title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Taurida (1802–1921)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808323
|
Tỉnh có đường ranh giới tự nhiên, bao quanh là các vùng nước của biển Đen và biển Azov.
Các phần đại lục và bán đảo của khu vực khác biệt đáng kể. Tổng diện tích của tỉnh là 63.538 km², trong đó phần đại lục là 38.405 km² và phần lớn là đất đen thảo nguyên. Dân số của toàn khu vực là 1.634.700 vào năm 1906. Vào thời điểm đó, phần đại lục của tỉnh chủ yếu là người Ukraina và người Nga sinh sống nhưng có một số dân tộc thiểu số đáng kể gồm người Đức, người Bulgaria, người Armenia và người Do Thái. Trong khi các nhóm dân tộc chính của bán đảo Krym là người Tatar Krym và người Nga cùng các dân tộc thiểu số Đức, Hy Lạp, Ba Lan, Armenia và Karaim. Các trung tâm đô thị lớn là Simferopol, Sevastopol, Theodosia, Bakhchisaray và Yalta ở Krym, và Aleshki, Berdyansk và Melitopol tai đại lục.
Ngôn ngữ.
Năm 1897, 289.316 người sống ở các thành phố, chiếm 19,98% tổng dân số. Thành phần dân tộc của cư dân thành thị là người Nga (49,1%), người Tatar (17,16%) và người Do Thái (11,84%), chỉ có 31 người sống ở thành phố chọn không tiết lộ danh tính.
Lịch sử.
Năm 1783, Hãn quốc Krym bị nước Nga của Yekaterina Đại đế sáp nhập. Ngay sau đó, tỉnh (oblast) Taurida được thành lập. Dưới triều đại của Pavel I, tỉnh này bị bãi bỏ, nhưng ngay sau đó (năm 1802) được tái lập thành một tỉnh (guberniya). Khu vực là một phần của Đế quốc Nga cho đến Cách mạng Nga năm 1918.
Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, chính phủ sắc tộc Tatar tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Krym vào ngày 13 tháng 12 năm 1917, đây là quốc gia dân chủ Hồi giáo đầu tiên. Nước cộng hòa của người Tatar bao phủ phần bán đảo của tỉnh cũ, trong khi các huyện phía bắc của nó tạm thời nằm dưới quyền tài phán của tỉnh Yekaterinoslav. Tuy nhiên, cả Ukraina và Krym đều không giữ được lãnh thổ của mình và bị Hồng vệ binh Bolshevik chiếm lĩnh vào mùa đông năm 1917-1918. Trong một thời gian ngắn vào đầu năm 1918, những người Bolshevik đã chia cắt các lãnh thổ tỉnh giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Taurida và Cộng hòa Xô viết Donetsk–Krivoy Rog, trước khi bị các lực lượng của Cộng hòa Nhân dân Ukraina tràn ngập với sự hỗ trợ quân sự của Đế quốc Đức.
|
Động đất Ōsaka 2018
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808325
|
là trận động đất xảy ra vào lúc 7:58 (theo giờ địa phương), ngày 18 tháng 6 năm 2018. Trận động đất có cường độ 6.1 richter (theo JMA). Tâm chấn độ sâu khoảng 13 km. Không có cảnh báo sóng thần cho trận động đất này. Hậu quả trận động đất đã làm 6 người chết, 434 người bị thương. Các dịch vụ tàu điện, nước và các dịch vụ thiết yếu khác bị gián đoạn tạm thời.
Động đất.
Trận động đất xảy ra lúc 7:58, ngày 18 tháng 6, với tâm chấn ở khu vực Takatsuki phía đông bắc Ōsaka, ở độ sâu khoảng 13 km. Vùng Kinki nằm trên đỉnh của dòng đứt gãy đang hoạt động, có thể tạo ra các trận động đất trong đất liền. Ba trong số các dòng đứt gãy của (bao gồm Arima-Takatsuki, Uemachi và Ikoma) nằm gần tâm chấn và đây là nguyên nhân gây ra động đất. Trận động đất mạnh có thể cảm nhận ở phía bắc Ōsaka và các khu vực lân cận Kyoto. Trong tuần tiếp theo, Cục Khí tượng Nhật Bản đã phát hiện 40 dư chấn mạnh.
Trận động đất trên đã kích hoạt hệ thống . Không có sóng thần nào được tạo ra do trận động đất. Cục Khí tượng Nhật Bản ấn định cường độ ban đầu là 5,9 richter, nhưng sau đó được sửa thành 6,1 richter. Đây là lần đầu tiên tại Ōsaka ghi nhận thang địa chấn mức 6- kể từ năm 1923 khi chính phủ bắt đầu lưu giữ tài liệu động đất.
Hậu quả.
Trận động đất đã gây ra sụp đổ một phần của một số tòa nhà, cũng như làm hư hỏng các đường ống nước ngầm khiến nhiều cư dân không có nước sinh hoạt. Tổng cộng có 6.766 công trình bị hư hại một phần, chủ yếu ở Ōsaka, Kyoto, Nara, Hyōgo. Có tới 450 người vẫn ở trong các nơi trú ẩn công cộng một tuần sau trận động đất.
Mái ngói và đồ trang trí bằng đá tại các ngôi nhà và đền thờ lịch sử rơi xuống đất. Ít nhất 170.000 ngôi nhà ở Ōsaka bị mất điện, nhưng điện đã được khôi phục sau đó vào buổi sáng. Dịch vụ cung cấp khí đốt cho hơn 112.000 hộ gia đình ở Ibaraki và Takatsuki cũng bị ngừng trong vài ngày, nhưng đã được khôi phục hoàn toàn vào ngày 25 tháng 6.
|
Động đất Ōsaka 2018
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808325
|
Trận động đất đã làm gián đoạn các dịch vụ tàu điện ngầm (bao gồm cả Shinkansen) trong giờ cao điểm buổi sáng nhưng đã hoạt động trở lại sau đó, để người dân có thể kịp giờ đi làm vào buổi chiều. Trong thời gian ngừng hoạt động, hành khách xuống tàu và đi bộ dọc theo đường ray do lo ngại dư chấn gây thêm thiệt hại. Osaka Monorail đã mở cửa trở lại vào ngày 23 tháng 6, nhưng buộc phải tạm dừng hoạt động vào ngày hôm sau do phát hiện thêm hư hỏng các toa tàu.
Hoạt động tại nhà máy lọc dầu của JXTG Nippon Oil & Energy ở Ōsaka và nhiều nhà máy sản xuất khác ở vùng Kinki tạm thời đình chỉ để kiểm tra thiệt hại. Các chuyến bay tại hai trong số các sân bay ở vùng Kinki tạm hoãn, nhưng đã được nối lại vài giờ sau đó.
Theo Bộ Giáo dục Nhật Bản, có tổng cộng 1.552 trường học đã đóng cửa: 1.012 trường ở Ōsaka, 321 trường ở Kyoto, 109 trường ở Hyogo, 102 trường ở Nara, 6 trường ở Wakayama và 2 trường ở Shiga. Vào ngày hôm sau, các trường tiểu học và trung học cơ sở ở Suita, Takatsuki, Ibaraki, Settsu, và Hirakata tạm thời đóng cửa.
Thương vong.
Cả 6 trường hợp tử vong đều xác nhận tại Ōsaka, bao gồm cả 1 trẻ em ở Takatsuki (do bị đè bởi một bức tường sụp đổ bên ngoài trường tiểu học). Vì bức tường trường học không đáp ứng các quy tắc tiêu chuẩn an toàn hiện đại nên Chánh Văn phòng Nội các Suga Yoshihide ra lệnh kiểm tra độ an toàn của các cấu trúc khối bê tông tương tự tại các trường học trong phạm vi cả nước. Hơn 400 người bị thương và đang được điều trị tại các bệnh viện.
Phản ứng của Chính phủ Nhật Bản.
Ngay sau khi động đất xảy ra, Thủ tướng Shinzo Abe đã tuyên bố chính phủ sẽ cam kết hỗ trợ các nỗ lực cứu hộ và phục hồi. Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản đã cử một số đội cứu hộ để cung cấp nước cho người dân, theo yêu cầu của chính quyền địa phương. Những lo ngại sạt lở đất do mưa và các dư chấn tiếp theo khiến hàng trăm cư dân di chuyển đến các nơi trú ẩn công cộng.
Lo ngại.
Sau trận động đất, những tin đồn trực tuyến về những người không phải là người Nhật phạm tội nguy hiểm (chẳng hạn như trộm cắp) đã xuất hiện trên mạng xã hội.
|
Động đất Ōsaka 2018
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808325
|
Chính quyền địa phương và Cục Nhân quyền quốc gia đã cảnh báo về thông tin sai lệch được chia sẻ trong thảm họa. Báo Asahi Shimbun đã chỉ trích việc lan truyền những bình luận thù hận, so sánh với những tin đồn tương tự được chia sẻ sau Đại thảm họa động đất Kanto 1923 dẫn đến nạn phân biệt chủng tộc.
|
Quốc kỳ New Zealand
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808334
|
Quốc kỳ New Zealand (tiếng Māori: "Te haki o Aotearoa"), còn được gọi là Cờ hiệu New Zealand, là lá cờ dựa trên Cờ hiệu hàng hải của Anh – một lá cờ màu xanh với quốc kỳ Liên hiệp Anh ở góc phía trên – cùng với bốn ngôi sao màu đỏ nằm giữa bốn ngôi sao màu trắng, tượng trưng cho chòm sao Nam Thập Tự.
Quốc kỳ đầu tiên của New Zealand được quốc tế chấp nhận là cờ của Liên hiệp các bộ tộc New Zealand, được thông qua vào năm 1834, sáu năm trước khi New Zealand tách khỏi New South Wales và trở thành một thuộc địa riêng biệt sau khi ký kết Hiệp ước Waitangi năm 1840. Lá cờ bởi một hội đồng các thủ lĩnh người Maori tại Waitangi lựa chọn vào năm 1834, có hình thánh giá của Thánh George với một cây thánh giá khác ở góc có bốn ngôi sao trên nền màu xanh lam. Sau khi thành lập thuộc địa vào năm 1840, cờ hiệu của Anh bắt đầu được sử dụng. Quốc kỳ hiện tại được thiết kế và thông qua để sử dụng trên các con tàu của thuộc địa vào năm 1869, nhanh chóng trở thành làm quốc kỳ của New Zealand và được công nhận theo luật định vào năm 1902.
Trong nhiều thập kỷ đã có cuộc tranh luận về việc thay đổi quốc kỳ. Năm 2016, một cuộc trưng cầu dân ý ràng buộc hai giai đoạn về việc thay đổi quốc kỳ đã diễn ra với việc bỏ phiếu ở giai đoạn cuối cùng thứ hai kết thúc vào ngày 24 tháng 3. Trong cuộc trưng cầu dân ý này, nước này đã bỏ phiếu giữ lá cờ hiện tại với tỷ lệ 57% so với 43%.
|
Oscar (lớp tàu ngầm)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808341
|
Tàu ngầm lớp Oscar, định danh của Liên Xô Project 949 "Granit và Project 949A "Antey (tên ký hiệu của NATO Oscar I và Oscar II), là một lớp tàu ngầm năng lượng hạt nhân mang tên lửa hành trình của Hải quân Liên Xô. Tàu ngầm đầu tiên được đóng vào những năm 1970s,sáu chiếc vẫn còn đang vận hành trong Hải quân Nga. Hai chiếc khác đang trong quá trình hiện đại hóa lên phiên bản Project 949M từ năm 2017 nhằm kéo dài tuổi thọ hoạt động và khả năng chiến đấu của chúng.
Tàu ngầm Project 949 là loại tàu ngầm mang tên lửa hành trình lớn nhất từng được chế tạo cho đến khi tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo lớp "Ohio" của Hải quân Mỹ được chuyển đổi sang mang tên lửa hành trình từ năm 2007. Tàu ngầm lớp Oscar là loại tàu lớn thứ tư trên thế giới về chiều dài và lượng giãn nước. Chỉ có tàu ngầm lớp Typhoon, tàu ngầm lớp Borei của Nga và tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo lớp "Ohio" của Mỹ lớn hơn nó.
Lịch sử.
Chiếc đầu tiên của Project 949 được đặt ki vào giữa những năm 1970s và được đưa vào trang bị vào năm 1980. Năm 1982, Hải quân Liên Xô tiến hành thay thế lớp tàu nguyên bản bằng lớp tàu cải tiến và lớn hơn (Project 949A). Tổng cộng đã có mười bốn tàu ngầm được đóng. Tàu ngầm lớp Oscar được thiết kế để tấn công cụm tác chiến tàu sân bay của Mỹ bằng các tên lửa chống tàu tầm xa P-700 Granit (SS-N-19 "Shipwreck") và tọa độ của mục tiêu được xác định nhờ hệ thống vệ tinh EORSAT (thông qua ăng ten Punch Bowl của tàu ngầm). Trong tình hình tài chính khó khăn sau khi Liên Xô sụp đổ, tàu ngầm Oscar trở thành ưu tiên của Hải quân Nga, trong khi nhiều lớp tàu ngầm cũ hơn của Hải quân Nga đã phải cho nghỉ hưu thì tàu ngầm lớp Oscar vẫn được duy trì trong Hạm đội Phương Bắc và Hạm đội Thái Bình Dương.
Hiện đại hóa.
Viện thiết kế hàng hải trung ương Rubin đảm nhận công việc hiện đại hóa tàu ngầm Project 949A vào năm 2011, công việc được tiến hành tại xưởng đóng tàu Zvezdochka và Zvezda.
|
Oscar (lớp tàu ngầm)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808341
|
Tháng Chín năm 2015, Bộ trưởng quốc phòng Nga Sergey Shoygu trong một chuyến thăm nhà máy đóng tàu Zvezda đã có phát biểu ít nhất ba tàu ngầm lớp Oscar đang được tu sửa và hiện đại hóa giúp chúng kéo dài tuổi thọ phục vụ lên 20 năm. Tàu ngầm được hiện đại hóa theo cấu hình "Project 949AM". Khoản tiền để hiện đại hóa là 182 triệu đô la cho mỗi tàu ngầm.
Tháng Chín năm 2016, có báo cáo cho biết các tàu ngầm K-132 "Irkutsk" và K-442 "Chelyabinsk" đã được hiện đại hóa lên tiêu chuẩn 949AM. Theo người phát ngôn chính phủ Nga Yury Borisov, hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Nga có thể sẽ nhận được bốn tàu ngầm Oscar II nâng cấp với trang bị tên lửa hành trình Kalibr vào năm 2021.
Các phiên bản tàu ngầm.
Project 949 "Granit" (Oscar I).
Hải quân Nga đã đóng hai tàu ngầm Project 949 "Granit" tại Severodvinsk từ năm 1975 đến năm 1982 và được đưa vào phiên chế của Hạm đội phương Bắc. "K-525" được khởi đóng vào năm 1975 và chiếc "K-206" vào năm 1979. Sau khi đóng hai chiếc đầu, Liên Xô đã tiến hành đóng phiên bản cải tiến Project 949A "Antey". Cả hai tàu Project 949 đều đã được loại biên năm 1996 và tiến hành tháo dỡ năm 2004.
Project 949A "Antei" (Oscar II).
Mười một chiếc Project 949A "Antey" được nhà máy đóng tàu Severodvinsk, năm chiếc trong số đó được chuyển giao cho Hạm đội Phương Bắc. Người ta cũng dự kiến phát triển tàu ngầm thế hệ thứ tư tiếp theo Project 949A, nhưng kế hoạch này đã bị hủy bỏ. Sự khác biệt về bề ngoài giữa hai lớp tàu ngầm là tàu ngầm phiên bản 949A dài hơn khoảng so với nguyên mẫu 949 (khoảng so với ), bổ sung thêm không gian và lực nổi giúp cải thiện hệ thống điện twr và hệ thống đẩy hoạt động im lặng hơn.
Một số người suy đoán khả năng yên lặng về mặt thủy âm của tàu ngầm lớp Oscar II tốt hơn lớp tàu ngầm cũ hơn nhưng nó ở trình độ phát triển thấp hơn thiết kế của tàu ngầm "Akula II" cũng như các tàu ngầm thế hệ bốn sau này. Tàu ngầm Oscar 2 có cánh đuôi lớn hơn, và chân vịt của nó có bảy lá thay vì bốn lá.
|
Oscar (lớp tàu ngầm)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808341
|
Giống như các thiết kế tàu ngầm Liên Xô thời kỳ chiến tranh Lạnh, tàu ngàm Oscar II được chế tạo với hai lớp vỏ. Cũng như các thiết kế của các lớp tàu ngầm khác, Project 949 không chỉ có vọng quan sát ở cột tàu ngầm, mà khi trong thời tiết xấu, tàu có thêm một tháp quan sát được bọc kín ở phía trước tàu, và thấp hơn vọng quan sát một chút. Dấu hiệu phân biệt của lớp tàu ngầm này là nó có một chỗ phình ra nhỏ ở trên đầu của cánh đuôi đứng. Một cửa lớp ở một phía đuôi giúp tiếp cận cái bướu này. Federation of American Scientists báo cáo rằng tàu ngầm này có khả năng mang được khoang thoát hiểm, và có thể những cánh cửa này bảo vệ cho khoang thoát hiểm. Khoang thoát hiểm VSK có khả năng chứa được 110 thủy thủ và sĩ quan.
Project 949AM.
Năm 2011, Bộ quốc phòng Nga đưa ra tuyên bố tiến hành hiện đại hóa tàu ngầm Project 949A. Như một phần của tiến trình hiện đại hóa, các tàu ngầm cũ sẽ được thay thế tên lửa chống tàu P-700 Granit với cơ số đạn 24 quả bằng 72 quả tên lửa chống tàu 3M-54 Kalibr hoặc P-800 Oniks. Việc nâng cấp không phải thay đổi vỏ tàu mà tên lửa mới sẽ được lắp đặt vừa với các ống phóng tên lửa cũ. Tàu ngầm cũng sẽ được trang bị hệ thống thông tin chiến đấu Omnibus-M và hệ thống định vị Simfoniya-3.2, cùng với đó là hệ thống kiểm soát bắn, hệ thống liên lạc, sonar, radar và hệ thống tác chiến điện tử mới. Việc hiện đại hoá sẽ giúp tàu ngầm Oscar đạt trình độ công nghệ tương đương với các tàu ngầm thế hệ mới của Nga như tàu ngầm năng lượng hạt nhân mang tên lửa hành trình lớp Yasen.
Belgorod, Project 09852.
Tháng Mười hai năm 2012, Nga chế tạo một lớp tàu ngầm nghiên cứu và chuyên thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt với mã định danh Project 09852. Con tàu này được chế tạo dựa trên một tàu ngầm chưa hoàn thiện thuộc lớp Oscar II, chiếc Belgorod. Con tàu được cho là được thiết kế để mang theo cả tàu ngầm con có người lái (tàu ngầm Project 18511) cũng như tàu ngầm không người lái (Klavesin-1R).
|
Oscar (lớp tàu ngầm)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808341
|
Tuy nhiên, trong khi nó có khả năng mang tàu ngầm con không người lái dựa trên thân vỏ của tàu ngầm Oscar, việc triển khai mang theo tàu ngầm có người lái như Project 18511 "Paltus" hay tàu ngầm lớn hơn như Project 10831 "Losharik", sẽ bắt buộc phải kéo dài thân con tàu để có không gian cho khoang kết nối. Để ví dụ, chiều dài của tàu ngầm BS-64 "Podmoskovye" đã được tăng thêm dù cho các khoang chứa tên lửa đạn đạo SLBM đã bị loại bỏ.
"Belgorod" sẽ có khả năng mang theo ngư lôi hạt nhân Poseidon (tên gọi của NATO: Kanyon), có khả năng mang đầu đạn nhiệt hạch đương lượng nổ lên tới 100 Mt, tổng cộng có bốn ngư lôi được đặt nằm ngang ở vị trí của ống phóng tên lửa P-700 Granit, với tổng đương lượng nổ 600 Megaton TNT.
Người ta ước đoán tàu ngầm "Belgorod" có chiều dài , khiến nó sẽ trở thành tàu ngầm dài nhất từng được chế tạo.
Ngày 23/4/2019, "Belgorod" đã nổi trong buổi lễ bàn giao tàu ngầm tại Nhà máy đóng tàu Sevmash, với sự chứng kiến của Tổng thống Nga Vladimir Putin thông qua TV-link. Các công việc tiếp theo sẽ được hoàn tất và con tàu sẽ bắt đầu thử nghiệm theo lịch trình vào năm 2020 sau đó sẽ được bàn giao cho Hải quân Nga. Tuy nhiên việc thử nghiệm trên biển đã bị hoãn cho tới tháng Năm năm 2021. Sau khi bị trì hoãn vài lần, cuộc thử nghiệm trên biển đã diễn ra vào ngày 25/6/2021. Con tàu đã được bàn giao cho Hải quân Nga vào ngày 8/7/2022.
|
Sự kiện UFO Brasil 1986
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808352
|
Vào ngày 19 tháng 5 năm 1986, một loạt liên lạc bằng radar và hình ảnh vật thể bay không xác định (UFO) đã diễn ra trên khắp các bang São Paulo, Rio de Janeiro, Minas Gerais và Goiás của Brasil được người dân địa phương gọi là "Đêm của UFO".
Diễn biến.
Khoảng 8 giờ 15 phút tối BRT vào ngày 19 tháng 5 năm 1986, Sérgio Mota da Silva, nhân viên kiểm soát không lưu tại Sân bay São José dos Campos (SJK), đã phát hiện ra ba ánh đèn sáng lơ lửng tại sân bay trên bầu trời đêm và Sân bay Quốc tế Guarulhos phát hiện ra những liên lạc ở vùng lân cận của São José dos Campos. Sérgio quan sát các vật thể bằng một cặp ống nhòm, nhận thấy rằng chúng dường như phát ra ánh sáng màu đỏ tươi, nhưng thường đổi màu thành vàng, lục và giống cam. Làm mờ đèn đường băng, anh ta bất chợt nhận thấy rằng các vật thể này xem ra tiến đến sân bay, di chuyển ra xa khi ánh đèn tăng trở lại.
Lúc 9 giờ 08 phút tối BRT, một chiếc máy bay EMB 121 Xingu, tín hiệu gọi PT-MBZ, đang trên đường tới SJK từ Brasília, báo cáo đã nhìn thấy đèn đỏ sáng ở hướng tâm 150 thuộc VOR của SJK, gần bờ biển đang di chuyển từ đông sang tây. Chiếc máy bay này do Đại tá Ozires Silva, người sáng lập Embraer cầm lái vốn đang trở về sau cuộc gặp với Tổng thống José Sarney và là nhân vật sẽ nhậm chức chủ tịch Petrobras vào ngày hôm sau. Theo Ozires, nhóm vật thể này trông giống như "những ngôi sao lớn màu đỏ". Sau đó, anh ta tiếp tục, theo cách riêng của mình, cố gắng tiếp cận chúng nhưng không thành công.
Đến 9 giờ 39 phút tối BRT. Căn cứ Không quân Santa Cruz đã được đặt trong tình trạng báo động do sự hiện diện của một số biểu đồ radar không xác định xung quanh São José dos Campos. Khoảng nửa giờ sau, Căn cứ Không quân Anápolis báo cáo về việc phát hiện tiếng vang của radar ở hướng tâm 270 của VOR, khiến căn cứ không quân cũng được đặt trong tình trạng báo động. Các liên lạc radar mà Anápolis thu được không bị Trung tâm Điều hành Quân sự (COpM) đặt tại CINDACTA I phát hiện.
Vào lúc 10 giờ 27 phút tối, một chiếc F-5E thuộc 1º/1ºGAvCa "Jambock", tín hiệu gọi JB17, đã xuất kích từ Căn cứ Không quân Santa Cruz, cất cánh chỉ bảy phút sau đó.
|
Sự kiện UFO Brasil 1986
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808352
|
Phi công, đang tiếp cận ở độ cao 17.000 feet, báo cáo đã phát hiện ra biểu đồ radar và nhìn thấy ánh sáng trắng bên dưới mức của nó, sau đó tiếp tục leo lên, đều đặn duy trì khoảng cách 10–12 dặm và 10° phía trên máy bay của anh ta cho đến khi nó đạt 33.000 feet. Trong khoảng thời gian này, phi công báo cáo rằng đèn chuyển từ trắng sang đỏ, xanh lục rồi lại trắng. Đối tượng đã được theo về phía biển cho đến khi nó là khoảng 180 dặm từ Santa Cruz, khi F-5 đạt nhiên liệu cực đại và phải quay trở lại căn cứ.
Lúc 10 giờ 48 phút, Căn cứ Không quân Anápolis đã cho cất cánh máy bay tiêm kích Mirage 2000 Liên đoàn Phòng không số 1 "Jaguar", tín hiệu gọi JG116, cuối cùng đã thu được 5 liên lạc radar nhưng không có liên lạc trực quan. Có lúc chiếc Mirage đã xoay sở hòng tiếp cận trong vòng 2 dặm từ một trong những tín hiệu liên lạc có chuyển động dường như biểu thị ngoằn ngoèo và rẽ 90 độ, trước khi nó nhanh chóng di chuyển ra xa bất chấp tốc độ siêu thanh của máy bay tiêm kích. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1993 với TV Globo, phi công đã ước tính vận tốc của vật thể là Mach 15.
Đến 10 giờ 50 phút tối, một chiếc F-5E thứ hai, tín hiệu gọi JB07, cất cánh từ Santa Cruz, báo cáo liên lạc bằng hình ảnh và radar với một vật thể phát ra ánh sáng đỏ. Theo báo cáo của Không quân Brasil, sau nỗ lực thu hẹp khoảng cách không thành công, luồng ánh sáng này bỗng dưng "tắt lịm", đồng thời mất liên lạc với radar. Sau đó, trong giây lát bộ điều khiển tại căn cứ không quân Santa Cruz phát hiện 13 biểu đồ radar ngay phía sau JB07, ra lệnh cho máy bay quay 180 độ. Tuy nhiên, khi chiếc F-5E quay đầu, chiến đấu cơ không thu được liên lạc bằng hình ảnh hoặc radar nào cả.
Hai máy bay tiêm kích Mirage 2000 khác đã cất cánh ở Anápolis, nhưng không có bất kỳ liên lạc hình ảnh hay radar nào cả. Tổng cộng, 21 biểu đồ radar đã thu được trong sự kiện này.
Họp báo.
Bộ trưởng Không quân, Chuẩn tướng Octávio Júlio Moreira Lima đã thừa nhận tại một cuộc họp báo vào ngày 23 tháng 5 cùng với các phi công chiến đấu, xác nhận những sự kiện trong ngày 19 và tuyên bố, "Không phải là tin hay không [vào người ngoài hành tinh].
|
Sự kiện UFO Brasil 1986
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808352
|
Chúng tôi chỉ có thể đưa ra thông tin kỹ thuật. Có một số giả thuyết. Về mặt kỹ thuật, tôi muốn nói với các bạn rằng chúng tôi không có lời giải thích nào cả".
