một tiến trình không ngừng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn hướng tới đó là cải biến tục uống trà du nhập từ ngoại quốc trở thành một tôn giáo trong nghệ thuật sống của chính dân tộc mình, một đạo lý với ý nghĩa đích thực của từ này. Hiển nhiên ở đây trà đạo không đơn thuần là con đường, là phép tắc uống trà mà trên hết là một phương tiện hữu hiệu nhằm làm trong sạch tâm hồn bằng cách: trước tiên, hòa mình với thiên nhiên, để từ đây tu sửa tâm, nuôi dưỡng tính và đạt tới giác ngộ. Các bộ ấm trà men rạn giả cổ bọc đồng là những tuyệt tác của làng nghề Bát Tràng, đỉnh cao của nghệ thuật chảy men tinh tế, hoài cổ và trang trọng với viền bọc đồng tỉ mĩ chính là điểm sáng của bộ những bộ sản phẩm ấm trà cao cấp Bát Tràng men rạn bọc đồng, Bạn có thể mua làm quà dịp tết này, đầy ý nghĩa sâu sắc mà không sợ đụng hàng với bất kì ai. Những sản phẩm ấm trà Nghệ nhân được sản xuất dành riêng cho khách hàng đặc biệt với số lượng rất ít, mức giá khá cao nhưng những gì mà nó thể hiện chính là sự độc đáo và tinh thế của tài hoa người thợ gốm Bát Tràng, một tài nghệ được nung vùi qua năm tháng dài tích lũy kinh nghiệm và bao nhiêu mẻ Gốm Hỏng trong quá trình thử nghiệm. Thông qua bài viết Trà có nguồn gốc từ nước nào ? nguồn gốc trà đạo Nhật bản ? chúng tôi hy vọng cung cấp cho bạn nhiều thông tin bổ ích về nguồn gốc của trà, xuất sứ của trà và địa chỉ bán những bộ trà đẹp tinh tế để bạn lựa chọn. Cám ơn bạn đã tham khảo bài viết của chúng tôi.
Trà đạo Nhật Bản
Trà đạo, tiếng Nhật: sadō (茶道), được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức trà trong văn hóa Nhật Bản, Trà đạo được phát triển từ khoảng cuối thế kỷ 12. Theo truyền thuyết của Nhật Bản, vào khoảng thời gian đó, có vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà. Từ đó, dần dần công dụng giúp thư giãn lẫn tính hấp dẫn đặc biệt của hương vị trà đã thu hút rất nhiều người dân Nhật đến với thú uống trà. Họ đã kết hợp thú uống trà với tinh thần Thiền của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo (chado, 茶道), một sản phẩm đặc sắc thuần Nhật. Từ việc đơn giản uống trà, chuyển sang cách pha và uống trà, rồi nghi thức thưởng thức trà cho đến khi đúc kết thành trà đạo, đây là một tiến trình không ngừng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn hướng tới đó là cải biến tục uống trà du nhập từ ngoại quốc trở thành một tôn giáo trong nghệ thuật sống của chính dân tộc mình, một đạo lý với ý nghĩa đích thực của từ này.
Theo phong tục cổ truyền, trước khi bạn bắt đầu một công việc gì đó thì ngoài việc chọn ngày lành tháng tốt thì việc xác định giờ hoàng đạo cũng được quan tâm đặc biệt. Vậy bạn có biết thực chất giờ hoàng đạo là gì và cách tính giờ hoàng đạo như thế nào hay không? Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, mời quý bạn đọc cùng theo dõi bài viết dưới đây nhé. Theo phong của người dân Việt Nam có 2 loại giờ đó là giờ hoàng đạo và giờ hắc đạo. Giờ hoàng đạo có nghĩa là giờ tốt, trong khung giờ hoàng đạo mọi người có thể tiến hành những việc quan trọng như: cưới hỏi, xin dâu, thành hôn, nhập học, động thổ, khánh thành, buôn bán, giao dịch, an táng, làm tang lễ…. Giờ hắc đạo có nghĩa là giờ xấu, vì vậy mà khi làm bất cứ việc gì người ta đều tránh những khung giờ này. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng có thể áp dụng được giờ hoàng đạo. Theo như cách tính từ xưa thì một ngày đêm âm lịch sẽ có 12 giờ, mỗi giờ là 2 tiếng đồng hồ, trong đó có 6 giờ hoàng đạo và 6 giờ hắc đạo. Cả hai giờ này đều được chi phối bằng nhau trong mọi thời điểm (mỗi ngày, mỗi tháng và mỗi năm). Theo quan niệm của người Việt chúng ta, trên trời có 28 vid sao chiếu mệnh là nhịp thập bát tú, trong đó được chia làm 2 sao tốt và xấu. Tùy thuộc vào tính chất cũng như mức độ của sao để xác định nó tốt trong mỗi lĩnh vực. Ví dụ như Sao Lâu tốt cho công việc liên quan đến xây dựng, Sao Bích lại tốt trong công việc cưới hỏi…. Để xác định được giờ hoàng đạo là giờ gì, người xưa thường dựa vào mỗi câu lục bát có 14 chữ. Dựa vào bảng chúng ta có thể xác định được giờ hoàng đạo là gì.Ví dụ ngày Mùi hoặc ngày Sửu thì giờ hoàng đạo sẽ rơi vào những giờ là: Dần, Mão, Tỵ, Thân, Tuất, Hợi. Để có thể tính được giờ hoàng đạo là giờ gì thì không phải ai cũng có thể các định được. Bởi lẽ, nếu muốn xác định một cách chi tiết bạn phải dựa theo những các tính chiêm tính, sự chuyển động của các vì sao, từ đó mới có thể luận ra được giờ hoàng đạo, giờ hắc đạo, ngày hoàng đạo hay ngày hắc đạo. Một giờ tốt tuyệt đối phải thuộc giờ hoàng đạo và được tam hợp với ngày, tháng, năm sinh của bạn. Bên cạnh đó, bạn cũng phải tránh được những giờ có chi xung với chi ngày, đặc biệt là ngày địa xung, thiên khắc. Có nghĩa là, trong 6 giờ hoàng đạo trong ngày, bạn chỉ nên chọn giờ nào không kỵ với tuổi của mình để tiến hành những việc quan trọng. Bạn nên chọn những khoảng giữa trong 120 phút của mỗi giờ hoàng đạo, tránh việc chọn giáp ranh giữa 2 giờ, tốt nhất nên sớm hơn 15 phút trước khi chuyển giờ.
Giờ hoàng đạo
Giờ hoàng đạo là giờ tốt theo phong tục. Theo phong tục của người dân Việt Nam thì có hai loại giờ: giờ hoàng đạo và giờ hắc đạo. Giờ hoàng đạo nghĩa là giờ tốt, có thể làm được nhiều việc trọng đại như: ăn cưới, đón cô dâu, nhập học, làm tang lễ, an táng, thành hôn, giao dịch, buôn bán, giao tiếp,. Tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng có thể áp dụng giờ hoàng đạo được. Theo dân gian, trong mỗi ngày thì có 6 giờ hoàng đạo và 6 giờ hắc đạo. Vì vậy, giờ hoàng đạo và giờ hắc đạo được chi phối bằng nhau trong mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm.
Chứng khoán là một thuật ngữ hết sức quen thuộc nhưng không phải ai cũng hiểu đúng và đầy đủ khái niệm này. Vậy chứng khoán là gì?. Thị trường chứng khoán hoạt động ra sao? và sự khác nhau giữa thị trường chứng khoán sơ cấp và thị trường chứng khoán thứ cấp như thế nào?. Tất cả những vấn đề này sẽ được Thư Viện Chứng Khoán trình bày tới bạn đọc theo cách dễ hiểu nhất. Thị trường sơ cấp là nơi mà chứng khoán được phát hành lần đầu tiên. Đây thực chất là sự huy động vốn trên thị trường chứng khoán của các công ty niêm yết. Tiền vốn sẽ chuyển trực tiếp từ nhà đầu tư sang tổ chức phát hành (phân biệt với thị trường thứ cấp sẽ nói ở phần sau). Phát hành riêng lẻ: là hình thức phát hành chứng khoán trong phạm vi một số chủ thể nhất định (thường là các tổ chức quỹ, đối tác, cán bộ nhân viên, …). Việc phát hành được diễn ra với những điều kiện nhất định về số lượng chứng khoán và giá cả. Ở Việt Nam, mọi hoạt động phát hành đều được quản lý bởi Vụ Quản lý Phát hành Chứng khoán thuộc Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước. Bạn đọc có thể tra cứu tại website của UBCKNN tại đây. Bạn đọc cũng có thể vào cafef.vn tìm công ty theo mã cổ phiếu và tìm đọc những văn bản sau để tham khảo thêm về hoạt động phát hành của công ty đó:. Thị trường chứng khoán thứ cấp là nơi mà chứng khoán sau khi được phát hành ở thị trường sơ cấp, nó sẽ được mua bán giữa các nhà đầu tư với nhau. Hoạt động mua bán này làm thay đổi quyền sở hữu giữa các nhà đầu tư. Và vốn điều lệ của tổ chức phát hành sẽ không thay đổi. Vai trò quan trọng nhất của thị trường thứ cấp là tạo ra thanh khoản để thị trường chứng khoán phát triển. Các nhà đầu tư có thể dễ dàng bán chứng khoán để thu tiền về hoặc mua chứng khoán 1 cách nhanh chóng. Qua đó, tổ chức phát hành cũng có thể phát hành thêm chứng khoán nếu cần huy động vốn. Vĩ mô hơn là nó giúp thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thị trường chứng khoán thứ cấp ở thời điểm hiện tại đã phát triển đến mức rất bài bản và chuyên nghiệp, đặc biệt là thị trường cổ phiếu. Sàn giao dịch: ở Việt nam có HOSE, HNX và Upcom là 3 sàn niêm yết đại chúng. Ngoài ra còn 1 sàn chưa niêm yết do Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (VSD) quản lý. Sàn này dành cho các công ty chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch. Công ty chứng khoán: là các công ty môi giới, tư vấn phát hành chứng khoán. Nhiệm vụ của nó là kết nối tổ chức phát hành với nhà đầu tư. Nhà đầu tư: Bạn chính là một trong các nhà đầu tư nếu tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán. Bởi các mã chứng khoán được quản lý bởi Trung tâm lưu ký và thành viên lưu ký là các Công ty chứng khoán và Ngân hàng thương mại. Nên nếu bạn muốn mua bán chứng khoán thì bạn bắt buộc phải mở tài khoản tại công ty chứng khoán và thực hiện giao dịch online trên nền tảng hỗ trợ của công ty đó. Các nền tảng này được kết nối với các sàn giao dịch. Hiện tại mình đang nhận tư vấn cho 2 công ty chứng khoán Mirae Asset Securities và VPS Securities. Mở tài khoản chỗ mình để nhận được hỗ trợ tốt nhất. Mệnh giá cổ phiếu, Cổ phiếu quỹ và Số lượng cổ phiếu đang lưu hành.
Thị trường chứng khoán thứ cấp
Thị trường chứng khoán thứ cấp là thị trường giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường thị sơ cấp. Thị trường đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. Đây là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát hành. Nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm vào một trong các mục đích: cất giữ tài sản tài chính, nhận một khoản thu nhập cố định hàng năm, hưởng chênh lệch giá. Thị trường thứ cấp: tạo ra khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện; Tiền thu được ở đây không thuộc về nhà phát hành mà thuộc về nhà đầu tư bán chứng khoán, nhượng lại quyền sở hữu chứng khoán cho nhà đầu tư khác. YThị trường sơ cấp và Thị trường thứ cấp có mối quan hệ nội tại, thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề; Thị trường thứ cấp là động lực. Không có thị trường sơ cấp thì không có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại; nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó hoạt động thuận lợi và trôi chảy.
Đặng Tiệp thuộc lứa diễn viên tài năng của màn ảnh Hoa ngữ. Bà nổi tiếng với vai diễn Vương Hy Phượng hay “Phượng Ớt” trong bộ phim truyền hình kinh điển Hồng Lâu Mộng. Vai diễn đã gắn liền với tên tuổi của người đẹp Tứ Xuyên hơn 30 năm qua. Bà còn được người hâm mộ mệnh danh là “Phượng ớt” kinh điển nhất màn ảnh. Đặng Tiệp nổi danh với vai diễn Vương Hy Phượng hay “Phượng Ớt” trong bộ phim truyền hình kinh điển Hồng Lâu Mộng. Năm 1984, đoàn làm phim Hồng Lâu Mộng đã tìm kiếm diễn viên khắp cả nước và Đặng Tiệp đã quyết định thử sức. May mắn đã mỉm cười với người đẹp Tứ Xuyên sở hữu dáng vóc nhỏ nhắn, gương mặt thanh tú. Ban đầu, khí chất dịu dàng, tao nhã của Đặng Tiệp đối lập với vẻ sắc sảo, toan tính của Vương Hy Phượng nên nhiều người không tin rằng bà có thể đóng tốt vai này. Song, khi nhập vai, Đặng Tiệp đã thể hiện xuất sắc. Mọi điệu bộ, ánh mắt, biểu cảm của Đặng Tiệp đều khiến khán giả cảm nhận như Vương Hy Phượng đang hiện ra sống động trước mắt. Cũng chính nhờ vai Vương Hy Phượng mà Đặng Tiệp trở nên nổi tiếng và giành được một số giải thưởng. Bà tiếp tục theo đuổi nghề diễn tới khi nên duyên với nam diễn viên Trương Quốc Lập, trở thành hậu phương của chồng để rút về chăm sóc gia đình. Đặng Tiệp, sinh năm 1957, trong một gia đình giàu chất nghệ thuật. Bố mẹ bà đều theo đuổi ngành kinh kịch. Tuy nhiên, cuộc sống tuổi thơ của Đặng Tiệp không hạnh phúc vì thiếu vắng tình yêu, sự chăm sóc của cha mẹ. Việc sống độc lập từ bé khiến Đặng Tiệp trưởng thành, mạnh mẽ hơn bạn bè cùng lứa. Do ảnh hưởng của cha mẹ, Đặng Tiệp đã phát triển niềm yêu thích diễn xuất từ khi còn nhỏ và tới năm 16 tuổi, bà quyết định thi vào trường Kinh kịch Tứ Xuyên. Sau khi tốt nghiệp, Đặng Tiệp đạt được nguyện vọng của mình và được chỉ định vào làm diễn viên tại Nhà hát Opera Tứ Xuyên. Tới khi góp mặt trong Hồng Lâu Mộng, sự nghiệp diễn xuất và danh tiếng của Đặng Tiệp mới nở rộ. Trước khi tham gia Hồng Lâu Mộng, Đặng Tiệp đã kết hôn với một người làm việc ngoài làng giải trí và hơn bà 3 tuổi. Hai người quen nhau tại một bữa tiệc và người đàn ông này đã đem lòng si mê Đặng Tiệp. Nét mặt xinh đẹp, nữ tính cùng cá tính mạnh mẽ, độc lập của Đặng Tiệp khiến ông quyết tâm kết hôn với cô. Đặng Tiệp chung sống gần 4 năm với người chồng đầu tiên, làm việc ngoài làng giải trí. Hai người làm đám cưới vào năm 1980 nhưng công việc nghệ sĩ khiến vợ chồng dần xa nhau và rạn nứt tình cảm. Đặc biệt, sau khi Đặng Tiệp trở thành ngôi sao nhờ vai diễn Vương Hy Phượng, cuộc sống bình yên trước đó của hai vợ chồng không còn nữa. Cuối cùng, cả hai quyết định ly hôn vào năm 1984. Mãi đến sau này, Đặng Tiệp gặp gỡ Trương Quốc Lập khi cùng cộng tác trong một bộ phim. Khi đó, Đặng Tiệp đã ly hôn nhiều năm còn Trương Quốc Lập đã có gia đình và có một cậu con trai. Sự tương tác trên màn ảnh, tiếp xúc thường xuyên ngoài đời khiến Trương Quốc Lập và Đặng Tiệp phải lòng nhau. Đặng Tiệp và Trương Quốc Lập phải lòng nhau khi cùng cộng tác trong một dự án. Trương Quốc Lập vì yêu Đặng Tiệp quyết tâm ly hôn vợ còn Đặng Tiệp vì chấp nhận tình cảm của Trương Quốc Lập, cũng phải gánh chịu những thị phi, oán trách của người đời. Khi ly hôn người vợ đầu tiên, Trương Quốc Lập chấp nhận chuyển nhượng tất cả bất động sản, xe hơi, tiền tiết kiệm và nhà cho vợ để giành quyền nuôi con trai. Thời điểm Trương Quốc Lập đến với Đặng Tiệp, ông chưa phải là ngôi sao nổi tiếng trong khi Đặng Tiệp đã là một minh tinh đình đám nhờ thành công của Hồng Lâu Mộng. Với sự hỗ trợ và động viên của Đặng Tiệp, Trương Quốc Lập trở thành ngôi sao sáng trong làng giải trí, là một trong những nam diễn viên có nhiều ảnh hưởng với sự phát triển của điện ảnh Hoa ngữ. Vì tình yêu với Đặng Tiệp, Trương Quốc Lập quyết tâm ly hôn người vợ đầu và nhận nhiều điều tiếng. Sự nghiệp của vợ chồng Trương Quốc Lập khởi sắc vào năm 1992, khi cả hai đều được mời tham gia phim Tể tướng Lưu Gù. Nam diễn viên được giao vai Càn Long, còn Đặng Tiệp được giao vai vợ của tể tướng Lưu Gù. Tình yêu của Đặng Tiệp và Trương Quốc Lập nhận được sự ngưỡng mộ của đồng nghiệp, khán giả. Sau 30 năm, họ vẫn xuất hiện với hình ảnh ngọt ngào trước công chúng, dành những lời đẹp đẽ nhất để nói về đối phương, cùng nhau vượt qua nhiều sóng gió cuộc sống. Trương Quốc Lập là nghệ sĩ tài năng và sở hữu vẻ ngoài điển trai. Xung quanh ông luôn có nhiều mỹ nhân nhưng Đặng Tiệp chưa bao giờ mất niềm tin ở chồng. Thậm chí, ngay khi người ta đồn đại chồng bà phải lòng nữ diễn viên Viên Lập, bà vẫn một mực khẳng định: “Tôi tin anh ấy, anh ấy sẽ không làm điều khiến tôi đau lòng”. Hôn nhân hơn 30 năm của Đặng Tiệp và Trương Quốc Lập khiến nhiều đồng nghiệp ngưỡng mộ. Tuy nhiên, Trương Mặc không quá yêu mến mẹ kế vì cho rằng, bà chính là nguyên nhân khiến cuộc hôn nhân của bố mẹ anh tan vỡ. Thậm chí, Trương Mặc từng tuyên bố trên sóng truyền hình suốt đời không chấp nhận mẹ kế này. Suốt hơn 30 năm Đặng Tiệp ở bên Trương Quốc Lập, bà hết lòng chăm sóc con riêng của chồng nhưng Trương Mặc chỉ gọi bà là “dì”, chưa bao giờ gọi tiếng “mẹ”. Được biết, trong thỏa thuận ly hôn của Trương Quốc Lập và vợ cũ, nam diễn viên sẽ không được phép có con nếu tái hôn. Khi ly hôn, vợ cũ muốn con trai nhận được nhiều tình yêu thương và trách nhiệm của cha nên yêu cầu Trương Quốc Lập “Tái hôn không được phép sinh con”. Đây chính là nguyên nhân khiến nữ diễn viên nổi tiếng không sinh con với Trương Quốc Lập mà nhận con nuôi. Việc không có con thực sự là nỗi tiếc nuối lớn trong cuộc đời Đặng Tiệp. Để bù đắp cho Đặng Tiệp, vào năm 2005, vợ chồng bà quyết định nhận một bé gái làm con nuôi và 6 năm sau, họ nhận thêm một bé trai. Năm 2018, Đặng Tiệp và Trương Quốc Lập mới làm đám cưới chính thức ngay trên sóng truyền hình. Để kết hôn và bên cạnh Trương Quốc Lập, có thể nói Đặng Tiệp đã hi sinh rất nhiều. Hiểu được điều đó, dù ở bất kỳ đâu, Trương Quốc Lập vẫn luôn thể hiện tình cảm và sự nâng niu với bà xã. Tháng 3/2018, dàn diễn viên phim Khang Hy vi hành hội ngộ trong một chương trình truyền hình và Trương Quốc Lập cùng Đặng Tiệp tổ chức lễ cưới giản dị ngay trên sóng truyền hình. Trương Quốc Lập giải thích, dù làm vợ chồng nhiều năm nhưng ông luôn cảm thấy có lỗi với vợ vì không thể cho bà một đám cưới đúng nghĩa. Mãi tới khi cả hai đã qua tuổi 60, họ mới có thể mặc đồ cô dâu và chú rể, bước lên sân khấu nhận lời chúc phúc của mọi người. Đây đã trở thành một sự kiện đáng nhớ trong cuộc đời hai nghệ sĩ. Ở tuổi 64, Đặng Tiệp đã dừng đóng phim để trở thành hậu phương của chồng. Đặng Tiệp từng tâm sự rằng, dù hai vợ chồng không có con chung nhưng chính sự thấu hiểu, cảm thông đến từ hai trái tim đã giúp hai vợ chồng cô giữ được “lửa” trong hôn nhân suốt những năm qua. Hiện tại, ở tuổi 64, ngôi sao Hồng Lâu Mộng hài lòng với cuộc sống giản dị và bận rộn của một người phụ nữ đằng sau lưng chồng. Bà không còn tham gia đóng phim mà dành phần lớn thời gian chăm sóc các con, quán xuyến gia đình để chồng yên tâm phát triển sự nghiệp. Hoa hậu Việt Nam 2010 Ngọc Hân cho biết, cô tự biến cửa hàng đồ vest khang trang của mình tại TP HCM thành ‘ATM gạo’ để hỗ trợ chống dịch. Sáng 28/8, Ngọc Hân tham dự họp báo trực tuyến phát động chương trình Góp triệu ngôi sao gây quỹ hỗ trợ cho các. Ở tập mới phát sóng, Nam (Phương Oanh) đã chính thức nhận lời cầu hôn của Long (Mạnh Trường). Hai gia đình gấp rút chuẩn bị đám cưới trong lúc cụ Dần (NSND Như Quỳnh) nguy kịch tại bệnh viện sau cú sốc bị con dâu chỉ trích. Ở tập mới phát sóng, Nam (Phương. Những ngày dịch Covid-19 hoành hành, nhiều nhà hảo tâm tại các điểm nóng ở các tỉnh miền Nam tích cực hoạt động công tác thiện nguyện, hỗ trợ cho các bà con khó khăn. Những tấm lòng đẹp đã thắp lên những niềm hy vọng về tình người ấm áp trong những tháng ngày. Mới đây trên trang cá nhân, Kaity Nguyễn gây chú ý khi chia sẻ hình ảnh xinh đẹp khi ở nhà giãn cách xã hội. Nữ diễn viên Em Chưa 18 diện chiếc váy màu trắng tinh khôi, khoe nhan sắc nhẹ nhàng, trong trẻo khiến ai cũng phải xuýt xoa. Thiết kế ngực quây. Thông tin Phi Nhung nhiễm Covid-19 và bệnh tình có chuyển biến xấu đã khiến nhiều người vô cùng lo lắng. Rất nhiều nghệ sĩ đã đăng tải dòng trạng thái nhằm cầu nguyện cho nữ nghệ sĩ, hy vọng cô đủ mạnh mẽ để vượt qua khó khăn lần này. Esports Việt đã thay đổi, không còn cái thời chỉ được xem là "những trò chơi vô bổ" nữa, game thủ hiện nay dần được công nhận là một nghề, có thể kiếm ra tiền hay xây dựng một sự nghiệp vững chắc đối với những ai có đủ khả năng và quyết tâm. Bước vào trận Chung kết LCK Mùa Hè 2021, DWG KIA nghiễm nhiên là đội tuyển được đánh giá cao hơn hẳn so với T1. Và sự cách biệt về phong độ nhanh chóng được thể hiện, khi DK sớm vươn lên dẫn trước với tỷ số 2-0, nhờ những màn tỏa sáng của Khan. Lấy học sinh làm trung tâm Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, Hội nghị diễn ra trong một bối cảnh hết sức đặc biệt bởi đại dịch Covid-19 đang hoành hành trên toàn cầu. “Chỉ còn ít ngày nữa là năm học mới bắt đầu. Báo SCMP ngày 28/8 đưa tin, cựu Bộ trưởng Tài chính Trung Quốc Jin Renqing đã tử vong do một đám cháy bùng phát tại nhà riêng ở phía tây thủ đô Bắc Kinh vào đêm ngày 27/8. Trong bản tin ngày 28/8, Đài truyền hình nhà. Chiều tối 28/8, quản lý truyền thông của Phi Nhung tiếp tục cập nhật tình hình sức khỏe của nữ ca sĩ. Theo đó, việc chữa trị Covid-19 của Phi Nhung đang có dấu hiệu rất khả quan, tình hình thậm chí đã tốt hơn so với lúc mới chuyển vào Bệnh viện Chợ Rẫy. Thông tin mới khiến nhiều đồng
Đặng Tiệp
Đặng Tiệp (Phồn thể: 鄧倢, Giản thể: 邓婕, Bính âm: Dèng Jié), sinh ngày 21 tháng 10 năm 1958 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, là một nữ diễn viên Trung Quốc. Đặng Tiệp được biết đến nhiều với các vai diễn Vương Hy Phượng trong phim truyền hình Hồng Lâu Mộng 1987, vợ của Lưu gù trong Tể tướng Lưu gù. Bà là vợ của diễn viên Trương Quốc Lập. Đặng Tiệp sinh ở Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Cha mẹ bà đều là những diễn viên của Nhà hát Tứ Xuyên. Từ nhỏ, Đặng Tiệp đã tham gia các hoạt động văn nghệ địa phương và theo nghiệp diễn của cha mẹ khi trưởng thành. Bà tốt nghiệp Trường Trung học Cầu Tinh Trùng Khánh. Năm 1973, bà được nhận vào Học viện kịch Tứ Xuyên. Sau khi tốt nghiệp năm 1978, Đặng Tiệp được nhận vào Kịch viện Tứ Xuyên. Đặng Tiệp thường tham gia các bộ phim cổ trang. Năm 1984, bà được đoàn làm phim Hồng lâu mộng chọn vào vai Vương Hy Phượng, một phụ nữ sắc sảo, nhạy bén, mặc dù không có ngoại hình nổi trội. Với vai diễn này, năm 1987, Đặng Tiệp được trao giải "Chim ưng bạc" cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất trong Liên hoan truyền hình lần thứ 4, giải thưởng Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất liên hoan truyền hình "Phi Thiên".Năm 1992, Đặng Tiệp và chồng là Trương Quốc Lập được mời tham gia Tể tướng Lưu Gù.
Ngày 8/3 đang tới gần, đây là một trong những ngày đặc biệt của chị em phụ nữ trên toàn thế giới. Thế nhưng vẫn có những người không biết chính xác ngày 8/3 là ngày gì? Nguồn gốc và ý nghĩa ngày 8/3 như thế nào? Để giúp bạn hiểu rõ hơn, bài viết dưới đây của Nhà Đất Mới sẽ chia sẻ chi tiết và cụ thể. Trước khi trả lời được câu hỏi ngày 8/3 là ngày gì thì bạn phải hiểu rõ nguồn gốc, lịch sử về ngày đặc biệt này. Vào cuối thế kỷ 19, chủ nghĩa tư bản phát triển, nhất là ở Mỹ. Khi đó, nền kỹ nghệ đã thu hút nhiều phụ nữ và trẻ em làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp. Sức khỏe, sức lực của phụ nữ, trẻ em bị bọn tư bản lợi dụng một cách triệt để trong khi đồng lương lại thấp khiến cuộc sống của họ vô cùng cực khổ, điêu đứng. Căm hận vì sự áp bức như vậy, tại hai thành phố Chicago và New – York vào ngày 8/3/1899 đã nổ ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ. Mặc dù bị thẳng tay đàn áp, đuổi khỏi nhà máy, các chị em vẫn đoàn kết, đấu tranh bền bỉ, cuối cùng thắng lợi. Khoảng 50 năm sau, vào ngày 28/2/1909, phụ nữ khắp nơi trên nước Mỹ lần đầu tiên đã tổ chức ngày Phụ nữ Mít tinh, đòi quyền bình đẳng cho họ. Những cuộc đấu tranh đó của nữ công nhân Mỹ đã có tiếng vang lớn, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh của nữ lao động trên toàn thế giới. Bởi sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng, đại hội lần thứ 2 vào ngày 26 và 27 tháng 8 năm 1910 của những người phụ nữ đã được triệu tập tại Đan Mạch, quyết định lấy ngày 8/3 là ngày Quốc tế phụ nữ với mục đích đấu tranh giành quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Dựa vào những thông tin ở phía trên, có thể nói đơn giản ngày 8/3 là ngày Quốc tế phụ nữ hay còn gọi là Ngày Liên hiệp quốc vì nữ quyền và hòa bình quốc tế. Đây là dịp cả thế giới vinh danh chị em bằng những lời chúc, những món quà, những đóa hoa tươi thắm nhất. Vậy Quốc tế phụ nữ tiếng Anh là gì? Đối với những quốc gia sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ truyền thống thì ngày này được gọi với tên gọi Women’s day. Ngày 8 tháng 3 năm 2021 là thứ mấy? Đối với năm 2021, ngày Quốc tế phụ nữ rơi vào đúng thứ 2, tuần thứ hai của tháng 3. Các đấng mày râu – một nửa của thế giới hãy chuẩn bị những món quà ý nghĩa, những lời chúc tốt đẹp dành cho bà, mẹ, chị em gái, đồng nghiệp, bạn bè, vợ, người yêu trong ngày này nhé. Sau khi trả lời được câu hỏi ngày 8/3 là ngày gì, điều quan trọng mà bạn cần biết chính là ý nghĩa của ngày này. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội từ xưa đến này không một ai có thể phủ nhận. Người phụ nữ luôn vun vén, chăm lo nhà cửa chu đáo, vun vén hạnh phúc một cách trọn vẹn. Bên cạnh đó, họ cũng luôn cố gắng không ngừng đóng góp cho cộng đồng, xã hội. Hơn nữa, họ còn giữ một thiên chức cao cả, mang nặng đẻ đau. Bởi vậy mà nếu như 1 năm có 365 ngày thì phải có một ngày đặc biệt để dành cho họ và ngày 8-3 chính là ngày như thế. Đây được xem là ngày để xã hội quan tâm, dành những tình cảm thân thương, bù đắp cho những thiệt thòi, vất vả của người phụ nữ trong cuộc sống. Không chỉ là ngày thể hiện sự tôn vinh, yêu thương phái đẹp, ngày 8/3 tại Việt Nam còn là ngày kỷ niệm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, 2 vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên đã đánh đổi giặc ngoại xâm phương Bắc, giành lại chủ quyền dân tộc. Cuộc khởi nghĩa đã minh chứng cho sức mạnh người phụ nữ Việt trong lịch sử. Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người phụ nữ Việt cũng đóng góp công sức không nhỏ vào chiến thắng của dân tộc. Từ những cô gái mở đường, nữ dân quân tự vệ đến các bà, các mẹ tăng gia sản xuất phục vụ kháng chiến. Những bà mẹ Việt Nam anh hùng coi bộ đội như con, sẵn sàng hi sinh tính mạng để quân ta có cơ hội chiến thắng. Những đổi thay ấy đã giúp tư tưởng trọng nam khinh nữ được cải thiện tại nước ta. Và vào dịp này, đàn ông Việt Nam sẽ tặng phụ nữ thân yêu của mình những món quà, đóa hoa, bữa tiệc lãng mạn. Như vậy, Nhà Đất Mới vừa giải đáp giúp bạn trả lời thắc mắc ngày 8/3 là ngày gì, ý nghĩa và hoạt động của ngày 8/3 tại Việt Nam và trên thế giới. Hi vọng, khi đã hiểu rõ, các bạn sẽ trân trọng và yêu thương người phụ nữ nhiều hơn nhé. Sống tại Hà Nội. Hiện làm việc tại: Công ty cổ phần Nhà Đất Mới.
Ngày Quốc tế Phụ nữ
Ngày Quốc tế Phụ nữ hay còn gọi là Ngày Liên Hợp Quốc vì Nữ quyền và Hòa bình Quốc tế được tổ chức vào ngày 8 tháng 3 hằng năm. Ngày này được Liên Hợp Quốc chính thức hóa vào năm 1977. Lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ lần đầu tiên được tổ chức vào ngày 28 tháng 2 năm 1909 tại New York, Mỹ do Đảng Xã hội Mỹ tổ chức. Một cuộc biểu tình nhân ngày Phụ nữ vào ngày 8 tháng 3 năm 1917 tại Petrograd, Đế quốc Nga đã làm dấy lên cuộc Cách mạng Nga 1917. Liên bang Xô viết (Liên Xô) tuyên bố ngày này là ngày nghỉ quốc gia kể từ năm 1917, sau đó ngày lễ này chủ yếu được tổ chức trong các nước thuộc phong trào Xã hội Chủ nghĩa và các nước Cộng sản cho đến khi được Liên Hợp Quốc thông qua vào năm 1977. Ngày lễ kỷ niệm Ngày Quốc tế Phụ nữ ngày nay có thể là một ngày lễ chung ở một số quốc gia, hoặc trở thành một ngày lễ lớn bị bỏ qua ở những nơi khác. Ở một số quốc gia, ngày này là ngày để biểu tình; ở những quốc gia khác, ngày này là ngày tôn vinh nữ giới.
Ngân hàng trực tuyến là một dịch vụ ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng có thể sử dụng "tại nhà" và bất cứ lúc nào thông qua kết nối Internet hầu hết mọi sản phẩm của ngân hàng hiện nay. - Chuyển khoản từ tài khoản cá nhân sang tài khoản cá nhân, tài khoản tổ chức kinh tế xã hội,. để thanh toán tiền mua hàng hóa, tiền lãi, gốc vay, tiền đầu tư chứng khoán, đóng bảo hiểm, phí dịch vụ, các nội dung thanh toán khác. - Chuyển tiền thanh toán hóa đơn hàng hóa, dịch vụ trả sau như điện, nước, viễn thông, hàng không, du lịch, bảo hiểm,. - Một số ngân hàng còn chấp nhận thủ tục cấp chứng thư bảo lãnh cho các giao dịch mua bán trả chậm hay trả sau. Ngân hàng điện tử được hình thành đã có tác động thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử, ngược lại cũng có thể nói rằng thương mại điện tử là một động lực thúc đẩy sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của dịch vụ ngân hàng điện tử. Muốn sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử, trước tiên bạn phải mở tài khoản tại một ngân hàng có cung cấp dịch vụ E-banking, tiếp đó làm các thủ tục đăng kí với ngân hàng theo qui định của từng ngân hàng. Thuận tiện là một lợi thế lớn của ngân hàng trực tuyến. Các giao dịch ngân hàng cơ bản như thanh toán hóa đơn và chuyển tiền giữa các tài khoản có thể dễ dàng được thực hiện 24 giờ một ngày, bảy ngày một tuần, bất cứ nơi nào người tiêu dùng mong muốn. Ngân hàng trực tuyến vừa nhanh chóng và hiệu quả. Tiền có thể được chuyển giữa các tài khoản gần như ngay lập tức, đặc biệt nếu hai tài khoản có cùng một hệ thống ngân hàng. Người tiêu dùng có thể mở và đóng một số tài khoản trực tuyến khác nhau, từ tiền gửi cố định đến tài khoản tiền gửi định kì thường có lãi suất cao hơn. Người tiêu dùng cũng có thể theo dõi tài khoản của họ thường xuyên và chặt chẽ, đảm bảo sự an toàn cho tài khoản. Truy cập thông tin ngân hàng cả ngày lẫn đêm giúp phát hiện sớm hoạt động gian lận, do đó đóng vai trò là hàng rào bảo vệ chống lại thiệt hại hoặc tổn thất tài chính. Đối với khách hàng mới làm quen với ngân hàng trực tuyến, lần đầu tiên sử dụng hệ thống có thể gây ra khó khăn khi các giao dịch được xử lý, đó là lí do tại sao một số người tiêu dùng thích giao dịch trực tiếp với giao dịch viên. Ngân hàng trực tuyến không giúp đỡ nếu khách hàng cần quyền truy cập một lượng lớn tiền mặt. Mặc dù khách hàng có thể rút được một số tiền nhất định tại ATM, hầu hết các thẻ đều có giới hạn, khách hàng sẽ vẫn phải đến chi nhánh để nhận phần còn lại. Mặc dù bảo mật ngân hàng trực tuyến liên tục được cải thiện, những tài khoản như vậy vẫn dễ bị tấn công khi bị hack. Người tiêu dùng nên sử dụng các gói dữ liệu 3G, 4G,. của riêng họ, thay vì các mạng Wi-Fi công cộng khi sử dụng ngân hàng trực tuyến, để ngăn chặn truy cập trái phép. Ngoài ra, ngân hàng trực tuyến phụ thuộc vào kết nối Internet đáng tin cậy. Các vấn đề kết nối theo thời gian có thể gây khó khăn cho việc xác định xem các giao dịch ngân hàng đã được xử lí thành công hay chưa.
Ngân hàng trực tuyến
Ngân hàng trực tuyến (Tiếng Anh: Online banking) còn được gọi là ngân hàng internet, là một hệ thống thanh toán điện tử cho phép khách hàng của ngân hàng hoặc tổ chức tài chính thực hiện một loạt các giao dịch tài chính thông qua di động, các trang web của tổ chức tài chính. Hệ thống ngân hàng trực tuyến thường là một phần của hệ thống ngân hàng cốt lõi hoặc kết nối với hệ thống ngân hàng cốt lõi điều hành bởi ngân hàng. Điều này trái ngược với ngân hàng chi nhánh vốn là cách truyền thống mà khách hàng tiếp cận với dịch vụ ngân hàng. Các "ngân hàng trực tiếp" (hay ngân hàng ảo trực tuyến) sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào hệ thống online banking. Phần mềm ngân hàng trực tuyến cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho cá nhân và các doanh nghiệp gồm các tính năng như: xem số dư tài khoản, nhận báo cáo, kiểm tra các giao dịch gần đây, chuyển tiền giữa các tài khoản và thanh toán. Tiền thân của các dịch vụ ngân hàng "tại nhà" hiện đại này là các dịch vụ ngân hàng trên các phương tiện điện tử từ đầu những năm 1980.
Trong xuất nhập khẩu, bên cạnh những chứng từ giữa bên mua và bên bán như hợp đồng, Invoice, ….thì còn một chứng từ vô cùng quan trọng nữa, đó là chứng từ thể hiện mối liên lạc giữa bên mua, bên bán với nhà vận chuyển. Chứng từ mà chúng tôi đề cập ở đây chính là Vận đơn. Là một nhân viên xuất nhập khẩu bạn không thể không hiểu về vận đơn, cách phân loại vận đơn, tác dụng của chúng,…nhằm xác định được thông tin vận chuyển đơn hàng như: tên phương tiện vận chuyển, cảng đi/đến, số bill, tên hàng, số kiện, trọng lượng và khối lượng, ngày hàng bốc xếp lên phương tiện vận chuyển…. Vận đơn nếu hiểu theo kiểu đơn giản thì nó là đơn vận tải - thông tin vận chuyển chuyến hàng, (thường hay gọi là vận đơn đường biển, vận đơn hàng không, giấy gửi hàng đường sắt,…), là một chứng từ vận tải do người vận chuyển, hoặc thuyền trưởng (đường biển) hoặc đại lý của người vận chuyển ký phát sau khi hàng hóa đã được xếp lên tàu hoặc hàng hóa đã được nhận và chờ xếp lên tàu. + Nó là bằng chứng xác nhận hợp đồng vận tải đã được ký kết và chỉ rõ nội dung của hợp đồng đó. Với chức năng này, nó xác định quan hệ pháp lý giữa người vận tải và người chủ hàng, mà trong đó, đặc biệt là quan hệ pháp lý giữa người vận tải và người nhận hàng. + Nó là biên lai của người vận tải xác nhận đã nhận hàng để chuyên chở. Người vận tải chỉ giao hàng cho người nào xuất trình trước tiên vận đơn đường biển hợp lệ mà họ đã ký phát ở cảng xếp hàng. + Nó là chứng từ xác nhận quyền sở hữu đối với những hàng hóa đã ghi trên vận đơn. Với chức năng này, vận đơn là một loại giấy tờ có giá trị, được dùng để cầm cố, mua bán, chuyển nhượng. + Làm căn cứ xác định số lượng hàng hóa đã được người bán gửi cho người mua, dựa vào đó người ta thống kê, ghi sổ và theo dõi việc thực hiện hợp đồng. – Chữ ký của người vận tải (hoặc của thuyền trưởng hoặc người đại diện của thuyền trưởng, hoặc đại lý). Đây là qui định về nguồn luật điều chỉnh các điều khoản của vận đơn cũng như giải quyết sự tranh chấp giữa chủ hàng và người vận tải. Nguồn luật này, ngoài luật quốc gia còn có cả các công ước quốc tế có liên quan như qui tắc La Haye và công ước Brussel 25/8/1924, Nghị định thư Visby 1968 hoặc công ước Hamburg 1978 về vận đơn đường biển. Trong vận tải quốc tế, căn cứ vào nhiều yếu tố, người ta chia làm nhiều loại vận đơn khác nhau. Vì vậy, có rất nhiều loại vận đơn với các tên gọi khác nhau. Ở bài viết này, XNK Lê Ánh đưa ra cách phân loại vận đơn thường dùng và được nhắc đến nhiều nhất. Là chứng từ thể hiện thông tin lô hàng vận chuyển giữa các đại lý vận tải, được phát hành bởi hãng vận chuyển có phương tiện như hãng hàng không, hãng tàu. Tên phương tiện vận chuyển, cảng đi/đến, số bill, tên hàng, số kiện, trọng lượng và khối lượng, ngày hàng lên phương tiện vận chuyển…. Là chứng từ thể hiện thông tin lô hàng vận chuyển giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu, được phát hành bởi công ty vận chuyển không có phương tiện, thường là công ty Forwarder phát hành. Tên phương tiện vận chuyển, cảng đi/đến, số bill, tên hàng, số kiện, trọng lượng và khối lượng, ngày hàng lên phương tiện vận chuyển…. là vận đơn mà tại ô “Người nhận hàng” (Consignee) không ghi tên người nhận hàng, mà ghi hai từ “Theo lệnh” (To order) hoặc theo lệnh của một người nào đó được người giao hàng (Shipper) chỉ định phát lệnh trả hàng, ví dụ: “Theo lệnh của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” (To order of the Bank for Foreign Trade of Vietnam). Trường hợp trên vận đơn chỉ ghi hai từ: “Theo lệnh” (To order), mà không ghi rõ theo lệnh của ai thì người giao hàng mặc nhiên là người có quyền phát lệnh trả hàng. Vận đơn theo lệnh có thể chuyển nhượng được bằng cách người có quyền phát lệnh trả hàng ký hậu (ký ở mặt sau vận đơn). Nếu vận đơn không được ký hậu thì chỉ có người có quyền phát lệnh trả hàng mới có thể nhận được hàng từ người vận chuyển. Vận đơn theo lệnh thường áp dụng cho phương thức thanh toán LC. Thể hiện thông tin người gửi hàng và người nhận hàng thực tế. Là vận đơn mà trên đó ghi rõ tên, địa chỉ của người nhận hàng. Chỉ có người nhận hàng có tên ghi trên vận đơn mới được nhận hàng. Vận đơn đích danh không thể chuyển nhượng được bằng cách ký hậu. Là vận đơn trên đó ô “Người nhận hàng” bỏ trống, không ghi gì. Người vận chuyển giao hàng cho bất kỳ người nào xuất trình vận đơn cho họ. Vận đơn vô danh được chuyển nhượng bằng cách trao tay. Switch bill of lading là một dạng vận đơn mà nó được chuyển đổi từ bộ vận đơn thực tế thành bộ vận đơn khác theo yêu cầu của người gửi hàng. Việc switch B/L này thường được sử dụng trong các trường hợp mua bán ba bên “Cross trade” hay còn gọi là “Triangle” nhằm mục đích thuận lợi cho việc thanh toán tiền hàng, che giấu xuất xứ hàng hoá, che giấu người bán hàng (thường là nhà sản xuất), đôi khi nó còn được dùng vào việc tránh thuế, hoặc tìm cách giảm thuế với hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá nhập khẩu cũng như các qui định khác của các quốc gia mà hàng được luân chuyển. Vì vậy, khi sử dụng loại vận đơn này, cần thỏa thuận rõ với đơn vị sản xuất thực tế. Vận đơn là chứng từ không thể thiếu trong hành trình vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu, do vậy, thông quan bài viết này, Xuất nhập khẩu Lê Ánh hy vọng những chia sẻ trên đây sẽ giúp bạn nắm chắc các kiến thức và vận dụng vào công tác nghiệp vụ của mình. Xuất nhập khẩu Lê Ánh – Nơi đào tạo xuất nhập khẩu thực tế số 1 Việt Nam. Chúng tôi đã tổ chức thành công các khóa học xuất nhập khẩu thực tế, khóa học nghiệp vụ xuất nhập khẩu ở HN và TPHCM và hỗ trợ việc làm cho hàng nghìn học viên trên cả nước, mang đến cơ hội làm việc trong ngành logistics và xuất nhập khẩu đến với đông đảo học viên của chúng tôi. Chị ơi cho em hỏi câu này với ạ. Tại sao việc chuyển nhượng vận đơn chỉ xuất hiện trong phương thức vận tải bằng đường biển mà không bằng các đường khác v ạ?. Incoterms là nội dung quan trọng trong ngành xuất nhập khẩu, đó là tập hợp những quy định có tính nguyên tắc của việc giao nhận hàng hóa giữa các bên giao dịch về việc phân chia . Để đạt được thỏa thuận giữa người mua và người bán khi lựa chọn điều kiện giao hàng (Incoterm), cũng như tránh những trường hợp rủ ro gây tranh cãi giữa 2 bên, bạn cần lưu ý những . Hiện nay, các công ty xuất nhập khẩu Việt thường xuất FOB và nhập CIF. Thực tế điều này khiến công ty xuất nhập khẩu Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi về giá xuất và nhập. Xuất nhập khẩu là ngành nghề đang ngày càng thể hiện sức nóng trên thị trường việc làm Việt Nam hiện nay. Mọi người thường hiểu một cách đơn giản xuất nhập khẩu là công việc xuất . Chúng ta nghe nói khá nhiều về ngành xuất nhập khẩu, nhưng không phải ai cũng biết học ngành xuất nhập khẩu ra làm gì và cụ thể công việc trong ngành này như thế nào. Hợp đồng xuất nhập khẩu là chứng từ vô cùng cần thiết với bên bán (xuất khẩu) và bên mua (nhập khẩu), thể hiện những thỏa thuận giữa hai bên về việc mua – bán hàng hóa. Là một trong những địa chỉ tin cậy nhất trong đào tạo xuất nhập khẩu thực tế với 9 cơ sở ở Hà Nội và TPHCM. Chúng tôi đã đào tạo gần 5.000 học viên, hiện đang làm việc tại các công ty xuất nhập khẩu trên mọi miền đất nước.
Vận đơn hàng không
Vận đơn hàng không (tiếng Anh: air waybill (AWB) hoặc air consignment note) là một chứng từ do hãng hàng không vận chuyển phát hành để xác nhận hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng máy bay. Nó không phải là tiêu đề của hàng hóa. Vận đơn hàng không là vận đơn không thể chuyển nhượng. Vận đơn hàng không là một chứng từ rất quan trọng được phát hành trực tiếp bởi nhà cung cấp dịch vụ hoặc thông qua đại lý uỷ quyền. Nó là tài liệu chứng từ vận chuyển không thể chuyển nhượng bao gồm việc vận chuyển hàng hóa từ sân bay này đến sân bay khác. Mã vận đơn hàng không bao gồm 11 ký tự số có thể sử dụng để đặt cọc, kiểm tra tình trạng vận chuyển, và vị trí hiện tại của đơn hàng. Vận đơn hàng không thường được phát hành ít nhất 8 bản với nhiều màu khác nhau. Ba bản đầu tiên được gọi là bản gốc. Bản gốc số 3 có màu xanh dương, dành cho người gửi hàngSau bản gốc, các bản copy thường có màu trắng được đánh số thứ tự từ số 4.
Các gen được tạo thành từ ADN. Một số gen đóng vai trò là hướng dẫn để tạo ra các phân tử được gọi là protein. Tuy nhiên, nhiều gen không mã hóa protein. Ở người, gen có kích thước khác nhau từ vài trăm cho đến hơn 2 triệu base pairs. Dự án giải mã bộ gen người (Human Genome Project) ước tính rằng con người có từ 20.000 đến 25.000 gen. Mỗi người có hai bản sao của mỗi gen, một bản sao được di truyền từ cha và mẹ. Hầu hết các gen đều giống nhau ở tất cả mọi người, nhưng một số lượng nhỏ gen (ít hơn 1% tổng số) có chút khác biệt giữa mọi người. Các alen là các dạng của cùng một gen với sự khác biệt nhỏ trong trình tự các cơ sở ADN của chúng. Những khác biệt nhỏ này góp phần tạo nên tính năng vật lý độc đáo cho mỗi người. Các nhà khoa học theo dõi các gen bằng cách đặt cho chúng những cái tên độc đáo. Bởi vì tên gen có thể dài, các gen cũng được gán các ký hiệu, là sự kết hợp ngắn của các chữ cái (và đôi khi là số) đại diện cho một phiên bản rút gọn của tên gen. Ví dụ, một gen trên nhiễm sắc thể số 7 (chromosome 7) có liên quan đến bệnh xơ nang (Cystic fibrosis) được gọi là chất điều hòa dẫn truyền sợi xơ nang; biểu tượng của nó là CFTR. Từ định nghĩa về gen, chúng ta thấy rằng: gen có bản chất là ADN, trên một phân tử ADN chứa rất nhiều gen quy định các tính trạng khác nhau của cơ thể người. Ngoài ra, còn có các loại gen khác, bao gồm gen phân mảnh và gen không phân mảnh. Mỗi người sẽ có hai bản sao của một gen, một bản từ bố và bản còn lại từ mẹ. Hầu hết các gen là như nhau ở mọi người, nhưng có một số ít gen (ít hơn 1% tổng số) hơi khác nhau giữa mỗi người. Alen là các dạng của cùng một gen với những khác biệt nhỏ trong trình tự base DNA. Những khác biệt nhỏ này tạo nên nét đặc trưng của mỗi người. Bộ gen hay hệ gen, genome là tập hợp chứa đựng toàn bộ thông tin di truyền của một cơ thể sinh vật được mã hóa trong ADN (ở một số virus có thể là ARN). Bộ gen bao gồm những vùng chứa gen lẫn những đoạn không phiên mã. Mặc dù số lượng cặp base của ADN ở bộ gen người đã được biết đến từ thập niên 1960, ước tính số lượng gen có sự thay đổi theo thời gian khi định nghĩa về gen, và phương pháp xác định chúng liên tục được cập nhật và tinh chỉnh. Các dự đoán lý thuyết ban đầu về số lượng gen ở người cao tới mức 2.000.000 gen. Trong khi các kết quả đo thực nghiệm sơ bộ ban đầu cho thấy số lượng này trong khoảng 50.000–100.000 gen được phiên mã (bằng phương pháp đánh dấu trình tự biểu hiện). Sau đó, kết quả giải trình tự ở Dự án Bản đồ gen ở Người cho thấy nhiều trình tự được phiên mã là những biến thể khác của cùng một gen, và tổng số lượng gen mã hóa protein giảm xuống còn ~20.000 trong đó có 13 gen mã hóa nằm trong bộ gen ty thể. Nghiên cứu sâu hơn từ dự án GENCODE, tiếp tục cho ước lượng số gen giảm xuống còn ~19.900. Trong bộ gen ở người, chỉ 1–2% trong 3 tỷ cặp base ADN là đoạn mã hóa protein, những đoạn còn lại là các ADN ‘không mã hóa’ bao gồm intron, retrotransposon, các trình tự điều hòa ADN và các đoạn ADN phiên mã thành ARN không mã hóa. Tuy gen đóng một vai trò to lớn trong sự hình thành tính trạng và mọi hoạt động của sinh vật, trong đó có cả con người, nhưng tác động của môi trường bên ngoài và cả những gì sinh vật đã trải qua cũng có vai trò rất quan trọng, thậm chí tạo ra kết quả sau cùng của biểu hiện tính trạng. Chẳng hạn, nhiều gen cùng quy định chiều cao của một người, nhưng chế độ dinh dưỡng, luyện tập của người đó cũng có ảnh hưởng không nhỏ. Những kiến thức cụ thể hơn về gen, ADN, công nghệ giải trình tự gen sẽ giúp các bạn có được bức tranh tổng thể về dịch vụ xét nghiệm ADN huyết thống Cha Con mà Trung tâm Xét nghiệm ADN NOVAGEN đang triển khai. VĂN PHÒNG HÀ NỘI: Tầng 5, tòa nhà An Phú, 24 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội.
Bộ gen người
Bộ gen người là bộ hoàn chỉnh các trình tự axit nucleic cho con người, được mã hóa dưới dạng DNA bên trong 23 cặp nhiễm sắc thể trong nhân tế bào và trong một phân tử DNA nhỏ được tìm thấy bên trong từng ty thể. Hệ gen người, được chứa đựng trong các tế bào mầm (2 tế bào giới tính một tinh trùng và một trứng được tạo ra trong giai đoạn giảm phân của quá trình sinh sản hữu tính trước khi thụ tinh để tạo ra một hợp tử) bao gồm ba tỷ cặp base DNA, trong khi bộ gen lưỡng bội (tìm thấy trong các tế bào xôma) gấp hai lần mẫu DNA. Trong khi có sự khác biệt đáng kể giữa bộ gen của các cá thể con người (độ lệch 0. Dự án bản đồ gen người tạo ra trình tự hoàn chỉnh đầu tiên của bộ gen người, với trình tự dự thảo đầu tiên và phân tích ban đầu được xuất bản vào ngày 12 tháng 2 năm 2001. Bộ gen của con người là bộ gen đầu tiên của tất cả các loài động vật có xương sống được giải trình tự hoàn toàn.
Sân vận động Santiago Bernabéu (tiếng Tây Ban Nha: Estadio Santiago Bernabéu; phát âm tiếng Tây Ban Nha: ( nghe)) là sân vận động bóng đá ở thành phố Madrid, Tây Ban Nha. Với sức chứa hiện tại là 81.044 chỗ ngồi, đây là sân nhà của Real Madrid kể từ khi hoàn thành vào năm 1947. Đây là sân vận động lớn thứ hai ở Tây Ban Nha và lớn nhất trong Vùng đô thị Madrid. Santiago Bernabéu là một trong những địa điểm bóng đá nổi tiếng nhất trên thế giới. Sân đã tổ chức trận chung kết cúp C1 châu Âu/UEFA Champions League trong bốn lần: năm 1957, 1969, 1980, 2010. Sân vận động này cũng đã tổ chức trận chung kết lượt về Copa Libertadores 2018, biến Santiago Bernabéu trở thành sân vận động đầu tiên (và duy nhất) tổ chức hai trận chung kết cúp châu lục quan trọng nhất (UEFA Champions League và Copa Libertadores). Các trận chung kết của Giải vô địch bóng đá châu Âu 1964 và Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 cũng được tổ chức tại Bernabéu, khiến sân trở thành sân vận động đầu tiên ở châu Âu tổ chức cả trận chung kết Euro và trận chung kết World Cup. Vào ngày 22 tháng 6 năm 1944, ngân hàng Banco Mercantil e Industrial đã cấp tín dụng cho Santiago Bernabéu và Rafael Salgado cho việc mua mảnh đất liền kề với Ramin Amin cũ. Vào ngày 5 tháng 9 năm 1944, các kiến trúc sư Manuel Muñoz Monasterio và Luis Alemany Soler đã được thuê và cấu trúc trên nền đất bắt đầu nhường chỗ cho sân vận động mới. Vào ngày 27 tháng 10 năm 1944, công việc xây dựng sân vận động bắt đầu. Sân vận động Chamartín mới (tiếng Tây Ban Nha: Nuevo Estadio Chamartín) được khánh thành vào ngày 14 tháng 12 năm 1947 với trận đấu giữa Real Madrid và đội bóng Bồ Đào Nha Os Belenenses, mang lại chiến thắng 3–1 cho Los Blancos. Sân vận động có sức chứa ban đầu là 75.145 khán giả, 27.645 trong số đó có chỗ ngồi (7.125) và 47.500 cho người hâm mộ đứng. Sabino Barinaga là cầu thủ đầu tiên ghi bàn ở sân vận động mới. Lần cải tạo lớn đầu tiên diễn ra vào năm 1955. Vào ngày 19 tháng 6 năm đó, sân vận động đã mở rộng để chứa được 125.000 khán giả. Do đó, đấu trường Madrid trở thành sân vận động lớn nhất trong số tất cả những sân tham gia cúp C1 châu Âu mới thành lập. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1955, sau Đại hội đồng thành viên Compromisaros, người ta đã quyết định rằng sân vận động lấy tên hiện tại để vinh danh chủ tịch câu lạc bộ Santiago Bernabéu. Vào tháng 5 năm 1957, Real Madrid đã sử dụng ánh sáng điện sân vận động trong trận đấu với Sport Recife của Brasil. Những thay đổi lớn tiếp theo đã không diễn ra cho đến đầu những năm 1980 với việc tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 tại Tây Ban Nha. Sân vận động phải thích nghi với thời đại thay đổi và với điều này, các kiến trúc sư Rafael Luis Alemany và Manuel Salinas đã được thuê cho dự án cải tạo sân vận động. Hai anh em là con trai của Luis Alemany Soler, người đã thực hiện dự án xây dựng ban đầu bên cạnh Muñoz Monasterio. Công việc kéo dài 16 tháng và có chi phí 704 triệu peseta (4,7 triệu USD), trong đó 530 triệu được trả bởi Thành phố Madrid. Các cải tiến bao gồm một số điểm. Đầu tiên, FIFA buộc hai phần ba diện tích chỗ ngồi phải được che kín. Vì lý do này, Real Madrid đã lắp đặt một mái che bao quanh chu vi của các hàng ghế thứ nhất và thứ hai, ngoại trừ phía đông. Sức chứa của sân vận động đã giảm từ 120.000 xuống còn 98.000 khán giả, 24.550 trong số đó được bao phủ bởi mái che mới. Dự án cũng liên quan đến việc tu sửa mặt tiền, lắp đặt các bảng điện tử mới ở đầu phía bắc và phía nam, cũng như cải tạo các khu vực báo chí, phòng thay đồ, tiếp cận và các khu vực phụ trợ. Sân vận động đã tổ chức bốn trận đấu tại World Cup: ba trận đấu của Bảng B vòng 2 vòng bảng (Tây Đức vs Anh, Tây Đức vs Tây Ban Nha và Tây Ban Nha vs Anh) và trận chung kết danh giá (Ý vs Tây Đức). Sau một loạt các vụ tai nạn khán giả vào những năm 1980 (đáng chú ý nhất là sân vận động Heysel ở Bỉ và sân vận động Hillsborough ở Anh), chính quyền Anh đã công bố Báo cáo Taylor về cách cải thiện sự an toàn của khán giả bóng đá ở các địa điểm của Anh. UEFA đưa ra tiêu chí sân vận động tiếp theo phù hợp trên khắp châu Âu. Sân vận động đã buộc phải tạo ra các phím tắt riêng biệt cho các phần sân và chỗ ngồi khác nhau cho tất cả khán giả. Vào những năm 1990, Santiago Bernabéu đã trải qua một quá trình mở rộng và tu sửa lớn. Hội đồng quản trị của Ramón Mendoza đã trao dự án cho Gines Navarro Construcciones, S.A. Công việc bắt đầu vào ngày 7 tháng 2 năm 1992 và kết thúc vào ngày 7 tháng 5 năm 1994 với chi phí cuối cùng là hơn 5 tỷ peseta, làm tăng đáng kể khoản nợ của câu lạc bộ, không có sự hỗ trợ của tổ chức . Công trình kết thúc với việc tạo ra một giảng đường ở phía tây và trong các nền móng, kết hợp với tòa nhà hiện có bằng cách sử dụng kích thủy lực. Tổng cộng, 20.200 ghế nâng cấp đã được cài đặt, với mỗi ghế có độ nghiêng 87 độ, đảm bảo tầm nhìn hoàn hảo và gần với sân. Ngoài ra, để truy cập vào vành đai mới, bốn tòa tháp lối vào đã được dựng lên ở bên ngoài, mỗi tháp có hai cầu thang và một đường dốc xoắn ốc trung tâm. Với cấu trúc mới, chiều cao của sân vận động được tăng từ 22 m lên 45 m. Điều này gây ra vấn đề trong mùa đông, khiến hai phần ba sân chơi trong bóng râm. Sự thiếu ánh sáng mặt trời này dẫn đến sự xuống cấp của cỏ trên sân. Vì lý do này, một mạng lưới ống polypropylen đã được lắp đặt ở độ sâu 20 cm dưới sân. Với chiều dài hơn 30 km, hệ thống đường ống lưu thông nước nóng, giữ cho cỏ không bị đóng băng ở nhiệt độ lạnh. Ngoài ra, do chiều cao của chân đế, cần phải cải thiện và tăng khả năng chiếu sáng. Một mái nhà bảo vệ có thể thu vào cũng đã được cài đặt để bảo vệ quạt khỏi các yếu tố. Sau khi cải tạo, sức chứa của sân vận động là 110.000 khán giả. Vào mùa hè năm 1998, và được chủ trì bởi Lorenzo Sanz, Santiago Bernabéu đã áp dụng một sự sắp xếp tất cả các chỗ ngồi, đưa sức chứa của nó xuống còn 75.328 khán giả. Khi câu lạc bộ tiếp tục phát triển về mọi mặt, những suy nghĩ về những thay đổi tiếp theo cho sân vận động đã xuất hiện. Khi Florentino Pérez trở thành chủ tịch của câu lạc bộ, ông đã đưa ra một “kế hoạch tổng thể” với một mục tiêu: cải thiện sự thoải mái của Santiago Bernabéu và chất lượng cơ sở vật chất, và tối đa hóa doanh thu cho sân vận động. Pérez đã đầu tư 127 triệu euro sau 5 năm (2001–2006) bằng cách thêm một phần mở rộng về phía đông của sân vận động, cũng như thêm một mặt tiền mới trên đường phố Father Damien, lớp tường mới, hộp mới và khu vực VIP, một sân khấu mới để vinh danh ở phía đông, một khu vực báo chí mới (cũng nằm ở phía đông), một hệ thống âm thanh mới, quán bar mới, tích hợp hệ thống sưởi trên khán đài, thang máy toàn cảnh, nhà hàng mới, thang cuốn trong tháp, và thực hiện đa năng tòa nhà ở phố Damien. Sau sự mở rộng của phía đông và tạo ra các phòng trưng bày mới, sức chứa của Santiago Bernabéu là 80.354 người, tất cả đều có chỗ ngồi. Vào năm 2007, trận đấu thứ 1.000 đã được diễn ra tại Santiago Bernabéu. Ngoài ra, phiên bản mới nhất của UEFA vào ngày 27, nhân dịp trận đấu Champions League với Olympiakos, đóng vai trò là bước cuối cùng để đưa ra trạng thái sân vận động ưu tú của Santiago Bernabéu vào ngày 14 tháng 11 năm 2007, một tháng trước lễ kỷ niệm Kỷ niệm 60 năm khánh thành sân vận động. UEFA thông báo rằng họ sẽ nhận được trạng thái sân vận động ưu tú. Pérez đề xuất xây dựng một mái che có thể thu vào trước khi ông từ chức năm 2005. Năm 2009, sau cuộc bầu cử lại của Pérez với tư cách là chủ tịch câu lạc bộ, đã có thông báo rằng việc xây dựng mái che dường như không thể xảy ra do tình hình tài chính của câu lạc bộ. Theo tờ báo thể thao Marca của Tây Ban Nha, tuy nhiên, Pérez muốn tái cấu trúc Santiago Bernabéu. Theo tờ báo, kiến trúc sư phụ trách sẽ được chọn trong số một danh sách ngắn các kiến trúc sư Tây Ban Nha Santiago Calatrava và người chiến thắng giải thưởng Pritzker Rafael Moneo, và người Mỹ gốc Hoa Ieoh Ming Pei, cũng là người chiến thắng giải Pritzker. Theo trang web chính thức của câu lạc bộ, sức chứa hiện tại là 81.044 người. Vào ngày 16 tháng 10 năm 2013, Pérez tuyên bố rằng Real Madrid đang tìm cách bán quyền đặt tên cho sân vận động của mình và tìm kiếm một nhà tài trợ cho dự án cải tạo trị giá 400 triệu euro. Thiết kế đề xuất cải tạo sân vận động, do kiến trúc sư người Đức GMP sản xuất, đã được công bố vào ngày 31 tháng 1 năm 2014. Thiết kế táo bạo bao gồm một mái che có thể thu vào, với tổng chi phí khoảng 400 triệu euro có thể được đáp ứng một nửa thông qua việc bán quyền đặt tên và một nửa thông qua một vấn đề trái phiếu cho các thành viên Real theo báo cáo phương tiện truyền thông Tây Ban Nha. Pérez nói: “Chúng tôi muốn biến Santiago Bernabéu thành sân vận động tốt nhất thế giới.” Real Madrid sau đó đã công bố một thỏa thuận tài trợ với IPIC để hỗ trợ câu lạc bộ trong việc tái phát triển sân vận động. Pérez sau đó nói rằng theo thỏa thuận, tên của sân vận động sẽ được đổi tên thành “IPIC Bernabeu” hoặc “CEPSA Bernabeu”. Bề mặt đã được thay thế bằng cỏ lai Mixto. Real Madrid và Microsoft đã ra mắt audioguide tương tác đầu tiên cho Bernabéu Tour vào ngày 3 tháng 4 năm 2017. Hơn 200.000 người đã tham quan sân vận động vào năm 2016, trong đó hơn 60% là người nước ngoài. Dự án cải tạo trị giá 525 triệu euro đã được bắt đầu vào mùa hè 2017, nhưng bắt đầu vào năm 2019. Sức chứa sẽ vẫn ở mức 81.000 chỗ ngồi, nhưng chiều cao sẽ được tăng thêm 10 m và một mái che sẽ được thêm vào. Câu lạc bộ dự kiến sẽ bán quyền đặt tên để sân vận động được cải tạo. Để dự án không bị cản trở khi tổ chức các trận đấu, đội sẽ sử dụng các kỹ thuật La Mã để nâng cao mái che, giúp công việc tiếp tục dễ dàng hơn trong khi mùa giải đang diễn ra và có các trận đấu một hoặc hai lần một tuần. “Dự án rất phức tạp vì nó sẽ không ngăn được bóng đá và do đó làm phức tạp các công trình và thiết kế, có một mái che bao quanh toàn bộ sân vận động. Họ sẽ nâng mái che như người La Mã đã làm, nhưng với công nghệ hiện đại. Họ sẽ nâng cao vòng trong bằng cách kéo dây với kích thủy lực, công nghệ cầu và thang máy trượt tuyết trong một khoảng thời gian ngắn vào mùa hè để tôn trọng lịch thể thao.”, Tristán López Chicheri, cá nhân phụ trách cải tạo, cho biết. Chicheri tin rằng việc cải tạo sẽ đưa khách du lịch đến sân vận động quanh năm, với nhiều điểm tham quan được lên kế hoạch. Sân vận động được cho là có nhiều nhà hàng, trung tâm mua sắm và khách sạn, với một số phòng có tầm nhìn ra sân. ‘Sân vận động kỹ thuật số của tương lai’ sẽ được trang bị màn hình 360 độ và mái che có thể thu vào. “Không chỉ vào các trận đấu mà nó sẽ được sử dụng – có những địa điểm như Bernabéu nằm giữa thành phố và thật xấu hổ khi họ không có cuộc sống nào ngoài 35–40 trận đấu một năm”, Chicheri nói. Các khu vực xung quanh Bernabéu sẽ được sắp xếp lại: Plaza de los Sagrados Corazones sẽ bị xóa để được thay thế bằng 6.000 m2 vườn. Sân vận động nằm ở quận Chamartín của Madrid. Nó chiếm một vùng được giới hạn bởi Paseo de la Castellana và các đường Concha Espina, Padre Damián và Rafael Salgado. Ga tàu điện ngầm gần nhất là Santiago Bernabéu trên Tuyến 10. Sân vận động được phục vụ bởi ga tàu điện ngầm riêng dọc theo Tuyến 10 có tên là Santiago Bernabéu. Nó cũng được phục vụ bởi các tuyến xe buýt 14, 27, 40, 43, 120, 147 và 150. Sân vận động cách 8,2 dặm (13,2 km) từ sân bay quốc tế Barajas. Santiago Bernabéu đã tổ chức ba trận đấu của Giải vô địch bóng đá châu Âu 1964, một giải đấu mà Tây Ban Nha là chủ nhà: một trận đấu vòng loại và hai trận ở giải đấu chính, bao gồm cả trận chung kết. Tất cả các trận đấu đều liên quan đến đội tuyển Tây Ban Nha. Sân vận động đã tổ chức một trận đấu vòng loại với România, kết quả là giành chiến thắng 6–0. Sân vận động đã tổ chức hai trận đấu của giải đấu, bao gồm cả trận chung kết. Trận đấu được tổ chức bởi đội vô địch năm 1960, Liên Xô và chủ nhà Tây Ban Nha, tại sân vận động Santiago Bernabéu ở Madrid. Tây Ban Nha thắng 2–1, với các bàn thắng đến từ Jesús María Pereda và Marcelino. Trong World Cup 1982 được tổ chức tại Tây Ban Nha, sân vận động Santiago Bernabéu đã tổ chức bốn trận đấu: ba trận ở vòng hai (Tây Đức–Anh, Tây Đức–Tây Ban Nha và Tây Ban Nha–Anh) cũng như trận chung kết giữa Tây Đức và Ý. Trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 là trận đấu bóng đá giữa Ý và Tây Đức. Nó được diễn ra vào ngày 11 tháng 7 năm 1982.
Sân vận động tượng đài Antonio Vespucio Liberti
Sân vận động tượng đài Antonio Vespucio Liberti (tiếng Tây Ban Nha: Estadio Monumental Antonio Vespucio Liberti, phát âm tiếng Tây Ban Nha: ), cũng được gọi là Sân vận động River Plate, Tượng đài Nuñez, hoặc đơn giản là El Monumental, là một sân vận động ở quận Belgrano của Buenos Aires, Argentina. Đây là sân nhà của câu lạc bộ bóng đá River Plate. Sân được khánh thành vào ngày 25 tháng 5 năm 1938 và được đặt tên theo cựu chủ tịch câu lạc bộ Antonio Vespucio Liberti. Đây là sân vận động lớn nhất ở Argentina với sức chứa 70.074 chỗ ngồi và cũng là sân nhà của đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina. Đó là địa điểm chính trong Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 1951. Sân đã tổ chức trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 1978 giữa Argentina và Hà Lan. Ngoài ra, sân đã tổ chức bốn trận chung kết của Cúp bóng đá Nam Mỹ, gần đây nhất là vào năm 2011. Club Atlético River Plate được thành lập vào năm 1901 và đến năm 1934, đội đã giành được hai chức vô địch. Vào thời điểm đó, câu lạc bộ có biệt danh là "Los Millonarios" (Triệu phú trong tiếng Tây Ban Nha) vì mua tiền đạo Carlos Peucelle mà River đã trả một số tiền rất lớn.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy mặc dù đã được xử lý tại các nhà máy của thành phố nhưng các chất gây ô nhiễm vẫn đang được tìm thấy trong nước khi cung cấp cho các hộ gia đình. Những mối đe dọa đối với nước uống đang gia tăng và cần có các biện pháp để đảm bảo an toàn trong việc sử dụng nước uống hằng ngày. Việc trang bị máy lọc nước công nghệ RO đã giúp việc mang đến nguồn nước sạch cho cả gia đình đơn giản hơn, khi kết hợp với phương pháp khử trùng bằng tia cực tím thì khả năng lọc càng trở nên hoàn hảo so với các phương pháp xử lý nước truyền thống. Xử lý nước bằng tia cực tím (UV) được coi là " Rào cản cuối cùng " để đảm bảo nguồn nước của bạn an toàn trước các vi sinh vật gây hại và mang đến sự yên tâm tuyệt đối. Lắp đặt dễ dàng: Đèn UV trong lọc nước gia đình thường được lắp đặt như một lõi lọc nâng cấp của máy lọc nước RO vừa mang lại hiệu quả cao lại không tốn nhiều không gian lắp đặt. Bảo trì thấp: Thông thường chúng ta chỉ cần phải thay bóng đèn UV sau một thời gian dài sử dụng. Khả năng khử khuẩn mạnh mẽ: Hệ thống khử trùng bằng tia cực tím giúp tiêu diệt tới 99,99% virus, vi khuẩn và các loại vi sinh vật. Tiết kiệm năng lượng: Hệ thống đèn UV chỉ sử dụng năng lượng như một bóng đèn thông thường. Xử lý linh hoạt: Hệ thống tia cực tím có thể xử lý cả nguồn nước nóng và nước lạnh trong nhà bạn. Tốc độ xử lý nhanh: Một số phương pháp lọc đòi hỏi thời gian để các hóa chất hoạt động hoặc phải có bể chứa. Đối với phương pháp khử trùng bằng UV thì việc làm sạch nước được thực hiện ngay khi nước chảy qua tia cực tím. Vị giác và mùi: Các phương pháp khử trùng bằng hoá học làm thay đổi mùi và vị của nước, nhưng tia cực tím không. An toàn: Tia cực tím không phải là hóa chất và đã được nghiên cứu chứng minh độ an toàn tuyệt đối. Hoạt động bền bỉ, đáng tin cậy: Đèn UV có thể hoạt động suốt 24 giờ đồng hồ mà không thay đổi về khả năng diệt khuẩn. Đa dạng về công suất: Đèn UV có nhiều công suất phù hợp với các hệ thống lọc nước khác nhau như máy lọc nước, dây chuyền lọc nước, hệ thống lọc nước gia đình giúp việc lựa chọn trở nên dễ dàng
Khử trùng bằng tia cực tím
Khử trùng bằng tia cực tím (UVGI) là một phương pháp khử trùng sử dụng tia cực tím (UV-C) để giết hoặc làm bất hoạt các vi sinh vật bằng cách phá hủy các acid nucleic và phá hoại DNA của chúng, khiến chúng không thể thực hiện chức năng tế bào quan trọng. UVGI được sử dụng trong một loạt các ứng dụng, chẳng hạn như thực phẩm, không khí và lọc nước. UV-C ánh sáng là yếu ở bề mặt Trái Đất do lớp ozone ngăn chặn nó. Thiết bị UVGI có thể sản xuất đủ ánh sáng UV-C mạnh trong tuần hoàn hệ thống không khí hoặc nước để biến chúng thành môi trường khắc nghiệt đối với vi sinh vật như vi khuẩn, virus, nấm mốc và các mầm bệnh khác. UVGI có thể được kết hợp với một hệ thống lọc để khử trùng không khí và nước. Việc áp dụng các UVGI để khử trùng đã là một thực tế được chấp nhận kể từ giữa thế kỷ 20. Nó đã được sử dụng chủ yếu trong điều kiện vệ sinh y tế và phương tiện làm việc vô trùng. Càng ngày nó càng được sử dụng nhiều để khử trùng nước uống và nước thải như các cơ sở giữ được kèm theo và có thể được luân chuyển để đảm bảo một độ phơi nhiễm cao với tia cực tím.
Trong tiếng Anh, từ “giáo dục” được biết đến với từ “education”, đây là một từ gốc Latin được ghép bởi hai từ là “Ex” và “Ducere” – “Ex-Ducere”. Có nghĩa là dẫn (“Ducere”) con người vượt ra khỏi (“Ex”) hiện tại của họ để vươn tới những gì hoàn thiện, tốt lành hơn và hạnh phúc hơn. Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày “Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ loài người”. Định nghĩa này nhấn mạnh về sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ, nhấn mạnh đến yếu tố dạy học, nhưng không đề cập đến mục đích sâu xa hơn, mục đích cuối cùng của việc đó. Theo ông John Dewey (1859 – 1952), nhà triết học, nhà tâm lí học và nhà cải cách giáo dục người Mỹ, ông cho rằng cá nhân con người không bao giờ vượt qua được quy luật của sự chết và cùng với sự chết thì những kiến thức, kinh nghiệm mà cá nhân mang theo cũng sẽ biến mất. Tuy nhiên, tồn tại xã hội lại đòi hỏi phải những kiến thức, kinh nghiệm của con người phải vượt qua được sự khống chế của sự chết để duy trì tính liên tục của sự sống xã hội. Giáo dục là “khả năng” của loài người để đảm bảo tồn tại xã hội. Ngoài ra, ông John Dewey cũng cho rằng, xã hội không chỉ tồn tại nhờ truyền dạy, nhưng còn tồn tại chính trong quá trình truyền dạy ấy. Như vậy, theo quan điểm của ông John Dewey, ông cũng đề cập đến việc truyền đạt, nhưng ông nói rõ hơn về mục tiêu cuối cùng của việc giáo dục, là dạy dỗ. Như vậy, có thể kết luận rằng, “giáo dục” là sự hoàn thiện của mỗi cá nhân, đây cũng là mục tiêu sâu xa của giáo dục; người giáo dục, hay có thể gọi là thế hệ trước, có nghĩa vụ phải dẫn dắt, chỉ hướng, phải truyền tải lại cho thế hệ sau tất cả những gì có thể để làm cho thế hệ sau trở nên phát triển hơn, hoàn thiện hơn.Với ý nghĩa đó, giáo dục đã ra đời từ khi xã hội loài người mới hình thành, do nhu cầu của xã hội và trở thành một yếu tố cơ bản để làm phát triển loài người, phát triển xã hội. Giáo dục là một hoạt động có ý thức của con người nhằm vào mục đích phát triển con người và phát triển xã hội. Giáo dục ban đầu được thực hiện một cách đơn giản, trực tiếp ngay trong lao động và trong cuộc sống, ở mọi lúc, mọi nơi. Khi xã hội ngày càng phát triển lên, kinh nghiệm xã hội được đúc kết nhiều hơn, yêu cầu của xã hội đối với con người ngày càng cao hơn, các loại hình hoạt động xã hội ngày càng mở rộng hơn thì giáo dục theo phương hướng trực tiếp không còn phù hợp mà đòi hỏi phải có một phương thức giáo dục khác có hiệu quả hơn. Giáo dục gián tiếp theo phương thức nhà trường, được thực hiện một cách chuyên biệt ra đời và ngày càng phát triển đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của xã hội. Do đó, xã hội ngày càng phát triển, giáo dục ngày càng trở nên phức tạp hơn và mang tính chuyên biệt hơn. Sự phát triển đó là do yêu cầu tất yếu của xã hội và do những sức mạnh to lớn của giáo dục tạo ra sự phát triển của xã hội. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển về mọi mặt của xã hội thì không ai có thể phủ nhận về nó. Từ khi ra đời, giáo dục đã trở thành một yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển thông qua việc thực hiện các chức năng xã hội của nó. Đó chính là những tác động tích cực của giáo dục đến các mặt hay các quá trình xã hội và tạo ra sự phát triển cho xã hội. Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm “giáo dục”:. – Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách dưới ảnh hưởng của tất cả các hoạt động từ bên ngoài, được thực hiện một cách có ý thức của con người trong nhà trường, gia đình và ngoài xã hội. Ví dụ: Ảnh hưởng của các hoạt động đa dạng nội khóa, ngoại khóa của nhà trường; ảnh hưởng của lối dạy bảo, nếp sống trong gia đình; ảnh hưởng của sách vở, tạp chí; ảnh hưởng của những tấm lòng nhân từ của người khác;…. – Giáo dục còn được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích xác định được tổ chức một cách khoa học (có kế hoạch, có phương pháp, có hệ thống) của các cơ quan giáo dục chuyên biệt (nhà trường) nhằm phát triển toàn diện nhân cách. Qua những môn học trên trường, lớp cũng như qua những hoạt động như báo cáo thời sự, biểu diễn văn nghệ, cắm trại, thăm quan,… được tổ chức ngoài giờ lên lớp, sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách của người được giáo dục, dưới tác động của giáo viên, của nhà giáo dục. – Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách người giáo dục dưới quan hệ của những tác động sư phạm của nhà trường, chỉ liên quan đến các mặt giáo dục như: trí học, đức học, mĩ dục, thể dục, giáo dục lao động. – Ngoài ra, giáo dục còn được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách người được giáo dục chỉ liên quan đến giáo dục đạo đức. Sự ra đời và phát triển của giáo dục gắn liền với cự ra đời và phát triển của xã hội. Một mặt, giáo dục phục vụ cho sự phát triển xã hội, bởi lẽ, xã hội sẽ không phát triển thêm một bước nào nếu như không có những điều kiện cần thiết cho giáo dục tạo ra. Mặt khác, sự phát triển của giáo dục luôn chịu sự quy định của xã hội thông qua những yêu cầu ngày càng cao và những điều kiện ngày càng thuận lợi do sự phát triển xã hội mang lại. Chính vì vậy, trình độ phát triển của giáo dục phản ánh những đặc điểm phát triển của xã hội. Trong thời đại ngày nay, nền giáo dục thế giới và của mỗi quốc gia đang không ngừng cái cách đổi mới nhằm thích ứng tốt hơn với những xu thế phát triển mới mẻ, năng động của toàn nhân loại và có khả năng tạo ra được những nguồn lực mới để phát triển nhanh, bền vững.
Giáo dục
Giáo dục là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng, được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục. Tuy nhiên, không thể bắt ép một người học một thứ gì đó mà bản thân họ không có nhu cầu,như vậy là phản giáo dục Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học, và giáo dục đại học. Về mặt từ nguyên, "education" trong tiếng Anh có gốc La-tinh ēducātiō ("nuôi dưỡng, nuôi dạy") gồm ēdūcō ("tôi giáo dục, tôi đào tạo"), liên quan đến từ đồng âm ēdūcō ("tôi tiến tới, tôi lấy ra; tôi đứng dậy"). Trong tiếng Việt, giáo (教) có nghĩa là "dạy cho biết", dục (育) có nghĩa là "nuôi nấng" (đừng nhầm sang dục (欲) mang nghĩa là "ham muốn" như dục vọng, tình dục); giáo dục là "dạy dỗ gây nuôi đủ cả trí-dục, đức-dục, thể-dục".Tại Việt Nam, một định nghĩa khác về giáo dục được Giáo sư Hồ Ngọc Đại đưa ra như sau: Giáo dục là một quá trình mà trong đó kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của một người hay một nhóm người này được truyền tải một cách tự nhiên mà không hề áp đặt sang một người hay một nhóm người khác thông qua giảng dạy, đào tạo hay nghiên cứu để từ đó tìm ra, khuyến khích, định hướng và hỗ trợ mỗi cá nhân phát huy tối đa được ưu điểm và sở thích của bản thân khiến họ trở thành chính mình, qua đó đóng góp được tối đa năng lực cho xã hội trong khi vẫn thỏa mãn được quan điểm, sở thích và thế mạnh của bản thân.
YouTube là nền tảng xuất bản video lớn nhất thế giới. Với hơn một tỷ. Ánh sáng giúp ta nhìn rõ vạn vật xung quanh. Mỗi ngày, mắt chúng ta đều tiếp xúc với ánh sáng, có ánh sáng nhìn thấy được và ánh sáng không thấy được. Ánh sáng nhìn được là các bức xạ điện từ có bước sóng nằm trong vùng quang phổ nhìn thấy được bằng mắt thường của con người. Mặt trờichính là nguồn sáng chính của Trái Đất, ngoài ra một số loại động vật cũng có khả năng tự tạo ra ánh sáng của riêng chúng. Trải qua quá trình tiến hóa, con người cũng đã tìm ra nguồn cung cấp ánh sáng thứ hai chính là lửa. Trong thời đại phát triển văn minh, đèn và hệ thống đèn điện đã trở thành nguồn cung cấp ánh sáng chủ động, hiệu quả trong cuộc sống hàng ngày. Ánh sáng thực chất là những bức xạ điện từ có chuyển động giống như sóng biển. Có sóng lớn và sóng nhỏ. Độ lớn của sóng được gọi là bước sóng và độ dao động được gọi là tần số. Cụ thể, bước sónglà khoảng cách gần nhất giữa hai điểm dao động cùng pha hay khoảng cách giữa hai đỉnh sóng (điểm dao động cực đại) tại một thời điểm nhất định. Ánh sáng chỉ là một phần rất nhỏ của quang phổ bức xạ điện từ. Ánh sáng nhìn thấy được hay còn gọi là ánh sáng khả kiến có chứa một vùng tần số duy nhất mà các tế bào hình que và hình nón của mắt người phản ứng được. Và bước sóng ánh sáng con người thấy được có phạm vi rất hẹp, trong khoảng 380-760 nm. Con người có thể quan sát và phản ứng lại sự kích thích tạo ra bởi ánh sáng nhìn thấy được là do mắt người có những đầu dây thần kinh đặc biệt nhạy cảm với vùng tần số này. Tuy nhiên, phần còn lại của phổ điện từ thì không nhìn thấy được. Một số loài động vật có thể nhìn thấy được bước sóng ánh sáng có tần số mà con người không nhìn thấy được. Ví dụ, ong hay một số loài côn trùng hoặc chim có thể nhìn thấy được tia cực tím. Ngoài ra, ánh sáng có nhiều màu sắc khác nhau. Màu sắc của ánh sáng thấy được tùy thuộc vào khả năng nhìn thấy của từng loài. Màu sắc của ánh sáng tùy thuộc vào bước sóng của nó. Những màu chính trong ánh sáng trắng như đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm tím ứng với từng vùng ánh sáng có bước sóng lân cận nhau. Mắt và não con người có thể phân biệt nhiều màu sắc hơn màu quang phổ, đó là do não thu hẹp khoảng cách giữa các màu. Xung quanh chúng ta có nhiều nguồn có thể phát ra bức xạ điện từ và thường được phân loại theo phổ bước sóng mà các nguồn phát ra. Sóng ánh sáng được tạo ra bởi những xáo trộn trạng thái năng lượng của các electron tích điện âm bên trong nguyên tử. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta chịu ảnh hưởng rất lớn từ các phổ bức xạ điện từ nhưng chỉ nhìn thấy được một phần nhỏ dưới dạng ánh sáng khả kiến. Đây là phần ánh sáng tập hợp của nhiều bước sóng có thành phần thay đổi tùy theo nguồn phát. Khi tìm hiểu về tính chất của bước sóng ánh sáng, bạn cần biết về tán sắc ánh sáng. Tán sắc ánh sáng là sự phân phân tách một chùm sáng phức tạp thành các chùm sáng đơn sắc. Tán sắc ánh sáng xảy ra khi chiếu chùm sáng trắng qua lăng kính. Ánh sáng đơn sắc là ánh sáng không bị tán sắc khi đi qua lăng kính. Mỗi ánh sáng đơn sắc có một màu xác định được gọi là màu đơn sắc. Mỗi màu đơn sắc trong mỗi môi trường (rắn, lỏng, khí, chân không) có một bước sóng xác định. Khi truyền qua các môi trường trong suốt khác nhau vận tốc của ánh sáng thay đổi, bước sóng của ánh sáng thay đổi còn tần số của ánh sáng thì không thay đổi. Ánh sáng trắng là tập hợp của vô số ánh sáng đơn sắc khác nhau có màu biến thiên liên tục từ đỏ đến tím. Dải có màu giống như cầu vồng (có có vô số màu, được chia thành 7 màu chính đó là đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím) được gọi là quang phổ của ánh sáng trắng. Chiết suất của các chất trong suốt biến thiên theo màu sắc ánh sáng và tăng dần từ màu đỏ đến màu tím. Dựa vào hiện tượng tán sắc ánh sáng, con người có thể lý giải được nhiều hiện tượng quang học trong thiên nhiên. Cụ thể là ánh sáng cầu vồng sau cơn mưa. Hiện tượng cầu vồng xảy ra do sự tán sắc ánh sáng, các tia sáng Mặt Trời đã bị khúc xạ và phản xạ trong các giọt nước trước khi tới mắt người. Hiện tượng tán sắc ánh sáng được dùng trong máy quang phổ để phân tích một chùm sáng đa sắc, do các vật sáng phát ra, thành các thành phần đơn sắc. Hiện tượng này làm cho ảnh của một vật trong ánh sáng trắng qua thấu kính không rõ nét mà bị nhòe, lại bị viền màu sắc (gọi là hiện tượng sắc sai). Tìm hiểu về bước sóng ánh sáng giúp chúng ta có thể hiểu rõ hơn về ảnh hưởng của bức xạ điện từ đến con người. Hy vọng bài viết đã Nanofilm giúp bạn có thêm những thông tin hữu ích.
Phổ nhìn thấy được
Phổ có thể nhìn thấy được hay Ánh sáng khả kiến là một phần của quang phổ điện từ có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Bức xạ điện từ trong phạm vi các bước sóng được gọi là nhìn thấy được ánh sáng hay đơn giản là ánh sáng. Mắt người điển hình có thể nhìn thấy bức xạ điện từ có bước sóng từ khoảng 380-760 nm. Về mặt tần số, điều này tương ứng với một dải tần số trong khoảng 400-790 THz. Một con mắt thích nghi với ánh sáng thường có độ nhạy tối đa của nó vào khoảng 555 nm (540 THz), tương ứng khu vực màu xanh của quang phổ quang học. Tuy nhiên, phổ này không chứa tất cả các màu sắc mà mắt con người và não bộ có thể phân biệt được. Các màu sắc không bão hòa như màu hồng, hoặc các biến thể màu tím như màu đỏ tươi chẳng hạn thì không nhìn thấy bởi vì chúng chỉ có thể được thực hiện bởi một kết hợp của nhiều bước sóng. Vào thế kỉ 13, Roger Bacon đã đưa ra giả thuyết rằng cầu vồng được tạo ra bằng một quá trình tương tự khi ánh sáng đi qua thủy tinh.
