source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
Vật liệu chế tác vỏ đồng hồ là đều vô cùng quan trọng, với chức năng chính để bao bọc và che chở cho các bộ bên trong của đồng hồ. Tuy theo thương hiệu, mức giá của đồng hồ mà các nhà sản xuất sẽ chọn chất liệu cấu thành chiếc đồng hồ khác nhau. Bài viết hôm nay chúng tôi sẽ nói đến chất liệu thép không gỉ 316L, một loại chất liệu phổ biến nhất trong ngành chế tác đồng hồ. Thép không gỉ còn gọi là thép inox hay inox bắt nguồn trong tiếng Pháp inoxydable (inoxidizable) là một hợp kim thép, có hàm lượng crôm tối thiểu 10,5% theo khối lượng và tối đa 1,2% carbon theo khối lượng. Thép không gỉ nổi bật nhất là khả năng chống ăn mòn, tăng lên khi tăng hàm lượng crôm. Bổ sung molypden làm tăng khả năng chống ăn mòn trong việc giảm axit và chống lại sự tấn công rỗ trong dung dịch clorua. Là một phiên bản Carbon cực thấp của hợp kim thép không gỉ 316 (Thép không gỉ 316 là một thép Austenit có chứa crom-niken và 3% molypden). Với Carbon thấp giúp thép thép 316L giảm thiểu tác hại Carbide kết tủa, do đó thép không gỉ 316L có khả năng chống ăn mòn tối đa. Chất liệu thép không gỉ 316L được phát minh bởi chuyên gia khoa học ngành thép ông Harry Brearley. Ông đã tạo ra một loại thép chịu được độ mài mòn cao bằng cách giảm hàm lượng carbon xuống thấp và cho Crom vào trong thành phần thép. Nhưng để có thể sử dụng chất liệu thép không gỉ 316L vào trong chế tác đồng hồ, hãng thép Krupp của Đức tiếp tục cải tiến loại thép này bằng việc cho thêm nguyên tốt niken vào thép để tăng khả năng chịu ăn mòn axit và làm mềm hơn giúp việc gia công đồng hồ dễ hơn. Lời khuyên: Nếu bạn muốn mua một chiếc đồng hồ bằng chất liệu thép không gỉ 316L, thì nên mua đồng hồ ở dưới đáy có ghi “all stainless steel”, không nên mua đồng hồ dưới đáy có ghi chữ “Stainless steel back” vì độ bền của vỏ không cao, sau 1 đến 2 năm sử dụng sẽ bị tróc, sùi đen,…mất đi vẻ đẹp tự nhiên. Khi bạn đeo chiếc đồng hồ thép không gỉ 316L đi tắm biển, tốt nhất sau khi lên bờ bạn phải dùng khăn sạch lâu sạch lại đồng hồ. Bạn phải thường xuyên vệ sinh đồng hồ thép không gỉ khoảng 2 tuần 1 lần, bạn có thể sử dụng kem đánh răng và bàn chải đánh răng mềm để làm công việc này. Tốt nhất, chiếc đồng hồ bạn nên đeo 3 năm trở lên mới đánh bóng lại 1 lần. Không nên đánh bóng thường xuyên sẽ làm mất đi lớp niken bên ngoài và sẽ làm giảm khả năng chống ăn mòn của đồng hồ. Để có thể lựa chọn những phiên bản đồng hồ chất liệu thép không gỉ 316L tốt nhất, bạn hãy đến với Đồng Hồ Việt – Thế giới đồng hồ chính hãng, nơi cam kết sản phẩm đồng hồ thép không gỉ 316L chính hãng 100%. Đến với Hải Triều bạn sẽ dễ dàng lựa chọn được những mẫu đồng hồ hoàn hảo nhất dành cho mình với sự tư vấn chuyên nghiệp từ chuyên viên bán hàng. Cùng với đó là rất nhiều chế độ hậu mãi hàng đầu tại Việt Nam. ✬ Khi mua sản phẩm về bạn không ưng ý hoặc lỗi do nhà sản xuất thì có thể đổi trong vòng 7 ngày. ✬ Dịch vụ vận chuyển nhanh chóng, cùng với việc thanh toán COD tiện lợi ngay tại nhà. Donghoviet.vn - Chuỗi cửa hàng đồng hồ chính hãng được ủy quyền bởi nhiều thương hiệu đồng hồ lớn trên thế giới. một địa chỉ uy tín để các khách hàng Việt ghé thăm và sắm cho mình chiếc đồng hồ chất lượng. Uy tín là yếu tố quan trọng quyết định đến thành công hay thất bại trong kinh doanh. Blog kiến thức cập nhật tin tức mới nhất về đồng hồ cũng như những cẩm nang hữu ích đến với khách hàng.
Thép không gỉ
Trong lĩnh vực luyện kim, thép không rỉ còn gọi là thép inox hay inox (phát âm tiếng Việt như là i-nốc) bắt nguồn trong tiếng Pháp inoxydable (inoxidizable) là một hợp kim thép, có hàm lượng crom tối thiểu 10,5% theo khối lượng và tối đa 1,2% carbon theo khối lượng. Thép không gỉ nổi bật nhất là khả năng chống ăn mòn, tăng lên khi tăng hàm lượng crôm. Bổ sung molypden làm tăng khả năng chống ăn mòn trong việc giảm acid và chống lại sự tấn công rỗ trong dung dịch chloride. Do đó, có rất nhiều loại thép không gỉ với hàm lượng crôm và molypden khác nhau để phù hợp với môi trường mà hợp kim phải chịu đựng. Khả năng chống ăn mòn và nhuộm màu của thép không gỉ, bảo trì thấp và độ bóng quen thuộc làm cho nó trở thành vật liệu lý tưởng cho nhiều ứng dụng đòi hỏi cả cường độ của thép và chống ăn mòn. Thép không gỉ được cuộn thành tấm, tấm, thanh, dây và ống được sử dụng trong: dụng cụ nấu ăn, dao kéo, dụng cụ phẫu thuật, dụng cụ chính; vật liệu xây dựng trong các tòa nhà lớn, như Tòa nhà Chrysler; thiết bị công nghiệp (ví dụ, trong các nhà máy giấy, nhà máy hóa chất, xử lý nước); và bể chứa và tàu chở dầu cho hóa chất và thực phẩm (ví dụ, tàu chở hóa chất và tàu chở dầu).
Thiên kiến xác nhận là một thuật ngữ từ lĩnh vực tâm lí học nhận thức mô tả cách mọi người ủng hộ một cách tự nhiên những thông tin xác nhận niềm tin trước đây của họ. Các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính hành vi xác định rằng nguyên tắc cơ bản cho thiên kiên xác nhận có thể áp dụng cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ tìm kiếm thông tin xác nhận ý kiến hiện có và bỏ qua thông tin trái ngược với ý kiến của mình. Do đó các nhà đầu tư có thể làm lệch giá trị các quyết định đầu tư dựa trên xu hướng nhận thức của chính họ. Thiên kiến xác nhận có thể tạo ra vấn đề cho các nhà đầu tư. Khi nghiên cứu một khoản đầu tư, ai đó có thể vô tình tìm kiếm thông tin hỗ trợ cho niềm tin của mình về khoản đầu tư đó nhưng lại không thấy thông tin thể hiện các thông tin trái ngược khác nhau. Do đó, thiên kiến xác nhận có thể khiến các nhà đầu tư đưa ra quyết định sai lầm, cho dù đó là quyết định lựa chọn đầu tư hay thời điểm mua bán cổ phiếu. Thiên kiến xác nhận ảnh hưởng đến nhận thức và việc ra quyết định trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống và có thể khiến các nhà đầu tư đưa ra những lựa chọn không tối ưu. Tỉm hiểu ý kiến khác nhau xung quanh có thể giúp khắc phục thiên kiến xác nhận và hỗ trợ nhà đầu tư đưa ra quyết định sáng suốt hơn. Hiện tượng này là nguồn gốc của sự tự tin thái quá của nhà đầu tư và giúp giải thích lí do tại sao giá tăng vẫn duy trì xu hướng tăng, và giá giảm vẫn duy trì xu hướng giảm bất kể điều gì đang xảy ra trên thị trường. Thiên kiến xác nhận giúp giải thích lí do tại sao các nhà đầu tư không phải khi nào cũng luôn cư xử hợp lí và ủng hộ các lập luận rằng thị trường đang diễn ra không hiệu quả. Giả sử một nhà đầu tư nghe tin đồn rằng một công ty đang trên bờ vực tuyên bố phá sản. Dựa trên thông tin này, nhà đầu tư xem xét bán cổ phiếu. Khi họ lên mạng để đọc những tin tức mới nhất về công ty, họ chỉ đọc những câu chuyện xác nhận kịch bản phá sản có khả năng xảy ra và đã bỏ lỡ câu chuyện về một sản phẩm mới mà công ty vừa tung ra dự kiến sẽ hoạt động tốt và giúp tăng doanh số. Thay vì nắm giữ cổ phiếu, nhà đầu tư bán nó với mức lỗ đáng kể ngay trước khi cổ phiếu quay đầu và tăng lên mức giá cao nhất mọi thời đại. Khi một nhà đầu tư đã thu thập thông tin hỗ trợ ý kiến và niềm tin của họ về một khoản đầu tư cụ thể, họ nên tìm kiếm những ý tưởng trái ngược khác để thách thức quan điểm của họ. Từ đó nhà đầu tư hãy lập một danh sách các ưu và nhược điểm của khoản đầu tư và đánh giá lại nó với một tâm thế khách quan hơn. Nhà đầu tư không nên đặt câu hỏi xác nhận kết luận về một khoản đầu tư. Ví dụ, nhờ vào việc tham khảo ý kiến người tư vấn, một nhà đầu tư muốn mua một cổ phiếu vì chỉ số P/E thấp. Một cách tiếp cận tốt hơn là yêu cầu nhà tư vấn cung cấp thêm thông tin về cổ phiếu, từ đó có thể kết hợp các thông tin để đưa ra kết luận khách quan hơn.
Thiên kiến xác nhận
Thiên kiến xác nhận (còn gọi là thiên kiến (thiên lệch) khẳng định) là một khuynh hướng của con người ưa chuộng những thông tin nào xác nhận các niềm tin hoặc giả thuyết của chính họ. Con người biểu hiện thiên kiến hoặc định kiến này khi họ thu thập hoặc ghi nhớ thông tin một cách có chọn lọc theo ý riêng của mình, hay khi họ diễn giải nó một cách thiên vị, thường đi kèm với sự từ chối xem xét các góc nhìn khác. Ảnh hưởng của thiên kiến xác nhận mạnh hơn đối với các vấn đề liên quan tới cảm xúc, hoặc những đức tin đã ăn sâu vào tâm thức. Người ta cũng có xu hướng diễn dịch bằng chứng không rõ ràng để ủng hộ cho lập trường có sẵn của họ. Sự tìm kiếm bằng chứng, giải thích và ghi nhớ một cách thiên vị cũng được viện dẫn để giải thích phân cực thái độ (khi bất đồng trở nên cực đoan hơn mặc dù các bên khác nhau đều tiếp xúc với cùng một bằng chứng), tín điều cố chấp (khi những tín điều vẫn tồn tại ngay cả khi bằng chứng rằng nó sai lầm đã được đưa ra), hiệu ứng ưu tiên phi lý (khi người ta tin tưởng hơn vào thông tin nhận trước trong một loạt thông tin), tương quan ảo tưởng (khi người ta nhận thức một cách sai lầm về mối tương quan giữa hai sự kiện hoặc tình huống).
Hộ khẩu thường trú là gì? Kiến thức cơ bản bạn cần biết về hộ khẩu thường trú. Các thông tin về việc làm sổ hộ khẩu, làm lại sổ hộ khẩu hoặc hộ khẩu thường trú là gì sẽ được trình bày đầy đủ dưới đây. Hộ khẩu thường trú có lẽ là một cụm từ vô cùng quen thuộc đối với chúng ta. Nhiều người chưa thực sự hiểu được hộ khẩu thường trú là gì nêu dưới đây sẽ trình bày đầy đủ các kiến thức của khẩu thường trú để các bạn có thể có thêm nhiều thông tin về việc làm sổ hộ khẩu, làm lại sổ hộ khẩu hoặc hộ khẩu thường trú là gì nhé. Hộ khẩu là một công thức dùng để quản lý các nhân khẩu của một số quốc gia trong khu vực Châu Á trong đó thì đơn vị quản lý xã hội chính là các các hộ gia đình, các tập thể to chủ hộ. Hộ khẩu là cuốn sổ cơ bản cho cơ quan công an nhà nước cấp có đầy đủ các thông tin của mỗi người trong gia đình bao gồm bố, mẹ, con cái,. được nhập theo hộ khẩu của cha và mẹ. Hộ khẩu thường trú có sự liên quan đến nhiều quyền lợi của con người trong các vấn đề ruộng đất, nhà ở,. các vấn đề liên quan tới lương thực thực phẩm, giấy tờ quan trọng của vấn đề học tập. Khi có sự thay đổi trong hộ khẩu thường trú thì người dân được yêu cầu phải thay đổi hộ khẩu. Từ năm 1956 số lượng người dân từ các vùng nông thôn đã đổ ra thành phố lớn nhiều hơn gây ra rất nhiều các bất lợi, dân số thành phố tăng lên một cách đáng kể từ đó thì việc này cũng gần cả các vấn đề liên quan tới việc làm ở chỗ ở. Số người nông dân ở nông thôn sản xuất nông nghiệp lại bị giảm bớt. Trước tình hình này Chính phủ đã đưa ra ở Thông tư số 14 vào ngày 23 tháng 10 năm 1957. Thông tư này thì sẽ đưa ra vấn đề hạn chế các đồng bào ở nông thôn ra thành phố, các biện pháp được sử dụng ở thành phố đã có những bước để phối hợp điều chỉnh nhân công sao cho hợp lý. Tránh trường hợp nhận nhân công khi doanh nghiệp không cần thiết. Đồng thời thì các cán bộ, của nhân viên đang làm việc tại thành phố không dẫn người thân và gia đình và thành phố để sống. Nước ta đã sử dụng các biện pháp hợp lý nhất để có thể điều chỉnh số lượng người dân sinh sống tại các thành phố như là quản lý chặt chẽ các công tác liên quan tới hộ khẩu thường trú, Làm sổ hộ khẩu. Hội đồng Chính phủ đã ban hành điều lệ đăng ký và quản lý hộ khẩu kèm theo nghị định số 104/CP vào ngày 27 tháng 6 năm 1964, theo quy định này, mỗi công dân phải đăng ký nhân khẩu thường trú ở trong hộ gia đình. Nơi thường trú này sẽ là nơi thường trú sinh sống thường xuyên của mỗi cá nhân, Việc Đăng ký làm sổ hộ khẩu và quản lý hộ khẩu sẽ lấy hộ làm đơn vị. Mỗi hộ thì sẽ là những người ăn chung, ở chung, chung sống với nhau ở trong một khu nhà riêng hoặc một khu tập thể ở đó. Trường hợp nếu như người dân có việc phải chuyển chỗ đến một thành phố, thị xã khác thì cần phải đăng ký giấy tạm vắng, tạm trú hoặc giấy chứng nhận di chuyển. Ngoài ra phải mang theo các loại giấy tờ khác kèm theo là giấy chuyển công tác. Hộ khẩu thường trú làm sổ hộ khẩu theo theo khu vực dân cư của đơn vị hành chính phường thôn xóm xã đường phố tổ dân phố hoặc là theo các khu nhà tập thể của các cơ quan các tổ chức. Dựa trên trên đó thì thì làm sổ hộ khẩu sẽ lấy lại tài liệu pháp lý làm cơ sở để có thể xác nhận việc cư trú của công dân hộ khẩu thường trú là căn cứ để điều chỉnh hộ khẩu gia đình giấy chứng nhận nhân khẩu tập thể và một số công việc khác. Sổ hộ khẩu thường trú gia đình thì đã được cung cấp cho từng hộ gia đình khác nhau để đăng ký hộ khẩu thường trú trên địa bàn trong cả nước do vậy thì các cơ quan có thẩm quyền chính là nơi đăng ký ý làm sổ hộ khẩu thường trú. Mục đích làm sổ hộ khẩu tại Việt Nam và chính là kiểm soát chuyển từ xã hội cũng như là quản lý tình hình kinh tế của cả nước xuất hiện nay việc đô thị hóa đang ngày càng gia tăng đến mức chóng mặt và số lượng người kéo về thành phố ngày càng đông hơn và phát triển sầm uất với mục đích như là học tập làm việc sinh sống. Học tập sinh sống thì phải khai báo địa chỉ thường trú cũng như là địa chỉ tạm trú là địa chỉ này đều là địa chỉ cư trú nhưng mà sẽ chia ra thời gian để sinh sống tại tại đây đi để có thể kiểm soát công tác an ninh cũng như là quản lý người dân về vấn đề kinh tế xã hội. Sổ hộ khẩu thường trú dễ dàng được kiểm soát và những bất cập sẽ xảy ra bất cứ lúc nào là quản lý các cá nhân cho từng khu vực khác nhau. Các cơ quan công an có trách nhiệm cung cấp sổ hộ khẩu Chỉ khi có sự thay đổi khi ở chỗ là nhân sự hoặc những vấn đề có liên quan đến quyền lợi của cá nhân đất đai nhà ở, giấy tờ công dân thì cần phải đăng ký thay đổi hộ khẩu và các thủ tục liên quan đến hộ khẩu có thể bao gồm như là nhập khẩu tách sổ khai báo tạm trú tạm vắng. Sổ hộ khẩu thường trú có ký hiệu là hk08 được in trên khổ giấy với kích thước là 120mm x 165mm số có tử số có in màu và được cung cấp bởi Bộ Công an có 20 trang. Thông tin cá nhân họ tên của các cá nhân được ghi ở trong sổ hộ khẩu thường trú được yêu cầu ghi bằng chữ in hoa và có dấu ngày tháng năm sinh của các ngành thể sẽ được ghi theo ngày tháng dương lịch và có đầy đủ hai chữ số đối với các ngày tháng và được 4 chữ số đôi với năm sinh số chứng minh thư nhân dân thẻ căn cước công dân, đầy đủ số ở trên thể để nơi sinh và quốc tịch. Quê quán dân tộc thì cần được ghi đúng theo giấy khai sinh và nơi làm việc của các cá nhân phải được ghi rõ như là tên cơ quan hoặc là đơn vị. Địa chỉ cư trú và ghi đầy đủ bắt đầu từ số nhà cho đến xóm phường. Bản khai nhân khẩu. Bản khai nhân khẩu đâu có thông tin về trình độ học vấn trình bày trình độ ở trong sổ hộ khẩu thường trú ở mức học tập Cao nhất. Về trình độ ngoại ngữ rõ các chứng chỉ và các bằng cấp đã đạt được. Tóm tắt về bản thân theo từng khoảng thời gian cụ thể. Nếu thay đổi nhân khẩu thay đổi hộ khẩu ghi rõ họ tên và các mối quan hệ đối với chủ hộ bộ ý kiến của chủ hộ ở trong phần nội dung. Sổ hộ khẩu thường trú thể hiện nơi cư trú của cá nhân ở việc thường xuyên sinh sống trong một số các trường hợp nếu như không xác định được nơi ở thì số học thường trú là bằng chứng để ghi nơi cư trú và người đó đang sinh sống. Sổ hộ khẩu thường trú là một giấy tờ pháp lý do Vậy thì nó rất là thích chân quá trình này có thể thực hiện các thủ tục như là đăng ký thường trú tạm trú và chuyển tách hộ khẩu, Xóa đăng ký hộ khẩu thường trú làm lại sổ hộ khẩu thường trú. Bạn có thể đăng ký làm sổ hộ khẩu. Sổ hộ khẩu được cấp cho các cá nhân hoặc là các hộ gia đình khi đã đăng ký thường trú theo quy định tại điều 24 điều 25 và điều 26 ở trong bộ luật cư trú hộ khẩu, thường có giá trị xác định nơi ở Thường trú của công dân ăn. Nếu công dân thay đổi nơi thường trú ở ngoài phạm vi xã thị trấn hoặc là tỉnh ở ngoài phạm vi các cấp huyện thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương ở ngoài phạm vi thị xã các thành phố trực thuộc tỉnh thì sẽ được cấp sổ hộ khẩu mới. Như vậy khi đăng ký thường trú thì sẽ được làm sổ hộ khẩu cho các cá nhân hoặc là hộ gia đình. Khi bạn đăng ký làm sổ hộ khẩu thường trú thì được cấp hộ khẩu thủ tục đăng ký làm sổ hộ khẩu thường trú và gồm Xem những người đăng ký làm sổ hộ khẩu thường trú. hoặc Làm lại sổ hộ khẩu sẽ nộp hồ sơ làm sổ hộ khẩu, Làm lại sổ hộ khẩu tại các cơ quan công an. Đối với các thành phố trực thuộc vào Trung ương thì sẽ nộp lên công an huyện quận và thị xã đối với tỉnh thì sẽ nộp tại công an xã các thị trấn thuộc vào huyện và công an thị xã thành phố thuộc tỉnh. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày mà bạn đăng ký làm sổ hộ khẩu hoặc làm lại sổ hộ khẩu khi cơ quan công an chức năng cơ quan có thẩm quyền nhận được hồ sơ thi khi các quan có thẩm quyền sẽ cấp lại sổ hộ khẩu cho người đã nộp hồ sơ sơ đăng ký làm sổ hộ khẩu thường trú trường hợp nếu như mà họ không cấp thì cần phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Tại mục số: mỗi số khẩu sẽ được cấp một số riêng gồm 9 chữ số tự nhiên trong đó thì hai số đầu là mã số của tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã được quy định tại các phụ lục ban kèm Theo như thông tư này. Đối với trường hợp đổi hoặc Làm lại sổ hộ khẩu thì số của số khẩu đổi cấp lại là số của sổ hộ khẩu đã từng được cấp trước đó. Tại một hồ sơ hộ khẩu số và và sổ đăng ký thường trú chú thì sẽ đi theo số hồ sơ hộ khẩu cũng như là số của sổ đăng ký thường trú đã lưu trữ tại Tàng Thư hồ sơ hộ khẩu. Tại mục lý do Xóa đăng ký thường trú thì bạn cần phải ghi rõ tại sao bạn quyết định xóa đăng ký thường trú theo như quy định. Các cơ quan có thẩm quyền giúp cho người thi công dân trong việc làm sổ hộ khẩu Làm lại sổ hộ khẩu thay đổi trong hộ khẩu là cơ quan có thẩm quyền đăng ký thường trú chú ý cán bộ cần phải đăng ký và phải ký ghi rõ họ tên tại các trang chủ hộ theo từng nhân khẩu và có sự điều chỉnh thay đổi nếu như có. việc mơ ước với môi trường làm việc chuyên nghiệp và mức lương tốt nhất. đem lại chất lượng dịch vụ hàng đầu, giúp tất cả mọi người có được một công việc phù hợp nhất. Tự hào: Là trang tuyển dụng uy tín, là cầu nối của hàng triệu người tìm việc và nhà tuyển dụng. Luôn chủ động và sáng tạo, lấy công nghệ làm nền tảng cốt lõi để phát triển dịch vụ. Chuyên nghiệp & tận tâm với khách hàng và người tìm việc bằng những dịch vụ tốt nhất. Làm việc chính trực, tuân thủ các nguyên tắc đạo đức, không vụ lợi cá nhân và luôn đặt lợi ích của công ty lên hàng đầu. Phương thức áp dụng sổ hộ khẩu 1. Áp dụng tại thành phố 2. Áp dụng tại nông thôn. Chức năng của sổ hộ khẩu 1. Xác định nơi cư trú 2. Quyền chuyển nhượng, mua bán đất 3.Các thủ tục hành chính và giấy tờ. Giải đáp một số thắc mắc về hộ khẩu thường trú 1. Đăng ký sổ hộ khẩu ở đâu 2.Thủ tục đăng ký sổ hộ khẩu là gì 3. Thời gian cấp sổ hộ khẩu 4.
Thường trú
Theo quy định pháp luật của Việt Nam tại Luật cư trú 2006 (sẽ được thay thế bởi Luật Cư trú 2020 từ ngày 01/7/2021 ) thì Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú. Và kết quả của việc đăng ký thường trú là Sổ hộ khẩu (hoặc ghi tên vào sổ hộ khẩu). Theo nhiều quốc gia khác trên thế giới, thường trú là tình trạng cư trú của một người tại một quốc gia mà họ không phải là công dân. Điều này có thể xảy ra trong một khoảng thời gian không xác định. Một người có tình trạng như vậy được gọi là người thường trú (hoặc thường trú nhân) . Nơi cư trú thường trực tự nó là khác biệt với quyền cư trú (Right of abode), điều này ngăn cản việc kiểm soát nhập cư đối với những người như vậy. Người có hộ khẩu thường trú vẫn cần kiểm soát nhập cư nếu họ không có quyền cư trú. Tuy nhiên, quyền cư trú thường được tự động đảm bảo cho người thường trú.
Con Kỳ Lân Trong Tứ Linh – Biểu Tượng Của Sự Trường Thọ Và Hạnh Phúc Lớn Lao1. Con Lân – Biểu Tượng Của Điềm Lành2. Loài Vật Giống Lân Nhưng Không Phải Con Lân3. Con Nghê – Linh vật thuần Việt. Kỳ lân – một trong bốn linh vật cao quý: Long, Lân, Quy, Phụng. Lân là con cái, còn con đực gọi là Kỳ, gọi chung là Kỳ Lân. Kỳ lân là một con vật có đầu nửa Rồng nửa Thú, nó chỉ có một sừng, do nó không húc ai bao giờ nên chiếc sừng này được xem là hiện thân của Từ Tâm. Nhưng phần lớn hình ảnh Lân được khắc họa là có sừng của loài Nai, tai Chó, trán Lạc Đà, mắt Quỷ, mũi Sư Tử, miệng rất rộng, có thân Ngựa, chân Hươu, đuôi Bò. Đôi khi nó lại có hình dáng của một con hưu xạ, với chiếc đuôi Bò, trán Sói, móng Ngựa, da có đủ 5 màu: đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, đặc biệt dưới bụng có màu vàng đặc trưng… Cũng có khi con vật này xuất hiện dưới hình dáng có mình của một con Hoẵng, có vảy cá trải dài khắp thân…. Nhưng cho dù con Lân có xuất hiện với hình dạng như thế nào đi nữa thì trong tín ngưỡng dân gian phương Đông, Kỳ Lân cũng là con vật báo hiệu điềm lành sắp đến, là biểu tượng cho sự nguy nga đường bệ, sự trường thọ và niềm hạnh phúc lớn lao. Kỳ lân mang trong mình tất cả những phẩm chất đặc trưng của một con vật nhân từ, khi di chuyển nó tránh giẫm lên các loại côn trùng và cỏ mềm dưới chân mình. Loài Lân không bao giờ ăn thịt hay làm hại bất cứ con vật nào, đặc biệt nó không bao giờ uống nước bẩn, nó chỉ ăn cỏ, nên gọi nó là Nhân thú (con thú có lòng nhân từ) Kỳ lân có tánh linh, khi có vua chúa, thánh nhân ra cứu đời thì Kỳ lân sẽ xuất hiện báo trước điềm lành, sắp có thái bình thịnh vượng. Ở Trung Quốc, Lân cũng được sử dụng như con vật linh thiêng bảo vệ cho các công trình kiến trúc, dinh thự, lăng mộ… Nó được dùng để trang trí trên các bức bình phong của chùa, đền, miếu… nhiều lúc nó lại chuyên chở trên lưng các bức cổ đồ hình bát quái… với ý niệm thể hiện sự may mắn luôn song hành cùng chữ nghĩa, đạo lý trong cuộc sống, đó là sự bảo trợ cần thiết mang tính linh thiêng. Hình tượng Lân cũng đã du nhập vào Việt Nam theo bước chân xâm lăng và ý muốn đồng hóa dân tộc Việt của người Hán. Sự truyền bá văn hóa đó đã diễn ra có lúc mãnh liệt có lúc tàn bạo với ý muốn hủy diệt. Hình tượng Lân từ đó đã xuất hiện nhiều hơn tại Việt Nam, ngay cả sau khi đất nước đã giành được độc lập. Tuy nhiên, bên cạnh chi tiết trang trí con Lân thì trên các công trình kiến trúc, đồ gốm, đồ đồng ở nước ta thì còn xuất hiện thêm một hình tượng trang trí rất thú vị, nó có hình dáng rất giống với con Lân nhưng không hẳn là con Lân. Một vị linh mục người Pháp tên L.Cadiere, người có tinh thần khách quan trong những công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, đã đặt câu hỏi về những chi tiết trang trí này. – “Có một con vật rõ ràng nó không phải là con kỳ lân thực sự, mà nó có vẻ là con sư tử, hay là thuộc một giống vật nào đó đặc biệt khác nhưng nó lại được người Việt Nam gọi là con Kỳ Lân. Nó là con vật mà chúng ta rất hay thường thấy ở trên đầu các trụ trước các đền chùa. Nó có một bộ lông, cái đầu, cái đuôi, nhất là những móng vuốt, thay cho những móng đề, đã làm cho con vật này giống với con Sư Tử hơn là một con Kỳ Lân”. Sự nghi ngờ ấy là có cơ sở vì kỳ lân là một con vật tưởng tượng, sẽ hiện diện trên thực tế với ý niệm và tâm hồn của văn hóa đất nước nó đang tồn tại. Con vật mà người Việt ta thường sử dụng trong các công trình kiến trúc cũng nhằm mục đích chuyển tải những ước muốn may mắn, tất nhiên nó cũng chịu ảnh hưởng của con kỳ lân Trung Quốc, nhưng sẽ thật sai lầm nếu cho rằng con vật đó là con Kỳ Lân đến từ phương Bắc. Con Nghê với những hình ảnh rất giống với con kỳ lân Trung Quốc. Đó là con vật không có sừng, mình không lớn,, chân ngắn và thường có móng vuốt, nó không có vảy ở thân, đầu, mình và đuôi thường có lông che phủ. Với hình dáng nhỏ nhắn này phần nào cũng thể hiện được nét tinh nghịch và vui tươi. Nghê là hình ảnh được dùng để trang trí nhiều ở Việt Nam. Trong đời sống của người dân Việt, hai con thú được coi như những người bạn thân thiết, gần gũi và quan trọng nhất thời bấy giờ là con trâu và con chó. Trâu để cày ruộng, giúp sản xuất lúa gạo, chó để giữ nhà, phòng kẻ gian và thú dữ. Trong đời sống thực tế có chó giữ nhà, còn đời sống tâm linh thì sao? Ông cha ta cũng cần một linh vật để chống lại các tà ma ác quỷ nữa chứ? Và từ đó hình ảnh con Chó Đá đã được dựng lên. Ở các làng quên miền Bắc Việt Nam, trước cổng làng nào cũng vậy, bao giờ cũng có một con chó đá để bảo vệ cả làng, trước cổng đình, cổng nhà, ngoài cửa nhà bao giờ cũng có chó đá ngồi trước canh giữ cho gia chủ. Những con chó đá này hình dạng cũng có nhiều sự thay đổi, chó đá cao khoảng từ nửa thước tới một thước, nó thường là những tảng đá được khắc đẽo rõ ràng và oai vệ, nhưng có khi nó chỉ đơn giản là một khối đá đặt nghiêng theo dáng một con chó đang ở thế ngồi canh giữ. Chó Đá cũng được bày trước điện thờ, hay bàn thờ của những nhà giàu có, ở các đình chùa, đền miếu. Chó đá được khắc đẽo với những chi tiết rất oai vệ, đầu chó, mặt chó đầy những nét oai nghiêm. Chó Đá từ đó cũng hóa linh vật. Vì linh thiêng như thế, nên nó được gọi là con Nghê. Con Nghê còn được dùng để trang trí trong các ngôi đình cổ ở Việt Nam. Nghê được chạm trên xà ngang từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài, hay được đặt trên “đầu đao” (sống mái chạy từ đỉnh nóc nhà xuống, cong lên như hình cây đại đao (1 loại mã tấu) nên gọi là đầu đao. Tuy nhiên, con chó đối với người Việt vẫn chưa được thiêng hóa đến mức có thể coi là linh vật để được khắc họa trên các trụ biểu, đầu đao hay trấn giữ cổng chùa, đền, miếu… Vẫn còn đâu đó những danh xưng có phần miệt thị và bạc bẽo tồn tại trong dân gian dành cho con chó, đồ con chó, đồ chó… v.v…. Trên thực tế, Nghê (hay Toan Nghê) trong tiếng Hán có nghĩa là con Sư Tử. Điều đó có đồng nghĩa Nghê chỉ là con vật mang hình dạng của sư tử không? Merher Mc Arthur chỉ rõ: “tại cổng vào của một số đền chùa, nhất là ở Đông Á và Đông Nam Á thường có một cặp nghê, một thứ linh thú tựa như sư tử, từ Hán Việt là Phật sư, trấn giữ”. Văn hóa Việt Nam với cơ tầng vốn có của mình bên cạnh việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa của người Hán đã tiếp nhận văn hóa đó trong hòa đồng một phần của văn hóa Ën Độ, cụ thể ở đây là Phật giáo. Nếu văn hóa Hán theo bước chân những đạo quân xâm lăng phương Bắc tràn vào Việt Nam thì văn hóa Phật giáo đến với người Việt một cách nhẹ nhàng hơn. Người Việt trong hoàn cảnh phải chống lại thế lực hùng mạnh phía Bắc đã nương nhờ vào triết lý từ bi, khoan dung của Phật giáo để tồn tại suốt thời kỳ Bắc thuộc cũng như thời kỳ đầu độc lập. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà các nhà Lý, Trần chọn Phật giáo làm tôn giáo chính của đất nước dù trên danh nghĩa tôn giáo này không phải là quốc giáo. Các vị sư sãi đã đóng những vai trò quan trọng trong triều đình; chùa chiền, tự viện mọc lên khắp đất nước thời kỳ này và cả về sau…Phật giáo đã hòa vào lòng dân tộc Việt Nam; nói đến văn hóa Phật giáo cũng đồng nghĩa với việc đang nói đến văn hóa Việt Nam…. Ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận tượng nghê ở đầu các trụ biểu, đầu đao, cổng chùa, đền, miếu… là hình tượng của Phật sư hay sư tử trong văn hóa Phật giáo. Trong lịch sử Phật giáo, sau khi Đức Phật giác ngộ, người ta thường nhắc đến Ngài như là Con sư tử của dòng họ Shakyas cũng như nói đến nguồn gốc vương giả và thừa nhận uy lực tâm linh vô biên của Ngài. Sư tử trong văn hóa Phật giáo thường biểu thị uy lực của Phật pháp, nhưng trong hình tượng chung, Sư Tử lại thể hiện sức mạnh của con vật là Chúa tể muôn loài, quyền năng và quý trọng. Hình tượng sư tử ở ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam có những nét không giống nhau tùy theo cách hiểu và vận dụng ý nghĩa ban đầu của con vật này ở mỗi nền văn hóa…. Hình tượng con Nghê trong văn hóa Việt Nam rất có thể bắt nguồn từ Phật sư, nhưng hình tượng ấy được thể hiện nhỏ nhắn và linh động hơn. Người Việt Nam đã khôn khéo xây dựng cho riêng mình con Nghê không giống với Nghê mang hình dáng sư tử, bệ vệ trên các công trình của Phật giáo Ën Độ (hoặc các nước chịu ảnh hưởng Phật giáo và văn hóa ấn Độ). Con Nghê Việt Nam cũng là một biểu tượng khác với Kỳ lân hay Sư tử Trung Quốc. Con Nghê được trang trí ở Việt Nam không cao lớn như loài Ngựa như sự tưởng tượng về con Kỳ Lân Trung Quốc, đuôi nó cũng không phải là đuôi Bò, thân nó cũng ít khi thấy có vảy cá. Nghê cũng không có đầu nửa rồng nửa thú, và nó cũng không có sừng. Nghê trong mỹ thuật trang trí của người Việt có thân hình vừa phải, không quá to như thân Sư tử. Dáng đứng của Nghê cũng không quá chú trọng đến việc tạo ra sự hiên ngang, khí phách mà thay vào đó là sự uyển chuyển, hài hòa và nhẹ nhàng. Tóm lại hình tượng Nghê và Kỳ Lân ở Việt Nam là hai hình tượng khác nhau. Kỳ lân là hình tượng mang phong cách văn hóa Trung Hoa trong khi Nghê là linh vật bắt nguồn từ Phật giáo nhưng đã được người Việt cải biến thuần hóa. Trong văn hóa Việt Nam, qua quá trình tiếp xúc với văn hóa bên ngoài, người Việt đã tiếp thu những điều cần thiết và cải biến để chúng mang hồn Việt và văn hóa Việt. Trường hợp con kỳ lân và con nghê là ví dụ cụ thể. Nếu xem những hình ảnh về kỳ lân ta sẽ thấy Lân được miêu tả là con vật có vóc hình của loài Thú, nhưng da thì lại có vẩy của Bò Sát, chân có móng vuốt của Chim, miệng thì nhìn rất giống miệng Cá Sấu, thậm chí nhiều nguồn còn nói là nó sống được dưới nước. Ta biết là lớp thú tiến hóa từ lớp Bò Sát nên theo logic khoa học thì phải có một loài trung gian trong quá trình tiến hóa. Như vậy phải chăng Kỳ Lân chính là loài đó mà sau này nó đã tuyệt chủng, và có lẽ chính vì không còn thấy nó nữa nên người xưa đã thần thoại hóa nó thành con linh vật như ngày nay?. Kỳ lân là loài vật chuyên bảo vệ và canh giữ cửa ngôi nhà, miệng há to thu hút và trấn áp mọi loại hung khí vào nhà. Tượng kỳ lân trong phong thủy thường dùng trấn giữ cửa nhà, hoá giải hung khí chiếu tới khi đối diện với của nhà khác, bị ngã ba, ngã tư, đường vòng, hoặc góc nhọn chiếu vào cửa nhà. Gần đây, nhiều người bạn vừa tiếp xúc với tinh thể tự nhiên đã hỏi một số câu hỏi phổ.
Kỳ lân
Kỳ lân (麒麟, bính âm: qílín) hay còn gọi là lân, li, là một trong bốn linh vật của tứ linh theo tín ngưỡng dân gian Á Đông như tại Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên. Trong truyền thuyết của Trung Quốc thì Kỳ Lân được xem là đã trở nên giống như một con hổ sau khi sự biến mất của chúng trong thực tế và được cách điệu theo kiểu hươu cao cổ trong triều đại nhà Minh. Lân đầu nửa rồng nửa thú, đôi khi chỉ có một sừng, do không húc ai bao giờ nên sừng này là hiện thân của từ tâm. Phần nhiều lân có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rộng, thân ngựa, chân hươu, đuôi bò. Thực ra trong tạo hình của người Việt chúng ta khác tưởng tượng này, Điều có thể nhận ngay ra rằng khi nhìn vào hình tượng Kỳ Lân Việt Nam có chút khác so với Kỳ Lân Trung Quốc ở chỗ Kỳ Lân Việt Nam có đôi mắt to, mũi to, mõm ngắn đặc biệt phần đuôi xù ra hoặc rẽ quạt toát lên vẻ ngoài thân quen, vui vẻ, thân thiện hoạt bát dễ gần không ù lì, chễm chệ, dọa nạt như Kỳ Lân Trung Hoa.
Sau các vụ nổ bom hạt nhân hoặc là sau những thảm họa nổ các nhà máy hạt nhân thì ngoài những thiệt hại rất lớn về con người, về kinh tế ra… thì vấn đề về chất phóng xạ luôn được quan tâm một cách vô cùng đặc biệt. Vậy thì chất phóng xạ là gì, và nó nguy hiểm như thế nào mà chính phủ và các cơ quan chức năng lại lo lắng như vậy. Mời các bạn hãy cùng mình tìm hiểu rõ hơn ngay trong bài viết này nhé. Hiểu một cách đơn giản, chất phóng xạ là những chất mà có thể tự phân rã, có nghĩa là nó tự biến đổi thành những hạt nhân nhỏ hơn hoặc biến đổi thành một trạng thái khác. Nếu ai chưa hiểu thì Phản ứng phân hạch trong bom hạt nhân cũng được gọi là quá trình phân rã. Tuy nhiên, để phản ứng phân hạch này được xảy ra thì phải bắn vào nó một Notron để tách chúng thành các nguyên tử nhỏ hơn. Nhưng đối với các chất phóng xạ, quá trình phân rã này diễn ra hoàn toàn tự nhiên, không cần đến tác động của những thứ khác bên ngoài. Trong quá trình phân rã thành những nguyên tử nhỏ hơn thì đồng thời nó cũng bắn ra các tia gọi là các tia phóng xạ. Thực ra, phóng xạ nó chả có gì nguy hiểm đối với con người, nó cũng chỉ là quá trình biến đổi các nguyên tử lớn thành những nguyên tử nhỏ hơn mà thôi. Nhưng cái nguy hiểm mà mình đang muốn nói ở đây đó là tia phóng xạ. Chính vì tia phóng xạ mà quá trình phân rã xảy ra thì cực kỳ nguy hiểm và cực kỳ độc hại. Thực tế, tia phóng xạ được chia làm 3 loại đó là tia Alpha, tia Beta và tia Gamma. Để hiểu rõ hơn thì mời các bạn hãy cùng mình tìm hiểu cụ thể về từng loại nhé !. Tia phóng xạ Alpha là gì: Tia phóng xạ Alpha là những tia có những hạt alpha có điện tích gấp đôi điện tích Proton. Và các hạt này được phóng đi với vận tốc là 20.000 km/s và đây cũng chính là hạt nhân của nguyên tử Heli. Tia Beta – và tia Beta+ : Đây là các tia phóng xạ gồm các Electron tự do được phóng đi với tốc độ 100.000km/s. Tia Gamma: Cũng giống như 2 tia trên nhưng tia Gamma gồm các hạt Photon và chuyển động với tốc độ ánh sáng. => Như vậy thì các tia phóng xạ cũng không phải là những gì đó quá cao siêu mà ta không thể hiểu nổi. Nó cũng chỉ là những thứ rất quen thuộc mà ta đã được biết mà thôi, đúng không nào. Nhưng khác biệt là ở chỗ là chúng được bắn ra với tốc độ cực kỳ cao, nên vô cùng nguy hiểm. Tuy biết là độc hại, nhưng độc hại và ảnh hưởng cụ thể như thế nào thì chắc hẳn ít người biết. Cũng như các căn bệnh, ví dụ như ung thư thì có giai đoạn 1, giai đoạn 2 …, chất độc da cam thì có mức độ 1, mức độ 2… thì độ nguy hiểm của phóng xạ cũng như vậy. Không phải cứ dính vào phóng xạ là sẽ chết ngay, mà nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:. Bằng chứng để các bạn có thể hiểu được sự phụ thuộc vào các yếu tố đó chính là hằng ngày, chúng ta đang tiếp xúc với các phóng xạ. Đừng lầm tưởng rằng các phóng xạ chỉ có ở gần nhà máy hạt nhân hoặc vụ nổ bom nguyên tử thôi nhé, mà nó ở xung quanh chúng ta. Nhưng vì lượng phóng xạ chúng ta tiếp xúc là rất ít nên chúng ta vẫn an toàn. Cũng như các đại lượng khác thì phóng xạ cũng có đơn vị. Ví dụ như khoảng cách thì có đơn vị là m, km, hoặc lực thì có đơn vị là N, còn phóng xạ được đo bằng đơn vị Sievert (SV). Đơn vị được đặt theo tên của nhà khoa học Rolf Maximilian Sievert. Và mức độ ảnh hưởng, nguy hiểm của phóng xạ được chia thành 3 bậc như sau:. 0,25 – 1 Sv: Nhiều người sẽ có cảm giác buồn nôn, gây mất cảm giác ngon miệng, tủy xương, hạch bạch huyết, lá lách bị hư hỏng. 1 – 3 Sv: Các triệu chứng trở nên nặng hơn, tủy xương bị nhiễm trùng, hạch và lá lách bị thiệt hại nặng hơn. Tuy nhiên vẫn có khả năng phục hồi lại nhưng không chắc chắn. 3 – 6 Sv: Khi bị nhiễm phóng xạ ở mức độ này, người bị nhiễm sẽ cảm thấy buồn nôn nặng, và các triệu chứng như chán ăn, xuất huyết, nhiễm trùng, bong tróc da sẽ có thể xảy ra trong 1 ngày. Đặc biệt sẽ tử vong nếu không được điều trị. 6 – 10 Sv: Các triệu chứng tương tự sẽ xảy ra, ngoài ra còn có suy giảm hệ thần kinh và có thể tử vong. Trên 10 Sv: Mất sức và chết sau vài ngày. Cũng xin chia sẻ với những bạn nào chưa biết thì đây cũng là mức độ mà nhiều người dân Nhật Bản phải gánh chịu trong thảm họa. Không những thế, những người tiếp xúc với phóng xạ tuy ở mức độ nhẹ nhưng trong một khoảng thời gian dài cũng sẽ gây ra ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe. Nó có thể gây hư hại đến ADN, mặc dù ADN có thể tự sửa chữa và phục hồi, nhưng nếu không kịp thời hoặc quá trình đó xảy ra lỗi thì có thể dẫn đến các loại bệnh ung thư khác nhau. Như vậy là qua bài viết này mình đã giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác hại của phóng xạ rồi ha. Nếu bạn còn thông tin thú vị nào về phóng xạ thì đừng ngần ngại chia sẻ với mọi người ở phần comment nhé. Và cũng đừng quên ghé thăm Blog chia sẻ kiến thức mỗi ngày để có thêm các thông tin bổ ích nha. Chúc các bạn vui vẻ 🙂. vodailam: Mình đã dùng PC Hunter và xóa được folder game hay báo lỗi đang chạy không cho x. vinh: tôi bị mất toàn bộ dữ liệu trong ổ cứng vì làm theo các của bạn. Son Nguyen Hong: Em thì cứ Momo mà chơi 🙂 Cũng có một thời gian nó làm nhiều tính năng, game in a. vodailam: Mình đã dùng PC Hunter và xóa được folder game hay báo lỗi đang chạy không cho x.
Hạt nhân phóng xạ
Một hạt nhân phóng xạ (hoặc đồng vị phóng xạ) là một nguyên tử có năng lượng hạt nhân dư thừa, làm cho nó không ổn định. Năng lượng dư thừa này có thể được sử dụng theo một trong ba cách: phát ra từ hạt nhân dưới dạng bức xạ gamma; chuyển đến một trong số các electron của nó để giải phóng nó dưới dạng electron chuyển đổi; hoặc được sử dụng để tạo và phát ra một hạt mới (hạt alpha hoặc hạt beta) từ hạt nhân. Trong các quá trình đó, hạt nhân phóng xạ được cho là trải qua quá trình phân rã phóng xạ. Những phát thải này được coi là bức xạ ion hóa vì chúng đủ mạnh để giải phóng một electron khỏi một nguyên tử khác. Sự phân rã phóng xạ có thể tạo ra một hạt nhân ổn định hoặc đôi khi sẽ tạo ra một hạt nhân phóng xạ không ổn định mới có thể trải qua quá trình phân rã hơn nữa. Phân rã phóng xạ là một quá trình ngẫu nhiên ở cấp độ của các nguyên tử đơn lẻ: không thể dự đoán khi nào một nguyên tử cụ thể sẽ phân rã.
Chắc hẳn bạn đã từng nghe qua khái niệm thế hệ Millennials ở đâu đó trên các phương tiện truyền thông đại chúng rồi đúng không? Hẳn nhiều người đã bắt gặp cụm từ này ở đâu đó nhưng thực sự vẫn chưa hiểu hết về nó. Cùng mTrend khám phá thế hệ này có những đặc trưng khác biệt nào trong bài viết dưới đây bạn nhé!. 2 Những đặc trưng khác biệt của thế hệ Millennials2.1 Về tính cách thế hệ Millennials:2.2 Về hành vi sử dụng kỹ thuật công nghệ :2.3 Về suy nghĩ công việc và chi tiêu:2.4 Về phong cách ăn mặc:. Ngoài ra thế hệ Millennials còn được gọi là thế hệ Y, thế hệ Gen Y, thế hệ Gen Next, thế hệ Echo Boomers,… Khái niệm này dùng để chỉ những người sinh từ khoảng những năm 1980 đến 1996. Tại Việt Nam, thế hệ Millennials còn được gọi là thế hệ 8x, thế hệ 9x. Cũng giống như những thế hệ khác, thế hệ Millennials cũng có những đặc trưng riêng của mình. Bây giờ, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về những đặc trưng của thế hệ này liên quan đến tính cách, hành vi sử dụng công nghệ số, phong cách ăn mặc, suy nghĩ công việc và chi tiêu. Những người ở thế hệ Millennials xem trọng gia đình hơn sự nghiệp. Họ rất trân trọng những phút giây bên gia đình, nên họ thường là người có sức ảnh hưởng đến gia đình. Họ dành nhiều thời gian cho gia đình, ông bà, bố mẹ, anh chị em mặc dù đã kết hôn hay chưa. Thế hệ Millennials biết cách cân bằng giữa công việc và cuộc sống ở mức phù hợp. Thế hệ Millennials có xu hướng tìm đến những điều mới lạ, không ngại thử thách. Vì vậy việc mở mang kiến thức, bản thân phát triển tạo điều kiện và động lực để họ có công việc ý nghĩa. Họ cũng rất yêu thích các hoạt động gắn liền với đội nhóm nên việc hợp tác, làm việc nhóm được đánh giá cao. Thế hệ Millennials có tinh thần trách nhiệm, gắn bó cộng đồng, muốn được ghi nhận và khẳng định giá trị bản thân. Thế hệ Millennials chứng kiến từng bước phát triển của công nghệ số. Do đó, họ được tiếp xúc với công nghệ từ sớm khi chưa có định nghĩa cho đến khi kỹ thuật là một thứ được ứng dụng rộng rãi. Việc sử dụng những công nghệ đối với họ không có gì khó khăn. Họ có thể tiếp cận và sử dụng dễ dàng để kết nối xã hội, kết nối thông tin, với thế giới bên ngoài. Nhiều cuộc nghiên cứu đã chỉ ra rằng, thế hệ Millennials được cho là rất trung thành khi có đến 80% cho rằng họ sẽ làm việc cho 4 hoặc ít hơn 4 công ty trong suốt đời. Thế hệ Millennials thường xuyên mua sắm, thanh toán online, nhưng họ không hề là những người phung phí tiền bạc. Được đánh giá là thế hệ định hình lại bản đồ thời trang thế giới. Phong cách thời trang cổ điển đến thế hệ Millennials đã có sự đột phá, biến đổi đầy cá tính. Họ rất quan tâm đến những phong cách thời trang đề cao sự rộng rãi, thoải mái, free size,…Đặc biệt phải kể đến phong cách Streetwear và Street Style được thế hệ này yêu thích. Thế hệ Millennials được cho là nguồn lao động chính trong xã hội hiện nay và trong tương lai. Đây là thế hệ chắc chắn sẽ để lại nhiều dấu ấn cho sự phát triển của đất nước./
Thế hệ Millennials
Thế hệ Millennials (tiếng Anh: Millennials/ Generation Y, viết tắt: Gen Y) hay còn gọi là thế hệ thiên niên kỷ, là nhóm nhân khẩu học nằm giữa thế hệ X và thế hệ Z. Các nhà nghiên cứu và truyền thông phổ biến xem khoảng thời gian từ đầu thập niên 1980 đến giữa thập niên 1990 – đầu thập niên 2000 (hoặc từ năm 1981 đến 1996) là khoảng thời gian được sinh ra của nhóm này. Thế hệ Millennials còn được biết đến với tên gọi là "echo boomers" bởi vì sự gia tăng đột biến của tỷ lệ sinh giai đoạn thập niên 1980 – thập niên 1990 và còn bởi đa số họ là con cái của thế hệ bùng nổ dân số. Thế hệ này được đánh dấu bởi sự trưởng thành của họ dần làm quen và gắn liền với thời đại thông tin, cùng đó họ rất thoải mái trong việc sử dụng các thiết bị kỹ thuật số và mạng xã hội. Họ phần lớn là bố mẹ của thế hệ Alpha.
Phát xạ Positron và bắt electron và là hai loại quá trình hạt nhân. Mặc dù chúng dẫn đến những thay đổi trong nhân, hai quá trình này diễn ra theo hai cách khác nhau. Cả hai quá trình phóng xạ này xảy ra trong các hạt nhân không ổn định, nơi có quá nhiều proton và ít neutron hơn. Để giải quyết vấn đề này, các quá trình này dẫn đến việc thay đổi một proton trong hạt nhân thành neutron; nhưng theo hai cách khác nhau. Trong phát xạ positron, một positron (đối diện với electron) cũng được tạo ra ngoài neutron. Trong quá trình bắt electron, hạt nhân không ổn định bắt một trong số các electron từ một trong các quỹ đạo của nó và sau đó tạo ra một neutron. Đây là sự khác biệt chính giữa phát xạ positron và bắt electron. Phát xạ positron là một loại phân rã phóng xạ và một loại phân rã beta và còn được gọi là phân rã beta cộng (β+ sâu răng). Quá trình này liên quan đến việc chuyển đổi một proton thành neutron bên trong hạt nhân phóng xạ trong khi giải phóng positron và neutrino electron (νe). Sự phân rã Positron thường xảy ra ở các hạt nhân phóng xạ giàu proton lớn, bởi vì quá trình này làm giảm số lượng proton so với số lượng neutron. Điều này cũng dẫn đến sự biến đổi hạt nhân, tạo ra một nguyên tử của một nguyên tố hóa học thành một nguyên tố có số nguyên tử thấp hơn một đơn vị. Chụp electron (còn được gọi là Chụp K-electron, chụp K, hoặc chụp L-electron, chụp L) liên quan đến sự hấp thụ của một electron nguyên tử bên trong, thường là từ vỏ electron K hoặc L của nó bởi một hạt nhân giàu proton của một nguyên tử trung hòa điện. Trong quá trình này, hai điều xảy ra đồng thời; một proton hạt nhân thay đổi thành neutron sau khi phản ứng với một electron rơi vào hạt nhân từ một trong các quỹ đạo của nó và sự phát xạ của neutrino electron. Ngoài ra, rất nhiều năng lượng được giải phóng dưới dạng tia gamma. Thứ tự của các hạt nhân ở phía bên tay phải có thể theo bất kỳ thứ tự nào. Một neutrino cũng tham gia vào quá trình này. Nó được đẩy ra từ hạt nhân nơi electron phản ứng; do đó, nó được viết ở phía bên tay phải. Phát xạ Positron: Phân rã Positron có thể được coi là hình ảnh phản chiếu của phân rã beta. Một số tính năng đặc biệt khác bao gồm. Một proton trở thành neutron là kết quả của quá trình hoạt động vô tuyến xảy ra bên trong hạt nhân nguyên tử. Quá trình này dẫn đến sự phát xạ của positron và neutrino phóng to vào không gian. Quá trình này dẫn đến việc giảm số nguyên tử xuống một đơn vị và số khối vẫn không thay đổi. Chụp điện tử: Việc bắt electron không xảy ra theo cách tương tự như các phân rã hoạt động vô tuyến khác như alpha, beta hoặc vị trí. Trong chụp electron, một cái gì đó đi vào hạt nhân, nhưng tất cả các phân rã khác liên quan đến việc bắn một cái gì đó ra khỏi hạt nhân. Một electron từ mức năng lượng gần nhất (chủ yếu từ vỏ K hoặc vỏ L) rơi vào hạt nhân và điều này khiến một proton trở thành neutron. Số nguyên tử giảm xuống một đơn vị và số khối vẫn không thay đổi. Một phương pháp phóng xạ nhân tạo để biến đổi một nguyên tố / đồng vị thành một nguyên tố / đồng vị khác. Các nguyên tử ổn định có thể biến thành nguyên tử phóng xạ bằng cách bắn phá bằng các hạt tốc độ cao. một loại nguyên tử hoặc hạt nhân riêng biệt được đặc trưng bởi một số lượng proton và neutron cụ thể.
Phát xạ positron
Phát xạ positron hoặc phân rã beta cộng với phân rã (phân rã β+) là một phân nhóm của phân rã phóng xạ gọi là phân rã beta, trong đó một proton bên trong hạt nhân phóng xạ được chuyển đổi thành neutron trong khi giải phóng positron và neutrino electron (νe). Phát xạ positron được trung gian bởi lực yếu. Positron là một loại hạt beta (β+) hạt beta khác là electron (β−) phát ra từ sự phân r ã β−của hạt nhân. 2312Mg → 2311Na + e+ + νeDo sự phát xạ positron làm giảm số lượng proton so với số lượng neutron, sự phân rã positron thường xảy ra ở các hạt nhân phóng xạ "giàu proton" lớn. Sự phân rã Positron dẫn đến sự biến đổi hạt nhân, thay đổi một nguyên tử của một nguyên tố hóa học thành nguyên tử của một nguyên tố có số nguyên tử nhỏ hơn một đơn vị. Không nên nhầm lẫn phát xạ positron với phát xạ điện tử hoặc phân rã beta trừ (phân rã), xảy ra khi neutron biến thành proton và hạt nhân phát ra electron và antineutrino. Sự phát xạ Positron khác với sự phân rã của proton, sự phân rã giả thuyết của các proton, không nhất thiết là sự liên kết với neutron, không nhất thiết phải thông qua sự phát xạ của positron và không phải là một phần của vật lý hạt nhân, mà là vật lý hạt.
Hậu Ấn tượng thực chất không phải một trường phái nghệ thuật chính thống. Nó là tên gọi chung của một nhóm nhỏ họa sĩ độc lập với mong muốn khắc phục những điểm hạn chế của trường phái Ấn tượng vào cuối thế kỷ 19. Họ hình thành nhiều phong cách hội họa mới, tập trung vào yếu tố cảm xúc, kết cấu cùng tôn giáo còn thiếu sót trong Trường phái Ấn tượng. Những tìm tòi của nghệ sĩ Hậu Ấn tượng là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của hội họa đương đại sau này. Trường phái Ấn tượng là phong trào mở đường cho hội họa đương đại. Như những trào lưu nghệ thuật khác, trường phái Ấn tượng sớm được công chúng đón nhận và trở nên phổ biến, tuy nhiên, thế hệ họa sĩ lâm thời dần nhận ra những yếu điểm của nó. Hàng loạt những gương mặt nổi bật của trường phái Ấn tượng như Vincent Van Gogh, Paul Cézanne, Paul Gauguin và Georges Seurat đã phá bỏ mọi rào cản để tự do sáng tạo, qua đó đặt nền móng cho hội họa thế kỉ 20. Thuật ngữ ‘Hậu Ấn tượng’ được trích từ tên buổi triển lãm ‘Manet và những nghệ sĩ hậu ấn tượng’ được tổ chức tại Luân Đôn vào mùa đông năm 1919 bởi họa sĩ kiêm nhà phê bình Roger Fry. Mặc dù tên gọi có điểm tương đồng, bản chất hai trường phái là hoàn toàn đối lập. Cloisonnism, Synthetism và Symbolism là những thuật ngữ được sử dụng bởi các nghệ sĩ theo trường phái Hậu Ấn tượng, trong đó có Paul Gauguin. Thuật ngữ Cloisonnism được đưa ra bởi nhà phê bình Edouard Dujardin. Nó phản ánh kỹ thuật làm đồ kim hoàn mà cụ thể là kỹ thuật khảm bề mặt đá với lớp men tráng màu ‘cloisonné’ (‘cloinson’ trong tiếng pháp mang nghĩa ‘khung viền’). Hiệu quả thị giác mà nó đem lại mang nét tương đồng với những bức họa có đường nét sắc sảo cùng màu sắc hài hòa của Gauguin. Với kỹ thuật Synthetism, người nghệ sĩ mong muốn truyền tải cảm xúc của mình qua từng chi tiết bằng cách tối giản hóa các nét vẽ và phóng đại màu sắc được sử dụng trong tranh nhằm nâng cao giá trị biểu cảm của nó, là phương tiện giúp người nghệ sĩ truyền tải tâm tư và tình cảm. Cũng bởi vậy, Gauguin dần được biết tới là họa sĩ theo phong cách ‘Symbolism’. ‘The Yellow Christ’ là một trong những tác phẩm Hậu Ấn tượng tiêu biểu của Gauguin. Xuất hiện trong tranh là khung cảnh những người phụ nữ Brento truyền thống đang cầu nguyện bên đường. Một số nhà phê bình cho rằng bức tranh là tiền thân của chủ nghĩa biểu tượng, đồng thời là nỗ lực của tác giả để thu hút sự chú ý của dân chúng về những vấn đề tôn giáo nhức nhối đang diễn ra lúc bấy giờ. Được truyền cảm hứng từ hình ảnh cây thánh giá bằng gỗ tại một nhà thờ vùng Tremalo, Gauguin đã đưa nó vào như chủ thể của bức họa. Ngoài ra, ông còn sử dụng kỹ thuật tối giản hóa, kết hợp các nét vẽ đậm cùng những gam màu táo bạo nhằm đạt tối đa hiệu quả biểu cảm. Sự nghiệp hội họa của Gauguin có thể chia làm hai giai đoạn lớn: giai đoạn đầu ông vẽ nhiều về khung cảnh vùng quê Port Aven mộc mạc tại Brittany, giai đoạn sau, ông dành phần lớn thời gian tại hòn đảo nguyên sơ Marquesas thuộc Thái Bình Dương. Thông qua các tác phẩm hội họa thuộc hai giai đoạn trên, Gauguin đã chứng minh năng lực biểu cảm tiềm ẩn của sắc màu, là tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Dã thú. Mắc dù đã thừa nhận giá trị nhất định của trường phái Ấn tượng, Vincent Van Gogh vẫn bác bỏ nhận định của các nghệ sĩ thuộc trường phái về cùng hiệu quả của sắc màu và ánh sáng tự nhiên tới tác phẩm. Những tìm tòi của Van Gough về mặt tôn giáo và xúc cảm trong hội họa có ảnh hưởng tích cực tới chủ nghĩa Biểu Tượng. Paul Cézanne tin rằng nghệ sĩ phái Ấn tượng đã đánh mất một trong những yếu tố căn bản tạo nên thành công của một tác phẩm hội họa. Đó chính là nghệ thuật thanh lọc và dung hòa các yếu tố thị giác. Ông nhận thấy kỹ thuật của nghệ sĩ phái Ấn tượng còn nhiều hạn chế bởi họ luôn trong trạng thái vội vã nắm bắt những khoảnh khắc ngắn ngủi. Cézanne mong muốn thực hiện những bức họa với kết cấu chặt chẽ, ”cô đọng và có giá trị lâu bền, như những bức họa được trưng bày trong viện bảo tàng”. Ông gọi những tác phẩm của mình là ‘những công trình sau tự nhiên’, trong đó, thế giới đa chiều được mô phỏng với những đường nét và màu sắc trên giấy vẽ. Cách mà Cézanne sắp xếp và bóc tách từng chi tiết kết hợp sử dụng những sắc màu biến tấu đã truyền cảm hứng cho thế hệ họa sĩ Lập thể về sau. Bất mãn với những hạn chế của trường phái Ấn tượng, đặc biệt là việc các tác phẩm thuộc trường phái thiếu độ chuẩn xác trong chi tiết hay nét vẽ, Georges Seurat đã phát triển kỹ thuật vẽ tranh Pointillism hay còn gọi là Neo-Impressionism. Đây là phép pha màu xen kẽ cho phép người họa sĩ đem các chất liệu màu đặt cạnh nhau thành những chấm li ti để tạo nên hiệu quả từ xa. Nhìn vào tác phẩm của Seurat, người thưởng thức sẽ thấy chúng mang hơi hướng của trường phái Ấn tượng thay vì Pointillism bởi các tác phẩm của ông thường được vẽ ngoài trời, sử dụng một kỹ thuật thuộc chủ nghĩa Ấn tượng để có thể nhanh chóng nắm bắt được ánh sáng cùng màu sắc tự nhiên. Sau đó, Seurat sẽ mang bức vẽ trở lại phòng làm việc và chỉnh sửa nó theo phong cách Pointillism. Phương pháp này cho phép người họa sĩ tiếp cận tác phẩm một cách thận trọng và tỉ mẩn hơn, sử dụng những nét vẽ sắc sảo và tạo hình rõ nét mà vẫn giữ được hiệu quả ánh sáng cùng sắc màu thuộc trường phái Ấn tượng. – Hậu Ấn tượng là tên gọi chung của một nhóm nhỏ họa sĩ độc lập với mong muốn khắc phục những điểm hạn chế của trường phái Ấn tượng vào cuối thế kỷ 19. Những tìm tòi của nghệ sĩ Hậu Ấn tượng là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của hội họa đương đại sau này. – Các tác phẩm của Paul Gauguin có ảnh hướng lớn tới sự phát triển của trường phái Dã thú. – Các tác phẩm của Vincent Van Gogh có ảnh hưởng lớn tới trường phái Biểu hiện thế kỷ 20. – Các tác phẩm của Paul Cézanne có ảnh hưởng lớn tới xu hướng Lập thể vào đầu thế kỷ 20. – Kỹ thuật Pointillism của Seurat có tác động tới những nghệ sĩ có bước tiếp cận thận trọng hơn với hội họa, là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của trường phái Trừu tượng. Lưu tên của tôi và email trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi. Cập nhật tin tức, kiến thức, kỹ năng các chuyên ngành Thiết kế và Nghệ thuật toàn cầu. Nâng tầm Thiết kế và Nghệ thuật Việt Nam
Hậu ấn tượng
Hậu ấn tượng là tên gọi chung để chỉ tới những nghệ sĩ thuộc thời kỳ sau trường phái ấn tượng. Trường phái ấn tượng là một bước ngoặt trong hội họa, rũ bỏ những quan niệm từng tồn tại rất nhiều năm ở châu Âu. Từ sau ấn tượng, nhiều nghệ sĩ độc lập tìm tòi sáng tạo và đi theo các hướng khác nhau. Mặc dù họ không có phong cách sáng tác giống nhau, nhưng được gọi chung là hậu ấn tượng. Thuật ngữ này do nhà phê bình người Anh Roger Fry đặt ra chỉ những họa sĩ như Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh. Nghiên cứu về các họa sĩ này cũng cho thấy sự phát triển của nghệ thuật Pháp thời gian cuối thế kỷ 20. Các nghệ sĩ hậu ấn tượng từ chối rập khuôn theo chủ nghĩa ấn tượng và từng người tìm cách nổi bật cá tính của mình, có thái độ biểu hiện chủ nghĩa trong hình họa, màu sắc và cách giải quyết đề tài. Đó thực sự làm nên một nghệ thuật mới với những tuyên ngôn thẩm mĩ khác, không giống với nghệ thuật và kĩ thuật của xu hướng ấn tượng mà họ cùng tham gia trước đó.
Ngoài các đặc điểm chung của chủ nghĩa phát xít như độc tài, chuyên chế, phản dân chủ, xâm lược, dã man tàn bạo, phát xít Đức có một điểm độc đáo là tàn sát nhằm tiêu diệt những người chúng cho là “hạ đẳng” dù họ không phải là đối tượng chiến tranh. Hành vi nói trên xuất phát từ quan điểm chủng tộc bệnh hoạn cực đoan ích kỷ của Hitler: coi chủng tộc German là thượng đẳng (chúng tự lấy tên là người Aryan), các dân tộc Do Thái, Gypsy, Slavơ là hạ đẳng, cần giết hết để lấy không gian cho chúng sinh tồn. Phát xít Nhật cũng có quan điểm cho dân tộc Nhật là dòng dõi thần thánh, cần thống trị toàn châu Á để xây dựng “Đại Đông Á” ngang ngửa với Âu, Mỹ; nhưng chưa tới mức bệnh hoạn như Hitler. Năm 1933, Hitler chỉ thị phải thủ tiêu những người bẩm sinh tàn tật hoặc đần độn (không phải Do Thái). Khoảng 5000 trẻ em loại này đã bị tiêm thuốc độc chết. Năm 1939, hắn lập 6 “Trung tâm T-4”, dùng khí CO (carbon monoxide) giết mỗi đợt 20-30 người thiểu năng trí tuệ hoặc tâm thần, rồi đốt xác phi tang. Gia đình họ nhận được bình tro hài cốt và thư chia buồn nói chết là do viêm phổi, phải đốt xác để tránh truyền nhiễm. Về sau, do bị lộ, các đại diện tôn giáo lên tiếng phản đối. Hitler phải ngừng việc này (8/1941) khi hơn 70 nghìn nạn nhân đã chết, nhưng vẫn thủ tiêu tiếp vài nghìn tù chính trị, tù hình sự và người Do Thái theo cách cố ý kết luận họ bị tâm thần. Người Do Thái di cư đến Đức từ thế kỷ I; đầu thế kỷ XX họ có hơn nửa triệu người ở Đức, chiếm 1% số dân. Thủa xưa, tín đồ đạo Ki Tô ở châu Âu ghét người Do Thái vì cho rằng họ gây ra cái chết của Jesus. Cuối thế kỷ XIX, xuất hiện một “lý thuyết sinh học” nhận định Do Thái là một chủng người khác thường, có bản tính độc ác di truyền. Nước Nga Sa Hoàng giết hại hàng nghìn người Do Thái với lý do ấy. Nhiều người Do Thái chạy sang Đức, nơi họ coi là quốc gia văn minh nhất. Nhưng họ đã nhầm, vì sau này nơi đây xuất hiện Hitler. Hitler cho người Do Thái là loại quái vật bí hiểm quỷ quyệt, chuyên đứng sau giật dây, gây ra tất cả các tội ác, từ chủ nghĩa tư bản cho đến nạn mại dâm. Hắn dùng luật pháp định tội họ và đánh họ về kinh tế. Từ năm 1931, các đội Xung kích Nazi đã đập phá khu người Do Thái và các ngôi mộ của họ, cũng như ngăn người Đức tới mua hàng ở các cửa hiệu Do Thái. Năm 1933, Hitler ký các đạo luật cấm người Do Thái làm công việc văn thư, luật pháp, y tế, nông nghiệp, âm nhạc, kịch nói, điện ảnh, cấm phục vụ trong quân đội v.v. Giai đoạn 1933-1939 đã ban hành hơn 400 đạo luật chống Do Thái. Năm 1935, Quốc Hội thông qua Luật Chủng tộc Nuremberg, hoàn toàn loại trừ người Do Thái ra khỏi đời sống xã hội. Năm 1937, Goering thực thi “Aryan hoá nền kinh tế”, nghĩa là tịch thu các xí nghiệp của người Do Thái. Khoảng 80% các xí nghiệp này đã chuyển vào tay người Đức. Từ 1934, Đức bắt đầu xua đuổi người Do Thái. Hàng năm có 8000 người Do Thái bị đưa đến Palestine thuộc Anh – nơi được Anh hứa lập riêng một nhà nước Do Thái. Về sau các nước khác không nhận nữa, vì họ cũng bài Do Thái và vì đã nhận quá nhiều; như Ba Lan chỉ trong 20 năm đã có 400 nghìn người Do Thái đến. Mỹ, Anh, Pháp có truyền thống nhận người tỵ nạn, nay cũng hạn chế nhận. Việc xua đuổi giết hại người Do Thái chỉ chậm lại trong thời gian Đức tổ chức Thế vận hội Olympic 1936; sau đó lại đẩy mạnh. Trong “Đêm Kinh hoàng” 9/11/1938, các đội Xung kích đánh giết, cướp bóc, đập phá, đốt cháy nhiều cửa hiệu, đền thờ, nhà ở của người Do Thái ở Munich. Đầu năm 1939, Hitler tuyên bố: “Chủng tộc Do Thái ở châu Âu sẽ bị huỷ diệt.” Lực lượng SS bắt người Do Thái đưa về trại tập trung Dachau gần Munich để giết dần họ. Sau khi chiếm Ba Lan, nơi có 3,3 triệu người Do Thái, phát xít Đức bắt đầu tăng tốc độ tàn sát. Để giấu dân Đức biết việc này, từ cuối 1939, phát xít Đức chở người Do Thái và người Gypsy (ở Việt Nam quen gọi là người Di-gan, một chủng tộc gốc Indo-Aryan, năm 1979 được Liên Hợp Quốc công nhận là một dân tộc) ở châu Âu vào các trại tập trung ở Ba Lan. Cuộc tấn công vào Liên Xô – nơi có 5 triệu người Do Thái – đánh dấu bước ngoặt trong chính sách chống Do Thái. Hitler huấn thị cho các chỉ huy quân đội: Do Thái và Bôn-sê-vich, giới trí thức và Hồng quân Nga đều là kẻ địch phải tiêu diệt. Khi tiến vào Liên Xô, chúng cứ thấy người Do Thái là bắn ngay. Tại 3 nước vùng Ban-tích, chúng phối hợp với cảnh sát địa phương (vốn ghét Do Thái) làm việc này. Trong 5 tuần đầu vào đất Liên Xô, số người Do Thái bị chúng giết nhiều hơn tổng số đã giết từ trước đến lúc đó. Ngày 1/8/1941, Heydrich báo cáo Himmler: “Có thể tin chắc là trên mảnh đất miền Đông này sẽ không còn người Do Thái nữa.” Sau đó Himmler đến tận Minsk để xem “biểu diễn” cảnh hành quyết: hàng trăm người Do Thái nằm úp mặt dưới rãnh đào, lính SS bắn vào từng người. Himmler sợ tái mặt suýt ngã, thế nhưng sau đó hắn huấn thị: mọi người cần thi hành chức trách luật pháp của mình; để tự bảo vệ, loài người cần xác định kẻ nào là có hại, và đã có hại thì phải tiêu diệt sạch. Khi chiếm Kiev (9/1941), lính SS gọi toàn bộ người Do Thái tập trung vào nghĩa trang rồi xả súng bắn; trong 2 ngày, chúng giết chết 33.771 người. Về sau, Himmler ra lệnh phải tìm cách giết sao để “đỡ hành hạ họ về tinh thần”. “Sáng kiến” đầu tiên là dùng các xe tải bọc kín, mỗi xe chứa khoảng 50 người rồi bơm khí CO vào cho họ chết ngạt. Đầu 1942, khi đã giết hơn 1 triệu người “hạ đẳng”, Goering ra lệnh tăng tốc độ giết họ với mục đích diệt chủng. Chúng xây dựng ở Đông Âu 3 trung tâm giết người là các trại tập trung Belzec, Treblinka, Sobibor. “Dây chuyền công nghệ” mới là: dùng xe lửa chở người đến trại, lột hết quần áo, đưa vào phòng kín mỗi phòng 400 người rồi bơm khí CO vào, xác đem đốt hoặc chôn. Trung bình nạn nhân đến trại không quá 3 giờ là bị giết! Hàng ngày có 100 toa xe lửa chở người đến, mỗi ngày 3 trại này “sản xuất” được 25 nghìn xác chết! Tổng giá trị số tiền cướp từ nạn nhân lên tới 70 triệu USD. Tóc của họ được chở về Đức để chế tạo loại vải đặc biệt. Ba trại tập trung trên về sau bị Đức san bằng để phi tang tội ác; xác chết được đào lên rồi đốt. Tiếp đó, chúng xây dựng trại tập trung Auschwitz I, II và III, vừa là trại lao động vừa là các nhà máy giết người. Tháng 3/1944, Đức chiếm Hungary; lúc này Liên Xô đang đánh đuổi quân Đức ở Đông Âu, nhưng chúng vẫn kịp chở 280 nghìn người Do Thái ở Hungary đến Auschwitz. Khi quân đội Liên Xô giải phóng trại này (27/1/1945), chỉ còn 2800 người sống sót, trong kho còn hơn 836 nghìn áo khoác và váy phụ nữ, 370 nghìn áo khoác nam và 7 tấn tóc của người đã chết. Hitler cũng tàn sát hàng loạt người Gypsy – buộc tội họ phá hoại huyết thống người German. Chủ nhiệm “Viện nghiên cứu Vệ sinh chủng tộc và sinh vật học quần thể” là bác sĩ Robert Rits được giao nhiệm vụ nghiên cứu tìm “chứng cớ khoa học”. Tất cả người Gypsy đều phải đăng ký với chính quyền, rồi được phân loại theo mức độ lai với người Đức. Cuối cùng Rits kết luận: người Gypsy có dòng máu người nguyên thuỷ, làm thành một giai cấp “á vô sản” tự khép kín, có khuynh hướng phạm tội, nên đưa vào các trại tập trung để lao động, hoặc tốt nhất thủ tiêu họ. Khoảng 250-500 nghìn người Gypsy đã chết trong các trại tập trung. Tháng 8/1939, trước khi xâm lược Ba Lan, Hitler ra lệnh cho quân đội Đức: “Giết hết bất cứ đàn ông, đàn bà, trẻ con có huyết thống Ba Lan hoặc nói tiếng Ba Lan; chỉ có thế chúng ta mới giành được không gian sinh tồn ta cần”, nhằm lập một đế chế Nazi ở Đông Âu, xây dựng tại đây một xã hội “tuyệt đối nông thôn hoá, thuần khiết về đặc tính sinh học, không cho phép tồn tại dân bản địa hạ đẳng.” Himmler nói: “Chúng ta phải bảo đảm chỉ người Đức thuần chủng mới được sống ở miền Đông.” Để đàn áp phong trào kháng chiến, chúng quy định: cứ 1 lính Đức bị giết thì chúng sẽ giết 50-100 người Ba Lan. Lực lượng SS thành lập “Uỷ ban Tăng cường Đức hoá” (RKFDV) để quy hoạch đất đai Đông Âu, thủ tiêu người Slavơ ở đó và bố trí người Đức đến ở. Quân Đức đến đâu cũng ra lệnh cho mọi người dọn nhà sạch sẽ, chuẩn bị hành lý tuỳ thân trong vòng 20 phút và nộp chìa khoá nhà cho chúng, rồi chúng chở họ đến các trại tập trung. Nhà của người Ba Lan phải giữ lại cho người Đức đến ở sau khi hết chiến tranh. Ngoài nhà treo biển: “Người Ba Lan, Do Thái và chó cấm vào”. Ruộng đất giao cho quân đội Đức quản lý để khi lính Đức giải ngũ sẽ sử dụng. Tên Heydrich trùm SS khét tiếng giết người Do Thái về sau đã bị du kích Tiệp Khắc ám sát; để trả thù vụ này, phát xít Đức đã gây ra vụ thảm sát làng Lidice. Tổng cộng phát xít Đức đã giết 13 triệu dân thường Đông Âu; Ukraine – 4 triệu người (gần 1 triệu là Do Thái), một nửa số dân Kiev bị giết; Belorussia – 2,3 triệu hoặc 25% số dân; Ba Lan – 6 triệu (một nửa là Do Thái, một nửa là tín đồ Tin Lành) hoặc 22% số dân; Liên Xô – vài triệu dân người Slavơ và 3 triệu tù binh Nga gốc Slavơ. Tại Ba Lan, chúng giết toàn bộ các nhà báo, 45% bác sĩ, 57% luật sư, 40% giáo sư – những người chúng cho là có thể lãnh đạo dân chống lại Đức. Tuy thế, Hitler có thái độ khác đối với các nước Tây và Bắc Âu. Vẫn đánh nhau với Anh nhưng hắn tôn trọng dân Anh, vì họ cùng nguồn gốc chủng tộc German. Hắn lúc đầu muốn hoà bình với Anh để cùng chống Liên Xô, nhưng Thủ tướng Churchill phản đối vì đã thấy rõ bộ mặt xâm lược của hắn. Hitler coi người Slavơ là “đáng khinh”, nhưng chưa cần diệt ngay như người Do Thái. Hitler chủ trương nước Đức không xây dựng xã hội quý tộc nuôi nô lệ mà tự lao động kiếm sống trong một “xã hội nông thôn”. Cách mạng Văn hóa, với tên gọi đầy đủ là Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản, là một trong những chiến dịch tuyên truyền lớn nhất và quan trọng nhất của Mao Trạch Đông, gây nên một giai đoạn hỗn loạn xã hội kéo dài suốt một thập kỷ tại Trung Quốc.
Tội ác của Đức Quốc Xã đối với Ba Lan
Những tội ác chống lại Ba Lan được gây ra bởi Đức Quốc Xã và những lực lượng công tác trong cuộc tấn công Ba Lan (1939), cùng với những tiểu đoàn phụ trợ trong suốt cuộc chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bao gồm những cuộc thảm sát có hệ thống đối với người Do Thái Ba Lan và những người Ba Lan thiểu số (không phải Do thái). Quân Đức cho rằng rằng những cuộc thảm sát này dựa trên thuyết chủng tộc của Đức Quốc Xã, thuyết này đã cho rằng người Do Thái là 1 mối đe dọa và coi người Ba Lan và dân tộc Slav là những người hạ đẳng. Năm 1942, Đức Quốc Xã thực hiện kế hoạch giết người Do Thái ở những nước Châu Âu mà Đức chiếm đóng, và cũng như đề ra kế hoạch tận diệt người Ba Lan, bằng những cuộc thảm sát quy mô lớn, thanh lọc sắc tộc, bắt làm nô lệ, và đồng hóa một số lượng nhỏ người Ba Lan. Trong suốt Thế chiến 2, người Đức không chỉ sát hại hàng triệu người Do Thái và người Ba Lan,mà còn thanh lọc sắc tộc hàng triệu người thiểu số Ba Lan bằng di dời cưỡng bức, với ý định tạo không gian sống cho người Đức.
Trích: Trí Tuệ Cảm Xúc Ứng Dụng Trong Công Việc; Dịch giả: Phương Linh, Minh Phương, Phương Thúy; NXB Tri Thức. Tôi nhớ lại một người bạn từng đạt được kết quả tốt nhất trong kì thi đại học. Nhưng, dù có những năng lực trí tuệ ghê gớm như vậy, anh ta lại đi ngủ muộn và thường bỏ buổi học vì tới trưa mới dậy. Phải mất 10 năm anh ta mới có được tấm bằng. IQ thường không giải thích được sự khác nhau về số phận các cá nhân mà lúc đầu có vẻ như giống nhau. Khi người ta nhìn lại sự tiến thân của 90 sinh viên ở Harvard đầu những năm 40 – cái thời mà IQ của sinh viên những trường đại học ở bờ phía Đông được tính theo khoảng cách lớn hơn hiện nay, người ta thấy rằng những người giành được kết quả tốt nhất trong các kỳ thi lại không thành công bằng những người khác về tiền lương, và vị trí nghề nghiệp. Hơn nữa, họ cũng không hạnh phúc hơn trong đời tư của mình. Một cuộc điều tra tương tự đã được tiến hành trong 450 người trung niên gốc ở một khu phố bình dân gần Harvard, mà phần lớn là con cái những người nhập cư và hai phần ba xuất thân từ những gia đình nhận trợ cấp xã hội. Nhưng, cả ở đây nữa, IQ dường như không có quan hệ với thành công nghề nghiệp và đời riêng của họ. Chẳng hạn, số người có IQ thấp hơn 80 có 7% thất nghiệp từ mười năm nay hoặc hơn nữa, nhưng 7% số người có IQ cao hơn 100 cũng thế. Đúng là luôn luôn có sự tương quan giữa IQ và trình độ xã hội – kinh tế của cá nhân. Nhưng những năng lực mà họ đã chứng tỏ trong thời thơ ấu, như khả năng chịu đựng khó khăn làm chủ các xúc cảm và thông cảm với người khác, đã giải thích những sự khác nhau quan trọng nhất. Một ví dụ khác được lấy từ một nghiên cứu mới đây ở những người giỏi nhất nhì tại nhiều trường đại học ở Ilinois năm 1981. Đương nhiên, tất cả có điểm trung bình cao nhất ở bậc trung học. Nhưng, dù họ vẫn tiếp tục đạt những kết quả tuyệt vời ở trường đại học, thì khi đến độ tuổi 30, họ cũng chẳng thành công nhiều hơn những bạn học trung bình trước đây. Mười năm sau đại học, chỉ 1/4 người có mặt trong tốp dẫn đầu nghề nghiệp của họ, và nhiều người đã xoay xở trong cuộc sống kém hơn rất nhiều những người khác. Karen Arnold, giảng viên trường Đại học Boston, một trong những nhà nghiên cứu tham gia nghiên cứu này, giải thích: “Tôi tưởng rằng chúng tôi gặp toàn những học trò giỏi”. Nhưng, sau khi học xong, những người học giỏi cũng phải chiến đấu như người khác. Việc một cá nhân nằm trong số những người học giỏi nhất lớp chỉ cho thấy anh ta đặc biệt có khả năng đạt điểm tốt mà thôi. Điều đó chẳng nói lên điều gì về năng lực phản ứng của anh ta trước thăng trầm của cuộc đời. Và đây mới là vấn đề: trí tuệ lý thuyết không chuẩn bị cho cá nhân đương đầu với những thử thách của cuộc đời và nắm bắt những cơ hội hiện ra. Thế nhưng, ngay cả chỉ số IQ cao cũng không bảo đảm cho sự thịnh vượng, cho uy tín cũng như hạnh phúc, nhà trường và nền văn hoá của chúng ta chỉ chú tâm đến các năng lực trừu tượng và bỏ quên trí tuệ xúc cảm, nói cách khác, bỏ quên toàn bộ những nét tính cách có ảnh hưởng rất lớn tới số phận của chúng ta. Giống như toán hay văn, đời sống xúc cảm là lĩnh vực trong đó người ta có thể chứng tỏ mình có tài năng nhiều hơn hay ít hơn, và nó đòi hỏi sự am hiểu nhất định. Và sự thành thạo của cá nhân về mặt này giải thích tại sao về sau anh ta sẽ thành công trong cuộc đời, trong khi một kẻ khác, thông minh tương đương, lại không thành công. Năng lực xúc cảm là một siêu năng lực (meta-ability), nó quyết định việc chúng ta khai thác thế mạnh của mình, kể cả trí tuệ hiệu quả như thế nào. Đương nhiên có rất nhiều con đường thành công, cũng như nhiều lĩnh vực trong đó những năng lực khác của chúng ta được đền bù. Trong xã hội dựa trên sự tăng trưởng tri thức này, đó chính là trường hợp thành thạo về kỹ thuật. Có một câu chuyện đùa của trẻ con như sau: “Ai sẽ là “thằng ngốc” sau 15 năm nữa?” Đáp: “Ông chủ”. Nhưng, như chúng ta sẽ thấy ở phần thứ ba, ngay cả đối với những “thằng ngốc”, trí tuệ xúc cảm cũng đem lại ưu thế trong công việc. Rõ ràng, những người hiểu biết tình cảm, nắm được và làm chủ chúng, đoán được những tình cảm của người khác và hoà hợp với họ tốt, những người đó có lợi thế trong tất cả các lĩnh vực của cuộc đời, trong tình yêu cũng như công việc. Những người có được thói quen suy nghĩ kích thích hiệu quả có các năng lực xúc cảm khá phát triển sẽ có cơ hội tốt nhất để sống hạnh phúc. Ngược lại, những người không kiểm soát được đời sống tình cảm của mình thì chịu những xung đột nội tâm và phá bỏ mất năng lực tập trung và suy nghĩ sáng rõ của họ.
Trí tuệ xúc cảm
Trí tuệ xúc cảm (emotional intelligence - EI) thường dùng dưới hàm nghĩa nói về chỉ số cảm xúc (emotional intelligence quotient - EQ) của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng, năng lực, kỹ năng (trong trường hợp của mô hình tính cách về trí tuệ xúc cảm) hay khả năng tự nhận thức để xác định, đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của người khác, của các nhóm cảm xúc. Trí tuệ xúc cảm là nhánh nghiên cứu tương đối mới của ngành tâm lý học. Do đó, định nghĩa về trí tuệ xúc cảm không ngừng thay đổi. Nguồn gốc sâu xa nhất của trí tuệ cảm xúc có thể truy ngược về việc Darwin nghiên cứu về tầm quan trọng của sự diễn đạt cảm xúc của các cá thể trong quá trình chọn lọc tự nhiên và các thay đổi thích nghi Vào những năm 1900, mặc dù các định nghĩa truyền thống về trí tuệ nhấn mạnh tới yếu tố nhận thức như là trí nhớ và khả năng giải quyết vấn đề, nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng trong lĩnh vực nghiên cứu trí tuệ đã bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của khía cạnh "ngoài nhận thức" (non-cognitive).
Trò chơi sòng bạc trực tuyến đã thúc đẩy sự phổ biến của baccarat. Lần đầu tiên, bất kỳ ai muốn làm như vậy đều có tùy chọn chơi baccarat trực tuyến từ khá nhiều nơi trên thế giới. Nếu bạn không muốn đến sòng bạc truyền thống, bạn không cần phải làm vậy – tất cả đều có trên máy tính tại nhà của bạn. Có được khoảng từ 16 thứ thế kỷ, baccarat là xa từ một người mới đến hiện trường. Chỉ là tương đối gần đây, người chơi sòng bạc hàng ngày đã thể hiện sự quan tâm đến cổ điển sòng bạc tinh túy này. Trước tiên hãy đảm bảo các bạn đã học cách chơi Baccarat chuẩn được vn1388.com hướng dẫn rất chi tiết. Mặc dù baccarat có một bộ quy tắc rất độc đáo, nhưng nó thực sự khá đơn giản để nắm bắt. Có ba kết quả có thể xảy ra với mỗi trò chơi – một người chơi thắng, một người chia bài thắng hoặc cả hai người chơi hòa. Người chơi chọn và đặt cược vào một trong những khả năng này trước khi chia bài, vì vậy bạn đang đặt cược xem mình thắng hay thua. Giao dịch tuân theo một mô hình cụ thể mỗi lần. Người chơi không có quyền yêu cầu thêm thẻ hoặc từ chối chúng; công việc duy nhất của người chơi trong Baccarat là dự đoán chính xác kết quả của trò chơi. Cửa bài có giá trị cao nhất sẽ thắng và người chơi dự đoán đúng kết quả sẽ chiến thắng và nhận phần thưởng. Trong mỗi trò chơi baccarat, hai người chơi tham gia (người chơi và người chia bài) đều được chia hai lá bài. Sau giao dịch ban đầu này, người chơi sẽ quyết định ván bài nào mà họ tin rằng sẽ thắng. Khi lựa chọn này đã được thực hiện, các thẻ sau đó sẽ được hiển thị. Tại thời điểm đó, nếu một trong hai tay có tổng số là tám hoặc chín, nó được tuyên bố là nhà vô địch của thỏa thuận – hay còn gọi là cuộc đảo chính. Tuy nhiên, nếu cả hai tay đều không tạo được tám hoặc chín, có thể rút một thẻ khác nếu có một số điều kiện nhất định. Đối với ván bài của người chơi, các điều kiện tương đối đơn giản: nếu tổng điểm mở là từ 0 đến 5, họ có thể rút lá bài thứ ba. Hơn nữa, nếu tổng điểm mở của họ là sáu hoặc bảy, họ không được phép rút thẻ thứ ba. Sau đó, quyền kiểm soát chuyển giao cho người chia bài, người phải chọn nước đi của họ phù hợp với các điều kiện phức tạp hơn một chút. Đối với người chơi, baccarat là một trong những trò chơi đơn giản nhất trong số các trò chơi sòng bạc và có thể nhận được trong vài phút. Đặc biệt là khi chơi trực tuyến, nơi bạn thường có thể chơi miễn phí hoặc với số tiền cược thấp chỉ vài xu. Khi nói đến chiến thuật cho cờ bạc trực tuyến, baccarat cung cấp phạm vi tối thiểu để giảm lợi thế nhà cái thông qua chơi chiến lược. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bạn không thể tăng khả năng thành công với một chút kiến thức. Có một số người tin rằng cách tốt nhất để thành công khi chơi baccarat là liên tục đặt cược vào ngân hàng – tức là tay của nhà cái. Tuy nhiên, về mặt thống kê, điều này không thực sự mang lại cho bạn bất kỳ lợi thế thực sự nào. Ngoài ra, đại đa số các sòng bạc đều đánh thuế thêm 5% khi đặt cược vào ngân hàng. Điều đó có nghĩa là ngay cả khi bạn thắng, bạn sẽ được giao một số tiền của mình cho sòng bạc. Sự thật là, baccarat là một trò chơi may rủi, chỉ với một số ít hiểu biết và chiến lược ở bên. Không có thứ gì gọi là chiến lược baccarat được đảm bảo chứng minh hiệu quả trong bất kỳ khoảng thời gian nhất định nào. Cần nhớ rằng đây là một trò chơi sòng bạc cổ điển đã tồn tại trong nhiều thế kỷ. Nếu có một cách để đánh bại ngân hàng một cách thường xuyên hoặc thậm chí thường xuyên, nó đã được thực hiện từ lâu. Nó cũng có thể dẫn đến các sòng bạc trên toàn thế giới phá sản, điều này rõ ràng đã không xảy ra. Thực hành làm cho hoàn hảo và cho đến nay là cách tốt nhất để nắm bắt với baccarat. Chỉ cần thận trọng khi bạn đọc hoặc nghe về bất kỳ cái gọi là chiến lược ‘chiến thắng’ nào, vì chúng thực sự không tồn tại. Sẽ luôn có những người gợi ý rằng nếu bạn thực sự muốn thưởng thức baccarat, bạn cần phải đến một sòng bạc ngoài đời thực. Baccarat trực tuyến có thể có sức hấp dẫn của nó, nhưng không thể so sánh với thực tế… hoặc như họ nói. Trên thực tế, baccarat trực tuyến chia sẻ các điểm bán hàng và lợi thế giống như tất cả các trò chơi sòng bạc trực tuyến khác. Đăng ký với một sòng bạc trực tuyến tốt và có quyền truy cập vào một loạt các lợi ích độc quyền, chẳng hạn như:. Tiện ích hoàn toàn . Chơi baccarat và hàng trăm trò chơi sòng bạc tuyệt vời khác bất cứ lúc nào và ở bất kỳ đâu. Bạn thậm chí có thể chơi game khi đang di chuyển với hầu hết mọi điện thoại thông minh hoặc máy tính bảng. Ưu đãi tiền thưởng . Hầu hết mọi sòng bạc trực tuyến đang kinh doanh ngày nay đều cung cấp tiền thưởng và ưu đãi dành riêng cho khách hàng mới, điều này đơn giản là không tồn tại với các sòng bạc ngoài đời thực. Điểm thưởng tín dụng, vòng quay miễn phí hoặc thậm chí là ưu đãi hoàn tiền, chỉ bằng cách đăng ký. Cổ phần hợp lý . Chơi baccarat trực tuyến, bạn có quyền kiểm soát số tiền bạn đặt cược. Trên thực tế, bạn thậm chí có thể chơi miễn phí tại một số sòng bạc hàng đầu, vì vậy bạn có thể xem trò chơi diễn ra như thế nào trước khi chi một xu. Sự đa dạng vô tận . Không có sòng bạc ngoài đời thực nào trên thế giới có thể tự hào về sự đa dạng giống như sòng bạc trực tuyến tên tuổi. Chỉ cần chạm vào một nút, bạn sẽ xem (theo nghĩa đen) hàng nghìn trò chơi hoành tráng để chơi thử. Đại lý trực tiếp . Nếu bạn muốn thưởng thức đồ thật ngay tại nhà, chỉ cần tìm phần ‘ Sòng bạc Trực tiếp’ với một thương hiệu sòng bạc lớn. Tất cả những lợi ích của trò chơi trực tuyến, với việc bổ sung thêm một người chia bài ngoài đời thực để làm cho toàn bộ trò chơi trở nên sống động hơn. Tóm lại, baccarat là thứ mà bất kỳ ai quan tâm đến trò chơi sòng bạc đều nên thử. Mặc dù thường bị nhầm lẫn là một trò chơi phức tạp khó tham gia, baccarat là một trong những trò chơi đánh bài casino đơn giản và thú vị nhất mà bạn từng chơi.
Baccarat (trò chơi bài)
Baccarat hay baccara (; tiếng Pháp: ) là một trò chơi bài chơi tại Casino. Baccarat là cách phát âm tiếng Pháp của Người Ý cho từ "Số 0". Đây là một trò chơi so sánh điểm số giữa hai cửa "người chơi" và "nhà cái". Mỗi vòng chơi có ba kết quả có thể xảy ra: "người chơi" (người chơi có số điểm cao hơn), "nhà cái" và "hòa". Có ba biến thể phổ biến của trò chơi: Người chơi - Nhà cái (hoặc "baccarat Bắc Mỹ"), baccarat chemin de fer (hoặc "chemmy"), và baccarat banque (hoặc à deux tableaux). Nguồn gốc của trò chơi đang bị tranh cãi, và một số nguồn tin cho rằng nó có từ Thế kỷ 19. Các nguồn khác cho rằng trò chơi được đưa vào Pháp từ Ý vào cuối thế kỷ 15 bởi những người lính trở về từ Các cuộc chiến tranh Ý dưới triều đại của Charles VIII của Pháp. Baccarat đã được phổ biến trong giới quý tộc Pháp từ thế kỷ 19. Trong thời kỳ Napoléon và trước khi hợp pháp hóa cờ bạc sòng bạc vào năm 1907, người dân ở Pháp thường chơi Baccarat trong các phòng chơi tư nhân.
được quy định trong văn bản nào? Cùng Bstyle giải đáp những thắc mắc đó trong bài viết này nhé. EPC (viết tắt củaEngineering, Procurement and Construction) dịch ra tiếng Việt là thiết kế, mua sắm và xây dựng là một hợp đồng xây dựng mà nhà thầu thực hiện toàn bộ các công việc từ thiết kễ kỹ thuật, cung ứng vật tư, thiết bị cho tới thi công xây dựng công trình, hạng mục và chạy thử nghiệm bàn giao cho chủ đầu tư. Tên đầy đủ của EPC là Hợp đồng thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình ( theo nghị định 59/2015/NĐ-CP). Các công ty cung cấp dự án EPC thường được gọi là tổng thầu EPC. Một hợp đồng tổng thầu EPC khác với hợp đồng tổng thầu chìa khóa trao tay (Lump Sum Turn Key – LSTK). Hợp đồng “chìa khóa trao tay” (Turnkey), ngoài các phần thiết kế, cung ứng vật tư, thiết bị, thi công xây dựng công trình, nhà thầu được chọn còn cần thực hiện việc lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Hợp đồng EPCM cũng được bắt gặp thường xuyên trên các dự án quốc tế, nhưng điều này rất khác với hợp đồng EPC. EPCM là một hợp đồng chỉ dành cho dịch vụ, theo đó nhà thầu thực hiện các dịch vụ kỹ thuật, mua sắm và quản lý xây dựng. Website cập nhật kiến thức & thông tin các lĩnh vực kinh tế, tài chính, đầu tư, kỹ năng, kinh nghiệp kinh doanh, quản trị, phát triển doanh nghiệp và sự nghiệp cá nhân.
Hợp đồng tổng thầu EPC
Hợp đồng tổng thầu EPC, tên đầy đủ là Hợp đồng thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình (tiếng Anh: Engineering Procurement and Construction) là một loại hợp đồng xây dựng mà nhà thầu thực hiện toàn bộ các công việc từ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công, cung ứng vật tư, thiết bị đến thi công xây dựng công trình, hạng mục công trình và chạy thử bàn giao cho chủ đầu tư. Hợp đồng tổng thầu chìa khóa trao tay (LSTK, Lump Sum Turn Key). Hợp đồng loại "chìa khóa trao tay" (Turnkey), ngoài các phần thiết kế, cung ứng vật tư, thiết bị, thi công xây dựng công trình, nhà thầu được chọn còn cần thực hiện việc lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Hợp đồng thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ, lắp đặt và chạy thử nghiệm (EPIC, Engineering, Procurement, Installation & Commissioning) và đôi khi là Hợp đồng thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ, thi công xây dựng công trình và chạy thử nghiệm (EPCC, Engineering, Procurement, Construction and Commissioning).
Bạn bè thân thiết của gia đình nhà văn cho biết, Nguyễn Thị Ngọc Tú đau ốm lâu nay nhưng nhiều người vẫn bất ngờ trước sự ra đi của bà. Khi hay tin, nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn chia sẻ cảm xúc “bàng hoàng” trên trang cá nhân. Phan Thị Thanh Nhàn nhớ lại kỷ niệm khi bà cùng Nguyễn Thị Ngọc Tú và Xuân Quỳnh đi học ngắn hạn tại Nga. Nhà thơ kể, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú đã rất thương cảm khi chứng kiến những đàn bồ câu lang thang kiếm ăn trên tuyết lạnh. “Lại thêm một bạn gái văn chương của mình ra đi mãi mãi. Vĩnh biệt Nguyễn Thị Ngọc Tú, một nhà văn nữ đã có nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn nổi tiếng thời bao cấp và chiến tranh, một bạn gái có tấm lòng nhân hậu với cả loài chim lang thang trên phố”, Phan Thị Thanh Nhàn viết. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú sinh ngày 25/12/1940 tại Hà Nội. Từ 1960 đến 1962, bà là giáo viên tại Sơn Tây. Sau đó, bà theo học Trường Viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam, trở thành nhà văn, phóng viên. Nguyễn Thị Ngọc Tú từng là tổng biên tập tạp chí Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam. Bà là mẹ của nhà văn nổi tiếng Nguyễn Thị Thu Huệ. Các tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Thị Ngọc Tú gồm có: Huệ (Tiểu thuyết, 1964); Đất làng (Tiểu thuyết, 1974); Ngõ cây bàng (Tiểu thuyết, 1980); Câu chuyện dưới tán lá rợp (truyện ngắn, 1982); Hạt mùa sau (Tiểu thuyết, 1989); Giã từ mùa đông (Tiểu thuyết, 1989); Khoảng trời phía sau nhà (truyện ngắn, 1989); Ảo ảnh trắng (Tiểu thuyết, 1990); Hai người và những con sóng (Tiểu thuyết, 1992)… Trong đó, tiểu thuyết Hạt mùa sau từng đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1985. Còn Hai người và những con sóng đoạt Giải thưởng của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam năm 1998. Bà được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I, năm 2001. Lễ viếng nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú diễn ra từ 10h đến 12h ngày 23/5/2013 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng (số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội). Lễ truy điệu và đưa tang vào lúc 12h20 cùng ngày. An táng tại Đài hóa thân hoàn vũ (Văn Điển, Hà Nội).
Nguyễn Thị Ngọc Tú
Nguyễn Thị Ngọc Tú (1942-2013) là một nữ nhà văn Việt Nam. Bà là nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV, nguyên Tổng biên tập tạp chí Tác phẩm mới - Hội Nhà văn. Bà nổi danh trên văn đàn Việt Nam vào những thập kỷ 60, 70, 80 của thế kỷ XX và đã đoạt Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt I năm 2001. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú sinh ngày 25 tháng 12 năm 1942 tại Hà Nội. Bà từng là giáo viên cấp 2 tại Sơn Tây, sau đó đi học khóa I Trường Viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam. Những năm 1965-1967, bà trở thành phóng viên báo Vùng Mỏ thuộc tỉnh Quảng Ninh. Sau đó, Nguyễn Thị Ngọc Tú về làm phóng viên, biên tập viên của tuần báo Văn Nghệ rồi làm Tổng Biên tập tạp chí Tác phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú có một ái nữ là nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ.
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa định ra bảy kỳ lễ hội và truyền cho con dân của Ngài phải vâng giữ, như đã được liệt kê theo thứ tự trong Lê-vi Ký 23 . Bảy kỳ lễ hội ấy làm hình bóng cho những việc mà Đức Chúa Jesus Christ sẽ làm ra cho nhân loại trong thời Tân Ước. Con dân Chúa trong thời Tân Ước không còn bị buộc phải giữ bảy kỳ lễ hội của Thiên Chúa như con dân Chúa trong thời Cựu Ước, vì Đức Chúa Jesus Christ đã đến. Khi hình thật đã đến thì hình bóng không còn cần thiết nữa. “Vì vậy, chớ để ai phán xét các anh chị em về sự ăn hay sự uống, hoặc trong sự dự phần của một ngày lễ, hoặc của một ngày mặt trăng mới, hoặc của những ngày Sa-bát; ấy đều chỉ là bóng của các việc sẽ tới, còn hình thì ở trong Đấng Christ.” (Cô-lô-se 2:16-17) . Tuy nhiên, con dân Chúa trong thời Tân Ước vẫn có thể giữ các ngày lễ ấy, để kỷ niệm những sự Đức Chúa Jesus Christ làm ra cho loài người, miễn là không xem đó như điều kiện để được cứu. Trong thời Vương Quốc Ngàn Năm, muôn dân trên đất sẽ cùng nhau kỷ niệm bảy kỳ lễ hội này cùng các nghi thức dâng sinh tế, để suy nghiệm về ơn cứu rỗi của Thiên Chúa cùng các ơn phước Thiên Chúa ban cho những ai tin nhận sự cứu rỗi của Ngài (Ê-xê-chi-ên 44:24). Lễ Vượt Qua là lễ đứng đầu bảy kỳ lễ hội, nhằm ngày 14 tháng Ni-san, theo lịch Thiên Chúa ban hành cho dân I-sơ-ra-ên, ngày nay gọi là Lịch Hê-bơ-rơ hoặc Lịch Do-thái. Vì một ngày theo Thánh Kinh bắt đầu với buổi tối nên ngày 14 tháng Ni-san bắt đầu từ sau khi mặt trời lặn của ngày 13 cho đến khi mặt trời lặn của ngày 14. Danh từ Ni-san trong tiếng A-ra-mai ra từ danh từ “nitzan” của tiếng Hê-bơ-rơ, có nghĩa là “nụ cây” để chỉ về sự cây cối đâm chồi, nẩy lộc vào mùa xuân. Mùa xuân tại Trung Đông bắt đầu vào khoảng cuối tháng ba đầu tháng tư Dương Lịch, là thời điểm lúa mạch trổ bông, kết hạt. Vì thế, tháng Ni-san còn được gọi là tháng lúa trổ (Xuất Ê-díp-tô Ký 13:4). Trong Thánh Kinh, danh từ Ni-san được dùng hai lần: Nê-hê-mi 2:1 và Ê-xơ-tê 3:7. “Tháng này sẽ làm đầu cho các tháng đối với các ngươi, nó sẽ là tháng thứ nhất trong năm.” (Xuất Ê-díp-tô Ký 12:2). Lễ Vượt Qua do chính Thiên Chúa thiết lập và chỉ định cho dân I-sơ-ra-ên phải vâng giữ. Chi tiết về sự giữ Lễ Vượt Qua được Thiên Chúa phán truyền cho Môi-se và A-rôn, được ghi lại trong Xuất Ê-díp-tô Ký 12. Lễ Vượt Qua đầu tiên rất quan trọng, liên quan đến sự sống chết của các con đầu lòng, từ loài người đến thú vật, giữa vòng dân I-sơ-ra-ên. Thiên Chúa phán truyền về sự cử hành Lễ Vượt Qua vào ngày 1 tháng 1 (tháng Ni-san) trong năm dân I-sơ-ra-ên được Thiên Chúa giải cứu khỏi ách nô lệ của đế quốc Ê-díp-tô, và dựng họ thành một dân biệt riêng cho Ngài. Cũng trong ngày ấy, Thiên Chúa ban hành lịch cho họ. Khi chúng ta đối chiếu các chi tiết trong Thánh Kinh với các sử liệu ngoài Thánh Kinh, thì chúng ta tìm thấy ngày 1 tháng 1 trong năm Thiên Chúa ban hành lịch cho dân I-sơ-ra-ên và cứu họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô nhằm Thứ Năm, ngày 12 tháng 3 năm 1446 TCN, theo Lịch Julian. Và ngày Lễ Vượt Qua đầu tiên nhằm Thứ Tư, ngày 26 tháng 3 năm 1446 TCN, theo Lịch Julian . Có một điều lạ lùng trong sự kiện Thiên Chúa ban hành lịch cho dân I-sơ-ra-ên mà ngày 1 tháng 1 nhằm vào Thứ Năm. Như chúng ta đã biết, trong tuần lễ sáng tạo, đến ngày Thứ Tư, Thiên Chúa mới dựng nên mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao, để chiếu sáng trên đất và làm dấu định những mùa, những ngày, và những năm (Sáng Thế Ký 1:14-19), tức là để tạo ra lịch. Vì thế, ngày 1 tháng 1 của lịch phải bắt đầu vào ngày Thứ Năm. Một điều lạ lùng khác là Lễ Vượt Qua đầu tiên và Lễ Vượt Qua mà Đấng Christ bị giết đều xảy ra vào ngày Thứ Tư, là ngày mà các nguồn sự sáng của địa cầu được sáng tạo. Ngày Lễ Vượt Qua đầu tiên khi được thành lập nhằm Thứ Tư, ngày 26 tháng 3 năm 1446 TCN, tại xứ Ê-díp-tô. Có thể được xem là ngày ánh sáng của tự do xuất hiện và chiếu trên dân tộc I-sơ-ra-ên. Ngày Lễ Vượt Qua khi Đức Chúa Jesus Christ chịu chết trên thập tự giá nhằm Thứ Tư, ngày 9 tháng 4 năm 27, tại xứ Ca-na-an. Có thể được xem là ngày ánh sáng của tự do xuất hiện và chiếu sáng trên những linh hồn đang bị nô lệ trong tội lỗi, không phân biệt chủng tộc:. “Các dân ấy ngồi trong tối tăm, đã nhìn thấy ánh sáng lớn. Và cho những kẻ ngồi trong miền và bóng của sự chết, thì ánh sáng đã bừng lên.” (Ma-thi-ơ 4:16; Ê-sai 9:2). Mục đích thứ nhất của Lễ Vượt Qua là để dân I-sơ-ra-ên thể hiện đức tin của mình vào Thiên Chúa; nhờ đó mà họ không bị họa chung với dân Ê-díp-tô trong khi Thiên Chúa giáng tai họa để hình phạt dân Ê-díp-tô. Dân I-sơ-ra-ên làm hình bóng cho những ai thuộc về Thiên Chúa, là những người tin cậy và vâng phục Thiên Chúa. Dân Ê-díp-tô làm hình bóng cho những ai thuộc về thế gian, là thế lực chống nghịch Thiên Chúa và bách hại con dân của Ngài. Mục đích thứ nhì của Lễ Vượt Qua là để loài người biết rằng, chiên con bị giết trong Lễ Vượt Qua là hình bóng về sự Đấng Christ sẽ chịu chết để chuộc tội cho loài người. Chỉ những ai tin và thể hiện đức tin của mình vào sự chết chuộc tội của Đấng Christ thành hành động vâng phục Thiên Chúa, thì mới được thoát khỏi hình phạt của Thiên Chúa vì sự phạm tội của họ. Nghĩa đen của chữ “Vượt Qua” là Thiên Chúa sẽ đi ngang qua các nhà có khung cửa đã được đánh dấu bằng máu của chiên con, không ngừng lại để giáng tai họa trên nhà ấy. Nghĩa bóng của chữ “Vượt Qua” là Thiên Chúa sẽ không hình phạt những ai tin vào máu chuộc tội của Đấng Christ, đã đi qua cánh cửa nhuộm máu là Đức Chúa Jesus Christ, để vào trong chuồng chiên của Ngài:. “Vậy, Đức Chúa Jesus lại phán với họ: Thật vậy! Ta nói với các ngươi, Ta là cửa của chiên. Hết thảy những kẻ đã đến trước Ta đều là những kẻ trộm và cướp; nhưng chiên không nghe chúng nó. Ta là cái cửa! Nếu ai bởi Ta mà vào, thì sẽ được cứu, và sẽ vào ra, và sẽ gặp đồng cỏ.” (Giăng 10:7-9). Mệnh lệnh của Thiên Chúa về Lễ Vượt Qua được ghi lại trong Xuất Ê-díp-tô Ký 12:3-14. 3 Các ngươi hãy nói cho toàn hội chúng I-sơ-ra-ên rằng: Vào ngày mười tháng này, họ sẽ bắt cho họ, mỗi người một con chiên con, cho nhà cha của họ, mỗi nhà một con chiên con. 4 Nếu gia đình nào quá ít cho một chiên con thì hãy chung cùng người lân cận kế nhà mình, theo số các linh hồn, tùy sức ăn mỗi người, mà các ngươi tính số chiên con. 6 để dành cho đến ngày mười bốn tháng này; rồi cả hội chúng I-sơ-ra-ên sẽ giết nó, vào buổi tối. 7 Họ sẽ lấy máu đem bôi trên hai cây cột cửa và thanh ngang trên cửa của những nhà nào ăn thịt nó. 8 Đêm đó, họ sẽ ăn thịt nướng trên lửa với bánh không men, và họ sẽ ăn với rau đắng. 9 Chớ ăn sống hay là luộc trong nước, nhưng phải nướng trên lửa: đầu, chân, và thân mình của nó. 10 Các ngươi chớ để phần nào của nó còn lại cho đến buổi sáng. Nếu phần nào của nó còn lại cho đến buổi sáng thì hãy thiêu bằng lửa. 11 Các ngươi sẽ ăn như thế này: Lưng của các ngươi thắt lại, chân của các ngươi mang giày, tay của các ngươi cầm gậy, và các ngươi sẽ ăn cách vội vàng. Ấy là Lễ Vượt Qua của Đấng Tự Hữu Hằng Hữu. 12 Đêm đó, Ta sẽ đi qua đất Ê-díp-tô, đánh chết mọi con đầu lòng của đất Ê-díp-tô, cả loài người lẫn loài thú. Ta sẽ thi hành án phạt trên mọi thần linh của Ê-díp-tô. Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu. 13 Máu sẽ là một dấu hiệu trên nhà các ngươi ở. Khi Ta nhìn thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và tai họa sẽ chẳng hủy diệt các ngươi khi Ta đánh giết đất Ê-díp-tô. 14 Ngày ấy sẽ là một ngày kỷ niệm cho các ngươi, các ngươi sẽ giữ một lễ cho Đấng Tự Hữu Hằng Hữu. Trải qua các đời của các ngươi, các ngươi sẽ luôn giữ một lễ theo điều luật. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từng câu trong phân đoạn này. Sau khi ban hành lịch cho dân I-sơ-ra-ên qua Môi-se và A-rôn, Thiên Chúa lập tức phán truyền cho hai ông về chi tiết của Lễ Vượt Qua mà hai ông phải truyền đạt lại cho toàn thể dân I-sơ-ra-ên. 3 Các ngươi hãy nói cho toàn hội chúng I-sơ-ra-ên rằng: Vào ngày mười tháng này, họ sẽ bắt cho họ, mỗi người một con chiên con, cho nhà cha của họ, mỗi nhà một con chiên con. 4 Nếu gia đình nào quá ít cho một chiên con thì hãy chung cùng người lân cận kế nhà mình, theo số các linh hồn, tùy sức ăn mỗi người, mà các ngươi tính số chiên con. “Ngày mười tháng này” tức là ngày 10 tháng Ni-san. Trong ngày đó, các gia trưởng của dân I-sơ-ra-ên, mỗi người sẽ bắt một con chiên con cho gia đình của họ. Mỗi gia đình một con chiên con. Mặc dù trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ của Thánh Kinh không dùng danh từ “gia trưởng”, nhưng qua cách nói “cho nhà cha của họ” mà chúng ta hiểu rằng, công việc bắt chiên con này được giao cho các gia trưởng, là những người đàn ông đứng đầu trong gia đình. Mỗi gia trưởng sẽ bắt một con chiên con cho gia đình của mình. Trường hợp gia đình nào có số người quá ít không thể ăn hết một con chiên, thì phải chung cùng người lân cận kế nhà mình, để có thể ăn chung một con chiên. Có thể là hai gia đình ít người ăn chung một con chiên, hoặc một gia đình ít người hiệp với một gia đình nhiều người ăn chung hai con chiên. Trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ của Thánh Kinh đã dùng danh từ “các linh hồn” trong câu 4 để chỉ về số người trong một gia đình, nhằm nhấn mạnh đến tính cách thuộc linh của Lễ Vượt Qua, về sự giải cứu và sự sống thuộc linh của những ai được Thiên Chúa kêu gọi và nhận làm con dân của Ngài. 6 để dành cho đến ngày mười bốn tháng này; rồi cả hội chúng I-sơ-ra-ên sẽ giết nó, vào buổi tối. Danh từ “chiên con” mà chúng ta thường thấy trong bản dịch Thánh Kinh Việt ngữ là một danh từ được dùng để gọi hoặc chiên con hoặc dê con. Thường thì chiên con được dùng trong Lễ Vượt Qua, vì số lượng chiên nhiều hơn số lượng dê. “Tuổi giáp niên” tức là vừa tròn một năm tuổi. “Chẳng có tì, vết” là không bị bệnh, không bị thương, không bị tật. Chiên con của Lễ Vượt Qua bị giết vào buổi tối của ngày 14 tức là sau khi mặt trời lặn của ngày 13 và được ăn ngay trong đêm đó. Khi đọc Thánh Kinh Tân Ước chúng ta nhận thấy Đức Chúa Jesus Christ và các môn đồ của Ngài đã ăn Lễ Vượt Qua vào buổi tối của ngày 14. Sau đó, Ngài bị bắt, đến sáng thì bị giải ra trước Tòa Công Luận, rồi trước tòa án của Phi-lát. Nhưng dân I-sơ-ra-ên thì vẫn chưa ăn lễ Vượt Qua, mà chờ cho đến sau khi mặt trời lặn của ngày 14 tức là đã sang ngày 15. Họ đã giữ Lễ Vượt Qua sai quy định của Thiên Chúa. So sánh các câu Thánh Kinh dưới đây:. “Trong ngày thứ nhất ăn bánh không men, các môn đồ đến gần Đức Chúa Jesus mà thưa với Ngài: Ngài muốn chúng tôi dọn cho Ngài ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?” (Ma-thi-ơ 26:17). “Ngày thứ nhất ăn bánh không men, khi người ta giết Lễ Vượt Qua, các môn đồ của Ngài thưa với Ngài: Ngài muốn chúng tôi đi dọn cho Ngài ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?” (Mác 14:12). “Rồi, ngày ăn bánh không men, khi Lễ Vượt Qua phải bị giết, đã đến. Ngài sai Phi-e-rơ và Giăng đi, phán rằng: Hãy đi! Dọn Lễ Vượt Qua cho chúng ta, để chúng ta ăn.” (Lu-ca 22:7-8). “Kế đó, họ giải Đức Chúa Jesus từ Cai-phe đến toà án. Bấy giờ đang còn sớm, và họ không vào trong tòa án, cho khỏi bị ô uế, để họ được ăn Lễ Vượt Qua.” (Giăng 18:28). Chúng ta thấy rõ: Đức Chúa Jesus Christ và các môn đồ của Ngài đã ăn Lễ Vượt Qua sau khi mặt trời lặn của ngày 13, là lúc bắt đầu ngày 14 của lễ Vượt Qua. Vài tiếng đồng hồ sau đó, Ngài bị bắt, và đến sáng sớm thì bị giải đến tòa án của Phi-lát. Những người I-sơ-ra-ên bắt Ngài đã không dám đi vào trong tòa án, để tránh bị ô uế, vì họ dự định sẽ ăn Lễ Vượt Qua sau khi mặt trời lặn của ngày 14, tức là đã bước sang ngày 15, là ngày Sa-bát của Lễ Bánh Không Men. Dân I-sơ-ra-ên ngày nay cũng phạm cùng một lỗi lầm như dân I-sơ-ra-ên thời bấy giờ. Họ ăn Lễ Vượt Qua sau khi mặt trời lặn của ngày 14 tháng Ni-san thay vì phải ăn sau khi mặt trời lặn của ngày 13, là lúc bắt đầu của Lễ Vượt Qua, như mệnh lệnh Thiên Chúa đã truyền trong Xuất Ê-díp-tô Ký 12:6. Mặc dù Lễ Bánh Không Men bắt đầu từ ngày 15 cho đến ngày 21 của tháng Ni-san, với ngày 15 và ngày 21 là hai ngày dân I-sơ-ra-ên phải ngưng làm việc, gọi là Lễ Sa-bát, khác với ngày Sa-bát Thứ Bảy cuối tuần, để nhóm hiệp cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa truyền cho dân I-sơ-ra-ên bắt đầu ăn bánh không men từ tối ngày 14 của Lễ Vượt Qua (sau khi mặt trời lặn của ngày 13) cho đến tối ngày 21. Vì thế, ngày Lễ Vượt Qua còn gọi là ngày thứ nhất ăn bánh không men:. “Ngày mười bốn tháng Một, vào buổi tối, các ngươi sẽ ăn bánh không men cho đến buổi tối ngày hai mươi mốt tháng đó.” (Xuất Ê-díp-tô Ký 12:18). Ngày thứ nhất ăn bánh không men là ngày Lễ Vượt Qua, nhằm 14 tháng Ni-san, bắt đầu sau khi mặt trời lặn của ngày 13. Ngày thứ nhất của Lễ Bánh Không Men là ngày 15 tháng Ni-san và là ngày Lễ Sa-bát đầu tiên, bắt đầu sau khi mặt trời lặn của ngày 14. Ngày thứ bảy của Lễ Bánh Không Men là ngày 21 tháng Ni-san và là ngày Lễ Sa-bát thứ nhì, bắt đầu sau khi mặt trời lặn của ngày 20.
