source
stringlengths 3
14.5k
| summary keyword
stringlengths 3
90
| summary
stringlengths 265
1.86k
|
---|---|---|
Gen Z hay thế hệ Z là một thuật khá phổ biến trong đời sống, nhưng không phải ai cũng biết ý nghĩa của từ này. Cùng tìm hiểu bài viết dưới đây để biết gen Z là gì, thế hệ Z là gì nhé!. Gen Z (thế hệ Z) là cụm từ để nói đến nhóm người được sinh trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến năm 2012. Tuy nhiên, một ý kiến cho rằng Gen Z là những người sinh từ 1997 đến 2015. Trên thế giới, có khoảng 2,6 tỷ người thuộc thế hệ Z, chiếm khoảng ⅓ dân số. Tại Việt Nam, Gen Z có khoảng 15 triệu người, chiếm khoảng 25% lực lượng lao động quốc gia. Thế hệ Z là nhóm kế tiếp sau thế hệ Millennials (Gen Y) và trước thế hệ Alpha (α), và thường là con cái của thế hệ X (sinh ra từ năm 1965 đến 1979). Những người sinh năm từ 1995 đến năm 2012, lứa được sinh ra ngay sau thế hệ Y (Gen Y) nên được gọi là thế hệ Z hay Gen Z. Từ Gen Z xuất hiện đầu tiên trong một bài báo vào tháng 9 năm 2000. Hầu hết các thành viên thuộc thế hệ Z đều được tiếp xúc và sử dụng công nghệ từ nhỏ, nên họ cảm thấy rất thoải mái, rất dễ đón nhật với công nghệ, di động, Internet và các phương tiện truyền thông xã hội, từ Facebook, Google, Youtube, Instagram,… thế hệ Z đều có thể sử dụng và tìm kiếm thông tin nhanh chóng, không tốn nhiều công sức, nhưng không nhất thiết là phải có trình độ kỹ thuật số cao, khác với thế hệ Y, phần lớn nếu là người tiếp xúc và am hiểu về kỹ thuật số thường có trình độ chuyên môn cao. Thế hệ Z (Gen Z) được được sinh ra trong thời đại Internet phát triển, được tiếp cận với công nghệ ngay từ bé. Gen Z được mệnh danh là những công dân của thời đại số hoá, có tư duy về tiền tệ, kinh tế, được hy vọng là “thuyền trưởng” trong công cuộc thay đổi và xây dựng thế giới phát triển trong tương lai. Thế hệ Y hay thế hệ Millennials: Nhóm người sinh ra từ năm 1980 đến năm 1994. Thế hệ Xennials (Thế hệ vi mô, Oregon Trail hay Catalano): Nhóm người sinh ra từ năm 1975 đến 1985. Thế hệ The Lost (Thế hệ đã mất, thế hệ lạc lõng): Nhóm người sinh ra từ năm 1890 đến 1915.
|
Thế hệ Z
|
Thế hệ Z (tiếng Anh: Generation Z, viết tắt: Gen Z) là nhóm nhân khẩu học nằm giữa thế hệ Millennials và thế hệ Alpha. Các nhà nghiên cứu và các phương tiện truyền thông phổ biến xem khoảng thời gian từ giữa thập niên 1990 đến những năm đầu thập niên 2010 (hoặc từ năm 1997 đến 2012) là khoảng thời gian được sinh ra của nhóm này. Hầu hết các thành viên của thế hệ Z là con của những người thuộc thế hệ X. Thế hệ Z là thế hệ đầu tiên được cho là lớn lên với sự tiếp cận Internet cùng các thiết bị kỹ thuật số và điện tử từ khi bé.
|
Đánh giá chính sách là một khái niệm khó thống nhất trong cách định nghĩa, cũng như phức tạp trong thực tế triển khai. Với ngôn ngữ chính sách trong tiếng Việt thì định nghĩa khái niệm đánh giá chính sách cũng dễ gây nhầm lẫn hoặc hiểu không đầy đủ. Bài viết này không đi vào trình bày các phương pháp, công cụ đánh giá chính sách vì đòi hỏi những hiểu biết nhất định phương pháp nghiên cứu khoa học, ứng dụng các phương pháp toán kinh tế, kinh tế lượng v.v. và những hiểu biết sâu trong từng phân ngành khoa học xã hội nói chung và khoa học chính sách nói riêng. Thứ nhất, Đánh giá chính sách công với ý nghĩa là một giai đoạn trong quy trình hoạch định chính sách:. Khái niệm Đánh giá chính sách (Policy evaluation): là một giai đoạn của quy trình chính sách bao gồm hệ thống các hoạt động nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả của việc lựa chọn, thực thi chính sách, và đánh giá khả năng cần thiết dẫn đến sự thay đổi chính sách. Ở đây, cần đặt Đánh giá chính sách trong mối quan hệ với các giai đoạn của quy trình chính sách, logic vấn đề là, chính sách sau khi được ban hành và thực thi trong thực tiễn thì cần một giai đoạn thu thập, xử lý thông tin về quá trình, những tác động và kết quả đạt được trên thực tế của chính sách, để đánh giá, so sánh với các mục tiêu ban đầu, nhằm trả lời câu hỏi về sự thành công hay thất bại của chính sách, hay đánh giá nhu cầu cần phải thay đổi hoặc kết thúc chính sách. Thứ hai, Đánh giá chính sách (policy assessment) với ý nghĩa là một phương pháp nghiên cứu, công cụ phân tích, đánh giá dự án, chương trình hoặc chính sách. Trong cách tiếp cận này, nhiều học giả không phân biệt rõ ràng giữa đánh giá chính sách và phân tích chính sách. Đánh giá chính sách (policy assessment) có thể chia làm đánh giá trước (hay tiên nghiệm: ‘ex ante’) và đánh giá sau (hay hậu nghiệm/hồi cứu: ‘ex post’). Đánh giá chính sách trước (‘ex ante’ assessment) thường được giới hạn ở phạm vi khi mà đề xuất chính sách chưa được chính thức thông qua. Trong trường hợp này, Đánh giá chính sách được hiểu là việc ứng dụng phương pháp nghiên cứu (thường là chuẩn tắc), phân tích dựa trên các bằng chứng khoa học, đánh giá các tác động tiềm năng của phương án chính sách, nhằm hỗ trợ cho các nhà hoạch định chính sách trong việc ra quyết định chính sách. Ở giai đoạn này, một trong những kiểu loại đánh giá phổ biến là đánh giá tác động (ĐGTĐ – impact assessment) hay đánh giá tác động chính sách (policy impact assessment). (Liên quan đến nội dung này, có thể tìm hiểu thêm về một phương pháp rất phổ biến trong xây dựng pháp luật ở nhiều quốc gia là: Đánh giá tác động của quy phạm pháp luật (Regulatory impact assessment -RIA). Những hình thức ban đầu của RIA được cho là đã phát triển ở Hoa Kỳ từ năm 1980 với việc Nghị viện ban hành Luật về giảm thủ tục giấy tờ (The Paperwork Reduction Act) nhằm chú trọng nâng cao chất lượng làm luật, giảm thiểu các loại giấy tờ thủ tục hành chính có thể gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp…). Đánh giá chính sách sau (‘ex post’ evaluation) được giới hạn phạm vi đánh giá sau khi chính sách đã được thông qua và triển khai thực hiện. Đánh giá chính sách được hiểu là phương pháp tạo ra những thông tin đáng tin cậy, hợp lý và hợp thức về những thành tựu hay kết quả thực hiện của chính sách. Lúc này, đánh giá chính sách thường dựa trên phương pháp nghiên cứu thực chứng, với các thiết kế nghiên cứu thực nghiệm như thực nghiệm đích thực hoặc giả thực nghiệm, và thường sử dụng các phân tích định lượng v.v. Như vậy, trong cách tiếp cận ĐGCS như một phương pháp nghiên cứu/công cụ phân tích theo thời điểm trước hoặc sau khi chính sách được thông qua, thì có thể có sự phân biệt một cách tương đối giữa “assessment” và “evaluation”. Nhưng trên thực tế, các tài liệu nghiên cứu chính sách cũng như hướng dẫn thực hành chính sách thường không có sự phân biệt rõ ràng khi sử dụng hai từ khóa này. Cũng có cách hiểu là, đánh giá chính sách ở giai đoạn trước thì được xem như một phương pháp trong phân tích chính sách trước khi chính sách được thông qua, hoặc một khung đánh giá nội dung chính sách (trong đó chú ý đến các mục tiêu), hay một hệ thống ĐGTĐ (dự kiến) của chính sách. Còn ở giai đoạn sau thì một số học giả cho rằng, đánh giá chính sách có những phương pháp nghiên cứu đặc trưng (nghiên cứu thực nghiệm, thực nghiệm thực địa…) để phân biệt với phân tích chính sách trước khi thông qua chính sách. Khung ĐGCS sẽ tập trung vào đánh giá (quá trình) thực thi hoặc ĐGTĐ (đã có) của chính sách. Tuy nhiên, cũng có học giả tiếp cận phân tích chính sách khái quát toàn bộ các giai đoạn của quy trình hoạch định chính sách, gồm có cả phân tích chính sách trước và phân tích chính sách sau. Ở giai đoạn sau (khi chính sách đã được thông qua) thì ĐGCS được coi là một phương pháp của phân tích chính sách. Có thể thấy rằng, các phân tích hay đánh giá chính sách trước (tiên nghiệm) dù “tốt” hay “thông minh” đến đâu cũng chỉ mang tính dự báo, cung cấp thông tin tham khảo, và các nhà hoạch định chính sách không thể dựa vào đó mà khẳng định chắc chắn những điều xảy ra trong tương lai (các tác động mong muốn hoặc không mong muốn) khi quyết định lựa chọn giải pháp chính sách. Hiệu quả chính sách cần được kiểm tra trên thực tế, khi các chính sách đã được thực thi. Một giải pháp chính sách thường được giả thuyết rằng nó sẽ thu được kết quả sau một thời gian nhất định, được dựa trên những chứng cứ (mang tính dự báo/dự đoán) để thuyết phục rằng giải pháp đó sẽ khả thi trong tương lai. Nhưng khi chính sách được thực hiện, vẫn cần phải kiểm định lại giả thuyết, những tác động nguyên nhân – kết quả đến các đối tượng chịu tác động bởi chính sách, thông qua các phương pháp nghiên cứu, đánh giá khoa học. Do đó, ĐGCS là để cung cấp các thông tin liên quan đến kết quả chính sách và các giá trị đạt được của chính sách; dựa trên nhiều tiêu chí đánh giá như hiệu suất, hiệu quả, công bằng hay tính tương thích; hoặc các nguồn lực để thực hiện, các yêu cầu đào tạo, nhân lực thực thi. ĐGCS sẽ chứng minh sự thành công hay thất bại của một chính sách; nếu thất bại thì cần làm rõ nguyên nhân là do hoạch định chính sách sai hay thực thi chính sách sai? Sau quá trình thực thi thì cần xem chính sách có còn cần thiết không? Nên chấm dứt hay tiếp tục thực hiện, hoặc sửa đổi chính sách hướng tới các mục tiêu mới. Đánh giá kết quả chính sách công cần phân biệt được (sản phẩm) đầu ra của chính sách với các tác động của chính sách; Hoặc phân biệt được nhóm những người bị tác động bởi chính sách nói chung, và nhóm người được hưởng lợi từ chính sách nói riêng. Cần lưu ý tác động của chính sách công không dễ quan sát, thời gian để chính sách có “độ ngấm”, có kết quả có khi tính bằng thập kỷ, tác động xuyên thế hệ (ví dụ như các nỗ lực bảo vệ môi trường sống, an toàn vệ sinh thực phẩm, sàng lọc trước khi sinh…). Giám sát hay kiểm tra là việc thu thập dữ liệu thực tế định kỳ để đo lường tiến độ thực hiện kế hoạch, chương trình, chính sách nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Trong khi đó, đánh giá bao gồm cả những yếu tố thực tế và các giá trị đạt được. Giá trị đạt được là sự khác nhau khi so sánh giữa việc có hay không có sự can thiệp của chính sách. Hay nói cách khác, là đo lường tác động của chính sách. ĐGCS có thể là sự xem xét, so sánh các mục tiêu (hay là nội dung chính sách) đề ra và kết quả đạt được; có thể là đo lường sự thay đổi trong thời gian nhất định; hay đánh giá hiệu quả đầu ra của chính sách một cách khách quan. Yếu tố khách quan trong nghiên cứu khoa học xã hội nói chung cần được quan tâm, ngay từ quá trình chọn mẫu nghiên cứu khảo sát, cũng như tránh việc “xào nấu” trong xử lý dữ liệu phục vụ cho mục đích tiêu cực…. Mặc dù vậy, ĐGCS lại là một quá trình chính trị phức tạp. Rất khó để đánh giá được những giá trị phúc lợi xã hội, hoặc sự thúc đẩy hay bảo vệ các giá trị dân chủ… trong nhiều chính sách công. Khoản 2 Điều 32 Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật có quy định: “Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải dựa trên các căn cứ sau đây: … Kết quả tổng kết thi hành pháp luật hoặc ĐG thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến CS của dự án luật, pháp lệnh”. Hoặc cũng có thể hiểu, đây là giai đoạn ĐGCS trong quy trình hoạch định chính sách công, sau khi chính sách được thực thi và có thể dẫn tới nhu cầu cần thay đổi chính sách. Dù hiểu theo cách nào, hoặc gộp cả hai cách hiểu trên, thì cũng cần tổng kết, phân tích, ĐGCS hiện hành có liên quan, đang được thực thi hoặc trường hợp chính sách đã kết thúc và chưa có quy định mới…, dẫn đến lý do cần đề xuất chính sách đưa vào đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Tuy nhiên, do việc quy định yêu cầu phải có các báo cáo tổng kết, ĐG làm căn cứ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh sẽ dẫn tới thực tế, các báo cáo ĐGTĐ này đều cho kết quả là cần phải xây dựng dự thảo chính sách, dự luật mới, hoặc sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật hiện hành. Theo Điều 35 về ĐGTĐ của chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh thì: “Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiến hành ĐGTĐ của từng chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Đại biểu Quốc hội tự mình hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành ĐGTĐ của từng chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh”. Tác động về kinh tế được ĐG trên cơ sở phân tích chi phí và lợi ích đối với một hoặc một số nội dung về sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, môi trường đầu tư và kinh doanh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân, cơ cấu phát triển kinh tế của quốc gia hoặc địa phương, chi tiêu công, đầu tư công và các vấn đề khác có liên quan đến kinh tế;. Tác động về xã hội của CS được ĐG trên cơ sở phân tích, dự báo tác động đối với một hoặc một số nội dung về dân số, việc làm, tài sản, sức khỏe, môi trường, y tế, giáo dục, đi lại, giảm nghèo, giá trị văn hóa truyền thống, gắn kết cộng đồng, xã hội và các vấn đề khác có liên quan đến xã hội;. Tác động về giới của CS (nếu có) được ĐG trên cơ sở phân tích, dự báo các tác động kinh tế, xã hội liên quan đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới;. Tác động của thủ tục hành chính (nếu có) được ĐG trên cơ sở phân tích, dự báo về sự cần thiết, tính hợp pháp, tính hợp lý và chi phí tuân thủ của thủ tục hành chính để thực hiện CS;. Tác động đối với hệ thống pháp luật được ĐG trên cơ sở phân tích, dự báo khả năng về thi hành và tuân thủ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, tác động đối với tổ chức bộ máy nhà nước, khả năng thi hành và tuân thủ của Việt Nam đối với các điều ước quốc tế”. Điều 7 Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định phương pháp ĐGTĐ của chính sách như sau: “Tác động của CS được ĐG theo phương pháp định lượng, phương pháp định tính. Trong trường hợp không thể áp dụng phương pháp định lượng thì trong báo cáo ĐGTĐ của CS phải nêu rõ lý do”. Như vậy, đây chính là cách tiếp cận về ĐGTĐ chính sách (policy impact assessment) trong giai đoạn trước, hay cũng có thể gọi đây là một phương pháp phân tích chính sách trong quá trình hoạch định chính sách công. sách được chính thức thông qua. Đó là các giai đoạn: Thực thi chính sách và Đánh giá chính sách, mà không “quan tâm” đến sự thay đổi giữa các “chủ thể” ban hành và. quan, tổ chức, cá nhân đã cần xây dựng được nội dung chính sách và báo cáo đánh giá tác động của chính sách. Nhưng ngay cả khi đề nghị xây dựng luật được chấp nhận, các đề xuất. nhất, điểm a, khoản 1 Điều 34 chính là một phần việc thuộc về giai đoạn đánh giá chính sách trong quy trình chính sách. Ngoài việc tổng kết, đánh giá kết quả thực thi pháp. nhất, điểm a, khoản 1 Điều 34 chính là một phần việc thuộc về giai đoạn đánh giá chính sách trong quy trình chính sách.
|
Chính sách công
|
Chính sách công là hướng dẫn nguyên tắc cho hành động được thực hiện bởi các cơ quan hành pháp của nhà nước liên quan đến một nhóm các vấn đề, theo cách phù hợp với pháp luật và thiết chế xã hội. Gần đây đã có một phong trào sử dụng bằng chứng nhiều hơn trong các quyết định chính sách hướng dẫn. Những người ủng hộ chính sách dựa trên bằng chứng cho rằng bằng chứng khoa học chất lượng cao, thay vì truyền thống, trực giác hoặc hệ tư tưởng chính trị, nên hướng dẫn các quyết định về chính sách. Nền tảng của chính sách công bao gồm các luật và quy định hiến pháp quốc gia. Các chất nền hơn nữa bao gồm cả các diễn giải và quy định tư pháp thường được pháp luật cho phép. Chính sách công được coi là mạnh mẽ khi giải quyết vấn đề hiệu quả và hiệu quả, phục vụ và hỗ trợ các thể chế và chính sách của chính phủ và khuyến khích sự tích cực của công dân. Trong cuốn sách Giới thiệu nâng cao về chính sách công , B. Guy Peters định nghĩa chính sách công là "tập hợp các hoạt động mà chính phủ tham gia với mục đích thay đổi nền kinh tế và xã hội", nói một cách hiệu quả rằng chính sách công là luật được đưa vào nhằm mục đích mang lại lợi ích hoặc tác động đến cử tri theo một cách nào đó.
|
Hội chứng sợ bị trêu cười, có tên khoa học là Gelotophobia, là nỗi sợ bị người khác cười vào mình, đây là một loại ám ảnh xã hội. Trong khi hầu hết mọi người không thích bị trêu cười, có một nhóm người cực kỳ sợ hãi việc bị trêu cười. Không có lý do rõ ràng gây nên hội chứng này, nó chỉ được biết đến như một nỗi ám ảnh liên quan đến tiếng cười mà họ nghe được và nó hướng vào chính họ. Kể từ năm 2008, hiện tượng này đã thu hút sự chú ý của các học giả về tâm lý học, xã hội học và tâm thần học, và đã được nghiên cứu sâu sắc. Trong các quan sát lâm sàng của mình, Tiến sĩ Michael Titze phát hiện ra rằng một số bệnh nhân của ông dường như chủ yếu lo lắng về việc bị trêu cười. Họ có xu hướng quan sát môi trường xung quanh của họ để đề phòng và phát hiện ra các dấu hiệu của tiếng cười và sự chế giễu. Ngoài ra, Titze quan sát một mô hình chuyển động cụ thể trong số những bệnh nhân khi họ nghĩ rằng họ đang bị trêu cười. Ông mô tả trạng thái này là “hội chứng Pinocchio”. Từ các quan sát lâm sàng, một mô hình cụ thể về nguyên nhân và hậu quả của Hội chứng sợ bị trêu cười được rút ra để tạo điều kiện có thể được nghiên cứu hội chứng này một cách khoa học hơn. Mô hình này cho rằng Hội chứng sợ bị trêu cười có thể được gây ra bởi bất kỳ một trong ba điều ở các giai đoạn phát triển khác nhau:. Trong giai đoạn đầu tiên: sự phát triển của sự xấu hổ chính yếu khi có sự phát triển một sự kết nối giữa các cá nhân (ví dụ như các tương tác của người chăm sóc trẻ sơ sinh không hỗ trợ). Trong thời thơ ấu và tuổi trẻ: những trải nghiệm đau thương của bản thân liên tục bị người đùa cợt không nghiêm túc hoặc bị cười vào / nhạo báng (ví dụ như bắt nạt). Ở tuổi trưởng thành: trải nghiệm đau thương mãnh liệt khi bị cười hoặc nhạo báng (ví dụ như chế giễu). Rối loạn tâm lý, ví dụ: đỏ mặt, căng thẳng nhức đầu, run rẩy, chóng mặt, rối loạn giấc ngủ. Không có khả năng trải nghiệm hài hước / cười như những trải nghiệm xã hội thư giãn và vui tươi. Tức giận khi bị cười bởi những người khác (trong một số trường hợp, kết quả là các cuộc tấn công dữ dội vào những người đang cười). lo lắng rằng mọi người nghĩ rằng họ không tham gia với mọi người một cách ấm áp, thân thiện, hoặc nghĩ rằng họ là vô cảm. có lòng tự trọng thấp do cảm thấy không đủ năng lực trong các tình huống xã hội. Khi mọi người đang nói chuyện và cười, họ cảm thấy cơ thể của họ trở nên căng thẳng, sau đó làm cho chuyển động của họ như một người gỗ và cứng đơ hơn là việc thư giãn và tự nhiên. nghĩ rằng họ không phải là một người sống động và không trải qua nhiều khoảnh khắc vui vẻ trong cuộc sống hàng ngày của họ. Bất cứ ai có biểu hiện hoặc trải qua ít nhất một nửa trong số các đặc điểm này có thể là người mắc phải hội chứng sợ bị trêu cười. Vì tiếng cười được sử dụng như một phần không thể thiếu trong giao tiếp và cách mọi người hình thành và duy trì các mối quan hệ, nên theo tự nhiên thì những người có khuynh hướng mắc phải Hội chứng sợ bị trêu cười sẽ thấy rằng tương tác xã hội của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Thông thường tiếng cười dễ lây lan và dẫn đến những cảm xúc tích cực như niềm vui và hạnh phúc, nhưng không ai thích bị đem ra làm trò cười hay làm thú vui cho người khác. Hầu hết mọi người không thích bị cười ở một mức độ nào đó và hội chứng sợ bị trêu cười có thể dao động từ việc không sợ hãi chút nào, đến hơi sợ hãi, và cuối cùng là cực đoan và mắc phải hội chứng sợ bị trêu cười. Mặc dù về mặt giá trị, những cảm xúc liên quan đến hội chứng sợ cười sẽ chủ yếu là nỗi sợ hãi, có sự tương tác rõ rệt với ba cảm xúc chi phối: mức độ vui vẻ thấp, mức độ sợ hãi cao và mức độ xấu hổ cao. Quan trọng hơn, nếu trong một tuần điển hình, nỗi xấu hổ, buồn chán vượt quá niềm vui, hội chứng sợ bị trêu cười có nhiều khả năng phát triển nhanh hơn. Những người mắc phải hội chứng sợ bị trêu cười cho rằng họ luôn tiêu cực trong việc điều chỉnh cảm xúc của họ, và họ dễ dàng cảm nhận được những tâm trạng tiêu cực của người khác. Họ cũng ngăn chặn biểu hiện cảm xúc của họ và không chia sẻ cảm xúc của họ dễ dàng với những người khác như một cách để tránh sự bị trêu cười
|
Hội chứng sợ bị trêu cười
|
Hội chứng sợ bị trêu cười, có tên khoa học là Gelotophobia, là nỗi sợ bị người khác cười vào mình, đây là một loại ám ảnh xã hội. Trong khi hầu hết mọi người không thích bị trêu cười, có một nhóm người cực kỳ sợ hãi việc bị trêu cười. Không có lý do rõ ràng gây nên hội chứng này, nó chỉ được biết đến như một nỗi ám ảnh liên quan đến tiếng cười mà họ nghe được và nó hướng vào chính họ. Kể từ năm 2008, hiện tượng này đã thu hút sự chú ý của các học giả về tâm lý học, xã hội học và tâm thần học, và đã được nghiên cứu sâu sắc. Trong các quan sát lâm sàng của mình, Tiến sĩ Michael Titze phát hiện ra rằng một số bệnh nhân của ông dường như chủ yếu lo lắng về việc bị trêu cười. Họ có xu hướng quan sát môi trường xung quanh của họ để đề phòng và phát hiện ra các dấu hiệu của tiếng cười và sự chế giễu. Ngoài ra, Titze quan sát một mô hình chuyển động cụ thể trong số những bệnh nhân khi họ nghĩ rằng họ đang bị trêu cười.
|
Lịch hẹn cho các dịch vụ thị thực, luật và lãnh sự tại Tổng Lãnh sự quán Đức tại Tp. HCM. Trường Đại học Việt - Đức (VGU) là trường công lập của Việt Nam có cơ cấu đào tạo và quản lý theo mô hình của đại học Đức đã chính thức khai giảng khóa đầu tiên vào tháng 9 năm 2008 tại Tp. Hồ Chí Minh. Trường Đại học Việt - Đức (VGU) là trường công lập của Việt Nam có cơ cấu đào tạo và quản lý theo mô hình của đại học Đức đã chính thức khai giảng khóa đầu tiên vào tháng 9 năm 2008 tại Tp. Hồ Chí Minh. Trường đại học VGU hợp tác chặt chẽ với các trường đại học danh tiếng ở Đức, các trường cùng chung sức thiết kế, xây dựng và triển khai một chương trình đào tạo đa dạng cho các bậc đại học, cao học. Sinh viên tốt nghiệp của Trường đại học VGU sẽ được các trường đại học đối tác tại Đức cấp bằng. Đây được xem như là một Dự án tiên phong có sự hợp tác giữa hai nhà nước Đức-Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục. Với sự hỗ trợ của Nhà nước Liên Bang cũng như Bang Hessen, Trường Đại học Việt-Đức sẽ tiếp tục phát triển thành một trường Đại học Tổng hợp đa ngành xuất sắc theo định hướng ứng dụng gắn liền với nghiên cứu. Đồng thời duy trì mối quan hệ hợp tác với nhiều Trường đại học Đức. Khoảng 900 sinh viên đang tham gia chương trình đào tạo hiện đại bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, trong quá trình học tại trường sinh viên cũng được học tiếng Đức song song. Mối liên kết chặt chẽ giữa Trường VGU với nền kinh tế Đức (đặc biệt là với các doanh nghiệp Đức đang họat động tại Việt Nam) là nền tảng lý tưởng cho việc Hợp tác nghiên cứu cũng như chuyển giao kiến thức giữa nghiên cứu và thực tế. Mở ra cho các sinh viên tốt nghiệp của trường các cơ hội việc làm tốt trên thị trường lao động.
|
Trường Đại học Việt - Đức
|
Trường Đại học Việt Đức (Vietnamese-German University, viết tắt VGU) là trường đại học công lập được thành lập ngày 1 tháng 9 năm 2008 theo Quyết định số 1196/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trường được thành lập trên cơ sở thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Đức. Hiện tại, tất cả các chương trình ở Đại học Việt Đức (VGU) đều do hầu hết giáo sư từ các trường đối tác Đức giảng dạy và sinh viên sẽ nhận được văn bằng chính thức từ các trường đối tác Đức. Những chương trình hiện tại được chọn từ các ngành kỹ thuật mũi nhọn của Đức và được giảng hoàn toàn bằng tiếng Anh. Trong quá trình học, sinh viên sẽ được học môn tiếng Đức. Đối với một số ngành, những sinh viên đạt kết quả học tập xuất sắc có thể được chọn để học một thời gian ngắn tại Đức với mức học phí không đổi, hoặc được đài thọ làm thực tập ở Đức hoặc trong các công ty Đức ở Việt Nam. Cơ sở chính của trường tọa lạc tại thành phố mới Bình Dương. Hiện nay, trường đang thuê tòa nhà 8,000 m² của trường đại học quốc tế Miền Đông để đào tạo các chương trình Đại học và Thạc sĩ toàn thời gian.
|
Khoa học, văn hóa, giáo dục, tâm lý, thể thao và một lối sống lành mạnh. các lý thuyết sản xuất đó là một phần của kinh tế vi mô nhằm giải quyết các hành vi và động lực từ quan điểm kinh doanh và sản xuất, như sở thích và nhu cầu của người tiêu dùng dựa trên một sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể. Lý thuyết của nhà sản xuất được coi là đối tác của lý thuyết người tiêu dùng, cũng được quản lý trong kinh tế vi mô. Lý thuyết của nhà sản xuất đào sâu, trong số những thứ khác, về cung và cầu xung quanh một sản phẩm hoặc một số trong một thị trường với những đặc điểm nhất định. Nó cũng xem xét hành vi của các nhà sản xuất đối với các kịch bản kinh tế cụ thể. Lý thuyết này cũng hoạt động về cách các yếu tố sản xuất có thể được kết hợp hiệu quả cho sản xuất và mua sắm hàng hóa. Cần lưu ý rằng trong kinh tế vi mô, lý thuyết của nhà sản xuất luôn được phát triển để tối ưu hóa việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa trên thị trường. Công ty chịu trách nhiệm thực hiện tất cả các kế hoạch, giám sát và thực hiện tất cả các khía cạnh xung quanh lý thuyết để đạt được kết quả thực tế, có lợi miễn là chúng được quản lý xem xét nhiều biến số kinh tế. Một trong những kịch bản đầu tiên được đánh giá từ lý thuyết của nhà sản xuất là chi phí cơ hội, được định nghĩa là nghiên cứu về giá cả và chi phí của các yếu tố cần thiết cho sản xuất và thu được thành phẩm. Đây là bước khởi đầu để mọi công ty đánh giá khả năng của họ trong một thị trường trước khi vào thị trường này thông qua lô sản phẩm đầu tiên của họ. Hệ thống sản xuất hàng hóa được coi là một chuỗi thông qua đó có một mục hoặc đầu vào, trong đó đề cập đến các vật liệu và vật tư cần thiết cho sản xuất sản phẩm; và một lối ra u đầu ra, sản phẩm hoàn chỉnh là gì. Các chức năng sản xuất phải liên quan đến mối quan hệ giữa số lượng các yếu tố hoặc đầu vào cần thiết để sản xuất sản phẩm. Các chức năng này bao gồm nguyên liệu thô cần thiết, máy móc chế biến và mức độ hao mòn của các thành phần trong quy trình. Cũng bao gồm các sản phẩm trung gian (không thể thiếu trong quy trình sản xuất được mua lại từ bên thứ ba), sử dụng các vật tư cơ bản như nước và điện, và lực lượng lao động của con người, trong số các yếu tố khác. Sự phân chia các yếu tố chức năng của sản xuất thường được tổng hợp bởi các công ty trong hai nhóm lớn. Đây là công việc, đại diện của lực lượng lao động và yêu cầu thực hiện nó; và vốn, đại diện của đầu tư cần thiết cho hoạt động và duy trì tất cả các yếu tố cần thiết trong quá trình sản xuất. Việc tìm kiếm liên tục cho một công ty đang hoạt động trên thị trường sẽ luôn luôn tối đa hóa lợi ích của nó liên quan đến năng lực sản xuất của công ty. Về cơ bản, điều này đề cập đến việc tìm cách giảm thiểu chi phí sản xuất liên quan đến chi phí mà sản phẩm cuối cùng sẽ có cho người tiêu dùng. Mối quan hệ này được thực hiện trên lý thuyết thông qua các công thức và các vấn đề toán học, nhưng về cơ bản, nó có thể được hiểu là mục tiêu của mọi công ty để tìm kiếm chi phí sản xuất thấp hơn. Điều này được tìm kiếm để lợi ích nhận được từ việc thương mại hóa sản phẩm cuối cùng lớn hơn nhiều, mà không ảnh hưởng đến chất lượng của nó. Những vấn đề tối đa hóa lợi nhuận được thực hiện trong lĩnh vực kinh doanh cả ngắn hạn và dài hạn, theo phạm vi của cùng một công ty và thị trường mà họ phát triển. Đường chi phí là sự đánh giá của cả chi phí cố định và chi phí biến đổi của đầu vào hoặc các chức năng đầu vào sản xuất trong tất cả các quy trình sản xuất. Đánh giá này phải được các công ty tiếp cận với sự quan tâm tối đa để đảm bảo giảm thiểu chi phí trong lĩnh vực sản xuất và tối đa hóa lợi ích thu được từ thương mại hóa. Về cơ bản, một công ty xử lý các chức năng đầu vào của mình theo cách mà họ có thể nhận thấy chi phí của mình trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cũng như tỷ lệ của nó trong việc tăng hoặc giảm chi phí đối với các chi phí nói trên. Tất cả đầu vào rằng một công ty đã mua lại và thanh toán, có chi phí không thay đổi trong thời gian ngắn, được gọi là đầu vào chi phí cố định. Có các biến chi phí khác, chẳng hạn như chi phí biến đổi, tương ứng với mối quan hệ giữa sự biến động chi phí của đầu vào và mức độ sản xuất kinh doanh. Đây thường là một yếu tố có sự thay đổi luôn tăng dần, mặc dù các trường hợp ngoại lệ có thể xảy ra. Đường chi phí trung bình là đường cong thể hiện sự năng động nhất, cả tăng dần và giảm dần, vì nó giải quyết các thay đổi trung hạn về chi phí của từng sản phẩm liên quan đến mức độ và năng lực sản xuất của mỗi công ty. Một trong những đường cong đã được coi là quan trọng nhất là đường chi phí cận biên. Điều này cho phép có một nhận thức chung về sự phát triển sản xuất của một công ty. Đường cong biên giải quyết chi phí sản xuất của hàng hóa đã hoàn thành theo năng lực sản xuất của chu kỳ trước. Điều này có liên quan đến đường tổng chi phí và về cơ bản đánh giá mức độ sản xuất hiện tại với công suất trước đó, để có thể thấy chi tiết hơn các sự cố trong việc tăng hoặc giảm chi phí của từng chức năng. Nhận thức về chi phí cận biên đã trở nên quan trọng đến mức một hệ thống nghiên cứu mới đã được phát triển, tập trung chủ yếu vào nền kinh tế cận biên và tác động của nó đến các hệ thống và quan hệ sản xuất. Lý thuyết của nhà sản xuất cũng đề cập đến các loại thị trường mà một công ty mạo hiểm và sản phẩm mà họ cung cấp, để tạo ra các kịch bản hiệu suất tốt nhất và điều chỉnh các quy trình sản xuất cho từng thị trường. Trong kinh tế vi mô, ngành học mà lý thuyết được đăng ký, thị trường cạnh tranh hoàn hảo và không hoàn hảo chủ yếu được quản lý. Quan sát thị trường cạnh tranh không hoàn hảo bao gồm các biểu hiện khác nhau, đó là cạnh tranh độc quyền, độc quyền và cạnh tranh độc quyền. Tổng quát so sánh thống kê với các ứng dụng cho lý thuyết người tiêu dùng và lý thuyết nhà sản xuất. Tạp chí kinh tế quốc tế, 473-486. Nhà sản xuất chia sẻ và trách nhiệm của người tiêu dùng - Lý thuyết và thực hành. Chức năng khoảng cách trong lý thuyết người tiêu dùng và nhà sản xuất. Trong G. S. Färe R., Số chỉ mục: Các tiểu luận để vinh danh Sten Malmquist (trang 7-90).
|
Lý thuyết sản xuất
|
Lý thuyết sản xuất là sự nghiên cứu về quá trình sản xuất, hay là quá trình kinh tế của việc chuyển đổi đầu vào thành đầu ra. Quá trình sản xuất sử dụng các nguồn lực để tạo ra hàng hóa, dịch vụ phù hợp với mục đích sử dụng, tặng quà hay là trao đổi trong nền kinh tế thị trường. Quá trình này có thể bao gồm sản xuất, xây dựng, lưu trữ, vận chuyển và đóng gói. Một vài nhà kinh tế học đưa ra một định nghĩa rộng hơn cho quá trình sản xuất, bao gồm thêm nhiều hoạt động kinh tế khác chứ không chỉ mỗi việc tiêu dùng. Họ xem mỗi hoạt động thương mại đều như là một dạng của quá trình sản xuất, chứ không chỉ mỗi việc mua bán thông thường. Sản xuất là một quá trình và nó diễn ra qua không gian lẫn thời gian. Bởi vậy sản xuất được đo bởi "tỷ lệ của sản lượng đầu ra trong một khoảng thời gian". Sự phân bố về mặt không gian và thời gian của hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra. Một quá trình sản xuất được định nghĩa là bất kỳ hoạt động nào làm tăng sự tương tự giữa mô hình của nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ, và số lượng, chủng loại, hình dạng, kích thước và sự phân bổ của những loại hàng hóa, dịch vụ này trên thị trường.
|
Trắc nghiệm bài học, bài tập, kiểm tra và đề thi cho học sinh lớp 12. Phân hạch là sự vỡ của một hạt nhân nặng thành hai hạt nhân trung bình (kèm theo một vài nơron phát ra). Phản ứng phân hạch (^textrm) là phản ứng toả năng lượng, năng lượng đó gọi là năng lượng phân hạch. Sự phân hạch của (^textrm) có kèm theo sự giải phóng 2,5 nơtron (tính trung bình) với năng lượng lớn. Các nơtron này kích thích hạt nhân khác của chất phân hạch tạo nên những phản ứng phân hạch mới. Kết quả là các phản ứng phân hạch xảy ra liên tiếp tạo thành một phản ứng dây chuyền. Giả sử sau một lần phân hạch, có k nơtron được giải phóng đến kích thích các hạt nhân (^textrm) khác tạo nên những phân hạch mới. Khi k = 1: phản ứng phân hạch dây chuyền tự duy trì, năng lượng phát ra không đổi. Khi k > 1: phản ứng phân hạch dây chuyền tự duy trì, năng lượng phát ra tăng nhanh, có thể gây nên bùng nổ. Để k ≥ 1 khối lượng của chất phân hạch phải đạt đến một giá trị tối thiểu nào đó gọi là khối lượng tới hạn. Khối lượng tới hạn của (^textrm) vào cỡ 15kg, của (^textrm) vào cỡ 5kg. Được thực hiện trong các lò phản ứng hạt nhân, tương ứng trường hợp k = 1. Dùng các thanh điều khiển có chứa bo hay cađimi hấp thụ các nơron thừa để đảm bảo k = 1. Câu 1: Trong phản ứng vỡ hạt nhân urani (^U) , năng lượng trung bình tỏa ra trong mỗi phân hạch là E = 200 MeV. Một nhà máy điện nguyên tử có công suất 5000 MW, hiệu suất 25%, lượng nhiên liệu urani nhà máy tiêu thụ hàng năm là:. – Nếu có một lượng hạt nhân U235 đủ nhiều, giả sử ban đầu ta kích thích cho 1010 hạt U235 phân hạch theo phương trình trên và sau đó phản ứng dây chuyền xảy ra trong khối hạt nhân đó với hệ số nhân nơtrôn là k = 2. Coi phản ứng không phóng xạ gamma. Năng lượng toả ra sau 5 phân hạch dây chuyền đầu tiên (kể cả phân hạch kích thích ban đầu):. Câu 4: Trong phản ứng dây chuyền của hạt nhân U235, phản ứng thứ nhất có 100 hạt nhân U235 bị phân rã và hệ số nhân notron là k = 1,6. Tính tổng số hạt nhân bị phân rã đến phản ứng thứ 101. Câu 1:Trong phản ứng phân hạch urani (^U) , năng lượng trung bình tỏa ra khi một hạt nhân bị phân hạch là 200 MeV. Khi 1 kg (^U) phân hạch hoàn toàn thì tỏa ra năng lượng là:. C. xảy ra theo phản ứng dây chuyền nếu có một lượng (^U) đủ lớn. Giải thích được (một cách định tính) phản ứng phân hạch là phản ứng hạt nhân toả năng lượng. Lí giải được sự tạo thành phản ứng dây chuyền và nêu điều kiện để có phản ứng dây chuyền.
