title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Zaporizhzhia (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807523
Zaporizhzhia hay Zaporizhia là một thành phố tại Ukraina. Zaporizhzhia, Zaporozhzhia, hay Zaporozhye có thể cũng đề cập đến:
Emanuel Aiwu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807525
Emanuel Aiwu (sinh ngày 25 tháng 12 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. Cremonese. Ngày 5 tháng 8 năm 2022, Aiwu gia nhập câu lạc bộ Cremonese bằng bản hợp đồng kéo dài 4 năm, với mức phí chuyển nhượng được báo cáo là 3,5 triệu euro. Đời tư. Aiwu sinh ra tại Linz, Áo, và là người gốc Nigeria.
Danh sách loài họ Chồn hôi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807527
Họ Chồn hôi (Mephitidae) là một họ thú thuộc Bộ Ăn thịt (Carnivora), gồm chồn hôi và lửng hôi. Trong tiếng Anh, mỗi loài trong họ này được gọi là "mephitid". Các loài chồn hôi phổ biến trên khắp châu Mỹ, trong khi các loài lửng hôi xuất hiện ở quần đảo Sunda Lớn của Đông Nam Á. Các loài trong họ sống ở nhiều môi trường khác nhau, điển hình là đồng cỏ, rừng và cây bụi. Hầu hết các loài họ Chồn hôi dài , cộng đuôi , dù chồn hôi đốm lùn có thể nhỏ đến 11 cm (4 in) cộng đuôi 7 cm (3 in), và một số cá thể chồn hôi sọc có thể dài tới 82 cm (32 in) cộng đuôi 40 cm (16 in). Không có loài nào được ước tính về quy mô quần thể, nhưng có hai loài được phân loại là loài sắp nguy cấp. Các loài thuộc họ Chồn hôi nói chung không được thuần hóa, mặc dù chồn hôi đôi khi được nuôi làm thú cưng. Họ Chồn hôi có 12 loài, chia thành 4 chi: "Conepatus" (chồn hôi mũi lợn), "Mephitis" (chồn hôi), "Mydaus" (lửng hôi) và "Spilogale" (chồn hôi đốm). Họ Chồn hôi ban đầu là một nhánh trong họ Chồn (Mustelidae), với các loài lửng hôi được gộp chung với với những loài lửng khác trong chi "Melinae." Nhưng bằng chứng di truyền gần đây đã dẫn đến sự đồng thuận tách Mephitidae thành một họ riêng. Các loài đã tuyệt chủng cũng được xếp vào tất cả các chi còn tồn tại trừ "Mydaus", cũng như 9 chi đã tuyệt chủng. 26 loài tuyệt chủng đã được tìm thấy, mặc dù do quá trình nghiên cứu và khám phá vẫn đang diễn ra nên số lượng và phân loại vẫn chưa chính xác. Quy ước. Mã tình trạng bảo tồn được liệt kê tuân theo Sách đỏ các loài bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Bản đồ phân bố được đính kèm nếu có thông tin. Khi không có thông tin về bản đồ phân bố, sẽ được thay thế bằng mô tả về phạm vi môi trường hoạt động của loài. Vùng phân bố dựa trên danh sách đỏ IUCN cho loài đó trừ khi có ghi chú khác.
Danh sách loài họ Chồn hôi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807527
Tất cả các loài hoặc phân loài đã tuyệt chủng được liệt kê cùng với các loài còn tồn tại đã tuyệt chủng sau năm 1500 và được biểu thị bằng biểu tượng thập tự "". Số liệu quần thể được làm tròn đến phần hàng trăm. Phân loại. Họ Chồn hôi có 12 loài còn tồn tại thuộc 4 chi, chia tiếp thành 60 phân loài. Họ này không có phân họ. Các số liệu này không bao gồm các loài lai hay các loài tiền sử tuyệt chủng. Danh sách loài họ Chồn hôi. Phân loại sau đây dựa trên phân loại của "Mammal Species of the World" (2005), cùng với các đề xuất bổ sung được chấp nhận rộng rãi kể từ khi sử dụng phân tích phát sinh chủng loại phân tử.
Gianluca Saro
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807528
Gianluca Saro (sinh ngày 25 tháng 6 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. Sau khi thi đấu tại lò đào tạo trẻ A.S.D. Ancona và Donatello Calcio Udine, anh gia nhập đội trẻ của Pro Vercelli vào năm 2015, trước khi chuyển sang đội trẻ Juventus chỉ một năm sau. Sau đó, anh thi đấu cho đội trẻ Cesena và Empoli theo dạng cho mượn từ Juventus, trước khi quay trở lại Pro Vercelli vào năm 2019. Anh ra sân 51 trận tại Serie C sau hơn 2 mùa giải cho đội bóng. Mùa hè năm 2021, Saro gia nhập câu lạc bộ Crotone tại Serie B bằng bản hợp đồng kéo dài đến năm 2025. Ngày 30 tháng 1 năm 2022, anh ra mắt đội bóng trong trận hòa 1–1 trước Parma tại Serie B. Ngày 12 tháng 8 năm 2022, Saro gia nhập Cremonese.
Thuốc ức chế men chuyển
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807541
#đổi Thuốc ức chế enzyme chuyển angiotensin
Bộ Tư pháp (Hàn Quốc)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807543
Bộ Tư pháp Hàn Quốc (MOJ; ) là một bộ cấp nội các giám sát các vấn đề tư pháp, đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Nó chịu trách nhiệm giám sát truy tố, các vấn đề pháp lý, kiểm soát nhập cư, cơ quan cải huấn, phòng chống tội phạm và bảo vệ nhân quyền của Hàn Quốc. Trụ sở chính của nó được đặt tại Tòa nhà số 1 của Khu phức hợp Chính phủ Gwacheon ở Gwacheon-si, Gyeonggi-do. Được thành lập vào ngày 17 tháng 7 năm 1948, Bộ Tư pháp là bộ duy nhất chưa từng bị thay đổi hoặc thay đổi tên trong lịch sử của Đại Hàn Dân Quốc.
Ceri(IV) perrhenat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807547
Ceri(IV) perrhenat là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học Ce(ReO4)4. Hợp chất này được biết đến dưới dạng dung dịch có màu vàng nhạt, tuy nhiên dạng rắn của nó chưa được biết đến. Lịch sử. Trong một bài báo trên tạp chí hóa học "Zeitschrift für anorganische und allgemeine Chemie" năm 2019, Maurice Conrad và Thomas Schleid cho biết mục đích ban đầu của họ là thực hiện điều chế một hợp chất có công thức Ce(ReO4)4·"n"H2O. Tuy nhiên, do sự tinh khiết của các hóa chất mà họ sử dụng (cụ thể các hóa chất bị nhiễm calci và natri), họ lại thu được tinh thể không màu của phức CaNa(ReO4)3. Nguyên nhân là do họ sử dụng nước chống ion hóa không đúng cách. Tuy vậy, họ vẫn tiếp tục nghiên cứu phức chất vừa thu được. Điều chế. Ceri(IV) perrhenat được điều chế bằng cách cho ceri(IV) sulfat tác dụng với bari perrhenat trong dung dịch.
Yedisan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807551
Yedisan (còn viết là "Jedisan" hay "Edisan"; , , , ) là một tên gọi có điều kiện cho Özi [Paşa] Sancağı (sanjak [huyện] Ochakiv) của tỉnh Silistra thuộc Đế quốc Ottoman, một lãnh thổ nằm ở miền Nam Ukraina ngày nay giữa sông Dniester và sông Nam Bug. Khu vực được người Ottoman đặt dưới quyền kiểm soát của Hãn quốc Nogai vào thế kỷ 17 và 18, và được đặt theo tên của một trong những bộ tộc Nogai. Tại Đế quốc Nga, nó được gọi là "tỉnh Ochakov", trong khi người Thổ Ottoman gọi nó đơn giản là Özü theo tên thành phố Ochakiv từng là trung tâm hành chính của khu vực. Một tên khác được sử dụng là "Tây Nogai". Về mặt địa lý, đây là phần phía tây của cái gọi là Cánh đồng hoang trải dài về phía bắc Biển Đen giữa các sông Dniester và Dnepr. Khu vực nằm ở phía đông Budjak và Bessarabia, phía nam Podolia và Zaporizhzhia, và phía tây Taurida. Kể từ giữa thế kỷ 20, lãnh thổ đã được phân chia giữa tây nam Ukraina và đông nam Moldova (phía nam Transnistria). Tên gọi. "Yedisan" là một từ tiếng Turk có nghĩa là "Bảy tước hiệu", không nghi ngờ gì là bộ tộc được tạo thành từ bảy phân nhóm. Yedisan đôi khi cũng được gọi là Ochakov Tartary theo tên Ochakov (Ochakiv), thành trì chính của khu vực. Tên của khu vực bằng các ngôn ngữ khác nhau bao gồm: Tiếng Ukraina: Єдисан [Yedysan]; tiếng Nga: Едисан [Yedisan]; tiếng Romania: Edisan; tiếng Tatar Krym và Thổ Nhĩ Kỳ: Yedisan; ; . Lịch sử. Người Magyar có thể đã ở Yedisan (Etelköz) trước khi di cư đến Pannonia. Đây là một phần của Podolia lịch sử, đôi khi vào thế kỷ 17 khu vực bị chiếm đóng bởi người Ottoman, phân chia giữa tỉnh Podolia và tỉnh Silistra. Khu vực này có thời gian được hợp nhất vào cơ cấu hành chính Ottoman với vị thế một phần của tỉnh Silistra (Özi), các thành trì Khadjibey (Odesa) và Özi (Ochakiv) là các trung tâm lớn. Nơi đây cũng là một phần của cuộc xung đột du mục lớn giữa người Nogai là chư hầu của Ottoman và người Cossack Zaporizhia do Nga bảo trợ. Vào cuối thế kỷ 18, Đế quốc Nga dưới quyền Yekaterina Đại đế bắt đầu mở rộng sang khu vực này. Do Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1768–1774), Ottoman đã nhượng lại cho Nga khu vực phía đông của sông Nam Bug.
Yedisan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807551
Thông qua Hiệp định Jassy (Iaşi) năm 1792 nhằm kết thúc Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1787–1792), biên giới Nga được mở rộng đến sông Dniester và việc tiếp quản Yedisan đã hoàn tất. Sau khi người Nga tiếp quản, thành phố Odesa được thành lập vào năm 1794. Khu vực này được người Moldova, Nga và Ukraina cùng với một bộ phận đáng kể người Đức đến định cư với vị thế một phần của Novorossiya. Khu vực này từng là một phần của tỉnh Kherson thời Đế quốc Nga, và ngày nay là một phần của các tỉnh Odesa và Mykolaiv của Ukraina, và phần phía nam của vùng ly khai Transnistria của Moldova.
Đại Ân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807556
Đại Ân có thể là:
Máy quét vân tay
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807560
Máy quét vân tay (tiếng Anh: "Fingerprint scanner") hay Thiết bị nhận dạng vân tay là các hệ thống bảo mật dựa trên sinh trắc học. Chúng được sử dụng tại các đồn cảnh sát, các ngành công nghiệp an ninh, các điện thoại thông minh, và các thiết bị di động khác. Vân tay. Con người có các mô hình vân tay trên ngón tay của mình, các mô hình này được gọi là vân tay. Vân tay có đặc điểm độc nhất, bền vững trong suốt cuộc đời của mỗi người và khó để thay đổi. Do sự kết hợp độc đáo này, vân tay đã trở thành phương tiện nhận dạng lý tưởng. Các loại máy quét vân tay. Có bốn loại máy quét vân tay: Máy quét quang học (optical scanners), máy quét điện dung (capacitance scanners), máy quét siêu âm (ultrasonic scanners) và máy quét nhiệt (thermal scanners). Chức năng cơ bản của mỗi loại máy quét là thu được hình ảnh vân tay của một người và tìm kiếm một phù hợp trong cơ sở dữ liệu của nó. Đánh giá chất lượng hình ảnh vân tay dựa trên đơn vị "chấm trên mỗi inch" (DPI). Hầu hết các máy quét vân tay đều có thể bị lừa bằng một kỹ thuật liên quan đến việc chụp ảnh vân tay, xử lý ảnh bằng phần mềm đặc biệt và in ra những bản sao vân tay bằng máy in 3D. Các dạng thiết kế. Có hai dạng thiết kế: máy quét vân tay tĩnh và máy quét vân tay di động. Dạng sử dụng. Đầu đọc độc lập. Microsoft đã phát hành một đầu đọc vân tay vào năm 2005. Đầu đọc tích hợp. Từ đầu những năm 2000, một số laptop hỗ trợ PC Card có thể được trang bị đầu đọc vân tay; ví dụ, Compaq Armada E500 có thể được trang bị tùy chọn đầu đọc vân tay bên ngoài từ năm 2000 - mô-đun đầu đọc được phát hành bởi Toshiba. IBM sản xuất các laptop tích hợp đầu đọc từ năm 2004. Apple đặt tên thương hiệu của công nghệ nhận dạng vân tay điện tử, được biết đến với tên Touch ID, chỉ được giới thiệu vào năm 2013 cho điện thoại thông minh, và tùy chọn cho laptop được phát hành vào năm 2016. Việc triển khai đã bị trì hoãn cho đến năm 2013 chỉ vì tích hợp máy quét vân tay với bàn di chuột quang học đã được đăng ký bằng sáng chế bởi RIM (Blackberry) vào năm 2004. Blackberry đã sản xuất các điện thoại thông minh với đầu đọc từ năm 2010 - mẫu đầu tiên có tính năng này là Blackberry Curve giá rẻ.
Cục Khí tượng (Hàn Quốc)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807565
Cục Khí tượng Hàn Quốc () (KMA) là cơ quan khí tượng quốc gia Hàn Quốc. Dịch vụ này bắt đầu vào năm 1904 khi gia nhập WMO vào năm 1956. Dự báo thời tiết bằng số được thực hiện bằng bộ phần mềm Mô hình Thống nhất . Lịch sử. Chính quyền hiện tại được thành lập vào năm 1990. Các đài quan sát tạm thời được thành lập vào năm 1904 tại Busan, Incheon, Mokpo và các nơi khác là tiền thân của KMA hiện tại. Văn phòng Khí tượng Trung ương (CMO) được thành lập vào tháng 8 năm 1949. Vào tháng 4 năm 1978, CMO được đổi tên thành Cục Khí tượng Hàn Quốc (KMS). Năm 1999, Cục đã giới thiệu một siêu máy tính khí tượng để dự báo. Tính đến tháng 11 năm 2021, siêu máy tính "Guru" và "Maru" lần lượt xếp thứ 27 và 28 trên thế giới. Năm 2010, KMA đã phóng vệ tinh khí tượng địa tĩnh đầu tiên của Hàn Quốc, Vệ tinh Truyền thông, Đại dương và Khí tượng (COMS), còn được gọi là Chollian. Chollian bắt đầu hoạt động chính thức vào năm 2011. Các đài quan sát Seoul và Busan đã được Cơ quan Khí tượng Thế giới (WMO) công nhận là Trạm quan sát trăm năm vào năm 2017. Năm 2019, Chính quyền đã hoàn thành việc phát triển mô hình dự báo thời tiết số của riêng mình. Các kỹ năng và kỹ thuật dự báo của Chính quyền được coi là đẳng cấp thế giới. Dự án Radar thời tiết. Vào năm 2013, Tập đoàn Điện tử Doanh nghiệp (EEC) có trụ sở tại Hoa Kỳ nằm ngoài Enterprise, Alabama đã giành được hợp đồng cung cấp 11 hệ thống radar thời tiết Doppler phân cực kép Klystron băng tần S cho KMA. Các radar sẽ được lắp đặt trên toàn quốc như một phương tiện cung cấp vùng phủ sóng radar thời tiết hoàn chỉnh trên toàn quốc. Vị trí. Trụ sở chính hiện nay được đặt tại Khu phức hợp Chính phủ Daejeon, Cheongsa-ro, Seo-gu, Daejeon. Trụ sở cũ đặt tại Daebang-dong, Dongjak-gu, Seoul. Các cơ quan hợp tác bao gồm chủ yếu 5 loại: văn phòng khu vực của KMA, trạm thời tiết , đài quan sát và văn phòng chung để quan sát khí tượng.
Kefe (tỉnh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807568
Tỉnh Kefe hay Caffa () là một eyalet (tỉnh) của Đế quốc Ottoman. Tỉnh trải dài trên bờ biển phía bắc của Biển Đen với sanjak chính (Pasha sanjak) nằm ở bờ biển phía nam của Krym. Tỉnh nằm dưới quyền cai trị trực tiếp của Ottoman, hoàn toàn tách biệt với Hãn quốc Krym. Thủ phủ của tỉnh là Kefe, tên tiếng Thổ Nhĩ Kỳ của Caffa (Feodosiya hiện đại ở Krym). Lịch sử. Thành phố Caffa và các khu vực xung quanh lần đầu tiên được đặt dưới quyền thống trị của Ottoman sau khi người Thổ đánh bại người Genova vào năm 1475, sau đó một sanjak có trung tâm tại Caffa được thành lập. Tỉnh Kefe được thành lập vào năm 1568 với tư cách là một beylerbeylik. Theo lời của Evliya Çelebi vào thế kỷ 17, các sanjak của tỉnh "được cai trị bởi những Voivoda do Sultan Ottoman bổ nhiệm trực tiếp chứ không phải bởi các Hãn". Tỉnh được sáp nhập vào Hãn quốc Krym độc lập trong thời gian ngắn ngủi từ Hiệp định Küçük Kaynarca năm 1774. Bản thân Hãn quốc bị Đế quốc Nga thôn tính vào năm 1783. Hành chính. Các đơn vị hành chính của beylerbeylik Kefe trong khoảng thời gian 1700-1730 như sau: Đơn vị ban đầu
Masao Uchibori
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807575
(sinh ngày 26 tháng 3 năm 1964) là chính trị gia người Nhật Bản và là thống đốc hiện tại của tỉnh Fukushima kể từ năm 2014. Năm 2006, ông từng là phó thống đốc dưới thời tiền nhiệm cựu thống đốc
Lethrinus rubrioperculatus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807593
Lethrinus rubrioperculatus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1978. Từ nguyên. Từ định danh "rubrioperculatus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "ruber" (“đỏ”) và "operculatus" (“nắp mang”), hàm ý đề cập đến đốm đỏ ở cuối sau nắp mang của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. rubrioperculatus" có phân bố rộng khắp vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến đảo Wake, quần đảo Marshall và quần đảo Marquises, ngược lên phía bắc đến Hàn Quốc và Nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Úc, Nouvelle-Calédonie và Tonga. Loài này cũng xuất hiện tại Việt Nam, bao gồm quần đảo Hoàng Sa. "L. rubrioperculatus" sống gần các rạn san hô, trên nền đáy cát và đá vụn ở đới mặt trước rạn, độ sâu khoảng 10–198 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. rubrioperculatus" là 57 cm, thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 30 cm. Thân màu xanh lục xám hoặc nâu, lốm đốm các vệt đen nhỏ. Môi đỏ. Một đốm ở rìa trên nắp mang thường có màu đỏ. Các vây trắng nhạt hoặc phớt hồng. "L. rubrioperculatus" có thể chuyển sang kiểu hình lốm đốm các vệt trắng (có lẽ là ngụy trang) hoặc xuất hiện một dải nâu dọc hai bên lườn. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 3 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 47–49. Sinh thái. Thức ăn của "L. rubrioperculatus" bao gồm động vật da gai, động vật giáp xác, động vật thân mềm, giun nhiều tơ và cá nhỏ. Tại quần đảo Bắc Mariana, độ tuổi lớn nhất mà "L. rubrioperculatus" đạt được là 8 năm. Trong khi đó, tại Okinawa và Nouvelle-Calédonie, những cá thể có số tuổi lớn nhất được ghi nhận lần lượt là 13 và 15. Như hầu hết các loài cá, "L. rubrioperculatus" là vật chủ của những loài ký sinh, trong đó có nhiều loài mới được mô tả từ cơ thể "L. rubrioperculatus", như sán lá đơn chủ "Calydiscoides euzeti", sán "Lethrinitrema gibbus" và "L. dossenus". Thương mại.
Lethrinus rubrioperculatus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807593
Thương mại. "L. rubrioperculatus" là một loại cá thực phẩm chất lượng và được bán ở dạng tươi sống. Ở Bắc Mariana, "L. rubrioperculatus" là một nguồn thực phẩm quan trọng trong nền văn hóa ẩm thực, thường có mặt trong những sự kiện văn hóa địa phương như lễ hội hay đám cưới.
Silistra (tỉnh của Ottoman)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807594
Tỉnh Silistra hay Silistria (; ), sau gọi là tỉnh Özü (; ) nghĩa là tỉnh Ochakiv là một "eyalet" của Đế quốc Ottoman ven bờ biển Đen và bờ nam sông Danube tại phần đông nam châu Âu. Pháo đài Akkerman nằm dưới thẩm quyền của tỉnh. Diện tích được báo cáo của tỉnh vào thế kỷ 19 là . Lịch sử. Tỉnh Silistra được thành lập vào năm 1593 với tên gọi Özi (, ) từ lãnh thổ của Thân vương quốc Karvuna cũ (sau là Dobruja), Silistra ban đầu là sanjak Silistra của tỉnh Rumelia. Tỉnh được đặt theo tên của Silistra, do thống đốc thường cư trú tại pháo đài ven sông Danube này. Vào khoảng năm 1599, nó được mở rộng và nâng lên ngang tầm với một eyalet, có thể là một lợi ích cho vị tổng đốc đầu tiên của tỉnh (beylerbeyi). Tỉnh tập trung trong các vùng Dobruja, Budjak (Bessarabia Ottoman), và Yedisan và bao gồm các thị trấn Varna, Kustendja (Constanța), Akkerman (Bilhorod-Dnistrovs'kyi) và Khadjibey (Odesa), thủ phủ tại các pháo đài Silistra (nay tại Bulgaria) hoặc Özi (nay là Ochakiv tại Ukraina). Vào thế kỷ 17, tỉnh Silistra được mở rộng về phía nam và phía tây, bao gồm hầu hết Bulgaria hiện đại và Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Âu bao gồm các thị trấn Adrianople (Edirne), Filibe (Plovdiv) và Vidin. Vào cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, một loạt các cuộc chiến tranh Nga–Thổ Nhĩ Kỳ đã cắt đứt phần phía đông của tỉnh, Nga cuối cùng sáp nhập toàn bộ Yedisan và Budjak đến giáp sông Danube vào năm 1812. Tỉnh Edirne được thành lập từ phần phía nam tỉnh Silistra vào năm 1830. Với những cải cách hành chính của Ottoman năm 1864, tỉnh Silistra được tái cấu trúc thành tỉnh Danube. Hành chính. Theo "Sancak Tevcih Defteri", tỉnh gồm có tám sanjak từ năm 1700 đến năm 1730 như sau: Các sanjak vào đầu thế kỷ 19:
Podolia (tỉnh của Ottoman)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807600
Tỉnh Podolia () là một eyalet của Đế quốc Ottoman. Thủ phủ là Kamaniçe (), nay thuộc tỉnh Khmelnytskyi, Ukraina. Lịch sử. Năm 1672, quân đội Ottoman dưới quyền Sultan Mehmed IV chiếm lĩnh Kamaniçe sau một cuộc bao vây ngắn ngủi. Hiệp ước Buchach xác nhận quyền kiểm soát của Ottoman đối với thành phố, và nơi này trở thành trung tâm của tỉnh mới. Hiệp ước bị Quốc hội Ba Lan bác bỏ, và chiến tranh lại nổ ra. Chiến dịch của Ba Lan tỏ ra không thành công và Hiệp định Żurawno (1676) khiến Podolia vẫn nằm trong biên giới Ottoman. Một cuộc chiến tranh Ba Lan-Ottoman khác lại nổ ra vào năm 1683. Trong 16 năm tiếp theo, quyền cai trị của Ottoman ở Podolia nói chung chỉ giới hạn trong pháo đài Kamianets bị phong tỏa, do một đơn vị đồn trú gồm 6.000 binh sĩ trấn giữ. Các đơn vị đồn trú khác tại Podolia nằm tại Bar, Medzhybizh, Jazlivec và Chortkiv, mỗi đơn vị chỉ có hơn 100 binh sĩ. Theo ngân sách cấp tỉnh của Ottoman năm 1681, 13 triệu akçe được chi hàng năm cho tỉnh, chủ yếu để trả lương cho binh sĩ. Trong số tiền này, chưa đến 3% được thu từ chính Podolia, phần còn lại được gửi từ ngân khố trung ương. Năm 1681, Thượng phụ Constantinople bổ nhiệm đô thành Chính thống giáo của Kamianets, tên là Pankratij. Pháo đài được trả lại cho Ba Lan theo Hiệp ước Karlowitz (1699). Thống đốc. Trong 27 năm cai trị của Ottoman, Podolia được quản lý bởi chín tổng trấn (pashas) Ottoman: Hành chính. Tỉnh được chia thành bốn sanjak (huyện):
Frank Tsadjout
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807601
Frank Cédric Tsadjout (sinh ngày 28 tháng 7 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. Cittadella. Ngày 18 tháng 9 năm 2020, Frank gia nhập câu lạc bộ Cittadella tại Serie B theo dạng cho mượn. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng trong chiến thắng 3-0 tại Serie B trước Brescia. Pordenone. Ngày 14 tháng 7 năm 2021, anh gia nhập Pordenone theo dạng cho mượn. Ascoli Calcio. Ngày 5 tháng 1 năm 2022, Frank chuyển đến Ascoli theo dạng cho mượn đến ngày 30 tháng 6 năm 2022. Cremonese. Ngày 15 tháng 7 năm 2022, Frank ký hợp đồng với Cremonese. Đời tư. Frank sinh ra tại Perugia, Ý và là người gốc Cameroon.