Lễ Vượt Qua
Lễ Vượt Qua hay lễ Quá Hải (tiếng Hebrew: פֶּסַח Pesaḥ) là lễ quan trọng nhất của người Do Thái, kéo dài một tuần. Chiều ngày 14 tháng Ni-xan (khoảng tháng ba, tháng tư dương lịch), người ta sát tế chiên (cừu) tại đền thờ, rồi tư tế lấy máu chiên mà đổ dưới chân bàn thờ. Khi đêm xuống, người ta sẽ ăn tiệc chiên vượt qua theo gia đình hay theo nhóm mà không quên lấy chút máu chiên bôi lên cửa nhà. Lễ Vượt Qua được cử hành như một cuộc tưởng niệm nhằm giúp mỗi người sống lại kinh nghiệm của cha ông họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập xưa kia. "Ta sẽ lấy các ngươi làm dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi"Họ sẽ nhắc nhở lại biến cố Xuất Hành và đọc một bài Thánh Vịnh khi tiệc tàn. làm gạch, làm đủ thứ công việc đồng áng, bị cưỡng bức lao động để xây dựng thành quách kho tàng cho vua Ai-cập. Thiên Chúa đã nghe tiếng la thán và thấy nỗi thống khổ của họ, nên Ngài đã đến với Môi-se, để sai phái ông cứu họ ra khỏi tay người Ai-cập và để đem tuyển dân của Ngài vào miền đất hứa, là một xứ tốt đẹp rộng rãi, tuôn tràn sữa và mật ong.
Bảng tuần hoàn hay bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học rất quen thuộc đối với mỗi bạn học sinh, sinh viên hay những ai làm trong lĩnh vực nghiên cứu hóa học. Đây là một phương pháp giúp liệt kê các nguyên tố hóa học thành bảng dựa trên số hiệu nguyên tử (số proton trong hạt nhân), cấu hình electron cùng các tính chất hóa học đặc trưng của chúng. Có nhiều dạng bảng nguyên tố khác nhau, nhưng ở nước ta chủ yếu sử dụng bảng cổ điển ở dạng ô, trong đó các nguyên tố hóa học được sắp xếp theo số proton mà mỗi nguyên tố có trong hạt nhân nguyên tử của nó. Có thể bạn chưa biết, bảng tuần hoàn hóa học ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của nhân loại. Không chỉ là một tài liệu rất cần thiết phục vụ trong học tập mà nó còn được ứng dụng trong các công trình nghiên cứu, chứa đựng cả kho tàng thông tin hữu ích. Không chỉ được ứng dụng trong nhiều ngành khác nhau, nó còn tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực nguyên tử. Nếu biết vị trí của một nguyên tố trong bảng tuần hoàn, từ đó biết được cấu tạo của nguyên tố đó và ngược lại. Ví dụ: Nguyên tố ở STT 20, chu kỳ 4 và thuộc nhóm IIA thì có thể xác định được nguyên tố đó là Ca, có 20p, 20e trong nguyên tử và có 4 lớp e với số e lớp ngoài cùng là 2. Khi biết vị trí của nguyên tố trong bảng, có thể hiểu được những tính chất hóa học cơ bản của nó. Dựa vào quy luật biến đổi tính chất của các nguyên tố có trong bảng, ta cũng có thể so sánh tính chất hóa học của một nguyên tố với các nguyên tố lân cận khác. Trước tiên, ta cần hiểu ở trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học được sắp xếp theo thứ tự số hiệu nguyên tử tăng dần. Một bảng chuẩn gồm có 18 cột, 7 dòng, 2 dòng kép nằm riêng bên dưới là họ Lantan và họ Actini. Được bắt đầu từ bên trái phía trên và kết thúc ở cuối hàng cuối cùng, nằm gần phía dưới bên phải. Tuy nhiên, không phải hàng hay cột nào cũng chứa đủ các nguyên tố. Do đó, nếu bắt gặp ô trống ở giữa, chúng ta vẫn tiếp tục đọc bảng tuần hoàn từ trái sang phải. Các nguyên tố có cùng cấu hình e lớp ngoài cùng sẽ được sắp xếp theo cột đứng và được gọi là nhóm nguyên tố. Trong cùng một nhóm, chúng ta sẽ đọc từ trên xuống dưới. Số nhóm có thường được đánh ở trên các cột, ở một vài nhóm khác lại được đánh số phía dưới. Cách đánh số có thể sử dụng chữ số La Mã, hoặc Ả Rập hay con số từ 1-18. Với các nguyên tố sắp xếp theo chiều điện tích hạt nhân tăng dần và có cùng số lớp trong lớp vỏ e, được gọi là chu kỳ bảng tuần hoàn. Cụ thể, có 7 chu kỳ được đánh số từ 1 đến 7 ở bên trái của bảng và trong một chu kỳ thì được đọc theo chiều từ trái sang phải trong đó chu kỳ sau sẽ lớn hơn chu kỳ trước. Cần hiểu được cách phân loại màu sắc cho các nhóm kim loại, á kim hay phi kim. Ta cần đọc ký hiệu hóa học trước, nó là sự kết hợp của 1 hay 2 chữ cái được thống nhất sử dụng. Đọc tên thông thường của nguyên tố, nó được đặt ngay dưới ký hiệu hóa học và sẽ được thay đổi phù hợp với ngôn ngữ của bảng tuần hoàn. Đọc bảng tuần hoàn hóa học theo số hiệu nguyên tử nằm ở giữa bên trên hoặc ở trên bên trái của mỗi ô nguyên tố (ô nguyên tố bao gồm tên nguyên tố, kí hiệu hóa học, số hiệu nguyên tử, nguyên tử khối trung bình, độ âm điện, cấu hình electron và số oxi hóa). Số hiệu nguyên tử sẽ được sắp xếp tăng dần theo chiều từ góc trái bên trên sang góc phải bên dưới (Nó là số proton có trong hạt nhân nguyên tử của nguyên tố đó). Khi tìm ra số proton cũng sẽ tìm được số electron trong nguyên tử đó, vì số proton và số electron bằng nhau trong một nguyên tử trừ một số trường hợp đặc biệt. Dấu trừ và cộng bên cạnh ký hiệu hóa học tương ứng điện tích âm và dương. Trọng lượng nguyên tử là số được ghi bên dưới tên nguyên tố và được biểu thị hầu hết dưới dạng thập phân. Từ trọng lượng nguyên tử có thể tìm được số nơtron có trong nguyên tử bằng cách: làm tròn trọng lượng nguyên tử đến số nguyên gần nhất trừ đi số proton sẽ được số nơtron. Nếu bạn thấy việc hiểu và nhớ bảng tuần hoàn còn gặp nhiều khó khăn, hãy thử áp dụng một số mẹo dưới đây. Rất nhiều bạn áp dụng cách này đã thành công để hiểu hơn về chúng:. Bạn có thể chuyển các nguyên tố thành thơ hay câu nói dễ nhớ, quen thuộc với mình. Thường xuyên làm các công việc cần vận dụng bảng tuần hoàn để có thể hiểu và nhớ chúng lâu hơn. Mong rằng với những thông tin qua bài viết này, VietChem đã giúp bạn hiểu hơn bảng tuần hoàn là gì? Nó có những ý nghĩa ra sao và gợi ý cho bạn cách cũng như một số mẹo để đọc dễ hiểu nhất. Chúc bạn đạt kết quả cao trong học tập và công việc!. Bộ chày cối bằng sứ là một trong những dụng cụ không thể thiếu, được sử dụng phổ biến trong phòng thí nghiệm, dược phẩm, thực phẩm. Vậy, nên mua chúng ở đâu giá tốt, chất lượng đảm bảo nhất hiện nay?. Ca nhựa chia vạch được biết đến là loại dụng cụ thí nghiệm khá phổ biến được sử dụng chủ yếu để đựng dung môi, đong đo thể tích chất lỏng, dung môi. Vậy chúng có những đặc điểm và công dụng cụ thể nào, theo dõi bài viết sau của VietChem để tìm hiểu thêm nhé. Đĩa elisa được biết đến là một trong những dụng cụ quan trọng trong kỹ thuật xét nghiệm hóa sinh tại các phòng thí nghiệm. Vậy cụ thể nó là gì và có những đặc điểm cũng như ứng dụng ra sao? Cùng VietChem tìm hiểu qua bài viết sau đây.
Bảng tuần hoàn
Bảng tuần hoàn (tên đầy đủ là Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, còn được biết với tên Bảng tuần hoàn Mendeleev), là một phương pháp liệt kê các nguyên tố hóa học thành dạng bảng, dựa trên số hiệu nguyên tử (số proton trong hạt nhân), cấu hình electron và các tính chất hóa học tuần hoàn của chúng. Các nguyên tố được biểu diễn theo trật tự số hiệu nguyên tử tăng dần, thường liệt kê cùng với ký hiệu hóa học trong mỗi ô. Dạng tiêu chuẩn của bảng gồm các nguyên tố được sắp xếp thành 18 cột và 7 dòng, với hai dòng kép nằm riêng nằm bên dưới cùng. Các hàng trong bảng gọi là các chu kỳ, trong khi các cột gọi là các nhóm, một số có tên riêng như halogen hoặc khí hiếm. Bởi vì theo định nghĩa một bảng tuần hoàn thể hiện những xu hướng tuần hoàn, bất kỳ bảng dưới dạng nào cũng có thể dùng để suy ra mối quan hệ giữa các tính chất của nguyên tố và tiên đoán tính chất của những nguyên tố mới, chưa được khám phá hoặc chưa tổng hợp được.
G20 (Chữ G trong G20 là viết tắt của từ Group có nghĩa là “nhóm”) được thành lâp theo sáng kiến của các bộ trưởng tài chính nhóm 7 nước có nền công nghiệp phát triển (G7) là Anh, Italia, Canada, Mỹ, Đức, Pháp và Nhật tại Hội nghị mở đầu diễn ra từ 15,16-12-1999 bàn cách đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính châu Á và các vấn đề liên quan đến nền kinh tế toàn cầu. Đây là diễn đàn của 20 nền kinh tế lớn nhất trên thế giới. Về mặt tổ chức, G-20 hoạt động mà không có ban thư ký hay nhân viên thường xuyên. Ghế Chủ tịch của G20 được xoay vòng giữa các thành viên hàng năm; vị trí này được chọn từ nhóm các quốc gia khu vực khác nhau. Năm 2010, Chủ tịch của G20 là Hàn Quốc và trong năm 2011 tới sẽ là Pháp. Vị trí Chủ tịch là một trong 3 thành viên thuộc ban quản lý xoay vòng, gồm chủ tịch khoá trước, hiện tại và tương lai. Chủ tịch đương nhiệm sẽ thành lập một ban thư ký lâm thời trong thời gian đương nhiệm nhằm điều hành các nhóm làm việc và tổ chức các cuộc họp của G20. Vai trò của ban quản lý ba thành viên này là đảm bảo tính liên tục trong công việc và quản lý trong những năm làm chủ nhà. Các hoạt động chính thức của NhómG20 bao gồm các hội nghị thường niên cấp bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ươngvà hội nghị thượng đỉnh của các nguyên thủ quốc gia (tên chính thức là Hội nghị thượng đỉnh G20 về thị trường tài chính và kinh tế thế giới).Để đảm bảo cho diễn đàn kinh tế toàn cầu và các tổ chức gắn kết với nhau, các Giám đốc điều hành của Quỹ tiền tệ quốc tế, Chủ tịch Ngân hàng thế giới, Chủ tịch Ủy ban tài chính tiền tệ quốc tế, Ủy ban phát triển của IMF và Ngân hàng thế giới cũng tham gia vào các cuộc họp của G20. Do đó, G20 đã quy tụ tất cả các quốc gia có nền kinh tế mới nổi lớn và các quốc gia có ngành công nghiệp quan trọng trên toàn thế giới lại với nhau. Điều này tạo cho nhóm có một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc quản lý, chi phối nền kinh tế nói chung, hệ thống tài chính nói riêng trên toàn cầu. Hội nghị thượng đỉnh lần đầu tiên của Nhóm G20 được tổ chức vào ngày 14 và 15 tháng 11- 2008 tại Washington D.C để thảo luận về các vấn đề liên quan đến cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Cuộc gặp mặt cấp cao được tổ chức theo lời mời của Tổng thống Pháp Nicholas Sarkozy vàThủ tướng Anh Gordon Brown. Hội nghị thượng đỉnh lần thứ hai của nhóm G20 diễn ra vào ngày 2 tháng 4 năm 2009 tại London, Anh. Hội nghị lần này bàn thảo một số vấn đề mấu chốt như: giải cứu kinh tế thế giới thóat khỏi khủng hoảng; siết chặt hơn nữa các quy chế trong họat động ngân hàng; mở rộng vai trò của IMF; trợ giúp các nước đang phát triển; chống chủ nghĩa bảo hộ. Bắt đầu từ Hội nghị lần thứ 3 diễn ra tại Pittsburg (Mỹ) vào tháng 9 năm 2009, các nước tham dự đã thống nhất tổ chức Hội nghị G20 định kỳ và đưa nó thành diễn đàn kinh tế lớn nhất thế giới. Các nhà lãnh đạo G20 một mặt thống nhất duy trì kế hoạch kích cầu và chính sách đối phó khủng hoảng cho đến khi kinh tế thế giới hồi phục hoàn toàn, mặt khác quyết định mở rộng chủ đề thảo luận sang các vấn đề toàn cầu khác như tăng cường viện trợ lương thực cho các nước nghèo, vấn đề an toàn năng lượng và biến đổi khí hậu. Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 4 diễn ra tại Toronto (Canada) vào tháng 6- 2010 vừa qua đã tập trung thảo luận một cách toàn diện các vấn đề chính như hợp tác tìm kiếm một cơ chế tăng trưởng bền vững, cân bằng và lâu dài, cải cách quy chế tài chính, cải cách các cơ quan tài chính thế giới, trong đó có Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), vấn đề tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển, thiết lập mạng lưới an toàn tài chính toàn cầu, tự do thương mại .v.v. đồng thời đẩy mạnh hơn nữa vai trò của G20 như một tổ chức lãnh đạo kinh tế toàn cầu và là diễn đàn thảo luận hợp tác kinh tế quốc tế lớn nhất thế giới. Hội nghị thượng đỉnh G20 cuối cùng của năm 2010 với chủ đề “Vượt qua khủng hoảng để cùng tăng trưởng”, được tổ chức vào ngày 11,12 tháng 11 tại Seoul, Hàn Quốc. Các chủ đề chính được thảo luận tại Hội nghị cấp cao lần này gồm bốn nội dung: hợp tác quốc tế về chính sách tỷ giá hối đoái; xây dựng mạng lưới an toàn tài chính toàn cầu; vấn đề cùng phát triển; cải cách tổ chức tài chính trong đó có Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Việt Nam, với tư cách là Chủ tịch ASEAN 2010 và là khách mời của chủ nhà Hàn Quốc đã tham dự các phiên họp của Hội nghị thượng đỉnh G20 lần này, tại Hội nghị Chủ tịch ASEAN 2010 đã đưa ra một số ý kiến đề nghị: G20 tiếp tục có biện pháp hỗ trợ các nước đang phát triển không rơi lại vào nhóm nước thu nhập thấp, G20 xem xét thiết lập thí điểm cơ chế tham vấn chính sách với một số tổ chức khu vực, bao gồm ASEAN, xem xét thành lập Mạng lưới G20 về chia sẻ kiến thức với sự tham dự của các nước trong và ngoài G20, khẳng định ASEAN cũng như Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước G20 triển khai chương trình này. (ĐCSVN) - Ngày 20/8/2021, thay mặt Ban Bí thư, đồng chí Võ Văn Thường đã ký ban hành Chỉ thị số 08-CT/TW về lãnh đạo đại hội đoàn các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh lần thứ XII, nhiệm kỳ 2022. (ĐCSVN) - Ngày 24/8, Văn phòng Trung ương Đảng ban hành Thông báo Kết luận số 10-TB/VPTW của lãnh đạo chủ chốt tại cuộc họp ngày 24/8 về tình hình dịch bệnh và công tác triển khai các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch. (ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư vừa ký ban hành Kết luận số 12-KL/TW về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới. (ĐCSVN) - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thông qua Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp Trung ương khoá XII. Đại hội đã đồng ý không sửa đổi, bổ sung Điều lệ. Ngày 28/7/2021, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Quy định số 22-QĐ/TW về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng (gọi tắt là Quy định 22), trong đó, bổ sung, sửa đổi nhiều nội dung quan trọng để cụ thể hoá Nghị quyết. (ĐCSVN) - Ngày 11/6, thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng đã ký ban hành Kết luận số 07-KL/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm tăng cường công tác phòng, chống dịch COVID-19 và phát triển kinh tế - xã hội.
G20 (nhóm các nền kinh tế lớn)
G20 hay Nhóm 20 (tiếng Anh: Group of Twenty) là diễn đàn quốc tế chính thức dành cho các Nguyên thủ và Thống đốc ngân hàng trung ương đến từ 19 nền kinh tế hàng đầu trên thế giới cùng với Liên minh châu Âu (EU). G20 được thành lập vào năm 1999 với mục đích nhằm thảo luận về những vấn đề kinh tế quan trọng, thúc đẩy các chính sách liên quan đến việc ổn định tình hình tài chính quốc tế cũng như định hướng phát triển cho nền kinh tế toàn cầu. G20 đã mở rộng chương trình nghị sự của mình từ năm 2008, hiện nay, không chỉ có các Nguyên thủ quốc gia mà các Bộ trưởng tài chính, Bộ trưởng ngoại giao của các nước thành viên cũng đã gặp gỡ định kỳ, trao đổi và tham gia thảo luận tại hội nghị kể từ đó đến nay. G20 hiện đang chiếm hơn 90% trong tổng quy mô của toàn bộ nền kinh tế thế giới, các quốc gia thành viên bao gồm: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp, Ý, Canada (nhóm G7), Hàn Quốc, Úc (2 nước phát triển nhưng không phải là thành viên G7), Brasil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi, México, Indonesia, Argentina, Ả Rập Xê Út, Thổ Nhĩ Kỳ (các nước công nghiệp mới đang phát triển) cùng với một thành viên đặc biệt là Liên minh châu Âu (EU).
Trăng xanh của mùa là để chỉ lần trăng tròn thứ ba trong số bốn lần trăng tròn của một mùa. Theo cách tính này, cứ khoảng 3 năm sẽ có một lần trăng xanh của mùa. Chu kỳ tuần trăng là 29,53 ngày. Vậy nên với những tháng có 30 hoặc 31 ngày nếu thời điểm trăng tròn rơi vào ngày mùng 1 thì ngày 30 hoặc 31 của tháng đó sẽ lặp lại pha này của Mặt trăng. Lần trăng tròn thứ hai của tháng sẽ được gọi là Trăng xanh. Trăng xanh của tháng dễ xảy ra hơn trăng xanh của mùa, khoảng 2,5 năm sẽ xuất hiện 1 lần.Kết hợp cả hai cách định nghĩa trên thì cứ hơn 1 năm là có một lần trăng tròn được tính là Trăng xanh. Trên thực tế, cái tên Trăng xanh không liên quan gì đến màu sắc của mặt trăng. Trong một số thời điểm, trăng tròn có thể mang màu đỏ nhạt. Trăng Xanh có nhiều tên như: Ngày trăng tròn cá tầm, Trăng bắp xanh, Trăng ngũ cốc và Trăng tròn đỏ. Trăng máu là một cách gọi khác của hiện tượng nguyệt thực. Đây là hiện tượng thiên văn khi Mặt Trăng đi vào hình chóp bóng của Trái Đất, đối diện với Mặt Trời.Trên tất cả các điểm nằm ở bán cầu quay về Mặt Trăng đều có thể nhìn thấy nguyệt thực.Nguyệt thực bán phần khó nhìn thấy bằng mắt thường do ánh chói của Mặt Trời giảm thiểu. Khi nguyệt thực toàn phần diễn ra, tia Mặt Trời trước khi đến được Mặt Trăng đã chiếu vào chóp bóng của Trái Đất và bị khí quyển Trái Đất khúc xạ. Các tia sáng bước sóng ngắn đã bị cản lại hết, chỉ còn các tia có bước sóng dài (đỏ, cam) xuyên qua, do đó, Mặt Trăng thường hiện ra dưới màu đỏ nhạt.Thời gian tối đa của nguyệt thực toàn phần: 104 phút (trường hợp thường hay tái diễn); nguyệt thực một phần: 6 giờ.Có ba kiểu nguyệt thực chính: Nguyệt thực một phần, nguyệt thực nửa tối và nguyệt thực toàn phần. Khi Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng nằm trên một đường thẳng, sẽ có nguyệt thực toàn phần. Khi các bác sĩ tiến hành phẫu thuật cho một con ngỗng thì bên ngoài cửa phòng bạn đời của nó vẫn đứng yên chờ đợi, không chịu rời đi. Chiếc thìa thời trung cổ được mua với giá rẻ mạt từ một chiếc bốt ô tô nhưng sau đó được bán đấu giá với giá gấp 12.000 lần. Tháng 8 đánh dấu bằng trận mưa sao băng Perseid rực rỡ, thắp sáng bầu trời đêm với 100 sao băng phát sáng mỗi giờ. Một con cá voi sát thủ mắc cạn trong nhiều giờ đã được giải thoát khỏi bờ biển đầy đá ở Alaska. Samantha Ramsdell, người giữ danh hiệu Kỷ lục Guinness sở hữu cái miệng rộng nhất thế giới. Một cái ao nước màu xanh lá cây bốc mùi hôi thối ở khu vực núi lửa Wai-O-Tapu của New Zealand chính là nơi được ví như phòng tắm của quỷ. Randy Gardner đến từ Anh đã trải qua khoảng thời gian hơn 11 ngày không ngủ lập kỷ lục thế giới. Khoảng 400 thợ săn lùng sục một hòn đảo nhỏ của Iceland để tìm kiếm một kho báu bất thường, những chiếc lông vũ đắt nhất thế giới. Hồ Kagami Numa ở Nhật được ví như mắt con rồng vì vẻ đẹp hiếm có vào mùa xuân khi băng tuyết tan.
Trăng xanh
Trăng xanh (trong tiếng Anh là blue moon) là một khái niệm trong thế giới phương Tây để chỉ hiện tượng trăng tròn không ăn khớp với một tháng dương lịch. Thường thì một năm dương lịch có mười hai lần trăng tròn, trùng hợp mỗi tháng có một lần trăng tròn. Nhưng do mỗi năm dương lịch/năm chí tuyến dài hơn năm âm lịch 11 ngày nên những ngày này dần dồn lại để sau khoảng hai hoặc ba năm (chính xác hơn là chu kỳ 2,7154 năm hay 7 lần trong 19 năm chu kỳ Meton) lại có thêm một lần trăng tròn. Có nhiều cách diễn giải khác nhau về "trăng xanh" liên quan tới kỳ trăng tròn dư thừa này. Trong tính toán ngày tháng cho Mùa Chay và lễ Phục Sinh thì giới tu sĩ Công giáo phải xác định ngày diễn ra Trăng Mùa Chay. Người ta cho rằng theo dòng lịch sử khi thời điểm trăng tròn đến quá sớm thì họ gọi kỳ trăng tròn sớm đó là "Trăng phản" (Trăng phản bội) hay "Trăng màu" (Trăng màu sắc) và như vậy Trăng Mùa Chay đã đến vào đúng thời điểm dự kiến dành cho nó.
Quyền lực là gì? Quyền lực là khả năng ấn định những quyết định có ảnh hưởng đến thái độ của con người. Vậy quyền lực chính trị là gì, phân tích khái niệm quyền lực chính trị trong bài tiểu luận.Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về nội dùng “quyền lực là gì” trong bài viết sau. Quyền lực là một trong những vấn đề cơ bản của chính trị, do vậy đã từ rất sớm, khi ý thức được các vấn đề chính trị thì người ta cũng đã đề cập đến vấn đề quyền lực. – Từ thời cổ đại, ở phương Tây Arixtốt đã nghiên cứu vấn đề quyền lực và xem xét những đặc điểm của nó. Theo ông, quyền lực tồn tại phổ biến trong mọi sự vật và hiện tượng, không chỉ trong thế giới cảm giác mà cả trong thế giới vô cảm. Đối với nhà nước và quyền lực nhà nước, ông coi đó như là kết quả của sự thoả thuận giữa mọi người với nhau dựa trên ý chí chung của họ. – Còn theo Platon, chính trị là nghệ thuật cai trị những con người với sự bằng lòng của họ. Cơ sở để đảm bảo sự cai trị đó là pháp quan, những nhà thông thái. ở đây ông đề cao trí tuệ và coi đó như một thứ quyền lực trong chính trị. Tuy đã có nhiều quan niệm về quyền lực nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thật sự chính xác, xúc tích, khái quát được vấn đề để mọi người chấp nhận. Nhà chính trị học Mỹ K.Đanta cho rằng, nắm quyền lực có nghĩa là buộc người khác phải phục tùng. – Còn nhà chính trị học Mỹ khác – Lesbi lipson – xem quyền lực là khả năng đạt tới kết quả nhờ hành động phối hợp. Nhà chính trị học A.Gra – zia cho rằng: “Quyền lực là khả năng ấn định những quyết định có ảnh hưởng đến thái độ của con người” . – Bertrand Russel cho rằng: ta có thể coi quyền lực là sản phẩm của những hiệu quả có chú ý”. Theo Từ điển Bách khoa Triết học thì “Quyền lực là khả năng thực hiện ý chí của mình có tác động đến hành vi, phẩm hạnh của người khác nhờ một phương tiện nào đó như kinh tế, chính trị, nhà nước, gia đình, uy tín, quyền hành, sức mạnh…”. Gần đây nhà tương lai học người Mỹ Alvin Toffer cho rằng” Bạo lực, của cải, tri thức là ba dạng phổ biến và cũng là ba phương thức cơ bản để đạt được quyền lực. Trong ba loại đó, trí tuệ được coi là loại quyền lực có phẩm chất cao nhất và là phương thức cơ bản để đạt được quyền lực trong tương lai. – Tuy không đi sâu nghiên cứu vấn đề quyền lực và do đó chưa đưa ra một định nghĩa có tính chất xác định, nhưng từ góc độ duy vật lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề cập đến vấn đề quyền lực từ trong bản chất của nó. Đó là, trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm được quyền kiểm soát tư liệu sản xuất thì giai cấp đó cũng nắm được quyền điều khiển, chi phối các lĩnh vực cơ bản của xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, tư tưởng tinh thần. Cách tiếp cận này là chìa khoá cho ta nghiên cứu vấn đề quyền lực một cách khoa học và hữu hiệu. Theo giáo sư Lưu Văn Sùng viết trong tập bài giảng chính trị học “Quyền lực là mối quan hệ giữa các chủ thể hành động của đời sống xã hội, trong đó chủ thể này có thể chi phối hoặc buộc chủ thể khác phải phục tùng ý chí của mình nhờ có sức mạnh, vị thế nào đó trong quan hệ xã hội”. Là một bộ phận của quyền lực trong xã hội có giai cấp. Quyền lực chính trị cũng là một loại quan hệ xã hội, nhưng đó là quan hệ xã hội có liên quan tới vấn đề Chính trị. Do vậy, việc làm sáng tỏ phạm trù “Chính trị” là điều cần thiết để tiến tới một quan điểm đúng đắn về phạm trù “Quyền lực Chính trị”. – Trong tác phẩm “Chính trị”, Platon xem chính trị là nghệ thuật cung đình liên kết trực tiếp các chuẩn mực của người Anh hùng và sự thông minh, sự liên kết của họ được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái. – Mac Vây – be cho rằng “Chính trị” là khát vọng tham gia vào quyền lực, hay ảnh hưởng tới sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đoàn người trong một quốc gia. – Theo Lênin, quyền lực chính trị là gì? Dựa trên quan điểm duy vật về lịch sử, V.I.Lênin cho rằng chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp; là sự tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, vào định hướng hoạt động của Nhà nước,…. Lênin cho rằng nhân tố quy định bản chất của chính trị là: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Khi nhấn mạnh tính năng động của chính trị đối với kinh tế, Lênin viết “Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”. – Từ hiện thực đa dạng và phức tạp của chính trị như một hiện thực trong xã hội có giai cấp, chúng ta có thể đi tới một quan niệm tổng quát sau đây về chính trị: “Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia trong vấn đề giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước; là những mục tiêu được quy định bởi lợi ích cơ bản của các giai cấp, các đảng phái; là hoạt động thực tiễn chính trị của các giai cấp, các đảng phái, các nhà nước để thực hiện đường lối đã lựa chọn nhằm đi tới những mục tiêu đã đặt ra”. – Quan niệm vừa nêu về chính trị quy định cách hiểu phạm trù “Quyền lực Chính trị”. Nói chung nhất: “Quyền lực Chính trị là quyền lực được sử dụng sức mạnh của nhà nước nhằm thực hiện lợi ích khách quan của giai cấp, dân tộc,… trên cơ sở sự thừa nhận của nhà nước bằng luật pháp”. Trong ý nghĩa đó, quyền lực chính trị là một kiểu quan hệ xã hội có liên quan tới vấn đề nhà nước. Đó có thể là quan hệ giữa người với người ở nhiều cấp độ tồn tại, nhiều hình thức tồn tại khác nhau của họ (giai cấp, dân tộc, quốc gia, đoàn thể, đảng phái,…) trong quá trình ảnh hưởng tới nhà nước nhằm giành, giữ, sử dụng nhà nước vì lợi ích của mình; chính trong ý nghĩa đó Mác đã xem quyền lực chính trị là “Khả năng của một giai cấp thực hiện lợi ích khách quan của mình”. – Trong xã hội có đối kháng giai cấp, một khi lợi ích căn bản của giai cấp này được hiện thực hoá thì lợi ích căn bản của giai cấp khác bị triệt tiêu. Xung đột giai cấp là điều không tránh khỏi. QLCT đóng vai trò như là công cụ để giai cấp nắm được nó sẽ thực hiện được lợi ích của mình. Đó là cơ sở để Mác và Ăngghen nêu ta định nghĩa về QLCT: “Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”. Định nghĩa trên đây cũng cho thấy: Quyền lực chính trị của một giai cấp không tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của quá trình phát triển kinh tế và đấu tranh giai cấp. Lực lượng sản xuất của xã hội nằm trong quá trình phát triển không ngừng. Lực lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó sẽ đòi hỏi thay đổi quan hệ sản xuất hiện tồn. Trong phương thức sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, quá trình này sẽ sản sinh ra các giai cấp đối kháng đặc trưng cho phương thức sản xuất đó. Các lực lượng chính trị mới với tư cách là chủ thể tương ứng của các lợi ích giai cấp đó sẽ xuất hiện. Sự xung đột quyền lực ngày càng gay gắt giữa các lực lượng chính trị mới đại diện cho phương thức sản xuất mới với lực lượng chính trị cũ đại diện cho phương thức sản xuất cũ lạc hậu nhưng còn nắm quyền thống trị. Do xu hướng tất yếu của nó, lực lượng chính trị mới với yêu cầu QLCT tương ứng sớm hay muộn nó sẽ vượt lên tự khẳng định chính mình về một nhà nước. Khi đó, QLCT của lực lượng xã hội mới với tư cách là đại diện cho một giai cấp sẽ được xác lập. Khi một chủ thể chính trị chưa có đủ sức mạnh để khẳng định QLCT của mình, chủ thể đó vẫn ngấm ngầm hoặc công khai dùng sức mạnh nhằm đạt tới sự khẳng định đó. Kết cục, khát vọng đó hoặc bị QLCT của giai cấp cầm quyền loại bỏ, hoặc là sẽ buộc lực lượng chính trị cầm quyền thừa nhận về mặt nhà nước. Do đó, trong chế độ xã hội có đối kháng giai cấp luôn tồn tại hai loại QLCT thuộc hai chủ thể chính trị đối lập nhau: QLCT của giai cấp cầm quyền (Thống trị) và QLCT (hay khát vọng QLCT) của giai cấp, tầng lớp không cầm quyền. Giai cấp thống trị tổ chức ra bộ máy nhà nước và sử dụng sức mạnh của bộ máy đó để thực thi ý chí, lợi ích của mình. Khi ấy, QLCT của giai cấp thống trị trở thành quyền lực nhà nước. Do đó, xét về bản chất quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Nó được thực hiện bằng cả một hệ thống chuyên chính do giai cấp đó lập ra. Nhờ hệ thống đó, giai cấp thống trị có khả năng vận dụng các công cụ bạo lực của nhà nước để buộc các giai cấp, tầng lớp xã hội phục tùng ý chí của giai cấp thống trị trong việc tổ chức xã hội như một chỉnh thể. Các giai cấp và tầng lớp không nắm quyền thống trị dùng sức mạnh chính trị của mình để chống lại hay đòi giai cấp thống trị phải thay đổi trật tự xã hội, thay đổi các chính sách đã ban hành cho phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Trong trường hợp giai cấp bị trị là giai cấp có lợi ích cơ bản đối kháng với giai cấp thống trị thì họ dùng QLCT của mình để đấu tranh lật đổ sự thống trị của giai cấp cầm quyền, thiết lập nhà nước của mình, dùng nhà nước đó để tổ chức lại xã hội theo một trật tự phù hợp với lợi ích của nó. Khi ấy, QLCT của giai cấp mới giành được quyền thống trị trở thành quyền lực nhà nước. Như vậy, QLCT là một khái niệm rộng bao hàm cả quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị và bao hàm quyền lực của các giai cấp khác nhau trong mối quan hệ biện chứng với quyền lực nhà nước để bênh vực và bảo vệ quyền lợi của mình. Với tư cách là hình thức tổ chức QLCT của giai cấp thống trị, quyền lực nhà nước có vai trò như là công cụ để giai cấp thống trị thực hiện QLCT của mình trên tất cả các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Điều đó được xem xét ở các mặt sau:. – Một là, Nhà nước điều khiển hoạt động của xã hội về kinh tế, văn hoá, xã hội bằng các chiến lược, các kế hoạch định hướng; can thiệp vào các hành vi, các quá trình kinh tế, văn hoá, xã hội bằng nhiều công cụ kinh tế – xã hội khác nhau. Hệ thống các chính sách về kinh tế, văn hoá xã hội, nhân văn giúp nhà nước điều khiển hoạt động của các chủ thể quyền lực, đồng thời tạo lập và đảm bảo quyền lực cho các chủ thể quyền lực trên các lĩnh vực đó của đời sống xã hội. Có thể hình dung: mỗi chính sách kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn là một hành lang hướng dẫn hoạt động đầu tư phát triển nhằm hướng hành vi của các chủ thể quyền lực phù hợp với lợi ích toàn xã hội mà không làm tổn hại QLCT của giai cấp thống trị. – Hai là, sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn là sự thể hiện vai trò, QLCT của giai cấp thống trị trên hai phương diện: Một mặt, pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các chủ thể quyền lực trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn.
Quyền lực
Quyền lực, được miêu tả theo khía cạnh khoa học xã hội, một mặt là khả năng gây ảnh hưởng của một người hoặc một nhóm người đến hành vi và suy nghĩ của các cá nhân, nhóm người khác với ý nghĩa là "quyền lực"; mặt khác, nó đại diện cho 1 vị trí của cá nhân hoặc nhóm người, là khả năng đạt được mục tiêu xác định một cách đơn phương, không chịu sự kiểm soát, áp đặt, hay phải đáp ứng các điều kiện và đòi hỏi của các cá nhân hoặc nhóm người khác (vd: quyền con người). Vế sau được hiểu theo tính pháp lý với ý nghĩa là "thẩm quyền", "quyền lợi" của các cá nhân và nhóm người tham gia vào một hệ thống xã hội được bảo trợ bởi một nền tảng pháp luật đã được xây dựng và đưa ra dựa theo các tiêu chí cụ thể, đặc biệt là dựa trên các thỏa thuận và cam kết của những chủ thể tham gia trong xã hội (khế ước xã hội). Quyền lực xác định phạm vi, giới hạn của các "khả năng hành động, gây ảnh hưởng" cả về thể chất lẫn tinh thần của một người hoặc một nhóm người.
Thanksgiving hay Thanksgiving Day trong tiếng Anh dịch tiếng Việt có nghĩa là ngày lễ Tạ Ơn. Đây là một ngày lễ quốc gia diễn ra chủ yếu ở Mỹ và Canada. Hằng năm, cứ tới ngày này người Mỹ lại háo hức chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ để chào đón một trong những ngày lễ lớn nhất năm này. Lễ Tạ Ơn (tên tiếng Anh: Thanksgiving Day) là ngày lễ chính thức hằng năm được tổ chức chủ yếu ở Mỹ, Canada và một số đảo ở vùng Caribe… Ý nghĩa ban đầu của ngày lễ này là mừng mùa màng bội thu và tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho cuộc sống no đủ, an lành. Đây cũng là ngày nghỉ lễ chính thức, cho tất cả người lao động theo luật định tại Mỹ và Canada. Ngày này còn được ví von như là ngày chết của những con gà tây. Lí do là bởi vì gà tây là thực phẩm không thể thiếu trong ngày lễ này. Ngày lễ Tạ Ơn là một kì nghỉ hàng năm ở Mỹ kể từ năm 1863. Ngày lễ Tạ Ơn – Thanksgiving Day đầu tiên được cho là diễn ra vào năm 1623 để cảm ơn mùa mưa đã kết thúc đợt hạn hán. George Washington - Vị Tổng thống đầu tiên của Mỹ đã tuyên bố ngày lễ Tạ ơn trở thành một ngày lễ chính thức của Mỹ vào năm 1789. Đây là một ngày truyền thống dành cho gia đình và bạn bè sum họp bên nhau với một bữa ăn đặc biệt với các món ăn như: gà tây, khoai tây, nước sốt việt quất, bánh bí ngô, rau xanh. Một thông tin cho rằng, nguồn gốc của ngày lễ Tạ Ơn gắn liền với câu chuyện trên chuyến tàu Mayflower của mang theo nhóm di dân Pilgrims theo Thanh giáo từ nước Anh di cư sang Mỹ. Ngày 11/12/1620, đoàn người hành hương tới Plymouth Rock, Massachusetts. Mùa đông đầu tiên vô cùng khắc nghiệt. Ngay từ cuối thu, họ đã mất đi 46 người trong số 102 người khởi hành trên tầu Mayflower. Ngay sau đó, những thổ dân da đỏ đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng đoàn người đã tồn tại và phát triển. Vào vào tháng chạp năm 1621, các di dân đó đã làm lễ Tạ Ơn Thượng Đế đã ban cho họ một mùa gặt hái thành công khiến họ và con cái của mình có thể tồn tại được trên vùng đất mới này, và từ đó sinh sôi nảy nở phát triển cho đến ngày nay. Lễ Tạ Ơn – Thanksgiving không có ngày cố định. Ngày này được tính bằng cách như sau. Ngày lễ Tạ Ơn của Mỹ sẽ diễn vào ngày thứ năm của tuần lễ thứ 4 của tháng 11. Lưu ý ngày Lễ Tạ Ơn ở Canada thì diễn ra vào ngày thứ 2 lần thứ hai của tháng 10. Có nghĩa là ngày Lễ Tạ Ơn của Canada sẽ diễn ra vào ngày 08/10/2018. Ngày này còn diễn ra ở những nơi khác như ở Hà Lan, Grenada, Liberia, Anh,. Nếu như tại Canada, Thanksgiving day được tổ chức vào ngày thứ Hai lần thứ 2 của tháng 10 thì tại Mỹ, ngày lễ này được tổ chức muộn hơn vào ngày thứ 5 cuối cùng của tháng 11. Tại Mỹ, Thanksgiving được tổ chức vào ngày thứ Năm - tuần thứ tư của tháng 11. Nhưng một số người lại lầm tưởng ngày lễ này diễn ra vào ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11. Tháng 11 năm nay có tới 5 ngày thứ Năm (1, 8, 15, 22, 29). Tuy nhiên, Thanksgiving rơi vào ngày 22/11. Ngay sau Thanksgiving là Black Friday (thứ Sáu đen tối) - ngày hội mua sắm với hàng loạt mặt hàng giảm giá cực lớn. Ngày Lễ Tạ Ơn là ngày lễ dành cho nhiều người để tạ ơn cho những gì họ có. Đây cũng có là thời gian dành cho những chuyến đi du lịch hay về thăm gia đình, bạn bè. Món ăn chủ đạo trong ngày lễ Tạ Ơn là gà tây nướng, bởi vậy nên ngày này còn được gọi là Ngày gà tây. Tổ chức USDA từng thống kê năm 2003 có 269 triệu con gà tây được nuôi và khoảng 1/6 trong số này dành phục vụ lễ Tạ Ơn. Cùng với gà tây, một số thực phẩm khác cũng xuất hiện trên bàn tiệc như: Nước sốt chanh, nước sốt thịt, khoai tây nghiền, khoai lang ướp đường, đậu xanh. Các món tráng miệng cũng được bổ sung trên bàn ăn, bao gồm một số loại bánh nướng nhất là bánh bí ngô, bánh nướng nhân dâu tây, bánh nhân hồ đào. Những món này là những món ăn thuần tuý của vùng New England - cái nôi văn hoá của nước Mỹ. Vào dịp lễ Tạ Ơn, người dân Mỹ được nghỉ 4 ngày để về sum họp và gặp gỡ gia đình, bè bạn. Có rất nhiều hoạt động được tổ chức trong những ngày này như tại thành phố New York, cuộc diễu hành nhân ngày Tạ ơn của Tập đoàn Macys được tổ chức hàng năm tại khu trung tâm Manhattan. Cuộc diễu hành được tổ chức theo các chủ đề đặc biệt, hoặc mô phỏng phân cảnh trong những vở kịch trên sân khấu Broadway kèm theo những chùm bóng lớn vẽ nhiều nhân vật hoạt hình hoặc diễn viên truyền hình nổi tiếng. Một trong những điểm nhấn của cuộc diễu hành là các bóng bay khổng lồ với các hình thù nhân vật hoạt hình và động vật. Năm nay là lần thứ 92 cuộc diễu hành Macy’s diễn ra. Trong đó, không thể không kể đến hoạt động rầm rộ nhất trong lễ Tạ Ơn là ngày hội mua sắm lớn nhất trong năm tại Mỹ. Hàng loạt đợt giảm giá và khuyến mại hấp dẫn sẽ được tung ra và bán cho cả người dân Mỹ lẫn khách du lịch. Ngoài ra, một trong những hoạt động chính khác trong dịp lễ Tạ Ơn tại Mỹ là giao lưu bóng bầu dục. Các đội chuyên nghiệp thường đấu nhau trong ngày này để khán giả có thể xem trên truyền hình. Thêm vào đó, nhiều đội bóng các trung học hay đại học cũng đấu nhau vào cuối tuần đó, thường với các đối thủ lâu năm. Trước thềm lễ Tạ ơn với nhu cầu gà tây tăng cao, các cơ quan chức năng Mỹ mới đây phát hiện nhiều mẫu sản . Gà quay là một món ăn quen thuộc đối với mọi người, đặc biệt là trong ngày Lễ Tạ ơn. Tuy nhiên, không phải ai cũng . Tổng thống tổ chức lễ "ân xá" gà tây là tập tục rất thú vị trước Ngày Lễ Tạ ơn ở Mỹ. Bà Clinton được nhìn thấy khi đang đi mua sắm cho Lễ Tạ ơn và vui vẻ chụp ảnh cùng người ủng hộ. Trong thông điệp nhân Lễ Tạ ơn, Tổng thống đắc cử Donald Trump thừa nhận chiến dịch tranh cử của ông đã gây căng thẳng, . Vietnammoi.vn tổng hợp nguyên văn thông tin từ một số cơ quan thông tấn, báo chí trong nước theo quy định. Chúng tôi sẽ cập nhật thông tin ngay sau khi nhận thấy các thông tin gốc có thay đổi; đồng thời tuân thủ các quy định hiện hành về trách nhiệm phản hồi, đính chính, cải chính. Đề nghị người dùng tham khảo thông tin gốc đồng thời dẫn nguồn chính xác theo cơ quan báo chí phát hành thông tin trong trường hợp trích dẫn một phần hoặc nguyên bản các thông tin do Vietnammoi.vn tổng hợp. Người dùng tự chịu trách nhiệm, bao gồm nhưng không giới hạn trách nhiệm về bản quyền, trong trường hợp này.
Lễ Tạ ơn
Lễ Tạ ơn (tiếng Anh: Thanksgiving) là một ngày lễ hàng năm được tổ chức chủ yếu tại Hoa Kỳ, Canada, một số đảo ở Caribe và Liberia. Ý nghĩa ban đầu là mừng thu hoạch được mùa và tạ ơn Thiên Chúa đã giúp cho cuộc sống no đủ và an lành. Đây cũng là ngày nghỉ lễ chính thức cho tất cả người lao động tại Mỹ và Canada. Ngày và nơi diễn ra lễ Tạ ơn đầu tiên là chủ đề của một cuộc tranh cãi nhỏ. Mặc dù lễ Tạ ơn sớm nhất đã được kiểm chứng diễn ra vào ngày 8 tháng 9 năm 1565 tại khu vực ngày nay là Saint Augustine, Florida, nhưng "lễ Tạ ơn đầu tiên" theo truyền thống được coi là đã diễn ra tại khu vực thuộc thuộc địa Plymouth vào năm 1621. Ngày nay, tại Hoa Kỳ, lễ Tạ ơn được tổ chức vào ngày thứ Năm lần thứ tư của tháng 11 vì thế ngày này có thể không phải là ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11 như nhiều người lầm tưởng (ví dụ năm 2012, tháng 11 có đến 5 ngày thứ năm). Tại Canada, nơi có cuộc thu hoạch sớm hơn, ngày lễ này được tổ chức vào ngày thứ Hai lần thứ hai của tháng 10.
Dầu khoáng (Mineral oil) là một trong những thành phần phổ biến nhất có trong các loại mỹ phẩm trang điểm và chăm sóc da. Tuy nhiên dầu khoáng cũng chịu nhiều tiếng xấu khi được cho rằng sẽ gây bít lỗ chân lông, làm đổ dầu và gây mụn trên da. Vậy thực hư dầu khoáng trong mỹ phẩm là gì, công dụng của dầu khoáng thật sự ra sao?. Có thể bảo quản được trong thời gian dài (do không dễ bị oxy hóa). Dầu khoáng là một thành phần yêu thích của nhiều hãng mỹ phẩm và có mặt trong hầu hết các sản phẩm làm đẹp như: nước tẩy trang, kem dưỡng ẩm, sữa rửa mặt, kem nền, kem mắt đến các loại son dưỡng môi. Có 2 nguyên nhân chính khiến các nhà sản xuất lựa chọn dầu khoáng làm thành phần trong mỹ phẩm, đó là: giá thành rẻ và công dụng dưỡng ẩm vô cùng tốt. Các thành phần dầu được ứng dụng trong mỹ phẩm thường đã trải qua tinh chế, sàng lọc kỹ lưỡng và có khả năng khóa ẩm tốt cho da, làm mềm, làm lành vết thương trên da nhanh chóng. Tuy nhiên, đây cũng là lý do khiến nhiều người nghĩ rằng dầu khoáng có thể gây bí lỗ chân lông. Bên cạnh những lời đồn đoán xung quanh dầu khoáng, thành phần mỹ phẩm này mang lại nhiều lợi ích cho làn da bạn. Dưới đây là một số công dụng của dầu khoáng:. Khóa ẩm cho làn da: dầu khoáng tạo ra một lớp bảo vệ ngăn cách làn da với môi trường bên ngoài. Nhờ vậy da của bạn sẽ được khóa ẩm và bảo vệ khỏi các tác nhân xấu như khói bụi, ô nhiễm môi trường. Làm mềm da: nếu bạn sở hữu một làn da dễ bị khô ráp, dầu khoáng chính là giải pháp hữu hiệu giúp làm mịn và mềm da, giúp da không bị nứt nẻ. Cải thiện kết cấu của mỹ phẩm: ngoài công dụng giữ ẩm, dầu khoáng thường được dùng để giúp mỹ phẩm dễ thẩm thấu vào da hơn. Thúc đẩy làm lành tổn thương trên da: theo một số nghiên cứu cho thấy dầu khoáng và petrolatum (tức vaseline) cũng có khả năng làm lành thương tổn trên da. Một trong những hiểu lầm phổ biến nhất khiến nhiều chị em khi lựa chọn các sản phẩm làm đẹp thường tránh chọn các sản phẩm có chứa dầu khoáng đó là nghĩ các thành phần này có thể gây tắc nghẽn lỗ chân lông và gây ra mụn trứng cá. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã chứng minh dầu khoáng không thật sự gây nguy hiểm tới làn da như vậy. Trên thực tế, dầu khoáng mỹ phẩm đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm xác nhận thuộc tính an toàn để sử dụng. Bản thân dầu khoáng không có khả năng gây mụn hay làm bí lỗ chân lông. Tuy nhiên chính công dụng khóa ẩm quá hữu hiệu của thành phần này lại vô tình “niêm phong” một số thành phần khác ở lớp trên cùng biểu bì, khiến lỗ chân lông bị tắc. Lời khuyên là không nên kết hợp dầu khoáng với các thành phần gây bí lỗ chân lông như: Laureth 4, Sodium lauryl sulfate, Carrageenan. Ngược lại bạn có thể kết hợp dầu khoáng với các thành phần cũng có tính chất hút ẩm khác như glycerin và axit hyaluronic. Hai chất này giúp hút ẩm cho da trong khi dầu khoáng đóng vai trò niêm phong giữ độ ẩm cho da. Thời điểm tốt nhất để bôi dầu khoáng lên da là vài phút sau khi tắm. Nếu bạn kết hợp thêm các thành phần dưỡng ẩm khác, hãy sử dụng dầu khoáng như bước cuối cùng, vì thao tác này giúp các dưỡng chất được khóa lại trên da. Dù sao đi nữa, dầu khoáng đã và sẽ luôn là một thành phần làm đẹp được nhiều hãng mỹ phẩm ưa chuộng và sử dụng phổ biến. Dầu khoáng nếu được dùng ở dạng tinh khiết và nồng độ phù hợp sẽ là thành phẩm dưỡng ẩm cực tốt cho da, nhưng mặt khác nó lại không mấy phù hợp với những người có làn da dầu, mụn, bởi cảm giác nhờn dính khó chịu. Có làn da khô: nhờ công dụng khóa ẩm tuyệt vời nên thoa dầu khoáng trực tiếp lên da khô sẽ tạo cảm giác thoải mái. Tuy nhiên dầu khoáng chỉ có tác dụng khóa ẩm chứ không tự tạo ra độ ẩm nên hiệu quả dưỡng ẩm sẽ không kéo dài. Do vậy, bạn vẫn cần dùng thêm chất hút ẩm như hyaluronic acid, glycerin.trước bước khóa ẩm. Có làn da nhạy cảm: do tính năng không gây kích ứng cho da của dầu khoáng. Trong trường hợp trên da xuất hiện mụn trứng cá, mụn đầu đen hay đầu trắng, bạn nên ngưng sử dụng dầu khoáng. Tuy vẫn chưa có nghiên cứu chứng minh khả năng gây mụn của mineral oil, các chuyên gia da liễu vẫn khuyên bạn nên chú ý những thay đổi của da để ngăn chặn tình trạng mụn trở nên tồi tệ hơn. Đặc biệt, dầu khoáng không phù hợp với người có làn da dầu. Trước khi quyết định sử dụng các sản phẩm làm đẹp chứa mineral oil, bạn nên hiểu rõ phân loại da và tình trạng da của mình cũng như nghiên cứu kỹ thành phần và đọc thông tin đánh giá về sản phẩm đó. Sau khi sử dụng sản phẩm nên chú ý đến phản ứng của da, nếu da có biểu hiện bị kích ứng thì nên ngưng sử dụng và hỏi ý kiến bác sĩ. Khi đã hiểu rõ về công dụng của dầu khoáng với làn da, bạn có thể cân nhắc sử dụng sao cho đạt được hiệu quả tối ưu nhất trong việc chăm sóc da. Có nhiều nguyên nhân khiến bạn có thể bị sơn móng tay dính vào da, quần áo hay trong một số trường hợp cần phải tẩy sơn móng tay. Tẩy sơn móng tay bằng gì hay tẩy sơn móng tay . Có nhiều loại thuốc nhuận tràng kê đơn và không kê đơn để điều trị táo bón. Một trong những lựa chọn này là dầu khoáng. Dầu khoáng là chất nhuận tràng bôi trơn. Nó đã được sử dụng trong . Bôi sữa dưỡng thể là một trong những cách đơn giản nhất mà mọi người có thể thực hiện trong chăm sóc da. Công dụng chính của sữa dưỡng thể là giúp giữ ẩm cho da để tránh làm khô . Là một người đang sống chung với chứng táo bón mãn tính, đôi khi bạn có thể cảm thấy như lựa chọn điều trị duy nhất của mình là đi theo hướng hoàn toàn ngược lại. Trên thực tế, tiêu . Thuốc Eletone được sử dụng như một loại kem dưỡng ẩm để điều trị hoặc ngăn ngừa da khô, da thô, có vảy, da ngứa và da kích ứng như hăm tã, da bỏng do xạ trị.
Dầu khoáng
Dầu khoáng hoặc dầu parafin là bất kỳ hỗn hợp không màu, không mùi, nhẹ của ankan cao từ nguồn khoáng vật, đặc biệt là phần chưng cất của dầu mỏ. Tên gọi dầu khoáng của chính nó không chính xác, đã được sử dụng cho nhiều loại dầu cụ thể trong vài thế kỷ qua. Các tên khác, tương tự không chính xác, bao gồm dầu trắng, paraffin lỏng, paraffinum liquidum (Latin) và dầu mỏ lỏng. Dầu em bé là dầu khoáng có hương thơm. Thông thường, dầu khoáng là phụ phẩm của dầu thô tinh chế để sản xuất xăng và các sản phẩm dầu mỏ khác. Loại dầu khoáng này là dầu trong suốt, không màu bao gồm chủ yếu là ankan và cycloankan, liên quan đến thạch dầu mỏ. Dầu khoáng là một chất có giá trị tương đối thấp và được sản xuất với số lượng rất lớn. Dầu khoáng có ở các loại nhẹ và nặng và thường có thể tìm được trong cửa hàng thuốc.
Một ngôi nhà ma ám ngoài đời thực đang gia nhập quần thể những ngôi nhà kinh dị trong truyện tranh cùng với Ngôi nhà bí ẩn và Ngôi nhà bí mật: Ngôi nhà bí ẩn Winchester. Dự kiến ra mắt vào ngày 27 tháng 10, bộ truyện tranh Ngôi nhà bí ẩn Winchester gồm 3 tập sẽ đi sâu vào những sự thật ngoài đời thực, cùng với những suy đoán về ngôi nhà ma ám nổi tiếng từ gia đình đã tạo ra công ty súng trường Winchester. Ngôi nhà Bí ẩn Winchester bắt đầu là một trang trại đơn sơ, chưa hoàn thiện được xây dựng vào cuối những năm 1800 ở vùng nông thôn California. Nhưng vào năm 1888, nó đã được mua lại bởi Sarah Winchester, góa phụ của người sáng lập Công ty vũ khí lặp lại Winchester-một trong những nhà sản xuất súng thành công nhất thời bấy giờ. Winchester đến California sau cái chết của cả chồng cô và đứa con sơ sinh của họ-được thúc đẩy bởi một phương tiện truyền thông nói rằng cô phải liên tục mở rộng ngôi nhà của mình không chỉ cho bản thân mà còn để ẩn chứa hồn ma của những người bị giết bởi súng trường của gia đình cô. Câu chuyện có thật này đã trở thành sợi dây của thế kỷ 20 được mọi người truyền tai nhau và tiếp tục truyền cảm hứng cho các cuốn sách phi hư cấu cũng như các phiên bản hư cấu trong sách, truyện tranh, truyền hình và phim. “Nhà bí ẩn Winchester là một mê cung chứa đầy bí mật, và tôi rất vui khi được mang những bí mật đó đến người đọc và làm sáng tỏ chúng,”nhà văn Joshua Werner cho biết.”Sarah Winchester là một người xuất chúng, đi trước thời đại một cách đáng kinh ngạc và vô cùng phức tạp. Và người đọc sẽ phải trải qua một số cú sốc và bất ngờ.”. Làm việc với nghệ sĩ Dustin Irvin, Werner sẽ đi sâu vào những điều đằng sau-bối cảnh tạo ra và phát triển Ngôi nhà bí ẩn Winchester cũng như thần thoại hiện đại bao quanh nó. Werner và Irvin đang hợp tác toàn diện với những chủ sở hữu hiện tại của Ngôi nhà bí ẩn Winchester, cùng với những người nói chung của nó. Dustin Irvin đã vẽ bìa chính cho Ngôi nhà bí ẩn số 1 của Winchester, với bìa biến thể của Ryan Quackenbush. Hãy xem chúng tại đây:. Đánh giá, Tin tức, CPU, GPU, Bài viết, Cột, Khác “hoặc”quan hệ tìm kiếm.
Ngôi nhà bí ẩn Winchester
Ngôi nhà bí ẩn Winchester là một dinh thự ở San Jose, California. Nơi đây từng là nơi cư ngụ của Sarah Winchester, vợ góa của ông trùm sản xuất súng William Wirt Winchester. Ngôi nhà nằm ở số 525 Nam Winchester Blvd tại San Jose. Căn biệt thự mang phong cách Queen Anne hậu Victoria nổi tiếng với quy mô, kiến trúc của nó và thiếu kế hoạch xây dựng tổng thể. Đây là địa điểm lịch sử của California và được liệt kê trong Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ. Ngôi nhà thuộc sở hữu tư nhân và được phục vụ như một địa điểm du lịch. Kể từ khi xây dựng vào năm 1884, căn nhà được cho là bị ám bởi linh hồn của những người bị giết bằng súng trường Winchester. Dưới sự giám sát hằng ngày của Winchester, công trình "từ trên mặt đất" đã được thực hiện liên tục, theo một số tài liệu, mà không bị gián đoạn. Cho đến khi bà qua đời vào ngày 5 tháng 9 năm 1922, lúc đó việc xây dựng ngay lập tức chấm dứt. Tuy nhiên, người viết tiểu sử của Sarah Winchester cho rằng Winchester thường xuyên sa thải công nhân trong nhiều tháng liền để nghỉ ngơi như tôi có thể" và ghi nhận rằng "điều này đã làm cho các chủ sở hữu nhà bí ẩn Mystery ngày nay đang làm việc tại trang trại là không ngừng nghỉ trong ba mươi tám năm.
Cụm từ “Địa chất học” xuất phát từ chữ Hylạp geologia (geo: Trái Đất và logia: nghiên cứu hoặc khoa học). Như vậy địa chất học là môn khoa học nghiên cứu về quy luật hình thành, phát triển, biến đổi của Trái Đất và các yếu tố của nó trong quá khứ, hiện tại. Những nhà khoa học nghiên cứu về các vấn đề trên được gọi là nhà địa chất (geologist). Các nhà địa chất tiến hành nghiên cứu ở khắp nơi trên Trái Đất từ những miền núi cao, băng giá, tới đáy đại dương. Những công việc của họ là nhằm hiểu biết tất cả các quá trình xảy ra trên Trái Đất và giải đoán lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của Trái Đất. Các quá trình nghiên cứu của các nhà địa chất tuân theo tất cả các quy luật tự nhiên được các nhà vật lý, hóa học và toán học phát hiện. Địa chất học cũng là một ngành có tính thực tiễn đặc biệt vì nó là khoa học nghiên cứu về Trái Đất mà chúng ta đang sống, và những kết quả nghiên cứu có thể được kiểm chứng hoặc dựa trên những bằng chứng thực tế mà từ đó đem lại hiểu biết về các hành vi của Trái Đất. Địa chất học được chia thành nhiều nhánh nghiên cứu khác nhau trong đó có địa chất cơ sở (general geology) và địa chất lịch sử (historical geology). Địa chất cơ sở nghiên cứu các quá trình địa chất xảy ra trên hoặc bên dưới bề mặt Trái Đất và các vật chất bị chúng tác động. Địa chất lịch sử nghiên cứu về trình tự thời gian mà các sự kiện, cả tự nhiên và sinh học đã xảy ra trên Trái Đất trong quá khứ. Ngoài ra phụ thuộc vào đối tượng nghiên cứu cụ thể mà các nhánh đó lại được chia ra thành nhiều môn khác nhau, ví dụ như:. Các môn khoa học địa chất nghiên cứu về thành phần vật chất của vỏ Trái Đất: khoáng vật học, thạch học. Các môn nghiên cứu về các loại khoáng sản, tiềm năng của chúng và phương pháp thăm dò và khai thác chúng: khoáng sản học, địa chất thủy văn, tìm kiếm thăm dò khoáng sản, địa vật lý, kinh tế địa chất, khoan thăm dò. Các môn nghiên cứu về điều kiện địa chất để xây dựng công trình: địa chất công trình, địa kỹ thuật. Một đối tượng nghiên cứu quan trọng của địa chất học và có mặt trong tất cả các nhánh hoặc môn khoa học địa chất là các loại đá (rocks). Đất trong một điều kiện địa chất nhất định và tạo thành một phần của các hành tinh. Tóm lại, địa chất học tập trung nghiên cứu: cấu trúc, đặc điểm vật lý, động lực, lịch sử của các vật liệu trên Trái Đất, kể cả các quá trình hình thành, vận chuyển, biến đổi của các vật liệu này. Vì địa chất học là ngành khoa học nghiên cứu về Trái Đất, nó bao gồm việc nghiên cứu tất cả các hoạt động, quá trình và sự phát triển theo thời gian của các đối tượng địa chất trong những điều kiện vật lý, hóa học, sinh học và các điều kiện tự nhiên khác vô cùng phức tạp. Do đó địa chất học có mối quan hệ khăng khít với hầu hết các ngành khoa học khác như: vật lý, hóa học, toán học, cơ học, sinh vật học. Địa chất học không những sử dụng thành quả của các nghiên cứu này mà còn bổ sung các dữ liệu và kiểm chứng những kết quả của các nghiên cứu đó. Mối liên hệ giữa địa chất học và các môn khoa học cơ bản còn được thể hiện bởi sự ra đời của một loạt các môn khoa học có tính chất liên kết với mục đích giải quyết các vấn đề của địa chất học như: địa hóa học, địa vật lý, toán địa chất, tin học địa chất…. Việc nghiên cứu địa chất có ý nghĩa thực tiễn quan trọng với mục đích cuối cùng là phục vụ đời sống của con người. Cuộc sống của muôn loài phụ thuộc vào môi trường xung quanh và môi trường đó được quyết định bởi các quá trình địa chất trên mặt hoặc bên trong Trái Đất. Do đó mức độ hiểu biết của chúng ta về hành vi của các quá trình địa chất sẽ quyết định tương lai của nhân loại nhờ những dự báo và tiên đoán của chúng ta. Để có thể dự đoán được những gì sẽ xảy ra trong tương lai, chúng ta phải hiểu rõ rất cả về vật chất của Trái Đất và các quá trình địa chất. Tất cả nguồn tài nguyên mà chúng ta đang sử dụng đều đến từ Trái Đất, do đó việc nghiên cứu và hiểu biết rõ quy luật phân bố, trữ lượng tài nguyên (khoáng sản, nước dưới đất…) có mặt bên trong và trên mặt đất và ý nghĩa của chúng đối với cuộc sống con người sẽ giúp chúng ta định hướng được sự phát triển thông qua việc khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lý. Vì toàn bộ các kết cấu do con người tạo ra (nhà cửa, đường xa, cầu cống, sân bay, thủy điện…) đều được đặt trên nền móng là phần trên cùng của Trái Đất nên độ an toàn và ổn định của chúng sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào sự hiểu biết về đặc điểm của nền móng này thông qua việc nghiên cứu địa chất. Tất cả các tai biến đã, đang và sẽ xảy ra đều có nguồn gốc từ các hoạt động của Trái Đất. Có thể một ngày nào đó chúng ta học được cách để khống chế các thiên tai, nhưng hiện tại điều tốt nhất ta có thể làm được đó là dự đoán các thiên tai đó sẽ xảy ra khi nào và ở đâu để chuẩn bị đối phó nếu chúng xảy ra. Để có thể dự đoán được chính xác các hiện tượng tự nhiên đó, ta phải biết được sự thay đổi có thể xảy ra và các dấu hiệu của nó thông qua việc nghiên cứu các quá trình địa chất. Cùng với sự tiến bộ vượt bậc của nghiên cứu khoa học trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, ngành địa chất học thế giới cũng đang đứng trước những cơ hội và thử thách mới. Với sự ứng dụng ngày càng tăng các thành tựu của khoa học công nghệ trong nghiên cứu địa chất, địa chất học ngày càng được định lượng hóa cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Việc nghiên cứu địa chất ngày càng được chính xác hóa và những kết quả nghiên cứu ngày càng tiệm cận với quy luật thực tế của các quá trình địa chất, cả trong quá khứ và hiện tại. Việc nghiên cứu địa chất không chỉ được thúc đẩy trên đất liền mà còn được tiến hành rộng rãi trên biển và dưới đáy đại dương, và tiến sâu hơn vào các phần sâu hơn của Trái Đất. Hơn thế nữa, việc nghiên cứu địa chất đang được tiến hành với quy mô ngày càng tăng vào mối quan hệ giữa Trái Đất với các hành tinh khác trong hệ Mặt Trời, và bản chất địa chất của các hành tinh cũng như của vũ trụ đã hình thành môn địa chất vũ trụ. Cũng như các môn khoa học khác, địa chất học sử dụng một tổ hợp các phương pháp nghiên cứu theo logic khoa học tự nhiên là đi từ việc quan sát, thu thập thông tin, xử lý dữ liệu, tổng hợp và tìm ra các quy luật, xây dựng các giả thuyết, và kiểm chứng kết quả. Tuy nhiên, do đặc thù của địa chất học là đối tượng nghiên cứu của nó có không gian rất đa dạng, từ các lục địa tới các hạt khoáng vật hoặc nhỏ hơn và có một lịch sử hình thành và phát triển rất lâu dài và phức tạp dưới các điều kiện hóa lý khác nhau trong quá khứ, nên việc nghiên cứu địa chất có nhiều nét đặc thù riêng. Nhìn chung việc nghiên cứu địa chất bao gồm một tổ hợp các phương pháp sau:. Các phương pháp thực địa: khảo sát địa chất, thu thập thông tin (số liệu địa chất, lấy mẫu…) thông qua quan sát bằng mắt thường hoặc sử dụng các máy móc hiện đại (địa vật lý, khoan, viễn thám…). Các phương pháp trong phòng bao gồm việc phân tích dữ liệu địa chất, phân tích mẫu, tổng hợp số liệu, mô phỏng thực nghiệm, suy đoán và đối sánh (lấy mới soi cũ…) và mô hình hóa. Các nhà địa chất sử dụng các phương pháp thực địa, phân tích trong phòng thí nghiệm và mô hình số để giải mã lục sử Trái Đất và hiểu các quá trình xảy ra trên Trái Đất. Trong quá trình khảo sát địa chất, các nhà địa chất thường dùng các thông tin nguyên thủy liên quan đến thạch học (nghiên cứu về các loại đá), địa tầng học (nghiên cứu các lớp trầm tích), và địa chất cấu tạo (nghiên cứu về thế nằm và sự biến dạng của đá). Trong một số trường hợp, các nhà địa chất cũng nghiên cứu đất, sông, địa hình, băng hà; khảo sát sự sống hiện tại, quá khứ, các chu trình địa hóa và sử dụng các phương pháp địa vật lý để khảo sát phần bên dưới mặt đất. Công việc khảo sát địa chất thực tế hay thực địa thay đổi tùy theo nhiệm vụ được giao (đặt ra). Các công việc thông thường bao gồm:. Bản đồ cấu trúc: xác định vị trí của các thành tạo đá chính và các đứt gãy, nếp uốn. Bản đồ địa tầng: xác định vị trí của các tướng trầm tích (tướng thạch học, tướng sinh học) hoặc lập bản đồ đẳng dày của các lớp đá trầm tích. Khảo sát sự thay đổi của địa hình cảnh quan (các dạng xói mòn và tích tụ, sự thay đổi lòng sông tạo ra khúc uốn, thay đổi mực xâm thực cơ sở, các quá trình sườn …). c. Lập bản đồ dưới bề mặt bằng phương pháp địa vật lý (để tìm kiếm dầu khí, nước ngầm, xác định vị trí các kiến trúc cổ bị chôn vùi …), bao gồm: khảo sát bằng sóng địa chấn ở độ sâu nông, thẩm thấu radar mặt đất, ảnh điện trở. d. Địa tầng học phân dải cao: đo đạc và mô tả các mặt cắt địa tầng trên bề mặt và khoan, đo đạc trong giếng khoan. e. Sinh địa hóa học và vi sinh địa học: thu thập mẫu để xác định các đường sinh hóa, các tổ hợp loài mới, các hợp chất hóa học mới nhằm hiểu rõ thêm về tiến trình của sự sống trước đây trên Trái Đất, tìm kiếm các hợp chất quan trọng để sử dụng trong dược phẩm. f. Cổ sinh vật học: xác định các hóa thạch để nghiên cứu sự sống trong quá khứ và sự tiến hóa của nó, trưng bày trong bảo tàng. h. Nghiên cứu băng hà: đo đạc các đặc điểm của băng hà và sự di chuyển của chúng. a. Thạch học: xác định các mẫu đá dưới kính hiển vi quang học (xác định các thuộc tính khác nhau của các khoáng vật tạo đá bởi ánh sáng phân cực xuyên qua lát mỏng trên mặt phẳng phân cực) và dưới kính hiển vi điện tử (xác định sự thay đổi thành phần hóa học của các tinh thể khoáng vật riêng lẻ). Các nghiên cứu về đồng vị phóng xạ sau khi xác định thành phần thạch học giúp hiểu hơn về thành phần vật chất bên trong, cũng như sự tiến hóa về địa hóa của các loại đá. Các dữ liệu về nhiệt độ và áp suất của các bao thể trong đá sau khi nghiên cứu thạch học của đá giúp ta khôi phục lại môi trường và điều kiện thành tạo của các pha tạo khoáng khác nhau. Các nhà địa chất cấu tạo sử dụng phương pháp phân tích thạch học lát mỏng để quan sát cấu tạo thớ nứt của đá vì chúng cung cấp thông tin về ứng suất bên trong cấu trúc tinh thể khoáng vật của đá. Kết quả nghiên cứu trên kết hợp các đo đạc về địa chất cấu tạo cho ta hiểu rõ hơn xu hướng của đứt gãy hoặc nếp uốn để hồi phục lại lịch sử biến dạng đá của một khu vực hay rộng hơn là lịch sử phát triển kiến tạo của khu vực. Các phân tích về cấu tạo thường được tiến hành bằng cách vẽ đồ thị xu hướng về các đặc điểm biến đổi trên lưới chiếu nổi. Lưới chiếu nổi là một lưới chiếu hình cầu được thể hiện trên mặt phẳng, trên lưới này các mặt phẳng được biểu diễn thành những đường thẳng và các đường thẳng được biểu diễn thành các điểm. Lưới này có thể được sử dụng để tìm vị trí của các trục nếp uốn, quan hệ giữa các đứt gãy, và quan hệ giữa các cấu tạo địa chất khác nhau. Trong phòng thí nghiệm, các nhà địa tầng học phân tích các mẫu trong các mặt cắt địa tầng được thu thập từ các lộ trình khảo sát địa chất, từ các mẫu lõi giếng khoan. Dữ liệu địa vật lý và log lỗ khoan cũng được kết hợp để mô phỏng theo không gian ba chiều trên máy tính để giúp hiểu rõ hơn về các đặc điểm bên dưới mặt đất. Sau đó, các dữ liệu này được sử dụng để tái lập lại các quá trình trong quá khứ đã diễn ra trên bề mặt của Trái Đất và giải đoán đặc điểm các môi trường này trong quá khứ. Trong phòng thí nghiệm, các nhà sinh địa tầng học phân tích các mẫu đá lộ ra trên mặt và các mẫu lõi trong các giếng khoan để tìm kiếm các hóa thạch. Các hóa thạch này giúp các nhà khoa học định tuổi của đá chứa nó và biết được môi trường trầm tích của đá đó. Các nhà địa thời học xác định chính xác tuổi đá trong mặt cắt địa tầng nhằm cung cấp các ranh giới tuổi tuyệt đối chính xác hơn về thời gian và tốc độ trầm tích. Các nhà từ địa tầng học cũng dùng dấu hiệu đảo cực từ trong lõi khoan của các đá magma để định tuổi của đá. Các nhà khoa học khác nghiên cứu các đồng vị ổn định trong các đá cũng nhằm cung cấp thêm thông tin về khí hậu trong quá khứ.
Kinh tế địa chất
Kinh tế địa chất quan tâm đến các loại vật liệu trên Trái Đất mà có thể sử dụng vào mục đích kinh tế hoặc công nghiệp. Các loại vật liệu này bao gồm các kim loại cơ bản và kim loại quý, các khoáng sản không kim loại, đá xây dựng, dầu khí, than và nước. Thuật ngữ này thường đề cập đến các tích tụ khoáng sản và tài nguyên khoáng sản. Ngành này ứng dụng các kỹ thuật của các ngành khoa học liên quan như địa hóa học, khoáng vật học, địa vật lý, và địa chất cấu tạo để tìm kiếm, thăm dò và khai thác quặng. Kinh tế địa chất được các nhà địa chất nghiên cứu và ứng dụng; tuy nhiên nó là đối tượng quan tâm của các nhà đầu tư, phân tích chứng khoán, và các đối tượng khác như kỹ sư, các nhà khoa học môi trường bởi vì những ảnh hưởng của nó từ ngành công nghiệp khai thác đến xã hội, kinh tế và môi trường là rất lớn. Các nguồn tài nguyên khoáng sản tập trung vào các khoáng sản là nhu cầu của xã hội trong hiện tại và tương lai.
Ngoại trừ bệnh van động mạch chủ thì thông liên thất là bệnh tim bẩm sinh hay gặp nhất, nó chiếm khoảng 25% các bệnh tim bẩm sinh. Trẻ khi bị dị tật này thường chậm lớn và có thể có nhiều biến chứng nguy hiểm nếu không được xử lý kịp thời. Bài viết này sẽ cung cấp cho bạn các kiến thức về bệnh thông liên thất để chủ động hơn trong việc đối phó với loại bệnh này. Thông liên thất là một bệnh lý tim bẩm sinh, có sự hình thành 1 lỗ giữa hai buồng tâm thất. Có rất nhiều cách phân loại theo giải phẫu bệnh về thông liên thất khác nhau được đặt ra, nhưng nhìn chung có 4 loại thông liên thất chính là:. Các biểu hiện và triệu chứng của bệnh thông liên thất nặng thường xuất hiện ngay từ những tháng đầu đời, thậm chí có trong những ngày đầu của trẻ mới sinh. Các biểu hiện thông liên thất thường thấy ở trẻ là khó thở hoặc thở nhanh, trẻ bỏ ăn, ăn kém, trẻ nhanh bị mệt, hay bị viêm phổi tái đi tái lại nhiều lần. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp trẻ không có biểu hiện gì mà phát hiện tình cờ khi đi khám sức khỏe, một số trường hợp khác chỉ phát hiện khi đã trưởng thành. Tóm lại, các biểu hiện của bệnh thông liên thất:. Hơi thở nhanh hoặc khó thở: Khó thở kể cả khi vận động nhẹ hoặc khi nghỉ ngơi, cơ thể mệt một cách dễ dàng khi ăn hoặc chơi đùa. Thông liên thất không được phát hiện cho đến tuổi trưởng thành và thường phát triển thêm các dấu hiệu hoặc triệu chứng của suy tim. Các dấu hiệu và triệu chứng có thể khác nhau tùy theo kích thước của lỗ thông liên thất. Trường hợp thông liên thất lỗ nhỏ rất hay gặp, có thể gặp ở người trưởng thành và có khả năng tự đóng. Tỷ lệ tự đóng lại của các trường hợp thông liên thất lỗ nhỏ ở trẻ em lên đến 75%. Ngược lại thông liên thất lỗ lớn sẽ ảnh hưởng nhanh đến hô hấp và áp lực động mạch phổi, áp lực này có thể tăng một cách cố định rất sớm: từ 6 đến 9 tháng. Đối với các trường hợp sức cản mạch phổi tăng cố định (hội chứng Eisenmenger) bệnh nhân hiếm khi sống được quá tuổi 40. Các biến chứng hay gặp ở nhóm bệnh nhân này là chảy máu ở phổi, viêm nội tâm mạc, áp xe não, rối loạn nhịp thất và các biến chứng của đa hồng cầu. Tiên lượng sẽ rất kém ở các bệnh nhân có các biểu hiện ngất, suy tim xung huyết và ho ra máu. Người ta nhận thấy ngoài nguyên nhân do mẹ bị cúm trong ba tháng đầu, thông liên thất hay gặp trong các hội chứng bệnh lý, đặc biệt là hội chứng có ba nhiễm sắc thể 21, hội chứng do mẹ nghiện rượu khi mang thai. Bệnh thông liên thất thường có tính gia đình và đôi khi liên quan đến di truyền. Yếu tố di truyền trong gia đình có thể khiến bệnh tim bẩm sinh xảy ra trong nhiều thế hệ của gia tộc. Sản phụ rơi vào một trong các trường hợp sau đây có thể làm tăng nguy cơ sinh con với mắc các dị tật tim bẩm sinh: bị nhiễm rubella khi mang thai, bệnh tiểu đường khó kiểm soát, sử dụng ma túy, uống rượu hoặc tiếp xúc với các chất kích thích nhất định. Do đó, thai phụ cần tiêm ngừa Rubella trước khi mang thai, không sử dụng các chất kích thích và kiểm soát tốt bệnh tiểu đường. Đối với những phụ nữ mắc bệnh tim bẩm sinh, cần thảo luận với bác sĩ tim mạch trước khi quyết định mang thai. Hẹp van động mạch chủ là bệnh van tim nguy hiểm, có tỷ lệ mắc khá cao, đặc biệt là ở những người lớn tuổi. Vậy nguyên nhân gây hẹp van động mạch chủ là gì? Điều trị bệnh như . Rối loạn nhịp thất là một dạng của rối loạn nhịp tim gây ra tình trạng tim đập với tần số nhanh bất thường. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời rối loạn nhịp thất có thể . Bệnh tim bẩm sinh là dị tật hay gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong số các dị tật bẩm sinh ở trẻ em. Bệnh tim bẩm sinh được chia ra thành tim bẩm sinh . Bà bầu bị bệnh tim được chỉ định sinh mổ lấy thai. Gây mê nội khí quản phẫu thuật lấy thai trên người có bệnh tim được áp dụng để kiểm soát hoạt động hô hấp của người bệnh trong . Tôi muốn hỏi, các bệnh tim bẩm sinh có thể phát hiện trong thời gian mang thai không hay phải sinh ra mới thấy? Cảm ơn bác sĩ đã tư vấn giúp tôi.
Thông liên thất
Thông liên thất (tiếng Anh: ventricular septal defect, thường được viết tắt là VSD) là một khiếm khuyết của vách liên thất, tức là vách ngăn giữa hai buồng tâm thất của tim. Vách liên thất là một cấu trúc phức tạp gồm: phần cơ, phần màng, phần phễu, phần buồng nhận. Thông thường khi trẻ sinh ra, vách này không có lỗ thông vì vậy không cho phép máu của hai tâm thất hòa trộn với nhau. Trong vách liên thất là nơi có phần đầu quan trọng của hệ thống thần kinh dẫn truyền xung động từ nhĩ đến các phần cơ thất. Thông liên thất là bệnh tim bẩm sinh thường gặp nhất trong tất cả các bệnh tim bẩm sinh chiếm 15%-20% tất cả các bệnh tim bẩm sinh, đó là chưa kể đến các thông liên thất trong các bệnh tim bẩm sinh có tím phức tạp.
Trên thế giới hiện nay có 204 quốc gia và vùng lãnh thổ. Giữa các gia luôn tồn tại những mối quan hệ, giao lưu trong tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, văn hóa, y tế đến chính trị quốc phòng. Mỗi nhà nước là một thực thể độc lập, do đó, trong mối quan hệ của mỗi quốc gia với quốc gia khác luôn tồng tại những điều khác biệt. Sự chi phối của mối quan hệ đó chính là nền chính trị và chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia. Chính sách đối ngoại của một quốc gia, còn được gọi là chính sách ngoại giao, bao gồm các chiến lược do nhà nước lựa chọn để bảo vệ lợi ích của quốc gia mình và đạt được các mục tiêu trong môi trường quan hệ quốc tế. Vì lợi ích quốc gia là tối quan trọng, các chính sách đối ngoại được chính phủ thiết kế thông qua các quy trình ra quyết định cấp cao. Chính sách đối ngoại nhắm đến các chủ thể bên ngoài phạm vi của hệ thống chính trị trong nước, nhằm đạt được những mục tiêu khác nhau, phù hợp với lợi ích của quốc gia đó. Mục tiêu định hướng ban đầu của chính sách đối ngoại là mở rộng tầm ảnh hưởng của quốc gia trong quan hệ quốc tế,. Chính sách đối ngoại có vai trò chính đó chính là thủ động tạo ra mối quan hệ quốc tế thuận lợi để đưa nước ta hội nhập với thế giới; góp phần tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Hoạt động đối ngoại đã góp phần quan trọng vào việc duy trì và củng cố môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với hoạt động đối ngoại sôi động, tích cực, chúng ta đã mở rộng và nâng lên tầm cao mới các mối quan hệ hợp tác, đối tác với nhiều quốc gia, trong đó có tất cả các nước lớn, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta. Chính bản chất nhân nghĩa, hòa hiếu, khoan dung của dân tộc đã giúp ngoại giao Việt Nam xóa bỏ hận thù và san lấp khoảng cách giữa nước ta với các nước, kể cả với những nước vốn là cựu thù của đất nước ta. Hoạt động đối ngoại đã góp phần xứng đáng vào nhiệm vụ giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Chúng ta đã hoàn thành thực hiện phân giới cắm mốc với Lào, Trung Quốc; đang thúc đẩy phân giới cắm mốc với Cam-pu-chia, đàm phán phân định biển và hợp tác cùng phát triển với Trung Quốc ở khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia, xử lý các vấn đề liên quan đến thềm lục địa mở rộng với Malaysia. Công tác đối ngoại tham gia tích cực vào việc giữ vững và xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước láng giềng; kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích quốc gia trên Biển Đông, không để các tranh chấp leo thang thành xung đột. Thực hiện nhiệm vụ đối ngoại, đấu tranh kiên quyết trong vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, kịp thời xử lý các khía cạnh đối ngoại phức tạp, góp phần bảo đảm ổn định chính trị – xã hội của đất nước. Hoạt động đối ngoại đã chủ động, tích cực triển khai mạnh và hiệu quả chủ trương lớn về Hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế đã được triển khai mạnh mẽ trên tất cả các kênh, gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại của Quốc hội, đối ngoại nhân dân, diễn ra trên hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nỗ lực trong hoạt động đối ngoại đã phát huy vai trò của nước ta trên nhiều diễn đàn và tổ chức quốc tế, tranh thủ có được những vị trí xứng đáng trong Hội đồng Bảo an, Ủy ban Nhân quyền, Hội đồng kinh tế – xã hội của Liên hợp quốc…. Hoạt động đối ngoại đã có nhiều đóng góp thiết thực vào việc tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Có nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ, tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam. Đàm phán thành công nhiều hiệp định thương mại tự do với 55 quốc gia, mở ra triển vọng huy động thêm các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển. Người Việt Nam ở xa đất nước ngày càng hướng về quê hương, gắn bó và có những đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã và đang làm tốt nhiệm vụ bảo vệ công dân, thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy của cộng đồng người Việt sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Trong đó, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân được đặt lên hàng đầu; đồng thời phải nhận thức rõ vị trí của công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế phải góp phần quan trọng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ Xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, ưu tiên phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới như: Lào, Trung Quốc và Cam-pu-chia. Ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại song phương, đa phương mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước. Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố vai trò quan trọng của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Xây dựng cộng đồng ASEAN trở thành một trọng tâm đối ngoại của quốc tế. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là với các nước ASEAN. Hội nhập quốc tế là nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ đối ngoại. Hội nhập quốc tế không giới hạn trong một phạm vi, một lĩnh vực nào của đời sống quốc tế mà được lan tỏa ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Tham gia mọi mặt đời sống quan hệ quốc tế là phải tham gia các quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Hội nhập quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của thời cuộc nói chung, vừa là nhu cầu nội tại của mỗi nước, trong đó có Việt Nam. Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, trách nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu…, đặc biệt là Liên hợp quốc. Việt Nam sẽ tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có tham gia các hoạt động hợp tác ở mức độ cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc,…. Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hợp tác quốc tế. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo và các lĩnh vực khác. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị…; hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu. – Lợi ích của quốc gia. Lợi ích quốc gia của Việt Nam trong đối ngoại bao gồm hai nhóm: nhóm các lợi ích sống còn và nhóm các lợi ích phát triển. Nhóm các lợi ích sống còn bao gồm giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia; giữ vững hòa bình với bên ngoài, bảo đảm ổn định và trật tự bên trong; bảo đảm cuộc sống an toàn cho nhân dân; bảo đảm an ninh kinh tế của quốc gia; giữ gìn bản sắc dân tộc. Nhóm các lợi ích phát triển bao gồm không ngừng nâng cao khả năng giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; mở rộng không gian phát triển; phát huy bản sắc dân tộc; phát huy vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. – Thế và lực của quốc gia trên trường quốc tế: Chính sách đối ngoại được xây dựng trên cơ sở không những phải phù hợp với lợi ích của quốc gia, mà còn phải tương thích với vị thế và sức mạnh tổng hợp của đất nước.
Chính sách đối ngoại
Chính sách đối ngoại của một quốc gia, còn được gọi là chính sách ngoại giao, bao gồm các chiến lược do nhà nước lựa chọn để bảo vệ lợi ích của quốc gia mình và đạt được các mục tiêu trong môi trường quan hệ quốc tế. Các phương pháp được sử dụng một cách chiến lược để tương tác với các quốc gia khác. Nghiên cứu về các chiến lược như vậy được gọi là phân tích chính sách đối ngoại. Trong thời gian gần đây, do mức độ toàn cầu hóa và các hoạt động xuyên quốc gia ngày càng sâu rộng, các quốc gia cũng sẽ phải tương tác với các chủ thể phi quốc gia. Sự tương tác nói trên được đánh giá và giám sát trong nỗ lực tối đa hóa lợi ích của hợp tác quốc tế đa phương. Vì lợi ích quốc gia là tối quan trọng, các chính sách đối ngoại được chính phủ thiết kế thông qua các quy trình ra quyết định cấp cao. Thành tựu lợi ích quốc gia có thể xảy ra do kết quả hợp tác hòa bình với các quốc gia khác, hoặc thông qua khai thác hay lợi dụng.
3 Các loại thuốc an thần gây dễ ngủ hiện nay3.1 Thuốc an thần Mimosa3.2 Thuốc an thần thảo dược3.3 Thuốc an thần Seduxen3.4 Thuốc an thần cho chó3.5 Thuốc an thần cho trẻ em. 5 Các câu hỏi đặt ra cho thuốc an thần5.1 Uống thuốc an thần có hại không?5.2 Uống thuốc an thần nhiều có sao không?5.3 Uống 5 viên thuốc an thần có sao không?5.4 Mua thuốc an thần ở đâu?5.5 Thuốc an thần có tác dụng trong bao lâu?. Thuốc an thần là gì? Các loại thuốc an thần mạnh và an toàn 2020. Thuốc Mê Minh Hải chuyên tuyển chọn và phân phối thuốc ngủ mạnh, nguồn gốc thảo dược, đảm bảo hiệu quả tốt, không gây hại đến sức khỏe người dùng. Do nhiều căng thẳng, áp lực trong cuộc sống hoặc xuất phát từ nguyên nhân bệnh lý nào đó mà tinh thần của con người dễ bị rối loạn, bất an. Điều này dẫn đến tình trạng mất ngủ và nhiều vấn đề suy nhược sức khỏe khác. Thuốc an thần được đánh giá là loại thuốc rất hữu ích trong các trường hợp điều trị rối loạn tinh thần, stress, mất ngủ… Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc cần có sự chỉnh định từ những người có chuyên môn như bác sĩ, dược sĩ, chuyên gia sức khỏe… để đảm bảo an toàn. Thuốc an thần là những loại thuốc có tác dụng chính là giúp điều hòa, trấn an tinh thần. Những loại thuốc được xếp vào nhóm thuốc an thần gồm có:. Cơ chế tác động của thuốc an thần là tăng sinh một loại hormone có tên gọi là Dopamin thông qua việc thúc đẩy hoạt động của chất dẫn truyền thần kinh. Nhờ vào Dopamin mà cơ thể sẽ cảm thấy dễ chịu, hài lòng, khoan khoái, nhẹ nhàng hơn và không còn cảm giác mệt mỏi, đau nhức, khó chịu… nữa. Đó chính là lý do khiến loại thuốc này được sử dụng nhiều trong các ca phẫu thuật, gây mê…. Nếu như trước đây mọi người sử dụng thuốc an thần bằng cách sắc thuốc từ những thảo dược thiên nhiên thì Y học hiện đại đã có những phương pháp phân tách, tổng hợp các hoạt chất, thành phần thảo dược và làm thành những viên thuốc dạng nén được sử dụng phổ biến hiện nay. Thuốc an thần nhìn chung là một loại thuốc hỗ trợ tốt về mặt thần kinh. Tuy nhiên không được quá lạm dụng vì nó có thể gây nghiện hoặc dẫn đến nhiều hệ lụy hay vấn đề sức khỏe khá nghiêm trọng. Đối với các trường hợp bị mất ngủ thì có thể sử dụng những loại thuốc an thần gây ngủ được điều chế với thành phần dược liệu và tác dụng chính là giúp hỗ trợ toàn diện hơn cho giấc ngủ. Thuốc an thần dễ ngủ sẽ giúp bạn không còn trằn trọc, lo âu mỗi khi lên giường ngủ, nhanh chóng chìm sâu vào giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ được cải thiện rõ rệt. Thuốc an thần Mimosa là một sản phẩm thuốc ngủ – thuốc an thần khá nổi tiếng ở nước ta. Đây là sản phẩm của Công ty Dược phẩm OPC và đã rất được tin dùng từ khi nó xuất hiện trên thị trường cho đến nay. Thành phần chính của thuốc an thần Mimosa chính là cây trinh nữ, cùng với đó là một số thảo dược thiên nhiên khác vốn rất nổi tiếng nhờ vào tác dụng dưỡng tâm an thần như lá vông nem, bình vôi, lạc tiên, sen lá. Với thành phần thảo dược thiên nhiên và công nghệ tiên tiến, hiện đại bậc nhất, những viên thuốc Mimosa chứa đựng tinh túy của y học dân tộc, giúp người dùng có thể hoàn toàn yên tâm khi sử dụng và có giấc ngủ ngon mỗi đêm. Nếu Mimosa là thuốc an thần có nguồn gốc thảo dược nổi tiếng thì Seduxen là một loại thuốc an thần của Tây y rất được tin dùng. Không sử dụng thuốc cho những người có dị ứng với thành phần của thuốc. Nên được sự tư vấn của bác sĩ trước khi dùng và chỉ uống thuốc theo đúng liều lượng đã được khuyến cáo. Thuốc an thần cho chó là những loại thuốc giúp tạo cảm giác an toàn và trấn an tinh thần cho chú cún thân yêu của bạn. Loại thuốc này được sử dụng trong các trường hợp như phải di chuyển thú cưng đi xa, thú cưng ở nhà một mình hay phải gặp gỡ, làm quen với người chủ mới. Bởi vì trong những tình huống quan trọng, dễ gây mất bình tĩnh như vậy đối với thú cưng thì mới cần sử dụng đến thuốc an thần. Nếu như không phải thực sự cần thiết thì bạn cũng không nên dùng thuốc cho chú cún của mình. Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà bác sĩ thú y sẽ tư vấn và chỉ định liều thuốc cho phù hợp. Bạn không nên tự ý mua và cho thú cưng uống mà chưa tìm hiểu kỹ càng các thông tin. Thuốc an thần cho trẻ em cũng có thể được sử dụng, tuy nhiên, chỉ trong những trường hợp cần thiết và có sự chỉ định từ bác sĩ. Thông thường thì sẽ được dùng trong điều trị bệnh, phẫu thuật…. Còn đối với các trường hợp trẻ em bị mất ngủ thì các bậc phụ huynh nên có hướng chữa trị khác thay vì sử dụng thuốc an thần. Thuốc an thần khi dùng cho trẻ sẽ có liều lượng khác so với người lớn, đặc biệt là cần lưu ý đến những tác dụng phụ nghiêm trọng. Có nhiều điều nguy hại về sức khỏe sinh lý lẫn tinh thần ở trẻ nhỏ nếu như cho trẻ dùng thuốc an thần không đúng cách. Trong trường hợp trẻ bị rối loạn giấc ngủ thì cha mẹ có thể thử những cách khác để cải thiện như:. Nên rèn luyện giờ giấc sinh học cho trẻ từ việc ăn uống, vui chơi đến ngủ nghỉ. Việc thực hiện mọi thứ đúng giờ giấc có thể giúp bé khắc phục được tình trạng ngủ ngày – thức đêm. Mặc dù có thuốc an thần cho trẻ em nhưng chúng ta nên hạn chế sử dụng là tốt nhất. Bởi vì cơ thể cũng như các vấn đề tâm sinh lý của trẻ chưa được phát triển toàn diện nên việc dùng thuốc có khả năng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực. Thuốc an thần giá bao nhiêu? Đối với thắc mắc này thì chúng tôi không thể nêu ra được một giá tiền chính xác bởi vì tùy thuộc vào từng loại thuốc khác nhau sẽ có mức giá khác nhau. Hiện có rất nhiều chủng loại thuốc an thần trên thị trường nên bạn có thể thoải mái lựa chọn và cân nhắc xem loại thuốc nào có mức giá hợp với túi tiền của mình nhất. Về vấn đề mua thuốc an thần ở đâu? thì chúng tôi có lời khuyên là bạn nên đến những cơ sở phân phối thuốc, nhà thuốc, cửa tiệm thuốc Tây uy tín để mua hàng. Những nơi này mới đảm bảo chất lượng và nguồn gốc của sản phẩm, đồng thời cũng có mức giá thuốc phù hợp với thị trường chung. Bạn sẽ không bị mua nhầm thuốc giả với mức giá quá đắt đỏ. Thuốc Mê Minh Hải chính là địa chỉ mà bạn có thể tin tưởng để tìm mua các loại thuốc ngủ, thuốc an thần chính hãng, an toàn. Chúng tôi là hệ thống nhà thuốc uy tín, chất lượng hàng đầu. Với đội ngũ chuyên gia cố vấn có trình độ chuyên môn cao đến từ các cơ sở y tế, bệnh viện uy tín, Thuốc Mê Minh Hải luôn có những sản phẩm được tuyển chọn tốt nhất cho tất cả các khách hàng. Đồng thời, cam kết giá thuốc cạnh tranh, giao hàng miễn phí tận nơi trên cả nước. Dùng thuốc an thần có hại không còn tùy thuộc vào cách sử dụng của bạn. Thuốc an thần có tác dụng tốt trong việc giúp giảm căng thẳng, lo âu, mệt mỏi, dưỡng tâm an thần… nên sẽ không có hại nếu như chúng ta dùng thuốc có chừng mực. Việc lạm dụng thuốc có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe xấu, lúc này thì thuốc an thần mới có những tác hại tiêu cực. Do đó, dùng thuốc theo đúng hướng dẫn của bác sĩ chính là yếu tố quan trọng để không gặp phải nguy hiểm với thuốc an thần. Thông thường liều dùng thuốc an thần cho mỗi lần chỉ khoảng 1 – 2 viên hoặc đôi khi chỉ là 1/2 viên. Do đó, uống đến 5 viên thuốc một lần sẽ được xếp vào uống quá liều. Nếu là uống loại thuốc mạnh nữa thì sẽ đặc biệt nguy hiểm. Hãy liên hệ với Thuốc Mê Minh Hải nếu như bạn đang cần tư vấn thêm về việc mua cũng như sử dụng thuốc an thần.
Thuốc an thần
Thuốc an thần là tên gọi chỉ chung cho các nhóm thuốc dùng để trấn an, điều hoà về tinh thần gồm nhóm thuốc ngủ, thuốc chống lo lắng, thuốc chống tâm thần, và một số thuốc chống trầm cảm. Thuốc an thần thường được dùng trong tiền mê, trước khi mổ. Cơ chế của thuốc an thần là thúc đẩy hoạt động của một chất dẫn truyền thần kinh, từ đó kích thích tăng tiết hormone dopamin tạo ra cảm giác hài lòng, dễ chịu, khoan khoái cho cơ thể để tạm thời không nhớ đến các cảm giác đau nhức, mệt mỏi. Trong y học cổ truyền, thuốc an thần được điều chế từ việc chiết xuất tinh chất của các loại thảo dược bằng phương pháp sắc và thường ở dạng chất lỏng. Y học Tây phương sản xuất thuốc an thần trên cơ sở tổng hợp, phân tách các hoạt chất hoá học hoặc thảo dược và dùng phương pháp cô đặc, nén để tạo thành các dạng viên. Những thuốc an thần thường thấy hiện nay như Valium và Xanax có điểm chung với ma túy và cây cần sa - cám dỗ và đầy sức mạnh.
- Quang phổ là một dải màu giống như sắc cầu vồng hứng được trên màn ảnh khi có hiện tượng tán sắc ánh sáng. Người ta thường sử dụng thuật ngữ quang phổ để chỉ việc đo cường độ bức xạ như là một hàm của bước sóng và thường dùng để mô tả các phương pháp phổ thực nghiệm. - Vạch quang phổ là các vạch sáng hoặc tối trong một quanh phổ liên tục và đồng dạng, được hình thành do sự phát xạ hoặc hấp thụ ánh sáng trong một dải tần hẹp so với các tần số lân cận. Trong một số trường hợp, các vạch quang phổ được phân tách và phân biệt tốt, nhưng cũng có trường hợp các vạch quang phổ cũng bị trùng nhau và nó là kết quả của sự chuyển tiếp duy nhất nếu mật độ của các trạng thái năng lượng đủ cao. - Thiết bị đo quang phổ được gọi là máy quang phổ, máy đo quang phổ hoặc máy phân tích quang phổ. - Quang phổ của các nguyên tử và phân tử thường bao gồm một loạt các vạch quang phổ và mỗi vạch sẽ đại diện cho sự cộng hưởng giữa hai trạng thái lượng tử khác nhau. Quang phổ liên tục là một dải sáng có màu thay đổi liên tục từ đỏ đến tím. Theo wikipedia, quang phổ liên tục là một tập hợp các giá trị có thể đạt được đối với một số đại lượng vật lý như năng lượng, bước sóng,… được mô tả tốt nhất là một khoảng các số thực, trái ngược hoàn toàn với quang phổ rời rạc, một tập hợp các giá trị có thể đạt được rời rạc theo nghĩa của toán học, nơi có một khoảng cách rõ ràng giữa mỗi giá trị và giá trị tiếp theo. Thông thường, quang phổ liên tục có thể chỉ là một mô hình thuận tiện cho một quang phổ rời rạc mà các giá trị của nó quá gần để có thể phân biệt, ví dụ như trong các phonon của một tinh thể. Trong hệ lượng tử, quang phổ liên tục thường có liên quan đến các hạt tự do như các nguyên tử trong khí, electron trong chùm electron, hoặc cũng có thể là electron dải dẫn điện trong kim loại. Nói cách khác, vị trí và động lượng của hạt tự do có quang phổ liên tục nhưng nếu các hạt này bị giới hạn trong một không gian bị hạn chế, quang phổ của nó sẽ bị rời rạc. Các vật phát ra ánh sáng trắng hoặc các vật rắn, lỏng, khí có tỷ khối lớn bị nung nóng ở nhiệt độ cao. - Phụ thuộc vào nhiệt độ của nguồn sáng. Nguồn sáng có nhiệt càng cao thù quang phổ càng mở rộng về miền sáng có bước sống ngắn và ngượ lại. - Các chất khác nhau khi ở cùng một nhiệt độ thì sẽ có quang phổ liên tục hoàn toàn giống nhau. Quang phổ vạch phát xạ là hệ thống các vạch màu riêng rẽ nằm trên một nền tối. Các khối khí, hơi ở áp suất thấp bị kích thích phát sáng bằng cách đốt nóng hoặc phóng tia lửa điện. Mỗi nguyên tố hóa học đều có quang phổ vạch đặc trưng về số lượng, vị trí, màu sắc và độ sáng tỷ đối của các vạch. Quang phổ vạch phát xạ của các nguyên tố khác nhau thì số lượng các vạch, vị trí các vạch, độ sáng tỉ đối của các vạch cũng rất khác nhau, hay nói cách khác chính là màu sắc các vạch cũng khác nhau. Thông qua vạch quang phổ đặc trưng của nguyên tố để nhận biết sự có mặt của các nguyên tố hóa học trong hỗn hợp chất khí. Quang phổ vạch hấp thụ là quang phổ liên tục bị thiếu các vạch màu do bị chất khí hoặc hơi kim loại hấp thụ. Chiếu ánh sáng của đèn dây tóc vào máy quang phổ, ta có thể thu được quang phổ liên tục. Sau đó đặt vào giữa đèn và máy quang phổ một chất khí hoặc hơi kim loại để nó hấp thụ vạch màu tối, ta sẽ thu được quang phổ vạch hấp thụ. Điều kiện để có quang phổ vạch hấp thụ là nhiệt độ của hơi hay khí phải nhỏ hơn nhiệt độ của nguồn phát ra ánh sáng trắng. Các vạch tối nằm tại đúng vị trí các vạch màu trong quang phổ phát xạ của nguyên tố hóa học đó. Nếu đặt trên đường đi của chùm ánh sáng trắng một chất rắn hoặc lỏng thì trên nền quang phổ liên tục của nguồn sáng trắng, bạn sẽ nhìn thấy sự xuất hiện của những đám vạch tối. Nguyên nhân hiện tượng này là do các nguyên tố của chất rắn và chất lỏng hấp thụ rất nhiều bức xạ đơn sắc kề nhau. - Xác định thành phần cấu tạo của mặt trời và các vì sao vì quang phổ của mặt trời là quang phổ vạch hấp thụ. - Xác định sự có mặt của các nguyên tố hóa học có trong một hỗn hợp. Phép phân tích quang phổ là phép phân tích thành phần cấu tạo của các chất dựa trên cơ sở nghiên cứu quang phổ của chất đó. Phép phân tích định tính: Xác định các nguyên tố cấu tạo nên một mẫu vật bằng quang phổ vạch. - Xác định nồng độ các thành phần cấu tạo nên mẫu nghiên cứu bằng cường độ sáng của các vạch quang phổ. Từ đó, người thực hiện có thể phát hiện nồng độ rất nhỏ của chất trong mẫu cần phân tích (khoảng 0.002%). - Cho kết quả phân tích nhanh chóng, chính xác hơn phép phân tích hóa học. - Có khả năng phân tích từ xa mà vẫn cung cấp được thông tin về các thành phần hóa học, nhiệt độ . Để xem thêm nhiều bài viết bổ ích hơn nữa, các bạn có thể trực tiếp truy cập vào website labvietchem.com.vn và nếu bạn nào có nhu cầu tìm mua hóa chất, dụng cụ thí nghiệm, thiết bị khoa học kỹ thuật, hãy liên hệ ngay với LabVIETCHEM theo số hotline 1900 2639. Các chuyên viên của chúng tôi luôn sắn sàng hỗ trợ các bạn một cách cụ thể, chi tiết và TỐT nhất. GPDKKD: 0108580557 do Sở KH & ĐT TP Hà Nội cấp ngày 10/01/2019. Là doanh nghiệp hàng đầu chuyên cung cấp Hóa chất, thiết bị và dụng cụ phòng thí nghiệm. Chúng tôi cam kết đem đến những sản phẩm chất lượng với mức giá TỐT NHẤT trên thị trường.
Quang phổ rời rạc
Một đại lượng vật lý được cho là có quang phổ rời rạc nếu nó chỉ lấy các giá trị riêng biệt, với các khoảng cách giữa một giá trị và giá trị tiếp theo. Ví dụ cổ điển về quang phổ rời rạc (trong đó thuật ngữ được sử dụng lần đầu tiên) là tập hợp đặc trưng của các vạch quang phổ rời rạc nhìn thấy trong phổ phát xạ và phổ hấp thụ của các nguyên tử cô lập của một nguyên tố hóa học, chỉ hấp thụ và phát ra ánh sáng ở các bước sóng cụ thể. Kỹ thuật quang phổ học dựa trên hiện tượng này. Quang phổ rời rạc trái ngược với quang phổ liên tục cũng thấy trong các thí nghiệm như vậy, ví dụ như trong phát xạ nhiệt, bức xạ synchrotron và nhiều hiện tượng tạo ra ánh sáng khác. Quang phổ rời rạc được nhìn thấy trong nhiều hiện tượng khác, chẳng hạn như dây rung, sóng vi ba trong khoang kim loại, sóng âm trong một ngôi sao dao động và cộng hưởng trong vật lý hạt năng lượng cao. Hiện tượng chung của quang phổ rời rạc trong các hệ vật lý có thể được mô hình hóa bằng các công cụ giải tích hàm, đặc biệt bằng cách phân tích phổ của toán tử tuyến tính hoạt động trên một không gian hàm.
