title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Đồng nguyên (ngôn ngữ học)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808959
Trong ngôn ngữ học lịch sử, hai hoặc hơn từ/hình vị trong các ngôn ngữ khác nhau có thể được coi là đồng nguyên, nếu chúng là hậu duệ của cùng một từ/hình vị nguyên bản trong cùng một tiền ngữ ("proto-language") nhất định. Không nên nhầm lẫn khái niệm này với khái niệm từ mượn, theo đó thì các từ/hình vị được vay mượn xuyên ngôn ngữ và không liên quan gì đến một tổ tiên chung.
Tân Serbia (tỉnh cũ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808961
Tân Serbia, hay Novoserbia là một vùng biên giới quân sự của Đế quốc Nga từ năm 1752 đến năm 1764, trực thuộc Thượng viện và Viện Chiến tranh. Khu vực này hầu hết nằm trong lãnh thổ của tỉnh Kirovohrad ngày nay của Ukraina, mặc dù một số phần của vùng nằm trong lãnh thổ của tỉnh Cherkasy, tỉnh Poltava và tỉnh Dnipropetrovsk ngày nay. Trung tâm hành chính của Tân Serbia là Novomirgorod (nghĩa đen là "Tân Mirgorod"), nay là Novomyrhorod, Ukraina. Lịch sử. Nước Nga Sa hoàng có thể nắm chắc lãnh thổ rộng lớn của Ukraina hiện đại khi ký kết Hiệp định đình chiến Andrusovo và Hiệp ước Hòa bình vĩnh viễn năm 1686, khi Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva phớt lờ ý kiến ​​của người dân địa phương. Cho đến năm 1764–1775, lãnh thổ này có một chính quyền địa phương tự trị với chủ quyền hạn chế là Quốc gia hetman Cossack. Năm 1751 (hoặc theo một số nguồn là 1750), sứ thần Nga tại Wien là Bá tước Mikhail Petrovich Bestuzhev-Ryumin được đại tá quân đội Áo Jovan Horvat liên lạc với yêu cầu cho phép ông và những người Serb khác tái định cư tại Đế quốc Nga. Họ là Granichary (bộ binh Grenz) từng bảo vệ vùng đệm của Áo "Vojna Krajina". Jovan Horvat là thủ lĩnh của một nhóm từ chối thỏa hiệp sau bạo loạn, đạt được sau khi phi quân sự hóa khu vực của họ trong Biên giới quân sự thuộc Áo. Thỏa hiệp bị từ chối dự kiến ​​chuyển những người muốn tiếp tục là chiến binh đến Biên giới quân sự Banat trong khi những người ở lại khu vực sẽ nhận được địa vị cấp tỉnh với việc bảo toàn quyền tự trị tôn giáo. Khu vực này được đặt theo tên của người Serb, họ đã di cư vào Đế quốc Nga vào năm 1752 từ Biên giới quân sự của chế độ quân chủ Habsburg. Chính quyền Nga đã trao cho những người định cư Serb này một vùng đất, do đó có tên là Tân Serbia ngay sau Chiến tranh Kế vị Áo. Giống như ở Biên giới Pannonia, thì Tân Serbia cũng được tổ chức thành tỉnh quân sự nằm ở biên giới Nga-Ba Lan và trên vùng đất palanka Buhogard, Sich Zaporizhia. Mục đích của chính thể là bảo vệ biên giới phía nam của Đế quốc Nga cũng như tham gia vào các hoạt động quân sự của Nga gần khu vực đó.
Tân Serbia (tỉnh cũ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808961
Chỉ huy của Tân Serbia là Jovan Horvat, người đảm bảo cho thuộc hạ của mình là bộ binh Grenz của Áo . Số lượng người định cư lớn nhất đến từ Trung đoàn kỵ binh hussar Serbia - vì công trạng chiến tranh của họ. Đơn vị này có nhiệm vụ tương tự như người Cossack từ Zaporozhia - bảo vệ khu vực biên giới. Trái ngược với nông nô, người Serb Chính thống giáo Đông phương được hưởng quyền tự trị đáng kể (để đổi lấy việc cung cấp lực lượng chiến đấu chống lại Đế quốc Ottoman) được ban hành trong nhiều tài liệu bắt đầu từ Statuta Valachorum, nhưng đã dần lỗi thời hoặc bị loại bỏ bởi sự ra đời của nhà nước hiện đại tập trung hóa. Ý tưởng thuộc địa hóa của Horvat được Yelizaveta của Nga nhiệt tình ủng hộ, và đây là khu định cư có kế hoạch tập trung đầu tiên ở thảo nguyên phía nam, dẫn đến sự xấu đi trong quan hệ của Nga với chế độ quân chủ Habsburg và Đế quốc Ottoman, và kết tinh các đặc điểm chính của Vấn đề phương Đông trong tương lai. Nhân khẩu. Trước khi hình thành Tân Serbia, lãnh thổ này chủ yếu có người Ukraina sinh sống và bao gồm 3.710 ngôi nhà của những người định cư từ Quốc gia hetman, Slobozhanshchina và Zaporizhia, 643 ngôi nhà của cư dân bản địa và 195 ngôi nhà của những người định cư Ukraina từ Ba Lan và Moldavia. Theo hồi ký của người lính và người định cư Serbia Aleksandar Piščević, hàng xóm của họ là người Nga. Khi Tân Serbia được thành lập, Thượng viện Nga ra lệnh rằng tất cả những người định cư này, ngoại trừ cư dân bản địa, phải trở về nơi họ đã sống trước đây. Sau khi Tân Serbia hình thành, những người định cư mới đầu tiên của nó là người Serb, nhưng cũng có nhiều người Moldova và những người Romania khác (Mocani từ Transylvania), người Ukraina, người Bulgaria và những người khác định cư trong khu vực. Một số người định cư gốc Ukraina rời lãnh thổ Tân Serbia đến định cư ở các vùng phía nam của Ukraina ngày nay. Năm 1745, trước khi thành lập Tân Serbia, lãnh thổ này có 9.660 cư dân sinh sống, trong khi vào năm 1754, số cư dân là 3.989. Do số lượng lớn người định cư Moldavia, nhóm dân tộc lớn nhất trong tỉnh vào năm 1757 không phải là người Serb mà là người Moldavia. Năm 1757, dân số Tân Serbia là 5.482 người, bao gồm: Khu định cư.
Tân Serbia (tỉnh cũ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808961
Tại quê hương mới của họ, người Serb thiết lập những địa điểm mới và do đó đặt cho chúng những cái tên giống như tên của những địa điểm tại quê hương cũ của họ ở đồng bằng Pannonia (ở Serbia, Croatia, Romania và Hungary ngày nay). Người Serb cũng đổi tên một số khu định cư cũ hơn, đặt tên theo tiếng Serb cho chúng. Trong số 41 khu định cư tồn tại ở Tân Serbia, 26 khu được thành lập trước khi người Serb đến. Ghi chú: Các địa điểm ở Tân Serbia có tên gọi cũng có thể được tìm thấy trên lãnh thổ tại Đồng bằng Pannonia (chủ yếu ở Vojvodina và Pomorišje) bao gồm: Văn hóa. Trong bộ phim Babylon A.D. năm 2008, nhân vật chính Toorop (Vin Diesel) bắt đầu hành trình của mình trong tương lai gần, vào năm 2027 hậu tận thế tại Tân Serbia, một lãnh thổ thuộc Nga.
SSM-N-8 Regulus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808962
SSM-N-8A Regulus hay Regulus I là một loại tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm thế hệ thứ 2 do Hải quân Hoa Kỳ phát triển, với khả năng mang đầu đạn hạt nhân động cơ turbojet. Tên lửa được phát triển từ năm 1955 đến năm 1964. Tên lửa Regulus được phát triển từ các kết quả thử nghiệm tên lửa đạn đạo V-1 do Hải quân Mỹ thực hiện tại Căn cứ không quân Mũi Mugu ở California. Tên lửa có hình dáng khí động học giống với hình dáng của máy bay tiêm kích cùng thời kỳ nó ra đời, nhưng không có buồng lái. Các mẫu thử nghiệm tên lửa được bổ sung thêm càng hạ cánh, và nó có khả năng cất hạ cánh tương tự như máy bay thông thường. Khi tên lửa được triển khai, chúng sẽ được phóng đi từ đường ray đặt trên thân tàu ngầm, và được hỗ trợ bằng hai động cơ phản lực nhỏ ở phần thân sau. Lịch sử ra đời và phát triển. Thiết kế và phát triển. Tháng Mười năm 1943, công ty sản xuất máy bay Chace Vought (sau này là Vought) đã dành được hợp đồng phát triển một mẫu tên lửa hành trình có tầm bay và có khả năng mang đầu đạn nặng . Chương trình phát triển đã bị dừng lại trong bốn năm. Tháng Mười năm 1947, Không quân Mỹ đã giao cho công ty Martin chế tạo một loại tên lửa bay cận âm động cơ tuốc bin phản lực, với tên gọi MGM-1 Matador. Hải quân Mỹ luôn cạnh tranh với Không quân Mỹ trong phát triển tên lửa, và đây cũng không phải ngoại lệ, chứng kiến loại tên lửa của Không quân Mỹ, Hải quân Mỹ quyết định phát triển một loại tên lửa hành trình dựa trên động cơ J33 giống như Matador nhưng có khả năng phóng được từ tàu ngầm. Tháng Tám năm 1947, đặc tính kỹ thuật của loại tên lửa mới của Hải quân, đã được hoàn chỉnh: - Có khả năng mang được đầu đạn nặng , với tầm bay đạt - Tốc độ bay Mach 0,85 - Sai số vòng tròn CEP ở tầm bắn tối đa nằm trong khoảng . Việc phát triển tên lửa Regulus được kế thừa từ kinh nghiệm của Hải quân Mỹ khi làm việc với loại tên lửa Republic-Ford JB-2 vốn được phát triển từ bom bay V-1 của Đức quốc xã, từ năm 1945. Hải quân Mỹ đã tiến hành bắn thử nghiệm tên lửa Regulus tại cơ sở thử nghiệm Naval Air Station Point Mugu, với các tàu ngầm và được chỉnh sửa đặc biệt để làm nền tảng phóng tên lửa.
SSM-N-8 Regulus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808962
Do tên lửa không được che chắn và bảo vệ nên chỉ có thể phóng trong trạng thái tàu ngầm đang nổi. Tên lửa Regulus có chiều dài , sải cánh , đường kính , và có trọng lượng phóng . Tên lửa được lắp ráp lại từ thân một chiếc tiêm kích F-84 nhưng không có buồng lái. Phiên bản thử nghiệm còn được bổ sung thêm càng đáp để thu hồi lại được. Sau khi phóng, tên lửa Regulus cần được đàichir huy dẫn bắn trực tiếp cho đến khi bắn trúng mục tiêu, thông thường các tàu ngầm và tàu nổi được trang bị các trạm điều khiển này. (Sau này, các tàu ngầm Hải quân Mỹ được trang bị hệ thống "Trounce" (Tactical Radar Omnidirectional Underwater Navigational Control Equipment), tàu ngầm đã có khả năng dẫn đường cho tên lửa). Sự cạnh tranh trong thiết kế của tên lửa hành trình giữa Hải quân và Không quân Mỹ càng làm cho việc phát triển hai loại tên lửa càng trở nên phức tạp. Tên lửa cùng sử dụng một loại động cơ và có hình dáng tương tự nhau. Chúng có đặc tính, quá trình thử nghiệm cũng tương tự nhau, dẫn đến sự lãng phí tiền vốn đầu tư. Do áp lực phải cắt giảm chi tiêu, Bộ quốc phòng Mỹ đã ra chỉ thị cho Hải quân sử dụng tên lửa Matador cho tàu ngầm. Tuy nhiên Hải quân Mỹ đã chỉ ra rằng tên lửa Regulus có khả năng tốt hơn tên lửa của Không quân Mỹ, đồng thời cũng phù hợp hơn cho các nhiệm vụ của Hải quân. Regulus có một số ưu điểm hơn Matador. Nó chỉ cần hai trạm dẫn đường, trong khi Matador cần tới ba trạm dẫn đường. Regulus cũng có thời gian chuyển trạng thái đến lúc bắn tên lửa ngắn hơn do nó được gắn sẵn tầng đẩy khởi tốc trong khi đó tên lửa Matador cần phải gắn tầng đẩy khởi tốc trước khi phóng. Cuối cùng, công ty Chance Vought cũng đồng thời phát triển cả một phiên bản mục tiêu bay với định danh KDU-1, vì thế ngay cả khi tên lửa có giá thành đắt hơn đi chăng nữa, nhưng tính ra Regulus vẫn rẻ hơn khi sử dụng trong các cuộc thử nghiệm. Chương trình phát triển của Hải quân Mỹ vẫn tiếp tục được tiến hành, với thử nghiệm tên lửa diễn ra lần đầu vào tháng Ba năm 1951.
SSM-N-8 Regulus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808962
Do các quan ngại về kích thước quá lớn để có thể vận chuyển tên lửa trên đường cao tốc, nên Chance Vought đã hợp tác với một công ty chuyên về xe vận tải siêu trường siêu trọng để phát triển một phương tiện chuyên chở tên lửa Regulus I. Triển khai trên tàu mặt nước và tàu ngầm. Tên lửa được thử nghiệm lần đầu với vụ bắn thử nghiệm vào tháng Bảy năm 1953 từ tàu ngầm USS Tunny đã qua chỉnh sửa đặc biệt để mang phóng tên lửa mới. Tàu ngầm "Tunny" và chiếc tàu ngầm chị em với nó là USS Barbero là những chiếc tàu ngầm đóng vai trò răn đe hạt nhân đầu tiên của Hải quân Mỹ. Năm 1958, Hải quân Mỹ tiếp tục triển khai thêm hai chiếc tàu ngầm bổ sung mang têno lửa Regulus I là USS Grayback và , sau đó là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân "Halibut", với thiết kế hangar lớn bên trong thân tàu có thể chứa được tới 5 tên lửa, định hình thiết kế cho cả một lớp tàu ngầm năng lượng hạt nhân mang tên lửa hành trình SSG-N. Theo chiến lược răn đe hạt nhân của Hải quân Mỹ, Hải quân Mỹ sẽ đảm bảo luôn có bốn tàu ngầm mang tên lửa Regulus tuần tra trên biển vào bất kỳ thời điểm nào. Trong đó, tàu ngầm "Barbero" và "Tunny" mỗi tàu được trang bị hai tên lửa sẽ phải tuần tra theo cặp, trong khi tàu ngầm "Growler" và "Grayback", với mỗi tàu trang bị bốn quả tên lửa, hoặc chiếc "Halibut" trang bị năm quả tên lửa là có khat năng tuần tra độc lập. Được triển khai từ căn cứ tại Trân châu cảng, Hawaii, năm chiếc tàu ngầm mang tên lửa Regulus đã thực hiện 40 cuộc tuần tra răn đe hạt nhân trên biển Bắc Thái Bình Dương từ tháng Mười năm 1959 đến tháng Bảy năm 1964, bao gồm cả cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. Theo như phim tài liệu "Regulus: The First Nuclear Missile Submarines" của Nick T. Spark, sứ mệnh chính của các tàu ngầm này là tiêu diệt các căn cứ Hải quân của Liên Xô tại Petropavlovsk-Kamchatsky. Sứ mệnh tuần tra răn đe hạt nhân của chúng được nối tiếp bằng các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Polaris. The Regulus firing submarines were relieved by the s carrying the Polaris missile system. "Barbero" also earned the distinction of launching the only delivery of missile mail.
SSM-N-8 Regulus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808962
"Barbero" also earned the distinction of launching the only delivery of missile mail. Các tàu ngầm USS "Cusk" and USS "Carbonero" được trang bị trạm điều khiển giúp chúng có thể tiếp quyền điều khiển trực tiếp tên lửa Regulus phóng đi từ tàu ngầm khác, giúp nối dài cự ly tác chiến của tên lửa trong các tình huống chiến lược. Regulus tuần cũng được triển khai trên các tàu nổi như tàu . Năm 1956, tên lửa tiếp tục được triển khai trên ba tàu nữa là: , , và . Bốn tàu tuần dương thuộc lớp tàu Baltimore này mỗi tàu trang bị ba tên lửa Regulus thường xuyên tuần tra vùng biển Tây Thái Bình Dương. Mười tàu sân bay cũng được cấu hình để mang tên lửa Regulus, dù chỉ có sáu chiếc được đóng. không được triển khai tên lửa Regulus nhưng nó là tàu sân bay đầu tiên thực hiện phóng thử Regulus. cũng không được triển khai với tên lửa Regulus nhưng nó đã tham gia hai lần phóng trình diễn. và một chiếc đều đã thực hiện một lần phóng thử nghiệm. khi được triển khai ở Địa Trung Hải được trang bị ba tên lửa Regulus. được triển khai một lần tới biển Tây Thái Bình Dương đã mang theo bốn quả tên lửa vào năm 1955. "Lexington", "Hancock", , và đã tham gia vào quá trình phát triển cấu hình Regulus Assault Mission (RAM). Theo đó, RAM chuyển đổi tên lửa Regulus thành một phương tiện bay không người lái UAV, cụ thể là tên lửa Regulus được phóng đi, và trong chuyến bay, nó sẽ được điều khiển đến mục tiêu bởi phi công điều khiển ngồi điều khiển từ trong tàu sân bay qua các thiết bị điều khiển từ xa. Loại biên. Dù là hệ thống tên lửa mang đầu đạn hạt nhân đầu tiên được triển khai trên tàu ngầm của Hải quân Mỹ, nhưng hệ thống tên lửa Regulus có nhiều điểm lạc hậu. Khi tiến hành phóng tên lửa, tàu ngầm phải nổi lên và triển khai tên lửa trên ray phóng trong bất kỳ thời tiết nào. Do nó cần hệ thống điều khiển bằng radar, vốn chỉ có tầm hoạt động , tàu ngầm phải tiếp tục nổi trên bề mặt nước để có thể điều khiển quả tên lửa trong khi đó tín hiệu điều khiển sẽ khiến tàu ngầm bị lộ vị trí. Phương pháp dẫn đường này dễ bị gây nhiễu và do tên lửa bay cận âm, tàu ngầm sẽ phơi mình trên mặt nước và dễ bị tổn thương trước đòn tấn công từ đối phương trong suốt thời gian bay của tên lửa.
SSM-N-8 Regulus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808962
Việc tiêu diệt tàu ngầm mẹ sẽ khiến quả tên lửa bị mất điều khiển. Việc sản xuất tên lửa Regulus được ngừng lại từ tháng Một năm 1959 với việc hoàn tất quả tên lửa thứ 514; năm 1962, chúng được đổi tên thành RGM-6. Tên lửa Regulus đươc loại khỏi trang bị vào tháng Tám năm 1964. Một số quả tên lửa còn lại được chuyển sang làm vai trò mục tiêu bay. Regulus không chỉ là phương tiện răn đe hạt nhân của Hải quân Mỹ trong suốt thời kỳ đầu chiếntranh Lạnh, đặc biệt là trong Khủng hoảng tên lửa tại Cuba năm 1962, là tiền đề cho phát triển các tên lửa UGM-27 Polaris, UGM-73 Poseidon và họ tên lửa Trident, mà còn là ông tổ của tên lửa hành trình BGM-109 Tomahawk. Sau khi được cho loại biên, một số lượng tên lửa đã được chuyển đổi thành mục tiêu bay BQM-6C. Tên lửa Regulus II. Tên lửa hành trình siêu âm thế hệ hai SSM-N-9 Regulus II cũng do Vought phát triển và có tầm bắn và tốc độ Mach 2 đã được phát triển và thử nghiệm thành công, bao gồm cả phóng thử nghiệm từ tàu gầm "Grayback', nhưng chương trình đã bị ngừng lại do Hải quân Mỹ tập trung cho tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm UGM-27 Polaris. Tên lửa Regulus II là một thiêtw kế hoàn toàn mới với việc cải thiện hệ thống dẫn đường và tăng gấp đôi tầm bắn, và dự định sẽ thay thế cho Regulus I. Các tàu ngầm và tàu nổi được trang bị Regulus II sẽ được bổ sung hệ thống định vị tuyến tính lắp cho tàu chiến Ships Inertial Navigation System (SINS), giúp tên lửa nạp thông tin về toạ độ của mục tiêu chính xác trước khi được phóng đi. Hải quân Mỹ đã thực hiện tổng cộng bốn mươi tám lần phóng thử nghiệm trong đó có ba mươi lần thử nghiệm thành công và 14 lần thành công một phần, bốn lần phóng thất bại. Một hợp đồng sản xuất đã được ký kết vào tháng Một năm 1958 và chỉ có một lần phóng từ tàu ngầm duy nhất diễn ra từ tàu ngầm "Grayback" tháng Chín năm 1958. Do giá thành quá cao (khoảng một triệu đô la mỹ cho mỗi tên lửa), áp lực về ngân sách, và sự ra đời của tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm UGM-27 Polaris, chương trình Regulus II đã bị hủy bỏ vào tháng Mười hai năm 1958. Tính đến lúc hủy bỏ chương trình, công ty Vought đã hoàn thành 20 quả tên lửa Regulus II cùng với 27 quả khác đang được chế tạo.
SSM-N-8 Regulus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808962
Tên lửa Regulus I vẫn được chế tạo đến tháng Một năm 1959 với tổng số 514 quả tên lửa được sản xuất, nó được loại biên vào tháng Tám năm 1964. Cả Regulus I và Regulus II đều được sử dụng làm mục tiêu bay sau năm 1964.
Lihou
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808964
Lihou () là một hòn đảo thủy triều nhỏ nằm ngay ngoài khơi bờ biển phía Tây của đảo Guernsey, trong Eo biển Anh, giữa Vương quốc Anh và Pháp. Về mặt hành chính, Lihou là một phần của Giáo xứ St. Peter's ở Địa hạt Guernsey. Mặc dù đã có một số chủ sở hữu trong quá khứ, kể từ năm 2006, hòn đảo này đã được Cục Môi trường Guernsey và Quỹ từ thiện Lihou đồng quản lý. Trong quá khứ, hòn đảo được người dân địa phương sử dụng để thu gom rong biển làm phân bón, nhưng ngày nay Lihou chủ yếu được sử dụng cho du lịch, bao gồm cả các chuyến tham quan của trường học trong địa hạt. Lihou cũng là một trung tâm bảo tồn quan trọng, tạo thành một phần của khu đất ngập nước Ramsar để bảo tồn các loài chim và thực vật quý hiếm cũng như các tàn tích lịch sử của một tu viện và một trang trại.