|
Phản ứng phân hạch
|
Trong vật lý hạt nhân và hóa học hạt nhân, phản ứng phân hạch (phân hạch hạt nhân) là một phản ứng hạt nhân hoặc quá trình phân rã phóng xạ trong đó hạt nhân của một nguyên tử tách thành hai hoặc nhiều hạt nhân nhỏ hơn, nhẹ hơn. Quá trình phân hạch thường tạo ra các photon gamma và giải phóng một lượng năng lượng rất lớn ngay cả theo tiêu chuẩn năng lượng của sự phân rã phóng xạ. Sự phân hạch hạt nhân của các nguyên tố nặng được Otto Hahn và trợ lý Fritz Strassmann của ông phát hiện vào ngày 17 tháng 12 năm 1938. Hiện tượng này đã được Lise Meitner và cháu trai của bà Otto Robert Frisch giải thích về mặt lý thuyết vào tháng 1 năm 1939. Frisch đặt tên cho quá trình này khi so sánh tương tự với phân hạch sinh học của các tế bào sống. Đối với các hạt nhân nặng, đó là một phản ứng tỏa nhiệt có thể giải phóng một lượng lớn năng lượng cả dưới dạng bức xạ điện từ có thể làm nóng vật liệu nơi xảy ra quá trình phân hạch.
|
Đau răng là bệnh gì? Nguyên nhân và cách giảm đau nhức răng tại nhà cực đơn giản, hiệu quả. Đau răng là tình trạng gặp ở rất nhiều người, ở mọi độ tuổi khác nhau, gây khó chịu và ảnh hưởng đến sinh hoạt mỗi ngày. Hầu như ai cũng đã từng trải qua một lần đau răng trong đời, và thấu hiểu được cảm giác phiền toái, khó chịu mà đau răng mang lại đúng không nào. Đau răng xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau như viêm nướu răng, răng bị mòn, nứt, mẻ, sâu răng,… nếu không tìm ra nguyên nhân và điều trị đúng đắn thì cơn đau răng sẽ không thể chấm dứt được. Để biết chính xác hơn về đau răng là gì? triệu chứng của đau răng như thế nào? cách giảm đau nhức răng hiệu quả?….mời mọi người cùng theo dõi những chia sẻ trong bài viết dưới đây nhé. Hãy cùng gonhub.com tìm hiểu đau răng là biểu hiện của bệnh gì? triệu chứng và cách giảm đau nhức răng như thế nào?. Đau răng là đau ở trong, xung quanh răng và hàm mà sâu răng là nguyên nhân chính. Đau răng có thể xảy ra theo nhiều cách, có thể chỉ là một cơn đau thoáng qua hoặc có thể kéo dài nhiều ngày. Mức độ đau răng dao động từ nhẹ đến nặng, cơn đau có thể “rõ nét” và bắt đầu một cách đột ngột, sau đó trở nên tồi tệ hơn vào ban đêm, đặc biệt là khi bạn đang nằm. Nguyên nhân phổ biến nhất của tình trạng đau răng là sâu răng. Các loại đường và tinh bột trong thực phẩm sẽ tạo ra môi trường cho vi khuẩn sinh sôi và phát triển, từ đó hình thành mảng bám dính vào bề mặt răng. Bạn có thể nhận ra sâu răng khi có cảm giác đau khi ăn đồ ngọt, lạnh hoặc quá nóng. Bạn có thể gặp các triệu chứng khác không được đề cập. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về các dấu hiệu bệnh, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ. Đau răng là một tình trạng khá phổ biến và có thể ảnh hưởng đến bệnh nhân ở mọi lứa tuổi. Có rất nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến tình trạng đau răng, chẳng hạn như:. Bạn có thể kiểm soát bệnh này bằng cách giảm thiểu các yếu tố nguy cơ. Hãy tham khảo bác sĩ để biết thêm thông tin chi tiết. Nha sĩ sẽ khám răng cho bạn và hỏi bệnh sử về răng để giúp chẩn đoán chứng đau răng. Bạn sẽ được hỏi về cơn đau, chẳng hạn như khi nào cơn đau bắt đầu, mức độ nghiêm trọng, vị trí, điều gì làm nặng thêm và điều gì làm dịu cơn đau. Nha sĩ sẽ kiểm tra miệng, răng, lợi, hàm, lưỡi, họng, xoang, tai, mũi và cổ. Trong một số trường hợp, nha sĩ sẽ chỉ định chụp X-quang cũng như các xét nghiệm khác, tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra chứng đau răng. Khi nha sĩ xác định được nguyên nhân gây ra chứng đau răng, họ có thể chọn phương pháp điều trị. Nếu là do sự xuất hiện lỗ sâu, nha sĩ có thể sẽ trám vào lỗ sâu hoặc nhổ răng. Nếu cơn đau răng là do bệnh nhiễm trùng từ dây thần kinh của răng thì cần hút tủy răng. Bác sĩ có thể sẽ cho sử dụng kháng sinh nếu bạn bị sốt hoặc sưng quai hàm. Nếu nguyên nhân là do trám lỏng lẻo hoặc bị hỏng, bác sĩ sẽ loại bỏ mẫu trám và trám lại chỗ đó. Nếu bạn bị đau và có viêm kèm theo, nha sĩ có thể khuyên sử dụng liệu pháp ánh sáng laser lạnh, thường sẽ kết hợp với một phương pháp khác nữa. Thuốc giảm đau không kê toa hoặc thuốc chống viêm không steroid cũng có thể được sử dụng. Trong trường hợp các phương pháp điều trị không hiệu quả hoặc răng bị chen giữa bởi một chiếc răng khác và xương hàm, răng của bạn có thể cần phải được nhổ bỏ.
|
Bệnh đau răng
|
Bệnh đau răng, còn được gọi là đau răng, là đau đớn bên trong răng và/ hoặc cấu trúc nâng đỡ của chúng, gây ra bởi bệnh về răng miệng hoặc đau dị nguyên trong răng mà không phải bệnh lý nha khoa. Khi bệnh trầm trọng hơn có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ, ăn uống và các hoạt động hàng ngày khác. Các nguyên nhân phổ biến bao gồm viêm tủy, thường đáp ứng với sâu răng, chấn thương nha khoa, hoặc các yếu tố khác, như ngà quá mẫn (đau buốt và hết nhanh, thường liên quan đến bề mặt rễ lộ ra ngoài), viêm nha chu đỉnh (viêm dây chằng nha chu, và viêm xương đỉnh răng xung quanh đỉnh gốc), áp xe nha khoa (tụ chất mủ, như áp xe đỉnh, áp xe quanh thân răng và áp xe nha chu), viêm xương ổ răng ("dry socket", viêm khớp khô, có thể là một biến chứng của nhổ răng, với sự mất cục máu đông và làm lộ xương), hoại tử loét cấp tính (nhiễm trùng nướu, còn được gọi là "trenchmouth"), rối loạn về khớp thái dương hàm và những căn bệnh khác. Viêm tủy được phân loại là có thể đảo ngược khi cơn đau nhẹ đến trung bình và kéo dài trong một thời gian ngắn sau khi kích thích (ví dụ, lạnh hoặc ngọt), hoặc không thể đảo ngược khi cơn đau nặng, tự phát, và kéo dài một thời gian dài sau khi kích thích.
|
Bên cạnh việc hỗ trợ trong công việc, điện thoại thông minh và máy tính xách tay còn mang đến cho bạn những phút giây giải trí tuyệt vời. Tại sao một sản phẩm công nghiệp lại có thể làm được những điều như vậy. Tất cả là nhờ một phần mềm hỗ trợ mang tên hệ điều hành. Hệ điều hành là phần mềm hệ thống giúp tạo ra môi trường làm việc thân thiện giữa người sử dụng và thiết bị công nghệ. Hiện nay có rất nhiều hệ điều hành khác nhau được sử dụng. Vậy, hệ điều hành nào cho điện thoại, máy tính là phổ biến nhất. Toplist sẽ chia sẻ với bạn ngay sau đây. Hệ điều hành Android được đánh giá là hệ điều hành dành cho di động phổ biến nhất hiện nay, chiếm tới hơn 50% lượng sử dụng trên toàn thế giới. Android là một hệ điều hành có mã nguồn mở, được xây dựng dựa trên nền tảng Linux. Ban đầu, Android được xây dựng và phát triển bởi Tổng công ty Android có sự hỗ trợ từ Google. Vào năm 2005, Google đã mua lại phần mềm này và chính thức cho ra mắt hệ điều hành Android vào năm 2007. Có mặt trên đa dạng các dòng sản phẩm của rất nhiều hãng công nghệ. Cập nhật không tự động với tất cả thiết bị, có những thiết bị không thể nâng cấp lên cao hơn nên buộc phải thay thiết bị mới. Apple đã xây dựng một hệ điều hành không chỉ tối ưu phần cứng mà còn mang tính bảo mật rất cao. Đó chính là hệ điều hành iOS. iOS là hệ điều hành dành cho điện thoại di động, máy tính bảng, iPod được phát triển độc quyền của hãng Apple. Hiện tại, hệ điều hành iOS chiếm khoảng hơn 20% thị trường hệ điều hành điện thoại di động trên thị trường và tới hơn 40% thị trường hệ điều hành máy tính bảng. Kho ứng dụng của iOS cũng rất đồ sộ, phục vụ tối đa nhu cầu làm việc và giải trí của người sử dụng. Trao đổi dữ liệu cần phải qua iTunes nên dễ gây bất tiện, tốn thời gian. Hệ điều hành Windows Phone là một trong những hệ điều hành phổ biến nhất hiện nay. Đây là hệ điều hành dành cho những chiếc điện thoại thông minh của hãng Microsoft, thay thế cho nền tảng Windows Mobile trước đó. Hệ điều hành Windows Phone ra mắt chính thức vào năm 2010. Sau đó được phát triển rộng rãi hơn trên toàn thế giới. Rất nhiều chiếc điện thoại của HTC, Dell, Samsung hay LG đã sử dụng dụng hệ điều hành này. Tuy nhiên, cho đến nay, thị phần smartphone sử dụng Windows Phone vẫn tỏ ra hụt hơi so với nhiều đối thủ khác. Giao diện trên điện thoại gần giống như trên máy tính tạo cảm giác quen thuộc và dễ sử dụng. Windows Phone không cho phép thay đổi giao diện, chủ đề (themes) nên dễ gây chán. Hệ điều hành Blackberry OS hướng đến đối tượng là những doanh nhân. Trải qua biết bao năm tháng biến động của thị trường thiết bị di động, hệ điều hành Blackberry OS vẫn luôn giữ một vị thế quan trọng riêng trong làng công nghệ thế giới. Blackberry OS sở hữu những tiện ích rất chất, rất riêng, mang đến ấn tượng sâu sắc cho người sử dụng. Công nghệ Push Email cho phép người dùng nhận tin nhắn ngay lập tức khi có tin nhắn mới trong hộp thư. Bạn hoàn toàn có thể dễ dàng nhận, gửi tin nhắn chỉ trong vài giây. Blackberry OS cho khả năng nén dữ liệu xuống chỉ còn bằng một nửa kích thước ban đầu, giúp tiết kiệm chi phí băng thông. Chỉ hướng đến doanh nhân nên bị hạn chế đối tượng sử dụng ở phân khúc người dùng bình dân. Bên cạnh trình duyệt web cáo lửa Firefox tuyệt vời thì nhà sản xuất Mozilla còn tạo ra một hệ điều hành dành cho di động gây được không ít tiếng vang. Đó chính là hệ điều hành Firefox OS, dựa trên mã nguồn mở Linux (nguồn gốc của hệ điều hành android). Điểm đặc biệt nhất của hệ điều hành Firefox OS đó là nó hoạt động dựa trên những chuẩn web mở như: HTML5 và JavaScript. Tại Việt Nam, hầu như rất hiếm thấy thiết bị công nghệ nào sử dụng hệ điều hành Firefox OS, đơn giản là bởi thị trường đã bị hệ điều hành Android, iOS và Windows Phone nắm giữ. Giao diện dễ sử dụng, trông giống như một sự kết hợp hài hòa giữa Android và iOS. Firefox OS có những thư mục rất thông minh, có thể tự thu thập những ứng dụng, game theo từng thể loại khác nhau, cũng như tính chất những công việc riêng biệt mà bản thân nó được phát triển. Giao diện Firefox OS đã vay mượn khá nhiều từ iOS, thường gặp nhiều bất cập bởi phụ thuộc nhiều vào nút Home (màn hình chủ). Windows là hệ điều hành độc quyền của hãng công nghệ Microsoft. Microsoft lần đầu tiên giới thiệu hệ điều hành Windows 8 vào năm 1985 với những tính năng và giao diện đồ hoạ vô cùng thân thiệt với người dùng. Cho đến nay, hệ điều hành này đã phát triển tới Windows 10, trở thành một nền tảng hợp nhất dành cho hầu như tất cả các thiết bị của Microsoft như máy tính cá nhân, máy tính bảng, smartphone, thiết bị đeo thông minh. Hỗ trợ cho màn hình cảm ứng (Windows 8 trở lên) khiến các thao tác trở nên nhanh và dễ dàng hơn. Bảo mật tuy không toàn diện như Linux hay Mac OS, nhưng Microsoft vẫn thường xuyên cung cấp cho người dùng những bản vá lỗ hổng bảo mật. Hỗ trợ nhiều ứng dụng hơn, vượt trội hơn so với các hệ điều hành khác. Việc phòng chống virus luôn phải được chú ý cập nhật thường xuyên và đầy đủ. Hệ điều hành phổ biến nhất hiện nay mà Toplist muốn giới thiệu với bạn đó chính là Mac OS. Mac OS là hệ điều hành độc quyền của hãng Apple được ra mắt vào năm 2001 với phiên bản 10.00 hoạt động ổn định cùng giao diện thân thiện. Khác với hãng Microsoft, Apple đã tạo ra một hệ sinh thái thống nhất từ phần cứng cho đến phần mềm. Với sự tối ưu này giúp Mac OS mang lại cho người dùng những trải nghiệm tuyệt vời nhất. Điểm lợi thế mà hệ điều hành Mac OS mang lại cho người sử dụng đó là sự hỗ trợ lâu dài từ Apple. Ngoài sự độc bá của hệ điều hành Microsoft Windows và Mac OS trên thế giới, thì chúng ta vẫn còn có một hệ điều hành đang âm thầm phát triển với những đặc trưng riêng biệt. Đó chính là hệ điều hành Linux ra đời năm 1992. Ngày nay, Linux được phân chia ra thành nhiều nhánh như: Ubuntu, Linux Mint hay Fedora… Dù ít được sử dụng nhưng Linux vẫn là một trong những hệ điều hành phổ biến nhất hiện nay. Bạn sẽ không phải mất tiền mua mà vẫn sử dụng được đầy đủ các tính năng trên hệ điều hành Linux. Hầu như những phần mềm độc hại không thể hoạt động trên hệ điều hành này. Cho phép người dùng tự do chỉnh sửa, phù hợp cho những ai thích tìm tòi khám phá cái mới. Nhiều nhà sản xuất không phát triển driver hỗ trợ nền tảng hệ điều hành Linux. Hệ điều hành Ubuntu được phát triển và bảo trợ bởi công ty Canonical. Mục tiêu của hệ điều hành Ubuntu này là hướng tới các dòng máy tính xách tay, máy tính để bàn và máy chủ (server). Ubuntu hướng tới những đối tượng là người dùng phổ thông, và cả các chuyên gia. Điều đặc biệt nhất mà bất kỳ ai cũng phải thích thú đó là hệ điều hành Ubuntu luôn luôn miễn phí. Chrome OS là một trong những hệ điều hành phổ biến nhất hiện nay, được phát triển bởi Google. Chrome OS ra đời để tận dụng lợi thế của điện toán đám mây (giúp lưu trữ trực tuyến) và những ứng dụng web. Chrome OS lần đầu tiên được ra mắt vào năm 2009, các thiết bị Chromebooks từ đây cũng bắt đầu nhen nhóm trên thị trường. Năm 2014 vừa qua chính là năm bùng nổ với rất nhiều thiết bị Chromebook được tung ra thị trường. Đây là một hệ điều hành rất đáng để sử dụng. Dễ dàng sử dụng, ai cũng có thể sử dụng ngay hệ điều hành này mà không cần phải tìm hiểu nhiều. Trên đây, Toplist vừa giới thiệu với bạn là Top 10 hệ điều hành phổ biến biến nhất hiện nay dành cho điện thoại, máy tính. Bạn đang sử dụng hệ điều hành nào? Ưu và nhược điểm của nó ra sao? Hãy chia sẻ cùng Toplist nhé!. Là top 3 tiêu chí mà Toplist.vn luôn luôn hướng tới để đem lại những thông tin hữu ích nhất cho cộng đồng
|
Hệ điều hành
|
Hệ điều hành (tiếng Anh: Operating System - OS) là phần mềm hệ thống quản lý phần cứng máy tính, phần mềm và cung cấp các dịch vụ chung cho các chương trình máy tính. Đối với các chức năng phần Cứng như đầu vào, đầu ra và cấp phát bộ nhớ, hệ điều hành đóng vai trò quan trọng giữa các chương trình và phần cứng máy tính, mặc dù mã ứng dụng thường được thực thi trực tiếp bởi phần cứng và thường thực hiện các lệnh hệ thống đến Chức năng hệ điều hành hoặc bị hệ điều hành làm gián đoạn. Hệ điều hành được tìm thấy trên nhiều thiết bị có máy tính – từ điện thoại di động và bảng điều khiển trò chơi điện tử đến máy chủ web và siêu máy tính, cung cấp một môi trường cho phép người sử dụng phát triển và thực hiện các ứng dụng của họ một cách dễ dàng. Hệ điều hành chia sẻ thời gian lập lịch cho các tác vụ để sử dụng hệ thống một cách hiệu quả và cũng có thể bao gồm phần mềm kế toán để phân bổ chi phí thời gian xử lý, lưu trữ dung lượng lớn, in ấn và các tài nguyên khác.
|
FashionCác ngôi sao đang lăng xê xu hướng thời trang nào? Bí quyết ăn mặc của họ ra sao? Những mẫu thiết kế nào đang hot? Cùng cập nhật các tin thời trang trong và ngoài nước mới nhất. BeautyKhông có phụ nữ xấu, chỉ có phụ nữ không biết cách làm đẹp. Những tin làm đẹp của Harper’s Bazaar Vietnam giúp bạn tiếp cận những phương pháp làm đẹp mới nhất trong và ngoài nước. PhotoshootsNhiếp ảnh chính là nghệ thuật. Hãy ngắm những tấm ảnh đẹp của các nhiếp ảnh gia hàng đầu Việt Nam và thế giới để lấy cảm hứng cho những tấm ảnh của chính bạn. LifestyleLifestyle – Phong cách sống nói lên tính cách và quyết định sự thành đạt của con người. Harper’s Bazaar Vietnam giới thiệu với bạn những bí quyết hưởng thụ cuộc sống trọn vẹn nhất. FashionCác ngôi sao đang lăng xê xu hướng thời trang nào? Bí quyết ăn mặc của họ ra sao? Những mẫu thiết kế nào đang hot? Cùng cập nhật các tin thời trang trong và ngoài nước mới nhất. BeautyKhông có phụ nữ xấu, chỉ có phụ nữ không biết cách làm đẹp. Những tin làm đẹp của Harper’s Bazaar Vietnam giúp bạn tiếp cận những phương pháp làm đẹp mới nhất trong và ngoài nước. PhotoshootsNhiếp ảnh chính là nghệ thuật. Hãy ngắm những tấm ảnh đẹp của các nhiếp ảnh gia hàng đầu Việt Nam và thế giới để lấy cảm hứng cho những tấm ảnh của chính bạn. LifestyleTất cả thông tin về phong cách sống thượng lưu, cao cấp của người phụ nữ Bazaar. Trong thời trang có một khái niệm tưởng chừng như nghịch lý “càng ít thì càng nhiều (less is more)”. Tuy nhiên, đó lại là một trong những xu hướng rất được ưa chuộng hiện nay: Xu hướng thời trang tối giản (minimalism). Giống như phải ăn quá nhiều thịt cá gia vị, người ta trở nên háo hức với những món rau trái thanh đạm. Đây là hiệu ứng mà xu hướng tối giản (minimalism) mang lại cho giới thời trang. Giới mộ điệu trầm trồ tán thưởng trước những trang phục cực kỳ đơn giản mà tinh tế của nhà thiết kế Phoebe Philo trong bộ sưu tập thời trang Céline Xuân Hè 2010, những trang phục đơn sắc, gam màu trung tính, những chiếc đầm với những đường cắt may đơn giản nhưng tỉ mỉ. Ta có thể bắt gặp nhiều thiết kế với phong cách tương tự trong những bộ sưu tập của các nhà thiết kế trẻ đang lên hiện nay như Stella McCartney, Victoria Beckham, Derek Lam, Jil Sander, Alexander Wang…. Trong các hình thức nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, âm nhạc…, phong cách tối giản là cách sử dụng tối thiểu các chi tiết thiết kế đơn giản nhất. Ví dụ như bức tranh hình chữ nhật màu xanh của Yves Klein năm 1962, bức tranh Voice of Fire (Tiếng nói của lửa) của Barnett Newman 1967, hay những tác phẩm điêu khắc hình khối của Tony Smith. Tất cả đều dựa trên nguyên tắc đơn giản và hạn chế tối đa việc sử dụng các chi tiết mô tả. Nghệ thuật tối giản trong âm nhạc thể hiện ở sự lặp đi lặp lại các hợp âm hay giai điệu như trong âm nhạc của La Monte Young, hay tập trung lột tả bản chất của những âm thanh quen thuộc ví dụ như tiếng còi tàu trong bản nhạc Different Trains (1988) của Steve Reich. Trong văn chương, phong cách tối giản đặc trưng ở chỗ nhà văn hạn chế tối đa việc sử dụng từ ngữ, họ tập trung vào mô tả bề mặt. Những nhà văn theo phong cách tối giản thường tránh dùng trạng từ, thích dựa vào bối cảnh để thể hiện ý nghĩa. Người đọc đóng một vai trò tích cực trong việc tạo ra câu chuyện dựa trên những gợi ý và ngụ ý của tác giả thay vì chỉ đọc một cách thụ động. Phong cách tối giản ra đời từ sau Thế chiến thứ II. Xuất phát điểm là các nước phương Tây, đặc biệt nở rộ ở Mỹ trong thập niên 1960 và đầu những năm 1970. Phong cách tối giản được thể hiện ở kết quả tác phẩm chứ không phải từ công cụ hay kỹ thuật trong quá trình làm nên tác phẩm. Điều này cũng phù hợp đối với thời trang tối giản. Các nhà thiết kế theo phong cách tối giản đôi khi phải mất rất nhiều công sức và thời gian để tạo ra một mẫu thiết kế đơn giản một cách hoàn hảo. Thời trang tối giản đã đạt được sự phổ biến trong thập niên 1990 với sự ra đời bộ sưu tập đầu tiên của nhà thiết kế Tom Ford cho Gucci năm 1996 và của Marc Jacobs cho Louis Vuitton năm 1998. Có thể tóm gọn thời trang tối giản qua hai đặc điểm nổi bật. Đó là sự giản lược tất cả những chi tiết thừa để có được cốt lõi của sự đơn giản. Và sự thoát ly khỏi khái niệm về cái đẹp truyền thống, giới tính, tuổi tác. Trong thời trang, phong cách tối giản là chọn trang phục thiên về sự đơn giản, ít chi tiết, ít phụ kiện. Những tông màu thiên về trung tính, màu tối hoặc đơn sắc. Tiêu chí là càng đơn giản càng tinh tế. Các nhà thiết kế tối giản chú trọng vào điểm đặc biệt của kiểu dáng và chất liệu vải, hơn là vào sự cầu kỳ của trang phục. Họ thiết kế trang phục thông qua nhiều công đoạn gạn lọc chặt chẽ để có được một thiết kế cực kỳ đơn giản nhưng vẫn toát lên sự tinh tế và cá tính. Những thiết kế thời trang tối giản thường có vẻ ngoài lạnh lùng, tiết chế cảm xúc. Một ví dụ điển hình cho phong cách này là chiếc áo cưới mà Cristóbal Balenciaga thiết kế năm 1967. Không có bất kỳ trang trí nào trên chiếc áo cưới. Nó thậm chí còn lược bỏ cả nơ thắt lưng. Nhà thiết kế đã may chiếc đầm cưới chỉ với ba đường chỉ trên nền lụa gazar. Vô cùng đơn giản. Nhưng không ai có thể phủ nhận được vẻ đẹp toát ra từ sự đơn giản ấy. Thời trang tối giản có xu hướng loại bỏ những đường nét thể hiện giới tính, tuổi tác, vẻ đẹp theo quan niệm truyền thống. Đó là những thiết kế phi giới tính với những gam màu trung tính, đơn sắc, không dành riêng cho độ tuổi nào, hoàn toàn thoải mái. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà thiết kế Nhật Bản được xem là những người tiên phong trong phong cách này. Vì họ không theo lối tôn vinh đường cong cơ thể phụ nữ như thời trang truyền thống phương Tây. Một trong những show thời trang được tán thưởng nhiều nhất và có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử thời trang tối giản đó là show trình diễn bộ sưu tập Xuân Hè 1997 của Comme des Garçons của nhà thiết kế người Nhật Rei Kawakubo, với tên gọi Body Meets Dress, Dress Meets Body. Trong bộ sưu tập này, Kawakubo đã thách thức những quan niệm truyền thống về tiêu chuẩn của cái đẹp, vốn mặc định trang phục phải tôn lên đường cong của cơ thể. Chính quan niệm này vô hình trung đã khiến vóc dáng của người phụ nữ bị định hình theo một tiêu chuẩn nhất định, đánh mất những đặc trưng riêng của cơ thể họ. Bởi thế, dù bộ sưu tập của Rei Kawakubo không tuân theo những nguyên tắc cơ bản của trường phái minimalism, nhưng thông điệp mà bà muốn truyền tải lại vô cùng phù hợp với tinh thần của tối giản. Đó là thoát ly khỏi những phom dáng truyền thống, những kiểu trang phục định hình giới tính, tuổi tác. Các thiết kế của Kawakubo gói ghém người mẫu trong những phom dáng hình khối lạ mắt, đi ngược lại những đường nét thông thường, chứng minh không có tiêu chuẩn nào là mãi mãi trong thời trang và thời trang không nên trở thành giới hạn gò bó cái đẹp. Sự đơn giản trong trang phục tối giản không nhất thiết luôn thể hiện ở vẻ ngoài. Nó có thể nằm ở chất liệu hay những đường cắt may tạo nên trang phục. Khó mà nhận ra sự đơn giản trên những thiết kế của Martin Margiela. Tuy nhiên nếu tìm hiểu kỹ ta sẽ nhận thấy ông vẫn tuân thủ hai nguyên tắc đơn giản và đặc biệt. Trang phục của ông có thể được thiết kế từ những chất liệu rất bình thường, sản phẩm tái chế và với rất ít đường cắt may. Ví dụ như những chiếc áo khoác bằng plastic, hay chiếc đầm được may từ những chiếc găng tay cũ. Hình ảnh của nữ diễn viên trong chiếc LBD thanh lịch quý phái trong phim Breakfast at Tiffany’s đã trở thành một hình ảnh kinh điển trong thời trang, đó cũng là một hình ảnh tượng trưng cho phong cách thời trang tối giản. Bà cũng là người ưa chuộng phong cách đơn giản thanh lịch, thoải mái. Từ khi trở thành nhà thiết kế, Victoria Beckham ưu chuộng phong cách thời trang giản lược các chi tiết, chỉ chú trọng phom dáng và đường nét. Bà Beck thích mặc các gam màu trơn, cơ bản như trắng, đen. Áo sơ mi, quần tây, đầm suôn dài là những kiểu trang phục gắn liền với hình tượng của cô. Ngay cả các thiết kế của thương hiệu Victoria Beckham cũng hướng theo trường phái tối giản như Phoebe Philo. Nữ diễn viên có vóc dáng mảnh mai này ưa chuộng phong cách tối giản từ những năm 1990. Đây cũng là thời kỳ thịnh hành những kiểu dáng đơn giản như đầm slip dress trơn suôn. Cho đến nay, Gwyneth Paltrow vẫn thường chọn những chiếc đầm có phom dáng suôn dài, ít để lộ đường cong. Các nhà thiết kế yêu thích của cô là Calvin Klein, Stella McCartney, Tom Ford… Ít ai quên được chiếc đầm dài màu trắng dạng cape của Tom Ford mà Gwyneth mặc tại Oscar 2012, được bình chọn là một trong những chiếc đầm đẹp nhất trong lịch sử lễ trao giải này. Top 11 phim hài lẻ Hàn Quốc hay nhất khiến bạn cười muốn bể.under Lifestyle. 7 phim hậu cung Trung Quốc hay nhất dành cho khán giả mê cun.under Lifestyle. Các nàng mông lép nên mặc quần gì để cải thiện độ tròn trịa.under Fashion
|
Phong cách tối giản
|
Phong cách tối giản hay Phong cách tối thiểu (tiếng Anh: Minimalism, tiếng Pháp: Minimalisme) thể hiện những khuynh hướng đa dạng của nghệ thuật, đặc biệt trong nghệ thuật thị giác và âm nhạc mà các tác phẩm được tối giản về những yêu cầu thiết yếu nhất của nó. Phong cách tối giản xuất phát trong nghệ thuật phương Tây từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, rõ nét nhất là trong nghệ thuật thị giác với các tác phẩm hội họa của Mark Rothko. Khái niệm này dần dần được mở rộng để bao hàm cả những khuynh hướng trong âm nhạc mà đặc điểm là sự lặp lại, điển hình là các tác phẩm của Steve Reich, Philip Glass và Terry Riley Phong cách tối giản có nguồn gốc bắt rễ từ sự thuần khiết và cô đọng của chủ nghĩa Hiện đại, được kết hợp với chủ nghĩa Hậu hiện đại và được xem như phản ứng đối ngược lại với chủ nghĩa Biểu hiện trong nội dung cũng như trong bố cục tác phẩm.
|
Văn minh là trật tự xã hội nhằm đẩy mạnh sự sáng tạo văn hoá, Từ “văn minh” – civilization xuất hiện đầu tiên ở Pháp vào thế kỷ 18 nói lên niềm tin và khát vọng của con người vào tiến bộ xã hội.Sau đó dùng để chỉ những loại hình xã hội khác nhau kể từ khi con người ra khỏi thời tiền sử, đặc biệt để chỉ những nền văn minh cổ đại như Hy Lạp, Lưỡng Hà, Trung Hoa, Ấn Độ… Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm xét đến để tạo nên, duy trì, vận hành và tiến hoá xã hội loài người. Các yếu tố của văn minh có thể hiểu gọn lại là di sản tích luỹ tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ khi loài người hình thành cho đến thời điểm xét đến. Trước khi tìm hiểu nền văn minh Harappa, chúng ta hãy tìm hiểu xem thế Văn minh là gì để từ đó ứng chiếu với các phát hiện khảo cổ học và suy luận của các nghiên cứu, khảo cổ học và sử học. Có nhiều định nghĩa về Văn minh. Một định nghĩa mang tính chất bao hàm nhất cho rằng một nền văn minh là một xã hội phức tạp, thể hiện phẩm chất tiên tiến từ một xã hội đồng nhất. Mọi cư dân sinh sống trong xã hội cùng một văn hoá, nhưng không phải tất cả mọi cư dân đều sống trong nền văn minh. V. Gordon Childe đã đưa ra 10 đặc điểm chung nhất đối với một nền văn minh và nền văn minh Harappa mang những nét mang đăc trưng của một nền văn minh đô thị:. Trình độ kỹ thuật nông nghiệp: đạt mức độ cao, con người sử dụng sức mạnh, canh tác luân canh và biết sử dụng thủy lợi. Điều này giúp hình thành một tầng lớp nông dân tạo ra một lượng thặng dư về thực phẩm. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp: không phải toàn bộ cư dân dồn hết thời gian cho việc kiếm thức ăn. Việc này sẽ thức đẩy dẫn đến sự phân chia các tầng lớp cư dân. Xã hội sẽ dôi dư các lực lượng cư dân quan tâm đến các lĩnh vực không thuộc lao động trong nông nghiệp như, xây dựng, chiến tranh, khoa học hoặc tôn giáo. Điều này chỉ có thể đạt được nếu xã hội nói đến có một lượng thặng dư thức ăn dồi dào. Hình thành nên các trung tâm đô thị: Sự tập trung của một lượng lớn sản phẩm phi nông nhiệp vào khu vực định cư cố định, gọi là đô thị. Hình thành nên hình thái tổ chức xã hội: cần phải có một thủ lĩnh hoặc là người đứng đầu các gia đình quý tộc hoặc là đảng phái để điều hành xã hội; hoặc là hình thái nhà nước, ở đó tầng lớp cai trị được sự hỗ trợ của một chính phủ hay quan lại. Sức mạnh chính trị phải được tập trung bên trong đô thị. Có người đứng đầu/tầng lớp cai trị: phần lương thực, thực phẩm sản xuất ra được vận hành bằng thể chế hóa của tầng lớp cai trị, chính phủ hay quan lại. Tôn giáo: Thể chế phức tạp, xã hội trật tự như một sự ngăn nắp của tôn giáo và giáo dục, đối nghịch với nó là một xã hội kém về tín ngưỡng và giáo dục thấp. Kinh tế: Sự phát triển của một hình thái phức tạp của nền kinh tế thương mại. Cái này đưa đến sự hình thành nền thương mại trên cơ sở sử dụng tiền tệ và khu thương mại tập trung – chợ. Sử dụng các công cụ lao động: Có sự phổ biến của các công nghệ mới do các lực lượng không bận bịu vào các công việc tìm kiếm thực phẩm. Trong rất nhiều nền văn minh sơ khởi, công nghệ luyện kim là một tiến bộ cốt lõi. Chữ viết: Có sự phát triển mạnh mẽ về hội họa, bao gồm cả chữ viết. Như vậy, để minh chứng được rằng, Harappa là một nền văn minh đô thị, chúng ta hãy đi tìm hiểu từng đặc trưng của nó. Cách đây vài ngàn năm, lịch sử đã ghi nhật sự tồn tại một nền văn minh phát triển rực rỡ ở thung lũng sông Ấn. Nằm ở Pakistan và miền tây Ấn Độ ngày nay, đó là văn hóa đô thị sớm nhất của tiểu lục địa Ấn Độ. Nền văn minh Thung lũng sông Ấn theo đúng tên gọi của nó bao phủ một diện tích bằng cả Tây Âu. Nó là nền văn minh lớn nhất trong bốn nền văn minh cổ đại Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Văn minh lưu vực sông Ấn cũng còn được gọi là Văn hóa Harappa theo địa danh của một trong những nơi khai quật chính là một nền văn minh thời Cổ đại phát triển vào khoảng thời gian từ năm 2.800 – 1.800 TCN nằm bên trái nhánh sông Ravi – một trong năm nhánh của sông Ấn hay còn gọi là Punjab và nằm về phía tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ. Một tên gọi khác của nền văn hóa này, nền văn minh Sindhu-Sarasvati, dựa trên thuyết cho rằng nền văn minh này là nền văn minh đã được nhắc đến trong văn học Veda. Tuy nhiên, trong tất cả các nền văn minh này thì đây được xem là nền văn minh ít được biết nhất. Điều này là do chữ viết của nền văn minh Indus vẫn chưa được giải mã. Có nhiều dấu tích của các con chữ được tìm thấy trên các mảnh gỗm bị vỡ, các con dấu, hay bùa hộ mệnh, nhưng các nhà ngôn ngữ học và các nhà khảo cổ đã gắng để có thể giải mã nó. Sau đó, các nhà nghiên cứu đã phải dựa vào vật liệu mang tính văn hóa còn sót để từ đó cho họ cái nhìn sâu sắc vào đời sống của người dân Harappan. Harappan là tên được đặt cho người dân thời kỳ cổ đại thuộc nền văn minh Thung lũng Ấn. Bài viết này sẽ được tập trung chủ yếu vào hai thành phố lớn nhất của Harappa và Mohenjo-Daro, và những gì đã được phát hiện ở đó. Việc phát hiện ra nền văn minh Thung lũng Indus lần đầu tiên vào năm 1800 bởi người Anh. Việc ghi chép lại đầu tiên là do một đào ngũ quân đội Anh, James Lewis, người đã được xem như một kỹ sư người Mỹ vào năm 1826. Ông nhận thấy sự hiện diện của những đống di tích tại một thị trấn nhỏ ở Punjab gọi là Harappa. Vì Harappa là thành phố đầu tiên được tìm thấy, và những phái hiện sau đó đều được gọi là nền văn minh Harappan. Thành phố Harappa đổ nát đã được biết đến từ lâu và được Charles Masson miêu tả lần đầu tiên vào năm 1844 trong quyển Narrative of Various Journeys in Balochistan, Afghanistan and The Panja của ông như là “một pháo đài xây bằng gạch nung từ đất sét đã bị phá hủy”, tầm quan trọng của nó chỉ được nhận biết rất lâu sau đó. Alexander Cunningham, người đứng đầu Viện Khảo cổ học Ấn Độ đã đến khu vực này vào năm 1853 và năm 1856 trong khi tìm kiếm các thành phố mà người hành hương Trung Quốc đã đặt chân trong thời kỳ Phật giáo. Sự hiện diện của một thành phố cổ đã được khẳng định trong 50 năm sau, nhưng không ai có bất kỳ ý tưởng về tuổi tác hoặc tầm quan trọng của nó. Vào năm 1872, các phế tích bằng gạch đã bị lấy đi đã làm phá hủy hầu các tầng trên của các khu vực này. Năm 1857 trong lúc xây dựng đường tàu hỏa Đông Ấn từ Karatschi đến Lahore người Anh đã sử dụng gạch tìm thấy trên một cánh đồng đổ nát gần Harappa để củng cố con đường tàu hỏa này. Vì thế mà tình trạng các di chỉ còn lại ở Harappa xấu hơn rất nhiều so với ở Mohenjo-Daro. Mohenjo-Daro cũng được biết đến từ lâu nhưng ở đấy người ta chỉ quan tâm đến những phần còn lại của một tu viện Phật giáo từ thế kỷ thứ 2 SCN được xây dựng trên những đống đổ nát cũ. Alexander Cunningham đã thực hiện một cuộc khai quật nhỏ tại đây và phát hiện một số đồ gốm cổ xưa, một số công cụ bằng đá, và con dấu bằng đá. Ông công bố phát hiện của mình và nó tạo ra sự tò mò nghiên cứu của các học giả. Năm 1912 J. Fleet tìm thấy trong vùng đất thuộc địa Anh ngày xưa nhiều con dấu với chữ viết chưa được biết đến, thu hút sự quan tâm của giới khoa học tại châu Âu. Nhưng Phải đến năm 1920 việc tiến hành khai quật một cách nghiêm túc mới bắt đầu diễn ra tại Harappa. Ngài John Marshall, về sau là giám đốc Viện Khảo cổ học của Ấn Độ, bắt đầu một cuộc khai quật mới tại Harappa. Cùng với phát hiện từ một nhà khảo cổ học, những người đã được khai quật tại Mohenjo Daro, Marshall tin rằng những gì họ đã tìm thấy cho bằng chứng về một nền văn minh mới đã được khai quật lớn hơn bất kỳ những nền văn minh họ đã từng biết đến. Tuy nhiên, các cuộc khai quật đã không được thực hiện trong vòng 40 năm cho đến năm 1986 khi nguyên giáo sư George Dales của Đại học California tại Berkeley đã thiết lập dự án khảo cổ Harappan, còn gọi là HARP. Đây là nỗ lực nghiên cứu đa ngành bao gồm các nhà khảo cổ học, ngôn ngữ học, sử học, và nhà nhân loại học vật lý. Từ khi thành lập dự án HARP, Jonathan Mark Kenoyer đã từng là đồng giám đốc và giám đốc phụ trách chuyên môn của dự án. Kenoyer sinh ra ở Shillong, Ấn Độ, và dành phần lớn tuổi trẻ của mình ở đây. Ông tiếp tục theo học tại Đại học California tại Berkeley và hiện là giáo sư nhân chủng học tại Đại học Wisconsin-Madison, và dạy khảo cổ học và công nghệ cổ đại. Tập trung chính Kenoyer là về nền Văn minh lưu vực sông Ấn nơi ông đã tiến hành nghiên cứu trong vòng 23 năm qua. Khi còn là sinh viên, Kenoyer được đặc biệt quan tâm đến công nghệ nghiên cứu thời cổ đại. Ông đã làm rất nhiều công việc cố gắng để tái tạo các quá trình được sử dụng bởi những người cổ đại trong sản xuất đồ trang sức và đồ gốm. Một trong những nỗ lực đầu tiên của ông trong việc tái tạo làm các loại vòng bằng vỏ sò sau đó đã được đồng tác giả với George Dales và xuất bản một bài báo. Luận án tiến sĩ của ông đã được dựa trên nghiên cứu này, và luận án của ông là một mốc quan trọng trong lĩnh vực khảo cổ học thực nghiệm và khảo cổ -nhân chủng học, ngoài việc nghiên cứu làm việc chế tác vỏ sò của người dân Harappan. Kenoyer sử dụng một cách tiếp cận khảo cổ học theo ngữ cảnh. Công việc của ông được đặc trưng bởi việc sử dụng các bằng chứng lạnh để vẽ phác thảo của nền văn minh cổ đại. Từ năm 1931, tại Mohenjo-Daro hơn 10 ha của thành phố đã được khai quật, sau đấy chỉ còn những khai quật nhỏ, trong đó là cuộc khai quật năm 1950 của Sir Mortimer Wheeler. Sau khi thuộc địa Anh được chia cắt năm 1947, khu vực dân cư của văn hóa Harappa được chia thành một phần thuộc Pakistan và một phần thuộc Ấn Độ. Sau đó, tại Pakistan, người Mỹ, người Pháp, người Anh và người Đức đã cùng với những nhà khảo cổ học người Pakistan tiếp tục công việc nghiên cứu trong khi tại Ấn Độ là ngành khảo cổ học Ấn. Đã và đang có nhiều ảnh hưởng lớn đến công cuộc nghiên cứu nền văn hóa song Ấn, bên cạnh những nhà khảo cổ học khác, là người Anh Aurel Stein, người Ấn Nani Gopal Majumdar và người Đức Michael Jansen. Như vậy, có thể nói rằng chỉ đến năm 1922, khi các nhà khảo cổ học người Anh trên đường đi tìm dấu vết của Alexander Đại đế khám phá những phần còn lại của một nền văn hóa chưa được biết đến trong lãnh thổ của Pakistan ngày nay, nền văn hóa cổ phát triển cao này mới được biết đến. Nền văn minh này trải dài gần khắp lãnh thổ Pakistan ngày nay cũng như nhiều phần của Ấn Độ và Afganistan trên một diện tích là 1.250.000 km² và như thế so về diện tích lớn hơn Ai Cập cổ đại và nền văn minh Lưỡng Hà (Mesopotamia) cộng lại. Bên cạnh hai nền văn hóa này, nền văn minh sông Ấn là một trong ba nền văn minh lâu đời nhất của thế giới. Ngay từ thời đấy người ta đã biết đến quy hoạch đô thị, chữ viết và kiến trúc. Cho đến nay có hơn 1.050 di chỉ đã được xác định, phần lớn dọc theo sông Ấn. Trên 140 thành phố và làng mạc đã được tìm thấy. Hai trung tâm đô thị lớn nhất là Harappa và Mohenjo-Daro, bên cạnh đó còn có nhiều thành phố lớn như Dholavira, Ganweriwala, Lothal và Rakhigarhi. Trong thời kỳ nở rộ, nền văn hóa sông Ấn được phỏng đoán có trên 5 triệu dân cư. Nguồn tài liệu về văn hóa Harappa, trái ngược với 2 nền văn hóa tại Ai Cập và Lưỡng Hà, rất đáng tiếc là còn rất mỏng. Chỉ khoảng 10% làng mạc của họ là đã được khai quật, chữ viết chưa được giải mã và việc nền văn hóa này biến mất đột ngột từ khoảng 1.900 TCN cũng chưa được giải thích. Cho đến nay, thành phố lớn nhất được tìm thấy trong thung lũng sông Ấn là Mohenjo Daro, đồi của người chết – The mound of death, nằm trong tỉnh Sindh của Pakistan ngày nay, ngay cạnh sông Ấn. Cùng với những di chỉ khảo cổ quan trọng khác như Kot Diji, Lothal và Harappa, đặc điểm của Mohenjo Daro là kiến trúc đồng nhất trong xây dựng thành phố, đặc biệt là trong hệ thống cung cấp nước và hệ thống nước thải. Các thành phố được xây dựng tương tự như một bàn cờ, chứng minh cho những hiểu biết tiến bộ trong khoa vệ sinh và quy hoạch đô thị. Mặc dù, cũng có thể nền văn minh Harappa tồn tại trước đó nhưng thời kỳ phát triển rực rỡ nhất là vào khoảng từ 2600-1900 TCN, đánh dấu đỉnh cao của phát triển kinh tế và phát triển văn minh đô thị.
