title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Aphareus furca
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808621
|
Aphareus furca là một loài cá biển thuộc chi "Aphareus" trong họ Cá hồng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1801.
Từ nguyên.
Danh từ định danh "furca" trong tiếng Latinh có nghĩa là “cái nĩa”, hàm ý đề cập đến vây đuôi xẻ sâu của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống.
"A. furca" có phân bố rộng rãi trên vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii và quần đảo Pitcairn, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, giới hạn phía nam đến Úc, Nouvelle-Calédonie và Tonga; xa hơn đến rìa Đông Thái Bình Dương là đảo Cocos. Loài này cũng xuất hiện tại vùng biển Việt Nam, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
"A. furca" sống gần các rạn san hô gần bờ và trong vùng nước trong của đầm phá, độ sâu đến ít nhất là 122 m, nhưng cũng có thể lên đến 302 m.
Mô tả.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "A. furca" là 70 cm, nhưng thường bắt gặp với kích thước khoảng 25 cm.
Loài này có kiểu hình đa dạng. Đầu và thân có thể là màu xanh lam óng, vây lưng và vây hậu môn màu vàng, còn các vây khác có màu trắng, vàng đến xám đậm. Nhiều cá thể có lưng và thân trên màu nâu tía, hai bên thân màu xanh xám, đầu và thân dưới ánh bạc, rìa nắp mang có viền đen, các vây màu trắng đến vàng nâu. Vài cá thể còn được ghi nhận là có màu vàng tươi trên đầu, có thể đây là những con đực đang trong mùa giao phối.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 10–12; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 15–16; Số vảy đường bên: 71–74.
Sinh thái.
Thức ăn chủ yếu của "A. furca" là cá nhỏ, nhưng cũng ăn cả động vật giáp xác. Chúng sống đơn độc hoặc hợp thành những nhóm nhỏ, có tính tò mò và dễ tiếp cận.
Thương mại.
"A. furca" thường được bán tươi sống ở các chợ cá. "A. furca" cũng là một loài cá câu thể thao quan trọng ở Đông Phi. Sự suy giảm quần thể cục bộ đối với loài này đã được phát hiện ở Fiji và Philippines.
|
Yuki Hsu
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808625
|
Từ Hoài Ngọc (giản thể: 徐怀钰; phồn thể: 徐懷鈺; phiên âm: "Xú Huái Yù"; sinh ngày 3 tháng 3 năm 1978), được biết với nghệ danh Yuki Hsu hay Yuki, là một nữ ca sĩ và diễn viên người Đài Loan. Cô nổi tiếng với loạt ca khúc nổi trội ở Đài Loan vào những năm từ 1998 đến 2001. Hầu hết các bài hát của cô trong thời kỳ đầu sự nghiệp là những bản nhạc dance du dương, bắt tai, thường có chủ đề hoặc ca từ trẻ trung.
Yuki cũng được chú ý với những kiểu tóc đa dạng và kỳ dị mà cô ấy đã thể hiện trong nhiều video ca nhạc đầu tiên của mình.
Sự nghiệp.
Các bài hát nổi bật nhất của Yuki bao gồm "Ding Dong" (bản cover hit "Ring A Ling" của ca sĩ người Đan Mạch Tiggy), "Who's Bad" (bản cover "Calcutta (Taxi Taxi Taxi)" của Dr Bombay), và một bản được làm lại từ bản techno thập niên 90 "Dub-i-Dub".
Năm 1997, cô đóng quảng cáo trên truyền hình về thức uống thảo mộc và thu hút nhiều sự chú ý. Cùng năm đó, cô tham gia trong quảng cáo sản phẩm AMIGO hàng năm của Uni-President Enterprise và hát bài hát cùng tên.
Đầu năm 1998, cô bước chân vào làng nhạc với ca khúc "Flying Up". Vào thời điểm đó, công ty thu âm tư nhân đã đánh giá rằng nếu đợt bán đầu tiên của đĩa đơn này không thể bán hết thì album đầu tiên sẽ không được phát hành. Ca từ của bài hát sống động và vui tươi, đồng thời nhấn mạnh hình ảnh những cô gái trẻ can đảm thể hiện bản thân, và ca khúc của cô đã giành được vị trí đầu tiên trong danh sách IFPI trong tuần đầu ra mắt. Vào tháng 3 cùng năm, album đầu tiên cùng tên của Yuki được phát hành, với "Miao Miao Miao", "I'm a Girl" và "Love Like a Bad Cold" đã lập kỷ lục doanh thu hàng triệu bản.
Năm 1999, Yuki Hsu đến Hàn Quốc để thu âm album solo thứ ba "Angel". Cô hợp tác với nam rapper Hàn Quốc Yoo Seung Jun trong bản song ca "Can't Wait". Để kỷ niệm, cô đã xăm lên cánh tay phải biểu tượng Song Ngư của mình.
Năm 2001, Yuki đã tạm dừng sự nghiệp ca hát và chuyển sang lĩnh vực diễn xuất.
Năm 2007, cô trở lại làng nhạc với album Bad Girl.
Vào ngày 25 tháng 5 năm 2018, Yuki Hsu đã tổ chức buổi hòa nhạc Only for Meet You tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế Đài Bắc, kỷ niệm 20 năm sự nghiệp ca hát của cô.
Cuộc sống cá nhân.
|
Yuki Hsu
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808625
|
Cuộc sống cá nhân.
Yuki dần chìm vào quên lãng sau hậu quả của một vũng lầy pháp lý liên quan đến vi phạm hợp đồng và báo chí đưa tin tiêu cực. Tòa án buộc cô phải bồi thường thiệt hại 2 triệu Đài tệ và tiền phạt hợp pháp, và mẹ cô đã vay tiền để giúp cô vượt qua vụ việc đó.
Năm 2010, cô nhận công việc trợ lý pháp lý không lương để có thể nghiên cứu các vấn đề luật pháp nhằm chuẩn bị cho những thách thức của mình.
Vào năm 2011, Yuki Hsu tuyên bố rằng quản lý cũ của cô tại Tập đoàn sản xuất phim quốc tế Dragon Imperium đã nhắn tin cho cô những tin nhắn không phù hợp. Yuki nói rằng cô ấy có một hồ sơ tồn đọng của những tin nhắn như vậy.
Yuki đã từng bị khiếu nại vì vi phạm hợp đồng khi cô không xuất hiện trong một buổi hòa nhạc và đã xuất hiện trước công chúng trái phép trên các chương trình phát sóng của Đài Loan.
|
Kharkov (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808626
|
Tỉnh Kharkov (, ) là một tỉnh của Đế quốc Nga được thành lập vào năm 1835. Tỉnh này bao trùm khu vực lịch sử Sloboda Ukraina. Từ 1765 đến 1780 và từ 1796 đến 1835, tỉnh này được gọi là tỉnh Sloboda Ukraina. Năm 1780-1796 tồn tại Phó vương quốc Kharkov.
Từ năm 1835 trở đi, tỉnh Kharkov được thành lập, tồn tại cho đến năm 1925. Với mỗi lần tái tổ chức, ranh giới và cơ cấu hành chính thay đổi đáng kể. Việc thực hiện, xử lý và xuất bản thông tin thống kê về thuế nhà nước chủ yếu cho tỉnh Kharkov là của Ủy ban thống kê tỉnh Kharkov.
Lịch sử.
Slobozhanshchyna với thủ phủ ở Kharkov trở thành tên chính thức của tỉnh Sloboda-Ukrainia vào năm 1765. Yekaterina II ký sắc lệnh thành lập Phó vương quốc Kharkov vào ngày 25 tháng 4 năm 1780. Nó được thành lập từ các huyện (uezd) Akhtyrsky, Belopolsky, Bogodukhovsky, Valkovsky, Volchansky, Zolochevsky, Izyumsky, Krasnokutsky, Lebedinsky, Miropolsky, Nedrigailovsky, Sumsky, Kharkovsky, Khotmyzhsky và Chuguevsky. Phó vương quốc bị bãi bỏ vào năm 1796, và tỉnh Sloboda-Ukraina được tái lập trên lãnh thổ của Phó vương quốc Kharkov, được chia thành 10 uezd: Akhtyrsky, Bogodukhovsky, Valkovsky, Volchansky, Zmievsky, Izyumsky, Kupyansky, Lebedinsky, Sumsky và Kharkovsky.
Năm 1835, tỉnh Sloboda-Ukraina một lần nữa bị bãi bỏ và tỉnh Kharkov được thành lập thay thế, bao gồm 11 huyện. Cùng năm đó, tỉnh Kharkov được hợp nhất thành Tổng tỉnh Tiểu Nga. Toàn quyền ban đầu cư trú ở Poltava nhưng ở Kharkov từ năm 1837. Đến năm 1856, tỉnh phát triển thành 13 huyện và bộ phận hành chính cuối cùng được thành lập. Kharkov là trụ sở của giáo phận Chính thống giáo và khu giáo dục Kharkov, cũng như thẩm quyền tư pháp của các tỉnh Kharkov, Kursk, Voronezh, Oryol, Yekaterinoslav và Tambov, và của quân khu Kharkov từ năm 1864 đến 1888. Lãnh thổ của tỉnh được loại trừ khỏi "Hàng rào định cư". Tuy thế, người Do Thái được phép đến Kharkov trong khi có hội chợ.
Tờ báo "Kharkovskie Gubernskie Vedomosti" được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1838. "Zemstvo" được thành lập như một phần của cuộc cải cách Zemstvo.
|
Kharkov (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808626
|
Ngày 21 tháng 2 [9 tháng 2 lịch cũ] năm 1879, phần tử khủng bố G. Goldenberg ám sát Thống đốc D. N. Kropotkin. Tướng M. T. Loris-Melikov được bổ nhiệm làm thống đốc tạm thời của tỉnh Kharkov vào ngày 7 tháng 4 năm 1879, và sĩ quan chỉ huy của Quân khu Kharkov vào ngày 17 tháng 4 cùng năm.
Các huyện Izyumsky và Starobelsky của tỉnh Kharkov được chuyển giao cho tỉnh Donetsk mới thành lập vào năm 1920. Huyện Zmiev được tách thành các huyện Zmiev và Chuguevsky vào tháng 12 năm 1919. Ngày 7 tháng 3 năm 1923, chính phủ CHXHCNXV Ukraina thông qua một hệ thống hành chính mới, theo đó các okrug và raion thay thế uyezd và volost. Thay vì 10 uezd, tỉnh được chia thành 5 okrug, cũng như 227 volost được chia thành 77 raion. Tỉnh Kharkov được chia thành các okrug: Kharkov (24 raion), Bogodukhovsky (12 raion), Izyumsky (11 raion), Kupyansky (12 raion), và Sumy (16 raion).
Tất cả các tỉnh của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina, bao gồm cả Kharkov, đã bị bãi bỏ vào tháng 6 năm 1925, và các okrug của tỉnh này chuyển sang trực thuộc nước Cộng hòa (với thủ đô khi đó tại Kharkiv). Ngày 3 tháng 6 năm 1925, thành lập một bộ cấp lãnh thổ mới trong toàn Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraine dựa trên nguyên tắc một hệ thống chính quyền ba cấp: Okrug – Raion –thủ đô. Tỉnh Kharkiv được thành lập vào ngày 27 tháng 2 năm 1932, theo nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương.
Nhân khẩu.
Theo điều tra nhân khẩu đế quốc năm 1897. In đậm là những ngôn ngữ được nhiều người sử dụng hơn ngôn ngữ nhà nước.
|
Vụ tấn công 2 trụ sở Ủy ban nhân dân xã tại Đắk Lắk 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808640
|
Vào khoảng 1 giờ sáng ngày 11 tháng 6 năm 2023, một nhóm người không xác định danh tính có mang theo vũ trang đã tấn công trụ sở Ủy ban nhân dân hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur thuộc huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk khiến 9 người tử vong, trong đó có 4 công an, 1 Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, 1 Bí thư Đảng ủy xã và 3 dân thường, 2 người khác bị thương, đồng thời đốt phá nhiều tài liệu, giấy tờ và tài sản. Theo quan điểm của chính quyền Việt Nam, đây là một vụ tấn công khủng bố có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Tính đến ngày 20 tháng 7, đã có 90 người bị khởi tố, bắt tạm giam vì có liên quan đến các vụ tấn công. Theo cơ quan công an, chủ mưu bị bắt giữ là Y Sol N., quê tỉnh Gia Lai, sinh sống tại TP Buôn Ma Thuột, có quốc tịch Hoa Kỳ.
Bối cảnh.
Vùng đất Tây Nguyên chiếm phần lớn diện tích trồng cà phê của Việt Nam. Đây cũng là nơi sinh sống của một vài dân tộc thiểu số. Đây từ lâu được coi là điểm nóng của các vấn đề tranh chấp đất đai. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nhóm người Thượng từng hợp tác với chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Hoa Kỳ hậu thuẫn. Một số đòi hỏi nhiều hơn về các quyền tự trị, trong khi những người khác lưu vong ở nước ngoài ủng hộ ly khai. Ngày 20 tháng 9 năm 2000, Bdasu K'Bông dưới sự hậu thuẫn của FULRO, thành lập tổ chức "Tin lành Đê Ga" tại Việt Nam nhằm kêu gọi thành lập nhà nước Đêga độc lập. Tổ chức này được cho là có liên quan đến các cuộc biểu tình, bạo động ở Tây Nguyên năm 2001 và 2004. Các nhóm thiểu số bản địa ở Tây Nguyên lại nhận định rằng: Họ bị tước đoạt đất đai và phải di cư do người Kinh tràn đến và trở thành một bộ phận dân số nghèo nhất Tây Nguyên.
Cuối tháng 5 năm 2022, Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin tiến hành cưỡng chế tháo dỡ 64 công trình được cho là xây dựng trái phép trên đất cà phê do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Cà phê Việt Thắng quản lý tại xã Ea Tiêu và 500 công trình khác.
|
Vụ tấn công 2 trụ sở Ủy ban nhân dân xã tại Đắk Lắk 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808640
|
Ngày 28 tháng 2 năm 2023, Ủy ban nhân dân huyện này tiến hành cưỡng chế thu hồi đất và giải phóng mặt bằng nhằm thực hiện dự án đường Hồ Chí Minh đoạn tránh phía Đông Buôn Ma Thuột. Đến ngày 4 tháng 3, việc cưỡng chế được dừng lại. Tháng 5 năm 2023, một phóng viên của báo "Tiền Phong" bị dọa giết sau khi đến khu vực thi công múc đất để điều tra và xác minh hoạt động khai thác đất trái phép.
Vụ tấn công.
Vào lúc 1 giờ sáng ngày 11 tháng 6 năm 2023, một nhóm khoảng 50 người không xác định danh tính đã chia làm hai tốp, mang súng, dao, bom xăng, lựu đạn, tấn công vào trụ sở ủy ban nhân dân hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur (trong đó có khu vực làm việc của Công an xã) thuộc huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, bắn và đâm chết 4 cảnh sát, làm trọng thương 3 cảnh sát. Sau khi nhận được tin báo, Chủ tịch ủy ban nhân dân xã Ea Tiêu và Bí thư Đảng ủy xã Ea Ktur lái xe đến hiện trường, nhưng ngay sau đó đã bị nhóm người này chặn đường và giết chết. Trên đường bỏ trốn, nhóm người này chặn 2 xe của người dân và giết chết họ. Một xe tải chở cà phê đi ngang qua đó cũng bị nhóm này chặn lại nhưng lái xe và phụ xe may mắn trốn thoát được. Nhóm người đã bắn vỡ kính chắn gió và thiêu rụi buồng lái chiếc xe tải. Kết quả, có 9 người chết và 2 người bị thương. Nhóm người này cũng bắt 3 người làm con tin. Hai trong số ba con tin bị bắt giữ đã được giải cứu sau đó, một con tin khác tự giải thoát.
Theo "Đài truyền hình Việt Nam", trong quá trình dùng súng, dao, bom xăng, lựu đạn để tấn công hai trụ sở ủy ban nhân dân, bên cạnh sát hại những người có mặt tại hiện trường, nhóm người cũng đập phá cửa sổ và cửa chính, đốt cháy nhiều tài liệu và giấy tờ.
Bắt giữ.
Ngay khi xảy ra vụ nổ súng, người phát ngôn Bộ Công an Trung tướng Tô Ân Xô cho biết đã chỉ đạo Công an tỉnh Đắk Lắk và các cơ quan liên quan tiến hành truy bắt nhóm người gây ra vụ nổ súng. Trưa ngày 11 tháng 6, Bộ Công an cho biết đã bắt giữ 6 nghi phạm. Đến sáng ngày 12 tháng 6, số người bị bắt giữ là 22.
|
Vụ tấn công 2 trụ sở Ủy ban nhân dân xã tại Đắk Lắk 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808640
|
Tính đến 10 giờ ngày 13 tháng 6, Bộ Công an cho biết đã bắt được 39 người, thu giữ nhiều vũ khí, bao gồm súng trường CKC. Đến tối cùng ngày, số người bị bắt là 45. Trong đêm ngày 13 tháng 6, có thêm một người ra trình diện với cảnh sát, nâng tổng số người bị bắt giữ lên 46.
Ngày 15 tháng 6 năm 2023, nghi phạm Y Thô Ayun, được cho là một trong những người cầm đầu vụ nổ súng, bị bắt giữ, nâng tổng số người bị bắt lên con số 47. Đến ngày 17 tháng 6 năm 2023, đã có 62 người bị bắt vì liên quan đến vụ việc. Ngày 20 tháng 6 năm 2023, Bộ Công an cho biết đã bắt giữ 74 người, thu 15 khẩu súng các loại cùng 1.199 viên đạn và nhiều vũ khí khác để phục vụ công tác điều tra. Ngày 23 tháng 6, nhà chức trách thông báo đã bắt giữ 75 nghi phạm.
Trong thời gian nhà chức trách truy bắt những người có liên quan đến vụ nổ súng, nhiều người dân trên địa bàn huyện Cư Kuin đã góp gạo, thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác để nấu các suất ăn tặng cho các lực lượng an ninh đang làm nhiệm vụ. Người dân trên địa bàn, bao gồm cả phụ nữ, cũng hỗ trợ & tham gia tích cực cùng lực lượng cảnh sát trong quá trình truy bắt các nghi can. Chính quyền huyện Cư Kuin đã tổ chức khen thưởng đột xuất cho lực lượng thực thi pháp luật tham gia vây bắt những người nổ súng đã bỏ trốn.
Điều tra.
Theo "Đài truyền hình Việt Nam", tất cả những người tham gia vào vụ tấn công đều ngụ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Một số người tham gia vào vụ việc cho biết họ được một số đối tượng "lôi kéo, dụ dỗ", thực hiện hành vi tấn công trụ sở ủy ban nhân dân xã Ea Tiêu và Ea Ktur thuộc huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, được hứa hẹn cho tiền, tài sản sau khi thực hiện vụ tấn công. Trước khi tiến hành tấn công, những người này cũng đã bàn bạc kĩ lưỡng và phân công, bàn giao vũ khí cho từng thành viên tham gia.
|
Vụ tấn công 2 trụ sở Ủy ban nhân dân xã tại Đắk Lắk 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808640
|
Theo điều tra ban đầu của cơ quan cảnh sát, từ ngày 3 tháng 6 đến ngày 9 tháng 6, nhóm người tấn công các trụ sở ủy ban nhân dân xã được cho là đã bị một người có tên Y Som yêu cầu tập trung ở khu vực huyện Cư Kuin, hứa hẹn đưa những người này vượt biên ra nước ngoài và chu cấp 100 triệu đồng. Theo đó, từ ngày 6 tháng 6 đến ngày 10 tháng 6, đã có hơn 50 người từ nhiều địa phương khác nhau trên địa bàn hai tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai tập trung tại một chòi rẫy trên địa bàn huyện Cư Kuin để ăn uống và bàn bạc, sau đó lên kế hoạch cho việc tấn công. Theo ông Tô Ân Xô, nhóm người này được chỉ đạo "nếu gặp cán bộ và công an xã thì giết chết, cướp tài sản, súng đạn".
Nhóm người tấn công hai trụ sở ủy ban nhân dân xã ở Đắk Lắk cho biết mục đích "nhằm xâm nhập phòng làm việc của dân quân xã đội và công an xã để cướp vũ khí, gây tiếng vang, ảo tưởng được ra nước ngoài". Theo lời khai của Y Thô Ayun, một trong những người bị cáo buộc cầm đầu vụ nổ súng, anh đã "đi tuyên truyền, kích động" nhiều người dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Anh cho biết bản thân chỉ tuyên truyền cho những người tin tưởng vào hành động của mình.
Ngày 20 tháng 6 năm 2023, tại Hội nghị cấp cao những người đứng đầu lực lượng chống khủng bố các nước do Liên Hợp Quốc tổ chức tại New York, Hoa Kỳ, Thiếu tướng Phạm Ngọc Việt, Cục trưởng Cục An ninh nội địa khẳng định hoạt động của nhóm đối tượng tấn công trụ sở xã tại tỉnh Đắk Lắk là "hoạt động khủng bố có tổ chức" và có nghi phạm là thành viên của một tổ chức có trụ sở tại Mỹ, nhận lệnh từ tổ chức này để tổ chức tấn công. Đến ngày 23 tháng 6 năm 2023, cơ quan điều tra tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can 75 người về tội "khủng bố chống chính quyền nhân dân"; 7 bị can về tội "không tố giác tội phạm"; 1 bị can về tội "che giấu tội phạm" và 1 bị can về tội "tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép".
|
Vụ tấn công 2 trụ sở Ủy ban nhân dân xã tại Đắk Lắk 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808640
|
Tổng số người bị khởi tố là 84 người.
Phản ứng.
Theo "Đài Á Châu Tự Do" không lâu sau khi xảy ra vụ việc, báo "VnExpress" có đăng tải bài viết dẫn thông tin từ Bộ Công an cho biết có ít nhất 7 người thương vong trong vụ nổ súng, nhưng sau đó thông tin này đã bị xóa bỏ. Cùng ngày, Bộ Công an nhắc nhở người dân giữ bình tĩnh, đồng thời yêu cầu các cơ quan truyền thông kiểm chứng thông tin chính xác. Chiều cùng ngày, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm quyết định thăng quân hàm cho 4 cảnh sát tử vong trong vụ việc. Sáng 12 tháng 6, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đến thăm hỏi những người bị thương, gia đình những người tử vong, đồng thời chỉ đạo công nhận liệt sĩ cho 4 cảnh sát thiệt mạng. Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam Huỳnh Chiến Thắng cũng dẫn đoàn công tác của Bộ Quốc phòng đến kiểm tra hiện trường vụ việc.
Theo "BBC tiếng Việt", chỉ trong vòng nửa ngày 11 tháng 6, đã có có khoảng 2.258 tin bài trên các trang báo, diễn đàn và mạng xã hội viết và bình luận về vụ tấn công. Trong đó, có 386 bài báo và 1.707 bài đăng đến từ mạng xã hội và hầu hết là từ Facebook. Nhà chức trách cũng đã xử phạt hành chính một số người vì đưa tin giả về vụ nổ súng. Theo Công an tỉnh Đắk Lắk, tính đến ngày 17 tháng 6, đơn vị này đã xử lý hơn 100 trường hợp đưa tin giả về vụ tấn công.
Nhận xét.
Theo Trung tướng Tô Ân Xô, Bộ Công an đánh giá vụ việc là hành vi gây mất an ninh, trật tự nghiêm trọng, có tổ chức, rất manh động, liều lĩnh, man rợ, mất nhân tính. Đồng quan điểm, Thiếu tướng Phạm Ngọc Việt, Cục trưởng Cục An ninh nội địa, Bộ Công an cho rằng: "Đây là hoạt động khủng bố có tổ chức, được trang bị các loại vũ khí; hành vi rất manh động, liều lĩnh, man rợ, mất nhân tính".