Jure uxoris
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808966
Jure uxoris (một thuật ngữ bằng tiếng La Tinh có nghĩa là "theo quyền của vợ") mô tả tước hiệu quý tộc được sử dụng bởi một người đàn ông vì vợ anh ta giữ chức vụ hoặc tước hiệu suo jure ("theo quyền của cô ấy"). Tương tự như vậy, chồng của một nữ thừa kế có thể trở thành người sở hữu hợp pháp các vùng đất của cô ấy (ăn theo quyền của vợ). Ví dụ, phụ nữ đã kết hôn ở Vương quốc Anh và xứ Wales không có khả năng sở hữu bất động sản về mặt pháp lý cho đến khi có Đạo luật về tài sản của phụ nữ đã kết hôn năm 1882. Các vị vua cai trị theo luật jure uxoris được coi là đồng cai trị với vợ của họ và không nên nhầm lẫn với các vị vua phối ngẫu, những người chỉ đơn thuần là phối ngẫu của vợ họ.
Dư âm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808975
"Dư âm" là một bài hát thuộc dòng nhạc tiền chiến của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý sáng tác vào năm 1950. Nhạc phẩm được coi là một trong những tình khúc tiêu biểu nhất của tân nhạc Việt Nam, gắn liền với sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ này. Hoàn cảnh sáng tác. Theo lời kể của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, nguồn cảm hứng sáng tác "Dư âm" là khi ông đến thăm nhà một người bạn ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Nhà bạn ông có hai người con gái, người chị khoảng 20 tuổi, còn người em tên Hằng 16 tuổi. Gia đình này muốn tác hợp nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý với người chị nhưng ông đã "để ý" đến người em với "đôi mắt đen láy... đã gởi gắm cho tôi tất cả những gì say đắm nhất". Rồi ông bị ngăn cấm tình cảm không cho qua lại với người em vì cô còn nhỏ tuổi. Thời điểm này ông là Trưởng đoàn Văn công thuộc Sư đoàn 304, về đến đơn vị nhớ lại hình ảnh cô em ôm đàn rồi khẽ hát, ông sáng tác "Dư âm" và hoàn thành trong đêm. Tám năm sau trong một chuyến đi công tác ở Vĩnh Yên, Nguyễn Văn Tý tình cờ gặp lại Hằng lúc này cô đã lập gia đình. Trước năm 1975, bài hát bị cấm ở miền Bắc trong nhiều năm nhưng lại phổ biến ở miền Nam. Đài Phát thanh Sài Gòn mỗi ngày đều nhận được thư yêu cầu phát bài "Dư âm". Cũng vì sự nổi tiếng của bài hát này nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý bị đơn vị phê bình và kiểm điểm vì sáng tác bài hát có yếu tố ủy mị không phù hợp với binh sĩ thời đó. Ông còn đi khắp nơi để "bài xích" bài hát do mình sáng tác. Năm 1988, ông sáng tác "Dư âm 2" mang tên "Một ánh sao trời" dành tặng một người phụ nữ. "Dư âm" được coi là nhạc phẩm tiền chiến duy nhất của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý.
Dư âm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808975
Sau đó, ông sáng tác một số bài hát nhạc đỏ như "Bài ca phụ nữ Việt Nam", "Chim hót trên đồng đay", "Người đi xây hồ Kẻ Gỗ", "Tiễn anh lên đường"... Năm 2000, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học và Nghệ thuật với loạt ca khúc: "Mẹ yêu con", "Vượt trùng dương", "Bài ca năm tấn", "Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa", "Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh" và "Dáng đứng Bến Tre". Văn hóa đại chúng. "Dư âm" là ca khúc chính trong bộ phim "Kiếp hoa" công chiếu năm 1953 được Kim Chung và Kim Xuân thể hiện. Ca khúc còn được một số ca sĩ thể hiện thành công như Tuấn Ngọc, Tùng Dương, Khánh Ly và Ánh Tuyết. Năm 2018, Lan Anh thực hiện liveshow đầu tiên của cô mang tên "Ánh trăng tình yêu" diễn ra tại Nhà hát Lớn. Liveshow gồm 4 phần cùng những nhạc phẩm trữ tình như "Hương xưa", "Dư âm", "Bóng chiều xưa". Năm 2022, Phương Mỹ Chi trở lại với dự án "Chi?" gồm năm MV nhằm làm mới những tình khúc kinh điển trong đó có "Dư âm". Cùng năm nghệ sĩ saxophone Lê Duy Mạnh hòa tấu nhạc phẩm này trong CD "Cô đơn" do anh thực hiện trong khoảng ba năm. Trong chương trình "Người kể chuyện tình" mùa 6, thí sinh Thạch Thảo chọn nhạc phẩm "Dư âm" để thể hiện. "Dư âm" được nhạc sĩ Đức Trí dùng làm nhạc nền trong một phân cảnh phim "Người tình" của đạo diễn Lưu Huỳnh. Ca từ trong nhạc phẩm cũng là nguồn cảm hứng để nhà thiết kế Adrian Anh Tuấn trình làng bộ sưu tập "Hẹn em" gồm 80 thiết kế chia làm 2 phần bao gồm trang phục ứng dụng và áo cưới. Đánh giá. Theo báo "VnExpress", dù ra đời sau bảy thập niên "Dư âm" vẫn có sức sống lâu bền và được coi là một trong những tình khúc tiêu biểu nhất của tân nhạc lãng mạn thập niên 1940. Còn báo "VTC News" cho rằng nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý có nhiều sáng tác nhưng được nhiều khán giả yêu thích và biết đến vẫn là "Dư âm" với "giai điệu tha thiết, ca từ trau chuốt". Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đánh giá, "Dư âm" sáng tác từ mối tình trong sáng khiến người nghe như tìm thấy chính mình trong ca khúc.
Dư âm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808975
Tác giả Tuấn Khanh của "RFA" thì nhận xét "Dư âm" là một nhạc phẩm viết về tình yêu đôi lứa nhưng được coi là "bài hát phá bĩnh, khiến trai gái có thể mềm lòng, không đủ sức chiến đấu".
Tổ Hằng Chi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808978
Tổ Hằng hay Tổ Hằng Chi (; k. 480 – k. 525) là một nhà toán học, quan lại và nhà văn Trung Quốc. Tên chữ của ông là Cảnh Thước (). Ông là con trai của nhà toán học nổi tiếng Tổ Xung Chi. Ông được biết đến với việc rút ra và chứng minh công thức tính thể tích của một hình cầu. Ngoài ra, ông còn đo khoảng cách góc giữa Polaris và Thiên cực bắc.
Vignadula atrata
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809000
Vignadula atrata là một loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ thuộc họ Mytilidae. Chúng được Lischke mô tả lần đầu tiên vào năm 1871.
Nguyên thủ Cộng hoà Kabardino-Balkar
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809002
Nguyên thủ Cộng hoà Karabino-Balkar, trước kia có tên là Tổng thống Cộng hoà Karabino-Balkar, là vị trí nhà nước cao nhất của cộng hoà Kabardino-Balkar. Vị trí này là người đứng đầu nhánh hành pháp tại nhà nước và có quyền triệu tập các cuộc họp của chính phủ Karabino-Balkaria. Danh sách nguyên thủ cộng hoà. Dưới đây là danh sách những người có thẩm quyền quản lý cao nhất bên phía Kabardino-Balka, trước là một nước Cộng hoà XHCN Xô viết Tự trị thuộc Liên Xô và sau là một nước Cộng hoà thuộc Nga kể từ tuyên bố chủ quyền nhà nước của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Kabardino-Balka ngày 31 tháng 1 năm 1991 cho tới nay.
Vụ đắm thuyền Kwara
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809020
Vụ đắm thuyền Kwara xảy ra vào ngày 13 tháng 6 năm 2023 khi một con tàu bị lật sau khi bị đâm vào một thân cây và chìm ở phần sông Niger thuộc Nigeria. including at least 35 children. Theo thông tin, chiếc thuyền được chở tới 300 người và đang đi giữa Bang Niger và Bang Kwara thì bị đắm khiến ít nhất 100 người thiệt mạng. Con thuyền chìm vào khoảng 3 giờ sáng, rất ít người còn biết về số phận của con thuyền cho đến vài giờ sau khi bị đắm. Theo một người dân địa phương đã cho biết, các nạn nhân có bao gồm cả phụ nữ và trẻ em đang trở về sau một lễ cưới diễn ra ở làng Egboti thuộc bang Niger.
John Eckhardt
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809024
John Henrik Wilhelm Eckhardt (sinh năm 1974) là một nhạc sĩ người Đức, nổi tiếng ở dòng nhạc Neue Musik và ngẫu hứng.
Yu Woo-ik
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809034
Yu Woo-ik (hay Ryu Woo-ik, ; ; sinh ngày 6 tháng 1 năm 1950 tại Sangju, Hàn Quốc) là một chính khách, nhà ngoại giao và nhà địa lý người Hàn Quốc. Dưới thời Tổng thống Lee Myung-bak, ông từng là chánh văn phòng Tổng thống năm 2008, đại sứ tại Trung Quốc từ năm 2009 đến năm 2011, và bộ trưởng Bộ Thống nhất từ ​​năm 2011 đến năm 2013. Ông cũng là giáo sư tại Đại học Quốc gia Seoul cho đến năm 2010 và từng là Tổng thư ký của Hội liên hiệp Địa lý Quốc tế từ năm 2008 đến năm 2010. Tiểu sử. Yu Woo-ik học ngành địa lý học tại Đại học Quốc gia Seoul và nhận bằng tiến sĩ năm 1980 tại Đại học Christian Albrechts ở Kiel với luận án "Zentralörtliches Verhalten und Sozialstruktur in ländlichen Räumen". Sau đó, ông trở lại Hàn Quốc và trở thành giáo sư tại Đại học Quốc gia Seoul. Ông cũng từng làm việc trong nhiều ủy ban cố vấn chính sách quốc gia. Từ năm 1996, ông trở thành một trong những cố vấn thân cận nhất của Lee Myung-bak. Sau khi Lee Myung-bak được bầu làm tổng thống Hàn Quốc, ông đã bổ nhiệm Yu Woo-ik làm chánh văn phòng Tổng thống vào đầu năm 2008. Tuy nhiên, ông đã đệ đơn từ chức vào ngày 6 tháng 6 cùng năm, sau các cuộc biểu tình công khai phản đối việc nối lại nhập khẩu thịt từ Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở lại Đại học Quốc gia Seoul với tư cách là giáo sư. Từ tháng 12 năm 2009, Yu làm đại sứ Hàn Quốc tại Trung Quốc trong 16 tháng. Ngày 30 tháng 8 năm 2011, Lee Myung-bak bổ nhiệm ông làm Bộ trưởng Bộ Thống nhất, ông giữ chức vụ này cho đến hết nhiệm kỳ vào đầu năm 2013. Ngay khi được bổ nhiệm, ông đã tuyên bố "Trung Quốc cần nhận thức một cách tích cực rằng sự thống nhất bán đảo Triều Tiên sẽ có lợi cho nước này cũng như là điều hạnh phúc đối với Hàn Quốc và cả vùng Đông Á". Người kế nhiệm chức vụ này là Ryu Gil-jae. Vợ của ông là Biểu Minh Doãn. Sự nghiệp. Yu Woo-ik đã phát triển kế hoạch cho một con kênh nối liền sông Hán và sông Nakdong và từ đó có thể tạo ra một tuyến đường thủy chạy dọc qua Hàn Quốc.
Yu Woo-ik
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809034
Mặc dù kế hoạch này chưa bao giờ được thực hiện, nhưng một dự án có định hướng tương tự đã được triển khai với sự tham gia của ông với mục đích bảo vệ môi trường, được gọi là "Dự án Bốn con sông". Với tư cách là bộ trưởng, ông đã đề xuất thành lập một quỹ để hỗ trợ cho công dân Hàn Quốc trong việc xây dựng Triều Tiên trong tương lai.
Anomochlooideae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809045
Anomochlooideae là một nhánh con thuộc họ cỏ thực sự Poaceae. Nó được coi là nhánh gốc của tất cả các loại cỏ khác. Nhóm này bao gồm các loài thảo dược lâu năm mọc trên mặt đất bóng râm của các khu rừng ở vùng Neotropics. Có hai chi là Anomochloa và Streptochaeta, mỗi chi thuộc một tông riêng. Nhánh con này được coi là dòng dõi đầu tiên phân chia ra các loài cỏ khác nhau:
Aristideae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809047
Aristideae là một tộc cỏ duy nhất trong họ con Aristidoideae của họ cỏ thực sự Poaceae. Các thành viên của tộc này là các loài thảo dược hằng năm hoặc lâu năm được tìm thấy ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và vùng ôn đới. Tộc này có hơn 300 loài thuộc ba chi: Họ con này thuộc nhóm PACMAD clade của các loài cỏ, một nhóm tiến hóa mà thực vật C4 đã phát triển độc lập nhiều lần.
Chloridoideae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809048
Chloridoideae là một trong những họ con lớn nhất của họ Cỏ, với khoảng 150 chi và 1.600 loài, chủ yếu được tìm thấy trong các đồng cỏ thảo nguyên nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Trong nhánh PACMAD, nhóm chị em của nó là Danthonioideae. Họ con này bao gồm các loài cỏ cỏ gian phổ biến như cỏ Bermuda ("Cynodon dactylon") hoặc cỏ xạ hương ("Eleusine indica"), nhưng cũng bao gồm các loài kê được trồng ở một số khu vực nhiệt đới, như kê ngón tay ("Eleusine coracana") và kê teff ("Eragrostis tef"). Trừ một số loài trong "Ellisochloa" và "Eleusine indica", hầu hết các loài trong họ con này sử dụng con đường quang hợp C4 trong quá trình quang hợp. Quá trình chuyển tiến hóa đầu tiên từ quang hợp C3 sang C4 trong cỏ có thể đã xảy ra trong họ con này, khoảng từ 32 đến 25 triệu năm trước trong kỷ Oligocene. Phát sinh chủng loại họ. Mối quan hệ giữa các tông trong Chloridoideae theo phân loại phát sinh chủng của năm 2017, cũng cho thấy Danthonioideae là nhóm chị em: Các chi sau chưa được gán vào một tộc nào:
TV5 (mạng truyền hình Philippines)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809053
TV5 (còn được gọi là 5 và trước đây gọi là ABC) là mạng truyền hình và đài phát thanh miễn phí của Philippines có trụ sở tại Mandaluyong, với các studio thay thế nằm ở Novaliches, Thành phố Quezon. Nó là tài sản hàng đầu của TV5 Network, Inc., thuộc sở hữu của MediaQuest Holdings, chi nhánh đa phương tiện của công ty viễn thông PLDT. TV5 cũng chính thức được gọi là "Mạng Kapatid", thuật ngữ tiếng Philipin có nghĩa là "anh chị em", được giới thiệu vào năm 2010. TV5 được đặt tên theo trạm hàng đầu của nó ở Metro Manila, DWET-TV, được thực hiện trong VHF Kênh 5 (phát sóng tương tự), Kênh 18 UHF (phát sóng kỹ thuật số) và Kênh 51 UHF (phát sóng thử nghiệm kỹ thuật số; kênh sau được cấp phép cho chị em của TV5 công ty Mediascape/Cignal TV). TV5 cũng phát sóng tới bảy đài do sở hữu và điều hành khác, chín đài truyền hình liên kết, cũng như trên tất cả các nhà cung cấp truyền hình cáp và vệ tinh trên toàn quốc. Chương trình của nó cũng có sẵn bên ngoài Philippines thông qua Kapatid Channel và AksyonTV International. Phát sóng quốc tế. Các chương trình TV5 được xem trên toàn thế giới qua Kapatid Channel và hiện có sẵn ở Guam, Trung Đông, Bắc Phi, Châu Âu, Canada và Hoa Kỳ.
Trận Samarinda
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809055
Trận Samarinda (29 tháng 1-8 tháng 3 năm 1942) là một chiến dịch càn quét trong một loạt các cuộc tấn công của Nhật Bản nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà Lan gần Samarinda. Sau khi chiếm được các nhà máy lọc dầu tại Balikpapan, quân đội Nhật Bản tiến lên phía bắc để chiếm địa điểm khoan dầu chiến lược trong và xung quanh Samarinda và các đường ống dẫn dầu nối liền cả hai thành phố. Hoàn cảnh. Trước chiến tranh, Samarinda có ý nghĩa chiến lược do các mỏ dầu của "Bataafse Petroleum Maatschappij" (BPM; Công ty Dầu khí Batavian) nằm ở phía bắc và phía nam sông Mahakam. Đặc biệt, địa điểm khoan dầu ở Sanga Sanga (được đặt tên là "Louise"), đã cung cấp một lượng lớn dầu cho các nhà máy lọc dầu ở Balikpapan. Dầu từ Sanga Sanga đi qua một đường ống dài 70 km qua Sambodja (Samboja) đến Balikpapan. Hơn nữa, người Hà Lan cũng thành lập một mỏ than ở khu vực Loakoeloe (Loa Kulu), do "Oost Borneo Maatschappij" (OBM; Công ty Đông Borneo) điều hành. Người Nhật cũng đã công nhận tầm quan trọng của Samarinda như là một trung tâm sản xuất dầu và than, ngoài cảng đáng kể và các cơ sở bổ sung. Năm 1939, các mỏ dầu Sanga Sanga sản xuất khoảng 1 triệu tấn dầu mỗi năm, khoảng 20% số lượng hàng năm mà Nhật Bản cần. Và cùng với đó, Samarinda trở thành một trong những mục tiêu chiếm giữ chính của Nhật Bản trong kế hoạch sáp nhập Đông Ấn Hà Lan. Lực lượng hai bên. Nhật Bản. Lực lượng trên bộ. Biệt đội Kume (Chỉ huy: Trung tá Motozō Kume): Hà Lan. Lực lượng trên bộ. Biệt đội Samarinda (Chỉ huy: Đại uý G.A.C. Monteiro): Kế hoạch của Hà Lan. Vào tháng 12 năm 1941, Tổng hành dinh ở Bandung giao cho Biệt đội Samarinda các nhiệm vụ sau: Vì các địa điểm khoan dầu Sanga Sanga có thể dễ dàng tiếp cận từ biển thông qua số lượng lớn vũ khí của đồng bằng Mahakam, người Hà Lan đã đặt một số biện pháp phòng thủ và máy dò ở các phương pháp tiếp cận sông Mahakam. Để báo hiệu sự di chuyển đáng ngờ của tàu, Monteiro đã thiết lập các trạm điện thoại tại các cửa đồng bằng khác nhau để thông báo cho anh ta về bất kỳ chuyển động nào của tàu. Một khẩu đội gồm 3 khẩu pháo 75 mm của Hà Lan cũng được lắp đặt gần sông Mariam để ngăn chặn tàu địch tiếp cận cửa sông Sanga Sanga.
Trận Samarinda
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809055
Tại ngã ba sông Sanga Sanga River và Mahakam (Sanga Sanga Moeara), người Hà Lan cũng thiết lập các tầng hầm bê tông như là một phần của vị trí phòng thủ để trì hoãn cuộc đổ bộ của kẻ thù gần cửa sông. Ngoài ra, Monteiro cũng đặt một đội bảo vệ mạnh tại cầu suối Dondang ở sông Tiram, gần nơi đặt đường ống dẫn dầu. Để giúp ngăn chặn các địa điểm khoan dầu bị chiếm giữ nguyên vẹn, người Hà Lan đã chuẩn bị kế hoạch phá huỷ từ đầu tháng 1 năm 1942 và đã sơ tán gia đình của các nhân viên BPM tại Sanga Sanga và Anggana đến Samarinda. Kế hoạch của Nhật Bản. Mặc dù các mỏ dầu của nó có một ý nghĩa đặc biệt, kế hoạch của Nhật Bản cho việc chiếm giữ ở Samarinda chỉ bao gồm một hoạt động càn quét. Lúc đầu, kế hoạch là quân Nhật vào thành phố thông qua tàu đổ bộ qua đồng bằng Mahakam. Tuy nhiên, vào cuối tháng 1, kế hoạch đã được thay đổi thành để Sanga Sanga và Samarinda bị chiếm giữ bằng cuộc đổ bộ. Đối với chiến dịch này, Biệt đội Kume sẽ tiến từ Balikpapan qua Mentawir đến Loa Djanan (Loa Janan) lên phía bắc, trong khi lực lượng chính sẽ tiến dọc theo con đường Balikpapan — Sambodja (Samboja) — Samarinda và tiến hành các hoạt động càn quét ở vùng lân cận Samarinda. Trận chiến. Phá huỷ mỏ dầu Sanga Sanga. Vào ngày 18 tháng 1, Đại tá C. van den Hoogenband, chỉ huy lực lượng Hà Lan tại Balikpapan đã gọi điện cho Monteiro, thông báo rằng việc phá huỷ các mỏ dầu ở Balikpapan sẽ bắt đầu, sau khi máy bay Hà Lan phát hiện hạm đội xâm lược Nhật Bản gần mũi Mangkalihat. Dựa trên cuộc điện thoại, Monteiro cũng quyết định bắt đầu quá trình phá huỷ mỏ dầu Sanga Sanga. Dưới sự chỉ huy của Trung uý Naber, và được hỗ trợ bởi các nhân viên BPM nhập ngũ, việc phá huỷ bắt đầu lúc 09:00 ngày 20 tháng 1. Kế hoạch được tổ chức tốt và thực hiện đúng đắn có nghĩa là đến 18:00, mỏ dầu Sanga Sanga đã bị phá huỷ hoàn toàn và có hệ thống. Các đội phá huỷ sau đó rời sân bay Samarinda II, trước khi được sơ tán đến Java. Tái tổ chức quân sự của Hà Lan.