|
Văn minh lưu vực sông Ấn
|
Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, Văn minh sông Ấn hay Văn hóa sông Ấn, cũng còn được gọi là Văn hóa Harappa theo địa danh của một trong những nơi khai quật chính, là nền văn minh thời Cổ đại đầu tiên của Ấn Độ phát triển vào khoảng thời gian từ năm 2.800 trước Công Nguyên đến năm 1.800 trước Công Nguyên dọc theo sông Ấn nằm về phía tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ. Một tên gọi khác của nền văn hóa này, nền văn minh Sindhu-Sarasvati, dựa trên thuyết cho rằng nền văn minh này là nền văn minh đã được nhắc đến trong văn học kinh Vệ-đà của Hindu giáo. Chỉ đến năm 1922, khi các nhà khảo cổ học người Anh trên đường đi tìm dấu vết của Alexander Đại đế khám phá những phần còn lại của một nền văn hóa chưa được biết đến trong lãnh thổ của Pakistan ngày nay, nền văn hóa cổ phát triển cao này mới được biết đến. Nền văn minh này trải dài gần khắp lãnh thổ Pakistan ngày nay cũng như nhiều phần của Ấn Độ và Afganistan trên một diện tích là 1.250.000 km² và như thế so về diện tích lớn hơn Ai Cập cổ đại và nền văn minh Lưỡng Hà (Mesopotamia) cộng lại.
|
Nghiên cứu do công ty gien tiêu dùng 23andMe đăng trên tờ American Journal of Human Genetics đã hé lộ một số thông tin mới về tình trạng buôn nô lệ xuyên Đại Tây Dương. Đây là một trong những nghiên cứu lớn nhất về chủ đề này, một phần nhờ cơ sở dữ liệu khổng lồ của khách hàng 23andMe mà các nhà nghiên cứu có thể tuyển người tham gia. Các tác giả nghiên cứu đã thu thập dữ liệu gien của hơn 50.000 người từ châu Mỹ, Tây Âu và châu Phi - Đại Tây Dương và so sánh với hồ sơ lịch sử tại nơi mà nô lệ bị đưa đi và tại nơi mà họ bị đưa tới. Dữ liệu và hồ sơ cho thấy một câu chuyện về nguồn gốc phức tạp của cộng đồng người châu Phi ở châu Mỹ. Phần lớn ADN khớp với tài liệu. Tuy nhiên, các tác giả nghiên cứu cho biết có một số khác biệt đáng chú ý. Xưa nay ta vẫn tưởng rằng lao động nô lệ bị đưa từ châu Phi sang châu Mỹ phần lớn là nam giới. Nhưng dữ liệu gien cho thấy tỷ lệ gien của phụ nữ nô lệ cao hơn nam giới. Ở Mỹ và một số khu vực Caribe mà Anh chiếm làm thuộc địa, tỷ lệ gien của phụ nữ châu Phi cao hơn nam giới châu Phi từ 1,5 đến 2 lần. Ở Mỹ Latinh, tỷ lệ đó còn cao hơn. Gien của phụ nữ nô lệ ở Trung Mỹ, Caribe Latinh và các khu vực Nam Mỹ cao hơn nam giới từ 13 đến 17 lần. Nếu hậu duệ người châu Phi ở châu Mỹ có tổ tiên là người châu Âu thì nhiều khả năng họ có bố da trắng hơn là mẹ da trắng ở mọi khu vực, ngoại trừ Latinh Caribe và Trung Mỹ. Theo hai tác giả Steven Micheletti và Joanna Mountain, thông tin nói trên về tỷ lệ gien của phụ nữ nô lệ châu Phi và nam giới châu Âu cho thấy trong nhiều thế hệ, phụ nữ châu Phi bị chủ da trắng bóc lột tình dục và cưỡng bức. Giáo sư khoa học chính trị Ravi Perry tại Đại học Howard cho biết với người da đen sống ở Mỹ, việc phụ nữ nô lệ da đen bị ông chủ cưỡng bức không phải là điều gì ngạc nhiên. Vô số tài liệu lịch sử đã xác nhận thực tế này. Tuy nhiên, sự khác biệt về vùng giữa Mỹ và Mỹ Latinh chính là điều ngạc nhiên. Các sử gia từng ước tính có 5,7 triệu người bị đưa từ Tây Trung Phi sang làm nô lệ. Tuy nhiên, các tác giả nghiên cứu nói trên lại ngạc nhiên khi biết rằng nhiều người Mỹ gốc Phi có tổ tiên là người châu Phi hơn là người Nam Mỹ gốc Phi, cho dù nhiều nô lệ bị đưa tới Nam Mỹ hơn là bị đưa tới Mỹ. Lời giải thích có thể là hai thực tế kinh hoàng về chế độ nô lệ: Ở những nơi như Brazil và Cuba, chủ nô thường để nô lệ chết chứ không chăm lo sức khỏe cho họ. Còn ở Mỹ, chủ nô thường phối giống nô lệ để duy trì lực lượng lao động nô lệ. Nghiên cứu cũng hé lộ thông tin về buôn bán nô lệ trong châu Mỹ. Số người ở Mỹ và Mỹ Latinh có tổ tiên là người Nigeria nhiều hơn mọi người nghĩ. Ghi chép lịch sử cho thấy nô lệ bị đưa vào châu Mỹ từ các cảng mà ngày nay thuộc Nigeria. Điều này phản ánh thực tế là buôn bán nô lệ xuyên thuộc địa xảy ra phần lớn từ khu vực Caribe thuộc Anh tới các khu vực khác ở châu Mỹ từ năm 1619 tới 1807. Khi người nô lệ châu Phi tới châu Mỹ, nhiều người bị đưa lên tàu mới và chuyển tới các khu vực khác. Các tác giả viết: "Hành trình trong châu Mỹ được ghi chép lại cho thấy phần lớn nô lệ bị đưa từ Caribe thuộc Anh tới các khu vực khác ở châu Mỹ, có thể là để duy trì nền kinh tế nô lệ vì buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương ngày càng bị ngăn cấm". Khi nô lệ từ Nigeria tới vùng Caribe thuộc Anh bị bán sang các khu vực khác, tổ tiên của họ trải khắp các khu vực không trực tiếp buôn bán nô lệ với Nigeria. Theo hai tác giả Micheletti và Mountain, lý do của điều trên rất u ám. Một giải thích là: Theo thời gian, ngày càng nhiều trẻ em từ Senegal bị ép lên tàu để tới châu Mỹ. Điều kiện mất vệ sinh trên tàu khiến các em suy dinh dưỡng và ốm bệnh, khiến không nhiều em sống sót nổi. Một khả năng nữa là điều kiện nguy hiểm mà nô lệ từ Senegal đối mặt khi họ tới nơi. Nhiều người Senegal bị đưa tới đồn điền lúa ở Mỹ vốn đầy rẫy mầm bệnh sốt rét. Các chuyên gia không tham gia nghiên cứu ấn tượng với quy mô bộ cơ sở dữ liệu gien của công ty 23andMe cũng như cách công ty so sánh dữ liệu gien của họ với ghi chép lịch sử. Ông Simon Gravel, giáo sư gien tại Đại học McGill nhận định: "Tôi không biết có ai từng làm công việc toàn diện như vậy khi đặt các dữ liệu cạnh nhau để so sánh mà cơ hội thành công lại rất nhỏ. Đó thực sự là tiến bộ lớn". Tuy nhiên, Giáo sư Gravel cho rằng nghiên cứu vẫn có hạn chế. Ông cho rằng các nhà khoa học đã đơn giản hóa rất nhiều thứ khi họ chỉ chia tổ tiên châu Phi ra thành bốn khu vực: Nigeria, Senegal, duyên hải Tây Phi và Congo. Ông cho rằng như vậy chưa toàn diện và cần thêm dữ liệu gien để đào sâu hơn. Bà Jada Benn Torres, nhà nhân chủng học gien tại Đại học Vanderbilt, cũng cho rằng muốn có nhiều người châu Phi hơn trong nghiên cứu. Trong số hơn 50.000 người tham gia, chỉ có 2.000 người từ châu Phi. Tuy vậy, cả ông Gravel và bà Torres đều coi nghiên cứu là khởi đầu thú vị giúp ta có nhiều thông tin hơn về hậu duệ của người nô lệ châu Phi.
|
Buôn bán nô lệ Đại Tây Dương
|
Buôn bán nô lệ Đại Tây Dương hoặc buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương liên quan đến việc vận chuyển những người nô lệ châu Phi, chủ yếu đến châu Mỹ. Việc buôn bán nô lệ này thường xuyên sử dụng con đường buôn bán hình tam giác & đường trung tuyến của nó, và tồn tại từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Đại đa số những người bị bắt làm nô lệ và vận chuyển trong buôn bán nô lệ Đại Tây Dương là những người đến từ Trung Phi và Tây Phi, mà đã bị những người Tây Phi khác bán cho những người buôn bán nô lệ Tây Âu (với một số lượng nhỏ bị những người buôn bán nô lệ trực tiếp đột kích và bắt đi ở ven biển), và sau đó bị đưa đến châu Mỹ. Các nền kinh tế Nam Đại Tây Dương và ở quần đảo Caribbe đặc biệt phụ thuộc vào lao động để sản xuất mía và các mặt hàng khác. Việc này được các quốc gia Tây Âu coi là rất quan trọng, vào cuối thế kỷ 17 và 18, các quốc gia này đã ganh đua với nhau để tạo ra các đế quốc ở nước ngoài.
|
Tại Việt Nam, các nhà đầu tư (NĐT) thường không biết nên đầu tư tiền nhàn rỗi vào đâu để vừa có lợi nhuận vừa có thể bảo toàn vốn. Ngoài hình thức phổ biến nhất là gửi tiền tiết kiệm ở ngân hàng với lãi suất không cao. Các NĐT cá nhân sẽ đầu tư vào chứng khoán, ngoại tệ, bất động sản, tiền điện tử, vàng. Những hình thức đầu tư này đòi hỏi NĐT phải có kinh nghiệm, hiểu biết và tương đối dồi dào nguồn vốn. Để đạt được lợi nhuận khi thị trường diễn biến khó lường. Rõ ràng, không phải NĐT nào cũng đáp ứng được những điều kiện đó. Hầu hết nhà đầu tư mới bắt đầu thường yếu về kiến thức tài chính. Nhưng họ vẫn muốn đầu tư để kiếm được lợi nhuận một cách an toàn. Tuy nhiên, đã đầu tư tài chính thì sẽ gặp rủi ro. Do đó, thị trường bắt đầu xuất hiện khoảng trống, không nhà đầu tư mới nào đáp ứng được cả hai điều kiện là đầu tư vừa có lợi nhuận vừa an toàn. Để “lấp đầy” khoảng trống đó, thị trường tài chính Việt Nam đã chứng kiến sự xuất hiện của một loạt các quỹ đầu tư – được vận hành bởi các công ty quản lý quỹ. Các quỹ đầu tư này đã tăng nhanh chóng trong những năm qua và chứng minh được những lợi thế mà quỹ có thể mang lại cho những nhà đầu tư cá nhân. Do đó, đã có nhiều nhà đầu tư tham gia quỹ như là một kênh đầu tư hiệu quả và tiết kiệm tiền của mình an toàn hơn. Trước đi tìm hiểu sâu hơn về kênh đầu tư Quỹ đầu tư. Greencap Investment sẽ giúp bạn tìm hiểu quỹ đầu tư là gì? Có bao nhiêu loại quỹ đầu tư? Làm sao để nhận biết một quỹ đầu tư tiềm năng và an toàn?. Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian phi ngân hàng. Thu hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn khác nhau để đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hay các loại tài sản khác. Tất cả các khoản đầu tư này đều được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ bởi công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và cơ quan thẩm quyền khác. Nhà đầu tư thường hay có sự nhầm lẫn giữa quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư. Xét về mặt chức năng, công ty quản lý quỹ là đơn vị quản lý các quỹ đầu tư. Các quỹ đầu tư có thể xem như sản phẩm dịch vụ mà công ty quản lý quỹ cung cấp cho nhà đầu tư. Đầu tư tài chính không phải là một công việc đơn giản mà đòi hỏi rất nhiều năng lực chuyên môn, kiến thức thị trường và nhất là yếu tố thời gian. Do đó nhà đầu tư cá nhân hay pháp nhân thường quyết định đầu tư thông qua quỹ bởi 06 yếu tố:. Tham gia đầu tư các sản phẩm đặc thù như ngoại hối, trái phiếu, quỹ hoán đổi danh mục,. Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều loại hình quỹ đầu tư căn cứ theo các tiêu chí phân loại khác nhau. Là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Nhà đầu tư có thể là cá nhân hay pháp nhân nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ. Quỹ công chúng cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và chi phí đầu tư thấp với hiệu quả cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại. Quỹ này huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một nhóm nhỏ các nhà đầu tư. Có thể được lựa chọn trước. Là các cá nhân hay các định chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn. Do vậy tính thanh khoản của quỹ này sẽ thấp hơn quỹ công chúng. Các nhà đầu tư vào các quỹ tư nhân thường với lượng vốn lớn. Đổi lại họ có thể tham gia vào trong việc kiểm soát đầu tư của quỹ. Đây là hình thức quỹ phát hành chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi tiến hành huy động vốn cho quỹ và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Nhằm tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này. Sau khi kết thúc việc huy động vốn (hay đóng quỹ), các chứng chỉ quỹ sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Quỹ mở là quỹ được thành lập với thời gian vô hạn. Sau đợt phát hành lần đầu ra công chúng, giao dịch mua/bán của nhà đầu tư được thực hiện định kỳ căn cứ vào giá trị tài sản ròng (NAV). Giao dịch này được thực hiện trực tiếp với công ty quản lý quỹ hoặc tại các đại lý chỉ định. Khác với quỹ đóng, tổng vốn của quỹ mở biến động theo từng đợt giao dịch do tính chất đặc thù của nó – là nhà đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ, và quỹ phải mua lại các chứng chỉ theo giá trị ròng vào thời điểm giao dịch. Đối với hình thức quỹ này, các giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực hiện trực tiếp với công ty quản lý quỹ và các chứng chỉ quỹ không được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Hình thức Quỹ này thường phổ biến trong thị trường chứng khoán, để huy động nguồn vốn từ các nhà đầu tư cá nhân. Trong mô hình này, quỹ đầu tư là một pháp nhân, tức là một công ty được hình thành theo quy định của pháp luật từng nước. Cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị do các cổ đông (nhà đầu tư) bầu ra. Có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư của công ty quản lý quỹ và có quyền thay đổi công ty quản lý quỹ. Trong mô hình này, công ty quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư, chịu trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh doanh khác. Đây là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Khác với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty, mô hình này quỹ đầu tư không phải là pháp nhân. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Nhà đầu tư là những người góp vốn vào quỹ (nhưng không phải là cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty) và ủy thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để bảo đảm khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ. Ví dụ: Quỹ đầu tư Greencap là quỹ đầu tư tư nhân được quản lý bởi công ty Greencap Investment. Quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư, Quỹ có đội ngũ chuyên gia chịu trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện hỗ trợ các công việc quản trị kinh doanh khác của công ty Greencap Investment. Quỹ đầu tư phù hợp với bất kỳ đối tượng nào, không phân biệt giới tính, độ tuổi, tổ chức hay cá nhân. Đối tượng đang tìm kiếm một kênh đầu tư mới (ngoài gửi tiết kiệm ngân hàng, đầu tư bất động sản…) để ổn định và tăng trưởng nguồn thu nhập. Những người có khả năng tài chính vừa phải, hạn chế thời gian và nguồn lực để có thể tự đầu tư hiệu quả vào thị trường tài chính. Các doanh nghiệp xây dựng chương trình phúc lợi tiết kiệm dài hạn, hưu trí cho nhân viên nhằm thu hút và lưu giữ nhân tài, hoặc nhằm mục đích đa dạng hóa danh mục đầu tư của doanh nghiệp. Đặc biệt, với những nhà đầu tư không chuyên và vốn ít thì quỹ đầu tư là một lựa chọn tốt nhất để kiếm được lợi nhuận mà vẫn đảm bảo an toàn, nếu biết chọn đúng quỹ đầu tư uy tín. Phong cách đầu tư rất quan trọng khi lựa chọn đầu tư vào một quỹ. Trong khi các nhà đầu tư chỉ quan tâm đến một thứ duy nhất là lợi nhuận. Mà xem nhẹ sự cân bằng hiệu quả giữa rủi ro và lợi nhuận. Điều này được so sánh thông qua chỉ số hiệu quả quản lý (ER), trong đó lấy lợi nhuận thường niên chia cho tỷ lệ rủi ro hàng năm. Nếu ER càng cao thì chứng tỏ hoạt động của công ty càng hiệu quả. “Lợi nhuận là là điều nhà đầu tư nào cũng thích. Tuy nhiên với một quỹ đầu tư uy tín phải có khả năng quản trị rủi ro tốt. Đó là yếu tốt then chốt để quỹ tồn tại lâu dài và duy trì tỉ lệ tăng trưởng một cách đều dặn. Chắc chắn không một nhà đầu tư tham gia vào quỹ đầu tư lại muốn tiền của họ gặp rủi ro.”. Quỹ đầu tư uy tín sẽ cân bằng lệnh mua và bán ở mức an toàn. Có tỷ lệ chấp nhận rủi ro lý tưởng bình quân là 1/5 số tiền của nhà đầu tư trong quỹ đầu tư này có khả năng bị lỗ. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với mức 100% có khả năng lỗ theo lý thuyết trong chỉ số S&P 500. Ngoài ra, để đánh giá phong cách đầu tư của quỹ đầu tư còn phải kể đến những chiến lược đầu tư. Một chiến lược đầu tư càng rõ ràng và thống nhất thì quỹ đầu tư đó càng đáng tin tưởng. Những dữ liệu phản ánh năng lực của người quản lý trong việc quản lý một cách có hiệu quả các loại tài sản, sao cho quỹ thu lại được lợi nhuận, giảm rủi ro nhiều nhất có thể. Tỉ lệ thua lỗ nằm trong giới hạn cho phép. Ngoài ra, các báo cáo về kết quả hoạt động đầu tư của quỹ nên được kiểm soát mỗi năm một lần để tránh gian lận trong các báo cáo. Nhà đầu tư cần xem xét lịch sử lợi nhuận của một quỹ đầu tư trong dài hạn. Có thể xem theo năm, theo quý và theo tháng. Từ đó mới có thể đánh giá một cách khách quan lịch sữ đầu tư của quỹ này có thực sự tốt hay không. Nếu một quỹ đầu tư có tỷ suất sinh lời khoảng 200%/năm.Nhưng tỷ lệ thua lỗ là 123% thì chắc chắn quỹ đầu tư này không nên đầu tư. Có nhiều quỹ đầu tư khác nhau sẽ có một thế mạnh khác nhau. Ví dụ một quỹ đầu tư cổ phiếu chỉ nên đa dạng danh mục đầu tư của mình bằng các cổ phiếu của các doanh nghiệp có tiềm năng và hoạt động kinh doanh tốt. Không nên có những hạng mục đầu tư khác như trái phiếu và tiền tệ. Nghĩa là quỹ đầu tư nên chuyên môn hóa lĩnh vực đầu tư của mình thì tỷ lệ đầu tư thành công sẽ cao hơn với các quỹ đầu tư không chuyên. Hồ sơ đánh giá việc điều hành quỹ dài hạn là xem xét cơ cấu tổ chức và quản lý của quỹ đó. Như ban lãnh đạo, đội ngũ chuyên gia, đội ngũ phân tích và hỗ trợ. Để đảm bảo rằng tiền của nhà đầu tư đang được giao cho một nhà quản lý chuyên nghiệp. Dù nhắc đến loại quỹ tương hỗ nào đi nữa, lợi nhuận xoay vòng chỉ nên ở mức càng thấp càng tốt. Vì số tiền hoa hồng trích ra cho các giao dịch càng được giảm xuống mà số tiền này không được tính vào các tỉ lệ về chi tiêu của quỹ. Nhắc đến các loại chi phí và chi tiêu của một quỹ tương hỗ. Chất lượng đầu tư của quỹ càng tốt thì các loại chi phí doanh thu, chi phí marketing và phân phối càng ít. Từ đó tỉ số lợi nhuận xoay vòng và mức chi phí cũng sẽ thấp hơn. Các quỹ mà có mức chi phí thấp thì hoạt động tốt hơn các quỹ tốn chi phí ở mức cao. Tổng lợi nhuận đầu tư của quỹ đầu tư được chứng minh bằng hiệu quả hoạt động tích cực. Lợi nhuận của quỹ này sẽ so sánh với các quỹ khác. Hoặc so với mức chuẩn của hình thức đầu tư mà quỹ đó chọn. Và chỉ số của thị trường bên ngoài qua giai đoạn từ ba đến mười năm. Những nhận xét mang tính phân tích của những nhà phân tích nghiên cứu đầu tư chính là nguồn thông tin quan trọng để đánh giá chất lượng đầu tư của các quỹ đầu tư. Một quỹ đầu tư chuyên nghiệp như đã nói trên sẽ có đầy đủ các bộ phận từ chuyên gia đến giao dịch viên. Họ sẽ đưa ra các dự báo và báo cáo phân tích thị trường công khai trên trang web. Hoặc qua email cho các nhà đầu tư thường xuyên. Nhờ vậy, nhà đầu tư sẽ được học hỏi cách những nhà giao dịch chuyên nghiệp phân tích thị trường và luôn nắm bắt được xu thế của thị trường. Nếu bạn muốn tìm hiểu rõ hơn về Quỹ đầu tư là gì. Loại hình đầu tư nào phù hợp với khả năng tài chính của bạn. Hãy đăng ký tìm hiểu Hội thảo Bí Mật Thị Trường Nghìn Tỷ tại bimathitruongnghinty.com. Bạn có thể tải ngay Ebook “Công Thức 4 Bước Kì Diệu“. Ebook sẽ giúp bạn tìm hiểu thêm về đầu tư và các chiến lược đầu tư chỉ trong 4 Bước. Greencap Investment là tổ chức đầu tư tài chính chuyên nghiệp với mức tăng trưởng ấn tượng 183% chỉ trong 12 tháng của năm 2015 và được xác nhận bởi tổ chức kiểm toán quốc tế Myfxbook.
|
Quỹ đầu tư chuyên biệt
|
Một quỹ đầu tư chuyên biệt hoặc SIF là một chế độ điều tiết nhẹ và hiệu quả về thuế nhằm vào một phạm vi rộng hơn của các nhà đầu tư đủ điều kiện. Loại quỹ đầu tư này được điều chỉnh bởi luật của Luxembourg ngày 13 tháng 2 năm 2007 thay thế luật năm 1991 xác định khung pháp lý cho các quỹ tổ chức và mở rộng phạm vi phân phối cho các nhà đầu tư thông thái tốt. Luật SIF đã đơn giản hóa đáng kể các quy tắc để thiết lập cấu trúc quỹ đầu tư, từ các chiến lược đầu tư đơn giản đầu tư vào chứng khoán niêm yết đến các quỹ phòng hộ, bất động sản và quỹ đầu tư tư nhân. Vào ngày 12 tháng 7 năm 2013, chế độ SIF đã được sửa đổi bởi luật về các nhà quản lý quỹ đầu tư thay thế (luật AIFM). Các điều khoản cụ thể áp dụng cho các SIF đủ điều kiện là Quỹ đầu tư thay thế (AIF) và cần được quản lý bởi Người quản lý quỹ đầu tư thay thế được ủy quyền (AIFM).Do định nghĩa rộng về AIF, hầu hết các SIF đều đủ điều kiện là SIF AIF.
|
Quản lý vòng đời sản phẩm (PLM) là sự tích hợp tất cả các khía cạnh của một sản phẩm, đưa sản phẩm đó từ giai đoạn hình thành qua chu kỳ sống của sản phẩm (PLC) đến việc loại bỏ sản phẩm và các thành phần. PLM kết hợp tầm nhìn bao quát mà một tổ chức có để quản lý dữ liệu, con người, phần mềm, sản xuất, tiếp thị và kế hoạch tổng thể cho sản phẩm. Để tạo ra sản phẩm mới, doanh nghiệp cần có cách tổ chức từng dữ liệu liên quan. Từ bản phác thảo thiết kế, khái niệm, ghi chú cho đến hướng dẫn quy trình sản xuất cho nhà sản xuất, doanh nghiệp yêu cầu một kho lưu trữ chính cho thông tin động. PLM đã thực sự trở nên thiết yếu như một nguồn lực duy nhất trong thực tế để quản lý tất cả các yếu tố của sản phẩm từ giai đoạn phát triển sơ bộ cho đến khi sản phẩm hết vòng đời. PLM là kỹ thuật tự động hóa quy trình kinh doanh được sử dụng để thu thập thông tin, con người và quy trình liên quan đến sự phát triển vòng đời của sản phẩm. Quy trình phát triển sản phẩm và năng suất được hoàn thiện và cũng có tác động trực tiếp đến năng lực của nhà sản xuất trong việc tạo ra sự phát triển liên tục của công ty. PLM tích hợp các cá nhân, thông tin, thủ tục ngoài các hệ thống kế thừa và cung cấp cấu trúc sản phẩm cho doanh nghiệp và doanh nghiệp mở rộng của họ. Với mức giá ngày càng tăng, các nhà sản xuất đã thực sự coi PLM là giải pháp tương lai. Theo đó, việc làm này mang lại nhiều lợi ích như ít lỗi sản xuất hơn, chu kỳ Phát triển ngắn hơn, và chắc chắn giá trị sản phẩm bán ra thị trường sẽ được nâng cao hơn. Vì PLM nhấn mạnh bản thân nó với toàn bộ vòng đời của sản phẩm, từ khi hình thành đến khách hàng, điều quan trọng sơ bộ là phải nhận ra khái niệm về vòng đời sản phẩm cùng với quy trình. PLM mô tả Hóa đơn nguyên liệu (BOM) của doanh nghiệp và cũng ngụ ý những thay đổi liên quan đến BOM, trong việc nâng cao để duy trì nền tảng của tất cả các phạm vi phát triển sản phẩm trước đó. Thông tin PLM thường được phát triển để quản lý kỹ thuật cùng với tất cả các thành viên của nhóm đa chức năng (CFT – Cross Function Team) của nhóm phát triển sản phẩm mới (NPD) cũng như nhóm giới thiệu sản phẩm mới (NPI). PLM là 1 Phương pháp tiếp cận chiến lược kinh doanh giúp chia sẻ thông tin sản phẩm giữa các thành viên nhóm NPD / NPI và tận dụng kiến thức kinh doanh để phát triển sản phẩm từ bình minh đến hoàng hôn trong toàn bộ hoạt động kinh doanh. Trước đây PLM chỉ được sử dụng trong ngành hàng không và ô tô, sau đó PLM đã phân nhánh sang các ngành nghề khác bao gồm hàng đóng gói, điện tử, dược phẩm và thời trang. PLM đã phát triển nhờ những tiến bộ công nghệ trong lĩnh vực thiết kế có sự hỗ trợ của máy tính (CAD), kỹ thuật có sự hỗ trợ của máy tính (CAE) và quản lý dữ liệu sản phẩm (PDM). Những tiến bộ này cho phép các nhà sản xuất liên kết thiết kế và sản xuất, rút ngắn chu kỳ sản xuất và thời gian thực hiện. Bởi vì quá trình sản xuất phức tạp và có nhiều bước, việc đẩy nhanh quá trình bằng cách làm cho tất cả thông tin được tập trung cho phép làm tăng cạnh tranh. PLM sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí và đẩy nhanh thời gian tiếp thị để phát triển sản phẩm mới (NPD – New Product Introduction). Cho dù các sản phẩm mới bao gồm các thay đổi gia tăng hoặc phái sinh đối với các sản phẩm cũ, các mặt hàng mới mang tính đột phá hoặc thế hệ nền tảng tiếp theo, thì mỗi tổ chức cần phải có một quy trình để quản lý chúng. Đây quá trình phát triển sản phẩm mới (PDP) sử dụng PLC để xác định những gì có hình dạng chung và trình tự chung của quá trình. PLM tốt là tổng thể, quản lý và bảo mật thông tin sản phẩm, đồng thời đảm bảo rằng các quy trình kinh doanh sử dụng và xây dựng dựa trên thông tin. Công nghệ Thông tin: là tất cả về các nền tảng và hệ thống thống nhất cần thiết, bao gồm cả kiến trúc, công cụ và tiêu chuẩn. Quy trình: Điều này bao gồm tất cả những người, kỹ năng và tổ chức liên quan. Một nguồn thông tin duy nhất của hệ thống quản lý sản phẩm để duy trì các nhu cầu thông tin khác nhau, để đảm bảo rằng các cá nhân phù hợp nhìn thấy thông tin sản phẩm lý tưởng vào đúng thời điểm, trong ngữ cảnh chính xác. Tận dụng tối đa giá trị trọn đời của nhà sản xuất, hồ sơ sản phẩm kinh doanh. Thúc đẩy doanh thu và tự động hóa doanh nghiệp thông qua các thủ tục lặp lại. PLM đang gia tăng phát triển vì nền kinh tế đã phát triển ra toàn cầu. Sản xuất gia công và các sáng kiến chuỗi cung ứng mới, cùng với thời gian sản xuất ngắn hơn đòi hỏi các công ty phải có thông tin đáng tin cậy và cập nhật từng phút cho quá trình sản xuất. Vì Internet giúp cho việc chia sẻ thông tin nhanh chóng với các đối tác ở xa trở nên khả thi. Giờ đây, PLM cho phép điều chỉnh các thông số kỹ thuật sản xuất trong quá trình sản xuất. Quá trình này thường mất vài ngày hoặc vài tuần với các bộ phận kỹ thuật và sản xuất đã được xử lý, đặc biệt nếu cơ sở sản xuất ở một quốc gia khác. PLM không chỉ hữu ích trong các hoạt động sản xuất rời rạc (lắp ráp) mà còn trong các ngành công nghiệp chế biến (pha trộn) như thực phẩm, dược phẩm và hóa chất. Các ngành công nghiệp chế biến thường được kiểm soát chặt chẽ, với quản lý công thức / công thức nghiêm ngặt, tiêu chuẩn và tài liệu quy trình, an toàn, kiểm soát phiên bản, thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, sức khỏe, môi trường và các yêu cầu tuân thủ quy định khác. PLM cũng hữu ích khi sản phẩm là một dịch vụ có cấu trúc, chẳng hạn như ngân hàng, dịch vụ tài chính hoặc bảo hiểm. Mặc dù sản phẩm ít hữu hình hơn sản xuất, nhưng các yêu cầu thiết yếu của dữ liệu sản phẩm và quản lý vòng đời là rất giống nhau. Do đó, PLM có thể hữu ích cho một công ty cung cấp dịch vụ kết hợp với các sản phẩm được sản xuất của họ.Ví dụ, 1 giải pháp PLM cho ngành dầu khi có thể giúp doanh nghiệp :. Vì nhiều công ty cần phối hợp các nguồn lực và con người của họ ở những nơi khác nhau, nên các quy trình cần phải gắn kết nếu có cơ hội giảm thiểu lãng phí. Tính liên kết cũng giữ cho quá trình lấy sản phẩm làm trọng tâm và mang lại cho nó cơ hội thành công cao hơn trên thị trường. Nhiều mô hình ngành của PLM đang được sử dụng ngày nay. Phần nổi bật dưới đây là tổng hợp các phương pháp tốt nhất và phổ biến nhất được sử dụng với các bước cần thiết được chú thích. PLM có ba giai đoạn bao trùm:. Giai đoạn giữa vòng đời (MOL): Giai đoạn giữa vòng đời là giai đoạn hậu sản xuất, khi sản phẩm của bạn được phân phối, sử dụng và bảo dưỡng. Lúc này, sản phẩm của bạn đã đến tay người dùng cuối. Bạn có thể thu thập dữ liệu về bất kỳ lỗi nào, tỷ lệ bảo trì và trải nghiệm người dùng để lấy thông tin cho các bản sửa lỗi ngay lập tức và phát triển trong tương lai. Giai đoạn cuối của vòng đời (EOL): Giai đoạn cuối của vòng đời là việc ngừng sử dụng, tái chế hoặc thải bỏ sản phẩm của bạn. Tại thời điểm này, hậu cần ngược lại xảy ra cho công ty. EOL bắt đầu khi người dùng không còn nhu cầu về sản phẩm. Ở giai đoạn này, các công ty thu thập thông tin về những bộ phận và vật liệu nào còn giá trị. Ví dụ, chu trình thiết kế của hàng may mặc bao gồm bản vẽ, sản xuất mẫu và cuối cùng là phù hợp. Các giải pháp PLM ngày nay sẽ bao gồm tích hợp cho các nhà cung cấp bên thứ ba để hợp lý hóa quy trình thiết kế. Dưới đây là 1 ví dụ ứng dụng PLM để quản lý công thức và bao bì trong một doanh nghiệp thực phẩm và đồ uống.