Giải mật.
Báo cáo chính thức của Không quân Brasil về vụ việc đã được giải mật vào ngày 25 tháng 9 năm 2009. Qua những cân nhắc cuối cùng, tài liệu nêu rõ, trong số những điều khác, rằng các hiện tượng không trung không xác định có khả năng:
|
Maria Antonia của Napoli và Sicilia
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808358
|
Maria Antonia của Napoli và Sicilia hay Maria Antonietta của Napoli và Sicilia (14 tháng 12 năm 1784 – 21 tháng 5 năm 1806) là con gái của Ferdinando I của Hai Sicilie và Maria Karolina của Áo. Với tư cách là vợ của Qương tương lai Fernando VII của Tây Ban Nha, bấy giờ là người thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha, Maria Antonia được gọi là Vương phi xứ Asturias. Có thông tin cho rằng mẹ chồng của Maria Antonia là María Luisa của Parma đã đầu độc Maria Antonia khiến Maria qua đời, nhưng không có bằng chứng nào chứng minh điều này.
Thiếu thời.
Maria Antonia sinh ra tại Cung điện Caserta ở Caserta, Ý, Maria Antonia là con gái thứ bảy và là người con thứ 12 của Ferdinandi I của Napoli và Sicilia, bấy giờ là Ferdinando IV và III của Napoli và Sicilia, và Maria Karolina của Áo. Maria Antonia được đặt tên theo em gái yêu quý của mẹ mình là dì Maria Antonia của Áo, Vương hậu nước Pháp. Maria Antonia là một thiếu nữ thông minh, khi được mười bảy tuổi, Maria đã học được nhiều ngôn ngữ.
Hôn nhân.
Trong một loạt các liên minh hôn nhân, Maria Antonia đã đính hôn với người anh họ là Vương tử Fernando của Tây Ban Nha, Thân vương xứ Asturias (sau này là Fernando VII của Tây Ban Nha), trong khi anh cả của Maria Antonia là Francesco đính hôn với em gái của Fernando là María Isabel của Tây Ban Nha. Ngày 6 tháng 10 năm 1802, Maria Antonia kết hôn với Vương tử Fernando tại Barcelona, Tây Ban Nha.
Vương phi xứ Asturias.
Maria Antonia không sinh được người thừa kế ngai vàng như mong đợi: cả hai lần mang thai của Maria vào năm 1804 và 1805, đều bị sảy thai. Mẹ của Maria Antonia, Maria Karolina, có xu hướng cực kỳ bài Pháp sau khi em gái và em rể của Maria Karolina bị hành quyết trong Cách mạng Pháp. Mẹ chồng của Maria Antonia, Vương hậu María Luisa, không thích cô con dâu của mình và nhiều lần đến phòng của Maria Antonia và chồng do lo ngại về âm mưu từ phía Napoli, thậm chí còn khám xét sách và trang phục của con dâu. Bên cạnh đó còn có những lo ngại về âm mưu đầu độc Quốc vương và Vương hậu Tây Ban Nha cũng như Manuel Godoy, thân tín của Vương hậu. Về phía Maria Antonia, dưới sự ảnh hưởng của mẹ , Maria Antonia có xây dựng một thế lực cho riêng mình và sự ủng hộ của chồng nhằm đối kháng lại Godoy và Vương hậu.
Qua đời.
Maria Antonia qua đời vì bệnh lao vào ngày 21 tháng 5 năm 1806 tại Cung điện Vương thất Aranjuez ở Aranjuez, Tây Ban Nha, ở tuổi 21.
|
Maria Antonia của Napoli và Sicilia
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808358
|
Có tin đồn rằng Maria Antonia đã bị đầu độc bởi Vương hậu María Luisa và Manuel Godoy nhưng không có bằng chứng nào cho tuyên bố này. Tuy nhiên, Vương hậu Maria Karolina thực sự tin vào việc con gái bị hạ độc. Cha của Maria Antonia, Quốc vương Ferdinando đã hợp nhất Napoli và Sicilia thành Vương quốc Hai Sicilies sau khi con gái qua đời được một thập kỷ..
Maria Antonia được chôn cất tại El Escorial ở Tây Ban Nha. Chồng của Maria Antonia sau đó đã kết hôn ba lần nữa với:
|
Isabelle của Orléans
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808359
|
Isabelle của Orléans (Isabelle Marie Laure Mercédès Ferdinande; 7 tháng 5 năm 1878 – 21 tháng 4 năm 1961) là thành viên của Vương tộc Orléans của Pháp và là Công tước phu nhân xứ Guise thông qua hôn nhân với Jean của Orléans.
Tiểu sử.
Những năm đầu đời.
Isabelle sinh ra tại Lâu đài Eu, Eu, Pháp, là con gái thứ ba và là người con thứ năm của Vương tôn Philippe của Orléans, Bá tước xứ Paris và Vương tôn nữ Maria Isabel của Tây Ban Nha. Năm 1886, khi Isabelle được 8 tuổi, một được ban hành bởi chính quyền Đệ Tam Cộng hòa Pháp nhằm trục xuất tất cả các triều đại đã từng cai trị nước Pháp, do đó Isabelle cùng gia đình chuyển đến Anh.
Hôn nhân và hậu duệ.
Là một người phụ nữ trẻ, Isabelle có nhiều người theo đuổi, đứng đầu trong số đó là Albert, Quốc vương tương lai của Bỉ. Tuy nhiên, Albert buộc phải chấm dứt việc theo đuổi Isabelle dưới áp lực từ người bác là Quốc vương Léopold II, người lo sợ rằng cuộc hôn nhân với con gái của một người đòi ngai vàng Pháp bị lưu đày sẽ dẫn đến phản ứng dữ dội từ chính phủ cộng hòa ở Paris.
Ngày 30 tháng 10 năm 1899, Isabelle kết hôn với người em họ là Jean của Orléans, Công tước xứ Guise. Jean là con trai út của Vương tôn Robert của Orléans, Công tước xứ Chartres và Françoise d'Orléans. Sau cái chết của anh trai Isabelle là Philippe của Orléans, Công tước xứ Orléans, người đòi ngai vàng của Pháp với tên hiệu "Philippe VIII", Công tước xứ Guise đã trở thành, ít nhất là đối với phe Orleanist, Quốc vương trên danh nghĩa của Pháp với tên hiệu "Jean III". Danh hiệu đã bị tranh chấp bởi các thành viên của phái Legitimists ở Tây Ban Nha, hậu duệ của Louis XIV của Pháp.
Hai vợ chồng có với nhau bốn người con:
Isabelle qua đời tại Larache, Maroc.
|
NGC 7001
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808362
|
NGC 7001 là một thiên hà xoắn ốc trung gian nằm cách Trái Đất khoảng 300 triệu năm ánh sáng trong chòm sao Bảo Bình. Nó có đường kính ước tính khoảng 106.000 năm ánh sáng. NGC 7001 được phát hiện bởi nhà thiên văn học John Herschel ngày 21 tháng 7 năm 1827 và được quan sát bởi Rudolf Spitaler tháng 9 năm 1891.
|
Quảng Thành Tử
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808368
|
Quảng Thành Tử () là một thần tiên trong truyền thuyết Đạo giáo Trung Quốc, xuất hiện lần đầu trong "Nam Hoa kinh", nhưng các hình tượng hiện đại của nhân vật này phần lớn là xuất phát từ tiểu thuyết "Phong thần diễn nghĩa" của Hứa Trọng Lâm.
Nguồn gốc.
Câu chuyện đầu tiên kể về Quảng Thành Tử xuất hiện trong "Trang Tử - Ngoại thiên - Tại hựu", kể về việc Hoàng Đế tìm tới Quảng Thành Tử để cầu đạo, trong đó Quảng Thành Tử miêu tả đạo của mình có thể làm người sống 1200 tuổi mà thân thể không có dấu hiệu của sự già cả, lòng dạ vĩnh viễn thanh tĩnh, đắc đến đạo của ông có thể trở thành quân vương, mà mất đạo thì sẽ trở thành hạng người phàm tục, cùng với phàm nhân rồi sẽ chết đi nhưng người đắc được đạo của ông có thể trường tồn cùng trời đất.
Trong "Trang Tử", nguyên văn viết Quảng Thành Tử sống ở Không Đồng (空同), không giống các Đạo tạng đời sau chép lại là Không Động (崆峒).
"Thái Thượng lão quân khai thiên kinh" lại ghi lại một nguồn gốc khác của Quảng Thành Tử, trong đó chép rằng Quảng Thành Tử chỉ là một hóa thân của Thái Thượng lão quân vào thời đại của Hoàng Đế.
"Phong thần diễn nghĩa".
Hình tượng Quảng Thành Tử ngày nay bị ảnh hưởng lớn từ tiểu thuyết thời Minh "Phong thần diễn nghĩa" của Hứa Trọng Lâm. Theo đó, Quảng Thành Tử là đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn và là vị tiên đứng đầu trong 12 Kim Tiên của Xiển giáo. Ông sống tại động Đào Nguyên, núi Cửu Tiên (khác với núi Không Động được ghi lại trong Đạo tạng). Quảng Thành Tử là thầy của Ân Giao, đã giao ba kiện bảo vật là Ấn Phiên Thiên, Chuông Lạc Hồn và Kiếm Thư Hùng cho Ân Giao và lệnh đệ tử xuống núi phò Chu diệt Trụ.
|
Ga Charoen Nakhon
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808372
|
Ga Charoen Nakhon () là một ga trên Tuyến Gold, nằm tại Khlong San, Băng Cốc, Thái Lan. Tên chính thức là Charoen Nakhon, nhưng còn được gọi là Ga ICONSIAM (, ) sau khi khu phức hợp Iconsiam được đặt tại trước nhà ga. Nhà ga nằm trên đường Charoen Nakhon và mở cửa ngày 16 tháng 12 năm 2020.
Bố trí ga.
Sân ga 2 sẽ không được sử dụng ngoài giờ cao điểm và sân ga 1 tàu sẽ hoạt động cả hai hướng.
Xe buýt kết nối.
BMTA
|
Jean Mota
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808376
|
Jean Mota Oliveira de Souza (sinh ngày 15 tháng 10 năm 1993), còn được gọi là Jean Mota (), là một cầu thủ bóng đá người Brasil hiện thi đấu ở vị trí tiền vệ cho Inter Miami tại Major League Soccer.
|
Trưng cầu dân ý về quốc kỳ New Zealand, 2015–2016
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808377
|
Hai cuộc trưng cầu dân ý đã được Chính phủ New Zealand tổ chức vào tháng 11 và 12 năm 2015 và tháng 3 năm 2016 để xác định quốc kỳ của quốc gia. Cuộc bỏ phiếu kết thúc với kết quả giữ lại quốc kỳ hiện tại của New Zealand.
Ngay sau khi thông báo trưng cầu dân ý, các lãnh đạo đảng đã xem xét dự thảo luật và chọn các ứng cử viên cho Hội đồng Xét duyệt Quốc kỳ ("Flag Consideration Panel"). Mục đích của nhóm này là công khai quy trình, tìm kiếm ý kiến đóng góp và đề xuất về quốc kỳ từ công chúng, đồng thời quyết định danh sách rút gọn cuối cùng. Đơn vị tư vấn mở và trưng cầu thiết kế đã thu được 10.292 đề xuất thiết kế từ công chúng, sau đó rút gọn thành "danh sách dài" gồm 40 thiết kế và sau đó là "danh sách rút gọn" gồm 4 thiết kế để tranh cử trong cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên. Sau một bản kiến nghị, danh sách rút gọn sau đó đã được mở rộng để bao gồm một thiết kế thứ năm, Red Peak.
Cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên diễn ra từ ngày 20 tháng 11 đến ngày 11 tháng 12 năm 2015 với câu hỏi: "Nếu quốc kỳ New Zealand thay đổi, bạn thích thiết kế nào hơn?" ("If the New Zealand flag changes, which flag would you prefer?"). Các cử tri đã lựa chọn một số mẫu cờ được Hội đồng Xem xét Quốc kỳ chọn ra. Lá cờ dương xỉ bạc màu đen, trắng và xanh lam của Kyle Lockwood (cờ Silver Fern) đã tiến tới cuộc trưng cầu dân ý lần thứ hai.
Cuộc trưng cầu dân ý thứ hai diễn ra từ ngày 3 đến ngày 24 tháng 3 năm 2016. Nó yêu cầu cử tri lựa chọn giữa phương án thắng cử trưng cầu lần thứ nhất (cờ dương xỉ bạc màu đen, trắng và xanh) và quốc kỳ New Zealand hiện tại.
Quá trình tiếp nhận và các thiết kế lọt vào vòng cuối bị chỉ trích gay gắt, không có sự nhiệt tình lớn nào được công chúng thể hiện. Từ tổng hợp các phân tích, mọi người nhất trí rằng cuộc trưng cầu dân ý là "một quá trình hoang mang dường như chỉ làm hài lòng một số ít người".
Bối cảnh.
New Zealand có lịch sử tranh luận về việc có nên thay đổi quốc kỳ hay không. Trong nhiều thập kỷ, các thiết kế thay thế đã được đề xuất với mức độ ủng hộ khác nhau.
|
Trưng cầu dân ý về quốc kỳ New Zealand, 2015–2016
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808377
|
Không có sự đồng thuận giữa những người đề xuất thay đổi về việc thiết kế nào sẽ thay thế quốc kỳ.
Vào tháng 1 năm 2014, Thủ tướng John Key đã đưa ra ý tưởng trưng cầu dân ý về một quốc kỳ mới tại cuộc tổng tuyển cử năm 2014. Đề xuất này vấp phải nhiều phản ứng trái chiều. Sau đó vào tháng 3, Key tuyên bố rằng New Zealand sẽ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý trong vòng ba năm tới để hỏi liệu có nên thay đổi thiết kế quốc kỳ hay không, nếu Đảng Quốc gia được bầu lại nhiệm kỳ thứ ba. Sau cuộc bầu cử lại của Đảng Quốc gia, các chi tiết của cuộc trưng cầu dân ý đã được công bố.
Các vấn đề pháp lý.
Kết quả của cả hai cuộc trưng cầu dân ý đều mang tính ràng buộc, có nghĩa là lá cờ có nhiều phiếu bầu nhất trong cuộc trưng cầu dân ý thứ hai sẽ trở thành quốc kỳ chính thức của New Zealand. Trong trường hợp cuộc trưng cầu dân ý thứ hai có kết quả hòa, một giả định về hiện trạng sẽ được áp dụng.
Nếu một thiết kế cờ mới đã được chọn, giả sử không có vấn đề về sở hữu trí tuệ, Đạo luật Bảo vệ Quốc kỳ, Biểu tượng và Tên năm 1981 sẽ được cập nhật để phản ánh thiết kế mới trong sáu tháng kể từ ngày kết quả trưng cầu dân ý lần thứ hai được công bố (hoặc sớm hơn theo lệnh của Hội đồng). Quốc kỳ hiện tại sẽ vẫn là lá cờ chính thức cho đến lúc đó; ví dụ: quốc kỳ hiện tại sẽ được tung bay trong Thế vận hội Mùa hè 2016, bốn tháng sau khi cuộc trưng cầu dân ý thứ hai diễn ra, bất kể kết quả của cuộc trưng cầu dân ý thứ hai. Kết quả này sẽ không thay đổi quốc huy (có bao gồm quốc kỳ hiện tại), cờ quốc gia Māori, cờ của các quốc gia liên kết (Quần đảo Cook và Niue), hoặc Cờ hiệu đỏ New Zealand (cờ hàng hải), Cờ hiệu trắng (hải quân), (cả hai đều kết hợp Cờ Liên minh) và cờ dịch vụ cứu hỏa (dựa trên cờ hiện tại). Nó cũng sẽ không thay đổi vị thế của New Zealand với tư cách là một quốc gia quân chủ lập hiến trong Khối thịnh vượng chung Anh.
Sử dụng quốc kỳ hiện tại.
|
Trưng cầu dân ý về quốc kỳ New Zealand, 2015–2016
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808377
|
Sử dụng quốc kỳ hiện tại.
Nếu quốc kỳ được thay đổi, thì việc tiếp tục treo quốc kỳ hiện tại của New Zealand là hợp pháp, và lá cờ này sẽ được "công nhận là lá cờ có ý nghĩa lịch sử". Những lá cờ cũ sẽ dần được thay thế theo thời gian. Các tài liệu chính thức sử dụng lá cờ hiện tại, chẳng hạn như giấy phép lái xe, tất nhiên sẽ bị loại bỏ dần – trong trường hợp giấy phép lái xe, điều này sẽ xảy ra khi giấy phép được gia hạn và do đó sẽ được sử dụng đến 10 năm.
Các tàu của Chính phủ New Zealand và các tàu phi chính phủ treo cờ New Zealand (thay vì Cờ hiệu đỏ New Zealand) sẽ có thêm sáu tháng để đổi cờ của họ sang thiết kế mới. Các tàu treo Cờ hiệu đỏ New Zealand và các tàu thuộc Lực lượng Quốc phòng New Zealand sẽ không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ sự thay đổi quốc kỳ nào, cũng như bất kỳ tàu nào có trụ sở tại New Zealand đã đăng ký ở nước ngoài.
Chi phí chuyển đổi.
Chi phí ước tính để chuyển đổi cờ chính phủ và đồng phục của Lực lượng Quốc phòng là khoảng 2,69 triệu USD. Các chi phí không xác định khác bao gồm thay đổi tàu của chính phủ, cập nhật nhãn hiệu và logo, công khai cờ mới, số lượng cờ cũ dư thừa (bao gồm các sản phẩm và quà lưu niệm có chứa nó) và cập nhật tất cả các cờ, bao bì, đồng phục và tài liệu tiếp thị trong khu vực tư nhân và thể thao. Chính phủ sẽ không cung cấp bồi thường cho chi phí áp dụng lá cờ mới.
Quy trình trước trưng cầu dân ý.
Nhóm liên đảng.
Ngay sau khi công bố cuộc trưng cầu dân ý, các nhà lãnh đạo đảng đã được mời tham gia một nhóm liên đảng. Mục đích của nhóm liên đảng là xem xét dự thảo luật cho phép trưng cầu dân ý diễn ra và đề cử các ứng cử viên cho Hội đồng Xét duyệt Quốc kỳ vào giữa tháng 2 năm 2015. Các thành viên bao gồm Bill English (Bộ trưởng Tài chính và lãnh đạo của nhóm), Jonathan Young (đại diện Đảng Quốc gia), Trevor Mallard (đại diện Đảng Lao động), Kennedy Graham (đại diện đảng Xanh), Marama Fox (đại diện Đảng Māori), David Seymour (đại diện ACT) và Peter Dunne (đại diện Đảng United Future). Đảng New Zealand First từ chối tham gia.
Hội đồng Xét duyệt Quốc kỳ.
|
Trưng cầu dân ý về quốc kỳ New Zealand, 2015–2016
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808377
|
Hội đồng Xét duyệt Quốc kỳ.
Hội đồng Xét duyệt Quốc kỳ ("Flag Consideration Panel") là một nhóm riêng biệt gồm "những người New Zealand được tôn trọng" gồm các đại diện nhân khẩu học về độ tuổi, khu vực, giới tính và sắc tộc. Mục đích của họ là công khai quy trình, tìm kiếm ý kiến đệ trình và đề xuất về lá cờ từ công chúng, đồng thời quyết định danh sách rút gọn cuối cùng gồm bốn lựa chọn phù hợp cho cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên. Cuộc tham vấn cộng đồng diễn ra từ tháng 5 đến tháng 6 năm 2015. Hội đồng tuyên bố rằng họ đã tham khảo ý kiến của các nhà kỳ học và nhà thiết kế để đảm bảo rằng các lá cờ được chọn là khả thi và không có trở ngại nào. Thành viên của Hội đồng Xét duyệt Quốc kỳ bao gồm:
Luật trưng cầu dân ý.
Luật trưng cầu dân ý đã được thông qua phiên điều trần đầu tiên của Nghị viện vào ngày 12 tháng 3 năm 2015 với số phiếu với 76 phiếu thuận và 43 phiếu chống. Sau đó, nó được Ủy ban Tư pháp và Lựa chọn Bầu cử xem xét. Trong giai đoạn tiếp nhận đệ trình công khai của họ, RSA đã phát động chiến dịch "Đấu tranh vì quốc kỳ" ("Fight for the Flag"), cũng được hỗ trợ bởi New Zealand First, để đảo ngược thứ tự câu hỏi và trước tiên hãy hỏi xem người dân New Zealand có muốn thay đổi lá cờ hay không. Nghị sĩ Đảng Lao động Trevor Mallard đã đệ trình một bản kiến nghị có chữ ký của 30.000 người lên Ủy ban, yêu cầu thêm câu hỏi giữ nguyên/thay đổi vào cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên, tương tự như . Trong phiên điều trần thứ hai tại Quốc hội, Nghị sĩ Jacinda Ardern đề xuất sửa đổi để cuộc trưng cầu dân ý thứ hai chỉ diễn ra nếu tỷ lệ cử tri đi bầu trong cuộc trưng cầu đầu tiên ít nhất là 50%, như một cách để đảm bảo quy tắc đa số và giảm chi phí nếu công chúng thờ ơ. Đề xuất của Ardern đã bị bỏ phiếu bác bỏ và dự luật được thông qua nguyên trạng vào ngày 29 tháng 7 năm 2015.
Quá trình tham gia của công chúng.
|
Trưng cầu dân ý về quốc kỳ New Zealand, 2015–2016
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808377
|
Quá trình tham gia của công chúng.
Là một phần của quy trình thu hút sự tham gia của công chúng, các thiết kế cờ và các đề xuất về biểu tượng/giá trị đã được trưng cầu cho đến ngày 16 tháng 7, và có tổng số 10.292 đề xuất thiết kế. Tất cả chúng đã được trình bày cho công chúng trên trang web của chính phủ New Zealand.
Trong quá trình thu hút sự tham gia của công chúng, Hội đồng Xét duyệt Quốc kỳ đã đi khắp đất nước để tổ chức các hội thảo và hội đồng. Những sự kiện tư vấn trực tiếp này được ghi nhận là có lượng người tham dự thấp rõ rệt. Hội đồng Xét duyệt ghi nhận mức độ tương tác trực tuyến mạnh mẽ với hơn 850.000 lượt truy cập vào trang web và 1.180.000 lượt tương tác trên mạng xã hội.
Hội đồng báo cáo rằng phản hồi nhận thấy các chủ đề về tự do, lịch sử, bình đẳng, tôn trọng và gia đình là quan trọng nhất đối với người dân New Zealand, tuy nhiên sau đó đã tiết lộ rằng những chủ đề đó đã bị thu hẹp bởi số lượng phản hồi chỉ trích quá trình thay đổi quốc kỳ. Từ các thiết kế đã gửi, họ nhận thấy các màu phổ biến nhất là trắng, xanh dương, đỏ, đen và xanh lá cây. Các yếu tố phổ biến nhất được đưa vào các thiết kế cờ là Nam Thập Tự, dương xỉ bạc, kiwi và koru. Các chủ đề chính cho các thiết kế là văn hóa, thiên nhiên và lịch sử của người Māori.
Cờ của Liên hiệp các bộ tộc New Zealand và Tino Rangatiratanga không được coi là các lựa chọn hợp lệ sau khi tham khảo ý kiến của các nhóm người Māori.
Danh sách dài.
Từ 10.292 thiết kế đã gửi, Hội đồng Xét duyệt Quốc kỳ đã tiến hành các cuộc thảo luận và quyết định lựa chọn một danh sách rút gọn "danh sách dài" gồm 40 thiết kế (được công bố cho công chúng vào ngày 10 tháng 8 năm 2015).
Công bố danh sách rút gọn và điều chỉnh.
Ngày 1 tháng 9 năm 2015, Hội đồng Xét duyệt Quốc kỳ đã công bố bốn thiết kế sẽ được đưa vào cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên. Sau sự thất vọng của công chúng với danh sách rút gọn chính thức, một chiến dịch truyền thông xã hội đã được khởi động vào ngày 2 tháng 9 cho cờ Red Peak.
|
Trưng cầu dân ý về quốc kỳ New Zealand, 2015–2016
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808377
|
Ngày 23 tháng 9, Nghị sĩ Đảng Xanh Gareth Hughes đã cố gắng đưa ra một dự luật trước quốc hội để đưa Red Peak vào như một lựa chọn trong cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên. Thủ tướng John Key xác nhận rằng Đảng Quốc gia sẽ thông qua luật, nghĩa là cờ Red Peak đã được thêm vào như một lựa chọn thứ năm trong cuộc trưng cầu dân ý về lá cờ.
Trưng cầu dân ý lần thứ nhất.
"Nếu quốc kỳ New Zealand thay đổi, bạn thích thiết kế nào hơn?" ("If the New Zealand flag changes, which flag would you prefer?")Cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên bắt đầu vào ngày 20 tháng 11 năm 2015 và kết thúc ba tuần sau đó vào ngày 11 tháng 12 năm 2015. Nó sử dụng chế độ bỏ phiếu thay thế. Cuộc bỏ phiếu yêu cầu cử tri xếp hạng năm lựa chọn thay thế quốc kỳ trong danh sách rút gọn theo thứ tự ưu tiên. Thiết kế được chọn nhiều nhất sẽ cạnh tranh với quốc kỳa hiện tại trong cuộc trưng cầu dân ý thứ hai.
Những người phản đối việc thay đổi quốc kỳ đã khuyến khích công chúng bỏ phiếu trắng, làm cho phiếu bầu không hợp lệ hoặc bỏ phiếu chiến lược cho thiết kế thay thế tồi tệ nhất như một sự phản đối.
Kết quả.
Kết quả sơ bộ được công bố vào đêm ngày 11 tháng 12; kết quả chính thức được công bố vào ngày 15 tháng 12. Các cử tri đã xếp hạng thiết kế Dương xỉ bạc (đen, trắng và lam) của Kyle Lockwood là thiết kế được ưa thích nhất trong số năm lựa chọn.
Việc bổ sung tính toán kết quả cho các khu vực bầu cử riêng lẻ theo chế độ bỏ phiếu ưu tiên dẫn đến không có phân tích phiếu bầu theo khu vực bầu cử.
Trưng cầu dân ý lần thứ hai.
Lựa chọn của bạn cho lá cờ New Zealand là gì? (What is your choice for the New Zealand flag?)Cuộc trưng cầu dân ý thứ hai bắt đầu vào ngày 3 tháng 3 năm 2016 và kết thúc ba tuần sau đó, vào ngày 24 tháng 3 năm 2016. Nó yêu cầu cử tri lựa chọn giữa quốc kỳ New Zealand hiện tại và thiết kế thay thế được chọn trong cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên.
Kết quả.