Trận Samarinda
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809055
Tái tổ chức quân sự của Hà Lan. Vào ngày 22 tháng 1, Tổng Hành dinh (AHK) ở Bandung đã chỉ thị cho Monteiro để lại 4 lữ đoàn (khoảng 15-18 người mỗi lữ đoàn) ở Sanga Sanga để ngăn chặn kẻ thù đổ bộ dọc theo sông Mahakam. Monteiro nhận thấy rằng vì lực lượng của ông không đủ nhân lực cho mệnh lệnh này, ông khuyên lực lượng của mình nên tập trung vào việc bảo vệ con đường chạy từ sông Mahakam đến tận Samarinda II (dài 2,5 km). AHK phớt lờ lời khuyên của anh ta, và mệnh lệnh ban đầu phải được thực thi. Nhưng sau đó, AHK đã làm rõ của họ một lần nữa và chỉ thị cho Monteiro tiến hành hành động trì hoãn trên sông, trên thuyền. Vào thời điểm đó, Monteiro chỉ có 2 tàu sẵn sàng cho nhiệm vụ này: "Triton" (tàu biển Gouvernementsmarine) và tàu tuần tra "P-1" thoát khỏi Tarakan và đến nơi vào ngày 19 tháng 1. Monteiro ra lệnh cho Thiếu tá J. Schrander ở lại với 80 người và một số kỹ sư phá dỡ còn lại tại Sanga Sanga. Sau khi tiến hành phá huỷ cuối cùng các mỏ dầu, đơn vị của Schrander phải gây thương vong cho người Nhật càng nhiều càng tốt. Trong khi đó, Monteiro trưng dụng tất cả các tàu buồm có sẵn-khoảng 40 tàu, từ thuyền máy nhỏ đến tàu lượn 100 tấn-và chia chúng thành 4 nhóm, với khoảng 250 người dưới quyền chỉ huy. Monteiro cũng chuyển sở chỉ huy của mình từ Sanga Sanga đến Samarinda và yêu cầu Trung uý Hoogendorn phá huỷ đường ống dẫn dầu dọc theo suối Dondang. Cuối cùng, bất kỳ đội quân nào không phù hợp với hành động trì hoãn sông sẽ được rút về Samarinda II. Vào ngày 24 tháng 1, Hoogenband sơ tán quân của mình khỏi Balikpapan, khiến Monteiro phải dựa vào các báo cáo dân sự cho các nguồn tin tình báo. Mặc dù các báo cáo đưa ra bức tranh không rõ ràng về tình hình tại Balikpapan, nhưng nó chỉ ra rằng các lực lượng Nhật Bản có ý định tiến qua đường ống dẫn dầu đến Sanga Sanga và cả trên mặt nước, với kỳ vọng rằng họ sẽ đến Samarinda vào tháng 2. Biệt đội Kume tiến công. Vào ngày 29 tháng 1, Monteiro được thông báo rằng Biệt đội Kume bắt đầu vượt sông Doendang.
Trận Samarinda
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809055
Ông ngay lập tức chỉ thị cho Schrander tiến hành phá huỷ cuối cùng Sanga Sanga, và có hành động tấn công chống lại kẻ thù. Ngay sau khi ra lệnh, mối liên hệ với Sanga Sanga đã bị phá vỡ. Khi cuộc giao tranh giữa lực lượng Schrander và Kume bắt đầu, trước đây nhanh chóng mất quyền kiểm soát 4 lữ đoàn của mình, vì các chỉ huy lữ đoàn đã mất chỗ đứng. Không lâu sau, quân của Schrander tan vỡ và rút lui trong tình trạnh hỗn loạn về phía tây đến Loa Djanan. Monteiro sớm nhận ra rằng Biệt đội Kume sẽ tiến dọc theo một con đường được xây dựng một phần chạy từ Balikpapan đến Loa Djanan. Vào ngày 31 tháng 1, Samarinda bị san bằng và Monteiro chuyển sở chỉ huy của mình đến Loa Djanan. Vào ngày 1 tháng 2, những gì còn lại của Lực lượng của Schrander đã đến Loa Djanan và thông báo cho Monteiro rằng Biệt đội Kume đã đánh bại họ. Họ cũng thông báo rằng vào ngày 30 tháng 1, lực lượng Kume đã vượt sông Tiram từ phía nam. Monteiro đã gửi một đội tuần tra đến Sanga Sanga để tìm Schrander, nhưng không có kểt quả. Các báo cáo dân sự cũng chỉ ra rằng đã có giao tranh dữ dội ở Sanga Sanga. Do đó, Monteiro nhận ra rằng việc duy trì khẩu đội pháo của Hà Lan tại sông Marian là vô ích. Ông ra lệnh cho van Brussel, chỉ huy khẩu đội, phá huỷ các khẩu pháo và quay trở lại Loa Djanan. Vào ngày 2 tháng 2, lính gác Hà Lan đặt cách Loa Djanan 12 km giao chiến với một đội quân Nhật đang di chuyển từ Balikpapan đến Mentawir. Bị thiếu sức mạnh, lính gác đã bị đánh bại trở lại Loa Djanan vào buổi tối, sau đó Monteiro chuyển sở chỉ huy của mình về phía bắc đến Tenggarong để tiếp tục trì hoãn cuộc tiến quân của Nhật Bản dọc theo sông Mahakam đến Samarinda II. Tại Loa Koeloe (Loa Kulu), các lực lượng Hà Lan đã phá huỷ mỏ thanh OBM, trước khi nhận được thông tin tình báo rằng lực lượng Kume đã chiếm đóng Loa Djanan. Không ngừng nghỉ, Kume di chuyển quân của mình về phía đông và chiếm được Samarinda vào ngày 3 tháng 2. Cùng với cuộc tiến quân của ông, người Nhật cũng đã cố gắng tiến vào sông Mahakam bằng đường biển nhưng không thành công, với 2 khu trục hạm mắc cạn ở một trong những cánh tay đồng bằng. Các hoạt động trì hoãn của Monteiro.
Trận Samarinda
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809055
Các hoạt động trì hoãn của Monteiro. Để tiến hành hành động trì hoãn trên sông, người Hà Lan đã trang bị cho "Triton" một khẩu súng hạng nhẹ, một cặp súng máy cấp cao và thêm các tấm giáp ngẫu hứng vào thân tàu. Con tàu rời Tenggarong vào ngày 3 tháng 2 lúc 04:00 để trinh sát khu vực xung quanh Loa Djanan. 5 giờ sau, con tàu quay trở lại với thông tin rằng lực lượng Nhật Bản đã chiếm đóng thị trấn. Con tàu, bị cào bằng hoả lực súng máy, đã gây thương vong đáng kể cho quân Nhật với cái giá phải trả là 2 thuỷ thủ đoàn bị thương. Theo quan điểm của ông, vì người Nhật đã không thể hiện bất kỳ ý định tiến sâu hơn vào đất liền sau khi chiếm đóng Samarinda, Monteiro đã lên kế hoạch sử dụng lực lượng sẵn có còn lại của mình để đột kích Samarinda. Một lần nữa, AHK bác bỏ kế hoạch này vì ông thậm chí không có đủ quân để trì hoãn một cuộc tiến công vẫn có thể xảy ra của kẻ thù, xảy ra vào ngày 8 tháng 2, khi các lực lượng Nhật Bản bắt đầu hành quân về phía Tenggarong. Trước khi thị trấn bị chiếm đóng vào buổi chiều cùng ngày, Monteiro đã di chuyển sở chỉ huy của mình một lần nữa 15 phút về phía thượng nguồn. "Triton", lúc này dưới quyền chỉ huy của Trung uý Scheltens, di chuyển đến Tenggaron vào ngày 10 tháng 2 và nhanh chóng bị hoả lực tấn công dữ dội. Trong cuộc giao tranh, nhiều thuỷ thủ đoàn dân sự của nó đã nhảy xuống biển, và con tàu bắt đầu trôi dạt. Scheltens cầm lái và giành lại quyền kiểm soát tay lái. Trong suốt 20 phút đọ súng, anh đã cố gắng ngăn chặn sự hoảng loạn hoàn toàn và dẫn đầu cuộc phản công. Tuy nhiên, cuộc đụng độ đã tạo ra một bầu không khí sốc đạn pháo giữa các thuỷ thủ đoàn dân sự còn lại. Khi họ bắt đầu đào ngũ khỏi cuộc chiến, tinh thần của các lực lượng Hà Lan bắt đầu căng thẳng, khi quân địa phương theo bước chân của họ và trở về với gia đình của họ ở Samarinda. Để duy trì hành động trì hoãn, AHK đã gửi nhân sự hải quân thay thế từ Java.
Trận Samarinda
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809055
Đến ngày 15 tháng 2, phần còn lại của lực lượng Samarinda đóng quân tại Kota Bangoen (Kota Bangun) và gửi 4 lữ đoàn dưới quyền Scheltens về phía nam đến Benua Baroe (Benua Baru) để đóng tuyến đường từ Tenggarong đến thị trấn. Vào thời điểm đó, Monteiro chỉ có 3 tàu chiến vũ trang yếu để trì hoãn bất kỳ cuộc tấn công nào từ sông. Ngoài "Triton", còn có "Mahakam", một tàu cũ "Binnenlands Bestuur" (BB; Hành chíng Nội vụ). Quân Hà Lan trang bị cho "Mahakam" một khẩu pháo 20 mm và một số súng máy. Tuy nhiên, các tính năng khiếm khuyết của "P-1" đã khiến nó ngừng hoạt động. Monteiro cũng sơ tán các gia đình binh sĩ về phía tây để ngăn chặn việc đào ngũ. Cố gắng giành lại thế chủ động, ông đã gửi gián điệp đến Samarinda và Tenggarong để thu thập thông tin tình báo về các cuộc tấn công có thể xảy ra; Scheltens thậm chí cải trang thành một Haji Ả Rập và thu thập thông tin từ việc đến thăm nhiều kampung (làng). Trong khi đó, chỉ huy của Samarinda II, Thiếu tá Gerard du Rij van Beest Holle được bổ nhiệm làm quyền chỉ huy của tất cả các lực lượng quân sự Hà Lan ở Borneo. Monteiro ngay lập tức thúc giục anh ta chuyển tiếp sự vô ích của hành động trì hoãn và sự cần thiết phải tấn công Samarinda cho AHK, do một số yếu tố: Tuy nhiên, van Beest Holle vẫn kiên quyết tiếp tục cuộc chiến dọc theo sông để đảm bảo an toàn cho Samarinda II. Tuy nhiên, vào ngày 1 tháng 3, AHK đã đồng ý với kế hoạch của Monteiro, nếu ông đồng ý tiếp tục hành động trên sông trong trường hợp thất bại. Tuy nhiên, số lượng quân ít ỏi theo ý của ông có nghĩa là Monteiro không thể đáp ứng mhiệm vụ này; ông chỉ ra rằng ông cần ít nhất 2 đại đội nữa, nhưng vô ích. Vào ngày 5 tháng 3, các điệp viên đã gửi báo cáo về một cuộc tấn công sắp xảy ra vào Kota Bangoen qua đường bộ và đường sông. Ngày hôm sau, một đội tuần tra từ Benua Baroe chạm trán với các đội tuần tra Nhật Bản và rút lui về thị trấn, khi quân Nhật bắt đầu dựng trại chỉ cách đó 1 giờ. Rạng sáng ngày 7 tháng 3, Tenggarong bị tấn công dữ dội.
Trận Samarinda
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809055
Cuộc chiến tiếp tục trong 3 giờ cho đến 10:00, khi hoả lực dữ dội từ súng máy và súng cối Nhật Bản buộc lữ đoàn phải rút lui trong hoảng loạn và rối loạn đến Kota Bangoen. Trong số 80 binh lính tại Benua Baroe, 10 người trong số họ, cùng với chỉ huy của họ, Trung uý Van Mossel đã không đến Kota Bangoen lúc 02:00 ngày hôm sau. Monteiro ra lệnh cho "Triton", một tàu kéo OBM và một xuồng cao tốc đợi anh ta cho đến 06:00, trước khi rơi trở lại thượng nguồn. Khi quân đội từ Benua Baroe đến Kota Bangoen, họ ngay lập tức lên tàu sông cùng với phần còn lại của lực lượng Monteiro và rời đến Moeara Moentai (Muara Muntai) dưới sự che chở của những con tàu nói trên. Đoàn tàu vận tải cập cảng và thiết lập sở chỉ huy của họ trong thị trấn vào lúc 05:00 dưới tiếng súng từ xa. 2 giờ sau, một số binh sĩ Hà Lan đến trên một chiếc xuồng cao tốc và thông báo cho Monteiro rằng các tàu chiến tại Kota Bangoen đã giáp chiến với các tàu buồm bọc thép Nhật Bản. Với việc "Triton" bị bắn hỏng nặng và tàu kéo OBM không còn có thể được sử dụng từ cuộc chiến, "Mahakam", cùng với quân đội KNIL vô tổ chức trên những chiếc thuyền gỗ là tất cả những gì còn lại của lực lượng sông. Monteiro quyết định tổ chức cuộc kháng chiến cuối cùng ở Samarinda II và đến đó ngay lập tức để thông báo cho van Beest Holle về quyết định của mình. Tuy nhiên, trên đường đi, ông nhận được một bức điện tín về cuộc đàm phán đang diễn ra giữa các chỉ huy Hà Lan và Nhật Bản trên đảo Java lúc 09:00. Vào buổi trưa, đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện của tất cả các lực lượng Hà Lan ở Đông Ấn Hà Lan, buộc ông phải hạ vũ khí và chấm dứt cuộc kháng cự cuối cùng ở Đông Borneo. Kết quả. Trung uý Van Hossel trốn tránh bị bắt cho đến ngày 11 tháng 3, khi quân Nhật đuổi kịp ông tại Moeara Moentai. Đến ngày 19 tháng 3, các lực lượng Nhật Bản đã vây bắt tất cả lực lượng Hà Lan và bắt giữ họ ở Samarinda. Thiếu tá van Beest Holle qua đời trong khi bị giam giữ ở Tarakan vào ngày 4 tháng 6 năm 1944.
Trận Samarinda
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809055
Vào ngày 30 tháng 7 năm 1945, khoảng 144 đến khoảng 148 tù binh (theo các nguồn khác nhau) đã bị vây bắt và đưa đến mỏ ở Loa Kulu. Ở đó, các tù binh được thông báo rằng họ đã bị kết án tử hình, sau đó phụ nữ bị tách ra khỏi đàn ông và trẻ em. Đầu tiên những người lính Nhật tùng xẻo phụ nữ đến chết, sau đó họ ném tất cả trẻ em xuống hầm mỏ, sau đó cuối cùng những người đàn ông đầu tiên phải chứng kiến những gì xảy ra với vợ con của họ đã bị lính Nhật chém đầu. Cơ thể và những cái đầu bị chặt đứt của họ cũng bị ném xuống hầm mỏ, giống như cơ thể bị cắt xén của những người phụ nữ. Sau chiến tranh, Đại uý Monteiro được trao tặng Sư tử đồng và Trung uý Scheltens nhận được Chữ thập đồng. Gỉai phóng. Samarinda vẫn nằm dưới sự chiếm đóng của Nhật Bản cho đến tháng 9 năm 1945, khi thành phố được giải phóng bởi Tiểu đoàn 2/25 thuộc Sư đoàn Bộ binh 7 Úc. Người Úc cũng phát hiện ra hài cốt người trong hầm mỏ ở Loa Kulu. Một đài tưởng niệm đã được dựng lên để tưởng nhớ các nạn nhân của cái mà ngày nay được gọi là vụ thảm sát Loa Kulu.
Danthonieae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809059
Danthonioideae là một phân họ chủ yếu ở bán cầu nam của họ Cỏ với một tộc duy nhất là Danthonieae và một chi chưa được đặt vị trí. Tổng cộng có khoảng 300 loài. Nó bao gồm các loài cỏ thảo dược đến một phần gỗ lâu năm hoặc hàng năm (ít phổ biến) mọc trong các đồng cỏ, bụi cây và rừng cây. Nó thuộc nhóm PACMAD của các loài cỏ, nhưng khác với một số nhánh khác trong nhóm đó, cỏ trong Danthonioideae chỉ sử dụng con đường quang hợp C3. Nhóm chị em của nó là họ con Chloridoideae. Có 19 chi, trong đó có 18 chi được đặt trong tộc Danthonieae, trong khi một chi vẫn chưa được đặt vị trí ("incertae sedis"). Mối quan hệ bên trong nhóm này phức tạp; bằng chứng phát sinh chủng từ các loại ADN hạt nhân và ADN chloroplast mâu thuẫn cho thấy các sự kiện lai tạo đóng vai trò quan trọng trong Danthonioideae.
Ehrhartoideae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809060
Oryzoideae (đồng nghĩa Ehrhartoideae) là một họ con trong họ cỏ thực sự Poaceae. Nó bao gồm khoảng 120 loài trong 19 chi, đặc biệt bao gồm loại cây lúa quan trọng nhưng không giới hạn chỉ là lúa. Trong họ cỏ, họ con này là một trong ba họ thuộc nhóm BOP clade phong phú về loài, tất cả đều sử dụng quang hợp C3; nó là dòng dõi cơ bản của nhóm này. Họ con này bao gồm bốn tộc và một chi có vị trí không rõ (incertae sedis): "Suddia" (được cho là thuộc tộc Phyllorachideae). Phân tích phát sinh chủng đã xác định thứ tự phân nhánh của các nhóm này trong họ con:
Micrairoideae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809062
Micrairoideae là một phân họ của họ cỏ họ Poaceae, phân bố ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Trong nhóm PACMAD, nó là chị em với phân họ Arundinoideae. Nó bao gồm khoảng 190 loài trong chín chi. Một phân loại hệ thống phát sinh của các loài cỏ nhận biết bốn dòng chính, được phân loại là bộ. Chỉ có các loài trong bộ Eriachneae (chi "Eriachne" và "Pheidochloa") đã tiến hóa con đường quang hợp C4. Phát sinh chủng loài. Mối quan hệ của các bộ trong Micrairoideae theo một phân loại hệ thống phát sinh năm 2017, cũng cho thấy Arundinoideae là nhóm chị em:
Pharoideae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809063
Pharoideae là một phân họ của họ cỏ thật sự họ Poaceae, bao gồm một bộ duy nhất Phareae với hai chi "Leptaspis" và "Pharus". Các thành viên của nó mọc trên sàn rừng bóng mát từ khu vực nhiệt đới đến rừng ôn đới ấm áp. Phân họ này là một trong những dòng cỏ phân nhánh sớm nhất, cũ nhơn các nhóm lớn BOP và PACMAD:
Pooideae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809065
Pooideae là phân họ lớn nhất của họ cỏ họ Poaceae, với khoảng 4,000 loài trong 15 tông và khoảng 200 chi. Chúng bao gồm một số loại ngũ cốc chính như lúa mì, lúa mạch, yến mạch, lúa mạch đen và nhiều loại cỏ sân và đồng. Chúng thường được gọi là cỏ mùa lạnh, vì chúng phân bố ở khí hậu ôn đới. Tất cả chúng đều sử dụng con đường quang hợp C3. Pooideae là nhóm chị em của các loài tre trong nhóm BOP, và chính chúng cũng được chia thành 15 tông. Phát sinh chủng loài. Mối quan hệ của các bộ trong Pooideae theo một phân loại phát sinh chủng loại học năm 2017, cũng cho thấy các loài tre là nhóm chị em:
Puelioideae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809067
Puelioideae là một phân họ của họ cỏ thật sự họ Poaceae với hai chi, "Guaduella" và "Puelia", mỗi chi nằm trong một bộ riêng. Các thành viên của nó mọc ở tầng thấp của rừng nhiệt đới. Phân họ này là một trong những dòng cỏ phân nhánh sớm nhất, nhóm chị em với các nhóm lớn BOP và PACMAD:
Ehrharteae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809069
Ehrharteae là một bộ trong họ cỏ, bao gồm bốn chi.
Oryzoideae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809071
Oryzoideae (đồng nghĩa với Ehrhartoideae) là một phân họ của họ cỏ thật sự họ Poaceae. Nó gồm khoảng 120 loài trong 19 chi, đặc biệt bao gồm loại ngũ cốc quan trọng lúa. Trong số các loài cỏ, phân họ này là một trong ba phân họ thuộc nhánh đa dạng về loài BOP, tất cả đều sử dụng quang hợp C3; nó là dòng gốc của nhánh. Nó chứa bốn bộ và một chi có vị trí không rõ ràng (incertae sedis): "Suddia" (được cho là thuộc bộ Phyllorachideae). Các phân tích phát sinh chủng loại đã xác định thứ tự phân nhánh của các nhóm phát sinh trong phân họ:
Nhánh BOP
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809078
Nhánh BOP (đôi khi được gọi là "nhánh BEP") là một trong hai nhánh chính của các dòng phả hệ (hoặc nhóm phát sinh) không được xác định về cấp bậc phân loại trong họ cỏ (Poaceae), bao gồm hơn 5.400 loài, tương đương khoảng một nửa số loài cỏ. Nhóm chị em của nó là nhánh PACMAD; khác với nhiều loài trong nhánh PACMAD đã tiến hóa quang hợp C4, các loài cỏ trong nhánh BOP đều sử dụng con đường quang hợp C3. Nhánh BOP bao gồm ba phân họ, tên gọi được lấy từ chữ cái đầu tiên của chúng: các loài tre (Bambusoideae); Oryzoideae (tức Ehrhartoideae), bao gồm lúa; và Pooideae, phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới, có đa dạng loài lớn và các loại ngũ cốc quan trọng như lúa mì và lúa mạch. Oryzoideae là dòng phả hệ có xuất hiện sớm nhất, chị em với các loài tre và Pooideae:
Lở đất Atami 2021
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809082
là trận lở đất xảy ra vào ngày 3 tháng 7 năm 2021 tại khu phố Izusan của thành phố Atami, tỉnh Shizuoka. Thành phố Atami ghi nhận được lượng mưa 310 mm trong vòng 48 giờ, khiến các nhà chức trách phải cảnh báo cư dân về các điều kiện đe dọa tính mạng có thể xảy ra, bao gồm cả lở đất. Hậu quả trận lở đất đã làm 28 người chết, 3 người bị thương. Một số ngôi nhà bị phá hủy và để lại những con đường đầy mảnh vụn. Các hoạt động tìm kiếm và cứu hộ đã được triển khai cùng ngày. Chính quyền địa phương tỉnh Shizuoka báo cáo rằng họ đã nhận được khoảng 10 cuộc điện thoại từ những người bị mắc kẹt trong nhà của họ sau trận lở đất. Bối cảnh. Atami là một thành phố ven biển nằm cách thủ đô Tokyo khoảng 109 km, tỉnh Shizuoka. Atami nằm ở rìa các dãy núi và thường được biết đến với các thung lũng và đồi dốc. Trong nửa sau thế kỷ XX, thành phố chứng kiến sự phát triển như một thị trấn nghỉ mát thu hút khách du lịch. Một trong những đặc điểm nổi bật của Nhật Bản về mặt thời tiết là mùa mưa vào đầu mùa hè, kéo dài từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7. Trước khi xảy ra lở đất, đã có nhiều ngày mưa lớn kéo dài ở vùng Tōkai. Vào thời điểm xảy ra sạt lở, lượng mưa đạt xấp xỉ 790 mm được đo tại , tỉnh Kanagawa. Trong khi lượng mưa đạt 550 mm được ghi nhận tại Gotemba, tỉnh Shizuoka.
Graminid clade
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809090
Nhánh graminid là một nhánh của thực vật trong bộ Poales, bao gồm bốn họ, trong đó họ cỏ (Poaceae) là họ đa dạng về loài nhất. Nhóm chị em của nó là nhóm restiid.