Nhờ có tín dụng mà chúng ta có thể giải quyết khá nhiều vấn đề liên quan đến tiền vốn của cá nhân cũng như doanh nghiệp. Nhưng khi nhắc đến tín dụng thì bản thân mỗi cá nhân cũng cần trang bị kiến thức để không hiểu sai dẫn đến làm sai mà ảnh hưởng đến quyền lợi cũng như trách nhiệm của mình. Vậy tín dụng là gì? Những điều bạn cần biết về tín dụng. Tín dụng được định nghĩa rõ ràng là sự thể hiện cho mối quan hệ vay và cho vay. Trong đó, người vay có thể là cá nhân hoặc tổ chức, còn người cho vay là ngân hàng, hoặc tổ chức tài chính tín dụng nào đó. Sản phẩm vay có thể là hàng hóa hoặc tiền.Mối quan hệ vay và cho vay này có những quy định và ràng buộc cụ thể như vay tín chấp hay vay thế chấp. Bên cạnh đó, tín dụng thì luôn gắn với lãi suất. Những khoản vay tín dụng đều được áp lãi suất theo quy định của bên cho vay mà người vay muốn vay phải chấp nhận thực hiện.Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa bản thân ngân hàng, tổ chức tài chính với cá nhân hoặc doanh nghiệp. Bản thân ngân hàng sẽ đứng ở cả 2 vị trí: cho vay và đi vay. Đối tượng tín dụng bao gồm: Đối tượng sử dụng vốn lưu động và đối tượng sử dụng vốn cố định. Mục đích sử dụng: Tín dụng hàng hóa bao gồm cả sản xuất và lưu thông, tín dụng tiêu dùng. Lợi ích mà tín dụng mang lại khá lớn cho cả người vay và người cho vay. Sau đó, là có ảnh hưởng và tác động tích cực đến nền kinh tế của nước nhà. Với những khoản tín dụng được chấp nhận đã góp phần đáp ứng nhu cầu về vốn của cá nhân, tổ chức… từ đó giải quyết khá nhiều khâu quan trọng như đầu tư, mua sắm hoặc phát triển kinh tế từ trong đến ngoài nước. Một số cá nhân vì không hiểu rõ ý nghĩa của tín dụng là gì nên dễ dàng bị kẻ xấu trục lợi từ đó rơi vào bẫy tín dụng. Đặc biệt là những tín dụng đen gây nên hiệu quả vô cùng nghiêm trọng ảnh hưởng đến tài sản cũng như cá nhân người dùng. Vay tín chấp: Là hình thức vay không cần tài sản đảm bảo, dựa hoàn toàn trên uy tín của người vay. Hình thức vay này phù hợp với cá nhân với những nhu cầu nhỏ như mua sắm, vui chơi giải trí… Lãi suất khá cao, thời gian vay tối đa là 60 tháng. Vay thế chấp: Là hình thức vay truyền thống của ngân hàng, theo hình thức vay này phải có tài sản đảm bảo mới được vay. Hạn mức vay khá cao lên đến 80% giá trị tài sản cầm cố. Lãi suất phù hợp với khoản vay. Thời hạn vay kéo dài lên đến 25 năm theo nhu cầu người vay. Hình thức vay này phù hợp cho cả cá nhân và doanh nghiệp. Lưu ý quan trọng khi vay thế chấp là các khoản phí đi kèm như phí trả chậm hay phí trả trước hạn…. Vay thấu chi: Đây là hình thức vay cho khách hàng cá nhân khi có nhu cầu sử dụng vượt số tiền hiện có trong tài khoản thanh toán của cá nhân. Hạn mức được cấp chỉ gấp 5 lần lương. Hồ sơ yêu cầu có chứng thực về khoản thu nhập cố định mỗi tháng. Vay trả góp: Là hình thức cho vay mà tiền lãi và gốc mỗi tháng bằng nhau. Tùy thuộc nhu cầu cũng như khả năng trả nợ của mỗi khách hàng mà có thời hạn cũng như hạn mức trả vay khác nhau. Tín dụng là sự thể hiện cho mối quan hệ vay và cho vay, tính dụng luôn gắn liền với lãi suất.
Tín dụng
Tín dụng là khái niệm thể hiện mối quan hệ giữa người cho vay và người vay. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Xuất hiện sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, làm cho xã hội có sự phân hóa: giàu, nghèo, người nắm quyền lực, người không có gì.Khi người nghèo gặp phải những khó khăn không thể tránh thì buộc họ phải đi vay, mà những người giàu thì câu kết với nhau để ấn định lãi suất cao, chính vì thế, tín dụng nặng lãi ra đời. Trong giai đoạn tín dụng nặng lãi, tín dụng có lãi suất cao nhất là 40-50%, do việc sử dụng tín dụng nặng lãi không phục vụ cho việc sản xuất mà chỉ phục vụ cho mục đích tín dụng nên nền kinh tế bị kìm hãm động lực phát triển.
1 Hiện tượng khúc xạ ánh sáng là gì?1.1 Ví dụ về hiện tượng khúc xạ ánh sáng. Khúc xạ là thuật ngữ được sử dụng để chỉ hiện tượng ánh sáng đổi hướng khi đi qua một mặt phân cách giữa hai môi trường trong suốt có chiết khấu khác nhau. Để hiểu rõ hơn về hiện tượng khúc xạ ánh sáng thì dưới đây chúng ta sẽ đưa ra một ví dụ thể hiện rõ nhất tính chất của hiện tượng này. Ví dụ: Lấy một chiếc cốc thủy tinh chứa đầy nước sau đó đặt một chiếc ống hút nằm nghiêng vào bên trong cốc nước. Quan sát ta sẽ thấy phần ánh sáng phản xạ truyền từ ống hút không còn được truyền thẳng mà đã bị gãy khúc tại mặt phân cách giữa hai môi trường là không khí và chất lỏng. Chính bởi điều này mà khi đặt ống hút vào cốc nước và quan sát ta lại nhìn thấy chiếc ống hút dường như đã bị nghiêng đi một phần. Mắt ta có thể quan sát được mọi vật là nhờ có ánh sáng và ánh sáng thì luôn truyền theo một đường thẳng. Khi ta nhìn một vật (không phải là nguồn sáng) mà ánh sáng từ nguồn sáng phát ra chiếu đến vật đó thì tùy thuộc vào góc độ, màu sắc của nguồn sáng mà mắt ta sẽ quan sát được những hình dạng khác nhau của vật cần quan sát. Hiện tượng này chính là ví dụ điển hình của hiện tượng khúc xạ ánh sáng. Như vậy hiện tượng khúc xạ ánh sáng là hiện tượng tia sáng truyền từ môi trường trong suốt này sáng môi trường trong suốt khác và bị gãy khúc khi truyền xiên góc tại mặt phân cách giữa hai môi trường trong suốt. Chiết suất theo định nghĩa Vật Lý là tỉ số giữa tốc độ ánh sáng trong chân không và tốc độ pha của bức xạ điện từ trong vật liệu. Chiết suất này thường được ký hiệu là n. Vận tốc của ánh sáng khi nó lan truyền qua vật liệu trong suốt như thủy tinh hoặc không khí thường nhỏ hơn c. Tỷ số giữa c và vận tốc v của ánh sáng truyền qua vật liệu sẽ được gọi là chỉ số chiết suất n của vật liệu. Do chiết suất của các môi trường là khác nhau nên tốc độ truyền ánh sáng trong môi trường cũng khác nhau.Theo nguyên lý Huyghen thì khi đến mặt phân cách giữa của các môi trường trong suốt theo phương xiên góc, vận tốc của ánh sáng bị thay đổi đột ngột khiến cho tia sáng bị đổi hướng và gây ra hiện tượng khúc xạ ánh sáng. Trường hợp ánh sáng truyền thẳng góc với môi trường trong suốt thì sẽ không xảy ra hiện tượng khúc xạ ánh sáng. Trường hợp ánh sáng đổi hướng khi đi qua mặt phân cách giữa hai môi trường trong suốt có chiết suất khác nhau sẽ được tính theo công thức đặc trưng của hiện tượng khúc xạ. Định luật này được gọi là định luật khúc xạ ánh sáng hay còn gọi là định luật Snell. i là góc giữa tia sáng đi từ môi trường 1 đến mặt phẳng phân cách và pháp tuyến của mặt phẳng phân cách 2 môi trường. r là góc giữa tia sáng đi từ mặt phân cách đến môi trường 2 và pháp tuyến của mặt phẳng phân cách hai môi trường. Tia khúc xạ sẽ nằm trong mặt phẳng tới ở phía bên kia pháp tuyến so với tia tới. Với hai môi trường trong suốt nhất định thì tỉ số giữa sin góc tới i và sin góc khúc xạ luôn luôn không đổi. Tia sáng truyền vuông góc với mặt phân cách truyền thẳng sẽ không bị gãy khúc. Trong thời kỳ đầu khi mà ngành Thiên văn học mới phát minh ra kính thiên Văn thì việc quan sát các vật thể ở xa bị ảnh hưởng rất nhiều bởi hiện tượng khúc xạ ánh sáng truyền từ không gian xuyên qua bầu khí quyển vào Trái Đất. Nhờ định luật khúc xạ mà các nhà Vật lý thiên văn đã có thể vi chỉnh được các ống kính thiên văn giúp quan sát hình ảnh một cách rõ nét hơn. Ngày nay để loại bỏ hoàn toàn hiện tượng khúc xạ ánh sáng thì các nhà khoa học đã đặt hẳn một chiếc kính thiên văn ngoài không gian. Từ lý thuyết khúc xạ ánh sáng mà chúng ta có thể giải thích được vì sao khi nhìn lên bầu trời đêm lại quan sát được những ngôi sao lấp lánh. Bởi vào những buổi đêm khi mà nhìn lên trời tối bạn sẽ thấy được ánh sáng từ các ngôi sao bị khúc xạ nhiều lần khi truyền đi từ không gian và xuyên qua bầu khí quyển của Trái Đất. Tôi là Nguyễn Tiến Thành – Tôi đã có nhiều năm kinh nghiệm review đánh giá các loại thiết bị vệ sinh công nghiệp và các mẹo làm sạch. Hy vọng những chia sẻ của tôi sẽ đem lại cho các bạn những thông tin hữu ích hơn.
Khúc xạ
Khúc xạ hay chiết xạ là thuật ngữ thường dùng để chỉ hiện tượng ánh sáng đổi hướng khi đi qua mặt phân cách giữa hai môi trường trong suốt có chiết suất khác nhau. Mở rộng ra, đây là hiện tượng đổi hướng đường đi của bức xạ điện từ, hay các sóng nói chung, khi lan truyền trong môi trường không đồng nhất. Hiện tượng này được giải thích bằng bảo toàn năng lượng và bảo toàn động lượng. Do sự thay đổi của môi trường, vận tốc pha của sóng thay đổi nhưng tần số của nó lại không đổi. Điều này được quan sát thấy nhiều nhất khi một sóng chuyển từ môi trường này sang môi trường khác ở bất kỳ góc nào khác 0° so với pháp tuyến. Sự khúc xạ ánh sáng là hiện tượng quan sát thường thấy nhất, nhưng bất kỳ loại sóng nào cũng có thể khúc xạ khi nó tương tác với môi trường, ví dụ khi sóng âm truyền từ môi trường này sang môi trường khác hoặc khi các sóng nước di chuyển xuống độ sâu khác nhau. Sự khúc xạ tuân theo định luật Snell, phát biểu rằng, đối với một cặp môi trường và một sóng với một tần số duy nhất, tỉ lệ sin của góc tới θ1 và góc khúc xạ θ2 tương đương với tỷ số vận tốc pha (v1 / v2) trong hai môi trường, hoặc tương đương, với chiết suất tương đối (n2 / n1) của hai môi trường.
Trong cung cấp nông nghiệp & trồng trọt, khu đất là nguồn bốn liệu cung ứng cơ phiên bản cùng trân quý độc nhất vô nhị. Trước các diễn biến phức hợp của biến đổi khí hậu, sự khai quật không có tôn tạo của nhỏ người nhưng mà độ màu mỡ của khu đất ngày dần trở lại. Độ màu mỡ của khu đất giỏi độ phì nhiêu là kỹ năng của khu đất bảo đảm an toàn gia hạn các điều kiện phục vụ cho sự sinch trưởng cùng cải tiến và phát triển của cây trồng. Độ phì nhiêu màu mỡ là yếu tố quyết định năng suất, unique cây trồng.Bạn đang xem: Độ phì của đất là gì. Mẹ thiên nhiên khiến cho đều các loại đất nhiều dinh dưỡng, màu mỡ với tương xứng cho việc cải cách và phát triển của cây trồng. Tuy nhiên, trải qua hàng tỷ năm, độ phì của khu đất giảm xuống gấp rút. Đâu là nguyên ổn nhân?. Cây hút dinh dưỡng trường đoản cú khu đất tuy thế phần đông chúng trao đi nhưng chẳng mấy khi được trao lại. Thông thường, những chất thải nông nghiệp bởi vì con người xả ra nlỗi dung dịch trừ sâu, túi nilon, cnhì lọ dung dịch trừ sâu còn giúp ô nhiễm đất. Mưa bão, thiên tai, bạn thân lụt gây ra tình trạng khu đất bị xói mòn, cọ trôi kéo theo một lượng béo bồi bổ trong đất. Chính vấn đề này đã khiến cho độ màu mỡ của đất giảm đi mau lẹ gây tác động lớn mang đến năng suất cùng unique nông sản. Cây trồng nên hóa học bổ dưỡng nhằm cải tiến và phát triển. Thế nhưng Lúc bón vô số các loại phân bón chất hóa học vào khu đất mà lại cây ko hấp thụ không còn đang dẫn đến triệu chứng nặng nề đưa hóa. Các hóa học ko đưa hóa không còn đổi thay dạng cạnh tranh tiêu làm giảm tỷ lệ thông nháng và gửi hóa của khu đất, thẳng có tác dụng bớt màu mỡ đất. Độ màu mỡ của đất đang mất dần dần vào quá trình cây sinch trưởng cùng cải cách và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tôn tạo độ phì của đất bởi vô số cách không giống nhau. Trồng xen canh, luân canh cây trồng không chỉ là giúp bé fan tăng năng suất Hơn nữa bảo vệ tinh giảm sự sinch trưởng cùng cải tiến và phát triển của cỏ đần độn, hạn chế xói mòn, cọ trôi. Biện pháp công dụng được các Chuyên Viên nông nghiệp khulặng áp dụng là tdragon luân canh với những loại cây họ đậu. Chúng giúp tăng hoạt động của những loại sinh thiết bị thắt chặt và cố định đạm, sản xuất dinh dưỡng tự nhiên và thoải mái mang đến đất. Xới đất là phương án cơ học tập góp khu đất tơi xốp và nhoáng khí. Cách thức làm tác dụng duy nhất đó là triển khai xới đất 1 năm một đợt. Với các vườn nhỏ bắt buộc cần sử dụng nĩa, xẻng nhỏ dại để gia công tơi khu đất với không khiến vi sinch vật bị tổn thương. Phân chuồng, phân xanh, phân trùn,… là những nguồn hữu cơ tuyệt vời nhất góp cải tạo và tăng độ màu mỡ của khu đất. Bên cạnh đó, bà bé cũng hoàn toàn có thể sử dụng các hóa học thải nông nghiệp & trồng trọt như rơm, rạ, mùn đất, than bùn,… để cung cấp phân cơ học vi sinc với phủ lên khu đất. Trên đó là mọi giải đáp của Blog Mua Nhà luân phiên quanh độ phì nhiêu màu mỡ của đất là gì? Độ phì của đất nhập vai trò quan trọng đặc biệt đưa ra quyết định mang lại năng suất của cây cỏ, bởi thế hãy thường xuyên áp dụng những biện pháp cải tạo đất trên để có mùa màng bội thu nhé.
Độ phì đất
Độ phì đất, độ phì nhiêu hay độ màu mỡ là khả năng của đất để duy trì sự phát triển của cây trồng trong nông nghiệp, tức là cung cấp môi trường sống thực vật và mang lại sản lượng bền vững và nhất quán với chất lượng cao. Ở những vùng đất được sử dụng cho nông nghiệp và các hoạt động khác của con người, việc duy trì độ phì nhiêu của đất thường đòi hỏi phải sử dụng các biện pháp bảo tồn đất. Điều này là do xói mòn đất và các hình thức suy thoái đất khác thường dẫn đến sự suy giảm chất lượng liên quan đến một hoặc nhiều khía cạnh được chỉ ra theo các yếu tố hình thành.
Để có được một gương mặt makeup hoàn hảo hẳn việc sử dụng phấn mắt là điều quen thuộc và thật sự cần thiết. Một đôi mắt sáng long lanh, cùng những đường nét gợi cảm là điều ai cũng mong muốn có được khi trang điểm. Top 5 Phấn mắt nào tốt được ưa chuộng nhất hiện nay dưới đây sẽ giúp bạn tìm được cho mình sản phẩm phấn mắt phù hợp. Phấn mắt là một loại mỹ phẩm được sản xuất để sử dụng ở phần giữa mí mắt và dưới lông mày. Khi đánh phấn mắt ở vị trí này sẽ làm nổi bật đôi mắt, giúp đôi mắt trở nên quyến rũ và hấp dẫn hơn. Ngoài ra, phấn mắt còn làm nổi bật cá tính và phong cách trang điểm của người dùng. Dựa vào cách đánh và hiệu ứng màu phấn mắt đem lại, có thể sẽ làm cho đôi mắt cho bạn trở nên có chiều sâu hơn hay mắt trở nên to hơn,… Đó có thể là sự ngọt ngào hay sự huyền bí, phụ thuộc rất lớn vào phong cách trang điểm vào màu mắt bạn lựa chọn. Bạn có thể phối nhiều màu sắc khác nhau để có được lớp makeup như ý. Đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của người dùng, các nhà sản xuất cho ra đời rất nhiều dạng phấn mắt khác nhau. Trong đó có 4 dạng phổ biến hiện nay như sau:. Phấn mắt ở dạng thỏi: Đây có thể nói là dòng khá tiện lợi và nhẹ nhàng nhất. Có thiết kế nhỏ gọn như một thỏi son dưỡng môi và được bào chế dưới dạng kem. Dạng này sẽ có từ 1 – 2 màu trong một thỏi. Phấn mắt ở dạng kem: Đối với loại phấn này thì sẽ chứa nhiều sáp ong hoặc dầu tự nhiên. Dòng này sẽ giúp giữ màu trên các vùng da mỏng như vùng da mắt hay mí mắt bị khô,. Sản phẩm vừa làm lớp makeup vừa giúp nuôi dưỡng và bảo vệ da. Phấn mắt dạng nước hay dạng lỏng: Ở dạng này thì sẽ có rất nhiều ưu điểm vượt trội và được nhiều người dùng nhất. Vì ở dạng lỏng nên không chỉ lên màu chuẩn mà còn giữ được lâu trên da. Tuy nhiên, dòng này lại khó sử dụng hơn bởi khá khó khăn để bạn có thể lấy được cho mình một lượng phấn đều cho cả 2 mắt. Phấn mắt ở dạng bút: Dạng phấn mắt này dành cho những sản phẩm của giới chuyên gia trang điểm và những người dùng yêu thích sự tiện lợi, nhanh chóng và hiệu quả của nó mang lại. Phấn mắt dạng bút nhỏ gọn có thể mang đi bất kỳ đâu. Ngoài ra, dòng phấn dạng này có thể thay thế được những loại phấn mắt khác bởi không chỉ dễ dàng sử dụng mà còn bạn lên màu tốt và tươi sáng. Sự đa dạng của những loại phấn mắt trên thị trường hiện nay từ phân khúc thấp đến cao, thương hiệu tầm bình dân đến cao cấp,… Bạn sẽ khó có thể lựa chọn được cho mình sản phẩm phù chất lượng và như ý. Sau đây là những tiêu chí bạn nên tham khảo trước khi lựa chọn. Yếu tố đầu tiên là màu sắc. Bạn nên lựa chọn những màu phấn mắt phù hợp với tone da và trang phục của mình. Màu phấn mắt sẽ làm cho làn da của bạn được nổi bật hơn cũng như sẽ hài hòa hơn. Ngoài ra cân nhắc sự đồng điệu với trang phục, sẽ giúp bạn sử dụng dễ dàng với những phong cách khác nhau của bạn. Điều quan trọng không nên bỏ qua tiếp theo đó chính là thương hiệu sản phẩm. Phấn mắt hiện nay được ra đời từ nhiều thương hiệu và đơn vị khác nhau. Ở những hãng nổi tiếng và uy tín thì đảm bảo cho bạn sẽ có những sản phẩm tốt và an toàn hơn. Hạn chế được những hàng trôi nổi kém chất lượng ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn. Thuộc tính của phấn mắt là điều cần cân nhắc. Thành phần sản phẩm có chứa các chất độc hại hay bị dị ứng không? Phấn có tác dụng lưu trên da được bao lâu? Nên mua theo sở thích cá nhân theo the trend?…. cùng nhiều thuộc tính khác nhau mà bạn cần tham khảo kỹ trước khi mua. Dạo quanh thị trường mỹ phẩm có thể thấy, có rất nhiều sản phẩm đa dạng từ nguồn gốc đến màu sắc và kiểu dáng khác nhau. Trong đó nổi bật nhất là những hãng đến từ Hàn Quốc và Mỹ. Những hãng phấn mắt nói riêng và mỹ phẩm Hàn Quốc nói chung, từ lâu đã được các tín đồ làm yêu yêu thích và tin dùng. Từ những dòng son môi, phấn nền, kem dưỡng da,… đều được thị trường trong và ngoài nước đón nhận. Trong đó, phấn mắt cũng là dòng nổi bật đến từ nhiều thương hiệu đình đám khác nhau. Tại nguồn gốc nước này, bạn có thể sử dụng phấn mắt chính hãng của Urban Decay Naked. Một thương hiệu khá tuyệt vời với những sản phảm phấn mắt chất lượng và được nhiều người trên thế giới ưa chuộng. Phấn mắt của Urban Decay Naked không chỉ siêu mịn mà còn đem lại hiệu quả bám màu tốt và lâu trôi. Đem lại cho người dùng một lớp makeup hoàn hảo cùng đôi mắt tuyệt vời. Tuy nhiên giá thành sản phảm của hãng này lại quá đắt đỏ. Phấn mắt được ưa chuộng của Hàn Quốc tiếp theo đó là sản phẩm mang thương hiệu 3CE – một cái tên quá đỗi nổi bật trên làng thẩm mỹ và làm đẹp hiện nay. Phấn mắt của 3ACE cuốn hút bởi sở hữu nhiều tông màu khác nhau, trẻ trung và cá tinh. Nếu chưa có cho mình lựa chọn phấn mắt hãng nào thì hãy thêm ngay 3CE vào bảng danh sách của mình. Đây là sản phẩm được giới trẻ đặc biệt yêu thích và có giá thành cũng khá dễ chịu. Ngoài ra bạn có thể lựa chọn thêm phấn mắt các thương hiệu Innisfree, Missha,…. Các hãng phấn mắt đến từ USA cũng có nhiều đơn vị nổi tiếng và các ngôi sao tin dùng. Đầu tiên không thể không kể đến Maybelline – một thương hiệu quá đỗi quen thuộc của ngành make-up. Các sản phẩm phấn mắt của hãng này thường đem đến cho đôi mắt sắc sảo, cuốn hút và có chút bí ẩn, gợi cảm. Có rất nhiều màu sắc khác nhau mà bạn có thể chọn phù hợp cho phong cách của mình. Nhắc đến phấn mắt USA bạn cũng không nên bỏ qua những thương hiệu nổi tiếng như MAC hay Morphe Brushes,… Những thương hiệu này cũng sẽ cho bạn những bảng màu mắt đa dạng và chất lượng. Sự đa dạng và độc đáo từ những thương hiệu này cũng sẽ hứa hẹn đem đến cho bạn sự trải nghiệm mới với đôi mắt thật sự rạng ngời. Mua được phấn mắt không khó, cái khó là tìm được cho mình sản phẩm chất lượng và phù hợp. Top 5 phấn mắt nào tốt được ưa chuộng hiện nay dưới đây sẽ cho bạn những gợi ý hoàn hảo hơn cho đôi mắt của bạn. 3CE là tên gọi viết tắt của 3 Concept Eyes. Một thương hiệu mỹ phẩm đến từ Hàn Quốc được nhiều người yêu thích. Bên cạnh những sản phẩm trang điểm khác của hãng thì phấn mắt 3CE Multi Eye Color Palette All Nighter lại cho sự nổi bật rõ rệt. Với nhiều tính năng thú vị, sản phẩm này đã thật sự đem lại hiệu quả cao cho người dùng. Ưu điểm nổi trội nhất của sản phẩm chính là có chất phấn cực nhỏ và mịn. Điều này sẽ giúp cho bạn dễ sử dụng, tán đều và lên màu rất chuẩn. Thiết kế của sản phẩm không có sự đặc biệt, với hộp phấn bằng nhựa cao cấp có thể nhìn thấy màu phấn bên trong. Ngoài ra, chiếc hộp phấn có kích thước vừa phải cho bạn dễ dàng mang đi nhiều khắp mọi nơi. Nhược điểm lớn nhất của sản phẩm này chính là không bám được trong thời gian lâu. Đây là điều thật sự đáng tiếc ở sản phẩm này khi cho màu phấn rất chất lượng nhưng chỉ cần bạn hoạt động nhiều, ra mồ hôi thì chỉ giữ trên da được khoảng từ 4 – 5 tiếng đồng hồ mà thôi. Một đơn vị chuyên sản xuất các sản phẩm về lĩnh vực làm đẹp như makeup, chăm sóc da, cơ thể và tóc… Các sản phẩm của hãng này đều được đầu tư mạnh vào kỹ thuật và cùng nghiên cứu kỹ về làn da của con người nên rất chất lượng và an toàn. Điểm mạnh nhất của phấn mắt Missha 3 Màu The Style Triple Perfect Shadow có chất lượng phấn tốt cùng sự đa dạng về tone màu. Phấn khá mịn và dễ dàng sử dụng dù là bạn đang bắt đầu tập với những đường tô vẽ đầu tiên. Ngoài ra có thiết kế khá tiện lợi, nhỏ gọn, có thể nhanh chóng bằng tay và không cần dùng đến chổi hay cọ đánh phấn mắt. Tuy nhiên, nhược điểm của phấn mắt Missha 3 Màu The Style Triple Perfect Shadow là không có độ chống trôi. Theo nhiều phản hồi thì tốc độ phai màu sẽ diễn ra sau 3 – 4 tiếng đồng hồ. Như vậy, thời gian này còn nhanh hơn sản phẩm 3CE, hưn nữa sản phẩm cho lên màu thực tế chỉ đạt khoảng 80% so với bảng màu. Top 5 phấn mắt nào tốt hiện nay được ưa chuộng nhất hiện nay tiếp theo là đại diện đến từ nước Mỹ với thương hiệu Maybelline. Một đơn vị khổng lồ trong làng mỹ phẩm làm đẹp thế giới. Ngày nay, Maybelline với những sản phẩm làm đẹp về mắt như mascara hay phấn mắt được nhiều bạn trẻ tin dùng và lựa chọn. Phấn mắt của hãng nổi tiếng với độ bám màu rất cao, điều mà ở những sản phẩm của Hàn Quốc chưa thật sự hiệu quả. Điều này được chứng minh là dù ở trong hoàn cảnh hoạt động nhiều và ra nhiều mồ hôi thì màu mắt vẫn giữ trên da lên tới nửa ngày. Ngoài ra chất kem sản phẩm rất mịn nên khi sử dụng dễ dễ chịu và thoải mái. Mắt không cảm giác bị nặng hay bí bách khó chịu. Nhược điểm phần mắt của thương hiệu này là các tone sáng và nhạt cần phải sử dụng nhiều hơn bình thường. Điều này sẽ tốn thời gian hơn một chút mới có thể lên màu mắt chuẩn và đẹp. Bên cạnh đó, thiết kế sản phẩm cũng không có gương gây nên chút bất tiện khi dùng. Nhắc đến M.A.C là thương hiệu mỹ phẩm cao cấp, nổi tiếng hầu như ai yêu làm đẹp cũng biết đến. Sản phẩm cao cấp và chất lượng nên được nhiều người tin dùng kể cả những ngôi sao hạng A của thế giới. Sản phẩm phấn mắt của hãng cũng là một trong những dòng nổi trội, góp phần chung cho sự phủ sóng toàn cầu của hãng này. Ưu điểm của sản phẩm này nổi bật với 9 tone màu khác nhau, được đặt trong hộp vuông có gương. Tùy vào nhu cầu trang điểm và phong cách của mình, bạn có thể phối màu phù hợp. Chất kem được đánh giá là rất mịn và cho độ lên màu chuẩn và bám tốt trên da. Thiết kế không quá xuất sắc nhưng đủ để bạn có thể cầm tay khi dùng và mang theo bên người mọi lúc, mọi nơi. Nhược điểm của sản phẩm Phấn mắt M.A.C 9 màu Eye Shadow X9 Amber Times Nine là không thật sự tích hợp cho những người mới bắt đầu tập đánh phấn mắt. Bởi giữa màu sáng và màu tối thì bạn phải thật cẩn thận và biết cách mix thì mới có thể ra được tone màu đẹp và chuẩn. Điều này phải cần sự cao tay hay sự sành điệu với những người biết trang điểm. Hãng chuyên sản xuất và cung cấp các sản phẩm chăm sóc da cũng như trang điểm. Thương hiệu này đang ngày càng khẳng định được vị thế và thương hiệu của mình với nhiều sản phẩm chất lượng. trong đó, phấn mắt Innisfree Mineral Single Shadow là sản phẩm nằm trong top đầu doanh thu của hãng. Sản phẩm sở hữu ưu điểm là cho lên màu mắt tương đối chuẩn và đẹp. Sắc màu tươi và có thể mix hoặc đánh theo nhiều phong cách khác nhau. Hãng khá tinh tế trong việc cập nhật bảng màu thường xuyên để phù hợp với nhu cầu và trend hiện tại. Ngoài ra chất phấn có độ bám tốt và không bị vón lại mỗi khi dùng. Sản phẩm cũng an toàn và dùng cho mọi loại da. Nhược điểm lớn nhất của sản phẩm này là mặc dù cho tone màu lên tương đối chuẩn thế nhưng lại không 100% như màu phấn và thường màu khi lên nhạt dự kiến,. Chính vì vậy, chỉ những người biết trang điểm và đánh phấn thì mới có thể dùng được em này. Để có được lớp makeup hoàn hảo và xinh đẹp, nhất là vùng phấn mắt. Bạn cần chú ý những thông tin sau để không làm hại da mà vẫn đảm bảo lung linh và cuốn hút. Đầu tiên, bạn nên chọn phấn mắt có tone màu phù hợp với màu da và phù hợp với mục đích sử dụng cho lớp make up mắt ưng ý nhất. Đừng quên dùng thêm kem lót/ kem che khuyết điểm trước khi đánh phấn, vì đây là lớp quan trọng giúp che đi khuyết điểm vùng mắt hoàn hảo. Bên cạnh đó, nên kết hợp các màu phấn mắt phù hợp với màu son và trang phục đang mặc. Điều bạn cần tránh là không kẻ mắt trước khi tán, vì điều này sẽ khiến mờ đi lớp lẻ mắt cũng như màu phấn mắt bị hoàn cùng với eyeliner. Hãy dùng đúng loại cọ dùng để đánh phấn, hoặc bạn có thể dùng tay không với những màu nhũ để đảm bảo tán đều hơn. Ngoài ra, không quên tẩy trang mỗi tối và dùng thêm tẩy trang chuyên dụng cho mắt. Phấn mắt đã dần trở thành là công cụ làm đẹp không thể thiếu cho những người thích trang điểm. Một làn da trắng, một đôi môi hồng cũng phải cần có thêm một đôi mắt sáng lung linh. Top 5 Phấn mắt nào tốt hiện nay được ưa chuộng nhất hiện nay hy vọng sẽ giúp cho bạn có thêm gợi ý mới về lựa chọn sản phẩm phù hợp. Phấn mắt Innisfree Mineral Single Shadow - Top 5 Phấn mắt nào tốt hiện nay được ưa chuộng nhất hiện nay. PhongReviews là Website 1 về đánh giá và xếp hạng sản phẩm đúng, chuẩn và tốt nhất. PhongReviews giúp bạn tìm được món đồ phù hợp, đảm bảo, giá cả phải chăng!
Phấn mắt
Phấn mắt là một loại mỹ phẩm tô thoa trên mí mắt và dưới lông mày. Thường được dùng để khiến cho đôi mắt người thoa nổi bật hoặc trông hấp dẫn hơn. Phấn mắt có thể tăng chiều sâu và chiều rộng cho đôi mắt, bổ sung màu mắt, khiến cho đôi mắt trông lớn hơn, hoặc chỉ cần thu hút sự chú ý vào mắt. Phấn mắt có nhiều màu sắc và kết cấu khác nhau. Thường ở dạng phấn bột và mica, nhưng cũng có thể ở dạng lỏng, bút chì, kem hoặc mousse. Các nền văn minh trên toàn thế giới sử dụng phấn mắt chủ yếu ở nữ giới nhưng cũng đôi khi ở nam giới. Trong xã hội phương Tây, nó được xem như loại mỹ phẩm nữ tính, ngay cả khi được nam giới sử dụng. Theo phong cách Gothic, phấn mắt màu đen hoặc màu sẫm tương tự và các loại trang điểm mắt khác phổ biến ở cả hai giới. Nhiều người sử dụng phấn mắt chỉ để cải thiện diện mạo của họ, nhưng nó cũng thường được sử dụng trên sân khấu và các vở kịch khác, để tạo nên cái nhìn đáng nhớ, với màu sắc tươi sáng, đậm.
Cây cỏ xạ hương là gì ? Nó loài cây dưới bụi, thường moc thành khóm xám hoặc xanh trắng, thân hóa gỗ, mọc đứng hay nằm, phân nhánh nhiều và có lông mịn. Lá nhỏ hình ngọn giáo dài 5-9mm; có cuống ngắn, mép lá cuốn lại có lông như bông ở mặt dưới. Hoa nhỏ ở nách lá, dài 4-6mm, màu trắng, màu hồng và màu tía; đài lởm chởm, lông cứng, tràng hình ống, quả bế có 4 hạch nhỏ màu nâu xám. Các tài liệu khoa học trả lời cho câu hỏi cỏ xạ hương là gì? Cỏ xạ hương thường được biết đến như một loại gia vị sử dụng trong nấu ăn. Ngoài ra, cỏ xạ hương còn là thảo dược với những lợi ích thiết thực đối với sức khỏe. Cỏ xạ hương là loài cây thân thảo , sống lâu năm, có hương thơm, thuộc họ Lamiaceae và có nguồn gốc từ châu Âu. Ngày nay cỏ xạ hương được tìm thấy nhiều ở các nước khu vực Bắc Mỹ. Ở các nước châu âu…,cỏ xạ hương được sử dụng như một loại hương liệu đặc biệt trong chế biến món ăn bởi mùi hương thơm nhẹ dịu rất đặc trưng giúp món ăn thêm hương vị và độc đáo. -Cỏ xạ hương có tính kháng khuẩn tốt, là loại kháng sinh tự nhiên chống lại các tác nhân gây bệnh. – Ngăn ngừa các bệnh về đường hô hấp như hen suyễn, viêm thanh quản, viêm phế quản,…giảm các triệu chứng ho do cảm cúm hay các bệnh về đường hô hấp khác. – Chữa trị các bệnh nhiễm trùng do nấm và vi khuẩn gây ra, các bệnh ngoài da thông thường. – Ngăn ngừa bệnh Eczima, điều trị viêm khớp và chứng hôi miệng rất hiệu quả. Tinh dầu xạ hương được sử dụng giúp điều hoà các chức năng sinh lí, tăng cường sức đề kháng, duy trì sức khỏe cho cơ thể, làm giảm sự mỏi mệt, căng thẳng, kích thích các giác quan, tạo tinh thần thoải mái…. Ngày nay, sau khi trả lời được câu hỏi cỏ xạ hương là gì? Tác dụng của cỏ xạ hương ra sao? Cỏ xạ hương còn được sử dụng trong công nghiệp nước hoa bởi mùi thơm đặc trưng của nó. Cây hoa oải hương đã phổ biến ra khắp Châu Âu, từng được biết đến cách đây hàng ngàn năm, từ thời Hy Lạp cổ đại.…. Cây hoa tulip có rất nhiều màu sắc, chủng loại được ưa chuộng khắp nơi trên thế giới. là loại hoa đặc trưng…. Hoa thược dược là một trong những loài hoa của sắc đẹp, thường có tên gọi là: Cúc Đại Lý.…. Công Ty CP Thế Giới Cây Và Hoa - MST 0107782800 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Tp. Hà Nội cấp ngày 02/04/2017
Cỏ xạ hương
Cỏ xạ hương (tiếng Anh: Thyme hay Common thyme, Garden thyme, danh pháp hai phần: Thymus vulgaris) là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa môi, được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực, dược liệu và trang trí. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753 Chúng thuộc Chi Cỏ xạ hương (Bách lý hương) và là loài phổ biến nhất trong chi này. Cỏ xạ hương có nguồn gốc miền nam châu Âu từ phía tây Địa Trung Hải đến miền nam Italia nhưng hiện nay đã di thực khắp nơi trên thế giới. Tại Việt Nam cây được trồng chính tại Đà Lạt và Sa Pa. Cỏ xạ hương khá phổ biến ở châu Âu như Đức, Pháp, Séc, Áo và khu vực Địa Trung Hải như Italia. Theo trang Y học cổ truyền, cỏ xạ hương là cây dưới bụi, cao 30–70 cm, tạo thành khóm xám hay lục trăng trắng, thân hóa gỗ, mọc đứng hay nằm, phân nhánh nhiều và có lông mịn. Lá nhỏ hình ngọn giáo dài 5-9mm; có cuống ngắn, mép lá cuốn lại có lông như bông ở mặt dưới. Hoa nhỏ ở nách lá, dài 4-6mm, màu hồng hay trắng; đài lởm chởm, lông cứng, chia hai môi; tràng hình ống, các môi trên đứng, môi dưới có 3 thùy gần bằng nhau; nhị 4, lồi có bao phấn rẽ ra; nhụy có đĩa mật bao quanh.
Ông được anh trai giao làm cố vấn Trung phần, phụ trách cao nguyên Trung phần và khu vực duyên hải trải dài từ Phan Thiết ở phía nam đến biên giới Vĩ tuyến 17 ở phía bắc, đồng thời giữ cương vị chủ tịch Phong trào Cách mạng Quốc gia thuộc Đảng Cần lao Nhân vị trong khu vực. Đặt tổng hành dinh tại cố đô Huế, Ngô Đình Cẩn điều hành quân đội và mật vụ kiểm soát khu vực do mình phụ trách. Trong thời gian cầm quyền, ông cai trị miền Trung bằng bàn tay sắt như một vị bạo chúa; ông tổ chức trấn áp, vây bắt những người cộng sản, người bất đồng chính kiến hoặc có tư thù cá nhân với mình. Chính vì điều này, ông Cẩn được xem là người tàn độc nhất trong số các anh em nhà họ Ngô, được người đời mệnh danh là “bạo chúa miền Trung”. Thời còn trẻ, Ngô Đình Cẩn là một người ủng hộ tư tưởng của nhà cách mạng Phan Bội Châu. Cuối những năm 1940 và đầu những năm 1950, vào thời điểm mà nhiều phe nhóm trong nước cũng như các thế lực quốc tế đang cố gắng giành quyền kiểm soát Việt Nam, ông đã tìm cách thu hút sự ủng hộ của quần chúng dành cho ông Diệm. Sau khi hoàn tất loại bỏ các phe dân tộc chủ nghĩa đối lập ở miền Trung, Ngô Đình Cẩn đã trở thành “lãnh chúa” khu vực sau khi ông Diệm trở thành tổng thống của nửa phía nam nước Việt Nam chia cắt vào năm 1955. Trong thời gian nắm quyền, ông Cẩn nổi tiếng không chỉ vì cai trị miền Trung bằng một bàn tay sắt, mà còn được biết đến là có tham gia thực hiện các phi vụ buôn lậu và tham nhũng. Các hoạt động chống Cộng và trị an của ông tỏ rõ sự hiệu quả khi lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam ở miền Trung yếu hơn hẳn so với các vùng khác. Vì vậy nên Lực lượng Dân vệ của ông được các quan chức Mỹ ở miền Trung khi đó đánh giá là lực lượng chống Cộng hiệu quả. Ảnh hưởng của Ngô Đình Cẩn bắt đầu suy yếu đi sau khi anh trai của ông là Ngô Đình Thục được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng giám mục Tổng giáo phận Công giáo Huế. Sau khi nhậm chức, ông Thục tích cực truyền bá đức tin Công giáo, dẫn đến việc cấm treo cờ Phật giáo trong ngày lễ Phật Đản kỷ niệm ngày sinh của Phật Thích-ca Mâu-ni. Lực lượng quân đội tư nhân dưới trướng Ngô Đình Cẩn đã nã súng vào đám đông phản đối lệnh cấm để trấn áp khiến 9 người chết, góp phần kích động Biến cố Phật giáo năm 1963. Để đối phó mức độ của các cuộc biểu tình đang leo thang từng ngày, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã buộc phải tiến hành trấn áp với mức độ tàn bạo ngày càng tăng. Mong muốn chấm dứt khủng hoảng và thiết lập lại trật tự, một nhóm tướng lĩnh quân đội dưới sự giúp đõ của chính quyền Mỹ đã tiến hành đảo chính lật đổ và hành quyết Tổng thống Diệm cùng cố vấn Ngô Đình Nhu vào đầu tháng 11 năm 1963. Ngô Đình Cẩn ban đầu được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đề nghị cho phép tị nạn, nhưng đại sứ Henry Cabot Lodge Jr. sau đó đã yêu cầu nhân viên CIA, Lucien Conein, bắt giam ông Cẩn ở thủ đô Sài Gòn. Sau khi được bàn giao cho quân đội, ông đã bị tòa án chính phủ quân quản dưới trướng Dương Văn Minh kết án tử hình, y án và xử bắn vào tháng 5 năm 1964. Ngô Đình Cẩn là người con áp út trong một gia đình có 9 anh chị em và trong số 6 người con trai thì ông là người con thứ 5. Mẹ ông là bà Phạm Thị Thân, cha ông Ngô Đình Khả là một quan đại thần trong triều đình vua Thành Thái dưới thời Pháp thuộc. Ông sinh ra vào năm 1910 hoặc 1911 tại họ đạo Phủ Cam, Huế và có tên thánh là Gioan Baotixita (Jean Baptiste). Dù không phải là con út nhưng cái tên “Cậu Ụt” hay “Cậu Út” là tên tục của Ngô Đình Cẩn khi còn nhỏ. Phản đối việc chính quyền Pháp truất ngôi và lưu đày vua Thành Thái, Ngô Đình Khả từ quan về nhà làm ruộng. Sau khi cha mất, anh cả và anh thứ ba của Ngô Đình Cẩn đều lần lượt ra làm quan lớn. Anh cả Ngô Đình Khôi được bổ nhiệm làm Tổng đốc Nam Nghĩa trong khi người anh thứ ba Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng tỉnh Bình Thuận trước khi trở thành thượng thư trẻ nhất trong triều đình nhà Nguyễn vào năm 1933. Do bất mãn trước sự cai trị của Pháp nên chỉ vài tháng sau khi được sắc phong làm thượng thư, ông Diệm nối gót cha từ quan trở về làm một thường dân, trong khi ông Khôi vẫn giữ chức cho tới khi Nhật vào Đông Dương mới về hưu, rồi bị Việt Minh ám sát năm 1945. Anh trai thứ tư, Ngô Đình Nhu, là cố vấn chính trị và đồng thời là nhà chiến lược chính trị của chính quyền tổng thống Diệm. Em trai út Ngô Đình Luyện trở thành một nhà ngoại giao sau khi gia đình họ Ngô thâu tóm nền chính trị miền Nam. Trong số sáu người anh em trai, chỉ có ông Thục và ông Luyện là tránh khỏi bị hành quyết hoặc ám sát trong các biến động chính trị tại Việt Nam. Thông tin chi tiết về cuộc sống đầu đời của Ngô Đình Cẩn là không nhiều. Thời trẻ, ông nghiên cứu các tác phẩm và bình luận của nhà yêu nước Phan Bội Châu. Được xem là là nhà cách mạng hàng đầu Việt Nam lúc bấy giờ, Phan Bội Châu bị chính quyền thuộc địa Pháp bắt giữ và bị kết án tử hình trước khi được giảm án xuống quản thúc tại gia. Ông được người Pháp đưa về an trí tại Bến Ngự, Huế, và sống nốt quãng đời còn lại tại mảnh đất này. Ngô Đình Cẩn thường ghé qua con xuồng ba lá của Phan Bội Châu trên dòng sông Hương, khi đến mang theo đồ ăn làm lễ vật để được nghe “Ông già Bến Ngự” luận bàn về chính trị. Được xem là người ít học nhất trong gia đình, Ngô Đình Cẩn chưa bao giờ rời khỏi Việt Nam và là người duy nhất trong số mấy anh em không theo học tại một cơ sở giáo dục do người châu Âu điều hành. Trong khi các anh em đều ra làm quan hoặc du học ở nước ngoài, ông vẫn giành phần lớn thời gian ở nhà chăm sóc mẹ già, nên dù không phải là con trưởng nhưng ông vẫn được hưởng tập ấm, thừa hưởng hương hỏa của cha mẹ. Việt Nam rơi vào tình trạng hỗn loạn sau khi Nhật Bản xâm lược và thay thế chính quyền thuộc địa của Pháp trong trong Thế chiến thứ hai. Khi chiến tranh kết thúc, người Nhật đầu hàng quân Đồng Minh và buộc phải rút lui về nước trong khi nước Pháp do bị suy yếu nghiêm trọng bởi bất ổn chính trị dưới chế độ Vichy nên không thể thiết lập kiểm soát ở Đông Dương. Vào lúc này, Mặt trận Việt Minh của Hồ Chí Minh giành được chính quyền và tuyên bố độc lập với tên gọi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã đụng độ vũ trang với người Pháp cũng như các nhóm dân tộc chủ nghĩa Việt Nam khác để giành quyền kiểm soát đất nước. Trong thời gian này, Ngô Đình Cẩn đã tổ chức một cơ sở hỗ trợ bí mật cho ông Diệm ở miền Trung. Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ là một trong số rất nhiều người theo chủ nghĩa dân tộc đang cố gắng giành quyền lãnh đạo quốc gia và đã trải qua hơn một thập kỷ sống ẩn dật, không màng tới chuyện chính sự. Ngô Đình Cẩn góp công lớn giúp anh trai loại bỏ các nhóm dân tộc chủ nghĩa chống cộng khác, bao gồm Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng, là những phe nhóm cạnh tranh trực tiếp với ông Diệm nhằm thu hút sự ủng hộ của quần chúng. Ngày 23 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm lật đổ Quốc trưởng Bảo Đại trong một cuộc trưng cầu dân ý đầy gian lận do Ngô Đình Nhu tổ chức. Ba ngày sau, ông Diệm tự xưng là Tổng thống của chính thể mới Việt Nam Cộng hòa. Người của Ngô Đình Cẩn thu hút dân chúng bỏ phiếu cho ông Diệm. Những người không tuân theo thường bị truy đuổi gắt gao, đánh đập, hành hạ bằng cách đổ nước sốt tiêu hoặc nước vào mũi. Những hành vi bạo lực này đặc biệt rõ ràng tại những khu vực thuộc thẩm quyền của ông Cẩn, nhất là tại Huế, nơi lòng người vẫn còn hướng về cựu hoàng đế Bảo Đại và nhà Nguyễn. Trong vòng một tuần trước khi cuộc bỏ phiếu diễn ra, ông đã ra lệnh cho cảnh sát bắt giữ 1.200 người vì lý do chính trị. Tại Hội An, một số người đã bị giết trong cuộc bạo động diễn ra vào ngày bầu cử. Trong thời Đệ nhất Cộng hòa, các thành viên gia đình họ Ngô nắm hết mọi thực quyền trong tay do đó chế độ của ông Diệm bị cho là chế độ gia đình trị. Về phần mình, Ngô Đình Cẩn tuy không có vị trí chính thức trong chính phủ, nhưng nắm rất nhiều quyền lực tại Trung phần và được mệnh danh là “Lãnh chúa miền Trung”. Ông Cẩn sở hữu quyền lực gần như vô hạn trong vùng, cùng ông Diệm và ông Nhu nắm quyền sinh sát tại miền Nam và thường can thiệp vào các chiến dịch đàn áp Việt Cộng đậm chất “phong kiến” của quân đội. Bộ máy cai trị của ông Cẩn tại Huế khi đó được xem như một “triều đình thứ hai” sau Sài Gòn. Robert Scigliano, một nhà báo và một học giả từ Nhóm Cố vấn Việt Nam của Đại học Bang Michigan (MSUG), nhận định rằng ông Cẩn cùng vợ chồng ông bà Nhu và ông Thục đã tạo thành “một tầng lớp tinh hoa đứng ngoài vòng pháp luật, cùng với Diệm quyết định vận mệnh của Việt Nam.” Tất cả bộ máy và sự hoạt động ở khu vực Trung phần đều nằm ngoài tầm kiểm soát của Sài Gòn và Cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu, do đó ông Cẩn đôi khi phủ quyết các quan chức được chính phủ ở Sài Gòn bổ nhiệm về khu vực do ông quản lý. Ngô Đình Cẩn sở hữu trong tay quân đội, cảnh sát và mật vụ riêng. Nổi tiếng nhất trong số những lực lượng dưới trướng của Ngô Đình Cẩn là cơ quan tình báo, phản gián Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung, chuyên thực hiện các nhiệm vụ thu thập thông tin phục vụ cho công việc truy lùng, tiêu diệt Việt Cộng, nhưng đồng thời cũng bắt giam, thủ tiêu các đối thủ chính trị chống cộng khác. Ngoài ra, ông Cẩn bị cáo buộc là đã tích lũy được khối tài sản lớn thông qua các hành vi tham nhũng, chẳng hạn như ăn hối lộ từ các doanh nhân, cho phép những người này nhận hợp đồng viện trợ nước ngoài từ chính phủ Hoa Kỳ của Dwight D. Eisenhower và John F. Kennedy. Ông yêu cầu giới doanh nhân phải trả một khoản phí cho Phong trào Cách mạng Quốc gia của Đảng Cần lao Nhân vị, đổi lại họ sẽ được phê chuẩn giấy phép nhập khẩu và đơn xin nhận viện trợ nước ngoài. Ngoài việc giành được độc quyền buôn bán quế tại miền Nam, ông Cẩn được nhiều người cho là đã bán gạo ra miền Bắc thông qua thị trường chợ đen, cũng như tổ chức buôn lậu thuốc phiện khắp châu Á qua đường Lào. Ông thường xung đột với các anh của mình về các vấn đề nội bộ, đặc biệt là với ông Ngô Đình Nhu, cố vấn có ảnh hưởng nhất của ông Diệm, người đồng thời đang kiểm soát de facto phần phía nam của đất nước. Giữa hai anh em thường xảy ra tranh chấp trong những vấn đề liên quan đến các gói viện trợ của Hoa Kỳ và việc buôn bán gạo, nhưng không can thiệp vào các vấn đề trong lãnh thổ thuộc thẩm quyền của người còn lại. Ông Cẩn từng cho ông Diệm xem một danh sách dài những đối thủ chính trị bị mình bắt giam, mong muốn mở văn phòng cho cảnh sát mật của mình ở Sài Gòn. Tuy nhiên ông Cẩn không đồng ý để mật vụ của mình phải báo cáo lên ty cảnh sát thủ đô vì cho rằng hàng ngũ cảnh sát đã đầy rẫy cộng sản. Ông cho xây dựng các trại tra tấn và cải tạo, đàn áp dã man những người bất đồng chính kiến. So sánh với các anh trai, Scigliano nói rằng ông Cẩn “cũng được coi là thành viên nghiêm khắc nhất, mà một số người sẽ gọi là man rợ , trong gia đình, ông cai trị lãnh địa của mình bằng một bàn tay hà khắc, đôi khi tàn nhẫn.” Đề cập đến cách cai trị chuyên quyền của Ngô Đình Cẩn, một nhà phê bình người Việt Nam nói rằng, không giống như ông Diệm, ông Cẩn kiên định và khiến những thân cận không nghi ngờ gì về những gì ông muốn: “Họ không bối rối khi nói nước đôi về các lý tưởng và thể chế dân chủ.” Khác với hình ảnh “anh chàng nhà quê bất tài, chân đi guốc gỗ, miệng nhai trầu” được báo chí gây dựng, thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn lại cho rằng “Ngô Đình Cẩn là một người rất tài giỏi, nếu anh em Diệm-Nhu nghe lời Cẩn thì chưa chắc chế độ Ngô Đình Diệm đã sụp đổ lúc đó.” Việc tạo ra một hệ thống có nhiều ưu đãi và răn đe được xác định một cách rõ ràng được xem là một lý do dẫn đến thành công của ông Cẩn. Bất chấp chế độ chuyên quyền và sự cai trị sắt thép của mình, ông Cẩn vẫn được các quan chức Hoa Kỳ tại Huế khen ngợi về thành tích bình định các cuộc nổi dậy của Việt Cộng. Khu vực Trung phần do ông cai trị yên bình hơn nhiều so với những vùng giáp ranh Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long. Vào lúc bấy giờ, ông Ngô Đình Nhu ở miền Nam đang áp dụng chương trình Ấp Chiến lược trên quy mô lớn, mục đích cô lập cán bộ Việt Cộng cố gắng tiếp cận, đe dọa người dân hoặc ngăn chặn Cộng sản bằng cách nào đó giành lấy sự ủng hộ của dân quê. Tại miền Trung, ông Cẩn thành lập lực lượng Dân vệ (Popular Force) làm giải pháp thay thế cho chương trình của ông Nhu ở miền Nam. Ông Cẩn cho rằng 1 phần 3 dân chúng vùng nông thôn có cảm tình với Việt Cộng, một con số đủ đáng kể để khiến chương trình Ấp Chiến lược không hiệu quả khi những người này có thể đe dọa những người dân khác từ ngay bên trong làng.
Ngô Đình Cẩn
Ngô Đình Cẩn (1911 – 9 tháng 5 năm 1964), biệt hiệu Hắc Long, là em trai của Ngô Đình Diệm, tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa. Ông được anh trai giao làm cố vấn Trung phần, phụ trách cao nguyên Trung phần và khu vực duyên hải trải dài từ Phan Thiết ở phía nam đến biên giới Vĩ tuyến 17 ở phía bắc, đồng thời giữ cương vị chủ tịch Phong trào Cách mạng Quốc gia thuộc Đảng Cần lao Nhân vị trong khu vực. Đặt tổng hành dinh tại cố đô Huế, Ngô Đình Cẩn điều hành quân đội và mật vụ kiểm soát khu vực do mình phụ trách. Trong thời gian cầm quyền, ông cai trị miền Trung như một bạo chúa – ông tổ chức trấn áp, vây bắt những người cộng sản, người bất đồng chính kiến hoặc có tư thù cá nhân với mình. Chính vì điều này, ông Cẩn được xem là người tàn độc nhất trong số các anh em nhà họ Ngô, được người đời mệnh danh là "bạo chúa miền Trung".Thời còn trẻ, Ngô Đình Cẩn là một người ủng hộ tư tưởng của nhà cách mạng Phan Bội Châu.
Lạm phát là gì? Lạm phát xảy ra do những nguyên nhân nào? Đây là câu hỏi mà chắc chắn sẽ có rất nhiều người còn mơ hồ. Bạn đã từng nghe hay xem những chương trình có thông tin về tài chính và cảm thấy mình như đang lạc lõng, khó hiểu bởi những thuật ngữ xa lạ. Mặc dù nó được truyền hình nhắc đi, nhắc lại hằng ngày. Vậy thì hãy cùng chúng tôi đi tìm câu trả lời qua bài viết dưới đây về lạm phát. Lạm phát là khái niệm thuộc phạm trù của nền kinh tế thị trường. Vậy chính xác lạm phát được hiểu là gì?. Theo như kinh tế học thì lạm phát chính là sự tăng lên của mức giá chung theo thời gian của nền kinh tế. Bạn có thể hiểu theo nghĩa, đó là sự mất giá của thị trường, giảm sức mua hàng hóa và sức mua của đồng tiền cũng bị giảm. Cụ thể hơn của sự lạm phát chính là hàng hóa và dịch vụ có sự gia tăng liên tục theo thời gian. Chính vì điều này làm cho giá trị của đồng tiền bị giảm. So với trước kia, số tiền bây giờ bỏ ra cũng vậy nhưng hàng hóa và dịch vụ nhận được lại ít hơn. Trong khi đó, các chi phí khác như thu nhập vẫn nằm im một chỗ. Quá trình mua bán sẽ bị mất cân bằng nếu tình trạng này cứ kéo dài. Nghĩa là sức mua hàng hóa ngày càng ít đi sẽ kéo theo sự mất giá của đồng tiền. Xét trên quy mô quốc tế thì lạm phát là quá trình giảm giá trị của một đơn vị tiền tệ của quốc gia này so với giá trị tiền tệ quốc gia khác. Đối với những nhà đầu tư ngoại hối forex vietnam nói chung và nhà đầu tư tại sàn nói riêng, vẫn rất cần quan tâm đến chỉ số lạm phát. Bởi vì, lạm phát ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế của một quốc gia, bạn nên căn cứ vào đó để quyết định có nên đầu tư hay không. Với khái niệm thứ hai này thì lạm phát được các chuyên gia đánh giá là nguyên nhân tác động trực tiếp đến phạm vi sử dụng tiền tệ bị mất giá đó. Dù là nghĩa nào đi chăng nữa thì lạm phát cũng làm xáo trộn nền kinh tế không hề nhỏ. Đó là mức lạm phát cao, còn lạm phát thấp thì sao? Nó lại ngược lại, sức mua sẽ gia tăng lên, người tiêu dùng lại hòa nhập với một mức sống cao hơn. Giá cả hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp cũng tốt hơn và khi sức mua tăng thì sẽ kích sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tình trạng lạm phát xảy ra ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế và mức độ khó phân định. Dưới đây là những nguyên nhân gây nên tình trạng lạm phát:. Một hàng hóa trên thị trường tăng lên sẽ khiến cho giá của nó cũng tăng theo. Đồng thời, các mặt hàng khác sẽ leo thang theo, nghĩa là nhu cầu tiêu dùng thị trường tăng (sự tăng lên về cầu). Chi phí đẩy ở đây bao gồm giá nguyên liệu đầu vào, tiền lương, thuế, máy móc,…của một doanh nghiệp. Khi một trong những yếu tố này có giá tăng thì tổng chi phí sản xuất cũng tăng theo. Chính vì thế giá thành phẩm, hàng hóa được đẩy cao lên để bảo toàn lợi nhuận. Khi một doanh nghiệp có kinh doanh hiệu quả và tăng tiền lương cho người lao động trên “danh nghĩa”. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp kết quả kinh doanh không tốt nhưng lại buộc tăng lương theo xu thế. Khi đó họ còn buộc phải tăng luôn giá của hàng hóa để mức lợi nhuận được đảm bảo. Lạm phát được phát sinh từ đây. Tình trạng lạm phát xảy ra khi lượng tổng cung và cầu bị mất cân bằng trong hàng hóa xuất khẩu. Hàng hóa xuất khẩu tăng lên sẽ kéo theo nhu cầu mua cũng tăng. Bởi vì lượng hàng gom lại để xuất khẩu làm cho hàng nguồn cung nội địa bị giảm đi. Lúc này tổng cung trong nước sẽ thấp hơn tổng cầu. Đối với hàng hóa nhập khẩu cũng vậy, khi thuế tăng hoặc giá thị trường thế tăng dẫn đến giá sản phẩm nhập tăng theo. Tình hình lạm phát sẽ xảy ra vì mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên. Khi tiền lưu hành nội địa có lượng cung tăng do nhiều nguyên nhân khác nhau, ví dụ như do việc mua ngoại tệ của tổ chức tài chính trung ương để giữ tiền nội địa khỏi mất giá so với ngoại tệ, hoặc mua công trái theo yêu cầu từ nhà nước. Lúc này tiền trong lưu thông bị tăng lên khiến xảy ra lạm phát. Vậy là chúng ta đã có được câu trả lời về lạm phát là gì cũng như nguyên nhân gây nên tình trạng này qua bài viết trên. Trên thế giới khi lạm phát xảy ra ở các quốc gia tăng cao và triền miên nó sẽ ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu để tìm ra những cách thức chống lạm phát luôn được các quốc gia đặt lên hàng đầu.
Lạm phát
Trong kinh tế vĩ mô, lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây, do đó lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền tệ. Khi so sánh với các nước khác thì lạm phát là sự giảm giá trị tiền tệ của một quốc gia này so với các loại tiền tệ của quốc gia khác. Theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu lạm phát của một loại tiền tệ tác động đến phạm vi nền kinh tế một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu lạm phát của một loại tiền tệ tác động đến phạm vi nền kinh tế sử dụng loại tiền tệ đó. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát.
Bước vào cấp Trung học cơ sở, các bạn học sinh sẽ bắt đầu tiếp xúc với nhiều khái niệm toán học mới là nền tảng quan trọng cho các môn học sau này. Trong đó số nguyên là gì? Số thực là gì? Phân biệt như thế nào trong toán học? Lamsao sẽ giúp bạn đọc ghi nhớ mảng kiến thức này dễ hiểu và nhanh nhất qua bài viết sau đây. Trong toán học, theo định nghĩa số nguyên là tập hợp gồm các số nguyên dương, số nguyên âm (là số đối của số tự nhiên dương) và số 0. Phát biểu đúng theo khái niệm toán học: Số nguyên âm là miền nguyên bao gồm các số được sắp xếp theo một thứ tự duy nhất khi mà các phần tử dương sẽ được sắp xếp theo chiều tăng dần. Hiểu đơn giản, số nguyên là những số có thể biểu thị mà không cần sử dụng đến thành phần phân số. Theo đó, số nguyên được chia thành hai loại:. Như vậy: Tập hợp các số nguyên âm, số nguyên dương đều không bao gồm số 0. Tập hợp của số nguyên được ký hiệu là Z. Theo tìm hiểu, Z chính là chữ viết tắt của từ Zahl trong tiếng Đức có nghĩa là chữ số. Không có số nguyên nào nhỏ nhất và không có số nguyên nào là lớn nhất. Tập hợp các số nguyên là vô hạn nhưng có thể đếm được. Số thực là tập hợp gồm các số dương, số âm, số 0, số hữu tỉ và số vô tỉ. Hiểu ngắn gọn, số thực được xem là các điểm nằm trên trục số dài vô hạn gồm số hữu tỉ và số vô tỉ. Như vậy, tập hợp các số tự nhiên, số nguyên, số hữu tỉ và số vô tỉ đều thuộc tập hợp của số thực. Sự xuất hiện số thực giúp lấp đầy trên trục số. Cụ thể, số thực gồm:. Số thực là tập hợp gồm các số không đếm được còn số nguyên gồm tập hợp các số đếm được. A. Số nguyên không phải là số thựcB. Số vô tỉ không phải là số thựcC. Phân số không phải là số thựcD. Tất cả các số trên đều là số thực. Lời bài hát Bài Hát Này Gần 3 Phút Lyrics & MP3 ca sĩ Hưng Cacao, K.U.S, Giang Phạm
Số nguyên
Trong toán học, số nguyên được định nghĩa một cách thông dụng là một số có thể được viết mà không có thành phần phân số. Ví dụ: 21, 4, 0 và −2048 là các số nguyên, trong khi 9,75,5 1/2 và √2 không phải là số nguyên. Tập hợp các số nguyên bao gồm 0, các số tự nhiên dương (1, 2, 3,. ), còn được gọi là số đếm, và các nghịch đảo phép cộng của chúng (là các số nguyên âm, tức là, −1, −2, −3, .). với chữ cái "Z" bắt nguồn từ tiếng Đức Zahlen (nghĩa là "số"). Các số nguyên tạo thành nhóm nhỏ nhất và vành nhỏ nhất chứa các số tự nhiên. Trong lý thuyết số đại số, các số nguyên đôi khi được coi là số nguyên hữu tỉ để phân biệt chúng với các số nguyên đại số tổng quát hơn. Trên thực tế, số nguyên (hữu tỉ) là số nguyên đại số mà cũng là số hữu tỉ.
Các chất phóng xạ có tác động vô cũng nguy hiểm đến hoạt động đời sống và sức khỏe của con người. Phóng xạ có khả năng phá hủy cơ thể ở cấp độ tế bào và tăng dần. Thường thì ở mức độ khác nhau sẽ gây những ảnh hưởng khác nhau. Mức độ tác hại cũng phụ thuộc vào thời gian và cường độ tiếp xúc. Vậy phóng xạ là gì? Tác hại của ô nhiễm phóng xạ là gì?. Phóng xạ là hiện tượng một số hạt nhân nguyên tử không bền tự biến đổi. Sau, nó giải thoát năng lượng dư thừa và phát ra các bức xạ hạt nhân. Đây được gọi là các tia phóng xạ. Trong đó, các nguyên tử có tính phóng xạ được gọi là các đồng vị phóng xạ. Còn các nguyên tử không phóng xah được gọi là các đồng vị bền. Theo đó, các nguyên tố hóa học chỉ gồm các đồng vị phóng xạ sẽ được gọi là nguyên tố phóng xạ. Ô nhiễm phóng xạ chính là sự gia tăng mức độ bức xạ tự nhiên. Do các hoạt động của con người gây ra. Theo nghiên cứu, có khoảng 20% bức xạ chúng ta tiếp xúc là do các hoạt động của con người. Ví dụ các hoạt động của con người có thể liên quan đến các hoạt động có chất phóng xạ như khai thác, xử lý vật liệu phóng xạ, xử lý và lưu trữ chất thải phóng xạ. Cũng như sử dụng các phản ứng phóng xạ để tạo ra năng lượng cũng là một hoạt động gây ô nhiễm phóng xạ. Những người nhiễm phóng xạ đều bị ảnh hưởng vì bị chiếu phóng xạ hoặc sống trong môi trường bị nhiễm bức xạ đều ảnh hưởng đến sức khỏe của cơ thể. Gây ra nhiều căn bệnh nguy hiểm. Đặc biệt là các bệnh có thể biến đổi gen. Thường thì các bệnh về nhiễm phóng xạ sẽ được chia làm hai nhóm gồm nhiễm phóng xạ cấp tính và mãn tính. Người bệnh có thể bị nhiễm phóng xạ cấp tính nếu bị chiếu phóng xạ với liều lượng rất lớn (>300 rem). Khi đó, các bức xạ sẽ gây rối loạn hệ thần kinh trung ương. Gây nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, kén ăn, mệt mỏi,… Vùng da bị chiếu có dấu hiệu bị tấy đỏ hoặc bỏng. Đồng thời các cơ quan máu bị tổn thương nặng nề. Dẫn đến thiếu máu, giảm sức đề kháng,… Người bệnh bị gầy yếu dần dần dẫn đến suy nhược, nhiễm trùng nặng. Thậm chí có thể gây tử vong. Hầu hết các tác động của các bức xạ ở mức thấp không biểu hiện ngay. Mà phải sau một thời gian ủ bênh các biểu hiện của căn bệnh mới xuất hiện. Các triệu chứng của trường hợp này biểu hiện khá muộn. Có thể sau vào năm hoặc hàng chục năm sau. Các bệnh nhân bị nhiễm mãn tính sẽ bị suy nhược thần kinh. Dẫn đến suy nhược cơ thể. Làm rối loạn các cơ quan tạo máu. Rối loạn quá trình chuyển hóa các chất và muối khoáng trong cơ thể. Dẫn đến bị thoái hóa. Các triệu chứng thường thấy như bị đục nhân mắt, ung thư da, ung thư xương,…. Ô nhiễm phóng xạ gây những tác hại nghiêm trọng tới sinh vật sống. Phóng xạ hủy hoại các cơ thể sống. Nó tác đông trực tiếp tới các mô tế bào, bẻ gãy các cấu trúc phân tử. Theo đó, gây ra những căn bệnh ngộ độc phóng xạ cấp tính. Nó còn làm biến đổi gen gây nên các dị tật bẩm sinh. Làm ion hóa và hủy hoạt tế bào và gây ra những đột biến di truyền quan trọng. Nguyên nhân ô nhiễm nguồn nước có thể từ các chất phóng xạ. Theo đó, một số loại phóng xạ thường được tìm thấy trong nước như Ra và K40. Đây là các chất có nguồn gốc từ tự nhiên, qua các tầng khoáng chất mà ngấm vào nước ngầm. Ngoài ra, các chất phóng xạ khác thường có nguyên nhân từ các nhà máy sản xuất năng lượng hạt nhân và các vụ thử vũ khí hạt nhân. Các chất phóng xạ này có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người khi tiếp xúc với các nguồn nước bị nhiễm chất phóng xạ. Ngoài ra các loại động phật dưới nước cũng có thể chết khi môi trường nước bị ô nhiễm bởi chất phóng xạ. Các hạt nhân phóng xạ trong tự nhiên thường được sinh ra do sự tương tác của các tia trong vũ trụ. Và các bức xạ khác với khí quyển và ngưng đọng lại ở các lớp đất đá. Theo đó, các chất phóng xạ thường tồn tại trong môi trường đất chủ yếu ở dạng các đồng vị nguyên tử. Các đồng vị này chính là nguyên nhân gây nên sự ô nhiễm phóng xạ trong đất. Điều này gây giảm chất lượng đất. Nguy hiểm hơn, các chất phóng xạ này khi ngấm vào đất canh tác rồi bị gia súc ăn phải. Sau đó mang theo các chất phóng xạ đi vào cơ thể con người. Gây nhiều căn bệnh nguy hiểm cho con người. Các nguồn phóng xạ nguy hiểm nhất trong không khí chính là do các vụ nổ thử vũ khí hạt nhân. Các vụ nổ này tạo ra rất nhiều các chất phóng xạ vào không khí làm ô nhiễm không khí. Và gây hại trực tiếp cho con người khi hít phải. Ngoài ra, các hoạt động sản xuất trong các nhà máy nhiên liệu hạt nhân cùng các hoạt động nghiên cứu về các phản ứng hạt nhân thường phát tán các chất phóng xạ. Làm ô nhiễm môi trường khí nghiêm trọng. Ở các vùng gần nhà má điện nguyên tử hoạt động. Hoặc có các hoạt động liên quan đến chất phóng xạ, bức xạ. Người dân nên được sơ tán, đeo khẩu trang, mặc quần áo kín người. Đặc biệt là không nên sử dụng nước ở các khu vực này. Những thực phẩm có nguồn gốc từ vùng này cũng không nên sử dụng,…. Hạn chế hoặc ngưng sử dụng các chết phóng xạ trong quân sự. Đặc biệt là các loại vũ khí hạt nhân. Đồng thời hạn chế khai thác các mỏ quặng phóng cạ. Nếu có, phải có những thiết bị phòng hộ. Các cơ sở sản xuất trong nông nghiệp, công nghiệp hay lâm nghiêp, GTVT, các cơ sử nghiên cứu khoa học khi sử dụng các chất phóng xạ phải thực hiện nghiêm ngặt quy định an toàn hạt nhân. Việc sử dụng các tia phóng xạ trong y học cần được đảm bảo an toàn theo những quy chuẩn nhất định. Chất phóng xạ sau khi xâm nhập vào cơ thể con người có thể tác động đến máu, xương và các bộ phận khác trên cơ thể. Chúng gây ra những căn bệnh vô cùng nguy hiểm cho con người. Chính vì thế, sau khi đã biết những tác hại của các chất phóng xạ là gì. người dân nên thực hiện ngay các biện pháp bảo vệ sức khỏe cho mình và những người xung quanh.
Ô nhiễm phóng xạ
Ô nhiễm phóng xạ là sự lắng đọng của các chất phóng xạ trên bề mặt hoặc trong chất rắn, chất lỏng hoặc chất khí (bao gồm cả cơ thể con người), nơi hiện diện của chúng là ngoài ý muốn hoặc không mong muốn. Sự ô nhiễm này như một mối nguy hiểm do sự phân rã phóng xạ của các chất gây ô nhiễm, các chất gây ra tác hại như bức xạ ion hóa (cụ thể là α, β, và γ tia) và neutron tự do. Mức độ nguy hiểm được xác định bởi nồng độ của các chất gây ô nhiễm, năng lượng của bức xạ được phát ra, loại bức xạ và khoảng cách của các chất ô nhiễm với các cơ quan của cơ thể. Điều quan trọng rằng sự ô nhiễm làm phát sinh nguy cơ bức xạ và các thuật ngữ "bức xạ" và "ô nhiễm" không thể thay thế cho nhau. Các nguồn gây ô nhiễm phóng xạ có thể được phân thành hai nhóm: tự nhiên và do con người taọ ra. Sau khi xả vũ khí hạt nhân trong khí quyển hoặc vi phạm ngăn chặn lò phản ứng hạt nhân, không khí, đất, con người, thực vật và động vật trong vùng lân cận sẽ bị ô nhiễm bởi nhiên liệu hạt nhân và các sản phẩm phân hạch.
Trong bài viết hôm nay, chúng mình sẽ gửi đến bạn những kiến thức liên quan đến từ Tạp Dề trong tiếng anh và cách dùng của chúng trong tiếng Anh. Mình hi vọng rằng bạn có thể tìm thấy nhiều kiến thức thú vị và bổ ích qua bài viết về cụm từ Tạp Dề này. Chúng mình có sử dụng một số ví dụ Anh - Việt và hình ảnh minh họa về từ Tạp Dề để bài viết thêm dễ hiểu và sinh động. Bạn có thể tham khảo thêm một số từ liên quan đến từ Tạp Dề trong tiếng Anh mà chúng mình có chia sẻ trong bài viết này nhé. Chúng mình đã chia bài viết về từ Tạp Dề trong tiếng anh thành 2 phần khác nhau. Phần đầu tiên: Tạp Dề trong Tiếng Anh có nghĩa là gì. Trong phần này sẽ bao gồm một số kiến thức về nghĩa có liên quan đến từ Tạp Dề trong Tiếng Anh. Phần 2:Một số từ vựng liên quan và cách sử dụng của từ Tạp Dề trong tiếng Anh. Bạn có thể tìm thấy ở đây những cấu trúc cụ thể đi kèm với cụm từ Tạp Dề trong từng ví dụ minh họa trực quan. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi hay thắc mắc nào về cụm từ Tạp Dề có thể liên hệ trực tiếp cho chúng mình qua website này nhé. Trong tiếng việt, Tạp Dề là một vật dụng dùng để mặc lên người, bao phủ quần áo phía ngực và bụng của cơ thể . Tạp dề có thể có nhiều mục đích khác nhau và ngày nay có lẽ được biết đến nhiều nhất như một phụ kiện chức năng phủ trên trang phục của một người để bảo vệ quần áo và da khỏi những vết bẩn khi nấu ăn, dọn dẹp hoặc làm một việc gì đó. Để hiểu hơn về ý nghĩa của Tạp Dề trong tiếng anh là gì thì bạn lướt qua những ví dụ cụ thể ngay dưới đây của Study Tienganh nhé. Dịch nghĩa:Cô nhận thức được nhu cầu sử dụng tạp dề của thợ mộc như vậy nhưng tất cả các loại tạp dề đều khan hiếm do nguồn cung không đủ vải. Dịch nghĩa:Lisa được khuyên rằng đề xuất cấm mặc váy và tạp dề là không cần thiết và gần như chắc chắn sẽ bị công nhân phẫn nộ. Dịch nghĩa:Chúng tôi đã tăng cường kiểm tra của cảnh sát, chúng tôi đang giới thiệu các kiểm tra danh tính bổ sung và, trong chừng mực có thể, chúng tôi đang giới hạn số lượng trên tạp dề. Dịch nghĩa:Pito nói rằng khi các thành viên trong gia đình đến thăm, họ sẽ được phường đưa cho tạp dề và găng tay để đeo. Dịch nghĩa:Những người thợ mỏ mua ủng đặc biệt cho công việc của họ, còn những người bán tạp hóa và bán thịt mua tạp dề và áo khoác đặc biệt. Dịch nghĩa:Nói chung, Những y tá này sẽ sử dụng quần áo bảo hộ, chẳng hạn như tạp dề và găng tay để tránh làm bẩn đồng phục của họ. Như vậy, qua bài viết trên, chắc hẳn rằng các bạn đã hiểu rõ về định nghĩa và cách dùng cụm từ Tạp Dề trong câu tiếng Anh. Hy vọng rằng, bài viết về từ Tạp Dề trên đây của mình sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình học Tiếng Anh. Studytienganh chúc các bạn có khoảng thời gian học Tiếng Anh vui vẻ nhất. Chúc các bạn thành công!
Tạp dề
Tạp dề (tiếng Pháp: tablier) là thứ mặc lên người, bao phủ quần áo phía ngực và bụng của cơ thể. Tạp dề có thể có nhiều mục đích khác nhau và ngày nay có lẽ được biết đến nhiều nhất như một phụ kiện chức năng phủ trên trang phục của một người để bảo vệ quần áo và da khỏi những vết bẩn ngẫu nhiên. Tuy nhiên, tạp dề cũng có thể được mặc như một loại hàng may mặc trang trí thuần túy, vì lý do vệ sinh và để tránh nguy hiểm như nhiệt độ quá mức. Là một lớp vải che phần phía trước của cơ thể, tạp dề cũng được mặc như một bộ đồng phục, trang sức, trang phục nghi lễ hoặc sản phẩm thời trang. Phong cách ăn mặc phù hợp với thị hiếu của thời đại để phù hợp với các giá trị và công việc của văn hoá hiện tại. Phong cách thực tiễn, thời trang tình cảm của tạp dề đã làm cho nó một phụ kiện được chăm chút trong nhiều thế kỷ. Vì tạp dề cung cấp sự thoải mái, bảo vệ người mặc và tạo ý thức sẵn sàng - tạp dề sẽ luôn là một bộ quần áo đi kèm cho những người làm việc, dọn dẹp, giải trí và sáng tạo.
- Hiểu theo nghĩa rộng, "Ngân hàng xanh là chính là Ngân hàng bền vững" (Imeson M., và Sim A., 2010), trong đó nghiên cứu chỉ ra rằng một ngân hàng để phát triển bền vững thì các quyết định đầu tư cần nhìn vào bức tranh lớn và hành động một cách có lợi cho người tiêu dùng, kinh tế, xã hội và môi trường. Khi đó, có một mối quan hệ mật thiết giữa ngân hàng với các yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường. Ngân hàng chỉ có thể phát triển bền vững nếu đặt các lợi ích của ngân hàng gắn liền với các lợi ích của xã hội, môi trường. Áp dụng tiêu chuẩn môi trường khi duyệt vốn vay hay cấp tín dụng ưu đãi cho dự án giảm CO2, năng lượng tái tạo,. (Theo UN ESCAP, 2012). Như vậy, một ngân hàng khi cung cấp các dịch vụ có gắn với các cam kết về môi trường hoặc đầu tư cho vay sản xuất xanh, sạch. Đối với mục tiêu giảm lượng khí thải ngoài ngân hàng, các ngân hàng thực hiện tín dụng xanh hay là tài trợ cho các dự án thân thiện với môi trường, giảm thải ô nhiễm, ưu tiên đối với những ngành công nghiệp xanh. Ngân hàng trực tuyến bao gồm các dịch vụ: Trả hóa đơn trực tuyến, nộp tiền vào tài khoản, chuyển khoản trực tuyến, sao kê giao dịch ngân hàng và tiết kiệm trực tuyến. Đây là loại hình ngân hàng giúp cắt giảm được lượng giấy, năng lượng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác trong quá trình sử dụng. Các hóa đơn như điện thoại, truyền hình cáp, dịch vụ, thẻ tín dụng đều có thể thực hiện từ xa thông qua kết nối Internet từ máy vi tính hoặc điện thoại thông minh. Khách hàng có thể kiểm tra tài khoản của mình trên máy ATM hoặc thông qua màn hình chuyên dụng đặt tại ngân hàng. Đây chính là các tài khoản kiểm tra xanh, thân thiện với môi trường mà ngân hàng có thể cung cấp, khuyến khích khách hàng sử dụng bằng cách đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn hoặc miễn (giảm) phí sử dụng. Đây là các khoản vay lãi suất thấp, nhằm hỗ trợ cho những hộ gia đình mua các thiết bị sử dụng năng lượng mới hoặc đầu tư vào các ứng dụng sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Ngân hàng cũng có thể tham gia hỗ trợ bằng cách cung cấp các khoản vay khuyến khích hộ gia đình chuyển đổi sang một ngôi nhà mới thân thiện với môi trường và tiết kiệm năng lượng. Một số ngân hàng xanh có thể trở thành đối tác với các công ty cung cấp thiết bị và công nghệ mới bảo vệ môi trường. Các ngân hàng thương mại có thể cung cấp các khoản tín dụng xây dựng các trung tâm thương mại xanh với các thiết kế nhằm giảm thiểu tiêu thụ năng lượng (15-25%), giảm rác thải tiêu thụ và ô nhiễm môi trường so với các tòa nhà truyền thống. Với các tòa nhà xanh này, chi phí hoạt động được cắt giảm, lợi nhuận tăng lên và tạo nên lợi thế khi định giá bất động sản. Ngân hàng đưa ra các gói lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường để khuyến khích khách hàng mua các ô tô có hiệu suất sử dụng nhiên liệu tiết kiệm. Các sản phẩm này có xu hướng tăng trong các năm gần đây và đặc biệt phát triển tại các nước châu Âu, châu Úc. Thông qua việc sử dụng các thẻ xanh (thẻ tín dụng, ghi nợ), các ngân hàng đã đóng góp tiền cho các tổ chức bảo vệ môi trường thông qua mỗi đơn vị tiền tệ chi tiêu bằng thẻ (thông thường là 0,5% giá trị mỗi giao dịch mua bán, chuyển tiền). - Một lợi ích không thể phủ nhận của ngân hàng xanh đối với khách hàng chính là việc được hưởng các mức lãi suất ưu đãi trong thời gian được tài trợ vốn. - Bên cạnh đó, việc triển khai các dịch vụ trên nền công nghệ như internet banking, sms banking… giúp khách hàng tiết kiệm thời gian, chi phí, hạn chế được rủi ro trong quá trình sử dụng tiền mặt. - Hệ thống tài chính ngân hàng, với vai trò cung ứng vốn cho các chủ thể trong nền kinh tế, sẽ tạo ra những tác động gián tiếp đến môi trường. Khi ngân hàng tăng cường quản lí rủi ro môi trường trong hoạt động cho vay sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất theo hướng sạch hơn. Như vậy, hoạt động ngân hàng xanh sẽ góp phần nâng cao nhận thực của các chủ thể trong nền kinh tế về các vấn đề môi trường, xã hội, thúc đẩy họ thực hiện các hoạt động kinh doanh thân thiện môi trường, hỗ trợ cộng đồng.
Ngân hàng zombie
Ngân hàng zombie là một tổ chức tài chính có giá trị ròng kinh tế nhỏ hơn 0 nhưng vẫn tiếp tục hoạt động vì khả năng trả nợ của nó được bảo hộ bằng cách hỗ trợ tín dụng chính phủ ngầm hoặc rõ ràng. Thuật ngữ này được Edward Kane sử dụng lần đầu tiên vào năm 1987 để giải thích những nguy cơ của việc dung túng một số lượng lớn các hiệp hội tiết kiệm và cho vay không có khả năng thanh toán và áp dụng vào cuộc khủng hoảng của Nhật Bản vào năm 1993. Một ngân hàng zombie có thể tiếp tục hoạt động và thậm chí còn phát triển miễn là các chủ nợ vẫn tin tưởng vào khả năng của chính phủ có liên quan để trích tiền cần thiết để hỗ trợ triển vọng từ những người nộp thuế hiện tại hoặc tương lai. Nhưng khi cơ chế này có vẻ không đáng tin, các tổ chức zombie phải đối mặt với chuyện đột biến rút tiền gửi bởi người gửi tiền không được bảo vệ và lệnh ký quỹ từ các đối tác trong phái sinh giao dịch. Năm 1990, Nhật Bản đã phải chịu sự sụp đổ về giá bất động sản và thị trường chứng khoán khiến các ngân hàng lớn rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Ngày 11/3/2011, vào lúc 14h46 chiều (giờ địa phương), một trận động đất 9 độ richter ngoài khơi Thái Bình Dương, cách Tōhoku khoảng 70 km về phía Đông với tâm chấn ở độ sâu khoảng 29 km so với mực nước biển đã làm rung chuyển Đông Bắc Nhật Bản khoảng 6 phút. Đây là trận động đất mạnh nhất từng được ghi nhận ở Nhật Bản, và là trận động đất mạnh thứ tư trên thế giới theo thống kê hiện đại, bắt đầu vào năm 1900. Ảnh hưởng của trận động đất đã được cảm nhận trên khắp thế giới, từ các vịnh hẹp ở Na Uy cho đến tảng băng ở Nam Cực. Trận động đất gây ra sóng thần hủy diệt cực mạnh có độ cao lên tới 40,5m (tương đương chiều cao tòa nhà 13 tầng) ở Miyako thuộc tỉnh Iwate của Tōhoku, di chuyển với tốc độ 700 km/h, san phẳng gần như tất cả các thị trấn ven biển và thâm nhập đến 10km trên đất liền sau khi tràn đê sông Natori ở khu vực Sendai, gây ngập một diện tích ước tính khoảng 561 km2. Các con sóng đã tràn qua và phá hủy các bức tường chắn sóng thần bảo vệ tại một số địa điểm; nước dâng lớn đã phá hủy các tòa nhà ba tầng, nơi nhiều người tụ tập. Gần Oarai, sóng thần tạo ra một xoáy nước lớn ngoài khơi, được ghi lại trên video. Sóng thần lan truyền khắp khu vực Thái Bình Dương đến toàn bộ bờ biển Thái Bình Dương của Bắc và Nam Mỹ từ Alaska đến Chile. Nó tạo ra những con sóng cao đến 3,6 m dọc theo bờ biển Kauai và Hawaii trong chuỗi quần đảo Hawaii và những con sóng cao 5 m dọc theo đảo Shemya trong chuỗi quần đảo Aleutian. Vài giờ sau, sóng cao 2,7 m tấn công các bờ biển California và Oregon ở Bắc Mỹ. Cuối cùng, khoảng 18 giờ sau trận động đất, những con sóng cao khoảng 0,3 m đã tràn đến bờ biển Nam Cực và khiến một phần của thềm băng Sulzberger bị vỡ. Cơ quan Đại dương và Khí quyển Quốc gia Nhật Bản cho biết, nước dâng lên mang theo ước tính khoảng 5 triệu tấn mảnh vỡ ra biển, các mảnh vỡ đồ vật do sóng thần gây ra đã tiếp tục trôi dạt đến các bãi biển Bắc Mỹ nhiều năm sau đó. Theo các nhà khoa học, trận động đất và sóng thần ở Nhật Bản đã dịch chuyển Trái Đất trên trục quay của nó khoảng 10-25 cm bằng cách phân phối lại khối lượng và hệ lụy là rút ngắn thời gian của một ngày khoảng 1,8 micro giây. Hơn 5.000 dư chấn với cơn lớn nhất có cường độ 7,9 độ Richter, đã tấn công Nhật Bản trong năm sau trận động đất. Theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ, đảo chính Honshu bị dịch về phía đông 2,4 m, làm cho một số phần trên đất liền của Nhật Bản rộng hơn trước; bờ biển phía bắc cách Honshu 400 km của Nhật Bản bị lún khoảng 0,6 m (nhưng sau khoảng 3 năm, bờ biển này đã trồi trở lại và tiếp tục tăng lên vượt quá độ cao ban đầu của nó). Mảng Thái Bình Dương của Trái Đất trượt về phía tây gần tâm chấn 24 m và nâng đáy biển ngoài khơi tỉnh Miyagi lên 3 m. Một báo cáo của Cơ quan Khoa học và Công nghệ Biển-Trái đất Nhật Bản cho biết, đáy biển ở khu vực giữa tâm chấn và Rãnh Nhật Bản đã di chuyển 50 m về phía Đông-Đông Nam và dâng lên khoảng 7 m do hậu quả của trận động đất. Ở Nam Cực, sóng địa chấn từ trận động đất đã tác động sông băng Whillans, làm nó dịch chuyển khoảng 0,5 m; sóng thần đã phá vỡ các tảng băng trôi khỏi thềm băng Sulzberger, cách đó 13.000 km. Tảng băng trôi chính có kích thước 9,5x6,5 km và dày khoảng 80 m; tổng cộng 125 km2 băng đã bị phá vỡ. Khi sóng thần băng qua Thái Bình Dương, một cơn sóng cao 1,5 m đã giết chết hơn 110.000 con chim biển làm tổ tại Khu bảo tồn Động vật Hoang dã Quốc gia Midway Atoll. Ở Na Uy, nước trong các vịnh hẹp phía Nhật Bản dâng lên tụt xuống khi sóng địa chấn từ trận động đất chạy qua. Trận động đất tạo ra một tiếng ầm tần số thấp được gọi là sóng hạ âm, truyền vào không gian và được phát hiện bởi vệ tinh Goce. Năng lượng bề mặt của sóng địa chấn từ trận động đất nếu được khai thác, đủ cấp cho một thành phố như Los Angeles trong cả năm. Các tòa nhà bị phá hủy bởi sóng thần đã giải phóng vào không khí hàng nghìn tấn hóa chất phá hủy tầng ôzôn và khí nhà kính. Nạn nhân tại 20 địa phương gồm 15.894 người chết, 6.157 người bị thương và hơn 2.529 người bị mất tích, tính đến ngày 10/6/2016; có tới 100.000 trẻ em đã phải bỏ nhà ra đi, một số em bị chia cắt khỏi gia đình, hàng nghìn trẻ em trở thành mồ côi; hơn 121.778 tòa nhà đã bị phá hủy hoàn toàn, 280.926 tòa nhà bị phá hủy một phần và 699.180 tòa nhà khác bị hư hại; nhiều người dân phải rời bỏ quê hương, mang theo nỗi đau cùng cực vì mất người thân, mất nhà vĩnh viễn (năm 2018). Ở Đông Bắc Nhật Bản, ít nhất khoảng 4,4 triệu hộ gia đình không có điện và 1,5 triệu hộ gia đình bị mất nước; có khoảng 230.000 ô tô và xe tải bị hư hỏng hoặc phá hủy và thiên tai kép đã tạo ra khoảng 24-25 triệu tấn gạch vụn và mảnh vỡ. Nguồn điện và máy phát điện dự phòng bị sóng thần tràn vào khiến nhà máy mất khả năng làm mát, gây ra các vụ tan vỡ cấp độ 7 tại ba lò phản ứng của Nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi. Các lò phản ứng tại nhà máy Fukushima Daiichi và Fukushima Daini được tự động chuyển sang chế độ ngoại tuyến khi trận động đất đầu tiên xảy ra và chịu thiệt hại lớn do trận động đất và sóng thần sau đó. Cư dân trong bán kính 20 km tính từ Nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi và bán kính 10 km từ Nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daini đã phải sơ tán. Mức độ rất thấp của các chất phóng xạ rò rỉ từ Fukushima đã được phát hiện dọc theo bờ biển Bắc Mỹ ngoài khơi Canada và California; dấu vết của đồng vị phóng xạ Cesium-134 và Cesium-137 đã được tìm thấy trong nước biển được thu thập vào năm 2014 và 2015. Có thể cần phải thay thế đất bị ô nhiễm, nhiều điểm nóng phóng xạ được tìm thấy bên ngoài khu vực sơ tán, bao gồm cả Tokyo. Chính phủ Nhật Bản ước tính, thiệt hại tài chính trực tiếp lên tới khoảng 16,9 nghìn tỷ yên (199 tỷ USD), còn Ngân hàng Thế giới ước tính, tổng chi phí có thể lên tới 235 tỷ USD, khiến nó trở thành thảm họa thiên nhiên tốn kém nhất trong lịch sử thế giới. Theo một nghiên cứu năm 2020, trận động đất và hậu quả của nó đã làm giảm 0,47% tăng trưởng GDP thực tế của Nhật Bản trong năm sau thảm họa. Do nhận thức rõ không thể ngăn cản thiên nhiên, Nhật Bản đã áp dụng các biện pháp từ kiến trúc đến nhận thức của người dân để học cách sống chung với động đất và ứng phó khi thảm họa xảy ra. Tại Nhật Bản, tất cả các công trình được xây mới đều phải tuân thủ những quy định nghiêm ngặt do chính quyền đề ra - đáp ứng yêu cầu cho dù có chịu động đất cũng không thể sụp đổ trong vòng 100 năm và không thể hư hại trong vòng 10 năm. Đồng thời, những căn nhà này được xây dựng với nền móng có cao su chứa chất lỏng đặc biệt có thể triệt tiêu lực khi chịu tác động từ các cơn địa chấn. Theo “Luật cơ bản về ứng phó thảm họa” ra đời hơn nửa thế kỷ trước, chính phủ Nhật Bản đã thiết lập một hệ thống dự phòng cần thiết phòng khi thiên tai ập đến. Mỗi gia đình đều có sẵn bộ dụng cụ cứu hộ cơ bản cần thiết khi có thảm họa xảy ra. Mỗi hộ gia đình đều phải tự tích trữ trong nhà những vật dụng cứu hộ cơ bản gọi là “túi phòng chống thiên tai” với đèn pin, thuốc, khẩu trang, dây thừng… và thực phẩm đủ cho cả nhà sử dụng trong vòng 3 ngày đến 1 tuần. Mỗi địa phương phải thành lập những trung tâm cứu nạn riêng được trang bị: mũ bảo hiểm, lều trại, chăn chiếu, máy phát điện, đèn pin, thực phẩm… để kịp thời phục vụ những nhu cầu thiết yếu của người dân trong lúc cấp bách. Sau thảm hoạ động đất năm 2011, Nhật Bản đã quyết định chọn ngày 1/9 là Ngày Phòng chống thảm hoạ quốc gia. Vào ngày này, hầu hết người dân Nhật Bản sẽ tham gia diễn tập thực tế với kịch bản các trận động đất mạnh xảy ra bao gồm sơ tán, vận chuyển người bị thương và các nhóm y tế giữa sân bay và các cơ sở của lực lượng phòng vệ sử dụng máy bay trực thăng và máy bay vận tải. Kỹ năng chống chọi với thảm họa rất được đề cao tại Nhật, đặc biệt là trong ngành giáo dục. Trẻ em nước này ngay từ nhỏ đã thường xuyên được tham gia những buổi diễn tập về cách ứng phó với thiên tai. Báo chí nước ngoài nhấn mạnh yếu tố “con người” trong các thảm họa thiên nhiên ở Nhật Bản. Trong tình thế nguy cấp, 50 công nhân đã tình nguyện ở lại cứu nhà máy Fukushima để ngăn chặn tình trạng phóng xạ đang lan tràn, bất chấp việc làm này vô cùng nguy hiểm đến tính mạng. Họ được tôn vinh là những samurai cảm tử thời hiện đại. Từ các hình ảnh được truyền đi khắp thế giới, mọi người không nhìn thấy quá nhiều sự tang thương, vật vã đau khổ của người dân mà trên hết là tinh thần đoàn kết, sự lạc quan đáng nể của người dân mà không phải quốc gia nào cũng có được. Không giống như ở một số nước khác sau thảm họa, ở Nhật không thấy cảnh “đục nước béo cò”, trộm cướp, hôi của… Dù rất đói, rất khát, họ vẫn xếp hàng để chờ được nhận hàng lương thực theo thứ tự. Mọi người chia nhau đồ cứu trợ, động viên nhau, không một tiếng phàn nàn hay oán trách. Các siêu thị của Nhật cũng giảm giá mạnh, thay vì tăng giá trong lúc khó khăn để trục lợi. Trên sân ga giá lạnh, nhiều người mệt mỏi chờ tàu khi hệ thống giao thông tê liệt thật ấm lòng khi vài người vô gia cư mang thùng các tông đến để trải ra ngồi cho đỡ lạnh. Người Nhật ngồi dọc theo các hành lang lên xuống, nhưng vẫn đảm bảo đoạn giữa trống và người khác có thể đi lại được. Thậm chí khi đi đến đèn xanh đèn đỏ, mọi người vẫn kiên nhẫn đứng chờ đèn hiệu, trật tự, không hoảng loạn. Mọi thứ đều rất tồi tệ nhưng thế giới vẫn nhận thấy ở người Nhật Bản ánh lên niềm tin vào cuộc sống. Thảm họa thiên nhiên có thể sẽ kinh khủng, tồi tệ hơn nhiều nếu tiếp thêm vào đó là lòng ích kỷ, sự hoảng loạn, tranh cướp của con người./. VOV.VN - Dù cho chính phủ tạo điều kiện đầy đủ nhưng nhiều người dân Fukushima không trở về ngôi nhà cũ. Họ không sợ động đất, nhưng lại lo ngại tính an toàn của các lò phản ứng hạt nhân gần đó. VOV.VN - Đã 2 năm kể từ sau thảm họa động đất-sóng thần khiến hơn 4.000 người thiệt mạng, đến nay, cư dân thành phố Palu và Donggala, miền Trung Sulaweisi, Indonesia vẫn đang vận lộn để tái thiết cuộc sống. VOV.VN - Indonesia đã khánh thành sân bay quốc tế Yogyakarta trên đảo Java, được cho là có khả năng chịu động đất và sóng thần. VOV.VN - Theo các nhà khoa học, thực tế cho thấy sóng thần khổng lồ thường xuyên ra tại khu vực này theo chu kì từ 300-400 năm và lần gần nhất là từ thế kỷ 17. VOV.VN - Theo báo cáo của Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ, trận động đất ở độ sâu hơn 85km. VOV.VN - Một trận động đất mạnh 7,5 độ ngày 19/10 đã khiến giới chức bang Alaska, Mỹ, phải ban hành cảnh báo sóng thần trên diện rộng. Bác sĩ người Việt ở Mỹ tặng 3.000 khẩu trang 3M-N95 hỗ trợ nhân viên y tế trong nước
Động đất và sóng thần Tōhoku 2011
Động đất và sóng thần Tōhoku 2011 (東日本大震災 (Đông Nhật Bản đại chấn tai), Higashi Nihon Daishinsai,) là một trận động đất mạnh 9,0 MW ngoài khơi Nhật Bản xảy ra lúc 05:46 UTC (14:46 giờ địa phương) vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Trận động đất có vị trí chấn tâm nằm cách ngoài khơi bờ biển phía Đông bán đảo Oshika, Tōhoku 72 kilômét (45 mi) tại độ sâu 32 kilômét (20 dặm). Cơ quan Khí tượng Nhật Bản ghi nhận cường độ mạnh nhất của thảm họa ở mức 7 tại miền Bắc tỉnh Miyagi, mức 6 tại các tỉnh khác và mức 5 tại Tōkyō. Trận động đất đã gây ra sóng thần lan dọc bờ biển Thái Bình Dương của Nhật Bản và ít nhất 20 quốc gia, bao gồm cả bờ biển phía Tây của Bắc và Nam Mỹ. Sóng thần cao đến 38,9 m đã đánh vào Nhật Bản chỉ vài phút sau động đất, tại một vài nơi sóng thần tiến vào đất liền 10 km (6 mi).Cơ quan Cảnh sát Quốc gia Nhật Bản đã chính thức xác nhận có 15.893 người thiệt mạng, 6.152 người bị thương và 2.572 người mất tích tại 18 tỉnh của Nhật Bản và hơn 125.000 công trình nhà ở bị hư hại hoặc phá hủy hoàn toàn.
Làm thế nào để vận chuyển thú cưng đi nước ngoài cũng như làm sao để chuyển thú cưng từ nước ngoài về Việt Nam. H5S cung cấp bạn thông tin cụ thể bạn tham khảo, chắc chắn sau khi đọc xong các bạn sẽ tìm được câu trả lời cho mình. Thú cưng như Chó, Mèo đây là vật nuôi phổ biến, vận chuyển nhiều nhất, vận chuyển không dễ nếu nếu quý khách trực tiếp thực hiện vì nó phải qua rất nhiều công đoạn để được hãng hàng không tiếp nhận và cho phép vận chuyển. CÔNG TY TNHH CHUYỂN PHÁT NHANH QUỐC TẾ H5S chúng tôi gửi đến khách hàng Dịch vụ vận chuyển thú cưng đi nước ngoài, cũng như nhận Chuyển Thú Cưng Từ Nước Ngoài Về Việt Nam. H5S sẽ là địa chỉ tin cậy là đối tác tin cậy nhất đơn giản hóa việc vận chuyển này để quý khách yên tâm nhất khi gửi thú cưng của mình. Dịch vụ gửi chuyển phát nhanh thú cưng đi nước ngoài với các thủ tục đơn giản và giá vé tiết kiệm nhất. Quá trình vận chuyển thú cưng chúng tôi luôn đảm bảo sức khỏe tốt nhất cho mỗi lần vận chuyển và đảm bảo chỗ nằm cho thú cưng nằm thoải mái nhất. Hiện nay các tuyến quốc tế do tình hình dịch bênh kiểm tra rất chặt chẽ nên tùy hành trình (điểm đến có chấp nhận không) và tùy hãng sẽ đưa ra thời gian nhận thú cưng nhất định. Hiện nay có rất nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế cho thú cưng nhưng mỗi nơi lại có một mức giá khác nhau nên khách hàng cần có sự so sánh giá cả trực tiếp bên nhận vận chuyển quốc tế trước khi quyết định lựa chọn dịch vụ tại địa chỉ nào. Đặc biệt đó chính là giấy chứng nhận chích ngừa vaccine và giấy chứng nhận sức khoẻ, giấy này phải được cấp trong vòng 10 ngày trước chuyến bay. Cung cấp giấy kiểm dịch động vật và tiêm chủng, giấy phép nhập cảnh và các giấy phép yêu cầu của nơi xuất phát và theo yêu cầu của hãng hàng không. ➦➦QUAN TRỌNG: Thú cưng Sức Khỏe Tốt – Giấy Tờ Chứng Nhận Sức Khỏe Đầy Đủ. Mọi thắc mắc của bạn liên hệ trực tiếp đến địa chỉ dưới đây. Tốt hơn hết bạn nên đem theo sổ sức khỏe của thú cưng khi đến để tư vấn cụ thể chi tiết nhất.
Vận chuyển thú cưng
Vận chuyển thú cưng hay giao nhận thú cưng (Pet shipping) là một ngành công nghiệp vận chuyển liên quan đến việc chuyên chở động vật, cụ thể là các loại thú cưng và thường bằng máy bay. Khác với việc vận chuyển động vật là gia súc, gia cầm thông thường được vận chuyển đại trà theo đường bộ thì các loại thú cưng là mặt hàng đặc biệt được sự quan tâm của chủ nhân do đó dịch vụ này phải có sự tiện lợi và thoải mái cho thú cưng đồng nghĩa với giá cả tương ứng. Dịch vụ vận chuyển thú cưng là giải pháp gửi "hàng hóa đặc biệt" dành riêng cho các cá nhân hay tổ chức bán động vật cảnh. Cơ quan đặc trách về công nghiệp vận chuyển vật nuôi trên toàn thế giới là Hiệp hội Vận chuyển Vật nuôi và Động vật Quốc tế (International Pet and Animal Transportation Association). Dịch vụ này thường được sử dụng khi chủ nhân của động vật đang chuyển nhà. Tuy nhiên, nó cũng có thể được sử dụng khi vận chuyển động vật vì những lý do khác, chẳng hạn như để trình diễn trong các buổi biểu diễn dành cho chó.
Có rất nhiều màu xanh khác nhau có thể được gọi tên. Tuy nhiên để phân biệt chúng thì không phải điều dễ dàng. Liệu bạn có biết “màu xanh lơ là màu gì” hay không? Để có thể biết những thông tin xung quanh về màu sắc này hãy theo dõi bài viết dưới đây của chúng tôi. Màu xanh lơ còn có nhiều tên gọi khác như màu hồ thủy, màu cánh chả hoặc là màu xanh lục bảo, xanh dương nhạt… Đây là một màu cơ bản của quang phổ. Một số người còn gọi màu xanh lơ là màu xanh thổ tuy rằng cách gọi này không đúng lắm. Màu xanh lơ có bước sóng nằm trong khoảng 490 đến 520nm và rất khó để phân biệt được màu xanh lơ dưới ánh sáng của màu xanh lam. Tuy là màu cơ bản nhưng trong một vài biến thể của các sắc thái, màu xanh lơ có thể được tạo ra bằng cách trộn các lượng màu của ánh sáng màu xanh lục và màu xanh lam. Ngôi nhà, là nơi mà chúng ta sẽ trở về sau một ngày làm việc, nơi gia đình có thể quây quần bên nhau để kể cho nhau nghe những câu chuyện vui buồn. Có lẽ chính vì ý nghĩa to lớn ấy mà mỗi khi chúng ta xây dựng nhà hoặc trang trí nội thất thì đều rất chú trọng đến từng chi tiết nhỏ. Sau khi bạn đã tìm hiểu về màu xanh lơ là màu gì và đang phân vân không biết có nên chọn màu này cho căn nhà của mình hay không. Vậy thì bạn hãy tiếp tục tham khảo những thông tin dưới đây nhé. Màu xanh lơ là một màu thuộc tông lạnh, tạo được sự thoải mái, mát dịu, nhẹ nhàng và không kém phần tinh tế, sang trọng. Đây là một màu không quá nổi bật nhưng cũng không phải là màu nhạt nhòa. Có thể nói rằng màu xanh lơ là màu được khá nhiều người lựa chọn. Hầu như tất cả các không gian trong nhà từ mặt tiền, phòng khách, phòng bếp, phòng ngủ, phòng ăn,… đều có thể sử dụng gam màu này. Bạn có thể kết hợp màu xanh lơ và xanh dương, màu trắng, xám để trang trí cho ngôi nhà của mình. Một vài ý tưởng sau đây có lẽ sẽ giúp ích cho bạn. Nếu bạn muốn ngôi nhà của mình có một mặt tiền sang trọng, hiện đại và hài hòa với những ngôi nhà lân cận thì màu xanh lơ chính là sự lựa chọn phù hợp. Để không quá nhạt nhòa khi chỉ sơn một tông màu thì bạn nên kết hợp màu xanh lơ với một số tông màu khác và nhấn vào một số chi tiết trang trí. Để trang trí cho phòng khách, bạn nên sơn tường màu xanh lơ kết hợp với sàn gỗ và bày biện một số đồ nội thất như bàn, ghế sẽ là các màu sáng. Trên nền tường màu xanh, các món đồ nội thất sẽ luôn nổi bật và bạn khó có thể tìm thấy sự lựa chọn nào có nhiều điểm độc đáo như màu sắc này. Hoặc cũng có thể sử dụng sơn tường là màu trắng và sử dụng các màu của đồ nội thất là xanh lơ để tăng thêm điểm nhấn. Trong không gian phòng khách có thể kết hợp trang trí với một số khung tranh để tạo nên sự sinh động. Những bức tranh có thể là tranh phong cảnh, tranh chân dung, tranh nghệ thuật…. Về không gian của phòng bếp và phòng ăn bạn có thể chọn cách trang trí tông màu tương tự như phòng khách. Nó sẽ giúp cho những bữa cơm gia đình thêm vui tươi và đầm ấm. Những tấm kính cường lực màu xanh lơ trên tủ bếp sẽ có đa chức năng. Thứ nhất là tạo cảm giác thoáng mát, mới vẻ. Thứ 2, chất liệu kính dễ lau chùi sẽ giúp bạn luôn giữ cho phòng bếp luôn sạch sẽ và gọn gàng. Màu xanh lơ là màu gì? Màu này có hợp với trang trí phòng ngủ hay không? Câu trả lời là: đối với phòng ngủ bạn không cần trang trí quá nổi bật, chủ yếu là tạo được sự thoải mái, nhẹ nhàng và mát mẻ. Màu sơn tường bạn vẫn nên chọn màu xanh lơ nhưng có thể cách điệu bằng cách tạo cách tạo khung để đồ nội thât hoặc đồ trang trí nên có màu trắng, xám để tạo sự tương phản tốt nhất. Bằng cách trang trí kết hợp thêm rèm cửa sổ, bạn có thể làm dịu được ánh nắng rọi vào phòng tạo cho bạn một cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Sau một ngày làm việc thì chắc chắn rằng bạn sẽ thật sự thoải mái khi trở về căn phòng ngủ của mình. Nếu không gian phòng ngủ không nhỏ khi sử dụng màu xanh lơ cũng có thể tạo nên cảm giác thoáng rộng hơn. Đừng ngần ngại áp dụng thử ngay nhé. Màu xanh lơ là một gam màu trung tính, dễ sử dụng trong cả không gian nội – ngoại thất. Từ những chia sẻ trên hy vọng các bạn sẽ có câu trả lời chính xác nhất cho câu hỏi màu xanh lơ là màu gì. Và hơn hết là có thêm những ý tưởng mới để trang trí cho căn nhà của mình được đẹp mắt và sang trọng hơn. Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi màu sắc có ý nghĩa và hàm ý tượng. Gỗ trầm hương là cái tên rất quen thuộc không chỉ với những người trong. Màu hồng là một màu sắc khá đặc biệt. Bởi vì đây là màu sắc. Ngày nay, gam màu trung tính đang được rất nhiều người ưa chuộng và ngày. Xoan đào là loại gỗ tự nhiên được sử dụng nhiều trong sản xuất và. Để thành thạo các lệnh cơ bản trong AutoCad thì những người mới bắt đầu. Thiết kế kiến trúc gần như là không có giới hạn. Bởi vì mỗi kiến. Trong những màu sắc cơ bản, màu đỏ luôn tạo được sự nổi bật và.
Xanh lơ
Màu xanh lơ (còn gọi là màu cánh chả hay màu hồ thủy hoặc xanh lục bảo) là một màu cơ bản trong quang phổ, nhưng một vài biến thể về sắc thái có thể tạo ra bằng cách trộn các lượng bằng nhau của ánh sáng màu xanh lá cây và màu xanh lam. Vì vậy, màu xanh lơ là màu bù của màu đỏ: các chất màu xanh lơ hấp thụ ánh sáng đỏ. Màu này đôi khi còn gọi là màu xanh Thổ (tuy rằng không đúng) và nó rất khó phân biệt dưới ánh sáng màu xanh lam. Mực màu xanh lơ là một trong các loại mực phổ biến sử dụng trong công nghệ in màu, cùng với mực màu hồng sẫm, vàng và đen; một bộ gồm bốn màu này được gọi là CMYK. Lưu ý rằng tuy gọi là mực xanh lơ nhưng mực xanh lơ và ánh sáng màu xanh lơ tạo ra cảm giác màu khác nhau. Mực màu xanh lơ tạo ra cảm giác màu ít chói hơn, thực tế công nghệ in CMYK không thể tái tạo chính xác màu xanh lơ thuần khiết (100% xanh lam + 100% xanh lá cây) trên giấy.
Kinh tế chính trị quốc tế là môn học nghiên cứu về sự tương tác giữa các yếu tố kinh tế và chính trị trong quan hệ quốc tế. Nói một cách chung nhất, kinh tế có thể được hiểu là hệ thống sản xuất, phân phối và tiêu dùng sản phẩm và của cải, còn chính trị là tập hợp các thể chế và qui tắc mà theo đó các mối quan hệ tương tác về xã hội và kinh tế giữa các chủ thể được điều chỉnh. Đối với nhiều người khác nhau, khái niệm "kinh tế chính trị" cũng mang những ý nghĩa khác nhau. Có người cho rằng kinh tế chính trị là ngành học nghiên cứu cơ sở chính trị của các hoạt động kinh tế, những cách thức mà các chính sách của chính phủ tác động đến hoạt động của thị trường. Nhiều người khác lại cho rằng trọng tâm của kinh tế chính trị là nghiên cứu các cơ sở kinh tế của các hành động chính trị, cách thức mà các lực lượng kinh tế tác động và góp phần định hình các chính sách chính trị của các chính phủ. Tuy nhiên hai cách nhìn này có thể nói không mâu thuẫn, trái ngược nhau mà bổ trợ cho nhau bởi lẽ chính trị/nhà nước và kinh tế/thị trường là hai chủ thể luôn có sự tương tác thường xuyên với nhau, ở cả cấp độ trong nước cũng như quốc tế. Trên phương diện lí thuyết, Kinh tế chính trị quốc tế có ba cách tiếp cận chính, đó là chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa Marx. Mỗi trường phái lí thuyết này đều có những lí luận riêng và những quan điểm phân tích và giá trị riêng về các mối quan hệ kinh tế – chính trị toàn cầu. Chủ nghĩa tự do đề cao thị trường tự do, nơi mà vai trò của việc trao đổi và thị trường tự nguyện được nhấn mạnh là hiệu quả và cần được bảo vệ. Trong khi đó, chủ nghĩa trọng thương là trường phái tương phản hoàn toàn với chủ nghĩa tự do và chia sẻ các giả định của chủ nghĩa hiện thực trong quan hệ quốc tế. Chủ nghĩa trọng thương cho rằng nền kinh tế thế giới là một đấu trường cạnh tranh giữa các quốc gia tìm cách tối đa hóa sức mạnh và quyền lực tương đối của mình. Cuối cùng, chủ nghĩa Marx cũng coi nền kinh tế thế giới là một đấu trường của sự cạnh tranh, nhưng không phải giữa các quốc gia với nhau mà là giữa các giai cấp. Theo đó, các mối quan hệ kinh tế thế giới có thể được giải thích là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa những "kẻ áp bức và bị áp bức". Một điều cần ghi nhận là ba cách tiếp cận này đã luôn tiến hóa qua thời gian, tương tự là việc vận dụng các cách tiếp cận này trong việc giải thích các sự kiện, hiện tượng của đời sống kinh tế – chính trị thế giới. (Theo Thuật ngữ Quan hệ quốc tế, Đại học Quốc gia TP.HCM, NXB Chính trị Quốc gia sự thật)
Kinh tế chính trị quốc tế
Kinh tế chính trị quốc tế (tiếng Anh: International Political Economy - IPE) là môn học thuộc ngành khoa học chính trị, nghiên cứu về sự tương tác giữa các yếu tố kinh tế và chính trị trong quan hệ quốc tế. Các học giả kinh tế chính trị quốc tế nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới toàn cầu hóa như thị trường kinh tế và tài chính quốc tế, phát triển quốc tế (chẳng hạn như sự nghèo khổ và vai trò của các tổ chức trong việc phát triển), rủi ro chính trị. Đầu thập niên 1970, một loạt các sự kiện quốc tế như khủng hoảng dầu lửa năm 1973, sự sụp đổ hệ thống Bretton Woods, hay yêu sách của các nước đang phát triển về việc thiết lập một Trật tự Kinh tế Quốc tế Mới (NIEO) buộc các nhà hoạch định chính sách cũng như các học giả phải quan tâm hơn tới sự tương tác giữa các yếu tố chính trị và kinh tế trong các sự kiện quan hệ quốc tế. Các học giả kinh tế chính trị quốc tế như Susan Strange khẳng định là các nghiên cứu trước đây về quan hệ quốc tế đã nhấn mạnh quá mức vai trò của luật pháp, chính trị và lịch sử ngoại giao.