Ngày 24 tháng 3 năm 2016, kết quả sơ bộ của cuộc trưng cầu dân ý thứ hai đã được công bố tỉ lệ 56,7% của lá cờ hiện tại và 43,3% của lá cờ mới.
Kết quả theo khu vực bầu cử.
|
Trưng cầu dân ý về quốc kỳ New Zealand, 2015–2016
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808377
|
Kết quả theo khu vực bầu cử.
Trong số 71 khu vực bầu cử của New Zealand, chỉ có sáu khu vực có đa số phiếu ủng hộ lá cờ thay thế: , , , , and .
Các khu vực bầu cử của người Māori có tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu thấp rõ rệt và sự ủng hộ cao đối với hiện trạng. Kết quả này khiến Malcolm Mulholland của Hội đồng Xem xét Quốc kỳ bối rối, bởi ông tin rằng họ đã kêu gọi thành công người Māori đi bỏ phiếu trong chuyến vận động toàn quốc của họ.
Các báo cáo bầu cử liên quan.
Sau cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên, Ủy ban Bầu cử đã chuyển bảy trường hợp dường như đã bỏ phiếu nhiều lần cho cảnh sát.
Vào ngày 8 và 9 tháng 3, Ủy ban bầu cử đã chuyển thêm bốn trường hợp bỏ phiếu nhiều lần rõ ràng cho cảnh sát. Điều này bao gồm một trường hợp một người đàn ông Auckland bị cáo buộc bỏ phiếu với 300 lá phiếu bị đánh cắp từ hộp thư của người khác.
Bỏ phiếu nhiều lần được gọi là mạo danh và được xác định là một hành vi bầu cử tham nhũng theo cả Đạo luật Bầu cử 1993 và Đạo luật trưng cầu dân ý. Một người bị kết tội mạo danh có thể bị phạt tù tới hai năm và phạt tiền lên tới 40.000 đô la, đồng thời bị truất quyền đăng ký hoặc bỏ phiếu trong ba năm.
Hậu cảnh.
Phản ứng với kết quả.
John Key nói rằng ông thất vọng với kết quả này nhưng vẫn vui mừng vì cả nước đã có một cuộc thảo luận có giá trị về những gì nó đại diện. Thất bại của cuộc trưng cầu dân ý khiến Key mất đi uy tín chính trị. Một số dự đoán rằng thất bại này sẽ trở thành một phần di sản của ông, mặc dù những người khác cho rằng điều này vẫn sẽ bị lu mờ bởi các sự kiện như trận động đất Christchurch 2011 và tư nhân hóa tài sản nhà nước.
Nhìn lại từ những nhân vật quan trọng.
Nhiều năm sau cuộc trưng cầu dân ý, cựu Thủ tướng John Key cho biết điều hối tiếc lớn nhất của ông là không thể thay đổi quốc kỳ. Ông vẫn tin rằng đất nước nên áp dụng một thiết kế quốc kỳ độc đáo để tăng cảm giác tự hào dân tộc, cho thấy người Mỹ tự hào như thế nào về quốc kỳ của họ.
|
Trưng cầu dân ý về quốc kỳ New Zealand, 2015–2016
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808377
|
Ông cũng tin rằng dù là một quốc gia nhỏ, New Zealand vẫn cần "một biểu tượng của riêng chúng ta" để nâng tầm và làm cho bản sắc của mình được biết đến nhiều hơn ở nước ngoài. Nhìn nhận lại, ông đổ lỗi cho các đảng đối lập đã chính trị hóa cuộc trưng cầu dân ý và biến nó thành cuộc bỏ phiếu cho cá nhân ông. Nếu có thể quay ngược thời gian, ông sẽ "thúc đẩy mạnh mẽ hơn" và thay đổi quốc kỳ mà không cần trưng cầu dân ý, vì công chúng sẽ quen với thiết kế mới sau khi nó trở thành chính thức.
Thành viên Hội đồng Xét duyệt Quốc kỳ Malcolm Mulholland cho biết ông không chắc liệu các thiết kế cờ Lockwood có phải là lựa chọn tốt nhất cho cuộc trưng cầu dân ý hay không. Theo Mulholland, các thiết kế cờ Lockwood được chọn làm thiết kế thỏa hiệp "mỗi chiều một kiểu" ("a bob each way"), khi chúng kết hợp cây dương xỉ bạc với các yếu tố từ quốc kỳ hiện tại để thu hút những người do dự về việc thay đổi quốc kỳ. Trong nhận thức muộn màng, anh ấy sẽ chọn một thiết kế hoàn toàn dựa trên dương xỉ bạc, khi anh ấy quan sát thấy công chúng đang nóng lên với việc thay đổi quốc kỳ sau đó trong cuộc tranh luận.
Cựu Tổng chưởng lý Chris Finlayson (từng là Tổng chưởng lý và là Bộ trưởng trong chính phủ của John Key) đã nhận xét trong hồi ký của ông về những năm John Key cầm quyền rằng "Tôi nghĩ rằng quốc kỳ của New Zealand đã lỗi thời và nhàm chán, và chúng ta cần phải thay đổi nhưng, nhờ những trò hề của các đảng đối lập, tôi không nghĩ rằng điều này sẽ đạt được trong nhiều năm nữa. Tôi cũng nghĩ rằng sự đơn giản là câu trả lời – ví dụ, mọi người đều biết quốc kỳ Pháp và quốc kỳ Ukraine (vì cuộc xâm lược của Nga). Các tùy chọn được nghĩ ra cho một quốc kỳ mới quá phức tạp và tôi nghĩ đó có thể là một phần lý do khiến cuộc trưng cầu dân ý bị thất bại."
Triển vọng thay đổi trong tương lai.
Mặc dù quốc kỳ hiện tại vẫn được giữ lại sau cuộc trưng cầu dân ý, nhưng những người ủng hộ việc thay đổi lá cờ vẫn lạc quan.
|
Trưng cầu dân ý về quốc kỳ New Zealand, 2015–2016
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808377
|
Lãnh đạo Chiến dịch Thay đổi Quốc kỳ NZ ("Change the NZ Flag") Lewis Holden cho rằng cuộc tranh luận về quốc kỳ "chỉ mới bắt đầu". Ông chỉ ra rằng sự ủng hộ cho thiết kế thay thế (43%) là một kết quả gần hơn nhiều so với dự đoán của bất kỳ ai, làm suy yếu tầm vóc của quốc kỳ hiện tại và nâng cao khả năng thay đổi quốc kỳ thành công trong tương lai. Ông cũng lưu ý rằng các yếu tố hỗ trợ thay đổi quốc kỳ (tức là sự đa dạng văn hóa, liên kết châu Á–Thái Bình Dương và các biểu tượng độc lập) sẽ chỉ tăng lên trong tương lai. Chiến dịch và tên miền web cũng như trang Facebook của nó đã bị tiếp quản. Cựu nghị sĩ Đảng Xanh Keith Locke cũng chỉ ra rằng kết quả 43% là một sự gia tăng rõ rệt so với các cuộc thăm dò dư luận trước đó cho thấy sự ủng hộ đối với sự thay đổi trong khoảng 20–30%. Ông gợi ý rằng một quy trình thay đổi quốc kỳ với thiết kế tốt hơn và ít bị chính trị hóa hơn có thể dẫn đến đa số phiếu thuận cho sự thay đổi.
Các chính trị gia không được kỳ vọng sẽ xem xét lại vấn đề quốc kỳ trong 15 năm tới hoặc lâu hơn, mặc dù việc trở thành một nước cộng hòa có thể tạo động lực cho một nỗ lực thay đổi khác. Lãnh đạo đảng Lao động Andrew Little đồng ý rằng việc thảo luận về quốc kỳ như một phần của các cuộc tranh luận về hiến pháp là phù hợp sau khi triều đại của Nữ hoàng Elizabeth II kết thúc.
|
Taurida (1784–1796)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808380
|
Tỉnh Taurida (, "Tavricheskaya oblast′") là một tỉnh (oblast) của Đế quốc Nga. Tỉnh gần tương ứng với hầu hết bán đảo Krym và một phần của các khu vực miền Nam Ukraina. Tỉnh được thành lập từ lãnh thổ của Hãn quốc Krym mà Nga sáp nhập vào năm 1783. Năm 1796, khu vực được sáp nhập vào tỉnh Novorossiya. Cái tên "Taurida" bắt nguồn từ tên tiếng Hy Lạp cổ của khu vực là "Tauris", vì vào thời cổ đại một số thành bang Hy Lạp phát triển các tiền đồn thuộc địa trong khu vực.
Tỉnh được thành lập theo ukase hoàng gia vào tháng 2 năm 1784 do Yekaterina Đại đế ký. Trụ sở hành chính của khu vực được tuyên bố là thành phố Simferopol. Trước năm 1784, Qarasuvbazar đóng vai trò là trung tâm hành chính tạm thời.
Hành chính.
Khu vực này được chia thành bảy huyện (uyezd).
Năm 1787, huyện Levkopol và Levkopol được đổi tên thành huyện Feodosiya và Feodosiya một cách trân trọng. Năm 1791, một trụ sở hành chính của huyện Melitopol đã được chuyển đến Đại Tokmak.
Vào ngày 12 tháng 12 năm 1796, tỉnh này bị bãi bỏ, lãnh thổ của nó được chia lại thành hai huyện (Aqmescit (Simferopol cũ) và Perekop) và được chuyển cho tỉnh Novorossiya. Tên thành phố Simferopol được đổi thành Aqmescit.
|
Sophia xứ Gloucester
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808382
|
Vương tằng tôn nữ Sophia xứ Gloucester (Sophia Matilda; 29 tháng 5 năm 1773 – 29 tháng 11 năm 1844) là cháu chắt của George II của Đại Anh và là cháu gái gọi bác của George III của Liên hiệp Anh.
Tiểu sử.
Vương tằng tôn nữ Sophia sinh ra ở Phố Grosvenor, Mayfair. Cha của Sophia là Vương tôn William Henry, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh, con trai thứ ba của Vương tử Frederick, Thân vương xứ Wales. Mẹ của Sophia là Maria Walpole, là con ngoại hôn của Ngài Edward Walpole.
Sophia Matilda được rửa tội kín trong phòng khách tại nhà của cha mẹ ở Mayfair, Dinh Gloucester vào ngày 26 tháng 6 năm 1773, bởi Charles Moss, Giám mục xứ Thánh David. Ba người đỡ đầu của Vương tằng tôn nữ Sophia Matilda là: Công tước và Công tước phu nhân xứ Cumberland và Strathearn, vợ chồng chú ruột của Sophia và Vương hậu Đan Mạch và Na Uy, cô ruột của Sophia, được ủy nhiệm bởi một người khác. Quốc vương George III đã được đề nghị đảm nhiệm vai trò cha đỡ đầu nhưng đã từ chối vì phật lòng với cuộc hôn nhân của em trai mình với Maria Walpole vốn là một thường dân .
Sophia Matilda được coi là nàng dâu tiềm năng cho Vương tử WIlliam, Công tước xứ Clarence và St Andrews (sau này là William IV của Liên hiệp Anh) nhưng Sophia không hứng thú với mối hôn sự này.
Vương tằng tôn nữ sống tại Gloucester Lodge trên Đường Gloucester từ khoảng năm 1805 và ở đó sau khi mẹ qua đời vào năm 1807, nhưng đến năm 1809, Sophia đã bán biệt thự cho George Canning. Sophia cũng cư trú tại New Lodge ở Winkfield, gần Windsor, Berkshire.
Năm 1811, Sophia Matilda đến thăm Hải đội Du thuyền Vương thất tại Northwood trên Đảo Wight cùng với em trai là Công tước xứ Gloucester: Khách sạn Gloucester được đặt tên để vinh danh hai chị em.
Từ năm 1816, Sophia giữ chức vụ Kiểm soát khu vực Công viên Greenwich và có một ngôi nhà tại Dinh Ranger, Blackheath.
Sophia là người bảo trợ ban đầu của thị trấn ven biển mới tên là St Leonard's on Sea, nơi Vương tằng tôn nữ ở tại Gloucester Lodge trên Quarry Hill vào năm 1831. Tòa nhà trước đây được đặt tên là Castellated Villa, nhưng đã được đổi tên để vinh danh Sophia Matilda.
Sophia qua đời tại Dinh Ranger, Blackheath vào ngày 29 tháng 11 năm 1844 và được chôn cất tại Nhà nguyện St George, Windsor.
Tước hiệu và kính xưng.
Với tư cách là cháu chắt dòng nam của Quốc vương George II, Sophia được hưởng kính xưng "Điện hạ" từ khi sinh ra.
|
Sophia xứ Gloucester
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808382
|
Vào ngày 22 tháng 7 năm 1816, em trai của Sophia, Vương tằng tôn William Frederick, Công tước xứ Gloucester, kết hôn với chị họ là Vương nữ Mary của Liên hiệp Anh và Hannover, con gái của Quốc vương George III. Vào ngày cưới của họ, Nhiếp chính vương George đã phong tặng kính xưng "Vương thân Điện hạ" cho Công tước xứ Gloucester. Ngày hôm sau, Sophia cũng được ban cho kính xưng này để ngang hàng với em trai mình.
|
José Árbol y Bonilla
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808383
|
José Árbol y Bonilla (ngày 5 tháng 2 năm 1853 – 1920) là nhà thiên văn học, kỹ sư và nhiếp ảnh gia thiên văn người México.
Nhiều người biết đến tên tuổi của ông từ vụ quan sát Bonilla năm 1883 mà ông quan sát và chụp ảnh hàng trăm vật thể đi qua phía trước Mặt Trời thông qua kính viễn vọng. Danh tính của các vật thể mà ông quan sát vẫn chưa ai biết rõ cho đến năm 2011 thì mới được xác định là những mảnh vỡ của sao chổi.
Những bức ảnh mà Bonilla chụp được chính là một số ví dụ sớm nhất về chụp ảnh vật thể bay không xác định.
Thân thế.
José Árbol y Bonilla sinh ngày 5 tháng 2 năm 1853 tại Ciudad de Zacatecas, Zacatecas, México. Cha ông tên là Francisco Árbol y Bonilla và mẹ là María de Jesús Carrillo.
Ông học kỹ thuật địa hình ở Zacatecas trước khi được thống đốc Zacatecas Gabriel García cấp học bổng vào học trường Escuela de Minas ở Thành phố México năm 1873. Ông học kỹ thuật dân dụng tại Escuela de Minas và hoàn thành khóa học ba năm trong một năm. Nhờ thành tích này mà ông đã được Tổng thống Sebastián Lerdo de Tejada trao giải thưởng "Premio al Mérito" (Giải thưởng Công trạng) vào năm 1875.
Sự nghiệp.
Sau khi tốt nghiệp năm 1874, Bonilla bèn quay trở lại Zacatecas và nhận lời mời làm giáo viên tại Học viện Văn học García, nơi mà ông cũng bắt đầu nghiên cứu khoa học và công nghệ. Năm 1879, ông chuyển sang Paris nhằm nghiên cứu thuật chụp ảnh thiên thể tại Đài quan sát Thiên văn Paris, đồng thời còn là thành viên Hội Khoa học Flammarion ở Paris.
Ngày 6 tháng 12 năm 1882, Đài thiên văn ở bang Zacatecas được khai trương tại Ciudad de Zacatecas do Bonilla làm giám đốc. Đây là đài quan sát thiên văn lớn đầu tiên ở México được mở bên ngoài Thành phố México. Đó là khi ông vào làm giám đốc đài quan sát Zacatecas khi đang thực hiện vụ quan sát Bonilla nổi tiếng của mình vào năm 1883.
Bonilla giữ chức giám đốc đài thiên văn Zacatecas cho đến năm 1911 thì đổi sang làm giám đốc Trường Nghệ thuật và Thủ công Quốc gia ở Thành phố México.
Vụ quan sát Bonilla.
Ngày 12 tháng 8 năm 1883, Bonilla đang chuẩn bị kính viễn vọng để quan sát thì ông quan sát thấy nhiều vật thể đi qua phía trước Mặt Trời.
|
José Árbol y Bonilla
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808383
|
Trong suốt một ngày rưỡi tiếp theo, Bonilla đã chụp 447 bức ảnh về các vật thể này bằng bảng ướt.
Những quan sát của Bonilla lần đầu tiên đến với công chúng vào năm 1886 khi những phát hiện của ông được trình bày chi tiết trong ấn bản ngày 1 tháng 1 năm 1886 của tạp chí thiên văn Pháp "L’Astronomie". Bonilla trước đó đã gửi những phát hiện của mình cho người sáng lập, nhà vật lý người Pháp Camille Flammarion, dẫn đến việc chúng được xuất bản sau hơn hai năm giữ kín. Flammarion và những người khác nghi vấn về việc phát hành tác phẩm của ông, họ bác bỏ những phát hiện này chỉ là do chim, côn trùng hoặc bụi gây ra mà thôi.
Tháng 10 năm 2011, các nhà nghiên cứu từ Đại học Tự trị Quốc gia México đã xuất bản một bài báo khoa học kết luận rằng vụ quan sát Bonilla thực sự là những mảnh vỡ của một sao chổi đã phát nổ và đi qua phía trước Mặt Trời.
Sự quan tâm đến vụ quan sát Bonilla đã được những người đam mê UFO khơi dậy trên Internet vì lần quan sát này là trường hợp đầu tiên về bức ảnh chưa được giải đáp về vật thể bay không xác định và là một bí ẩn phải mất 125 năm để giải quyết.
Đời tư.
Bonilla kết hôn với Aurelia Hierro Alcántara vào tháng 9 năm 1878. Họ có với nhau hai mặt con. José Bonilla qua đời năm 1920 tại Thành phố México.
|
Kherson (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808387
|
Tỉnh Kherson, cho đến năm 1803 gọi là tỉnh Nikolaev, là một tỉnh (guberniya) của Đế quốc Nga, với trung tâm là Kherson. Tỉnh này có diện tích 71.936 km² và có dân số 2.733.612 người tại thời điểm điều tra dân số năm 1897. Tỉnh này giáp với tỉnh Podolia ở phía tây bắc, tỉnh Kiev ở phía bắc, tỉnh Poltava ở phía đông bắc, tỉnh Yekaterinoslav ở phía đông, tỉnh Taurida về phía đông nam, biển Đen ở phía nam và tỉnh Bessarabia ở phía tây. Tỉnh này đại khái tương ứng với phần lớn các tỉnh Mykolaiv, Kirovohrad và Odesa ngày nay và một phần của các tỉnh Kherson và Dnipropetrovsk.
Nền kinh tế của tỉnh chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Trong vụ thu hoạch ngũ cốc, hàng nghìn lao động nông nghiệp từ các vùng của Đế quốc tìm được việc làm trong khu vực. Lĩnh vực công nghiệp của nền kinh tế kém phát triển, bao gồm chủ yếu là xay xát bột mì, chưng cất, công nghiệp gia công kim loại, khai thác sắt, chế biến đường từ củ cải đường và công nghiệp gạch.
Hành chính.
Từ năm 1809, tỉnh này bao gồm năm huyện (uyezd): Kherson, Aleksandria, Ovidiopol, Tiraspol và Yelisavetgrad. Thành phố Odessa mang một vị thế đặc biệt. Năm 1825, huyện Odessa và năm 1834, huyện Ananyev được bổ sung vào bộ phận lãnh thổ của tỉnh Kherson. Huyện thứ bảy là Bobrynets tồn tại từ năm 1828 đến năm 1865. Các thành phố Odessa và Nikolayev (năm 1803–1861) và vùng lân cận được quản lý riêng: Odessa do một gradonachalnik (tiếng Nga: градоначальник) chịu trách nhiệm trực tiếp trước sa hoàng và (từ năm 1822) trước Toàn quyền Novorossiya và Bessarabia, còn Nikolayev do một thống đốc quân sự quản lý.
Năm 1920, dưới sự cai trị của những người Bolshevik, lãnh thổ của tỉnh này rộng 70.600 km² được chia tách để thành lập tỉnh Odessa mới. Tỉnh Kherson còn lại được đổi tên thành tỉnh Mykolaiv (Nikolayev) vào năm 1921, và năm 1922 được sáp nhập với tỉnh Odessa. Năm 1925, tỉnh Odessa bị bãi bỏ và lãnh thổ của nó được chia thành sáu okruha: Kherson, Kryvyi Rih, Mykolaiv, Odessa, Pershotravneve và Zinoviivske.
Nhân khẩu.
Cho đến năm 1858, một phần ba dân số (người định cư quân sự, khu định cư đô đốc, thực dân nước ngoài, v.v.)
|
Kherson (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808387
|
phải tuân theo thiết quân luật. Tỉnh có dân số khoảng 245.000 người vào năm 1812; 893.000 vào năm 1851; 1.330.000 vào năm 1863; 2.027.000 vào năm 1885; 2.733.600 vào năm 1897; và 3.744.600 vào năm 1914. Trong những năm 1850, tỉnh bao gồm người Ukraina (68–75 %), người Romania (8–11 %), người Nga (3–7 %), người Do Thái (6 %), người Đức (4 %), người Bulgaria (2 %), người Ba Lan, người Hy Lạp, và người Digan. Năm 1914, người Ukraina chỉ chiếm 53% dân số, trong khi người Nga chiếm 22% và người Do Thái là 12%. Cư dân thành thị chiếm 10 đến 20% dân số cho đến những năm 1850, sau đó tỷ lệ cư dân thành thị tăng lên, lên khoảng 30% vào năm 1897. Di cư trong Đế quốc Nga chủ yếu góp phần vào sự gia tăng dân số của khu vực, với 46% dân số sinh ra bên ngoài tỉnh vào năm 1897.
Theo Điều tra nhân khẩu của Đế quốc Nga vào ngày 28 tháng 1 [15 tháng 1 lịch cũ] 1897, tỉnh Kherson có dân số 2.733.612, bao gồm 1.400.981 nam và 1.332.631 nữ. Phần lớn dân số xem tiếng Tiểu Nga tức tiếng Ukraina là tiếng mẹ đẻ của họ, với các nhóm thiểu số đáng kể nói tiếng Nga, tiếng Do Thái, tiếng Romania và tiếng Đức.
|
Fuji KM-2
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808398
|
Fuji KM-2 là một loại máy bay hạng nhẹ chạy bằng động cơ cánh quạt do Fuji Heavy Industries phát triển từ Beechcraft T-34 Mentor. Nhiều phiên bản khác nhau đã được sử dụng làm máy bay huấn luyện cơ bản trong Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản.
Thiết kế và phát triển.
Fuji Heavy Industries được thành lập vào tháng 7 năm 1952 với tư cách là công ty kế thừa từ Công ty Máy bay Nakajima, sau đó họ tiến hành sản xuất theo giấy phép dòng máy bay huấn luyện Beechcraft T-34 Mentor. Fuji sử dụng một số chiếc T-34 để phát triển thành Fuji LM-1 Nikko, một máy bay liên lạc quân sự bốn chỗ ngồi trang bị động cơ Continental O-470 sức mạnh 225 mã lực. Với sự ra đời của động cơ mạnh hơn là Lycoming O-480 sức mạnh 340 mã lực, Fuji tiếp tục phát triển phiên bản LM-2. Cả LM-1 và LM-2 đều được Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản sử dụng.
KM là phiên bản dân dụng bốn chỗ ngồi của LM-1, nhưng sử dụng động cơ Lycoming của LM-2. Sau khi chính phủ Nhật Bản sử dụng phiên bản KM để huấn luyện phi công dân sự, KM-2 được phát triển thành máy bay huấn luyện hai chỗ ngồi, chuyến bay đầu tiên diễn ra vào ngày 16 tháng 1 năm 1962. Tổng cộng có 64 chiếc KM-2 được chế tạo, trong đó Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản mua 62 chiếc làm máy bay huấn luyện cơ bản, còn Lực lượng Phòng vệ Mặt đất mua 2 chiếc và đặt tên là TL-1.
KM-2B là phiên bản phát triển tiếp theo của KM-2 để sử dụng làm máy bay huấn luyện chính cho Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhật Bản (JASDF). Nó kết hợp cấu trúc và động cơ của KM-2 với kiểu buồng lái của T-34, chuyến bay đầu tiên diễn ra ngày 17 tháng 1 năm 1978. JASDF đã mua 50 chiếc KM-2B với tên gọi Fuji T-3, việc sản xuất được tiếp tục cho đến năm 1992 thì kết thúc.
Thông số kỹ thuật (KM-2).
"Dữ liệu lấy từ" Jane's All The World's Aircraft 1966–1967
Xem thêm.
Máy bay có sự phát triển liên quan
|
Tranh chấp địa giới hành chính tại Việt Nam
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808407
|
Tranh chấp địa giới hành chính là hành vi tranh chấp quyền quản lý đất đai, mặt nước, đảo, hải đảo liên quan đến địa giới hành chính của các đơn vị hành chính liền kề nhau. Tại Việt Nam, có tình trạng tranh chấp địa giới giữa các đơn vị hành chính cấp tỉnh, giữa các đơn vị hành chính cấp huyện trong cùng tỉnh và giữa các đơn vị hành chính cấp xã trong cùng huyện.
Nguyên nhân của việc tranh chấp địa giới hành chính bao gồm:
Tranh chấp địa giới giữa các đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Theo Bộ Nội vụ Việt Nam, tính đến năm 2008 có 27 điểm tranh chấp địa giới giữa các đơn vị hành chính cấp tỉnh, trong đó có chín điểm là tranh chấp địa giới giữa tỉnh Hòa Bình và tỉnh Hà Tây (từ năm 2008 là thành phố Hà Nội).
Tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng.
Khu vực tranh chấp là bãi Nhà Mạc và bắc đảo Cát Bà với diện tích 23.550,0 ha, tranh chấp giữa huyện Yên Hưng (từ năm 2011 là thị xã Quảng Yên) và thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh với các huyện Thủy Nguyên, Cát Hải, Hải Phòng. Khu bãi Nhà Mạc do 4 xã huyện Yên Hưng quản lý; khu bắc đảo Cát Bà là quần thể thuộc vịnh Hạ Long.
Năm 2019, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các nghị quyết xác định địa giới hành chính giữa tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng tại hai khu vực nêu trên.
Tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng.
Khu vực tranh chấp là Nông trường Quý Cao, với diện tích 105,97 ha, tranh chấp giữa xã Đại Thắng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng với xã Quang Trung, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương. Khu vực này có đất canh tác và khoảng 470 hộ do nông trường Quý Cao (Hải Phòng) quản lý.
Năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nghị quyết xác định địa giới hành chính giữa tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng tại khu vực nêu trên.
Tỉnh Vĩnh Phúc và thành phố Hà Nội.
Khu vực tranh chấp thứ nhất là Dãy núi Chân Chim, với diện tích 65,50 ha, tranh chấp giữa xã Ngọc Thanh, thành phố Phúc Yên, Vĩnh Phúc với xã Minh Trí, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
|
Tranh chấp địa giới hành chính tại Việt Nam
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808407
|
Khu vực này không có dân cư, là đồi núi trọc chỉ có ít cây thông và bạch đàn cao từ 1 m đến 3 m.