Trứng mòng biển
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809093
Trứng mòng biển được thu thập vào mùa xuân từ tổ của mòng biển hoang dã và có thể được sử dụng làm thức ăn. Trứng mòng biển thường có vỏ lốm đốm, giúp chúng ngụy trang với môi trường xung quanh. Hương vị của trứng mòng biển được mô tả là có vị của cá hoặc có vị mặn, gợi nhớ tới môi trường biển của chúng. Lòng trắng của trứng có màu trắng đặc trưng hoặc có thể là màu trắng đục khi nấu chín, còn lòng đỏ có màu cam gần như đỏ. Trứng mòng biển thường (nhưng không phải luôn luôn) có kích thước lớn hơn so với trứng gà; ví dụ, một quả trứng mòng biển cá trích thường nặng khoảng . Một nguồn tin khác cho biết kích thước của trứng mòng biển nói chung gấp đôi kích thước của trứng gà. Săn tìm trứng ("egging)" là hoạt động tìm kiếm và thu thập trứng chim hoang dã thời tiền sử. Việc săn tìm trứng mòng biển được thực hiện (ở các mức độ khác nhau) ở một số khu vực cận Bắc Cực, bao gồm Canada, Quần đảo Faroe và Greenland của Đan Mạch, Åland của Phần Lan, Iceland, Na Uy, Nga (bởi các dân tộc bản địa ở phía Bắc), Vương quốc Liên hiệp Anh và tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ. Trứng mòng biển được thu thập từ nhiều loài chim trong họ Mòng biển, bao gồm mòng biển đầu đen, larus hyperboreus, larus glaucescens, mòng biển lớn lưng đen, mòng biển Heermann, các phân loài khác nhau của mòng biển cá trích, mòng biển cười, mòng biển nhỏ lưng đen, mòng biển Sabine, mòng biển mỏ ngắn và mòng biển phương Tây. Một cặp nhà động vật học cho biết: ""Trứng mòng biển là một nguồn tài nguyên có thể tái tạo dễ dàng trong đó các ổ trứng bị tiêu diệt được thay thế."" Tuy nhiên, việc tạo ra trứng này không phải chỉ cần tới năng lượng của từng cá thể chim, mà là cả đàn chim, và về tổng thể có thể ảnh hưởng đến sự sống còn ở cấp độ loài. Trứng mòng biển cũng được coi là "chất chỉ thị sinh học tuyệt vời cho mức độ ô nhiễm môi trường". Các nhà độc chất học và các cơ quan y tế công cộng khuyến cáo rằng trẻ em và phụ nữ mang thai hoặc cho con bú không nên ăn trứng mòng biển. Sản lượng trứng từ gia cầm nuôi và trứng chim hoang dã thường giúp đáp ứng nhu cầu thực phẩm khoảng thời gian thiếu đói vào đầu mùa xuân.
Trứng mòng biển
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809093
Khi nướng bánh, trứng mòng biển được sử dụng để tăng độ xốp của bánh (so với việc sử dụng trứng gà theo cách tương tự), và tạo ra một loại bánh trứng đường tuyệt hảo. Trong một số cộng đồng dân cư với số lượng ngư dân đông đảo, mối quan hệ giữa con người và chim mòng biển có thể được coi là quan hệ hỗ sinh. Con người nuôi dưỡng quần thể chim mòng biển bằng cách cung cấp nguồn thức ăn là ruột cá để trao đổi lấy việc tiếp cận trứng mòng biển phụ động hoặc theo mùa. Châu Âu. Quần đảo Anh. Trứng mòng biển từ lâu đã được thu thập với số lượng nhất định ở Quần đảo Anh và được coi là một món ngon theo mùa ở Vương quốc Liên hiệp Anh. Trứng chim biển hoang dã đã từng được thu thập dọc theo eo biển Anh. Đôi khi, trứng mòng biển cũng được sử dụng để bổ sung cho đàn gà nhà "(Gallus gallus domesticus)": khi gà mái đòi ấp quyết định ấp trứng, chủ nhà có thể thu thập trứng của chim mòng biển thay vì để gà ấp. Điều này giúp duy trì đàn gà nếu không có gà trống để thụ tinh. Nông dân ở Vương quốc Anh cũng thu hoạch trứng mòng biển để giảm số lượng chim mòng biển, được coi là có thể đem đến dịch bệnh và sử dụng chúng làm phân bón giàu nitơ và canxi cho cánh đồng của họ. Truyền thuyết kể rằng ở thời kỳ tiền sử, tất cả các tổ đầu tiên của chim mòng biển đều bị đập vỡ trong một ngày. Điều này khiến đàn chim mòng biển phải đồng loạt đẻ trứng, giúp cho người thu hoạch trở lại trong vòng một tuần và đảm bảo trứng được tươi ngon. Theo một báo cáo vào năm 1906, sau khi chim mòng biển bắt đầu việc làm tổ vào tháng 3, hai ổ trứng đầu tiên mà chim mòng biển đẻ trong các đầm nước mặn và đầm lầy kiềm của Anh sẽ được đưa đi tiêu thụ hoặc bán đi, còn ổ trứng thứ 3 sẽ được giữ nguyên để chim mòng biển mái tiếp tục ấp, "nếu không, chúng và đồng loại sẽ không bao giờ đặt chân vào đầm lầy nữa." Vào tháng 5 năm 1912, hai thanh niên ở Fife, Scotland, đã bị buộc tội sở hữu bất hợp pháp bảy quả trứng vịt eider, vi phạm Lệnh Bảo vệ Chim Hoang dã năm 1880 (43 &; 44 Vict. c. 35).
Trứng mòng biển
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809093
c. 35). Khi bị bắt, hai người đàn ông này cũng sở hữu 654 quả trứng mòng biển hoàn toàn hợp pháp. Hai thập kỷ sau, một bức thư gửi cho một tờ báo ở Scotland miêu tả cảnh săn tìm trứng chim mòng biển trên một cái hồ; Những quả trứng "bị nhấc lên khỏi tổ của chúng bằng một cái muỗng được gắn vào một cây sào dài". Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, chính phủ Vương quốc Liên hiệp Anh khuyến khích việc thu thập trứng mòng biển như một nguồn cung cấp bổ sung cho trứng gà, vốn có nguồn cung hạn chế tại thời điểm đó. Chính phủ đưa ra hướng dẫn chính thức rằng trứng mòng biển nên được luộc và ăn nguội, cũng như phát hành tờ Truyền đơn Sản xuất Thực phẩm số 30 với hướng dẫn đặc biệt về việc thu thập trứng mòng biển. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khi khan hiếm trứng gà tái xuất hiện tại Vương quốc Liên hiệp Anh trên mặt trận nội địa (do chế độ phân phối thực phẩm), việc thu hoạch trứng mòng biển hoang dã trở thành một sự thay thế phổ biến. Trứng của mòng biển đầu đen ("Chroicocephalus ridibundus") từ lâu đã được sử dụng để làm giả trứng của chim te mào, vốn là một món hàng xa xỉ (mặc dù vẫn có những tranh luận đang nổ ra về sự khác biệt về hương vị của chúng), và do đó đã tạo nên mạng lưới thị trường trứng mòng biển, chẳng hạn như 20.000 quả trứng mòng biển được nhập đều đặn hàng năm từ Scoulton Mere ở Norfolk. Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Rupert Baring, Nam tước Revelstoke thứ 4 đã bán hơn 100.000 quả trứng mòng biển mỗi năm cho cư dân thành thị. Năm 1948, khoảng 50.000 quả trứng mòng biển đã được thu hoạch từ Đảo Rat thuộc Cửa sông Colne và vận chuyển đến các nơi tiêu thụ ở Luân Đôn, khiến trên đảo chỉ còn lại 13 quả trứng trong 5 tổ. Hiện nay, việc săn tìm trứng mòng biển ở Vương quốc Liên hiệp Anh được quy định chặt chẽ. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp săn trộm trứng mòng biển được ghi nhận, bao gồm các vụ việc tại Holmfirth, Tây Yorkshire, Cảng Poole, Dorset và Quần đảo Copeland ngoài khơi Bắc Ireland.
Trứng mòng biển
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809093
Có ít hơn 100 người được cấp phép săn và thu thập trứng mòng biển ở Anh Quốc, và chỉ những người săn tìm trứng có giấy phép hành nghề mới được thu thập một số lượng hạn chế trứng mòng biển từ một số địa điểm hạn chế trong một số ngày giới hạn. Từ giữa thế kỷ 20, thị trường trứng chim hoang dã ở Luân Đôn chủ yếu đã được thay thế bởi trứng của mòng biển đầu đen, một phần lớn là do thị trường bị ảnh hưởng bởi sự làm giả của trứng chim te mào. Trứng của mòng biển đầu đen từ lâu đã được thu thập ngoài khơi vùng đầm lầy Northumberland. Trong thập niên 2000, khoảng 10.000 quả trứng mòng biển đã được lấy hàng năm từ Scottish Borders. Thu hoạch trứng mòng biển ở eo biển Solent được cho là có lợi cho nhàn mào sandwich ("Thalasseus sandvicensis"), loài có thể sẽ bị ăn thịt bởi những con chim nhạn đang xây tổ; việc thu hoạch trứng mòng biển sex thúc đẩy chúng tiếp tục việc sinh đẻ và trì hoãn những hành động gây hại cho chim nhạn trong ba tuần. Scandinavia. Trứng mòng biển được bán trong nhiều cửa hàng ở Na Uy. Người Na Uy thường kết hợp trứng mòng biển với bia Mack, được gọi là "Mack-øl og måseegg". Có những lo ngại về việc các nhà sưu tầm lấy nhầm trứng của loài mòng biển xira chân đen dễ bị tổn thương ("Rissa tridactyla") thay vì lấy trứng của mòng biển như chủ định. Cơ quan An toàn Thực phẩm Na Uy không khuyến khích trẻ em và phụ nữ mang thai tiêu thụ trứng mòng biển, do hàm lượng vượt ngưỡng an toàn của các hợp chất độc hại bao gồm polychlorinated biphenyl (PCB) và dioxin. Ở Svalbard, việc săn tìm trứng chim biển thường bị cấm, tuy nhiên, "Thống đốc của Svalbard có thể cấp giấy phép đặc biệt để cho phép thu thập trứng" từ các loài chim như vịt nhung thường "(Somateria mollissima)", mòng biển lưng đen lớn (Larus marinus) và mòng biển glaucous (Larus hyperboreus). Trên lục địa Phần Lan, việc săn tìm và thu hoạch trứng chim biển đã bị cấm từ năm 1962. Ở Iceland, việc thu hoạch trứng từ tổ của mòng biển đầu đen, mòng biển lớn lưng đen, mòng biển nhỏ lưng đen (Larus fuscus), mòng biển cá trích "(Larus argentatus argenteus)" và mòng biển glaucous là hợp pháp cho đến ngày 1 tháng 6 trong năm. Bắc Mỹ.
Trứng mòng biển
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809093
Bắc Mỹ. Greenland cho phép việc thu thập trứng mòng biển lưng đen lớn cho mục đích cá nhân đến ngày 31 tháng 5 hàng năm, và trứng mòng biển glaucous đến ngày 15 tháng 6. Trong quá khứ, trứng mòng biển cá trích châu Mỹ ("Larus smithsonianus") đã từng được thu thập ở các tỉnh phía đông của Canada và thỉnh thoảng được bảo quản bằng thủy tinh lỏng trong suốt thời gian còn lại của năm. Các người bản địa thu hoạch trứng mòng biển hoang dã là người Ahousat và Anaham tại British Columbia, Canada. Gia đình người Ahousat thường đi thu hoạch trứng mòng biển ba lần trong một tuần vào tháng Sáu, và họ thường lấy một trong ba quả trứng có trong mỗi tổ. Các cộng đồng bản địa Alaska từ lâu đã thực hiện việc thu thập trứng của mòng biển cánh glaucous ("Larus glaucescens") trong mùa từ giữa tháng Năm đến giữa tháng Sáu hàng năm. Tuy nhiên, vào những năm 1960, Dịch vụ Công viên Quốc gia Hoa Kỳ đã cấm tập tục truyền thống này trong vùng đất truyền thống của bộ tộc Tlingit. Trải qua hơn 50 năm sau khi việc thu thập hàng năm bị gián đoạn, vào năm 2014, "Đạo luật Sử dụng Trứng Mòng Biển Truyền Thống Huna Tlingit" được chính phủ liên bang Hoa Kỳ thông qua, cho phép người Tlingit thu thập trứng mòng biển tại năm địa điểm trong Công viên Quốc gia Vịnh Glacier. Frank Wright Jr., chủ tịch Hiệp hội Người Thổ dân Hoonah, đã nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc này: ""Những người lớn tuổi cần thực phẩm truyền thống của họ, vì nó có tác dụng chữa lành." " Cộng đồng Iñupiat cũng sử dụng một quả trứng mòng biển thay cho hai quả trứng gà khi nướng. Ngoài ra, người Yup'ik cũng tham gia vào việc thu hoạch trứng chim biển và mòng biển với sự quản lý cẩn thận. Theo một bài miêu tả trên tạp chí Edible về cuộc săn trứng Yup'ik, đôi khi một quả trứng được thu hoạch sau khi đã được ấp trong vài ngày. Những quả trứng này có lòng đỏ có kết cấu dày giống như sữa trứng và lòng trắng sẽ chảy nước khi đun sôi. Trứng mòng biển thu thập từ bờ biển Alaska có thể được sử dụng trong các món bánh trộn đóng hộp phổ biến trong cộng đồng Alaska.
Trứng mòng biển
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809093
Săn tìm trứng mà không có giấy phép là bất hợp pháp ở Hoa Kỳ lục địa theo các luật liên bang khác nhau bao gồm Đạo luật Lacey năm 1900, Đạo luật Hiệp ước Chim Di cư năm 1918 và Đạo luật Các loài có nguy cơ tuyệt chủng năm 1969. Vào thế kỷ 19, trứng mòng biển phương Tây ("Larus occidentalis") đã từng được đưa đến Quần đảo Farallon ngoài khơi San Francisco để tiêu thụ riêng, vào đầu mùa hàng năm, trước khi trứng của các loài chim biển khác phổ biến rộng rãi. Trứng mòng biển Heermann ("Larus heermanni") đã được thu hoạch từ các đảo thuộc Baja California, México.
Danthonioideae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809094
Danthonioideae là một phân họ chủ yếu thuộc nửa cầu nam của các loài cỏ Poaceae, bao gồm một tông duy nhất là Danthonieae và một chi chưa được phân loại, với tổng cộng khoảng 300 loài. Nó bao gồm các loài cỏ thảo mộc đến một phần thân gỗ, cây cỏ lâu năm hoặc hàng năm (hiếm hơn) phát triển trong cánh đồng cỏ mở, rừng cây bụi và rừng. Nó thuộc nhóm PACMAD của các loài cỏ, nhưng khác với một số dòng họ khác trong nhóm đó, cỏ trong Danthonioideae chỉ sử dụng đường sinh học C3. Nhóm chị em của nó là phân họ Chloridoideae. Có 19 chi, trong đó có 18 chi được đặt trong tông Danthonieae, trong khi một chi chưa được phân loại ("incertae sedis"). Mối quan hệ trong nhóm này phức tạp; các bằng chứng phát sinh chủng loại xung đột từ DNA lục lạp và DNA nhân cho thấy rằng sự giao thoa của các loài đã đóng một vai trò quan trọng trong Danthonioideae.
Chimaerochloa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809098
Chimaerochloa là một chi thực vật New Guinea thuộc họ cỏ (Poaceae). Tên chi "Chimaerochloa" được đặt theo tên Chimera như Linder đã ghi chú; "loại cỏ này có diện mạo giống như các chi khác, phụ thuộc vào tập hợp đặc điểm nào được nghiên cứu. Do đó, nó có thể được coi như một loại cỏ có khả năng thay đổi diện mạo, một chimaera". Chi này được xác định bởi Hans Peter Linder trong Ann. Missouri Bot. Gard. Vol.97 (Số 3) trang 346 vào năm 2010. Loài. Loài duy nhất được biết đến là Chimaerochloa archboldii.
Etelis carbunculus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809100
Etelis carbunculus là một loài cá biển thuộc chi "Etelis" trong họ Cá hồng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1828. Từ nguyên. Danh từ định danh "carbunculus" trong tiếng Latinh có nghĩa là “một loại đá quý màu đỏ” (như hồng ngọc hoặc đá granat), hàm ý đề cập đến màu đỏ hồng nổi bật với những sọc vàng ở loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "E. carbunculus" có phân bố rộng rãi trên vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ vùng biển bao quanh bán đảo Ả Rập dọc theo Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii, quần đảo Line và quần đảo Australes, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, giới hạn phía nam đến Úc và quần đảo Three Kings (New Zealand). Loài này cũng xuất hiện tại vùng biển Việt Nam, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Ghi nhận của "E. carbunculus" ở Madeira tận đến Bắc Đại Tây Dương không rõ có phải là do nhầm lẫn không. "E. carbunculus" sống gần các rạn san hô và mỏm đá ngầm ở vùng thềm lục địa, được tìm thấy ở độ sâu trong khoảng 90–400 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "E. carbunculus" lên đến 127 cm, thường bắt gặp với kích thước khoảng 50 cm. Loài này có màu đỏ hồng, trắng dần ở thân dưới và bụng. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 15–17; Số vảy đường bên: 48–50. Sinh thái. Thức ăn của "E. carbunculus" là cá nhỏ và những loài thủy sinh không xương sống lớn như mực, tôm và cua, cũng bao gồm cả những loài sống đuôi và sinh vật phù du. Tại Vanuatu, "E. carbunculus" sinh sản quanh năm, đỉnh điểm là vào khoảng tháng 11. "E. carbunculus" có thể sống được đến ít nhất là 35 năm tuổi, được ghi nhận ở Tây Úc. Ở Nam Thái Bình Dương, "E. carbunculus" đạt độ tuổi cao nhất là 43 năm. Các nhà khoa học đã mô tả khoa học "Neolebouria blatta", một loài giun dẹp ký sinh mới trong họ Opecoelidae được phát hiện trên cơ thể của hai loài cá hồng "E. carbunculus" và "Pristipomoides argyrogrammicus" vào năm 2009.
Etelis carbunculus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809100
Hai loài sán lá đơn chủ của chi "Lagenivaginopseudobenedenia" đều ký sinh trên vật chủ là "E. carbunculus", và chúng mới chỉ được tìm thấy trên các loài "Etelis". Thương mại. "E. carbunculus" được đánh bắt trong phần lớn phạm vi của chúng, và nhiều nơi, chúng là một loại cá thực phẩm quan trọng. Do có giá trị kinh tế mà loài này được cho là đã tuyệt chủng cục bộ ở trung tâm quần đảo Hawaii, trong khi quần thể của chúng ở tầng đáy còn tương đối khỏe mạnh ở các đảo phía tây bắc. Vì tập tính sống theo đàn và chỉ giới hạn ở vùng thềm lục địa nên "E. carbunculus" đang bị đánh bắt quá mức ở vùng biển phía tây nam Úc.
Thành trì Eltz
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809101
Thành trì Eltz () là một thành trì thời trung cổ nép mình trên những ngọn đồi cạnh sông Mosel giữa Koblenz và Trier, Đức. Nó vẫn thuộc sở hữu của một nhánh của Hoàng tộc Eltz, những người đã sống ở đó từ thế kỷ 12. Thành trì Eltz cùng với Lâu đài Bürresheim và thành trì Lissingen là những lâu đài duy nhất ở vùng Eifel chưa bao giờ bị phá hủy. Thành trì nằm trên một mũi đá cao 70 mét (230 ft) được bao bọc ba mặt bởi sông Elzbach, một phụ lưu ở phía bắc của sông Mosel. Rừng Eltz xung quanh đã được Flora-Fauna-Habitat và Natura 2000 tuyên bố là khu bảo tồn thiên nhiên. Mô tả. Thành trì được gọi theo tiếng Đức là Ganerbenburg, hay thành trì thuộc về một cộng đồng những người thừa kế chung. Đây là một thành trì được chia thành nhiều phần, thuộc về các gia đình khác nhau hoặc các nhánh khác nhau của một dòng họ; điều này thường xảy ra khi nhiều chủ sở hữu của một hoặc nhiều lãnh thổ cùng nhau xây dựng một lâu đài để làm nơi ở cho mình. Chỉ những lãnh chúa châu Âu thời trung cổ giàu có mới đủ khả năng xây dựng lâu đài hoặc những công trình kiến trúc tương đương trên vùng đất của họ; nhiều người trong số họ chỉ sở hữu một làng hoặc thậm chí chỉ một phần của làng. Đây là một cơ sở không đủ để xây lâu đài. Những lãnh chúa như vậy thường sống trong "nhà của hiệp sĩ", là những ngôi nhà khá đơn giản, hầu như không lớn hơn nhà của những người thuê nhà của họ. Ở một số vùng của Đế chế La Mã Thần thánh của Đức, luật thừa kế yêu cầu tài sản phải được chia cho tất cả những người thừa kế. Những người kế vị này, mỗi người có tài sản thừa kế quá nhỏ để xây dựng một lâu đài của riêng mình, có thể cùng nhau xây dựng một lâu đài, nơi mỗi người sở hữu một phần riêng biệt để làm nhà ở, và tất cả họ cùng nhau chia sẻ công sự phòng thủ. Trong trường hợp của Eltz, gia đình bao gồm ba chi nhánh và thành trì hiện tại được tăng cường với ba khu phức hợp riêng biệt. Phần chính của thành trì bao gồm các phần gia đình. Với tối đa tám tầng, tám tòa tháp này đạt độ cao từ 30 đến 40 mét (98 và 131 ft).
Thành trì Eltz
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809101
Chúng được củng cố bằng những bức tường bên ngoài vững chắc. Khoảng 100 thành viên của các gia đình sở hữu sống trong hơn 100 phòng của thành trì. Một ngôi làng đã từng tồn tại bên dưới thành trì, ở phía nam của nó, là nơi cư trú của những người hầu, thợ thủ công và gia đình của họ để hỗ trợ thành trì. Lịch sử. Hình thành và tình trạng sở hữu. Lâu đài có lẽ được xây dựng vào đầu thế kỷ 12 trên một tuyến đường thương mại dẫn qua thung lũng Elzbach và nối Mosel tại Moselkern với vùng đất Maifeld màu mỡ. Elzbach chảy quanh ba mặt của lâu đài, trên một đỉnh đá hình elip cao tới 70 mét. Những người xây dựng dựa trên hình dạng của mỏm đá để xây thành trì. Điều này dẫn đến sơ đồ của các phòng riêng lẻ đôi khi khác thường. Tháp cao Platt-Eltz theo phong cách Hậu Romanesque và phần còn lại của ngôi nhà theo phong cách Romanesque từ thời điểm ban đầu vẫn được bảo tồn.