|
Quản lý vòng đời sản phẩm
|
Quản lý vòng đời sản phẩm là các chiến lược được sử dụng để quản lý sản phẩm trong các giai đoạn (thể hiện xuyên suốt quá trình từ khi sản phẩm ra đời đến lúc bị vứt bỏ), bao gồm nhiều quy tắc chuyên nghiệp, và yêu cầu nhiều kĩ năng, công cụ và tiến trình. Chi phí rất thấp vì đã có chỗ đứng tốt trên thị trường và không cần quảng bá nữa. Giá bán, lợi nhuận giảmMột sản phẩm không nhất thiết phải trải qua tất cả các giai đoạn nêu trên. Một số sản phẩm có vẻ cứ mãi mãi ở trong giai đoạn mature (ví dụ như sữa). Những nhà Marketing có nhiều cách giữ cho tiến trình của sản phẩm không đi tới giai đoạn thoái trào. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, người ta có thể tính được tuổi thọ dự kiến của một nhóm sản phẩm nào đó. Các chiến lược marketing mix của những nhà Marketing thay đổi theo tiến trình mà sản phẩm của họ trải qua vòng đời của chúng.
|
Nhắc đến những điểm du lịch đẹp tại nước ta khiến nhiều du khách ở cả trong và ngoài nước “bị hớp hồn” thì không thể thiếu Đà Lạt. Đặt chân tới Đà Lạt, bạn sẽ thấy sự “biến hóa vô lường” của thời tiết nơi đây khi buổi sáng thì có sương mù, buổi tối lại có sương muối,… Sương muối là gì? Câu trả lời sẽ được DaLatVui bật mí sau đây!. 3 Hiện tượng sương muối tại “xứ sở ngàn hoa” – Đà Lạt 3.1 Hiện tượng sương muối xuất hiện vào khoảng thời gian nào?3.2 Bạn có thể bắt gặp hiện tượng sương muối ở những đâu?. Như DaLatVui đã vừa chia sẻ ở trên, sương muối chỉ là một trong số những hiện tượng thời tiết đáng chú ý ở “xứ sở ngàn hoa” – Đà Lạt. Ngoài ra, hiện tượng dông, mưa đá hay sương mù cũng lần lượt thay nhau xuất hiện vào các khoảng thời gian khác nhau trong năm. Chắc hẳn rằng bạn đã nghe nhắc rất nhiều tới cụm từ “sương muối” trên các bản tin dự báo thời tiết được phát sóng vào mùa đông. Nhưng liệu bạn đã biết hiện tượng sương muối là gì hay chưa?. Sương muối hay sương giáng là hiện tượng hơi nước đóng băng thành các hạt nhỏ và có màu trắng trên mặt đất, bề mặt cây cỏ,… Hoặc trên bề mặt của bất kỳ vật thể nào khác chỉ cần không khí trên bề mặt đó lạnh và ẩm. Nhiều người luôn thắc mắc không biết liệu là “sương muối” có vị mặn đúng như tên gọi của nó hay không? Và câu trả lời chính xác nhất dành cho bạn đó chính là: “Không”. Trong thực tế, sương muối chỉ có màu sắc và hình dáng “na ná” với hạt muối chứ không mặn. Nếu quan sát kỹ thì bạn sẽ thấy sương muối giống như lớp tuyết trong khoang lạnh của tủ lạnh. Tại nước ta, mỗi khi có không khí lạnh tràn về thì các tỉnh thành ở vùng núi cao luôn bị “chìm sâu” trong sự bao trùm của khí lạnh. Vào những đêm đông trời quang mây và lạnh gió, nhiệt độ không khí giảm nhanh tạo điều kiện thuận lợi để hình thành sương muối. Cụ thể là sương muối sẽ hình thành khi nhiệt độ không khí bằng hoặc nhỏ hơn 4 độ C. Đồng thời, nhiệt độ bề mặt của đất, cây cỏ hoặc các vật thể xung quanh chạm mốc xấp xỉ 0 độ C và phải đủ ẩm. Trong điều kiện nhiệt độ này, hơi nước sẽ bị ngưng tụ và kết thành một thể rắn, có độ xốp và có màu trắng gọi là sương muối. Hiện tượng sương muối thường xuất hiện vào các tháng mùa đông, nhất là khoảng từ tháng 12 của năm nay tới tháng 2 của năm sau. Các tỉnh thuộc khu vực vùng núi và trung du Bắc Bộ ở nước ta rất hay được hiện tượng sương muối “ghé thăm”. Bên cạnh đó, bạn cũng không khó để bắt gặp sương muối ở vùng núi tỉnh Thanh Hóa, phía Tây tỉnh Nghệ An hoặc tỉnh Lâm Đồng. Trong khi đó, Đà Lạt lại là một thành phố trực thuộc tỉnh Lâm Đồng nên việc xuất hiện hiện tượng sương muối là điều vô cùng dễ hiểu. Tại Đà Lạt, hiện tượng sương mù thường xuất hiện nhiều nhất vào các tháng 2, 3, 4 và 5. Tổng thời gian hiện tượng này “ghé thăm” Đà Lạt thường nằm trong khoảng 80 – 90 ngày. Trong khi đó, hiện tượng mưa đá lại chỉ xuất hiện vài ba ngày vào khoảng tháng 4 với diện mưa hẹp và lượng mưa không lớn. Hiện tượng sương muối xuất hiện ở “xứ sở ngàn hoa” – Đà Lạt với tần suất lớn vào 2 tháng cuối năm và 2 tháng đầu năm. Nhưng đôi khi, hiện tượng này cũng kéo dài qua tới tháng thứ 3 của năm mới. Vậy nên, nếu bạn đang có kế hoạch tới Đà Lạt du lịch vào khoảng thời gian này thì đừng quên chuẩn bị đồ ấm để bảo vệ cơ thể nhé!. Sương muối dù là loại sương có kết tủa đẹp nhưng lại vô cùng độc, làm chết một số lượng lớn cây cỏ và hoa màu vào mùa đông. Đồng thời, hiện tượng sương muối cũng “làm khổ” các loài vật nuôi. Chính vì vậy, đây được xem như một loại hiện tượng thời tiết rất nguy hiểm. DaLatVui hy vọng rằng những thông tin trên đây của bài viết đã giúp bạn hiểu được sương muối là gì và hình thành như thế nào. Bên cạnh đó, bạn cũng biết được những nguy hiểm tiềm ẩn bên trong loại sương có vẻ ngoài cuốn hút này trước khi đến với Đà Lạt. Chúc bạn sớm có chuyến du lịch vui – khỏe tại Đà Lạt nhé!. Website Đà Lạt Vui là một sản phẩm truyền thông của Công ty TNHH TMDV Xuyên Việt Media. Thông tin liên hệ hợp tác cùng Đà Lạt Vui
|
Sương muối
|
Sương muối còn gọi là sương giá là hiện tượng hơi nước đóng băng thành các hạt nhỏ và trắng như muối ngay trên mặt đất, bề mặt cây cỏ hoặc các vật thể khác khi không khí trên đó ẩm và lạnh. Trong khí hậu ôn đới sương muối thường xuất hiện ở dạng tinh thể màu trắng mỏng gần mặt đất, nhưng ở vùng khí hậu lạnh sương muối có các hình thức đa dạng hơn. Sương muối chủ yếu gồm các tinh thể băng hình thành như là kết quả của quá trình phát triển fractal. Sương muối chỉ có màu trắng giống như tinh thể muối chứ nó thật không có vị mặn. Điều kiện hình thành sương muối khác với sương móc là nhiệt độ phải xuống dưới 0 độ C. Xem ra "màu trắng" của nó đã được thể hiện trong tên gọi sương muối ở nhiều thứ tiếng trên thế giới, như tiếng Anh "hoar frost", trong đó "hoar" là "trắng như tóc hoa râm"; tiếng Trung là "bạch sương", bạch là trắng, tiếng Pháp là "gelée blanche", "blanche" là trắng. Có nơi cho rằng có 2 loại sương muối: "hoar frost" và "rime", nhưng với "rime", không khí ẩm ban đầu ngưng kết thành các hạt nước, sau đó mới bị lạnh đi để trở thành các hạt băng.
|
Chi phí biên chính là sự biến đổi trong tổng chi phí sản xuất khi tăng thêm hoặc giảm đi một đơn vị sản phẩm do với dự tính ban đầu. Chi phí biên là một thuật ngữ chuyên ngành nên nó còn khá xa lạ với nhiều người, nó được sử dụng chủ yếu trong hoạt động kinh doanh, kế toán. Vậy Chi phí biên là gì? Sự biến động của chi phí biên ảnh hưởng như thế nào đến các loại chi phí khác? Do vậy qua nội dung bài viết dưới đây, chúng tôi sẽ giải đáp giúp cho Qúy khách về vấn đề này. Chi phí biên là phần chi phí tăng thêm tương ứng với một sản phẩm được sản xuất thêm so với số lượng dự tính ban đầu, từ chi phí biên mà ta biết được số phí tổn hay chính là mức tiền mà công ty phải bỏ ra để sản xuất thêm 1 sản phẩm nữa. Hay hiểu theo cách đơn giản thì chi phí biên chính là sự biến đổi trong tổng chi phí sản xuất khi tăng thêm hoặc giảm đi một đơn vị sản phẩm do với dự tính ban đầu. Ví dụ: Công ty X sản xuất 20 chiếc bút máy với tổng chi phí là 500.000 đồng, còn tổng số chi phí để sản xuất 21 chiếc bút máy là 510.000 đồng, khi đó để sản xuất thêm được chiếc bút máy thứ 21 thì công ty phải chi trả thêm số tiền là 10.0000 đồng. Từ đó, chi phí biên để sản xuất ra chiếc bút máy thứ 21 là 10.000 đồng. Nên chi phí biên trong trường hợp này được xác định là 10.000 đồng. Trên thực tế, nếu chi phí biên bị giảm thì cũng sẽ khiến chi phí trung bình bị giảm theo, tuy nhiên trong một số trường hợp khi chi phí biên tăng thì chi phí trung bình vẫn có thể bị giảm vì chi phí bổ sung vào không đáng kể so với khoản đầu tư ban đầu. Ngoài việc giải đáp giúp Qúy khách về Chi phí biên là gì? Chúng tôi sẽ cung cấp thêm cho Qúy khách các nội dung khác liên quan đến vấn đề này. Sự thay đổi trong chi phí biên có thể làm biến động đến những loại chi phí khác theo hướng tăng dần hoặc giảm dần. Khi chi phí biên nhỏ hơn chi phí trung bình thì chi phí trung bình sẽ được xác định là giảm cần. Khi chi phí biên bằng chi phí trung bình thì chi phí trung bình sẽ đạt giá trị cực tiểu. Khi chi phí biên lớn hơn chi phí trung bình thì giá trị của chi phí trung bình sẽ tăng dần. Khi chi phí biên nhỏ hơn chi phí biến đổi trung bình thì chi phí biến đổi trung bình sẽ bị giảm dần. Khi chi phí biên bằng mức chi phí biến đổi trung bình thì chi phí biến đổi trung bình sẽ đạt giá trị cực tiểu. Khi chi phí biên lớn hơn chi phí biến đổi trung bình thì giá trị của chi phí biến đổi trung bình sẽ được tăng dần. – Chi phí biên là phương pháp được sử dụng chủ yếu để giúp cho người quản lý dễ dàng so sánh được kết quả của quá trình thưc hiện kế hoạch để từ đó đưa ra được quyết định cắt giảm những hoạt động không đem lại được hiệu quả, đồng thời đối chiếu, so sánh doanh thu…. – Cách thức đơn giản, dễ dàng áp dụng đồng thời tạo ra hiệu suất hiệu quả hơn. – Giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định có giá trị, từ tổng hợp kết quả để đưa ra các kế hoạch sản xuất mới. – Từ việc áp dụng chi phí biên mà có thể lựa chọn ra được sản phẩm tối ưu nhất có giá thành sản xuất không bị biến động. – Trong quá trình áp dụng chi phí biên thì người quản lý thường gặp khó khăn, hạn chế khi thực hiện các thủ tục định giá sản phẩm tồn kho. – Trong một số trường hợp, việc sử dụng kết quả của chi phí biên để đưa ra quyết định thì sẽ khá nguy hiểm và nhiều rủi ro….
|
Chi phí biên
|
Chi phí biên là mức thay đổi trong tổng chi phí khi hãng tăng sản lượng thêm một đơn vị. Ở đây, chúng ta giả thiết là trang thiết bị sản xuất của hãng không thay đổi. Chi phí biên chính bằng đạo hàm của tổng chi phí theo sản lượng. Gọi tổng chi phí là TC, sản lượng là Q, còn chi phí biên là MC. Biểu diễn bằng hình vẽ, chi phí biên là đường có dạng hình chữ U. Hãng có thể thực hiện được tối đa hóa lợi nhuận khi làm cho chi phí biên, doanh thu biên và giá thành sản phẩm bằng nhau. Nếu doanh thu biên lớn hơn chi phí biên thì nó sẽ cho phép tăng sản lượng vì điều đó sẽ làm tăng thêm tổng lợi nhuận. Tương tự, nếu doanh thu biên nhỏ hơn chi phí biên thì lợi nhuận có thể tăng lên bằng cách giảm sản lượng.
|
Câu chuyện trong phim Diệt Slime Suốt 300 Năm, Tôi Level MAX Lúc Nào Chẳng Hay kể về một cô gái có tên là Aizawa Azusa, bản thân cô là một kẻ “cuồng công việc”, không yêu đương, không bạn bè, không niềm vui và sở thích, cô cống hiến cuộc đời mình cho công việc. Và kết quả là, Azusa chết vì làm việc quá sức. Nhờ phép màu, cô được tái sinh trong dáng hình của một phù thủy 17 tuổi trường sinh bất lão. Quyết tâm sống thật khác kiếp trước, Azusa nhàn nhã diệt slime suốt 300 năm và đã vô tình đạt level max. Sức mạnh đi đôi với những phiêu lưu mạo hiểm mới mà Azusa chưa từng đối mặt trong đời. Nhưng cũng giờ đó cô có được niềm vui, có bạn vè và gia đình mới…Cuộc hành trình của Azusa sẽ thế nào đây? Cùng đón xem bộ phim Diệt Slime Suốt 300 Năm, Tôi Level MAX Lúc Nào Chẳng Hay để theo dõi nhé các bạn.
|
Diệt Slime suốt 300 năm, tôi level MAX lúc nào chẳng hay
|
Diệt Slime suốt 300 năm, tôi level MAX lúc nào chẳng hay (Nhật: スライム倒して300年、知らないうちにレベルMAXになってました, Hepburn: Suraimu taoshite sanbyaku nen, shiranai uchi ni Reberu Makkusu ni nattemashita) là một bộ light novel Nhật Bản do Morita Kisetsu sáng tác và Benio vẽ tranh minh họa. Tác phẩm được đăng trên Shōsetsuka ni Narō từ năm 2016 và được xếp hạng cao nhất vào ngày hôm đó, đồng thời nó cũng là cuốn light novel bán chạy nhất trong lịch sử của GA Novel. Sau đó, light novel đã được xuất bản tập 1 vào năm 2017 bởi nhà xuất bản SB Creative. Tác phẩm này cũng đã được chuyển nhượng bản quyền cho Yen Press tại Bắc Mĩ và Tsuki Lightnovel tại Việt Nam. Bộ light novel được chuyển thể thành manga và đăng trên GA Gan Gan bởi nhà xuất bản Square Enix. Azusa là một kẻ "cuồng công việc", không yêu đương, không bạn bè, không niềm vui và sở thích, cô cống hiến cuộc đời mình cho công việc. Và kết quả là, Azusa chết vì làm việc quá sức. Nhờ phép màu, cô được tái sinh trong dáng hình của một phù thủy 17 tuổi trường sinh bất lão.
|
Phòng tắm Phần Lan (phòng tắm hơi), theo ghi chép, xuất hiện vào thế kỷ thứ 5 đến thứ 8 sau Công nguyên. Các phòng tắm hơi đầu tiên được đào trong một cái hố. Khi thiết bị và công nghệ tiên tiến, các tòa nhà bằng gỗ bắt đầu được sử dụng. Trong lò sưởi, những viên đá được đốt nóng bằng củi, nước được tưới lên trên những viên đá nóng. Phòng xông hơi khô được làm nóng bằng hơi nước nóng của những viên đá. Bộ đồ tắm, khăn tắm hoặc khố hầu như không được mặc trong nhà tắm truyền thống của Phần Lan, khỏa thân không phải là điều cấm kỵ trong xã hội này. Các gia đình cùng nhau đi tắm hơi. Đây là một truyền thống lâu đời, nhiều gia đình có phòng tắm hơi riêng. Phần nam và nữ riêng biệt trong các phòng tắm hơi công cộng. Phòng tắm hơi không liên quan đến tình dục, đối với người Phần Lan nó là nơi linh thiêng nhất sau nhà thờ. Cho đến đầu thế kỷ 20, nhiều phụ nữ Phần Lan đã sinh con trong phòng tắm hơi, nơi được coi là một môi trường ấm áp và sạch sẽ. Phòng xông hơi có đèn mờ, không nói chuyện cũng có thể ngồi yên tĩnh thoải mái. Nhiệt độ thường từ 80 ° C đến 110 ° C. Một số làm ‘vihta’ bằng cách buộc các cành bạch dương với lá lại với nhau và dùng nó vỗ nhẹ lên da. Vihtas cũng có sẵn trong các cửa hàng và có thể được bảo quản trong tủ lạnh để sử dụng vào mùa đông. Vihta tăng tốc lưu thông máu, mùi hương bạch dương được cho là rất sảng khoái. Xông hơi: Nó là một sự kiện văn hóa-vật lý điều hòa tim, tuần hoàn và hệ thần kinh. Sự tăng giảm nhiệt độ nhanh chóng, dữ dội trong cơ thể con người là nguyên lý chính của phòng xông hơi khô. Nhiệt độ tăng hơn bình thường 10 ° C ở tầng trên của lớp da, trong khi nhiệt độ ở dưới lớp da tăng hơn bình thường 1 ° C. Điều này làm tăng sản xuất các kháng thể, là những chất chống lại bệnh tật trong cơ thể. Khi các mạch máu giãn ra, lưu lượng máu được đẩy nhanh. Cơ thể của chúng ta cố gắng giữ cho nhiệt độ cơ thể không đổi bằng cách làm mát da và phản ứng với việc đổ mồ hôi dữ dội. Da được hồi sinh bằng cách tẩy sạch tế bào chết. Nó có một bề mặt mềm và mịn. Đổ mồ hôi nhiều điều chỉnh sự cân bằng của nước và chất độc trong cơ thể con người. Nên vào phòng xông hơi khô đặc biệt là sau khi tập thể dục. Nguyên nhân của điều này được chứng minh là do sự bài tiết của axit lactic, chất gây đau cơ, qua mồ hôi. Người ta cho rằng thành công của các vận động viên Phần Lan trong các môn thể thao sức mạnh là nhờ tắm hơi. Ngày nay, tắm xông hơi thường xuyên được đưa vào chương trình tập luyện của các vận động viên thành đạt. Với xông hơi khô, quá trình trao đổi chất được tăng tốc và vì năng lượng cần thiết để đổ mồ hôi, khoảng 300 calo được đốt cháy trong một buổi xông hơi. Số tiền này tương đương với việc bạn chạy 3-4 km. Các vận động viên không bị mất nhiều muối khi đổ mồ hôi do họ đã thích nghi với việc tập luyện; họ đổ mồ hôi. Bằng cách này, các chất độc có hại như chì, niken và thủy ngân sẽ được loại bỏ khỏi cơ thể. Xông hơi cho phép mọi người đổ mồ hôi trong khi ở trạng thái thụ động. Do đó, trái ngược với sự mệt mỏi xảy ra khi đổ mồ hôi tích cực, sự mệt mỏi được giải tỏa khi đổ mồ hôi trong phòng xông hơi. Tắm xông hơi thường xuyên cũng giúp đường hô hấp hoạt động đều đặn hơn. Tắm xông hơi tác động tích cực đến hệ tim mạch và huyết áp, giúp rèn luyện tim mạch và toàn bộ hệ thống tim mạch không bị căng thẳng. Xông hơi làm tăng tổng lượng protein trong máu. Sự gia tăng này cho phép nhiều oxy đến các mô hơn. Xông hơi giúp tăng sức đề kháng của cơ thể trước các tác động bên ngoài. Tắm xông hơi thường xuyên rất tốt cho bệnh thấp khớp và các cơn đau do viêm khớp trên cơ thể bằng cách thư giãn các cơ. Lợi ích của việc đi tắm hơi với vòi sen nước lạnh và được thực hiện theo các quy tắc đã được nhìn thấy, và chúng có phạm vi rộng. Với phòng xông hơi khô, bạn trút bỏ được mọi căng thẳng mệt mỏi của cuộc sống thường ngày và tận hưởng cuộc sống. Xông hơi, ngày nay không còn xa xỉ nữa, đã được chứng minh là một phương pháp rèn luyện sức khỏe để có một cuộc sống khỏe mạnh và không căng thẳng. Ngoài tác dụng làm đẹp da, xông hơi còn ngăn ngừa sự hình thành mỡ và cellulite không mong muốn ở một số vùng. Tóm lại, xông hơi là một cách tuyệt vời cho sức khỏe và sắc đẹp cơ thể. Xông hơi Sau khi sử dụng, nó được bỏ và nghỉ ngơi trong 20 phút. Đầu tiên, nên tắm xà phòng bằng nước nóng, sau đó tắm lại bằng nước lạnh (để đóng các lỗ chân lông trên da) và mặc quần áo cho cơ thể sau khi làm mát hoàn toàn. Cuối cùng, nên ăn nhẹ nhưng có vị mặn và uống nhiều nước hoặc nước hoa quả để cơ thể thải bớt muối và nước. Các bệnh mãn tính như huyết áp cao, hen suyễn, bệnh tim, rối loạn tuần hoàn máu, tiểu đường và động kinh. (Những người này trước hết phải qua sự kiểm soát của bác sĩ). Sử dụng thuốc kháng sinh, thuốc an thần, chất kích thích hoặc thuốc làm tăng tốc độ trao đổi chất. Đang chịu ảnh hưởng của rượu và ma túy. (Có thể không giữ được thăng bằng cơ thể và có thể gặp nguy hiểm khi dính vào bếp nóng, và trong số những người bị ngất trong phòng tắm hơi, có những người đã mất mạng do dịch cơ thể bốc hơi quá nhiều). Những người lỡ ăn quá no nên vào phòng tắm hơi ít nhất 2 giờ sau đó. Trong trường hợp chóng mặt, choáng váng, buồn nôn, khó chịu do nhiệt độ quá cao hoặc mạch đập tăng tốc quá mức, cần đưa ra ngoài phòng xông hơi khô ngay lập tức. Phụ nữ mang thai nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi vào phòng tắm hơi. Đặc biệt trong các khách sạn và cơ sở thể thao, nhân viên giám sát phòng xông hơi khô nên cảnh báo khách hàng của họ, những người sẽ vào phòng xông hơi trong bất kỳ trường hợp nào nêu trên hoặc gọi nhân viên y tế. Ngoài ra, một biển cảnh báo chỉ ra những bất tiện này nên được treo trong sảnh xông hơi. Tia hồng ngoại là một phần của quang phổ không nhìn thấy được của Mặt trời. 5,6-15 m với tia hồng ngoại. nhiệt lượng bị tỏa ra theo bước sóng liên. Một trong những tính năng của nó là nó có thể dễ dàng xâm nhập vào các mô của con người. Khi điều này xảy ra, một sự cộng hưởng tự nhiên với nhiều đặc tính có lợi xảy ra. Tia hồng ngoại làm nóng trong nhiều giờ và không bao giờ khiến da bạn bị bỏng. “Nhiệt hồng ngoại xa” được gọi là nhiệt độ quan trọng FIR hoàn toàn lành mạnh và an toàn cho mọi sinh vật. Phòng xông hơi khô bằng tia hồng ngoại làm ấm cơ thể bằng các tia nắng mặt trời thay vì không khí. Các tia này xuyên sâu vào bên trong cơ thể, mang lại nhiệt độ dễ chịu hơn, không làm da và hệ hô hấp quá nóng như các phòng xông hơi truyền thống. Điều này có nghĩa là bạn có thể dành thời gian trong phòng tắm hơi thú vị hơn mà không gặp bất kỳ khó khăn hay cảm giác quá tải. Thông qua nhiệt, hệ thống bạch huyết làm sạch các chất độc trong tế bào. Với sự đổ mồ hôi do nắng nóng gay gắt này, các chất độc trong hệ tuần hoàn bạch huyết sẽ bị tống ra khỏi cơ thể. Khi chất độc được đào thải qua da, khối lượng công việc lên thận và gan trong quá trình thanh lọc sẽ giảm xuống. Cơ thể ấm lên, tuần hoàn tăng lên, kích thích tiết mồ hôi. Độc tố dưới da bắt đầu được đẩy ra ngoài theo lỗ chân lông bị tắc nghẽn. Do đó, các tế bào da cũ và chết sẽ rời khỏi vị trí của chúng để chuyển sang các tế bào mới khỏe mạnh, tươi mới và sạch sẽ. Thoát mồ hôi không còn dư lượng axit cũng giúp cải thiện màu da và độ đàn hồi, mang lại làn da sáng khỏe, cũng như giảm các bệnh về da như mụn trứng cá, chàm và bệnh vẩy nến. Cơ thể chúng ta tăng tiết mồ hôi để giữ mát. Những lúc như vậy, máu được bơm từ tim của chúng ta tăng tốc và tuần hoàn tăng lên. Ngoài việc đổ mồ hôi gây mất nước, calo cũng bị đốt cháy. Mặc dù có thể thay nước bằng cách uống lại chất lỏng, nhưng lượng calo sẽ không được phục hồi và giảm cân sẽ xảy ra. Sự gia tăng nhiệt độ cũng giúp chúng ta phá vỡ các túi cellulite. Khi các tỉnh mạnh của chúng ta giản ra, huyết áp đối thoại của chúng ta giảm xuống và nhịp tim tăng lên sẽ điều chỉnh nhịp tim của chúng ta. NASA đã quyết định rằng phòng tắm hơi hồng ngoại có thể hữu ích để giữ dáng khi các phi hành gia ở trong không gian trong thời gian dài khó áp dụng các hình thức tập thể dục khác. Việc mở và thư giãn các tĩnh mạch, thanh lọc và thư giãn cơ cũng làm giảm các phản ứng đau. Một yếu tố khiến chúng ta cảm thấy khó chịu là cách cơ thể chúng ta phản ứng với bất kỳ kích thích nào. Phòng xông hơi bằng tia hồng ngoại giúp giảm đau bằng cách giảm phản ứng với những kích thích này. Xông hơi bằng tia hồng ngoại làm tăng số lượng tế bào bạch cầu và bằng cách này, cải thiện khả năng miễn dịch. Sự gia tăng nhiệt độ cơ thể trong phòng xông hơi hồng ngoại chính là nhiệt độ cơ thể cho phép cơ thể chống lại vi khuẩn và vi rút lạ. Nhiệt độ hồng ngoại làm ấm các cơ và điều chỉnh sự thư giãn của chúng. Có thể làm ấm hiệu quả hơn bằng cách sử dụng phòng xông hơi tia hồng ngoại Tác động tích cực của việc xông hơi này đối với cơ thể, ngăn ngừa các chấn thương; Nó giúp làm giảm và loại bỏ axit lactic tích tụ sau khi tập thể dục cường độ cao. Sử dụng phòng xông hơi hồng ngoại cũng giúp cải thiện kết quả của bài tập. Tận hưởng phòng xông hơi bằng tia hồng ngoại cho đến khi đổ mồ hôi. Bạn sẽ dễ dàng thoát khỏi cân nặng, thanh lọc làn da và tăng cường khả năng miễn dịch. Cố gắng sử dụng phòng xông hơi tia hồng ngoại giúp tăng cường thanh lọc thường xuyên. Cải thiện sức khỏe bên trong và bên ngoài của bạn, khởi động đầy sảng khoái.
|
Phòng tắm hơi
|
Phòng tắm hơi (tiếng Phần Lan: sauna) là một căn phòng nhỏ hoặc nhà thiết kế như là một nơi để phục vụ cho con người tắm bằng hơi nước hay tắm khô, từ này cũng có thể chỉ một tổ hợp nhiều phòng và các trang thiết bị. Từ này xuất phát từ tiếng Phần Lan nghĩa là phòng tắm hơi. Hơi nước và nhiệt độ cao sẽ làm cho người tắm tại đây đổ mồ hôi. Liệu pháp hồng ngoại thường được gọi là một loại phòng tắm hơi, nhưng theo các tổ chức phòng tắm hơi Phần Lan, liệu pháp hồng ngoại không phải là một phòng tắm hơi. Phòng xông hơi có thể được chia thành hai kiểu cơ bản: xông hơi thông thường làm nóng phòng bằng thanh đốt và giữ nhiệt bằng đá núi lửa hoặc hồng ngoại phòng tắm hơi của các đối tượng mà ấm áp. xông hơi hồng ngoại có thể sử dụng vật liệu khác nhau trong khu vực nóng của mình như than, năng động sợi carbon, và muối mỏ. Tampere, thành phố lớn thứ hai của Phần Lan, đã chính thức được tuyên bố là "Thủ đô tắm hơi của thế giới".
|
Nếu nói chỉ Liz Cheney và Adam Kinzinger là những đảng viên Cộng Hòa thực thụ, đang phục vụ cho đảng của họ, phục vụ đất nước và bảo vệ Hiến pháp thì lời này cũng không phải quá phóng đại. Aquilino Gonell, một trung sĩ thuộc lực lượng Cảnh sát Điện Capitol Hoa Kỳ, hôm Thứ Ba đã làm chứng rằng ông đặt nghĩa vụ của mình với Hiến pháp lên trên lợi ích cá nhân khi ông chống lại những kẻ bạo loạn tại Điện Capitol Hoa Kỳ vào ngày 6 Tháng Một. Ông nhớ lại thời khắc nguy hiểm cận kề cái chết khi ông gần như bị nghiền nát dưới gót chân những kẻ cuồng loạn. Gonell và các nhân viên thực thi pháp luật đã bảo vệ các biểu tượng của nước Cộng Hòa ngày hôm đó – Điện Capitol, Hiến pháp và sự tôn nghiêm của lá phiếu. Họ cũng bảo vệ tính mạng của các thành viên Quốc hội cũng như Phó Tổng thống Mike Pence. Gonell nói trong lời khai đầy xúc động khi được thẩm vấn bởi dân biểu Adam Kinzinger, đảng viên Cộng Hòa của tiểu bang Illinois, người cũng đã cố kìm nước mắt. “Đó là sự tàn phá và gây mất tinh thần đối với mọi người. Không thể không nhìn nhận đó là một cuộc tấn công và cũng không thể chấp nhận việc một số người tiếp tục bảo vệ những kẻ gây loạn, xem họ là những người đi du lịch trong hòa bình. Đó đúng là một cuộc đảo chính có chủ đích, và đó là sự thật, những đảng viên Cộng Hòa cần phải thẳng thắn nhìn nhận… Chúng tôi đã chiến đấu để các dân biểu và thượng nghị sĩ bình an trở về với gia đình. Và bây giờ, chính những người mà chúng tôi giúp đỡ, những người đã sử dụng mạng sống chúng tôi làm khiên che chắn cho mạng sống của họ lại đang tấn công ngược lại chúng tôi. Đó rõ ràng là một sự ô nhục.” – Aquilino Gonell nói. Những người Cộng Hòa ủng hộ Trump đã không hiện diện trong buổi điều trần. Lãnh đạo phe thiểu số tại Hạ viện, Kevin McCarthy, thuộc tiểu bang California và các lãnh đạo khác của đảng Cộng Hòa đã quyết định không bổ nhiệm các thành viên vào ủy ban điều tra vụ bạo động. Họ không bênh vực hay lên án cuộc bạo động ở Capitol. Điều này đồng nghĩa rằng họ đang lập lờ đánh lận con đen, không ra mặt công khai bảo vệ những kẻ gây loạn cũng không lên án những người này, dù Bộ Tư Pháp đã chính thức truy tố gần 600 người. Giờ đây, bà Liz Cheney và ông Adam Kinzinger – có mặt trong ủy ban điều tra vụ bạo loạn Quốc Hội – trở thành những người Cộng Hòa đơn độc. Kinzinger nói rằng ông nhận lời mời của Pelosi để ngồi vào ủy ban “không phải với tư cách là một thành viên của Đảng Cộng Hòa mà mục tiêu chính yếu của tôi là hàn gắn bất đồng đảng phái chính trị, đem sự thật đến với công chúng.” Liz Cheney, con của cựu Phó Tổng thống Dick Cheney, từng phục vụ trong Bộ Ngoại giao. Adam Kinzinger là trung tá Lực lượng Phòng không Quốc gia. Trong phiên điều trần hôm Thứ Ba, họ vẫn phản đối Đảng Dân Chủ về nhiều thứ nhưng “chúng tôi có thể có những khác biệt sâu sắc về các vấn đề chính sách nhưng tất cả chúng ta ngày nay đều là người Mỹ”. Có một sự kiện khác thường diễn ra khi phiên điều trần làm việc. Đó là một thành viên Đảng Cộng Hòa tại Hạ viện, dân biểu Matt Gaetz, tiểu bang Florida, người đang bị FBI điều tra, đứng bên ngoài Bộ Tư pháp để phản đối việc truy tố những kẻ bạo loạn vào ngày 6 Tháng Một, kêu gọi thả tất cả. Qua phiên điều trần đầu tiên này, hầu hết người Mỹ đều tự hỏi, những đảng viên Cộng Hòa thực sự đang đứng ở đâu và họ đang bảo vệ điều gì? Bảo vệ điện Capitol hay nền dân chủ Mỹ? Bảo vệ đảng Cộng Hòa hay bản thân họ? Bảo vệ lợi ích chính trị bản thân hay bảo vệ lãnh tụ Donald Trump? Riêng với lãnh đạo thiểu số tại Hạ Viên, Kevin McCarthy, có lẽ ông ta quyết định sống chết vì Trump, bảo vệ Trump bằng mọi giá hơn là bảo vệ sự thật.
|
Bạo loạn tại Điện Capitol Hoa Kỳ 2021
|
Ngày 6 tháng 1 năm 2021, một nhóm người ủng hộ Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump nỗ lực lật ngược cuộc bầu cử tổng thống 2020 xâm chiếm Điện Capitol Hoa Kỳ. Sau khi vượt qua lực lượng an ninh, họ phá hoại và chiếm giữ một số phần tòa nhà kéo dài trong vài tiếng đồng hồ. Cuộc nổi loạn này xảy ra do Trump kích động trong lời phát biểu tại cuộc biểu tình ngay trước đó. Cuộc xâm chiếm bắt những người ở trong Điện Capitol phải di tán hoặc ẩn nấp tại chỗ và gián đoạn một hội nghị liên tịch Quốc hội được họp lại để đếm phiếu đại cử tri và chính thức tuyên bố chiến thắng của Joe Biden. Sau khi Trump đã phàn nàn về gian lận bầu cử trong cuộc bầu cử tháng 11 năm 2020 trong vài tháng, hàng ngàn người ủng hộ ông tụ họp tại Washington, D.C., vào các ngày 5 và 6 để biểu tình chống kết quả bầu cử đã được chứng nhận và đòi Phó Tổng thống Mike Pence và Quốc hội bác bỏ chiến thắng của Biden. Sáng ngày 6 tháng 1, một đám đông người tụ họp tại cuộc biểu tình "Hãy cứu lấy nước Mỹ" (tiếng Anh: Save America) tại công viên Ellipse (The Ellipse) để nghe Tổng thống Trump, Donald Trump Jr., Rudy Giuliani, và một số nghị sĩ Quốc hội phát biểu.