Khu vực tranh chấp thứ hai là đầm Tiền Phong, với diện tích 9,60 ha, tranh chấp giữa xã Tiền Phong, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc với xã Kim Chung, huyện Đông Anh, Hà Nội. Khu vực này là đầm nước do nhân dân địa phương thả sen. Năm 2008, huyện Mê Linh được tách ra khỏi tỉnh Vĩnh Phúc và sáp nhập vào thành phố Hà Nội, do đó điểm tranh chấp này chỉ còn là tranh chấp cấp huyện.
Tỉnh Hòa Bình và thành phố Hà Nội.
Khu vực tranh chấp thứ nhất là đồi Thung Mộ, với diện tích 910,00 ha, tranh chấp giữa các xã Yên Bình và Tiến Xuân, huyện Lương Sơn, Hòa Bình với xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Đây là khu vực Láng – Hòa Lạc, địa điểm Dự án Đại học Quốc gia Hà Nội (Nông trường 1A cũ).
Cuối năm 2008, toàn bộ tỉnh Hà Tây và các xã Yên Bình và Tiến Xuân của tỉnh Hòa Bình sáp nhập vào Hà Nội, điểm tranh chấp này cũng đã được giải quyết.
Khu vực tranh chấp thứ hai là cầu Vai Réo, với diện tích 37,38 ha, tranh chấp giữa xã Đông Xuân, huyện Lương Sơn, Hòa Bình với xã Phú Cát, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Đây là vùng đồi, chủ yếu để trồng cây màu (đỗ, sắn, lạc…).
Khu vực tranh chấp thứ ba là đồi Lau, với diện tích 19,72 ha, tranh chấp giữa xã Hòa Sơn, huyện Lương Sơn, Hòa Bình với xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Đây là khu vực Nông trường chè Long Phú trồng bạch đàn ven đường 21A và K12 là đất thổ cư, dân các nơi đến và đã nhập xã Hòa Sơn quản lý.
Khu vực tranh chấp thứ tư là Tân Mai, với diện tích 144,32 ha, tranh chấp giữa xã Hòa Sơn, huyện Lương Sơn, Hòa Bình với thị trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Đây là khu vực dân cư của 2 tỉnh đan xen nhau rất khó phân định.
Khu vực tranh chấp thứ năm là Trường cao đẳng Kỹ thuật, với diện tích 31,04 ha, tranh chấp giữa xã Nhuận Trạch, huyện Lương Sơn, Hòa Bình với xã Thủy Xuân Tiên, huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
|
Tranh chấp địa giới hành chính tại Việt Nam
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808407
|
Đây là khu vực thuộc Trường cao đẳng Kỹ thuật, ven đường 21 là dân cư của Trường và Xí nghiệp Cao su Vạn Hòa, không có dân cư của 2 xã trên.
Khu vực tranh chấp thứ sáu là đồi Ngõng Cối, với diện tích 954,12 ha, tranh chấp giữa xã Liên Sơn, huyện Lương Sơn, Hòa Bình với xã Phương Nam Tiến, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Đây là khu vực dân xã Liên Sơn cấy lúa 2,7 ha, dân xã Nam Phương Tiến trồng rừng 256 ha, có dự án làng Lâm – Nông nghiệp Mỹ Tiến.
Khu vực tranh chấp thứ bảy là hồ Đồng Sương, với diện tích 194,70 ha, tranh chấp giữa xã Thạch Lập, huyện Lương Sơn, Hòa Bình với xã Trần Phú, M. Lương, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Đây là khu vực có 48 mẫu ruộng do xã Thạnh Lập quản lý, mặt nước, lòng hồ do huyện Chương Mỹ quản lý.
Khu vực tranh chấp thứ tám là Ô Môn, với diện tích 601,11 ha, tranh chấp giữa xã Cao Dương, huyện Kim Bôi, Hòa Bình với xã Tuy Lai, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Đây là khu vực được bao bọc, bởi dãy núi đá và một phần là đầm lầy, chỉ trồng sắn, ngô.
Khu vực tranh chấp thứ chín là núi Đá Chẹ, với diện tích 17,40 ha, tranh chấp giữa xã Hợp Thịnh, huyện Kỳ Sơn, Hòa Bình với xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, Hà Nội. Đây là khu vực hồ thả cá và cấy lúa vụ chiêm, núi Đá Chẹ chủ yếu khai thác đá.
Năm 2011, các điểm tranh chấp này cơ bản đã được xử lý.
Tỉnh Hòa Bình và tỉnh Ninh Bình.
Khu vực tranh chấp thứ nhất là Máng Ếch, với diện tích 24,41 ha, tranh chấp giữa xã Ngọc Lương, huyện Yên Thủy, Hòa Bình với xã Yên Quang, huyện Nho Quan, Ninh Bình. Đây là khu vực không có dân cứ, đất cấy 2 vụ lúa.
Khu vực tranh chấp thứ hai là Chín quả đồi Sim, với diện tích 92,50 ha, tranh chấp giữa xã Ngọc Lương, huyện Yên Thủy, Hòa Bình với xã Thạch Bình, huyện Nho Quan, Ninh Bình. Đây là khu vực thung lũng cấy lúa, trên đồi trồng cây theo chương trình PAM (cây keo tượng, bạch đàn).
|
Tranh chấp địa giới hành chính tại Việt Nam
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808407
|
Khu vực tranh chấp thứ ba là đền Cát Đùn, với diện tích 141,82 ha, tranh chấp giữa xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, Hòa Bình với xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, Ninh Bình. Đây là khu vực dân cư chỉ ở tạm trú theo thời vụ, đất trồng theo chương trình PAM, còn một ít đất để trồng màu.
Khu vực tranh chấp thứ tư là Đá Hàn, với diện tích 124,50 ha, tranh chấp giữa xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, Hòa Bình với xã Gia Hòa, huyện Gia Viễn, Ninh Bình. Đây là khu vực có khoảng 130 hộ của xã Gia Hòa đang làm ăn sinh sống, đất trồng màu.
Năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nghị quyết xác định địa giới hành chính giữa hai tỉnh tại hai khu vực.
Tỉnh Hòa Bình và tỉnh Thanh Hóa.
Khu vực tranh chấp là Vạn Mai, với diện tích 99,50 ha, tranh chấp giữa xã Vạn Mai, huyện Mai Châu, Hòa Bình với xã Phú Thanh, huyện Quan Hóa, Thanh Hóa. Đây là khu vực đường 15A, 15B (154) đi qua, dân cư ở đây có hộ khẩu ở tỉnh Hòa Bình.
Năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nghị quyết xác định địa giới hành chính giữa hai tỉnh tại khu vực nêu trên.
Tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Quảng Bình.
Khu vực tranh chấp thứ nhất là giữa xã Kỳ Lạc, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh với xã Ngư Hóa, huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình. Đây là khu vực có đất canh tác và khoảng 2.400 người thuộc xã Ngư Hóa, huyện Tuyên Hóa.
Khu vực tranh chấp thứ hai có diện tích 1.433,00 ha, tranh chấp giữa xã Hương Trạch, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh với xã Hương Hóa, huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình. Đây là khu vực có đất canh tác và khoảng 250 người thuộc xã Hương Hóa, huyện Tuyên Hóa.
Năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản xử lý.
Tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Khu vực tranh chấp có diện tích 11.650,00 ha, tranh chấp giữa xã Hồng Thủy, huyện A Lưới, Thừa Thiên - Huế với xã A Bung, huyện Đắk Rông, Quảng Trị.
|
Tranh chấp địa giới hành chính tại Việt Nam
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808407
|
Khi còn là tỉnh Bình Trị Thiên thì xã Hồng Thủy mượn đất xã A Bung để ở.
Năm 2019, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nghị quyết xác định địa giới hành chính giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và tỉnh Quảng Trị tại hai khu vực nêu trên.
Tỉnh Thừa Thiên - Huế và thành phố Đà Nẵng.
Khu vực tranh chấp là đèo Hải Vân, với diện tích 764,79 ha, tranh chấp giữa xã Lộc Hải, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên – Huế với phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu, Đà Nẵng. Tỉnh Thừa Thiên Huế quản lý khu vực núi Hải Vân và hòn Sơn Chà. TP. Đà Nẵng quản lý tiểu khu rừng 11 nằm bên phía Nam sườn núi Hải Vân, vịnh Đà Nẵng.
Tỉnh Kon Tum và tỉnh Gia Lai.
Khu vực tranh chấp là toàn tuyến địa giới giữa hai tỉnh, với diện tích 2.441,3
km2, do số liệu diện tích hai tỉnh trong Nghị quyết của Quốc hội về việc chia tách tỉnh Gia Lai – Kon Tum là chưa chính xác.
Tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Khánh Hòa.
Khu vực tranh chấp có diện tích 9.345,00 ha, tranh chấp giữa xã Ea Trang, huyện M’Đrăk, Đắk Lắk với xã Ninh Tây, thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa. Phía Đông Bắc là rừng cây đã khai thác và nay được tu bổ (nông trường Ninh Hòa quản lý), phía Tây nam có 1 hộ dân xã Ea Trang sản xuất 2000m2.
Tỉnh Bình Thuận và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Khu vực tranh chấp là cầu Nước Mặn, với diện tích 710,00 ha, tranh chấp giữa xã Tân Thắng, huyện Hàm Tân, Bình Thuận với xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, Bà Rịa – Vũng Tàu. Hai thôn Hà Lãng, Suối Bang, có 532 hộ với khoảng 2.717 người thuộc xã Tân Thắng quản lý nhưng theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ thì thuộc Bà Rịa – Vũng Tàu.
Tỉnh Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh.
Khu vực tranh chấp là Gò Gia, với diện tích 3.426,00 ha, tranh chấp giữa xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, thành phố Hồ Chí Minh với xã Thạnh An, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là khu vực do các đơn vị của thành phố Hồ Chí Minh đang quản lý. Diện tích chưa tính mặt nước sông Gò Gia và Thị Vải.
|
Tranh chấp địa giới hành chính tại Việt Nam
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808407
|
Qua nhiều lần làm việc giữa Bộ Nội vụ với TP HCM và Đồng Nai, đến ngày 5/12/2019, Thủ tướng có Nghị quyết về phân chia địa giới hành chính giữa hai địa phương với sự tham mưu của Bộ Nội vụ. Theo đó, cù lao Gò Gia được công nhận của TP HCM, thuộc xã Thạnh An, huyện Cần Giờ. Đây là điều kiện đủ để ngày 14/1 năm nay UBND thành phố gửi hồ sơ đề nghị Trung ương công nhận Thạnh An là xã đảo và thực hiện chính sách ưu đãi với người dân ở đây.
Năm 2019, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nghị quyết xác định địa giới hành chính giữa tỉnh Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh tại khu vực nêu trên.
Tỉnh Kiên Giang và tỉnh Bạc Liêu.
Khu vực tranh chấp là khu Cạnh Đền, với diện tích 2.190,00 ha, tranh chấp giữa xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Thuận, Kiên Giang với xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, Bạc Liêu. Đây là khu vực đất ở và sản xuất của dân ấp cạnh Đền 2, 3 thuộc xã Vĩnh Phong, một phần của xã Ninh Thạch Lợi Phong Thạnh Nam, huyện Hồng Dân.
Một số điểm khác.
Một số điểm chồng lấn địa giới hành chính khác (chủ yếu phát sinh do có sự không thống nhất giữa hồ sơ, bản đồ với thực trạng quản lý giữa các địa phương):
Điểm thứ hai là Hòn Rớ, giữa phường Ghềnh Ráng (TP.Quy Nhơn) và xã Xuân Hải, thị xã Sông Cầu.
Tranh chấp địa giới giữa các đơn vị hành chính cấp huyện cùng thuộc một tỉnh.
Xã Sùng Đô, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái có 5 thôn bản, thì hai thôn là thôn Làng Mảnh và Giằng Pằng hiện có địa giới hành chính của xã Phong Dụ Thượng, huyện Văn Yên. Hai thôn này có trên 110 hộ dân sinh sống, diện tích đất tự nhiên trên 2.500 ha.
Tranh chấp địa giới giữa các đơn vị hành chính cấp xã cùng thuộc một huyện.
Tại huyện Mường Lát, Thanh Hóa, thời điểm 2012 đã từng có nhiều điểm tranh chấp địa giới giữa xã Tam Chung với các xã Tén Tằn, Mường Lý, Nhi Sơn và thị trấn Mường Lát, giữa xã Tén Tằn và xã Quang Chiểu, giữa xã Nhi Sơn và xã Trung Lý.
|
Cường Đàm
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808409
|
Cường Đàm (sinh ngày 28 tháng 4 năm 1990) là "Giám đốc sáng tạo, Nhà thiết kế thời trang" của hai thương hiệu thời trang C.Dam và CHATS by C.Dam.
Tiểu sử.
Đàm Tiến Cường sinh năm 1990 tại Bắc Ninh, Việt Nam trong một gia đình có nền tảng về văn hoá. Anh tốt nghiệp bậc Cử nhân ngành Kiến Trúc tại Đại học Kiến trúc Hà Nội vào năm 2013.
Từ 2017 đến 2020, anh theo học chuyên ngành Thiết kế tại Học viện Thiết kế & Thời trang London - Hà Nội (LCDF - Hanoi). Phát triển thương hiệu CHATS by C.DAM vào năm 2014, nhà thiết kế tiếp tục ra mắt thương hiệu C.Dam với sự kết hợp giữa "tính văn hoá" và "xu hướng vị lai".
Sự nghiệp.
Trước khi đến với thời trang, Cường Đàm là kiến trúc sư. Tốt nghiệp "Đại học Kiến trúc Hà Nội" với thành tích xuất sắc, Cường nhận được học bổng du học Kiến trúc.
Giai đoạn 2008 - 2012, Cường Đàm từng đạt giải thưởng "Festival kiến trúc toàn quốc 2010" và giải thưởng "Kiến trúc toàn bộ Tư lệnh 2013". Sau năm năm gắn bó với môi trường kiến trúc, anh nhận ra thời trang mới phù hợp với mình. Không ngại làm lại từ đầu, Cường ghi danh theo học tại "Học viện Thiết kế và Thời trang London (LCDF)", Hà Nội.
Năm 2014, NTK Cường Đàm sáng lập thương hiệu thời trang cao cấp CHATS by C.Dam với phong cách, mục tiêu theo đuổi: "Nữ tính, thanh lịch, tôn dáng vóc người phụ nữ."
Tốt nghiệp Học viện Thời trang London (LCDF - Hanoi) năm 2020 với bộ sưu tập "Warriors in Yoshiwara" "(Những chiến binh Yoshiwara)" tại show Utopia - Không tưởng của học viện, nguồn cảm hứng về thân phận người phụ nữ tại .
Bên cạnh sự kết hợp giữa thời trang và kiến trúc, các thiết kế của Cường Đàm cũng được lấy cảm hứng từ nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trình diễn và đa dạng các lĩnh vực khác.
Năm 2021, thương hiệu CHATS by C.Dam đánh dấu bước chuyển mình với phong cách đương đại nhưng vẫn giữ được sự thanh lịch ban đầu. Các bộ sưu tập "Slice, Fusion, Inflow, Luster" mang cảm hứng về "người phụ nữ của thời đại với lối sống độc lập".
NTK Cường Đàm kết hợp cùng Điêu khắc gia Khổng Đỗ Tuyền trong bộ sưu tập "Artifact."
|
Cường Đàm
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808409
|
Mang cái tên đầy tính nghệ thuật – "Artifact" (đồ tạo tác), bộ sưu tập đã gây ấn tượng với giới mộ điệu khi kết hợp thời trang với điêu khắc.
Năm 2022, Tuần lễ Thời trang & Nghệ thuật INFLOWING của NTK Cường Đàm gây được sự chú ý của công chúng. "Inflowing -" hành trình đi tìm điểm giao thoa của những giá trị đối lập trên một vòng tròn: "quá khứ - tương lai, trắng - đen, Đông và Tây, ngày và đêm". Tất cả gói trọn trong quan niệm "âm - dương của văn hoá Á Đông". Hành trình hướng tâm ấy được ví như con đường trở về cội nguồn để tìm ra những giá trị cốt lõi, rồi phát triển, hướng chúng đến tương lai, tạo nên nghệ thuật thời trang đương đại.
Không chỉ ra mắt B"ộ sưu tập Xuân Hè 2023" với "Figure" tại sự kiện thời trang cho tạp chí Elle tổ chức, NTK Cường Đàm và đội ngũ của mình còn kể câu chuyện về người phụ nữ thời đại mới thông qua ngôn ngữ sáng tạo riêng biệt. Màn catwalk lùi và chạy dài trên sàn diễn dài 130m của Minh Tú cùng dàn model đã tạo nên "lịch sử" mới trong ngành thời trang Việt.
Anh đã đồng hành cùng nhiều gương mặt có tầm ảnh hưởng như hoa hậu Lương Thùy Linh, fashionista Quỳnh Anh Shyn, Tú Hảo, MC Liêu Hà Trinh...Đặc biệt, Cường Đàm từng đồng hành cùng Kim Duyên trong hành trình chinh phục sắc đẹp Miss Universe 2021. Hồ Ngọc Hà cũng từng ưu ái lựa chọn thiết kế của anh làm trang phục trình diễn tại Vietnam International Fashion Week.
|
Nơi giấc mơ tìm về
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808411
|
Nơi giấc mơ tìm về (tên cũ: Bà ngoại lắm chiêu) là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do Trịnh Lê Phong làm đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 21h00 từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần bắt đầu từ ngày 22 tháng 5 năm 2023 và kết thúc vào ngày 28 tháng 7 năm 2023 trên kênh VTV1.
Nội dung.
"Nơi giấc mơ tìm về" xoay quanh câu chuyện của bà Lan (NSND Lê Khanh) và cháu nội Gia An (Lãnh Thanh). Bà Lan một mình chèo lái công ty gia đình, nuôi dạy cháu ngoại và mong muốn Gia An sẽ gánh vác thay mình. Trong khi đó, Gia An lại muốn sống một cuộc sống tự do tự tại chứ không hề hào hứng với ý nghĩ nối nghiệp, nhất là khi cậu thừa hiểu tính nguyên tắc, hay áp đặt của bà mình. Đối phó với đứa cháu “khó trị” này, bà Lan để hai cánh tay đắc lực nhất của mình là ông Kình - phó giám đốc (NSƯT Đỗ Kỷ), cùng Phương - thư ký riêng (Việt Hoa) trợ giúp Gia An trong quá trình làm quen và quản lý công ty.
Diễn viên.
Diễn viên phụ.
Cùng một số diễn viên khác...
Nhạc phim.
Bài hát trong phim là ca khúc "Yêu thật nhiều" do Duy Chiến sáng tác, Minh Ngọc thể hiện.
Sản xuất.
Bộ phim do Trịnh Lê Phong làm đạo diễn, kịch bản được chấp bút bởi Lê Anh Thúy, Nguyễn Mạnh Cường, Đặng Diệu Hương và Đàm Vân Anh. Đây là tác phẩm khai thác về những người cao tuổi cũng như những người trẻ tuổi và là đề tài mới nhất của đạo diễn Trịnh Lê Phong sau những tác phẩm anh làm trước đó như "hai phần phim Ghét thì yêu thôi, Yêu thì ghét thôi, cùng với Cô gái nhà người ta, Trở về giữa yêu thương, Anh có phải đàn ông không và Thông gia ngõ hẹp".
Vai chính lần lượt do NSND Lê Khanh, NSƯT Đỗ Kỷ, Lãnh Thanh, Minh Thu và Việt Hoa đảm nhận. Ngoài ra, bộ phim còn có sự trở lại của hai gương mặt trẻ gồm Trung Tuấn sau vai diễn Thượng uý công an Đặng Hồng Phúc trong "Hành trình công lý" và Thục Anh, người đã từng gây ấn tượng với vai diễn tiểu tam Dương trong "Hương vị tình thân".
|
Nơi giấc mơ tìm về
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808411
|
Bộ phim đánh dấu sự trở lại của NSND Lê Khanh sau 5 năm vắng bóng màn ảnh nhỏ kể từ phim "Mẹ ơi, bố đâu rồi?", đồng thời đánh dấu lần đầu Bắc tiến của Lãnh Thanh cũng như lần đầu tiên anh tham gia một bộ phim do VFC sản xuất. Đây được xem là vai chính đầu tay của Minh Thu, sau hai bộ phim cô đóng là "Hương vị tình thân" và "Phố trong làng". Đặc biệt, NSND Trọng Trinh và NSƯT Đặng Tất Bình cũng tham gia bộ phim. Đây là lần thứ sáu diễn viên Việt Hoa được đạo diễn Trịnh Lê Phong chọn mặt gửi vàng.
Buổi họp báo ra mắt bộ phim được tổ chức vào ngày 13 tháng 5 năm 2023, tác phẩm chính thức lên sóng vào ngày 22 tháng 5 năm 2023 trên kênh VTV1, nối tiếp phiên bản phát hành lại của "Khúc hát mặt trời."
|
Lực lượng Hàng không vũ trụ Nga
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808437
|
Lực lượng Hàng không Vũ trụ Nga (tiếng Nga: "Воздушно-космические силы", chuyển ngữ: "Vozdushno-kosmicheskiye sily", viết tắt là ВКС hay VKS, tiếng Anh: "Russian Aerospace Forces" hay "Russian Air and Space Forces") bao gồm các nhánh tổ chức của lực lượng hàng không và vũ trụ trong cơ cấu tổ chức của Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga. Phía Nga đã thành lập nên Lực lượng Hàng không Vũ trụ Nga như một nhánh mới của quân đội Nga vào ngày 1 tháng 8 năm 2015 với sự hợp nhất của Lực lượng Không quân Nga (VVS) và Lực lượng Phòng vệ Hàng không vũ trụ Nga (VVKO) theo khuyến nghị của Bộ Quốc phòng Nga.
Lực lượng Hàng không Vũ trụ Nga có trụ sở chính tại thủ đô Moskva. Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu biện bạch rằng việc sáp nhập nhằm nâng cao hiệu quả và công tác hỗ trợ hậu cần. Nhân lực của Lực lượng Hàng không Vũ trụ Nga là 165.000 nhân viên tính đến năm 2020. Theo Jane's Information Group, với sự hợp nhất của Không quân Nga và Lực lượng Phòng vệ Hàng không Vũ trụ Nga, Lực lượng Hàng không Vũ trụ Nga mới bao gồm ba nhánh đơn vị:
|
Lực lượng Phòng vệ Hàng không vũ trụ Nga
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808438
|
Lực lượng Phòng vệ Hàng không vũ trụ Nga (tiếng Nga: "Войска воздушно-космической обороны", viết tắt: "ВВКО", tiếng Anh là "Russian Aerospace Defence Forces" hoặc "Russian Air and Space Defence Forces" viết tắt: "VVKO") là một nhánh của các Lực lượng Vũ trang của Liên bang Nga chịu trách nhiệm phòng thủ hàng không vũ trụ và hoạt động của các vệ tinh quân sự Nga và Sân bay vũ trụ Plesetsk. Lực lượng Phòng vệ Hàng không vũ trụ Nga được thành lập vào ngày 01 tháng 12 năm 2011 và thay thế Lực lượng Vũ trụ Nga.
Lực lượng Phòng vệ Hàng không vũ trụ lần đầu tiên được chỉ huy dưới tay của cựu chỉ huy Lực lượng Vũ trụ là Đại tá Oleg Ostapenko vốn là người được thăng chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nga vào tháng 11 năm 2012. Tháng 12 năm 2012, tướng Aleksandr Golovko được bổ nhiệm làm chỉ huy mới. Vào ngày 01 tháng 8 năm 2015, Lực lượng Không quân Nga và Lực lượng Phòng vệ Hàng không Vũ trụ Nga đã được sáp nhập để tạo thành Lực lượng Hàng không Vũ trụ Nga. Các nhiệm vụ phòng thủ không gian của Lực lượng Phòng vệ Hàng không Vũ trụ Nga hiện thuộc về Lực lượng Vũ trụ Nga dưới sự bảo trợ của Lực lượng Hàng không Vũ trụ Nga mới thành lập. Lực lượng Phòng vệ Hàng không vũ trụ Nga RADF ngày nay chỉ chịu trách nhiệm về vấn đề phòng không.
|
Lực lượng Không gian Nga
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808440
|
Lực lượng Vũ trụ Nga (tiếng Nga: "Космические войска России", chuyển tự: "Kosmicheskie voyska Rossii" viết tắt là KV, tiếng Anh là "Russian Space Forces") là nhánh lực lượng vũ trụ của Lực lượng Hàng không Vũ trụ Nga. Lực lượng Vũ trụ Nga được tái lập sau sự hợp nhất ngày 01 tháng 8 năm 2015 giữa Lực lượng Không quân Nga và Lực lượng Phòng vệ Hàng không Vũ trụ Nga sau khi chi nhánh đơn vị độc lập bị giải thể vào năm 2011. Lực lượng Vũ trụ Nga ban đầu được thành lập vào ngày 10 tháng 8 năm 1992, cùng với việc thành lập Lực lượng Vũ trang Nga. Đơn vị này đã chia sẻ quyền kiểm soát Sân bay vũ trụ Baikonur với Roscosmos thuộc Cơ quan Vũ trụ Liên bang.
Lực lượng Vũ trụ Nga cũng đảm nhiệm việc vận hành Plesetsk và Sân bay vũ trụ Svobodny. Tuy nhiên, Lực lượng Vũ trụ Nga đã bị giải thể vào tháng 7 năm 1997 và được sáp nhập vào Lực lượng Tên lửa Chiến lược. Lực lượng Vũ trụ Nga một lần nữa được cải tổ thành một quân đội độc lập vào ngày 01 tháng 6 năm 2001, dưới sự tổ chức lại quân đội. Tuy nhiên, đến tháng 12 năm 2011, lực lượng lại bị giải thể một lần nữa và lần này được thay thế bằng Lực lượng Phòng vệ Hàng không Vũ trụ Nga. Vào ngày 01 tháng 8 năm 2015, Không quân Nga và Lực lượng Phòng vệ Hàng không vũ trụ Nga đã được sáp nhập để tạo thành Lực lượng Hàng không vũ trụ Nga. Kết quả là Lực lượng Vũ trụ Nga đã được tái lập và hiện nay là một trong ba bộ phận của nhánh quân sự mới.
|
Chủ tịch Hạ viện (Canada)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808447
|
Chủ tịch Hạ viện () là viên chức đứng đầu hạ viện của Nghị viện Canada. Chức vụ được nắm giữ bởi một nghị sĩ của Nghị viện (MP), được bầu vào đầu mỗi khóa Nghị viện mới bởi các nghị sĩ đồng khóa. Vai trò của Chủ tịch Hạ viện Canada tương tự như vai trò của các chủ tịch hạ viện khác ở các quốc gia trong hệ thống Westminster.