Cuối tuần trước, Eretz Nehederet (A Wonderful Country) , phiên bản Saturday Night Live của Israel , đã phát sóng một tiểu phẩm trình diễn thành viên mới được bầu của Knesset Itamar Ben Gvir. Đáp lại tiểu phẩm, MK Ben Gvir đã tweet , "Cho đến hôm nay, Eretz Nehederet đã khiến tôi cười khúc khích . Hôm nay, một lằn ranh đỏ đã được vượt qua: so sánh tôi với Đức quốc xã và đeo băng tay cho tôi như thể tôi bị Đức quốc xã hãm hại trước hết sáu triệu người Do Thái bị tàn sát và hỏa táng. Ông này là ai? Khi còn nhỏ, Itamar Ben Gvir đã trở thành điều phối viên thanh niên cho Kach. Trong khi Ben Gvir chưa bao giờ gặp Kahane , anh ta là một Kahanist mạnh mẽ. Do liên kết của ông với các phong trào ủng hộ bạo lực như một công cụ chính trị, IDF sẽ không soạn thảo Ben Gvir , mặc dù gần như quy định quốc gia ở Israel. Tính riêng, Ben Gvir đã bị truy tố 53 lần vì tội kích động chủ nghĩa cực đoan. Ông là người sáng lập Đảng Quyền lực Do Thái mà ông đang đứng đầu. Các nền tảng của đảngtuyên bố rằng "cuộc chiến chống lại kẻ thù của Israel sẽ là toàn diện, không có đàm phán, không có nhượng bộ và không có thỏa hiệp." Ben Gvir đã ủng hộ việc sáp nhập các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng mà không mở rộng quyền biểu quyết cho bất kỳ người Palestine nào sống trong các vùng đất bị sáp nhập đó và khuyến khích hoặc buộc những người Palestine di cư không muốn tuyên thệ trung thành với Israel . Ông kêu gọi một "nền dân chủ Do Thái", nhưng bác bỏ "các giá trị phổ quát". Khó mà biết được ý của anh ta vì anh ta thường khá lảng tránh trong các cuộc phỏng vấn, nhưng trong phòng khách của anh ta, Ben Gvir đã treo một bức ảnh của Baruch Goldstein , một bác sĩ người Mỹ gốc Israel, người đã bắn chết 29 người Palestine theo đạo Hồi khi họ đang cầu nguyện vào năm 1994. Nhiều học giả và trí thức đại chúng thường đứng về một điểm nào đó với MK Ben Gvir, cảnh báo không nên viện đến Đệ tam Đế chế, cả vì nó có thể làm tầm thường trí nhớ của các nạn nhân và vì nó chỉ ra sự lười biếng của một phần của kẻ mời gọi. Làm sao ai có thể bênh vực Hitler? Điều đó là không thể, vì vậy thay vì đưa ra một lý lẽ suy nghĩ, bạn chỉ cần vẽ một bộ ria mép vuông nhỏ lên mặt đối thủ và công việc của bạn kết thúc… hoặc đối thủ của bạn phải bảo vệ Hitler hoặc nhượng bộ. Trò chơi, thiết lập, kết hợp. Tiểu phẩm của Eretz Nehederet chưa bao giờ thực sự gọi MK Ben Gvir là Đức quốc xã, nhưng hàm ý rất rõ ràng. Các dải vũ khí, diễu hành, và không quan trọng là các mối đe dọa và bạo lực, rõ ràng gợi lên Đức Quốc xã. Là một nhà giáo dục Holocaust, tôi thường thấy mình không khuyến khích những so sánh lười biếng hoặc quá đơn giản giữa hầu hết mọi thứ và Holocaust. Holocaust thực sự làm cho điều kỳ lạ nhất trong số những người đi ngủ: các nhà hoạt động chống phá thai, ủng hộ ăn chay và chống súng có điểm gì giống với tỷ phú đầu tư mạo hiểm Tom Perkins ở California? Tất cả họ đều gọi đối thủ của họ là Đức Quốc xã. ( Trong một bức thư gửi cho Tạp chí Phố Wall , Perkins đã so sánh “cuộc chiến tranh tiến bộ ở Mỹ một phần trăm” với Kristallnacht .) Quả thật là những người bạn giường kỳ lạ. Theo logic, một chương trình hài kịch phác thảo khung giờ vàng nên được xếp vào cùng một thể loại những người lạm dụng, hoặc ít nhất là lạm dụng ký ức về Holocaust, nhưng không phải như vậy đối với Eretz Nehederet . Hay, chính xác hơn, không phải như vậy đối với Itamar Ben Gvir. Bảo vệ Hitler là điều không thể bởi vì Hitler là không thể chối cãi, nhưng nếu hành động và cách hùng biện của bạn quá dễ dàng so với Quốc trưởng, thì vấn đề không phải là so sánh, mà là hành động và cách hùng biện. Henry Appel, người sống sót tại Auschwitz cho biết, “Chỉ có một điều tồi tệ hơn chính Auschwitz… và đó là nếu thế giới quên rằng có một nơi như vậy”. Appel không chỉ yêu cầu ký ức, mà còn hành động dựa trên ký ức đó. Chúng ta tưởng nhớ Auschwitz và Holocaust không chỉ để tưởng nhớ trải nghiệm của các nạn nhân, mà còn để ngăn chặn thế hệ nạn nhân tiếp theo. Những kẻ bất lương được hưởng lợi từ hiện trạng và thường là những người đầu tiên nêu ra tầm quan trọng sống còn của trí nhớ… và không gì khác. “Bây giờ không phải là lúc…” đối với bất cứ điều gì ngoài suy nghĩ và cầu nguyện, họ cho chúng ta biết khi nào nỗi đau có thể xúc tác hành động đe dọa vị trí của họ. Kí ức có ích gì nếu nó không bao giờ rời khỏi viện bảo tàng hoặc sách giáo khoa? Gần một thế kỷ trước, thế giới đã cố gắng đáp trả Hitler và chủ nghĩa Hitlerism thông qua chủ nghĩa biệt lập hoặc xoa dịu, nhưng điều đó không đặt dấu chấm hết cho Đức Quốc xã; sự xoa dịu và chủ nghĩa biệt lập chỉ cho phép chủ nghĩa phát xít di căn. Hitler cũng vậy, đã từng là một chính trị gia có quan điểm phân biệt chủng tộc rõ ràng và kêu gọi bạo lực. Năm 1940, một trong những người lên tiếng phản đối Hitler mạnh mẽ nhất là Charlie Chaplin, người đã sản xuất bộ phim Nhà độc tài vĩ đại để châm biếm Hitler và Đệ tam Đế chế. Vì vậy, làm thế nào chúng ta nên phản ứng với những kẻ bướng bỉnh và muốn khinh thường như Itamar Ben Gvir? Một số đã đề nghị bằng cách tránh xa anh ta và tập trung sự chú ý và quan tâm của chúng tôi vào các mục tiêu của cơn giận anh ta. Vào những năm 1980, khi tiền thân của phong trào chính trị của Ben Gvir, Giáo sĩ Meir Kahane , lên bục phát biểu ở Knesset, hầu hết mọi thành viên đều đứng dậy và đi ra ngoài để phản đối. Tôi ủng hộ chiến thuật này; các nhà thuyết phục mất đi sự chú ý và héo mòn khi không có nó. Nhưng tôi sẽ không đơn giản phớt lờ ông Ben Gvir và tập trung vào việc hỗ trợ các nạn nhân của ông ấy, tôi sẽ tiếp tục bênh vực ông ấy, và chỉ ra những tệ hại trong các chính sách của ông ấy, và nếu được ban hành, chúng sẽ gây hại cho mục tiêu của họ và biến đất nước thành một pariah đạo đức giả. Cũng cần chỉ ra rằng việc đáp trả cái ác bằng hài kịch là một phong tục cổ xưa của người Do Thái. Từ những khu nhà ở Nga thời Czarist cho đến những nhà nghỉ ở Catskills, người Do Thái đã trả thù chính xác những kẻ bức hại họ dưới dạng những trò đùa. Giống như tất cả các trò châm biếm, những câu chuyện cười này phục vụ mục đích kép là cung cấp sự an ủi cho người đau khổ và làm cho những thứ có thể tồn tại xung quanh chúng ta nhưng không thể nhìn thấy được. Eretz Nehederet có thể sử dụng sự hài hước để đưa ra ánh sáng cho bài hùng biện nghiêm túc chết người của MK Ben Gvir. Chúng ta không nên lên án họ vì cách họ rung lên hồi chuông cảnh báo; thay vào đó, chúng ta nên lên án những người im lặng. Mỗi phần tư xã hội phải tuyên bố dứt khoát rằng những luận điệu và chính sách của MK Ben Gvir không được hoan nghênh; không đủ để chỉ trích và vẹt Paul Ryan bằng cách nói, " Tôi không nhìn thấy tweet ." Ben Gvir phải tố cáo sự phân biệt chủng tộc, sự lầm lạc và kỳ thị người đồng tính. Hơn nữa, thái độ coi thường dân chủ của ông ta phải bị tố cáo. Sau khi ông rời cuộc sống công khai, thủ tướng đầu tiên của Israel, David Ben-Gurion, được hỏi liệu ông có phải là người theo chủ nghĩa Do Thái hay không. Anh ấy trả lời bằng cách nói, "Tôi là một nhà dân chủ." Ben-Gurion hiểu rằng, khó khăn như việc thành lập một quốc gia Do Thái, bảo tồn một quốc gia dân chủ sẽ là một thách thức lâu dài hơn. Ngày nay, ở Israel, sau bốn vòng bầu cử quốc gia, một kẻ hạ cấp tham nhũng đang cố gắng thành lập một chính phủ với những nhân vật xấu xa như Itamar Ben Gvir và Bezalel Smotrich, một kẻ tự xưng là "kẻ đồng tính đáng tự hào ", người đã ủng hộ việc tạo ra các khu biệt lập trong các bệnh viện của Israel cho Bệnh nhân Ả Rập. Bỏ qua điều này sẽ không làm cho nó biến mất. Bỏ qua các vấn đề không bao giờ khiến chúng biến mất. Hỏi ai đó có nợ thẻ tín dụng. Thay vào đó, chúng ta phải tôn vinh các nạn nhân của Holocaust bằng cách khơi gợi trí nhớ của họ, không chỉ đơn thuần là "bảo tồn" nó. Nhà sử học xuất sắc của Đại học Yale, Timothy Snyder, đã phụ đề cho phần diễn giải lại cực kỳ quan trọng của ông về kỷ nguyên của Thảm sát, Trái đất Đen , "Cuộc tàn sát là Lịch sử và Cảnh báo." Lịch sử VÀ cảnh báo. Có lẽ chính xác hơn khi nói lịch sử LÀ lời cảnh báo. Quan điểm của việc bảo tồn lịch sử đối với nó là lời cảnh báo; chúng ta phải sử dụng lịch sử để ngăn chặn những thủ phạm trong tương lai. Bỏ qua MK Ben Gvir và chỉ tập trung vào các nạn nhân là không đủ khi đối mặt với một thành viên đang ngồi của quốc hội tôn sùng những vụ giết người hàng loạt, kêu gọi chuyển dân và thông qua luật gây tổn hại cho những người dễ bị tổn thương nhất trong cộng đồng. Ngăn chặn hung thủ là giúp đỡ nạn nhân. Một cộng đồng đang bị bao vây không thể xây dựng lại cho đến khi cuộc bao vây dừng lại. Nếu bạn muốn làm ô danh ký ức của các nạn nhân của Holocaust, hãy giới hạn ký ức của họ trong quá khứ và cho phép những tên bạo chúa hiện đại sử dụng nỗi đau của nạn nhân để gieo rắc những lời chỉ trích chính đáng của những tên bạo chúa đó. Nếu Holocaust được niêm phong trong hổ phách và chỉ giới hạn trong các đài tưởng niệm và ký ức khó phai mờ của những người sống sót, thì cuộc tàn sát chưa từng có do Eretz Nehederet gây ra sẽ trở thành tiền lệ trong tương lai. Khi Anh giao Hồng Kông cho chính quyền Trung Quốc vào năm 1997, nó đánh dấu sự kết thúc cuối cùng của Đế chế Anh. Nhưng điều mà nhiều người quên rằng ngày nay, Vương quốc Anh vẫn có mười bốn lãnh thổ hải ngoại, là nơi sinh sống của 300.000 công dân và có tổng diện tích gấp bảy lần Vương quốc Anh! Trong khi có những căng thẳng lịch sử đối với một số vùng lãnh thổ này, bao gồm cả Gibraltar và Falklands, hầu hết thế giới đều công nhận yêu sách của Vương quốc Anh đối với những vùng đất này. Cách đây không xa, một hồ nước cạn, đầm lầy đã tồn tại không xa cửa sổ phía trước nhà tôi. Bờ của nó dày đặc những cây liễu; phạm vi tiếp cận của nó thay đổi hàng dặm theo mùa. Suy nghĩ về cuộc sống hậu đại dịch giống như đọc một cuốn sách mà bạn đã bỏ từ rất lâu trước đây, nhưng có một điểm khác biệt: sách có thể được bắt đầu lại từ đầu Tôi rất trân trọng những cuốn sách cũ - đặc biệt là những cuốn sách đã ngủ quên trong giây phút đầy mùi bụi. -nhà sách thủ công, bìa cũ màu ố vàng. Những lý do cho sự ưa thích này đã biến mất ở đâu đó theo thời gian. Bạn có một câu chuyện mà bạn sẽ thay đổi điều đầu tiên khi nhận được cỗ máy thời gian? Tất cả chúng ta đều có ít nhất một câu chuyện khiến chúng ta đau lòng mãi mãi, không phải vì mức độ mất mát một mình, mà là do sự ngu ngốc kéo dài mà chúng ta đã thể hiện. Nếu bạn bình thường, bạn sẽ có một đội quân những câu chuyện như vậy. Ý tưởng về một thuật toán học máy giống hệt với bất kỳ thuật toán nào khác trong khoa học máy tính. Thuật toán học máy là một phương pháp theo hướng dữ liệu để phát triển mô hình học máy sẵn sàng sản xuất. Vào tháng 6 năm 1968, Robert Kennedy, tái sinh như một người tiến bộ hưng phấn, đã gây bão cho Đảng Dân chủ. Cả nước đã theo dõi. Người hâm mộ Grace and Frankie sẽ có thêm tám tập nữa để thưởng thức trước khi bộ phim có dấu hiệu khởi sắc. Họ có một số ý tưởng về những gì sẽ xảy ra. Bây giờ, nhiều năm sau khi nhiều khán giả nhảy tàu, một số bị hấp dẫn bởi sự tự phụ của loạt phim mới, The Walking Dead: World Beyond. Hoàng tử Harry và Meghan Markle có thể sẽ phá vỡ truyền thống hoàng gia với con gái Lilibet của họ khi nói đến nghi thức thông hành cụ thể này. Quán cà phê Alice Waters mở ở Berkeley, California, vào năm 1971, đã khởi xướng phong trào ẩm thực California và từ trang trại đến bàn ăn. Năm mươi năm sau Chez Panisse vẫn là một trong những nhà hàng có ảnh hưởng nhất của nước Mỹ. FDA đã hoàn toàn chấp thuận vắc-xin Pfizer COVID-19 cho những người từ 16 tuổi trở lên, nhưng điều đó vẫn khiến trẻ em dưới 12 tuổi không đủ điều kiện để tiêm chủng. Có nên xem xét việc sử dụng ngoài nhãn để bảo vệ chúng không?. Hai chuyên gia khủng bố cân nhắc về nhóm đứng sau vụ tấn công sân bay Kabul chết người và sự cạnh tranh của lực lượng này với Taliban. Tốt hơn bạn nên đo nó trước khi đeo nhẫn. Ít nhất thì đó là những gì Beyoncé đã nói, và cô ấy đã có cho mình một viên kim cương 18 carat. Come From Away Cho đến khi "vở nhạc kịch 11/9" đi, ít thành công hơn, hoặc được giới phê bình đánh giá cao như Come From Away sản xuất của Canada. Được chỉnh sửa lần đầu vào năm 2012 — và ra mắt lần đầu trên sân khấu Broadway vào năm 2017 — vở nhạc kịch từng đoạt giải Tony kể về câu chuyện của một số người trong số hàng nghìn người bị máy bay chuyển hướng đến một thị trấn nhỏ ở Newfoundland vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 và những nỗ lực của người dân thị trấn để hỗ trợ và an ủi làn sóng khổng lồ của những người lạ bị sốc. Hàng loạt đề cử Emmy mà Lovecraft Country nhận được vào ngày 13 tháng 7 nhanh chóng trở thành một khoảnh khắc buồn vui lẫn lộn cho dàn diễn viên và những người sáng tạo ra loạt phim. Chỉ 11 ngày trước, HBO đã hủy bỏ bộ phim kinh dị siêu nhiên của Misha Green, người đã chuyển thể tiểu thuyết cùng tên của Matt Ruff lên màn ảnh nhỏ. Vào thứ Sáu, hai tay đua Công thức 1 đã xác nhận rằng họ sẽ ở lại với các đội của mình cho mùa giải 2022. Trong nhà để xe Alpine, đội từ Enstone đã tái ký hợp đồng với Fernando Alonso, 40 tuổi, để hợp tác với người chiến thắng Grand Prix Esteban Ocon. Tôi vừa trở về từ Bảo tàng Mô tô Lane ở Nashville, nơi tôi đang quay phần mới của Jason Drives, vì vậy nếu bạn muốn hào hứng với điều đó, tôi sẽ không ngăn cản bạn. Một trong những chiếc xe mà tôi thực sự muốn cho mùa giải này là Velorex Oskar, một chiếc xe siêu nhỏ của Séc, được chế tạo giống như thể ai đó kéo bộ quần áo gimp da trên một phòng tập thể dục nhỏ trong rừng.
Đức Quốc Xã
Đức Quốc xã, còn gọi là Đệ Tam Đế chế hay Đế chế thứ ba (tiếng Đức: Drittes Reich), là nước Đức trong thời kỳ 1933 – 1945 đặt dưới một chế độ độc tài toàn trị chịu sự kiểm soát của Adolf Hitler và Đảng Quốc xã (NSDAP). Dưới sự thống trị của Hitler, nước Đức đã biến đổi thành một nhà nước phát xít toàn trị cai quản gần như mọi mặt của đời sống. Tên gọi chính thức của quốc gia này là Deutsches Reich (Đế chế Đức) từ 1933 đến 1943 và Großdeutsches Reich (Đế chế Đại Đức) từ 1943 đến 1945. Đức Quốc Xã chấm dứt sự tồn tại của mình vào tháng 5 năm 1945 sau khi bại trận trước quân Đồng Minh, sự kiện đánh dấu hồi kết cho Chiến tranh thế giới thứ hai tại châu Âu. Ngày 30 tháng 1 năm 1933, Hitler được Tổng thống Cộng hòa Weimar Paul von Hindenburg bổ nhiệm làm Thủ tướng Đức. Sau đó đảng Quốc xã bắt đầu loại trừ tất cả các đối thủ chính trị và củng cố quyền lực của mình. Với việc Hindenburg qua đời vào ngày 2 tháng 8 năm 1934, Hitler đã trở thành nhà độc tài của nước Đức bằng việc sáp nhập chức vụ và những quyền hạn của Thủ tướng và Tổng thống vào với nhau.
Trường cao đẳng sư phạm Đà Lạt là mái trường được thiết kế như vòng cung parabol. Đây là công trình kiến trúc lâu đời nhất ở Đà Lạt đến hiện tại vẫn còn giữ được nguyên vẹn nét xưa. Trường cao đẳng sư phạm Đà Lạt được mệnh danh là tà áo dài trắng thướt tha ở phố núi. Vừa tuyệt đẹp vừa nên dáng thiếu nữ bên hàng thông xanh gió mát. Nằm cách trung tâm thành phố khoảng 5 phút lái xe. Là địa điểm lý tưởng để du khách tìm đến chụp ảnh miễn phí. Ngôi trường được xây dụng dựa trên nền kiến trúc Pháp. Tạo hình đặc biệt vòng cung và tháp chuông cổ kính. Rất sáng tạo độc đáo đưa đến những ý tưởng táo bạo. Từng đường cong, mái lợp ngói cho tới những viên đá cũng được vận chuyển từ các nước phương Tây. Đến với mái trường bây giờ chỉ còn đọng lại màu sơn, bức tường ghạch vững chải và cả chiếc đồng hồ vẫn nguyên vẹn. Nhưng đáng buồn là ngay bên trong cái tháp chuông đã không còn chiếc đồng hồ nữa. Chắc có lẽ nó đã được tháo dỡ từ lâu ở chế độ ngày xưa rồi. Trường cao đẳng sư phạm Đà Lạt là ngôi trường có lịch sử lâu đời nhất. Được thiết kế từ thời Pháp được nhiều du khách ghé đến tham quan. Và rất nhiều bạn học sinh đã ở mái trường thân yêu này. Vào năm 1927 Pháp cho xây dựng ngôi trường. Do ông kiến trúc sư Moncet thiết kế sau hơn 8 năm thì được xây dựng xong. Cuối cùng sau chiến tranh nơi đây đã đổi tên thành trường cao đẳng sư phạm Đà Lạt. Trường tồn mãi cho đến ngày hôm nay. Vật liệu xây dựng nên ngôi trường cũng rất xa xôi tận Châu Âu. Theo thời gian đã bị mài mòn của mẹ thiên nhiên đã trở nên cũ kĩ mục nát. Từ năm 1948 đã được lát ghạch mới hơn mãi đến tận hôm nay vẫn y nguyên không đổi. Ngày trước ngôi trường này chuyên dạy các em học sinh con quan chức. Các em ở các nước Lào, Campuchia nhà quyền thế cao. Những người chủ có địa vị quan trọng. Trường lúc này chủ yếu theo học các chương trình về nước Pháp. Bắt đầu từ ngày 12 tháng 4 năm 2019 trường sẽ tạm ngưng cho du khách tham quan du lịch tại trường. Thực hiện chủ trương của Đảng ủy và BGH nhà trường, để đảm bảo ANTT và vệ sinh cảnh quan trường học, Hiệu trưởng nhà trường quyết định TẠM NGƯNG việc cho DU KHÁCH vào tham quan trường. Từ chợ Đà Lạt các bạn chạy lên cầu ông đạo rẻ qua đường đi bigc. Sau đó các bạn chạy thẳng hơn 1km nữa tới bùng binh. Chạy thẳng lên đường yersin luôn nhé. Đến một đoạn thôi nhìn bên tay trái có con đường nhựa lớn bạn chạy thẳng khoảng 400 mét là tới. Đến cổng bạn phải xuống xe dắt xe vô nhé. Tuyệt đối không được chạy xe vô đâu vé xe là 2.000đ. Du khách đi theo đoàn xe lớn thì để ngoài cổng trường. Dalat Palace sẽ gói gọn sơ đồ tham quan du lịch ở trường cao đẳng sư phạm ngay bên dưới đây cho các bạn đọc nhé. Bao gồm có 3 lầu và tổng 24 phòng học. Phía trước dài 77 mét phía sau có chiều dài 90 mét. Đường cong của ngôi trường có người ví như tà áo dài, có người lại ví như một quyển sách. Một tri thức một khát vọng của con người vươn lên tầm cao mới hơn. Tháp chuông bên ngoài: ngày xưa có chiếc đồng hồ to được đặt ở đây. Nhưng các bạn tham quan sẽ thấy rõ vết tích còn đọng lại hằn trên tường. Tháp chuông bên trong: Tháp chuông bây giờ chỉ là kỉ niệm của một công trình văn hóa to lớn. Hướng đến tương lai phát triển nhân loại của Alexandre Yersin. Phía trước sân trường rất rộng lớn nơi các bạn sinh viêm học tập, vui chơi. Là sân bóng chuyền, sân bóng rổ và cầu lông của các bạn và thầy cô ở trường. Từ trên cao ngôi trường như tòa tháp cao lớn giữa không gian rộng lớn. Được bao phủ bởi núi đồi hàng thông xanh mươn mởn. Và cả làng sương sớm ánh nắng ban mai của phố hoa rọi về. Kết hợp kiến trúc độc lạ giữa Tây và Ta tạo nên những nét đặc trưng khó tả hài hòa. Là nơi dành cho các bạn sinh viên đi học, thầy cô giáo đến trường giảng bài. Và là nơi tham quan du lịch vô cùng lý tưởng đối với quý khách gần xa. Trường được bộ văn hóa thông tin công nhận là di tích kiến trúc quốc gia vào ngày 28 tháng 12 năm 2021. Đây có lẽ là công trình để lại nhiều ấn tượng nhân văn sâu sắc nhất ở thế kỉ xx. Phong cảnh nước Pháp hiện hữu dưới mái trường thân yêu. Vòng cung như trang sách. Trường cao đẳng sư phạm Đà Lạt là điểm đến du lịch vô cùng tuyệt đẹp cho du khách tham quan. Là mái trường che chở cho các bạn sinh viên. Cho các bậc thầy cô giảng dạy ta trở thành người có ích cho xã hội.
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt là một trường cao đẳng được thành lập ngày 3 tháng 9 năm 1976 theo quyết định số 1784/QĐ của Bộ Giáo dục, trụ sở đặt tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Trường có nhiệm vụ đào tạo giáo viên cấp 2 cho tỉnh Lâm Đồng và cho cả một số tỉnh bạn như Đồng Tháp, Sông Bé. Từ năm 1993, Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt còn được UBND tỉnh giao thêm chức năng bồi dưỡng cán bộ quản lý cho các trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt (trước kia là trường Grand Lycée Yersin) là kiến trúc được Hội Kiến trúc sư thế giới (UIA) công nhận là một trong số 1.000 công trình xây dựng độc đáo của thế giới trong thế kỷ 20. Trường được người Pháp thành lập năm 1927, do kiến trúc sư Moncet thiết kế và chỉ đạo xây dựng, dành cho con em người Pháp và một số gia đình người Việt giàu có. Năm 1932 trường Petit Lycée Dalat được đổi tên thành Grand Lycée de DalatLycée Yersin để tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin.
Sân vận động có sức chứa 22.717 khán giả và khánh thành vào năm 2014. Sân vận động được đặt theo tên chủ tịch câu lạc bộ, Sheikh Hazza bin Zayed bin Sultan Al Nahyan. Sân vận động Hazza bin Zayed rộng 45.000 m2 được chia thành bảy tầng, và là một trong những địa điểm thể thao hiện đại nhất ở Trung Đông. Đây là một trong những địa điểm thể thao tinh vi nhất trong khu vực. Sân vận động được khởi công vào tháng 4 năm 2012 và được hoàn thành vào tháng 12 năm 2014. Theo kế hoạch, Al Ain sẽ đối đầu với Manchester City trong buổi lễ khánh thành sân vận động, nhưng Manchester City đã hòa 1–1 với Blackburn Rovers trong một trận đấu ở Cúp FA vào ngày 4 tháng 1 và dự kiến phải đá lại với Rovers vào ngày 15 tháng 1, do đó khiến nhà vô địch giải bóng đá Ngoại hạng Anh không thể tới UAE. Tuy nhiên, trận giao hữu được diễn ra sau khi mùa giải Ngoại hạng Anh kết thúc và Manchester City đánh bại Al Ain 3–0. Sân vận động cũng tổ chức các Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2017 và 2018, cũng như Cúp bóng đá châu Á 2019. Sân vận động có sức chứa 25.000 chỗ ngồi tọa lạc tại Al Ain, cách thủ đô Abu Dhabi khoảng 150 km (93 dặm) về phía đông, gần biên giới của Oman. Sân được thiết kế và xây dựng theo hợp đồng cho một sân vận động đa năng ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Khách hàng được đại diện bởi AAFAQ Holdings. Dự án được thực hiện với sự hợp tác chặt chẽ của các công ty chị em BAM Sports, chuyên về xây dựng sân vận động và BAM Contractors từ Ireland. Phạm vi công việc bao gồm việc xây dựng một sân vận động đa chức năng với tổng diện tích sàn là 45.000 mét vuông. Ngoài ra, BAM đã xây dựng một tòa nhà văn phòng sáu tầng, một nhà thi đấu thể thao và các công trình bên ngoài bao gồm đường sá, bãi đậu xe ô tô, sân chơi và cảnh quan. Các kiến trúc sư của sân vận động là Pattern Design có trụ sở tại Luân Đôn. Một trong những yếu tố đặc trưng nhất của sân vận động là mặt tiền bên ngoài bao gồm các yếu tố vải giống như thân cây cọ cũng có thể được chiếu sáng bằng đèn LED ở 15 chế độ nội dung khác nhau. Trên đỉnh của sân vận động, 200 đèn pha được lắp cố định để cung cấp ánh sáng cho các trận đấu bóng đá khi trời tối. Do nhiệt độ khắc nghiệt trong những tháng hè nóng nực, mái che hình bát úp cũng tạo điều kiện dễ chịu cho cả cầu thủ và người hâm mộ. Đây là một trong những tính năng độc đáo của sân vận động, được thiết kế theo cách mà các trận đấu có thể diễn ra sau 5 giờ chiều. Ở bên trong, nó cho thấy hình dạng phức tạp của các giàn thép hình học đúc hẫng của nó bằng cách sử dụng công nghệ hàn và cắt bằng robot. Sân vận động là sân vận động đầu tiên trên thế giới có mái che dù độc đáo được thiết kế đặc biệt để che nắng hoàn toàn cho tất cả người hâm mộ. Sân vận động Hazza Bin Zayed được bầu chọn là Sân vận động của năm 2014. Sân vận động đã được hoàn thành sau dự án xây dựng đường đua cực nhanh kéo dài 16 tháng sau khi được khởi công vào ngày 1 tháng 6 năm 2012. Được xây dựng theo tiêu chuẩn FIFA, sân vận động có diện tích 45.000 m2 (480.000 sq ft) với sức chứa 25.000 chỗ ngồi. Phạm vi của dự án bao gồm một nhà thi đấu thể thao, các tòa nhà thương mại và cảnh quan bên ngoài rộng lớn. Sân vận động là một phần không thể thiếu của một cộng đồng mới, rộng lớn hơn. Nó được lên kế hoạch trở thành trung tâm của khu phát triển 500.000 m2 (5.400.000 sq ft) bao gồm một khách sạn 175 phòng, một cộng đồng 700 đơn vị dân cư trong một khu phức hợp gồm 700 căn hộ và không gian xanh, hai tòa nhà văn phòng, một trung tâm thể thao, khu bán lẻ cửa hàng và 50 nhà hàng. Khách sạn, Aloft Al Ain, được hoàn thành vào năm 2017. Dự án là thành phần đầu tiên của sự phát triển rộng lớn hơn này sẽ có ảnh hưởng đầu tiên đối với thành phố Al Ain, nhưng cũng trên khu vực rộng lớn hơn, bao gồm các quốc gia láng giềng của Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh. Đó là một hợp đồng thiết kế và xây dựng. BAM đã đưa ra rất nhiều đề xuất kỹ thuật có giá trị phải được tích hợp vào thiết kế và do đó phải có giấy phép xây dựng mới trong vòng 18 tháng. BAM International bắt đầu dự án vào giữa năm 2012 và vẫn đúng tiến độ với tất cả các khâu của công trình, sử dụng 10,5 triệu giờ công. Lúc cao điểm, có 400 nhân viên nam cho đến cấp giám sát, và 4500 nhân viên tại chỗ. Có một số tuyến đường để đến Sân vận động Hazza Bin Zayed. Sân vận động cách Sân bay quốc tế Al Ain 15 phút đi xe. Khi rời khỏi vùng ngoại ô Al Ain, đi qua khu vực Al Yahar và đi theo lối ra dẫn đến Al Salamat. Đi thẳng qua bùng binh Al Salamat và tiếp tục đi qua Al Bateen đến EXTRA Mall. Băng qua một số đường vòng cho đến khi bạn đến vòng xuyến Al Tawia Garden. Đi thẳng qua bùng binh Al Tawia Garden và Sân vận động sẽ ở bên trái của bạn. Đi qua Al Maqam và băng qua Vòng xoay Tawam đến (Vòng xoay Al Daiwan số 178). Đi qua khu vực Al-Hayer và tiếp tục đi trên đường cao tốc cho đến khi bạn đến trang trại bò sữa Al Ain ở bên phải. Rẽ trái tại lối ra tiếp theo và tiếp tục đi thẳng và theo các biển báo đến Đại học UAE và Sân vận động Hazza Bin Zayed. Tại vòng xuyến, rẽ trái và băng qua và lối vào sân vận động sẽ ở bên phải. Đi qua khu Al Hayer và tiếp tục đi trên đường cao tốc cho đến khi bạn đến trang trại bò sữa Al Ain ở bên phải. Rẽ trái tại lối ra tiếp theo và tiếp tục đi thẳng và theo các biển báo đến Đại học UAE và Sân vận động Hazza Bin Zayed. Sân vận động Hazza bin Zayed đã tổ chức tám trận đấu của Cúp bóng đá châu Á 2019, bao gồm một trận đấu vòng 16 đội, trận tứ kết và trận bán kết.
Sân vận động Thành phố Thể thao Zayed
Sân vận động Thành phố Thể thao Zayed (tiếng Ả Rập: ستاد مدينة زايد الرياضية‎), là một sân vận động đa năng mang tính biểu tượng nằm ở Thành phố Thể thao Zayed, Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Đây là sân vận động lớn nhất tại UAE với sức chứa 45.000 chỗ ngồi. Sân đã phát triển một lịch sử lớn và di sản và đã củng cố vị trí của nó trong lịch sử của đất nước bằng cách được đặc trưng trên tiền giấy 200 AED. Sân vận động được khai trương vào năm 1979 và gần đây đã được cải tạo, với nhiều cơ sở vật chất và tiện nghi được nâng cấp để đảm bảo rằng nó tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế và có thể được sử dụng cho một loạt các sự kiện. Sân vận động đã tổ chức Cúp bóng đá châu Á 1996 bao gồm trận chung kết, nơi Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất thua trước Ả Rập Xê Út trong loạt sút đá luân lưu. Sân vận động này cũng đã tổ chức Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới 2003 và Cúp bóng đá vịnh Ả Rập 2007.
Trận tấn công Trân Châu Cảng (hay Chiến dịch Hawaii và Chiến dịch AI của Hawaii, và như Chiến dịch Z, theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một đòn tấn công quân sự bất ngờ được Không lực Hải quân Nhật Bản thực hiện nhằm vào căn cứ hải quân của Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng thuộc tiểu bang Hawaii vào sáng Chủ Nhật, ngày 7 tháng 12 năm 1941, dẫn đến việc Hoa Kỳ sau đó quyết định tham gia vào hoạt động quân sự trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trận đánh này được trù tính sẽ ngăn ngừa và giữ chân Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ không can thiệp đến cuộc chiến mà Nhật Bản đang hoạch định nhằm xâm chiếm Đông Nam Á, chống lại Anh Quốc, Hà Lan và Hoa Kỳ. Cuộc tấn công bao gồm hai đợt không kích với tổng cộng 353 máy bay xuất phát từ 6 tàu sân bay Nhật Bản. Trận tấn công đã đánh chìm 4 thiết giáp hạm Hoa Kỳ (2 chiếc trong số đó sau này được vớt lên và đưa trở lại hoạt động), và gây hư hỏng cho 4 chiếc khác. Quân Nhật còn đánh chìm hoặc phá hoại 3 tàu tuần dương, 3 tàu khu trục và 1 tàu thả mìn, phá hủy 188 máy bay, gây tổn thất về nhân mạng là 2.402 người tử trận và 1.282 người khác bị thương. Các trạm phát điện, xưởng tàu, xưởng sửa chữa và các kho chứa nhiên liệu và ngư lôi, cùng các bến tàu dành cho tàu ngầm và tòa nhà sở chỉ huy (cũng là nơi đặt bộ phận tình báo) đã không bị đánh trúng. Nhật Bản chịu thiệt hại nhẹ với chỉ mất 29 máy bay bị bắn hạ và 4 tàu ngầm mini bị đánh chìm với 64 người thiệt mạng, ngoài ra Kazuo Sakamaki, sĩ quan chỉ huy của một trong những chiếc tàu ngầm, đã bị bắt. Cuộc tấn công là một sự kiện lớn trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó đã diễn ra trước khi có bất cứ một lời tuyên chiến chính thức nào được đưa ra, cả trước khi phần cuối cùng trong một thông điệp gồm 14 phần được chuyển hoàn tất đến Bộ Ngoại giao ở Washington, D.C. Tòa Đại sứ Nhật Bản ở Washington đã được chỉ thị phải chuyển giao thông điệp này ngay trước thời điểm trù định cho cuộc tấn công ở Hawaii. Cuộc tấn công, và đặc biệt là bản chất “bất ngờ” của nó, là hai nhân tố khiến cho công chúng Hoa Kỳ thay đổi quan điểm từ những người theo chủ nghĩa biệt lập (Isolationism) như vào những năm giữa thập niên 1930 sang ủng hộ việc Hoa Kỳ tham chiến. Nhật Bản đã không đưa ra một lời tuyên chiến chính thức nào trước khi thình lình tấn công Trân Châu Cảng, trong khi hai quốc gia Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn còn đang trong giai đoạn đàm phán hoà bình, vì thế cuộc tấn công bất ngờ này bị dư luận quốc tế xem là đánh lén (sneak attack), và Tổng thống Franklin D. Roosevelt tuyên bố rằng ngày 7 tháng 12 năm 1941 “sẽ sống mãi trong sự ô nhục” (“A date which will live in infamy“). Tiếp theo Hoa Kỳ, Anh và các thuộc địa của Anh, chính phủ Hà Lan và một loạt các quốc gia Mỹ Latinh cũng tuyên chiến với Nhật. Về phía phe Trục, ngày 11 tháng 12, Đức Quốc xã và Ý cũng tuyên chiến với Hoa Kỳ lấy cớ là Hoa Kỳ đã phá vỡ “sự trung lập”. Việc Đức nhanh chóng tuyên chiến với Hoa Kỳ mà không bị thúc ép bởi bất kỳ cam kết nào với Nhật Bản đã lập tức khiến Hoa Kỳ can dự vào Mặt trận châu Âu. Vào năm 1940, dựa vào điều khoản trong Đạo luật Kiểm soát Xuất khẩu, phía Hoa Kỳ đã hoãn lại mọi chuyến hàng xuất khẩu các loại máy bay, linh kiện, máy công cụ và xăng máy bay, điều mà phía Nhật Bản xem là một hành động không thân thiện. Hoa Kỳ không ngưng toàn bộ việc xuất khẩu dầu mỏ sang Nhật vào lúc đó một phần là vì quan điểm đa số tại Washington cho rằng hành động như vậy có thể quá cực đoan, do Nhật còn bị phụ thuộc vào dầu mỏ Hoa Kỳ, và dễ bị phía Nhật xem là một hành động khiêu khích. Ban tham mưu hải quân Nhật đã nghiên cứu một cách sâu sắc,tỉ mỉ sự kiện Anh Quốc tấn công hạm đội Ý tại cảng Taranto vào năm 1940. Sự kiện này đã được tận dụng triệt để nhằm lên kế hoạch cho cuộc tấn công vào căn cứ hải quân Hoa Kỳ ở Trân Châu Cảng. Nhật Bản và Hoa Kỳ đều nhận thức được nguy cơ chiến tranh (và đều xây dựng các kế hoạch chuẩn bị điều này) ngay từ những năm 1920, cho dù sự căng thẳng trong mối quan hệ chưa thực sự bắt đầu leo thang đến tận khi Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu năm 1931. Trong thập niên tiếp theo, Nhật Bản tiếp tục bành trướng vào Trung Quốc, dẫn đến cuộc Chiến tranh Trung-Nhật vào năm 1937. Đến năm 1940, Nhật Bản tiến hành xâm chiếm Đông Dương nhằm ngăn chặn các con đường tiếp tế đến được Trung Quốc, đồng thời cũng là một bước đi đến việc sở hữu các nguồn tài nguyên ở Đông Nam Á. Hành động này khiến Hoa Kỳ ra lệnh cấm xuất khẩu dầu mỏ sang Nhật Bản, buộc Nhật Bản phải khởi động kế hoạch chiếm hữu việc sản xuất xăng dầu tại Đông Ấn. Hơn nữa, việc chuyển Hạm đội Thái Bình Dương từ căn cứ trước đây ở San Diego đến các căn cứ mới ở Trân Châu Cảng được giới quân sự Nhật Bản xem là Hoa Kỳ đang chuẩn bị cho một cuộc đối đầu tiềm tàng giữa hai quốc gia. Kế hoạch sơ thảo cho một cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng nhằm bảo vệ cuộc tiến quân vào “Khu vực Tài nguyên phía Nam” (tên mà phía Nhật đặt cho khu vực Đông Ấn và Đông Nam Á nói chung) được bắt đầu ngay từ đầu năm 1941, dưới sự đỡ đầu của Đô đốc Yamamoto, lúc đó đang là Tư lệnh của Hạm đội Liên hợp Nhật Bản. Ông giành được sự ủng hộ chính thức của Bộ Tổng tham mưu Hải quân Đế quốc Nhật Bản để vạch kế hoạch và huấn luyện cho cuộc tấn công sau nhiều cuộc tranh luận căng thẳng với Bộ chỉ huy Hải quân; ông thậm chí đã đe dọa từ chức. Công việc lên kế hoạch toàn diện được tiến hành vào đầu mùa Xuân năm 1941, chủ yếu do Đại tá Minoru Genda thực hiện. Trong những tháng tiếp theo sau, phi công được huấn luyện, trang bị được cải tiến và thông tin tình báo được thu thập. Cho dù có những sự chuẩn bị như vậy, kế hoạch tấn công chỉ được Thiên hoàng Chiêu Hòa phê chuẩn chính thức vào ngày 5 tháng 11, sau ba trong tổng số bốn cuộc họp Hội nghị Hoàng gia để xem xét vấn đề. Nhật Hoàng chỉ đưa ra lời cho phép cuối cùng vào ngày 1 tháng 12, sau khi phần lớn các nhà lãnh đạo Nhật thuyết phục với ông rằng bản “ghi chú của Hull” có thể “phá hủy thành quả của các sự kiện tại Trung Quốc, đe dọa Mãn Châu Quốc và hạ thấp khả năng kiểm soát Triều Tiên của Nhật Bản.” Đến cuối năm 1941, các căn cứ và cơ sở quân sự Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương đã nhiều lần bị đặt trong tình trạng báo động, và xung đột giữa Hoa Kỳ và Nhật là điều mà nhiều quan sát viên nghĩ đến. Tuy nhiên, các quan chức Hoa Kỳ đã hoài nghi việc Trân Châu Cảng sẽ trở thành mục tiêu đầu tiên trong một cuộc chiến tranh với Nhật. Họ cho là Philippines sẽ bị tấn công trước tiên do mối đe dọa mà nó đặt ra cho các con đường vận chuyển trên biển về phía Nam, và do niềm tin sai lầm rằng Nhật không có khả năng tung ra hai chiến dịch tấn công hải quân chủ lực cùng một lúc. Hiện đang nổi lên một cuộc tranh luận xuất phát từ các cáo buộc của các nhà âm mưu học, các sử gia quân sự và các cựu quân nhân cho rằng một số thành viên trong nội các của Roosevelt đã biết trước về cuộc tấn công và đã lờ đi nhằm tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía công chúng và Quốc hội trong việc cho phép Hoa Kỳ tham chiến theo phe Vương quốc Anh và các đồng minh hay không. Quần đảo Hawaii của Hoa Kỳ ở giữa Thái Bình Dương là một chuỗi đảo dài nối tiếp nhau theo hướng từ Tây-tây Bắc sang Đông-đông Nam có diện tích tổng cộng gần 17.000 km² với khoảng nửa triệu người (ở thập kỉ 40). Lớn nhất là đảo Hawaii (trên 10.000 km²) nằm ở cực trong quần đảo, nhưng quan trọng nhất lại là đảo Oahu với diện tích khoảng 1500 km², nằm cách Hawaii khoảng 140 dặm về phía Tây Bắc. Trên bờ biển phía Nam đảo Oahu có thành phố Honolulu (200.000 dân), thủ phủ của cả quần đảo. Cũng trên bờ biển phía Nam đảo, cách Honolulu về phía Tây chừng 6 dặm là Trân Châu Cảng, căn cứ chính của hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ (kể từ năm 1940). Dựng trên một vịnh biển ăn sâu vào đất liền của đảo rồi chia thành nhiều vụng biển và luồng lạch kín đáo lại có một cù lao ở giữa vịnh được gọi là “đảo Ford” như một cầu tàu thiên nhiên. Trân Châu Cảng có điều kiện tự nhiên lý tưởng để bảo vệ hạm đội chống lại mọi sự tấn công từ bên ngoài. Việc bố phòng ở cảng hết sức cẩn mật với một hệ thống lưới thép đặc biệt chống ngư lôi và tàu ngầm. Ngoài Trân Châu Cảng ra, hạm đội còn một căn cứ khác là cảng Lahaina trên đảo Maui, một đảo nằm ở khoảng giữa Oahu và Hawaii. Nằm ở tọa độ 21°20′38″ Bắc, 157°58′30″ Tây trên đảo Oahu, hòn đảo lớn thứ ba của nhóm đảo phía Tây quần đảo Hawaii, Trân Châu Cảng có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ vùng Bắc Thái Bình Dương. Với khoảng cách tương ứng với một tầm bay tối đa của các “pháo đài bay” B-17 từ Oahu đến bờ biển phía Tây Hoa Kỳ, Trân Châu Cảng có thể trở thành căn cứ triển khai các hoạt động của không quân oanh tạc ở Tây Thái Bình Dương. Vai trò vị trí của Trân Châu Cảng đối với hải quân còn quan trọng hơn. Do vị trí gần như ở giữa vùng Bắc Thái Bình Dương, Trân Châu Cảng vừa là căn cứ chỉ huy, căn cứ hậu cần, là cơ sở bảo duỡng, sửa chữa các chiến hạm của hạm đội Thái Bình Dương. Từ căn cứ này, Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Hoa Kỳ có thể tung sức mạnh của họ khống chế toàn bộ vùng Bắc Thái Bình Dương bằng các lực lượng tàu nổi, tàu ngầm và không quân của Hạm đội. Nếu như đối với Hoa Kỳ, Trân Châu Cảng và Midway là hai bàn đạp quan trọng nối tiếp nhau để vươn sang lục địa châu Á thì đối với Nhật Bản, Trân Châu Cảng là bàn đạp để tiến đến Hoa Kỳ và toàn bộ lục địa Bắc Mỹ. Tuy nhiên, vào những năm 1941-1942, lục quân và hải quân Nhật Bản không có tham vọng đánh chiếm hoàn toàn quần đảo này như họ đã làm với quần đảo Midway. Với trận tấn công Trân Trâu Cảng, Nhật Bản chỉ đủ sức làm tê liệt Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ trong một khoảng thời gian vừa đủ để họ có thể rảnh tay đánh chiếm toàn bộ vùng bờ biển và các quần đảo Tây Thái Bình Dương, uy hiếp Ấn Độ và Australia, đẩy lùi ảnh hưởng của Hoa Kỳ khỏi châu Á, chia đôi Thái Bình Dương với Hoa Kỳ trong một thế cân bằng chiến lược mới ở đại dương rộng nhất thế giới này, tiến tới hiện thực hóa học thuyết “Đại Đông Á”. Cuộc tấn công có nhiều mục đích chính. Trước tiên, người Nhật hi vọng nó sẽ tiêu diệt các đơn vị của hạm đội Hoa Kỳ, và do đó ngăn cản hạm đội Thái Bình Dương can thiệp vào việc Nhật chinh phục Đông Ấn. Kế tiếp, đó là cách người Nhật tranh thủ thời gian để củng cố vị thế của họ và tăng cường sức mạnh hải quân, trước khi các tàu chiến mới của Hoa Kỳ được chế tạo theo Đạo luật Vinson-Walsh sẽ xóa tan mọi cơ hội chiến thắng. Cuối cùng, nó được trù tính sẽ là một đòn mạnh giáng vào tinh thần của người Mỹ, có thể gây nản lòng, cho phép Nhật tiếp tục chinh phục Đông Nam Á mà không bị can thiệp. Đặt mục tiêu chính vào những chiếc thiết giáp hạm là một cách đánh vào tinh thần, vì chúng là niềm tự hào của mọi lực lượng hải quân vào thời điểm đó. Vì các ý tưởng chiến lược và văn kiện quân sự của cả hai phía Nhật Bản và Hoa Kỳ đều xuất phát từ công trình của Đại tá Hải quân Alfred Mahan, vốn cho rằng những chiếc thiết giáp hạm có vai trò quyết định trong các trận hải chiến.
Trân Châu Cảng (phim)
Trân Châu Cảng (tựa tiếng Anh: Pearl Harbor) là một bộ phim Mỹ sản xuất năm 2001 về đề tài chiến tranh do Michael Bay đạo diễn. Phim có sự tham gia diễn xuất của Ben Affleck, Josh Hartnett, Kate Beckinsale, Cuba Gooding, Jr., Tom Sizemore, Jon Voight, Colm Feore và Alec Baldwin. Trân Châu Cảng miêu tả lại cuộc tấn công của quân đội Nhật vào Trân Châu Cảng (Hawaii, Mỹ). Mặc dù nhận được những nhận xét tiêu cực từ các nhà phê bình, Trân Châu Cảng vẫn trở thành một trong những bộ phim có doanh thu cao nhất năm 2001. Năm 1923, hai cậu bé người Tennessee là Rafe McCawley và Danny Walker giả vờ được chiến đấu với quân Đức, leo lên chiếc máy bay làm đồng của bố Rafe và bay thử. Đó là lần đầu tiên cả hai được nếm mùi bay và cùng ước mơ trở thành phi công. Năm 1941, Rafe và Danny đã thực hiện được ước mơ, trở thành những sĩ quan đầu tiên của Không quân Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Jimmy Doolittle. Rafe gặp Evelyn Johnson, một nữ y tá hải quân xinh đẹp, người đã cho anh qua trong kỳ kiểm tra sức khỏe sĩ quan dù Rafe bị mắc chứng khó đọc.
Ngành Khoa học Máy tính thuộc nhóm ngành Máy tính và Công nghệ thông tin. Ngành Khoa học Máy tính thuộc nhóm ngành Máy tính và Công nghệ thông tin. Mục tiêu của chương trình ngành Khoa học Máy tính là đào tạo ra những kỹ sư có chất lượng cao, có khả năng thiết kế, xây dựng và triển khai những hệ thống phần mềm đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế. Kỹ sư tốt nghiệp ngành Khoa học Máy tính cũng được trang bị những kiến thức cần thiết để có thể học tiếp cao học và tiến sỹ trong lĩnh vực Máy tính và Công nghệ thông tin. Chương trình sẽ trang bị cho sinh viên kiến thức nền tảng thuộc lĩnh vực Máy tính và Công nghệ thông tin, kiến thức cốt lõi ngành Khoa học Máy tính, và kiến thức, công nghệ chuyên sâu của ngành như trí tuệ nhân tạo, bảo mật và an toàn máy tính, xử lý dữ liệu khối lượng lớn từ mạng Internet và các mạng xã hội, thiết kế và phát triển các ứng dụng cho các thiết bị di động và môi trường Web. - Thiết kế và xây dựng các phầm mềm máy tính cho các ngân hàng, các tổ chức tài chính, hành chính và thương mại, v.v. - Thiết kế và xây dựng các ứng dụng cho các thiết bị di động, ứng dụng thương mại điện tử trên nền Web, các trò chơi trên máy tính và thiết bị di động, v.v. - Quản trị và xây dựng các giải pháp đảm bảo an toàn cho các hệ thống máy tính và hệ thống mạng máy tính. - Làm việc trong các công ty gia công phần mềm cho các thị trường Mỹ, Nhật và Châu Âu. - Tư vấn, thẩm định và phát triển các dự án, giải pháp công nghệ thông tin. Theo số liệu thống kê những năm gần đây, 100% kỹ sư tốt nghiệp ngành Khoa học Máy tính và Kỹ thuật Máy tính của trường có việc làm hoặc học tiếp sau đại học trong vòng 1 năm sau khi tốt nghiệp. Mức lương của các kỹ sư mới tốt nghiệp từ hai ngành này thuộc hàng cao nhất trong nhóm các ngành kỹ thuật. Hiện nay, những kỹ sư tốt nghiệp lĩnh vực Máy tính và Công nghệ thông tin của Trường Đại học Bách Khoa đã được tuyển dụng và làm việc tại hầu hết các công ty lớn trong lĩnh vực này tại Việt Nam và một số công ty lớn trên thế giới như công ty IBM (Mỹ), Intel (Mỹ), NEC (Nhật), Renesas (Nhật), NTT Data (Nhật), ELCA (Thụy Sĩ), Tập đoàn Viettel, Tập đoàn FPT, Mobifone, KMS Technology Vietnam, TMA Solutions, CSC Vietnam, Global CyberSoft, Ngân hàng Đông Á, Ngân hàng Công thương, v.v. Nhiều cựu sinh viên của Khoa Khoa học và Kỹ thuật Máy tính hiện phụ trách các vị trí lãnh đạo, kỹ thuật quan trọng tại các tập đoàn, công ty lớn trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở Việt Nam. Từ năm 2008, Trường Đại học Bách Khoa tiến hành xây dựng hai chương trình đào tạo Khoa học Máy tính và Kỹ thuật Máy tính theo chuẩn ABET. Đây là một chuẩn dành cho các chương trình đào tạo về kỹ thuật và công nghệ được áp dụng phổ biến tại các trường đại học của Mỹ. Từ năm 2014, chương trình Khoa học Máy tính cùng với chương trình Kỹ thuật Máy tính chính thức được kiểm định bởi ABET. Cho đến thời điểm này, đây là hai chương trình đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam được ABET kiểm định. Qua hoạt động xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn ABET, chất lượng của hai chương trình Khoa học Máy tính và Kỹ thuật Máy tính được nâng cao đến các chuẩn mực quốc tế. Kỹ sư tốt nghiệp từ những chương trình được ABET kiểm định sẽ được công nhận rộng rãi bởi các công ty và tổ chức của Mỹ. Bên cạnh việc học tập kiến thức chuyên môn trong các giờ học trên lớp, sinh viên Khoa Khoa học và Kỹ thuật Máy tính rất tích cực tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học cùng tập thể cán bộ giảng dạy của Khoa. Nhiều bạn sinh viên có được các bài báo khoa học trong các hội nghị, tạp chí khoa học quốc tế có uy tín ngay trong thời gian còn đang theo học chương trình đào tạo đại học. Một số sản phẩm các bạn tham gia xây dựng có nhiều ý nghĩa trong thực tiễn như hệ thống thông tin giao thông cho địa bàn TP.HCM ( ứng dụng hướng dẫn người đi đường trong đô thị giúp tránh những điểm có tình hình giao thông phức tạp trên Android (ứng dụng Road Maester trên Google Play), ứng dụng nhận diện và đếm xe trong đô thị qua các camera giao thông, các hệ thống quan trắc môi trường tại các khu công nghiệp, ứng dụng xe điều khiển không người lái, hệ thống điều khiển robot lặn biển, hệ thống lưu trữ dữ liệu lớn, v.v…. Khoa Khoa học và Kỹ thuật Máy tính thường xuyên tổ chức các hoạt động chuyên môn và hoạt động hướng nghiệp nhằm tạo điều kiện cho sinh viên chuẩn bị các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho nghề nghiệp tương lai của mình, và động thời làm cho môi trường hoạt động của sinh viên được sinh động, cuốn hút hơn. Các hoạt động tiêu biểu được tổ chức định kỳ hàng năm như Hội chợ việc làm, Tuần lễ công nghệ thông tin, các cuộc thi chuyên môn như BKIT Car Rally, các seminar về công nghệ mới và kỹ năng nghề nghiệp có sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp tại TP.HCM. Ngoài ra, sinh viên Khoa Khoa học và Kỹ thuật Máy tính tích cực tham gia các hoạt động xã hội và các hoạt động chuyên môn trong trường như tham gia các chiến dịch mùa hè xanh, xuân tình nguyện, v.v…. Để đảm bảo chất lượng đào tạo, phù hợp xu thế phát triển mới của đất nước, đáp ứng các quy định của nhà nước, cơ quan chủ quản, và đặc biệt là đáp ứng nhu cầu các bên liên quan trọng yếu, từ đó giữ vững và phát huy vai trò và trách nhiệm của mình, nhà trường chủ trương cung cấp các chương trình đào tạo (CTĐT) tiên tiến, cập nhật. Do đó, sau khi hoàn thành một chu kỳ đào tạo, nhà trường sẽ tiến hành rà soát, đánh giá CTĐT nhằm cập nhật và đổi mới trên phạm vi toàn trường. Cụ thể, trong những năm gần đây nhà trường đã đổi mới CTĐT vào các năm 2002, 2008, và 2014. Quá trình này có sự tham gia của các bên liên quan trọng yếu như: nhà sử dụng lao động, cựu sinh viên, sinh viên, và giảng viên, và dựa trên các quy định của Luật Giáo dục đại học và các cơ quan chủ quản. Trong lần đổi mới CTĐT vào năm 2014, nhà trường áp dụng mô hình CDIO (Conceive – Design – Implement – Operate), để xây dựng CTĐT nhằm giúp người học đáp ứng các yêu cầu của xã hội và các bên liên quan về kiến thức và kỹ năng. Bên cạnh đó, trong quá trình vận hành, nhà trường cho phép thay đổi và hiệu chỉnh nhỏ nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu phát sinh mới và cấp thiết. Tính từ năm 2009 đến nay trường đã có 9 chương trình được công nhận đạt chuẩn AUN-QA; 07 chương trình được công nhận bởi CTI – ENAEE (EUR-ACE); và đặc biệt là 02 chương trình đầu tiên của Việt Nam đạt chuẩn ABET. CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO: từ khóa 2014 về sau, từ khóa 2013 trở về trước. Đối với một chương trình đào tạo (CTĐT), mục tiêu đào tạo (MTĐT) đóng vai trò quan trọng, bởi nó xác định rõ lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể của CTĐT, bối cảnh hoạt động nghề nghiệp; phản ánh sứ mạng của trường/khoa và nhu cầu của các bên liên quan về những trình độ năng lực, phẩm chất … mà người học được trang bị. MTĐT sẽ quyết định cấu trúc chương trình và nội dung giáo dục đại học. Do đó, tại trường ĐH Bách Khoa tất cả CTĐT đều có MTĐT rõ ràng, cụ thể. Theo đó, MTĐT được xây dựng dựa trên sứ mạng của trường và khoa và phù hợp với sự phát triển của ngành, có thể thích nghi với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ. MTĐT của từng CTĐT được xây dựng mới/cập nhật cùng với việc xây dựng mới/cập nhật CTĐT theo quy định và hướng dẫn của nhà trường. Các MTĐT sau khi được xây dựng, được phản biện bởi các chuyên gia và được đánh giá bởi Hội đồng Khoa học và Đào tạo của khoa. Các MTĐT sau đó được cụ thể hoá thành các chuẩn đầu ra (CĐR) của CTĐT, trong đó thể hiện cụ thể những trình độ năng lực chuyên môn về kiến thức, kỹ năng, thái độ mà người học có thể đạt được vào thời điểm tốt nghiệp. Đối với các CTĐT 2014, các CĐR được xây dựng theo một quy trình chặt chẽ, khoa học trong đó CĐR phù hợp với MTĐT, phản ánh sứ mạng của trường, khoa. Trong quá trình xây dựng CĐR, các bên liên quan bao gồm giảng viên, nhà tuyển dụng, cựu sinh viên, và sinh viên được lấy ý kiến thông qua các hình thức khảo sát và/hoặc hội thảo, phỏng vấn sâu. CĐR được xây dựng chi tiết đến cấp độ 3 (cho CTĐT) và cấp độ 4 (cho môn học). Cấu trúc của tất cả các CTĐT tại trường ĐHBK được xây dựng dựa trên cấu trúc CTĐT khung quy định bởi trường ĐH Bách Khoa. Cấu trúc CTĐT khung bao gồm các khối kiến thức từ kiến thức giáo dục đại cương đến khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp. Trong đó, khối kiến thức giáo dục đại cương nhằm cung cấp nền tảng lý luận, toán và khoa học tự nhiên, chính trị, xã hội …; còn khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp cung cấp các kiến thức và kỹ năng cơ bản của ngành đào tạo theo diện rộng và sâu của lĩnh vực đào tạo. Ngành Khoa học Máy tính thuộc nhóm ngành Máy tính và Công nghệ thông tin. - Thiết kế và xây dựng các phầm mềm máy tính cho các ngân hàng, các tổ chức tài chính, hành chính và thương mại, v.v. - Thiết kế và xây dựng các ứng dụng cho các thiết bị di động, ứng dụng thương mại điện tử trên nền Web, các trò chơi trên máy tính và thiết bị di động, v.v. - Quản trị và xây dựng các giải pháp đảm bảo an toàn cho các hệ thống máy tính và hệ thống mạng máy tính. - Làm việc trong các công ty gia công phần mềm cho các thị trường Mỹ, Nhật và Châu Âu. - Tư vấn, thẩm định và phát triển các dự án, giải pháp công nghệ thông tin. Từ năm 2008, Trường Đại học Bách Khoa tiến hành xây dựng hai chương trình đào tạo Khoa học Máy tính và Kỹ thuật Máy tính theo chuẩn ABET. Đây là một chuẩn dành cho các chương trình đào tạo về kỹ thuật và công nghệ được áp dụng phổ biến tại các trường đại học của Mỹ. Từ năm 2014, chương trình Khoa học Máy tính cùng với chương trình Kỹ thuật Máy tính chính thức được kiểm định bởi ABET. Cho đến thời điểm này, đây là hai chương trình đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam được ABET kiểm định. Qua hoạt động xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn ABET, chất lượng của hai chương trình Khoa học Máy tính và Kỹ thuật Máy tính được nâng cao đến các chuẩn mực quốc tế. Kỹ sư tốt nghiệp từ những chương trình được ABET kiểm định sẽ được công nhận rộng rãi bởi các công ty và tổ chức của Mỹ. Bên cạnh việc học tập kiến thức chuyên môn trong các giờ học trên lớp, sinh viên Khoa Khoa học và Kỹ thuật Máy tính rất tích cực tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học cùng tập thể cán bộ giảng dạy của Khoa. Nhiều bạn sinh viên có được các bài báo khoa học trong các hội nghị, tạp chí khoa học quốc tế có uy tín ngay trong thời gian còn đang theo học chương trình đào tạo đại học. Một số sản phẩm các bạn tham gia xây dựng có nhiều ý nghĩa trong thực tiễn như hệ thống thông tin giao thông cho địa bàn TP.HCM ( ứng dụng hướng dẫn người đi đường trong đô thị giúp tránh những điểm có tình hình giao thông phức tạp trên Android (ứng dụng Road Maester trên Google Play), ứng dụng nhận diện và đếm xe trong đô thị qua các camera giao thông, các hệ thống quan trắc môi trường tại các khu công nghiệp, ứng dụng xe điều khiển không người lái, hệ thống điều khiển robot lặn biển, hệ thống lưu trữ dữ liệu lớn, v.v…. Khoa Khoa học và Kỹ thuật Máy tính thường xuyên tổ chức các hoạt động chuyên môn và hoạt động hướng nghiệp nhằm tạo điều kiện cho sinh viên chuẩn bị các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho nghề nghiệp tương lai của mình, và động thời làm cho môi trường hoạt động của sinh viên được sinh động, cuốn hút hơn. Các hoạt động tiêu biểu được tổ chức định kỳ hàng năm như Hội chợ việc làm, Tuần lễ công nghệ thông tin, các cuộc thi chuyên môn như BKIT Car Rally, các seminar về công nghệ mới và kỹ năng nghề nghiệp có sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp tại TP.HCM. Ngoài ra, sinh viên Khoa Khoa học và Kỹ thuật Máy tính tích cực tham gia các hoạt động xã hội và các hoạt động chuyên môn trong trường như tham gia các chiến dịch mùa hè xanh, xuân tình nguyện, v.v…. CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO: từ khóa 2014 về sau, từ khóa 2013 trở về trước
Nhà khoa học máy tính
Nhà khoa học máy tính là một người có được kiến thức về khoa học máy tính, nghiên cứu về nền tảng lý thuyết của thông tin và tính toán và ứng dụng của họ. Các nhà khoa học máy tính thường làm việc trên khía cạnh lý thuyết của các hệ thống máy tính, trái ngược với khía cạnh phần cứng mà các kỹ sư máy tính chủ yếu tập trung (mặc dù có sự chồng chéo). Mặc dù các nhà khoa học máy tính cũng có thể tập trung công việc và nghiên cứu vào các lĩnh vực cụ thể (như thiết kế và phát triển cấu trúc dữ liệu và thuật toán, công nghệ phần mềm, lý thuyết thông tin, lý thuyết cơ sở dữ liệu, lý thuyết phức tạp tính toán, phân tích số, lý thuyết ngôn ngữ lập trình, đồ họa máy tính và thị giác máy tính), nền tảng của họ là nghiên cứu lý thuyết về điện toán mà từ đó các lĩnh vực khác có thể dựa vào đó để phát triển tiếp. Mục tiêu hàng đầu của các nhà khoa học máy tính là phát triển hoặc xác nhận các mô hình, thường là toán học, để mô tả các thuộc tính của các hệ thống dựa trên máy tính (bộ xử lý, chương trình, máy tính tương tác với con người, máy tính tương tác với các máy tính khác, v.v.) với mục tiêu tổng thể là khám phá thiết kế mang lại lợi ích hữu ích (nhanh hơn, nhỏ hơn, rẻ hơn, chính xác hơn, v.v.).
Với công ty cổ phần hiện nay việc linh hoạt trong huy động vốn là sức mạnh doanh nghiệp. Tuy nhiên đảm bảo được tính thống nhất cao trong công ty việc biểu quyết cần đảm bảo. Do đó việc phân quyền biểu quyết ra sao theo quy định mới cần rõ ràng, đúng pháp luật. Biểu quyết là việc thể hiện ý chí của các chủ thể đồng ý hoặc không đồng ý khi quyết định một vấn đề nào đó trong doanh nghiệp thông qua số phiếu nhất định. Vốn trong công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần. Vốn có quyền biểu quyết được hiểu là người sở hữu phần vốn đó có quyền biểu quyết theo tỷ lệ cổ phần (phần vốn) mà họ sở hữu. Tuy nhiên khác với loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ phần có nhiều điểm khá phức tạp. Vì công ty cổ phần có nhiều loại cổ phần trong đó một số loại không có quyền biểu quyết. Số cổ phần này chính là cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại không có quyền biểu quyết, bên cạnh đó cổ phiếu quỹ cũng không có quyền biểu quyết. Theo đó việc biểu quyết thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông được xác định trên tỷ lệ ít nhất 51% hoặc 65% tổng số phiếu biểu quyết (tỷ lệ biểu quyết công ty cổ phần). Áp dụng đối với trường hợp lấy ý kiến bằng văn bản; tổng số phiếu biểu quyết của cổ đông dự hợp trong trường hợp biểu quyết tại cuộc họp. Với những công ty cổ phần chỉ có cổ phần phổ thông thì tổng số phiếu biểu quyết chính là vốn điều lệ, còn những trường hợp khác thì tổng số phiếu biểu quyết khác với vốn điều lệ. Đối với hợp đồng hoặc giao dịch của công ty cổ phần với người liên quan có giá trị lớn hơn 35% trở lên. Với tổng giá trị tài sản ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn ghi trong điều lệ công ty phải được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận. “Đại hội đồng cổ đông chấp thuận các hợp đồng và giao dịch khác ngoài các giao dịch quy định tại khoản 2 Điều này. Trường hợp này, người đại diện công ty ký hợp đồng phải thông báo Hội đồng quản trị và Kiểm soát viên về các đối tượng có liên quan đối với hợp đồng, giao dịch đó; đồng thời kèm theo dự thảo hợp đồng hoặc thông báo nội dung chủ yếu của giao dịch. Hội đồng quản trị trình dự thảo hợp đồng hoặc giải trình về nội dung chủ yếu của giao dịch tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông hoặc lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản. Trường hợp này, cổ đông có lợi ích liên quan không có quyền biểu quyết; hợp đồng hoặc giao dịch được chấp thuận khi có số cổ đông đại diện 65% tổng số phiếu biểu quyết còn lại tán thành, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định khác”.
Cổ phần ưu đãi biểu quyết
Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết là cổ phiếu có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phiếu phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ công ty quy định. Chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phiếu ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phiếu ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông và họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông. Biểu quyết về các vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHCĐ. Các quyền khác như cổ đông phổ thông, trừ việc chuyển nhượng cổ phiếu đó cho người khác.
Tổng quan kho vũ khí hạt nhân của các nước trên thế giới (Ảnh SBC-ACA). Khi hai máy bay ném bom B-29 Enola Gay và Bockscar của Mỹ thả hai quả bom xuống Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản hồi tháng 8/1945, sức mạnh quân sự và khả năng răn đe của một quốc gia đã được "đo lường và định lượng" bằng thuật ngữ hạt nhân. Ngày nay, sức mạnh hạt nhân được bổ sung thêm bằng số lượng, mức độ tiên tiến và hủy diệt của hệ thống khí tài này. Điều này đồng nghĩa, thời hoàng kim của máy bay động cơ phản lực cánh quạt và những quả bom nguyên tử cồng kềnh đang mất dần. Nó được thay bằng tên lửa được phóng từ nhiều nền tảng khác nhau. Giờ đây, nguy cơ xảy ra chiến tranh hạt nhân tuy nhỏ nhưng vẫn hiện hữu và nguy hiểm. Bằng chứng, ngày càng nhiều quốc gia đã sở hữu hoặc tỏ rõ mong muốn sở hữu những loại vũ khí hạt nhân mới, khiến mối nguy hiểm càng tăng, khiến thế giới có thể bị hủy diệt bất cứ lúc nào. Trang SBC trích dẫn số liệu của Hiệp hội Kiểm soát Vũ khí (ACA) nói về kho vũ khí hạt nhân của các lực lượng quân đội trên thế giới. Qua thống kê cho thấy hiện đã có 9 quốc gia sở hữu hạt nhân là Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Israel và Triều Tiên. Tổng hợp chung, có khoảng 13.500 đầu đạn hạt nhân, gồm cả vũ khí đang được triển khai, dự trữ lẫn tồn kho, với phần lớn thuộc về hai cường quốc là Mỹ (gần 5.800 đầu đạn) và Nga (gần 6.375). Trong số này có khoảng 3.825 tên lửa được triển khai hoặc đặt tại các căn cứ quân sự, có để sử dụng ngay, thuộc về bốn quốc gia truyền thống là Mỹ, Nga, Anh và Pháp. Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Triều Tiên và Israel mặc dù sở hữu đầu đạn hạt nhân hoặc vật liệu phân hạch để sản xuất đầu đạn hạt nhân, nhưng chủ yếu vẫn là lưu kho và không có sẵn để phóng ngay được. Kể từ khi trở thành cường quốc hạt nhân, Trung Quốc đã tự tuyên bố "không sử dụng trước", có nghĩa là không sử dụng vũ khí hạt nhân để tấn công mà chỉ để đáp trả một khi bị tấn công hạt nhân. Mặc dù danh sách các quốc gia có vũ khí hạt nhân tăng lên đáng kể từ năm 1945, nhưng khả năng hạt nhân và cách tiếp cận để răn đe lại không giống nhau và được chia thành hai cấp độ. Cấp độ đầu gồm các quốc gia sở hữu ba hạt nhân (trên bộ, trên không và trên biển), nghĩa là sử dụng đồng thời cả ba lĩnh vực này. Cấp độ thứ hai gồm các quốc gia sở hữu kho vũ khí hạt nhân, khá hạn chế so với các quốc gia ở cấp độ 1 nhưng vẫn đủ khả năng tàn phá một quốc gia phi hạt nhân hoặc gây phiền toái chiến lược cho các siêu cường. Các quốc gia này bị hạn chế trong cách "tác nghiệp" vũ khí hạt nhân. Chẳng hạn, Triều Tiên đã đầu tư rất lớn vào tên lửa đạn đạo hạt nhân nhưng thiếu phương tiện để thả từ máy bay ném bom chiến lược hoặc phóng từ tàu ngầm. Không quân Mỹ sở hữu một phi đội khoảng 60 máy bay ném bom B-52 và B-2 (Ảnh: Không quân Mỹ). Bộ ba hạt nhân của quân đội Mỹ là một tập hợp các nền tảng vũ khí, chủ yếu do Không quân và Hải quân vận hành. Nhiệm vụ là thường trực, cảnh giác theo tần suất 24/7, tấn công phủ đầu hoặc đáp trả một vụ phóng ở bất kỳ từ đâu. Bộ ba hạt nhân của Mỹ dựa trên khái niệm thay thế, đảm bảo an toàn cao nhất, trong đó tàu ngầm là tối ưu, tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) phản ứng nhanh còn máy bay thì linh hoạt. Khả năng răn đe hạt nhân trên đất liền của quân đội Mỹ xoay quanh tên lửa đạn đạo xuyên lục địa LGM-30G Minuteman III. Mặc dù số lượng thực tế đã được phân loại, nhưng có gần 400 tên lửa Minuteman III ở chế độ chờ trong các hầm chứa cứng trên khắp nước Mỹ và có tới trên 10.000 binh sĩ từ khắp các khu vực phục vụ duy trì và vận hành các tiền đồn này. Một trung tâm điều khiển dưới lòng đất có các dây cáp cứng, bảo đảm và các hệ thống thông tin liên lạc khác cho phép tổng thống và bộ trưởng quốc phòng liên lạc tức thời với từng kíp phóng. Khả năng kiểm soát phóng từ trên không thứ cấp đảm bảo rằng mệnh lệnh của tổng thống sẽ được thực thi nếu hệ thống thông tin liên lạc dưới mặt đất bị lỗi do hoạt động của đối phương. Lầu Năm Góc hiện đang tiến hành hiện đại hóa khả năng răn đe hạt nhân trên đất liền và đặt mục tiêu thay thế Minuteman III bằng tên lửa ICMB thế hệ mới và các cơ sở mới trong chương trình răn đe chiến lược trên mặt đất, dự kiến được thực thi từ năm 2029. Trên không là lĩnh vực ưu tiên và duy nhất được sử dụng để triển khai vũ khí hạt nhân. Khả năng răn đe hạt nhân của Mỹ từ trên không dựa trên hai máy bay, gồm B-52 Stratofortress và B-2 Spirit tàng hình. Hai máy bay ném bom này có thể đưa bom hạt nhân đến hầu hết mọi nơi trên thế giới trong vòng vài giờ, nhờ khả năng định vị chiến lược và khả năng tiếp nhiên liệu trên không. B-52 có thể chở vũ khí trên 31.751 kg với quãng đường bay ngắn hơn B-2 nhưng lại bay nhanh hơn. Cả hai rất khó phát hiện vì có thiết kế tàng hình. Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhiều người cho rằng máy bay ngày tận thế hạt nhân đã chấm dứt, nhưng thực tế nó vẫn hiện diện. Không quân Mỹ vẫn đang sở hữu đội bay ném bom B-52 mang vũ khí hạt nhân với tần suất 24/24 mỗi ngày. Khả năng răn đe hạt nhân trên biển mang tính cân bằng hơn. Nói đến lực lượng răn đe hạt nhân của hải quân Mỹ là nói đến 14 tàu ngầm tên lửa lớp Ohio có nhiệm vụ cung cấp đầu đạn hạt nhân nếu tình huống xấu nhất xảy ra. Các tàu ngầm hạt nhân lớp Ohio mang tên lửa đạn đạo Trident đều được trang bị đầu đạn hạt nhân. Mặc dù vũ khí hạt nhân phóng từ tàu ngầm có năng suất nhỏ hơn ICBM, nhưng có lợi thế là không thể bị phát hiện. Do đó, nó khiến đối phương đau đầu, không kịp trở tay, nên đây được xem là biện pháp răn đe hữu hiệu nhất. Ngoài Mỹ, các quốc gia khác tiếp tục hoặc theo đuổi tích cực kho vũ khí hạt nhân. Nga có hạm đội tàu ngầm tên lửa đạn đạo hạt nhân lớn thứ hai với 12 tàu thuộc nhiều lớp khác nhau. Trung Quốc có từ 4-6 tàu ngầm và đang chế tạo thêm và có thể mang tên lửa hạt nhân. Hải quân Hoàng gia Anh có 4 tàu ngầm lớp Vanguard có thể mang tên lửa đạn đạo hạt nhân. Hải quân Pháp cũng có 4 tàu ngầm lớp Triomphant, tất cả các tàu kể trên đều có thể mang theo một số đầu đạn hạt nhân, từ 16-24 tên lửa đạn đạo với công suất khác nhau. Iraq và Libya từng bị nghi là có các chương trình vũ khí hạt nhân bí mật, nhưng đã bị ngăn chặn, như trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 ở Iraq và năm 2003 ở Libya. Belarus, Kazakhstan và Ukraine là những nước kế thừa vũ khí hạt nhân sau khi Liên Xô tan rã năm 1991 nhưng đã hoàn trả lại cho Nga. (Dân trí) - Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken bày tỏ quan ngại sâu sắc về kho vũ khí hạt nhân ngày càng mở rộng của Trung Quốc trong cuộc họp với ngoại trưởng các nước ASEAN và đối tác. (Dân trí) - Bắc Kinh tuyên bố sẽ trả đũa Washington về việc chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden chấp thuận thương vụ bán vũ khí đầu tiên cho Đài Loan. (Dân trí) - Cuốn sách mới được công bố đã tiết lộ lý do trùm khủng bố Osama bin Laden từng không lên kế hoạch ám sát cựu Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden. (Dân trí) - Trung Quốc đã bác bỏ báo cáo của nhóm nghị sĩ đảng Cộng hòa Mỹ cho rằng virus gây đại dịch Covid-19 lọt ra từ phòng thí nghiệm ở Vũ Hán. (Dân trí) - Vấn đề Biển Đông làm "nóng" cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc khi đại diện của Mỹ và Trung Quốc chỉ trích lẫn nhau về hành động của mỗi bên tại vùng biển chiến lược này. (Dân trí) - Tính tới hiện tại, Mỹ đã hỗ trợ Việt Nam 5 triệu liều vắc xin Covid-19, trong tổng cộng hơn 110 triệu liều mà Washington trao tặng trên phạm vi toàn cầu. Việt Nam hiện xếp thứ 7 trong danh sách này. (Dân trí) - Chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden đã duyệt thương vụ bán vũ khí đầu tiên cho Đài Loan ước tính trị giá 750 triệu USD. Thương vụ vẫn cần được Quốc hội Mỹ xem xét. (Dân trí) - Một nhà dịch tễ học nổi tiếng cho rằng đại dịch Covid-19 sẽ không sớm kết thúc vì mới chỉ có một phần nhỏ dân số thế giới được tiêm vắc xin. (Dân trí) - Trong khi Mỹ đang chuẩn bị cho một loạt các cuộc tập trận toàn cầu kéo dài gần 1 tháng ở châu Á với các đồng minh thân cận như Australia, Anh, Nhật Bản thì Trung Quốc cũng tập trận ở Biển Đông.
Các nước có vũ khí hạt nhân
Hiện nay trên thế giới có 8 quốc gia đã cho nổ hay đã dùng vũ khí hạt nhân; 5 quốc gia trong số đó được Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân xem là "các quốc gia có vũ khí hạt nhân", bao gồm Mỹ, Nga (trước đó là Liên Xô), Anh, Pháp và Trung Quốc; 3 nước không ký vào hiệp định này thực hiện các thí nghiệm cho nổ vũ khí hạt nhân: Ấn Độ, Pakistan và Bắc Triều Tiên; quốc gia còn lại là Nam Phi, tuy nhiên quốc gia này đã bác bỏ. Nhiều người tin là Israel có vũ khí hạt nhân dù quốc gia này không phủ nhận hay xác nhận việc này. Iran và Syria đang bị nghi ngờ là có các chương trình sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt, trong đó có chương trình hạt nhân. Có 4 quốc gia từng sở hữu vũ khí hạt nhân nhưng đã từ bỏ, đó là Kazakhstan, Belarus, Ukraina và Nam Phi. Kazakhstan, Belarus và Ukraina từng sở hữu một số lớn đầu đạn hạt nhân cũ từ thời Liên Xô, tuy nhiên cả ba quốc gia đã giao nộp lại cho Nga và ký vào NPT.
Sự ra đời của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đánh dấu bước ngoặt căn bản của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đưa giai cấp công nhân bước lên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng xã hội độc lập, đấu tranh giải phóng mình, đồng thời giải phóng toàn thể nhân loại. “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” được C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo xong vào tháng 02-1848 và xuất bản lần đầu tiên vào trung tuần tháng 3 năm đó, giữa lúc chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở mức cao, giữ quyền thống trị ở châu Âu và bắt đầu bành trướng thế lực sang châu Phi, châu Á với các cuộc chinh phục bằng bạo lực. Vào thời điểm đó, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” không chỉ là bản cáo trạng đanh thép đối với chủ nghĩa tư bản, mà còn là cương lĩnh cách mạng đầu tiên của giai cấp vô sản thế giới, là ngọn đuốc soi đường cho giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh phá bỏ xiềng xích và mọi sự áp bức, bất công trong xã hội tư bản. Sự ra đời của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đánh dấu sự phát triển vượt bậc của phong trào công nhân - đó là sự phát triển từ tự phát đến tự giác. Tư tưởng khoa học và cách mạng trong văn kiện lịch sử này nhanh chóng thâm nhập vào giai cấp vô sản và lan tỏa trong các tầng lớp nhân dân lao động, trở thành lực lượng vật chất vĩ đại. Nhiều cuộc cách mạng xã hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã nổ ra và giành được những thắng lợi rất quan trọng, làm thay đổi bộ mặt của thế giới đương đại. Vậy vì sao “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” lại trở thành cương lĩnh cách mạng đầu tiên của giai cấp vô sản thế giới và có ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình phát triển của cách mạng thế giới? Có thể cắt nghĩa rằng, đây là một tác phẩm kinh điển chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày nhiều luận điểm và nguyên lý mang tính chất phổ biến cả về mặt lý luận và thực tiễn, có giá trị là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Về mặt lý luận, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” có nhiệm vụ thuyết trình sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản; sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản hiện đại; những căn cứ khách quan, nội dung khoa học và tính chất cách mạng của chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời, nó còn có nhiệm vụ đập tan mọi câu chuyện hư truyền về “bóng ma cộng sản” mà các thế lực chính trị phản động ở châu Âu khi ấy đều hoảng sợ và tìm cách bôi nhọ, phản bác. Về mặt thực tiễn, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” có nhiệm vụ trình bày công khai mục đích, nhiệm vụ, những biện pháp cách mạng và lập trường, chiến lược, sách lược của những người cộng sản nhằm lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, thiết lập nền thống trị của giai cấp vô sản, tiến hành cải tạo xã hội tư bản và xây dựng xã hội mới văn minh, tiến bộ hơn, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đánh giá về tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, V. I. Lênin khẳng định: “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng ngàn bộ sách, tinh thần của nó đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thế giới giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh”(1). Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăngghen vạch rõ bản chất đích thực của chủ nghĩa tư bản; những quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và các mâu thuẫn nội tại không thể khắc phục trong lòng xã hội tư bản; phân tích sâu sắc lịch sử các cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình của giai cấp vô sản; trên cơ sở đó, chứng minh xã hội tư bản nhất định sẽ bị thay thế bằng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã hội mà chính chủ nghĩa tư bản, về khách quan, đã và đang chuẩn bị những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành của nó. Đó chính là biện chứng khách quan của lịch sử phát triển xã hội loài người, được C. Mác và Ph. Ăngghen khái quát bằng luận điểm có tính khoa học và cách mạng rất sâu sắc: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”(2). Các ông còn nhấn mạnh: “Thay cho xã hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(3). Những luận điểm đó của các nhà kinh điển mác-xít là cơ sở lý luận và phương pháp luận để soi rọi vào tiến trình phát triển của cách mạng thế giới đương đại. Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân và phong trào công nhân, C. Mác và Ph. Ăngghen nhận thấy sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội hoàn toàn mới, không còn áp bức, bất công, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ có giai cấp vô sản mới có khả năng đảm nhận được sứ mệnh lịch sử to lớn và cao cả đó, bởi “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”(4). Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân phải là sự nghiệp “tự giải phóng”; đồng thời nhấn mạnh, trong cuộc đấu tranh cách mạng đó, giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Các ông đã đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng:“Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” (về sau, khẩu hiệu này được V. I. Lênin bổ sung: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đoàn kết lại”). Khẩu hiệu trong cương lĩnh đầu tiên của giai cấp vô sản thế giới không những công khai tuyên bố tính chất quốc tế và kêu gọi tình đoàn kết của cách mạng vô sản, mà còn là ngọn cờ dẫn dắt ý chí và hành động trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc của giai cấp công nhân các nước chống lại sự áp bức, nô dịch của giai cấp tư sản, đồng thời thúc đẩy tiến trình phát triển của cách mạng thế giới chuyển biến cả về lượng và chất. Một trong những nội dung quan trọng và thiết yếu được C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là: Trong khi thực hiện sứ mệnh lịch sử “tự giải phóng” giai cấp mình, giai cấp công nhân còn thực hiện sứ mệnh lịch sử cao cả là giải phóng nhân dân lao động, giải phóng các dân tộc và toàn thể nhân loại. Bởi vì, trong xã hội tư bản, không chỉ giai cấp vô sản bị chủ nghĩa tư bản thống trị, bóc lột, bị “bần cùng hóa”, mà các tầng lớp nhân dân lao động, các dân tộc cũng bị giai cấp tư sản thống trị và nô dịch. Vì thế, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản luôn luôn gắn chặt chẽ với cuộc đấu tranh dân tộc. C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”(5). Do đó, giai cấp vô sản ở mỗi nước khi tiến hành cuộc đấu tranh để “tự giải phóng” giai cấp mình khỏi sự áp bức, nô dịch của chủ nghĩa tư bản, trước hết phải giành lấy chính quyền, tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, tự mình trở thành dân tộc, nghĩa là phải lãnh đạo, trở thành lực lượng lãnh đạo của cả phong trào cách mạng của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Để xóa bỏ nguồn gốc sinh ra bất bình đẳng, áp bức giai cấp, áp bức dân tộc, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”(6). Khi sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ quốc gia, dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các quốc gia, dân tộc cũng đồng thời mất theo. Tất nhiên, để thực hiện sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân phải được tập hợp, đoàn kết xung quanh bộ tham mưu chiến đấu của mình là đảng cộng sản - nơi tập trung những đại biểu kiên trung nhất, cách mạng nhất và ưu tú nhất của giai cấp công nhân. Những tư tưởng, quan điểm nói trên của C. Mác và Ph. Ăngghen được nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” cũng đã chi phối, tác động sâu sắc đến tiến trình cách mạng của các dân tộc trên thế giới, nhất là trong thế kỷ XX và trong điều kiện hiện nay. Như vậy, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời đã thức tỉnh giai cấp công nhân và nhân dân lao động, làm cho họ ý thức được một cách nhanh chóng và sâu sắc vai trò lịch sử của mình trước giai cấp, dân tộc và nhân loại. Tính cách mạng triệt để của nó là ở chỗ, lần đầu tiên những người cộng sản - hạt nhân tiên tiến nhất của giai cấp công nhân - trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về quan điểm, mục đích, biện pháp của mình để đập tan câu chuyện hoang đường về “bóng ma cộng sản”, cùng mọi luận điệu xuyên tạc, công kích chủ nghĩa cộng sản của các thế lực phản động, cơ hội, xét lại. Từ đây, những người cộng sản và giai cấp công nhân quốc tế đã có vũ khí lý luận và cương lĩnh để hành động, để đấu tranh chống lại giai cấp tư sản không chỉ bằng bạo lực, bằng lực lượng vật chất, mà còn bằng cả lý luận phản ánh hiện thực khách quan của phong trào vô sản thế giới. Dưới ánh sáng của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong 170 năm qua đã giành được những thành tựu quan trọng, biến chủ nghĩa xã hội từ lý luận, học thuyết thành hiện thực sinh động trong cuộc sống. Những cuộc cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc theo quỹ đạo của cách mạng vô sản đã bùng nổ dữ dội ở nhiều nước, ở khắp các châu lục. Đó là Công xã Pa-ri năm 1871; tiếp đến, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất là thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người - thời đại từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới; rồi đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai là thắng lợi của hàng loạt cuộc cách mạng xã hội kiểu mới ở cả châu Âu, châu Á và châu Mỹ La-tinh, và từ đây, chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống thế giới; đồng thời hàng trăm quốc gia, dân tộc đã vùng lên đấu tranh chống lại chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và giành được độc lập ở những mức độ khác nhau, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và kiểu mới. Rõ ràng, lý tưởng của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã tác động sâu sắc đến tiến trình phát triển của cách mạng thế giới, thúc đẩy lịch sử nhân loại phát triển theo chiều hướng khách quan là hướng đến xây dựng một xã hội công bằng, nhân đạo, phù hợp với bản chất con người. Nhưng lịch sử không bằng phẳng, trơn tru. Con đường cách mạng thế giới từng diễn ra quanh co, khi cao trào, lúc thoái trào, có lúc nơi này hoặc nơi khác cách mạng đứng trước những trở lực tưởng như không vượt qua nổi. Điển hình là sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc với chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong những năm 90 của thế kỷ XX, cùng với đó là do đảng cộng sản ở những nước này có những sai lầm về đường lối, mắc phải bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí và do cả sự phản bội của một số người lãnh đạo, đứng đầu của đảng, đã dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở những nơi đó và hệ lụy đau xót là làm tan rã hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Song, điều cần nhận rõ, đây chỉ là sự sụp đổ của những mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, với tư cách là một nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản. Và một sự thật hiển nhiên hiện nay là, nhiều nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cu Ba…, với dân số khoảng 1,5 tỷ người (chiếm khoảng 1/5 dân số thế giới), đang tiến hành cải cách và đổi mới rất mạnh mẽ và đúng hướng, vững bước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn. Ngay cả ở những nước mà chế độ xã hội chủ nghĩa đã tan rã, các lực lượng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại và đang quyết liệt đấu tranh để giành lại vị thế trong xã hội. Ở không ít nước tư bản chủ nghĩa phát triển, phong trào cộng sản và phong trào công nhân vẫn không ngừng mở ra những cuộc đấu tranh vì dân chủ, dân sinh, công bằng và tiến bộ xã hội. Hiện nay, dù chủ nghĩa xã hội đang gặp nhiều khó khăn, trở ngại trên con đường phát triển, nhưng ngay trong xã hội tư bản, rất nhiều học giả tư sản vẫn có đánh giá khách quan rằng, học thuyết Mác vẫn là đỉnh cao của trí tuệ loài người, vẫn tràn đầy sức sống trong một thời đại đầy biến động chính trị. Có một nghịch lý là, chính sự tác động của học thuyết Mác, trong đó có những nguyên lý cơ bản mà C. Mác và Ph. Ăngghen nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, đã buộc chủ nghĩa tư bản hiện đại phải điều chỉnh, sửa đổi một phần các khuyết tật và lực cản trong lòng xã hội tư bản để thích nghi và tồn tại. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã trải qua những thử thách lớn lao trên con đường hiện thực hóa lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy, ở đâu và lúc nào, những luận điểm, nguyên lý cơ bản của nó được nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện khách quan, thì ở đó và lúc đó, cách mạng vượt qua được những thử thách để phát triển. Ngược lại, ở đâu và lúc nào, những luận điểm, nguyên lý của nó bị hiểu sai, vận dụng sai, hoặc nhận thức và vận dụng một cách giáo điều, máy móc, thì ở đó và lúc đó, cách mạng gặp trắc trở, khó khăn, hoặc bị tổn thất, thậm chí bị thất bại. Vì vậy, phương pháp luận chung nhất đối với những người cộng sản chân chính trong vận dụng những luận điểm, nguyên lý cơ bản của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” vào thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước hiện nay là: cần hiểu thấu đáo và vận dụng sáng tạo những luận điểm, nguyên lý nào mà từ đó đến nay vẫn hoàn toàn đúng đắn và giữ nguyên giá trị; còn những luận điểm, nguyên lý nào trước đây đúng, nhưng do tình hình thế giới ngày nay đã có sự đổi thay lớn lao mà khi đó C. Mác và Ph. Ăngghen chưa dự đoán hết được, nên không còn phù hợp nữa, thì cần có sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (tiếng Đức: Das Manifest der Kommunistischen Partei; tiếng Anh:The Communist Manifesto), là một tài liệu chính trị được các nhà triết học Đức Karl Marx và Friedrich Engels viết ra. Được ủy quyền bởi Liên đoàn Cộng sản và ban đầu đã xuất bản ở Luân Đôn đúng lúc phong trào cách mạng 1848 ở châu Âu đã bắt đầu bùng nổ, Tuyên ngôn sau đó được công nhận như một trong những tài liệu chính trị ảnh hưởng nhất thế giới. Nó trình bày một phương pháp mang tính phân tích tới các khái niệm gọi là đấu tranh giai cấp (lịch sử và sau đó- hiện tại) và xung đột của chủ nghĩa tư bản và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thay vì một dự đoán của hình thái tiềm năng tương lai của chủ nghĩa cộng sản. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản tóm tắt lý thuyết của Marx và Engels về bản chất của xã hội và chính trị, cụ thể rằng:lịch sử của tất cả xã hội từ trước tới này là lịch sử của đấu tranh giai cấp. Nó cũng tóm tắt nét đặc trưng những ý tưởng của họ về việc làm thế nào xã hội tư bản của thời đại sẽ cuối cùng bị thay thế bằng xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam là gì? Nhiệm vụ quyền hạn của đảng viên là những nội dung quan trọng mà mỗi thành viên trong tổ chức Đảng cần nắm. Bởi qua đó đảng viên mới hiểu được những gì mình nên làm và cần làm là như thế nào. Có như thế mới tránh khỏi những sai sót hoặc vi phạm dẫn đến kỷ luật đảng. Là một tổ chức chính trị, cầm quyền, Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động theo những quy tắc, quy định. Chính vì thế mỗi đảng viên cần phải nắm được những nhiệm vụ quyền hạn của mình. Điều này đã được quy định trong điều lệ đảng cộng sản Việt Nam. 1.Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hànhnghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của nhà nước; hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệtđối sự phân công và điều động của Đảng. 2.Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chốngchủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. 3.Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân;chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân;tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở;tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách củaĐảng , pháp luật của nhà nước. 4.Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển Đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng Đảng phí đúng quy định.Thực hiện các nhiệm vụ trên, mỗi Đảng viên cần nắm vững nội dung cơ bản sau:. Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta.- Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vìdân, thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Hai là, mỗi Đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn để đất nước phát triển nhanh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại để vận dụng vào nhiệm vụ của mình. Đồng thời, phải nhận thức sâu sắc thách thức lớn, các nguy cơ đang đe doạ sự nghiệp cáchmạng của nhân dân ta để tự giác góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục. Mỗi Đảng viên phải ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nêu gương cần,kiệm, liêm, chính, trí công, vô tư; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong cơ quan của Đảng, nhà nước và các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội;cảnh giác và kiên quyết chống mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, trước hết là trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ cụthể của mỗi người. Ba là, đất nước ta đã chuyển sang thời kì phát triển mới với nhiệm vụ trung tâm là xâydựng phát triển kinh tế, đòi hỏi Đảng viên phải nâng cao trình độ kiến thức và năng lựccông tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, thực hiện vai trò tiên phong, gương mẫu. Vì vậy, nhiệm vụ học tập càng trở nên đặc biệt quan trọng. Học tập là nghĩa vụ bắt buộcđối với mọi Đảng viên. Có nhiều hình thức và phương pháp học tập để nâng cao trình độl ý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Tuỳ theo điều kiện và hoàncảnh cụ thể mà tổ chức Đảng và mỗi Đảng viên phải có kế hoạch, chế độ học tập phù hợp. Bốn là, có mối quan hệ mật thiết với quần chúng. Cách mạng là sự nghiệp của quầnchúng nhân dân. Nhân dân lao động cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo, lãnh tụ chính trị bảo đảm cho cuộc đấu tranh của nhân dân dành thắng lợi. Và ngược lại, Đảng cần được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng dễ quan liêu, xa rời nhân dân. Đây là một nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Mọi Đảng viên phải thường xuyên liên hệ mật thiết với quần chúng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhândân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân phản ánh với Đảng, đồng thời tích cựctham gia tuyên truyền vận động nhân dân và gia đình mình thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước. Năm là, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chínhsách, nghị quyết của Đảng và nhà nước, chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiệnnghiêm túc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. Tích cực làm công tác pháttriển Đảng viên mới. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của ban chấphành trung ương. Trình bày ý kiến khi tổ chức Đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luậtđôi với mình. Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quanlãnh đạo của Đảng. Các quyền của Đảng viên nêu trong điều lệ Đảng nhằm bảo đảm cho Đảng viên thực hiện đầy đủ quyền làm chủ về mặt chính trị tổ chức và sinh hoạt Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tưt ưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Những quy định về quyền của Đảng viên tạo điều kiện cho Đảng viên và tổ chức Đảng thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là người gia nhập và được kết nạp vào đồng thời sinh hoạt trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở Việt Nam, từ Đảng viên có thể hiểu là thành viên của Đảng Cộng sản Việt Nam do chỉ có Đảng cộng sản tồn tại hợp pháp và lãnh đạo Việt Nam theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Một số vẫn gọi Đảng viên là Bôn-sê-vich hay Bôn, theo nghĩa tiếng Nga là Đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô (cũ). Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thì đảng viên phải là công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên và người này phải thừa nhận và tự nguyện thực hiện các Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng (Chi bộ, Đảng bộ.) được nhân dân tín nhiệm, sau đó được giới thiệu kết nạp, thử thách, sinh hoạt và công nhận chính thức. Số lượng Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam tính đến kỳ đại hội XIII (năm 2021) ước tính là khoảng 5,3 triệu đảng viên, năm 2019 là 5,2 triệu Qua quá trình phát triển của lịch sử, số lượng đảng viên không ngừng gia tăng, trong lịch sử, nhiều đảng viên đã có đóng góp, hi sinh cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam và để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
Khỏa thân (hay “nude” trong tiếng Anh) là từ để chỉ tình trạng cơ thể không có quần áo hay vải che đậy. Nghệ thuật khỏa thân (nude art) là một loại hình nghệ thuật trong đó cơ thể trong tình trạng không có quần áo là đối tượng khai thác chính của toàn bộ tác phẩm, cũng giống như cách mà cảnh vật hay các đồ vật làm nội dung chủ đạo trong những tác phẩm nghệ thuật phong cảnh hay tĩnh vật. Cơ thể trần truồng có vẻ là một trạng thái rất tự nhiên của con người nếu chúng ta xem xét đến mức độ thường xuyên của tình cảnh đó trong cuộc đời: khi ta sinh ra, khi ta đi tắm,… Tuy nhiên, khi đi vào nghệ thuật, đối tượng lõa thể lại có rất ít sự liên hệ đến những hoàn cảnh đời thường kể trên mà thay vào đó, sự tái hiện, phơi bày cơ thể con người một cách trọn vẹn, nguyên bản lại phản ánh một tập hợp rất phức tạp những lý tưởng thuần túy, những mối quan tâm triết học và truyền thống văn hóa. Những nhân vật lõa thể không phải chỉ xuất hiện mỗi trong nude art, tuy không phải là chủ đề chính nhưng đây cũng là một yếu tố thường xuyên xuất hiện trong các thể loại nghệ thuật khác, chẳng hạn như trong các tác phẩm hội họa lịch sử nhằm đem lại cả màu sắc tượng trưng, ẩn dụ lẫn màu sắc tôn giáo, tác phẩm chân dung hay những mô hình nghệ thuật phục vụ mục đích trang trí cho các công trình kiến trúc. Dù là với văn hóa phương Tây vốn không còn xa lạ với những hình tượng khỏa thân từ thời cổ đại cho đến thời kỳ Phục Hưng, hay với văn hóa Á Đông vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những luật lệ tôn giáo nghiêm ngặt hay tư tưởng Nho giáo hà khắc, không thể phủ nhận rằng cho đến nay, hình tượng lõa thể trong các sáng tác nghệ thuật vẫn là chủ đề rất nhạy cảm và dễ dàng trở thành thỏi nam châm hút những tranh cãi hay công kích từ giới phê bình nghệ thuật cũng như công chúng. Kenneth Clark, sử học gia nghệ thuật tiêu biểu của Anh trong tác phẩm “The Nude: A Study in Ideal Form” (Mellon Lectures,1953), một trong những cuốn sách đầu tiên nghiên cứu về nghệ thuật khỏa thân như một loại hình sáng tạo nghệ thuật riêng biệt, đã dành ra cả một chương thứ hai mang tên “The naked and the nude” để phân biệt hai khái niệm này, như một tiền đề để khẳng định tính nghệ thuật vốn hay bị nhầm lẫn và phủ nhận của nghệ thuật nude. Ông chỉ ra rằng: “Tiếng Anh, với sự quảng đại tinh tế của mình, đã luôn phân biệt rõ ràng giữa “the naked” và “the nude”. “The naked” – trần truồng/lõa lồ là cơ thể bị tước bỏ quần áo, mang hàm ý trong đó là nỗi hổ thẹn, sự yếu đuối, mất tự do với cơ thể của mình. Nhưng ngược lại, “the nude”,lại được ngầm hiểu là ngôn từ có văn hóa và thẩm mỹ, không hề mang một chút ám chỉ khó chịu nào. Ấn tượng hiện lên trong tâm trí không phải là hình ảnh một cơ thể co ro và không có khả năng tự vệ, thay vào đó, “the nude”- khỏa thân là sự khơi gợi về một cơ thể cân đối, giàu sức sống và đặc biệt là được phơi bày với tràn đầy sự tự tin: một cơ thể được tái tạo dưới lăng kính nghệ thuật.”. Clark đã lần đầu tiên chỉ ra cái yếu tố then chốt làm nên giá trị nghệ thuật đích thực của các tác phẩm với đối tượng khỏa thân: dù là phô diễn một cách tượng trưng, được tỷ lệ hóa, hay phơi bày chân thật, trần trụi, dù là tôn vinh vẻ đẹp hoàn mỹ, lý tưởng, sức sống trong sáng hay là vẻ đẹp trần tục và khơi gợi những cảm xúc bản năng, nghệ thuật nude cuối cùng vẫn phải là sự tôn trọng con người, tôn trọng sự nhào nặn của tạo hóa. Với nhiều nền văn hóa cổ đại, khỏa thân không chỉ là một việc hết sức bình thường mà còn là một yếu tố không thể thiếu trong một số nghi lễ, tập tục gắn liền với các quan niệm tín ngưỡng. Và từ đời sống văn hóa, những hình tượng khỏa thân đã đi vào những tác phẩm nghệ thuật thưở sơ khai của nhân loại như một sự khắc họa rất tự nhiên. Những bức tượng khỏa thân còn sót lại từ thời Babylon và Ai Cập cổ đại có thể coi là hình mẫu đầu tiên cho nude art trong nghệ thuật cổ đại phương Tây. Mô tả những hình tượng khỏa thân cũng có thể được tìm thấy trong nghệ thuật truyền thống của một số quốc gia nằm ngoài châu Âu, nhưng thường gắn liền với tín ngưỡng văn hóa phồn thực.Tiêu biểu là Ấn Độ (với những bức tượng và phù điêu khỏa thân trong các điện thờ đạo Hồi đặc trưng cho tín ngưỡng tôn thờ tình dục như một nghi lễ tôn giáo), bên cạnh đó là Nhật Bản (với những bãi tắm công cộng cho cả hai giới được ghi lại trong những tranh khắc gỗ). Tuy vậy, có lẽ phải đến các nghệ nhân điêu khắc thời kỳ Hy Lạp cổ đại thì nghệ thuật khỏa thân mới thực sự được hình thành như một hình thái độc lập. a. Nền móng đầu tiên: Nghệ thuật nude trong di sản nghệ thuật của Hy Lạp cổ đại. Một điều mà hẳn cả những người không mấy quan tâm đến điêu khắc hay nghệ thuật cổ đại có thể dễ dàng nhận ra là các bức tượng cổ Hy lạp đang được trưng bày tại các bảo tàng trên khắp thế giới hầu như luôn trong trạng thái khỏa thân: từ những chiến binh chết trong trận chiến Trojan, đến vận động viên đang ném đĩa hay các nữ thần đang bước vào bồn tắm. Ngày nay, chúng ta chấp nhận các bức tượng Hy Lạp khỏa thân như là một điều tất yếu. Nhưng vào thời điểm ra đời các bức tượng này, người Athens thực sự đã phá vỡ những giới hạn trong quan niệm thẩm mỹ và đạo đức trước đây. Đưa “nude” trở thành một tuyên ngôn nghệ thuật, họ đã làm điều mà chưa từng có một nền văn minh nào trước đây từng nghĩ tới. Khởi điểm của nghệ thuật nude ở Hy Lạp cũng giống như ở những quốc gia và nền văn hóa khác, bắt nguồn từ bản năng tự nhiên tôn thờ sự sinh sôi nảy nở, với sự phổ biến của những tác phẩm tượng nhỏ mô tả cơ thể phụ nữ khá mũm mĩm thường được gọi là Willendorf Venus khoảng 25000 năm trước Công Nguyên. Nhưng đến khoảng thế kỷ VI – thế kỷ V trước Công Nguyên, sự xuất hiện của những hình tượng nam khỏa thân trong các tác phẩm Hy Lạp mới thực sự đánh dấu cột mốc đầu tiên trong tiến trình dài của nghệ thuật nude: một hiện tượng hoàn toàn mới: các đối tượng khỏa thân được xây dựng với tỷ lệ cơ thể hoàn hảo, vừa được khai thác như một cách để tưởng niệm những nhân vật lịch sử, lại vừa được sử dụng để minh họa các vị thần hay các anh hùng trong thần thoại. Có lẽ tất cả bắt nguồn từ tính nhân văn được nhấn mạnh trong nghệ thuật Hy Lạp cổ đại: sự tôn thờ những vẻ đẹp rất con người, không chỉ trí tuệ, tâm hồn mà cả vẻ đẹp của bản thân cơ thể. Một điều thú vị là từ “gym” chỉ phòng tập thể dục, có nguồn gốc từ “gymnos”, nghĩa là “khỏa thân” trong tiếng Hy Lạp. Các thanh niên Hy Lạp thường rèn luyện thân thể cũng như thi đấu thể thao (đặc biệt là các cuộc đấu liên quan đến tín ngưỡng và tôn giáo) trong trạng thái khỏa thân. Có thể vì lẽ đó mà có một sự liên tưởng hết sức tự nhiên giữa vẻ đẹp lõa thể với sức sống, tuổi trẻ và sự chiến thắng trong tiềm thức của người Hy Lạp. “Đối với người Hy Lạp, tình trạng khỏa thân không phải là sự sỉ nhục mà tượng trưng cho đạo đức đối với các công dân nam ưu tú trong xã hội. Khi một chàng thanh niên cởi bỏ quần áo để thi đấu trong các hội thi Olympic thời cổ đại, anh ta không được coi là đơn thuần trần truồng trước các đối thủ, mà đang khoác lên mình đồng phục của sự ngay thẳng, công bằng”, Neil MacGregor, giám đốc Bảo tàng Anh giải thích. Chưa nói đến tư duy thẩm mỹ mới mẻ của nghệ thuật Hy Lạp khi lần đầu tiên tiếp cận “nude” như một khuôn mẫu đại diện cho sự trong sáng và thánh thiện, vinh quang và chiến thắng, các nghệ nhân điêu khắc Athens đã đóng góp những đột phá trong kỹ thuật, để thực sự khai phá con người như một đối tượng hấp dẫn của nghệ thuật. Thành tựu nổi bật nhất vẫn còn ảnh hưởng đến nay từ thời kỳ này chính là tư thế và tạo dáng của các bức tượng, thuật ngữ ngành điêu khắc ngày nay gọi là “contrapposto”. “Contrapposto” là tư thế đứng với một chân làm trụ, chân còn lại thả lỏng, trong khi tay và vai xoay theo trục của hông và chân. Tạo dáng như vậy khiến cho đối tượng hiện lên sống động đồng thời lại vô cùng tự nhiên, thoải mái. Khác với tất cả những tác phẩm điêu khắc từng được biết đến trước đây nếu không là các tư thế thẳng và khô cứng (họa hoằn lắm mới có đột phá với một chân được đặt lên phía trước) thì lại là dáng người được cách điệu hóa trở nên mềm mại quá mức, “contrapposto” là sự nắm bắt một khoảnh khắc rất tự nhiên, chân thật của cơ thể nhưng đồng thời lại đánh dấu lần đầu tiên trong nghệ thuật, bản thân điệu bộ cơ thể được khám phá và khai thác nhằm thể hiện trạng thái tâm lý của con người. Bức tượng được biết đến như tác phẩm điêu khắc đầu tiên sử dụng “contrapposto” là “Kritios Boy” (khoảng năm 480 trước Công Nguyên), được Kenneth Clark ngợi ca là “hình tượng khỏa thân tuyệt đẹp đầu tiên trong nghệ thuật”. Sự cân bằng vững chãi và hài hòa trong dáng điệu của Kritios Boy khơi gợi đến sự thư thái của tâm hồn và trung hòa của cảm xúc, một trong những yếu tố làm nên cá nhân lý tưởng trong quan niệm của người Hy Lạp. “Contrapposto” (mà sự phát triển sau này là tư thế “S Curve” nhấn mạnh thêm đường cong của cơ thể) vì vậy là một thành tựu lớn không chỉ với sự phát triển của riêng ngành điêu khắc mà còn là bước tiến lớn của nghệ thuật nude khi mang đến chiều sâu cảm xúc cho các tác phẩm. Khoảng giữa thế kỷ IV trước Công Nguyên, một trong những điêu khắc gia nổi bật của nghệ thuật Hy Lạp La Mã cổ đại Praxiteles cho ra đời bức tượng khắc họa nữ thần sắc đẹp Aphrodite trong trạng thái hoàn toàn khỏa thân mang tên “Knidian”, mở đầu một truyền thống mới cho những tác phẩm phụ nữ khỏa thân với các tỷ lệ vàng, mà sau này cũng dần được áp dụng trong các bức tượng nam. Thay vì cá thể hóa với những đặc điểm riêng trong từng tác phẩm, tất cả các bức tượng đều có các bộ phận cơ thể tuân theo những tỷ lệ nhất định, đã được xây dựng sẵn từ các phép tính toán học chính xác. Sự áp dụng các tỷ lệ một cách công thức như vậy đã hệ thống hóa cả một dòng chảy nghệ thuật nude thời kỳ Hy Lạp – La Mã cổ đại, tất cả xoay quanh ý tưởng về những hình tượng hoàn hảo, được lý tưởng hóa, đại diện cho tuổi trẻ và sức mạnh, dựa trên cấu trúc hình học rõ ràng và sự cân bằng hữu cơ. Điều đáng chú ý là trong khi thể hình chung của cơ thể rất ấn tượng với các chi và cơ bắp đặc tả một cách hoàn hảo và lý tưởng, riêng bộ phận sinh dục lại chỉ được miêu tả rất sơ sài với kích thước nhỏ. Kenneth Clark đã nhận định về sự lý tưởng hóa này như một điểm nhấn chủ đạo làm nên nghệ thuật nude đích thực, đối lập với những hình ảnh được mô tả theo hướng chi tiết, thực tế mà ông cho rằng đơn thuần chỉ là “naked” (lõa lồ) một cách sống sượng. Sự nhấn mạnh của Clark vào cách thức lý tưởng hóa ấy chỉ ra một vấn đề then chốt và cốt lõi của nghệ thuật khỏa thân vẫn luôn tồn tại: dù là được lảng tránh một cách khéo léo hay khai thác tối đa vào sau này: tính khêu gợi và quyến rũ. Dù phương thức thế nào đi chăng nữa thì nghệ thuật khỏa thân cuối cùng vẫn là những khuấy đảo trong tâm trí cũng như đam mê. Với thái độ hoài nghi về giá trị đích thực của cơ thể con người, trong khi đề cao giá trị của trinh tiết và thủy chung, người Cơ đốc giáo không hề ủng hộ những khắc họa khỏa thân trong các tác phẩm nghệ thuật, kể cả những tác phẩm bình dân, không gắn liền với tôn giáo hay vấn đề tâm linh. Công thức hoàn mỹ từ thời kỳ Hy Lạp – La Mã cho đến thế kỷ XIII – XIV ở châu Âu đã hầu như biến mất, những hình ảnh khỏa thân lại được chuyển thành biểu tượng của nỗi nhục nhã, hổ thẹn và tội lỗi, của sự yếu đuối và mất khả năng tự vệ của con người. Ví dụ tiêu biểu cho sự biến chuyển này phải kể đến tác phẩm “Last Judgement” của Stefan Lochner trong đó loài người là nhân vật duy nhất khỏa thân. Ngoại lệ duy nhất khi nói đến yếu tố khỏa thân trong các tác phẩm nghệ thuật tôn giáo Trung cổ chính là sự khắc họa hình tượng chúa Jesu trong những nỗi khổ hình, đặc biệt là khi bị đóng đinh trên cây thánh giá và cả giây phút lên thiên đàng, sự khỏa thân cho phép lột tả và nhấn mạnh những vết thương, nỗi đau mà người đã phải trải qua.
