title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Amico Bignami, kiểm tra y tế vào năm 1919. Hai tháng sau, vào ngày 26 tháng 7 năm 1919, nhà nghiên cứu bệnh học Amico Bignami đồng thời cũng là một bác sĩ đến San Giovanni Rotondo. Bignami đã tiến hành kiểm tra y tế với vết thương của cha Piô và đưa ra một số giả thuyết, trong đó có giả thuyết rằng vết thương là một vết hoại tử da do sử dụng các hóa chất như cồn iốt để ngăn việc lành vết thương. Giorgio Festa, kiểm tra y tế vào năm 1919 và năm 1920. Giorgio Festa là một bác sĩ và là một linh mục dòng Tên, đã khám cho cha Piô vào năm 1919 và năm 1920. Ông ấy đã rất ấn tượng bởi mùi thơm của dấu thánh. Festa, giống như Bignami trước đây, đã mô tả vết thương bên sườn giống như hình chữ thập. Trong báo cáo của mình với Tòa Thánh năm 1925, Festa đã đưa ra một phán quyết đồng tình với dấu thánh và phản đối quan điểm chỉ trích của Gemelli về dấu thánh của cha Piô với các lập luận thần học đóng vai trò chính. Agostino Gemelli, kiểm tra tâm thần năm 1920 và kiểm tra y tế năm 1925. Năm 1920, cha Agostino Gemelli - một linh mục, một bác sĩ và nhà tâm lý học - được Đức Hồng Y Rafael Merry del Val ủy nhiệm đến thăm cha Piô và tiến hành kiểm tra các vết thương. Với lý do là "đã tự mình đến bán đảo Gargano mà không phải do bất kỳ cơ quan Tòa Thánh nào yêu cầu, Gemelli đã gửi thư riêng tới văn phòng của Tòa Thánh xin cho phép anh gặp và làm một bài báo cáo không chính thức về cha Piô". Gemelli muốn tìm hiểu về vấn đề này và mong muốn gặp mặt vị linh mục ấy. Cha Piô tỏ thái độ khép kín đối với điều tra viên mới này: ông đã từ chối chuyến viếng thăm dù có sự xin phép bằng văn bản của văn phòng Tòa Thánh. Cha Gemelli đã phản đối lời từ chối ấy cho rằng mình có quyền bắt người tu sĩ phải kiểm tra y tế về dấu thánh. Cha Piô được sự hỗ trợ của bề trên dòng, đã đặt điều kiện cho việc kiểm tra y tế là phải có giấy phép được thông qua một cách hệ thống, có thứ tự, được xét duyệt bởi Tòa Thánh mà không tính đến các chứng chỉ về chuyên môn nghề nghiệp của cha Agostino Gemelli. Không thỏa được các điều kiện, Gemelli rời tu viện, bực bội và cảm thấy bị xúc phạm vì không được phép xem xét các dấu thánh.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Anh đi đến kết luận rằng Francesco Forgione (tên tục của cha Piô) là "một người có hiểu biết hạn chế, năng lượng tâm linh thấp, suy nghĩ đơn điệu, ý chí thấp". Gemelli đã đánh giá về sự việc này rằng: "Vụ này là một trong những gợi ý do cha Benedetto gieo vào tâm trí yếu ớt của cha Piô một cách vô thức, tạo ra những biểu hiện đặc trưng của chứng psittacism vốn là bản chất của chứng cuồng loạn". Lần này được Tòa Thánh cho phép, Gemelli đã khám lại cho cha Piô vào năm 1925, viết báo cáo vào tháng 4 năm 1926. Lần này cha Piô đồng ý cho anh ta xem vết thương. Gemelli cho rằng nguyên nhân của các vết thương ấy là do việc sử dụng hóa chất ăn mòn mà cha Piô đã tự bôi lên. Giorgio Festa đã cố gắng đặt câu hỏi chỉ trích về những kết luận của Gemelli về các dấu thánh nói chung. Gemelli đã đáp lại lời chỉ trích này trong bản báo cáo của mình. Ông đã làm rõ những tuyên bố của mình về bản chất vết thương của cha Piô: "Bất kỳ ai có kinh nghiệm về pháp y, và trên hết là xem xét các vết loét và vết thương mà những người lính đã tự gây ra cho bản thân trong chiến tranh, đều có thể chắc chắn rằng đây là những vết thương do sự ăn mòn gây nên bởi hóa chất. Bề mặt của vết loét và hình dạng của nó về mọi mặt đều giống với vết loét được quan sát thấy ở những người lính đã tự gây ra cho mình". Một lần nữa, Gemelli đánh giá sức khỏe tâm thần của cha Piô là hạn chế: "Ông ấy (cha Piô) là đối tác lý tưởng mà cha Benedetto, một cựu Giám tỉnh, có thể tạo ra một cặp incubus-succubus (hai con quỷ trong truyền thuyết phương Tây). Ông ấy là một linh mục tốt: điềm tĩnh, kiệm lời, nhã nhặn, đức hạnh hơn là sự yếu kém về sức khỏe tâm thần. Một linh hồn tội nghiệp có thể lặp đi lặp lại một vài thuật ngữ tôn giáo khuôn mẫu. Một người đàn ông tội nghiệp, ốm yếu đã học được những lời dạy từ chủ nhân của mình là cha Benedetto". Gemelli đã viết vào năm 1940 và sau đó đã gửi nhiều lần cho văn phòng của Tòa Thánh về điều mà ông coi là những tuyên bố phi lý đối với những điều về cha Piô. Raffaele Rossi và cuộc điều tra giáo luật năm 1921.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Giám mục ở Volterra là Raffaele Rossi dòng Cát Minh Chân Phước (tiếng Latinh: "Ordo Carmelitarum Discalceatorum") được Tòa Thánh chính thức ủy nhiệm vào ngày 11 tháng 6 năm 1921 để thực hiện một cuộc điều tra giáo luật liên quan đến cha Piô. Rossi bắt đầu chuyến đi của mình vào ngày 14 tháng 6 tại San Giovanni Rotondo bắt đầu với việc thẩm vấn các nhân chứng gồm hai linh mục và bảy thầy tu. Sau tám ngày điều tra, cuối cùng ông đã hoàn thành một bài báo cáo và gửi đến Tòa Thánh vào ngày 4 tháng 10 năm 1921, lễ Thánh Phanxicô Assisi. Bản báo cáo về cơ bản nêu rõ như sau: Cha Piô, là vị linh mục mà Rossi có ấn tượng tốt, là một mục tử nhiệt thành và tu viện San Giovanni Rotondo là một cộng đoàn tốt đẹp; dấu thánh là không thể giải thích được nhưng chắc chắn đấy không phải là tác phẩm của ma quỷ hay một hành động lừa dối hoặc gian lận trắng trợn nào; chúng cũng không phải là mánh khóe của một kẻ quỷ quyệt và hiểm độc. Trong các cuộc phỏng vấn với các nhân chứng mà Rossi đã thực hiện tổng cộng ba lần, vị giám mục đã được chứng kiến dấu thánh của cha Piô lúc đó ông 34 tuổi. Rossi coi những dấu thánh này là một "sự thật có thật". Trong các ghi chú của mình được ghi trực tiếp trên giấy và trong bài báo cáo, Rossi mô tả hình dạng và sự xuất hiện của các vết thương trong bàn tay là "rất rõ ràng". Những vết ở bàn chân thì đã "biến mất". Những gì có thể quan sát được là hai điểm nhô cao trên bàn chân với làn da trắng và mềm. Đối với vết thương trên ngực: "Ở bên cạnh sườn anh ta, dấu thánh được thấy là một đốm hình tam giác, màu rượu vang đỏ, còn những đốm nhỏ khác thì không còn nữa, tiếp đó là một vết hình chữ thập lộn ngược như cái được nhìn thấy vào năm 1919 bởi tiến sĩ Bignami và tiến sĩ Festa". Cha Rossi cũng yêu cầu Tòa Thánh hãy tham khảo ý kiến ​​​​của cha Piô viết một tiểu sử về ông ấy, Rossi cũng đang tập hợp các thông tin từ cha Benedetto và các tài liệu mà anh ta đã thu thập được để một ngày nào đó anh ấy có thể viết một cuốn sách về cuộc đời của cha Piô.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Theo cha Rossi, "Trong số những trường hợp chữa bệnh đã được báo cáo, nhiều trường hợp chưa được xác nhận hoặc không tồn tại. Tuy nhiên, trong các thư từ của cha Piô, có một số tuyên bố đáng tin cậy cho rằng phép lạ là do sự can thiệp của ông. Nhưng nếu không có xác nhận y tế thì rất khó để đưa ra kết luận và vấn đề vẫn còn đang bỏ ngỏ". Theo Lucia Ceci, một nhà sử học, cha Rossi đã không thể tìm thấy bất kỳ phép lạ nào được gán cho cha Piô. Khi Rossi hỏi cha Piô về việc ông ấy có thể phân thân, cha Piô trả lời: "Tôi không biết nó như thế nào hoặc bản chất của hiện tượng này là gì - và chắc chắn là tôi không nghĩ gì nhiều lắm - nhưng nó đã xảy ra với tôi khi tôi đứng trước mặt người này hay người kia, ở nơi này hay nơi kia; tôi không biết liệu tâm trí của tôi đã được di chuyển đến đó hay những gì tôi nhìn thấy là một hình thức nào đó của nơi chốn hoặc con người; tôi không biết biết liệu tâm trí của tôi có ở đó với cơ thể của tôi hay không". Giáo hoàng Gioan XXIII, các cuộc điều tra và băng ghi âm sau năm 1958. Giáo hoàng Gioan XXIII hoài nghi về cha Piô. Khi bắt đầu nhiệm kỳ của mình, ông biết rằng những người chống đối cha Piô đã đặt các thiết bị nghe lén trong phòng ngủ và tòa giải tội của tu viện, ghi âm lại những lời nói của ông ấy. Bên ngoài nhật ký bán chính thức của mình, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã viết trên bốn tờ giấy rằng ông ấy cầu nguyện cho "PP" (viết tắt của Padre Pio) và việc điều tra thông qua các cuộn băng, nếu những gì chúng ngụ ý là đúng về các mối quan hệ thân thiết và không đứng đắn của ông ấy với những người phụ nữ từ đội cận vệ bất khả xâm phạm xung quanh ông ta đã chỉ ra một tai họa khủng khiếp cho người dân. Bản thân Đức Giáo hoàng Gioan XXIII có lẽ chưa bao giờ nghe những cuốn băng, nhưng cho rằng quan điểm này là đúng đắn: “Lý do giúp tôi có được sự thanh thản về tinh thần, đó là một đặc ân và ân sủng vô giá, là vì cá nhân tôi cảm thấy trong sạch khỏi sự ô nhiễm mà trong bốn mươi năm qua đã ăn mòn hàng trăm ngàn linh hồn khiến họ trở nên ngu ngốc và loạn trí ở mức độ chưa từng thấy".
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Theo Sergio Luzzatto, tác giả cuốn sách Padre Pio: Miracles and Politics in a Secular Age (tạm dịch: "Padre Pio: Phép lạ và Chính trị trong thời đại thế tục"), Vatican đã không ra lệnh cho việc nghe lén này. Trong một ghi chú nhật ký khác, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã viết rằng ông muốn hành động. Trên thực tế, ông ấy đã ra lệnh cho một cuộc điều tra giáo luật khác. Carlo Maccari và cuộc điều tra giáo luật lần thứ hai năm 1960. Cha Carlo Maccari là một tổng thư ký của Tòa Thánh Rôma và ông ấy đã gặp cha Piô tổng cộng chín lần. Có một sự không tin tưởng lẫn nhau giữa cha Piô và cha Maccari, Maccari đã viết trong nhật ký của mình: "Sự kín đáo, đầu óc hẹp hòi, dối trá - đây là những vũ khí mà anh ta sử dụng để trốn tránh các câu hỏi của tôi... Cảm tưởng chung: thật đáng thương". Maccari đòi cha Piô bỏ việc "hôn" sau khi xưng tội cho các chị em giáo dân. Maccari có ghi nhận trong báo cáo của mình rằng cha Piô không được giáo dục tôn giáo đầy đủ. Anh ấy làm việc rất nhiều. Anh ta không phải là một người sống khổ hạnh và có nhiều mối liên hệ với thế tục bên ngoài, nói chung có quá nhiều sự pha trộn giữa cái “thiêng liêng” và cái “trần tục”. Trong báo cáo của mình, Maccari đã ghi tên những người phụ nữ tiết lộ mình là người tình của cha Piô vào thời điểm đó, nhưng không đánh giá tính xác thực của những tuyên bố này. Maccari tập trung vào việc đánh giá sự cuồng tín của cha Piô ảnh hưởng lên công đồng, mô tả đó là "những quan niệm tôn giáo dao động giữa mê tín và ma thuật". Maccari gọi những người ủng hộ cha Piô là "một tổ chức rộng lớn và nguy hại". Cha Piô chưa bao giờ được những tín đồ khuyên là nên tiết chế lại. Maccari tự hỏi thể nào mà Chúa lại có thể cho phép "rất nhiều sự dối trá" diễn ra như thế. Maccari kết thúc báo cáo quan trọng của mình với một danh sách các khuyến nghị tiếp tục đối phó với cha Piô. Các thầy tu của tu viện Đức Mẹ Ban Ơn nên dần được thuyên chuyển sang nơi khác và cử một tu viện trưởng mới đến quản lý. Không ai được phép xưng tội với cha Piô hơn một lần mỗi tháng.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Bệnh viện đã được trao các quy chế mới để cắt đứt trách nhiệm của các thầy dòng Capuchin là "chữa bệnh" về mặt y tế và tinh thần. Sau chuyến đi của Maccari, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã ghi trong nhật ký của mình rằng ông coi cha Piô như một "thần tượng rơm" (tiếng Ý: "idolo di stoppa"). Quan điểm cá nhân. Về tôn giáo. Cha Piô là ủng hộ mạnh mẽ việc xưng tội hàng tuần, mô tả đó là "bồn tắm của linh hồn". Cha Piô đã thiết lập năm quy tắc để phát triển tâm linh bao gồm xưng tội hàng tuần, rước lễ hàng ngày, đọc Kinh Thánh, suy niệm và thường xuyên xét mình, kiểm điểm lương tâm."Ông dạy những người tín hữu rằng đau khổ là dấu hiệu đặc biệt của tình yêu Thiên Chúa vì nó khiến bạn "giống như Con Một của Ngài đã trải qua 40 ngày trong sa mạc và trong cuộc khổ nạn trên đồi Canvê”. Cha Piô có thái độ gay gắt đối với những người phụ nữ hư hỏng, nói rằng: "Những người phụ nữ thỏa mãn cái tôi phù hoa của mình trong cách ăn mặc sẽ không bao giờ có thể mặc lấy cuộc đời của Chúa Giêsu; hơn nữa, họ thậm chí còn đánh mất niềm vinh dự nơi tâm hồn ngay khi Ngài đi vào lòng họ". Cha Piô tuân thủ các tu luật nghiêm ngặt liên quan đến sự khiêm tốn và từ chối việc xưng tội với những phụ nữ mặc váy ngắn, váy phải dài qua đầu gối. Ông dán một thông báo ở lối vào nhà thờ Đức Mẹ Ban Ơn (St. Mary of All Graces) ở San Giovanni Rotondo với nội dung: "Nhà thờ là nhà của Chúa. Đàn ông không được mặc quần đùi hoặc áo tay ngắn bước vào. Phụ nữ không được mặc quần áo ngắn hở hang, hở cổ, tay áo ngắn và phải có mạng che mặt". Cha Piô vô cùng lo lắng trước những thay đổi mà Giáo hội đang trải qua sau Công đồng Vatican II. Tuy vậy nhưng cha Piô vẫn chấp nhận những thay đổi của Công đồng Vatican II đưa ra. Khi được Đức Hồng Y Antonio Bacci đến thăm, cha Piô đã nói lời phàn nàn rằng: "Vì Chúa hãy kết thúc Công đồng nhanh chóng". Năm 1966, cha Bề trên Tổng quyền Dòng Phanxicô đến gặp cha Piô để xin lời cầu nguyện liên quan đến việc cải tổ dòng tu.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Khi nghe về "luật lệ mới", cha Piô trả lời: "Đó chẳng là gì ngoài những điều vô nghĩa mang tính hủy hoại". Tuy nhiên, mặc dù buồn bã trước những thay đổi nhưng cha Piô vẫn nhấn mạnh đến việc tuân theo Giáo hội. Trong một lần cha Piô gặp Suor Pia là em gái của ông và là một nữ tu đã hoàn tục, bà đã rời bỏ dòng tu của mình khi Công đồng Vatican II được thông qua. Suor Pia là một người theo tư tưởng truyền thống và khó chịu trước những thay đổi của bề trên theo xu hướng tự do khiến bà phải rời tu viện ở tuổi 70. Cha Piô đã bật khóc và gắt gỏng với bà ấy về quyết định này, ông ấy nói với em gái của mình rằng: "Họ sai và em đúng, nhưng em vẫn phải tuân theo. Em phải trở về". Bà ấy từ chối lời đề nghị khiến ông khóc không ngừng và tiếp tục cầu nguyện cho bà. Sau khi "Humanae vitae" (một thông điệp của Giáo hoàng Phaolô VI) được xuất bản, cha Piô đã rất tức giận trước những lời chỉ trích nhắm vào thông điệp. Ông đã viết thư cho Giáo hoàng Phaolô VI về điều này, khẳng định sẽ tuân theo giáo huấn của Giáo hội về kiểm soát sinh sản và trấn an Đức Giáo hoàng trong lúc ông cần. Cha Piô thông báo với Giáo hoàng rằng ông sẽ dâng những lời cầu nguyện hàng ngày cho Đức Giáo hoàng, vì sự bảo vệ của Đức Giáo hoàng Phaolô VI đối với "sự thật vĩnh cửu, không bao giờ thay đổi theo năm tháng" là đúng đắn. Khi cha Piô lớn lên, ông ngày càng có cái nhìn không tốt vào truyền hình. Sau Thế chiến thứ hai, khi cháu trai của cha Piô là Ettorne Masone xin cha Piô lời khuyên về việc mở một rạp chiếu phim thì cha Piô đã cảnh báo anh ấy nên cẩn thận về những bộ phim mà anh ấy sẽ chiếu. Cha Piô bảo rằng: "Cháu sẽ không muốn góp phần vào việc truyền bá cái xấu". Đến những năm 1960, cha Piô không đồng tình việc các thầy dòng Capuchin được phép xem truyền hình. Đối với cha Piô, truyền hình là nguyên nhân phá hủy cuộc sống gia đình và ông cảnh báo với những người khác đừng sử dụng truyền hình. Trong một lần, khi được hỏi về phim ảnh, cha Piô trả lời: "Ma quỷ ở trong đó!".
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Trong một dịp khác, cha Piô nói với một hối nhân khi xưng tội rằng lý do xe của hối nhân bị hỏng ngày hôm trước là vì hối nhân đang lái xe đến rạp chiếu phim. Cha Piô trở nên cực kỳ bi quan về tình trạng của thế giới cho đến cuối đời. Khi được hỏi điều gì đang chờ đợi thế giới trong tương lai, cha Piô trả lời: "Bạn không thấy thế giới đang bốc cháy sao?". Trong ba năm cuối đời, anh bắt đầu rút lui khỏi đời sống, cảm thấy không xứng đáng và không chắc chắn về sự cứu rỗi của mình. Cha Piô thường xin bề trên của mình: "Xin cho con được vâng lời để chết". Về chính trị. Padre Pio không quan tâm nhiều đến chính trị nhưng ông có bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử và bày tỏ ý kiến ​​​​của mình về nhiều vấn đề khác nhau. Ban đầu, ông ấy cảm thấy rằng Benito Mussolini đã làm rất tốt trong thời gian cầm quyền của mình, nhưng dần dần thái độ của ông đối với Mussolini nhanh chóng trở nên tiêu cực theo thời gian. Khi được một trong những người của Mussolini đến thăm, cha Piô đã quát vào mặt người đàn ông này: "Vậy là bây giờ anh đến gặp tôi sau khi anh đã hủy diệt nước Ý. Anh có thể nói với Mussolini rằng không gì có thể cứu được nước Ý lúc này! Không có gì cả!". Cha Piô cũng đánh giá cao Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, người mà ông mô tả là một "con người vĩ đại". Ngoài ra, cha Piô bày tỏ mối quan tâm lớn về sự truyền bá của chủ nghĩa cộng sản trong suốt cuộc đời của mình và thường xuyên cầu nguyện để giúp chống lại nó. Năm 1948, trong một bức thư viết cho Alcide De Gasperi là thủ tướng nước Ý lúc bấy giờ, cha Piô ghi nhận sự ủng hộ của ông đối với Đảng Dân chủ Cơ đốc hay Đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo. Sự tham gia của cha Piô được cho là đã giúp Đảng này giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, vì điều này mà những người Cộng sản Ý có thái độ tiêu cực với cha Piô. Một phát ngôn viên của Đảng Cộng sản này phàn nàn rằng sự hiện diện của cha Piô tại các cuộc bỏ phiếu đã "lấy đi phiếu bầu của chúng tôi".