Gianluca Scamacca
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807605
Gianluca Scamacca (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Atalanta B.C. tại Serie A và đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Ban đầu, Scamacca thi đấu cho Jong PSV và Sassuolo, cùng các khoản cho mượn tại Cremonese, PEC Zwolle, Ascoli và Genoa. Anh đã có trận ra mắt quốc tế cho đội tuyển quốc gia Ý vào năm 2021. Sự nghiệp câu lạc bộ. Sự nghiệp ban đầu. Scamacca là sản phẩm của lò đào tạo trẻ AS Roma và tháng 1 năm 2015, anh chuyển đến đội bóng ở Hà Lan, PSV Eindhoven. Anh ra mắt chuyên nghiệp ở Eerste Divisie với tư cách là cầu thủ Jong PSV vào ngày 22 tháng 1 năm 2016, ở tuổi 17, vào sân thay cho Steven Bergwijn ở phút thứ 61 trong chiến thắng 2–1 trước VVV-Venlo. Sassuolo. Tháng 1 năm 2017, Scamacca ký hợp đồng có thời hạn 4 năm rưỡi với câu lạc bộ Ý Sassuolo. Anh có trận ra mắt Serie A vào ngày 29 tháng 10, khi mới 18 tuổi, vào sân tư băng ghế dự bị ở phút thứ 85 trong trận thua 1–3 trên sân San Paolo trước Napoli. Cho mượn tại Cremonese, PEC Zwolle, Ascoli và Genoa. Tháng 1 năm 2018, Scamacca chuyển đến Cremonese tại Serie B dưới dạng cho mượn. Anh đã có bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên vào ngày 14 tháng 4 năm 2018, trong trận đấu gặp Palermo ở giải đấu. Ngày 31 tháng 8 năm 2018, Scamacca được đội bóng Eredivisie PEC Zwolle cho mượn. Anh ra mắt vào ngày 2 tháng 9 năm 2018, trong trận đấu trên sân khách thắng 1–0 trước Groningen. Ngày 13 tháng 7 năm 2019, anh gia nhập câu lạc bộ Serie B Ascoli, với bản hợp đồng dưới dạng cho mượn. Ngày 2 tháng 10 năm 2020, Scamacca gia nhập đội bóng Genoa ở Serie A dưới dạng cho mượn kéo dài một mùa giải. Trở lại Sassuolo. Scamacca trở lại Sassuolo vào mùa hè năm 2021. Ngày 17 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng, lập một cú đúp trong trận đấu trên sân khách gặp Genoa, giúp họ cầm hòa 2–2. Trong mùa giải 2021–22, anh thường đá chính cùng với Domenico Berardi và Giacomo Raspadori trên hàng công, và kết thúc mùa giải với tổng cộng 16 bàn thắng ở giải đấu.
Gianluca Scamacca
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807605
Anh ra sân lần cuối cho Sassulo vào ngày 22 tháng 5 năm 2022 trước khi rời câu lạc bộ, trong trận thua 0–3 trước AC Milan. West Ham United. Ngày 26 tháng 7 năm 2022, Scamacca đặt bút ký hợp đồng với câu lạc bộ West Ham United ở Premier League, theo bản hợp đồng có thời hạn 5 năm kèm lựa chọn gia hạn thêm một năm. Phí chuyển nhượng trả cho Sassuolo là 30,5 triệu bảng, cộng thêm 5 triệu bảng phụ phí. Scamacca có trận ra mắt West Ham United vào ngày 7 tháng 8 năm 2022, vào sân ở hiệp hai thay cho tiền đạo người Jamaica, Michail Antonio trong trận thua 0–2 trên sân nhà trước Manchester City tại Premier League. Bàn thắng đầu tiên của anh cho West Ham là trong trận đấu tiên trong trận thứ ba của anh là vào ngày 18 tháng 8, ghi bàn thắng mở tỷ số ở hiệp một trong trận play-off UEFA Conference League, gặp Viborg, trận đấu đó kết thúc với chiến thắng 3–1. Ngày 1 tháng 10 năm 2022, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ ở Premier League trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước Wolverhampton Wanderers. Sự nghiệp quốc tế. Anh lần đầu được gọi lên đội tuyển quốc gia Ý để tham dự vòng loại FIFA World Cup 2022 của đội vào tháng 9 năm 2021. Anh ra mắt đội tuyển quốc gia vào ngày 8 tháng 9, vào sân thay cho Federico Bernardeschi ở hiệp hai trong chiến thắng 5–0 trên sân nhà trước Litva. Danh hiệu. Quốc tế. U19 Ý U20 Ý Cá nhân
MacOS Sonoma
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807606
macOS Sonoma (phiên bản 14) là bản phát hành chính sắp tới của macOS, hệ điều hành của Apple dành cho máy tính Mac. Phiên bản kế nhiệm của macOS Ventura, nó đã được công bố tại Hội nghị các nhà phát triển toàn cầu của Apple (WWDC) 2023 vào ngày 5 tháng 6 năm 2023 và dự kiến ​​phát hành vào cuối năm 2023;bản beta dành cho nhà phát triển đầu tiên được phát hành vào ngày 5 tháng 6 năm 2023, và bước vào phiên bản beta công khai vào ngày 11 tháng 7 năm 2023. Nó được đặt tên theo vùng trồng nho ở Hạt Sonoma của California. Tính năng mới. macOS Sonoma cung cấp một số tính năng và cải tiến mới, chủ yếu tập trung vào năng suất và khả năng sáng tạo: Bên cạnh macOS Sonoma, Apple đã công bố các công cụ dành cho nhà phát triển để chuyển các trò chơi Windows sang macOS. Bộ công cụ chuyển trò chơi, được phát hành ở dạng beta, dịch các lệnh gọi giao diện lập trình ứng dụng (API) Windows sang API macOS tương đương một cách nhanh chóng , cho phép các nhà phát triển chạy các phiên bản chưa sửa đổi của trò chơi Windows DirectX 32-bit của họ trên macOS. Người dùng Mac đã có thể sử dụng Game Porting Toolkit để chạy một số trò chơi DirectX 12; các hãng tin công nghệ đã so sánh công cụ này với lớp tương thích Proton của Valve dành cho Linux. Apple cũng đã phát hành Metal Shader Converter để chuyển đổi các shader thành API đồ họa Metal của Apple. Phần cứng được hỗ trợ. macOS Sonoma hỗ trợ tất cả các máy Mac có silicon của Apple và Xeon-W của Intel cũng như chip Coffee Lake/Amber Lake thế hệ thứ 8 trở lên, đồng thời ngừng hỗ trợ cho nhiều máy Mac được phát hành vào năm 2017. iMac 2019 là máy Mac duy nhất được hỗ trợ của Intel thiếu chíp T2. Các kiểu máy Mac sau đây có thể chạy macOS Sonoma được liệt kê bên dưới: Theo phân tích của Ars Technica , các máy Mac 2016 và 2017 nhận được trung bình 6 năm cập nhật, thấp hơn so với 7–8 năm cập nhật mà các máy Mac Intel phát hành từ 2009 đến 2015 nhận được. Lịch sử phát hành. Bản beta dành cho nhà phát triển đầu tiên của macOS Sonoma được phát hành vào ngày 5 tháng 6 năm 2023. Bản beta dành cho nhà phát triển Sonoma là bản đầu tiên có sẵn cho bất kỳ ai có tài khoản Nhà phát triển Apple miễn phí mà không cần đăng ký nhà phát triển.
Cho Seong-Jin
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807609
Seong-Jin Cho (; sinh ngày 28 tháng 5 năm 1994) là nghệ sĩ piano người Hàn Quốc. Anh trở nên nổi tiếng toàn thế giới khi dành ngôi quán quân tại Cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin lần thứ XVII năm 2015 với bản Concerto số #1 cho Piano ở vòng chung kết. Seong-Jin là người Hàn Quốc đầu tiên và là người châu Á thứ ba giành được danh hiệu này.
IC 2118
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807616
IC 2118 (còn được gọi là Tinh vân Đầu Phù thủy do hình dáng của nó) là một tinh vân phản xạ mờ nhạt có hình dạng đặc biệt. Nó được cho là tàn dư của các ngôi sao siêu tân tinh cổ đại hoặc đám mây khí được chiếu sáng bởi ngôi sao siêu khổng lồ Rigel trong chòm sao Orion. Tinh vân này nằm trong chòm sao Eridanus, cách Trái Đất khoảng 900 năm ánh sáng. Đầu Phù thủy có màu xanh lam do các hạt bụi trong tinh vân phản xạ ánh sáng xanh tốt hơn màu đỏ. Các quan sát đã phát hiện khí thải carbon monoxide lớn trong IC 2118, cho thấy sự hiện diện của đám mây phân tử và quá trình hình thành sao trong tinh vân. Ngoài ra, đã tìm thấy ứng cử viên cho các ngôi sao thuộc dãy tiền chính và một số ngôi sao T-Tauri cổ điển sâu bên trong tinh vân. Các đám mây phân tử trong IC 2118 nằm gần ranh giới bên ngoài của bong bóng Orion-Eridanus, một vùng chứa hydro phân tử được thổi bởi các ngôi sao khối lượng lớn trong tổ hợp Orion OB1. Quá trình hình thành sao xảy ra khi lớp vỏ siêu này mở rộng vào không gian giữa các ngôi sao. IC 2118 có hình dạng tương tự sao chổi và có mối liên hệ chặt chẽ với các ngôi sao sáng trong Orion OB1. Hướng của các đám mây sao chổi IC 2118 chứng tỏ mối quan hệ này.
Enrico Pucci
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807617
Enrico Pucci (エンリコ・プッチ, Enriko Putchi) (phiên âm: Ên-ri-cô Pu-chi) là nhân vật phản diện chính trong phần thứ sáu Stone Ocean, đồng thời là phản diện chính thứ năm của loạt manga và anime JoJo's Bizarre Adventure. Pucci tôn thờ siêu phản diện Dio Brando, khát khao thực hiện kế hoạch tạo ra "thiên đường" của Dio. Pucci cũng là kẻ đầu tiên sở hữu ba Bóng quỷ. Trong những bản đầu tiên phát hành trên tuần san Shonen Jump, Pucci có tên đầy đủ là Roberto Pucci. Ngoại hình. Pucci có chiều cao trung bình, thân hình mảnh khảnh, làn da ngăm đen, mái tóc trắng, mặc chiếc áo choàng linh mục có in hình cây thánh giá. Tính cách. Enrico Pucci về tổng thể là một người yếu đuối và ích kỷ. Thời ấu thơ, Pucci là một cậu bé rất nhân hậu, hòa đồng với mọi người xung quanh. Tuy nhiên, tới lúc biết rằng mình từng có một người em trai sinh đôi chết yểu, Pucci trở nên lo sợ trước số mệnh. Đặc biệt sau chuyện của Perla, Pucci cho rằng số mệnh là vị thần tối cao nhất của vũ trụ. Lập trường quan điểm của hắn khác với Dio, kẻ mà hắn tôn thờ nhất. Bởi lẽ Dio cũng cho rằng có những sức mạnh vượt ngoài tầm kiểm soát của hắn, nhưng hắn có ý chí vươn lên nắm lấy thứ sức mạnh ấy, Dio muốn trở thành vị Chúa đích thực. Còn với Pucci, hắn không muốn trở thành Chúa, mà chỉ muốn làm nô lệ mãi mãi cho Chúa. Pucci không ngần ngại sử dụng mọi thủ đoạn tàn bạo nhằm đạt được mục đích. Hắn ngụy biện rằng đó là số mệnh của những nạn nhân, đó là do số mệnh sắp đặt họ phải chết, chứ không phải do hắn giết. Điều này như Wes đã nói, đó là “"một kẻ ác không biết mình ác"". Pucci là người rất thận trọng, không chủ quan coi thường bất cứ tình huống nào. Hắn đã mất 8 năm để nghĩ ra cách phục kích Jotaro. Khi Wes nhớ lại mọi chuyện, Pucci quyết định ngưng kế hoạch lại để giết anh ta, vì lo sợ khả năng của Weather Report. Trong chiến đấu, Pucci luôn giữ khoảng cách chứ không mạo hiểm đối đầu phạm vi gần. Tiểu sử. Pucci sinh ngày 5 tháng 6 năm 1972, trong một gia đình giàu có tại Ý. Hắn được giáo dục đầy đủ ngay từ nhỏ nên có tính cách rất nhân hậu, hòa đồng.
Enrico Pucci
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807617
Sau khi biết mình từng có một người em trai sinh đôi chết yểu tên là Domenico Pucci, hắn bị sốc tâm lý và từ đó luôn đi tìm ý nghĩa của sự sống, của số mệnh. Pucci chọn con đường trở thành một linh mục. Một ngày nọ, Pucci phát hiện Dio đang trốn trong hầm mộ nhà thờ, tuy nhiên hắn không báo cho ai biết, cho phép Dio dưỡng thương bên trong một thời gian khá dài. Để trả ơn, Dio tặng Pucci một đầu mũi tên vàng, giúp Pucci có được sức mạnh Bóng quỷ. Không lâu sau, một người phụ nữ đến thú tội đã tiết lộ, cô ta từng đánh tráo đứa con ốm yếu của mình với một đứa trẻ nhà Pucci. Domenico Pucci hiện tại đã lớn và có tên là Wes Bluemarine. Thật trớ trêu, Wes hiện tại lại là bạn trai của Perla Pucci, em gái Enrico Pucci. Để ngăn cuộc tình loạn luân này xảy ra, hắn thuê băng nhóm P.I. đến đe dọa Wes. Tuy nhiên, P.I. lại thuộc tổ chức KKK, chuyên đi tiêu diệt những người gốc Phi, bọn chúng phát hiện cha của Wes là người da đen nên đã treo cổ Wes, dẫn tới Perla tự tử theo. Pucci, vì nỗi đau khổ trước cái chết của 2 người em, đã thức tỉnh năng lực Bóng quỷ Whitesnake. Đúng lúc này, Wes cũng tỉnh lại do anh ta được Bóng quỷ Weather Report âm thầm bảo vệ. Wes tức giận tấn công Pucci nhưng thất bại, Pucci tiết lộ cả hai là anh em sinh đôi trước khi xóa kí ức của Wes. Pucci đi tìm Dio và trở thành một thuộc hạ trung thành của hắn. Dio nói cho Pucci về kế hoạch tạo ra “thiên đường thực sự”, trao cho Pucci một chiếc xương bàn chân của hắn (thực chất là xương của Jonathan Joestar), và nói đó là một “nguyên liệu”. Sau khi Dio chết, Pucci liên minh với một tên thuộc hạ khác là Johngalli A., cả hai vào làm việc tại nhà tù Green Dolphin Street, nước Mỹ. Trong suốt 8 năm. Pucci miệt mài đi thu thập các năng lực Bóng quỷ và giấu chúng trong một chiếc máy kéo; ném một Bóng quỷ xuống nước và ra lệnh nó bảo vệ chiếc máy kéo đó; ngoài ra, còn giết chết mẹ của cậu bé Emporio Alnino. Trong Stone Ocean. Pucci và Johngalli A. lên kế hoạch gài bẫy con gái của Jotaro Kujo là Jolyne Cujoh, nhằm mục đích đoạt lấy ký ức về cuốn nhật ký Dio. Jotaro Kujo là người đã giết chết Dio và tiêu hủy toàn bộ các đồ vật liên quan đến hắn.
Enrico Pucci
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807617
Jolyne Cujoh bị gài bẫy nhận tội giết người và bị đưa đến nhà tù Green Dolphin Street. Nghe tin, Jotaro lập tức đến gặp và bị Pucci phục kích. Hắn ta lấy đi cả ký ức lẫn Bóng quỷ, khiến Jotaro trở thành người thực vật. Sau đó, vì Johngalli A. đã hành động quá lộ liễu nên Pucci thủ tiêu luôn hắn ta. Một thời gian sau, Pucci phát hiện kho Bóng quỷ cất giấu tại chiếc máy kéo đã bị đánh cắp. Hắn nhận ra Jolyne Cujoh không phải cô gái tầm thường, cô ta đang tập hợp đồng minh để chống lại hắn. Pucci tặng Lang Rangler một Bóng quỷ mạnh và cử đi giết Jolyne. Lang Rangler thất bại. Enrico Pucci đành phải tự mình ra mặt giết Jolyne, nhưng nhận ra sự có mặt của Weather Report, Pucci kìm lại và che giấu được thân phận của mình trước Jolyne. Có Weather Report hỗ trợ, Jolyne gửi Bóng quỷ Star Platinum tới tổ chức Speedwagon. Pucci tới gặp Sports Maxx, yêu cầu Maxx khiến cho chiếc xương Dio có sự sống trở lại. Maxx nói chiếc xương giờ đây đang ở trong khu vực an ninh tối cao. Sports Maxx sau đó tham gia chiến đấu với Ermes và bị tiêu diệt. Jolyne có mặt trong vụ ẩu đả nên tình cờ bị tống vào khu vực an ninh tối cao. Pucci cử bốn sát thủ xuống giết Jolyne nhưng cả bốn đều thất bại. Pucci tới sau và thấy rất nhiều người bị biến thành thực vật. Hắn ta nói rằng kế hoạch đã thành công và lần theo dấu vết của Jolyne. Bằng cách tạo ra ảo ảnh Weather Report, Pucci ám sát Foo Fighters, đánh trọng thương Anasui trước mặt Jolyne, nhưng không đánh lại Jolyne. Pucci phải lấy ký ức của Jotaro ra đánh lạc hướng, trong khi hắn ta cướp lấy Green Baby, chính là chiếc xương Dio nay đã sống lại. Pucci hợp nhất với Green Baby bằng 14 câu thần chú, sau đó rời khỏi nhà tù để đến Mũi Canaveral. Trong lúc chờ đợi trăng non, Pucci gặp được 3 người con ngoài giá thú của Dio. Hắn giúp họ làm chủ năng lực Bóng quỷ và thuyết phục họ tiêu diệt Jolyne Cujoh. Trong 3 người, Donatello Versus là kẻ rất tham vọng, hắn lấy ký ức của Pucci và trả lại cho Weather Report. Weather Report lúc này đã nhớ ra bản thân chính là Wes Bluemarine, bỗng chốc nổi điên và hóa tất cả cư dân trong khu vực thành ốc sên. Pucci lo ngại năng lực của Weather Report nên chuyển hướng đến tiêu diệt anh ta.
Enrico Pucci
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807617
Trận chiến giữa cả hai rất khốc liệt, nhưng may mắn đã đứng về phía Pucci. Wes chết, còn Pucci đi tới Trung tâm vũ trụ Kennedy. Lúc này, Bóng quỷ của Pucci đã tiến hóa thành C-Moon điều khiển được lực hấp dẫn. Jolyne Cujoh đuổi đến nhưng bị áp đảo. Đúng lúc đó Jotaro Kujo xuất hiện, dùng năng lực ngưng đọng thời gian để đánh bại Pucci. Pucci trèo lên tàu vũ trụ và di chuyển cho nó bay đi, nhưng hắn cũng phát hiện ra C-Moon đã tiến hóa thành Made in Heaven, lý do là bởi thời gian bản chất là do sự chuyển động tạo ra. Điều khiển được chuyển động là điều khiển được thời gian. Pucci tăng tốc thời gian, khiến thế giới bị tàn phá. Nhờ vào cơn sóng thần nhấn chìm thế giới, hắn lần lượt hạ gục Anasui, Jotaro, Ermes và Jolyne. Chỉ còn cậu bé Emporio nhảy lên lưng một con cá heo là trốn thoát. Thời gian tiếp tục đẩy nhanh đến sự hủy diệt. Một vũ trụ mới ra đời, trong đó mọi người đều nhận thức được số mệnh của mình và chấp nhận nó. Pucci dịch thời gian đến giai đoạn cậu bé Emporio lần đầu gặp Jolyne để thủ tiêu cậu, vì sợ nhà Jojo sẽ lại thay đổi số phận. Trận chiến giữa cả hai xảy ra, Emporio bất ngờ nhét Bóng quỷ Weather Report vào người, cậu tăng nồng độ ô-xi trong bầu khí quyển lên và khiến Pucci bị ngộ độc ô-xi, do hắn di chuyển với tốc độ quá cao. Pucci van nài trước khi chết nhưng Emporio chỉ nói: “"Đi trên con đường công lý mới là Số Mệnh thực sự"”. Thời gian tiếp tục bị đẩy nhanh và một thế giới khác xuất hiện, có vẻ tươi đẹp hơn. Siêu năng lực. Bóng quỷ. Whitesnake. Whitesnake là Bóng quỷ thuộc nhóm chiến đấu phục kích, chỉ thực sự mạnh khi có sự chuẩn bị từ trước. Nó có thể tiết ra một loại chất axit đặc biệt, có tác dụng tạo ra ảo giác cho người khác, trong thời gian dài sẽ gây ra tình trạng mê man, rơi vào một giấc mơ do Whitesnake tạo ra. Người bị kẹt trong giấc mơ phải phát hiện ra điểm bất hợp lý mới tỉnh dậy được. Khả năng chiến đấu tay đôi của nó thuộc hạng khá, uy lực mạnh và tốc độ cao.
Enrico Pucci
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807617
Hơn tất thảy, nó có thể trích xuất ký ức và Bóng quỷ ra khỏi cơ thể người khác, với điều kiện nó ở thế chủ động. Người mất đi Bóng quỷ sẽ rơi vào trạng thái thực vật, còn mất ký ức là mất trí nhớ tạm thời. Whitesnake đại diện cho những ký ức về bộ truyện Jojo. C-Moon. C-Moon là Bóng quỷ thuộc nhóm chiến đấu bằng năng lực, nó không có khả năng đánh tay đôi, nhưng lại có tốc độ và phản xạ siêu việt. C-Moon có thể thao túng lực hấp dẫn trong một phạm vi rất rộng, nếu nó chạm vào thứ bất kỳ, nó có thể đảo ngược lực hấp dẫn xung quanh vật đó, đây là năng lực rất nguy hiểm khi chiến đấu. Đối với phòng thủ, nó có thể đẩy mọi đối thủ ra xa khỏi chủ thể, bằng cách giảm lực hấp dẫn xung quanh chủ thể. C-Moon đại diện cho lực hấp dẫn. Made in Heaven. Made in Heaven là Bóng quỷ thuộc nhóm chiến đấu bằng năng lực, gần như bất khả chiến bại, chỉ chết khi chủ thể chết. Năng lực của nó là thao túng sự chuyển động của mọi thứ không phải sinh vật sống. Khi kích hoạt lên chính mình, nó sẽ di chuyển với tốc độ vô địch và do đó uy lực tấn công cũng vô địch. Khi kích hoạt lên vật thể, nó khiến vật đó không ngừng vận động cho tới khi bị hủy diệt. Pucci dùng năng lực này lên vũ trụ để đưa vũ trụ đến sự kết thúc và bắt đầu một vũ trụ khác. Ở nơi đó, con người cảm nhận được lờ mờ kí ức từ vũ trụ cũ, do đó ngộ nhận đó là số mệnh của mình và bằng lòng với nó. Chỉ những người từng tiếp xúc với Pucci, và không bị hắn trực tiếp giết chết, mới nhận thức được đầy đủ nguyên nhân. Made in Heaven đại diện cho sự chuyển động. Made in Heaven có vẻ yếu hơn The World. Bởi lẽ với cơ thể ma cà rồng của Dio, The World sẽ phát triển năng lực tới mức đóng băng mọi sự chuyển động vĩnh viễn. Made in Heaven mạnh hơn Star Platinum, bởi Star Platinum bị giới hạn không gian và thời gian sử dụng năng lực. Những lần xuất hiện khác. Pucci xuất hiện trở lại trong tiểu thuyết ngắn "JORGE JOESTAR" của Otaro Maijo, với vai trò là phản diện chính thứ hai. Hắn bị năng lực của Giorno Giovanna đánh bại.
Enrico Pucci
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807617
Hắn bị năng lực của Giorno Giovanna đánh bại. Các tựa game có sự góp mặt của Pucci bao gồm: "All-Star Battle", "Eyes of Heaven", "Eyes of Heaven (New Moon)", "Monster Strike", "All-Star Battle R", "All-Star Battle R (Final)", "Puzzle & Dragons."