Nghệ thuật khỏa thân
Khỏa thân là một truyền thống trong nghệ thuật phương Tây, và đã được sử dụng để thể hiện lý tưởng về vẻ đẹp nam và nữ và các phẩm chất khác của con người. Đó là mối bận tâm trung tâm của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, và sau một thời gian nửa ngủ đông ở thời Trung cổ đã trở lại vị trí trung tâm trong nghệ thuật phương Tây với thời Phục hưng. Các vận động viên, vũ công và chiến binh được miêu tả để thể hiện năng lượng và cuộc sống của con người, và những người khỏa thân trong nhiều tư thế khác nhau có thể thể hiện những cảm xúc cơ bản hoặc phức tạp như các pathos. Ở một khía cạnh nào đó, khỏa thân là một tác phẩm mỹ thuật có chủ đề chính là cơ thể con người không mặc quần áo, tạo thành một thể loại nghệ thuật chủ đề, giống như phong cảnh và tĩnh vật. Những nhân vật không mặc quần áo cũng thường đóng một vai trò trong các loại hình nghệ thuật khác, chẳng hạn như tranh lịch sử, bao gồm nghệ thuật ngụ ngôn và tôn giáo, chân dung hoặc nghệ thuật trang trí.
Phong trào sinh viên Hoa Hướng Dương (còn được gọi là Phong trào 318 (318學運 - 318 Xué yùn), là sự kiện sinh viên Đài Loan biểu tình và chiếm tòa nhà của Lập pháp viện (Quốc hội). Cuộc biểu tình bắt đầu vào ngày 18 tháng 3 năm 2014, từ chiếm Lập pháp viện và sau đó là lan sang cả Hành chính viện Trung Hoa Dân Quốc. Các sinh viên bày tỏ sự phản đối việc ký kết và thông qua Hiệp định Thương mại Dịch vụ xuyên eo biển giữa Đài Loan và Trung Quốc, của Quốc Dân Đảng (Đảng cầm quyền) tại Lập pháp viện mà không cần xem xét những điều khoản theo như thỏa hiệp trước đây của hai chính đảng. Những người biểu tình có ý thức rằng hiệp định thương mại và dịch vụ này ký kết với Trung Quốc sẽ gây ra tổn thương đối với nền kinh tế của Đài Loan và khiến hòn đảo này trở nên dễ dàng bị áp lực chính trị từ Bắc Kinh. Phong trào đánh dấu lần đầu trong lịch sử của Trung Hoa Dân Quốc, cơ quan lập pháp bị người dân biểu tình chiếm đóng. Tờ BBC bình luận rằng phong trào có thể là quá trình dân chủ hóa rộng hơn của Đài Loan, với sự an toàn cho phép nhân dân, không phải đảng chính trị, quyết định vận mệnh của hòn đảo này. Tòa nhà Associated Press tại Thành phố New York Associated Press (tiếng Anh của "Liên đoàn Báo chí", viết tắt AP), là một thông tấn xã của Hoa Kỳ lớn nhất trên thế giới. Đài Bắc (Hán Việt: Đài Bắc thị; đọc theo IPA: tʰǎipèi trong tiếng Phổ thông) là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc (THDQ, thường gọi là "Đài Loan") và là thành phố trung tâm của một vùng đô thị lớn nhất tại Đài Loan. Trung Hoa Dân Quốc là một chính thể quốc gia cộng hòa lập hiến tại Đông Á, ngày nay do ảnh hưởng từ lãnh thổ thống trị và nhân tố chính trị nên trong nhiều trường hợp được gọi là Đài Loan hay Trung Hoa Đài Bắc. Dân chủ Tiến bộ Đảng (tiếng Anh: Democratic Progressive Party) thường được gọi tắt là Dân Tiến Đảng (DPP; 民進黨) là một chính đảng tại Đài Loan, và là đảng chiếm ưu thế trong Phiếm Lục. Ân xá Quốc tế, hoặc Tổ chức Ân xá Quốc tế (tiếng Anh: Amnesty International, viết tắt AI) là một tổ chức phi chính phủ quốc tế, đặt ra mục đích bảo vệ tất cả quyền con người đã được trịnh trọng nêu ra trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và các chuẩn mực quốc tế khác. Bắc Kinh, là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và là một trong số các thành phố đông dân nhất thế giới với dân số là 20.693.000 người vào năm 2012. BBC (viết tắt cụm từ tiếng Anh: British Broadcasting Corporation, phát âm như bi-bi-xi) là thông tấn xã quốc gia của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Giang Nghi Hoa (tiếng Trung Quốc: 江宜樺; bính âm: Jiāng Yíhuà, sinh ngày 18 tháng 11 năm 1960) là một chính trị gia người Đài Loan. Mặt tiền Hành chính viện Hành chính Viện là nhánh hành pháp của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Hướng dương (hay còn gọi là hướng dương quỳ tử, thiên quỳ tử, quỳ tử, quỳ hoa tử) là loài hoa thuộc họ Cúc (Asteraceae), có tên khoa học là Helianthus annuus. Lập pháp Viện là cơ quan lập pháp cao nhất của Trung Hoa Dân Quốc, tức Quốc hội. Tân Đài tệ (nghĩa là Tiền Đài Loan mới, mã tiền tệ TWD và viết tắt thông thường là NT), hay đơn giản là Đô la Đài Loan (臺幣) (Đài tệ), là đơn vị tiền tệ chính thức của Trung Hoa Dân Quốc bên trong lãnh thổ Đài Loan, và các đảo Bành Hồ, Kim Môn, và Mã Tổ kể từ năm 1949. Tân Hoa Xã (tiếng Hán: 新華社, tiếng Anh: Xinhua News Agency) là hãng thông tấn chính thức của chính phủ Trung Quốc và là trung tâm thu thập thông tin lớn nhất, cơ quan ngôn luận lớn nhất của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bản đồ về mức độ tham nhũng tại các quốc gia trên thế giới - màu đỏ chỉ mức độ trầm trọng theo các báo cáo năm 2010 Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International - TI), tham nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân. Trung Quốc, tên chính thức là nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, là một quốc gia có chủ quyền nằm tại Đông Á. Đây là quốc gia đông dân nhất trên thế giới, với số dân trên 1,405 tỷ người. Trung Quốc là quốc gia độc đảng do Đảng Cộng sản cầm quyền, chính phủ trung ương đặt tại thủ đô Bắc Kinh. Chính phủ Trung Quốc thi hành quyền tài phán tại 22 tỉnh, năm khu tự trị, bốn đô thị trực thuộc, và hai khu hành chính đặc biệt là Hồng Kông và Ma Cao. Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng tuyên bố chủ quyền đối với các lãnh thổ nắm dưới sự quản lý của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), cho Đài Loan là tỉnh thứ 23 của mình, yêu sách này gây tranh nghị do sự phức tạp của vị thế chính trị Đài Loan. Với diện tích là 9,596,961 triệu km², Trung Quốc là quốc gia có diện tích lục địa lớn thứ tư trên thế giới, và là quốc gia có tổng diện tích lớn thứ ba hoặc thứ tư trên thế giới, tùy theo phương pháp đo lường. Cảnh quan của Trung Quốc rộng lớn và đa dạng, thay đổi từ những thảo nguyên rừng cùng các sa mạc Gobi và Taklamakan ở phía bắc khô hạn đến các khu rừng cận nhiệt đới ở phía nam có mưa nhiều hơn. Trường Giang và Hoàng Hà lần lượt là sông dài thứ ba và thứ sáu trên thế giới, hai sông này bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng và chảy hướng về vùng bờ biển phía đông có dân cư đông đúc. Đường bờ biển của Trung Quốc dọc theo Thái Bình Dương và dài 14500 km, giáp với các biển: Bột Hải, Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông. Lịch sử Trung Quốc bắt nguồn từ một trong những nền văn minh cổ nhất thế giới, phát triển tại lưu vực phì nhiêu của sông Hoàng Hà tại bình nguyên Hoa Bắc. Trải qua hơn 5.000 năm, văn minh Trung Hoa đã phát triển trở thành nền văn minh rực rỡ nhất thế giới trong thời cổ đại và trung cổ, với hệ thống triết học rất thâm sâu (nổi bật nhất là Nho giáo, Đạo giáo và thuyết Âm dương ngũ hành). Hệ thống chính trị của Trung Quốc dựa trên các chế độ quân chủ kế tập, được gọi là các triều đại, khởi đầu là triều đại nhà Hạ ở lưu vực Hoàng Hà. Từ năm 221 TCN, khi nhà Tần chinh phục các quốc gia khác để hình thành một đế quốc Trung Hoa thống nhất, quốc gia này đã trải qua nhiều lần mở rộng, đứt đoạn và cải cách. Trung Hoa Dân Quốc lật đổ triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc là nhà Thanh vào năm 1911 và cầm quyền tại Trung Quốc đại lục cho đến năm 1949. Sau khi Đế quốc Nhật Bản bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản đánh bại Quốc dân Đảng và thiết lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, trong khi đó Quốc dân Đảng dời chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đến đảo Đài Loan và thủ đô hiện hành là Đài Bắc. Trong hầu hết thời gian trong hơn 2.000 năm qua, kinh tế Trung Quốc được xem là nền kinh tế lớn và phức tạp nhất trên thế giới, với những lúc thì hưng thịnh, khi thì suy thoái. Kể từ khi tiến hành cuộc cải cách kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc trở thành một trong các nền kinh kế lớn có mức tăng trưởng nhanh nhất. Đến năm 2014, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt vị trí số một thế giới tính theo sức mua tương đương (PPP) và duy trì ở vị trí thứ hai tính theo giá trị thực tế. Trung Quốc được công nhận là một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và có quân đội thường trực lớn nhất thế giới, với ngân sách quốc phòng lớn thứ nhì. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trở thành một thành viên của Liên Hiệp Quốc từ năm 1971, khi chính thể này thay thế Trung Hoa Dân Quốc trong vị thế thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc cũng là thành viên của nhiều tổ chức đa phương chính thức và phi chính thức, trong đó có WTO, APEC, BRICS, SCO, và G-20. Trung Quốc là một cường quốc lớn và được xem là một siêu cường tiềm năng. do Tôn Trung Sơn và các đồng chí của ông sáng lập và tồn tại cho đến nay, cũng là một trong số các chính đảng sớm nhất tại châu Á. Tiền thân của chính đảng này là đoàn thể cách mạng Hưng Trung hội thành lập tại Hawaii vào năm 1894, sau đó lần lượt cải tổ thành Trung Quốc Đồng minh hội, Quốc dân Đảng và Trung Hoa Cách mệnh Đảng, đến ngày 10 tháng 10 năm 1919 sau khi Tôn Trung Sơn cải tổ thì đổi sang danh xưng hiện tại. Vương Kim Bình (sinh ngày 17 tháng 3 năm 1941 tại trang Lộ Trúc, châu Cao Hùng, Đài Loan thuộc Nhật Bản (nay là Cao Hùng), là một chính trị gia người Đài Loan, hiện ông là Viện trưởng Lập pháp viện, tức Quốc hội Trung Hoa Dân Quốc. Với vai trò là một trong những nhân vật lãnh đạo trong Quốc Dân đảng, ông được coi là một nhân vật ôn hòa. Unionpedia là một bản đồ khái niệm hoặc mạng ngữ nghĩa tổ chức như một bách khoa toàn thư hay từ điển. Nó đưa ra một định nghĩa ngắn gọn của từng khái niệm và mối quan hệ của mình. Đây là một bản đồ tinh thần trực tuyến khổng lồ mà phục vụ như một cơ sở cho các sơ đồ khái niệm. Đó là miễn phí để sử dụng và mỗi bài viết hoặc tài liệu có thể được tải về. giấy tờ, báo cáo, dự án, ý tưởng, tài liệu, khảo sát, tổng kết, hoặc luận án.
Phong trào sinh viên Hoa Hướng Dương
Phong trào sinh viên Hoa Hướng Dương (giản thể: 太阳花学运; phồn thể: 太陽花學運; Hán-Việt: Thái Dương hoa học vận; bính âm: Tàiyáng huā xué yùn, còn được gọi là Phong trào 318 (318學運 - 318 Xué yùn), là sự kiện sinh viên Đài Loan biểu tình và chiếm tòa nhà của Lập pháp viện (Quốc hội) cũng như gây các tiếng vang lớn mạnh để đảo quyết chống cộng. Cuộc biểu tình bắt đầu vào ngày 18 tháng 3 năm 2014, từ chiếm Lập pháp viện và sau đó là lan sang cả Hành chính viện Trung Hoa Dân Quốc. Các sinh viên bày tỏ sự phản đối việc ký kết và thông qua Hiệp định Thương mại Dịch vụ xuyên eo biển giữa Đài Loan và Trung Quốc, của Quốc Dân Đảng (Đảng cầm quyền) tại Lập pháp viện mà không cần xem xét những điều khoản theo như thỏa hiệp trước đây của hai chính đảng. Những người biểu tình có ý thức rằng hiệp định thương mại và dịch vụ này ký kết với Trung Quốc sẽ gây ra tổn thương đối với nền kinh tế của Đài Loan và khiến hòn đảo này trở nên dễ dàng bị áp lực chính trị từ Bắc Kinh.
Chủ nghĩa hoài nghi triết học (tiếng Anh: philosophical skepticism) là trường phái tư tưởng triết học xem xét một cách hệ thống và với thái độ phê phán về quan niệm rằng tri thức tuyệt đối và sự xác tín là có thể, nghĩa là câu hỏi liệu các tri thức và nhận thức có đúng hay không và liệu người ta có thể có tri thức thực sự hay không. Chủ nghĩa hoài nghi triết học đối lập với chủ nghĩa giáo điều triết học – trường phái cho rằng có một tập hợp nhất định gồm các khẳng định có căn cứ đích xác, hoàn toàn xác tín và chân thực. định được một cách hợp lý trường phái triết học nào là đúng đắn. Khi tự thừa nhận điều này, cuối cùng ông đã có được sự bình yên nội tâm mà ông đang tìm kiếm. Từ một quan điểm khắc kỷ, Pyrrho đã tìm thấy bình an bằng cách thừa nhận sự thiếu hiểu biết của mình và có vẻ như từ bỏ tiêu chí mà tri thức được thu thập theo đó, đó là lý tính lôgic. Sự thiếu hiểu biết của Pyrrho không phải sự thiếu hiểu biết của trẻ em hay gia súc: nó là một “sự hiểu biết tri thức”, người ta đạt đến nó qua sự giải thích và phơi bày sự thiếu hụt của lý luận lôgic. Trường phái tư tưởng này ban đầu được phát triển để đối lập với cái được xem là chủ nghĩa giáo điều, hay các khẳng định thiếu cơ sở, của những người theo chủ nghĩa khắc kỷ. Những người theo thuyết của Pyrrho phân biệt rõ ràng giữa “là” và “có bề ngoài là” và giữa sự nhận thức về một hiện tượng và chính hiện tượng đó. Thực ra, Pyrrho và trường phái của ông không hoài nghi. Mục đích của họ là αταραξια (sự bình yên trong tâm thức), và so sánh giữa các triết lý giáo điều để làm suy giảm niềm tin vào toàn bộ hệ thống triết học. Ý tưởng là để tạo ra trong sinh viên một trạng thái thù nghịch với cái mà những người theo thuyết Pyrrho cho là những điều lảm nhảm độc đoán và không hợp lý. Do không ai có thể. quan sát hay trải nghiệm luật nhân quả, thế giới bên ngoài, mục đích tối cao của vũ trụ hay sự sống, công lý, sự thần thánh, linh hồn, v.v. họ tuyên bố rằng không nhất thiết phải tin vào những thứ đó. Những người theo thuyết Pyrrho chỉ ra rằng, mặc dù khẳng định về những khái niệm đó là cần thiết, nhưng những người không biết về chúng vẫn sống ổn thỏa trước khi được học về chúng. Họ còn ghi nhận rằng vì mục đích thực nghiệm, khoa học không đòi hỏi niềm tin, và đức tin vào các thực tại có thể nhận thức được bằng trí óc không phải các quy ước giáo điều. Đối với mỗi khái niệm trực quan, (ví dụ sự tồn tại của một thế giới bên ngoài), những người Pyrrho trích dẫn một quan niệm đối lập để phủ định nó. Họ bổ sung rằng sự đồng thuận không hàm ý chân lý hay thậm chí cả xác suất. Ví dụ, nếu Trái Đất hình tròn thì nó sẽ mãi là hình tròn kể cả khi tất cả mọi người tin rằng nó phẳng. Các nhà tư tưởng sau này đã lấy cách tiếp cận của Pyrrho và mở rộng nó thành chủ nghĩa hoài nghi hiện đại. Phật giáo đem lại một nguồn dồi dào cho chủ nghĩa hoài nghi mà nó ít được biết đến tại phương Tây. Tuy nhiên, nó có khác biệt lớn đối với chủ nghĩa hoài nghi triết học phương Tây tại một số điểm:. Người ta nói rằng, khi giác ngộ, Phật đã chạm xuống mặt đất để nó có thể chứng kiến sự giác ngộ của Phật. Theo cách đó, Phật giáo không cho rằng tri thức là không thể đạt được. So với chủ nghĩa hoài nghi triết học phương Tây, Phật giáo ít nhấn mạnh vào chân lý và tri thức hơn. Thay vào đó, nó nhấn mạnh mục đích của Bồ đề, cái tuy thường được dịch là “giác ngộ” nhưng không hàm ý chân lý hay tri thức. Ít nhất trong các tác phẩm của Long Thụ – những gì đã tạo nên cốt lõi của Trung quán tụng, khía cạnh phản-bản chất luận (anti-essentialist) của Phật giáo đã làm cho nó trở nên phản-triết học. Trong thái độ đó, chân lý chỉ tồn tại bên trong các ngữ cảnh khẳng định nó. Do đó, ví dụ, tuy các trò chơi hợp tác như các đóng góp của khoa học cho công nghệ có thể có thu được lợi ích, nhưng về mức độ “đúng đắn một cách bản chất”, chúng không hơn không kém các quan niệm và tư tưởng của những người Azande, một dân tộc sống ở phía bắc Trung Phi, những người luôn tư duy theo kiểu thần bí. Chủ nghĩa hoài nghi có quan hệ với lĩnh vực nhận thức luận, hay câu hỏi về chuyện tri thức có thể đạt được hay không. Những người hoài nghi chủ nghĩa tranh luận rằng niềm tin vào cái gì đó không chứng minh được một khẳng định của tri thức về cái đó. Ở đây, chủ nghĩa hoài nghi đối lập với duy bản luận (foundationalism) – luận thuyết cho rằng phải có các niềm tin căn bản nào đó. đã được chứng minh mà không cần viện dẫn đến các niềm tin khác.Các nhà hoài nghi chủ nghĩa khẳng định rằng các cảm giác mà một cá nhân bất kỳ trải nghiệm không nhất thiết giống với các cảm giác mà những người khác trải nghiệm. Nếu ta giả thiết rằng duy bản luận là đúng, thì ta có các niềm tin căn bản; và để là căn bản, các niềm tin căn bản của ta phải được chứng minh bằng cái gì đó không phải là một niềm tin; vậy cái gì chứng minh chúng? Hoạt động của các quá trình nhận thức thông thường như nhìn thấy, nhớ lại, cảm thấy, suy tưởng…? Khi ta nhớ lại một điều gì đó, việc đó cho ta một lý do tuyệt vời để tin vào cái mình đang nhớ lại. Không phải trong mọi trường hợp, nhưng thường thì ta không thể nghĩ ra lý do gì để tin rằng ký ức cụ thể đó là sai, nhất là khi ký ức đó sinh động. Nhưng dù sao, nếu ta dùng ký ức để chứng minh cho các niềm tin thì ký ức của ta phải đáng tin cậy. Tương tự với tri giác, nếu sự kiện rằng ta đang có vẻ nhìn thấy một cái gì đó làm cho việc ta tin rằng thực sự có cái đó được chứng minh, thì ta phải giả thiết rằng tri giác đó đáng tin cậy. Nếu nó không đáng tin cậy – nghĩa là nếu nó thường cho ta thông tin sai – thì ta không thể nói rằng ta được chứng thực chỉ dựa trên việc sử dụng tri giác. Chủ nghĩa hoài nghi thế giới bên ngoài (External world skepticism) là quan niệm rằng không thể biết gì về thế giới bên ngoài hay sự tồn tại của nó, dựa trên giả thuyết rằng năng lực tri giác là không đáng tin cậy. David Hume đưa ra một luận cứ về lý do tại sao người ta muốn đặt câu hỏi về sự đáng tin cậy của tri giác. Về căn bản, luận cứ của Hume nói rằng ta không thể biết gì về thế giới bên ngoài, vì để biết điều đó, ta sẽ phải biết rằng có một mối liên hệ giữa dữ liệu cảm giác của ta và thế giới bên ngoài mà chúng được cho là đại diện cho nó. Nhưng điều duy nhất mà ta có liên hệ với là dữ liệu cảm giác của ta; ta không bao giờ có thể biết gì trong thế giới bên ngoài trừ khi biết dữ liệu cảm giác của ta. Nhưng khi đó ta không có cách nào chứng minh mối liên quan giữa dữ liệu cảm giác của ta và thế giới bên ngoài. Do đó, ta không có cách nào để chứng minh rằng dữ liệu cảm giác của ta đại diện cho thế giới bên ngoài — và “điều đó” có nghĩa rằng ta không có cách nào để chứng minh tri giác là đáng tin cậy. Bên cạnh luận cứ của Hume về chủ nghĩa hoài nghi thế giới bên ngoài, còn có một luận cứ khác nổi tiếng hơn. Đó là sự nghi ngờ mơ nổi tiếng của Descartes với nội dung như sau: một buổi tối, Descartes đang ngồi viết trong phòng mình, và ông thầm nghĩ: Nếu như ta đang nằm ngủ trên giường và chỉ đang mơ rằng ta đang thức và đang viết thì sao? Ít nhất thì điều đó có thể xảy ra hay không? Rồi ông nói, chắc chắn ta có thể phân biệt giữa khi đang thức và đang ngủ. Ta có thể phân biệt giữa trạng thái tỉnh táo và một giấc mơ. Trong các giấc mơ xảy ra đủ loại thứ kỳ lạ; khi mơ ta chuyển từ cảnh này sang cảnh khác một cách không giải thích được, khi mơ ta không nhớ những gì đã xảy ra trong ngày, vân vân. Rồi Descartes nói: chẳng phải ta đã có chính những suy nghĩ này trong một giấc mơ nào đó hay sao? Đôi khi, trong khi đang mơ, ta tin rằng ta đang thức! Thậm chí trong mơ ta còn cố thử xem đang mơ hay tỉnh, và kết quả kiểm tra đó làm ta tin rằng mình đang thức! Nhưng ta đã sai; khi đó ta đang mơ. Chẳng phải cũng có thể chính điều đó đang xảy ra với ta “ngay lúc này” sao? Chẳng phải cũng có thể ta đang mơ rằng ta có thể kiểm tra xem mình đang thức hay ngủ – và tất nhiên, trong giấc mơ ta đã thấy kết quả kiểm tra là đang thức. Do đó, có vẻ rất rõ ràng rằng hiện ta đang thức – nhưng trong thực tế, ta đang “ngủ” chăng?. Descartes tự nhủ: ta đoán là “không có” một dấu hiệu hay kiểm tra nào chắc chắn mà ta có thể dùng để phân biệt giữa hai trạng thái thức và ngủ. Dù gì thì ta cũng có thể nằm mơ chính những kiểm tra đó. Ta đã có kinh nghiệm về việc cho rằng ta đã thử thành công rằng mình đang thức trong khi thực ra ta lại đang mơ. Do đó, không có một cách nào để chứng minh rằng hiện giờ ta đang thức. Tất cả những gì ta “thực sự” biết đó là hiện giờ ta có thể đang thức, cũng có thể đang ngủ. Giờ ta xem xét luận cứ trên một cách chi tiết. Trước hết, tại sao Descartes cho rằng ông không biết rằng mình đang thức và đang viết? Ông ta có thể đang ngủ. Đâu là sự khác biệt? Sự khác biệt đó là nếu ông ta đang ngủ thì “năng lực tri giác cảm giác sẽ không đáng tin cậy”. Nói cách khác, nếu ông đang ngủ, ông sẽ có vẻ đang nhìn thấy, cảm thấy và nghe thấy nhiều thứ; nhưng trên thực tế là không có những hoạt động đó. Trong trường hợp đó, tất nhiên, năng lực tri giác của ông “sẽ” không đáng tin cậy. Nhưng Descartes đã đi xa hơn thế: ông có vẻ như đang nói rằng do ông “có thể” đang mơ, do ông không thể loại bỏ giả thuyết rằng ông hiện đang mơ, điều đó cũng có nghĩa rằng năng lực tri giác của ông không đáng tin cậy. Đối với nhiều người, quan niệm của Descartes có vẻ ngớ ngẩn. Đa số đơn giản là cảm thấy rằng tất nhiên là họ có thể biết chắc rằng họ hiện không nằm mơ. Tuy nhiên, ở đây Descartes có thể trả lời rằng có thể ta có thể, nhưng cũng có thể là ta chỉ đang “mơ” là ta có thể phân biệt được mà thôi. Nếu ta nói rằng ta “có thể phân biệt giữa thức và ngủ, thì ta đang giả thiết rằng ta đang thức, trong trường hợp đó, ta đang lập luận lòng vòng (begging the question) để đối lại thái độ hoài nghi. Một kiểu phản đối theo nhận thức thông thường (common sense) trước luận cứ của Descartes là lập luận rằng người ta có thể biết rằng khả năng tri giác-cảm giác của mình là đáng tin cậy theo cách sau: Khi ta nhìn thấy cái gì đó, chẳng hạn một con bò đang nhai cỏ, ta có thể đến gần con bò, chạm vào nó, nghe tiếng động của nó, dựa vào nó, v.v. Điều đó khẳng định rằng người ta đang thực sự nhìn thấy con bò. Cũng theo cách đó, khi người ta nghe thấy cái gì đó, chẳng hạn một đoàn diễu hành ngoài phố, ta có thể bước ra ngoài và quan sát đoàn diễu hành, nói chuyện với những người diễu hành, v.v. Điều đó khẳng định rằng ta nghe thấy đoàn diễu hành ở bên ngoài. Trong suốt đời người, con người đã có nhiều trải nghiệm kiểu này đến mức, về thực tiễn mà nói, họ dám chắc rằng năng lực tri giác của họ có làm việc, và nói chung là nó đáng tin cậy. Thái độ hoài nghi của Descartes sẽ trả lời luận cứ trên theo cách tương tự với phản đối trước: Ta có thể chỉ đang “mơ” rằng ta đang sờ thấy, nghe thấy, và dựa vào con bò. Đoàn diễu hành có thể chỉ là một phần của một giấc mơ. Cũng như vậy, ta có thể chỉ đang mơ rằng năng lực tri giác của ta nói chung là đáng tin cậy. Nếu ta tranh cãi rằng không phải ta đang mơ vì năng lực tri giác của ta là đáng tin cậy, thì lại một lần nữa, ta đang lập luận lòng vòng. Để tránh lập luận lòng vòng, trước hết, ta phải thiết lập được rằng ta hiện đang thức, và điều đó là bất khả. Do đó, ta không thể biết được năng lực tri giác của mình có đáng tin cậy hay không. Ngoài ra, một người hoài nghi sắc sảo hơn có thể có một nhận xét khác về chuyện nhìn thấy con bò và nghe thấy đoàn diễu hành. Bởi vì dù sao thì chẳng phải ta “đang dùng” tri giác cảm giác để cố gắng tranh cãi rằng năng lực tri giác của ta nói chung là đáng tin cậy hay sao? Nghĩa là, ta sử dụng thị giác và các giác quan khác để chứng minh rằng thị giác của ta hoạt động tốt; ta sử dụng thính giác và các giác quan khác để chứng minh rằng thính giác của ta tốt. Và ta không thể tránh việc đó được. Sẽ rất kỳ quặc khi cố tranh luận rằng các giác quan của ta đáng tin cậy mà không dùng đến chính các giác quan đó (dù một số triết gia đã thử làm việc đó).
Chủ nghĩa hoài nghi
Chủ nghĩa hoài nghi triết học (tiếng Anh: philosophical skepticism) là trường phái tư tưởng triết học xem xét một cách hệ thống và với thái độ phê phán về quan niệm rằng tri thức tuyệt đối và sự xác tín là có thể, nghĩa là câu hỏi liệu các tri thức và nhận thức có đúng hay không và liệu người ta có thể có tri thức thực sự hay không. Chủ nghĩa hoài nghi triết học đối lập với chủ nghĩa giáo điều triết học - trường phái cho rằng có một tập hợp nhất định gồm các khẳng định có căn cứ đích xác, hoàn toàn xác tín và chân thực. Truyền thống phương Tây về chủ nghĩa hoài nghi một cách có hệ thống có nguồn gốc ít nhất từ thời Pyrrho xứ Elis. Ông bận tâm đến những bất đồng ý kiến trong tất cả các trường phái triết học thời ông, trong đó có cả triết học khắc kỷ (Stoicism) của chính ông. định được một cách hợp lý trường phái triết học nào là đúng đắn. Khi tự thừa nhận điều này, cuối cùng ông đã có được sự bình yên nội tâm mà ông đang tìm kiếm.
Đã qua tuổi 400, lưu giữ 9 bia đá ghi danh 161 vị đại khoa, Văn miếu Xích Đằng khiêm nhường đằng sau hai cây gạo đại thụ cũng ngót ngét tuổi của văn miếu này. Dù chỉ cách Hà Nội khoảng 1 giờ đi xe, nhưng sự nổi tiếng của Văn miếu Quốc Tử Giám đã khiến nhiều người không biết đến sự tồn tại của Văn miếu Xích Đằng ở thành phố Hưng Yên, nơi có gần chục bia đá, hai tháp chuông và khánh cùng nhiều bức đại tự có tuổi đời gần nửa thế kỷ. Văn miếu Xích Đằng tọa lạc tại đường Lê Quý Đôn, phường Lam Sơn, cách trung tâm thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên khoảng 1,5km về phía Bắc. Toàn bộ khuôn viên Văn miếu có diện tích rộng gần 6ha, mặt quay hướng Nam nhìn về đầm Vạc, phía Tây là hồ Văn, thờ Khổng Tử và nhà giáo triều Trần Chu Văn An. Đường dẫn vào Văn miếu có hai cây gạo đã hàng trăm tuổi, bên dưới là tượng hai con nghê đá được làm từ thế kỷ 18. Hàng cây xanh hai bên lối đi dẫn thẳng vào cổng tam quan hay còn gọi là Nghi môn, dựng theo kiến trúc chồng diêm, 2 tầng 8 mái có lầu gác, hai bên có hai bục loa dùng xướng danh sĩ tử và thông báo quy định trong các kỳ thi hương ngày trước. Lầu trống ở Văn miếu Xích Đằng là lầu chuông và lầu khánh, cũng chính là điểm khác biệt so với Văn miếu Quốc Tử Giám ở Hà Nội và Văn miếu Mao Điền ở Hải Dương. Cả chuông và khánh đều được đúc bằng đá từ thế kỷ 18. Qua Nghi môn, phía trong là sân rộng, giữa sân là đường thập đạo, hai bên sân ngoài lầu chuông và lầu khánh là hai dãy tả vu, hữu vu hiện dùng trưng bày hình ảnh và hiện vật liên quan đến giáo dục và các di tích lịch sử của tỉnh Hưng Yên. Khu nội tự văn miếu có kết cấu kiến trúc kiểu chữ Tam, gồm tiền tế, trung từ và hậu cung, kiến trúc giống nhau, được làm theo kiểu vì kèo trụ trốn. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng thiềm địa ốc”. Bên trong nội tự là các đại tự, câu đối, cửa võng, trụ cột, kèo được sơn son thếp vàng. Ngoài các đồ thờ tự, hiện vật quý giá nhất trong văn miếu còn lưu giữ đến nay là 9 bia đá ghi tên tuổi, quê quán, chức vụ của 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam thượng xưa, 138 vị quê Hưng Yên, 23 vị ở Thái Bình. Học vị cao nhất được ghi danh ở các bia đá là trạng nguyên Tống Trân, thời nhà Trần, trạng nguyên Nguyễn Kỳ, triều nhà Mạc, trạng nguyên Dương Phúc Tư, triều nhà Lê. Chức vụ cao nhất được biết đến là tiến sĩ Lê Như Hổ, quận công triều nhà Mạc. Văn miếu Xích Đằng đã có lần là trường thi của khoa thi Hương, là nơi sát hạch học trò để đi thi Hương. Nhà bác học Lê Quý Đôn, đã dự kỳ thi hương ở Hưng Yên hồi ấy. Từ điển Địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam của Nguyễn Như Ý và Nguyễn Thành Chương có viết Văn miếu Xích Đằng là 1 trong 6 văn miếu còn tồn tại trong cả nước, là một trong hai văn miếu lâu đời nhất chỉ sau văn miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội. Văn miếu Xích Đằng được khởi dựng từ thế kỷ 17, thời hậu Lê, quy mô ban đầu còn nhỏ, đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), triều Nguyễn, được xây dựng lại có quy mô như hiện nay trên nền của chùa Nguyệt Đường, thuộc địa phận thôn Xích Đằng, nên Văn miếu mới có tên như thế. Tương truyền chùa Nguyệt Đường có 36 nóc, được Hương Hải thiền sư khởi dựng năm 1701, với sự trợ giúp của quan trấn thủ trấn Sơn Nam khi đó là Quận công Lê Đình Kiên. Dấu tích còn lại đến ngày nay của ngôi chùa là 2 mộ tháp đá Phương Trượng Tháp và Tịnh Mãn Tháp. Năm 1992, Văn miếu Xích Đằng được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá quốc gia.
Văn miếu Xích Đằng
Văn miếu Xích Đằng hay còn gọi là Văn miếu Hưng Yên là một di tích quan trọng trong quần thể di tích Phố Hiến. Văn miếu Xích Đằng là văn miếu thuộc hàng tỉnh, được xây dựng vào khoảng năm 1701, hiện tại thuộc địa phận thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Văn miếu thờ Khổng Tử người sáng lập đạo Nho và thờ Vạn thế sư biểu Chu Văn An - nhà sư phạm tài năng đức độ thời Trần. Xưa kia, Văn Miếu là nơi tổ chức các cuộc thi Hương và sát hạch thí sinh đi dự kì thi Hương. Vào mỗi dịp xuân thu nhị kỳ, nơi đây còn tổ chức tế lễ. Chủ tế là các quan đầu tỉnh cùng chức sắc, nho sinh. Nơi đây cũng thường xuyên tổ chức các cuộc thi bình văn, thơ của nho sĩ yêu nước. Văn miếu Xích Đằng có tên như vậy vì được xây dựng trên đất làng Xích Đằng, xưa kia là văn miếu của trấn Sơn Nam căn cứ vào khánh, chuông còn lại ở văn miếu. Hệ thống quần thể di tích Văn miếu Xích Đằng đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử năm 1992.
Lực ly tâm, người ta cho rằng đó là “một lực hư cấu, đặc biệt đối với một hạt chuyển động trên đường tròn, lực này có cùng độ lớn và kích thước với lực giữ cho hạt trên đường tròn của nó (lực hướng tâm) nhưng theo hướng ngược lại”. Nhưng thực sự là sao? Bài viết này sẽ giúp bạn làm sáng tỏ vấn đề!. “Nếu một vật chuyển động tròn và chịu tác dụng của một lực hướng ra ngoài lớn hơn lực này được gọi là lực li tâm. Tuy nhiên, lực còn phụ thuộc vào khối lượng của vật, khoảng cách từ tâm của vòng tròn và cả tốc độ quay. Nếu vật có khối lượng càng lớn thì lực chuyển động và vận tốc của vật càng lớn. Nếu khoảng cách xa tâm của đường tròn thì lực của chuyển động sẽ nhiều hơn. Lực ly tâm là lực sinh ra từ quán tính của cơ thể và tác dụng lên một vật thể đang chuyển động theo đường tròn hướng ra xa tâm xung quanh mà cơ thể đang chuyển động.”. Đơn vị lực ly tâm là Newton. Lực ly tâm đẩy vật ra xa tâm. Đó là một lực không được xem là thực. Lưu ý rằng trong khi lực hướng tâm là một lực thực tế, thì lực ly tâm được định nghĩa là một lực biểu kiến. Nói cách khác, khi quay một khối lượng trên một sợi dây, sợi dây tác dụng một lực hướng tâm vào trong khối lượng, trong khi khối lượng xuất hiện một lực ly tâm hướng ra bên ngoài lên sợi dây. Trong tiếng Anh lực ly tâm được hiểu với cụm từ hay thuật ngữ: “Centrifugal Force”. Và chúng thường đi theo kèm với một lực nữa gọi là lực hướng tâm với thuật ngữ “Centripetal Force”. Công thức lực ly tâm được đưa ra dưới dạng tích âm của khối lượng (tính bằng kg) và vận tốc tiếp tuyến (tính bằng mét trên giây) bình phương, chia cho bán kính (tính bằng mét). Điều này ngụ ý rằng khi tăng gấp đôi vận tốc tiếp tuyến, lực hướng tâm sẽ tăng lên gấp bốn lần. Về mặt toán học, nó được viết là:. Lực hướng ra ngoài biểu kiến này, hay còn gọi là lực ly tâm được mô tả bằng Định luật chuyển động của Newton. Định luật thứ nhất của Newton phát biểu rằng “một vật thể ở trạng thái nghỉ sẽ vẫn ở trạng thái nghỉ, và một vật thể đang chuyển động sẽ vẫn chuyển động trừ khi nó bị tác động bởi một ngoại lực.”. Nếu một vật thể khối lượng lớn đang chuyển động trong không gian theo một đường thẳng, quán tính của nó sẽ khiến nó tiếp tục theo một đường thẳng trừ khi một lực bên ngoài làm cho nó tăng tốc, giảm tốc độ hoặc đổi hướng. Để nó đi theo một đường tròn mà tốc độ không thay đổi thì phải tác dụng một lực hướng tâm liên tục vuông góc với đường đi của nó. Bán kính (r) của đường tròn này bằng khối lượng (m) nhân với bình phương vận tốc (v) chia cho lực hướng tâm (F),. Cũng giống như trọng lực khiến bạn tác động lên mặt đất, mặt đất dường như tác dụng lực ngang bằng và ngược chiều lên chân bạn. Khi bạn đang ở trong một chiếc ô tô đang tăng tốc, ghế sẽ tác động lên bạn một lực về phía trước cũng giống như bạn có vẻ tác dụng lực lùi lên ghế. Trong trường hợp một hệ quay, lực hướng tâm kéo khối lượng vào trong theo một đường cong, trong khi khối lượng dường như đẩy ra ngoài do quán tính của nó. Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp này, chỉ có một lực thực được tác dụng, còn lực kia chỉ là lực biểu kiến. Vậy lực ly tâm có thể hiểu chính là lực quán tính của lực hướng tâm. Cụ thể hơn, chúng ta xem tiếp phần lý giải “lực quán tính ly tâm” ngay bên dưới!. Một hòn đá quay trong mặt phẳng nằm ngang trên đầu sợi dây buộc vào một cột trên mặt đất đang liên tục đổi hướng vận tốc của nó và do đó có gia tốc đối với cột. Gia tốc này bằng bình phương vận tốc của nó chia cho chiều dài của sợi dây. Theo định luật thứ hai của Newton, gia tốc gây ra bởi một lực, trong trường hợp này là lực căng của sợi dây. Nếu hòn đá đang chuyển động với tốc độ không đổi và bỏ qua trọng lực thì lực căng dây hướng vào trong là lực duy nhất tác dụng lên hòn đá. Nếu sợi dây bị đứt, hòn đá, vì quán tính, sẽ tiếp tục đi theo đường thẳng tiếp tuyến với đường tròn trước đó của nó; nó không di chuyển theo hướng ra ngoài như nếu lực ly tâm là thực. Lực ly tâm là rất thực nếu bạn đang ở trong một hệ quy chiếu quay. Nó làm cho các vật thể trong hệ quy chiếu quay tăng tốc ra khỏi tâm quay. Tuy nhiên, lực ly tâm là một lực quán tính, nghĩa là nó được gây ra bởi chuyển động của chính hệ quy chiếu chứ không phải bởi bất kỳ ngoại lực nào. Trong hệ quy chiếu quay, các định luật Newton có dạng phức tạp hơn, không trực quan. Nhưng các định luật Newton trong khung quay có thể được tạo ra giống như các định luật Newton thông thường nếu chúng ta coi các phần phụ trong phương trình là lực quán tính. Nói cách khác, bản chất trực quan của lực đẩy và lực kéo trong cuộc sống hàng ngày có thể được mở rộng sang hệ quy chiếu quay nếu chúng ta gọi là tác dụng của lực quán tính quay. Lực ly tâm là một trong những lực quán tính này. Andrew A. Ganse, một nhà vật lý nghiên cứu tại Đại học Washington, cho biết: “Sự khác biệt giữa lực hướng tâm và lực ly tâm liên quan đến các ‘hệ quy chiếu’ khác nhau, tức là các góc nhìn khác nhau mà bạn đo lường một thứ gì đó. “Lực hướng tâm và lực ly tâm thực sự là một lực hoàn toàn giống nhau, chỉ ngược chiều nhau vì chúng được trải nghiệm từ các hệ quy chiếu khác nhau.”. Nếu bạn đang quan sát một hệ quay từ bên ngoài, bạn sẽ thấy một lực hướng tâm bên trong tác động để hạn chế vật quay theo một đường tròn. Tuy nhiên, nếu bạn là một phần của hệ thống quay, bạn sẽ trải qua một lực ly tâm rõ ràng đẩy bạn ra khỏi tâm của vòng tròn, mặc dù những gì bạn thực sự cảm thấy là lực hướng tâm bên trong đang ngăn bạn đi theo đúng nghĩa đen. Mặc dù nó không phải là một lực thực theo định luật Newton, nhưng khái niệm lực ly tâm là một lực hữu ích. Trên thực tế có rất nhiều ứng dụng, thiết vị dựa trên nguyên lý của lực ly tâm này. Ví dụ, khi phân tích hoạt động của chất lỏng trong máy tách kem hoặc máy ly tâm, một thiết bị để nghiên cứu hành vi của chất lỏng bằng lực ly tâm; và, để các định luật Newton có thể áp dụng trong hệ quy chiếu quay như vậy, thì lực quán tính hoặc lực ly tâm, bằng và ngược chiều với lực hướng tâm, phải được đưa vào phương trình chuyển động. Lực ly tâm có thể được tăng lên bằng cách tăng tốc độ quay hoặc khối lượng của vật thể hoặc giảm bán kính, là khoảng cách của vật thể từ tâm của đường cong. Tăng khối lượng hoặc giảm bán kính làm tăng lực ly tâm theo tỷ lệ thuận hoặc nghịch, nhưng tăng tốc độ quay thì lực ly tâm sẽ tăng theo tỷ lệ bình phương của tốc độ; nghĩa là, tốc độ tăng lên 10 lần, từ 10 đến 100 vòng/phút, làm tăng lực ly tâm lên 100 lần. Lực ly tâm được biểu thị bằng bội số của g, ký hiệu cho lực hấp dẫn thông thường (nói đúng ra, gia tốc do trọng trường). Một loại cánh bằng đồng có khối lượng hơn 1.000.000.000g đã được sản xuất trong phòng thí nghiệm bằng thiết bị gọi là máy ly tâm. Máy giặt, máy ly tâm làm giàu uranium, và máy ly tâm phòng thí nghiệm sinh học đều phụ thuộc vào thực tế của lực ly tâm. Ngoài ra, trong công nghiệp chế tạo, có một thiết bị vô cùng phổ biến sử dụng lực ly tâm, đó chính là dòng máy bơm ly tâm. Một thiết bị xuất hiện rất nhiều trong đời sống cũng như sản xuất. Qua bài viết này, Thái Khương tin chắc rằng các bạn sẽ nắm rõ được như thế nào là lực ly tâm. Và do đó, dễ dàng tìm hiểu về các dòng thiết bị dùng nguyên lý lực ly tâm này. Đặc biệt là các dòng bơm ly tâm.
Lực ly tâm
Lực li tâm là một lực quán tính xuất hiện trên mọi vật nằm yên trong hệ quy chiếu quay so với một hệ quy chiếu quán tính. Nó là hệ quả của trường gia tốc, xuất hiện trong hệ quy chiếu phi quán tính mà trong trường hợp này là hệ quy chiếu quay. Chúng ta cảm thấy lực này khi ngồi trong xe ô tô đang đổi hướng, hay chơi trò cảm giác mạnh như xe lao tốc độ ở công viên. Lực này được ứng dụng để tạo nên một trường gia tốc giúp phân loại các thành phần trong hỗn hợp vật chất, như máy phân tích ly tâm hay để vắt quần áo trong máy giặt. Trong hệ quy chiếu, khi không có lực gì tác động vào các vật thể, chúng giữ chuyển động thẳng đều, theo định luật 1 Newton. Tuy nhiên chuyển động thẳng đều này lệch với chuyển động quay của hệ quy chiếu quay. Ví dụ về một người ngồi trong xe ô tô đang đổi hướng: nếu không có lực ma sát giữa người và ghế, người sẽ tiếp tục đi thẳng, còn ô tô và ghế đổi hướng. Người bị dịch chuyển, một cách tương đối, lệch khỏi ghế.
Quốc kỳ của 11 nước Đông Nam Á có chung màu gì? Câu trả lời chính xác nhất sẽ khiến bạn vô cùng ngạc nhiên. Quốc kỳ của 11 nước Đông Nam Á có chung màu đỏ. Đó là câu trả lời chính xác nhất. Quốc huy của Brunei được đặt ở phần trung tâm của lá cờ. Mặc dù nó đã được thông qua vào năm 1959, lá cờ đã trở thành quốc kỳ chính thức vào năm 1984 trong thời kỳ độc lập của nó. Quốc kỳ của Brunei có màu chủ đạo là màu vàng thể hiện sự hào phóng và màu trắng tượng trưng cho hòa bình. Ba sọc ngang là dấu hiệu đáng chú ý nhất của quốc kỳ Campuchia. Lá cờ được đóng khung với hai sọc màu xanh lam cùng kích thước đại diện cho hoàng gia, sự hợp tác và thống nhất trong khi màu đỏ nằm ở trung tâm thể hiện sự dũng cảm của dân tộc. Bạn cũng có thể dễ dàng nhận ra ngôi đền ba tháp Angkor Wat với màu đỏ của lá cờ là biểu hiện của tín ngưỡng văn hóa tâm linh của Campuchia. Cả hai màu đỏ và xanh đã được cho là những yếu tố quan trọng trong thời Đế chế Khmer của Campuchia. Đông Timor là quốc gia trẻ nhất trong khu vực, với lá cờ của chính nó đã được thông qua trong sự độc lập, 20 ngày của tháng năm 2002. Đông Timor có màu đỏ chiếm ưu thế trong cờ tượng trưng cho cuộc đấu tranh của tự do hóa, hiện trên khán đài đen đàn áp của thực dân dài kinh nghiệm của đất nước, màu vàng có nghĩa là lịch sử thuộc địa trước đây của nó, và ngôi sao màu trắng là biểu tượng của hòa bình. Lá cờ của Lào đã chính thức thông qua ngày 2 nd tháng Mười Hai năm 1975. Tương tự như Campuchia cờ, nó chiếm ưu thế với màu sắc xanh và đỏ nhưng để đảo ngược. Một điều mà người ta có thể dễ dàng nhận thấy là vòng tròn màu trắng nằm ở giữa lá cờ trên thực tế là hình ảnh thu nhỏ của mặt trăng trên sông Mekong. Màu đỏ ở khung trên và dưới của lá cờ biểu dương sự dũng cảm và đổ máu của cuộc đấu tranh giành tự do của dân tộc, trong khi màu xanh lam tượng trưng cho sự thịnh vượng. Được người Indonesia biết đến rộng rãi với cái tên “Sang Saka Merah Putih” (tạm dịch là Màu đỏ trắng cao cả), quốc kỳ của Indonesia được thông qua vào ngày 17 tháng 8 năm 1945. Tương tự như cờ của Ba Lan và Monaco, màu đỏ thể hiện sự dũng cảm và máu của con người trong cuộc đấu tranh giành độc lập và màu trắng phản ánh tinh thần của con người. Sự kết hợp của những màu này được dựa trên Majapahit Empire trong 13 ngày kỷ mà bao gồm trong chín sọc ngang màu đỏ và trắng. Nếu như Lào lấy biểu tượng trăng tròn chiếu sáng ngay chính giữa lá cờ thì quốc kỳ Malaysia có hình lưỡi liềm ở phần trên bên trái tượng trưng cho tôn giáo của đất nước, cụ thể là đạo Hồi. Màu xanh lam đậm của nó tượng trưng cho sự đoàn kết của các dân tộc và phần còn lại của lá cờ là chủ đạo với mười bốn sọc đỏ và trắng tượng trưng cho 14 bang của Malaysia (Các lãnh thổ liên bang, Malacca, Johor, Penang, Selangor, Negeri Sembilan, Kelantan, Perlis, Perak, Terengganu, Kedah, Pahang, Sabah và Sarawak). Sự thống nhất của một quốc gia đôi khi được thể hiện trên lá cờ của quốc gia đó bằng màu xanh lam. Tuy nhiên, quốc kỳ của Myanmar lại áp dụng nó theo cách khác. Ngôi sao màu trắng ở giữa lá cờ được chọn để đại diện cho sự đoàn kết của các dân tộc, thay vì chọn màu xanh lam. Lá cờ cũng có sọc vàng tượng trưng cho sự đoàn kết, trong khi màu xanh lá cây và màu đỏ lần lượt tượng trưng cho hòa bình và lòng dũng cảm. Lá cờ quốc gia của Myanmar bản thân lần đầu tiên được thông qua ngày 21 st tháng Mười năm 2010. Sự kết hợp tuyệt đẹp giữa ba màu của quốc kỳ Thái Lan bắt nguồn từ câu chuyện về Vua Vajiravudh, nơi ông từng được truyền cảm hứng để tạo ra một lá cờ đối xứng khi ông tránh để lá cờ bị nhìn khác đi khi nó bị treo ngược trong một thảm họa. Tương tự như quốc kỳ của các quốc gia khác, màu đỏ tượng trưng cho lòng dũng cảm và sự đổ máu của dân tộc, màu xanh biểu thị chế độ quân chủ Thái Lan, trong khi màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và tôn giáo của đất nước là Phật giáo. Quốc kỳ Philippines có lẽ là quốc kỳ có nhiều chi tiết thứ hai trong số các quốc gia Đông Nam Á sau Brunei và nó có một ý nghĩa sâu sắc đằng sau lịch sử của nó. Nếu so sánh với của Cuba, người ta có thể dễ dàng nhận thấy sự giống nhau giữa những lá cờ này. Câu chuyện bắt đầu khi Cuba khởi xướng phong trào đòi độc lập và nó phần nào khơi dậy tinh thần của những nhà cách mạng Philippines. Trong khi Cuba có một ngôi sao trên lá cờ của mình, thì Philippines sở hữu mặt trời tám tia tượng trưng cho tám tỉnh của Philippines và ba ngôi sao ở phần cần nâng đại diện cho ba hòn đảo chính của đất nước. Lá cờ Việt Nam được một cách hợp pháp thông qua ngày 30 tháng của tháng mười một năm 1955. Nó có một ngôi sao màu vàng đánh dấu điểm trung tâm để hình ảnh thu nhỏ các loại năm công nhân trong các cấu trúc chủ nghĩa xã hội: thanh niên, công nhân, binh lính, nông dân, và highbrows; với màu vàng để nhân cách hóa con người Việt Nam. Lá cờ ban đầu được sử dụng trong thời kỳ khởi nghĩa chống lại sự cai trị của Pháp vào năm 1940. Đây là lá cờ được thông qua vào năm 1959 khi người Anh trao cho Singapore một chính phủ tự trị nội bộ hoàn toàn. Lá cờ có thể được xem như thể nó kết hợp giữa cờ Indonesia và Malaysia. Quốc kỳ của Singapore có các phần ngang bằng nhau được tô màu đỏ và trắng giống như của Indonesia, với màu đỏ tượng trưng cho tình anh em và màu trắng tượng trưng cho sự tinh khiết. Tương tự như quốc kỳ Malaysia, nó có hình trăng lưỡi liềm là biểu tượng cho vị thế của đất nước với tư cách là một quốc gia trẻ và đang phát triển. Có năm ngôi sao màu trắng được sắp xếp thành một vòng tròn bên cạnh mặt trăng để mô tả dân chủ, hòa bình, tiến bộ, công lý và bình đẳng.
Quốc kỳ Philippines
Quốc kỳ Philippines (tiếng Tagalog: Pambansang Watawat ng̃ Pilipinas) là lá cờ có hai màu xanh dương và đỏ tươi, cùng với một tam giác đều ở bên trái, ở giữa tam giác là hình mặt trời vàng với tám tia sáng, mỗi tia sáng lại bao gồm ba tia nhỏ, những tia nhỏ này đại diện cho các tỉnh của đất nước; ở đỉnh của tam giác là ba ngôi sao năm cánh, mỗi ngôi sao đại diện cho ba đảo chính Luzon, Visayas và Mindanao. Màu trắng là hình ảnh tượng trưng cho bình đẳng và tình đoàn kết, sọc ngang màu xanh là nền hòa bình, sự thật và công lý, và một sọc ngang màu đỏ tượng trưng cho lòng yêu nước và dũng cảm. Ở trung tâm của tam giác màu trắng là một tám-quang vàng mặt trời tượng trưng cho sự thống nhất, tự do, dân chủ của người dân và chủ quyền của quốc gia. Đặc biệt hơn, quốc kỳ nước này sẽ treo ngược (phần màu đỏ lên trên) trong trường hợp đất nước đang có chiến tranh.
Kinh nguyệt là sự kiện sau cùng của một chuỗi dài những diễn biến phức tạp được cơ thể thực hiện với thời gian rất chính xác. Cả tiến trình diễn ra theo một kích bản chi tiết do máy tính bên trong soạn thảo. Chương trình được kiểm tra liên tục, và được cập nhật hóa mỗi tháng. Ở phụ nữ trưởng thành, mỗi tháng âm đạo thường ra máu vài ngày, y học gọi là kinh nguyệt. Như đã giới thiệu ở phần trước, oestrogen được tiết ra trong giai đoạn noãn bào phát dục làm cho niêm mạc tử cung tăng sinh sau khi trứng rụng. Oestrogen, progestagen do hoàng thể tiết ra làm cho ở niêm mạc tử cung đang tăng sinh xuất hiện những thay đổi về nội tiết. Nếu tế bào trứng không được thụ tinh thì khoảng mười bốn ngày sau khi trứng rụng, hoàng thể sẽ thoái hóa, mức độ của oestrogen và progestagen cũng theo đó mà giảm bớt. Niêm mạc tử cung, vì vậy, sẽ trở nên mỏng, mạch máu bị chèn và co thắt, máu huyết không thông, khiến tổ chức niêm mạc bị thiếu máu, hoại tử và rụng, gây chảy máu. Do giai đoạn cuối cùng để noãn bào phát dục cần mười sáu ngày, hoàng thể từ khi bắt đầu hình thành đến khi thoái hóa cũng cần khoảng mười bốn ngày nên hiện tượng bong và chảy máu niêm mạc tử cung sẽ xảy ra một tháng một lần. Do xuất hiện tuần hoàn nên hiện tượng này cũng được gọi là chu kỳ kinh nguyệt. Việc hành kinh, tử cung ra máu là kết quả của sự tăng sinh, thoái hóa và bong rụng niêm mạc tử cung trong tháng trước.Trong từ 3 đến 7 ngày tiếp theo của chu kỳ kinh nguyệt, tất cả những gì còn lại trong 3 tuần qua đều bị tống hết ra ngoài. Tuy nhiên, cơ thể vẫn lạc quan: toàn bộ chương trình sẽ bắt đầu lại vào tháng tới. Để thuận tiện, người ta đều coi ngày hành kinh đầu tiên là ngày đầu tiên của chu kỳ kinh nguyệt tháng hiện tại. Số ngày trong chu kỳ kinh nguyệt sẽ được tính toán từ ngày này. Điều này thay đổi tùy theo thời khóa biểu sinh học của mỗi cô gái. Do đó, không thể nói chính xác được là ở tuổi nào một cô gái bắt đầu có kinh. Thông thường, tuổi bắt đầu thấy kinh nằm trong khoảng từ 6 đến 18 tuổi, nhiều nhất là từ 10 đến 14 tuổi. Đó là chất dịch màu đỏ trôi theo âm đạo trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt, gồm 50% máu được trộn lẫn với những lượng thay đổi gồm chất nhầy và những “cục máu đông”. Cái được gọi là “những cục máu đông” thực chất chỉ là những mảnh tróc ra của niêm mạc tử cung. Chính máu kinh nguyệt lại không đông. Máu kinh chảy ra không thể đông lại được vì nó đã đông rồi. Khi chảy ra khỏi vách tử cung, máu nhanh chóng đông lại. Như thường lệ, chỉ một thời gian ngắn sau khi đông, máu hóa lỏng và lại chảy tự do. Chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ được chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn hình thành nang mạc (từ khi bắt đầu hành kinh đến ngày thứ 14), giai đoạn rụng trứng (24 giờ tiếp theo) và giai đoạn hoàng thể (14 ngày sau). Kết thúc giai đoạn hoàng thể là đến ngày hành kinh, bắt đầu một chu kỳ hình thành nang trứng mới. Một số phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt có thể ngắn hoặc dài hơn nhưng dù sao giai đoạn hoàng thể vẫn luôn là 14 ngày. Do đó, nếu bạn có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn 35 ngày, thì ngày rụng trứng được tính là từ ngày hành kinh đầu tiên ngược lại 14 ngày. Ví dụ, bạn hành kinh vào ngày mùng 1, ngày rụng trứng lùi lại 14 ngày, tức vào ngày 16. Em ra huyết nâu không nhiều lắm tháng trước em có ngày 22/5 thì hôm nay 21/5 lại ra huyết nâu, nhưng từ lúc tắm tới giờ em lại không có nữa. Liệu có phải là biểu hiện kì kinh, trong khi đó em quan hệ với bạn trai em ngày 7/6, đầu dương vật chỉ chạm 10 giây vào âm đạo vì vậy e rất lo biểu hiện ra máu là biểu hiện có thai, vây đây là có thai hay không có ạ. Sau ngày quan hệ 8/6 em có đau lưng hai ngày hết, cps hơi đầy bụng nữa ạ. Nếu như em quan hệ vào ngày 7/6 thì khả năng có thai của em là cao vì đây là ngày mà em rụng trứng nên tinh trùng rất thuận lợi để kết hợp với trứng. Mặc dù em chỉ cho đầu dương vật vào âm đạo khoảng 10s nhưng trong thời gian đó một số tinh trùng ở đầu dương vật cũng có thể đi vào âm đạo được. Nhưng cháu yên tâm trường hợp như này không nhiều, để chắc chắn mình không có thai cháu nên dùng que thử thai để kiểm tra xem, nếu kết quả là 1 vạch thì cháu yên tâm là kinh nguyệt của cháu sẽ mau đến nhưng nếu là 2 vạch thì cháu cần đến bác sĩ khám để kiểm tra lại vì bất kỳ một trường hợp ra máu nào khi có thai là điều không bình thường có thể ảnh hưởng đến thai nhi. Em ra huyết nâu không nhiều lắm tháng trước em có ngày 22/5 thì hôm nay 21/5 lại ra huyết nâu, nhưng từ lúc tắm tới giờ em lại không có nữa. Liệu có phải là biểu hiện kì kinh, trong khi đó em quan hệ với bạn trai em ngày 7/6, đầu dương vật chỉ chạm 10 giây vào âm đạo vì vậy e rất lo biểu hiện ra máu là biểu hiện có thai, vây đây là có thai hay không có ạ. Sau ngày quan hệ 8/6 em có đau lưng hai ngày hết, cps hơi đầy bụng nữa ạ. Nếu như em quan hệ vào ngày 7/6 thì khả năng có thai của em là cao vì đây là ngày mà em rụng trứng nên tinh trùng rất thuận lợi để kết hợp với trứng. Mặc dù em chỉ cho đầu dương vật vào âm đạo khoảng 10s nhưng trong thời gian đó một số tinh trùng ở đầu dương vật cũng có thể đi vào âm đạo được. Nhưng cháu yên tâm trường hợp như này không nhiều, để chắc chắn mình không có thai cháu nên dùng que thử thai để kiểm tra xem, nếu kết quả là 1 vạch thì cháu yên tâm là kinh nguyệt của cháu sẽ mau đến nhưng nếu là 2 vạch thì cháu cần đến bác sĩ khám để kiểm tra lại vì bất kỳ một trường hợp ra máu nào khi có thai là điều không bình thường có thể ảnh hưởng đến thai nhi. Xuất tinh ngoài âm đạo cũng là một biện pháp tránh thai được nhiều người sử dụng vì dễ dàng thực hiện nhưng hiệu quả của nó đem lại không cao nhất là khi 2 cháu quan hệ vào những ngày nguy hiểm như gần tới ngày cháu rụng trứng là giữa chu kỳ kinh nguyệt thì hiệu quả lại càng thấp. Vì trong lúc quan hệ kể cả trước khi xuất tinh thì ở đầu dương vật bạn trai cũng đã có một chút tinh trùng ở đó, trong một số trường hợp lượng tinh trùng tuy ít nhưng lại đủ khỏe để kết hợp với trứng khiến mang thai. Nếu hiện tại cháu đã bị trễ kinh thì cháu nên dùng que thử thai để kiểm tra xem. Có thể hiện tượng trễ kinh là do mang thai nhưng cũng có thể là do cháu quá lo lắng nên gây chậm kinh. Tốt nhất cháu nên kiểm tra bằng que thử thai đi nhé để đỡ phải lo lắng nữa. Nhung hom đó .cháu quan he lần đầu mà chỉ cho dương vật vào 1 ít xong rút ra luôn. Trong lúc quan hệ (kể cả quan hệ lần đầu) thì ở đầu của dương vật bạn nam có khả năng dính một chút tinh trùng mà bạn nam không hề hay biết, trong một số trường hợp tinh trùng đó đủ khỏe để kết hợp với trứng mà khiến mang thai nhất là khi quan hệ vào ngày không an toàn ( là ngày gần thời điểm rụng trứng). Hai cháu quan hệ vào ngày 17 của chu kỳ kinh nguyệt là ngày mà khả năng mang thai sẽ cao. Do đó cháu hoàn toàn có khả năng mai thai. Hiện tại cháu đã chậm kinh 10 ngày rồi thì nên dùng que thử thai để kiểm tra xem có thai không. Nhung hom đó .cháu quan he lần đầu mà chỉ cho dương vật vào 1 ít xong rút ra luôn. Trong lúc quan hệ (kể cả quan hệ lần đầu) thì ở đầu của dương vật bạn nam có khả năng dính một chút tinh trùng mà bạn nam không hề hay biết, trong một số trường hợp tinh trùng đó đủ khỏe để kết hợp với trứng mà khiến mang thai nhất là khi quan hệ vào ngày không an toàn ( là ngày gần thời điểm rụng trứng). Hai cháu quan hệ vào ngày 17 của chu kỳ kinh nguyệt là ngày mà khả năng mang thai sẽ cao. Do đó cháu hoàn toàn có khả năng mai thai. Hiện tại cháu đã chậm kinh 10 ngày rồi thì nên dùng que thử thai để kiểm tra xem có thai không. Ở độ tuổi của cháu quá trình bài tiết hormon sinh dục trong cơ thể chưa ổn định do đó chỉ cần những tác nhân bên ngoài tác động đến cũng có thể làm chu kỳ kinh nguyệt của cháu không đều, nếu ngoài hiện tượng kinh nguyệt không đều này ra cháu không còn một triệu chứng bất thường nào khác thì cháu không cần phải lo lắng nữa, khi cháu lớn hơn vài năm nữa thì chu kỳ kinh nguyệt sẽ ổn định hơn.
Kinh nguyệt
Kinh nguyệt là tập hợp các thay đổi sinh lý lặp đi lặp lại ở cơ thể phụ nữ dưới sự điều khiển của hệ hormone sinh dục và cần thiết cho sự sinh sản. Ở phụ nữ, chu kỳ kinh nguyệt điển hình xảy ra hàng tháng giữa thời kỳ dậy thì và mãn kinh. Trong chu kỳ kinh nguyệt, cơ thể phụ nữ trưởng thành về giới tính phóng thích một trứng (đôi khi 2 trứng, có thể dẫn đến hình thành 2 hợp tử và sinh đôi khác trứng) vào giai đoạn phóng noãn (rụng trứng). Trước khi phóng noãn, nội mạc tử cung, bao phủ bề mặt tử cung, được xây dựng theo kiểu đồng bộ hoá. Sau khi phóng noãn, nội mạc này thay đổi để chuẩn bị cho trứng thụ tinh làm tổ và hình thành thai kỳ. Nếu thụ tinh và thai kỳ không xảy ra, tử cung loại bỏ lớp nội mạc và chu kỳ kinh mới bắt đầu. Quá trình loại bỏ nội mạc được gọi là hành kinh và biểu hiện ra bên ngoài là kinh khi phần nội mạc tử cung và các sản phẩm của máu ra khỏi cơ thể qua âm đạo.
Chu kỳ kinh nguyệt là gì ? Kinh nguyệt là gì ? Cơ chế kinh nguyệt ra sao ? Nội dung bài viết mà chúng tôi chia sẻ dưới đây sẽ giải đáp thắc mắc Kinh nguyệt là gì. Cơ chế kinh nguyệt,…Hy vọng thông qua nội dung bài viết sẽ giúp chị em hiểu rõ hơn về “mùa dâu rụng” của mình. Từ đó chuẩn bị tâm lí được tốt nhất. Kinh nguyệt là hiện tượng bong lớp niêm mạc tử cung có chu kỳ do sự tụt giảm đột ngột của estrogen hoặc estrogen & progesterone có tính chất lặp lại theo chu kì ở chị em phụ nữ. Và đây cũng là dấu hiệu đầu tiên đánh dấu sự trưởng thành của các bé gái. Mỗi tháng một lần, tử cung của nữ giới sẽ sẵn sàng để tiếp nhận việc rụng trứng 1 lần để thụ tinh. Nếu như, trứng rụng mà không được thụ tinh các màng nhày ở bên trong cổ tử cung sẽ biến đổi và được đào thải ra ngoài. Lúc đó, vào ngày cuối cùng của chu kì kinh nguyệt vùng dưới đồi sẽ tác động lên tuyến yên sau đó tác động trực tiếp vào buồng trứng. Khiến buồng trứng ngừng sản xuất ra các hoóc môn estrogen và progesterone. Khi lượng estrogen và progesterone bị suy giảm, các màng nhầy ở cổ tử cung sẽ dầy lên rồi bị bong ra ngoài giống như 1 lớp da chết và tạo nên sự xuất huyết nhỏ mà theo y học gọi là kinh nguyệt. Kinh nguyệt là hiện tượng ra máu kinh ở âm đạo. Chu kỳ kinh nguyệt bình thường khoảng 25 ngày – 35 ngày. Tùy theo cơ địa của mỗi người mà số ngày hành kinh có thể kéo dài từ 5-7 ngày, lượng máu kinh ra ít hay ra nhiều cũng khác nhau. Ngay cả ở một người phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt nặng, lượng máu cho mỗi chu kỳ thường là 5 – 12 muỗng cà phê. Tuy nhiên, một số phụ nữ thường trải qua chu kỳ kinh nguyệt nghiêm trọng hơn bình thường, được gọi là rong kinh. Rong kinh là tình trạng cần được điều trị y tế để tránh các rủi ro như thiếu máu hoặc lưu lượng máu thấp. Chu kì kinh nguyệt xuất hiện, điều đó đồng nghĩa với việc chị em phụ nữ không mang thai. Bên cạnh đó, chị em còn bị đau ngực, đầy hơi, khó chịu, bụng dưới và lưng bị đau. Chu kỳ kinh nguyệt đánh dấu khả năng sinh sản ở một người phụ nữ. Thông thường, chu kì kinh nguyệt sẽ xuất hiện khi các bé gái đã bắt đầu bước qua độ tuổi dậy thì tức là từu 12- 15 tuổi. Tuy nhiên một số người có thể bắt đầu trong độ tuổi từ 8 – 16. Kinh nguyệt chỉ kết thúc khi chị em bước vào độ tuổi mãn kinh (từ 50-55 tuổi). Khoảng 6 tháng trước chu kỳ kinh nguyệt đầu tiên, một cô gái có thể phát hiện dịch tiết âm đạo rõ ràng hơn. Điều này là hoàn toàn bình thường, trừ khi dịch tiết âm đạo có mùi hôi hoặc gây ngứa. Các chu kỳ kinh nguyệt sẽ xuất hiện đều đặn mỗi tháng cho đến khu người phụ nữ mãn kinh. Cơ chế hoạt động của kinh nguyệt là diễn ra mỗi tháng 1 lần, và được chia làm 2 pha bao gồm pha nang noãn và pha hoàng thể. Nang noãn là một cấu trúc chứa đầy dịch, bên trong có trứng, đang phát triển. Mỗi tháng trong buồng trứng sẽ có một nang noãn lớn lên. Nang noãn được bao bọc bởi những tế bào tạo ra hormone giới nữ estrogen, còn gọi là estradiol 17 beta. Sau khi phóng noãn (Trứng rụng), các tế bào sẽ tiết ra hormone để hỗ trợ cho sự làm tổ của trứng. Nếu trứng không được làm tổ và thụ tinh, cơ thể nữ giới sẽ diễn ra hiện tượng dâu rụng. Tùy vào cơ địa, thể trạng sức khỏe của mỗi người mà số ngày hành kinh sẽ khác nhau. Thông thường là từ 3-5 ngày, sau đó máu từ âm đạo sẽ không chảy ra nữa (sạch kinh). Trong thời kì mùa dâu rụng, các nội mạc tử cung sẽ bị bong tróc liên tục và làm sụt giảm các hormone sinh dục gây nên hiện tượng chảy máu kinh âm đạo. Sau khi thời gian hành kinh kết thúc, chính là lúc nội mạc bắt đầu trở lại bình thường và phát triển. Khi máu kinh chấm dứt, các trục hạ đồi ở tử cung sẽ bắt đầu hoạt động trở lại, và phóng thích GnRH. Khiến cho nội mạc tử cung lại bắt đầu tiết ra 2 hormoen cần thiết cho cơ quan sinh dục là FSH và LH. Hai loại hormone này sẽ tiếp tục kích thích các nang noãn ở buồng trứng tử cung phát triển và tiết ra Estrogen. Giai đoạn hoàng thể chính là khoảng thời gian sau khi trứng rụng kết thúc và kéo dài đến chu kì kinh tiếp theo. Nếu bạn có chu kì kinh nguyệt là 28-30 ngày, số ngày hoàng thể sẽ giao động từ 12- 24 ngày. Đây là khoảng thời gian để cơ thể chuẩn bị nuôi đợt trứng mới để thụ tinh. Việc nắm bắt được thời điểm trứng rụng sẽ làm tăng khả năng thụ thai nếu như bạn đang mong muốn có baby. Còn nếu bạn chưa sẵn sàng cho việc làm cha làm mẹ, thì việc nắm bắt ngày trứng rụng sẽ giúp cho các cặp vợ chồng phòng tránh việc mang thai ngoài ý muốn an toàn và hiệu quả. Như phía trên, kinh nguyệt chính là sự bong tróc tróc của lớp niêm mạc tử cung do sự tụt giảm đột ngột của estrogen hoặc estrogen & progesterone. Hiện tượng này có tính chu kì và có tính chất lặp lại. Khi các bé gái đến tuổi dậy thì, cơ thể sẽ sản xuất ra các hormone. Trong đó bao gồm cả hormone chuẩn bị cho việc thụ thai. Lượng Hormone xuất hiện sẽ khiến cho lớp niêm mạc tử cung dày hơn. Tiếp đó, một trong hai buồng trứng sẽ phóng thích trứng. Khi trứng đã rụng, trứng sẽ di chuyển về phía tử cung để làm tổ. Nếu như trứng không gặp được tinh trùng sẽ khiến cho quá trình thụ tin không diễn ra. Lúc này, lớp niêm mạc tử cung sẽ bong ra và chảy ra bên ngoài qua âm đạo. Đây chính là hiện tượng đèn đỏ hàng tháng ở nữ giới. Nguyên nhân khiến chị em nữ giới có chu kì kinh cũng như chu kì kinh nguyệt lặp lại hàng tháng là do hệ thống nội tiết sinh sản trong cơ thể nữ giới phối hợp nhịp nhàng với nhau, cùng hỗ trợ nhau hoạt động. Thực tế có nhiều chị em không nhớ ngày dâu rụng của mình. Hoặc chu kì kinh nguyệt của chị em không ổn định. Chính điều này khiến cho không ít chị em gặp khó khăn khi ngày đèn đỏ đến. Vì vậy chị em cần phải có kiến thức trong việc nhận biết các dấu hiệu khi mùa dâu đến. Chu kì kinh nguyệt đến, chị em sẽ thấy máu từ âm đạo chảy ra. Đây là dấu hiệu điển hình và nổi bật nhất của chu kì kinh. Trong những ngày đầu chu kì kinh, lượng máu chảy ra tương đối nhiều với màu đỏ đậm, hơi dính và có mùi tanh. Nếu số ngày hành kinh của chị em là 5 ngày, thì từ ngày đầu tiên đến ngày thứ 3 của chu kì, máu kinh sẽ ra nhiều, sau đó ít dần và kết thúc ở ngày thứ 5. Tùy vào cơ địa, thể trạng của mỗi người, số ngày hành kinh cũng như luộng máu kinh sẽ khác nhau. Bụng dưới bị đau cũng là một trong những dấu hiệu của ngày đèn đỏ đến. Mỗi người sẽ có cảm giác đau khác nhau, từ âm ỉ đến đau quặn quại. Có nhiều chị em phải sử dụng thuốc giảm đau để làm giảm cảm giác bị đau bụng dưới khi đến chu kì kinh nguyệt. Ngày đèn đỏ xuất hiện, điều đó đồng nghĩa với việc trên khuôn mặt của chị em cũng sẽ xuất hiện nhiều mụn. Lúc này, da mặt của chị em cũng sẽ bị nhờn, tạo điều kiện cho mụn “đua nhau” xuất hiện. Tuy nhiên, chị em cũng không cần phải quá lo lắng, hiện tượng mụn này sẽ nhanh chóng kết thúc khi chu kì kinh nguyệt của chị em chấm dứt. Có rất nhiều chị em khi sắp đến chu kì kinh 1 tuần, vòng 1 sẽ trở nên căng tức và to hơn so với bình thường. Điều này khiến cho chị em cảm thấy rất chi là khó chịu. Chu kì kinh nguyệt xuất hiện, đồng nghĩ với việc tâm trạng cảu chị em cũng sẽ thay đổi theo. Mụn xuất hiện, da mặt bị nhờn và bị dầu, ngực lại bị sưng. Chính những điều đã khiến cho tâm trạng chị em thay đổi thất thường và thường trở nên khó tính hơn so với thường ngày. Vì thế, mà nhiều người cho rằng: không nên trêu hay động vào chị em phụ nữ trong những ngày họ bị hành kinh. Nếu như trước đây, khi đến chu kì kinh để ngăn chặn tình trạng máu âm đạo chảy ra, các bà, các mẹ thường xử dụng khăn xô để “đóng”. Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội hiện nay, để khắc phục tình trạng chảy máu âm đạo khi đến chu kì kinh. Chị em không còn sử dụng khăn xô nữa, thay vào đó là sử dụng băng vệ sinh, tampon, cốc nguyệt san. Đây đều là những vật rất cần thiết cho chị em phụ nữ trong ngày dâu rụng. Là sản phẩm rất quen thuộc, được nhiều chị em sử dụng. Bởi khả năng thẩm thấu tốt, phổ biến, giá cả phải chăng. Tuy nhiên, nếu chị em vận động mạnh hay tham gia các hoạt động dưới nước. Băng vệ sinh không phải là sự lựa chọn tốt cho ngày hành kinh. Hơn nữa nếu như chị em sử dụng phải băng vệ sinh giả, băng vệ sinh kém chất lượng. Nguy cơ vùng kín bị viêm nhiễm là rất cao. Vì thế, chị em cần phải cân nhắc trong việc sử dụng băng vệ sinh. Tampon cũng là một trong những vật rất quen thuộc của chị em trong những ngày đèn đỏ. Tampon sẽ được đưa vào bên trong âm đạo để thấm hút lượng máu kinh chảy ra. So với băng vệ sinh thì tampon tiện lợi hơn rất nhiều. Tuy nhiên, nếu như chị em không thay tampon thường xuyên trong chu kì kinh nguyệt, khả năng viêm nhiễm khá là cao. Hơn nữa, chị em còn có thể bị dị ứng với các thành phần của tampon. Với những chị em chưa có quan hệ tình dục thì phải thật cẩn cận khi sử dụng tampon để tránh bị rách màng trinh. Là sản phẩm hiện đại nhất hiện nay trong việc khắc phục các dấu hiệu khi ngày dâu rụng xuất hiện. Cố nguyệt san có thể khắc phục được tất cả các nhược điểm của băng vệ sinh cũng như tampon. Vì thế đây là sản phẩm được rất nhiều chị em tin tưởng và sử dụng hiện nay. Tuy nhiên, chị em cần tìm hiểu kỹ trong việc sử dụng cốc nguyệt san. Bởi việc đưa và lấy cốc nguyệt san vào ra khỏi âm đạo gặp nhiều khó khăn. Vì thế, chị em nên chọn loại cốc nguyệt san phù hợp với mình.
Chu kỳ kinh nguyệt
Bài này viết về khía cạnh sinh học của chu kì sinh dục nữ ở người. Về thông tin chi tiết hơn, xem kinh nguyệt ở người, kinh nguyệt ở thú. Chu kỳ kinh nguyệt (hay thời gian hành kinh) là sự biến đổi tự nhiên thường xuyên xảy ra trong hệ sinh dục nữ (cụ thể là tử cung và buồng trứng) cần thiết cho quá trình mang thai và sinh sản. Theo định nghĩa khác, chu kỳ kinh nguyệt là sự biến đổi về cấu trúc, chức năng của niêm mạc tử cung dẫn tới sự chảy máu có chu kỳ ở niêm mạc tử cung dưới tác dụng của các hormone tuyến yên và buồng trứng. Chu kỳ này là cần thiết cho việc sản xuất noãn bào và chuẩn bị tử cung để mang thai. Chu kỳ kinh nguyệt xảy ra do sự tăng giảm của nồng độ hormone estrogen, dẫn đến sự dày lên của niêm mạc tử cung và sự phát triển của noãn (cần thiết cho quá trình mang thai). Noãn được phóng thích từ buồng trứng vào khoảng ngày thứ 14 trong chu kỳ; niêm mạc tử cung dày lên cung cấp chất dinh dưỡng cho phôi sau khi làm tổ.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra một cách nhanh chóng trên toàn thế giới, cùng với sự phát triển với tốc độ chóng mặt của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, các công ty đối mặt với rất nhiều cơ hội và thách thức do toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ mang lại. Nguồn nhân lực đã trở thành “một tài sản quý nhất, quan trọng nhất và quyết định nhất” cho sự tồn tại và phát triển của bất kỳ một tổ chức nào. Song, khi chúng ta nói về những nhận thức được hầu hết mọi người chấp nhận này thì cần phải hiểu đó là nguồn nhân lực có tri thức, có kỹ năng ở trình độ cao, biết lao động sáng tạo chứ không phải sức lao động cơ bắp dựa trên kinh nghiệm. Lực lượng lao động xã hội đã có sự chuyển biến rõ rệt từ những công nhân “cổ xanh” là chủ yếu thành những công nhân “cổ trắng” là chủ yếu. Peter Drucker (1993)-một chuyên gia hàng đầu của lý luận quản lý- đã nhận xét rằng: “Trong thời kỳ 1880, khoảng chín phần mười số người lao động là lao động chân tay; ngày nay, con số này giảm xuống một phần năm. Bốn phần năm lực lượng lao động là những người lao động tri thức”. Toàn cầu hóa đã làm cho việc tiếp cận và mở rộng các thị trường dễ dàng hơn, các công ty dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các nguồn lực tốt nhất và rẻ nhất cho họat động của mình và vì thế các lợi thế so sánh truyền thống đã mất đi, hoặc ít nhất đã yếu đi. Vì thế, Drucker (1995) kết luận: “Chúng ta đang đi vào xã hội tri thức trong đó nguồn lực kinh tế cơ bản không phải là vốn mà là và sẽ là tri thức” và “tri thức đã và đang trở thành một nguồn lực kinh tế chủ yếu và là một nguồn lực thống trị - và có thể là duy nhất - của lợi thế cạnh tranh. Những nhận xét của Drucker hoàn toàn phù hợp với những dự báo từ trước của Alvin Tofler trong các tác phẩm nổi tiếng của ông về một xã hội tri thức, một nền văn minh thông tini. Sự bùng nổ thông tin và tri thức với tốc độ chóng mặt hiện nay đã làm cho những người lao động và các tổ chức khó khăn hơn trong việc giải quyết các vấn đề của mình. Trong điều kiện bùng nổ của tri thức và thông tin, sự quá tải thông tin trở thành một gánh nặng và vì thế để tìm được những thông tin cần thiết cho việc ra quyết định hoặc gỉải quyết vấn đề là cực kỳ khó và là một quá trình tốn kém rất nhiều thời gian và công sức cho tất cả mọi người hiện nay. Trong một cuộc hội thảo về quản lý tri thức, Bill Gate (1999) đã nhận xét: “Những người công nhân trí thức cần chia sẻ những hiểu biết của họ, và cần tiếp cận những thông tin đúng (cần thiết) vào đúng thởi điểm. Và điều này là cực kỳ khó hiện nay” (Trích từ VNU Business Media). Để giúp cho các tổ chức và cá nhân xử lý và giải quyết tốt các vấn đề của mình cũng như để nâng cao hiệu quả của các quyết định nói chung, với sự phát triển của công nghệ thông tin, từ đầu những năm 1990 trở lại đây, các công ty trên thế giới và các nhà nghiên cứu đã áp dụng và tiếp cận một xu hướng mới trong phát triển doanh nghiệp và các tổ chức đó là: Quản lý tri thức (Knowledge Management). Việc sớm và kiên trì ứng dụng quản lý tri thức vào quản lý và họat động của doanh nghiệp dù dù trong một thời gian ngắn ngủi đã mang lại những kết quả khích lệ. Cuộc khảo sát của Reuters vào năm 2001 chỉ ra rằng 90% các công ty triển khai các giải pháp quản lý tri thức đă có những quyết định tốt hơn, và 81% công ty cho rằng họ nhận thấy sự gia tăng năng suất một cách rõ rệt (Malhotra, 2001). Nhiều người theo chủ nghĩa thực chứng tin rằng tri thức là những “niềm tin được minh chứng là đúng” (“justified beliefs). Nonaka và Takeuchi (1995) chỉ ra ràng “tri thức là quá trình năng động của con người trong việc minh chứng các niềm tin cá nhân với những “sự thật””. Sự tiến hóa của nhận thức luận khoa học đã hình thành một cấu trúc thứ bậc của việc tạo ra tri thức: từ dữ liệu đến thông tin đến kiến thức như được trình bày trong Sơ đồ 1. Trong sơ đồ 1 có những khái niệm cần quan tâm đó là dữ liệu, thông tin, tri thức. Dữ liệu là một tập hợp các sự kiện, sự việc khách quan, rời rạc được trình bày mà không có sự phán quyết hoặc không gắn với bối cảnh. Dữ liệu trở thành thông tin khi nó được phân lọai, phân tích, tổng hợp và đặt vào một bối cảnh, và trở nên có thể nhận thức được đối với người nhận. Thông tin là dữ liệu gắn với một sự liên hệ hoặc một mục đích. Thông tin biến thành kiến thức khi nó được sử dụng để so sánh, đánh giá những kết cục, thiết lập những liên hệ và tiến hành một sự đối thọai. Thông tin là dữ liệu trong bối cảnh mà nó có thể sử dụng cho việc ra quyết định. Dữ liệu luôn được sắp xếp để tạo ra ý nghĩa cho người nhận, nó có thể là văn bàn, hình ảnh, film, hoặc một cuộc hội thọai với một người khác. Tri thức có thể được xem như thông tin mà nó đạt tới sự sáng tỏ, sự phán quyết, và những giá trị. Trong nhiều trường hợp, tri thức thể hiện sự thật và vì vậy nó cung cấp, tạo ra những cơ sở đáng tin cậy cho hành động. Tri thức là kho tàng của sự hiểu biết và các kỹ năng được tạo ra từ trí tuệ của con người (đặc biệt từ những người khác). Sự tiếp thu: quá trình biến các tri thức hiện hữu thành tri thức ẩn tàng. Những vấn đề của con người và học tập là điểm trung tâm của quản lý tri thức.
Hệ thống quản trị tri thức (hypertext)
KMS viết tắt của Knowledge Management System- hệ thống quản trị tri thức, là một hệ thống siêu truyền thông (hypermedia) thế hệ thứ 2, hệ thống nguyên bản được tạo ra như là sự kế thừa cho giai đoạn đầu của hệ thống ZOG (một trong các hệ thống siêu văn bản sớm được phát triển tại đại học Carnegie Mellon trong suốt thập niên 70). Mục đích của KMS là để cho nhiều người dùng hợp tác trong việc tạo và chia sẻ thông tin trong phạm vi lớn, chia sẻ các siêu văn bản, và ngay từ đầu, KMS đã được thiết kế như một hệ thống đa người dùng thật sự. Là một không gian hệ thống siêu truyền thông, KMS được dự định để đại diện cho tất cả các dạng của kiến thức hiện hữu minh bạch như các bài thuyết trình, tài liệu, cơ sở dữ liệu, và chương trình phần mềm, cũng như các dạng thông thường của hình thức liên lạc điện tử (thư điện tử, bản tin công cộng, blog). Phần tử trung tâm trong mô hình dữ liệu KMS là các trang có kích thước màn hình (được gọi là "khung") được kết nối với nhau bởi các đường link.
Nông nghiệp đô thị là gì? Tại sao đây được xem là xu thế tất yếu của thời đại? Nền nông nghiệp này đóng vai trò như thế nào trong bối cảnh hiện nay? FarmerBox sẽ giúp bạn trả lời những thắc mắc trên ngay sau đây. Cách đây khoảng 20 năm, ở những quốc gia phát triển, khái niệm này thường được nhắc đến cùng chủ đề phát triển bền vững. Nông nghiệp đô thị là ngành kinh tế trong và ven đô thị, bao gồm việc sản xuất, chế biến và cung ứng lương thực, thực phẩm, hoa, sinh vật và thực vật cảnh cho cư dân đô thị; sử dụng phương thức canh tác hữu cơ và áp dụng công nghệ cao, không cần nhiều đất đai, không gây ô nhiễm môi trường, sử dụng và tái sử dụng tài nguyên thiên nhiên và chất thải đô thị. Đơn giản hơn, chúng ta có thể hiểu nông nghiệp đô thị chính là việc sử dụng phần diện tích nhỏ, phần đất trống trong sân vườn, thảm cỏ, sân thượng hay thậm chí góc hành lang,… ở các thành phố lớn để trồng cây. Mô hình này có thể mang lại nguồn sống xanh cho môi trường, đảm bảo sự cân bằng sinh thái, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và mang lại nhiều ích lợi khác. Cư dân đô thị ngày càng quan tâm đến vấn đề an ninh lương thực và an toàn vệ sinh thực phẩm, đặc biệt là những người có thu nhập khá trở lên. Nhóm người có thu nhập thấp lại phải đối diện với nguy cơ thiếu hụt nguồn lương thực cơ bản với giá phải chăng. Vì vậy, nông nghiệp đô thị sẽ là giải pháp tối ưu góp phần cung ứng nguồn nông sản tươi ngon đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng của cư dân đô thị. Nông nghiệp đô thị cung cấp nguồn nông sản sạch cho cư dân thành phố. Vừa bảo tồn và phát triển tính đa dạng sinh học của ngành nông nghiệp, vừa cung cấp công ăn việc làm cho người dân là những gì mà nông nghiệp đô thị mang lại. Trong bối cảnh hiện nay, việc ứng dụng công nghệ tiên tiến vào quá trình trồng trọt khiến công việc này trở nên dễ dàng hơn, giúp nông sản có chất lượng đồng đều, sinh trưởng nhanh và tăng năng suất. Đây được xem là một mô hình có thể góp phần cải thiện nền kinh tế và phát triển nông nghiệp một cách bền vững. Các yếu tố tự nhiên như đất, nước, nhiệt độ, độ ẩm,… là điều kiện quan trọng ảnh hưởng đến quá trình hình thành môi trường sống của con người. Việc trồng cây xanh giúp làm sạch nguồn nước thải, giảm tiếng ồn, chống xói mòn đất. Một số loại cây trồng còn làm tăng độ ẩm cho không khí, bảo vệ trẻ em khỏi tia cực tím có hại. Việc trồng cây giúp tăng diện tích mảng xanh cho thành phố. Bằng cách tích tụ trên lá, cây xanh hấp thụ mùi và các loại khí gây ô nhiễm. Ngoài ra, theo một nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy rằng: Mỗi cây trưởng thành có thể cung cấp đủ oxy cho 18 người trong vòng 1 năm. Bên cạnh đó, ở các thành phố lớn bị ô nhiễm do khói bụi thì nông nghiệp đô thị đóng vai trò làm đẹp cảnh quan, tăng giá trị thẩm mỹ cho tổng thể và đáp ứng nhu cầu thư giãn tinh thần của người dân đô thị. Với những vai trò kể trên, nông nghiệp đô thị chắc chắn sẽ phát triển rộng rãi hơn nữa trong thời gian tới, tiếp cận nhiều người và mang đến nhiều không gian xanh hơn để cải thiện cuộc sống của con người, đặc biệt là những cư dân thành thị.
Nông nghiệp đô thị
Nông nghiệp đô thị , trồng trọt đô thị, hoặc làm vườn đô thị là hoạt động trồng trọt, chế biến và phân phối thực phẩm trong hoặc xung quanh các khu vực đô thị. Nông nghiệp đô thị cũng có thể liên quan đến chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, nông lâm kết hợp, nuôi ong đô thị và làm vườn. Các hoạt động này cũng diễn ra ở các khu vực ven đô, và nông nghiệp ven đô có thể mang những đặc điểm khác biệt. Nông nghiệp đô thị có thể phản ánh nhiều mức độ phát triển kinh tế và xã hội. Đó có thể là một phong trào xã hội cho các cộng đồng bền vững, nơi những người trồng trọt hữu cơ, "những người thích ăn uống" và "những người ăn thực phẩm bản địa " hình thành các quan hệ xã hội, dựa trên sự chia sẻ các quan điểm và tính tổng thể của cộng đồng. Các mạng lưới này có thể phát triển khi nhận được hỗ trợ thể chế chính thức, được tích hợp vào quy hoạch thị trấn địa phương như một phong trào "thị trấn chuyển đổi" cho phát triển đô thị bền vững.
Một đồng tiền dự trữ (reserve currency) là một số lượng lớn tiền tệ được các ngân hàng trung ương và các tổ chức tài chính lớn trên khắp thế giới dự trữ sẵn để chuẩn bị đầu tư, giao dịch, thanh toán nợ quốc tế hoặc dùng để điều tiết nội tệ của họ. Những hàng hóa phổ biến trên toàn thế giới như vàng và dầu, được định giá bằng đồng tiền dự trữ, khiến các quốc gia khác phải giữ đồng tiền dự trữ để thanh toán cho những hàng hóa này. Năm 1944, sau hiệp định Bretten Woods thì khái niệm “tiền tệ dự trữ” được ra đời và đồng đô la Mỹ đã trở thành đồng tiền dự trữ chính thức được các quốc gia khác sử dụng. Chính vì vậy, tới tận ngày nay các quốc gia nước ngoài luôn giám sát và theo dõi chặt chẽ chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ để đảm bảo rằng giá trị của đồng đô la không biến động quá nhiều, nếu biến động quá nhiều sẽ ảnh hưởng tới dự trữ của nước họ và thậm chí lạm phát tăng cao. Vị trí ngoại tệ dự trữ trên trường quốc tế có mặt trái là khiến các nước khác chi phối số cầu nội địa và gây khó cho chính sách kinh tế bên trong (cụ thể là Mỹ). Hãy lùi thời gian lại và nói tới hoàn cảnh Nhật Bản khi đồng Yen vọt lên giá vì biến động sau vụ Anh Quốc quyết định ra khỏi Liên Minh Châu Âu. Biến cố này gây bất lợi cho kinh tế Nhật vì Yên được “chiếu cố” như một ngoại tệ mạnh. Và năm 2011, Trung Quốc ào ạt mua đồng Yen mục đích là để hạ thấp vị trí của ngoại tệ phổ biến là USD, thì Nhật ngay lập tức phản đối dữ dội và ráo riết mua đô la để trung hòa lại việc Trung Quốc mua Yen. Tức là nhường lại cho Mỹ cái ưu thế Đồng tiền tệ dự trữ của thế giới. Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất có khả năng tiếp nhận tư bản nước ngoài ào ạt đổ vào hay rút ra, tức là chịu nổi gánh nặng và trách nhiệm của đồng USD là ngoại tệ phổ biến nhất. Ngân hàng Dự trữ Liên bang được thành lập bởi Đạo luật Dự trữ Liên bang năm 1913 để đối phó với sự không ổn định và bất ổn của hệ thống tiền tệ dựa trên các ghi chú ngân hàng do các ngân hàng cá nhân phát hành. Vào thời điểm đó, nền kinh tế Mỹ đã vượt qua nước Anh để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, nhưng nước Anh vẫn là trung tâm thương mại thế giới, bởi vì phần lớn giao dịch thời đó được trả bằng đồng bảng Anh. Cũng tại thời điểm đó, ở một diễn biến khác, hầu hết các nước phát triển đã “neo” tiền tệ của họ với vàng để tạo sự ổn định trong trao đổi tiền tệ. Tuy nhiên, khi Thế chiến thứ nhất nổ ra vào năm 1914, nhiều quốc gia đã bỏ tiêu chuẩn vàng để có thể trả chi phí quân sự bằng tiền giấy, điều này làm giảm giá trị tiền tệ của họ rất nhiều. Ba năm sau chiến tranh, nước Anh, đã kiên định giữ vững tiêu chuẩn vàng để duy trì vị thế của mình như là đồng tiền hàng đầu thế giới và cũng lần đầu tiên phải đi vay tiền. Hoa Kỳ đương nhiên trở thành người cho vay, không chỉ Anh Quốc mà còn nhiều quốc gia khác nữa. Năm 1919, Anh cuối cùng cũng buộc phải từ bỏ tiêu chuẩn vàng, đồng bảng Anh khi ấy sụt giảm đáng kể. Lúc đó, đồng đô la đã thay thế đồng bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ hàng đầu thế giới. Như đã làm trong Thế chiến thứ nhất, Hoa Kỳ bước vào Thế chiến thứ hai sau khi cuộc chiến đã bắt đầu. Trước khi bước vào chiến tranh, Hoa Kỳ chính là kẻ đằng sau bán vũ khí, vật tư và hàng hóa cho cả 2 phe. Thu thập nhiều khoản thanh toán bằng vàng, vào cuối cuộc chiến, Hoa Kỳ đã sở hữu phần lớn vàng của thế giới. Điều này khiến cho không nước nào có thể áp dụng tiêu chuẩn vàng nữa, vì Hoa Kỳ đã sở hữu gần hết rồi. Năm 1944, các đại biểu đến từ 44 quốc gia đồng minh gặp nhau ở Bretton Wood, New Hampshire, để tìm ra một hệ thống quản lý ngoại hối chung, mục đích nhằm không để nước nào rơi vào thế bất lợi tiền tệ sau chiến tranh. Hiệp định Bretton Woods, được kí kết trên tinh thần như vậy. Các ngân hàng trung ương sẽ duy trì tỷ giá hối đoái cố định giữa đồng tiền của họ và đồng đô la. Các tình huống mà giá trị tiền tệ của quốc gia nào trở nên quá yếu hoặc quá mạnh so với đồng đô la. Họ có thể mua hoặc bán tiền tệ của họ để điều tiết cung – cầu. Theo Hiệp định Bretton Woods, đồng đô la Mỹ đã chính thức đăng quang trở thành tiền dự trữ của thế giới, được hỗ trợ bởi trữ lượng vàng lớn nhất thế giới. Thay vì dự trữ vàng, các quốc gia khác tích lũy dự trữ đô la Mỹ. Từ đó các quốc gia bắt đầu mua chứng khoán Kho bạc Hoa Kỳ, mà họ coi là một nơi trú ẩn an toàn. Tiến tới thời điểm xa hơn trong tương lai một chút, nhu cầu về chứng khoán Kho bạc cùng với chi tiêu thâm hụt để tài trợ cho Chiến tranh Việt Nam và các chương trình khác đã khiến Hoa Kỳ phải in thêm nhiều tiền, tiền giấy tràn lan. Với những lo ngại ngày càng tăng về sự bất ổn định của đồng đô la, các quốc gia bắt đầu chuyển đổi dự trữ đô la thành vàng. Nhu cầu vàng tăng cao là như vậy. Tổng thống Richard Nixon đã buộc phải can thiệp và không neo đồng đô la vào vàng nữa, dẫn đến tỷ giá hối đoái thả nổi như ngày hôm nay. Qua các giai đoạn lạm phát và giảm phát, khủng hoảng, suy thoái, đồng đô la Mỹ vẫn là đồng tiền dự trữ của thế giới, nhưng không còn dựa vào vàng nữa mà dựa chủ yếu vào quy mô và sức mạnh của nền kinh tế Mỹ và sự thống trị của các thị trường tài chính Mỹ. Mặc dù chi tiêu thâm hụt lớn, hàng nghìn tỷ đô la nợ nước ngoài và in tiền khá nhiều, chứng khoán kho bạc Mỹ vẫn là nơi an toàn nhất vì mọi người đều tin tưởng rằng Mỹ vẫn dư khả năng trả nợ. Do đó, đồng đô la vẫn là đồng tiền có thể đổi và thương mại nhất tới thời điểm hiện nay. Ngoài đồng USD, đồng Euro, đồng bảng Anh và yên Nhật, giỏ tiền tệ quốc tế đã có thêm đồng tiền thứ 5, đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc. Vào năm 2016, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã ban hành giỏ tiền tệ quốc tế mới, còn được gọi là quyền rút vốn đặc biệt (SDR), trong đó bao gồm đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc. Tổng Giám đốc IMF Christine Lagarde nói đây là “lần đầu tiên” trong lịch sử, giỏ SDR được mở rộng, theo đó đồng NDT sẽ được cộng đồng quốc tế coi như một đồng tiền có thể sử dụng trên toàn cầu. NDT sẽ gia nhập giỏ tiền tệ quốc tế cùng với đồng USD, Euro, bảng Anh và yên Nhật. Lãnh đạo IMF đánh giá việc đưa NDT vào giỏ SDR là “một bước quan trọng” trong việc hội nhập nền kinh tế Trung Quốc vào hệ thống tài chính và tiền tệ quốc tế, đồng thời phản ánh những cải cách trong hệ thống tiền tệ, giao dịch ngoại tệ và tài chính của Trung Quốc. SDR là một dạng tiền tệ dự trữ quốc tế được IMF thiết lập vào năm 1969, đóng vai trò là một bộ phận trong dự trữ quốc tế của các nước thành viên và được phân bổ cho các nước thành viên theo tỉ lệ góp vốn của các nước vào thể chế tài chính đa phương này. Mặc dù vậy, SDR chỉ là đơn vị quy ước và chỉ được sử dụng để tính toán chứ không thực sự tồn tại trong lưu thông, do vậy không thể dùng SDR như các loại tiền tệ khác. Hình thái tồn tại của SDR là những con số ghi trên tài khoản. IMF mở cho mỗi nước thành viên một tài khoản để ghi các khoản SDR được phân bổ và để hạch toán các khoản thu chi bằng SDR giữa các ngân hàng Trung ương và các nước. Sự ra đời của SDR để giảm thiểu những hạn chế trong việc sử dụng đồng USD và vàng là công cụ thanh toán duy nhất.
Tiền tệ dự trữ
Tiền tệ dự trữ (hoặc tiền tệ neo) là một loại ngoại tệ được các ngân hàng trung ương hoặc các cơ quan tiền tệ khác nắm giữ với số lượng đáng kể như là một phần của dự trữ ngoại hối của họ. Đồng tiền dự trữ có thể được sử dụng trong các giao dịch quốc tế, đầu tư quốc tế và tất cả các khía cạnh của nền kinh tế toàn cầu. Nó thường được coi là một loại tiền tệ cứng hoặc tiền tệ trú ẩn an toàn. Đồng bảng Anh của Vương quốc Anh là tiền tệ dự trữ chính của phần lớn thế giới trong thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 20, đồng đô la Mỹ được coi là đồng tiền dự trữ thống trị toàn thế giới. Nhu cầu đô la của thế giới đã cho phép chính phủ Hoa Kỳ cũng như người Mỹ vay với chi phí thấp hơn, mang lại cho Hoa Kỳ lợi thế vượt quá 100 tỷ đô la mỗi năm. Tiền tệ dự trữ đã thay đổi theo thời gian. Tiền tệ quốc tế trong quá khứ đã bao gồm drachma Hy Lạp, được đặt ra từ thế kỷ thứ năm TCN, denari La Mã, solidus Byzantine và dinar Ả Rập của thời trung cổ, ducato Venetian và florin Florentine của thời Phục hưng, guilder Hà Lan và đồng franc Pháp trong thế kỷ 17.
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm tập hợp các số tự nhiên là gì? Cách biểu diễn tập hợp các số tự nhiên ra sao? Sự khác nhau giữa N và N* trong toán học. Lưu ý: Để học tốt bài này thì bạn phải hiểu ý nghĩa về trong toán học. Trong toán học, số tự nhiên là tập hợp những số lớn hơn hoặc bằng 0, được ký hiệu là N. Chúng ta có số tự nhiên nhỏ nhất là số 0. Không tồn tại số tự nhiên lớn nhất. Nói về tập hợp các số tự nhiên thì chúng ta có hai kí hiệu cần được tìm hiểu, đó là N và N*. Như đã nói ở trên. N là ký hiệu của tập hợp các số tự nhiên lớn hơn hoặc bằng 0. Số tự nhiên được sử dụng rất nhiều trong toán học và thực tế, vì vậy học sinh cần phải hiểu ý nghĩa và tính chất để biểu diễn một cách chính xác. Dãy số tự nhiên liên tiếp sẽ có tính tăng dần, hai số liên tiếp sẽ có một số nhỏ và một số lớn hơn. Ví dụ hai số 3, 4 thì ta có 3 < 4 và 4 > 3. Trong hình tia, chiều mũi tên sẽ đi từ trái sang phải. Các điểm trên tia phải có tính tăng dần. Mỗi số tự nhiên chỉ có một số liền sau duy nhất. Ví dụ số liền sau của 3 là số 4. Mỗi số tự nhiên có một số liền trước duy nhất, trừ số 0 vì số 0 là bé nhất. Trên là kiến thức cơ bản về số tự nhiên, cách biểu diễn tập hợp các số tự nhiên, sự khác nhau giữa N và N* trong toán học. Chúc các bạn học tốt.
Số tự nhiên
Trong toán học, các số tự nhiên được sử dụng để đếm (như trong "có sáu đồng xu trên bàn") và thứ tự (như trong "đây là thành phố lớn thứ ba trong cả nước"). Đôi khi, các số tự nhiên có thể xuất hiện dưới dạng một bộ mã thuận tiện (nhãn hoặc "tên"), nghĩa là, như những gì các nhà ngôn ngữ học gọi là số danh nghĩa, loại bỏ nhiều hoặc tất cả các thuộc tính của một số theo nghĩa toán học. .Trong tiêu chuẩn của ISO 80000-2 và tài liệu giáo khoa chuẩn của Việt Nam, số tự nhiên được định nghĩa là các số nguyên không âm 0, 1, 2, 3,. , để nhấn mạnh rằng số 0 cũng được bao gồm), trong khi những số khác bắt đầu bằng 1, tương ứng với các số nguyên dương 1, 2, 3,. với nhấn mạnh rằng số 0 bị loại trừ).Các số tự nhiên là cơ sở mà từ đó nhiều tập hợp số khác có thể được xây dựng bằng cách mở rộng: tập hợp các số nguyên, được xây dựng bằng cách bao gồm (nếu chưa có) phần tử trung tính 0 và một phép cộng nghịch đảo ( − n ) cho mỗi số tự nhiên khác nhau n ; tập hợp các số hữu tỉ, bằng cách bao gồm một nghịch đảo phép nhân (1/n ) cho mỗi số nguyên khác n (và cả tích của các phép nghịch đảo này với các số nguyên); tập hợp các số thực bằng cách bao gồm với các số hữu tỉ các giới hạn của (hội tụ) dãy Cauchy của các số hữu tỉ; các số phức, bằng cách cộng với các số thực căn bậc hai chưa giải của trừ một (và cả tổng và tích của chúng),.