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Sau những chiến thắng của Đảng Dân chủ Cơ đốc trong các cuộc bầu cử, cha Piô liên tục được các nhà lãnh đạo chính trị người Ý bao gồm Aldo Moro, Antonio Segni, Mariano Rumor và Giovanni Leone hỏi ý kiến. Cha Piô đã nhận được những lá thư nhờ ông ấy cầu nguyện giúp trong suốt cuộc đời, trong đó có một lá thư từ Alfonso XIII vào tháng 3 năm 1923. Cha Piô cũng cầu nguyện cho nhiều nhân vật chính trị nổi tiếng, bao gồm cả George V. Năm 1963, sau vụ ám sát John F. Kennedy, cha Piô đã khóc. Khi một linh mục hỏi liệu ông có cầu nguyện cho sự cứu rỗi của Kennedy không, cha Piô trả lời: "Không cần thiết. Ông ấy đã ở Thiên đường rồi." Nhà sử học người Ý Sergio Luzzatto, một chuyên gia về lịch sử chủ nghĩa phát xít Ý đã viết vào năm 2011 một cuốn tiểu sử về cha Piô, trong đó ông gợi ý rằng một "sự pha trộn giáo sĩ-phát xít" đã phát triển xung quanh cha Piô. Luzzatto kể rằng vào tháng 8 năm 1920, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, cha Piô đã làm phép cho các lá cờ cho một nhóm cựu chiến binh địa phương, những người đang cố gắng phát triển mối liên hệ với những quân phát xít địa phương để chống lại những người cộng sản. Ông cũng nói rằng cha Piô sau đó đã gặp Giuseppe Caradonna, một chính trị gia phát xít từ Foggia và trở thành cha giải tội của ông ta và của các thành viên trong lực lượng dân quân của ông ấy. Cha Piô gợi ý rằng Caradonna nên bố trí một đội lính cận vệ xung quanh cha Piô để ngăn chặn mọi nỗ lực đưa ông ra khỏi tu viện hay chuyển ông đi nơi khác. Tôn kính. Phong thánh. Năm 1982, Tòa thánh ủy quyền cho tổng giám mục Manfredonia mở cuộc điều tra để xác định xem có nên phong thánh cho cha Piô hay không. Cuộc điều tra diễn ra trong bảy năm. Năm 1990, cha Piô được tuyên là Tôi tớ Chúa, bước đầu tiên trong quá trình phong thánh. Tuy nhiên, cuộc điều tra đã không dẫn đến bất kỳ sự giải thích thực tế công khai nào của Giáo hội về những cáo buộc cho rằng thánh tích của ông không thuộc loại siêu nhiên.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Hơn nữa các dấu thánh của cha Piô đã bị loại bỏ một cách đáng kể khỏi các cuộc điều tra bắt buộc đối với quá trình phong thánh để tránh những trở ngại ngăn cản quá trình điều tra kết thúc thành công. Bắt đầu từ năm 1990, Bộ Phong thánh đã tranh luận về cách cha Piô đã sống cuộc đời của mình và vào năm 1997 Giáo hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố cha Piô là Đấng đáng kính. Sau đó là một cuộc thảo luận về ảnh hưởng của cuộc đời cha Piô đối với những người khác. Các trường hợp đã được xem xét chẳng hạn như việc cha Piô đã chữa lành bệnh cho một phụ nữ người Ý là Consiglia de Martino. Năm 1999, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho cha Piô và ấn định ngày 23 tháng 9 là ngày lễ kính của ngài. Thánh lễ phong chân phước cho cha Piô được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cử hành vào ngày 2 tháng 5 năm 1999 ở Quảng trường Thánh Phêrô với hơn 300.000 tín hữu tham dự buổi lễ. Trong bài giảng của mình, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đề cập đến dấu thánh của cha Piô và những phép lạ của ngài: "Thân thể của ngài được đánh dấu bằng "dấu thánh" cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa cái chết và sự phục sinh vốn là đặc điểm của mầu nhiệm vượt qua. Chân phước Piô thành Pietrelcina đã chia sẻ Cuộc Khổ nạn với một cường độ đặc biệt: những hồng ân độc nhất được ban cho ngài và những đau khổ nội tâm và thần bí đi kèm cho phép ngài liên tục tham gia vào những cơn hấp hối của Chúa, không bao giờ dao động trong cảm giác của anh ta rằng "Calvary là ngọn đồi của các thánh"."Sau khi phong chân phước cho cha Piô, một trường hợp khác được chữa lành nhờ lời cầu nguyện với ngài đã được xem xét, một cậu bé người Ý tên là Matteo Pio Colella đã hồi phục sau cơn hôn mê. Sau khi xem xét kỹ hơn các đức hạnh và phép lạ của cha Piô ngay cả sau khi ngài qua đời, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II ban hành sắc lệnh phong thánh vào ngày 28 tháng 2 năm 2002. Thánh lễ phong thánh được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cử hành vào ngày 16 tháng 6 năm 2002 tại Quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma, ước tính khoảng 300.000 người tham dự buổi lễ. Các địa điểm hành hương.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Các địa điểm hành hương. Thị trấn San Giovanni Rotondo, nơi cha Piô đã dành phần lớn cuộc đời mình ở đây là địa điểm hành hương chính dành để tưởng nhớ ngài. Nhà thờ Santa Maria delle Grazie là nhà thờ của tu viện Capuchin nơi cha Piô cử hành thánh lễ đã trở thành địa điểm hành hương sau khi ngài qua đời vào năm 1968. Khi số lượng khách hành hương không ngừng tăng lên, các thầy tu Capuchin quyết định xây dựng một ngôi đền mới gần nhà thờ. Việc xây dựng đền thờ bắt đầu vào năm 1991 và hoàn thành vào năm 2004. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2004, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cung hiến Thánh đường Thánh Piô ở Pietrelcina, đôi khi được gọi là "Nhà thờ Hành hương Padre Pio". Khu hành hương có sức chứa khoảng 6.000 người và phần sân có sức chứa khoảng 30.000. Thánh tích của cha Piô được đặt trong hầm mộ của khu hành hương mới và được trưng bày cho những người hành hương. Thị trấn Pietrelcina, nơi cha Piô lớn lên là một địa điểm hành hương khác đã trở nên phổ biến đối với những người mộ đạo. Những địa điểm mà những người hành hương có thể đến thăm ở Pietrelcina bao gồm ngôi nhà của gia đình Piô - nơi ngài sinh ra, căn phòng của ngài trong tu viện mà ngài đã ở khi còn là một tu sĩ và đang bị bệnh, nhà thờ Santa Anna nơi ngài được rửa tội, nhà thờ Santa Maria degli Angeli - nơi ông được thụ phong phó tế trước khi trở thành linh mục và nhà thờ Thánh Gia Capuchin. Ước tính có khoảng hai triệu người hành hương đến Pietrelcina mỗi năm. Các khu bảo tồn và địa điểm dành riêng cho việc tôn kính Padre Pio bên ngoài nước Ý bao gồm Đền thờ Padre Pio ở Santo Tomas, Batangas ở Philippines và Trung tâm Quốc gia về Padre Pio ở Barto, Pennsylvania ở Hoa Kỳ. Sự tôn kính của các Giáo hoàng. Các Giáo hoàng đã khuyến khích lòng sùng kính của giáo dân đối với Cha Thánh Piô bằng nhiều cách khác nhau, đặc biệt là bằng cách đến thăm những nơi gắn liền với cuộc đời và chức vụ linh mục của ngài. San Giovanni Rotondo nơi mà Cha Thánh Piô đã dành phần lớn cuộc đời của mình và là nơi có đền thờ của ngài đã được Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Giáo hoàng Biển Đức XVI và Giáo hoàng Phanxicô đến thăm. Pietrelcina, nơi sinh của Cha Thánh Piô đã được Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã rất ngưỡng mộ cha Piô ngay cả trước khi ông trở thành Giáo hoàng, khi cha Piô vẫn còn sống. Năm 1947, khi còn là một linh mục trẻ đang học ở Rôma, Karol Wojtyła đã hành hương đến San Giovanni Rotondo để gặp trực tiếp cha Piô. Ông trở lại San Giovanni Rotondo với tư cách là hồng y vào năm 1974. Ông lại đến thăm San Giovanni Rotondo vào tháng 5 năm 1987 với tư cách là Giáo hoàng để kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cha Piô. Vào ngày 21 tháng 6 năm 2009, Giáo hoàng Biển Đức XVI đã đến thăm San Giovanni Rotondo như một chuyến thăm viếng mục vụ. Ông ấy đã đến thăm Nhà thờ Santa Maria delle Grazie để tôn kính thánh tích của Cha Thánh Piô trong hầm mộ, cử hành thánh lễ và gặp gỡ mọi người bao gồm cả những người bệnh và nhân viên của bệnh viện Casa Sollievo della Sofferenza. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã ủng hộ lòng sùng kính đối với Cha Thánh Piô. Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, ngài đã yêu cầu thánh tích của Cha Thánh Piô được trưng bày để tôn kính tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô từ ngày 8 đến ngày 14 tháng 2 năm 2016 và ngài đặc biệt vinh danh Cha Thánh Piô như một "thánh giải tội" để truyền cảm hứng cho mọi người đến với Bí tích Giải tội, sám hối trong Năm Thánh. Vào ngày 17 tháng 3 năm 2018, Giáo hoàng Phanxicô đã đến thăm cả Pietrelcina và San Giovanni Rotondo để kỷ niệm 50 năm ngày mất của Cha Thánh Piô. Khai quật. Vào ngày 3 tháng 3 năm 2008, thi thể của Cha Piô được khai quật từ hầm mộ của ông, 40 năm sau khi ông qua đời, để chuẩn bị cho việc trưng bày hài cốt của ông. Một tuyên bố của nhà thờ mô tả thi thể ở trong "tình trạng bình thường". Đức Tổng Giám mục Domenico Umberto D'Ambrosio tuyên bố "phần trên cùng của hộp sọ chỉ còn một phần xương nhưng cằm thì còn nguyên vẹn và phần còn lại của cơ thể được bảo quản tốt". Tổng Giám mục D'Ambrosio cũng xác nhận trong một thông cáo rằng "không thể nhìn thấy các dấu thánh".  Anh ấy nói rằng bàn tay của cha Piô "trông như vừa mới được làm móng". Người ta hy vọng rằng những người làm nghề mai táng sẽ có thể khôi phục khuôn mặt để nó có thể được nhận ra.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Tuy nhiên, vì đã không còn được nguyên vẹn nên khuôn mặt của cha Piô được che phủ bằng một chiếc mặt nạ silicon sống động như thật. Chiếc mặt nạ này được làm từ một bức ảnh chụp xác của cha Piô năm 1968 bởi Gems Studio có trụ sở tại London. Đức Hồng Y José Saraiva Martins, bộ trưởng Bộ Phong Thánh đã cử hành Thánh Lễ cho 15.000 tín hữu vào ngày 24 tháng 4 năm 2008 tại Nhà thờ Đức Mẹ Ban Ơn ở San Giovanni Rotondo trước khi thi hài được trưng bày trong bình pha lê, đá cẩm thạch và ngôi mộ bằng bạc trong hầm mộ của tu viện. Cha Piô đang mặc tu phục dòng Capuchin màu nâu với khăn choàng lụa trắng thêu pha lê và chỉ vàng. Tay ông cầm một cây thánh giá bằng gỗ lớn. Có khoảng 800.000 người hành hương trên toàn thế giới, chủ yếu đến từ Ý, đã đặt vé trước để xem thi thể cho đến tháng 12 năm 2008, nhưng chỉ có 7.200 người mỗi ngày có thể đi qua quan tài pha lê. Các quan chức kéo dài thời gian trưng bày đến tháng 9 năm 2009. Hài cốt của Cha Thánh Piô được đặt trong nhà thờ Thánh Piô, bên cạnh San Giovanni Rotondo. Vào tháng 4 năm 2010, họ đã được chuyển đến một hầm mộ vàng đặc biệt. Nhóm cầu nguyện. Các nhóm cầu nguyện của Cha Piô bắt đầu vào những năm 1950 khi Giáo hoàng Piô XII kêu gọi thành lập các nhóm tụ họp hàng tháng để cầu nguyện cùng nhau. Cha Piô đã hưởng ứng lời kêu gọi này và khuyến khích các tín hữu thành lập những nhóm như vậy. Các nhóm được liên kết với việc xây dựng bệnh viện "Casa Sollievo della Sofferenza," một bản tin đã được đăng trên tạp chí hai tuần một lần vào năm 1949 rằng các nhóm cầu nguyện mang tên bệnh viện đã được thành lập và kêu gọi mọi người cùng tham gia. Nhờ thế các nhóm cầu nguyện này đã phát triển. Năm 1951, quy chế đầu tiên của các nhóm cầu nguyện được soạn thảo. Các nhóm cầu nguyện tập hợp hàng tháng, với sự đồng ý của giám mục địa phương và dưới sự hướng dẫn của một linh mục để cầu nguyện cho Giáo hoàng và cho các mục vụ của Cha Piô. Các quy chế mới đã được Vatican chính thức phê duyệt vào năm 1986. Các nhóm cầu nguyện của cha Piô được điều phối từ trụ sở chính của họ là ở Casa "Sollievo della Sofferenza".
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Các nhóm cầu nguyện tiếp tục phát triển trong suốt cuộc đời của cha Piô và sau khi ông qua đời. Năm 1968 khi cha Piô qua đời, có khoảng 700 nhóm cầu nguyện, với khoảng 68.000 thành viên ở 15 quốc gia. Năm 2013, có khoảng 3.300 nhóm đã đăng ký tại 60 quốc gia với khoảng 75% trong số các nhóm đó có trụ sở tại Ý và 25% bên ngoài Ý, chủ yếu là ở Pháp, Ireland và Hoa Kỳ. Nổi tiếng toàn thế giới. Cha Thánh Piô đã trở thành một trong những vị thánh nổi tiếng nhất thế giới. Có hơn 3.000 "Nhóm cầu nguyện Padre Pio" trên toàn thế giới với khoảng 3 triệu thành viên. Giáo xứ Thánh Padre Pio đầu tiên trên thế giới được thành lập ngày 16 tháng 6 năm 2002 tại Kleinburg, Ontario, Canada. Có các giáo xứ ở Vineland và Lavallette ở New Jersey và Sydney ở Australia, các đền thờ ở Buena ở New Jersey và Santo Tomas, Batangas ở Philippines dành riêng cho Cha Thánh Piô. Một cuộc khảo sát năm 2006 của tạp chí "Famiglia Cristiana" phát hiện ra rằng nhiều người Công giáo Ý cầu nguyện với Cha Thánh Piô để được chuyển cầu hơn bất kỳ vị thánh nào khác. Năm 2002, một vài tháng sau khi Cha Thánh Piô được phong thánh, một đài truyền hình mới đã được ra mắt ở Ý dành riêng cho cuộc đời và lòng tận tụy của ngài có tên là Padre Pio TV. Nó có trụ sở tại San Giovanni Rotondo và phát sóng trên trang web riêng của mình và các nền tảng internet khác nhau. Hài cốt của Thánh Piô đã được đưa đến Vatican để tôn kính trong Năm Thánh Lòng Thương Xót 2015 - 2016. Thánh Piô và Thánh Leopold Mandic được chỉ định là những vị thánh giải tội để truyền cảm hứng cho mọi người trở nên hòa giải với Giáo hội và với Chúa bằng cách thú nhận tội lỗi của họ. Thánh Piô thành Pietrelcina được mệnh danh là vị thánh bảo trợ của các tình nguyện viên dân phòng, sau khi một nhóm gồm 160 người thỉnh cầu Hội đồng Giám mục Ý về việc chỉ định này. Các giám mục đã chuyển yêu cầu đến Vatican, nơi đã chấp thuận việc chỉ định. Ông cũng được biết đến một cách "ít chính thức" hơn với tư cách là vị thánh bảo trợ cho việc giải tỏa căng thẳng và nỗi buồn tháng Giêng, sau khi Văn phòng Điều tra Công giáo ở Luân Đôn tuyên bố ông như vậy.
Thánh Piô Năm Dấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807747
Họ chỉ định ngày buồn nhất trong năm, được xác định là thứ Hai gần nhất với ngày 22 tháng 1 là "Ngày Đừng lo lắng mà hãy hạnh phúc", để vinh danh lời khuyên nổi tiếng của Cha Thánh Piô: "Hãy cầu nguyện, hy vọng và đừng lo lắng". Biểu tượng. Biểu tượng của Cha Thánh Piô đã được sao chép rộng rãi trên các vật phẩm và tượng thờ cúng trên khắp nước Ý và thế giới, ngay cả trước khi phong chân phước và phong thánh cho ông. Chân dung của ông có thể được nhìn thấy ở Ý trong nhiều nhà thờ cũng như tại nhà riêng và những nơi công cộng chẳng hạn như cửa hàng, nhà hàng, công viên... Trong nghệ thuật tôn giáo, ông thường được miêu tả trong trang phục Capuchin màu nâu với đôi găng tay che dấu thánh. Tượng của Cha Thánh Piô đã được dựng lên ở Ý và các quốc gia khác, bao gồm cả ở Hoa Kỳ, Philippines và Malta. Trong Đền thánh Padre Pio ở Landisville, New Jersey có một bức tượng của ngài được xây dựng và nhập khẩu từ Ý. Một bức tượng của Cha Thánh Piô ở Messina, Sicily đã thu hút sự chú ý vào năm 2002 khi được cho là đã khóc ra máu. Tại Ý, gần bờ biển của đảo Capraia ở biển Địa Trung Hải, có một bức tượng Cha Thánh Piô dưới nước ở độ sâu 40 foot (13 mét) bị nhấn chìm vào năm 1998. Vào năm 2021, việc xây dựng một khu hành hương mới dành riêng cho Cha Thánh Piô đã bắt đầu trên một ngọn đồi nhìn ra Thành phố Cebu ở Philippines với bức tượng Cha Thánh Piô cao 100 foot (khoảng 30 mét). Cùng năm đó, một bức tượng của Cha Thánh Piô đã được khánh thành tại Đền thờ Padre Pio ở Santo Tomas, Batangas, Philippines.
Cảnh Biểu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807750
Cảnh Biểu (; ngày 26 tháng 8 năm 1909 – ngày 23 tháng 6 năm 2000) là quan chức cấp cao trong Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) và là nhà lãnh đạo chính trị, quan hệ đối ngoại và quân sự của Trung Quốc. Ông từng giữ chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1978 đến năm 1982. Thân thế. Cảnh Biểu chào đời ngày 26 tháng 8 năm 1909 trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Nghiêm Gia Xung trấn Bắc Hương huyện Lễ Lăng tỉnh Hồ Nam cuối thời Thanh. Năm lên 7 tuổi, ông cùng cha mẹ chạy trốn nạn đói đến Thủy Khẩu Sơn, huyện Trường Ninh, miền nam Hồ Nam. Năm 1922, ông vào làm công nhân khi mới có 13 tuổi tại mỏ chì kẽm Thủy Khẩu Sơn, phía nam thành phố Hành Dương. Ông gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc ở Thủy Khẩu Sơn vào tháng 5 năm 1925. Năm 1926, ông tham gia vận động thợ mỏ tham gia đấu tranh vũ trang, ngay sau đó trở về Lễ Lăng thành lập và lãnh đạo Hồng vệ binh nông dân tham gia bạo loạn Lễ Lăng và dẫn toán quân này tấn công Trường Sa nhưng vấp phải thất bại. Năm 1928, ông đến Lưu Dương làm tiểu đội trưởng chi đội du kích địa phương, rồi ít lâu sau gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 8 cùng năm. Binh nghiệp. Hồng quân Công nông Trung Quốc. Tháng 9 năm 1930, Cảnh Biểu dẫn chi đội du kích sáp nhập vào Quân đoàn 3 Tập đoàn quân 1 Hồng quân Công nông Trung Quốc, sau đó được cử làm tham mưu, đội trưởng đội cán bộ huấn luyện, trung đoàn trưởng, tham mưu trưởng Sư đoàn 9 Quân đoàn 3. Năm 1933, ông trở thành trung đoàn trưởng Trung đoàn 4, Sư đoàn 2 Phương diện quân số 1 Hồng quân. Ngày 10 tháng 10 năm 1934, ông bắt đầu cuộc Trường chinh với tư cách là lãnh đạo đơn vị tiên phong của sư đoàn 2 vào đầu năm 1935, ông đã chiếm giữ một pháo đài quân sự quan trọng tại Lâu Sơn Quan thuộc tỉnh Quý Châu. Kết quả là, ông được thăng chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 Phương diện quân 1 Hồng quân sau Hội nghị Tuân Nghĩa. Sau khi đến miền bắc Thiểm Tây, ông bị thương nặng trong trận kịch chiến với quân đội Quốc Dân Đảng.
Cảnh Biểu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807750
Năm 1936, ông tốt nghiệp Đại học Quân chính kháng Nhật và được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 của Phương diện quân số 4 Hồng quân. Quân đoàn 4 vừa đến phía bắc Thiểm Tây dưới sự lãnh đạo của Trương Quốc Đào, và ông nắm quyền chỉ huy đơn vị này. Chiến tranh Trung–Nhật (1937–1945). Sau khi chiến tranh Trung–Nhật lần thứ hai bùng nổ, ông được cử làm Tham mưu trưởng, Phó Lữ đoàn trưởng và Phó Chính ủy Lữ đoàn 385 Sư đoàn 129 Bát Lộ Quân kiêm nhiệm Tư lệnh biên phòng huyện thành Khánh Dương, cùng với Vương Duy Châu dẫn bộ đội chốt giữ phía đông Cam Túc, bảo vệ biên giới phía tây Biên khu Thiểm Cam Ninh. Tháng 7 năm 1941, ông nhập học trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 9 năm 1944 được điều động đến Quân khu Tấn Sát Ký nhậm chức Phó Tham mưu trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Liên lạc. Tháng 8 năm năm 1945, ông chỉ huy Bát Lộ Quân đánh chiếm Trương Gia Khẩu. Nội chiến Quốc–Cộng lần hai (1946–1949). Năm 1946, Cảnh Biểu cùng với Diệp Kiếm Anh tham gia Ủy ban Hòa giải Quân sự Bắc Bình do Tướng George C. Marshall khởi xướng nhằm thúc đẩy và ngăn chặn sự bùng nổ cuộc nội chiến giữa Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng. Lúc này ông đang là phó tham mưu trưởng, trưởng ban giao thông liên lạc đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau khi hòa giải thất bại, ông quay về làm Tham mưu trưởng Dã chiến quân Quân khu Tấn Sát Ký. Ông còn tham gia tổ chức các chiến dịch như Chính Thái, Thanh Thương, Bảo Bắc, Thanh Phong Điếm và Thạch Gia Trang. Năm 1948, ông được trao chức Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Quân khu Hoa Bắc, từng đem quân tham chiến tại Bình Tân, Thái Nguyên, Lan Châu và Ninh Hạ. Sự nghiệp chính trị từ sau năm 1949. Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, Cảnh Biểu chuyển sang làm công tác ở mặt trận ngoại giao, trở thành một trong mười vị đại sứ đầu tiên của Trung Quốc. Ông được bổ nhiệm làm đại sứ tại Thụy Điển, Đan Mạch và Phần Lan vào ngày 9 tháng 5 năm 1950.