Artemijus Tutyškinas
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807620
Artemijus Tutyškinas (sinh ngày 8 tháng 8 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Litva hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ ŁKS Łódź ở giải I liga, cho mượn từ Crotone, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Litva. Sự nghiệp thi đấu. Quốc tế. Tutyškinas ra mắt quốc tế cho Litva vào ngày 8 tháng 9 năm 2021, khi vào sân thay cho Linas Klimavičius trong trận thua 5–0 trước Ý, nhà vô địch Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020 tại Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022. Ở 18 tuổi và 1 tháng, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất từng ra sân tại một trận đấu chính thức cho Litva.
Arsen Zakharyan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807622
Arsen Norayrovich Zakharyan (; sinh ngày 26 tháng 5 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nga hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Dynamo Moscow và đội tuyển bóng đá quốc gia Nga. Sự nghiệp bóng đá. Dynamo Moscow. Mùa giải 2020–21. Ngày 1 tháng 11 năm 2020, Zakharyan có trận ra mắt Dynamo Moscow tại Russian Premier League, trong chiến thắng 2–1 trước Tambov ở mùa giải 2020–21. Anh được trao suất đá chính đầu tiên cho đội bóng Dynamo sau kỳ nghỉ đông là ngày 28 tháng 2 năm 2021, ghi bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 2–1 trước FC Akhmat Grozny. Zakharyan đã trở thành cầu thủ Dynamo Moscow trẻ thứ ba ghi bàn tại Giải ngoại hạng Nga, sau Aleksandr Kokorin và Pyotr Nemov. Zakharyan đã được người hâm mộ Dynamo bầu chọn là cầu thủ của tháng vào tháng 2, tháng 3 và tháng 5 năm 2021 nhờ những màn trình diễn của anh, bao gồm cả bàn thắng muộn trong trận gặp CSKA Moscow vào tháng 5. Anh còn đã được vinh danh là cầu thủ của mùa giải 2020–21. Mùa giải 2021–22. Ngày 23 tháng 7 năm 2021, Zaharyan ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2021–22, ghi mở tỷ số trong chiến thắng 2–0 trước FC Rostov; anh còn được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trận. Ngày 9 tháng 12 năm 2021, anh được Russian Premier League vinh danh là cầu thủ U21 xuất sắc nhất giải đấu năm 2021. Zakharyan được người hâm mộ Dynamo bầu chọn là cầu thủ của mùa giải trong mùa giải thứ hai liên tiếp. Anh cũng đứng thứ hai trong cuộc bầu chọn cầu thủ U21 xuất sắc nhất mùa giải, nhưng bị thua vua phá lưới Gamid Agalarov. Anh còn được Russian Premier League trao danh hiệu cầu thủ trẻ xuất sắc nhất và tiền vệ cánh trái xuất sắc nhất mùa giải 2021–22. Sự nghiệp quốc tế. Ngày 11 tháng 5 năm 2021, Zakharyan lần đầu tiên được khoác áo đội tuyển quốc gia Nga và được đưa vào đội hình 30 người sơ bộ cho UEFA Euro 2020. Tuy nhiên, anh ấy bị nhiễm trùng viêm amidan và bị loại khỏi đội hình giải đấu. Zakharyan ra mắt đội tuyển quốc gia vào ngày 1 tháng 9 năm 2021, đá chính trong trận đấu gặp Croatia ở vòng loại World Cup 2022, nhưng sau đó bị thay ra ở hiệp hai khi trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 0–0.
Arsen Zakharyan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807622
Anh đã trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử đội tuyển quốc gia Nga, khi mới 18 tuổi, 3 tháng, 6 ngày, phá kỷ lục của Alan Dzagoev. Zakharyan cũng trở thành cầu thủ trẻ thứ hai của đội tuyển quốc gia nói chung, sau thủ môn Igor Akinfeev. Phong cách thi đấu. Zakharyan là một cầu thủ đa năng và thường chơi nhiều vị trí tấn công, như tiền vệ cánh, tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ trung tâm. Anh chuyển đổi vị trí trong suốt trận đấu theo yêu cầu của chiến thuật. Những đặc điểm của Zakharyan, chẳng hạn như khả năng dứt điểm, khả năng chuyền bóng và phong cách chơi bóng, đã khiến cầu thủ này được so sánh với cầu thủ người Bỉ Kevin De Bruyne. Tháng 10 năm 2023, Zakharyan được The Guardian bầu chọn là một trong 60 tài năng trẻ xuất sắc nhất thế giới trong số những cầu thủ sinh năm 2003.
Danh sách phim tài liệu Việt Nam thập niên 1970
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807627
Danh sách phim tài liệu Việt Nam thập niên 1970 bao gồm các phim tài liệu, phóng sự, phim khoa học do Việt Nam sản xuất hoặc do các quốc gia khác sản xuất với nội dung xoay quanh các vấn đề của người Việt, được ra mắt lần đầu tiên trong thập niên 1970.
Joma
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807628
Joma () là nhà sản xuất quần áo thể thao của Tây Ban Nha hiện đang sản xuất giày dép và quần áo cho bóng đá, futsal, bóng ném, bóng rổ, bóng chuyền, chạy bộ, quần vợt và padel. Trụ sở chính của nó được đặt tại Portillo de Toledo, Tây Ban Nha. Lịch sử. Joma được thành lập vào năm 1965 bởi Fructoso López để sản xuất giày cho mục đích sử dụng chung. Tên thương hiệu bắt nguồn từ tên con trai đầu lòng của Fructuoso (José Manuel). Năm 1968, công ty bắt đầu chuyên sản xuất và phân phối giày thể thao. Sau thành công tương đối, Joma tham gia vào thị trường bóng đá, gặt hái được nhiều thành công trong nước và quốc tế. Cuối cùng, Joma Sport đã mở văn phòng tại Hoa Kỳ, châu Âu và châu Á, hiện có mặt tại hơn 70 quốc gia trên toàn thế giới.
Victoria Eugenie của Battenberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807631
Victoria Eugenie Julia Ena của Battenberg (tiếng Anh: "Victoria Eugenie of Battenberg"; tiếng Đức: "Victoria Eugénie von Battenberg"; tiếng Tây Ban Nha: "Victoria Eugenia de Battenberg"; 24 tháng 10 năm 1887 – 15 tháng 4 năm 1969) là Vương hậu Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Quốc vương Alfonso XIII của Tây Ban Nha từ ngày 31 tháng 5 năm 1906 đến ngày 14 tháng 4 năm 1931, khi nền Cộng hòa thứ hai của Tây Ban Nha được thiết lập. Victoria Eugenie xuất thân từ gia tộc Battenberg, một dòng nhánh hình thành từ một cuộc hôn nhân bất đăng đối của Gia tộc Hessen-Darmstadt. Victoria Eugenie là cháu gái út của Nữ vương Victoria của Liên hiệp Anh. Không giống như các thành viên khác của gia tộc Battenberg vốn có kính xưng là "Serene Highness" (tạm dịch: Điện hạ Đáng kính), Victoria Eugenie được gọi là "Highness" (Điện hạ) do thông qua Sắc lệnh Vương thất năm 1886, được ban hành bởi Nữ vương Victoria. Thiếu thời. Thân vương tôn nữ?Vương tôn nữ Victoria Eugenie của Battenberg ra đời ngày 24 tháng 10 năm 1887 tại Lâu đài Balmoral, Scotland, con gái duy nhất của Heinrich xứ Battenberg (con trai của Công tử Alexander xứ Hessen và Rhein và Julia Hauke, Nữ Thân vương xứ Battenberg) và Beatrice của Liên hiệp Anh (con gái út của Nữ vương Victoria I của Liên hiệp Anh và Công tử Albrecht xứ Sachsen-Coburg-Gotha). Victoria Eugenie là cháu cuối cùng của một quốc vương Anh sinh ra ở Scotland cho đến khi Vương nữ Margaret chào đời tại Lâu đài Glamis ở Angus vào năm 1930. Vì Thân vương tử Heinrich xứ Battenberg là hậu duệ của một cuộc hôn nhân bất đăng đối nên không thể được hưởng tước hiệu Prince của Hessen và Rhein từ cha, thay vào đó vì mẹ là Julia Hauke được phong là Nữ Thân vương xứ Battenberg nên Heinrich được hưởng tước Prince của Battenberg từ mẹ. Theo lẽ đó, Victoria Eugenie được hưởng tước Prince từ cha và lẽ ra cũng sẽ được hưởng kính xưng Serene Highness tương ứng. Tuy nhiên, ngày 4 tháng 12 năm 1886, Nữ vương Victoria đã ban hành Sắc lệnh Vương thất, cho phép các con của Heinrich và con gái là Vương nữ Beatrice được hưởng bậc kính xưng cao hơn là Highness, do đó Victoria Eugenie được hưởng kính xưng Highness từ khi sinh ra và được gọi là Thân vương tôn nữ/Vương tôn nữ Victoria Eugenie của Battenberg "Điện hạ" ("Her Highness" Princess Victoria Eugenie of Battenberg)"."
Victoria Eugenie của Battenberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807631
Victoria Eugenie (từ đây sẽ gọi là Vương tôn nữ) được đặt tên theo tên bà ngoại là Nữ vương Victoria và mẹ đỡ đầu là Eugenia xứ Montijo, một hoàng hậu Pháp người Tây Ban Nha bấy giờ đang sống lưu vong ở Anh. Đối với gia đình và công chúng Anh, Victoria Eugenie được biết đến với cái tên cuối cùng là "Ena". Vì được sinh ra vào năm thứ 50 của triều đại của Nữ vương Victoria, Victoria Eugenie được gọi là "Đứa trẻ Jubilee". Victoria Eugenie được rửa tội tại Phòng vẽ của Lâu đài Balmoral. Cha mẹ đỡ đầu của Victoria Eugenie ngoài Hoàng hậu Eugenia (đại diện bởi Vương nữ Friederike của Hannover), bác gái bên ngoại là Vương nữ Vương thất và Vương thái tử phi Đức (đại diện bởi Công tước phu nhân xứ Roxburghe), bà nội là Nữ Thân vương xứ Battenberg (đại diện bởi Hầu tước phu nhân xứ Ely), dì là Công tử phu nhân Christian của Schleswig-Holstein (đại diện bởi Bá tước phu nhân xứ Erroll), bác trai bên nội là Thân vương tử Louis của Battenberg (đại diện bởi Bá tước xứ Hopetoun) và bác trai bên ngoại là Công tước xứ Edinburgh (đại diện bởi Ngài Henry Ponsonby). Victoria Eugenie được nuôi dưỡng và giáo dục trong hộ gia của Nữ vương Victoria, vì Victoria chỉ miễn cưỡng cho phép con gái Beatrice kết hôn với điều kiện Beatrice vẫn ở bên Victoria và tiếp tục đảm nhiệm vai trò thư ký riêng của mẹ. Vì vậy, Victoria Eugenie đã trải qua thời thơ ấu của mình tại Lâu đài Windsor, Balmoral và Cung điện Osborne trên Đảo Wight. Ena cũng đóng vai trò là phù dâu trong đám cưới của anh họ là Quốc vương George V của Liên hiệp Anh, lúc bấy giờ là Công tước xứ York và Mary xứ Teck vào ngày 6 tháng 7 năm 1893. Khi được sáu tuổi, Victoria Eugenie bị chấn động não nặng ở Osborne khi bị té khỏi ngựa và đập đầu xuống đất. Các bác sĩ của Nữ vương Victoria đã nhận thấy "các triệu chứng nguy hiểm", chẳng hạn như " các dấu hiệu rõ ràng về áp lực nội sọ, có thể là xuất huyết." Bác gái của Ena, Victoria, Vương nữ Vương thất, đã viết rằng, "Thật quá đau buồn khi [Victoria Eugenie] không thể nhận thức hay mở mắt." Victoria Eugenie có mối quan hệ thân thiết với bà ngoại là Nữ vương Victoria. Ena từng tâm sự rằng: “Được sinh ra và lớn lên dưới sự bảo hộ của bà ngoại, Nữ vương Victoria như người mẹ thứ hai của chúng ta.
Victoria Eugenie của Battenberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807631
Bà ấy rất tốt bụng nhưng cũng rất nghiêm khắc và có những tư tưởng lỗi thời về cách nuôi dạy trẻ em." Khi Victoria Eugenie nói với Nữ vương Victoria rằng: "Con nghĩ đã đến lúc chúng ta đi ngủ", Nữ vương Victoria đã trả lời rằng. "Cô gái trẻ, một Vương nữ nên nói rằng, 'Ta nghĩ đã đến lúc ta nghỉ ngơi Phần Nữ vương Victoria, bà đã viết rằng "Ta yêu những đứa trẻ đáng yêu này gần như không khác mấy so với tình yêu tụi trẻ nhận được từ chính cha mẹ của mình" và gọi Victoria Eugenie là "kho báu bé nhỏ". Sau cái chết của Nữ vương Victoria vào năm 1901, Gia đình Battenberg, trừ cha của Ena vốn đã qua đời vì bị sốt trong thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự ở Châu Phi vào năm 1896, chuyển đến Luân Đôn và cư trú tại Cung điện Kensington. Đính hôn. Năm 1905, Quốc vương Alfonso XIII của Tây Ban Nha có đã có chuyến thăm cấp nhà nước tới Anh. Bác của Victoria Eugenie, Quốc vương Edward VII của Liên hiệp Anh, đã tổ chức một bữa tối tại Cung điện Buckingham để chào mừng đức vua Tây Ban Nha. Alfonso ngồi giữa Vương hậu Alexandra và Vương nữ Helena, em gái của Edward VII. Alfonso đã để ý đến Victoria Eugenie và đã hỏi quý cô nương với mái tóc gần như trắng xóa là ai. Biết rằng QUốc vương Alfonso XIII đang tìm kiếm một nàng dâu phù hợp và một trong những ứng cử viên sáng giá nhất là Vương tôn nữ Patricia xứ Connaught, một người cháu gái khác của Quốc vương Edward VII. Vì Vương tôn nữ Patricia dường như không ấn tượng với quốc vương Tây Ban Nha, Alfonso đã để ý đến Victoria Eugenie, và bắt đầu tán tỉnh Ena. Sau khi trở lại Tây Ban Nha, Alfonso thường xuyên gửi bưu thiếp cho Victoria Eugenie. Mẹ của Alfonso XIII, Thái hậu Maria Christina Henriette không thích sự lựa chọn của con trai mình, một phần vì bà coi Gia đình Battenberg không phải là huyết mạch vương thất vì xuất thân của bà nội của Victoria Eugenie, một phần vì Maria muốn con trai mình kết hôn với người trong gia tộc của mình. Những trở ngại khác đối với hôn nhân là vấn đề tôn giáo (Alfonso là một tín hữu Công giáo La mã, còn Victoria Eugenie là người Anh giáo) và vấn đề về căn bệnh máu khó đông mà Nữ vương Victoria đã truyền cho một số hậu duệ của mình.
Victoria Eugenie của Battenberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807631
Em trai của Vương tôn nữ Victoria Eugenie, Leopold, là một người mắc bệnh máu khó đông, vì vậy có 50% khả năng Ena sẽ là người mang gene bệnh, mặc dù mức độ rủi ro vẫn chưa được xác định. Tuy nhiên, nếu Alfonso kết hôn với cô ấy, hậu duệ của hai người sẽ có nguy cơ mắc phải căn bệnh này. Dù vậy, Alfonso không nản lòng. Sau một năm với những tin đồn về việc Alfonso sẽ kết hôn với Vương nữ nào, vào tháng 1 năm 1906 mẹ của Alfonso XIII cuối cùng cũng đồng ý với quyết định của con trai mình và đã viết một lá thư cho mẹ của Victoria Eugenie, Vương nữ Beatrice và kể cho Vương nữ Beatrice nghe về tình yêu mà Alfonso dành cho Ena và đã tìm cách liên hệ, một cách không chính thức với Edward VII. Vài ngày sau tại Lâu đài Windsor, Quốc vương Edward VII đã chúc mừng cháu gái của mình về lễ đính hôn trong tương lai. Vương nữ Beatrice và con gái đến Biarritz vào ngày 22 tháng 1 và ở tại Villa Mauriscot, nơi mà vài ngày sau, Quốc vương Alfonso XIII đã đến gặp hai mẹ con. Tại Villa Mauriscot, Alfonso và cô dâu tương lai của mình đã tiến hành một khoảng thời gian lãng mạn kéo dài ba ngày cùng với người hộ tống. Sau đó, Alfonso đưa hai mẹ con Victoria Eugenie đến San Sebastián để gặp Thái hậu Maria Christina. Vào ngày 3 tháng 2, Alfonso XIII rời San Sebastian để đến Madrid và Victoria Eugenie cùng mẹ đến Versailles, nơi Vương tôn nữ sẽ được giới thiệu về đức tin Công giáo: với tư cách là Vương hậu tương lai của Tây Ban Nha, Ena đồng ý cải đạo. Lễ chào đón Victoria Eugenie với tư cách là một tín hữu Công giáo diễn ra vào ngày 5 tháng 3 năm 1906 tại Cung điện Miramar ở San Sebastián. Các điều khoản của cuộc hôn nhân được giải quyết bằng hai thỏa thuận, một hiệp ước công khai và một thỏa thuận riêng tư. Hiệp ước được ký kết giữa Tây Ban Nha và Vương quốc Liên hiệp Anh tại Luân Đôn vào ngày 7 tháng 5 năm 1906 bởi các đại diện toàn quyền của hai bên gồm có Đại sứ Tây Ban Nha tại Triều đình Thánh James, Don Luis Polo de Bernabé, và Ngoại trưởng Anh, Ngài Edward Grey và được phê chuẩn vào ngày 23 tháng 5 sau đó.
Victoria Eugenie của Battenberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807631
Bên cạnh các điều koản khác, hiệp ước quy định rằng:BE it known unto all men by these Presents that whereas His Catholic Majesty Alfonso XIII, King of Spain, has judged it proper to announce his intention of contracting a marriage with Her Royal Highness Princess Victoria Eugénie Julia Ena, niece of His Majesty Edward VII, King of the United Kingdom of Great Britain and Ireland and of the British Dominions beyond the Seas, Emperor of India, and daughter of Her Royal Highness the Princess Beatrice Mary Victoria Feodore (Princess Henry of Battenberg)…"Article I." It is concluded and agreed that the marriage between His said Majesty King Alfonso XIII and Her said Royal Highness the Princess Victoria Eugénie Julia Ena shall be solemnized in person at Madrid as soon as the same may conveniently be done. "II." His said Majesty King Alfonso XIII engages to secure to Her said Royal Highness the Princess Victoria Eugénie Julia Ena from the date of her marriage with His Majesty, and for the whole period of the marriage, an annual grant of 450,000 '. His said Majesty King Alfonso XIII also engages, if, by the will of Divine Providence, the said Princess Victoria Eugénie Julia Ena should become his widow, to secure to her, from the date of his death, an annual grant of 250,000 "pesetas", unless and until she contracts a second marriage, both these grants having already been voted by the '. The private settlements to be made on either side in regard to the said marriage will be agreed upon and expressed in a separate Contract, which shall, however, be deemed to form an integral part of the present Treaty…"III." The High Contracting Parties take note of the fact that Her Royal Highness the Princess Victoria Eugénie Julia Ena, according to the due tenor of the law of England, forfeits for ever all hereditary rights of succession to the Crown and Government of Great Britain… Việc hiệp ước đề cập đến việc tước quyền kế vị ngai vàng Anh của Vương tôn nữ Victoria Eugénie không thể hiện chính phủ Anh chỉ trích liên minh cũng như việc từ bỏ quyền kế vị của Vương tôn nữ. Thay vào đó, đó là sự tuyên bố rõ ràng rằng việc kết hôn (và trở thành) một tín hữu Công giáo La Mã, Victoria Eugénie đã mất mọi quyền thừa kế ngai vàng Anh dựa theo Đạo luật Dàn xếp. Sự loại trừ này chủ yếu dựa theo cá nhân: những hậu duệ không theo Công giáo của Victoria Eugenie vẫn được nằm trong danh sách kế vị ngai vàng Anh. Bất chấp hiệp ước, lo ngại về phản ứng đối với cuộc hôn nhân và việc Victoria Eugénie cải đạo đối với tín hữu Kháng Cách đã được giải quyết bởi quyết định của chính phủ Anh rằng Quốc vương Edward VII không cần phải chính thức đồng ý cho cuộc hôn nhân trong Hội đồng Cơ mật, dù thực tế rằng cháu gái của Edward là một công dân Anh. Đạo luật Hôn nhân Vương thất năm 1772 yêu cầu các hậu duệ của Quốc vương George II của Đại Anh phải được sự cho phép của quân chủ Anh để kết hôn, ngoại trừ hậu duệ của các vương nữ đã gả cho "ngoại tộc".
Victoria Eugenie của Battenberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807631
Mặc dù việc nhập tịch của Heinrich xứ Battenberg, cha của Victoria Eugénie thành công dân Anh đã được khởi xướng tại Quốc hội một tuần trước khi Heinrich kết hôn với Vương nữ Beatrice, lễ cưới đã được hoàn thành trước khi Heinrich nhập tịch, do đó Chính phủ có thể nhận định rằng Victoria Eugénie không bị ràng buộc bởi Đạo luật Hôn nhân Vương thất, và do đó quốc vương Anh không có thẩm quyền để cho phép cũng như cấm đoán cuộc hôn nhân của Victoria Eugenie. Tuy nhiên, quốc vương Edward VII đã ban hành một Sắc lệnh Vương thất có nội dung như sau:"Our Will and Pleasure is and we do hereby declare and ordain that from and after the date of this Warrant our Most Dear Niece Princess Victoria Eugénie Julia Ena, only daughter of Our Most Dear Sister Beatrice Mary Victoria Feodore (Princess Henry of Battenberg) shall be styled entitled and called "Her Royal Highness" before her name and such Titles and Appellations which to her belong in all Deeds Records Instruments or Documents whatsoever wherein she may at any time hereafter be named or described. And We do hereby authorize and empower Our said Most Dear Niece henceforth at all times to assume and use and to be called and named by the Style, Title and Appellation of "Her Royal Highness" accordingly. Given at Our Court of Saint James's, the Third day of April 1906: in the Sixth Year of Our Reign. By His Majesty's Command. M Gladstone" Sắc lệnh này đã được công bố trên tờ "London Gazette" với nội dung như sau: "Whitehall ngày 3 tháng 4 năm 1906. Qưốc vương rất hân hạnh tuyên bố và yêu cầu rằng cháu gái của Bệ hạ, Vương tôn nữ Victoria Eugenie Julia Ena Điện hạ, con gái của Vương nữ Beatrice Mary Victoria Feodore (Thân vương tử phi Henry xứ Battenberg), từ nay về sau sẽ được gọi là "Her Royal Highness" (Vương thân Điện hạ)." Vương hậu Tây Ban Nha. Vương tôn nữ Victoria Eugenie của Battenberg kết hôn với Quốc vương Alfonso XIII tại Tu viện Vương thát San Jerónimo ở Madrid vào ngày 31 tháng 5 năm 1906. Hiện dại tại buổi lễ là mẹ của Vương tôn nữ là Vương nữ Beatrice và các anh em của Ena, cũng như họ hàng là Thân vương và Thân vương phi xứ Wales. Sau lễ cưới, khi đoàn rước đang quay trở lại Cung điện Vương thất, một vụ ám sát đã được thực hiện nhằm vào Quốc vương và Vương hậu khi Mateu Morral ném một quả bom từ ban công vào xe ngựa. Victoria Eugenie đã thoát nạn vì vào đúng thời điểm quả bom phát nổ, Vương hậu đã quay đầu lại để nhìn Nhà thờ Thánh María mà Alfonso đang chỉ cho Ena xem. Vương hậu không bị thương tổn nhưng váy cưới của Victoria Eugenie bị vấy máu của một lính canh đang đi bên cạnh cỗ xe. Một bức tượng lớn phía trước Tu viện Vương thất San Jeronimo được xây lên để tưởng niệm các nạn nhân của vụ đánh bom ngày 31 tháng 5 năm 1906.