Chủ tịch thứ 37 và hiện tại của Hạ viện Canada là Anthony Rota, giữ chức vụ này kể từ ngày 5 tháng 12 năm 2019. Chủ tịch Hạ viện có nhiệm kỳ dài nhất là Peter Milliken, người được bầu 4 nhiệm kỳ liên tiếp kéo dài 10 năm, 124 ngày.
Chủ tịch danh dự.
Vào ngày 9 tháng 3 năm 2016, Nghị sĩ Đảng Tự do Mauril Bélanger đã giữ chức Chủ tịch danh dự trong khoảng một giờ để tôn vinh những năm phục vụ của ông. Sau đó, chủ tịch Hạ viện Regan tiếp tục nhiệm vụ của mình trong phần còn lại của phiên họp Hạ viện.
Mauril Bélanger ban đầu được xem là ứng cử viên hàng đầu cho vị trí Chủ tịch Hạ viện vào năm trước, nhưng ông đã rút lui do được chẩn đoán mắc chứng xơ cứng teo cơ một bên. Bélanger qua đời vào ngày 15 tháng 8 năm 2016, 5 tháng sau khi được bổ nhiệm làm chủ tịch danh dự.
Chức vụ tương ứng.
Chức vụ tương ứng với Chủ tịch Hạ viện ở Thượng viện là Chủ tịch Thượng viện Canada. Các cơ quan lập pháp cấp tỉnh bang và vùng lãnh thổ của Canada cũng có các Chủ tịch với vai trò tương tự. Chức vụ này có tiền thân là Chủ tịch Hội đồng Lập pháp Tỉnh Canada.
Danh sách Chủ tịch Hạ viện.
Ghi chú:
|
Lực lượng Tác chiến đặc biệt (Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808450
|
Lực lượng Tác chiến đặc biệt (tiếng Nga: "Силы специальных операций", viết tắt ССО, chuyển tự: "Sily spetsial'nykh operatsiy", viết tắt: SSO, tiếng Anh: "Special Operations Forces of the Armed Forces of the Russian Federation" hay là "Special Operations Forces", viết tắt là SOF) là các lực lượng đặc biệt cấp chiến lược trực thuộc Bộ Tư lệnh Lực lượng Tác chiến Đặc biệt (tiếng Nga: "командование сил специальных операций"; KCCO, chuyển tự: "Komandovanie sil spetsial'nykh operatsii" viết tắt là KSSO hay KSO, tiếng Anh: "Special Operations Forces Command", còn được biết đến dưới cái tên "người lịch thiệp") của Bộ Tổng tham mưu Liên bang Nga. Đây cũng là một đơn vị cấu trúc và độc lập của Lực lượng Vũ trang Nga.
Theo Bộ Quốc phòng Liên bang Nga, Lực lượng Tác chiến Đặc biệt của Nga có trình độ kĩ chiến thuật đặc biệt, khả năng chiến đấu tinh nhuệ, cao nhất trong quân đội Nga. Họ có nhiều kiến thức về đặc thù các khu vực, cũng như được trang bị vũ khí và thiết bị hiện đại. Kho vũ khí của SSO bao gồm Hệ thống thông tin tình báo, điều khiển và liên lạc (KRUS) cho phép truyền dữ liệu trinh sát tới máy bay của Lực lượng Không gian Vũ trụ đang làm nhiệm vụ trên bầu trời. Thông tin về nhân sự và hoạt động của SOF luôn được giữ bí mật. Lực lượng đã tham gia chiến dịch ở Crimea (năm 2014), Syria và đụng độ với cướp biển Somalia. KSSO hầu như ít tham gia các hoạt động kể từ khi được thành lập vào năm 2012, họ có tham gia một số chiến dịch cả gần và xa lãnh thổ Nga, đảm nhận những mục tiêu quan trọng về mặt chiến lược, cũng như tham gia vào những hoạt động thôn tính, sáp nhập.
Tổ chức.
Các đơn vị đầu tiên của Lực lượng Tác chiến Đặc biệt đã được chuyển giao từ GRU vào năm 2009 như một phần của quá trình cải cách quân đội Nga năm 2008.
|
Lực lượng Tác chiến đặc biệt (Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808450
|
Bộ Tư lệnh Lực lượng Tác chiến Đặc biệt được thành lập vào năm 2012 và được công bố vào tháng 3 năm 2013 dưới quyền của Tổng Tham mưu trưởng Valery Gerasimov Theo Tướng Gerasimov thì SOF được thiết kế như lực lượng cấp chiến lược, các đơn vị lực lượng hoạt động đặc biệt tinh nhuệ của KSSO có nhiệm vụ chính là hoạt động can thiệp ở nước ngoài bao gồm chống phổ biến vũ khí hạt nhân, các hoạt động phòng thủ nội bộ nước ngoài và thực hiện các hoạt động đặc biệt phức tạp nhất và các nhiệm vụ bí mật cho bảo vệ lợi ích của Liên bang Nga.
SOF khác với Spetsnaz GRU cho đến năm 2010 thuộc Tổng cục tình báo và sự phụ thuộc sau đó của lực lượng này vẫn chưa rõ ràng cho đến năm 2013 khi quyết định được đảo ngược và các đơn vị lực lượng đặc biệt của GRU được chỉ định lại cho các sư đoàn GRU và được đặt dưới quyền GRU một lần nữa. SOF của Nga được quản lý độc quyền từ các nhân sự chuyên nghiệp được thuê mướn theo hợp đồng, tất cả đều là quân nhân chính thức bao gồm hạ sĩ quan và binh lính chính quy. Vào ngày 26 tháng 2 năm 2015, Tổng thống Vladimir Putin đã ra sắc lệnh rằng ngày 27 tháng 2 là Ngày của SOF, theo nhiều hãng thông tấn chính thức của Nga (mặc dù không được thừa nhận chính thức), để đánh dấu việc thiết lập quyền kiểm soát của Nga đối với tòa nhà của Hội đồng Tối cao của Cộng hòa tự trị Crimea tại Simferopol thuộc Crimea vào ngày 27 tháng 2 năm 2014.
Nhiệm vụ.
Lực lượng Tác chiến Đặc biệt là một lực lượng có tính cơ động cao, được huấn luyện và trang bị tốt, sẵn sàng chiến đấu liên tục trong số các lực lượng tác chiến đặc biệt của Bộ Quốc phòng Nga. Được thiết kế để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể, SOF có khả năng hoạt động cả trong nước và nước ngoài, trong thời bình và thời chiến (với việc áp dụng lực lượng quân sự, khi cần thiết).
|
Lực lượng Tác chiến đặc biệt (Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808450
|
Bộ Quốc phòng Nga định nghĩa thuật ngữ ""hoạt động đặc biệt" là "các phương pháp và cách thức chiến đấu không phải là đặc trưng của các lực lượng thông thường như trinh sát và phá hoại, lật đổ và dụ dỗ, lôi kéo chống đối, chống khủng bố, phản phá hoại, phản gián, du kích, phản du kích và các hoạt động khác"".
SOF chủ yếu dính líu đến Syria, tiến hành xác định mục tiêu cho Không quân Nga máy bay chiến đấu tiến hành không kích và Hải quân Nga trên biển -thực hiện các cuộc tấn công tên lửa hành trình, đóng vai trò là cố vấn quân sự huấn luyện quân đội chính phủ Syria, tìm kiếm và tiêu diệt các đối tượng quan trọng của kẻ thù, phá vỡ hậu tuyến của kẻ thù thông qua các cuộc phục kích, phá hoại các mục tiêu có giá trị cao, các vụ ám sát và các cuộc tấn công trả đũa. Vào tháng 2 năm 2022, SOF đã tham gia vào cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine, tiến hành các hoạt động bí mật nhắm vào cơ sở hạ tầng quân sự quan trọng và các hệ thống hỗ trợ của Ukraine và các nhiệm vụ do thám phía sau phòng tuyến của đối thủ.
Năm 2015, một oanh tạc cơ Su-24 của Nga bị bắn hạ bên trên không phận Thổ Nhĩ Kỳ và KSSO đã nhanh chóng lấy lại hộp đen. Cuộc tấn công Palmyra diễn ra từ năm 2017 đánh dấu một chiến thắng quyết định trước nhà nước Hồi giáo Iraq và Cận Đông (ISIL) khi đó lực lượng quốc gia Syria đã chiếm lại được thành phố Palmyra. Một số cố vấn từ các đặc nhiệm Nga bao gồm KSSO đã hỗ trợ cho lực lượng này. Trong cuộc tấn công vào Aleppo thì 16 đặc nhiệm của KSSO đã đương cự với 300 phiến quân, cuối cùng sự kháng cự của KSSO buộc phiến quân phải lùi bước và dừng các nỗ lực tấn công. Trận đánh Akerabat khi quân nhân Denis Portnyagin rơi vào ổ phục kích của 40 tay súng phe nổi dậy và đã tự mình giao chiến và tiêu diệt một số lượng lớn các tay súng và đã nhận được tặng thưởng Anh hùng Nga.
|
Yekaterinoslav (tỉnh)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808451
|
Tỉnh Yekaterinoslav (, ) là một tỉnh (guberniya) của Đế quốc Nga, với thủ phủ đặt tại Yekaterinoslav (nay là Dnipro của Ukraina). Tỉnh này có diện tích 63.392 km², và có dân số là 2.113.674 theo điều tra dân số năm 1897. Tỉnh Yekaterinoslav giáp với tỉnh Poltava ở phía bắc, tỉnh Quân đoàn Don ở phía đông, biển Azov ở phía đông nam, tỉnh Taurida ở phía nam và tỉnh Kherson ở phía đông. Hiện nay tỉnh lịch sử này bao phủ các tỉnh Luhansk, Donetsk, Dnipropetrovsk, và Zaporizhzhia của Ukraina.
Vị trí.
Chính quyền tỉnh được thành lập vào năm 1802 từ phó nhiếp chính Yekaterinoslav. Tỉnh này ở phía bắc giáp với tỉnh Kharkov và tỉnh Poltava, về phía tây và tây nam giáp với tỉnh Kherson, về phía nam với tỉnh Taurida và biển Azov, và về phía đông giáp với tỉnh Quân đoàn Don.
Hành chính.
Tỉnh được thành lập thay cho tỉnh Novorossiysk vào năm 1802 và bao gồm một khu vực rộng lớn ở miền nam Ukraina. Về mặt chính thức, tỉnh mới được thành lập với tên gọi tỉnh Ekaterinoslav vào năm 1802 và được chia thành các huyện sau với các trung tâm ở:
Okrug.
Danh sách okruha của Ukraina sau khi giải thể tỉnh:
Nhân khẩu.
Cư dân của tỉnh phần lớn là nông dân, đạt 662.000 vào năm 1811, 902.400 vào năm 1851, 1.204.800 vào năm 1863 và 1.792.800 vào năm 1885. Từ nửa sau của thế kỷ 19, nhờ việc thành lập Yuzovka (Donetsk), tỉnh trở thành một trung tâm khai thác than và luyện kim của "Ukraina" lúc bấy giờ, kết hợp vùng công nghiệp Dnepr và Donbass (Lưu vực Donets).
Dân số của tỉnh tăng lên 2.113.674 vào năm 1897. Các dân tộc trong tỉnh là người Ukraina - 68,9% , người Nga - 17,3% , người Do Thái (4,7%), người Đức (3,8%), người Hy Lạp (2,3%) và người Tatar (0,8%). Năm 1924, tỉnh có 3.424.100 cư dân (13,6% dân đô thị), sống trong 5.165 khu định cư, 36 trong số đó là thành phố và khu định cư kiểu đô thị. Tầng lớp xã hội lớn nhất là công nhân (khoảng 25%).
Thành phố chính.
Từ khi bước sang thế kỷ 19 cho đến năm 1887, thành phố Rostov-na-Donu và tất cả huyện Taganrog đều là một phần của tỉnh, nhưng trước khi cuộc điều tra dân số năm 1897 diễn ra, chúng được chuyển đến tỉnh Quân đoàn Don.
|
Yekaterinoslav (tỉnh)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808451
|
Lưu ý rằng thành phố lớn nhất của guberniya là thành phố Rostov-na-Donu, trong khi Taganrog không nhỏ hơn nhiều và có quy mô lớn thứ ba. Đây là dữ liệu về chúng:
|
Cơ quan Tình báo Quân đội Nga
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808461
|
Cơ quan Tình báo Quân đội Nga (viết tắt là GRU, được biết với tên tiếng Anh là "Main Directorate of the General Staff of the Armed Forces of the Russian Federation" và trước đây gọi là "Main Intelligence Directorate") là cơ quan ngoại giao kiêm cơ quan tình báo quân sự của Bộ Tổng tham mưu Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga. Cơ quan Tình báo Quân đội Nga kiểm soát cơ quan tình báo quân sự và duy trì các đơn vị lực lượng đặc biệt của riêng mình. Cơ quan Tình báo Quân đội Nga sở hữu mạng lưới điệp viên rộng khắp ở nước ngoài, có vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh của nước Nga. Theo những tuyên bố chưa được xác minh của Stanislav Lunev một người đào thoát khỏi GRU vào năm 1997 thì cơ quan này đã triển khai số điệp viên ở nước ngoài nhiều gấp sáu lần so với SVR và chỉ huy khoảng 25.000 lính Spetsnaz. Hiện đây là một lực lượng đặc biệt thuộc biên chế Lực lượng đổ bộ đường không của Quân đội Nga và được xem là lực lượng đặc nhiệm yêu thích của Tổng thống Nga.
Tổ chức.
Tiền thân đầu tiên của GRU ở nước Nga Xô viết được thành lập theo lệnh bí mật được ký vào ngày 5 tháng 11 năm 1918 dưới sự lãnh đạo của Jukums Vācietis là tổng tư lệnh đầu tiên của Hồng quân (RKKA) và còn được dẫn dắt bởi Ephraim Sklyansky là phó của Leon Trotsky, lãnh đạo dân sự của Hồng quân (Kể từ năm 2006, Liên bang Nga đã chính thức coi ngày 5 tháng 11 là Ngày nghỉ lễ của cơ quan tình báo quân sự ở Nga). Năm 1991, GRU trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Các Lực lượng vũ trang Liên bang Nga. Năm 2010, trong quá trình cải tổ Bộ Quốc phòng, GRU Spetsnaz đã được chuyển giao cho lực lượng lính dù và chỉ huy quân đội của Nga. Ngày nay, GRU Spetsnaz là một phần của Lực lượng tác chiến đặc biệt, có trụ sở bên ngoài Moscow tại Kubinka-2. Từ năm 2014 đến năm 2015, GRU Spetsnaz nằm dưới sự chỉ huy của Alexey Dyumin, một cựu vệ sĩ của Tổng thống Vladimir Putin và là Thống đốc hiện tại của vùng Tula.
Tổng hành dinh của GRU nằm trên Đại lộ Khoroshevski ở Thủ đô Moscow, gồm các tòa nhà khép kín, được bảo vệ bằng hàng rào đặc biệt gia cố bằng bê-tông, xe thiết giáp không thể đâm thủng. Tổ hợp gồm chín tầng trên mặt đất và nhiều tầng ngầm.
|
Cơ quan Tình báo Quân đội Nga
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808461
|
Tầng 9 đặt hệ thống kỹ thuật nhằm bảo đảm hoạt động cho toàn bộ tổng hành dinh. Tầng thượng có hai sân bay trực thăng phục vụ lãnh đạo cấp cao. Tổ hợp văn phòng hiện đại này do các đơn vị quân đội xây dựng. Tất cả trang thiết bị điện tử, vật liệu xây dựng đều do Nga sản xuất và được kiểm tra vô cùng kỹ lưỡng để đề phòng bị cài đặt thiết bị nghe lén. Cơ sở vật chất tại đây bảo đảm đáp ứng điều kiện tốt nhất cho các sĩ quan tình báo quân sự có thể làm việc, tập luyện, sinh hoạt, nghỉ ngơi, giải trí mà không cần phải ra ngoài. Trụ sở của GRU được ngăn cách thành nhiều khu vực, mỗi khu vực chỉ dành riêng cho những nhân vật có trách nhiệm; một số khu vực được bảo vệ an ninh cực kỳ nghiêm ngặt và hạn chế số người ra vào.
Điệp vụ.
Không giống như các cơ quan an ninh và tình báo khác của Nga—chẳng hạn như Cục Tình báo Hải ngoại ("SVR"), Tổng cục An ninh Liên bang Nga ("FSB") và Cơ quan Bảo vệ Liên bang Nga ("FSO") thì những người đứng đầu Cơ quan Tình báo Quân đội Nga báo cáo trực tiếp với tổng thống Nga là người điều hành trực tiếp GRU trực thuộc bộ chỉ huy quân sự Nga đồng thời báo cáo lại cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng tham mưu trưởng. Nổi tiếng là cơ quan tình báo nước ngoài lớn nhất của Nga và được phân biệt giữa các đối tác vì sẵn sàng thực hiện "các hoạt động phức tạp, rủi ro cao" hơn. GRU Spetsnaz cũng tham gia cả hai cuộc chiến tranh Chechnya. Vào giữa những năm 1990, đội quân của GRU Spetsnaz đang ở Tajikistan dưới sự chỉ huy của Vladimir Kvachkov, huấn luyện binh lính địa phương và giải phóng các vùng lãnh thổ bị quân khủng bố chiếm đóng. Năm 2008, GRU Spetsnaz đã tham chiến trong cuộc chiến ngắn chống lại Gruzia. Kể từ năm 2014, GRU Spetsnaz thực hiện các sứ mệnh ở Ukraine.
|
Yevgeny Viktorovich Prigozhin
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808467
|
Yevgeny Viktorovich Prigozhin (tiếng Nga: Евгений Викторович Пригожин; 1 tháng 6 năm 1961 – 23 tháng 8 năm 2023) là một nhà Tài phiệt Nga, cố chỉ huy tập đoàn quân sự Wagner. Ông Prigozhin đôi khi được gọi là "đầu bếp của Putin" vì ông đã từng sở hữu các nhà hàng và công ty cung cấp dịch vụ ăn uống cho Điện Kremlin. Từng là một tù binh chiến tranh trong thời kỳ Liên Xô nhưng Prigozhin hiện đã kiểm soát một mạng lưới các công ty có ảnh hưởng bao gồm một công ty lính đánh thuê do nhà nước Nga hậu thuẫn là Tập đoàn Wagner và ba công ty vốn đã bị cáo buộc can thiệp vào cuộc bầu cử năm 2016 và bầu cử năm 2018 của Hoa Kỳ. Theo một cuộc điều tra năm 2022 của các hãng thông tấn phương Tây là "Bellingcat", "The Insider" và "Der Spiegel" thì các hoạt động của trùm Prigozhin "được phối kết hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng Nga và cơ quan tình báo GRU".
Sau nhiều năm phủ nhận mối liên hệ của mình với Wagner, cuối cùng ông đã thừa nhận rằng mình chính là người sáng lập tổ chức đánh thuê khét tiếng này vào ngày 26 tháng 9 năm 2022. Ông ấy thú nhận rằng đã thành lập lực lượng này vào tháng 5 năm 2014, để hỗ trợ các lực lượng Nga trong cuộc chiến ở Donbass. Việc thừa nhận này được đăng tải trên một video lan truyền trong đó Prigozhin xuất hiện trong một nhà tù Mari El đang chiêu mộ các tù nhân, hứa hẹn trả tự do cho họ nếu họ phục vụ sáu tháng trong Tập đoàn Wagner. Trùm Prigozhin, các công ty và cộng sự của ông ấy từng phải đối mặt với các biện pháp trừng phạt kinh tế và cáo buộc hình sự ở Hoa Kỳ và ở Vương quốc Anh, ông này vẫn là người phải chịu các lệnh trừng phạt. FBI đã ra quyết định treo thưởng 250.000 đô la cho những ai cung cấp được thông tin liên quan đến Prigozhin để phục vụ cho việc bắt giữ ông. Tuy nhiên, về sau Hoa Kỳ và Vương quốc Anh đã dỡ bỏ các lệnh trừng phạt nhắm vào Prigozhin sau khi biết tin ông này "có xảy ra mâu thuẫn với giới lãnh đạo Nga".
Prigozhin công khai chỉ trích Bộ Quốc phòng Nga tham nhũng và yếu kém trong cuộc chiến chống Ukraina.
|
Yevgeny Viktorovich Prigozhin
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808467
|
Vào ngày 23 tháng 6 năm 2023, Prigozhin chính thức phát động cuộc nổi dậy chống lại giới lãnh đạo quân sự Nga và sau đó cùng ngày, Prigozhin đã tuyên bố rằng lực lượng Wagner của ông đã chiếm được Rostov-on-Don trước khi có ý định tấn công Moskva. Sau khi nhận được tin trên, giới lãnh đạo Nga đã ra lệnh khởi tố, bắt tạm giam Prigozhin; Các cuộc đàm phán dẫn đến cuộc nổi loạn dừng lại vào ngày hôm sau. Prigozhin đồng ý chuyển đến Belarus và các cáo buộc hình sự đối với ông vì tội nổi loạn đã được bãi bỏ. Cáo buộc binh biến đối với Wagner sẽ được đình chỉ nếu họ đồng ý ký hợp đồng với Bộ Quốc phòng Nga hoặc chuyển đến Belarus.
Thời trẻ.
Prigozhin sinh ra và lớn lên ở Leningrad (nay là Saint Petersburg) ở Liên Xô vào ngày 1 tháng 6 năm 1961, Mẹ của cậu, Violetta Kirovna Prigozhina, là y tá bệnh viện. Cha của cậu, Viktor Yevgenyevich Prigozhin, là một kỹ sư khai thác mỏ, qua đời khi Yevgeny mới 9 tuổi. Ông nội của cậu, Yevgeny Ilyich Prigozhin, là đại úy trong Hồng quân trong thế chiến II, được trao Cờ đỏ sau khi chiến đấu trong trận Rzhev. Bố cậu mất sớm nên mẹ của cậu phải làm việc tại một bệnh viện địa phương để nuôi cậu và bà ngoại ốm yếu. Cha và cha dượng của cậu là người gốc Do Thái.
Cha dượng của cậu, Samuyil Fridmanovich Zharkoy, là một huấn luyện viên trượt tuyết và đã giới thiệu Prigozhin với trượt tuyết băng đồng. Mong muốn trở thành vận động viên trượt tuyết chuyên nghiệp, cậu tốt nghiệp trường nội trú thể thao Leningrad số 62 năm 1977. Tuy nhiên, cậu đã từ bỏ sự nghiệp thể thao của mình sau một chấn thương. Sau đó, cậu làm huấn luyện viên thể dục tại một trường thể thao dành cho trẻ em..
Tiền án tiền sự.
Vào tháng 11 năm 1979, Prigozhin, 18 tuổi, bị kết án 2,5 năm tù treo vì tội trộm cắp vặt, Ông thụ án khi làm việc tại một nhà máy hóa chất. Hai năm sau, vào năm 1981, Ông lại bị bắt quả tang đang ăn cắp và bị kết án 12 năm tù vì tội cướp, lừa đảo và lôi kéo thanh thiếu niên phạm tội. Ông và một số đồng phạm bị kết tội cướp căn hộ ở những khu dân cư cao cấp.
|
Yevgeny Viktorovich Prigozhin
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808467
|
Ông được ân xá vào năm 1988, và được trả tự do vào năm 1990. Tổng cộng, ông đã trải qua chín năm bị giam giữ.
Cái chết.
Vào ngày 23 tháng 8 năm 2023, Cơ quan Vận tải Hàng không Liên bang Nga đã công bố tên của tất cả hành khách và thành viên phi hành đoàn trên chiếc máy bay Embraer bị rơi ở vùng Tver, trong số đó có Evgeny Prigozhin và Dmitry Utkin, những nhà lãnh đạo hàng đầu của tập đoàn quân sự tư nhân Wagner. Prigozhin được cho là đã chết, mặc dù vẫn chưa được xác thực hoàn toàn và vẫn còn nhiều nghi vấn xoay quanh vấn đề này.
Bộ Tình trạng Khẩn cấp Nga cũng xác nhận, chiếc máy bay hạng thương gia Embraer Legacy 600, được cho là thuộc sở hữu của ông Prigozhin, dự kiến bay từ Moscow đến St Petersburg. Nguyên nhân dẫn tới vụ tai nạn chưa được xác định.
Hiện tại trước trụ sở Wagner ở thành phố St. Petersburg đã có các hoạt động tưởng niệm như người dân đặt hoa và đốt nên cho ông Prigozhin. Ủy ban Điều tra Nga đã mở cuộc điều tra nguyên nhân và khởi tố "vụ án hình sự" tai nạn máy bay. Cơ quan vận tải hàng không liên bang Nga (Rosaviatsiya) đã lập một uỷ ban đặc biệt tới hiện trường tai nạn điều tra nguyên nhân.
|
Vệ binh Tình nguyện Serbia
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808475
|
<ns>0</ns>
<revision>
<parentid>70482749</parentid>
<timestamp>2023-07-26T04:12:13Z</timestamp>
<contributor>
<username>AnsterBot</username>
</contributor>
<minor />
<comment>(Bot) , thêm thể loại, Executed time: 00:00:08.7499792, replaced: accessdate → access-date, ’ → '</comment>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format>
Vệ binh Tình nguyện Serbia (tiếng Serb: "Српска добровољачка гарда", СДГ, chuyển tự: "Srpska dobrovoljačka garda", SDG, tiếng Anh: "Serb Volunteer Guard" hay còn gọi là Nguyện Vệ quân người Serb còn được gọi là "Những con hổ Arkan"-"Арканови тигрови", chuyển tự "Arkanovi tigrovi" hay những "con hổ"-"Тигрови"/"Tigrovi", cũng được gọi những người đàn ông của Arkan-"Аркановци"/"Arkanovci") là một đơn vị bán quân sự tình nguyện của Serbia do Arkan ("Željko Ražnatović") thành lập và lãnh đạo đã chiến đấu ở chiến trường Croatia (1991–93), trong chiến tranh Bosnia (1992–95) trong cuộc Chiến tranh Nam Tư và theo cáo buộc của phương Tây thì đơn vị này được cho phải chịu trách nhiệm về nhiều tội ác chiến tranh và những vụ thảm sát. Đội quân này có bài hành khúc là "Arkan's Delije". Lúc còn tồn tại thì quân số lực lượng này khoảng từ 500–1.000 người.