Ryu Gil-jae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809102
Ryu Gil-jae (; 15 tháng 1 năm 1959 – 15 tháng 8 năm 2020) là một nhà nghiên cứu và giáo sư người Hàn Quốc. Ông là Bộ trưởng Bộ Thống nhất Hàn Quốc thứ 37. Sự nghiệp. Ryu Gil-jae sinh năm 1959 tại Seoul. Ông tốt nghiệp Đại học Cao Ly, sau đó ở lại trường để tiếp tục việc học, lấy bằng Thạc sĩ Khoa học Chính trị và Ngoại giao năm 1987 và bằng tiến sĩ năm 1995. Từ năm 1987, ông là nhà nghiên cứu và giáo sư nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Viễn Đông, Đại học Quốc gia Kyungnam, năm 1997 ông tham gia nghiên cứu về Chiến tranh Triều Tiên và thời kỳ Chiến tranh Lạnh tại Trung tâm Học giả Quốc tế Woodrow Wilson, và từ năm 1998 ông là giáo sư tại Trường Cao học Bắc Triều Tiên (nay là Đại học Bắc Triều Tiên), Đại học Quốc gia Kyungnam. Năm 2005, ông là thành viên của Cố vấn Chính sách của Bộ Thống nhất. Trong năm 2010 và 2011, ông lại tham gia vào các nghiên cứu liên quan nói trên tại Trung tâm Wilson. Ông cũng từng là thành viên của Hiệp hội Khoa học Chính trị Hàn Quốc và Hiệp hội Quan hệ Quốc tế Hàn Quốc, và là tổng thư ký của Hiệp hội Nghiên cứu Bắc Triều Tiên. Năm 2013, ông là Chủ tịch thứ 12 của Hiệp hội Nghiên cứu Bắc Triều Tiên. Vào tháng 3 năm 2013, ông trở thành Bộ trưởng Thống nhất. [2] Ông đến thăm Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 2014 để trao đổi chính sách đối với Triều Tiên. Sau khi rời nhiệm sở vào tháng 3 năm 2015, ông là giáo sư tại Đại học Kyungnam. Ông qua đời vào ngày 15 tháng 8 năm 2020.
Sơn Tây đẳng xử Thừa tuyên Bố chính sứ ty
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809106
Sơn Tây đẳng xử Thừa Tuyên bố chính sứ ty ("chữ Hán": 山西等處承宣布政使司) gọi tắt là Sơn Tây Bố chính sứ ty, là tên gọi của một trong 13 khu vực hành chính cấp tỉnh dưới triều Minh (1368 – 1644), quản hạt 6 phủ, 20 châu và 79 huyện. Nha môn Bố chính sứ ty đặt tại Thái Nguyên phủ (nay là thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Lịch sử hình thành và phát triển. Sơn Tây Bố chính sứ ty dưới thời Nguyên thuộc Trung Thư tỉnh. Hồng Vũ nguyên niên (1368) đổi Tấn Ninh lộ thành Bình Dương phủ, Ký Ninh lộ thành Thái Nguyên phủ, Đại Đồng lộ thành Đại Đồng phủ, thăng các châu Lộ, Trạch, Thấm và Liêu thành trực lệ châu. Hồng Vũ năm thứ 2 (1369) thành lập Sơn Tây Hành Trung thư tỉnh, thủ phủ đặt tại Thái Nguyên, quản lý các phủ Thái Nguyên, Bình Dương, Đại Đồng, các trực lệ châu Lộ, Trạch, Thấm và Liêu. Hồng Vũ năm thứ 9 (1376), thiết lập Bố Chính sứ ty, Phần châu thăng cấp thành trực lệ châu. Gia Tĩnh năm thứ 8 (1529), thăng cấp Lộ châu thành Lộ An phủ. Vạn Lịch năm thứ 23 (1595), Phần châu thăng cấp thành phủ. Các phủ, châu trực thuộc. Thái Nguyên phủ (太原府). Dưới thời Nguyên là Ký Ninh lộ. Cuối Hồng Vũ nguyên niên (1369), đổi thành Thái Nguyên phủ. Hồng Vũ nguyên niên (1368) thì trực thuộc hành tỉnh. Quản lý trực tiếp các huyện Dương Khúc, Thái Nguyên, Du Thứ, Thái Cốc, Kì, Từ Câu, Thanh Nguyên, Giao Thành, Văn Thủy, Thọ Dương, Vu, Tĩnh Nhạc, Hà Khúc. Các châu trực thuộc: Quản lý huyện Nhạc Bình. Quản lý huyện Định Tương. Quản lý các huyện Ngũ Thai, Phồn Trì, Quách. Quản lý các huyện Lam, Hưng. Bình Dương phủ (平陽府). Dưới thời Nguyên là Tấn Ninh lộ. Hồng Vũ nguyên niên (1368) đổi thành Bình Dương phủ, đến năm thứ 2 (1369) trực thuộc Sơn Tây Hành tỉnh. Nha môn đặt tại huyện Lâm Phần.
Sơn Tây đẳng xử Thừa tuyên Bố chính sứ ty
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809106
Nha môn đặt tại huyện Lâm Phần. Quản lý trực tiếp các huyện Lâm Phần, Tương Lăng, Hồng Động, Phù Sơn, Triệu Thành, Thái Bình, Nhạc Dương, Khúc Ốc, Dực Thành, Phần Tây, Bồ, Linh Thạch. Địa phận ngày nay thuộc địa cấp thị Lâm Phần. Các châu trực thuộc: Quản lý các huyện Lâm Tấn, Vinh Hà, Y Thị, Vạn Tuyền, Hà Tân. Quản lý các huyện An Ấp, Hạ, Văn Hỉ, Bình Lục, Nhuế Thành. Quản lý các huyện Tắc Sơn, Giáng, Viên Khúc. Quản lý huyện Hương Ninh. Quản lý các huyện Đại Ninh, Vĩnh Hòa. Phần Châu phủ (汾州府). Dưới thời Nguyên là Phần châu thuộc Ký Ninh lộ. Hồng Vũ năm thứ 9 (1376), thăng cấp thành trực lệ châu, trực thuộc Sơn Tây Bố Chính sứ. Vạn Lịch năm thứ 23 (1595) thăng cấp thành Phần Châu phủ, nha môn đặt tại Phần Dương huyện. Quản lý trực tiếp các huyện Phần Dương, Hiếu Nghĩa, Bình Diêu, Giới Hưu, Thạch Lâu, Lâm. Các châu trực thuộc: Quản lý huyện Ninh Hương. Lộ An phủ (潞安府). Dưới thời Nguyên là Lộ Châu thuộc Tấn Ninh lộ. Hồng Vũ năm thứ 2 (1369) thăng làm trực lệ châu thuộc Sơn Tây Hành tỉnh. Gia Tĩnh năm thứ 8 (1529) thăng thành Lộ An phủ, nha môn đặt tại Trường Trị huyện. Quản lý trực tiếp các huyện Trường Trị, Trường Tử, Đồn Lưu, Tương Viên, Lộ Thành, Hồ Quan, Lê Thành, Bình Thuận. Địa phận ngày nay thuộc địa cấp thị Trường Trị. Đại Đồng phủ (大同府). Dưới thời Nguyên là Đại Đồng lộ. Hồng Vũ năm thứ 2 (1369) đổi thành Đại Đồng phủ thuộc Sơn Tây Hành tỉnh, nha môn đặt tại Đại Đồng huyện. Quản lý trực tiếp các huyện Đại Đồng, Hoài Nhân. Các châu trực thuộc: Quản lý huyện Sơn Âm. Quản lý huyện Mã Ấp. Quản lý các huyện Quảng Linh, Quảng Xương, Linh Khâu, Định An. Trạch châu (泽州). Dưới thời Nguyên thuộc Tấn Ninh lộ. Hồng Vũ năm thứ 2 (1369) thăng làm trực lệ châu, trực thuộc Sơn Tây Hành tỉnh. Quản lý trực tiếp các huyện Phượng Thai, Cao Bình, Dương Thành, Lăng Xuyên, Thấm Thủy.
Sơn Tây đẳng xử Thừa tuyên Bố chính sứ ty
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809106
Địa phận ngày nay thuộc địa cấp thị Tấn Thành. Thấm châu (沁州). Dưới thời Nguyên thuộc Tấn Ninh lộ. Hồng Vũ năm thứ 2 (1369) thăng làm trực lệ châu, trực thuộc Sơn Tây Hành tỉnh. Vạn Lịch năm thứ 23 (1595) giáng thành châu thuộc Phần Châu phủ, đến năm Vạn Lịch thứ 32 (1604) lại khôi phục trực lệ châu. Quản lý trực tiếp các huyện Thấm Nguyên, Vũ Hương. Liêu châu (遼州). Dưới thời Nguyên thuộc Tấn Ninh lộ. Hồng Vũ năm thứ 2 (1369) thăng làm trực lệ châu, trực thuộc Sơn Tây Hành tỉnh. Quản lý trực tiếp các huyện Du Xã, Hòa Thuận. Phong châu (豐州). Dưới thời Nguyên thuộc Đại Đồng lộ. Bị phế bỏ thời Hồng Vũ, Tuyên Đức nguyên niên (1426) được tái lập, đến Chính Thống năm thứ 14 (1449) bị phế bỏ lần nữa. Quản lý huyện Vân Nội. Tham khảo. Trương Đình Ngọc, Minh sử. Xem thêm. Sơn Đông (nhà Minh) Bắc Trực Lệ Nam Trực Lệ
Công quốc Bukovina
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809113
Công quốc Bukovina (; ; ) là một lãnh địa cấu thành của Đế quốc Áo từ năm 1849 và một lãnh địa hoàng gia Cisleithania của Áo-Hung từ 1867 đến 1918. Tên gọi. Tên gọi "Bukovina" được sử dụng chính thức vào năm 1775 khi khu vực được sáp nhập từ Thân vương quốc Moldavia thành thuộc địa của chế độ quân chủ Habsburg (trở thành Đế quốc Áo năm 1804, và Áo-Hung năm 1867). Tên gọi tiếng Đức chính thức là "die Bukowina" dưới thời Áo cai trị (1775–1918), bắt nguồn từ dạng tiếng Ba Lan "Bukowina", và nó lại bắt nguồn từ tiếng Ukraina "Буковина" (Bukovyna), và dạng tiếng Slav chung "buk", nghĩa là cây dẻ gai ("бук" [buk], như trong tiếng Ukraina, thậm chí là "Buche" trong tiếng Đức). Một tên gọi tiếng Đức khác của khu vực là "das Buchenland", chủ yếu được sử dụng trong thơ ca, và có nghĩa là "xứ sở dẻ gai" hoặc "xứ sở cây dẻ gai". Trong tiếng Romania, trong ngữ cảnh văn học hoặc thơ ca, cái tên "Țara Fagilor" ("xứ sở cây dẻ gai") đôi khi được sử dụng. Trong tiếng Anh, một dạng thay thế là "The Bukovina", ngày càng trở thành một kiểu cổ xưa, tuy nhiên, nó được tìm thấy trong các tài liệu cũ. Lịch sử. Sau khi Mông Cổ xâm lược châu Âu, vùng đất Bukovina từ thế kỷ 14 đã là một phần của Thân vương quốc Moldavia, với Suceava là thủ đô từ năm 1388 đến năm 1565. Vào thế kỷ 16, Moldavia chịu ảnh hưởng của Ottoman, nhưng vẫn giữ quyền tự trị của mình. Vào đầu thế kỷ 18, Moldavia trở thành mục tiêu mở rộng về phía nam của Đế quốc Nga, được bắt đầu khi Sa hoàng Pyotr I] mở Chiến dịch sông Pruth năm 1710–11. Năm 1769, trong Chiến tranh Nga-Thổ, Moldavia bị quân đội Nga chiếm đóng. Sau Phân chia Ba Lan lần thứ nhất vào năm 1772, chế độ quân chủ Habsburg nhắm đến một kết nối đất liền từ Thân vương quốc Transylvania đến Vương quốc Galicia và Lodomeria mà họ mới giành được. Sau khi Hiệp định Küçük Kaynarca giữa Nga và Ottoman được ký kết vào tháng 7 năm 1774, người Áo đã tham gia đàm phán với Sublime Porte (chính phủ Ottoman) từ tháng 10 và cuối cùng có thể giành được một lãnh thổ của Moldavia với diện tích khoảng 10.000 km² được họ được gọi là "Bukowina", và chính thức sáp nhập vào tháng 1 năm 1775.
Công quốc Bukovina
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809113
Vào ngày 2 tháng 7 năm 1776, tại Palamutka, người Áo và người Ottoman ký một công ước biên giới, chế độ quân chủ Habsburg trả lại 59 ngôi làng đã chiếm đóng trước đó và giữ lại 278 ngôi làng. Do phản đối và kháng nghị việc sáp nhập phần tây bắc của Moldavia, người cai trị Moldavia là Thân vương Grigore III Ghica đã bị Ottoman ám sát. Ban đầu Bukovina là một khu quân sự khép kín từ năm 1775 đến năm 1786, sau đó được hợp nhất thành huyện Bukovina thuộc Vương quốc Galicia và Lodomeria cấu thành của Áo. Cho đến khi đó, giới quý tộc Moldavia theo truyền thống đã hình thành giai cấp thống trị trên lãnh thổ này. Hoàng đế Habsburg Joseph II muốn liên kết khu vực này với các tỉnh của chế độ quân chủ Áo (mặc dù không phải với Đế quốc La Mã thần thánh); ông đã sở hữu những vùng đất bị tàn phá với người Swabia Danube định cư, sau được gọi là người Đức Bukovina. Vào giữa thế kỷ 19, thị trấn Sadhora trở thành trung tâm của triều đại Hasidic Sadigura. Quá trình nhập cư thúc đẩy phát triển kinh tế hơn nữa của quốc gia đa sắc tộc, mặc dù nơi đây vẫn là một tiền đồn xa xôi phía đông của chế độ quân chủ. Năm 1804, khu vực này trở thành một phần của Đế quốc Áo mới thành lập. Sau những bất ổn chính trị do các cuộc cách mạng năm 1848, các chủ điền trang đã thúc giục chính phủ Wien nâng Bukovina thành một "Kronland" riêng của Áo (lãnh địa hoàng gia). Có hiệu lực từ ngày 4 tháng 3 năm 1849, "kreis" cũ được tuyên bố là "Herzogtum Bukowina", một công quốc trên danh nghĩa, có tên trong tước hiệu đầy đủ chính thức của hoàng đế Áo. Khu vực nằm dưới quyền cai quản của một "k.k. Statthalter" (stadtholder) do hoàng đế bổ nhiệm, với nơi ở chính thức của ông tại Czernowitz từ năm 1850. Năm 1860, Bukovina một lần nữa được hợp nhất với Galicia, nhưng một lần nữa được khôi phục thành một tỉnh riêng biệt theo sắc lệnh tháng 2 năm 1861 do Hoàng đế Franz Joseph I ban hành. Lãnh địa hoàng gia được khôi phục đã được cho lập nghị viện "Landtag" của riêng mình, bao gồm cơ quan hành pháp "Landesausschuss", tình trạng này kéo dài đến năm 1918.
Công quốc Bukovina
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809113
Năm 1867, với việc tái tổ chức Đế quốc Áo thành Đế quốc Áo-Hung, Bukovina trở thành một phần của lãnh thổ Cisleithania ("Áo"). Sau khi ban hành Hiến pháp tháng 12, theo sáng kiến ​​​​của Bộ Công dân Cisleithania do Karl von Auersperg lãnh đạo, Hội đồng Hoàng gia quyết định trao danh hiệu "Landespräsident" cho stadtholder cũ, đứng đầu một "Landesregierung" (chính quyền nhà nước). Chín (từ cuộc bầu cử năm 1907: 14) đại biểu đại diện cho Bukovina tại Hạ viện Áo. Thế chiến I. Lực lượng quân sự chính trong khu vực trong thời bình là Trung đoàn bộ binh 22 tại Czernowitz, vào thời điểm đó là trung đoàn "k.k. Landwehr" (Lục quân hoàng gia) duy nhất có đa số là người Romania (54%). Tuy nhiên, ngay sau khi chiến sự bắt đầu, các đơn vị mới được thành lập từ cư dân địa phương được tuyển mộ. Các trung đoàn Landwehr 22, 23 và 41, cùng với trung đoàn kỵ binh Dragoon số 4 đều có đa số là người Romania. Để khuyến khích việc tuyển mộ, người Romania được phép mặc màu sắc dân tộc của họ cũng như nhận được sự hướng dẫn tinh thần của các linh mục quân đội người dân tộc Romania. Vào năm 1914–15, phần lớn Bukovina bị Tập đoàn quân số 8 của Nga dưới quyền chỉ huy của Tướng Aleksei Brusilov chiếm đóng sau thất bại của Áo-Hung trong Trận Galicia, và các lực lượng thống nhất của Liên minh Trung tâm chỉ có thể giành lại được khu vực sau Chiến dịch tấn công Gorlice–Tarnów do Đức chỉ huy và cuộc Đại triệt thoái của Nga. Binh sĩ dân tộc Romania chiến đấu dũng cảm, 62 người được tặng thưởng Huân chương Dũng cảm. Có lần Trung đoàn 41 chiến đấu liên tục 54 giờ. Đến ngày 4 tháng 6 năm 1916, thương vong của người Romania ở Bukovinia là 184 người chết, 1.175 người bị thương và 82 người bị bắt. Vào mùa thu năm 1918, nhà nước đa sắc tộc Áo-Hung sụp đổ và Bộ Chiến tranh chính thức ra lệnh giải ngũ, nhưng không có cơ quan trung ương nào có thể đảm bảo việc giải giáp vũ khí. Vào ngày 18 tháng 10 năm 1918, Hội đồng Quốc gia Ukraina được thành lập tại Lemberg, Galicia, đã lên kế hoạch tuyên bố một nước Cộng hòa Ukraina theo đó cũng sẽ hợp nhất Bukovina và Ruthenia Karpat.
Công quốc Bukovina
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809113
Vào ngày 25 tháng 10 năm 1918, một ủy ban khu vực Ukraina do Emilian Popowicz lãnh đạo được thành lập tại Czernowitz, để đại diện cho Hội đồng Dân tộc Ukraina tại Bukovina. Vào ngày 14/27 tháng 10 năm 1918, theo sáng kiến ​​của Sextil Pușcariu, Iancu Flondor và Isidor Bodea, Hội đồng Lập hiến của Bukovina được thành lập tại Czernowitz, Hội đồng Dân tộc Romania (bao gồm các đại diện từ quốc hội Áo và từ nghị viện Bukovina, và các nhà hoạt động chính trị địa phương) đã thông qua tuyên bố ủng hộ liên hiệp của Bukovina với Romania, và yêu cầu thống đốc "Landespräsident" cuối cùng của Áo là Josef Graf Etzdorf từ bỏ quyền lực của ông. Trong khi đó, các lực lượng bán quân sự địa phương của Hội đồng Dân tộc Ukraina giành quyền kiểm soát Czernowitz và các khu vực khác của Bukovina, thay thế hiệu quả quyền kiểm soát của Áo vào ngày 6 tháng 11. Mặc dù người Ukraina địa phương cố gắng sáp nhập Bukovina vào cái gọi là [[Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina], nhưng họ không thể thành lập chính quyền. Trước hành động của người Ukraina, lãnh đạo Hội đồng Dân tộc Romania Iancu Flondor yêu cầu chính phủ Romania can thiệp vào Bukovina. Năm ngày sau, Sư đoàn 8 Romania do Tướng Iacob Zadik chỉ huy tiến vào Czernowitz, chống lại các kháng nghị của người Ukraina, trong khi lực lượng bán quân sự Ukraina rút lui mà không kháng cự đến Galicia. Những nỗ lực tiếp theo của người Ukraina địa phương nhằm sáp nhập các phần phía bắc Bukovina vào Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina nhanh chóng bị quân đội Romania đàn áp, với việc lãnh đạo của Hội đồng Dân tộc Ukraina chạy trốn qua sông [[Dniester]] đến Galicia, là nơi do quân đội Ukraina kiểm soát một phần. Sau khi binh sĩ Romania nắm chắc khu vực, Tổng Đại hội Bukovina được thành lập vào ngày 15/28 tháng 11 năm 1918, trong đó có 74 người Romania, 13 người Ruthenia, 7 người Đức và 6 người Ba Lan (theo thành phần ngôn ngữ). Một sự nhiệt tình ủng hộ lan rộng khắp khu vực, và một số lượng lớn người dân tập trung tại thành phố để chờ nghị quyết của Đại hội. Đại hội bầu chính trị gia người Romania Bukovina [[Iancu Flondor]] làm chủ tịch, và bỏ phiếu thuận cho liên minh với Vương quốc Romania, có sự ủng hộ của các đại biểu dân tộc Romania, Đức và Ba Lan; Các đại biểu Ukraina tẩy chay Đại hội.
Công quốc Bukovina
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809113
Các lý do được đưa ra là, cho đến khi Habsburg tiếp quản vào năm 1775, Bukovina là trung tâm của Thân vương quốc Moldavia (nơi có các khu chôn cất của các thống đốc), và có quyền tự quyết. Quyền kiểm soát của Romania đối với tỉnh được quốc tế công nhận trong [[Hòa ước Saint-Germain-en-Laye (1919)|Hiệp định St. Germain]] năm 1919 và [[Hoà ước Trianon|Hiệp định Trianon]] năm 1920, khi cả [[Cộng hòa Áo - Đức|Cộng hòa Áo-Đức]] và [[Vương quốc Hungary (1920–1946)|Vương quốc Hungary]] từ bỏ mọi yêu sách đối với Bukovina. Chính phủ. [[Tập tin:Bucovina.JPG|thumb|Bản đồ Bukovina năm 1901]] Khi "kreis Bukowina" được nâng lên thành một công quốc vào năm 1849, ban đầu khu vực vẫn được quản lý từ thủ phủ [[Lviv|Lemberg]] của Galicia. Theo lệnh của Bộ Nội vụ Áo, Czernowitz trở thành trụ sở của một [[stadtholder]] đế quốc-hoàng gia ("k.k.") vào năm 1850. Theo sắc lệnh tháng 2 năm 1861, Công quốc Bukovina có một hội đồng đại diện, nghị viện "[[Landtag]]" với cơ quan hành pháp do một "Landesausschuss" đứng đầu. Sau cuộc bầu cử lập pháp Cisleithania năm 1907, công quốc được đại diện bởi 14 đại biểu trong cơ quan lập pháp Hội đồng Đế quốc Áo. Việc phân chia lãnh địa hoàng gia đã được sửa đổi vào năm 1868; đến năm 1914, Công quốc Bukovina bao gồm mười một huyện chính trị ("Bezirke"): Nhân khẩu. Theo điều tra nhân khẩu năm 1775 của Áo, tỉnh này có tổng dân số là 86.000 người (bao gồm 56 ngôi làng sau đó được trả lại cho Moldavia). Điều tra nhân khẩu chỉ ghi lại tình trạng xã hội và một số nhóm dân tộc-tôn giáo. Năm 1919, nhà sử học Ion Nistor tuyên bố rằng người Romania chiếm đa số áp đảo vào năm 1774, khoảng 64.000 (85%) trong tổng số 75.000 dân số. Trong khi đó, khoảng 8.000 (10%) là người Ruthenia và 3.000 (4%) các nhóm dân tộc khác. Mặt khác, chỉ bốn năm trước cũng Nistor tuyên bố dân số năm 1774 bao gồm 52.750 người Romania (73%), 15.000 người Ruthenia (21%) và 4.000 người khác "sử dụng tiếng Romania trong hội thoại" (6%).