Trong bài viết này, hãy cùng điểm qua các khái niệm căn bản trong kiến trúc phần mềm để có thể hiểu rõ hơn trong các bài viết về sau. Điều đầu tiên, cho dù bạn nghĩ thế nào đi nữa thì chắc chắn sẽ không có chuyện 1 bước lên mây, bạn không thể hi vọng có thể áp dụng 1 kiến trúc cho tất cả các vấn đề gặp phải dù cho kiến trúc đó có good cỡ nào, một đôi giày triệu chắc gì đã làm bạn thấy thoải mái và vừa vặn. Hãy học hỏi thật nhiều các cách tiếp cận khác nhau, ưu nhược của từng cái, vấn đề mà nó giải quyết. Hãy chắc chắn là bạn hiểu rõ dự án của bạn cần gì, hiểu rõ kiến thức nghiệp vụ và yêu cầu của khách hàng, từ đó sẽ đi đến việc quyết định lựa chọn / tùy chỉnh mô hình nào phù hợp nhất. Rõ ràng là không dễ để những người trẻ tuổi, có ít hoặc không có kinh nghiệm trong việc chọn lựa mô hình kiến trúc nào phù hợp với yêu cầu của dự án. Bằng cách tham khảo các dự án đi trước, tham vấn ý kiến, kinh nghiệm từ những người dày dặn cộng với kiến thức đã học được về kiến trúc phần mềm sẽ giúp bạn đỡ bối rối hơn khi giải quyết các vấn đề ở mức vĩ mô hơn. Trong kỹ nghệ phần mềm có hàng trăm các thuật ngữ nhập nhằng, mơ hồ được đưa ra khiến cho việc sử dụng và hiểu biết của chúng ta bị nhầm lẫn thậm chí hiểu sai. Cùng làm rõ 1 số thuật ngữ chuyên dùng nhất ở phía dưới đây (tôi dùng nguyên bản tiếng Anh cho tiện refer về sau):. Là những đơn vị code (dòng code, method, class hoặc nhóm các class) đề cập đến khía cạnh kỹ thuật của ứng dụng. Functional không liên quan đến nghiệp vụ. Ví dụ một số functional thường gặp: Layers Factories Repositories Value Objects Views ViewModels ConceptualLà những đơn vị code phản ánh các khái niệm nghiệp vụ của ứng dụng, ví dụ như: User Product Checkout Post Comment Review Một điểm lưu ý là một đơn vị code có thể đảm nhận luôn 2 chức năng là Functional và Conceptual. Theo định nghĩa từ cuốn Software Architecture in Practice thì một module là 1 functional package, nó phản án 1 technical capability (tính năng kỹ thuật) trong ứng dụng. Các module có tính độc lập (decoupled) và một module có thể được thay thế bởi một module khác mà ứng dụng vẫn có thể hoạt động. Ví dụ ta có 1 “Security Module” hoặc “ORM”, hoặc cao hơn nữa, ta có thể xem Client và Server là 2 module của ứng dụng. Module tạo ra tính gắn kết về mặt chức năng kỹ thuật (Functional cohesion) nghĩa là tập các đơn vị code làm chung một Functional sẽ được đóng gói vào một module. Ngược lại với Module, theo định nghĩa từ cuốn Software Architecture in Practice thì một Component là một conceptual package, nó phản ánh một business capability (tính năng về nghiệp vụ). Và tất nhiên nó cũng có tính độc lập với các component và module khác. Ví dụ ta có User component, Product component, Checkout component.Một chú ý rất quan trọng đó là component phản ánh 1 bounded context, nó cung cấp tính gắn kết về mặt chức năng nghiệp vụ.Lưu ý: bounded context là thuật ngữ dùng trong Domain Driven Design, đề cập đến việc phân rã nghiệp vụ thành các nghiệp vụ đơn lẻ, nhỏ hơn mà vẫn đảm bảo ý nghĩa của nó trong toàn bộ hệ thống, khi đó bounded context được xem như là cái bao trùm và diễn tả cho nghiệp vụ đó. Tác giả xem application là UI – user-facing code, cái được build phía trên cùng và sử dụng các nền tảng nghiệp vụ phía dưới (components). Lấy ví dụ về Web shop, chúng ta có 1 tập các component về nghiệp vụ của 1 web shop. Chúng ta cũng có 2 là trang bán hàng (storefront) cung cấp các UI đến khác hàng và trang admin dùng để quản lý nội bộ. Trang bán hàng và admin có thể coi đó như 2 application sử dụng các nền tảng nghiệp vụ phía dưới. System là một tập các applications làm việc, tương tác cùng với nhau nhằm phục vụ các nhu cầu của một doanh nghiệp, tổ chức, hay còn được gọi với cái tên mỹ miều hơn: Enterprise Application. Các application trong 1 system có thể hoặc không xây dựng dựa trên cùng một nền tảng nghiệp vụ. Cũng ví dụ về web shop, trang bán hàng và trang admin phụ thuộc vào các nghiệp vụ bán hàng, tuy nhiên bên cạnh đó còn có các application bên thứ 3 khác liên kết trong hệ thống của mình đó là dịch vụ thanh toán, hoặc dịch vụ vận chuyển. Theo wikipedia thì kiến trúc phần mềm của một chương trình máy tính hay một hệ thống tính toán là cấu trúc của các thành phần trong hệ thống đó. Kiến trúc phần mềm bao gồm các phần tử phần mềm, các thuộc tính và mối quan hệ giữa chúng. Ngoài ra, thuật ngữ “kiến trúc phần mềm” cũng đề cập đến các tài liệu kiến trúc phần mềm của một hệ thống, thuận tiện cho việc trao đổi thông tin giữa các thành viên trong một dự án. Kiến trúc phần mềm giúp việc quyết định ở mức cao trong thiết kế phần mềm dễ dàng hơn và cho phép tái sử dụng các thành phần và mẫu thiết kế của các dự án. Tất cả các quyết định kỹ thuật xuyên suốt tất cả các vấn đề phát triển phần mềm. Những quyết định về mặt kỹ thuật rất khó thay đổi về sau trong dự án Big picture (cái view tổng thể) của cả system. Nó chuẩn bị cho dự án sao cho có thể trì hoãn các quyết định (về framework, view, db, …) càng lâu càng tốt. Nó thiết lập các chuẩn trong việc nhất quán về mặt kết quả và Nó không phải là trách nhiệm của chỉ một người, mà là của một nhóm các nhà phát triển giàu kinh nghiệm thuộc các nhóm đặc trưng khác nhau trong dự án. Về cơ bản, kiến trúc sư phần mềm chịu trách nhiệm cho thiết kế hệ thống phần mềm và đảm bảo rằng nó đáp ứng các yêu cầu của doanh nghiệp cũng như yêu cầu hệ thống của kết cấu nền của công ti. Kĩ năng đặc biệt này yêu cầu nhiều năm kinh nghiệm phát triển phần mềm trong các nền, ngôn ngữ và công nghệ nào đó. Trước khi thiết kế hệ thống, kiến trúc sư phần mềm phải làm việc chặt chẽ với kĩ sư yêu cầu hay người phân tích doanh nghiệp để hiểu các yêu cầu của khách hàng rồi hỗ trợ cho người quản lí dự án phát triển kế hoạch dự án nơi việc chia các yêu cầu thành những nhiệm vụ nhỏ hơn là mấu chốt. Phần mềm được gọi là cứng nhắc khi nó rất khó thay đổi vì thay đổi này sẽ dẫn đến những thay đổi khác mà không thấy điểm dừng. Một phần mềm dễ vỡ là khi chỉ một thay đổi nhỏ cũng có thể dẫn đến những behavior không mong muốn và không thể dự đoán. Immobility (không có tính di động)Một thiết kế không có tính di động (tái sử dụng) là khi nó không thể tách ra hoặc tốn quá nhiều effort để tái sử dụng cho nhiều thành phần khác nhau. Trong một hệ thống lõng lẽo là hệ thống dễ dàng để làm sai hơn là làm đúng. Nghĩa là khi ta muốn thực hiện một thay đổi, thay vì làm theo quy định trong thiết kế, ta lại đi “đường tắt” để làm việc đó. Điều đáng nói ở đây không phải là việc ta được đi đường tắt, mà bản thân thiết kế đã không có những ràng buộc chắc chắn để không ai có thể vi phạm và phá vỡ cấu trúc của hệ thống. Điều này xảy ra khi các khái niệm trừu tượng (abstraction) cần thiết không được thực hiện, hoặc là do thiếu thời gian hoặc thiếu kinh nghiệm. Mã có thể đã không được dán sao chép nhưng các quy tắc kinh doanh tương tự được định nghĩa ở nhiều nơi. Mã đã được viết bằng một cách mờ đục và khó hiểu, và chúng ta cần phải nhảy vào từng method để hiểu những gì đang làm. Việc tạo ra các khái niệm trừu tượng là rất cần thiết để có thể dễ dàng thay đổi và mở rộng trong tương lai, tuy nhiên trong 1 số nỗ lực để tránh các smell ở trên thì các nhà thiết kế có thể sẽ rơi vào bẫy phức tạp hóa vấn đề. Thiết kế phần mềm tốt nhẹ, linh hoạt, dễ đọc và dễ hiểu và trên hết là dễ thay đổi, tuy nhiên bạn không phải cố gắng dự đoán tất cả những thay đổi có thể xảy ra trong tương lai. Đây là bài viết trong loạt bài viết về “Tổng quan về sự phát triển của kiến trúc phần mềm“. Đây là loạt bài viết chủ yếu giới thiệu về một số mô hình kiến trúc phần mềm hay nói đúng hơn là sự phát triển của chúng qua từng giai đoạn, qua đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát, up-to-date và là roadmap để bắt đầu hành trình chinh phục (đào sâu) thế giới của những bản thiết kế với vai trò là những kỹ sư và kiến trúc sư phần mềm đam mê với nghề.
Kiến trúc phần mềm
Kiến trúc phần mềm của một chương trình máy tính hay một hệ thống tính toán là cấu trúc của các thành phần trong hệ thống đó. Kiến trúc phần mềm bao gồm các phần tử phần mềm, các thuộc tính và mối quan hệ giữa chúng. Ngoài ra, thuật ngữ "kiến trúc phần mềm" cũng đề cập đến các tài liệu kiến trúc phần mềm của một hệ thống, thuận tiện cho việc trao đổi thông tin giữa các thành viên trong một dự án. Kiến trúc phần mềm giúp việc quyết định ở mức cao trong thiết kế phần mềm dễ dàng hơn và cho phép tái sử dụng các thành phần và mẫu thiết kế của các dự án. Lĩnh vực khoa học máy tính trải qua sự kết hợp các vấn đề cùng với sự phức tạp của cấu trúc. Lúc đầu, sự phức tạp được giải quyết bởi người phát triển bằng cách lựa chọn các cấu trúc dữ liệu đúng đắn, phát triển các thuật toán và áp dụng các thuật toán để chia nhỏ các vấn đề. Thuật ngữ kiến trúc phần mềm liên quan đến sự mới mẻ của ngành công nghiệp này, nhưng nguyên tắc cơ bản của nó đã được áp dụng bởi các chuyên gia tiên phong trong ngành công nghệ phần mềm từ những năm 1980.
Khu vực thương mại tự do (free trade area) là hình thức hòa nhập thương mại giữa nhiều nước, trong đó các thành viên dỡ bỏ hết các hàng rào thương mại (thuế quan, hạn ngạch v.v.) giữa họ với nhau, nhưng tất cả các nước đều tiếp tục duy trì hàng rào thương mại với các nước khác. Mục đích của khu vực thương mại tự do là tận dụng những mối lợi từ chuyên môn hóa quốc tế, qua đó cải thiện mức sống thực tế của các nước thành viên. Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu của ASEAN Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước. Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được ký kết vào năm 1992 tại Singapore. Các nước Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (gọi chung là CLMV) được yêu cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này.
Khu vực mậu dịch tự do
Khu vực mậu dịch tự do là một thể loại của khối thương mại, một nhóm các quốc gia được thiết lập mà đã đồng ý để loại trừ thuế quan, hạn ngạch, và ưu đãi trong phần lớn trao đổi thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia trong nhóm. Nó có thể được coi là giai đoạn thứ hai của Hội nhập kinh tế. Các nước chọn loại hình hội nhập kinh tế nếu cơ cấu kinh tế của họ được bổ sung. Khu vực mậu dịch tự do là hình thức liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước thành viên thỏa thuận với nhau về việc giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế về số lượng, tiến tới hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên các nước thành viên vẫn giữ được quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán với các nước ngoài khu vực. Nói cách khác, những thành viên của FTA có thể duy trì những thuế quan riêng và những hàng rào thương mại khác đối với thế giới bên ngoài.
Tại cuộc gặp, Tổng thống Alvi cho biết Pakistan sẵn sàng học tập kinh nghiệm phát triển của Trung Quốc và đẩy nhanh quá trình phát triển của quốc gia Nam Á thông qua việc xây dựng Hành lang kinh tế Trung Quốc-Pakistan (CPEC). Cũng theo Tổng thống Pakistan, nước này sẵn sàng tăng cường hợp tác với Trung Quốc trong lĩnh vực chống khủng bố cũng như bảo đảm sự an toàn của công dân và các dự án của Trung Quốc ở Pakistan. Ngoài ra, Islamabad cũng sẵn sàng đẩy mạnh liên lạc chiến lược, cũng như trao đổi về các vấn đề khu vực và quốc tế với Trung Quốc. Về phần mình, Ngoại trưởng Trung Quốc đang ở thăm Pakistan cho biết quan hệ đối tác hợp tác chiến lược giữa hai nước đã tạo đà phát triển mạnh mẽ. Ông kêu gọi hai bên hợp tác để xây dựng một mối quan hệ Trung Quốc - Pakistan chặt chẽ hơn cùng hướng về tương lai trong thời kỳ mới và đẩy mạnh hợp tác toàn diện, xây dựng CPEC thành một hình mẫu cho các dự án phát triển chất lượng cao. Theo ông, hai bên sẽ tiếp tục thúc đẩy dự án xây dựng CPEC theo hướng hợp tác công nghiệp, cải thiện cuộc sống của người dân, phát triển khu vực phía Tây và những khu vực khác của Pakistan để nâng cấp dự án trên và đảm bảo việc người dân địa phương được hưởng nhiều lợi ích hơn từ dự án. Xuất khẩu của Trung Quốc đã bất ngờ sụt giảm trong tháng 8/2019, trong khi nhập khẩu cũng ghi nhận đà đi xuống tháng thứ 4 liên tiếp. Ngân hàng Quân đội MB tặng 4.000 tấn gạo cho nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. SeABank đóng góp 1.000 đồng cho mỗi giao dịch trên ngân hàng số SeAMobile/SeANet vào Quỹ vaccine phòng, chống COVID-19
Hành lang kinh tế Trung Quốc–Pakistan
Hành lang Kinh tế Trung Quốc–Pakistan (tiếng Anh: China–Pakistan Economic Corridor, CPEC) là một loạt các dự án cơ sở hạ tầng đang được xây dựng trên khắp Pakistan kể từ năm 2013, dưới sự đầu tư của Trung Quốc. Ban đầu được định mức vào khoảng 46 tỷ USD, giá trị của các dự án CPEC đã lên đến 62 tỷ USD năm 2017, và được coi là một phần cốt yếu của kế hoạch Một vành đai, Một con đường của lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình. CPEC được dự định sẽ nhanh chóng nâng cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu cho Pakistan và đóng góp cho nền kinh tế nước này bằng việc xây dựng mạng lưới giao thông hiện đại, nhiều dự án năng lượng và đặc khu kinh tế. Ngày 13 tháng 11 năm 2016, CPEC bắt đầu đi vào hoạt động một phần khi hàng hóa từ Trung Quốc được vận chuyển trên đất liền tới Cảng Gwadar để rồi được vận tải bằng đường biển đến châu Phi và Tây Á, trong khi một số dự án năng lượng bắt đầu vận hành vào cuối năm 2017. Một mạng lưới xa lộ và đường ray trải dài khắp Pakistan cũng sẽ được xây dựng dưới sự đầu tư của CPEC.
Mua đồ chơi tình dục ở đâu tốt? Đồ chơi tình dục là gì? Sử dụng đồ chơi tình dục có được lợi ích gì không? Đang là nỗi băn khoăn của hầu hết người tiêu dùng. Đồ chơi tình dục đã xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới, thậm chí ngành sản xuất đồ chơi tình dục ở Mỹ và Nhật Bản còn đóng góp vào GDP quốc gia và mang lại nguồn lợi ít không hề kém cạnh so với những ngành công nghiệp khác. Mời bạn tiếp tục theo dõi bài viết dưới đây để giải đáp được tất cả những vướng mắc của mình nhé. Theo bạn đồ chơi tình dục là gì? Đồ chơi tình dục là tất tần tật những dụng cụ dùng để hỗ trợ đời sống tình dục của con người. Nhờ đó mọi người có được đời sống tình dục chất lượng hơn và tránh được cảm giác nhàm chán, buồn tẻ. Đồ chơi tình dục đa số được làm từ những chất liệu như silicon chất lượng, TPE, polymer. Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho sức khỏe người tiêu dùng. Đồ chơi tình dục còn là tất cả những bộ phận khác trên cơ thể con người được làm giả như: Ngực, dương vật, âm đạo, miệng, hậu môn. Ngoài ra đồ chơi tình dục còn bao gồm những sản phẩm khác như: Bao cao su đôn dên, dương vật giả đa năng, đồ chơi bạo dâm BDSM, đồ ngủ sexy, máy tập làm to dương vật, chày rung massage âm đạo, máy thủ dâm tự động chất lượng cao. Tất cả những món đồ chơi tình dục này được tạo ra với mục đích cuối cùng là giúp chúng ta có thể hưởng thụ khoái cảm. Nam giới có thể sử dụng đồ chơi tình dục không? Câu trả lời là rất nên sử dụng. Nam giới là đối tượng được các nhà nghiên cứu đánh giá là nhóm người cứ mỗi phút trôi qua là nghĩ đến những vấn đề liên quan đến tình dục ít nhất một lần. Vì thế nhu cầu tình dục của nam giới rất cao. Các anh có thể sử dụng những đồ chơi tình dục như bao cao su đôn dên, dương vật giả rỗng ruột có dây đeo, máy thủ dâm tự động, búp bê tình dục nữ, âm đạo giả silicon trần, âm đạo giả gắn tường, âm đạo giả dạng cốc, máy tập làm to dương vật thần kỳ. Từ cổ chí kim, khả năng tình dục của nữ giới luôn được đánh giá cao hơn nam giới. Nữ giới có chồng bị yếu sinh lý – xuất tinh sớm sẽ được giải thoát về mặt khoái cảm, lại vừa có thể bảo vệ được hạnh phúc hôn nhân gia đình tránh được đổ vỡ. Chị em có thể sử dụng những món đồ chơi tình dục như: Máy rung âm đạo sướng tê điếng người, dương vật giả đa năng, máy thủ dâm tự động chất lượng cao, chày rung massage âm đạo, dương vật giả gắn tường. Các bạn đồng tính nam có thể sử dụng những sản phẩm đồ chơi tình dục như: Dụng cụ kích thích hậu môn, dương vật giả siêu mềm mịn, dụng cụ thụt rửa hậu môn, dụng cụ kích thích tuyến tiền liệt, gel bôi trơn hậu môn cao cấp. Vì quan hệ và kích thích qua đường hậu môn cực kỳ khó khăn nên các bạn trước khi quan hệ hoặc thủ dâm nhớ sử dụng bao cao su hoặc poppers để tăng hưng phấn và giảm đau. Các bạn đồng tính nữ có thể sử dụng dương vật giả hai đầu, dương vật đa năng có dây đeo, dương vật giả bơm hơi. Việc sử dụng những sản phẩm này sẽ giúp các bạn nữ chủ động hơn trong việc quan hệ tình dục. Nói chung việc sử dụng đồ chơi tình dục mang lại nhiều lợi ích hơn chúng ta có thể tưởng tượng. Lợi ích trước mắt có thể nhận thấy được chính là việc giải tỏa nhu cầu sinh lý một cách hiệu quả. Kế tiếp việc sử dụng đồ chơi tình dục còn mang lại lợi ích to lớn khác như tránh được các căn bệnh xã hội nguy hiểm lây qua đường tình dục không an toàn. Chỉ với chi phí đầu tư ban đầu bỏ ra để mua sản phẩm sextoy, bạn đã có thể giúp mình giải tỏa được nhu cầu sinh lý và phòng tránh được bệnh tật vô cùng hiệu quả. Nam giới xuất tinh sớm có thể sử dụng đồ chơi tình dục âm đạo giả để luyện tập làm quen dần với khoái cảm quan hệ tình dục. Nhờ đó có thể làm chủ được khả năng xuất tinh theo ý muốn của mình và thỏa mãn được bất cứ người bạn tình nào. Việc sử dụng đồ chơi tình dục còn giúp các bạn đồng tính có cơ hội được thể hiện bản năng tình dục của mình một cách kín đáo, tránh được cái nhìn soi mói từ phía gia đình, bạn bè, người thân. Ngoài ra các cặp đôi đã có thâm niên ở bên nhau trong một thời gian khá dài sẽ loại bỏ được cảm giác buồn tẻ và nhàm chán nơi phòng the, nhờ đó có được đời sống tình dục hạnh phúc và viên mãn. Mua đồ chơi tình dục ở đâu tốt là câu hỏi của không ít người tiêu dùng hiện nay. Shop đồ chơi tình dục Sài Gòn là nơi bạn có thể đặt niềm tin. Nhờ chính sách bảo vệ quyền lợi khách hàng nên shop đồ chơi tình dục Sài Gòn chúng tôi đã nhận được lòng tin của khách hàng. Bằng chứng cho niềm tin ấy chính là chuỗi hệ thống cửa hàng trên khắp cả nước. Shop chúng tôi chuyên cung cấp những mặt hàng được nhập khẩu từ các thương hiệu đồ chơi tinh dục hàng đầu thế giới, luôn bắt kịp xu hướng để phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Chưa hết, sản phẩm của shop trước khi đến tay người tiêu dùng đều qua sự kiểm duyệt gắt gao từ Bộ Y Tế và những bộ ngành có liên quan. Điều đó nói lên rằng vấn đề sức khỏe của khách hàng luôn được shop đặt lên hàng đầu, đảm bảo an toàn sức khỏe tuyệt đối cho người tiêu dùng. Được hưởng chế độ bảo hành đổi trả sản phẩm đúng theo quy định của công ty, sẽ không có sự khác biệt khi bạn mua hàng tại website hoặc chuỗi hệ thống cửa hàng trên khắp cả nước. Được đội ngũ nhân viên tư vấn chuyên nghiệp, nhiệt tình dễ thương hỗ trợ đến khi nào tìm được sản phẩm phù hợp với nhu cầu sử dụng và kinh tế của bản thân. Hy vọng thông qua bài viết ngày hôm nay, bạn đã có thể hình dung ra được đồ chơi tình dục là gì? Và biết được cách sử dụng đồ chơi tình dục để giải tỏa nhu cầu sinh lý một cách hiệu quả.
Đồ chơi tình dục
Đồ chơi tình dục (tiếng Anh: sex toy), nằm trong số các công cụ hỗ trợ tình dục, là dạng vật dụng được sử dụng chủ yếu để kích thích khoái cảm tình dục của con người, chẳng hạn như một dương vật giả hoặc máy rung. Nhiều đồ chơi tình dục phổ biến đều được thiết kế để trông giống như bộ phận sinh dục của con người, và có thể rung hoặc không. Tuy nhiên, đồ chơi tình dục không được dùng để gọi một số thứ như dụng cụ tránh thai, phim khiêu dâm hay thuốc kích dục. Các từ thay thế bao gồm đồ chơi dành cho người lớn và đồ trợ giúp hôn nhân, mặc dù "trợ giúp hôn nhân" có ý nghĩa rộng hơn và được áp dụng cho thuốc và dược thảo được quảng cáo là tăng cường hoặc kéo dài thời gian quan hệ tình dục. Đồ chơi tình dục thường được bán ở hiệu thuốc hoặc cửa hàng DVD khiêu dâm. Theo ước tính năm 2008, 70% đồ chơi tình dục trên thế giới được sản xuất tại các cơ sở làm nhái quy mô nhỏ tại Trung Quốc.
Đa nhân cách trong y học thuộc phân nhóm bệnh thần kinh – não bộ, đây là tình trạng rối loạn hoặc mất kiểm soát nhân cách ở con người, đôi khi biến chất, thoái hóa nhân cách theo chiều hướng tiêu cực. Bệnh đa nhân cách (rối loạn nhân cách) là một chứng bệnh tâm lý ảnh hưởng đến hành vi và thái độ của người bệnh. Lúc này, bệnh nhân sẽ tồn tại nhiều hơn hai nhân cách. Trong đó có 1 nhân cách bình thường và các nhân cách về bệnh lý. Nhân cách bình thường: Thể hiện ở sự tuân thủ các chuẩn mực đạo đức của xã hội, các thể chế xã hội hiện hành. Nhân cách bệnh lý: Thể hiện ở cách sống, cách cư xử và những phản ứng hoàn toàn khác biệt với người bình thường. Thông thường, khi một nhân cách nào đó đang ngự trị, người bệnh sẽ không nhớ được mình đã làm gì khi ở nhân cách cũ. Vì thế mà người ta nói bệnh đa nhân cách thường đi kèm với chứng mất trí nhớ. Người bệnh thường cho rằng mình đã đi ngủ trong khoảng thời gian đó. Mất ký ức, trí nhớ về những việc đã xảy ra trong quá khứ chính là một trong những đặc điểm chính của những người bị rối loạn nhân cách. Rối loạn đa nhân cách là một bệnh lý vô cùng nguy hiểm. Trước tiên, nó làm ảnh hưởng và xáo trộn cuộc sống, thói quen, hành vi của người bị bệnh. Sau đó, khi bị nhiều nhân cách chi phối, bệnh nhân có thể làm những việc gây hại cho bản thân và cho người khác. Minh chứng rõ ràng nhất là trường hợp của hai tên tội phạm Kenneth Bianchi và Angelo Buono. Mắc chứng rối loạn đa nhân cách, hai tên sát nhân này đã thực hiện tổng cộng 10 vụ nội án tại Los Angeles chỉ trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1977 đến tháng Hai năm 1978. Mức độ nguy hiểm của bệnh đa nhân cách còn tùy thuộc vào các nhóm nhỏ hành vi của nhân cách. Cụ thể, khi nhân cách bị rối loạn, sẽ được phân chia thành các nhóm hành vi:. Nhóm A: Bao gồm rối loạn nhân cách phân liệt, nhân cách thể phân lập, nhân cách hoang tưởng. Nhóm B: Bao gồm rối loạn nhân cách chống xã hội, nhân cách ái kỷ, nhân cách ranh giới. Nhóm C: Bao gồm rối loạn nhân cách tránh né, ám ảnh cưỡng chế, nhân cách phụ thuộc. Y học chưa chỉ ra được nguyên nhân chắc chắn hình thành thành bệnh đa nhân cách. Tuy nhiên, có một số giả thuyết được đặt ra, bệnh xảy ra nhiều hơn ở những người:. Nguyên nhân bị đa nhân cách có thể do có vấn đề về thần kinh, não bộ: Chấn thương não, não thiếu chất serotonin. Cũng có một số quan điểm chỉ ra: Thực tế, con người từ khi sinh ra đã mang trong mình rất nhiều những nhân cách khác nhau. Nếu như được nuôi dậy trong môi trường có đạo đức và lối sống chuẩn mực thì nhân cách tốt sẽ phát triển và vùi lấp các nhân cách xấu khác. Tuy nhiên, chúng chỉ bị vùi lấp chứ không bị mất đi. Khi gặp một tác nhân nào đó, nhân cách kia sẽ trỗi dậy, bệnh đa nhân cách được hình thành. Trong thực tế, rất khó để chẩn đoán chính xác xem một người có mắc chứng rối loạn nhân cách hay không. Thông thường, để xác định, cần phải có sự can thiệp của các bác sĩ tâm lý. Phần lớn những bệnh nhân đa nhân cách sẽ xuất hiện những triệu chứng sau:. Tồn tại nhiều hơn 2 nhân cách: Những nhân cách thường có nhận thức và suy nghĩ khác biệt, thậm chí là đối lập nhau hoàn toàn về thế giới xung quanh và những chuyện xảy ra. Có những khoảng trống trong ký ức: Như đã đề cập ở trên, những người mắc bệnh đa nhân cách thường đi kèm với chứng mất trí nhớ. Bệnh nhân thậm chí còn có thể quên cả những thông tin cá nhân quan trọng của mình, các sự kiện diễn ra trong ngày, những việc mình đã làm. Sinh hoạt bất ổn: Khi mỗi nhân cách ngự trị, người bệnh sẽ có những lối sinh hoạt khác nhau. Ví dụ cụ thể là trường hợp của một phụ nữ tên Mary Kendall, nghiên cứu của các nhà thần kinh học đã chỉ ra, vào năm 1994, khi Marry 35 tuổi, cô mắc bệnh đa nhân cách. Nhân cách bình thường của cô sẽ đi ngủ vào buổi đêm. Nhưng có một nhân cách khác khiến cô thường xuyên lái xe đi dạo vào ban đêm khoảng 80-160km. Hiện nay, các chuyên gia tâm lý thường áp dụng các phương pháp sau để điều trị bệnh đa nhân cách. Chữa bệnh đa nhân cách bằng liệu pháp phân tích tâm lý: Bác sĩ tâm lý sẽ hướng đến các nhân tố bên trong, giúp bệnh nhân hiểu rõ những cảm xúc của mình. Chữa bệnh đa nhân cách bằng liệu pháp nhận thức hành vi: Mục tiêu là hướng tới những khía cạnh đặc biệt như suy nghĩ, cảm xúc, hành vi, thái độ, tình trạng rối loạn nhân cách của người bệnh. Để làm được điều này bác sĩ sẽ sử dụng các phương pháp nhận thức, tâm lý trị liệu, phân tích nhận thức, hành vi biện chứng của người bệnh. Chữa bệnh đa nhân cách bằng liệu pháp cộng đồng: Tham gia khóa điều trị cộng đồng trong thời gian vài tháng, bệnh nhân sẽ được khuyến khích chia sẻ về những cảm xúc, hành vi của họ. Đồng thời, đưa ra cảm nhận của họ về những hành vi của người khác. Sử dụng thuốc: Thực tế thì không có loại thuốc cụ thể nào được phê duyệt để điều trị bệnh đa nhân cách. Tuy nhiên, có một số thuốc được sử dụng nhằm mục đích cân bằng lại hormone và hóa chất trong não. Thuốc chống trầm cảm, cải thiện tâm trạng chán nản, ngăn ngừa nguy cơ tự tử hay làm những điều gây hại cho bản thân. Thuốc an thần dùng trong trường hợp rối loạn nhân cách hoang tưởng và rối loạn nhân cách phân liệt.
Rối loạn đa nhân cách
Rối loạn đa nhân cách (tiếng Anh: DID - Dissociative identity disorder) hay còn được gọi là rối loạn nhân dạng phân ly, là một dạng rối loạn tâm thần được đặc trưng bằng ít nhất hai nhân cách khác biệt và tồn tại tương đối lâu ở người bệnh. Triệu chứng thường đi kèm với bệnh mất trí nhớ tâm lý vượt xa so với sự lãng trí thông thường. Những nhân cách này thay phiên thể hiện trong hành vi của một người; tuy nhiên nhân cách nào xuất hiện còn tùy thuộc vào từng trường hợp. Các vấn đề khác thường xảy ra ở những người mắc DID bao gồm rối loạn nhân cách ranh giới (BPD), hậu chấn tâm lý (PTSD), trầm cảm, rối loạn sử dụng chất, tự gây hại, và lo lắng. Một số chuyên gia tin rằng nguyên nhân của bệnh này là chấn thương từ thời thơ ấu. Trong khoảng 90% các trường hợp, người bệnh đã từng bị lạm dụng khi còn bé, trong khi các trường hợp còn lại nguyên nhân có liên quan đến chiến tranh hoặc các vấn đề sức khỏe khi còn nhỏ. Yếu tố di truyền cũng được cho là một yếu tố liên quan.
Đối với mỗi một doanh nghiệp hiện nay thì đều cần đến bộ phận kế toán để tổng hợp những nội dung kế toán theo kỳ kế toán của doanh nghiệp để đảm bảo làm đúng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Vậy kỳ kế toán là gì? Nếu bạn đang học chuyên ngành này thì hãy cùng theo dõi xem kỳ kế toán là gì nhé!. Đối với mỗi một doanh nghiệp hiện nay thì không thể thiếu bộ phận kế toán, đó chính là những người giúp doanh nghiệp thực hiện việc tổng hợp kế toán để đảm bảo đúng quy định của pháp luật và đảm bảo hoạt động thường xuyên cho doanh nghiệp. Không để các bạn phải đợi lâu nữa, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về kỳ kế toán là như thế nào nhé!. Kỳ kế toán được hiểu là những quy định về chu kỳ hoạt động của kế toán doanh nghiệp, kỳ kế toán được bắt đầu từ thời điểm doanh nghiệp kế toán bắt đầu thực hiện ghi sổ kế toán cho đến thời điểm kết thúc hoạt động ghi sổ kế toán, nghĩa là lúc này doanh nghiệp phải khóa sổ kế toán để làm báo cáo tài chính tổng hợp. Nếu đúng như quy định của pháp luật Việt Nam thì kỳ kế toán sẽ được phân chia thành 3 loại chính là kỳ kế toán năm, kỳ kế toán tháng và kỳ kế toán quý. Tuy nhiên pháp luật cũng không ép buộc tất cả các doanh nghiệp phải dập khuôn với kỳ kế toán như vậy. Mà với các doanh nghiệp hiện nay có thể dựa vào đặc điểm kinh tế và đặc điểm, quy mô của công ty mình mà phân chia kỳ kế toán sao cho phù hợp. Sau khi đã hiểu được thế nào là kỳ kế toán thì hãy cùng chúng tôi đi tìm hiểu sâu hơn về các loại kỳ kế toán mà đã nói ở trên nhé. Theo quy định của pháp luật Việt Nam và cũng dựa theo tính chất hoạt động của các công ty thì kỳ kế toán được phân chia thành 3 loại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện dễ dàng và nhanh chóng hơn. - Kỳ kế toán năm: Kỳ kế toán năm được tính là tròn 1 năm, tức là 12 tháng và được bắt đầu tính từ ngày 1 tháng 1 đầu năm cho đến hết ngày 31 tháng 12 của năm đó, và ngày này thường được tính theo ngày dương lịch chứ không tính theo âm lịch của nước. Đơn vị kế toán được tính theo đặc thù riêng của về tổ chức cũng như hoạt động của doanh nghiệp, và phải thông báo cho cơ quan tài chính biết. Tuy nhiên đối với những cơ sở giáo dục sẽ có những thay đổi và khác hơn so với doanh nghiệp, vì hoạt động của cơ sở giáo dục là giảng dạy và thường không bắt đầu từ tháng 1 như các doanh nghiệp khác. Mặc dù có sự khác biệt về thời gian thì kỳ kế toán năm của doanh nghiệp này cũng phải tròn 12 tháng, và sẽ được tính từ ngày 1/7 năm nay cho đến hết ngày 30/6 năm sau để được tròn đúng 1 năm theo quy định của pháp luật. Khi cơ sở giáo dục thực hiện kỳ kế toán thì phải báo cho cơ quan tài chính biết và đến cuối năm cơ sở giáo dục vẫn phải lập báo cáo tài chính. - Kỳ kế toán quý: Kỳ kế toán quý được tính là 3 tháng, và kỳ kế toán này được bắt đầu từ ngày 1 của tháng đầu quý cho đến hết ngày cuối cùng của tháng cuối của quý. - Kỳ kế toán tháng được tính là một tháng tròn, bắt đầu từ ngày đầu tiên của tháng cho đến hết ngày cuối cùng của tháng. + Kỳ kế toán đầu tiên đối với những doanh nghiệp mới được thành lập chưa có thời gian hoạt động dài để tính kỳ kế toán theo năm hay theo quý như các doanh nghiệp khác. Chính vì thế mà doanh nghiệp mới thành lập sẽ được tính từ ngày mới cấp phép chứng nhận đăng ký kinh doanh cho đến hết ngày cuối của kỳ kế toán năm, quý và tháng. + Còn đối với kỳ kế toán của các đơn vị kế toán khác được bắt đầu tính từ ngày hiệu lực được ghi trên quyết định thành lập đến hết ngày cuối cùng của kỳ kế toán năm , tháng và quý. - Kỳ kế toán với các doanh nghiệp chia tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể hoặc chấm dứt hoạt động thì sẽ được tính là ngày kỳ kế toán năm, tháng, quý, cho đến hết ngày được ghi trên quyết định chia cắt hoặc hợp nhất,. - Đối với trường hợp của kỳ kế toán của năm đầu hoặc kỳ kế toán của năm cuối ít hơn 90 ngày thì doanh nghiệp được phép công với kỳ kế toán tiếp theo, tuy nhiên cũng có thể cộng với kỳ kế toán của năm trước đó để tròn một năm. Điều kiện ở đây là kỳ kế toán của năm đầu tiên và năm cuối phải ít hơn 15 tháng. Như bạn cũng đã thấy, kỳ kế toán đối với mỗi một doanh nghiệp là rất quan trọng và cần thiết, nó không những đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện đúng quy định của pháp luật mà còn giúp doanh nghiệp của mình đang trong tình trạng tài chính như thế nào để tiếp tục hay phải thay đổi phương án kinh doanh. Có vai trò quan trọng như “ngọn hải đăng” soi đường cho doanh nghiệp thì người thực hiện công việc này chính là yếu tố để tạo nên thành công đó. Thực hiện theo đúng nguyên tắc này, yêu cầu bạn cần phải thực hiện đúng, mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp có liên quan đến tài sản, nợ, vốn chủ sở hữu, doanh thu,.tất cả những chi phí này tại thời điểm phát sinh phải được ghi vào sổ kế toán, chứ không được căn cứ vào những khoản thu thực tế. Báo cáo tài chính lập trên cơ sở dồn tích sẽ phản ánh rõ ràng cho doanh nghiệp thấy hình ảnh của mình ở thời điểm hiện tại, quá khứ và trong tương lai. Theo đúng với nguyên tắc này, thì doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính trên cơ sở giả định hoặc tiếp tục thực hiện kinh doanh bình thường trong tương lai. Nghĩa là đối với các doanh nghiệp không được có ý định dừng hoạt động hay thu hẹp quy mô hoạt động của công ty mình. Với nguyên tắc này thì bạn chỉ cần hiểu đơn giản là sau khi tính toán kỳ kế toán xong thì doanh nghiệp vẫn phải đảm bảo hoạt động kinh doanh liên tục và không thu hẹp hoạt động kinh doanh của mình. Đối với nguyên tắc này sẽ thực hiện khi doanh nghiệp thực hiện các nghiệp vụ phát sinh có liên quan đến vấn đề mua tài sản cố định, CCDC, NVL,.thì giá cả của chúng sẽ được dựa trên theo giá gốc của chúng chứ không phải giá hiện hành của thị trường (giá này không bao gồm VAT). Bạn có thể theo dõi ví dụ sau để hiểu hơn về nguyên tắc này: Công ty B mua một điều hòa hòa có giá trị là 5 triệu đồng (khi mua chưa có tính phí giá trị gia tăng là 10%). Trong đó phi vận chuyển là 1 triệu đồng, chi phí lắp đặt là 5 trăm nghìn đồng. Vậy theo nguyên tắc giá gốc thì máy điều hòa này sẽ có giá là: 4.000.000 + 1.000.000 + 500.000 = 5.500.000 đồng. Với nguyên tắc phù hợp này, khi mà ghi nhận doanh thu thì đương nhiên phải có một khoản chi phí phù hợp, tương ứng với số tiền đó tạo ra doanh thu đó. Các chi phí tương ứng với doanh thu gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc các chi phí phải trả có liên quan đến doanh thu của kỳ kế toán đó. Ví dụ như: Đối với doanh nghiệp thuê nhà làm văn phòng trong thời hạn hợp đồng là 12 năm một, và theo thỏa thuận của hai bên thì doanh nghiệp sẽ phải trả tiền thuê nhà đó trong 12 tháng. Kế toán chỉ thực hiện tổng hợp và phản ánh doanh thu của từng tháng và chia đều các chi phí đó trong 12 tháng như thế nào?. Thực hiện theo nguyên tắc này nghĩa là các phương pháp hay cách thức thực hiện kỳ kế toán của doanh nghiệp phải thống nhất từ đầu kỳ kế toán cho đến cuối kỳ, chứ không được thực hiện lộn xộn giữa các phương pháp khác nhau. Trong trường hợp doanh nghiệp có thay đổi về phương pháp thì phải báo cáo, trong báo cáo đó phải ghi rõ lý do và giải thích sự ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần báo cáo tài chính. Như vậy để chu kỳ kế toán không bị thay đổi thì các doanh nghiệp trước khi thực hiện cần phải nghiên cứu và lựa chọn phương pháp trước, rồi sau đó phải thống nhất các phương pháp với nhau. Chứ không được thay đổi nhiều, đó chính là đảm bảo sự nhất quán của nguyên tắc. Đối với công việc của kế toán thì phương pháp này rất quan trọng và có thể nói nó là nguyên tắc xuyên xuất quá trình thực hiện kỳ kế toán của doanh nghiệp. Kế toán là phải làm việc với những con số, chính vì thế mà nguyên tắc này lại cần phải thực hiện một cách nghiêm túc. Nguyên tắc này đòi hỏi những điều sau:. Thứ nhất, doanh nghiệp phải lập các khoản dự phòng trước, tuy nhiên khoản dự phòng này không được quá lớn. Thứ hai, không đánh giá cao các giá trị tài sản và các khoản thu nhập của doanh nghiệp. Thứ tư, đối với doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có những thông tin, bằng chứng chính xác về khả năng thu về lợi ích kinh tế. Còn đối với chi phí phải được ghi nhận khi có những thông tin chính xác về khả năng phát sinh chi phí. Các thông tin sẽ được coi là thiếu chính xác và là thông tin trọng yếu là những thông tin trong trường hợp nào đó nó sẽ làm thiếu hoặc sai lệch thông tin, điều đó làm ảnh hưởng đến báo cáo tài chính và làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định của người làm báo cáo tài chính. Tính trọng yếu lớn hay nhỏ, quan trọng nhiều hay ít sẽ được đánh giá trong những hoàn cảnh cụ thể, và tính trọng yếu của một yếu tố sẽ được nhìn nhận và xem xét trên các phương diện định lượng và định tính. Với 7 nguyên tắc trên đây thì doanh nghiệp cần phải thực hiện tuân theo 7 nguyên tắc này với kỳ kế toán. Tuy nhiên, các nguyên tắc này không được thực hiện từng cái một mà nó phải đảm bảo thực hiện song song cùng lúc, như vậy mới đảm bảo được độ chính xác và khách quan của kỳ kế toán cho doanh nghiệp. Công việc của mỗi nhân viên kế toán tại doanh nghiệp là không giống nhau, nó sẽ tùy thuộc vào từng cấp bậc và nhiệm vụ khác nhau thì nhân viên kế toán sẽ có những công việc cụ thể khác nhau. Tuy nhiên thì công việc của nhân viên kế toán có thể nói đến chính là:. - Ghi chép các hoạt động tài chính của doanh nghiệp, kiểm tra sổ sách kế toán của doanh nghiệp. - Xử lý các dữ liệu về kế toán của doanh nghiệp, lập báo cáo tài chính cho các doanh nghiệp và gửi lên cấp trên. - Phân tích các tình hình tài chính, ngân sách, doanh thu và tham mưu cho ban giám đốc công ty. Ngoài những công việc chính này ra thì nhân viên kế toán còn phải thực hiện các công việc do cấp trên giao xuống. Là một công việc khá vất vả, bên cạnh đó còn phải gặp rất nhiều áp lực, chính vì thế mà đòi hỏi ở nhân viên kế toán khá nhiều những kỹ năng đi kèm với trình độ chuyên môn của mình. Kế toán viên phải biết sử dụng phần mềm kế toán, thông thạo tin học văn phòng,. Ngoài ra nên chau dồi thêm kiến thức và kinh nghiệm bằng các chứng chỉ kế toán quốc tế để có thể thăng tiến trong sự nghiệp. Thứ nhất, bộ phận kế toán giúp cho doanh nghiệp có thể theo dõi tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, nhờ vào những quá trình đó mà người quản lý có thể điều hành xuân sẻ những hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ hai, với những báo cáo mà bộ phận kế toán làm, đã cung cấp cho doanh nghiệp những cơ sở để định hướng cho chương trình hoạt động của doanh nghiệp trong từng giai đoạn khác nhau. Dựa vào những báo cáo đó thì doanh nghiệp có thể đánh giá được hiệu quả công việc. Thứ ba giúp doanh nghiệp điều hòa tình hình tài chính của doanh nghiệp theo từng giai đoạn khác nhau. Thứ tư với những báo cáo, kế hoạch và giấy tờ mà bộ phận kế toán làm sẽ giúp cho các doanh nghiệp có thể đảm bảo vững chắc trong giao dịch buôn bán. Thứ năm cung cấp cho doanh nghiệp những kết quả tài chính rõ ràng theo đúng thực trạng của công ty, để từ đó sẽ có những bước đi tiếp theo. Thứ sáu phát hiện ra những rủi ro trong tình hình tài chính của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nhận ra vấn đề của mình trong giai đoạn phát triển. Với những vai trò của nhân viên kế toán như thì đối với những các doanh nghiệp thì càng cần đến bộ phận này. Nếu như bạn cũng đang tìm công việc kế toán mà chưa biết tìm đến đâu để có cơ hội việc làm tốt nhất thì giờ đây bạn có thể tìm đến timviec365.vn bạn sẽ nhận được những tin tức việc làm kế toán tại tp HCM và các tỉnh thành khác mới nhất. Timviec365.vn sẽ là cầu nối giúp cho bạn và nhà tuyển dụng tìm được nhau nhanh chóng nhất mà lại hoàn toàn miễn phí.
Kỳ kế toán
Kỳ kế toán là quy định về một chu kỳ của hoạt động kế toán. Các quốc gia có thể có quy định khác nhau về kỳ kế toán. Còn theo Luật Việt Nam thường bao gồm kỳ kế toán năm, kỳ kế toán quý, kỳ kế toán tháng. Tuy nhiên, do đặc thù công tác và chế độ quy định chung, các công ty có thể quy định thêm về kỳ kế toán của mình. Các công ty liên doanh, công ty nước ngoài thường có những quy định khác nhau về kỳ kế toán để tương hợp với hệ thống trong nước và hệ thống được quy định trên quy mô toàn cầu của tập đoàn đó.
Chúa tể những chiếc nhẫn: Sự trở lại của nhà vua là bộ phim điện ảnh phiêu lưu kỳ ảo của đạo diễn Peter Jackson. Đây là bộ phim kết thúc của bộ ba phim Chúa tể những chiếc nhẫn trước đó là Hiệp hội nhẫn thần và Hai tòa tháp. Chúa tể Sauron bắt đầu những bước cuối cùng trong cuộc xâm lược Trung Địa của hắn, vì thế phù thủy Gandalf và vua Theoden của xứ Rohan tập hợp quân đội nhằm bảo vệ thủ đô của Gondor - thành Minas Tirith khỏi mối đe dọa. Aragorn cuối cùng đã lấy được ngai vàng của Gondor và triệu hồi Đội quân người chết để giúp anh đánh bại đội quân của Sauron. Nhưng cuối cùng, thậm chí khi đã huy động toàn bộ sức mạnh, họ nhận ra rằng họ không thể chiến thắng; vì thế mọi thứ phải dựa trên vai của hai người Hobbit, Frodo và Sam, mang trên người gánh nặng của chiếc nhẫn và đối đầu với sự phản bội của Gollum. Sau cuộc hành trình dài, cuối cùng họ cũng đến được vùng đất đầy nguy hiểm - Mordor, nhằm tìm cách hủy diệt chiếc nhẫn chúa tại nơi nó được tạo ra - ngọn lửa núi Doom Diệt Vong. Phát hành vào ngày 17 tháng 12, năm 2003, The Lord of the Rings: The Return of the King đã nhận được lời khen ngợi và trở thành một trong những bộ phim thành công nhất của mọi thời đại, cả về mặt doanh thu lẫn nghệ thuật. Đây là bộ phim có doanh thu cao nhất của hãng New Line Cinema cho đến khi Harry Potter và bảo bối tử thần – Phần 2 ra đời. Đáng chú ý hơn là bộ phim đã giành chiến thắng ở cả 11 đề cử giải Oscar, đây là một kỷ lục của giải Oscar, và cũng là lần đầu tiên và duy nhất một phim giả tưởng giành được giải Oscar cho Phim hay nhất. Đây cũng là bộ phim có doanh thu cao nhất năm 2003. Cả nhóm trở về Edoras, nơi Pippin nhìn vào quả cầu palantír đã được phục hồi của Saruman, khiến cho Sauron xuất hiện và xâm chiếm ý chí của cậu; Pippin không khai gì với hắn về Frodo và chiếc nhẫn chúa. Từ sự kiện này, Gandalf suy luận rằng Sauron đang chuẩn bị tấn công Bạch thành Minas Tirith. Gandalf cưỡi ngựa cùng Pippin để tìm Denethor, quan nhiếp chính của Gondor, người mà Pippin đã thề sẽ phục vụ dưới quyền ông. Gandalf thúc giục Denethor nhằm kêu gọi sự giúp đỡ từ đồng minh Rohan, nhưng Denethor từ chối, lo sợ kế hoạch của Aragorn và Gandalf sẽ phế truất quyền của hắn. Quân đội Morgul, dẫn đầu là Nazgûl, quét sạch những người dân xứ Gondor ra khỏi thành phố đổ nát Osgiliath. Denethor ra lệnh cho con trai ông, Faramir thực hiện một sứ mệnh liều chết để lấy lại Osgiliath. Dưới sự chỉ dẫn của Gandalf, Pippin tránh được những người lính gác của thành phố và thắp sáng ngọn đèn hiệu của Gondor, nhằm ra dấu cho Théoden và Aragorn tập hợp đội kỵ binh Rohirrim để đưa quân tiếp viện Minas Tirith. Elrond thông báo cho Aragorn rằng Arwen không muốn du hành tới lục địa Aman Vùng đất bất diệt, và hiện tại cô đang chết mòn dần. Tin rằng quân tiếp viện Rohan sẽ bị áp đảo bởi quân đội hùng mạnh của Sauron, Elrond đưa cho Aragorn thanh kiếm Andúril để có thể triệu hồi Đội quân người chết, những kẻ vẫn còn mắc nợ lời thề của họ đối với người kế vị của Isildur. Éowyn thú nhận tình cảm của cô đối với Aragorn và bảo anh không nên đi. Nhưng Aragorn tái khẳng định tình cảm của anh dành cho Arwen và tiến vào trận chiến. Được sự giúp sức của Legolas và Gimli, Aragorn mạo hiểm đi vào Con đường Tử Thần, và anh đã có được lòng trung thành của vị Vua Người Chết cùng quân đội của ông ta bằng cách tung ra thanh kiếm Andúril, minh chứng rằng anh là người kế vị ngai vàng của Isildur. Tại Dunharrow, Théoden hành quân vào cuộc chiến tranh, không hề hay biết rằng Éowyn và Merry đã bí mật gia nhập quân đội của ông. Tin rằng Faramir đã chết, Denethor tự thiêu xác mình và con, nhưng Gandalf can thiệp được; ông đã cứu được Faramir, còn Denethor tự sát. Đúng lúc quân đội Gondor sắp bị áp đảo, những kỵ binh Rohirrim đến nơi và phản công bằng một cuộc tấn công khổng lồ, chỉ huy bởi Théoden. Điều này làm thay đổi cục diện cuộc chiến, và bọn Orc Quái vật bắt đầu rút lui. Tuy nhiên, quân đội Haradrim đến nơi và gia nhập với quân Orc, làm trận chiến đổi chiều một lần nữa. Witch-king giết chết Théoden, nhưng ngay sau đó bị thương bởi vết đâm của Merry và bị giết bởi Éowyn. Trên bờ vực bại trận, quân Rohirrim được cứu thoát khi Aragorn, Legolas, và Gimli đổ bộ cùng với Quân đội người chết và quét sạch quân của Sauron, kết thúc trận chiến. Aragorn giải thoát cho Quân đội người chết và linh hồn họ được an nghỉ. Trong khi đó, Frodo, Sam và Gollum đi tới Hắc Thành Minas Morgul. Sam nghe được kế hoạch của Gollum nhằm giết họ và đoạt lấy chiếc nhẫn. Gollum lại thuyết phục Frodo rằng Sam muốn cướp chiếc nhẫn cho bản thần, và Frodo tức giận bảo Sam về nhà. Sam đau khổ ra đi, nhưng phát hiện được sự phản bội của Gollum và đi theo hai người họ. Gollum ngay sau đó phản bội lại Frodo, bỏ mặc cậu ta trong sào huyệt của con nhện khổng lồ Shelob, nó làm tê liệt Frodo trước khi bị Sam tấn công và đẩy lui. Một tên Orc đi tuần tra bắt giữ Frodo và đưa cậu ấy tới pháo đài của Sauron. Sam giải cứu Frodo ra khỏi ngọn tháp, và họ tiếp tục cuộc hành trình đến núi Doom. Trong khi đó, Aragorn chỉ huy những người còn sót lại ở Minas Tirith và hành quân tới Cánh Cổng Đen của Mordor, nhằm đánh lạc hướng Sauron và quân đội của hắn, tạo điều kiện cho Sam và Frodo tiến vào núi Doom. Sam mang trên lưng Frodo, lúc này đã kiệt sức, lên ngọn núi lửa, nhưng Gollum bất ngờ tấn công họ. Tại miệng núi Doom, Frodo bị khuất phục bởi sức mạnh của chiếc nhẫn, không muốn hủy diệt nó. Gollum tấn công Frodo và cắn mất một ngón tay của cậu, đoạt lấy chiếc nhẫn cho riêng hắn. Phẫn nộ, Frodo tấn công Gollum, và họ đều rơi xuống mép vực. Trong những giây phút cuối cùng, Frodo vượt lên được mỏm đá, còn Gollum rơi vào dòng nham thạch cùng với chiếc nhẫn. Chiếc nhẫn bị nung cháy trong ngọn núi lửa, Sauron bị hủy diệt và vùng đất bóng tối Mordor sụp đổ cùng với hầu hết các lực lượng của hắn. Frodo và Sam được giải cứu khỏi dòng nham thạch bởi những con đại bàng khổng lồ, dẫn đầu là phù thủy Gandalf. Sau cuộc hành trình dài và trận chiến khốc liệt, Aragorn lên ngôi, báo hiệu cho một thời đại thái bình, anh cưới Arwen làm hoàng hậu, trong khi ấy, toàn bộ thần dân của Gondor đã phải cúi mình trước 4 người Hobbit vì những nỗ lực dũng cảm của họ. 4 người Hobbit trở về nhà ở Shire, nơi Sam cưới người cậu yêu thời thơ ấu của mình, Rosie Cotton. 4 năm sau, Frodo rời khỏi Trung Địa để đến Vùng đất bất diệt cùng với Gandalf, Bilbo, Elrond, Celeborn, và Galadriel, để lại cuốn sách của cuộc hành trình cho Sam. Ba phần của bộ phim "Chúa tể của những chiếc Nhẫn" đã bắt đầu thiết kế sản xuất trong tháng 8 năm 1997. Peter Jackson đòi hỏi sự mô tả trung thực, đầy đủ vùng đất Trung Địa so với nguyên tác, cho nên đã thuê Weta Workshop tạo ra các phần khác nhau của giáp, vũ khí, chân tay giả và các sinh vật trong bộ sách ba tập, cũng như các trang phục mang tính lịch sử mà bộ sách chịu ảnh hưởng. The Return of the King đã được quay trong năm 2000,mặc dù nỗ lực Gollum của để tách Frodo và Sam đã được quay vào ngày 24 tháng 11 năm 1999 khi lũ lụt ở Queenstown bị gián đoạn và tập trung vào The Fellowship of the Ring. Trận chiến của Black Gate đã được quay vào tháng Tư tại sa mạc Rangipomột bãi mìn trước đây. Binh lính New Zealand đã được thuê như là tính năng bổ sung trong khi hướng dẫn trên tìm ra cho mìn chưa nổ.Trong khi đó, Wood, Astin và Serkis quay tại núi Ruapehu,Đặc biệt họ đã trải qua hai giờ chụp Sam nâng Frodo. Cảnh quay The Path of the Dead được quay vào tháng Sáu trên khắp các địa điểm khác nhau bao gồm cả Pinnacles.Trong tháng bảy phi hành đoàn quay một số cảnh Shelob, và trong tháng Tám và tháng Chín đã được chi cho các cảnh trong Isengard. Ian McKellen trong vai Gandalf Áo xám / Gandalf Áo trắng: Một phù thủy, người đã chiến đấu với Balrog và trở nên mạnh mẽ hơn để hoàn thành sứ mạng của mình. Orlando Bloom trong vai Legolas: Một hoàng tử Tộc tiên và là một cung thủ chuyên nghiệp, bạn đồng hành của Aragorn. Sean Astin trong vai Samwise Gamgee: Một người làm vườn và là bạn đồng hành của Frodo, thường được gọi là Sam. Andy Serkis trong vai Sméagol / Gollum: Một sinh vật khốn khổ, đã từng là một thành viên tộc Stoor nhánh đầu của tộc hobbit. Phân đoạn đầu phim cho biết hắn là Sméagol, người đã giết Déagol, bạn thân của mình để sở hữu Chiếc nhẫn. Trong hàng thế kỷ, hắn đã biến đổi thành Gollum. John Rhys-Davies trong vai Gimli: Một chiến binh Người lùn và một trong những bạn đồng hành của Aragorn. Bruce Hopkins trong vai Gamling: trung úy trưởng của Théoden và là thành viên có tay nghề cao của Cảnh sát Hoàng gia của Rohan. John Bach trong vai Madril: phụ tá thân cận nhất của Faramir thông báo cho ông chuẩn bị trận chiến. Sean Bean trong vai Boramir, anh trai của Faramir và một người bạn đồng hành của Aragorn, người đã chết ở phần 1. Viggo Mortensen trong vai Aragorn: Người thừa kế ngai vàng của Gondor đã đến dãy núi Trắng để kêu gọi Đội quân người Chết thực hiện lời thề với Isildur. Elijah Wood trong vai Frodo Baggins: Một hobbit có nhiệm vụ tiêu diệt một chiếc Nhẫn chúa. Miranda Otto trong vai Éowyn: Cháu gái Vua Théoden, người có tình cảm với Aragorn nhưng không được đáp lại. Ở cuối phim tiết lộ rằng cô bắt đầu nả sinh tình cảm với Faramir.
Chúa tể những chiếc nhẫn
Chúa tể những chiếc nhẫn: Sự trở lại của nhà vua (tiêu đề tiếng Anh: The Lord of the Rings: The Return of the King) là bộ phim điện ảnh phiêu lưu kỳ ảo của đạo diễn Peter Jackson. Đây là bộ phim kết thúc của bộ ba phim Chúa tể những chiếc nhẫn trước đó là Hiệp hội nhẫn thần (2001) và Hai tòa tháp (2002). Chúa tể Sauron bắt đầu những bước cuối cùng trong cuộc xâm lược Trung Địa của hắn, vì thế phù thủy Gandalf và vua Theoden của xứ Rohan tập hợp quân đội nhằm bảo vệ thủ đô của Gondor - thành Minas Tirith khỏi mối đe dọa. Aragorn cuối cùng đã lấy được ngai vàng của Gondor và triệu hồi Đội quân người chết để giúp anh đánh bại đội quân của Sauron. Nhưng cuối cùng, thậm chí khi đã huy động toàn bộ sức mạnh, họ nhận ra rằng họ không thể chiến thắng; vì thế mọi thứ phải dựa trên vai của hai người Hobbit, Frodo và Sam, mang trên người gánh nặng của chiếc nhẫn và đối đầu với sự phản bội của Gollum. Sau cuộc hành trình dài, cuối cùng họ cũng đến được vùng đất đầy nguy hiểm - Mordor, nhằm tìm cách hủy diệt chiếc nhẫn chúa tại nơi nó được tạo ra - ngọn lửa núi Doom (Diệt Vong).
Thuốc cường dương là thuốc giúp cho sự cương của dương vật hoặc kéo dài thời gian cương của bộ phận này trong quá trình giao hợp. Thuốc này còn chữa các chứng bệnh rối loạn cương dương, hoặc đơn giản chỉ phục vụ nhu cầu tình dục kéo dài của một số đối tượng. Cần phân biệt thuốc kích dục với thuốc cường dương. Tác dụng của hai thuốc này không hề giống nhau. Thuốc kích dục làm gia tăng khả năng ham muốn tình dục, trong khi đó thuốc cường dương thì lại không kích thích chuyện ham muốn, chúng chỉ có tác dụng để bộ phận sinh dục nam cương lên và cương lâu mà thôi. Một bên kích dục là dẫn xuất của hoóc môn sinh dục nam, một bên cường dương là thuốc tác động lên hệ mạch, vì vậy chúng không giống nhau. Cantharidin: đây là thuốc được xem là kích dục từ thời cổ, đến nay thì không ai dùng nữa vì quá độc. Nếu uống sẽ gây kích thích bàng quang làm mót phải đi tiểu, đặc biệt gây kích thích ở niệu đạo sẽ làm cương cứng dương vật. Thuốc rất độc, chỉ cần liều nhỏ cũng gây độc, mà có nhiều trường hợp bị ngộ độc đã xảy ra và từ lâu cantharidin không còn chính thức hoặc không chính thức được dùng uống làm thuốc kích dục nữa. Yohimbin: là hoạt chất có công thức hóa học gần giống như reserpin (thuốc trị tăng huyết áp) nhưng có tác dụng hoàn toàn khác. Yohimbin được dùng điều trị chứng táo bón do mất trương lực, trị hạ huyết áp tư thế đứng. Về tác dụng trị bất lực, tức xem như thuốc kích dục thì không có sự thống nhất hoàn toàn. Mỹ thì xem tác dụng trị bất lực của Yohimbin rất hạn chế nhưng ở Pháp có sản xuất Yohimbine houde loại viên dùng để uống với chỉ định trị bệnh bất lực của nam giới. Papaverin: là hoạt chất được trích từ nhựa thuốc phiện, có tác dụng làm giảm trương lực, chống lại sự co thắt của cơ trơn. Thông thường, paparevin được dùng làm thuốc giãn cơ trơn mạch máu trong bệnh tăng huyết áp, giãn cơ trơn khí quản trong bệnh hen suyễn, trấn an các cơn đau do co thắt ở dạ dày, ruột, viêm túi mật. Do có tác dụng làm giãn cơ trơn mà paparevin còn được sử dụng tiêm ngay vào thể hang của dương vật để giúp cho sự “cương”. Có thể xem paparevin là thuốc tác động đến yếu tố tuần hoàn mạch máu và chỉ đơn thuần giúp cho sự cương mà chẳng cần đến sự kích thích về mặt sắc dục. Thuốc còn có thể gây tác hại là do có nguy cơ gây sự cương đau kéo dài (priapism) và xơ hóa thể hang của dương vật. Testosteron: đây là nội tiết tố (hormone) sinh dục nam. Thuốc này được sử dụng khi có sự chẩn đoán xác định được nguyên nhân bất lực là do yếu tố nội tiết, có sự giảm chức năng tuyến sinh dục nam. Các thuốc này được tiêm bắp, mỗi tháng chỉ tiêm 1 lần và có thể phải điều trị trong nhiều tháng. Cũng có loại testosteron dùng để uống như andriol. Nên lưu ý, vì là thuốc có nguồn gốc nội tiết tố sinh dục nên chỉ sử dụng khi có sự thăm khám và chỉ định, theo dõi của bác sĩ. Nhóm thuốc ức chế PDE-5 giãn mạch trị rối loạn cương (RLC): Đây là nhóm thuốc mới dùng trong thời gian gần đây. Cơ chế của thuốc này là làm cho bộ phận sinh dục nam cương vì làm cho mạch máu lớn dãn ra, máu tưới nhiều vào đó. Có khá nhiều người lầm tưởng nhóm thuốc này thuộc loại kích dục. Thật ra thuốc trị rối loạn cường dương là thuốc chữa bệnh và phải dùng với sự thận trọng tối đa. Thuốc loại này không nên dùng ở người đang bị bệnh tim mạch và đang dùng thuốc nitrat trị bệnh mạch vành.
Thuốc cường dương
Thuốc cường dương là thuốc giúp cho sự cương của dương vật hoặc kéo dài thời gian cương của bộ phận này trong quá trình giao hợp. Thuốc này còn chữa các chứng bệnh rối loạn cương dương, hoặc đơn giản chỉ phục vụ nhu cầu tình dục kéo dài của một số đối tượng. Cần phân biệt thuốc kích dục với thuốc cường dương. Tác dụng của hai thuốc này không hề giống nhau. Thuốc kích dục làm gia tăng khả năng ham muốn tình dục, trong khi đó thuốc cường dương thì lại không kích thích chuyện ham muốn, chúng chỉ có tác dụng để bộ phận sinh dục nam cương lên và cương lâu mà thôi. Một bên kích dục là dẫn xuất của hoóc môn sinh dục nam, một bên cường dương là thuốc tác động lên hệ mạch, vì vậy chúng không giống nhau.
Cách cúng vong (thai nhi) trong nhà: Lễ vật, văn khấn. Nghi thức cầu siêu. Trong môn vật lý chúng ta đã được tiếp xúc với dòng điện xoay chiều lớp 9. Ngoài ra nó cũng vô cùng gần gũi với chúng ta, đó chính là lượng điện năng hàng ngày chúng ta tiêu thụ cho các thiết bị sử dụng điện. Định nghĩa dòng điện xoay chiều là dòng điện có chiều, cường độ dòng điện thay đổi theo thời gian. Hiểu một cách đơn giản thì dòng điện xoay chiều là dòng điện luân phiên thay đổi theo thời gian. Những thay đổi này mang tính tuần hoàn liên tục và theo một chu kỳ nhất định. Dòng điện xoay chiều có tên tiếng anh là Alternating Current, viết tắt là AC. Trong bản vẽ thì dòng điện xoay chiều được ký hiệu là ~. Dấu ngã tượng trưng cho dạng sóng hình sin diễn ra liên tục, có sự tuần hoàn. – Chu kỳ dòng điện xoay chiều là khoảng thời gian mà dòng điện lặp lại vị trí cũ, ký hiệu là T, đơn vị là s. Công thức tính: T = 1/F. Hai dòng điện xoay chiều cùng pha là hai dòng điện mà có các thời điểm điện áp cùng tăng hoặc cùng giảm như nhau. Hai dòng điện xoay chiều lệch pha là hai dòng điện mà có các thời điểm điện áp tăng hoặc giảm lệch nhau. Hai dòng điện xoay chiều ngược pha là hai dòng điện lệch pha nhau 180 độ. Dòng điện này giảm thì dòng điện kia sẽ tăng và ngược lại. – Biên độ của dòng điện xoay chiều chính là giá trị điện áp đỉnh của dòng điện. Biên độ này thường sẽ cao hơn điện áp mà bạn đo được từ đồng hồ. Thường là giá trị đo được từ các đồng hồ và cũng chính là giá trị điện áp được ghi trên giắc cắm nguồn của thiết bị điện. Ví dụ: nguồn 220V mà bạn đang sử dụng chính là giá trị hiệu dụng của dòng điện xoay chiều. Nhưng thực tế biên độ đỉnh của điện áp 220V là khoảng 300V (220V x 1,4 lần). Tác dụng nhiệt: bạn có thể thấy rõ tác dụng này khi sử dụng bóng đèn dây tóc chạy bằng dòng điện xoay chiều. Khi bóng hoạt động (bóng sáng) bạn sẽ cảm nhận được một lượng nhiệt tỏa ra từ bóng. Tác dụng quang: cũng ví dụ trên, khi đèn sáng chính là tác dụng quang của dòng điện xoay chiều. Tác dụng từ: để hiểu được tác dụng này như thế nào bạn chỉ cần đưa một đinh sắt lại gần cuộn dây điện khi đó đinh sắt sẽ bị hút vào cuộn dây, đó chính là tác dụng từ của dòng điện xoay chiều. Dòng điện 1 chiều là dòng điện chạy theo một hướng cố định, không có sự thay đổi theo thời gian. Dòng điện xoay chiều được sản xuất bởi các máy phát điện xoay chiều, có thể vận hành qua các khoảng cách xa từ miền núi đến đồng bằng với lượng điện năng lớn. Ngược lại điện 1 chiều được sản xuất từ pin, ắc quy… nên không thể truyền tải xa vì có thể mất năng lượng. Dòng điện xoay chiều có tần số 50Hz hoặc 60Hz tùy vào nguồn phát và phương hướng có thể đảo ngược. Còn điện 1 chiều có tần số bằng 0, chỉ thể chạy theo một hướng nhất định. Dòng điện xoay chiều 1 pha là dòng điện mà trong mạch điện xoay chiều có 2 dây nối với nguồn điện, hướng của cường độ dòng điện trong mạch thay đổi nhiều lần mỗi giây tùy theo tần số của nguồn mạch điện. Điện 220V mà các hộ gia đình sử dụng là điện xoay chiều 1 pha và có 2 dây: dây pha và dây trung tính. Dòng điện xoay chiều 1 pha được sử dụng cho sinh hoạt gia đình, các thiết bị điện có công suất nhỏ, không hao phí điện năng nhiều. Dòng điện xoay chiều 3 pha là dòng điện mà trong mạch điện về cơ bản tương tự như 3 đường điện 1 pha chạy song song, có chung dây trung tính. Do đó hệ thống điện của chúng ta thường có 4 dây là 3 dây nóng và 1 dây lạnh. Điện 3 pha được sử dụng cho việc truyền tải, sản xuất công nghiệp mà các thiết bị điện có công suất lớn để giúp giải quyết vấn đề tổn hao điện năng. Theo các chuyên gia thì máy phát điện 3 pha cho dòng điện 3 pha khỏe và tốt hơn rất nhiều, hiệu suất hoạt động của máy cũng hiệu quả hơn. Do đó khi sử dụng máy phát điện 3 pha và dòng điện xoay chiều 3 pha là giải pháp tiết kiệm, an toàn và hiệu quả.
Điện xoay chiều
Dòng điện xoay chiều là dòng điện có chiều biến thiên tuần hoàn và cường độ biến thiên điều hoà theo thời gian, những thay đổi này thường tuần hoàn theo một chu kỳ nhất định. Dòng điện xoay chiều thường được tạo ra từ các máy phát điện xoay chiều hoặc được biến đổi từ nguồn điện một chiều bởi một mạch điện tử thường gọi là bộ nghịch lưu dùng các thyristor. Trong kỹ thuật điện, nguồn xoay chiều được viết tắt tiếng Anh là AC (viết tắt của Alternating Current) và được ký hiệu bởi hình ~ (dấu ngã - tượng trưng cho dạng sóng hình sin). Trong mạch điện điện tử, sóng sin được dùng để ám chỉ điện xoay chiều đặt trên những linh kiện điện tử vì sóng Sin là một dạng sóng tuần hoàn điều hòa. Sau khi phát hiện ra cảm ứng điện từ, thì đó là lúc dòng điện xoay chiều được ra đời. Và dòng điện xoay chiều là sản phẩm đầu tay của một người nước Anh tên Michael Faraday và nhà văn Pháp Hippolyte Pixii. Năm 1882, thợ điện người Anh - James Gordon, là người đã chế tạo máy phát điện hai pha lớn.
Có thể nói Passport (Hộ chiếu) được xem là "điều kiện cần" để bạn có thể du lịch ở nước ngoài. Vậy bạn có biết Passport là gì? Hộ chiếu là gì? Công dụng như thế nào?. Khái niệm Passport (Hộ chiếu) có lẽ không quá xa lạ đối với quý khách hàng, nhất là những ai có nhu cầu du lịch, làm việc và học tập ở nước ngoài. Nếu như không có Passport thì bạn không thể nào lên máy bay để đến quốc gia mà bạn muốn đến được. Đây chính là lý do vì sao chúng tôi nói Passport là "điều kiện cần" để bạn ra nước ngoài. Hộ chiếu (hay còn gọi là Passport), là "chứng minh thư" bắt buộc cho phép bạn có thể xuất cảnh ra nước ngoài và được quyền nhập cảnh trở lại sau khi chuyến du lịch, công tác hay việc học kết thúc. Các thông tin trên Passport bao gồm họ và tên của chủ sở hữu, ngày tháng năm sinh, ảnh đi kèm, quốc tịch, chữ ký cũng như ngày cấp và ngày hết hạn. Dựa vào những thông tin này mà có thể xác định được các thông tin cá nhân của chủ sở hữu. Một số quốc gia cho phép bạn xuất nhập cảnh và về nước không cần visa thì bạn không cần làm Passport. Còn đối với nước có quy định nghiêm ngặt như Mỹ, hoặc 1 số nước châu Âu,. thì bạn cần xin visa (thị thực) mới có thể đi du lịch, du học và công tác. Sau khi hiểu rõ khái niệm Passport là gì, hộ chiếu là gì? thì vấn đề tiếp theo mà hầu như bạn nào cũng quan tâm chính là chủng loại của hộ chiếu.Hiện nay, ở Việt Nam có 3 loại hộ chiếu chính:. Loại thứ nhất là màu xanh, được xem là Passport phổ biến nhất, dành cho khách du lịch. Loại thứ hai cũng là màu xanh nhưng là xanh ngọc bích, đậm hơn một chút, thường dành cho công vụ ngoại giao ở nước ngoài. Cuối cùng là Passport màu đỏ, chiếm tỷ lệ ít nhất, chỉ dành cho quan chức cấp cao trong bộ máy nhà nước. Hộ chiếu phổ thông dành cho đa số, tên gọi tiếng anh là Popular Passport, được cấp cho công dân có quốc tịch Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Thường thì những bạn có ý định du lịch nước ngoài hay đi du học, công tác thì sẽ được cấp loại hộ chiếu phổ thông có màu xanh lá này.-> Điều kiện: Chỉ cần bạn cung cấp CMND và sổ hộ khẩu thì sẽ được cấp Popular Passport, không cần điều kiện gì phức tạp-> Lệ phí cấp hộ chiếu được cập nhật như sau:- Đối với trường hợp cấp mới: 200.000 VNĐ- Đối với trường hợp cấp lại do bị hỏng hoặc mất: 400.000 VNĐ- Cấp giấy xác nhận yếu tố nhân sự: 100.000 VNĐ- Gia hạn hộ chiếu: 100.000 VNĐ. Popular Passportchỉ cấp cho công dân từ 14 tuổi trở lên với thời hạn 10 năm kể từ ngày cấp. Cả hai trường hợp này đều không được gia hạn thêm thời gian. Đối với trẻ em dưới 9 tuổi, Popular Passport không được cấp riêng mà phải ghép chung với cha hoặc mẹ. Hộ chiếu công vụ có màu xanh đậm hơn so với hộ chiếu phổ thông, chỉ được cấp cho những trường hợp đặc thù ra nước ngoài làm việc theo sự phân công của chính phủ. Tên gọi tiếng anh của hộ chiếu công vụ là Official Passport, thời gian chỉ khoảng 5 năm.Nếu có Official Passport, bạn không cần phải xin visa ở nước muốn đến, hơn nữa bạn còn được ưu tiên đi qua cổng đặc biệt lúc nhập cảnh, tất nhiên là phải chấp hành đúng quy định của quốc gia mà bạn đến.Đối tượng được cấp của Official Passport là cán bộ, công chức làm việc ở các cơ quan nhà nước. Ngoài ra còn có sĩ quan, quân nhân làm trong quân đội, công an ra nước ngoài để làm nhiệm vụ được yêu cầu từ chính phủ. Hộ chiếu ngoại giao có màu đỏ, tên tiếng anh là Diplomatic Passport, là loại "chứng minh thư" chỉ dành cho các quan chức cấp cao.Họ thường sử dụng tấm hội chiếu này để hoàn thành các công việc, nhiệm vụ được giao từ tổ chức chính phủ tối cao của nhà nước. Thời hạn của Diplomatic Passport cũng là 5 năm, có nó bạn cũng được miễn visa nhập cảnh và được ưu tiên đi qua cổng đặc biệt theo quy định của quốc gia mà bạn đặt chân đến. Những người được cấp Diplomatic Passport thường giữ chức vụ cao trong hệ thống cơ quan của nhà nước. Chẳng hạn như Bộ trưởng, thứ Trưởng của Bộ Tài Chính, Bộ Nội Vụ, Bộ Công An hay Bộ Tư Pháp. Cấp bậc thấp nhất được cấp Diplomatic Passport là bí thư, phó bí thư hoặc Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân cấp tỉnh.Hy vọng qua bài viết này, các bạn đã hiểu rõ hơn về Hộ chiếu (Passport) để chuẩn bị hành trang cho chuyến đi sắp tới của mình.Mọi thông tin bổ ích nhất về du lịch, thủ thuật sẽ cập nhật hằng ngày trên website du lịch Hoàn Mỹ, nhớ đừng bỏ lỡ.
Hộ chiếu
Hộ chiếu là một giấy thông hành, thường do chính phủ của một quốc gia cấp cho công dân của quốc gia đó, xác nhận danh tính và quốc tịch của người giữ hộ chiếu chủ yếu cho mục đích đi lại quốc tế. Hộ chiếu tiêu chuẩn có thể chứa thông tin như tên, nơi ở và ngày sinh, ảnh, chữ ký và các thông tin nhận dạng có liên quan khác của người sở hữu hộ chiếu. Nhiều quốc gia đã bắt đầu phát hành hoặc có kế hoạch phát hành hộ chiếu sinh trắc học có chứa vi mạch nhúng, khiến chúng có thể đọc được bằng máy và khó làm giả hơn. Tính đến tháng 1 năm 2019, đã có hơn 150 khu vực pháp lý cấp hộ chiếu điện tử. Hộ chiếu không đọc được bằng máy không sinh trắc học được cấp trước đây thường vẫn có giá trị cho đến ngày hết hạn của nó. Người mang hộ chiếu thường được quyền nhập cảnh vào quốc gia đã cấp hộ chiếu, mặc dù một số người được cấp hộ chiếu có thể không phải là công dân đầy đủ quyền cư trú (ví dụ: công dân Mỹ hoặc công dân Anh).
Bạn đang tìm kiếm Tỷ lệ chấp nhận của Đại học Toronto năm 2021? Nếu có, thì bạn đang ở vị trí hoàn hảo vì chúng tôi sẽ cho bạn thấy tỷ lệ chấp nhận của Đại học Toronto, Canada. Là một sinh viên tương lai, điều rất quan trọng là phải biết về tỷ lệ chấp nhận của các trường Đại học để bạn có thể được thông báo về những trường có tỷ lệ nhập học cạnh tranh và ít cạnh tranh hơn. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung vào tỷ lệ chấp nhận của Đại học Toronto, Canada. Nhưng trước khi làm điều đó, tôi muốn giới thiệu cho các bạn về Đại học Toronto, các yêu cầu nhập học, chi phí sinh hoạt, các tài liệu cần thiết, v.v. Đại học Toronto có tên gọi khác là U of T và là một trường đại học nghiên cứu công lập nằm ở Ontario, Canada. Trường được thành lập vào năm 1827 theo Hiến chương Hoàng gia với tên gọi Kinds College. Trường đã được biết đến với sự phát triển mạnh mẽ và chương trình giảng dạy về lý thuyết truyền thông và phân tích học thuật. Đại học Toronto cung cấp hơn 700 chương trình đại học và 200 chương trình sau đại học trong các lĩnh vực Kiến trúc, Quản lý Nghệ thuật, Kỹ thuật, Y khoa, Khoa học, v.v. Chi phí sinh hoạt điển hình cho các mặt hàng cơ bản đề cập đến số tiền mà một cá nhân cần để phục vụ cho chi phí sinh hoạt của mình. Là một sinh viên, bạn bắt buộc phải lập kế hoạch cho chi phí hàng ngày của mình trước khi ra ngoài học tập. Chi phí trung bình cho sinh hoạt và các vật dụng cơ bản ở Toronto trong một năm học (8 tháng) và được ấn định từ 8000 đến 12,000. Số tiền này sẽ bao gồm các chi phí như cho ăn, quần áo, chỗ ở, đi lại, mua sách, v.v. Học phí tại Đại học Toronto có phần hơi cao so với các trường đại học khác ở Canada. Đối với các chương trình học đại học và sau đại học, sinh viên quốc tế phải trả từ 45, 000 đến 57,000 mỗi năm. Đây chỉ là học phí và không bao gồm chi phí hàng ngày. Vui lòng ghi nhớ rằng tất cả các số liệu chúng tôi đã sử dụng trong bài viết này bằng đô la Canada chứ KHÔNG phải đô la Mỹ. Chúng tôi đã tìm hiểu những gì một sinh viên điển hình sẽ cần cho học phí và chi phí sinh hoạt tại Đại học Toronto. Phần tiếp theo sẽ khám phá một số câu hỏi được hỏi bởi các ứng viên tương lai cho trường Đại học. Tuy nhiên, bây giờ chúng tôi đã có thể đưa ra ước tính về số tiền mà một sinh viên có thể cần cho chi phí sinh hoạt và học phí, hãy thử giải quyết một số câu hỏi của các ứng viên về Đại học Toronto. Để được nhận vào Đại học Toronto để theo học ngành y, bạn phải có điểm trung bình tối thiểu là 3.6 / 4.0 theo Thang điểm Dịch vụ Đăng ký của Trường Y khoa Ontario. Vui lòng lưu ý rằng việc sở hữu các yêu cầu GPA tối thiểu không đảm bảo được chấp nhận vào trường Đại học. Điểm trung bình tối thiểu là 3.8 được cho là có khả năng cạnh tranh. Rõ ràng, Đại học Toronto là một trường tốt với vô số chương trình học trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Dù vậy, nó có thể không được coi là trường Đại học tốt nhất cho mọi sinh viên. Một số rất ít sinh viên tận dụng tất cả các cơ hội mà họ có thể có ở Đại học Toronto và cả ở trung tâm thành phố Toronto. Tất cả những điều được xem xét, nó không phải là tất cả đơn giản để được nhận vào Đại học Toronto. Đại học Toronto được biết đến với việc tuyển sinh khó khăn và cạnh tranh và hơn nữa đã có tiếng xấu về điểm trung bình thấp. Thực sự, điểm ít nhất mà sinh viên Đại học Toronto nhận được là điểm C. Lưu ý rằng quá trình nhập học bắt đầu vào mùa thu ngay trước năm bạn muốn tham gia. Nếu bạn muốn đăng ký, đừng bỏ lỡ tháng XNUMX và tháng XNUMX vì đây là những tháng đăng ký nhập học. Đại học Toronto yêu cầu điểm SAT tối thiểu là 600 (Lập luận) và 640 (Thiết kế lại) trong mỗi phần SAT và ít nhất 26 trong ACT với điểm viết ít nhất là 8. Một số chương trình yêu cầu điểm cao hơn. Điểm SAT, AP và ACT phải được trình bày dưới dạng điện tử cho trường Đại học. Trong mọi trường hợp, bạn sẽ được yêu cầu nộp bài luận, Tuyên bố Mục đích (SOP), điểm kiểm tra trình độ tiếng Anh, hai thư giới thiệu và CV cập nhật của bạn khi đăng ký chương trình tại Đại học Toronto. Ngoài những tài liệu này, bạn cũng sẽ được yêu cầu nộp bảng điểm, cả ở dạng điện tử và bản in cho tất cả các bằng cấp mà bạn đã đạt được trước đây. Theo bảng xếp hạng Đại học Thế giới QS năm 2021 và Bảng xếp hạng Đại học hướng dẫn Times Higher, Đại học Toronto được xếp hạng số 1 ở Canada và hạng 29 trên thế giới. Trong quá trình làm quen với thủ tục nhập học của các trường Đại học, bây giờ chúng ta hãy cùng đưa ra thông tin chi tiết về tỷ lệ chấp nhận của Đại học Toronto. So với nhiều trường Đại học khác trên Thế giới, Đại học Toronto có tỷ lệ chấp nhận tốt nghiệp là 43%. Đây là mức khá cao khi so sánh với các học viện khác. Điều này chỉ ra rằng cứ 4 thí sinh thì có 10 thí sinh được nhận vào Đại học. Điều này về cơ bản là do Trường tiếp nhận nhiều sinh viên trong nước cũng như quốc tế trong khuôn viên của họ và theo cách này làm cho thủ tục nộp đơn ngày càng cạnh tranh. Mô hình Trang web chính thức của Đại học Toronto to biết thêm thông tin chi tiết về trường. Nhập địa chỉ email của bạn để đăng ký vào blog này và nhận được thông báo bài viết mới qua email.
Đại học Toronto
Viện Đại học Toronto hay Đại học Toronto (tiếng Anh: University of Toronto, viết tắt là U of T, UToronto, hoặc Toronto) là một viện đại học nghiên cứu hệ công lập tọa lạc tại thành phố Toronto, Ontario, Canada. Được thành lập vào năm 1827 bởi Hiến chương Hoàng gia dưới tên Học viện Hoàng đế (King s College), đây là cơ sở giáo dục đại học đầu tiên tại thuộc địa Thượng Canada thuộc Đế quốc Anh. Đại học Toronto bao gồm 12 trường nhỏ khác nhau về lịch sử hình thành, mỗi trường đều mang tính tự chủ về tài chính và ngoại giao. Trường có thêm 2 cơ sở vệ tinh tại Mississauga (UTM) và Scarborough (UTSC). Nhờ chất lượng học thuật và lịch sử lâu đời, Đại học Toronto cùng với Đại học McGill được ví như "Đại học Harvard của Canada," mặc dù danh xưng này đang gây tranh cãi. Trường đại học Toronto được đánh giá cao trong danh sách các đại học hàng đầu trên thế giới và thường xuyên là một trong ba đại học xuất sắc tại Canada. Theo thống kê các trường Đại học Hàng đầu thế giới vào năm 2015 của U.S News & World Report, trường được xếp hạng thứ 14 trên thế giới, và hạng 24 vào năm 2014 bởi Academic Ranking of World Universities, hạng 29 trên thế giới vào năm 2020 và hạng 1 ở Canada bởi QS World University Rankings, và hạng 16 trên thế giới trong năm 2015 bởi Times Higher Education World Reputation Rankings.
Quyền lập pháp là quyền làm luật, xây dựng luật và ban hành những văn bản luật được áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền lập pháp do Quốc hội tiến hành.Cơ quan lập pháp là kiểu hội đồng thảo luận đại diện có quyền thông qua các luật. Đây là một trong ba cơ quan chính gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp của thể chế chính trị tam quyền phân lập. Lập pháp có nhiều tên gọi khác nhau, phổ biến nhất là nghị viện và quốc hội (lưỡng viện), mặc dù những tên này có nhiều nghĩa đặc trưng khác nữa. Trong hệ thống nghị viện của chính phủ, cơ quan lập pháp là cơ quan tối cao chính thức và chỉ định cơ quan hành pháp. Ở hệ thống tổng thống, cơ quan lập pháp được xem là phân nhánh quyền lực tương đương và độc lập với cơ quan hành pháp. Ngoài việc ban hành luật ra, cơ quan lập pháp còn có quyền tăng thuế, thông qua ngân sách và các khoản chi tiêu khác. Quyền hành pháp là một trong ba quyền trong cơ cấu quyền lực Nhà nước, bên cạnh quyền lập pháp và quyền tư pháp. Quyền hành pháp do các cơ quan hành chính Nhà nước thực thi để đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của mình. Quyền hành pháp bao gồm hai quyền: quyền lập qui và quyền hành chính. Quyền lập qui là quyền ban hành những văn bản pháp qui dưới luật, để cụ thể hoá luật pháp do các cơ quan lập pháp ban hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền hành chính là quyền tổ chức quản lý tất cả các mặt, các quan hệ xã hội bằng cách sử dụng quyền lực Nhà nước. Quyền hành chính bao gồm các quyền về tổ chức nhân sự trong cơ quan hành chính, quyền tổ chức thực thi và áp dụng pháp luật trong các mối quan hệ giữa tổ chức với cá nhân, tổ chức với tổ chức và giữa các cá nhân với nhau trong đời sống xã hội. Quyền tư pháp là quyền bảo vệ luật pháp, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện và chống lại các hành vi vi phạm pháp luật. Quyền tư pháp do Tòa án và Viện Kiểm sát tiến hành. Theo luật học, cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là một hệ thống tòa án nhân danh quyền tối cao hoặc nhà nước để thực thi công lý, một cơ chế để giải quyết các tranh chấp. Thuật ngữ này cũng được dùng để đề cập đến cả quan tòa ở các cấp, những người thiết lập nền móng cho một bộ máy tư pháp và cả những người trợ giúp cho hệ thống này hoạt động tốt. Lập pháp: biểu hiện ý chí chung của quốc gia. Nó thuộc về toàn thể nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân - Quốc hội. Tư pháp: là để trừng trị tội phạm và giải quyết sự xung đột giữa các cá nhân. Các thẩm phán được lựa chọn từ dân và xử án chỉ tuân theo pháp luật. Cho mình hỏi tên bộ phim truyền hình hình như là của mỹ, có cái cánh cổng dẫn tới cái thế giới cổ gì đó, rồi có bà phản diện mặc bộ giáp có hình con rồng ở giữa khi quẹt 2 cổ tay tạo được quả cầu điện quăng đi.
Lập pháp
Cơ quan lập pháp là kiểu hội đồng thảo luận đại diện có quyền thông qua các luật. Đây là một trong ba cơ quan chính gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp của thể chế chính trị tam quyền phân lập. Lập pháp có nhiều tên gọi khác nhau, phổ biến nhất là nghị viện và quốc hội (lưỡng viện), mặc dù những tên này có nhiều nghĩa đặc trưng khác nữa. Trong hệ thống nghị viện của chính phủ, cơ quan lập pháp là cơ quan tối cao chính thức và chỉ định cơ quan hành pháp. Ở hệ thống tổng thống, cơ quan lập pháp được xem là phân nhánh quyền lực tương đương và độc lập với cơ quan hành pháp. Ngoài việc ban hành luật ra, cơ quan lập pháp còn có quyền tăng thuế, thông qua ngân sách và các khoản chi tiêu khác.