Mục sư Ae Smit, 73 tuổi, trú buôn Kniết, xã Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, bày tỏ: "Tôi thấy đây là một hành động rất tàn bạo, từ nhỏ đến lớn chưa từng thấy nên nhiều đồng bào ở đây rất sợ hãi”.
|
Vụ tấn công 2 trụ sở Ủy ban nhân dân xã tại Đắk Lắk 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808640
|
Theo đài "BBC Tiếng Việt", từ lâu nay nơi đây đã là điểm nóng, người dân bất mãn về một số vấn đề, trong đó có chuyện tranh chấp đất đai và quyền sử dụng đất. Theo "Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA phiên bản tiếng Việt)", ông Nguyễn Trường Sơn, nghiên cứu sinh thạc sĩ tại Đại học Chính trị Quốc gia Đài Loan, cho rằng công tác quản trị của Việt Nam ở Tây Nguyên khiến ông liên tưởng đến sự cai trị của Pháp ở chính Việt Nam trong quá khứ. Ông nói rằng mình đã từng gặp hàng trăm người dân tộc thiểu số tị nạn tại nước láng giềng, và ông cho rằng họ đều bị chính quyền Việt Nam phân biệt đối xử vì niềm tin tôn giáo, bị gán ghép cho các âm mưu chính trị và bị mất đất.
Ông Phil Robertson, Phó Giám đốc Tổ chức Theo dõi Nhân quyền khu vực châu Á ngày 12 tháng 6 cho là: "Đằng sau tấm màn bí mật mà Việt Nam phủ lên vùng cao nguyên, chính phủ vi phạm một cách nghiêm trọng các quyền, khước từ tự do tôn giáo và tín ngưỡng, chiếm đoạt đất đai của các dân tộc bản địa, và cố gắng cưỡng ép đồng hóa vào văn hóa, ngôn ngữ và xã hội dân tộc Kinh vốn ở thế áp đảo."
Giáo sư Oscar Salemink, Khoa Nhân chủng học, Đại học Copenhagen, người có nhiều công trình nghiên cứu về Tây Nguyên và từng được Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc mời viết báo cáo sau vụ bạo động năm 2001 cho biết: "Các vấn đề ở Tây Nguyên của Việt Nam cũng tương tự như ở các khu vực khác nơi các nhóm bản địa không có quyền cá nhân đối với đất đai và tài nguyên, như khu vực Amazon ở Nam Mỹ".
|
Hoa Hậu Quốc Gia Việt Nam 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808641
|
Hoa hậu Quốc Gia Việt Nam 2023 là cuộc thi lần đầu tiên được tổ chức bởi công ty Sen Vàng diễn ra từ tháng 9 năm 2023 đến 1 tháng năm 2024 nhằm tôn vinh và đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam nói chung và thiếu nữa thế hệ trẻ nói riêng theo tiêu chí “công - dung - ngôn - hạnh” trong thời đại ngày nay. Thông qua cuộc thi, các thi sinh đại diên cho Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia các cuộc thi nhan sắc quốc tế nhằm giới thiệu những nét đẹp văn hóa, hình ảnh đất nước Việt Nam với bạn bè trên khắp thế giới. Đại sứ của cuộc thi gồm có Hoa hậu Hoà bình Quốc tế 2021 Nguyễn Thúc Thùy Tiên , Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2019 Lương Thùy Linh và Hoa hậu Liên lục địa 2022 Lê Nguyễn Bảo Ngọc .Đêm chung kết diễn ra vào ngày 7 tháng 1 năm 2024.
|
Kholm (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808643
|
Tỉnh Kholm hay tỉnh Chełm (; ; ) là một đơn vị hành chính (guberniya) của Đế quốc Nga. Thủ phủ của tỉnh là Chełm (Kholm).
Tỉnh được tạo ra từ các phần phía đông của tỉnh Siedlce và tỉnh Lublin vào năm 1912. Khu vực được tách khỏi Privislinsky Krai và nhập vào tổng tỉnh Kiev với tư cách là "lãnh thổ cốt lõi của Nga", như là một biện pháp phòng ngừa trong trường hợp lãnh thổ của Privislinsky Krai (Ba Lan thuộc Nga) bị đoạt khỏi Đế quốc Nga trong một cuộc chiến sắp tới. Một lý do khác cho sự thay đổi hành chính này là để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình Nga hóa và cải đạo những người theo đạo Cơ đốc phi Chính thống Đông phương.
Theo các nguồn thống kê của Nga năm 1914, diện tích của tỉnh là 10.460 km², là nơi sinh sống của khoảng 912.095 cư dân, trong đó khoảng 50% là người Tiểu Nga (người Ukraina), 30% là người Ba Lan, và 16% là người Do Thái. Tuy nhiên, trong cuộc Đại triệt thoái vào mùa hè năm 1915, Nga đã ra lệnh sơ tán dân cư của tỉnh. Do chính sách đó, khoảng 2/3 dân số Ukraina bị trục xuất sang Đế quốc Nga vào tháng 6 đến tháng 7 năm 1915. Dân số bị trục xuất lên tới khoảng 300.000 người và do đó đã thay đổi đáng kể thành phần dân tộc của khu vực.
Nhân khẩu.
Năm 1909, dân số của các vùng đất thuộc tỉnh Kholm năm 1912 là 703.000 người.
Toàn bộ dân số của tỉnh Kholm theo thống kê chính thức là khoảng 760 nghìn người: 311 nghìn người Công giáo, 305 nghìn người Chính thống giáo, 115 nghìn người Do Thái và 28 nghìn người Tin lành. Ngoài ra, Chính thống giáo chiếm hơn một nửa dân số ở Grubeshovsky, cũng như một số vùng của các huyện cũ Lubartovsk và Krasnostavsky. Trong một số khu vực của các huyện Tomashovo và Kholm, cũng như ở huyện Wlodawa cũ, số lượng Cơ đốc nhân Chính thống vượt quá số lượng người Công giáo khoảng 5%. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1914, tại tỉnh Kholm, trong tổng dân số 912.095 người, người Ukraina chiếm 446.839, tức là 50,1%, người Ba Lan - 30,5%, người Do Thái - 15,8%.
Thành phần dân tộc của lãnh thổ các huyện được nhập vào tỉnh Kholm năm 1912, theo dữ liệu năm 1897:
Hành chính.
Tỉnh Kholm gồm có 8 Uyezd (huyện).
|
Chernigov (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808649
|
Tỉnh Chernigov (; ), là một tỉnh (guberniya) tại khu vực lịch sử Ukraina tả ngạn của Đế quốc Nga. Tỉnh được thành lập chính thức vào năm 1802 từ tỉnh Malorossiya (Tiểu Nga), trung tâm hành chính là Chernigov (Chernihiv). Tỉnh Tiểu Nga được chuyển thành Tổng tỉnh Tiểu Nga và gồm có các tỉnh Chernigov, Poltava, và sau đó là Kharkov.
Ranh giới tỉnh Chernigov gần tương ứng với tỉnh Chernihiv hiện nay, nhưng cũng bao gồm một phần lớn của tỉnh Sumy và phần nhỏ tỉnh Kyiv của Ukraina, và hàu hết tỉnh Bryansk của Nga.
Hành chính.
Tỉnh gồm có 15 uyezd/huyện (trung tâm hành chính trong ngoặc):
Tỉnh Chernigov có diện tích 52.396 km², và có dân số 2.298.000, theo điều tra nhân khẩu Đế quốc Nga 1897. Năm 1914, dân số là 2.340.000. Năm 1918 khu vực trở thành bộ phận của Ukraina và chuyển thành tỉnh Chernihiv.
|
Trịnh Thùy Linh
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808665
|
<ns>0</ns>
<revision>
<parentid>70516392</parentid>
<timestamp>2023-08-06T07:33:37Z</timestamp>
<contributor>
<username>CommonsDelinker</username>
</contributor>
<comment>Bỏ tập tin ra khỏi bài viết; nó đã bị xóa trên Commons bởi vì lý do: No permission since 29 July 2023.</comment>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format>
Trịnh Thùy Linh (sinh ngày 10 tháng 9 năm 2002) là một á hậu người Việt Nam. Cô giành ngôi vị Á hậu 1 tại cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2022 cùng với giải phụ "Người đẹp có làn da đẹp nhất" và lọt vào Top 3 "Người đẹp Biển".
Tiểu sử.
Trịnh Thùy Linh sinh năm 2002 tại Thanh Hóa. Cô hiện đang là sinh viên chuyên ngành Kinh doanh và Marketing tại Đại học Kinh tế Quốc dân.
Sự nghiệp.
Hoa hậu Việt Nam 2022.
Trịnh Thùy Linh giành ngôi vị Á hậu 1 Hoa hậu Việt Nam 2022 trong chung kết tối ngày 23 tháng 12 năm 2022. Đăng quang ngôi vị cao nhất là Huỳnh Thị Thanh Thủy và Á hậu 2 thuộc về Lê Nguyễn Ngọc Hằng.
|
Aphareus rutilans
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808667
|
<ns>0</ns>
<revision>
<parentid>70366752</parentid>
<timestamp>2023-06-24T09:14:28Z</timestamp>
<contributor>
<ip>2001:EE0:4F0D:A5E0:D14A:B616:BF50:73D4</ip>
</contributor>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format>
Aphareus rutilans là một loài cá biển thuộc chi "Aphareus" trong họ Cá hồng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "rutilans" trong tiếng Latinh có nghĩa là “ửng đỏ”, hàm ý đề cập đến màu đỏ trên đầu và lưng của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống.
"A. rutilans" có phân bố rộng rãi trên vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu và quần đảo Ogasawara, giới hạn phía nam đến Úc, Nouvelle-Calédonie và Tonga. Loài này cũng xuất hiện tại vùng biển Việt Nam, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
"A. rutilans" sống gần các rạn san hô và đá ngầm ở độ sâu trong khoảng 10–330 m, nhưng thường được tìm thấy ở độ sâu từ 100 đến 250 m.
Mô tả.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "A. rutilans" là 110 cm, nhưng thường bắt gặp với kích thước khoảng 50–80 cm.
"A. rutilans" có màu xanh lam xám, tím nhạt đến phớt đỏ. Viền hàm trên màu đen. Ở một số mẫu vật, ít nhất bên trong miệng, khoang mang và mang ánh màu bạc. Các vây có màu vàng nhạt đến phớt đỏ, trừ vây bụng và vây hậu môn đôi khi có màu trắng.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 10–11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 15–16; Số vảy đường bên: 69–75.
Sinh thái.
Thức ăn chủ yếu của "A. rutilans" là cá nhỏ, mực và động vật giáp xác. Ở Vanuatu, "A. rutilans" sinh sản tập trung vào mùa xuân và mùa hè, đỉnh điểm là vào tháng 11 và tháng 12. Số tuổi lớn nhất được biết đến ở "A. rutilans" là 18 năm.
Thương mại.
|
Aphareus rutilans
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808667
|
Thương mại.
"A. rutilans" từ lâu đã là loài chiếm ưu thế trong nghề đánh bắt ở vùng biển sâu tại Micronesia, còn ở Hawaii thì đây là một trong những loài cá nước sâu có tầm quan trọng về thương mại cũng như ngành câu cá giải trí. Đây là loài thành phần được quản lý bởi Đơn vị Quản lý Cá tầng đáy (Bottomfish Management Unit) ở Guam, Bắc Mariana, Samoa thuộc Mỹ và Liên bang Micronesia.
|
Cecilia của Anh
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808680
|
Cecilia, hay Cecily của Anh (tiếng Anh: "Cecilia/Cecily of England"; năm 1056 – 30 tháng 7 năm 1126), có khả năng là con gái lớn của William I của Anh và Mathilde xứ Vlaanderen.
Tiểu sử.
Cecilia là chị gái của William II và Henry I của Anh . và rất thân với anh trai của mình là Robert II xứ Normandie. Cecilia được hưởng một nền giáo dục cao về nghệ thuật, tiếng Latin, hùng biện và logic bởi học giả Arnulf xứ Chocques.
Cecilia được cha mẹ đưa vào Tu viện Ba Ngôi Thiên Chúa xứ Caen khi còn nhỏ. Cecilia được đưa vào tu viện vào tháng 6 năm 1066, tại lễ khánh thành chính thức của tu viện do Mathilde thành lập như một sự sám hối cho cuộc hôn nhân của mình, do ngăn trở về mối quan hệ họ hàng giữa hai vợ chồng, cũng như trong quá trình chuẩn bị cho cuộc xâm lược nước Anh.
Việc đưa con vào nhà thờ là việc phổ biến đối với các bậc cha mẹ trong thời kỳ này, nhưng con gái của giới quý tộc thường được đối xử rất tốt, được phép có hộ gia và cha giải tội riêng cũng như được phép tiếp khách trong phòng riêng, vốn tự do hơn so với hầu hết các phụ nữ quý tộc chưa lập gia đình mà không ở trong tu viện. Sau khi được đưa vào tu viện, Cecilia đã được giáo dục bởi viện trưởng Matilda.
Năm 1100, Cecilia được anh trai Robert Curthose đến thăm khi Robert trở về từ cuộc Thập tự chinh đầu tiên . Robert đã tặng Cecilia một biểu ngữ Saracen.
Cecilia đã có một sự nghiệp thành công trong tu viện. Vương nữ có thể người con duy nhất có mặt trong đám tang của mẹ vào năm 1083, vì nó diễn ra trong tu viện của Cecila và không có người con nào khác được xác nhận là có mặt. Cecilia đã giới thiệu một số cải tiến cho tu viện và hoạt động với tư cách là phụ tá hoặc phó viện trưởng cho Matilda, họ hàng của Cecilia. Sau này, Cecilia cũng kế vị người họ hàng Matilda với tư cách là Nữ Viện trưởng của Tu viện Ba Ngôi Thiên Chúa xứ Caen vào năm 1112.
Tiếng thơm của Cecilia đã được đề cập bởi Baudri xứ Dol, tổng giám mục xứ Dol và nhà thơ Hildebert xứ Le Mans, người đã gọi Cecilia là "nữ vương, nữ thần và là trinh nữ vương thất đã kết hôn với một người chồng trên trời".
Cecilia qua đời vào ngày 30 tháng 7 năm 1126 tại Caen, Pháp. Ngôi mộ của Cecilia được xây tường bao quanh mà không có bất kỳ lỗ hở nào để có thể khám phá ra nó. Cha của Cecilia cũng được chôn cất ở Caen.
|
Constance của Anh
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808681
|
Constance của Anh (tiếng Anh: "Constance of England"; sinh khoảng năm 1057 và 1061 – 13 tháng 8 năm 1090) là Công tước phu nhân xứ Bretagne với tư cách là vợ của Alain IV xứ Bretagne.
Constance là một trong chín người con của William I của Anh và Mathilde xứ Vlaanderen. Cô sinh ra ở Normandy, nơi William đảm nhiệm vai trò công tước nơi đây. Guillaume xứ Jumièges, vị tu sĩ đã ghi chép lại cuộc chinh phục nước Anh năm 1066 của người Norman, đã ghi rằng Constance là người con gái thứ hai của William và Mathilde. Tuy nhiên, không có nguồn nào cho biết thứ tự sinh của các cô con gái của hai vợ chồng.
Năm 1086, cha của Constance đã sắp xếp một cuộc hôn nhân giữa con gái và Alain IV xứ Bretagne để đảm bảo hòa bình ở biên giới phía Tây của William. Giống như mẹ mình, Constance là một nhà cai trị tài ba. William xứ Malmesbury, một nhà sử học đầu thế kỷ 12, đã viết rằng "thái độ nghiêm khắc và bảo thủ" của Constance đã khiến Constance không được lòng dân. Tuy nhiên, theo người cùng thời với William là Orderic Vitalis, Constance là người biết quan tâm, ân cần và được thần dân yêu mến. William xứ Malmesbury cũng cáo buộc rằng Alain IV đã cho người hầu của đầu độc Constance. Constance qua đời ngày 13 tháng 8 năm 1090.
|
Đơn vị hành chính-lãnh thổ của Tả ngạn Dniester
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808685
|
Đơn vị hành chính-lãnh thổ của Tả ngạn sông Dniester (Transnistria) là một đơn vị hành chính chính thức của Moldova do Chính phủ Moldova thành lập để phân định lãnh thổ do Cộng hòa Moldova Pridnestrovia không được công nhận (thường được gọi là Transnistria) kiểm soát.
Lịch sử.
Sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, Chiến tranh Transnistria nổ ra giữa Cộng hòa Moldova và nhà nước không được công nhận Cộng hòa Moldavia Pridnestrovian trên các lãnh thổ của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Moldavian trước đây. Kể từ khi chiến tranh kết thúc, đã có lãnh thổ do Moldova tuyên bố chủ quyền, nhưng do Cộng hòa Moldavian Pridnestrovian kiểm soát. Ngoài ra còn có lãnh thổ được tuyên bố chủ quyền bởi Cộng hòa Moldavian Pridnestrovian do Moldova kiểm soát.
Ngày 22 tháng 7 năm 2005, đơn vị lãnh thổ tự trị với tư cách pháp nhân đặc biệt được thành lập theo luật Moldova. Điều này được thực hiện như một phần của Kế hoạch Yushchenko nhằm tái hòa nhập Transnistria vào Moldova.
Lãnh thổ.
Lãnh thổ của các Đơn vị hành chính-lãnh thổ của Tả ngạn sông Dniester hầu hết trùng với lãnh thổ của Cộng hòa Moldavian Pridnestrovian (Transnistria), nhưng có hai điểm khác biệt quan trọng:
Khu định cư.
Có 147 khu định cư ở Transnistria (khu định cư ở bờ đông sông Dniester): một đô thị, chín thị trấn, hai khu định cư là một phần của thị trấn, 69 làng (xã) và 135 khu định cư là một phần của làng (xã).
Sự quản lý.
Luật thiết lập các Đơn vị hành chính-lãnh thổ của Tả ngạn sông Dniester quy định rằng khu vực này sẽ bầu ra một Hội đồng tối cao trên cơ sở bầu cử tự do, minh bạch và dân chủ. Sau đó, Hội đồng Tối cao nên thông qua Luật Cơ bản để chính thức thành lập các cơ quan hành pháp của khu vực. Khu vực này có quyền sử dụng các biểu tượng của riêng mình để sử dụng cùng với các biểu tượng quốc gia của Moldova. Các ngôn ngữ chính thức của khu vực là tiếng Romania theo hệ chữ Latinh, tiếng Nga và tiếng Ukraina. Khu vực này sẽ có thể thiết lập quan hệ với các quốc gia khác vì các mục đích kinh tế, kỹ thuật, khoa học và nhân đạo.
|
Du lịch quốc tế
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808693
|
Du lịch quốc tế ("International tourism") là du lịch vượt qua biên giới quốc gia của du khách. Toàn cầu hóa đã làm cho du lịch trở thành một hoạt động giải trí phổ biến toàn cầu. Tổ chức Du lịch Thế giới định nghĩa khách du lịch là những người "đi đến và ở lại những nơi bên ngoài môi trường thông thường của họ trong thời gian không quá một năm liên tục để giải trí, kinh doanh và các mục đích khác". Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính rằng có tới 500.000 người đang trên chuyến bay cùng một lúc. Hàng không hiện đại đã giúp chúng ta có thể di chuyển những quãng đường dài một cách nhanh chóng.
Tổng quan.
Năm 2010, du lịch quốc tế đạt 919 tỷ đô la Mỹ, tăng 6,5% so với năm 2009, tương ứng với mức tăng thực tế là 4,7%. Năm 2010, có hơn 940 triệu lượt khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới. Đến năm 2016, con số đó đã tăng lên 1.235 triệu, tạo ra 1.220 tỷ USD chi tiêu cho điểm đến. Cuộc khủng hoảng COVID-19 đã có những tác động tiêu cực đáng kể đối với du lịch quốc tế, làm chậm đáng kể xu hướng gia tăng chung. Du lịch quốc tế có tác động đáng kể đến môi trường, làm hiện trạng môi trường trở nên trầm trọng hơn một phần do các vấn đề do du lịch hàng không gây ra nhưng cũng do các vấn đề khác, bao gồm cả những khách du lịch giàu có mang theo lối sống hiện đại, yêu cầu tiện nghi cao đã gây áp lực cho cơ sở hạ tầng địa phương, hệ thống nước và rác thải. Do hậu quả của suy thoái cuối những năm 2000, nhu cầu du lịch quốc tế bị suy giảm mạnh từ nửa cuối năm 2008 đến cuối năm 2009. Xu hướng tiêu cực này gia tăng trong năm 2009, trầm trọng hơn ở một số quốc gia do sự bùng phát của vi rút cúm H1N1, dẫn đến sự sụt giảm 4,2% trên toàn thế giới trong năm 2009 xuống còn 880 triệu lượt khách du lịch quốc tế và 5,7% doanh thu du lịch quốc tế giảm sút.
|
Poltava (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808695
|
<ns>0</ns>
<revision>
<timestamp>2023-06-12T10:04:53Z</timestamp>
<contributor>
<username>Cnykr</username>
</contributor>
<comment>Tỉnh Poltava</comment>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format>
Tỉnh Poltava (, ) hay Poltavshchyna là một tỉnh (guberniya) tại khu vực lịch sử Ukraina tả ngạn của Đế quốc Nga. Tỉnh được thành lập chính thức vào năm 1802 từ tỉnh Malorossiya bị giải thể, khi tỉnh này bị chia giữa tỉnh Chernigov và tỉnh Poltava, trung tâm hành chính là Poltava.
Hành chính.
Tỉnh được phân chia thành 15 :
Hầu hết trong số này nay thuộc tỉnh Poltava của Ukraina, mặc dù một số: Zolotonosha, Krasnohrad, Pereiaslav và Romny hiện lần lượt là một phần của các tỉnh Cherkasy, Kharkiv, Kyiv và Sumy.
Tỉnh Poltava có tổng diện tích 49.365 km², và có dân số 2.778.151 người theo điều tra nhân khẩu của Đế quốc Nga năm 1897. Nó giáp với các tỉnh sau của Nga: Tỉnh Chernigov và tỉnh Kursk ở phía bắc, tỉnh Kiev ở phía tây, tỉnh Kharkov ở phía đông, tỉnh Kherson và tỉnh Yekaterinoslav ở phía nam. Năm 1914, dân số là 2.794.727. Sau khi thành lập CHXHCNXV Ukraina, lãnh thổ được đưa hoàn toàn vào Cộng hòa Xô viết mới. Ban đầu, hệ thống tỉnh được giữ lại mặc dù có các thay đổi bao gồm tỉnh Kremenchug tạm thời được hình thành trên lãnh thổ của nó (tháng 8 năm 1920 – tháng 12 năm 1922), và việc chuyển uezd Pereyaslav cho tỉnh Kiev.
Tuy nhiên, vào ngày 3 tháng 6 năm 1925, tỉnh này bị thanh lý và thay thế bằng năm okrug (vốn đã là phân khu uyezd kể từ ngày 7 tháng 3 năm 1923): Kremenchutsky, Lubensky, Poltavsky, Prylutsky và Romensky (hai okrug còn lại tồn tại trong tỉnh, Zolotonoshsky và Krasnohradsky, cũng đã được thanh lý).
Thành phố chính.
Điều tra nhân khẩu Nga năm 1897, các thành phố có hơn 10.000 người. In đậm là những thành phố có hơn 50.000 dân.
Ngôn ngữ.
Theo điều tra nhân khẩu đế quốc 1897, in đậm là các ngôn ngữ được nhiều người nói hơn ngôn ngữ nhà nước.
Tôn giáo.
Theo điều tra nhân khẩu đế quốc 1897, tôn giáo chính trong khu vực, gần như là quốc giáo, là Chính thống giáo Đông phương với một số dân theo Do Thái giáo. Các tôn giáo khác trong tỉnh ít phổ biến hơn nhiều.
|
Đơn vị lãnh thổ tự trị
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808697
|
Đơn vị lãnh thổ tự trị (ATU; tiếng Romania: Unitate teritorială autonomă, UTA) là một đơn vị hành chính của Moldova.
Ban đầu, Gagauzia là đơn vị duy nhất như vậy.