|
Cùng tìm hiểu về tiểu sử của diễn viên Xuân Bắc - người nghệ sĩ tài ba của làng giải trí Việt để hiểu thêm về tính cách, con người của anh ấy. Cuối năm 2006, Xuân Bắc kết hôn với Nguyễn Hồng Nhung (sinh năm 1982). Năm 2016, Hồng Nhung là giảng viên khoa Sân khấu của Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Hà Nội. Họ có hai con trai tên là Nguyễn Nhật Khánh Minh (Minh bủm, sinh ngày 2/9/2007) và Nguyễn Nhật Võ Nguyên (Bi béo, sinh ngày 19/08/2009). Từ năm 1982 - 1987: anh học tại Trường Tiểu học Hòa Bình, phường Thanh Miếu, TP. Việt Trì. Từ năm 1987 - 1991: anh học tại THCS Lý Tự Trọng, phường Thanh Miếu, TP. Việt Trì. Bên cạnh là một diễn viên xuất sắc, lấy đi sự hâm mộ của rất nhiều khán giả, anh còn được biết đến là một trong những MC nổi tiếng và là một nghệ sĩ hài ưu tú trong làng giải trí Việt. Hơn thế hiện anh còn là giám đốc nhà hát kịch Việt Nam. Trong chương trình Gặp nhau cuối năm do Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) sản xuất, Xuân Bắc luôn được chọn đóng vai Nam Tào cùng với bạn diễn Bắc Đẩu do nghệ sĩ nhân dân Công Lý thủ vai được đánh giá là một cặp bài trùng trên sân khấu để lại rất nhiều ấn tượng cho khán giả khi khởi chiếu mỗi dịp Tết. Hỏi xoáy đáp xoay là 1 phần trong thư giãn cuối tuần. Trong phần này, Xuân Bắc đóng vai MC Trần Xoáy, sau này được phong thành Tiến sĩ Xoáy cùng với Giáo sư Cù Trọng Xoay (nhân vật giả tưởng) do Đinh Tiến Dũng thủ vai. Tiến sĩ Xoáy là nhân vật chuyên đưa ra các câu hỏi hài hước làm khó vị Giáo sư Cù Trọng Xoay và sau này ông Xoày Trọng "." thay thế do ông Xoay đã đi "công tác" theo kịch bản. (Sau này chương trình đổi tên thành Hỏi Xiên Đáp Xẹo). Phần lớn các tập của gameshow Đuổi hình bắt chữ đều do Xuân Bắc làm MC trên kênh H1 của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Do MC Xuân Bắc không thu xếp được công việc, MC Thu Hương và Sỹ Tiến thay thế anh ở thời điểm đó. Xuân Bắc đồng hành với chương trình Hành trình kết nối những trái tim từ những ngày đầu (khoảng năm 2009). Vai trò của anh trong chương trình này như người bình luận trước các tình huống và hành trình của các bạn trên chiếc xe hồng (LOVEBUS). Năm 2014, Xuân Bắc tham gia dẫn chương trình Vũ điệu tuổi xanh, phiên bản nhí của Thử thách cùng bước nhảy: So You Think You Can Dance. Đồng hành cùng Đồ Rê Mí từ năm 2011, Xuân Bắc đóng vai trò thành viên ban giám khảo. Anh là nhân tố không thể thiếu trong chương trình này. Sau đó năm 2012, anh đảm nhận vai trò MC. Xuân Bắc tham gia chương trình hài tình huống Ơn giời cậu đây rồi! Anh đã thể hiện tốt việc dẫn dắt cũng như chống đỡ các pha khó đỡ trên sân khấu của các nghệ sĩ Trấn Thành, Việt Hương, Hoài Linh. Xuân Bắc và con trai Bi tham gia chương trình Bố ơi mình đi đâu thế? mùa 2 từ tập thứ 4, đồng hành cùng các cặp bố con Mạnh Trường, Minh Khang, Đỗ Minh. Xuân Bắc là nhân tố không thể thiếu trong chương trình này khi anh dẫn với Cát Tường từ năm 2020. Xuân Bắc đã tham gia chương trình SV với vai trò ban giám khảo cùng với nhà báo Lại Văn Sâm vào các mùa SV 2016 và SV 2020 - 2021. Xuân Bắc đã thay chỗ cho Trường Giang ở tập 9 trong chương trình Hoán đổi (mùa 1). - Ngày 30 tháng 11 năm 2010, Xuân Bắc được chọn làm Đại sứ thiện chí của UNICEF về nước sạch và vệ sinh môi trường. - Tháng 9 năm 2016, Xuân Bắc được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Nhà hát kịch Việt Nam. - Ngày 11 tháng 12 năm 2019, tại Hội nghị lần thứ nhất Ủy ban Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam đã họp để chọn cử nhân sự, Anh Nguyễn Xuân Bắc đã được hiệp thương vào Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam khóa VIII. - 14 tháng 1 năm 2021, Xuân Bắc được bổ nhiệm làm Giám đốc Nhà hát kịch Việt Nam. Trong thời gian đại dịch bùng phát, việc học sinh nghỉ dài ngày cũng kéo theo một nỗi lo khác của nhiều phụ huynh là cần người trông con nhỏ. Nam nghệ sĩ đã chia sẻ kinh nghiệm trông trẻ mà bản thân anh cho rằng “vừa hiệu quả lại vừa văn minh”. Thay vì hò hét, quát tháo đến khàn cả giọng, Xuân Bắc đã cho các con cùng bạn bè thân thiết của con tô vẽ tranh với chủ để về corona. Với “máu nghề nghiệp” giao lưu và khuấy động các bạn nhỏ của mình, Xuân Bắc đã biến buổi trông trẻ thành cuộc vừa học vừa thi vui vẻ, bổ ích. Ngoài tổ chức thi vẽ tranh, Xuân Bắc còn trở thành nhà quay phim, đi phỏng vấn từng bạn nhỏ. Màn đối đáp thông minh, lém lỉnh và. “ông cụ non” của Bi với “người quay phim” khiến khán giả không nhịn được cười. Xuân Bắc từng chia sẻ về hoạt động của Nhà hát kịch Việt Nam: "12 đơn vị nghệ thuật trực thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể. Nhà hát Kịch Việt Nam là đơn vị tiên phong trong kịch nghệ. Vai trò của chúng tôi là xây dựng những vở kịch có ý nghĩa nhân văn và bắt kịp cuộc sống hiện đại. Đồng thời, các vở diễn phải mang được thông điệp về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước". Anh cho biết thêm: "Từng có những đơn vị nghệ thuật chạy theo tính giải trí đơn thuần, chạy theo thị hiếu khán giả để bán vé. Tôi cho đó không phải là đường dài. Thực tế đã chứng minh, nhiều sân khấu từng bán được vé giờ cũng lâm vào khó khăn. Sân khấu không thể chiều theo khán giả, phải có tính định hướng, thẩm mỹ rõ ràng. Sân khấu phải có vị thế và đẳng cấp riêng. Nhà hát Kịch Việt Nam luôn tôn trọng tôn chỉ mục đích của nghệ thuật sân khấu. Chúng tôi tự hào với những vở chính kịch của mình. Chính những vở diễn ấy đã đưa chúng tôi trở thành anh cả đỏ của sân khấu". Với những mục tiêu và định hướng rõ ràng, tương lai Nhà hát kịch Việt Nam hứa hẹn sẽ cho ra những tác phẩm chất lượng hơn nữa dưới sự điều hàng của nghệ sĩ Xuân Bắc. Cũng giống như mọi năm, chương trình Táo Quân luôn vướng phải những tranh cãi, bình luận trái chiều về chất lượng sau khi phát sóng. Trước điều này, mới đây, "Nam Tào" Xuân Bắc đã làm cả một bài thơ dài để phản biện lại công chúng và những khán giả khó tính khi xem chương trình. Trong bài thơ của mình, Xuân Bắc thẳng thắn thừa nhận mỗi người xem đều có nhận thức, suy nghĩ khác nhau nên chương trình không tránh khỏi khen chê trái chiều. Tuy nhiên, một số người tỏ ra quá khắt khe, hay khiến thức không đủ mà chê chưa đúng, rồi lại có thêm nhiều người khác hùa theo chê trách khiến ekip buồn lòng. Phần kết, Xuân Bắc cho biết ekip cũng xác định rằng sẽ nhận và tiếp thu ý kiến trái chiều khi phát sóng chương trình. Mặt khác, ekip cũng đã cố gắng hết mình để chương trình không "lem nhem" và phục vụ được người xem tốt nhất, còn việc có công nhận, hài lòng hay không nằm ở quyền của khán giả. Là con đất Việt, chúng ta luôn tự hào khi có một người nghệ sĩ ưu tú như Xuân Bắc. Anh không những đem đến cho mọi người những niềm vui, tiếng cười mà sâu bên trong đó là những bài học về “người” về “đời” rất sâu sắc. Chúc anh thật nhiều sức khỏe để có thể cống hiến cho đất nước. Ngày 14/1, Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đã trao quyết định bổ nhiệm chức Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam cho NSƯT Xuân Bắc. NSƯT Xuân Bắc tên đầy đủ Nguyễn Xuân Bắc (sinh ngày 21/8/1976) là một diễn viên, người dẫn chương trình quen thuộc với khán giả truyền hình. Trước khi được bổ nhiệm Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam, anh là Phó Giám đốc phụ trách khi NSND Anh Tú đột ngột qua đời. Nghệ sĩ Xuân Bắc nổi tiếng qua bộ phim Sóng ở đáy sông với nhân vật Núi. Anh còn là MC năng động, hoạt ngôn của nhiều chương trình truyền hình ăn khách như Gala Gặp nhau cuối năm, Ơn giời cậu đây rồi!, Đuổi hình bắt chữ. Ngoài việc là một diễn viên, MC nổi tiếng, NSƯT Xuân Bắc còn tham gia vào các hoạt động đoàn thể. Ngoài công việc tại Nhà hát Kịch Việt Nam, NSƯT Xuân Bắc còn là Chủ tịch Câu lạc bộ Nghệ sĩ trẻ Việt Nam, Phó chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam.Anh đã được trao tặng danh hiệu Thanh niên ưu tú thủ đô. Dù tham gia chương trình nào và với vai trò gì, Xuân Bắc cũng luôn thể hiện được trách nhiệm và sự nhiệt huyết. Điều đó khiến anh trở thành nhân vật không thể thiếu của rất nhiều các chương trình truyền hình lẫn vì cộng đồng. Sau thời gian tạm dừng đóng phim để theo chuyên tâm với nghề MC và biên đạo múa, hai nam diễn viên quen thuộc một thời cùng tái hợp màn ảnh nhỏ trong bộ phim “Hai phía chân trời”. Được chuyển thể từ tác phẩm văn học Máu của tuyết do chính tác giả, nhà văn Trần Hoài Văn viết kịch bản, Hai phía chân trời là câu chuyện về thân phận những người Việt sống xa quê hương. Bộ phim được bấm máy vào cuối tháng 3 tại cộng hòa Czech. Đang là một MC đắt sô, Xuân Bắc gác lại mọi việc để sang châu Âu trong gần hai tháng. “Anh ấy phải hủy rất nhiều hợp đồng. Những thiệt hại về kinh tế thì gia đình Xuân Bắc phải chịu nhưng anh ấy rất nhiệt tình theo đoàn phim.
|
Xuân Bắc (diễn viên)
|
Nguyễn Xuân Bắc (sinh ngày 21 tháng 8 năm 1976) là một Nghệ sĩ ưu tú, diễn viên, người dẫn chương trình, nghệ sĩ hài người Việt Nam. Hiện anh đang là giám đốc nhà hát kịch Việt Nam. Anh nổi tiếng với vai Núi trong bộ phim truyền hình Sóng ở đáy sông, vai trò diễn viên hài của Gặp nhau cuối tuần trên VTV3, Gặp nhau cuối năm của Đài Truyền hình Việt Nam và dẫn chương trình trò chơi truyền hình Đuổi hình bắt chữ của Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội. Xuân Bắc sinh tại phố Thanh Hà, phường Thanh Miếu, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Từ năm 1982 - 1987: anh học tại Trường Tiểu học Hòa Bình, phường Thanh Miếu, TP. Việt Trì. Từ năm 1987 - 1991: anh học tại THCS Lý Tự Trọng, phường Thanh Miếu, TP. Việt Trì. Từ năm 1991 - 1994: anh học tại Trường Trung học phổ thông Công nghiệp Việt Trì, TP. Việt Trì. Năm 1998, anh tốt nghiệp Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội, sau đó làm việc tại Nhà hát Kịch Việt Nam và làm MC cho một số chương trình truyền hình.
|
Cường quốc là một khái niệm được sử dụng trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, ám chỉ một quốc gia sở hữu sức mạnh cùng tầm ảnh hưởng trong một khu vực địa lý hoặc trên phạm vi toàn cầu. Hiện nay, các cường quốc được phân loại dựa theo mức độ gia tăng sức mạnh bắt đầu từ Tiểu cường quốc, Trung cường quốc – Cường quốc khu vực cho đến Đại cường quốc – Siêu cường tiềm năng và cuối cùng là tới cấp độ cao nhất – Siêu cường quốc hoàn chỉnh (Liên Xô và Hoa Kỳ). Ngoài ra còn có một vài danh xưng cường quốc đặc biệt khác được sử dụng trong các trường hợp đặc biệt tương tự (như trong nghiên cứu khoa học, báo chí, học thuật, truyền thông,…) – dựa trên sự khác biệt hoặc những đặc điểm nổi bật nhất của cá nhân đất nước đó so với phần còn lại của thế giới như: cường quốc dân số, cường quốc năng lượng, cường quốc diện tích, cường quốc biển – hàng hải, cường quốc quân sự, cường quốc hạt nhân,… Bên cạnh đó, những danh xưng đặc biệt trên cũng thường được dùng để xác định cho sức mạnh tổng hợp của một quốc gia. Từ thời Napoléon đến nay, đã và đang có nhiều sự thay đổi về cục diện sức mạnh của các cường quốc trên thế giới, phần lớn là từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khi một vài nước được công nhận rộng rãi là cường quốc đồng thời duy trì vị thế này trong nhiều thế kỷ thì một số khác lại chỉ là cường quốc trong một khoảng thời gian nhất định, hiện nay, không có một danh sách cụ thể nào về những cường quốc và danh sách những cường quốc đã được xuất bản thì vẫn luôn gây ra nhiều sự tranh cãi. Cường quốc là từ Hán-Việt, dịch chuẩn theo phiên âm tiếng Hán-Việt thì có nghĩa là “nước hùng mạnh”, nhưng trong lịch sử các nước Phương Đông người ta dùng nhiều hơn từ “đại quốc”, nghĩa là “nước lớn”, chỉ khi nào sử dụng trong bàn luận chính sự thì mới dùng nhiều đến từ “phú cường”, “quốc gia hưng thịnh”, “quốc gia phú cường” như khái niệm để chỉ tình trạng đất nước. Trong tiếng Anh, người ta dùng nhiều từ “Power” (nhất là từ sau chiến tranh Napoleon), với hàm nghĩa “cường quốc” (đại từ), “sức mạnh” (tính từ chỉ tình trạng), hay hàm nghĩa “quyền hạn” hoặc “quyền lực” (vừa là đại từ vừa là tính từ). Vì vậy, cách sử dụng có thể có sự khác biệt. Hơn nữa, vốn dĩ không có một định nghĩa “cường quốc” thống nhất. Từ nguyên “Power” trong tiếng Anh được sử dụng chính xác hơn từ “cường quốc”. Bởi “cường quốc” chỉ mô tả tình trạng sức mạnh của quốc gia, nhưng “Power” (tạm gọi là quốc gia quyền lực) không chỉ mô tả tình trạng sức mạnh mà còn hàm nghĩa sự ảnh hưởng của sức mạnh đó ra bên ngoài. Cường quốc như một mục tiêu trong quan hệ quốc tế được đưa ra bởi các nhà lý luận chính trị Niccolò Machiavelli và Hans Morgenthau. Đặc biệt là giữa các nhà tư tưởng hiện thực cổ điển, quyền lực là một mục tiêu cố hữu của nhân loại và của nhà nước, theo đuổi xây dựng quốc gia thành cường quốc là mục tiêu cố hữu của các quốc gia trong lịch sử. Tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng quân sự, lan truyền văn hóa,… tất cả đều có thể được coi là làm việc hướng tới mục tiêu cuối cùng của quyền lực quốc tế. Nhà tư tưởng quân sự người Đức Carl von Clausewitz được coi là dự báo chính xác sự phát triển của châu Âu trên khắp các lục địa. Trong thời hiện đại, Claus Moser đã làm sáng tỏ trung tâm lý thuyết phân phối quyền lực ở châu Âu sau Holocaust, và theo đuổi xây dựng sức mạnh quốc gia là quan điểm phổ quát của châu Âu. Jean Monnet là một nhà lý thuyết xã hội cánh tả của Pháp, hướng đến mục tiêu ủng hộ mở rộng châu Âu. Nhà ngoại giao và nhà chính trị Robert Schuman người theo dõi người sáng tạo cộng đồng châu Âu hiện đại. Các nhà khoa học chính trị chủ yếu chỉ rõ “quyền lực” là khả năng tác động của một số nước đối với các nước khác trong hệ thống quốc tế. Ảnh hưởng này có thể ép buộc, hấp dẫn, lôi kéo hợp tác, hoặc cạnh tranh. Cơ chế ảnh hưởng có thể bao gồm các mối đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, tương tác kinh tế hoặc áp lực ngoại giao và trao đổi văn hóa. Trong những trường hợp nhất định, các nước có thể gây ảnh hưởng toàn cầu hoặc tạo một khối liên minh trong đó họ chiếm ưu thế trong việc gây ảnh hưởng. Các ví dụ lịch sử bao gồm: Đại hội Viên 1815, hoặc Hội nghị Yalta, Hiệp ước Warsaw, Thế giới tự do và Phong trào không liên kết. Các liên minh quân sự như NATO và Hiệp ước Warsaw là một cách khác thông qua đó ảnh hưởng được thực hiện. Tuy nhiên, lý thuyết “hiện thực” đã cố gắng duy trì sự cân bằng quyền lực từ việc phát triển các quan hệ ngoại giao có ý nghĩa có thể tạo ra quyền bá chủ khu vực. Chính sách đối ngoại của Anh như một ví dụ, họ thống trị châu Âu thông qua Đại hội Viên sau thất bại của Pháp. Họ tiếp tục hành động cân bằng với Đại hội Berlin năm 1878, để xoa dịu Nga và Đức, tấn công Thổ Nhĩ Kỳ. Anh đã đứng về phía những nước chống kẻ xâm lược trên lục địa châu Âu – tức là Habsburg Áo, Napoleonic Pháp, Đế quốc Đức, Đức Quốc xã, được nhìn thấy rõ trong Chiến tranh thế giới I chống Liên minh Trung tâm và, trong Thế chiến thứ hai chống phe Trục. Cường quốc sở hữu sức mạnh về quân sự cho phép họ có thể đảm bảo ưu thế trên phạm vi toàn cầu, hoặc khu vực của họ. Với sức mạnh quân sự, họ không chỉ đảm bảo cho an ninh của chính cường quốc đó mà có vai trò an ninh toàn cầu. Đôi khi được mô tả là vai trò “cảnh sát quốc tế”. Quyền lực là khả năng chỉ đạo các quyết định và hành động của người khác. Cường quốc sở hữu khả năng để thúc đẩy điều đó. Sức mạnh xuất phát từ sức mạnh vật chất và sức mạnh ý chí. Sức mạnh đến từ việc chuyển đổi tài nguyên thành năng lực và hướng đến việc thực thi mục tiêu. Chiến lược theo đuổi, xây dựng, củng cố và mở rộng sức mạnh quốc gia chính là cách thức mà quốc gia triển khai và áp dụng quyền lực của mình ở nước ngoài. Những cách này thể hiện qua nghệ thuật chiến tranh, gián điệp và ngoại giao. Chúng là đỉnh cao của năng lực quốc gia. Tình trạng sức mạnh cũng được sử dụng để mô tả các nguồn lực và khả năng của một quốc gia. Định nghĩa này là định lượng và thường được sử dụng bởi các nhà địa chính trị và quân đội. Các khả năng được cho là có thể đo lường được, có thể đo đếm được, các tài sản có thể định lượng được. Một ví dụ điển hình cho loại đo lường này là Chỉ thị tổng hợp trên Tổng công suất, bao gồm 54 chỉ số và bao gồm khả năng của 44 nước ở châu Á-Thái Bình Dương từ năm 1992 đến năm 2012. Quyền lực cứng có thể bao gồm những khía cạnh được coi là tiềm năng. Các nhà chiến lược Trung Quốc đã chỉ ra rằng sức mạnh quốc gia có thể được đo lường định lượng bằng cách sử dụng một chỉ số được gọi là sức mạnh tổng hợp quốc gia. Danilovic nêu bật ba đặc điểm trung tâm của cường quốc, mà bà gọi là “sức mạnh, không gian và trạng thái”, những đặc điểm phân biệt cường quốc với các quốc gia khác. Nhà sử học người Pháp Jean-Baptiste Duroselle nói về cường quốc trong môi trường chính trị thế giới đa cực: “đại cường là khả năng duy trì độc lập của riêng mình chống lại bất kỳ quyền lực nào khác”. Sức mạnh của một cường quốc và khả năng ảnh hưởng của nó có một không gian địa lý xác định. Đây là yếu tố quan trọng phân biệt các cường quốc với nhau, giữa những cường quốc có khả năng ảnh hưởng toàn cầu và những cường quốc chỉ có khả năng ảnh hưởng trong một khu vực. Arnold J. Toynbee chỉ ra rằng: “Quyền lực lớn có thể được định nghĩa là một lực lượng chính trị tạo ra một hiệu ứng đồng bộ với phạm vi rộng nhất của xã hội mà nó hoạt động. Xã hội phương Tây gần đây đã trở thành ‘toàn thế giới’.”. Một tiêu chí quan trọng để xem xét một quốc gia có phải cường quốc hay không là hành vi chính sách. Một cường quốc phải có hoạt động chủ động mang tính chính sách tham gia vào đời sống chính trị quốc tế. Quốc gia đó không thể thụ động trong quan hệ quốc tế, nó phải thể hiện khả năng dẫn đầu, lãnh đạo, chi phối trong cộng đồng các quốc gia. Chính sách có chủ định và khả năng thực tế gây ảnh hưởng trong quan hệ với các nước khác là khía cạnh của một cường quốc. Tình trạng quyền lực lớn (hay trạng thái quyền lực) được nhìn thấy và thừa nhận bằng cách đánh giá các mối quan hệ của một nước với các nước khác. Trong suốt lịch sử, các cường quốc lớn ảnh hưởng đến thảo luận các vấn đề chính trị và ngoại giao đương đại, họ ảnh hưởng đối với giải pháp cuối cùng, thực thi và kết quả đối với các sự kiện. Khi các vấn đề chính trị lớn cần được giải quyết, một số cường quốc lớn đã gặp nhau để thảo luận về chúng. Ví dụ, nguyên thủ quốc gia 3 nước Đồng minh đã gặp nhau ở Hội nghị Yalta từ ngày 4 tháng 2 năm 1945 để giải quyết các vấn đề chính trị thế giới khi Thế chiến II chấm dứt. Sự kiện này đã định hình cho thế giới trong nửa cuối thế kỷ 20. Siêu cường (tiếng Anh: Super power): Vào năm 1944, William TR Fox đã xác định siêu cường là “quyền hạn lớn sở hữu sức mạnh vượt trội gồm Đế quốc Anh, Liên Xô và Hoa Kỳ. Với việc giải thể Đế quốc Anh sau Thế chiến II, và sau đó là sự tan rã của Liên bang Xô viết vào năm 1991, Hoa Kỳ hiện là quốc gia duy nhất được coi là một siêu cường. Đại cường quốc (hay Đại cường) (tiếng Anh: Great power): Trong các đề cập lịch sử, là thuật ngữ chỉ quyền lực lớn liên quan đến các nước có khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ về chính trị, văn hóa và kinh tế đối với các quốc gia xung quanh họ và trên toàn thế giới. Trung cường quốc (hay Cường quốc tầm trung) (tiếng Anh: Middle power): Một mô tả chủ quan về các trạng thái cấp hai có ảnh hưởng, đó có thể không được mô tả là các cường quốc lớn hay nhỏ. Trung cường có đủ sức mạnh và quyền lực để tự mình đứng vững mà không cần sự giúp đỡ của nước khác (đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh-quân sự) và dẫn đầu ngoại giao trong các vấn đề khu vực và toàn cầu. Rõ ràng không phải tất cả các cường quốc trung bình đều có trạng thái ngang nhau; một số là thành viên của các diễn đàn như G20 và đóng vai trò quan trọng trong Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác như WTO. Tiểu cường (hay Quyền hạn nhỏ) (tiếng Anh: Small power): là mức thấp nhất trong hệ thống cường quốc. Họ là những công cụ của các quyền hạn khác và đôi khi có thể bị chi phối; nhưng trong quan hệ quốc tế họ không thể bị bỏ qua. Cường quốc khu vực (hay Quyền lực khu vực) (tiếng Anh: Regional power): Thuật ngữ này được sử dụng để mô tả một quốc gia mạnh mẽ ảnh hưởng trong một khu vực. Là một cường quốc khu vực không loại trừ lẫn nhau với bất kỳ loại quyền lực nào khác. Phần lớn trong số họ phát huy một mức độ ảnh hưởng chiến lược như quyền lực khu vực nhỏ hoặc trung cường. Quyền lực chính của khu vực (như Úc) thường đóng một vai trò quan trọng trong các vấn đề quốc tế ngoài khu vực. Siêu cường văn hóa (tiếng Anh: Cultural superpower): Đề cập đến một đất nước có văn hóa, nghệ thuật hay giải trí có sức hấp dẫn trên toàn thế giới, sự nổi tiếng quốc tế đáng kể hoặc ảnh hưởng lớn đến phần lớn thế giới. Các nước Tây Âu và Hoa Kỳ thường được mô tả là siêu cường văn hóa, mặc dù đôi khi nó được tranh luận về cái nào đáp ứng tiêu chí như vậy. Không giống như các dạng truyền thống của quyền lực quốc gia, thuật ngữ văn hóa siêu cường có liên quan đến khả năng quyền lực mềm của một quốc gia. Siêu cường năng lượng (tiếng Anh: Energy superpower): Mô tả một quốc gia cung cấp một lượng lớn tài nguyên năng lượng (dầu thô, khí thiên nhiên, than đá, urani,…) cho một số lượng lớn các quốc gia khác, và do đó có tiềm năng ảnh hưởng đến thị trường thế giới để đạt được một lợi thế chính trị hoặc kinh tế. Ả Rập Xê Út và Nga, thường được công nhận là cường quốc năng lượng hiện tại của thế giới, do khả năng ảnh hưởng toàn cầu của họ hoặc thậm chí trực tiếp kiểm soát giá tới một số quốc gia nhất định. Úc và Canada là những cường quốc năng lượng tiềm năng do nguồn tài nguyên thiên nhiên rộng lớn của họ. Cường quốc kinh tế (tiếng Anh: Economic power): Các học giả quan hệ quốc tế đề cập đến “quyền lực kinh tế” của một quốc gia như một yếu tố ảnh hưởng đến quyền lực của nó trong quan hệ quốc tế.
|
Cường quốc vùng
|
Cường quốc vùng hay Cường quốc khu vực là một cấp độ gần tương đương với Trung cường quốc trong hệ thống phân loại và xếp hạng các Cường quốc trên thế giới ngày nay, dùng để chỉ một quốc gia có chủ quyền có khả năng tạo ra tầm ảnh hưởng trong một khu vực địa lý nhất định, dù chưa thể cho phép vươn xa nhưng trong khu vực địa lý xung quanh mình, đất nước đó vẫn trở nên nổi bật. Khả năng sức mạnh của Cường quốc vùng cũng tương tự như Trung cường quốc - tuy nhiên chưa sánh bằng Đại cường quốc và Siêu cường vốn luôn duy trì ở trên phạm vi toàn cầu. Cường quốc vùng là khái niệm dùng để chỉ phạm vi không gian địa lý của sức mạnh cùng tầm ảnh hưởng, không phải là khái niệm đo đạc mức độ giữa các cường quốc. Nhưng do phạm vi hạn hẹp về không gian địa lý nên Cường quốc vùng thường tương ứng với khái niệm Cường quốc tầm trung. Đặc biệt, các Đại cường quốc (như Anh, Đức, Pháp, Ý, Nhật Bản, Canada,.) và Siêu cường quốc (Hoa Kỳ) cũng được coi là một Cường quốc vùng bởi vì trong khu vực địa lý của mình, họ là những nước hùng mạnh cũng như có sức ảnh hưởng hơn hẳn phần còn lại.
|
L’Oréal Việt Nam vừa công bố sẽ tiếp tục trao tặng học bổng L’Oréal - UNESCO Vì Sự Phát Triển Phụ Nữ Trong Khoa Học cấp quốc gia và quốc tế năm 2012 cho các nhà nghiên cứu khoa học nữ tại Việt Nam. Bắt đầu từ năm 1997, Giải thưởng Khoa học Quốc tế với trị giá USD 100,000 cho mỗi giải đa dạng các học bổng Quốc gia trên toàn cầu là một trong những nỗ lực của tập đoàn L’Oréal trong việc thực hiện sứ mệnh vinh danh sự đóng góp của nữ giới trong ngành khoa học. Giải thưởng L’Oréal - UNESCO Vì Sự Phát Triển Phụ Nữ Trong Khoa Học đã trở thành giải thưởng danh giá của thế giới với 72 nhà khoa học nữ xuất sắc được vinh danh, hơn 1100 nhà nghiên cứu khoa học nữ từ khắp 5 châu lục, được hỗ trợ học bổng nghiên cứu khoa học tại các viện và phòng nghiên cứu khoa học nước ngoài, gần 2,000 học bổng được trao tặng cho các nhà nghiên cứu khoa học nữ tiềm năng tại các quốc gia có chi nhánh của L’Oréal. Chương trình học bổng này đã được Tổng Thư Ký UNESCO thế giới, bà Gretchen Kalonji đánh giá là sự đóng góp quan trọng trong việc thay đổi nhận thức của thế giới về vai trò và sự đóng góp của phụ nữ trong khoa học. Trung thành với mục tiêu phát hiện những tài năng khoa học trẻ và tôn vinh những đóng góp của phụ nữ cho sự tiến bộ của khoa học trên khắp toàn cầu, chương trình học bổng khoa học quốc gia L’Oréal - UNESCO Vì Sự Phát Triển Phụ Nữ Trong Khoa Học do L’Oréal Việt Nam tài trợ với sự hợp tác của Ủy ban Quốc gia UNESCO tại Việt Nam và Viện Khoa học & Công nghệ Việt Nam đã bắt đầu từ năm 2009 với mục đích “ươm mầm tài năng khoa học" Việt Nam. Chương trình đến nay đã trao tặng các học bổng hỗ trợ nghiên cứu khoa học với tổng trị giá 1,2 tỷ đồng cho các đề án nghiên cứu có tính triển vọng và giá trị thực tiễn cao. Trong năm 2012, L’Oréal Việt Nam tiếp tục trao tặng học bổng hỗ trợ nghiên cứu khoa học cấp quốc gia cho các nhà khoa học nữ có các dự án nghiên cứu khoa học mang tính tiềm năng và góp phần vào sự phát triển khoa học của Việt Nam. Đối tượng tham gia là các nhà nghiên cứu khoa học nữ không quá 40 tuổi, có học vị tiến sĩ và có đề án nghiên cứu khoa học thuộc 2 lãnh vực: Khoa học Đời sống và Khoa học Vật liệu. Năm 2012, chương trình sẽ chọn lựa 3 đề án nghiên cứu khoa học mang tính tiềm năng nhất để trao tặng học bổng nghiên cứu. Mức học bổng năm 2012 được trao tặng là VND 200,000,000 cho mỗi học bổng. Thời gian nhận hồ sơ và đề án nghiên cứu khoa học cấp quốc gia đến hết ngày 31/5/2012. Thông tin chi tiết về Giải thưởng và các mức Học bổng, Đơn xin học bổng và các yêu cầu nộp đơn, xin vui lòng tham khảo trang web : www.phunutrongkhoahoc.com hoặc liên hệ:. Chương trình học bổng Quốc Gia UNESCO – L’ORÉAL VÌ SỰ PHÁT TRIỂN PHỤ NỮ TRONG KHOA HỌC.
|
Giải L'Oréal-UNESCO cho phụ nữ trong khoa học
|
Giải L Oréal-UNESCO cho phụ nữ trong khoa học (tiếng Anh: L Oréal-UNESCO Awards for Women in Science) là một giải thưởng được thiết lập năm 1998 nhằm mục đích thăng tiến vị trí của phụ nữ trong khoa học bằng việc công nhận những thành tựu xuất sắc của các nữ khoa học gia trong nghiên cứu khoa học. Giải này là kết quả của sự hợp tác giữa Công ty mỹ phẩm L Oréal của Pháp và Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) với khoản tiền thưởng là 100.000 đô la Mỹ cho mỗi người đoạt giải. Bắc Mỹ (từ năm 2000)Ngoài giải thưởng này, L’Oréal và UNESCO cũng lập ra Quỹ Học bổng quốc tế UNESCO-L Oréal (UNESCO-l’Oréal International Fellowships), với khoản học bổng là 40.000 đô la Mỹ trong 2 năm cho 15 nữ khoa học gia trẻ trong các dự án nghiên cứu đầy hứa hẹn.
|
Mọi người sẽ thắc mắc không biết nghề kỹ sư phần mềm & Những công việc cần phải làm của nghề này là gì? Trước tiên chúng ta hãy cùng đi tìm hiểu khái niệm nghề kỹ sư phần mềm trước khi tìm hiểu về những công việc. Nghề kỹ sư phần mềm là nghề sáng tạo, phát triển các phần mềm và hệ thống máy tính bằng các ngôn ngữ lập trình khác nhau. Một người muốn trở thành kỹ sư phần mềm họ phải biết các kỹ thuật toán học, kỹ thuật máy tính. Từ đó, tạo nên các phần mềm khác nhau. Các kỹ sư phần mềm sẽ được cấp bằng khoa học về máy tính. Với tấm bằng kỹ sư này bạn có thể tiến hành sửa chữa, phân tích hay tạo nên các phần mềm mới, đặc biệt là các phần mềm máy tính. Dưới đây là những công việc mà một kỹ sư phần mềm phải đảm nhiệm. Trước tiên kỹ sư phần mềm sẽ xác định mong muốn và nhu cầu của khách hàng. Từ đó, sẽ tư vấn và đưa ra chương trình phát triển hoặc cải tạo nâng cấp phần mềm sao cho phù hợp nhất. Tiếp theo, kỹ sư phần mềm sẽ phân tích cấu trúc và lên bản thiết kế một cách tối ưu nhất cho ứng dụng. Bên cạnh đó, kỹ sư phần mềm sẽ dự trù kinh phí sao cho phù hợp với dự án. Bắt tay vào thiết kế, cài đặt phần mềm cho máy tính hay các thiết bị thông minh. Sau khi, thiết kế phần mềm xong sẽ tiến hành viết hướng dẫn sử dụng và cho phần mềm chạy thử. Nếu thấy phù hợp sẽ đưa vào lưu trữ dữ liệu. Thu thập, tiếp nhận các thông tin phản hồi của Tester. Từ đó, tiếp tục khắc phục và sửa chữa các lỗi nếu có. Nếu không có lỗi thì sẽ tiến hành phát hành phần mềm và quảng bá sản phẩm. Với sức “hót” hiện nay của nghề kỹ sư phần mềm thì sẽ có rất nhiều người muốn học nghề này. Vậy để trở thành một kỹ sư phần mềm giỏi bạn cần phải có các kỹ năng dưới đây. Một trong những kỹ năng bạn cần phải biết khi tìm hiểu là phải có khả năng thực hiện các dự án trong một thời gian ngắn nhất. Bởi một kỹ sư phần mềm không chỉ tập trung phát triển một hệ thống hay một phần mềm mà còn phải làm những công việc khác theo yêu cầu từ đối tác. Một kỹ sư phần mềm vừa viết phần mềm cho máy tính vừa phải sửa lỗi bảo mật cho hệ thống hay nâng cấp phần mềm theo yêu cầu của khách hàng cùng một lúc. Vì thế, để đáp ứng yêu cầu của đối tác, khách hàng trong một thời gian ngắn phải hoàn thành dự án, phần mềm thì người kỹ sư phải biết quản lý tiến độ dự án. Ngoài ra, áp lực từ deadline từ khách hàng, đối tác là rất lớn. Do đó, người kỹ sư phải chịu được áp lực và có trách nhiệm cao trong công việc. Và đặc biệt là phải biết cân bằng giữa dự án này với dự án khác từ đó đảm bảo tiến độ theo yêu cầu. Một trong những cách trở thành kỹ sư phần mềm giỏi là cần phải có khả năng Teamwork hiệu quả nhất. Bởi không phải chỉ có 1 kỹ sư thiết kế nên phần mềm mà đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các kỹ sư với nhau. Khi các kỹ sư cùng nhau lên kế hoạch lập trình cho một phần mềm thì cần phải có sự trao đổi, bàn bạc với nhau. Bên cạnh đó, các kỹ sư phần mềm còn phải làm việc với các bộ phận, phòng ban khác nhau. Vì thế, cần phải có kỹ năng ứng xử một cách khéo léo và linh hoạt để thích nghi với mọi môi trường làm việc theo nhóm. Ngoài ra, bạn cần phải biết lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp để đưa ra những sản phẩm tốt hơn. Một trong những kỹ năng không thể bỏ qua của các kỹ sư phần mềm là có kiến thức vững chắc. Điều này, trải qua thời gian làm việc kết hợp với kinh nghiệm sẽ giúp bạn trở thành một kỹ sư phần mềm giỏi. Hiện nay, ngành công nghệ phần mềm là một trong những ngành phát triển liên tục. Vì thế, các kỹ sư cần phải cập nhật theo sự phát triển của khoa học máy tính cũng như các xu hướng thay đổi của phần mềm. Hiện nay, một kỹ sư phần mềm sẽ làm việc dựa trên một ngôn ngữ lập trình mà mình rất thông thạo và làm việc dựa trên ngôn ngữ lập trình đó. Tuy nhiên, họ vẫn phải cập nhật và biết các ngôn ngữ lập trình khác. Bởi hiện nay ngành công nghệ phần mềm luôn phát triển không ngừng và ngày càng xuất hiện nhiều ngôn ngữ lập trình mới. Mỗi ngôn ngữ lập trình sẽ có một cách viết, một ngôn ngữ khác nhau để tạo nên phần mềm cho điện thoại, máy tính. Vì thế, yêu cầu người kỹ sư phải tìm hiểu nhiều loại ngôn ngữ lập trình khác nhau để có thể phù hợp với nhu cầu hiện nay. Nhiều người sẽ thắc mắc không biết ngành kỹ sư phần mềm học trường nào. Để trở thành một kỹ sư phần mềm giỏi trong tương lai bạn có thể đăng ký vào các trường đại học trong và ngoài nước. Các trường đại học như: Bách khoa, Học biên Bưu chính viễn thông, đại học Quốc gia Hà Nội, đại học Công nghệ đều có ngành kỹ sư phần mềm. Ngoài các trường đại học trong và ngoài nước có ngành kỹ sư phần mềm thì ở một số trường có tổ chức các khóa học về thiết kế phần mềm và lập trình ngắn hạn. Bạn có thể tham khảo các khóa học này trước khi đăng ký nêu không có thời gian để học đại học. Ngoài việc lựa chọn một nghề mà mình yêu thích thì tiền lương cũng là một trong những yếu tố mà những người học hướng đến. Vậy lương kỹ sư phần mềm một tháng là bao nhiêu?. Ở Việt Nam mức lượng của một kỹ sư phần mềm là khá cao so với các ngành nghề khác. Một tháng 1 kỹ sư phần mềm có thể nhận mức lương từ 800 – 1.500 USD. Nếu bạn làm việc ở vị trí giám sát sẽ có mức lương từ 3.000 – 4.000 USD/tháng. Theo thông tin từ hãng tin tài chính Bloomberg thì trong bảng xếp hạng top 10 ngành có mức lương cao nhất thì có ngành kỹ sư phần mềm đứng thứ 1. Mức lương chi trả ở nước ngoài cho ngành này lên đến 160.000 USD/năm. Bên cạnh đó, các ông trùm phần mềm lớn như Yahoo, Google, Twitter, Apple sẵn sàng chi trả một mức lương “khủng” cùng những chế độ đãi ngộ cao nhằm giữ chân các kỹ sư phần mềm giỏi. Các ông trùm này luôn không tiếc tiền để luôn có các kỹ sư giỏi cho công ty của mình.