Victoria Eugenie của Battenberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807631
Sau khởi đầu không suôn sẻ trong nhiệm kỳ làm Vương hậu Tây Ban Nha, Victoria Eugenie trở nên cô lập với người dân Tây Ban Nha và không được yêu mến ở nơi đây. Cuộc sống hôn nhân của Vương hậu được cải thiện khi Victoria sinh ra một cậu con trai và là người thừa kế của vương quốc là Alfonso. Tuy nhiên, trong khi lúc vị vương tử nhỏ được cắt bao quy đầu, các bác sĩ chú ý rằng Alfonso không ngừng chảy máu - dấu hiệu đầu tiên cho thấy người thừa kế bị mắc bệnh máu khó đông và Victoria Eugenie rõ ràng là người mang gene bệnh và đã di truyền cho người con trai cả và út. Trái ngược với phản ứng của Hoàng đế Nikolai II của Nga, người cũng có con trai cũng bị mắc bệnh máu khó đông, Alfonso được cho là chưa bao giờ tha thứ cho Victoria Eugenie cũng như không chấp nhận những chuyện này. Trong cuộc hôn nhân, Quốc vương Alfonso XIII và Vương hậu Victoria Eugenie có bảy người con, năm trai và hai gái và cả hai cô con gái đều không mang gene bệnh máu khó đông. Sau khi những đứa con của họ chào đời, mối quan hệ của Victoria Eugenie với Alfonso trở nên xấu đi và Alfonso có rất nhiều tình nhân. Có thông tin rằng Alfonso XIII ta có mối quan hệ chớp nhoáng với chị họ của Vương hậu là Beatrice xứ Sachsen-Coburg và Gotha, Công tước phu nhân xứ Galliera nhưng điều này vẫn còn gây tranh cãi. Sau đó các thành viên trong vòng tròn quan hệ của Alfonso XIII đã lan truyền tin đồn rằng Beatrice đã bị trục xuất vì những hành xử không đúng mực nhưng không đúng sự thật. Những chuyện này khiến Vương hậu rất đau lòng vì không thể làm gì để giúp đỡ cho chị họ của mình. Victoria Eugenie đã tận tâm làm việc cho các bệnh viện và công tác hỗ trợ dành cho người nghèo và giáo dục. Vương hậu cũng tham gia vào việc tái tổ chức Hội Chữ thập đỏ Tây Ban Nha. Năm 1929, thành phố Barcelona đã dựng một bức tượng của Victoria Eugenie trong bộ đồng phục y tá để vinh danh những công lao của Vương hậu với tổ chức Chữ thập đỏ (bức tượng sau này đã bị phá hủy). Nhiều địa danh khác nhau của Tây Ban Nha đã được đặt theo tên của Victoria Eugenie. Ví dụ, vào năm 1909, một cây cầu có phong cách tân cổ điển của Madrid vốn bắc qua sông Manzanares được đặt theo tên Ena là "Puente de la Reina Victoria". Năm 1912, một nhà hát sân khấu hoành tráng ở San Sebastián được đặt tên là "Teatro Victoria Eugenia".
Victoria Eugenie của Battenberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807631
Năm 1920, Tàu tuần dương Hải quân Tây Ban Nha mà Vương hậu khánh thành được đặt tên là Reina Victoria Eugenia. Vương hậu Victoria là Nữ Tước sĩ thứ 976 của Huân chương Vương thất Vương hậu María Luisa. Năm 1923, Giáo hoàng Piô XI đã trao cho Vương hậu Bông hồng vàng, đây là lần đầu tiên một Vương nữ Anh nhận được vinh dự này kể từ năm 1555 khi Giáo hoàng Giuliô III trao cho vương Mary I của Anh. Victoria Eugenie cũng được bà ngoại, Nữ vương Victoria, trao tặng Huân chương Vương thất Victoria và Albert. Vương hậu cũng được trao tặng Huân chương Chữ thập đỏ Tây Ban Nha Hạng nhất và ngôi sao cài ngực được nạm ngọc và được chi trả bởi Quân đoàn Nữ y tá của Hội Chữ thập đỏ Tây Ban Nha. Lưu vong. Gia đình vương thất Tây Ban Nha lâm vào cảnh sống lưu vong vào ngày 14 tháng 4 năm 1931 sau cuộc bầu cử thành phố đưa Đảng Cộng hòa lên nắm quyền ở hầu hết các thành phố lớn, dẫn đến việc tuyên bố nền Cộng hòa Tây Ban Nha thứ hai. Alfonso XIII đã hy vọng rằng việc tự nguyện sống lưu vong của mình có thể ngăn chặn một cuộc nội chiến giữa Đảng Cộng hòa và Đảng Quân chủ. Cả gia đình ban đầu đến sống ở Pháp, sau đó dời sang Ý. Trong khoảng thời gian này, Victoria Eugenie và Alfonso quyết định ly thân và Vương hậu thường định cư qua lại ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Thụy Sĩ. Ena cũng đã mua lâu đài Vieille Fontaine ở bên ngoài Lausanne. Năm 1938, cả gia đình đến Roma để tham dự làm lễ rửa tội của Vương tôn Juan Carlos, con trai đầu lòng của Vương tử Juan (con trai út của Victoria Eugenie và Alfonso XIII) tại Cung điện Malta, chủ trì bởi Hồng y Quốc vụ Khanh Eugenio Pacelli (người đại diện cho Giáo hoàng Piô XI đang đau ốm và chính ông sẽ trở thành Giáo hoàng Piô XII trong vài tháng sau đó). Vào ngày 15 tháng 1 năm 1941, Alfonso XIII, cảm thấy cái chết của mình đã cận kề, đã chuyển giao quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha cho con trai út là Juan, Bá tước xứ Barcelona. Ngày 12 tháng 2 năm 1941, Alfonso trải qua cơn đau tim đầu tiên và qua đời vào ngày 28 tháng 2 cùng năm.
Victoria Eugenie của Battenberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807631
Theo Harold Tittmann, đại diện của Hoa Kỳ tại Vatican vào thời điểm đó, Victoria Eugenie buộc phải rời khỏi Ý vào năm 1942, vì đã trở thành "nhân vật không được hoan nghênh" đối với chính phủ Ý, vì "sự ẩn mình tệ hại có khuynh hướng về phe Đồng minh" của Ena. Victoria Eugenie trở lại Tây Ban Nha một thời gian ngắn vào tháng 2 năm 1968, để làm mẹ đỡ đầu cho cháu chắt là Vương tằng tôn Felipe, con trai của Vương tôn Juan Carlos và Vương nữ Sophia của Hy Lạp và Đan Mạch. Felipe sau này trở thành Quốc vương Tây Ban Nha vào tháng 6 năm 2014, sau khi cha ông, Juan Carlos I thoái vị. Qua đời. Victoria Eugenie qua đời tại Lausanne vào ngày 15 tháng 4 năm 1969, hưởng thọ 81 tuổi, đúng 38 năm kể từ khi Ena rời khỏi Tây Ban Nha mà sống lưu vong. Victoria là người con qua đời cuối cùng của Vương nữ Beatrice của Liên hiệp Anh và Thân vương tử Heinrich xứ Battenberg. Tang lễ được tổ chức tại nhà thờ "Sacré Coeur" và Victoria Eugenie được chôn cất ban đầu tại nghĩa trang Bois-de-Vaux gần đó ở Lausanne. Vào ngày 25 tháng 4 năm 1985, hài cốt của Victoria được đưa về Tây Ban Nha và được an táng lại trong Hầm mộ Vương thất ở Escorial, ngoại ô Madrid, bên cạnh hài cốt của chồng là Alfonso XIII, và gần đó là các con trai của hai vợ chồng là Alfonso, Jaime và Gonzalo. Di sản. Sau cái chết của nhà độc tài Tây Ban Nha Francisco Franco vào năm 1975, chế độ quân chủ được khôi phục và cháu nội của Victoria Eugenie là Juan Carlos I trở thành Quốc vương Tây Ban Nha và chắt của Victoria Eugenie, Felipe VI là đương kim quốc vương. Những người con đỡ đầu của Victoria bao gồm Thân vương xứ Monaco, Vương hậu Fabiola của Bỉ và Cayetana Fitz-James Stuart, Nữ Công tước thứ 18 xứ Alba. Vương miện tiara kim cương và ngọc trai Cartier của Victoria Eugenie được để lại cho con gái Ena là Vương nữ Maria Cristina, Bá tước phu nhân của Marone và hiện được sử dụng bởi Vương hậu Tây Ban Nha. Ngoài ra, chiếc tiara Ansorena fleur-de-lis do Alfonso XIII tặng trong đám cưới của Ena đã trở thành chiếc tiara quan trọng nhất trong bộ sưu tập của Vương thất Tây Ban Nha và được Vương hậu Tây Ban Nha sử dụng trong những sự kiện quan trọng của quốc gia. Một chiếc nhẫn sapphire thuộc sở hữu của Victoria Eugenie đã được bán đấu giá tại Sotheby's vào tháng 5 năm 2012 với 50.000 USD.
Victoria Eugenie của Battenberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807631
Cùng năm đó, Sotheby's cũng bán đấu giá chiếc vòng tay vỏ ốc xà cừ màu hồng và kim cương của Victoria Eugenie với mức giá 3,4 triệu USD. Tước hiệu, Huân chương và Vương huy. Vương huy. Vương gia huy của Victoria Eugenie với tư cách là Vương hậu Tây Ban Nha từ năm 1906 – 1931/"1941" ("trên danh nghĩa") là sự kết hợp giữa phiên bản tinh giản ("Lesser") của Vương huy Vương thất Tây Ban Nha được sử dụng bởi Vương tộc Borbón với phiên bản Anh ("English") của Vương huy Vương quốc Liên hiệp Anh. Trong đó biểu tượng huy hiệu của Heinrich xứ Battenberg, cha của Victoria Eugenie, được đặt ở giữa phần Vương huy Anh và được bao quanh bởi đường viền gồm có 8 biểu tượng hình sư tử của Anh.
Tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807632
Submarine-launched cruise missile (SLCM) hay tên lửa hành trình phóng từ tầu ngầm như tên gọi của nó, là loại tên lửa hành trình được phóng đi từ nền tảng phóng là tàu ngầm mang tên lửa hành trình. Hiện nay có hai loại tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm là tên lửa hành trình tấn công mặt đất land-attack cruise missiles (LACMs), với nhiệm vụ tấn công mục tiêu trên đất liền. Ngoài ra còn có tên lửa hành trình chống tàu Anti-ship cruise missiles (ASCMs). Đôi khi tàu ngầm được trang bị cả hai loại trên. Lịch sử ra đời. Hải quân Mỹ là người đầu tiên đã triển khai tên lửa hành trình Regulus lên các tàu ngầm của mình từ năm 1958 đến năm 1964 khi chuyển sang sử dụng tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN) Polaris trên vùng biển Thái Bình Dương. Từ năm 1981, Hải quân Mỹ tiếp tục trang bị cho các tàu ngầm tấn công của mình loại tên lửa chống tàu Harpoon. Trong khi đó Hải quân Liên Xô đã tiến hành chuyển đổi 13 tàu ngầm lớp Whiskey (Project 613) sang vai trò tàu ngầm tấn công trang bị tên lửa hành trình đối đất SS-N-3 Shaddock (П-5) cuối những năm 1950s (Whiskey Single Cylinder, Whiskey Twin Cylinder, Whiskey Long Bin). Đến khi Liên Xô bắt đầu trang bị tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo SLBM vào cuối những năm 1960s, tên lửa Shaddock đã được rút ra khỏi trang bị và phiên bản tên lửa chống tàu được sử dụng để thay thế nó. Các tàu ngầm lớp Echo và Tàu ngầm Đề án 651 của Hải quân Liên Xô vào những năm 1960s có vũ khí trang bị gần tương đương nhau, với việc tàu ngầm lớp Echo I được chuyển đổi sang tàu ngầm tấn công vì chúng không có radar dẫn hướng cho tên lửa chống tàu. Tên lửa SS-N-3 ASCM được thay thế bằng tên lửa SS-N-12 (P-500). Sau này, tàu ngầm lớp Charlie và lớp Oscar được thiết kế để trang bị tên lửa chống tàu SS-N-9 (P-120) và P-700 Granit có tầm bắn lớn hơn nhiều. Hiện tại chỉ còn tàu ngầm lớp Oscar còn được sử dụng trong Hải quân Nga. Năm 1990, có báo cáo rằng Hải quân Liên Xô đang triển khai từ 50 đến 300 tên lửa SLCM. Các mẫu tàu ngầm lớp Akula và Severodvinsk hiện đại hơn của Nga được trang bị tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm SS-N-21 (S-10).
Tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807632
Bốn tàu ngầm SSBN lớp Ohio của Hải quân Mỹ giữa những năm 2000s đã được chuyển đổi sang tàu ngầm mang tên lửa hành trình, với mỗi chiếc có khả năng phóng lên tới 144 tên lửa hành trình Tomahawk từ các giếng phóng SLBM đã được sửa đổi, ngược lại với tàu ngầm tấn công thường phóng tên lửa hành trình qua ống phóng ngư lôi. Tàu ngầm phóng tên lửa hành trình có lợi thế hơn tàu chiến mặt nước mang tên lửa hành trình ở chỗ hoạt động bí mật và bất ngờ phóng tên lửa ngay cả khi chúng còn đang lặn. Tomahawk được triển khai trên tàu ngầm bắt đầu từ năm 1983, nguyên bản có cả phiên bản LACM và ASCM nhưng phiên bản ASCM đã được rút khỏi trang bị từ năm 1990. Trong khi đó tên lửa hành trình cận âm S-10 Granat được phát triển bời NPO Novator từ thời Liên Xô vẫn được cho là đang còn trong biên chế của Hải quân Nga dù không được triển khai. Tháng Mười năm 2015, Nga đã tiến hành phóng tên lửa hành trình tầm xa Kalibr (Klub) từ tàu chiến cỡ nhỏ trên biển Caspi vào mục tiêu tại Syria; đến tháng Mười hai, một vài tên lửa hành trình 3M14K trong hệ thống Kalibr-PL đã được phóng đi từ tàu ngầm Kilo cải tiến B-237 "Rostov-on-Don" từ biển Địa Trung Hải. Việc Nga triển khai tên lửa hành trình Kalibr, tầm bắn xa, bay ở quỹ đạo thấp, có khả năng mang đầu đạn thông thường hoặc hạt nhân, có khả năng tấn công mặt đất, chống tàu và chống ngầm, được cho là đã thay đổi cán cân quân sự tại châu Âu và thách thức hệ thống phòng thủ tên lửa NATO đang được hình thành tại châu Âu. Danh sách các loại tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm. Specific types of SLCMs (current, past and under development) include:
Ezequiel Agüero
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807637
Sergio Fabian Ezequiel Agüero (sinh ngày 7 tháng 4 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Sri Pahang tại Giải vô địch bóng đá Malaysia. Sinh ra tại Chamical, Argentina, anh ta đại diện cho Malaysia trên đấu trường quốc tế. Anh ta còn được biết đến với biệt danh "Sergio Agüero Malaysia". Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Anh ta được gọi lên đội tuyển Malaysia sau khi nhập quốc tịch nước này vào năm 2022.
Danube (tỉnh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807642
Tỉnh Danube (; , Dunavska(ta) oblast, thông dụng hơn Дунавски вилает, Danube Vilayet) là đơn vị hành chính cấp một (vilayet) của Đế quốc Ottoman từ năm 1864 đến năm 1878. Vào cuối thế kỷ 19, theo báo cáo thì tỉnh có diện tích . Tỉnh được tạo ra từ các phần phía bắc của tỉnh Silistra dọc theo sông Danube và các eyalet Niš, Vidin và Silistra. Tỉnh này có ý định trở thành một tỉnh kiểu mẫu, thể hiện tất cả những tiến bộ mà Porte (chính phủ đế quốc) đạt được thông qua các cải cách hiện đại hóa Tanzimat. Đến cuối cùng, các tỉnh (vilayet) khác mô phỏng theo tỉnh Danube được thành lập trên khắp đế quốc vào năm 1876, ngoại trừ tại bán đảo Ả Rập và tại Ai Cập bán độc lập. Rusçuk, nay là Ruse tại Bulgaria, được chọn làm thủ phủ của tỉnh do có vị trí là một cảng chủ chốt của Ottoman trên sông Danube. Tỉnh này biến mất sau Chiến tranh Nga-Ottoman 1877–78, khi phần đông bắc của tỉnh (Bắc Dobruja) được sáp nhập vào Romania, một số lãnh thổ phía tây của tỉnh sáp vào Serbia, trong khi các khu vực miền trung và miền nam tạo thành hầu hết Thân vương quốc Bulgaria tự trị và một phần của Đông Rumelia. Hành chính. Khi được thành lập vào năm 1864, tỉnh Danube bao gồm các sanjak (huyện) sau: Năm 1868, sanjak Niš được tách ra và trở thành một phần của tỉnh Prizren. Năm 1876, sanjak Niš và sanjak Sofia được tách ra thành tỉnh Sofia tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng sau đó được sáp nhập vào các tỉnh Adrianople và Kosovo chỉ một năm sau đó, vào năm 1877. Chính phủ. Midhat Pasha là thống đốc đầu tiên của tỉnh (1864–1868). Trong thời gian ông làm thống đốc, các tuyến tàu thủy chạy bằng hơi nước được thiết lập trên sông Danube; tuyến đường sắt Ruse-Varna đã hoàn thành; các hợp tác xã tín dụng nông nghiệp cung cấp cho nông dân các khoản vay lãi suất thấp được ra đời; ưu đãi thuế cũng được đưa ra để khuyến khích các doanh nghiệp công nghiệp mới. Tờ báo tỉnh chính thức đầu tiên ở Đế quốc Ottoman, "Tuna/Dunavq", được xuất bản bằng cả tiếng Thổ Ottoman và tiếng Bulgaria và có cả biên tập viên người Ottoman và người Bulgaria. Các biên tập viên của nó bao gồm Ismail Kemal và Ahmed Midhat Efendi.
Danube (tỉnh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807642
Tỉnh có một hội đồng hành chính bao gồm các quan chức nhà nước do chính phủ Ottoman bổ nhiệm cũng như sáu đại biểu (ba người Hồi giáo và ba người không theo Hồi giáo) được bầu chọn từ cư dân của tỉnh. Những người không theo Hồi giáo cũng tham gia vào các tòa án hình sự và thương mại cấp tỉnh dựa trên bộ luật và tư pháp thế tục. Các trường học hỗn hợp Hồi giáo-Cơ Đốc giáo cũng xuất hiện, nhưng cải cách này đã bị bãi bỏ sau khi vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của dân chúng. Thống đốc. Các thống đốc của tỉnh: Nhân khẩu. Năm 1865, tỉnh có 658.600 (40,51%) là người Hồi giáo và 967.058 (59,49%) là người không theo Hồi giáo, số liệu bao gồm nữ giới, (không gồm sanjak Niş). Khoảng 569.868 (34,68%) là người Hồi giáo, không tính người nhập cư, và 1.073.496 (65,32%) là người không theo Hồi giáo vào năm 1859-1860. Khoảng 250.000-300.000 người nhập cư Hồi giáo từ Krym và Kavkaz đến khu vực từ 1855 đến 1864. Dân số nam giới của tỉnh Danube (không gồm sanjak Niš) năm 1865 theo Kuyûd-ı Atîk (nhà in tỉnh Danube): Dân số nam giới Hồi giáo và phi Hồi giáo trong tỉnh Danube theo Ottoman Salname năm 1868: Dân số nam của tỉnh Danube (không bao gồm sanjak Niš) vào năm 1866-1873 theo biên tập viên của tờ báo Danube Ismail Kemal: Dân số nam giới Danube (ngoại trừ sanjak Niš) năm 1868 theo Kemal Karpat: Theo điều tra dân số năm 1874, có 963.596 (42,22%) người Hồi giáo và 1.318.506 (57,78%) người không theo Hồi giáo ở tỉnh Danube ngoại trừ sanjak Nış. Cùng với sanjak của Nish, dân số bao gồm 1.055.650 (40,68%) người Hồi giáo và 1.539.278 (59,32%) người không theo Hồi giáo vào năm 1874. Người Hồi giáo chiếm đa số trong các sanjak Rusçuk, Varna và Tulça, trong khi những người không theo Hồi giáo chiếm đa số trong các sanjak còn lại.
Danube (tỉnh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807642
Tổng dân số của tỉnh Danube theo nhóm dân tộc theo nhà Đông phương học người Pháp Ubicini trên cơ sở Điều tra dân số chính thức của Ottoman về tỉnh Danube năm 1873-1874 (không bao gồm sanjak Niš), khi đó là một phần của tỉnh Prizren): Dân số nam của tỉnh Danube (không bao gồm sanjak Niš) vào năm 1875 theo Tahrir-i Cedid (nhà in tỉnh Danube): Tổng dân số tỉnh Danube theo nhà ngoại giao Nga Vladimir Cherkassky từ sổ đăng ký dân số Ottoman: Dân số nam của tỉnh Danube năm 1876 theo sĩ quan Ottoman Stanislas Saint Clair: Tổng dân số của tỉnh Danube (bao gồm các sanjak Niş và Sofia) theo ấn bản năm 1876 của Encyclopaedia Britannica: Tổng dân số của tỉnh Danube (không bao gồm sanjak Niş) vào năm 1876 do luật sư người Pháp Aubaret ước tính từ sổ đăng ký:
Quốc huy Sachsen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807646
Quốc huy của bang tự do Sachsen thuộc Đức ngày nay cho thấy một phân vùng theo chiều ngang gấp mười lần ( mười) khung màu đen Sable (huy hiệu) và sọc vàng cục /vàng màu bao quanh với một băng vương miện màu xanh lá cây () (một con đường chung cách điệu) chạy từ trên cùng bên trái xuống dưới cùng bên phải của người xem (ở ). Mặc dù crancelin đôi khi được uốn cong (được nhúng) giống như một chiếc vương miện, nhưng điều này là do giấy phép nghệ thuật. Quốc huy cũng được hiển thị trên quốc kỳ của Sachsen.
Apple Vision Pro
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807649
Apple Vision Pro là một loại kính thực tế ảo do công ty Apple phát triển, được công bố vào ngày 5 tháng 6 năm 2023 tại Hội nghị WWDC. Vision Pro dự kiến sẽ có sẵn để mua vào đầu năm 2024. Đây là loại mẫu kính thực tế ảo đầu tiên trong dòng sản phẩm của Apple và cũng là dòng sản phẩm tiêu dùng thứ năm của công ty kể từ dòng sản phẩm HomePod vào năm 2017. Apple đã mô tả chiếc kính như là một chiếc kính có công nghệ "điện toán không gian" chứa các phương tiện kỹ thuật số được tích hợp vào trong thế giới thực và các vật lý đầu vào. Những thao tác cử chỉ có thể được sử dụng để tương tác với hệ thống bên trong. Vision Pro là một thiết bị độc lập được chạy bởi hệ điều hành tên là "visionOS", một phiên bản iOS mới được thiết kế cho chương trình thực tế mở rộng và được điều khiển qua cử chỉ chuyển động như theo dõi qua mắt và nhận dạng bằng giọng nói. Lịch sử. Phát triển. Vào tháng 5 năm 2015, sau khi công ty Metaio, một công ty thực tế ảo của Đức bị mua lại. Apple dự định sẽ sử dụng kỹ thuật từ công ty này vào dự án ô tô điện của mình với biệt danh là "Dự án Titan" (Project Titan). Trong cùng năm đó, Apple cũng đã thuê Mike Rockwell từ công ty Dolby Laboratories. Rockwell sau đó đã thành lập nên một đội nhóm bao gồm có người đồng sáng lập là Metaio Peter Meier và người quản lý Apple Watch là Fletcher Rothkopf. Ông đặt tên cho đội nhóm của mình là Đội Công nghệ Phát triển. Vào năm 2016, nhóm đã phát triển thành công một phiên bản thử nghiệm thực tế ảo nhưng sau đó đã vấp phải sự phản đối của giám đốc thiết kế là ông Jonathan Ive. vào Vào tháng 4 năm 2017, Apple cũng đã thuê chuyên gia tương tác thực tế ảo và cựu chuyên gia của NASA là ông Jeff Norris. Đội của Rockwell sau đó đã được trợ giúp cung cấp ARKit trong iOS 11. Theo một công bố của trang "The Information", đội của Rockwell đang cố gắng tìm cách để tạo ra một chiếc kính thực tế ảo và họ đã bắt tay làm việc với đội của Ive; Theo ý tưởng, chiếc kính sẽ để lộ đôi mắt của người đeo thông qua màn hình hiển thị ở phía trước và ý tưởng sau đó đã được nhóm thiết kế chấp nhận. Chiếc kính sau đó đã được phát triển nhưng sau đó, dự án đã bị đình trệ khi Ive rời công ty vào năm 2019. Người kế nhiệm là ông Evans Hankey sau đó cũng đã rời công ty vào năm 2023.