Năm 2005, luật pháp Moldova cũng công nhận Đơn vị hành chính-lãnh thổ của Tả ngạn sông Dniester. Sau này nằm dưới sự kiểm soát trên thực tế của Cộng hòa Moldova Pridnestrovian (PMR, thường được gọi là Transnistria), một quốc gia tự xưng hoạt động bên ngoài quyền tài phán của chính phủ Moldova.
|
Oleksandr Syrskyi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808698
|
Oleksandr Stanislavovych Syrskyi (tiếng Ukraina: "Олександр Станіславович Сирський" sinh ngày 26 tháng 7 năm 1965) là một sĩ quan quân đội Ukraina mang quân hàm đại tướng, ông Syrskyi hiện là Tư lệnh Lực lượng lục quân Ukraina từ năm 2019. Trong cuộc xâm lược Ukraine của Nga, Syrskyi đảm trách chỉ huy trận địa phòng thủ Kiev. Tháng 9 năm 2022, ông chỉ huy cuộc phản công Kharkiv. Trong chiến dịch này, Syrskyi ban đầu tổ chức và lãnh đạo phòng thủ Kyiv.. Vào tháng 4 năm 2022, Syrskyi đã được trao giải thưởng Anh hùng Ukraine cho những nỗ lực trên chiến địa của ông và ghi nhận công lao trong trận chiến bảo vệ thủ đô.
Vào tháng 9 năm 2022, các phương tiện truyền thông đưa tin rằng Syrskyi là kiến trúc sư trưởng đằng sau thành công Cuộc phản công Kharkiv. Tướng Oleksandr Syrsky là người đề xuất kế hoạch mở mũi phản công bất ngờ vào Kharkov, nơi ông nhận thấy là mắt xích yếu trong phòng tuyến Nga. Syrskyi được mô tả là ""vị tướng thành công nhất của thế kỷ 21 cho đến nay". Ông được đánh giá là người trầm tính, thích đọc sách hơn là xuất hiện trước truyền thông. Ông cũng có nhiều năm làm quen với học thuyết quân sự phương Tây và phương thức tác chiến của NATO.
Binh nghiệp.
Syrsky bước vào hàng ngũ lãnh đạo quân đội Ukraine từ năm 2007, khi bắt đầu giữ chức chánh văn phòng kiêm phó tư lệnh Bộ tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Năm 2013, ông chịu trách nhiệm chính về hợp tác quốc phòng với phương Tây, cải cách quân đội Ukraine theo tiêu chuẩn NATO. Năm 2014, khi xung đột bùng phát ở vùng Donbass, miền đông Ukraine, Syrsky được điều chuyển làm phó tư lệnh chiến dịch chống lại phe ly khai. Ông trực tiếp tham chiến và chỉ huy một số chiến dịch khó khăn, trước khi được bổ nhiệm làm tư lệnh chiến dịch năm 2017. Năm 2019, giữa giai đoạn quân đội Ukraine cải cách theo tiêu chuẩn phương Tây, ông trở thành tư lệnh lục quân vì những thành tích thực chiến của mình.
|
Oleksandr Syrskyi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808698
|
Trung tướng Syrsky được giao nhiệm vụ chỉ huy chiến dịch phản công ở Kharkov, mũi đánh phía đông bắc Ukraine đã gây bất ngờ lớn đối với quân đội Nga không chỉ vì đòn tung hỏa mù kéo dài nhiều tháng nhắm vào tỉnh Kherson ở miền nam, mà còn bởi khả năng giữ bí mật toàn bộ quá trình chuẩn bị và tốc độ hành quân đáng kinh ngạc. Khi vạch kế hoạch tác chiến trong "giai đoạn ba"", giai đoạn Ukraine phản công, Syrsky là người nêu ý tưởng mở mũi tấn công thọc sườn vào phòng tuyến Nga ở Kharkov. Ông đưa ra đề xuất này khi nhận thấy điểm yếu của đối phương ở thị trấn Balakliya, nút thắt quan trong mạng lưới hậu cần giữa Izyum và Kupyansk. Syrsky cho rằng đây là mắt xích yếu nhất trong phòng tuyến của Nga, do họ đã chuyển phần lớn đơn vị tinh nhuệ xuống miền nam để bảo vệ Kherson. Trong trận đánh, lực lượng Ukraine nhanh chóng bao vây thị trấn này, cho phép nhiều đơn vị khác tiến nhanh về phía sông Oskil, cắt đôi phòng tuyến của quân đội Nga. Hơn một tuần từ ngày phát lệnh cho cánh quân Kharkov khởi động chiến dịch phản công, tướng Syrsky có mặt tại thành phố chiến lược Izyum để báo cáo về diễn biến và kết quả chiến dịch toàn thắng vẻ vang. Syrsky là người chủ trì nghi thức thượng cờ trước tòa thị chính, đánh dấu hoàn tất nhiệm vụ kiểm soát các cứ điểm của lực lượng Nga trên địa bàn.
|
Valerii Zaluzhnyi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808705
|
Valerii Fedorovych Zaluzhnyi (tiếng Ukraina: "Вале́рій Фе́дорович Залу́жний"; trong tiếng Anh còn gọi là Valery hoặc Valeriy Zaluzhny, sinh ngày 8 tháng 7 năm 1973) là vị tướng bốn sao người Ukraine giữ chức Tổng tư lệnh Lực lượng vũ trang Ukraine của Lực lượng vũ trang Ukraine kể từ ngày 27 tháng 7 năm 2021. Ông cũng đồng thời là thành viên của Hội đồng An ninh và Quốc phòng Ukraine. Tướng Zaluzhnyi trước đây là Tư lệnh của Bộ chỉ huy tác chiến phía Bắc (2019–2021), Tham mưu trưởng tác chiến liên hợp của Lực lượng vũ trang Ukraine-Phó tư lệnh thứ nhất của Lực lượng liên hợp (2018), Tham mưu trưởng Nhân sự-Phó Tư lệnh thứ nhất của Bộ chỉ huy tác chiến phía Tây (2017), và Chỉ huy của Lữ đoàn cơ giới cận vệ 51 (2009–2012).
Tướng Zaluzhnyi được tạp chí "Time" vinh danh là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới vào năm 2022. Vị tướng này được ca ngợi về kỹ năng "thích ứng với chiến trường thay đổi nhanh chóng" thông qua việc ủy quyền cho cấp chỉ huy trực tiếp trên chiến trường và cơ chế thu thập thông tin hiệu quả trong Cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine. Ông mang quân hàm thiếu tướng từ năm 2017, vào ngày 5 tháng 3 năm 2022, giữa lúc Nga xâm lược Ukraine, Zaluzhnyi được Tổng thống Zelenskyy thăng quân hàm Đại tướng và được đặt biệt danh là viên tướng Sắt (""Iron General"). Vào tháng 1 năm 2023, ông Zaluzhny nhận được 1 triệu USD tiền thừa kế từ một người Mỹ gốc Ukraine là Gregory Stepanets. Zaluzhny đã tặng luôn 1 triệu đô la này cho Lực lượng Vũ trang Ukraine và các tổ chức phi lợi nhuận nhân đạo ở Ukraine.
Zaluzhnyi được nhiều người đánh giá là một sĩ quan có tư duy cởi mở đại diện cho một thế hệ sĩ quan Ukraine mới, Zaluzhnyi đã hoàn toàn rời xa các thông lệ quân sự lâu đời của truyền thống quân sự Liên Xô. Một trong những bước đầu tiên của ông khi nhậm chức là cho phép quân đội ở mặt trận nổ súng đáp trả kẻ thù mà không cần sự đồng ý của lãnh đạo cấp trên và loại bỏ việc quân đội phải điền vào các tài liệu không cần thiết.
|
Valerii Zaluzhnyi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808705
|
Về các ưu tiên của mình với tư cách là Tổng tư lệnh, Zaluzhnyi đã tuyên bố thúc đẩy nhanh quá trình cải cách quân đội theo tiêu chuẩn NATO: "Quá trình cải cách tổng thể Lực lượng Vũ trang Ukraina phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn của NATO vẫn là không thể đảo ngược. Và mấu chốt ở đây là các nguyên tắc khi làm. Những thay đổi phải diễn ra chủ yếu trong thế giới quan và thái độ của mọi người. Tôi muốn các chiến hữu phải đối diện với nhân dân, với cấp dưới. Thái độ của tôi đối với mọi người là không thay đổi trong suốt thời gian tôi tại ngũ"."
|
Tàu ngầm mang tên lửa hành trình
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808707
|
Cruise missile submarine hay Tàu ngầm mang tên lửa hành trình là loại tàu ngầm khả năng mang và phóng chủ yếu là tên lửa hành trình đối đất/đối hải (SLCM). Tên lửa sẽ giúp cải thiện đáng kể khả năng tác chiến của tàu ngầm đối với các mục tiêu mặt đất, dù sử dụng ngư lôi sẽ có tính bí mật cao hơn nhưng tên lửa hành trình lại có tầm bắn lớn hơn nhiều, và cũng như có khả năng giao chiến với nhiều loại mục tiêu nhờ được trang bị nhiều loại đầu dò khác nhau. Nhiều tàu ngầm mang tên lửa hành trình vẫn giữ lại các thiết kế giúp chúng có khả năng triển khai đầu đạn hạt nhân trên tên lửa hành trình, tuy nhiên chúng khác với tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo do những khác biệt về đặc tính vũ khí mà mỗi loại mang theo.
Các tàu ngầm thiết kế ban đầu chỉ có thể phóng tên lửa đi khi nổi trên mặt nước, trong khi ở các lớp tàu ngầm thiết kế về sau, tàu ngầm có khả năng phóng tên lửa từ dưới mặt nước thông qua hệ thống phóng thẳng đứng (VLS). Nhiều loại tàu ngầm tấn công hiện đại có khả năng phóng tên lửa hành trình (và cả tên lửa chống hạm) từ các ống phóng ngư lôi của chúng, trong khi ở một số mẫu thiết kế được bổ sung thêm một số lượng nhỏ giếng phóng thẳng đứng, khiến vai trò của tàu ngầm tấn công truyền thống và tàu ngầm mang tên lửa hành trình có một chút giống nhau. Tuy nhiên, lớp tàu ngầm tấn công vẫn sử dụng ngư lôi là vũ khí chủ yếu và có thể thực hiện các nhiệm vụ đa nhiệm do tốc độ lớn hơn của chúng cũng như khả năng cơ động trong môi trường dưới nước, đối lập với tàu ngầm mang tên lửa hành trình thường lớn hơn, chậm hơn, và tập trung chủ yếu vào việc tung ra các đòn tấn công tầm xa.
Theo ký hiệu của Hải quân Mỹ, tàu ngầm mang tên lửa hành trình được mang tên SSG và SSGN (đối với tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân) – "SS" chỉ tàu ngầm, "G" chỉ guided missile (tên lửa có điều khiển), và "N" chỉ tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân.
Hải quân Mỹ.
Tàu ngầm mang tên lửa hành trình của Hải quân Mỹ được phát triển đầu những năm 1950s để mang được tên lửa hành trình SSM-N-8 Regulus.
|
Tàu ngầm mang tên lửa hành trình
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808707
|
Theo đó, chiếc đầu tiên được chuyển đổi từ tàu ngầm lớp Gato thời kỳ chiến tranh thế giới 2, , tàu này có hangar có thể chứa một cặp tên lửa hành trình Regulus. "Tunny" được sử dụng làm tàu thử nghiệm công nghệ phát triển cho các hệ thống tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm, trước khi chiếc tàu mang tên lửa thứ hai cũng được chuyển đổi là . Từ năm 1957 hai chiếc tàu ngầm này đã thực hiện các chuyến tuần tra răn đe hạt nhân lần đầu tiên.
Sau đó, hai tàu ngầm cỡ lớn hơn thuộc được chế tạo, mỗi chiếc có khả năng mang theo 4 tên lửa, trong khi phiên bản tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân có khả năng mang theo 5 quả tên lửa. Từ 9/1959 đến tháng 7/1964, năm tàu ngầm này đã thực hiện tuần tra trên biển Thái Bình Dương, phối hợp với các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo lớp George Washington tuần tra bên biển Đại Tây Dương, cho đến khi các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo thay thế chúng.
Hiện nay, Hải quân Mỹ đã tiến hành sửa bốn tàu ngầm thuộc lớp "Ohio" gồm: Ohio, Michigan, Florida, và Georgia sang vai trò tàu ngầm năng lượng hạt nhân mang tên lửa hành trình (SSGN). Việc chuyển đổi sẽ bao gồm lắp đặt các ống phóng thẳng đứng VLS với từ 22 đến 24 ống phóng tên lửa, mỗi giếng phóng tên lửa đạn đạo Trident sẽ được thay bằng bảy ống phóng tên lửa nhỏ hơn dành cho tên lửa hành trình Tomahawk. Hai giếng phóng còn lại sẽ được chuyển đổi để sử dụng cho lực lượng biệt kích. Mỗi tàu ngầm sau khi chuyển đổi sẽ có khả năng mang tới 154 tên lửa Tomahawk. Trong tương lai, tàu ngầm năng lượng hạt nhân lớp Virginia sẽ thay thế cho tàu ngầm lớp Ohio khi thiết kế của tàu ngầm Ohio đã không còn đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại.
Ở phía bên kia địa cầu, Liên xô triển khai tàu ngầm mang tên lửa hành trình lớp Whiskey và Echo I được trang bị tên lửa hành trình P-5 Pyatyorka (SS-N-3 Shaddock) có khả năng mang đầu đạn hạt nhân từ cuối 1950s đến năm 1964, tương tự như lực lượng tàu ngầm mang tên lửa hành trình Regulus của Mỹ, cho đến khi vai trò tấn công chiến lược của chúng được đảm nhận bởi tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN).
|
Tàu ngầm mang tên lửa hành trình
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808707
|
Cùng với các tàu ngầm Juliet và Echo II, chúng tiếp tục đảm nhận vai trò tàu ngầm mang tên lửa hành trình với biến thể tên lửa chống tàu P-5 đến thập niên 1990. Lớp "Echo I" là một ngoại lệ, chúng không có radar riêng để dẫn bắn cho tên lửa chống tàu và chỉ phục vụ như tàu ngầm hạt nhân tấn công (SSN) sau khi toàn bộ tên lửa hành trình đối đất bị loại bỏ.
Khác xa với tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa hành trình SSGN, tàu ngầm tấn công (SS/SSN) của Hải quân Liên Xô có khả năng phóng nhiều loại tên lửa từ ống phóng ngư lôi, từ RK-55 cho đến họ tên lửa hành trình Kalibr. Các tàu ngầm có khả năng mang tên lửa hành trình sẽ được mang các ký hiệu đặc biệt so với lớp cùng loại. Ví dụ tàu ngầm "Victor III-Project 671RTM" được đổi thành "Project 671RTMK" (với chữ K là ký hiệu của Крылатая ракета; tên lửa hành trình). Do tiêu chuẩn đường kính ống phóng ngư lôi của tàu ngầm Nga là 533mm, các tàu ngầm hiện đại của Nga, kể cả tàu ngầm diesel Kilo và Lada đều có khả năng phóng tên lửa hành trình tầm xa từ ống phóng lôi mà không cần các thiết bị ống phóng đặc biệt nào cho tên lửa.
|
Cấm Khê
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808723
|
Cấm Khê hay Kim Khê là căn cứ cuối cùng của Hai Bà Trưng trong cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược Đông Hán.
Lịch sử.
"Giao Châu ngoại vực ký" chép: nhà Hán sai Phục ba tướng quân Mã Viện đem quân đánh. Trắc và Thi chạy vào Kim Khê cứu, ba năm mới bắt được…
"Hậu Hán thư", phần "Mã Viện truyện" chép: Viện đuổi theo Trưng Trắc đến Cấm Khê…
"Việt điện u linh" chép: Quân Hán kéo đến Lãng Bạc, Bà đánh lại, quân ít không địch nổi, rút về giữ Cấm Khê
"Lĩnh nam chích quái" chép: Quân địch đến Lãng Bạc, Bà chống cự; qua năm Bà thấy binh tế Mã Viện cường thịnh… bèn lui về giữ Cấm Khê
"Đại Việt sử ký toàn thư" chép: Nhâm dần năm thứ ba… Mã Viện… đến Lãng Bạc đánh nhau với Vua. Vua thấy thế giặc mạnh lắm… lui quân về giữ đất Cấm Khê (Cấm Khê sử cũ chép là Kim Khê).
Có thể thấy, Cấm Khê được ghi chép trong các sách sử Việt Nam và Trung Quốc, đều là nơi Hai Bà Trưng lui về sau khi thua Mã Viện ở Lãng Bạc. Tại đây Hai Bà đã chống trả và cầm cự trong một khoảng thời gian khá dài. Sau đó căn cứ này đã thất thủ vào năm 43.
Địa lý.
Vùng Cấm Khê được bao bọc bởi sông Tích, núi Tản Viên và núi Viên Nam, thuộc huyện Thạch Thất, Hà Nội. Nơi bắt nguồn Suối Vàng là núi Vua Bà (thuộc dãy Viên Nam) sau đó chảy về làng Hạ Lôi (tên Nôm là Kẻ Lói) ở xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất.
Từ đây ngược sông Tích sẽ lên sông Hồng, sông Lô và vùng núi phía bắc; còn xuôi theo sông Tích sẽ xuống sông Đáy và vào Cửu Chân.
Cách Hạ Lôi (Kẻ Lói) 1km về phía tây, xưa là làng Nam Giao. Tên làng này đặc biệt vì đây là tên phương Bắc dùng để gọi Giao Chỉ ở phía Nam và không có làng nào khác đặt tên này. Chỉ có đàn tế trời của nước ta mới gọi là Đàn Nam Giao. Làng này nay đã di dời để làm khu CNC Hòa Lạc.
|
Cấm Khê
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808723
|
Cách 3km về phía đông nam là Thành Quèn với những tính chất cư trú thời Đông Hán thế kỷ 1-3 giống Luy Lâu, sau này trở thành căn cứ của Đỗ Cảnh Thạc thời 12 sứ quân ở huyện Quốc Oai
Cách 14km về hướng đông bắc là Đền Hát Môn nơi Hai Bà tuẫn tiết ở huyện Phúc Thọ.
Cách 20km về hướng tây bắc là Miếu Mèn thờ Bà Man Thiện - mẹ Hai Bà Trưng ở huyện Ba Vì.
Theo địa chí Hà Tây, tại hai xã Đồng Trúc và Hạ Bằng thế kỷ 20 đã đào được hai trống đồng Heger II và III cùng 44 chiếc rìu đá.
Tranh cãi về Mê Linh.
Ghi chép về Mê Linh trong hai tài liệu cổ nhất của Việt Nam, đều thuộc thời Hậu Lê và cách nhau 44 năm đã mâu thuẫn:
"Dư địa chí" của Nguyễn Trãi (năm 1434) chép: Mê Linh là Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc bây giờ… huyện Phúc Lộc là Mê Linh ngày xưa
"Đại Việt sử ký toàn thư" (năm 1479) chép: Thời Tây Hán trị sở của thái thú (Giao Châu) tại Long Uyên tức Long Biên. Thời Đông Hán tại Mê Linh tức Yên Lãng.
Do đó, ba thế kỷ sau Lê Quý Đôn viết "Vân đài loại ngữ" (năm 1773) rất lộn xộn, chép Yên Lãng thuộc về ba quận khác nhau cùng tồn tại trong một thời kỳ: Mê Linh nay là Yên Lãng… Phong Khê là đất Yên Lãng… Chu Diên nay là Yên Lãng
"Cương mục" nhà Nguyễn chép: Mi Linh là Phong Châu… ở địa phận hai huyện Phúc Lộc và Đường Lâm
Do đó đã xuất hiện các tranh cãi về Mê Linh, một số cho rằng Mê Linh ở phía nam sông Hồng và số khác cho là ở phía bắc, ngay gần thành Cổ Loa của Thục Phán. Ở huyện Yên Lãng này cũng có làng Hạ Lôi nhưng không có tên Nôm. Năm 1977 huyện này được đổi tên thành Mê Linh.
Từ năm 1973-1990, nhà nghiên cứu Đinh Văn Nhật sử dụng phương pháp địa lý học lịch sử để nghiên cứu về các địa danh thời Hai Bà Trưng. Ông sau đó kết luận huyện Mê Linh nằm ở phía nam sông Hồng, cụ thể là phía tây sông Đáy của Hà Nội. Các bài viết của ông đều được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
|
YG''MM
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808728
|
YG"MM () là một hãng thu âm Thái hoạt động liên doanh giữa GMM Grammy tại Thái Lan và YG Entertainment từ Hàn Quốc.
Công ty được thành lập với vốn điều lệ 200 triệu baht giữa các nhà điều hành GMM Grammy nắm giữ 51% cổ phần, còn lại YG Entertainment chiếm 49% cổ phần.
YG"MM là một công ty phát triển nghệ sĩ với mục tiêu đưa Thái Lan trở thành một trong những cơ sở phát triển nghệ sĩ toàn diện. Từ buổi thử giọng, đào tạo, sáng tạo, và quảng bá đến trở thành nghệ sĩ chuyên nghiệp toàn cầu, cũng như tổ chức buổi biểu diễn, sân khấu, và nhiều thể loại khác trong tương lai.
Vào ngày 27 tháng 9 năm 2021, YG"MM lần đầu tiên mở buổi thử giọng cho nghệ sĩ thần tượng. Vào năm 2022, công ty đã tiết lộ dự án lớn đầu tiên, "YG"MM Boy Audition 2022".
|
Lịch sử nước An Nam
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808733
|
Lịch sử nước An Nam là một văn bản lịch sử do Benedict Thiện viết vào năm 1659, kể lại lịch sử Việt Nam từ thần thoại thuở sơ khai cho đến năm 1593.
Tác giả là mục sư Công giáo Việt Nam và là thành viên Dòng Tên ở Hà Nội thế kỷ 17. Ông tóm tắt biên niên sử hoàng tộc Việt Nam với thông tin về địa lý, văn hóa, tôn giáo và giáo hội. Ông hoàn thành cuốn sử này bằng chữ Quốc Ngữ vào năm 1659, sau đem tặng cho giám mục bề trên Giovanni Filippo de Marini trước khi ông này rời khỏi Việt Nam vào năm 1661. Cuốn sách lúc đầu vốn không có tiêu đề mãi về sau mới được giám mục Đỗ Quang Chính đặt cho tên gọi "Lịch sử nước An Nam".
Bản thảo gốc hiện được lưu trữ bên trong Thư viện Vatican, Tòa Thánh.
|
Volyn (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808736
|
Tỉnh Volhynia hay tỉnh Volyn (, ) là một tỉnh (guberniya) của krai Tây Nam của Đế quốc Nga. Tỉnh có diện tích 71.736 km² và dân số 2.989.482 người. Tỉnh này giáp với các tỉnh Grodno và Minsk ở phía bắc, tỉnh Kiev ở phía đông, tỉnh Podolia ở phía nam, và ở phía tây là các tỉnh Lublin và Siedlce, và sau năm 1912 là tỉnh Kholm và Áo. Trung tâm hành chính là Zhitomir (Zhytomyr ngày nay), trước năm 1804 thì trung tâm hành chính được đặt tại Novograd-Volynsky (Zviahel ngày nay). Lãnh thổ tỉnh lịch sử này tương ứng với hầu hết các tỉnh Volyn, Rivne và Zhytomyr của Ukraina và một số khu vực của tỉnh Brest và Gomel của Belarus.
Tỉnh được lập ra vào cuối năm 1796 sau phân chia Ba Lan lần ba, từ lãnh thổ của Phó vương quốc Volhynia tồn tại ngắn ngủi và tỉnh Wołyń. Sau Hòa ước Riga, một phần của tỉnh này trở thành tỉnh Wołyń mới của Cộng hòa Ba Lan thứ hai, trong khi phần còn lại là một phần của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina cho đến năm 1925, khi tỉnh bị bãi bỏ theo nghị quyết.
Lịch sử.
Cho đến năm 1796, tỉnh được quản lý như một "namestnichestvo" (phó vương quốc). Ban đầu nó tập trung ở Iziaslav và được gọi là namenichestvo Izyaslav. Tỉnh được tạo ra chủ yếu từ tỉnh Kiev và phần phía đông của tỉnh Wolyn. Vào ngày 24 tháng 10 năm 1795, sự kiện phân chia Ba Lan lần thứ ba được áp đặt bởi Phổ, quân chủ Habsburg và Đế quốc Nga.