Otto I Đại đế (23 tháng 11 năm 912 – 7 tháng 5 năm 973), thuộc dòng dõi nhà Liudolfinger, con trai của Heinrich der Finkler và Mathilde của Ringelheim, là Công tước Sachsen, vua của đế quốc Đông Francia từ năm 936, vua của Ý năm 951 và là người đầu tiên được tấn phong ngôi vị Hoàng đế La Mã Thần thánh năm 962. Sau khi vua Charlemagne qua đời năm 814, đế quốc của ông bị phân tán thành những vương quốc nhỏ. Mạn trung và phía tây châu Âu, luôn bị người Viking tấn công và trở thành mục tiêu cho những người Magyar từ Hungary và România kéo đến xâm lược. Người dân ở đây gần như không thể chống cự nổi. Khi Otto Đại đế lên ngôi vua Đông Francia, cha ông, Heinrich, bỏ phong tục chia lãnh thổ cho các người con trai, chủ trương vương quốc là không thể chia ra được. Otto đã thành công đánh bại lại những cuộc nổi dậy chống lại chủ trương này từ chính những người trong gia đình mình, như em trai ông Heinrich và con trai ông là Brun. Năm 955 ông đánh bại được quân Magyar gần sông Lech mạn nam Đức. Chiến thắng này đã kết thúc mối đe dọa của Magyar trên mạn tây châu Âu. Cùng năm đó, ông lại chiến thắng người Slav. Những chiến thắng này đã giúp ông đạt được danh tiếng là người cứu vãn đạo Kitô, qua đó đặt nền móng cho một thời văn hóa hoàng kim, được người đời sau gọi là thời kì phục hưng Otto. Năm 961, ông chinh phục được Vương quốc Ý và mở rộng đế chế của mình ở cả bắc, đông và nam Ý, gây mâu thuẫn với Đế quốc Đông La Mã. Bắt chước ý tưởng của hoàng đế Charlemagne, năm 962, ông để Giáo hoàng Giovanni XII ở Roma phong làm hoàng đế và cuối cùng ông đã thành công trong việc đạt được một thỏa hiệp với hoàng đế Byzantine và dàn xếp cuộc hôn nhân của con trai ông là Otto II với cháu gái Theophano của hoàng đế Byzantine. Năm 968, ông thành lập một tổng giáo phận ở Magdeburg, thành phố này vẫn là nơi chịu ảnh hưởng của ông nhiều nhất sau khi ông chết. Giáo phận này có địa vị quan trọng đối với Otto trong việc Thiên Chúa giáo hóa người Slav. Sau khi qua đời, ông được chôn cất ở nhà thờ Magdeburg cùng vợ ông – Edith xứ Wessex. Otto sinh năm 912 có lẽ ở Wallhausen, con trai của công tước Sachen Heinrich I, người mà vào năm 919 được phong làm vua Đông Francia và người vợ thứ hai của ông ta là Mathilde. Otto có một người anh trai cùng cha khác mẹ là Thankmar, người con từ cuộc hôn nhân đầu của Heinrich I. Những người em của Otto là Gerberga, Hadwig, Heinrich và Brun. Ông có vợ là một người Slav thuộc dòng dõi quý tộc và có với nhau người con trai là Wilhelm, người sau này trở thành tổng giám mục Mainz. Sau cái chết của Konrad I, người đã không thành công trong việc tập hợp những người có thế lực nhất của vương quốc dưới quyền cai trị của ông. Vào năm 919, vương quyền lần đầu tiên không được giao cho một người Franken mà được phong cho một người Sachsen. Mặc dù Heinrich chỉ được bầu bởi Franken và Sachsen nhưng với một chính sách khéo léo qua sự tòng phục về quân sự và sau đó sự liên kết tình thân hữu với rất nhiều nhượng bộ (amicitia và pacta), ông đã ràng buộc thành công các công quốc Schwaben (919) và Bayern (921/922) vào vương quốc của mình. Ngoài ra, Heinrich cũng đã sáp nhập thành công Lothringen, công quốc mà dưới thời của Konrad còn liên kết với Tây Francia nay trở thành một phần của Đông Francia (925). Để bảo đảm có thể truyền lại quyền lực mà ông đã đạt được ở Đông Francia cho gia tộc ông không bị phân chia, năm 929/930, ông ra quyết định chọn một người thừa kế duy nhất, Otto. Trong một văn kiện viết cho vợ đề ngày 16 tháng 9 năm 929 gọi là “gia quy” , Heinrich quyết định để lại cho vợ Mathilde khi ông chết Quedlinburg, Pöhlde, Nordhausen, Grone và Duderstadt. Otto lần đầu tiên trở thành một thủ lĩnh quân sự khi vương quốc Đức chiến đấu chống lại các bộ lạc của người Wend ở biên giới phía đông. Trong khi vận động chống lại người Wend/Tây Slav vào năm 929, con trai ngoài giá thú của Otto là Wilhelm, Tổng Giám mục tương lai của Tổng giáo phận Mainz được sinh ra bởi một nữ quý tộc bị giam cầm người Wend. Với sự thống trị của Heinrich đối với toàn bộ vương quốc được bảo đảm từ năm 929, nhà vua có lẽ đã bắt đầu chuẩn bị người kế vị vương quốc của mình. Không có bằng chứng bằng văn bản cho sự sắp xếp của ông còn tồn tại nhưng trong thời gian này, Otto lần đầu tiên được gọi là vua (tiếng Latin: rex) trong một tài liệu của Tu viện Reichenau. Trong khi cố quyền lực ở Đức, Heinrich cũng chuẩn bị cho một liên minh với người Anh Anglo-Saxon bằng cách tìm một cô dâu cho Otto. Sự liên kết với một gia tộc hoàng gia khác sẽ giúp Heinrich có thêm tính hợp pháp và tăng cường mối liên kết giữa hai vương quốc Saxon. Để gắn kết liên minh, Quốc vương Æthelstan của Anh đã gửi cho Heinrich hai người chị em cùng cha khác mẹ của mình để ông có thể chọn người mà ông hài lòng nhất. Heinrich chọn Edgitha làm cô dâu của Otto và hai người kết hôn vào năm 930. Vài năm sau, ngay trước khi Heinrich qua đời, Nghị viện Hoàng gia tại Erfurt đã chính thức phê chuẩn các thỏa thuận kế vị của nhà vua. Một số tài sản và kho báu của ông đã được chia cho Thankmar, Heinrich và Brun. Nhưng từ thừa kế thông thường của nhà Carolus, nhà vua đã chỉ định Otto là người thừa kế duy nhất mà không được các công tước khác bầu chọn chính thức trước đó. Heinrich đã chết do đột quỵ não vào ngày 2 tháng 7 năm 936 tại cung điện Kaiserpfalz ở Memleben và được chôn cất tại Tu viện Quedlinburg. Vào thời điểm ông qua đời, tất cả các bộ lạc Đức đã hợp nhất trong một vương quốc duy nhất. Ở tuổi gần 24, Otto kế thừa vương vị Công tước xứ Sachsen và Quốc vương Đức của cha mình. Lễ đăng quang của ông được tổ chức vào ngày 7 tháng 8 năm 936 tại thủ đô Aachen cũ của vương triều Charlemagne, nơi Otto được xức dầu và trao vương miện bởi Hildebert, Tổng Giám mục Mainz. Mặc dù là một người Sachen, Otto xuất hiện trong lễ đăng quang trong trang phục của người Frank để chứng minh chủ quyền của mình đối với công quốc Lotharingia và là người kế vị thực sự của Charlemagne, người thừa kế cuối cùng ở Đông Francia đã qua đời vào năm 911. Theo Widukind xứ Corvey, dưới trướng Otto có bốn công tước khác trong vương quốc (từ các công quốc Franken, Schwaben, Bayern và Lorraine) đóng vai trò là người hầu cận của ông tại lễ đăng quang: Arnulf I xứ Bayern là nguyên soái (quản lý chuồng ngựa) Herman I, Công tước Schwaben với tư cách là người hầu rượu, Eberhard xứ Franken với tư cách là người đại diện đức vua (hoặc người quản gia) và Gilbert xứ Lorraine là thị thần. Bằng cách thực hiện việc phụng sự theo truyền thống này, các công tước báo hiệu sự hợp tác với vị vua mới và thể hiện rõ sự phục tùng đối với ông. Mặc dù đã chuyển giao quyền lực diễn ra một cách êm thấm, nội bộ hoàng tộc không hòa thuận trong triều đại đầu tiên của ông. Heinrich, em trai của Otto cũng muốn giành ngai vàng trái với mong muốn của cha mình. Theo tiểu sử của Mathilde, mẹ của Otto, Vita Mathildis reginae posterior, bà đã ưu ái Heinrich làm vua: trái ngược với Otto, Heinrich đã “sinh ra trong màu tím” (tím là màu đại diện cho hoàng tộc) trong triều đại của cha mình và còn mang tên của cha. Otto cũng vấp phải sự phản đối từ nhiều quý tộc địa phương. Năm 936, Otto bổ nhiệm Hermann Billung làm Phiên hầu tước (tương đương bá tước) và trao cho ông huyện biên giới ở phía bắc sông Elbe, giữa sông Limes Saxoniae và Peene. Với tư cách là thống lĩnh quân đội, Hermann đã nhận một phần cống phẩm từ những người Slav ở Polabia sinh sống trong khu vực và thường chiến đấu chống lại các bộ lạc người Tây Slav ở Lutici, Obotrites và Wagri. Vụ bổ nhiệm Hermann của Otto đã chọc giận anh trai của ông, bá tước Wichmann cha. Là người lớn hơn và giàu có hơn, Wichmann tin rằng yêu sách của Otto là vượt quyền mình. Ngoài ra, Wichmann còn có quan hệ hôn nhân với Vương thái hậu Mathilde. Năm 937, Otto tiếp tục xúc phạm giới quý tộc thông qua việc bổ nhiệm Gero để kế vị anh trai Siegfried làm Bá tước và Phiên hầu tước của một khu vực biên giới rộng lớn xung quanh Merseburg, nơi giáp giới với lãnh thổ người Wend ở hạ lưu sông Saale. Quyết định của ông làm người em trai cùng cha khác mẹ và anh họ của Siegfried là Thankmar thất vọng. Thankmar cảm thấy rằng đúng lý ra mình mới là người nên được bổ nhiệm. Vương quốc Đức bao gồm các công quốc Sachsen (màu vàng), Franken (màu xanh), Bayern (màu xanh lá cây), Schwaben (màu cam) và Lorraine (màu hồng bên trái). Nhiều công tước nổi dậy chống lại sự cai trị của Otto năm 937 và một lần nữa vào năm 939. Năm 937, Arnulf, Công tước xứ Bayern mất và được con trai là Eberhard kế vị. Từ chối công nhận quyền lực tối cao của Otto, Eberhard nổi dậy chống lại nhà vua. Trong hai chiến dịch vào mùa xuân và mùa thu năm 938, Otto đã đánh bại và đày Eberhard khỏi vương quốc và tước bỏ danh hiệu của ông. Otto đã bổ nhiệm chú của Eberhard là Berthold, một bá tước ở huyện biên giới Kärnten làm tân Công tước xứ Bayern với điều kiện Berthold phải công nhận Otto là người duy nhất có quyền bổ nhiệm các giám mục và quản lý lãnh thổ hoàng gia trong công quốc. Đồng thời, Otto phải giải quyết một cuộc tranh chấp giữa Bruning, một quý tộc Sachsen và Công tước Eberhard của Franken, anh trai của cựu vương Conrad I của Đức. Sau một người Sachsen lên nắm quyền lực, Bruning, một lãnh chúa địa phương có lãnh thổ ở vùng biên giới giữa Franken và Sachsen đã từ chối tuyên thệ quy phục với bất kỳ người cai trị nào không phải người Sachsen. Eberhard tấn công lâu đài Helmern của Bruning gần Peckelsheim, giết chết tất cả dân ở đó và đốt cháy nó. Nhà vua đã triệu tập các phe thù địch tới triều đình tại Magdeburg, nơi Eberhard được lệnh phải trả tiền phạt và các tướng dưới quyền của ông ta đã bị kết án phải mang chó chết ở nơi công cộng. Đó được coi là một hình phạt đặc biệt đáng xấu hổ. Bực tức vì hành động của Otto, Eberhard đã cùng với người em cùng cha khác mẹ của Otto là Thankmar, Bá tước Wichmann và Đức Tổng Giám mục Friedrich ở Mainz và nổi dậy chống lại nhà vua vào năm 938. Công tước Herman I xứ Schwaben, một trong những cố vấn thân cận nhất của Otto đã cảnh báo ông về cuộc nổi loạn và nhà vua đã nhanh chóng dập tắt cuộc nổi dậy. Doesmann sớm hòa giải với Otto và gia nhập quân đội của nhà vua chống lại các cựu đồng minh của mình. Otto bao vây Thankmar tại Eresburg và giết chết ông ta tại bàn thờ ở Nhà thờ Thánh Peter. Sau thất bại, Eberhard và Friedrich tìm cách hòa giải với nhà vua. Otto đã ân xá cả hai sau một cuộc lưu đày ngắn ngủi ở Hildesheim và khôi phục lại chức tước cho họ. Ngay sau khi hòa giải, Eberhard đã lên kế hoạch cho một cuộc nổi loạn thứ hai chống lại Otto. Ông hứa sẽ giúp em trai Heinrich của Otto giành lấy ngai vàng và chiêu dụ Gilbert, Công tước Lorraine tham gia cuộc nổi loạn. Otto đày Heinrich khỏi Đông Francia và ông trốn đến nương nhờ triều đình của vua Louis. Nhà vua là người Tây Francia, luôn hy vọng giành lại quyền thống trị ở Lorraine một lần nữa nên đã bắt tay với Heinrich và Gilbert. Trước khi đánh bại được họ, Otto buộc phải bỏ việc vây hãm và chống lại Louis, người đã chiếm giữ Verdun. Otto sau đó đã đẩy Louis trở về thủ đô của mình tại Laon. Dù Otto giành được một số chiến thắng ban đầu nhưng ông không thể bắt được những kẻ âm mưu và chấm dứt cuộc nổi loạn. Đức Tổng Giám mục Friedrich đã tìm cách hòa giải giữa các bên nhưng Otto đã từ chối lời đề nghị này. Dưới sự chỉ đạo của Otto, Công tước Herman xứ Schwaben đã lãnh đạo một đội quân chống lại những kẻ âm mưu vào Franken và Lorraine. Otto đã tuyển mộ một số đồng minh từ công quốc Alsace, những người đã vượt qua sông Rhein và làm Eberhard và Gilbert bị bất ngờ tại trận Andernach vào ngày 2 tháng 10 năm 939. Quân của Otto đã chiến thắng áp đảo: Eberhard bị giết tại trận, Gilbert bị chết đuối trên sông Rhein trong khi cố gắng trốn thoát. Còn lại một mình đối đầu với anh trai, Heinrich chịu quy phục Otto và cuộc nổi loạn chấm dứt. Khi Eberhard chết, Otto nắm quyền cai trị trực tiếp đối với công quốc Franken và giải thể nó thành các quận nhỏ hơn và giao cho các giám mục chịu trách nhiệm trực tiếp. Đổi lại, Otto rút quân và sắp xếp cho em gái Gerberga (góa phụ của Gilbert) kết hôn với Louis IV.
Otto II của Thánh chế La Mã
Otto II (955 – 7 tháng 12, 983, Roma) là một Hoàng đế đế quốc La Mã Thần thánh thuộc dòng dõi hoàng tộc nhà Liudolfinger, con trai của Otto I và Adelaide của Ý. Ông thực sự nắm quyền lúc 18 tuổi vào năm 973 khi cha mất cho đến năm 983. Ông đã được một nền giáo dục tốt dưới sự nuôi dưỡng của chú ông, Bruno, Tổng giám mục Köln và người anh khác mẹ của ông, Wilhelm, Tổng giám mục Mainz. Năm 961 ông được cha cho đăng quang tại Worms với tư cách là vua thứ hai nước Đức cùng cai trị với cha, và đăng quang tại Nhà thờ Aachen ngày 26 tháng 5 năm 961 và vào 25 tháng 12 năm 967 thì được Giáo hoàng Giovanni XIII tấn phong làm Hoàng đế La Mã Thần thánh thứ hai tại Roma, hầu bảo đảm là ông có thể nối dõi sau này.
Tiền hoa hồng là gì? Đó là khoản thù lao mà bên trung gian được hưởng sau khi hoàn thành công việc. Vậy để đảm bảo quyền lợi, bạn đã biết cách tính chưa?. Định nghĩa tiền hoa hồng thường được hiểu là số tiền thù lao mà bên trung gian (đại lý, người môi giới…) nhận được từ phía bên ủy thác. Thuật ngữ tiền hoa hồng tiếng anh gọi là “commission“. Nó được sử dụng nhiều trong đời sống thường ngày và sẽ được nhắc đến khi 1 người thực hiện vai trò trung gian giữa 2 bên mua – bán tài sản và cần nhận được 1 khoản tiền công xứng đáng. Cụm từ này cũng đã được pháp luật công nhận và thường xuyên xuất hiện trong các văn bản pháp luật liên quan đến các lĩnh vực thương mại, kinh tế… Hoa hồng không có 1 mức cố định, nó ít hay nhiều phụ thuộc vào khối lượng và tính chất công việc mà bên ủy thác giao cho bên trung gian. Tiền hoa hồng thường được tính theo đơn vị %. Đăng tuyển dụng miễn phí trên Timviec.com.vn giúp nhà tuyển dụng tìm ứng viên hiệu quả. Tiếp nối phần khái niệm tiền hoa hồng là gì, chúng tôi sẽ đề cập đến các chính sách và cách tính hoa hồng bán hàng mà các doanh nghiệp thường hay áp dụng. Cách tính % hoa hồng bán hàng theo nấc bậc thang được sử dụng tương đối phổ biến tong những năm gần đây. Cụ thể là bên ủy thác sẽ chia nhỏ hóa đơn theo từng khoản tương ứng, sau đó nhân giá trị rồi cộng lại. Từ đó, họ sẽ tính ra được mức hoa hồng mà các nhân viên của họ được hưởng. Phương pháp này thường được sử dụng trong trường hợp sản phẩm của doanh nghiệp có giá và cách thức phát triển tương tự nhau hay có thể nói rằng các dòng sản phẩm được sản xuất ra không có quá nhiều sự khác biệt. Cách tính hoa hồng này sẽ bảo đảm sự công bằng cho toàn bộ nhân viên. Một cách tính tiền hoa hồng nữa cũng hay được các doanh nghiệp áp dụng đó là trích % theo điều kiện. Họ sẽ tiến hành trích % theo điều kiện cho nhân viên khi doanh thu của doanh nghiệp vượt ngưỡng tiêu chuẩn. Mức % hoa hồng thường bằng khoảng vài % mức tổng doanh thu. Hoặc khi thời gian hoàn thành doanh thu sớm hơn dự tính thì doanh nghiệp cũng có thể tiến hàng trích % hoa hồng cho các nhân viên. Việc trích % theo điều kiện này sẽ là 1 sự khích lệ nho nhỏ đối với các nhân viên trong công ty, họ sẽ có động lực để làm tốt hơn bởi lẽ doanh thu của công ty càng cao thì mức tiền hoa hồng họ nhận được cũng càng cao. Cách tính phần trăm hoa hồng này đặc biệt phù hợp cho các doanh nghiệp làm việc theo dự án. Cứ khi 1 dự án thành công thì nhân viên kinh doanh của công ty lại nhận được 1 khoản tiền hoa hồng xứng đáng. Chính sách hoa hồng cho nhân viên kinh doanh sẽ được tính dựa theo giá trị hợp đồng mà họ giành được trong dự án. Quy mô và tính chất của các dự án sẽ có sự khác biệt, vì vậy mức tiền hoa hồng dành cho nhân viên cho mỗi dự án cũng sẽ không giống nhau. Trích % theo thâm niên làm việc của nhân viên cũng là 1 cách tính phần trăm tiền hoa hồng được các doanh nghiệp hay áp dụng. Nhân viên làm càng lâu năm thì mức tiền hoa hồng họ được hưởng càng cao hơn. Mức hoa hồng của nhân viên mới thường thấp hơn các “lão làng” trong công ty nhưng đó không phải là nỗi buồn hay sự bất công mà là 1 cách rất hay để thúc đẩy họ làm việc chăm chỉ và hiệu quả hơn. Cùng với sự phát triển của công nghệ và Internet, phương thức bán hàng online cũng ngày càng trở nên. VinMart là tên hệ thống siêu thị nổi tiếng từng trực thuộc VinGroup, hiện tại đã thuộc sở hữu của. Tuyển dụng bán hàng nói chung và tuyển dụng nhân viên bán hàng Bách Hóa Xanh nói riêng đều yêu. PMI là chữ viết tắt của “Purchasing Managers Index”, dịch ra là chỉ số quản lý sức mua. Tìm việc bán hàng lương hấp dẫn, môi trường chuyên nghiệp, phúc lợi tốt, cập nhật từng giờ các việc làm mới. Cùng tìm hiểu ngay!
Tiền hoa hồng
Việc thanh toán hoa hồng (tiếng Anh: commission) như thù lao cho các dịch vụ được cung cấp hoặc sản phẩm được bán là một cách phổ biến để thưởng cho nhân viên bán hàng. Các khoản thanh toán thường được tính toán dựa trên tỷ lệ phần trăm của hàng hóa được bán, một cách để các doanh nghiệp giải quyết vấn đề ông chủ và người đại diện bằng cách cố gắng điều chỉnh lại quyền lợi của nhân viên với các công ty của doanh nghiệp. Nhân viên bán hàng do đó được thanh toán, một phần hoặc toàn bộ, trên cơ sở các sản phẩm hoặc dịch vụ được bán thành công thay vì được thanh toán theo giờ, bởi doanh số bán hàng cố gắng hoặc bằng bất kỳ biện pháp nào khác. Mặc dù có nhiều loại hệ thống hoa hồng tồn tại, một hình thức chung được gọi là thu nhập trên mục tiêu trong đó tỷ lệ hoa hồng dựa trên việc đạt được các mục tiêu cụ thể đã được thỏa thuận giữa quản lý và nhân viên bán hàng. Hoa hồng được dự định để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho nhân viên để đầu tư nỗ lực tối đa vào công việc của họ.
Trong quá trình phát triển của đất nước, lĩnh vực Hàng không đóng một vai trò quan trọng trong vận tải hành khách, hàng hóa, an ninh quốc phòng,… Là một trong những cơ sở đầu tiên đào tạo Ngành Kỹ thuật hàng không, các thế hệ sinh viên Kỹ thuật hàng không của Viện Cơ khí Động lực đang làm việc và giữ những trọng trách quan trọng trong các doanh nghiệp vận tải, dịch vụ hàng không của đất nước, đóng góp một phần quan trọng vào nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành Hàng không Việt Nam. Mục tiêu của chương trình Kỹ thuật hàng không là đào tạo Nhân lực trình độ cao đáp ứng thị trường lao động trong nước và quốc tế trong lĩnh vực Cơ khí hàng không, áp dụng thành thạo kiến thức để vận hành, bảo dưỡng và nghiên cứu, thiết kế, phát triển các sản phẩm, hệ thống mới trong lĩnh vực Cơ khí Hàng không. Sinh viên tốt nghiệp có kiến thức về khoa học cơ bản, về Kỹ thuật Cơ khí, về Kỹ thuật Hàng không vững vàng, có kỹ năng thực hành nghề nghiệp, đủ năng lực áp dụng các kiến thức để vận hành, bảo dưỡng, thiết kế và triển khai các hệ thống, thiết bị liên quan đến Cơ khí Hàng không. Sinh viên được trang bị kỹ năng nghề nghiệp và kỹ năng cá nhân, có khả năng học tập ở trình độ cao hơn, khả năng tự học để thích ứng với sự phát triển không ngừng của khoa học và công nghệ. Có năng lực hình thành ý tưởng, vận hành, bảo dưỡng, thiết kế và triển khai các hệ thống và thiết bị Cơ khí Hàng không trong bối cảnh kinh tế, xã hội và môi trường thực tế. Sử dụng tiếng Anh hiệu quả trong giao tiếp và công việc, đạt điểm TOEIC từ 500 trở lên. Đạt trình độ ngoại ngữ tốt đủ để làm việc trong môi trường liên ngành, đa văn hóa, đa quốc gia. Kỹ sư sửa chữa, bảo dưỡng tại các hãng hàng không trong và ngoài nước, các cụm cảng hàng không, sân bay. Kỹ sư thiết kế, vận hành tại các công ty dịch vụ kỹ thuật hàng không. Kỹ sư thiết kế và vận hành hệ thống ở phòng kỹ thuật, phòng sản xuất, phòng thiết kế các công ty sản xuất và các công ty dịch vụ kỹ thuật công nghiệp, vv. Kỹ sư nghiên cứu tại các viện nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực cơ khí động lực, các trường đại học trong và ngoài nước.
Kỹ thuật hàng không
Kỹ thuật hàng không là khoa học về hàng không, về thiết kế, lắp ráp, phát triển và đảm bảo các yếu tố kỹ thuật trực tiếp cho các phương tiện bay (máy bay và khí cụ bay). Các kỹ sư hàng không tập trung vào phát triển không phận, thiết kế sân bay, công nghệ định vị và điều hướng máy bay và quy hoạch sân bay. Các chuyên gia làm việc trong lĩnh vực này thử nghiệm với những đổi mới trong công nghệ và vật liệu, thử nghiệm máy bay, mô phỏng điều kiện bay,. v.v. Ngành này cũng liên quan đến việc xây dựng chính sách công, quy định, luật hàng không liên quan đến không phận, hãng hàng không, sân bay, bãi đáp và thực hiện các thỏa thuận dịch vụ hàng không thông qua các hiệp ước. Ngành kỹ thuật này khác biệt với kỹ thuật hàng không vũ trụ liên quan đến khoa học về tàu bay và thiết bị vũ trụ.
Thuộc da là gì hay Thuộc da như thế nào ? Đây là quá trình xử lý da của động vật để sản xuất da thuộc, bằng cách sử dụng Tanning 1 loại hợp chất hóa học có tính Axit. (Tanin hay tannoit là một hợp chất polyphenol có trong thực vật có khả năng tạo liên kết bền vững với các protein vá các hợp chất hữu cơ cao phân tử khác như các amino axit và alkaloit. Để Thuộc da sống thành Da Thuộc là một quá trình làm thay đổi vĩnh viễn cấu trúc protein của da, làm cho nó bền hơn và ít bị phân hủy hơn, và cũng có thể làm màu nó. Trước khi thuộc da, da không bị bong ra, bị bong ra, khử muối và ngâm trong nước trong khoảng thời gian từ 6 giờ đến 2 ngày. Theo truyền thống, thuộc da sử dụng tanin, một hợp chất hóa học có tính axit mà từ đó quá trình thuộc da rút ra tên của nó. Việc sử dụng dung dịch crom (III) đã được các nhà khai thác sử dụng trong Cách mạng công nghiệp. Xưởng thuộc da là từ để chỉ khu vực nhà xưởng mà da được xử lý. Qui trình Thuộc da là gì và da thuộc thông thường rất dễ bị nhầm lẫn khi mọi người thường xuyên sử dụng các từ này để thay thế cho nhau. Tuy nhiên, chúng ta cần làm rõ hơn giữa 1 cái là sản phẩm và 1 cái là qui trình tạo ra sản phẩm. Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về Tổng quan kiến thức cơ bản Da thuộc là gì , Thủy Bích cũng đã có 1 bài viết hơn 5000 chữ trình bày khá chi tiết và rõ ràng nhầm mang đến kiến thức tổng quan nhất đến với người đọc. Từ tiếng Anh cho thuộc da là từ tannāre Latin thời trung cổ, phái sinh của tannum (vỏ cây sồi), từ tan tan Pháp (tanbark), từ tann Cornish cũ (sồi đỏ). Những thuật ngữ này có liên quan đến giả thuyết Proto-Indo-European * dʰonu có nghĩa là ‘cây linh sam’. (Từ tương tự là nguồn cho tanna Old High German có nghĩa là ‘linh sam’, liên quan đến Tannenbaum hiện đại). Mặc dù có sự nhầm lẫn về ngôn ngữ giữa cây lá kim và cây sồi khá khác nhau, từ tan dùng để chỉ thuốc nhuộm và các loại bảo quản ẩn là từ cách sử dụng Gaulic liên quan đến vỏ cây sồi (nguồn gốc của tannin), và không phải là cây linh sam. Các nền văn minh cổ đại đã sử dụng da cho túi nước, túi xách, dây nịt và đinh, thuyền, áo giáp, quivers, bao kiếm, ủng và dép. Tanning đang được thực hiện bởi người dân Mehrgarh ở Pakistan trong khoảng từ 7000 đến 3300 trước Công nguyên. Khoảng năm 2500 trước Công nguyên, người Sumer bắt đầu sử dụng da, được gắn bởi đinh tán bằng đồng, trên bánh xe ngựa. Trước đây, qui trình sản xuất thuộc da được coi là một nghề độc hại hoặc “buôn bán có mùi” và bị rớt xuống vùng ngoại ô của thị trấn, giữa những người nghèo. Thật vậy, thuộc da theo phương pháp cổ xưa có mùi hôi đến nỗi các thợ thuộc da vẫn bị cô lập khỏi các thị trấn ngày nay nơi các phương pháp cũ được sử dụng. Skins thường đến xưởng thuộc da khô cứng và bẩn với đất và gore. Đầu tiên, những người thợ thuộc da cổ đại sẽ ngâm da trong nước để làm sạch và làm mềm chúng. Sau đó, họ sẽ giã nhỏ và cọ rửa da để loại bỏ phần thịt và mỡ còn lại. Tiếp theo, thợ thuộc da cần thiết để loại bỏ lông khỏi da. Điều này được thực hiện bằng cách ngâm da trong nước tiểu, sơn nó bằng hỗn hợp vôi kiềm hoặc đơn giản là cho phép da bị bong ra trong vài tháng sau đó nhúng nó vào dung dịch muối. Sau khi những sợi lông được nới lỏng, những người thợ cạo đã cạo chúng bằng dao. Một khi tóc đã được gỡ bỏ, các thợ thuộc da sẽ “bate” (làm mềm) vật liệu bằng cách đập phân vào da, hoặc ngâm da trong dung dịch não động vật. Bating là một quá trình lên men dựa trên các enzyme được sản xuất bởi vi khuẩn được tìm thấy trong phân. Trong số các loại phân thường được sử dụng là những con chó hoặc chim bồ câu. Trong lịch sử quá trình thuộc da thực tế sử dụng thuộc da thực vật. Trong một số biến thể của quy trình, dầu tuyết tùng, tẩy lông bằng phèn chua, tẩy lông bằng phèn chua cổ truyền hoặc tannin được bôi lên da như một chất thuộc da. Khi da bị kéo căng, nó sẽ mất độ ẩm và hấp thụ các tác nhân. Phèn xanh có tác dụng gì ? Đây là chất quan trọng trong các quá trình thuộc da gần như không thể thay thế. Sau khi áp dụng trong y học ngâm chỉ khâu trong dung dịch crom (III) sau năm 1840, người ta đã phát hiện ra rằng phương pháp này cũng có thể được sử dụng với da và do đó được sử dụng bởi các thợ thuộc da. Quá trình thuộc da bắt đầu với việc lấy da động vật . Khi da động vật bị rám nắng, con vật bị giết và lột da trước khi thân nhiệt rời khỏi các mô. Điều này có thể được thực hiện bởi thợ thuộc da, hoặc bằng cách lấy da tại một lò mổ, trang trại hoặc người buôn bán thuộc da lông thú địa phương. Chuẩn bị giấu bắt đầu bằng cách chữa chúng bằng muối. Bảo dưỡng được sử dụng để ngăn chặn sự khử chất của protein (collagen) khỏi sự phát triển của vi khuẩn trong thời gian trễ từ việc mua giấu đến khi nó được xử lý. Bảo dưỡng loại bỏ nước từ da và da bằng cách sử dụng chênh lệch áp suất thẩm thấu. Độ ẩm của da và da giảm đi rất nhiều, và áp suất thẩm thấu tăng lên, đến mức vi khuẩn không thể phát triển. Trong muối ướt, da được muối rất nhiều, sau đó ép thành gói trong khoảng 30 ngày. Trong xử lý nước muối, da được khuấy trong bồn nước mặn trong khoảng 16 giờ. Bảo dưỡng cũng có thể được thực hiện bằng cách bảo quản da và da ở nhiệt độ rất thấp. Các bước trong sản xuất da giữa bảo dưỡng và thuộc da được gọi chung là các hoạt động của nhà máy. Chúng bao gồm, theo thứ tự, ngâm, bón vôi, loại bỏ các mô ngoại lai (không gây khó chịu, vẩy và thịt), phân định, cắn hoặc đánh đố, ngâm và ngâm. Trong ngâm, da được ngâm trong nước sạch để loại bỏ muối còn sót lại khỏi quá trình lưu hóa và tăng độ ẩm để da hoặc da có thể được xử lý thêm. Để ngăn ngừa tổn thương của da do sự phát triển của vi khuẩn trong thời gian ngâm, có thể sử dụng chất diệt khuẩn, điển hình là dithiocarbamate. Các loại thuốc diệt nấm như 2-thiocyanomethylthiobenzothiazole cũng có thể được thêm vào sau trong quy trình, để bảo vệ da ướt khỏi sự phát triển của nấm mốc. Sau năm 1980, việc sử dụng các chất diệt khuẩn dựa trên pentachlorophenol và thủy ngân và các dẫn xuất của chúng đã bị cấm. Sau khi ngâm, da và da được lấy để bón vôi: xử lý bằng sữa vôi (một tác nhân cơ bản) có thể liên quan đến việc bổ sung “chất làm sắc nét” (chất khử disulfide) như natri sunfua, xyanua, amin, v.v. hoạt động này chủ yếu là để:. Sự suy yếu của tóc phụ thuộc vào sự phá vỡ liên kết disulfide của axit amin cystine, đây là đặc điểm của lớp protein keratin mang lại sức mạnh cho tóc và len (keratin thường chiếm tới 90% trọng lượng khô của tóc) . Các nguyên tử hydro được cung cấp bởi chất làm sắc nét làm suy yếu liên kết phân tử cystine, theo đó các liên kết liên kết cộng hóa trị disulfide cuối cùng bị vỡ, làm suy yếu keratin. Ở một mức độ nào đó, việc mài sắc cũng góp phần không gây ảnh hưởng, vì nó có xu hướng phá vỡ các protein tóc. Điểm đẳng điện của collagen ở ẩn (đây là một loại protein tăng cường mô không liên quan đến keratin) cũng được chuyển đến khoảng 4,7 do sự khập khiễng. Các tác nhân gây khó chịu được sử dụng tại thời điểm này bao gồm natri sunfua, natri hydroxit, natri hydrosulfite, canxi hydrosulfide, dimethyl amin và natri sulfhydrate. Phần lớn tóc sau đó được loại bỏ một cách cơ học, ban đầu bằng máy và sau đó bằng tay sử dụng một con dao cùn, một quá trình được gọi là scudding. Độ pH của collagen được đưa xuống mức thấp hơn để các enzyme có thể tác động lên nó, trong một quá trình được gọi là phân định. Tùy thuộc vào việc sử dụng cuối cùng của da, da có thể được xử lý bằng enzyme để làm mềm chúng, một quá trình gọi là bating. Trong thuộc da hiện đại, các enzyme này là các tác nhân tinh khiết, và quá trình này không còn cần lên men vi khuẩn (như từ ngâm phân nước) để sản xuất chúng. Sau khi hoàn thành việc bating, da và da được xử lý trước bằng muối thông thường (natri clorua) và sau đó bằng axit sulfuric, trong trường hợp cần phải nhuộm da. Điều này được thực hiện để làm giảm độ pH của collagen xuống mức rất thấp để tạo điều kiện cho sự xâm nhập của chất thuộc da khoáng chất vào chất này. Quá trình này được gọi là dưa chua. Muối xâm nhập vào chỗ ẩn nhanh gấp đôi axit và kiểm tra ảnh hưởng xấu của việc giảm pH đột ngột. Ở bài viết này, mình chỉ đưa ra 1 số phương pháp thuộc da được biết nhiều và phổ biến cho đến thời điểm hiện tại. Trước khi có sự đưa các hóa chất crom vào quá trình thuộc da thì một vài bước là cần thiết để sản xuất ra da sống có thể thuộc. Các bước này bao gồm: cạo lông (loại bỏ lông), tẩm vôi (ngâm tẩm các chất kiềm như natri hydroxit), khử vôi (phục hồi pH trung hòa), ngâm mềm da bằng enzym, và ngâm chua (hạ pH của da sống bằng muối và axit sulfuric). Độ pH phải là rất axit khi crom được đưa vào để đảm bảo các phức chất crom là đủ nhỏ để ăn khớp với khoảng cách giữa các sợi và phần sót lại của colagen. Khi mức thấm crom mong muốn vào da đã đạt được, độ pH của da lại được nâng lên một lần nữa để tạo thuận lợi cho quy trình thuộc. Bước này gọi là bazơ hóa. Ở trạng thái thô, da thuộc bằng crom có màu xanh lam, vì thế còn gọi là da xanh ẩm. Thuộc bằng crom nhanh hơn so với thuộc bằng thực vật (chưa tới một ngày cho công đoạn này của thuộc da bằng crom) và sản xuất ra da có thể kéo giãn, thích hợp để sản xuất ví, túi xách hay quần áo. Chromium (III) sulfate ( 2 (SO4) 3) từ lâu đã được coi là tác nhân thuộc da hiệu quả và hiệu quả nhất. Các hợp chất crom (III) thuộc loại được sử dụng trong thuộc da ít độc hơn đáng kể so với crom hóa trị sáu, mặc dù sau này phát sinh trong xử lý chất thải không đầy đủ. Chromium (III) sulfate hòa tan để tạo ra cation hexaaquachromium (III), 3+, ở pH cao hơn trải qua các quá trình gọi là olation để tạo ra các hợp chất polychromium (III) đang hoạt động trong quá trình thuộc da, là chéo liên kết của các tiểu đơn vị collagen. Hóa học của 3+ phức tạp hơn trong bể tắm thuộc da hơn là trong nước do sự hiện diện của nhiều loại phối tử. Một số phối tử bao gồm anion sulfate, các nhóm carboxyl của collagen, các nhóm amin từ chuỗi bên của các axit amin và các chất làm mặt nạ. Các tác nhân mặt nạ là các axit cacboxylic, như axit axetic, được sử dụng để ngăn chặn sự hình thành chuỗi polychromium (III). Các chất làm mặt nạ cho phép thợ thuộc da tăng thêm độ pH để tăng khả năng phản ứng của collagen mà không ức chế sự xâm nhập của phức hợp crom (III). Collagen được đặc trưng bởi một hàm lượng cao glycine, proline và hydroxyproline, thường là trong lặp lại -gly-pro-hypro-gly-. Những dư lượng này làm phát sinh cấu trúc xoắn ốc của collagen. Hàm lượng hydroxyproline cao của Collagen cho phép liên kết ngang đáng kể bằng liên kết hydro trong cấu trúc xoắn ốc. Sự chuyển đổi này xảy ra trong quá trình bón vôi, trước khi giới thiệu tác nhân thuộc da (muối crom). Các nhóm carboxyl bị ion hóa phối hợp như các phối tử đến trung tâm crom (III) của các cụm oxo-hydroxit. Tính thuộc da của Tanning làm tăng khoảng cách giữa các chuỗi protein trong collagen từ 10 đến 17. Sự khác biệt phù hợp với liên kết ngang của các loài polychromium, thuộc loại phát sinh từ quá trình olation và oxol hóa. Trước khi giới thiệu các loài crom cơ bản trong thuộc da, một số bước được yêu cầu để tạo ra một ẩn có thể điều chỉnh được. Độ pH phải rất axit khi crom được đưa vào để đảm bảo rằng các phức crom đủ nhỏ để phù hợp giữa các sợi và dư lượng của collagen. Sau khi đạt được mức độ thâm nhập mong muốn của crom vào chất, độ pH của vật liệu được nâng lên một lần nữa để tạo thuận lợi cho quá trình. Bước này được gọi là cơ sở. Ở trạng thái thô, da rám nắng có màu xanh xám, vì vậy được gọi là màu xanh ướt. Chrome thuộc da nhanh hơn so với thuộc da thực vật (chưa đến một ngày cho phần này của quy trình) và tạo ra một loại da có thể co giãn, rất tuyệt vời để sử dụng trong túi xách và hàng may mặc. Sau khi áp dụng tác nhân crom, bồn tắm được xử lý bằng natri bicarbonate để tăng độ pH lên 4.0 .4.3, tạo ra liên kết chéo giữa crom và collagen. Sự tăng pH thường đi kèm với việc tăng nhiệt độ dần dần lên đến 40 ° C. Khả năng của Chromium để hình thành các liên kết cầu nối ổn định như vậy giải thích lý do tại sao nó được coi là một trong những hợp chất thuộc da hiệu quả nhất. Da thuộc da crom có thể chứa từ 4 đến 5% crôm. Hiệu quả này được đặc trưng bởi sự ổn định thủy nhiệt của da và khả năng chống co rút trong nước nóng. Phương pháp thuộc bằng thực vật sử dụng tanin. Tính chất hóa học của Tanin là một lớp các hóa chất polyphenol làm se có mặt tự nhiên trong vỏ cây và lá của nhiều loài thực vật. Các tanin liên kết với các protein colagen trong da và che phủ lên chúng, làm cho da thuộc trở nên ít thấm nước hơn và khó bị vi khuẩn, nấm mốc tấn công hơn. Quy trình này cũng làm cho da trở nên mềm hơn.
Thuộc da
Thuộc da là quá trình xử lý da của động vật để sản xuất da thuộc, là vật liệu bền hơn và khó bị phân hủy hơn. Theo truyền thống, thuộc da sử dụng tanin, một hợp chất hóa học có tính axit. Việc nhuộm màu có thể xảy ra trong quá trình thuộc da. Xưởng thuộc da là từ để chỉ khu vực nhà xưởng mà da được xử lý. Thuộc da sống thành da thuộc là một quá trình làm thay đổi vĩnh viễn cấu trúc protein của da. Sản xuất "da sống thô" (da không thuộc nhưng là da làm nguyên liệu sản xuất) không yêu cầu sử dụng tanin. Da sống thô được thực hiện bằng cách loại bỏ thịt, mỡ và sau đó là lông bằng cách sử dụng một dung dịch (như nhúng/ngâm vào nước vôi hay nước tro), sau đó cạo sạch bằng một con dao hơi cùn, rồi sấy khô. Hai dung dịch nói trên để loại bỏ lông cũng có tác dụng làm sạch các mạng thớ sợi của da và cho phép hóa chất thuộc da thấm vào, do đó tất cả các bước của sản xuất da sống thô (trừ sấy khô) thường cũng là những bước mở đầu cho một quy trình phức tạp hơn trong thuộc da và sản xuất da thuộc.
Bệnh Tăng huyết áp (hay còn gọi là cao huyết áp) đang là căn bệnh được cả xã hội quan tâm vì nó đang ngày càng bị trẻ hóa. Các chuyên gia y tế đã không ngừng nghiên cứu và cho ra đời nhiều lại thuốc hạ huyết áp hiệu quả. Bài viết dưới đây Heal Central xin giới thiệu tới các bạn 10 thuốc hạ huyết áp tốt nhất cùng với các thực phẩm hỗ trợ điều hòa huyết áp được các bác sĩ khuyên dùng. Cao huyết áp là một bệnh mạn tính mà rất nhiều người đang phải chung sống với rủi ro luôn rình rập quanh họ. Cao huyết áp hay còn gọi là tăng huyết áp là một trạng thái bệnh lý cơ thể có chỉ số đo huyết áp vượt qua mức bình thường cho phép. Chỉ số đo huyết áp là gì? Khái niệm này khá quen thuộc với mọi người, đó là độ lớn của áp lực mà dòng máu gây ra trên thành mạch, lực này luôn dao động ở một mức dưới 120/80. Nghĩa là huyết áp tâm thu dưới 120 mmHg và huyết áp tâm trương dưới 80 mmHg. Vậy cao huyết áp là hiện tượng có một trong hai chỉ số này lớn hơn mức bình thường kia. Chỉ số này cao thì có hại gì đến sức khỏe? Khi dòng máu trong lòng mạch tạo áp lực cao lên thành mạch cũng như bạn thổi quả bong bóng vậy, nếu quá sức chịu đựng của thành mạch sẽ gây vỡ. Vỡ những mạch lớn và quan trọng gây ra rất nhiều hậu quả tồi tệ với sức khỏe, những biến chứng như vỡ xơ động mạch, suy tim, bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ, đột quỵ, tai biến… tất cả đều chiếm một tỷ lệ lớn nguyên nhân do cao huyết áp gây ra. Làm thế nào để kiểm tra được chỉ số này? Điều này dường như quá đơn giản với thời đại ngày nay vì sự ra đời của hàng loạt hãng sản xuất máy đo huyết áp. Hầu hết các bệnh nhân có tiền sử cao huyết áp đều được khuyến cáo nên có thiết bị này tại nhà để tiện theo dõi sự thay đổi huyết áp thường quy. Cách sử dụng những chiếc máy này cũng đơn giản chỉ cần đeo vào tay, bọc chắc và nằm để tay đúng tư thế rồi ấn nút đo, đợi máy đo trong khoảng 1 phút sẽ có kết quả ngay. Bệnh nhân cao huyết áp cũng như người nhà cần biết một số biểu hiện triệu chứng bệnh cũng như cách phòng và xử lý tại nhà hiệu quả với những cơn tăng huyết áp đột ngột. Cao huyết áp hiện nay thường hay gặp ở người già, người bệnh gan thận, đái tháo đường, nghiện rượu…nên những đối tượng này cần chú ý hơn khi có một số triệu chứng điển hình của cao huyết áp. Người có huyết áp cao thường cảm thấy đỏ mặt, nóng mặt, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, tức ngực, khó thở, … đó là những biểu hiện bệnh mới chớm và thường hay bị mọi người bỏ qua, lâu dần không được chữa trị bệnh có thể nặng lên bằng biểu hiện ngất, suy tim, nhồi máu cơ tim… nên khi gặp các triệu chứng ban đầu cần dự đoán đến khả năng cao huyết áp và nên kiểm tra ngay lập tức để được chữa trị. Đặc biệt nếu phát hiện trong giai đoạn đầu có khả năng sẽ chữa dứt điểm được bệnh. Đôi khi, huyết áp cao diễn biến âm thầm và khi xảy ra những cơn tăng huyết áp đột ngột khiến bệnh nhân ngất tại chỗ thì bạn cũng nên biết cách xử lý lúc này để không gây hại đến người bệnh. Đừng vội xốc người ngất lên đưa đi cấp cứu ngay hoặc bế, dìu vào giường nằm vì điều đó càng làm trầm trọng hơn diễn biến của bệnh. Hãy xử trí khôn khéo bằng cách để bệnh nhân tại chỗ, nhẹ nhàng kê cao đầu người bệnh lên, đồng thời gọi ngay cấp cứu. Điều đầu tiên phải ghi nhớ rằng 95% tăng huyết áp là vô căn (không rõ nguyên nhân). Vì vậy, điều trị tăng huyết áp là điều trị lâu dài và có thể suốt đời. Ngoài sử dụng thuốc đều đặn, bệnh nhân cũng cần tuân theo chế độ ăn uống, sinh hoạt mà bác sĩ khuyến cáo để quản lí bệnh một cách tốt nhất. Một số thuốc thuộc nhóm khác như: thuốc chẹn thụ thể α­1-adrenergic, thuốc ức chế giao cảm ngoại biên, thuốc liệt hạch… rất ít dùng điều trị tăng huyết áp trên lâm sàng nên không đề cập ở đây. Bình thường nồng độ Ca2+ ngoại bào lớn hơn nội bào nhiều lần. Nhóm thuốc này có tác dụng chung đó là ngăn không cho ion Ca2+ từ ngoại bào vào trong tế bào. Ion không vào được tế bào sẽ gây nên các hiệu ứng: giãn cơ trơn động mạch, lực co bóp cơ tim giảm và dẫn truyền tín hiệu trong tế bào cơ tim giảm, từ đó huyết áp hạ. Ngoài ra, việc tác động lên kênh calci vỏ thượng thận ức chế sự tiết aldosterone, giảm giữ muối và nước, góp phần hạ huyết áp. Việc thuốc ưu tiên trên cơ nào hơn (cơ thành động mạch hay cơ tim) tùy thuộc vào nhóm thuốc. Do đó, tùy vào bệnh tình của bệnh nhân mà chọn thuốc phù hợp. cũng có nhưng với số lượng ít hơn nhiều). Kích thích thụ thể này làm tăng sức co bóp cơ tim và tăng huyết áp. Các thuốc có tác dụng chẹn thụ thể này sẽ có tác dùng giảm sức co bóp cơ tim và giảm huyết áp. Các tác dụng phụ mà các thuốc này gây ra thường do tính chọn lọc của nó trên các thụ thể. Thuốc nào tính chọn lọc trên β1 càng kém thì càng nhiều tác dụng không mong muốn. Tuy nhiên đáng buồn là không có thuốc nào mà hoàn toàn chỉ tác dụng trên β1 cả. Hệ RAA có vai trò quan trọng trong quá trình điều hòa huyết áp. Khi có một lí do nào đó làm huyết áp tụt, mức lọc cầu thận giảm, các tế bào cận cầu thận sẽ tiết ra renin. Renin có tác dụng chuyển angiotensinogen được sản xuất bởi gan thành angiotensin I. Sau đó dưới tác dụng của men ACE ở phổi, angiotensin I được chuyển thành angiotensin II. Angiotensin II liên kết với thụ thể AT1 có tác dụng co mạch, hoạt hóa giao cảm, kích thích tuyến thượng thận tăng tiết aldosterone, kích thích tuyến yên tiết ADH (hormon chống bài niệu), tăng giữ muối và nước, từ đó gây tăng huyết áp. Thuốc ức chế renin trực tiếp: Aliskiren là thuốc duy nhất của nhóm này cho đến nay được sử dụng trên lâm sàng. Nó ức chế trực tiếp hormon đầu tiên trong quá trình trên nên ức chế sự sản sinh angiotensin II, giúp hạ huyết áp. Thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACEIs): Các thuốc nhóm này ức chế hình thành angiotensin II nhờ ức chế men ACE tại phổi, từ đó giúp hạ huyết áp. Tác dụng phụ nổi bật của thuốc này là gây ho. Thuốc chẹn thụ thể angiotensin (ARBs): Các thuốc này không ngăn chặn sự tạo thành angiotenin II như hai thuốc trên, thay vào đó nó ức chế thụ thể AT1 của angiotensin II làm hormon này không phát huy được tác dụng, giúp hạ huyết áp. Các thuốc nhóm này là chất chủ vận α­2-adrenergic ở trung ương, không giống như thuốc chủ vận thụ thể α­1 gây tăng huyết áp, chủ vận α­2 có tác dụng giảm hoạt tính giao cảm ngoại vi nên hạ huyết áp. Methyldopa là thuốc chỉ định đầu tay cho tăng huyết áp ở phụ nữ mang thai. Thuốc lợi tiểu có tác dụng tăng thải nước và muối, giảm thể tích tuần hoàn nen giảm huyết áp. Thường không dùng đơn độc mà dùng kết hợp với các thuốc hạ huyết áp khác, đặc biệt là nhóm ACEIs hoặc ARBs. Tác dụng phụ thường thấy của nhóm này là gây hạ kali huyết (trừ một số thuốc lợi tiểu giữ kali). Các thuốc này có cơ chế khác các cơ chế trên, thường gây giãn mạch nhanh và mạnh nên thường dùng trong tăng huyết áp cấp cứu hoặc kháng trị. Nhược điểm của các thuốc này là gây hoạt hóa hệ RAA (cơ chế bù trừ của cơ thể) làm huyết áp tăng nhanh trở lại. Các thuốc thường gặp: hydralazine, fenoldopam, các nitrat hữu cơ (nitroglycerin, isosorbid dinitrat) thường dùng trong điều trị đau thắt ngực hơn nhưng cũng có thể sử dụng trong tăng huyết áp cấp cứu. Trong thực tế, với bệnh nhân chỉ có tăng huyết áp nhẹ, thường bác sĩ sẽ chỉ yêu cầu thay đổi lối sống, có thể sử dụng một thuốc hạ huyết áp. Với các trường hợp tăng huyết áp trung bình hoặc nặng, thường sẽ phải phối hợp 2,3 hoặc thậm chí là 4 thuốc hạ huyết áp để đạt hiệu quả điều trị. Chú thích: Đường màu xanh: kết hợp ưu tiên. Đường màu tím: không khuyến khích kết hợp. Đường nét đứt: kết hợp chấp nhận được. Từ đó, chúng ta thấy được giải pháp để hạ huyết áp gồm giảm cung lượng tim hoặc giảm sức cản ngoại vi hoặc giảm cả hai. Huyết áp tăng là do áp lực máu lên thành mạch tăng nên giãn mạch cũng là một cách có hiệu quả rất nhanh để hạ huyết áp. Hydralazine là thuốc giãn động mạch ngoại vi, giảm trương lực cơ nên huyết áp tâm trương được giảm nhanh chóng. Từ tác dụng trên mà Hydralazine thường có chỉ định trong tăng huyết áp không rõ nguyên nhân và khi việc sử dụng các thuốc chẹn thụ thể beta, thuốc lợi tiểu mà vẫn không hiệu quả. Trong một số trường hợp suy tim mà dùng Digitalis, kháng aldosteron, thuốc lợi tiểu, chẹn beta không cải thiện cũng sẽ sử dụng đến thuốc giãn mạch ngoại vi này để giảm bớt gánh nặng cho tim. Tuy nhiên, Hydralazin gây ra rất nhiều hậu quả có hại đến cơ thể nên thường không được lựa chọn ưu tiên hơn các thuốc nhóm khác, dường như đây là giải pháp cuối cùng trong bệnh lý tim mạch. Cách dùng, liều dùng Hydralazine dạng uống cũng khá đặc biệt, thuốc này dùng tăng liều, trong khoảng 2-4 ngày đầu, dùng với liều 10mg/ lần, mỗi ngày dùng 4 lần.
Thuốc hạ huyết áp
Thuốc hạ huyết áp là một nhóm thuốc được sử dụng để điều trị tăng huyết áp (huyết áp cao). Điều trị bằng cách hạ huyết áp tìm cách ngăn ngừa các biến chứng của huyết áp cao, chẳng hạn như đột quỵ và nhồi máu cơ tim. Bằng chứng cho thấy giảm 5mmHg huyết áp có thể làm giảm 34% nguy cơ đột quỵ, bệnh tim thiếu máu cục bộ xuống 21% và giảm khả năng mắc chứng mất trí nhớ, suy tim và tử vong do các bệnh tim mạch. Có nhiều nhóm thuốc có tác dụng làm giảm huyết áp bằng các biện pháp khác nhau. Trong số các thuốc quan trọng nhất và được sử dụng rộng rãi nhất là thuốc lợi tiểu thiazide, thuốc chẹn kênh calci, thuốc ức chế men chuyển, thuốc đối kháng thụ thể angiotensin II (ARB) và thuốc chẹn beta. Những loại thuốc sử dụng ban đầu để điều trị tăng huyết áp đã là chủ đề của một số nghiên cứu lớn và kết quả hướng dẫn quốc gia. Mục tiêu cơ bản của điều trị nên là phòng ngừa các điểm cuối quan trọng của tăng huyết áp, chẳng hạn như đau tim, đột quỵ và suy tim.
Phương pháp điều trị rối loạn nhân cách cảm xúc không ổn định1. Trị liệu tâm lý. Rối loạn nhân cách ranh giới hay rối loạn nhân cách cảm xúc không ổn định là một dạng rối loạn cảm xúc, đặc trưng bởi những hành vi, suy nghĩ, tâm trạng, cảm xúc căng thẳng, bất ổn. Hội chứng này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh nhưng có thể điều trị và tìm lại cuộc sống cân bằng hạnh phúc nếu sớm phát hiện và tuân theo chỉ định, phác đồ của bác sĩ, chuyên gia tâm lý. Rối loạn nhân cách ranh giới, tiếng anh là Borderline Personality Disorder (BPD) là một dạng rối loạn cảm xúc. Hội chứng rối loạn này được đặc trưng bởi những cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng, hành vi căng thẳng, bất ổn. Người mắc hội chứng BPD thường xuyên có những thay đổi nhanh chóng trong cảm xúc khiến họ dễ bị nhầm lẫn và không rõ mình cần làm gì. Điều này khiến người bệnh cảm thấy cảm xúc của mình bị méo mó, làm bản thân họ cảm thấy mình không có giá trị. Do đó, họ cực kỳ nhạy cảm, có xu ứng phản ứng dữ dội, khó giữ bình tĩnh và suy nghĩ thấu đáo. Người mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới thường có những mối quan hệ bất ổn, có hành vi tự hại hay những hành động nguy hiểm. Đôi khi họ sẽ thấy bị tách rời thực tại, thấy trống rỗng và sợ bị bỏ rơi. Các triệu chứng của BPD có thể xuất hiện bởi những điều mà người khác xem là bình thường. Theo thống kê, tỷ lệ người mắc rối loạn nhân cách ranh giới chiếm khoảng 1,7 – 3% dân số. Tuy nhiên, chiếm khoảng 15 – 20% tỷ lệ mắc BPD ở những người đang điều trị rối loạn tâm thần. Trong các cơ sở lâm sàng thì tỷ lệ mắc rối loạn chủ yếu là nữ, chiếm khoảng 75%, tuy nhiên, trong dân số chung thì tỷ lệ nam : nữ là 1:1. Theo các chuyên gia tâm lý, bệnh nhân mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới có thể đồng thời mắc bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu, rối loạn lưỡng cực. Theo thống kê, tỷ lệ người tự tử vì BPD tương đương với tỷ lệ bệnh nhân bị tâm thần phân liệt hoặc rối loạn cảm xúc. Rối loạn nhân cách ranh giới hoàn toàn có thể được kiểm soát và đẩy lùi. Sau điều trị, bệnh nhân sẽ tìm lại được cuộc sống cân bằng, thấy khoẻ khoắn và hạnh phúc hơn. Hiện nay, nguyên nhân gây BPD vẫn chưa được kết luận chính thức, do rất phức tạp và có sự kết hợp của nhiều yếu tố. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) và BPD có thể liên quan đến nhau. Một số yếu tố gây rối loạn nhân cách tâm lý có thể kể đến như:. Theo một nghiên cứu, mức độ di truyền của BPD là khoảng 40%. Rối loạn nhân cách ranh giới có mối quan hệ mật thiết với yếu tố gia đình. Nếu gia đình có người thân từng mắc BPD thì tỷ lệ phát triển những triệu chứng liên quan ở các thế hệ tiếp theo cũng cao hơn. Các chuyên gia nghiên cứu đã kết luận rằng: “yếu tố di truyền đóng vai trò quan trọng sự khác biệt về triệu chứng của những người cùng có BPD”. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, sự thuyên giảm hoạt động của cấu trúc não bộ cũng có liên quan đến rối loạn nhân cách ranh giới. Các vị trí não phụ trách ảnh hưởng với stress, cảm xúc, ảnh hưởng tới hạch hạnh nhân, hồi hải mã, vùng vỏ não trước gần ổ mắt phụ trách cho ra quyết định. Khi não bộ luôn trong trạng thái căng thẳng, đề cao cảnh giác, họ sẽ luôn đề phòng và hoài nghi mọi thứ. Dẫn đến phản ứng mãnh liệt, dữ dội trước những vấn đề mà người khác cho là bình thường. Bên cạnh đó, ở người rối loạn nhân cách cảm xúc không ổn định cũng có sự bất thường trong quá trình sản xuất chất dẫn truyền thần kinh serotonin. Đồng thời, sự khác biệt trong vòng hoạt động của estrogen ở nữ giới cũng có thể có liên quan tới triệu chứng BPD ở đối tượng là bệnh nhân nữ. Có nhiều giả thiết cho rằng giữa BPD và bạo hành trẻ em, nhất là xâm hại tình dục có một mối quan hệ rõ ràng. Những bệnh nhân mắc BPD cũng công nhận rằng mình thường bị bỏ mặc, bạo hành khi còn nhỏ. Ngoài ra, những người mắc BPD thường chỉ ra rằng, thường xuyên bị những người bảo hộ, người thân bỏ suy nghĩ và cảm nhận của họ. Có nhiều trường hợp người mắc rối loạn nhân cách ranh giới bị lạm dụng thể chất, bị bỏ rơi, sống xa cha mẹ, thiếu tình yêu thương, sự quan tâm săn sóc của những người thân yêu. Rối loạn nhân cách ranh giới có các dấu hiệu và triệu chứng tương tự với các dạng rối loạn tâm thần khác. Các dấu hiệu điển hình để nhận biết BPD có thể kể đến như:. Sự bị bỏ rơi: Khi người mắc BPD cho rằng họ đang bị bỏ mặc hoặc bỏ rơi, họ sẽ cảm thấy sợ hãi hoặc tức giận cực độ. Chẳng hạn, họ có thể giận dữ hoặc hoảng sợ khi ai đó huỷ cam kết, đến muốn, một phần do họ không muốn bị cô đơn, một phần họ cho rằng đối phương là người xấu. Có xu hướng thay đổi quan điểm đột ngột: Người mắc BPD có xu hướng thay đổi quan điểm cách nhìn nhận của họ về người khác một cách tức thời và đột ngột. Họ có thể lý tưởng hoá người yêu trong giai đoạn đầu hoặc một người chăm sóc tiềm năng, đòi hỏi đối phương dành nhiều thời gian và chia sẻ mọi thứ với họ. Đột nhiên sau đó họ cảm thấy vỡ mộng, thấy đối phương không đủ quan tâm, nên trở nên coi thường hoặc tức giận với đối phương. Khó kiểm soát cảm xúc: Người mắc chứng BPD thường khó kiểm soát sự tức giận của họ, họ thường biểu lộ sự tức giận một cách cay nghiệt, mỉa mai, đả kích với những người họ yêu thương hoặc người chăm sóc họ. Sau đó thì cảm thấy có lỗi, xấu hổ và củng cố cảm giác xấu xa của họ. Thay đổi hình ảnh đột ngột: Người mắc rối loạn nhân cách ranh giới cũng thường thay đổi hình ảnh một cách đột ngột, thể hiện qua việc họ thay đổi sự nghiệp, ý kiến, giá trị, mục tiêu hoặc bạn bè. Thay đổi về tâm trạng: Những thay đổi như lo lắng, khó chịu, kích thích thường kéo dài vài giờ và hiếm khi kéo dài vài ngày. Có xu hướng huỷ hoại bản thân: Họ thường huỷ hoại bản thân khi sắp đạt được mục đích chẳng hạn như làm hỏng một mối quan hệ đầy hứa hẹn, bỏ học trước khi tốt nghiệp. Ngoài ra, họ cũng có thể có cử chỉ hoặc đe doạ tự sát, lạm dụng chất kích thích, lái xe thiếu thận trọng, đáng bạc, tiêu xài quá mức…. Các mối quan hệ không ổn định: Người bệnh thường xây dựng các mối quan hệ chớp nhoáng, các mối quan hệ của họ rất dễ dàng từ trạng thái hoàn hảo, lý tưởng sang tồi tệ, khủng khiếp. Do đó, người thân của bệnh nhân thường cảm thấy ngơ ngác, hụt hẫng, sốc khi mọi chuyện xảy ra. Thay đổi ý thức về bản thân liên tục: Người bệnh có thể cảm thấy bản thân vô dụng, tệ hại, thất bại, tội lỗi. Tuy nhiên, ngay sau đó họ lại thấy hào hứng, tự tin, vô cùng phấn khích và yêu thương, trân trọng chính mình. Người rối loạn nhân cách ranh giới thường không có khái niệm rõ ràng về bản thân, họ không thể xác định được điều mà mình thực sự mong muốn là gì. Cảm thấy trống rỗng kéo dài: Hay cảm thấy cô độc, lẻ loi, nhỏ bé, trống rỗng và không thể lấp đầy là những vấn đề thường gặp ở người mắc BPD. Đây là lý do họ thường tìm đến rượu bia, thuốc lá, đồ ăn, thức uống thậm chí là tình dục, chất kích thích…. Theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders), tiêu chuẩn lâm sàng để chẩn đoán rối loạn nhân cách, bệnh nhân phải có tình trạng các mối quan hệ không ổn định, cảm xúc không ổn định và xung động, thay đổi hình ảnh về bản thân đột ngột. Các xung động được biểu hiện từ 5 trong số những điều sau:. Có các triệu chứng phân ly nghiêm trọng xuất phát từ việc stress hoặc có ý tưởng paranoid tạm thời (hoang tưởng ảo giác). Rối loạn nhân cách ranh giới có thể gây ra nhiều ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của người bệnh. Hội chứng này thường đi kèm với các rối loạn sức khoẻ như rối loạn ăn uống, rối loạn lo âu, rối loạn lưỡng cực, trầm cảm, lạm dụng chất kích thích… Người bệnh dễ làm ra các hành động tổn hại bản thân, cố gắng tự tử hoặc hủy hoại các mối quan hệ đầy hứa hẹn. Họ cũng có thể thực hiện những hành động bốc đồng, hậu quả là gây tai nạn giao thông, mang thai ngoài ý muốn, bị lây bệnh tình dục, bị lạm dụng, ngược đãi…. BPD cũng thường bị chẩn đoán nhầm với rối loạn lưỡng cực. Do có sự biến động lớn về hành vi, tâm trạng và giấc ngủ. thế nhưng, rối loạn nhân cách ranh giới thì tâm trạng và hành vi của người bệnh thay đổi nhanh chóng, có liên quan đến căng thẳng và các mối quan hệ của họ. Trong khi đó, ở rối loạn lưỡng cực, tâm trạng của người bệnh thường ít thay đổi đột ngột và ít phản ứng hơn. BPD cũng có cùng biểu hiện với rối loạn nhân cách ái kỷ và rối loạn nhân cách kịch tính. Sự tương đồng ở đây là bệnh nhân có xu hướng tìm kiếm sự lôi cuốn và sự chú ý. Tuy nhiên, những người mắc rối loạn nhân cách ranh giới thường sau đó sẽ cảm thấy trống rỗng, thấy mình xấu xa và tồi tệ. Rối loạn nhân cách ranh giới có thể phân biệt với rối loạn cảm xúc hoặc rối loạn lo âu dựa vào những hình ảnh tiêu cực về bản thân, nhạy cảm với sự từ chối và không gắn bó chắc chắn. Những đặc điểm này chỉ có ở người mắc BPD và không xuất hiện ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc hoặc rối loạn lo âu. Rối loạn nhân cách cảm xúc không ổn định hay rối loạn nhân cách ranh giới thường được điều trị bằng trị liệu tâm lý và điều trị nội khoa. Mục đích là để người bệnh thay đổi hành vi, khắc phục triệu chứng và cải thiện các mối quan hệ. Trong quá trình điều trị, không áp dụng hoá trị liệu khi các triệu chứng xuất hiện đơn lẻ. Các phương pháp điều trị cụ thể như sau:. Điều trị nội khoa bằng thuốc tâm thần (thường là thuốc chống trầm cảm và chống rối loạn tâm thần) đang được áp dụng phổ biến hiện nay. Các thuốc này là:. Thuốc chống rối loạn tâm thần: có công dụng tốt với nhiều triệu chứng rối loạn nhân cách ranh giới, có thể cải thiện rối loạn nhận thức, điều hoà khí sắc, hạn chế hành động bốc đồng. Các loại thuốc thường dùng có thể kể đến như Olanzapine, Clozapine…. Thuốc chống trầm cảm: Nhóm thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc chất dẫn truyền thần kinh serotonin (SSRI) có khả năng hạn chế triệu chứng bốc đồng và gây hấn. Tuy nhiên, vẫn chưa có đủ bằng chứng để ủng hộ sử dụng nhóm thuốc này vào việc điều trị. Nhóm thuốc ổn định khí sắc: Theo thống kê, khoảng 505 bệnh nhân BPD mắc các triệu chứng rối loạn lưỡng cực. Trong trường hợp này, bác sĩ sẽ chỉ định bệnh nhân sử dụng thuốc ổn định khí sắc để giải toả căng thẳng, giảm bốc đồng, giận dữ. Trị liệu bằng thuốc cần được thực hiện theo đúng chỉ định của bác sĩ vì dễ gây ra nhiều tác dụng phụ không mong muốn. Tuyệt đối không được tự ý mua thuốc, ngưng hoặc tăng liều lượng của thuốc. Trị liệu tâm lý là phương pháp được khuyến khích sử dụng cho bệnh nhân mắc rối loạn nhân cách ranh giới. Những biện pháp phổ biến thường là:. Liệu pháp nhận thức – hành vi: Tập trung vào điều chỉnh cảm xúc và kỹ năng xã hội, trị liệu hành vi biện chứng, dự đoán cảm xúc và giải quyết vấn đề. Can thiệp vào rối loạn trong nhân cách bệnh nhân: Bằng phương pháp trị liệu dựa trên tâm thần hoá, trị liệu tập trung vào sự chuyển di, liệu pháp tập trung vào giản đồ. Rối loạn nhân cách ranh giới là một hội chứng rối loạn cảm xúc gây ra nhiều vấn đề cho người bệnh. Tình trạng này có thể điều trị được và tìm lại được sự cân bằng trong cuộc sống. Để điều trị, người bệnh cần tìm kiếm sự giúp đỡ của các chuyên gia tâm lý và tuân thủ nghiêm ngặt theo chỉ định và phác đồ điều trị của bác sĩ. Rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế được gọi tắt là hội chứng OCPD. Đây là một trạng thái nhân cách rất không bình thường, đặc trưng bởi sự. Rối loạn nhân cách là một dạng rối loạn tâm thần xảy ra phổ biến, đặc trưng bởi lối suy nghĩ và hành vi cứng nhắc, không lành mạnh. Rối loạn nhân cách kịch tính (HPD) là một dạng rối loạn nhân cách đặc trưng bởi sự phổ biến của hình thái cảm xúc quá mức, luôn tìm kiếm. Rối loạn nhân cách chống đối xã hội (ASPD) là tình trạng đặc trưng bởi sự thiếu đồng cảm và không quan tâm tới người khác.
Rối loạn nhân cách ranh giới
Rối loạn nhân cách ranh giới (tiếng Anh: borderline personality disorder, viết tắt là BPD), còn được gọi là rối loạn nhân cách tâm trạng không ổn định, là một bệnh tâm lý có đặc trưng là việc thường xuyên có những mối quan hệ bất ổn, nhìn nhận bản thân một cách bóp méo, và có những phản ứng cảm xúc dữ dội. Người mắc bệnh thường có hành vi tự hại cũng như những hành vi nguy hiểm khác. Họ cũng có thể cảm thấy trống rỗng, sợ bị bỏ rơi và tách rời với thực tại. Các triệu chứng của BPD có thể bị kích hoạt bởi những điều mà người khác xem là bình thường. BPD thường khởi phát ở đầu độ tuổi trưởng thành và xảy ra trong nhiều bối cảnh khác nhau. Lạm dụng chất gây nghiện, trầm cảm và rối loạn ăn uống thường có liên hệ với BPD. Khoảng 10% người bệnh tử vong do tự sát. BPD thường bị mang tiếng xấu cả trên các phương tiện truyền thông và trong lĩnh vực tâm lý học. Nguyên nhân dẫn đến BPD vẫn chưa được hiểu rõ nhưng có khả năng bị gây ra bởi các yếu tố di truyền, thần kinh, môi trường và xã hội.
Trước khi kết thúc thời kỳ đồ đá mới, người Trung Quốc đã thuần hóa thành công sáu loại gia súc mà họ gọi là “lục súc” (mã, ngưu, dương, trư, cẩu, kê). Có lẽ con lợn đầu tiên được thuần hóa ở Trung Quốc vào khoảng 2.900 năm trước Công nguyên.Ở Việt Nam, truyền thuyết Pú Lương Quân của người dân tộc Tày (Cao Bằng) có kể về đôi vợ chồng nọ sau khi trồng được lúa đã vào rừng để bắt lợn rừng về nuôi. Từ sau khi giải thể nhà nước Văn Lang và Âu Lạc, có thể những cư dân Tày cổ này có nguồn gốc từ người Việt cổ. Trong 12 con giáp, lợn nằm trong số ba con vật cuối cùng (dậu, tuất và hợi) có mối liên hệ gần với đời sống thường nhật của con người hơn so với các con vật khác như cọp, ngựa, khỉ. Không giống như chó vốn thông minh nhanh nhẹn,lợn không hiểu chủ của nó muốn gì, do đó nó thường không biết cách lấy lòng chủ.Trong suy nghĩ của mọi người, lợn là loài vật nuôi ngoan ngoãn nhất.Dành phần lớn thời gian cả ngày để ăn và ngủ, đây có thể được xem là loài gia súc ít quấy phá nhất. Con lợn trong văn hóa Việt Nam mang nhiều ý nghĩa tiêu cực. Nói đến lợn là người ta nói đến tính chây lười, phàm ăn, bẩn thỉu, ô uế và ngu ngốc. Ngoài ra nó còn mang biểu tượng nhục dục (phim “con heo”).Trong lịch sử Việt Nam, biệt hiệu “Vua lợn” được gán cho vua Lê Tương Dực (1495-1516) nhằm ám chỉ một kẻ hoang dâm vô đạo: “Tháng 5 năm 1514, nghe lời của Hiệu uý Hữu Vĩnh, Tương Dực giết chết 15 vương công, cho gọi các cung nhân của triều trước vào cung để gian dâm” hay “Vua thích làm nhiều công trình thổ mộc, đắp thành rộng lớn mấy ngàn trượng, (…) lại sai làm thuyền chiến, sai thợ vẽ kiểu, sai bọn nữ sử trần truồng chèo thuyền chơi trên Hồ Tây, vua cùng chơi, lấy làm vui thích lắm". Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, lợn tượng trưng cho sự dại dột, lười biếng, tham lam,xấu xí và tên của nó luôn được sử dụng với hàm ý xúc phạm - “Đồ con lợn!”Từ“lợn” còn được sử dụng với ý nghĩa khinh bỉ và miệt thi, dùng để ám chỉ người Trung Quốc bị bán ra nước ngoài làm nô lệ và tầng lớp dân lao động vào cuối triều đại nhà Minh (1368 - 1644) và đầu nhà Thanh (1644 - 1911), những người mà cả đời của họ không thể nào về lại cố hương.Triết gia Thomas Carlyle (1795-1881) trong cuốn “Latter-Day Pamphlets” của ông có đề cập đến “triết học lợn” (Pig-Philosophy)trong đó ông xem con người chỉ đơn thuần là một sinh vật phàm ăn thay vì một sinh linh được Thiên Chúa ban cho linh hồn, lấy thỏa mãn dục vọng làm ý niệm hạnh phúc cao quý, là “Thiên đàng” duy nhất của mình. Thời Trung Quốc cổ đại, lợn không được sử dụng như một biểu tượng mang ý nghĩa xúc phạm; thay vào đó, nó được xem là thước đo của lòng dũng cảm. Người dân không chỉ nuôi lợn trong nhà mà các hoạt động xã hội của họ cũng ít nhiều có liên quan đến lợn. Ví dụ, Hán tự cổ (các chữ khắc trên xương hoặc mai rùa) “事” (có nghĩa là SỰ) mô tả một người đàn ông dùng một dụng cụ có cán dài để bắt lợn.Hơn nữa, trong thời cổ đại, mức độ “nam tính” của một người đàn ông còn được đo bằng hoạt động săn bắt lợn (thực chất là lợn rừng). Ví dụ, Hán tự cổ “敢” (có nghĩa là CẢM) mô tả một người đàn ông bắt lợn bằng tay không. Theo đó, từ này có nghĩa là dũng cảm, và những ai không thể bắt được một con lợn sẽ bị coi là kẻ yếu hèn trong thời cổ đại.Sau khi bị cô lập khỏi đời sống hoang dã và được thuần hóa trong một thời gian dài, lợn có vẻ trở nên ngoan ngoãn do mất đi bản tính ban đầu. Trái lại, lợn rừng rất hung tợn và thường hay tấn công đối thủ rất dữ dội. Do đó, lợn tượng trưng cho những chiến binh không sợ hãi trong văn hóa Trung Quốc cổ đại. Do đặc điểm dũng cảm của lợn, đã có thời người Nhật đặt tên cho con cái của họ có chứa từ “lợn”. Họ làm vậy không phải vì lợn dễ nuôi mà vì họ đánh giá cao tinh thần dũng cảm của loài vật này.Người châu Âu có một nhận thức tương tự với người Nhật. Họ cho rằng lợn rừng là loài động vật hung dữ và cứng rắn nhất trong số các loài dã thú, mặc dù nó không có sừng. Con lợn lòi có những cái nanh nhọn và cứng để dễ dàng đâm kẻ thù của nó, cùng với lớp da được “trang bị” giống như áo giáp (do liên tục cọ xát vào thân cây). Hình mẫu con lợn được chạm khắc rộng rãi trên các huy hiệu ở châu Âu,tượng trưng cho sự dũng cảm: quốc vương Richard III của Anh mang huy hiệu có hoa văn của hai con lợn bao quanh và bảo vệ tấm khiên; huy hiệu của gia tộc CampbellClan ở Scotland có thiết kế đầu lợn, hàm ý làm nổi bật phẩm chất của loài vật này.Trong văn hóa dân gian Việt Nam, cụ thể là trong tranh dân gian Đông Hồ, hình ảnh con lợn thể hiện sự sung túc, phồn thực và hạnh phúc. Con lợn trong quan niệm văn hóa cổ truyền mang thông điệp chúc tụng một năm mới gặp nhiều may mắn, con cháu đông vui, phúc lộc.Đối với các cư dân sống tại các đảo ngoài lục địa Đông Nam Á, lợn vừa là nguồn cung cấp thực phẩm vừa là biểu tượng của sự giàu có, là quà cưới cho cô dâu, và có khi còn là đơn vị trao đổi hàng hóa quan trọng.Thần Vishnu - chủthần được các tín đồ Hindu giáo sùng bái nhất, được coi là người giữ gìn vũ trụ- là một vị thần có đầu lợn và 4 tay, chuyên hành hiệp cứu độ chúng sinh. Ở các bán đảo Thái Bình Dương, loài lợn không lông Kapia có địa vị như con người có danh xưng, được mặc áo nghiêm chỉnh, và mặt còn được trang điểm.Thổ dân da đỏ ở Mĩ cũng xem lợn là biểu tượng của sự thịnh vượng và may mắn. Lợn thường được dùng làm con vật để tế thần, vì người ta tin rằng lợn có linh hồn.Ở châu Âu thời Hy Lạp cổ đại, lợn là con vật được nữ thần Demeter (thần sinh sản) ưa thích, và do đó lợn còn là con vật biểu tượng cho sự thịnh vượng, trù phú.Trong suốt thời gian chiến tranh giành độc lập với đế quốc Anh, một người bán thịt lợn tên Uncle Sam (Chú Sam) đã tiếp tế vài trăm thùng thịt lợn trên tàu cho quân đoàn Mỹ, mỗi thùng có dán tem “U.S”. Không lâu sau, U.S trở thành chữ cái tượng trưng cho Uncle Sam, anh nuôi thịt lợn cho cả quân đội Hoa Kỳ. Từ đó “Uncle Sam” đã trở thành tên tục bình dân để gọi bất kì người dân Hợp chúng quốc (United States) nào.Lợn cũng đóng vai trò quan trọng trong y học: hơn 40 loại thuốc (trong đó có Insulin) được bào chế từ lợn; van tim lợn được dùng trong phẫu thuật để thay van tim người; mỡ lợn được dùng làm thuốc diệt cỏ, phấn bảng, mỹ phẩm,phấn màu và sáp.
Hình tượng con lợn trong văn hóa
Con lợn hay con heo là loài vật đã gắn bó lâu đời với con người và xung quanh đó là nhiều câu chuyện trong văn hóa đại chúng về con lợn. Trong văn hóa, con lợn cũng được cọi với nhiều tên như con heo, chú ỉn, trư, hợi. Trong văn hóa phương Đông, lợn đứng cuối cùng trong 12 con giáp (Hợi) và cũng đứng cuối cùng trong lục súc. Lợn biểu trưng cho sự phồn thực, tính dục và sự nhàn nhã sung túc. Người ta còn dùng hình ảnh con heo đất như là một biểu tượng về tài chính. Ngoài ra, thủ lợn (đầu heo) là một món sính vật quan trọng trong một mâm cúng ở những buổi lễ long trọng và lễ nghi của người dân Việt Nam. Bên cạnh đó lợn cũng còn là biểu tượng cho thói phàm ăn, sự bẩn thỉu, dơ dáy, ô uế. Lợn nói chung là một chi động vật móng guốc có nguồn gốc ở đại lục Á-Âu được gộp nhóm tổng thể với danh pháp khoa học là Sus, thuộc họ Lợn (Suidae). Lợn rừng đã được thuần hóa và được nuôi như là một dạng gia súc để lấy thịt cũng như da.
Review Sự thật về Hooligan trong bóng đá là gì? Ảnh hưởng của nó là chủ đề trong bài viết hiện tại của Cà khịa link. Tham khảo nội dung để biết chi tiết nhé. Một thuật ngữ trong bóng đá mà rất ít chuyên gia hay đội bóng nào muốn nhắc đến đó là Hooligan. Vậy Hooligan trong bóng đá là gì? Và ảnh hưởng của Hooligan như thế nào đến tinh thần thể thao trong sáng của bóng đá. Tất cả về Hooligan sẽ có trong bài viết sau đây của Cakhialink.info nhé. Hooligan trong bóng đá là một thuật ngữ bắt nguồn từ Anh, nơi xuất hiện những Hooligan đầu tiên. Thuật ngữ này dùng để ám chỉ những người hoặc nhóm người thường xuyên có những hành động quá khích, côn đồ và cả bạo lực để phá hoại trước và trong khi các trận bóng đang diễn ra. Những hành động bạo lực này có thể ở nhiều hình thức khác nhau như ném chai lọ, vật dụng, chiếu đèn vào mặt các cầu thủ đang thi đấu trên sân. Đốt pháo sáng, chất nổ trên khán đài hoặc ném trực tiếp xuống SVĐ. Thậm chí là ẩu đả sử dụng vũ lực với cầu thủ và CĐV khác, và đôi khi để lại những hậu quả đáng tiếc. Hooligan đã xuất hiện ở rất nhiều giải đấu trong nước và quốc tế. Anh là một điển hình với những hành động táo tợn tới mức đe dọa tính mạng của người khác.Tại Việt Nam cũng đã ghi nhận rất nhiều tình trạng CĐV quá khích buộc lực lượng an ninh phải vào cuộc và đã có người vô tội bị thương vì những Hooligan Việt Nam. Lý giải cho hành động quá khích của các Hooligan, dưới con mắt của các nhà khoa học đó là những hành động bản năng bị ảnh hưởng nhiều bởi trình độ dân trí, văn hóa và tập quán sinh hoạt. Mặc khác, nó có thể đến từ vấn nạn nhức nhối là phân biệt chủng tộc, kỳ thị màu da. Hooligan trong bóng đá luôn đi ngược tinh thần thể thao mà bóng đá muốn mang lại. Đây cũng là hành động mà những người yêu thể thao chân chính luôn muốn cố gắng để loại bỏ. Hooligan trong lịch sử bóng đá, bắt nguồn tại Anh thế kỷ thứ 14, từ những giải đấu không chuyên. Ban đầu, đó là những hình thức ẩu đả giữa các cổ động viên của hai đội. Nhưng càng ngày càng mất kiểm soát, đến mức CĐV tấn công cả cầu thủ đối phương khi đến làm khách tại thị trấn của họ. Đến thập niên 80 thuộc thế kỷ 19, lịch sử bóng đá ghi nhận trường hợp đầu tiên về Hooligan trong bóng đá hiện đại. Cũng vẫn khởi đầu tại Anh, với một nhóm côn đồ đập phá tấn công vào các CĐV, trọng tài và cả cầu thủ đối phương chỉ vì “tình yêu” đối với đội bóng của họ. Đỉnh điểm nhất là “thảm kịch Heysel” 1985, trong trận đấu giữa Liverpool và Juventus. Các Hooligan của Anh đã tấn công người Ý bằng gậy gộc, chai lọ và dao…hậu quả cuộc “bạo động” đó là 39 người thiệt mạng, 376 người bị thương. Gây chấn động cho lịch sử bóng đá thế giới, một nỗi đau mà không ai muốn nhắc lại. Nói Anh là nguồn gốc của Hooligan trong bóng đá là hoàn toàn không sai. Nhưng hiện tại Hooligan đã xuất hiện khắp mọi nơi, Châu Á cũng đỉnh điểm tại khu vực Trung Đông và Đông Nam Á cũng không nằm ngoài cuộc. Hooligan đã trở thành một vấn nạn trong bóng đá với những ảnh hưởng tiêu cực mà nó mang lại. Đây chính là hậu quả đau lòng nhất mà những Hooligan trong bóng đá mang lại. Quá nhiều người vô tội đã bị tước đoạt sự sống chỉ vì một nhóm người quá khích:. Thảm họa Heysel 1985 đã lấy đi mạng sống của 39 CĐV vô tội và 376 người bị thương. Tại Việt Nam, năm 2019 của ghi nhận trường hợp đốt pháo của một Hooligan làm một nữ CĐV bị thương nặng. Một vài minh chứng về ảnh hưởng của Hooligan lên mạng sống của những người vô tội. Lịch sử bóng đá còn ghi nhận nhiều hơn nữa, tất cả đều là vết thương không bao giờ lành của bóng đá. Không thể phủ nhận chính Hooligan là nguyên nhân làm tăng cao sự phân biệt màu da, sắc tộc. Ban đầu có thể chỉ xuất phát từ một người hoặc một nhóm nhỏ, nhưng với hiệu ứng đám đông sự kỳ thị ngày càng tăng cao và lan rộng. Không chỉ trong các CĐV mà còn ngay cả các cầu thủ trên sân. Cầu thủ R.Sterling của Man City bị CĐV Chelsea miệt thị về màu da và chủng tộc. Siêu sao Neymar cũng từng bức xúc vì sự xúc phạm của chính những người được gọi là “đồng đội”. Son Heung Min, niềm tự hào của bóng đá Châu Á cũng không thoát khỏi sự kỳ thị khi đến đá ở trời Âu. Dĩ nhiên rồi, những Hooligan khi đã quá khích thì không hề kiêng nể bất cứ việc gì. Phải nói đây là hành động phá hoại, gây thiệt hại rất lớn về vật chất. Các sân vận động sau đó bắt buộc phải đóng cửa để khắc phục hậu quả, sửa chữa những hư hại mà nhóm người này gây ra. Đây chính là hậu quả lớn nhất về mặt tinh thần. Bóng đá là thể thao, là nơi thượng tôn pháp luật, nơi bình đẳng của mọi mọi da. Nhưng những Hooligan trong bóng đá đã làm mất đi điều đó, làm cho bóng đá có những “vết nhơ” mà không thể dùng thời gian để xóa mờ. Thậm chí còn còn làm cho chính đội tuyển mình yêu thích phải chịu sự trừng phạt của FIFA. Làm cho tinh thần của các cầu thủ bị sa sút, thậm chí bị dè bỉu khinh khi. Những thông tin từ bài viết trên hy vọng đã cho anh em hiểu rõ như thế nào là Hooligan trong bóng đá. Nếu không có Hooligan chắc chắn bóng đá sẽ mang đến một hình ảnh đẹp đúng nghĩa, cùng chung tay ngăn chặn vấn nạn này nhé.
Hooligan trong bóng đá
Hooligan trong bóng đá (phát âm tiếng Việt như Hu-li-gân) là thuật ngữ tiếng Anh ám chỉ những người hay nhóm người thường xuyên có các hành động côn đồ và phá hoại xung quanh các trận thi đấu bóng đá. Những hành động bạo lực này tồn tại ở rất nhiều dạng như ném đá, pháo sáng xuống sân, tấn công cầu thủ hay ẩu đả với các cổ động viên khác. Hooligan là một hiện tượng phổ biến ở nước Anh cũng như là vấn đề của bóng đá Việt NamTrong lịch sử bóng đá, những hành động quá khích đầu tiên diễn ra tại Anh từ thế kỷ XIV. Tới thập kỷ 80 thuộc thế kỷ XIX, thế giới ghi nhận những trường hợp "hooligan" đầu tiên của bóng đá hiện đại. Khi ấy, các nhóm côn đồ ở Anh táo tợn tới mức đe dọa những người dân vô tội, tấn công trọng tài và cầu thủ vì tình yêu với đội bóng mình yêu thích. Tình trạng bạo lực này lên tới đỉnh điểm năm 1985 với thảm kịch Heysel. Tại Việt Nam, các cổ động viên quá khích của Hải Phòng, Nghệ An thường xuyên ẩu đã và gây bạo lực trên sân cỏ, chính công tác đảm bảo an ninh tắc trách trước, trong và sau mỗi trận đấu đã dung dưỡng để nạn Hooligan Việt Nam phát triển.