|
Công nghệ phần mềm
|
Công Nghệ phần mềm (tiếng Anh: software engineering) là sự áp dụng một cách tiếp cận có hệ thống, có kỷ luật, và định lượng được cho việc phát triển, sử dụng và bảo trì phần mềm. Ngành học kỹ sư phần mềm bao trùm kiến thức, các công cụ, và các phương pháp cho việc định nghĩa yêu cầu phần mềm, và thực hiện các tác vụ thiết kế, xây dựng, kiểm thử (software testing), và bảo trì phần mềm. Kỹ sư phần mềm còn sử dụng kiến thức của các lĩnh vực như kỹ thuật máy tính, khoa học máy tính, quản lý, toán học, quản lý dự án, quản lý chất lượng, công thái học phần mềm (software ergonomics), và kỹ sư hệ thống (systems engineering). Khi máy tính chưa xuất hiện, thì việc lập trình chưa có khó khăn gì cả. Khi mới xuất hiện một vài chiếc máy tính chức năng kém thì việc lập trình bắt đầu gặp một vài khó khăn nho nhỏ. Giờ đây khi chúng ta có những chiếc máy tính khổng lồ thì những khó khăn ấy trở nên vô cùng lớn. Như vậy ngành công nghiệp điện tử không giải quyết khó khăn nào cả mà họ chỉ tạo thêm ra những khó khăn mới.
|
Một trong những dòng mỹ phẩm thường dùng nhất trong việc tạo kiểu và chăm sóc tóc nam nữ đó chính là gôm xịt tóc. Vậy gôm xịt tóc là gì? – Đây là một dòng sản phẩm mang đến cho người dùng đặc biệt là nam giới những kiểu tóc được tạo kiểu vô cùng đẹp và ấn tượng. Nếu bạn đang có ý định tìm kiếm cho mình những dòng sản phẩm gôm xịt tóc (keo xịt tóc) thì những thông tin dưới đây là cần thiết để tham khảo đấy. Gôm là tên gọi tắt của dòng sản phẩm gôm xịt tóc, hay còn gọi là keo xịt tóc (keo vuốt tóc, keo tạo kiểu tóc,…). Đây là loại mỹ phẩm chuyên dùng để tạo mẫu, tạo kiểu tóc với các thành phần chính được chiết xuất từ những hoạt chất như: chất cô đặc, chất làm dẻo, chất làm bóng, nước hoa, chất đẩy. Khi xịt lên mái tóc sau khi tạo kiểu, gôm sẽ giúp giữ nếp lâu hơn và bảo vệ mái tóc khỏi tác động của môi trường bên ngoài có thể khiến mái tóc hư tổn, hỏng kiểu như: ánh nắng mặt trời gay gắt, mưa hoặc gió lớn. Nói một cách chính xác, gôm xịt tóc là sự pha trộn của các polyme giúp hỗ trợ cho cấu trúc tóc trở nên cứng cáp. Ngoài ra, hỗn hợp copolymer cũng thường được tính toán nhằm điều chỉnh để có thể đạt được các đặc tính vật lý mong muốn như: độ bền kết dính, khả năng tạo bọt,…,Các chất hoạt động bề mặt như benzalkonium chloride và các chất khác như dimethicone. Các chất làm dẻo được sử dụng trong thuốc xịt tóc bao gồm các este của axit xitric và axit adipic. Silicones và polyglycols cũng là các hoạt chất thường xuất hiện trong các dòng gôm xịt tóc. Thực chất gôm xịt tóc chính là sản phẩm được được điều chế dưới dạng hỗn hợp bao gồm nhiều chất hóa học với thành phần và tỷ lệ nhất định để có thể tạo lớp màng bóng hoặc không bóng bao quanh tóc để duy trì kiểu tóc được lâu hơn. Sau khi xịt lên tóc, gôm có thể dễ dàng được làm sạch bởi nước. Chính vì vậy, khi sử dụng gôm bạn có thể gội đầu để kết thúc quá trình này. Tác dụng đầu tiên của tất cả các dòng gôm xịt tóc đó chính là khả năng giữ cho kiểu tóc bền lâu hơn, cố định nếp tóc theo kiểu tóc vừa tạo. Người thợ tạo mẫu tóc sẽ sử dụng sản phẩm này sau khi sấy khô bớt tóc xong và xịt một lớp mỏng vừa đủ để sợi tóc trở nên cứng hơn để có thể dễ dàng định hình. Sau khi tạo kiểu thành công tùy vào mục đích tạo kiểu như thế nào, trong thời gian bao lâu mà người ta sẽ xịt thêm một lớp keo xịt tóc nữa để hoàn toàn cố định kiểu tóc như kiểu mình muốn. Với một lượng gôm được bám vào tóc như vậy sẽ giúp cho mái tóc của bạn được duy trì kiểu được lâu hơn. Ngoài ra, ở một vài những dòng sản phẩm gôm xịt tóc tạo kiểu mới nhất hiện nay còn có thêm các thành phần được bổ sung giúp bảo vệ cấu trúc sợi tóc, ngăn ngừa hư tổn, tránh những tác động tiêu cực từ bên ngoài môi trường như khói bụi, nhiệt độ cao từ ánh nắng mặt trời, gió lớn dễ khiến tóc bị xơ rối. Chính vì vậy, với những người thường xuyên sử dung gôm xịt tóc cũng không cần quá lo lắng khi sử dụng sản phẩm này thường xuyên. Trong xu thế các kiểu tóc nam đẹp phát triển ngày một mạnh mẽ, đặc biệt là những kiểu tóc nam đẹp hiện đại 2019 mang phong cách Undercut, hay là những kiểu tóc nam ngắn gọn gàng, các chàng trai thường tìm kiếm cho mình một sản phẩm tạo kiểu giữ nếp với hiệu suất ở mức cao nhất, nhằm có được một phong cách thời trang tóc tai như ý. Việc sắm cho mình một lọ gôm xịt tóc là điều khá cần thiết với bất cứ nam giới nào. Việc sử dụng một lớp gôm xịt tóc mỏng trước khi đi ra đường được xem là một cách giúp cho mái tóc bạn nhìn có vẻ bóng đẹp hơn, giữ nếp lâu hơn và giúp bạn tự tin tỏa sáng hơn trong mắt người đối diện. Gôm xịt tóc là một sản phẩm mỹ phẩm tóc vì vậy đòi hỏi người dùng cần biết cach sử dụng đúng chuẩn để có thể mang lại hiệu quả tối ưu. Cách thức thực hiện với các loại gôm xịt tóc nam này tương đối đơn giản. Bạn có thể thực hiện lần lượt theo những bước sau:. Bước 1: Sau khi bạn đã tạo kiểu tóc thành công với kiểu tóc mình đã ưng ý, bạn hãy lắc thật đều bình gôm xịt để các dung dịch bên trong được hòa trộn đều với nhau trước khi sử dụng. Đây là bước khởi đầu khá quan trọng nhưng thực tế nhiều người lại thường quên không tiến hành bước này. Bước 2: Cầm chai gôm xịt theo chiều thẳng đứng. Chú ý bạn nên giữ khoảng cách mái tóc khoảng 20cm và xịt đều lên tóc để chúng có thể đảm bảo mức độ bám của gôm vào bề mặt tóc vừa đủ, đều, bao phủ lên toàn bộ tóc. Bước 3: Hãy thực hiện đều tay để xịt hỗn hợp lên tóc được rải thật đều với một lượng vừa đủ. Nếu xịt quá ít gôm sẽ khiến mái tóc bạn khó có thể giữ được kiểu tóc như ý muốn ngược lại khi xịt quá nhiều sẽ khiến tóc của bạn trở nên thô cứng, khó giữ được vẻ mềm mại tự nhiên, có vẻ bết dính, mất thẩm mỹ. Thường thì ở những salon, hay barbershop, người ta sẽ kết hợp sử dụng gôm xịt tóc với sấy tạo kiểu để có thể cho ra những mẫu tóc đẹp chuẩn salon nhất. Có thể thấy, công dụng của các gôm xịt tóc nam nữ thực sự rất tuyệt vời. Không chỉ nam giới mà ngay cả đối với nữ thì đây cũng là dòng mỹ phẩm cần thiết và cần có để giúp bạn tư tin tỏa sáng. Cơ Sở 1: Số 33 Ngõ 171 Nguyễn Ngọc Vũ, Cầu Giấy, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.
|
Keo bọt vuốt tóc
|
Keo bọt vuốt tóc, hair mousse, cũng được gọi là bọt tạo kiểu, là một sản phẩm tạo kiểu tóc được xoa lên tóc để tăng thêm thể tích và tỏa sáng. "Mousse" bắt nguồn từ một từ tiếng Pháp có nghĩa là bọt. Keo bọt vuốt tóc xuất xứ từ Pháp và được L Oreal đưa vào thị trường bán lẻ ở Bắc Mỹ vào những năm 1980, sản phẩm keo bọt đầu tiên xuất hiện dưới nhãn "Valence". Nó thường được phun ra từ dạng xịt bọt aerosol hoặc ở dạng kem. Keo bọt vuốt tóc thêm thể tích vào tóc và thường cung cấp cả dầu xả và giữ, mà không có bất kỳ kết thành khối hoặc tích tụ. Nó là một sản phẩm tạo kiểu tóc, hoạt động bằng cách sử dụng nhựa tổng hợp để phủ tóc, để hỗ trợ tóc trong một hình dạng nhất định. Keo bọt vuốt tóc có màu tím khi ở trong chai xịt và biến màu trắng khi tiếp xúc với không khí. Một trong những sản phẩm tạo kiểu tóc nhẹ, keo bọt vuốt tóc được xoa lên tóc ướt trước khi làm khô và tạo kiểu dáng.
|
Bệnh Parkinson là một trong những bệnh về thần kinh thường xuất hiện ở người cao tuổi (từ 58, 60 tuổi trở lên) khiến các hoạt động của cơ bắp, tứ chi gặp nhiều khó khăn. Trong các bệnh của người già thì không thể không nhắc đến bệnh Parkinson. Đây là một bệnh về thần kinh, xảy ra khi nhóm tế bào trong não bị thoái hóa, không thể kiểm soát được vận động của cơ bắp, khiến người bệnh đi lại khó khăn, chân tay bị run cứng, cử động chậm chạp. Khi bệnh diễn tiến nặng sẽ làm thiếu hụt dopamine, ảnh hưởng đến các tế bào thần kinh. Theo các chuyên gia y tế, vẫn chưa có một phương pháp để có thể chữa khỏi hoàn toàn bệnh Parkinson mà chỉ có những biện pháp giúp trì hoãn tiến trình tiến triển của bệnh, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống. Vậy bệnh Parkinson là gì và nguyên nhân, dấu hiệu và cách phòng ngừa bệnh này là như thế nào?. Để trả lời cho câu hỏi “bệnh Parkinson là gì” thì chúng ta cần biết vị trí xuất hiện căn bệnh này là ở não bộ. Khi hệ thần kinh bị thoái hóa sẽ gây ra các rối loạn về chức năng vận động của tứ chi khiến các cử động bị chậm chạm, run, cứng đờ và việc giữ thăng bằng là điều mà người bệnh vô cùng khó để thực hiện. Các chuyên gia khoa Thần kinh cho biết, Parkinson là bệnh lý phức tạp, không điều trị khỏi hẳn được và gây ra nhiều hệ lụy cho cuộc sống của người bệnh cũng như người chăm sóc bệnh nhân. Để điều trị tốt căn bệnh này, người bệnh cần dùng thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ kết hợp với vật lý trị liệu cùng các phương pháp trợ giúp khác. Bởi vì chưa tìm ra phương pháp điều trị bệnh Parkinson khỏi hoàn toàn nên người bệnh có thể chung sống với bệnh trong nhiều năm. Thông thường, người mắc bệnh Parkinson sẽ trải qua lần lượt 5 giai đoạn nhưng có vài trường hợp có thể bỏ qua một vài giai đoạn và phát triển luôn đến những giai đoạn cuối. Có những người trải qua giai đoạn 1 của bệnh với rất ít triệu chứng trong vòng vài năm, nhưng cũng có những trường hợp có thể phát triển bệnh rất nhanh và diễn tiến nặng sang giai đoạn cuối. Các giai đoạn của bệnh Parkinson gồm:. Giai đoạn đầu tiên của bệnh Parkinson thường chỉ xuất hiện các biểu hiện run đều, nhẹ và chưa đủ nghiêm trọng để ảnh hưởng tới cuộc sống thường ngày nên dễ bị bỏ qua. Ở mức độ nhẹ nhất này, người bệnh có một số triệu chứng như sau:. Tình trạng run xuất hiện ở một bên cơ thể, với mức độ nhẹ, có thể bị bỏ qua. Người thân trong gia đình, bạn bè có thể sẽ bắt đầu nhận thấy các dấu hiệu như run chân tay, dáng điệu có sự thay đổi, mặt bị đơ (giảm biểu cảm trên mặt), tư thế yếu ở người bệnh. Bệnh chuyển sang giai đoạn 2 là khi các triệu chứng về vận động của bệnh Parkinson bắt đầu xuất hiện rõ rệt hơn ở cả 2 bên cơ thể. Sự tiến triển từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 2 có thể mất vài tháng tới nhiều năm. Các dấu hiệu ở giai đoạn này có thể kể đến như: dáng đi bị thay đổi do cứng cơ, khó cử động; chân tay run, lắc xuất hiện nhiều hơn, rõ hơn; nét mặt bắt đầu giảm sự biểu cảm. Người bệnh có thể sẽ gặp khó khăn khi duy trì thăng bằng ở tư thế đứng im và khi đi lại. Đồng thời, những vận động thể chất vốn rất dễ dàng trước đây như mặc quần áo, tắm gội hay lau dọn nhà cửa, người mắc bệnh Parkinson giai đoạn 2 cũng thấy khó khi thực hiện. Tuy nhiên, ở giai đoạn này bệnh Parkinson chỉ gây ảnh hưởng rất ít đến cuộc sống của đa số người bệnh nên họ vẫn có thể sinh hoạt bình thường, chưa cần đến sự trợ giúp từ người khác. Khi đã có sự thăm khám và bắt đầu quá trình điều trị thì đây là giai đoạn mà người bệnh phải dùng thuốc để điều trị bệnh Parkinson. Loại thuốc đầu tiên thường được dùng để điều trị bệnh đó là thuốc chủ vận dopamine giúp kiểm soát các triệu chứng, kích thích các thụ thể dopamin khiến các chất dẫn truyền tín hiệu và thần kinh di chuyển dễ dàng hơn. Giai đoạn 3 là giai đoạn giữa trong quá trình tiến triển bệnh Parkinson. Ngoài các triệu chứng ở 2 giai đoạn đầu tiên, người bệnh sẽ gặp phải những khó khăn rất rõ ràng trong việc đi lại, rối loạn thăng bằng khi đi hoặc đứng và khó thực hiện các hoạt động thể chất thường ngày. Đồng thời, người bệnh dễ bị ngã hơn, công việc hàng ngày sẽ bị ảnh hưởng khá nhiều nhưng họ vẫn có thể tự hoàn thành mà chưa cần sự hỗ trợ từ người khác. Bác sĩ vẫn sẽ tiếp tục cho người bệnh duy trì điều trị bằng thuốc kết hợp với vật lý trị liệu để giúp cải thiện triệu chứng ở giai đoạn này. Khi bệnh Parkinson tiến triển sang giai đoạn 4 thì chức năng vận động của người bệnh đã bị ảnh hưởng nặng nề. Các triệu chứng của bệnh trở nên nghiêm trọng hơn và cơ thể bệnh nhân suy nhược rõ rệt. Các cơ bị co cứng khiến việc đi lại cực kỳ khó khăn, vận động chậm chạp kèm theo đó là hàng loạt biến chứng như rối loạn cảm giác, khô miệng, da khô, ảo giác, loạn thần xuất hiện do bệnh tiến triển cùng với tác dụng phụ của thuốc. Tuy nhiên, triệu chứng run ở giai đoạn này có thể ít hơn so với các giai đoạn trước đó. Nhiều trường hợp có thể đứng hoặc đi bộ một đoạn ngắn nếu sử dụng các thiết bị hỗ trợ hoặc một khung tập đi mà không cần người trợ giúp. Đa số người bệnh trong giai đoạn 4 đều không thể tự sống một mình được vì các cơ bị cứng, vận động thường ngày bị cản trở rất nhiều nên họ cần sự hỗ trợ của người thân hoặc người chăm sóc để thực hiện những công việc hết sức bình thường. Giai đoạn 5 là mức độ nặng nhất của bệnh Parkinson. Lúc này, các cơ bắp cứng đờ, người bệnh sẽ không thể thực hiện được bất cứ hoạt động thể chất nào mà cần phải sử dụng xe lăn và phụ thuộc hoàn toàn từ sự hỗ trợ của người thân. Ngoài khó khăn trong vận động, người bệnh sẽ gặp phải các vấn đề khác liên quan đến khả năng giao tiếp và trí nhớ như khó nói rõ chữ, nói lắp, không thể nhận thức mọi thứ xung quanh, chứng mất trí trong bệnh Parkinson. Vào thời điểm này, việc sử dụng các phương pháp nội khoa như thuốc đặc trị Parkinson gần như không đem lại tín hiệu khả quan nào hết bởi bệnh nhân đã bị nhờ thuốc, dùng thuốc nhưng không thể kiểm soát được triệu chứng bệnh. Khi y học ngày càng phát triển thì nhiều phương pháp mới, các thuốc mới cũng được nghiên cứu, thử nghiệm để điều trị bệnh Parkinson. Và câu hỏi nhiều người thắc mắc đó là bệnh Parkinson có nguy hiểm không? Các chuyên gia khoa Thần kinh cho biết Parkinson là căn bệnh chưa thể chữa khỏi hoàn toàn và để giảm thiểu những biến chứng nguy hiểm mà căn bệnh này gây ra thì cần có sự tham gia tích cực của bản thân người bệnh, người thân của họ chứ không riêng gì đội ngũ y bác sĩ điều trị. Nhiều bác sĩ nhận định, mặc dù bệnh Parkinson không trực tiếp gây nguy hiểm tới tính mạng từ giai đoạn đầu, nhưng diễn tiến của bệnh sẽ khiến cuộc sống và công việc sinh hoạt hàng ngày của người bệnh trở nên khó khăn. Đồng thời bệnh cũng tác động nghiêm trọng tới tâm lý, làm chất lượng cuộc sống của người bệnh giảm sút trầm trọng. Việc phát hiện bệnh muộn khi đã mất hơn 70% lượng dopamine trong não là yếu tố tiên quyết ảnh hưởng tới kết quả của quá trình điều trị. Các nhà nghiên cứu đã thống kê rằng, nếu điều trị ở giai đoạn muộn hoặc không được điều trị thì 61% trường hợp người bệnh Parkinson sẽ tàn phế hoặc tử vong sau từ 5 - 9 năm. Và sau 10 năm, tỷ lệ này sẽ tăng lên là 80%. Vấn đề tuổi thọ của người bệnh Parkinson được khá nhiều người thắc mắc và đặt ra câu hỏi liệu người bệnh Parkinson sống được bao lâu? Có một số ý kiến cho rằng người bị Parkinson có thể sống thêm được 5 năm, 10 năm hoặc 15 năm. Thực tế, vẫn rất nhiều trường hợp mắc bệnh Parkinson có thể sống lâu hơn 15 năm. Phần lớn người được chẩn đoán mắc bệnh Parkinson là những người cao tuổi, từ 40 tuổi trở lên. Thời gian trung bình từ thời điểm bệnh khởi phát cho đến khi bệnh trở nặng khi đó bệnh nhân cũng tầm 70 - 75 tuổi. Vì vậy, thời gian sống của người mắc bệnh Parkinson cũng không phải là ngắn và cũng chưa thể đưa ra một con số chính xác về tuổi thọ của người bệnh kể từ khi phát hiện ra bệnh. Lý giải kỹ hơn về điều này, các chuyên gia thần kinh học cho biết, bệnh Parkinson không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tử vong ở người bệnh, người bệnh chỉ tử vong khi có một số bệnh đồng diễn kết hợp như suy giảm hô hấp, trầm cảm, nhiễm trùng… chứ bản thân bệnh Parkinson không thể gây tử vong. Bệnh chỉ làm giảm trực tiếp khả năng vận động, cử động và sinh hoạt thường ngày của người bệnh, lâu dần có thể gây tàn phế. Do đó, thực tế có nhiều bệnh nhân Parkinson có thể sống thọ cả đời. Hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa biết được căn nguyên chính xác của bệnh Parkinson và chưa có lý giải về nguyên nhân các tế bào não sản sinh chất dẫn truyền thần kinh bị thoái hóa và chết đi. Họ chỉ có thể đưa ra một số yếu tố gây bệnh khác nhau như: do di truyền, do tuổi tác, do yếu tố môi trường sống, thậm chí có thể là do virus…. Tính cách thay đổi: Não bộ là cơ quan chịu trách nhiệm về hành động, suy nghĩ, nhìn nhận và phản ứng với tình huống nên bất kỳ thay đổi nào trong tính cách cũng là một trong những dấu hiệu sớm của bệnh Parkinson. Phối hợp các vận động chậm chạp: Đây là một trong những dấu hiệu rõ nhất của bệnh Parkinson khi ở những giai đoạn đầu tiên. Các biểu hiện thường thấy sẽ là: thay đổi tư thế như quay người, quay đầu, buộc dây giày, cài khuy… được làm với tốc độ chậm, không rõ ràng. Khứu giác bị ảnh hưởng: Ở giai đoạn đầu, khứu giác của người bệnh sẽ bị ảnh hưởng, bệnh nhân bị giảm cảm giác về mùi hay không có khả năng phân biệt mùi của thực phẩm. Nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ làm tình trạng này ngày càng nặng hơn. Đau mỏi vai gáy: Một trong những dấu hiệu khác của bệnh Parkinson đó là bệnh đau vai kéo dài, kể cả khi đã dùng thuốc mà triệu chứng bệnh không thuyên giảm. Cơ thể mệt mỏi: Biểu hiện mệt mỏi thường xuyên kèm với một trong những dấu hiệu như vận động chậm chạp, tính khí thất thường, thay đổi giọng nói… thì người bệnh có nguy cơ cao mắc bệnh Parkinson. Những biến chứng thường gặp của bệnh Parkinson không chỉ ảnh hưởng đến khả năng vận động mà còn gây ra nhiều rối loạn chức năng trong cơ thể, ảnh hưởng đến cả thể chất, tinh thần của người bệnh. Mặc dù diễn tiến của bệnh Parkinson có thể khác nhau ở mỗi người nhưng các biến chứng thường sẽ xuất hiện sau 5 - 10 năm từ ngày bệnh bắt đầu khởi phát. Những biến chứng của bệnh Parkinson bao gồm:. Các biểu hiện rối loạn vận động như cứng cơ, run tay chân ở giai đoạn đầu của bệnh thường xuất hiện với mức độ nhẹ, chưa gây khó khăn cho người bệnh. Nhưng theo thời gian, khả năng vận động của người bệnh sẽ bị cản trở rất nhiều. Đến giai đoạn cuối, người bệnh có thể mất hoàn toàn khả năng tự vận động, không thể thực hiện các sinh hoạt đơn giản hàng ngày như ăn uống, vệ sinh cá nhân, mặc quần áo… phải có người thường xuyên túc trực chăm sóc, hỗ trợ. Các chuyên gia cho biết, có đến 50% người bệnh Parkinson gặp hiện tượng khó nuốt, nuốt nghẹn bởi các cơ trong cổ họng bị giảm khả năng vận động. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến việc ăn uống, khiến bệnh nhân bị suy dinh dưỡng, sụt cân mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình điều trị, có thể gây tử vong do thức ăn đi vào đường hô hấp gây viêm phổi hoặc tắc nghẽn đường thở, suy hô hấp, suy tuần hoàn. Một trong những biến chứng rất phổ biến ở bệnh nhân mắc Parkinson đó là chứng trầm cảm. Điều này sẽ khiến sức khỏe tinh thần của người bệnh bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Những nguyên nhân gây trầm cảm ở người bị Parkinson đó là:. Quá trình tiến triển của bệnh gây ra những thay đổi về nồng độ của các chất dẫn truyền thần kinh trong não, làm ảnh hưởng đến cảm giác hạnh phúc, tâm trạng thoải mái, vui vẻ. Các triệu chứng của bệnh Parkinson khiến nhiều người tự đặt mình vào trạng thái cảm xúc tiêu cực. Trí tuệ sa sút, khả năng suy nghĩ, kỹ năng giải quyết vấn đề hay vận dụng ngôn ngữ đều bị ảnh hưởng từ rất sớm ở những bệnh nhân Parkinson phát hiện bệnh muộn hoặc không được điều trị.
|
Bệnh Parkinson
|
Bệnh Parkinson (PD), hoặc đơn giản là Parkinson là một rối loạn thoái hóa lâu dài của hệ thần kinh trung ương, ảnh hưởng chủ yếu đến hệ thống vận động. Các triệu chứng thường xuất hiện từ từ và khi bệnh nặng hơn, các triệu chứng không vận động trở nên phổ biến hơn. Các triệu chứng ban đầu rõ ràng nhất là run, cứng nhắc, chậm vận động và đi lại khó khăn, nhưng các vấn đề về nhận thức và hành vi cũng có thể xảy ra. Sa sút trí tuệ do bệnh Parkinson trở nên phổ biến trong giai đoạn tiến triển sau đó của bệnh. Trầm cảm và lo lắng cũng phổ biến, xảy ra ở hơn một phần ba số người bị bệnh này. Các triệu chứng khác bao gồm các vấn đề về giác quan, giấc ngủ và cảm xúc. Các triệu chứng vận động chính được gọi chung là " parkinsonism ", hoặc "hội chứng parkinson".Trong khi nguyên nhân của bệnh Parkinson chưa được biết rõ, nó được cho là liên quan đến cả yếu tố di truyền và môi trường. Những người có thành viên gia đình bị ảnh hưởng có nhiều khả năng mắc bệnh hơn.
|
Gà mổ lông mổ phao câu nhau có nhiều nguyên nhân khác nhau. Nếu không khắc phục sớm có thể gây thiệt hại không nhỏ trong đàn gà. Chúng sẽ tự mổ nhau cho tới chết vì vết thương nhiễm trùng và mất máu. Vì thế người nuôi cần đảm bảo phát hiện sớm tình trạng này và phòng tránh căn bệnh trong đàn gà nuôi nhà mình. Vậy khi gà mổ đuôi nhau thì chúng ta nên làm như thế nào?. Trước khi tiến hành tìm thuốc trị gà mổ lông hoặc các cách khắc phục thì nên tìm ra nguyên nhân xử lý trước. Nhờ đó mà có thể khắc phục được triệt để tình trạng này sảy ra. Kết hợp với cách chữa trị và xử lý bằng thuốc nếu cần hiệu quả nhất. Dưới đây là những nguyên thường thấy nhất của tình trạng gà mổ lông đuôi nhau. Gà bị mệt, ốm hoặc căng thẳng, stress cũng có thể khiến chúng cắn mổ lẫn nhau. Và vị trí được nhắm tới chính là phao câu, lông đuôi của con cùng đàn. Khi đó chúng coi đó như một cách để giải tỏa stress của mình. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới chúng bị stress như quá nắng nóng, mưa nhiều không vận động…. Gà thường sống theo đàn nhưng chúng vẫn có bản năng cạnh tranh sinh tồn với nhau. Và việc tranh giành thức ăn, tranh ngôi thứ trong đàn cũng thường xuyên sảy ra. Cho dù nuôi gà thả vườn hay gà công nghiệp thì bản năng này vẫn còn. Tuy nhiên với gà nuôi thả vườn thì ít hơn. Chúng mổ lông đuôi, mổ phao câu nhằm thể hiện sức mạnh, cạnh tranh về thức ăn, con mái với nhau là điều dễ hiểu. Khi nuôi gà số lượng lớn thì việc chú ý tới mật độ nuôi là quan trọng. Đặc biệt đó là nuôi gà công nghiệp hoặc gà thả vườn thường xuyên nuôi nhốt. Mật độ quá lớn sẽ sinh ra stress, cạnh tranh với nhau. Vì thế mà chúng sẽ tiến hành mổ phao câu, cắn nhau là điều dễ hiểu. Trong quá trình sinh trưởng của gà thì cần rất nhiều chất khác nhau. Nếu nuôi tự nhiên hoặc bán dân dã thì chúng có thẻ tự đi tìm kiếm các chất này và tự bổ xung. Tuy nhiên nếu nuôi công nghiệp thì khó hơn rất nhiều. Trong khi lượng thức ăn cho gà không đáp ứng đủ yêu cầu về chất thì việc mổ lông máu, lông đuôi của nhau ăn là điều dễ hiểu nhất. Nhất là quá trình gà thay lông thì chúng cần nhiều dưỡng chất hơn để hoàn thiện phần lông. Khi đó lại bắt gặp gà cùng đàn cũng đang thay lông với những chiếc lông máu hấp dẫn thì chúng sẽ tiến hành mổ ngay. Có nhiều người nói gà mổ lông đuôi nhau ăn do thiếu chất rau xanh. Điều này cũng đúng vì rau xanh cung cấp 1 lượng lớn chất xơ cho gà. Chúng góp phần trong quá trình mọc lông gà khi gà thay lông. Nếu để ý kỹ thì gà rất thích những loại thức ăn có mùi tanh. Có thể kể tới như giun, dế, ốc, cóc nhái, cá… Vì thế những chiếc lông máu với mùi tanh đặc trưng của thịt tươi khiến chúng kích thích. Chúng không đủ để nhận thức đó không phải là thức ăn. Vì thế việc của chúng là nếu vẫn mổ vẫn chén được thì cứ ăn đã. Việc bị quá nhiều rận mạt mò có thể là nguyên nhân khiến chúng tiến hành mổ lông đuôi nhau. Nhiều khi rõ ràng là mình ngứa nhưng lại gãi sang người khác để thỏa mãn. Đó cũng có thể là tình trạng chung của những con gà mổ lông ăn này. Nói về tính tò mò thì gà cũng nằm trong những loài vật tọc mạch nhất. Chúng rất tò mò với những thứ chuyển động nhẹ nhàng hoặc có màu đỏ bắt mắt. Nếu chưa xác định được có phải là thức ăn hay không nhưng chúng vẫn cứ mổ và mổ. Cho tới khi phao câu gà đối phương đã hết lông và đã ứa máu vẫn không dừng lại. Nói thêm về nguyên nhân không đủ dưỡng chất cho gà bên trên. Khi gà mổ nhau thường là độ tuổi của gà đang tuổi thay lông từ tháng 4-5 dương lịch tới tháng 8-9 dương. Đây chủ yếu là những con gà tơ đang tiến hành thay lông. Vì thế mà lượng dưỡng chất chúng cần là rất nhiều. Vì thế nguyên nhân thiếu chất là có thể sảy ra khi gà đang thay lông. Chúng cần lượng lớn vitamin, chất xơ, đạm khoáng để hoàn thiện quá trình thay lông, ra lông. Chủ nhân cần tích cực bổ xung thêm các nguồn dưỡng chất này nếu thấy chúng có biểu hiện gà mổ lông đuôi nhau. Bổ xung thêm rau xanh hoặc các loại thức ăn tổng hợp hàm lượng dinh dưỡng cao là cách hợp lý nhất. Rất khó để xác định gà mổ nhau là thiếu chất gì cụ thể. Nhưng chúng ta cần bổ xung lượng thức ăn vừa đủ để đảm bảo nhất. Sau khi đã nắm rõ được nguyên nhân gà mổ phao câu nhau thì việc khắc phục sẽ đơn giản hơn rất nhiều. Dưới đây là những cách có thể áp dụng dựa vào những nguyên nhân bên trên. Hãy làm sao để gà được thoải mái nhất có thể. Bằng cách cung cấp cho chúng cuộc sống thoải mái để sinh trưởng và phát triển. Giảm thiểu quá nóng hoặc quá lạnh hoặc độ thông thoáng thấp. Hãy luôn đảm bảo độ thông thoáng trong chuồng gà tốt bằng hệ thống quạt thông hơi. Nếu có thể thì nên cho gà vận động vào 1 khung giờ trong ngày. Chúng ta tiến hành giảm mật độ hoặc giãn số lượng gà ra những khu vực nuôi khác. Khi đó việc cạnh tranh thức ăn sẽ giảm, chúng cũng đỡ stress hơn và hoạt động cũng thoải mái hơn. Chúng cũng giống như con người ở mặt này. Nếu không thể tiến hành giảm mật độ hoặc giãn số lượng gà hãy tìm cách tận dụng không gian trong chuồng gà. Bố trí những vị trí đậu, bay nhảy cho gà trong chuồng. Như thế sẽ giảm mật độ dưới mặt đất và tận dụng được những không gian bên trên. Điều này cũng giúp gà trở nên thoải mái và thích thú bởi bay nhảy là bản năng của chúng. Nếu khu vực chăn nuôi gà bẩn hoặc không được dọn vệ sinh thường xuyên rất nguy hiểm. Không chỉ có bệnh gà mổ lông phao câu nhau mà còn nhiều bệnh khác. Do những lượng thức ăn rơi vãi kết hợp với phân, lông có chứa nhiều mầm bệnh. Vừa có thể bùng phát bệnh trong đàn vừa gây mất vệ sinh cho chuồng nuôi. Vệ sinh sạch sẽ định kỳ hàng ngày, vài ngày hoặc hàng tuần. Đảm bảo cho chuồng trại luôn sạch sẽ và thông thoáng. Có thể sử dụng những chế phẩm vi sinh để giảm thiểu đi tác động của phân gà. Chúng tự tìm cách phân hủy, giảm thiểu mùi và loại virut gây bệnh cho gà. Thiết kế các hệ thống chuồng thông minh để có thể xử lý chất thải gà nhanh chóng, thường xuyên, tốn ít công. Tất cả các giai đoạn của gà đều cần bổ xung dưỡng chất đầy đủ. Và đặc biệt giai đoạn thay lông chúng cần nhiều hơn thế. Đảm bảo cho lông gà phát triển tốt có thể ảnh hưởng tới thể chất và giá bán của gà. Vì thế nếu nuôi công nghiệp thì hãy sử dụng các loại thức ăn đúng với độ tuổi là tốt nhất. Đa phần các loại cám này đã được nghiên cứu để cung cấp đầy đủ dưỡng chất cho gà theo từng độ tuổi, từng loại gà ( đẻ hay lấy thịt). Ngoài ra có thể bổ xung thêm thủ công với các loại rau xanh chuyên dụng. Vì dụ như các loại rau muống, thân chuối hoặc bèo lục bình. Cắt hoặc băm nhỏ hoặc để nguyên để chúng tự chơi tự bổ xung dưỡng chất theo nhu cầu của từng con. Một cách chữa gà mổ lông khác nữa đó chính là cắt mỏ. Việc hạn chế được sự sắc nhọn của mỏ gà cũng sẽ giảm các tác động của gà lên phao câu, lông gà khác. Ngoài ra còn có thể hạn chế tình trạng gà bới thức ăn, chơi đùa với thức ăn. Việc mỏ quá dài sẽ khiến chúng chọn lọc thức ăn bằng cách ngậm xong nhả hoặc bới lung tung. Gây lãng phí thức ăn một cách khá đáng kể. Nghe khá ngộ nhưng việc sử dụng kính đeo cho gà được cho là mang tới hiệu quả khá tốt. Kính được thiết kế dạng tròn nhỏ che hoàn toàn tầm nhìn của gà ở phía trước. Chúng chỉ có thể nhìn thấy xung quanh mà thôi. Nên việc đeo kính sẽ giảm thiểu tối đa tình trạng gà mổ nhau, đánh nhau hoặc gà mổ phao câu nhau. Những chiếc kính này có cựa để lắp trực tiếp vào mũi gà nên không ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát triển của gà. Giá của chúng cũng chỉ vài trăm đồng/kính nên không tốn quá nhiều chi phí và có thể sử dụng được nhiều lần. Nếu những cách trên chưa thể giải quyết ngay tình trạng gà cắn mổ lông nhau thì chúng ta tìm tới thuốc trị gà mổ lông. Ưu điểm của chúng là phát huy nhanh tác dụng một cách hiệu quả. Giải quyết tình trạng gà mổ lông nhau mà chưa có cách giải quyết lâu dài. Dưới đây là một số gợi ý:. Sử dụng thuốc 6g Super-Vitamin hoặc 6g Doxyvit. Trộn lẫn với thức ăn cho gà ăn tối đa 3 tuần. Còn nếu thấy tình trạng được giải quyết thì nên loại bỏ và áp dụng những cách an toàn bên trên. AMINOGOLD trộn lẫn với thức ăn hoặc nước. Liều dùng 2g/lít nước hoặc 4g/kg thức ăn. ANTIMOCA 100g chống stress cho gà, cân bằng dinh dưỡng. Trộn vào nước uống hoặc thức ăn trong liệu trình 3-5 ngày. Dùng 2g/lít nước uống. Povimix cung cấp thêm các dưỡng chất cần thiết cho gà. Pha 1g với 1-2 lít nước.
|
Mổ lông
|
Hiện tượng mổ lông (Feather pecking) hay còn gọi là mổ nhau là một vấn đề về hành vi xảy ra thường xuyên nhất là ở những con gà mái nhà được nuôi để lấy trứng, mặc dù nó xảy ra ở các gia cầm khác như gà lôi nhà, gà tây nhà, vịt, gà thịt và đôi khi được nhìn thấy ở đà điểu nuôi, nó thường gặp khi chăn nuôi gà cả công nghiệp lẫn chăn nuôi bán công nghiệp, khi diện tích chăn nuôi ngày càng thu hẹp chăn nuôi công nghiệp với mật độ cao. Việc mổ lông diễn ra khi một con gia cầm liên tục mổ vào lông của con khác. Các mức độ nghiêm trọng có thể được công nhận là nhẹ và nặng. Việc mổ lông nhẹ nhàng được coi là một hành vi thăm dò bình thường (tính tò mò) trong đó lông của con bị mổ hầu như không bị xáo trộn và do đó không có vấn đề gì. Tuy nhiên, trong trường hợp mổ lông nghiêm trọng, lông của con nạn nhân bị giựt, bứt, vặt lông nhau. Điều này gây đau đớn cho nạn nhân và có thể dẫn đến vết thương da hoặc chảy máu, do đó có thể dẫn đến ăn thịt nhau và tử vong.