Theo báo cáo từ phương Tây thì các đơn vị bán quân sự chịu trách nhiệm về một số khía cạnh tàn bạo của cuộc thanh trừng sắc tộc và đây là hai trong số các đơn vị đóng vai trò chính trong chiến dịch thanh lọc sắc tộc ở BiH, Chetniks có mối quan hệ với với Vojislav Šešelj và Lực lượng những con Hổ dưới sự chỉ huy của Željko Ražnatović (Arkan) đã hoạt động ở Cộng hòa Serbia cũng vậy. Lực lượng hổ Arkan đã tổ chức các cuộc tập trận huấn luyện quân sự được cho là nhằm đe dọa cư dân Albania ở Kosovo. Đội quân tình nguyện Serb dưới sự chỉ huy của Arkan đã tàn sát hàng trăm người ở miền đông Croatia và Bosnia và Herzegovina, trong khi ở giai đoạn đầu các chiến dịch thanh trừng sắc tộc ở miền đông Bosnia thì đơn vị này giữ vai trò chính.
Đội dân quân tình nguyện này được thành lập vào ngày 11 tháng 10 năm 1990 dưới sự sáng lập hai mươi thành viên của đội Sao đỏ Belgrade một câu lạc bộ bóng đá Ultra nhóm Delije Sever.
|
Vệ binh Tình nguyện Serbia
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808475
|
Lực lượng Vệ binh nằm dưới sự chỉ huy của lực lượng Phòng thủ Lãnh thổ Nam Tư là một quân đội chính quy phụ trách các vùng lãnh thổ của Croatia có dân cư chủ yếu là người Serb trong thời kỳ đầu nửa thập niên 1990. Lực lượng Vệ binh Tình nguyện Serb được tổ chức như một băng nhóm tội phạm và được Belgrade trang bị vũ khí. Vào mùa thu năm 1995, quân đội của Arkan đã chiến đấu trong khu vực Banja Luka, Sanski Most và Prijedor. Arkan đã đích thân chỉ đạo hầu hết các hành xử trong chiến tranh và đã ban thưởng cho các sĩ quan và binh lính của mình bằng cấp bậc, huy hiệu và cuối cùng là chiến lợi phẩm. Lực lượng này chính thức bị giải tán vào tháng 4 năm 1996. Ngoài Arkan, một thành viên đáng chú ý của Lực lượng Vệ binh là cánh tay phải của ông ta là Đại tá Nebojša Djordjević người đã bị sát hại vào cuối năm 1996. Một thành viên đáng chú ý khác là Milorad Ulemek là người hiện đang thụ án 40 năm tù vì dính líu đến vụ Ám sát Zoran Đinđić thủ tướng thân phương Tây của Serbia Zoran Đinđić vào năm 2003. Hiện nay có đồn đoán rằng nhóm Wagner đang tuyển dụng những thành viên từ lực lượng này. Wagner có một đơn vị biên chế toàn người Serb do Yashrakh Scherhathes là một người Serb Bosnia và từng là thành viên của Nguyện Vệ quân Serbia (được gọi là "Con hổ xứ Shaqanshi") trong Chiến tranh Bosnia.
|
Nguyễn Khải Khang
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808487
|
Nguyễn Khải Khang(?-1558) là tướng nhà Mạc và nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, từng phục vụ cho cuộc chiến tranh Lê-Mạc.
Sự nghiệp.
Làm tướng nhà Mạc.
Năm 1546, Mạc Hiến Tông mất, con là Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông. Khiêm vương Mạc Kính Điển là người được Hiến Tông chọn làm phụ chính. Trong triều xảy ra biến loạn: Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi muốn lập người em của Mạc Thái Tông là Hoằng vương Mạc Chính Trung (con thứ hai của Mạc Thái Tổ) đã trưởng thành nhưng Mạc Kính Điển không thuận, quyết phò Phúc Nguyên lên ngôi. Tử Nghi bèn cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Nguyễn Khải Khang cùng Lê Bá Ly đứng về phía Mạc Kính Điển đánh bại được Tử Nghi.
Khi Lê Bá Ly bị các tướng Sơn Tây Anh Duệ hầu, Phù Long hầu và Văn Giáp hầu hợp binh đánh, ông sai thủ hạ là Đông Khang hầu đi cứu viện. Các cánh quân Sơn Tây bại trận phải rút lui.
Năm 1549, do công phò tá Mạc Phúc Nguyên, ông được phong làm thái úy Đoan quốc công, được cho họ Mạc.
Phù Lê diệt Mạc.
Năm 1552, sau khi Lê Bá Ly bỏ nhà Mạc vào nam, Nguyễn Khải Khang cùng cháu Nguyễn Hữu Liêu cũng đem quân về hàng Lê ở Yên Trường, vua Lê là Lê Trung Tông úy lạo, ban thưởng, vẫn cho giữ chức tước như cũ.
Tháng 8 năm 1555, Mạc Kính Điển sai Thọ quận công đem hơn 100 chiếc thuyền làm tiên phong, tiến đến cửa biển Thần Phù đóng dinh. Hôm sau, Kính Điển đem quân đến hội ở sông Đại Lại, sai Thọ quận công đốc suất quân bản bộ đi trước, đóng dinh ở núi Kim Sơn. Trịnh Kiểm sai Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiến, Lê Khắc Thận cùng mai phục sẵn ở phía nam sông, còn Trịnh Kiểm đích thân đốc suất đại quân mai phục ở phía bắc sông, chọn 50 con voi phục ở chân núi Kim Sơn; sai Phạm Đốc đem thủy quân cùng Nguyễn Quyện đem hơn 10 chiếc thuyền chiến chiếm cứ mạn thượng lưu từ sông Hữu Chấp đến sông Kim Bôi.
Trưa hôm sau, thuyền quân Mạc qua Kim Sơn, đến chợ Ông Cung. Trịnh Kiểm lệnh các đạo quân mai phục đổ ra đánh. Quân Mạc thua chạy.
|
Nguyễn Khải Khang
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808487
|
Quân Mạc thua chạy. Thọ quận công nhảy xuống sông trốn, bị tướng Lê là Vũ Sư Thước bắt sống và sau đó bị chém. Quân Mạc bị bắt rất nhiều, quân Lê thu được nhiều khí giới. Mạc Kính Điển rút quân quay về kinh thành.
Cái chết và khen thưởng.
Tháng 8 năm 1557, các tướng lĩnh từng bỏ Mạc sang Lê là anh em Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn bỏ trốn về hàng nhà Mạc. Riêng Nguyễn Khải Khang và Lê Khắc Thận không về.
Tháng 9 năm 1558, Trịnh Kiểm lại ra quân đánh Sơn Nam chiếm đất rồi để Nguyễn Khải Khang ở lại trấn thủ để chiêu tập nhân dân. Mạc Ngọc Liễn là cháu của Khải Khang sai thổ dân ở Mỹ Lương trá hàng ông để dụ, rồi lừa bắt Khải Khang mang về. Mạc Tuyên Tông sai dùng hình xé xác Khải Khang. Vua Lê nghe tin vậy truy tặng ông cho tước Hiến Trung Công và bổ dùng cháu nội họ ông là Nguyễn Hữu Liêu.
|
Thái Ất chân nhân
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808494
|
Thái Ất chân nhân () là một nhân vật trong tiểu thuyết "Phong thần diễn nghĩa" của Hứa Trọng Lâm, được sáng tạo dựa trên hình tượng của Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn của Đạo giáo, trong đó miêu tả Thái Ất chân nhân là chuyển thế của Thành Thang, vị vua đầu tiên của nhà Thương.
Nguyên hình.
Trong Đạo giáo, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn là một vị thần ngự tại Cung Diệu Nghiêm, thế giới Trường Nhạc tại phương đông, dẫn độ vong hồn chịu khổ đi vãng sinh, cùng với tiếp dẫn người có công đức viên mãn lên trời thành tiên.
Trong tác phẩm văn học.
"Phong thần diễn nghĩa".
Trong tiểu thuyết "Phong thần diễn nghĩa", Thái Ất chân nhân là đồ đệ của Nguyên Thủy Thiên Tôn và là sư phụ của Na Tra, từng nhiều lần ra tay bảo vệ Na Tra khi có người tiến đến trả thù. Điển hình là khi Thạch Cơ nương nương tiến đến hỏi tội Na Tra vì đã giết chết đồ đệ của bà, Thái Ất chân nhân đã không ngần ngại dùng Cửu Long Thần Hỏa Tráo thiêu chết bà. Hay khi Na Tra lấy chết để tạ tội việc giết thái tử của Đông hải long cung là Ngao Bính, Thái Ất chân nhân đã tạo cho Na Tra một thân thể mới bằng củ sen.
"Tây du ký".
Trong tiểu thuyết "Tây du ký", Thái Ất chân nhân đã ra tay thu phục Cửu Linh Nguyên Thánh, chính là tọa kỵ của ông mà đồng tử đã không may làm xổng chuồng.
"Quần tiên phá thiên môn".
Trong bình thư "Quần tiên phá tiên môn", Thái Ất chân nhân là sư phụ của nhân vật chính Dương Tông Anh.
|
Ga Gochon (Gimpo)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808495
|
Ga Gochon (Tiếng Hàn: 고촌역, Hanja: 高村驛) là ga tàu điện ngầm của Tuyến Gimpo Goldline nằm ở Singok-ri, Gochon-eup, Gimpo-si, Gyeonggi-do.
|
Ga Krung Thon Buri BTS
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808497
|
Ga Krung Thon Buri (, ) là một ga BTS Skytrain, trên Tuyến Silom tại Khlong San, Băng Cốc, Thái Lan. Nhà ga nằm trên đường Krung Thon Buri. Nó là nhà ga tàu điện Băng Cốc đầu tiên nằm tại bờ Tây của Sông Chao Phraya.
Nhà ga mở cửa ngày 15 tháng 5 năm 2009, cùng với ga Wongwian Yai trên 2,2 km Skytrain mở rộng.
Ga Krung Thon Buri còn kết nối với Tuyến Gold.
|
Maximiliane Josepha Karoline của Bayern
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808500
|
Maximiliane Josepha Karoline của Bayern (tiếng Đức: "Maximiliane Josepha Karoline von Bayern"; 21 tháng 7 năm 1810 – 4 tháng 2 năm 1821), là con gái của Maximilian I Joseph của Bayern và Karoline xứ Baden.
Tiểu sử.
Maximiliane Josepha Karoline sinh ra ở Cung điện Nymphenburg, nơi ở của các quân chủ Bayern vào mùa hè. Maximiliane là đứa con cuối cùng của Maximilian I Joseph của Bayern và Karoline xứ Baden. Các anh chị em cùng mẹ của Maximiliane bao gồm Maximilian (qua đời khi còn nhỏ), Ludwig I, Quốc vương Bayern, Karoline Auguste, Hoàng hậu nước Áo, Elisabeth, Vương hậu nước Phổ, Amalie Auguste, Vương hậu Sachsen và Sophie Friederike, Đại vương công phu nhân Áo, mẹ của Franz Joseph I của Áo, và Ludovika Wilhelmine, Công tước phu nhân tại Bayern, mẹ của Elisabeth tại Bayern, Hoàng hậu nước Áo ("Sissi").
Năm 1821, Maximiliana mắc bệnh sốt phát ban và qua đời khi mới 10 tuổi. Cái chết của Vương nữ là một đòn giáng nặng nề đối với mẹ là Caroline xứ Baden. Maximiliane Josepha Karoline được chôn cất tại Nhà thờ Theatine, München.
Họa phẩm.
Năm 1814, khi Maximiliane vẫn còn sống, họa sĩ Joseph Karl Stieler đã vẽ một bức tranh sơn dầu trong đó Maximiliane đang ôm một con cừu cùng với hai chị sinh đôi của mình là Elisabeth và Amalie. Sau khi Maximiliane qua đời, Caroline đã đặt thêm nhiều bức tranh từ Joseph Stieler. Stieler cũng đã vẽ tranh Maximiliane trên giường bệnh và một bức chân dung toàn cảnh khác của vương nữ.
|
Elisabeth Ludovika của Bayern
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808501
|
Elisabeth Ludovika của Bayern (tiếng Đức: "Elisabeth Ludovika von Bayern"; 13 tháng 11 năm 1801 – 14 tháng 12 năm 1873) là con gái của Maximilian I Joseph của Bayern và Karoline xứ Baden và là Vương hậu nước Phổ với tư cách là vợ của Friedrich Wilhelm IV của Phổ.
Thiếu thời.
Elisabeth Ludovika sinh ra ở München, là con gái của Maximilian I Joseph của Bayern và Karoline xứ Baden cũng như là chị em song sinh của Amalie Auguste, Vương hậu Sachsen, chị gái của Sophie Friederike, Đại vương công phu nhân Áo, mẹ của Hoàng đế Franz Joseph I của Áo và Hoàng đế Maximiliano I của México và Ludovika Wilhelmine, Công tước phu nhân tại Bayern, mẹ của Elisabeth, Hoàng hậu Áo, cũng như con đỡ đầu và cùng tên với Elisabeth. Trong gia đình, Elisabeth Ludovika được gọi là Elise.
Thái tử phi.
Ngày 29 tháng 11 năm 1823, Elisabeth Ludovika kết hôn với Thái tử Friedrich William (sau này là Friedrich Wilhelm IV của Phổ) và ủng hộ những sở thích trí tuệ của Friedrich, cụ thể là những nỗ lực của chồng đối với tác phẩm nghệ thuật mà Friedrich Wilhelm vô cùng yêu quý. Elisabeth Ludovika từ chối trở thành một tín hữu Kháng Cách như một điều kiện trong thỏa thuận hôn nhân và nhấn mạnh rằng sẽ chỉ cải đạo nếu bản thân bị thuyết phục về giá trị của đức tin Kháng Cavh1 sau khi tự mình tìm hiểu. Vào ngày 5 tháng 5 năm 1830, bảy năm sau khi kết hôn, Elisabeth chính thức cải sang Kháng Cách. Cuộc hôn nhân của Ludovika và chồng được nhìn nhận là hạnh phúc thế nhưng sau một lần sảy thai vào năm 1828, Elisabeth Ludovika không thể có con nữa.
Vương hậu nước Phổ.
Elisabeth Ludovika trở thành Vương hậu nước Phổ vào năm 1840. Kể từ thời điểm này, Vương hậu không bao giờ mất đi ảnh hưởng đến chính trị Phổ, và tích cực duy trì tình hữu nghị thân thiết giữa Phổ và Đế quốc Áo.
Đối với Friedrich William IV, Elisabeth Ludovika là một người vợ mẫu mực và trong suốt thời gian dài chồng lâm bệnh, Elisabeth chăm sóc chồng như một y tá tận tụy. Ban đầu, Elisabeth Ludovika có thái độ thù địch với người vợ xuất thân từ nước Anh của cháu trai mình là Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh, Vương nữ Vương thất, thường được biết đến trong gia đình với cái tên Vicky, nhưng mối quan hệ của họ trở nên ấm áp hơn khi Vicky chăm sóc và an ủi Elisabeth trong những ngày đầu đau khổ khi lâm vào cảnh góa bụa.
|
Elisabeth Ludovika của Bayern
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808501
|
Elisabeth Ludovika cũng không bao giờ quên lòng tốt của Vicky và trong di chúc của mình, Elisabeth đã phá lệ khi để lại cho Vicky những món trang sức của mình. Theo truyền thống, những món đồ trang sức này phải được để lại cho Vương hậu hiện tại là Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach, em dâu của Elisabeth, lúc đó là Vương hậu Phổ và Hoàng hậu Đức); đây là một hành vi làm mích lòng Augusta mà Augusta sẽ không bao giờ tha thứ cho Vicky.
Góa phụ Vương hậu.
Sau cái chết của chồng vào ngày 2 tháng 1 năm 1861, Elisabeth sống lặng lẽ ở Sanssouci, Charlottenburg và Lâu đài Stolzenfels, cống hiến hết mình cho việc từ thiện để tưởng nhớ người chồng quá cố. Em chồng của Elisabeth, Hoàng đế Wilhelm I của Đức, coi chị dâu mình là một người bạn thực sự.
Trong chuyến thăm em gái là Amalie Auguste, Vương hậu Sachsen năm 1873, Elisabeth Ludovika đã qua đời tại Dresden . Thái hậu Elisabeth được chôn cất bên cạnh chồng vào ngày 21 tháng 12 tại Friedenskirche ở Potsdam.
|
Gói quà
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808504
|
Gói quà là quá trình đóng gói một món quà bằng vật liệu nhất định. Giấy gói quà là loại giấy được thiết kế đặc biệt dùng để bọc quà. Ngoài ra, còn có thể sử dụng hộp quà hoặc túi quà làm phương án thay thế. Một món quà được gói quà hoặc đặt trong hộp thường được buộc chặt bằng một sợi ruy băng và trang trí bằng một nút cột hình trang trí (một loại nút dùng ruy băng để trang trí).
Lịch sử.
Lịch sử sử dụng giấy bọc quà được ghi nhận lần đầu tiên trong Trung Quốc cổ đại, khi giấy được phát minh vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Trong thời đại của triều đại Nam Tống, quà tặng bằng tiền đã được bọc bằng giấy, tạo thành một loại phong bì được gọi là "hồng bao". Những món quà này được triều đình Trung Quốc phân phát cho các quan chức triều đình. Theo tài liệu Trung Quốc Thien Kung Khai Wu, Sung Ying-Hsing đã ghi lại rằng giấy bọc thô nhất được tạo ra từ rơm gạo và sợi tre..
Dù Rollie và Joyce Hall, hai anh em sáng lập Hallmark Cards, không phải là những người phát minh ra giấy bọc quà, nhưng đóng góp của họ đã có vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành công nghiệp bọc quà hiện đại. Trong thế kỷ 20, họ đã đóng vai trò quan trọng trong việc lan truyền ý tưởng về việc trang trí giấy bọc quà. Theo Joyce Hall, "ngành công nghiệp bọc quà trang trí đã ra đời ngay từ khi Rollie đặt những tấm lót phong bì Pháp lên trưng bày".
Theo văn hóa.
Văn hóa châu Á.
Trong văn hóa Trung Quốc, mọi người thường dùng giấy bọc quà màu đỏ để mang lại may mắn vì đó là một màu sắc rực rỡ và mạnh mẽ. Màu đỏ được coi là biểu tượng của niềm vui và sức khỏe tốt.
Trong Nhật Bản, việc dùng giấy bọc quà và hộp quà là phổ biến. Nhưng gần đây, người ta cũng đang ưa chuộng cách truyền thống gói quà bằng vải gọi là "furoshiki", đặc biệt là để bảo vệ môi trường.
Trong văn hóa Hàn Quốc, người ta thỉnh thoảng sử dụng "bojagi" để gói quà. Một loại bojagi đặc biệt được gọi là "yedanbo" được sử dụng trong các dịp trang trọng để gói quà cưới từ gia đình của cô dâu tới các thành viên gia đình của chú rể.
Trong văn hoá Việt Nam, việc gói quà là một phần quan trọng của truyền thống tặng quà.
|
Gói quà
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808504
|
Người Việt thường sử dụng những hộp quà sang trọng và sắc màu để tạo sự thu hút. Màu đỏ và vàng thường được ưa chuộng, vì chúng mang ý nghĩa may mắn và niềm vui. Người Việt cũng đặc biệt quan tâm đến lời chúc và thông điệp trên quà, thể hiện sự quan tâm và tình cảm. Ngoài ra, có xu hướng sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường như giấy tái chế và dây ruy băng bền vững để đóng gói quà.
Văn hóa phương Tây.
Trong văn hóa phương Tây, việc gói quà thường được thực hiện bằng giấy gói quà và kèm theo một lá thư gửi quà có thể ghi lại ngày kỷ niệm, tên người nhận và tên người tặng.
Trước khi giấy mỏng được phát minh, tầng lớp thượng lưu trong xã hội phương Tây thường sử dụng giấy dày được trang trí và có màu sắc để bọc quà của mình. Năm 1917, những tấm giấy gói quà với hoa văn hiện đại đã được Hall Brothers giới thiệu vào thị trường Hoa Kỳ. Cửa hàng văn phòng phẩm ở Kansas City đã hết giấy mỏng truyền thống màu trắng, đỏ và xanh lá, và bắt đầu bán những tấm lót phong bì đầy màu sắc từ Pháp. Với sự phổ biến của chúng, công ty đã quảng bá các thiết kế mới trong những thập kỷ tiếp theo, thậm chí thêm ruy băng vào những năm 1930. Đến ngày nay, Hallmark vẫn là một trong những nhà sản xuất giấy gói quà lớn nhất tại Hoa Kỳ. Hallmark ghi nhận rằng giấy gói quà đóng góp khoảng 3,2 tỷ đô la mỗi năm trong doanh số bán lẻ tại Hoa Kỳ.
Chất thải.
Ở Anh, ước tính rằng hàng năm có 226.800 dặm giấy bọc quà được vứt bỏ vào dịp Giáng sinh. Ở Canada, có 6 triệu cuộn băng keo được sử dụng và vứt bỏ hàng năm để gói quà vào dịp Giáng sinh. Một số người cố gắng tránh điều này bằng cách mở quà một cách cẩn thận để hy vọng giấy có thể được tái sử dụng, trong khi người khác sử dụng túi quà bằng vải trang trí có thể tái sử dụng nhiều lần; cả hai khái niệm này là một phần của xu hướng tặng quà xanh khuyến khích tái chế.
Tâm lý.
Trong quá khứ, đã có nghiên cứu chỉ ra rằng việc gói quà có tác động tích cực đối với người nhận, họ thường đánh giá quà cao hơn nếu nó được gói quà theo phong cách truyền thống.
|
Gói quà
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808504
|
Gần đây, các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện rằng người nhận quà có kỳ vọng cao hơn đối với món quà bên trong dựa trên sự gọn gàng của cách gói quà.
Ở nhiều quốc gia, màu sắc của giấy gói quà mang ý nghĩa tượng trưng liên quan đến tang lễ và tang thương. Do đó, những màu sắc cụ thể này nên được tránh khi gói quà ở các quốc gia đó.
|
Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808508
|
là một tác phẩm anime điện ảnh thuộc thể loại lãng mạn, khoa học viễn tưởng dựa trên light novel cùng tên của tác giả Hachimoku Mei, do Tomohisa Taguchi đạo diễn. Phim sản xuất bởi xưởng CLAP và Pony Canyon phân phối. Kukka phụ trách thiết kế nhân vật gốc, Tomomi Yabuki thiết kế nhân vật hoạt họa, đồng thời chỉ đạo hoạt hình, eill viết và trình bày ca khúc chủ đề "Finale.", bên cạnh việc soạn nhạc phim do Fuuki Harumi đảm nhận. Phim có sự tham gia lồng tiếng của Suzuka Oji trong vai nam chính Tōno Kaoru, Iitoyo Marie trong vai nữ chính Hanashiro Anzu, cùng với Hatanaka Tasuku, Komiya Arisa, Terui Haruka, Koyama Rikiya và Kobayashi Seiran trong vai các nhân vật phụ. Bộ phim kể về câu chuyện của Tōno Kaoru — một học sinh năm hai cao trung có tính cách thu mình tình cờ gặp Hanashiro Anzu — học sinh chuyển đến từ Tokyo, và cùng cô khám phá đường hầm Urashima.
Taguchi đã quyết định tham gia sản xuất bộ phim sau khi ông nhận lời mời từ nhà sản xuất Matsuo. Kế hoạch chuyển thể "Đường hầm tới mùa hạ - Lối thoát của biệt ly" được công bố chính thức vào ngày ngày 15 tháng 12 năm 2021. Đội ngũ sản xuất đặt ra mục tiêu đối với kịch bản của phim là sử dụng càng ít lời thoại càng tốt, những đoạn độc thoại có trong light novel đã bị cắt. Quá trình sản xuất hoạt họa bộ phim hầu hết được thực hiện với màu xanh lam và tạo ra nhiều màu sắc. Bên cạnh đó, có hai cách thể hiện hoạt họa trong tác phẩm, gồm sử dụng sự phản chiếu của ánh sáng và phác họa bên trong đường hầm ở chế độ CGI. Để cải thiện độ chính xác của biểu cảm, đội ngũ sản xuất đã sử dụng phương pháp ghi âm trước rồi dựng hoạt họa theo giọng nói trong phần lồng tiếng.
Nội dung.
"Cậu đã từng nghe về đường hầm Urashima chưa? Nếu cậu bước vào đó, cậu có thể có được bất cứ thứ gì cậu muốn. Nhưng bù lại, cậu sẽ già đi 100 tuổi!", Tōno Kaoru vẫn thường nghe được những tin đồn như vậy trong lớp. Anh mở chiếc ô dưới trời mưa tầm tã và đi về một mình sau giờ học. Tại ga Kozaki, Tōno gặp một nữ sinh cao trung xa lạ đang ngồi ướt sũng trên chiếc ghế dài.
|
Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808508
|
Anh cho cô mượn chiếc ô của mình, đồng thời trao đổi thông tin liên lạc với cô. Ngày hôm sau, Hanashiro Anzu (cô gái Tōno gặp ở nhà ga) chuyển từ Tokyo đến lớp nơi Tōno theo học vì lý do gia đình. Hanashiro trò chuyện với Tōno về chiếc ô, tuy nhiên cô không trả lời bất kỳ câu hỏi nào khác từ các bạn cùng lớp. Học sinh được ví như công chúa trong lớp tên Kawasaki Koharu không hài lòng với tính cách của cô, cầm lấy cuốn manga cũ mà Hanashiro đang đọc và cố tình làm rơi nó xuống sàn, dẫn đến một cuộc xô xát.
Đêm đó, Tōno Kaoru đang đi bộ dọc theo đường ray xe lửa sau những lời quát mắng từ người cha nghiện rượu thì phát hiện ra đường hầm Urashima như lời đồn đại với một hàng cây màu đỏ tươi cùng thân cây tỏa sáng như pha lê. Ngay khi anh định quay lại, anh nhận ra chiếc dép của em gái đã mất của mình và con vẹt đã chết mà anh nuôi. Vội vã trở về phòng mình, Tōno phát hiện ra rằng thời gian bên trong đường hầm khác với bên ngoài. Hôm sau, anh trở lại trường lần đầu tiên sau một tuần vắng học (theo thời gian ở thế giới bên ngoài). Sau giờ học, Tōno bắt đầu tự mình kiểm tra lại đường hầm Urashima. Khi nghe thấy giọng nói của Hanashiro bên trong, anh vội vàng đưa cô ra ngoài, mặc dù vậy bên ngoài đã 5 tiếng trôi qua. Sau sự cố, Hanashiro hứa với Tōno hình thành một mối quan hệ cộng sự để đạt được lợi ích chung. Cả hai dành thời gian cùng nhau khám phá đường hầm. Lần này, Hanashiro cùng với Tōno thử nghiệm xem liệu một e-mail từ bên trong có đến được bên ngoài hay không. Tōno sau khi đi qua ranh giới thời gian, đã gửi e-mail cho Hanashiro ở bên ngoài ranh giới, và khi nhìn lại, anh thấy Hanashiro đang di chuyển như một dư ảnh.