Thực tế, tứ linh gồm Long, Lân, Quy, Phụng được dân gian bắt nguồn từ bốn linh thần:Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ và Chu Tước. Chúng được người xưa tạo ra từ bốn chòm sao cùng tên ở bốn phương trời. Chúng mang bên mình bốn nguyên tố tạo thành trời đất theo quan niệm của người xưa (lửa, nước, đất và gió). Và việc chọn nơi để làm thành kinh đô phải hội tụ yếu tố hòa hợp giữa các nguyên tố ấy. Long (Rồng) đứng đầu Tứ linh vì có sức mạnh, trí tuệ và quyền uy bậc nhất, đây là sinh vật tổng hợp sức mạnh của những con vật khác như rắn, hổ, chim ưng, sư tử, hươu,. Trải qua bao đời, các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ ở các nước phương Đông đã dần tạo cho con rồng trở thành biểu tượng cao quý và sức sống vĩnh hằng. Con rồng là một hình tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Rồng là tượng trưng cho quyền uy tuyệt đối của các đấng Thiên Tử. Dân tộc ta có truyền thuyết về con Rồng từ rất sớm bởi nó gắn liền với mây, mưa, với việc trồng lúa nước, với sự tích "Con Rồng Cháu Tiên". Hình ảnh con rồng đã dần dần ǎn sâu vào tâm thức của người Việt. Dù cho Lân được mô tả như có sừng của loài Nai, tai Chó, trán Lạc Đà, mắt Quỷ, mũi Sư Tử, miệng rộng, có thân Ngựa, chân Hươu, đuôi Bò. nhưng linh vật này rất hiền lành theo quan niệm dân gian ta. Lân là linh vật báo hiệu điềm lành, là biểu tượng cho sự nguy nga tráng lệ, sự trường thọ và niềm hạnh phúc lớn lao. Kỳ lân mang trong mình tất cả những phẩm chất đặc trưng của một con vật nhân từ, theo truyền thuyết, khi di chuyển, nó luôn tránh giẫm lên các loại côn trùng hay cỏ mềm dưới chân mình. Loài Lân không bao giờ ăn thịt hay làm hại bất cứ con vật nào, đặc biệt nó không bao giờ uống nước bẩn, nó chỉ ăn cỏ, nên có tên gọi khác là Nhân thú. Kỳ lân có tính linh, khi có vua chúa, thánh nhân xuất thế cứu đời thì nó sẽ xuất hiện báo trước điềm lành, sắp có thái bình thịnh vượng. Lân theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam, tượng trưng cho sự thái bình, yên ổn. Lân cũng tượng trưng cho lộc phúc, may mắn, thịnh vượng. Chúng có dung mạo kỳ dị, là hình tượng nghệ thuật được thêu dệt từ trí tưởng tượng của người xưa nhưng đồng thời ẩn chứa trong đó một sức mạnh tâm linh to lớn. Lân thường được với tư cách đội tòa sen làm chỗ dựa cho Văn Thù bồ tát hay các Hộ Pháp. Nhiều khi ngồi trên đầu cột cổng hay xuất hiện trên mái nhà. Về mặt sinh học, rùa là loài bò sát lưỡng cư có tuổi thọ cao và thân hình chắc chắn. Nó có thể nhịn ăn uống mà vẫn sống trong một thời gian dài. Rùa không ăn nhiều, nhịn ăn tốt nên được coi là một con vật thanh cao, thoát tục. Trên bàn thờ ở các đền chùa, miếu mạo, chúng ta thường thấy rùa đội hạc, rùa đi với hạc trong bộ đỉnh thơm ngát và thanh tịnh. Quy đã xuất hiện trong truyện cổ tích từ thời An Dương Vương. Trong tạo hình, người ta bắt đầu thấy Quy từ năm 1126 trong tư cách đội bia ở chùa Linh Ứng, Thanh Hóa, từ đó tồn tại thường xuyên dưới hình thức đội bia; đến tận thế kỷ 15 mới thấy đội hạc. Quy là vật hợp bởi có cả âm lẫn dương: Bụng phẳng tượng trưng cho đất (âm), mai khum tượng trưng cho trời (dương). Hình tượng rùa đội bia tượng trưng cho hạnh phúc, phát triển và sự chịu đựng. Quy là cao quý, nhiều khi nó là chủ nguồn nước (rùa phun nước thiêng), là một linh vật của đất Phật. Là linh vật tốt lành mang ý nghĩa trường thọ, có khả năng chiêu tài hóa sát, trấn trạch, rất lợi về tài lộc, bền vững và thịnh vượng lâu dài. Rùa tượng trưng cho sự trường tồn và bất diệt. Hình ảnh rùa đội bia đá, trên bia đá ghi lại sử sách của dân tộc Việt Nam chứng tỏ rùa là loài vật chuyển tải thông tin và văn hóa. Tuy không phải là con vật của Phật giáo, nhưng rùa cũng là biểu trưng cho sự trường tồn của Phật giáo. Trong một số ngôi chùa thời Lý - Trần, rùa được chạm thành tường bằng đá, làm bệ đội bia. Dáng rùa đầu to, mập, vươn ra khỏi mai, mõm thuôn nhọn, mắt nhỏ, bốn chân khép sát vào thân mai. Nhắc đến sư bất tử và tái sinh, người ta không thể không nhắc đến 1 loài chim chỉ có trong truyền thuyết: Phụng. Phượng Hoàng là sự kết hợp các đặc điểm xinh đẹp nhất của nhiều giống chim: đầu gà, chiếc cổ cao của chim hạc, và bộ đuôi thướt tha rực rỡ của loài công. Phụng (Phượng) là tên con trống, con mái gọi là Loan. Phụng có mỏ diều hâu dài, tóc trĩ, vẩy cá chép, móng chim ưng, đuôi công. Các bộ phận của phụng đều có ý nghĩa của nó: Đầu đội công lý và đức hạnh, mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu trời, cánh là gió, đuôi là tinh tú, lông là cây cỏ, chân là đất. Như vậy nó tượng trưng cho bầu trời, khi nó bay hoặc múa (phụng vũ) là tượng trưng cho sự hoạt động của vũ trụ. Vì thế phụng là hình tượng của thánh nhân, của hạnh phúc. Nếu rồng có yếu tố dương, tượng trưng cho vua chúa thì phụng lại có yếu tố âm nên tượng trưng cho hoàng hậu. Vòng đời của chúng không bao giờ kết thúc. Khi bị thương nặng hoặc cảm thấy mình quá già yếu (không dưới 500 tuổi), phượng hoàng sẽ tự xây một cái tổ bằng lông của mình, rồi tự thiêu bằng chính nguồn nhiệt của bản thân. Từ trong đám tro tàn, nó sẽ tái sinh dưới hình dạng một chú chim non. Với khả năng tái sinh này mà Phụng là biểu tượng của cả sự sống và cái chết. Vì thiêng liêng cao quý nên loài chim này thường sống trên những ngọn núi cao, xa xôi mà con người không thể vươn tới. Nếu có ai đó muốn tìm được chúng để mưu cấu sức mạnh hoặc sự bất tử sẽ phải vượt qua những thử thách chết người. 3.700 con chim biến mất không dấu vết mỗi năm, người ta quyết định đặt camera trong đêm: Cảnh tượng kinh khủng hiện ra!. Theo lịch trình dự kiến, bà Kamala Harris sẽ tới Việt Nam vào khoảng 18 giờ hôm nay, ngày 24/8, theo giờ Việt Nam, sau khi kết thúc chuyến thăm Singapore.
Hình tượng con rùa trong văn hóa
Con rùa (tiếng Pháp Tortue, tiếng Anh Turtle) (có chung một gốc từ), là một loài động vật thuộc vực Eukaryota, giới Animalia, thuộc ngành Chordata. Ý nghĩa biểu trưng của rùa trải rộng trên tất cả các miền của trí tưởng tượng, thuộc nam tính và nữ tính, thuộc loài người và vũ trụ. Do có mai phía trên có hình tròn như bầu trời - điều này khiến nó gợi nhớ cái mái vòm - phía dưới phẳng như mặt đất, rùa là một biểu thị của vũ trụ: chỉ riêng nó thôi đã làm thành cả một vũ trụ học. Tại Viễn Đông (Trung Hoa và Nhật Bản), cũng như ở các dân tộc tại trung tâm Châu Phi, người Dagon và người Bambara - đó là chỉ kể những dân tộc đã được nghiên cứu nhiều nhất - nó đều được nhìn nhận như vậy. Rùa thường được mô tả trong văn hóa đại chúng là những sinh vật dễ tính, kiên nhẫn và khôn ngoan. Do tuổi thọ cao, di chuyển chậm, cứng cáp và không có nếp nhăn, chúng là biểu tượng của sự trường tồn và ổn định trong nhiều nền văn hóa trên thế giới. Rùa thường xuyên được đưa vào văn hóa con người, với các họa sĩ, nhiếp ảnh gia, nhà thơ, nhạc sĩ và nhà điêu khắc sử dụng chúng làm đối tượng.
Dụng cụ tập luyện Đích đấm đá Găng tay BoxingBoxing là một môn thể thao đối kháng rất tốt cho việc rèn luyện sức khỏe, phản xạ cũng như lực tay. Và một trang bị bắt buộc phải có để luyện tập bộ môn này chính là Găng Tay Boxing. Găng tay Boxing giúp người tập bảo vệ tay, cơ và xương khớp. Ngoài ra còn giúp tránh gây nguy hiểm cho đối phương trong quá trình tập luyện. Găng Tay Boxing còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như: Găng Tay Đấm Bốc, Găng Tay Quyền Anh… Vuavothuat.vn hiện nay đang cung cấp các sản phẩm Găng tay boxing giá rẻ, giá tầm trung và giá cao. Tuy nhiên chất lượng đều rất tốt. Hãy tham khảo những sản phẩm dưới đây nhé: Găng tay MMA Phụ Kiện Thể Thao Phụ Kiện Võ Thuật Trang phục Sản phẩm khác. Găng tay BoxingBoxing là một môn thể thao đối kháng rất tốt cho việc rèn luyện sức khỏe, phản xạ cũng như lực tay. Và một trang bị bắt buộc phải có để luyện tập bộ môn này chính là Găng Tay Boxing. Găng tay Boxing giúp người tập bảo vệ tay, cơ và xương khớp. Ngoài ra còn giúp tránh gây nguy hiểm cho đối phương trong quá trình tập luyện. Găng Tay Boxing còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như: Găng Tay Đấm Bốc, Găng Tay Quyền Anh… Vuavothuat.vn hiện nay đang cung cấp các sản phẩm Găng tay boxing giá rẻ, giá tầm trung và giá cao. Tuy nhiên chất lượng đều rất tốt. Hãy tham khảo những sản phẩm dưới đây nhé:. Bạn muốn mua côn nhị khúc, bạn muốn học sử dụng côn nhị khúc, nhưng bạn lại chưa biết gì về nó? Hãy tìm hiểu đôi điều về côn nhị khúc để biết rõ hơn về loại dụng cụ đặc sắc này. Côn nhị khúc, côn hai khúc hay lưỡng tiết côn, song tiết côn (tiếng Nhật là nunchaku). U : chữ tắt của Unrelengting (cứng rắn) vì muốn bảo vệ hay sử dụng vũ khi này chúng ta phải cương quyết. N : chữ tắt của national (quốc gia) vì chúng ta phải đoàn kết mới có hiệu quả, như hai đầu côn nhị khúc được nối lại với nhau bằng 1 sợi dây. C : chữ tắt của Care (cẩn thận) vì chúng ta phải cẩn thận khi sử dụng vũ khí này với kẻ địch. A : chữ tắt của Adherance (sự kết chặt) vào 1 quy luật để quần chúng thừa nhận thứ vũ khí này. U: chữ tắt của Uniformity (sự đồng nhất) của toàn bộ quy luật và luật lệ được áp dụng. Đây là một dạng đoản côn có hai khúc được nối với nhau bởi một đoạn dây mềm. Sử dụng thịnh hành trong võ phái Karatedo Nhật Bản và hiện nay, do tính chất tiện lợi của nó, côn nhị khúc đã được nhiều môn sinh của các võ phái khác nhau ưa chuộng trong luyện tập và tự vệ. Có thể tìm thấy trong các vũ khí cổ của Trung Hoa một dạng thức gần tương tự côn nhị khúc nhưng bao gồm một khúc dài và một khúc ngắn hơn, hoặc một khúc dài với hai khúc ngắn nối với nhau bằng dây mềm, khi luyện tập thường tập một chiếc hoặc tập cả hai chiếc. Côn này còn có tên song hổ vĩ côn (côn đuôi hổ). Trước khi bắt đầu với một loại dụng cụ nào, ít nhiều chúng ta cần nên biết đôi điều về nguồn gốc của nó. Tương truyền tại vùng Okinawa khi tiểu vương quốc này bị người Nhật đô hộ, sự cai trị tàn khốc với sưu cao thuế nặng của người Nhật khiến dân bản địa liên tục nổi dậy phản kháng. Các võ quan Nhật tại các làng mạc đã nghiêm cấm không cho dân chúng được sử dụng dụng cụ bằng sắt trong sản xuất sinh hoạt, chỉ trừ một con dao sắt được sử dụng hạn chế với sự kiểm soát của kẻ cai trị. Việc tập luyện dưới hầm những chiêu thức tự vệ đã định hình những kỹ thuật chiến đấu Karatedo đầu tiên, và các dụng cụ sản xuất bằng gỗ, tre, trúc đã được người dân ở đây chế tạo thành các vũ khí để hợp pháp hóa sử dụng khi mang trong người vượt thoát khỏi mọi sự kiểm duyệt như: trường côn (bo) vốn xuất xứ từ một cây sào; song quải (tonfa) được cho là xuất xừ từ tay cầm của chiếc cối xay; tiểu đoản côn (yawara);…và côn nhị khúc (nunchaku) xuất xứ từ hai thanh tre hay gỗ buộc dây ở đầu dùng cuộn bó lúa khi đập lúa. Côn nhị khúc là một dụng cụ được sáng tạo và mang một ý nghĩa nhất định từ xưa đến nay. Hi vọng bài viết có thể cung cấp được cho bạn những thông tin hữu ích xoay quanh côn nhị khúc. Giao hàng cho khách hàng Homegym & Phòng tập Cardio cho khách hàng Quận Bình Thạnh Tp. Hồ Chí Minh
Côn nhị khúc
Côn nhị khúc hay côn hai đoạn hay là lưỡng tiết côn hoặc song tiết côn hay nhị đoản côn (âm romaji tiếng Nhật là nunchaku) là một dạng đoản côn có hai khúc được nối với nhau bởi một đoạn dây mềm. Sử dụng thịnh hành trong võ phái Karatedo Nhật Bản và hiện nay, do tính chất tiện lợi của nó, côn nhị khúc đã được nhiều môn sinh của các võ phái khác nhau ưa chuộng trong luyện tập và tự vệ. Trong các võ phái cổ truyền Trung Hoa, chắc chắn côn nhị khúc cũng có nhưng không thịnh hành, thường các môn đồ tập côn tam khúc hoặc tiên (roi) với nhiều đốt nối với nhau (thất tiết tiên hoặc cửu tiết tiên). Có thể tìm thấy trong các vũ khí cổ của Trung Hoa một dạng thức gần tương tự côn nhị khúc nhưng bao gồm một khúc dài và một khúc ngắn hơn, hoặc một khúc dài với hai khúc ngắn nối với nhau bằng dây mềm, khi luyện tập thường tập một chiếc hoặc tập cả hai chiếc. Cây côn này còn được gọi tên là song hổ vĩ côn (côn đuôi hổ).
Nếu bao gồm nửa ngày nhằm du lịch tham quan một nơi nào đó nghỉ ngơi Đất nước Mỹ, khác nước ngoài vẫn chọn đi đâu? Chúng tôi đã nhắc nhở một trong những điểm đến chọn lựa hấp dẫn tốt nhất trái đất trên Xứ đọng Cờ Hoa đó là Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ. Bạn nhất thiết đề nghị ghé thăm địa điểm này Lúc phượt Mỹ vì chưng nó được mệnh danh là kho báu của New York đấy.Bạn đang xem: Bảo tàng lịch sử tự nhiên hoa kỳ. Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ có tên giờ anh là American Museum of Natural History, viết tắt là AMNH. Đây thiệt sự ko hổ danh là “Kho báu của New York”. Xứng đáng cùng với tên thường gọi “Bách khoa toàn thư” về sự việc cải tiến và phát triển kỳ diệu của nhân loại. Đến cùng với kho lưu trữ bảo tàng, khác nước ngoài sẽ tiến hành thu vào khoảng mắt toàn thể sự quản lý và vận hành của thế giới từ bỏ thời cổ xưa tới thời điểm này. Điểm mang lại này không chỉ là phù hợp với phần đông tình nhân cổ đồ ngoại giả dành cho hầu như ai mong gồm thêm tri thức về lịch sử dân tộc trái đất. Tham mê quan tiền kho lưu trữ bảo tàng lịch sử tự nhiên tổ quốc Hoa Kỳ với tìm hiểu về gần như điều hấp dẫn ẩn chứa là ý tưởng phát minh hoàn hảo nhất mang đến ai đang sẵn có ý định “đổi gió” vào htrần này. Bảo tàng Lịch sử thoải mái và tự nhiên New York nơi trưng bày trên mặt đường 79, phía tây Công viên trung chân tình phố Thủ đô New York, Mỹ. Bảo tàng được Thành lập vào năm 1869, thông qua nỗ lực cố gắng đề xuất ở trong phòng động vật học Louis Agassiz. Đây là kho lưu trữ bảo tàng lịch sử dân tộc thoải mái và tự nhiên có bài bản lớn nhất quả đât với sứ mệnh hài hòa. Kết cấu quần thể bảo tàng bao hàm 28 tòa nhà nối sát với 45 chống triển lãm cố định và thắt chặt. Trong khi nó còn có thêm tlỗi viện cùng một cung thiên văn. Toàn cỗ bảo tàng hiện hữu lên vẻ cổ kính dựa vào được kiến trúc theo trường phái gothic thời Victoria. Bảo tàng Lịch sử tự nhiên và thoải mái New York được xem là “đế chế” của không ít hiện vật dụng lịch sử vẻ vang. Bảo tàng tất cả chứa:. Nhờ kia nó sẽ “kể” lại câu chuyện về sự việc tiến hóa của quả đât thật tuyệt vời. Bản thân bản vẽ xây dựng và thiên chức công nghệ của bảo tàng Lịch sử tự nhiên và thoải mái Hoa Kỳ đang là “thỏi nam giới châm” bao gồm lực hút cực đại so với nhiều người dân trên quả đât. Bên vào bảo tàng đó lại càng có không ít điều thú vui. bự long T – Rex là tên bộ hóa thạch mập mạp được rao bán ngay lập tức trên đại sảnh Bảo tàng, đắm đuối khác nước ngoài từ bỏ ánh nhìn trước tiên. Đây là hóa thạch một crúc khủng long thời tiền sử thời Cổ đại có bộ hàm nhiều năm cho tới 1,2m cùng là kẻ snạp năng lượng mồi khiếp sợ độc nhất vô nhị vào lịch sử dân tộc. Hấp dẫn hơn, mẩu chuyện hành trình đi từ 1 con vật tất cả hình hài bởi chụ con gà nhỏ mang lại kẻ thống lĩnh khía cạnh khu đất của khủng long thời tiền sử T – Rex chắc chắn là sẽ giữ lại mang đến du khách tuyệt vời cạnh tranh pnhị. Điều gì sẽ diễn ra khi để chân vào bảo tàng Lịch sử tự nhiên đất nước Hoa Kỳ? Đó là một loạt các công tác triển lãm tuyệt vời sẽ đến du khách nhiều cơ hội mày mò. Mỗi tháng bảo tàng đang thiết kế rất nhiều chủ đề triển lãm khác biệt khớp ứng với rất nhiều lứa tuổi và mục tiêu du lịch thăm quan của khách hàng phượt New York.Đơn cử là các công tác độc đáo sắp diễn ra như: “Lặn sâu vào trái đất của biển khơi Unseen”, “Kỷ ngulặng vàng của sự việc có mặt sao”, “Thế giới vi sinh đồ dùng bên dưới hải dương sâu”, “Nhạc viện Bướm”,. Đặc biệt, bằng đòi hỏi cùng với kính thực tiễn ảo, du khách sẽ tiến hành tiếp cận với những trí thức một biện pháp chân thật duy nhất. Tấm hình khách du lịch đang đề xuất những công tác triển lãm trên bảo tàng. Lúc phượt Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Mỹ, du khách trọn vẹn có thể tùy lựa chọn trải nghiệm một không khí như thế nào đó của bảo tàng theo sở trường riêng biệt. Chúng được Điện thoại tư vấn là các Hội ngôi trường. Những Hội trường này rộng đến nỗi ước lượng nhằm đi hết toàn thể, du khách quan yếu hoàn thành trong một ngày.Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên New York tất cả toàn bộ 44 Hội trường du lịch tham quan, trong những số đó nổi bật là:. Nơi phía trên dành cho tất cả những người yêu thích địa chất cũng có thể có các shình ảnh riêng biệt tất cả khoáng sản, thiên thạch với rubi. Nhà kỹ thuật đại tài Newton từng nói: “Những điều ta biết là giọt nước, đều điều ta chưa chắc chắn là cả đại dương”. Khi tham quan bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ, “hành trình vác ba lô” của du khách không những là phần nhiều chuyến hành trình tận hưởng cảm xúc nhưng còn là một “chuyến du hành ngược thời gian” để mày mò với trau củ dồi kỹ năng. Đó chắc chắn đang là đầy đủ “vết chân” ý nghĩa vào cuộc sống vào chuyến du lịch Mỹ. Những thước phim nhộn nhịp về các điểm đến chọn lựa danh tiếng Lúc phượt New York qua ống kính của Du lịch Hoàn Mỹ. Ngoài tsi mê quan nhà thờ Saint Patrick, Du kế hoạch Hoàn Mỹ tin rằng nội dung bài viết bên trên phía trên vẫn nhắc nhở mang đến du khách một địa điểm hết sức phù hợp để du lịch tham quan ngay vào htrần này. Chúng tôi cũng tương đối vui lòng giả dụ được làm bạn sát cánh cùng người tiêu dùng bên trên phần đông chuyến du ngoạn.Chúc quý khách có hành trình du lịch tham quan mày mò đầy ý nghĩa sâu sắc tại xđọng cờ hoa!
Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Hoa Kỳ
Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Hoa Kỳ (tiếng Anh: National Museum of Natural History) là một bảo tàng lịch sử tự nhiên do Viện Smithsonian quản lý, đặt ở Trung tâm Mua sắm Quốc gia (National Mall) ở Washington, D.C., Hoa Kỳ. Bảo tàng được tự do thăm viếng và mở cửa 364 ngày một năm. Năm 2016, có 7,1 triệu du khách, là bảo tàng được viếng thăm thứ tư trên thế giới và là bảo tàng lịch sử tự nhiên được truy cập nhiều nhất trên thế giới. Khai trương năm 1910, bảo tàng của National Mall là một trong những tòa nhà Smithsonian đầu tiên được xây dựng độc quyền để giữ các bộ sưu tập quốc gia và các cơ sở nghiên cứu . Tòa nhà chính có diện tích khoảng 140.000 m2 với diện tích 30.200 m2 của khu triển lãm và không gian công cộng, và nhà ở cho trên 1.000 nhân viên. Bộ sưu tập của bảo tàng chứa hơn 126 triệu mẫu vật gồm thực vật, động vật, hóa thạch, khoáng vật, đá, thiên thạch, di cốt người và các hiện vật văn hoá của con người. Năm 2016, lần thứ hai được thăm viếng nhất của tất cả các viện bảo tàng Smithsonian.
Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lí, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia ở khoảng cách gần hơn. Thềm lục địa là một ưu thế từ thiên nhiên mà chỉ có các quốc gia ven biển mới có. Vậy, thềm lục địa là gì? Quy định pháp luật quốc tế về thềm lục địa như thế nào?. Sau đây, chúng tôi sẽ giúp quý Khách hàng hiểu rõ hơn về các vấn đề nói trên. Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lí, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia ở khoảng cách gần hơn. Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 định nghĩa thềm lục địa như sau: Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn. + Hải lý thứ 100 kể từ đường đẳng sâu 2500 m với điều kiện tuân thủ các quy định cụ thể về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa trong Công ước luật biển 1982. Khi tìm hiểu các quy định liên quan đến Thềm lục địa là gì thì chúng ta nhận thấy việc xác định giới hạn thềm lục địa rất quan trọng, bởi lẽ, khi nguồn tài nguyên trên đất liền dần khánh kiệt, đồng thời việc xác định mốc giới giữa các quốc gia rất rõ ràng, thì ranh giới trên biển lại rất mong manh, khó xác định. Mặc khác, tài nguyên trên biển cũng rất dồi dào và chưa được khai thác nhiều. Do đó, việc xác định ranh giới không chỉ có ảnh hưởng tới an ninh, sự toàn vẹn lãnh thổ, nền kinh tế của một quốc gia mà còn là cả khu vực. Chiều rộng trung bình của các thềm lục địa là khoảng 80 km. Độ sâu của các thềm lục địa cũng dao động mạnh. Nó có thể chỉ nông khoảng 30 m mà cũng có thể sâu tới 600 m. Sau khi có góc nhìn khái quát về Thềm lục địa là gì? Chúng tôi sẽ giúp bạn đọc tìm hiểu thêm về một số quy định pháp luật về thềm lục địa. Bởi lẽ tài nguyên từ biển cả luôn rất lớn và thu hút nhiều sự quan tâm từ nhiều quốc gia khác nhau, đặc biệt là các quốc gia không có biển. Các quốc gia khác có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa. Tuy nhiên, chúng phải đảm bảo 02 điều kiện sau:. + Không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia ven biển. + Chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của quốc gia ven biển đó. + Quốc gia ven biển chỉ có quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa (không phải chủ quyền) trên chính thềm lục địa của mình, thể hiện qua việc quyền thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên trên thềm lục địa. Đây là quyền quan trọng nhất, và mang tính chất đặc quyền. Tức là nếu quốc gia ven biển không thực hiện quyền này thì các quốc gia khác cũng không đương nhiên có quyền thay thế quốc gia ven biển thực hiện, trừ khi có sự đồng ý của quốc gia đó. Quyền thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên trên thềm lục địa. Quyền này tồn tại đương nhiên và ngay từ đầu, quốc gia ven biển không cần phải chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa và không cần phải tuyên bố. + Chế độ pháp lý của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không liên quan đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng trời phía trên. Đồng thời, quốc gia ven biển không được gây ảnh hưởng, cản trở đến hoạt động hàng hải hay các quyền và tự do khác của các quốc gia khác đã được Công ước thừa nhận mà quốc gia đó là thành viên. – Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào. – Tất cả các quốc gia đều có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa. Quốc gia đặt cáp hoặc ống dẫn ngầm phải thoả thuận với quốc gia ven biển về tuyến đường đi của ống dẫn hoặc cáp;. – Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì. Nếu còn vấn đề chưa rõ hay thắc mắc, quý vị có thể liên hệ qua tổng đài tư vấn 1900 6557 để được giải đáp nhanh chóng nhất.
Thềm lục địa
Thềm lục địa là một phần của rìa lục địa, từng là các vùng đất liền trong các thời kỳ băng hà còn hiện nay là các biển tương đối nông (biển cạn) và các vịnh. Các thềm lục địa có độ dốc thoải đều (1-2°) và thông thường kết thúc bằng các sườn rất dốc (hay còn gọi là đứt gãy thềm lục địa). Đáy biển phía dưới các đứt gãy là dốc lục địa có độ dốc cao hơn rất nhiều so với thềm lục địa. Tại chân sườn nó thoải đều, tạo ra bờ lục địa và cuối cùng hợp nhất với đáy đại dương tương đối phẳng, có độ sâu đạt từ 2.200 đến 5.500 m. Chiều rộng của thềm lục địa dao động một cách đáng kể. Có rất nhiều khu vực không có thềm lục địa, đặc biệt là ở các khu vực mà các gờ của vỏ đại dương nằm gần vỏ lục địa trong các khu vực sút giảm ven bờ, chẳng hạn như các vùng bờ biển của Chile hay bờ biển phía tây của đảo Sumatra. Thềm lục địa lớn nhất— thềm lục địa Siberi ở Bắc Băng Dương— kéo dài tới 1.500 kilômét.
Đại học Lazarski là trường đại học định hướng quốc tế được thành lập năm 1993, từ đó đến nay trường luôn hướng tới chất lượng đào tạo và tính thực tiễn cao của các chương trình học. Đại học Lazarski được đánh gia cao nhờ sự quan tâm đến đào tạo các chương trình có chất lượng và tính thực tiễn cao. Trường giảng dạy bằng cả tiếng Ba Lan và tiếng Anh với các chuyên ngành về Luật, Quản trị, kinh tế và thương mại quốc tế. Trường có chương trình bằng kép giảng dạy bằng tiếng Anh cho phép sinh viên sau tốt nghiệp sẽ nhận được 2 bằng đại học, 1 từ đại học Lazarski và 1 từ trường đại học Coventry, Anh Quốc. Khuôn viên trường tọa lạc tại trung tâm thủ đô Warszawa, xung quanh có tới 3 ga tàu điện ngầm. Nằm sâu trong bình nguyên Trung Âu, thủ đô Warsaw của Ba Lan dịu dàng và cổ kính. Tốc độ phát triển đô thị của Warszawa thật sự mạnh mẽ so với mười năm về trước. Học tập và sinh sống nơi đây là cơ hội cho sinh viên hòa mình vào môi trường hiện đại nhưng vẫn giữ nguyên vẹn nét cổ kính. Hiện tại, Đại học Lazarski có khoảng 5.000 sinh viên đến từ khắp các quốc gia trên thế giới tạo nên một cộng đồng sinh viên quốc tế nhiệt huyết và đông đảo. Hơn 1000 cán bộ giảng viên tại trường, trong số đó có những giảng viên thông thạo rất nhiều ngành học đa dạng, kinh nghiệm thực tế phong phú. Giáo sư của trường có thể là Thẩm phán Tòa án tối cao. Lazarski University là một trong bốn trường đại học tư thục hàng đầu của Ba Lan,với các chuyên ngành đào tạo về kinh tế, tài chính, luật và quan hệ quốc tế. Được biết, 96% sinh viên của trường Lazarski hài lòng với chương trình học tập và tìm được việc làm sau khi ra trường. Đại học Lazarski có khu ký túc xá của trường và một số khu ký túc xá tư nhân khác tại Vacsava. Phòng Công tác Sinh viên sẽ thực hiện việc xin visa và giấy phép thị thực cho thẻ thị thực của sinh viên quốc tế; thẻ bảo hiểm ý tế; đăng ký tài khoản ngân hàng; mua thẻ lưu hành tại thành phố Vacsava (cho phép sử dụng các phương tiên giao thông công cộng tại Vacsava); các ứng dụng và tài liệu học tập. Khuôn viên được chia thành sáu khu vực (A, B, C, D, E, F) bao gồm phòng giảng dạy, phòng hội thảo và giảng đường (khu vực lớn nhất, Giảng đường Lech Falandysz, có thể chứa 430 sinh viên). Thư viện với hơn 100.000 cuốn sách, có cả hệ thống tra cứu điện tử giúp sinh viên tiếp cận thông tin, dữ liệu nhanh nhất. Đại học Lazarski có phòng tập thể dục riêng và được trang bị đầy đủ mọi thiết bị phục vụ nhu cầu của sinh viên. Ngoại ngữ: IELTS 5.5 hoặc TOEFL 85+ (nếu chưa có thì sẽ làm bài test của trường). Ngoại ngữ: IELTS 6.5 hoặc TOEFL 90+ (nếu chưa có thì sẽ làm bài test của trường).
Đại học Lazarski
Đại học Lazarski (tiếng Ba Lan: Uczelnia Łazarskiego, trước đây gọi là Trường thương mại và luật cao cấp Ryszard Łazarski ở Warsaw) là một trường đại học tư nhân Ba Lan tại Warsaw, được thành lập bởi Ryszard Łazarski vào năm 1993. Chương trình giáo dục bao gồm các nghiên cứu tại 3 khoa: Khoa Luật và Quản trị, Khoa Kinh tế và Quản lý và Khoa Y. Hoạt động giáo dục của trường đại học bao gồm nghiên cứu BA, nghiên cứu MA, nghiên cứu tiến sĩ luật, nghiên cứu sau đại học, MBA, LLM, hội thảo tiến sĩ, đào tạo và các khóa học ngôn ngữ. Trường đại học cũng cung cấp các nghiên cứu bằng tiếng Anh, cho phép để có được bằng cấp của Đại học Coventry. Trường đại học đào tạo luật sư, nhà kinh tế, doanh nhân, công chức, chính trị gia và nhà ngoại giao. Năm 2017, nó cũng bắt đầu đào tạo bác sĩ tại Khoa Y, vì nó là trường đại học tư thục thứ hai ở Ba Lan . 1993 - Quyết định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Quốc gia, lôi kéo Người sáng lập, Ryszard azarski, Tiến sĩ thành lập một trường đại học tư thục dưới tên Trường Đại học Thương mại.
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2020 là giải đấu quần vợt lần thứ 140 của Mỹ Mở rộng và là Grand Slam thứ 4 trong năm. Giải đấu được tổ chức trên mặt sân cứng ngoài trời tại Trung tâm Quần vợt Quốc gia USTA Billie Jean King ở Queens, New York. Rafael Nadal và Bianca Andreescu là đương kim vô địch đơn nam và đơn nữ; tuy nhiên cả hai đều không tham dự giải. Nadal đã rút lui vì lo ngại đại dịch COVID-19, trong khi Andreescu nói rằng đại dịch đã ảnh hưởng đến sự chuẩn bị của cô. Dưới đây là các bảng phân phối điểm cho các vòng đấu theo mỗi nội dung thi đấu.
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2014
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2014 là một giải đấu quần vợt được chơi trên các sân cứng ngoài trời. Đó là phiên bản thứ 134 của Giải quần vợt Mỹ Mở rộng, sự kiện Grand Slam thứ tư và cuối cùng trong năm. Nó diễn ra tại Trung tâm quần vợt quốc gia USTA Billie Jean King. Rafael Nadal là nhà đương kim vô địch đơn nam; tuy nhiên, vào ngày 18 tháng 8, tay vợt người Tây Ban Nha tuyên bố rút lui sau khi không thể phục hồi chấn thương cổ tay, trong khi Serena Williams là nhà vô địch hai lần liên tiếp đơn nữ. Trong giải đơn nam, Marin ilić đã giành được danh hiệu Grand Slam đầu tiên; Trong khi đó, Serena Williams đã giành được kỷ lục số danh hiệu trong Kỷ nguyên Mở khi giành danh hiệu Mỹ Mở rộng thứ sáu trong giải đơn nữ, ngang bằng với Chris Evert, và đó là danh hiệu lớn thứ mười tám của cô, ngang với Evert và Martina Navratilova. Giành chiến thắng ở nội dung đôi nam, Bob Bryan và Mike Bryan trở thành đôi nam có nhiều chiến thắng nhất trong lịch sử Kỷ nguyên mở tại giải đấu, và đây là danh hiệu thứ 100 của hai người đánh đôi cùng nhau và danh hiệu lớn thứ mười sáu, ngang với Todd Woodbridge cho kỷ lục trong Kỷ nguyên mở.
Khoa học, văn hóa, giáo dục, tâm lý, thể thao và một lối sống lành mạnh. các bản sắc văn hóa Đó là dấu ấn của một dân tộc, lịch sử, truyền thống và phong tục của nó, trong khuôn khổ của một địa lý nhất định. Nó hình thành trong khuôn khổ quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, tầng lớp xã hội, thế hệ, địa phương. Nó là một phần của nhận thức và tự nhận thức của một cá nhân, do đó, bản sắc văn hóa cũng là một đặc điểm của cá nhân như của nhóm các thành viên, giống hệt về văn hóa, có chung bản sắc văn hóa. Bản sắc văn hóa có liên quan đến khả năng liên kết và cảm nhận như là một phần của một nhóm, dựa trên văn hóa của họ. Trong khi văn hóa thường đề cập đến ngôn ngữ, chủng tộc, di sản, tôn giáo, bản sắc văn hóa, nó cũng gắn liền với tầng lớp xã hội, địa phương, thế hệ hoặc các loại nhóm người khác. Bản sắc và văn hóa cá nhân được liên kết bởi kinh nghiệm. Một người trải qua các quá trình khác nhau trong suốt cuộc đời để sau đó tham gia một nhóm và phát triển ý thức về sự thuộc về. Khi một số lượng đủ người chia sẻ cùng niềm tin, kinh nghiệm và giá trị, một nền văn hóa được phác họa. Kinh nghiệm thay đổi từ người này sang người khác, và đánh giá là chủ quan. Xác chết của con người là một đặc điểm đặc biệt của loài người. Cùng với cấu trúc của hệ thống nhận thức, khả năng suy luận và suy nghĩ, cá nhân tương tác, nhận thức, tiếp nhận thông tin, cảm nhận và mang lại ý nghĩa cho thế giới bên ngoài và mối quan hệ với đồng nghiệp của họ, mang lại ý nghĩa cho sự tồn tại của con người trên trái đất. Bản sắc và văn hóa là những thành phần cơ bản làm cho các công trình xã hội và tương tác hoạt động và ảnh hưởng lẫn nhau. Phát triển một bản sắc đòi hỏi một số hình thức tương tác và quan điểm cá nhân trong một khoảng thời gian. Văn hóa, như một yếu tố cơ bản của xã hội, cũng đòi hỏi một khuôn khổ lịch sử, tương tác tượng trưng và phát triển hữu hình. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo. Theo cách này, kết cấu văn hóa xã hội đang được xây dựng. Sự đóng góp có ý thức, vô thức và mang tính xây dựng mà mỗi cá nhân đóng góp cho văn hóa của họ củng cố sự khẳng định bản sắc và ý thức thuộc về. Khi sự đóng góp cá nhân và phản ứng xã hội hoạt động đồng điệu, văn hóa và bản sắc cá nhân được hợp nhất, phát triển và củng cố. Lý thuyết về nhận thức bản thân (Bern: 1972) cho thấy mọi người phát triển thái độ của họ - khi không có thái độ trước do thiếu kinh nghiệm và phản ứng cảm xúc là mơ hồ - quan sát hành vi của chính họ và kết luận thái độ mà họ nên gây ra hành vi. Người giải thích một cách hợp lý hành vi của chính họ giống như cách họ cố gắng giải thích những hành vi của người khác (Robak, et al: 2005). Khái niệm về bản thân, còn được gọi là tự xây dựng, tự nhận dạng, tự phối cảnh hoặc tự cấu trúc, được hình thành từ một tập hợp niềm tin về bản thân (Leflot, et al: 2010), bao gồm khía cạnh trí tuệ, bản sắc giới tính, tình dục và bản sắc chủng tộc. Nói chung, tự quan niệm dẫn đến việc xây dựng các câu trả lời cho câu hỏi tôi là ai?. Trung tâm nghiên cứu nâng cao về tiếp thu ngôn ngữ, định nghĩa văn hóa là các quy tắc chung về hành vi và tương tác, các cấu trúc nhận thức và hiểu biết, được học thông qua xã hội hóa. Do đó, nó có thể được coi là sự tăng trưởng của một bản sắc nhóm được thúc đẩy bởi các mô hình xã hội duy nhất cho nhóm đó. Văn hóa là đặc điểm và kiến thức đặc biệt của một nhóm người cụ thể, được cấu thành bởi ngôn ngữ, tôn giáo, cách cho ăn và ẩm thực, thói quen xã hội, âm nhạc, nghệ thuật, v.v. Đối với hầu hết các nhà khoa học xã hội, văn hóa được định nghĩa nhiều hơn bởi các khía cạnh tượng trưng, ý thức hệ và phi vật thể của xã hội loài người hơn là các tạo tác, công cụ, công nghệ hoặc các yếu tố văn hóa hữu hình khác. Về những điều này, những gì chiếm ưu thế là cách các thành viên của một nhóm thích hợp hữu hình, diễn giải nó và xây dựng ý nghĩa mà họ tạo ra. Văn hóa là điều cần thiết cho sự hiểu biết về bản thân, thế giới và vũ trụ. Không giống như các xã hội truyền thống, nơi các bản sắc được xác định trước về mặt xã hội, trong các xã hội phức tạp, xã hội hóa quy định và quy trình phân mảnh. Nó cũng phân chia quỹ đạo của mỗi người dựa trên thực tế nắm bắt và chiếm đoạt thực tế xã hội. Theo Pujadas (1993: 48), phương trình rút gọn chỉ ra rằng một nhóm xã hội xác định hoặc bằng với một nền văn hóa không hoạt động trong khuôn khổ của các hình thức nhận dạng mới làm phức tạp sự hiểu biết của cá nhân như một chủ thể mạch lạc trong một bộ sưu tập của các định danh văn hóa khác nhau (Berger và Luckman, 1988: 240). "Phân loại bản sắc - ngay cả khi chúng được mã hóa và hợp nhất thành các kiểu chữ rõ ràng bằng các quá trình thuộc địa hóa, hình thành nhà nước hoặc các quá trình hiện đại hóa chung - luôn luôn đầy căng thẳng và mâu thuẫn. Đôi khi những mâu thuẫn này mang tính hủy diệt, nhưng chúng cũng có thể sáng tạo và tích cực ". Khi nhận ra sự khó khăn trong việc thiết lập sự khác biệt hoặc ranh giới giữa bản sắc xã hội và bản sắc cá nhân Jenkins (1996: 19-20) đã đặt ra khái niệm về bản sắc xã hội trong lĩnh vực xã hội học và nói rằng "nếu bản sắc là một điều kiện cần thiết cho đời sống xã hội, điều kiện này là có đi có lại, "điều này áp dụng cho cả bản sắc cá nhân và tập thể. Trong bối cảnh văn hóa xã hội, môi trường và xã hội nơi các cá nhân sống và phát triển, Barnett và Casper (2001) gọi họ là đấu trường văn hóa. Đó là, văn hóa mà cá nhân được giáo dục hoặc sống, và con người và các tổ chức mà anh ta tương tác với. Sự tương tác có thể trực tiếp hoặc thông qua các tác nhân như phương tiện truyền thông, thậm chí theo một cách ẩn danh và đơn hướng và không ngụ ý bình đẳng về địa vị xã hội. Do đó, môi trường xã hội là một khái niệm rộng hơn tầng lớp xã hội hoặc vòng tròn xã hội. Đấu trường văn hóa của một cá nhân, hoặc nơi anh ta sống, ảnh hưởng đến văn hóa mà người đó tuân thủ. Môi trường, môi trường, con người, là những yếu tố cơ bản tạo điều kiện cho cá nhân liên quan đến văn hóa mà anh ta thuộc hoặc chọn thuộc về. Nhiều người nhập cư buộc phải thay đổi văn hóa của họ để phù hợp với văn hóa của vùng đất mới tổ chức họ. Một số nhóm hoặc nhóm cá nhân có thể thích nghi với các nền văn hóa khác nhau trong khi duy trì nguồn gốc của họ. Nhiều người giao tiếp và tương tác với các nền văn hóa đa dạng. Do đó, bản sắc văn hóa có khả năng có nhiều hình thức và có thể thay đổi tùy thuộc vào bối cảnh và địa điểm. Tính dẻo này là thứ cho phép mọi người cảm thấy là một phần của xã hội mọi lúc mọi nơi. Acculturation là quá trình và mô hình khái niệm về thay đổi văn hóa và thay đổi tâm lý bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hóa. Có thể thấy ảnh hưởng của sự dồn dập ở nhiều cấp độ trong cả hai nền văn hóa tương tác. Acculturation là một sự thay đổi trực tiếp của văn hóa của một người thông qua sự thống trị đối với văn hóa của người khác, thông qua sự chinh phục quân sự, kinh tế hoặc chính trị. Đối với nhóm, sự bồi đắp chắc chắn tạo ra những thay đổi trong văn hóa, phong tục và thể chế xã hội. Những ảnh hưởng đáng chú ý của việc tích lũy trong các nhóm thường bao gồm những thay đổi về thực phẩm, quần áo và ngôn ngữ. Ở cấp độ cá nhân, người ta thấy rằng sự khác biệt trong hình thức bồi đắp của các cá nhân có liên quan, không chỉ với những thay đổi trong hành vi hàng ngày, mà còn với nhiều biện pháp về sức khỏe tâm lý và thể chất. Vì mã hóa được sử dụng để mô tả quá trình học tập của nền văn hóa thứ nhất, sự tiếp biến có thể được coi là học tập của nền văn hóa thứ hai. Transculturation là một thuật ngữ được đặt ra bởi nhà nhân chủng học người Cuba Fernando Ortiz, vào năm 1947, để mô tả hiện tượng hợp nhất và hội tụ của các nền văn hóa. Transculturation có nghĩa là nhiều hơn sự chuyển đổi từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác. Nó không chỉ đơn giản là có được một nền văn hóa khác - văn hóa - hoặc mất hoặc nâng cao nền văn hóa trước đó - thay vào đó, nó hợp nhất các khái niệm này và hơn nữa, kéo theo ý tưởng về việc tạo ra hiện tượng văn hóa mới - bao trùm-. Ortiz cũng đề cập đến tác động tàn phá của chủ nghĩa thực dân Tây Ban Nha đối với các dân tộc bản địa Cuba là một sự chuyển đổi thất bại. Theo nghĩa rộng, xuyên biên giới bao gồm chiến tranh, xung đột sắc tộc, phân biệt chủng tộc, đa văn hóa, liên văn hóa, hôn nhân giữa các chủng tộc, liên quan đến nhiều hơn một nền văn hóa. Các quá trình chung của quá trình chuyển mã là vô cùng phức tạp, được dẫn dắt bởi các lực lượng mạnh mẽ ở cấp độ xã hội vĩ mô, nhưng kết tinh ở cấp độ giữa các cá nhân. Động lực của cuộc xung đột có thể là sự gần gũi đơn giản của biên giới. Cuộc xung đột bắt đầu khi các xã hội xâm chiếm lãnh thổ, chồng chéo nhau. Nếu không thể tìm thấy phương tiện cùng tồn tại ngay lập tức, xung đột có thể là thù địch. Mức độ của xung đột thù địch khác nhau từ cuộc chinh phạt tuyệt đối, đến cuộc đấu tranh nội bộ giữa các nhóm chính trị khác nhau, trong cùng một cộng đồng dân tộc. Các quá trình chuyển mã trở nên phức tạp hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa, với nhiều lớp trừu tượng và chủ thể thấm vào kinh nghiệm hàng ngày. Elizabeth Bath lập luận rằng, trong kỷ nguyên toàn cầu, quá trình chuyển mã không còn chỉ được xem xét trong mối quan hệ trực tiếp, mà phải tính đến các tương tác tạo nên khuôn khổ trong quá trình này. Một hiện tượng mà cô mô tả là các lớp chuyển hóa. Nó có ý nghĩa gì về bản sắc văn hóa? Truy xuất tại tham khảo.com. Điểm tương đồng giữa văn hóa và bản sắc là gì? Truy xuất tại tham khảo.com. Điểm tương đồng giữa văn hóa và bản sắc là gì? Khoa học sống Truy xuất tại tham khảo.com. Lý thuyết tự nhận thức. ), Những tiến bộ trong tâm lý học xã hội thí nghiệm (Tập 6, tr.1-62). Phát triển một thước đo chung về sự thừa nhận của cá nhân đối với quá trình tự nhận thức của họ. Tương tác giữa giáo viên và trẻ em: quan hệ với khái niệm bản thân của trẻ em ở lớp hai. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ phát triển. Một số phương pháp lý thuyết cho chủ đề bản sắc. Dân tộc Bản sắc văn hóa của các dân tộc. Bất chấp sự khủng khiếp của các loại hình: Tầm quan trọng của việc hiểu các phạm trù khác biệt và bản sắc. Can thiệp: Tạp chí quốc tế về nghiên cứu hậu thuộc địa. Một định nghĩa về môi trường xã hội. Tạp chí Sức khỏe Cộng đồng Hoa Kỳ. Sự phức tạp trong bản sắc văn hóa. Ngôn ngữ và giao tiếp đa văn hóa, được phục hồi trên wikipedia.org. Tích lũy khi các cá nhân và các nhóm nền tảng văn hóa khác nhau gặp nhau. Quan điểm về khoa học tâm lý. Về chuyển mã: Tái hiện và làm lại điệu nhảy và âm nhạc Latin ở vùng đất xa lạ. Lấy từ rowmani quốc tế. Các cô gái từ làng Masanga Sierraleonese tham gia vào các nghi lễ Bondo thay thế, trong đó họ bắt đầu là phụ nữ trưởng thành mà không trải qua phẫu thuật cắt bỏ bộ phận sinh dục. Hơn 600 cô gái đã tham gia vào họ kể từ năm 2010. Bộ sưu tập: Những nguy hiểm khi sinh ra một cô gái ở những nơi khác nhau trên thế giới, National Geographic. Bruce, A. Trong một nhà vệ sinh ở miền nam Afghanistan, chỉ có phụ nữ mới có thể đọc được. Trên khắp thế giới thông qua các nhà vệ sinh của nó, National Geographic. Những đứa trẻ balsareños của trường Pablo Nivela Carriel diễn giải chủ đề điển hình của mỏ Playita, lấy cảm hứng từ cuộc sống của ngư dân, phụ nữ của trái đất và thiên nhiên. Đã được phục hồi tại flickr.com/photos/preinfuraguayas/8220659579. Cách mạng giới Ấn bản lịch sử tháng 1 năm 2017, tạp chí National Geographic, về các vấn đề giới tính.
Bản sắc văn hóa
Bản sắc văn hóa hay bản thể văn hóa (tiếng Anh: cultural identity) là bản thể hay cảm giác thuộc về một nhóm nào đó. Nó là một phần của khái niệm về bản thân và nhận thức về bản thân của một người, và có liên quan đến quốc tịch, sắc tộc, tôn giáo, giai cấp xã hội, thế hệ, địa phương hay bất cứ loại nhóm xã hội nào có văn hóa riêng biệt. Bản sắc văn hóa đặc trưng cho cả cá nhân và nhóm đồng nhất về văn hóa với các thành viên có chung bản sắc văn hóa.
Wiki Hỏi đáp trực tuyến là website chia sẻ kiến thức cộng đồng về tất cả lĩnh vực từ giáo dục, kinh tế, xã hội khoa học, đời sống, gia đình. Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng. Ngoài ra, còn có một cách định nghĩa về rừng khác: Rừng là quần xã sinh vật trong đó cây rừng là thành phần chủ yếu. Quần xã sinh vật phải có diện tích đủ lớn. Giữa quần xã sinh vật và môi trường, các thành phần trong quần xã sinh vật phải có mối quan hệ mật thiết để đảm bảo khác biệt giữa hoàn cảnh rừng và các hoàn cảnh khác. Rừng điều hòa không khí trong lành: Mọi người đều biết, cây xanh có khả năng quang hợp. Do đó, rừng giống như một nhà máy thu nhận khí Cacbonic (CO2) và sản xuất ra Oxy (O2),… Đặc biệt là trong tình trạng trái đất đang ngày một nóng lên như hiện nay, thì việc giảm lượng khí CO2 là điều cực kỳ quan trọng. Giúp điều tiết lượng nước, phòng chống thiên tai lũ lụt, xói mòn và sạt lở đất: Vai trò của rừng là đặc biệt quan trọng trong phòng chống thiên tai. Điều hòa và giảm dòng chảy bề mặt. Ngoài ra, chúng còn giúp khắc phục xói mòn, hạn chế lắng đọng lòng hồ, lòng sống, điều hòa dòng chảy của sông, suối. Rừng có tác dụng làm tăng độ phì nhiêu, bồi dưỡng tiềm năng của đất: Khả năng chế ngự dòng chảy của rừng giúp ngăn chặn sự bào mòn đất. Đặc biệt là ở những vùng đồi núi có độ dốc lớn. Rừng giữ cho lớp đất mặt không bị xói mòn đi. Cùng với đó là mọi đặc tính vi sinh vật học và lý hóa cũng như độ phì nhiêu của đất được giữ nguyên. Rừng là nơi trú ngụ khổng lồ và vô cùng tuyệt vời của các loại động thực vật quý hiếm. Nguồn cung cấp dược liệu, các loại thực phẩm giàu giá trị dinh dưỡng. Là nguồn gen để nghiên cứu khoa học…. Do đó, mỗi quốc gia cần có một diện tích rừng tối ưu khoảng 45%, đây là một trong những tiêu chí an ninh môi trường vô cùng quan trọng. Vai trò của rừng là rất quan trọng trong đời sống, sản xuất, môi trường và xã hội. Tuy nhiên nạn khai thác rừng bừa bãi hiện nay vẫn đang diễn ra từng ngày. Nhiều người vì các lợi trước mặt mà bỏ qua lợi ích lâu dài mà rừng đã và đang đem lại. Khi rừng đầu nguồn bị chặt phá sẽ khiến lũ lụt xảy ra liên miên. Làm xói mòn đất khiến người dân mất của thậm chí là ảnh hưởng tới tính mạng. Các loại cây trồng trong rừng bị chặt phá khiến các loài động vật mất đi chỗ trú ngụ. Bên cạnh đó nạn đốt phá rừng làm nương rẫy cũng khiến diện tích rừng bị suy giảm trầm trọng. Do vậy chúng ta cần bảo vệ rừng bằng những hành động thiết thực ngay từ bây giờ. Cần tuyên truyền để nâng cao ý thức cho người dân trong việc bảo vệ vai trò của rừng. Vùng thường xuyên bị bão lũ, thiên tai cần trồng rừng đầu nguồn. Ngoài ra, cần tích cực phủ xanh đất trống đồi trọc. Đặc biệt, với nạn phá rừng, Nhà nước cần phải có các chính sách xử phạt nghiêm minh nhằm răn đe mọi người. Theo đó, đến ngày 31/12/2018, diện tích đất có rừng toàn quốc là 14.491.295 ha, trong đó: rừng tự nhiên 10.255.525 ha, rừng trồng 4.235.770 ha. Diện tích đất có rừng đủ tiêu chuẩn để tính độ che phủ toàn quốc là 13.785.642 ha, tỷ lệ che phủ là 41,65%. Thực trạng nạn chặt phá rừng ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề hết sức nghiêm trọng. Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT), chỉ trong hơn 5 năm từ 2012 – 2017, diện tích rừng tự nhiên đã bị mất do chặt phá rừng trái pháp luật mất chiếm 11%, 89% còn lại là do chuyển mục đích sử dụng rừng tại những dự án được duyệt. Tính đến tháng 09/2017, diện tích rừng bị chặt phá là 155,68 ha và 5364,85 ha diện tích rừng bị cháy. Thực tế, diện tích rừng tự nhiên ở Việt Nam đang ngày càng suy giảm nhanh với tốc độ chóng mặt. Nhất là độ che phủ rừng ở khu vực miền Trung. Độ che phủ rừng ở nước ta hiện còn chưa đến 40%, diện tích rừng nguyên sinh còn khoảng 10%.
Tái trồng rừng
Tái trồng rừng là việc bổ sung thêm một cách tự nhiên hay cố ý các khu rừng rậm và rừng thừa (sự trồng rừng) mà đã bị làm cho suy kiệt, thường là do việc phá rừng. Tái trồng rừng có thể được sử dụng để điều chỉnh hoặc cải thiện chất lượng cuộc sống con người bằng việc hấp thụ ô nhiễm môi trường và bụi bẩn từ không khí, xây dựng lại sinh cảnh và hệ sinh thái tự nhiên, giảm thiểu hiện tượng ấm lên toàn cầu vì các khu rừng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tách sinh học cacbon dioxide trong không khí, và có thể khai thác gỗ làm tài nguyên, hoặc cũng có thể là lâm sản ngoài gỗ. Một khái niệm tương tự, trồng mới rừng, một dạng khác của trồng rừng, ám chỉ quá trình phục hồi và tái tạo các khu vực rừng thưa hoặc rừng rậm đã tồn tại trước đây nhưng bị tàn phá hoặc bị phá bỏ bằng cách khác vào một tời điểm nào đó trong quá khứ hoặc trống một các tự nhiên (như các đồng cỏ tự nhiên). Đôi lúc thuật ngữ "trồng mới rừng" được sử dụng để phân biệt giữa rừng nguyên sinh và những khu rừng tái sinh của một khu vực.
Nuôi cá là một nghệ thuật một thú vui tao nhã được rất nhiều yêu thích như nuôi cá cảnh. Nuôi cá có thể là hình thức nuôi cá thương mại dùng để bán. – Nước máy có lượng clo rất lớn và chất này không tốt khi nuôi cá, vì vậy trước khi sử dụng nước máy cần tiến hành khử clo trong nước bằng cách cho nước vào xô, chậu không đậy nắp và để trong khoảng 24h. – Nước giếng không thích hợp để nuôi cá vì thường có chứa phèn, PH thấp. – Nhiều người nghĩ rằng nước mưa rất phù hợp để nuôi cá, tuy nhiên trong nước mưa có hàm lượng PH cực thấp, hồ nước nhanh có tảo và rêu. Sau khoảng 1-2 tuần thay nước bể cá 1 lần, vì thay nước thường xuyên cá dễ bị chết do không thích nghi kịp thời với môi trường nước mới. Đặt bể cá ở nơi có điều kiện nhiệt độ tương ứng khoảng 26-18 độ C, môi trường mát mẻ và có thể sử dụng đèn chiếu sáng. Nên sử dụng máy oxy kết hợp với máy lọc nước để đảm bảo cung cấp đầy đủ khí khi nuôi cá cảnh, đảm bảo điều kiện sống cho cá. Cho cá ăn với liều lượng vừa đủ, nếu cho cá ăn liên tục sẽ dẫn đến bội thực và chết, lượng thức ăn dư thừa có thể làm đục nước trong bể và tạo môi trường có các vi sinh vật có hại sinh trưởng. Cho cá ăn 2 lần/ ngày vào thời gian sáng và chiều, thực phẩm sử dụng để nuôi cá cảnh khá phong phú, có thể sử dụng thực phẩm tươi như ấu trùng, thực phẩm đông lạnh hoặc thực phẩm khô. Buồn ngủ mà không ngủ được do đâu? đây là vấn đề rất nhiều người gặp phải. Việc không thể ngủ sẽ rất ảnh hưởng đến. Hello Sức Khỏe nơi cung cấp nhiều kiến thức liên quan đến sức khỏe, làm đẹp cho phụ nữ, tăng cân hay giảm cân, mang lại nhiều điểu bổ ích.
Nuôi cá
Nuôi cá là việc thực hành chăn nuôi các loại cá để cung cấp nguồn thực phẩm cho con người. Đây là hình thức chủ yếu của nuôi trồng thủy sản, trong khi các phương pháp khác có thể xem là nuôi trồng hải sản. Nuôi cá liên quan đến việc nuôi cá thương mại trong lồng, bè thường là cho thực phẩm. Một cơ sở đó thả cá bột vào tự nhiên để câu cá giải trí hoặc để bổ sung các số lượng tự nhiên của một loài thường được gọi là một trại sản xuất giống cá. Trên thế giới, các loài cá quan trọng nhất được sử dụng trong nuôi cá là cá chép, cá hồi, cá rô phi và cá da trơn. Có một nhu cầu ngày càng tăng cho nguồn thịt cá và protein cá, mà đã dẫn đến khai thác quá mức phổ biến rộng rãi trong ngành thủy sản tự nhiên. Nuôi cá cung cấp cho các nhà tiếp cận các nguồn khác. Tuy nhiên, nuôi cá ăn thịt, như nuôi cá hồi, không phải lúc nào cũng làm giảm áp lực đối với thủy sản hoang dã, vì cá nuôi ăn thịt thường được cho ăn bột cá và dầu cá được chiết xuất từ cá mồi hoang dã.
Hiện nay, do tình hình căng thẳng tại Biển Đông hay miền đông Ukraine mà người ta tạm lãng đi một điểm nóng khác trên thế giới. Đó là Trung Đông. Giống như khi người ta đau răng thì quên đi cơn đau bụng. Nhưng không phải vì đau răng mà hết đau bụng. Trên thực tế “cơn đau” này đang dần bùng phát. Khu vực này đang nóng dần lên với sự ra đời của Chính phủ đoàn kết dân tộc Palestinee kèm theo sự phản đối quyết liệt của Israel mà nguyên nhân chính là sự có mặt của Tổ chức Hồi giáo Hamas – Tổ chức bị Israel coi là kẻ thù số một. Nói đến Hamas, nhiều người lập tức liên tưởng tới những chiến binh đội mũ trùm bịt mặt, quần áo rằn ri, súng AK47 lăm lăm trên tay. Nhưng thực tế họ là ai, có lịch sử thế nào, quy mô tổ chức ra sao mà dám đương đầu với Israel - một cường quốc đã mạnh về quân sự lại được sự ủng hộ trực tiếp của Mỹ và khiến cho Israel phải nhiều lần huy động cả thuỷ, lục, không quân đồng loạt tấn công vào dải Gaza biến Trung Đông thành một trong những điểm nóng nhất trên thế giới hiện nay?! Câu hỏi này không phải tất cả mọi người đều biết. Trong tiếng Arab, Hamas là viết tắt của từ Harakat Al-Muqawama Al-Islamia có nghĩa là Tổ chức kháng chiến Hồi giáo. Bản thân từ Hamas trong tiếng Arab còn có nghĩa là nhiệt tâm. Đây là tổ chức vũ trang lớn nhất và có ảnh hưởng nhất của Palestine. Thậm chí, tháng 1/2006, Hamas còn đánh bại Phong trào Fatah do ông Mahmoud Abbas dẫn đầu, giành thắng lợi trong Tổng tuyển cử của Palestine. Hamas không ngừng theo đường lối cứng rắn không công nhận sự tồn tại của Nhà nước Do Thái Israel. Theo đó, Hamas liên tục tiến hành các cuộc tấn công mang màu sắc khủng bố nhằm vào Israel như: đánh bom liều chết, bắn rocket vào lãnh thổ Israel, đặt bom… Hamas còn tiến hành các vụ tấn công tại cả Khu Bờ Tây sông Jordan và dải Gaza thuộc Palestine. Chính vì các hoạt động này, Hamas bị gán cho cái tên Tổ chức Hồi giáo cực đoan, quá khích. Hamas phát triển và tách ra từ Tổ chức Muslim Brotherhood - một tổ chức tôn giáo-chính trị được thành lập tại Ai Cập và có chi nhánh tại tất cả các nước Arab. Từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước, Sheikh Ahmed Yassin - người sáng lập và lãnh tụ tinh thần của Hamas, bắt đầu truyền đạo và tiến hành các hoạt động từ thiện tại dải Gaza và khu Bờ Tây (lúc đó đang bị Israel chiếm đóng sau cuộc Chiến tranh bảy ngày năm 1967). Năm 1973, ông Yassin lập ra Trung tâm Hồi giáo để điều phối các hoạt động chính trị của Muslim Brotherhood tại Gaza. Sau khi phong trào kháng chiến chống Israel lần thứ nhất (Intifada) của người Palestine bùng nổ, vào tháng 12/1987, ông Yassin cho ra đời tổ chức có tên gọi Hamas nhằm tạo thêm phương tiện chính trị cho Muslim Brotherhood tại khu vực. Năm 1988, Hamas đưa ra Tuyên ngôn đầu tiên của mình và chính thức tách khỏi đường lối hoạt động phi bạo lực của Muslim Brotherhood. Từ đó trở đi, các hoạt động của Hamas mang màu sắc bạo lực. Vụ đánh bom liều chết đầu tiên do Hamas tiến hành xảy ra vào tháng 4/1993. 5 tháng sau đó, Cố Tổng thống Palestine Yasir Arafat và Cố Thủ tướng Israel Yitzhak Rabin ký Hiệp ước Oslo về hoà bình giữa Palestine và Israel - một Hiệp ước chưa bao giờ được thực hiện. Tháng 11/1995, ông Rabin bị ám sát. Tháng 11/2004, Tổng thống Arafat từ trần. Đó là những mốc đánh dấu sự thay đổi lớn của Hamas. Như đã nêu trên, người sáng lập kiêm lãnh tụ tinh thần đầu tiên của Hamas là Sheikh Ahmed Yassin. Tuy nhiên, Hamas còn nhiều lãnh đạo khác. Tất cả đều là những tên tuổi lẫy lừng trong thế giới Hồi giáo, trong đó có cả Cựu Thủ tướng Chính phủ Palestine Ismail Haniyeh. Tuy nhiên lãnh tụ tối cao của Hamas lại là ông Khaled Meshal đang sống lưu vong tại Syria. Xin nêu đôi nét về tiểu sử của nhân vật nổi tiếng này. Khaled Meshal sinh năm 1956 tại Silwad - một làng nhỏ ở khu Bờ Tây nhưng lại sống phần lớn thời gian ở nước ngoài. Năm 1967, gia đình ông chuyển tới sống tại Kuwait. Ông học về Vật lý tại trường Đại học tổng hợp Kuwait. Tại đây, ông thành lập một nhóm sinh viên với tên gọi Danh sách Quyền Hồi giáo. Từ năm 15 tuổi, ông đã gia nhập Muslim Brotherhood và là một thành viên tích cực, đầy triển vọng của tổ chức này. Sau chiến tranh Kuwait – Iraq năm 1990, ông chuyển đến sống tại Jordan và trở thành lãnh đạo chi nhánh của Hamas tại nước này. Năm 1999, ông bị bỏ tù khi Quốc vương Jordan quyết định đặt chi nhánh của Hamas tại nước này ra ngoài vòng pháp luật. Hiện nay, Khaled Meshal vẫn đang sống lưu vong tại Syria mà không dám trở về khu vực lãnh thổ của Palestine vì e ngại sẽ bị Israel bắt hoặc sát hại. Hamas chủ yếu hoạt động tại dải Gaza và khu Bờ Tây cũng như trong lãnh thổ Israel. Trên thực tế, tổ chức này kiểm soát toàn bộ dải Gaza. Sau khi lên nắm quyền vào năm 2006, các nhà lãnh đạo của Hamas đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại trong khu vực. Hoạt động của Hamas trở nên ôn hoà hơn khiến đã có lúc người ta nghĩ tổ chức này sẽ từ bỏ đường lối bạo lực. Vào mùa hè năm 2007, quan hệ giữa Hamas và phái ôn hoà Fatah trở nên căng thẳng dẫn tới sự chia rẽ sâu sắc trong nội bộ Palestine cũng như sự phân chia lãnh thổ theo đó Hamas kiểm soát dải Gaza còn Fatah kiểm soát khu Bờ Tây. Cũng ngay từ khi lên năm quyền, Hamas liên tục bắn rocket và lãnh thổ Israel, trong đó có lần gây thiệt hại và người và của. Đầu năm 2008, Hamas và Israel đạt được một thở thuận ngừng bắn, nhen lên một tia hy vọng về hoà bình cho Trung Đông đầy máu lửa. Thế nhưng, đến cuối năm 2008, bạo lực tái phát, dẫn đến cuộc tấn công ồ ạt cuả Israel vào dải Gaza từ cuối tháng 12 năm 2008. Và từ ngày 14 đến 21/11/2012, Israel lại một lần nữa đổ quân tấn công dải Gaza nhằm tiêu diệt Hamas khiến hơn 200 người thiệt mạng. Sau đó liên tục là các vụ tấn công và bắn rốc-két phục thù qua lại giữa hai bên khiến nhiều dân thường thiệt mạng. Hamas kết hợp chủ nghĩa dân tộc của Palestine với giáo lý cơ bản, chính thống của đạo Hồi. Tuyên ngôn của Hamas nhấn mạnh việc tiêu diệt Nhà nước Do Thái, thay thế nhà nước Palestine hiện nay bằng một Nhà nước Hồi giáo tại dải Gaza và khu Bờ Tây sông Jordan với mục tiêu làm cho “Ngọn cờ của Thánh Allah che phủ tới từng tấc đất của Palestine”. Hamas có quan điểm cứng rắn: “đàm phán hoà bình không mang lại kết quả”. Liên quan tới điều này, Abd al-Aziz Rantisi - một nhà lãnh đạo của Hamas dã từng tuyên bố: “Chúng tôi không tin là có thể sống chung với kẻ thù”. Xin khẳng định ngay là Không! Theo ước tính, ngân sách hàng năm của tổ chức này vào khoảng 70 triệu USD. Hamas không chỉ dùng số tiền này cho các hoạt động quân sự mà còn chi cho việc phát triển các dịch vụ xã hội. Hamas còn tài trợ cho các trường học, cô nhi viện, nhà thờ Hồi giáo, các cơ sở y tế, các hoạt động thể thao… Chính một học giả Israel – ông Reuven Paz cũng thừa nhận điều này và cho biết: “có tới 90% hoạt động của Hamas tập trung vào dịch vụ, phúc lợi xã hội, văn hoá và giáo dục…”. Một tổ chức nắm quyền mà chỉ tập trung 10% vào các hoạt động vũ trang thì không phải là một tổ chức khủng bố. Không ai biết chính xác con số các tay súng cũng như người ủng hộ của Hamas. Các nguồn tin tình báo cũng chỉ ước tính Hamas có hàng ngàn tay súng và hàng ngàn người ủng hộ. Chính điều này làm cho Hamas càng thêm bí ẩn. Đó là còn chưa kể tới rất đông những người có cảm tình với Hamas. Có thể thấy rõ điều này qua sự so sánh sau đây. Nếu như ngày 22/3/2004, có tới hơn 200 ngàn người tới dự đám tang của Tổng thống Arafat, thì vào ngày 18/4 cùng năm cũng có số lượng người tương tự tới truy điệu Abdel Aziz Rantisi - một nhà lãnh đạo và là một trong những người sáng lập Hamas. Phần lớn nguồn tiền của Hamas là từ các nhà tài trợ Palestine đang sinh sống tại Arab Saudi và một số nước thuộc Vùng Vịnh. Ngoài ra, một số Chính phủ ở Trung Đông cũng tài trợ cho các hoạt động xã hội của Hamas, có nước tài trợ lên tới khoảng 20 - 30 triệu USD/năm. Bên cạnh đó, một số các tổ chức Hồi giáo từ thiện tại Mỹ, Canada và một số nước Phương Tây khác cũng đóng góp tài chính cho Hamas. E ngại trước sự lớn mạnh của Hamas, năm 2001, Chính phủ Mỹ của Tổng thống Bush đã ra lệnh đóng băng tài sản của một số tổ chức bị nghi ngờ có tài trợ cho Hamas. Tổ chức này bị nghi ngờ tiến hành hơn 450 cuộc tấn công khủng bố khiến hơn 600 người thiệt mạng từ năm 1993 đến nay. Hamas không chỉ đánh bom liều chết mà còn công nhận đã tiến hành các vụ đặt bom, bắn rocket, vũ khí cầm tay. Từ năm 2001 - 2003, Hamas cùng tổ chức Hồi giáo Jihad tiến hành một loạt các vụ tấn công nhằm vào Israel. Điều này dẫn đến việc Chính phủ Israel quyết định xây dựng bức tường ngăn giữa nước này và lãnh thổ Palestine. Tổ chức này chủ yếu nhằm vào các đối tượng là thanh thiếu niên, đặc biệt là các thanh thiếu niên có dấu hiệu tâm lý bất thường. Điểm chung nhất của các đối tượng này là lòng căm thù đối với Israel. Sau khi được tuyển mộ, các đối tượng này được huấn luyện kỹ càng về kỹ thuật sử dụng vũ khí, chất nổ. Đặc biệt, họ được tăng cường lòng tin về tôn giáo, tin tưởng một cách nhiệt thành rằng hành động của họ là hành động thần thánh, một sự hy sinh cao cả. Một tuần trước khi đánh bom, các đối tượng bị giám sát một cách chặt chẽ. Họ thường tự thu một đoạn băng video của chính mình và xem đi xem lại đoạn băng này để lấy thêm lòng tin và sự can đảm. Họ cũng tin rằng cái chết của họ không hề đau đớn và sau khi chết, trên thiên đàng có nhiều trinh nữ xinh đẹp như mơ chờ đón họ. Sau khi vụ đánh bom diễn ra, gia đình của người đánh bom được trả khoảng 3000 - 5000USD và cái chết của họ được mô tả là một sự hy sinh thần thánh. Theo kết quả điều tra tình báo, chi phí cho một vụ đánh bom liều chết vào khoảng 150USD. Hiện nay, với sự cứng rắn trong chính sách của mình, Hamas được coi là nguy cơ và mục tiêu số một của Israel. Cuộc tấn công vào dải Gaza không chỉ là con bài chính trị mà các ứng cử viên quyền lực của Israel áp dụng để lấy lòng cử tri trước thềm các cuộc bầu cử mà nó còn có một mục tiêu thực sự là tiêu diệt sức đề kháng của Hamas. Sau khi Israel đơn phương tuyên bố ngừng bắn vào năm 2012 thì Hamas cũng quyết định tạm thời đình chiến, máu lửa chiến tranh tại dải Gaza đã tạm thời lắng dịu. Tuy nhiên, quân đội Israel vẫn đang tiếp tục có mặt tại dải Gaza và chiến sự lẻ tẻ vẫn đang diễn ra đây đó trên miền đất bị tàn phá ghê gớm này. Với sự không khoan nhượng của cả Israel lẫn Hamas, dư luận lo ngại rằng tất cả chỉ mang tính thời điểm vì một lý do chính trị, kinh tế hoặc ngoại giao nào đó, còn về tư tưởng, chính kiến, sự xung đột đến mức “không đội trời chung” giữa Israel và Hamas được coi là ngòi cháy chậm cho “thùng thuốc súng Trung Đông”. Và, như những kinh nghiệm đã có tiền lệ, sự bùng phát của nó sẽ không hề có dấu hiệu báo trước./.
Chiến tranh Israel–Hamas 2008-2009
Chiến tranh Gaza - gọi là Chiến dịch Chì Đúc (tiếng Hebrew: מבצע עופרת יצוקה Mivtza Oferet Yetzuka) bởi Lực lượng Phòng vệ Israel và còn được gọi với cái tên Thảm sát Gaza (tiếng Ả Rập: مجزرة غزة) đối với thế giới Ả Rập, là một xung đột dài ba tuần giữa Israel và Hamas xảy ra tại Dải Gaza và Nam Israel trong mùa đông năm 2008-2009. Chiến dịch này nhằm trả đũa việc phe Hamas (Palestine) tấn công vào lãnh thổ Israel bằng rốcket và những vụ đánh bom liều chết. Tính cho tới thời điểm này, đay là chiến dịch gây tổn thất lớn nhất kể từ khi Hamas giành quyền kiểm soát Gaza kể từ năm 2006. Lệnh ngưng bắn giữa Hamas và Israel kết thúc từ ngày 19 tháng 12 năm 2008. Hamas đổ lỗi cho Israel về việc lệnh ngưng bắn, tuyên bố Israel không tôn trọng các điều khoản của cuộc ngưng bắn, bao gồm việc dỡ bỏ phong tỏa dải Gaza. Israel tuyên bố Hamas đã bắn hàng trăm đạn cối, rốc-két và tên lửa vào Israel ngay cả khi lệnh ngưng bắn còn có hiệu lực, và tăng cường bắn phá kể từ sau lệnh ngưng bắn hết hạn.
Ngày chiến thắng (8 tháng 5 năm 1945) còn được gọi là Ngày Chiến thắng ở châu Âu (tiếng Anh viết tắt: VE Day hoặc V-E Day). Đây là ngày mà quân đội các nước đồng minh chính thức chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của các lực lượng vũ trang nước Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sự đầu hàng muộn nhất của quân đội Đức Quốc xã trên quần đảo Channel diễn ra ngày 9 tháng 5. Sau khi Adolf Hitler tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1945, đô đốc Karl Dönitz kế nhiệm vai trò quốc trưởng nước Đức Quốc xã và điều hành một chính phủ tại Flensburg. Dưới sự chỉ đạo của Karl Dönitz, tướng Alfred Jodl đã ký văn bản đầu hàng sơ bộ tại Reims ngày 7 tháng 5 và văn bản này được phê chuẩn bởi một văn bản chính thức được ký đêm 8 rạng ngày 9 tháng 5 (giờ Trung Âu) giữa đoàn đại biểu quân đội Đức Quốc xã được sự ủy quyền của chính phủ Karl Dönitz với các đoàn đại biểu các nước đồng Minh Hoa Kỳ, Liên Xô, Anh và Pháp. Năm 1945, hơn một triệu người đã đổ ra đường ăn mừng ngày chiến tranh kết thúc ở châu Âu - dù trước mắt những khó khăn do chiến tranh gây ra vẫn còn đó. Ở Luân Đôn, đông đảo người dân đổ ra Đại lộ Mall (Luân Đôn) suốt từ Quảng trường Trafalgar ở đầu phía Đông đến Lâu đài Buckingham ở đầu phía Tây đại lộ, nơi vua George VI, Hoàng hậu Elizabeth Bowes-Lyon và Thủ tướng Winston Leonard Spencer-Churchill đứng trước ban công Cung điện chia vui cùng dân chúng. Công chúa Elizabeth (nay là Nữ hoàng Elizabeth II) và Công chúa Margaret được vua cha cho phép tham gia vào buổi diễu hành ăn mừng của đám đông công chúng. Là một trong năm đồng minh lớn chống phát xít, ngày 8 tháng 5 được tuyên bố là ngày lễ kỷ niệm quốc gia của Pháp từ ngày 20 tháng 3 năm 1953 và là ngày nghỉ. Tuy nhiên, đến ngày 11 tháng 4 năm 1959, bằng một nghị định, Tổng thống Charles de Gaulle không xem ngày kỷ niệm 8 tháng 5 là ngày nghỉ. Để nhận được một sự hoà giải về hình thức với Cộng hoà Liên bang Đức (Tây Đức), Tổng thống Giscard dEstaing cũng loại bỏ việc phối hợp với các nước Đồng minh kỷ niệm chiến thắng 8 tháng 5. Nghi thức kỷ niệm ngày chiến thắng tại Pháp được Tổng thống Francois Mitterrand khôi phục lại vào ngày 1 tháng 6 năm 1981. Đối với người Pháp, ngay từ lần tổ chức mừng chiến thắng đầu tiên đã diễn ra không suôn sẻ tại thành phố Constantine ở Algeria, một thuộc địa của Pháp. Đúng ngày 8 tháng 5 năm 1945, trong cuộc ăn mừng ngày Tây Âu được giải phóng, những người yêu nước Algeria đã lợi dụng cuộc diễu hành để bày tỏ tinh thần yêu nước của họ. Cảnh sát đã nổ súng vào đoàn diễu hành, giết chết một thanh niên cầm cờ của Mặt trận Giải phóng dân tộc Algeria, gây nên sự hỗn loạn. Quân đội kéo đến đàn áp và thảm hoạ đã xảy ra, được quốc tế biết đến với tên gọi "Các vụ thảm sát ở Sétif, Guelma và Kherrata", (Les massacres de Sétif, Guelma et Kherrata). Chính phủ Pháp công bố số thương vong là 1.165 người. Cơ quan tình báo Hoa Kỳ đưa ra con số lớn hơn: 17.000 người chết và 20.000 người bị thương. Sau này, chính phủ Algeria của tổng thống Houari Boumédiène cho rằng có đến 45.000 chết và bị thương. Năm 1945, tại Hoa Kỳ, Tổng thống Harry S. Truman - lúc này vừa kỷ niệm sinh nhật lần thứ 61 của mình - tổ chức buổi lễ mừng chiến thắng nhằm tưởng nhớ người tiền nhiệm của mình, Franklin Delano Roosevelt, vừa mới qua đời vào ngày 12 tháng 4 năm 1945. Lúc đó Hoa Kỳ vẫn treo cờ rủ vì thời gian 30 ngày quốc tang vẫn chưa kết thúc. Ở Chicago, Los Angeles, Miami, và nhất là ở Quảng trường Thời đại tại Thành phố New York, người dân cũng tổ chức ăn mừng với quy mô rất lớn. Tại Hà Lan, ngày Chiến thắng được gọi là Ngày Giải phóng (Bevrijdingsdag). Hà Lan là nước tổ chức sớm nhất ngày kỷ niệm chiến thắng ở châu Âu và vào ngày 5 tháng 5. Lý do của sự kiện đó là ngày 5 tháng 5 năm 1945, một bộ phận quân Đức đóng tại Tây Bắc nước Đức, Hà Lan và Đan Mạch đã hạ vũ khí đầu hàng Tập đoàn quân 8 (Anh) và Tập đoàn quân 1 (Canada) do thống chế Bernard Montgomery chỉ huy. Văn kiện cam kết đầu hàng của chỉ huy quân đội Đức Quốc xã tại Hà Lan, tướng John Blaskowitz ký tại khách sạn De Wereld tại Wageningen trước sự chứng kiến của thống chế Bernard Montgomery (Anh) và Hoàng tử Bernhard (Hà Lan) có hiệu lực từ lúc 7 giờ 00 ngày 6 tháng 5 năm 1945. Định kỳ tổ chức Ngày Giải phóng của Hà Lan là 5 năm một lần. Từ năm 1990, ngày 5 tháng 5 là ngày nghỉ trên toàn quốc Hà Lan. Tuy nhiên, việc nghỉ lễ không phải là bắt buộc. Đối với công chức viên chức, họ được nghỉ nhưng không nhận một ngày lương. Đối với người lao động là việc trong các doanh nghiệp thì cần có sự thoả thuận trước giữa người lao động và người sử dụng lao động. Từ năm 1980, lễ hội Ngày Giải phóng được tổ chức không chỉ ở Amsterdam mà còn được tổ chức ở 12 tỉnh lỵ của Hà Lan, do một Uỷ ban quốc gia điều hành có sự tham gia đóng góp của một đội ngũ các "Đại sứ của Tự do". Cho đến nay, người Hà Lan vẫn có một số ý kiến khác nhau về Ngày Giải phóng của mình vì quá trình đầu hàng của quân Đức tại Hà Lan và Đan Mạch kéo dài từ ngày 4 đến hết ngày 6 tháng 5 năm 1945. Tại Tây Đức, ban đầu, chính quyền Cộng hoà liên bang Đức (Tây Đức) coi ngày 9 tháng 5 là một ngày thất bại của dân tộc. Do đó, họ không tổ chức kỷ niệm. Các căn cứ quân sự của NATO đóng tại Tây Đức như Flensburg, Ramstein. cũng không tổ chức kỷ niệm ngày này. Dần dần, người Đức đã có sự thay đổi nhận thức về tầm quan trọng của ngày kỷ niệm này. Năm 1985, tổng thống Đức Richard von Weizsäcker có một bài diễn văn kỷ niệm 40 năm ngày kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu và ông đã gọi ngày 9 tháng 5 là ngày giải phóng dân tộc Đức khỏi chủ nghĩa Quốc xã. Ngày 8 tháng 5 năm 2005, nước Đức thống nhất kỷ niệm ngày này với tên gọi: "Ngày dân chủ". Do sự khác nhau về múi giờ, việc ký kết văn bản chính thức về việc đầu hàng không điều kiện của nước Đức Quốc xã diễn ra lúc 22 giờ 00 ngày 8 tháng 5 năm 1945 (giờ Trung Âu) tức 0 giờ ngày 9 tháng 5 năm 1945 (giờ Moskva) và hoàn thành lúc 22 giờ 43 phút (giờ Trung Âu) tức 0 giờ 43 phút ngày 9 tháng 5 (giờ Moskva). Vì vậy, Liên Xô cũ và nhiều quốc gia SNG hiện nay và một số nước khác lấy ngày 9 tháng 5 làm ngày kỷ niệm chiến thắng nước Đức Quốc xã đồng thời là ngày kết thúc thắng lợi cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Tại Vương quốc liên hiệp Anh và Bắc Ireland, từ dịp kỷ niệm lần thứ 50 ngày kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu năm 1995, ngày 8 tháng 5 được coi là ngày nghỉ lễ và thay thế cho ngày nghỉ giao dịch 1 tháng 5 (ngày Quốc tế lao động) trước đó. Tại Cộng hòa dân chủ Đức cũ, từ năm 1950 đến năm 1966, ngày 8 tháng 5 được gọi là Ngày giải phóng và được coi là ngày nghỉ. Từ năm 1967 đến năm 1989, ngày nghỉ lễ chuyển sang ngày 9 tháng 5 và ngày 8 tháng 5 trở thành ngày nghỉ đi kèm.
Ngày chiến thắng (8 tháng 5)
Ngày chiến thắng (8 tháng 5 năm 1945) còn được gọi là Ngày Chiến thắng ở châu Âu (tiếng Anh viết tắt: VE Day hoặc V-E Day). Đây là ngày mà quân đội các nước đồng minh chính thức chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của các lực lượng vũ trang nước Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sự đầu hàng muộn nhất của quân đội Đức Quốc xã trên quần đảo Channel diễn ra ngày 9 tháng 5. Sau khi Adolf Hitler tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1945, đô đốc Karl Dönitz kế nhiệm vai trò quốc trưởng nước Đức Quốc xã và điều hành một chính phủ tại Flensburg. Dưới sự chỉ đạo của Karl Dönitz, tướng Alfred Jodl đã ký văn bản đầu hàng sơ bộ tại Reims ngày 7 tháng 5 và văn bản này được phê chuẩn bởi một văn bản chính thức được ký đêm 8 rạng ngày 9 tháng 5 (giờ Trung Âu) giữa đoàn đại biểu quân đội Đức Quốc xã được sự ủy quyền của chính phủ Karl Dönitz với các đoàn đại biểu các nước đồng Minh Hoa Kỳ, Liên Xô, Anh và Pháp.
Giải Quả cầu Vàng (tiếng Anh: Golden Globe Awards) là một giải thưởng của Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood trao hàng năm cho các cống hiến xuất sắc trong ngành kỹ nghệ giải trí, cả ở Hoa Kỳ lẫn nước ngoài, và nhằm hướng sự chú ý của công chúng vào phim và chương trình truyền hình hay nhất. Bữa tiệc chiêu đãi và buổi lễ trao giải Quả cầu Vàng là một phần chủ yếu của mùa trao giải phim hàng năm tại Hoa Kỳ, mà đỉnh cao là giải Oscar. Giải Quả cầu Vàng đầu tiên được trao vào tháng 1/1944 tại phim trường của hãng 20th Century Fox ở Los Angeles. Giải Quả cầu Vàng cho phim và truyền hình hay nhất lần thứ 66 năm 2008 được trao ngày 11.1.2009 tại khách sạn Beverly Hilton ở Beverly Hills, California, nơi giải được tổ chức hàng năm, kể từ năm 1961. Lễ trao giải Quả cầu Vàng hàng năm được trực tiếp truyền hình tới trên 150 nước khắp thế giới, thường được coi là show được nhiều người xem thứ ba, chỉ sau lễ trao giải Oscar và giải Grammy. Giải Quả cầu vàng cho phim tài liệu hay nhất. Giải trao lần chót tại kỳ giải thứ 34, năm 1977. Giải Quả cầu vàng cho phim nước ngoài nói tiếng Anh hay nhất. Giải này cho phép các phim của vương quốc Anh như phim Hamlet của Laurence Olivier làm tại Anh được lãnh giải. Giải Quả cầu vàng cho ngôi sao nam mới trong năm. Giải trao lần chót tại kỳ giải thứ 40, năm 1983. Giải Quả cầu vàng cho ngôi sao nữ mới trong năm • Giải trao lần chót tại kỳ giải thứ 40 năm 1983. Meryl Streep giữ kỷ lục về số lần đoạt giải, với 7 lần. Bà cũng giữ kỷ lục về số lần được đề cử với 25 lần và Jack Lemmon là người thứ nhì với 22 lần. Tuy nhiên – kể cả các giải đặc biệt – như giải Henrietta (World Film Favorite Actor/Actress) hoặc giải Quả cầu Vàng Cecil B. DeMille, thì Barbra Streisand là người đoạt 11 giải, sau đó là Jack Nicholson với 7 giải. 1976: Peter Finch đoạt giải Quả cầu Vàng cho nam diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất cho vai diễn trong phim chính kịch Network. 2009: Heath Ledger đoạt giải Quả cầu Vàng cho nam diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất cho vai diễn trong phim The Dark Knight. 2021: Chadwick Boseman đoạt giải Quả cầu Vàng cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễn trong phim chính kịch Ma Rainey’s Black Bottom. Pia Zadora đoạt giải Quả cầu Vàng năm 1981 trong thể loại “Newcomer-of-the-Year” (nữ ngôi sao điện ảnh mới trong năm) trong phim Butterfly. Có các sự cáo buộc là các thành viên của Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood đã bị mua chuộc. Chồng của Pia, nhà triệu phú Meshulam Riklis đã đưa máy bay chở các thành viên trong ban giám khảo tới casino của ông ta, khách sạn Riviera ở Las Vegas, như vậy sẽ họ bỏ phiếu cho Pia để đền đáp lại. Riklis cũng mời các thành viên trong ban giám khảo tới nhà mình dự bữa tiệc xa hoa. Ông ta cũng tiêu xài hoang phí cho việc quảng cáo. Hơn nữa, phim này cũng chưa từng công chiếu trong thời gian phát giải. như vậy Pia không đủ tư cách để tranh giải.
Giải Quả cầu vàng
Giải Quả cầu Vàng (tiếng Anh: Golden Globe Awards) là một giải thưởng của Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood trao hàng năm cho các cống hiến xuất sắc trong ngành kỹ nghệ giải trí, cả ở Hoa Kỳ lẫn nước ngoài, và nhằm hướng sự chú ý của công chúng vào phim và chương trình truyền hình hay nhất. Bữa tiệc chiêu đãi và buổi lễ trao giải Quả cầu Vàng là một phần chủ yếu của mùa trao giải phim hàng năm tại Hoa Kỳ, mà đỉnh cao là giải Oscar. Giải Quả cầu Vàng đầu tiên được trao vào tháng 1/1944 tại phim trường của hãng 20th Century Fox ở Los Angeles. Giải Quả cầu Vàng cho phim và truyền hình hay nhất lần thứ 66 năm 2008 được trao ngày 11.1.2009 tại khách sạn Beverly Hilton ở Beverly Hills, California, nơi giải được tổ chức hàng năm, kể từ năm 1961.
Cao hổ cốt hay hổ cốt là loại cao được nấu và cô đặc từ bộ xương của con hổ. Theo quan niệm của Đông y, đây là một bài thuốc quý hiếm, đắt đỏ và được cho là rất có giá trị đối với sức khỏe. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, trong thành phần hổ cốt có chứa collagen, mỡ, calcium phosphate, calcium carbonat, magiesium phosphat, trong đó collagen là hoạt chất chính; gelatin của hổ cốt chứa 17 amino-acid, lượng acid amin trong xương hổ cao gấp 900 các loại xương động vật khác và có tỷ lệ đạm toàn phần rất cao. Về tác dụng dược lý, hổ cốt có công dụng chống viêm, giảm đau, an thần và làm lành nhanh xương gãy. Cao hổ cốt được coi là “thần dược” chữa trị các bệnh về xương khớp, giảm đau, suy nhược cơ thể…Tuy nhiên cao hổ cốt không có tác dụng chữa “bách bệch” như người ta thường nghĩ. Khi dùng cao hổ cốt, người bệnh cần phân biệt cao thật, cao giả và những lưu ý khi sử dụng sản phẩm này. Tuy nhiên, theo y học cổ truyền, loại cao này có tính nóng và trợ dương khá mạnh nên những người có thể chất hoặc bị mắc các chứng bệnh thuộc thể âm hư hoả vượng biểu hiện bằng các triệu chứng người gầy, hay có cảm giác nóng trong hoặc sốt về chiều, hay có cơn bốc hoả, đầu choáng mắt hoa, tai ù tai điếc, lòng bàn tay và bàn chân nóng, trong ngực rạo rực không yên, hai gò má đỏ, môi khô miệng khát, đổ mồ hôi trộm, đại tiện táo kết, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ, không hoặc ít có rêu lưỡi… thì không được dùng. Những người bị cao huyết áp cũng cấm chỉ định dùng cao xương hổ.