Nói tới “bán nước” thì dân nước mình nghĩ ngây tới Trần Ích Tắc thời Trần chống giặc Nguyên. “Ả Trần” thì khỏi tranh cãi, ô danh muôn thuở rồi, mặc dầu “Ả Trần” nầy không có làm mất tấc đất nào của nước nhà hết. Nguyễn trào, đại thần Phan Thanh Giản nói nhẹ như Thầy Đồ Chiểu là “Long Hồ uổng phụ thơ sanh lão”(1) hay nói thiệt, nói thẳng như Cụ Phan Bội Châu thì Phan Thanh Giản là kẻ “Gan dê lợn mà mưu chuột cáo”, hoặc như Vua Tự Đức từng viết: “Phan Thanh Giản thủy chung lời nói không xứng với việc làm, đem học vấn danh vọng một đời trút sạch xuống biển Đông, thực là táng tận lương tâm”.Tuy đã giúp giặc Pháp “nuốt sống” cả Nam kì nhưng họ Phan lại được đối xử một cách khác lạ, từ hồi trào Diệm nay tới thời Xã hội chủ nghĩa nay cũng vậy luôn mới ghê!. Từng một thời khi nhắc tới cái tên Phan Thanh Giản là dân Nam kì chửi mắng không thôi. Tuy nhiên, thời thế thay đổi Phan Thanh Giản lại được dựng tượng và ca ngợi thấu trời. Trong khi các bạn đồng liêu của Phan biết bao người đã anh dõng ngã xuống trước họng súng của giặc, để giữ thành, giữ nước thì Phan lại lấy đất, lấy thành mà giao cho giặc rồi đem tiếng xấu cho Vua. Ngày xưa đại thần Lê Quýnh trung can nghĩa đởm tòng Vua Lê Chiêu Thống bôn ba xứ người, trọn đời trung liệt, chịu nhiều đau thương nhưng vẫn trọn khí tiết: “Đầu ta có thể chặt chớ tóc không thể cắt, Da có thể lột chớ áo không thể đổi” ngay trên đất Tàu, với quan binh Tàu. Vậy mà khi đặt tên Lê Quýnh cho con phố nhỏ xíu ở Hải Phòng cũng bị báo Tuổi trẻ online soi mói: “Không thể cho qua”. Trong khi đó nhơn vật bán nước, phản Vua, hại dân như Phan Thanh Giản lại được một số người ca ngợi ngất trời rồi được dựng tượng, dựng đền thờ, đặt tên đường, tên trường, làm lễ, làm giỗ… túi bụi. Còn có người làm nghệ thuật dựng tuồng đổ tội lên mình Vua Tự Đức, chạy tội cho họ Phan để kiếm nước mắt khán giả và hốt bạc nữa kìa!. Tuy là ít học nhưng mà “Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả”, cộng với lại Tiêu vốn con em đất Vãng mà, khi nhìn thấy sự lố lăng về nhơn vật Phan Thanh Giản nầy ngây trên quê mình, Tiêu không có giả bộ làm ngơ được. Tiêu đã tập hiệp nhiều nguồn tư liệu đáng tin cậy để tìm hiểu thêm và cũng hi vọng qua đây bằng hữu nào có quan tâm tới nhơn vật họ Phan nầy cũng có thêm một chút xíu tài liệu. Phan Thanh Giản tên tự là Phan Tịnh Bá và Phan Đạm Như, hiệu là Lương Khê, sanh năm Bính Thìn 1796 mất năm Đinh Mẹo 1867, vốn là con cháu của một gia đình người Tàu Minh hương, vì phản Thanh phục Minh mà qua nước mình. Phan Thanh Giản là con dân đất Vĩnh Long (sau nhiều lần thay đổi địa chánh thời nay thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre), sanh sống và học hành ở xứ nầy.Minh Mạng năm thứ 5 (1825) Phan đậu Cử nhơn khoa thi Hương Ất Dậu tại Gia Định, khi đó Phan 30 tuổi. Năm sau (1826), 31 tuổi, Phan đã đậu Đệ tam Giáp đồng Tấn sĩ khoa Bính Tuất (đứng hạng 3 trên 9). Phan Thanh Giản đã trở thành Tấn sĩ khai khoa ở Nam kì.Mùa thu năm Minh Mạng thứ 7 (1827), Phan Thanh Giản được Vua Minh Mạng cho nhiệm chức quan Chánh Thất phẩm: Hàn lâm viện biên tu. Phan được Vua khen:. << Người Nam kì như Phan Thanh Giản, lòng ngay chí chắc, học rộng tài cao, phải khuyến khích. Phan Thanh Giản lập công lao, Trẫm sẽ gia tăng quyền lực. Vua Minh Mạng rất nóng tánh mà Phan đại thần thường can cái nầy tấu cái kia, không được lòng nhà Vua và cầm binh không giỏi nên đã ba lần bị giáng chức, trong đó có lần Phan phải làm “Lục phẩm thuộc viên”, tức giữ việc quét dọn, sắp đặt bàn ghế ở chốn công đường tại tỉnh Quảng Nam (1836). Hai trào Vua tiếp theo Phan Thanh Giản đởm nhận nhiều chức quan lớn nhỏ khác nhau. Năm 1850, Phan Thanh Giản được Vua Tự Đức cử vào trấn nhiệm miền Tây Nam kì cùng với tướng Nguyễn Tri Phương. Sau đó, được phong làm Kinh lược sứ Nam kì. Như vậy qua nhận xét của nhiều người, trong đó có Vua thì hình ảnh Phan Thanh Giản là một người con hiếu thảo, một đệ tử Nho gia chơn chánh, một vị quan tận tụy vì nước và được Vua Tự Đức ban thưởng bốn chữ “Liêm-Bình-Cần-Cán” vào năm 1852. Như cổ nhơn từng dạy: “Nước loạn mới biết tôi trung”. Lời dạy nầy ứng dụng vô trường hiệp của Phan Thanh Giản thì “đắt” vô cùng. Năm 1858, quân xâm lược Pháp đã tấn công nước Việt, cuộc đấu tranh không cân sức và đầy hi sanh, gian khổ của dân tộc bắt đầu. Và cũng từ đây, Phan Thanh Giản mới bắt đầu lộ bộ mặt thiệt: phản quốc và đầy xảo trá. Trong sự ủng hộ và phục vụ của “hàng muôn người Công giáo”(2) giặc Tây xâm lược tấn chiếm Đà Nẵng. Do lực không đủ, thay vì tấn công kinh thành Huế để diệt “ông Vua không thờ Chúa” như yêu cầu của giáo dân Gia tô, Pháp lại quyết định tấn công Nam kì. Tháng 2 năm 1861 Tây lịch, Pháp tấn công Đại đồn Chí Hòa (Sài Gòn). Quân dân ta chịu nhiều hi sanh, chống cự quyết liệt nhưng do hỏa lực của giặc quá mạnh nên Tướng Nguyễn Tri Phương đã buộc phải rút lui. Pháp thừa thắng đánh chiếm Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long. Nhơn dân Nam kì theo nghĩa binh kháng Pháp khắp vùng Lục tỉnh. Đầu tháng 5 năm 1862, sau khi cùng các đình thần bàn bạc, vua Tự Đức sai quan thông báo cho phía Pháp đề nghị “giảng huề”. Phan Thanh Giản với vai trò là Chánh sứ và Lâm Duy Hiệp là Phó sứ được cử đi điều đình với Pháp, Trước khi đi “nhà Vua có căn dặn Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ráng sức chuộc các tỉnh đã mất với giá 1.300 vạn lượng, còn nếu phía Pháp đòi cắt đất luôn thì kiên quyết không nghe.”. Trong đoàn sứ nầy Phan chánh sứ có dẫn theo một linh mục Thiên chúa tên là Đặng Đức Tuấn chưa rõ là chức vụ gì và đi theo với mục đích gì. Phan Thanh Giản đại diện cho trào đình Tự Đức kí kết hiệp ước hòa bình và hữu nghị “Hòa ước Nhâm Tuất” ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn với các điều khoản: nộp Pháp ba tỉnh miền Đông còn nộp thêm tiền, hườn toàn trái lịnh Vua. Thêm một điều khiến người đương thời và cả hậu nhơn sau nầy thắc mắc nữa là tại sao một điều ước quan trọng tới như vậy nhưng Giản chỉ kí xong chỉ trong”hơn một ngày”?. Hiệp ước gồm 12 khoản, theo đó, ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Luân được nhượng cho Pháp (Khoản 3 Hiệp ước); trào đình phải trả cho Pháp và Tây Ban Nha một khoản bồi hường chiến phí là 4 triệu piastre trong 10 năm, mỗi năm 400.000 đồng (quy ra bạc là 288 ngàn lượng) (Khoản 8 Hiệp ước). Đổi lại, người Pháp sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho trào đình Huế, nhưng kèm theo điều kiện là trào đình phải có biện pháp chấm dứt các cuộc khởi nghĩa chống lại người Pháp ở các tỉnh (Khoản 11 Hiệp ước). Sứ bộ hồi trào, Vua Tự Đức choáng váng với nội dung bổn Hiệp ước. Không những không đòi được đất mà còn hiệp thức hóa 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, cấm cản quân dân Nam kì chống Pháp rồi còn phải thường tiền nữa. Giận quá giận, nhà Vua đã lên án trưởng, phó phái bộ Phan, Lâm không những là “tội nhơn của bổn triều mà còn là tội nhơn của muôn đời”. (3) Sau nầy, trong bài văn khắc trên bia Khiêm Lăng, nhà Vua còn nhắc lại chuyện cũ:. Là tội nhơn của đất nước của dân tộc nhưng Phan Thanh Giản đã lập công lớn cho quân xâm lược. Trích trong báo cáo của Đô đốc Bonard gởi về Pháp ngày 8 tháng 9 năm 1862:. Lấy đất nộp giặc nhưng Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vẫn không bị Vua Tự Đức xử tội mặc dầu Vua giận lắm. Lẽ đó là vì nhà Vua hi vọng hai người nầy sẽ lập công chuộc tội. Sách Việt sử tân biên (quyển 5) chép:. “Ngày 14 tháng ấy, ông Phan và Lâm về kinh tâu bày sự việc. Vua Tự Đức vừa than vừa thống trách hai vị sứ thần. Cả trào đình đều bất đồng ý kiến về nội dung của Hòa ước, nhưng đòi sửa đổi ngay thì biết rằng không được, nên đề ghị cho Phan, Lâm trở lại để giao thiệp với Soái phủ Sài Gòn (của Pháp)…”. Việc chuộc ba tỉnh không thành, Phan Thanh Giản bị cách lưu làm Tổng đốc Vĩnh Long, nhưng rồi lại được cử làm Chánh sứ (Phó sứ là Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản) qua nước Pháp để điều đình một lần nữa về việc chuộc lại ba tỉnh miền Đông (1863). Trước khi sứ bộ lên đường, vua Tự Đức có căn dặn: “Quốc thơ phải đưa tới nơi, đừng để các quan đương sự ngăn đón, đừng chuyên tin lời người thông ngôn. Sứ thần là người thay mặt Vua đừng lạy mà nhục quốc thể”. Cuộc sứ năm đó cũng không đạt được kết quả. Tại Pháp, Phan Thanh Giản được người Pháp tiếp đón tử tế và tặng nhiều quà. Năm 1865, Phan được phục chức Hiệp biện đại học sĩ, Hộ bộ thượng thơ, sung Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) và được tha tội cách lưu: “Tội các ngươi đáng phạt nặng, nhưng nghĩ việc thương nghị ta coi như chưa thành, nay ta chỉ dụ cho Phan Thanh Giản làm Tổng đốc Vĩnh Long, Lâm Duy Hiệp làm Tuần võ Thuận Khánh, để giao tiếp với người Pháp, tìm cách uốn nắn những lầm lỗi trong Hòa ước mà các ngươi đã phạm phải”. Việc trên vô tình tạo cơ hội cho họ Phan bán nước thêm lần nữa. Trên đường từ Sài Gòn xuống Vĩnh Long nhiệm chức, Phan Thanh Giản ghé lại Mĩ Tho (tỉnh Định Tường), hội kiến với Trung tá Hải quân Ansart, chỉ huy tối cao (commandant supérieur) tỉnh Định Tường. Bổn tường trình của Ansart đề ngày 18.11.1866 gửi cho De La Grandière hé lộ nhiều chi tiết trong cuộc hội kiến giữa hai người. Mở đầu bổn tường trình, Ansart viết:. << Tôi hân hạnh báo cáo với Ngài về cuộc đàm thoại với Phan Thanh Giản vào ngày 16 vừa qua, khi ông ấy dừng lại Mĩ Tho, trên đường từ Sài Gòn xuống Vĩnh Long. Lúc bốn giờ chiều, tôi hướng dẫn Phan Thanh Giản vào ngôi nhà kiểng trong vườn, và ở đó, sau khi cho đoàn tùy tòng đi nghỉ, ông bắt đầu cuộc nói chuyện với sự trung gian của cha Marc, và đặt cho tôi câu hỏi sau: Chừng nào các ông lấy ba tỉnh (Tây Nam kì)? Tôi trả lời ông ấy rằng tôi hoàn toàn không biết gì hết, nhưng trước khi đi xa hơn, tôi phải nhắc với ông ấy rằng tôi không có tư cách chánh thức nào để giải quyết những vấn đề tương tợ, và rằng, nếu tôi đồng ý hướng cuộc đối thoại vào lãnh vực nầy, thì ông ấy phải nhìn thấy trong những lời nói của tôi sự diễn đạt những ý kiến cá nhơn, không dính dáng gì đến chánh phủ Pháp. Ông ấy trả lời tôi rằng ông muốn nói chuyện với tôi trong tình thân hữu… >> (7). Mặc dầu ức hiếp Nguyễn trào đủ điều nhưng chưa thỏa, ngày 18 tháng 6 năm 1867 (lịch Tây), quân Pháp gồm 1.200 lính cùng với 400 lính tập người Việt tập hiệp ở Mĩ Tho. Ngày 19, từ Sài Gòn, De La Grandière chỉ huy một đội tàu gồm 16 chiếc cũng tới Mĩ Tho rồi cho hành quân ngây trong đêm. Sáng ngày 20, đoàn quân thủy bộ của Pháp đã tới trước thành Vĩnh Long. Cây da ở cửa hữu là tất cả những gì còn lại của thành Vĩnh Long sau khi bị Pháp san bằng. Nguồn hình bấm đây. Tới khi đoàn tàu thuyền nhà binh Pháp đậu kín trước thành Vĩnh Long “là một thành khá kiên cố, địa thế rất dễ phòng thủ” và tướng giặc cho người mang thơ lên gởi thì Phan ra lịnh cho binh sĩ không kháng cự và dẫn đám thuộc hạ xuống tàu Pháp trách cớ. Ngay sau đó quân Pháp “cho bộ binh nối gót theo sau rồi chia làm bốn cánh vào chiếm đóng thành”. Binh lính trong thành ngây từ đầu đã nhận lịnh Phan nên không có kháng cự nào. Còn phần Phan không có ý gì chống Pháp mà còn tiếp tay Pháp vội viết mật thơ dụ hàng các đồng liêu là thủ thành Châu Đốc và Hà Tiên theo yêu cầu của quan Pháp. Sự việc nầy sau đó được Tổng Đốc Vĩnh Long là Trương Văn Uyển khai trước Trào đình là:. Thần đẳng xem xong bức thơ, cùng nhau thương nghị, rồi Kinh lược sứ (Phan Thanh Giản) lập tức đem viên Niết ti Võ Doãn Thanh, theo xuống dưới tàu cùng viên chúa tàu đàm thoại; trách y đã vin vào cớ nhỏ mọn mà đã vội làm thương tổn đại nghĩa. Y trả lời rằng: “Bổn ý thế nào, đã nói ở trong bức thơ”. Nói đoạn y cho chiến thuyền tấn sát vào phía ngoài thành rồi cho bộ binh vào thành đóng giữ… >> (9). Xong, vậy là xong. Pháp đã chiếm trọn ba tỉnh miền Tây mà “không tốn một giọt máu nào”, viên Đại tá Thomazi hoan hỉ viết trong nhựt kí: “Đến tháng 6/1867, binh lính ta đi chơi một bữa vậy là xong hết cuộc chinh phục toàn xứ Nam-kì, công cuộc khó nhọc bắt đầu từ năm 1858”. Trong báo cáo gởi cho chánh quốc về việc chiếm lấy ba tỉnh miền Tây, De La Grandière đã viết:. Tại chánh quốc, tờ báo Moniteur Universel số ra ngày 9.8.1867 cũng đăng bổn tin trong đó có đoạn viết:”Quân ta đã chiếm đóng các tỉnh Vĩnh Long-Sa Đéc, Châu Đốc, Hà Tiên. Các quan giữ thành đã mở cửa thành cho quân ta vào với sự tán đồng của dân chúng”.
Phan Thanh Giản
Phan Thanh Giản (chữ Hán: 潘清簡; 1796–1867), tự Tĩnh Bá (靖伯), Đạm Như (淡如), hiệu Mai Xuyên (梅川), Lương Khê (梁溪); là một quan đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã đàm phán và chấp thuận cắt 3 tỉnh Nam Kỳ cho thực dân Pháp. Tổ phụ của ông là Phan Thanh Tập (có nơi chép là Chỉnh), hiệu Ngẫu Cừ, vốn là người Tầu đời nhà Minh. Khi Minh bị quân Mãn Thanh tràn sang và chiếm được. Gia đình họ Phan cũng như những người không từng phục nhà Minh trốn sang Việt Nam, ở tỉnh Bình Định, tổng Trung An, làng Hội Trung. Ở đây, Phan Thanh Tập cưới Huỳnh Thị Học, sinh ra Phan Thanh Ngạn. Năm Tân Mão (1771) nhà Tây Sơn dấy binh nổi dậy chống lại triều đình, Phan Thanh Tập dắt gia quyến vào Nam. Ban đầu gia quyến họ Phan Thanh ở về Trang Tông (thuộc tỉnh Định Tường, Mỹ Tho ngày nay), rồi dời xuống Mân Thít (thuộc trấn Vĩnh Thanh, Vĩnh Long ngày nay), kể đến huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, cũng ở trong tỉnh Vĩnh Long, sau mới dời qua lập nghiệp tại làng Tân Thành, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (sau đổi ra thành làng Bảo Thạnh, phủ Định Viễn, trấn VĨnh Thanh (sau đổi ra làng Bảo Thạnh, huyện Bảo An, phủ Hoằng Đạo tỉnh Vĩnh Long; nay là làng Bảo thạnh, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre).
Muay Thái vs Kickboxing đây là chủ đề được tranh cãi hàng đầu trên các diễn đàn võ thuật và mạng xã hội. Họ phân vân không biết Kickboxing có trước hay Muay Thái có trước. Thông qua bài viết này, Ngôi Sao Gia Định mong rằng giúp bạn hiểu sự khác biệt giữa Muay Thái và Kickboxing là gì? Và địa điểm dạy học Kickboxing hàng đầu tại TPHCM. Tùy vào một số Quốc Gia, khu vực, bộ môn Kickboxing còn áp dụng các kỹ thuật gối thay vì chỉ đấm đá. Môn kickboxing đã và đang được ưu chuộng hàng đầu trên thế giới. Bởi một điều khả năng thực chiến của nó, giúp người tập rèn luyện sức khỏe và tăng phản xạ. Thế nhưng, mỗi quốc gia sẽ có một cách hiểu và định nghĩa riêng về bộ môn này. Giải K-1 hay còn được biết đến là sàn đài danh giá của Kickboxing. Với chữ K đại điện cho Kickboxing, Karate, Kung Fu. Có trụ sở đạt tại Hồng Kông. Thế nhưng, tiền thân của K-1 là Seidokaikan Karate. Thế nên khi nhắc tới Kickboxing Nhật Bản hay học Kickboxing tại đất nước mặt trời mọc này. Không mấy làm lạ, bạn sẽ thấy phản phất những thứ làm nên thương hiệu của Karate như: sự lì lợm, các đòn lowkick, đá chẻ, Ushiro kekomi Tobi Geri, Gyaku Mawashi Geri,…. Ngày nay, ngoài giải đấu K-1 Kickboxing còn có các giải đấu lớn thường được tổ chức cho bộ môn này như: Glory hoặc ONE Super Series. Và cũng từ chính giải thưởng này đã giúp tên tuổi của võ sỹ Bukaw được mọi người biến đến nhiều hơn. Kickboxing Mỹ không xem trọng những cú đá Low Kick. Họ đặt ra một khái niệm khác biệt cho Kickboxing. Ưu tiên tập trung vào lối đánh đẹp. Kickboxing kiểu mỹ sẽ không cho phép các đòn đá vào chân, cùi chỏ, đầu gối, đá đạp/đẩy. Và mọi kỹ thuật ôm giữ, quét ngã, vật hay đá thấp dưới thắt lưng đều không được phép. Khác với Muay Thái và Kickboxing Nhật Bản, lối đánh Mỹ từ chối hệ thống striking theo kiểu Muay Thái mà còn thẳng thắn phủ nhận tính hiệu quả của lối kỹ thuật này. Hà Lan Kickboxing là một phong cách đánh đặc biệt hung hăng, cú đấm nặng và đá thấp mạnh mẽ. Việc tập luyện cũng khá nổi tiếng do nó thiên về “train hard” điển hình như Phòng tập của Mike ở Amsterdam. Thế nhưng lối đánh có phần tối giản tập trung vào sức mạnh và độ lì lợm thay vì kỹ thuật. Các Sanda là một môn võ được phát triển bởi quân đội Trung Quốc, kết hợp yếu tố truyền thống võ thuật Trung Hoa với môn thể thao đối kháng hiện đại cho các ứng dụng vào thực tế. Sanda hoàn toàn giống Muay Thái về phạm vi sử dụng vũ khí. Trên thực tế, nó trông giống võ tổng hợp hơn do bao gồm đấu vật và judo trong các tiết mục của nó. Với sự trỗi dậy của các tổ chức kickboxing Trung Quốc Kunlun Fight và Wu Ling Feng, Sanda dường như bị lu mờ bởi các trường phái kickboxing kiểu K-1, vốn có liên quan nhiều hơn đến võ đài. Bây giờ chúng ta hãy nói về sự khác biệt giữa Muay Thái và Kickboxing và những gì xảy ra trong cuộc thi đấu giữa hai môn thể thao đối kháng này. Sự khác biệt cơ bản giữa cả hai môn võ này nằm ở hai khía cạnh: đòn đánh bằng cùi chỏ và gối. Nói một cách đơn giản, là trong bộ môn Kickboxing tùy vào giải đấu có hoặc không cho phép gối chỏ. Còn Muay Thái vẫn luôn có trong thi đấu. Động tác siết cổ chân của Muay Thái cho phép võ sĩ gài những đòn chỏ nguy hiểm. Miễn là vẫn còn hành động trong lúc khóa, như lên gối hay cài chỏ. Trọng tài chỉ tạm dừng trận đấu để dãn ra khi hai võ sĩ giữ chặt lấy nhau và không làm gì khác. Ngược lại Kickboxing, chỉ cho phép khóa/ clinch trong một thời gian ngắn. Do đó, một cảnh báo hoặc một lỗi và trọng tài sẽ tạm dừng trận đấu và dãn 2 võ sĩ ra. *“Clinch” được hiểu là một tư thế và cự li trong võ thuật đối kháng, nhập vào nhau có khoảng cách ngắn hơn 1 cánh tay hay ôm khóa. Đây là khoảng cách không thể tung được cú đấm hay đá. Một điểm khác biệt quan trọng là hệ thống tính điểm . Muay Thái truyền thống thiên về các đòn đánh đồng đều (đấm đá, gối, chỏ) trong khi kickboxing sẽ tập trung vào những đòn đấm hiệu quả. Đây là lý do tại sao bạn sẽ thấy nhiều đòn đá hơn trong Muay Thái. Bên cạnh luật chơi và điểm số, điểm khác biệt dễ nhận thấy nhất giữa Muay Thái và Kickboxing là nhịp điệu trận đấu của võ sĩ . Các võ sĩ Muay Thái theo truyền thống có tư thế điềm tĩnh hơn, thiên về các đòn đá, cùi chỏ và đầu gối cương mãnh. Kickboxing sẽ thiên về lối di chuyển Boxing và tấn công dồn dập để tạo ra cơ hội. Kickboxers chiến đấu với tốc độ nhanh hơn và với số lượng đòn đánh cao hơn, vì các trận đấu kickboxing nghiệp dư được thiết kế cho 3 hiệp (mỗi hiệp 3 phút). Các trận đấu Muay Thái có xu hướng diễn ra chậm hơn do hệ thống 5 hiệp (mỗi hiệp cũng 3 phút). Bất cứ khi nào để bắt đầu chủ đề hay phong cách riêng cho bạn. Tại Ngôi Sao Gia Định chúng tôi sẽ luôn ưu tiên trải nghiệm của bạn. Để cho bạn thấy được mình yêu thích bộ môn nào nhất. Muay Thái sẽ giúp bạn rèn dũa được bản lĩnh sự tự tin. Cùng với những đòn đánh sắc lịm. Còn xu hướng trở thành kickboxer sẽ giúp bạn vượt trội khả năng phối hợp các đòn đấm và đá. Cùng lối di chuyển linh hoạt, phản xạ giảm thiểu tác động đến từ đối thủ nhiều nhất. Về mặt bằng chung, khi học tại Ngôi Sao Gia Định bạn sẽ luôn có thể học thêm nhiều kỹ năng từ sự chỉ dạy tậm tâm của những người thầy. Thông qua đó tạo dựng một nền tảng vững chắc cho bạn trong tương lai. Hãy đến và trải nghiệm tập luyện cùng chúng tôi!. Plank là một bài tập tăng cường sức mạnh lõi isometric. Hay dễ hiểu hơn là cho các nhóm cơ trung tâm như: cơ bụng, lưng, bắp tay, đùi. Thông qua hình thức duy trì Đọc tiếp…. Yoga luôn được các chị em tin chọn hàng đầu như một liệu pháp cải thiện vóc dáng an toàn và hiệu quả. Thế nhưng bạn đã biết Yoga là gì hay chưa? Cùng Ngôi Đọc tiếp…
Muay Thái
Muay Thái (tiếng Thái: มวยไทย, chuyển tự: Muai Thai, IPA: mūɛj tʰāj) là một môn võ thuật cổ truyền đồng thời là một môn thể thao phổ thông của Thái Lan. Người phương Tây gọi môn này là quyền Thái (Thai boxing), tuy nhiên nó khác nhiều so với môn boxing của phương Tây. Môn thể thao này đã hiện diện từ năm 1500, với tên gọi là Muay Boran (Ancient Boxing) dưới triều đại quốc vương Naresuan, tất cả binh lính đều được rèn luyện võ thuật này, xem như điển hình trong cuộc chiến tay không chống trả với địch. Binh sĩ Xiêm La phải ôn luyện thực hành để tranh tài với nhau tại từng địa phương hay từng vùng. Không chỉ riêng Thái Lan mới có Muay, ở mỗi quốc gia trong khu vực Châu Á cũng có Muay, thế nhưng ở mỗi quốc gia, tên gọi Muay có sự khác biệt. Nhưng cũng có nguồn cho rằng Muay Thai do Nai Khanomtom - một binh sĩ Xiêm La sáng lập khi bị bắt làm tù binh Miến Điện. Khi bi bắt, ông đã được yêu cầu giao đấu với 10 võ sĩ hàng đầu Miến Điện và ông đã thắng toàn bộ bằng cách sử dụng những chiêu thức được học trong quân đội.
Ở các thời đại của thị tộc, bộ lạc, loài người chưa phân thành các giai cấp. Cuối thời đại này, trong nội bộ các cộng đồng manh nha hình thành các giai cấp. Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, các cuộc đấu tranh giai cấp không ngừng diễn ra lúc ngấm ngầm lúc công khai, quan hệ giữa người và người đã thay đổi về căn bản. Quan điểm duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác là cơ sở lý luận khoa học làm sáng tỏ bản chất của quan hệ giai cấp. Năm 1919, trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”. V. I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về giai cấp như sau:. “Giai cấp là những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.”. + Chủ nô và nô lệ là hai giai cấp đối lập nhau trong xã hội cổ đại. + Phong kiến và nông nô (có cách gọi khác là địa chủ và tá điền) là hai giai cấp trong xã hội trung cổ. + Tư sản và vô sản là hai giai cấp đối lập trong xã họi cận đại và đương đại. Vì vậy, giai cấp thường được dùng ở số nhiều: Các giai cấp. Chúng ta không đề cập đến giai cấp như một tập đoàn người riêng lẻ. Mỗi giai cấp trong lịch sử, dù cùng hệ thống hay khác hệ thống. đều có những đặc điểm riêng. Một giai cấp nào đó, như giai cấp tư sản, cũng sẽ thay đổi khi điều kiện kinh tế – xã hội thay đổi. Song, định nghĩa của Lênin cho phép ta nắm được những đặc trưng chung, cơ bản nhất, những dấu hiệu phổ biến, ổn định nhất của giai cấp, dù đó là các giai cấp của xã hội cổ đại, của xã hội phong kiến, hay của xã hội tư bản hiện đại. Giai cấp không phải là sản phẩm của sản xuất nói chung mà là sản phẩm của những hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử. Mỗi hệ thống giai cấp tương ứng với một hệ thống sản xuất xã hội, về bản chất, là thể thống nhất của các mặt đối lập. Do đó, ta không thể hiểu được đặc trưng của từng giai cấp cụ thể nếu không đặt nó trong hệ thống, tức là trong mối quan hệ với giai cấp đối lập với nó. Ví dụ: Ta không thể hiểu giai cấp tư sản là gì nếu không xem xét trong mối quan hệ của nó với giai cấp vô sản, và ngược lại. Nói dễ hiểu là, khi ta đề cập đến giai cấp tư sản thì bắt buộc phải đề cập ít nhiều đến giai cấp vô sản, và ngược lại. Đây là sự khác nhau cơ bản nhất. Chủ nô (trong chế độ nô lệ), địa chủ (trong chế độ phong kiến), tư sản (trong chế độ tư bản) là những tập đoàn người giữ địa vị thống trị trong hệ thống kinh tế xã hội mà họ là đại biểu trước hết do các tập đoàn người này chiếm hữu tư liệu sản xuất xã hội. Tức là họ nắm được phương tiện, điều kiện vật chất quan trọng để chi phối lao động của các tập đoàn người không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Những tập đoàn người bị mất tư liệu sản xuất (nô lệ, nông nô (hay tá điền), vô sản trong các xã hội tương ứng) buộc phải phụ thuộc về kinh tế vào các tập đoàn thống trị. Tập đoàn nào chiếm hữu tư liệu sản xuất đương nhiên giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy hoạt động sản xuất và lưu thông trên quy mô toàn xã hội cũng như từng đơn vị kinh tế. Ví dụ: Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, vai trò, chức năng quản lý công nghiệp và các ngành kinh tế khác phải thuộc về các nhà tư bản. Các giai cấp lao động là những tập đoàn người trực tiếp sản xuất dưới sự điều khiển của giai cấp thống trị trong phương thức sản xuất. Ở một số nước, trong nhiều công ty, xí nghiệp, công nhân có đại diện ở hội đồng quản trị, song vai trò quản lý thực chất vẫn thuộc về các tập đoàn tư bản. Là người chiếm hữu tư liệu sản xuất và tổ chức lãnh đạo sản xuất, tập đoàn thống trị đủ điều kiện thực hiện mục đích của mình trong sản xuất kinh tế là chiếm đoạt lao động thặng dư của các giai cấp lao động. Chế độ phân phối trong các xã hội có đối kháng giai cấp là chế độ phân phối bất công vì nó củng cố cho giai cấp thống trị (thiểu số, không trực tiếp lao động, sản xuất) chiếm hữu phần lớn của cải xã hội. Còn giai cấp lao động (đa số, trực tiếp lao động, sản xuất) chỉ được nhận ít ỏi của cải xã hội, không ít khi là chỉ được nhận phần tối thiểu duy trì cuộc sống. Trong xã hội nô lệ, những người nô lệ sống không khác gì súc vật. Trong xã hội phong kiến, phần lớn sản phẩm của nông nô và nông dân làm ra phải cống nạp cho địa chủ, vua quan, thậm chí có trường hợp đến 80% – 90% sản phẩm. Giai cấp tư sản, nhất là đại tư sản, chiếm hữu của cải xã hội dưới hình thức thu lợi nhuận, tính bằng giá trị. Đó là giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra. Trong nền sản xuất hiện đại, bộ phận lao động làm thuê có trình độ khoa học kỹ thuật cao tạo ra nhiều giá trị thặng dư nhất cho giới chủ tư sản. Giai cấp công nhân và nhữn trí thức làm thuê nhận được một sản phẩm lao động của mình dưới hình thức tiền lương. Đó là tiền bán sức lao động. Tuy nhiên, sự nâng cao mức sống của công nhân hoàn toàn không tương xứng với sự tăng lên nhanh chóng của năng suất lao động. Tỷ suất bóc lột giá trị thặng dư của giai cấp tư sản vẫn không ngừng tăng lên. Trong các xã hội có giai cấp, mức sống của người lao động thay đổi theo những điều kiện cụ thể, song điều không thay đổi là họ phải cống nạp phần lớn kết quả lao động của mình cho giai cấp thống trị dưới nhiều hình thức. Ngày nay, tài sản của một nhà tư bản có thể nhiều bằng tiền lương cả cuộc đời của hàng trăm, hàng ngàn công nhân. Trong các xã hội có giai cấp, bên cạnh giai cấp thống trị và bị trị bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp “trung gian”, không chiếm địa vị cơ bản trong phương thức sản xuất. Ví dụ: tầng lớp trí thức. Các tầng lớp trung gian luôn bị phân hóa, một số người leo lên địa vị giai cấp trên, số khác rơi xuống địa vị giai cấp bị trị. Ở những nước tư bản phát triển, bộ phận công nhân “cổ trắng” (tức trí thức) phát triển nhanh chóng, song về bản chất họ vẫn là công nhân làm thuê. Trong giai cấp công nhân, số lượng công nhân kỹ thuật cao, lao động trí tuệ hóa ngày càng tăng, trở thành bộ phận tiêu biểu của giai cấp công nhân hiện đại; số lượng công nhân “áo xanh” truyền thống ngày càng giảm. Tham gia vào đội ngũ giai cấp công nhân hiện đại còn có một bộ phận trí thức kỹ thuật làm công ăn lương. Ngày nay, ta thấy một bộ phận nhỏ công nhân được mua cố phiếu, được phân chia lợi nhuận, song giá trị cổ phiếu trong tay công nhân chỉ chiếm một tỷ lệ không đáng kể. Sự phát triển của các công ty cổ phần biểu hiện xu thế xã hội hóa tư bản, nhưng xu thế này không làm thay đổi bản chất của giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, không làm thay đổi bản chất quan hệ giữa tư bản và lao động. Đối với giai cấp tư sản hiện đại cũng diễn ra những biến đổi về hình thức chiếm hữu tư liệu sản xuất, về cơ chế bóc lột giá trị thặng dư, về phương thức tổ chức quản lý sản xuất. Điều không thay đổi là giai cấp tư sản vẫn là những người chiếm hữu tư liệu sản xuất của xã hội, những người chỉ huy sản xuất, những người chiếm hữu giá trị thặng dư. Không lý thuyết xã hội nào bác bỏ được điều này. Xã hội loài người không phải bao giờ cũng tồn tại các giai cấp. Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của sản xuất. C. Mác và Ph. Ăng-ghen, trên cơ sở tiếp thu các công trình nghiên cứu của các nhà sử học, xã hội học đi trước, và bằng quan điểm duy vật lịch sử đã chứng minh rằng:. Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động, tạo ra khả năng và tiền đề phân hóa xã hội thành giai cấp. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp của sự hình thành các giai cấp. Và như vậy, nguyên nhân phân chia xã hội thành giai cấp, cũng như nguyên nhân của sự ra đời và mất đi của một hệ thống giai cấp nhất định, là nguyên nhân kinh tế, chứ không phải nguyên nhân chính trị hay tư tưởng. – Trong xã hội nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ lao động chỉ bằng đá, gậy gộc, cung tên… Do đó, hầu hết các thành viên trong cộng đồng phải liên kết với nhau thì mới tổ chức lao động và sinh sống được, bởi nếu riêng rẽ theo từng cá nhân, từng gia đình thì không thể săn bắn, hái lượm do nguy cơ thú dữ đe dọa. Đồng thời, sản phẩm làm ra còn ít ỏi, chỉ đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có sản phẩm dư thừa tương đối. – Cuối xã hội nguyên thủy, việc sử dụng phổ biến công cụ lao động bằng kim loại (hơn hẳn đá, gỗ…) làm cho năng suất lao động tăng lên, giúp con người có thể sản xuất số lượng sản phẩm vượt hơn nhu cầu tối thiểu để tồn tại. Điều này tạo khả năng thực tế cho người này chiếm đoạt sản phẩm lao động thuộc số vượt hơn đó của người khác. Với công cụ sản xuất mới, sản xuất cá thể từng ra đình có hiểu quả hơn sản xuất tập thể nguyên thủy. Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến sự phân công lao động lớn hơn: Thủ công nghiệp (nghề làm gốm, đan lát…) tách khỏi nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi). Trao đổi sản phẩm trở thành thường xuyên, phổ biến. Quan hệ sản xuất cộng đồng nguyên thủy không còn phù hợp với lực lượng sản xuất mới. Các gia đình có tài sản riêng ngày càng nhiều và trong công xã xuất hiện sự chênh lệch về tài sản. Trong những điều kiện ấy, những người có quyền lực trong thị tộc, bộ lạc (như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự…) có thể lợi dụng địa vị của mình để chiếm đoạt tài sản chung của công xã làm của riêng. Đồng thời, do có sản phẩm dư thừa để nuôi tù binh chiến tranh nên họ không phải giết hết tù binh mà bắt một bộ phận tù binh làm nô lệ. – Các cuộc chiến tranh, những thủ đoạn cướp bóc, những hành vi bạo lực… là những yếu tố xúc tác góp phần đẩy nhanh quá trình phân hóa giai cấp. Sự ra đời cũng như sự mất đi của xã hội có giai cấp, sự xuất hiện và mất đi của những giai cấp cụ thể đều dựa trên tính tất yếu kinh tế. Xã hội nô lệ là xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử loài người. Trong quá trình phát triển của xã hội nô lệ xuất hiện những điều kiện để một bộ phận thoát ly lao động chân tay, chuyên hoạt động quản lý, làm chính trị, khoa học nghệ thuật. Đồng thời cũng xuất hiện sự tách rời và đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn. Theo tiến trình của lịch sử, xã hội phong kiến thay xã hội nô lệ, xã hội tư bản thay xã hội phong kiến… trở thành xã hội có giai cấp ở trình độ cao hơn. – Chế độ tư hữu và xã hội có giai cấp tồn tại một cách tất yếu suốt quá trình lịch sử nhiều nghìn năm trong điều kiện cơ bản là: Lực lượng sản xuất đã phát triển tới mức tạo ra được sản phẩm thặng dư, nhưng chưa đạt tới mức có thể bảo đảm thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người. Và theo lô-gíc đó, sự phát triển đầy đủ của những lực lượng sản xuất hiện đại tới mức bảo đảm thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người sẽ xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp. Sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, đến một mức độ nhất định, sẽ làm cho sự phân chia giai cấp mất đi tính tất yếu. Tuy nhiên, sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất chỉ là điều kiện cơ bản, nhưng không phải là duy nhất để thực hiện xã hội không giai cấp. Cần thiết phải có thêm những điều kiện kinh tế – xã hội khác, đặc biệt là sự phát triển cao và toàn diện của con người. Các giai cấp không tự động mất đi. Do đó, giai cấp công nhân, nhân dân lao động phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp tự giác, có tổ chức, tiến tới giành lấy dân chủ, thiết lập chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dựa vào công cụ chính quyền đó để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới không còn giai cấp. Mỗi kết cấu xã hội – giai cấp của một xã hội nhất định gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau. Đó là chủ nô và nô lệ trong chế độ nô lệ. Là địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến. Là tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ kinh tế – xã hội là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế – xã hội đó, đồng thời là những giai cấp quyết định sự tồn tại, phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế – xã hội đang tồn tại. Đó là những nhóm người là tàn dư của xã hội cũ (như nô lệ trong buổi đầu của xã hội phong kiến, địa chủ và nông nô trong buổi đầu của xã hội tư bản…), hoặc là mầm mống của phương thức sản xuất tương lai (như giai cấp tư sản và giai cấp công nhân công trường thủ công trong giai đoạn cuối của xã hội phong kiến). Bất cứ xã hội có giai cấp nào cũng có một số tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hóa xã hội không ngừng diễn ra. Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản. Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, đó là tầng lớp trí thức.
Giai cấp
Giai cấp xã hội đề cập đến các thứ bậc khác nhau phân biệt giữa các cá nhân hoặc các nhóm người trong các xã hội hoặc các nền văn hóa. Các sử gia và các nhà xã hội học coi giai cấp là phổ quát (là sự phổ biến), mặc dù những điều xác định giai cấp là rất khác nhau từ xã hội này đến xã hội khác. Thậm chí ngay cả trong một xã hội, các cá nhân khác nhau hoặc những nhóm người khác nhau cũng có rất nhiều ý tưởng khác nhau về những điều gì làm nên thứ bậc cao hay thấp trong trật tự xã hội. Theo Marx và Lenin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất và phân công lao động, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Bài thi có những chỗ dễ bị lầm nếu suy nghĩ theo một cách. Bề ngoài thì tưởng là hình học, nhưng thực ra lại là hàm số. Hai câu nói rất ngầu và đầy tính triết học này có thể coi là một tóm tắt tượng trưng cho Phía sau nghi can X của tác giả Higashino Keigo. Chúng làm tôi liên tưởng đến câu nói của bố Shinichi trong Thám tử Conan: “Người ta hay suy nghĩ theo lối mòn.” Những câu nói rất hay, đánh vào trọng tâm vấn đề, tuy nhiên người đọc thì chả hiểu mô tê gì. Sau khi ly dị, do bị đeo bám dai dẳng, Yasuko Hanaoka tuy không chủ tâm, nhưng đã giết chết Togashi Shinji, chồng cũ ngay trong căn hộ của mình. Tetsuya Ishigami – một anh hàng xóm dạy toán cấp III yêu thầm Yasuko đã lâu, đã giúp cô xóa dấu vết và phi tang cái xác. Sau đó, Ishigami đã chỉ dẫn cho Yasuko và con gái Misato cách thức trả lời cảnh sát để từng bước xóa tan sự nghi ngờ, mặc dù nghi vấn vào hai mẹ con mỗi lúc một tăng. Nội dung câu chuyện sau đó xoay quanh việc cảnh sát điều tra sự việc. Phía cảnh sát có thêm sự hỗ trợ không chính thức của Yukawa Manabu, là bạn của Tetsuya Ishigami hồi đại học. Nhờ Yukawa, đến cuối cùng, như tất cả mọi truyện trinh thám khác, bức màn bí ẩn cũng được vén lên. Nội dung truyện nghe không có gì đặc sắc và tôi cũng không biết nên tóm tắt thế nào để người khác cảm thấy hứng thú. Quả thật, đến già nửa quyển truyện, tình tiết vẫn không có gì tiến triển. Tác giả cứ ru người đọc trong những chương truyện đều đều và sự bất lực của những người cảnh sát dù phát hiện rất nhiều chi tiết nhưng chẳng có cái nào đúng trọng tâm. Tôi hơi ngại review thể loại trinh thám vì rất khó để nói lên cảm nghĩ của mình mà không được hớ hênh về chi tiết nào liên quan đến hung thủ hay cách thức gây án. Nhưng đối với Phía sau nghi can X (tác giả Higashino Keigo) thì lại khác. Vì ngay từ đầu, tác giả đã thẳng tuột hoàn cảnh xảy ra vụ án, ai giết, hung khí là gì, chỉ để lại một khoảng đen bí ẩn gây sự tò mò về cách thức xử lý thi thể. Bức tranh gần như hoàn chỉnh, chỉ thiếu một miếng ghép cuối cùng, là khoảng thời gian từ lúc Ishigami bảo Yasuko về nhà để lại anh một mình với cái xác, cho tới lúc xác chết được tìm thấy. Tuy nhiên, chỉ một khoảng trống như vậy cũng đủ cho một cú bẻ lái rất gắt cuối truyện. Mà cú này, theo tôi là cân lại hết tất cả những nhàm chán ban đầu. Trong Phía sau nghi can X, cả hung thủ, nạn nhân và cảnh sát đều không phải là nhân vật chính. Hai nhân vật quan trọng nhất, chiếm hết spotlight là Ishigami – kẻ dàn xếp và Yukawa – thám tử bất đắc dĩ. Bề ngoài của hai nhân vật này không hề được chau chuốt. Yukawa thì hồi sinh viên được miêu tả là tóc dài đến vai (không thấy nhắc đến có óng ả hay không nên tôi hình dung anh ta giống thầy Snape trong Harry Potter). Còn Ishigami thì lùn và mập, mắt như sợi chỉ, đến gặp người mình yêu cũng phải phân vân liệu mình trông có quá hói hay không. Truyện có mỗi hai nữ thì một là hung thủ, hai là chưa đến tuổi dậy thì. Mối tình duy nhất được sự đồng thuận từ cả hai phía thì tôi không thấy có gì đặc biệt. Vậy nên tôi khuyên những bạn tìm kiếm thể loại ngôn tình trinh thám không nên đọc. Vì chả có tí ngôn tình nào ở đây cả, chỉ có 1 + 1 = 2 thôi. Điểm đặc biệt là, cả hai người đều vô cùng giỏi. Hai cao thủ một Toán một Lý, một người tạo ra bí ẩn, một người đi tìm lời giải đáp, nhưng không phải theo thế đối đầu, mà vì Yukawa coi Ishigami là bạn. Tôi nghĩ rằng Yukawa có một lợi thế lớn trong cuộc gặp này. Đó là anh rất hiểu về Ishigami. Việc này khiến anh có thể đi nửa đôi guốc trong bụng Ishigami rồi. Tetsuya Ishigami được miêu tả là không thích gì trên đời này ngoài Toán. Một thiên tài toán học lẽ ra thừa sức làm giáo sư đại học, nhưng lại chỉ là một anh giáo cấp III dạy toán cho những học sinh không hề đam mê môn này. Tôi cảm thấy, trong truyện, nhân vật cảnh sát và các nhân vật học trò của Ishigami hay Yukawa, như được sắp xếp song song. Họ đều không thích học Toán, hay suy nghĩ theo một lối mòn, bị dắt mũi. Anh ra đề, họ cứ theo hướng anh chỉ mà giải, mặc dù không biết hướng đó có đúng không. Vì vậy, nên Yukawa đã trở nên quá khác biệt. Anh nổi lên như một đối thủ cân sức với Ishigami. Hay nói cách khác cuộc thi đấu này chỉ có hai người họ. Về tình yêu của Ishigami với Yasuko, tôi cảm thấy hơi sợ nhiều hơn là ngưỡng mộ. Đúng là vì cô mà anh chấp nhận làm tất cả mọi thứ, nhưng tôi cảm thấy với Ishigami, đó là một lẽ đương nhiên. Đối với anh, chỉ có làm được và không làm được, yêu và không yêu. Đã yêu và muốn làm được là sẽ làm đến cùng bất chấp tất cả. Đó không phải là do sự nồng nhiệt thôi thúc của tình yêu mà là sự lạnh lùng tàn nhẫn và rất thực tế, dựa trên sự tự tin của bản thân. Vì vậy anh đã chọn lấy cách làm đơn giản và xác suất thành công là cao nhất. Truyện gây tò mò qua việc giấu đi cách thức xử lý thi thể. Nhưng gần như toàn bộ cuốn truyện không dài (chỉ có 19 chương) này tập trung vào việc chứng minh Yasuko là hung thủ của vụ án, là điều mà ai cũng biết, nên không tránh khỏi có chút nhàm chán với những chương đầu. Tuy nhiên, cả việc đó cũng là một cú lừa. Đến cuối cùng, truyện vẫn là lừa cả cảnh sát lẫn người đọc, nhằm làm sáng tỏ một điểm là sự dàn xếp của Ishigami đã cực kỳ thành công. Truyện không gì khác ngoài vụ án. Không có thật nhiều thi thể, cách thức giết người cũng không quá khoa trương hay máu me để tạo ấn tượng với độc giả, mà chủ yếu tập trung vào cách thức che dấu. Tôi thích đọc một cuốn truyện như vậy. Ngắn gọn, không đơn giản, bí ẩn đủ để thỏa mãn và khiến người đọc không tiếc nuối thời gian mình đã bỏ ra để đọc sách. Có một điểm tôi thấy hơi tiếc là suy đoán của Yukawa, mặc dù có vẻ là một bí ẩn đã được thừa nhận (dựa trên thái độ của hung thủ), nhưng lại chưa được chứng minh. Tất nhiên, nếu cảnh sát điều tra theo hướng này, có thể sẽ tìm thấy bằng chứng vào một ngày nào đó, nhưng dù có tìm được hay không thì cũng không thể nào lật lại bản án. Một vụ án hoàn hảo, cách giải thích hợp lý, lại thiếu đi bằng chứng mang tính quyết định, tôi cảm thấy như thiếu một điều gì đó. Tôi không hay đọc truyện chữ của Nhật lắm vì cảm giác nó cứ bị nặng nề về tâm lý (truyện tranh thì khác, quá vui nhộn, haha). Cả cuốn này cũng thế. Ngay cả màu sắc truyện cũng khá u ám và bí bách, loanh quanh cũng chỉ ở trường, ở quán cơm hộp, hay trên đường đi làm của Ishigami. Những nơi khác được tả rất ít. Ngay cả hiện trường cũng rất ngắn gọn qua lời kể của cảnh sát. Loanh quanh cũng chỉ hỏi, đáp, tìm cách chứng minh. Tôi thích một chút hài hước hơn, mà mãi đến cuối mới có một câu khiến tôi bật cười, đó là trong bức thư của Ishigami gửi Yasuko có đề cập đến nếu cô đến với Kudo thì “xác suất em được hạnh phúc sẽ không nhỏ“. Đúng là dân Toán, haha. Gấp cuốn sách lại, người đọc có thể biết thêm một cách dọn xác nhưng chắc hiếm người dám làm theo. Không hiểu sao càng phân tích tôi lại càng thấy sợ, nên chắc dừng ở đây thôi 🙂. Cảm ơn bạn đã ghé thăm blog. Mình là một lập trình viên web đang sống và làm việc tại Phần Lan. Đây là nhật ký ghi lại những khoảnh khắc đáng nhớ trong cuộc sống của mình, ảnh/video về những chuyến đi, bình luận cá nhân về những bộ phim, truyện, hoạt hình, manga mình đã xem và cảm thấy ấn tượng. Mình cũng rất muốn biết thêm về cuộc sống của các bạn, nhất là các bạn du học sinh. Nếu tiện, khi tới thăm blog mình, xin để lại comment dưới bài viết này hoặc địa chỉ blog wordpress để mình có thể follow. Nhập địa chỉ email của bạn để đăng ký theo dõi blog này và nhận thông báo về các bài mới qua email.
Phía sau nghi can X
Phía sau nghi can X (容疑者Xの献身 Yōgisha Ekkusu no Kenshin) là một bộ tiểu thuyết được viết vào năm 2005 bởi Higashino Keigo, cuốn thứ ba trong seri Thám tử Galileo (tức nhân vật Manabu Yukawa) và đây là tác phẩm thành công nhất của ông từ trước đến nay. Cuốn tiểu thuyết này đã đem về cho ông vô số giải thưởng, bao gồm giải Naoki lần thứ 134, giải thưởng vô cùng cao quý tại Nhật. Ngoài ra, tác phẩm này cũng giành được giải thưởng Honkaku lần thứ 6, một trong những giải thưởng có uy tín dành cho những tác phẩm thuộc thể loại kì bí tại Nhật. Hai quyển sách hướng dẫn về những tác phẩm kì bí thường niên - 10 tiểu thuyết kì bí hay nhất của giải Honkaku (2006) và Kono Mystery ga Sugoi! (2006), đã xếp bộ tiểu thuyết vào vị trí thứ nhất. Phiên bản tiếng Anh của tiểu thuyết được đề cử vào năm 2012 cho giải Tiểu thuyết xuất sắc nhất của giải Edgar và Tiểu thuyết đầu tay xuất sắc nhất vào năm 2012 của giải Barry. Tiểu thuyết đã được xuất bản bởi Nhã Nam với nhan đề "Phía sau nghi can X" vào năm 2009 do Trương Thùy Lan dịch.
- Tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt. Mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Theo quy định trên, công chứng do công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng thực hiện. Có 2 hình thức tổ chức hành nghề công chứng là: Phòng công chứng và Văn phòng công chứng. Phòng công chứng do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập, trực thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. Người đại diện theo pháp luật của Phòng công chứng là Trưởng phòng - công chứng viên, do Chủ tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm. Văn phòng công chứng phải có từ 2 công chứng viên hợp danh trở lên. Văn phòng công chứng không có thành viên góp vốn. Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng là Trưởng phòng - là công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên. Như vậy, việc công chứng giấy tờ được thực hiện tại Phòng công chứng hoặc Văn phòng công chứng. Việc công chứng không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà trên phương diện kinh tế, còn giúp các bên hạn chế được những rủi ro từ những hợp đồng, giao dịch dân sự, thương mại không được công chứng.
Công chứng viên
Công chứng viên là nhà chuyên môn về pháp luật, có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng. Công chứng viên cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Công chứng viên đều là những nhà luật học giỏi, những chuyên gia pháp luật có kiến thức pháp lý sâu rộng và áp dụng pháp luật nhuần nhuyễn, linh hoạt. Công chứng là việc Công chứng viên của Phòng công chứng hoặc Văn phòng công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Chiến tranh Bảy Năm (1756–1763) là cuộc chiến xảy ra giữa hai liên quân gồm có Vương quốc Anh/Vương quốc Hannover (liên minh cá nhân), Vương quốc Phổ ở một phía và Pháp, Áo, Nga, Thụy Điển và Vương quốc Sachsen ở phía kia. Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sau này cũng bị cuốn vào chiến tranh, trong khi một lực lượng của nước trung lập Hà Lan bị tấn công tại Ấn Độ. Cũng như cuộc chiến tranh Kế vị Áo (1740 – 1748) trước đó, cuộc chiến tranh Bảy năm là cuộc chiến giữa vua Phổ – Friedrich II Đại Đế – và Nữ hoàng Áo Maria Theresia. Tại Bắc Mỹ, cuộc chiến được gọi là Chiến tranh Pháp và người Da đỏ. Nhiều người thổ dân tại Bắc Mỹ đã theo phía Pháp. Tuy nhiên, bất chấp đội quân bản địa đông đảo, Pháp vẫn đại bại và mất gần hết lãnh thổ Bắc Mỹ vào Anh trừ vùng Québec. Chiến tranh bắt đầu ở châu Âu năm 1756 với việc quân Pháp vây hãm Minorca thuộc Anh ở Địa Trung Hải và vua Friedrich II Đại Đế chinh phạt xứ Sachsen ở châu Âu lục địa. Mặc dù là chiến trường chính, các trận đánh đẫm máu ở châu Âu không mang lại thay đổi gì đáng kể so với tình trạng trước chiến tranh. Tuy nhiên, ý nghĩa của cuộc chiến tranh này là nhà vua nước Phổ đã giữ vững quyền kiểm soát tỉnh Silesia của ông ta, và đưa Vương quốc Phổ trở thành một quốc gia hùng mạnh ở miền Bắc Đức. Trong khi đó, kết quả cuộc chiến ở châu Á và châu Mỹ đã làm thay đổi sâu sắc những khu vực này trong giai đoạn sau đó. Những thỏa thuận trong Hiệp ước Paris 1763 kết thúc vị trí cường quốc thuộc địa của Pháp ở châu Mỹ. Pháp mất các vùng đất ở Bắc Mỹ về phía đông sông Mississippi và nhiều vùng khác ở Canada, cộng thêm các đảo ở Tây Ấn. Anh Quốc củng cố các vùng đất thuộc địa ở Ấn Độ và Bắc Mỹ, trở thành cường quốc thực dân hàng đầu thế giới. Với quy mô toàn cầu, một số nhà sử học gọi Chiến tranh Bảy năm là cuộc “Chiến tranh thế giới lần đầu tiên”. Từ 900.000 tới 1.400.000 người đã thiệt mạng trong cuộc chiến và nhiều thay đổi quan trọng với cán cân quyền lực cũng như phân bố lãnh thổ đã diễn ra. Ở Canada, Pháp và Anh, Cuộc chiến Bảy năm dùng để chi cuộc xung đột ở Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á kéo dài bảy năm từ 1756 tới 1763, Tại Mỹ, khi chiến tranh bùng nổ năm 1754, cuộc chiến được gọi dưới tên Chiến tranh Pháp và da đỏ Nhiều học giả và nhà sử học ở Mỹ, như Fred Anderson, không gọi như thế mà cũng sử dụng tên gọi Chiến tranh Bảy năm. Ở Quebec, cuộc chiến được gọi là La Guerre de la Conquête, có nghĩa là chiến tranh chinh phạt. Ở Ấn Độ, đó là Chiến tranh Carnatic lần thứ ba. Cuộc chiến giữa riêng Phổ và Áo được gọi là Chiến tranh Silesia lần thứ ba. Winston Churchill gọi đây là cuộc “Chiến tranh thế giới lần đầu tiên”, bởi nó là xung đột vũ trang đầu tiên của con người diễn ra trên quy mô toàn cầu, dù chiến trường chính là châu Âu và một số vùng đất thuộc địa. Do một phần cuộc chiến là cuộc đối đầu giữa Anh và Pháp, Chiến tranh Bảy năm cũng là phần quan trọng nhất của Chiến tranh Trăm năm lần thứ hai vào thế kỷ 18. Cuộc chiến thường được cho là tiếp nối của Chiến tranh Kế vị Áo kéo dài từ 1740 đến 1748, trong đó vua nước Phổ là Friedrich II, hay Frederick Đại đế, giành được tỉnh giàu có Silesia từ Áo. Nữ hoàng Maria Theresa của Áo ký Hiệp ước Aix-la-Chapelle chỉ để hoãn binh và có thêm thời gian xây dựng lực lượng và liên minh mới. Bản đồ chính trị châu Âu được vẽ lại chỉ trong vài năm sau khi Áo chấm dứt mối liên mình kéo dài 25 năm với Anh. Trong cuộc Cách mạng Ngoại giao năm 1756, những kẻ thù hàng thế kỷ của nhau, Pháp, Áo và Nga, bắt tay thành lập một liên minh chống Phổ. Quân đội Áo tỏ ra hoàn toàn lép vế so với hệ thống quân sự của nước Phổ trong cuộc chiến trước đó. Maria Theresa, với kiến thức quân sự có thể làm nhiều vị tướng của bà phải hổ thẹn, đã thúc đẩy không ngừng nghỉ việc cải cách quân đội. Bà đặc biệt nhấn mạnh phúc lợi cho binh lính, điều giúp bà giành được sự ủng hộ chắc chắn từ quân đội. Quân Áo đã hứng chịu những thất bại quân sự thảm hại trước quân Phổ trong cuộc chiến 1740-1748 và rất không hài lòng vì những hỗ trợ hết sức dè dặt và hạn chế từ đồng minh Anh. Họ quay sang phía Pháp như đồng minh duy nhất có thể giúp Áo lấy lại vùng Silesia và ngăn chặn sự bành trướng của Vương quốc Phổ. Nguyên nhân thứ hai dẫn đến chiến tranh là cuộc tranh giành thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt giữa Anh và Pháp ở hai lục địa châu Á và Bắc Mỹ. Công cuộc xâm lấn thuộc địa của hai cường quốc thực dân này gặp nhau ở Ohio, nơi mà cả hai đều coi là vị trí chiến lược trong việc bành trướng ở Bắc Mỹ. Trên thực tế, chiến tranh đã diễn ra từ năm 1754 giữa Anh và Pháp trên đất Mỹ, dù ở châu Âu tình trạng hòa bình mong manh vẫn được duy trì. Trên mặt trận châu Âu, trong những năm đầu Quân đội Phổ đại thắng. Dù Quốc vương Frieidrich II Đại Đế bị bao vây dữ dội, ông hành quân cùng quân nhu một cách tài tình đến đánh từng đội quân một của liên quân chống Phổ, tiêu diệt mọi hiểm họa. Tuy nhiên, vào năm 1759, ông chịu áp lực nặng nề ở khắp nơi trên toàn Vương quốc Phổ và phải chịu một số thất bại. Bên cạnh đó, liên quân chống Phổ cũng chịu tổn thất nặng nề. Khi nước Phổ không còn bị đe dọa ở phía Đông nữa, ông tiếp tục giành thắng lợi trong vài trận đánh cuối cùng ở phía Tây và ông giữ vững được tỉnh Silesia. Khi vua Phổ Friedrich II Đại Đế đánh quân Sachsen tại Pirna, vào ngày 1 tháng 10 năm 1756, ông kéo 24.000 quân Phổ tấn công đội quân Áo đông đảo hơn của Thống chế Brown. Khi ấy, Thống chế Browne đang kéo quân đến cứu vãn xứ Sachsen, và ông ta phải rút quân sau một trận đánh khốc liệt tại Lobositz, Quân đội Phổ giành chiến thắng. Cả hai phe đều mất khoảng 3.000 binh sĩ. Tuy nhiên, chiến thắng này có ý nghĩa lớn lao đối với nhà vua nước Phổ, 17.000 quân Sachsen và 80 hỏa pháo đầu hàng Quân đội Phổ. Tuy nhiên, trước năm 1757 chiến tranh chưa chính thức bắt đầu. Vào ngày 17 tháng 1 năm 1757, nữ hoàng Áo là Maria Theresia tuyên chiến với Đại đế Friedrich II. Từ xứ Sachsen, ông bèn xua quân chinh phạt xứ Bohemia vào tháng 4 năm 1757, nhằm “phát động một chiến dịch quyết định diệt sạch Quân đội Áo và khiến họ không có khả năng tham gia chiến tranh nữa”. Cùng năm đó, quân Phổ đánh bại quân Áo tại Reichenbach, và quân Pháp xâm lược xứ Westphalia. Vua Friedrich II Đại Đế thân chinh thống lĩnh Quân đội Phổ tiến đánh Vương công Charles xứ Lorraine và Thống chế Browne – những tướng Áo đang phòng thủ kiên cố trên núi Moldau trước kinh thành Praha. Và, ông tấn công Vương công Charles tại thành Praha vào ngày 6 tháng 5 năm 1757. Trận chiến khốc liệt diễn ra từ 9 giờ sáng đến 8 giờ tối, đã đem lại chiến thắng cho Quân đội Phổ, cùng 4.500 tù binh Áo. Thống chế Browne – thống lĩnh đạo quân tiếp viện cho Quân đội Áo – bại trận tử vong. Sau chiến thắng đó, vào ngày 29 tháng 5, Quân đội Phổ bắn phá kinh thành Praha. Nhưng đến ngày 18 tháng 6 cùng năm, 30.000 quân Phổ của Đại Đế Friedrich II bị 50.000 quân Áo đập tan tác tại Kolin, mất 14.000 binh sĩ. Trong trận chiến này Quốc vương đã sáu lần thúc dục quân sĩ tiến công, và khi họ rút lui, ông quát tháo:. Và ông đã tập hợp với Quân đội Phổ để thân chinh chém giặc. Ông nhanh chóng tiến đến, nhưng một người Anh khuyên ông: “Muôn tâu Thánh thượng, chẳng lẽ Người muốn đơn phương độc mã lao vào đâm chém đạo quân kia sao?”, do đó ông rút lui. Trong cuộc chiến năm 1757, một trung thần quả cảm của nhà vua là Schwerin tử trận; ông đã chú ý đến Friedrich Wilhelm Freiherr von Seydlitz (1721 – 1773), do vị tướng ấy khéo léo và quả quyết trong việc chỉ huy Kỵ binh Phổ. Sau trận chiến này, ông phong von Seydlitz làm Trung tướng. Còn tướng chỉ huy quân cánh trái là Vương công Moritz xứ Anhalt-Dessau – từng lập chiến công tại Hohenfriedberg – thì bị thất sủng. Sau chiến bại tại Kolin, Quân đội Phổ không còn đủ sức để tiếp tục cuộc vây hãm thành Praha, khiến nhà vua mất hết những gì mà ông chiếm được trước đó, phải rút khỏi xứ Bohemia và tiến về tỉnh Silesia. Đêm sau trận, ông đau buồn ngồi trước một con suối, và dùng gậy vẽ hình người trên bãi cát. Thậm chí, nhà vua còn phải nghe một tin hết sức đau buồn: Thái hậu Sophia Dorothea qua đời. Nữ hoàng Nga là Elizaveta Petrovna đứng về phe đối lập với Friedrich II Đại đế. Bà lo sợ ông sẽ tranh giành Ba Lan với nước Nga, theo ghi nhận của nhà ngoại giao C. Hanbury Williams (người Anh), “vị Nữ hoàng khó có thể giấu giếm sự căm ghét của bà đối với Quốc vương Phổ, vì bà nổi nóng trong mọi phút”. Thủ tướng Chính phủ Nga cho rằng nước Phổ là “kẻ thù nguy hiểm nhất trong các nước láng giềng, Nga hoàng cần phải tiêu diệt đế chế này”. Nữ hoàng Elizaveta cũng nói:. Quốc vương Phổ là một ông vua tồi tệ. Ông ta không tin vào sự phù hộ của Chúa, ông ta đùa cợt với Thần thánh, và ông ta không hề đi lễ nhà thờ. Vào ngày 17 tháng 5 năm 1757 85.000 quân Nga tiến đánh vùng Königsberg. Dưới sự chỉ huy của Bá tước William Fermor, Quân đội Nga đã đánh chiếm vùng Memel ở Đông Phổ. Vào ngày 30 tháng 8 năm đó, Thống chế Hans von Lehwaldt xua 25.000 quân Phổ tấn công quân Nga tại Gross-Jägersdorf, và bị 55.000 quân Nga của Thống soái Stepan Fyodorovich Apraksin đập tan, nhưng sau đó quân Nga rút lui do Apraksin không biết phát huy lợi thế. Lúc bấy giờ, Nga hoàng Elizaveta Petrovna đã già yếu, Apraksin lại không muốn làm mất lòng vị vua tương lai của nước Nga là Pyotr III bằng việc chạm trán với Friedrich II – người anh hùng của Pyotr III. Hơn nữa, quân Nga cũng chịu tổn thất nặng nề trong trận đánh với quân Phổ, và quân lương của quân Nga cũng trở nên hỗn loạn. Dù sao thì thất bại của Quân đội Phổ tại Gross-Jägersdorf đã lôi kéo Vương quốc Thuỵ Điển vào tham chiến. Vào ngày 7 tháng 9 cùng năm, một sủng thần của vua Phổ là Winterfield bị đột kích và giết chết tại Moys. Tuy vậy, nhà vua nước Phổ vẫn giữ một cái đầu lạnh. Có một sự thật rằng những đạo quân đối thủ của ông tỏ ra chậm chạp trong việc phát huy lợi thế của phe mình. Từ ngày 12 đến ngaỳ 24 tháng 10 năm 1757, Quân đội Phổ còn phải đương đầu với cuộc tiến công thành Berlin của tướng Haidik và Quân đội Áo. Vào ngày 5 tháng 11 năm 1757, vua Friedrich II Đại Đế thân chinh cùng 30.000 quân Phổ phải đối mặt với 80.000 quân Áo và Pháp do Thống chế Soubise chỉ huy trong trận Rossbach. Liên quân Áo – Pháp tấn công nhà vua trên đỉnh núi Rossbach. Tuy nhiên, lực lượng Kỵ binh Phổ do Seidlitz chỉ huy phản công quân Áo, đẩy địch vào hỗn loạn, rồi lực lượng Bộ binh Phổ thừa thắng xông lên đập tan tác quân Áo, với tổn thất của liên quân là 4.000 binh sĩ tử trận hoặc thương vong, 7.000 binh sĩ bị bắt, trong số đó có 11 tướng lĩnh và 63 hỏa pháo, bị Quân đội Phổ chiếm lĩnh. Quân đội Phổ chỉ tổn thất 3.000 binh sĩ. Vào ngày 5 tháng 12 năm 1757, Quốc vương Friedrich II Đại Đế thống lĩnh 33.000 quân Phổ đánh trận Leuthen với 90.000 quân Áo do Vương công Charles xứ Lorraine và Bá tước Daun cầm đầu. Ông đánh nghi binh vào cánh phải của quân Áo, sau đó, ông nhờ vào địa hình của vùng Leuthen mà rút quân chính quy, và tấn công quyết liệt vào cánh trái của quân Áo, đẩy lui quân cánh trái của đối phương. Quân cánh trái của Áo đã bị tiêu diệt hoàn toàn trong một cuộc tấn công của lực lượng Kỵ binh Phổ. Quân Áo tổn thất đến 7.000 binh sĩ (trận vong hoặc bị thương), 20.000 tù binh (trong số đó có ba viên tướng lĩnh), và 134 khẩu đại pháo. 5.000 binh sĩ Phổ tử trận hoặc bị thương. Sau chiến thắng này, Quốc vương Phổ mang 18.000 quân tái chiếm Breslau vào ngày 10 tháng 12 năm 1757. Trận Zorndorf (1758), một trong những chiến thắng lẫy lừng nhất của vua Friedrich II Đại Đế. Vào năm 1758, Quốc vương Friedrich II Đại Đế đã gặt hái nhiều chiến công từ năm trước, nên trở nên tự tin hơn. Ông tiến đánh xứ Moravia, để đánh đuổi quân Áo ra khỏi bờ cõi Silesia. Tuy nhiên, ông thất bại. Quân đội Áo giữ được Olmütz, và do họ học được bài học từ chiến bại của họ tại Leuthen, họ không tiến hành một cuộc phản công quyết định. Họ chỉ đẩy lui cuộc tấn công bằng cách đánh lừa các cánh quân của ông. Quân đội Phổ phải rút quân về xứ Bohemia, sau đó kéo nhau về tỉnh Silesia. Trong lúc đó, Quân đội Nga là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với nền quân chủ Phổ thời bấy giờ. Quân Nga chiếm được xứ Đông Phổ không được phòng thủ, sau đó tiến hành vây hãm Custria gần kinh thành Berlin. Với một số Trung đoàn hùng mạnh nhất của ông, Quốc vương Friedrich II Đại Đế kéo quân về phương Bắc. Vào ngày 25 tháng 8 năm 1758, trận Zorndorf giữa ra giữa 52.000 quân Nga do Fermor chỉ huy và 30.000 quân Phổ do vua Friedrich II Đại Đế thân chinh thống lĩnh. Ông tiến hành tấn công các chiến hào của quân Nga, và đánh đuổi quân Nga ra khỏi đây. Trận Zorndorf là trận đánh khốc liệt nhất trong cuộc chiến tranh Bảy năm, Quân đội Nga đã chiến đấu anh dũng dù thất bại thảm hại. Với tổn thất đến 21.000 binh sĩ, quân Nga buộc phải rút quân khỏi trận địa, và chấm dứt cuộc tiến công của họ. Vua Friedrich II Đại Đế giành chiến thắng, Quân đội Phổ mất khoảng 11.000 binh sĩ. Cũng như trận thắng vang dội tại Rossbach năm trước, ông giành chiến thắng lừng lẫy tại Zorndorf là nhờ sự phò tá đắc lực của hai viên chỉ huy Kỵ binh Phổ kiệt xuất là Friedrich Wilhelm von Seydlitz và Hans Joachim von Zieten. Ở phương Bắc, các tướng Phổ đã đánh tan tác các cuộc tấn công của liên quân Nga – Thụy Điển.
Chiến tranh Bảy Năm
Chiến tranh Bảy Năm (1756–1763) là cuộc chiến xảy ra giữa hai liên quân gồm có Vương quốc Anh/Vương quốc Hannover (liên minh cá nhân), Vương quốc Phổ ở một phía và Pháp, Áo, Nga, Thụy Điển và Vương quốc Sachsen ở phía kia. Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sau này cũng bị cuốn vào chiến tranh, trong khi một lực lượng của nước trung lập Hà Lan bị tấn công tại Ấn Độ. Cũng như cuộc chiến tranh Kế vị Áo (1740 - 1748) trước đó, cuộc chiến tranh Bảy năm là cuộc chiến giữa vua Phổ - Friedrich II Đại Đế - và Nữ hoàng Áo Maria Theresia. Tại Bắc Mỹ, cuộc chiến được gọi là Chiến tranh Pháp và người Da đỏ. Nhiều người thổ dân tại Bắc Mỹ đã theo phía Pháp. Tuy nhiên, bất chấp đội quân bản địa đông đảo, Pháp vẫn đại bại và mất gần hết lãnh thổ Bắc Mỹ vào Anh trừ vùng Québec. Chiến tranh bắt đầu ở châu Âu năm 1756 với việc quân Pháp vây hãm Minorca thuộc Anh ở Địa Trung Hải và vua Friedrich II Đại Đế chinh phạt xứ Sachsen ở châu Âu lục địa. Mặc dù là chiến trường chính, các trận đánh đẫm máu ở châu Âu không mang lại thay đổi gì đáng kể so với tình trạng trước chiến tranh.
Trong kinh doanh ngày nay, cần phải tận dụng tối đa mọi ý tưởng, lựa chọn và đầu tư. Để thực hiện điều này, các doanh nghiệp lớn nhỏ sử dụng các phân tích lợi ích chi phí để đưa ra các quyết định quan trọng. Đây là một quá trình mà tổ chức phân tích các quyết định, hệ thống, dự án hoặc xác định một giá trị cho các giá trị vô hình. Mô hình được xây dựng bằng cách xác định các ích lợi của một hành động và các chi phí liên quan. Sau đó lấy lợi ích trừ đi chi phí. Khi hoàn thành, phân tích lợi ích chi phí sẽ mang lại kết quả cụ thể. Và nó được sử dụng để đưa ra kết luận hợp lý về tính khả thi của một quyết định/tình huống. Trước khi xây dựng một nhà máy mới hoặc thực hiện một dự án mới, các nhà quản lý thận trọng tiến hành phân tích chi phí – lợi ích. Việc này là để đánh giá tất cả chi phí và doanh thu tiềm năng có thể tạo ra từ dự án. Kết quả phân tích sẽ xác định liệu dự án có khả thi về mặt tài chính. Hay giúp đưa ra quyết định công ty có nên theo đuổi một dự án khác hay không. Các tổ chức dựa vào phân tích lợi ích chi phí để hỗ trợ việc ra quyết định. Vì nó cung cấp một cái nhìn bất khả tri, dựa trên bằng chứng về vấn đề đang được đánh giá mà không bị ảnh hưởng bởi quan điểm, chính trị hoặc thành kiến. Bằng cách cung cấp một cái nhìn rõ ràng về hậu quả của một quyết định, phân tích lợi ích chi phí là một công cụ vô giá trong việc phát triển chiến lược kinh doanh, đánh giá việc thuê mướn mới hoặc đưa ra quyết định phân bổ nguồn lực hoặc mua hàng. Phân tích lợi ích chi phí là cơ sở ra quyết định trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong kinh doanh, chính phủ, tài chính và thậm chí cả phi lợi nhuận. Nó có giá trị khi:. Phân tích chi phí-lợi ích nên bắt đầu bằng việc biên soạn một danh sách toàn diện về tất cả các chi phí và lợi ích liên quan đến dự án hoặc quyết định. Chi phí trực tiếp sẽ là lao động trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tồn kho, nguyên vật liệu, chi phí sản xuất. Chi phí gián tiếp. Bao gồm điện, chi phí chung từ quản lý, thuê, tiện ích,. Chi phí vô hình của một quyết định. Chẳng hạn như tác động đến khách hàng, nhân viên hoặc thời gian giao hàng. Chi phí cơ hội. Chẳng hạn như đầu tư thay thế hoặc mua một nhà máy thay vì xây dựng một nhà máy. Chi phí cho các rủi ro tiềm ẩn như rủi ro pháp lý, cạnh tranh và tác động môi trường. Doanh thu và doanh số tăng lên từ việc tăng sản xuất hoặc sản phẩm mới. Các lợi ích vô hình. Chẳng hạn như sự an toàn và tinh thần của nhân viên được cải thiện. Hay sự hài lòng của khách hàng do cung cấp sản phẩm nâng cao hoặc giao hàng nhanh hơn. Một nhà phân tích hoặc người quản lý dự án nên áp dụng phép đo tiền tệ cho tất cả các hạng mục trong danh sách chi phí-lợi ích. Đặc biệt lưu ý không đánh giá thấp chi phí hoặc đánh giá quá cao lợi ích. Cách tiếp cận thận trọng với nỗ lực có ý thức để tránh mọi khuynh hướng chủ quan khi tính toán ước tính là phù hợp nhất khi ấn định giá trị cho cả chi phí và lợi ích để phân tích chi phí – lợi ích. Cuối cùng, kết quả của tổng chi phí và lợi ích phải được so sánh một cách định lượng để xác định xem lợi ích có lớn hơn chi phí hay không. Nếu vậy, thì quyết định hợp lý là tiếp tục với dự án. Nếu không, doanh nghiệp nên xem xét lại dự án để xem liệu nó có thể thực hiện các điều chỉnh để tăng lợi ích hoặc giảm chi phí để dự án khả thi hay không. Nếu không, công ty có thể sẽ tránh dự án. Bất chấp tính hữu ích, phân tích chi phí lợi ích có một số điều lưu ý. Những rủi ro và sự không chắc chắn xuất phát từ các chương trình nghị sự của con người, sự thiếu chính xác xung quanh dữ liệu được sử dụng và việc sử dụng phương pháp phỏng đoán để đưa ra kết luận. Phần lớn rủi ro về phân tích lợi ích chi phí tương quan với yếu tố con người liên quan. Các bên liên quan hoặc các bên quan tâm có thể cố gắng tác động đến kết quả bằng chi phí cao hơn hoặc thấp hơn. Trong một số trường hợp, những người ủng hộ một dự án có thể đưa vào những thành kiến cá nhân hoặc tổ chức. Về mặt dữ liệu, có thể có xu hướng phụ thuộc quá nhiều vào dữ liệu được tổng hợp từ các dự án trước đó. Điều này có thể mang lại kết quả không áp dụng trực tiếp cho tình huống đang được xem xét. Vì dữ liệu tận dụng từ một phân tích trước đó có thể không áp dụng trực tiếp cho các tình huống hiện tại. Nó có thể mang lại kết quả không phù hợp với các yêu cầu của tình huống đang được xem xét. Việc sử dụng phương pháp heuristics để đánh giá giá trị tiền tệ của các vật vô hình có thể cung cấp thông tin nhanh chóng. Nhưng nó cũng có thể tạo ra bức tranh không chính xác về chi phí. Và do đó làm mất hiệu lực của kết quả. Trong việc giải quyết rủi ro, đôi khi sẽ hữu ích khi sử dụng lý thuyết xác suất để xác định và kiểm tra các mô hình chính có thể ảnh hưởng đến kết quả. Có một số vấn đề có thể ảnh hưởng đến kết quả phân tích lợi ích chi phí. Và mặc dù chúng sẽ không áp dụng trong mọi tình huống, điều quan trọng là phải ghi nhớ:. Độ chính xác ảnh hưởng đến giá trị. Thông tin chi phí và lợi ích không chính xác có thể làm giảm các phát hiện giá trị. Đừng dựa vào trực giác. Luôn nghiên cứu kỹ lưỡng lợi ích và chi phí để thu thập dữ liệu cụ thể. Bất kể mức độ chuyên môn của bạn với chủ đề hiện tại là bao nhiêu. Tiền mặt là không thể đoán trước. Doanh thu và dòng tiền là các mục tiêu di động. Chuyển chúng thành dữ liệu có ý nghĩa để phân tích có thể là một thách thức. Thu nhập ảnh hưởng đến quyết định. Mức thu nhập có thể thúc đẩy khả năng hoặc mức độ sẵn sàng mua hàng của khách hàng. Tiền không phải là tất cả. Một số lợi ích không thể được phản ánh trực tiếp bằng lượng giá trị tiền. Đừng tự động nhân đôi. Khi đo lường dự án theo nhiều cách, hãy lưu ý rằng việc nhân đôi lợi ích hoặc chi phí có thể dẫn đến kết quả không nhất quán. Bài viết trên đã giới thiệu về phân tích mối tương quan lợi ích – chi phí. DragonLend hy vong bài viết này sẽ có ích cho bạn. Vay vốn kinh doanh sản xuất là một trong những hình thức hỗ trợ vốn cơ bản cho hoạt động phát triển doanh nghiệp. Nhất là những doanh nghiệp. Quản lý tài chính cá nhân hiệu quả giúp bạn đạt được mức tự do tài chính mong muốn. Từ đó bạn có thể hoạch định kế hoạch để. Vay vốn kinh doanh tín chấp là một trong những gói vay được khá nhiều chủ doanh nghiệp quan tâm. Với hình thức này, khách hàng có thể nhận.
Phân tích chi phí - lợi ích
Phân tích chi phí - lợi ích (CBA), đôi khi được gọi là Phân tích lợi ích - chi phí (BCA), là một quá trình có hệ thống để tính toán và so sánh lợi ích và chi phí của một dự án chính sách, hoặc quyết định chính phủ (sau đây, "dự án"). Cung cấp một cơ sở để so sánh dự án. Nó liên quan đến việc so sánh tổng chi phí dự kiến của từng lựa chọn so với tổng lợi ích dự kiến, để xem liệu những lợi ích có lớn hơn chi phí, và lớn hơn bao nhiêu. CBA có liên quan, nhưng khác với phân tích tính hiệu quả chi phí. Trong CBA, lợi ích và chi phí được thể hiện về tiền bạc, và được điều chỉnh cho các giá trị thời gian của tiền, để tất cả các dòng chảy của lợi ích và dòng chảy của chi phí dự án theo thời gian (mà có xu hướng xảy ra tại các thời điểm khác nhau) được thể hiện trên một cơ sở khái niệm chung "giá trị hiện tại ròng" của chúng. Liên quan chặt chẽ, nhưng hơi khác nhau, các kỹ thuật chính thức bao gồm phân tích tính hiệu quả chi phí, phân tích chi phí - tiện ích, phân tích tác động kinh tế, phân tích tác động tài chính và phân tích hoàn vốn đầu tư xã hội (SROI).
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Tăng trưởng kinh tế, dưới dạng khái quát, là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong một thời gian nhất định (thường tính cho một năm). GNP0 và GDP0 là tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội thời kỳ trước. Do có sự biến động của giá cả (lạm phát) nên người ta phân định ra GNP, GDP danh nghĩa và GNP, GDP thực tế. GNP và GDP danh nghĩa là GNP, GDP tính theo giá hiện hành của thời kỳ tính; còn GNP và GDP thực tế là GNP, GDP tính theo giá cố định của một năm được chọn làm gốc. Vì vậy, trong thực tế có tăng trưởng kinh tế danh nghĩa (tính theo GNP, GDP danh nghĩa) và tăng trưởng kinh tế thực tế (tính theo GNP, GDP thực tế). GNPn là tổng sản phẩm quốc dân tính theo giá hiện hành của năm tính toán. GDPn là tổng sản phẩm quốc nội tính theo giá hiện hành của năm tính toán. Tăng trưởng kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Nó là điều kiện cần thiết đầu tiên để khắc phục tình trạng đói nghèo, lạc hậu; để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân cư như: tăng tuổi thọ, giảm suy dinh dưỡng, giảm bệnh tật, phát triển giáo dục, văn hóa, thể thao, v.v. Tất nhiên thành quả của tăng trưởng kinh tế phải sử dụng công bằng, hợp lý mới có những tác dụng đó. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất để tạo thêm việc làm, giảm thất nghiệp và nâng cao mức sống của nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề này chỉ được giải quyết có kết quả khi có mức tăng dân số hợp lý. Tăng trưởng kinh tế còn là tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng của mỗi quốc gia. Tăng trưởng kinh tế có vai trò quan trọng, song không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội như mong muốn. Sự tăng trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn nền kinh tế đến “trạng thái quá nóng”, lạm phát sẽ xảy ra, làm cho kinh tế xã hội thiếu bền vững; còn sự tăng trưởng kinh tế quá thấp sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Vì vậy, cần tăng trưởng kinh tế hợp lý, tức là sự tăng trưởng phù hợp với khả năng của đất nước ở mỗi thời kỳ nhất định. Xác định mức tăng trưởng hợp lý sẽ đảm bảo cho nền kinh tế ở trạng thái tăng trưởng bền vững. Đó là sự tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao và ổn định trong thời gian tương đối dài gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái và tiến bộ xã hội. Theo nghĩa rộng vốn được hiểu là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra, tích lũy lại và những yếu tố tự nhiên được sử dụng vào quá trình sản xuất. Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong những yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất. Theo nghĩa này, vốn tồn tại dưới hai hình thức: vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện vật tồn tại dưới hình thức vật chất của quá trình sản xuất như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… Vốn tài chính là vốn tồn tại dưới hình thức tiền tệ hay các loại chứng khoán. Vốn có vai trò rất quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng vốn đầu tư với tăng GDP gọi là hiệu suất sử dụng vốn sản phẩm gia tăng ICOR (Incremental Capital output Ration). Đó là tỷ lệ tăng đầu tư chia cho tỷ lệ tăng của GDP. Những nền kinh tế thành công thường khởi đầu quá trình phát triển với các chỉ số ICOR thấp thường không quá 3% có nghĩa là phải tăng vốn đầu tư 3% để tăng 1% GDP. Vai trò của nhân tố vốn đối với tăng trưởng kinh tế không chỉ thể hiện ở mức vốn đầu tư mà còn ở hiệu suất sử dụng vốn. Con người là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Tất nhiên, đó là con người có sức khoẻ, có trí tuệ, có kỹ năng cao, có ý chí và nhiệt tình lao động và được tổ chức hợp lý. Tài năng, trí tuệ của con người là vô tận. Đây là yếu tố quyết định trong nền kinh tế tri thức. Còn vốn, tài nguyên thiên nhiên… là hữu hạn. Con người sáng tạo ra kỹ thuật, công nghệ và sử dụng kỹ thuật, công nghệ, vốn… để sản xuất. Nếu không có con người, các yếu tố này không thể tự phát sinh tác dụng. Vì vậy, phát triển giáo dục – đào tạo, y tế… là để phát huy nhân tố con người. Khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Đây là nhân tố cho phép tăng trưởng kinh tế và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu. Khoa học và công nghệ tiên tiến tạo ra năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, lao động thặng dư lớn, tạo ra nguồn tích lũy lớn từ nội bộ nền kinh tế để đầu tư cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Ngày nay, khoa học – công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực của tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu kinh tế có vai trò quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu kinh tế bao gồm: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế hợp lý thể hiện ở chỗ xác định đúng tỷ trọng, vai trò, thế mạnh của các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, từ đó phân bố các nguồn lực phù hợp (vốn, sức lao động…). Cơ cấu kinh tế hợp lý có tác dụng phát huy các thế mạnh, các tiềm năng, các yếu tố sản xuất của đất nước có hiệu quả, là yếu tố quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đây là một nhân tố quan trọng và có quan hệ với các nhân tố khác. Thể chế chính trị ổn định và tiến bộ cùng với sự quản lý có hiệu quả của nhà nước tạo điều kiện để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục được những khuyết tật của những kiểu tăng trưởng kinh tế đã có trong lịch sử như: gây ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu nghèo sâu sắc, sự phát triển chênh lệch quá lớn giữa các khu vực; đồng thời sử dụng và phát triển có hiệu quả các nhân tố vốn, con người, khoa học, công nghệ, mở rộng tích lũy, tiết kiệm và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài (vốn, công nghệ…) để tăng trưởng kinh tế có hiệu quả.
Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự tích lũy tài sản (như vốn, lao động và đất đai) và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư là trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Chất lưu gồm chất lỏng và khí giống như các môi trường liên tục được cấu tạo từ nhiều chất điểm gọi là hệ chất điểm. Khác với vật rắn, các phân tử của chất lưu có thể chuyển động hỗn loạn bên trong khối chất lưu điều này giải thích tại sao chất lưu luôn có hình dạng thay đổi mà không phải cố định như vật rắn. Chất khí khác với chất lỏng bởi vì thể tích của một khối khí biến đổi không ngừng. Ở điều kiện bình thường, các phân tử của chất lỏng luôn giữ khoảng cách trung bình cố định ngay cả trong quá trình chuyển động hỗn loạn vì vậy chất lỏng được xem là không chịu nén dưới tác động của ngoại lực. Trong chất khí, lực đẩy của các phân tử chỉ xuất hiện khi các phân tử bị nén đến một khoảng cách khá nhỏ, cho nên ở điều kiện bình thường chất khí bị nén dễ dàng. Trong môi trường chất lưu liên tục và đồng nhất, khối lượng riêng của chất lưu định nghĩa tương tự khối lượng riêng của vật rắn đó là khối lượng của một đơn vị thể tích chất lưu đó. Tỉ trọng của một chất lỏng nào đó là tỉ số của khối lượng riêng chất lỏng đó đối với khối lượng riêng của nước nguyên chất ở cùng một điều kiện nhiệt độ và áp suất. Tỉ trọng là một đại lượng không có đơn vị. Khi chúng ta lấy ngón tay khẽ bịt lỗ hở của vòi nước ta cảm thấy áp lực của nước đè lên ngón tay. Khi bơi lội thật sâu trong nước ta cảm thấy tai bị đau, đó cũng là do áp lực của nước đè lên màn nhĩ. Những ví dụ trên chứng tỏ là khi có một vật rắn tiếp xúc với chất lỏng thì các phân tử của chất lỏng sẽ tác dụng lực vào vật rắn tiếp xúc với nó. Lực tác dụng này được phân bố trên toàn bộ diện tích tiếp xúc. Vì phân tử của chất lưu luôn luôn chuyển động hỗn loạn nên khi nó va chạm vào bề mặt tiếp xúc với vật rắn, nó truyền xung lượng cho vật rắn. Vậy sự biến thiên xung lượng của các phân tử chất lưu là nguyên nhân tạo ra áp lực lên mặt tiếp xúc. Trạng thái cân bằng là trạng thái mà ở đó không có sự chuyển động tương đối giữa các phần khác nhau trong chất lưu với nhau, ở đây ta bỏ qua sự chuyển động hỗn loạn của các phân tử chất lưu. Một ly nước đứng yên trên bàn là một ví dụ về trạng thái cân bằng. Khi chất lưu ở trạng thái cân bằng thì áp suất tại một điểm trong lòng chất lưu là phân bố đều theo mọi phương. Nghĩa là áp suất tại điểm đó phân bố theo mọi phương có độ lớn bằng nhau. Tổng của ba véctơ bằng không nên ba véctơ đóï tạo thành một tam giác đồng dạng với tam giác ABO (xem hình 8.2), ta có tỉ số:. Khi khối lăng trụ co lại thành một điểm, áp suất PA, PB, PAB là các áp suất của cùng một điểm bên trong chất lỏng. Mặt khác, vì sự định hướng của khối lăng trụ là tuỳ ý tức là phương của OA, OB, AB có thể chọn bất kỳ nên ta đi đến kết luận là áp suất trong chất lỏng tại một điểm theo mọi phương là như nhau. Nnư vậy nếu chất lỏng đứng yên và chịu tác dụng của một áp suất nào đó từ bên ngoài thì áp suất đó sẽ được chất lỏng truyền đi theo mọi phương với cùng độ lớn. Ðể đơn giản chúng ta bỏ qua chuyển động quay của trái đất quanh trục. Vậy ta có thể xem trọng lượng của một vật đúng bằng trọng lực của nó. Ví dụ: Một cái ly thủy tinh có khối lượng m = 100g, được tạo dáng hình trụ có đường kính d = 6 cm và độ cao h = 17 cm được đổ xăng vào đến nửa ly; ly được đem thả vào một chậu nước nguyên chất. Hãy xác định mức độ ngập trong nước của ly (Hình 8.6). Chất lỏng lý tưởng là chất lỏng mà ta có thể bỏ qua lực ma sát nhớt của các phần bên trong chất lỏng khi chuyển động tương đối với nhau. Ðối với chất lỏng lý tưởng, ta sẽ biểu diễn đường đi của một phân tử chất lưu bằng một đường dòng mà tiếp tuyến với nó tại mọi điểm có phương chiều trùng với véc tơ vận tốc của chất lưu tại điểm đó. Tập hợp toàn bộ các đường dòng biểu diễn cho cả khối chất lưu được gọi là ống dòng. Nếu chúng ta cắt ống dòng bằng một mặt phẳng S vuông góc đồng thời với các đường dòng, thì tại mọi điểm trên diện tích S nầy vận tốc các phân tử sẽ có độ lớn bằng nhau. Phát biểu: Ðối với một ống dòng đã cho, tích của vận tốc chảy của chất lưu lý tưởng với tiết diện thẳng của ống tại mọi nơi là một đại lượng không đổi. Ý nghĩa: Khi chất lưu chảy trên một đường ống có tiết diện khác nhau thì vận tốc ở những nơi có tiết diện nhỏ sẽ lớn và những nơi có tiết diện lớn sẽ nhỏ. Trước hết, ta chú ý các số hạng đều có cùng thứ nguyên của áp suất số hạng p biểu thị cho áp suất bên trong chất lưu chảy được gọi là áp suất tĩnh. Trong chất lưu lý tưởng chảy dừng, áp suất toàn phần (gồm áp suất động, áp suất thủy lực và áp suất tĩnh) luôn bằng nhau đối với tất cả các tiết diện ngang của ống dòng. Ở đáy một bình hình trụ đường kính D có một lỗ tròn nhỏ đường kính d. Hãy tìm sự phụ thuộc của vận tốc hạ thấp của mực nước trong bình vào chiều cao h của mực nước đó. Aïp dụng cho ống dòng như hình 8.8, coi chất lỏng trong bình là lý tưởng và không bị nén. Hai mặt của ống dòng đang xét mặt thoáng ở trên và miệng lỗ có áp suất bằng nhau và bằng áp suất của khí quyển. Phương trình Bernoulli được viết:
Cơ học chất lưu
Cơ học chất lưu, hay còn được gọi là cơ học thủy khí, nghiên cứu sự cân bằng và chuyển động của các phần tử vật chất vô cùng nhỏ có thể dễ dàng di chuyển và va chạm với nhau trong không gian. Nghiên cứu chất thể lỏng (nước, dầu, rượu.) có thể tích thay đổi rất ít khi có tác động của áp suất và nhiệt độ (còn gọi là chất lưu không nén). Nghiên cứu các hiện tượng vật lý của chất thể khí và hơi, dễ bị thay đổi thể tích dưới tác động của áp suất và nhiệt độ. (còn gọi là chất lưu nén).Sự thay đổi thể tích của vật chất không chỉ phụ thuộc vào cấu trúc phân tử, mà còn phụ thuộc vào tác động của ngoại lực hoặc nhiệt độ. Do đó trong một số trường hợp còn phải kể đến khả năng nén được của chất lỏng. Ví dụ như trong máy ép thuỷ lực, tuy môi chất thông thường là dầu, nhưng dưới áp suất cao, khối lượng riêng của chúng cũng thay đổi đáng kể. Một trong những tính chất quan trọng của các chất lưu là lực ma sát trong giữa các dòng chuyển động.
Theo như huyền sử Nhật Bản thì nữ thần Amaterasu đã tạo ra nước Nhật cách đây 2700 năm, người Nhật cũng tin rằng bà là tổ tiên của Thiên hoàng đầu tiên. Vậy nên các Thiên hoàng còn được gọi bởi cái tên “Thiên tử” (Con trời) và nước Nhật là xứ sở của mặt trời. Các thư tịch cổ ghi lại rằng lá cờ này lần đầu tiên được dùng bởi Thiên hoàng Văn Vũ khi ông dùng nó để biểu tượng cho mặt trời trong một công đường xử án năm 701. Lá cờ này cũng được dùng bởi các tướng quân Nhật trong thế kỷ 13 khi họ đương đầu với đội quân xâm lược đến từ Mông Cổ. Hinomaru được chọn làm Quốc kỳ Nhật Bản chính thức vào ngày 13 tháng 08/2021 năm 1999, cùng với Kimi ga Yo là Quốc ca Nhật Bản. Trước đó có một lá Quốc kỳ khác được Hải quân Nhật Bản sử dụng từ ngày 7 tháng 08/2021 năm 1889. Mang ý nghĩa là “Sự vươn lên của nước Nhật”, với vầng hào quang xung quanh mặt trời đỏ, thiết kế này đã bị cấm từ sau thất bại của Nhật Bản trong thế chiến thứ II. Nhập số điện thoại và câu hỏi thắc mắc của bạn để được cán bộ tư vấn của công ty liên lạc hỗ trợ. Laodongnhatban.com.vn hướng tới là một trong những website xuất khẩu lao động Nhật Bản số 1 cả nước năm 2019 về chất lượng. Tự tin là một trong những website uy tín nhất trong lĩnh vực XKLĐ trên cả nước và luôn đặt quyền lợi của lao động, thực tập sinh lên hàng đầu.
Quốc kỳ Nhật Bản
Quốc kỳ Nhật Bản (日本の国旗 (Nhật Bản Quốc kỳ), Nihon no Kokki / Nippon no Kokki) là một lá cờ hình chữ nhật có nền trắng với một hình tròn màu đỏ lớn (tượng trưng cho mặt trời) nằm ở chính giữa. Trong tiếng Nhật, quốc kỳ được gọi là Nisshōki (日章旗 (Nhật chương kỳ), Nisshōki nghĩa: Cờ huy hiệu mặt trời), song được biết đến với tên gọi thông tục hơn là Hinomaru (日の丸 (Nhật chi hoàn), Hinomaru nghĩa: hình tròn của mặt trời), vì thế có thể gọi theo cách dân dã là "Lá cờ mặt trời". Nhật chương kỳ được xem là biểu tượng của đất nước Mặt trời mọc. Nisshōki đã được chỉ định làm quốc kỳ theo Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca được công bố và có hiệu lực vào ngày 13 tháng 8 năm 1999. Mặc dù trước đó không có bất kỳ luật nào chỉ định quốc kỳ chính thức cho nước Nhật nhưng hiệu kỳ mặt trời đã là quốc kỳ trên thực tế của Nhật Bản. Thái chính quan ban hành hai đạo luật vào năm 1870, mỗi đạo luật có một điều khoản về thiết kế của quốc kỳ.
Hạt thầu dầu là hạt của cây thầu dầu có tác dụng chữa bệnh trĩ rất hay. Cùng tìm hiểu hạt thầu dầu tía dùng để làm gì? Hạt thầu dầu có độc không?. Trước khi tìm hiểu về tác dụng và cách sử dụng của hạt thì chúng ta cần phải biết rõ hạt thầu dầu là gì? Có nguồn gốc từ đâu? Thành phần dược tính ra sao? Hãy điểm qua một vài nét đặc trưng của nó. Hạt thầu dầu là loại hạt của cây thầu dầu, còn được người dân gian gọi là thầu dầu tía, đu đủ tía, đu đủ dầu. Ngoài ra, nó còn có tên khoa học là Ricinus Communis L. Là loài cây thuộc họ thầu dầu (Euphorbiaceae). Trên thế giới nó có rất nhiều tên gọi khác nhau tùy thuộc vào từng vùng và khu vực nhưng hầu hết chúng ta đều gọi nó là hạt. Thầu dầu tía là loài cây bụi dạng thân thảo, sống lâu năm. Cây có thân cao khoảng 3 – 5 mét; toàn bộ vỏ thân đều nhẵn, được bao phủ bởi một lớp bột sáp, thân cây có màu xám xanh, đôi khi nó có màu đỏ tím. Thân thầu dầu tròn và bên trong thân rỗng, chia thành nhiều cành nhỏ với các lá to và chia đều qua 2 bên. Còn một loại khác là thầu dầu trắng, loại này ít phổ biến có dược tính chữa bệnh không cao. Lá thầu dầu dài và rộng có có kích thước khoảng 40 cm, phiến lá tròn chia thành 7 – 11 thùy. Lá có hình trứng thuôn dài hoặc lanceolate (dạng thùy lá dài và rộng ở giữa và đầu lá nhọn như ngọn giáo). Hai mép lá đều có răng cưa, các gân lá đều nổi rõ, có cuống lá dài và dày. Hoa thầu dầu thường mọc ở kẽ lá hoặc ngon cây. Cụm hoa có những chùy dài hình tam giác rộng. Cụm hoa có lớp màng lông mỏng, chia thành hoa đực và hoa cái. Hoa đực có thùy hình bầu dục, có rất nhiều nhụy hoa. Còn hoa cái có dạng hình chóp, đôi khi hình bầu dục. Quả thầu dầu tía có dạng quả nang hình trứng. Lớp vỏ ngoài có màng gau mềm và nhẵn bóng bao bọc. Hạt thầu dầu tía dẹt, có hình elip. Vỏ hạt nhẵn có hoa văn ngựa vằn màu xám trắng hoặc màu nâu đất nhạt. Thời gian cây ra hoa vào khoảng tháng 3 – 7 và kết quả từ tháng 4 – 8 hàng năm. Hạt thầu dầu tía có nguồn gốc từ vùng đất Ai Cập, Ethiopia và Ấn Độ. Mãi về sau, nó mới du nhập sang các quốc gia khác như Brazil, Argentina, Hoa Kỳ và Thái Lan. Ngày nay, loại hạt này phân bố rộng rãi trên nhiều vùng lãnh thổ, tập trung nhiều ở những nơi có khí hậu nhiệt đới có khí hậu ấm áp. Ở Việt Nam, loại dược liệu này được trồng ở các khu vực miền núi Tây Bắc như Vĩnh Phúc, Lào Cai, Hà Giang, Hòa Bình. Tuy nhiên ở các tỉnh phía Nam và vùng đồng bằng thì loại hạt này hầu như rất hiếm. Dược liệu này được người dân thu hái vào khoảng tháng 5 – 6 hằng năm và người ta chỉ thu lấy lá và hạt của cây để điều chế làm thuốc chữa bệnh. Sau khi thu hái, lá thầu dầu sẽ được mang đi rửa sạch để loại bỏ tạp chất; có thể dùng tươi hoặc phơi khô bảo quản sử dụng. Hạt của cây sẽ được ép thành tinh dầu bảo quản trong lọ kín. Sau những lần sử dụng thì phải đậy nắp lại để tránh không khí hoặc tạp chất là biến đổi chất tinh dầu. Theo một số báo cáo nghiên cứu, trong hạt cây thầu dầu tía có chứa 50% là tinh dầu và 50% còn lại gồm các hoạt chất tốt như acid tactric, acid xitric, acidamin, astragalin có tác dụng điều trị các bệnh nấm da, mẩn ngứa và lở loét. Theo y học cổ truyền, hạt thầu dầu tía có vị ngọt, hơi cay, tính bình ổn thường được dùng để bạt độc, tiêu thũng và bài nung. Hạt chứa nhiều tinh dầu có tác dụng khư phong hoạt huyết, giảm đau và có công dụng nhuận tràng. Dưới đây là một số công dụng sử dụng tinh dầu của hạt điều trị bệnh:. - Hạt thầu dầu có công dụng chữa các chứng rối loạn về da, nấm da và mụn nhọt. - Là phương pháp ngừa thai hiệu quả, có thể chữa giang mai, chữa sa tử cung và trực tràng. Khác với những loại dược liệu và các vị thuốc khác cách dùng chính là sắc uống hoặc ngâm rượu thì ngược lại hạt thầu dầu chỉ sử dụng bôi ngoài da là chủ yếu. Chính vì thế mà bạn có thể sử dụng tinh dầu của hạt với các mục đích sau:. - Có công dụng làm giảm các u nang và mụn cơm hoặc mụn cóc trên bề mặt da. - Thoa dầu vào những khớp xương sẽ giúp giảm triệu chứng đau và sưng tấy đỏ. Hạt thầu dầu tía có nhiều công dụng chữa bệnh kỳ diệu đối với chúng ta. Nếu biết cách sử dụng đúng, nó sẽ trở thành một bài thuốc có tác dụng chữa bệnh hiệu quả. Nhất là đối với bệnh trĩ, sa tử cung, trực tràng. Không giống như những vị thuốc Nam khác, tinh dầu hạt thầu dầu được các thầy thuốc Đông Y sử dụng để điều trị các tổn thương trên bề mặt da là chủ yếu. Vậy những tác dụng đó là gì? Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu ngay bây giờ nhé. Bệnh trĩ là căn bệnh khiến nhiều người ái ngại. Căn bệnh này khiến người bệnh cảm thấy đau rát vùng hậu môn và đại tiện rất khó khăn. Chính vì thế, các thầy Đông Y khuyến cáo rằng, người mắc bệnh trĩ nên sử dụng hạt cây thầu dầu để điều trị dứt điểm. Dưới đây là 3 bài thuốc từ hạt thầu dầu dầu chữa bệnh trĩ hiệu quả:. Bài thuốc 1: Sử dụng một nắm lá thầu dầu tía vừa đủ, mang đi rửa sạch để loại bỏ tạp chất. Rồi cho vào nồi đun đến khi nước trong nồi đặc lại thì tắt bếp và để nguội rồi dùng nước thuốc này để rửa hậu môn. Thực hiện ngày 2 lần sáng – tối. Bài thuốc 2: Sử dụng kết hợp lá thầu dầu cùng với lá vông chữa bệnh trĩ. Chuẩn bị dược liệu theo tỷ lệ 1:1. Sau đó mang đi rửa sạch, rồi đem đi giã nát và dùng miếng vải mỏng bọc thuốc lại rồi đắp vào vùng hậu môn trong vòng 10– 15 phút. Tiếp đến, có thể dùng khăn sạch để lau hậu môn hoặc rửa với nước ấm. Thực hiện mỗi ngày 1 lần sẽ thấy bệnh thuyên giảm rõ rệt. Bài thuốc 3: Kết hợp 9 hạt thầu dầu tía cùng với 9 con học trờ nước (có hình dáng giống với con nhện). Đem cả 2 dược liệu đi sơ chế và giã nát với nhau rồi cho lên chảo sao với giấm cho ấm nóng. Sau đó, dùng lớp vải mỏng để bọc thuốc lại và tách tóc sang 2 bên để đắp vào huyệt Bách hội ở giữa đỉnh đầu. Đắp đến khi búi trĩ co rút lại thì tháo thuốc xuống ngay vì để lâu sẽ rất nguy hiểm. Sử dụng 10 – 20g hạt thầu dầu rửa sạch để loại bỏ tạp chất rồi mang đi giã nát. Sau đó, dùng bả thuốc để đắp lên đỉnh đầu. Thực hiện 2 – 3 lần/ngày, kiên trì áp dụng để mang lại hiệu quả nhanh chóng. Để chữa liệt dây thần kinh mặt, bạn cần chuẩn bị 20g trái thầu dầu mang đi rửa sạch để loại bỏ tạp chất. Sau đó dùng chày giã nát rồi dùng bả để đắp lên phía đối diện mặt bị liệt dây thần kinh. Thực hiện ngày 2 – 3 lần/ngày, áp dụng phương thuốc này về lâu dài sẽ thấy cải thiện đáng kể. Sử dụng khoảng 10 - 14 hạt thầu dầu đem đi rửa sạch, rồi mang đi giã nhuyễn rồi đắp vào hai lòng bàn chân. Sau khi sinh xong hoặc nhau thai đã trôi ra ngoài hết thì ngưng sử dụng ngay và rửa thật sạch lòng bàn chân hoặc bất cứ vị trí nào tiếp xúc với bả thuốc. Chuẩn bị khoảng 15 - 20 trái thầu dầu cùng với 1 quả táo tàu đã bóc vỏ. Đem cả 2 dược liệu vào chảo sao vàng trên lửa nhỏ đến khi bốc mùi thì ngưng. Tiếp đến,bọc dược liệu vào tấm vải mỏng và hơ qua 2 lỗ mũi trong vòng 20 phút mỗi ngày.Kiên trì thực hiện liên tục trong vòng 30 ngày sẽ thấy mũi trở nên thông thoáng như bình thường. Đây chắc hẳn là câu hỏi nhận được rất sự quan tâm của quý độc giả. Như đã nói, hạt thầu dầu thường dùng để sản xuất ra dầu thầu dầu, mà trong tinh dầu này lại có chứa ricin, là chất có thể gây ngộ độc. Khi ăn phải ricin sẽ gây nhức đầu, tăng lượng bạch cầu, chuột rút cơ, đổ mồ hôi lạnh và tăng nhiệt độ cơ thể, nguy hiểm hơn có thể gây trụy tim và tử vong. Chính vì thế mà dược liệu này được các bác sĩ cũng như các thầy thuốc khuyến cáo rằng chỉ nên sử dụng ngoài da và sử dụng với liều lượng cho phép để đảm bảo an toàn cho sức khỏe. Để tránh gây ngộ độc hạt cây thầu dầu, cách sử dụng hiệu quả nhất chỉ nên đắp ngoài da, tuyệt đối không nên ăn. Liều lượng được khuyến cáo sử dụng tốt đa là 20g hạt/ngày. Cần cảnh giác với độc tính của thầu dầu, tránh để vây vào miệng, lưỡi. Dù vậy, bạn vẫn nên tham khảo ý kiến của thầy thuốc hoặc bác sĩ y học cổ truyền. - Dược liệu này không dành cho phụ nữ trong thời kỳ mang thai, chỉ dùng khi sinh nở khó khăn. - Trẻ em dưới 7 tuổi,người bị viêm ruột hoặc dị ứng với các thành phần hóa học của dược liệu. Thảo dược An Quốc Thái là địa chỉ bán hạt thầu dầu chất lượng và uy tín. Sản phẩm của chúng tôi có nguồn gốc tự nhiên 100%, được thu hái và chế biến với quy trình kiểm định nghiêm ngặt theo quy định của bộ y tế. Sản phẩm hạt thầu dầu tía tại đây được nhiều người bệnh tin tưởng và sử dụng trong nhiều năm nay. Giá bán hạt thầu dầu tại nhà thuốc chỉ: 300.000 đồng/kg. Giá bán luôn ổn định, hợp lý so với mặt bằng chung của thị trường. Giá thầu dầu chỉ thay đổi theo mùa vụ, không lên xuống thất thường vì đã được niêm yết rõ ràng.
Thầu dầu
Thầu dầu hay có nơi còn gọi là đu đủ tía (danh pháp hai phần: Ricinus communis) là một loài thực vật trong họ Đại kích (Euphorbiaceae) và là thành viên duy nhất trong chi Ricinus cũng như của phân tông Ricininae. Từ Ricinus là một từ trong tiếng Latinh để chỉ các loài bét (thuộc bộ Acarina); hạt của nó được gọi như thế vì trông nó giống như một con bét. Nó là nguồn để sản xuất dầu thầu dầu có nhiều công dụng cũng như ricin, một chất độc (ricin từ 1-2 hạt thầu dầu có thể gây tử vong cho người lớn). Mặc dù nó có thể có nguồn gốc ở vùng Đông Phi, nhưng ngày nay nó đã phổ biến trên toàn thế giới. Thầu dầu dễ thích nghi với môi trường sống mới và có thể tìm thấy ở các vùng đất bị bỏ hoang, gần đường sắt và gần đây được trồng nhiều để làm cảnh trong công viên hay các nơi công cộng khác. Các hạt thầu dầu cũng được tìm thấy trong các ngôi mộ của người Ai Cập cổ đại có niên đại vào khoảng những năm 4000 TCN. Herodotus và các nhà du hành người Hy Lạp cổ đại khác cũng đã đề cập tới việc sử dụng dầu của hạt thầu thầu để thắp sáng và xức dầu lên cơ thể.
Mộng du còn gọi là Ngủ đi rong hay Miên hành. Đây là một trong những biểu hiện của rối loạn giấc ngủ. Mộng du thường xuất hiện khi cơ thể rơi vào giai đoạn ngủ sâu, não không còn ý thức (hoặc ý thức kém) nhưng lại thực hiện được những hành động trong trạng thái ý thức đầy đủ. Người mộng du có thể làm được nhiều công việc khác nhau nhưng lại không có ý thức để nhận biết và điều khiển hành vi của mình. Cơn mộng du có thể bắt đầu sau khi ngủ từ 1 - 2 giờ. Nó có thể kéo dài khoảng 30 giây cho đến hơn 30 phút và kèm theo các biểu hiện sau đây:. Đột ngột ngồi trên giường, đi lang thang, nấu nướng, lau nhà, tiểu tiện, thay đồ,. Hành động của người mộng du thường lành tính, nhưng trong cơn mộng du, họ không ý thức được những điều mình đang làm và nơi mình đang đến. Ở mức độ nguy hiểm hơn, người mộng du có thể đi đến những nơi không an toàn, lái xe, có cử chỉ bạo lực, làm hại bản thân hoặc thậm chí là giết người. Mộng du xảy ra thường xuyên và thời gian của một cơn mộng du kéo dài hơn trước. Người mộng du có xu hướng bạo lực, tự làm hại mình hoặc làm hại người khác. Có các bệnh về não bộ như thiếu thiếu máu não, các bệnh liên quan đến mạch máu não,. Tổ chức Nghiên cứu Giấc ngủ Hoa Kỳ cho biết có khoảng 1% - 15% dân số mắc chứng mộng du. Đây là căn bệnh có thể gặp ở bất cứ đối tượng nào, nhưng phổ biến nhất và có tần suất diễn ra cao hơn ở trẻ em (nhất là trẻ trong giai đoạn từ 3 - 7 tuổi). Theo một thống kê khác, có đến 80% người mắc bệnh mộng du có người nhà cũng từng hoặc đang mắc bệnh. Đặc biệt, với những cặp song sinh, nếu 1 trong số họ mắc bệnh mộng du thì tỉ lệ người còn lại mắc bệnh cao gấp 5 lần so với những người bình thường. Bác sĩ có thể chẩn đoán cơn mộng du và diễn tiến của bệnh thông qua những dấu hiệu mà bạn thông báo với bác sĩ và qua xét nghiệm tình trạng rối loạn giấc ngủ. Để thực hiện xét nghiệm này, bác sĩ có thể yêu cầu bệnh nhân ngủ qua đêm trong phòng thí nghiệm, sau đó sử dụng máy đo giấc ngủ. Bác sĩ sĩ sẽ dùng bộ cảm biến gắn lên vùng thái dưỡng, da đầu, ngực và chân để theo dõi giấc ngủ của bạn. Thông qua màn hình vi tính, bộ cảm biến này sẽ cho biết một số thông tin về:. Qua các thông tin này, bác sĩ sẽ đưa ra kết luận về trạng thái ngủ của bạn ở mức độ nào và nguyên nhân nội tại gây nên chứng mộng du. Khóa và giấu chìa khóa cẩn thận, không để người mộng du mở cửa sổ hoặc cửa chính đi ra ngoài. Làm thanh chắn hai bên giường hoặc để người bệnh nằm dưới đất nếu có thể. Chặn cầu thang, nhà tắm, nhà bếp hoặc những nơi nguy hiểm mà bệnh nhân có thể đi đến. Cần gọi thêm người trợ giúp nếu bạn hoảng hốt và không biết phải làm gì. Nhẹ nhàng hướng dẫn người mộng du quay lại giường ngủ bằng giọng nói nhỏ nhẹ. Không chạm vào người hoặc lớn tiếng đánh thức họ khiến họ tỉnh dậy vì người bị mộng du thường bối rối và có xu hướng bạo lực sau cơn mộng. Nếu gặp người mộng du đang trong tình trạng bạo lực vô thức, bạn nên giữ khoảng cách hay tìm nơi trú ẩn để đảm bảo an toàn cho bản thân và tìm người hỗ trợ. Ngủ nhiều hơn: Một trong những nguyên nhân gây mộng du là do thiếu ngủ. Bạn cần ngủ đủ 8 tiếng/ 1 ngày (với trẻ là 14 tiếng/ 1ngày) để đảm bảo có đủ năng lượng và tinh thần tỉnh táo. Thay đổi đồng hồ sinh học để khiến cơ thể ngủ và thức dậy đúng giờ sẽ làm bạn tránh được cơn mộng du. Thư giãn tình thần và quản lý căng thẳng: Tập luyện thể dục, nghe nhạc, tắm bằng nước ấm, sử dụng tinh dầu,. là những liệu pháp để tinh thần bạn không rơi vào tình trạng căng thẳng và khiến cho cơn mộng du xuất hiện ít dần đi. Theo dõi tình trạng mộng du: viết thời gian, địa điểm, ngày tháng xảy ra mộng du vào sổ tay và nhờ người thân chú ý khi bạn có hiện tượng mộng du là cách để bạn kiểm soát và biết được nguyên nhân dẫn đến cơn mộng du. Đánh thức người bệnh trước khi cơn mộng du xuất hiện: Hãy nhờ người biết rõ thời điểm xảy ra cơn mộng du của bạn (hoặc đồng hồ báo thức) để đánh thức bạn vào trước thời gian đó. Thời gian bạn cần thức giấc là trước 15 phút khi cơn mộng du bắt đầu xuất hiện và bạn phải giữ trạng thái tỉnh táo trong khoảng 5 phút. Điều này sẽ giúp phá vỡ chu kỳ mộng du.
Mộng du
Mộng du (tiếng Anh: Sleepwalking; còn gọi là ngủ đi rong hoặc chứng Miên hành) là một chứng rối loạn giấc ngủ thuộc họ parasomnia. Những người mộng du thường phát sinh từ giai đoạn giấc ngủ sâu trong trạng thái ý thức thấp và thực hiện những hành động thường diễn ra trong trạng thái ý thức đầy đủ. Những hành động này có thể coi là lành tính như đang ngồi trên giường, đi bộ vào phòng tắm và lau nhà; ở mức độ nguy hiểm như nấu nướng, lái xe, cử chỉ bạo lực, vồ lấy vật thể tưởng tượng hay thậm chí là giết người. Mặc dù những trường hợp mộng du thường bao gồm những hành vi đơn giản, lặp đi lặp lại, thỉnh thoảng vẫn có những báo cáo của những người thực hiện các hành vi phức tạp khi đang ngủ, mặc dù tính hợp pháp của họ thường gây tranh cãi. Những người mộng du thường có rất ít hoặc không có ký ức gì về việc đã xảy ra, vì ý thức của họ đã thay đổi thành một trạng thái khiến việc nhớ lại ký ức trở nên khó khăn hơn.