Cảnh Biểu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807750
Sau năm 1959 ông được cử làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao kiêm đại sứ Trung Quốc tại Pakistan, Myanmar và Albania. Ông trở về nước vào năm 1971 và đảm nhận chức vụ Trưởng ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc từ tháng 1 năm 1979 đến tháng 4 năm 1982. Ngày 6 tháng 10 năm 1976, ông được lệnh của Hoa Quốc Phong khi đó là Chủ tịch Ủy ban Trung ương kiêm Chủ tịch Quân ủy Trung ương phải nắm chắc quyền kiểm soát các đài phát thanh và truyền hình ở Bắc Kinh nhằm đảm bảo rằng quá trình đập tan Bè lũ Bốn tên có thể diễn ra suôn sẻ. Ít lâu sau, ông phụ trách công tác tuyên truyền của Đảng. Tháng 8 năm 1977, ông được bầu vào Bộ Chính trị. Năm 1978, ông được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Quốc vụ viện, phụ trách quan hệ đối ngoại, công nghiệp quân sự, hàng không dân dụng và du lịch. Tháng 1 năm 1979, ông giữ chức Thư ký trưởng kiêm Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1981, ông trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không mang quân hàm Nguyên soái và là người duy nhất chưa từng được phong quân hàm mặc dù đã từng có kinh nghiệm chiến đấu. Ông được thay thế làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và trở thành Ủy viên Quốc vụ viện vào năm sau. Tháng 9 năm 1982, ông làm Ủy viên Thường vụ Ủy ban Cố vấn Trung ương. Tháng 6 năm 1983, ông được bầu làm Phó Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa VI kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 9 năm 1988, ông được tặng thưởng Huân chương Sao Đỏ hạng nhất. Ông qua đời ngày 23 tháng 6 năm 2000 tại Bắc Kinh hưởng thọ 91 tuổi. Gia đình. Vợ của Cảnh Biểu là Triệu Lan Hương (赵兰香; 1923 – 22 tháng 7 năm 2022) quê ở Khánh Dương tỉnh Cam Túc, và kết hôn với ông ở Lũng Đông vào năm 1941. Bà từng giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Cảnh Biểu thuộc Quân ủy Trung ương. Liên kết ngoài.
Tôn Kiện
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807751
Tôn Kiện (; 1936 – tháng 11 năm 1997) là công nhân nhà máy từng được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1975 cho đến năm 1978 trong giai đoạn cuối thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Tiểu sử. Tôn Kiện chào đời năm 1936 tại vùng nông thôn huyện Định Hưng tỉnh Hà Bắc.. Năm 1951, ông đến Thiên Tân học nghề đảo cát nhà máy động cơ đốt trong, về sau trở thành một công nhân đúc nổi tiếng. Ông từng trải qua các chức vụ tổ trưởng sản xuất, trưởng ca, quản đốc phân xưởng,phó bí thư đoàn thanh niên. Năm 1958 gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc và từng đảm nhận chức vụ Bí thư Đảng ủy. Tháng 8 năm 1973, tại Đại hội Đảng lần thứ X được bầu vào làm Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 11 năm 1973, giữ chức Ủy viên Thành ủy Thiên Tân, Ủy viên Thường vụ và Bí thư Ban Thường vụ Thành ủy Thiên Tân. Tháng 11 năm 1974, được cử làm Ủy viên Ủy ban Cách mạng thành phố Thiên Tân, Ủy viên Thường vụ và Phó Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng Thành phố Thiên Tân. Tháng 1 năm 1975, tại hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc khóa IV tổ chức tại Bắc Kinh được cử giữ chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phụ trách sản xuất công nghiệp, lúc này ông mới 39 tuổi. Tháng 7 năm 1976, ông dẫn đầu đoàn đại biểu chính phủ Trung Quốc tham gia nghi thức giao lưu đường sắt Tanzania, Zambia và thăm chính thức hai nước này. Tháng 10 cùng năm đó, sau khi đập tan Bè lũ Bốn tên, ông vẫn làm Phó Thủ tướng thêm hai năm nữa nhưng do thuộc phe cánh Bè lũ Bốn tên nên bị miễn chức vào mùa xuân năm 1978. Ông đành quay trở lại công tác ở Thiên Tân, phải trải qua "cải tạo có giám sát" tại Nhà máy Động cơ Thiên Tân. Khi vợ ông là Bàng Tú Đình (庞秀婷) được phép đến thăm chồng mình, ông đã hứa với bà rằng ông sẽ không tự sát. Tôn Kiện trở lại đời sống cũ với tư cách là một công nhân nhà máy, mặc dù giờ đây ông được coi là trung tâm của sự chú ý vì từng là Phó Thủ tướng.
Tôn Kiện
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807751
Năm 1985, chính phủ cho phép ông thăng chức lên vị trí quản lý cấp trung, và Tôn được giao phụ trách khoản đầu tư 5 triệu đô la Mỹ của Đức vào dây chuyền sản xuất xe máy ở Thiên Tân. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm quản lý của một công ty máy móc nhà nước tại Khu Phát triển Kinh tế-Công nghệ Thiên Tân (TEDA). Tháng 11 năm 1997, ông qua đời vì bệnh ung thư phổi ở Thiên Tân, hưởng thọ 61 tuổi.
Đào Chú
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807752
Đào Chú (; ngày 16 tháng 1 năm 1908 – ngày 30 tháng 11 năm 1969) là chính khách và nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc, giữ chức Bí thư Thường trực Ban Bí thư Trung ương kiêm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung ương và Cố vấn Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương vào năm 1966, từng được bầu làm Phó Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1965 cho đến đầu năm 1967. Tiểu sử. Thời kỳ hoạt động cách mạng. Đào Chú tên thật là Tế Hoa, hiệu là Kiếm Hàn, còn có tên khác là Nhiệm Đào. Ông sinh ngày 16 tháng 1 năm 1908 trong một gia đình trí thức nghèo khổ ở thôn Lang Thụ, Thạch Động Nguyên, huyện Kỳ Dương tỉnh Hồ Nam. Năm 1914 khi Đào Chú lên 6 tuổi đi theo cha mình là Đào Thiết Tranh đến học trường Tư Thục ở Vũ Xương. Năm 1915 do vì Viên Thế Khải khủng bố phe cách mạng, Đào Thiết Tranh bèn đem cả nhà rời khỏi Vũ Hán trở về quê Kỳ Dương cùng với bạn thân mở trường dạy học kiểu mới Văn Xương Các, Đào Chú tiếp tục đi học tiểu học Văn Xương Các do cha ông làm hiệu trưởng. Năm 1918, cha và chú thứ ba bị Tiêu Diệu Nam, thuộc hạ của quân phiệt Bắc Dương Ngô Bội Phu giết chết, Đào Chú bỏ học do gia đình rơi vào cảnh túng quẫn, sau được người thân giới thiệu đi học nghề trong vài năm. Năm 1926, ông nhập học Trường Quân sự Hoàng Phố khóa 5 ở Quảng Châu, cùng năm đó, bạn học Triệu Thế Gia, Trần Bảo Hoa và Chiêm Bất Ngôn đã rủ ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đầu tháng 4 năm 1927, ông được cử đến Vũ Hán tham gia đội tuyên truyền của Tổng cục Chính trị Quốc dân Cách mệnh Quân. Sau khi sự hợp tác đầu tiên của Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản bị phá vỡ, Đào Chú bèn gia nhập Trung đoàn Cảnh vệ thuộc Quân đoàn 4 Quốc dân Cách mệnh Quân rồi lần lượt tham gia vào cuộc khởi nghĩa Nam Xương và khởi nghĩa Quảng Châu. Năm 1929, Đào Chú giữ chức Tổng thư ký kiêm Bí thư Tỉnh ủy Phúc Kiến kiêm Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Phúc Kiến.
Đào Chú
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807752
Tháng 5 năm 1930, ông đích thân dẫn 12 người đột kích vào Nhà tù Hạ Môn giải cứu hơn 40 đảng viên Đảng Cộng sản mà không có thương vong, khiến hơn 20 lính canh phòng Quốc Dân Đảng thiệt mạng, từng được coi là “Vụ cướp ngục Hạ Môn” gây chấn động cả nước lúc bấy giờ. Năm 1932, ông kết hôn với người bạn đời Tăng Chí và có một cô con gái đặt tên là Đào Tư Lượng. Năm 1933, Đào Chú đến làm việc tại Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở Thượng Hải nhưng không may bị Chính phủ Quốc dân phát hiện và bắt giữ, áp giải đến Bộ Tư lệnh Hiến binh Nam Kinh chịu án tù chung thân. Năm 1937, sau các cuộc đàm phán giữa Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh và chính phủ Quốc Dân Đảng; vào ngày 26 tháng 9, Hoàng Văn Kiệt đã giải cứu bảy người trong đó có Đào Chú ra khỏi nhà tù. Kháng chiến chống Nhật đến nội chiến. Sau khi Đào Chú vừa ra tù, ông liền được cử đến Hồ Bắc với tư cách là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy kiêm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền. Sau trận Vũ Hán vào tháng 10 năm 1938, quân du kích địa phương được tổ chức ở miền trung tỉnh Hồ Bắc và lập khu căn cứ địa du kích Ngạc Trung dựa trên núi Đại Hồng Sơn rồi đem quân tấn công huyện thành Vân Mộng vào ban đêm. Sau đó, ông gia nhập Chi đội Đỉnh Tiến, Dự Ngạc Tân Tứ quân do Lý Tiên Niệm tổ chức và giữ chức vụ chính ủy chi đội này. Năm 1940, Đào Chú đặt chân đến Diên An rồi ít lâu sau giữ chức Tổng thư ký Quân ủy Trung ương, Tổng thư ký Tổng cục Chính trị và Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền vào năm 1943. Năm 1945, Đào Chú tham gia Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 7. Đại hội quyết định phát động chiến tranh du kích tại biên khu Tương Việt Quế. Ông từng là phó bí thư tổ chức đảng biên khu và phó chính ủy chi đội 3 của Bát Lộ quân phía nam.
Đào Chú
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807752
Sau khi Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8 năm 1945, ông được lệnh đi đến vùng Đông Bắc băng qua Thái Hành, Ký Trung và Ký Đông đến Sơn Hải Quan, giữa tháng 9 thì đến Thẩm Dương, đổi làm Bí thư Tỉnh ủy Liêu Ninh rồi tham gia chiến dịch Tứ Bình, chịu trách nhiệm tổ chức hậu cần như tiếp tế đạn dược và vận chuyển thương binh. Tháng 9 năm 1947, ông kiêm nhiệm chức Chính ủy Tung đội 7 Quân đội Liên minh Dân chủ Đông Bắc. Sau chiến dịch Liêu Thẩm, Đào Chú giữ chức Bí thư Thành ủy Thẩm Dương và Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quân quản Thẩm Dương. Tháng 1 năm 1949, Đào Chú rời Thẩm Dương cùng với Dã chiến quân Đông Bắc, trở thành Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị Dã chiến quân Đông Bắc, tiến vào Sơn Hải Quan và tham gia chiến dịch Bình Tân. Ngày 21 tháng 1, trên cương vị là đại diện toàn quyền thuộc Bộ Tư lệnh Mặt trận Bình Tân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Đào Chú đã vào thành phố để đàm phán với Phó Tác Nghĩa. Hai bên bèn tuyên bố "Thỏa thuận về việc giải quyết vấn đề hòa bình ở Bắc Bình" vào ngày hôm sau. Ông liền chỉnh biên quân đội Quốc Dân Đảng đầu hàng ở Bắc Bình nhờ vậy mà thành phố này đã thoát khỏi sự tàn phá của chiến tranh. Tháng 5 năm 1949, Đào Chú giữ chức Ủy viên Cục Hoa Trung Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị Quân khu Hoa Trung kiêm Đệ tứ Dã chiến quân, chịu trách nhiệm tiếp quản ba thị trấn ở Vũ Hán. Sự nghiệp chính trị từ sau năm 1949. Tháng 10 năm 1950, Đào Chú nhận lệnh của Chính phủ Trung ương đến Quảng Tây chủ trì công tác tiễu phỉ, lãnh đạo cuộc chiến thanh lọc tàn quân Quốc Dân Đảng và thổ phỉ, nhanh chóng ổn định trật tự xã hội. Một năm sau, ông được điều đến Quảng Châu công tác. Ngày 15 tháng 12 năm 1951, chính phủ bổ nhiệm Đào Chú làm Bí thư phân cục Hoa Nam kiêm Chính ủy Quân khu Hoa Nam. Tháng 5 năm 1953, ông kiêm quyền Chủ tịch Chính phủ Nhân dân tỉnh Quảng Đông.
Đào Chú
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807752
Từ ngày thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949 cho đến năm 1965, Đào Chú được cử làm Phó Thủ tướng Quốc vụ viện tại hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa III tháng 1 năm 1965, còn giữ các chức vụ phó chủ nhiệm Ban Chính trị Quân khu Trung Nam, sau đó là Chủ nhiệm, quyền Bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây, Tỉnh trưởng Quảng Đông, Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Quảng Đông, Bí thư thứ nhất Cục Trung Nam Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm Chính ủy Quân khu Quảng Châu. Năm 1958, trong giai đoạn đầu của Đại nhảy vọt, ông đã tham gia nhiệt tình vào "chiến dịch chống tích trữ" ở Quảng Đông, tin rằng các số liệu sản xuất được báo cáo là có thật và tình trạng thiếu lương thực quan sát được chỉ là do nông dân tích trữ. Trong vòng một năm, ông chợt nhận ra sai lầm của mình khi chiến dịch do mình phát động không thể phát hiện ra nguồn cung cấp lương thực dự trữ trong các ngôi làng; trên thực tế, hầu hết nông dân đều chết đói. Trong Hội nghị Lư Sơn năm 1959, ban đầu ông có thiện cảm với Bành Đức Hoài khi ông chỉ trích Đại nhảy vọt. Tuy nhiên, sau phản ứng gay gắt từ Mao Trạch Đông, Đào Chú đã đổi phe và hùa theo những cuộc công kích của chủ tịch Mao nhằm vào "thành phần cực hữu", đệ trình danh sách các quan chức của chính mình mà ông xác định là "phe tả khuynh". Tuy vậy, ngay tại Quảng Đông, chính phủ của ông đã thực hiện các bước hòng đảo ngược thiệt hại của Đại nhảy vọt bằng cách mở rộng quyền sở hữu đất đai của từng nông dân và cho phép họ di cư đến Hồng Kông mưu sinh. Hoạt động dưới thời Cách mạng Văn hóa. Tháng 6 năm 1966, Đào Chú rời khỏi Quảng Châu đi đến Bắc Kinh nhằm thay thế Lục Định Nhất làm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung ương. Trong suốt thời gian đầu công tác ở Bắc Kinh, ông còn được cử làm Bí thư thường trực Ban Bí thư Trung ương đồng thời là cố vấn Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương.
Đào Chú
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807752
Tháng 8 năm 1966, Trung ương mở hội nghị 11 khóa 8 đã bầu bổ sung Đào Chú vào Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và chọn làm Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị xếp sau Mao Trạch Đông, Lâm Bưu và Chu Ân Lai, trở thành người quan trọng đứng thứ tư trong Đảng Cộng sản Trung Quốc. Điều đó cho phép người được ông bảo trợ là Triệu Tử Dương lên nắm quyền điều hành tỉnh Quảng Đông. Đào Chú và Triệu Tử Dương là một trong những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc ủng hộ Hồng vệ binh nhiệt tình nhất lúc ban đầu nhưng nhanh chóng đánh mất sự ủng hộ này vì họ cố gắng kiểm soát sự thái quá của phe cánh tả cấp tiến do Trương Xuân Kiều và Giang Thanh lãnh đạo. Đào Chú trở thành Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11 vào tháng 8 năm 1966 khi bắt đầu cuộc Cách mạng Văn hóa, nhưng đã bị đánh đổ ngay sau đó do bất đồng ý kiến về hoạt động của Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương, đến nỗi bị phe cánh Lâm Bưu, Giang Thanh bôi nhọ là "người đại diện đường lối Lưu, Đặng", "phái bảo hoàng giai cấp tư sản lớn nhất Trung Quốc" và "kẻ có dã tâm kiểu Khrushchev". Sau cùng ông quản thúc tại gia và bãi miễn mọi chức vụ vào ngày 10 tháng 1 năm 1967. Trong thời gian bị quản thúc tại gia nghiêm ngặt, ông được bác sĩ chẩn đoán mắc bệnh ung thư túi mật nhưng bị từ chối điều trị y tế lúc đầu. Thủ tướng Chu Ân Lai cuối cùng đã phải can thiệp để sắp xếp làm phẫu thuật cho ông nhưng khi đó bệnh ung thư của Đào Chú đã trầm trọng đến mức vô phương cứu chữa. Ngày 15 tháng 10 năm 1969, ông nhận được thông báo lập tức rời khỏi Bắc Kinh, chuyển tới Hợp Phì tỉnh An Huy trong tình cảnh phải tự lo liệu lấy cuộc sống một mình kèm theo sự dày vò của bệnh tật và tinh thần đến mức nằm liệt giường. Ngày 30 tháng 11 năm 1969, Đào Chú đã qua đời trong bệnh viện, hưởng thọ 61 tuổi. Người thân còn không được phép viếng thăm ông trên giường bệnh hoặc sau khi ông qua đời. Ông chỉ được minh oan sau khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền vào năm 1978. Liên kết ngoài.
Kyiv (tỉnh của Ba Lan)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807757
Tỉnh Kyiv (, , , "Kyjivśke vojevodstvo") là một đơn vị hành chính và chính quyền địa phương ở Đại công quốc Litva từ năm 1471 đến năm 1569 và của Lãnh địa hoàng gia Vương quốc Ba Lan từ 1569 đến 1793, là một phần của tỉnh Tiểu Ba Lan của Lãnh địa hoàng gia Ba Lan. Tỉnh được thành lập vào năm 1471 sau cái chết của thân vương cuối cùng của Kyiv Simeon Olelkovich và chuyển đổi Thân vương quốc Kyiv (công quốc phụ thuộc của Đại công quốc Litva) thành tỉnh Kyiv. Mô tả. Tỉnh được thành lập vào năm 1471 theo lệnh của Vua Kazimierz IV Jagiellończyk ngay sau cái chết của Semen Olelkovich. Tỉnh đã thay thế Thân vương quốc Kyiv trước đây, được cai trị bởi các thân vương gia tộc Olelkovich người Litva-Ruthenia (có liên quan đến nhà Algirdas và gia tộc Olshansky). Trung tâm hành chính đầu tiên của tỉnh là Kyiv, nhưng khi thành phố này được trao cho Đế quốc Nga vào năm 1667 theo Hiệp định đình chiến Andrusovo, thủ phủ chuyển đến Zhytomyr (tiếng Ba Lan: Żytomierz), duy trì tình trạng này cho đến năm 1793. Đây là tỉnh lớn nhất của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva tính theo diện tích đất, bao phủ vùng đất của người Cossack Zaporizhia và những vùng khác. Chính quyền. Thống đốc của tỉnh là voivoda (). Trong Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, hai vị trí hành chính quan trọng khác là castellan () và giám mục (biskup kijowski). Lá cờ ở một bên có Pogon của Litva trên nền đỏ và mặt còn lại là con gấu đen trên nền trắng với bàn chân trái phía trước giơ lên. Trong thế kỷ 15–16, tất cả các voivoda đều có nguồn gốc từ người Litva hoặc người Ruthenia, chẳng hạn như Holszański và Radziwiłł. Sau đó thuộc về các gia đình Chính thống giáo phương Đông là Ostrogski và Zaslawski và trong một thời gian ngắn là Movilești (Lozynski). Từ đầu thế kỷ 17, các voivoda có nguồn gốc Ba Lan, cùng với Ruthenia, đã được chọn nhậm chức, cụ thể là Potocki. Stanisław Rewera Potocki (1655–1658) Hành chính. Thay cho một số hạt bị thanh lý vào năm 1566, đã có các khu trưởng lão được thành lập: Biała Cerkiew, Kaniów, Korsun, Romanówka, Czerkasy, Czigrin.