Cao hổ cốt
Cao hổ cốt, cao hổ, cao xương hổ hay hổ cốt là loại cao được nấu và cô đặc từ bộ xương của con hổ. Cao hổ cốt là một mặt hàng đắt đỏ, chúng được chế biến qua nhiều công đoạn phức tạp và có nhiều lời đồn về công dụng của nó, tuy nhiên có cảnh báo, các loại cao từ hổ, gấu, ngựa chỉ có tác dụng trừ phong thấp, đau gân giãn cốt chứ không có những tác dụng khác như những lời đồn đại. Từ công dụng đồn thổi này dẫn đến loài hổ đã bị săn bắn quá mức dẫn đến trên đà tuyệt chủng, nhất là ở Trung Quốc và Việt Nam. Các bộ phận của hổ được dùng làm thuốc đông y, và bán với giá cao trên thị trường chợ đen, giá 100 gram cao hổ cốt bán tới 1.000 đôla. Trong khi đại đa số các động vật có thể nấu cao toàn tính (với cả xương và thịt) thì cao hổ chỉ sử dụng xương. Sự coi trọng giá trị của cao hổ cốt đối với sức khỏe con người, đặc tính quý hiếm của cao, là các quan niệm có từ rất lâu trong lịch sử các nước Á Đông, đặc biệt là Trung Quốc và Việt Nam.
Lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước và việc áp dụng nó trong thực tế là vấn đề rất phức tạp. Lênin là người đầu tiên đã có công lao to lớn trong việc nghiên cứu và đề xuất lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện chuyên chính vô sản. Đồng thời, Lênin còn vận dụng nó vào nước Nga sau thời kỳ thực hiện chính sách cộng sản thời chiến. Chủ nghĩa tư bản nhà nước theo tư tưởng của Lênin là một bộ phận quan trọng nằm trong tổng thể chính sách chung, đó là chinh sách kinh tế mới (NEP). Đây là tư duy đúng đắn, sáng tạo, độc đáo và mang tính đột phá. Đối với nước ta, việc nghiên cứu, tìm hiểu lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước và vận dụng đúng đắn, khoa học vào điều kiện thực tế ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay là vô cùng quan trọng và cấp thiết. Nước Nga Xô viết cực kỳ khó khăn sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười năm 1917. Sự bao vây, can thiệp bằng vũ trang của nhiều nước đế quốc hòng tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ. Sản xuất ngưng trệ, mùa màng thất bát, đời sống nhân dân rất điêu đứng. Giai cấp công nhân suy yếu, một bộ phận bị mất gốc giai cấp. Nông dân bất bình với chế độ trưng thu lượng thực thừa, thậm chí cả một phần lương thực cần thiết cho sự sinh sống của họ (đặc trưng của chính sách cộng sản thời chiến), mà chính quyền Xô viết vẫn còn duy trì sau khi đất nước được hòa bình. Nước Nga lúc bấy giờ được xem là lạc hậu nhất ở Châu Âu. Lênin đã phân tích sâu sắc thực trạng của nước Nga và đã tỉnh táo đề xuất NEP thay cho "Chính sách cộng sản thời chiến". Tháng 3 năm 1921, tại Đại hội X Đảng Cộng sản Nga, NEP đã chính thức được thông qua và triển khai trên thực tế. Linh hồn của NEP chính là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Theo Lênin, cần phải hiểu sâu sắc rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước là gì? Vai trò của nó như thế nào? Nó có đáng sợ đối với chế độ mới hay không? Những hình thức của nó ra sao? Chủ nghĩa tư bản, nhà nước là sự kết hợp, liên hợp, hợp tác giữa nhà nước Xô viết, nền chuyên chính vô sản với tư bản trong và ngoài nước. Theo Lênin, để quá độ lên CNXH ở một nước tiểu nông lạc hậu như nước Nga, thì phải trải qua "nhiều mắt xích trung gian", phải qua "những chiếc cầu nhỏ vững chắc", phải đi "xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên CNXH". Một điều hiển nhiên là, sẽ không có chủ nghĩa tư bản nhà nước, nếu không có những điều kiện cho họ tồn tại. Điều kiện ấy, theo Lênin, chính là những "công vật". Thực tế lúc bấy giờ, trên thê giới chỉ có một chính quyền Xô viết, còn xung quanh là cả một trật tự thế giới tư bản chủ nghĩa. Để chính quyền Xô viết non trẻ tồn tại và phát triển được, thì một sự "cống nộp" là biện pháp khôn khéo và có thể chấp nhận được. Lênin cho rằng "Cần phải có một vài hy sinh, là thả cho tư bản hàng chục triệu "pút" sản phẩm vô cùng quý báu". Vấn đề không cần che giấu là chấp nhận sự trả giá cho nhà tư bản, nhưng đối với nhà nước vô sản thi sự dung nạp, du nhập chủ nghĩa tư bản sẽ mang lại những lợi ích cơ bản và lâu dài. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản do nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết có thể đẩy nhanh tức khắc sự phát triển của nền nông nghiệp. Nhờ việc tăng nhanh lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mà xã hội ổn định, thoát ra khỏi khủng hoảng, đồng thời, khôi phục sự tín nhiệm của nông dân đối với chính quyền Xô viết, khắc phục tình trạng trộm cắp của công nặng nề và nạn đầu cơ nhỏ lan tràn. Đối với công nghiệp cũng vậy, bằng sự "du nhập" tư bản từ bên ngoài mà lực lượng sản xuất tăng lên nhanh chóng. Nước Nga lúc bấy giờ có nhiều hầm mỏ, xí nghiệp, tài nguyên rừng, nhưng do thiếu máy móc, lương thực thực phẩm, phương tiện vận tải, cùng với cách thức tổ chức, điều hành và quản lý sản xuất kém hiệu quả, nên không thể khai thác được. Nếu sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, thì có thể khôi phục được sản xuất, khôi phục được nền đại công nghiệp, cải thiện đời sống của công nhân. Đó là những cái lợi cơ bản, cấp thiết nhất khi sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước lúc mới giành được chính quyền cách mạng. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến lớn, nhờ nó mà chiến thắng được tình trạng hỗn độn, lỏng lẻo, suy sụp về kinh tế. Lênin khẳng định: "Chủ nghĩa tư bản nhà nước vẫn là một bước tiến lớn., dù cho chúng ta phải trả một khoản lớn hơn hiện nay, vì trả "học phí" là một việc làm đáng giá, vì cái đó có lợi cho công nhân, vì việc chiến thắng được tình trạng hỗn độn, suy sụp về kinh tế và hiện tượng lỏng lẻo là cái quan trọng hơn hết, vì việc để tình trạng vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại là một mối nguy hại lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ làm cho chúng ta bị diệt vong (nếu chúng ta không chiến thắng nó) một cách dứt khoát". Trong tác phẩm "Bàn về thuê lương thực", Lênin đã đề cập tới bốn hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, đó là: tô nhượng; các hợp tác xã; đại lý ủy thác; cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, hầm mỏ, rừng, đất đai. Đối với hình thức tô nhượng, Lênin chỉ rõ: "Chính quyền Xô viết mời các nhà tư bản nước ngoài nào muốn có các tô nhượng ở nước Nga. Tô nhượng là gì? Là hợp đồng giữa nhà nước và một nhà tư bản, người này cam kết tổ chức hoặc hoàn thiện sản xuất (chẳng hạn như đẵn và chở gỗ, khai thác than, dầu lửa, khoáng sản.), trả cho nhà nước một phần sản phẩm sản xuất ra, và nhận một phần khác dưới danh nghĩa là lãi". Hình thức thứ hai của chủ nghĩa tư bản nhà nước là hợp tác xã. Lúc đầu, Lênin quan niệm hợp tác xã đều là hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, về sau này, từ thực tiễn nước Nga, Lênin đã phân biệt tổ chức kinh tế này trong những chế độ xã hội khác nhau. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, những hợp tác xã là tổ chức tư bản tập thể, cho nên, chúng khác với xí nghiệp tư bản tư nhân. Còn một kiểu (loại) hợp tác xã thứ hai, đó là nó được tổ chức lại trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội. Tư liệu sản xuất thuộc về nhà nước với ý thức tự giác, tự quản của những người lao động. Đây là bước chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn trong một "thời kỳ lịch sử 10 hay 20 năm", nó hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội. Hình thức thứ ba của chủ nghĩa tư bản nhà nước là đại lý ủy thác. Nhà tư bản được ủy thác làm đại lý bán sản phẩm của Nhà nước Xô viết và mua sản phẩm của người sản xuất hàng hóa nhỏ, đổi lại, họ được hưởng một khoản tiền hoa hồng nhất định. Hình thức thứ tư là cho nhà tư bản trong nước thuê xí nghiệp, hầm mỏ, rừng, đất đai để kinh doanh. Hình thức này gần giống với tô nhượng, nhưng khác biệt ở chỗ đối tượng kinh doanh là tư bản trong nước. Nhờ áp dụng chính sách kinh tế mới, trong đó sử dụng linh hoạt chủ nghĩa tư bản nhà nước, đã đem lại sự phát triển kỳ diệu của nước Nga Xô viết vốn trước đó bị tàn phá, kiệt quệ, khủng hoảng nghiêm trọng. Sức sản xuất được phục hồi, nền kinh tế nước Nga có bước phát triển, lạm phát bị đẩy lùi, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ nét, chính quyền công - nông được củng cố vững chắc. Dưới ánh sáng của công cuộc đổi mới, Đảng ta đã vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam. Đảng ta coi kinh tế tư bản nhà nước là một thành phần kinh tế nằm trong cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần, tồn tại khách quan, lâu dài trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ: "Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư bản nước ngoài". Thành phần kinh tế tư bản nhà nước được xếp thứ ba sau thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác. Đảng ta cho rằng, kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đại hội Đảng IX và X tiếp tục khẳng định: "Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh". Đảng ta cũng xác định rõ phải sử dụng đa dạng, linh hoạt các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thực tiễn cho thấy, mặc dầu còn tồn tại những yếu kém, bất cập, nhưng đã có hàng ngàn dự án của tư bản nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư vào Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: Công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng, khai khoáng, bao hiểm, v.v. Tổng số vốn đầu tư lên tới hàng chục tỷ USD, năm sau cao hơn năm trước, có nhiều dự án 100% vốn nước ngoài. Có hàng trăm công ty, tập đoàn từ nhiều nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Hàng chục vạn lao động trong nước đã có công ăn việc làm, GDP hàng năm được tăng lên nhờ một phần đóng góp của thành phần kinh tế này. Kinh tế tư bản nhà nước đã và đang góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới, tăng thêm sức cạnh tranh của hàng hóa nước ta trên thị trường thế giới, kích thích mạnh mẽ các thành phần kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước; góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và ngành nghề. Nước ta đã có nhiều hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước ra đời như: cho thuê, đại lý, hợp tác xã cổ phần, công ty cổ phần. Với tư bản tư nhân nước ngoài, chúng ta áp dụng phổ biến ba hình thức, đó là: Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài; xí nghiệp liên doanh; xí nghiệp hợp đồng hợp tác kinh doanh. Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ có giá trị đối với nước Nga trước đây, mà ngày nay nó vẫn còn nguyên giá trị đối với những nước có xuất phát điểm thấp đi lên CNXH như ở Việt Nam. Nghiên cứu vấn đề này càng cho chúng ta thấy bộ óc sáng tạo tuyệt vời của Lênin - lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản thế giới. Vận dụng và phát triển lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là chủ trương đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta. Thực tiễn đã kiểm nghiệm tính đúng đắn của chủ trương đó. Từ vấn đề trên có một phương pháp luận chung là, khi tình hình thực tiễn thay đổi, cần có sự đổi mới trong tư duy hoạch định chủ trương, chính sách và phương pháp cho phù hợp với sự thay đổi của thực tiễn./. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr.95. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr83.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước
Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một hệ thống kinh tế trong đó nhà nước trực tiếp tham gia hoạt động kinh tế - thương mại (tức là vì lợi nhuận) và cơ sở sản xuất được tổ chức và quản lý như doanh nghiệp nhà nước (bao gồm cả quá trình tích lũy vốn, lao động tiền lương và quản lý tập trung), hoặc nhà nước kiểm soát nền kinh tế thông qua các cơ quan chính phủ (các cơ quan được tổ chức theo thực tiễn quản lý kinh doanh) hoặc nhà nước có cổ phần chi phối tại các tập đoàn niêm yết công khai. Chủ nghĩa Lenin xem chủ nghĩa tư bản nhà nước như là một hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã được xã hội hóa ở mức cao dẫn đến nhà nước phải trực tiếp sở hữu hoặc kiểm soát tư bản - theo định nghĩa này, một quốc gia tư bản nhà nước là nơi mà chính phủ kiểm soát nền kinh tế và về cơ bản hoạt động như một tập đoàn khổng lồ, trích xuất giá trị thặng dư từ lực lượng lao động để đầu tư sản xuất. Định nghĩa này áp dụng bất kể mục đích chính trị của nhà nước (ngay cả khi nhà nước là xã hội chủ nghĩa trên danh nghĩa) và một số người cho rằng Trung Quốc hiện nay là một ví dụ điển hình của chủ nghĩa tư bản nhà nước và Liên Xô đã thất bại trong mục tiêu thiết lập chủ nghĩa xã hội, nhưng cũng là một hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI là gì? Ý nghĩa và cách tính CPI như thế nào là những điều mà các nhà kinh tế rất quan tâm. Nó là một chỉ số được sử dụng để đo lường và đánh giá khả năng tiêu dùng của nền kinh tế. Những thông tin dưới đây sẽ giải đáp chi tiết cho bạn, đừng bỏ lỡ nhé!. Chỉ số giá tiêu dùng CPI – Consumer Price Index là chỉ số phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian và được tính bằng phần trăm. Cụ thể CPI đo lường sự thay đổi trung bình về giá theo thời gian mà người tiêu dùng phải trả cho một giỏ hàng hóa hoặc dịch vụ. Khi chỉ số CPI tăng đột ngột trong một thời gian cố định thì nền kinh tế đang bước vào giai đoạn lạm phát. Do vậy, đây chính là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá và sự thay đổi của mức giá chính là lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ số phản ánh tương đối xu thế và mức độ biến động của giá cả hàng hóa tiêu dùng cũng như dịch vụ dùng trong sinh hoạt của cá nhân người tiêu dùng hay hộ gia đình. Bởi vậy nó được dùng để theo dõi sự thay đổi của chi phí tiêu dùng theo thời gian. Khi CPI tăng đồng nghĩa với việc mức giá trung bình tăng và ngược lại. Sự biến động tăng hay giảm của CPI phản ánh tình trạng lạm phát hay giảm phát, từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế. Nếu CPI tăng tới mức không thể kiểm soát được thì nguy cơ cao sẽ dẫn đến siêu lạm phát. Bên cạnh đó sự sụt giảm của mức giá chung CPI do sự sụt giảm của tổng cầu, gây ra hiện tượng giảm phát và kéo theo suy thoái kinh tế và thất nghiệp. Bước 1: Cố định giỏ hàng hóa: Qua khảo sát, nghiên cứu thị trường để xác định lượng hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình sở hữu trong một thời gian nhất định. Bước 2: Xác định giá cả: thống kê giá cả của từng mặt hàng trong giỏ hàng hóa tại mỗi thời điểm cụ thể. CPI là một chỉ số kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của một nền kinh tế. Vì vậy việc tính toán và phân tích chỉ số CPI sẽ đem đến hiệu quả tích cực cho doanh nghiệp, nền kinh tế cũng như chính phủ. Từ đó người tiêu dùng có sự chuẩn bị trước những thay đổi về mức giá bán lẻ hàng hóa tiêu dùng. CPI cũng được sử dụng để điều chỉnh thu nhập của người dân. Cụ thể như khi chỉ số CPI tăng thì chính phủ cũng sẽ điều chỉnh mức lương cơ bản phù hợp với mức chi cho hàng hóa tiêu dùng. Khi CPI giảm đồng nghĩa với việc giá của giỏ hàng hóa tiêu dùng tính theo CPI giảm, khi đó số tiền dành cho tiêu dùng hằng ngày của người dân sẽ giảm. Nếu mức thu nhập không thay đổi, thì việc giảm chi phí tiêu dùng sẽ giúp ổn định chi tiêu và góp phần nâng cao mức sống cho những người có thu nhập kém.
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (hay được viết tắt là CPI, từ các chữ tiếng Anh Consumer Price Index) là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này chỉ dựa vào một giỏ hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng tiêu dùng. Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá và sự thay đổi của mức giá chính là lạm phát (một chỉ tiêu khác để phản ánh mức giá chung là Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm trong nước hay Chỉ số điều chỉnh GDP).
Ngày xửa ngày xưa, có một cậu bé tên là Jack. Cậu sống với mẹ ở một ngôi nhà nhỏ trong làng. Gia đình Jack rất nghèo, tài sản duy nhất họ có là một con bò, mà nó đã già đến mức chẳng cho sữa được nữa. Một ngày kia, mẹ của Jack quyết định sẽ bán con bò đi. Mẹ bảo Jack mang con bò ra chợ phiên bán, cố gắng bán được giá tốt. Trên đường đi ra chợ phiên, Jack gặp một ông già bí ẩn.Ông già nói:. – Đây không phải là hạt đậu thường đâu, mà là hạt đậu thần đó. Cháu hãy trồng nó vào tối nay và sáng mai nó sẽ mọc cao đến tận trời xanh. Jack không tin lời ông lão lạ mặt lắm, nhưng mà cậu cũng chả thấy mất gì nếu trao đổi với ông cả. Nên cậu đồng ý đổi con bò lấy hạt đậu thần như ông lão nói. Khi về nhà, mẹ cậu hỏi:. Mẹ của Jack rất giận dữ, bà mắng Jack và ném hạt đậu qua cửa sổ, hạt đậu rơi xuống khu vườn. Bà phạt Jack không được ăn tối hôm đó. Sáng hôm sau, khi Jack thức dậy và nhìn qua cửa sổ, cậu nhìn thấy một điều chưa bao giờ thấy trong đời. Một cái cây lạ lùng vươn lên cao tít đến tận trời xanh. Jack mừng rỡ trèo ra khỏi cửa sổ và nhảy sang cây đậu thần. “Ôi, lời của ông già đã trở thành sự thật rồi. Cây đã mọc đến tận trời cao rồi. Mình phải lên xem mới được”. Jack tò mò leo lên trên cây. Leo mãi, leo mãi, cậu leo không ngừng. Leo đến hết ngày thì Jack đến tận trời. Trước mắt Jack lúc này là một khung cảnh kỳ diệu như trong mơ. giữa những đám mây trắng xóa là một tòa lâu đài nguy nga lộng lẫy. Jack mệt vì leo quá lâu, và cũng đói bụng vì cậu chưa ăn gì từ tối hôm qua, cậu gõ mạnh vào cánh cửa. Jack ngạc nhiên, nhưng rồi cậu đánh bạo bước vào trong. Cảnh tượng bên trong rất lộng lẫy, đồ đạc sáng bóng. Jack đi đến căn bếp, cậu thấy có một lát bánh mì và một ít sữa. Cậu đói quá nên cầm lát bánh mì lên định ăn, thì cậu thấy có những tiếng động mạnh và cả tòa lâu đài rung lắc như trong cơn động đất vậy. Jack sợ hãi nấp dưới gầm bàn. Có một người khổng lồ dữ tợn bước vào phòng, trong tay ông ta có một túi vàng to. Hóa ra đây chính là lâu đài của người khổng lồ độc ác. Người khổng lồ khịt mũi đánh hơi ầm ĩ. Hắn nhìn quanh tìm kiếm nhưng không thấy Jack vì chú quá bé và đang trốn dưới gầm bàn. Hắn tự nhủ “có lẽ đấy chỉ là mùi thịt gà tây mình ăn tối qua thôi”. Hắn ngáp dài mệt mỏi và quyết định đi ngủ. Người khổng lồ đặt túi vàng lên bàn rồi bỏ đi. Khi hắn ta ra khỏi phòng, Jack liền chui ra khỏi chỗ nấp và leo lên trên bàn. “Ôi, túi vàng mới to làm sao, mình sẽ giàu đây”. Jack lấy túi vàng và nhảy khỏi cái bàn. Chú rón rén đi qua căn phòng, ra khỏi lâu đài của gã khổng lồ, và hết sức mang túi vàng đến chỗ cây đậu thần. Chú leo xuống cây đậu và mang túi vàng về cho mẹ. Chú kể với mẹ về chuyện cây đậu thần, về tòa lâu đài của gã khổng lồ và đưa mẹ xem túi vàng đã lấy được. Vài hôm sau, Jack lại leo lên cây đậu thần để lên trên trời, quay lại chỗ tòa lâu đài hôm trước. Khi chú đang khám phá tòa lâu đài thì lại nghe thấy những bước chân rầm rầm của gã khổng lồ. Chú không kịp chạy đến nấp dưới gầm bàn, nên vội chui vào nấp trong tủ.Người khổng lồ mang một ổ gà mái ra trước cái tủ. – Gà ơi, đẻ trứng vàng cho ta đi nào! Người khổng lồ nói. Úm ba la, trứng vàng nở ra. Con gà kêu lên quang quác rồi mau mắn đẻ một quả trứng bằng vàng ròng. Người khổng lồ nhặt lấy quả trứng và đi ra khỏi phòng. Jack nhanh chóng ra khỏi chỗ nấp, chú lấy con gà và mang ra khỏi phòng, cố chạy thật nhanh trước khi người khổng lồ phát hiện ra. Jack mang con gà về nhà cho mẹ:. Chú bắt chước người khổng lồ nói “Gà ơi, đẻ trứng vàng cho ta đi nào! Úm ba la, trứng vàng nở ra”. Con gà kêu lên quang quác rồi lại đẻ ra một quả trứng bằng vàng ròng. Mẹ Jack nói “jack, lấy trộm của người khác là không tốt đâu con. Con phải trao đổi một cách công bằng và sống lương thiện”. Jack ngày càng trở nên tham lam, mỗi ngày chú lại quay lại tòa lâu đài và lấy trộm thêm nhiều đồ vật của người khổng lồ. Và cây đàn bỗng tự chơi những giai điệu du dương. Tiếng nhạc này làm ta buồn ngủ quá, ta phải đi ngủ thôi. Khi người khổng lồ về phòng ngủ, Jack lại trèo lên bàn và lấy trộm cây đàn hạc. Nhưng không ngờ, khi chú chạm tay vào cây đàn thì tiếng nhạc tự động vang lên. Cây đàn kêu lên: “ông chủ, ông chủ, có ai đang lấy trộm tôi”. Nghe thấy tiếng cây đàn hạc kêu cứu, người khổng lồ thức dậy và bước ra khỏi phòng. Jack không kịp chạy trốn, cậu bị người khổng lồ bắt gặp với cây đàn trong tay. Jack luồn qua chân người khổng lồ và cố sức chạy trốn. Người khổng lồ giận dữ đuổi theo. Jack sợ hãi trượt từ trên cây đậu xuống, cậu thấy tiếng gió rít bên tai mình. người khổng lồ cũng đang tụt xuống ngay sau lưng cậu. Khi Jack chạm đất, cậu đi tìm ngay chiếc rìu và cố hết sức chặt cây đậu thần. Cây đậu bị đổ và ngã kềnh ra đất. Người khổng lồ bị tuột tay, rơi xuống đất và lăn ra chết. Và Jack đã nhận được một bài học đích đáng, chú hiểu rằng không được tham lam lấy đồ của người khác, và phải lao động cần cù để có cuộc sống tốt đẹp.
Jack và cây đậu thần
"Jack và cây đậu thần" là một câu chuyện thần tiên nước Anh. Câu chuyện được biết sớm nhất thông qua bản in của Benjamin Tabart năm 1807. "Felix Summerly" (Henry Cole) phổ biến trong The Home Treasury (1842), và Joseph Jacobs đã viết lại trong English Fairy Tales (1890). Phiên bản của là được nhiều người biết đến nhất thông qua các đợt tái bản và được gần gũi hơn là bản truyền miệng của Tabart. Jack là một cậu bé sống với người mẹ và nguồn thu nhập chính của họ chỉ là chăn bò. Khi con bò không còn khả năng cho sữa nữa, mẹ Jack bảo cậu đem con bò ra chợ bán. Trên đường đi, cậu gặp một ông lão, ông gợi ý đổi hạt đậu thần với con bò cậu đồng ý. Khi cậu về nhà với tay không mẹ cậu nổi giận và ném những hạt đậu xuống đất và bắt cậu đi ngủ. Hôm sau cây đậu thần lớn nhanh như thổi, Jack đã leo lên tận trời xanh. Có một lâu đài của người khổng lồ trên những đám mây và cậu đã lẻn vào. Ta sẽ nghiền nát xương của ngươi để làm bánh mì của ta.
Khi mạng xã hội trở thành xu hướng của toàn cầu, "facebook đi", "twitter thôi" như câu cửa miệng của mọi người khi có vấn đề cần bày tỏ hay kỉ niệm cần sẻ chia thì nó cũng trở thành đối tượng được dân marketing chú ý tới. Marketing qua mạng xã hội như quảng cáo trên facebook đã không còn xa lạ, nó được xem như là công cụ tương tác giữa doanh nghiệp với khách hàng của mình và với nó doanh nghiệp có thể thông báo thông tin sản phẩm mới, giải đáp thắc mắc khách hàng, các chương trình khuyến mãi,.Với những tính năng như trên, ta có thể thấy lợi ích tuyệt vời của mạng xã hội đối với marketing, nhưng bên cạnh các ưu điểm như tính tương tác cao hay tiết kiệm chi phí thì nó cũng tồn tại khuyết điểm. Cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây!. Mạng xã hội (social network) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian (theo định nghĩa từ wikipedia). Giá trị cốt lõi của một mạng xã hội là sự tham gia của các thành viên. Việc thành lập những cộng đồng ảo mới và sự hoán đổi ngôi vị của những mạng dẫn đầu đang diễn ra từng ngày với tốc độ chóng mặt. Bênh cạnh đó là xu hướng hình thành những cộng đồng trực tuyến gắn với những nhóm nghề nghiệp và lợi ích đặc thù. Các mạng xã hội cho phép bạn chủ động tạo dựng và phát triển profile, quảng cáo sản phẩm hay tiết lộ những thông tin có ích, và xa hơn là hòa nhập và trở thành một phần của cộng đồng. Các marketer phải học cách kết nối với người tiêu dùng và tạo ra ảnh hưởng trên các mạng xã hội, nó sẽ mang đến cho các bạn những thành quả tuyệt vời. Các mạng xã hội hàng đầu thế giới như MySpace, Facebook, YouTube, LinkedIn… đều chứa đựng những điểm đặc thù hay những công cụ riêng có mà tùy theo chiến dịch các marketer có thể tận dụng tối đa. MySpace ưu tiên hướng tới các nội dung giải trí như chia sẻ âm nhạc, video trực tuyến kết hợp với các dịch vụ giải trí offline. Mạng xã hội này phù hợp với các chiến dịch marketing xây dựng và phát triển các cộng đồng thu hút giới trẻ - những thế hệ tương lai. 2.Facebook là đối thủ của MySpace, nhưng có điểm đặc biệt là giành được sự ưa thích của một nhóm nhờ tập trung vào sự duy trì những mối quan hệ sẵn có. Facebook giúp thành viên nhóm mở rộng mạng lưới bạn bè với các trường khác, cũng như kết nối các hoạt động vui chơi, giải trí và tình nguyện. 3.LinkedIn đặc điểm nổi bật nhất của LinkedIn là phát triển mạng lưới quan hệ kinh doanh. Với nhiều thương gia, mạng xã hội này tựa như một cuốn danh thiếp (namecard) trực tuyến, giúp họ dễ dàng kết nối và duy trì với những đối tượng khác, nhất là với tính năng tự động cập nhật danh sách. Cuốn danh bạ trực tuyến này còn nói cho các chủ nhân biết được họ đang có bao nhiêu quan hệ và chúng “bền chặt” đến đâu. 4.Twitter là một mạng xã hội với thông tin được chia sẻ theo thời gian thực, cho phép mọi người giao tiếp bằng cách trao đổi những mẩu tin ngắn (chỉ 140 ký tự). Tuy Twitter chưa quá phổ biến tại Việt Nam nhưng nó được sử dụng rất nhiều trên thế giới ngang ngửa với Facebook. Độ tương tác cao cũng là một trong những ưu điểm nổi trội của marketing qua mạng xã hội.Doanh nghiệp có thể nhanh chóng tiếp cận ý kiến phản hồi từ khách hàng, thảo luận, chia sẻ vấn đề cùng họ, thực hiện các cuộc thăm dò hoặc giải đáp các thắc mắc khó khăn của họ…Từ đó kiểm soát tối đa các vẫn đề tiêu cực có thể nảy sinh. Với việc bỏ ra khoản phí nhỏ, thậm chí là không mất chi phí cho việc quảng bá thương hiệu hoặc đăng tuyển dụng trên các mạng xã hội, DN hoàn toàn có thể thu lại kết quả tích cực. Xu hướng marketing trên mạng xã hội (Social Network) đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Cách đây không lâu, để quảng bá cho sản phẩm Nokia N95, Nokia VN đã có một video Clip nói lên tính ưu việt của sản phẩm và đưa lên mạng xã hội Youtube. Chỉ một thời gian ngắn, có hàng trăm ngàn lượt người xem Clip này và kết quả là doanh số bán hàng của N95 đạt kết quả rất cao. Các hoạt động trực tuyến sẽ truyền cảm hứng cho các cuộc hội thoại trong "thế giới thực". Cơ hội để kể chuyện về doanh nghiệp và sản phẩm của bạn đồng thời tăng độ nhận biết thương hiệu. Trong kết quả điều tra mới được công bố, có những số liệu rất lý thú với những marketer đang tính toán phát triển chiến dịch tiếp thị bằng mạng xã hội. Chẳng hạn lượng người truy cập Internet nhưng không sử dụng mạng xã hội trong vòng ba tháng qua tại các thành phố lớn ở Việt Nam lên tới xấp xỉ 30%, cá biệt tại Đà Nẵng và Cần Thơ, tỉ lệ này lên tới 60%. 76% giới trẻ từ 17 đến 30 tuổi không có ý định tăng thêm thời gian cho mạng xã hội. Những con số này chắc hẳn sẽ làm nhiều marketer dự định sử dụng mạng xã hội trong chiến lược sắp tới phải đắn đo hơn nữa trước khi lên kế hoạch. Thời gian trực tuyến trên các mạng xã hội của người sử dụng còn ở mức thấp. Ngoại trừ TP.HCM, tại các đô thành khác của Việt Nam như Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, cư dân mạng dành khoảng 3,8 - 5,63 giờ/tuần cho mạng xã hội. Tần suất sử dụng mạng xã hội tại các đô thị lớn của Việt Nam trung bình là 5,72 lần/tuần, thấp hơn nhiều so với các hoạt động như đọc tin tức 9 lần/tuần, chat 8 lần/tuần. Khó khăn nhiều nhưng vẫn có cơ hội cho các marketer muốn tận dụng cộng đồng mạng xã hội Việt. TP.HCM có thể là nơi khởi đầu cho các chiến dịch marketing thông qua mạng xã hội. Tại đây, mật độ người sử dụng truy cập các mạng xã hội tới 8,06 lần/tuần, thời gian trực tuyến trên các cộng đồng ảo của họ vào khoảng 8,33 giờ/tuần, mức cao nhất cả nước. Có thể thấy, marketing qua mạng xã hội nó gần như là marketing truyền miệng bởi tốc độ lan truyền chóng mặt của nó, tiếng lành của doanh nghiệp có thể đồn xa 1 thì tiếng dữ có thể đồn xa 10. Vì vậy, muốn làm tốt tiếp thị qua mạng xã hội cần rất nhiều đến sự khéo léo và nhiều ý tưởng mới lạ thu hút và làm hài lòng khách hàng nếu muốn danh tiếng doanh nghiệp vang xa. Nếu bạn là một nhà tiếp thị hoặc một doanh nhân, bạn có thể đã. Các biện pháp giãn cách xã hội trên toàn thành phố đã tạo nên những. Social Commerce (mua bán hàng hoá qua mạng xã hội) là một ngành công nghiệp. Tổng đài hỗ trợ: 1900.636.099 ( Thứ 2 đến Thứ 6 từ 8h đến 18h; Thứ 7 và Chủ nhật từ 8h00 đến 17h00 )
Marketing qua mạng xã hội
Marketing qua mạng xã hội hay còn gọi với thuật ngữ “Social Media Marketing”, là hình thức thực hiện các hoạt động marketing trên mạng internet thông qua việc sử dụng các kênh mạng xã hội (social media) nhằm mục đích xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm hoặc dịch vụ. Marketing qua mạng xã hội là một phần của Digital Marketing – tổ hợp các hoạt động marketing. Với khả năng kết nối mạnh mẽ của các kênh mạng xã hội (social media), nơi tập hợp đa dạng các đối tượng khách hàng cùng nhau giao lưu, chia sẻ, tương tác, trao đổi, thảo luận về nội dung, hình ảnh. thì việc thực hiện tiếp thị qua các kênh này đang dần trở thành hình thức được sử dụng phổ biến và phát triển trong thời đại kỹ thuật số như hiện nay. Khi sử dụng marketing qua mạng xã hội, các doanh nghiệp có thể cho phép khách hàng và người dùng Internet đăng tải nội dung do người dùng tạo ra (ví dụ: nhận xét trực tuyến, đánh giá sản phẩm, v.v.), còn được gọi là “truyền thông lan truyền” (earned media), thay vì sử dụng bản sao quảng cáo mà nhân viên tiếp thị chuẩn bị.
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nayBài liên quan trên Thống Kê Nhà Đất:. Quyền lực chính trị được thực hiện bằng bộ máy nhà nước là cơ quan, là công cụ của quyền lực chính trị. Nhà nước thể hiện một cách tập trung quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị là quyền quyết định, định đoạt những công việc quan trọng về chính trị, tổ chức và hoạt động để bảo đảm sức mạnh thực hiện quyền lực ấy của một giai cấp, một chính đảng, tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền lãnh đạo; định đoạt, điều hành bộ máy nhà nước, cai quản một xã hội. Quyền lực chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp và tồn tại những mâu thuẫn giai cấp đối kháng trong xã hội, thể hiện tập trung ở nhà nước. Giai cấp nắm quyền lực chính trị thông thường cũng là giai cấp nắm quyền lực kinh tế. Quyền lực chính trị chính là biểu hiện tập trung của quyển lực kinh tế. Quyền lực chính trị có thể thuộc về một chính đảng của một giai cấp, một liên minh nhiều đảng phái hoặc thuộc về nhân dân, khi lí tưởng của giai cấp, của chính đảng phù hợp, phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc như ở Việt Nam hiện nay, thể hiện tập trung ở quyền lực nhà nước được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Quyền lực chính trị được thực hiện bằng bộ máy nhà nước là cơ quan, là công cụ của quyền lực chính trị. Nhà nước thể hiện một cách tập trung quyền lực chính trị. Thông qua nhà nước, quyền lực chính trị vốn thuộc một bộ phận dân cư trở thành một quyền lực công đối với toàn xã hội, vì nhà nước là người đại diện chính thức của toàn xã hội, nhân danh xã hội để điều hành, quản lí, sai khiến toàn xã hội. Để thực hiện vai trò, hoàn thành sứ mệnh của mình, nhà nước lập ra cả một bộ máy chuyên nghiệp quản lí mọi mặt đời sống xã hội, đưa cả xã hội vận hành theo một đường lối nhất định; có các công cụ sức mạnh và cưỡng chế như toà án, nhà tù, cảnh sát, quân đội… bảo đảm thực hiện các chính sách, pháp luật của mình; nhân danh toàn xã hội ban hành một hệ thống các quy tắc xử sự để cả xã hội làm theo, đưa hoạt động của toàn xã hội vận hành theo một hướng nhất định. Nhà nước có khả năng huy động bằng chính sách thuế, sự đóng góp của toàn xã hội tạo ra cơ sở tài chính cho tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trong thực hiện sách lược, chủ trương của Nhà nước…. – Sự phân công lao động dẫn đến sự phân hóa xã hội thành các giai cấp. – Sự xuất hiện của các giai cấp dẫn đến việc quyền lực công cộng của cả một cộng đồng thuộc về tay của một giai cấp ưu thế hơn => trở thành quyền lực mang tên quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. + Thể hiện sự tự do của các cá nhân trong xã hội dưới hình thức tự trị của cộng đồng; ở chuẩn mực, trật tự và các quy định về hành vi và thủ tục chính trị; ở sự điều tiết có tính phổ quát của chính trị, chính sách; ở việc sử dụng quyền lực đúng mục đích và hiệu quả. + Cơ hội thực hiện quyền làm chủ, cơ hội thể hiện ý kiến và tham gia vào đời sống chính trị. Ví dụ: tranh cử hoặc bầu cử. – Tính khoa học, hợp lý trong việc tổ chức hệ thống chính trị, hiến pháp, pháp luật và hoạt động chính trị thực tiễn. – Tính hợp pháp, hợp hiến của các tổ chức, cơ quan quyền lực, các hình thức lựa chọn người lãnh đạo, quản lý và các hình thức ra quyết định. – Không chỉ là đặc trưng mà còn là bản chất của quyền lực chính trị, là yếu tố chi phối chủ yếu. – Thể hiện qua chế độ chính trị của một giai cấp, liên minh giai cấp hay của nhân dân nhưng thực chất quyền lực đó bao giờ cũng thuộc về giai cấp cầm quyền. – Quyền lực chính trị chính là quyền lực của giai cấp, tầng lớp xã hội giữ địa vị thống trị về kinh tế. Quyền lực nhà nước, một mặt, là yếu tố cần thiết để duy trì trật tự xã hội; mặt khác, luôn có xu hướng bị lạm dụng bởi những người nắm giữ. Do vậy, quyền lực nhà nước cần phải được kiểm soát. Có thể luận giải sự kiểm soát này vì các lý do dưới đây:. Quyền lực nhà nước là quyền lực được người dân ủy nhiệm. Đó không phải là thứ quyền lực tự thân, hay xuất phát từ đấng siêu nhiên, mà là quyền lực có nguồn gốc từ người dân. Do đó, xét từ khía cạnh đạo đức, các công chức trong bộ máy nhà nước phải có nghĩa vụ phục vụ nhân dân, là “đày tớ”, “công bộc” của nhân dân. Quyền lực nhà nước bao giờ cũng được giao cho một nhóm người nắm giữ, nên rất dễ bị các cá nhân thao túng, lạm dụng. Trong mỗi con người, thường tồn tại hai thái cực: tính vị tha (vì người, vì xã hội) và tính vị kỷ (vì bản thân mình). Do đó, bên cạnh việc bị chi phối bởi các lý tưởng, niềm tin cao đẹp, hành vi của con người còn bị chi phối bởi các toan tính cá nhân. Khi con người được đặt trong một môi trường quá dễ dàng, thuận tiện, thì lòng tham có thể sẽ nổi lên, lấn át lý trí. Trong hoàn cảnh đó, khả năng lạm dụng, sử dụng quyền lực công để “mưu lợi riêng” rất dễ xảy ra. Quyền lực nhà nước là ý chí chung của xã hội nhưng lại được giao cho một số ít người với những khả năng hữu hạn khi thực thi. Đã là con người, ai cũng có thể mắc sai lầm, bởi thế, những người nắm giữ quyền lực nhà nước cũng có thể mắc sai lầm trong quá trình thực thi nó. Tuy nhiên, do tính chất của quyền lực nhà nước, nên nếu để xảy ra sai lầm này, cộng đồng, xã hội sẽ là đối tượng phải gánh chịu những hậu quả. Do vậy, để giảm thiểu những sai lầm đáng tiếc đó, quyền lực nhà nước cần được đặt dưới sự kiểm soát. Nhà nước là chủ thể giữ độc quyền cưỡng chế hợp pháp. Quyền lực nhà nước thường được sử dụng để cưỡng chế và loại bỏ những vật cản, những hành vi gây trở ngại cho việc thực hiện lợi ích chung của cộng đồng, xã hội. Khi đó, nếu quyền lực này được sử dụng một cách hợp lý sẽ đem lại cho xã hội sự trật tự và phát triển; ngược lại, nếu nó bị lạm dụng, sẽ gây hậu quả cho xã hội. Thực tế cho thấy, không phải bao giờ sự cưỡng chế và can thiệp của nhà nước cũng đúng đắn và mang lại hiệu quả. Với lý do như vậy, quyền lực nhà nước cần được điều chỉnh kịp thời, được kiểm soát thường xuyên và chặt chẽ. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là một tập hợp các quy định, luật lệ do các chủ thể quyền lực đưa ra nhằm bảo đảm quyền lực được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Có thể kể đến ba cơ chế chính trong kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay là: Sự tự kiểm soát của người cầm quyền; sự kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước; sự kiểm soát của xã hội. Sự tự kiểm soát của người cầm quyền là cơ chế tự kiểm soát của chính những người nắm giữ quyền lực nhà nước. Hiệu quả của cơ chế này phụ thuộc vào một số yếu tố, như nền tảng văn hóa của người cầm quyền (khả năng thẩm thấu, nội tâm hóa các chuẩn mực, giá trị đạo đức của xã hội ở mỗi cá nhân); mức độ nhận thức của người cầm quyền về lương tâm, trách nhiệm… Tuy nhiên, sự tự kiểm soát này luôn chứa đựng những rủi ro và bị đánh giá thấp, mặc dù trên thực tế, có thể vẫn có cá nhân vượt qua được sự cám dỗ khi nắm giữ quyền lực nhà nước. T. Hobbes, nhà triết học người Pháp ở thế kỷ XVIII cho rằng, điều này khó có tính khả thi, cả về mặt lý thuyết lẫn thực tế, bởi vì “nếu như bạn bị giới hạn bởi chính bản thân mình, thì có nghĩa là bạn không bị giới hạn”. Thực tế cho thấy, khi có quá nhiều quyền lực trong tay, ngay cả người tốt cũng có thể lạm quyền. Sự kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hệ thống thể chế nhằm ngăn chặn các hành động tùy tiện, ngẫu hứng, hoặc mang tính chủ quan của người cầm quyền, buộc họ phải đưa ra các quyết định phù hợp với hệ thống thể chế đã được thiết lập. Để bảo đảm quyền lực nhà nước không thể bị lạm dụng, sử dụng sai mục đích, các quốc gia phương Tây đã áp dụng lý thuyết “tam quyền phân lập”, theo đó, các cơ quan nhà nước khác nhau sẽ được trao những thẩm quyền khác nhau nhằm tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, trên thực tế, có sự khác biệt trong việc ứng dụng lý thuyết này cũng như sự khác nhau về tính hiệu quả của nó ở mỗi quốc gia. Điều đó tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, văn hóa chính trị và đặc biệt là sự thức tỉnh của “giới tinh hoa” ở mỗi quốc gia đó. Chẳng hạn, thể chế đại nghị kiểu Anh áp dụng mô hình phân quyền “mềm dẻo”; thể chế cộng hòa tổng thống kiểu Mỹ áp dụng mô hình phân quyền “cứng rắn”; thể chế cộng hòa bán tổng thống kiểu Pháp áp dụng mô hình phân quyền “hỗn hợp”. Dù được thiết kế theo mô hình nào, ý tưởng chủ đạo của các thể chế đó đều dựa trên nguyên lý: Dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực, dùng quyền cưỡng chế này để kiểm soát quyền cưỡng chế khác, khiến cho những người nắm giữ quyền lực công, dù vị kỷ hay tư lợi, cũng không thể lạm quyền (1).
Quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị là năng lực của một chủ thể trong việc áp đặt mục tiêu chính trị của mình đối với toàn xã hội. Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hay liên minh giai cấp, của một lực lượng xã hội. Bản chất của quyền lực chính trị là quan hệ sức mạnh giữa các giai cấp trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước hoặc gây áp lực đối với quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị khác với quyền lực công, quyền lực nhà nước. Quyền lực công đại diện cho tất cả mọi người trong xã hội, nảy sinh từ nhu cầu chung của cộng đồng xã hội để tạo ra và duy trì tổ chức và trật tự của xã hội. Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành nhà nước.
Liên kết bạn vừa chọn sẽ đưa bạn tới trang web của một bên thứ ba. Chúng tôi không kiểm soát hay có trách nhiệm đối với nội dung trang web của bất kỳ bên thứ ba nào. Tia phóng xạ ion hóa làm tổn thương các mô khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như liều bức xạ, tỷ lệ phơi nhiễm, loại tia xạ và phần của cơ thể bị phơi nhiễm. Triệu chứng có thể tại chỗ (như bỏng) hoặc toàn thân (ví dụ, bệnh cấp tính do xạ trị). Chẩn đoán dựa vào tiền sử phơi nhiễm, dấu hiệu và triệu chứng, đôi khi phải sử dụng thiết bị phát hiện bức xạ để định vị và xác định nhiễm phóng xạ. Quản lý phóng xạ tập trung vào các tổn thương do bức xạ, khử xạ, các biện pháp hỗ trợ và giảm thiểu phơi nhiễm của nhân viên chăm sóc y tế. Bệnh nhân nhiễm xạ nặng cấp tính được cách ly và điều trị hồi phục tủy xương. Các bệnh nhân bị nhiễm xạ trong với một số hạt nhân phóng xạ đặc biệt có thể được điều trị bằng chất ức chế hấp thu hoặc chất tạo phức kết tủa. Tiên lượng được đánh giá ban đầu dựa vào thời gian từ khi phơi nhiễm với phóng xạ đến khi triệu chứng khởi phát, mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng và số lượng tế bào lympho trong suốt 24 đến 72 giờ đầu. Bức xạ ion hoá được phát ra bởi các nguyên tố phóng xạ và các thiết bị như máy chụp X quang và máy xạ trị. Hạt alpha là các hạt nhân nguyên tử heli phát ra bởi một số hạt nhân phóng xạ có số nguyên tử cao (ví dụ, plutonium, radium, uranium); chúng không thể đâm xuyên vào da ở độ sâu vượt quá lớn (< 0,1 mm). Các hạt beta là các electron năng lượng cao phát ra từ hạt nhân của các nguyên tử không ổn định (ví dụ, cesium-137, iodine-131). Những hạt này có thể xâm nhập sâu hơn vào da (1 đến 2 cm) và gây tổn thương cho cả lớp biểu bì và lớp dưới biểu bì. Neutron là các hạt trung hòa về điện phát ra bởi một vài hạt nhân phóng xạ (ví dụ, californium-252) và được tạo ra trong phản ứng phân rã hạt nhân (ví dụ trong lò phản ứng hạt nhân); độ xuyên sâu vào mô của chúng thay đổi từ vài milimet đến vài chục centimet, tùy thuộc vào năng lượng của chúng. Chúng va chạm với hạt nhân của các nguyên tử ổn định, dẫn đến sự phát xạ các proton mang năng lượng, các hạt alpha, beta và bức xạ gamma. Tia gamma và tia X là các bức xạ điện từ (ví dụ các photon) có bước sóng rất ngắn, có thể xuyên sâu vào mô (nhiều cm). Trong khi một số photon tích tụ toàn bộ năng lượng trong cơ thể, các photon khác có cùng mức năng lượng có thể chỉ tích tụ một phần năng lượng của chúng và một số khác có thể đi xuyên qua cơ thể hoàn toàn. Do những đặc tính này, các hạt alpha và beta gây ra tổn thương nhiều nhất khi các nguyên tử phóng xạ phát ra chúng ở bên trong cơ thể (nhiễm xạ trong), đối với nguồn tia beta, tác động trực tiếp trên bề mặt cơ thể; chỉ các mô gần với hạt nhân phóng xạ mới bị ảnh hưởng. Tia gamma và tia X có thể gây ra tổn thương ở khoảng cách xa so với nguồn phát của chúng và gây ra hội chứng nhiễm xạ cấp (ARS). ARS có thể xảy ra bởi một vừa liều đủ của một vài loại hạt nhân phóng xạ được tích lũy ở bên trong cơ thể, được phân bố rộng rãi trong các mô, các cơ quan và có tác động đặc hiệu cao (SA). Ví dụ, polonium-210 (Po-210) có SA với liều 166 terabecquerel trên mỗi gm (TBq /g) và 1 mcg (kích thước của một hạt muối) Po-210 phát ra một liều toàn thân 50 Sv (~ 20 lần liều chết trung bình). Các đơn vị đo lường thông thường bao gồm rơn-ghen, rad và rem. Rơn-ghen (R) là một đơn vị đo liều chiếu, đo khả năng ion hóa của tia X hoặc tia gamma trong không khí. Liều hấp thụ bức xạ (rad) là số năng lượng bức xạ hấp thụ trên một đơn vị khối lượng. Vì tổn thương sinh học trên mỗi rad thay đổi theo loại bức xạ (ví dụ, nó cao hơn đối với các hạt neutron so với tia X hay tia gamma), liều rad được hiệu chỉnh bằng một yếu tố chất lượng; dẫn đến đơn vị đo liều tương đương là "roentgen equivalent in man" (rem). Ở các nước khác Hoa Kỳ và trong các tài liệu khoa học, các đơn vị SI (Hệ thống Quốc tế) được sử dụng, trong đó rad được thay thế bằng đơn vị gray (Gy) và rem được thay thế bởi sievert (Sv); 1 Gy = 100 rad và 1 Sv = 100 rem. Rad và rem (Gy và Sv) là tương ứng như nhau (tức là yếu tố chất lượng bằng 1) khi mô tả đối với tia X hoặc tia gamma hoặc beta. Lượng (số lượng) hoạt độ phóng xạ được thể hiện dưới dạng số lượng các phân rã hạt nhân (biến đổi hạt nhân) mỗi giây. Becquerel (Bq) là đơn vị hoạt độ phóng xạ trong hệ SI; một Bq là 1 lần phân hủy trong một giây (dps). Trong hệ thống đơn vị đo lường của Hoa Kỳ, một curie là 37 tỷ Bq. Ô nhiễm phóng xạ là sự tiếp xúc ngoài ý muốn với các chất phóng xạ, thường là trong bụi hoặc chất lỏng. Nhiễm xạ có thể ở. Nhiễm xạ bên ngoài là các chất phóng xạ dây dính trên da hoặc quần áo, từ đó có thể bị rơi hoặc thông qua cọ xát, gây nhiễm xạ cho người và đồ vật khác. Nhiễm xạ bên trong là nguồn phóng xạ không may ở bên trong cơ thể qua các con đường nuốt phải, hít phải hoặc xuyên qua da. Trong cơ thể, chất phóng xạ có thể được vận chuyển đến các vị trí khác nhau (ví dụ, tủy xương), nơi nó tiếp tục phát ra bức xạ cho đến khi nó được lấy ra hoặc bị phân hủy. Nhiễm xạ bên trong khó khăn hơn để loại bỏ. Mặc dù có thể có sự nhiễm xạ bên trong với bất kỳ chất phóng xạ nào, trong lịch sử, hầu hết các trường hợp nhiễm xạ gây ra một nguy cơ đáng kể cho bệnh nhân có liên quan đến một số lượng nhỏ các hạt nhân phóng xạ như phosphorus-32, coban-60, stronti-90, cesium-137, iodine -131, iôt-125, radium-226, urani-235, urani-238, plutoni-238, plutoni-239, polonium-210 và americium-241. Chiếu xạ là tiếp xúc với bức xạ chứ không phải chất phóng xạ (tức là không có sự nhiễm). Phơi nhiễm phóng xạ có thể xảy ra cả khi không có nguồn phóng xạ nào (ví dụ các chất phóng xạ, máy chụp tia X) đang tiếp xúc với người đó. Khi nguồn bức xạ bị loại bỏ hoặc tắt, sự phơi nhiễm sẽ kết thúc. Sự chiếu xạ có thể liên quan đến toàn bộ cơ thể, nếu liều đủ cao có thể dẫn đến các triệu chứng toàn thân và hội chứng phóng xạ, hoặc một phần nhỏ của cơ thể (ví dụ, từ xạ trị), có thể dẫn đến các ảnh hưởng tại vị trí đó. Con người không phát ra bức xạ (trở thành nguồn phóng xạ) sau khi bị chiếu xạ. Nguồn phóng xạ có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo (xem Phơi nhiễm phóng xạ hàng năm trung bình ở Mỹ *). Con người thường xuyên phơi nhiễm với mức thấp của nguồn phóng xạ tự nhiên gọi là bức xạ nền. Bức xạ nền xuất phát từ nguồn phóng xạ trong vũ trụ và từ các nguyên tố phóng xạ trong không khí, nước và mặt đất. Bức xạ vũ trụ tập trung ở các cực bởi từ trường của trái đất và bị suy giảm bởi khí quyển. Do đó, những người sống ở vĩ độ cao hoặc ở trên những vùng có độ cao lớn, hay phải di chuyển bằng máy bay thường bị phơi nhiễm nhiều hơn. Các nguồn phóng xạ bên ngoài nguồn gốc từ đất chủ yếu là do sự có mặt của các nguyên tố phóng xạ với chu kỳ bán rã tương đương với tuổi của trái đất (~ 4,5 tỷ năm). Cụ thể, urani (238U) và thori (232Th) cùng với nhiều loại hạt nhân phóng xạ khác và một đồng vị phóng xạ của kali (40K) có mặt trong nhiều loại đá và khoáng chất. Một lượng nhỏ các hạt nhân phóng xạ nằm trong thực phẩm, nước và không khí và do đó đóng góp vào nhiễm xạ bên trong vì các hạt nhân phóng xạ này có thể bị đưa vào cơ thể. Phần lớn liều do hạt nhân phóng xạ đưa vào bên trong cơ thể là đến từ các đồng vị phóng xạ của cacbon (14C), kali (40K) do các chất này và các nguyên tố khác (dạng ổn định và phóng xạ) được đưa vào trong cơ thể do ăn phải và hít phải, có khoảng 7000 nguyên tử bị phân rã phóng xạ mỗi giây. Nhiễm xạ bên trong do hít phải các đồng vị phóng xạ của khí radon (222Rn và 220Rn), cũng được hình thành từ Uranium (238U), chiếm phần lớn nhất (73%) so với liều bức xạ tự nhiên bình quân đầu người của dân số Mỹ. Bức xạ từ vũ trụ chiếm 11%, các nguyên tố phóng xạ trong cơ thể chiếm 9% và bức xạ bên ngoài ở trong đất chiếm 7%. Ở Mỹ, mỗi người nhận liều trung bình khoảng 3 mili silvơt (mSv) / năm từ các nguồn phóng xạ tự nhiên (khoảng ~ 0,5 đến 20 mSv / năm). Tuy nhiên, ở một số nơi trên thế giới, người dân nhận được > 50 mSv / năm. Lượng phóng xạ từ nguồn phóng xạ tự nhiên là quá thấp để gây ra các tổn thương bức xạ; tuy nhiên chúng có thể làm tăng một chút nguy cơ ung thư. Ở Mỹ, mỗi người nhận được trung bình khoảng 3 mSv / năm từ các nguồn phóng xạ nhân tạo, phần lớn trong số đó là từ các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh. Tính theo bình quân đầu người, sự đóng góp của việc tiếp xúc với các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh cao nhất đối với chụp CT và các thủ thuật can thiệp tim mạch hạt nhân. Tuy nhiên, các kỹ thuật chẩn đoán trong y tế hiếm khi gây ra liều đủ để tổn thương do bức xạ, mặc dù về lý thuyết có sự gia tăng nguy cơ gây ung thư. Các ngoại lệ có thể kể ra đó là các thủ tục can thiệp bằng màn huỳnh quang có thời gian kéo dài (ví dụ, tái tạo nội mạch, thuyên tắc mạch máu khối u, cắt bỏ khối u bằng tần số phóng xạ); các thủ thuật này đã gây tổn thương cho da và các mô bên dưới. Xạ trị cũng có thể gây tổn thương cho các mô bình thường gần mô đích. Một phần rất nhỏ các kết quả phơi nhiễm trung bình công cộng đến từ tai nạn phóng xạ và sự cố phóng xạ do việc thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Tai nạn có thể từ các máy phóng xạ công nghiệp, các nguồn bức xạ công nghiệp và lò phản ứng hạt nhân. Những tai nạn này thường là kết quả của việc không tuân thủ đúng các quy trình an toàn (ví dụ, các khoá liên động bị bỏ qua). Các tổn thương do phóng xạ cũng được gây ra bởi các nguồn từ y tế hoặc công nghiệp do làm thất thoát hoặc bị đánh cắp các chất có tính phóng xạ. Những người có nhu cầu cần chăm sóc y tế vì những tổn thương do phóng xạ có thể không nhận thức được rằng họ đã bị phơi nhiễm với bức xạ. Các sự cố giải phóng chất phóng xạ ngoài dự kiến bao gồm từ nhà máy Three Mile Island ở Pennsylvania vào năm 1979, lò phản ứng Chernobyl ở Ucraina năm 1986 và nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi ở Nhật Bản vào năm 2011. Phơi nhiễm từ sự cố ở Three Mile Island là tối thiểu nhất bởi vì không có lỗ thủng nào của bình chứa hạt nhân phóng xạ xảy ra như ở Chernobyl và không có vụ nổ hydro xảy ra như ở Fukushima. Những người sống trong phạm vi 1,6 km của Three Mile Island chỉ nhận được khoảng 0,08 mSv (một phần của liều chiếu từ nguồn tự nhiên trong một tháng). Tuy nhiên, 115.000 người cuối cùng đã được sơ tán khỏi khu vực xung quanh nhà máy Chernobyl đã nhận được liều hiệu dụng trung bình khoảng 30 mSv và liều chiếu trung bình khoảng 490 mGy. Những người làm việc tại nhà máy Chernobyl tại thời điểm tai nạn đã nhận được liều cao hơn rất nhiều. Hơn 30 công nhân và nhân viên cứu hộ khẩn cấp đã chết trong vòng vài tháng sau tai nạn và nhiều người bị bệnh bức xạ cấp tính. Sự nhiễm xạ mức thấp từ các vụ tai nạn đã được phát hiện ở các quốc gia Châu Âu, Châu Á và thậm chí là ở Bắc Mỹ (phạm vi ít hơn). Mức độ nhiễm xạ trung bình đối với dân số nói chung ở các khu vực bị ảnh hưởng khác nhau ở Bêlarut, Nga và Ucraina trong giai đoạn 20 năm sau tai nạn ước tính khoảng 9 mSv. Trận động đất và sóng thần tại Nhật Bản trong năm 2011 đã dẫn tới việc giải các chất phóng xạ vào môi trường từ một số lò phản ứng hạt nhân tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi. Không có thương tích nghiêm trọng do bức xạ gây ra cho nhân viên tại chỗ. Trong số gần 400.000 cư dân ở quận Fukushima, liều lượng ước tính <2 mSv cho 95% số người và <5 mSv cho 99,8%. Ước tính của WHO cao hơn một chút vì các giả định có chủ ý thận trọng hơn về phơi nhiễm phóng xạ. Liều hiệu dụng ở các quận không ngay cạnh Fukushima ước tính khoảng 0,1 đến 1 mSv và liều đối với những người ở bên ngoài Nhật Bản không đáng kể (<0,01 mSv). Một sự cố bức xạ quan trọng khác là sự bùng nổ của 2 quả bom nguyên tử ở Nhật Bản vào tháng 8 năm 1945, gây ra khoảng 110.000 người chết do chấn thương ngay tức khắc của vụ nổ và do nhiệt độ Một số nhỏ hơn nhiều (<1000) ca tử vong do ung thư gây ra đã xảy ra trong suốt 70 năm tiếp theo. Việc giám sát y tế đang diễn ra đối với những người sống sót sau vụ nổ vẫn là một trong những nguồn dữ liệu quan trọng nhất để đánh giá nguy cơ ung thư do phóng xạ. Trong khi một số vụ án hình sự về sự cố ý gây ô nhiễm phóng xạ của cá nhân đã được báo cáo, phơi nhiễm phóng xạ do hoạt động khủng bố đã không xảy ra nhưng vẫn còn một mối quan tâm. Một kịch bản có thể bao gồm việc sử dụng một thiết bị để gây ô nhiễm một khu vực bằng cách phân tán chất phóng xạ (ví dụ, từ một thiết bị xạ trị bị loại bỏ hoặc nguồn công nghiệp cesium-137 hoặc cobalt-60). Thiết bị phân tán bức xạ (RDD) sử dụng chất nổ thông thường được gọi là bom bẩn. Các kịch bản khủng bố khác bao gồm việc sử dụng một nguồn bức xạ ẩn để phơi bày những người không nghi ngờ tới với liều bức xạ lớn, tấn công một lò phản ứng hạt nhân hoặc cơ sở lưu trữ chất phóng xạ và việc phát nổ một vũ khí hạt nhân (ví dụ, một thiết bị hạt nhân , một vũ khí bị đánh cắp).
Hội chứng nhiễm phóng xạ cấp tính
Hội chứng nhiễm phóng xạ cấp tính, còn được gọi là nhiễm độc phóng xạ, bệnh phóng xạ, là các hội chứng ảnh hưởng sức khỏe sau khi tiếp xúc với một lượng lớn các bức xạ ion hóa. Các bức xạ gây ra sự tác động cho DNA và các cấu trúc phân tử quan trọng khác trong các tế bào các mô khác nhau. Sự hủy diệt này, đặc biệt là khi nó ảnh hưởng đến khả năng của các tế bào phân chia bình thường, sẽ gây ra các triệu chứng. Các triệu chứng có thể bắt đầu trong vòng một hoặc hai giờ và có thể kéo dài nhiều tháng. Ví dụ về những bệnh nhân bị hội chứng nhiễm phóng xạ cấp tính là những người sống sót sau thảm họa bom nguyên tử tại Hiroshima và Nagasaki, những người lính cứu hỏa đầu tiên đến hiện trường trong thảm họa nhà máy điện hạt nhân Chernobyl 1986, một số người bị phơi nhiễm một cách vô ý do thiết bị khử trùng chiếu xạ và có cả những người bị ám sát bằng đầu độc phóng xạ. Tại Việt Nam ca nhiễm phóng xạ cấp tính đầu tiên xảy ra ngày 17/11/1992 trên máy gia tốc Microtron MT-17 (lắp đặt 1984) ở Viện Khoa học, Hà Nội.
Gia tộc nào giàu có nhất thế giới? Gia tộc nào có tầm ảnh hưởng & quyền lực nhất thế giới? Gia tộc nào đang kiểm soát cả thế giới? Nếu bạn đang tìm kiếm từ khoá “Những gia tộc giàu có nhất trong lịch sử thế giới” bạn sẽ không thể bỏ qua gia tộc Rothschild – một gia tộc đã định hình lịch sử tài chính trong nhiều thế hệ và lập nên vô số tổ chức tài chính trên khắp Châu Âu và Mỹ. Thông tin về gia tộc Rothschild được phản ánh khá đậm nét trong cuốn sách “Chiến tranh tiền tệ” (Song Hongbing), bạn hãy đón đọc cuốn sách này vì nó rất hay!. Đầu tiên, Nathan là con trai thứ ba và cũng là người gan dạ, thông minh nhất trong số năm anh em trong gia tộc Rothschild. Năm 1798, Nathan được cha mình điều chuyển từ Frankfurt đến Anh để khai phá lĩnh vực ngân hàng của dòng họ Rothschild. Nathan cũng chính là người sau này làm nên lịch sử cho gia tộc Rothschild. Ông đã khôn khéo nhìn thấu tình hình chiến thắng của quân Anh trong trận chiến Napoleon (1803 – 1815) và sau đó đưa ra quyết định được cho là táo bạo nhất trong lịch sử phát triển tài chính kinh tế đó là thâu tóm toàn bộ thị trường trái phiếu của chính phủ Anh – thứ mà được đánh giá là quá đắt trong thời điểm lúc bấy giờ. Sau 2 năm, gia tộc Rothschild bán lại khi giá trị lên tới đỉnh vào năm 1817 và nhận được một khoản tiền lời lên đến 40% giá trị ban đầu. Dựa trên thế lực của gia tộc Rothschild có vào lúc đó thì đây là một khoản tiền khổng lồ. Amschel – người anh trai của ông ta chuyên lo việc điều hành đại bản doanh (M.A Rothschild and Sons) của ngân hàng gia tộc Rothschild tại Frankfurt. Salomon người anh trai thứ hai – đã xây dựng được một chi nhánh ngân hàng khác của dòng họ này ở thành Vienna – Áo (S.M Rothschild and Sons). Calmann – người em thứ tư của Nathan – đã xây dựng một chi nhánh khác ở thành phố Napoli của Ý. Nhờ vào tài năng và sự khôn khéo trong kinh doanh, cả 5 người con trai của Mayer Amschel Rothschild đều có gen kinh doanh tiền giống cha và đều trở thành những nhà kinh doanh tiền xuất chúng. Gần như đồng thời trong một khoảng thời gian ngắn, 5 anh em người Do Thái thành lập 5 nhà băng Rothschild tại 5 trung tâm tài chính tiền tệ lớn nhất châu Âu lúc đó là Frankfurt (Đức), London (Anh), Paris (Pháp), Vienne (Áo) và Napoli (Italia). Bạn đọc có thể tìm đọc cuốn sách Chiến tranh tiền tệ nếu muốn có cái nhìn rõ hơn về cách mà Rothschild kiếm ra tiền như thế nào. Lưu tên, email và trang web của tôi trong trình duyệt này cho lần tiếp theo tôi nhận xét.
Gia tộc Rothschild
Gia tộc Rothschild (cách phát âm tiếng Anh: ; tiếng Đức: ; tiếng Pháp: ; tiếng Ý: ) là một gia tộc Do Thái có nguồn gốc từ Frankfurt, Đức. Họ đã tạo nên một đế chế tài chính - ngân hàng tại châu Âu bắt đầu từ cuối thế kỷ 18, đế chế này thậm chí còn vượt qua những gia tộc làm ngành ngân hàng mạnh nhất mọi thời đại như Baring và Berenberg. Năm chi nhánh thuộc gia tộc Rothschild tại Áo đã được nâng lên tầm lớp quý tộc, được phong năm danh hiệu truyền đời "Nam tước" của hoàng triều Habsburg bởi Hoàng đế Franz II năm 1816. Một nhánh khác thuộc nhánh gia đình Rothschild tại Anh cũng được nâng lên hàng quý tộc theo yêu cầu của Nữ hoàng Victoria, được hai danh hiệu truyền đời là Nam tước (1847) và Công tước (1885).Trong thế kỷ 19, khi họ lên đến đỉnh cao danh vọng, người ta cho rằng gia đình Rothschild đã sở hữu khối tài sản lớn nhất thế giới khi đó nói riêng và trong toàn bộ lịch sử thế giới hiện đại nói chung. Sau đó, theo phỏng đoán, khối tài sản này đã giảm xuống cũng như đã bị chia nhỏ cho hàng trăm con cháu trong gia đình.
Chế định pháp luật là gì? Các đặc điểm, thuộc tính của chế định pháp luật? Hệ thống các ngành luật của nước ta hiện nay. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (hình thức biểu hiện bên ngoài của hệ thống pháp luật). Hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển đã kéo theo nhiều vấn đề phát sinh. Đặc biệt là các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều. Chính vì vậy, pháp luật nước ta ban hành các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hành vi của con người và một văn bản luật có thể quy định nhiều quy phạm pháp luật để cùng điều chỉnh cho hành vi con người. Vậy, chế định pháp luật là gì? Các đặc điểm, thuộc tính của chế định pháp luật? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về vấn đề nêu trên. Hiện nay pháp luật nước ta chưa có một văn bản nào quy định về chế định là gì. Tuy nhiên, có một quan điểm về chế định pháp luật hay còn gọi là định chế pháp luật hoặc chế định là tập hợp một nhóm quy phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh về nhóm quan hệ xã hội tương ứng trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế định có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc có thể nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng là những yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội và nghĩa hẹp là tổng thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý. Theo quan điểm của tác giả tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau thì chế định pháp luật là một tập hợp gồm hai hay một số quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có tính chất chung và liên hệ mật thiết với nhau. Ví dụ: Ngành luật dân sự có các chế định như chế định quyền sở hữu, chế định hợp đồng, chế định thừa kế.Ngành luật hình sự có các chế định như các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân…. Cơ cấu bên trong của pháp luật có những đặc điểm ở tính đa dạng của các chế định. Trong đó có chế định pháp luật liên ngành, nghĩa là có quan hệ đến một vài ngành luật. Các chế định pháp luật liên ngành được hình thành, cũng như hoạt động không giống nhau. Hiến pháp là cơ sở pháp lý của tất cả những chế định pháp luật. Việc xác định đúng tính chất chung của mỗi nhóm quan hệ xã hội từ đó đề ra các quy phạm tương ứng có ý nghĩa quan trọng. Đây là cơ sở pháp lý để tạo ra cơ cấp pháp lý của một ngành luật. Không thể xây dựng được một văn bản pháp luật tốt cũng như một ngành luật hoàn chỉnh nếu không xác định rõ giới hạn và nội dung của các chế định pháp luật. Nhiều chế định hợp lại sẽ cấu thành ngành luật và các ngành luật hợp lại sẽ tạo thành một hệ thống pháp luật. Chế định pháp luật mang tính chất nhóm và mỗi chế định có một đặc điểm riêng nhưng chúng đều có mối liên hệ nội tại, thống nhất với nhau, chúng không tồn tại một cách biệt lập. Việc xác định ranh giới giữa các chế định nhằm mục đích tạo ra khả năng để xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội. Và phải đặt ra các chế định trong mối liên hệ qua lại trong một chỉnh thể thống nhất của pháp luật cũng như một ngành luật. Mỗi chế định pháp luật dùng mang đặc điểm riêng những nó cũng cần tuân theo các quy luật vật động khách quan, chịu sự ảnh hưởng, tác động của chế định khác trong hệ thống pháp luật. – Luật hành chính gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành của Nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là các quan hệ xã hội nảy sinh trong quá trình quản lý nhà nước. – Luật tài chính gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động thu chi tài chính của Nhà nước. – Luật đất đai gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực bảo vệ, quản lý và sử dụng đất. – Luật dân sự gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản dưới hình thức hàng hóa – tiền tệ và một số quan hệ nhân thân phi tài sản như quyền sáng chế, phát minh khoa học công nghệ và sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật. – Luật lao động gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động (cá nhân hoặc tổ chức) trong các quan hệ trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội. – Luật hôn nhân và gia đình gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hôn nhân và gia đình (quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hôn giữa nam và nữ). – Luật tố tụng dân sự gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ giữa cơ quan xét xử, viện kiểm sát nhân dân các cấp, đương sự và những người tham gia khác trong quá trình điều tra và xét xử những vụ án dân sự. – Luật hình sự gồm những quy phạm pháp luật quy định hành vi nào là tội phạm và phải chịu hình phạt như thế nào. – Luật tố tụng hình sự gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong việc điều tra, truy tố, xét xử những vụ án hình sự. – Luật kinh tế là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình quản lý, lãnh đạo họat động kinh tế của Nhà nước và trong hoạt động kinh doanh giữa các tổ chức, đơn vị kinh tế. Ngoài ra, bên cạnh hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia còn tồn tại hệ thống pháp luật quốc tế. Những quy phạm của luật quốc tế được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia và thể hiện ý chí chung của quốc gia đó. – Công pháp quốc tế là tổng hợp những nguyên tắc, những chế định, những quy phạm được các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế xây dựng nên trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện và bình đẳng. – Tư pháp quốc tế bao gồm những nguyên tắc và những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ dân sự, thương mại, hôn nhân – gia đình, lao động và tố tụng dân sự nảy sinh giữa các công dân, các tổ chức thuộc các nước khác nhau. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật là hình thức biểu hiện mối liên hệ bên ngoài của pháp luật bằng các loại văn bản quy phạm pháp luật có giá trị cao thấp khác nhau do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, nhưng đều tồn tại trong thể thống nhất. – Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật là các quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. – Các văn bản quy phạm pháp luật có tên gọi khác nhau (luật, pháp lệnh, nghị định,…) do Hiến pháp quy định. Giá trị pháp lý của chúng cao thấp khác nhau do vị trí của cơ quan Nhà nước trong bộ máy nhà nước quy định. – Các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trong không gian (hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ), hiệu lực theo thời gian (bắt đầu có hiệu lực hay hết hiệu lực) và hiệu lực theo nhóm người (có hiệu lực đối với nhóm người này mà không có hiệu lực đối với nhóm người khác. – Hiến pháp là đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. – Các Đạo luật (Bộ luật) là các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp. Đạo luật và Bộ luật đều là những văn bản có giá trị pháp lý cao, chỉ đứng sau Hiến pháp. – Nghị quyết của Quốc hội thường được ban hành để giải quyết các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng thường mang tính chất cụ thể. – Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội có giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành. – Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của thủ tướng Chính phủ. Các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ có giá trị pháp lý thấp hơn Pháp lệnh và Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội. – Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ có giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. – Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị – xã hội. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải phù hợp và không được trái hoặc mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước Trung ương, với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp trên và Ủy ban nhân dân cấp trên. Quyết định, chỉ thị của UBND và Chủ tịch UBND cấp nào thì có giá trị pháp lý trong địa hạt của cấp đó. Nhà ở xã hội là gì? Các rủi ro khi lách luật mua nhà ở xã hội trái phép? Quy định của nhà nước xã hội về nguyên tắc cho thuê mua, bán nhà ở xã hội. Điều kiện chuyển nhượng nhà ở xã hội gồm những gì?
Chế định pháp luật
Chế định pháp luật hay định chế pháp luật hoặc chế định là tập hợp một nhóm quy phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội tương ứng trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế định có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng là các yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội, nghĩa hẹp là tổng thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý. Cơ cấu bên trong của pháp luật có đặc điểm ở tính đa dạng của các chế định, trong đó có chế định liên ngành, nghĩa là có quan hệ đến một số ngành luật. Các chế định pháp luật liên ngành được hình thành và hoạt động không giống nhau. Hiến pháp là cơ sở pháp lý của tất cả các chế định pháp luật. Việc xác định đúng tính chất chung của mỗi nhóm quan hệ xã hội từ đó đề ra những quy phạm tương ứng có ý nghĩa quan trọng, đó là cơ sở pháp lý để tạo ra cơ cấp pháp lý của một ngành luật.
Thép không gỉ là một hợp kim của Sắt, chứa tối thiểu 10,5% Crôm. Thép có khả năng chống ăn mòn, chống oxi hóa tốt. Mà trong đó Crôm đóng vai trò chính như là một lớp áo giáp bảo vệ thép, lớp Crôm càng dày thì khả năng chống oxi hóa của thép càng cao. Nhờ khả năng chống ăn mòn cũng như chống oxi hóa tốt mà giá inox trên thị trường cũng rất cao. Do đó việc lựa chọn đúng chủng loại, thông số kỹ thuật sản phẩm để phù hợp vào từng trường hợp cụ thể là rất quan trọng. 3 Phân loại thép không gỉ3.1 Thép không gỉ Austenitic3.2 Thép không gỉ Ferritic3.3 Thép không gỉ Austenitic-Ferritic (Duplex)3.4 Thép không gỉ Martensitic. Khả năng chống ăn mòn của thép không gỉ có được nhờ vào tỷ lệ crôm có trong thép (nhỏ nhất là 13% và có thể lên đến 26% trong trường hợp làm việc trong môi trường làm việc khắc nghiệt). Trạng thái bị oxi hoá của Crôm thường là Crôm ôxit (III). Khi Crôm trong hợp kim thép tiếp xúc với không khí thì một lớp Crôm III oxit rất mỏng xuất hiện trên bề mặt vật liệu; lớp này mỏng đến mức không thể thấy bằng mắt thường, có nghĩa là bề mặt kim loại vẫn sáng bóng. Tuy nhiên, chúng lại hoàn toàn không tác dụng với nước và không khí nên bảo vệ được lớp thép bên dưới. Hiện tượng này gọi là sự oxi hoá chống gỉ bằng kỹ thuật vật liệu. Có thể thấy hiện tượng này đối với một số kim loại khác như ở nhôm và kẽm. Thép không gỉ Austenitic mềm dẻo, dễ uốn, dễ hàn,… có khả năng chịu ăn mòn ở trong nhiệt độ cao, không bị nhiễm từ. Thép không gỉ Ferritic là loại thép không gỉ có tính chất cơ lý tương tự thép mềm, nhưng có khả năng chịu ăn mòn cao hơn thép mềm (thép carbon thấp). Kết hợp giữa thép Ferritic và Austenitic, được lấy tên gọi là Austenitic-Ferritic hay Duplex. Thép chứa thành phần Niken (Ni) ít hơn nhiều so với thép Austenitic. Thép không gỉ Duplex đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi và dần thay thế loại thép không gỉ Austenitic (SUS 304, 304L, 316, 316L, 310s…) .Nguyên nhân chính dẫn đến điều này là do Niken khan hiếm và đẩy giá thành các loại thép không gỉ khác lên cao. Thép không gỉ Martensitic là thép chứa từ 11 đến 13% Crôm. Thép có độ bền chịu lực và độ cứng tốt, chịu ăn mòn ở mức độ tương đối. Thép được sử dụng nhiều để chế tạo cánh tuabin, lưỡi dao…. Sắt thép Xây dựng SDT – nhà phân phối sản phẩm Inox (thép không gỉ) với giá tốt nhất trên thị trường. Cam kết sản phẩm đạt chất lượng cao, xuất xứ nguồn gốc rõ ràng, đầy đủ chứng chỉ CO/CQ từ nhà sản xuất. Sắt Thép Xây dựng SDT - Một trong những đơn vị cung cấp thép hộp chất lượng cao từ các nhà phân phối uy tín như Thép Hòa Phát, POMINA, Miền Nam, Thép Việt Nhật, Việt Úc, Việt Đức, Việt Ý,. . Chúng tôi đảm bảo mang đến cho bạn sự hài lòng và an tâm về chất lượng cũng như giá bán của sản phẩm. Ngoài ra, đội ngũ nhân viên của chúng tôi luôn sẵn sàng tư vấn cho bạn sản phẩm nào cho phù hợp nhất với thiết kế của công trình, vừa đảm bảo chất lượng lại đảm bảo tính thẩm mỹ cao và tiết kiệm tối đa chi phí. Bước 1 : Nhận cuộc gọi của quý khách, nhân viên sẽ báo giá chi tiết về loại thép hộp mà quý khách muốn mua. Bước 2 : Sau đó, hai bên sẽ tiến hành thỏa thuận, đặt cọc và chốt đơn hàng. Bước 3 : Ngay sau khi chốt đơn hàng, công ty sẽ cho đội xe chuyên dụng cùng đội nhân viên tháo dỡ, bốc vác chở số lượng thép hộp bạn mua tới tận công trường cho bạn. Bạn chị cần kiểm tra số lượng và chất lượng hàng hóa khi được giao và thanh toán nốt số tiền còn lại là quy trình mua bán kết thúc. Như vậy, quy trình đặt mua sắt thép xây dựng tại SDT rất đơn giản, bạn sẽ không phải tốn quá nhiều thời gian, công sức mà đảm bảo chất lượng thép đạt chuẩn và giá rẻ nhất thị trường. Tất cả hãy để chúng tôi lo. Sắt Thép Xây dựng SDT luôn là người bạn đồng hành của nhiều nhà thầu, nhiều công trình xây dựng lớn, bởi chúng tôi luôn đáp ứng được những yêu cầu của nhà thầu cùng với đó là chất lượng dịch vụ làm hài lòng quý khách. Đếm thực hiện được điều đó, SDT luôn đặt ra và làm theo những cam kết sau đây :. Không chỉ cung cấp thép hộp chất lượng cao, chúng tôi còn cung cấp nhiều loại vật liệu xây dựng khác như: thép hình, thép tấm, xà gồ, thép ray, tôn lợp mái, cầu trục,. Tất cả các sản phẩm đều cam kết chất lượng đạt tiêu chuẩn, mức giá rẻ nhất thị trường và giao hàng nhanh chóng rộng khắp trên toàn quốc. Sắt Thép Xây Dựng SDT luôn là người bạn đồng hành đáng tin cậy của quý khách hàng trên toàn quốc. Bạn sẽ hoàn toàn an tâm về chất lượng vật liệu xây dựng và dịch vụ chăm sóc khách hàng của chúng tôi. Chỉ cần một cuộc gọi, mọi thông tin về giá cả cũng như các thắc mắc của bạn sẽ được đội ngũ nhân viên nhiệt tình tư vấn, hỗ trợ. Uy tín và chất lượng luôn là mục tiêu hàng đầu và là kim chỉ lam cho toàn thể nhân viên công ty. Trụ sở chính : Số 15 Đường số 1, KCN VSIP II, Tp. Thủ Dầu Một, Bình Dương.
Thép không gỉ
Trong lĩnh vực luyện kim, thép không rỉ còn gọi là thép inox hay inox (phát âm tiếng Việt như là i-nốc) bắt nguồn trong tiếng Pháp inoxydable (inoxidizable) là một hợp kim thép, có hàm lượng crom tối thiểu 10,5% theo khối lượng và tối đa 1,2% carbon theo khối lượng. Thép không gỉ nổi bật nhất là khả năng chống ăn mòn, tăng lên khi tăng hàm lượng crôm. Bổ sung molypden làm tăng khả năng chống ăn mòn trong việc giảm acid và chống lại sự tấn công rỗ trong dung dịch chloride. Do đó, có rất nhiều loại thép không gỉ với hàm lượng crôm và molypden khác nhau để phù hợp với môi trường mà hợp kim phải chịu đựng. Khả năng chống ăn mòn và nhuộm màu của thép không gỉ, bảo trì thấp và độ bóng quen thuộc làm cho nó trở thành vật liệu lý tưởng cho nhiều ứng dụng đòi hỏi cả cường độ của thép và chống ăn mòn. Thép không gỉ được cuộn thành tấm, tấm, thanh, dây và ống được sử dụng trong: dụng cụ nấu ăn, dao kéo, dụng cụ phẫu thuật, dụng cụ chính; vật liệu xây dựng trong các tòa nhà lớn, như Tòa nhà Chrysler; thiết bị công nghiệp (ví dụ, trong các nhà máy giấy, nhà máy hóa chất, xử lý nước); và bể chứa và tàu chở dầu cho hóa chất và thực phẩm (ví dụ, tàu chở hóa chất và tàu chở dầu).
Tiền gửi ngân hàng (bank deposit) là tiền được gửi trong các tài khoản ở ngân hàng (theo nghĩa đơn giản). Trên thực tế, nó chính là số liệu về khoản nợ của một ngân hàng đối với người gửi tiền. Loại tiền này phát sinh từ vai trò trung gian tài chính của ngân hàng. Tiền gửi được giữ trong nhiều tài khoản khác nhau ở điều kiện sử dụng hay rút tiền ra . Ở Anh, tài khoản vãng lai là tài khoản có thể rút hoặc chuyển khoản bằng séc mà không cần báo trước, còn tài khoản tiền gửi là tài khoản phải báo trước một thời gian khi muốn rút tiền ra. Ở Mỹ, người ta sử dụng các khái niệm tương ứng là “tiền gửi không kỳ hạn”(có thể rút ra bất kỳ lúc nào khi có nhu cầu) và “tiền gửi có kỳ hạn”. Tiền gửi trong tài khoản vãng lai (tiền gửi không kỳ hạn) nhìn chung được coi là thành tố của khối lượng tiền tệ và đây là bộ phận chủ yếu của nó. Tiền gửi trong các tài khoản tiền gửi (tiền gửi có kỳ hạn) không nằm trong khối lượng tiền tệ M1, nhưng nằm trong các định nghĩa khác về khối lượng tiền tệ, ví dụ M2,M3. Bản thân khoản tiền gửi là một khoản nợ của ngân hàng đối với người gửi tiền. Tiền gửi ngân hàng thường đề cập đến trách nhiệm này thay vì các khoản tiền thực tế đã được gửi. Khi ai đó mở tài khoản ngân hàng và gửi tiền mặt, anh ta sẽ từ bỏ quyền sở hữu tiền mặt và nó sẽ trở thành tài sản của ngân hàng. Đổi lại, tài khoản là khoản công lý đối với ngân hàng. Có nhiều loại tài khoản tiền gửi khác nhau bao gồm: tài khoản vãng lai, tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, tài khoản thị trường tiền tệ và chứng chỉ tiền gửi (CDs).
Tài khoản tiền gửi
Tài khoản tiền gửi là tài khoản ngân hàng được duy trì bởi một tổ chức tài chính, trong đó khách hàng có thể gửi và rút tiền. Tài khoản tiền gửi có thể là tài khoản tiết kiệm, tài khoản vãng lai hoặc bất kỳ loại tài khoản nào khác được giải thích bên dưới. Giao dịch trên tài khoản tiền gửi được ghi lại trong sổ sách của ngân hàng và số dư kết quả được ghi nhận là một khoản nợ của ngân hàng và thể hiện số tiền mà ngân hàng còn nợ cho khách hàng. Một số ngân hàng tính phí cho các giao dịch trên tài khoản của khách hàng. Ngoài ra, một số ngân hàng trả lãi cho khách hàng trên số dư tài khoản của họ.
Tôi biết rằng phương tiện k không được giám sát và được sử dụng để phân cụm vv và k-NN được giám sát. Nhưng tôi muốn biết sự khác biệt cụ thể giữa hai?. Đây là những phương pháp hoàn toàn khác nhau. Việc cả hai đều có chữ K trong tên của họ là một sự trùng hợp. K-mean là một thuật toán phân cụm cố gắng phân vùng một tập hợp các điểm thành K tập hợp (các cụm) sao cho các điểm trong mỗi cụm có xu hướng gần nhau. Nó không được giám sát vì các điểm không có phân loại bên ngoài. Hàng xóm gần nhất của K là thuật toán phân loại (hoặc hồi quy) để xác định phân loại điểm, kết hợp phân loại K điểm gần nhất. Nó được giám sát bởi vì bạn đang cố gắng phân loại một điểm dựa trên sự phân loại đã biết của các điểm khác. Như Bitwise đã lưu ý trong câu trả lời của họ , k-mean là một thuật toán phân cụm. Nếu nói đến hàng xóm gần nhất (k-NN) thì thuật ngữ này hơi mờ:. Vì vậy, trong bối cảnh đầu tiên, nói "phân loại k-NN" thực sự có thể có nghĩa là các thuật toán cụ thể cơ bản khác nhau giải quyết vấn đề k-NN và kết quả của chúng được diễn giải cho mục đích phân loại. Đây là hai điều khác nhau nhưng bạn có thể thấy thú vị rằng thuật toán k-mean là một trong những phương pháp khả thi khác nhau để giải quyết vấn đề k-NN (Marius Muja và David G. Lowe, "Hàng xóm gần nhất gần đúng với cấu hình thuật toán tự động" , trong Hội nghị quốc tế về lý thuyết và ứng dụng thị giác máy tính (VISAPP09), 2009 PDF ). Bạn có thể có một phương tiện k được giám sát. Bạn có thể xây dựng centroid (như trong k-mean) dựa trên dữ liệu được dán nhãn của bạn. Không có gì ngăn cản bạn. Nếu bạn muốn cải thiện điều này, không gian Euclide và khoảng cách Euclide có thể không cung cấp cho bạn kết quả tốt nhất. Bạn sẽ cần chọn không gian của mình (ví dụ có thể là không gian Riemannian) và xác định khoảng cách giữa các điểm (và thậm chí xác định "điểm"). Hai cuối cùng là chủ đề nghiên cứu và chúng cũng phụ thuộc vào loại (tính chất) của dữ liệu (tín hiệu) bạn có. K-mean có thể tạo thông tin cụm cho các nút lân cận trong khi KNN không thể tìm thấy cụm cho một nút lân cận nhất định. k Phương tiện có thể được sử dụng làm giai đoạn huấn luyện trước khi knn được triển khai trong giai đoạn phân loại thực tế. K có nghĩa là tạo các lớp được đại diện bởi nhãn trung tâm và lớp của các mẫu thuộc về mỗi lớp. knn sử dụng các tham số này cũng như số k để phân loại một mẫu mới chưa thấy và gán nó cho một trong các lớp k được tạo bởi thuật toán K có nghĩa là
Giải thuật k hàng xóm gần nhất
Trong thống kê, giải thuật k hàng xóm gần nhất (hay còn gọi là thuật toán k hàng xóm gần nhất, viết tắt từ tiếng Anh k-NN) là một phương pháp thống kê phi tham số (nonparametric statistics) được đề xuất bởi Thomas M. Cover để sử dụng cho phân loại bằng thống kê và phân tích hồi quy. Cụm từ hàng xóm có thể hiểu là láng giềng hoặc lân cận. Trong cả hai trường hợp, đầu vào chứa các ví dụ huấn luyện k gần nhất trong không gian thuộc tính (feature space). Trong phân loại k-NN, đầu ra là một thành viên lớp. Một đối tượng được phân loại theo đa số phiếu bầu của các hàng xóm của nó, với đối tượng được phân vào lớp phổ biến nhất trong số k hàng xóm gần nhất (k là một số nguyên dương, thường có giá trị nhỏ). Nếu k = 1, đối tượng đơn giản được gán cho lớp của hàng xóm đơn gần nhất. Trong hồi quy k-NN, đầu ra là một giá trị thuộc tính của đối tượng. Giá trị là giá trị trung bình của các giá trị hàng xóm k gần nhất.