Vào ngày 12 tháng 12 năm 1796, tỉnh Volhynia được thành lập và bao gồm phần còn lại của tỉnh Wolyn và tỉnh Kowel.
Năm 1796, chính quyền chuyển đến Novograd-Volynsky, nhưng vì không có tòa nhà nào phù hợp cho mục đích hành chính nên trụ sở (thủ phủ) lại được chuyển đến Zhytomyr. Năm 1802, Zhytomyr cuối cùng được mua lại từ tài sản của Thân vương (knyaz) Ilyinsky, và vào năm 1804 nơi này chính thức trở thành trụ sở của tỉnh Volhynia.
Từ năm 1832 đến năm 1915, tỉnh Volhynia cùng tỉnh Kiev và tỉnh Podolia là một phần của krai Tây Nam, một loại đơn vị hành chính-lãnh thổ được quân sự hóa. Vào những năm 1880, tổng tỉnh được mở rộng và bao gồm thêm các tỉnh khác.
Năm 1897, dân số của tỉnh là 2.989.482 và năm 1905 là 3.920.400.
|
Volyn (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808736
|
Phần lớn cư dân của tỉnh nói tiếng Ukraina cổ với một chút đa dạng về phương ngữ.
Trong Chiến tranh Ukraina-Xô viết, Zhytomir đóng vai trò là thủ đô tạm thời của Ukraina năm 1918. Sau Chiến tranh Ba Lan-Xô viết năm 1920 và theo Hòa ước Riga (1921), phần lớn lãnh thổ trở thành một phần của Cộng hòa Ba Lan thứ hai và chuyển thành tỉnh Wołyń với thủ phủ ở Łuck (Lutsk). Tỉnh ở phần phía đông thuộc Liên Xô tồn tại đến năm 1925, và sau đó được chia thành ba okruha là okruha Shepetivka, okruha Zhytomyr và okruha Korosten.
Thành phố chính.
Điều tra nhân khẩu Đế quốc Nga 1897
Nhân khẩu.
Ngôn ngữ.
Theo điều tra nhân khẩu Đế quốc Nga ngày , tỉnh Volhynia có dân số 2.982.482, bao gồm 1.502.803 nam và 1.486.679 nữ. Đa số dân cư bày tỏ tiếng Tiểu Nga là tiếng mẹ đẻ của họ, có các nhóm thiểu số đáng kể nói tiếng Do Thái, tiếng Ba Lan, tiếng Đức và tiếng Nga.
|
Trạng thái mất cân bằng liên kết (LD)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808742
|
Trong di truyền học quần thể, trạng thái mất cân bằng liên kết () (LD) là sự liên kết không ngẫu nhiên của các alen ở các locus khác nhau trong một quần thể nhất định. Các locus được cho là mất cân bằng liên kết khi tần số liên kết của các alen khác nhau của chúng cao hơn hoặc thấp hơn dự kiến nếu các locus độc lập và liên kết ngẫu nhiên.
Trạng thái mất cân bằng liên kết bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm chọn lọc tự nhiên, tỷ lệ tái tổ hợp di truyền, tỷ lệ đột biến, phiêu bạt di truyền, hệ thống giao phối, cấu trúc quần thể và liên kết gen. Kết quả là, kiểu mất cân bằng liên kết trong bộ gen là một tín hiệu mạnh mẽ của các quá trình di truyền học quần thể đang cấu trúc nên nó.
Mặc cho tên gọi của nó, trạng thái mất cân bằng liên kết có thể tồn tại giữa các alen ở các locus khác nhau mà không có bất kỳ mối liên kết di truyền nào giữa chúng và không phụ thuộc vào việc tần số alen có ở trạng thái cân bằng hay không (tức là không thay đổi theo thời gian). Hơn nữa, sự mất cân bằng liên kết đôi khi được gọi là trạng thái mất cân bằng giai đoạn giao tử. Tuy nhiên, khái niệm này cũng áp dụng cho sinh vật vô tính và do đó không phụ thuộc vào sự hiện diện của giao tử.
Khái niệm.
Giả sử trong số các giao tử được tạo thành ở một quần thể sinh sản hữu tính, alen A xảy ra với tần số formula_1.
|
Mortal Kombat 1
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808747
|
Mortal Kombat 1 là trò chơi điện tử đối kháng do hãng NetherRealm Studios phát triển và dự kiến sẽ được Warner Bros phát hành ngày 19 tháng 9 năm 2023. Đây sẽ là phần thứ mười hai của sê-ri game này, nối tiếp "Mortal Kombat 11" năm 2019. Trò chơi ra mắt trên các hệ máy Windows, PlayStation 5, Xbox Series X/S và Nintendo Switch.
Lối chơi.
Bên cạnh các chế độ chơi theo cốt truyện, đối đầu online trực tiếp và offline, phần game lần này giới thiệu một tính năng mới là Kameo Fighters, cho phép chọn thêm một nhân vật trợ chiến. Ngoài ra, đòn combo Air Kombat từng xuất hiện trong các phần ' và ' cũng sẽ được nâng cấp và mang trở lại trong phần này.
Nhân vật.
Các nhân vật đã được xác nhận trong game bao gồm: Liu Kang, Scorpion, Sub-Zero, Raiden, Johnny Cage, Kung Lao, Kitana, Mileena, Smoke, Rain và Kenshi. Những người chơi đặt hàng trước sẽ còn có thêm Shang Tsung.
Phát triển.
Sau khi ngừng hỗ trợ và cập nhật "Mortal Kombat 11", tháng 7 năm 2021, NetherRealm Studios cho biết đang bắt tay vào một dự án mới. Andrew Bowen, diễn viên lồng tiếng cho nhân vật Johnny Cage, đăng tweet tiết lộ hãng đang làm phần game thứ mười hai, nhưng sau đó đã nhanh chóng xóa bài viết này. Tháng 2 năm 2023, CEO của Warner Bros. Discovery, David Zaslav, tuyên bố chính thức phần game mới sẽ được ra mắt vào cuối năm.
Ngày 18 tháng 5 năm 2023, NetherRealm Studios công bố tên game "Mortal Kombat 1" cùng ngày ra mắt vào 19 tháng 9. Đây sẽ là phần game reboot đặt trong bối cảnh của một dòng thời gian mới do nhân vật Liu Kang tạo nên, sau khi anh trở thành một vị thần trong phần "Mortal Kombat 11".
|
Đảng Hành động và Đoàn kết
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808759
|
Đảng Hành động và Đoàn kết (tiếng România: "Partidul Acțiune și Solidaritate"), (viết tắt: PAS) là một đảng chính trị ở Moldova. PAS được sáng lập bởi tổng thống đương nhiệm Maia Sandu. PAS là quan sát viên của (EPP) và (IDU).
|
Mactra quadrangularis
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808769
|
Mactra quadrangularis, còn được gọi với tên thông dụng là ngao bốn cạnh hay vọp, là một loài động vật Thân mềm hai mảnh vỏ thuộc họ Mactridae. Loài này được Lovell Augustus Reeve mô tả lần đầu năm 1854.
|
Biểu tình chống Quân đội Hoa Kỳ tại Okinawa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808770
|
Biểu tình chống Quân đội Hoa Kỳ tại Okinawa là sự kiện biểu tình diễn ra quy mô lớn. Sau khi phê chuẩn Hiệp ước An ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản sửa đổi vào năm 1960, các cuộc biểu tình lớn đã diễn ra trên khắp Nhật Bản với ước tính khoảng 30 triệu người tham gia. Với sự tập trung mạnh mẽ của Quân đội Hoa Kỳ tại Nhật Bản ở Okinawa, người dân phải đối mặt với các vấn đề kinh tế, thất nghiệp. Okinawa đã bị lợi dụng để hợp tác với Quân đội Hoa Kỳ và sự phản đối rộng rãi đã gây khó khăn cho người dân Okinawa, trong khi 25.000 quân Hoa Kỳ vẫn ở Okinawa.
|
Elizabeth của Liên hiệp Anh và Hannover
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808775
|
Elizabeth của Liên hiệp Anh và Hannover (tiếng Anh: "Elizabeth of United Kingdom"; 22 tháng 5 năm 1770 – 10 tháng 1 năm 1840) là con gái của George III của Liên hiệp Anh và Charlotte xứ Mecklenburg-Strelitz. Thông qua cuộc hôn nhân với Friedrich VI xứ Hessen-Homburg, Elizabeth trở thành Phong địa Bá tước phu nhân xứ Hessen-Homburg.
Thiếu thời.
Vương nữ Elizabeth chào đời tại Cung điện Buckingham, Luân Đôn vào ngày 22 tháng 5 năm 1770, là con thứ bảy và con gái thứ ba của George III của Liên hiệp Anh và Charlotte xứ Mecklenburg-Strelitz. Elizabeth được làm lễ rửa tội trong Phòng Đại Hội đồng tại Cung điện Thánh James vào ngày 17 tháng 6 năm 1770 bởi Frederick Cornwallis, Tổng Giám mục Canterbury. Cha mẹ đỡ đầu của Elizabeth gồm có:
Vương nữ Elizabeth rất được bảo bọc trong suốt thời gian khôn lớn và dành phần lớn thời gian cho cha mẹ và các chị em gái của mình. Quốc vương George III và Vương hậu Charlotte rất bảo bọc các con, đặc biệt là các con gái. Tuy nhiên, vào năm 1812, Vương nữ Elizabeth đã mua The Priory tại Old Windsor ở Berkshire làm nơi ở riêng của mình.
Tính cách và sở thích.
Elizabeth được biết đến với tính cách lạc quan dù cứng nhắc. Mặc dù khao khát được kết hôn và có một gia đình của riêng mình, Elizabeth vẫn tận hưởng cuộc sống của mình bằng cách khám phá và phát triển những mối quan tâm và sở thích đa dạng của bản thân. Elizabeth cũng là một nghệ sĩ tài năng, đã tự mình chạm khắc nhiều cuốn sách nhằm phục vụ cho lợi ích cho các tổ chức từ thiện. Vương nữ là người con duy nhất của George III có cùng sở thích với cha về nông nghiệp và điều hành một trang trại kiểu mẫu của riêng mình tại một ngôi nhà cho thuê ở Old Windsor. Elizabeth cũng rất thích những nông sản có được trong khu vườn của mình, như trứng, sữa và bơ từ gia súc của Vương nữ. Gia đình của Elizabeth thường trêu chọc Vương nữ vì sở thích về đồ ăn thức uống. Mặc khác, Elizabeth rất nhạy cảm với những lời chỉ trích về cân nặng của mình.
Elizabeth cũng được biết đến với khiếu hài hước và duy trì một bộ sưu tập lớn các câu chuyện cười và dí dỏm. Vương nữ có bản tính cởi mở và thẳng thắn, và không thích sự "lịch sự" quá mức. Vương nữ có mối quan hệ thân thiết nhất với chị gái Augusta Sophia và anh trai Edward, Công tước xứ Kent và Strathearn .
|
Elizabeth của Liên hiệp Anh và Hannover
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808775
|
Elizabeth cũng là người con gái thân thiết nhất với Vương hậu Charlotte và điều này góp phần khiến cho Vương hậu miễn cưỡng cho phép Elizabeth được kết hôn.
Đời sống tình cảm của Elizabeth?
Có thông tin rằng Vương nữ Elizabeth đã kết hôn với George Ramus (1747–1808) và sinh cho George một cô con gái tên Eliza vào năm 1788. George Ramus là con trai của Nicholas Ramus, từng là Người Nâng khăn cho Quốc vương George III, cha của Elizabeth. Bất kỳ cuộc hôn nhân không đăng đối nào sẽ bị vô hiệu theo Đạo luật Hôn nhân Vương thất năm 1772 dù một số anh em của Elizabeth đã có những mối quan hệ tương tự với thường dân trước khi kết hôn với các quý cô nương người Đức sau này. Eliza Ramus (1788–1869) được cho là đã được nhận nuôi và nuôi dưỡng bởi chú của mình là Henry Ramus (1755–1822) của Công ty Đông Ấn . Eliza kết hôn với James Money (1770–1833), cũng thuộc Công ty Đông Ấn, và con gái Marian Martha (1806–1869) kết hôn với George Wynyard Battye (1805–1888), một Thẩm phán người Bengal. Ở cảnh góa bụa, Eliza Ramus sống tại số 28 Quảng trường Chester ở Luân Đôn, nơi Eliza giáo dục và chăm sóc các cháu trai họ Battye của mình, cả mười người sau này đều trở thành sĩ quan quân đội.
Bị từ chối cơ hội kết hôn với những quý ông thuộc dòng dõi vương giả, các chị gái của Elizabeth bắt đầu có quan hệ tình cảm với quan giữ ngựa và những người đàn ông có địa vị cao trong triều đình. Bản thân Elizabeth có thể đã có mối quan hệ như vậy với nhà ngoại giao Alleyne Fitzherbert, Nam tước St. Helens thứ 1. Nam tước St.Helens rất được kính trọng bởi George III và đã phong Alleyne làm Thị tùng Hầu phòng vào năm 1804. Hơn Elizabeth 17 tuổi, Alleyne là một người thẳng thắn, thực tế và sắc sảo, được biết đến là không thích cuộc sống cung đình, vốn là những phẩm chất tương tự như Elizabeth. Elizabeth đã gọi ngài Nam tước là "một vị thánh thân yêu và quý giá", và nói về Alleyne trong một lá thư gửi cho người bạn của mình là Phu nhân Harcourt, "Không có người đàn ông nào ta yêu nhiều như vậy, và sự dịu dàng của chàng đối với ta chưa bao giờ thay đổi, và đó là một điều mà ta không thể nào quên." Elizabeth sau đó đã viết rằng bản thân mong chờ và háo hức được gặp Nam tước St. Helens, "bất cứ lúc nào, giờ, phút, ngày, đêm..." Elizabeth sau đó đã đặt một bức chân dung của Nam tước St.
|
Elizabeth của Liên hiệp Anh và Hannover
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808775
|
Helens từ nhà tráng men nổi tiếng Henry Pierce Bone, một bằng chứng về sự mê đắm của vương nữ đối với ngài Nam tước. Về phần mình, ngài St. Helens cũng giữ một bức tranh thu nhỏ bằng men của Elizabeth, cũng là một họa phẩm của Henry Pỉecce Bone.
Hôn nhân.
Năm 1808, Elizabeth miễn cưỡng từ chối lời cầu hôn từ Công tước xứ Orléans bấy giờ đang sống lưu vong (sau này là Quôc vương nước Pháp với tên hiệu Louis Philippe I) do Louis-Philippe là người Công giáo và sự phản đối của mẹ Elizabeth.
Trong một buổi khiêu vũ tại triều đình Anh năm 1814, Elizabeth đã làm quen Friedrich xứ Hessen-Homburg. Khi Elizabeth nhìn thấy viên sĩ quan Áo trong bộ quân phục Hussar lịch lãm, Elizabeth được cho là đã nói rằng: "Nếu chàng còn độc thân, ta sẽ cưới chàng!" Bốn năm sau, Elizabeth nhận được một lá thư, trong đó Friedrich ngỏ lời cầu hôn vương nữ. Elizabeth ngay lập tức quan tâm đến lời cầu hôn và nhận được sự ủng hộ của các chị em. Mặc dù Frederick được cho là bị thừa cân và thường xuyên ngửi thấy mùi thuốc lá từ những chiếc tẩu meerschaum, nhưng Elizabeth vẫn không nản lòng với mục tiêu kết hôn với Friedrich. Vương hậu Charlotte ban đầu đã từ chối cho phép kết hợp trong nhiều tuần vì lo sợ việc Elizabeth không thể tránh khỏi việc chuyển đến Đức, nhưng cuối cùng đã chấp thuận trước sự kiên định của con gái.
Bất chấp mọi sự phản đối, đám cưới giữa Elizabeth và Friederich đã diễn ra vào ngày 7 tháng 4 năm 1818 tại nhà nguyện riêng ở Cung điện Buckingham ở Westminster. Elizabeth mặc một chiếc váy làm bằng vải lụa bạc và đăng ten Bruxelles với lông đà điểu trang trí trên tóc. Vương nữ được dẫn đến bàn thờ bởi người anh thứ hai là Công tước xứ York. Cả anh lớn là Nhiếp chính vương George và cha của Elizabeth đều không tham dự đám cưới, lần lượt là do bị bệnh gút và bệnh tâm thần nặng. Sau khi kết hôn, cặp đôi hưởng tuần trăng mật tại nhà của Nhiếp chính vương ở Brighton.
Hôn nhân của Elizabeth và Friedrich vốn không phải là một "sự kết hợp vì tình yêu" thực sự, mặc dù hai bên có sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau; trên thực tế, đó là một thỏa thuận mà cả hai đều hài lòng.
|
Elizabeth của Liên hiệp Anh và Hannover
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808775
|
Elizabeth đã có thể thoát khỏi sự gò bó từ mẹ bằng cách chuyển đến Đức cùng chồng, và Friedrich có được nhiều lợi thế khi trở thành đồng minh với Vương thất Anh. Tuy nhiên, Friedrich đã nhận xét trong tuần trăng mật của mình rằng bản thân rất ngạc nhiên khi cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện khi ở bên Elizabeth và Elizabeth nhận thấy Friedrich là người thông minh, hào phóng và giàu tình cảm. Cuộc hôn nhân được mô tả là rất hạnh phúc kéo dài cho đến khi Friederich qua đời vào năm 1829.
Cuộc sống sau này.
Ngày 20 tháng 1 năm 1820, Friedrich kế vị cha mình và trở thành Phong địa Bá tước xứ Hessen-Homburg . Nhờ của hồi môn và trợ cấp hàng năm của Elizabeth, Friedrich đã có thể sửa sang lại Cung điện ở Homburg . Về phần mình, Elizabeth có thể tách biệt khỏi nghi thức cung đình cứng nhắc ở Anh mà bản thân không thích. Elizabeth cũng xây cho chồng mình Căn nhà Gothic trong khuôn viên lâu đài.
Elizabeth đã thành lập một trung tâm chăm sóc và trường học ở Hannover dành cho con cái của những người mẹ đang đi làm. Trong khi bản thân đã qua tuổi sanh nở, Elizabeth cảm thấy thỏa mãn khi làm việc với những đứa trẻ đang theo học tại trường.
Elizabeth qua đời vào ngày 10 tháng 1 năm 1840 ở tuổi 69 tại Frankfurt am Main, Hessen, Đức và được chôn cất tại Lăng mộ của các Phong địa Bá tước ở Homburg, Đức.
Tước hiệu, kính xưng và vương huy.
Vương huy.
Kể từ năm 1789, với tư cách là con gái của quốc vương Anh, Elizabeth được sử dụng quốc huy của vương quốc, được phân biệt bằng dải bạc argent gồm ba vạch kẻ, vạch ở giữa có biểu tượng dấu thập đỏ, hai vạch bên ngoài có biểu tượng hoa hồng đỏ.
|
Mary của Liên hiệp Anh và Hannover
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808776
|
Mary của Liên hiệp Anh và Hannover (tiếng Anh: "Mary of United Kingdom and Hanover"; 25 tháng 4 năm 1776 – 30 tháng 4 năm 1857) là con gái của George III của Liên hiệp Anh và Charlotte xứ Mecklenburg-Strelitz.
Mary kết hôn với người em họ là Vương tằng tôn William Frederick, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh, khi cả hai đều 40 tuổi. Trong những năm cuối đời, cháu gái của Mary là Nữ vương Victoria lên ngôi và là vị vua thứ tư trong cuộc đời của Mary, sau cha và hai anh trai của vương nữ là George IV và William IV. Qua đời ở tuổi 81 tại Cung điện Gloucester, Weymouth, Mary là người sống lâu nhất và là người cuối cùng sống sót trong số mười lăm người con của George III và Charlotte (13 người con trong số đó sống qua tuổi trưởng thành).
Xuất thân và gia đình.
Vương nữ Mary sinh ngày 25 tháng 4 năm 1776, tại Cung điện Buckingham, Luân Đôn, là người con thứ mười một và là con gái thứ tư của George III của Liên hiệp Anh và Charlotte xứ Mecklenburg-Strelitz.
Mary được rửa tội vào ngày 19 tháng 5 năm 1776, trong Phòng Đại Hội đồng tại Cung điện Thánh James bởi Frederick Cornwallis, Tổng Giám mục Canterbury . Cha mẹ đỡ đầu của vương nữ là:
Quốc vương George III là một người cha tận tụy, thường xuyên dành thời gian đến thăm các con. George III thường tích cực chơi đùa với những đứa con nhỏ của mình và cư xử một cách khá thoải mái, trái ngược với Vương hậu Charlotte nghiêm nghị gặp khó khăn hơn trong việc từ bỏ cách cư xử trang trọng thường thấy ở địa vị của mình. Tuy nhiên, bất chấp sự dè dặt bên ngoài, Charlotte cũng là một người mẹ tận tâm trong việc nuôi dạy con cái. Đối với các vương nữ, Vương hậu giám sát cẩn thận tâm tư, nền giáo dục và sự phát triển các giá trị đạo đức của các con gái. Đối mặt với việc không có nhiều thời gian do phải thực hiện các nghĩa vụ công cộng và riêng tư đối với Quốc vương, Charlotte đã bổ nhiệm Phu nhân Charlotte Finch chăm lo cho các con của mình.
Theo Flora Fraser, Mary được coi là cô con gái xinh đẹp nhất của George III. Mary đã khiêu vũ một điệu minuet lần đầu tiên trước công chúng ở tuổi mười sáu vào tháng 6 năm 1791, trong một vũ hội được tổ chức nhân ngày sinh nhật của George III. Vào mùa xuân năm 1792, Mary chính thức ra mắt tại triều đình Anh. Khoảng năm 1796 Mary phải lòng Thân vương tử người Hà Lan Frederik trong khoảng thời gian Frederik và gia đình sống lưu vong ở Luân Đôn.
|
Mary của Liên hiệp Anh và Hannover
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808776
|
Frederik là con trai của Willem V xứ Oranje và là em trai của Willem I của Hà Lan. Tuy nhiên Frederik và Mary không bao giờ kết hôn vì George III quy định rằng các chị gái của Mary phải kết hôn trước. Năm 1799, Frederik qua đời vì bị nhiễm trùng khi đang phục vụ trong quân đội, và Mary được phép để tang chính thức.
Em gái út và người bạn thân tình của Mary là Vương nữ Amelia gọi cô là "công cụ của mẹ" vì bản tính ngoan ngoãn của Mary. Cái chết sớm của Amelia vào năm 1810 đã khiến Mary, người đã tận tình chăm sóc cô trong suốt thời gian Amelia đau ốm, vô cùng đau buồn.
Vương nữ Mary khá thân thiết với người anh cả George (George IV của Anh sau này) và cô có ác cảm với vợ của George cũng như là em họ của hai anh em là Caroline xứ Braunschweig-Wolfenbüttel. Khi Caroline đến Ý, Vương nữ Mary đã chúc mừng anh trai mình "về triển vọng tự do tốt đẹp. Xin Chúa phù hộ rằng chị ấy không bao giờ quay trở lại và chúng ta sẽ không bao giờ phải gặp mặt chị ấy nữa."
Hôn nhân và cuộc sống sau này.
Mary rất được bảo bọc trong suốt khoảng thời gian khôn lớn và dành phần lớn thời gian cho cha mẹ và các chị em gái của mình. Quốc vương George III và Vương hậu Charlotte rất bảo bọc các con của mình, đặc biệt là các con gái. Dù vậy, Mary đã kết hôn vào ngày 22 tháng 7 năm 1816 với người em họ, Vương tằng tôn William Frederick, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh, con trai của chú mình là Vương tôn William Henry, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh . Cả hai đều ở độ tuổi 40. Vào ngày cưới của hai người, anh trai của Mary, Nhiếp chính vương George, đã nâng kính xưng của chàng rể từ "Điện hạ" lên thành "Vương thân Điện hạ", tương đương với kính xưng mà Mary đã có từ khi sinh ra với tư cách là con gái của Quốc chủ Anh.