UEFA Champions League 2024–25
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807768
<ns>0</ns> <revision> <parentid>70544923</parentid> <timestamp>2023-08-11T17:00:44Z</timestamp> <contributor> <username>Huy91</username> </contributor> <comment>Thêm thông tin</comment> <model>wikitext</model> <format>text/x-wiki</format> UEFA Champions League 2024–25 (hay còn gọi là Giải bóng đá vô địch các câu lạc bộ châu âu 2024–25) dự kiến sẽ là mùa giải thứ 70 của giải đấu bóng đá cấp câu lạc bộ hàng đầu châu Âu do Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) tổ chức. Đây cũng là mùa giải lần thứ 33 kể từ khi giải đấu được đổi tên từ European Champion Clubs' Cup thành UEFA Champions League và là mùa giải đầu tiên được thi đấu dưới thể thức hệ Thụy Sĩ (Swiss-system). Vòng chung kết dự kiến sẽ được tổ chức tại sân vận động Allianz Arena nằm ở thành phố München, Đức. Đội vô địch của mùa giải 2024–25 sẽ đủ điều kiện để lọt vào vòng bảng của mùa giải 2025–26 và giành quyền thi đấu với đội vô địch mùa giải Europa League trong trận Siêu cúp châu Âu 2025 đồng thời lọt vào trong 32 đội của giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2025 tại Hoa Kỳ. Phân bố đội. Có tổng cộng 83 đội bóng từ 53 trên tổng số 55 hiệp hội của UEFA sẽ tham dự mùa giải. Liechtenstein tuyên bố sẽ không tham dự do phải chuẩn bị để tổ chức giải quốc nội và Nga hiện đang bị cấm tham dự do tình hình chính trị tại Ukraina. Thứ hạng hiệp hội dựa trên hệ số của UEFA được sử dụng để xác định số đội bóng tham dự cho mỗi hiệp hội: Thứ hạng. Trong mùa giải lần này, các hiệp hội được sắp xếp vị trí dựa trên hệ số quốc gia của UEFA năm 2023 và được tính dựa theo số thành tích của mỗi hiệp hội ở các giải đấu châu Âu từ mùa giải 2018–19 đến 2022–23. Ngoài việc phân bố dựa trên hệ số hiệp hội, một số hiệp hội có thể có thêm suất tham dự Champions League như được ghi chú dưới đây: Các đội bóng. Các ký tự trong ngoặc thể hiện cách mỗi đội lọt vào vị trí của vòng đấu bắt đầu: Vòng loại. Vòng loại thứ nhất. Tổng cộng có 30 đội tuyển sẽ thi đấu ở vòng loại thứ nhất.
UEFA Champions League 2024–25
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807768
Những đội vô địch của các cặp đấu sẽ đi tiếp vào vòng loại thứ hai theo Nhóm các đội vô địch (Champions Path). Nếu khoảng 14 trên 15 đội thua thì sẽ được vào vòng loại thứ hai của Conference League Nhóm Vô Địch, một đội thua còn lại thì sẽ được bốc thăm để nhận suất đặc cách vào vòng loại thứ ba của Conference League Nhóm Vô Địch. Vòng loại thứ hai. Tổng cộng có 30 đội tuyển sẽ thi đấu ở vòng loại thứ hai. Lần này, các đội bóng sẽ được chia thành hai nhóm chính: Những đội vô địch của các cặp đấu sẽ đi tiếp vào vòng loại thứ ba theo Nhóm các đội vô địch (Champions Path). Những đội thua nhóm vô địch thì sẽ được vào vòng loại thứ ba của Europa League Nhóm Vô Địch, còn những đội thua nhóm không vô địch (League Path) thì sẽ được chuyển qua vòng loại thứ ba của Europa League Nhóm Chính. Nhóm các đội vô địch Nhóm các đội không vô địch Vòng loại thứ ba. Tổng cộng có 20 đội tuyển sẽ thi đấu ở vòng loại thứ ba. Các đội bóng sẽ được chia thành hai nhóm chính: Những đội vô địch của các cặp đấu sẽ đi tiếp vào vòng play-off theo Nhóm các đội vô địch. Những đội thua nhóm vô địch thì sẽ được lọt vào vòng play-off của Europa League, còn những đội thua nhóm không vô địch thì sẽ được chuyển qua vòng bảng của Europa League. Nhóm các đội vô địch Nhóm các đội không vô địch Vòng play-off. Tổng cộng có 14 đội tuyển sẽ thi đấu tại vòng play-off. Các đội bóng được chia thành hai nhóm chính: Đội thắng của các cặp đấu sẽ đi tiếp vào vòng bảng. Còn những đội thua thì sẽ được chuyển qua vòng bảng Europa League. Nhóm các đội vô địch Nhóm các đội không vô địch Các vòng khác. Sau hai giai đoạn vòng loại và vòng play-off, toàn bộ 36 đội bóng còn lại sẽ không còn được chia thành các nhóm khác nhau. Thay vào đó, các đội sẽ cùng nhau thi đấu với mỗi đội thi đấu với tám đội khác nhau. 36 đội sau đó sẽ được xếp vào bốn bảng với mỗi bảng gồm chín đội dựa trên hệ số hiệp hội của UEFA tại mùa giải trước đó. Mỗi đội bóng sẽ phải thi đấu tối thiểu bốn lượt trận trên sân nhà và bốn lượt trận trên sân khách kèm thêm một trận sân nhà và một trận sân khách với mỗi đội từ bốn nhóm.
UEFA Champions League 2024–25
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807768
Việc gieo hạt sẽ dựa trên những tiêu chí sau: Theo nguyên tắc, những đội bóng có cùng một hiệp hội sẽ không được đối đầu trong suốt giai đoạn của giải đấu. Tuy nhiên, để tránh bế tắc trong lễ bốc thăm thì có thể được phép tổ chức tối đa một trận đấu cho hai đội bóng cùng một hiệp hội nếu hiệp hội đó có bốn đội bóng trở lên lọt vào vòng bảng. Chung kết. <onlyinclude></onlyinclude>
Hải quân Trung Hoa Dân Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807774
Hải quân Trung Hoa Dân Quốc (ROCN; ), còn được gọi là Hải quân Đài Loan, là nhánh hàng hải của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc (ROCAF).
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807775
Sò có thể được dùng để chỉ:
Vụ phá đập Kakhovka
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807782
Vào ngày 6 tháng 6 năm 2023, đập nước Kakhovka ở Ukraina bị vỡ, gây ra lũ lụt trên diện rộng. Nằm trên sông Dnepr ở tỉnh Kherson, con đập nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Nga, lực lượng đã chiếm giữ khu vực này trong những ngày đầu của chiến dịch Nga xâm lược Ukraina. Chính quyền Nga đổ lỗi cho vụ vỡ đập do pháo kích của Ukraina. Ukraina và các đồng minh cáo buộc lực lượng Nga cho nổ tung con đập để cản trở kế hoạch phản công của Ukraina. Mực nước trong hồ chứa Kakhovka đã tăng lên trong nhiều tháng và ở mức cao nhất từ khi có con đập này khi con đập bị vỡ. Hàng nghìn cư dân đã được sơ tán ở hạ lưu khi lũ lụt nhấn chìm một số ngôi làng ở các khu vực do Ukraina và Nga kiểm soát. Việc mất nước trong hồ chứa Kakhovka đe dọa nguồn cung cấp nước cho Krym do Nga chiếm đóng và nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia do Nga chiếm giữ. Vụ phá hủy đập. Vào lúc 02h50 giờ địa phương sáng ngày 6 tháng 6 năm 2023, Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelenskyy cho biết một "vụ nổ bên trong các cấu trúc" của con đập đã xảy ra. Phần giữa của con đập rộng 3,2 km trên thực tế đã bị phá hủy, dẫn đến lũ lụt trên diện rộng ở vùng hạ lưu. Vào thời điểm bị phá hủy, con đập nằm dưới sự kiểm soát của Nga và mực nước đã tăng lên mức cao nhất trong 30 năm. Hình ảnh vệ tinh do BBC News thu được chỉ ra rằng tình trạng của con đập đã xuống cấp kể từ ngày 1 tháng 6 hoặc sớm hơn, với con đường xuyên qua đập bị hư hại một số vào ngày 2 tháng 6. Thủ phạm phá hoại. Người ta vẫn còn tranh cãi thủ phạm phá hoại con đập này. Không bên nào cung cấp bằng chứng công khai ngay lập tức để hỗ trợ các cáo buộc của họ. Tuyên bố về trách nhiệm của Nga. Chính quyền Ukraina cho rằng các lực lượng Nga đã phá hủy con đập. Cơ quan thủy điện nhà nước Ukraina, Ukrhydroenergo, tuyên bố rằng con đập đã "bị phá hủy hoàn toàn" sau một vụ nổ từ bên trong phòng máy và không thể phục hồi. Các quan chức Ukraina cho biết Nga đã phá hủy con đập "trong cơn hoảng loạn" để làm chậm kế hoạch phản công của Ukraina.
Vụ phá đập Kakhovka
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807782
Bộ trưởng Ngoại giao Ukraina Dmytro Kuleba đã chỉ trích các phương tiện truyền thông quốc tế vì đã trình bày các quy kết của Ukraine và Nga là đáng tin cậy như nhau, cho rằng điều này "đặt sự thật và tuyên truyền ngang hàng nhau." Thủ tướng Đức Olaf Scholz chỉ ra "Theo các thông tin thu thập được, đây là hành động gây hấn của phía Nga nhằm ngăn chặn cuộc tấn công của Ukraine, để bảo vệ đất nước của chính họ." Tuyên bố về trách nhiệm của Ukraina. Thị trưởng Nova Kakhovka do Nga bổ nhiệm ban đầu nói rằng con đập không bị hư hại nhưng sau đó cáo buộc Ukraina. Dmitry Peskov, thư ký báo chí của Vladimir Putin, phủ nhận cáo buộc Nga tham gia vào việc phá hủy con đập và gọi đó là hành động phá hoại của Ukraina. Truyền thông nhà nước Nga cho rằng vụ phá hủy là do hỏa lực pháo binh từ một bệ phóng nhiều tên lửa Vilkha. Phản ứng. Nga. Người phát ngôn Điện Kremlin Dmitry Peskov cho biết: "Vụ phá hoại này cũng liên quan đến thực tế là, đã tiến hành các hoạt động tấn công quy mô lớn hai ngày trước, các lực lượng vũ trang Ukraina đã không đạt được mục tiêu của họ. Chính quyền Kiev phải chịu mọi trách nhiệm về mọi hậu quả ”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga Maria Zakharova nói: "... Tôi đang nói về những gì đã xảy ra ngày hôm qua tại Nhà máy thủy điện Kakhovka. Đây thực sự nên là một chủ đề của nghiên cứu, nghiên cứu và điều tra trên toàn thế giới. Phản ứng của phương Tây trong tất cả các tình huống như vậy là có thể đoán trước 100%. Đó là một mong muốn vô tận để đổ lỗi cho Nga về mọi thứ xảy ra, bất kể nó thực sự xảy ra hay chỉ là một điều hư cấu." Ukraina. Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelenskyy cho biết: "Việc những kẻ khủng bố Nga phá hủy đập nhà máy thủy điện Kakhovka chỉ khẳng định với toàn thế giới rằng chúng phải bị trục xuất khỏi mọi ngóc ngách trên đất Ukraina." Andriy Yermak, Trưởng Văn phòng của Tổng thống Ukraine, gọi việc phá hủy con đập là "sự hủy diệt sinh thái".
Vụ phá đập Kakhovka
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807782
Bộ Ngoại giao Ukraina cho biết: "Chúng tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế kiên quyết lên án vụ tấn công khủng bố của Nga vào Nhà máy thủy điện Kakhovka (Nhà máy thủy điện)", kêu gọi tổ chức một phiên họp của UNSC và một cuộc họp với IAEA. Tổng công tố Ukraina cho biết họ đang điều tra vụ phá hủy như một tội ác chiến tranh. Cựu Bộ trưởng Bộ Sinh thái Ukraine Ostap Semerak nói rằng: "Điều này sẽ có tác động đến Romania, Georgia, Thổ Nhĩ Kỳ và Bulgaria. Nó sẽ có hại cho tất cả các khu vực. Chính phủ của chúng tôi đã tuyên bố đây là thảm họa môi trường lớn nhất ở châu Âu trong 10 năm qua, và tôi nghĩ đó có thể là điều tồi tệ nhất ở Ukraine kể từ thảm họa Chernobyl năm 1986." Cộng đồng quốc tế. Việc phá hủy con đập đã được các nhà lãnh đạo phương Tây mô tả là tội ác chiến tranh; Điều 56 của Nghị định thư I của Công ước Geneva nghiêm cấm việc cố tình phá hủy "các công trình chứa các lực nguy hiểm" như đập. António Guterres, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, nói rằng sự sụp đổ là "một hậu quả tàn khốc khác của cuộc xâm lược Ukraine của Nga", và tuyên bố rằng: "Các cuộc tấn công nhằm vào thường dân và cơ sở hạ tầng dân sự quan trọng phải dừng lại." Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg gọi sự kiện này là "thái quá" và nói rằng nó cho thấy "sự tàn bạo của cuộc chiến tranh của Nga ở Ukraina". Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Charles Michel gọi việc cho nổ tung một nhà máy thủy điện là một tội ác chiến tranh của Nga. Hội đồng Châu Âu tuyên bố: "Chúng tôi lên án mạnh mẽ nhất việc phá hủy đập Nova Kakhovka ở vùng Kherson của Ukraine".
Tenthredo scrophulariae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807787
Tenthredo scrophulariae, còn được gọi là figwort sawfly, là một loài thuộc họ Tenthredinidae, phân họ Tenthredininae. Phân bố và môi trường sống. Loài này phân bố rộng khắp châu Âu, Thổ Nhĩ Kỳ và Transcaucasia, trong đồng cỏ nơi cây Huyền sâm mọc. Miêu tả. "Tenthredo scrophulariae" có chiều dài cơ thể khoảng . Nó dễ dàng nhận ra bởi vẻ bề ngoài giống ong nhưng không có "eo" mỏng như một con ong thật. Đầu đen và khá ngắn, góc sau hình chữ nhật nổi bật. Cuống bướm tiêu của các tuyến tiêm không thu hẹp ở đầu, khá ngắn (ít hơn gấp đôi chiều rộng đầu) so với nhiều loài có quan hệ gần. Nó có màu cam, trong khi ở hầu hết các loài tương tự trong chi, màu đen. Ngực chủ yếu màu đen, chỉ có vùng gáy và vùng bảo vệ màu vàng. Bụng màu đen, có sọc ngang màu vàng. Cạnh trước của cánh trước, bao gồm cả các gân, có màu cam đỏ sáng, trong khi màng cánh còn lại là màu vàng nhạt trong suốt, có màu xám dần dần ở đầu. Chân trước gần như hoàn toàn màu vàng, nhưng mặt trên của xương đùi màu đen. Chân giữa và chân sau màu cam, nhưng xương đùi của chân sau hoàn toàn màu đen. Ở cặp chân giữa, xương đùi có thể hoàn toàn màu đen hoặc chỉ có mặt sau màu đen. Ấu trùng có kích thước tương đối lớn, dài khoảng và có 22 chân. Chúng có cơ thể trắng với các đốm đen, và ăn lá của bạch chỉ và cây chìa vôi. Sinh học. Ấu trùng ăn từ tháng 8 đến tháng 9. Chúng ngủ đông vào tháng 10. Các con trưởng thành bay từ tháng 5 đến tháng 8 của năm sau. Các con ong đuôi cưa này khá dịu dàng và cho phép quan sát gần. Chúng bay với một kiểu lười biếng, chân màu vàng dài của chúng treo xuống. Các con trưởng thành ăn các loài côn trùng nhỏ và thường được tìm thấy trên các loại cây trinh nữ ("Heracleum sphondylium"), ăn mật hoa và phấn hoa. Ấu trùng chủ yếu ăn lá của cây chìa vôi ("Scrophularia"). Chúng cũng có thể xuất hiện trên cây "Buddleja" và cây cỏ đen ("Verbascum nigrum"), nơi chúng chỉ ăn các lá già không lông. Ấu trùng bị ký sinh bởi các loài ký sinh bám khác nhau thuộc họ "Ichneumonidae" ("Mesoleptidea prosoleuca" và "Euceros serricornis"). Liên kết ngoài. LES TENTHREDES tại Aramel.free
Edoardo Iannoni
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807791
Edoardo Iannoni (sinh ngày 11 tháng 4 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Perugia tại Serie C, cho mượn từ Salernitana. Sự nghiệp thi đấu. Iannoni bắt đầu sự nghiệp thi đấu của mình tại câu lạc bộ Trastevere tại Serie D. Vào ngày 20 tháng 6 năm 2020, anh gia nhập câu lạc bộ Salernitana. Anh ra mắt đội bóng vào ngày 17 tháng 1 năm 2021 trong trận đấu thuộc khuôn khổ Serie B gặp Empoli, khi vào sân thay người ở những phút cuối cùng của trận đấu. Ngày 29 tháng 1 năm 2021, anh chuyển tới Juve Stabia dưới dạng cho mượn. Vào ngày 20 tháng 7 năm 2021, anh gia nhập Ancona-Matelica theo dạng cho mượn. Ngày 30 tháng 10 năm 2021, anh ghi bàn thắng đầu tiên của riêng mình tại Serie C trong trận gặp Viterbese. Ngày 8 tháng 7 năm 2022, Iannoni chuyển tới Perugia theo dạng cho mượn.
David Okereke
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807795
David Chidozie Okereke (sinh ngày 29 tháng 8 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nigeria hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. Spezia. Anh ra mắt Spezia vào ngày 9 tháng 4 năm 2016 trong trận gặp Novara tại Serie B. Ở mùa giải 2018–19, Okereke ghi được 10 bàn thắng và có 12 đường kiến tạo sau 33 lần ra sân. Club Brugge. Vào ngày 9 tháng 7 năm 2019, anh ký bản hợp đồng kéo dài 4 năm với Club Brugge. Cho mượn tại Venezia. Ngày 12 tháng 8 năm 2021, Okereke gia nhập tân binh Serie A, Venezia theo dạng cho mượn. Cremonese. Ngày 28 tháng 7 năm 2022, Okereke gia nhập Cremonese bằng bản hợp đồng kéo dài 3 năm với mức phí chuyển nhượng được báo cáo là 10 triệu euro. Đời tư. Ngày 15 tháng 9 năm 2020, anh xét nghiệm dương tính với COVID-19. Danh hiệu. Club Brugge
Daniel Williams (cầu thủ bóng đá, sinh 2001)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807798
Daniel Patrick Williams (sinh ngày 19 tháng 4 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Wales hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ The New Saints tại Cymru Premier, được cho mượn từ Swansea City. Sự nghiệp thi đấu. Williams gia nhập lò đào tạo trẻ Swansea City ở lứa tuổi U-8, và ký bản hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với đội bóng vào mùa hè năm 2019. Anh ra mắt cho Swansea City trong chiến thắng 3–0 ở vòng đầu tiên của Cúp EFL trước Reading vào ngày 11 tháng 8 năm 2021. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng trong chiến thắng 4-0 ở vòng 2 trước Plymouth Argyle vào ngày 24 tháng 8 năm 2021.
Ibaraki (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807800
Ibaraki có thể là:
Phản cách mạng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807814
Phản cách mạng hoặc chống cách mạng là bất kỳ ai phản đối hoặc chống lại một cuộc cách mạng, đặc biệt là người hành động sau một cuộc cách mạng nhằm cố gắng lật đổ hoặc đảo ngược tiến trình của nó, toàn bộ hoặc một phần. Tính từ "phản cách mạng" liên quan đến các phong trào nhằm khôi phục lại tình trạng hiện tại, hoặc các nguyên tắc, thịnh hành trong thời kỳ tiền cách mạng.
Simon Woods
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807828
Simon Woods (sinh 7 tháng 1 năm 1980) là một diễn viên và biên kịch, được biết đến nhiều với vai diễn Octavian trong mùa 2 của sê-ri truyền hình Anh-Mỹ "Rome" và vai Charles Bingley trong "Pride & Prejudice" 2005. Cuộc sống cá nhân. Woods attended Eton College, then read English at Magdalen College, Oxford. Khi ở Oxford, anh trở thành bạn với Chelsea Clinton. Sau khi tốt nghiệp ở Oxford, Woods làm việc một thời gian ngắn tại "The Guardian" trước khi trở thành một diễn viên. Khi ở Oxford năm 2000, anh ấy có mối quan hệ với Rosamund Pike kéo dài hai năm. Hai người sau đó đóng vai tình nhân Jane Bennet và Charles Bingley trong "Kiêu hãnh và định kiến". Từ năm 2009, Woods có quan hệ tình cảm với Christopher Bailey, cựu giám đốc điều hành của hãng thời trang Burberry của Anh. Họ kết hôn vào năm 2012. Họ có 2 người con gái, Iris và Nell. Biên kịch. Vở kịch sân khấu "Hansard" của Woods đã được trình chiếu tại Lyttelton Theatre, London, vào tháng 9 năm 2019. Tác phẩm được đạo diễn bởi Simon Godwin.
Trần Thị Thu Đông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807838
Trần Thị Thu Đông (sinh ngày 24 tháng 10 năm 1969) là chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện là Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam , Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV, nhiệm kì 2021-2026 thuộc đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bạc Liêu. Sự nghiệp. - 1/1990 - 4/2002: Bí thư Chi đoàn Báo ảnh Đất Mũi, tỉnh Minh Hải; Bí thư Chi đoàn Báo Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu - 4/2002 - 6/2004: Ủy viên Thường trực, Phó Bí thư Chi bộ Hội Văn học-Nghệ thuật tỉnh Bạc Liêu - 6/2004 - 6/2015: Phó Chủ tịch, Bí thư Chi bộ Hội Văn học-Nghệ thuật tỉnh Bạc Liêu - 6/2015 - 8/2016: Ủy viên Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học-Nghệ thuật Việt Nam. Chủ tịch, Bí thư Chi bộ Liên hiệp các Hội Văn học-Nghệ thuật tỉnh Bạc Liêu - 9/2016 - 1/2018: Phó Cục Trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - 2/2018 - 12/2019: Phó Cục Trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Mỹ thuật và Nhiếp ảnh - 1/2020 - 10/2020: Phó Cục Trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - 10/2020 - 1/2021: Phó Cục Trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam - 2/2021: Ủy viên Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học-Nghệ thuật Việt Nam; Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam - 7/2021: Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội; Đại biểu Quốc hội khóa XV.