|
Thống kê là một dạng phân tích toán học sử dụng các mô hình, sự biểu diễn và tóm tắt định lượng cho một tập hợp dữ liệu thực nghiệm hoặc nghiên cứu thực tế nhất định nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và quyết định. Thống kê được sử dụng nhiều trong các bài báo cáo tổng hợp hay các văn bản liên quan nhằm mục đích tóm lược các nội dung cần truyền tải. Để hiểu thêm về thống kê là gì chúng tôi xin chia sẻ với Quý vị các thông tin hữu ích về vấn đề này. Thống kê là một dạng phân tích toán học sử dụng các mô hình, sự biểu diễn và tóm tắt định lượng cho một tập hợp dữ liệu thực nghiệm hoặc nghiên cứu thực tế nhất định nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và quyết định. Thống kê được chia làm hai lĩnh vực: thống kê mô tả và thống kê suy luận. Đối với mỗi lĩnh vực sẽ có chức năng riêng. Xác định được mục đích thống kê là gì giúp chủ thể lựa chọn được cho mình phương pháp thực hiện, qua đó có thể đưa ra những đánh giá chính xác nhất khi thực hiện thống kê. Để thống kê được mang lại những kết quả như mong muốn, cần hiểu rõ các phương pháp thống kê là gì, qua đó có thể thực hiện nghiên cứu đối tượng tốt nhất. Thống kê sử dụng 4 phương pháp cơ bản: thu thập và xử lý số liệu, điều tra chọn mẫu, nghiên cứu mối liên hệ giữa các hiện tượng và dự đoán, cụ thể như sau:. – Phương pháp thu thập và xử lý số liệu. Đây là phương pháp được sử dụng trong trường hợp số liệu có sự hỗn độn, dữ liệu chưa đáp ứng được cho quá trình nghiên cứu. Chính vì thế cần tiến hành xử lý tổng hợp, trình bày, tính toán. Từ đó kết quả sẽ giúp khái khoát đặc trưng tổng thể. – Điều tra chọn mẫu là sử dụng phương pháp chỉ cần nghiên cứu một bộ phận của tổng thể mà có thể suy luận cho hiện tượng tổng quát mà vẫn đảm bảo độ tin cậy cho phép. – Nghiên cứu mối liên hệ giữa các hiện tượng: phương pháp thống kê này hướng tới những mối liên hệ của các hiện tượng với nhau. Đây là phương pháp cần thiết và quan trọng trong hoạt động thống kê. Từ các phương pháp trên thu thập được các đặc trưng, số liệu,… có thể đưa ra những dự đoán. Việc nắm bắt được các bước nghiên cứu thống kê là gì giúp các chủ thể thực hiện thực hiện và mang lại kết quả chính xác nhất. Về cơ bản cần có 5 bước khi thực hiện nghiên cứu thống kê, bao gồm:. – Bước 1: Lập kế hoạch nghiên cứu thống kê. Bao gồm việc tìm hiểu các số liệu để trả lời nghiên cứu bằng việc sử dụng các thông tin như: ước tính sơ lược của kết quả điều tra, các thuyết,…;. – Bước 2: Thiết kế nghiên cứu thống kê. Nhằm ngăn sự ảnh hưởng của các biến gây nhiễu và phân bố mẫu ngẫu nhiên của hệ số đáng tin cậy cho các đối tượng;. Hi vọng với những chia sẻ trên, Quý vị phần nào hiểu được thống kê là gì, qua đó có thể tiến hành đánh giá một đối tượng tốt nhất. Việc nghiên cứu thống kê một đối tượng cần phải thực hiện đúng phương pháp và đầy đủ các bước khi thực hiện.
|
Thống kê
|
Thống kê là nghiên cứu của tập hợp nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm phân tích, giải thích, trình bày và tổ chức dữ liệu. Khi áp dụng thống kê trong khoa học, công nghiệp hoặc các vấn đề xã hội, thông lệ là bắt đầu với tổng thể thống kê hoặc một quá trình mô hình thống kê sẽ được nghiên cứu. Tổng thế có thể gồm nhiều loại khác nhau như “tất cả mọi người đang sống trong một đất nước” hay “tập hợp các phân tử của tinh thể”. Nó đề cập tới tất cả các khía cạnh của dữ liệu bao gồm việc lập kế hoạch, thu thập dữ liệu mẫu cho các cuộc khảo sát và thí nghiệm. Khi không thể thu thập được dữ liệu điều tra dân số, các nhà thống kê thu thập dữ liệu bằng cách phát triển các mẫu thí nghiệm và mẫu khảo sát cụ thể. Quá trình lấy mẫu đại diện đảm bảo rằng những suy luận và kết luận có thể được áp dụng từ mẫu cho đến tổng thể. Một nghiên cứu thực nghiệm bao gồm việc đo lường hệ thống được nghiên cứu, thao tác trên hệ thống và sau đó đo lường thêm, sử dụng cùng thủ tục mẫu để xác định xem các thao tác có thay đổi giá trị đo lường hay không Ngược lại, một quan sát nghiên cứu không liên quan đến thao tác thực nghiệm.
|
hay còn được biết với tên Vương quốc trên mây là bộ phim hoạt hình Doraemon thứ 13 được ra mắt tại Nhật Bản Phim của đạo diễn Shibayama Tsutomu. Tập truyện được tác giả Fujiko F. Fujio đăng trên tạp chí CoroCoro Comic từ tháng 10 năm 1991 cho đến tháng 1 năm 1992. Phim được phát hành ở một số quốc gia trên thế giới: tại Đài Loan từng được phát hành dưới dạng VCD trong thập niên 2000, tại Tây Ban Nha phát hành dưới dạng DVD vào ngày 20 tháng 10 năm 2004, tại Hồng Kông được pháy sóng trên truyền hình vào ngày 17 tháng 4 năm 2006, tại Ý phát sóng trên truyền hình vào ngày 21 tháng 12 năm 2009 và tại Ấn Độ phát sóng truyền hình vào ngày 25 tháng 1 năm 2014 Tại Việt Nam, phim từng được Công ty Cổ phần Truyền thông Trí Việt mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3 lần đầu vào ngày 14 tháng 12 năm 2012. Tại Nhật Bản phim được phát hành dưới dạng băng VHS và DVD bởi Toho còn tại Việt Nam phim được Công ty điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh phát hành trong định dạng VCD. Ca khúc tiếng Việt mở đầu là “Doraemon” do Huyền Chi trình bày và kết thúc là “Theo những áng mây” do Tiến Đạt trình bày. Phim giành được Giải bạc tại Lễ trao giải Giải doanh thu vàng (Golden Gross Award) lần thứ 9 với doanh thu tại phòng vé là 1.68 tỉ Yên. Thể loại: phiêu lưu, hài hước, tưởng tượng. Nobita muốn được đến thiên đường trên chín tầng mây, nơi mà cậu thường nghe nói đến trong truyện cổ tích. Không cần tìm kiếm đâu xa, bằng những bảo bối của mình, cả nhóm Doraemon đã tạo ra một thiên đường riêng và vô hình đối với người bên ngoài. Họ gặp một cậu bé nhưng hôm sau câu ta đã biến mất. Cả nhóm Doraemon gặp người thiên đàng và được biết bọn họ cũng có một thiên đàng riêng với kĩ thuật vô hình. Người thiên đàng đã nhốt nhóm Doraemon nên cả nhóm đã trốn đi nhưng không may họ bị đám mây tích điện đánh trúng. Jaian, Suneo, Shizuka bị bắt lại và được biết Chiến dịch Noah – tẩy rửa Địa cầu vì Trái Đất đã quá bụi bặm. Họ được mời đến Hội nghị thiên đàng với tư cách bị cáo người mặt đất cùng bốn tên thợ săn. Trong khi đó, Doraemon, Nobita may mắn trốn thoát và gặp lại những người tí hon ở làng Donjara trước đây cùng cậu bé hôm trước. Họ cũng được biết Chiến dịch Noah và quay về Vương quốc trên mây của mình với kế hoạch dùng hơi ga chỉ để răn đe người thiên đàng. Nhưng bốn tên thợ săn nọ trốn thoát và tình cờ lạc vào Vương quốc trên mây của nhóm Doraemon, chúng dùng hơi ga bắn vào căn cứ năng lượng của người thiên đàng và đe dọa bắn hết chín tầng mây. Cả nhóm Doraemon và Palupalu – một người thiên đàng bị bắt giam. Doraemon với cái đầu cứng của mình đã lao vào bình ga và cả Vương quốc trên mây tan ra, còn nhóm Doraemon được cứu thoát. Nhờ bé cây Kibou (nay đã lớn), Doraemon tỉnh lại và những lời nói đầy thuyết phục của Kibou, Chiến dịch Noah được đình chỉ vô thời hạn, người thiên đàng tạm biệt nhóm Doraemon và lên sống trên Hành tinh thực vật, tạo cơ hội để người mặt đất cải thiện môi trường. Moa ơi, Dodo ơi! Tồn tại mãi nhé!! : Doraemon và Nobita lên kế hoạch dùng vòng thời gian và gậy bắt dính để đem những loài vật có nguy cơ tuyệt chủng trong quá khứ về nhà nuôi. Không may, một trong số những con chim mà hai đứa bắt được bị phát hiện giá trị và gây xôn xao dư luận. Cuối cùng họ phải đem thả chúng trên một hòn đảo hoang vắng. Vĩnh biệt Bé Cây: Câu chuyện kể về việc Doraemon và Nobita cứu được một cây con nhỏ trong vùng rừng sắp bị chặt phá. Họ đã dùng Thuốc chuyển hóa thực vật thành động vật và Bé Cây (Kibou) dần biết đọc, biết viết, nghiên cứu khoa học và cả xem TV nữa. Một ngày nọ, khi đi thăm mảnh đất cũ, Doraemon, Nobita và Kibou bị người ở Hành tinh thực vật hút lên. Với trí tuệ và sự hùng biện của Kibou, Hành tinh thực vật đã dừng ý định lấy hết cây xanh trên Trái Đất. Kibou được đi lên hành tinh thực vật và vĩnh biệt Doraemon, Nobita. Kibou được tái xuất lần nữa trong tập phim Nobita và người khổng lồ xanh. Cậu bé Hoi ở làng Donjara: Doraemon và Nobita tình cờ gặp cậu bé Hoi – người dân làng Donjara tí hon. Hai đứa giúp cậu bé tìm lại gia đình và được biết nơi ở của họ đang sắp bị san bằng. Doraemon và Nobita đã tìm ra nơi ở mới cho dân làng người tí hon, đó là khu rừng rậm Amazon và đưa họ đến nơi đó sinh sống. Palupalu: Nữ nhân viên quản lý “Khu bảo tồn động vật tuyệt chủng” thuộc Liên bang thiên đang. Cô đã giúp đỡ nhóm Doraemon rất nhiều trong thời gian họ bị kẹt lại trên mây. Nói chung Palupalu, cũng như bao người thiên đàng khác, đều không có thiện cảm về người mặt đất do họ là nguyên nhân làm ô nhiễm bầu khí quyển. Tuy nhiên Palupalu vẫn ngầm ủng hộ cho những lời biện hộ của nhóm Doraemon. Gurio: Anh của Palupalu, cũng là nhân viên bảo tồn động vật tuyệt chủng. Anh thù địch với người mặt đất và đối xử hà khắc ra mặt với nhóm Doraemon, trái ngược với cô em gái. Tổng thống: Người quản lý Liên bang thiên đàng, ông sẽ là người ấn nút “tẩy rửa Trái Đất” nếu cuộc đàm phán của người mặt đất không thành công. Tagaro: Cậu bé đánh cá sống cùng với ông và cha trên một hòn đảo, sau đó cả gia đình bị đưa lên thiên đàng do một trận đại hồng thuỷ. Khi nghe được “Chiến dịch Noah” (tẩy rửa Trái Đất) của người thiên đàng, cậu đã cưỡi trên lưng con rùa cổ đại Glyptodont để trốn xuống mặt đất báo nguy cho loài người. Không may con rùa bị lật nhào và làm Tagaro ngất đi, cậu được nhóm Doraemon chăm sóc rồi bị người thiên đàng bắt trở về. Hoi: Chú bé người tí hon sống với cả một làng như vậy, từng được Doraemon và Nobita giúp đỡ trong việc tìm lại gia đình và nơi ở mới, sau này cũng được đưa lên thiên đàng. Nhờ bé Hoi mà Nobita gặp được Tagaro, qua đó biết được âm mưu của người thiên đàng. Moa và Dodo: Hai loài chim tuyệt chủng từng được nhóm Doraemon và Nobita cứu sống, chúng cũng đang sống ở thiên đàng và không quên cất tiếng ủng hộ cho nhóm bạn Doraemon. Kibou: Vốn là một chồi non trong một khu rừng sắp bị giải toả tại Tokyo, may nhờ Doraemon và Nobita cứu sống, biến thành người thực vật, sau đó được đưa đi học tập tại Hành tinh thực vật. Kibou đã dùng tài hùng biện của mình nói nhiều lời có lợi cho người mặt đất và cứu sống Doraemon khi cậu đâm đầu vào bình khí ga tự sát. Những tên thợ săn: 4 tên thợ săn bắn trái phép, tham lam và độc ác. Chúng vô tình bị kéo lên thiên đàng khi săn một đàn voi, sau đó lén đánh cắp một chiếc đĩa bay của người thiên đàng, gây mối hiềm khích lớn giữa Doraemon và người thiên đàng, dẫn đến việc cậu phải tự sát. Phim dự kiến được chiếu ở Ấn Độ vào ngày 25 tháng 1 năm 2014 với tên gọi Nobita’s Jannat No.
|
Doraemon
|
Doraemon: Nobita và vương quốc robot (ドラえもん のび太とロボット王国 (キングダム), Doraemon Nobita to Robot Kingdom) hay còn được biết đến với tên Cuộc chiến ở xứ sở rôbôt là bộ phim hoạt hình Doraemon thứ 23 được ra mắt tại Nhật Bản. Ngoài ra, bộ phim còn có một số tên gọi không chính thức như Vương quốc rôbôt. Là phim khoa học viễn tưởng của đạo diễn Shibayama Tsutomu. Phim được công chiếu ở Nhật vào ngày 09 tháng 03 năm 2002. Sau Nhật Bản, phim được phát hành ở một số quốc gia trên thế giới: Hồng Kông (chiếu rạp 3 tháng 4 năm 2004), Thái Lan (chiếu rạp 30 tháng 9 năm 2004), Đài Loan (chiếu rạp 9 tháng 2 năm 2005), Tây Ban Nha (chiếu rạp 2 thámg 3 năm 2005) và Bồ Đào Nha (phát hành DVD 1 tháng 3 năm 2005). Tại Việt Nam, phim từng được Công ty Cổ phần Truyền thông Trí Việt mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3 vào ngày 15 tháng 3 năm 2013. Tại Nhật Bản phim được phát hành dưới dạng băng VHS và DVD bởi Toho. Ca khúc mở đầu phim là "Doraemon no Uta" (ドラえもんのうた, dịch nghĩa Bài hát về Doraemon, "Doraemon no Uta") do Yamano Satoko trình bày, ca khúc lồng trong phim "Hitori Janai - I ll Be There" (ひとりじゃない 〜I ll Be There〜, dịch nghĩa Tôi sẽ ở đó, "Hitori Janai - I ll Be There") do KONISHIKI và Niiyama Chiharu trình bày và ca khúc kết thúc là "Issho ni Arukou - Walking Into Sunshine" (いっしょに歩こう 〜Walking Into Sunshine〜, dịch nghĩa Đi vào ánh Mặt Trời", "Issho ni Arukou - Walking Into Sunshine") do KONISHIKI trình bày.
|
Giữa tất cả những tác phẩm văn học Pháp trong hơn một thế kỉ qua, “Hoàng tử bé” của Antoine de Saint-Exupery chắc hẳn là tác phẩm được yêu thích nhất. Điều này thật kì lạ, bởi vì ý nghĩa của cuốn sách – bao gồm mục đích, ý định và bài học của nó - thực sự vẫn còn rất khó để hiểu hết mặc dù đã hơn 75 năm kể từ khi cuốn sách lần đầu tiên được ra mắt. Thực sự thì khi nhìn lại những bình luận đầu tiên về cuốn sách, thật ngạc nhiên khi biết rằng nó đã không nhận được sự chào đón nồng nhiệt như là một cậu chuyện ngụ ngôn tuyệt vời, mà thay vào đó, nó khiến độc giả bối rối và khó hiểu. Trong số những nhà phê bình thời đó, chỉ có P.L. Traver - với sự cân xứng đã khiến cả những người vô thần phải rùng mình, người đã viết nên một câu chuyện thần thoại tuyệt vời cho nước anh trong bộ truyện Mary Poppins của bà - là người đã thực sự nắm bắt được các chiều cạnh, tầm quan trọng của “Hoàng tử bé”. Qua thời gian, sự tán thành của độc giả đã thay đổi kết luận trước đó, tất nhiên, một tác phẩm kinh điển thì vẫn cứ là kinh điển. Nhưng nó đã thay đổi kết luận mà không thay đổi quan điểm. Năm nay là năm đánh dấu sự nở rộ khi nó nhận được sự chú ý lớn, bao gồm buổi triển lãm đầy đủ những bức hoạ gốc của Saint-Exupery ở Thư Viện và Bảo Tàng Morgan, đặt tại New York. Nhưng chúng ta vẫn không tới đi được sâu hơn nữa trong quá trình thâm nhập vào bí ẩn chính: "Hoàng Tử Bé nói về điều gì?. Ai cũng biết cốt truyện của “Hoàng Tử Bé”: một phi công rơi xuống một sa mạc, dối diện với khả năng sống sót rất thấp, gặp gỡ một người trẻ kì lạ, không phải một người đàn ông trưởng thành cũng không phải một cậu bé. Chuyện dần dần được hé lộ, chàng trai trẻ tuổi đến từ một hành tinh xa xôi, nơi cậu sống một mình cùng với một bông hồng. Bông hồng đã khiến cậu buồn khổ đến nỗi cậu đã đi theo một đàn chim đến những hành tinh khác. Cậu đã được hướng dẫn bởi một con cáo khôn ngoan và cẩn trọng, bởi thiên thần độc ác của sự chết chóc - con rắn. Phải mất nhiều năm, và nhiều lần đọc, để độc giả bắt đầu hiểu được rằng quyển sách này là một câu chuyện chiến tranh. Không phải là truyện ngụ ngôn chiến tranh mà đúng hơn là một câu chuyện đạo đức, trong đó các cảm xúc trung tâm của sự mâu thuẫn – sự cô lập, nỗi sợ hãi và sự không chắc chắn - được làm dịu đi chỉ bởi những lời nói thân thương và cả tình yêu. Nhưng “Hoàng tử bé” cũng là một câu chuyện chiến tranh theo đúng nghĩa đen, mọi thứ trong quá trình cuốn sách được viết ra không chỉ liên quan tới sự bắt đầu của cuộc chiến tranh mà còn là “sự thất bại kì lạ” của nước Pháp cùng với những trải nghiệm dưới thời chính phủ Vichy khi bị chiếm đóng. Nỗi xấu hổ và khó hiểu của Saint-Exupery về sự thất bại đó đã khiến ông sáng tác nên một câu chuyện cổ tích với những ý niệm trừu tượng trong tương quan đối lập với những tình yêu cụ thể. Trong đó, ông đã hát lên trong những âm điệu vô thức về sự mất mát của chiến tranh cùng với các nhà văn vĩ đại khác, từ J. D. Salinger – tác giả của cuốn truyện vĩ đại hậu chiến tranh, ‘Gửi Esme – cùng tình yêu và sự nghèo khó” cho chúng ta thấy rằng sự sụp đổ đạo đức chỉ có thể được cứu chữa bằng lời nói của một đứa trẻ sáng suốt – tới người đồng nghiệp của ông, Albert Camus, người cũng từ cuộc chiến tranh mà nhận ra sự cần thiết của việc tham gia vào cuộc chiến không hồi kết “giữa niềm hạnh phúc của mỗi con người và bệnh tật của sự vô nghĩa”, có nghĩa là việc tách cảm xúc thực ra khỏi cuộc sống thường nhật. Giờ đây chúng ta đã biết chi tiết hoàn cảnh sáng tác của “Hoàng tử bé” nhờ vào cuốn tiểu sử mang tên “Saint-Exupery” của Stacy Schiff. Trốn khỏi Châu Âu để đến một nơi tha hương không mấy vui vẻ và chỉ sử dụng một thứ tiếng ở Bắc Mỹ, tham gia vào cuộc chiến xung đột nội bộ tuy nhỏ nhưng rất dữ dội với các nhóm người tha hương và chống đối khác (ông đánh giá sai về DeGaulle, người mà ông tưởng rằng đã đưa chính người dân nước Pháp chống lại người Pháp thay vì chống lại người Đức), Saint-Exupery đã viết nên câu chuyện cổ tích đậm chất Pháp ở Manhattan và Long Island. Bối cảnh sa mạc của cuốn truyện được lấy từ trải nghiệm của người phi công Saint-Exupery vào năm 1935 khi bị lạc gần một tuần ở vùng sa mạc Ả rập, cùng với những kí ức về sự cô đơn, ảo giác, cái chết cận kề (và một vẻ đẹp được giấu kín) ở sa mạc được hé lộ trong những trang sách. Câu chuyện tình yêu trọng tâm của Hoàng Tử và Bông Hồng bắt nguồn từ chính câu chuyện tình yêu đầy giông bão của ông và vợ, bà Consuelo, người sở hữu những đặc điểm của Bông Hồng được thể hiện trong truyện như những cơn ho, sự đành hanh, độc đoán và cả những lần hưng phấn bất chợt của cô nàng. (Schiff nói rằng, khi ông bị mất tích ở sa mạc vào năm 35, vợ ông đã công khai than khóc về sự mất mát của ông ở “hành tinh” của riêng bà, chiếc bàn ở quán Brasserie Lipp). Sa mạc và bông hồng - cuộc đời ông khi làm một người phi công dũng cảm và khi làm một người tình kì lạ - là nguồn cảm hứng của ông. Nhưng giữa hai trải nghiệm này, găm vào giữa chúng, chia cách chúng, là một đường biên, đó chính là cuộc chiến tranh. Ở nơi sâu thẳm nhất trong tâm thức, ông cảm thấy sự mất mát của nước Pháp không chỉ là sự mất mát trong chiến sự mà là sự mất mát trong “ý nghĩa”. Sa mạc của sự thất bại kì lạ còn khó hiểu hơn cả sa mạc Libya, chẳng còn gì có thể hiểu được cả. Trận chiến của Saint-Ex là danh dự: ông đã bay cùng với đội máy trinh sát GR II/33 của không lực Pháp (Armee de l’Air). Và, sau thất bại cay đắng, ông trốn chạy khỏi Châu Âu giống như rất nhiều những người Pháp yêu nước khác, qua Bồ Đào Nha và dừng chân tại New York vào ngày cuối cùng của năm 1940. Nhưng, như bất kì ai đã từng sống trong thời kì ấy đều biết, điều khiến sự mất mát đó trở nên vô cùng đau thương là không chỉ quân đội mà toàn bộ nền tảng của nền văn minh Pháp đã sụp đổ với tốc độ chóng mặt, dưới sự giám sát của những vị thần. Trong công cuộc tìm kiếm nguyên nhân của sự sụp đổ đó, những bộ óc thành thật đáng kính trọng nhất – trong số đó có Marc Bloch và Camus – cho rằng lồi lầm thực sự nằm ở thói quen về sự trừu tượng của người Pháp. Truyền thống của nước Pháp đã và đang tiếp tục vận động, việc đặt những câu hỏi thực tế về những ví dụ cụ thể vào thế giới tương ứng trên những trang giấy mà ở đó những câu hỏi lý thuyết - các mô hình - là những điều được quan tâm nhất, lại làm những người thiết kế ra nó thất vọng. Một cách để đáp lại thảm hoạ chắc chắn là tìm ra một vài hệ thống trừu tượng mới, của những phạm trù quan trọng để thay thế những gì đã mất. Nhưng một cách đáp trả nhân văn hơn là tham gia vào một cuộc chiến không hồi kết chống lại những thứ trừu tượng tách chúng ta khỏi cuộc sống như nó vốn có. Không ai chỉ ra điều này đúng hơn Bloch:. Nhiệm vụ đầu tiên trong công việc của tôi (một nhà sử học, nhưng rộng hơn là người theo chủ nghĩa nhân văn) bao gồm việc tránh sử dụng những thuật ngữ nghe có vẻ to tát. Những người dạy lịch sử nên tiếp tục quan tâm đến việc tìm kiễn những giá trị thực đằng sau những điều trừu tượng và trống rỗng. Nói cách khác, họ nên dồn sự tập trung vào con người hơn là những công cụ. Đây dường như là một bài học đạo đức kì lạ được rút ra từ một trải nghiệm về thứ gì đó kinh khủng như chiến tranh. Nhưng nó không chỉ đơn thuần là về tri thức, không phải là sự hiển linh của một kẻ nghiệp dư chưa từng tác chiến. Xét về cấp độ chiến thuật, quân sự đơn thuần, sự thôi thúc để sử dụng những thứ trừu tượng đồng nghĩa với sự thôi thúc để tôn sùng những cách giải quyết cứng nhắc và hệ thống, thay vì trở nên linh động và tháo vát. Tuyến phòng thủ Maginot là một ý niệm trừu tượng đã thay thế chiến lược linh hoạt và những cảm tính thông thường. (Điều này gợi nhớ lại một bình luận của Picasso dành cho Matisse, khi người hoạ sĩ Pháp này đang lâm vào rắc rối năm 1940 và đã hỏi ông rằng: “Nhưng còn các tướng lĩnh của chúng ta, họ đang làm gì vậy?”: “Các tướng lĩnh của chúng ta ư? Họ là những bậc thầy trong Trường đại học Mỹ Thuật!” Picasso đáp lại, với thông điệp rằng loại người bị điều khiển bởi những công thức được học vẹt, sự thiếu vắng khả năng quan sát và chủ nghĩa ám ảnh về truyền thống như là những nghệ sĩ hàn lâm. Từ một trải nghiệm vô nhân đạo và quá sức - một trải nghiệm đã biến cả nhân loại với một lịch sử và định mệnh vô cùng phức tạp thành một thuật toán rồi sau đó thành một nạn nhân – Saint Exupery muốn giải cứu con người chứ không phải những số liệu thống kê. Những số liệu thống kê có thể là bất cứ người nào trên hành tinh bị ám ảnh với việc tôn sùng “đếm”, đếm những vì sao nếu đó là một nhà du hành vũ trụ hay là lợi nhuận nếu đó là một doanh nhân. Cách để thưởng thức “Hoàng tử bé” đầy đủ nhất chính là coi nó như là một câu chuyện ngụ ngôn được mở rộng về thể loại và sự ngu ngốc của trừu tượng - cùng với đó là sức mạnh đặc biệt và sự chua chát đến từ việc Saint-Exupery kịch tích hoá sự đấu tranh chống lại sự trừu tượng không như là một vật thể triết học mà như là một câu chuyện về sự sống - cái chết. Cuốn truyện di chuyển từ thiên thạch đến sa mạc, từ cổ tích và hài kịch đến bi kịch kì bí để khẳng định một điều luôn tái diễn: Bạn không thể yêu hoa hồng nói chung, bạn chỉ có thể yêu một bông hồng mà thôi. Cũng giống như cuộc hành trình của Saint-Exupery, cuộc hành trình của hoàng tử chính là cuộc hành trình tha hương, tránh xa trải nghiệm chung về sự gợi tình của một bông hoa đặc biệt. Hoàng Tử học được rằng để có trách nhiệm với bông hồng của chàng thì chàng phải coi nó như chính bản thân nó, kể cả sự yếu đuối và tình tính kiêu căng– phải, tất cả những sự tầm thường đó! – mà không bớt đi sự yêu thương chỉ vì nó quá yếu đuối. Sự hoan hỉ ngoan cố của trải nghiệm cụ thể có thể tìm thấy ở một thứ vừa đặc trưng lại vừa kì quái như hình ảnh mở đầu về một con trăn Nam Mỹ nuốt chửng một con voi, điều mà, theo như người dẫn truyện thì người lớn chỉ có thể thấy nó như một vật thể chung (Đây là điểm chung của Saint-Exupery và những người theo trường phái siêu thực ngưỡng mộ ông. Những bức vẽ của Rene Magritte và sự ám ảnh chung về những chiếc mũ của tầng lớp trung lưu, gợi ra rằng mỗi lần bạn nhìn thấy một chiếc mũ derby của giới trung lưu, rất có thể trong đó có một con trăn Nam Mỹ. Ảnh chụp X-quang của mọi chiếc mũ đều lộ ra một con trăn trên mọi cái đầu đội chiếc mũ đó. Đây có thể là cách ngôn của mọi buổi triễn lãm trường phái siêu thực.). Những con người mà Hoàng Tử gặp trong cuộc hành trình đến Trái Đất đều là những người, theo như Bloch, thì chỉ còn là những công cụ. Người doanh nhân, nhà thiên văn học, và thậm chí người thắp đèn đáng thương, đều trở thành những nghề nghiệp của họ và trở nên mù loà trước những vì sao. Và một lần nữa, chỉ ở “Hoàng tử bé”, những dịch chuyển thiết yếu mà chúng ta tìm thấy ở Camus, được diễn tả lại dưới dạng một truyện ngụ ngôn thay vì một cuốn tiểu thuyết thực tế. Thế giới mưu toan làm chúng ta trở nên mù loà trước những sự vận hành của nó; và nhiệm vụ thực sự của chúng ta chính là nhìn thấy thế giới lại một lần nữa.
|
Hoàng tử bé
|
Hoàng tử bé (tên tiếng Pháp: Le Petit Prince), được xuất bản năm 1943, là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn và phi công Pháp Antoine de Saint-Exupéry. Ông đã thuê ngôi biệt thự The Bevin House ở Asharoken, Long Island, New York trong khi viết tác phẩm này. Cuốn tiểu thuyết cũng bao gồm nhiều bức tranh do chính Saint-Exupéry vẽ. Tác phẩm đã được dịch sang hơn 250 ngôn ngữ (bao gồm cả tiếng địa phương) và cho đến nay đã bán được hơn 200 triệu bản khắp thế giới, trở thành một trong những sách bán chạy nhất của mọi thời đại, được phát triển thành một sê ri truyện tranh 39 chương bởi Élyum Studio, và một phiên bản graphic novel bìa cứng chuyển thể bởi danh họa tài năng Joann Sfar. Truyện còn được dùng như tài liệu cho những người muốn làm quen với ngoại ngữ. Hoàng tử bé sống trên tiểu tinh cầu B612. Ở đó có ba ngọn núi lửa (hai ngọn đang hoạt động còn ngọn kia thì không) và một bông hoa hồng. Cậu chăm sóc cho tiểu hành tinh của mình hằng ngày, nhổ hết các cây bao báp định bám rễ, mọc lên tại đây.