Nếu quý khách hàng đang có dự định xây nhà thì không nên bỏ qua các bước tư vấn xây dựng nhà, dù bạn đã từng xây dựng cho mình nhiều ngôi nhà hoặc nay mới xây nhà lần đầu cũng không nên chủ quan mà bỏ qua bước tư vấn xây dựng quan trọng này. Gia chủ nên chủ động tìm đến các công ty xây dựng uy tín để yêu cầu dịch vụ tư vây xây dựng nhà, việc tìm đúng công ty tư vấn xây dựng có chuyên môn là cần thiết bởi tư vấn và lên ý tưởng ban đầu là hết sức quan trọng "nếu sai một lý sẽ đi một dặm". Tư vấn xây dựng là một loại hình tư vấn đa dạng trong ngành công nghiệp xây dựng, kiến trúc, quy hoạch đô thị và nông thôn, … có quan hệ chặt chẽ với tư vấn đầu tư, thực hiện phần việc tư vấn tiếp nối sau việc của tư vấn đầu tư. Tư vấn xây dựng giúp cho khách hàng, chủ đầu tư xây dựng, tổ chức việc khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng và tổ chức đấu thầu để mua sắm thiết bị đầu tư, đấu thầu xây lắp công trình, giám sát thi công xây dựng, nghiệm thu công việc đã hoàn thành. Thông thường, đối với các dự án công trình hạ tầng kỹ thuật, chỉ có một công ty tư vấn đầu tư và xây dựng đảm nhiệm công việc từ đầu đến cuối. Công ty tư vấn xây dựng là những đơn vị chuyên ngành, hoạt động độc lập về mặt pháp lý và phục vụ khách hàng theo hợp đồng. Ở các nước trên thế giới, các tổ chức này phần lớn thuộc hiệp hội tư vấn xây dựng. Một thực tế không thể phủ nhận là phí tư vấn xây dựng của ta hiện nay còn quá thấp, chỉ bằng 1,3 - 2,5% giá trị xây dựng trong khi ở nước ngoài thường là 4 - 12% giá trị xây dựng với cùng một thể loại, quy mô công trình. Tuy nhiên, dịch vụ tư vấn xây dựng mang một ý nghĩa quan trọng và đem lại nhiều lợi ích cho dự án, công trình xây dựng. Việc một công trình, dự án có nhiều không gian liên kết, nhiều tổ hợp xây dựng là điều tất yếu. Nhà đầu tư muốn dễ dàng kết nối các tổ hợp, các không gian này với nhau thường dựa vào công ty tư vấn xây dựng cụ thể hóa bằng mô hình dự án hoàn thiện. Các tổ chức tư vấn xây dựng thường sẽ nắm rõ các chi phí xây dựng công trình dự án, qua đó đưa ra các dự toán cụ thể cho chủ đầu tư nhằm điều chỉnh phương án thiết kế sao cho phù hợp nhất. Khi lên kế hoạch xây dựng cho một công trình, dự án việc đầu tiên cần làm chính là xin cấp giấy phép xây dựng. Để xin cấp phép cần có những hồ sơ gì? Quy hoạch tại địa điểm xây dựng ra sao?… Những vấn đề này sẽ được các công ty chuyên tư vấn xây dựng hỗ trợ và lập hồ sơ xin giấy phép xây dựng, bao gồm tất cả giấy tờ cần thiết về mặt luật pháp, quy hoạch và thiết kế công trình và thay chủ đầu tư trực tiếp liên hệ với cơ quan có thẩm quyền, bổ sung khi cần thiết để thúc đẩy nhanh thời gian có giấy phép xây dựng hoàn chỉnh. Người vẽ bản thiết kế và người thi công không phải lúc nào cũng là một. Nhà thầu hay chủ đầu tư nên lựa chọn tổ chức chuyên tư vấn xây dựng nhằm theo dõi sát sao tiến độ xây dựng, đồng thời bám sát thiết kế đã kí kết, thỏa thuận ban đầu. Khi thi công chủ đầu tư cũng không thường xuyên theo dõi được tiến độ và không có nhiều chuyên môn để xem xét toàn diện chất lượng công trình, vì vậy việc thuê bên thứ 3 làm việc độc lập nhằm giám sát công trình như công ty tư vấn xây dựng sẽ giúp chủ đầu tư giải quyết triệt để những thất thoát trong thi công. Xây Dựng Kim Anh : Công ty, nhà thầu xây dựng chuyên thi công xây dựng nhà phố, biệt thự, sửa chữa nhà uy tín và chất lượng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi luôn mang đến sự hài lòng đến toàn thể quý khách hàng đã tin tưởng đến công ty. Công ty chúng tôi rất hân hạnh khi được làm việc với toàn thể quý khách hàng đã tin tưởng chúng tôi.
Tư vấn xây dựng
Tư vấn xây dựng là một loại hình tư vấn đa dạng trong công nghiệp xây dựng, kiến trúc, quy hoạch đô thị và nông thôn. có quan hệ chặt chẽ với tư vấn đầu tư, thực hiện phần việc tư vấn tiếp nối sau việc của tư vấn đầu tư. Tư vấn xây dựng giúp cho khách hàng - chủ đầu tư xây dựng - tổ chức việc khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng và tổ chức đấu thầu để mua sắm thiết bị đầu tư, đấu thầu xây lắp công trình, giám sát thi công xây dựng, nghiệm thu công việc đã hoàn thành. Thông thường, đối với các dự án công trình hạ tầng kỹ thuật, chỉ có một công ty tư vấn đầu tư và xây dựng đảm nhiệm công việc từ đầu đến cuối. Kỹ sư tư vấn xây dựng là người có đủ trình độ, chuyên môn để thực hiện công tác tư vấn xây dựng. Ở Việt Nam, để được hành nghề Kỹ sư tư vấn xây dựng cần phải có chứng chỉ hành nghề, phải có tối thiểu 3 năm hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và số lượng công trình đã tham gia phải đủ lớn.
SVM là viết tắt của support vector machine, và mặc dù nó có thể giải quyết cả vấn đề phân loại và hồi quy, nó chủ yếu được sử dụng cho các bài toán phân loại trong học máy (ML) . Các mô hình SVM giúp chúng tôi phân loại các điểm dữ liệu mới dựa trên dữ liệu tương tự đã được phân loại trước đó, khiến nó trở thành một kỹ thuật học máy có giám sát. Các tài nguyên đi kèm với bài viết này có thể được tìm thấy trên Google Colab hoặc Github . Phân loại là một nhiệm vụ ML được giám sát yêu cầu các thuật toán học máy học cách gán nhãn lớp cho các ví dụ từ miền vấn đề. Một ví dụ dễ hiểu là phân loại email là “ rác ” hoặc “ không phải rác ”. Có một số loại nhiệm vụ phân loại khác nhau mà chúng ta có thể gặp trong học máy và các cách tiếp cận chuyên biệt để lập mô hình có thể được sử dụng cho mỗi . Các mô hình như vậy sẽ yêu cầu dữ liệu đầu vào và nhãn để học và hiểu và sau đó ước tính cách tiếp cận tốt nhất để phân loại hoặc ánh xạ dữ liệu đầu vào mới. Có nhiều loại thuật toán khác nhau, và SVM là một trong số chúng và được sử dụng rộng rãi nhất. Có bốn loại nhiệm vụ phân loại:. Phân loại không cân bằng: Số lượng cá thể trong mỗi lớp là không bằng nhau. Máy vectơ hỗ trợ chịu trách nhiệm xây dựng một siêu phẳng hoặc một tập hợp các siêu phẳng trong không gian cao hoặc vô hạn chiều, do đó, có thể được sử dụng để phân loại, hồi quy hoặc các nhiệm vụ khác như phát hiện ngoại lệ. Theo trực giác, siêu phẳng có khoảng cách đáng kể nhất đến điểm dữ liệu huấn luyện gần nhất của bất kỳ lớp nào (được gọi là lề chức năng) vì nói chung, lề càng lớn thì lỗi tổng quát của bộ phân loại càng thấp. Các thuật toán học máy nghe có vẻ lạ mắt và đáng sợ vì các thuật ngữ được sử dụng. Tuy nhiên, họ rất thẳng thắn để hiểu và xuất phát từ các sự kiện hàng ngày trong cuộc sống. Chúng ta hãy hiểu từng thuật ngữ của SVM với các ví dụ phân loại. Hình ảnh đại diện cho bộ phân loại SVM lý tưởng trông như thế nào khi chúng ta hình dung nó trên mặt phẳng 2 chiều. Có hai lớp: âm và dương, được đánh dấu bằng các màu đỏ và xanh lam tương ứng. Lý do chính xác để đánh dấu chúng là tiêu cực và tích cực sẽ rõ ràng hơn nhiều trong tương lai. SVM tạo ra một mặt phẳng trong các đặc trưng 2 chiều và một siêu phẳng trong các đặc trưng nhiều chiều được gọi là ranh giới quyết định . Siêu phẳng phân tách các tính năng và giúp phân loại điểm dữ liệu đầu vào mới dựa trên các giá trị của nó. Có n-số siêu mặt phẳng có thể được tạo ra, có thể tách các lớp và tìm ra lớp tối ưu? Đó là khi các vectơ ký quỹ và hỗ trợ phát huy tác dụng. Khi siêu phẳng cho ranh giới quyết định được tạo ra, nó cũng tạo ra hai siêu phẳng được gọi là mặt phẳng biên, song song chính xác với đường biên quyết định sao cho cả hai mặt phẳng biên đi qua ít nhất một trong những điểm gần nhất từ lớp tương ứng. Những điểm gần nhất mà hai mặt phẳng biên đi qua được gọi là vectơ hỗ trợ. Ranh giới quyết định tối ưu là biên có khoảng cách lớn nhất giữa hai siêu mặt phẳng biên song song, khoảng cách giữa chúng được gọi là lề . Do đó, thuật toán SVM hoạt động trên việc tối đa hóa lợi nhuận. Có hai loại vấn đề phân loại liên quan đến phân phối dữ liệu: có thể phân tách theo tuyến tính và có thể phân tách không theo tuyến tính . Hai tập hợp có thể phân tách tuyến tính nếu tồn tại ít nhất một đường trong mặt phẳng với tất cả các điểm màu xanh ở một phía của đoạn thẳng và tất cả các điểm màu đỏ ở phía bên kia . Khi các điểm dữ liệu không thể được phân tách bằng một đường thẳng hoặc một siêu phẳng thẳng, những loại đó được gọi là có thể phân tách không tuyến tính. Trong tình huống như vậy, hạt nhân SVM hoạt động và chuyển đổi chiều thấp thành chiều cao để các điểm dữ liệu có thể phân tách tuyến tính. Để biết thêm thông tin, hãy xem video được hiển thị bên dưới. trong đó đầu ra y cho biết nó thuộc lớp dương hay lớp âm. w là ma trận đại diện cho các tham số của mặt phẳng cũng là hệ số của x trong đó x là dữ liệu đầu vào. b đại diện cho giao điểm của siêu phẳng. Trong ví dụ cụ thể mà chúng tôi đã xem xét này, chúng tôi mong đợi kết quả đầu ra của phương trình phân loại là một số dương cho biết điểm dữ liệu thuộc lớp dương hoặc số âm cho biết điểm dữ liệu thuộc lớp âm. Nếu bất kỳ điểm nào chính xác trên ranh giới quyết định, thì đầu ra của bộ phân loại sẽ bằng 0 và do đó, phương trình của ranh giới quyết định là:. Đừng mù quáng tin vào nó. Chúng ta sẽ tiếp tục và tìm ra lý do tại sao đầu ra của phương trình là dương hoặc âm. Hãy xem xét vấn đề trên trong đó ranh giới quyết định đi qua điểm gốc và do đó giao điểm bằng 0 và độ dốc của nó là +1. Một điểm dữ liệu duy nhất trên mỗi mặt của siêu phẳng đại diện cho cả hai lớp tích cực và tiêu cực. Thay thế các giá trị trong phương trình của siêu phẳng:. Bất kỳ điểm nào bên dưới siêu phẳng sẽ luôn là số dương và phía trên siêu phẳng sẽ là số âm. Tiếp theo, lợi nhuận phải được tối đa hóa để tìm ra ranh giới quyết định tối ưu. Coi vectơ hỗ trợ âm là điểm x1 và vectơ hỗ trợ dương là điểm x2. Biên sẽ đơn giản là sự khác biệt giữa x1 và x2 . Hãy đi đến phương trình này với sự trợ giúp của việc giải các phương trình tuyến tính. Về mặt toán học, chúng ta có hai phương trình với hai ẩn số ( x1 và x2 ). Để tìm ẩn số, hãy trừ một phương trình cho một phương trình khác. Để tìm x1 - x2 , w phải được đưa vào vế trái của phương trình, nghĩa là 2 trên w . Người ta đã biết rằng w là một vectơ, và các vectơ không thể chia trực tiếp như một giá trị vô hướng. Điều tương đương sẽ là chia cả hai cạnh cho độ dài của w, nghĩa là độ lớn của định mức đó của w . Khi w được chia cho dạng chuẩn của nó, nó vẫn hướng theo cùng một hướng, nhưng độ lớn sẽ là 1 đơn vị tương đương với vô hướng 1. Bây giờ chúng ta đã đến phương trình cho lề, nó được coi là hàm tối ưu hóa cần được tối ưu hóa bằng cách sử dụng các thuật toán tối ưu hóa như gradient descent. Các thuật toán tối ưu hóa hoạt động tốt nhất khi tìm ra cực tiểu cục bộ, do đó để giảm bớt vấn đề, tối thiểu hóa nghịch đảo của x1 - x2 có thể được sử dụng như một hàm tối ưu hóa, đó là tiêu chuẩn của w trên 2. Cũng có thể là mô hình SVM có thể có một số phần trăm lỗi, ý nghĩa, phân loại sai dữ liệu mới và điều đó phải được tích hợp vào chức năng tối ưu hóa của chúng tôi, trong đó Ci cho biết số điểm lỗi, nói cách khác, số lượng phân loại sai điểm dữ liệu và tổng khoảng cách giữa siêu phẳng biên và điểm dữ liệu bị phân loại sai. Ký quỹ cứng : Ký quỹ không chịu được bất kỳ lỗi nào được gọi là ký quỹ cứng. Nó nhạy cảm với các ngoại lệ và một ngoại lệ duy nhất có thể ảnh hưởng đến ranh giới quyết định. Ký quỹ mềm : Ký quỹ có thể coi là một số phần trăm lỗi được gọi là ký quỹ mềm. Không nhạy cảm với các yếu tố ngoại lai. Nó không bắt buộc phải hiểu toán học hoàn toàn. Nó là ok nếu bạn không thể theo dõi dẫn xuất. Về cơ bản, cần biết rằng SVM tạo ra một siêu phẳng hoạt động như một ranh giới quyết định để phân loại các điểm dữ liệu và để tìm đúng ranh giới, hai siêu phẳng được coi là nơi khoảng cách giữa chúng phải là lớn nhất. SVM dễ dàng khi xây dựng một siêu phẳng cho các điểm dữ liệu có thể phân tách tuyến tính. Tuy nhiên, sẽ khó khăn hơn nhiều khi dữ liệu có thể phân tách không theo tuyến tính. Như đã thảo luận, hạt nhân SVM giúp chuyển đổi các điểm dữ liệu có thể phân tách tuyến tính không theo chiều thấp thành các điểm dữ liệu có thể phân tách tuyến tính có chiều cao. Có ba hạt nhân SVM phổ biến được biết đến:. Hãy xem xét các điểm dữ liệu ở trên, và nó là một ví dụ về phân loại nhị phân (1 và 0). Không thể vẽ một đường thẳng có thể phân tách hai lớp. Áp dụng một phép chuyển đổi trên mỗi điểm sẽ chuyển đổi các điểm dữ liệu 1-d thành 2-d, giúp xây dựng ranh giới quyết định. Ở đây, hàm chuyển đổi sẽ là:. Tức là, bình phương mỗi điểm dữ liệu và vẽ biểu đồ kết quả dưới dạng chiều thứ hai ( trục y ). Các điểm dữ liệu gốc được vẽ trên trục x và các điểm dữ liệu đã biến đổi (hình vuông x) được vẽ trên trục y . Bây giờ, các điểm dữ liệu có thể dễ dàng phân tách bằng cách vẽ một siêu phẳng tuyến tính. Hình dung các điểm dữ liệu chiều cao hơn sẽ là một thách thức. Tuy nhiên, hạt nhân SVM cũng hoạt động tương tự với các điểm dữ liệu chiều cao hơn, chuyển đổi dữ liệu chiều thấp thành dữ liệu chiều cao để chúng chuyển đổi thành điểm dữ liệu có thể phân tách tuyến tính. Hãy tải dữ liệu rượu vang từ thư viện sklearn. Vì dữ liệu đang được tải từ sklearn, nên sẽ dễ dàng làm việc với nó hơn nếu chúng ta lưu trữ nó vào DataFrame . TUYÊN BỐ TỪ CHỐI: Quan điểm được trình bày trong bài viết này là quan điểm của (các) tác giả và không đại diện cho quan điểm của bất kỳ công ty nào (trực tiếp hoặc gián tiếp) liên kết với (các) tác giả. Công việc này không có ý định trở thành sản phẩm cuối cùng, mà là phản ánh suy nghĩ hiện tại, cùng với đó là chất xúc tác để thảo luận và cải tiến. Tất cả hình ảnh là của (các) tác giả trừ khi có quy định khác. Ý tưởng về một thuật toán học máy giống hệt với bất kỳ thuật toán nào khác trong khoa học máy tính. Thuật toán học máy là một phương pháp theo hướng dữ liệu để phát triển mô hình học máy sẵn sàng sản xuất. Theo thuật ngữ của người học, N-Grams hoặc Collocations không là gì ngoài hai hoặc nhiều từ có xu hướng xuất hiện thường xuyên cùng nhau. Trong trường hợp các cụm từ, điều đầu tiên cần thiết là chuyển đổi một tài liệu dưới dạng danh sách các mã thông báo / từ. Raytraced shadow là một trong những tính năng chuyên sâu về tính toán trong đồ họa máy tính. Mặt khác, bóng chiều sâu (hay còn gọi là bóng xạ ảnh) cũng là một gánh nặng cho việc xử lý CPU / GPU và sử dụng bộ nhớ, mặc dù ở mức độ thấp hơn. GIỚI THIỆU Bài viết dưới đây trình bày các đường cong Bézier (2D và 3D) được tính toán và vẽ đồ thị trong C ++. Đường cong Bézier có khả năng toán học tuyệt vời để tính toán đường đi (đường cong từ điểm bắt đầu đến điểm đích). Hoa hồng Miễn phí, Chia sẻ Phân đoạn, tất cả đều thông qua một API. Tìm hiểu cách bắt đầu với Python, các ví dụ có thể áp dụng và các công cụ mới như Postman. Có thể bạn đã thấy phụ nữ tweet “Tôi sẽ không bao giờ bỏ trốn mà không nói với người thân”, có thể bạn đã làm như vậy. Có thể bạn thường thấy mình đang lên kế hoạch cho một tình huống nham hiểm? Chà, rất nhiều phụ nữ đang phụ trách và lên kế hoạch trước cho những sự cố khủng khiếp với thư mục Nếu tôi mất tích. Người hâm mộ Grace and Frankie sẽ có thêm tám tập nữa để thưởng thức trước khi bộ phim có dấu hiệu khởi sắc. Họ có một số ý tưởng về những gì sẽ xảy ra. Bây giờ, nhiều năm sau khi nhiều khán giả nhảy tàu, một số bị hấp dẫn bởi sự tự phụ của loạt phim mới, The Walking Dead: World Beyond. Hoàng tử Harry và Meghan Markle có thể sẽ phá vỡ truyền thống hoàng gia với con gái Lilibet của họ khi nói đến nghi thức thông hành cụ thể này. Quán cà phê Alice Waters mở ở Berkeley, California, vào năm 1971, đã khởi xướng phong trào ẩm thực California và từ trang trại đến bàn ăn. Năm mươi năm sau Chez Panisse vẫn là một trong những nhà hàng có ảnh hưởng nhất của nước Mỹ. FDA đã hoàn toàn chấp thuận vắc-xin Pfizer COVID-19 cho những người từ 16 tuổi trở lên, nhưng điều đó vẫn khiến trẻ em dưới 12 tuổi không đủ điều kiện để tiêm chủng. Có nên xem xét việc sử dụng ngoài nhãn để bảo vệ chúng không?. Hai chuyên gia khủng bố cân nhắc về nhóm đứng sau vụ tấn công sân bay Kabul chết người và sự cạnh tranh của lực lượng này với Taliban. Tốt hơn bạn nên đo nó trước khi đeo nhẫn. Ít nhất thì đó là những gì Beyoncé đã nói, và cô ấy đã có cho mình một viên kim cương 18 carat. Come From Away Cho đến khi "vở nhạc kịch 11/9" đi, ít thành công hơn, hoặc được giới phê bình đánh giá cao như Come From Away sản xuất của Canada. Được chỉnh sửa lần đầu vào năm 2012 — và ra mắt lần đầu trên sân khấu Broadway vào năm 2017 — vở nhạc kịch từng đoạt giải Tony kể về câu chuyện của một số người trong số hàng nghìn người bị máy bay chuyển hướng đến một thị trấn nhỏ ở Newfoundland vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 và những nỗ lực của người dân thị trấn để hỗ trợ và an ủi làn sóng khổng lồ của những người lạ bị sốc. Hàng loạt đề cử Emmy mà Lovecraft Country nhận được vào ngày 13 tháng 7 nhanh chóng trở thành một khoảnh khắc buồn vui lẫn lộn cho dàn diễn viên và những người sáng tạo ra loạt phim. Chỉ 11 ngày trước, HBO đã hủy bỏ bộ phim kinh dị siêu nhiên của Misha Green, người đã chuyển thể tiểu thuyết cùng tên của Matt Ruff lên màn ảnh nhỏ. Vào thứ Sáu, hai tay đua Công thức 1 đã xác nhận rằng họ sẽ ở lại với các đội của mình cho mùa giải 2022. Trong nhà để xe Alpine, đội từ Enstone đã tái ký hợp đồng với Fernando Alonso, 40 tuổi, để hợp tác với người chiến thắng Grand Prix Esteban Ocon.
Máy vectơ hỗ trợ
Máy vectơ hỗ trợ (SVM - viết tắt tên tiếng Anh support vector machine) là một khái niệm trong thống kê và khoa học máy tính cho một tập hợp các phương pháp học có giám sát liên quan đến nhau để phân loại và phân tích hồi quy. SVM dạng chuẩn nhận dữ liệu vào và phân loại chúng vào hai lớp khác nhau. Do đó SVM là một thuật toán phân loại nhị phân. Với một bộ các ví dụ luyện tập thuộc hai thể loại cho trước, thuật toán luyện tập SVM xây dựng một mô hình SVM để phân loại các ví dụ khác vào hai thể loại đó. Một mô hình SVM là một cách biểu diễn các điểm trong không gian và lựa chọn ranh giới giữa hai thể loại sao cho khoảng cách từ các ví dụ luyện tập tới ranh giới là xa nhất có thể. Các ví dụ mới cũng được biểu diễn trong cùng một không gian và được thuật toán dự đoán thuộc một trong hai thể loại tùy vào ví dụ đó nằm ở phía nào của ranh giới. Thuật toán SVM ban đầu được tìm ra bởi Vladimir N. Vapnik và dạng chuẩn hiện nay sử dụng lề mềm được tìm ra bởi Vapnik và Corinna Cortes năm 1995.
FTA là từ rút gọn của từ Free trade area (Khu vực mậu dịch tự do) hoặc cũng có thể là Free trade agreement (Hiệp định thương mại tự do).Là mục đích chính thức của một quá trình thương thảo giữa hai hay nhiều quốc gia ký kết nhằm hạ thấp hoặc loại hẳn các rào cản đối với thương mại. Một FTA thường gồm có những yếu tố quy định về thuế nhập khẩu, hạn ngạch và lệ phí đối với hàng hóa/dịch vụ được giao dịch giữa các thành viên ký kết FTA nhằm cho phép các nước mở rộng tiếp cận thị trường của nhau. Cho tới nay đã có rất nhiều các tổ chức và đất nước khác nhau đưa rõ ra các định nghĩa về FTA cho riêng mình. Việc này thể hiện những khái niệm khác nhau về FTA cũng như sự tăng trưởng đa dạng của các đất nước. Tuy vậy theo cách hiểu chung nhất, FTA là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó bằng cách cắt giảm thuế quan, có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi sản phẩm, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên. Tại thời điểm này, FTA còn có cả các nội dung mới xúc tiến và tự do hóa đầu tư, chuyển giao công nghệ, lao động, môi trường…. Thứ nhất là quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. thứ 2 là quy định danh mục mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan. Thông lệ áp dụng chung là 90% thương mại. Thứ ba là quy định lộ trình cắt giảm thuế quan, khoảng thời gian cắt giảm thuế hay được kéo dài không quá 10 năm. FTA khu vực: là FTA được ký giữa các nước trong cùng một đơn vị khu vực. FTA được ký giữa một tổ chức với một nước: ví dụ các FTA được ký giữa một bên là tổ chức ASEAN với Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc… Hay FTA giữa nước ta và Liên minh Châu Âu EU. Hiệp định song phương Viet Nam Hoa Kỳ chính thức được ký kết sau 4 năm thương thuyết. Hiệp Định này được thương thuyết trên cơ sở các nguyên tắc của doanh nghiệp thương mại thế giới WTO, vì vậy mà nội dung không những nói tới thương mại sản phẩm, mà còn chứa đựng cả những điều khoản về thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư. Hiệp Định này được gọi tắt là TIFA, được ký kết nhân chuyến thăm chính thức Hoa kỳ của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Hai bên đã thành lập hội đồng tifa nhằm mục tiêu theo dõi và giám sát sự tăng trưởng quan hệ thương mại và đầu tư hai nước, xem xét không vấn đề thương mại và đầu tư cả hai cùng chú ý, tìm kiếm các biện pháp giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế thương mại gồm có cả những khó nhằn và kiến nghị của công ty hai nước. Trải qua 9 phiên đàm phán chính thức, Hiệp Định JVEPA đã chính thức được ký kết tại Tokyo. Hiệp định này quy định những điều khoản về thương mại sản phẩm, thương mại dịch vụ đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, mua sắm chính phủ và các lĩnh vực kinh tế khác. Hiệp định này đã tạo khuôn khổ pháp lý cho các nhà đầu tư hai nước, cùng lúc đó tăng cường sự kết nối kinh tế thương mại song phương. – Từ thời điểm ký kết AFAS (từ năm 1995) đến nay, có 9 gói cam kết, lần lượt từ năm 1997 đến năm 2015. – Các đảm bảo về tự do hóa thương mại gồm có mọi lĩnh vực như: tạo ra, môi trường, dịch vụ bán hàng, dịch vụ chuyên nghiệp, phân phối sản phẩm, giáo dục, vận tải biển, viễn thông và du lịch. + Xác lập mục tiêu hài hòa chính sách giữa các thành viên ASEAN trong bối cảnh xây dựng AEC. + Cam kết cắt giảm thuế của nước ta trong khuôn khổ Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN-Trung Quốc. – Tiến tới thành lập một khu vực thương mại tự do với ASEAN với mục tiêu biến ASEAN thành một khu vực sản xuất chung của Nhật Bản, tạo chuỗi liên kết các khu vực sản xuất của Nhật Bản giữa các nước ASEAN. – Tiến hành thương thuyết để đạt cho được lợi ích ở từng lĩnh vực nhất định. – Tự do hoá 90% kim ngạch trong vòng 10 năm (kim ngạch nhập khẩu từ Nhật Bản năm 2006). – Nhật Bản loại trừ các mặt hàng tập trung Chủ yếu vào các hàng hóa nông nghiệp. + Danh mục một số mặt hàng đảm bảo xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu của ASEAN Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước, thúc đẩy hội nhập kinh tế với các quốc gia khác trong khu vực và quốc tế. Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được ký kết vào ngày 28 tháng 1 năm 1992 tại Singapore. Ban đầu chỉ có sáu nước là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan (gọi chung là ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (gọi chung là CLMV) được yêu cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này. Hiện tại đây là một trong những khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới.
Trường Đại học Hải Phòng ngày nay là sự hợp thành từ nhiều trường trong hệ thống các đơn vị đào tạo, bồi dưỡng ở Hải Phòng mà đơn vị tiền thân đầu tiên là Trường Sư phạm trung cấp Hải Phòng được thành lập theo Nghị định số 359-NĐ, ngày 22 tháng 7 năm 1959 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục về việc thành lập các trường sư phạm trung cấp ở các tỉnh, liên tỉnh. Trường Sư phạm trung cấp Hải Phòng có nhiệm vụ đào tạo giáo viên cấp 2 cho các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng và Kiến An (nay là thành phố Hải Phòng), Hồng Quảng và Hải Ninh (nay là tỉnh Quảng Ninh). Sau khi thành lập, nhà trường đã tập trung làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên phổ thông, góp phần tích cực cho quá trình phát triển sự nghiệp giáo dục ở các địa phương trong những năm đầu của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và kháng chiến chống đế quốc Mỹ, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Hệ thống các đơn vị đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở Hải Phòng đã hình thành từ các trường đào tạo và bồi dưỡng sư phạm theo các cấp học từ bậc sơ cấp, trung cấp, 10+1, 10+2, 10+3 tới cao đẳng. Năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập trường Đại học Sư phạm Hải Phòng trên cơ sở sáp nhập Trường Cao đẳng sư phạm Hải Phòng, Trường Đại học tại chức Hải Phòng, Trường Cán bộ quản lý giáo dục và Bồi dưỡng giáo viên Hải Phòng và Trung tâm Ngoại ngữ Hải Phòng. Ngày 09 tháng 4 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 60/2004/QĐ-TTg đổi tên Trường Đại học Sư phạm Hải Phòng thành Trường Đại học Hải Phòng. Trường Đại học Hải Phòng (tiếng Anh: Haiphong University) là trường đại học đa ngành, được thành lập tại Hải Phòng năm 1959 với tên cũ là Phân hiệu Trường Đại học Tại chức Hải Phòng. Năm 2000, Trường Đại học Tại chức Hải Phòng sáp nhập với một số cơ sở đào tạo chuyên nghiệp khác của Hải Phòng thành Trường Đại học Sư phạm Hải Phòng. Ngày 9 tháng 4 năm 2004, Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 60/2004/QĐ-TTg, đổi tên Trường Đại học Sư phạm Hải Phòng thành Trường Đại học Hải Phòng. Tính đến tháng 10 năm 2017, trường có 462 giảng viên. Trong đó có 5 phó giáo sư,68 tiến sĩ, 321 thạc sĩ và 70 giảng viên có trình độ đại học. Trường Đại học Hải Phòng gồm có 4 cơ sở, cơ sở trung tâm đặt tại quận Kiến An, 3 cơ sở khác đặt tại quận Ngô Quyền. Trường Đại học Hải Phòng có tổng diện tích phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và hội họp là hơn 28,76 ha. Trường có hơn 263 giảng đường, phòng học, hội trường lớn và hệ thống phòng hội thảo; gần 35 phòng thí nghiệm và phòng thực hành. Các hệ thống cơ sở vật chất phục vụ bộ môn giáo dục thể chất và phong trào thể thao của sinh viên đầy đủ và hiện đại với 1 sân bóng, 1 nhà thi đấu đa năng,… Trường có một khu ký túc xá với 150 phòng, đủ khả năng đáp ứng chỗ ở cho khoảng trên 1500 sinh viên, và 1 trung tâm y tế. 14 Khoa: Khoa Điện – Cơ, Khoa Toán, Khoa Công nghệ Thông tin, Khoa Du lịch, Khoa Khoa học Tự nhiên, Khoa Ngữ Văn Và Địa Lý, Khoa Ngoại ngữ, Khoa Thể dục – Thể thao, Khoa Giáo dục Tiểu học và Mầm non, Khoa Lý luận Chính trị, Khoa Tâm lý – Giáo dục học; Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Khoa Kế toán – Tài chính, Khoa Xây dựng. 01 Viện: Viện Đào tạo và Nghiên cứu phát triển sinh-nông. Đến tháng 8 năm 2014 đổi tên thành Viện Sinh Nông. 5 Trung tâm: Trung tâm Thông tin thư viện, Trung tâm Ngoại ngữ, Trung tâm Đào tạo Bồi dưỡng cán bộ, Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và an ninh sinh viên, Trung tâm Đào tạo Thường xuyên. 3 Trường thực hành sư phạm: Trường Mầm non Thực hành, Trường Tiểu học Thực hành, Trường PT Phan Đăng Lưu. “Người Việt đang “mê” đa cấp thay vì “say” khởi nghiệp! ?””Có một sự liên hệ mật thiết giữa kinh doanh đa cấp và khởi nghiệp, nhưng nếu so sánh về giá trị cho xã hội mà khởi nghiệp và đa cấp tạo ra, chúng ta có thể thấy rõ sự khập khiễng này.”. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Trường Đại học Hải Phòng
Trường Đại học Hải Phòng (tiếng Anh: Haiphong University) là trường đại học đa ngành, được thành lập tại Hải Phòng năm 1959 với tên cũ là Phân hiệu Trường Đại học Tại chức Hải Phòng. Năm 2000, Trường Đại học Tại chức Hải Phòng sáp nhập với một số cơ sở đào tạo chuyên nghiệp khác của Hải Phòng thành Trường Đại học Sư phạm Hải Phòng. Ngày 9 tháng 4 năm 2004, Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 60/2004/QĐ-TTg, đổi tên Trường Đại học Sư phạm Hải Phòng thành Trường Đại học Hải Phòng.
Cuốn sách “Súng, vi trùng và thép” là nỗ lực của Jared Diamond nhằm đi tìm câu trả lời tối hậu cho một thắc mắc dường như quá hiển nhiên, như chính tác giả đã đề cập ngay phần đầu sách: "Tại sao lịch sử đã diễn ra trên mỗi châu lục một khác?". Vì e rằng sẽ có nhiều người ngay lập tức nghĩ đến việc cuốn sách sẽ xoay quanh vấn đề về chủng tộc, nên ngay sau khi nêu câu hỏi như thế thì ông Jared Diamond liền đính chính lại ngay: “Nếu như câu hỏi này lập tức khiến bạn nhún vai cho rằng bạn sắp phải đọc một luận văn phân biệt chủng tộc thì xin thưa, không phải vậy đâu: như bạn sẽ thấy, những lời đáp cho câu trả lời này tuyệt không bao hàm những sự khác biệt về chủng tộc.”. Đúng như vậy, nếu xem xét cho rốt ráo và kĩ càng câu hỏi mà ông Jared Diamond đưa ra, thì quả thật việc đưa ra nguyên do vì mỗi chủng tộc phát triển khác nhau là một câu trả lời hoàn toàn dở dang, nửa vời và thậm chí là một câu trả lời thiếu trách nhiệm. John Locke, triết gia người Anh ở thời kì Ánh sáng bên châu Âu, đã từng phát biểu cụm từ tabula rasa (blank sheet, tức “tờ giấy trắng”) để ý chỉ rằng tâm thức con người ta khi vừa mới sinh ra giống như một tờ giấy trắng vậy, và phải qua thời gian thì “tờ giấy trắng” đó mới được tô điểm thêm bởi kinh nghiệm, được hình thành thông qua cảm nhận và phản hồi từ thế giới bên ngoài, để từ đó tạo nên tri thức của chính bản thân . Khái niệm tabula rasa này nói về tâm thức con người, mà cũng có thể hiểu rộng hơn về tâm thức của cả nhân loại, tức là từ thuở ban đầu, cả nhân loại đều có cùng một xuất phát điểm là từ châu Phi, và tâm thức nhân loại lúc bấy giờ cũng tựa như tabula rasa vậy, thế nhưng qua thời gian, vì nguyên do nào đó mà hình thành nên những chủng tộc khác nhau. Lịch sử diễn ra ở mỗi nơi một khác là do chủng tộc ở những nơi đó khác nhau, vậy thì tại sao những chủng tộc đó lại khác nhau, khi loài người đều có cùng xuất phát điểm như nhau?. Như Jared Diamond cũng có đề cập trong phần đầu sách, ngay cả trong công trình nghiên cứu lịch sử cực kì công phu của Arnold Toynbee là bộ Study of History 12 tập, thì ông Toynbee cũng ít quan tâm đến thời tiền sử, “thế nhưng, những cội rễ của sự bất bình đẳng trong thế giới hiện đại nằm trong chính thời tiền sử đó”. Câu trả lời cho cái vấn đề đặt ra ở trên theo Jared Diamond có thể được tóm gọn trong một câu thế này: “Diễn trình lịch sử của mỗi dân tộc một khác do những khác biệt giữa môi trường sống của các dân tộc, chứ không phải do những khác biệt về sinh học giữa bản thân các dân tộc đó.” Có vẻ như câu trả lời cũng đơn giản không kém gì so với câu hỏi đặt ra. Thế nhưng, cũng theo Jared Diamond, có lẽ vì chính câu trả lời quá sức đơn giản nên người ta lâu nay đã không thật sự nghiêm túc xem xét nó như là căn nguyên tối hậu để tìm hiểu nó kĩ càng hơn. Thế là, để diễn giải rõ hơn cho câu trả lời tối hậu của mình, thì Jared Diamond đã đi đến những góc cạnh khác nhau trong lịch sử hình thành nhân loại: từ việc chuyển hoá từ săn bắt hái lượm sang làm nông, đến việc dựa trên những chứng cứ khoa học để khảo sát việc các loài thực vật và các loài động vật đã phát triển và được thuần hoá ở mỗi nơi khác nhau ra sao, rồi vì nguyên nhân nào mà khu vực Á-Âu lại phát triển nhanh hơn khu vực châu Mĩ, những phát kiến và nhu cầu của con người có quan hệ ra sao, v.v. Và phần diễn giải từ những góc cạnh khác nhau như thế mới chính là điểm quan trọng và mạnh mẽ nhất mà Jared Diamond muốn mang lại cho người đọc, chứ không phải chỉ đơn thuần cung cấp những câu trả lời. Khi con người đạt được những nhu cầu cơ bản của mình về ăn, mặc, ở, thì tiếp theo lịch sử nhân loại được chứng kiến sự ra đời của những phát minh. Xưa nay thường có quan niệm cho rằng “nhu cầu sinh ra phát minh”, nhưng theo Jared Diamond nêu ra ở chương “Mẹ đẻ của nhu cầu” trong cuốn “Súng, vi trùng và thép” thì thực tế rất nhiều lúc không phải vậy, hay nói đúng hơn chỉ một số ít phát minh là phù hợp với quan niệm thường tình cho rằng nhu cầu là mẹ của phát minh. Jared Diamond đã nêu ra một ví dụ về chiếc máy quay đĩa của Thomas Edison: khi Edison tạo ra cái máy này thì cái công dụng thu các bản nhạc không được ông tính đến, sau này người ta chế ra máy nghe nhạc bằng cách kết hợp máy quay đĩa của Edison để phát ra những bản nhạc mỗi khi có người nhét tiền xu vào. Jared Diamond cho rằng “nhiều hoặc thậm chí hầu hết phát minh đều ra đời bởi những người vốn dĩ thích tò mò hoặc tính ưa táy máy, chứ thoạt tiên không hề có nhau cầu về cái sản phẩm họ đang muốn làm ra kia”, và “chỉ sau khi phát minh đã được sử dụng trong một thời gian đáng kể thì người tiêu thụ mới bắt đầu cảm thấy họ ‘cần’ nó”. Một điểm khác về những phát minh được Jared Diamond đề cập đến: việc các phát minh ra đời và được đưa ra ứng dụng đời sống là hệ quả của một quá trình tích luỹ lâu dài theo thời gian chứ không phải là một công trình đơn lẻ của riêng một người hay một nhóm người nào. Lấy ví dụ về động cơ hơi nước, hiện nay khi nhắc đến động cơ hơi nước thì người ta sẽ nhắc đến ngay James Watt như người phát minh ra nó vào năm 1769, nhưng thực chất James Watt chỉ là người cải tiến và hoàn thiện động cơ hơi nước vốn đã xuất hiện từ trước đó. Cái ý tưởng về động cơ hơi nước có sớm nhất từ thời Hellenistic (từ năm 323 đến 30 TCN, và vì một số lí do nhất định nên thời kì này còn kéo dài đến năm 330 mới kết thúc ) và thiết bị đó do Hero của thành Alexandria sáng tạo ra, và ngày nay người ta hay gọi nó là turbine của Hero. Đó là một khối cầu rỗng, nhỏ, được gắn vào đó hai cái ống, khối cầu đó được gắn vào một nồi hơi dùng tạo ra hơi nước, khi hơi nước thoát ra khỏi những cái ống rỗng của quả cầu thì quả cầu đó tự nó di chuyển xoay vòng. Mãi đến thế kỉ 17, thì cái ý tưởng động cơ hơi nước này mới xuất hiện trở lại ở châu Âu, với mẫu thiết kế của kĩ sư người Anh Thomas Savery (1650-1715), mà thực chất Savery cũng chỉ theo mẫu phác thảo thiết bị dùng piston-cylinder của Denis Papin (1647-1712, nhà vật lí người Anh gốc Pháp) vào khoảng năm 1690 , mà cái ý tưởng về việc tạo ra lực bằng hệ thống piston-cylinder đã được Otto von Guericke (1602-1686, nhà vật lí người Phổ) đưa ra trước đó vào năm 1672 rồi. Từ mẫu của Savery cuối thế kỉ 17, năm 1698, kĩ sư người Anh Thomas Newcomen (1663-1729) cho ra một cái động cơ hơi nước vào năm 1712, để rồi sau đó năm 1769 thì James Watt thực hiện cuộc cải tiến cuối cùng, hoàn thiện động cơ hơi nước, và từ đó về sau tên tuổi của James Watt gắn liền với động cơ hơi nước. Từ ví dụ động cơ hơi nước ở trên, có thể thấy rõ rằng hầu hết các phát minh sau thời tiền sử hoặc thời cổ đại đều có bóng dáng của những vị tiền bối trước nó, hay nói cách khác mỗi phát minh ra đời đều là một tổ hợp, một sự trộn lẫn của nhiều ý tưởng khác nhau được tích luỹ qua năm tháng. Nói rộng ra ngoài cuốn sách “Súng, vi trùng và thép”, xét về mặt lịch sử, điều này (việc phát minh là tổ hợp của những ý tưởng) có lẽ có nguồn gốc ở đặc tính chỉ có ở loài người: trao đổi. Bắt đầu từ việc trao đổi vật chất của con người từ thời săn bắt-hái lượm, khi người đàn ông đi làm việc săn bắt, còn đàn bà hái lượm, rồi sau đó họ trao đổi nhau để có được cả thịt lẫn rau củ. Sau khi trao đổi vật chất, thì con người bắt đầu trao đổi nhau về những thứ phi vật chất, tức là ý tưởng. Các ý tưởng giao phối với nhau, sản sinh ra một ý tưởng khác thừa hưởng được những đặc tính của những ý tưởng đó. Phát minh ra một sự vật, rồi đưa nó vào ứng dụng trong đời sống, hoặc một phát minh từ đâu du nhập tới và được xã hội tiếp nhận. Nhưng một phát minh để có thể đưa vào ứng dụng còn cần có những điều kiện khách quan hậu thuẫn phía sau, nếu không nó chỉ trở thành một món đồ chơi không hơn không kém. Chẳng hạn như người châu Mĩ bản địa đã từng phát minh ra bánh xe, nhưng chỉ vì thiếu gia súc thích hợp để kéo xe, nên bánh xe ở khu vực đó không có đất dụng võ và xem ra “chẳng có ưu thế gì so với những phu khuân vác”. Yếu tố này được Jared Diamond định nghĩa là “công nghệ mới phải có ưu thế tương đối về kinh tế so với công nghệ hiện có”, nhưng nếu hiểu rộng hơn, những phát minh muốn được đưa vào ứng dụng, hoặc muốn làm con người ta thấy được cái ứng dụng rõ ràng của nó thì phát minh đó cần phải được ra đời ở một nơi có sẵn những điều kiện khách quan nhằm hỗ trợ nó, như những chiếc xe có bánh thì cần phải có gia súc kéo thì cái dụng của bánh xe mới hiện rõ ra trong tâm trí con người thời bấy giờ. Trong phần kết của “Súng, vi trùng và thép”, Jared Diamond đã đưa ra những lí giải cho câu hỏi nêu trên. Vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu do gặp phải một bất hạnh là “phát sinh ở một môi trường nhạy cảm về sinh thái”, ở khu vực này lượng mưa ít “nên tốc độ cây mọc lại không theo kịp tốc độ huỷ diệt rừng”, dần dần vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu tự đánh mất chính mình, vì lợi thế về mặt môi trường và địa lí chính là thứ đưa vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu trở thành trung tâm chủ chốt của nền văn minh nhân loại, khi môi trường bị huỷ hoại thì lẽ dĩ nhiên vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu không thể phát triển thêm được nữa. Tuy vậy, với trường hợp của Trung-quốc thì vấn đề lại hoàn toàn khác. “Trung-quốc có những ưu thế không bàn cãi: sản xuất lương thực phát sinh ở đây cũng sớm gần như ở Lưỡi liềm Phì nhiêu, sự đa dạng sinh thái từ bắc Trung-quốc xuống nam Trung-quốc và từ vùng duyên hải đến vùng núi cao Tây-tạng làm phát sinh nhiều chủng loại cây trồng, vật nuôi và công nghệ rất khác nhau, diện tích rộng mênh mông, và đất đai năng sản có khả năng nuôi sống một dân số khu vực cao nhất trên thế giới, và một môi trường ít khô hơn hoặc ít nhạy cảm hơn về sinh thái so với môi trường của Lưỡi liềm Phì nhiêu.” Có thể thấy Trung-quốc có những đặc điểm môi trường và địa lí gần như hoàn hảo, ưu thế mà Trung-quốc có được lúc ban đầu thậm chí còn lớn hơn của vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu, nơi được mệnh danh là cái nôi văn minh của nhân loại. Như thế, có thể suy ra được rằng, nếu hoàn cảnh khách quan không ngăn chặn sự phát triển của Trung-quốc, thì chỉ có thể là hoàn cảnh chủ quan vậy. Trung-quốc có được sự thống nhất về chính trị từ rất sớm (từ năm 221 TCN, thời vua Tần Thuỷ Hoàng), họ có một ngôn ngữ duy nhất, lại có một nền văn hoá thống nhất trong suốt một quãng thời gian rất dài. Nhờ sự gắn kết và hoàn cảnh địa lí như vậy, mà Trung-quốc đạt được những bước tiến to lớn trong thời gian đầu. Tuy nhiên, hoàn cảnh thống nhất về chính trị như thế đã gây ra rào cản đối với sự phát triển sau này của Trung-quốc, vì chỉ cần một quyết định nhất thời của kẻ đứng đầu khối thống nhất ấy, là đủ ngăn chặn sự đổi mới. Để minh hoạ, Jared Diamond đã đưa ra ví dụ về những chuyến hải trình mà Trung-quốc và châu Âu đã đồng thời làm cùng lúc vào thế kỉ 15:. “Vào đầu thế kỉ 15, Trung-quốc đã cử những hạm đội tìm châu báu mỗi đoàn gồm hàng trăm chiếc thuyền dài tới 400 bộ (122 mét) và tổng số thuỷ thủ đoàn lên tới 28.000 người, băng qua Ấn-độ-dương đến tận bờ biển Đông Phi từ hàng mấy thập kỉ trước khi ba con tàu bé tí của Columbus băng qua Đại-tây-dương hẹp hơn nhiều để tới được bờ đông châu Mĩ.”. Xuất phát sớm hơn là thế, nhưng những hạm đội đó của Trung-quốc không thể đi tiếp để băng qua Thái-bình-dương để chiếm bờ tây châu Mĩ. Vì trong thời điểm đó ở Trung-quốc đang xảy ra tranh chấp trong triều đình, giữa phe hoạn quan và đối thủ của họ, và những con tàu vượt biển kia được xem như thuộc về phe hoạn quan. Vì vậy khi phe hoạn quan thất thế trong việc tranh giành quyền lực ở triều đình thì những con tàu đó cũng theo đó mà chấm dứt luôn chuyến hành trình, thậm chí các xưởng tàu còn bị phá huỷ, và những cuộc vượt biển như thế bị cấm luôn. Song song đó, ở bên trời Âu, Columbus cũng đang có ý vượt đại dương. Columbus khi đi xin tài trợ để có được tàu thuyền vượt biển, thì lần này đến lần khác bị các vua chúa ở châu Âu từ chối: từ vua Bồ-đào-nha, đến công tước Medina-Sedonia, rồi đến bá tước Medina-Celi, rồi vua và hoàng hậu Tây-ban-nha ban đầu cũng từ chối nốt, nhưng sau này thì hai vị đó lại đổi ý ưng thuận. Giả sử châu Âu thống nhất về chính trị và chỉ có một vua như Trung-quốc, thì có lẽ phải còn lâu nữa thì nhân loại mới tìm ra được châu Mĩ. Việc phân tán chính trị ở châu Âu đã dẫn đến tình trạng các quốc gia châu Âu thường xuyên cạnh tranh nhau về mặt công nghệ và ý tưởng. Việc châu Âu chưa bao giờ thống nhất về mặt chính trị đã khiến cho châu Âu có những bước đi ban đầu vô cùng chậm chạp, nhưng bù lại họ có thể làm bất kì điều gì để phát triển mà không một kẻ độc tài chuyên quyền nào có thể chặn đứng, và cùng với việc cạnh tranh nhau gay gắt (nếu không sẽ bị đối phương thu phục), châu Âu đã có những bước tiến nhảy vọt sau này.
Súng, Vi trùng và Thép
Súng, Vi trùng và Thép (tiếng Anh: Guns, Germs, and Steel, tên đầy đủ là: Guns, Germs, and Steel: The Fates of Human Societies/Súng, Vi trùng và Thép: Định mệnh của các xã hội loài người) là một cuốn sách của tác giả Jared Diamond xuất bản vào năm 1997, đây cuốn sách khoa học phổ thông thứ hai và nổi tiếng nhất của ông, cuốn sách này trở thành cuốn sách bán chạy nhất trên thế giới, được dịch ra 33 thứ tiếng và nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có một giải Pulitzer, một giải thưởng Sách Khoa học Aventis và giải thưởng Khoa học Phi Beta Kappa năm 1997. Một bộ phim tài liệu truyền hình nhiều tập dựa trên cuốn sách đã được Hiệp hội Địa lý Quốc gia sản xuất vào năm 2005. Tác phẩm nêu lên câu hỏi tại sao người Á-Âu đã chinh phục và thay thế người Mỹ bản địa, người Úc và người châu Phi, thay vì ngược lại. Trong cuốn sách này lập luận rằng kết quả này không phải do lợi thế sinh học của bản thân các dân tộc Á-Âu mà thay vào đó là các đặc trưng của lục địa Á-Âu, nhất là sự đa dạng cao độ của các loài thực vật và động vật hoang dã phù hợp với việc thuần hóa và trục chính Đông/Tây của nó đã giúp cho sự lây lan những loài động vật thuần hóa, con người và công nghệ cho khoảng cách dài với rất ít thay đổi theo vĩ tuyến, tác giả cho rằng thấy tầm quan trọng của việc cùng vĩ độ như là yếu tố quyết định cho khí hậu, điều kiện sinh trưởng, để từ đó việc phát tán dễ dàng hơn.
Cờ vua nhanh (Fast chess) là một thể loại trong cờ vua, bao gồm cờ vua chớp (Blitz chess), cờ vua nhanh (Rapid chess). Mỗi bên sẽ được cho ít thời gian hơn trong mỗi ván đấu, nhiều nhất là 60 phút. Cờ vua nhanh thể hiện sự nhạy bén trong tư duy một cách nhanh nhất mà con người có thể làm được. Mỗi bên cờ nhanh có thể gồm các thể loại 30 phút, 20 phút, 15 phút dành cho mỗi bên. Người chơi phải cố gắng lướt nhanh bàn cờ và suy nghĩ thật nhanh để không bị thua do hết thời gian, bởi chỉ cần một bên "rụng kim" (hết thời gian) thì xem như thua cuộc, bất kể diễn biến trong ván cờ ra sao (trừ khi bên còn thời gian không còn một quân nào trên bàn cờ, không tính quân vua - thì lúc đó sẽ xử hòa). Lịch sử cờ đã ghi nhận rằng, ngay khi mới khởi đầu, hình thức chơi cờ nhanh (từ 30 đến 40 phút một ván), tức là mỗi bên chỉ có 15 tới 20 phút, đã từng làm cho không ít người cho là trò phù phiếm, nên chẳng mấy ai ủng hộ. Điều này cũng thật dễ hiểu vì trước đây mỗi ván cờ thi đấu khoảng 7 giờ là bình thường, ngoài ra còn có luật được hoãn đấu, nghĩa là nếu trong 4 giờ đầu mà mỗi đấu thủ đã đi đủ 40 nước thì có quyền hoãn đấu tới ngày hôm sau, hoặc ngày hôm sau mà đi đủ số nước trong thời gian quy định thì được hoãn đấu tới ngày hôm sau nữa. Thế nhưng bước sang thập kỷ 80 (thế kỷ trước) người ta đã kịp thời phát hiện ra những khiếm khuyết của hệ thi đấu cũ và từng bước một quy định lại thời gian của mỗi ván đấu, một mặt nhằm tránh sự can thiệp "bên ngoài" quá sâu vào ván cờ, mặt khác để đảm bảo cho thời gian thi đấu của mỗi giải không bị kéo dài. Thời gian được rút xuống còn 5 giờ mỗi ván, như vậy mỗi ngày thi đấu dứt điểm một ván. Tuy nhiên, qua thực tế, nhiều kỳ thủ có đẳng cấp đã đề nghị có một kiểu chơi mới, nhanh hơn bởi theo họ thời đại khoa học kỹ thuật, nhịp sống và tốc độ suy nghĩ của con người đã khác hẳn thời xưa. Thế là những giải cờ nhanh đầu tiên ra đời, số người tham gia chơi ngày càng đông và hoàn toàn không thấy có điều gì tác hại cả. Chính liên đoàn cờ vua thế giới FIDE đã sớm nhận ra điều này, nhưng còn hơn thế nữa, họ khám phá ra rằng nhờ cờ nhanh mà số khán giả tăng nhanh và các nhà tài trợ đến với cờ vua đông hơn, mà tài trợ lại là nguồn sống cực kỳ quan trọng cho các giải cờ. Thế là các giải cờ nhanh của FIDE ra đời, trong đó phải kể tới giải Amber Melodi nổi tiếng. Thế rồi như một phản ứng dây chuyền, sau đó không lâu, nhiều người nghĩ “30 phút 1 ván liệu đã là nhanh nhất chưa, có thể rút ngắn hơn nữa không?”. Thế là cờ chớp (blitz) ra đời: mỗi bên chỉ vỏn vẹn có 5 phút. Những tưởng nó sẽ bị tấy chay, ai ngờ giới trẻ lại tỏ ra hết sức hâm mộ. Và ngay cả tại giải vô địch thế giới của FIDE thể loại cờ chớp đã được dùng để phân định thắng bại cho những trận đối kháng. Cờ nhanh được phân loại dựa trên thời gian diễn ra của mỗi ván cờ. Mỗi thể loại cờ nhanh đều sử dụng một lại đồng hồ chuyên biệt để tính thời gian. Có những loại cờ nhanh như sau:. Thời gian thi đấu từ 15 – 60 phút cho mỗi người chơi, có thể được tăng thời gian cho mỗi nước đi. Tối đa là 10 giây cho mỗi nước cờ. Có thời gian rất ngắn chỉ 15 phút cho mỗi bên cờ. Tuy nhiên, loại này không được tăng thời gian cho mỗi nước đi. Chính vì thời gian rất ngắn khiến không ít người chơi phải căng não trong mỗi trận đấu. Tuy nhiên một số trận đấu có thể tăng một khoảng thời gian nhỏ cho mỗi nước đi (ví dụ 1 hoặc 2 giây) tùy thuộc vào người chơi. Thông dụng nhất là thể loại 3 phút, tăng 2 giây cho một nước đi. Đây là dạng cờ chớp có thời gian chơi ngắn nhất chỉ 1 đến 3 phút cho mỗi người chơi. Thông dụng nhất là 2 phút (cộng 1 giây cho mỗi nước) hoặc 1 phút (cộng 2 giây cho mỗi nước). Thường được sử dụng để gọi Blitz (cờ chớp) hoặc Bullet, hoặc để gọi chung cho cờ nhanh. Lightning là những trận đấu với thời gian cố định cho mỗi nước đi. Ví dụ: 3 giây, 5 giây hoặc 10 giây, lượng thời gian phụ thuộc vào thỏa thuận giữa người chơi với nhau. Thời gian tối đa là 1 phút. Là thể loại có kết quả thắng hoặc thua rõ ràng nhất. Với Đen, hòa đồng nghĩa với một trận thắng. Cờ Đen có thời gian chơi 5 phút và cờ trắng là 6 phút để đảm bảo tính công bằng cho hai màu cờ. Thể loại cờ chớp này thường dùng trong các trận tie-break. - Thời gian thi đấu: phải hoàn thành ván cờ trong một thời gian cố định từ hơn 10 phút đến dưới 60 phút cho mỗi bên. Thời gian được cấp cộng thêm 60 lần tích lũy từ hơn 10 phút đến dưới 60 phút. - Các đấu thủ không cần phải ghi biên bản. Nhưng bất cứ lúc nào đấu thủ cũng có thể yêu cầu trọng tài cung cấp tờ biên bản thi đấu để ghi các nước đi. - Khi đã hoàn thành 10 nước đi thì đấu thủ không được phép thay đổi đồng hồ, trừ khi có những vấn đề bất khả kháng. - Đấu thủ không được khiếu nại về vị trí các quân hoặc hướng đặt bài cờ sai khi đã hoàn thành 10 nước đi đầu tiên. - Thời gian thi đấu: phải hoàn thành ván cờ trong một thời gian cố định từ 10 phút trở xuống cho mỗi bên; hoặc thời gian được cấp cộng thêm 60 lần tích lũy từ 10 phút trở xuống. - Các hình thức phạt trong luật chơi cờ chớp sẽ là 1 phút thay vì 2 phút. - Mỗi ván đấu đều được trọng tài hoặc người trợ lý ghi lại và bằng các phương tiện điện tử. - Đấu thủ đến lượt đi có thể yêu cầu trọng tài hoặc trợ lý cho xem biên bản thi đấu vào bất cứ khi nào. - Mỗi yêu cầu xem biên bản chỉ được thực hiện tối đa là 05 lần trong một ván đấu, nếu nhiều hơn sẽ bị xem như là hành động làm phân tâm đối phương. Những người chơi có hai sự lựa chọn để dành phần thắng trong cờ nhanh, cờ chớp: chiến thắng khi chưa hết thời gian hoặc đánh cầm chừng để hơn đối phương về thời gian. Với cách chọn đầu tiên, họ nên tập trung vào những lúc cao điểm, tức là khi thế cờ phức tạp ở trung cuộc cần đánh những nước thật chính xác dù phải chấp nhận mất nhiều thời gian để suy nghĩ, đến lúc này họ phải chắc chắn mình hơn đối phương về chất, nếu sau lúc đó thế cờ vẫn ngang nhau thì 70% họ có thể thua thời gian đấy. Tuy nhiên, người chơi nên chiến thắng khi chưa hết thời gian, việc này sẽ khiến cho đối thủ thua một cách tâm phục khẩu phục. Nếu chọn cách thứ hai, hãy đánh thật nhanh, không cần phải nghĩ "cao siêu" gì hết, tất nhiên họ chỉ để lỗ quân một chút thôi để câu giờ, và họ phải dồn ván cờ vào thế phức tạp, chẳng hạn không chịu đổi quân hay "đóng băng" trung tâm, kéo dài càng lâu càng tốt. Người chơi phải nhìn vào đồng hồ liên tục và phải giữ lại ít nhất một con tốt để có thể giành thắng lợi về thời gian.
Cờ nhanh
Cờ vua nhanh (Fast chess) là một thể loại trong cờ vua, bao gồm cờ vua chớp nhoáng (Blitz chess), cờ vua nhanh (Rapid chess). Mỗi bên sẽ được cho ít thời gian hơn trong mỗi ván đấu, nhiều nhất là 60 phút. Cờ vua nhanh thể hiện sự nhạy bén trong tư duy một cách nhanh nhất mà con người có thể làm được. Mỗi bên cờ nhanh có thể gồm các thể loại 30 phút, 20 phút, 15 phút dành cho mỗi bên. Người chơi phải cố gắng lướt nhanh bàn cờ và suy nghĩ thật nhanh để không bị thua do hết thời gian, bởi chỉ cần một bên "rụng kim" (hết thời gian) thì xem như thua cuộc, bất kể diễn biến trong ván cờ ra sao (trừ khi bên còn thời gian không còn một quân nào trên bàn cờ, không tính quân vua- thì lúc đó sẽ xử hòa).
Thân não bao gồm hành tủy và cầu não, nằm ở bụng đến tiểu não. Ngoài việc chứa các đường hướng tâm và ly tâm, thân não còn chứa các nhân cần thiết để duy trì sự sống. Do sự kết hợp tương đối chặt chẽ của nhiều bó hướng tâm và ly tâm, cũng như các nhân, trong thân não, ngay cả những tổn thương nhỏ bên trong nó cũng có thể làm tổn thương nhiều bó và nhân bên trong nó và có thể tạo ra những thiếu hụt thần kinh đáng kể. Do đó, điều quan trọng đối với tất cả các bác sĩ lâm sàng là phải hiểu rõ về giải phẫu thân não. Tiểu não, nằm ngay phía sau thân não, đóng một vai trò quan trọng trong việc phối hợp vận động. Do nằm gần thân não, các tổn thương gây phù nề tiểu não có thể chèn ép thân não và đe dọa tính mạng. Có ba phần chính bên ngoài của thân não: hành tủy (medulla oblongata), cầu não (pon) cùng với tiểu não (cerebellum) và não giữa (trung não) (midbrain (mesencephalon)). Ba phân chia theo chiều dọc bên trong của thân não là mái (tectum) (chủ yếu ở não giữa), chỏm não (tegmentum), và nền hay đáy cầu não. Vì vậy, ví dụ như cầu não có thể được bao gồm một chỏm cầu não ở lưng và một đáy cầu não ở bụng (dorsal pontine tegmentum and a ventral basis pontis). Các cấu trúc bên ngoài chính, nhìn từ mặt lưng, được thể hiện trong H 1. Phần trên của hố hình thoi (rhomboid fossa ) (tạo thành sàn của não thất thứ tư) kéo dài trên cầu não, trong khi phần dưới bao phủ phần mở của hành tủy. Phần đóng hành tủy tạo thành phần chuyển tiếp sang tủy sống. Hình 1: Sự phân chia của thân não trong một mặt phẳng dọc giữa. Phân chia theo chiều dọc bên trong là tectum, tegmentum và đáy. Các bộ phận bên ngoài là não giữa, cầu não và hành tủy. Ba cặp cuống tiểu não (dưới, giữa và trên) tạo thành các kết nối với tiểu não. Mặt lưng của não giữa cho thấy bốn đồi nhỏ: hai lồi não (colliculi) trên và hai lồi não dưới, được gọi chung là thể sinh tư hay tấm sinh tư (corpora quadrigemina or quadrigeminal plate). Tất cả các đường ly tâm kết thúc trong tủy sống (ví dụ, bó vỏ gai) đều đi qua thân não. Ngoài ra, một số hệ thống sợi ly tâm kết thúc hoặc bắt nguồn từ thân não. Tương tự, tất cả các bó hướng tâm (ví dụ, bó gai đồi thị) đi đến thân não hoặc vỏ não đều đi qua một phần hoặc toàn bộ vùng này; các bó hướng tâm khác bắt nguồn từ thân não. Do đó, thân não là một đường dẫn hoặc trạm chuyển tiếp quan trọng cho nhiều con đường dọc, cả đi xuống và đi lên. Tổn thương thân não có thể làm tổn thương các đường ly tâm và hướng tâm này. Hầu như tất cả các nhân thần kinh sọ não đều nằm ở thân não. (Các trường hợp ngoại lệ là hai nhân dây thần kinh sọ đầu tiên (dây I và II, hình thành từ chính não bộ). Các dây thần kinh sọ não cũng đi qua thân não. Những đường này bao gồm ba hệ thống quan trọng: đường serotonergic từ nhân raphe; đường noradrenergic trong thể lưới bên và các phần ly tâm từ nhân lục (locus ceruleus); và đường dopaminergic từ đáy não giữa đến hạch nền và những nơi khác. Thành phần chức năng của 10 dây thần kinh sọ dưới có thể được phân tích bằng cách tham khảo sự phát triển của các nhân của chúng. Các dây thần kinh thường được gọi bằng tên hoặc bằng số La Mã. Bác sĩ lâm sàng phải biết cả hai. Thành phần bản thể tổng quát ly tâm (General somatic efferent, SE or GSE) phân phối thần kinh trong các cơ vân liên quan đến các vận động của lưỡi và mắt, như nhân hạ thiệt của XII, nhân vận nhãn chung của dây III, nhân ròng rọc của dây IV, và nhân giang ngoài của dây VI. Thành phần mang cá ly tâm (Branchial efferent (BE), đôi khi được gọi là nội tạng ly tâm đặc biệt (special visceral efferents , SVE), cung cấp thần kinh các cơ có nguồn gốc từ branchial arches và tham gia vào việc nhai, tạo biểu lộ ở mặt, nuốt, tạo ra âm thanh và quay đầu. Ví dụ bao gồm nhân nhai của dây V; nhân mặt của dây VII; nhân mơ hồ của dây IX, X và XI; và nhân phụ tuỷ sống (spinal accessory nucleus) của dây XI trong tuỷ sống. Thành phần ly tâm nội tạng tổng quát (VE hoặc GVE) là các thành phần tiền hạch thần kinh phó giao cảm cung cấp thần kinh tự động cơ trơn và các tuyến ở đầu, cổ và thân. Ví dụ nhân Edinger – Westphal của dây III, nhân nước bọt trên của dây VII, nhân nước bọt dưới của IX và nhân lưng vận động của dây X. Thành phần hướng tâm nội tạng tổng quát (General visceral afferent, VA hoặc GVA) chuyển tiếp các kích thích cảm giác từ nội tạng và các kích thích vị giác chuyên biệt hơn từ lưỡi và nắp thanh quản: nhân đơn độc cho đầu vào nội tạng từ dây IX và X và nhân vị giác (gustatory nucleus) cho các sợi vị giác đặc biệt từ VII, IX và X. Sáu nhân cảm giác đặc biệt (special sensory, SS) được phân biệt: bốn nhân tiền đình và hai nhân ốc tai nhận kích thích qua dây thần kinh tiền đình ốc tai, dây số VIII. A: Vị trí cắt ngang của các phần. B – G: Sơ đồ vị trí cắt ngang qua thân não. Hành tủy (medulla oblongata) có thể được chia thành phần đuôi (đóng) và phần mỏ (mở). Sự phân chia dựa trên sự vắng mặt hoặc hiện diện của phần dưới não thất thứ tư . Ở phần đuôi, phần đóng của hành tủy, các nhân chuyển tiếp của đường cột lưng (sau) (nhân gracilis và nhân cuneatus) cho bó sợi bắt chéo, liềm trong (medial lemniscus ). Bó gai đồi thị (spinothalamic tract) (bắt chéo ở tủy sống) tiếp tục đi lên trong suốt hành tủy, cũng như bó gai lưới (spinoreticular) và đường gai tiểu não bụng (ventral spinocerebellar pathway). Bó gai tiểu não lưng (dorsal spinocerebellar tract) và bó chêm tiểu não (cuneocerebellar tract ) tiếp tục đi vào cuống tiểu não dưới. Bó vỏ gai (corticospinal) bắt đầu bắt chéo ở phần chuyển tiếp giữa hành tủy và tủy sống; sự bắt chéo này diễn ra trên vài mm. Hầu hết các sợi trục trong đường này phát sinh trong vỏ não vận động. Một số sợi từ bó vỏ gai, bắt nguồn từ vỏ não cảm giác, kết thúc ở nhân cột lưng và có thể thay đổi chức năng của chúng, do đó hoạt động để lọc các thông điệp cảm giác đến. Bó đi xuống tủy sống của dây V (descending spinal tract of V ) có các thân tế bào của nó, đại diện cho cả ba nhánh của bó này, trong hạch sinh ba. Các sợi của đường dẫn truyền cảm giác đau, nhiệt độ và xúc giác thô từ mặt đến trạm chuyển tiếp đầu tiên, nhân tủy sống của V, hoặc pars caudalis. Nhánh hàm dưới được đại diện ở mặt lưng trong nhân, và nhánh mắt được đại diện ở vùng bụng. Một con đường thứ hai phát sinh từ các tế bào trong nhân tủy sống, sau đó bắt chéo và đi lên để kết thúc ở đồi thị. Bó dọc giữa (medial longitudinal fasciculus) là một đường quan trọng liên quan đến việc kiểm soát nhìn chăm chú (gaze) và chuyển động của đầu. Nó đi xuống tủy cổ. Các bó dọc giữa phát sinh trong các nhân tiền đình và mang ảnh hưởng của tiền đình xuống dưới . Ở cao hơn phần mỏ cầu não, bó dọc giữa phóng chiếu từ nhân tiền đình đến nhân dây III, IV và VI và từ trung tâm nhìn bên trong cầu đến nhân vận nhãn chung. Bó mái gai (tectospinal) mang các sợi trục đi xuống từ lồi não trên (superior colliculus) ở não giữa đến tủy sống cổ. Nó chuyển tiếp các xung động điều khiển các chuyển động của cổ và thân để đáp ứng với các kích thích thị giác. Nhân hạ thiệt (hypoglossal), nhân lưng vận động của phế vị, và bó đơn độc và nhân được tìm thấy trong hành tủy, nhóm xung quanh ống trung tâm; trong hành tủy mở, những nhân này nằm bên dưới não thất thứ tư. Dây thần kinh XII phân bố cho tất cả các cơ của lưỡi. Nhân lưng vận động của dây X là một nhân phó giao cảm tiền hạch cho các sợi bên của nó theo bên vào dây thần kinh IX và X. Nó kiểm soát trương lực phó giao cảm ở nội tạng tim, phổi và bụng. Nhân nước bọt trên cho sợi trục phó giao cảm nằm trong dây thần kinh số VII, thông qua hạch dưới hàm dưới ( submandibular ) và hạch bướm khẩu cái (pterygopalatine), đến các tuyến dưới hàm dưới và tuyến dưới lưỡi và tuyến lệ. Nhân này kiểm soát quá trình tiết nước bọt và chảy nước mắt. Nhân mơ hồ (ambiguus nucleus ) không được xác định rõ ràng làm phát sinh các branchial efferent axons trong dây thần kinh IX và X. Kiểm soát việc nuốt và phát âm. Nhân đơn độc (còn gọi nucleus solitarius) là một nhân cảm giác kéo dài trong hành tủy nhận các sợi trục từ các dây thần kinh VII, IX và X. Kế cận bó đơn độc (solitary tract) chứa các sợi trục tận cùng của các dây thần kinh này. Phần mỏ của nhân đơn độc đôi khi được gọi là nhân vị giác (gustatory nucleus). Nhân đơn độc truyền tải thông tin về vị giác và các cảm giác nội tạng. Các sợi thứ cấp đi lên từ nhân đơn độc đến nhân ventroposteromedial (VPM) trong đồi thị, lần lượt, các sợi này phóng chiếu tới vùng vỏ não vị giác (vùng 43, nằm gần operculum). Bốn nhân tiền đình (vestibular nuclei) – trên, dưới (hoặc tủy sống), giữa và bên – được tìm thấy dưới sàn của não thất thứ tư, một phần trong hành tủy mở và một phần trong cầu não. Các nhân ốc tai (cochlear nuclei ) ở bụng và ở lưng là các nhân chuyển tiếp cho các sợi phát sinh trong hạch xoắn ốc (spiral ganglion ) của ốc tai. Cuống tiểu não dưới được hình thành trong hành tủy mở gồm một số thành phần: bó chêm tiểu não và bó gai tiểu não lưng, sợi từ nhân lưới bên, sợi olivocerebellar từ nhân inferior olivary đối bên, sợi từ bộ phận tiền đình của dây thần kinh VIII, và các sợi phát sinh ở các nhân tiền đình. Tất cả các sợi hướng tâm đến tiểu não. Nhiều đường đến và đi từ hành tủy và nhiều bó tủy sống có thể xác định được trong các mặt cắt ngang của cần não. Phần đáy hoặc phần bụng của cầu não (basis pontis) chứa ba thành phần: các bó sợi của đường vỏ gai, nhân cầu não nhận đầu vào từ vỏ não qua đường vỏ cầu (corticopontine), và các sợi cầu tiểu não (pontocerebellar) từ nhân cầu não, chúng bắt chéo và phóng chiếu đến hầu hết tiểu não mới qua cuống lớn tiểu não giữa. Dọc theo đường giữa của cầu não và một phần của hành tủy là các nhân raphe. Các tế bào thần kinh chứa serotonin trong những nhân này phóng chiếu rộng rãi đến vỏ não và hồi hải mã, hạch nền, đồi thị, tiểu não và tủy sống. Những tế bào này rất quan trọng trong việc kiểm soát mức độ đánh thức (level of arousal ) và điều chỉnh chu kỳ ngủ – thức. Chúng cũng điều chỉnh đầu vào cảm giác, đặc biệt là đối với đau. Chỏm của cầu não phức tạp hơn đáy. Cầu não dưới chứa nhân của dây thần kinh VI (abducens nucleus) và nhân của dây thần kinh VII (nhân mặt, nhân nước bọt trên và nhân vị giác). Nửa trên của cầu não chứa các nhân cảm giác chính của dây thần kinh V. Bó trong thừa nhận vị trí khác nhau (thân dưới, trong; thân trên, bên), và bó gai đồi thị hướng về bên nhiều hơn khi nó di chuyển qua cầu não. Bó chỏm trung tâm chứa các sợi ly tâm từ não giữa đến nhân oliu dưới và các sợi hướng tâm chạy từ thể lưới thân não đến đồi thị và đi theo lưng bên đến liềm trong. Bó mái gai (từ não giữa đến tủy cổ ) và bó dọc giữa là các thành phần bổ sung của chỏm cầu não. Cuống tiểu não giữa lớn nhất trong ba cuống tiểu não. Nó chứa các sợi phát sinh từ đáy cầu não đối bên và kết thúc ở bán cầu tiểu não. Hệ thống thính giác từ các nhân ốc tai ở tiếp hợp cầu hành bao gồm các sợi đi lên cùng bên trong liềm bên (lateral lemniscus). Nó cũng bao gồm các sợi bắt chéo (trapezoid body) hướng tâm trong liềm bên đối diện. Nhân oliu nhỏ phía trên gửi các sợi vào bộ phận ốc tai của dây thần kinh số VIII, bó olivocochlear; đường này điều chỉnh cảm giác đi vào từ cơ quan Corti trong ốc tai. Ba nhánh của dây thần kinh sinh ba (dây thần kinh V) đều phóng chiếu đến thân não. Chức năng cảm giác sờ tinh vi (Fine touch) được chuyển tiếp bởi nhân cảm giác chính (main sensory nucleus); đau và nhiệt độ được chuyển tiếp vào bó ly tâm tủy sống dây V (descending spinal tract of V ); và các sợi cảm giác sâu tạo thành bó trung não và nhân (mesencephalic tract and nucleus ) ở não giữa. Các tế bào thần kinh thứ hai từ nhân cảm giác chính bắt chéo và đi lên đồi thị. Bó tủy sống ly tâm của dây V gởi các sợi đến pars caudalis (nhân tủy sống trong hành tủy), pars interpolaris (liên kết giữa các thành phần sinh ba hướng tâm và tiểu não), và pars oralis. Nhân nhai (masticatory nucleus), nằm ở giữa với nhân cảm giác chính, gửi các sợi branchial efferent vào nhánh hàm dưới của dây thần kinh V để phân phối thần kinh hầu hết các cơ vận động của cơ nhai và cơ căng màng nhĩ (tensor tympani ) của tai giữa. Não giữa tạo thành một phần chuyển tiếp (and fiber conduit) đến đại não. Nó cũng chứa một số nhóm tế bào quan trọng, bao gồm một số nhân thần kinh sọ não. Phần đáy của não giữa chứa cuống não (crus cerebri), bó sợi lớn bao gồm các đường vỏ gai (corticospinal), vỏ hành (corticobulbar) và vỏ cầu (corticopontine). Phần đáy chứa liềm đen (substantia nigra). Subantia nigra (tế bào thần kinh chứa melanin) nhận các sợi hướng tâm từ vỏ não và thể vân; gửi các sợi dopaminergic ly tâm đến thể vân. Liềm đen giữ vai trò quan trọng trong kiểm soát vận động. Sự thoái hóa liềm đen xảy ra trong bệnh Parkinson. Hình dáng bên ngoài của của đáy não giữa được gọi là cuống não (cerebral peduncle). Các sợi vỏ hành từ vỏ não vận động đến các tế bào thần kinh trung gian của nhân các dây thần kinh sọ ly tâm là tương ứng với các sợi vỏ gai.
Thân não
Thân não là phần phía sau của não, nối liền vào và về mặt cấu trúc thì tiếp nối với tủy sống. Ở não người, thân não bao gồm não giữa, và cầu não và hành não của não trước. Đôi khi diencephalon, phần ở đuôi của não trước, cũng được bao gồm trong thuật ngữ này. Thân não cung cấp sự phân bổ thần kinh vận động và cảm giác chính tới mặt và cổ thông qua các dây thần kinh sọ. Trong số mười hai cặp dây thần kinh sọ, mười cặp đến từ thân não. Thân não là một phần cực kỳ quan trọng của não vì những mối nối thần kinh của hệ thống giác quan và vận động từ các phần chính của não đi tới phần còn lại của cơ thể phải đi qua thân nào. Những mối nối đó bao gồm bó vỏ não-gai (vận động), the dorsal column-medial lemniscus pathway (fine touch, vibration sensation, và proprioception), và spinothalamic tract (đau đớn, nhiệt độ, ngứa và crude touch). Thân não cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc điều tiết các chức năng tim và hô hấp. Nó cũng điều tiết hệ thần kinh trung ương, và là bộ phận then chốt trong việc duy trì ý thức và điều hòa chu kỳ ngủ.
Tiệc độc thân là bữa tiệc được tổ chức để chia tay với bạn bè hoặc người thân trước khi lập gia đình. Đây là cơ hội hiếm hoi để tân lang, tân nương giao lưu, hàn huyên với những người bạn thân và tận hưởng giây phút trước khi bước vào cuộc sống hôn nhân. Vậy, bạn hiểu gì về bữa tiệc này? Gợi ý cách thức lên ý tưởng cho buổi chia tay thật đáng nhớ và thú vị cho cả nam và nữ. Buổi party chia tay kỷ niệm những ngày độc thân cuối được những người bạn bè thân thiết tổ chức. Buổi tiệc thường được tổ chức dành cho cô dâu, chú rể trước ngày cưới với những người bạn thân thiết để có một ngày thú vị và khó quên bên nhau. Một bữa tiệc dành tặng cho cô dâu, chú rể trước khi kết hôn sẽ được bạn bè giữ bí mật cho đến phút chót. Tất tần tật từ kế hoạch đến khâu chuẩn bị và thực hiện đều được nhóm bạn tự lên ý tưởng để khiến cô dâu có một kỷ niệm đẹp về ngày độc thân hiếm hoi còn lại. Trước cuộc sống hiện đại như ngày nay, tiệc độc thân được tổ chức vô cùng độc đáo với nhiều cách thức tổ chức khác nhau. Buổi party bao gồm nhiều tiết mục, thậm chí là tạo bất ngờ cho tân lang, tân nương thực hiện những điều mà từ trước đến nay chưa từng làm. Cuộc gặp gỡ và trò chuyện, vui chơi cùng nhau có thể sắp xếp tại nhà hàng, nhà riêng, quán bar, khách sạn,…. Dù theo bất kỳ hình thức nào thì đây cũng là bữa tiệc đáng nhớ nhất của mọi cô dâu, chú rể. Tuy vậy, tiệc độc thân cho các chàng trai và những cô gái lại có những cách thức tổ chức khác nhau. Tùy vào sở thích, giới tính sẽ có những bữa tiệc thật sôi động và đáng nhớ. Nếu có một người bạn trong nhóm chuẩn bị bước vào cuộc sống hôn nhân thì bạn sẽ làm gì? Lời khuyên thú vị là hãy cùng những đồng đội của mình ngồi lại và lên ý tưởng cho bữa tiệc độc thân sắp tới nhé. Một vài gợi ý thú vị dưới đây giúp bạn có thể lên kế hoạch cho buổi party thật thú vị và đáng nhớ. Nếu như trước đây, sự phân biệt bình đẳng giới khiến cho tiệc độc thân chỉ được các bạn nam thực hiện thì nay lại khác. Thậm chí, có những nhóm bạn nữ tổ chức party chia tay còn mang tính táo bạo và hấp dẫn hơn rất nhiều với các hình thức khác nhau. Phù hợp cho những cô nàng ưa sự nhẹ nhàng, thanh tao và nữ tính. Ý tưởng đơn giản cho một bữa tiệc độc thân là tổ chức một buổi tiệc trà. Các cô nàng có thể diện những bộ váy thật đẹp và đến một quán trà có không gian thật đẹp, cùng nhau thưởng thức trà bánh. Hãy nhớ lưu lại những bức ảnh để kỷ niệm thời còn độc thân nhé. Một trong những ý tưởng vô cùng thú vị lại rất thiết thực đó là chuẩn bị kiến thức nội trợ cho cô dâu tương lai. Mỗi người trong nhóm có thể chuẩn bị một vài công thức chế biến các món ăn đơn giản và dễ thực hiện. Cùng nhau mua đồ, sơ chế và nấu một bữa ăn hoàn chỉnh. Cả nhóm cũng có thể chuẩn bị cho cô bạn của mình những kiến thức phòng the, cẩm nang làm vợ,… Đây chắc hẳn sẽ là món quà ý nghĩa và mang đến nhiều tiếng cười cho buổi tụ tập. Bạn làm sao biết chắc được rằng cô bạn thân sau khi bước vào cuộc sống hôn nhân liệu còn được tự do đi “quẩy” như lúc còn độc thân? Một gợi ý cho bữa tiệc chia tay trước khi kết hôn khá thú vị là cả nhóm bạn cùng đến một quán bar và diện những chiếc đầm thật gợi cảm, quyến rũ. Hãy cùng nhau nhảy và vui chơi hết mình để kết thúc một ngày thật đáng nhớ. Đây sẽ là món quà chia tay cực kỳ ý nghĩa dành cho cô dâu trước ngày lên xe hoa. Bạn hãy lật lại ký ức xem bao lâu rồi nhóm bạn thân không cùng nhau ngủ một đêm với nhau. Tại sao không nhân cơ hội này tận hưởng điều đó để có một kỷ niệm về buổi chia tay ngày độc thân thật khó quên?. Bạn có thể lên ý tưởng để cả hội bạn cùng mặc những bộ đồ ngủ thật xinh xắn, cùng nhau ăn tối, hát karaoke, nói chuyện và ngủ chung với nhau. Hãy chuẩn bị một chút đồ ăn nhẹ để có thể trò chuyện cả đêm mà không thấy đói nhé. Dù là tiệc ngủ nhưng các bạn cũng nên chăm chút vẻ ngoài xinh đẹp để cùng nhau chụp ảnh kỷ niệm nhé!. Không nhất thiết phải sắp xếp một buổi party quá hoành tráng và cầu kỳ. Điều quan trọng nhất vẫn là tình cảm của nhóm bạn dành cho câu dâu tương lai. Các bạn có thể cùng nhau đến một spa chăm sóc sắc đẹp, chăm da mặt, làm nail, tóc,… để tự tin hơn trong ngày trọng đại. Buổi tiệc đơn giản khi tất cả nhóm bạn thân cùng bên nhau trò chuyện, ôn lại kỷ niệm, ăn bánh ngọt và làm đẹp. Nếu sắp xếp được thời gian và công việc thì các bạn có thể cùng nhau ngồi lại và bí mật tổ chức một buổi du lịch cùng nhau thật đáng nhớ. Khi cô bạn thân có gia đình thì rất có thể nhóm của các bạn sẽ không thể tìm được dịp nào lý tưởng để cùng nhau đi chơi xa. Lựa chọn một địa điểm nào đó thật phù hợp vào thời điểm đó hoặc nơi mà các bạn đã từng muốn đi mà chưa thực hiện được. Để tránh bị bể kèo bởi công tác chuẩn bị cho đám cưới bận quá khiến cô ấy không thể đi chơi xa thì bạn nên hỏi cô dâu tương lai về lịch trình trước. Nên thực hiện một chuyến đi ngắn ngày và hãy cùng nhau tận hưởng một chuyến chu du thật thú vị với hội bạn thân. Chuyến du lịch cũng có thể biến thành một buổi cắm trại tại vùng ngoại ô nếu cô dâu tương lai không thể sắp xếp đi chơi xa. Một vài hoạt động cũng khá thú vị thường được các bạn trẻ tổ chức như: Cắm trại, câu cá, chèo thuyền, tiệc nướng BBQ, bơi lội,…. Không chỉ riêng phái nữ thấy áp lực và lo lắng trước cuộc sống hôn nhân. Ngay cả những chàng trai hiện đại cũng rất hồi hộp và muốn chia sẻ với bạn bè để cảm thấy thoải mái hơn. Tiệc chia tay thời độc thân vừa giúp xả hơi lại vừa là dịp các chàng trai lưu giữ lại khoảnh khắc độc thân ngắn ngủi còn lại. Để tổ chức tiệc độc thân mừng tân lang, các bạn có thể tham khảo một số hình thức như:. Đối với cánh mày râu thì bữa tiệc rượu hết mình là ý tưởng đầu tiên nghĩ đến trong một bữa tiệc chia tay. Bạn có thể chọn tổ chức tiệc cho chú rể tại nhà hàng, quán bar, nhà riêng. Nhóm bạn có thể quẩy hết mình nhưng đừng vui chơi quá đà nhé. Đối với những anh chàng bận rộn và có quỹ thời gian hạn hẹp thì cùng nhau đặt tiệc tại một nhà hàng là cách thức đơn giản nhất. Điều quan trọng vẫn là cả nhóm ngồi trò chuyện, chia sẻ kinh nghiệm hôn nhân và giúp chú rể tương lai tự tin hơn. Cũng giống như các cô gái, những chàng trai cũng có thể đơn giản hóa buổi chia tay đời độc thân tại một quán cafe quen. Tại đây, cả nhóm bạn sẽ cùng gọi đồ uống, trò chuyện với nhau nhiều hơn và ôn lại những kỷ niệm trong suốt quãng đời độc thân đã trải qua. Sẽ thú vị biết mấy nếu như các anh chàng trong nhóm có thể giúp chú rể đôi chút kinh nghiệm làm chồng. Điều này sẽ giảm bớt áp lực và lo lắng về cuộc sống hôn nhân sắp tới. Dù được tổ chức tiệc độc thân theo cách nào thì chú rể và cô dâu tương lai cũng là những người vui nhất khi biết bạn bè còn nhớ tới mình. Sắp xếp buổi gặp gỡ với điều kiện tài chính cho phép. Không cần quá xa hoa, lộng lẫy. Điều quan trọng vẫn là tình cảm của bạn bè dành cho nhau. Nên chú ý về thời gian vì cô dâu sắp cưới rất bận rộn với nhiều công việc phải chuẩn bị. Công tác chuẩn bị nên được chia đều để mọi người cùng nhau làm mới có ý nghĩa. Không nên tự mình ôm đồm quá nhiều việc sẽ khiến mọi thứ không chu toàn. Dù vui chơi hết mình nhưng cũng đừng ảnh hưởng đến mối quan hệ của cô dâu và chú rể tương lai nhé. Hãy giữ gìn hình ảnh cho người bạn của mình trước ngày cưới. Mặc dù party độc thân thường được tổ chức vào đêm trước ngày cưới nhưng các bạn cũng có thể thực hiện trước đó nhiều ngày. Điều này giúp cô dâu đảm bảo sức khỏe trong ngày trọng đại. Kings Place là trung tâm tổ chức sự kiện có quy mô nhất thành phố Thanh Hóa với 3 hội trường lớn có sức chưa hơn 1500 khách. Cùng với đó là thực đơn đa dạng với những món ăn truyền thống của Việt Nam và quê hương xứ Thanh.
Tiệc độc thân
Bữa tiệc chia tay thời độc thân hay còn gọi là tiệc độc thân là bữa tiệc được tổ chức vào đêm trước đám cưới của cô dâu và chú rể, theo đó, cô dâu, chú rể sẽ mời những bạn bè thân thiết nhất, cùng làm những việc không thể làm sau khi cưới. Thông thường các đôi uyên ương sẽ quy ước ngầm với nhau là không xuất hiện tại tiệc độc thân của vợ, chồng tương lai vì đây là thời gian hoàn toàn dành cho bạn bè. Bữa tiệc độc thân chính là dịp xả hơi, thư giãn hiếm có của cả cô dâu chú rể trước khi bước vào cuộc sống vợ chồng. Sau buổi tiệc này, cô dâu và chú rễ về cơ bản sẽ chấm dứt hoặc hạn chế tối đa những chuỗi ngày chơi bời, vui vẻ để chú tâm vào việc xây dựng, vun đắp gia đình của mình. Ngày nay, ngoài việc tổ chức lễ cưới các cô dâu chú rể còn có xu hướng tự ăn mừng để chia tay quãng đời độc thân của mình. Ở các nước phương Tây, trước ngày cưới diễn ra, cô dâu chú rể có truyền thống tự tổ chức một bữa tiệc riêng để chia tay quãng đời độc thân của mình.