Chernihiv (tỉnh của Ba Lan)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807858
Tỉnh Czernihów hay Chernihiv (, ) là một đơn vị hành chính và chính quyền địa phương của Vương quốc Ba Lan (một phần của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva) từ năm 1635 cho đến Khởi nghĩa Khmelnytsky năm 1648 (về mặt pháp lý tồn tại cho đến năm 1654). Ngoài ra, tỉnh này được sử dụng như một danh hiệu hư cấu trong Thịnh vượng chung cho đến khi Ba Lan bị phân chia vào năm 1772/1795. Năm 1635, Marcin Kalinowski là thống đốc (voivode) đầu tiên của tỉnh Chernihiv. Tỉnh này là một phần của vùng Tiểu Ba Lan của Vương quốc Ba Lan, và được chia thành hai huyện: Czernihow và Nowogrod Siewierski. Các phiên họp sejmik địa phương diễn ra tại Czernihow, và tỉnh có hai thượng nghị sĩ tại Thượng viện Ba Lan-Litva. Cùng với tỉnh Kyiv (Kijow) và tỉnh Bracław (Bratslav), tỉnh thuộc khu vực lãnh thổ được gọi là Ukraina. Lịch sử. Lịch sử của tỉnh Czernihow bắt đầu từ năm 1618, khi sau Hiệp định đình chiến Deulino, Thịnh vượng chung giành quyền kiểm soát các thị trấn Smolensk, Czernihow và Nowogrod Siewierski. Vì hiệp định đình chiến sẽ hết hạn sau 14,5 năm, nên các lãnh thổ mới không được tổ chức theo cách chính thức. Smolensk bị Đại công quốc Litva sáp nhập, trong khi cả Czernihow và Nowogrod đều trở thành một phần của Lãnh địa Hoàng gia Vương quốc Ba Lan, hình thành nên Công quốc Siveria. Năm 1633, trong Chiến tranh Smolensk, Quốc hội Ba Lan (Sejm) đưa ra một dự luật trong đó cả tòa án đất đai và văn phòng starosta được thành lập tại Czernihow. Năm 1634, Hiệp định Polyanovka xác nhận rằng Czernihow vẫn là một phần của Ba Lan, vì vậy cuối cùng vào năm 1635, Sejm đã tạo ra tỉnh này, với hai thượng nghị sĩ là voivode và castellan của Czernihow. Hai huyện của tỉnh bầu hai đại biểu cho Sejm, và một đại biểu cho Tòa án Tiểu Ba Lan tại Lublin. Năm 1637, việc xây dựng một pháo đài ở Konotop bắt đầu với mục đích bảo vệ tỉnh mới giành được, pháo đài được hoàn thành vào năm 1642. Thịnh vượng chung đã mất quyền kiểm soát tỉnh này ngay từ năm 1648, trong cuộc Khởi nghĩa Khmelnytsky. Trong Hiệp định Hadiach (1658), Công quốc Ruthenia được thành lập từ tỉnh Czernihow, tỉnh Kyiv và tỉnh Bracław.
Chernihiv (tỉnh của Ba Lan)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807858
Tuy nhiên, ý tưởng này nhanh chóng bị bỏ rơi, và sau Hiệp định đình chiến Andrusovo (1667), tỉnh Czernihow bị nước Nga Sa hoàng sáp nhập. Lịch sử của tỉnh Czernihow không kết thúc vào năm 1667. Tương tự các tỉnh khác mà Thịnh vượng chung để mất vào giữa thế kỷ 17, chính phủ ở Warszawa tiếp tục tuyên bố tỉnh này là một tỉnh trên danh nghĩa, với các danh hiệu hư cấu là thống đốc, thượng nghị sĩ, đại biểu và starosta do Quốc vương bổ nhiệm, và vẫn được sử dụng cho đến khi Phân chia Ba Lan. Giới quý tộc của tỉnh Czernihow trước đây có các phiên sejmik tại Wlodzimierz Wolynski. Thống đốc cuối cùng của Czernihow là một người tên là Ludwik Wilga, được đề cử vào năm 1783. Năm 1785, Stanisław August Poniatowski đã trao danh hiệu hư cấu là starosta của Nowogrod Siewierski cho Tadeusz Czacki. Zygmunt Gloger trong cuốn sách "Địa lý lịch sử của các vùng đất Ba Lan cũ" đưa ra một mô tả chi tiết về tỉnh Czernihow:
Tom Kretzschmar
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807861
Tom Kretzschmar (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ TSV 1860 München tại 3. Liga. Sự nghiệp thi đấu. Sinh ra tại München, Kretzschmar gia nhập lò đào tạo trẻ của TSV 1860 München từ SpVgg Höhenkirchen vào năm 2006. Anh ra mắt cho 1860 München II ở Bayernliga vào tháng 7 năm 2017. Vào tháng 2 năm 2021, anh đã gia hạn hợp đồng với đội bóng. Anh ra mắt đội 1 vào ngày 22 tháng 5 năm 2021, khi vào sân sau khi thủ môn Marco Hiller nhận thẻ đỏ ở phút thứ 8, trong trận thua 3–1 trước FC Ingolstadt.
Kho ngoại quan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807865
Kho ngoại quan là một tòa nhà hoặc khu vực an toàn khác, trong đó hàng hóa chịu thuế có thể được lưu trữ, thao tác hoặc trải qua các hoạt động sản xuất mà không phải trả thuế. Nó có thể được quản lý bởi nhà nước hoặc bởi doanh nghiệp tư nhân. Trong trường hợp sau, một kho ngoại quan phải được đăng với chính phủ. Hệ thống này được sử dụng rộng rãi ở các nước phát triển trên toàn thế giới. Khi nhập hàng vào kho ngoại quan, người nhập khẩu và chủ kho phải chịu trách nhiệm theo một khoản cam kết. Trách nhiệm này thường được hủy bỏ khi hàng hóa: Trong khi hàng hóa ở trong kho ngoại quan, dưới sự giám sát của cơ quan hải quan, hàng hóa có thể bị xử lý bằng cách làm sạch, phân loại, đóng gói lại hoặc thay đổi tình trạng của chúng bằng các quy trình không liên quan đến sản xuất. Sau khi thao tác và trong thời hạn lưu kho, hàng hóa có thể được xuất khẩu mà không phải trả thuế hoặc có thể được thu hồi để tiêu thụ sau khi nộp thuế theo tỷ lệ áp dụng cho hàng hóa trong tình trạng bị thao túng tại thời điểm thu hồi. Tại Hoa Kỳ, hàng hóa có thể ở trong kho ngoại quan tối đa 5 năm kể từ ngày nhập khẩu. Kho ngoại quan cung cấp các dịch vụ lưu trữ chuyên dụng như lưu trữ chất lỏng đông lạnh hoặc số lượng lớn, xử lý hàng hóa và phối hợp với vận chuyển, đồng thời là một phần không thể thiếu trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Christian Acella
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807868
Christian Acella (sinh ngày 7 tháng 7 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý. Anh hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm cho câu lạc bộ Perugia tại Serie C bảng B, cho mượn từ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. Trẻ. Acella là sản phẩm của lò đào tạo trẻ Cagliari và Cremonese. Giana Erminio. Acella gia nhập câu lạc bộ Giana Erminio tại Serie C theo dạng cho mượn vào ngày 20 tháng 7 năm 2021. Anh đã ra mắt đội bóng và ra sân ngay từ đầu trong hầu hết các trận đấu của mùa giải. Cremonese. Sau khi quay trở lại Cremonese, Acella ra mắt đội bóng vào ngày 8 tháng 8 năm 2022 trong trận gặp Ternana tại Coppa Italia. Anh ra mắt tại Serie A cho đội bóng vào ngày 12 tháng 3 năm 2023, trong trận gặp Napoli. Cho mượn tại Perugia. Vào ngày 21 tháng 8 năm 2023, Acella gia nhập câu lạc bộ Perugia theo dạng cho mượn kéo dài mùa giải.
Hà Trọng Sơn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807878
Hà Trọng Sơn (sinh năm 1920; mất năm 2010) là một võ sĩ quyền Anh người Việt Nam. Trong sự nghiệp thi đấu của mình, ông đã đánh bại nhiều đối thủ trong và ngoài nước nên được người đời mệnh danh là "hùm xám miền Trung". Đầu đời. Hà Trọng Sơn sinh ngày 1 tháng 6 năm 1920 tại làng võ Phước An, Tuy Phước, Bình Định trong một gia đình có truyền thống võ đạo. Vốn đam mê võ thuật từ khi còn nhỏ, năm 8 tuổi, ông theo học võ của các anh em trong gia đình là võ sư Hà Cảnh, Hà Tùng, Hà Để, rồi sau đó là võ sư Lâm Đắc Đạo và ông Beo người gốc Hoa. Năm 17 tuổi, Hà Trọng Sơn được một sĩ quan người Pháp dạy quyền Anh. Thượng đài. Năm 1943, tại đại hội quyền thuật Đông Dương tổ chức ở Nha Trang, Hà Trọng Sơn đánh bại võ sĩ nổi tiếng của Pháp là F. Nicolai và võ sĩ Tiết Mãnh. Một năm sau, tại hội thi võ thuật Đông Dương tổ chức ngày 12 tháng 10 năm 1944 ở Đà Nẵng, Hà Trọng Sơn tiếp tục giành chiến thắng trước võ sĩ người Pháp khác là Esperpaire. Trong nhiều năm sau, Hà Trọng Sơn liên tiếp giành được những thắng lợi trên sàn đài trước nhiều võ sĩ trong và ngoài nước, và từng bất phân thắng bại với Kid Dempsey. Cái tên "hùm xám miền Trung" vang danh từ đó. Ngày 17 tháng 8 năm 1960, Hà Trọng Sơn có trận so găng với võ sĩ gốc Thái Lan Ku Xam Thum. Sau 5 hiệp bất phân thắng bại, đến hiệp thứ 6, Hà Trọng Sơn tung đòn hạ knock out Ku Xam Thum, qua đó giành thắng lợi chung cuộc. Từ năm 1966 đến năm 1983, Hà Trọng Sơn có nhiều trận thi đấu võ thuật với đại võ sư Huỳnh Tiền. Cả hai đã giành được một số chiến thắng. Cuối đời. Những năm cuối đời, Hà Trọng Sơn sống ẩn dật. Ông truyền lại võ công "quyền ba chân hổ" cho võ sư Hà Trọng Ngự, sau này thành lập võ đường Hà Trọng. Ông qua đời những ngày cuối tháng 3 năm 2010.
Isabella của Bayern
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807885
Vương tôn nữ Isabella của Bayern (Maria Isabella Luise Amalia Elvira Blanca Eleonora ; 31 tháng 8 năm 1863 – 26 tháng 2 năm 1924) là một trong năm người con của Vương tử Adalbert của Bayern và Vương tôn nữ Amalia của Tây Ban Nha. Thông qua cuộc hôn nhân với với Tommaso của Savoia-Genoa, Isabella được gọi là Công tước phu nhân xứ Genoa. Gia đình. Isabella là người con thứ ba và con gái lớn của Vương tử Adalbert của Bayern, con trai thứ tư của Ludwig I của Bayern và Therese xứ Sachsen-Hildburghausen, và Vương tôn nữ Amalia của Tây Ban Nha, con gái của Vương tử Francisco de Paula của Tây Ban Nha và Vương nữ Luisa Carlotta của Hai Sicilie. Hôn nhân và con cái. Ngày 14 tháng 4 năm 1883, Isabella kết hôn với Vương tôn Tommaso của Savoia, Công tước xứ Genova, con trai duy nhất của Vương tử Ferdinando của Sardegna và Elisabeth của Sachsen, tại Nymphenburg, Bayern. Tommaso cũng là em rể của Umberto I của Ý thông qua chị gái là Margherita của Savoia-Genova, và do đó là cậu của Victtorio Emanuele III của Ý. Cuộc hôn nhân của hai vợ chồng đánh dấu lần thứ tư thành viên của hai vương tộc Wittelsbach và Savoia thành hôn với nhau. Ludwig II của Bayern (anh họ của Isabella) đã không tham dự lễ cưới vì bản thân Quốc vương hiếm khi có mặt tại các sự kiện công cộng. Một người tham dự nhận xét rằng sự vắng mặt của Ludwig II khiến cho những vị khách mời "có thể tận hưởng bầu không khí vui vẻ hiếm khi có trong các lễ hội của Triều đình". Isabella và Tommaso có với nhau 6 người con: Cuộc sống sau này. Năm 1905, Isabella và chồng, cũng như các thành viên khác của Vương tộc Savoia tham dự buổi lễ phong Chân phước của một linh mục người Pháp. Sự kiện này có sự tham dự của Giáo hoàng Piô X, cùng với 1.000 người hành hương Pháp, vài nghìn tín đồ thuộc các quốc tịch khác và 22 Hồng y và Triều đình Giáo hoàng. Sự kiện này rất đáng chú ý vì đây là lần đầu tiên các thành viên của Vương tộc Savoia hỗ trợ một nghi lễ tôn giáo với sự hiện diện của Giáo hoàng. Với tư cách là Công tước và Công tước phu nhân xứ Genova, Isabella và chồng thường tham dự các hoạt động khác của vương thất với tư cách là đại diện của Vương tộc Savoia.
Isabella của Bayern
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807885
Chẳng hạn, vào năm 1911, hai vợ chồng tham dự lễ khánh thành một tượng đài lớn của Quốc vương Victor Emmanuel II của Ý ở Roma với sự chứng kiến có gần một triệu người, đồng thời có sự tham dự của Maria Pia của Ý, Thái hậu Bồ Đào Nha và Margherita của Savoia-Genova, Thái hậu Ý và vợ chồng Công tước và Công tước phu nhân xứ Aosta. Năm 1913, Isabella đã một lần suýt không qua khỏi cửa tử. Trong một lần xức dầu lên tay và cổ bằng thuốc trị bệnh thấp khớp, Isabella đã ở quá gần một ngọn đèn khiến cho thuốc bốc cháy. Isabella chỉ sống sót do người giúp việc nhanh chóng dập tắt ngọn lửa. Qua đời. Ngày 26 tháng 2 năm 1924, Isabella qua đời vì bệnh viêm phế quản ở Roma, sau khi đã bị ốm nhiều ngày trước đó. Chồng của Isabella, Tommaso qua đời bảy năm sau đó, vào năm 1931.
Vương Tử Dị
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807902
Vương Tử Dị ( tiếng Hán :王子异; sinh ngày 13 tháng 7 năm 1996), còn được gọi là BOOGIE , là một rapper, vũ công và ca sĩ người Trung Quốc. Anh là thành viên của nhóm nhạc nam C-pop BBT và là cựu thành viên của nhóm nhạc nam Trung Quốc Nine Percent. Anh ấy được biết đến khi tham gia với tư cách là thực tập sinh của Simply Joy Music trong chương trình sống còn dành cho thần tượng Idol Producer, nơi anh ấy đứng ở vị trí thứ 7 chung cuộc và do đó trở thành thành viên của Nine Percent. Nhóm đã đạt được thành công vang dội ở Trung Quốc và được lên kế hoạch quảng bá trong 18 tháng. Sau khi nhóm chính thức tan rã vào ngày 6 tháng 10 năm 2019 và tổ chức buổi hòa nhạc chia tay cuối cùng vào ngày 12 tháng 10 năm 2019 tại Quảng Châu, Tử Dị tiếp tục sự nghiệp của mình với tư cách là một nghệ sĩ solo. Sự nghiệp. 2017: Trước khi tham gia Idol Producer. Tử Dị ra mắt với tư cách là thành viên của nhóm nhạc nam BBT vào ngày 17 tháng 6 năm 2017, trước khi tham gia Idol Producer. Anh ấy vẫn là thành viên của BBT cho đến thời gian gần đây, mặc dù hiện nay chủ yếu hoạt động với tư cách nghệ sĩ solo. 2018-2019: Ra mắt với Nine Percent và tan rã. Tử Dị cùng với các thành viên của BBT và các thực tập sinh khác từ Simply Joy Music, đã đại diện cho công ty trong chương trình thực tế sống còn mới của iQiyi tại Trung Quốc, Idol Producer. Các thực tập sinh nằm trong Top 9 trong tập cuối cùng sẽ ra mắt với tư cách là một phần của nhóm nhạc nam Trung Quốc tạm thời Nine Percent. Nhóm đã được thiết lập để quảng bá trong 18 tháng trước khi tan rã. Wang cuối cùng đã đứng thứ 7 trong tập cuối cùng của nó và do đó đã ra mắt với tư cách là thành viên của Nine Percent. Sau khi ra mắt với Nine Percent, Tử Dị đã tham gia chương trình thi nhảy Shake It Up của Trung Quốc cùng với những người nổi tiếng khác.  Nine Percent đã phát hành hai album phòng thu, "To the Nines" và "More Than Forever (限定的记忆)", trước khi tan rã vào ngày 6 tháng 10 năm 2019. Vào ngày 12 tháng 10 năm 2019, Nine Percent tổ chức buổi hòa nhạc chia tay cuối cùng của họ tại Quảng Châu, Trung Quốc. 2018-nay: Ra mắt với tư cách nghệ sĩ solo.
Vương Tử Dị
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807902
Vào ngày 13 tháng 7 năm 2018, Wang ra mắt với tư cách nghệ sĩ solo với nghệ danh BOOGIE, phát hành đĩa đơn đầu tiên, "AMH", đứng thứ 11 trong bảng xếp hạng Billboard ở Trung Quốc. Tử Dị sau đó đã phát hành đĩa đơn thứ hai mang tên "6AM" vào ngày 19 tháng 12 năm 2018. Vào ngày 31 tháng 5 năm 2021, Tử Dị được tiết lộ là đã thua trong vụ kiện chống lại công ty của mình, Simply Joy Music. Vụ kiện được đệ trình với lý do hãng của anh ấy đã vi phạm các điều khoản hợp đồng khác nhau. Tuy nhiên, nỗ lực chấm dứt hợp đồng của anh ấy đã bị Tòa án quận Triều Dương Bắc Kinh phán quyết là không hợp lệ.  Kể từ đó, Vương Tử Dị đã tiết lộ ý định kháng cáo quyết định này tại một tòa án riêng.
Nam Khang (nhà văn)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807904
Nam Khang Bạch Khởi (thường được biết đến là Nam Khang hay Bạch Khởi; 26 tháng 5 năm 1980 khoảng 9 đến 12 tháng 3 năm 2008) sinh ra tại tỉnh Liêu Ninh nhưng lớn lên ở vùng Nội Mông. Anh là một nhà văn mạng và là một người đồng tính nam ở Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa. Anh thường sử dụng bút danh "Bạch Khởi" trong lúc ở Tấn Giang và "Nam Khang" ở Thiên Nhai, Hồ Nam. Anh đã trở nên nổi tiếng trên nhiều diễn đàn văn học trực tuyến của Trung Quốc nhờ các tác phẩm như ""Phù Sinh Lục Ký" (浮生六記) và "Em đợi anh đến năm 35 tuổi"" (我等你到三十五歲). Đời tư. Nam Khang tên thật là Nam Khang Bạch Khởi, sinh ngày 26 tháng 5 năm 1980 tại Liêu Ninh. Năm 1999, anh đã đến Trường Sa và theo học tại Đại học Trung Nam. Tại đây, anh đã gặp người bạn trai của mình và cả hai bắt đầu hẹn hò từ năm 2002. Mối tình giữa Nam Khang và người tình kéo dài cho đến năm 2006. Trong lúc này, tác phẩm "Phù Sinh Lục Ký" được ra đời kể về câu chuyện tình giữa hai người. Đến ngày 1 tháng 1 năm 2006, người bạn trai của anh đã kết hôn với người phụ nữ khác sau 7 năm cả hai biết nhau vì không chịu được áp lực của xã hội và gia đình. Sau đó, tác phẩm "Em đợi anh đến năm 35 tuổi" được ra đời dựa trên câu chuyện tình giữa anh và bạn trai. Lúc bấy giờ, nội dung và phong cách hành văn của anh được đánh giá là khá u uất, tuyệt vọng và anh bị nghi mắc bệnh trầm cảm. Đến ngày 9 tháng 3 năm 2008, anh đã mất tích. Không lâu sau đó, thi thể của anh đã được phát hiện trên sông Tương, Trường Sa, Hồ Nam vào ngày 27 tháng 3. Nguyên nhân tử vong của anh được cho là tự tử sau cuộc hôn nhân của bạn trai và chứng trầm cảm kéo dài. Lúc này, anh qua đời ở tuổi 28. Nhiều người đã cho rằng, Nam Khang đã thực hiện được lời hứa đợi bạn trai của mình vì "vĩnh viễn không thể nào 35 tuổi cho nên em sẽ đợi anh mãi mãi". Ảnh hưởng.
Nam Khang (nhà văn)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807904
Ảnh hưởng. Sau sự ra đi của anh nhiều nghệ sĩ như Luân Tang, Ti Hạ, Tiểu Ti Mệnh, Tây Qua Jun... đã sáng tác nhiều ca khúc nhằm tưởng nhớ sự ra đi và tình cảm của anh dành cho bạn trai của mình bao gồm cả một ca khúc "Em đợi anh đến năm 35 tuổi", cùng tên với tác phẩm cuối cùng của anh. Cứ vào ngày 27 tháng 3 mỗi năm, nhiều người cảm động trước chuyện tình của anh đã đặt hoa, thắp hương cũng như cầu nguyện cho anh cạnh bên bờ sông Tương. Tác phẩm. Đến năm 2009, tài khoản của anh đã bị gỡ bỏ vì lý do "đã qua đời".