William Frederick ban đầu muốn kết hôn với cháu gái của Mary là Vương tôn nữ Charlotte Augusta xứ Wales. Charlotte, trong khi hứng thú với mối hôn sự này, đã bị cha mình mắng mỏ, người sau đó cũng bày tỏ sự không hài lòng với William Frederick và việc tán tỉnh kết thúc. Nhà sử học AW Purdue gợi ý rằng động cơ khiến Mary kết hôn với người em họ của mình xuất phát từ việc Vương nữ không thích sự gò bó của Vương hậu Charlotte.
|
Mary của Liên hiệp Anh và Hannover
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808776
|
Vương tôn nữ Charlotte Augusta nhận xét rằng ngài công tước "rất đắm chìm vào tình yêu, và nói với ta rằng chú ấy là sinh vật hạnh phúc nhất trên Trái Đất. Ta sẽ không nói rằng [Mary] cũng cảm thấy như vậy, nhưng việc trở thành chủ nhân của chính mình, có nhà riêng và có thể đi dạo trên phố thỏa thiến đều khiến cô của ta thích thú theo nhiều cách."
Hai vợ chồng sống tại Khu Bagshot, nhưng sau khi William qua đời, Mary chuyển đến White Lodge ở Công viên Richmond. Hai vợ chồng không có con với nhau.
Qua đời.
Vương nữ Mary qua đời vào ngày 30 tháng 4 năm 1857 tại Cung điện Gloucester, Mayfair, hưởng thọ 81 tuổi. Mary là người con cuối cùng còn sống và sống lâu nhất của George III và Charlotte.
Tước hiệu, kính xưng và vương huy.
Vương huy.
Kể từ năm 1789, với tư cách là con gái của quốc vương Anh, Mary được sử dụng quốc huy của vương quốc, được phân biệt bằng dải bạc arget gồm ba vạch kẻ, vạch ở giữa có biểu tượng hoa hồng đó, hai vạch bên ngoài thì có biểu tượng hình chũ nhật màu đỏ.
|
Fuji/Rockwell Commander 700
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808778
|
Fuji/Rockwell Commander 700 là một loại máy bay vận tải hạng nhẹ do Fuji Heavy Industries và Rockwell International hợp tác phát triển. Sau khi Rockwell bán Bộ phận Hàng không Tổng hợp cho Gulfstream American, thỏa thuận hợp tác với Fuji đã bị chấm dứt.
Thiết kế và phát triển.
Commander 700 được bắt đầu thiết kế tại Nhật Bản vào năm 1971 dưới tên gọi FA-300. Ngày 28 tháng 6 năm 1974, Fuji ký kết hợp tác với Rockwell International của Hoa Kỳ để phát triển FA-300 như một mẫu máy bay liên doanh, và ở thị trường Bắc Mỹ, nó được đặt tên là Commander 700. Đây là máy bay một tầng cánh, kiểu cánh thấp, cụm đuôi thông thường và thiết bị hạ cánh ba bánh có thể thu vào trong, sử dụng hai động cơ pít-tông tăng áp Avco Lycoming gắn trên cánh. Thân máy bay được thiết kế để điều áp với khu vực dành cho 2 phi công và 4-6 hành khách. Nguyên mẫu thứ nhất thực hiện chuyến bay đầu tiên tại nhà máy Utsunomiya của Fuji vào ngày 13 tháng 11 năm 1975, chiếc thứ hai do Rockwell lắp ráp, bay thử tại Bethany, Oklahoma ngày 25 tháng 2 năm 1976. Một phiên bản cũng được phát triển song song là Commander 710 với động cơ mạnh hơn, cất cánh lần đầu ngày 22 tháng 12 năm 1976. Năm 1979, Rockwell International bán Bộ phận Hàng không Tổng hợp (General Aviation Division) của mình cho Gulfstream dẫn đến thỏa thuận với Fuji bị chấm dứt. Sau đó Fuji đã mua lại quyền sản xuất dòng máy bay này và tiếp thị trên toàn thế giới.
Thông số kỹ thuật (Commander 700).
"Dữ liệu lấy từ" The Illustrated Encyclopedia of Aircraft (Part Work 1982-1985), 1985, Nhà xuất bản Orbis, trang 1920
Xem thêm.
Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương
|
Podolia (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808779
|
Tỉnh Podolia, còn gọi là tỉnh Podillia, là một tỉnh (guberniya) thuộc krai Tây Nam của Đế quốc Nga. Tỉnh Podolia giáp với tỉnh Volhynia ở phía bắc, tỉnh Kiev ở phía đông, tỉnh Kherson ở phía đông nam, tỉnh Bessarabia ở phía nam và Áo ở phía tây. Trung tâm hành chính của tỉnh là Kamenets-Podolsky (Kamianets-Podilskyi), sau đó chuyển đến Vinnitsa (Vinnytsia). Tỉnh này bao phủ một phần tỉnh Khmelnytskyi và hầu hết các tỉnh Vinnytsia của Ukraina hiện nay, cùng với một phần của Transnistria.
Lịch sử.
Tỉnh được thành lập sau phân chia Ba Lan lần thứ ba, được hình thành từ các tỉnh Bracław và Podole trước đây của Ba Lan, là một phần của krai Tây Nam cùng với tỉnh Volhynia và tỉnh Kiev. Thủ phủ của tỉnh được đặt tại Kamianets-Podilskyi, sau đó chuyển đến Vinnytsia. Tỉnh vẫn tồn tại cho đến cuộc cải cách hành chính của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina, giải thể tỉnh thành năm okruha.
Tỉnh Podolia chiếm giữ vùng biên giới phía tây nam của Đế quốc Nga, giáp với Áo-Hung và có diện tích khoảng 42.000 km². Trung tâm hành chính là Kamenets-Podolskiy cho đến năm 1914, sau đó chuyển đến Vinnytsia.
Tỉnh Podolia là một trong ba tỉnh của chính quyền krai Tây Nam. Năm 1917, nó được Chính phủ lâm thời Nga công nhận được quản lý bởi Tổng ban bí thư Ukraina với tư cách là đại diện của Chính phủ lâm thời Nga trong khu vực.
Hành chính.
Cho đến năm 1918 tỉnh gồm có 12 uyezd (huyện):
Vào ngày 12 tháng 4 năm 1923, tất cả các uyezd (huyện) được chuyển thành okruha (huyện), trong khi volost (khu) chuyển thành raion (khu). Okruha từng là một bộ phận của chính phủ cho đến khi nó bị bãi bỏ vào ngày 1 tháng 8 năm 1925. Cùng với chính phủ Podilia, okruha Haisyn cũng bị giải thể. Một số lãnh thổ của okruha Tulchyn được đưa vào Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Moldavia.
Thành phố chính.
Điều tra nhân khẩu Đế quốc Nga 1897:
Ngôn ngữ.
Theo Điều tra nhân khẩu của Đế quốc Nga vào ngày 28 tháng 1 [lịch cũ 15 tháng 1] 1897, tỉnh Podolia có dân số 3.018.299, bao gồm 1.505.940 nam và 1.512.359 nữ.
|
Podolia (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808779
|
Phần lớn dân số coi tiếng Tiểu Nga là tiếng mẹ đẻ của họ, với một thiểu số đáng kể nói tiếng Do Thái.
|
Thượng Quân
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808787
|
Thượng Quân (chữ Hán: 殤君 hoặc 相君) là thụy hiệu.
|
Marxists Internet Archive
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808791
|
Marxists Internet Archive (còn gọi là MIA hoặc Marxists.org) là một bách khoa thư trực tuyến phi lợi nhuận, lưu trữ một thư viện đa ngôn ngữ các công trình của các văn sĩ theo chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa xã hội, chẳng hạn như Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Lenin, Leon Trotsky, Joseph Stalin, Mao Trạch Đông, Rosa Luxemburg, Mikhail Bakunin, Peter Kropotkin và Pierre-Joseph Proudhon, cũng như công trình của các tác giả liên quan, hoặc thậm chí không liên quan như Tôn Tử. Bộ sưu tập này được xây dựng dựa trên một tập hợp các tài liệu gửi qua email và newsgroup, sau được biên tập thành một trang web gopher duy nhất vào năm 1993. Cơ sở dữ liệu của nó gồm hơn 180.000 tài liệu của 850 tác giả trong 80 thứ tiếng khác nhau, đều được phép truy cập miễn phí, song không nhất thiết là tự do về bản quyền.
|
Aphareus (cá)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808792
|
Aphareus là một chi cá biển trong họ Cá hồng, được lập ra bởi Georges Cuvier vào năm 1830.
Từ nguyên.
Tên chi có lẽ là một từ viết sai của "Aristotle", một từ được cho là dùng để mô tả một vây đặc biệt nào đó ở cá ngừ cái.
Các loài.
Có 2 loài được công nhận trong chi này là:
Phân bố.
"Aphareus" được phân bố trên khắp vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, kể cả Biển Đỏ và quần đảo Hawaii, riêng "A. furca" còn trải dài đến đảo Cocos ở rìa Đông Thái Bình Dương.
Giá trị.
Cả hai loài "Aphareus" đều là những loài cá thực phẩm quan trọng ở nhiều khu vực trong phạm vi của chúng, và cũng là những loài cá câu thể thao. Thịt của chúng được đánh giá là chất lượng và thường được bán tươi sống.
|
Hạt óc chó
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808797
|
Hạt óc chó hạt ăn được của tất cả loại cây thuộc chi "Juglans" (họ Juglandaceae), đặc biệt là cây óc chó Ba Tư hoặc quả óc chó Anh, "Juglans regia".
Quả óc chó thường được ăn như một món ăn nhẹ, và cũng có thể được thêm vào các bữa ăn nấu chín, ngũ cốc và bánh mì.
Không giống như một số loại thực phẩm khác được coi là "hạt" cho mục đích ẩm thực, chẳng hạn như đậu phộng, quả óc chó là loại hạt thực vật thực sự. Sau khi chín hoàn toàn, lớp vỏ được người ta loại bỏ và ăn phần nhân. Các loại hạt của quả óc chó đen phía đông (Juglans nigra) và quả bơ (Juglans cinerea) ít được tiêu thụ hơn.
Sử dụng làm thực phẩm.
Thịt quả óc chó có hai dạng: còn vỏ hoặc đã tách vỏ. Do quá trình chế biến, thịt có thể còn nguyên miếng, giảm một nửa hoặc từng phần nhỏ hơn. Tất cả quảócchó có thể được ăn riêng (sống, nướng hoặc ngâm) hoặc là một phần của hỗn hợp chẳng hạn như muesli, hoặc như một thành phần của món ăn: ví dụ: súp hạt óc chó, bánh óc chó, bánh cà phê óc chó, bánh chuối, bánh hạnh nhân, kẹo mềm. Quả óc chó thường được làm kẹo hoặc ngâm chua. Quả óc chó ngâm cả quả có thể mặn hoặc ngọt tùy thuộc vào dung dịch bảo quản.
Quả óc chó có thể được sử dụng như một thành phần trong thực phẩm khác. Quả óc chó là một thành phần quan trọng trong baklava, gà Circassia, gà sốt quả óc chó, và gia cầm hoặc thịt viên món hầm từ ẩm thực Iran.
Hạt óc chó cũng phổ biến như một lớp phủ kem lạnh, và các miếng quả óc chó được sử dụng như một trang trí trên một số loại thực phẩm.
Nocino là rượu mùi được làm từ quả óc chó xanh chưa chín ngâm trong rượu có thêm xi-rô.
Dầu hạt óc chó có sẵn trên thị trường và chủ yếu được sử dụng như một thành phần thực phẩm, đặc biệt là trong nước sốt sa lát. Nó có điểm khói thấp, giới hạn việc sử dụng nó cho chiên xào.
Giá trị dinh dưỡng.
Giá trị dinh dưỡng.
Quả óc chó không vỏ có 4% nước, 15% protein, 65% chất béo và 14% carbohydrate, bao gồm 7% chất xơ ăn kiêng (bảng).
|
Hạt óc chó
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808797
|
Trong khẩu phần tham khảo 100 gam, quảócchó cung cấp và hàm lượng phong phú (20% trở lên của Giá trị hàng ngày hoặc DV) của một số khoáng chất ăn kiêng, đặc biệt là mangan ở mức 163% DV, và vitamin B (bảng).
Mặc dù hạt óc chó Anh được tiêu thụ phổ biến nhất, nhưng mật độ và thành phần dinh dưỡng của chúng nhìn chung tương tự như hạt óc chó đen.
Không giống như hầu hết các loại hạt có nhiều axit béo không bão hòa đơn, dầu óc chó bao gồm phần lớn axit béo không bão hòa đa (72% tổng lượng chất béo), đặc biệt là axit alpha-linolenic (14%) và axit linoleic (58%), mặc dù nó có chứa axit oleic chiếm 13% tổng lượng chất béo.
|
Lee Kok Seng
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808800
|
Lee Kok Seng (mất ngày 22 tháng 8 năm 2014) là một cầu thủ bóng đá người Singapore thi đấu ở vị trí hậu vệ.
Sự nghiệp.
Ông từng thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Singapore.
|
Air Regional
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808808
|
Air Regional là một hãng hàng không có trụ sở tại Jakarta, Indonesia. Hãng vận hành các dịch vụ cho thuê chuyến hàng không nội địa và quốc tế ở khu vực Papua, với các cơ sở chính năm 2018 tập trung tại Sân bay Sorong (SOQ), phục vụ Khu vực Trung tâm miền Tây và Sân bay Nabire (NBX) phục vụ cho Khu vực Trung Đông.
Lịch sử.
Air Regional được thành lập vào ngày 13 tháng 8 năm 2001 và bắt đầu hoạt động theo Air Regional AOC 135 #027 vào ngày 16 tháng 10 năm 2002. Hãng được thành lập và thuộc sở hữu của Đại úy Pinky Firmansyah, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của công ty. Tính đến tháng 3 năm 2007, công ty này đã có 50 nhân viên.
Hạm đội.
Kể từ tháng 3 năm 2007 Đội bay Air Regional gồm các máy bay sau:
Air Regional sẽ có (các) máy bay sau trong kế hoạch đội bay dự phòng của mình (kể từ tháng 12 năm 2018):
|
Động đất ngoài khơi Miyagi 2011
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808816
|
là trận động đất xảy ra vào lúc 23:32 (theo giờ địa phương), ngày 7 tháng 4 năm 2011. Trận động đất có cường độ địa chấn 7.2 richter (theo JMA), tâm chấn nằm ngoài khơi tỉnh Miyagi, cách thành phố Sendai khoảng 66 km. Cục Khí tượng Nhật Bản đã cảnh báo sóng thần tại bờ biển thuộc vùng Tōhoku. Tuy nhiên, cảnh báo sóng thần đã gỡ bỏ sau đó. Trận động đất trên là dư chấn của Động đất và sóng thần Tōhoku 2011.
Hậu quả trận động đất đã làm 4 người chết, 141 người bị thương. Hơn 3 triệu hộ gia đình bị mất điện, một số nhà máy điện hạt nhân gặp trục trặc nhỏ.
|
Sò lông
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808826
|
Sò lông là tên thông dụng ở Việt Nam dùng để chỉ một số loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống ở biển thuộc họ Sò. Sò lông trưởng thành có chiều dài từ 48mm và chiều rộng từ 33mm. Hai mặt vỏ sò hình bầu dục và có kích thước không bằng nhau. Ngoài cùng của vỏ sò được bao phủ một lớp lông màu nâu. Chính vì thế mà nó được gọi là sò lông.
Tạo Việt Nam, một số loài cùng được gọi tên thông dụng là sò lông như:
Phân bổ.
Sò lông phân bổ nhiều ở khu vực có khí hậu nhiệt đới như Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và một số vùng biển khác có cả Việt Nam. Ở Việt Nam, sò lông phân bố và tập trung nhiều ở các tỉnh như Kiên Giang, Cà Mau...
Sử dụng trong ẩm thực.
Trong ẩm thực Việt Nam, sò lông thường bị nhầm lẫn với sò huyết về mặt ngoại hình. Tuy nhiên, cả hai loại đều được sử dùng khá phổ biến trong văn hóa ẩm thực. Trong các phân tích khoa học, giá trị dinh dưỡng của 2 loại gần tương đương nhau, tuy nhiên, trong ẩm thực, thịt sò huyết được đánh giá là ngon hơn, và vì vậy giá thành của chúng cũng cao hơn.
|
Anadara globosa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808832
|
Sò hình cầu, tên khoa học Anadara globosa là một loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống ở biển thuộc họ Sò. Chúng được Lovell Augustus Reeve mô tả lần đầu tiên vào năm 1844.
|
Tegillarca nodifera
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808834
|
Sò huyết, tên khoa học Tegillarca nodifera, còn gọi là sò nodi, là một loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống ở biển thuộc họ Sò. Chúng được Martens mô tả lần đầu năm 1860.
|
Sò huyết
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808836
|
Sò huyết là tên thông dụng ở Việt Nam dùng để chỉ một số loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống ở biển thuộc họ Sò. Só huyết trường thành thường có vỏ dày chắc, có dạng hình trứng, có chiều dài từ 5-6cm và chiều rộng 4-5cm. Chúng thường phân bổ ở những vùng ven biển có độ sâu từ một mét, hai mét so với mặt nước và các bãi bùn mềm. Do có phần ruột màu đỏ nên được người dân gọi là sò huyết.
Tạo Việt Nam, một số loài cùng được gọi tên thông dụng là sò huyết như:
Phân bổ.
Sò huyết có thể sống ở vùng nước sâu đến 20m. Nhưng tập trung chủ yếu là khu vực ven biển và các bãi bùn mềm có độ mặn tương đối thấp và nhiệt độ dao động từ 20 - 30oC.
Sử dụng trong ẩm thực.
Trong ẩm thực Việt Nam, sò huyết thường bị nhầm lẫn với sò lông về mặt ngoại hình. Tuy nhiên, cả hai loại đều được sử dùng khá phổ biến trong văn hóa ẩm thực. Trong các phân tích khoa học, giá trị dinh dưỡng của 2 loại gần tương đương nhau, tuy nhiên, trong ẩm thực, thịt sò huyết được đánh giá là ngon hơn, và vì vậy giá thành của chúng cũng cao hơn.
|
Nguyễn Đức Thành
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808837
|
Nguyễn Đức Thành (sinh ngày 10 tháng 5 năm 1977) là phó giáo sư, tiến sĩ kinh tế, giảng viên đại học. Ông từng là người sáng lập và là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội từ năm 2008 tới năm 2020.
Ông là một trong 13 thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, giai đoạn 2011-2016.
Xuất thân và giáo dục.
Nguyễn Đức Thành sinh ngày 10 tháng 5 năm 1977 tại Hà Nội.
Nguyễn Đức Thành tốt nghiệp Trường Đại học Kinh tế Quốc dân ngành Kinh tế học.
Năm 2008, ông có học vị Tiến sĩ kinh tế phát triển của Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia Nhật Bản (GRIPS). Ông nhận học hàm Phó Giáo sư Kinh tế học vào năm 2019.
|
Kiev (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808838
|
Tỉnh Kiev (chính tả cũ ; ) là một đơn vị hành chính của Đế quốc Nga từ 1796 đến 1919 và của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina từ 1919 đến 1925. Tỉnh nằm tại khu vực Ukraina hữu ngạn, được thành lập sau khi phân chia Phó vương quốc Kiev thành các tỉnh Kiev và Tiểu Nga vào năm 1796, với trung tâm hành chính ở Kiev. Đến đầu thế kỷ 20, tỉnh bao gồm 12 uyezd (huyện), 12 thành phố, 111 miasteczko và 7344 khu định cư khác. Sau Cách mạng Tháng Mười, tỉnh trở thành một đơn vị hành chính của CHXHCNXV Ukraina. Năm 1923, tỉnh được chia thành nhiều okrug và vào ngày 6 tháng 6 năm 1925, tỉnh bị bãi bỏ do cuộc cải cách hành chính của Liên Xô.
Lịch sử.
Tỉnh Kiev nằm ở hữu ngạn sông Dnepr được chính thức thành lập theo sắc lệnh của Hoàng đế Pavel I của Nga ngày 30 tháng 11 năm 1796. Tuy nhiên, mãi đến năm 1800, thống đốc đầu tiên mới được bổ nhiệm và lãnh thổ nằm dưới quyền cai quản của Phó vương Kiev Vasrliy Krasno-Milashevich (giai đoạn 1796 –1800).
Ba phó vương quốc ở Ukraina tả ngạn được hợp nhất thành một tỉnh Tiểu Nga tập trung ở Chernigov, trong khi tỉnh Kiev lúc này bao gồm Ukraina hữu ngạn. Với việc Kiev vẫn là thủ phủ, tỉnh này bao gồm các phần hữu ngạn của Phó vương quốc Kiev trước đây, được sáp nhập với các lãnh thổ của tỉnh Kiev và tỉnh Bracław mà Đế quốc Nga giành được sau phân chia Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Sắc lệnh có hiệu lực vào ngày 29 tháng 8 năm 1797, nâng tổng số uyezd lên mười hai.
Vào ngày 22 tháng 1 năm 1832, tỉnh Kiev, cùng với các tỉnh Volhynia và Podolia (tỉnh của Đế quốc Nga) đã thành lập Tổng tỉnh Kiev, còn được gọi là krai Tây Nam. Vào thời điểm đó, Vasily Levashov được bổ nhiệm làm Thống đốc quân sự của Kiev cũng như Tổng đốc của Podolia và Volhynia. Năm 1845, dân số của tỉnh là 1.704.661.
Vào đầu thế kỷ 20, tỉnh bao gồm mười hai uyezd được đặt tên theo trung tâm của chúng: Berdychiv, Cherkasy, Chyhyryn, Kaniv, Kiev, Lipovets, Radomyshl, Skvyra, Tarashcha, Uman, Vasylkiv và Zvenyhorodka.
|
Kiev (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808838
|
Theo Điều tra nhân khẩu Nga năm 1897, có 3.559.229 người trong tỉnh, khiến đây trở thành tỉnh đông dân nhất trong toàn bộ Đế quốc Nga. Hầu hết dân cư sống ở nông thôn. Có 459.253 người sống ở các thành phố, trong đó có khoảng 248.000 người ở Kiev. Theo tiếng mẹ đẻ, điều tra dân số đã phân loại những người được hỏi như sau: 2.819.145 Malorossy (người Ukraina) chiếm 79,2% dân số, 430.489 người Do Thái chiếm 12,1% dân số, 209.427 Velikorossy (người Nga) chiếm 5,9% dân số và 68.791 người Ba Lan chiếm 1,9% dân số. Theo đức tin, 2.983.736 người trả lời điều tra dân số là theo Cơ đốc giáo Chính thống, 433.728 là người Do Thái và 106.733 thuộc Giáo hội Công giáo La Mã.
Dân số ước tính vào năm 1906 là 4.206.100.
Tỉnh Kiev vẫn là một đơn vị cấu thành của Tổng tỉnh Kiev lớn hơn với Kiev là thủ phủ của cả hai trong thế kỷ 20. Năm 1915, Tổng tỉnh bị giải tán trong khi guberniya tiếp tục tồn tại.
Hành chính.
Tỉnh Kiev bao gồm 12 uyezd (trung tâm hành chính của chúng trong ngoặc):
Thành phố chính.
Điều tra nhân khẩu Đế quốc Nga năm 1897
Sau 1917.
Trong thời gian sau cuộc cách mạng Nga năm 1917–1921, các vùng đất của tỉnh Kiev đã nhiều lần đổi chủ. Sau thời thống đốc đế quốc cuối cùng là Alexey Ignatyev cho đến ngày 6 tháng 3 năm 1917, các nhà lãnh đạo địa phương được bổ nhiệm bởi các chế độ kình địch nhau. Đôi khi, starosta tỉnh (do Rada Trung ương bổ nhiệm) và Chính ủy tỉnh (đôi khi ngầm) đều tuyên bố là Thống đốc, trong khi một số chế độ cai trị tồn tại trong thời gian ngắn trên lãnh thổ không thành lập bất kỳ phân khu hành chính cụ thể nào.
Khi sự hỗn loạn nhường chỗ cho sự ổn định vào đầu những năm 1920, chính quyền Ukraina Xô viết tái lập tỉnh, chức vụ đứng đầu tỉnh là Chủ tịch Ủy ban Cách mạng tỉnh (revkom) hoặc của Ủy ban hành chính (ispolkom).