Thợ máy hay thợ cơ khí là một ngành nghề trong xã hội (nhất là xã hội công nghiệp) trong đó một công nhân hoặc kỹ thuật viên sử dụng các công cụ, phụ tùng một cách thành thạo để lắp đặt, thay thế, phục hồi hoặc sửa chữa máy móc hoặc sửa chữa để vận hành máy móc. Trong tiếng Việt, thợ máy là thợ lắp ráp, sửa chữa, bảo dưỡng các máy móc. Có nhiều loại thợ máy, mỗi loại hình chuyên về một lĩnh vực cụ thể với những thao tác đặc thù như cơ khí tự động, cơ khí xe đạp, cơ khí xe gắn máy, cơ khí nồi hơi, cơ khí bảo dưỡng công nghiệp, điều hòa không khí và cơ khí điện lạnh, cơ khí máy bay, cơ khí động cơ diesel, và cơ khí. Một số có thể có trình độ chuyên môn trong các lĩnh vực điện, nước trong khi những người khác có thể chuyên môn trong các lĩnh vực đơn thuần là cơ khí. Các lĩnh vực khác có thể liên quan đến sửa chữa tay lái, hộp số tự động, phanh (thắng)…. sửa chữa động cơ hoặc kiểm tra theo yêu cầu hay phản ảnh của khách hàng. Thợ máy là ngành nghề quan trọng, thợ máy ở Anh có giá hơn luật sư. Tiền thuê thợ máy ôtô ở Anh đắt hơn tiền trả cho luật sư hoặc bác sĩ, theo tạp chí What Car?. Tạp chí nói rằng khách hàng thường trả trung bình cho thợ máy 174 USD mỗi giờ (thấp nhất là ở Scotland 85 USD/giờ, và cao nhất ở London với 243 USD mỗi giờ cho thợ máy sửa xe BMW). Ở Việt Nam, cộng đồng vẫn chưa đánh giá cao vai trò của người thợ khi họ vẫn hình dung thợ máy là những người lấm lem dầu nhớt, ít kiến thức, thợ là sự lựa chọn sau cùng khi vào đời dù họ rất cần và tin tưởng người thợ khi phải sửa chữa các hỏng hóc, tu bổ xe cộ… Sự trân trọng dành cho người thợ còn nhạt nhòa. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Thợ máy
Thợ máy hay thợ cơ khí là một ngành nghề trong xã hội (nhất là xã hội công nghiệp) trong đó một công nhân hoặc kỹ thuật viên sử dụng các công cụ, phụ tùng một cách thành thạo để lắp đặt, thay thế, phục hồi hoặc sửa chữa máy móc hoặc sửa chữa để vận hành máy móc. Trong tiếng Việt, thợ máy là thợ lắp ráp, sửa chữa, bảo dưỡng các máy móc. Có nhiều loại thợ máy, mỗi loại hình chuyên về một lĩnh vực cụ thể với những thao tác đặc thù như cơ khí tự động, cơ khí xe đạp, cơ khí xe gắn máy, cơ khí nồi hơi, cơ khí bảo dưỡng công nghiệp, điều hòa không khí và cơ khí điện lạnh, cơ khí máy bay, cơ khí động cơ diesel, và cơ khí. Một số có thể có trình độ chuyên môn trong các lĩnh vực điện, nước trong khi những người khác có thể chuyên môn trong các lĩnh vực đơn thuần là cơ khí. Các lĩnh vực khác có thể liên quan đến sửa chữa tay lái, hộp số tự động, phanh (thắng). sửa chữa động cơ hoặc kiểm tra theo yêu cầu hay phản ảnh của khách hàng.
Cỏ hương bài hay cỏ hương lau là một chủng trong dòng cỏ Vetiver (danh pháp hai phần: Chrysopogon zizanioides, đồng nghĩa: Vetiveria zizanioides) là một loài cỏ sống lâu năm thuộc họ Hòa thảo (Poaceae), có nguồn gốc từ Ấn Độ. Tên gọi vetiver có nguồn gốc từ tiếng Tamil. Các tài liệu cổ bằng tiếng Tamil có đề cập tới việc sử dụng cỏ vetiver cho các mục đích y học. Cỏ vetiver có thể mọc cao tới 1,5 m và tạo thành các bụi cây rộng gần như vậy. Thân cây cao, các lá dài, mỏng và cứng. Hoa màu tía ánh nâu. Không giống như phần lớn các loài cỏ với hệ thống rễ trải rộng theo chiều ngang tương tự như một tấm thảm, hệ thống rễ của cỏ hương bài mọc thẳng và sâu xuống dưới đất tới độ sâu 2–4 m. Nó có quan hệ họ hàng gần gũi với các loài cỏ có hương thơm khác như sả (Cymbopogon citratus, C. nardus, C. winterianus, C. martinii). Cỏ vetiver khá dễ trồng, dễ sống, chịu hạn tốt, ít bị sâu bệnh, thấm nước và giữ nước. Nó vừa ưa khô vừa ưa nước, trồng được ở bất kỳ loại đất nào, không kể độ màu mỡ. Cỏ được nhân giống bằng cụm rễ, cành giâm. Cây mọc thành bụi hay khóm lớn. Mặc dù nó có nguồn gốc từ Ấn Độ, nhưng hiện nay cỏ vetiver được gieo trồng rộng khắp trong khu vực nhiệt đới. Do một số tính chất đặc thù của cỏ hương bài nên nó là một trong các loài thực vật có khả năng kiểm soát xói mòn tốt trong các khu vực có khí hậu nóng. Không giống như phần lớn các loài cỏ, cỏ hương bài tạo thành hệ thống rễ mọc thẳng xuống phía sâu tới 2–4 m. Điều này làm cho nó có vai trò của một hàng rào giữ ổn định tốt cho các bờ sông suối, các vùng đất bậc thang và các ruộng lúa. Các cụm thân cây mọc dày dặc cũng giúp ngăn không cho nước bề mặt thoát đi nhanh chóng. Do cỏ hương bài được nhân giống bằng các cụm rễ, cành giâm hay chồi cây nhỏ chứ không phải bằng các thân bò lan ngầm dưới đất nên nó không dễ trở thành loài xâm hại và cũng dễ dàng kiểm soát bằng cách thâm canh đất tại ranh giới của hàng rào là cỏ hương bài. Hàng rào cỏ hương bài có tác động đệm rất tốt, chống được xói mòn nếu đặt theo đường đồng mức với khoảng cách nhất định trên sườn đồi. Phần lớn rễ cỏ hương bài mọc thẳng xuống ít nhất 3 m, không gây hại đáng kể tới các dạng cây trồng, làm giảm lượng nước bề mặt thoát đi và tăng hiệu quả giữ nước ngầm. Ngoài việc là một hàng rào bảo vệ hiệu quả, cỏ hương bài còn giúp bảo vệ các công trình đập, kênh, đường bộ, sông hồ thuỷ điện không bị bồi lấp, chống lũ lụt, hạn chế dòng chảy mất mùa trên diện rộng. Ở những vùng duyên hải có gió mạnh, hàng rào cỏ hương bài làm hàng cây chắn gió tốt để bảo vệ cây ăn quả, cây lấy gỗ còn nhỏ, cùng với cây dứa sợi làm băng cản lửa xanh và chống xói mòn đất, giữ nước cho đất. Thân cây giúp làm lắng các chất bẩn đục trong nước, nước mưa từ thân chảy xuống được lọc ngấm xuống đất giúp giữ sạch nguồn nước ngầm. Cỏ hương bài được trồng chủ yếu để chưng cất tinh dầu thơm từ rễ. Sản lượng toàn thế giới khoảng 250 tấn/năm. Do tính chất hãm mùi tốt của nó nên tinh dầu hương bài được sử dụng trong một số loại nước hoa cao cấp. Nó có mặt trong khoảng 36% các loại nước hoa do các quốc gia phương tây sản xuất (nguồn: Lavania). Tinh dầu cỏ vetiver zizanioides.L là một loại tinh dầu phức tạp, chứa trên 100 các thành phần đã được nhận dạng. Tuy nhiên, các thành phần chính là:. Video cách nấu nước dùng phở ngon – 0220 Phở bò nước dùng chất lượng, siêu ngon.
Cỏ hương bài
Cỏ hương bài hay cỏ hương lau là một chủng trong dòng cỏ Vetiver (danh pháp hai phần: Chrysopogon zizanioides, đồng nghĩa: Vetiveria zizanioides) là một loài cỏ sống lâu năm thuộc họ Hòa thảo (Poaceae), có nguồn gốc từ Ấn Độ. Tên gọi vetiver có nguồn gốc từ tiếng Tamil. Các tài liệu cổ bằng tiếng Tamil có đề cập tới việc sử dụng cỏ vetiver cho các mục đích y học. Cỏ vetiver có thể mọc cao tới 1,5 m và tạo thành các bụi cây rộng gần như vậy. Thân cây cao, các lá dài, mỏng và cứng. Không giống như phần lớn các loài cỏ với hệ thống rễ trải rộng theo chiều ngang tương tự như một tấm thảm, hệ thống rễ của cỏ hương bài mọc thẳng và sâu xuống dưới đất tới độ sâu 2–4 m. Nó có quan hệ họ hàng gần gũi với các loài cỏ có hương thơm khác như sả (Cymbopogon citratus, C. nardus, C. winterianus, C. martinii). Cỏ vetiver khá dễ trồng, dễ sống, chịu hạn tốt, ít bị sâu bệnh, thấm nước và giữ nước. Nó vừa ưa khô vừa ưa nước, trồng được ở bất kỳ loại đất nào, không kể độ màu mỡ.
Một vài loại bồ câu chuyên thịt được nuôi nhiều hiện nay, bà con có thể tham khảo để chọn cho mình giống bồ câu thịt phù hợp nhất. Bồ câu Pháp được nuôi theo hướng chuyên thịt nhờ vào trọng lượng lớn lên đến 800gram – 1,2kg/ con. Đây là giống bồ câu du nhập từ Pháp và được lai tạo với bồ câu của Việt Nam để thích nghi tốt với điều kiện khí hậu nước ta. Mỗi năm 1 cặp bồ câu sinh sản từ 8 đến 9 lứa chim non và có tỷ lệ sống hơn 95%. Đối với bồ câu ra ràng trọng lượng khoảng 0,5 – 0,6kg. Mức giá của chim bồ câu giống khoảng 250 – 500 nghìn một cặp tùy theo lứa tuổi của chúng. Bồ câu vua có nguồn gốc từ bang New Jersey, Hoa Kỳ, con được gọi là bồ câu K hay bồ câu Mỹ. Bồ câu vua được lai tạo dần dần để thích nghi với môi trường của Việt Nam. Hiện nay, đây là một trong những giống bồ câu mang lại lợi nhuận cao và được nhiều người chăn nuôi. Bồ câu Mỹ có nhiều màu lông khác nhau, chủ yếu là màu trắng và đỏ thẫm. Khi trưởng thành,bồ câu trống có thể nặng tới 1kg, bồ câu mái khoảng 0,8kg. Bồ câu ra ràng có cân nặng khoảng 700gram. Giá bồ câu vua có nhỉn hơn bồ câu Pháp một chút, khoảng 500.000 – 1.200.000/ cặp tùy thuộc vào lứa tuổi. Bồ câu ta hay còn gọi là bồ câu Việt Nam là giống bồ câu nội địa xuất hiện ở hầu hết các khu vực nước ta. Bồ câu ta có dáng hình nhỏ nhắn hơn nên chưa được đánh giá cao về việc lấy thịt. Tuy nhiên thịt chim bồ câu ta lại được đánh giá cao về giá trị dinh dưỡng. Trung bình mỗi con bồ câu cân nặng từ 350 – 400 gram khi trưởng thành. Con trống sẽ nặng hơn con mái một chút. Bồ câu ta sinh sản nhiều, mỗi năm đẻ khoảng 6 – 7 lứa, nuôi khoảng 1 tháng chúng có thể nặng tới 370gram và có thể xuất bán. Giống với đa số những con gia cầm khác, chim bồ câu thích ăn các loại hạt thóc, lúa, kê,… Nhưng nếu nuôi chim thịt thì phải áp dụng chế độ ăn khoa học. Nhóm thức ăn chính: thành phần thức ăn của chim bồ câu hầu như là thóc và bắp. Khi cho bồ câu ăn, cần làm sạch bụi bẩn, loại bỏ các hạt bị hư, lép. Bảo quản nơi khô ráo tránh để thức ăn bị ẩm mốc. Nhóm thức ăn phụ: bao gồm các loại đậu như đậu xanh, đậu nành, đậu đen,… nên rang lên trước khi cho chim ăn và kiểm soát tình hình ăn uống của chúng do trong đậu chứa rất nhiều hất béo, nhất là đậu nành. Sỏi nhỏ: những viên sỏi nhỏ có kích thước dưới 5mm rất tốt cho hệ tiêu hóa của chim. Có thể trộn chung giữa premix với sỏi cho chim ăn. Giai đoạn mới nở: Bồ câu con vẫn phụ thuộc vào nguồn thức ăn mà chim bố mẹ mớm cho. Nên cho chúng ăn thức ăn dành cho gà con để chim dễ tiêu hóa và nhanh lớn hơn. Lúc này nên nhỏ vào miệng của chim non 2 giọt và nhỏ mũi 1 giọt vacxin Lasota để phòng bệnh Newcastle. Ngoài ra cần phải bổ sung thêm gluco, điện giải cho chim bố mẹ. Bồ câu con vẫn phụ thuộc vào nguồn thức ăn mà chim bố mẹ mớm cho. Nên cho chúng ăn thức ăn dành cho gà con để chim dễ tiêu hóa và nhanh lớn hơn. Lúc này nên nhỏ vào miệng của chim non 2 giọt và nhỏ mũi 1 giọt vacxin Lasota để phòng bệnh Newcastle. Ngoài ra cần phải bổ sung thêm gluco, điện giải cho chim bố mẹ. Bồ câu được 20 – 30 ngày tuổi:Chim bồ câu ăn gì khi được 20 ngày tuổi ? Lúc này, chim tuy đã gần đủ lông nhưng vẫn cần đến sự hỗ trợ của chim bố mẹ. Thức ăn vẫn là loại mềm dễ tiêu hóa.Chú ý cho ăn đầy đủ chất dinh dưỡng cuẩn bị cho quá trình tách đàn. Chim non được 10 – 15 ngày thì nên tách mẹ để chim bố mẹ chuẩn bị sinh lứa mới. Chim bồ câu ăn gì khi được 20 ngày tuổi ? Lúc này, chim tuy đã gần đủ lông nhưng vẫn cần đến sự hỗ trợ của chim bố mẹ. Thức ăn vẫn là loại mềm dễ tiêu hóa. Chú ý cho ăn đầy đủ chất dinh dưỡng cuẩn bị cho quá trình tách đàn. Chim non được 10 – 15 ngày thì nên tách mẹ để chim bố mẹ chuẩn bị sinh lứa mới. Thức ăn chính: 75% bắp hoặc thóc + 25% hạt đậu. Đổ sẵn thức ăn chính vào máng. Thức ăn phụ: 85% Premix + 5% Muối + 10% sỏi nhỏ. Lượng thức ăn này thêm vừa đủ, không để dư dễ bị mất chất. Mỗi ngày cho chim ăn 2 -3 lần, tập cho chúng ăn theo giờ cố định để tạo thói quen cho chim. Thức ăn cho bồ câu lúc sinh sản như sau:. Mỗi ngày, một đôi chim sẽ uống khoảng 0,2 lít nước, lượng nước sẽ dao động lên 0,3 lít nước vào mùa nóng và giảm xuống 0,15 lít nước vào mùa lạnh. Cần thay nước mới mỗi ngày, đảm bảo máng nước luôn đầy, không để cho bồ câu bị thiếu nước. Mặc dù bồ câu có sức đề kháng khá tốt, tuy nhiên với mật độ nuôi nhốt khá chật hẹp thì dịch bệnh vẫn có thể xảy ra. Quét dọn thường xuyên khu chăn nuôi, định kỳ 1 tháng 2 lần là được, sửa lại những chỗ hỏng, cạo bỏ phân còn dính lại trong chuồng. Lót ổ cho bồ câu đẻ bằng chất độn mới hoàn toàn, phun thuốc khử trùng sạch sẽ. Tiêm phòng vacxin phòng bệnh cho chim, chú ý theo dõi tình trạng sức khỏe của toàn đàn. Hạn chế ra vào và không cho chim lạ tiếp xúc với đàn bồ câu. Dọn dẹp, vệ sinh sạch sẽ các máng ăn máng uống mỗi ngày. Thay mới thức ăn và nước uống để đảm bảo chất lượng nguồn dinh dưỡng. Bồ câu rất hay gặp các bệnh cầu trùng, vỏ trứng bị mềm, bệnh về đường hô hấp,… Cần theo dõi kỹ tình trạng bệnh và đến ngay cac cơ sở thú y để được sự tư vấn trị bệnh tốt nhất. – Thức ăn chủ yếu của chim bồ câu là thóc, bắp,… ở chim non nên cho ăn thức ăn dành cho gà con đến khi chim cứng cáp hơn. Ngoài ra còn cho chúng ăn thêm đậu xanh, đậu đen, đậu nành,… – Cho bồ câu ăn muối, khoáng premix… để đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng. Chim bồ câu từ 40 ngày tuổi sẽ tự biết ăn và tự tách khỏi chim bố mẹ. Tùy theo quá trình chăm sóc bồ câu, chế độ dinh dưỡng, giống bồ câu,… mà có thời gian sinh nở khác nhau. Thông thường bồ câu non khoảng 4 – 6 tháng thì bắt đầu sinh sản. Tôi là một người thích nuôi gà đá và xem đá gà trực tiếp. Tôi muốn chia sẻ những kinh nghiệm trong suốt quá trình chăn nuôi gà chiến cùng với các anh em có chung đam mê. Đá Gà Campuchia - website trực tiếp những trận đá gà kịch tính nhất từ sàn đấu Thomo Campuchia với đường truyền chất lượng không giật lag.
Nuôi bồ câu
Nuôi bồ câu là việc thực hành chăn nuôi các giống Bồ câu nhà, chúng được nuôi tại nhiều nước để lấy thịt bồ câu đây là loài tương đối dễ nuôi. Nuôi chim bồ câu không đòi hỏi kỹ thuật chăm sóc, chi phí cao mà hiệu quả nhanh. Chim bồ câu siêu thịt, có thể nặng từ 1,2 kg trở lên, dễ nuôi, nhanh lớn, ít bệnh, sinh sản tốt. Một số giống bồ câu nhà có thể tận dụng từ sản phẩm nông nghiệp dư thừa như: đậu nành xấu, ngô, lõi ngô, rau cỏ đem nghiền thành cám viên cho chim bồ câu ăn. Chim bồ câu nhà đòi hỏi chuồng nuôi thoáng mát. Việc nuôi chim bồ câu nhà trong trại có nhiều tiện lợi, không những thời gian có ánh nắng dài, mà còn có thể lợi dụng tia tử ngoại để diệt khuẩn. Chim bồ câu rất nhạy cảm với ánh sáng. Sự đẻ trứng chỉ phụ thuộc vào một phần ánh sáng nhưng sự ấp trứng lại phụ thuộc chặt chẽ vào yếu tố ánh sáng. Bản năng ấp trứng của bồ câu phụ thuộc vào thời gian chiếu sáng ban ngày tối thiểu là 13 giờ.
Khi tiếp khách là người Nga, bạn nên thận trọng với màu sắc trang trí của nơi đón tiếp. Người Nga có cách hiểu riêng về màu sắc và con số. Tốt nhất là sử dụng màu đỏ (đối với người Nga tượng trưng cho vẻ đẹp, sự phục sinh, tình yêu), xanh lá cây, xanh da trời, số 3, số 7 và số 12. Không được dùng màu đen và số 13. Sử dụng màu trắng cũng phải hết sức thận trọng vì người Nga cho rằng màu trắng tượng trưng cho sự tinh khiết, trong trắng, nhưng đồng thời cho cả đau thương. Đối với người Nga, khoảng cách riêng tư nhỏ hơn so với những người Châu Âu khác. Trong khi trao đổi có thể vỗ vai nhau hay nắm tay nhau, vì người Nga coi đó là sự thể hiện của tình thân thiện. Khi đã quen biết nhau lâu hơn - kể cả phụ nữ và nam giới - đều có thể ôm nhau hoặc hôn lên má để thể hiện tình thân. Người Nga muốn phụ nữ không ăn vận hay trang điểm lòe loẹt và ăn nói giữ ý tứ. Nhiều khi chỉ cần gật đầu chào đối tác nữ người Nga là đủ, trong khi bắt tay đối tác nam giới chặt và lâu. Nhưng tập tục này đang có chiều hướng thay đổi vì ngày càng có nhiều phụ nữ Nga đảm nhận cương vị quản lý quan trọng. Có quà tặng nhau khi gặp gỡ là tập tục được đánh giá cao ở Nga. Người Nga không quên đối tác đã giúp họ như thế nào. Quan hệ càng thân thiết và càng lâu dài thì giá trị, mối liên hệ giữa món quà với cá nhân người tặng quà và mức độ tỷ mỷ khi chọn quà càng phải cao. Hoa luôn là món quà thích hợp, nhưng nhớ phải chọn số bông lẻ. Số bông chẵn chỉ được dùng để viếng tang. Hoa màu vàng và trắng còn có nghĩa liên tưởng tới đau thương và mất mát. Trong doanh nghiệp Nga, người đứng đầu ít khi ủy quyền cho cấp dưới. Vì thế, muốn đàm phán có kết quả thật sự, bạn nên tìm cách đàm phán trực tiếp với người đứng đầu này. Người Nga đọc nhiều và rất quan tâm đến kỹ thuật, khoa học tự nhiên, nghệ thuật, âm nhạc và văn học. Đối tác nào có thể trao đổi được với họ ở mặt bằng trí thức cao sẽ khiến người Nga nể phục. Muốn làm ăn với người Nga, các đối tác nên phải biết tiếng Nga hoặc ít nhất phải có phiên dịch giỏi. Nhiều người Nga ứng xử giống như người Mỹ: nói ngôn ngữ của chúng tôi hoặc chẳng nói ngôn ngữ nào hết. Khi chào hỏi, làm quen nhau lần đầu tiên với người Nga, bạn không được tỏ ra quá thân thiện. Thái độ xuồng xã hoặc quá dí dỏm hay bị người Nga coi là “Mỹ quá”, thậm chí còn bị coi là yếu thế. Càng quen biết nhau hơn thì càng có thể tỏ thái độ thân mật hơn. Xưng hô với người Nga bằng tên gọi của họ đi kèm với tên của người cha. Ví dụ, tên gọi của đối tác là Sergej, tên gọi của người cha là Oskar, thì gọi đối tác là Sergej Oskarovitsh. Các chức danh cấp cao thì mới sử dụng trong xưng hô, chẳng hạn như Tổng Giám đốc hay Bộ trưởng. Trong đàm phán với người Nga, bạn chỉ nên nhân nhượng khi “có đi, có lại”. Bạn hãy lập luận cho nhượng bộ của bạn bằng thiện cảm cá nhân với nước Nga và người Nga và mong muốn xây dựng quan hệ làm ăn lâu dài với Nga. Những đối tác nhượng bộ quá sớm sẽ bị coi là yếu thế, không được nể trọng, thậm chí nhiều khi còn bị coi thường. Nếu đối tác người Nga không kiềm chế được bản thân mình trong đàm phán thì bạn hãy tỏ ra tự tin và kiên quyết - nhưng không được để đối tác hiểu hay cảm nhận là bạn lên mặt dạy họ. Ngay cả khi đối tác bực tức đến mức đập bàn đập ghế thì bạn cũng không nên bối rối. Tính cách người Nga là như vậy - nhiều khi còn là thủ thuật. Nhiều chuyện có thể giải quyết được với đối tác người Nga tại bữa ăn trưa và bữa ăn trưa ấy không nhất khoát cứ phải thịnh soạn. Nhưng nếu có cùng nhau ăn tối thì khi đó bạn không nên e dè và ngần ngại nữa. Đó chính là những cơ hội để quan hệ trở nên thân thiết và tin cậy nhau hơn. Nói lời chúc rượu đầu tiên là việc của chủ nhà và khách đáp lại sau. Nội dung lời chúc rượu thường xoay quanh chủ đề tình bạn, cuộc sống hay vẻ đẹp của phụ nữ. Đương nhiên, ngợi khen chủ tiệc thì không khi nào sai và không thích hợp cả.
Người Nga
Người Nga (tiếng Nga: русские, chuyển tự russkiye) là một sắc tộc Đông Slav, sống chủ yếu ở Nga và các nước láng giềng. Theo điều tra dân số năm 2002, người Nga bản địa chiếm khoảng 80% dân số của Nga. Phần lớn người Nga sinh sống ở Liên bang Nga, các nhóm thiểu số đáng chú ý tồn tại ở các quốc gia Liên Xô cũ khác như Belarus, Kazakhstan, Moldova, Ukraina và các nước Baltic. Một nhóm Nga kiều lớn (đôi khi bao gồm cả người nói tiếng Nga, tức là những người nói tiếng Nga không phải là người Nga) cũng tồn tại trên khắp thế giới, với những con số đáng chú ý trong Hoa Kỳ, Đức, Brasil và Canada. văn hóa của dân tộc Nga có truyền thống lâu đời và nó là nền tảng cho văn hóa hiện đại của toàn nước Nga. Tiếng Nga ban đầu là ngôn ngữ của người Nga. Họ theo lịch sử Kitô giáo chính thống theo tôn giáo. Dân tộc Nga được hình thành từ bộ lạc Đông Slav và tổ tiên văn hóa của họ là từ Rus Kiev. Từ tiếng Nga của người dân tộc Nga có nguồn gốc từ người của Rus và lãnh thổ của Rus .
Tajikistan Xô viết có vị trí tại Trung Á và được thành lập vào ngày 14 tháng 10 năm 1924, đã có lúc được gọi là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Tajikistan và là một phần của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan. Vào ngày 5 tháng 12 năm 1929 nó được chuyển thành một nước độc lập riêng rẽ của Liên bang Xô viết. Vào ngày 9 tháng 9 năm 1991, Quốc gia này tuyên bố độc lập từ Liên bang Xô viết và được đổi tên thành “Cộng hòa Tajikistan“. Một trong các chính thể mới được xây dựng tại Trung tâm châu Á năm 1924 là Uzbekistan, có vị thế của một nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết. Tajikistan được xây dựng như một nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết tự trị bên trong Uzbekistan. Nền Cộng hòa tự trị là phía Đông Bukhara và có dân số khoảng 740.000, trong khi tổng dân số của Uzbekistan là 5 triệu. Thủ đô là Dushanbe, là một ngôi làng có số dân khoảng 3.000 vào năm 1920. Năm 1929 Tajikistan ly khai khỏi Uzbekistan và có chính thể đầy đủ là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết. Trong thời gian này, vùng lãnh thổ phía Nam Tajikistan đã được thêm vào nước Cộng hòa. Mặc dù được thêm lãnh thổ, Tajikistan vẫn là nước nhỏ nhất ở Trung tâm châu Á. Tờ báo được viết bằng ngôn ngữ Tajik tại Tajikistan Xô Viết bắt đầu vào năm 1926. Nền giáo dục mới cũng bắt đầu từ thời gian này. Các ngôi trường đầu tiên, cho cả người lớn và trẻ con được xây dựng để phổ cập kiến thức cơ bản, mở cửa năm 1926. Chính quyền cũng tuyển một số ít người Tajik cho văn phòng công cộng, hoặc gửi họ đến trường tại Uzbekistan.
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Karelia-Phần Lan
Sotsialisticheskaya Respublika) là một nước cộng hòa tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn của Liên bang Xô viết. Cộng hòa đã tồn tại từ năm 1940 cho đến khi được hợp nhất trở lại vào Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga năm 1956 và được gọi là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Karelia. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Karelia-Phần Lan được thành lập từ ngày 31 tháng 3 năm 1940, kết hợp Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Karelia và Cộng hòa Dân chủ Phần Lan (được thành lập trên phần lãnh thổ do Phần Lan nhượng lại trong Chiến tranh Mùa đông theo Hiệp ước Hòa bình Moskva, vốn tên là Eo đất Karelia và Ladoga Karalia, bao gồm cả các thành phố Viipuri và Sortavala). Toàn bộ dân cư Karelia tại vùng được nhượng, tức khoảng 420.000 người đã di tản sang Phần Lan và những người định cư tại đây đến từ những nơi khác thuộc Liên Xô. Việc thành lập một Cộng hòa mới thuộc Liên bang cho một dân tộc không có dân số lớn và thuần nhất như vậy là điều chưa từng có tiền lệ trong lịch sử Liên bang Xô viết.
1 Một số khái niệm liên quan cấp phối bê tông 1.1 Cấp phối bê tông là gì?. 4 Bảng định mức cấp phối bê tông cho tất cả các mác4.1 Định mức cấp phối bê tông xi măng PC40, PCB40, PCHS40 và cát mịn4.2 Định mức cấp phối bê tông xi măng PCP304.3 Định mức cấp phối bê tông 1776 và 17844.4 Định mức cấp phối bê tông 17844.5 Định mức cấp phối mác bê tông 100, 150, 200, 250. Cấp phối bê tông là tỷ lệ các loại nguyên vật liệu được sử dụng để tạo thành một khối bê tông thống nhất. Các nguyên liệu được dùng để tạo thành khối bê tông cần phải đạt đúng theo từng tiêu chuẩn. Xi măng: Tiêu chuẩn đối với xi măng là phải chọn loại ít tỏa nhiệt, xi măng pooclăng cũng như các loại xi măng đạt tiêu chuẩn đã được Bộ Xây dựng quy định. Cát: Tốt nhất hãy dùng các loại cát vàng hạt to hoặc hạt vừa từ đó mang đến độ chắc chắn cho mác của bê tông. Khi bạn dùng cát hạt quá nhỏ và mịn thì kết cấu của bê tông cũng không được đảm bảo. Đá: Đá dùng trong bê tông xây dựng phải là loại đá có kích thước vừa phải. Trong quá trình pha trộn không tốn quá nhiều nước từ đó tạo nên sự kết dính cao, đảm bảo chất lượng bê tông ổn định. Nước: Nước thường được dùng để làm bê tông là nước giếng khoan hoặc nước máy. Nước có chứa quá nhiều tạp chất như ao, hồ, sông, suối thì không được phép sử dụng để làm bê tông. Nước là thành phần cực kỳ quan trọng ảnh hưởng đến cường độ bê tông. Không được trộn quá ít như vậy bê tông sẽ nhanh khô và kết dính, không phát huy hết được cường độ. Ngược lại, nếu nước quá nhiều sẽ khiến bê tông có độ sụt cao, hỗn hợp lâu đông và không có sự kết dính. Mác bê tông là thuật ngữ nói về độ chịu nén của bê tông. Trong quá trình đổ bê tông, người kỹ sư sẽ phải tính toán, đo đếm các loại nguyên vật liệu cũng như cường độ chịu lực của bê tông trên nhiều phương diện khác nhau. Bao gồm: độ chịu nén, độ kéo, độ uốn, độ trượt. Trong những phương diện này, độ nén là tiêu chí quan trọng nhất và đó chính là mác bê tông. Định mức cấp phối bê tông chính là quá trình mà kỹ sư tính toán và tìm ra được một tỉ lệ hợp lý nhất định. Việc tính toán này đảm bảo cho các loại vật liệu bao gồm: xi măng, sỏi đá, cát, nước đủ 1m3. Như vậy bê tông mới đủ điều kiện để sử dụng. Để có được định mức bê tông chuẩn, các nhà sản xuất phải nghiên cứu cũng như thực hiện tính toán theo tỷ lệ nhất định tùy vào từng loại bê tông. Ở đây, chúng ta sẽ xem xét đến định mức cấp phối bê tông mác 250, 200 cấp phối bê tông mác 300, 350 và cấp phối bê tông mác 150 sẽ phải có sự hao hụt trong sử dụng các loại vật liệu. Lưu ý là các bảng tính này sẽ tính độ sụt của bê tông là 2:4cm. Để có được những quy định chuẩn về cấp phối bê tông phải trải qua nhiều thí nghiệm thực tế với các tỷ lệ thành phần cốt liệu bê tông khác nhau. Và từ đó mới có thể đưa ra tỷ lệ thích hợp nhất cho từng loại mác bê tông khác nhau. Định mức cấp phối bê tông đòi hỏi sự chính xác cao trong tính toán và kỹ thuật. Điều này phụ thuộc vào các yếu tố có trong 1m3 bê tông, bao gồm: thông số kỹ thuật của mác bê tông, kích thước cốt liệu, chất kết dính và thành phần phụ gia (nếu có). Cấp phối bê tông vốn là yếu tố dự toán trước khi xây dựng các loại mác bê tông. Tỷ lệ nước đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới cường độ của bê tông trong tiêu chuẩn cấp phối bê tông. Bởi lẽ nếu không có đủ lượng nước dẫn đến hỗn hợp bê tông bị khô nhanh, khó thi công, mẫu bê tông không đạt được cường độ mong muốn. Ngược lại, nếu lượng nước quá nhiều, làm cho hỗn hợp bị nhão, lâu đông kết, gây tốn kém về thời gian và chi phí. Trước kia, bê tông được trộn chủ yếu bằng thủ công, do đó việc pha trộn tỷ lệ nước thường không chính xác. Giờ đây bê tông tươi đều được trộn bằng máy, kỹ thuật hiện đại nên sản phẩm được chia theo tỷ lệ phù hợp, Từ đó mang tới sản phẩm có chất lượng cao với cường độ chịu lực và tính bền như mong muốn. Bê tông là hỗn hợp của cát, đá, nước và xi măng. Chúng ta phải tính toán và trộn bê tông dựa vào từng loại xi măng khác nhau. Để tính toán được chính xác nhưng không cần cân đo, đong đếm bằng dụng cụ, bạn có thể dùng thùng sơn 18 lít để làm chuẩn. Như vậy khi cách tính mác bê tông theo phương pháp tính toán sẽ là:. Bảng tra mác bê tông cần phải đúng theo tiêu chuẩn TCVN 356-205 trong thiết kế các loại bê tông, cốt thép. Bảng cấp phối bê tông theo tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng. Theo quy trình thiết kế, tính toán khoa học, việc thiết kế cấp phối bê tông được thực hiện bao gồm 2 phần chính: Phần tính toán và phần thí nghiệm, điều chỉnh lượng vật liệu thực tế. Bước 1: Tiến hành chọn độ sụt lún của hỗn hợp bê tông để tính toán lượng nước trộn. Bên cạnh đó, kết hợp cùng với các tiêu chuẩn của vật liệu được sử dụng làm vữa bê tông. Bước 2: Xác định thông số của các chất trong hỗn hợp kết dính. Sau đó xác định tỷ lệ chất kết dính/ nước. Tính toán hàm lượng chất kết dính và lượng phụ gia cần thiết cho 1m3 bê tông. Bước 3: Thực hiện xác định độ dư vữa hợp lý, định lượng cốt liệu lớn, hàm lượng cát cần thiết. Bước 1: Kiểm tra độ sụt của bê tông. Từ đó điều chỉnh lượng nước tới mức lưu động theo yêu cầu. Bước 2: Thí nghiệm kiểm tra cường độ: Hiện trộn theo tỷ lệ thành phần được xác định ở bước đầu tiên, sau đó đúc 3 nhóm mẫu. Nhóm 1 sử dụng hàm lượng theo đúng tính toán ở bước 1, nhóm 2 giảm 10%, nhóm 3 tăng 10%. Sau đó chờ kết quả của 3 nhóm rồi mang đi so sánh. Bước 3: Thí nghiệm để xác định khối lượng, thể tích của bê tông. Cuối cùng điều chỉnh thành phần cấp phối bê tông thực tế tại hiện trường. Cường độ bê tông theo yêu cầu hay còn gọi là mác bê tông: Theo mức thông thường người ta sẽ lấy cường độ chịu nén của bê tông sẽ tính sau 28 ngày dưỡng hộ để làm cường độ yêu cầu. Đặc điểm kết cấu của công trình: Kết cấu công trình của bạn có sử dụng cốt thép hay không, cốt thép dày hay thưa, tiết diện của công trình là rộng hay hẹp… Đó là những đặc điểm công trình mà bạn cần phải nắm bắt được. Mục đích của việc này chính là chọn được độ dẻo của hỗn hợp bê tông cũng như độ cứng của đá cho thật hợp lý. Điều kiện của nguyên vật liệu sử dụng trong trộn bê tông sử dụng những gì. ĐIều kiện thi công: thi công thủ công hay thì công bằng cơ giới, máy móc hiện đại. Nếu bạn thấy bài viết hay và ý nghĩa hãy cho Meeyland chúng tôi 1 like và chia sẻ bài viết này để mọi người cùng biết nhé. Ngoài ra nếu bạn có nhu cầu thì có thể tải APP MEEYLAND để cập nhật thông tin mới hằng ngày và đăng ký tài khoản miễn phí nhé!. Trân trong cảm ơn bạn đã theo dõi chúng tôi.
Cấp phối bê tông
Cấp phối bê tông là tỷ lệ thành phần các vật liệu cho 1m³ bê tông. Cấp phối bê tông phụ thuộc vào mác bê tông, kích thước cốt liệu, chất kết dính, thành phần phụ gia. Với bê tông thường cấp phối bê tông thường được hiểu là tỷ lệ các thành phần: xi măng (kg), đá (m³), cát (m³), nước (lit) cho 1m³ bê tông. Để có được cấp phối bê tông người ta phải tiến hành thí nghiệm nhiều lần với các tỷ lệ thành phần khác nhau để có được tỷ lệ thích hợp cho từng mác bê tông khác nhau. Cũng tương tự như thế các nhà sản xuất xi măng, chất phụ gia cũng cung cấp một cấp phối tham khảo cho từng loại xi măng áp dụng, từng loại phụ gia áp dụng.
Các phương pháp tính giá vốn hàng bán phổ biến1. Phương pháp giá bán lẻ. Giá vốn hàng bán được ghi nhận khi nào và Cách hạch toán1. Thời điểm ghi nhận giá vốn hàng bán2. Hạch toán giá vốn hàng bán. V. Một số câu hỏi thường gặp1. Tại sao giá vốn hàng bán/ HTK bị âm?2. Giá vốn hàng bán bao gồm những gì?. <p>Giá vốn hàng bán (GVHB) là gì? Thời điểm ghi nhận giá vốn hàng bán là khi nào? ES-GLOCAL xin gửi tới các bạn thông qua bài viết dưới đây. Giá vốn hàng bán tiếng anh gọi là Cost of Goods sold hoặc Cost of sales được viết tắt là COGS và COS là giá trị vốn của hàng bán đã tiêu thụ trong một thời gian cụ thể (một kỳ hoặc một năm). Giá vốn hàng bán là chi phí trực tiếp phát sinh từ việc sản xuất hàng hóa bán ra của DN. Số tiền này bao gồm chi phí của các vật liệu được sử dụng để tạo ra hàng hóa cùng với chi phí lao động trực tiếp được sử dụng để sản xuất hàng hóa. Giá vốn hàng bán không bao gồm các chi phí gián tiếp, chẳng hạn như chi phí phân phối và chi phí lực lượng bán hàng. GVHB là một chỉ tiêu quan trọng trong báo cáo tài chính cụ thể là trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Giá vốn hàng bán được tính bằng cách lấy lợi nhuận gộp (gross profit) trừ đi Doanh thu. Lợi nhuận gộp cho biết hiệu quả hoạt động của một công ty trong việc quản lý lao động và nhà cung ứng trong quá trình sản xuất. Ở một số tài liệu, Giá vốn hàng bán còn được hiểu là những chi phí vận hành doanh nghiệp giúp nhà đầu tư, phân tích, nhà quản lý ước tính lợi nhận sau thuế. Nếu Giá vốn hàng bán tăng, lợi nhuận thuần (net profit) sẽ giảm và doanh nghiệp nếu muốn lợi nhuận cao hơn thì sẽ có xu hướng giảm giá vốn. Phương pháp bình quân gia quyền, giá trị của từng mặt hàng tồn kho được tính theo giá trị trung bình của từng loại hàng tồn kho tương tự đầu kỳ và giá trị từng loại hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo thời kỳ hoặc vào mỗi khi nhập lô hàng về, phụ thuộc vào tình hình của doanh nghiệp. Phương pháp nhập trước, xuất trước áp dụng dựa trên giả định là hàng tồn kho được mua trước hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất gần thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ, giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuồi kỳ còn tồn kho. Phương pháp nhập sau xuất trước áp dụng dựa trên giả định là hàng tồn kho được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ còn tồn kho. Phương pháp này được sử dụng bởi các công ty bán lẻ để tính giá trị hàng tồn kho theo giá bán lẻ. Công ty bán lẻ có thể sử dụng công thức để chuyển đổi từ giá bán lẻ về giá gốc:. Theo giá gốc Theo giá bán lẻ Hàng tồn kho đầu kỳ 14.000 21.500 Hàng mua vào trong kỳ 61.000 78.500 Hàng sẵn có để bán 75.000 100.000 Trừ đi: Doanh thu thuần 70.000 Bước 1: Trị giá Hàng tồn kho cuối kỳ theo giá lẻ = 30.000 Bước 2: Tỷ lệ giá gốc trên giá lẻ = 75.000 : 100.000 = 75% Bước 3: Ước tính giá gốc hàng tồn kho cuối kỳ = 30.000 x 75% = 22.500. Theo định nghĩa ở trên thì giá vốn là một khoản chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp. Theo nguyên tắc phù hợp thì khi bạn ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng vào cùng thời điểm đó. Điều này có nghĩa là giá vốn là một khoản chi phí của doanh nghiệp để góp phần tạo ra doanh thu. Do vậy, xác định thời điểm ghi nhận giá vốn cũng chính là xác định thời điểm ghi nhận một khoản doanh thu của doanh nghiệp. Chi phí là những khoản làm giảm lợi ích kinh tế, được ghi nhận tại thời điểm giao dịch phát sinh hoặc khi có khả năng tương đối chắc chắc sẽ phát sinh trong tương lai không phân biệt đã chi tiền hay chưa. – Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất ra thấp hơn công suất bình thường thì kế toán phải tính và xác định chi phí sản xuất chung cố định phân bổ vào chi phí chế biến cho một đơn vị sản phẩm theo mức công suất bình thường. Khoản chi phí sản xuất chung cố định không phân bổ (không tính vào giá thành sản phẩm số chênh lệch giữa tổng số chi phí sản xuất chung cố định thực tế phát sinh lớn hơn chi phí sản xuất chung cố định tính vào giá thành sản phẩm) được ghi nhận vào GVHB trong kỳ ghi:
Giá vốn hàng bán
Giá vốn hàng bán (COGS) là giá trị tồn trữ của hàng bán trong một thời gian cụ thể. Chi phí được liên kết với hàng hóa cụ thể bằng cách sử dụng một trong nhiều công thức sau như Xác định cụ thể, Nhập trước – Xuất trước (FIFO) hoặc Chi phí trung bình. Chi phí bao gồm tất cả các chi phí mua, chi phí chuyển đổi và các chi phí khác phát sinh trong việc đưa hàng tồn kho đến vị trí và điều kiện hiện tại của chúng. Chi phí hàng hóa của các doanh nghiệp bao gồm vật liệu, lao động và chi phí phân bổ. Các chi phí của những hàng hóa chưa bán được hoãn lại như chi phí của hàng tồn kho cho đến khi hàng tồn kho được bán hoặc ghi giảm giá trị. Nhiều doanh nghiệp bán hàng hóa mà họ đã mua hoặc sản xuất. Khi hàng hóa được mua hoặc sản xuất, chi phí liên quan đến hàng hóa đó được vốn hóa như là một phần của hàng tồn kho (hoặc tồn kho) của hàng hóa. Các chi phí này được coi là chi phí trong kỳ kinh doanh ghi nhận thu nhập từ việc bán hàng hóa.
Sơ đồ 3 5 2 được áp dụng đầu tiên tại giải thi đấu Ngoại hạng Anh trong mùa giải 2009 – 2010, vì hiệu quả đem lại ngoài sự mong đợi nên sau đó được áp dụng tại các giải đấu lớn, nhỏ Đức, Pháp, Tây Ban Nha,…và sau đó trở thành một trong những chiến thuật hàng đầu được hầu hết các huấn luyện viên sử dụng. Mời quý khán giả cùng đến với bài viết sau của V9Sport để hiểu rõ hơn về chiến thuật 352 trong môn thể thao vua. Sơ đồ 3 5 2 trong bóng đá còn là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hàng công và hàng thủ một cách linh hoạt nhất để đem về hiệu quả cao. Tuy nhiên, chỉ cần một thành viên hoạt động sơ suất thì giống như một lát cắt tử thần, đẩy đội hình vào thế hỗn loạn, dễ dàng bị phá vỡ. Sự thành công của đội hình 3-5-2 chính là sự kết hợp của 4 khu vực thi đấu trong đội hình: phòng thủ, tiền vệ phòng ngự, tiền vệ tấn công và tiền đạo. Để có thể thi đấu đúng với kế hoạch đã đề ra, chiến thuật 352 đòi hỏi tất cả các thành viên trong đội hình bắt buộc nắm rõ, thực hiện tốt vai trò của mình để không phá vỡ chiến thuật mà nhà cầm quân đã xây dựng. Chỉ một sơ suất cũng có thể dẫn đến sự thất bại ngoài ý muốn. Các cầu thủ đảm nhiệm vị trí này đòi hỏi xử lý bóng khéo léo, linh hoạt nhưng bắt buộc phải chính xác, đặc biệt không để xảy ra lỗi mất bóng đáng tiếc. Hạn chế việc sử dụng nhiều đường chuyền gần nhau, tốt nhất sử dụng những đường chuyền dài nhằm mang đến tính an toàn cho khung thành. Các cầu thủ tại khu vụ tiền vệ trong chiến thuật 352 phòng ngự phản công cần có khả năng kiểm soát bóng tốt, chuyền bóng chính xác, sử dụng những đường chuyền ngắn về sau khung thành, áp dụng đường chuyền dài bên kia đường sân ngang. Một sơ hở trong khâu chuyền bóng làm mất bóng của hàng tiền vệ phong ngự, không khác gì dâng 2 tay tặng bàn thắng cho đối phương. Mọi pha xử lý của các cầu thủ phòng ngự bắt buộc diễn ra nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Sự sắp xếp các cầu thủ trong sơ đồ 3-5-2 tấn công cần phải năng động, linh hoạt, thể lực tốt, tốc độ nhanh và nhạy bén trong các pha xử lý bóng, nhằm đẩy bóng lên cao, đe dọa thủ thành đối phương. Đây là khu vực tạo ra bàn thắng, do đó mỗi khi bóng vào chân 2 tiền đạo đòi hỏi các cầu thủ này phải biết tận dụng cơ hội, lựa chọn không gian trống dứt điểm hạ gục hàng phòng ngự cũng như vị thủ môn đối thủ. Để mang về hiệu quả cho đội hình 3 5 2 , mỗi một cầu thủ trong đội hình đều bắt buộc hoàn thành nhiệm vụ của mình, chỉ một vị trí hoạt động sai lệch thì hậu quả nặng nề nhất đem lại là vào lưới nhặt bóng. V9Sport sẽ giúp khán giả yêu bóng đá nắm được phần nào vai trò của các cầu thủ trong sơ đồ 3-5-2 như sau:. Đây là cầu thủ cuối cùng của tuyến phòng ngự, do đó họ cần linh hoạt, nhanh nhạy trong cách ngăn chặn các pha kiến tạo, các đường chuyền dài của đối thủ. Một thủ môn xuất sắc sẽ góp phần rất lớn cho tâm lý thi đấu vững vàng của các thành viên trong đội bóng. 2 trung vệ được xem là trụ cột của hàng phòng thủ, chuyền bóng chính xác, đoán được ý đồ tấn công của đối phương để đưa ra cách xử lý bóng chính xác nhất. Họ nắm giữ nhiệm vụ quan trọng, đẩy bóng lên cao để hạn chế sức ép cho vị thủ thành. Do đó, 2 trung vệ trong chiến thuật đội hình 3-5-2 sẽ kết hợp với tiền vệ cánh trái, tiền vệ cánh phải và 2 tiền vệ trung tâm để đẩy bóng lên cao, ngăn chặn những ý đồ sang lấn khung thành đội nhà của đối phương. Người được sắp xếp vào vị trí này phải có khả năng chuyền bóng đường dài chính xác, phối hợp ăn ý với 2 trung vệ nhằm hạn chế mức độ uy hiếp đến khung thành. Ngoài ra, trong chiến thuật đội 352 các tiền vệ cánh sẽ dâng cao đội hình hơn để mở rộng đội hình tấn công, thực hiện các quả tạt hoặc hỗ trợ các quả tạt cho 2 tiền đạo chớp lấy thời cơ sút điểm. Việc chọn cầu thủ cho đội hình 3 5 2 ở vị trí hậu vệ cánh vừa đảm nhiệm vai trò phòng ngự, vừa nắm giữ vai trò tấn công, do đó các cầu thủ này hết sức nhanh nhạy trong các pha xử lý, đưa ra quyết định nhanh và chính xác khi nào cần hiện vai trò phòng thủ, khi nào phải tấn công. Sự kết hợp giữa vị trí 1 tiền vệ phòng ngự và 2 tiền vệ trung tâm sẽ góp phần tạo ra 1 hàng rào phòng thủ chắc chắn, đồng thời sẽ phân phối bóng cho mọi vị trí trên sân, đặc biệt đưa bóng đến chân 2 tiền đạo để tạo cơ hội ghi bàn thắng. Đây là vị trí rất quan trọng, đôi khi đóng vai trò tấn công trực tiếp vào khung thành đối phương trong những trường hợp cần thiết. Tiền vệ cánh trái và tiền vệ cánh phải được xem là hai cầu thủ quan trọng của Sơ đồ 3-5-2 trong bóng đá. Họ bắt buộc có kỹ thuật chuyền bóng cao, đặc biệt những đường chuyền dài cực kỳ chính xác, những pha tạt bóng chuẩn và đẩy bóng lọt khe tốt. Họ chính là người kết hợp tốt với 2 tiền đạo tạo ra các pha tấn công, đồng thời kết hợp với 2 tiền đạo trung tâm để tạo một hàng rào phòng ngự an toàn. 2 tiền đạo trong chiến thuật cho đội hình 352 là những người đóng vai trò chính để ghi bàn thắng. Họ có kỹ năng chạy chỗ tốt, kỹ thuật giữ bóng xuất sắc, có khả năng nhảy cao để nhận các pha tạt bóng, đồng thời định vị được vị trí thuận tiện nhất để thực hiện sút điểm. 1 tiền đạo cần kết hợp với 1 tiền đạo còn lại, 2 hậu vệ cánh và 3 tiền vệ trung tâm để vừa tấn công, vừa đón nhận cắt bóng từ phía tiền vệ đối phương. Sơ đồ chiến thuật 3-5-2 được đánh giá là đội hình vừa kết hợp tốt giữa số lượng cầu thủ phòng ngự và tấn công. Tối đa sẽ có 6 thành viên tham gia tấn công đối phương và ít nhất sẽ có 4 cầu thủ tham dự vào vị trí phòng thủ, đây chắc chắn là một đội hình mạnh mà các nhà cầm quân tài ba không thể bỏ qua. Hàng phòng ngự sẽ chắc chắn hơn trông thấy, khó bị đối phương sang chiếm với sự tham gia của 5 tiền vệ: 1 hậu vệ quét, 2 hậu vệ bọc lót tốt, 2 tiền vệ phòng ngự, đồng thời họ cũng góp phần vào các pha tấn công về phía khung thành đối phương. Chiến thuật cho đội hình 3-5-2 là sự phối hợp linh hoạt giữa hàng thủ và hàng công, các thành viên có thể thay đổi vị trí thích hợp nhất phù hợp với tình huống đang diễn ra. Khi thời cơ đến, các cầu thủ sẽ nhanh chóng phản đòn mà không lo thiếu sự hỗ trợ từ đồng đội, đặc biệt các pha tấn công nhanh từ phía trung lộ sẽ gây sức ép rất lớn đến hàng phòng ngự cũng như thủ môn đối phương. Đa dạng trong các pha bóng tấn công: từ trung lộ, từ biên trái, biên phải và kể cả những pha tấn công đường dài. Việc tập trung tấn công từ cánh trái và cánh phải sẽ tạo áp lực nặng nề đến 2 cầu thủ tiền vệ cánh này. Họ vừa mang trọng trách phòng thủ, vừa tấn công, do đó 2 tiền vệ cánh bắt buộc được lựa chọn kỹ càng, có thể lực tốt, tốc độ chạy nhanh và có sự đồng đều để không đè nén nặng lên bên nào. Ưu điểm lớn nhất trong chiến thuật cho đội hình 3-5-2 là tấn công và phòng thủ 2 cánh, tuy nhiên nếu đối thủ sử dụng các pha tạt bóng, đội đầu hay tạt cánh sẽ tạo sức uy hiếp lớn cho khung thành, khó để chủ động phòng thủ. Một trong 2 cánh bị lệch vị trí, đó sẽ là cơ hội phản công lớn nhất cho đối thủ, tạo những khoảng trống dễ dàng cho đối phương ghi bàn. Tuyến phòng ngự cuối cùng chỉ là 2 trung vệ, nếu có một chút sơ suất tại vị trí này thì mọi gánh nặng sẽ đổ dồn hết vào thủ thành. Do đó, 2 trung vệ cần được lựa chọn là những người có kỹ thuật cắt bóng tốt, đoán được ý đồ đối phương và xử lý chính xác. Sau khi sơ đồ 3412 ra đời đã đẩy lùi chiến thuật 352 một cách dễ dàng nhìn thấy. Thay vì đội hình 3 5 2 sử dụng 5 tiền vệ thì 3412 tăng cường tấn công, bằng cách thay thế 1 tiền vệ trung tâm bằng 1 tiền đạo đứng sau hỗ trợ cho 2 tiền đạo công. Chính sự xuất hiện của cầu thủ tiền đạo thứ 3 này, sẽ góp phần ngăn chặn các pha bóng của tiền vệ đối phương, đồng thời tạo ra các pha chuyền bóng, tạt bóng, các đường kiến tạo cho 2 tiền đạo ghi bàn. Vì thế, đội hình khắc chế 3-5-2 chính là sơ đồ 3-4-1-2. Đội hình sơ đồ 532 thiên về phòng ngự là chính, lợi dụng thời cơ thích hợp tung ra phản đòn tấn công chí mạng cho đối phương. Cấu tạo đội hình 532 bao gồm các vị trí sau: 1 thủ môn, 5 cầu thủ bố trí thành hàng rào phòng ngự chắc chắn (1 hậu vệ trái + 1 hậu vệ phải + 3 trung vệ), 3 tiền vệ (1 tiền vệ trái + 1 tiền vệ trung tâm + 1 tiền vệ phải), 2 tiền đạo tấn công ghi bàn). Điểm đáng chú ý ở đây, hàng phòng ngự chỉ có hậu vệ trái và hậu vệ phải được dâng cao, vừa tấn công vừa phòng ngự, riêng 3 trung vệ không được dâng cao đội hình, họ chỉ đảm bảo nhiệm vụ phòng ngự chắc chắn. 5 cầu thủ phòng ngự rất an toàn: 3 trung vệ đảm nhiệm vị trí phòng thủ, không được dâng cao trong bất kỳ tình huống nào, họ chỉ có nhiệm vụ duy nhất hạn chế sức tấn công cho thủ thành. 1 hậu vệ cánh trái và 1 hậu vệ cánh phải vừa hỗ trợ cho 3 trung vệ để phòng ngự, vừa kết hợp với 3 tiền vệ tuyến trên để tấn công khi có thời cơ. 3 tiền vệ tuyến trên là các cầu thủ có kỹ thuật chuyền bóng, tạt bóng, thể lực tốt. Họ bắt buộc chơi áp sát nhau, ngăn chặn các đường tấn công của tiền vệ đối phương, tạo sự cân bằng tuyến giữa, không để đối phương lấn át dễ bị lép vế và phá tan đội hình phòng thủ. Đặc biệt, tiền vệ trung tâm sẽ góp phần quan trọng nhất trong việc điều bóng và chi phối bóng từ tuyến dưới lên tuyến trên cho các tiền đạo tấn công ghi bàn. 2 tiền đạo đương nhiên là những chân sút lý tưởng, có khả năng chạy chỗ tốt, bậc nhảy cao, đón được các pha tạt bóng và những đường kiến tạo từ 3 tiền vệ để ghi bàn thắng lập công. Sơ đồ 343 chính xác được áp dụng trong các trận đấu với mục đích phòng ngự phản công, được đa số các nhà cầm quân sử dụng trong các cuộc so tài trên sân cỏ. Sơ đồ 343 được cấu tạo như sau: 1 thủ môn, 3 trung vệ, 4 tiền vệ (1 tiền vệ cánh trái + 1 tiền vệ cánh phải + 2 tiền vệ trung tâm), 3 tiền đạo (1 tiền đạo cắm kết hợp 2 tiền đạo hộ công). Sơ đồ 343 trên sân sẽ được phân chia rõ rệt thành 3 khu vực: khu vực phòng thủ, khu vực giữa sân và khu vực săn bàn thắng. Mỗi khu vực sẽ có vai trò riêng biệt và chức năng khác nhau như sau:. Khu vực phòng thủ: tuyến cuối cùng là thủ môn, tiếp đến là hàng rào thẳng được xây dựng bởi 3 trung vệ. Họ không được dâng cao, chỉ tập trung ngăn chặn các pha phản công, đẩy lùi bóng di chuyển tới khu vực 16m50. Sơ đồ 343 rất đảm bảo về phòng ngự, cho dù đối phương có phản công bất ngờ thì khung thành vẫn luôn được 3 trung vệ sẵn sàng bảo vệ chắc chắn, không thể xảy ra trường hợp lùi vệ không kịp như các sơ đồ đội hình khác. Khu vực giữa sân: 2 tiền vệ trung tâm là sự liên kết giữa hàng công và hàng thủ, đây là vị trí rất quan trọng và chắc chắn không có sai sót để tránh mang về hậu quả nghiêm trọng. 1 tiền vệ cánh trái và 1 tiền vệ cánh phải vừa kết hợp với 3 trung vệ đảm nhiệm vai trò phòng thủ, vừa kết hợp với 3 tiền đạo để tấn công. Họ góp phần quan trọng nhất để ngăn chặn các pha bóng san lấn đường băng ngang, tạo các đường kiến tạo, cac pha tạt bóng để tiền đạo thuận tiện tấn công khung thành. Khu vực săn bàn thắng: một sự khác biệt của sơ đồ 343 so với các đội hình khác là có 2 tiền đạo hộ công, 1 tiền đạo cắm ghi bàn. Nghe có vẻ rất không hợp lý, nhưng đây là một chiến thuật vô cùng thông minh, tránh sự tranh bóng giữa các tiền đạo đồng thời hỗ trợ rất cao cho hàng tiền vệ phía dưới. Sơ đồ 343 hiện nay được nhiều nhà cầm quân tài ba áp dụng thành công, tuy nhiên nó có đòi hỏi cao về phía cầu thủ: sức bền, kỹ thuật chuyền bóng, sự kết hợp ăn ý nhau. Vì vậy, chỉ cần 1 vị trí thực hiện nhiệm vụ không thành công thì sẽ làm sụp đổ hoàn toàn đội hình 343. Do đó, trước khi áp dụng sơ đồ 343, các huấn luyện viên cần nghiên cứu chiến thuật kỹ càng để có thể khai thác hết thế mạnh của đội hình này. Mùa giải Euro 2016, huấn luyện viên Conte dẫn dắt đội tuyển bóng đá quốc gia Ý đã áp dụng thành công sơ đồ chiến thuật bóng đá 3 5 2, đưa đội tuyển Ý chiến thắng được nhiều đối thủ đáng gờm. Seagame 2019, dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Park Hang Seo, đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam đã thi đấu theo sơ đồ chiến thuật bóng đá 3 5 2 rất xuất sắc, kết hợp giữa phòng ngự chắc chắn và tấn công sắc bén, giúp đội tuyển Việt Nam giành lấy chiếc cúp vô địch Seagame 2019.
Đội hình (bóng đá)
Trong bóng đá, sơ đồ chiến thuật, sơ đồ đội hình hay đội hình mô tả vị trí các cầu thủ trong một đội nói chung trên sân. Bóng đá là một trò chơi linh hoạt và di chuyển nhanh, và ngoại trừ thủ môn thì vị trí của một cầu thủ trong đội hình không xác định vai trò của họ một cách cứng nhắc như đối với một cầu thủ bóng bầu dục, cũng như không có tập nào trong đó người chơi phải xếp hàng theo đội hình rõ ràng (như trong bóng đá lưới). Tuy nhiên, vị trí của một cầu thủ trong đội hình thường xác định liệu một cầu thủ có vai trò chủ yếu là phòng thủ hay tấn công và liệu họ có xu hướng chơi nghiêng về một phía sân hay tập trung ở giữa sân. Đội hình thường được mô tả bằng ba hoặc bốn con số, biểu thị số lượng cầu thủ ở mỗi hàng của đội hình từ phòng thủ nhiều nhất đến tiền đạo nhất. Ví dụ, đội hình phổ biến "4–5–1" có bốn hậu vệ, năm tiền vệ và một tiền đạo. Các đội hình khác nhau có thể được sử dụng tùy thuộc vào việc một đội muốn chơi bóng đá tấn công hay phòng thủ hơn, và một đội có thể chuyển đổi đội hình giữa hoặc trong các trận đấu vì lý do chiến thuật.
“Máy tính bỏ túi nào tốt nhất hiện nay?” Đây là câu hỏi mà rất nhiều học sinh cũng như sinh viên và phụ huynh thắc mắc. Hiểu được vấn đề này, hôm nay My Bestsẽ giúp bạn tìm được 1 chiếc máy tính bỏ túi tốt nhất và phù hợp nhất. Bài viết sẽ tổng hợp top 5 máy tính bỏ túi tốt nhất hiện nay để các học sinh và phụ huynh tham khảo. Trong bài viết này, ngoài vấn đề “Máy tính bỏ túi nào tốt nhất hiện nay?” thì chúng tôi còn đưa đến bạn những thông tin bổ ích như Máy tính bỏ túi là gì? Máy tính bỏ túi Vinacal hay Casio tốt hơn? Phân biệt máy tính bỏ túi Casio thật và giả? Kinh nghiệm chọn máy tính bỏ túi tốt nhất? Nên mua máy tính bỏ túi cầm tay hãng nào tốt? Một số lưu ý khi sử dụng máy tính bỏ túi cho học sinh. Về mặt thiết kế, với kiểu dáng và đường nét vuông vắn, dễ sử dụng bề ngoài được sản xuất bằng chất liệu nhựa cao cấp, bền bỉ được in họa tiết 3D dập nổi bật. Giao diện trực quan dễ sử dụng, tất cả các từ ngữ tiếng Anh đều được hiển thị ở dạng đầy đủ chứ thay vì viết tắt như ở những dòng máy khác. Dung lượng bộ nhớ được tăng lên gấp đôi và khả năng xử lý tối đa 160 mục dữ liệu một cách nhanh chóng, đạt hiệu suất cao. Sở hữu màn hình LCD kích thước lớn có độ phân giải cao 192 x 63, trong đó độ sáng được tăng lên 4 lần và số lượng ký tự cũng tăng gấp đôi so với các màn hình ở một số dòng máy ES Plus. Bên cạnh đó, với 521 tính năng, Casio FX-580VN X có thể đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu tính toán cho học sinh một cách nhanh gọn, chính xác nhất. Đặc biệt, Casio FX-580VN X là dòng sản phẩm máy tính bỏ túi có tốc độ xử lý nhanh, được bộ giáo dục cấp phép mang vào phòng thi, giúp hỗ trợ thí sinh hoàn thành chặng đường học vấn của mình một cách tốt nhất. Máy tính Casio FX 570VN Plus – Đây là gợi ý hàng đầu cũng như được đông đảo người tiêu dùng lựa chọn. Với nhiều tiện ích cực kỳ thông minh, Casio FX 570VN Plus chính là người bạn đồng hành hay trợ thủ đắc lực không thể thiếu với các bạn học sinh, sinh viên trong suốt những năm còn ngồi trên ghế nhà trường, giảng đường. Máy tính Casio FX 570VN Plus được cải tiến cả về thiết kế và chức năng so với các dòng Casio FX khác. Phím ON của máy được thiết kế lún sâu hơn vào trong nhằm tiết kiệm pin cũng như giải quyết việc máy dễ bị cấn khi gập lại. Màn hình LCD rộng lớn, độ sáng hiển thị tốt (nhiều mức chỉnh độ sáng) cho phép người dùng dễ dàng quan sát thông số, góp phần thực hiện chính xác các kết quả tính toán. Những bài toán ở dạng nâng cao như ma trận hay xác suất thống kê cũng đem lại kết quả rất chính xác. Một số tính năng khác cũng được đánh giá cao như tính toán tọa độ đỉnh Parabol ngay trên máy tính, tìm mol. Ứng dụng chức năng Ratio để kiểm tra 2 Vector có cùng phương với nhau hay không cũng dễ dàng thực hiện trên máy tính bỏ túi. Về mặt thiết kế, máy được rút gọn nhiều nút thao tác không cần thiết, tăng tốc độ bấm phím với màn hình rộng, hiển thị rõ nét, hiển thị nhiều dữ liệu hơn,… giúp thực hiện nhiều phép tính cho kết quả nhanh. Về mặt công nghệ khoa học, máy được lập trình thêm khả năng tính tọa độ Parapol, tính năng Ratio trên máy, hỗ trợ đắc lực cho học sinh. Bên cạnh đó, với những bài toán ở dạng nâng cao như ma trận hay xác suất thống kê,… máy tính cũng là công cụ mang lại cho người dùng kết quả chính xác. Cũng giống như Casio FX-580VN X, dòng sản phẩm này cũng có giá thành cao khiến nhiều bậc phụ huynh từ chối loại máy tính này. Lưu ý, tùy từng đợt nguồn cung cấp hàng mà loại máy tính bỏ túi này có thể được xuất xứ tại Trung Quốc hoặc Thái Lan. Vinacal 570ES Plus II chắc chắn là mẫu máy tính khoa học chất lượng và được ưa chuộng nhất mà thương hiệu Vinacal đã tung ra thị trường. Tương tự, sản phẩm này cũng đã được thông qua công văn xác nhận của Bộ Giáo dục để cho phép các bạn học sinh mang vào phòng thi. Về mặt thiết kế, dòng sản phẩm được thiết kế sở hữu vẻ ngoài năng động, hiện đại với thiết kế cầm tay dạng nắp trượt rất nhỏ gọn giúp người dùng dễ dàng thao tác và bỏ túi khi cần. Về mặt khoa học công nghệ, máy được nâng cấp lên đến 452 tính năng, đáp ứng nhu cầu tính nhanh chính xác nhiều phép tính phức tạp của toán học, hỗ trợ đắc lực cho các học sinh. Ngoài ra, các tiện ích như nút cuộn, phím lùi, copy, hiển thị lại, số nhớ hay CALC, SOLVE, ANS sẽ hỗ trợ tốt hơn trong quá trình tính toán. Vinacal 570EX plus II cũng thuộc danh sách các loại máy tính bỏ túi tốt nhất nhờ thiết kế hiện đại cùng với những chức năng vượt bậc. Tuy nhiên, Máy tính học sinh Vinacal 570EX Plus II có giá bán cao hơn so với Casio FX-580VNX nên khó lòng cạnh tranh được. Máy sử dụng màn hình LCD có độ phân giải cao 192 x 63 điểm, mang lại khả năng hiển thị tốt và dễ quan sát hơn. Nhờ độ phân giải cao nên một số dạng toán như tính bảng tính, hệ phương trình, bất phương trình hay ma trận sẽ được hiển thị một cách rõ ràng. Giao diện menu hiển thị ngôn ngữ tiếng Anh ở dạng đầy đủ chứ không phải viết tắt rất dễ hiểu. Được trang bị rất nhiều chức năng hữu dụng với số lượng lên đến 525 chức năng tính toán khác nhau. Với một bộ vi xử lý tiên tiến mang đến hiệu suất cao và chuẩn xác, dung lượng bộ nhớ lớn cũng góp phần không nhỏ trong việc thực hiện những phép toán có độ khó cao. Vinacal 570EX Plus II có cơ chế tự động lưu lại toàn bộ các phép toàn vào trong bộ nhớ một cách thông minh cho phép người sử dụng tiết kiệm thời gian, rút ngắn các thao tác đồng thời giúp đẩy nhanh tốc độ học. Máy tính bỏ túi Casio FX-570ES Plus là cái tên thứ 2 được khuyên dùng đối với các bạn. Điểm ấn tượng đầu tiên của sản phẩm này đến từ thiết kế dạng nắp trượt nhanh chóng tiện lợi, màu sắc nhã nhặn nhờ kết hợp giữa 2 gam xám và bạc. Casio FX-570ES Plus được ưa chuộng rộng rãi hơn nhờ nhận được sự chấp thuận đến từ Bộ Giáo dục khi cho phép mang máy vào phòng thi. Những chắc năng cũng như ứng dụng của máy tính bỏ túi này cực kì hiệu quả. Bạn hãy cùng điểm qua một vài ưu điểm của Casio FX-570ES Plus. Về mặt thiết kế, màn hình rộng, hiển thị đầy đủ các nút thông dụng, giúp người dùng dễ dàng quan sát để thực hiện thao tác nhanh hơn. Về mặt công nghệ khoa học, với 417 tính năng vượt trội, máy tính cho phép bạn thực hiện tính toán các phép tính phức tạp: tính tổng dãy số, Logarit, cơ số bất kỳ, tích phân, chỉnh hợp, tổ hợp,… phù hợp với chương trình học Việt nam. Casio FX-570ES PLUS là dòng máy chuyên dụng dành cho học sinh, được bộ giáo dục cấp phép mang vào phòng thi. Tùy theo từng đợt nhập hàng khác nhau của đơn vị phân phối mà sản phẩm có thể sẽ được sản xuất từ Trung Quốc, Thái Lan hoặc Philipines. Máy tính bỏ túi hay còn gọi là máy tính cầm tay là một thiết bị điện tử rất phổ biến được các bạn học sinh, sinh viên hoặc giáo viên dùng với mục đích tính toán các phép toán từ đơn giản như cộng trừ, nhân chia cho đến những phương trình, hệ phương trình, xác suất thống kê cao cấp hơn. Với sự phát triển như hiện nay, máy tính bỏ túi có rất nhiều kiểu dáng khác nhau cũng như thiết kế cầm tay linh động, máy tính được các đối tượng là những bạn học sinh, sinh sinh cũng như dân kế toán ưa chuộng. Nhắc đến máy tính bỏ túi, đa số chúng ta sẽ nghĩ ngay đến 2 thương hiệu đó là Vinacal và Casio. Và có rất nhiều người vẫn đắn đo không biết nên chọn loại máy nào. Máy tính cầm tay Vinacal: Cung cấp nhiều tính năng tính toán phức tạp và đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu. Tốc độ xử lý và cho kết quả nhanh hơn Casio. Dòng máy Vinacal đa dạng về mẫu mã, màu sắc, độ nhạy phím cao, thao tác nhanh. Máy tính bỏ túi Casio: Được thiết kế với tính năng đa dạng hơn Vinacal, phù hợp với chương trình học của Việt Nam. Tốc độ xử lý không được đánh giá cao như Vinacal. Thiết kế đơn giản, không có nhiều sự lựa chọn. Giá thành rẻ hơn Vinacal. –> Tùy vào nhu cầu và mục đích cũng như khả năng mà bạn có thể tìm cho mình 1 dòng sản phẩm thích hợp của 2 thương hiệu này. Đa số đều sẽ có tem chống hàng giả. Tuy nhiên khả năng làm giả tem này cũng khá cao. Vì vậy, bạn cần lưu ý:. Tem thật sẽ có hiệu ứng logo nổi 3D, tương phản về màu sắc chìm, và khi soi đèn laser sẽ hiển thị chứ OK. Tem giả hiệu ứng 3D không nổi bật, mờ nhạt, không hiển thị chữ OK khi chiếu đèn laser. Bạn nên xem bản giới thiệu về máy tính bỏ túi qua website hoặc catalogue của hãng trước khi quyết định mua sản phẩm. Nên nhớ model máy mà bạn cần tránh mau phải hàng nhái. Điển hình như Casio hàng năm đều cập nhật mẫu mới lên website của mình để khách hàng dễ theo dõi. Nếu hàng thật thì không thể quá rẻ so với mặt bằng chung. Vì vậy, so sánh giá là điều vô cùng cần thiết. Nhận định ban đầu để biết được đó là hàng thật hay hàng fake chính là qua việc quan sát kỹ nhãn mác, bao bì bên ngoài. Các thông tin về máy và trên phiếu bảo hành cần phải trùng khớp. Máy tính chính hãng thì mỗi máy sẽ có một mã seri riêng còn máy giá một số seri có thể được sử dụng cho nhiều máy. Máy tính bỏ túi sẽ ưu tiên sự tiện lợi và nhỏ gọn cũng như có kiểu dáng đẹp, màu sắc bắt mắt. Về màu sắc, máy tính bỏ túi có nhiều màu sắc đa dạng. Đối với các bạn nam thì những máy có màu xám hoặc đen đầy nam tính sẽ thích hợp hơn, trong khi những bạn nữ thì yêu thích những máy có màu hồng, trắng hoặc xanh lá vô cùng nữ tính. Về màn hình, Không nên chọn màn hình quá bự hoặc quá nhỏ. LCD là màn hình rất phổ biến và thường được các hãng tin dùng cho sản phẩm của mình. Về giao diện, nên chọn những máy được tích hợp cả 2 ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh. Chất liệu cấu tạo của máy tính bỏ túi thường dùng nhất chính là nhựa PP, ABS cao cấp và an toàn với sức khỏe. Ngoài vỏ máy thì các phím bấm cũng là bộ phận quan trọng không kém, chọn máy có nút bấm mềm mại êm ái và có thể thao tác được bằng cả 2 tay. Các dòng máy về sau với nút On trên bàn phím được thiết kế lún sâu hơn trước nhằm hạn chế tình trạng khi đậy máy lại sẽ bị cấn nút và gây hao tổn dung lượng pin. Máy tính bỏ túi càng nhiều tính năng thì càng tốt vì nó sẽ hỗ trợ chúng ta tính toán hiệu quả hơn. Các dòng máy tính bỏ túi của Casio lẫn Vinacal trên thị trường được trang rất nhiều tính năng, số lượng có thể là 453 hoặc 521 tính năng. Máy tính bỏ túi chạy bằng năng lượng là Pin tiểu AAA 1.5V, một số ít máy sử dụng pin năng lượng mặt trời.Tùy theo nhà sản xuất mà sản phẩm sẽ được trang bị sẵn loại pin tiểu khác nhau. Thông thường Pin sẽ được lắp sẵn bên trong máy, nên khi hết pin bắt buộc bạn phải thay pin mới cho máy. Các dòng máy tính bỏ túi rất đa dạng về giá bán, dao động từ những sản phẩm giá rẻ bình dân chỉ được trang bị những chức năng cơ bản cho đến những dòng sản phẩm cao cấp. Phổ biến nhất chính là các sản phẩm trong tầm giá từ 350K-550K, với ưu điểm là có kiểu dáng đẹp, thiết kế tiện dụng và hầu như cho phép được mang vào phòng thi. Trước khi quyết định mua hàng thì bạn nhất định phải kiểm tra thật kỹ các thông tin ghi máy, xem đã được Bộ Giáo dục cấp phép cho mang vào phòng thi hay chưa nhé. Đa sô những dòng máy cao cấp có tích hợp thẻ nhớ và tính năng soạn thảo văn bản thì sẽ không được đem vào phòng thi nên phụ huynh và các em học sinh cần lưu ý.
Máy tính bỏ túi
Máy tính bỏ túi (đôi khi cũng gọi là Máy tính toán học hay Máy tính) là thiết bị điện tử rẻ tiền, nhỏ, dễ di động dùng để thực hiện những phép tính toán học cơ bản và phức tạp. Bàn tính cơ học chính là tiền thân của máy tính bỏ túi ngày nay. Công cụ tính toán số học đầu tiên được biết đến là chiếc bàn tính (Abacus) được sử dụng bởi những người Sumer và người Ai Cập vào khoảng 2000 năm trước công nguyên. Sau đó, bàn tính được sử dụng rộng rãi ở các nước Châu Á, châu Phi và nhiều vùng lãnh thổ khác chủ yếu bởi các thương nhân. Cho đến ngày nay, vẫn còn khá nhiều người sử dụng loại bàn tính cơ học của người Trung Quốc, với các hạt được xâu thành chuỗi theo chiều dọc trong một khung gỗ chữ nhật. Đến năm 1964, Công ty Nhật Bản Sharp đã chế tạo được chiếc máy tính đầu tiên có thể tự thực hiện các phép tính toán, mặc dù chiếc máy tính có kích thước gần bằng một chiếc xe ô tô. Năm 1967, Texas Instruments giới thiệu dự án công nghệ "Cal Tech" với chiếc máy tính bỏ túi đầu tiên có kích thước nhỏ gọn, có khả năng thực hiện các phép tính đơn giản như cộng trừ, nhân chia.
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong tiếng Anh là Provincial Competitiveness Index, viết tắt là PCI. PCI là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh. Chỉ số PCI gồm 10 chỉ số thành phần. Một địa phương được coi là có chất lượng điều hành tốt khi có:. (iii) Gán trọng số và tính điểm số PCI tổng hợp gồm điểm trung bình có trọng số của 10 chỉ số thành phần trên thang điểm tối đa 100. - Chỉ số PCI không nhằm mục đích nghiên cứu khoa học đơn thuần hoặc để biểu dương hay phê phán những tỉnh có điểm số PCI cao hay thấp. - Thay vào đó, chỉ số PCI tìm hiểu và lí giải vì sao một số tỉnh, thành vượt lên các tỉnh, thành khác về phát triển kinh tế tư nhân, tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế, từ đó cung cấp thông tin hữu ích cho lãnh đạo các tỉnh, thành phố để xác định những lĩnh vực và cách thức để thực hiện những cải cách điều hành kinh tế một cách hiệu quả nhất.
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hay PCI (viết tắt của Provincial Competitiveness Index) là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh. Đây là dự án hợp tác nghiên cứu giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Chỉ số này được công bố thí điểm lần đầu tiên vào năm 2005 cho 42 tỉnh, thành. Từ lần thứ hai, năm 2006 trở đi đến nay, tất cả các tỉnh thành Việt Nam đều được đưa vào xếp hạng, đồng thời các chỉ số thành phần cũng được tăng cường thêm.
Nếu bạn là người yêu thích tín ngưỡng chắc chắn đã từng nghe nói đến Đạo Cao Đài hay còn gọi là Đạo Trời. Theo nghĩa đen tên gọi Cao Đài tức là chỉ “một nơi cao”. Còn nếu hiểu theo nghĩa bóng là nơi cao nhất có Thượng đế đang ngự trị. Để hiểu rõ hơn về Đạo Cao Đài là gì, đạo cao đài thờ ai mời bạn theo dõi bài viết dưới đây. Đạo Cao Đài được biết đến là một tôn giáo độc thần. Nói về nguồn gốc Đạo Cao Đài thì vào thế kỷ thứ XX đạo này được thành lập tại Miền Nam nước ta. Tên gọi đầy đủ là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tá. Đạo Cao Đài thờ ai là một trong những thắc mắc của nhiều người. Những tín đồ, chức sắc Đạo Cao Đài lập ra để thờ tượng Thượng Đế. Bởi họ tin rằng người đã sáng lập ra các tôn giáo và tất cả mọi thứ ở vũ trụ này. Mọi hoạt động từ giáo lý, biểu tượng và những tổ chức đều được Đức Cao Đài chỉ định. Cao Đài được cho là một tôn giáo mới, nó tập hợp nhiều yếu tố đến từ tất cả các tôn giáo lớn ở Việt Nam, bao gồm cả Phật Giáo. Thậm Chí Đạo này còn thờ phụng những nhà chính trị gia tài ba cùng nhiều thành phần khác. Vì vậy khi có người hỏi Đạo Cao Đài thờ những vị nào thì được hiểu đầu tiên là Thượng Đế, sau đó mới tới các thành phần khác nói chung những người góp công lớn trong cuộc sống xã hội. Các tín đồ trong đạo thực hiện những điều lệ cơ bản trong đạo như sống lương thiện, không sát sinh, cầu nguyện, thờ cúng tổ tiên, ông bà. Điều đó được thể hiện thông qua việc ăn chay, niệm phật mỗi ngày. Tất cả đều mong muốn đem lại sự ấm no, hạnh phúc cho muôn loài. Mục tiêu cuối cùng là đưa vạn vật thoát khỏi vòng luân hồi về nơi thiên giới. Đạo Cao Đài thờ nhiều thành phần bao gồm cả các vị Phật Tổ như Phật Thích Ca. Quý vị có nhu cầu tìm hiểu về Phật Thích Ca Mâu Ni ấn vào đây để tham khảo ngay!. Qua những thông tin trên, chắc hẳn bạn đã biết về Đạo Cao Đài thờ những vị nào rồi phải không. Các tín đồ của đạo này tin rằng Thượng Đế là đấng tối cao, sáng lập ra vũ trụ. Theo thời gian, tùy theo địa phương cụ thể, Ngài sẽ hình thành các tôn giáo khác nhau để phù hợp với thời gian và địa điểm. Theo đó, Đạo Cao Đài được phân thành 3 kỳ phổ độ bao gồm 3 nhánh khác nhau. Nhất kỳ Phổ độ: Đây là thời kỳ đầu tiên hình thành nên các tôn giáo lớn là Phật Giáo, Nho Giáo, Kỳ Na giáo, Lão Giáo. Thượng Đế đã phó thác cho những đệ tử đầu tiên của mình truyền đạo cho dân chúng. Nhị kỳ Phổ độ: Đây là thời kỳ để chấn hưng tất cả các nền tôn giáo có mặt trên thế giới. Sau một thời gian phổ độ, các giáo lý đã không truyền dạy đúng những nguyên lý mà Thượng Đế mong muốn. Do đó, Một lần nữa Thượng Đế lại truyền dạy cho các đệ tử của mình ở khắp nơi trên thế giới. Và hình thành nên Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Tiểu thừa….Nhờ thế mà các tôn giáo trong thời kỳ này được chấn hưng và phát triển rất mạnh mẽ. Nó vượt qua những rào cản của vùng miền, quốc gia. Tam kỳ Phổ độ: Ở thời kỳ này, mọi tôn giáo có mặt trên thế giới đều được Thượng Đế hợp thành một giáo duy nhất. Và người sẽ trực tiếp điều hành và cai quản. Đây cũng chính là lý do mà nhiều tín đồ trong tôn giáo gọi là “Đạo Thầy”. Ý muốn ám chỉ rằng họ là những người được học đạo trực tiếp từ Thượng Đế. Thờ cúng Đạo Cao Đài tập trung nhỏ lẻ ở một số khu vực nhất định. Nếu quý vị muốn thờ cúng các vị thần linh tại nhà cần phải biết thêm về văn khấn thần linh. Ấn vào đây tham khảo ngay!. Sau khi tìm hiểu về lịch sử Đạo Cao Đài. Nếu muốn nhập môn, các tín đồ phải lập bàn thờ để thờ tự Đức Cao Đài. Bàn Thờ Đạo Cao Đài được gọi với cái tên là Thiên Bàn. Vị trí đặt Thiên Bàn có thể là cùng với bàn thờ gia tiên của tín đồ. Hoặc có thể đặt ở một nơi riêng rẽ, trang nghiêm trong từng gia đình. Bàn Thờ Đạo Cao Đài người ta thường lập bằng gỗ và đóng thành hai tầng. Trên bàn phải bày biện đầy đủ 9 món và được xếp thành 3 hàng ngang. Cụ thể như sau:. Biểu tượng của Đạo Cao Đài chính là con mắt trái hay còn gọi là Thiên Nhãn. Tại khu chính điện tòa thánh Tây Ninh, thờ Thiên Nhãn nằm trên quả càn khôn có 3.027 ngôi sao, tượng trưng cho 3.072 quả địa cầu. Cửa hàng Khonoithatdep không bán bàn thờ Đạo Cao Đài mà có bán bàn thờ Phật. Quý vị có thể ấn vào đây để chọn mua sản phẩm phù hợp tâm linh và không gian nhà mình.
Cao Đài
Cao Đài là một tôn hiệu trong tôn giáo Cao Đài dùng để chỉ ngôi vị tối cao, tức Thượng đế. Vì vậy, tôn giáo tôn thờ Cao Đài thường được gọi là đạo Cao Đài dù danh xưng chính thức của tôn giáo này được các tín đồ gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có nghĩa là Một tôn giáo lớn mở ra lần chót để độ rỗi chúng sanh. Tên gọi Cao Đài theo nghĩa đen chỉ "một nơi cao", nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thượng đế ngự trị; cũng là danh xưng rút gọn của Thượng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ là "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát". Tín đồ Cao Đài tin rằng Thượng đế là Đấng sáng lập ra các tôn giáo và cả vũ trụ này. Họ tin rằng tất cả giáo lý, hệ thống biểu tượng và tổ chức đều được "Đức Cao Đài" trực tiếp chỉ định. Và đạo Cao Đài chính là được Thượng đế trực tiếp Khai sáng thông qua Cơ bút cho các tín đồ với nhiệm vụ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có nghĩa là "Con đường lớn mở ra lần thứ Ba để phổ độ chúng sanh".
Trúc quân tử là cây gì – Nên trồng ở đâu trong nhà Trúc quân tử được nhiều người trong giới cây cảnh trầm trồ và hứng thú. Bởi loài cây này mang đến giá . Ý nghĩa và công dụng loài cỏ lan chi Cỏ lan chi là cỏ gì ? Bạn có thể bắt gặp hình ảnh cỏ lan chi ở những bàn lễ tân công ty, khách sạn,… . Tìm hiểu chi tiết về cây kèn hồng – Công dụng cây kèn hồng Cây kèn hồng được trồng và làm bóng mát ở những khu đô thị sầm uất, đặc biệt là tại thành . Cây lưỡi hổ có tác dụng gì ? Cây lưỡi hổ giá bao nhiêu ? Có thế nói đây là thắc mắc của không ít bạn đọc giả khi liên hệ . Cây không khí là gì – Có thể nói sức khỏe luôn là một trong những vấn đề được nhiều bạn đọc quan tâm. Đặc biệt trong các loại cây cảnh, nên chọn và trồng . Cây cau là cây gì – Cây cau gồm bao nhiêu loại Từ xưa, cây cau là một trong những loại cây quá quen thuộc với mọi người, từ trẻ con đến người già. Cây thủy sinh là một trong các loại cây được nhiều người yêu thích nhất hiện nay. Tại Việt Nam, cây thủy sinh được nhiều người lựa chọn để làm cây cảnh để bàn. Nếu bạn là một người đam mê cây cảnh, thích được trồng và trang trí trong nhà, văn phòng làm việc. của mình những chậu cây nhỏ nhỏ xinh xinh. Cũng như quan tâm đến . Thông tin về cây Hương Thảo Hương thảo được biết đến rộng rãi với rất nhiều công dụng trong đời sống. Trong ẩm thực, hương thảo được xem như một loại gia vị. Những điều bạn có thể chưa biết về loại cây linh thiên này Ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, mỗi một cành cây ngọn cỏ. Đều có một câu . Cây xương rồng có tác dụng gì – Cách chăm sóc cây xương rồng ra sao Cây xương rồng loài cây khi nhắc đến tên gọi người ta liền nghĩ ngay đến sức sống mãnh . Cây vạn niên thanh – Loại cây vừa độc lại vừa tốt Nhắc đến cái tên “Vạn niên thanh” chắc hẳn các bạn có thể nghĩ ngay nó là một loài cây kiểng, cây cảnh… . Cây vạn lộc – Ý nghĩa phong thủy hợp với mệnh gì, tuổi gì Cây vạn lộc hay còn gọi là cây Thiên Phú là một trong những cây cảnh đang được ưa chuộng nhất . Cây phượng vĩ – Cây phượng gắn liền với tuổi học trò Cây phượng vĩ – Khi nhắc đến hoa phượng, chắc hẳn ai cũng nghĩ đến tuổi học trò. Hoa phượng gắn liền với . Cây hoa hồng và Những tác dụng của cây hoa hồng mà bạn không ngờ đến Hoa hồng không chỉ được biết đến là một biểu tượng của cái đẹp, sự tượng trưng cho tình . Tìm hiểu chi tiết cây ngũ gia bì và công dụng của nó đối với sức khỏe phong thủy Cây Ngũ gia bì, một cái tên khá lạ lẫm đối với những người không chơi . Cây Kim Tiền Có mấy loại,Giá bao nhiêu 1 cây, Cách trồng và chăm sóc cây kim tiền Kim tiền là một trong những loại cây cảnh được ưa chuộng nhất hiện nay. Cây tùng là cây gì có ý nghĩa gì – Cây tùng có bao nhiêu loại Cây Tùng – Đối với những người có đam mê, yêu thích cây cảnh, thì chắc hẳn cây tùng . Cây phát tài ra hoa báo điềm gì – Cây phát tài có ý nghĩa gì trong phong thủy Ngày nay, nhiều người thường chú trọng đến không gian văn phòng, đặc biệt là những . Đặc điểm, Cách trồng và chăm sóc cây cọ Hiện nay, cây cọ là một trong những loại cây, đang được những người yêu thích cây cảnh ưa chuộng nhất. Bởi vì, ngoài việc tạo . Ý nghĩa của Cây dương xỉ trong việc chữa bệnh làm cảnh và phong thủy Trong các loại cây cảnh, đặc biệt là cây dương xỉ không chỉ đơn thuần làm vật trang trí. Cây ngô đồng là cây gì – Có ý nghĩa phong thủy và công dụng ra sao Cây ngô đồng – “Trồng cây ngô đồng, dẫn phượng hoàng tới”, đây chính là câu nói từ . Tìm hiểu ý nghĩa cây thường xuân và cách trồng như thế nào Cây Thường Xuân – Bài viết này WikiHow Việt Nam sẽ cùng bạn tìm hiểu về giống cây thường xuân. Cây sống đời là cây gì – Tác dụng của cây sống đời đối với con người Cây sống đời là loại cây được nhiều người nghĩ rằng, đây là biểu tượng cho hạnh phúc, .