Năm 1360, Trần Hữu Lượng giết Từ Thọ Huy, tự xưng làm hoàng đế, quốc hiệu Đại Hán, niên hiệu Đại Nghĩa, dùng Trâu Phổ Thắng làm thái sư, Trương Tất Tiên làm thừa tướng. Chính quyền Đại Hán một mặt chống nhà Nguyên, một mặt kháng cự với quân đội của Chu Nguyên Chương. Từ đầu đến giữa thế kỷ 14 thì triều đình nhà Nguyên ngày càng suy yếu do tranh chấp đấu đá cung đình, tình trạng tham nhũng và cả gánh nặng từ các cuộc chiến tranh. Thời kỳ này, nhà Trần dưới thời các vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông đều là các bậc vua hiền nên chính trị ổn định, kinh tế sung túc và sức mạnh quân sự được đảm bảo. Cũng vì vậy mà trong quan hệ Nguyên Mông – Đại Việt trong thời kỳ này khá êm đềm. Đến khoảng thời gian giữa thế kỷ 14 thì nhà Nguyên đã bước vào thời kỳ mạt. Các cuộc nổi dậy ở khắp Trung Quốc và nhiều thế lực cát cứ vùng lên sẵn sàng lật đổ Nguyên triều. Nổi lên trong số đó là lực lượng Hồng Cân mà Trần Hữu Lượng nắm vai trò then chốt trong đó. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Giáp Ngọ, năm thứ 14 , (Nguyên Chí Chính năm thứ 14). Mùa xuân, tháng 2, quan trấn giữ biên giới phía bắc cho chạy trạm tâu việc Trần Hữu Lượng nước Nguyên dấy binh, sai sứ sang xin hòa thân (Hữu Lượng là con Trần Ích Tắc)”. Không chỉ Đại Việt sử ký toàn thư, Các bộ sử Việt khác như Đại Việt Sử ký tiền biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều có nhắc đến Trần Hữu Lượng qua các sự kiện có liên quan, đặc biệt là hai lần Trần Hữu Lượng muốn được liên minh với Đại Việt đều có ghi chép. Tuy nhiên, không có ghi nhận nào về sự giúp đỡ của nhà Trần đối với Hữu Lượng khi đó. Trần Ích Tắc chính là con của vua Trần Thái Tông. Năm 1267, vào lúc 14 tuổi ông được anh là vua Trần Thánh Tông phong làm Chiêu Quốc vương. Khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1285), Ích Tắc đem cả gia đình đi hàng giặc, được đưa về Nguyên và được Hốt Tất Liệt phong làm An Nam quốc vương và chờ ngày đưa trở về nước. Sau khi quân Nguyên Mông đại bại, Trần Ích Tắc ở lại Ngạc Châu giữ chức quan Hồ Quảng bình chương chính sự, gia phong tới Ngân Thanh vinh lộc đại phu rồi Kim tử quang lộc đại phu, Nghi đồng tam tư và mất ở Trung Quốc vào mùa hè năm Thiên Lịch thứ 2 (1329) đời Nguyên Văn Tông, hưởng thọ 76 tuổi. Sau khi 3 lần đại thắng quân Nguyên, nhà Trần đã loại Ích Tắc ra khỏi tông thất, cho đổi tên thành Ả Trần. Việc này cũng được ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Năm , tháng 5, sau khi đánh thắng quân Nguyên lần thứ ba, bắt được cả một hòm biểu xin hàng. Thượng hoàng sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản trắc. Chỉ có kẻ nào đầu hàng trước đây, thì dẫu bản thân ở triều đình giặc, cũng kết án vắng mặt, xử tội đi đày hoặc tử hình, tịch thu điền sản, sung công, tước bỏ quốc tính. Ích Tắc là chỗ tình thân cốt nhục, tuy trị tội cũng thế, nhưng không nỡ đổi họ xóa tên, chỉ gọi là Ả Trần, có ý chê hắn hèn nhát như đàn bà vậy. Vì thế, những ghi chép đương thời đều gọi là Ả Trần…”. Theo ghi chép của nhà Trần thì Trần Ích Tắc có người con là Trần Hữu Lượng ở Hồ Bắc. Khi ông qua đời, con cả là Trần Hữu Thành thay cha dạy học cho Trần Hữu Lượng. Tuy nhiên, sử Trung Quốc thì không có chút nào nói về mối liên hệ giữa Hữu Lượng với Ích Tắc. Theo Minh sử, quyển 123, liệt truyện 11 thì Trần Hữu Lượng là con của Trần Phổ Tài, là người Miện Dương, Hồ Bắc theo nghề chài lưới. Ông nguyên họ Tạ, nhưng vì tổ tiên ở rể nhà họ Trần, nên sau này lấy theo họ đó. Sau thời điểm sang nhờ nhà Trần phát binh trợ giúp năm 1354 nhưng không được đáp ứng, Trần Hữu Lượng ngày càng leo cao trong thế lực cát cứ của Từ Huy Thọ. Tháng 9 âm lịch năm Chí Chính thứ 17 (1357) Lượng giết Nghê Văn Tuấn vì lý do mưu phản Từ Thọ Huy, sau đó tự xưng là Tuyên úy sứ kiêm Bình chương chính sự, khởi binh tấn công các lộ thuộc Giang Tây, tổng chỉ huy quân đội các vùng Giang Tây, An Huy, Phúc Kiến. Năm sau, lại giết Từ Thọ Huy, tự xưng làm hoàng đế, quốc hiệu Đại Hán, niên hiệu Đại Nghĩa, dùng Trâu Phổ Thắng làm thái sư, Trương Tất Tiên làm thừa tướng. Chính quyền Đại Hán một mặt chống nhà Nguyên, một mặt kháng cự với quân đội của Chu Nguyên Chương. Năm 1363, Hữu Lượng tử trận tại “Đại chiến hồ Bà Dương” khi đánh nhau với quân Chu Nguyên Chương. Quần thần tôn con thứ của Lượng là Trần Lý lên làm vua Đại Hán, cải niên hiệu thành Đức Thọ. Nhưng chỉ một năm sau, Chu Nguyên Chương đem quân tấn công và hạ được thành Vũ Xương nhằm tháng 2 năm 1364, Lý phải quy hàng. Nếu theo ghi chép từ Minh sử thì Ích Tắc và Hữu Lượng khó liên quan với nhau. Ích Tắc làm quan ở Hồ Quảng thì không lẽ nào con trai lại đi làm nghề chài lưới ở tận Hồ Bắc cả. Vậy sao các sử nước ta đều khẳng định Hữu Lượng là con Ích Tắc? Có thể là bởi khi Hữu Lượng cầu thân với nhà Trần thì y có thể mạo xưng để dễ thuyết phục nhà Trần động binh giúp đỡ mà thôi. Các sử gia ngày xưa cũng không có điều kiện đi xác minh thân thế thật sự của Trần Hữu Lượng và triều đình nhà Trần khi ấy cũng không rảnh đi điều tra gốc gác của Trần Hữu Lượng. Dù là hậu duệ hay không hậu duệ thì nhà Trần cũng không đồng ý lao vào cuộc chiến giữa các thế lực trên đất Trung Quốc. Cơ quan ngôn luận của Viện Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Văn hóa Dân tộc. Trụ Sở: Phòng A101, 54 Nguyễn Văn Cừ, phường Bồ Đề, quận Long Biên Hà Nội. Văn phòng điện tử: Tòa nhà số 8 A4/ Khu Đô Thị Đầm Trấu, phường Bạch Đằng, quận HBT, Hà Nội.
Trần Hữu Lượng
Trần Hữu Lượng (chữ Hán: 陳友諒; 1316– 3 tháng 10 năm 1363) là một thủ lĩnh quân phiệt thời "Nguyên mạt Minh sơ" trong lịch sử Trung Quốc, là người Miện Dương, Hồ Bắc. Tổ tiên của ông nguyên là họ Tạ, nhưng vì có người ở rể nhà họ Trần, nên con cháu sau này đổi theo họ đó. Có sự mâu thuẫn giữa lịch sử Việt Nam và lịch sử Trung Quốc về thân thế Trần Hữu Lượng. Các bộ sách sử xưa của Việt Nam đều có nhắc đến tên Trần Hữu Lượng, từ Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) và Đại Việt sử ký tiền biên (ĐVSKTB) cho đến Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (KĐVSTGCM) của Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Trong ba tài liệu quan trọng này chỉ có ĐVSKTT là có ghi rằng: Trần Hữu Lượng tự nhận mình là con của Trần Ích Tắc (Trần Ích Tắc là một hoàng thân đời Trần nhưng đã đầu hàng quân Nguyên lúc quân Mông Cổ xâm lược nước Việt Nam năm 1286). Ở đây, rất có thể là do Trần Hữu Lượng muốn mượn quân đội của nhà Trần nhằm phục vụ cho cuộc chiến của mình nên nói phao lên như vậy, bởi Trần Ích Tắc hơn Hữu Lượng tới 62 tuổi.
Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên (Natural History Museum) tại Luân Đôn là một bảo tàng trưng bày một số lượng lớn các mẫu vật từ rất nhiều thời kì trong lịch sử tự nhiên. Nó mà một trong 3 bảo tàng lớn nhất trên đường Exhibition, Nam Kensington. Hai bảo tàng khác là Bảo tàng Khoa học (Science Museum) và Bảo tàng Victoria và Albert. Tuy nhiên mặt tiền của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên lại nằm trên đường Cromwell. Bảo tàng chứa 80 triệu mẫu vật, chia làm 5 bộ sưu tập chính: thực vật học, côn trùng học, khoáng vật học, cổ sinh vật học và động vật học. Bảo tàng là một trung tâm nổi tiếng thế giới về các nghiên cứu chuyên môn trong lĩnh vực phân loại sinh vật, nhận dạng và bảo tồn. Rất nhiều bộ sưu tập của bảo tàng có một lịch sử ấn tượng cũng như có giá trị to lớn về mặt khoa học, chẳng hạn như bộ sưu tập mẫu vật của nhà bác học Charles Darwin. Bảo tàng còn đặc biệt nổi tiếng bởi các bộ hóa thạch xương khủng long và các tác phẩm kiến trúc trang trí. Thư viện bảo tàng chứa một khối lượng khổng lồ các sách, tạp chí, bản viết tay và các bộ sưu tập tranh, ảnh minh họa trong các công trình nghiên cứu khoa học. Mặc dù thường được biết đến với tên Bảo Tàng Lịch sử Tự nhiên, nhưng thực ra vẫn nó được biết đến với tên Bảo Tàng Anh (British Museum) cho đến năm 1992, mặc dù nó đã được chia tách khỏi Bảo tàng Anh vào năm 1963. Bắt nguồn từ các bộ sưu tập trong bảo tàng Anh, cột mốc đánh dấu sự thành lập của bảo tàng là việc xây dựng và mở cửa tòa nhà Alfred Waterhouse năm 1881, sau đó sáp nhập với Bảo tàng Địa Chất (Geological Museum). Trung tâm Darwin là một phần mới được thêm vào gần đây, thiết kế với cấu trúc hiện đại, dùng để lưu trữ những bộ sưu tập có giá trị. Cơ sở hình thành nên bảo tàng là bộ sưu tập của bác sĩ người Bắc Ai-len Sir Hans Sloane (1660-1753), người đã di chúc để lại toàn bộ bộ sưu tập cho vua George II, đổi lại một khoản tiền 20.000 bảng cho người thừa kế của ông. Khoản tiền này rất nhỏ so với giá trị của. bộ sưu tập ở thời điểm đó. Bộ sưu tập của Sloane gồm hơn 71.000 hiện vật, trong đó có 23.000 đồng xu và các loại huân chương, 50.000 đầu sách, bản in, bản viết tay, một bộ sưu tập mẫu thực vật khô,… Chúng ban đầu được cất giữ tại Montagu House, Bloomsbury (sau đó trở thành Bảo tàng Anh vào năm 1756). Hầu hết bộ sưu tập của Sloane biến mất vào những thập niên đầu thế kỉ 19. Sir George Shaw đã bán rất nhiều mẫu vật cho Học viện Phẫu thuật Hoàng gia Anh. Năm 1833, báo cáo thường niên thông báo rằng 5500 mẫu vật côn trùng đã được phân loại trong danh mục sưu tập của Sloane đã không còn. Sự thiếu năng lực của ban lịch sử tự nhiên trong việc bảo tồn các mẫu vật trở nên nghiêm trọng, dẫn đến việc kho bạc từ chối ủy thác chi phí của chính quyền dành cho công việc bảo tồn bộ sưu tập. Sự bộ nhiệm nhân viên cho bảo tàng cũng gây ra phiền toái bởi sự thiên vị, khi năm 1862, cháu trai của phu nhân của một thành viên ban quản trị được chỉ định vào vị trí trợ lý côn trùng học, mặc dù anh ta thậm chí không phân biệt được sự khác nhau giữa một con bướm ngày và một con bướm đêm. Năm 1856, Richard Owen được chỉ định vào vị trí quản lý ban lịch sử tự nhiên của Bảo tàng Anh. Sự thay đổi nhân sự này được Bill Bryson ghi lại rằng “bằng việc làm cho Bảo tàng Lịch sử tự nhiên thành bảo tàng cho tất cả mọi người, Owen đã biến những mong đợi của chúng ta thành sự thật”. Owen thấy rằng ban lịch sử tự nhiên cần nhiều không gian hơn, và một mảnh đất ở khu vực Nam Kensington được mua lại. Năm 1864, một cuộc thi được tổ chức nhằm tìm kiếm thiết kế cho bảo tàng mới. Người thắng trong cuộc thi này là kỹ sư xây dựng Fracis Fowke, nhưng ông đã chết sau đó không lâu. Kế hoạch được tiếp tục bởi Alfred Waterhouse, người đã duyệt lại bản thiết kế ban đầu, và thiết kế lại ngoại thất tòa nhà theo phong cách kiến trúc Rô-măng, loại phong cách mà ông bị ấn tượng trong một chuyến thăm lục địa châu Âu. Bản thiết kế ban đầu bao gồm 2 cánh ở 2 bên tòa nhà chính, nhưng trong bản vẽ mới đã bị loại bỏ vì lý do kinh phí. Khoảng không gian đó bây giờ được thay thế bởi Phòng triển lãm Trái Đất (Earth Galleries) và. Công việc xây dựng được bắt đầu từ năm 1873 và hoàn thành năm 1880. Bảo tàng mới mở cửa năm 1881, nhưng công việc di dời từ bảo tàng cũ chỉ được hoàn thành cho tới năm 1883. Cả nội thất và ngoại thất của tòa nhà Waterhouse đều sử dụng một lượng lớn gạch và tấm lát bằng đất nung, nhằm chống lại điều kiện môi trường nhiều khói bụi của London thời kì Victoria. Sau khi mở cửa, Bảo tàng Lịch sử tự nhiên vẫn là một ban trong Bảo tàng Anh, với cái tên Bristish Museum (Natural History), được viết tắt là B.M.(N.H.). Một kiến nghị được ký bởi chủ tịch các Hiệp hội Khoa học Hoàng gia, Hiệp hội Linnean London, Hiệp hội Động vật học cũng như các nhà tự nhiên học như Darwin, Wallace và Huxley, được gửi tới Bộ trưởng Tài chính Anh năm 1866, đề nghị Bảo tàng được chia tách khỏi sự quản lý của hội đồng Bảo tàng Anh. Vấn đề nóng bỏng này được đưa ra tranh luận suốt gần 100 năm. Cuối cùng, với việc thông qua đạo luật Bảo tàng Anh năm 1963 (British Museum Act 1963), bảo tàng British Museum (Natural History) trở thành một bảo tàng độc lập, với một hội đồng quản lý riêng. Tuy nhiên bảo tàng mới đổi sang tên Natural History Museum năm 1992 thông qua đạo luật Museums and Galleries Act 1992. Một số bộ xương được treo lên trần tại khu vực ban công Đại sảnh trung tâm.
Bảo tàng Khoa học, Luân Đôn
Bảo tàng Khoa học (tiếng Anh: The Science Museum) là một bảo tàng lớn trên Đường Exhibition ở South Kensington, London. Viện bảo tàng này được thành lập vào năm 1857 và ngày nay là một trong những điểm thu hút khách du lịch lớn của thành phố, thu hút 3,3 triệu lượt du khách mỗi năm. Đây là 1 trong 3 bảo tàng lớn nhất trên đường Exhibition, Nam Kensington. Hai bảo tàng khác là Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên và Bảo tàng Victoria và Albert. Giống như các bảo tàng quốc gia được tài trợ công khai khác ở Vương quốc Anh, Bảo tàng Khoa học không tính phí cho khách vào cửa, mặc dù du khách được yêu cầu quyên góp nếu có thể. Triển lãm tạm thời có thể phải chịu một khoản phí vào cổng. Nó là một phần của Tập đoàn Bảo tàng Khoa học, đã sáp nhập với Bảo tàng Khoa học và Công nghiệp ở Manchester vào năm 2012.
Sinh năm 1228, Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của dòng họ Lý. Vì nhường ngôi cho chồng nên trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang. Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi lòng thù hận của Liễu. Vì thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc Tuấn. Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn và ông đã tỏ ra là một bậc hiền tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần, đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hòa hợp của hai người chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hãn. Chuyện kể rằng: thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải. Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong dòng họ dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thầy này nữa! Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần gậy bịt sắt, chỉ chống gậy không khi gần cận nhà vua. Và sự nghi kỵ cũng chấm dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt vì vua, vì nước. Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng. đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng. Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng "cột đá chống trời". Ông đã soạn hai bộ binh thư: "Binh thư yếu lược", và "Vạn Kiếp tông bí truyền thư" để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông: ". Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương.". Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc "đại bút". Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng tài có đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, cho nên trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn. Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước. Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 (1300) "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ. Khi ông mất (1300), vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông khó kể hết . Vua coi như bậc trượng phu, trăm họ kính trọng gọi ông là Hưng Đạo đại vương. Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa Việt Nam. Dân gian có câu: "Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ" là để nói về hai lễ hội lớn về hai vị thánh: Đức thánh Trần Hưng Đạo và Đức thánh Mẫu Liễu Hạnh. Đền Kiếp Bạc là nơi thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh. Lễ hội được tổ chức vào 18.8 âm lịch hàng năm. Khu di tích có Tam Quan (Linh Môn), Thành các, Tiền tế, Hậu cung, núi Nam Tào, núi Bắc Đẩu, núi Dược Sơn. in đậm dấu ấn về một thời lịch sử oai hùng "Vạn Kiếp núi lồng hình kiếm dựng. Lục Đầu vang dội tiếng quân reo". Đất nước thanh bình Trần Hưng Đạo vẫn sống ở Kiếp Bạc. Ngày 20.8 năm Canh Tý (nhằm 05.9.1300) Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất tại tư dinh. Trước khi qua đời ông đă dặn lại vua Trần "Khoan thư sức dân là kế sâu gốc, bền rễ, đó là thượng sách giữ nước". Sau khi ông mất, triều đình phong tặng ông là Thái sư Thượng phụ Quốc công tiết chế Nhân võ Hưng Đạo Đại Vương và cho lập đền thờ ông trên nền Vương phủ gọi là đền Kiếp Bạc. Nhân dân Việt Nam suy tôn gọi ông là Đức Thánh Trần, được công nhận là một trong mười vị tướng tài của thế giới. Hội mùa thu ở Côn Sơn - Kiếp Bạc là kỳ lễ hội chính kỷ niệm ngày mất của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, đồng thời người đi lễ cũng đến Côn Sơn thắp hương tưởng niệm anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi tạo thành sự hợp nhất giữa hai di tích trong kỳ lễ hội. Ở xã Yên Giang, Yên Hưng, Hà Nam có đền Trần Hưng Đạo, là nơi thờ người anh hùng dân tộc với sự kiện chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại năm 1288. Ngày nay đền Trần Hưng Đạo trở thành trung tâm lễ hội Bạch Đằng. Theo sử sách: sáng ngày 09.4.1288 (tức mồng 8 tháng 3 năm Mậu Tý) chính tại nơi đây, bên sông Bạch Đằng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã lập nên chiến công chói ngời nhất lịch sử nước ta: tiêu diệt và bắt sống hàng vạn tên xâm lược, hàng trăm chiến thuyền, bắt sống Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, đập tan ý đồ xâm lược của quân Nguyên Mông. Ghi nhớ chiến công, tưởng nhớ người anh hùng Trần Hưng Đạo, dân làng An Hưng (nay là Yên Giang) lập đền thờ Ngài bên dòng Bạch Đằng. Trần Hưng Đạo sống là người, thác là thánh. Trong đền này còn giữ được nhiều sắc phong của các vua nhà Nguyễn như Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân phong Trần Hưng Đạo làm Thượng đẳng thần. Các đạo sắc đều ca ngợi chiến công, oai linh, đức độ giúp dân giúp nước của Trần Hưng Đạo. Sắc của vua Tự Đức năm thứ 6 (1854) có đoạn: "Trần Hưng Đạo Đại Vương có công giúp nước, cứu dân, oai linh lẫm liệt, cảm ứng cả trời đất, được nhân dân sùng bái". Bên cạnh đền Trần Hưng Đạo là miếu Vua Bà, tương truyền có từ thời Trần. Người dân lập miếu để thờ bà hàng nước đã cho biết giờ thủy triều lên xuống để danh tướng nhà Trần liệu kế đánh giặc. Thú vị là đền thờ của một bà hàng nước lại được người dân suy tôn là Vua Bà và được đặt bên cạnh bậc vương gia Trần Hưng Đạo được suy tôn là Thánh!. Hàng năm đến ngày lễ hội của đền Trần, nhân dân trong vùng và các nơi lại kéo về dự hội, thắp hương tưởng nhớ công ơn của Trần Hưng Đạo mà dân gian từ lâu đã tôn kính gọi là Đức Thánh Trần. Ngày hội chính của đền là mồng 8 tháng 3 âm lịch, là ngày diễn ra chiến thắng Bạch Đằng năm xưa, người dân Yên Hưng vẫn gọi đây là ngày "giỗ trận". Ngày "giỗ trận" có cả phần lễ và phần hội: đu quay, chọi gà, đánh vật, cờ người, cờ tướng. và, tất nhiên, không thể thiếu môn đua thuyền trên sông Bạch Đằng. Dân Hà Nam, từ già đến trẻ nô nức đi xem hội. Di tích đền Trần Hưng Đạo - miếu Vua Bà đã được Bộ văn hoá thông tin xếp hạng là di tích lịch sử theo quyết định số 100/HQĐ ngày 21.1.1989.
Trần Hưng Đạo
Trần Hưng Đạo (chữ Hán:陳興道); 1228 – 1300), tên thật là Trần Quốc Tuấn (chữ Hán:陳國峻), tước hiệu Hưng Đạo đại vương, là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288. Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường dùng tên gọi vắn tắt là "Trần Hưng Đạo" thay cho cách gọi đầy đủ là "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn", vốn bao gồm tước hiệu được sắc phong cho ông. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Là con của thân vương An Sinh vương Trần Liễu và là cháu nội của Trần Thái Tổ, Trần Hưng Đạo có mối quan hệ mật thiết với hoàng tộc họ Trần và vua Trần Nhân Tông gọi ông bằng bác. Năm 1257, ông được vua Trần Thái Tông phong làm đại tướng chỉ huy các lực lượng ở biên giới đánh quân Mông Cổ xâm lược. Sau đó, ông lui về thái ấp ở Vạn Kiếp.
Túi giấy là một dạng túi được sản xuất từ nguyên liệu chủ yếu là giấy thân thiện môi trường và hợp thời trang. Hiện nay trên thị trường sản phẩm túi giấy khá đang dạng nhiều mâũ mã. Sản xuất từ nguyên liệu 100% giấy kraft nâu, chúng thân thiện và dễ dàng phân hủy trong môi trường tự nhiên. Loại giấy này có độ dai, đàn hồi độ thấm nước. Túi giấy Couche làm từ loại giấy couche có ưu điểm nhìn rất sang trọng, có thể kết hợp nhiều loại màu sắc nâng cao tính nhận diện thương hiệu. Túi giấy ivory với chất liệu giấy dày dặn, cứng cáp kết hợp với thiết kế đầy màu sắc đa dạng. “Tôi đã đặt công ty An Phước sản xuất túi giấy cho shop mỹ phẩm và tôi khá hay lòng chất liệu, thời gian kèm theo giá mà công ty đã đưa ra. Chúc công ty ngày phát triển”. “ Tôi đã đặt niềm tin vào công ty An phước cho việc sản xuất in túi giấy cho sản phẩm mới. Tôi rất hài lòng quy trình làm việc cũng như chất lượng sản phẩm ”. Tết Trung Thu – ngày tết dành cho các em thiếu nhi, giờ đây đã trở thành ngày để mọi người tặng nhau những món quà ý nghĩa thể hiện tình yêu, lòng biết ơn hay đơn giản là để duy trì quan hệ làm ăn lâu dài trong công việc. Một món quà đặc. Xưởng túi giấy An Phước là đơn vị làm việc trong ngành in ấn bao bì nhiều năm, chuyên cung cấp túi đựng giày 2 ngăn Barca và các loại túi giấy đựng thực phẩm, túi đựng quà, túi đựng quần áo,… uy tín, chất lượng. Túi Đựng Giày 2 Ngăn Barca làm từ chất. Túi Giấy Louis Vuitton – không chỉ thể hiện đẳng cấp cá tính, thân thiện với môi trường, mà còn có thể tái sử dụng nhiều lần. Bạn đang cần tìm 1 địa chỉ cung cấp túi giấy chất lượng để làm túi giấy Louis Vuitton? Việc phải chọn ra một địa chỉ uy tín giữa hàng. Được biết đến như một thương hiệu về thời trang thể thao hàng đầu thế giới, Adidas không chỉ nổi tiếng với các dòng quần áo mà cũng là địa chỉ cung cấp giày dép được giới trẻ trên toàn thế giới ưa chuộng trong nhiều thập kỷ qua. Nhu cầu mua sắm giày dép. Sử dụng túi giấy uống nước dùng một lần đang là một trong những giải pháp hiệu quả và có chi phí thấp nhất hiện nay để tránh lây lan dịch bệnh trong cộng đồng mà không làm ảnh hưởng tới môi trường. Túi giấy uống nước dùng một lần được làm hoàn toàn từ. Túi Giấy Shop Quần Áo gần như là một món nhu yếu phẩm của các shop quần áo hiện nay. Không chỉ là phụ kiện để khách đựng quần áo mang đi mà túi giấy còn giúp nâng tầm thương hiệu cửa hàng của bạn, tăng giá trị cho sản phẩm và là công cụ. Túi giấy xi măng hay còn gọi là túi giấy Kraft hoặc túi giấy môi trường. Nhờ đặc tính dai và khả năng chịu lực tốt nên trước đây được sử dụng chủ yếu để đựng xi măng, cũng chính vì vậy mà có tên gọi là túi giấy xi măng. Tuy nhiên, hiện tại. Túi zip giấy 8 cạnh hẳn đã quá quen thuộc với người tiêu dùng khi nó xuất hiện rộng rãi ở khắp mọi nơi, đặc biệt là trên các kệ đồ thực phẩm khô trong siêu thị. Túi zip giấy 8 cạnh là dạng túi làm từ giấy được thiết kế có khóa. Yến Sào là một trong những loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao đồng thời giá thành cũng khá đắt đỏ. Chính vì vậy mà yến sào thường được đựng trong những chiếc túi giấy sang trọng nhằm làm tăng giá trị của nó. Xưởng túi giấy An Phước – chuyên cung cấp. Với đặc điểm chung là có phần cổ trơn bóng, không có tay cầm, lại thường được làm từ chất liệu thủy tinh dễ vỡ, những chai rượu luôn cần một món phụ kiện đi kèm đó chính là túi giấy đựng rượu. Tác dụng của túi giấy đựng rượu Vừa làm tăng. Số lượng các doanh nghiệp, cửa hàng sử dụng túi giấy thay cho túi nilon ngày một tăng. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu khi việc bảo vệ môi trường đang là thách thức lớn với toàn nhân loại. và tác nhân chính gây ô nhiễm môi trường lại chính là túi nilon. Túi nilon đã và đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và sức khỏe con người. Các nghiên cứu gần đây cho thấy rác thải nhựa của Việt Nam chiếm tới 60% lượng rác thải nhựa đổ ra biển của toàn thế giới. Túi thân thiện môi trường chính là giải
Túi giấy
Túi giấy là một loại túi được làm bằng giấy, thường là giấy kraft. Túi giấy thường được sử dụng làm túi mua sắm, bao bì sản phẩm, bao giấy. Năm 1852, Francis Wolle, một giáo viên, đã phát minh ra chiếc máy đầu tiên để sản xuất hàng loạt túi giấy. Wolle và anh trai của mình đã được cấp bằng sáng chế cho chiếc máy này và thành lập ra công ty Túi giấy Union. Năm 1871, nhà phát minh Margaret E. Knight đã thiết kế một chiếc máy có thể tạo ra những chiếc túi giấy có đáy phẳng, có thể đựng được nhiều thứ hơn so với thiết kế kiểu phong thư trước đây. Năm 1883, Charles Stilwell được cấp bằng sáng chế cho một chiếc máy tạo ra túi giấy đáy vuông với các cạnh xếp nếp, giúp chúng dễ dàng gấp lại và cất giữ. Kiểu túi này được gọi là S.O.S., hay "Túi tự mở". Năm 1912, Walter Deubener, một người bán tạp hóa ở Saint Paul, Minnesota, đã sử dụng dây để gia cố túi giấy và thêm quai xách. Những chiếc "Túi mua sắm Deubener" này có thể đựng 75 pound cho một lần mang và trở nên khá phổ biến, bán được hơn một triệu túi mỗi năm vào năm 1915.
Ngành hội họa là ngành học phù hợp cho những bạn trẻ có năng khiếu và yêu thích sự sáng tạo, đam mê với hình ảnh và màu sắc. Vậy ngành hội hoạ là gì? Ngành hội họa thi khối nào?. Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu cho các bạn thông tin chi tiết hơn về ngành hội họa. Nội dung bài viết dưới đây ban tư vấn tuyển sinh Trường Cao đẳng Y Dược Sài Gòn sẽ tư vấn tới các bạn những thông tin hữu ích về ngành nghề hội họa một cách chi tiết nhất. Ngành hội họa là ngành học phù hợp với những bạn trẻ có năng khiếu vẽ, đây cũng là ngành học khá kén người học, được đánh là ngành nghề có cơ hội và tiềm năng phát triển lớn thích hợp với những bạn theo học ngành này từ nhỏ. Ngành hội họa đang là ngành học được đánh giá là có sức hút đối với rất nhiều bạn trẻ, được mọi người quan tâm tới nhiều nhất là trong giai đoạn phát triển hiện nay. Bài viết mang tính chất khơi gợi niềm đam mê của bạn với ngành đó, nếu bạn quan tâm bạn có thể tham khảo trong mục có thể bạn quan tâm để vun đắp ước mơ của mình. Hội họa (tiếng Anh là Painting) là một ngành nghệ thuật có lịch sử lâu đời, hiểu một cách đơn giản thì hội họa chính là vẽ tranh, hội họa là một lĩnh vực nghệ thuật. Hội họa trong lịch sử nghệ thuật châu âu thường phục vụ cho những mục đích cụ thể được xem là ngành nghệ thuật có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống văn hóa tinh thần của con người từ ngàn năm nay, là ngành nghề tôn vinh tinh hoa thẩm mỹ và vẻ đẹp. Hội họa khác với các ngành nghệ thuật ứng dụng khác là tạo cảm xúc cho người xem tranh và có tính thẩm mỹ cao, hội họa cần có sự sáng tạo trong đó các đường nét, kết cấu, màu sắc, hình khối được sắp xếp theo một bố cục mang tính thẩm mỹ cao. Hiểu một cách đơn giản thì hội họa chính là vẽ tranh tạo ra một hình ảnh mang tính thẩm mỹ. Những người làm trong lĩnh vực hội họa là họa sĩ, họ dùng cọ hoặc bút màu, sử dụng chất liệu màu vẽ khác nhau để làm ra những tác phẩm hội họa lột tả được nhiều cảm xúc, thể hiện được ý tưởng sâu xa của người họa sĩ. Hội họa gồm có 3 thể loại chính là Phong cảnh, Tĩnh vật, Chân dung. Người họa sĩ sáng tác các tác phẩm trên một số chất liệu bề mặt như vải, giấy, canvas, lụa, gỗ sử dụng chất liệu màu vẽ với rất nhiều phong cách trường phái khác nhau để sáng tạo. Các bạn có thể tham khảo về các khối thi vào ngành hội họa. Theo đó, ngành hội họa xét tuyển các tổ hợp môn sau:. Người học ngành hội họa sẽ được trang bị các kiến thức thông qua chương trình học, mô đun chuyên môn về Hình hoạ màu, Ký hoạ, Lịch sử mỹ thuật Việt Nam – thế giới, Tranh bố cục, Luật xa gần, Giải phẫu… Bên cạnh đó thì sinh viên còn được học thêm các môn học bổ trợ như: Nhiếp ảnh, Thiết kế web, Điêu khắc, kỹ năng sử dụng hình hoạ người, kỹ thuật sáng tác tranh tĩnh vật, có trang trí phối màu, khả năng tư duy tạo hình bố cục, thể hiện ý tưởng nghệ thuật tranh phong cảnh, tranh khắc gỗ trên nhiều chất liệu tranh sinh hoạt lao động, như là giấy, vải bố, gỗ bằng ngôn ngữ hội họa. Sinh viên sau khi đã tốt nghiệp ngành hội họa ra trường có thể đảm nhận ở nhiều vị trí công việc khác nhau. Sinh viên sẽ được trang bị một lượng lớn kiến thức về hình họa, thẩm mỹ, bố cục và các kỹ năng vẽ trên các chất liệu khác nhau vì vậy nên hoàn toàn có thể làm được các ngành khác liên quan đến mỹ thuật. Sinh viên có các kỹ năng vẽ trên máy tính ví dụ như Adode Photoshop; Cinema4d Illustrator cho đồ họa 2D, các phần mềm 3D như 3Dmax, các kỹ năng vẽ trên Maya. Nếu là lĩnh vực mỹ thuật đô thị, công trình thì thêm các kiến thức về không gian. Sinh viên sau khi tốt nghiệp chuyên ngành hội họa có thể làm các công việc tự do, phù hợp theo phong cách riêng của bản thân như: Có thể là họa sĩ sáng tác mỹ thuật, tham gia giảng dạy mỹ thuật tại các trường học, sáng tác tranh theo công việc, theo hợp đồng, tham gia công việc thiết kế tạo hình mỹ thuật tại trung tâm văn hóa, các cơ sở, thi công các công trình mỹ thuật, làm việc tại các công ty quảng cáo, cơ quan truyền hình, báo chí, xưởng sản xuất phim hoạt hình, trẻ em. Sinh viên sau khi ra trường có trình độ có thể đủ điều kiện giảng dạy tại các cơ sở uy tín đào tạo về Mỹ thuật, bên cạnh đó còn có những cơ hội việc làm đặc thù khác liên quan đến mỹ thuật, các hoạt động Mỹ thuật khác của xã hội, sinh viên tốt nghiệp sẽ trở thành giảng viên dạy về hội họa hoặc họa sĩ. Theo tiêu chí đào tạo, sinh viên sinh viên có thể nhận được mức lương từ 6 - 12 triệu hoặc cao hơn khi thực hiện các công việc theo yêu cầu của khách hàng. Ngoài ra còn được có cơ hội tiếp tục học nâng cao về chuyên môn và kỹ năng sao cho phù hợp với trình độ đại học mỹ thuật. Chương trình đào tạo hệ đại học ngành hội họa thường kéo dài 5 năm gồm các chuyên ngành sơn mài, sơn dầu, lụa. Người học sẽ được đào tạo vững vàng, làm quen với các kỹ thuật khi sử dụng chất liệu vào tranh, học về các nguyên lý sáng tác, hình họa và bố cục sao cho phù hợp nhất. Khi vào học ngành hội họa sinh viên sẽ được đào tạo vững vàng các môn như là phong cảnh, chân dung, sáng tác tranh tĩnh vật, hình họa màu và đen trắng, nguyên lý sáng tác, hình họa toàn thân, giải phẫu tạo hình, thể hiện tranh sơn dầu, sơn mài và lụa. Theo đó, sinh viên khi học ngành hội họa đều được đào tạo phổ biến các kiến thức rộng rãi về ngành mỹ thuật khác kèm các kỹ năng cụ thể về vẽ truyện tranh, vẽ minh họa,vẽ nhân vật; vẽ tranh tường, sáng tác các tác phẩm mỹ thuật trong không gian, tranh kính; kiến trúc, vẽ truyện tranh, bổ sung một số kỹ năng cụ thể sư phạm về chuyên ngành hẹp khác hoặc viết lý luận nghệ thuật. Hiện nay, ngành hội họa đã được nhiều trường đại học đào tạo, các sinh viên có thể tham khảo dưới đây. Đại học FPT: Xét tuyển tổ hợp môn A00, A01, D01, D96 - Tổng 3 môn sinh viên phải đạt 21 điểm trở lên (đã bao gồm điểm ưu tiên). Đại học công nghệ thông tin và truyền thông Thái Nguyên: Nhà trường tổ chức xét tuyển tổ hợp môn C04, D01, D10, D15 là 15,5 điểm, nhà trường xét theo học bạ 18 điểm.
Hội họa
Hội họa là một ngành nghệ thuật trong đó con người sử dụng màu vẽ để tô lên một bề mặt như là giấy, hoặc vải,. để thể hiện các ý tưởng nghệ thuật. Thông thường, công việc này do họa sĩ thực hiện. (Họa sĩ là từ dùng để chỉ những người coi hội họa là nghề nghiệp của mình). Kết quả của công việc đó là các tác phẩm hội họa hay còn gọi là các tranh vẽ. Hội họa là một trong những loại hình nghệ thuật quan trọng và phổ biến nhất. Nói cách khác, hội họa là một ngôn ngữ để truyền đạt ý tưởng của người nghệ sĩ bằng các tác phẩm hội họa sử dụng kỹ thuật (nghệ) và phương pháp (thuật) của họa sĩ. Một phần lịch sử hội họa trong nghệ thuật phương Đông lẫn phương Tây bị chi phối bởi nghệ thuật tôn giáo. Ví dụ về các loại tác phẩm này bao gồm các bức tranh miêu tả nhân vật thần thoại trên đồ gốm, các bức tranh tường, trần nhà miêu tả cảnh tượng trong kinh thánh, đến các bức tranh về cuộc đời Đức Phật và các tôn giáo phương Đông khác.
Ngày 24/9/1435, Isabeau xứ Bavaria, vợ của Hoàng đế Pháp Charles VI qua đời trong sự ghẻ lạnh của giới quý tộc Pháp, tại vùng đất đang bị người Anh chiếm đóng. Cuộc đời của bà gắn liền với một thời kỳ tranh đoạt quyền lực khốc liệt trong triều đình Pháp, cuộc xâm lược của Anh cùng những lời tố cáo, đồn đại về chuyện ngoại tình chị dâu - em chồng hay sự mưu phản. Bà là con gái lớn của Công tước xứ Bavaria-Ingoldstadt Stephen III với người vợ đầu của ông - Taddea Visconti, con gái lãnh chúa Milan. Về dòng dõi hoàng tộc, Isabeau là chắt của Hoàng đế La Mã Louis IV. Vào cuối thế kỷ 14, xứ Bavaria do cha bà cai quản là nơi hùng mạnh nhất trong các vùng đất của Đức. Năm 1383, chú của Isabeau, Công tước Frederick của xứ Bavaria-Landshut đề xuất cho cô cháu gái xinh đẹp kết hôn cùng Hoàng đế Pháp Charles VI. Đề xuất này đã được chú của Vua Charles VI, Công tước xứ Burgundy Philip ủng hộ, với lí do cuộc hôn phối sẽ giúp nước Pháp kết thân với đế chế La Mã, tăng cường thêm sức mạnh trong cuộc đối đầu với người Anh. Theo nhà sử học Pháp Jean Froissart, Isabeau mới 15 tuổi khi gia đình gửi bà tới Pháp để diện kiến vị hôn phu tương lai cũng như nhận sự phê chuẩn của Hoàng tộc Pháp đối với cuộc hôn nhân sắp đặt. Chuyến đi có vẻ thành công mỹ mãn khi Vua Charles VI đã ngay lập tức bị hớp hồn trước vẻ kiều diễm của công nương xứ Bavaria. Về phần mình, Isabeau cũng phải lòng vị hoàng đế Pháp trẻ tuổi ngay lần đầu gặp gỡ. Chỉ 3 ngày sau đó, vào ngày 16/7/1385, đám cưới của họ được tổ chức một cách linh đình. Không giống như nhiều cuộc hôn nhân sắp đặt khác vì mục đích chính trị, Isabeau có cuộc sống sau khi kết hôn với hoàng đế Pháp rất hạnh phúc, ít nhất lúc ban đầu. Cặp vợ chồng trẻ tỏ ra tâm đầu ý hợp và hai bên hoàng tộc đều hài lòng với sự dàn xếp của họ. Vua Charles VI tặng cho người vợ trẻ rất nhiều món quà xa xỉ, quý hiếm, từ các loại trang sức, váy áo lộng lẫy đến các buổi dạ tiệc linh đình và các chuyến đi dã ngoại lãng mạn. Ông cũng tổ chức lễ tấn phong hoàng hậu vô cùng xa hoa cho Isabeau vào năm 1389. Vào thời điểm này, Isabeau đang mang thai được 7 tháng. Sử sách có ghi, để có thêm kinh phí tổ chức sự kiện hoành tráng kéo dài suốt 5 ngày này, nhà vua đã quyết định tăng thuế đánh vào các cư dân ở Paris suốt 2 tháng trước đó. Tuy nhiên, những ngày tháng êm đềm của hoàng hậu trẻ không kéo dài. Năm 1392, Vua Charles VI bất ngờ đổ bệnh và lần đầu tiên có những hành động bất bình thường. Vào một ngày tháng 8 oi ả, trên đường tới Brittany, ông đã tấn công các lính ngự lâm của mình và giết chết 4 người trong số họ mà không cần lí do rõ ràng, trước khi rơi vào trạng thái hôn mê. Song, Vua Charles VI đã nhanh chóng hồi phục và đến tháng 9/1392 đã có thể quay trở về Paris. Vua Charles VI phát cơn cuồng dại lần thứ hai vào tháng 6 năm sau và lần này mất tới 6 tháng ông mới khôi phục được sự tỉnh táo. Suốt 20 năm tiếp sau đó, Vua Charles VI liên tục phát điên rồi lại hồi tỉnh, hết lần này đến lần khác. Theo nhiều tài liệu, mỗi khi lên cơn điên, nhà vua không còn nhận ra hoàng hậu là ai và xua đuổi bà ra khỏi tầm mắt ông. Đây là một trong những lí do khiến Hoàng hậu Isabeau thường không có mặt bên cạnh để chăm sóc chồng mỗi khi ông phát bệnh. Song, có một điều an ủi với Isabeau là nhà vua đã cho phép bà thay mặt ông giải quyết công việc triều chính. Hoàng hậu Isabeau được giao trọng trách nhiếp chính cho con trai đầu của họ, thái tử của nước Pháp. Năm 1402, Vua Charles VI tiếp tục giao quyền quản lý ngân khố cho bà. Đến năm 1403, bà được bổ nhiệm làm lãnh đạo "hội đồng nhiếp chính" mới thành lập, có quyền bàn thảo và giải quyết mọi vấn đề tài chính của đất nước, ngoài vai trò "người bảo vệ chính" của thái tử. Đúng lúc này, những người họ hàng của nhà vua đã lợi dụng tình hình bệnh tật của ông để thâu tóm quyền lực. Em trai nhà vua - Công tước Louis của xứ Orléans và em họ vua - Jean sans Peur, Công tước xứ Burgundy tranh giành quyền nhiếp chính nước Pháp và quyền bảo trợ cho con cái nhà vua. Những người ủng hộ hai phe này được gọi là phe Armagnac và phe Burgundy. Để bảo đảm an toàn tính mạng cho mình và các con, đặc biệt là thái tử, Hoàng hậu Isabeau quyết định lúc ngả theo phe Armagnac, lúc lại ủng hộ Burgundy, tùy thuộc bên nào đang được đánh giá là chiếm ưu thế hơn. Song, việc Hoàng hậu đứng về phe Burgundy từ năm 1409 - 1413, rồi lại chuyển sang liên minh với phe Armagnac từ năm 1413 - 1415 khiến bà bị chỉ trích là thiếu kiên định. Cuộc tranh giành quyền lực giữa hai phe cũng khiến Hoàng hậu Isabeau bị đồn ngoại tình với em chồng - Công tước Louis xứ Orléans. Đỉnh điểm của cuộc xung đột diễn ra khi Công tước xứ Burgundy hạ lệnh cho người ám sát Công tước xứ Orléans vào năm 1407. Lợi dụng tình hình rối ren, Hoàng đế Anh là Henry V đã cho quân xâm lược Pháp. Chiến thắng oanh liệt trong trận Agincourt năm 1415 đã giúp người Anh chiếm được các thành phố ở miền bắc nước Pháp. Thái tử Pháp, Hoàng Charles VII tương lai, lúc này mới 14 tuổi, đã có hành động quan trọng đầu tiên trong đời khi ký hiệp ước hòa bình với phe Burgundy năm 1419. Tuy nhiên, nỗ lực này đã thất bại khi những người ủng hộ phe Armagnac ám sát John Dũng cảm, Công tước xứ Burgundy trong buổi triều kiến dù thái tử đã hứa bảo đảm an toàn cho ông. Vị công tước mới xứ Burgundy, Philippe le Bon, buộc thái tử phải chịu trách nhiệm cho sự phản trắc này, đồng thời liên minh với người Anh, dẫn đến một phần lớn lãnh thổ của Pháp rốt cuộc bị Anh chiếm đóng. Năm 1420, Hoàng hậu Isabeau buộc phải ký Hiệp ước Troyes, theo đó Vua Anh Henry V và con cháu của ông được kế vị ngai vàng nước Pháp, thay cho con trai bà. Thỏa thuận này làm sống lại lời đồn đại rằng bà có quan hệ tình ái với vị Công tước xứ Orléans đã mất và khiến người ta nghi ngờ thái tử là con hoang, chứ không phải là giọt máu của nhà vua. Kể từ đó, Hoàng hậu Isabeau rút về ở ẩn tại cung điện Hôtel Saint-Pol ở tây nam Paris, dưới sự cai trị của người Anh. Bà qua đời ở đây vào ngày 24/9/1435, trong sự ghẻ lạnh của giới quý tộc Pháp. Ngày 23/9/1949, trong một tuyên bố bất ngờ, với những câu chữ được chọn lựa kỹ lưỡng, Tổng thống Mỹ Harry S.Truman thông báo cho dân chúng về việc Liên Xô đã bí mật thử nghiệm một vũ khí hạt nhân vài tuần trước đó. Ngày 20/9/2001, trong bài phát biểu hùng hồn trước quốc hội, được truyền trực tiếp trên truyền hình quốc gia, Tổng thống Mỹ Bush công bố "cuộc chiến chống khủng bố" khắp toàn cầu. Cách đây 35 năm, Vanessa Williams tạo nên kỳ tích khi trở thành Hoa hậu da màu đầu tiên của Mỹ. Không đầy 1 năm sau, cô lại tiếp tục gây chấn động lịch sử Mỹ. Ngày 12/9/1953 ghi dấu đám cưới xa hoa của cô phóng viên trẻ Jackie với Thượng nghị sĩ John F. Kennedy, vị tổng thống thứ 35 tương lai của Mỹ. Ngày 10/9/1977, Charlene, người có IQ bằng thiên tài Stephen Hawking, lần đầu gặp Gerald, rồi kết hợp thành cặp sát nhân, gây ra hàng loạt vụ án man rợ nhất lịch sử Mỹ. Ngày 5/9/1972, bọn khủng bố đột nhập làng Olympic ở Munich, Đức, bắt cóc rồi giết hại các vận động viên và huấn luyện viên người Israel. Ngày 29/8/2005, siêu bão Katrina đổ bộ vào nước Mỹ, tàn phá 5 bang ven Vịnh Mexico và gây ra thảm họa thiên nhiên khủng khiếp nhất lịch sử nước này. Ngày 27/8/1896 ghi dấu cuộc chiến tranh ngắn ngủi nhất trong lịch sử thế giới, chỉ diễn ra trong vẻn vẹn 38 phút giữa Anh và Zanzibar. Kẻ đánh bom sân bay Kabul đã gây ra vụ nổ đẫm máu bằng cách nào?. Cuộc chiến quyền lực trong lòng Afghanistan và nguy cơ khủng bố trỗi dậy(15.50pm 28-08-2021). TP.HCM: Nhiều trung tâm an sinh gặp khó khi phân phối nhu yếu phẩm cho người dân. TP.HCM: Các shipper được hoạt động ở mọi địa bàn, phải xét nghiệm Covid-19 mỗi ngày. Áp dụng Chỉ thị 16 phòng Covid-19 tại H.Phù Cát (Bình Định): Không ngăn sông cấm chợ. TP.HCM: Gỡ bỏ 112 bài viết và 199 video trên các mạng xã hội vì thông tin sai sự thật
Isabeau xứ Bavaria
Isabeau xứ Bavaria (tiếng Pháp: Isabeau de Bavière; 1370 – 24 tháng 9 năm 1435), hay còn gọi là Elisabeth xứ Bavaria-Ingolstadt hoặc Isabelle, thuộc dòng dõi nhà Wittelsbach với tư cách là con gái lớn của Công tước Stephen III của Bavaria-Ingolstadt và Taddea Visconti của Milan. Bà trở thành Vương hậu của Vương quốc Pháp khi kết hôn với Quốc vương Charles VI vào năm 1385. Khi chỉ tầm 16 tuổi, Isabeau được đưa sang nước Pháp theo sự chấp thuận của vị Vua trẻ người Pháp, cặp đôi đã cưới 3 ngày ngay sau cuộc gặp gỡ đầu tiên. Theo đúng nghi thức vương triều Pháp, công nương Isabeau được vinh danh vào năm 1389 với một lễ đăng quang xa hoa và nhập cảnh vào Paris cùng năm đó. Năm 1392, Vua Charles phải chịu cuộc khủng hoảng đầu tiên và bị một căn bệnh tâm thần suốt đời và tiến triển ngày càng nặng nề hơn, dẫn đến việc rút khỏi chính phủ định kỳ. Các khủng hoảng chính trị xảy ra với tần suất ngày càng tăng, khiến tòa án bị chia rẽ bởi các phe phái chính trị và chìm đắm trong sự hoang phí xã hội.
Đối với văn hóa người phương Đông thì từ xa xưa ông bà ta thường dùng lá số tử vi để xem vận mệnh. Còn đối với người phương Tây họ dùng thuật chiêm tinh học vẽ ra các bản đồ sao rồi dựa vào đó để nói lên tính cách vận mệnh của cuộc đời 1 con người. Vậy chiêm tinh học là gì? Tất cả sẽ có ở bài viết này đừng bỏ lỡ nhé!. Chiêm tinh học(astrology) là một hệ thống bói toán dựa trên sự vận hành của vũ trụ và các hành tinh xung quanh Trái Đất. Qua đó, người ta sáng tạo ra “bản đồ sao”, một hình thức xem vận mệnh tương tự như “lá số tử vi” của người phương Đông. Chiêm tinh học là một môn học dùng để dự đoán vận mệnh tiền đồ của quốc gia, dân tộc, nhân vật anh hùng, lãnh tụ, thiên tai dịch bệnh, thời tiết, và vận mệnh cá nhân dựa trên sự biến động của các vì tinh tú, các chòm sao. Ở phương Tây, chiêm tinh học đa số chứa một hệ thống lá số tử vi (horoscope) có nội dung để giải thích các khía cạnh của nhân cách con người và dự đoán các sự kiện tương lai trong cuộc sống dựa trên vị trí Mặt Trời, Mặt Trăng và các thiên thể khác vào lúc sinh họ ra. Đa số các nhà chiêm tinh học nổi tiếng đều dựa trên các hệ thống dự đoán tương tự như vậy. Giống như nhóm máu, vân tay, ADN của bạn, bản đồ sao được hình thành ngay từ khi bạn chào đời. Hãy tưởng tượng khi bạn vừa chào đời, thì ở điểm đó có một người chụp được vị trí các hành tinh trên bầu trời. Bức tranh đó chính là bản đồ sao của bạn. Bản đồ sao là biểu đồ thể hiện vị trí các hành tinh vào thời điểm các bạn ra đời. Ngoài ra, trong bản đồ sao còn có một số điểm đặc biệt, được xác định dựa vào địa điểm sinh của bạn nữa. Từ đó Chiêm tinh học nghiên cứu ảnh hưởng, tác động của các hành tinh này lên con người và số phận của chúng ta. Nói một cách dễ hiểu hơn, bản đồ sao cho thấy khi bạn ra đời, bạn đã được những thiên thể trên bầu trời “ban tặng” những dạng năng lượng nào, những năng lượng này kết tinh và tổng hòa thành thiên hướng và tính cách của bạn. Bản đồ sao bao gồm tất cả các hành tinh xung quanh Trái Đất như Mặt Trời, Mặt Trăng, sao Kim, Thủy, Hỏa, Thổ,…Hành tinh nào có ảnh hưởng đến Trái Đất nhiều thì hành tinh ấy cũng chiếm phần quan trọng trong bản đồ sao của bạn. Cung hoàng đạo mà bạn biết tới thực chất nó chỉ là Mặt Trời, vì Mặt Trời là hành tinh mà Trái Đất của chúng ta xoay quanh mỗi ngày và có tầm ảnh hưởng lớn. Nên các nhà chiêm tinh học đã quy định ngày, tháng sinh sẽ là Mặt Trời. Cho nên đôi khi bạn đọc những bài về cung hoàng đạo của mình, bạn cho rằng nó nhảm nhí, vô lí và không chính xác. Bởi vì đó chỉ là một phần của bản thân bạn, Mặt Trời đúng là có sức ảnh hưởng nhưng nó không phải là duy nhất. VD: Một người sinh vào ngày 16/12, chúng ta sẽ nói người này thuộc cung Nhân Mã. Nhưng thực chất cung Nhân Mã này chỉ là cung Mặt Trời. Vì vậy bản thân mỗi người chúng ta không chỉ có duy nhất mỗi Mặt Trời, mà còn rất nhiều hành tinh khác nữa. Cung hoàng đạo thường ngày của bạn chính xác hơn phải gọi là cung Mặt Trời. Ngoài ra còn có các chòm sao khác như Diêm Vương, Hải Vương, Thiên Vương. Những chòm sao này thường là xoay trong một thế hệ 10 năm. VD: 8x, 9x, 10x sẽ có những chòm sao này tương tự nhau. Bạch Dương là cung đầu tiên trong vòng tròn Hoàng Đạo và thường được coi là cung “nóng đầu”, dẫn đường. Bạch Dương rất thích được người khác vuốt ve đầu, đặc biệt là khi đi spa. Bạch Dương rất dễ bị mắc chứng đau đầu, chấn thương mắt hoặc viêm xoang. Kim Ngưu duyên dáng, giỏi nghệ thuật và được hành tinh của sắc đẹp Kim Tinh bảo hộ. Vì vậy, Kim Ngưu thường có liên kết với dây thanh quản và toàn bộ vùng cổ trên cơ thể. Những người thuộc cung Kim Ngưu thường có phần cổ to và dài, hoặc có nhiều đặc điểm nổi bật. Vì vậy, họ thường sở hữu một giọng hát ngọt ngào, êm tai. Thế nhưng, Kim Ngưu cũng rất dễ mắc phải những bệnh có liên quan để cổ họng và dây thanh quản, đặc biệt là viêm họng hạt. Song Tử là cặp đôi song sinh; thường được liên kết với những sự vật song song, có đôi có cặp. Chính vì vậy, bộ phận cơ thể mà Song Tử liên kết chính là bàn tay, phổi, tay và hệ thần kinh. Đây là nơi những cơ thể được tách làm hai, phù hợp với bản chất kép của Song Tử. Song Tử dễ rơi vào tình trạng lo lắng, bồn chồn, sợ hãi; dễ dính vào những tai nạn có liên quan đến vùng tay và những bệnh có liên quan đến hệ hô hấp và dị ứng thuốc lá. Chính vì vậy, phần ngực (đặc biệt là “núi đôi” ở phụ nữ) và dạ dày là những bộ phận cơ thể có liên kết với Cự Giải. Cự Giải yêu thích đồ ăn và cảm giác ấm cúng bên cạnh gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng. Tuy nhiên, Cự Giải cũng rất dễ gặp những vấn đề về đường tiêu hóa, khó tiêu và đặc biệt là Ung Thư Vú. Sư Tử can đảm, mạnh mẽ và luôn thích thể hiện. Chính vì vậy, một trái tim khỏe mạnh và cột sống vững chắc là bộ phận cơ thể có liên kết với Sư Tử. Trái tim được coi là “trung tâm” của sự sống và lưng (cột sống) là “chiếc trụ” chống đỡ cơ thể. Vậy nên Sư Tử luôn tự tin làm chủ cuộc sống của mình. Dù vậy, Sư Tử cũng rất dễ gặp phải những chấn thương cong vẹo cột sống hoặc nhồi máu cơ tim. Xử Nữ luôn nghiêm túc và trật tự. Họ luôn muốn sự ổn định và có trực giác mạnh mẽ (gut instinct) Chính vì vậy, những bộ phận cơ thể có liên kết với Xử Nữ gồm hệ tiêu hóa (ruột non, ruột già) và lá lách. Xử Nữ và Song Tử cùng có liên kết với hệ thần kinh. Điều này đồng nhất với tính cách logic, thông minh của Xử Nữ/Song Tử dưới sự bảo hộ của Thủy Tinh – hành tinh của trí tuệ và lời nói. Xử Nữ rất dễ bị mắc bệnh khó tiêu, rối loạn đường tiêu hóa và bồn chồn. Thiên Bình là cung hoàng đạo của sự cân bằng, hài hòa. Những bộ phận có liên hệ với Thiên Bình đều đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự “cân bằng” trong cơ thể: Thận giúp cân bằng môi trường nội môi, Hông giữ trọng tâm cho cơ thể, làn da giúp điều hòa nhiệt độ…. Các Thiên Bình đều sở hữu phần mông quyến rũ to tròn và làn da khỏe mạnh tươi tắn. Tuy nhiên, Thiên Bình rất dễ mắc phải những bệnh về thận, thường xuyên gặp phải những cơn đau dai dẳng ở lưng dưới và hông. Bọ Cạp sở hữu bản năng tình dục (sexual) mạnh mẽ, luôn nồng nhiệt với chuyện “giường chiếu” và thăng hoa dục tính. Chính vì vậy, Hổ Cáp có liên kết với những bộ phận sinh sản trong cơ thể và hệ bài tiết. Chúng là những bộ phận bản năng của con người, nghe thì “bẩn thỉu” nhưng thực ra lại vô cùng sạch sẽ và nhạy cảm. Tuy nhiên, Hổ Cáp rất dễ mắc phải những bệnh có liên quan đến đường tình dục và bài tiết, đặc biệt là hệ thống niệu đạo. Nhân Mã thích tiệc tùng, khám phá, đi đây đi đó tìm kiếm vẻ đẹp của tự do. Thế nên Nhân Mã có liên hệ mật thiết tới vùng đùi và dây thần kinh tọa. Lá gan có liên hệ với Nhân Mã vì tính chất linh động và khả năng tái tạo tuyệt vời. Nhân Mã luôn di chuyển và hòa mình vào những bữa tiệc. Nhân Mã thường có cặp đùi năng động và chắc khỏe. Tuy nhiên, lá gan của Nhân Mã rất dễ gặp phải tổn thương khi vui chơi chè chén quá đà. Đùi và hệ thống thần kinh tọa của Nhân Mã cũng vậy!. Ma Kết tham vọng và tự lập. Ma Kết luôn muốn tiến lên phía trước và có thể làm tất cả để đưa tham vọng của mình đến với đỉnh cao. Do đó, Ma Kết có liên kết với những khớp xương, hệ thống xương chống đỡ cơ thể và răng. Ma Kết sở hữu hàm răng đẹp cùng bộ xương khỏe mạnh. Tuy nhiên Ma Kết cũng rất dễ gặp phải những bệnh có liên quan đến xương khớp (lão hóa, vôi hóa…) và những bệnh về răng (sâu răng, răng mọc lệch…). Bảo Bình thông minh và lập dị. Đôi chân của Bảo Bình có thể đang đi trên mặt đất, thế nhưng đầu óc đã kịp “bay bổng” giữa vũ trụ bao la. Do đó Bảo Bình có liên kết với hệ tuần hoàn, ống chấn, bắp chân và đặc biệt là mắt cá chân – phần khớp kết nối toàn bộ phần trên của cơ thể với bàn chân, tượng trưng cho tính cách “sống dưới đất, nhưng tư duy trên trời” của Bảo Bình. Bảo Bình rất dễ mắc phải những bệnh có liên quan đến hệ tuần hoàn. Mắt cá chân cũng là “gót chân Achilles”, vùng nhạy cảm tối kỵ của Bảo Bình. Song Ngư là cung cuối cùng trong vòng tròn Hoàng Đạo và là cung “thừa hưởng” tính cách của mười một cung phía trên. Vậy nên Song Ngư có liên kết với bàn chân – “cái neo”, cột trụ chống đỡ toàn bộ sức nặng của cơ thể. Song Ngư cũng có liên quan tới hệ bạch huyết và chất béo. Sự nhạy cảm của Song Ngư chính miếng là miếng bọt biển hấp thụ năng lượng độc hại, giống hệt như hệ bạch huyết của cơ thể. Bạn đang quan tâm Tiktok kiếm tiền như thế nào? Tiktok có thể đem lại cho bạn những nguồn thu. Những lý do khiến UW88 là nhà cái uy tín nhất hiện nay là gì? Đừng bỏ lỡ bài viết. UW88 là một trong những nhà cái trực tuyến hot nhất hiện nay. Vậy sản phẩm của nhà cái UW88.
Chiêm tinh và khoa học
Chiêm tinh học bao gồm một số hệ thống niềm tin được cho rằng có một mối quan hệ giữa các hiện tượng thiên văn và các sự kiện hay đặc điểm nhân cách trong thế giới con người. Cộng đồng khoa học phủ nhận chiêm tinh học vì không có khả năng giải thích trong việc mô tả vũ trụ. Những thí nghiệm khoa học về chiêm tinh học đã được thưc hiện và không có bằng chứng nào tìm thấy hỗ trợ cho cơ sở và tác dụng có mục đích tiêu cực được nêu ra trong lịch sử chiêm tinh học. Khi chiêm tinh học tạo ra những dự đoán giả mạo nghĩa là nó đã bị giả mạo. Những thí nghiệm nổi tiếng nhất do Shawn Carlson chỉ đạo cùng với hội đồng các nhà khoa học và chiêm tinh học. Điều này đưa tới một kết luận rằng tử vi học chỉ là một cơ hội. Nhà chiêm tinh học và tâm lý học Michel Gauquelin tuyên bố đã tìm ra những thông số hỗ trợ cho thuyết "Hiệu ứng Sao Hỏa" đối với ngày sinh của các vận động viên, tuy nhiên không thể mở rộng trong các nghiên cứu sâu hơn.
Nơi cư trú động của động, thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm. Một hecta rừng hàng năm tạo nên sinh khối khoảng 300 - 500 kg, 16 tấn oxy (rừng thông 30 tấn, rừng trồng 3 - 10 tấn). Mỗi người một năm cần 4.000kg O2 tương ứng với lượng oxy do 1.000 - 3.000 m2 cây xanh tạo ra trong năm. Nhiệt độ không khí rừng thường thấp hơn nhiệt độ đất trống khoảng 3 - 5oC. Rừng bảo vệ và ngăn chặn gió bão. Hệ số dòng chảy mặt trên đất có độ che phủ 35% lớn hơn đất có độ che phủ 75% hai lần. Lượng đất xói mòn của rừng bằng 10% lượng đất xói mòn từ vùng đất không có rừng. Rừng là nguồn gen vô tận của con người, là nơi cư trú của các loài động thực vật quý hiếm. Vì vậy, tỷ lệ đất có rừng che phủ của mỗi quốc gia là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường quan trọng. Diện tích đất có rừng của một quốc gia tối ưu phải đạt 45% tổng diện tích. Tài nguyên rừng trên trái đất ngày càng bị thu hẹp về diện tích và trữ lượng. Tốc độ mất rừng hàng năm trên thế giới là 20 triệu ha, trong đó rừng nhiệt đới bị mất là lớn nhất, năm 1990 châu Phi và Mỹ La Tinh CÒN 75% DIỆN TÍCH RỪNG NHIỆT ÐỚI, CHÂU Á còn 40%. Theo dự báo đến năm 2010 rừng nhiệt đới chỉ còn 20 - 25% ở một số nước châu Phi, châu Mỹ La Tinh và Ðông Nam Á. RỪNG ÔN ÐỚI KHÔNG GIẢM VỀ diện tích nhưng chất lượng và trữ lượng gỗ bị suy giảm đáng kể do ô nhiễm không khí. Theo tính toán giá trị kinh tế rừng ở châu Âu giảm 30 tỷ USD/năm.
Tài nguyên rừng
Tài nguyên rừng là một phần của tài nguyên thiên nhiên, thuộc loại tài nguyên tái tạo được. Nhưng nếu sử dụng không hợp lý, tài nguyên rừng có thể bị suy thoái không thể tái tạo lại. Tài nguyên rừng có vai trò rất quan trọng đối với khí quyển, đất đai, mùa màng, cung cấp các nguồn gen động thực vật quý hiếm cùng nhiều lợi ích khác. Rừng giúp điều hòa nhiệt độ, nguồn nước và không khí. Con người có thể sử dụng tài nguyên thiên nhiên này để khai thác, sử dụng hoặc chế biến ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống. Ở những vùng khí hậu khác nhau thì tài nguyên rừng cũng khác nhau. Tỉ lệ đất có rừng che phủ của mỗi quốc gia là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường quan trọng. Diện tích đất có rừng của một quốc gia tối ưu phải đạt 45% tổng diện tích. Hiện hơn một nửa tài nguyên rừng trên thế giới đang bị phá hủy nghiêm trọng và hơn 30% đang bị suy thoái, trong khi đó trên một tỉ người nghèo đang sống chủ yếu dựa vào tài nguyên rừng.
Thực tế, những ý kiến lo ngại về giá trị của xếp hạng này cũng đã xuất hiện từ một vài năm nay. Là người theo dõi sự ra đời của bảng xếp hạng này ngay từ những ngày đầu ra đời, xin được tổng hợp các tiêu chí đánh giá, sự biến đổi của chúng cũng như các nhận định của giới chuyên môn về ý nghĩa và cách thức sử dụng xếp bảng xếp hạng này. Những lời chỉ trích webometrics chẳng qua chỉ là một xếp hạng website đại học thực ra là thừa; bởi tổ chức này chưa bao giờ không thừa nhận họ chỉ là một xếp hạng về website đại học cả. Bản thân tên gọi của Webometrics cũng đã phản ánh điều này: web xuất phát từ từ website và metrics nghĩa là các phép đo. Mục tiêu xuyên suốt của những người khởi xướng ra bảng xếp hạng webometrics kể từ lần đầu tiên công bố năm 2004 cho đến nay là nâng cao chất lượng website; minh bạch hoá thông tin, chia sẻ tri thức; qua đó góp phần nâng cao chất lượng đại học. Chất lượng Website theo cách tiếp cận của Webometrics không nên hiểu theo nghĩa chất lượng thẩm mỹ của website theo nghĩa thông thường, mà cần phải hiểu rộng hơn theo nghĩa tài nguyên online liên quan đến hoạt động của một trường đại học bao gồm 4 thành tố: (1) Mức độ xuất hiện (Presence): số lượng các website con (subwebsites) tương ứng với website chủ của một trường; (2) Mức độ ảnh hưởng (Impact): số lượng backlink từ các website khác trỏ về website của trường đang xem xét; (3) Mức độ mở (openess): số lượng file định dạng pdf, word, excel được công bố trên website ; và (4) Sự xuất sắc: dựa trên công trình khoa học công bố trên tạp chí thuộc danh mục Scopus. Webometrics ra đời năm 2004 và ngay lập tức gây được sự chú ý của giới chuyên môn; mặc dù tại thời gian đó, cũng có khá nhiều bảng xếp hạng đại học toàn cầu uy tín khác ra đời như Xếp hạng đại học của Đại học Giao Thông Thượng Hải, Trung Quốc (ra đời năm 2003); Xếp hạng đại học của Đại học Leiden, Hà Lan (ra đời năm 2007 - ở Việt Nam, bảng xếp hạng này không được phổ biến lắm) và Xếp hạng Đại học của Tạp chí Times và Tổ chức QS (ra đời năm 2004 – đến 2010, Times và QS tách riêng để tự làm bảng xếp hạng cho riêng mình). Sở dĩ thu hút được sự chú ý là bởi khác với các bảng xếp hạng còn lại chỉ đưa ra được thứ hạng từ 400-500 đại học hàng đầu thế giới, Webometrics khi mới ra đời, ngay lập tức đã công bố xếp hạng lên tới hơn 10,000 trường, trong đó bao gồm rất nhiều trường đến từ khu vực thế giới thứ 3 – vốn không bao giờ nghĩ có thể lọt được vào một bảng xếp hạng đại học toàn cầu nào. Sở dĩ làm được điều này là bởi, khác với các bảng xếp hạng còn lại có sử dụng kết hợp phương pháp thu thập dữ liệu bằng minh chứng từ các trường, hoặc survey, Webometrics tiến hành khâu thu thập dữ liệu hoàn toàn trên mạng và nhờ vậy, khắc phục được điểm yếu cố hữu của các bảng xếp hạng nói chung: phạm vi hẹp. So sánh bảng xếp hạng webometrics với các bảng xếp hạng khác thậm chí còn trở thành đề tài thảo luận cho giới nghiên cứu chuyên sâu về giáo dục đại học. Tiêu biểu trong số đó là một công trình nghiên cứu được 4 nhà khoa học Châu Âu thực công bố năm 2010 trên tạp chíScientometrics (trắc lượng khoa học)- xem chú thích ở cuối bài. Kết quả cho thấy, mặc dù có tiêu chí đánh giá khác nhau và cách thức thu thập dữ liệu khác nhau, vẫncó những sự tương đồng nhất định giữa Webometrics với các bảng xếp hạng còn lại nói chung; mặc dù nếu so sánh theo từng cặp thì cặp Webometrics và xếp hạng của Times – QS là có sự khác biệt lớn nhất. Đầu tiên là một đặc điểm “đậm chất giáo dục” (đã được điểm qua ở trên) đó là độ phủ lớn - lên tới hơn 10,000 trường đại học, phản ánh đúng xu hướng đại chúng hoá giáo dục đại học trong thời đại ngày nay, thay vì chỉ tập trung vào một vài trăm trường đại học tinh hoa. Đây là điều hầu hết các bảng xếp hạng toàn cầu khác không làm được. Bên cạnh đó, cũng không thể không nhắc lại ý nghĩa mà Webometrics luôn chủ trương theo đuổi, đó là công khai thông tin, trong đó bao gồm cả các tài liệu học thuật trên mạng để mọi người có thể truy cập dễ dàng. Chúng ta đều biết, trong mấy chục năm trở lại đây, quá trình thương mại hoá, dịch vụ hoá giáo dục đại học một mặt đem lại hệ sinh thái giáo dục đại học đa dạng hơn, giúp người học có nhiều lựa chọn và cơ hội học tập hơn; nhưng mặt khác nó lại biến nhiều sản phẩm tri thức (sách, công trình khoa học), vốn là hàng hoá công (ai cũng có thể tiếp cận được) thành hàng hoá tư (chỉ ai trả tiền mới tiếp cận được). Cuối cùng, không thể không kể đến việc liên tục cập nhật, cải tiến các chỉ số, quy trình đo lường, nguồn lấy dữ liệu của những người thực hiện Webometrics nhằm cung cấp một bảng xếp hạng tin cậy hơn, chính xác hơn. Đơn cử gần nhất về sự cải tiến này là việc thay đổi nguồn lấy dữ liệu từ Google sang Google Scholar (trang web riêng biệt của Google dành riêng cho các ấn phẩm khoa học) đối với chỉ số Mức độ mở (openess). Bằng thay đổi này, Webometrics đã loại bỏ được các yếu tố phi học thuật ra khỏi tính toán của mình, cụ thể: trước đây, với nguồn dữ liệu Google, một tài liệu hành chính – ví dụ đơn xin bảo lưu kết quả học tập của sinh viên nếu được thiết kế đúng cũng sẽ giúp trường đại học được tăng điểm cho chỉ số Openess; tuy vậy, với nguồn dữ liệu Google Scholar, phải là các công trình khoa học thực sự mới được tính điểm. Sự thay đổi này cũng lý giải phần nào sự tụt hạng của các trường đại học (trong đó có khá nhiều đại học Việt Nam – xem Hình 1) ít hoặc không có văn hoá công bố công khai công trình khoa học trên các nguồn dữ liệu trực tuyến như Google Scholar hay Researchgate. Khoảng 6.000 nhà khoa học cả nước đủ các chuyên ngành, lĩnh vực đang gấp rút biên soạn bách khoa toàn thư Việt Nam. Những nỗ lực ứng phó với dịch bệnh Covid-19 vừa qua và quyết tâm tiên phong chuyển đổi số thời gian tới của ngành Giáo dục Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế như UNICEF, AUF, cùng giáo sư Trường ĐH Harvard ghi nhận, đánh giá cao. Ngày 14/10, hai chiếc băng ca áp lực âm do Trường ĐH Bách khoa Hà Nội nghiên cứu, thiết kế và chế tạo vừa được trao cho Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương và Bệnh viện Bạch Mai. Hội đồng Giáo sư Nhà nước vừa công bố danh sách ứng viên được hội đồng giáo sư ngành, liên ngành đề nghị xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm 2020. Khi được bổ nhiệm làm giáo sư, GS Ngô Bảo Châu nghĩ từ đây mình sẽ có cuộc sống dư dả hơn. Nhưng ông đã sốc trong ngày nhận tháng lương đầu tiên. Với số tiền này, còn không đủ để mua vé máy bay về Việt Nam. ".Chúng ta đang đối mặt với tình trạng chảy máu chất xám, đội ngũ trí thức ưu tú được đào tạo ở nước ngoài thì không về và một số trí thức trong nước cũng tìm kiếm cơ hội ra làm việc ở nước ngoài". Từ một cậu bé thích chơi trò nói chuyện qua những ống sữa bò, ở tuổi 41, GS Dương Quang Trung vừa được bổ nhiệm vào vị trí Chủ tịch nghiên cứu về vấn đề của mạng viễn thông 6G của Hội Kỹ thuật Hoàng gia Anh. Một nhóm các nhà khoa học tại ĐH Quốc gia Hà Nội đã sử dụng năng lượng mặt trời để thắp sáng các bóng đèn mà không cần sử dụng đến điện, thân thiện với môi trường. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) vẫn là đơn vị dẫn đầu về số lượng công bố quốc tế trên cả nước trong giai đoạn từ 1/7/2019 – 30/6/2020. Theo đó, có sự thay đổi về tiêu chí bài báo khoa học đối với ứng viên các chuyên ngành thuộc ngành Khoa học quân sự và ngành Khoa học an ninh liên quan đến bí mật nhà nước. Ngày 18/8, Bộ GD-ĐT đã tổ chức khai mạc Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa (SGK) lớp 2 chương trình giáo dục phổ thông mới. “Việc so sánh đẳng cấp giữa trường này với trường khác thông qua xếp hạng; phân định thứ hạng trên dưới quá rõ ràng dẫn tới việc các trường đại học chuyển từ ‘hợp tác’ sang ‘cạnh tranh’ và ‘ganh đua’”. Bảng xếp hạng đối sánh và gắn sao cho 30 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và ASEAN do một nhóm các nhà khoa học thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội thực hiện đã cho thấy những kết quả thú vị. Hai nữ sinh Ấn Độ đã phát hiện ra một tiểu hành tinh đang dần chuyển quỹ đạo và di chuyển về Trái đất. Sáng 23/7, ĐH Quốc gia Hà Nội phối hợp Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức hội nghị tổng kết chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước “Khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc”. Sáng nay (21/7), Bộ GD-ĐT đã tổ chức lễ phát động cuộc thi “Học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp” năm 2020. Nhóm sinh viên đạt giải Nhất sẽ có cơ hội tham gia đàm phán để nhận đầu tư số tiền 40 nghìn USD. Tổ chức xếp hạng đại học Shanghai Ranking Consultancy (Trung Quốc) vừa công bố bảng xếp hạng 500 đại học tốt nhất thế giới theo lĩnh vực năm 2020. Theo đó, ngành Vật lý của ĐH Quốc gia Hà Nội xếp hạng 401 – 500, đứng thứ 1 tại Việt Nam. Khi xây dựng chương trình phổ thông mới, Bộ GD-ĐT đã chỉ đạo tích hợp giáo dục tài chính vào 6 môn học gồm Toán, Ngữ văn, Giáo dục công dân, Tự nhiên và Xã hội, Công nghệ, Hoạt động trải nghiệm. Bắt đầu nghiên cứu từ 20 năm trước, đến nay, hệ thống thiết bị sấy thăng hoa của PGS.Nguyễn Tấn Dũng, Trưởng khoa Công nghệ Hóa (Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM) đã đạt một bước tiến mới, giúp nhiều sản phẩm của Việt Nam tăng cao giá trị. Tạp chí Vật liệu và Linh kiện tiên tiến là tạp chí khoa học đầu tiên của Việt Nam lọt vào top 25% uy tín thế giới trong lĩnh vực khoa học vật liệu.
Bảng xếp hạng đại học thế giới Webometrics
Bảng xếp hạng đại học thế giới Webometrics (tiếng Anh: Webometrics Ranking of World Universities) hay Bảng xếp hạng web của các trường đại học là một hệ thống xếp hạng các trường đại học dựa trên một chỉ số tổng hợp gồm khối lượng nội dung web (số trang và tệp tin), số lượt xem và độ ảnh hưởng đến ấn phẩm bên ngoài (trích dẫn) của trang web đại học đó, từ đó đánh giá được độ nổi bật của thương hiệu đại học đó. Các thứ hạng được phòng thí nghiệm Cybermetrics, một thành viên của Hội đồng nghiên cứu quốc gia Tây Ban Nha (CSIC) xuất bản. Mục đích của bảng xếp hạng là khuyến khích cải thiện sự hiện diện của các viện nghiên cứu trên web và thúc đẩy việc công bố các nghiên cứu khoa học. Bảng xếp hạng bắt đầu từ năm 2004, được cập nhật vào tháng 1 và tháng 7. Hiện tại nó cung cấp chỉ số web của hơn 12.000 đại học trên khắp thế giới. Bảng xếp hạng trường học kinh tế Webometrics là một bảng xếp hạng thế giới tương tự, xếp hạng các trường học trong lĩnh vực kinh tế.
Đây là một câu hỏi mà những ai quan tâm đến quản trị doanh nghiệp tìm kiếm. Đặc biệt trong việc quản lý hoạt động sản xuất hàng hóa đến tay người tiêu dùng. Vậy nó là gì? Và SCM có tầm quan trọng thế nào đối với doanh nghiệp?. 4 bước để xây dựng chuỗi cung ứng hiệu quả1. Nhìn nhận SCM một cách toàn diện:2. Theo kịp xu hướng SCM của ngành: 3. Hiểu USP về SCM của công ty bạn:4. Kết hợp quản lý rủi ro với quản lý chuỗi cung ứng:. Là viết tắt của từ Supply Chain Management được viết tắt SCM, hệ thống quản trị chuỗi cung cấp là hệ thống cho phép quản trị tại các nhà máy và trong cả hệ thống các điểm cung của một công ty cho khách hàng. Đây là hoạt động liên quan đến việc quản lý tất cả nguồn cung ứng, thu mua, vận chuyển và đầu ra sản phẩm. Hơn nữa, đối với mỗi doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn giúp doanh nghiệp có thể phát triển bền vững. Điều này tạo dựng được mối quan hệ tốt đệp với nhà cung cấp, nhà dịch vụ và khách hàng. Quản trị chuỗi cung ứng là bao gồm tất cả các hoạt động thông suốt của các bên liên quan, mà người chủ chốt duy trì chuỗi cung ứng là doanh nghiệp. SCM ứng dụng theo dỗi sản phẩm, dịch vụ từ nhà cung cấp tới khách hàng. Nó quản lý các yêu cầu kho vận và các cách sản phẩm đến được tay khách hàng cuối. Các chức năng của SCM gồm: tối ưu hóa chuỗi cung cấp, quản lý các biến cố, quản lý tồn kho, quản lý RFID, quản lý lưu hành. Ngoài ra SCM có thể còn bao gồm việc quản lý thương mại quốc tế, mối quan hệ giữa các nhà cung cấp. Nâng cao hiệu suất của các dòng sản phẩm thông qua việc kết hợp giữa các nhà cung cấp với nhau. Giảm chi phí giá thành mỗi sản phẩm và nâng cao lợi nhuận đến mức tối ưu. Đáp ứng nhanh chóng với sự thay đổi của thị trường và giảm các yếu tố các loại tác động đến khách hàng. – Nếu lựa chọn một hệ thống SCM sai có thể sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty, từ nguyên liệu sản xuất đến hệ thống phân phối. – Hệ thống SCM không tương thích với các công cụ quản trị như hệ thống sổ sách, các phần mềm kinh doanh đang được sử dụng có thể dẫn đến việc phá hủy toàn bộ hoạt động kinh doanh. – Các hình thức kinh doanh với đa chi nhánh, đối tác, văn phòng đại diện có thể dẫn tới sự xáo trộn không phân tích nổi. Trong thực tế, rất nhiều doanh nghiệp hoặc nhà quản trị nhầm lẫn giữa hai thuật ngữ này. Mọi người đều cho rằng SCM và Logistic có thể thay thế, bổ sung cho nhau. Tuy nhiên thuật ngữ Logistics là 1 phần của Supply Chain Management. Logistics là các hoạt động trong phạm vi của 1 tổ chức nhất định còn Supply Chain là mạng lưới liên kết giữa các công ty làm việc cùng nhau. Logistics truyền thống tập trung vào các hoạt động như: Thu mua, phân phối và quản lý hàng tồn kho. SCM còn bao gồm cả: Marketing, phát triển sản phẩm mới, tài chính và dịch vụ khách hàng. SCM bao hàm tất cả các hoạt động, quy trình Logistics giữa các bộ phận và giữa các công ty với nhau. Quản lý Logistics là 1 bộ phận của quản lý chuỗi cung ứng (SCM), bao gồm các hoạt động giúp quản lý dòng chảy của hàng hoá 1 cách hiệu quả. Thị trường cạnh tranh ngày càng cao, cùng theo đó là giá trên thị trường nguyên vật liệu ngày càng siết chặt. Thế nên, chuỗi cung ứng vai trò rất lớn, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của công ty. Hoạt động quản trị chuỗi cung ứng tốt giúp doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh. Nhìn chung, tầm quan trọng của quản trị chuỗi cung ứng sẽ đem lại những lợi ích sau:. Quản lý chuỗi cung ứng (SCM) đòi hỏi phải phát triển một chiến lược chuỗi cung ứng hiệu quả. Chiến lược chuỗi cung ứng của bạn nên tập trung vào việc chuyển giao và di chuyển hàng tồn kho hiệu quả. Đó là cách hiệu quả duy nhất để cân bằng giữa những khó khăn thường khó dự báo về nhu cầu của khách hàng và nhà cung cấp. Chiến lược của bạn nên phù hợp với tình hình kinh doanh, yêu cầu của khách hàng trong thực tế. Dưới đây là 4 bước quan trọng cần thiết để phát triển một chiến lược chuỗi cung ứng hiệu quả:. Quản lý chuỗi cung ứng đòi hỏi nhiều hơn là thông tin bán hàng và hàng tồn kho. Công nghệ về dự báo đã trở nên đáng tin cậy và chi tiết hơn nhiều. Chiến lược chuỗi cung ứng nên liên quan đến việc tích hợp luồng thông tin hai chiều. Điều đó nó có thể đáp ứng các tín hiệu nhu cầu này một cách kịp thời. Mỗi ngành có một bộ điều khiển nhu cầu, tiêu chuẩn ngành và giao thức quản lý chuỗi cung ứng riêng. Những thay đổi này phát triển theo thời gian. Luôn cập nhật thông tin xu hướng phát triển SCM. Điều này sẽ giúp bạn có một chiến lược quản lý hiệu quả hơn. Chiến lược của bạn nên tập trung vào sự khác biệt đó và giá trị gia tăng mà bạn có thể cung cấp thông qua chuỗi cung ứng của mình. Xác định các rủi ro để thực hiện tối ưu tất cả các yếu tố bên trong và bên ngoài. Các liên kết yếu nhất hoặc kém an toàn nhất trong chuỗi cung ứng của bạn là gì? Làm thế nào bạn có thể giảm thiểu những rủi ro? Hãy đưa ra các kế hoạch hành động!. Sau đó xác định các nhà cung cấp thay thế hoặc tài nguyên vận chuyển. Và chỉ định các thành viên trong nhóm cho các hành động phản ứng cụ thể khi có sự cố trong chuỗi cung ứng. Cuối cùng, thực hiện chiến lược của bạn theo cách có thể liên tục theo dõi hiệu suất. Đồng thời theo dõi điều chỉnh phù hợp để cho phép cải thiện. Quá trình phát triển chiến lược chuỗi cung ứng đòi hỏi phải theo dõi và thích ứng liên tục. Thị trường luôn biến động và thay đổi. Khách hàng và nhà cung cấp của bạn cũng vậy. Bằng cách cải tiến liên tục, chiến lược của bạn nhanh chóng thích ứng và đáp ứng thay đổi. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực vân tải biển và hàng không. Chúng tôi tự tin là địa chỉ lý tưởng để cung cấp các dịch vụ vận tải hàng hóa, logistics. Đáp ứng được mọi yêu cầu của Quý Khách. Nếu bạn cần hỗ trợ bất kỳ thông tin gì về khai báo hải quan, vận tải hàng hóa nội địa… thì gọi ngay HLshipping để được hỗ trợ và tư vấn miễn phí. HL SHIPPING CO.,LTD Ngay từ ngày đầu tiên thành lập, cho đến nay sau nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực Logistics, HL Shipping Co.,Ltd đã trở thành địa chỉ tin cậy cung cấp dịch vụ logistics và đại lý hàng hải cho các chủ hàng, chủ tàu lớn trong và ngoài nước. Các dịch vụ mạnh của chúng tôi phải kể đến là dịch vụ vận tải, vận chuyển hàng siêu trường siêu trọng trong nước và các nước trong khu vực, logistics , vận tải đường bộ , đường sắt , đường hàng không trong và ngoài nước.
Quản lý chuỗi nhu cầu
Quản lý chuỗi nhu cầu (DCM) là quản lý mối quan hệ giữa nhà cung cấp và khách hàng để cung cấp giá trị tốt nhất cho khách hàng với chi phí thấp nhất cho toàn bộ chuỗi nhu cầu. Quản lý chuỗi nhu cầu tương tự như quản lý chuỗi cung ứng nhưng đặc biệt quan tâm đến khách hàng. Các công cụ phần mềm quản lý chuỗi nhu cầu thu hẹp khoảng cách giữa quản lý quan hệ khách hàng và quản lý chuỗi cung ứng. Các quy trình chuỗi cung ứng của tổ chức được quản lý để cung cấp giá trị tốt nhất theo nhu cầu của khách hàng. DCM tạo ra các tài sản chiến lược cho công ty về mặt tạo ra giá trị tổng thể vì nó cho phép công ty thực hiện và tích hợp các chiến lược tiếp thị và quản lý chuỗi cung ứng (SCM) để cải thiện hiệu suất tổng thể. Một nghiên cứu của trường đại học ở Wageningen (Hà Lan) coi DCM là một phần mở rộng của quản lý chuỗi cung ứng, do sự kết hợp của quan điểm định hướng thị trường vào khái niệm của nó.
Tuy nhiên, vốn không phải lúc nào cũng là tiền mặt; mà có thể được cung cấp dưới dạng chuyên môn kĩ thuật hoặc sự quản lí chuyên môn. Do sự gần gũi với Thung lũng Silicon, phần lớn các giao dịch được tài trợ bởi các nhà đầu tư mạo hiểm thuộc về ngành công nghệ. Nhưng các ngành công nghiệp khác cũng đã được hưởng lợi từ tài trợ của vốn đầu tư mạo hiểm, ví dụ như Starbucks. Đầu tư mạo hiểm cũng không còn là lĩnh vực của riêng các công ty ưu tú. Các nhà đầu tư tổ chức và các doanh nghiệp lớn cũng đã tham gia cuộc cạnh tranh này. Ví dụ, Google và Intel có các quĩ đầu tư mạo hiểm riêng để đầu tư vào công nghệ mới nổi.
Đầu tư mạo hiểm
Đầu tư mạo hiểm (tiếng Anh: Venture capital) là việc cung cấp vốn tài chính cho các công ty ở giai đoạn khởi động tăng trưởng ban đầu. Quỹ đầu tư mạo hiểm làm ra tiền bằng cách sở hữu cổ phần trong các công ty, các công ty này thường có một công nghệ mới hoặc mô hình kinh doanh trong ngành công nghiệp công nghệ cao, chẳng hạn như công nghệ sinh học, CNTT, phần mềm, vv. Các đầu tư mạo hiểm điển hình xảy ra sau vòng cấp vốn gieo mầm cũng như như vòng tài trợ tăng trưởng (còn gọi là vòng chuỗi A) trong sự quan tâm của việc tạo ra hoàn vốn thông qua một sự kiện được hiện thực hóa được xảy ra, chẳng hạn như IPO hoặc bán công ty. Điều quan trọng là cần lưu ý là đầu tư mạo hiểm là một tập hợp con của vốn chủ sở hữu tư nhân. Ngoài ra đối với việc đầu tư chơi vơi và các tùy chọn cấp vốn gieo mầm khác, đầu tư mạo hiểm là hấp dẫn đối với các công ty mới với lịch sử hoạt động hạn chế, quá nhỏ để huy động vốn trên thị trường công cộng và đã không đạt đến điểm mà họ có thể đảm bảo một khoản vay ngân hàng hoặc hoàn thành một lời đề nghị nợ.
Bài viết này giải thích những kiến thức cơ bản đến nâng cao và tầm quan trọng của tiền điện tử. Ngày nay tiền điện tử đã trở thành một hiện tượng toàn cầu được hầu hết mọi người biết đến. Trong khi vẫn còn một số không công nhận, thì một số ngân hàng, chính phủ và nhiều công ty nhận thức được tầm quan trọng của nó. Tiền điện tử là tiền ảo hoặc tiền kỹ thuật số có hình thức mã thông báo hoặc tiền xu. Trong khi một số loại tiền điện tử đã mạo hiểm vào thế giới thực bằng thẻ tín dụng hoặc các dự án khác, phần lớn vẫn hoàn toàn vô hình. Tiền điện tử còn có nghĩa là mật mã phức tạp cho phép tạo ra một mã thông báo kỹ thuật số cụ thể, được lưu trữ và giao dịch một cách an toàn và thông thường, ẩn danh. Bên cạnh tính năng quan trọng của tiền điện tử này của các loại tiền này là một cam kết chung về phân cấp; tiền điện tử thường được phát triển dưới dạng mã bởi các nhóm xây dựng cơ chế phát hành (thường, mặc dù không phải lúc nào cũng vậy, thông qua một quy trình gọi là “khai thác”) và các điều khiển khác. Tiền điện tử là một loại tiền kỹ thuật số được xây dựng với các giao thức mật mã giúp giao dịch an toàn và khó giả mạo. Tính năng quan trọng nhất của tiền điện tử là nó không bị kiểm soát bởi bất kỳ cơ quan trung ương nào: bản chất phi tập trung của blockchain làm cho tiền điện tử về mặt lý thuyết miễn dịch với các cách kiểm soát và can thiệp cũ của chính phủ. Tiền điện tử giúp thực hiện bất kỳ giao dịch nào dễ dàng hơn, việc chuyển tiền được đơn giản hóa thông qua việc sử dụng khóa công khai và khóa riêng cho mục đích bảo mật và quyền riêng tư. Việc chuyển tiền này có thể được thực hiện với phí xử lý tối thiểu, cho phép người dùng tránh các khoản phí cao do các tổ chức tài chính truyền thống tính. Trong năm 2016, bạn sẽ gặp khó khăn khi tìm một ngân hàng lớn, một công ty kế toán lớn, một công ty phần mềm nổi tiếng hoặc một chính phủ không nghiên cứu về tiền điện tử, xuất bản một bài báo về nó hoặc bắt đầu một dự án được gọi là blockchain. Các loại tiền ảo, có lẽ đáng chú ý nhất là Bitcoin, đã chiếm được trí tưởng tượng của một số người, đánh vào nỗi sợ hãi của những người khác và khiến mọi người trong chúng ta bối rối. Nhưng ngoài tiếng ồn và báo chí giải phóng phần lớn mọi người – ngay cả nhân viên ngân hàng, chuyên gia tư vấn, nhà khoa học và nhà phát triển – có kiến thức rất hạn chế về tiền điện tử. Họ thường không hiểu các khái niệm cơ bản. Ít người biết, nhưng tiền điện tử nổi lên như một sản phẩm phụ của một phát minh khác. Satoshi Nakamoto, nhà phát minh Bitcoin chưa biết, loại tiền điện tử đầu tiên và vẫn quan trọng nhất, không bao giờ có ý định phát minh ra một loại tiền tệ. Trong thông báo về Bitcoin vào cuối năm 2008, Satoshi cho biết ông đã phát triển hệ thống tiền điện tử ngang hàng. Mục tiêu của anh là phát minh ra thứ gì đó; nhiều người thất bại trong việc tạo ra tiền mặt kỹ thuật số. Nếu bạn loại bỏ tất cả nhiễu xung quanh tiền điện tử và giảm nó thành một định nghĩa đơn giản, bạn sẽ thấy đó chỉ là các mục giới hạn trong cơ sở dữ liệu, không ai có thể thay đổi mà không đáp ứng các điều kiện cụ thể. Điều này có vẻ bình thường, nhưng, tin hay không: đây chính xác là cách bạn có thể định nghĩa một loại tiền tệ. Lấy tiền trong tài khoản ngân hàng của bạn: Còn gì hơn các mục trong cơ sở dữ liệu chỉ có thể thay đổi trong các điều kiện cụ thể? Bạn thậm chí có thể lấy tiền xu và ghi chú vật lý: Chúng khác gì các mục giới hạn trong cơ sở dữ liệu vật lý công cộng chỉ có thể thay đổi nếu bạn phù hợp với điều kiện hơn là bạn sở hữu đồng tiền và ghi chú một cách vật lý? Tiền là tất cả về một mục được xác minh trong một số loại cơ sở dữ liệu tài khoản, số dư và giao dịch. Chúng ta hãy xem cơ chế cai trị cơ sở dữ liệu về tiền điện tử. Một loại tiền điện tử như Bitcoin bao gồm một mạng lưới các đồng nghiệp. Mỗi đồng đẳng có một hồ sơ về lịch sử đầy đủ của tất cả các giao dịch và do đó số dư của mọi tài khoản. Một giao dịch là một tập tin cho biết, Bob Bob đưa X Bitcoin cho Alice và được ký bởi khóa riêng của Bob. Đó là mật mã khóa công khai cơ bản, không có gì đặc biệt cả. Sau khi ký, một giao dịch được phát trong mạng, được gửi từ một người này đến mọi người khác. Đây là công nghệ p2p cơ bản. Không có gì đặc biệt cả, một lần nữa. Giao dịch được biết đến gần như ngay lập tức bởi toàn bộ mạng. Nhưng chỉ sau một khoảng thời gian cụ thể, nó mới được xác nhận. Xác nhận là một khái niệm quan trọng trong tiền điện tử. Bạn có thể nói rằng tiền điện tử là tất cả về xác nhận. Miễn là một giao dịch chưa được xác nhận, nó đang chờ xử lý và có thể bị giả mạo. Khi một giao dịch được xác nhận, nó được đặt trong đá. Nó không còn được tha thứ nữa, nó không thể bị đảo ngược, nó là một phần của một bản ghi bất biến của các giao dịch lịch sử: của cái gọi là blockchain. Chỉ những người khai thác mới có thể xác nhận giao dịch. Đây là công việc của họ trong một mạng lưới tiền điện tử. Họ thực hiện các giao dịch, đóng dấu chúng là hợp pháp và phát tán chúng trong mạng. Sau khi một giao dịch được xác nhận bởi một người khai thác, mọi nút phải thêm nó vào cơ sở dữ liệu của nó. Nó đã trở thành một phần của blockchain. Đối với công việc này, những người khai thác được thưởng bằng mã thông báo về tiền điện tử, ví dụ như bằng Bitcoin. Vì hoạt động của người khai thác là phần quan trọng nhất của hệ thống tiền điện tử, chúng ta nên ở lại một lát và xem xét sâu hơn về nó. Chủ yếu mọi người có thể là một người khai thác. Vì một mạng lưới phi tập trung không có quyền ủy thác nhiệm vụ này, một loại tiền điện tử cần một loại cơ chế để ngăn chặn một đảng cầm quyền lạm dụng nó. Hãy tưởng tượng ai đó tạo ra hàng ngàn đồng nghiệp và lan truyền các giao dịch giả mạo. Hệ thống sẽ bị hỏng ngay lập tức. Vì vậy, Satoshi đặt ra quy tắc rằng các thợ mỏ cần đầu tư một số công việc của máy tính của họ để đủ điều kiện cho nhiệm vụ này. Trên thực tế, họ phải tìm một hàm băm – một sản phẩm của chức năng mã hóa – kết nối khối mới với người tiền nhiệm của nó. Đây được gọi là Bằng chứng công việc. Bitcoin là một loại tiền kỹ thuật số được tạo ra vào tháng 1 năm 2009. Nó tuân theo những ý tưởng được nêu trong một tờ giấy trắng của Satoshi Nakamoto bí ẩn, danh tính thực sự vẫn chưa được xác minh. Bitcoin đưa ra lời hứa về phí giao dịch thấp hơn các cơ chế thanh toán trực tuyến truyền thống và được vận hành bởi một cơ quan phi tập trung, không giống như các loại tiền do chính phủ phát hành. Không có bitcoin vật lý, chỉ có số dư được giữ trên một sổ cái công khai trên đám mây, rằng – cùng với tất cả các giao dịch Bitcoin – được xác minh bằng một lượng lớn sức mạnh tính toán. Bitcoin không được phát hành hoặc hỗ trợ bởi bất kỳ ngân hàng hoặc chính phủ nào, cũng như bitcoin riêng lẻ có giá trị như một loại hàng hóa. Mặc dù không được đấu thầu hợp pháp, biểu đồ Bitcoin rất phổ biến và đã kích hoạt sự ra mắt của các loại tiền ảo khác được gọi chung là Altcoin. Litecoin, được ra mắt vào năm 2011, là một trong những loại tiền điện tử ban đầu sau bitcoin và thường được gọi là bạc bạc đến bitcoin. Vàng Nó được tạo bởi Charlie Lee, một cựu sinh viên MIT và cựu kỹ sư Google. Litecoin dựa trên mạng thanh toán toàn cầu nguồn mở không bị kiểm soát bởi bất kỳ cơ quan trung ương nào và sử dụng “tiền điện tử” làm bằng chứng công việc, có thể được giải mã với sự trợ giúp của CPU ở cấp độ người tiêu dùng. Mặc dù Litecoin giống như bitcoin theo nhiều cách, nhưng nó có tốc độ tạo khối nhanh hơn và do đó cung cấp xác nhận giao dịch nhanh hơn. Khác với các nhà phát triển, ngày càng có nhiều thương nhân chấp nhận Litecoin. Kể từ ngày 9 tháng 2 năm 2019, Litecoin có mức vốn hóa thị trường là 2,63 tỷ đô la và giá trị mỗi mã thông báo là 43,41 đô la. Ra mắt vào năm 2015, Ethereum là một nền tảng phần mềm phi tập trung cho phép Hợp đồng thông minh và Ứng dụng phân tán (DApps) được xây dựng và chạy mà không có bất kỳ thời gian chết, gian lận, kiểm soát hoặc can thiệp nào từ bên thứ ba. Các ứng dụng trên ethereum được chạy trên mã thông báo mã hóa dành riêng cho nền tảng của nó, ether. Ether giống như một phương tiện để di chuyển trên nền tảng ethereum và được tìm kiếm bởi hầu hết các nhà phát triển đang tìm cách phát triển và chạy các ứng dụng bên trong ethereum, hoặc bây giờ bởi các nhà đầu tư đang tìm cách mua các loại tiền kỹ thuật số khác bằng ether. Trong năm 2014, ethereum đã đưa ra một đợt bán trước cho ether đã nhận được phản ứng áp đảo; điều này đã giúp mở ra thời đại của việc cung cấp tiền xu ban đầu (ICO). Theo ethereum, nó có thể được sử dụng để mã hóa, phân cấp, bảo mật và giao dịch bất cứ thứ gì. Sau khi cuộc tấn công vào DAO năm 2016, Ethereum đã được chia thành Ethereum (ETH) và Ethereum Classic (ETC). Kể từ ngày 9 tháng 2 năm 2019, Ethereum (ETH) có mức vốn hóa thị trường là 12,49 tỷ đô la và giá trị mỗi mã thông báo là 118,71 đô la. Zcash, một loại tiền điện tử phi tập trung và mã nguồn mở được ra mắt vào cuối năm 2016, có vẻ đầy hứa hẹn. Nếu bitcoin giống như http để kiếm tiền, zcash là “là một zcash tương tự được sử dụng để xác định chính nó. Zcash cung cấp sự riêng tư và minh bạch có chọn lọc của các giao dịch. và được xuất bản trên blockchain, nhưng các chi tiết như người gửi, người nhận và số tiền vẫn ở chế độ riêng tư. Zcash cung cấp cho người dùng sự lựa chọn của các giao dịch được bảo vệ bởi các công cụ, cho phép nội dung được mã hóa bằng kỹ thuật mã hóa tiên tiến hoặc xây dựng bằng chứng không có kiến thức gọi là zk-SNARK do nhóm của họ phát triển. Kể từ ngày 9 tháng 2 năm 2019, Zcash có mức vốn hóa thị trường là 291,25 triệu đô la và giá trị mỗi mã thông báo là 49,84 đô la. Dash (ban đầu được gọi là darkcoin) là một phiên bản bí mật hơn của bitcoin. Dash cung cấp nhiều tính ẩn danh hơn khi nó hoạt động trên mạng mastercode phi tập trung khiến các giao dịch gần như không thể truy cập được. Ra mắt vào tháng 1 năm 2014, dash đã trải nghiệm một lượng người hâm mộ tăng theo sau trong một khoảng thời gian ngắn. Tiền điện tử này được Evan Duffield tạo ra và phát triển và có thể khai thác bằng CPU hoặc GPU. Vào tháng 3 năm 2015, ‘Darkcoin, đã được đổi thương hiệu thành dash, viết tắt của dòng tiền kỹ thuật số trực tuyến và hoạt động theo mã DASH. Việc đổi thương hiệu không thay đổi chức năng của bất kỳ tính năng công nghệ nào của nó, bao gồm DarkSend và InstantX. Kể từ ngày 9 tháng 2 năm 2019, Dash có mức vốn hóa thị trường là 640,76 triệu đô la và giá trị mỗi mã thông báo là 74,32 đô la. Ripple là một mạng thanh toán toàn cầu theo thời gian thực cung cấp các khoản thanh toán quốc tế tức thì, nhất định và chi phí thấp. Ra mắt vào năm 2012, Ripple, cho phép các ngân hàng giải quyết các khoản thanh toán xuyên biên giới theo thời gian thực, với tính minh bạch từ đầu đến cuối và với chi phí thấp hơn. Sổ cái đồng thuận của Ripple (phương thức hình thành) là duy nhất ở chỗ nó không yêu cầu khai thác mỏ. Theo cách này, Ripple tự đặt mình ngoài bitcoin và nhiều altcoin khác. Do cấu trúc Ripple không yêu cầu khai thác, nó làm giảm việc sử dụng sức mạnh tính toán và giảm thiểu độ trễ mạng. Ripple tin rằng giá trị phân phối của Cameron là một cách mạnh mẽ để khuyến khích một số hành vi nhất định và do đó hiện đang có kế hoạch phân phối XRP chủ yếu thông qua các thỏa thuận phát triển kinh doanh, khuyến khích các nhà cung cấp thanh khoản cung cấp chênh lệch thanh toán chặt chẽ hơn và bán XRP cho người mua tổ chức quan tâm đầu tư vào XRP. Cho đến nay, Ripple đã nhìn thấy thành công với mô hình này; nó vẫn là một trong những loại tiền kỹ thuật số hấp dẫn nhất trong số các tổ chức tài chính truyền thống đang tìm cách cách mạng hóa thanh toán xuyên biên giới. Kể từ ngày 9 tháng 2 năm 2019, Ripple có mức vốn hóa thị trường là 12,69 tỷ đô la và giá trị mỗi mã thông báo là 0,38 đô la. Monero là một loại tiền tệ an toàn, riêng tư và không thể truy cập. Tiền điện tử mã nguồn mở này đã được ra mắt vào tháng 4 năm 2014 và nhanh chóng nhận được sự quan tâm lớn trong cộng đồng và những người đam mê tiền mã hóa. Sự phát triển của loại tiền điện tử này hoàn toàn dựa trên sự đóng góp và dựa vào cộng đồng. Monero đã được ra mắt với sự tập trung mạnh mẽ vào phân cấp và khả năng mở rộng, và nó cho phép bảo mật hoàn toàn bằng cách sử dụng một kỹ thuật đặc biệt gọi là chữ ký nhẫn Nhẫn. Với kỹ thuật này, xuất hiện một nhóm chữ ký mã hóa bao gồm ít nhất một người tham gia thực sự, nhưng vì tất cả chúng đều có vẻ hợp lệ, nên người thực sự không thể bị cô lập. Bởi vì các cơ chế bảo mật đặc biệt như thế này, monero đã phát triển một cái gì đó có tiếng tăm; nó đã được liên kết với các hoạt động tội phạm trên toàn thế giới. Tuy nhiên, dù được sử dụng cho mục đích tốt hay xấu, thì không thể phủ nhận rằng monero đã giới thiệu những tiến bộ công nghệ quan trọng cho không gian tiền điện tử. Kể từ ngày 9 tháng 2 năm 2019, Monero có mức vốn hóa thị trường là 808,50 triệu đô la và giá trị mỗi mã thông báo là 48,18 đô la. Bitcoin Cash giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử tiền thay thế bởi vì đây là một trong những nhánh cứng đầu tiên và thành công nhất của bitcoin ban đầu. Trong thế giới tiền điện tử, một ngã ba diễn ra như là kết quả của các cuộc tranh luận và tranh luận giữa các nhà phát triển và thợ mỏ. Do tính chất phi tập trung của các loại tiền kỹ thuật số, các thay đổi bán buôn đối với mã bên dưới mã thông báo hoặc tiền xu phải được thực hiện do sự đồng thuận chung; cơ chế cho quá trình này thay đổi tùy theo loại tiền điện tử cụ thể.
Tiền điện tử
Tiền điện tử (tiếng Anh: electronic currency, electronic money, e-cash, digital currency, digital money, digital cash) còn được gọi với tên gọi khác là tiền kỹ thuật số là một đơn vị tiền tệ hoạt động dựa trên các thuật toán điện tử và được lưu giữ trên Internet, hệ thống máy tính, smartphone và các thẻ thanh toán điện tử. Tiền điện tử cho phép các giao dịch tức thời có thể được thực hiện liền mạch. Tiền điện tử do Chính phủ phát hành được gọi là tiền số pháp định. Tiền điện tử không pháp định được gọi là tiền số. Tiền mã hóa (nổi bật nhất là Bitcoin) là 1 tập con của tiền số. Năm 1983, một bài nghiên cứu của David Chaum đã giới thiệu ý tưởng về tiền điện tử. Năm 1990, ông thành lập DigiCash, một công ty tiền điện tử, ở Amsterdam để thương mại hóa các ý tưởng trong nghiên cứu của mình. Sau đó công ty này tuyên bố phá sản vào 1998. Cũng trong giai đoạn những năm 90, E-Gold cũng là 1 dự án gây được tiếng vang lớn tại Mỹ, phổ biến tới mức ở thời điểm đó E-Gold xử lý tổng giao dịch có khối lượng lên tới số tiền cả tỷ USD mỗi tháng.
Đậu Phụ Thối là một trong những món ăn được xếp vào món ăn kinh dị nhất thế giới nhưng lại là một món ăn đặc sản của không ít người dân Đài loan. Vậy cách làm Đậu Phụ Thối có khó không? Hãy để chúng tôi hướng dẫn các bạn cách làm để có thể thưởng thức món đậu hũ thối chuẩn như người Đài Loan ngay tại nhà nhé.Đậu hũ thối có nguồn gốc từ đâu?Mùi thối như vậy liệu ăn đậu phụ thối có ảnh hưởng tới sức khỏe?Hướng dẫn cách làm Đậu Phụ Thối ngon như người Đài LoanChế biến đậu phụ thối như thế nào thì ngon nhất?. Đài Loan vốn nổi tiếng là một quốc gia có nền ẩm thực cực kỳ đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, trong số này có những món ăn thực sự là một thử thách đối với khách du lịch, điển hình là món “đậu phụ thối”. Đúng như tên gọi, “đậu phụ thối” rất… thối, có mùi giống bắp cải hoặc phân bón thối rữa. Tên gọi đã nói lên tất cả những hương vị của món ăn nhưng đừng vội quy kết là món ăn không ngon mà hãy từ từ thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được đây chính là một đặc sản. Nguồn gốc của món đậu phụ thối có khá nhiều dị bản. Tuy nhiên, câu chuyện phổ biến nhất là món ăn này do một chàng thư sinh nghèo tên Vương Trí Hòa từ thời vua Khang Hy tìm ra. Do thi trượt khoa cử và không còn lộ phí về nhà, chàng thư sinh nghèo Vương Trí Hòa phải ở lại kinh thành bán đậu phụ kiếm sống qua ngày. Một ngày kia, đậu phụ bị ế nhiều, anh đành phải cắt nhỏ đậu phụ và cho vào một cái chum ướp muối. Vài ngày sau, khi mở chum ra, anh nhận thấy đậu phụ đã hơi chuyển sang màu lục và có mùi rất hắc. Anh nếm thử thứ “đậu phụ thối xanh” đó và thấy nó ngon kinh ngạc. Anh mạnh dạn mang loại đậu hũ đặc biệt đó ra bán. Kể từ đó đậu hũ thối được lan truyền rộng rãi. Theo các chuyên gia dinh dưỡng, món ăn này có hàm lượng vitamin B2 và B12 rất cao, giúp phòng tránh bệnh mất trí nhớ ở người già. Ngoài ra, hàm lượng protein trong đậu phụ thối khá cao, chiếm khoảng 15-20%, tương đương với nhiều loại thịt. Thực phẩm này còn chứa lượng canxi phong phú. Chưa kể, các chất protein trong đậu phụ thối sau khi lên men chuyển hóa thành các loại axit amin, có tác dụng tăng cảm giác thèm ăn, hỗ trợ tiêu hóa. Ngoài ra, đậu phụ thối còn có tác dụng chữa bệnh. Theo sách Đông Y cổ, đậu phụ thối mang tính hàn nhưng ích khí, có tác dụng điều hòa tỳ vị, giảm chướng bụng đầy hơi, thanh nhiệt tán huyết, giúp thải độc cho đại tràng. Tuy nhiên, cái gì ăn nhiều cũng không tốt. Trong quá trình lên men, đậu phụ thối sẽ sản sinh ra các amin như methylamine, putrescine, serotonin. Các chất này giúp cho món ăn có mùi rất đặc biệt nhưng không hoàn toàn có lợi cho sức khỏe. Thực ra cách làm Đậu Phụ Thối cũng gần giống như cách các bạn làm Đậu Hũ Non. Tuy nhiên so với cách làm đậu phụ non thì cách làm đậu phụ thối cần có ở bạn sự khéo léo và kỳ công hơn một chút. Bước 1: Đậu hũ cho lên nong nia, sau đó dùng bao nilon hoặc màng bọc thực phẩm bọc kín đậu lại. Để trong khoảng 5-10 ngày. Quá trình này sẽ giúp đậu lên men, bạn nên bảo quản đậu ở nơi có nhiệt độ từ 35 – 37 độ C. Khi làm xong các bạn nên bỏ đậu vào nơi có bóng rấm tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời. Bước 2: Khi nhận thấy đậu đã lên men ta dùng 50g muối chấm đều lên bề mặt đậu. Và xếp đậu vào lọ thủy tinh. Bước 3: Hòa rượu và 50g muối còn lại và nước cho muối tan hết sau đó rót nhẹ vào lọ thủy tinh cho ngập mặt đậu. Làm xong tất cả các bước trên, bạn chỉ cần đợi 10 ngày là đậu hũ có thể ăn được. Có nhiều cách chế biến đậu hũ thối nhưng phổ biến nhất vẫn là đậu hũ thối chiên. Cho chảo dầu lên bếp nấu nóng thì cho miếng đậu phụ thối vào chiên vàng hai mặt là được. Sau đó cho đậu hũ thối ra đĩa, cho dưa chua 1 bên sau đó tưới tương ớt và xì dầu lên là có thể thưởng thức món ăn độc đáo này. Như vậy là các bạn đã biết cách làm và chế biến món đậu phụ thối kinh dị của người Đài Loan, Trung Quốc rồi đấy!. Cách làm đậu phụ thối mất nhiều thời gian nhưng rất dễ đúng không nào. Đây là một món ăn không phải ai cũng hợp và thưởng thức được, nhưng nếu các bạn đã một lần trót ăn thì khó có thể bỏ qua món ăn này. Xuất khẩu lao động tại Đài Loan uy tín liên tục tuyển lao động nam/nữ tham gia thi tuyển các đơn hàng Đài Loan làm việc tại các nhà máy nổi tiếng tăng ca nhiều tại Đài Loan.
Đậu phụ thối
Đậu phụ thối (臭豆腐 xú đậu phụ) là một loại đậu phụ lên men khá nặng mùi. Đây mà một món ăn nhẹ, bình dân, thường được bày bán ở các chợ đêm hoặc lề đường hơn là trong các nhà hàng. Đậu phụ thối có mùi thum thủm giống với mùi bít tất thối rửa hoặc phân bón mục rữa. Có người so sánh vị của nó với pho mát xanh trong khi người khác thì nghĩ nó giống thịt thối rữa. Với những người sành ăn thì đậu phụ thối càng nặng mùi thì càng ngon. Tương truyền vào đời Khang Hy nhà Thanh có một người tên Vương Trí Hòa đã phát minh ra đậu phụ thối. Có nhiều dị bản về nguồn gốc món ăn này. Do thi trượt khoa cử và không còn lộ phí về nhà, chàng thư sinh nghèo Vương Trí Hòa phải ở lại kinh thành bán đậu phụ kiếm sống qua ngày. Một ngày kia, đậu phụ bị ế nhiều, anh đành phải dùng dao xắt nhỏ đậu phụ và cho vào một cái chum ướp muối. Vài ngày sau, khi mở chum ra, anh nhận thấy đậu phụ đã hơi chuyển sang màu lục và có mùi rất hắc.