Pablo Galdames (cầu thủ bóng đá, sinh 1996)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807907
Pablo Ignacio Galdames Millán (; sinh ngày 30 tháng 12 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Chile hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B, cho mượn từ Genoa, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Chile. Sự nghiệp thi đấu. Genoa. Vào ngày 31 tháng 8 năm 2021, ngày cuối cùng của kỳ chuyển nhượng hè năm 2021, Galdames gia nhập câu lạc bộ Genoa tại Serie A theo một thỏa thuận có thời hạn đến năm 2024. Cho mượn tại Cremonese. Ngày 31 tháng 1 năm 2023, Galdames chuyển tới Cremonese theo dạng cho mượn. Đời tư. Anh là con trai của cựu cầu thủ bóng đá Chile có cùng tên Pablo Galdames, anh trai của Thomas và Benjamín, và là anh em cùng cha khác mẹ của Mathías. Anh và các anh trai của mình có quan hệ họ hàng với cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha Nerea Sánchez Millán về bên ngoại. Danh hiệu. Chile
Kristers Tobers
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807919
Kristers Tobers (sinh ngày 13 tháng 12 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Latvia hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ hoặc tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Lechia Gdańsk tại Ekstraklasa và Đội tuyển bóng đá quốc gia Latvia. Sự nghiệp thi đấu. Quốc tế. Tobers ra mắt quốc tế cho Latvia vào ngày 21 tháng 3 năm 2019, khi vào sân thay cho Artūrs Karašausks ở phút thứ 68, trong trận đấu thuộc khuôn khổ Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2020 gặp Bắc Macedonia trên sân vận động Toše Proeski Arena, kết thúc với tỷ số 3-1 nghiêng về đội chủ nhà. Câu lạc bộ. Vào tháng 1 năm 2020, anh gia nhập câu lạc bộ Lechia Gdańsk theo dạng cho mượn. Ngày 7 tháng 2 năm 2020, anh đã thi đấu ở vị trí tiền vệ trong trận đấu ra mắt đội bóng, gặp Śląsk Wrocław tại Ekstraklasa. Sau 6 lần ra sân, Lechia đã kích hoạt tùy chọn và Tobers đã ký một bản hợp đồng kéo dài đến tháng 6 năm 2023.
Imogene + Willie
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807920
Imogene + Willie là một nhãn hiệu quần jean và thường phục made in USA được thành lập bởi Matt và Carrie Eddmenson vào năm 2009 tại Nashville, Tennessee. Nhãn hiệu đã hợp tác với Alpha Industries để cho ra mắt quần áo bảo hộ lao động lấy cảm hứng từ quân đội.
Từ Hàng chân nhân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807924
Từ Hàng chân nhân () là một vị thần tiên được thờ phụng trong Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, xuất hiện trong "Lịch đại thần tiên thông giám", "Linh bảo kinh." Từ triều đại nhà Đường về sau, giới sĩ phu đưa ra chủ trương "Tam giáo hợp nhất", Từ Hàng của Đạo giáo dần được đồng hóa với Quán Thế Âm của Phật giáo. Từ Hàng chân nhân thường được dân gian Trung Quốc tạc tượng với hình tượng cưỡi rồng, quy xà, ngao (một loài rùa trong thần thoại Trung Quốc) hoặc là thuyền độc mộc. Nguồn gốc. Từ Hàng chân nhân được cho là xuất hiện sớm nhất trong ""Linh bảo kinh" của Đạo giáo, được hoàn thành trong khoảng những năm 397-402, tuy nhiên bản gốc của "Linh bảo kinh" đã bị thất truyền, "Linh bảo kinh" hiện tại không còn thấy ghi chép về Từ Hàng chân nhân. Chỉ còn được biết thông qua "Văn tuyển khảo dị", trích dẫn từ "Văn tuyển Lý Thiện chú", sách này lại trích dẫn từ "Linh bảo kinh"". "Phong thần diễn nghĩa". Tiểu thuyết "Phong thần diễn nghĩa" đời nhà Minh của Hứa Trọng Lâm gọi Từ Hàng chân nhân là Từ Hàng đạo nhân, là một trong Côn Luân 12 Tiên, sư phụ là Nguyên Thủy Thiên Tôn, lập động phủ ở động Lạc Già, núi Phổ Đà. Trong tiểu thuyết này, Từ Hàng đạo nhân về sau lại đầu phục Tây Phương giáo (tức Phật giáo) trở thành Quán Thế Âm bồ tát. Như vậy, tác giả đem Từ Hàng đạo nhân của Đạo giáo và Quan Thế Âm bồ tát của Phật giáo kết hợp thành một người, dưới sự ảnh hưởng của tiểu thuyết này, dân gian Trung Quốc thường xem Từ Hàng đạo nhân là tương đồng với Quán Thế Âm bồ tát.
ZTE Arena
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807927
ZTE Arena là một sân vận động ở Zalaegerszeg, Hungary. Sân hiện được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá và là sân nhà của Zalaegerszegi TE. Sân vận động có sức chứa 11.200 người. Lịch sử. Sau một thời gian tu sửa, vào ngày 26 tháng 3 năm 2017, sân vận động đã được khánh thành. Gábor Végh, chủ sở hữu của Zalaegerszegi TE, cho biết sau 15 năm, việc cải tạo sân vận động đã hoàn tất. Khu nhà cho câu lạc bộ, cửa hàng của ZTE và khu vực VIP cũng được cải tạo hoàn toàn.
Hệ số chọn lọc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807929
Trong di truyền học quần thể, hệ số chọn lọc thường được biểu thị bằng chữ s, là thước đo sự khác biệt về thể lực tương đối. Các hệ số chọn lọc là trung tâm của mô tả định lượng về quá trình tiến hóa, vì sự khác biệt về thể lực quyết định sự thay đổi tần số kiểu gen do chọn lọc. Định nghĩa sau đây của s thường được sử dụng. Giả sử trong một quần thể có 2 kiểu gen A và B có mức độ thích nghi tương đối formula_1 và formula_2 tương ứng. Sau đó, chọn kiểu gen A làm điểm quy chiếu, chúng ta có formula_3 và formula_4, trong đó "s" đo lường lợi thế về thể lực ("s">0) hoặc bất lợi ("s"<0) của B. Ví dụ, alen dung nạp đường lactose lan truyền từ tần số rất thấp đến tần số cao trong vòng chưa đầy 9000 năm kể từ khi canh tác với hệ số chọn lọc ước tính là 0,09-0,19 đối với quần thể Scandinavia. Mặc dù hệ số lựa chọn này có vẻ là một con số rất nhỏ, theo thời gian tiến hóa, các alen ưa thích tích lũy trong quần thể và ngày càng trở nên phổ biến hơn, có khả năng đạt đến trạng thái cố định.
Georgi Tunjov
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807940
Georgi Tunjov (sinh ngày 17 tháng 4 năm 2001) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Estonia hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ SPAL tại Serie C. Sự nghiệp thi đấu. SPAL. Tunjov bắt đầu sự nghiệp chơi bóng của mình ở câu lạc bộ Narva Trans. Tháng 3 năm 2018, anh gia nhập lò đào tạo trẻ của SPAL. Anh ra mắt đội bóng tại Serie A vào ngày 15 tháng 12 năm 2019, khi vào sân thay người ở phút thứ 73 trong trận thua 1-3 trước Roma. Ngày 13 tháng 2 năm 2020, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với SPAL, kéo dài đến ngày 30 tháng 6 năm 2023. Cho mượn tại Carrarese. Tháng 8 năm 2021, Tunjov gia nhập câu lạc bộ Carrarese theo dạng cho mượn.
Động đất Tây Bắc Chiba 2005
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807944
là trận động đất xảy ra vào lúc 16:35 (theo giờ địa phương), ngày 23 tháng 7 năm 2005. Trận động đất có cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 73 km. Không có cảnh báo sóng thần đưa ra, nhưng trận động đất đã làm 35 người bị thương, trong đó có hai trường hợp bị thương nặng.
Trần Thị Biền
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807950
Trần Thị Biền (? – 1945) là một cựu Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương phản bội. Cuộc đời. Trần Thị Biền là Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Quảng Trị. Năm 1942, được Xứ ủy Trung Kỳ điều động đi hoạt động ở tỉnh khác. Tháng 7 năm 1942, Trần Thị Biền bị bắt ở Nghệ An, bị Chánh mật thám Pháp ở Quảng Trị là Fidalenc dụ dỗ, trở thành tình nhân của Fidalenc, phản bội tổ chức, khai báo khiến nhiều cơ sở Đảng bị vỡ, nhiều người bị bắt. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách mạng Tháng Tám nổ ra ở phủ Triệu Phong, Trần Thị Biền bị người dân bắt giữ và xử bắn cùng với Tri phủ Triệu Phong tên là Cho và mật thám người Việt tên là Chước.
Stuart Little (phim)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807951
Stuart Little là một bộ phim điện ảnh hài hoạt hình máy tính/người đóng của Mỹ công chiếu năm 1999 chủ yếu dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên (1945) của E. B. White. Phim do Rob Minkoff làm đạo diễn trong tác phẩm người đóng đầu tay, kịch bản do M. Night Shyamalan và Greg Brooker đồng chắp bút, cùng sự tham gia diễn xuất của Geena Davis, Hugh Laurie và Jonathan Lipnicki, bên cạnh các phần lồng tiếng của Michael J. Fox, Nathan Lane, Chazz Palminteri, Steve Zahn, Bruno Kirby và Jennifer Tilly. "Stuart Little" có buổi trình chiếu ra mắt ở Westwood tại Nhà hát Mann Village vào ngày 5 tháng 12 năm 1999, rồi khởi chiếu tại Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 12 năm 1999 thông qua đơn vị phát hành là Columbia Pictures. Nhìn chung bộ phim nhận được những đánh giá tích cực và giành một đề cử giải Oscar cho hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất (thua "The Matrix"). Sau thành công của phim, tác phẩm còn khởi động một nhượng quyền, cho ra đời phần tiếp theo "Stuart Little 2" vào năm 2002, loạt phim truyền hình ngắn tập "Stuart Little" vào năm 2003, một phần tiếp theo khác vào năm 2005, phần phim phát hành băng đĩa "". Phim đánh dấu vai diễn điện ảnh cuối cùng của Estelle Getty. Cốt truyện. Frederick và Eleanor Little là một cặp vợ chồng hạnh phúc sống ở thành phố New York, họ định nhận một đứa làm em trai con họ là George. Khi họ đến thăm trại trẻ mồ côi, họ gặp một chú chuột hình người nhí tên là Stuart và bất chấp bị bà Keeper (giám đốc trại trẻ mồ cô) phản đối lúc đầu, họ đã lựa chọn cậu. Khi trở về nhà, Stuart phải chật vật hòa nhập; George thất vọng và từ chối nhận Stuart làm em trai mình, còn con mèo của gia đình tên Snowbell, cảm thấy ghê tởm vì giờ đây nó là thú cưng của một con chuột. Kế đó Eleanor vô tình nhốt Stuart trong máy giặt vào một buổi sáng nọ sau khi giặt xong một mẻ quần áo. Cô cứu Stuart khỏi bị nuốt quá nhiều chất tẩy rửa, song Stuart bị ốm khi ho ra bọt xà phòng. Sau đó Stuart hồi phục sau chuyến thăm của Bác sĩ Beechwood. Sau khi Stuart thừa nhận với nhà Little rằng cậu thấy có một khoảng trống trong mình, họ gặp bà Keeper để tìm hiểu một số thông tin về cha mẹ ruột của Stuart, nhưng chẳng nhận được thông báo gì do tính bảo mật.
Stuart Little (phim)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807951
Thời gian trôi qua, George và Stuart bắt đầu gắn bó sau khi Stuart khuyến khích cậu hoàn thành việc chế tạo chiếc thuyền mô hình cho cuộc đua sắp tới. Trong khi đó, Snowbell và cậu bạn Monty tổ chức một cuộc gặp với một con mèo hoang trong hẻm tên là Smokey và ấp ủ kế hoạch đuổi Stuart ra khỏi nhà. Vào ngày diễn ra cuộc đua, Stuart vô tình làm hỏng điều khiển từ xa của George, làm thuyền của cậu không hoạt động được. Cậu nhảy vào và tự điều khiển nó, suýt tránh được một vụ va chạm trên mặt nước và sau đó giành chiến thắng trong cuộc đua. Tối hôm ấy khi đang ăn mừng, một cặp chuột đến nhà làm gián đoạn bữa tối; họ tự giới thiệu mình là Reggie và Camille Stout, đồng thời tự nhận là cha mẹ ruột của Stuart; hai chú chuột buộc phải bỏ cậu vì nghèo khó. Nhà Little miễn cưỡng đồng ý cho phép Stuart rời đi cùng với Stouts, để lại George một mình. Trại trẻ mồ côi liên lạc với nhà Little để hỏi thăm tình hình của Stuart ra sao, và khi Frederick và Eleanor giải thích rằng cậu đã về nhà với cha mẹ ruột của mình, bà Keeper thông báo với họ rằng cha mẹ ruột của Stuart đã mất nhiều năm trước khi một kim tự tháp thực phẩm đóng hộp rơi trúng họ trong siêu thị, do đó cậu mới được đưa đến trại mồ côi. Sau khi nhận ra Stuart đã bị bắt cóc (một âm mưu do Snowbell và những con mèo khác bày ra), gia đình tổ chức một hội tìm kiếm lớn quanh thành phố. Vì lo sợ rằng việc tham gia vụ lừa đảo sẽ bị bại lộ, Snowbell thông báo cho Smokey rằng nhà Little đã biết được về gia đình Stout, vì vậy thay vào đó Smokey quyết định phải giết Stuart. Vô cùng hối hận vì gây ra nỗi buồn quá lớn của Stuart, Reggie và Camille kể cho cậu biết sự thật và lệnh cho cậu ta chạy trốn; cậu rất vui khi biết mình không phải là Stout và quay trở lại nhà Little. Trên đường đi qua công viên, cậu bị Smokey và hội của y phục kích song đã trốn được chúng bằng cách chui vào một cái cống. Cậu về đến nhà, được Snowbell ghen tỵ chào đón; chú mèo nói dối và thuyết phục Stuart rằng gia đình đang ăn mừng việc vắng cậu.
Stuart Little (phim)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807951
Snowbell sử dụng khuôn mặt của Stuart bị cắt ra từ bức chân dung gia đình để "chứng minh" quan điểm của mình (thực ra ảnh khuôn mặt cậu bị cắt ra để phục vụ in ảnh cho các áp phích tìm kiếm cậu). Quá đau lòng nên Stuart bỏ đi. Tại Công viên Trung tâm, cậu dừng chân nghỉ qua đêm trong một tổ chim, và rồi Snowbell vì hối hận mà tìm đến cậu, thừa nhận cậu ta đã nói dối và động viên cậu trở về nhà. Khi cả hai phải đối mặt với những con mèo khác, Snowbell từ chối giao Stuart và làm những con mèo đuổi theo. Cuối cùng, chúng dồn Stuart khi cậu bị mắc trên cành cây trước một ao nước lạnh giá; Snowbell cứu cậu bằng cách bẻ gãy cành cây mà lũ mèo đang trèo, làm hội của Monty rơi thẳng xuống cái ao bên dưới, rồi chúng mau chóng bơi ra khỏi đó. Smokey lẻn đến phía sau Snowbell để giết cậu ta nhưng trước khi anh ta có thể làm như vậy, Stuart đã can thiệp bằng cách thả một nhánh cây đập vào mặt Smokey, làm cho y cũng rớt xuống ao. Smokey bơi và trèo ra khỏi ao, tức giận và bẽ mặt khi bị "con chuột và chú mèo cưng của cậu" đánh bại, đồng thời tự hỏi chuyện gì có thể tồi tệ hơn. Câu hỏi của y được giải đáp khi y bất ngờ hai con chó hoang tấn công, chúng có lẽ đã lấy mạng y. Snowbell đưa Stuart về nhà, ngay khi nhà Little chuẩn bị đi ngủ. George nhìn thấy Stuart qua cửa sổ trước và mọi người đoàn tụ trong niềm hạnh phúc. Khi Frederick hỏi làm sao mà cậu quay lại được, cậu kể với họ rằng cậu nợ Snowbell mạng sống của mình, chú mèo cuối cùng đã nhận ra Stuart thực sự là gia đình mình. Sản xuất. Phim bắt đầu ghi hình vào ngày 3 tháng 8 năm 1998 và đóng máy vào ngày 11 tháng 11. Bức tranh thất lạc vô tình được sử dụng trên phim trường. Một trong những bức tranh được sử dụng làm đạo cụ cho ngôi nhà của nhà Little là bức tranh "Alvó nő fekete vázával" của họa sĩ tiên phong người Hungary Róbert Berény từ thập niên 1920, bị xem là đã thất lạc từ lâu. Một nhà thiết kế hiện trường cho bộ phim đã mua bức tranh tại một cửa hàng đồ cổ ở Pasadena, California với giá 500 đô la Mỹ để sử dụng trong phim mà không biết về ý nghĩa của nó.
Stuart Little (phim)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807951
Năm 2009, nhà sử học nghệ thuật Gergely Barki (trong lúc xem "Stuart Little" trên truyền hình cùng con gái) đã chú ý đến bức tranh và sau khi liên hệ với hãng phim thì mới có thể lần ra tung tích của nó. Năm 2014, chủ nhân bức họa đã bán tác phẩm trong một cuộc đấu giá với giá 229.500 euro. Đón nhận. Doanh thu phòng vé. "Stuart Little" được công chiếu tại các rạp vào ngày 17 tháng 12 năm 1999. Ở dịp cuối tuần khởi chiếu, "Stuart Little" đã thu về 15 triệu đô la Mỹ, chiếm ngôi đầu phòng vé của "Toy Story 2". Tác phẩm tụt xuống vị trí thứ 2 vào cuối tuần thứ hai, song quay lại vị trí đầu bảng phòng vé vào dịp cuối tuần thứ ba với 16 triệu đô la Mỹ. Theo Box Office Mojo, tổng doanh thu chung cuộc của phim tại Hoa Kỳ-Canada là 140 triệu đô la Mỹ và thu về 160,1 triệu đô la Mỹ tại phòng vé quốc tế, qua đó đạt tổng doanh thu ước tính là 300 triệu đô la Mỹ trên toàn thế giới. Đánh giá chuyên môn. Trên Rotten Tomatoes, 67% các phê bình đánh giá bộ phim tích cực dựa trên 97 phản hồi, giúp phim đạt điểm trung bình là 6,4/10. Các chuyên gia trên trang web nhất trí: "Các nhà phê bình cho rằng "Stuart Little" rất hấp dẫn thiếu nhi và người lớn vì tính hài hước và hiệu ứng hình ảnh của phim." Trên trang Metacritic, bộ phim đạt số điểm 61/100 từ 32 bài đánh giá, thể hiện các bài đánh giá "nhìn chung là ổn". Khán giả theo cuộc thăm dò của CinemaScore thì chấm phim điểm trung bình là "A-" trên thang điểm từ A+ đến F. Jesus Freak Hideout nhận xét rằng "từ đầu tới cuối, Stuart Little là một bộ phim gia đình gần như hoàn hảo", còn Stephen Holden của nhật báo "The New York Times" cho rằng "yếu tố duy nhất không hoàn toàn hợp lý với phần còn lại của phim là nhân vật Stuart bằng kỹ thuật số không tốt về mặt hình ảnh." Băng đĩa tại gia. "Stuart Little" được Columbia TriStar Home Video phát hành trên VHS và DVD tại Hoa Kỳ vào ngày 18 tháng 4 năm 2000, và tại Vương quốc Anh vào ngày 27 tháng 11 năm 2000. Sau đó, phim được Columbia TriStar Home Entertainment tái phát hành bản đặc biệt vào ngày 21 tháng 5 năm 2002. "Stuart Little" và "Stuart Little 2" được Sony Pictures Home Entertainment phát hành combo trên định dạng UMD của Sony PSP vào ngày 3 tháng 1 năm 2006 và trên băng Blu-ray vào ngày 28 tháng 6 năm 2011. Nhạc phim.
Stuart Little (phim)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807951
Nhạc phim. Album soundtrack của bộ phim mang tên "Stuart Little: Music from and Inspired by the Motion Picture" được Motown và Universal Records phát hành vào ngày 30 tháng 11 năm 1999, trên đĩa CD và băng cassette. Các bản nhạc in đậm không xuất hiện trong phim.
Robert Berény
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807952
Róbert Berény (18 tháng 3 năm 1887 – 10 tháng 9 năm 1953) là một họa sĩ người Hungary, nhân vật thuộc nhóm danh họa "avant-garde" được gọi là "A Nyolcak". Nhóm này đã giới thiệu chủ nghĩa lập thể và chủ nghĩa biểu hiện vào nghệ thuật Hungary vào đầu thế kỷ XX trước Thế chiến thứ nhất. Ông từng theo học và trưng bày ở Paris khi còn trẻ và được xem là một trong những nghệ sĩ theo trường phái "dã thú" của Hungary"." Thân thế và giáo dục. Róbert Berény sinh ra ở Budapest năm 1887. Hồi năm 17 tuổi, năm 1904, ông theo học nghệ sĩ Tivadar Zemplényi trong nhiều tháng trước khi chuyển đến học tại Académie Julian ở Paris. Trong thời gian học ở Paris, Berény đặc biệt chịu ảnh hưởng bởi phong cách nghệ thuật của Paul Cézanne. Ông còn áp dụng một số cách sử dụng màu sắc của phong trào dã thú, và trưng bày tại Salon d'Automne cùng với các nghệ sĩ người Pháp có chung trường phái này. Sự nghiệp. Berény nổi danh nhất với hình thức chủ nghĩa biểu hiện và chủ nghĩa lập thể mà ông đã phát triển cùng với nhóm "avant-garde" có tên là A Nyolcak; họ cùng nhau tổ chức buổi trưng bày đầu tiên tại Budapest vào năm 1909. Họ bao gồm thủ lĩnh Károly Kernstok, Lajos Tihanyi, Béla Czóbel, Dezső Czigány, Ödön Márffy, Dezső Orbán và Bertalan Pór. Ông mang đến cho họ những ảnh hưởng của Pháp từ thời ông học ở Paris. Ở buổi triển lãm kế tiếp vào năm 1911, nhóm tự xưng tên là "A Nyocak". Về cơ bản, họ đã hình thành cốt lõi thể nghiệm chủ nghĩa hiện đại, đồng thời là một phần của các trào lưu trí thức cấp tiến trong âm nhạc và văn học Hungary. Tác phẩm quan trọng nhất của Berény trong thời kỳ đầu này là bức chân dung mà ông vẽ nhà soạn nhạc Béla Bartók (1913). Năm 1919, Berény tham gia vào đời sống nghệ thuật của Cộng hòa Dân chủ Hungary ngắn ngủi, và là trưởng khoa hội họa của Cục Nghệ thuật. Sau khi nền cộng hòa sụp đổ vào năm ấy, Berény di cư đến Berlin cùng với nhiều nghệ sĩ và nhà văn Hungary khác. Ông sống và làm việc ở đó trong vài năm, tiếp tục chú trọng vào chủ nghĩa lập thể và chủ nghĩa biểu hiện. Mãi đến năm 1926 ông mới trở lại Hungary.