Apple Vision Pro
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807649
Giám đốc kỹ thuật cấp cao, ông Geoff Stahl đã báo cáo cho Rockwell, ông đảm nhận vai trò lãnh đạo trong quá trình phát triển hệ điều hành visionOS. Phát hành. Những tin đồn về việc Apple sẽ sản xuất một thiết bị thực tế ảo tên là Reality Pro đã xuất hiện từ khoảng đầu năm 2022. Đến tháng 5 năm 2022, tờ Bloomberg News đưa tin, các giám đốc điều hành của Apple cùng với tổng giám đốc Tim Cook đã hoàn tất kiểm tra thiết bị. Sau đó, nhiều cuộc tuyển mộ cho đạo diễn đã được triển khai vào tháng 6 để phát triển một số nội dung trong thiết bị. Vào tháng 1 năm 2023, các kế hoạch cho thiết bị đã bị hoãn lại đột ngột. Gurman, một phóng viên từ Bloomberg đã chia sẻ một vài thông tin về chiếc kính vào tháng 4 và còn cho biết việc Apple đang cố gắng tạo sự thu hút cho nhà phát triển để phát triển thêm mảng phần mềm. Theo Apple, họ đã phải nộp hơn 5.000 tấm bằng sáng chế công nghệ để phát triển Vision Pro. Cho đên ngày 5 tháng 6 năm 2023, Apple Vision Pro đã chính thức được công bố tại Hội nghị WWDC 2023. Theo thông tin được công bố, Vision Pro dự kiến sẽ chính thức có mặt vào đầu năm 2024 tại Hoa Kỳ với giá (tương đương với hơn 82 triệu đồng). Ước tính ban đầu sẽ có khoảng hơn 1,000,000 chiếc được sản xuất. Vào ngày 6 tháng 6, Apple đã mua lại công ty Mira, một công ty có kỹ thuật sử dụng công nghệ AR trong trò chơi "Mario Kart" của Super Nintendo World. Hơn nữa, công ty còn có hợp đồng với Không quân và Hải quân Hoa Kỳ. 11 nhân viên đầu tiên của công ty đã được giới thiệu. Thiết kế. Phần cứng. Apple Vision Pro có mặt trước được bao phủ bằng nhiều lớp kính dán hiển thị, khung nhôm nằm ở giữa được làm bằng vật liệu không gian và sau cùng là một phần dây đai có thể điều chỉnh được và tấm đệm linh hoạt được làm bằng vải dệt ba chiều, cả ba thành phần đều được thiết kế theo dạng mô-đun. Khung kính có chứa 5 cảm biến, 6 chiếc micro và 12 camera. Hai màn hình micro-OLED với độ phân giải UHD 4K tổng cộng 23 triệu pixel nằm ở mỗi bên mắt, mỗi ống kính đều sẽ được nhìn thấy bởi người sử dụng. Đôi mắt thì được theo dõi bởi hệ thống đèn LED và camera hồng ngoại, tạo cơ sở cho hệ thống nhận diện mống mắt có tên là Optic ID.
Apple Vision Pro
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807649
Tùy chỉnh thị giác cũng được hỗ trợ cho những người dùng bị cận thị; những ống kính này sẽ gắn thêm mỗi nam châm vào thấu kính chính và được phát triển bởi Carl Zeiss AG, một công ty cũng hợp tác với Apple. Loa của chiếc kính được đặt ở bên trong dây đai và hướng phía trên tai của người sử dụng, có thể tạo ra âm thanh vòm và kết nối được với các thiết bị khác. Sơ hữu chiếc camera ba chiều đầu tiên. Vision Pro được hỗ trợ bởi con chip Apple R1 mới được sản xuất dành riêng cho thiết bị và đi kèm với bộ xử lý Apple M2. Được sử dụng để xử lý các cảm biến đầu vào và được làm mát bằng hệ thống quạt nhẹ. Hệ thống pin được gói vào một cục sạc kết nối được với chiếc kính qua cáp và cho phép thiết bị chạy trong 2 giờ. Ngoài ra, chiếc kính cũng có thể được kết nối thông qua nguồn điện bên ngoài với tốc độ chỉ 12 ms. The user's face is scanned by the headset during setup to generate a "persona"—a realistic avatar used by OS features. Samuel Axon of "Ars Technica" reported during their demo at WWDC their face was scanned by an iPhone with TrueDepth camera for fitting purposes, their ears were scanned to optimize the speakers, and that this aspect of the process can be done with the user's own iPhone or at an Apple Store as part of the purchase process. Núm xoay trên chiếc kính được sử dụng để có thể tùy chỉnh lượng nền ảo đang bao phủ tầm nhìn của người dùng. Từ chế độ xem hỗn hợp, nơi các phương tiện đa chiều trong thế giới thực và chế độ xem thực tế ảo, nơi người dùng có thể ẩn toàn bộ không gian thực. Vision Pro còn có công nghệ màn hình hướng ngoài được gọi là EyeSight và Persona. Dùng để thể hiện đôi mắt của người dùng được hiển thị qua mức độ thực tế của người dùng, mắt của họ bị mờ đi khi đang ở chế độ thực tế và chỉ bị che khuất lại khi đang ở chế độ thực tế ảo hoàn toàn, chức năng này có thể cho người khác hiểu rõ hơn về nhận thức và môi trường của người dùng. Khi người khác tiếp cận, EyeSight sẽ trong suốt màn hình và có thể hiển thị mắt của người dùng như bình thường, ngay cả khi ở trong thực tế ảo và người dùng đó có thể nhìn thấy người khác. Phần mềm. Apple Vision Pro được chạy bởi hệ điều hành visionOS, phần lớn được lấy từ iOS và các khung phần mềm XR cụ thể để thể hiện và tương tác với thời gian thực.
Apple Vision Pro
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807649
Hệ điều hành cũng có thể tương tác ba chiều với người dùng thông qua ngón tay, đôi mắt và nhận dạng giọng nói, ví dụ như người dùng có thể tương tác với những cửa sổ bằng tay không. Ngoài ra, các ứng dụng có thể được hiển thị trên cửa sổ và visionOS cũng hỗ trợ các thiết bị Bluetooth ngoại vi, bao gồm Bàn phím ma thuật, Trackpad và Gamepad. Trợ lý ảo Siri cũng được tích hợp vào trong thiết bị. Apple đã từng tuyên bố rằng "hàng trăm nghìn ứng dụng iPhone và iPad quen thuộc" sẽ được tương thích với nền tảng này. Các ứng dụng từ bộ Microsoft 365, bao gồm Microsoft Word, Microsoft Excel và Microsoft Teams, cũng như là Adobe Lightroom, Cisco Webex và Zoom và Disney+ cũng đã công bố kế hoạch phát triển ứng dụng của họ cho visionOS. Hơn 100 trò chơi Apple Arcade cũng sẽ tương thích với visionOS khi ra mắt. Công ty hiện đang hợp tác với Unity Technologies để có thể hỗ trợ nhiều chức năng tương thích với các ứng dụng dựa trên công cụ Unity trên visionOS.
Simone Icardi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807655
Simone Icardi (sinh ngày 13 tháng 9 năm 1996) là cầu thủ bóng đá người Ý. Anh ta hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Feralpisalò tại Serie C bảng A, cho mượn từ Cittadella. Sự nghiệp thi đấu. Anh ta ra mắt cho Lupa Castelli Romani vào ngày 6 tháng 9 năm 2015 trong một trận đấu thuộc khuôn khổ Serie C gặp Ischia. Ngày 17 tháng 1 năm 2020, anh ta gia nhập câu lạc bộ Siena theo dạng cho mượn. Vào ngày 19 tháng 9 năm 2020, anh ta ký bản hợp đồng kéo dài 2 năm với Casertana. Ngày 10 tháng 8 năm 2021, anh ta chuyển tới câu lạc bộ Cittadella ở Serie B. Tuy nhiên, vào ngày 1 tháng 9 năm 2022, Icardi bị đem cho mượn tại câu lạc bộ Feralpisalò.
Neptunyl(VI) perchlorat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807657
Neptunyl(IV) perchlorat là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học NpO2(ClO4)2. Hợp chất này được biết đến dưới dạng tinh thể ngậm nước màu nâu, trong nước tạo thành dung dịch màu nâu hoặc hồng. Điều chế. Dạng dung dịch của neptunyl(VI) perchlorat có thể được tạo ra bằng cách hòa tan neptunyl(VI) hydroxide trong acid perchloric hoặc điện phân dung dịch neptunyl(V) perchlorat. Cả hai cách này cho kết quả là dung dịch màu hồng. Dạng tinh thể NpO2(ClO4)2·"n"H2O (với "n" là 3 hoặc 5) được điều chế bằng cách cho neptunyl(VI) nitrat phản ứng với acid perchloric. Tùy theo dạng ngậm nước, cách tách lấy tinh thể từ dung dịch sẽ khác nhau. Tính chất. NpO2(ClO4)2·"n"H2O (với "n" là 3 hoặc 5) kết tinh dưới dạng tinh thể đơn nghiêng màu nâu, dễ tan trong nước. Các hằng số mạng tinh thể được cho trong bảng dưới đây. Đơn vị cho a, b, c: Å, đơn vị cho α, β, γ: °.
Chu lâm dã sử
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807670
Chu lâm dã sử () là tiểu thuyết khiêu dâm của văn nhân lấy bút danh Si Đạo nhân xuất bản từ năm 1610 đến 1620. Lấy bối cảnh vào thế kỷ thứ 7 TCN, truyện kể về người phụ nữ trẻ và những cuộc phiêu lưu tình dục của mình. Cốt truyện. "Chu lâm dã sử" lấy bối cảnh vào khoảng năm 600 TCN trong thời kỳ Xuân Thu, một cô gái trẻ chưa chồng tên gọi Tố Nga () mơ được đạo sĩ Hoa Nguyệt () chỉ dạy thuật phòng the. Trước tiên, Tố Nga tận dụng khả năng tình dục mới luyện của mình hòng đạt được thuật trường sinh bất lão, cô ta bèn quyến rũ nhiều người đàn ông cho đến khi bị một tay đạo sĩ đối thủ ngăn chặn, rồi sau hai người yêu nhau và cùng đồng hành trong chuyến hành trình tìm kiếm đạo trường sinh. Lịch sử xuất bản. "Chu lâm dã sử" bao gồm mười sáu hồi và hai mươi mốt bài thơ, do một văn nhân ẩn danh sử dụng bút danh Si Đạo nhân () viết vào cuối thời Minh, được dịch sang tiếng Anh thành "Infatuated Moralist" hoặc "Man of the Crazy Way". Tác phẩm ấn hành ở Tô Châu và có khả năng được khắc in lần đầu vào khoảng năm 1610–1620, mặc dù về sau bị triều đình nhà Thanh ban lệnh cấm. Nguồn cảm hứng. Tiêu đề của cuốn tiểu thuyết này bắt nguồn từ khúc ca "Chu Lâm" () được thu thập trong "Kinh Thi"; theo nhà phê bình Khổng Dĩnh Đạt () trong "Mao thi chính nghĩa" (), khúc ca này nhằm chủ ý quở trách Trần Linh Công () vì quan hệ tình ái bất chính của ông với nàng mỹ nữ quý tộc Hạ Cơ (), mang "vẻ đẹp khuynh quốc... suýt chút nữa đã khiến nước Trần diệt vong" và "theo truyền thống được coi là một trong những phụ nữ độc ác nhất thời cổ đại Trung Quốc." Nhân vật chính trong truyện dựa trên nguyên mẫu Hạ Cơ, dù cho cô nàng mang tên Tố Nga, rõ ràng là ám chỉ đến cuốn tiểu thuyết khiêu dâm có tranh minh họa "cực hiếm" "Tố Nga thiên" (); xuất bản khoảng năm 1610. Nhiều câu chuyện liên quan đến "người phụ nữ đầu tiên trẻ mãi không già rồi sau thăng linh nhờ tập luyện bí thuật phòng the với nhiều đối tác" có trước "Chu lâm dã sử".
Chu lâm dã sử
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807670
Ví dụ, trong "Liệt tiên truyện" (), nữ nhân vật chính tên gọi Nữ Hoàn () được vị thầy bí ẩn am hiểu thuật phòng the chỉ dạy. Tương tự như vậy, trong điển tịch thời Hán "Ngọc phòng bí quyết" (), nữ đạo sĩ Tây Vương Mẫu () theo như mô tả có dính líu đến "ham muốn tình dục theo kiểu sáng e thẹn tối mãnh liệt". Xuyên suốt cuốn tiểu thuyết, tác giả chuyển thể những cảnh khiêu dâm từ một số nguồn tài liệu khác. Ví dụ, một cảnh tả nhân vật chính ở nước Sở, bị bỏ lại trong tình trạng đáng thương cùng đứa con riêng, là "một đoạn sao chép thẳng thừng" từ "Vu sơn diễm sử" (). "Chu lâm dã sử" cũng phơi bày màn tranh luận "cực kỳ bối rối" về đồ chơi tình dục; chẳng hạn một cái dương vật giả biến thành quả chuông Miến Điện mà không có bất kỳ lời giải thích nào, mà Olivia Milburn cho rằng có thể là do "tự ý thêm thắt câu chữ bị cắt xén từ một nguồn tài liệu không xác định nào đó". Ý nghĩa văn học. "Chu lâm dã sử" gây tiếng vang vì "những mô tả phong phú về đời sống tình dục", cả dị tính và đồng tính luyến ái. Olivia Milburn viết rằng các nhân vật nữ chính của cuốn tiểu thuyết này "tương phản rõ rệt với những nhân vật được mô tả trong mấy cuốn tiểu thuyết khiêu dâm khác cùng thời Minh". Bà còn ca ngợi tác giả của "Chu lâm dã sử" vì "sự uyên bác thận trọng" và "bối cảnh và đặc điểm lịch sử" tỉ mỉ trong truyện".
Tú tháp dã sử
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807672
Tú tháp dã sử (, tạm dịch "Chuyện chiếc giường thêu"), dịch sang tiếng Anh thành The Embroidered Couch, là tiểu thuyết khiêu dâm do nhà viết kịch Lã Thiên Thành () sáng tác vào cuối thời Minh dưới nhiều bút danh khác nhau. Đây là một trong những cuốn tiểu thuyết khiêu dâm lâu đời nhất của Trung Quốc, "Tú tháp dã sử" được xuất bản lần đầu cùng thời với "Kim Bình Mai". Tác phẩm này liên tục bị cấm đoán hoặc bị kiểm duyệt kể từ đó, đặc biệt là dưới thời Thanh. Giới phê bình văn học đã chú ý đến sự tục tĩu và những mô tả sống động về tình dục trong truyện. Bản dịch tiếng Anh hoàn chỉnh của Hồ Linh Nghi được xuất bản năm 2001. Cốt truyện. Nhân vật nam chính của "Tú tháp dã sử" bắt đầu vào năm 1594, là vị tú tài ba mươi tuổi Diêu Đồng Tâm (), còn gọi là Đông Môn sinh (), có lẽ là ám chỉ đến quê quán (một phần của Dương Châu được gọi là "Đông Môn "). Từng có lối sống trụy lạc khi còn trẻ, giờ đây sức chịu đựng của anh chàng tương đối kém, và do vậy khó mà thỏa mãn tình dục vợ mình là Kim thị (). Sau khi bị bạn bè chế giễu và thuốc thang không mấy hiệu quả, thay vào đó, anh ta cố dàn xếp để vợ mình quan hệ tình dục với gã tình nhân song tính tên gọi Triệu Đại Lý (). Triệu Đại Lý không làm hài lòng Kim thị trong lần thử làm tình đầu tiên của họ; anh ta trở lại vào đêm hôm sau với thuốc kích dục, dù Kim thị bị rách âm đạo và sa trực tràng trong một cuộc thác loạn điên cuồng liên quan đến mình, gã họ Triệu và hai cô hầu gái. Để trả thù, Kim thị sắp xếp cho người mẹ góa bụa của Triệu là Ma thị (), đến sống với Đông Môn sinh và chính cô ấy khi gã họ Triệu bận việc. Trong lúc say xỉn, Ma thị bị Kim thị dụ dỗ thông dâm với Đông Môn sinh, kẻ giả vờ làm em họ của Kim thị; Ma thị, Đông Môn sinh và Kim thị sớm nhận ra mình đang vướng bận vào trong mối tình tay ba. Thế nhưng, Kim thị về sau này trở nên ghen tị với người phụ nữ lớn tuổi hơn ngay khi gã họ Triệu quay trở lại. Mặc dù bốn người bọn họ đồng ý sống chung dưới một mái nhà, nhưng họ đã bỏ nhà lên núi ở sau khi hàng xóm biết được chuyện đa thê của mình.
Tú tháp dã sử
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807672
Đông Môn sinh có hai con trai với Ma thị nhưng nàng ấy mất trong vòng ba năm; Kim thị và gã họ Triệu cũng chết ngay sau đó do những biến chứng phát sinh từ quan hệ tình dục. Nằm mơ thấy ba người tình đã khuất của mình đầu thai làm súc sinh, Đông Môn sinh giao lại con của mình cho cô hầu gái Tiểu Kiều () rồi xuất gia đi tu. Tác giả và ấn bản. "Tú tháp dã sử" được viết bằng bạch thoại (chịu ảnh hưởng từ tiếng Ngô vì câu chuyện lấy bối cảnh ở Dương Châu) vào cuối thời Minh năm 1597 của nhà viết kịch Lã Thiên Thành () dưới nhiều bút danh khác nhau như Tình điên chủ nhân () và Tuý miên các hàm hàm tử () trong khoảng thời gian Thang Hiển Tổ vừa hoàn thành "Mẫu đơn đình". Vào thời điểm viết bài này, tác giả mới 17 tuổi. Bản thảo gốc có 237 trang đều được chia thành bốn quyển (). Trong lời nói đầu của cuốn tiểu thuyết, Lã Thiên Thành có viết một lời "biện minh" như sau: "Tôi muốn ngăn chặn cả thế giới khỏi tình trạng tình dục quá độ, nhưng vì nó đã đi quá xa theo hướng đó, sẽ không ai chịu nghe lời khuyên của tôi. Nếu tôi chỉ cho họ những gì kết quả có thể đến từ đó, và dẫn dắt họ dần dần đi đúng hướng, mọi người có thể được cứu rỗi". "Tú tháp dã sử" được xuất bản vào khoảng năm 1600, cùng thời với "Kim Bình Mai". Xuyên suốt nhiều thế kỷ sau khi được xuất bản, dưới thời Thanh, "Tú tháp dã sử" liên tục được đưa vào danh sách "cấm thư" () của quan lại trung ương và địa phương. Đồng thời, nó "vẫn được lưu hành, mặc dù lén lút chịu sự kiểm duyệt gắt gao, và được các nhà sưu tập tư nhân cũng như nhiều thư viện khác nhau, bao gồm cả những thư viện ở Nhật Bản ra sức tìm kiếm". Nổi danh là "bản dịch tiếng Anh đầu tiên của cuốn tiểu thuyết khiêu dâm được xuất bản ở Trung Quốc vào thế kỷ 17", "The Embroidered Couch: An Erotic Novel of China" của Hồ Linh Nghi do Arsenal Pulp Press xuất bản vào cuối năm 2001. Ý nghĩa văn học.
Tú tháp dã sử
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807672
Ý nghĩa văn học. "Tú tháp dã sử" là loại "tiểu thuyết khiêu dâm hiện thực", tương tự như "Kim Bình Mai" cũng được xuất bản vào cuối thời Minh; Theo lời Wilt L. Idema, "Tú tháp dã sử" "rất có thể là tiểu thuyết khiêu dâm bạch thoại sớm nhất của Trung Quốc", trong lúc Ka F. Wong lưu ý rằng cuốn này "được cho là chỉ có "Kim Bình Mai" và "Lãng sử" () được xuất bản trước đó... mặc dù thứ tự của ba tác phẩm này vẫn còn tranh cãi". Theo lời Wong, "Tú tháp dã sử" "có số phận thường được so sánh với "Kim Bình Mai"", dù ông thấy đó là một sự so sánh không công bằng vì "Kim Bình Mai" chủ yếu là một tác phẩm châm biếm xã hội, với những cảnh làm tình chỉ là một phần nhỏ của cốt truyện. Mặt khác, "Tú tháp dã sử" "có vẻ như không quá nghiêm túc" và "thích chế giễu" "Kim Bình Mai"; ví dụ, nhân vật nam chính trong "Tú tháp dã sử" tên gọi Đông Môn sinh là "hình ảnh trái ngược"—về kích thước bộ phận sinh dục và khả năng kéo dài quan hệ tình dục—của "kẻ lăng nhăng chứng nào tật nấy" Tây Môn Khánh trong "Kim Bình Mai". Wong cũng lập luận rằng với tư cách "bản thân là một biểu tượng tình dục, "Tú tháp dã sử" thường được sử dụng để ám chỉ đến nghệ thuật kích dục và cốt truyện được sao chép nhiều lần." Truyện ngắn "Tưởng Hưng Ca trùng hội trân châu sam" () hay "Tưởng Hưng Ca gặp lại chiếc áo thêu ngọc trai" của Phùng Mộng Long có một cảnh gợi nhớ đến việc Kim thị dụ dỗ Ma thị. Cùng với "Như ý quân truyện" () và "Si bà tử truyện" (), "Tú tháp dã sử" là một trong ba cuốn tiểu thuyết khiêu dâm được nhắc đến trong "Nhục bồ đoàn" nghi là do văn nhân thời Thanh Lý Ngư viết nên. Tiểu thuyết khiêu dâm giữa thế kỷ 18 "Di tình trận" () "về cơ bản là một bản sao" của "Tú tháp dã sử". Đón nhận. Kể từ khi ấn hành, "Tú tháp dã sử" đã trở thành chủ đề gây tai tiếng. Viết trong lời tựa của một ấn bản "Tú tháp dã sử" năm 1608, Ngũ Lăng Hào Trưởng () đã chỉ trích cuốn sách này là "dâm truyện" (淫傳).
Tú tháp dã sử
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807672
Nhà phê bình đầu thời Thanh Lưu Đình Ki () công kích cuốn tiểu thuyết này là "liều thuốc độc hại", trong khi Trương Dự (), viết nửa thập kỷ trước đó, đem nó ra so sánh với "những lão già đê tiện và đám gái điếm thô thiển". Tương tự như vậy, phần phê bình thời hiện đại thường chỉ tập trung vào sự tục tĩu của cuốn tiểu thuyết. Yiheng Zhao mô tả cuốn này là một trong những "tiểu thuyết thô bỉ nhất cuối thời Minh còn tồn tại" trong khi Bret Hinsch viết rằng cuốn này có "nội dung khiêu dâm ghê tởm" và "cực kỳ lố bịch". Không mấy thiện cảm khi đem so sánh với các tác phẩm "cao cấp hơn" như "Kim Bình Mai" và "Nhục bồ đoàn", John Minford nhận định qua loa rằng "Tú tháp dã sử" là một cuốn tiểu thuyết "thô thiển". Giovanni Vitiello gọi đây là "cuốn tiểu thuyết đại diện cho thể loại mà cốt truyện chỉ đóng vai trò là khung sườn cho một loạt những lời mô tả đầy tục tĩu". Tương tự, Jie Guo lập luận rằng trong tiểu thuyết, "tình dục thường được ưu tiên hơn là xây dựng cốt truyện hay mô tả nhân vật", dù ông thừa nhận rằng các tình tiết tình dục trong "Tú tháp dã sử" liên kết với nhau để tạo ra một câu chuyện mạch lạc. Mô tả cuốn tiểu thuyết này là "một tác phẩm có tính sáng tạo cao", Ka F. Wong đã nêu bật tính độc đáo trong cốt truyện cũng như cách miêu tả tình dục của tác giả "theo mọi cách có thể tin được cũng như khó tin". Dịch giả Hồ Linh Nghi nhận thấy "Tú tháp dã sử" là "một cuốn sách rất hài hước" và "tỏ ra yêu thích các nhân vật trong truyện".
Tố Nga thiên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807673
Tố Nga thiên (), được dịch sang tiếng Anh thành The Moon Goddess hoặc The Lady of the Moon, là tiểu thuyết khiêu dâm của một nhà văn ẩn danh được xuất bản vào cuối thời Minh. Truyện kể về cuộc phiêu lưu tình ái của Võ Tam Tư () và người thiếp Tố Nga (). Cốt truyện. Võ Tam Tư (), người cháu giàu sang và quyền thế trong triều đình của Nữ Hoàng đế Võ Tắc Thiên, đã phải lòng Tố Nga () và lấy nàng làm thiếp. Cuốn tiểu thuyết mô tả bốn mươi ba lần quan hệ tình ái giữa Võ Tam Tư và Tố Nga, mỗi lần đều được đặt cho cái tên đầy vẻ hoa mỹ và tưởng niệm bằng một bài thơ. Đại thần Địch Nhân Kiệt () nhất quyết muốn được diện kiến Tố Nga sau khi nghe nói về vẻ đẹp đặc biệt của nàng ấy; Tố Nga đồng ý sau một hồi do dự, trước khi tiết lộ với Địch Nhân Kiệt rằng mình thực ra là một "Nguyệt Nữ" bất tử. Tố Nga bèn cùng linh hồn của Võ Tam Tư khởi hành đến một cõi giới cao hơn. Một thời gian sau, có kẻ kể lại mình đã tận mắt nhìn thấy cặp đôi này ở dãy núi Chung Nam. Nội dung và ấn bản. "Tố Nga thiên" dài hơn 10.000 chữ Hán gồm khoảng 43 chương và 90 tranh minh họa được tập hợp thành 4 quyển. Mỗi tư thế quan hệ tình dục theo như mô tả trong tiểu thuyết đều được đặt cho một cái tên như "Trú Mã Bản Yên" (), "Hoa Khai Điệp Luyến" (), "Dã Độ Hoành Chu" (), và "Hốt Luân Thái Cực" (). Cuốn tiểu thuyết này do một nhà văn ẩn danh sử dụng bút danh Nghiệp Hoa Sinh () viết bằng văn ngôn. Theo lời tựa trong sách, "Tố Nga thiên" do thợ khắc tên là Hoàng Nhất Khải () đem khắc in ở Hàng Châu, và ấn hành vào khoảng năm 1610. Bản dịch tiếng Anh truyện này được E. D. Edwards chấp bút và xuất bản trong tập sách "Văn xuôi Trung Quốc thời Đường" (1935). Một ấn bản hoàn chỉnh của cuốn tiểu thuyết thời Minh nghi là là ấn bản duy nhất còn tồn tại và trước đây thuộc sở hữu của giáo sư Đại học Columbia Vương Tế Chân (), được cất giữ trong thư viện thuộc Viện Nghiên cứu Tính dục, Giới tính và Sinh sản Kinsey ở Bloomington, Indiana. Cảm hứng và ảnh hưởng.