Trong quá trình cải cách hành chính của Liên Xô năm 1923–1929, tỉnh Kiev của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina được chuyển đổi thành sáu okruha vào năm 1923, và kể từ năm 1932 lập lại tỉnh Kiev tại lãnh thổ này.
Thống đốc Kiev.
|
Kiev (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808838
|
Thống đốc Kiev.
"với tư cách là Ủy viên điều hành"
"với tư cách là trưởng lão điều hành"
|
Hóa chất hàng hóa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808844
|
Hóa chất hàng hóa (hay hóa chất số lượng lớn) là một nhóm các hóa chất được sản xuất trên quy mô rất lớn để đáp ứng thị trường toàn cầu. Giá trung bình của hóa chất hàng hóa thường xuyên được công bố trên các tạp chí thương mại về hóa chất và các trang web như Chemical Week và ICIS. Đã có một số nghiên cứu về quy mô và độ phức tạp của thị trường này, ví dụ như ở Hoa Kỳ.
Hóa chất hàng hóa là một phân ngành của ngành công nghiệp hóa chất. Hóa chất hàng hóa được phân biệt chủ yếu bởi việc sản xuất số lượng lớn.
Loại.
Các hợp chất hóa học thường được chia thành hai nhóm, vô cơ và hữu cơ. [3] [4]
Hóa chất hữu cơ.
Các hóa chất hữu cơ hàng hóa thường được buôn bán bao gồm::
Lĩnh vực.
Hóa chất hàng hóa được sản xuất để cung cấp cho các nhu cầu công nghiệp đa dạng nhưng thường được xác định rõ ràng cho từng ngành công nghiệp. Một số lĩnh vực chính là:
|
Tòa thị chính Seoul
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808856
|
Tòa thị chính Seoul (Tiếng Hàn: 서울특별시 청사, Tiếng Anh: Seoul City Hall, Hanja: 서울特別市 廳舍) là một tòa nhà chính phủ dành cho Chính quyền Thành phố Đặc biệt Seoul ở Hàn Quốc, chịu trách nhiệm về các vấn đề hành chính của Seoul. Nó nằm ở 110 Sejong-daero, Jung-gu, Seoul. Nó được kết nối với Ga Tòa thị chính trên Tàu điện ngầm Seoul tuyến 1 và Tàu điện ngầm Seoul tuyến 2. Phía trước tòa thị chính hiện tại là tòa nhà tòa thị chính cũ, nay là Thư viện Thủ đô Seoul và Quảng trường Seoul.
Lịch sử.
Tòa thị chính cũ của Seoul được xây dựng vào năm 1925, trong thời kỳ Triều Tiên thuộc Nhật. Đây là một ví dụ về kiến trúc Phong cách Vương miện Hoàng gia và từng là tòa thị chính từ khi Hàn Quốc được giải phóng vào năm 1945, cho đến khi xây dựng tòa nhà hiện đại vào năm 2008. Nơi đây hiện có Thư viện Thủ đô Seoul, phía trước tòa nhà Tòa thị chính Seoul hiện đại.
Sau một cuộc thi cho tòa thị chính mới, ban giám khảo đã trao hoa hồng cho Yoo Kerl của iArc vào ngày 18 tháng 2 năm 2008. Yoo nói: "Các từ khóa chính để thiết kế tòa nhà mới là truyền thống, công dân, tương lai. Tôi đã phân tích các yếu tố nằm ngang của tòa nhà thấp tầng , đường cong và sắc thái của những chiếc lá trong đặc điểm kiến trúc truyền thống của chúng tôi, và tôi đã áp dụng những điều này vào thiết kế để có thể gợi lại cảm giác thoải mái về những thứ cũ kỹ."
Vào năm 2012, Tòa thị chính mới được mở cửa cho công chúng vào ngày 27 tháng 8 và chính quyền thành phố chuyển đến vào ngày 1 tháng 9. Dự án mất bốn năm năm tháng để hoàn thành, cũng bao gồm các hội trường đa năng và các cơ sở văn hóa cho người dân. Tòa nhà cũ, được đăng ký là tài sản văn hóa, đã được chuyển đổi thành thư viện và tự hào có bộ sưu tập hơn 200.000 cuốn sách.
|
Sứ Mệnh Vinh Quang
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808858
|
Sứ Mệnh Vinh Quang () là tựa game bắn súng góc nhìn người thứ nhất của Trung Quốc. Đây là trò chơi điện tử trực tuyến có chủ đề quân sự đầu tiên do Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) phát hành.
Bối cảnh.
"Sứ Mệnh Vinh Quang" được sử dụng để tuyển mộ các binh sĩ tiềm năng cho Quân Giải phóng Nhân dân cũng như huấn luyện và giáo dục các đội quân chiến đấu hiện tại của PLA. "Sứ Mệnh Vinh Quang" tái tạo chính xác các chi tiết về súng ống, đồng phục và khí tài được Quân Giải phóng Nhân dân sử dụng. Trò chơi đã bị chỉ trích vì tầm thường hóa thực tế của chiến tranh bằng cách trình bày nó dưới dạng một trò chơi điện tử.
Có hai phiên bản của game. Phiên bản phát hành công khai hỗ trợ dịch vụ trực tuyến và chơi miễn phí, nhưng yêu cầu người chơi mới phải đăng ký tài khoản bằng thẻ căn cước cư nhân của họ. Phiên bản quân sự bao gồm tám chiến dịch chơi đơn và mục chơi nối mạng nhiều người chơi được Quân Giải phóng Nhân dân sử dụng để giải trí. Phiên bản quân sự cũng có sẵn để mua thông qua mã kích hoạt sau khi tải xuống miễn phí.
Lối chơi.
"Sứ Mệnh Vinh Quang" tương tự như mấy game bắn súng góc nhìn người thứ nhất nổi tiếng của Mỹ như sê-ri "Call of Duty", cho phép người chơi trải qua quá trình huấn luyện cơ bản trước khi được triển khai trong một số nhiệm vụ chiến đấu. Trò chơi được chia thành ba phần: huấn luyện cơ bản, nhiệm vụ của riêng người lính và cuộc đối đầu tổ/đội. Những màn chơi trong "Sứ Mệnh Vinh Quang" có nhiều sự kiện theo kịch bản, chẳng hạn như không kích và nổ bom. Trò chơi thường buộc người chơi đi theo một tuyến đường cố định mà không cho họ tự do tiếp cận các tình huống một cách chiến thuật. Ở màn chơi đầu tiên, sau một cuộc đổ bộ ngắn ngủi, người chơi đi theo một chiến tuyến hơi thẳng qua các chiến hào chật hẹp. Qua màn chơi khác, sau màn bắn tỉa cố định, người chơi bị đẩy qua một hang động kín mít. Các màn chơi khác bao gồm nhóm người chơi tiến lên một con đường có hàng rào phòng ngự.
Phiên bản phát hành công khai bao gồm kiểu chơi PvP và Co-op.
|
Sứ Mệnh Vinh Quang
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808858
|
Những trận đánh Co-op được thiết kế để truyền cảm hứng yêu nước cho người chơi, với các nhiệm vụ như "Giấc mơ trở lại Thượng Hải" (梦回上海 "meng hui shanghai") nơi mà người chơi tham chiến chống lại Quân đội Đế quốc Nhật Bản với tư cách là chiến sĩ Giải Phóng quân trong trận Thượng Hải, và "Bảo vệ quần đảo Điếu Ngư" (保卫钓鱼岛 "baowei Diaoyudao"), liên quan đến việc bảo vệ căn cứ trên quần đảo Điếu Ngư khỏi Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản.
Phát triển.
"Sứ Mệnh Vinh Quang" do hãng Giant Interactive Group phát triển, vốn là công ty phát triển và vận hành một số tựa game trực tuyến phổ biến ở Trung Quốc, bao gồm "ZT Online 1 Series", "ZT Online 2", "Elsword" và "Allods Online". Quá trình phát triển game mất tới 32 tháng trời. Mục tiêu của trò chơi này là đào tạo mọi người về kỹ năng chiến đấu và nhận thức về công nghệ. Một phiên bản quân sự, không công khai cũng được Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc phát triển. Câu chuyện chính tập trung vào xung đột giữa Nhật Bản và Trung Quốc về một nhóm đảo đang tranh chấp chủ quyền, được gọi là Quần đảo Senkaku ở Nhật Bản và Quần đảo Điếu Ngư ở Trung Quốc.
Phiên bản cuối cùng của trò chơi này chính thức ra mắt vào ngày 20 tháng 6 năm 2011. Một bản cập nhật cho phép chơi game trên Quần đảo Điếu Ngư đã được phát hành vào Ngày Lực lượng Vũ trang ở Trung Quốc trùng với lễ kỷ niệm 86 năm thành lập Quân Giải phóng Nhân dân.
Đón nhận.
Trò chơi này cực kỳ phổ biến ở Trung Quốc đại lục. Theo thống kê của chính phủ, nó có hơn 300 triệu người chơi trực tuyến. Trong quý đầu tiên, thị trường trò chơi trực tuyến trị giá 8,5 tỷ Nhân dân tệ (1,31 tỷ USD). Một khiếu nại phổ biến về tựa game này là người chơi cần phải trả tiền để tải về mới chơi được.
Tranh cãi.
Giới truyền thông Nga từng đưa tin rằng quân địch trong game gần giống với những người lính Mỹ nhất. Đáp lại, một phát ngôn viên của Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố rằng quá trình phát triển game này không nhằm chống lại bất kỳ quốc gia cụ thể nào và đề nghị giới truyền thông nên hạn chế suy đoán và diễn giải quá mức.
|
Arenifodiens vagina
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808867
|
Arenifodiens vagina là một loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ thuộc họ Mytilidae. Loài này được Jean-Baptiste Lamarck mô tả lần đầu tiên vào năm 1819.
|
Vương Độ (nhà Tùy)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808871
|
Vương Độ (chữ Hán: 王度, 584? – 621?), người đất Kỳ, Thái Nguyên, là quan lại và sử gia cuối thời Tùy đầu thời Đường.
Ông là con của Vương Long giữ chức bác sĩ Quốc tử đầu những năm Khai Hoàng, anh của Vương Tích và là em của nhà nho Vương Thông. Năm sinh và năm mất của ông không rõ. Đầu những năm Đại Nghiệp làm ngự sử, bị bãi chức về Hà Đông, đến năm Đại Nghiệp thứ tám (612) về Trường An kiêm chức Trước tác lang, phụng chiếu hoàng đế soạn quốc sử. Năm Đại Nghiệp thứ chín (613), ông rời kinh nhậm chức Nhuế Thành lệnh, làm trì tiết Hà Bắc đạo, mở kho lương cứu tế dân đói Thiểm Đông. Sau này lại về triều làm ngự sử như cũ.
Từ lúc chuyển sang thời Đường thì phần đời sau này của ông không mấy ai biết đến. Có thuyết nói Vương Độ là tác giả của cuốn "Cổ kính ký". Vương Độ vốn thích lời nói của âm dương gia, phần nhiều mê tín dị đoan. Theo ghi chép trong "Toàn Đường văn" thì ông từng soạn quyển "Tùy sử" nhưng đã qua đời trước khi kịp hoàn thành tác phẩm này.
|
Chùa Như Lai
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808873
|
Chùa Như Lai (; ) là một ngôi chùa Phật giáo ở Cotia, São Paulo, Brasil. Đây là ngôi chùa Phật giáo lớn nhất ở Nam Mỹ với diện tích xây dựng 10.000 mét vuông, trên tổng thể diện tích khoảng 150.000 mét vuông.
Đây là một ngôi chùa của Phật Quang Sơn ở Đài Loan, thực hành nhánh Phật giáo Đại thừa.
Lịch sử.
Năm 1992, Đạo sư Phật giáo Tinh Vân đã đến Brasil, theo lời mời của một ngôi chùa Phật giáo địa phương ở São Paulo, để dự một buổi lễ. Một nhà sư có mặt tại buổi lễ đã hỏi ông rằng liệu ông có thể để một nhà sư tùy tùng của mình ở lại đất nước để họ có thể tiếp tục việc giáo lý không. Do đó, nhà sư đi cùng ông là Jue Cheng, đã quyết định ở lại Brasil và bắt đầu một dự án mới, và sau này được phong là Đạo sư Chân thành ().
Vị môn sinh đã xin Đạo sư Tinh Vân để lại một nhà sư tại Brasil đã tặng một ngôi nhà nằm trong khuôn viên trang trại để công việc có thể tiếp tục. Ngôi nhà không quá nhỏ và nơi đây đã trở thành nơi thực hiện các nghi lễ, việc thờ cúng và hành lễ. Bốn năm sau, số lượng khách viếng thăm đã lên tới 100, đặt ra nhu cầu mở rộng không gian. Mặc dù ngôi nhà đã được cải tạo nhưng nơi này vẫn không đủ điều kiện để phục vụ các tín đồ nên mọi người quyết định xây dựng một ngôi chùa lớn hơn.
Vì các kiến trúc sư người Brasil tham gia vào dự án không nắm rõ và thông thạo kiến trúc của một ngôi chùa Phật giáo, Master Sinceridade đã tập hợp một nhóm kiến trúc sư để cùng đi tới Trung Quốc với mục đích nghiên cứu kiến trúc của các ngôi chùa thời nhà Đường. Ngôi chùa được khởi công vào năm 1999. Do nhu cầu nhập khẩu ngói và lan can từ Trung Quốc, loại vật liệu không sẵn có ở Brasil vào thời điểm đó, dẫn đến việc khánh thành chùa Như Lai bị trì hoãn cho đến tháng 10 năm 2003.
|
Phạm Quang Trạch
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808878
|
Phạm Quang Trạch (1653 – 1716) là vị quan thời Lê trung hưng. Ông từng giữ chức Lễ bộ Hữu Thị lang, là tác giả cuốn Nam chưởng kỷ lục về mối bang giao giữa Đại Việt và Ai Lao.
Thân thế và sự nghiệp.
Phạm Quang Trạch sinh năm 1653 tại làng Đông Ngạc, Thăng Long. Sự tích kể rằng thuở nhỏ ham học tới mức đêm đông, lúc ngồi học, ông lấy khăn vải tẩm nước đặt lên đùi để không thể ngủ gật.
Ông đỗ Nhất giáp tiến sĩ, thứ hai (Bảng nhãn) khoa thi Quý Hợi, niên hiệu Chính Hòa thứ tư (tức năm 1683)
Gia đình và dòng họ.
Phạm Quang Trạch là cháu viễn Lân Đính, chắt ruột Thọ Chỉ và là cháu (gọi bằng bác) của Hiển Danh – cả ba đều là người đều đỗ Tiến sĩ; ông còn là chú ruột của Quang Hoàn, Quang Dung cũng đỗ Tiến sĩ.
Phạm Quang Trạch lấy vợ là Nguyễn Thị Ái là con gái Thượng thư Mai quận công Nguyễn Viết Thứ. Con Quang Trạch là Gia Ninh (đỗ tiến sĩ) làm con rể Tham tụng Hộ bộ Thượng thư Nguyễn Huy Nhuận. Một con trai khác của ông là Gia Thẩm làm con rể quan Hình bộ Lang trung Nguyễn Quý Hành. Gia Ninh lại thông gia với Tiến sĩ Ngô Đình Oánh, Binh bộ Thượng thư. Gia Huệ (con của Gia Ninh) có con trai là Gia Điển làm rể Thủ đề đốc Đỗ Thế Dận (con trai Đại vương Đỗ Thế Giai). Gia Kỷ là con trai thứ ba của Gia Điền lại làm rể quan Lễ bộ Thượng thư Phan Huy Ích.
Phạm Gia Chuyên là cháu 5 đời của Phạm Quang Trạch, cháu 4 đời của Tiến sĩ Phạm Nguyên Ninh, đỗ Tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1832. Ông làm quan thời nhà Nguyễn, đã từng giữ các chức Tri phủ Kiến Xương (Thái Bình), Lễ bộ Viên ngoại lang, Đốc học tỉnh Ninh Bình, Tu nghiệp Quốc tử giám và tham gia soạn cuốn "Quốc sử lược biên".
|
Giải đua xe Công thức 1 2018
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808893
|
Giải đua xe Công thức 1 2018 là mùa giải thứ 69 của Công thức 1 do Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) tổ chức. Giải đua này diễn ra trong vòng 21 chặng đua, bắt đầu ở Úc vào ngày 25 tháng 3 và kết thúc ở Abu Dhabi vào ngày 25 tháng 11.
Đây là mùa giải thứ hai liên tiếp mà cuộc tranh giành chức vô địch giữa Mercedes và Ferrari diễn ra cùng với cuộc tranh đấu giữa hai nhà vô địch bốn lần, Lewis Hamilton và Sebastian Vettel. Thêm vào đó, mùa giải này cũng là mùa giải đầu tiên trong lịch sử Công thức 1 trong đó hai nhà vô địch bốn lần tranh giành chức vô địch thứ năm của họ và mùa giải.
Hamilton giành được chức vô địch hạng mục tay đua lần thứ năm trong sự nghiệp của anh tại giải đua ô tô Công thức 1 Mexico 2018. Tại chặng đua tiếp theo ở Brasil, Mercedes giành được chức vô địch hạng mục đội đua lần thứ năm liên tiếp.
Cũng vào mùa giải này, thiết bị bảo vệ buồng lái với tên gọi là "halo" chính thức ra đời.
Các tay đua và đội đua.
Các đội và tay đua sau đây đều tham gia giải đua xe Công thức 1 2018 và tất cả các đội thi đấu đều sử dụng lốp xe do Pirelli cung cấp. Các đội đua sau đây được sắp xếp theo thứ tự của bảng xếp hạng các đội đua vào năm 2017.
Thay đổi đội đua và nhà cung cấp động cơ.
Thay đổi đội đua.
Sau khi đội đua Force India tuyên bố phá sản vào ngày 27 tháng 7 năm 2018. Vài ngày sau, một nhóm nhà đầu tư do Lawrence Stroll, bố của tay đua Lance Stroll của đội đua Williams, đứng đầu đã tiếp quản phần lớn của đội. Đội này chính thức ra mắt tại giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ với tên gọi mới là "Racing Point Force India". Vì Racing Point Force India không phải là đội kế thừa trực tiếp của Force India nên Racing Point Force India bị mất bất kỳ khoản tiền thưởng nào mà Force India đã kiếm được trước đó. Tại một cuộc bỏ phiếu giữa các đội đua tham gia Công thức 1, tất cả các đội đã đạt được sự nhất trí cần thiết và điều đó có nghĩa rằng Racing Point Force India được hưởng số tiền thưởng từ Force India. Đổi lại, Force India vẫn phải là một phần của tên gọi mới của Racing Point Force India.
Lịch đua.
Lịch đua vào mùa giải 2018 bao gồm 21 chặng đua.
Thay đổi lịch đua.
|
Giải đua xe Công thức 1 2018
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808893
|
Thay đổi lịch đua.
Giải đua ô tô Công thức 1 Pháp trở lại Công thức 1 lần đầu tiên kể từ năm 2008. Thêm vào đó, trường đua Paul Ricard, địa điểm tổ chức giải đua ô tô Công thức 1 Pháp 2018, được tổ chức vào năm 1990 trước khi giải đua ô tô Công thức 1 Pháp chuyển sang trường đua Nevers Magny-Cours. Sự kiện này được lên kế hoạch tổ chức vào tháng 6 với giải đua ô tô Công thức 1 Azerbaijan được dời sang tháng 4 để phù hợp với sự thay đổi và tránh xung đột với lễ kỷ niệm 100 năm thành lập Cộng hòa Azerbaijan. Giải đua ô tô Công thức 1 Đức cũng trở lại lịch đua sau một năm vắng bóng và trường đua Hockenheimring là địa điểm tổ chức sự kiện này.
Giải đua ô tô Công thức 1 Malaysia, tồn tại từ năm 1999 đến năm 2017 trong Công thức 1, đã bị dừng. Giải đua ô tô Công thức 1 Nga được dời từ tháng 4 sang tháng 9 để lấp chỗ trống do giải đua ô tô Công thức 1 Malaysia để lại.
Thay đổi quy định.
Thay đổi quy định thể thao.
Sau nhiều sự chỉ trích rộng rãi về hệ thống các án phạt tụt vị trí vào năm 2017 thường xuyên chứng kiến nhiều tay đua bắt đầu các cuộc đua ngoài vị trí đủ điều kiện của họ, FIA đã đưa ra một bộ quy định sửa đổi cho năm 2018. Trong trường hợp tay đua thay đổi một bộ phận của bộ nguồn, tay đua ấy vẫn phải tuân theo hình phạt tụt năm hoặc mười vị trí tùy thuộc vào thành phần bị thay đổi. Tuy nhiên, nếu sau đó một tay đua thay thế một thành phần thứ hai, tay đua đó sẽ bị tụt xuống vị trí xuất phát cuối cùng. Nếu nhiều tay đua bị tụt xuống các vị trí cuối cùng thì vị trí bắt đầu của tay đua đó sẽ được xác định theo thứ tự thay đổi các thành phần dựa trên thay đổi gần đây nhất của từng tay đua.
Đối với mùa giải 2018, FIA đã chỉ định các quy tắc để phát hiện các cú xuất phát sớm thông qua việc sử dụng hệ thống kỹ thuật. Theo các quy định đó, các tay đua sẽ bị phạt nếu họ đặt vị trí chiếc xe đua của họ theo cách mà hệ thống này không thể phát hiện được. Nguyên nhân dẫn đến điều này là do Sebastian Vettel tại giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc 2017.
|
Giải đua xe Công thức 1 2018
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808893
|
Tại chặng đua đó, chiếc xe của anh đứng lệch khoảng 1 m so với vị trí xuất phát thực tế của anh. Hành động này khiến hệ thống không phát hiện được cú xuất phát của anh.
Số lượng các thành phần đơn vị năng lượng cho phép mỗi mùa tiếp tục được giảm xuống. Trong mùa giải 2017, mỗi tay đua chỉ được phép sử dụng bốn bản sao của tất cả các thành phần trong suốt một mùa giải. Đối với MGU-K, thiết bị điện tử điều khiển và lưu trữ năng lượng, số lượng cho phép trong mùa giảm xuống còn hai, đối với động cơ đốt trong, bộ tăng áp động cơ và MGU-H là ba. Với sự ra đời của hệ thống halo, thời gian mà tay đua phải thoát khỏi xe của mình trong trường hợp khẩn cấp sẽ được điều chỉnh. Do vậy, mỗi tay đua hiện có bảy giây thay vì năm giây so với trước đây cho đến khi mười hai giây thay vì mười giây trước khi vô lăng được gắn vào trụ lái. Sự thay đổi thời gian này trở nên cần thiết vì hệ thống halo cản trở tay đua ra vào xe đua một cách dễ dàng.
FIA đã đưa ra những hạn chế chặt chẽ hơn đối với giấy phép đua cấp cho những tay đua tham gia các buổi tập miễn phí. Các tay đua ứng cử viên được yêu cầu phải hoàn thành số lượng các chặng đua Công thức 2 tối thiểu hoặc kiếm được 25 điểm trên giấy phép trong khoảng thời gian ba năm. Những thay đổi này được đưa ra để giải quyết những lo ngại về việc những tay đua không thể đáp ứng các tiêu chuẩn cần thiết để cạnh tranh trong Công thức 1 sau khi có quyền sử dụng xe đua Công thức 1.
Lịch trình của các chặng đua cuối tuần đã được thay đổi, với thời gian xuất phát của hầu hết các cuộc đua ở châu Âu được lùi lại một giờ nhằm cố gắng thu hút thêm lượng khán giả trên TV. Tất cả các chặng đua đã được lên kế hoạch bắt đầu lúc 10 phút trước giờ để cho phép các đài truyền hình có cơ hội đưa tin trước cuộc đua, đặc biệt là trong trường hợp chương trình phát sóng cuộc đua của họ bắt đầu vào giờ đó.
Bảng xếp hạng.
Hệ thống ghi điểm.
Điểm được trao cho các tay đua về đích ở vị trí top 10 được phân loại trong mọi cuộc đua và được sử dụng như sau:
Bảng xếp hạng các tay đua.