Robert Berény
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807952
Mãi đến năm 1926 ông mới trở lại Hungary. Trong năm cuối của Thế chiến thứ hai, xưởng vẽ của Berény bị phá hủy cùng với nhiều tác phẩm của ông. Sau chiến tranh, dưới chính quyền cộng sản, ông trở thành giáo viên tại nơi ngày nay là Đại học Mỹ thuật Hungary ở Budapest. Ông mất năm 1953. Tác phẩm được tái phát hiện. Một bức tranh của Berény có nhan đề "Alvó nő fekete vázával" () vốn bị thất lạc từ năm 1928 song đã được nhà sử học nghệ thuật Gergely Barki tình cờ phát hiện lại vào năm 2009 khi xem bộ phim "Stuart Little" (1999) của Mỹ cùng với con gái ông, trong đó bức tranh được dùng làm đạo cụ. Một trợ lý thiết kế hiện trường đã mua bức tranh với giá rẻ từ một cửa hàng đồ cổ ở California để sử dụng trong phim và rồi cất nó trong nhà của mình sau khi quá trình sản xuất phim kết thúc. Bức tranh đã được bán đấu giá tại Budapest vào ngày 13 tháng 12 năm 2014 với giá 229.500 euro.
Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 1995
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807953
Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 1995 được tổ chức vào năm 1996 là lần thứ 3 Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam được trao thưởng độc lập sau khi tách khỏi Liên hoan phim Việt Nam. Tổng quan. Giải thưởng điện ảnh lần 3 của Hội Điện ảnh Việt Nam giành cho các tác phẩm và công trình nghiên cứu xuất sắc trong lĩnh vực điện ảnh. Trong lần trao thưởng này, giải thưởng cho mỗi thể loại bao gồm phim truyện, phim tài liệu và phim hoạt hình đều được chia thành 2 hạng mục giải thưởng cho phim nhựa và phim video. Có tất cả 32 giải thưởng đã được trao, trong đó có 8 giải A, 18 giải B, 5 giải khuyến khích và 1 giải giành cho phim nhựa đầu tay. Thể loại phim truyện và phim tài liệu đều có giải A và B cho mỗi hạng mục phim nhựa và phim video. Riêng thể loại phim hoạt hình không có giải A nào, chỉ có 3 giải B cho phim hoạt hình nhựa và duy nhất 1 giải khuyến khích cho phim hoạt hình video.
Nadezhda của Bulgaria
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807954
Nadezhda của Bulgaria (Tiếng Bulgaria: "Княгиня Надежда"; tên đầy đủ là Nadezhda Klementina Mariya Piya Mazhella (Надежда Клементина Мария Пия Мажелла); Tiếng Đức: "Nadeschda von Bulgarien"; 30 tháng 1 năm 1899 – 15 tháng 2 năm 1958) là một thành viên của Vương thất Bulgaria. Tiểu sử. Nadezhda sinh ra ở Sofia, là con gái út của Ferdinand I của Bulgaria và người vợ đầu tiên là Maria Luisa của Parma, người đã qua đời khi sinh Madezhhda. Cùng với chị gái là Vương nữ Evdokiya, Nadezhda được giáo dục dưới sự chỉ dẫn của mẹ kế là Công chúa Eleonore xứ Reuß-Köstritz. Vương nữ Nadezhda kết hôn vào ngày 24 tháng 1 năm 1924 với Albrecht Eugen của Württemberg con trai thứ hai của Albrecht, Công tước của Württemberg và Margarete Sophie của Áo, tại Bad Mergentheim, Đức. Hai vợ chồng có với nhau năm người con: Vương nữ Nadezhda qua đời ở tuổi 59 tại Stuttgart, Đức.
Evdokiya của Bulgaria
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807955
Evdokiya của Bulgaria (tiếng Bulgaria: "Княгиня Евдокия"; tên đầy đủ là Evdokiya Augusta Filipina Klementina Mariya; 5 tháng 1 năm 1898 – 4 tháng 10 năm 1985) là một thành viên của Vương thất Bulgaria cũng như là một người em gái đầy yêu thương và là người bạn tâm giao của Quốc vương Boris III của Bulgaria. Tiểu sử. Evdokiya sinh ngày 5 tháng 1 năm 1898 tại Sofia, là người con thứ ba và là con gái đầu lòng của Quốc vương Ferdinand I của Bulgaria (bấy giờ là Thân vương của Bulgaria) và người vợ đầu tiên là Maria Loisa của Parma. Evdokiya có hai người anh trai và một em gái. Khi được 1 tuổi, mẹ của Evdokiya đã qua đời khi sinh em gái là Nadezhda. Ngay từ khi còn nhỏ, Evdokiya đã yêu thích đến mỹ thuật. Cùng với em gái Nadezhda, hai chị em trở thành những người bạn tâm giao của anh trai Boris III. Vương nữ Evdokiya cũng không bao giờ kết hôn, mặc dù có những tin đồn rằng Evdokya muốn gả cho một người quý ông gốc Bulgaria, điều mà vương thất không thể được chấp nhận lúc bấy giờ. Evdokiya đã cống hiến cuộc đời mình cho Bulgaria và đảm nhiệm vai trò của một Đệ nhất phu nhân cho đến khi anh trai Boris III kết hôn với Vương nữ Giovanna của Ý thuộc Vương tộc Savoia . Sau này, Evdokiya định cư ở Đức và sống gần với em gái Nadezhda. vương nữ qua đời vào ngày 4 tháng 10 năm 1985, hưởng thọ 87 tuổi. Trong cuốn sách "Giovanna of Bulgaria: The Queen of Charity", tác giả đã viết rằng:"…Eudoxie had an exceptional personality, with a quick mind, alert, watchful eyes, an uncanny feeling for people and events. Of all of King Ferdinand's children she is said to have inherited most of his typical character traits. Usually kind and witty, she could be sharp, critical and even sarcastic towards those she thought deserved it. Her authoritarian behaviour towards people contrasted with her full and utter devotion to her brother. She spent the happiest and most difficult times for the crown at his side…"
Anadara cornea
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807981
Sò lông, tên khoa học Anadara cornea, là một loài sò trong họ Sò. Chúng được Lovell Augustus Reeve mô tả lần đầu năm 1844. Tại Việt Nam, loài này thường được tìm thấy ở vùng ven biển Đông Nam Bộ.
Armandas Kučys
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807988
Armandas Kučys (sinh ngày 27 tháng 2 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá người Litva. Anh hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Oskarshamns AIK ở Thụy Điển, cho mượn từ U-19 Kalmar FF, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Litva. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Anh ra mắt quốc tế cho Litva vào ngày 15 tháng 11 năm 2021 trong trận giao hữu gặp Kuwait. Đời tư. Cha của anh là Aurimas Kučys cũng là một cựu cầu thủ bóng đá.
Sự cố USS Liberty
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807992
Sự cố USS "Liberty" là một cuộc tấn công của máy bay chiến đấu phản lực tàu ngư lôi động cơ của Không quân Israel nằm vào tàu nghiên cứu kỹ thuật (tàu do thám) của Hải quân Hoa Kỳ, , ngày 8 tháng 6 năm 1967, trong chiến tranh sáu ngày. Cuộc tấn công kết hợp trên không và trên biển đã giết chết 34 thành viên thủy thủ đoàn (sĩ quan hải quân, thủy thủ, hai lính thủy đánh bộ và một nhân viên NSA dân sự), làm bị thương 171 thành viên thủy thủ đoàn và làm hư hỏng nặng con tàu. Vào thời điểm đó, con tàu đang ở vùng biển quốc tế phía bắc Bán đảo Sinai, khoảng 25,5 hải lý về phia tây bắc thành phố Arish của Ai Cập. Israel xin lỗi về vụ tấn công, nói rằng tàu USS Liberty bị tấn công do nhầm lẫn với tàu Ai Cập. Cả Israel và Chính phủ liên bang Hoa Kỳ đã tiến hành điều tra và đưa ra các báo cáo kết luận vụ tấn công là do nhầm lẫn do Israel nhầm lẫn về danh tính của con tàu. Những người khác, bao gồm cả những người sống sót sau vụ tấn công, đã bác bỏ những kết luận này và cho rằng vụ tấn công là có chủ ý. Vào tháng 5 năm 1968, chính phủ Israel đã trả 3,32 triệu USD (tương đương với 28 triệu USD năm 2022 cho chính phủ Mỹ để bồi thường cho các gia đình của 32 người bị thiệt mạng trong vụ tấn công. Vào tháng 3 năm 1969, Israel đã trả thêm 3,57 triệu USD (tương đương 28,5 triệu USD năm 2022) cho những người bị thương. Vào tháng 12 năm 1980, Israel đã đồng ý trả 6 triệu USD (tương đương 21,3 triệu USD năm 2022) là giải quyết cuối cùng cho thiệt hại vật chất đối với tàu "Liberty" cộng với 13 năm tiền lãi.
Lata Tondon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807993
Lata Tondon (sinh ngày 15 tháng 4 năm 1980) là một đầu bếp người Ấn Độ đến từ thành phố Rewa thuộc bang Madhya Pradesh, Ấn Độ. Bà đã giành Kỷ lục Guinness cho cuộc thi nấu ăn marathon. Bà giành được kỷ lục vào tháng 9 năm 2019 sau khi nấu ăn không ngừng nghỉ trong 87 giờ 45 phút để hoàn thành phần cuộc thi nấu ăn marathon (nấu ăn liên tục trong nhiều giờ nhất). Xuất thân. Lata Tondon sinh ngày 15 tháng 4 năm 1980 tại thành phố Rewa thuộc vùng đông bắc bang Madhya Pradesh, Ấn Độ. Tuổi thơ của bà chỉ xoay quanh việc nấu nướng. Khi còn trẻ, Tondon được truyền nguồn cảm hứng nấu ăn từ ông nội và bắt đầu từ đó. Theo "Hindustan Times", Tondon cho biết rằng mẹ và mẹ chồng bà đã góp phần rất lớn cho sự nghiệp đầu bếp của bà bằng cách dạy cách nấu ăn. Tondon đã theo học tại Học viện Đầu bếp London, Vương quốc Anh. Bà cũng từng làm việc với đầu bếp người Pháp Claude Bosi và đầu bếp người Mỹ Jun Tanaka. Sự nghiệp. Vào năm 2018, Tondon đã dành chiến thắng cuộc thi đầu bếp Ấn Độ Quốc tế. Năm 2019, bà đã giành được Kỷ lục Guinness cho cuộc thi nấu ăn marathon. Bà là người phụ nữ đầu tiên đạt Kỷ lục Guinness cho cuộc thi nấu ăn marathon. Không chỉ có vậy, Tondon cũng là nữ đầu bếp đầu tiên ghi tên vào sách Kỷ lục Guinness. Lonton đã nấu ăn không ngừng nghỉ trong vòng 87 giờ 45 phút. Bà đã nấu hơn 1,600 kg ngũ cốc, đã làm 400 vada pav, 250 sandwich và một loạt các món ăn khác. Thức ăn được phục vụ cho hơn 20,000 người, bao gồm nhiều du khách, trẻ em từ các trại trẻ mồ côi, trường khiếm thị và người già từ các viện dưỡng lão. Đầu bếp và nhà bảo vệ môi trường đã sử dụng nền tảng này để khuyến khích mọi người trồng hơn 17,000 cây non. Tondon đã làm việc tại Ấn Độ và Vương Quốc Anh. Ngoài ra, bà cũng là diễn giả của TEDx. Tondon quyết tâm lấy các nguyên liệu Ấn Độ siêu giàu chất độc lạ và tạo ra các món ăn thay đổi nhận thức hạn chế về ẩm thực Ấn Độ. Không chỉ có vậy, Tondon còn cố gắng đạt được mục tiêu không lãng phí thực phẩm và thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh. Danh dự.
Lata Tondon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807993
Danh dự. Lata Tondon đã dành được nhiều giải thưởng khác nhau, trong đó có Sách kỷ lục Ấn Độ, Sách kỷ lục châu Á, Sách kỷ lục Đông Dương, sách kỷ lục Việt Nam và Sách kỷ lục Nepal.
Lang Rangler
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807995
Lang Rangler (ラング·ラングラー, Rangu Rangurā) (phiên âm: Lang Rang-lơ) là nhân vật phản diện phụ trong phần thứ sáu Stone Ocean, thuộc loạt manga và anime JoJo's Bizarre Adventure. Lang Rangler là một tù nhân trong nhà tù Green Dolphin Street. Enrico Pucci tặng anh ta một Bóng quỷ mạnh và sai đến ám sát Jolyne Cujoh, nhằm ngăn Bóng quỷ của Jotaro Kujo chuyển tới tổ chức Speedwagon. Ngoại hình. Lang Rangler có chiều cao trung bình, dáng người mảnh khảnh. Không thể thấy rõ khuôn mặt, do anh ta mặc một bộ quần áo đặc biệt. Bộ quần áo liền thân này được trang bị vũ khí và giác hút, giúp Lang di chuyển và chiến đấu trong môi trường không trọng lực. Đôi chân không mang giày, nhưng lại buộc với đôi giày bằng sợi dây giày, để treo lủng lẳng phía sau. Có thể đây là chi tiết mang tính thời trang. Tính cách. Lang Rangler là người khá thông minh, luôn suy nghĩ cẩn thận trước một nhiệm vụ. Anh ta biết khi nào nên tấn công trực tiếp, khi nào nên rút lui. Với sức mạnh xóa bỏ trọng lực, Lang trở nên tương đối nguy hiểm và khó bị đánh bại. Điểm yếu là Lang là chưa kiểm soát được cảm xúc, dễ nổi nóng. Trong trận chiến với Jolyne Cujoh, anh đã rất tức giận khi nhận ra sức mạnh tiềm tàng của Stone Ocean. Trong trận chiến với Jolyne Cujoh và Weather Report, Lang Rangler bộc lộ sự tham vọng. Khi nhận ra năng lực của mình còn vượt qua cả Pucci, anh ta đã tính tới việc tiêu diệt Pucci. Tiểu sử. Lang Rangler từng phạm tội khi còn nhỏ, anh ta từng đâm một nữ giáo viên 69 nhát dao. Khi trưởng thành, Lang đi cướp tàu chở dầu và bị tống vào nhà tù Green Dolphin Street, mức án 5 năm. Tại thời điểm nào đó trong tù, Lang được Pucci tặng cho năng lực Bóng quỷ. Trong Stone Ocean. Pucci cử Lang Rangler đi ám sát Jolyne Cujoh, để ngăn cô ta chuyển Bóng quỷ Star Platinum cho tổ chức Speedwagon. Lang không ngờ Jolyne có sự hỗ trợ của Weather Report. Tuy vậy, Lang vẫn bình tĩnh thay đổi chiến thuật, rút lui, đặt bẫy và áp đảo được cả hai. Cuối cùng, Lang vẫn thất bại do Weather Report hi sinh thân mình để Jolyne có lợi thế ra đòn trong chớp nhoáng. Siêu năng lực. Bóng quỷ. Jumpin' Jack Flash. Jumpin' Jack Flash là Bóng quỷ thuộc nhóm dùng năng lực để hỗ trợ.
Lang Rangler
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807995
Bất cứ ai bị Lang nhổ nước bọt vào người đều sẽ rơi vào trạng thái không trọng lượng, giới hạn trong một khoảng không gian xung quanh. Năng lực này thực sự rất nguy hiểm, do con người không thể tồn tại trong môi trường vô trọng lực quá lâu. Điểm yếu của Jumpin' Jack Flash là nếu được chuẩn bị quần áo, vũ khí, đồ bảo hộ... trong môi trường vô trọng lực thì chắc chắn không sợ năng lực này. Chế tạo máy móc. Lang Rangler khá thông minh và giỏi chế tạo. Anh ta tự thiết kế cho mình một bộ quần áo phù hợp với năng lực Bóng quỷ, đồng thời có gắn các máy li tâm để bắn ra các vật nhỏ. Trong môi trường vô trọng lực, bất cứ sự ma sát nào cũng có thể tạo ra một vụ nổ, và một khi đã bị thương, vết thương sẽ không thể đông lại, gây ra tình trạng mất máu liên tục. Tình trạng mất dưỡng khí cũng do đó mà xuất hiện.
Câu lạc bộ bóng đá Hải Phòng mùa bóng 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807996
Mùa bóng 2023 là mùa giải thứ 41 trong lịch sử của câu lạc bộ bóng đá Hải Phòng và là mùa thứ 16 liên tiếp đội bóng thi đấu tại V.League 1, giải bóng đá cấp độ cao nhất trong hệ thống giải đấu của bóng đá Việt Nam. Tiền mùa giải và giao hữu.   Để chuẩn bị cho mùa giải 2023, Hải Phòng đã tham dự Giải giao hữu Tứ hùng LienVietPostBank Cup diễn ra từ ngày 12 đến 16 tháng 1 trên sân vận động Hàng Đẫy. Giải đấu quy tụ 4 đội bóng gồm Hà Nội, Viettel, Công an Hà Nội và Hải Phòng, thi đấu theo hình thức vòng tròn tính điểm. Câu lạc bộ giành hạng tư chung cuộc. Mùa giải. Giải vô địch quốc gia. Lịch thi đấu Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2023 được công bố vào ngày 26 tháng 12 năm 2022. Thống kê mùa giải. Thống kê đội hình. ! colspan=14 style="background:red; color:; text-align:center"| Thủ môn ! colspan=14 style="background:red; color:; text-align:center"| Hậu vệ ! colspan=14 style="background:red; color:; text-align:center"| Tiền vệ ! colspan=14 style="background:red; color:; text-align:center"| Tiền đạo ! colspan=14 style=background:#dcdcdc; text-align:center| Cầu thủ chuyển nhượng giữa mùa giải
Động đất Shimane 2018
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808005
là trận động đất xảy ra vào lúc 1:32 (theo giờ địa phương), ngày 9 tháng 4 năm 2018. Trận động đất có cường độ 6,1 richter (theo JMA), tâm chấn độ sâu khoảng 12 km. Thang địa chấn mức 5+ đã được quan sát thấy ở Ōda, Shimane. Không có cảnh báo sóng thần cho trận động đất này. Hậu quả trận động đất làm 9 người bị thương, trong đó có hai trường hợp bị thương nặng, 7 trường hợp bị thương nhẹ.
Cổ sinh thái học
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808007
Cổ sinh thái học (, cũng được đánh vần là "palaeoecology") là khoa học nghiên cứu về sự tương tác giữa các sinh vật hoặc tương tác giữa các sinh vật và môi trường của chúng trong các khoảng thời gian địa chất. Là một ngành học, cổ sinh thái học tương tác, phụ thuộc và cung cấp thông tin cho nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm cổ sinh vật học, sinh thái học, khí hậu học và sinh học. Cổ sinh thái học xuất hiện từ lĩnh vực cổ sinh vật học vào những năm 1950, mặc dù các nhà cổ sinh vật học đã tiến hành các nghiên cứu cổ sinh thái học kể từ khi tạo ra cổ sinh vật học vào những năm 1700 và 1800. Kết hợp phương pháp điều tra tìm kiếm hóa thạch với phương pháp lý thuyết của Charles Darwin và Alexander von Humboldt, cổ sinh thái học bắt đầu khi các nhà cổ sinh vật học bắt đầu kiểm tra tất cả các sinh vật cổ đại mà họ phát hiện cùng với môi trường tái tạo nơi chúng sinh sống. Mô tả trực quan về các quần xã sinh vật sống ở biển và trên cạn trong quá khứ đã được coi là một hình thức cổ sinh thái học ban đầu. Thuật ngữ "cổ sinh thái học" được đặt ra bởi Frederic Clements vào năm 1916. Các nguyên tắc chính. Mặc dù các chức năng và mối quan hệ của các sinh vật hóa thạch có thể không được quan sát trực tiếp (như trong sinh thái học), các nhà khoa học có thể mô tả và phân tích cả cá thể và quần xã sinh vật theo thời gian. Để làm như vậy, các nhà cổ sinh vật học đưa ra các giả định sau: Kỷ Đệ Tứ. Do thời kỳ kỷ Đệ tứ được thể hiện rõ ràng trong các bản ghi có độ phân giải cao về mặt địa lý và thời gian cao, nên nhiều giả thuyết phát sinh từ các nghiên cứu sinh thái về môi trường hiện đại có thể được kiểm tra ở quy mô ngàn năm bằng cách sử dụng dữ liệu cổ sinh thái học. Ngoài ra, những nghiên cứu như vậy cung cấp các cơ sở lịch sử (trước khi công nghiệp hóa) về thành phần loài và chế độ xáo trộn để phục hồi hệ sinh thái hoặc cung cấp các kiến thức để hiểu động lực của sự thay đổi hệ sinh thái qua các thời kỳ thay đổi khí hậu lớn. Các nỗ lực nghiên cứu cổ sinh thái học được sử dụng để cung cấp thông tin cho bảo tồn, quản lý và phục hồi.
Cổ sinh thái học
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808007
Đặc biệt, cổ sinh thái tập trung vào lửa là một lĩnh vực nghiên cứu cung cấp thông tin cho các nhà quản lý đất đai đang tìm cách khôi phục các chế độ cháy của hệ sinh thái.