Tố Nga thiên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807673
Cảm hứng và ảnh hưởng. Tuyển tập truyện truyền kỳ "Cam trạch dao" () của Viên Giao () có chép lại mẫu chuyện ngắn về Tố Nga, nữ văn nhân và thi sĩ đồng thời là ái thiếp của Võ Tam Tư, cháu trai Võ Tắc Thiên; Tố Nga về sau tiết lộ mình là "tinh linh hoa và trăng" được gửi đến cõi trần hòng "quyến rũ tâm trí và thể xác người trần gian". Câu chuyện tương tự cũng được thu thập trong "Yêu vọng truyện" () của Chu Hi Tế () ấn hành vào thời Đường. Nữ nhân vật chính Tố Nga trong "Tố Nga thiên" cũng được lấy cảm hứng từ nữ thần Mặt Trăng Hằng Nga trong thần thoại Trung Quốc. Trong tiểu thuyết khiêu dâm "Chu lâm dã sử" (), xuất bản từ năm 1610 đến năm 1620, nhân vật chính mang tên Tố Nga mà Olivia Milburn cho rằng có liên quan đến "Tố Nga thiên".
Lethrinus semicinctus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807676
Lethrinus semicinctus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830. Từ nguyên. Từ định danh "semicinctus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "semi" ("một nửa") và "cinctus" ("quấn quanh"), hàm ý đề cập đến các vệt đen ngắn ở nửa trên của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. semicinctus" có phân bố tương đối rộng ở vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Sri Lanka trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall và Fiji, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu, giới hạn phía nam đến bờ bắc Úc. Loài này cũng xuất hiện tại quần đảo Trường Sa (Việt Nam). "L. semicinctus" sống gần các rạn san hô, trên nền đáy cát và thảm cỏ biển, trong đầm phá và đới mặt bằng rạn, độ sâu khoảng 4–35 m. Những cá thể có kích thước nhỏ (gần 4–10,5 cm) được thu thập trong một con lạch nhỏ trong rừng ngập mặn ở Philippines. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. semicinctus" là 35 cm. Cá có màu nâu thường hoặc nâu tanin, rải rác những đốm đen nhỏ. Một đốm đen lớn thuôn dài nằm bên dưới phần tia mềm của vây lưng, giáp ngay dưới đường bên. Các vây trắng nhạt hoặc phớt hồng. "L. semicinctus" có thể chuyển sang kiểu hình lốm đốm các vệt trắng và nâu đen, có lẽ là ngụy trang. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 3 hoặc 4 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 46–48. Sinh thái. Thức ăn của "L. semicinctus" bao gồm cá nhỏ và những loài thủy sinh không xương sống khác ở tầng đáy. Thương mại. "L. semicinctus" không có giá trị thương mại cao, đôi khi loại bỏ do bị xem là sản lượng không mong muốn, có thể do kích thước nhỏ. Chúng được tiêu thụ chủ yếu bởi ngư dân đánh bắt thủ công.
Kia Forum
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807677
Kia Forum (trước đây được gọi là The Forum) là một nhà thi đấu đa năng nằm ở Inglewood, California, Hoa Kỳ. Nhà thi đấu tiếp giáp với Los Angeles. Nằm giữa Đại lộ Manchester, giao của đường Pincay Drive và Kareem Court, nhà thi đấu này nằm ở phía bắc của Sân vận động SoFi và Sòng bạc Hollywood Park, cách Sân bay quốc tế Los Angeles (LAX) khoảng 3 dặm (4,8 km) về phía đông. The Forum được khánh thành vào ngày 30 tháng 12 năm 1967. Từ năm 1967 đến năm 1999, The Forum là sân nhà của Los Angeles Lakers thuộc Giải bóng rổ Nhà nghề Mỹ (NBA) và Los Angeles Kings thuộc National Hockey League (NHL) trước khi cả hai đội chuyển đến Crypto.com Arena (trước đây được gọi là Trung tâm Staples) của Los Angeles Clippers thuộc NBA. Từ năm 1997 đến năm 2001, The Forum cũng là sân nhà của Los Angeles Sparks thuộc WNBA trước khi đội cũng chuyển đến Crypto.com Arena. The Forum trước đây được gọi là Great Western Forum, và được đặt biệt danh là "The Fabulous Forum" bởi phát thanh viên lâu năm của Lakers, Chick Hearn. Nhà thi đấu còn được gọi một cách không chính thức là LA Forum để phân biệt với những địa điểm khác cũng có tên gọi là "Forum".
Liên hoan phim Cannes 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807687
Liên hoan phim Cannes thường niên lần thứ 76 là liên hoan phim diễn ra từ ngày 16 đến ngày 27 tháng 5 năm 2023. Nhà làm phim người Thụy Điển Ruben Östlund là trưởng ban giám khảo. Với việc bộ phim Pháp "Anatomie d'une chute" đoạt giải Cành cọ Vàng, giải thưởng cao nhất của liên hoan phim, đạo diễn Justine Triet đã trở thành người phụ nữ thứ ba giành được giải thưởng này, sau Jane Campion năm 1993 và Julia Ducournau năm 2021. Áp phích chính thức của liên hoan phim có sự góp mặt của nữ diễn viên Catherine Deneuve, do Lionel Avignon và Stefan de Vivies của xưởng thiết kế Hartland Villa chế tác từ một bức hình do Jack Garofalo chụp nữ diễn viên trong lúc ghi hình phim "La Chamade" (1968). Áp phích được chọn để tri ân Deneuve dành cho những cống hiến cho điện ảnh của bà. Tại liên hoan phim, hai giải Cành cọ Vàng danh dự đã được trao: Giải đầu tiên trong lễ khai mạc cho Michael Douglas; và giải thứ hai được trao gấp cho Harrison Ford trước buổi công chiếu toàn cầu của phim "Indiana Jones and the Dial of Destiny". Liên hoan khai mạc với bộ phim "Jeanne du Barry" do Maïwenn làm đạo diễn và bế mạc với bộ phim "Elemental" của Pixar do Peter Sohn làm đạo diễn. Danh sách tranh giải chính thức. Tranh giải chính. Những bộ phim sau được chọn để tranh giải Cành cọ Vàng: Un Certain Regard. Dưới đây là những bộ phim được lựa chọn tranh giải hạng mục "Un Certain Regard": Không tranh giải. Dưới đây là những bộ phim được lựa chọn chiếu song không tranh giải: chỉ bộ phim tranh giải Queer Palm. Cannes Premiere. Những bộ phim sau đây được lựa chọn trình chiếu ở hạng mục Cannes Premiere: chỉ phim tranh giải Queer Palm. Trình chiếu đặc biệt. Những bộ phim sau đây được lựa chọn để trình chiếu ở hạng mục Trình chiếu đặc biệt: chỉ phim tranh giải Queer Palm. Tranh giải phim ngắn. Trong số 4.288 tác phẩm dự thi, những bộ phim sau đây được lựa chọn tranh giải Cành cọ Vàng phim ngắn: chỉ phim tranh giải Queer Palm. Cinéfondation. Hạng mục Cinéfondation chú trọng vào các bộ phim do các sinh viên tại các trường điện ảnh thực hiện. Festival de Cannes phân bổ khoản tài trợ 15.000 euro cho Giải Nhất, 11.250 euro cho Giải Nhì và 7.500 euro cho Giải Ba. 16 phim dự thi sau đây (14 phim người đóng và 2 phim hoạt hình) đã được chọn trong số 2.000 tác phẩm dự thi: chỉ phim tranh giải Queer Palm. Cannes Classics. Những bộ phim sau đây được lựa chọn chiếu tại hạng mục Cannes Classics: Cinéma de la Plage.
Liên hoan phim Cannes 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807687
Những bộ phim sau đây được lựa chọn trình chiếu không tranh giải, ở hạng mục "Cinéma de la plage": Hạng mục song song. Tuần phê bình phim quốc tế. Tranh giải. Những bộ phim sau đây được lựa chọn trình chiếu ở hạng mục tranh giải chính của Tuần phê bình phim quốc tế.: Tranh giải phim ngắn. Những bộ phim sau đây được lựa chọn để trình chiếu tranh giải phim ngắn của Tuần phê bình phim quốc tế: chỉ phim tranh giải Queer Palm. Trình chiếu đặc biệt. Những bộ phim sau đây được lựa chọn trình chiếu tại Tuần phê bình phim quốc tế: Directors' Fortnight. Phim điện ảnh. Những bộ phim sau đây được lựa chọn trình chiếu ở hạng mục chính của Directors' Fortnight: Phim ngắn. Những bộ phim ngắn sau đây được lựa chọn trình chiếu tại hạng mục Directors' Fortnight: chỉ phim tranh giải Queer Palm. Trình chiếu đặc biệt. Những bộ phim sau đây được lựa chọn trình chiếu đặc biệt tại hạng mục Directors' Fortnight: ACID. Những bộ phim sau đây được trình chiếu tại hạng mục ACID (viết tắt của Hiệp hội phân phối điện ảnh độc lập): Giải chính thức. Tranh giải. Những giải thưởng sau đây được dành tặng các bộ phim trình chiếu để tranh giải: Biểu tình. Tại sân khấu của sự kiện, một người phụ nữ Ukraina đã tổ chức một cuộc biểu tình gần lối vào. Các quan chức an ninh cho rằng cô là một người bình thường và để cô vào. Sau đó, cô ấy lấy ra một ít máu giả và ném nó lên thảm.
Điều 331 Bộ Luật Hình sự
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807693
Điều 331 Bộ Luật Hình sự nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân như sau: Trích theo văn bản: Như vậy, đối với tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,cá nhân thì mức phạt tù cao nhất lên đến 07 năm.
Kühne Logistics University
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807696
KLU (Kühne Logistics University) là một trường đại học được tiểu bang công nhận, có trụ sở tại Hamburg, Đức, chuyên đào tạo các nhà quản lý với tư duy mạnh mẽ về vận hành và một bộ kỹ năng được xây dựng dựa trên các lĩnh vực năng lực chính của trường, như chuyển đổi kỹ thuật số, tính bền vững và kinh doanh. Với sự hỗ trợ của Kühne Foundation, KLU đặc biệt đẩy mạnh vấn đề quản lý chuỗi cung ứng và hậu cần thông qua các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy. Lịch sử. KLU được thành lập vào năm 2010 bởi Klaus-Michael Kühne và tổ chức của ông là Kühne Foundation, có trụ sở tại Schindellegi, Thụy Sĩ. Năm 2013, cơ sở HafenCity, Hamburg, của trường đã được khai trương bởi cựu thị trưởng Hamburg và ngài Olaf Scholz, Thủ tướng Đức đương nhiệm. Cùng với INSEAD, KLU đã mở trung tâm hậu cần nhân đạo của mình vào năm 2016. Năm 2021, KLU được Studyportals xếp hạng là trường đại học tốt nhất trên toàn thế giới. KLU có kế hoạch mở một số cơ sở ở châu Á, châu Mỹ Latinh và châu Phi. Xếp hạng. Tất cả các khóa học của KLU đều được Tổ chức Công nhận Quản trị Kinh doanh Quốc tế (FIBAA) công nhận. Chỉ xét điểm xếp hạng của sinh viên, KLU đã nhận được Giải thưởng Toàn cầu về Sự hài lòng của Sinh viên, từ Studyportals vào năm 2021.
Placuna
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807701
Placuna, còn được gọi là điệp, hàu cửa sổ, sò Capiz, là một chi động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống ở biển. Chúng là chi duy nhất được ghi nhận trong họ Placunidae, có quan hệ họ hàng gần với hàu và sò rẽ quạt. Chi này được biết đến nhiều nhất do việc sử dụng vỏ của loài "Placuna placenta" trong quá khứ. Chúng có độ mỏng, trong mờ và thường được sử dụng trong sản xuất vật dụng trang trí. Ở một số nền văn hóa, chúng được cắt thành những miếng nhỏ 2x2 inches, được ép gỗ và được sử dụng như một dạng cửa sổ đón ánh sáng (vì vậy mới có tên "hàu cửa sổ"). Lớp vỏ này có một chút ánh xà cừ phản chiếu, đôi khi còn được sử dụng trang trí vách ngăn di động trong phòng. Họ "Placunidae" được xem là có quan hệ họ hàng gần với họ Anomiidae. Một trong những điểm khác biệt chính là các loài thuộc họ Placunidae không bám cố định vào bề mặt cứng mà chúng thường sống vùi trong bùn. Mô tả. Các loài trong họ Placunidae là những loài ăn lọc, sống ở vùng nước nông, đáy bùn. Chúng mang các giới tính phân biệt, quá trình phát triển có hẳn một giai đoạn ấu trùng bơi tự do. Khai thác. Các loài trong họ Placunidae được khai thác rộng rãi ở khu vực Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương và được nuôi trồng ở một số khu vực. Hàu cửa sổ được đánh giá cao nhờ lớp vỏ xà cừ trong mờ của chúng. Vỏ của chúng ban đầu được sử dụng như một chất thay thế thủy tinh cửa sổ, nhưng ngày nay chúng chủ yếu được sử dụng trong sản xuất khay, chụp đèn và đồ trang trí. Ở các vùng ven biển, chúng được khai thác để lấy thịt.
Micae Phạm Minh Cường
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807702
Micae (Michael) Phạm Minh Cường (tên tiếng Anh thông dụng: Michael Pham; sinh 1967) là một giám mục tân cử người Mỹ gốc Việt. Ông được Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm giám mục phụ tá , Hoa Kỳ. Ông là vị giám mục người Mỹ gốc Việt thứ tư phục vụ tại Hoa Kỳ, kể từ giám mục người Mỹ gốc Việt tiên khởi Đa Minh Mai Thanh Lương (2003). Rời Việt Nam thuở thiếu thời dưới dạng thuyền nhân năm 1980, cậu bé Cường đến trại tập trung tại Malaysia, sau đó được bảo trợ đến định cư tại Minnesota, Hoa Kỳ. Trong vòng ba năm sau đó, gia đình cậu đoàn tụ tại Minnesota, và đến định cư tại San Diego, California vào năm 1985. Theo học và tốt nghiệp cử nhân, và sau đó là Thạc sĩ Kỹ thuật hàng không Đại học San Diego, cậu quyết định đi theo con đường tu trì. Sau quá trình tu học tại các Chủng viện Thánh Phanxicô và Thánh Patrick, cậu được truyền chức linh mục cho giáo phận vào năm 1999. Trước khi được bổ nhiệm chức giám mục phụ tá Giáo phận San Diego vào tháng 6 năm 2023, Giám mục tân cử người Mỹ gốc Việt Michael Pham nguyên là linh mục chánh xứ của giáo xứ Good Shepherd ở San Diego. Ông cũng là linh mục tổng đại diện của Giáo phận San Diego (từ năm 2018). Giám mục tân cử Micae Phạm Minh Cường có khả năng sử dụng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Thân thế và tu tập. Micae Phạm Minh Cường sinh ngày 27 tháng 1 năm 1967 tại Đà Nẵng, Việt Nam, là người con trai lớn nhất trong gia đình. Thân phụ ông là người Công giáo, từng cộng tác với người Mỹ do là thành viên trong quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau biến cố năm 1975, tài sản của ông bị tịch thu và bản thân ông này bị đưa đi học tập cải tạo, sau đó được trả tự do. Sau đó, ông trở thành một ngư dân và góp nhiên liệu để thay cho vàng cho chuyến tàu vượt biên. Sinh trưởng tại Việt Nam Cộng Hòa thuở thiếu thời trong thập niên 1970, cậu bé Cường có ấn tượng với linh mục cậu quen biết và đã có ước muốn làm linh mục khi cậu được 10 tuổi.
Micae Phạm Minh Cường
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807702
Tháng 7 năm 1980, cậu bé Cường rời Việt Nam dưới dạng thuyền nhân, cùng với một người chị và em trai của mình trên một con thuyền quá tải, chở trên mình 119 cư dân trên tổng số trọng tải là cho 60 người, di chuyển trên một chiếc tàu không có thức ăn và rất ít nước uống, với không gian được mô tả là "không có chỗ để ngồi xuống" và "bị nhồi nhét như trong hộp cá mòi". Kế hoạch rời bến được đưa ra vào đêm cùng ngày khi chiếc thuyền-vốn bị tạm giữ do tham gia hoạt động vượt biên, được trả về vào sáng cùng ngày. Trải qua cướp biển và mạn tàu bị nứt phải vá tạm bằng quần áo, ba chị em cậu bé Cường sau đó cập bến trại tị nạn tại Pulau Bidong, Malaysia, sinh sống tại đây trong vòng ba tháng trước khi được một gia đình Hoa Kỳ bảo lãnh đến sinh sống tại Blue Earth, Minnesota. Đề đến được với người bảo trợ, ba chị em cậu Cường bị chuyển đến sống tại Kuala Lumpur trong một tháng, sau đó đến Nhật Bản, Seattle (Hoa Kỳ), và cuối cùng đến Minnesota vào cuối tháng 2 năm 1981. Một vài tháng sau đó, một người chị đến sinh sống cùng họ, và các thành viên còn lại trong gia đình (bốn anh chị em và song thân cậu Cường) đến định cư tại Minnesota từ năm 1983. Tại Minnesota, cậu bé Cường theo học trung học, nhưng rời đi khi chưa tốt nghiệp. Gia đình cậu Phạm Minh Cường rời Minnesota đến San Diego, California sinh sống vào năm 1985. Phạm Minh Cường tốt nghiệp trung học tại San Diego và theo học tại San Diego State University, tốt nghiệp cử nhân và thạc sĩ kỹ thuật hàng không. Sau đó, Phạm Minh Cường đi làm cho Continental Graphics, hỗ trợ lưu trữ thông tin của công ty Boeing. Phạm Minh Cường đã nộp đơn vào chủng viện mà không có sự chấp thuận của thân phụ, do ông này phản đối ý định tu trì của cậu. Cả hai ông bà song thân đều phản đối ý định tu trì, tuy vậy dần chấp nhận rằng họ không thể ngăn cản con trai theo con đường tu trì. Trước đó, Phạm Minh Cường có một mối tình đơn phương, tuy nhiên khi người này viết thư mong muốn nối lại mối quan hệ với cậu, cũng trong tuần đó, cha cậu đã quyết định đồng ý về việc cho cậu theo con đường tu trì. Cậu đã quyết định chọn đi theo con đường tu trì. Do nhận thấy có mong muốn đi theo con đường tu trì (ơn gọi), cậu chuyển đến học tại Chủng viện Thánh Phanxicô tại Đại học San Diego.
Micae Phạm Minh Cường
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807702
Sau khi hoàn thành chương trình Chủng viện Saint Patrick ở Menlo Park, California, chủng sinh Phạm được thụ phong linh mục cho Giáo phận San Diego vào ngày 25 tháng 6 năm 1999. Linh mục. Sau khi được thụ phong linh mục, linh mục Micae Phạm Minh Cường (Michael Pham) thi hành mục vụ với vai trò linh mục phó xứ tại giáo xứ St. Mary, Star of the Sea ở Oceanside từ năm 1999 đến năm 2001. Ông làm giám đốc ơn gọi của giáo phận từ năm 2001 đến năm 2004. Michael Pham là linh mục chánh xứ giáo xứ Holy Family, San Diego từ năm 2004 đến năm 2014 và kiêm nhiệm tại giáo xứ St. Therese ở San Diego từ năm 2014 đến 2016. Năm 2016, ông được bổ nhiệm làm linh mục coi sóc giáo xứ Good Shepherd ở San Diego cho đến nay (2023). Giáo xứ này là một trong những giáo xứ lớn nhất của Giáo phận San Diego. Linh mục Cường sau đó là linh mục đại diện cho các cộng đồng sắc tộc và đa văn hóa kể từ năm 2017. Do chức vụ này, ông được ghi nhận là đã làm cho các cộng đồng đa sắc tộc trong giáo phận thêm vững mạnh. Kể từ sáu năm trước (2017), ông đã cho cử hành "Lễ Hiện Xuống cho mọi Dân tộc" và đã thu hút sự tham dự của ít nhất 2.000 giáo dân hằng năm. Kể từ ngày 5 tháng 9 năm 2019, linh mục Phạm Minh Cường là tổng đại diện của Giáo phận San Diego. Ông cũng là Tổng Đại diện gốc Việt tiên khởi tại giáo phận này. Linh mục Michael Phạm đã tham dự Chủng viện Saint Patrick ở Menlo Park, California vào năm 2020 và đã hoàn thành Chứng chỉ Thần học Thánh. Giám mục. Ngày 6 tháng 6 năm 2023, Văn phòng Báo chí Tòa Thánh loan tin Giáo hoàng đã bổ nhiệm linh mục Michael Pham, Tổng Đại diện Giáo phận San Diego, làm giám mục phụ tá Giáo phận San Diego. Cùng trong tin bổ nhiệm này, Tòa Thánh cũng chọn linh mục Felipe Pulido, thuộc linh mục đoàn Giáo phận Yakima, Washington, làm giám mục phụ tá San Diego. Lễ tấn phong cho hai giám mục tân cử đã được ấn định vào ngày 28 tháng 9 năm 2023. Việc bổ nhiệm linh mục Michael Pham làm giám mục được công bố tại Washington, DC vào ngày 6 tháng 6 năm 2023, bởi Tổng Giám mục Christophe Pierre, sứ thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ.
Micae Phạm Minh Cường
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807702
Theo số liệu linh mục Phạm Minh Cường cho biết, vào năm 2019, có khoảng 5.000 gia đình giáo dân gốc Việt tại Giáo phận San Diego, và bảy linh mục gốc Việt thực hiện việc mục vụ tại đây. Trong số linh mục này có ba vị đảm nhận chức chính xứ (2 giáo xứ Việt Nam và 1 giáo xứ Hoa Kỳ).
Đại học Srinakharinwirot
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807709
Đại học Srinakharinwirot (tiếng Thái: มหาวิทยาลัยศรีนครินทรวิโรฒ, phiên âm: Ma-ha-vi-tha-da-lai Xi-na-kha-lin-vi-lót, viết tắt: SWU, abbr: มศว) là một đại học công lập tại Băng Cốc, Thái Lan. Được thành lập năm 1949, trường đại học là tổ chức giáo dục đầu tiên chỉ tập trung đào tạo cho giáo viên. Tên ""Srinakharinwirot" "được đặt bởi Vua Bhumibol Adulyadej để tôn vinh mẹ của mình là vương thái hậu Srinagarindra (phiên âm là ). Đại học Srinakharinwirot có hai khuôn viên; khuôn viên Prasarnmit ở Watthana tại Băng Cốc và khuôn viên Ongkharak ở Ongkharak tại Nakhon Nayok. Ngoài ra các khuôn viên nhỏ khác bao gồm khuôn viên Đại học Bhodivijjalaya tại Sa Kaeo và Mae Chaem tại Chiang Mai. Đại học ban đầu có 8 khuôn viên theo vùng; Prasanmitr, Pathum Wan, Bang Saen, Phitsanulok, Maha Sarakham, Songkhla, Bang Khen và Phala Suksa (nghĩa là Giáo dục Thể chất). Khuôn viên Prasanmitr vẫn là trụ sở chính của đại học, trong khi khuôn viên Pathum Wan hiện tại là trường dạy học, Trường tiểu học Patumwan. Một số trường đại học mới được thành lập như; Đại học Burapha (trước đó là khuôn viên Bang Saen), Đại học Naresuan (trước đó là khuôn viên Phitsanulok), Đại học Mahasarakham (trước đó là khuôn viên Mahasarakham) và Đại học Thaksin (trước đó là khuôn viên Songkhla). Khuôn viên Bang Khen đã đóng cửa, dời đến trụ sở chính Prasarnmitr, khu vực đó ngày nay là Đại học Phranakhon Rajabhat. Cuối cùng, khuôn viên Phala Suksa đã đóng cửa và di chuyển đến khuôn viên Ongkharak, gọi là Khoa giáo dục thể chất.