Công quốc Bukovina
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809113
Năm 2011, một phân tích nhân chủng học về điều tra nhân khẩu của Nga về dân số Moldova năm 1774 đã khẳng định dân số 68.700 người vào năm 1774, trong đó 40.920 (59,6%) người Romania, 22.810 người Ruthenia và [[người Hutsul]] (33,2%) và 7,2 % [[người Do Thái]], [[người Digan]] và [[người Armenia]]. Người Ruthenia sống đông đúc hơn ở phía tây bắc Bukovina, đặc biệt là ở khu vực giữa các sông Prut và Dniester và người Hutsul tập trung ở vùng núi phía tây của tỉnh, đặc biệt là ở khu vực sông [[Cheremosh|Ceremuș]] và [[Putyla]]. Năm 1787, các quan chức triều đình đã ghi nhận ở Czernowitz có 414 ngôi nhà, trong đó 153 của người Moldavia (người Romania), 84 của người Đức, 76 của người Do Thái, phần còn lại là của người Armenia, Arnaut (người Albania), người Séc, người Hy Lạp, người Hungary, người Ba Lan và người Ruthenia (người Ukraina). Trong thế kỷ 19, các chính sách của Đế quốc Áo đã khuyến khích nhiều dòng người nhập cư (chính quyền Áo khuyến khích nhập cư để phát triển kinh tế), chủ yếu là [[người Ukraina]] (vào thời điểm đó được gọi là [[người Ruthenia]] từ [[Galicia (Đông Âu)|Galicia]]) và người Romania từ [[Transylvania]] và Hungary, cũng như số lượng nhỏ hơn người Đức, người Ba Lan, người Do Thái và người Hungary. Các cuộc điều tra nhân khẩu chính thức ở Đế quốc Áo (sau này là Áo-Hung) không ghi lại dữ liệu ngôn ngữ-dân tộc cho đến năm 1850–1851. HF Müller đưa ra dân số năm 1840 được sử dụng cho mục đích nhập ngũ là 339.669. Theo [[Alecu Hurmuzaki]], đến năm 1848, 55% dân số là người Romania. Điều tra nhân khẩu Áo năm 1850–1851 lần đầu tiên ghi lại dữ liệu về các ngôn ngữ được sử dụng, cho thấy 48,50% là người Romania và 38,07% là người Ruthenia. Năm 1843, ngôn ngữ Ruthenia được công nhận cùng với tiếng Romania là "ngôn ngữ của nhân dân và của Giáo hội tại Bukovina". Theo ước tính và dữ liệu điều tra nhân khẩu của Áo-Hung, dân số của Bukovina là: Liên kết ngoài. [[Thể loại:Phân cấp hành chính Áo-Hung]] [[Thể loại:Bukovina]] [[Thể loại:Vùng lịch sử România]] [[Thể loại:Vùng lịch sử Ukraina]] [[Thể loại:Moldavia]] [[Thể loại:Khởi đầu năm 1849]] [[Thể loại:Chấm dứt năm 1918]] [[Thể loại:Áo-Hung năm 1918]] [[Thể loại:Chính trị năm 1918]] [[Thể loại:Tỉnh Chernivtsi]]
Antonia của Phổ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809131
Antonia của Phổ, Công tước phu nhân xứ Wellington (tiếng Đức: "Antonia von Preußen"; tiếng Anh: "Antonia of Prussia"; Antonia Elizabeth Brigid Louise Mansfeld; ngày 28 tháng 4 năm 1995) là cháu chắt của Wilhelm II, Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc Đức và là Quốc vương cuối cùng của Vương quốc Phổ và là vợ của Charles Wellesley, Công tước thứ 9 xứ Wellington. Tiểu sử. Antonia sinh ngày 29 tháng 4 năm 1995 ở Luân Đôn, Anh. Antonia là con gái của Hoàng tôn Friedrich Georg của Phổ và Brigid Guinness . Antonia có một người anh sinh đôi tên là Rupert. Antonia theo học tại trường Cấp 3 Cobham Hall và Đại học Nhà vua Luân Đôn. Antonia được phong bậc Sĩ quan của Huân chương Đế quốc Anh vào năm 2008 và cùng năm đó được bầu làm Thành viên của Đại học Eton . Hôn nhân và hậu duệ. Ngày 3 tháng 2 năm 1977, Antonia kết hôn với Charles Wellesley, Hầu tước xứ Douro tại Nhà thờ Thánh Paul, Knightsbridge thuộc Luân Đôn. Khi Charles kế vị cha trở thành Công tước thứ 9 xứ Wellington, Antonia cũng trở thành Thân vương phi xứ Waterloo, Công tước phu nhân xứ Victoria (tiếng Bồ Đào Nha: Vitória), Wellington và Ciudad Rodrigo. Hai vợ chồng có với nhau năm người con : Antonia nằm trong danh sách kế vị ngai vàng Anh với tư cách là hậu duệ của Nữ vương Victoria I của Vương quốc Liên hiệp Anh thông qua con gái đầu lòng là Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh, Vương nữ Vương thất.
Vittoria của Savoia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809132
Vittoria Cristina Adelaide Chiara Maria của Savoia (sinh ngày 28 tháng 12 năm 2003) là người thừa kế ấn định của ngai vàng Vương tộc Savoia. Vittoria là con đầu lòng của Emanuele Filiberto Umberto, Thân vương xứ Venezia và Clotilde Courau. Thiếu thời. Vittoria sinh ngày 28 tháng 12 năm 2003 tại Geneva, Thụy Sĩ. Vittoria có một em gái là Luisa của Savoia sinh năm 2006. Cha mẹ của Vittoria là Emanuele Filiberto Umberto của Savoia, Thân vương xứ Veneza và Piemonte, bấy giờ là người thừa kế ngai vàng Ý và Clotilde Courau là một nữ diễn viên người Pháp. Thông qua cha, Vittoria là cháu nội của Vittorio Emanuele Alberto của Savoia, Thân vương của Napoli, gia chủ hiện tại của Vương tộc Savoia và là Marina Doria cũng như là cháu chắt của Umberto II, Quốc vương cuối cùng của nước Ý trước khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ trong một cuộc trưng cầu dân ý năm 1946. Bà cố của Vittoria là Marie-José của Bỉ, Vương hậu nước Ý cuối cùng. Rửa tội. Vittoria được Đức Hồng y Giovanni Cheli đặt tên thánh vào ngày 30 tháng 5 năm 2004 tại Vương cung thánh đường Thánh Francesco thành Assisi ở Assisi. Cha mẹ đỡ đầu của Vittoria là Ottavio Mazzola và Roberta Fabbri. Trong lễ rửa tội, Vittoria đã mặc chiếc váy rửa tội mà ông cố của mình là Vittorio Emanuele III của Ý đã mặc trong lễ rửa tội của vào ngày 31 tháng 5 năm 1869. Trong số các khách mời có Thân vương tử Albert của Monaco, Maria Beatrice của Ý, Sergej của Nam Tư và Mafalda xứ Hessen, cháu nội của Mafalda của Ý. Cha mẹ Vittoria chọn Assisi vì biểu tượng cho hòa bình của nơi đây. Vấn đề về kế vị. Ông nội của Vittoria, Vittorio Emanuele Alberto, Thân vương của Napoli đã thay đổi luật kế vị mà trước đây chỉ cho phép nam giới là người thừa kế ngai vàng. Theo như thay đổi thì Vittoria, với tư cách là người con lớn nhất của cha là Emanuele Filiberto Umberto, Thân vương xứ Veneza sẽ trở thành gia chủ và kế vị ngai vàng của Vương tộc Savoia trong tương lai sau cha mình. Mặc dù là người thừa kế ngai vàng Ý, Vittoria sống ở Paris thuộc Pháp . Hiện nay, dòng dõi kế vị của Vương tộc Savoia bị tranh chấp bởi Aimone Umberto, Công tước thứ 6 xứ Aosta thuộc nhánh Savoia-Aosta.
Vittoria của Savoia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809132
Tháng 6 năm 2023, Emanuele Filiberto, cha của Vittoria tuyên bố rằng bản thân sẽ từ bỏ quyền thừa kế ngai vàng, do đó Vittoria trờ thành Trữ quân của ông nội Vittorio Emanuele Alberto. Trong tương lai, Vittoria sẽ trở thành nữ Gia chủ đầu tiên của Vương tộc Savoia.
Moussa Doumbouya
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809133
Moussa Doumbouya (sinh ngày 12 tháng 12 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Guinée hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo trung tâm cho câu lạc bộ FC Ingolstadt. Sự nghiệp thi đấu. Hannover 96. Doumbouya ra mắt cho câu lạc bộ Hannover 96 vào ngày 21 tháng 2 năm 2021, khi vào sân thay cho Valmir Sulejmani ở phút thứ 71 trong trận gặp Fortuna Düsseldorf tại Bundesliga 2. Trận đấu đó kết thúc với tỷ số 3-2 nghiêng về Fortuna Düsseldorf.
Danh sách cầu thủ tham dự vòng chung kết UEFA Nations League 2021
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809150
Vòng chung kết UEFA Nations League 2021 là một giải đấu bóng đá quốc tế được tổ chức tại Ý từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 10 năm 2021. Bốn đội tuyển quốc gia tham gia giải đấu được yêu cầu đăng ký một đội hình tối đa gồm 23 cầu thủ, trong đó ba cầu thủ phải là thủ môn, và đội hình sẽ được chốt trước ngày 30 tháng 9 năm 2021, mười ngày trước khi giải đấu diễn ra. Chỉ những cầu thủ trong những đội hình này mới đủ điều kiện tham gia giải đấu. Trong trường hợp một cầu thủ trong danh sách đội hình được gửi bị chấn thương hoặc bệnh tật trước trận đấu đầu tiên của giải đấu, cầu thủ đó có thể được thay thế, miễn là bác sĩ đội và bác sĩ từ Ủy ban Y tế UEFA đều xác nhận rằng chấn thương hoặc bệnh tật đủ nghiêm trọng để ngăn cầu thủ tham gia giải đấu. Những cầu thủ có kết quả xét nghiệm dương tính với SARS-CoV-2 hoặc được tuyên bố là "người tiếp xúc gần" với người có kết quả xét nghiệm SARS-CoV-2 dương tính, và do đó được cách ly theo quyết định của cơ quan y tế được coi là trường hợp mắc bệnh nghiêm trọng và do đó có thể được thay thế trước trận đấu đầu tiên. Nếu một thủ môn bị chấn thương hoặc bệnh tật sau trận đấu đầu tiên của giải đấu, anh ta vẫn có thể bị thay thế, ngay cả khi các thủ môn khác trong đội hình vẫn có sẵn. Cầu thủ đã được thay thế trong danh sách cầu thủ không thể được đưa vào danh sách. Vị trí được liệt kê cho mỗi cầu thủ nằm trong danh sách đội hình chính thức do FIFA công bố. Độ tuổi được liệt kê cho mỗi cầu thủ là vào ngày 6 tháng 10 năm 2021, ngày đầu tiên của giải đấu. Số lần khoác áo và số bàn thắng được liệt kê cho mỗi cầu thủ không bao gồm bất kỳ trận đấu nào được thi đấu sau khi bắt đầu giải đấu. Câu lạc bộ được liệt kê là câu lạc bộ dành cho các cầu thủ đã thi đấu một trận đấu cuối cùng trước giải đấu. Quốc tịch của mỗi câu lạc bộ sẽ phản ánh hiệp hội quốc gia (không phải giải đấu) mà câu lạc bộ được liên kết. Một lá cờ được thể hiện bao gồm cho các huấn luyện viên có quốc tịch khác với đội tuyển quốc gia của họ. Đội hình.
Danh sách cầu thủ tham dự vòng chung kết UEFA Nations League 2021
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809150
Đội hình. Ý. Huấn luyện viên: Roberto Mancini Đội hình chính thức của Ý đã được công bố vào ngày 30 tháng 9 năm 2021. Ngày 3 tháng 10 năm 2021, Ciro Immobile và Rafael Tolói đều rút lui vì chấn thương và được thay thế bởi Moise Kean và Davide Calabria. Một ngày sau, đến lượt Matteo Pessina gặp chấn thương và người thay thế cho anh là Federico Dimarco. Tây Ban Nha. Đội hình chính thức của Tây Ban Nha đã được công bố vào ngày 30 tháng 9 năm 2021. Ngày 1 tháng 10 năm 2021, Pedri gặp chấn thương và người thay thế cho anh là Brais Méndez. Hai ngày sau, cũng chính Méndez và cả Marcos Llorente đều gặp chấn thương nên phải rút lui, Sergi Roberto và Bryan Gil là những người thay thế cho họ. Bỉ. Huấn luyện viên: Roberto Martínez Đội hình chính thức của Bỉ đã được công bố vào ngày 1 tháng 10 năm 2021, với Matz Sels được chọn là thủ môn dự phòng. Ngày 5 tháng 10 cùng năm, Thomas Meunier gặp chấn thương nên phải rút lui và người thay thế cho anh là Thomas Foket. Một ngày sau, danh sách của đội tuyển Bỉ có sự thay đổi ở phút chót, khi Arthur Theate thay thế cho Thorgan Hazard đang gặp chấn thương. Pháp. Huấn luyện viên: Didier Deschamps Đội hình chính thức của Pháp đã được công bố vào ngày 30 tháng 9 năm 2021.
Mikael Egill Ellertsson
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809155
Mikael Egill Ellertsson (sinh ngày 11 tháng 3 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Iceland hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Venezia tại Serie B và Đội tuyển bóng đá quốc gia Iceland. Sự nghiệp thi đấu. Câu lạc bộ. SPAL. Mikael Ellertsson ra mắt chuyên nghiệp cho SPAL vào ngày 14 tháng 8 năm 2021, khi vào sân thay cho Moustapha Yabre trong trận thua 2-1 trước Benevento tại Coppa Italia, chỉ vài ngày sau khi ghi được 1 cú đúp trong chiến thắng 5-0 trước Adriese. Spezia. Ngày 30 tháng 8 năm 2021, anh ký bản hợp đồng 5 năm với Spezia; cùng ngày, anh ta chuyển tới SPAL theo dạng cho mượn đến năm 2022. Venezia. Ngày 26 tháng 1 năm 2023, Mikael gia nhập câu lạc bộ Venezia tại Serie B bằng bản hợp đồng kéo dài đến mùa giải 2026–27. Quốc tế. Anh ra mắt quốc tế cho Iceland vào ngày 9 tháng 10 năm 2021 trong trận đấu thuộc khuôn khổ Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022 gặp Armenia. Danh hiệu. Iceland
Định luật Ohno
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809159
Định luật Ohno được đề xuất bởi nhà sinh học người Mỹ gốc Nhật Susumu Ohno, nói rằng hàm lượng gen của các loài động vật có vú đã được bảo tồn so với các loài không chỉ ở hàm lượng DNA mà còn ở bản thân các gen. Nghĩa là, gần như tất cả các loài động vật có vú đã bảo tồn nhiễm sắc thể X từ nhiễm sắc thể X nguyên thủy của một tổ tiên chung. Bằng chứng. Các nhiễm sắc thể X của động vật có vú ở các loài khác nhau, bao gồm cả người và chuột, có kích thước gần như nhau, với hàm lượng chiếm khoảng 5% bộ gen. Ngoài ra, đối với các locus gen riêng lẻ, một số gen liên kết với X là phổ biến ở các loài động vật có vú. Các ví dụ bao gồm glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PD) và các gen của yếu tố VIII và yếu tố IX. Hơn nữa, không có trường hợp nào tìm thấy gen liên kết X ở loài này nằm trên nhiễm sắc thể thường ở loài kia.
Jákup Andreasen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809160
Jákup Biskopstø Andreasen (sinh ngày 31 tháng 5 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá Quần đảo Faroe hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ KÍ và Đội tuyển bóng đá quốc gia Quần đảo Faroe. Anh là cháu trai của Ragna Patawary và Rannvá Andreasen, cầu thủ bóng đá quốc tế người Quần đảo Faroe. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Andreasen ra mắt quốc tế cho Quần đảo Faroe vào ngày 6 tháng 9 năm 2020, trong trận đấu thuộc khuôn khổ UEFA Nations League gặp Andorra diễn ra trên Sân vận động Quốc gia (Andorra), kết thúc với tỷ số 1–0 nghiêng về đội khách.
Mô hình chọn lọc chung
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809161
Mô hình chọn lọc chung (GSM) là một mô hình di truyền học quần thể mô tả tần số alen của quần thể sẽ thay đổi như thế nào khi bị chọn lọc tự nhiên tác động. Phương trình. Mô hình chọn lọc chung áp dụng cho một gen duy nhất có hai alen (hãy gọi chúng là A1 và A2) được tóm gọn trong phương trình: Mô tả bằng lời: Tích của các tần số tương đối formula_7, là thước đo phương sai di truyền. Số lượng pq đạt cực đại khi có tần số mỗi gen bằng nhau, khi formula_8. Trong mô hình chọn lọc chung, tốc độ thay đổi formula_9 tỷ lệ thuận với biến dị di truyền. Độ thích nghi trung bình của quần thể formula_6 là thước đo thích nghi tổng thể của quần thể. Trong mô hình chọn lọc chung, tốc độ thay đổi formula_9 tỷ lệ nghịch với thể lực trung bình formula_6—tức là khi quần thể phù hợp nhất, không thể thay đổi thêm nữa. Phần còn lại của phương trình, formula_13, đề cập đến hiệu ứng trung bình của sự thay thế alen. Về bản chất, thuật ngữ này định lượng những thay đổi di truyền sẽ ảnh hưởng đến độ thích nghi.
Mateusz Łęgowski
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809163
Mateusz Łęgowski (sinh ngày 29 tháng 1 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ba Lan hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Pogoń Szczecin tại Ekstraklasa và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ba Lan.
Danh sách cầu thủ tham dự vòng chung kết UEFA Nations League 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809167
Vòng chung kết UEFA Nations League 2023 là một giải đấu bóng đá quốc tế được tổ chức tại Hà Lan từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 6 năm 2023. Bốn đội tuyển quốc gia tham gia giải đấu được yêu cầu đăng ký một đội hình tối đa gồm 23 cầu thủ, trong đó ba cầu thủ phải là thủ môn, và đội hình sẽ được chốt trước ngày 4 tháng 6 năm 2023, mười ngày trước khi giải đấu diễn ra. Chỉ những cầu thủ trong những đội hình này mới đủ điều kiện tham gia giải đấu. Trong trường hợp một cầu thủ trong danh sách cầu thủ đã được gửi bị chấn thương hoặc ốm trước trận đấu đầu tiên của giải đấu, cầu thủ đó có thể được thay thế bất kỳ lúc nào trong vòng 24 giờ trước trận đấu đầu tiên của họ. Bác sĩ của mỗi đội và Ủy ban y tế UEFA đều phải xác nhận rằng chấn thương hoặc bệnh tật đủ nghiêm trọng để ngăn cầu thủ tham gia giải đấu. Vị trí được liệt kê cho mỗi cầu thủ nằm trong danh sách đội hình chính thức do UEFA công bố. Độ tuổi được liệt kê cho mỗi cầu thủ là vào ngày 14 tháng 6 năm 2023, ngày đầu tiên của giải đấu. Số lần khoác áo và số bàn thắng được liệt kê cho mỗi cầu thủ không bao gồm bất kỳ trận đấu nào được thi đấu sau khi bắt đầu giải đấu. Câu lạc bộ được liệt kê là câu lạc bộ dành cho các cầu thủ đã thi đấu một trận đấu cuối cùng trước giải đấu. Quốc tịch của mỗi câu lạc bộ sẽ phản ánh hiệp hội quốc gia (không phải giải đấu) mà câu lạc bộ được liên kết. Đội hình. Hà Lan. Huấn luyện viên: Ronald Koeman Hà Lan đã công bố một đội hình sơ bộ gồm 26 cầu thủ vào ngày 29 tháng 5 năm 2023. Ngày 6 tháng 6 cùng năm, Hà Lan đã công bố đội hình chính thức của mình. Một tuần sau khi công bố, Matthijs de Ligt gặp chấn thương nên phải rút lui, và người thay thế cho anh là Daley Blind. Tây Ban Nha. Huấn luyện viên: Luis de la Fuente Đội hình chính thức của Tây Ban Nha đã được công bố vào ngày 2 tháng 6 năm 2023. Ba ngày sau, David García và Nico Williams gặp chấn thương nên phải rút lui, Nacho và Ansu Fati là những người thay thế cho họ. Ngày 12 tháng 6 cùng năm, Fran García thế chỗ cho Juan Bernat đang gặp phải chấn thương.
Danh sách cầu thủ tham dự vòng chung kết UEFA Nations League 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809167
Ý. Huấn luyện viên: Roberto Mancini Ý đã công bố một đội hình sơ bộ gồm 26 cầu thủ vào ngày 29 tháng 5 năm 2023. Ngày 6 tháng 6 cùng năm, Ý đã công bố đội hình chính thức của mình. Ngày 14 tháng 6 cùng năm, tám ngày sau khi công bố đội hình chính thức, Alessandro Bastoni xin rút lui khỏi đội tuyển do bị ốm, và người thay thế cho anh là Alessandro Buongiorno. Croatia. Huấn luyện viên: Zlatko Dalić Croatia đã công bố một đội hình sơ bộ gồm 24 cầu thủ vào ngày 22 tháng 5 năm 2023. Ngày 5 tháng 6 cùng năm, Croatia đã công bố đội hình chính thức của mình. Một ngày sau, Marko Livaja đã bị loại khỏi danh sách cầu thủ chính thức. Đến ngày 10 tháng 6 cùng năm, Joško Gvardiol gặp chấn thương nên phải rút lui, và người thay thế cho anh là Dion Drena Beljo.
GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809172
Dương Quý Sỹ (sinh ngày 13 tháng 01 năm 1967) là Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Thầy thuốc ưu tú, Bác sĩ, chuyên gia về lĩnh vực Hô hấp và Y học giấc ngủ. Ông hiện đang làm Giáo sư tại Khoa Hô hấp, Dị ứng và Hồi sức - Đại học Y khoa Penn State Hoa Kỳ, Hiệu trưởng trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng. Ngày 11/05/2022 ông được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm làm Uỷ viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực Nhiệm kỳ 2022 - 2026 và sau đó được Chủ tịch Hội đồng bổ nhiệm làm Phó Trưởng Tiểu ban Giáo dục nghề nghiệp. Ông đang là Chủ tịch Hội Y học giấc ngủ Việt Nam (VSSM) kiêm Trưởng ban Đào tạo Liên đoàn giấc ngủ ASEAN (FSSM), Phó chủ tịch Hội Hô hấp Việt Nam. Đồng thời ông đại diện cho Việt Nam tại Hội đồng hô hấp châu Âu (ERS), Hội đồng Hen Toàn cầu (GINA) và Bệnh Phổi tắc nghẽn mãn tính Toàn cầu (GOLD), đại diện Hội phổi Pháp ngữ tại Việt Nam. Ngoài ra, ông là Tổng biên tập Tạp chí Mạch máu Nội - Ngoại khoa Hoa Kỳ (JVMS), là người sáng lập và đảm nhiệm chức vụ Tổng biên tập của Tạp chí Journal of Functional Ventilation and Pulmonology (JFVP), tạp chí xuất bản song ngữ Anh - Pháp. Mới đây, Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam chọn GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ là 1 trong 70 nhân vật đại diện cho thế hệ sáng tạo và cống hiến thời kỳ hội nhập trong ấn phẩm sách "Trí thức, Nhà Khoa học Sáng tạo và Cống hiến" xuất bản năm 2023. Đồng thời đề cử ông vào TOP 10 "Nhà Quản lý, Nhà Khoa học tiêu biểu Châu Á Thái Bình Dương", trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng do ông là Hiệu trưởng được đề cử vào TOP 50 "Ngôi trường uy tín Châu Á Thái Bình Dương" và Hội Y học giấc ngủ Việt Nam do ông làm Chủ tịch được đề cử vào TOP 50 "Đơn vị tiêu biểu Châu Á Thái Bình Dương về Nghiên cứu, ứng dụng hiệu quả thành tựu Y học" theo tiêu chí của UNESCO để biểu dương trong Chương trình "Giao lưu Văn hóa và Kinh tế Việt Nam - Ấn Độ" tại New Delhi, Ấn Độ ngày 02 - 05/08/2023. Hiện nay GS. TSKH.
GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809172
Hiện nay GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ cũng chuyên gia khám về hô hấp, miễn dịch, bệnh lý giấc ngủ tại Bệnh viện Đại học Y dược Hồ Chí Minh, Phòng khám Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Bệnh viện 199 - Bộ Công an... Đồng thời ông là người đặt nền móng cho chuyên khoa Y học giấc ngủ tại Việt Nam, thường xuyên có các bài tham luận, thuyết trình tại các hội nghị chuyên ngành Y khoa trong nước và quốc tế, các buổi tập huấn nâng cao kiến thức và vai trò của giấc ngủ cho cán bộ y tế bệnh viện các tỉnh, thành trên cả nước. 1. Đặc cách khen thưởng Để kịp thời ghi nhận những đóng góp thiết thực và to lớn trong lĩnh vực y tế và đào tạo cho địa phương, các thành tích xuất sắc cho nền y học nước nhà và quốc tế, ngày 19/11/2013, tại Văn Miếu Quốc Tử Giám - Hà Nội, TSKH. BS Dương Quý Sỹ được Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước đặc cách phong hàm Phó giáo sư. Ông cũng là giảng viên cơ hữu đầu tiên của hệ thống trường cao đẳng và kiêm nhiệm trường đại học đủ điều kiện được Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước phong hàm Phó giáo sư với số điểm khoa học rất cao (28 điểm). Ngày 13/11/2014, PGS.TSKH.BS. Dương Quý Sỹ được Chủ tịch nước đặc cách tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. Đặc biệt, ngày 01/02/2016, PGS.TSKH.BS. Dương Quý Sỹ được Trường ĐH Y khoa Penn State (Hoa Kỳ), xếp thứ 48/100 trường đại học hàng đầu thế giới bổ nhiệm Giáo sư về Y khoa (Giáo sư chính thức). Ông là người Việt Nam đầu tiên được Trường Đại học Y khoa nước Mỹ bổ nhiệm Giáo sư, là niềm vinh sự hết sức to lớn đối với người có nhiều cống hiến trên lĩnh vực Y học của Việt Nam và thế giới. GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ được Trung tâm Biên sử khoa học quốc tế Cambridge - Anh bầu chọn vào "Top 100 chuyên gia Y tế trong năm 2015" và Tổ chức Marquis Who’s who bầu vào danh sách "1.000 người đã đóng góp cho thế giới khoa học và kỹ thuật năm 2014 - 2015".
GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809172
Năm 2016, Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam tặng ông Cúp vàng vinh danh 2 danh hiệu: “Trí thức Việt Nam sáng tạo và cống hiến; Nhà quản lý theo tiêu chuẩn Đạo đức Toàn cầu vì đã có thành tích cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trên các lĩnh vực chuyên môn và hoạt động xã hội”. Năm 2020, ông được biểu dương là Nhà quản lý tiêu biểu Việt Nam - ASEAN 2020 do Chủ tịch Hội Phát triển Hợp tác Kinh tế Việt Nam - ASEAN trao tặng tại Hà Nội nhân hưởng ứng năm Việt Nam Chủ tịch ASEAN 2020. Trong làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4, bằng kiến thức y khoa của mình GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ đã trực tiếp chữa trị, cứu sống những bệnh nhân bị Covid-19 nặng & nguy kịch. Có những bệnh nhân là trẻ em và người lớn mắc Covid-19 nặng & nguy kịch, đó là thể hiếm gặp, thông qua phương pháp lọc máu thay huyết tương đã cứu sống họ khỏi lưới hái tử thần. Hiệu quả của phương pháp này được đánh giá cao qua các bài báo quốc tế được ông công bố trên tạp chí uy tín và được Hội đồng Khoa học công nghệ tỉnh Bình Dương nghiệm thu xuất sắc với đề tài "Xây dựng Quy trình chuẩn Lâm sàng Thở oxy mũi dòng cao (HFNC) và Đánh giá Hiệu quả Lọc máu thay Huyết tương (TPE) trong điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng và nguy kịch nhằm cải thiện hiệu quả điều trị và làm giảm tỷ lệ tử vong cho người bệnh". Các đóng góp của ông cùng đội ngũ cán bộ y tế trên cả nước đã giúp tỉnh Bình Dương đẩy lùi và khống chế dịch bệnh, giảm tỷ lệ tử vong cho bệnh nhân Covid-19 nặng và nguy kịch, Vì thế GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ đã vinh dự nhận được Bằng khen đột xuất và Thư cảm ơn của Thủ tướng Chính phủ, Bí thư tỉnh ủy tỉnh Bình Dương. Bên cạnh công tác chuyên môn y tế, GS. TSKH.
GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809172
TSKH. BS Dương Quý Sỹ còn là tác giả của nhiều công trình, sáng chế giúp ích cho cộng đồng trong việc phòng chống dịch bệnh Covid-19 như sản xuất khẩu trang giấy tài trợ cho người dân ở các vùng dịch, cán bộ y tế ở các bệnh viện thời điểm khan hiếm khẩu trang, máy ATM khẩu trang, trà chanh dây, trà húng chanh... Ghi nhận các đóng góp này, ông là người duy nhất nhận 2 giải thưởng “Sáng kiến vì cộng đồng” lần thứ IV, năm 2022 do Tạp chí Cộng sản trao tặng. Mặc dù luôn xông pha nơi tuyến đầu chống dịch nhiều khó khăn, gian khổ nhưng tinh thần của GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ tràn đầy lạc quan, tích cực, điều đó được thể hiện qua rất nhiều sáng tác của ông được các nhạc sĩ, ca sĩ phổ nhạc và thể hiện như: “Bắc Giang tôi yêu”, “Tình yêu nơi tuyến đầu chống dịch”... 2. Con đường Năm 1991, tốt nghiệp Bác sĩ Đa khoa tại trường Đại học Y Dược Hồ Chí Minh, BS Dương Quý Sỹ tiếp tục theo học hệ Bác sĩ Sơ bộ chuyên ngành nội khoa, đến năm 1993 ông về công tác tại Trường Trung học Y tế Lâm Đồng (nay là Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng). Không bằng lòng với những kiến thức thực tại mà vẫn mong muốn nâng cao kiến thức, trau dồi năng lực chuyên môn luôn là động lực thôi thúc thầy tiếp tục con đường học tập. Sau 1 năm công tác, ông trở lại Trường Đại học Y Dược Hồ Chí Minh theo học chuyên khoa I và tốt nghiệp Bác sĩ chuyên khoa I ngành Nội khoa năm 1995. Năm 1996, ông thi đậu thủ khoa kỳ thi kết thúc chương trình đào tạo chuyên ngành hô hấp của Hội Phổi Pháp - Việt tổ chức tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh (giai đoạn 1993-1995) và được chọn sang Pháp tu nghiệp và lấy bằng chuyên khoa hô hấp tại Trung tâm Bệnh phổi Chevilly Larue. Năm 1999, ông đậu thủ khoa đầu vào và lấy bằng Thạc sĩ nội khoa tại trường Đại học Y Dược Hồ Chí Minh. Năm 2001, ông tiếp tục đậu thủ khoa khóa tuyển bác sĩ nội trú sang Pháp làm việc tại Khoa bệnh Hô hấp, Bệnh viện Haut - Lévee.
GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809172
Sau đó lấy tiếp bằng sau đại học và thạc sĩ khoa học về bệnh hô hấp, các kỹ thuật thăm dò chức năng hô hấp, giấc ngủ của Đại học Victor Segalen Bordeaux, Đại học Paris VI, Paris XII - Pháp. Giai đoạn tiếp theo, ông vừa làm bác sĩ chuyên khoa phổi của Bệnh viện Cochin (Đại học Paris V - Paris Descartes), vừa làm giảng viên kiêm nhiệm của Đại học Y khoa Paris Descarter và các trường đại học y khoa, các bệnh viện uy tín của nước Pháp. Năm 2009, ông đã bảo vệ xuất sắc luận án Tiến sĩ khoa học tại Đại học Paris Descartes và Paris Est, trở thành bác sĩ đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp Tiến sĩ khoa học tại Pháp trong lĩnh vực bệnh học hô hấp . Việc đầu tiên khi bảo vệ xuất sắc luận án TSKH ông trở về quê mở đợt khám chữa hen miễn phí cho hơn 300 người bệnh ở tỉnh Lâm Đồng. Tiếp đến, ông mời nhiều nhà khoa học, chuyên gia quốc tế đến Đà Lạt dự hội thảo về “Hô hấp và Phẫu thuật lồng ngực”. Ông cũng là người bắc cầu cho Hội phổi Pháp - Việt giúp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng xây dựng khoa bệnh phổi hiện đại, tài trợ trang thiết bị y tế, đào tạo bác sĩ và đầu mối kết nghĩa giữa Bệnh viện đa khoa tỉnh Lâm Đồng và Bệnh viện Denain (Pháp). 3. Sự nghiệp Năm 2005, BS. Dương Quý Sỹ giữ chức Phó hiệu trưởng và từ tháng 11/2013 ông là Bí thư Chi bộ - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng. Dù công tác quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học rất bận, song mỗi năm GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ thường xuyên có 4 đợt sang Pháp và từ 2-3 đợt sang Mỹ để giảng dạy, hướng dẫn học viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành y khoa... Đạt đỉnh cao trong sự nghiệp và có điều kiện làm việc ở nước ngoài; song phục vụ đất nước và địa phương là chí hướng, tâm nguyện của nhà khoa học này.
GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809172
Hiện nay, với cương vị Bí thư Chi bộ - Hiệu trưởng nhà trường và bằng kinh nghiệm, tâm huyết của mình, GS.TSKH.BS Dương Quý Sỹ đã và đang lãnh đạo thực hiện nhiều dự án xây dựng Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng trở thành trung tâm đào tạo chất lượng cao, hướng tới nâng cấp thành trường Đại học Điều dưỡng Kỹ thuật Y học trong tương lai. Để hiện thực hóa tâm nguyện này, ông dành tâm lực cho lãnh đạo thực hiện xây dựng trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng trở thành trường học thông minh, trung tâm đào tạo nghề chất lượng cao, trung tâm nghiên cứu y sinh học, xây dựng trung tâm mô phỏng đào tạo và khảo thí nghề khu vực. Tập trung cải tạo, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ 4.0, năng lực ngoại ngữ (100% các giảng viên và chuyên viên đều đã có bằng 2 cử nhân Anh văn) làm khâu đột phá cho triển khai, thực hiện tốt các chương trình nâng cao chất lượng dạy và học, đào tạo chương trình nghề y tế tiên tiến, chuẩn bị cho việc triển khai chương trình đào tạo song ngữ Anh - Việt. Tất cả các môn học của các ngành đào tạo tại trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng đều có giáo trình đổi mới theo chuẩn đầu ra và theo phương pháp dạy - học tích hợp. Học sinh - sinh viên được miễn phí toàn bộ các điều kiện ăn ở, học lại - thi lại và cấp phát đồng phục và các phương tiện học tập. Vì theo ông, môi trường học tập tốt mới tạo ra được động lực và cảm hứng học tập cho cả sinh viên và giảng viên. Vì vậy, trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng trong nhiều năm đã được vinh danh và nhận cúp vàng “Đơn vị giáo dục tiêu biểu theo chuẩn Đạo đức toàn cầu của UNESCO” và “Top 100 đơn vị Giáo dục tiêu biểu châu Á”. Trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, GS.TSKH.BS Dương Quý Sỹ là người đã triển khai thực hiện mô hình xã hội học tập, đơn vị học tập, văn hóa đọc sách, rèn luyện thể chất, thông qua mô hình đọc sách tập trung mỗi ngày vào cuối giờ làm việc, tập thể dục giữa giờ và phổ cập võ cổ truyền trong sinh viên và cán bộ viên chức Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng từ hơn 5 năm qua.
GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809172
Ông cũng đã thúc đẩy hoạt động hợp tác đào tạo, nghiên cứu về chăm sóc người bệnh, nghiên cứu khoa học ở mức độ quốc gia, khu vực, quốc tế nhằm trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm nghiên cứu khoa học, quản lý giáo dục, chuyên môn trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa. Triển khai sử dụng các phần mềm tương tác bằng ngoại ngữ để nâng cao năng lực giao tiếp bằng ngoại ngữ cho giảng viên, sinh viên, thực hiện việc đọc báo Đảng và Tạp chí Cộng sản để trả lời các câu hỏi trực tiếp vận dụng vào thực tiễn bằng tiếng Anh vào các buổi sinh hoạt chính trị sáng thứ hai hàng tuần, biên soạn bộ từ điển 1.000 từ song ngữ Anh - Việt chuyên ngành công tác Đảng, Đảng bộ trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng đã được vinh danh là “Đảng bộ trong sạch, vững mạnh và tiêu biểu 5 năm liền” (2017-2021). Nhờ đó, trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng đã không ngừng lớn mạnh, đào tạo được nhiều cán bộ y tế có chất lượng “vừa hồng vừa chuyên”. Đặc biệt từ năm 2016, Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng đã được Đại học Y khoa Penn State, trường đại học lớn hàng đầu của Mỹ về Y khoa chọn là một trong 5 trường trên thế giới để trao đổi sinh viên và giảng viên Y khoa toàn cầu, điều chưa có tiền lệ đối với một trường Cao đẳng nghề của Việt Nam và thậm chí ở cấp độ đại học.  Ngoài ra, trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng là trường cao đẳng nghề duy nhất thành lập được “Trung tâm Nghiên cứu Y sinh học” do Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lâm Đồng cấp phép hoạt động từ năm 2014, tiếp theo là thành lập “Trung tâm Phát triển nguồn lực”.   Nghiên cứu khoa học Nhiều năm say mê cống hiến trong lĩnh vực Y học, TSKH.BS. Dương Quý Sỹ đã công bố hơn 160 công trình nghiên cứu khoa học đăng trên các tạp chí Y học quốc tế (H-index = 21) và hơn 70 công trình nghiên cứu đăng trên Tạp chí Y học Việt Nam, 4 công bố sở hữu trí tuệ Việt Nam.
GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809172
Trong đó, nhiều công trình được ứng dụng vào thực tiễn như: “Nghiên cứu tần suất mắc bệnh hen và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Lâm Đồng để đề ra các biện pháp can thiệp”, đây là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam được công bố quốc tế, do Hội phổi Pháp - Việt thực hiện năm 2006 - 2008, công trình: “Nghiên cứu ứng dụng việc đo ôxít nitrít (NO) trong chẩn đoán và điều trị bệnh nhân hen phế quản nhằm tiết kiệm chi phí điều trị”, được báo cáo tại Hội nghị quốc tế về hô hấp tại Pháp và châu Âu. Công trình được triển khai tại các bệnh viện ở Lâm Đồng, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch TP.HCM, Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Phổi Trung ương, Công trình “Nghiên cứu về tần suất mắc bệnh ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ ở bệnh nhân cao huyết áp tại Lâm Đồng”, được thực hiện trên 186 bệnh nhân; kết quả nghiên cứu này được công bố trên Tạp chí Y học quốc tế... Tóm tắt tiểu sử. Học vấn 1985-1991: Tốt nghiệp Bác sĩ Đa khoa, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh 1992: Tốt nghiệp Sơ bộ chuyên khoa Nội, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh 1995: Tốt nghiệp Bác sĩ chuyên khoa 1 – Nội khoa, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh 1996: Lấy bằng Chuyên khoa Hô hấp, Trung tâm Bệnh phổi Chevilly Larue, Pháp 1999: Tốt nghiệp Thạc sĩ Nội khoa, Chuyên ngành Hô hấp, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh 2002: Lấy bằng sau Đại học về Bệnh lý Hô hấp, Đại học Victor Segalen, Bordeaux, Pháp 2006: Tốt nghiệp Thạc sĩ Khoa học, Bệnh lý Hô hấp - Tim mạch; Đại học Paris XII, Pháp 2007: Bằng sau Đại học về Bệnh lý Hô hấp; Đại học Paris XII, Pháp 2008: Bằng sau Đại học các Kỹ thuật thăm dò chức năng trong Bệnh lý Hô hấp; Đại học Paris VI-XII, Pháp. 2009: Tốt nghiệp Tiến sĩ Khoa học hạng xuất sắc, Chuyên ngành Sinh bệnh học Hô hấp; Đại học Paris - EST, Pháp. 2010-2013: Sau Tiến sĩ Khoa học, Chuyên ngành Bệnh lý Hô hấp; Đại học Paris Descartes, Pháp Công tác 1993 - 2005: Trưởng phòng Đào tạo-Nghiên cứu khoa học, Giảng viên Trường Trung cấp Y tế Lâm Đồng.
GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809172
2001, 2005, 2006: Bác sĩ Nội trú, Khoa Hô hấp bệnh viện Haut Levêque - Bordeaux và bệnh viện Cochin - Paris 2005 - 2013: Phó hiệu trưởng trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng 2007 - 2017: Bác sĩ chuyên khoa Phổi bệnh viện Cochin và Giảng viên kiêm nhiệm đại học Y khoa Paris Descartes 2013 - Nay: Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng; cố vấn chuyên khoa Hô hấp - Hồi sức cấp cứu, bệnh viện đa khoa tỉnh Lâm Đồng 2017 - Nay: Giáo sư Khoa Hô hấp, Dị ứng và Hồi sức - Đại học Y khoa Penn State Hoa Kỳ Bảng thành tích 1. Giải thưởng nghiên cứu Nitric Oxide - Pháp (2010); 2. Đặc cách Huân chương lao động hạng Ba của Chủ tịch nước vì thành tích khoa học công nghệ (2013); 3. Được bầu chọn “Top 100 chuyên gia sức khỏe Thế giới” do Hội đồng Biên niên sử Quốc tế trụ sở tại Cambridge - Anh trao tặng (2015); 4. Được bầu chọn danh sách “1.000 người có đóng góp cho Khoa học kỹ thuật thế giới” bởi tổ chức Marquis Who’s Who “- Mỹ (2015 - 2020); 5. Top 10 nhà khoa học tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2005 - 2015; 6. Bằng khen của Trung ương Hội chữ thập đỏ Việt Nam về Hiến máu nhân đạo 2015; 7. Đón nhận danh hiệu Giáo sư Trường Đại học Penn State, Mỹ (2016); 8. Danh hiệu: Trí thức Việt Nam Sáng tạo và Cống hiến; Nhà Quản lý theo tiêu chí đạo đức Toàn cầu” do Liên hiệp UNESCO Việt Nam trao tặng 2016; 9. Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội các năm 2018-2019; 10. Bằng khen của Tổng Hội Y học Việt Nam các năm 2018 - 2020; 11. Được vinh danh: “Nhà Quản lý, Trí thức Tiêu biểu Hôi nhập ASIA” năm 2019; 12. Được biểu dương Nhà quản lý tiêu biểu Việt Nam - ASEAN 2020, do Chủ tịch Hội Phát triển Hợp tác Kinh tế Việt Nam - ASEAN trao tặng 2020; 13. Được vinh danh: “Nhà Lãnh đạo Xuất sắc Hội nhập Quốc tế” do Hiệp hội Doanh nhân và Đầu tư Việt Nam - Hàn Quốc trao tặng 2021; 14. Được vinh danh: “Nhà Khoa học, Nhà Giáo dục Đạo đức Toàn cầu theo Tiêu chí UNESCO” do Liên hiệp UNESCO trao tặng ngày 13-11-2021; 15.