Cây cảnh
Cây cảnh (hoặc cây kiểng) là một số loại thực vật được chăm sóc, gieo trồng và tạo dáng công phu, thường dùng làm vật trang trí hay một chi tiết trong thuật phong thủy. Cây cảnh được bài trí có khi nhằm thể hiện một ý tưởng của người trồng qua cách xếp đặt mà vẫn giữ được vẻ tự nhiên của lá. Thân cây được uốn theo một hình dáng nào đó, còn gọi là thế, kết hợp với chậu, đất hay nước là môi trường dinh dưỡng cho thực vật ấy. Bên cạnh mục tiêu làm cảnh (vì lẽ này cây cảnh đã được tuyên lên thành nghệ thuật như ở Nhật Bản có bon-sai) cây cảnh còn là một loại hàng hóa được kinh doanh không theo một khung giá cố định nào mà phần nhiều tùy hứng của người bán và người mua hoặc tùy tâm của người bán. Cây cảnh bonsai phát sinh ở phương Đông, có thể khẳng định là ở Trung Quốc, và nay đã đi vào cuộc sống như một mỹ tục, một thú chơi thể hiện một phần tâm hồn của người dân mọi vùng miền trong đó có Việt Nam.
Nhiều khách hàng thắc mắc rằng: Gạch bán sứ là gì, gạch xương bán sứ là gì thì chúng tôi khẳng định rằng đây là 1 loại gạch chỉ khác nhau ở tên gọi. Cụ thể: Gạch bán sứ hay còn gọi là gạch xương bán sứ, có độ bền, độ cứng, độ sáng và có tính thẩm mỹ hơn so với các loại đá thông thường khác. Gạch bán sứ có tên khoa học là gạch Porcelain. Gạch được cấu tạo từ thành phần cốt liệu chính là bột đá và đất sét, phía trên có phủ một lớp men. Gạch bán sứ được nung ở nhiệt độ trên 100oC, có cấu tạo bền chặt và kiên cố, có khả năng chịu lực tốt bởi thế đây là loại gạch được ưa chuộng khi xây dựng những loại công trình lớn. Gạch xương bán sứ là loại gạch được cấu thành từ 2 chất liệu chính giống với gạch ceramic và gạch granite. Bởi thế nó mang những ưu điểm nổi trội mà cả 2 loại gạch này có được. – Gạch bán sứ có độ cứng và độ bền tốt. Có độ giãn nở linh hoạt và có khả năng chống chọi với điều kiện khí hậu xấu. Gạch có tính năng chịu lực và chịu trọng tải cao. Đồng thời có tỷ lệ chống thấm tốt. Trong xây dựng, độ sai lệch kích thước, độ cong vênh của gạch tỉ lệ rất thấp. Bởi vậy, đây là loại gạch đáp ứng được đại đa số tiêu chí của người dùng và công trình xây dựng. – Gạch xương bán sứ được tráng một lớn men trên cùng bởi thế có sự đa dạng về họa tiết và màu sắc và giúp bền màu so với thời gian. Gạch có nhiều mẫu mã đa dạng nên khách hàng dễ dàng lựa chọn phù hợp với màu sắc, nội thất của công trình, tòa nhà. Ngoài việc thẩm mỹ lớp men bảo vệ bề mặt gạch còn giúp giảm mài mòn và giữ trọn màu sắc sau thời gian dài sử dụng. – Giá cả của dòng gạch bán sứ này rất phải chăng và phù hợp với xu hướng thị trường hiện nay. Nếu nói gạch bán sứ không có nhược điểm thì cũng không đúng. Tuy nhiên, theo khách hàng và những cá nhân đánh giá thì khó để tìm ra nhược điểm loại gạch này. Và nhược điểm được coi là lớn nhất chắc là giá thành cao hơn so với gạch ceramic. Tuy nhiên, so với các dòng gạch khác gạch bán sứ Porcelain vẫn dùng cho phân khúc trung bình nhưng mang trong mình chất lượng đủ để đáp ứng các yêu cầu của thị trường. Với những nhược điểm và ưu điểm đã nêu, bạn đã có cho mình câu trả lời cho câu hỏi Có nên dùng gạch xương bán sứ chưa?. Có lẽ câu trả lời sẽ là có, bởi những lợi ích mà loại gạch này mang lại rất tốt. – Gạch Porcelain một da: Đây là loại gạch có một lớp bề mặt, giá thành khá rẻ, thường được dùng trong những ngôi nhà bình thường. Được đông đảo khách hàng tầm trung sử dụng. – Gạch Porcelain toàn phần: Đây là dòng sản phẩm cao cấp, được sử dụng công nghệ in 3D Inkjet của Ý. Loại gạch này có vân đồng bộ từ bề mặt đến thân gạch. Và là loại có giá thành cao nhất trong các loại gạch bán sứ. Căn cứ theo tầm tài chính kinh tế: Theo như ở trên, loại gạch này có giá thành khá phù hợp và tùy vào nhu cầu sẽ có những loại giá khác nhau. Bởi thế tùy thuộc vào tầm tài chính của bạn để lựa chọn 1 loại gạch phù hợp. Nhưng dù điều kiện ở mức nào, bạn cũng nên cố gắng đầu tư vào phần gạch bởi nó như “trái tim” của căn nhà mang đến sự đẳng cấp và sang trọng cho ngôi nhà của bạn. Căn cứ theo đặc điểm không gian: Tùy vào mức độ sang trọng của không gian mà bạn cần để lựa chọn ra loại gạch lát phù hợp. Đối với những không gian như hầm chứa, khó, . thì không quá cầu kỳ tuy nhiên, với những không gian sang trọng, đẳng cấp bạn nên cân nhắc lựa chọn loại đá phù hợp. Có thể sử dụng loại gạch 3D Inkjet để tăng độ đẳng cấp cho công trình.
Gạch sứ
Gạch sứ hay gạch gốm là gạch làm bằng sứ (porcelain) hoặc gốm (ceramic) thường được dùng để phủ sàn và tường, với tỷ lệ hấp thụ nước ít hơn 0,5 phần trăm. Đất sét được sử dụng để xây dựng gạch sứ nói chung là dày đặc hơn. Nó có thể được tráng men gốm (graze), nên được gọi là gạch men, hoặc không tráng men. Gạch sứ là một loại gạch thủy tinh hóa, và đôi khi được gọi là gạch thủy tinh sứ. Trong lịch sử, sứ không phải là vật liệu thông thường làm gạch, mà nó thường được làm bằng đất nung (đất nung) hoặc đồ gốm sa thạch (stoneware). Những viên gạch sứ đầu tiên được sản xuất tại Trung Quốc, ví dụ như trong Tháp sứ của Nam Kinh thế kỷ 15 (hiện đã bị phá hủy phần lớn). Ở đây, gạch đã được sử dụng cho các bức tường, mà từ lâu vẫn là điển hình. Ở châu Âu, một vài phòng được làm trong các cung điện bằng sứ, thường có hình dạng phù điêu cao. Chúng được làm bằng sứ Capodimonte và Real Fábrica del Buen Retiro trong số những loại sứ khác.
Người ta thường dùng các chữ cái a, b, c,. để kí hiệu cho các mệnh đề. Nếu mệnh đề a có giá trị chân lí là 1 thì ta kí hiệu G(a) = 1; nếu mệnh đề a có giá trị chân lí là 0 thì ta kí hiệu là G(a) = 0. Luật bài trùng: Mỗi mệnh đề phải hoặc đúng, hoặc sai; không có mệnh đề nào không đúng cũng không sai. "ABC là tam giác vuông cân" là hội của của hai mệnh đề a = "ABC là tam giác vuông" và b = "ABC là tam giác cân". "Số lẻ và số chẵn là hai tập con rời nhau của tập số tự nhiên". Phép tuyển "hoặc a hoặc b" là phép tuyển loại trừ để chỉ a hoặc b nhưng không thể cả a lẫn b. Phép tuyển "a hoặc b" là phép tuyển không loại trừ để chỉ a hoặc b và có thể cả a lẫn b. "Hôm nay là ngày Chủ nhật hoặc ngày lễ" ← là phép tuyển không loại trừ. "Nếu dây tóc bóng đèn có dòng điện chạy qua thì bóng đèn sáng" ← mệnh đề đúng. "Nếu mặt trời quay quanh Trái Đất thì Việt Nam nằm ở châu Âu" ← mệnh đề đúng. Vì ở đây hai mệnh đề a = "mặt trời quay quanh Trái Đất" và b = "Việt Nam nằm ở châu Âu" đều sai. "Tháng 12 có 31 ngày khi và chỉ khi Trái Đất quay quanh mặt trời" là mệnh đề đúng. "12 giờ trưa hôm nay Tuấn có mặt ở Hà Nội nếu và chỉ nếu vào giờ đó anh đang ở thành phố Hồ Chí Minh" là mệnh đề sai. "Hình vuông có một góc tù khi và chỉ khi 100 là số nguyên tố" là mệnh đề đúng. Hàm mệnh đề T(n): "Số tự nhiên n chia hết cho 5" có miền xác định là tập các số tự nhiên N. Tập các số tự nhiên có tận cùng bằng 0 hoặc 5 là miền đúng của T(n). Hàm mệnh đề F(x) = "x + 3 > 7" có miền xác định là các số thực. Tập các số thực lớn hơn 4 ta gọi là miền đúng của hàm mệnh đề F(x). "Tồn tại số tự nhiên n sao cho n chia hết cho 5" là mệnh đề đúng. Diễn đạt các điều kiện (đã cho và phải tìm) trong bài toán bằng ngôn ngữ của lôgic mệnh đề. Suy ra G(t2) = 1. Điều này vô lí vì cả hai đội Singapore và Indonesia đều đạt giải nhì. Trạng thái 1 và 5 không đảm bảo an toàn, vì khi dây may so đã nóng tới nhiệt độ quy định cho phép mà rơle vẫn đóng mạch thì dẫn đến hỏng Bàn là hoặc đồ là. Trạng thái 4 và 8 không đảm bảo an toàn vì dây may so chưa nóng tới nhiệt độ quy định cho phép mà rơle đã ngắt mạch thì Bàn là không sử dụng được.
Mệnh đề toán học
Trong logic toán, một phân ngành logic, cơ sở của mọi ngành toán học, mệnh đề, hay gọi đầy đủ là mệnh đề logic là một khái niệm nguyên thủy, không định nghĩa. Mỗi mệnh đề có đúng một trong hai giá trị chân lý 0 hoặc 1. Mệnh đề có giá trị chân lý 1 là mệnh đề đúng, mệnh đề có giá trị chân lý 0 là mệnh đề sai. Người ta thường dùng các chữ cái a, b, c,. để ký hiệu cho các mệnh đề. Nếu mệnh đề a có giá trị chân lý là 1 thì ta ký hiệu G(a) = 1; nếu mệnh đề a có giá trị chân lý là 0 thì ta ký hiệu là G(a) = 0. a: "Paris là thủ đô của nước Pháp".Ở đây, a là mệnh đề đúng nên G(a) = 1. Trong thực tế có những mệnh đề mà tính đúng sai của nó luôn gắn với một thời gian và địa điểm cụ thể: đúng ở thời gian hoặc địa điểm này nhưng sai ở thời gian hoặc địa điểm khác. Nhưng ở bất kì thời điểm nào, địa điểm nào cũng luôn có giá trị chân lý đúng hoặc sai.
Khám phá những bí mật chưa từng bật mí về hoa Dã Quỳ Đà Lạt 2020. “Đường hầm đất sét” Đà Lạt 2019 còn gọi là “đường hầm điêu khắc” có gì hấp dẫn, thú vị mà nhiều du khách đến nhiều đến thế. Khám phá những bí mật chưa từng bật mí về hoa Dã Quỳ Đà Lạt 2020. “Đường hầm đất sét” Đà Lạt 2019 còn gọi là “đường hầm điêu khắc” có gì hấp dẫn, thú vị mà nhiều du khách đến nhiều đến thế. Khám phá những bí mật chưa từng bật mí về hoa Dã Quỳ Đà Lạt 2020. “Đường hầm đất sét” Đà Lạt 2019 còn gọi là “đường hầm điêu khắc” có gì hấp dẫn, thú vị mà nhiều du khách đến nhiều đến thế. Trường cao đẳng sư phạm Đà Lạt Là một trong những ngôi trường được đánh giá có công trình cổ nhất và độc lạ nhất ở Đà Lạt. Ngôi trường này không chỉ là để đào tạo các giáo viên. Mà củng là một địa điểm tham quan du lịch nổi tiếng mà du khách không thể bỏ qua. Hôm nay, dalat24htravel.com sẽ review cho du khách ngôi trường này có những gì đẹp nhé. 3 Thông tin về trường cao đẳng sư phạm Đà Lạt3.1 Địa chỉ 3.2 Số điện thoại trường CĐSP Đà Lạt3.3 Giờ mở cửa:. 10 Hướng dẫn tham quan Trường CĐSP Đà Lạt 10.1 Khu chính là giảng đường chính hình vòng cung 10.2 Tháp chuông 10.3 Các dãy nhà khác10.4 Khoảng sân rộng giữa trường. Du khách nào muốn đến đây phải lưu ý thông tin này nhé. Trước đây, trường ngày nào cũng mở của để du khách vào tham quan. Vào tháng 4 năm 2019 trường cao đẳng sư phạm Đà Lạt. Đã ngưng hoạt động khi du khách vào tham quan và quy định giờ giấc. Bởi lượng du khách tham quan du lịch quá đông nên nhà trường phải quy định giờ giấc tham quan cụ thể. Nên du khách phải lưu ý vấn đề giờ giấc này nhé. Trường được đánh giá là công trình kến trúc độc đáo và nổi tiếng nhất tại phố núi này. Khi du khách đến Đà Lạt thì không thể bỏ qua một ngôi trường nổi tiếng như thế này. Có nhiều thế hệ sinh viện đã được học dưới một mái trường có kiến trúc độc đáo như thế này là nệm tự hào rất lớn. Trường từng được đánh giá là một trong những công trình xây dựng có kiến trúc độc đáo của thề kỉ XX. Trong lòng yêu mến của du khách có một không gian yên tỉnh riêng. Trường còn đóng góp rất nhiều cho nét đẹp riêng về hạ tầng của thành phố núi này. Chỉ cách trung tâm Đà Lạt 2,5 km nên rấu gần và thuận tiện ,dễ dàng cho du khách đến trường tham quan và nghĩ dưỡng. Trước đây, Trường cao đẳng su phạm Đà Lạt mở của tất cả ngày trong tuần. Nhưng hiện nay lượng du khách rất đông nên có quy định lại giờ giấc. Nên trường không mở cửa tham quan tất cả trong ngày. Nếu du khách muốn vào tham quan hay có hoạt động gì thì phải liên hệ trước nhé. Trường được thành lập vào năm 1927 do người pháp làm. Là một kiến trúc do ông Monket thiết kế và đưa ra chỉ đạo xây dựng. Đến năm 1941 một ngôi trường đầy độc đáo đã hoàn thành. Năm 1932 trường được đổi tên thành Grand Lycée de Dalat và đến năm 1935 trường có tên là Lycée Yersin để tưởng nhớ tới bác sĩ Alexandre Yersin, một bác sĩ người Pháp gốc Thụy Sĩ có công khai sinh ra thành phố Đà Lạt. Về sau, trường đổi tên thành Trung tâm Giáo dục Hùng Vương, hiện nay là Trường Cao Đẳng Sư Phạm Đà Lạt. Những nguyên liêu xay dựng của trường hầu hết chuyển từ cắc nước châu Âu quan, đặc biệt là nước Pháp. Như gạch ép tường và ngói ardoise (thạch bản) màu xanh đen dùng để lợp mái. Với thết kế và vận dụng táo bạo về mặt kích thước của kết cấu. Theo sự tàn phá của thời gian và thiên nhiên các hàng ngói ngày xưa đã bị mục nát hoàn toàn và được thay mới bằng loại ngói mới. Mãi từ năm 1948 đến nay trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt không thay đổi nhiều là mấy. Trường là một trong những công trình có kiến trúc độc đáo mang đấu ấn của châu âu. Đồng thời trường còn kết hợp nhiều chi tiết kiến trúc của bản địa nơi đây. Để tạo thành một công trình kiến trúc độc đáo kết hợp hài hòa giữa phương Đông và phương Tây. Đây quả thật là một công trình thảnh công của thiết kế. Xứng đáng khen ngợi công trình này. Các kiến trúc sư và các nhà nghiên cứu kiến trúc nổi tiếng trên thế giới. Là một trong số 1.000 công trình kiến trúc tiêu biểu của thế giới trong thế kỷ XX. Ngày 28 – 12 – 2001 Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt. Được công nhận là một di tích Kiến trúc độc đáo Quốc gia. Đặt biệt khác về kến trúc độc đáo khách của ngôi trường. Dãy lớp hoc được thiết kế và xây dựng theo hình vòng cung. trong thật nghệ thuật giữa không gian thoáng mát bao quanh cả sân trường. Chiều dài dãy trường khoảng 100m làm thành 3 tầng lầu và cha làm 24 phòng học ở mỗ tầng. Trường cao đẳng su phạm Đà Lạt có vẻ bề ngoài giống phương Tây. Những bức tường được xây dựng bằng những tấm gạch đỏ. Tạo vẻ ấm ấp giữa phố núi đầy sương mù. Tạo ra một không gian bình yên và lãng mạng. Điểm nhấn của dãy nhà hình vòng cung là tháp chuông cao mái xám tựa như một cay bút chì được gọt tuyệt đẹp. Phía bên ngoài tháp chuông trước đây có 1 đồng hồ nhưng có lẽ đã bị tháo dỡ, du khách chỉ có thể thấy vết tích của chiếc đồng hồ lớn còn in lại trên nền gạch. Về thăm Đà Lạt, dường như bất kỳ một không gian nào. Cũng có thể là một điểm nhấn trong hành trình du lịch. Của du khách bằng cách này hay cách khác. Trường Cao Đẳng Sư Phạm Đà Lạt cũng vậy. Bên trong là một mô hình giáo dục đào tạo khuôn khổ. Nhưng bên ngoài được bao bọc bằng nét duyên dáng của kiến trúc đặc sắc. Vừa nhẹ nhàng và cũng thật cá tính. Những đặc điểm rất riêng của nó như một phần không thể thiếu. Trong bức tranh tổng thể của Đà Lạt cứ đẹp nhu mì trầm lắng qua thời gian. Từ vòng xoay nước đi theo hướng đến quảng trường Lâm Viên khoảng tầm 1,4km sẽ gặp một ngã 3 -> từ ngã 3 rẽ phải vào đường yersin đi khoảng 400m thấy một ngã 3 hơi dốc phía tay trái => rẻ trái vào đường yersin tiếp tục đi thẳng khoảng tầm 800m sẽ thấy trường cao đẳng sư phạm Đà Lạt. Trường là một công trình kiến trúc độc đáo nằm trong thành phố Đà Lạt. Cũng là thiên đường sống ảo từng gang tất cho du khách. Trường chia làm nhiều khu vực tham quan khách nhau. Sách là biểu tượng của tri thức, là con đường khát vọng. Khu chính giống như một cuốn sách đang mở ra biểu tượng sự rộng rãi của tri thức. Với chiều dài phía trước khoảng 77m phía sau gần 90m. Nếu là hồi xưa thì đây có một cái đồng hồ. Các bạn chỉ cần ngước lên là có thể thấy. Nhưng bây giờ chiếc đồng hồ này đã bị tháo gỡ. Và chúng ta chỉ thấy được vết tích của nó để lại. Cho đến bây giờ mặc dù nói là tháp chuông nhưng đã không còn chuông. Nó chỉ biểu thị một công trình văn hóa mà thôi. Ở đây nổi bật nhất là hàng cây Tùng không khác gì châu Âu thu nhỏ cả. Nơi đây chính là nơi các bạn có thể tập luyện các môn thể thao. Sân chơi cảu các bạn sinh viên. Nếu bạn nhìn từ trên cao thì ngôi trường này. Không khác gì so với các ngôi trường ở nước ngoài. Với lối kiến trúc độc đáo và mang đậm dấu ấn nước ngoài. Nằm trên đất trời Đà Lạt quả là không khác với trường nước ngoài. Ngày nay ngoài là một địa điểm du lịch Đà Lạt hút khách. Trường còn là nơi đào tạo các ngành như: Sư phạm toán, lịch sử, ngữ văn, anh văn…. Cho rất đông sinh viên tới học. Ngày 28/12/2001 trường đã vinh dự được Bộ Văn Hoá Thông Tin công nhận. Là di tích kiến trúc quốc gia. Ngoài ra ngôi trường này cũng là địa điểm duy nhất của Việt Nam. Được công nhận là 1 trong 1000 công trình ấn tượng nhất thế kỷ 20. Cảm ơn du khách đã tham quan và quan tâm đến bài viết Review Trường cao đẳng sư phạm Đà Lạt của chúng tôi. Nếu du khách muốn đi tour hay đặt phòng thì hệ với công ty Hoa Dalat Travel qua số điện thoại 036 540 5878. Chúc du khách có một chuyến đi tham quan du lịch Đà Lạt vui vẻ và nhiều hấp dẫn. Top quán cà phê hấp dẫn nhất Đà Lạt. Dành cho các bạn trẻ thích chụp hình
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt là một trường cao đẳng được thành lập ngày 3 tháng 9 năm 1976 theo quyết định số 1784/QĐ của Bộ Giáo dục, trụ sở đặt tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Trường có nhiệm vụ đào tạo giáo viên cấp 2 cho tỉnh Lâm Đồng và cho cả một số tỉnh bạn như Đồng Tháp, Sông Bé. Từ năm 1993, Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt còn được UBND tỉnh giao thêm chức năng bồi dưỡng cán bộ quản lý cho các trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt (trước kia là trường Grand Lycée Yersin) là kiến trúc được Hội Kiến trúc sư thế giới (UIA) công nhận là một trong số 1.000 công trình xây dựng độc đáo của thế giới trong thế kỷ 20. Trường được người Pháp thành lập năm 1927, do kiến trúc sư Moncet thiết kế và chỉ đạo xây dựng, dành cho con em người Pháp và một số gia đình người Việt giàu có. Năm 1932 trường Petit Lycée Dalat được đổi tên thành Grand Lycée de DalatLycée Yersin để tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin.
Túp lều bác Tom được xuất bản năm vào 1852, đây là tiểu thuyết do nữ nhà văn người Mỹ Hardware Beecher Stowe chắp bút. Tác phẩm đã tái hiện cuộc đời thống khổ của những nô lệ da đen trong nạn phân biệt chủng tộc đầy khốc liệt ở miền Nam nước Mỹ lúc bấy giờ. Cuốn sách không chỉ ca ngợi tấm lòng nhân hậu và phẩm giá của những số phận da màu mà còn lên án pháp luật ở xã hội nước Mỹ với nhiều chế độ vô nhân đạo. Để rồi, tác giả đã khích lệ, kêu gọi những con người bị đối xử bất công đứng lên đòi lại tự do, lẽ phải. Hardware Beecher Stowe có tên thật là Harriet Elisabeth Beecher, một nhà văn người Mỹ gốc Âu, sinh năm 1811. Bà lớn lên trong một gia đình tôn giáo đông con với cha là Lyman Beecher, một nhà thuyết giáo nổi tiếng còn mẹ là người sùng đạo sâu sắc. Bởi cha của Harriet Beecher là người đi theo theo chủ nghĩa bãi nô nên bà đã dành cả cuộc đời mình để đấu tranh đòi lại công bằng cho xã hội và quyền tự do của những người nô lệ da đen. Năm 1836, Harriet Beecher kết hôn với mục sư Calvin Ellis Stowe và các thành viên trong gia đình đều theo đạo Tin lành. Bởi bà từng trải qua nỗi đau mất con nên bản thân luôn có sự đồng cảm với những người mẹ nô lệ da màu, khi phải chứng kiến cảnh con mình bị bắt đi bán. Đây là lý do Harriet Beecher thường xuyên viết về họ trong các sáng tác của mình. Vì gia đình không mấy khá giả nên bà phải trang trải các khoản chi tiêu trong nhà bằng cách làm việc cho các tờ báo định kỳ ở địa phương. Suốt cuộc đời, Harriet Beecher làm thơ, viết sách du lịch, sơ thảo sách tiểu sử, sáng tác truyện cho trẻ em và tiểu thuyết. Đã có khoảng thời gian, gia đình bà chuyển đến Cincinnati, nơi xảy ra các hoạt động bãi nô lúc bấy giờ. Tại đây, Harriet Beecher đã chứng kiến và nghe nhiều câu chuyện kể về chế độ nô lệ, những hoạt động bí mật giải thoát nô lệ đưa lên miền Bắc như Tuyến hoả xa ngầm. Để rồi, điều đó đã trở thành đề tài trong hầu hết các tác phẩm của bà. Năm 1850, việc thông qua Đạo luật Nô lệ bỏ trốn đã thúc đẩy Harriet Beecher tích cực tham gia các phong trào bãi nô. Bà đã cống hiến hết mình trên cương vị một người mẹ, một mục sư và một nhà văn vĩ đại. Trong một lần lớn tiếng đọc bức thư trước những đứa con của mình, Harriet Beecher đột ngột vò nát miếng giấy trong tay và nói:. Dù đã viết hơn mười cuốn tiểu thuyết nhưng Harriet Beecher Stowe vẫn được độc giả biết đến nhiều nhất với Túp lều bác Tom. Khởi đầu là một truyện dài được đăng từng kỳ trên tờ National Era, một tuần báo chủ trương bãi nô ở Washington. Tác phẩm ra đời đã thu hút sự chú ý của công luận và gây ra nhiều cuộc tranh cãi lúc bấy giờ. Túp lều bác Tom được sáng tác dựa trên kinh nghiệm và sự đồng cảm của nhà văn. Bởi bản thân Harriet Beecher từng sinh sống ở Kentucky, một tiểu bang ủng hộ chế độ nô lệ nên bà luôn quen thuộc với chủ đề nô lệ, phong trào bãi nô và Tuyến hỏa xa ngầm. Sau khi tiểu thuyết được ấn hành, Harriet Beecher trở thành nhân vật nổi tiếng, bà đi khắp nơi trên nước Mỹ và Châu Âu để diễn thuyết về chủ đề nô lệ. Tổng thống Abraham Lincoln trong một lần gặp gỡ đã tóm tắt ảnh hưởng của Túp lều bác Tom lúc bấy giờ, rằng:. Cuốn tiểu thuyết có ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm của những người Mỹ gốc Phi và nô lệ ở Hoa Kỳ, điều này đã làm tăng thêm sự xung đột giữa các tầng lớp. Nhiều sử gia tin rằng, Túp lều Bác Tom là nhân tố quan trọng dẫn đến cuộc nội chiến giúp xóa bỏ chế độ nô lệ ở nước Mỹ và đây cũng là tác phẩm bán chạy nhất trong thế kỷ XIX. Túp lều bác Tom kể về cuộc đời thống khổ của một người nô lệ da đen là bác Tom với những chuỗi ngày đen tối. Bác phải rời xa vợ con, bị bán từ nơi này sang nơi khác và bị đánh đập, hành hung đến tàn nhẫn. Cuối cùng, vì bản thân đứng lên để bảo vệ cho nhân phẩm của mình mà bác bị đánh chết trong đồn điền trồng bông ở miền Nam nước Mỹ. Từ hình tượng nhân vật chính, Harriet Beecher đã nhắc đến số phận những nô lệ lầm than khác với một trái tim đồng điệu và thấu hiểu nhất. Harriet Beecher viết Túp lều bác Tom bằng tất cả sự đồng cảm và nhân hậu nhưng không vì thế mà ngòi bút ấy bỏ qua hay che dấu hiện thực khốc liệt. Những cuộc buôn bán người diễn ra một cách tàn bạo ngay từ những trang đầu cuốn sách. Tương tự với nhân vật chính, bác Tom bị xem như một món hàng được đem ra trao đổi không hơn không kém. Có một bữa ăn thịnh soạn trong nhà hàng sang trọng ở bang Kentucky nhưng chẳng mấy ai biết được, đó chỉ là trá hình cho cuộc trao đổi người đang diễn ra. Bác Tom được trả với giá cao bởi chính sự trung thực và tốt bụng của mình. Như một lẽ thường tình, mọi việc diễn ra một cách hiển nhiên như bao cuộc buôn người khác ở Mỹ lúc bấy giờ. Như bao kẻ buôn khác, Haley mang trong mình sự khinh biệt dành riêng cho bọn da đen bẩn thỉu, bởi thứ chúng quan tâm hàng đầu luôn là giá trị lợi dụng. Hắn miệt thị sự trung thành của bác Tom và yêu cầu chọn thêm một đứa trẻ đi kèm, đó là con trai của thiếu phụ Elisa, người phụ nữ nô lệ giúp việc trong nhà. Harriet Beecher Stowe đã lột tả rõ bản tính xấu xa của những tên buôn người vô nhân tính, cuộc trao đổi tàn nhẫn đã chà đạp lên tình cảm thiêng liêng của con người. Đó là sự chia cắt giữa mẹ con, vợ chồng và hơn cả là sự vùi dập quyền sống tự do con người. “Bác Tom điềm tĩnh đứng dậy để đi theo ông chủ mới. Bác vác hành lý của mình lên vai. Bác Chloé ôm trong tay đứa con gái út đưa tiễn bác trai ra tận xe. Hai đứa lớn vừa đi theo mẹ vừa khóc.”. Cuộc đời bác Tom trải qua không nhiều lần bị rao bán ở các đồn điền mới. Tất cả bọn chủ nô da trắng đều có chung bản chất độc ác, chúng liên tục đánh đập và chửi rủa bác một cách thậm tệ. Ngay cả khi nghe tin những nô lệ của mình bỏ trốn thì chúng không ngần ngại mà đã ra tay tàn nhẫn, giết chết bác Tom. Thông qua nhân vật chính, Harriet Beecher Stowe đã khắc họa nên hình ảnh số phận những con buôn, cảnh tra tấn man rỡ cùng sự phân biệt, miệt thị người da đen, từ đó lên án đanh thép xã hội chế độ nô lệ lúc bấy giờ. Không chỉ dừng lại ở đó, Túp lều bác Tom còn tố cáo nước Mỹ với nền pháp luật vô nhân đạo, bênh vực chế độ phân biệt, đánh đập xiềng xích, giết chết nhiều người da đen vô tội và sẵn sàng trừng trị những ai che chở họ. Cuộc đời của bác Tom có lẽ là hình ảnh gây ám ảnh nhất đối với độc giả. Nhân vật nô lệ da đen tội nghiệp ấy vốn được biết đến là một người hiền lành, chân thật và giàu tình yêu thương. Gia đình bác Tom sống trong một túp lều gỗ nhỏ cạnh vườn, được ông bà chủ hết mực tín nhiệm và tôn trọng. Là người trung thành với chủ nhân một cách tuyệt đối, ngay cả khi có cơ hội được giải thoát, bác cũng không màng đến nó. Chế độ nô lệ tàn bạo có thể tước đoạt quyền tự do và giam cầm thân thể ấy nhưng không thể biến bác Tom trở nên mất nhân, vô cảm. “Tôi là người bị bán đi – bác Tom trả lời, chứ không phải là mình và các con. Ở đây, mình và các con được an toàn. Điều gì xảy đến sẽ chỉ xảy đến với riêng mình tôi thôi.”. Bác không màng đến mạng sống để đứng lên bảo vệ danh dự và giúp đỡ mọi người, ấy thế mà số phận nghiệt ngã lại không cho con người dũng cảm ấy nhận được một hạnh phúc trọn vẹn với những gì bản thân đã cho đi. Chúng ta đều tin rằng, thế giới bên kia sẽ cho bác cuộc sống tự do xứng đáng với cốt cách thanh cao của một người nô lệ tội nghiệp. Bác Tom và những người có chung số phận là hiện thân cho tấm lòng cao cả bị vùi dập bởi hiện thực tàn nhẫn, khốc liệt. Không chỉ dừng lại ở đó, cuốn sách còn nhắc đến câu chuyện của những nô lệ da đen khác, đó là chị Elisa với trái tim yêu thương vô hạn của người mẹ. Ông chủ vì nợ nần mà phải bán con của chị đi với bác Tom, trước quyết định đó, Elisa đã đưa con chạy trốn khỏi bàn tay số phận. “Nhưng mẹ sẽ mặc áo, đội mũ cho con trai bé nhỏ của mẹ và trốn đi cùng với con để cho kẻ độc ác không thể đem được con đi. Ôm con trai vào lòng, chị thầm thì vào tai nó: “Hãy thật ngoan con nhé!” và đi ra không gây một tiếng động nào.”. Cuộc trốn chạy của hai mẹ con Elisa không hề dễ dàng, chị phải nhanh chóng tìm cách để thoát khỏi bọn buôn người đang đuổi theo ở phía sau. Khác với bác Tom, chị đã hội ngộ Gioocgiơ, chồng của mình và cùng nhau trở lại một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc. Giống với hành trình của vợ mình, Gioocgiơ cũng gặp vô vàn nguy hiểm. Anh làm thuê tại một xưởng máy và đóng góp nhiều thành tựu. Tên chủ da trắng vì điều ấy mà đâm ra ghen ghét, hắn đánh đập dã mãn và ép anh cưới người con gái khác. Vốn là con người tha thiết được sống tự do nên Gioocgiơ đã quyết định bỏ trốn. Những người nô lệ da đen ấy luôn khát khao hạnh phúc về một xã hội tự do, công bằng và bình đẳng. Túp lều bác Tom là bản án đanh thép mà Harriet Beecher Stowe đã dùng để lột trần chế độ phân biệt chủng tộc với bộ mặt tàn bạo, tước đoạt quyền lợi vốn có của con người. Dù viết về nạn phân biệt chủng tộc nhưng không phải người da trắng nào trong Túp lều bác Tom cũng giống nhau. Ở đó vẫn lóe lên tia sáng hy vọng từ những con người đã sớm tỉnh ngộ về chế độ bất nhân tính. Họ đứng về phía nô lệ da đen để đấu tranh, kiến tạo nên một xã hội mới, bình đẳng và văn minh. Ta thấy không ít những người da trắng tốt bụng như ông bà Senbi, cô bé xinh đẹp Eva hay anh Gioocgiơ Senbi. Họ coi trọng tính mạng nô lệ da đen như tính mạng của mình, không hề có chỗ cho sự khinh miệt, phân biệt mà thay vào đó là tình yêu thương giữa người với người. Cuộc sống những người da đen nhờ có họ mà tươi sáng hơn được phần nào. Thông qua tuyến nhân vật này, Harriet Beecher Stowe đã lên tiếng đấu tranh ngầm, khơi gợi trong lòng độc giả lúc bấy giờ là niềm thương cảm, ý chí quyết tâm đòi lại quyền tự do, hạnh phúc vốn có của con người. Những người Mỹ da trắng có lương tâm nay đã đủ dũng cảm đứng lên ủng hộ nô lệ da đen nhằm đòi lại quyền bình đẳng. Như một điều tất yếu, để kiến tạo nên một thế giới công bằng thì luôn cần sự ủng hộ và đồng lòng của tất cả mọi người. “Tôi sẽ ở lại trang trại và tôi sẽ dạy các bạn những quyền của người tự do Còn một điều nữa. Các bạn có nhớ bác Tom tốt bụng của chúng ta không? Trên mộ bác, tôi đã hứa là tôi sẽ không bao giờ sở hữu nô lệ nữa. Sẽ không còn ai bị chết vì tôi, bị lôi đi khỏi tổ ấm, khỏi gia đình để bị chết một cách đơn độc ở một đồn điền nữa.”. Sau khi tác phẩm Túp lều bác Tom ra đời, nước Mỹ đã bùng nổ cuộc chiến tranh vĩ đại nhằm chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc tàn bạo. Ngòi bút chính nghĩa mang tên Harriet Beecher Stowe đã góp phần giúp chúng ta nói chung và số phận những nô lệ nói riêng có một thế giới công bằng như ngày hôm nay.
Túp lều bác Tom
Túp lều bác Tom (nguyên tác: Uncle Tom s Cabin; or, Life Among the Lowly) là một tiểu thuyết chống chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ của nhà văn Harriet Beecher Stowe người Mỹ. Được xuất bản vào năm 1852, cuốn tiểu thuyết đã có ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm đối với những người Mỹ gốc Phi và tình cảnh nô lệ ở Hoa Kỳ, làm tăng thêm sự xung đột giữa các tầng lớp dẫn đến Nội chiến Hoa Kỳ, theo Will Kaufman. Nhà văn Stowe là một người hoạt động chống lại sự nô lệ, đã làm nổi bật trong tiểu thuyết của mình nhân vật bác Tom, một nô lệ da đen phải lìa bỏ vợ con, bị bán từ nơi này sang nơi khác, bị đánh đập tàn nhẫn. Tiểu thuyết mô tả sự độc ác, tàn bạo có thật của sự nô lệ, đồng thời cũng khẳng định tình yêu thương có thể vượt qua mọi thứ để chiến thắng, lật đổ sự nô dịch hoá trong xã hội loài người. Túp lều bác Tom là một cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất trong thế kỷ 19, trong tuần đầu tiên 5.000 bản đã được bán sạch (và cũng là quyển sách bán chạy thứ hai trong thế kỷ đó, sau Kinh Thánh) và được tin là động lực cho cuộc đấu tranh bãi nô.
Chuỗi giá trị có tên tiếng Anh là Value chain, ngoài ra nó còn được gọi với một cái tên khác chính là chuỗi giá trị phân tích. Đây là một thuật ngữ được sử dụng trong quản lý kinh doanh. Nó có ý nghĩa là chỉ một loại các hoạt động trong một quy trình của sản phẩm. Nói một cách đơn giản thì chuỗi giá trị chính là một dãy các hoạt động nhằm mục đích làm tăng giá trị tại mỗi bước ở quy trình tạo ra sản phẩm. Bắt đầu từ việc thiết kế, lên ý tưởng, sản xuất và giao sản phẩm tới tay của người tiêu dùng. Sản phẩm sẽ đi qua từng quy trình, từng giai đoạn khác nhau. Và ở mỗi giai đoạn đó, ta sẽ nhận thấy giá trị gia tăng của sản phẩm sẽ được tăng lên. Bạn có thể hiểu chính là việc tổng giá trị của sản phẩm ở mỗi giai đoạn sẽ cao hơn giá trị của sản phẩm sau chuỗi các hoạt động cộng lại. Một ví dụ điển hình là việc cắt một viên kim cương. Sự thật là một viên kim cương đã được cắt và tạo hình sẽ đắt hơn so với một viên kim cương thô, không được mài giũa. Nhưng chi phí cắt so với chi phí làm tăng thêm giá trị của viên kim cương lại thấp hơn rất nhiều. Chuỗi giá trị là khái niệm quản lý kinh doanh đầu tiên được mô tả bởi Michael Porter trong cuốn sách Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior Performance vào năm 1985. Đây được coi là cuốn sách best - seller của ông. Việc phân tích các giá trị nhằm mục đích đánh giá các hoạt động bên trong cũng như các hoạt động xung quanh của tổ chức. Thông qua đó ta có thể đánh giá và nhận định được khả năng của nó có thể cung cấp thêm giá trị cho đồng tiền, giá trị cho sản phẩm và các dịch vụ khác của công ty, doanh nghiệp. Đối với Michael Porter thì trong quá trình để phân tích được chuỗi giá trị sẽ có 2 bước chính . Đó là: Xác định được từng giai đoạn riêng lẻ trong một quá trình của sản phẩm, dịch vụ. Sau đó phân tích chuỗi các giá trị có được, tăng thêm qua mỗi hoạt động của giai đoạn trong quy trình đó và liên hệ điều đó tới sức cạnh tranh của công ty, doanh nghiệp mình trong thị trường hoạt động hiện tại. Theo ý kiến của Porter, ông đã chia các hoạt động của doanh nghiệp thành hai mảng chính, nhằm mục đích cho việc phân tích chuỗi giá trị. Hai mảng đó là Hoạt động chủ yếu và hoạt động bổ trợ. Hoạt động chủ yếu tiếng Anh có nghĩa là Primary Activities. Hoạt động này bao gồm hoạt động Logistics đầu vào, hoạt động sản xuất, hoạt động logistics đầu ra, hoạt động marketing & sales và cuối cùng là hoạt động dịch vụ. Hoạt động bổ trợ tiếng Anh là Support Activities. Đây là các hoạt động nhằm mục đích hỗ trợ cho các hoạt động chủ yếu. Bao gồm thu mua, công nghệ, nhân sự, cơ sở hạ tầng. Trong quá trình để tạo ra các giá trị với mục đích cung cấp cho công ty và khả năng tạo ra các giá trị vượt quá chi phí sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc các dịch vụ dành cho khách hàng sẽ có 5 bước. Nếu công ty, doanh nghiệp mà tối đa hóa được 5 bước này trong quá trình sản xuất thì sẽ có lợi thế cạnh tranh với các đối thủ khác trong cùng lĩnh vực. - Logistics đầu vào: Bước này có nhiệm vụ nhận hàng, lưu trữ và phân phối các yếu tố đầu vào như nguyên liệu, nguồn cung cấp hàng hóa,. - Sản xuất: Đây là quá trình biến đổi nguyên vật liệu thành các sản phẩm, dịch vụ của công ty, doanh nghiệp mình. - Logistics đầu ra: Ở quá trình này sẽ diễn ra các hoạt động thu gom hàng và phân phối các hoạt động, dịch vụ tới tay của người tiêu dùng. - Marketing & sales: Đây là bước mà giúp cho khách hàng, người tiêu dùng hiểu rõ hơn về sản phẩm, dịch vụ. Qua đó, kích thích nhu cầu mua hàng của khách. - Dịch vụ: Bước này sẽ bao gồm các hoạt động nhằm mục đích làm tăng giá trị của sản phẩm và dịch vụ mà công ty, doanh nghiệp mình cung cấp. - Thu mua: Quá trình này nhằm tăng số lượng sản phẩm, dịch vụ được bán ra, nhằm kích cầu nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ của khách hàng. - Công nghệ: Áp dụng công nghệ vào sản xuất và tiêu thụ hàng hóa là điều cần thiết. Điều này sẽ giúp giảm được thời gian sản xuất cũng như sức lao động phải bỏ ra. Bên cạnh đó là việc kiểm soát, nắm bắt được số lượng sản phẩm ở mỗi giai đoạn được tốt hơn rất nhiều. - Nhân sự: Là nền tảng con người có nhiệm vụ thực hiện, quản lý các hoạt động, vấn đề trong tất cả các các quá trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ, đưa nó tới tay của người tiêu dùng và làm tăng giá trị của nó. - Cơ sở hạ tầng là yếu tố giúp cho việc hoàn thành được sản phẩm một cách thuận tiện, dễ dàng hơn. Đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho việc tạo ra, phân phối và làm tăng giá trị của sản phẩm, dịch vụ. Nhìn chung, chuỗi giá trị sẽ bao gồm các hoạt động mà ở đó, mỗi hoạt động sẽ làm tăng các giá trị của sản phẩm, dịch vụ và giảm được chí phí sản xuất, chi phí đầu tư của công ty, doanh nghiệp. Với việc làm tăng giá trị của sản phẩm và dịch vụ, chuỗi giá trị hiện nay đang được các công ty, doanh nghiệp đẩy mạnh sử dụng để làm giảm chi phí. Bên cạnh đó, là việc giúp tăng khả năng tạo sự khác biệt để có lợi thế cạnh tranh với các công ty, doanh nghiệp khác. Vì thế, chuỗi doanh nghiệp sẽ có những ứng dụng nhất định vào các lĩnh vực khác nhau của công ty, doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất, chuỗi giá trị chính là quá trình biến đổi nguyên liệu đầu vào thành các sản phẩm sử dụng để đưa tới tay người tiêu dùng. Tuy nhiên, để tăng tính cạnh tranh thì sản phẩm cần có sự khác biệt hoặc có giá trị tạo ra lớn hơn so với chi phí sản xuất hay giảm thiểu được những chi phí không cần thiết để giảm chi phí trong chuỗi giá trị. Ví dụ với nông nghiệp. Ở đây các nông dân sẽ trực tiếp sản xuất ra nguyên liệu và cung ứng cho các công ty với mức giá ổn định. Các công ty này, có thể chế biến đóng gói tại những thành phố khác và điều đó làm sản phẩm trở nên có thương hiệu hơn. Điều này đảm bảo được rằng các công ty đó có nguồn cung ứng hàng khá ổn định với mức giá ổn định, qua đó giảm được chi phí trong việc tìm nguồn cung ứng nguyên liệu. Quá trình này sẽ bao gồm các hoạt động như quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi, các kênh phân phối,.đem sản phẩm đến gần hơn với người tiêu dùng và thúc đẩy nhu cầu mua hàng của họ. Qua các hoạt động đó để làm tăng chuỗi giá trị của sản phẩm. Thúc đẩy doanh thu và mang thương hiệu đến gần hơn với trái tim của người tiêu dùng. Một ví dụ điển hình chính là Zara. Hệ thống vận hành chính của thương hiệu này luôn được tối ưu hóa để làm tăng giá trị của các sản phẩm đó. Zara không tham gia quảng cáo, cũng không tham gia cuộc trình diễn nào, họ cũng không thuê những người mẫu nổi tiếng để đại diện thương hiệu. Vì thế, giá của Zara khá mềm so với những thương hiệu khác, điều này làm tăng khả năng cạnh tranh của thương hiệu. Bên cạnh đó, các cửa hàng của Zara thường đặt ở những vị trí đắc địa với cửa kính trong suốt giúp khách hàng có thể nhìn thấy sản phẩm dễ dàng. Thêm vào đó là thái độ của nhân viên luôn niềm nở và luôn sử dụng sản phẩm của thương hiệu mình. Ngoài ra, Zara cũng có chế độ bảo hành, khuyến mãi, chăm sóc khách hàng khá tốt. Vì thế, họ cảm thấy hài lòng và sẵn sàng bỏ tiền ra để mua những sản phẩm và dịch vụ mà so với những công ty khác có thể đắt hơn. Đây chính là việc tăng giá trị sản phẩm qua tiếp thị hàng hóa. Với mỗi công ty, doanh nghiệp thì việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực là điều hết sức quan trọng. Bởi đây là yếu tố mang tính sống còn với mỗi công ty. Áp dụng khung năng lực vào việc quản trị nhân sự giúp các công ty, doanh nghiệp có thể quản lý dễ dàng và hiệu quả hơn. Ở đây sẽ bao gồm hai quá trình chính là Xây dựng cơ cấu tổ chức từ chuỗi giá trị và Xây dựng từ điển năng lực từ chuỗi giá trị. Trong xây dựng cơ cấu tổ chức thì chuỗi giá trị là căn cứ để từ đó xác định hệ thống vai trò các phòng ban cần thiết để điều hành doanh nghiệp. Thông qua đó có thể xây dựng mô tả về các vị trí làm việc trong doanh nghiệp. Đối với việc xây dựng từ điển năng lực chuỗi giá trị thì đây chính là việc xây dựng cấu trúc và danh mục từ điển năng lực. Chuỗi giá trị sẽ thể hiện những năng lực cần thiết đối với từng vị trí trong doanh nghiệp để có thể phát triển tối ưu nhất. Thông qua việc xây dựng mô tả công việc và từ điển năng lực giúp xác định khung năng lực cho từng vị trí, làm tiền đề đánh giá sự phát triển sau đó của mỗi nhân viên. Qua đó, xác định được những giá trị và năng lực cốt lõi, thiết yếu nhất phù hợp với sự phát triển và định hướng của công ty, doanh nghiệp. Chuỗi cung ứng: là sự hợp nhất giữa các hoạt động, con người, doanh nghiệp qua đó di chuyển sản phẩm qua các nơi để đến tay người tiêu dùng. Chuỗi giá trị bắt nguồn từ quản trị kinh doanh. Thông qua mỗi hoạt động trong một quy trình để làm tăng giá trị sản phẩm. Chuỗi cung ứng thì lại có sự bắt nguồn từ quản trị hoạt động. Đồng nhất giữa các hoạt động, con người và doanh nghiệp để vận chuyển sản phẩm từ nơi này đến nơi khác. Chuỗi giá trị sẽ tập trung chính vào việc cung cấp giá trị cũng như làm tăng các giá trị sản phẩm. Bắt đầu từ yêu cầu của khách hàng và kết thúc chính là sản phẩm được tạo ra. Chuỗi cung ứng bao gồm các hoạt động vận chuyển sản phẩm tới các nơi khác nhau. Bắt đầu từ sự yêu cầu, nhu cầu của khách hàng về sản phẩm. Sau đó sẽ kết thúc bằng việc đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Có thể nói, chuỗi giá trị có vai trò cũng như ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi công ty, doanh nghiệp. Không chỉ làm tăng giá trị của sản phẩm, giảm bớt được những chi phí không cần thiết mà còn làm tăng tính cạnh tranh của công ty, doanh nghiệp với đối thủ. Mong rằng bài viết này đã cung cấp những thông tin giúp các bạn độc giả hiểu rõ hơn về chuỗi giá trị và ứng dụng của nó trong doanh nghiệp. Thông qua đó, bạn có thể nâng cao sự hiểu biết của mình trong lĩnh vực kinh doanh và từ đó có sự định hướng cho công việc tương lai. Nếu bạn muốn tìm kiếm những cơ hội việc làm hấp dẫn liên quan thì Timviec365.vn là một gợi ý tin cậy dành cho bạn.
Chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị (tiếng Anh: Value chain), cũng được biết đến như là chuỗi giá trị phân tích, là một khái niệm từ quản lý kinh doanh đầu tiên đã được mô tả và phổ cập bởi Michael Porter vào năm 1985 trong cuốn sách best-seller của ông có tựa đề: Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior Performance (Tạm dịch: Lợi thế Cạnh tranh: Tạo và duy trì có hiệu suất ở mức cao).Chuỗi giá trị là chuỗi của các hoạt động. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của các chuỗi theo thứ tự và tại mỗi hoạt động sản phẩm thu được một số giá trị nào đó. Chuỗi các hoạt động cung cấp cho các sản phẩm nhiều giá trị gia tăng hơn tổng giá trị gia tăng của tất cả các hoạt động cộng lại. Điều quan trọng là không để pha trộn các khái niệm của chuỗi giá trị với các chi phí xảy ra trong suốt các hoạt động. Việc cắt kim cương có thể được dùng làm ví dụ cho sự khác nhau này. Việc cắt có thể chỉ tốn một chi phí thấp, nhưng việc đó thêm vào nhiều giá trị cho sản phẩm cuối cùng, vì một viên kim cương thô thì rẻ hơn rất nhiều so với một viên kim cương đã được cắt.
Dù đã và đang được triển khai rộng rãi tại Việt Nam nhưng mô hình khai thác nguồn năng lượng gió vẫn còn khá mới lạ với nhiều người. Do đó, đã hình thành nhiều quan niệm sai lầm khi đánh giá về khả năng ứng dụng của năng lượng gió, hãy cùng xem chúng ta hiểu sai những gì?. Đây là quan niệm sai lầm dễ thấy nhất khi nhận định về nguồn năng lượng này. Thực tế, vẫn còn có nhiều cách để lấy điện vào ngày lặng gió. Ngoài ra, các nhà máy sản xuất có thể sử dụng pin dung lượng cao nhằm tích trữ năng lượng gió để sử dụng khi cần thiết. Dự báo thời tiết chính xác hơn cũng làm giảm nhu cầu truyền thống về nguồn dự trữ lớn. Thực tế không phải vậy. Công nghệ năng lượng gió đã được cải tiến để giảm thiểu tiếng ồn cơ học. Nói chung, địa điểm lắp đặt tuabin gió cách xa nơi ở ít nhất 300 mét. Tại vị trí này, âm thanh "vo ve" do các cánh tuabin tạo ra là khoảng 43 decibel. Ở khoảng cách 500 mét, tiếng ồn sẽ giảm xuống 38 decibel. Tiếng ồn do tủ lạnh tạo ra là khoảng 40 decibel, trong khi tiếng ồn do máy sấy tóc tạo ra là 80 đến 90 decibel. Đó là trước đây, còn hiện nay tình hình đã thay đổi. Khi giá cả giảm và hiệu quả kỹ thuật được cải thiện, điện năng được tạo ra từ năng lượng gió hiện có thể cạnh tranh với các nguồn năng lượng truyền thống. Kể từ năm 2008, giá tuabin gió đã giảm từ 20% đến 40%. Ở một số nơi, chẳng hạn như Colorado (Mỹ), năng lượng gió đang thay thế các nhà máy điện truyền thống. Tại Việt Nam, các hệ thống nhà máy khai thác năng lượng gió hiện đã được triển khai ở một số tỉnh như Bình Thuận, Ninh Thuận, Bạc Liêu, Tây Nguyên, Quảng Ninh. Không hoàn toàn đúng. Chim và dơi thực sự có thể bay vào tuabin, nhưng các trang trại điện gió của một số quốc gia đã hợp tác với các tổ chức môi trường và động vật hoang dã để giảm tác động của các trang trại gió đối với động vật hoang dã. Nhằm hạn chế sự va chạm, việc bổ sung kiến thức về hành vi của động vật hoang dã có thể giúp bảo vệ các loài chim và dơi. Ví dụ, giữ cho cánh tuabin đứng yên trong giờ hoạt động của dơi có thể giảm một nửa số dơi chết. Các công nghệ kháng âm, radar và ảnh nhiệt cũng đang được nỗ lực để bảo vệ các loài động vật hoang dã. Năng lượng gió đã trở thành nguồn năng lượng sạch đơn lẻ lớn nhất ở Mỹ, và đã vượt qua thủy điện về công suất lắp đặt. Năng lượng gió đang phát triển ở các bang nhiều gió, đặc biệt là ở Texas và Trung Tây. Theo ước tính của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, 60% công suất phát điện quy mô tiện ích mới được bổ sung trên lưới điện trong năm 2016 đến từ năng lượng gió và năng lượng mặt trời. Trên thực tế, năng lượng gió đã được sử dụng trong hàng nghìn năm với các ứng dụng trong sinh hoạt và đời sống hàng ngày như bơm nước, xay hạt và bây giờ được sử dụng để phát điện. Theo ước tính, một tuabin gió có thể cung cấp điện cho 500 hộ gia đình. Không giống như hầu hết sản xuất điện quy mô tiện ích, sản xuất điện gió hầu như không cần nước. Ngoại trừ Trung Quốc, Mỹ sản xuất nhiều năng lượng gió hơn bất kỳ quốc gia nào khác, hiện nguồn năng lượng sạch này cũng bắt đầu được chú trọng và triển khai tại các khu vực có điều kiện phù hợp của Việt Nam. Với những đặc điểm lợi thế về tính thuận tiện, giá thành và khả năng ứng dụng sâu trong thực tiễn, nhằm tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu các tác động xấu tới môi trường. Những chính sách liên quan đến việc tạo điều kiện để phát triển và khai thác mở rộng nguồn năng lượng gió đang được các bộ, ngành liên quan thúc đẩy tại Việt Nam trong thời gian gần đây. Nhiều người trẻ ở Việt Nam đang ngày càng phụ thuộc vào các thiết bị đầu cuối di động thông minh, thói quen sử dụng các thiết bị đầu cuối này đã trở thành một cách sống. Dolce by Wyndham Hanoi Golden Lake Hotel đang triển khai các biện pháp vừa đảm bảo tiết kiệm chi phí vừa an toàn, nâng cao chất lượng dịch vụ và trải nghiệm cho khách hàng. Một trong số đó là triển khai giải pháp DZS FiberLAN. Mẫu xe Rush được Toyota Việt Nam nâng cấp hệ thống giải trí, đi kèm nhiều ưu đãi hấp dẫn dành cho khách hàng. Ngày 28/03/2021, VinFast khai trương đồng loạt 64 showroom kết hợp trung tâm trải nghiệm Vin3S tại 30 tỉnh thành trên khắp cả nước. Malaysia đang nghiêm túc xem xét lại các ưu đãi về xe điện khi đầu tư trong lĩnh vực này ngày càng gia tăng ở các quốc gia trong khu vực. Chính phủ Thái Lan đặt mục tiêu bán hàng đầy tham vọng cho năm 2035 ở mảng xe điện và kỳ vọng mọi xe bán ra phải được sản xuất trong nước. Reuters đưa tin Xiaomi sẽ sản xuất xe điện tại nhà máy của Great Wall Motor. Đây là hãng công nghệ mới nhất tham gia vào đường đua xe xanh. Mạng Internet xôn xao trước chiếc đồng hồ hiển thị các con số kỳ quái mà CEO Twitter sở hữu. Không chỉ được làm từ những chất liệu đắt đỏ nhất, thợ thủ công siêu việt nhất mà những chiếc đồng hồ này còn sở hữu nhiều yếu tố khác khiến chúng có mức giá trên trời. Các công nghệ giả lập 3D, 360 view, VR Tour giúp tái hiện không gian nhà xưởng và showroom triển lãm để khách hàng tham dự vẫn có cảm giác trải nghiệm chân thật. Hàn Quốc lên kế hoạch chi 1,1 nghìn tỷ won (974 triệu USD) tới năm 2027 để tăng tốc phát triển xe tự lái cấp độ 4 và công nghệ liên quan.
Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu
Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (tiếng Anh: Global Wind Energy Council, viết tắt là GWEC) được thành lập vào năm 2005 để cung cấp một diễn đàn đáng tin cậy và đại diện cho toàn bộ ngành năng lượng gió ở cấp quốc tế. Nhiệm vụ của Hội đồng là để đảm bảo rằng năng lượng gió được thành lập như là một trong những nguồn năng lượng hàng đầu thế giới, cung cấp nhiều lợi ích thiết thực về môi trường và kinh tế. Một báo cáo mới đưa ra của Hội đồng năng lượng gió toàn cầu dự đoán rằng, bất chấp những khó khăn tạm thời về chuỗi cung ứng, các thị trường năng lượng gió quốc tế vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Trong năm 2006, tổng công suất lắp đặt năng lượng gió tăng 25% trên toàn cầu, tạo ra một giá trị 18 nghìn tỷ (18 billion) euro, tức 23 nghìn tỷ (23 billion) dollar Mỹ của thiết bị mới và nâng công suất năng lượng gió toàn cầu lên đến hơn 74 GW. Trong khi Liên minh châu Âu vẫn là thị trường hàng đầu về năng lượng gió với hơn 48GW công suất lắp đặt, các châu lục khác như Bắc Mỹ và châu Á đang phát triển nhanh chóng.
“Hãy để các em phát triển tự nhiên. Đừng cản trở khát vọng của các em. Ước mơ của các em lớn hơn mơ ước của các thầy cô nữa." - Thầy hiệu trưởng Kobayashi Sosaku đã nói như vậy trong "Totto-chan bên cửa sổ". Nếu như ai đã đọc qua phần giới thiệu sau của cuốn sách, có lẽ chúng ta đều ấn tượng hình ảnh cô bé Totto-chan bị đuổi học ngay những ngày đầu tiên ở trường do "quá hiếu động". Thế là mẹ của em buộc phải gửi em đến một ngôi trường kì lạ, được xây trong một toa xe điện cũ, là trường Tomoe. Ở ngôi trường này, em đã được gặp thầy hiệu trưởng Kobayashi - người có thể lắng nghe những câu chuyện không đầu không cuối mà em kể, rồi chỉ mỉm cười và nói với em rằng em là một cô bé ngoan, một cô bé tốt. Hoặc cũng có thể qua vài bài review ngắn, bạn đã biết đây là câu chuyện về một nền giáo dục trong mơ, ở đó trẻ con được phát triển toàn diện về tinh thần, cho dù chúng có khác biệt, hiếu động thay thậm chí là tật nguyền. Những đứa trẻ được đối xử công bằng, nuôi dưỡng từ những mầm non năng khiếu thật sự, mà không phải gò ép vào một khuôn khổ vô hình nào đó. Nhưng bạn biết không, chỉ khi bạn thực sự "trải nghiệm" cuốn sách, bạn mới có thể nhận được điều tuyệt vời nhất và cũng đau lòng nhất của nó - một câu chuyện về giáo dục trong bối cảnh thời chiến ở Nhật Bản. Chúng ta sẽ thấy xen giữa những điều hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng của trẻ nhỏ, những câu đùa ngây ngô của Totto-chan với mẹ và bạn bè là những nỗi lo lắng của bậc phụ huynh, họ luôn thấy bất an cho con của mình. Chúng khiến bạn vừa mới mỉm cười rồi lại phải chực rơi nước mắt. Totto-chan cùng các bạn của em như những chú đom đóm soi rọi màn đêm hiện thực u tối lúc bấy giờ. Tuy vậy, bóng tối cũng là hiện thực xoá nhoà đi những trong lành, tinh khôi, cho các em bài học để các em lớn lên. Em rồi cũng phải nhìn bạn bè, rồi thầy Kobayashi mất đi nhưng tôi tin chắc sau những quặn đau ấy, ký ức tươi đẹp về Tomoe sẽ là điều giúp em chống lại mọi điều phũ phàng hay khó khăn trong cuộc sống dù em là cô bé 6 tuổi hay bà cụ 60 tuổi đi nữa. "Totto-chan bên cửa sổ" như là một quyển tự truyện của cô Tetsuko để cô được trở về tuổi thơ tuyệt vời. Từ bài học đầu tiên (Khi Totto-chan bị đuổi học ở trường) và ngay sau đó là bài học về niềm tin mang tên Tomoe và thầy Kobayashi. Khi đọc xong và nhìn lại nhan đề, tôi lại tiếp tục nghĩ về Totto-chan, về một cô bé đang ở bên khung cửa sổ là ranh giới giữa ngây thơ và trưởng thành, em chắc đang hoang mang và lo lắng với những điều mới lạ. Và rồi em ngoảnh mặt lại, thấy thầy Kobayashi đặt lên vai mình và mỉm cười: "Em là một cô bé ngoan, Totto-chan, đã đến lúc bước ra ngoài kia và sống một cuộc đời tốt đẹp.". Giữa dòng chảy ồ ạt của công nghệ và thời đại 4.0, trẻ con hình như đã thôi chơi những trò trẻ con, thôi nghĩ lối nghĩ của trẻ con và mơ ước những gì mà trẻ con cần mơ ước. Và khi nhìn vào sự đủ đầy của cuộc sống, tôi vẫn luôn băn khoăn như thiếu một điều gì. Mặc dù đã nhìn kĩ lắm nhưng cái điều khuyết ấy vẫn rất mơ hồ…. "Cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer" là một hành trình của cảm xúc sống động và đa sắc màu. Trong hành trình ấy, người đọc trưởng thành như được sống lại những ngày thơ bé. Những kỉ niệm tuổi thơ dại khờ tưởng đã khuất lấp trong hư hao thời gian chợt hiện về chân thật và đầy đủ. Câu chuyện của nhân vật, suy nghĩ của nhân vật, cuộc đời của nhân vật…cũng từng là câu chuyện, suy nghĩ, quãng đời của bất cứ ai! Tôi còn tìm thấy bóng dáng mình của ngày thơ bé qua từng trang, từng trang sách mà khi cùng sống cuộc đời của nhân vật tôi lại đang thêm được một lần sống lại tuổi thơ của mình!. Nếu trong cùng một lúc, bạn gặp ai đó vừa khóc vừa cười, có thể bạn đã nghĩ, con người ấy đang bị rối loạn cảm xúc, có gì bất thường chăng? Ấy vậy mà tôi đã bị cuốn theo những lần vừa khóc vừa cười như vậy khi đọc cuốn sách. Khi những sợi xúc cảm tưởng chừng đã chai sạn thì những con sóng dạt dào của đồng điệu lại khiến mình trở nên mong manh yếu mềm mà không thể gồng mình lên cưỡng lại để tỏ nên cứng cỏi. Bởi đọc quyển sách, tôi chợt nhận ra, bây giờ, ngay lúc này đây, tuổi thơ đang già đi trong nếp sống, nếp nghĩ. Sống trong sự đủ đầy nhưng thiếu kết nối và tương tác, thích sống ảo hơn là những trải nghiệm, con người hình như đang vô cảm nhiều hơn, hoài nghi nhiều hơn, và ít tử tế hơn. Đọc cuốn sách, ai cũng ao ước một lần được quay về thời thơ ấu để nhìn cuộc sống trong cái nhìn tò mò, khám phá của Tom Sawyer, được sống thật với bản ngã chân thật.
Totto-chan bên cửa sổ
Totto-chan nghĩa là "bé Totto", tên thân mật hồi nhỏ của tác giả Kuroyanagi Tetsuko. Totto-chan sinh trưởng trong một gia đình hạnh phúc, có cha là nghệ sĩ vĩ cầm, mẹ là vận động viên bóng rổ, nhà em còn nuôi con chó lớn tên Rocky. Trước khi em sinh ra, cha mẹ luôn nghĩ em sẽ là con trai nên đã đặt tên con là "Toru", nghĩa là vang xa, thâm nhập. Nhưng vì Totto-chan là con gái nên gia đình đổi tên em thành Tetsuko. Cha của em thường gọi em một cách thân mật là "Totsky" (Totto-Suke ở nguyên gốc tiếng nhật). Mới sáu tuổi, Totto-chan đã bị đuổi học ở trường tiểu học vì em quá năng động và lạ lùng so với các bạn. Mẹ của Totto-chan biết ngôi trường bình thường không thể hiểu được con gái, bà liền xin cho em vào học tại Tomoe Gakuen (Trường Tomoe) của thầy hiệu trưởng Kobayashi Sosaku. Trường Tomoe có lớp học là những toa tàu cũ, cả trường chỉ có hơn năm mươi học sinh, ai cũng đặc biệt như Totto-chan, thậm chí có cả những em bị khuyết tật. Nhưng vượt qua những trở ngại và khác biệt tính cách, các học sinh ở Tomoe đều hoà hợp với nhau như anh em.
Nguyễn Thị Ngọc Tú (1942-2013) là một nữ nhà văn Việt Nam nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV, nguyên Tổng biên tập tạp chí Tác phẩm mới - Hội Nhà văn.1 2 Bà nổi danh trên văn đàn Việt Nam vào những thập kỷ 60, 70, 80 của thế kỷ XX và đã đoạt Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt I năm 2001.3 4. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú sinh ngày 25 tháng 12 năm 1942 tại Hà Nội. Bà từng là giáo viên cấp 2 tại Sơn Tây, sau đó đi học khóa I Trường Viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam. Những năm 1965-1967, bà trở thành phóng viên báo Vùng Mỏ thuộc tỉnh Quảng Ninh. Sau đó, Nguyễn Thị Ngọc Tú về làm phóng viên, biên tập viên của tuần báo Văn Nghệ rồi làm Tổng Biên tập tạp chí Tác phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam.4. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú có con gái là nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ. "Đặc biệt tiểu thuyết Chỉ còn anh và em là những kỷ niệm với người bạn thân thiết, nhà thơ Xuân Quỳnh. Tiểu thuyết này được những người cảm thông với số phận của nhà thơ Xuân Quỳnh đọc và giải mã như một cuốn hồi ký đáng tin cậy.". "Bà đã sống hết mình và hết mình cả cho những trang viết trong những năm tuổi trẻ. Một nhà văn viết khỏe, hàng vạn trang sách như vậy phải là một người rất khỏe về trí não mới có thể cày cuốc lâu bền trên những trang viết. Nếu như coi tâm sức nhà văn là cái vốn cố định thì Nguyễn Thị Ngọc Tú đã chi dùng quá hào phóng cho việc viết lách trong những năm tuổi trẻ. Nhưng nói như vậy cũng không đúng hẳn. Sang những năm đầu của thập kỷ mới, bà còn cho xuất bản một cuốn tiểu thuyết gần 500 trang. Những tập kịch bản phim truyền hình nhiều tập sừng sững trên mặt bàn như Cỏ lồng vực, Ảo ảnh trắng, Câu chuyện dưới tán lá rợp. uy hiếp bất cứ ai dám bảo bà chỉ dồi dào sức sáng tạo ở trước tuổi năm mươi mà thôi.". Giải B Văn học công nhân 1998 với tiểu thuyết Hai người và những con sóng. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi. Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi thôi.
Nguyễn Thị Ngọc Tú
Nguyễn Thị Ngọc Tú (1942-2013) là một nữ nhà văn Việt Nam. Bà là nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV, nguyên Tổng biên tập tạp chí Tác phẩm mới - Hội Nhà văn. Bà nổi danh trên văn đàn Việt Nam vào những thập kỷ 60, 70, 80 của thế kỷ XX và đã đoạt Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt I năm 2001. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú sinh ngày 25 tháng 12 năm 1942 tại Hà Nội. Bà từng là giáo viên cấp 2 tại Sơn Tây, sau đó đi học khóa I Trường Viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam. Những năm 1965-1967, bà trở thành phóng viên báo Vùng Mỏ thuộc tỉnh Quảng Ninh. Sau đó, Nguyễn Thị Ngọc Tú về làm phóng viên, biên tập viên của tuần báo Văn Nghệ rồi làm Tổng Biên tập tạp chí Tác phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú có một ái nữ là nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ.
Từ Wulong được hiểu là rồng đen. Bính âm thích hợp là wūlóng (乌龙), nhưng oolong (phiên âm khó hiểu) đã trở thành cách đánh vần phổ biến nhất ở phương Tây, còn ở Việt Nam thì gọi là trà Ô Long. Lá Ô Long được bán oxy hóa. Điều này có nghĩa là trong quá trình sản xuất, quá trình oxy hóa được bắt đầu, kiểm soát và dừng lại ở một số thời điểm trước khi lá được coi là oxy hóa hoàn toàn. Đây là lý do tại sao bạn sẽ thường nghe thấy Oolong được mô tả là ở giữa trà xanh và trà đen. Tuy nhiên, cũng như nhiều thứ trong thế giới trà, nó còn phức tạp hơn thế. Một bước khác biệt trong quá trình chế biến trà Ô Long truyền thống là bước bầm tím (còn gọi là lắc hoặc rung chuyển). Lá bị lắc, cuộn nhẹ hoặc xẹp xuống cho đến khi các cạnh bị bầm. Vết bầm này gây tổn thương lớp tế bào và bắt đầu quá trình oxy hóa. Bầm tím như một bước xử lý là một quá trình lặp đi lặp lại trong đó các lá bị bầm tím dẫn đến héo và oxy hóa từ từ. Quá trình xảy ra lặp đi lặp lại cho đến khi chúng đạt đến mức oxy hóa mong muốn. Các lá trà sau đó được sấy diệt men (ở một mức nhiệt độ nhất định) để ngăn chặn quá trình oxy hóa và được định hình, cuối cùng là sấy khô. Trà Ô Long có nguồn gốc từ Phúc Kiến-Trung Quốc, được du nhập sang Đài Loan và phát triển cực thịnh tại đây trước khi giống cây trồng này chính thức được đưa về Việt Nam, trồng thành công ở vùng đất Lâm Đồng và một số tỉnh miền núi phía Bắc. Có nhiều câu chuyện ly kỳ về nguồn gốc của Ô Long ở Trung Quốc. Bạn đọc có thể theo dõi câu chuyện về nguồn gốc tên gọi trà Ô Long tại bài viết: Nguồn gốc tên gọi trà Ô Long. Giống trà được trồng ở Việt Nam hiện nay hầu như toàn bộ là giống Ô Long Cao Sơn của Đài Loan, đây là giống trà núi cao lá nhỏ, giàu phẩm chất, sản lượng tập trung ở các giống thuần chủng, Kim Tuyên, Tứ Quý, Thúy Ngọc. Khi hái lá để sản xuất Ô Long, người hái trà chờ cho đến khi chồi trên cây trà đã mở và dày lên. Tùy thuộc vào hình dạng dự định của sản phẩm cuối cùng, người hái sẽ ngắt bất cứ nơi nào từ ba đến năm lá cùng một lúc. Lý do để hái những chiếc lá già hơn, dày hơn là vì chúng có khả năng chịu đựng được quá trình nhào và tạo hình mãnh liệt theo quy trình sản xuất Oolong. Làm héo Oolong thường được làm héo dưới ánh mặt trời hoặc trong ánh sáng khuếch tán dưới bóng râm di động ngoài trời. Một khi lá bị bầm, quá trình héo tiếp tục, thường ở trong nhà. Quá trình héo thay đổi tùy từng nhà sản xuất, nhưng mục tiêu của làm héo là như nhau: chuẩn bị lá để xử lý thêm bằng cách làm cho chúng mềm. Lá trà bị héo cho phép hương thơm phát triển. Bầm tím / oxy hóa Bước xử lý riêng biệt làm Ô Long là bầm tím. Mục tiêu của việc làm bầm lá là để bắt đầu quá trình oxy hóa. Để làm như vậy, tùy thuộc vào loại trà và người sản xuất, lá sẽ bị cán, rung hoặc thậm chí cuộn tròn (như trường hợp của nhiều loại Oolong mới). Khi lá bị bầm, các thành tế bào trong phần bị bầm của lá bị phá vỡ, bắt đầu quá trình oxy hóa. Các lá sau đó được để khô héo và oxy hóa trước khi bị bầm tím thêm. Quá trình lặp lại này tiếp tục cho đến khi đạt được mức độ oxy hóa mong muốn của người pha trà. Wulong thường được gọi là trà bán oxy hóa và như vậy có thể được thực hiện ở một loạt các mức độ oxy hóa. Các loại trà Oolong xanh nhất bị oxy hóa đến khoảng 5-10%, trong khi các loại Oolong đỏ hơn gần như bị oxy hóa đến mức trà đen, khoảng 80-90%. Diệt men Một khi mức độ oxy hóa mong muốn đạt được bằng cách liên tục làm bầm lá và cho phép chúng khô héo, chúng được làm nóng để ngăn chặn quá trình oxy hóa tiếp theo. Hầu hết Ô Long được cố định bằng không khí nóng trong lò sấy. Định hình Theo truyền thống, wulong được xử lý thành hai hình dạng khác nhau: hình dạng nửa quả bóng (còn được gọi là hình dạng viên) và hình dạng dải (còn được gọi là hình dạng sọc). Những Ô Long dạng viên được tạo hình bằng cách sử dụng quy trình lặp được gọi là nhào vải bọc, trong đó lá trà được bọc trong vải và nhào. Khi điều này được thực hiện, các lá kết lại với nhau và tạo thành một quả bóng chặt chẽ. Khối lá được nhẹ nhàng tách ra và sau đó nhào vào vải một lần nữa. Quá trình này có thể diễn ra trong nhiều giờ. Trong hầu hết các ứng dụng thương mại, nhào bọc vải được thực hiện bằng máy. Tuy nhiên, các nhà sản xuất trà thủ công quy mô nhỏ vẫn nhào trà bằng tay (hoặc thậm chí bằng chân). Oolong hình dải được cuộn bằng tay hoặc bằng máy mà không sử dụng vải. Chúng được xoắn theo chiều dài thay vì cuộn thành một quả bóng. Trong quá trình cuộn, lượng áp lực tác động lên lá được theo dõi cẩn thận để lá không bị xé toạc. Việc trình bày trà thành phẩm rất quan trọng đối với nhà sản xuất trà và một loại trà có tỷ lệ thân cọng lớn được coi là một loại trà có chất lượng kém hơn. Thân cọng được hái ra khỏi lá trà thành phẩm bằng tay hoặc bằng máy trước khi được đóng gói và vận chuyển. Đôi khi thân cây được để lại trên lá thành phẩm khi bán. Rốt cuộc, đây là một quá trình rất tốn công. Sấy khô và rang Trong các thiết lập sản xuất thương mại, trà Ô Long được sấy khô trong các lò lớn chạy bằng điện hoặc gas. Dây chuyền sản xuất thủ công nhỏ hơn sẽ sử dụng thúng trên than nóng để làm khô lá từ từ. Điều này thường được gọi là sấy lần đầu. Ô Long thường sẽ trải qua quá trình sấy thứ hai, còn được gọi là rang. Rang được thực hiện để tăng hương vị trà và giúp bảo quản được lâu hơn. Đôi khi, lỗi trong quá trình xử lý có thể được ẩn bằng một bước rang mạnh. Về cơ bản, để pha được những ấm trà cần lưu ý 3 vấn đề quan trọng là nhiệt độ nước pha trà, lượng trà và thời gian hãm trà. Nên chọn các loại nước tinh khiết, nước suối, nước giếng (các loại nước không có mùi và các thành phần kim loại nặng để làm ảnh hưởng đến hương vị trà). Nhiệt độ thích hợp các loại ô long nằm trong khoảng từ 90-96 độ C, cụ thể nên xem kỹ trong phần hướng dẫn sử dụng hoặc tư vấn của nhân viên bán hàng. Lượng trà cần thiết trung bình khoảng 1 gram cho 20ml nước, điều chỉnh lượng trà tùy khẩu vị sau vài lần thử. Thời gian hãm trà không nên quá lâu, trà bị đắng và mất hương, nên dùng ấm trà nhỏ và thời gian hãm trà ngắn để hương vị trà được tối ưu, màu nước được đẹp mắt. Cách pha trà như sau: Dùng nước sôi để tráng nhanh búp trà, đổ nước vào hãm trong vòng 1 phút là rót ra thưởng thức, có thể châm thêm nhiều lần nước. Ô Long là loại trà giàu hương vị, được sử dụng nhiều trong giao tế và thưởng lãm. Trà Ô Long được đánh giá cao ở khả năng giúp cơ thể hạn chế hấp thu chất béo khi ăn thức ăn nhiều dầu mỡ, do đó hỗ trợ hiệu quả cho giảm cân. – Theanine và hợp chất thơm: Theanine là loại amino acids chịu trách nhiệm tạo ra umani hay “vị ngon” cho trà, có tác dụng tạo cảm giác ngon miệng, giúp tăng cường khẩu vị. Các chất thơm trong trà giúp sảng khoái tinh thần, tác dụng giảm stress. – Caffein trong trà ở dạng kết hợp Tanat caffeine tan trong nước nóng tạo nên hương thơm và giảm vị đắng. Caffein trong trà có tác dụng dược lý giúp tỉnh táo, tăng hoạt động của tim, ngăn chặn sự đông máu và lợi tiểu. Khác với caffein tự do của cà phê, Tanat caffeine của trà không cản trở hấp thu canxi vào cơ thể. – Tanin chiếm 26-28% trong lá chè olong là một chất sát khuẩn mạnh, trong đó mạnh nhất là EpiGalloCatechin Gallate (EGCG) là chất có khả năng chống ôxy hóa mạnh gấp 100 lần vitamin C và 25 lần vitamin E giúp “dọn sạch” các gốc tự do vốn là tác nhân gây tổn thương cấu trúc ADN, tổn thương tế bào dẫn đến ung thư, do đó EGCG giúp hỗ trợ điều trị ung thư vú, bàng quang, phổi, gan, thực quản, tuyến tụy và dạ dày. – Vitamin C (có trong trà xanh và oolong) giúp tăng cường sức đề kháng, ngừa cảm cúm. Vitamin E làm chậm quá trình lão hóa, cải thiện làn da. Tên gọi Ô Long có từ đâu?Trà Ô Long có nguồn gốc từ Phúc Kiến, trải qua hàng trăm năm ở Đài Loan trước khi về đến Việt Nam và nay được trồng phổ biến ở cao nguyên Lâm Đồng. Có nhiều câu chuyện thú vị…. Trà Ô Long có nguồn gốc từ Phúc Kiến, trải qua hàng trăm năm ở Đài Loan trước khi về đến Việt Nam và nay được trồng phổ biến ở cao nguyên Lâm Đồng. Có nhiều câu chuyện thú vị…. Làm sao phân biệt các loại trà?Phân loại 5 loại trà theo đặc điểm, công dụng và cách chế biến. Cung cấp cái nhìn chi tiết, minh họa rõ ràng để dễ phân biệt các loại trà phổ biến. Phân loại 5 loại trà theo đặc điểm, công dụng và cách chế biến. Cung cấp cái nhìn chi tiết, minh họa rõ ràng để dễ phân biệt các loại trà phổ biến. Bạn có thắc mắc tại sao trà có dư vị ngọt?Hậu trà có nghĩa là một hương vị đặc biệt được hình thành bởi vị đắng ở đầu lưỡi và vị ngọt được trả lại ở cổ họng. Trà thường có vị ngọt nhẹ và một chút se đắng với…. Hậu trà có nghĩa là một hương vị đặc biệt được hình thành bởi vị đắng ở đầu lưỡi và vị ngọt được trả lại ở cổ họng. Trà thường có vị ngọt nhẹ và một chút se đắng với…. Trà hết hạn có uống được không?Thời hạn sử dụng của trà có thể được hiểu là thời kỳ tốt nhất để uống dưới tiền đề của việc lưu trữ thích hợp. Nhiều người tiêu dùng thắc mắc, liệu trà hết hạn sử dụng thì có…. Thời hạn sử dụng của trà có thể được hiểu là thời kỳ tốt nhất để uống dưới tiền đề của việc lưu trữ thích hợp. Nhiều người tiêu dùng thắc mắc, liệu trà hết hạn sử dụng thì có…. Bàn về ly ngửi tràTrong một bộ đồ trà, ly ngửi (Aroma Cup) là dành riêng cho việc ngửi hương, với tạo hình thanh mảnh hơn và dài hơn ly uống trà nhằm thu thập hương thơm. Trong một bộ đồ trà, ly ngửi (Aroma Cup) là dành riêng cho việc ngửi hương, với tạo hình thanh mảnh hơn và dài hơn ly uống trà nhằm thu thập hương thơm. Trà hết hạn có uống được không?Thời hạn sử dụng của trà có thể được hiểu là thời kỳ tốt nhất để uống dưới tiền đề của việc lưu trữ thích hợp. Nhiều người tiêu dùng thắc mắc, liệu trà hết hạn sử dụng thì có…. Thời hạn sử dụng của trà có thể được hiểu là thời kỳ tốt nhất để uống dưới tiền đề của việc lưu trữ thích hợp. Nhiều người tiêu dùng thắc mắc, liệu trà hết hạn sử dụng thì có…. Say trà là gì? Làm sao thoát khỏi và tránh say trà?Hiện tượng say trà? Các giải pháp hiệu quả để thoát khỏi tình trạng say trà cũng như các lưu ý để tránh bị say trà. Hiện tượng say trà? Các giải pháp hiệu quả để thoát khỏi tình trạng say trà cũng như các lưu ý để tránh bị say trà. Bàn về ly ngửi tràTrong một bộ đồ trà, ly ngửi (Aroma Cup) là dành riêng cho việc ngửi hương, với tạo hình thanh mảnh hơn và dài hơn ly uống trà nhằm thu thập hương thơm. Trong một bộ đồ trà, ly ngửi (Aroma Cup) là dành riêng cho việc ngửi hương, với tạo hình thanh mảnh hơn và dài hơn ly uống trà nhằm thu thập hương thơm. Buổi trà ngon nhất“Giá của loại trà này là bất cứ thứ gì từ một Sen đến ngàn vàng.
Trà ô long
Trà Ô Long (Hán văn giản thể: 乌龙; Hán văn phồn thể: 烏龍 pinyin: wūlóng) là một trà truyền thống Trung Quốc (Camellia sinensis) sản xuất thông qua một quá trình độc đáo như phơi lá chè cho héo dưới ánh mặt trời và quá trình oxy hóa mạnh mẽ trước khi sấy. Phần lớn trà Ô Long, nhất là với trà chất lượng tốt, liên quan đến giống cây trồng trà riêng biệt với các giống cụ thể. Mức độ lên men có thể nằm trong khoảng từ 8% đến 85%, tùy thuộc vào sự đa dạng và phong cách sản xuất. Loại trà này đặc biệt phổ biến với những người sành trà miền nam Trung Quốc và Hoa kiều ở Đông Nam Á, việc pha trà ở khu vực này xuất phát từ khu vực nam Trung Hoa cũng vậy. Trong văn hóa trà Trung Quốc, loại trà oxy hoá Ô Long được gọi chung nhóm là "thanh trà" (Trung Quốc: 青茶, nghĩa là "trà xanh"). Hương vị của trà Ô Long khác nhau rất nhiều giữa các chủng loại biến thể. Nó có thể là ngọt ngào với mùi vị trái cây với mùi hương mật ong, hoặc giống gỗ và dày với mùi hương rang, hoặc màu xanh lá cây và tươi mát với mùi hương được bó hoa, tất cả tùy thuộc vào rau quả và phong cách sản xuất.
Quặng sắt là loại đất đá có chứa khoáng chất như: kim loại , đá quý. nó được khai thác từ mỏ khoáng sản rồi chế biến lại sử dụng. Hiện nay, quặng sắt có thể được tách ra khỏi các khoáng vật và đá. Quặng sắt được tìm thấy ở dạng magnetite và hematite , tuy nhiên cũng có các loại limonite ,goethite, siderite. Có gần 98% quặng sắt được khai thác ra chuyên dùng trong sản xuất thép. Các mức độ tập trung khoáng vật đó là quặng, kim loại và những dạng xuất hiện của nó có ảnh hưởng đến chi phí khai thác quặng. Một số loại quặng sắt kim loại gồm: sulfua, silicat, ôxít, hay là kim loại “tự sinh” ( như đồng) là các khoáng vật không có tập trung phổ biến ở trong vỏ Trái Đất hoặc đó là kim loại “quý hiếm” (dạng hợp chất) như Vàng. Chi phí tách quặng sắt tính giá trị kim loại chứa trong đá nhằm xác định quặng nào khi khai thác mang lại lợi nhuận và không lợi nhuận. Những quặng phải được xử lý tách kim loại cần lấy ra khỏi đá. Thân của quặng nó được hình thành qua nhiều quá trình địa chất khác nhau nên gọi là quá trình sinh quặng. Quặng giàu sắt nhất tự nhiên chính là quặng Manhetit. Chứa Fe304 % Fe = 72,41phần trăm. Đây là loại quặng chứa nhiều sắt nhất, dưới nó là quặng hemantit nâu, hemantit đỏ. Hiện nay, với 14 nhà máy sản xuất thép chuyên sử dụng quặng sắt nguyên chất. Trong đó có 9 nhà máy hiện hoạt động Hòa Phát là : Thái Nguyên, Vạn Lợi, Hằng Nguyên , Dong Bu…. Một số nhà máy mới hình thành và đi vào hoạt động năm 2014 – 2015 như : Công ty TNHH Khoáng sản và luyện kim Việt Trung ,giai đoạn 1 với công suất 500.000 tấn / năm. Nhà máy thép formosa có công suất 7 triệu tấn / năm. Công ty Luyện gang – thép Cao Bằng ( Tổng công ty khoáng sản Việt Nam) có công suất 180.000 tấn / năm…. Tại Việt Nam, Giá quặng sắt tăng giảm liên tục trong nhiều năm qua, tùy thuộc vào tình hình thế giới. Theo văn bản số 407 / TB – VP CP ban hành 17/12/2012, Chính phủ cho phép xuất khẩu khoáng sản tồn kho để gỡ bỏ khó doanh nghiệp theo đề nghị của UBND của các tỉnh. Bộ Công thương ban hành thông tư số 41 / 2012 cho phép xuất khẩu trường hợp quặng sắt đã qua chế biến và có nguồn gốc hợp pháp. Từ việc này, rất nhiều địa phương đã ồ ạt xin xuất cho doanh nghiệp và xin xuất khẩu đã lên đến hàng triệu tấn hàng, có rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu vượt quá số lượng cho phép, có khi là xuất khẩu lậu. Trong khi có các lò cao sản xuất trong nước phải hoạt động lai rai vì thiếu nguyên liệu, việc xuất khẩu quặng ra thị trường nước ngoài gây ảnh hưởng đến sản xuất thép ở trong nước, và làm thất thu ngân sách nhà nước đến hàng ngàn tỷ đồng. Các doanh nghiệp sản xuất lớn nhất ở trong nước như Hòa Phát hiện đang sử dụng tinh quặng sắt magnetite với hàm lượng trên 63 % Fe. Nếu nhập khẩu sắt về thị trường Việt Nam thì mức giá tương đương khoảng 2.4 triệu đồng / tấn. Giá HPG thu mua quặng thép trong nước từ 2,1 đến 2,3 triệu đồng / tấn. Quặng limonite có hàm lượng thấp hơn từ 50 % Fe có giá hạ, còn hơn 1 triệu đồng / tấn. Nếu đã được phép xuất khẩu quặng, giá cả thực thu của các doanh nghiệp tại Việt Nam sẽ từ 1,3 – 1,4 triệu đồng / tấn, đối với các loại quặng hàm lượng trên 63 % Fe, do đó, nhiều công ty sản xuất quặng thích bán hàng trong nước hơn. Hiện nay, nghề thu mua phế liệu phát triển mạnh. Đặc biệt, là ngành thu mua quặng sắt. Công ty thu mua quặng sắt Lộc Phát tự hào là đối tác của nhiều đơn vị trong nước và ngoài nước. Công ty được thành thành và phát tiển mạnh mẽ, luôn được khách hàng trên cả nước tin tưởng lựa chọn. Cam kết mức giá thu mua phế liệu luôn cao nhất khu vực. Nhiều chính sách ưu đãi dành cho khách hàng. Nhiệt Độ Nóng Chảy Của Kim Loại Phổ Biến Nhôm, Đồng, Sắt, Vàng, Chì, Thép….
Quặng sắt
Quặng sắt là các loại đá và khoáng vật mà từ đó sắt kim loại có thể được chiết ra có hiệu quả kinh tế. Quặng sắt thường giàu các sắt oxit và có màu sắc từ xám sẫm, vàng tươi, tía sẫm tới nâu đỏ. Sắt thường được tìm thấy dưới dạng magnetit (Fe3O4, 72,4% Fe), hematit (Fe2O3, 69,9% Fe), goethit (FeO(OH), 62,9% Fe), limonit (FeO(OH) n(H2O), 55% Fe) hay siderit (FeCO3, 48,2% Fe). Các loại quặng chứa hàm lượng rất cao hematit hay magnetit (trên 60% sắt) với cỡ hạt trên 6mm được biết đến như là "quặng tự nhiên" hay "quặng chở tàu trực tiếp" (DSO), nghĩa là chúng có thể nạp trực tiếp vào các lò cao sản xuất gang. Quặng sắt là nguyên liệu được sử dụng trong sản xuất gang luyện thép, một trong những nguyên liệu chính để sản xuất thép— với khoảng 95-98% lượng quặng sắt đã khai thác để sản xuất thép. Người ta cho rằng quặng sắt là "tích hợp với kinh tế toàn cầu nhiều hơn so với bất kỳ hàng hóa nào, ngoại trừ có lẽ chỉ mỗi dầu mỏ".