Nhân ngày nghỉ, Hanashiro mời Tōno đến thủy cung và bày tỏ rằng mình muốn tiếp tục giữ liên lạc với anh trong vai trò cộng sự. Tōno kể về mục đích đưa em gái Karen trở lại thế giới này của mình, và hỏi liệu cô có sợ anh không, nhưng Hanashiro không hề sợ. Tận dụng chuỗi ba ngày lễ liên tiếp, cả hai chạy với tốc độ chóng mặt trong đường hầm.
|
Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808508
|
Khi gần đến lúc quay lại, một xấp bản thảo manga đã bị cha Hanashiro vứt đi bay đến. Tōno hét lên với cô về thời gian, trong khi cô đang cố gắng để nhặt tất cả mảnh giấy nằm rải rác trên mặt nước. Thời gian sau khi ra khỏi đường hầm đã là 4:00 sáng, anh lo lắng rằng anh sẽ không thể về nhà bây giờ. Hiểu điều đó, Hanashiro mời Tōno đến căn hộ mình sống. Có rất nhiều sách và manga trên giá sách trong phòng của cô, và trong số đó có manga mà ông nội đã mất của cô sáng tác. Buồn bã vì manga của ông nội hầu như không được thế giới biết đến, cô nói rằng mục đích của cô là có được tài năng đặc biệt để có thể để lại điều gì đó cho thế giới này. Cả hai quyết định ngày 2 tháng 8 là ngày họ họ sẽ không rời khỏi đường hầm cho đến khi đưa được Karen trở lại. Nhưng trước đó, Tōno hỏi liệu Hanashiro có thể đến lễ hội mùa hè cùng anh.
Khi theo dõi pháo hoa tại lễ hội, Tōno kể lại rằng Karen đã khóc mặc dù cô ấy rất phấn chấn sau khi cha mẹ họ cãi nhau cũng tại nơi mà cả hai đang đứng. Hanashiro bỗng nắm tay Tōno một cách tự nhiên. Khi anh trở về nhà, một người phụ nữ mà anh không biết đã đến nhà anh. Người cha giới thiệu người phụ nữ là "mẹ mới" và thông báo gia đình sẽ sớm chuyển đến Tokyo. Ngay khi nước mắt tuôn rơi, Tōno cảm thấy buồn nôn và nôn mửa trước ánh nhìn của cha mình. Sáng hôm sau, Hanashiro gặp Tōno tại một quán cà phê ở thị trấn. Cô nói với anh rằng mình đã được nhà xuất bản liên hệ và hỏi liệu cô có muốn làm việc với phía họ không. Tōno đề nghị hoãn lại kế hoạch đến đường hầm và bắt đầu ăn món cơm trứng ốp la mà anh đã gọi. Tại nhà ga Kazaki có rất nhiều hoa hướng dương đang nở rộ. Chuyến tàu được thông báo sẽ bị hoãn thêm 30 phút nữa do đụng phải một con nai. Nhớ lại ký ức cũ, cả hai đã lặp lại khoảng thời gian họ lần đầu gặp nhau tại đây với những bông hoa mà Tōno đã bẻ.
Đêm đó, Tōno xóa tất cả e-mail từ Hanashiro và một mình đến đường hầm Urashima.
|
Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808508
|
Mất liên lạc với Tōno, Hanashiro vội vàng đến gặp anh tại nhà riêng, nhưng cha anh trả lời rằng anh đã bỏ đi vào đêm qua. Hanashiro đến được lối vào đường hầm với những giọt nước mắt và gửi e-mail tới Tōno. Cánh cửa căn nhà cũ xuất hiện trước mặt Tōno, anh mở ra và thấy Karen đang tươi cười mang nước ép chuối đến cho mình. Trong lúc nói chuyện vui vẻ như trước, điện thoại di động của Tōno nhận được một loạt e-mail trách móc từ Hanashiro vì đã bị anh bỏ lại. Anh tạm biệt Karen, vừa chạy cất tiếng. Anh ngã xuống sau khi viết những dòng e-mail gửi đến Hanashiro.
Hanashiro bên ngoài đã là một mangaka xuất bản nhiều kỳ. Ngày qua ngày, Hanashiro luôn kiểm tra xem có e-mail nào từ Tōno trên chiếc điện thoại gập của mình không. Cô rơi vào tình trạng suy sụp, biên tập viên lo lắng cho Hanashiro và khuyên cô nên nghỉ ngơi một chút. Hanashiro đến nhà ga Kozaki sau một thời gian dài. Cô nhận được loạt e-mail từ Tōno thú nhận tình cảm của anh với cô. Xúc động, Hanashiro chạy dọc theo đường ray về phía đường hầm Urashima. Khi Tōno tỉnh dậy, anh ngạc nhiên khi thấy Hanashiro đang nhìn chằm chằm vào mình. Cô trách anh vì đã để cô chờ đợi trong thời gian dài và bảy tỏ tình yêu của cô dành cho anh.
Khi Hanashiro bước vào đường hầm, thời gian của cô đã bị dịch chuyển khoảng 5 năm. Đối với Tōno, anh đã dịch chuyển 13 năm so với bên ngoài. Cả hai bước ra khỏi đường hầm và mở chiếc ô Hanashiro đã mượn trong ngày đầu họ gặp nhau.
Sản xuất.
Kế hoạch ban đầu.
Ngày 15 tháng 12 năm 2021, nhà xuất bản Shogakukan công bố kế hoạch sản xuất bộ phim chuyển thể light novel "Đường hầm tới mùa hạ - Lối thoát của biệt ly". Đây là tác phẩm điện ảnh thứ 3 Taguchi Tomohisa chỉ đạo, sau "" (2020), "Persona 3 the Movie 4: Winter of Rebirth" (2016) và "PERSONA3 THE MOVIE #2 Midsummer Knight's Dream" (2014). Minh họa bên cạnh thiết kế nhân vật gốc của phim do Kukka đảm nhận, Tomomi Yabuki — thành viên đội ngũ sản xuất anime điện ảnh "Eiga Daisuki Ponpo-san" (2021) phụ trách thiết kế nhân vật hoạt hình cũng như giám đốc hoạt họa.
|
Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808508
|
Ban đầu, chỉ có nhà sản xuất Matsuo Ryoichiro và biên kịch làm việc cùng nhau để lên kế hoạch cho một tác phẩm thuộc thể loại tuổi mới lớn. Trong khi đó, Taguchi muốn thường xuyên tham giả sản xuất các bộ phim điện ảnh, vì vậy Matsuo đề nghị ông đạo diễn dự án. Matsuo đưa ấn phẩm nguyên tác cho Taguchi và nói rằng đó là light novel, nhưng khi ông đọc nó, nó giống như một cuốn tiểu thuyết thông thường nên ông cảm thấy không có vấn đề gì với việc chuyển thể.
Kịch bản.
Mục tiêu của đội ngũ sản xuất là sử dụng càng ít lời thoại càng tốt, vì vậy bộ phim đã cắt những đoạn độc thoại có trong light novel, tránh việc bị ngắt quãng và chệch hướng. Trong cảnh hai nhân vật chính nắm tay nhau lần đầu tiên, Taguchi không thêm lời thoại vào và chỉ là diễn xuất của đôi tay bởi ông cho rằng có những lúc tốt hơn là chỉ nên hành động và thể hiện cảm xúc của mình một cách hùng hồn hơn là lời thoại. Theo Taguchi, nếu đưa các yếu tố vào một cách có cấu trúc tốt, chúng sẽ được hiểu mà không cần phải giải thích chúng bằng đối thoại. Từ đó, đội ngũ sản xuất đã không giải thích cảm xúc của nhân vật bằng những câu thoại dài bất tận, điều thường thấy trong anime.
Hoạt họa.
Vì biển và bầu trời xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm nên Taguchi nghĩ rằng màu xanh lam sẽ đẹp, ông đặc biệt chọn màu xanh lam và tạo ra nhiều màu sắc. Đường hầm Urashima ban đầu là một không gian khoa học viễn tưởng như trong bộ phim "Hố đen tử thần", nhưng khi đội ngũ sản xuất bắt tay thực hiện, nó không thực sự ổn vì cảm giác thiếu thực tế, vì vậy Taguchi đã chuyển hướng thành một hàng lá mùa thu, mặc dù thực tế nhưng lạ lẫm. Điều Taguchi hướng tới không phải là chủ nghĩa hiện thực hay trừu tượng trong hoạt họa. Thay vào đó là phong cảnh gợi lên nhiều ký ức khác nhau, làm kích thích các giác quan khi nhìn thấy nó, chẳng hạn như màu sắc xuất hiện trong đầu khi bạn nghe thấy từ "bầu trời" hoặc "biển", hoặc kết cấu của nhựa đường ướt trong mưa.
Đạo diễn Taguchi tiết lộ có hai cách thể hiện hoạt họa trong tác phẩm.
|
Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808508
|
Một là sử dụng sự phản chiếu của ánh sáng, ví dụ như ánh sáng viền, trong đó ánh sáng được chiếu từ phía sau để tạo hiệu ứng khi ánh sáng quay xung quanh và đường viền của các phân cảnh được nhấn mạnh. Một cách khác là phác họa bên trong đường hầm ở chế độ CGI, đồng thời làm cho phân ảnh CGI trông giống như trong bản vẽ 2D. Nhân viên phụ trách nền đã thêm nhiều màu sắc khác nhau vào bố cục, vì vậy trong quá trình thêm phản chiếu, rất khó để biết thời điểm và vị trí nên đặt ánh sáng viền để áp dụng làm cho nó tối ưu.
Lồng tiếng.
Ngày 24 tháng 3 năm 2022, Twitter chính thức của phim công bố danh sách diễn viên lồng tiếng, trong đó Iitoyo Marie và Suzuka Oji sẽ đóng vai chính. Ngày 12 tháng 7, bộ phim tiết lộ thêm dàn diễn viên sẽ tham gia vai phụ gồm Hatanaka Tasuku, Komiya Arisa Terui Haruka, Koyama Rikiya và Kobayashi Seiran. Taguchi cho biết rằng đội ngũ sản xuất đã sử dụng phương pháp ghi âm trước rồi dựng hoạt họa theo giọng nói nhằm cải thiện độ chính xác của biểu cảm và để diễn xuất của nhân vật chân thực nhất có thể.
Tại buổi thử giọng, thay vì có cảm giác mạnh mẽ rằng "mình chắc chắn sẽ đậu", Suzuka Oji nghĩ rằng sẽ thật tuyệt nếu mình có thể tận hưởng diễn xuất. Vì vậy, khi anh nhận được thông báo rằng anh đã vượt qua kỳ thi, anh đã ngay lập tức lo lắng và điều đó khiến anh nghĩ phải cố gắng hết sức. Thời gian ghi âm chỉ kéo dài trong hai ngày, nhưng anh đã ghi âm lại cảnh từ đầu đến cuối theo trình tự của kịch bản, vì vậy anh nghĩ mình có thể nhập để làm mối quan hệ với Hanashiro ngày càng sâu đậm hơn. Tiêu đề "Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi" nghe giống J-pop, và Iitoyo Marie tò mò muốn biết nội dung bộ phim nên đã tham gia thử vai. Trước đây cô chưa từng ứng tuyển vào một vai chính, vì điều đó cô rất vui mừng khi được đội ngũ sản xuất chọn. Ban đầu, cô gặp khó khăn trong việc nắm bắt khoảng cách giữa các giọng. Khi cô không thể làm tốt, Suzuka theo dõi ở bên cạnh cô, đã cho cô lời khuyên rằng hãy thử lồng tiếng ở đây.
|
Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808508
|
Iitoyo cố tình thể hiện giọng mình khác với bình thường vì cô cho rằng sẽ không phù hợp nếu sử dụng giọng thật.
Âm nhạc.
Nhà soạn nhạc Fuuki Harumi đảm nhận vai trò giám đốc âm nhạc của bộ phim. Fuuki đã sáng tác nhạc phim gốc với những cảm xúc trong tâm trí. Bà cho rằng đây là một tác phẩm chạm đến trái tim người xem nên nếu âm nhạc trỗi dậy trước cảm xúc của nhân vật chính, người xem sẽ cảm thấy lạnh sống lưng. Giám đốc âm thanh yêu cầu bà tạo ra thứ âm nhạc giống như bỏ trốn và đau đớn. Vì vậy, bà đã sử dụng những âm thanh giống như tiếng piano chơi ngược để thể hiện.
Ngày 28 tháng 6 năm 2022, đội ngũ sản xuất xác nhận eill sẽ đảm nhận nhạc hiệu của bộ phim. Eill cho biết trong một cuộc phỏng vấn cô đã sáng tác bài hát nhạc hiệu trong khi xem video nhân vật không có mặt được lồng tiếng bởi Iitoyo. Đối với "Finale", cô đã đến một thị trấn ven biển và thu âm các đoàn tàu, các điểm giao cắt với đường sắt, tiếng sóng và âm thanh chạy qua đường hầm rồi đưa chúng vào bài hát. Chủ đề của "Pre-Romance" (プレロマンス?)" là hát về một mối tình si, hay trạng thái chưa biết đó có phải là tình yêu hay không nên cô chọn tựa đề "Pre-Romance" (プレロマンス?)" với ý nghĩa là sự bắt đầu của tình yêu. Cô đã sáng tác bài hát bằng cách xem các bảng phân cảnh, điều chỉnh nhịp độ và tính toán quá trình chuyển đổi từ phân cảnh này sang phân cảnh khác, với mục đích làm cho bộ phim trở nên hay hơn. "Finale." được thực hiện trong khi cô nghĩ về những gì cô cảm nhận trong suốt bộ phim, tình yêu là gì, và cảm giác sẽ như thế nào khi có một tình yêu như vậy, và tình yêu đó sẽ lớn đến mức nào. Theo nhà sản xuất Matsuo, "Katappo" không được lên kế hoạch để sử dụng ban đầu. Mặc dù vậy, khi ông thử áp dụng cho cảnh OP tại thời điểm chỉnh sủa, bản nhạc trở nên hoàn hảo, vì vậy ông đã quyết định sử dụng "Katappo". Ngoài ra, không giống như bài hát gốc, phiên bản nhạc cụ của "Katappo" ở cuối được sắp xếp lại với âm thanh của dàn nhạc trong phim.
|
Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808508
|
Bài hát nhạc hiệu "Finale." (フィナーレ。) phát hành trên các nền tảng nghe nhạc vào 9 tháng 9 năm 2022, cùng ngày ra mắt với bộ phim. Bài hát nhạc nền "Pre-Romance" (プレロマンス) phát hành vào ngày 24 tháng 8 năm 2022. Album soundtrack chính thức ra mắt vào ngày 21 tháng 9 năm 2022.
Chủ đề.
Chủ đề của bộ phim là "quá khứ" và "tương lai". Naga của "nagamovie" nhận xét trong khi Tōno tìm kiếm quá khứ thì Hanashiro tìm kiếm tương lai. Mặc dù ở cùng một nơi vì cùng một mục đích, họ lại đang đối mặt với hai hướng ngược nhau. Tōno sống trong "quá khứ", và điều anh muốn là lấy lại "quá khứ" hạnh phúc, còn Hanashiro hướng tới tương lai để có được sức mạnh thực hiện ước mơ của mình. Từ "hiện tại" mà họ đã trải qua cùng nhau, họ du hành đến "tương lai" hoặc "quá khứ" và đến đích của mình. Nhưng ngay cả khi họ có được những gì họ muốn, thì vẫn thiếu một thứ gì đó quan trọng trong thế giới của họ. Sau khi đi ngược chiều nhau, cả hai nhận ra điều gì còn thiếu trong thế giới của mình và "quay đầu" để có được nó. Và từ đó, những khái niệm về thời gian đã không còn ràng buộc họ. Naga kết luận "Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi" là một tác phẩm khiến người xem nhận ra tầm quan trọng của những thứ đã mất và những thứ chúng ta không chọn.
Khi bắt đầu xem phim, điều đầu tiên nhà phê bình Sakura Kyōko từ "Cinemarche" nhận thấy là tất cả các nhân vật đều sử dụng điện thoại nắp gập, và trao đổi bằng e-mail, cùng bối cảnh được xây dựng là tháng 7 năm 2005, tạo cảm giác hoài niệm cho ông. Ở phần cuối của câu chuyện bước vào kỷ nguyên của điện thoại thông minh và những thay đổi của thời gian có thể được hiểu chỉ bằng nhưng vật dụng. Ngoài ra, việc Hanashiro không buông bỏ chiếc điện thoại cũ của mình mang đến cho người xem cảm nhận về một mối quan hệ lãng mạn chỉ tồn tại trong thời đại đó. Bộ phim ông nghĩ đến khi theo dõi việc trao đổi email trên điện thoại là tác phẩm "Tiếng gọi từ vì sao xa" (2002) của Shinkai Makoto.
|
Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808508
|
Trong "Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi", đội ngũ sản xuất chọn chiếc điện thoại di động, vốn không quá quan trọng trong nguyên tác nhằm thể hiện sự hiểu lầm giữa hai nhân vật chính, bên cạnh cảm giác khó chịu của Hanashiro khi gửi và nhận email như một sự kính trọng đối với tác phẩm của Shinkai. Ông kết luận phim chứa đựng những thông điệp như tầm quan trọng của việc sát cánh bên những người bị tổn thương và có can đảm để tiến lên phía trước.
Trên trang "South China Morning Post", James Marsh chỉ ra điều thú vị nhất của bộ phim là cách món quà huyền diệu mà họ khám phá ra tác động đến họ từ hai phía đối lập: Tōno khao khát đưa Karen trở lại bằng bất cứ giá nào, trong khi sự thiếu tự tin đến què quặt của Hanashiro khiến cô bị cám dỗ bởi sự quyến rũ của lối thoát khỏi đường hầm. Sự đơn giản trong cách kể chuyện của phim và nhịp độ chậm rãi có thể thách thức một số người xem, nhưng những phẩm chất này thể hiện thông điệp bao quát của bộ phim về việc đón nhận hiện tại và trân trọng khoảng thời gian ít ỏi có được để sống cuộc đời của mình.
Quảng bá.
Trang web chính thức của bộ phim đã công bố teaser đầu tiên, dàn nhân sự sản xuất chính, cùng với áp phích quảng bá vào ngày 27 tháng 4 năm 2022. Ngày 12 tháng 7, kênh Youtube ぽにきゃん-Anime PONY CANYON đã xuất bản trailer đầu tiên dài 1 phút, giới thiệu bài hát nhạc nền "Pre-Romance" (プレロマンス). Một áp phích mới đã ra mắt trong cùng ngày. Ngày 5 tháng 8, loạt cắt cảnh từ bộ phim đã phát hành. Trailer mới giới thiệu bài hát nhạc hiệu "Finale." (フィナーレ。) đăng tải trên Youtube vào ngày 16 tháng 8. Pony Canyon đã phát trực tuyến một đoạn clip từ tác phẩm vào ngày 9 tháng 9. Ngày 12 tháng 9, CM có thời lượng 15 giây đã ra mắt. Hai phân đoạn từ bộ phim lần lượt phát hành vào ngày 14 tháng 9 và ngày 23 tháng 9.
Để kỷ niệm một tháng cho đến khi phát hành, trang web chính thức của phim thông báo một chiến dịch theo dõi và chuyển tiếp tin nhắn với các giải thưởng sẽ được tổ chức vào ngày 21 tháng 8 năm 2022. Ngày 24 tháng 8, sự kiện dành cho học sinh cao trung đã tổ chức tại hội trường Nissho.
|
Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808508
|
POP UP SHOP bộ phim đã tổ chức tại Yurakucho Marui từ ngày 9 tháng 9 đến ngày 20 tháng 9.
Phát hành.
Chiếu rạp.
Trong cùng ngày công bố sản xuất, đơn vị phân phối thông báo phim sẽ phát hành vào mùa hè năm 2022. Ngày 27 tháng 4 năm 2022, ngày phát hành bộ phim được ấn định là ngày 9 tháng 9. Ngày 27 tháng 7, một buổi chiếu chiếu trước được tổ chức tại Wald 9 ở Shinjuku, Tokyo. Các diễn viên lồng tiếng gồm Iitoyo Marie, Suzuka Oji và nhà sản xuất Koyama Naoki đã tham dự thay mặt cho đạo diễn Taguchi Tomohisa đang bị ốm.
Edko Films phát hành "Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi" tại Ma Cao và Hồng Kông. Sentai Filmworks cấp phép bộ phim ở khu vực Bắc Mỹ. Để chào mừng bộ phim trình chiếu tại Otakon 2023, Hidive đã tổ chức một buổi họp báo đặc biệt cùng đội ngũ sản xuất và tác giả nguyên tác vào ngày 29 tháng 7. Anime Limited mua bản quyền bộ phim ở Vương quốc Anh, Ireland và Malta. Do nhu cầu phổ biến, Anime Limited thông báo sẽ tăng số lượng buổi chiếu tác phẩm tại các quốc gia đơn vị nắm giữ bản quyền. Ngoài ra, rạp chiếu Finsbury Park Picturehouse phát hành sớm "Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi" từ ngày 10 tháng 7. Bộ phim khởi chiếu tại Liên hoan phim hoạt hình quốc tế Bucheon từ ngày 22 đến ngày 25 tháng 10 năm 2022. Trong khuôn khổ hội chợ AnimagiC 2023 diễn ra tại Mannheim, KSM Anime đã thông báo cấp phép tác phẩm tại thị trường nước Đức.
Tại gia.
Pony Canyon ra mắt tác phẩm dưới định dạng Blu-ray với ba phiên bản gồm cao cấp, bản đặc biệt từ Canime và phổ thông vào ngày 24 tháng 5. Ấn bản Blu-ray cao cấp gồm vỏ 3 mặt, thiết kế nhân vật, thông số kỹ thuật Digipak, hình minh họa mới của Tomomi Yabuki, bộ sưu tập bản thảo thiết lập nhân vật, nghệ thuật và phụ kiện, phỏng vấn đội ngũ sản xuất, bộ sưu tập các bản phác họa gốc do đội ngũ sản xuất lựa chọn, các cuộc phỏng vấn chào sân khấu, phần quà tại rạp, tuyển tập kịch bản phim do đạo diễn Taguchi viết. Trong khi đó, phiên bản Canime được đính kèm với bút đánh dấu ô acrylic, tệp clear nhỏ, áp phích clear A4, hình minh họa cho Digipak mới.
|
Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808508
|
Đối với bản phổ thông gồm video bổ sung, trailer, bộ sưu tập CM và bình luận âm thanh. U-Next là nền tảng ra mắt phim trực tuyến tại Nhật Bản.
Đón nhận.
Doanh thu phòng vé.
Phim không được đón nhận nồng nhiệt ở phòng vé Nhật Bản. Bộ phim không lọt vào nhóm doanh thu dẫn đầu phòng vé cuối tuần. Theo số tháng 3 năm 2023 của tạp chí "Kinema Junpo", phim đạt mốc doanh thu 100 triệu JP¥.
Trong tuần đầu tiên khởi chiếu tại Đài Loan, phim đạt doanh thu 3,9 triệu NT$. Bước sang tuần thứ 2, phim thu về 1,9 triệu NT$. Đến ngày 25 tháng 12 năm 2022, tổng doanh thu của phim là 11,2 triệu NT$. Theo báo cáo cuối cùng của phim vào ngày 8 tháng 1 năm 2023, phim đạt doanh thu tích lũy 12,2 triệu NT$. Tại Hồng Kông, phim thu về 96,2 nghìn US$ trong tuần đầu ra mắt. Trong tuần thứ 2, "Natsu e no Tonneru, Sayonara no Deguchi" đạt doanh thu 69,2 nghìn US$, nâng tổng doanh thu tích lũy lên 165,4 US$.
|
Nguyên lý bao hàm-loại trừ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808509
|
Trong tổ hợp, một nhánh của toán học, nguyên lý bao hàm-loại trừ (hay nguyên lý bao hàm và loại trừ hoặc nguyên lý bù trừ) là kỹ thuật đếm tổng quát cho phương phát tìm số các phần tử của hợp của hai tập hữu hạn sau:
trong đó "A" và "B" là hai tập hữu hạn và |"S" | là số lực lượng của tập hợp "S" (có thể coi là số phần tử trong tập hợp nếu tập hợp đó hữu hạn). Công thức trên nói rằng khi cộng kích thước của hai tập hợp với nhau, giá trị cho có thể quá lớn bởi có thể sẽ có một số phần tử bị đếm hai lần. Các phần tử bị đếm hai lần nằm trong phần giao của hai tập hợp đó và do đó để tìm ra đúng giá trị, ta trừ đi kích thước của phần giao.
Nguyên lý bao hàm-loại trừ là dạng tổng quát của trường hợp chỉ xét hai tập hợp, nên để bắt đầu ví dụ, ta xét công thức cho ba tập hợp "A", "B" và "C":
Ta có thể kiểm chứng công thức này bằng cách đếm số lần mỗi vùng trong biểu đồ Venn nằm trong vế phải của công thức.
Tổng quát hoá các ví dụ này sẽ dẫn tới nguyên lý bao hàm-loại trừ. Để tìm lực lượng của hợp của tập hợp:
Tên bao hàm-loại trừ lấy từ ý tưởng ta thêm các "bao hàm", rồi sau đó "loại trừ" các phần thừa.
Khái niệm này được gắn tên với Abraham de Moivre (1718), mặc dù nó ban đầu xuất hiện trong giấy của Daniel da Silva (1854) và sau đó trong bài viết của J. J. Sylvester (1883). Đôi khi, công thức này được gọi là công thức Da Silva hay công thức Sylvester, do quá trình xuất bản. Nguyên lý này cũng được coi là một ví dụ về một phương pháp sàng được dùng nhiều trong lý thuyết số và đôi khi cũng được gọi là "công thức sàng" trong bối cảnh đó.
Bởi các xác suất hữu hạn được đếm rồi tính tương ứng với lực lượng của không gian xác suất, công thức cho nguyên lý bao hàm-loại trừ vẫn hợp lệ khi ta thay lực lượng của các tập hữu hạn bằng các xác suất hữu hạn. Tổng quát hơn, cả hai phiên bản này đều có đặt nằm dưới lý thuyết độ đo.
Trong ngữ cảnh rất trừu tượng, nguyên lý bao hàm-loại trừ có thể biểu diễn bằng phép tính nghịch đảo của một ma trận nào đó.
|
Nguyên lý bao hàm-loại trừ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808509
|
Nghịch đảo này có cấu trúc đặc biệt, nên nguyên lý này là một trong những kỹ thuật đếm cực kỳ hữu dụng trong tổ hợp và các nhánh toán học có liên quan. Theo lời của Gian-Carlo Rota:
"Một trong những nguyên lý hữu dụng nhất khi liệt kê trong xác suất rời rạc và lý thuyết tổ hợp là nguyên lý bao hàm-loại trừ trứ danh. Nếu áp dụng đúng cách, nguyên lý này có thể trả lời cho rất nhiều bài toán tổ hợp."
Công thức.
Trong công thức tổng quát của nó, nguyên lý bao hàm-loại trừ phát biểu rằng với tập hợp hữu hạn , ta có định thức sau:
Công thức trên có thể viết gọn thành
hoặc
Ứng dụng.