Belz (tỉnh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808010
Tỉnh Bełz (, ) là một đơn vị hành chính và chính quyền địa phương tại Ba Lan từ năm 1462 đến Phân chia Ba Lan năm 1772–1795. Cùng với tỉnh Ruthenia, khu vực là một phần của Ruthenia Đỏ, miền Tiểu Ba Lan của Vương quốc Ba Lan. Tỉnh được thành lập bởi Vua Kazimierz IV Jagiellończyk, và có bốn thượng nghị sĩ trong Thượng viện của Thịnh vượng chung (voivode và castellan của Belz, cùng castellan của Lubaczow và Busk). Lịch sử. Tỉnh Bełz được thành lập vào năm 1462 từ các lãnh thổ của Công quốc Belz, sau khi Công quốc bị Lãnh địa hoàng gia Vương quốc Ba Lan sáp nhập. cho phép em gái của mình là Alexandra của Litva kết hôn với Siemowit IV, công tước xứ Masovia, trao cho cô ấy Vùng đất Belz làm của hồi môn. Tỉnh vẫn nằm trong tay các con trai và cháu trai của Siemowit IV. Các cháu trai chết mà không con vào đầu năm 1462, và Vùng đất Belz trở thành tài sản của Hoàng gia Vương quốc Ba Lan, dưới thời trị vì của Vua Kazimierz IV Jagiellończyk. Tỉnh Belz mới được thành lập nhỏ hơn một chút so với tỉnh Lublin với kích thước xấp xỉ Vùng đất Chelm. Tỉnh được tạo thành từ ba huyện: Lubaczow, Horodlo và Szewlock, vào năm 1767, nó được chia thành các huyện Belz, Grabowiec, Horodlo, Lubaczow và Vùng đất Busk. Tại các sejmik địa phương ở Belz, năm đại biểu của Sejm đã được bầu và tỉnh có bốn starosta: Belz, Busk, Grabowiec và Horodlo (...) Vào thế kỷ 17, đây là tỉnh nhỏ trong số các tỉnh của vùng Tiểu Ba Lan, có 483 ngôi làng và 33 thị trấn (...) Sau lần phân chia Ba Lan đầu tiên (1772), gần như toàn bộ tỉnh bị Đế quốc Habsburg sáp nhập, là một phần của Galicia. Những gì còn lại thuộc Ba Lan là các thị trấn Dubienka và Korytnica, cùng với một số ngôi làng (...) Năm 1793, tỉnh không còn tồn tại, vì sau khi phân chia Ba Lan thứ hai, các phần còn lại của tỉnh đã bị sáp nhập vào tỉnh Chelm và tỉnh Volodymyr-Volynskyi mới được thành lập". Khu vực này tiếp nhận một lượng lớn szlachta (quý tộc) từ Mazovia, Tiểu Ba Lan và Đại Ba Lan. Vào năm 1570–1580, 79% gia đình quý tộc địa phương (trong số những gia đình có nguồn gốc đã biết) là người gốc Ba Lan, trong khi tỷ lệ gia đình quý tộc Ruthenia và Wallachia lần lượt là 15% và 4%. Các tầng lớp nông dân của dân số vẫn ít bị ảnh hưởng nhất bởi các cuộc di cư từ phía tây. Chính quyền.
Belz (tỉnh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808010
Chính quyền. Trị sở thống đốc tỉnh (Wojewoda): Hội đồng khu vực (sejmik generalny) của toàn bộ các vùng đất Ruthenia: Trị sở hội đồng khu vực (sejmik):
GAZ-3351
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808014
GAZ-3351 là một xe kéo bánh xích quân sự của Liên bang Nga, chuyên nhiệm vụ vận tải trên địa hình không thuận lợi như môi trường tuyết và đầm lầy. Phương tiện này bắt đầu phục vụ trong Quân đội Nga từ năm 2012. Đây thực chất là một phiên bản của xe hai thân Bandvagn 206 của Thụy Điển mà công ty chế tạo ở Thụy Điển là Hägglunds đã cấp giấy phép sản xuất tại Nga cho Tập đoàn GAZ. Thân trước thực chất là một đầu kéo bánh xích. Thân sau được cấu hình tùy theo mục đích sử dụng khác nhau, từ chở quân tới chở hàng và gắn các vũ khí quân sự. Xe được GAZ sản xuất tại nhà máy sản xuất máy kéo Zavolzhsky, sử dụng động cơ turbo diesel 16 xi lanh Steyr M16 và hộp số tự động Allison, có mức độ nội địa hóa 60-65% (năm 2019). Quân đội Nga trang bị những xe GAZ-3351 cho các lữ đoàn Bắc Cực của mình.
Markus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808027
Markus có thể đề cập đến:
Marko
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808028
Marko có thể đề cập đến:
Cameron Congreve
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808031
Cameron Mark Congreve (sinh ngày 24 tháng 1 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Wales hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ Swansea City tại EFL Championship và Đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Wales. Sự nghiệp thi đấu. Câu lạc bộ. Congreve xuất thân từ lò đào tạo trẻ Swansea City, từng gia nhập lò đào tạo này ở lứa U-9. Anh là cầu thủ xuất sắc nhất của Học viện bóng đá Swansea trong mùa giải 2020-21. Anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Swansea City vào ngày 10 tháng 3 năm 2022, kéo dài đến ít nhất năm 2024. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho Swansea trong trận thua 1–0 trước Blackpool tại EFL Championship vào ngày 12 tháng 3 năm 2022. Quốc tế. Congreve là cầu thủ trẻ của Wales, đã từng chơi cho U-18 Wales, ra mắt trong trận thua 2–0 trước Anh vào ngày 30 tháng 3 năm 2021. Ngày 14 tháng 3 năm 2023, anh được triệu tập lên Đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Wales
Alvó nő fekete vázával
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808034
Alvó nő fekete vázával ("Quý bà ngủ với bình hoa đen") là một bức tranh sơn dầu năm 1927–1928 của Róbert Berény. Bức tranh miêu tả vợ của họa sĩ đang nằm ngủ trong chiếc váy màu xanh, sau chiếc bàn có đặt một chiếc bình màu đen. Bức tranh được bán vào năm 1928 và bị xem là đã thất lạc sau Thế chiến thứ hai. Bức họa được bán đấu giá với tên tác giả Berény vào giữa thập niên 1990. Tác phẩm bị xem là định giá rẻ vào thời điểm ấy và rồi được bán cho Sony Pictures, hãng đã sử dụng bức họa trong bộ phim năm 1999 "Stuart Little" làm đạo cụ bối cảnh trong nhà của nhân vật chính. Năm 2009, nhà sử học nghệ thuật Gergely Barki nhận định được bức tranh khi xem phim cùng con gái và lần ra nó. Bức họa thuộc sở hữu của một nhà thiết kế, cô bán nó cho một nhà sưu tập nghệ thuật, rồi người này bán tiếp nó trong cuộc đấu giá vào năm 2014 với giá 285.700 USD. Miêu tả. Bức tranh là bức chân dung vẽ người vợ thứ hai của Berény, Eta (nhũ danh Breuer) và được sáng tác theo phong cách art deco. Đây được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Berény. Đối tượng trong bức họa đang ngủ để kiểu tóc đặc trưng ở thập niên 1920 và mặc một chiếc váy màu xanh lam. Cô ngả người ra sau chiếc bàn có đặt một chiếc bình đen. Tác phẩm được vẽ bằng sơn dầu trên một canvas theo chiều ngang, có kích thước . Chữ ký của tác giả nằm ở phía dưới bên trái của bức hình. Nhà sử học nghệ thuật Judit Virág mô tả "Alvó nő fekete vázával" là đại diện "hoàn hảo" của nghệ thuật châu Âu thập niên 1920 kết hợp các yếu tố xu hướng nghệ thuật đương đại của Pháp, Đức và Nga. Lịch sử. Hoàn cảnh ra đời. Berény có thể đã vẽ "Alvó nő fekete vázával" từ năm 1927 đến năm 1928, lúc mà ông trở về Budapest, quê hương Hungary từ Berlin (nơi ông chạy trốn sau Thế chiến thứ nhất). Bức tranh được công chúng trông thấy lần cuối vào năm 1928 khi nó được trưng bày tại Bảo tàng Ernst rồi bị đem bán. Khách hàng mua bức họa có thể là người Do Thái và rời khỏi đất nước trước hoặc trong Thế chiến thứ hai. Hungary rất bất ổn trong thời kỳ này và bức tranh bị coi là thất lạc. Tái phát hiện.
Alvó nő fekete vázával
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808034
Tái phát hiện. Bức tranh được bán với giá 40 đô la Mỹ cho nhà sưu tập nghệ thuật Michael Hempstead ở một buổi đấu giá từ thiện tại nhà đấu giá St Vincent de Paul ở San Diego vào giữa thập niên 1990. Anh bán nó cho một cửa hàng đồ cổ ở Pasadena, California với giá 400 đô la Mỹ, đây là mức giá dành cho một tác phẩm của Berény vào thời điểm ấy. Rồi một nhà thiết kế bối cảnh mua lại bức tranh từ cửa hàng, thay mặt cho Sony Pictures, với giá 500 đô la Mỹ. Năm 1999, Hempstead nhận ra bức tranh trong bộ phim "Stuart Little", trong đó nó được sử dụng làm đạo cụ bối cảnh ở các cảnh quay nội thất ngôi nhà của nhân vật chính. Hempstead cân nhắc theo dõi bức tranh và mua lại nó, biết rằng giá các tác phẩm của Berény đã tăng lên kể từ khi ông bán nó. Ngoài "Stuart Little", bức tranh còn xuất hiện trong một số tập phim kịch xà phòng, bao gồm một số tập "Family Law". Sau đấy nhà thiết kế bối cảnh mua bức tranh từ công ty điện ảnh để treo trong nhà cô ấy. Ngày 24 tháng 12 năm 2009, nhà nghiên cứu và sử gia nghệ thuật của Phòng trưng bày Quốc gia Hungary, ông Gergely Barki đã nhận ra bức tranh trong lúc theo dõi "Stuart Little" tại nhà với cô con gái ba tuổi của mình. Barki nhận ra bức tranh từ một bức ảnh đen trắng năm 1928 mà ông từng xem. Vì không có phần mềm để lưu nên ông không thể tạm dừng hoặc tua lại các đoạn phim có bức tranh, nhưng nó được chiếu thường xuyên trong phim. Barki tin rằng bức tranh khó có thể là bản in hay bản sao vì nó không được nhiều người biết đến. Barki đã gửi 40–50 email đến các công ty sản xuất và ê-kíp làm phim khác nhau để cố gắng truy dấu bức tranh. Sau hai năm, ông nhận được phản hồi từ nhà thiết kế sở hữu nó. Barki được mời đến Hoa Kỳ (nơi bức tranh được treo trong nhà của nhà thiết kế bối cảnh) để xác nhận danh tính của nó. Barki đã gặp nhà thiết kế bối cảnh trong một công viên ở Washington, DC, và sau khi tháo khung bằng một chiếc tuốc nơ vít mượn từ một người bán hot dog, ông có thể xác nhận bức tranh là thật. Cuối cùng, nhà thiết kế bối cảnh bán tác phẩm cho một nhà sưu tập nghệ thuật, rồi người này đem nó ra đấu giá vào tháng 12 năm 2014.
Alvó nő fekete vázával
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808034
Bức tranh được niêm yết với giá dự trữ là 121.220 đô la Mỹ và được bán cho một nhà sưu tập giấu tên người Hungary với giá 285.700 đô la Mỹ vào ngày 13 tháng 12. Do sự nổi tiếng có được nhờ hành trình tái phát hiện lạ lùng của bức tranh, tác phẩm được mô tả là bức tranh Hungary được nhiều người biết đến nhất.
Máy bay chiến đấu không người lái
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808035
Máy bay chiến đấu không người lái là phương tiện bay không người lái có chức năng quân sự như tấn công và trinh sát trên chiến trường. Tuy không có người lái trên máy bay, song máy bay chiến đấu này vẫn có người điều khiển theo thời gian thực thông qua một cổng radio từ xa. Mức độ tự động hóa tùy thuộc vào từng loại cụ thể. Một trong những khám phá sớm nhất về khái niệm máy bay không người lái chiến đấu là của Lee De Forest, nhà phát minh đầu tiên của thiết bị vô tuyến và U. A. Sanabria, một kỹ sư truyền hình. Họ đã trình bày ý tưởng của mình trong một bài báo xuất bản năm 1940 trên tờ Popular Mechanics. Máy bay không người lái quân sự hiện đại được biết đến ngày nay là sản phẩm trí tuệ của John Stuart Foster Jr., một nhà vật lý hạt nhân và là cựu giám đốc của Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence Livermore (sau đó được gọi là Phòng thí nghiệm Bức xạ Lawrence). Năm 1971, Foster là một người đam mê máy bay mô hình và nảy ra ý tưởng rằng sở thích này có thể được áp dụng để chế tạo vũ khí. Ông vạch ra các kế hoạch và đến năm 1973, DARPA (Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến Quốc phòng) đã chế tạo hai nguyên mẫu có tên "Prairie" và "Calera". Chúng được cung cấp năng lượng từ một động cơ máy cắt cỏ đã được sửa đổi và có thể bay trên không trong hai giờ đồng hồ khi mang theo một vật nặng 28 pound (13 kg). Trong Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, Israel đã sử dụng máy bay không người lái không vũ trang Ryan Firebee của Hoa Kỳ nhằm dụ Ai Cập phóng hết kho tên lửa phòng không. Nhiệm vụ này đã hoàn thành mà không có thương tích nào cho các phi công Israel, những người đã sớm khai thác được hệ thống phòng thủ đã cạn kiệt của Ai Cập. Vào cuối những năm 1970 và 1980, Israel đã phát triển Scout và Pioneer, thể hiện sự chuyển hướng sang mẫu UAV nhẹ hơn, kiểu tàu lượn được sử dụng ngày nay. Israel đi tiên phong trong việc sử dụng máy bay không người lái (UAV) để giám sát thời gian thực, chiến tranh điện tử và mồi nhử. Hình ảnh và khả năng giải mã radar do các UAV này cung cấp đã giúp Israel vô hiệu hóa hoàn toàn hệ thống phòng không của Syria trong Chiến dịch Mole Cricket 19 khi bắt đầu Chiến tranh Liban 1982, không có phi công nào bị bắn rơi. Vào cuối những năm 1980, Iran đã triển khai một máy bay không người lái được trang bị sáu quả đạn RPG-7 trong Chiến tranh Iran–Iraq.
Máy bay chiến đấu không người lái
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808035
Ấn tượng với thành công của Israel, Mỹ đã nhanh chóng mua một số UAV, và các hệ thống Hunter và Pioneer của họ là sản phẩm bắt nguồn trực tiếp từ các mẫu của Israel. 'Cuộc chiến UAV' đầu tiên là Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất: theo báo cáo của Bộ Hải quân tháng 5 năm 1991: "Ít nhất một UAV luôn bay trên không trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc." Sau khi Chiến tranh vùng Vịnh thể hiện thành công tiện ích của nó, quân đội toàn cầu đã đầu tư rộng rãi vào việc phát triển UAV chiến đấu trong nước. Vụ "tiêu diệt" đầu tiên của UAV Mỹ là vào ngày 7 tháng 10 năm 2001, tại Kandahar. Trong những năm gần đây, Mỹ đã tăng cường sử dụng các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái nhằm vào các mục tiêu ở nước ngoài và các nơi khác như một phần của cuộc chiến chống khủng bố. Vào tháng 1 năm 2014, ước tính có 2.400 người đã chết vì các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái của Mỹ trong 5 năm. Vào tháng 6 năm 2015, tổng số người chết của bởi các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái của Mỹ ước tính vượt quá 6.000. Vào năm 2020, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành quốc gia đầu tiên sử dụng máy bay tấn công không người lái trong một cuộc tấn công phối hợp lớn trên chiến trường thông thường khi họ tấn công các lực lượng ở Syria. Chúng được sử dụng để tấn công các vị trí của đối phương, che chắn cho lực lượng mặt đất và trinh sát pháo binh. Máy bay không người lái được sử dụng rộng rãi trong cuộc chiến tranh Nagorno-Karabakh năm 2020 giữa Azerbaijan và Armenia. Việc Azerbaijan sử dụng máy bay không người lái TB2 rẻ hơn của Thổ Nhĩ Kỳ được coi là rất quan trọng đối với chiến thắng của họ trước lực lượng Armenia.[20] Máy bay không người lái cũng được sử dụng rộng rãi trong cuộc xung đột quân sự Nga - Ukraina 2022-2023. Việc sử dụng máy bay không người lái mang lại lợi thế về chi phí: “Mọi người đang sử dụng máy bay không người lái nhỏ, chẳng hạn như loại bạn có thể mua tại JB Hi-Fi với giá 2000 đô la, gài lựu đạn vào chúng và bay qua đám đông hoặc xe tăng rồi thả lựu đạn.
Máy bay chiến đấu không người lái
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808035
Về cơ bản, bạn có thể chế tạo một cỗ máy trị giá 3000 đô la để phá hủy một thiết bị trị giá 5 triệu đô la mà kẻ thù của bạn có.” Một nghiên cứu năm 2022 đánh giá tác động của UCAV đối với chiến tranh cho thấy máy bay không người lái rất dễ bị hệ thống phòng không và tác chiến điện tử tấn công, đồng thời máy bay không người lái chỉ có thể được sử dụng hiệu quả nếu chúng có sự hỗ trợ từ các tài sản cơ cấu lực lượng khác. Nghiên cứu kết luận rằng UCAV sẽ không tự nó có tác động mang tính cách mạng đối với chiến tranh.
Craig
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808045
Craig có thể đề cập đến:
Jake Daniels
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808052
Jake Daniels (sinh ngày 8 tháng 1 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Blackpool tại EFL League One. Sự nghiệp thi đấu. Daniels xuất thân từ lò đào tạo trẻ Blackpool từ năm 7 tuổi, và bắt đầu thi đấu cho đội U18 của Blackpool vào năm 2021 và là cầu thủ trẻ xuất sắc nhất mùa giải 2020-21 của đội trẻ Blackpool, ghi được 30 bàn thắng cho đội bóng. Anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với đội bóng vào ngày 25 tháng 2 năm 2022, và gia nhập câu lạc bộ Bamber Bridge tại Northern Premier League theo dạng cho mượn vào ngày 26 tháng 3 cho phần còn lại của mùa giải 2021–22. Anh ra mắt cho đội 1 Blackpool trong trận thua 5–0 tại EFL Championship trước Peterborough United vào ngày 7 tháng 5, khi vào sân thay người ở phút thứ 81. Đời tư. Tháng 5 năm 2022, Daniels công khai mình là người đồng tính, trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Anh duy nhất công khai vào thời điểm đó, kể từ Justin Fashanu vào năm 1990. Anh đã được truyền cảm hứng từ Josh Cavallo, huấn luyện viên Matt Morton của Thetford Town, và vận động viên nhảy cầu Tom Daley để có đủ sự can đảm và quyết tâm. Quyết định công khai của anh đã được thủ tướng Anh Boris Johnson, chủ tịch Hiệp hội bóng đá Anh, Thái tử William và đội trưởng đội tuyển bóng đá quốc gia Anh Harry Kane khuyến khích. Vào ngày 29 tháng 6, anh đã lọt vào danh sách rút gọn ở hạng mục Người nổi tiếng của năm cho giải thưởng National Diversity Awards năm 2022 vì "quyết định dũng cảm" của mình.
2A65 Msta
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808056
2A65 'Msta-B' là hệ thống pháo lựu kéo cỡ nòng 152,4 mm do Liên Xô / Nga phát triển và chế tạo từ giữa thập niên 1970. Chữ B là viết tắt của từ tiếng Nga "Buksiruyemaya" có nghĩa là "kéo". Pháo nặng 6,8 tấn, có chiều dài 12 mét trong đó nòng dài 7,2 đến 8,13 mét. Nòng pháo có thể chỉnh góc từ -3.5° đến +70°. Tốc độ bắn là 6 - 8 phát/phút. Tầm bắn tối đa với đạn tiêu chuẩn là 24,7 km, với đạn rocket là 28,9 km. Khẩu đội vận hành từ 6 - 11 chiến sĩ. Pháo được kéo bởi xe tải KrAZ-260 6x6 hoặc xe tải Ural 4320 6x6. Pháo bao gồm một cỗ xe bốn bánh đặc biệt và có một tấm chắn bọc thép dốc về phía sau và kéo dài qua các bánh xe. Nó đã được triển khai từ năm 1987 và lần đầu tiên được triển khai bởi lực lượng Liên Xô ở Đông Âu. 2A65 'Msta-B' được thiết kế và chế tạo để bổ sung và thay thế dần cho 2A36 Giatsint-B và các loại pháo lựu 152 mmm cũ hơn nữa trong biên chế pháo binh Nga. Hiện tại, 2A65 'Msta-B' được sử dụng bởi một số quốc gia vốn thuộc Liên Xô cũ. Nó cũng được Nga viện trợ cho Syria. Phiên bản tự hành của nó là 2S19 Msta.
Charlie Hughes (cầu thủ bóng đá, sinh 2003)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808058
Charles Roger Hughes (sinh ngày 16 tháng 10 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Wigan Athletic tại EFL League One. Sự nghiệp thi đấu. Hughes xuất thân từ lò đào tạo Manchester City và Liverpool, rồi chuyển tới lò đào tạo trẻ của Wigan Athletic vào năm 2017 ở độ tuổi U-14. Anh là đội trưởng của đội U18 trong mùa giải 2021-22. Ngày 7 tháng 9 năm 2021, anh ký bản hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với đội bóng. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho Wigan Athletic trong chiến thắng 1–0 tại EFL Trophy trước U-21 Arsenal vào ngày 25 tháng 1 năm 2022. Phong cách thi đấu. Hughes là một trung vệ chơi bóng. Anh khá thoải mái khi sở hữu và thể hiện phẩm chất lãnh đạo mạnh mẽ.