Pectinida
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807715
Pectinida là một bộ động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống ở biển, có kích thước từ trung bình đến lớn. Nhiều loài trong số chúng thường được gọi với tên thông dụng là sò điệp. Các nhà nghiên cứu tin rằng chúng bắt đầu tiến hóa vào cuối Kỷ Ordovic giữa; nhiều loài, tất nhiên, vẫn còn tồn tại. Phân loại 2010. Năm 2010, một hệ thống phân loại mới được đề xuất cho nhóm động vật thân mềm hai mảnh vỏ (Bivalvia) đã được xuất bản bởi Bieler, Carter & Coan, trogn đó đã điều chỉnh lớp Bivalvia, bao gồm cả bộ Pectinida.
Ukraina Ottoman
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807726
Ukraina Ottoman (), Khan Ukraina (, ), Hanshchyna () là một thuật ngữ lịch sử chỉ Ukraina hữu ngạn (cũng như các khu vực phía nam của tỉnh Kiev) - còn được gọi bằng tên Turk "Yedisan". Lần sử dụng đầu tiên ghi nhận được của thuật ngữ "Khanska Ukraina" bắt nguồn từ năm 1737. Lịch sử. Về mặt chính thức, rìa phía nam, ven biển của lãnh thổ đã bị Hãn quốc Krym chiếm đóng từ những năm 1520 để tạo điều kiện cho các cuộc vây bắt nô lệ. Lãnh thổ xuất hiện là một kết quả của Hiệp định đình chiến Andrusovo năm 1667 giữa Ba Lan-Litva và nước Nga Sa hoàng, chia cắt Quốc gia hetman Cossack, mà không quan tâm đến cư dân địa phương. Kể từ năm 1669, chính phủ Ottoman trao quyền bảo hộ cho nhà nước Cossack ở phía tây sông Dnepr, và chỉ định nó là một sanjak (huyện) riêng do hetman người Cossack Petro Doroshenko đứng đầu. Điều này được xác nhận trong Hiệp ước Buchach năm 1672. Lãnh thổ có biên giới phía tây với tỉnh Podolia và phía nam giáp với tỉnh Silistra. Với sự giúp đỡ của Petro Doroshenko, người Ottoman có thể chiếm Podilia và thành lập tỉnh tại đó vào năm 1672. Năm 1676, vua mới của Ba Lan là Jan III Sobieski tìm cách khôi phục một số lãnh thổ đã mất tại Ukraina, và ngừng cống nạp sau khi ký kết Hiệp định Żurawno. Cũng trong năm 1676, Ivan Samoylovych cùng với boyar Grigory Romodanovsky đã lãnh đạo một chiến dịch thành công chống lại Doroshenko, buộc ông phải đầu hàng và chiếm thủ phủ Chyhyryn của người Cossack. Từ năm 1677 đến năm 1678, một đội quân hùng mạnh của Ibrahim Pasha tranh giành quyền kiểm soát Chyhyryn (xem Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1676–1681)). Cuối cùng, quân đội của Đại Tể tướng Ottoman Kara Mustafa Pasha đã thành công trong việc giành quyền kiểm soát Chyhyryn vào năm 1678. Thành phố Nemyriv trở thành nơi cư trú của hetman từ những năm 1670 đến 1699. Sau Hiệp định Bakhchisarai năm 1681, Ukraina Ottoman nằm dưới quyền cai trị của chính phủ Moldavia (chư hầu của Ottoman) của Hospodar George Ducas. Năm 1685, vua Ba Lan Jan III Sobieski khôi phục một số quyền tự do của người Cossack ở Ukraina hữu ngạn và ký Hiệp định hòa bình vĩnh viễn năm 1686 với Nga nhằm đảm bảo liên minh chống lại Đế quốc Ottoman.
Ukraina Ottoman
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807726
Hầu hết Ukraina Ottoman trở thành một phần của Hãn quốc Krym (dưới quyền bảo hộ của Đế quốc Nga) vào năm 1774 ngoại trừ vùng Ochakiv vẫn là một phần của Đế quốc Ottoman.
Phan Tấn Cẩn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807727
Phan Tấn Cẩn (chữ Hán: 蕃進謹, 23 tháng 8, 1752 - 3 tháng 7, 1816) tước Cẩn Tín hầu, là một nhà chính trị, công thần khai quốc nhà Nguyễn. Ông theo phục vụ quân đội chúa Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây Sơn. Khi chiến tranh kết thúc và nhà Nguyễn được thành lập, ông làm quan dưới triều vua Gia Long. Năm 1803, ông vâng mệnh vua đúc Cửu vị thần công - biểu tượng sức mạnh của nhà Nguyễn. Tiểu sử. Ngài Cẩn Tín hầu Phan Tấn Cẩn sinh ra và lớn lên tại làng Đốc Sơ (nay thuộc phường An Hòa, thành phố Thừa Thiên - Huế). Sách Đại Nam liệt truyện chính biên do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn, chép khá vắn tắt về cuộc đời của cụ: Cụ Cẩn Tín hầu sinh vào ngày 15 tháng 07 âm lịch năm Nhâm Thân, tức ngày 23 tháng 8 năm 1752, vào thời kỳ chấp chính của chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) ở Đàng Trong. Theo gia phả của họ Phan hiện đang lưu giữ tại nhà thờ Nhánh của dòng họ Phan Tấn và những dòng chữ khắc trên bia mộ thì ngài có tên húy là Hoát (豁), tên chữ là Cẩn (謹). Tuy nhiên, sách Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện chính biên lại chép tên cụ là Phan Tiến Cẩn (潘 進 謹). Thân sinh của cụ là ông Phan Tấn Bửu (1709 - 1757) và bà Nguyễn Thị Thích, là cháu nội của ông Phan Tấn Sĩ, trưởng nhánh 4 (nhánh út) dòng họ Phan Tấn làng Đốc Sơ. Như vậy, thì ông thuộc đời thứ 3. Lúc lên sáu tuổi thì thân phụ mất, mẹ lưu lạc, ông phải theo mẹ kế là bà Nguyễn Thị Trấp về ở với ông Cai đội Lương Văn Miên và theo “học nghề rèn, rồi học chữ cho đến năm 15 tuổi”. Đến năm Tân Mão 1771, ông Lương Văn Miên cưới vợ cho ngài là bà Mai Thị Thục, trưởng nữ của ông Mai Đức Đàm, quê ở Vạn Xuân, Hương Trà, Thừa Thiên. Năm Mậu Thân (1788), ông vâng lệnh chúa Nguyễn Ánh chế tạo binh khí và sắm sửa quân nhu. Đến năm 1792, ông được thăng chức Chánh dinh nội lệnh ty câu kê, tước là Cẩn Tín bá.
Phan Tấn Cẩn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807727
Cũng thời điểm này, ông được đặc trách cùng một số vị quan lại khác nhận trách nhiệm thu thuế, thu mua lúa gạo, cau và một số vật phẩm khác để phục vụ cho quân đội. Đến năm Bính Thìn (1796), sung chức Ứng hậu ở hậu điện, cùng năm đó, ông vâng lệnh chúa Nguyễn Ánh ra đảo Phú Quốc nghinh rước bà Hiếu Khang hoàng hậu cùng với bà Mai Thị Thục. Với tài năng, đức độ của mình, ông được quân sĩ hết lòng cảm phục, thương yêu và quý trọng. Do đạt được nhiều thành tích, năm 1799, ngài được thăng Chánh dinh Cai bạ, thuộc Nội cai đội quản Đồ gia, tham gia vào việc đúc binh khí, súng đạn kiêm quản lý chế tạo tàu thuyền, quân nhu. Sau ngày vua Gia Long đánh bại vương triều Tây Sơn, thống nhất hải vũ, định đô ở Phú Xuân (Huế), thì ông cùng với gia quyến trở về cố hương sau bao năm dài xa cách, và đến năm 1801, “ông được thăng Chánh dinh cai bạc thập”. Năm Quý Hợi (1803), ông được thăng Tham tri bộ Công kiêm lý Đồ gia, cùng thời điểm này ông được giao trọng trách cùng với Nguyễn Văn Khiêm, Hoàng Văn Cẩn, Cái Văn Hiếu đúc bộ Cửu vị thần công. Đúc Cửu vị thần công. Sách Đại Nam thực lục cho biết về bộ Cửu vị thần công này như sau: "“Quý Hợi, Gia Long năm thứ 2 (1803)… đúc chín khẩu súng bằng đồng (lấy bốn mùa và năm hành mà đặt tên, cái thứ nhất là Xuân, nặng hơn 17.700 cân, cái thứ hai là Hạ, nặng hơn 17.200 cân. Cái thứ ba là Thu, nặng hơn 18.400 cân, cái thứ tư là Đông, nặng hơn 17.800 cân, cái thứ năm là Mộc, nặng hơn 17.100 cân, cái thứ sáu là Hỏa, nặng hơn 17.200 cân, cái thứ bảy là Thổ, nặng hơn 17.800 cân, cái thứ tám là Kim, nặng hơn 17.600 cân, cái thứ chín là Thủy, nặng hơn 17.200 cân). Đúc xong, làm bài minh để ghi”". Như vậy, chín khẩu súng bằng đồng này, về tên gọi đều có tên riêng, được đặt theo tên của bốn mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông) và tên của Ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), khẩu nặng nhất có trọng lượng là 18.400 cân, khẩu nhẹ nhất 17.100 cân.
Phan Tấn Cẩn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807727
Cả chín khẩu này có chiều dài là 5,10m, “đường kính nòng 0,23m, nòng dày 0,034m, phía sau đo vòng quay được 2,60m. Trên thân súng có sáu gờ nổi, có trang trí tám dải hoa văn chạy quay thân súng. Giữa thân súng có gắn hai quai khắc hình hai con lân, uốn cong hình dấu ngã”. Vào năm 1816, vua Gia Long đặt tên cho các khẩu súng này là Thần oai vô địch thượng tướng quân. Về tên tuổi của những người tham gia trong hội đồng đốc công chế tạo súng thì sách Đại Nam thực lục không thấy đề cập đến. Tuy nhiên, trên phần thân súng vẫn còn thấy rõ tên tuổi, chức tước của bốn người đảm trách nhiệm vụ đúc súng, trong đó có Ngài Cẩn Tín hầu Phan Tấn Cẩn: “工 部 參 知 兼 理 圖 家 謹 信 侯 臣 潘 晉 謹 奉 董 飭”. "“Công bộ Tham tri kiêm lý đồ gia Cẩn Tín hầu thần Phan Tấn Cẩn phụng đổng sức”". Năm 1914, trên tập san nghiên cứu Bulletin Des Amis Du Vieux Hue (BAVH), Giáo sư H. Lebris có đăng bài khảo cứu "“Các súng thần công của Kinh thành Huế”". Đây là bài viết khá công phu và tỉ mĩ, mà tác giả là một học giả người Pháp đã cho người đọc thấy rõ từ thời gian, quá trình đúc, kích cỡ, trọng lượng súng, cách hướng dẫn nạp đạn đến quá trình di dời súng cũng như sự kính trọng của quân dân trước bộ "“Thần oai vô địch”" này. Đề cập đến hội đồng đúc súng này, tác giả đưa ra một nhận xét khá lý thú rằng: Như vậy, để đúc thành công 9 khẩu súng Thần oai vô địch này, vua Gia Long đã rất thận trọng, tinh tuyển lựa chọn ra những con người ưu tú nhất, không chỉ vững vàng về trình độ chuyên môn mà còn hội tụ những đức tính cao đẹp ("Khiêm hòa, Cẩn thận, Hiếu thuận, Cẩn tín") để có thể đặt trọn vẹn niềm tin vào họ. Thật vậy, bộ Cửu vị thần công là một kiệt tác bằng đồng có giá mỹ thuật hết sức quý báu, chắc hẳn ngày xưa triều đình đã phải trưng tập, huy động một lực lượng nhân công khá lớn và có trình độ chuyên môn cao.
Phan Tấn Cẩn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807727
Để trở thành sản phẩm như chúng ta thấy được ngày hôm nay, hẳn cả một ekip phải làm việc không biết mệt mỏi, từ khâu thiết kế bản vẽ đến tính toán hàm lượng đồng sử dụng, hình ảnh, họa tiết trang trí được cân nhắc hết sức tỉ mĩ. Đây là quá trình chuyển hóa những ý tưởng từ trên bản vẽ đến việc tạo khuôn, nấu đồng… cho đến lúc thành phẩm. Rõ ràng, đây là công lao của sự hiệp sức một đội ngũ lành nghề và vai trò của cụ Phan Tấn Cẩn trong hội đồng đúc súng này chiếm một vị trí rất quan trọng. Qua đời. Ngày mồng 09 tháng 06 âm lịch năm Bính Tý, tức ngày 3 tháng 7 năm 1816, sau một thời gian an dưỡng, cụ Phan Tấn Cẩn thọ bệnh, thuốc thang không thuyên giảm và đã trút hơi thở cuối cùng vào hồi bốn giờ chiều, hưởng thọ 65 tuổi. Khi hay tin cụ qua đời, vua Gia Long vô cùng thương xót, lệnh cấp ban tiền tuất, vải vóc, gấm lụa, sai quan đến tế. Linh cửu quàn tại tư gia cho đến tháng 11 mới an táng. Mộ ngài táng tại xứ Mụ Kiểm, tục gọi là lăng Đôi. An táng. Đối với làng xã, quê hương bản quán, ông có công lao rất lớn trong việc chăm lo đời sống, ổn định sản xuất của nhân dân. Đương thời, ông đã cho đào hệ thống kênh mương nước "“dẫn thủy nhập điền”", bắt đầu từ làng Đốc Sơ kéo dài về đến vùng Hương Cần, nhằm phục vụ việc tưới tiêu cho ruộng lúa, hoa màu, tiêu úng thoát lũ trong mùa mưa bão và đảm bảo nhu cầu về nguồn nước dùng cho sinh hoạt của cư dân trong vùng. Ngoài ra, ông còn phát tâm nguyện tu sửa đình chùa, miếu mạo, hỗ trợ chăm lo cho những hoàn cảnh éo le, gia đình gặp khó khăn… Sinh thời, cụ là một người sống nguyên tắc, rất nghiêm khắc, dạy dỗ con cháu có khuôn phép, tôn ti trật tự rất rõ ràng. Với bà con lối xóm, cụ đối xử hết mực thương yêu. Để tưởng nhớ công ơn to lớn của ông, làng đã thiết trí một số ruộng đất hương hỏa để thường năm con cháu lo giỗ kỵ cho ngài. Làng, họ như thường lệ cứ hễ đến ngày húy kỵ của ngài đều sắm sửa lễ phẩm đến bái vọng ngài.
Phan Tấn Cẩn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807727
Ngày nay, nhiều thế hệ ở Đốc Sơ vẫn còn truyền tụng nhiều giai thoại về cụ với tất cả sự ngưỡng vọng, lòng kính trọng về một người con ưu tú của làng. Hiện phần mộ của cụ bị nước ngập chìm với độ sâu hơn 32cm. Nguyên phần đất này có tên là xứ Mụ Kiểm, ngày xưa là cánh đồng canh tác ruộng lúa, hoa màu của làng Đốc Sơ. Sau này cùng với quá trình mở rộng thành phố Huế, nơi đây đón nhận nhiều luồng dân cư đến định cư sinh sống. Quá trình đắp nền, nâng móng xây dựng nhà cửa của nhiều hộ dân lân cận đã vô tình biến phần đất này thành một vùng đất trũng, ngập nước. Phần mộ của Cụ Phan Tấn Cẩn tọa lạc ở cuối Kiệt số 62, đường Nguyễn Văn Linh, phường An Hòa, Huế. Đây là khu mộ có quy mô khá hoành tráng, trên một mặt bằng diện tích khoảng chừng 150m2, mộ quay về hướng Bắc (hơi chệch về phía Đông). Diện mạo của khu lăng mộ này còn khá nguyên vẹn, dấu vết của hai lần trùng tu vào năm 1991 và năm 2002 theo chúng tôi nhận biết về cơ bản không làm biến dạng nhiều về cả quy mô, bố cục lẫn phong cách kiến trúc của lăng mộ. Trong cả hai lần trùng tu đó, con cháu trong trong họ tộc chỉ sửa sang, kiến thiết một số chi tiết nhỏ như dựng thêm tấm bia bằng chữ Quốc ngữ gắn liền với tấm bình phong hậu, xây dựng hệ thống thành bao bọc phía ngoài tránh sự xâm hại từ các tác nhân bên ngoài. Ngoài ra, phía trước mộ còn xây thêm hệ thống hành lang bảo vệ mặt tiền của ngôi mộ. Dựa vào phong cách kiến trúc, vật liệu, kỹ thuật xây dựng cũng như nghệ thuật trang trí, đặc biệt kiểu hình nấm mộ hiện còn góp phần xác nhận thời điểm xây dựng. Theo thiển ý của chúng tôi, thì khu mộ này có phong cách khá đặc trưng, mà thực tế niên đại tương đối có thể xác định thì được xây dựng vào buổi đầu của thời kỳ nhà Nguyễn, tức vào khoảng nửa đầu thế kỷ XIX.
Phan Tấn Cẩn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807727
Qua kiểu thức phần mộ hình của lăng ngài Phan Tấn Cẩn có thể thấy được rằng mô thức kiến trúc này thể hiện tính điển hình trong phong cách xây dựng lăng mộ cuối thời chúa Nguyễn đến đầu thời các vua Nguyễn, mà trên thực tế kiểu thức này còn tồn tại khá ít trên vùng đất Thừa Thiên Huế.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Francesco Forgione, còn được biết đến với tên Thánh Piô Năm Dấu, Cha Piô (tiếng Ý: "Padre Pio"), Cha Thánh Piô, Cha Thánh Piô Năm Dấu, Thánh Padre Pio, Thánh Piô Pietrelcina và Thánh Piô thành Pietrelcina (tiếng Ý: "Pio da Pietrelcina"; 25 tháng 5 năm 1887 – 23 tháng 9 năm 1968), là một linh mục, tu sĩ Công giáo và là nhà thần bí người Ý Dòng Anh Em Hèn Mọn Capuchin. Ông được Giáo hội Công giáo Roma tôn kính là một vị thánh, lễ kính vào ngày 23 tháng 9 hàng năm. Piô gia nhập Dòng Phan Sinh Capuchin năm mười lăm tuổi và dành phần lớn cuộc đời của mình trong tu viện San Giovanni Rotondo. Ông có được dấu thánh vào năm 1918, từ đó dẫn đến một số cuộc điều tra của Tòa thánh. Bất chấp các biện pháp trừng phạt do Vatican áp đặt, danh tiếng của ông vẫn không ngừng tăng lên trong suốt cuộc đời, thu hút nhiều tín đồ đến San Giovanni Rotondo. Ông đã tham gia vào việc xây dựng bệnh viện Casa Sollievo della Sofferenza (tiếng Ý dịch ra nghĩa là "Nhà an ủi kẻ đau khổ" hay "Nhà xoa dịu nỗi đau"), một bệnh viện được xây dựng gần tu viện San Giovanni Rotondo hiện là một bệnh viện lớn thuộc quản lý của Thành Vatican. Sau khi ông qua đời, lòng sùng kính của các tín đồ đối với ông tiếp tục lan rộng trên toàn thế giới. Cha Piô được phong chân phước ngày 2 tháng 5 năm 1999 và được phong thánh ngày 16 tháng 6 năm 2002 bởi Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Thi hài của Cha Thánh Piô được trưng bày tại Thánh đường Thánh Piô ở Pietrelcina, thành phố San Giovanni Rotondo, miền nam nước Ý, bên cạnh tu viện San Giovanni Rotondo, hiện là một địa điểm hành hương lớn. Cuộc đời. Đầu đời. Francesco Forgione được sinh ra bởi Grazio Mario Forgione (1860–1946) và Maria Giuseppa Di Nunzio (1859–1929) vào ngày 25 tháng 5 năm 1887, tại Pietrelcina, một thị trấn thuộc tỉnh Benevento, vùng Campania, miền Nam nước Ý. Cha mẹ anh là nông dân.  Anh ấy đã được rửa tội trong Nhà nguyện Santa Anna gần đó. Sau đó, anh ấy tham dự vào công việc trong nhà nguyện này với tư cách là một cậu giúp lễ. Francesco có một anh trai, Michele, và ba em gái, Felicita, Pellegrina và Grazia (người sau này trở thành nữ tu Bridgettine). Cha mẹ anh có hai người con khác đã chết khi còn nhỏ.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Anh ấy nói rằng khi mới 5 tuổi, anh ấy đã quyết định dâng hiến cả cuộc đời mình cho Chúa. Anh ấy đã làm việc trong trang trại gia đình cho đến năm 10 tuổi, chăm sóc đàn cừu nhỏ mà gia đình sở hữu. Pietrelcina là một thị trấn mà các ngày lễ của các vị thánh được tổ chức quanh năm. Gia đình Forgione là một gia đình Công giáo thuần thành. Họ tham dự Thánh lễ hàng ngày, cầu nguyện Kinh Mân Côi hàng đêm và kiêng thịt ba ngày một tuần để tôn vinh Đức Mẹ Núi Camêlô. Mặc dù cha mẹ và ông bà của Francesco không biết chữ, nhưng họ vẫn có thể kể lại những câu chuyện Kinh thánh cho con cháu của họ. Theo nhật ký của Cha Agostino da San Marco (người sau này là linh hướng của Francesco ở San Marco in Lamis, tỉnh Foggia, vùng Apulia, đông nam nước Ý), cậu bé Francesco mắc một số bệnh. Năm sáu tuổi, cậu bị viêm dạ dày ruột nặng. Năm mười tuổi, cậu bị sốt thương hàn. Khi còn trẻ, Francesco thuật lại rằng anh đã có những thị kiến và trải qua những lần ở trạng thái xuất thần. Năm 1897, sau khi học xong ba năm tại trường học công lập, Francesco được cho là đã bị cuốn hút vào cuộc sống của một tu sĩ sau khi nghe một thầy tu Dòng Capuchin ở nông thôn đang kêu gọi Ơn Thiên Triệu. Khi Francesco bày tỏ mong muốn trở thành linh mục của mình với cha mẹ, họ đã thực hiện một chuyến đi đến Morcone, một cộng đoàn cách Pietrelcina 13 dặm (21 km) về phía bắc, để tìm hiểu xem con trai họ có đủ điều kiện để vào Dòng hay không. Các thầy tu ở đó thông báo với họ rằng họ muốn nhận Francesco vào cộng đoàn của họ, nhưng anh ấy cần phải đi học thêm một khoảng thời gian nữa. Cha của Francesco đã đến Hoa Kỳ tìm việc làm để trả chi phí dạy kèm riêng cho con trai mình, nhằm đáp ứng các yêu cầu học vấn để vào Dòng Capuchin. Chính trong thời kỳ này, Francesco đã lãnh nhận bí tích Thêm sức vào ngày 27 tháng 9 năm 1899. Anh đã trải qua quá trình dạy kèm riêng và vượt qua các yêu cầu học vấn theo quy định. Vào ngày 6 tháng 1 năm 1903, ở tuổi 15, anh vào tập viện của các thầy tu Capuchin tại Morcone.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Vào ngày 22 tháng 1 cùng năm, anh lấy tu phục Dòng Phan Sinh và lấy tên là Fra ( Friar ) Piô, để vinh danh Giáo hoàng Piô I, là vị thánh có thánh tích được lưu giữ trong Nhà nguyện Santa Anna ở Pietrelcina. Piô đã khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Trở thành linh mục. Bắt đầu chương trình học bảy năm để trở thành linh mục, Piô đến tu viện Thánh Phanxicô Assisi ở Umbria. Năm 17 tuổi, anh bị ốm, chán ăn, mất ngủ, kiệt sức, ngất xỉu và đau nửa đầu. Anh ấy thường xuyên nôn mửa và chỉ ăn uống được mỗi sữa và pho mát. Các tín đồ tôn giáo coi thời điểm này là thời điểm mà các hiện tượng không thể giải thích được bắt đầu xảy ra. Ví dụ, trong những buổi cầu nguyện, Piô xuất hiện với những người khác trong trạng thái sững sờ, như thể anh ta vắng mặt ở đất. Một trong những anh em đồng tu của Piô tuyên bố đã nhìn thấy anh ta trong trạng thái xuất thần và bay lơ lửng lên trên mặt đất. Vào tháng 6 năm 1905, sức khỏe của Piô trở nên tồi tệ đến mức bề trên quyết định gửi anh đến một tu viện trên núi, với hy vọng rằng sự thay đổi không khí sẽ tốt hơn cho sức khỏe của anh. Tuy nhiên, việc này cũng chẳng giúp cải thiện gì nhiều và các bác sĩ khuyên anh ấy nên trở về nhà của mình để tịnh dưỡng. Nhưng ngay cả khi ở đó, sức khỏe của anh ấy cũng không được tốt hơn. Mặc dù vậy, Piô vẫn tuyên khấn trọng thể vào ngày 27 tháng 1 năm 1907. Tháng 8 năm 1910, Piô được Đức Tổng Giám Mục Phaolô Schinosi truyền chức linh mục tại Nhà thờ Chính tòa Benevento. Bốn ngày sau, cha Piô dâng thánh lễ đầu tiên tại nhà thờ giáo xứ Đức Mẹ Các Thiên Thần (tiếng Anh":" "Church of Our Lady of the Angels"). Sức khỏe bấp bênh, ông được phép ở lại với gia đình tại quê hương Pietrelcina trong khi vẫn giữ lề luật tu trì Dòng Capuchin. Ông ở lại Pietrelcina cho đến năm 1916, do sức khỏe và nhu cầu chăm sóc gia đình mình khi cha và anh trai của ông di cư sang Hoa Kỳ một thời gian. Trong những năm này, cha Piô thường xuyên viết thư cho các vị linh hướng của mình, là cha Benedetto và cha Agostino, hai tu sĩ từ tu viện Capuchin ở San Marco in Lamis. Đến San Giovanni Rotondo.