Chú thích:
Bảng xếp hạng các đội đua.
Chú thích mở rộng cho các bảng trên:
|
Chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808904
|
Chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (tiếng Anh: Persistent organic pollutant, viết tắt: POP) là các hợp chất hữu cơ khó bị phân hủy bằng các quá trình hóa học, sinh học và quang phân ly. Chúng là những hóa chất độc hại có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và môi trường trên toàn thế giới. Vì chúng có thể phân tán theo gió và nước nên hầu hết các chất POP được tạo ra ở một quốc gia có thể và sẽ ảnh hưởng đến con người và động vật hoang dã ở xa nơi chúng được sử dụng và thải ra.
Ảnh hưởng của POP đối với sức khỏe con người và môi trường đã được cộng đồng quốc tế thảo luận với mục đích loại bỏ hoặc hạn chế mạnh mẽ việc sản xuất chúng tại Hội nghị Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy năm 2001.
Hầu hết các POP là thuốc bảo vệ thực vật hoặc thuốc trừ sâu, và một số loại là dung môi, dược phẩm và hóa chất công nghiệp. Mặc dù một số POP phát sinh tự nhiên (ví dụ như từ núi lửa), hầu hết là do con người tạo ra. "Hàng chục chất POP bẩn" được Công ước Stockholm xác định bao gồm aldrin, chlordane, dieldrin, endrin, heptachlor, HCB, mirex, toxaphene, PCB, DDT, dioxin và dibenzofurans polychlorinated.
Hậu quả khi cố sử dụng.
POP thường là các hợp chất hữu cơ được halogen hóa và do đó có khả năng hòa tan trong lipid cao. Vì lý do này, chúng sẽ tích lũy sinh học trong các mô mỡ. Các hợp chất halogen hóa cũng thể hiện tính ổn định cao, cho thấy các liên kết C-Cl không phản ứng với quá trình thủy phân và quang phân ly. Tính ổn định và ưa ẩm của các hợp chất hữu cơ thường tương quan với hàm lượng halogen của chúng, do đó các hợp chất hữu cơ đa halogen được đặc biệt quan tâm. Chúng gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường thông qua hai quá trình, phân tán tầm xa, cho phép chúng di chuyển xa khỏi nguồn của chúng và tích lũy sinh học, làm cô đặc lại các hợp chất hóa học này đến mức nguy hiểm tiềm tàng. Các hợp chất tạo nên POP cũng được phân loại là PBT (khó phân hủy, tích lũy sinh học và độc) hoặc TOMP (chất ô nhiễm vi sinh hữu cơ độc hại).
Phân tán tầm xa.
|
Chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808904
|
Phân tán tầm xa.
POP chuyển sang thể khí ở nhiệt độ môi trường nhất định và bay hơi từ đất, thảm thực vật và các vùng nước vào khí quyển. Chúng khó bị phân hủy trong không khí, di chuyển một quãng đường dài trước khi được lắng đọng lại. Điều này dẫn đến việc tích tụ POP ở những khu vực cách xa nơi chúng được sử dụng hoặc phát thải, cụ thể là những môi trường nơi POP chưa từng xuất hiện như Nam Cực và vòng Bắc Cực. POP có thể tồn tại dưới dạng hơi trong khí quyển hoặc liên kết với bề mặt của các hạt rắn (sol khí). Một yếu tố quyết định cho việc vận chuyển tầm xa là một phần POP được hấp phụ bởi sol khí. Ở dạng hấp phụ, nó – trái ngược với pha khí – được bảo vệ khỏi quá trình oxy hóa quang, nghĩa là quá trình quang phân ly trực tiếp cũng như quá trình oxy hóa bởi các gốc OH hoặc ozone.
POP có độ hòa tan thấp trong nước nhưng dễ dàng bị các hạt rắn bắt giữ và hòa tan trong chất lỏng hữu cơ (dầu, chất béo và nhiên liệu lỏng). POP khó bị phân hủy trong môi trường do tính ổn định và tốc độ phân hủy thấp. Do khả năng phân tán tầm xa này, ô nhiễm môi trường POP rất lớn, ngay cả ở những khu vực mà POP chưa bao giờ được sử dụng và sẽ tồn tại trong những môi trường này nhiều năm sau khi các biện pháp hạn chế được thực hiện do khả năng chống phân hủy của chúng.
Tích lũy sinh học.
Tích lũy sinh học của POP thường liên quan đến khả năng hòa tan lipid cao của hợp chất và khả năng tích tụ trong các mô mỡ của các sinh vật sống trong thời gian dài. Hợp chất khó phân hủy có xu hướng có nồng độ cao hơn và đào thải chậm hơn. Tích lũy trong chế độ ăn uống hoặc tích lũy sinh học là một đặc điểm nổi bật khác của POP, khi POP di chuyển theo chuỗi thức ăn, chúng tăng nồng độ khi được xử lý và chuyển hóa trong một số mô của sinh vật. Chức năng tự nhiên của ống tiêu hóa ở động vật là để tập trung hóa chất ăn vào, cùng với khả năng chuyển hóa kém và bản chất kỵ nước của POP, làm cho các hợp chất này rất dễ bị tích lũy sinh học.
|
Chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808904
|
Do đó, POP không chỉ tồn tại trong môi trường mà khi được động vật hấp thụ, chúng còn tích lũy sinh học, làm tăng nồng độ và độc tính của chúng trong môi trường. Sự gia tăng nồng độ này được gọi là quá trình khuếch đại sinh học, tức là khi các sinh vật ở vị trí cao hơn trong chuỗi thức ăn tích lũy nhiều POP hơn. Tích lũy sinh học và phân tán tầm xa là lý do tại sao POP có thể tích tụ trong các sinh vật như cá voi, thậm chí ở những vùng xa xôi như Nam Cực.
Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy.
Công ước Stockholm được Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) thông qua và đưa vào thực hiện ngày 22 tháng 5 năm 2001. UNEP đã quyết định rằng quy định về POP cần được giải quyết trên toàn cầu vì tương lai. Mục đích của thỏa thuận là "bảo vệ sức khỏe con người và môi trường khỏi các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy." Tính đến năm 2014, có 179 quốc gia tham gia công ước Stockholm. Công ước và những nước tham gia đã nhận ra độc tính tiềm ẩn của POP đối với con người và môi trường. Họ nhận ra rằng POP có tiềm năng phân tán tầm xa, tích lũy sinh học và khuếch đại sinh học. Công ước tìm cách nghiên cứu và sau đó đánh giá liệu một số hóa chất đã được phát triển với những tiến bộ trong công nghệ và khoa học có thể được phân loại là POP hay không. Cuộc họp đầu tiên vào năm 2001 đã đưa ra một danh sách sơ bộ, được gọi là "một tá bẩn thỉu", gồm các chất được phân loại là POP. Hoa Kỳ đã ký Công ước Stockholm nhưng chưa phê chuẩn. Có một số quốc gia khác chưa phê chuẩn công ước nhưng hầu hết các quốc gia trên thế giới đã phê chuẩn.
Các hợp chất trong danh sách của Công ước Stockholm.
Tháng 5 năm 1995, Hội đồng Quản trị UNEP tiến hành điều tra về POP. Ban đầu, Công ước chỉ công nhận 12 chất POP vì những tác động có hại của chúng đối với sức khỏe con người và môi trường, đưa ra lệnh cấm toàn cầu đối với các hợp chất đặc biệt độc hại và có hại này, đồng thời yêu cầu các bên thực hiện các biện pháp để loại bỏ hoặc giảm phát thải POP vào môi trường.
Các hợp chất bổ sung trong Công ước Stockholm.
|
Chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808904
|
Các hợp chất bổ sung trong Công ước Stockholm.
Kể từ năm 2001, danh sách này đã được mở rộng để bao gồm một số hydrocarbon thơm đa vòng (PAH), chất chống cháy brom hóa (BFR) và các hợp chất khác. Bổ sung vào danh sách ban đầu của Công ước Stockholm 2001 là các POP sau:
Ảnh hưởng đến sức khỏe.
Phơi nhiễm POP có thể gây ra các khuyết tật về phát triển, bệnh mãn tính và tử vong. Một số loại là chất gây ung thư theo IARC, có thể bao gồm ung thư vú. Nhiều POP có khả năng gây rối loạn nội tiết ở hệ sinh dục, hệ thần kinh trung ương hoặc hệ miễn dịch. Con người và động vật tiếp xúc với POP chủ yếu thông qua chế độ ăn uống, công việc hoặc khi lớn lên trong bụng mẹ. Đối với những người không tiếp xúc với POP do tai nạn hoặc nghề nghiệp, hơn 90% số ca phơi nhiễm đến từ thực phẩm từ động vật do tích lũy sinh học trong các mô mỡ và qua chuỗi thức ăn. Nhìn chung, nồng độ POP trong huyết thanh tăng theo tuổi và có xu hướng cao hơn ở nữ so với nam.
Các nghiên cứu đã điều tra mối tương quan giữa phơi nhiễm POP ở mức độ thấp và các bệnh khác nhau. Để đánh giá rủi ro bệnh tật do POP ở một địa điểm cụ thể, các cơ quan chính phủ có thể đưa ra đánh giá rủi ro sức khỏe con người có tính đến sinh khả dụng của chất ô nhiễm và mối quan hệ về liều lượng đáp ứng của chúng.
Rối loạn nội tiết.
Phần lớn POP được biết là phá vỡ hoạt động bình thường của hệ thống nội tiết. Phơi nhiễm POP ở mức độ thấp trong các giai đoạn phát triển quan trọng của thai nhi, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có thể có tác động lâu dài trong suốt cuộc đời của chúng. Một nghiên cứu năm 2002 tóm tắt dữ liệu về rối loạn nội tiết và các biến chứng sức khỏe do tiếp xúc với POP trong các giai đoạn phát triển quan trọng trong vòng đời của một sinh vật. Nghiên cứu nhằm trả lời câu hỏi liệu việc phơi nhiễm lâu dài, ở mức độ thấp với POP có thể ảnh hưởng đến hệ thống nội tiết và sự phát triển của các sinh vật từ các loài khác nhau hay không.
|
Chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808904
|
Nghiên cứu cho thấy rằng việc tiếp xúc với POP trong khung thời gian phát triển quan trọng có thể tạo ra những thay đổi vĩnh viễn trong cách phát triển của sinh vật. Phơi nhiễm POP trong các khung thời gian phát triển không quan trọng có thể không dẫn đến các bệnh có thể phát hiện được và các biến chứng sức khỏe sau này trong cuộc đời của sinh vật. Ở động vật hoang dã, các khung thời gian phát triển quan trọng là trong tử cung, trong trứng và trong thời kỳ sinh sản. Ở người, khung thời gian phát triển quan trọng là trong quá trình phát triển của bào thai.
Hệ sinh dục.
Nghiên cứu tương tự vào năm 2002 với bằng chứng về mối liên hệ giữa POP với rối loạn nội tiết, cũng như mối liên hệ giữa việc phơi nhiễm POP liều thấp với các ảnh hưởng sức khỏe sinh sản. Nghiên cứu chỉ ra rằng việc tiếp xúc với POP có thể dẫn đến những tác động tiêu cực đến sức khỏe, đặc biệt là ở hệ sinh dục nam, chẳng hạn như giảm chất lượng và số lượng tinh trùng, thay đổi tỷ lệ giới tính và bắt đầu dậy thì sớm. Đối với phụ nữ tiếp xúc với POP, các mô sinh sản bị thay đổi và các biến chứng mang thai cũng như lạc nội mạc tử cung đã được báo cáo.
Tăng cân khi mang thai và chu vi vòng đầu của trẻ sơ sinh.
Một nghiên cứu của Hy Lạp từ năm 2014 đã điều tra mối liên hệ giữa việc tăng cân của người mẹ khi mang thai, mức độ phơi nhiễm PCB và hàm lượng PCB, cân nặng sơ sinh, tuổi thai và chu vi vòng đầu ở trẻ sơ sinh. Cân nặng sơ sinh và chu vi vòng đầu của trẻ sơ sinh càng thấp thì mức POP trong quá trình phát triển trước khi sinh càng cao, nhưng chỉ khi người mẹ tăng cân quá mức hoặc không đủ trong thai kỳ. Nghiên cứu không tìm thấy mối tương quan giữa phơi nhiễm POP và tuổi thai.
Một nghiên cứu kiểm soát trường hợp công bố năm 2013 được tiến hành dựa trên các bà mẹ Ấn Độ và con cái của họ vào năm 2009, cho thấy phơi nhiễm trước khi sinh với hai loại thuốc trừ sâu clo hữu cơ (HCH, DDT và DDE) làm suy giảm sự phát triển của bào thai, giảm cân nặng, chiều dài, chu vi vòng đầu và vòng ngực khi sinh.
Ảnh hưởng sức khỏe của PFAS.
|
Chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808904
|
Ảnh hưởng sức khỏe của PFAS.
Các chất gây rối loạn nội tiết, bao gồm cả PFAS, có liên quan đến sự suy giảm nhanh chóng khả năng sinh sản của con người. Trong một phân tích tổng hợp về mối liên hệ giữa PFAS và dấu ấn sinh học lâm sàng ở người đối với tổn thương gan, các nhà nghiên cứu đã xem xét cả tác động của PFAS đối với dấu ấn sinh học gan và dữ liệu mô học từ các nghiên cứu thực nghiệm trên loài gặm nhấm và kết luận rằng có bằng chứng cho thấy PFOA, acid perfluorohexanesulfonic (PFHxS) và acid perfluorononanoic (PFNA) gây độc cho gan của con người.
Nhiều nghiên cứu dịch tễ học đến từ Hội đồng Khoa học C8 ("C8 Science Panel") toàn diện liên kết các tác động bất lợi đến sức khỏe con người với PFAS, đặc biệt là PFOA. Hội đồng được thành lập như một phần trong kế hoạch dự phòng cho một vụ kiện tập thể do các cộng đồng ở Thung lũng sông Ohio khởi xướng chống lại DuPont nhằm phản ứng lại việc chôn lấp và đổ nước thải vật liệu chứa PFAS từ Nhà máy Công trình West Virginia Washington của công ty. Hội đồng đã đo nồng độ PFOA (còn được gọi là C8) trong huyết thanh của 69.000 cá nhân xung quanh Nhà máy Washington Works của DuPont và xác định nồng độ trung bình là 83,0 ng/mL, so với 4 ng/mL trong dân số tiêu chuẩn của người Mỹ. Hội đồng đã báo cáo các mối liên hệ có thể xảy ra giữa nồng độ PFOA trong máu tăng cao với tăng cholesterol máu, viêm loét đại tràng, bệnh tuyến giáp, ung thư tinh hoàn, ung thư thận cũng như tăng huyết áp và tiền sản giật do mang thai.
Ở khu vực đô thị và môi trường trong nhà.
Ban đầu, người ta cho rằng việc con người tiếp xúc với POP chủ yếu xảy ra thông qua thực phẩm, tuy nhiên các mô hình ô nhiễm trong nhà đặc trưng cho một số POP nhất định đã chống quan niệm này. Các nghiên cứu gần đây về bụi và không khí trong nhà cho thấy môi trường trong nhà là nguồn chính khiến con người tiếp xúc POP qua đường hô hấp và đường tiêu hóa. Hơn nữa, ô nhiễm POP đáng kể trong nhà phải là con đường phơi nhiễm POP chính của con người, xét đến xu hướng hiện đại là dành phần lớn cuộc sống trong nhà.
|
Chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808904
|
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng nồng độ POP trong nhà (không khí và bụi) vượt quá nồng độ POP ngoài trời (không khí và đất).
Trong nước mưa.
Vào năm 2022, người ta phát hiện ra rằng mức độ của ít nhất bốn axit perfluoroalkyl (PFAA) trong nước mưa ở khắp nơi trên toàn thế giới và thường vượt quá nhiều so với khuyến cáo về sức khỏe nước uống trọn đời của EPA cũng như các tiêu chuẩn an toàn tương đương của Đan Mạch, Hà Lan và Liên minh châu Âu, dẫn đến kết luận rằng "sự phổ biến toàn cầu của bốn loại PFAA này trong khí quyển đã làm cho ranh giới hành tinh của ô nhiễm hóa chất bị vượt quá". Có một số động thái nhằm hạn chế và thay thế việc sử dụng chúng.
Trong mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân.
Các chất per- và polyfluoroalkyl (PFAS) là một nhóm gồm khoảng 9.000 hợp chất fluor hữu cơ tổng hợp có nhiều nguyên tử fluor có độc tính cao gắn vào một chuỗi alkyl. PFAS được sử dụng trong sản xuất nhiều loại sản phẩm như bao bì thực phẩm và quần áo. Chúng cũng được các công ty lớn của ngành mỹ phẩm sử dụng trong nhiều loại mỹ phẩm, bao gồm son môi, bút kẻ mắt, mascara, kem nền, kem che khuyết điểm, sáp dưỡng môi, phấn má hồng, sơn móng và các sản phẩm khác tương tự. Một nghiên cứu năm 2021 thử nghiệm 231 sản phẩm trang điểm và chăm sóc cá nhân tìm thấy fluor hữu cơ, một chỉ số của PFAS, trong hơn một nửa số mẫu. Hàm lượng fluor cao được xác định phổ biến nhất trong mascara không thấm nước (82% nhãn hiệu được thử nghiệm), kem nền (63%) và son môi dạng lỏng (62%). Vì các hợp chất PFAS có tính di động cao nên chúng dễ dàng được hấp thụ qua da người và qua các ống dẫn nước mắt, và những sản phẩm sử dụng trên môi thường vô tình bị nuốt phải. Các nhà sản xuất thường không dán nhãn sản phẩm của họ là có chứa PFAS, và điều này khiến người tiêu dùng mỹ phẩm khó tránh các sản phẩm có chứa PFAS.
Kiểm soát và loại bỏ trong môi trường.
Các nghiên cứu hiện tại nhằm giảm thiểu POP trong môi trường đang nghiên cứu hoạt động của chúng trong các phản ứng oxy hóa quang xúc tác. Các chất POP được tìm thấy trong cơ thể người và trong môi trường nước là đối tượng chính của các thí nghiệm này.
|
Chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808904
|
Các sản phẩm phân hủy thơm và béo đã được xác định trong các phản ứng này. Sự phân hủy quang hóa không đáng kể so với sự phân hủy quang xúc tác. Một phương pháp loại bỏ POP khỏi môi trường biển đã được khám phá là hấp phụ. Nó xảy ra khi một chất tan có khả năng hấp thụ tiếp xúc với chất rắn có cấu trúc bề mặt xốp. Kỹ thuật này đã được phát hiện bởi Mohamed Nageeb Rashed từ Đại học Aswan, Ai Cập. Các nỗ lực hiện tại tập trung hơn vào việc cấm sử dụng và sản xuất POP trên toàn thế giới hơn là loại bỏ POP.
|
Tổ Hiếu Tôn
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808906
|
Tổ Hiếu Tôn () là một nhạc sĩ Trung Quốc dưới thời nhà Tùy và nhà Đường. Dưới triều Khai Hoàng (581–600), Tùy Văn Đế, ông được phong làm "Hiệp luật lang" (协律郎), đảm nhiệm việc chơi nhạc lễ. Sau khi nhà Đường thành lập, Tổ Hiếu Tôn giữ chức vụ "trữ tác lang" (著作郎), "lại bộ lang" (吏部郎) và "thái thường thiếu khanh" (太常少卿).
Tất cả các tác phẩm của Tổ Hiếu Tôn về thang âm lên dây đàn đã bị thất lạc, chỉ có một số tóm tắt về lý thuyết của ông được ghi lại trong "Âm nhạc chí" (音乐志) và "Lễ nhạc chí" (礼乐志).
|
Tổ Thúy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808907
|
Tổ Thúy (; sinh ngày 20 tháng 6 năm 1990) là một vận động viên bóng ném đồng đội người Trung Quốc. Cô chơi cho câu lạc bộ An Huy HC, và đội tuyển quốc gia Trung Quốc. Cô đại diện cho Trung Quốc tại Giải vô địch bóng ném nữ thế giới 2013 ở Serbia, nơi đội Trung Quốc xếp thứ 18.
|
Bessarabia (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808923
|
Tỉnh Bessarabia là một tỉnh ("guberniya") của Đế quốc Nga, trung tâm hành chính nằm tại Kishinev (nay là Chișinău của Moldova). Tỉnh có diện tích và có 1.935.412 cư dân. Tỉnh Bessarabia giáp với tỉnh Podolia ở phía bắc, tỉnh Kherson ở phía đông, biển Đen ở phía nam, Romania ở phía tây, và Áo ở phía tây bắc. Lãnh thổ tỉnh này hiện gần tương ứng với hầu hết Moldova (65%) và một số phần của các tỉnh Chernivtsi và Odesa của Ukraina (35%).
Tỉnh bao gồm phần phía đông của Thân vương quốc Moldavia cùng các lãnh thổ lân cận của Ottoman bị Nga sáp nhập theo Hiệp định Bucharest sau Chiến tranh Nga–Thổ (1806–1812). Tỉnh bị bãi bỏ vào năm 1917 cùng với việc thành lập Sfatul Țării, hội đồng này tuyên bố Cộng hòa Dân chủ Moldavia vào tháng 12 năm 1917. Sau đó khu vực thống nhất với Romania vào tháng 4 năm 1918.
Lịch sử.
Sáp nhập.
Khi Đế quốc Nga nhận thấy sự suy yếu của Đế quốc Ottoman, họ đã chiếm nửa phía đông của Thân vương quốc Moldavia tự trị, giữa hai sông Prut và Dniester. Tiếp theo đó là sáu năm chiến tranh, kết thúc theo Hiệp định Bucharest (1812), theo đó Đế quốc Ottoman thừa nhận việc Nga sáp nhập tỉnh này.
Năm 1829, theo Hiệp định Adrianople, Ottoman nhượng lại lãnh thổ đó cho Nga cùng đồng bằng sông Danube, nơi này cũng trở thành một phần của tỉnh Bessarabia.
Trước khi Nga sáp nhập, lãnh thổ này không có tên cụ thể, Moldavia được chia theo truyền thống thành "Ţara de Sus" (Vùng đất thượng, khu vực miền núi của Karpat) và "Ţara de Jos" (Vùng đất hạ, vùng đồng bằng bao gồm lãnh thổ này). Bessarabia vốn là tên phần phía nam của lãnh thổ này (nay gọi là Budjak); người ta tin rằng khu vực này được đặt tên theo [Nhà Basarab]] của Wallachia, có thể đã cai trị khu vực vào thế kỷ 14. Người Nga sử dụng tên "Bessarabia" cho cả khu vực chứ không phải chỉ phần phía nam.
Bessarabia có diện tích 45.630 km², nhiều hơn phần còn lại của Moldavia và dân số là từ 240.000 đến 360.000 người, hầu hết là người Moldavia nói tiếng Romania.
|
Bessarabia (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808923
|
Các boyar của Bessarabia phản đối việc sáp nhập, cho rằng Đế quốc Ottoman không có quyền nhượng lại một lãnh thổ ngay từ đầu đã không phải là của họ (Moldavia chỉ là một chư hầu, không phải là một tỉnh của Ottoman), nhưng điều này không ngăn cản được Sultan ký hiệp ước vào tháng 5 năm 1812.
Thời kỳ tỉnh.
Sau khi sáp nhập, các boyar địa phương, do Giám mục đô thành của Chișinău và Hotin là Gavril Bănulescu-Bodoni lãnh đạo, đã kiến nghị về quyền tự trị và thành lập một chính quyền dân sự dựa trên pháp luật truyền thống của Moldavia. Năm 1818, một khu tự trị đặc biệt đã được thành lập, cả tiếng Romania và tiếng Nga đều là ngôn ngữ được sử dụng trong chính quyền địa phương. Bănulescu-Bodoni cũng được phép mở một chủng viện và một nhà in, với nhà thờ Bessarabia là một giáo khu của Giáo hội Chính thống Nga.