Nguyên lý bao hàm-loại trừ được sử dụng rộng rãi nên chỉ có một vài được nhắc ở dưới đây.
Đếm số phần giao.
Nguyên lý bao hàm-loại trừ khi kết hợp với luật De Morgan, có thể dùng để đếm số lực lượng của phần giao của các tập hợp. Gọi formula_6 là phần bù của "Ak" tương ứng với tập phổ dụng "A" nào đó sao cho formula_7 với mỗi "k". Khi đó ta có
Do đó chuyển bài toán từ đếm phần giao sang đếm phần hợp.
Tô màu đồ thị.
Nguyên lý bao hàm-loại trừ lập thành cơ sở của các thuật toán giải các bài phân hoạch đồ thị thuộc lớp NP-hard, ví dụ chẳng hạn như tô màu đồ thị.
Một ứng dụng nổi bật của nguyên lý là phương pháp xây đa thức xắc số.
So khớp hoàn hảo trong đồ thị hai phía.
Số các so khớp hoàn hảo của một đồ thị hai phía có thể tính bằng nguyên lý này.
Đếm số toàn ánh.
Câu hỏi đặt ra là cho hai tập con "A" và "B", có bao nhiêu hàm toàn ánh đi từ "A" đến "B"? Không mất tính tổng quát, ta có thể lấy "A" = {1, ..., "k"} và "B" = {1, ..., "n"}, bởi ta chỉ quan tâm đến lực lượng của mỗi tập hợp. Gọi "S" là tập các hàm từ "A" đến "B", và định nghĩa với mỗi "i" thuộc "B", tính chất "Pi" :"hàm bỏ qua giá trị "i" thuộc "B"" ("i" không nằm trong ảnh của hàm số), nguyên lý bao hàm-loại trừ sẽ đếm số toàn ánh giữa "A" và "B" như sau:
Đếm các hoán vị cấm vị trí.
|
Nguyên lý bao hàm-loại trừ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808509
|
Hoán vị của tập hợp "S" = {1, ..., "n"} trong đó mỗi phần tử thuộc "S" có thể bị cấm ngồi vị trí nào đó (ở đây là hoán vị được coi là cách sắp xếp thứ tự các phần tử thuộc "S") được ta tạm gọi là "hoán vị cấm vị trí". Ví dụ chẳng hạn, cho "S" = {1,2,3,4}, các hoán vị thoả mãn hai điều kiện cấm: 1 không được nằm tại vị trí 1 hoặc 3, và 2 không nằm trong vị trí 4 là: 2134, 2143, 3124, 4123, 2341, 2431, 3241, 3421, 4231 và 4321. Đặt "Ai" là tập các vị trí mà "i" không được phép ngồi vào, và tính chất "P""i" là tính chất đặt "i" vào vị trí "Ai", nguyên lý bao hàm-loại trừ có thể dùng để đếm số các hoán vị thoả mãn tất cả điều kiện cấm.
Trong ví dụ trên, có 12 = 2(3!) hoán vị thoả mãn tính chất "P"1, 6 = 3! hoán vị thoả mãn tính chất "P"2 và không có hoán vị nào cho "P"3 hoặc "P"4 bởi không có điều kiện cấm cho hai giá trị đó. Số các hoán vị thoả mãn các điều kiện cấm cho trước là:
Số 4 ở cuối bước tính toán là số các hoán vị thoả mãn đồng thời hai tính chất "P"1 và "P"2.
Đa thức quân xe.
Đa thức quân xe là hàm sinh số cách đặt các quân xe không tân công lẫn nhau trên "bàn cờ B" trông như tập con của các ô vuông của bảng kẻ ô; nghĩa là, bất kỳ hai con xe không được phép đặt cùng hàng hay cùng cột và bàn cờ "B" là tập con bất kỳ của các ô vuông của một bàn cờ hình chữ nhật có "n" hàng và "m" cột; ta có thể gọi nó là tập các ô được phép đặt quân lên. Hệ số "rk"("B") của "xk" trong đa thức quân xe "RB"("x") là số cách đặt "k" quân xe trong đó không có cái nào trong đó tấn công cái còn lại và có thể xếp trong bàn cờ "B". Cho bất kỳ bàn "B", có bàn bù formula_10 chứa các ô vuông cùa bàn hình chữ nhật và không nằm trong "B". Cái bàn bù này cũng có đa thức quân xe formula_11 cùng với các hệ số formula_12
Đôi khi để tiện cho tính toán, ta tính hệ số cao nhất trong đa thức quân xe bằng các hệ số của đa thức quân xe của bàn bù.Không mất tính tổng quát, ta có thể giả sử "n" ≤ "m", do đó hệ số này là "rn"("B").
|
Nguyên lý bao hàm-loại trừ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808509
|
Số cách đặt "n" quân xe không tấn công lẫn nhau trên bàn kẻ ô đầy đủ "n" × "m" (chưa quan tâm tới việc liệu các quân có đúng đặt trong bàn"B") được tính theo giai thừa giảm sau:
Gọi "P"i là tính chất đặt "n" quân xe không tấn công nhau trên bàn đầy đủ có quân ở cột "i" và không nằm trong ô thuộc bàn "B", thì theo nguyên lý bao hàm-loại trừ, ta có công thức:
Hàm phi Euler.
Hàm phi Euler hay gọi ngắn lại đi là hàm phi, "φ"("n") là hàm số học đếm số các số nguyên nhỏ hơn hoặc bằng "n" và nguyên tố cùng nhau với "n". Nghĩa là, nếu "n" là số nguyên dương, thì φ("n") là số các số nguyên "k" thuộc đoạn 1 ≤ "k" ≤ "n" không có ước chung với "n" nào khác ngoài 1. Nguyên lý bao hàm -loại trừ có thể dùng để tìm ra công thức cho φ("n"). Gọi "S" là tập {1, …, "n"} và định nghĩa tính chất "Pi" là số thuộc "S" chia hết cho số nguyên tố "pi", với 1 ≤ "i" ≤ "r",trong đó phân tích thừa số nguyên tố của
thì,
Nguyên lý bao hàm-loại trừ bị pha loãng.
Trong nhiều trường hợp nguyên lý có thể đưa công thức chính xác (chẳng hạn như đếm số nguyên tố khi sử dụng sàng Eratosthenes), công thức suy ra được đôi khi không hữu dụng bởi số các phần tử của nó quá nhiều. Và, kể cả khi mỗi số hạng trong đó có thể được ước lượng chính xác, thì tổng các sai số có thể khiến cho công thức bao hàm-loại trừ không áp dụng trực tiếp được. Trong lý thuyết số, vấn đề này được Viggo Brun nhắc tới. Sau một khởi đầu chậm, các ý tưởng của ông dần được thu nhận bởi người khác, và từ đó một lượng lớn phương pháp sàng được phát triển dựa trên đó. Các phương pháp này có thể dùng để thử tìm cận trêm cho các tập "đã được sàng", thay vì phải tìm công thức chính xác.
Gọi "A"1, ..., "A""n" là các tập hợp tuỳ ý và "p"1, …, "p""n" là các số thực thuộc đoạn [0, 1]. Khi đó, với mỗi số nguyên chẵn "k" thuộc {0, …, "n"}, các hàm chỉ thị đều thoả mãn bất đẳng thức sau:
Chứng minh công thức chính.
Chọn một phần từ nằm trong hợp tất cả các tập và gọi formula_18 là các tập chứa nó.
|
Nguyên lý bao hàm-loại trừ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808509
|
Bởi phần tử được đếm 1 lần theo vế trái của phương trình (), nên ta cần chứng minh nó cũng được đếm duy nhất 1 lần theo vế phải. Trong vế phải, các phần cộng giá trị không diễn ra khi các tập con có chứa phần tử được chọn, tức là tất cả tập được chọn đều từ formula_19. Phần cộng đều bằng một cho mỗi tập hợp này (cộng hoặc trừ dựa trên số hạng) và do đó chỉ cần dựa trên số tập con được dùng. Khi đó ta có
Theo định lý nhị thức,
Sử dụng ý formula_22 là đổi chỗ các số hạng đi, ta được
và do vậ, phần tử được chọn được đếm duy nhất một lần trong vế phải của phương trình ().
Chứng minh bằng đại số.
Chứng minh bằng đại số theo các hàm chỉ thị (hay còn gọi là hàm đặc trưng). Hàm chỉ thị của tập con "S" của tập "X" là hàm
Nếu formula_25 và formula_26 là hai tập con của formula_27, thì
Gọi "A" là hợp formula_29 của các tập hợp "A"1, …, "An". Để chứng minh nguyên lý bao hàm-loại trừ trong tổng quát, trước hết ta cần kiểm tra định thức
cho hàm chỉ thị, trong đó:
Hàm sau
bằng không là bởi: nếu "x" không thuộc "A", thì tất cả các nhân tử đều là 0 − 0 = 0; và ngược lại, nếu "x" có thuộc một số "Am", thì nhân tử thứ "m" tương ứng là 1 − 1 = 0.Bằng cách mở rộng tích ở vế trái, suy ra phương trình ().
Để chứng minh nguyên lý bao hàm-loại trừ cho lực lượng của tập hợp , ta lấy tổng phương trình () trên tất cả các "x" thuộc hợp của "A"1, …, "An". Để từ đây lấy ra phiên bản xác suất, cho giá trị kỳ vọng vào (). Và tổng quát hơn, lấy tích phân phương trình () tương ứng với to "μ". Luôn sử dụng tính tuyến tính khi dẫn xuất ra các phiên bản này.
|
Vũ Viết Triều
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808527
|
Vũ Viết Triều (sinh ngày 23 tháng 2 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam hiện thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Hồng Lĩnh Hà Tĩnh tại V.League 1.
Danh hiệu.
Câu lạc bộ.
Bình Định
|
İctimai Televiziya
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808529
|
İctimai Televiziya ( , “Truyền hình Công cộng”), viết tắt là İTV, là một đài truyền hình công cộng ở Azerbaijan. İctimai Televiziya được thành lập vào đầu năm 2004, và bắt đầu phát sóng vào ngày 29 tháng 8 năm 2005, trở thành đài truyền hình công cộng độc lập đầu tiên ở Azerbaijan. Kênh có trụ sở tại Baku.
Tổ chức.
İTV chủ yếu được tài trợ thông qua quảng cáo và các khoản thanh toán của chính phủ. Luật tháng 1 năm 2004 về việc thành lập kênh kêu gọi tài trợ từ phí giấy phép truyền hình bắt đầu bắt đầu từ tháng 1 năm 2010, nhưng cho đến tháng 6 năm 2023, luật này hiện vẫn chưa được thực hiện.
Đài được điều hành bởi Công ty Phát thanh và Truyền hình Công cộng (), bao gồm một hội đồng gồm chín thành viên được Tổng thống Azerbaijan phê chuẩn và một tổng giám đốc do hội đồng bầu ra và cũng được phê chuẩn bởi Tổng thống.
Công ty này cũng sở hữu đài phát thanh công cộng İctimai Radio, bắt đầu buổi phát thanh đầu tiên vào ngày 10 tháng 1 năm 2006. Sự sắp xếp này, cùng với việc tài trợ liên tục của nhà nước, đã bị các tổ chức phi chính phủ phê phán với lý do rằng kênh này có thể liên kết quá chặt chẽ với chính phủ để có thể hoàn toàn độc lập và không thiên vị quá mức.
Các chương trình của đài.
İTV chính thức trở thành thành viên của Liên minh Phát thanh Châu Âu vào ngày 5 tháng 7 năm 2007, cho phép nó tham gia vào các sự kiện như Eurovision Song Contest, lần đầu tiên nhà đài tham gia vào năm 2008. Sau chiến thắng của Azerbaijan trong Eurovision Song Contest 2011, İTV đã tổ chức cuộc thi năm 2012 tại Baku.
İTV ban đầu sẽ tổ chức Eurovision Dance Conest lần thứ ba tại Baku vào năm 2009, nhưng sự kiện này đã bị hoãn lại nhiều lần và cuối cùng bị hủy bỏ do có quá ít người tham gia.
|
AzTV
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808530
|
<templatestyles src="Module:Infobox/styles.css"></templatestyles>
Đài truyền hình Azerbaijan (), viết tắt là AzTV là một kênh truyền hình quốc gia thuộc quyền sở hữu của nhà nước ở Azerbaijan . Đây là đài truyền hình lâu đời nhất trong nước. AzTV lần đầu tiên được phát sóng từ Baku vào ngày 14 tháng 2 năm 1956 tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Azerbaijan, Liên Xô .
Tổ chức.
Kênh được Công ty Cổ phần đóng Phát thanh và Truyền hình Azerbaijan (, ) sở hữu từ năm 2005, trong đó chính phủ là cổ đông duy nhất. Công ty này cũng sở hữu và điều hành các kênh İdman Azərbaycan TV "(phát sóng các nội dung thể thao)" và Mədəniyyət TV "(phát sóng các nội dung về văn hoá)" .
Vào năm 2007, đơn đăng ký tham gia Liên minh Phát thanh Châu Âu của AzTV đã bị từ chối sau khi tổ chức phát hiện rằng kênh này đang có liên hệ chặt chẽ quá mức với chính phủ cầm quyền.
Chương trình.
Kênh bắt đầu phát sóng hàng ngày bằng Quốc ca của Azerbaijan. Chương trình trên AzTV chủ yếu bao gồm tin tức, chương trình trò chuyện, phim tài liệu, chương trình ca nhạc và phim truyện.
Công nghệ.
Buổi phát sóng đầu tiên của Xưởng Truyền hình Baku (bao gồm cả video âm nhạc) được ghi hình lại vào năm 1956 và được lưu trữ bằng phim. Năm 1965, xưởng chuyển sang sử dụng ghi hành bằng băng video vì giá cả hợp lý và còn liên quan đến chất lượng các chương trình do họ sản xuất (bao gồm cả video ca nhạc) đang được cải thiện. AzTV duy trì một kho lưu trữ khổng lồ tất cả các chương trình TV được ghi lại từ năm 1956 đến nay. Tất cả các chương trình của họ được lưu giữ trên các định dạng phim và băng video khác nhau.
Khu vực phát sóng.
, 99,96% dân số của Azerbaijan có thể xem được AzTV thông qua truyền hình mặt đất, truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh, trở thành kênh truyền hình có mức độ phủ sóng cao nhất Azerbaijan.
Ngoài việc phát sóng trong nước, AzTV còn phát sóng quốc tế trên internet và qua vệ tinh miễn phí tới Châu Âu, Bắc Mỹ và một phần của Bắc Phi, Trung Đông và Trung Á .
|
Caroline xứ Gloucester
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808534
|
Vương tằng tôn nữ Caroline Augusta Maria xứ Gloucester (tiếng Anh: "Caroline of Gloucester"; 24 tháng 6 năm 1774 – 14 tháng 3 năm 1775) là một thành viên của Vương thất Anh, cháu chắt George II của Đại Anh và Caroline xứ Ansbach, cháu gái gọi bác của George III của Liên hiệp Anh và là con gái của Vương tôn William Henry, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh và Maria Walpole, con gái của Ngài Edward Walpole và tình nhân Dorothy Clement.
Chào đời và rửa tội.
Vương tằng tôn nữ Caroline được sinh ra tại Cung điện Gloucester ở Phố Piccadilly, Luân Đôn. Cha của Caroline là Vương tôn William Henry, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh, con trai thứ ba của Frederick, Thân vương xứ Wales và Augusta xứ Sachsen-Gotha-Altenburg. Mẹ của Caroline là Maria Walpole, con ngoại hôn của Edward Walpole và tình nhân Dorothy Clement.
Vương tằng tôn nữ được rửa tội kín sau hai mươi chín ngày kể từ ngày sinhvà được đặt tên là Carolina Augusta Maria. Cha mẹ đỡ đầu của Caroline Augusta là Friedrich I của Württemberg, Augusta của Brunswick-Wolfenbüttel và mẹ của Caroline.
Qua đời.
Đầu tháng 3 năm 1775, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh mắc phải bệnh đậu mùa . Sức khỏe của William Henry yếu đến mức WIlliam quyết định đi ra nước ngoài, hy vọng rằng sự thay đổi về ngoại cảnh sẽ khiến bệnh tình khá hơn . Trước khi rời đi, William Henry muốn đảm bảo rằng các con gái của mình sẽ không bị bệnh như mình nên đã ra lệnh cho Vương tằng tôn nữ Sophia và Caroline tiêm phòng bệnh đậu mùa vào ngày 3 tháng 3 . Vương tằng tôn nữ Sophia, bấy giờ được 2 tuổi, đã đáp ứng tốt với vắc xin và không gặp phải biến chứng. Tuy nhiên, Vương tằng tôn nữ Caroline bị ốm nặng mười ngày sau đó và lên cơn co giật và ngất xỉu. Caroline Augusta qua đời vào ngày 14 tháng 3, khi mới gần chín tháng tuổi. Thi thể của Caroline được chôn cất tại Nhà nguyện Thánh Georgeở Lâu đài Windsor.
|
Novorossiya (tỉnh)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808541
|
Tỉnh Novorossiya (; ), là một tỉnh của Đế quốc Nga tại các lãnh thổ từng thuộc Ottoman và người Cossack, tồn tại từ năm 1764 cho đến cải cách hành chính năm 1783. Tỉnh được tạo ra và quản lý theo "Kế hoạch thuộc địa hóa tỉnh Tân Nga" do Thượng viện Nga ban hành. Tỉnh trở thành khu vực đầu tiên ở Nga được Yekaterina Đại đế cho phép nhận người Do Thái nước ngoài định cư.
Hầu hết các lãnh thổ của tỉnh từng thuộc về Sich Zaporozhia cũng như Trung đoàn Poltava và Trung đoàn Myrhorod của Quốc gia hetman Cossack. Việc thành lập tỉnh là thành công về mặt chiến lược và có lợi cho Nga. Sau khi kết thúc cuộc chiến tranh của Nga chống lại Ottoman vào năm 1774, Nga mở được đường tiếp cận Biển Đen và thiết lập một khu vực được gọi là Novorossiya ("Tân Nga"). Tỉnh được tạo ra phỏng theo vùng Biên giới quân sự của Đế quốc Áo chống lại Đế quốc Ottoman, và có sự tham gia của nhiều đơn vị quân đội được tái định cư ở Ukraina.
Năm 1796, tỉnh được tái lập, nhưng với trung tâm không phải ở Kremenchug mà ở Yekaterinoslav, và năm 1802 được chia thành ba tỉnh: Tỉnh Yekaterinoslav, tỉnh Taurida, tỉnh Nikolayev (được gọi là tỉnh Kherson từ năm 1803).
Lịch sử.
Tỉnh được thành lập vào ngày 2 tháng 4 [22 tháng 3 lịch cũ] năm 1764 với tư cách là một quân khu để bảo vệ biên giới phía nam của đế quốc và để chuẩn bị cho chiến dịch quân sự lớn trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ. Tỉnh thống nhất các lãnh thổ của Tân Serbia, Slavo-Serbia và Trung đoàn Slobidskyi (ngày nay ở tỉnh Kirovohrad) là các khu vực phía bắc của Buhohard Palatinate (Sich Zaporizhia). Tỉnh tập trung ở pháo đài Thánh Elizaveta, ban đầu được chia thành ba lãnh thổ (polki) được gắn với mỗi trung đoàn trong khu vực: Trung đoàn giáo mác Thành phố Elizabeth, Trung đoàn kỵ binh Hussar Đen và Trung đoàn kỵ binh Hussar Vàng.
|
Novorossiya (tỉnh)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808541
|
Kể từ ngày 22 tháng 6 [11 tháng 6 lịch cũ] 1764, tỉnh này cũng bao gồm cái gọi là Phòng tuyến Ukraina, một tuyến gồm các pháo đài do Nga xây dựng nằm giữa sông Dnepr và sông Donets, được quản lý bởi các trung đoàn giáo mác Dnepr và Donets (dựa theo Pandur của Habsburg, người Cossack của Poltava, các trung đoàn Myrhorod), Slavo-Serbia với Trung đoàn giáo mác Lugansk, và các trung đoàn kỵ binh Hussar Raiko Preradovic và Ivan Sevic (ngay sau đó hai trung đoàn này được hợp nhất thành Trung đoàn kỵ binh Hussar Bakhmut) cũng như Trung đoàn kỵ binh Hussar Samara (ban đầu là Trung đoàn kỵ binh Moldavia có trụ sở tại Kiev).
Thủ phủ đầu tiên của tỉnh là thành phố Kremenchug (1765) với pháo đài Thánh Elizaveta (ngày nay là Kropyvnytskyi) phục vụ chức năng hành chính trước đó (1764).
Vào năm 1769–70 trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ, đã có một cuộc nổi dậy trong các trung đoàn quân giáo mác Dnepr và Donets. Tình trạng bất ổn bắt đầu trên lãnh thổ của tỉnh Poltava ngày nay và cuối cùng lan rộng khắp các vùng đất của Quân đoàn Zaporizhia. Cuộc nổi dậy bị các lực lượng Đế quốc Nga trấn áp không thương tiếc và những kẻ chủ mưu bị trừng phạt bằng knout (roi da) hoặc bị đưa đến katorga (trại lao động). Trung đoàn quân giáo mác Donets cuối cùng bị buộc phải tham chiến với Ottoman, nơi họ đóng vai trò quan trọng trong việc chiếm Syvash, lấy Perekop, Caffa (Feodosiya).
Vào tháng 6 năm 1775, Quân đội Đế quốc Nga đã san bằng thủ đô của Sich Zaporizhia, sau đó tất cả các vùng đất của nó được sáp nhập vào tỉnh Novorossiysk. Năm sau, các vùng Bakhmut và Yekaterina được chuyển giao cho tỉnh Azov mới thành lập.
Hành chính.
Tỉnh Novorossiya được chia thành 12 tỉnh cấp hai (circuluses) và chia tiếp thành các huyện (uyezd). Thành phố Yekaterinoslav (nay là Novomoskovsk) nằm tại tỉnh Azov. Thành phố Yekaterinoslav (nay là Dnipro) nằm tại tỉnh Novorossiya.
Danh sách tỉnh cấp hai (circuluses):
Thành lập lần hai.
Vào tháng 12 năm 1796, Pavel I cho tái lập tỉnh Novorossiya, chủ yếu từ đất đai của Phó vương quốc Yekaterinoslav trước đây. Năm 1802, tỉnh này được chia thành tỉnh Nikolayev (được gọi là tỉnh Kherson từ năm 1803), tỉnh Yekaterinoslav và tỉnh Taurida.
|
Novorossiya (tỉnh)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808541
|
Nghị định ngày 12 tháng 12 năm 1796 thiết lập chế độ nông nô trên lãnh thổ Nam Ukraina và Kavkaz bằng cách gắn nông dân với đất đai.
Tổng tỉnh Novorossiysk và Bessarabia được thành lập vào ngày 23 tháng 5 năm 1822, với trung tâm ở Odessa. Đơn vị này bao gồm các tỉnh Kherson, Yekaterinoslav và Taurida, cũng như chính quyền thành phố Odessa, Taganrog, Feodosiya và Kerch-Yenikalsky. Tuy nhiên, Công tước Richelieu, người được bổ nhiệm vào vị trí này vào năm 1805, vẫn được coi là thống đốc của Lãnh thổ Novorossiysk. Tổng tỉnh bị bãi bỏ vào năm 1874.
|
2S43 Malva
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808593
|
2S43 "Malva" là hệ thống pháo lựu 152 mm của Nga, bao gồm một khẩu lựu pháo 152 mm 2A64 đặt trên khung gầm của xe dẫn động tám bánh BAZ-6610-027 "Voshchina" do Nhà máy ô tô Bryansk sản xuất; có thể xem đây là phiên bản bánh lốp của 2S19 Msta-S. Pháo tự hành là sản phẩm của dự án R&D "Sketch". Do việc loại bỏ tháp pháo và đặt trước vị trí lắp đặt súng, chiếc xe trở nên nhẹ hơn nhiều, nên nó có thể vận chuyển nó bằng máy bay vận tải, chẳng hạn như Il-76.
Mục đích và tính năng.
2S43 được phát triển tại Viện nghiên cứu trung tâm Burevestnik ở Nizhny Novgorod.
2S43 "Malva" nhằm tiêu diệt vũ khí hạt nhân chiến thuật và thông thường, tấn công vào các khẩu đội pháo, cột thiết bị, hệ thống phòng không, sở chỉ huy... của kẻ thù
Cải tiến chính của dự án 2S43 Malva là sử dụng khung gầm bánh lốp, nhờ đó, cùng với vũ khí và khả năng chiến đấu, sản phẩm 2S43 nhẹ hơn và cơ động hơn nhiều so với pháo tự hành 2S19 Msta-S, đồng thời rẻ hơn để hoạt động.
Lịch sử sáng tạo.
Hệ thống lựu pháo tự hành bánh lốp này của Nga lần đầu tiên đề cập đến vàon năm 2019.
Vào năm 2021, trong khuôn khổ các cuộc thử nghiệm của nhà thiết kế chính, hiệu quả của Malva và sự tuân thủ của phương tiện này với các yêu cầu của nhiệm vụ chiến thuật và kỹ thuật đã được xác nhận.
Vào ngày 17 tháng 5 năm 2023, các thử nghiệm đã hoàn thành.
|
Kim Lee (Andy Nguyễn)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808596
|
Kim Lee, tên khai sinh Andy Nguyễn (sinh ngày 28 tháng 12 năm 1963 tại Hà Nội, mất ngày 18 tháng 12 năm 2020 tại Warszawa) là một drag queen người Ba Lan gốc Việt và nhà hoạt động vì quyền của người đồng tính. Ông đến từ Việt Nam, rồi từ đó đến Ba Lan với tư cách là người nhận học bổng để nghiên cứu vật lý hạt nhân tại Đại học Warszawa. Năm 1998, ông nhận quốc tịch Ba Lan.
Qua đời.
Ông qua đời vài ngày trước sinh nhật của mình vào ngày 18 tháng 12 năm 2020 do bị nhiễm COVID-19. Trước đó, ông đã hôn mê gây ra bởi thuốc trong hơn một tháng trên máy thở.
|
Bouchetia
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808602
|
Bouchetia có thể là:
|
Chrysanthemum Tran
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808604
|
Chrysanthemum Tran là một nhà thơ, nhà văn và nghệ sĩ biểu diễn người Mỹ gốc Việt sống ở Rhode Island. Năm 2016, Tran trở thành người phụ nữ chuyển giới đầu tiên lọt vào vòng chung kết cuộc thi thơ dành cho phụ nữ của thế giới, Women of the World Poetry Slam. Năm 2019, Tran thắng 25.000 đô la để hoàn thành tập thơ đầu tiên của mình và phát triển một hội nghị chuyên đề về thơ ở Wakefield, Rhode Island. Năm 2022, cô góp mặt trong dự án của PBS, "True Colors: LGBTQ+ Our Music, Our Stories".
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.