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Đến San Giovanni Rotondo. Ngày 4 tháng 9 năm 1916, cha Piô được lệnh trở về đời sống cộng đoàn. Ông chuyển đến một cộng đoàn ở nông thôn là tu viện Đức Mẹ Ban Ơn Capuchin (tiếng Anh: "Our Lady of Grace Capuchin Friary"), nằm ở dãy núi Gargano ở San Giovanni Rotondo thuộc tỉnh Foggia. Vào thời điểm đó, cộng đoàn có bảy thầy tu. Ông ở lại San Giovanni Rotondo cho đến khi qua đời vào năm 1968, ngoại trừ một thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự. Trong chức linh mục, cha Piô được biết đến là đã thực hiện cải đạo thành công sang Công giáo cho một số người. Cha Piô tận tụy với việc lần chuỗi Mân Côi. Ông so sánh việc xưng tội hàng tuần giống như việc quét dọn phòng hàng tuần vậy và khuyến khích thực hiện tĩnh tâm và xét mình hai lần mỗi ngày: một lần vào buổi sáng để chuẩn bị cho một ngày mới và một lần nữa vào buổi tối để nhìn lại bản thân ngày hôm đó. Lời khuyên của cha Piô về ứng dụng thực tế của thần học, ông thường tóm tắt trong câu nói nổi tiếng hiện nay của mình: "Hãy cầu nguyện, hy vọng và đừng lo lắng" (tiếng Anh: "Pray, hope, and don't worry"). Ông hướng dẫn các Cơ đốc nhân nhận ra Đức Chúa Trời trong mọi sự và mong muốn trên hết mọi sự là làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Nhiều người nghe nói về cha Piô đã đến San Giovanni Rotondo để gặp ông và bày tỏ lòng cảm mến với ông, nhờ ông ấy giúp đỡ hoặc để thỏa mãn sự tò mò của họ. Mẹ của cha Piô qua đời tại ngôi làng xung quanh tu viện vào năm 1928. Sau đó vào năm 1938, cha Piô để người cha già Grazio sống với mình. Anh trai Michele của ông cũng chuyển đến sống cùng. Cha của cha Piô sống trong một ngôi nhà nhỏ bên ngoài tu viện cho đến khi ông qua đời vào năm 1946. Nghĩa vụ quân sự. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, bốn thầy tu trong cộng đoàn của cha Piô đã được chọn để nhập ngũ trong quân đội Ý. Lúc đó, cha Piô đang là giáo lý viên tại chủng viện và là một linh hướng. Khi lại có thêm một tu sĩ được gọi nhập ngũ, cha Piô được giao phụ trách cộng đoàn. Vào ngày 15 tháng 11 năm 1915, cha Piô cũng được gọi nhập ngũ. Vào ngày 6 tháng 12 thì ông được đưa vào công tác tại Quân y số 10 ở Naples.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Do sức khỏe yếu, ông liên tục bị giải ngũ và rồi lại nhập ngũ cho đến ngày 16 tháng 3 năm 1918, ông được tuyên bố là không đủ sức khỏe để phục vụ và giải ngũ hoàn toàn. Vào tháng 9 năm 1918, cha Piô bắt đầu xuất hiện những vết thương kì lạ trên tay và chân, được gọi là dấu thánh vì những vết thương ấy có liên hệ đến những vết thương của Chúa Kitô. Trong những tháng tiếp theo, danh tiếng của cha Piô tăng nhanh trong vùng San Giovanni Rotondo, thu hút hàng trăm tín hữu đến tu viện để gặp ông hàng ngày. Những người bắt đầu xây dựng lại cuộc sống của mình sau chiến tranh xem cha Piô như một biểu tượng của hy vọng. Những người thân cận với ông chứng thực rằng ông bắt đầu thể hiện một số phép lạ, bao gồm: khả năng chữa bệnh, phân thân, khả năng bay lơ lửng giữak không trung, tiên tri, kiêng khem cả giấc ngủ và thức ăn (có một báo cáo nói rằng cha Agostino - linh hướng của cha Piô, đã ghi lại một trường hợp trong đó cha Piô có thể sống được ít nhất 20 ngày tại Verafeno chỉ với Bí tích Thánh Thể mà không có bất kỳ thức ăn nào khác), khả năng nhìn thấu nội tâm người khác, nói tiếng lạ và vết thương có mùi hương dễ chịu. Cha Piô ngày càng được nhiều người biết đến. Ông trở thành một vị linh hướng và đã phát triển năm quy tắc để tăng trưởng tâm linh: xưng tội hàng tuần, rước lễ hàng ngày, đọc sách Kinh Thánh, suy niệm Lời Chúa và xét mình. Phục hồi quyền linh mục. Năm 1933, Giáo hoàng Piô XI đã ra lệnh hủy bỏ lệnh cấm cử hành Thánh lễ cho cha Piô, bảo rằng: "Tôi không có ác cảm với cha Piô, chỉ là tôi đã nhận được thông tin không đúng". Năm 1934, cha Piô được phép thực hiện Bí tích Giải tội trở lại. Ông ấy cũng được phép thuyết giảng mặc dù chưa bao giờ tham gia kỳ thi lấy giấy phép thuyết giảng nào. Giáo hoàng Piô XII, người đảm nhận chức vụ Giáo hoàng vào năm 1939, thậm chí còn khuyến khích những tín hữu sùng đạo đến thăm cha Piô. Cuối cùng, vào giữa những năm 1960, Giáo hoàng Phaolô VI (giáo hoàng từ 1963 đến 1978) đã bác bỏ mọi cáo buộc chống lại cha Piô. Bệnh viện Casa Sollievo della Sofferenza.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Bệnh viện Casa Sollievo della Sofferenza. Bệnh viện được xây dựng theo sáng kiến ​​của cha Piô ở San Giovanni Rotondo, Ý. Đến năm 1925, cha Piô đã lấy một tòa nhà cũ của tu viện trở thành một phòng khám y tế với vài chiếc giường chủ yếu dành cho những người thực sự cần đến. Năm 1940, một ủy ban được thành lập để quản lý một phòng khám lớn hơn và các quỹ đóng góp bắt đầu được kêu gọi. Việc xây dựng bắt đầu vào năm 1947. Theo Sergio Luzzatto là một tác giả sách viết về cha Piô, phần lớn số tiền tài trợ cho bệnh viện đến trực tiếp từ Emanuele Brunatto, một tín đồ cuồng nhiệt của cha Piô, người đã kiếm bộn tiền từ thị trường chợ đen ở nước Pháp lúc bấy giờ đang bị Đức chiếm đóng. Cơ quan Liên Hiệp Quốc về Cứu tế và Phục hồi (UNRRA) cũng đóng góp 250 triệu lira Ý (đơn vị tiền tệ cũ của Ý). Lodovico Montini, người đứng đầu Đảng Dân chủ Cơ Đốc giáo (tiếng Anh: "Democrazia Cristiana)" và anh trai của ông là Giovanni Battista Montini (sau này là Giáo hoàng Phaolô VI) đã tạo điều kiện cho UNRRA tham gia. Bệnh viện ban đầu được đặt tên là "Fiorello LaGuardia" và được coi là một thành quả để đời của cha Piô. Bệnh viện Casa Sollievo della Sofferenza mở cửa vào năm 1956. Cha Piô trao quyền kiểm soát trực tiếp cho Tòa thánh. Tuy nhiên, để cho cha Piô có thể trực tiếp giám sát dự án, Giáo hoàng Piô XII đã cho phép ngài miễn lời khấn khó nghèo vào năm 1957. Một số người gièm pha cha Piô sau đó đã lợi dụng việc này mà cho rằng cha Piô đã có hành vi biển thủ. Cái chết. Cha Piô qua đời năm 1968 ở tuổi 81. Sức khỏe của ông suy giảm vào những năm 1960, nhưng ông vẫn tiếp tục thực hiện các công việc của mình. Vào ngày 22 tháng 9 năm 1968, cha Piô đã cử hành thánh lễ kỷ niệm 50 năm ngày ông nhận được dấu thánh với rất đông khách hành hương có mặt, có cả các đoàn làm phim truyền hình đến ghi hình. Do có quá đông khách hành hương tham dự Thánh lễ nên bề trên của tu viện quyết định cử hành Thánh lễ trọng thể. Cha Piô cử hành Thánh lễ với sức khỏe đã vô cùng sa sút.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Giọng nói của ông ấy yếu ớt và sau khi Thánh lễ kết thúc, ông ấy gần như ngã quỵ khi bước xuống các bậc thềm. Anh ấy cần sự giúp đỡ từ các thầy tu Capuchin của mình. Và đây là lần cử hành thánh lễ cuối cùng của cha Piô. Sáng sớm ngày 23 tháng 9 năm 1968, cha Piô xưng tội lần cuối và tuyên khấn trọn đời lại dòng Phan sinh. Theo thông lệ, cha Piô cầm tràng hạt trong tay, ông ấy không đủ sức để đọc to Kinh Kính Mừng, thay vào đó ông ta lặp lại những từ tiếng Ý: "Gesù, Maria" (tiếng Việt: "Giêsu", Maria"" ). Vào khoảng 2:30 sáng, cha Piô qua đời trong phòng ngủ của mình ở tu viện San Giovanni Rotondo. Khám nghiệm thi thể của cha Piô, bác sĩ nhận thấy rằng các vết thương dấu thánh đã hoàn toàn lành lặn, không còn bất kỳ dấu vết nào. Thi thể của ông nằm trong quan tài, được đặt bên trong nhà thờ của tu viện để những người hành hương đến kính viếng. Lễ tang được tổ chức vào ngày 26 tháng 9, ước tính có khoảng 100.000 người tham dự. Sau Thánh lễ an táng, quan tài của cha Piô an nghỉ trong hầm mộ ở Nhà thờ Đức Mẹ Ban Ơn. Hiện tượng siêu nhiên. Cha Piô được cho là đã có những phép lạ thần bí như nghe được tiếng nói của linh hồn, khả năng phân thân, khả năng nhìn thấu nội tâm và chữa lành bệnh tật. Những trải nghiệm siêu nhiên được báo cáo của ông ấy cũng bao gồm: nhận được khải tượng (nhìn thấy nghe thấy Chúa), giao tiếp với thiên thần và chiến đấu thể xác với Satan và ác quỷ. Các báo cáo về hiện tượng siêu nhiên của cha Piô đã thu hút sự dư luận, dù rằng ngay cả Vatican có vẻ hoài nghi. Một số hiện tượng này đã được chính cha Piô nhắc đến trong các bức thư viết cho các vị linh hướng của mình, còn những hiện tượng khác thì được nói đến bởi những người theo ông. Thánh tích. Cha Piô đã viết trong những bức thư của mình rằng, ngay từ khi còn là linh mục, ông đã có những vết thương trên cơ thể, sự đau đớn và chảy máu ở những vị trí của dấu thánh.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Trong một lá thư gửi cho cha Agostino Gemelli là một linh hướng của cha Piô vào ngày 21 tháng 3 năm 1912, cha Piô đã viết về lòng sùng kính của mình đối với Thánh thể của Chúa Kitô và linh cảm rằng mình sẽ mang các dấu thánh. Luzzatto tuyên bố rằng trong bức thư này, cha Piô sử dụng những đoạn không được công nhận từ một cuốn sách của Gemma Galgani. Cha Piô sau đó đã phủ nhận rằng ông biết hoặc sở hữu cuốn sách được trích dẫn. Trong một bức thư năm 1915, Agostino đã hỏi cha Piô những câu hỏi bao gồm: lần đầu tiên ông trải qua những khải tượng, liệu ông có bị kỳ thị hay không và liệu ông có cảm thấy những nỗi đau trong Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô hay không, cụ thể là đội mão gai và chịu đánh đòn?. Cha Piô trả lời rằng ông ấy đã trải qua những khải tượng từ thuở mới vào tu viện (năm 1903), đồng thời nói thêm rằng ông đã quá kinh hãi trước hiện tượng này nên đã cầu xin Chúa rút lại dấu thánh của mình. Vào ngày 20 tháng 9 năm 1918, trong khi nghe xưng tội, cha Piô cho biết các dấu thánh đã xuất hiện trở lại và khiến ông đau đớn. Những dấu thánh ấy được cho là đã liên tục xuất hiện trong 50 năm, cho đến cuối đời. Máu chảy ra từ dấu thánh có mùi hương dễ chịu như nước hoa. Cha Piô nói với cha Agostino rằng cơn đau vẫn còn và trầm trọng hơn vào những ngày cụ thể và trong những trường hợp nhất định. Mặc dù ông ấy nói rằng ông ấy muốn chịu đựng trong bí mật, nhưng vào đầu năm 1919, tin tức về cha Piô đã bắt đầu lan truyền. Cha Piô thường đeo găng tay màu đỏ hoặc màu đen trên tay và chân, nói rằng ông ấy xấu hổ vì những vết thương này. Agostino Gemelli (là một tu sĩ Công giáo và cũng là một bác sĩ người Ý) tuyên bố rằng những vết thương của cha Piô phù hợp với vết thương mà những người lính đã tự gây ra cho mình khi sử dụng những chất độc hóa học có tính ăn mòn để được hoãn nhập ngũ. Trong khi đó Amico Bignami (là một bác sĩ và nhà nghiên cứu bệnh học người Ý) cho rằng những vết thương của cha Piô có thể là một vết hoại tử da nguyên nhân là do sử dụng cồn iốt hoặc các hóa chất tương tự để cản trở quá trình chữa lành.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Sau khi được công khai, các vết thương đã được nghiên cứu bởi một số bác sĩ, một số bác sĩ thì được Vatican thuê như một phần của cuộc điều tra cha Piô. Một số người cho rằng những vết thương là không thể giải thích được và dường như chưa bao giờ bị nhiễm trùng. Mặc dù có vẻ như đã lành nhưng sau đó chúng sẽ xuất hiện trở lại theo định kỳ.  Alberto Caserta đã chụp X-quang bàn tay của cha Piô vào năm 1954 và không tìm thấy bất thường nào trong cấu trúc xương. Một số nhà phê bình buộc tội cha Piô làm giả các dấu thánh, chẳng hạn bằng cách sử dụng axit carbolic để tạo vết thương. Maria De Vito (em họ của dược sĩ địa phương Valentini Vista tại Foggia) đã làm chứng rằng cha Piô lúc trẻ tuổi đã mua axit carbolic và một lượng bốn gram veratrine, tuy nhiên đã không xuất trình bất kỳ đơn thuốc nào và giữ nó bí mật. Veratrine là một hỗn hợp của các alkaloid, một hóa chất có tính ăn mòn da cao: "Veratrine độc ​​đến mức chỉ bác sĩ mới có thể quyết định có kê đơn hay không" - dược sĩ Vista tuyên bố trước các nhân chứng. Veratrine đã từng được sử dụng như một loại thuốc trừ sâu làm tê liệt cơ, chủ yếu là để chống chấy rận, nhưng cũng được các dược sĩ sử dụng như là một loại thuốc tê khiến người ta không nhạy cảm với cơn đau. Cha Piô khẳng định rằng axit carbolic được sử dụng để khử trùng ống tiêm dùng trong điều trị y tế và sau khi bị dính phải một trò đùa của những người bạn khi trộn chất veratrine với thuốc lá hít (loại thuốc lá dùng mũi để ngửi) gây ra hiện tượng hắt hơi không kiểm soát được sau khi hít phải, ông ấy đã quyết định mua số lượng hóa chất này để chơi trò đùa tương tự với những người bạn của mình. Giám mục của Volterra, Raffaello Rossi đã chia sẻ quan điểm này, cho rằng "Thay vì có ác tâm, điều chúng ta có thể thấy ở đây là sự giản dị của cha Piô và sự vui tính của ông", rằng "Vấn đề dấu thánh ở đây không phải là công việc của ma quỷ, cũng không phải là sự lừa dối trắng trợn, lừa đảo, mánh khóe của một người quỷ quyệt và độc hại, dấu thánh của ông ấy đối với tôi dường như không phải là sản phẩm bệnh hoạn của những gợi ý từ bên ngoài". Cha Rossi coi những dấu thánh này là "có thật".
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Thị kiến Thiên thần Xuyên tâm. Vào tháng 8 năm 1918, một vài tuần trước khi cha Piô được cho là nhận được dấu thánh, ông đã mô tả một trải nghiệm thần bí mà trong đó ông cảm thấy bản thân bị đâm và bị thiêu đốt cả về tinh thần lẫn thể xác bởi một ngọn giáo đầu lửa phóng vào người mình từ một thiên thần. Theo cha Piô, trải nghiệm thần bí này bắt đầu vào ngày 5 tháng 8 và kết thúc vào ngày 7 tháng 8 năm 1918. Cha Benedetto, vị linh hướng của cha Piô, giải thích hiện tượng này là một thị kiến về thiên thần xuyên tâm. Cha Piô sau đó bảo rằng trải nghiệm này đã để lại vết thương ở bên trái cơ thể của ông ấy. Hầu hết các nhân chứng đã kiểm tra vết thương của cha Piô đều cho biết rằng ông có một vết thương ở bên trái, dài khoảng 3 inch (7,62 cm) và có hình chữ thập. Khả năng phân thân. Cha Piô được những người theo ông tin rằng ông có khả năng phân thân, khả năng ở hai nơi cùng một lúc. Khi giám mục Raffaele Rossi hỏi ông về việc này trong một cuộc điều tra của Vatican, cha Piô trả lời: "Tôi không biết nó như thế nào hoặc bản chất của hiện tượng này là gì - và chắc chắn là tôi không nghĩ gì nhiều lắm - nhưng nó đã xảy ra với tôi khi tôi đứng trước mặt người này hay người kia, ở nơi này hay nơi kia; tôi không biết liệu tâm trí của tôi đã được di chuyển đến đó hay những gì tôi nhìn thấy là một hình thức nào đó của nơi chốn hoặc con người; tôi không biết biết liệu tâm trí của tôi có ở đó với cơ thể của tôi hay không". Chữa lành bệnh tật. Trong cuốn sách năm 1999 "Padre Pio: The Wonder Worker" (tạm dịch: "Cha Piô: Người thợ gặt kì diệu") đoạn người linh mục người Ireland Malachy Gerard Carroll mô tả câu chuyện về Gemma de Giorgi, một cô gái người Sicilia bị mù được cho là đã được chữa khỏi trong chuyến đến thăm cha Piô. Gemma được bà nội đưa đến San Giovanni Rotondo vào năm 1947, vốn khi sinh ra đã bị khiếm thị. Trong chuyến đi gặp cha Piô, cô bé bắt đầu nhìn thấy các đồ vật. Bà của Gemma không tin rằng đứa trẻ đã được chữa khỏi. Sau khi Gemma quên cầu xin cha Piô ban ơn trong lúc xưng tội, bà của cô đã cầu xin với vị linh mục rằng xin Chúa phục hồi thị lực cho cô.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Cha Piô nói với bà ấy: “Này con, con có đức tin không? Đứa trẻ không cần phải khóc mà con cũng không cần khóc, vì con có biết là nó đã được nhìn thấy rồi không ?”. Theo giám mục của Volterra, Raffaele Rossi, người phụ trách cuộc điều tra về cha Piô: "Trong số những vụ chữa lành bệnh tật bị cáo buộc, nhiều vụ không được xác nhận hoặc không tồn tại. Tuy nhiên, trong thư từ của cha Piô, có một số tuyên bố đáng tin cậy cho rằng phép lạ là do sự can thiệp của ông. Nhưng không có xác nhận y tế nên rất khó để đưa ra kết luận và vấn đề vẫn còn đang bỏ ngỏ". Lời tiên tri. Năm 1947, cha Karol Józef Wojtyła, 27 tuổi (sau này là Giáo hoàng Gioan Phaolô II) đến thăm cha Piô, ông xưng tội cùng với cha Piô. Đức Hồng Y người Áo Alfons Stickler báo cáo rằng Wojtyła đã từng tâm sự với hồng y rằng trong cuộc gặp gỡ này, cha Piô đã nói với ngài rằng một ngày nào đó ông ấy sẽ lên "chức vụ cao nhất trong nhà thờ, mặc dù cần phải xác nhận thêm". Stickler nói rằng Wojtyła tin rằng lời tiên tri đã ứng nghiệm khi ông trở thành hồng y. Thư ký của Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Stanisław Dziwisz, phủ nhận dự đoán, trong khi đó cuốn tiểu sử của George Weigel - "Witness to Hope: The Biography of Pope John Paul II" (tạm dịch: "Nhân chứng cho Hy vọng: Tiểu sử Giáo hoàng Gioan Phaolô II)," trong đó có tường thuật về chuyến thăm tương tự nhưng không đề cập đến lời tiên tri ấy. Hiện tượng khác. Một số mô tả về cha Piô rằng ở ông ấy có một "hương thơm rất nồng và dễ chịu, tương tự như mùi của hoa violet" và họ không thể xác định được nguồn gốc của mùi hương đó. Cha Piô kể rằng ông ấy có những thị kiến mà trong đó ma quỷ đã tấn công và quấy rối ông ấy, những hình dạng ghê tợn dưới hình dáng con người và quái thú. Một hiện tượng khác nữa mà cha Piô có được là có thể nhìn thấu nội tâm người khác, ông có thể biết được người khác đang suy nghĩ điều gì trong tâm trí, ông ấy dường như biết được khi nào con người không cảm thấy ăn năn vì những tội lỗi phạm phải.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Cha John Paul Zeller của Dòng Truyền Giáo Phanxicô Lời Bất Tử (MFVA) đến từ thành phố Birmingham, bang Alabama của Mỹ kể lại: “Người ta nói ngài thậm chí còn ngửi được mùi vị của tội lỗi”. Chính cha Piô cũng đã xác nhận: "Rất ít lần tôi tình cờ cảm nhận rõ ràng bên trong mình lỗi lầm, tội lỗi, hoặc đức hạnh của ai đó đang bị vấy bẩn". Các cuộc điều tra của Vatican. Ban đầu, Vatican áp đặt các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với cha Piô vào những năm 1920 để giảm bớt sự nổi tiếng của ông ấy trong quần chúng: ông bị cấm cử hành Thánh lễ nơi công cộng, cấm ban phép lành cho mọi người, cấm thư từ, cấm để lộ dấu thánh của mình một cách công khai và cấm giao tiếp với cha Benedetto, vị linh hướng của ông. Tòa Thánh quyết định chuyển cha Piô đến một tu viện khác ở miền bắc nước Ý. Người dân địa phương đe dọa sẽ nổi loạn nếu Vatican thuyên chuyển ông ấy đến nơi khác. Một kế hoạch thuyên chuyển thứ hai cũng đã được tính đến nhưng rồi cũng lại phải thay đổi. Từ năm 1921 đến năm 1922, cha Piô bị tước quyền linh mục của mình, chẳng hạn như không được dâng Thánh lễ và ngồi tòa giải tội. Từ năm 1924 đến năm 1931, Tòa thánh đưa ra các tuyên bố phủ nhận rằng các sự kiện trong cuộc đời của cha Piô là không do bất kỳ nguyên nhân thiêng liêng nào. Luigi Romanelli, kiểm tra y tế vào năm 1919. Một số lượng lớn các bác sĩ đã đến thăm cha Piô để xác minh xem các dấu thánh là có thật hay không. Người đầu tiên nghiên cứu các vết thương của cha Piô là Luigi Romanelli, bác sĩ trưởng của bệnh viện công lập Barletta, theo lệnh của cha bề trên giám tỉnh, vào ngày 15 và 16 tháng 5 năm 1919. Trong báo cáo của mình, ngoài những điều khác, bác sĩ viết: "Các vết thương trên bàn tay ông ấy được bảo vệ bởi một cái găng tay màu nâu đỏ, không có chảy máu hay sưng hoặc viêm ở các mô xung quanh. Tôi tin chắc rằng các vết thương không chỉ là ở ngoài da. Khi tôi đưa ngón tay cái vào lòng bàn tay của ông ấy và ngón trỏ trên mu bàn tay của ông thì tôi nhận thấy rõ ràng rằng có một lỗ trống ở trong đấy." Amico Bignami, kiểm tra y tế vào năm 1919.