Sau cái chết của Bănulescu-Bodoni vào năm 1821, Bessarabia thiếu một nhà lãnh đạo mạnh mẽ, và do người Nga lo sợ chủ nghĩa dân tộc từng gây ra Cách mạng Wallachia chống Ottoman năm 1821 ở Wallachia lân cận, chính quyền địa phương bắt đầu rút dần nhiều quyền tự do.
Nikolai I của Nga lên ngôi năm 1825, bắt đầu chiến dịch cải cách với mục tiêu giành quyền kiểm soát nhiều hơn đối với các tỉnh phía tây. Quyền tự trị của khu vực bị rút lại vào năm 1829, với hiến pháp mới được viết bởi thống đốc của Tân Nga và Bessarabia là Mikhail Semyonovich Vorontsov. Năm 1834, tiếng Romania bị cấm trong các trường học và cơ quan chính phủ, và ngay sau đó là cấm với sách, báo chí và nhà thờ mặc dù 80% dân số là người Romania. Những người chống lại những thay đổi có thể bị đày đến Siberia. Hiến pháp không còn bắt buộc sử dụng tiếng Romania cho các thông báo công khai và vào năm 1854, tiếng Nga trở thành ngôn ngữ chính thức. Cũng vào khoảng năm 1850, tiếng Romania không còn được sử dụng trong trường học và việc nhập khẩu sách từ Moldavia và Wallachia bị cấm.
Quá trình hội nhập vào Đế quốc Nga tiếp tục cùng với thi hành zemstva vào năm 1869. Mặc dù hệ thống này nhằm tăng cường sự tham gia của người dân địa phương vào các vấn đề dân sự, nhưng nó được điều hành bởi người Nga và các quan chức không phải người Moldovia khác được đưa đến từ khắp Đế quốc.
|
Bessarabia (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808923
|
Các boyar Moldavia phản đối những cải cách làm suy giảm quyền lực của chính họ, nhưng các kháng nghị của họ không được tổ chức tốt và hầu như bị phớt lờ. Tuy nhiên, một số gia đình boyar Moldavia đã được hòa nhập vào giới quý tộc Nga, nhưng hầu hết các quý tộc của Bessarabia đều là người nước ngoài: vào năm 1911, có 468 gia đình quý tộc ở Bessarabia, trong đó chỉ có 138 là người Moldavia. Vào đầu thế kỷ 20, cư dân Do Thái chiếm tới 40% dân số Kishinev.
Romania giành được độc lập vào năm 1878, nhưng hàng triệu người dân tộc Romania sống bên ngoài biên giới của nước này, và do đó nước này có nguyện vọng đối với Transylvania, cũng như Bessarabia.
Nam Bessarabia trở về Moldavia.
Năm 1856, theo các điều khoản của Hiệp định Paris, Nga buộc phải trả lại một vùng lãnh thổ đáng kể tại Nam Bessarabia cho Moldavia, quốc gia này gia nhập Wallachia vào năm 1859 để hình thành Romania.
Năm 1877, Đế quốc Nga và Romania ký một hiệp ước mà theo đó Romania và Nga là đồng minh chống lại Đế quốc Ottoman, trong khi Nga công nhận nền độc lập của Romania và đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ sau chiến tranh. Tuy nhiên, vào cuối Chiến tranh Nga-Thổ (1877–1878), Nga chiếm Nam Bessarabia, Alexander Gorchakov biện minh rằng đây là "vấn đề danh dự quốc gia" đối với Nga và lập luận rằng lãnh thổ này đã được nhượng lại vào năm 1856 cho Moldavia, không phải Romania và rằng sự đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ của Nga là nhằm chống lại các yêu sách của Thổ Nhĩ Kỳ.
Các chính trị gia và công chúng Romania vô cùng tức giận trước hành động này: Chính trị gia Romania Mihail Kogălniceanu cáo buộc Nga lừa dối và đối xử với đồng minh như một tỉnh bị chinh phục. Ông thậm chí còn bắt đầu một bị vong lục chống lại Nga để cố gắng gây ảnh hưởng đến các chính phủ phương Tây, không chỉ tố cáo việc sáp nhập Nam Bessarabia mà còn cả việc sáp nhập Bessarabia năm 1812. Mặc dù vậy, không cường quốc châu Âu nào muốn mạo hiểm xung đột với Nga.
Theo Hiệp định Berlin (1878), Romania giành được Dobruja như một sự bù đắp cho việc mất Nam Bessarabia.
|
Bessarabia (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808923
|
Mặc dù là một lãnh thổ rộng lớn hơn, nhưng người Romania coi đó là một sự trao đổi không công bằng và chấp nhận nó một cách miễn cưỡng, vì không có giải pháp thay thế nào khác.
Văn hóa.
Do hậu quả của chính sách Nga hóa, Bessarabia là tỉnh lạc hậu nhất trong số các tỉnh phía tây của Đế quốc Nga. Năm 1897, tỷ lệ biết chữ của toàn bộ Bessarabia chỉ là 15,4%, với chỉ 6% người dân tộc Moldavia biết chữ, lý do chính đằng sau điều này là tiếng Nga là ngôn ngữ giảng dạy duy nhất. Tính đến năm 1920, ước tính có khoảng 10% nam giới và 1% nữ giới có thể đọc và viết.
Triều đại của Alexandr II đưa ra chính sách thành lập trường học ở mọi giáo xứ: 400 trường học nông thôn được thành lập vào những năm 1860 ở Bessarabia, nhưng Nhà thờ Chính thống giáo khẳng định mọi thứ đều được dạy bằng tiếng Nga, trong khi cả linh mục (là giáo viên ở hầu hết các làng) cũng như học sinh đều không nói ngôn ngữ này. Vì vậy, đến những năm 1880 chỉ còn lại 23 trường học.
Kết quả là đời sống văn học và văn hóa bị đình trệ, chỉ có một số nhân vật văn học đáng chú ý xuất thân từ Bessarabia, trong số đó có Alexandru Hasdeu (1811–1872), Constantin Stamati (1786–1869) và Teodor Vîrnav (1801–1860). Vào nửa sau của thế kỷ 19, mọi liên kết với văn học Romania đều bị cắt đứt và không có trào lưu văn học hay trường phái phê bình nào phát triển ở Bessarabia. Trên thực tế, vào năm 1899, một vị khách không tìm thấy cuốn sách tiếng Romania nào trong thư viện công cộng Kishinev.
Thảm sát Kishinev.
Thảm sát Kishinev là một cuộc bạo loạn chống người Do Thái diễn ra tại thủ phủ Kishinev của tỉnh vào ngày 19 và 20 tháng 4 năm 1903. Các cuộc bạo loạn khác bùng phát vào tháng 10 năm 1905.<ref name="JEncyclo/"></ref> Trong làn sóng bạo lực đầu tiên, liên quan đến lễ Phục sinh, 49 người Do Thái bị giết, một số lượng lớn phụ nữ Do Thái bị hãm hiếp và 1.500 ngôi nhà bị hư hại. Người Do Thái ở Mỹ bắt đầu hỗ trợ tài chính có tổ chức quy mô lớn và hỗ trợ di cư.
|
Bessarabia (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808923
|
Vụ việc tập trung sự chú ý tiêu cực trên toàn thế giới vào cuộc đàn áp người Do Thái ở Nga.
Chính trị.
Không có đảng chính trị hay phong trào Moldavia nào ở Bessarabia cho đến năm 1905, khi có hai nhóm lớn được thành lập. Những người ôn hòa do địa chủ Pavel Dicescu lãnh đạo được tổ chức xung quanh "Societatea pentru Cultură Naţională" ("Hiệp hội Văn hóa Dân tộc"), tranh luận về việc sử dụng tiếng Romania làm ngôn ngữ giảng dạy trong trường học, nhưng chống lại các cải cách xã hội. Năm 1909, họ đã thành công trong việc thông qua một nghị quyết tại zemstvo của tỉnh liên quan đến việc sử dụng tiếng Romania trong trường học.
Những người cấp tiến (người dân chủ dân tộc), chủ yếu là sinh viên được đào tạo tại các trường đại học Nga và chịu ảnh hưởng của các nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa, muốn một sự thức tỉnh dân tộc thực sự, cũng như công bằng xã hội. Họ thành lập một tờ báo tên là "Basarabia" (số đầu tiên vào ngày 24 tháng 5 năm 1906) do Constantin Stere đứng đầu, kêu gọi quyền tự trị của Bessarabia và nhiều quyền hơn để bảo vệ ngôn ngữ và văn hóa của họ, đồng thời nói rõ rằng họ không muốn ly khai khỏi Đế quốc Nga.
Phong trào của họ không mấy thành công vì vào năm 1907, phe cực hữu đã thắng trong cuộc bầu cử Duma thứ hai. Vào tháng 3 năm 1907, tờ báo xuất bản "Deşteaptă-te, române!" ("Hãy thức dậy, người Romania!"), một bài hát yêu nước của người Romania, đã khiến Thống đốc Bessarabia là Kharuzin ra lệnh đóng cửa tờ báo chỉ 9 tháng sau số đầu tiên. Hầu hết những người đóng góp cho tờ báo sau đó trốn đến Iaşi.
Khi Cách mạng Tháng Hai xảy ra ở Petrograd năm 1917, thống đốc của tỉnh Bessarabia là Mihail Mihail Voronovici từ chức vào ngày 13 tháng 3 và chuyển giao quyền lực hợp pháp của mình cho chủ tịch của zemstvo tỉnh là Constantin Mimi, người này được bổ nhiệm làm Ủy viên nhân dân của "Chính phủ lâm thời tại Bessarabia", với Vladimir Criste là cấp phó của ông ta.
|
Bessarabia (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808923
|
Các thủ tục tương tự cũng diễn ra ở tất cả các vùng của Đế quốc: các thủ lĩnh của chính quyền Sa hoàng đã chuyển giao quyền hạn hợp pháp của họ cho các thủ lĩnh của huyện và zemstvo tỉnh, sau đó được gọi là Ủy viên nhân dân huyện/tỉnh.
Nhân khẩu.
Theo nhà sử học người Bessarabia Ștefan Ciobanu, vào đầu thế kỷ 19 tỷ lệ người Romania (Moldavia) là khoảng 95% (1810), không bao gồm các lãnh thổ trước đây nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Thổ Nhĩ Kỳ (Budjak và Khotyn), nhưng nơi đó cũng được cho là có người Romania chiếm đa số. Quyền cai trị của người Nga dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cấu trúc dân tộc của Bessarabia, đặc biệt là do chính sách nhập cư của Nga từ các tỉnh lân cận và quá trình Nga hóa. Việc nhập cư là không đồng đều: ở một số khu ở phía bắc và phía nam của Bessarabia (ví dụ Hotin và Akkerman), dòng người nhập cư dẫn đến việc người Ukraina đông hơn người Romania, trong khi các vùng nông thôn của trung tâm hầu hết là người Romania.
Ban đầu, mục đích của chính sách thuộc địa hóa không liên quan đến thành phần dân tộc, mà là tăng dân số của khu vực có dân cư khá thưa thớt, nhằm khai thác tốt hơn các nguồn tài nguyên của nó. Đó là một phần của chiến dịch thuộc địa hóa Novorossiya lớn hơn, theo đó Nga kêu gọi tất cả những ai muốn làm việc và sống dưới thẩm quyền của mình, bất kể họ đến từ Đế quốc Nga hay từ nơi khác.
Hầu hết người Moldavia tại Bessarabia là nông dân tự do, trong đó hầu hết không có đất, họ thuê đất từ địa chủ và tu viện, trong khi 12% (năm 1861) là răzeşi (nông dân tự canh). Cải cách Giải phóng nông nô năm 1861 có rất ít tác động ở Bessarabia, vì nơi đây có rất ít nông nô: chỉ 12.000 nông nô, hầu hết được đưa đến từ Nga cho các hoạt động phi nông nghiệp.
Dân số thành thị khá thấp, chỉ chiếm 14,7% vào năm 1912, hầu hết các thành phố chỉ là trung tâm hành chính địa phương và ít ngành công nghiệp. Ngoài ra, chỉ ít cư dân thành thị là người Moldavia, vào năm 1912, 37,2% là người Do Thái, 24,4% là người Nga, 15,8% là người Ukraina, chỉ có 14,2% là người Moldavia.
Hành chính.
|
Bessarabia (tỉnh của Đế quốc Nga)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808923
|
Hành chính.
Từ 1812 đến 1818, tỉnh có 12 huyện, sau đó được hợp nhất thành 6, sau đó tách thành 9 huyện (ținuturi): Hotin, Soroca, Iași, Orhei, Bender, Hotărniceni, Greceni, Codru, Reni (Ismail). Các thuật ngữ ban đầu cho huyện là (trong ).
Hai huyện Cahul và Ismail được trả lại cho Moldavia vào năm 1856. Ở đó, chúng được gọi là Nam Bessarabia với ba huyện vì huyện Bolgrad được tách ra khỏi huyện Ismail. Khi bị Đế quốc Nga sáp nhập một lần nữa vào năm 1878, những huyện này được gộp lại thành một huyện Ismail, do đó từ năm 1878 đến năm 1917, tỉnh có 8 huyện.
Giáo hội.
Được tách khỏi Tòa đô thị Moldavia, nhà thờ Chính thống giáo Bessarabia trở thành một giáo khu của Giáo hội Chính thống giáo Nga, và sau cái chết của Bănulescu-Bodoni, họ trở thành một tác nhân trong chính sách nhà nước về Nga hóa.
Tất cả các tổng giám mục sau năm 1821 đã cố gắng đưa giáo khu tuân theo các quy định của Giáo hội Chính thống Nga và do đó, tất cả các giáo sĩ cấp cao đều được đưa đến từ Nga, vì họ quen thuộc hơn với các quy tắc của giáo hội Nga.
Tổng giám mục Irinarh Popov (1844–1858) cố gắng thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc Nga và lòng trung thành với sa hoàng, đồng thời đưa các giáo sĩ từ Nga sang. Tổng giám mục Pavel Lebedev buộc các nhà thờ và tu viện Moldavia phải sử dụng tiếng Nga trong các nghi lễ tôn giáo, khiến kiến thức về tiếng Nga trở thành bắt buộc để trở thành một linh mục, nhưng bất chấp những nỗ lực của ông, vào cuối thời kỳ cai trị của ông (1882), vẫn có 417 nhà thờ chỉ sử dụng tiếng Rumani trong nghi lễ.
Sau Cách mạng Nga năm 1905, nhà thờ quyết định cho phép các linh mục làng sử dụng tiếng Romania và tái lập nhà in giáo khu, nơi đây sẽ xuất bản các tài liệu tôn giáo và một tờ báo.
|
Phạm Bá Hiền
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808926
|
Phạm Bá Hiền sinh năm 1972 tại xã Mai Phụ, huyện Lộc Hà, hiện là Tư lệnh Binh đoàn 16, Bộ Quốc phòng. Ông có quân hàm thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Sự nghiệp.
Dân sự.
Theo ông Phan Tiến Dũng -Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Lộc Hà- ông Hiền trước đó làm nghề buôn bán trong thị trường vải ở Sài Gòn. Sau khi sáp nhập công ty vào Bộ Quốc Phòng, ông ta mới gia nhập vào quân đội.
Vụ trốn thuế tại chi nhánh 3 Công ty Thăng Long (Bộ Quốc phòng).
Theo kết quả điều tra ban đầu, chi nhánh 3 tại TP HCM của Công ty Thăng Long (doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng, trụ sở tại Hà Nội) đã trốn thuế nhập khẩu hơn 1,18 triệu mét vải và hàng trăm ngàn tấn sợi. Thăng Long còn sửa tờ khai xuất xứ hàng hóa (C/O), dùng giấy tờ và con dấu giả, nhập thừa 310.000m vải và 4.100kg vải vụn. Tổng trị giá hàng sai phạm từ trước đến nay là 560.000 USD. Ông Phạm Bá Hiền, lúc đó làm phó giám đốc chi nhánh cũng bị khởi tố.
Quân đội.
Từ tháng 12/2014 đến tháng 10/2022, ông giữ chức vụ Phó Tư lệnh; từ tháng 11/2022 đến nay là Tư lệnh Binh đoàn 16. Ngày 12/5/2023 vừa qua, ông Hiền được phong quân hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng.
Vụ tai tiếng.
Bữa tiệc linh đình mâm cỗ linh đình, lẵng hoa chúc mừng dựng khắp khuôn viên với hàng trăm khách do mẹ ông Phạm Bá Hiền tổ chức tại tư gia nguy nga, tráng lệ của bà mừng ông lên chức thiếu tướng đang gây xôn xao dư luận. Đây là một biệt thự ước tính tiền xây dựng mất cả trăm tỉ đồng mà bà Từ Thị Loan (78 tuổi) mẹ của thiếu tướng Hiền, người chỉ đạp xe đi bán rau cải, sở hữu. ,
|
Slavo-Serbia
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808942
|
Slavo-Serbia hay Slaveno-Serbia (; ; ), là một lãnh thổ của Đế quốc Nga từ 1753 đến 1764. Khu vực nằm tại hữu ngạn sông Donets, giữa sông Bakhmutka và sông Luhan. Khu vực hiện nay thuộc các tỉnh Luhansk và Donetsk của Ukraina. Trung tâm hành chính của Slavo-Serbia là Bakhmut (Bahmut).
Lịch sử.
Theo sắc lệnh của Thượng viện ngày 29 tháng 5 năm 1753, các vùng đất miễn phí trong khu vực này được được cấp để định cư cho người Serb, người Romania, người Bulgaria, người Hy Lạp và các dân tộc Balkan khác theo Chính thống giáo Đông phương nhằm đảm bảo việc bảo vệ biên giới và phát triển phần thảo nguyên này.
Slavo-Serbia nằm dưới quyền cai quản trực tiếp của Thượng viện điều hành và Viện Chiến tranh. Những người định cư cuối cùng thành lập trung đoàn kỵ binh hussar Bakhmut năm 1764. Cũng trong năm 1764, Slavo-Serbia được chuyển thành uyezd (huyện) Donets của tỉnh Yekaterinoslav (nay thuộc tỉnh Dnipropetrovsk, Ukraina). Các chỉ huy của Slavo-Serbia là các đại tá Rajko Depreradović và Jovan Šević. Các đại tá người Serb này lãnh đạo binh sĩ của họ trong các chiến dịch khác nhau của Nga; trong thời bình họ trấn giữ vùng biên giới, cùng với người Cossack, chống các nước khác xâm lấn.
Nhân khẩu.
Tỉnh này có dân số đa dạng về sắc tộc bao gồm người Serb, người Romania và những dân tộc khác. Năm 1755, dân số của Slavo-Serbia là 1.513 người (của cả hai giới). Năm 1756, trong trung đoàn của Jovan Šević, có 38% là người Serb, 23% là người Romania và 22% là dân tộc khác.
|
Danh sách cầu thủ tham dự vòng chung kết UEFA Nations League 2019
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808943
|
Vòng chung kết UEFA Nations League 2019 là một giải đấu bóng đá quốc tế được tổ chức tại Bồ Đào Nha từ ngày 5 đến ngày 9 tháng 6 năm 2019. Bốn đội tuyển quốc gia tham gia giải đấu được yêu cầu đăng ký một đội hình tối đa gồm 23 cầu thủ, trong đó ba cầu thủ phải là thủ môn, và đội hình sẽ được chốt trước ngày 26 tháng 5 năm 2019, mười ngày trước khi giải đấu diễn ra. Chỉ những cầu thủ trong những đội hình này mới đủ điều kiện tham gia giải đấu. Trong trường hợp một cầu thủ trong danh sách cầu thủ đã được gửi bị chấn thương hoặc ốm trước trận đấu đầu tiên của giải đấu, cầu thủ đó có thể được thay thế bất kỳ lúc nào trong vòng 24 giờ trước trận đấu đầu tiên của họ. Bác sĩ của mỗi đội và Ủy ban y tế UEFA đều phải xác nhận rằng chấn thương hoặc bệnh tật đủ nghiêm trọng để ngăn cầu thủ tham gia giải đấu.
Vị trí được liệt kê cho mỗi cầu thủ nằm trong danh sách đội hình chính thức do UEFA công bố. Độ tuổi được liệt kê cho mỗi cầu thủ là vào ngày 5 tháng 6 năm 2019, ngày đầu tiên của giải đấu. Số lần khoác áo và số bàn thắng được liệt kê cho mỗi cầu thủ không bao gồm bất kỳ trận đấu nào được thi đấu sau khi bắt đầu giải đấu. Câu lạc bộ được liệt kê là câu lạc bộ dành cho các cầu thủ đã thi đấu một trận đấu cuối cùng trước giải đấu. Quốc tịch của mỗi câu lạc bộ sẽ phản ánh hiệp hội quốc gia (không phải giải đấu) mà câu lạc bộ được liên kết.
Đội hình.
Bồ Đào Nha.
Huấn luyện viên: Fernando Santos
Đội hình chính thức của Bồ Đào Nha đã được công bố vào ngày 23 tháng 5 năm 2019.
Anh.
Huấn luyện viên: Gareth Southgate
Anh đã công bố một đội hình sơ bộ gồm 27 cầu thủ vào ngày 16 tháng 5 năm 2019. Đội hình chính thức của Anh đã được công bố vào ngày 27 tháng 5 cùng năm.
Hà Lan.
Huấn luyện viên: Ronald Koeman
Hà Lan đã công bố một đội hình sơ bộ gồm 28 cầu thủ vào ngày 10 tháng 5 năm 2019. Do chấn thương nên Kenny Tete sau này được Hans Hateboer thay thế. Đội hình chính thức của Hà Lan đã được công bố vào ngày 27 tháng 5 cùng năm.
Thụy Sĩ.
|
Danh sách cầu thủ tham dự vòng chung kết UEFA Nations League 2019
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808943
|
Thụy Sĩ.
Huấn luyện viên: Vladimir Petković
Đội hình chính thức của Thụy Sĩ đã được công bố vào ngày 27 tháng 5 năm 2019. Ba ngày sau, Breel Embolo gặp chấn thương và người thay thế cho anh là Noah Okafor.
|
Cổ kính ký
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808944
|
Cổ kính ký (chữ Hán: 古鏡記) là tiểu thuyết truyền kỳ thời Đường, có thuyết nói tác giả là Vương Độ.
Tổng quan.
Cốt truyện.
"Cổ kính ký" kể lại vào năm Đại Nghiệp thứ bảy (611), nhân vật chính trong truyện là Vương Độ có được chiếc gương thần ở nhà Hầu sinh (侯生), gương đó bắt được ma quỷ yêu quái xuống, sau em là Vương Tích (王績) đi chơi xa, mượn làm vật tùy thân, cũng dùng giết được nhiều ma quái, bao gồm cả thụ yêu và hồ ly tinh. Về sau Tích trở về Trường An, đem chiếc gương này trả lại cho anh mình. Năm Đại Nghiệp thứ mười ba (617) thì gương thần đột nhiên biến mất trong hộp.
Nhận định.
"Cổ kính ký" là tác phẩm tiên phong về truyện truyền kỳ đời Đường, có dư phong chí quái thời Lục Triều, đồng thời miêu tả tinh tế đối thoại giữa các nhân vật. Tác giả của cuốn sách này không rõ, lời tựa sách "Đới thị quảng dị ký" (戴氏广异记) của Cố Huống thời Đường cho rằng "Cổ kính ký" là tác phẩm của Vương Độ, nhưng không có bằng chứng xác thực. "Thái Bình quảng ký" (太平广记) quyển 230 cũng có chép chuyện này.
"Cổ kính ký" bao gồm mười hai câu chuyện độc lập, tất cả đều liên quan đến chiếc gương cổ, vì vậy mà được Triều Công Vũ thời Tống xếp vào mục Thư loại (類書) trong "Quận Trai độc thư chí" (郡斋读书志). "Cổ kính ký" dài khoảng 3.000 chữ Hán, kế thừa tiểu thuyết chí quái thời Lục Triều, đồng thời mở ra một phong cách mới vào thời Đường. "Cổ kính ký" có lẽ là một số lời đồn đại phổ biến vào thời điểm đó, những cuốn sách như "Tùy Đường gia thoại" (隋唐嘉话), "Dị văn lục" (异闻录), "Tùng song lục" (松窗录) đều có nói về chiếc gương báu này.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.