Các bước chuẩn bị trong công nghệ thuộc da hiện đại1. Tạo ẩm (Hồi tươi)2. Tẩy lông, ngâm vôi3. Tẩy vôi, làm mềm. Quy trình thuộc và chỉnh lý hoàn thiện da thuộc hiện đại 1. Quy trình thuộc cơ bản2. Quy trình tái thuộc và hoàn thiện da thuộc. Thuộc da là quá trình xử lý da của động vật để sản xuất da thuộc, là vật liệu bền hơn và khó bị phân hủy hơn. Thuộc da là một quá trình làm thay đổi vĩnh viễn cấu trúc protein của da. Theo truyền thống, thuộc da sử dụng tanin, một hợp chất hóa học có tính axit. Việc nhuộm màu có thể xảy ra trong quá trình thuộc. Da sống thô được thực hiện bằng cách loại bỏ thịt, mỡ và sau đó là lông bằng cách sử dụng một dung dịch (như nhúng/ngâm vào nước vôi hay nước tro), sau đó cạo sạch bằng một con dao hơi cùn, rồi sấy khô. Hai dung dịch nói trên để loại bỏ lông cũng có tác dụng làm sạch các mạng thớ sợi của da và cho phép hóa chất thuộc thấm vào, do đó tất cả các bước của sản xuất da sống thô (trừ sấy khô) thường cũng là những bước mở đầu cho một quy trình phức tạp hơn trong thuộc và sản xuất da thuộc. Có thể được thực hiện bằng một trong hai phương pháp là thuộc bằng thực vật hoặc thuộc bằng khoáng chất. Trước khi thuộc, da sống được làm sạch lông, tẩy dầu mỡ, khử muối và ngâm trong nước trong khoảng thời gian từ 6 giờ đến 2 ngày. Để ngăn chặn tổn hại da do vi khuẩn phát triển trong thời gian ngâm ủ, có thể sử dụng thuốc diệt khuẩn như dithiocacbamat. Thuốc diệt nấm như TCMBT, 2- (thiocyanomethylthio) benzothiazol, cũng có thể được thêm vào muộn hơn trong quy trình này để bảo vệ da thuộc còn ẩm ướt không bị nấm mốc phát triển. Sau năm 1980 việc sử dụng pentachlorophenol và thuốc diệt khuẩn chứa thủy ngân cùng các dẫn xuất của chúng đã bị cấm. Để tạo ra được một miếng da thành phẩm đạt chất lượng tốt người ta cần thực hiện quá trình thuộc. Vậy lịch sử công nghệ thuộc trên thế giới diễn ra như thế nào?. Ngay từ thuở hồng hoang, con người đã tận dụng phần da thú săn bắt được để làm áo khoác ủ ấm hay làm tấm che cho lều trại để trú ngụ. Thuộc da được xem là hoạt động có lịch sử lâu đời nhất của loài người. Từ những nhu cầu thực tế, con người nhận thấy lớp da thú cần phải mềm và mỏng hơn nhưng vẫn đảm bảo độ bền và chắc chắn. Đó là lý do công nghệ thuộc da đã ra đời và do người Assyrian vùng Tây Á. Từ thế kỉ thứ 8, giao thương giữa các quốc gia có bước phát triển đột phá mới, da nhanh chóng trở thành một mặt hàng được mang đi trao đổi và xuất hiện trên thị trường với tần suất phổ biến hơn. Da khi đó không còn là đặc quyền dành cho các nước phương Tây khi mà đế chế Mông Cổ đã xuất hiện hùng mạnh với những bộ áo giáp, mặt nạ hay mũ,… đều bằng da. Cho đến thế kỉ 14, tính ứng dụng của da mở rộng. Da trở thành chất liệu đặc biệt được sử dụng để bọc các bộ sofa, các loại ghế và việc chế tác các mẫu đồ da đã đạt đến mức nghệ thuật. Đặc biệt ở “thiên đường tình yêu” Venice- Italia vào thế kỉ thứ 15 và 16, da còn được sử dụng dùng để bọc rương, hòm hay bìa sách…vì ở thời điểm đó da được xem là chất liệu bền nhất. Tất cả các con da trước khi tiến hành thuộc luôn phải được phân loại kỹ càng theo chủng loại, kích thước, khối lượng, tính chất riêng …để có những phương pháp bảo quản để có chế độ xử lí thích hợp với từng loại. Các bước trong quá trình chuẩn bị thuộc có thể khác nhau, phụ thuộc vào nguyên liệu, phương pháp bảo quản và mục đích sử dụng da thành phẩm. Những khâu chuẩn bị cơ bản của công nghệ thuộc bao gồm các bước: tạo ẩm, ngâm vôi, tẩy lông, tẩy vôi, làm mềm. Tất cả những khâu này được thực hiện bằng cách axit hoá. – Mục đích của tạo ẩm: phục hồi lại lượng nước ban đầu có trong da đã bị mất đi do quá trình con người tiến hành bảo quản da. Đồng nghĩa với việc, cấu trúc sợi da trở lại như trạng thái gần như ban đầu. – Đối với da bảo quản bằng cách phơi khô, việc tạo ẩm sẽ tiến hành khó khăn hơn phương pháp ướp muối.Da đạt yêu cầu khi lông ở trên da có độ mềm mại như khi còn da còn tươi. – Thời gian hồi tươi lâu sẽ làm vi khuẩn có khả năng tái sinh vì thế nhiệt độ ở giai đoạn này vô cùng quan trọng. Chọn khoảng nhiệt độ từ 26 -27 độ C để có thể ngăn chặn vi khuẩn sinh sôi. – Mục đích: tẩy sạch lớp lông, biểu bì, thượng bì và loại bỏ lớp mỡ dưới da. Quá trình diễn ra hoạt động này khá phức tạp, da sau khi được tẩy lông ngâm vôi sẽ nở ra. Vì thế trong giai đoạn này luôn cần phải kiếm soát thật chặt các hóa chất, nhiệt độ, nước và thời gian. – Với kỹ thuật thuộc hiện đại, quá trình ngâm vôi sẽ được tiến hành trong foulons với tốc độ 3-4 vòng/phút, thời gian kéo dài trong 12-18 giờ và cứ 10 phút/giờ đảo một lần để đảm bảo các dung dịch được thấm đều vào lớp da. – Nước rửa da được sử dụng là nước cứng. Nó có thể tạo trên bề mặt của da một lớp CaCO3 khiến cho da thành phẩm bị giảm chất lượng. Vì thế cần cho thêm 0.5% lượng vôi so với lượng da vào nước để cải thiện vấn đề này. – Thao tác này được thực hiện trên máy xẻ chuyên dụng đảm bảo cho các con da có độ dày đồng đều theo yêu cầu sử dụng. – Ví dụ: Da ngâm vôi xong sẽ có độ dày mặt cật khoảng 4 mm, sau thuộc da sẽ còn 2,8 mm, sau khi bào sẽ là 2,6 mm và đến da hoàn thành độ dày chỉ còn 2,3 mm. Da sau khi tẩy lông ngâm vôi, các hoá chất kiềm trong do cần được loại bỏ, nếu không chúng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng da thuộc (thuộc Crôm và kể cả thuộc tanin thảo mộc). – Tẩy vôi và làm mềm thường được tiến hành trong foulons, quá trình làm mềm được tiếm hành sau khi đã tẩy vôi loại bỏ các hóa chất kiềm trong da, tắng chất lượng da. – Hiện nay thường dùng foulons có tốc độ cao hơn tốc độ thùng quay để hồi tươi và tẩy lông, nhằm nâng cao khả năng tẩy của các tác nhân tẩy. Tuỳ theo mặt hàng, việc tẩy vôi có thể dùng các tác nhân khác nhau. – Làm mềm: là tạo cho da có mặt cật nhẵn, loại toàn bộ sự trương nở và lớp ghét trên mặt cật. Các tác nhân làm mềm sẽ tác dụng đến các collagen không có cấu trúc như sợi đàn hồi tăng sự mềm mại, độ đàn hồi của mặt cật, việc này có ý nghĩa lớn đố với da thuộc Crôm – mặt hàng làm thắt lưng da, vi da, cặp da, túi da, găng tay, bọc đệm; nhưng không có ý nghĩa đối với các loại da cứng như da đế giày, da dùng cho công nghiệp. – Thực tế, quá trình làm mềm được thực hiện trong cùng foulons dùng để tẩy vôi và cùng trong một bể của công đoạn tẩy vôi. – Phương pháp kiểm tra quá trình làm mềm băng cách gấp da lại và vắt để cho bọt khí đi qua. Thuộc là quá trình mà qua đó da trần được chuyển hoá thành da thuộc với những đặc tính tối ưu của nó như chịu nhiệt độ cao, không thối rữa khi tiếp xúc với nước và các môi trường khác, chịu được tác động phá hoại của vi sinh vật và có độ thấu khí cao. Phương pháp thuộc bằng thực vật sử dụng tanin. Tanin là một lớp các hóa chất polyphenol làm se có mặt tự nhiên trong vỏ cây và lá của nhiều loài thực vật. Các tanin liên kết với các protein colagen trong da và che phủ lên chúng, làm cho da thuộc trở nên ít thấm nước hơn và khó bị vi khuẩn, nấm mốc tấn công hơn. Quy trình này cũng làm cho da trở nên mềm hơn. Da sống được căng trên các khung và ngâm vài tuần trong các bể lớn với nồng độ tanin ngày càng tăng. Da thuộc thực vật mềm và được sử dụng trong sản xuất các loại va li hay đồ da gia dụng. Đặc biệt, da thuộc theo phương pháp tanin thảo mộc rất an toàn cho sức khỏe, phù hợp với những gia đình có trẻ nhỏ. Trước khi có sự đưa các hóa chất crom vào quá trình thuộc thì một vài bước là cần thiết để sản xuất ra da sống có thể thuộc. Các bước này bao gồm: cạo lông (loại bỏ lông), tẩm vôi (ngâm tẩm các chất kiềm như natri hydroxit), khử vôi (phục hồi pH trung hòa), ngâm mềm da bằng enzym, và ngâm chua (hạ pH của da sống bằng muối và axit sulfuric). Độ pH phải là rất axit khi crom được đưa vào để đảm bảo các phức chất crom là đủ nhỏ để ăn khớp với khoảng cách giữa các sợi và phần sót lại của colagen. Khi mức thấm crom mong muốn vào da đã đạt được, độ pH của da lại được nâng lên một lần nữa để tạo thuận lợi cho quy trình thuộc. Bước này gọi là bazơ hóa. Ở trạng thái thô, da thuộc bằng crom có màu xanh lam, vì thế còn gọi là da xanh ẩm. Thuộc bằng crom nhanh hơn so với thuộc bằng thực vật (chưa tới một ngày cho công đoạn này của thuộc da bằng crom) và sản xuất ra da có thể kéo giãn, thích hợp để sản xuất ví, túi xách hay quần áo. Hiện tại 80% sản phẩm sử dụng phương pháp thuộc bằng crom nhờ sự nhanh chóng, tiện dụng. Da sau khi thuộc độ ẩm còn quá cao 60-65%, chưa có độ mềm dẻo cần thiết, bề mặt thô và dễ ngấm nước. Vì thế sau khi thuộc nhất thiết phải qua công đoạn chỉnh lý để có cách thuộc da hoàn chỉnh. Với các loại da khác nhau, yêu cầu khác nhau trong quá trình chỉnh lý. Tuy nhiên, các loại da sau khi thuộc đều có những khâu cơ bản sau: ủ đống, ép nước, bào mỏng, trung hòa ( đối với da thuộc Crôm), nhuộm ăn dầu, sấy khô, để cho da có độ ẩm là 12-15%, sau đó đem vò mềm, trau chuốt, mục đích làm cho da thuộc đồng đều về mặt màu sắc, khắc phục những khuyết tật trên bề mặt nhằm đáp ứng mục đích sử dụng đa dạng của người tiêu dùng. Trong công nghiệp thuộc da, quy trình thuộc đóng vai trò quyết định của sản phẩm thì trau chuốt có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với tiêu dùng vì rằng: chỉ tiêu thẩm mĩ của da thuộc crôm với các đồ dùng chế biến từ da được thể hiện chủ yếu ở màu sắc, độ bóng, độ bền nhiệt, bền uốn gập của lớp màng trau chuốt. đặc biệt là lớp màng trau chuốt có vai trò quyết định giá trị của tấm da thuộc khi lưu thông trên thị trường. Vì vậy khi trau chuốt đòi hỏi các nhà công nghệ phải tìm hiểu, nắm bắt thị hiếu của người tiêu dùng, từ đó phân loại, lựa chọn hóa chất, phương pháp trau chuốt cho phù hợp với công dụng từng mặt hàng mà người tiêu dùng đòi hỏi. Mua các sản phẩm da thuộc do Ngọc Quang cung cấp sẽ mang đến sự hài lòng tuyệt đối cho bạn. Các sản phẩm của Ngọc Quang đều do các tổ chức kiểm định quốc tế hàng đầu và theo tiêu chuẩn REACH để đảm bảo cung cấp cho thị trường những loại da không những bền, đẹp, an toàn tuyệt đối với con người mà còn cả với môi trường sinh thái. CÔNG TY TNHH TM DV NGỌC QUANG – chuyên phân phối các sản phẩm da thật cao cấp: Thắt lưng nam, ví da nam, Ví passport da thật. Mua hàng tại Ngọc Quang được bảo hành 12 tháng và được bảo trì sản phẩm trọn đời.
Thuộc da
Thuộc da là quá trình xử lý da của động vật để sản xuất da thuộc, là vật liệu bền hơn và khó bị phân hủy hơn. Theo truyền thống, thuộc da sử dụng tanin, một hợp chất hóa học có tính axit. Việc nhuộm màu có thể xảy ra trong quá trình thuộc da. Xưởng thuộc da là từ để chỉ khu vực nhà xưởng mà da được xử lý. Thuộc da sống thành da thuộc là một quá trình làm thay đổi vĩnh viễn cấu trúc protein của da. Sản xuất "da sống thô" (da không thuộc nhưng là da làm nguyên liệu sản xuất) không yêu cầu sử dụng tanin. Da sống thô được thực hiện bằng cách loại bỏ thịt, mỡ và sau đó là lông bằng cách sử dụng một dung dịch (như nhúng/ngâm vào nước vôi hay nước tro), sau đó cạo sạch bằng một con dao hơi cùn, rồi sấy khô. Hai dung dịch nói trên để loại bỏ lông cũng có tác dụng làm sạch các mạng thớ sợi của da và cho phép hóa chất thuộc da thấm vào, do đó tất cả các bước của sản xuất da sống thô (trừ sấy khô) thường cũng là những bước mở đầu cho một quy trình phức tạp hơn trong thuộc da và sản xuất da thuộc.
Nếu bạn chưa biết mã số mã vạch là gì, hoặc chưa biết đăng ký mã vạch ở đâu, lợi ích của mã số mã vạch đem lại cho doanh nghiệp thì hãy xem ngay bài viết này. Để tạo ra sự thuận lợi và nâng cao năng suất, hiệu quả trong bán hàng và quản lý kho người ta in trên hàng hoá một loại mã hiệu đặc biệt gọi là mã số mã vạch của hàng hoá. Mã số mã vạch của hàng hoá bao gồm hai phần: mã số của hàng hoá và mã vạch là phần thể hiện mã số bằng vạch đen để cho máy quét có thể đọc. Theo quyết định số 15/2006/QĐ-BKHCN ngày 23 tháng 8 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ: Mã vạch được định nghĩa là một dãy các vạch, song song cùng với các khoảng trống xen kẽ nhằm thể hiện mã số giúp cho máy quét có thể đọc được. Mã số mã vạch (viết tắt: MSMV) được dùng để nhận dạng tự động các đối tượng và vật phẩm, dịch vụ, tổ chức… (gọi tắt là vật phẩm). Dựa trên việc ấn định một mã (số hoặc chữ số) cho đối tượng cần phân định. Và thể hiện mã số đó dưới dạng mã vạch để thiết bị đọc (máy quét) có thể nhận biết được đối tượng đó một cách chính xác, nhanh chóng. Nếu thẻ căn cước (chứng minh thư) giúp ta phân biệt người này với người khác. Thì mã số hàng hoá là “thẻ căn cước” của hàng hoá, giúp ta phân biệt được nhanh chóng và chính xác các loại hàng hoá khác nhau. Mã số là con số duy nhất đặc trưng cho hàng hoá. Mỗi loại hàng hoá được nhận diện bởi một dãy số. Và mỗi dãy số chỉ tương ứng với một loại hàng hoá. Bản thân mã số chỉ là một dãy số đại diện cho hàng hoá, không liên quan đến đặc điểm của hàng hoá. Nó không phải là số phân loại hay thể hiện chất lượng của hàng hoá. Trên mã số cũng không có giá cả của hàng hoá. Thế giới đã thống nhất chuẩn hóa hệ thống mã vạch toàn cầu với tên gọi GS1 vào tháng 2 năm 2005. GS1 Việt Nam là thành viên chính thức của GS1 quốc tế và được cấp đầu mã số quốc gia là 893. Đây là tổ chức quản lý mã số mã vạch của Việt Nam, trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng. Các bạn có thể xem thêm bảng mã số mã vạch các nước tại bài viết này. Mã doanh nghiệp là 4, hoặc 5, hoặc 6 số tiếp theo. Mã này do tổ chức GS1 Việt Nam cấp. Mã mặt hàng là 3 hoặc 4 hoặc 5 số tiếp theo (tùy thuộc vào mã doanh nghiệp trước nó là bao nhiêu con số), do chính các công ty sản xuất đặt cho sản phẩm của họ. Các doanh nghiệp chỉ được phép cấp cho mỗi sản phẩm một mã số duy nhất. Và tuyệt đối không được phép nhầm lẫn với các mặt hàng khác. Mã số kiểm tra là 1 số cuối cùng. Dùng để kiểm tra tính đúng sai của các loại mã số doanh nghiệp, mã quốc gia, mã mặt hàng nói ở trên. Mã này được tính theo quy ước riêng và dựa vào thông tin của 12 con số đứng trước nó. EAN-8 thường được dùng trên các mặt hàng có kích thước khá nhỏ và không đủ chỗ để ghi mã EAN-13. Ví dụ son môi, thuốc lá, bút chì,…. Giống với mã số EAN-13 thì 03 con số đầu cũng thể hiện mã số của quốc gia sản xuất sản phẩm. (Các) trường hợp thương phẩm riêng biệt và hướng dẫn sử dụng liên quan bằng việc kết hợp GTIN với các thuộc tính như số lô, số xê-ri, ngày sử dụng, ngày hết hạn, trọng lượng tịnh. Để giải đáp cho việc tại sao bao bì sản phẩm cần phải có cả mã số và mã vạch, bạn hãy hình dung tại các cửa hàng lớn hay siêu thị có tới hàng vạn sản phẩm hàng hóa khác nhau. Những sản phẩm đó lại đến từ hàng trăm nhà cung cấp khác nhau. Và mỗi sản phẩm lại có những đặc tính và giá cả khác nhau. Ngay cả tốc độ tiêu thụ và nhu cầu quản lý để nhập thêm cho mỗi sản phẩm cũng khác nhau. Những người quản lý các cửa hàng lớn và siêu thị không thể mô tả bằng chữ viết cho mỗi sản phẩm vì mất rất nhiều thời gian và công sức. Nên thay vào đó phải sử dụng biện pháp mã hóa từng sản phẩm bằng các con số. Mã số sẽ là chìa khóa để mở kho chứa tất cả những dữ liệu liên quan đến sản phẩm. Tuy nhiên nếu chỉ là mã số thì máy móc hiện nay chưa có chức năng đọc nên vẫn phải cần con người xử lý với tốc độ chậm và dễ xảy ra sai sót. Để giải quyết được vấn đề này, người ta đã đưa ra giải pháp mã hóa mã số thành mã vạch. Mã vạch ở đây chính là một dãy các vạch đen trên bao bì sản phẩm mà bạn vẫn thường thấy. Các vạch được xếp song song và xen kẽ theo quy tắc mã hóa nhất định. Khi đó, máy quét sẽ đọc được kết quả nhanh chóng, dễ dàng. Chắc bạn cũng đã thấy tại các cửa hàng lớn và siêu thị khi chúng ta ra quầy thanh toán, nhân viên thu ngân lập hóa đơn bằng cách dùng máy quét để quét mã vạch trên từng sản phẩm. Do đó trên mỗi sản phẩm hàng hóa nhất thiết phải có đồng thời có cả mã số và mã vạch. Trong trường hợp mã vạch bị mờ hoặc máy không thể đọc được thì nhân viên bán hàng nhập mã số sản phẩm vào hệ thống bằng tay. Như thế việc bán hàng trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng và chính xác tuyệt đối. Như vậy, trên tất cả các sản phẩm đều được gắn một dãy mã số mã vạch nhằm giúp các nhà cung cấp dễ dàng quản lý hàng hóa của mình một cách thuận tiện nhất. Để làm được việc đó thì bắt buộc các nhà cung cấp phải thực hiện đăng ký mã số mã vạch cho các mặt hàng của doanh nghiệp mình.
Mã vạch
Mã vạch là sự thể hiện thông tin trong các dạng nhìn thấy trên các bề mặt của sản phẩm, hàng hóa mà máy móc có thể đọc được. Nguyên thủy thì mã vạch lưu trữ dữ liệu theo bề rộng của các vạch được in song song cũng như của khoảng trống giữa chúng, nhưng ngày nay chúng còn được in theo các mẫu của các điểm, theo các vòng tròn đồng tâm hay chúng ẩn trong các hình ảnh. Mã vạch có thể được đọc bởi các thiết bị quét quang học gọi là máy đọc mã vạch hay được quét từ hình ảnh bằng các phần mềm chuyên biệt. Nội dung của mã vạch là thông tin về sản phẩm như: Nước đăng ký mã vạch, tên doanh nghiệp, lô, tiêu chuẩn chất lượng đăng ký, thông tin về kích thước sản phẩm, nơi kiểm tra. Ý tưởng về mã vạch được phát triển bởi Norman Joseph Woodland và Bernard Silver. Năm 1948 khi đang là sinh viên ở trường Đại học tổng hợp Drexel, họ đã phát triển ý tưởng này sau khi được biết mong ước của một vị chủ tịch của một công ty buôn bán đồ ăn là làm sao để có thể tự động kiểm tra toàn bộ quy trình.
Nằm ở thành phố Istanbul, nhà thờ Hồi Giáo Sultan Ahmed là điểm đến hấp dẫn cho bất cứ ai khi đến Thổ Nhĩ Kỳ. Nhà thờ Hồi giáo được xây dựng trên vị trí của cung điện của hoàng đế Byzantine nằm đối diện Hagia Sophia chỉ vài trăm mét và được ngăn cách bởi một công viên nhỏ là Nhà thờ Hồi Giáo Sultan Ahmet hay còn được gọi là Blue Mosque, nằm bên cạnh một công viên lớn và kề liền với biển đây một tuyệt tác thánh đường xanh là một điểm thu hút du lịch phổ biến của thành phố Istanhbul. Được UNESCO công nhận là di sản thế giới từ năm 1985, Blue Mosque là một thánh đường hồi giáo lâu đời tại Istanbul. Nhà thờ xây dựng vào thời Sultan Ahmed I khi đó nhà vua còn khá trẻ chỉ khoảng hơn 19 tuổi của đế quốc Ottoman, công trình hoàn thành vào năm 1616 nổi bậc với màu xanh của những viên gạch nội thất và mái vòm của nó, đây là một địa điểm tôn giáo lớn với các đặc điểm Hồi giáo nổi bật. Nội thất của nhà thờ Hồi giáo được trang trí bằng gạch màu xanh với nhiều hình dạng khác nhau: dáng hoa tulip, trái cây, cây bách…, latticework và đá cẩm thạch chạm khắc là điểm nổi bật nhất. Bên ngoài, thiết kế của nhà thờ Hồi giáo là vòm phẳng được bao bọc bởi sáu tháp nhọn lớn. Kiến trúc đồ sộ, nguy nga, thể hiện trọn vẹn vẻ đẹp tinh tế của hai ngành kiến trúc hồi giáo Ottoman và Byzatine. Công trình nổi bật với 6 tháp, rất nhiều mái vòm, bán vòm và một vòm lớn tại gian thờ. Nhà thờ có 66 mái vòm và bán vòm sắp xếp trong một kim tự tháp, những mái vòm chính cao 36 mét và được bao bọc bởi bốn bán mái vòm, nhà thờ sở hữu một sân lớn phía trước, với đài phun nước trang trí ở trung tâm được xây dựng bởi kiến trúc sư Sedefkar Mehmed Agha. Tường bao che của công trình có 200 cửa số kính được thiết kế phức tạp để chiếu sáng tự nhiên và trang trí bề mặt bên ngoài và bên trong nhà thờ. Trong đó, tại gian thờ, mái vòm trung tâm có 28 cửa sổ, và mỗi vòm nhỏ và bán vòm có đến 14 cửa. Nội thất của nhà thờ có những trang trí đặc biệt khu vực bục giảng, nơi các tu sỹ Hồi giáo giảng bài. Kiến trúc bên trong nhà thờ độc đáo với những đường viền cửa sổ được trang trí cầu kì, hệ thống đèn chùm vàng rực rỡ. Tại đây ngoài không gian thờ, cầu nguyện, còn có lăng mộ của người sáng lập, trường học cho người Hồi giáo, bệnh viện cho người nghèo. Nếu bạn không theo đạo Hồi thì có thể tham quan nhà thờ bằng cửa cho du khách là ở phía bên Hippodrome của tòa nhà, ngoài thời gian cầu nguyện. Bạn cần lưu ý về trang phục khi vào tham quan, phải để giầy bên ngoài trước khi vào. Khung cảnh dường như lắng đọng lại lúc chiều tà khi ánh dương huyền bí bao phủ, lấp lánh, lung linh, huyền ảo toàn quan cảnh nhà thờ. Nhà thờ Hồi Giáo Sultan Ahmet thật sự là một công trình văn hóa vĩ đại, niềm tự hào của người dân Thổ Nhĩ Kỳ, là điểm hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed
Nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Sultanahmet Camii) là một nhà thờ Hồi giáo lịch sử tại Istanbul, thành phố lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ và kinh đô của Đế quốc Ottoman (1453-1923). Nhà thờ Hồi giáo này thường được gọi là Thánh đường Xanh do gạch màu xanh ốp tường và nội thất của nó. Nó được xây dựng giữa giai đoạn năm 1609 và 1616, dưới triều vua Ahmed I. Cũng giống như nhiều nhà thờ Hồi giáo khác, nó cũng bao gồm một ngôi mộ của người sáng lập, một madrasah và một hospice. Trong khi vẫn còn được sử dụng như một nhà thờ Hồi giáo, Thánh đường Hồi giáo Sultan Ahmed cũng đã trở thành một điểm thu hút du lịch phổ biến của thành phố Istanhbul. Sau hòa ước Zsitvatorok và kết quả bất lợi của cuộc chiến tranh với Ba Tư, Sultan Ahmed I đã quyết định xây dựng một nhà thờ Hồi giáo lớn ở Istanbul để xoa dịu Thượng đế Allah. Đây là lần đầu tiên Thánh đường Hồi giáo đế chế được xây dựng trong hơn bốn mươi năm. Trong khi những tiên đế của ông đã trả tiền cho các nhà thờ Hồi giáo của họ bằng chiến lợi phẩm của họ, Sultan Ahmed I đã phải rút tiền từ ngân khố, bởi vì ông đã không giành được bất kỳ chiến thắng đáng chú ý nào.
Bản lề cửa là một phụ kiện không thể thiếu trong bất kì cánh cửa nào. Bất cứ một ngôi nhà hay văn phòng, nhà xưởng nào cũng cần có cánh cửa như là một người bảo vệ thầm lặng ngày đêm cho sự an toàn của hàng hóa, con người bên trong. Và để cánh cửa có thể hoạt động được tốt thì không thể thiếu thành phần quan trọng là bản lề. Vậy bản lề là gì ? Có những loại bản lề nào ? Chúng có những tác dụng như thế nào ? Mời bạn theo dõi bài viết dưới đây để hiểu thêm nhé. Bản lề là một loại phụ kiện được làm từ kim loại hoặc các loại vật chất cứng dùng để cố định và thay đổi đóng mở giữa 2 cánh cửa với nhau hoặc giữa cánh cửa với vật dụng khác chẳng hạn. Ngày nay bản lề thường được làm từ thép, sắt, inox hay các kim loại nói chung. Nó thường được cố định vào 1 nơi và có thể thay đổi được góc độ của cánh cửa so với cánh cửa còn lại hoặc nơi cố định còn lại. Cửa có thể mở được rộng hay không, góc to hay bé, khoảng cách như thế nào còn phụ thuộc vào từng loại bản lề cửa cao cấp khác nhau. Hiện nay có nhiều loại bản lề như bản lề sàn, bản lề lá, bản lề âm, bản lề trụ…Để giảm được các vấn đề hỏng hóc đối với cửa ví dụ như bị sập cánh, rỉ sét hay yếu, bị hở quá nhiều thì cần phải chọn mua loại bản lề tốt và phải lắp đặt cho đúng kỹ thuật. Trên thị trường hiện nay có rất nhiều thương hiệu phụ kiện khác nhau như Hafele, Yale, Inmudex, Ivan, Vickini, Zani, Việt Tiệp, Huy Hoàng… Hãy chọn cho những những bản lề có thương hiệu để được tuổi thọ lâu bền và vận hành êm ái. Chiếc bản lề tuy nhỏ những nó cũng góp phần làm tăng thêm tính thẩm mỹ cho công trình, đặc biệt là những khu vực sang trọng. Vì vậy bạn phải lưu ý chọn lựa sao cho phù hợp. Ví dụ như những công trình mang tính cổ điển, nhiều chi tiết hoa văn đậm phong cách thiết kế Châu Âu thì nên chọn bản lề cũng phải có nhiều hoa văn tương đồng, màu sắc tương đồng hay sử dụng các bản lề được làm bằng đồng thau cũng được. Ngược lại đối với những công trình hiện đại thì cần chọn những loại bản lề trắng sáng, có thiết kế vuông vắn ( hầu như các loại bản lề được làm bằng inox hiện nay đều mang thiết kế này ). Đây cũng là một trong những yếu tố tiên quyết không thể bỏ qua. Trên thị trường hiện nay bán rất nhiều loại bản lề chất lượng thấp, hay bị nứt gãy, khó đóng mở do được làm từ nhôm kẽm nhưng lại pha với đồng quá nhiều. Do đó bạn nên chọn mua ở cơ sở bán bản lề được làm từ đồng thau loại tốt. Thuộc dòng bản lề dày, cao cấp, nâng cấp dựa trên bản phổ thông, với thiết kế 4 vòng bi chắc chắn, bề mặt đẹp, cùng chất liệu SUS 304, đang là dòng bản lề bán chạy nhất của VICKINI. Dễ dàng lắp đặt, chắn chắn và ổn định sử dụng trong thời gian dài, và môi trường nồng độ muối cao. Thuộc dòng bản lề cổ điển dày, với thiết kế 4 vòng bi chắc chắn, bề mặt trang trí họa tiết đẹp mắt, có 2 màu nâu và café. Dễ dàng lắp đặt, chắn chắn và ổn định sử dụng trong thời gian dài
Bản lề
Bản lề là một loại dụng cụ kỹ thuật được thiết kế, cấu tạo để làm cầu nối cố định các cánh cửa hay cửa sổ hoặc các đối tượng rắn khác, bản lề thường cho phép chỉ là một góc hạn chế luân phiên giữa chúng (góc cố định) góc còn lại có thể lưu động. Hai đối tượng kết nối bởi một bản lề xoay tương đối so với nhau bởi một trục quay cố định. Bản lề có thể được làm bằng vật liệu đa dạng nhưng ngày nay người ta thường dùng sắt, thép, nhôm và đặc biệt là thép không gỉ. Trong sinh học, các khớp rất nhiều chức năng như bản lề. Ngày nay, thuật ngữ này được sử dụng theo nghĩa rộng như năm bản lề có nghĩa là năm then chốt bắt đầu cho những năm tiếp theo, hay có tính chất bản lề đề cập đến một sự kiện, công việc làm điểm tựa, quan trọng, mấu chốt cho những hoạt động hoặc khả năng tiếp theo. Có rất nhiều loại bản lề cửa như bản lề trụ, bản lề lá, ngoài ra còn có các bản lề nối cánh cửa và tủ với nhau.
Trong đó, hai địa điểm được nhắc đến nhiều nhất vì đều có lăng mộ là Lăng Ông ở quận Bình Thạnh, TP.HCM và quần thể lăng mộ ở xã Long Hưng, huyện Châu Thành, Tiền Giang, sinh quán của Tả quân. Nhiều năm gần đây, một số nhà nghiên cứu có đưa ra nhận định là mộ thực của Tả quân nằm ở Tiền Giang chứ không ở TP.HCM. Nhưng cuộc khảo sát bi ký học ở Tiền Giang vào đầu tháng tư năm nay của nhà nghiên cứu Lý Việt Dũng đã đưa ra kết luận ngược lại. Vào triều Minh Mạng, Lê Văn Duyệt làm tổng trấn thành Gia Định, coi cả quân dân trọn vùng Nam bộ, quyền uy rất lớn. Có nhiều lý do:. Khi vua Gia Long sắp băng hà có hỏi ý kiến thì Lê Văn Duyệt tâu là nên truyền ngôi cho con của Đông cung Cảnh đã quá cố thay vì hoàng tử Đảm là vua Minh Mạng sau này. Lê Văn Duyệt ít học, bản chất quan võ nóng nảy, nói năng cộc lốc, chẳng biết chiều đón ý vua, khi tấu đối thường không vừa ý Minh Mạng. Lê Văn Duyệt có nhiều hành động ỷ mình là cố mệnh đại thần (đại thần của tiên đế), nặng nhất là vụ chém Hoàng Công Lý, cha một cung tần sủng ái của vua Minh Mạng. Theo Đại Nam liệt truyện chính biên thì khi làm tổng trấn thành Gia Định, Lê Văn Duyệt uy quyền to lắm mà lòng người cũng kính phục nên vua Minh Mạng tuy trong lòng căm ghét nhưng cũng không dám làm gì. Năm 1832 Tả quân qua đời thì vua Minh Mạng bỏ chức tổng trấn Gia Định mà đặt chức tổng đốc Phiên An thay thế, rồi cử Nguyễn Văn Quế làm tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm bố chính. Nguyên là đứa tham bạo lại nói rằng mình nhận mật chỉ đến truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi tra hỏi chứng cớ, trị tội bọn bộ hạ của Tả quân ngày trước, trong đó có Lê Văn Khôi. Khôi nguyên tên Nguyễn Hữu Khôi người Cao Bằng, nhân làm loạn bị quan quân truy đuổi phải chạy vào Thanh Hóa được Tả quân lúc này làm kinh lược ở đấy chiêu dụ. Khôi ra đầu thú được ông Duyệt tin dùng, cho làm con nuôi, đổi tên lại là Lê Văn Khôi, đem theo vào Gia Định. Khôi mưu cùng quân lính nổi dậy giết cả Bạch Xuân Nguyên và Nguyễn Văn Quế rồi rút vào thành Gia Định chống lại quân triều. Thành này rất kiên cố nên mãi đến tháng 7-1835 sau khi Lê Văn Khôi chết, thành mới bị phá. Quân triều vào giết cả thảy 1.831 người chôn chung một chỗ gọi là Mả ngụy. Sau vụ án ngụy Khôi, năm 1835 có Phan Bá Đạt ở Đô Sát Viện dâng sớ kể tội Tả quân, xin truy đoạt quan chức, vợ con phải giải về Hình bộ xét tội. Vua dụ cho đình thần nghị xử. Vài hôm sau có nhóm nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Quýnh nghị tội Tả quân có sáu điều, được vua ưng chuẩn giao đình thần kết án. Án nghị Tả quân có bảy tội phải chém, hai tội phải thắt cổ, một tội phải sung quân. Đoạn quan trọng nhất trong bản án nghị rằng: “Sự biến Phiên An, hắn thực là đầu vạ nên chiếu theo luật mưu phản, khép vào tội lăng trì, song hắn đã chịu minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, phá bỏ quan quách giết thây, để tỏ gương răn cho người khác. Còn như ông bà đời trước, ông nội bà nội, cha mẹ của hắn nếu được phong tặng cáo sắc, thì xin truy đoạt cả, mồ mả cha mẹ có tiếm dụng phong cáo trái phép nào thì đục bỏ bia đi”. Nghị án đưa lên, vua dụ có đoạn rằng: “Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bửa quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, chẳng cần gia hình chi cho uổng công. Vậy cho tổng đốc Phiên An (Gia Định) đến chỗ mả hắn cuốc bỏ núm mộ san bằng mặt đất và khắc đá dựng bia ở trên viết to mấy chữ: “Đây chỗ tên lại cái lộng quyền Lê Văn Duyệt chịu phép nước”. Mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định bị cuốc bằng và bị xiềng xích. Đến năm Tân Sửu (1841) vua Thiệu Trị lên ngôi, biết Tiên đế làm tội oan Lê Văn Duyệt, nên xuống chiếu hủy bỏ bia kết tội cùng xiềng xích và cho xây đắp cả lại, tức là mộ mà nay ta còn thấy ở Bà Chiểu Gia Định. Năm đầu đời Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin phục hồi quan tước, gia ơn cho con cháu các công thần Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất. Vua Tự Đức xem sớ cảm động mới truy phong lại cho cả ba ông và ban phẩm hàm cho con cháu họ. Lại cho đắp phần mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định cao rộng thêm và cho tu bổ lại đền thờ cạnh mộ tại vùng Bà Chiểu, nay gọi là Lăng Ông Bà Chiểu (trích Tri Tân tạp chí - bài “Lê Văn Duyệt” của Nguyễn Triệu). Ngày 6-4-2006, chúng tôi về Tiền Giang dự lễ giỗ của song thân Tả quân Lê Văn Duyệt mà nhân dân địa phương ấp Thạnh Hòa, xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang (nơi sinh của Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt) quen gọi thân mật là giỗ Ông cố, Bà cố. Các chữ trên mặt bia hầu hết bị đục xóa tan nát chẳng thể nào đọc được. Tuy nhiên, may mắn thay, hình như vị quan nhận lệnh triều đình Minh Mạng đục bia đã cảm nghĩa thương tình nên chừa lại những chữ cần thiết để người đời sau có thể xác định được người nằm dưới mộ là ai. Nhưng theo chúng tôi biết, đây là tước hàm mà vua Minh Mạng đã cáo tặng thân phụ Tả quân khi ông mất năm 1821. Cũng cần phải nói thêm là ngay hàng lạc khoản bên trái còn sót lại bảy chữ: “Tự tử.(các chữ bị đục bỏ) Lê Văn Duyệt bái giám” , nghĩa là: “Người con nối dõi (chức tước bị đục bỏ) là Lê Văn Duyệt cúi lạy xin chứng giám lòng thành (lập bia)”. Hàng chữ to ở giữa còn bốn chữ: “Hiển khảo. (chữ bị đục) chi mộ” , nghĩa là: “Ngôi mộ của người cha đã qua đời của tôi.(chữ bị đục bỏ)”. Hàng bên phải nơi ghi ngày tháng lập bia còn nguyên tám chữ: “Tuế tại Tân Tỵ trọng xuân cốc nhật” , nghĩa là: “(Bia được lập) ngày tốt tháng hai năm Tân Tỵ (1821)”. Tuy trọn ngày 6-4-2006 chúng tôi đã cố gắng dùng đủ mọi kinh nghiệm trong nhiều năm nghiên độc bia mộ nhưng cũng đành chịu không thể đọc được chữ nào trong bốn hàng chữ bị đục vỡ, nên đành hẹn tuần sau sẽ quay lại thực hiện phương pháp dập bia của Trung Quốc. Nhưng chỉ căn cứ và những chữ còn sót lại chúng tôi cũng cho rằng người nằm dưới mộ là ông Lê Văn Toại, cha của Tả quân, vì những lý do sau đây:. Qua tư liệu lịch sử đích xác thì khi còn sanh tiền ông Lê Văn Toại đã có lần được ra kinh đô Huế triều kiến vua Gia Long, được phong hàm “Vũ Huân tướng quân chưởng cơ hầu” và ân tứ áo khăn. Năm 1819 vua Gia Long băng hà, Lê Văn Duyệt phải ra Huế chịu tang vua và theo lệ phải hiếu tang ba năm. Năm 1821 ông Toại mất, Tả quân phải cáo tang và xin đặc ân chịu tang cha trong khi còn chịu tang vua. Vua Minh Mạng ân tứ và cho sứ giả theo Lê Văn Duyệt vào Gia Định phúng điếu, đồng thời tặng chức hàm Thống chế cho thân phụ Tả quân (trích Đại Nam liệt truyện chính biên). Tháo gỡ rào chắn ở TP.HCM: tháo chướng ngại vật và tâm lý nặng nề cho người dân. TTO - Thông tin các hàng rào bằng thép gai, ghế đá, giàn giáo. làm rào chắn ở các tuyến đường, con hẻm, chốt kiểm soát tại TP.HCM sẽ được tháo dỡ từ nay đến ngày 30-9, người dân bày tỏ sự phấn khởi sau nhiều ngày đường sá bị ngăn cách. TP.HCM kiến nghị Thủ tướng cho phép áp dụng quy định riêng để mở cửa kinh tế. TTO - Với điều kiện đặc thù, TP.HCM kiến nghị Thủ tướng xem xét cho phép TP.HCM áp dụng quy định riêng do Thủ tướng quyết định để có thể mở cửa nền kinh tế. TTO - Phương án lưu thông giữa TP.HCM và các tỉnh, đi lại trong TP để áp dụng từ ngày 1-10 đang được Sở Giao thông vận tải lấy ý kiến. Nhiều băn khoăn đặt ra: người lao động quay lại TP.HCM bằng cách nào, thông tin cho xe cá nhân ra sao.?. Đi lại và ra vào TP.HCM sau ngày 1-10: Xe gắn máy thì sao? Chưa tiêm vắc xin như thế nào?. TTO - Phương án lưu thông giữa TP.HCM và các tỉnh, đi lại trong TP để áp dụng từ ngày 1-10 đang được Sở Giao thông vận tải lấy ý kiến. Nhiều băn khoăn đặt ra: người lao động quay lại TP.HCM bằng cách nào, thông tin cho xe cá nhân ra sao.?. TTO - Đại diện êkip của ca sĩ Phi Nhung cho biết ca sĩ vẫn đang được điều trị tích cực tại Bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM. TTO - Tính từ ngày 26-5, thời điểm phát hiện ca COVID-19 từ ổ dịch là nhóm truyền giáo, hôm nay, TP.HCM đã đi qua tròn 4 tháng chống dịch. Cùng nhìn lại đợt dịch này tại TP.HCM để ghi nhớ 4 tháng đặc biệt, không thể nào quên.
Lê Văn Duyệt
Lê Văn Duyệt (1763 hoặc 1764 – 28 tháng 8 năm 1832) còn gọi là Tả Quân Duyệt, là một nhà chính trị, nhà quân sự lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong các chỉ huy chính của quân đội chúa Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây Sơn. Khi chiến tranh kết thúc và nhà Nguyễn được thành lập, ông trở thành một đại thần, phục vụ hai triều vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) và Minh Mạng. Ông nội ông là người gốc Quảng Ngãi, vào Tiền Giang lập nghiệp nên ông sinh ra tại Tiền Giang. Lê Văn Duyệt gia nhập quân đội Gia Định, cùng chúa Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn từ năm 1781. Ông cầm quân thắng nhiều trận lớn, nên nhanh chóng thăng tiến trong hàng ngũ của quân Gia Định tới chức chỉ huy Tả Quân vào thời điểm cuộc chiến kết thúc. Sau khi nhà Nguyễn thành lập, ông trở thành một vị quan, tướng quân giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều đình, nhiều lần công cán ở cả phía Bắc thành và hai lần được cử làm Tổng trấn Gia Định Thành. Việc cai trị của ông đã góp công lớn giúp ổn định và phát triển khu vực Nam kỳ, khiến cho vùng này từ một khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh thành một khu vực bình yên và giàu có.
Cộng hòa Guinea Xích Đạo là một quốc gia ở khu vực Tây Phi, bên bờ vịnh Guinea. Đất nước này có diện tích khoảng 28.000 km2 và dân số hơn 1,2 triệu người. Từ giữa thập niên 1990 đến nay, Cộng hòa Guinea Xích Đạo là một trong những nước xuất khẩu dầu lớn tại vùng Châu Phi cận sa mạc Sahara. Ban đầu người dân Guinea Xích Đạo có nguồn gốc thuộc sắc tộc Bantu, sau này người Fang dư cư đến đây và dần chiếm ưu thế. Hiện 80% dân số Guinea Xích Đạo là người Fang. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ chủ yếu tại đây với khoảng 67,6% người dân nói được thứ tiếng này. Ngoài ra, tiếng Pháp và tiếng Bồ Đào Nha cũng được sử dụng tại đây nhưng khá ít. Nhờ nguồn thu lớn từ dầu mỏ và có dân số ít, Guinea Xích Đạo là nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất Châu Phi. Chỉ số GDP (PPP) của nền kinh tế Guinea Xích Đạo đứng thứ 43 trên thế giới. Tuy nhiên, sự bất bình đẳng giàu nghèo và sự mất ổn định trong địa chính trị khiến người dân của đất nước này không được hưởng lợi từ nguồn thu dầu mỏ. Theo thống kê chưa tới 50% người dân nước này được tiếp cận với nguồn nước sạch và 20% số trẻ em tử vong trước 5 tuổi. Năm 2019, Guinea Xích Đạo đứng thứ 144 trong bảng xếp hạng chỉ số phát triển con người (HDI). Nền giáo dục tại Guinea Xích Đạo đã được cải thiện đáng kể nhờ chương trình giáo dục bắt buộc cho trẻ em từ 6-14 tuổi. Trong 40 năm tỷ lệ mù chữ của nước này đã giảm từ 73% xuống 13%. Từ năm 1996, khi những mỏ dầu lớn được phát hiện Guinea Xích Đạo chủ yếu xuất khẩu dầu mỏ và giàu lên nhanh chóng. Đến năm 2004, Guinea Xích Đạo có với sản lượng khai thác 360.000 thùng dầu/ngày, trở thành nước khai thác dầu lớn thứ 3 tại Châu Phi. Trong khoảng 2000-2010, tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Guinea Xích Đạo đạt 17%, thuộc hàng cao nhất Châu Phi và trở thành nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất châu lục, gấp 83 lần so với Burundi - nước nghèo nhất khu vực. Nhưng người dân Guinea Xích Đạo không được hưởng nhiều những thành quả kinh tế này do bất ổn chính trị. Mãi đến năm 2017, Guinea Xích Đạo mới được Liên Hiệp Quốc mới đưa ra khỏi danh sách các nước kém phát triển nhất. GDP danh nghĩa (Nominal) của Guinea Xích Đạo vào năm 2019 đạt khoảng 12,432 tỷ USD với GDP danh nghĩa bình quân đầu người đạt 9.141 USD/người. Còn Việt Nam, GDP danh nghĩa đạt 266,5 tỷ USD và bình quân đầu người đạt 2.786 USD/người. Guinea Xích Đạo chủ yếu liên lạc với các nước trong khu vực. Đất nước này cũng có 3 sân bay quốc tế và có đường bay tới Châu Âu nhưng chủ yếu là vận tải hàng hóa. Guinea Xích Đạo chưa có hãng bay nào được cấp phép hoạt động tại Châu Âu.
Guinea Xích Đạo
Cộng hòa Guinea Xích Đạo (phiên âm tiếng Việt: Ghi-nê Xích Đạo; tiếng Tây Ban Nha: República de Guinea Ecuatorial) là một quốc gia nằm ở bờ biển phía tây của Trung Phi, với diện tích 28.000 kilômét vuông (11.000 dặm vuông Anh). Trước đây nước này là thuộc địa Guinée thuộc Tây Ban Nha, tên hậu độc lập của nó gợi lên vị trí của nó gần cả Xích đạo và Vịnh Guinea. Guinea Xích Đạo là quốc gia châu Phi có chủ quyền duy nhất trong đó tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ chính thức. Tính đến 26/9/2020, đất nước này có dân số là 1.414.181. Guinea Xích Đạo bao gồm hai phần, một khu vực nội địa và lục địa. Khu vực đảo này bao gồm các đảo Bioko (trước đây là Fernando Pó) ở Vịnh Guinea và Annobón, một hòn đảo núi lửa nhỏ, là phần duy nhất của đất nước phía nam xích đạo. Đảo Bioko là phần cực bắc của Guinea Xích đạo và là địa điểm của thủ đô Malabo của đất nước. Quốc đảo São Tomé và Príncipe nói tiếng Bồ Đào Nha nằm giữa Bioko và Annobón. Vùng đại lục, Río Muni, giáp với phía bắc của Cameroon và Gabon ở phía nam và phía đông.
Là một trong những cái nôi của văn hóa thế giới, ngoài những thành tựu về kiến trúc, hội họa và thời trang thì Bóng Đá cũng là một thành tựu nổi bật của quốc gia hình chiếc ủng : ITALIA. Bóng đá xuất hiện ở Ý từ khá sớm, năm 1910 đội tuyển Ý đã chơi trận đấu quốc tế đầu tiên với Pháp. Nói về bóng đá thì quốc gia này nổi tiếng đến mức mà mỗi một cổ động viên đều có thể là chuyên gia và bóng đá được coi là một thứ tôn giáo. Với sự hâm mộ cuồng nhiệt và cái gen chiến thắng tiềm ẩn trong huyết quản nên không có gì ngạc nhiên khi đội tuyển bóng đá Ý là một trong những đội bóng mạnh nhất thế giới. Trên thế giới Ý chỉ thua mỗi Brasil về số lần vô địch thế giới, 4 lần so với 5 của các vũ công Samba. Sau khi từ chối tham dự vòng chung kết thế giới lần đầu tiên năm 1930 thì Ý tham dự 2 kỳ World Cup kế tiếp vào các năm 1934, 1938 và họ đều là chủ nhân của chiếc cúp vàng danh giá. Hai lần vô địch còn lại của Ý là vào các năm 1982 và 2006. Là một ông kẹ ở đấu trường thế giới nhưng Ý lại khá đen đủi ở đấu trường cấp châu lục khi mới một lần lên ngôi vào năm 1968. Tuy chỉ duy nhất một lần nâng cao chiếc cúp bạc nhưng đó không phải là điều để đánh giá sức mạnh thực sự của đoàn quân áo Thiên Thanh. Tại đấu trường này họ đã tham dự tổng cộng 8/13 lần giải được tổ chức trong đó ngoài chức vô địch duy nhất thì họ còn có 2 lần giành ngôi Á Quân, 2 lần vào đến bán kết, 2 lần vào đến tứ kết…một thành tích của một ông lớn thực sự. Sức mạnh của đội tuyển bóng đá quốc gia Ý có được như vậy phần lớn là nhờ Ý có một giải vô địch quốc gia nằm trong số ít những giải vô địch hay nhất thế giới. Đây là nơi các ngôi sao hàng đầu trên thế giới từ Nam Mỹ, Châu Âu, Châu Phi đến Châu Á tề tựu về tranh tài. Các câu lạc bộ của Ý cũng nằm trong tốp những câu lạc bộ giàu thành tích nhất của bóng đá Châu Âu. Với đa phần các cầu thủ thi đấu nội địa nên cũng dễ hiểu thành công và sức mạnh của người Ý, việc giáp chiến với nhau hàng tuần trong giải vô địch quốc gia đã tôi luyện lên một tập thể Aruzzi lỳ lợm và rất bản lĩnh. Không những có được một giải vô địch quốc gia mạnh mà Ý còn là cái nôi của những chiến lược gia bóng đá xuất sắc, những bộ óc thiên tài về chiến thuật. Nổi bật trong số đó là chiến thuật Catenacio thần thánh, nó không chỉ đem lại thành công cho bóng đá Ý mà nó như một bảo vật trấn môn của quốc gia này. Đến nay, khi thế giới đã cập nhật nhiều xu hướng chiến thuật khác nhau nhưng Catenacio với những biến thể được nâng lên tầm nghệ thuật vẫn là một trong những chiến thuật cơ bản và dễ đem lại thành công nhất. Nói như vậy không phải bóng đá Ý không có những nốt trầm mà đội tuyển quốc gia là một sự thể hiện tiêu biểu. Sự vươn lên mạnh mẽ của La Liga và EPL đã khiến Seria A tụt hậu khá nhiều, đó cũng là lý do mà từ sau khi lên ngôi vô địch thế giới ở Đức năm 2006, đã 14 năm bóng đá Ý chưa được nếm mùi vinh quang. 14 năm, 6 giải đấu lớn trôi qua với Ý là con số không tròn trĩnh, cuộc khủng hoảng danh hiệu cần được chấm dứt trước khi nó xói mòn niềm tin của những tifosi dành cho đoàn quân Thiên Thanh của mình. Một cuộc cải tổ đẫ được thực hiện, một trang những Aruzzi đích thực được mang về trên băng ghế huấn luyện, Roberto Mancini, môt huấn luyện viên mang dòng máu chiến thắng đích thực khi đã khẳng định được tài năng cùng Manchester City lật đổ được sự thống trị của gã khổng lồ Manchester United. Tại vòng bảng Euro 2021, Ý cùng bảng với Thụy Sỹ, Thổ Nhỹ Kỳ và Xứ Wales. Sẽ không khó để Mancini và các học trò vượt qua vòng bảng nhưng cũng sẽ rất nhiều khó khăn chờ đợi Ý ở các vòng knockout vì giải đấu năm nay quy tụ không sót một đại diện hùng mạnh nào của bóng đá Châu Âu. Trong đợt tập trung mới nhất thì Ý cũng đã triệu tập đầy đủ những hảo thủ của mình, tất cả đã sẵn sàng cho một chiến dịch lớn, một sự trở lại của sắc màu Thiên Thanh.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý
Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý (tiếng Ý: Nazionale di calcio dell Italia) là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Ý và đại diện Ý trên bình diện quốc tế. Ý là đội bóng giàu thành tích thứ 3 trong lịch sử World Cup sau Brazil và Đức với 4 chức vô địch (1934, 1938, 1982 và 2006), 2 lần về nhì (1970, 1994) và 1 lần về thứ 3 (1990). Ý giành được tấm huy chương vàng Thế vận hội Mùa hè duy nhất vào năm 1936 ở Berlin và 1 tấm huy chương đồng vào năm 1928 ở Amsterdam. Ý giành được 2 chức vô địch Euro vào năm 1968 và 2020, và 2 lần về nhì (2000, 2012). Tại FIFA Confederations Cup thì Ý đạt vị trí thứ 3 năm 2013. Biệt danh của đội bóng là Azzurri dựa trên màu sắc trang phục thi đấu truyền thống của các đội tuyển và các vận động viên thể thao Ý. Màu xanh Azure (azzurro, trong tiếng Ý) bắt nguồn từ "Azzurro Savoia" (màu xanh Savoi) là màu biểu trưng của nhà Savoy, dòng họ hoàng gia đã điều hành Vương quốc Italia thống nhất (1861 - 1946) và cũng là màu sắc chủ đạo trong văn phòng của Tổng thống Ý.
Rời hộp đêm lúc 1h30 sáng, Mikael Hveem lấy điện thoại đặt xe Uber. Anh chọn chiếc rẻ nhất và kinh ngạc khi thấy một chiếc Maserati đắt tiền màu xanh tím than trờ tới. Lái xe còn trẻ, mặt búng ra sữa, tự giới thiệu là Jason. Hveem hỏi tại sao cậu ta lại lái Uber, rõ ràng cậu không cần tiền. Jason trả lời, cậu chỉ muốn gặp gỡ mọi người, đặc biệt là các cô gái. Lái xe lòng vòng quanh các hộp đêm ở Bắc Kinh, cậu cho rằng sẽ gặp được cô gái bị quyến rũ bởi anh chàng 22 tuổi trẻ măng lái xe thể thao. Christopher Beam, phóng viên Bloomberg, cho biết khi nghe một người bạn ngồi cùng xe với Hveem kể lại, anh chủ động xin thông tin của Jason. Beam làm quen với cậu qua WeChat, một ứng dụng nhắn tin phổ biến của Trung Quốc, và xin phỏng vấn Jason. Cậu ta lập tức trả lời bằng một loạt ảnh chụp phụ nữ ăn mặc thiếu vải kèm lời nhắn "Những gái điếm ngon nhất Bắc Kinh :),". Beam giải thích lại với Jason cậu đã hiểu lầm ý của anh, và họ hẹn gặp nhau. Tại một quán cà phê ở trung tâm Bắc Kinh, Jason cho biết tên thật là Zhang. Cậu làm việc tại một công ty truyền thông chuyên sản xuất chương trình truyền hình thực tế, nhưng không có vẻ gì là người bận rộn. Jason từng học ở Mỹ, trường dạy golf tại Florida, và cậu bỏ học sau hai năm. Bố cậu là chủ tịch một công ty nhân sự lớn, còn mẹ là quan chức chính phủ. Zhang đeo một chiếc đồng hồ IWC trị giá 5.500 USD và giải thích, cậu đeo chiếc này vì lỡ làm mất cái đắt tiền rồi. Beam hỏi Zhang cậu có bao nhiêu tiền. "Tôi không biết", Zhang nói. "Nhiều hơn số tôi tiêu được". Phú nhị đại ở Trung Quốc như Paris Hilton ở Mỹ một thập kỷ trước. Cứ vài tháng một lần, lại nổi lên một vụ bê bối của phú nhị đại nào đó, chẳng hạn như một cô nàng đốt hàng xấp 100 tệ (khoảng 16 USD); hay thành viên câu lạc bộ xe thể thao nở nụ cười chế giễu, tạo dáng bên cạnh chiếc Lamborghini. Năm 2013, cả Trung Quốc xôn xao và tỏ ra khinh miệt khi các phương tiện truyền thông đưa tin về bữa tiệc sex của phú nhị đại ở bãi biển khu nghỉ dưỡng Tam Á. Quách Mỹ Mỹ, mỹ nữ nổi tiếng Trung Quốc vừa bị kết án 5 năm tù vì tội đánh bạc, trước đó đăng hình lên mạng chụp cùng 5 triệu nhân dân tệ, ngay lập tức, đối thủ của cô đăng ảnh kèm con số 3,7 tỷ nhân dân tệ trong tài khoản ngân hàng lên. Gần đây nhất, con trai của Vương Kiện Lâm - ông trùm bất động sản và là người giàu nhất Trung Quốc, khiêu khích cả nước bằng tấm hình chụp chó cưng đeo hai chiếc đồng hồ vàng của Apple. Bức ảnh con chó đeo hai chiếc đồng hồ Apple gây xôn xao Trung Quốc. Phú nhị đại không chỉ khiến cả quốc gia xấu hổ, mà còn bị coi là mối đe dọa kinh tế, thậm chí cả chính trị. Chủ tịch Tập Cận Bình từng khuyên bảo thế hệ nhà giàu thứ hai này "suy nghĩ về nguồn gốc của cải của họ, và cư xử sao cho đúng mực". "Họ chỉ biết khoe của chứ không biết cách tạo ra của cải", Ủy ban Mặt trận Thống nhất của đảng Cộng sản Trung Quốc cảnh báo trong một bài xã luận. Một vài chính quyền địa phương đang từng bước giáo dục lại thế hệ giàu có này. Hồi tháng 6, theo Beijing Youth Daily, 70 người thừa kế các công ty lớn của Trung Quốc đã nghe giảng về lòng hiếu thảo và vai trò của giá trị truyền thống trong kinh doanh. Chiến dịch chống tham nhũng do ông Tập khởi xướng từ năm 2012 đã kiềm chế bớt những hành động phô trương của cải thái quá, tuy nhiên, khoảng cách giàu nghèo vẫn hiện rõ mồn một trên đường phố Bắc Kinh, giữa những xe ba gác bán trái cây dạo và những chiếc Audi đen bóng. Sau vài tuần thâm nhập giới phú nhị đại, Beam thuyết phục được một thành viên nhóm này mời đến dự bữa tiệc gặp mặt thường xuyên. Khi đến nơi, Beam tưởng mình đến nhầm chỗ. Đó là một khu đồ nướng ngoài trời phía bắc Bắc Kinh, nơi người dân ngồi trên những chiếc ghế thấp đến nỗi, mới nhìn cứ tưởng họ đang ngồi xổm, uống bia Yanjing rẻ tiền và nhai thịt cừu xiên nướng. Nhìn quanh quất, Beam khó khăn lắm mới phát hiện đám triệu phú đang ngồi ở giữa. Họ ăn vận giống hệt những người khác, với áo ba lỗ, quần bò, xỏ dép lê. Thứ duy nhất làm họ khác biệt là rượu tự mang đi, gồm vang Pháp và một chai Mao Đài - loại rượu trắng hảo hạng và đắt tiền. Martin Hang, chủ xị bữa tiệc, là biên tập viên một tạp chí gọi là Thế hệ Giàu có, giới thiệu các thành viên. Có khoảng một chục người, gồm Wang Daqi, 30 tuổi, con trai của một nhà tư vấn kinh doanh nổi tiếng, người gần đây viết một cuốn sách về con nhà giàu ở Trung Quốc. Albert Tang, 20 tuổi, sinh viên khoa Triết học ở đại học tư thục Bard nổi tiếng ở Mỹ, có bố điều hành một công ty xuất bản lớn ở Bắc Kinh. Sophia Cheng, 27 tuổi, phụ nữ duy nhất trong nhóm. Beam chưa rõ tiêu chuẩn để được xếp vào nhóm phú nhị đại, nhưng Cheng quả quyết là cô đủ điều kiện, mặc dù Hang không đồng tình. Cheng nói bố mẹ cho cô một số tiền lớn, hơn 100 triệu tệ (gần 16 triệu USD), để cô đầu tư vào phim ảnh, trò chơi di động, và một công ty chế biến thịt. Họ uống rượu, nướng thịt và tán dóc, cảm giác vô cùng thân thiết, cứ như đã biết nhau từ lâu. Hang là trung tâm bữa tiệc, anh cho biết là thành viên nổi bật của Hội tiếp sức thế hệ tinh hoa Trung Quốc (Relay), một tổ chức phi lợi nhuận, hoạt động như một câu lạc bộ xã hội, kết nối thế hệ phú nhị đại. "Chúng tôi cố gắng giúp thế hệ thứ hai cùng nhau tốt hơn", Hang nói, rõ ràng và chính xác, mặc dù đã uống khá nhiều. Thành lập năm 2008, tổ chức này giúp thế hệ nhà giàu thứ hai gặp gỡ nhau, tâm sự về những khó khăn khi làm con nhà giàu. Để tham gia, họ phải đóng 200.000 tệ (3.150 USD) tiền phí, và phải chứng minh rằng doanh nghiệp gia đình hàng năm đóng thuế ít nhất 50 triệu tệ (7,9 triệu USD). Họ tổ chức diễn đàn vài lần một năm, thính giả ngồi nghe giảng về những chủ đề như làm thế nào giảm tối đa tiền thuế hoặc tối đa hóa lợi nhuận (bằng cách hợp pháp, một thành viên đảm bảo); và đến thăm công ty của người khác. "Đa phần những diễn đàn đó rất nhàm chán", Hang nói. Anh lập ra tạp chí riêng năm 2011, hy vọng thúc đẩy mặt tích cực của phú nhị đại hơn là mặt suy đồi mà các phương tiện truyền thông đưa tin. Thành viên của Relay bỏ chữ "fu-phú", thay bằng chữ "chuan-truyền", tự gọi là Truyền nhị đại, nghĩa là doanh nhân thế hệ thứ hai. Mỗi tháng, tạp chí lại ra số mới, hình bìa thường là nam giới. Số tháng 6 là một thanh niên dựa lưng vào chiếc Audi. Mục đích của hội này, Hang cho biết, là khuyến khích thế hệ thứ hai kế nghiệp gia đình, hoặc ít nhất, đảm nhận vai trò nào đó trong việc quản lý. Những công ty như vậy cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế Trung Quốc, Hang nói. Họ không chỉ làm ra 85% doanh thu của các doanh nghiệp phi quốc doanh, mà đặt mục tiêu thành công theo từng quý. Khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp gia đình đó là, con cái họ không muốn làm việc cùng cha mẹ. Hang đưa ra số liệu thống kê của Đại học Giao thông Thượng Hải năm 2012, có tới 82% thế hệ thứ hai không sẵn sàng kế nghiệp gia đình. "Họ không sẵn lòng làm điều đó, nhưng vẫn buộc phải làm", Hang nói. Hơn ai hết, Hang hiểu thấu điều này. Cha anh sở hữu một công ty quảng cáo, thành lập năm 1993 và là một trong những công ty lớn nhất tỉnh Giang Tây. Sau khi tốt nghiệp đại học, Hang chọn học tiếp quản lý tài chính ở Hà Lan và mua lại quyền kinh doanh Norron, một trò chơi trực tuyến ở Bắc Âu. Lúc đó, Hang rất tự mãn về sự nhạy bén kinh doanh của mình. "Tôi cho rằng mình rất giỏi", Hang nói. "Tôi là phú nhị đại, tôi không thích nói chuyện với người khác". Khi trò chơi thất bại ở Trung Quốc, Hang quyết định vào công ty của bố làm việc. "Tôi được lựa chọn", Hang nói. "Tôi có thể làm việc khác, nhưng điều đó sẽ khiến bố mẹ tôi vất vả thêm. Họ chưa bao giờ nói tôi phải kế nghiệp, nhưng tôi cảm thấy mình phải làm việc đó". Tất cả phú nhị đại đều đối mặt với một vấn đề chung, rằng họ có mọi thứ, ngoại trừ năng lực vượt qua cái bóng của cha mẹ. Mọi thành tựu của họ sẽ được ghi nhận cho gia đình, chứ không phải bản thân họ. Hang mô tả mình luôn được giới thiệu là "con trai của ông Hang". Khi Wang viết một cuốn sách và tìm nhà xuất bản, anh không biết liệu họ thực sự muốn xuất bản sách của anh vì nó viết hay, hay là vì cha anh nổi tiếng. "Mọi người luôn nói rằng bạn thật có phúc vì đầu thai vào một gia đình giàu có", Wang nói. "Tôi nói rằng chẳng liên quan. Giàu có không có nghĩa là hạnh phúc. Bạn chỉ có thể biết thế nào là hạnh phúc bằng cách trải nghiệm nó". Không có gì ngạc nhiên rằng hầu hết phú nhị đại, sau khi du hí khắp Bali và trượt tuyết ở Alps, học triết tại Oxford và nhận bằng MBA của Stanford, lại miễn cưỡng về tiếp quản công ty gia đình. Ping Fan, 36 tuổi, phó giám đốc điều hành của Relay, chuyển đến Thượng Hải để lập công ty riêng, còn hơn làm việc trong công ty bất động sản của bố ở tỉnh Liêu Ninh. Anh chọn Thượng Hải vì "nó xa gia đình tôi". Evan Jiang, 28 tuổi, sau khi tốt nghiệp đại học Columbia, từng cân nhắc về làm cùng mẹ kinh doanh kim cương. Tuy nhiên, họ không đồng thuận về hướng phát triển công ty. Jiang tới Merrill Lynch làm việc, sau đó quay về Thượng Hải khởi nghiệp, lập công ty chăm sóc khách hàng lấy cảm hứng từ dịch vụ American Express hồi cô từng sống ở Manhattan. Liu Jiawen, 32 tuổi, có bố mẹ sở hữu một công ty thời trang lớn ở tỉnh Hồ Nam, cũng lập một công ty sản xuất nhãn hiệu thời trang riêng sau khi tốt nghiệp. "Tôi muốn chứng tỏ năng lực của mình", Jiawen nói. Công ty của cô thất bại. Ngoài giàu có, phú nhị đại còn thừa kế những hậu quả của chấn thương tình cảm. Thế hệ doanh nhân Trung Quốc đầu tiên trưởng thành trong quãng thời gian Cách mạng văn hóa đầy khó khăn. Do đó, họ thường lạnh lùng và nghiêm khắc, và giáo dục con theo cách này. Nhiều phú nhị đại có tính cách giống hệt cha mẹ, "rất khó làm bạn với họ", Wang nói.
Phú nhị đại
Phú nhị đại (; tiếng Trung: 富二代; bính âm: Fù èrdài; nghĩa đen: "thế hệ giàu có đời thứ hai") là một thuật ngữ tiếng Trung được dùng để chỉ đến thế hệ con cái của giới nhà giàu mới nổi (nouveau riche) tại Trung Quốc. Cụm từ này nói chung mang hàm nghĩa tiêu cực, thường được nhắc đến trên các phương tiện truyền thông cũng như trong các cuộc tranh luận hàng ngày ở Trung Quốc đại lục bởi nó tổng hợp một số vấn đề đạo đức có liên quan tới xã hội Trung Quốc hiện đại. Thế hệ phú nhị đại là những người con trai lẫn con gái của giới nhà giàu mới nổi tại Trung Quốc trong những năm đầu đổi mới kể từ cuối thập niên 1970 trở đi. Xuyên suốt thời kỳ này, ở khu vực mà sáng kiến của tư nhân được đền đáp bằng sự giàu có thì nhiều người giàu Trung Quốc mới đã nổi lên từ thời kỳ xã hội chủ nghĩa trước đó. Trong khi những cá nhân giàu có này có thể đạt đến một nấc thang địa vị kinh tế xã hội mới nhờ những sáng kiến và nỗ lực của bản thân mình, hoặc nhờ vào việc gia nhập đội ngũ những thành phần quyền lực của đảng cầm quyền, con cái của họ thường được tận hưởng cuộc sống đủ đầy sung túc cũng như có một đường đời bằng phẳng, dễ dàng hơn nhiều.
Quốc hội của Chính quyền Nhân dân (tiếng Tây Ban Nha: Asamblea Nacional del Poder Popular) là Quốc hội lập pháp của Cộng hòa Cuba và là cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước. Đại biểu Quốc hội (hiện là 612 người) được đề cử từ Hội đồng Nhân dân các quận, huyện sau đó được bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Chủ tịch Quốc hội hiện tại là Esteban Lazo Hernández. Phiên họp được tổ chức 2 lần 1 năm. Quốc hội sẽ bầu ra Hội đồng Nhà nước với 31 thành viên. Cuộc bầu cử gần đây nhất diễn ra ngày 3/2/2013. Quốc hội của Chính quyền Nhân dân là cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước và đại diện và nhằm mục đích thể hiện quyền lực của nhân dân. Là cơ quan duy nhất được trao quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội của Chính quyền Nhân dân được tổ chức lần đầu tiên năm 1976 sau khi Hiến pháp 1976 được trưng cầu dân ý ngày 14/2/1976. Phiên họp đầu tiên được diễn ra ngày 2/12/1976. Quốc hội bao gồm những đại biểu được bầu tự do, trực tiếp và bỏ phiếu kín, theo tỷ lệ và thủ tục của pháp luật, và có nhiệm kỳ 5 năm. Nhiệm kỳ chỉ có thể được gia hạn khi có chiến tranh hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt không thể bầu cử và tới khi hoàn cảnh kết thúc. Các ứng cử viên được đề cử bởi Ủy ban Đề cử được xem xét bởi các Hội đồng Quyền lực Nhân dân tương ứng, phê duyệt bằng một cuộc bỏ phiếu. Một khi các ứng cử viên đã được phê duyệt, các ứng viên được đưa vào một dự thảo do Ủy ban Ứng cử Quốc gia trình lên Hội đồng Nhà nước. Danh sách kết quả thông qua với sự chấp thuận của dân số bằng cách bỏ phiếu trực tiếp và bí mật. Số phiếu phải được đa số, nếu không, vòng thứ hai sẽ được tổ chức tiếp tục. Tất cả các luật và nghị quyết của Quốc hội trừ việc sửa đổi Hiến pháp đều được chấp thuận và thực hiện bỏ phiếu đa số. Và có hiệu lực từ ngày ký, và được công bố trên công báo của Cộng hòa. Quốc hội tổ chức 2 phiên họp 1 năm và phiên họp đặc biệt theo yêu cầu của 1/3 số thành viên Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước triệu tập. Phiên họp Quốc hội chỉ được tổ chức khi có 1/2 đại biểu tham dự. Tất cả các phiên họp đều được công khai, trừ những phiên họp mang tình chất đặc biệt căn cứ theo đề nghị nhà nước. Đại biểu là người đại diện không đòi hỏi đặc quyền cá nhân hay lợi ích kinh tế các loại. Trong nhiệm kỳ đại biểu thực hiện hoạt động của mình, đại biểu nhận cùng lương với nơi làm việc của mình và duy trì kết nối với nó, với mọi mục đích. Đại biểu Quốc hội không thể bị bắt giam hoặc bị đưa ra tòa mà không có sự chấp thuận của Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước nếu Quốc hội không họp- ngoại trừ trường hợp bị bắt quả tang. Nhiệm vụ của đại biểu là “quyền lực được thực thi với trách nhiệm vì lợi ích của người dân”, giữ sự tiếp xúc với cử tri, lằng nghe vấn đề của họ, gợi ý và chỉ trích, và giải thích chính sách nhà nước. Đại biểu thể hiện kết quả của mình bằng báo cáo theo luật định. Sự ủy thác của đại biểu có thể bị thu hồi bất cứ khi nào theo biện pháp và nguyên nhân của luật định. Đại biểu có quyền yêu cầu thông tin tới Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Chính phủ hoặc các thành viên hoặc cả hai và yêu cầu thông tin được cung cấp trả lời trong suốt phiên họp của Quốc hội hoặc phiên họp kế tiếp. Tất cả các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp được yêu cầu hợp tác cần thiết để đại biểu có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ trong Quốc hội.
Quốc hội của Chính quyền Nhân dân Cuba
Quốc hội của Chính quyền Nhân dân (tiếng Tây Ban Nha: Asamblea Nacional del Poder Popular) là Quốc hội lập pháp của Cộng hòa Cuba và là cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước. Đại biểu Quốc hội (hiện là 612 người) được đề cử từ Hội đồng Nhân dân các quận, huyện sau đó được bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Chủ tịch Quốc hội hiện tại là Esteban Lazo Hernández. Phiên họp được tổ chức 2 lần 1 năm. Quốc hội sẽ bầu ra Hội đồng Nhà nước với 31 thành viên. Cuộc bầu cử gần đây nhất diễn ra ngày 3/2/2013. Quốc hội của Chính quyền Nhân dân là cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước và đại diện và nhằm mục đích thể hiện quyền lực của nhân dân. Là cơ quan duy nhất được trao quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội của Chính quyền Nhân dân được tổ chức lần đầu tiên năm 1976 sau khi Hiến pháp 1976 được trưng cầu dân ý ngày 14/2/1976. Phiên họp đầu tiên được diễn ra ngày 2/12/1976.
Thương mại điện tử, hay còn gọi là e-commerce, e-comm hay EC, là sự mua bán sản phẩm hay dịch vụ trên các hệ thống điện tử như Internet và các mạng máy tính. Tổng quan về thương mại điện tử, có lẽ hầu hết mọi người đều nghĩ nó chỉ là hình thức mua bán hàng hóa qua mạng internet. Tuy nhiên, thị trường thương mại điện tử cũng được phân thành các hình thức khác nhau phụ thuộc vào đối tượng tham gia. Có 6 loại hình thương mại điện tử cơ bản: Doanh nghiệp với Doanh nghiệp (B2B), Doanh nghiệp với Khách hàng (B2C), Khách hàng với Khách hàng (C2C), Khách hàng với Doanh nghiệp (C2B), Doanh nghiệp với chính phủ (B2A), Khách hàng với Chính phủ (C2A). Thương mại điện tử B2B đề cập đến tất cả các giao dịch điện tử của hàng hóa được thực hiện giữa hai công ty. Loại thương mại điện tử này thường giải thích mối quan hệ giữa các nhà sản xuất sản phẩm và nhà phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Đây là hình thức thương mại điện tử phổ biến nhất, thể hiện mối quan hệ mua bán giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng. Mua sắm dưới dạng thương mại điện tử giúp người dùng dễ dàng so sánh giá cũng như xem phản hồi nhận xét của những người dùng trước. Đối với công ty, nó cho phép họ hiểu biết hơn về khách hàng trên góc độ cá nhân. Loại thương mại điện tử này bao gồm tất cả các giao dịch điện tử diễn ra giữa người tiêu dùng. Các giao dịch này thường được thực hiện thông qua việc sử dụng các mạng xã hội cá nhân như facebook, instagram và các trang web sàn thương mại điện tử như tiki, shopee. Thương mại điện tử C2B diễn ra khi người tiêu dùng cung cấp dịch vụ hoặc sản phẩm của họ cho các công ty mua hàng. Ví dụ như một nhà thiết kế đồ họa chỉnh logo cho một công ty hoặc một nhiếp ảnh gia chụp ảnh cho một trang web thương mại điện tử. Hình thức thương mại điện tử này đề cập đến tất cả các giao dịch giữa các công ty và khu vực hành chính công. Loại hình này liên quan đến nhiều dịch vụ, đặc biệt có thể kể đến như an sinh xã hội, việc làm và các văn bản pháp lý. Một hình thức phổ biến khác là thương mại điện tử C2A, bao gồm tất cả các giao dịch điện tử giữa các cá nhân và khu vực hành chính công. Ví dụ điển hình là việc khai và nộp thuế thông qua cổng thông tin điện tử của Cơ quan thuế. Lấy Magento, một nền tảng có đầy đủ chức năng và là đối thủ nặng ký nhất trong tất cả các nền tảng trên làm ví dụ. Magento sở hữu các tính năng sau, cũng như là các tính năng thiết yêu cần thiết của một nền tảng:. Bạn có thể tìm hiểu thêm về dịch vụ xây dựng nền tảng thương mại điện tử bằng Magento bằng cách nhấp vào nút dưới đây. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại điện tử đang ngày càng tăng lên, do vậy, nắm bắt xu hướng toàn cầu để không bị tụt lại phía sau là điều tối quan trọng trong kinh doanh thương mại điện tử. Có 10 xu hướng cơ bản được dự đoán sẽ định hình nền thương mại điện tử trong năm 2020 cũng như những năm tới. Bán hàng trên nền tảng thương mại điện tử có sự phát triển liên tục và mua sắm trực tuyến là một trong những hoạt động trực tuyến phổ biến nhất những năm gần đây. Doanh số bán hàng trực tuyến dự kiến sẽ tăng từ 1,3 nghìn tỷ trong năm 2014 lên 4,5 nghìn tỷ vào năm 2021 (theo Statista, 2019). Tăng trưởng gấp ba lần trong 7 năm, đó thực sự là một con số khổng lồ. Không thể phủ nhận, đại dịch Covid -19 là một trong những tác động lớn nhất đến xu hướng thương mại điện tử năm 2020. Khi chính phủ trên toàn thế giới đóng cửa các cửa hàng và thực hiện giãn cách xã hội trong nhiều tháng để ngăn chặn sự lây lan của coronavirus, hành vi người dân mua sắm trực tuyến trở nên phổ biến hơn bao giờ hết . Trên thực tế, các nhà phân tích thị trường khẳng định rằng ngành công nghiệp thương mại điện tử sẽ là người hưởng lợi lớn nhất từ đại dịch coronavirus – COVID 19. Tỷ lệ thâm nhập thị trường, hiện ở mức 15%, dự kiến sẽ tăng lên thành 25% vào năm 2025 (theo MarketWatch, 2020). Con số này đánh dấu một sự gia tăng lên đến 67% trong 5 năm. Ngược lại tác động tích cực của COVID-19 đối với thương mại điện tử, nó đã gây ra tổn thất nặng nề cho các cửa hàng vật lý truyền thống. Và dự là trong 5 năm tới, sẽ có khoảng 100.000 của hàng buộc phải đóng cửa. Sự tăng trưởng của việc mua hàng qua thiết bị di động thực sự gây chú ý. Kể từ năm 2016, doanh số bán hàng qua thiết bị di động tăng 15%. Dự đoán đến cuối năm 2021, con số này sẽ tăng lên thành 73% (theo Statista, 2019). Những con số này cho thấy rằng việc cải thiện trải nghiệm mua hàng thiết bị di động sẽ mở ra nhiều cơ hội phát triển hơn cho các doanh nghiệp. Mua sắm bằng giọng nói đang dần trở nên thân thuộc đối với người dùng Internet. 13% chủ sở hữu loa thông minh của Hoa Kỳ nói rằng họ đã mua hàng bằng giọng nói vào cuối năm 2017. Con số đó được dự đoán sẽ tăng lên 55% vào năm 2022 (theo OC&C Strategy Consultants, 2018). Tổng chi tiêu cho mua sắm bằng giọng nói cũng đã tăng lên ở Anh. Xu hướng thương mại điện tử này đã trở nên phổ biến chủ yếu kể từ năm 2014 khi Amazon ra mắt loa thông minh của họ – Echo. Mặc dù mua sắm bằng giọng nói mới chỉ ở giai đoạn đầu của sự phát triển, nhưng thống kê này cho chúng ta thấy rằng nó sẽ ngày càng trở nên phổ biến hơn trong những năm tới. Phương tiện truyền thông xã hội đã thay đổi cách chúng ta hoạt động hàng ngày, bao gồm cả cách chúng ta mua đồ. Người tiêu dùng ngày càng dành nhiều thời gian trên các nền tảng mạng xã hội như facebook, instagram, hay gần đây nhất là cơn sốt tiktok. Đây thực chất là cơ hội tuyệt vời để các thương hiệu xây dựng chiến lược đánh bóng thương hiệu của mình trên các phương tiện truyền thông xã hội nhằm mục đích tăng điểm tiếp xúc với các đối tượng khách hàng tiềm năng. Trước sức ép về mong muốn trải nghiệm mua hàng hoàn hảo và tốc độ nhận hàng thần tốc trên các trang TMĐT của khách hàng, nhiều công ty đã chuyển dần sang sử dụng Automated Fulfillment – tự động hóa hoàn tất đơn hàng. Hình thức này giúp cho doanh nghiệp có thể thực hiện việc giao hàng siêu tốc trong vòng 2h, tăng khả năng xử lý đơn hàng, tối ưu chi phí nhân sự, kho bãi, giảm thiểu rủi ro. Chủ nghĩa tiêu dùng xanh đang gia tăng và các thương hiệu cần phải nắm bắt để hành động. Một nửa số người tiêu dùng nền tảng kỹ thuật số nói rằng mối quan tâm về môi trường ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của họ. Các doanh nghiệp thương mại điện tử nên cố gắng tạo ra các hoạt động sản xuất và phân phối bền vững hơn, đảm bảo từng bước trong quy trình tạo thành sản phẩm công ty mình là thân thiện với môi trường. Chi tiêu của nhà bán lẻ toàn cầu cho Trí tuệ nhân tạo (AI) vào năm 2022 sẽ đạt 7,3 tỷ đô la mỗi năm, tăng từ con số ước tính 2 tỷ đô la vào năm 2018 (theo BusinessWire, 2018). Điều này diễn khi khi các nhà bán lẻ chuyển mục tiêu tập trung vào việc tăng cá nhân hóa trải nghiệm của khách hàng. Nghiên cứu cho thấy rằng các nhà bán lẻ sẽ sẵn sàng đầu tư mạnh vào các công cụ giúp họ cải thiện dịch vụ cho khách hàng và mang lại cho họ lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Các công cụ AI này bao gồm từ các nền tảng tiếp thị tự động được trang bị để đưa ra ưu đãi kịp thời, đến các chatbot trả lời thắc mắc của khách hàng ngay lập tức. Các khía cạnh khác mà AI sẽ giúp ích cho các nhà bán lẻ còn có thể là kế hoạch giá và chiết khấu được tối ưu hóa cho AI, hay là dự báo nhu cầu. Đến năm 2022, hơn 120.000 cửa hàng sẽ sử dụng các công nghệ thực tế tăng cường (AR), mang lại trải nghiệm mua hàng phong phú hơn nhiều cho khách hàng (theo Prnewswire, 2018). Sự áp dụng AR trong lĩnh vực sẽ được thúc đẩy bởi lực lượng lao động bán lẻ và người mua sắm trực tuyến. Một trong những mối quan tâm chính mà mọi người gặp phải khi mua sắm trực tuyến là không thể tận mắt nhìn thấy sản phẩm. Khi đó công nghệ AR sẽ cho phép người mua hàng trực tuyến hình dung rõ hơn các sản phẩm mà họ quan tâm, hoàn hảo giải quyết lo lắng này cho khách hàng. Hơn 50% người mua hàng nói rằng trải nghiệm mua hàng trực tuyến được cá nhân hóa là điều họ rất quan tâm (theo Bazaarvoice, 2018). Thêm vào đó, 74% các nhà tiếp thị (marketers) cũng tin rằng cá nhân hóa có tác động mạnh mẽ và cực kỳ quan trọng trong việc thúc đẩy mối quan hệ giữa khách hàng với một thương hiệu (theo Everthing, 2018). Một trong nhiều khó khăn khi điều hành một cửa hàng thương mại điện tử là phải bán sản phẩm của bạn cho người tiêu dùng không có cơ hội tương tác trực tiếp với sản phẩm. Và đó cũng là khi thương mại hình ảnh bước vào cuộc chơi. Thương mại hình ảnh đưa Marketing đến một cấp độ khác, thay vì chỉ đơn giản là sử dụng ảnh sản phẩm để Marketing doanh nghiệp, nó kết hợp các loại hình ảnh truyền thông khác như nội dung do người tiêu dùng tạo ra, nội dung với mục đích tương tác, video thu hút và như đã đề cập trước đây , hình ảnh thực tế tăng cường. Thương mại trực quan phát triển tương đối chậm nhưng chắc chắn trở thành một phần không thể thiếu của thương mại điện tử, thể hiện qua sự phát triển của công nghệ deep-learning đằng sau nó. Điều này bao gồm thị trường nhận dạng hình ảnh, được thiết lập để tăng từ 20,19 tỷ đô la năm 2018 lên 81,88 tỷ đô la vào năm 2026 – đánh dấu mức tăng trưởng kép hàng năm là 19,6% (theo MarketWatch, 2020). Các nhà kinh tế học đã đưa ra giả thuyết rằng thương mại điện tử sẽ dẫn đến việc cạnh tranh giá cả sản phẩm. Thực vậy, thương mại điện tử giúp người tiêu dùng thu thập nhanh chóng và dễ dàng thông tin đa dạng về sản phẩm, giá cả và người bán. Ngày nay đã xuất hiện nhiều website chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá về sản phẩm và nhà cung cấp, so sánh giá cả giữa các website bán hàng. Hơn nữa, người tiêu dùng có thể trực tiếp đưa ra các đánh giá của mình về nhiều khía cạnh liên quan tới giao dịch mua sắm, giúp cho những người khác có nhiều cơ hội chọn lựa sản phẩm phù hợp nhất, hoặc chọn được người bán cung cấp dịch vụ tốt nhất, hoặc mua được sản phẩm với giá rẻ nhất. Theo nghiên cứu của bốn nhà kinh học tế học tại Đại học Chicago đã cho thấy sự phát triển của hình thức mua sắm trực tuyến đã ảnh hưởng đến cấu trúc trong hai ngành tạo ra sự tăng trưởng đáng kể trong thương mại điện tử là bán sách và đại lý du lịch. Tóm lại, các doanh nghiệp lớn hơn có cơ hội để giảm chi phí so với những doanh nghiệp nhỏ hơn do các doanh nghiệp lớn có lợi thế về quy mô kinh tế và đưa ra mức giá thấp hơn. Giảm chi phí sản xuất, chi phí tìm kiếm khách hàng, chi phí bán hàng, chi phí tiếp thị. Sản phẩm/dịch vụ được giới thiệu trên một Catalogue điện tử phong phú và được cập nhật thường xuyên. Giúp người tiêu dùng và doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. Vì việc nhanh chóng thông tin hàng hóa đến người tiêu dùng (mà không phải qua trung gian) có ý nghĩa sống còn trong cạnh tranh kinh doanh. Tạo điều kiện tìm kiếm các bạn hàng mới, cơ hội kinh doanh mới trên bình diện trong nước, khu vực và quốc tế. Kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin và đóng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế. Lợi ích này còn có ý nghĩa đặt biệt quan trong đối với các nước đang phát triển, có thể tạo ra một bước nhảy vọt, tiến kịp các nước phát triển trong một thời gian ngắn nhất. Có thể gặp vấn đề khả năng tương thích của phần mềm / phần cứng. Ví dụ như phần mềm Thương mại điện tử có thể không tương thích với một vài hệ điều hành hoặc một vài hợp phần
Thương mại điện tử
Thương mại điện tử, hay còn gọi là e-commerce, e-comm hay EC, là sự mua bán sản phẩm hay dịch vụ trên các hệ thống điện tử như Internet và các mạng máy tính. Thương mại điện tử dựa trên một số công nghệ như chuyển tiền điện tử, quản lý chuỗi dây chuyền cung ứng, tiếp thị Internet, quá trình giao dịch trực tuyến, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), các hệ thống quản lý hàng tồn kho, và các hệ thống tự động thu thập dữ liệu. Thương mại điện tử hiện đại thường sử dụng mạng World Wide Web là một điểm ít nhất phải có trong chu trình giao dịch, mặc dù nó có thể bao gồm một phạm vi lớn hơn về mặt công nghệ như email, các thiết bị di động như là điện thoại. Thương mại điện tử thông thường được xem ở các khía cạnh của kinh doanh điện tử (e-business). Nó cũng bao gồm việc trao đổi dữ liệu tạo điều kiện thuận lợi cho các nguồn tài chính và các khía cạnh thanh toán của việc giao dịch kinh doanh. E-tailing (bán lẻ trực tuyến) hoặc "cửa hàng ảo" trên trang web với các danh mục trực tuyến, đôi khi được gom thành các "trung tâm mua sắm ảo".
Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton là định luật do Isaac Newton nhà vật lý vĩ đại mà thế giới từng sản sinh khám phá ra. Định luật này khẳng định rằng mọi vật trong vũ trụ đều hút nhau với một lực được gọi là lực hấp dẫn. Và theo đó, lực hấp dẫn giữa hai chất điểm bất kì tỉ lệ thuận với tích hai khối lượng của chúng và tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng. Để hiểu rõ hơn về định luật, cùng với Zicxa books hiểu trong bài viết này. Mọi vật trong vũ trụ đều hút nhau với một lực gọi là lực hấp dẫn. Lực hấp dẫn là lực tác dụng từ xa, qua khoảng không gian giữa các vật. Lực hấp dẫn phổ biến nhất và có nhiều ý nghĩa thực tiễn nhất là lực hấp dẫn giữa trái đất và các vật trên trái đất. Lực hấp dẫn giữa hai chất điểm bất kì tỉ lệ thuận với tích hai khối lượng của chúng và tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng. Để biểu trưng định luật vạn vật hấp dẫn, ta dùng hệ thức dưới đây:. → Lưu ý rằng, trong quá trình học thuộc công thức thì chúng ta cần phải nắm rõ ý nghĩa của từng kí hiệu. Từ đó việc học thuộc sẽ đơn giản hơn và tránh sai lầm trong quá trình áp dụng vào tính toán. ♦♦ Chú ý: Định luật vạn vật hấp dẫn chỉ đúng khi khoảng cách giữa hai vật rất lớn so với kích thước của chúng hoặc các vật đồng chất và có dạng hình cầu. Thường thì trong bài toán luôn cho thỏa mãn hai điều kiện trên. Định nghĩa về trọng lực: Trọng lực của một vật là lực hấp dẫn giữa Trái đất và vật đó. Trọng lực đặt vào trọng tâm của vật. Khi thả rơi một vật có khối lượng m ở độ cao h so với mặt đất thì trọng lượng P tác dụng lên vật (lực hấp dẫn giữa Trái đất và vật) là:. Lực này truyền cho vật m gia tốc rơi tự do g. Theo định luật II Newton, ta có: P=m.g (2). → Như đã trình bày ở phần giới thiệu thì lực hấp dẫn của Trái Đất lên mọi vật được xác định là lực hấp dẫn có vai trò nhiều nhất. Và được gọi với một cái tên khác là trọng lực. → g ở đây chính là gia tốc rơi tự do. Thường thì trong các bài tập, gia tốc rơi tự do lấy sắp xỉ bằng 10. Đôi khi cũng có thể là 9.8 m / s^2. Nhận xét: Gia tốc rơi tự do g không chỉ phụ thuộc vào vĩ độ trên Trái Đất mà còn phụ thuộc vào độ cao và độ sâu so với mặt đất. Đáp án: D. Lực hấp dẫn của hai chất điểm là cặp lực cân bằng. Câu 2: Vật m đặt ở nơi có gia tốc trọng trường là g. Biểu thức nào dưới đây miêu tả đúng về mối liên hệ?. Câu 3: Một vật khối lượng m, đặt ở độ cao h so với mặt đất. Khi gọi M là khối lượng Trái Đất, G là hằng số hấp dẫn và R là bán kính Trái Đất. Biểu thức nào dưới đây là biểu thức đúng về gia tốc rơi tự ro của vật đó khi rơi xuống trái đất?. Câu 4: Một viên đá nằm cố định trên mặt đất, giá trị lực hấp dẫn của Trái Đất tác động vào hòn đá thế nào? Chọn đáp án trả lời chính xác nhất cho câu hỏi bên trên. Câu 5: Cho hai quả cầu có khối lượng 20 kg, bán kính 10 cm, khoảng cách giữa hai tâm là 50 cm. Biết rằng số hấp dẫn là G. Độ lớn lực tương tác hấp dẫn giữa chúng bao nhiêu? Biết rằng đây là hai quả cầu đồng chất. Câu 7: Khoảng cách giữa Mặt Trăng và tâm Trái Đất là 38.107 m; khối lượng Mặt Trăng và Trái Đất tương ứng là 7,37.1022 kg và 6.1024 kg; hằng số hấp dẫn G = 1,0672.10-8 N. Tính độ lớn lực hấp dẫn giữa Trái Đất và Mặt Trăng. Chọn đáp án chính xác trong các câu trả lời sau:. Câu 8: Ở mặt đất một vật có trọng lượng 10 N. Nếu chuyển vật này ở độ cao cách Trái Đât một khoảng R (R là bán kính Trái Đất) thì trọng lượng của vât bằng bao nhiêu? Chọn đáp án chính xác nhất. Có thể làm tròn số. Câu 9: Biết gia tốc rơi tự do ơtại đỉnh và chân núi là 9,809 m/s2 và 9,810 m/s2. Coi Trái Đất là đồng chất và chân núi cách tâm Trái Đất 6370 km. Học sinh hãy tìm ra độ cao của ngọn núi có làm tròn số. Câu 10: Biết khoảng cách trung bình giữa tâm Trái Đất và tâm Mặt Trăng gấp 60 lần bán kính Trái Đất; khối lượng Mặt Trăng < khối lượng Trái Đất 81 lần. Có vật M nằm trên đường thẳng nối tâm Trái Đất và tâm Mặt Trăng mà ở đó có lực hấp dẫn của Trái Đất và của Mặt Trăng cân bằng. So với bán kính Trái Đất, khoảng cách tự M đền tâm Trái Đất gấp bao nhiêu lần? Chọn đáp án chính xác cho câu hỏi bên trên?. Sau bài học này các em đã hiểu rõ hơn về định luật vạn vập hấp dẫn. Sau đó cần áp dụng công thức làm bài tập vật lý lớp 10 nhanh, ghi nhớ công thức và đọc hiểu lý thuyết cơ bản để làm các bài tập có độ khó cao hơn.
Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton
Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton thường được phát biểu rằng mọi hạt đều hút mọi hạt khác trong vũ trụ với một lực tỷ lệ thuận với tích khối lượng của chúng và tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa các tâm của chúng. Việc công bố lý thuyết này được gọi là " sự thống nhất vĩ đại đầu tiên ", vì nó đánh dấu sự hợp nhất của các hiện tượng hấp dẫn được mô tả trước đây trên Trái đất với các hành vi thiên văn đã biết. Đây là một định luật vật lý tổng quát rút ra từ những quan sát thực nghiệm của cái mà Isaac Newton gọi là suy luận quy nạp. Nó là một phần của cơ học cổ điển và được xây dựng trong công việc của Newton Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên ("Principia"), xuất bản lần đầu vào ngày 5 tháng 7 năm 1687. Khi Newton trình bày Quyển 1 của văn bản chưa được xuất bản vào tháng 4 năm 1686 cho Hiệp hội Hoàng gia, Robert Hooke tuyên bố rằng Newton đã lấy được định luật nghịch đảo bình phương từ ông.
Alice in Wonderland là câu chuyện phiêu lưu nổi tiếng đã đồng hành cùng tuổi thơ của nhiều thế hệ trong suốt hơn 100 năm qua. Tác phẩm đã được chuyển thể thành nhiều bộ phim, trong đó phải kể đến bộ phim hoạt hình về xứ sở thần tiên của Walt Disney ra đời vào năm 1951. Năm 2010, xứ sở thần tiên Wonderland lại một lần nữa được tái hiện sống động với công nghệ 3D trong bộ phim Alice in Wonderland của đạo diễn lừng danh Tim Burton. Tôi xem bộ phim này lần đầu năm 2010, hồi tôi còn học lớp 7. Con bé lớp 7 hồi đó không thể hiểu hết ý nghĩa và thông điệp bộ phim mang lại mà chỉ thấy thích thú trước thế giới Underland kì ảo và độc đáo. 5 năm sau, khi một lần nữa bước vào thế giới của Alice in Wonderland, tôi mới thực sự nhận ra những thông điệp sâu lắng ẩn sâu trong xứ sở thần tiên tràn ngập những điều kì lạ và điên rồ ấy. Alice in Wonderland là một bộ phim mà mỗi lần xem là một lần bạn phát hiện ra những điều mới mẻ và thú vị về Alice, về Wonderland, về chính cuộc sống này. Alice in Wonderland không dựa theo nguyên tác ban đầu mà là phần tiếp theo của cốt truyện Alice in Wonderland và Through The Looking Glass. Alice Kingsley (Mia Wasikowska) lúc này đã trở thành một cô gái xinh đẹp 19 tuổi nhưng vẫn còn trẻ con, bướng bỉnh. Một ngày, Alice tham dự một bữa tiệc mà chẳng ngờ rằng đó là tiệc đính hôn của cô với một gã quý tộc ngốc nghếch mà mẹ và chị gái cô sắp đặt. Gặp phải tình huống khó xử, Alice bỏ chạy theo một chú thỏ trắng mặc áo gile cầm một chiếc đồng hồ bỏ túi. Alice rơi xuống một hố thỏ và trở lại thế giới thần tiên của ngày xưa mà Alice từng đặt chân tới. Tại đây, cô bắt đầu một cuộc hành trình mới và được gặp lại những người bạn cũ như Mad Hatter (Johnny Depp), sóc chuột Dormouse, anh em sinh đôi Tweedledee – Tweedledum, sâu bướm Absolem, Thỏ Trắng Mc Twisp và đặc biệt là chú mèo Cheshire thoắt ẩn thoắt hiện. Tuy nhiên, Alice không còn ký ức nào về nơi đây nữa, những người bạn cũ cũng khẳng định cô không phải là Alice mà họ biết của 10 năm về trước. Thế giới thần tiên đang dần nhuốm màu sắc u ám bởi sự cai trị độc ác của Nữ Hoàng Đỏ (Helena Bonham Carter). Và chính Alice sẽ là người giải cứu tất cả, trả lại sự yên bình cho mảnh đất màu nhiệm này…. Alice in Wonderland của Tim Burton có nội dung đơn giản, dễ hiểu, thường thấy: người anh hùng đứng lên chống lại cái ác, trả lại sự bình yên cho một vùng đất. Tuy vậy, kĩ xảo và các hình ảnh, chi tiết về vùng đất nằm sâu trong lòng đất lại cuốn hút người xem hơn cả. Wonderland của Tim Burton thật là là một vùng đất có tên Underland, vùng đất mang màu sắc tươi sáng xen lẫn những gam màu âm u sương mù kì ảo, ma quái. Được làm với công nghệ 3D, tuy chưa thật hoàn hảo nhưng khung cảnh ở Underland hiện lên rất kỳ vĩ, bí ẩn và đầy quyến rũ, đủ để hấp dẫn người xem. Ngoài ra, tạo hình nhân vật Mad Hatter quái dị, Nữ Hoàng Trắng (Anne Hathaway) yểu điệu, đặc biệt là Nữ Hoàng Đỏ với đầu to gấp 3 lần bình thường và giọng nói the thé đanh thép vô cùng ấn tượng và độc đáo. Ở thế giới thực nơi Alice đang sống, mọi thứ phải tuân theo chuẩn mực, dù con người có thích điều đó hay không. Từ kiểu tóc, trang phục, đến những điệu nhảy, tất cả đều phải tuân theo nguyên tắc. Thậm chí cuộc sống hôn nhân tương lai cũng không phải do bản thân mình quyết định. Trong thế giới ấy, những người mơ mộng sẽ bị gọi là điên rồ. Trong khi đó, Wonderland là một thế giới dưới lòng đất với màu sắc, cảnh vật ma quái và những điều điên rồ chỉ có trong tưởng tượng. Alice cho rằng thế giới ấy chỉ là giấc mơ của mình và không hề có thật. Thế giới Underland ấy có con thỏ trắng mặc áo gile, có loại bánh và nước uống thay đổi được kích cỡ con người, có con mèo lơ lửng thoắt ẩn thoắt hiện, có con sâu bướm màu xanh da trời, có nữ hoàng đầu to, có đội quân lá bài,… Nhưng ở nơi điên rồ ấy, Alice có thể thả tóc xoã và mặc những chiếc váy thoải mái, phù hợp với mình. Ở nơi ấy, mọi người có thể nhảy những điệu nhảy đặc biệt không giống ai. Và ở thế giới ấy, những việc họ làm đều là lựa chọn của riêng họ; giống như lời Nữ Hoàng Trắng đã nói với Alice: “Cô không chỉ nên sống vì người khác, mọi việc tuỳ vào sự lựa chọn của cô”. Hai thế giới, thế giới thật và Wonderland, suy cho cùng là hai thế giới trái ngược nhau hoàn toàn. Một thế giới là “thật”, một thế giới lại chỉ có trong tưởng tượng. Một thế giới “chuẩn mực” và một thế giới “điên rồ”… Nhưng đến khi thước phim cuối cùng khép lại, bạn sẽ phải tự hỏi liệu đâu mới là thế giới “thật”, đâu mới là thế giới “ảo”? Phải chăng nơi con người chỉ tuân theo những “chuẩn mực” mới chính là ảo tưởng, điên rồ?. Ngoài ra, chi tiết Nữ Hoàng Đỏ và Nữ Hoàng Trắng tranh giành ngai vàng cũng là một chi tiết đặc sắc. Lâu đài mà Nữ Hoàng Đỏ cai trị cũng như cận thần của Nữ Hoàng biểu tượng cho những điều giả dối, giả tạo. Ngược lại, Nữ Hoàng Trắng và cận thần của Người lại biểu tượng cho sự ân cần, nhẹ nhàng, chân thành. Chi tiết Nữ Hoàng Đỏ mất ngai vàng mang ngụ ý những điều giả dối, giả tạo phải bị lật đổ và không được phép cai trị thế giới. Điều này có phần ám chỉ thế giới thực của Alice, nơi những “chuẩn mực” ít nhiều sẽ dẫn đến những điều giả dối, giả tạo. Những “chuẩn mực” ảo tưởng ấy cần được loại bỏ. Alice ngã vào một hố thỏ và lạc vào Wonderland. Nhưng chính chuyến đi lạc ấy lại dẫn đường cho Alice trở lại thế giới thật, thay đổi cuộc sống của cô và giúp Alice trở thành người mà cô mong muốn. Ở cả hai thế giới, Alice đều bị đẩy vào những tình huống bất ngờ và khó xử. Ở thế giới thật, cô bị mẹ và chị gái ép kết hôn với tên ngốc Hamish. Ở Underland, cô bị ép buộc trở thành dũng sĩ cứu vùng đất ấy khỏi sự thống trị của Nữ Hoàng Đỏ. Đối mặt với hai tình huống này, Alice đều bỏ chạy. Nhưng, ở Underland, sau khi nói chuyện với Absolem, cô nhận ra nhiều điều quan trọng. Alice đã can đảm một mình đối mặt với con rồng Jabberwocky, cũng như đủ can đảm nhận ra mình là ai, đủ can đảm một mình đối mặt với tình huống éo le ở thế giới thật. Cuối cùng, Alice đã cứu được vùng đất Underland, thay đổi cuộc sống của mình và đặt những viên gạch đầu tiên trên chặng đường thay đổi thế giới cô đang sống. “Đôi khi, cách duy nhất để đạt được những điều bất khả thi là tin rằng nó khả thi.” Alice, giống như cha mình, sẽ là người biến những điều kì lạ tưởng chừng không thể thành hiện thực và chắc chắn không gì có thể khiến cô lùi bước.
Alice (Alice ở xứ sở thần tiên)
Alice là một nhân vật hư cấu và là nhân vật chính trong tiểu thuyết thiếu nhi Alice ở xứ sở thần tiên (1865) và phần tiếp theo mang tên Nhìn qua gương soi (1871). Người tạo ra cô là Lewis Carroll. Alice là một đứa trẻ sinh ra giữa thời đại Victoria, câu chuyện bắt đầu khi cô vô tình bước vào cuộc phiêu lưu dưới lòng đất sau khi rơi xuống một hố thỏ dẫn đến Wonderland. Trong phần tiếp theo, cô bước qua một tấm gương và lạc vào thế giới khác. Nhân vật Alice bắt nguồn từ những câu chuyện mà Carroll kể để mua vui cho chị em nhà Liddell khi ông chèo thuyền trên dòng sông Isis với người bạn Robinson Duckworth. Câu chuyện vẫn tiếp tục được kể trong những chuyến chèo thuyền tiếp theo. Mặc dù tên của Alice có thể dựa trên tên của Alice Liddell nhưng các học giả không đồng tình về tầm ảnh hưởng của Liddell đối với việc xây dựng nhân vật Alice. Carroll miêu tả đặc điểm của Alice là "trìu mến và dịu dàng", "hòa nhã với tất cả mọi người", "dễ tin người" và "cực kỳ tò mò".
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ. Thành phần chủ yếu của Tài khoản Vãng lai có ảnh hưởng tới việc tính toán giá trị GDP chính là Cán cân Thương mại (mà thường là Thâm hụt Thương mại). Những nhân tố này thường được phân tích trong mối tương quan với nhau. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu ảnh hưởng của Thâm hụt Ngân sách tới tỷ giá hối đoái của đồng đô-la Mỹ. Cán cân Thương mại là phần chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của một nền kinh tế trong một khoảng thời gian xác định. Dữ liệu thống kê được sử dụng để tính toán cán cân thương mại là giá trị tính bằng tiền của tất cả các sản phẩm và dịch vụ xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia. Nếu cán cân thương mại của một quốc gia có giá trị dương thì quốc gia đó đang ở trong tình trạng Thặng dư Thương mại (giá trị xuất khẩu vượt quá giá trị nhập khẩu); còn nếu cán cân thương mại có giá trị âm thì quốc gia đó đang bị Thâm hụt Thương mại (giá trị nhập khẩu vượt quá giá trị xuất khẩu). Khi một quốc gia đang có thặng dư thương mại, tổng giá trị các dòng ngoại tệ chảy vào quốc gia đó cao hơn tổng giá trị các dòng ngoại tệ chảy ra. Ngoại tệ khi vượt qua biên giới sẽ được chuyển đổi thành đồng nội tệ và như vậy, nguồn cung ngoại tệ sẽ tăng lên. Kết quả là tỷ giá hối đoái của các đồng ngoại tệ sẽ giảm còn tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ sẽ tăng. Trong trường hợp một quốc gia đang bị thâm hụt thương mại, đồng nội tệ cần được chuyển đổi thành đồng ngoại tệ để thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế. Kết quả là nguồn cung đồng nội tệ tăng lên và tỷ giá hối đoái sẽ giảm, còn tỷ giá của đồng tiền của quốc gia đang có thặng dư với quốc gia này sẽ tăng. Cục điều tra dân số thuộc Bộ thương mại Mỹ chịu trách nhiệm công bố số liệu về cán cân thương mại của nước này vào ngày thứ Năm thứ ba của mỗi tháng. Tài khoản vãng lai thể hiện các dòng tiền giữa một quốc gia với các quốc gia khác trong một khoảng thời gian xác định. Tài khoản vãng lai bao gồm giá trị xuất khẩu và nhập khẩu, thanh toán từ hoạt động đầu tư tại nước ngoài và thu nhập nhận được từ hoạt động đầu tư nước ngoài tại quốc gia đang xem xét cũng như viện trợ nước ngoài và các dòng tiền khác. Nó là số dư sau khi bù trừ các dòng tiền vào và ra khỏi quốc gia đó. Tuy nhiên, tài khoản vãng lai lại không bao gồm các giao dịch chuyển tiền liên quan tới các nghĩa vụ tài chính hoặc các tài sản có tính chất như các giao dịch tài chính. Việc phân tích tài khoản vãng lai cho phép phân tích hoạt động kinh tế có yếu tố nước ngoài của một quốc gia. Thặng dư tài khoản vãng lai (hoặc sự giảm bớt thâm hụt tài khoản vãng lai) có lợi cho sự tăng giá trị đồng nội tệ. Số liệu tài khoản vãng lai được công bố vào một ngày nhất định vào khoảng giữa mỗi tháng. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ đã lên tới 7% GDP vào năm 2007 (trên 800 tỷ đô-la). Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do tổng giá trị nhập khẩu đã vượt xa tổng giá trị xuất khẩu. Vậy thì, làm thế nào mà nền kinh tế Mỹ lại không sụp đổ khi mà các gia đình, doanh nghiệp và cả chính phủ tại đây đều đang chi tiêu nhiều hơn những gì họ làm ra và tiết kiệm được ít hơn những gì họ đem đi đầu tư? Thâm hụt tài khoản vãng lai của nước Mỹ được tài trợ bởi các khoản vay từ nước ngoài và từ các định chế tài chính quốc tế. Nó tạo ra các nguồn tài chính khổng lồ chảy vào quốc gia này mỗi năm. Trên quy mô toàn cầu, tổng giá trị tài khoản vãng lai của tất cả các quốc gia cộng lại sẽ bằng không, bởi thăng dư của quốc gia này sẽ được bù trừ bởi thâm hụt của quốc gia khác. Ví dụ, tài khoản vãng lai của Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á khác so với Mỹ là dương. Trung Quốc hiện đang theo đuổi chính sách kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu, và neo chặt đồng nội tệ (Nhân dân tệ) vào đồng đô-la Mỹ. Bằng cách ngăn chặn sự tăng giá của đồng Nhân dân tệ, Trung Quốc có được lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế. Thăng dư thương mại của Trung Quốc tạo ra lợi thế cho hoạt động đầu tư quốc tế của nước này nói chung: Trung Quốc đầu tư rất nhiều vào cổ phiếu và trái phiếu chính phủ Mỹ, qua đó hỗ trợ tỷ giá hối đoái của đồng đô-la, đồng thời tài trợ cho các khoản tiêu dùng và đầu tư trong lãnh thổ nước Mỹ. Các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ một phần đáng kểlượng chứng khoán đang lưu hành tại Mỹ và được trả lợi tức trên những chứng khoán này. Ví dụ, Trung Quốc sẽ có lợi khi đầu tư vào các thị trường tài chính có tính thanh khoản cao của Mỹ vì bản thân các cơ hội đầu tư tại Trung Quốc rất hạn chế do tình trạng thăng dư thương mại của nước này, thêm vào đó, đầu tư vào thị trường Mỹ nhìn chung hấp dẫn hơn do môi trường tự do và có tính minh bạch cao tại đây. Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế cho rằng thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ không thể cứ tăng lên mãi. Tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ bị hạn chế bởi thực tế là việc chi trả lãi suất và cổ tức cho những khoản vay từ các nhà đầu tư nước ngoài đến một lúc nào đó sẽ lớn đến mức nó ngốn một phần lớn tổng sản phẩm do nền kinh tế Mỹ tạo ra. Thấy trước được điều này, các ngân hàng trung ương lớn nhất thế giới đang cố gắng giảm dự trữ bằng đồng USD của mình bằng cách chuyển sang các đồng tiền ổn định hơn như là đồng euro. Ngay khi một quốc gia nào đó tuyên bố sẽ chuyển một phần dự trữ bằng đồng đô-la Mỹ sang các ngoại tệ khác để đa dạng hóa danh mục đầu tư thì tỷ giá của đồng USD sẽ phải chịu một áp lực lớn trên thị trường Ngoại hối. Vậy thì liệu có giải pháp hợp lý nào cho vấn đề thâm hụt tài khoản vãng lãi của Mỹ hay không? Nếu có, nó cũng sẽ cần đến hành động trên cả phương diện chính trị lẫn kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Các chuyên gia kinh tế học đưa ra một vài lựa chọn như sau:. Trung Quốc giảm kiểm soát đối với đồng Nhân dân tệ trong đó có việc kiểm soát sự tăng giá của nó so với đô-la Mỹ đồng thời chuyển đổi chính sách, tập trung nhiều vào tăng chi tiêu nội địa. Liên minh Châu Âu theo đuổi các cải cách kinh tế nhằm làm giảm ảnh hưởng của nền kinh tế Mỹ lên nền kinh tế toàn cầu và làm xuất hiện những giải pháp mới cho các vấn đề nội địa của nước Mỹ. Chính phủ Mỹ áp dụng tất cả các biện pháp có thể để hạn chế chi tiêu và tăng cường tích lũy (Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn vào năm 2007 tại Mỹ đã phần nào khuyến khích chính sách này). Sự giảm giá của đồng đô-la là một trong những yếu tố chính dẫn đến tính trạng thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ. Việc tăng nguồn thu bằng đồng đô-la từ các hoạt động đầu tư tại nước ngoài đã khuyến khích Mỹ thúc đẩy các hoạt động này. Ngân sách Liên bang Mỹ là giá trị chênh lệch giữa các nguồn thu nhập và chi tiêu của chính phủ Liên bang. Nó đã ở trong tình trạng thâm hụt trong một vài năm qua.
Cán cân thương mại
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.