GS. TSKH. BS Dương Quý Sỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809172
Được bầu chọn là Trí thức tiêu biểu của Tổng Hội Y học Việt Nam năm 2021; 16. Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, Bình Dương (tháng 8 - 2021, tháng 9 - 2021 và tháng 11 - 2021) vì đã có thành tích trong công tác hỗ trợ phòng, chống dịch Covid - 19 trên địa bàn tỉnh Bình Dương 2021; 17. Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ về Thành tích trong phòng, chống dịch Covid-19, tháng 10 - 2021; 18. Được chọn là một trong 20 cá nhân tiêu biểu, biểu dương trong chương trình Mãi mãi niềm tin theo Đảng vì có nhiều thành tích trong công tác phòng, chống dịch Covid-19, tháng 1 - 2022; 19. Được nhận Thư cảm ơn của Thủ tướng Chính phủ về những đóng góp cho việc xây dựng chính sách về Thu hút nhân tài, Phát triển giáo dục nghề nghiệp, Xây dựng trường học tiêu biểu và Chăm sóc người bệnh Covid-19 toàn diện, tháng 1 - 2022; 20. Được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm là một trong 29 thành viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển Nhân lực nhiệm kỳ 2022 - 2026 và bổ nhiệm là Phó Trưởng Tiểu Ban Giáo dục nghề nghiệp; 21. Được Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam chọn là 1 trong 70 nhân vật đại diện cho thế hệ sáng tạo và cống hiến thời kỳ hội nhập trong ấn phẩm sách "Trí thức, Nhà Khoa học Sáng tạo và Cống hiến" xuất bản năm 2023; 22. Được Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam đề cử vào TOP 10 "Nhà Quản lý, Nhà Khoa học tiêu biểu Châu Á Thái Bình Dương". Tác phẩm
Sumire 16 sai!!
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809174
là tuyển tập manga được viết và minh họa bởi Takeru Nagayoshi. Bộ truyện tranh đầu tiên có tựa đề Sumire 17 sai!! gồm hai tập, được đăng dài kỳ trên các tạp chí "shōnen" manga của Kodansha là "Weekly Shōnen Magazine" và "Magazine Special" kể từ tháng 3 năm 2005 đến tháng 3 năm 2006. Nagayoshi quyết định đặt lại khung thời gian của câu chuyện sớm hơn một năm và viết lại cốt truyện từ đầu. "Sumire 16 sai!!" ra mắt và được đăng trên cùng tạp chí kể từ tháng 5 năm 2006 đến tháng 1 năm 2009, gom lại trong 5 tập "tankōbon". Một phiên bản phim truyền hình dài 12 tập được chiếu trên mạng truyền hình BS Fuji kể từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2008. Tóm tắt. Bộ truyện khắc họa chuỗi ngày tháng học đường của cô gái sôi động Yotsuya Sumire 16 tuổi. Nhưng Sumire không phải là một cô gái bình thường mà là một con rối kích thước người thật được điều khiển bởi một người đàn ông trong bộ trang phục màu đen, lồng giọng thông qua nghệ thuật nói tiếng bụng. Sumire hành động như thể cô ấy không biết bản thân là một con rối cũng như sự tồn tại của người đang điều khiển mình. Mặc dù những người khác đều biết nhưng dần dần quen với việc đó và hành động như thể Sumire là một cô gái bình thường, đặc biệt là nhóm bạn thân ba người của cô ấy. Truyền thông. Manga. Được viết và vẽ minh họa bởi Takeru Nagayoshi, tuyển tập manga đầu tiên có tên được đăng dài kỳ trên các tạp chí "shōnen" manga của Kodansha là "Weekly Shōnen Magazine" và "Magazine Special" kể từ ngày 23 tháng 3 năm 2005 đến ngày 20 tháng 3 năm 2006. Kodansha gom các phần nhỏ thành hai tập "tankōbon" phát hành từ ngày 16 tháng 2 đến 16 tháng 6 năm 2006. Nagayoshi quyết định đặt lại khung thời gian của câu chuyện sớm hơn một năm và viết lại cốt truyện từ đầu. "Sumire 16 sai!!" được đăng dài kỳ trên tạp chí "Weekly Shōnen Magazine" và "Magazine Special" từ ngày 10 tháng 5 năm 2006 đến ngày 20 tháng 1 năm 2009. Kodanshagom các phần truyện thành hai tập "tankōbon", phát hành từ 15 tháng 9 năm 2006 đến 17 tháng 2 năm 2009. Phim truyền hình. Một tuyển tập phim truyền hình chuyển thể 12 tập phát sóng trên mạng lưới truyền hình BS Fuji từ ngày 13 tháng 4 đến 29 tháng 6 năm 2008. là bài hát chủ đề của bộ phim do Perfume thể hiện.
Bạo loạn Koza
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809175
là một phần biểu tình bạo lực chống quân đội Hoa Kỳ tại Okinawa, xảy ra vào đêm ngày 20 tháng 12 năm 1970. Khoảng 5.000 người dân Okinawa đã đụng độ với khoảng 700 nghị sĩ Hoa Kỳ trong một sự kiện được coi là biểu tượng cho sự phẫn nộ của người dân Okinawa trong 25 năm chiếm đóng của quân đội Hoa Kỳ. Hậu quả cuộc bạo loạn khiến ít nhất 60 quân nhân Mỹ và 27 người dân Okinawa bị thương, 82 người bị bắt giữ, khoảng 80 ô tô bị đốt cháy, một số tòa nhà tại Căn cứ Không quân Kadena bị thiệt hại nặng.
Đỗ Thế Giai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809176
Đỗ Thế Giai (杜世佳, 1709-1766) là một đại thần nhà Lê trung hưng. Ông là người duy nhất thời Lê được phong vương ("Đỗ đại vương") khi còn sống. Khi mất được phong làm "Thượng đẳng phúc thần" vì có nhiều công lao với đất nước. Thân thế và sự nghiệp. Đỗ Thế Giai quê ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, trấn Sơn Tây (nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Ông sinh ngày 21 tháng 10 năm Kỷ Sửu (1709) niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 trong một gia đình danh giá, thuở nhỏ thông minh hiếu học, lại ham võ nghệ. Năm Nhâm Tý (1732) niên hiệu Long Đức thứ 2 đến năm Mậu Ngọ (1738) niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 4, ông biên soạn bộ "Vũ kinh thích nghĩa" dâng lên vua, được vua ban thưởng rất hậu. Từ đó ông càng được tin dùng. Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741) ông được thăng làm "Phó trì Bình phiên tham dự quân vụ cơ mật". Từ đó, đường hoạn lộ của ông rất hanh thông. Dưới thời Lê - Trịnh, chủ yếu là Trịnh Doanh và Trịnh Sâm, Đỗ Thế Giai từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như "Trung quân Đô đốc phủ Tả đô đốc thự phủ sự" và "Đại tư đồ", tước phong "Luyện quận công," giúp chúa Trịnh quản lý hành chính, hạn chế tham nhũng... Thành tích lớn nhất trong sự nghiệp làm quan của Đỗ Thế Giai là tham gia đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa, trong đó có cuộc khởi nghĩa lớn Nguyễn Danh Phương. Năm Kỷ Tỵ (1749) do dụ được “tướng giặc”, ông được thưởng dân lộc 4 xã, điền lộc 100 mẫu. Năm Tân Mùi (1751), Đỗ Thế Giai được thưởng công trong thành tích Nguyễn Danh Phương bị Đàm Xuân Vực bắt là 8 xã dân lộc, 120 mẫu điền lộc. Khi tổng kết công lao chung, Đỗ Thế Giai lại được thưởng 5 xã dân lộc, 100 mẫu điền lộc. Số ruộng được ban thưởng đó đều là ruộng thế nghiệp. Đỗ Thế Giai nổi tiếng là người chính trực, ngay thẳng và được vua ban bốn chữ "“Thiết thạch tinh trung”" ("Trung thành như sắt đá"), ông cũng được chúa Trịnh Doanh, Trịnh Sâm rất tin tưởng, trọng dụng (Trịnh Doanh đã từng ngủ đêm tại nhà Đỗ Thế Giai ở Đông Ngạc).
Đỗ Thế Giai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809176
Ông mất năm 1766, thọ 58 tuổi. Năm Cảnh Hưng thứ 28 (1768), Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm phát lệnh chỉ, phong Đỗ Thế Giai làm "Luyện Trung công", khen phong làm "Thượng đẳng phúc thần," cho lấy tiền và gạo các loại "tô, dung, điệu, cửa đình" trong cả năm của làng Đông Ngạc để cung phụng vào việc giỗ chạp các tiết hàng năm và tu sửa nhà thờ Đỗ Thế Giai. Thời đó, dòng họ Đỗ có hàng trăm mẫu ruộng phục vụ việc tế lễ.
Phản bội (phim)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809178
Phản bội là một bộ phim tài liệu Việt Nam sản xuất bởi Xí nghiệp Tài liệu và Khoa học Trung ương do Trần Văn Thủy làm biên kịch và đạo diễn. Phim công chiếu lần đầu vào năm 1980, nói về sự kiện Chiến tranh biên giới Việt–Trung. Nội dung. Phim hướng trọng tâm vào việc phỏng vấn các tù nhân chiến tranh Trung Quốc và xen lẫn vào đó những tư liệu phản bác, thủ pháp điện ảnh để nêu bật lên sự vi phạm chủ quyền của Trung Quốc đối với Việt Nam. Sản xuất. Tháng 9 năm 1977, Trần Văn Thủy từ Liên Xô du học trở về làm việc tại Xí nghiệp Tài liệu và Khoa học Trung ương. Quãng thời gian 1978–1979 đang diễn ra sự kiện Trung Quốc gây hấn với Việt Nam tại 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam. Trong khi các đồng nghiệp khác còn đang mải làm phim về những vấn đề văn học, xây dựng cầu Bắc Luân, ông đã nhận thức được tình hình chiến tranh cận kề và thúc giục chủ xưởng phim là Lý Thái Bảo làm một bộ phim về xung đột tại biên giới. Lý Thái Bảo sau đó đặt vấn đề với cấp trên kèm đi thực địa rồi về báo vơi Trần Văn Thủy, giao luôn cho ông Thủy trọng trách thực hiện tác phẩm dù mới vào đơn vị chưa lâu. Trong quá trình thực hiện "Phản bội", ông đã may mắn có được sự hỗ trợ từ nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch. Bộ trưởng đã cung cấp cho đạo diễn các tài liệu quan trọng liên quan đến tình hình biên giới Việt Nam–Trung Quốc và mối quan hệ giữa hai nước. Trần Văn Thủy sớm bắt tay vào nghiên cứu những tài liệu có trong tay và bắt đầu hình thành đề cương phim. Trần Văn Thủy là đạo diễn của bộ phim còn quay phim là Phạm Quang Phúc, em rể ông. Phim được bấm máy từ đầu năm 1979 và hoàn thành vào năm 1980. Đoàn quay phim đã trực tiếp đến những điểm giao tranh ở biên giới để ghi lại các thước phim tư liệu gốc. Những cuộc phỏng vấn đươc ghi âm đồng bộ của các tù binh chiến tranh người Trung Quốc là điểm nhấn chính trong cấu trúc bộ phim và đi kèm với đoạn trích tư liệu để phản bác lại lập luận của các tù binh này. Một số tư liệu phim của Liên Xô cũng xuất hiện trong cuốn phim. Kiểm duyệt và công chiếu.
Phản bội (phim)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809178
Kiểm duyệt và công chiếu. Sau khi bộ phim hoàn thành, ban giám đốc xưởng phim Tài liệu Trung ương vẫn chưa đưa ra một quyết định gì cụ thể. Đến cuối cùng, Bộ Văn hóa – Thông tin mời Nguyễn Cơ Thạch và những chuyên gia từ Bộ Ngoại giao xem và duyệt phim. Trong lần chiếu này, ông đã khen tác phẩm là "hấp dẫn" và nhờ đó "Phản bội" được phát hành rộng rãi ra công chúng Việt Nam vào năm 1980. Bên cạnh chiếu cho khán giả nội địa, phim cũng từng được đem đi chiếu tại một số liên hoan phim quốc tế khác nhau, trong đó có Liên hoan phim Á-Phi-Mỹ La tinh tổ chức ở Liên Xô, Liên hoan phim tài liệu quốc tế Leipzig, Đức () và Liên hoan phim quốc tế Tashkent. Tiếp nhận. Thời điểm mới ra mắt, "Phản bội" đã được công chúng Việt Nam đón nhận hào hứng vì tinh thần của phim phù hợp với thái độ chung của người dân về vấn đề chủ quyền biên giới. Bộ phim sở hữu thời lượng được xem là dài nhất thời điểm đó, khoảng 9 cuốn tương đương với 90 phút, nhưng đã thành công khiến người xem bất ngờ không chỉ ở tính hấp dẫn toát ra từ nội dung mà còn về độ chính xác của những thông tin và vấn đề được đặt ra bởi tác giả. Viết trong cuốn "Lịch sử điện ảnh cách mạng Việt Nam" xuất bản năm 1983, nhà biên kịch Bành Bảo đã ghi nhận bộ phim khi đánh dấu bước tiến mới trong việc áp dụng thành tựu kỹ thuật phim tài liệu và vô tuyến truyền hình vào điện ảnh chính luận Việt Nam cũng như bước tiến mới về mặt phát triển ngôn ngữ nghệ thuật của điện ảnh Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến về mặt hình thức thể hiện của bộ phim, cho rằng "Phản bội" "bắt chước cách làm phim" của "" – loạt phim tài liệu dài 4 tập của hai đạo diễn Đông Đức và . Dù vậy hai đạo diễn đã cùng thống nhất chung một quan điểm sau khi xem xong bộ phim: Giải thưởng. Không lâu sau vào năm 1980, "Phản bội" cùng với hai tác phẩm khác cùa Bùi Đình Hạc "Đường về Tổ Quốc" và "Nguyễn Ái Quốc đến với Lênin" đã đoạt giải Bông sen vàng hạng mục Phim tài liệu tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 5 tổ chức ở Hà Nội, phá vỡ thông lệ chỉ một giải được trao cho mỗi hạng mục.
Phản bội (phim)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809178
Phim cũng đem về cho Trần Văn Thủy giải Đạo diễn xuất sắc đầu tiên trong sự nghiệp của ông. Tuy nhiên vào hôm trao giải, do ông bận đi công tác ở nước ngoài một người bạn đã lên bục nhận thay. Cũng đến năm 1981, phim đã được trao Giải thưởng của Ủy ban bảo vệ hòa bình Liên Xô tại Liên hoan phim quốc tế Moskva. Di sản. Cho đến nhiều năm sau khi ra mắt, bộ phim vẫn được coi là phim tài liệu hấp dẫn nhất của lịch sử phim tài liệu chính luận trong nước; thậm chí đã có những đề nghị cho chiếu lại tác phẩm trong khoảng thời gian leo thang tranh chấp vùng biển giữa Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên sau khi chiến tranh kết thúc, các bản phim của "Phản bội" sớm đã "biến mất", hoàn toàn không thể tìm thấy tại bất cứ đâu. Ngay bản thân tác giả cuốn phim là Trần Văn Thủy cũng cho biết không thể xem lại tác phẩm. Chính quyền Việt Nam bị cáo buộc đã "giấu nhẹm [phim]" đi vì nguyên do chính trị. Vào năm 2021, đạo diễn Trần Văn Thủy nộp hồ sơ xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt VI về Văn học Nghệ thuật với 6 tác phẩm, trong đó có "Phản bội". Tuy nhiên, ông đã không thông qua sự chấp thuận của hội đồng xét duyệt vì không tích đủ 80% số phiếu tán thành từ các thành viên. Kết quả sau khi công bố đã gây nên vô số trong cãi từ người trong nghề cho đến dư luận. Đạo diễn Trần Văn Thủy đã tiết lộ một bức thư từ nhà quay phim Nguyễn Lương Đức gửi đến Bộ Văn hóa Việt Nam, cáo buộc phim "Phản bội" lấy y nguyên bản gốc của phim Liên Xô và chỉ lồng tiếng thuyết minh vào. Đây được cho là lý do chính khiến ông bị thất cử, và theo blogger Anh Ba Sàm việc tác phẩm vốn nói về chiến tranh biên giới có thể khiến việc nhà nước trao giải cho ông nhờ tác phẩm này sẽ bị phía Trung Quốc phản đối.
Weekly Shōnen Magazine
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809181
là một tạp chí tuyển tập "shōnen" manga, xuất bản vào thứ Tư hàng tuần bởi Kodansha, được phát hành lần đầu vào ngày 17 tháng 3 năm 1959. Tạp chí chủ yếu được độc giả lớn tuổi đọc, với một phần đáng kể độc giả thuộc nhóm nam sinh trung học hoặc sinh viên đại học. Theo số liệu về lượng phát hành do Hiệp hội các nhà xuất bản tạp chí Nhật Bản đưa ra, lượng phát hành của tạp chí đã giảm liên tục trong mỗi quý kể từ lần đầu tiên hồ sơ được thu thập từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2008. Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp cá biệt khi internet ngày một phổ biến tại Nhật Bản.
Đất Chełm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809184
Đất Chełm () là một khu vực của Vương quốc Ba Lan và sau này là của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Ngày nay, khu vực này nằm trong các quốc gia Ba Lan, Ukraina và Belarus. Đây là một phần tách rời của tỉnh Ruthenia, được tách khỏi phần chính của tỉnh này bởi tỉnh Bełz. Thị trấn quan trọng nhất của khu vực là Chełm. Trong Thịnh vượng chung, Đất Chełm được hưởng một địa vị đặc biệt; một số tài liệu mô tả nó như một thực thể riêng biệt - tỉnh Chełm (tiếng Latinh: Palatinatus Chelmensis). Lịch sử. Lúc đầu, Đất Chełm là nơi sinh sống của bộ lạc Tây Slav Lędzianie. Vào năm 981, người cai trị Kiev Rus' là Vladimir Vĩ đại đã chinh phục lãnh thổ này. Vào thời điểm này, theo nhà sử học Ba Lan Ryszard Orłowski, người cai trị Kiev Rus đã tái định cư người Ba Lan vào Rus, đồng hóa họ và đưa người Ruthenia đến những vùng đất này. Sau một số cuộc xung đột, vào khoảng năm 1240 Quốc vương Danylo của Galicia biến Chełm thành thủ phủ của một giáo phận Chính thống giáo, khiến thị trấn phát triển nhanh chóng. Sau khi Mông Cổ xâm lược Rus, khiến các quốc gia Ruthenia suy yếu, một cường quốc mới ở Đông Âu là Đại công quốc Litva chiếm đóng Chełm. Năm 1340, thị trấn bị sát nhập bởi Quốc vương Ba Lan Kazimierz Wielki, cùng với Belz, Ruthenia Đỏ và Podolia. Lúc đầu, Đất Chełm được thống nhất với Đất Belz, nhưng vào năm 1387, Quốc vương Władysław Jagiełło trao Belz làm thái ấp cho Công tước Siemowit xứ Mazowsze, trong khi Chełm trực tiếp bị sáp nhập vào lãnh địa hoàng gia Ba Lan. Các nguồn cũ hơn cho rằng Đất Chełm đã trở thành một phần của tỉnh Ruthenia vào thời điểm nó được thành lập vào năm 1434, nhưng theo nghiên cứu mới, nó vẫn là một đơn vị hành chính độc lập, có sejmik riêng biệt, cho đến đầu thế kỷ 16. Lúc đầu, Đất Chełm bao gồm huyện Chełm và huyện Krasnystaw, nhưng vào năm 1392, lãnh thổ được mở rộng ra khu vực Hrubieszow trước đây thuộc về Đất Belz. Hơn nữa, vào những năm 1430, Đất Chełm được mở rộng thêm các khu vực rộng lớn ở phía đông sông Bug, là các huyện Ratno và Luboml. Nhìn chung, tổng diện tích của khu vực là khoảng 10.000 km², giữ nguyên hình dạng cho đến khi Ba Lan bị phân chia lần đầu (1772).
Đất Chełm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809184
Nhà sử học và dân tộc học người Ba Lan Zygmunt Gloger đã viết vào thế kỷ 19 rằng Đất Chełm là một vùng đất tách rời của tỉnh Ruthenia, bị tỉnh Belz ngăn cách hoàn toàn với nó. Nghiên cứu mới tuyên bố rằng trong khu vực Rừng Solska có dân cư thưa thớt, Đất Chełm có thể giáp với Đất Przemysl của tỉnh Ruthenia. Sông Bug chia Đất Chełm thành hai phần không bằng nhau; hai huyện phía đông nhỏ hơn, dân cư thưa thớt hơn, là nguồn của sông Prypec, cũng như một số hồ và đầm lầy của Polesie. Vào thế kỷ 15, Đất Chełm được chia thành các huyện sau: Chełm, Krasnystaw, Hrubieszow, Luboml và Ratno. Năm 1465, huyện Hrubieszow được sáp nhập vào huyện Chełm, và vào khoảng năm 1469, huyện Chełm sáp nhập các huyện Luboml và Ratno. Sau những thay đổi này, Đất Chełm được chia thành hai huyện: Chełm (diện tích: 7.900 km²) và Krasnystaw (diện tích: 2.000 km²). Hơn nữa, ở góc tây nam của huyện Krasnystaw là huyện Szczebrzeszyn tư hữu, một số phần của Đất Chełm cũng thuộc về lãnh địa kế tập gia đình Zamoyski. Trong Thịnh vượng chung Ba Lan–Litva, hầu hết cư dân ở phần phía đông của Đất Chełm đều có nguồn gốc Ruthenia trong khi phần lớn người dân tộc Ba Lan sống ở khu vực phía tây. Đất Chełm cũng có các dân tộc thiểu số Do Thái, Armenia và Wallachia. Vào nửa sau của thế kỷ 16, dân số của Đất Chełm là khoảng 67.000. Năm 1636, dân số tăng lên 125.000 người, nhưng sau các cuộc chiến tranh vào những năm 1650, chẳng hạn như cuộc xâm lược của Thụy Điển vào Ba Lan, dân số giảm xuống còn xấp xỉ 100.000. Năm 1667, có 16 thị trấn và 260 làng ở huyện Chełm, trong khi ở huyện Krasnystaw có 7 thị trấn và 167 làng. Năm 1772, Đế chế Habsburg sáp nhập phần phía nam của Đất Chełm, cùng với thị trấn Zamość. Do phân chia Ba Lan lần thứ nhất, gần như toàn bộ tỉnh Ruthenia trở thành một phần của Galicia thuộc Áo và Đất Chełm trở thành một thực thể riêng biệt, vào năm 1793 được chuyển thành tỉnh Chełm. Sau lần phân chia Ba Lan thứ ba (1795), tỉnh Chełm được phân chia giữa Áo (là một phần của Tây Galicia) và Đế quốc Nga. Điều này có nghĩa là Đất Chełm ở hình dạng ban đầu đã không còn tồn tại.