|
Trận Salamis là một trận đánh hải quân quyết định giữa các quốc gia-thành phố Hy Lạp và đế quốc Ba Tư vào năm 480 trước Công nguyên ở một eo biển giữa Piraeus và đảo Salamis, một hòn đảo ở vịnh Saron gần Athena. Chiến thắng của người Hy Lạp đã đánh dấu một bước ngoặt của chiến dịch, dẫn đến thất bại cuối chung cuộc của quân Ba Tư. Trong trận Marathon, quân Ba Tư bị thua rút chạy về nước, sửa soạn phục thù trong mười năm. Nước Hy Lạp lúc đó do Themistocles đứng đầu. Mùa xuân năm 480 TCN, quân Ba Tư tiến vào Địa Trung Hải và tấn công Hy Lạp. Mục đích ban đầu là đánh chiếm thành Athena. Người đứng đầu nhà nước Hy Lạp lệnh cho tất cả các thành phố cảng vùng biển phải dựng các chướng ngại vật dọc theo bờ biển để ngăn quân đối phương đổ bộ và cho tập trung tất cả quân đội và chiến thuyền tại eo biển Salamis. Đoàn chiến thuyền của Ba Tư gồm 1200 chiếc, chạy dọc theo bờ biển Thessali tiến xuống quần đảo ở phía Bắc mỏm Eubée, nơi có mặt những chiến thuyền tiên phong của Hy Lạp… Xerxes cho dàn thuyền chiến thành 8 hàng trong đêm tối nhưng khi bố trí xong thì gần đến sáng, bỗng có cơn giông ập tới, phá tan thuyền chiến Ba Tư, đánh giạt hàng trăm chiếc vào bờ và bị chìm một số. Khi tập hợp lại chỉ còn không đầy 800 chiếc. Xerxes liền cắt cử Nữ hoàng xứ Halicarnass Artemisia I – đồng thời cũng là nữ tướng chỉ huy 5 chiến thuyền bất ngờ tấn công vào phía Hy Lạp. Hạm đội Hy Lạp bị thua to khi trời gần sáng. Artemisia bắt được một viên tướng Hy Lạp, sai đem buộc vào mũi thuyền, cắt cổ cho máu chảy xuống biển để tạ ơn Thần Biển! Tiếp đó thừa thắng xông lên, Ba Tư kéo đại quân xuống phía Đông Eubée. Trong khi đó quân Hy Lạp nung nấu ý chí phục thù, rồi nhân một đêm tối trời, họ phản công lại quân Ba Tư. Quân Ba Tư chủ quan khinh địch không kịp trở tay, bị đắm ba chục chiếc thuyền phải tháo chạy ra biển và liền bị bão giông nổi lên làm đắm nhiều chiếc khác. Sau ba ngày, trời yên, bể lặng, quân Ba Tư kéo trở lại mỏm Eubée. Nhưng họ lại bị thua và phải rút lui về cảng Sêpia. Trong lúc Hy Lạp nhận được thêm viện binh liền truy kích quân Ba Tư. Trận cuối cùng nổ ra ở Salamine, quân Hy Lạp đã thắng, thuyền chiến Ba Tư đắm gần hết, một số bị bắt làm tù binh. Hoàng đế Xerxes hạ lệnh giết hết những người chỉ huy và thủy thủ bỏ chạy. Bên Hy Lạp cũng giết hết các tù binh, trong số đó có Đô đốc là Hoàng tử Ariabigne (Ariabinhơ) là em trai của chính Xerxes. Trận thắng của Hy Lạp đã làm tan vở mộng tưởng chinh phục Châu Âu của Ba Tư. Đây là trận thủy chiến nổi tiếng trong lịch sử cổ đại và đã đưa Themistocles lên hàng danh tướng thế giới thời cổ đại. Vào năm 499 -> 494 BC các thành đô Hylạp cổ đại như Athen và Eretria ủng hộ cuộc khởi nghĩa không thành công của người Ionian ( theo em được biết thì người Ionian sống ở bán đảo Tiểu Á, họ gần với chủng tộc người Hylạp nhưng lại là thuộc địa của Batư) Đế quốc Batư lúc đó mới được thành lập rất hung mạnh để dễ dàng dập tắt cuộc khởi nghĩa này. Hơn nữa vua Darius của Batư là kẻ lên ngai vàng bằng bạo lực nên ông ta càng thiên về dùng sức mạnh để dập tắt những kẻ chống đối lại luật lệ của mình. Khởi nghĩa của người Ionian đã đe dọa tính toàn vẹn để chế rộng lớn của ông ta, và Darius thề sẽ trừng phạt những kẻ tham gia ( Đặc biệt là những kẻ ở bên ngoài mà dám xía vào nội bộ Đế chế). Ông cũng thấy luôn đó là một cơ hội để mở rộng đế chế của ông ta tới cái thế giới cứng đầu của các Đô thành Hylạp Cổ đại. Một đợt chinh phạt trước đó của Mardonius, vào năm 492 BC đã mở một con đường tiến tới Hylạp, cuộc chinh phạt này dừng ở việc chiếm đóng đô thành Thrace và ép xứ Macedon phải chở thành chư hầu của Batư. Vào năm 491 BC Darius gửi sứ giả đến tất cả các đô thành Hylạp, đòi hỏi các các đô thành phải lấy đất và nước làm lễ vật cống nạp cho ông ta. Tại Athen các sứ giả của Batư đã bị xử tử, tại Sparta họ đã bị ném xuống giếng. Điều đó có nghĩa là đô thành Sparta đã sẵn sàng cho 1 cuộc chiến với Batư. Vào năm 490 BC, Darius đã gửi một đội quân tấn công thăm dò vào Hylạp, đội quân này dưới sự chỉ huy của Datis và Artaphernes đã tấn công Naxos trước khi họ nhận được các cống nạp thể hiện quy phục từ các đô thành Hylạp khác trên đảo Cycladic. Đội quân này sau đó tiến về phía Eretria bao vây và phá hủy đô thành này. Cuối cùng nó tiến về phía Athen, đổ bộ xuống vịnh Marathon, tại đó nó trạm trán với một đội quân lớn của Athen. Ở trận đánh kế tiếp, trận Marathon, Người Athen đã có một chiến thắng quyết định làm cho người Batư phải rút lui về nơi xuất phát. Darius bắt đầu xây dựng lại một đội quân vĩ đại mới, một đội quân mà ông ta cho là có thể khuất phục nổi Hylạp. Tuy nhiên vài năm 486 BC thuộc địa Aicập của ông ta nổi dậy chống lại đế chế, điều này làm cho ông ta phải trì hoãn cuộc chinh phục xứ Hylạp. Darius sau đó chết khi đang chuẩn bị tiến vào Aicập và quyền cai trị đế chế Batư lúc đó thuộc về Xerxes I con trai ông ta. Xerxes rất nhanh chóng nghiền nát cuộc nổi dậy của người Acập và tiếp tục khởi động lại sự chuẩn bị cho cuộc xâm lược Hylạp. Kể từ đó cuộc chinh phục Hylạp với đầy đủ quy mô bắt đầu, nó đòi hỏi phải có dự trữ lớn và các cuộc cưỡng bức tòng quân. Xerxes quyết định rằng Hellespont (eo biển Dardanelles ngày nay) sẽ là cây cầu cho quân đội của ông ta tiến vào châu Âu, và cho đào một chiếc kênh xuyên qua eo đất Mount Athos ( Ở gần múi đất này 1 hạm đội Batư đã từng bị tiêu diệt trong những trận đánh năm 492 BC) đây là hai kỳ công hiếm thấy của một tham vọng phi thường vượt quá khả năng của quốc gia ở thời đó. Vào khoảng đầu năm 480 BC sự chuẩn bị đã hoàn thành, đội quân mà hoàng đế Xerxes đã gây dựng từ at Sardis bắt đầu hành quân tiến về phía châu Âu, vượt qua Hellespont bằng hai cây cầu phao. Người Athen cũng đã bắt đầu ráo riết chuẩn bị chiến tranh với người Batư kể từ giữa năm 482 -> 480 BC, dưới sự lãnh đạo của nhà chính trị gia Themistocles, Athen đóng một hạm đội lớn tầu triremes ( Tầu chiến có nhiều mái chèo), hạm đội này rất cần thiết cho Athen trong cuộc chiến với Batư. Tuy nhiên Athen không đủ lực để chiến đấu với Batư cả trên bộ lẫn trên biển, điều này đòi hỏi phải có một Đồng minh đô thành Hylạp. Vào năm 481 Xerxes gửi sứ giả tới Hylạp để đòi cống nạp đất và nước, nhưng đã bị lờ đi bởi Athen và Sparta. Những người ủng hộ hai đô thành này bắt đầu kết hợp lại dưới sự lãnh đạo của Athen và Sparta. Một nghị viện của các đô thành đã được tổ chức tại Corinth vào cuối mùa thu năm 481BC và một Đồng minh các đô thành Hylạp đã được thành lập, Đồng minh này có quyền gửi phái viên đòi hỏi sự trợ giúp và đòi hỏi gửi binh lính của các thành viên của nó tới chiến trường. Đây là một điều rất có ý nghĩa với một thế giới Hylạp rời rạc, đặc biệt là thậm chí một số đô thành còn đang ở tình trạng chiến tranh với nhau nữa. Ban đầu nghị viện đồng ý bảo vệ vùng đất hẹp Vale of Tempe trong biên giới của đô thành Thessaly, từ đó chặn bước tiến của Xerxes. Tuy nhiên họ đã nhận được lời cảnh báo của Alexander I xứ Macedon rằng thung lũng này sẽ bị vượt qua khi quân địch vượt qua làng Sarantaporo, và quân của Xerxes sẽ tràn ngập người Hylạp khi họ đang rút lui. Ngay sau đó họ nhận được tin Xerxes đã vượt qua Hellespont, Một chiến lược thứ nhì đã được Đồng minh thông qua. Con đường tiến tới phía nam Hylạp (Boeotia, Attica và Peloponnesus) đòi hỏi quân đội của Xerxes phải vượt qua đèo Thermopylae. Dễ dàng có thể chặn đứng nó lại bằng giáo binh nặng Hylạp (hoplites) bất chấp số lượng đông vô vàn của quân Batư. Hơn nữa để chăn không cho quân Batư vượt qua đèo Thermopylae từ phía biển, thủy quân của Đồng minh và Athen đã khóa chặt mũi đất Artemisium. Chiến lược phòng thủ kép này đã được nghị viện thông qua. Tuy nhiên các đô thành thuộc vùng Peloponnesis muốn có một kế hoạch rút lui để bảo vệ vùng Isthmus thuộc Corinth, đồng thời đàn bà và trẻ con của Athen sẽ được sơ tán về đô thành Troezen thuộc vùng Peloponnesis. Một nhóm nhỏ quân Hylạp sẽ giữ đèo Thermopylae trong ba ngày trước khi bị đánh tạt sườn từ các đường mòn từ vách núi. Phần lớn quân Hylạp rút lui trước khi quân Sparta và Thesper phòng thủ núi bị tử thương hết. Trận đánh cùng lúc ở Artemisium đang lâm vào thế bí thì họ nhận tin trận đèo Thermopylae và rút quân. Kể từ đó việc đóng giữ Artemisium là một vấn đề để tranh cãi gay gắt. Hạm đội Đồng minh lúc bấy giờ khởi hành từ Artemisium đến Salamis để trợ giúp cho cuộc di tản cuối cùng của người Athen. Trên đường đi Themistocles gửi bức thư bằng chữ khắc đến các đội thuyền Ionian Hy Lạp trong hạm đội Ba Tư trên tất cả các điểm buộc dây thuyền dưới nước mà họ có thể dừng lại, yêu cầu họ đào ngũ về phe Đồng Minh. Sau khi vượt qua đèo Thermopylae, quân đội Ba Tư đốt phá các thành phố đã không đầu hàng như Boeotian, Plataea và Thespiae; trước khi tiến binh về Athen, thành phố bây giờ đã di tản hết cư dân của nó. Các lực lượng Đồng Minh (chủ yếu là Peloponnesian) chuẩn bị sẵn sàng để bảo vệ eo đất Corinth, họ đã phá huỷ con đường duy nhất dẫn tới đó và xây dựng một bức tường chắn ngang. chiến lược này tuy còn nhiều thiếu sót, và chỉ hữu hiệu khi hạm đội Đồng minh có thể ngăn chặn người Ba Tư vận chuyển quân bằng đường thuỷ qua Vịnh Saronic. Trong một cuộc họp của hội đồng chiến tranh sau khi di tản của Athens đã hoàn tất, chỉ huy hải quân Adeimantus của Corinthian lập luận rằng hạm đội nên tập hợp ngoài khơi bờ biển eo Isthmus để có thể phong tỏa không cho người Batư chuyển quân. Tuy nhiên, Themistocles lại không đồng ý như vậy, ông ta lập luận rằng mục tiêu chiến lược là công kích, phá hủy một cách hoàn toàn ưu thế của hải quân Ba Tư. Ông đã rút ra bài học từ Artemisium và chỉ ra rằng trận chiến ” trận đánh trong khoảng chật hẹp như vậy sẽ tạo lợi thế cho chúng ta” Ý kiến của ông cuối cùng đã được thông qua, và hải quân Đồng minh ở lại ngoài khơi bờ biển Salamis. Rất khó khăn để lập lại một cách chắc chắn cho chuỗi thời gian xảy ra trận Salamis. Herodotus ( Nhà sử học đã viết lại trận này) cho rằng trận chiến có thể xảy ra sau khi quân Batư chiếm giữ Athens., Nhưng không một công bố nào đảm bảo điều đó là hoàn toàn chính xác. Nếu trận đèo Thermopylae / Artemisium xảy ra trong tháng Chín thì sau đó trận đánh hoàn toàn có thể xảy ra, nhưng cũng có nhiều khả năng người Ba Tư đã mất hai hoặc ba tuần để chiếm Athens, sửa chữa hạm đội, và lấy thêm đồ tiếp tế. Tuy nhiên chắc chắn là, sau khi chiếm Athens, Xerxes đã tổ chức một hội đồng chiến tranh của Ba Tư; Herodotus nói sự kiện này đã xảy ra tại Phalerum. Artemisia nữ hoàng của Halicarnassus và là chỉ huy của hải đội của mình trong hạm đội của Xerxes, đã cố gắng thuyết phục ông ta rằng, hãy đợi cho đến khi quân Đồng Minh kiệt sức và đầu hàng, bà ta tin rằng cuộc chiến ở Eo biển Salamis là một rủi ro không cần thiết. Tuy nhiên, Mardonius, người đứng đầu những cố vấn của Xerxes lại hối thúc ông ta mở một cuộc tấn công. Cũng rất khó để giải thích một cách chính xác những gì đã xảy ra về trận đánh, giả định rằng không chỉ đơn giản là một bên bị tấn công mà không có kế hoạch phòng bị gì cả. Tuy nhiên, tại thời điểm trước trận đánh, có một số thông tin mới về rạn nứt trong nội bộ Đồng minh đã đến tai Xerxes; những người Hylạp đến từ Peloponnesis muốn di tản khỏi Salamis trong khi họ vẫn còn cơ hội. Chính điều này bị cáo buộc rạn nứt giữa Đồng Minh, nhưng có thể đây cũng chỉ là mưu kế để thu hút người Ba Tư vào chiến đấu. Ngoài ra, sự thay đổi trong thái độ của Đồng Minh (đã kiên nhẫn chờ ngoài khơi bờ biển Salamis ít nhất một tuần trong khi Athens đã bị chiếm) có thể đã gây cho người Ba Tư sự ức chế. Có thể một đội quân Ba Tư đã được gửi đến tấn công Isthmus để thử phản ứng của của hạm đội Đồng minh. Dù thế nào thì khi Xerxes nhận được tin tức này, ông cũng đã ra lệnh hạm đội của mình tiến về phía ngoài khơi bờ biển Salamis, chặn lối rút phía Nam của Đồng minh. Sau đó lúc chạng vạng ông ta ra lệnh cho quân của mình rút lui, có thể để đây là một mưu kế để nhử cho Đồng Minh vào một cuộc di tản khinh suất. Buổi tối hôm đó Themistocles đã gửi một viên chức, Sicinnus đến chỗ Xerxes, với một thông điệp tuyên bố rằng Themistocles sẽ ” Đứng về phía nhà vua khi ngài đang thắng thế, chứ không phải là đứng về phía người Hylạp” Themistocles nói rằng Đồng Minh đang có xung đột, và những người Peloponnesians đã có kế hoạch di tản trong đêm đó, và rằng để giành chiến thắng thì tất cả người Ba Tư cần phải làm là chặn được eo biển này. Trong hoạt động tung hoả mù này, Themistocles dường như đã cố gắng cung cấp những thông tin có thật cho đối phương, để nhử hạm đội Ba Tư tiến vào eo biển. Đây là chính xác những gì Xerxes muốn có, đó là Athena sẵn sàng đầu hàng ông ta và rằng ông ta sẽ đễ dàng phá hủy phần còn lại của hạm đội Đồng Minh. Xerxes một cách chắc chắn là đã mắc câu, và hạm đội Ba Tư đã được gửi ra trong buổi tối hôm đó để khoá chặt đường rút về phía Nam của người Hylạp. Xerxes ra lệnh cho binh lính đặt một chiếc ngai vàng trên sườn núi Aigaleos (nhìn ra eo biển) để xem trận từ một điểm rõ ràng, thuận lợi và để ghi tên các chỉ huy đặc biệt là những người chiến đấu tốt. Theo nhà sử học Herodotus, Đồng Minh đã dành cả buổi tối để tranh cái về những hành động kế tiếp của họ. Các Đồng minh đến từ Peloponnesis đã ủng hộ việc di tản, đã có thông tin là vào thời điểm này Themistocles cố mưu mẹo Xerxes. Chỉ khi Aristides, vị tướng đang phải lĩnh án đi đày của Athens, đến trong đêm đó, tiếp theo là một số người bỏ chốn từ phía Ba Tư( chắc là người Ionian)đưa đến tin tức về sự triển khai của hạm đội Ba Tư để khoá chặt lối thoát thì các Đồng minh đến từ Peloponnesis mới chấp nhận là họ không thể thoát ra được nữa, và do đó họ phải chiến đấu. Tuy nhiên, cũng có giả thiết hợp lý rằng những xích mích mà nhóm Peloponnesis tạo ra cũng chỉ là mưu kế do Themistocles dàn dựng lên mà thôi. Hải quân Đồng minh đã có nhiều nỗ lực để chuẩn bị cho trận đánh trong ngày sắp tới, trong khi người Ba Tư đã dành đêm vô ích trên biển để tìm kiếm dân Hy Lạp rút chạy.
|
Trận Salamis
|
Trận Salamis (tiếng Hy Lạp cổ: Ναυμαχία τῆς Σαλαμῖνος, Naumachia tēs Salaminos), là một trận hải chiến giữa các thành bang Hy Lạp và đế quốc Ba Tư vào năm 480 TCN ở một eo biển giữa Piraeus và đảo Salamis, một hòn đảo ở vịnh Saron gần Athena. Trận đánh đánh dấu đỉnh điểm của cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Đế quốc Ba Tư vừa mới bắt đầu vào mùa xuân năm đó. Một nhóm lính Hy Lạp nhỏ đã chốt ở đèo Thermoplylae để ngăn chặn bước tiến của Ba Tư, trong khi hải quân Đông minh (chủ yếu là tàu Athena) giao chiến với hải quân Ba Tư ở eo biển Artemisium nằm gần đó. Ở trận Thermopylae, nhóm quân chặn hậu Hy Lạp bị tiêu diệt hoàn toàn còn hải quân Hy Lạp cũng phải hứng chịu tổn thất nặng nề trong trận Artemisium và phải rút lui sau khi nhận được tin từ Thermopylae. Thất bại này cho phép quân Ba Tư chiếm đóng các xứ Boeotia và Attica. Quân Đồng minh chuẩn bị cho việc phòng thủ eo đất Corinth trong khi hải quân phải rút ra gần đảo Salamis. Mặc dù bị quân Ba Tư áp đảo về số lượng nhưng tướng Themistocles của Athena đã thuyết phục được quân Đồng minh Hy Lạp giao chiến với hạm đội Ba Tư một lần nữa, với hy vọng rằng một chiến thắng sẽ chấp dứt các cuộc hành quân bằng đường thủy nhằm vào Peloponessus.
|
“Trí thông minh kỹ thuật số (DQ) là một trí thông minh kiểu mới, được khám phá và phát triển trong kỷ nguyên số 4.0. Những con số biết nói về sự cần thiết của trí thông minh kỹ thuật số.2. Trải nghiệm và cải thiệm trí thông minh kỹ thuật số. “Trí thông minh kỹ thuật số (DQ) là một trí thông minh kiểu mới, được khám phá và phát triển trong kỷ nguyên số 4.0. Những con số biết nói về sự cần thiết của trí thông minh kỹ thuật số. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và sự phát triển mạnh mẽ của Internet, thế giới mở ra với sự kết nối không giới hạn. Với sự thay đổi của IoT (Internet of Things) – Mạng lưới vạn vật kết nối, AI – Artificial Intelligence – trí thông minh nhân tạo, hai thế giới thực và ảo kết hợp với nhau tạo thành một hệ thống không gian cyber –physicial system – vật lý ảo. Cùng với sự bùng nổ của dịch vụ mạng xã hội (Social Network Service), sự kết nối trở thành yếu tố tất yếu trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của mạng xã hội khi chưa có một hệ thống, cơ chế quản lý chặt chẽ khiến thế giới ảo trở thành không gian tiềm ẩn nhiều nguy hiểm. Trong đó, đối tượng trẻ em – lực lượng yếu thế nhất trong xã hội. Để hình dung rõ ràng hơn, hãy cùng HRDC nhìn lại những con số:. 40% trẻ vị thành niên từ 08 – 17 tuổi trên thế giới đang bị vướng vào tình trạng bắt nạt trên mạng (Khảo sát của Microsoft, 2012). Số lượng trẻ em bị ăn cắp nhân thân số trên mạng nhiều gấp 35 lần so với người lớn (Nguồn: Báo cáo của AllClear ID, 2017). 65% người tham gia khảo sát (13-74 tuổi) cho biết họ ít nhất 1 lần chịu ảnh hưởng bởi rủi ro trên mạng. 62% khi lâm vào tình trạng rủi ro không biết tìm sự giúp đỡ ở đâu (Nguồn: Nghiên cứu của Microsoft 2017). Trên 95% các trường hợp rủi ro an ninh mạng là do lỗi của con người, bị lừa gạt hay sử dụng mật mã quá dễ đoán (Nguồn: Báo cáo của IBM, 2014). Trên 90% người tham gia nghiên cứu cho biết họ không biết nhiều về cách bảo vệ bản thân trên môi trường số, trong đó 11.5% cho biết họ không biết gì. (Nguồn: Báo cáo của Mozilla, 2017). Theo số liệu nghiên cứu của Trung tâm Khủng bố Online (Terrorism Research Center) : 50% thanh thiếu niên là nạn nhân của bắt nạt, khủng bố trên mạng, và 10%-20% các nạn nhân chịu đựng thường xuyên tình trạng này. Một phần ba thanh thiếu niên ở 30 quốc gia cho biết họ đã từng là nạn nhân bị bắt nạt trên mạng, trong đó một phần năm cho biết đã từng bỏ học vì bị bắt nạt trên mạng và bạo lực – theo kết quả từ cuộc khảo sát ý kiến do UNICEF và Đại diện Đặc biệt của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc về Bạo lực đối với trẻ em công bố. Cũng theo khảo sát này, 21% thanh thiếu niên Việt Nam tham gia khảo sát cho biết họ là nạn nhân của bắt nạt trên mạng và hầu hết (75%) đều không biết về đường dây nóng hoặc các dịch vụ có thể giúp họ nếu bị bắt nạt hoặc bị bạo lực trên mạng. Cũng theo báo cáo đánh giá Chỉ số văn minh trực tuyến (DCI) của Microsoft năm 2020 ghi nhận chỉ số văn minh trực tuyến toàn cầu đang ở mức thấp nhất trong 4 năm qua khi khảo sát 25 quốc gia, mỗi nước 500 người. Và Việt Nam đứng thứ 5 trong khảo sát này. Cụ thể: Anh đứng đầu với 52%, Hà Lan về nhì với 56%. Con số của Việt Nam là 78% nên vẫn còn “văn minh hơn một chút” so với Nam Phi (83%), Peru (81%), Columbia (80%) và Nga (79%). Mục đích của khảo sát là phản ánh bức tranh toàn cảnh của vấn đề và hướng tới một môi trường trực tuyến an toàn, văn minh, nơi mọi người ứng xử bằng sự đồng cảm, lòng trắc ẩn và tử tế. Những con số trên không chỉ phản ảnh những nguy hiểm thực tế và tiềm tàng của không gian số mà còn chứng minh cho một thực tế rằng: rất có thể chúng ta đang tự mình hoặc tiếp tay cho những hành động xấu trên mạng xã hội. Đồng thời cũng đang làm “ô nhiễm” môi trường số của mình nếu không biết cách chủ động kiểm soát và cư xử đúng mực trên không gian số. Trước thực trạng này, một khái niệm về chỉ số thông minh mới trên môi trường số đã ra đời và là cơ sở để các nhà quản lý và chính chúng ta nhận thức và thay đổi. Tầng thứ nhất: Digital citizenship (Công dân số): đòi hỏi khả năng sử dụng công nghệ số và truyền thông số một cách an toàn, có trách nhiệm và hiệu quả. Tầng thứ hai : Digital Creativity – Sáng tạo số: Khả năng hội nhập vào hệ sinh thái số bằng cách hợp tác sản xuất nội dung số hoặc triển khai ý tưởng thành hiện thực bằng công cụ số. Tầng thứ ba: Digital Entrepreneurship – Tinh thần khởi nghiệp số: Khả năng sử dụng truyền thông và công nghệ số để giải quyết các vấn đề thế giới, hoặc tạo ra những cơ hội mới. Đó có thể là giải quyết các thách thức toàn cầu, đổi mới và tạo ra các cơ hội mới trong nền kinh tế kỹ thuật số bằng cách thúc đẩy tinh thần kinh doanh, việc làm, tăng trưởng và tác động. Digital Citizen Identity – Hình ảnh công dân số: Khả năng xây dựng và quản trị hình ảnh số của mình sao cho phù hợp với con người offline của chính bạn. Cyberbullying Management – Quản trị Khủng bố online: Khả năng phát hiện ra những trường hợp bắt nạt trên mạng và biết cách giải quyết những tình huống này. Cyber Security Management – Quản trị an toàn trên mạng: Khả năng bảo vệ dữ liệu cá nhân bằng cách sử dụng mật mã và xử lý các trường hợp tấn công trên mạng. Privacy Management – Quản trị thông tin cá nhân: Khả năng quản lý thông tin qua mạng, nhằm bảo vệ cho sự an toàn cho cá nhân và người khác. Critical Thinking – Tư duy phản biện: Khả năng phân biệt thông tin thật và giả, nội dung tốt và nội dung xấu, người đáng tin và người đáng nghi ngờ trên không gian online. Digital Footprint – Lịch sử số: Khả năng thấu hiểu lịch sử số và những hậu quả mà nó mang lại cho cuộc sống thật của mình, qua đó biết cách quản trị có trách nhiệm hơn với lịch sử thông tin số của bản thân. Digital Empathy – Khả năng cảm thông số: Khả năng thấu hiểu cảm xúc của bản thân và thông cảm với cảm xúc của người khác trên mạng Internet.
|
Trí thông minh kỹ thuật số
|
Trí thông minh kỹ thuật số (tiếng Anh: Digital Intelligence) là tổng hợp của các khả năng xã hội, cảm xúc và nhận thức, cho phép các cá nhân đối mặt với những thách thức và thích nghi với nhu cầu của cuộc sống trong thế giới kỹ thuật số. Đây là một loại hình trí thông minh mới được thúc đẩy bởi sự tương tác của con người với Công nghệ thông tin, người ta đã gợi ý rằng sự công nhận trí thông minh này sẽ mở rộng phạm vi dạy và học trong thế kỷ 21 và tất cả các khía cạnh của cuộc sống cá nhân và nghề nghiệp. Thuật ngữ này cũng được sử dụng trong các doanh nghiệp để chỉ thông tin có được thông qua công nghệ và sử dụng chúng như một chiến lược tiếp thị trực tuyến và trí thông minh trong bối cảnh an ninh mạng như Ủy ban Quản trị Internet toàn cầu vạch ra. Trí thông minh kỹ thuật số bắt đầu được hình thành từ định nghĩa về trí thông minh của Howard Gardner năm 1993 là khả năng giải quyết vấn đề hoặc các sản phẩm thời trang đó là kết quả trong một môi trường văn hóa cụ thể hoặc cộng đồng đặt ra các tiêu chí cho phép sự xuất hiện.
|
Thông tin tổng quan về tầng hầm, thiết kế tầng hầm, chống thấm tầng hầm sẽ được Dothi.net gói gọn trong phạm vi bài viết dưới đây. Về khái niệm tầng hầm, Wikipedia nêu rõ, tầng hầm là một hoặc nhiều tầng được thiết kế xây dựng nằm hoàn toàn dưới tầng trệt của công trình, nhà ở và nằm sâu trong lòng đất. Theo quy định hiện hành, quá nửa chiều cao của tầng hầm nằm dưới cao độ mặt đất đặt công trình theo quy hoạch được phê duyệt. Vật liệu xây dựng tầng hầm cũng rất đặc biệt do đặc tính của tầng hầm là nằm âm bên trong lòng đất. Để có thể chịu được trọng lượng từ toàn bộ ngôi nhà, hệ thống cột trụ phải thực sự vững chãi. Tầng hầm ở các nước châu Âu được thiết kế bài bản, tiện ích như một không gian sử dụng thường xuyên của gia đình. Còn tại Việt Nam, tầng hầm chủ yếu dùng làm nơi để xe, kho chứa hoặc hệ thống kỹ thuật, điện. Có thể nói, tại các trung tâm thương mại, khu chung cư, khách sạn, tầng hầm là hình ảnh quen thuộc - nơi để xe máy, bố trí hệ thống kỹ điện, kỹ thuật. Vậy đối với một ngôi nhà ở thông thường (chủ yếu là nhà phố, biệt thự), tầng hầm có vai trò gì?. Trong bối cảnh "đất chật người đông" tại các đô thị lớn, diện tích nhà ở ngày càng bị thu hẹp nên các mẫu nhà phố cũng trở nên phổ biến hơn. Loại hình nhà ở này có đặc điểm chung là chiều ngang thường rất nhỏ, thiếu không gian để xe cho các thành viên gia đình. Theo đó, tầng hầm để xe là giải pháp được nhiều gia đình có nhu cầu để xe cao lựa chọn. Những mẫu nhà phố có tầng bán hầm hoặc tầng hầm giúp việc để xe trở nên thuận tiện hơn rất nhiều. Với tầng hầm, bạn vừa có thêm không gian sử dụng, vừa không ảnh hưởng tới tính thẩm mỹ tổng thể của ngôi nhà. Mục đích sử dụng phổ biến thứ hai của tầng hầm nhà phố là làm nhà kho chứa vật dụng, các thiết bị làm mát, sưởi ấm, hệ thống điện nước. Khi mọi thứ được cất gọn dưới tầng hầm, nhà phố có thể được giải phóng diện tích mặt sàn, trở nên thoáng rộng và đẹp mắt hơn, giúp gia tăng tính thẩm mỹ tổng thể của công trình. Với vai trò là nhà kho, việc thiết kế và thi công xây dựng tầng hầm cần được tính toán cẩn thận. Để đảm bảo cho không gian sinh hoạt ở các tầng trên không bị ảnh hưởng, cần phải cân nhắc kỹ yếu tố về ánh sáng, nhiệt độ, thông gió cho tầng hầm. Xét về mặt kiến trúc và xây dựng, tầng hầm còn góp phần nâng đẩy các tầng phía trên của ngôi nhà lên cao hơn so với mặt đất. Công trình nhà ở nhờ đó cao thoáng hơn, tận dụng được tối đa ánh sáng tự nhiên và chống ẩm mốc hiệu quả. Thực tế cho thấy, thiết kế nhà có tầng hầm là xu hướng phổ biến tại các đô thị lớn hiện nay. Tầng hầm được xem là một trong những giải pháp gia tăng diện tích sử dụng, giải quyết nhu cầu không gian để xe, bố trí hệ thống kỹ thuật. Hạng mục này không hề ảnh hưởng tới tính thẩm mỹ tổng thể của công trình. Là tầng chịu lực của toàn bộ công trình, nhà ở phía trên, việc thiết kế tầng hầm cần được tính toán cẩn thận, đảm bảo các thông số kỹ thuật an toàn. Kích thước của tầng hầm nên cân đối, hài hòa với diện tích của ngôi nhà. Nếu thiết kế tầng hầm quá rộng có thể sẽ mất đi sự cân bằng, trong khi tầng hầm quá nhỏ sẽ tạo cảm giác bí bách, ngột ngạt. - Chiều cao của tầng hầm và chiều cao đường dốc của tầng hầm tối thiểu là 2,2m. - Phần nổi của tầng hầm không quá 1,2m so với cao độ vỉa hè hiện hữu ổn định. - Nhà ở liên kế với mặt tiền giáp đường có lộ giới nhỏ hơn 6m sẽ không thiết kế tầng hầm có lối lên xuống dành cho ô tô tiếp cận trực tiếp với đường. - Chiều sâu tầng hầm từ 1,5m trở lên. Do đó, trung bình chiều sâu đào tới đáy móng là 3m. Độ dốc của tầng hầm theo tiêu chuẩn xây dựng hiện hành không vượt quá 15-20% so với chiều sâu của hầm. Với tầng hầm được sử dụng cho mục đích để xe, độ dốc mặt đường thường là 12%. Với dốc thẳng đứng, độ dốc là 15%; dốc cong 13%. Riêng với nhà ống không có sân và tầng hầm sát mặt đường thì độ dốc dao động từ 20-25%, cứ đi vào 1m chiều dài thì nền thấp xuống 25cm. Để đảm bảo an toàn cho lưu thông, chiều cao tính từ mép cửa tầng hầm phải vuông góc với mặt đường dốc. Gia chủ nên thiết kế tầng hầm sao cho có thể tận dụng tối đa ánh sáng tự nhiên vì nơi đây thường khá ẩm thấp, dễ nấm mốc, thiếu dương khí. Bạn cũng có thể sử dụng gương lớn để phản chiếu, hút sáng tự nhiên vào tầng hầm. Cùng với đó, việc bố trí hệ thống điện chiếu sáng tầng hầm cũng cần được chú trọng. Thông gió - yếu tố không thể thiếu khi thiết kế tầng hầm, nhất là với tầng hầm để xe bởi khí thải từ phương tiện sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của bạn. Tốt nhất, nên có giếng trời ở khoảng giữa và sau hầm để không khí được đối lưu liên tục, tạo sự thoáng đãng, dễ chịu cho người dùng. Nếu không có giếng trời, cần bố trí hệ thống thông gió, hút mùi chất lượng, hiệu quả. Theo các chuyên gia, tường dưới tầng hầm nên sơn những gam màu sáng, ấm áp và nhẹ nhàng bởi nơi đây thường bí bức, có thể không nhận được ánh sáng mặt trời. Những tông màu như trắng, kem, be, nâu sáng, vàng nhạt. là lựa chọn phù hợp cho không gian này. Màu sáng giúp phản chiếu ánh sáng tốt, đồng thời tạo cảm giác rộng rãi, thoáng đãng hơn so với thực tế. Trước hết, ở lối vào hầm, kiến trúc sư sẽ bố trí hệ thống thoát nước nhằm ngăn ngừa tình trạng nước từ bên ngoài chảy vào trong gây ngập úng. Đây là yêu cầu bắt buộc khi thiết kế tầng hầm. Lối vào hầm phải có mương thu nước và thoát nước phù hợp. Thứ nữa, cần có máy bơm để hút nước từ trong ra phòng trường hợp mưa lớn, lũ lụt gây ngập không gian chức năng này. Với hệ thống thoát nước tốt, tầng hầm nhà bạn sẽ luôn khô thoáng, đảm bảo cho thiết bị, vật dụng trong hầm luôn an toàn, không bị gỉ sét, hư hại. Thực tế cho thấy, hiện tượng thấm dột tầng hầm có thể xảy ra bất cứ khi nào. Để chọn được giải pháp chống thấm tầng hầm hiệu quả, trước hết gia chủ cần nắm rõ nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này. - Tầng hầm bị thấm do thiết kế sơ sài, qua loa, quy trình chống thấm không chuẩn. - Dùng giải pháp chống thấm kém chất lượng, thi công cẩu thả, chắp vá, không tuân thủ đúng quy trình các bước. - Thi công đổ bê tông kém chất lượng tạo độ rỗng, mạch ngừng, khe co giãn lỗi gây thấm tầng hầm. - Thấm sàn, vách tầng hầm do rỗ hoặc nứt bê tông: Nguyên nhân là do kết cấu công trình không ổn định, nhà thầu cẩu thả do bị ép tiến độ, do kỹ thuật đổ bê tông không chuẩn, dùng phụ gia tháo dỡ ván khuôn nhiều. - Thấm khe nhiệt, khe co giãn: Các khe co giãn, khe hở để bê tông "thở" cũng là lý do khiến tầng hầm bị thấm, nước chảy vào các khe hở này. - Thấm mạch ngừng: Không riêng gì tầng hầm mà phần lớn các công trình đều có hiện tượng này. Kỹ thuật đổ bê tông kém, đổ bê tông không liên tục, đá sỏi làm rỗng mạch ngừng, không lắp đặt băng cản nước cho mạch ngừng hoặc gioăng bị trương nở là những nguyên nhân khiến tầng hầm bị thấm. - Chống thấm ngược tầng hầm: Việc thi công chống thấm ngược sẽ được thực hiện khi các bể ngầm chứa nước có thể thấm qua thành bể xuống hầm nhà; khe tiếp giáp giữa hai nhà không được thi công chống thấm. - Dùng hóa chất chống thấm: Đây là giải pháp chống thấm tầng hầm hiệu quả, được nhiều gia chủ lựa chọn. Lưu ý, các lớp hóa chất cần được quét cách nhau 2-4 giờ đồng hồ và lớp sau quét vuông góc với lớp trước. - Dùng sơn chống thấm và các sản phẩm dạng quét: Lựa chọn giải pháp này, gia chủ cần lưu ý vấn đề bảo dưỡng cho bề mặt lớp chống thấm nhằm mục đích tạo liên kết. Không nên trộn vật liệu quá nhiều bởi chúng sẽ khô lại nếu không thi công kịp. - Dùng màng chống thấm tự dính: Có thể sử dụng màng chống thấm tự dính đã bóc dán lên bề mặt tầng hầm. Sau khi dán xong thì trát bổ sung một lớp bê tông dày 3-4cm lên bề mặt màng để bảo vệ và kéo dài tuổi thọ cho công trình. - Sử dụng màng khò nóng chống thấm tầng hầm: Với giải pháp này, cần lưu ý vị trí chồng méo, vị trí phải gia cố. Nếu màng dán bị phồng thì cần đâm thủng, sau đó dùng màng khác phủ lên. Đồng thời, cần làm thêm lớp màng bảo vệ đảm bảo độ bền cho màng khò nóng. - Chống thấm tầng hầm đã có bề mặt thi công trước: Đây là giải pháp được áp dụng khi tầng hầm đã thi công xong. Trước hết, cần loại bỏ các tạp chất bám trên bề mặt tầng hàm, sau đó làm phẳng, làm sạch bề mặt trước khi thi công chống thấm. Cần trám vữa sửa chữa có phụ gia cho các vết nứt tầng hầm. Như vậy, hiện có khá nhiều giải pháp chống thấm tầng hầm mà bạn có thể tham khảo. Tùy theo nhu cầu và điều kiện cụ thể, gia chủ sẽ lựa chọn được giải pháp chống thấm tầng hầm phù hợp. Điều quan trọng nữa là cần tìm được đơn vị thi công chống thấm có chuyên môn, kinh nghiệm. Tầng hầm tuy không phải là không gian chức năng chính trong nhà ở, chủ yếu dùng làm gara để xe, nhà kho nhưng khu vực này vẫn ảnh hưởng nhất định tới phong thủy của ngôi nhà. Do đó, khi thiết kế tầng hầm cho nhà phố, gia chủ cần lưu ý một số vấn đề như sau nhằm đảm bảo phong thủy tốt. Thứ nhất, đảm bảo sự thông thoáng, tăng cường chiếu sáng, chống ẩm, ngập úng: Tầng hầm vốn là nơi dễ bị ẩm thấp, bí bức, thiếu dương khí nên cần phải có giải pháp khắc phục ngay từ khâu thiết kế như bố trí giếng trời, làm mương thu và thoát nước, có máy bơm hút nước dự phòng, dùng gương hút sáng,. Qua đó, nâng cao chất lượng trường khí, thu hút năng lượng tích cực. Thứ hai, nên bài trí tầng hầm với tông màu sáng: Tông màu sáng từ sơn tường và đồ nội thất, phụ kiện không chỉ tạo cảm giác thoáng rộng hơn, góp phần hút sáng, phản xạ ánh sáng tự nhiên mà còn có tác dụng tăng dương khí cho tầng hầm. Thứ ba, thiết kế tầng hầm hợp mệnh gia chủ: Có thể căn cứ vào bản mệnh của gia chủ để lựa chọn vật liệu, màu sắc, phụ kiện cho tầng hầm. Ví dụ, với người có bản mệnh thuộc Kim, vật liệu phù hợp để làm tầng hầm là kim loại, đá, cát sỏi; màu sắc phù hợp là trắng, ghi, nâu đất. Thứ tư, thêm cây xanh: Bạn có thể bố trí thêm các chậu cây xanh ở hai bên cầu thang dẫn xuống tầng hầm (nếu có). Nên chọn cây dễ sinh trưởng, phát triển trong điều kiện thiếu sáng, ít phải chăm sóc. Gia chủ cũng có thể cho vẽ tranh tường phong cảnh thiên nhiên để tăng sắc xanh, dương khí cho không gian tầng hầm. Với những thông tin về tầng hầm mà Dothi.net chia sẻ trên đây, bạn sẽ có được cái nhìn tổng quan về không gian chức năng này. Nếu muốn tìm hiểu thêm kiến thức, kinh nghiệm xây dựng nhà ở, bạn đọc có thể tham khảo tại đây.
|
Tầng hầm
|
Tầng hầm là một hoặc nhiều tầng của một tòa nhà hay ngôi nhà được thiết kế bố trí xây dựng nằm hoàn toàn hoặc một phần dưới tầng trệt (sàn) và nằm sâu trong lòng đất (nằm âm dưới đất). Tầng hầm thường được sử dụng như một không gian tiện ích cho một tòa nhà nơi chứa các loại lò sưởi, máy nước nóng, hộp cầu chì, bãi đậu xe, và hệ thống điều hòa không khí, hệ thống phân phối điện, và truyền hình cáp. Tầng hầm là không gian phổ biến khi xây nhà trong đô thị vì giải quyết được chỗ đậu xe và hệ thống kỹ thuật, cũng như chống ẩm khá tốt cho tầng trệt và tăng diện tích sử dụng hữu ích. Tầng hầm nằm âm trong mặt đất cho nên vật liệu xây dựng phải là loại đặc biệt. Các cột trụ của tầng hầm phải vững chắc để có thể chịu sức ép lớn từ ngôi nhà. Với mục đích sử dụng thông thường, ở các nhà ở xứ lạnh thì hay làm hầm chìm hoàn toàn để ấm áp và làm kho cất trữ thực phẩm, hầm rượu. Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm mưa nhiều thì nên làm hầm nửa nổi nửa chìm (bán hầm) hơn làm hầm chìm hoàn toàn vì bán hầm dễ thông thoáng, không mất diện tích cho lối đi xuống sâu và giải quyết kỹ thuật tốt hơn.
|
Những người có thể trở thành người bào chữa?2.1. Trợ giúp viên pháp lý là ai?2.2. Bào chữa viên nhân dân là ai?. Trường hợp người bào chữa tham gia bào chữa cho nhiều người trong cùng vụ án. Quyền con người là một trong những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm được Hiến pháp nước ta ghi nhận, trong đó có quyền bào chữa, nhằm không để bất kỳ người nào có thể bị hạn chế hay tước quyền cơ bản mà pháp luật đã dành cho họ, kể cả khi họ là người phạm tội. Quyền bào chữa là quyền bác bỏ một phần, toàn bộ việc buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho người bị buộc tội. Quyền bào chữa của người bị buộc tội được thực hiện thông qua việc họ tự bào chữa hoặc nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Vậy Người bào chữa là gì? Các trường hợp không được làm người bào chữa?. Quan điểm lịch sử và nền tảng lý luận về bảo đảm quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự thế giới – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh. Quy định về Chỉ định người bào chữa trong tố tụng hình sự – ThS. LS. Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. LS. Quy định về Thủ tục đăng ký bào chữa theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. LS. Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình. c) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc. Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. BLTTHS 2015 quy định: Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Theo đó, người bào chữa là người không liên quan đến vụ án, được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. So với BLTTHS năm 2003, diện người được nhờ bào chữa của BLTTHS năm 2015 rộng hơn, ngoài người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn bao gồm người bị bắt. Đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt trong trường hợp truy nã, ngay khi bị bắt, họ đã có quyền nhờ người bào chữa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, không phải đợi đến khi có quyết định tạm giữ như quy định của BLTTHS năm 2003. Ngoài ra, một điểm mới là người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố ngay từ khi được Cơ quan điều tra triệu tập, mời làm việc đã được quyền nhờ luật sư tư vấn, bảo vệ quyền lợi cho mình trước khi vụ án hình sự được khởi tố. BLTTHS năm 2015 lần đầu tiên quy định trình tự, thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân, nên pháp nhân cũng là chủ thể được hưởng quyền bào chữa, bảo vệ quyền lợi của mình. Theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 435 BLTTHS năm 2015, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa cho pháp nhân. Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Về người bào chữa, trước đây, ngoài luật sư, người bào chữa có thể là “người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” (điểm b khoản 1 Điều 56 BLTTHS năm 2013), nay BLTTHS năm 2015 quy định khái niệm rộng hơn là “người đại diện của người bị buộc tội”. Cùng với luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, BLTTHS năm 2015 đã được bổ sung người bào chữa có thể là Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 thì Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước, làm việc tại Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, được Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý. Người được trợ giúp pháp lý bao gồm người nghèo; người có công với cách mạng; người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. BLTTHS năm 2003 do không có quy định cụ thể xác định tiêu chí của bào chữa viên nhân dân nên quá trình áp dụng nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập. Theo đó, BLTTHS năm 2015 đã được bổ sung quy định về bào chữa viên nhân dân để xác định rõ về diện chủ thể này, đó là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, có đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người của tổ chức mình để thống nhất trong áp dụng. Để bảo đảm khách quan trong hoạt động bào chữa, khoản 3 Điều 72 BLTTHS quy định cụ thể các trường hợp không được tham gia bào chữa. Trường hợp những người thuộc diện không được tham gia bào chữa nếu đã tiến hành bào chữa thì phải bị thay đổi. Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc. BLTTHS năm 2015 đã được bổ sung những người không được bào chữa là người tham gia vụ án đó với tư cách là người định giá tài sản, người dịch thuật để bảo đảm khách quan và phù hợp với việc bổ sung quy định về người định giá tài sản, người dịch thuật. Để bảo đảm tính khách quan, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội không thể bị xâm hại bất kể vì lý do gì, kể cả ngay từ phía người bào chữa, BLTTHS năm 2015 quy định một người bào chữa chỉ có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng một vụ án hình sự khi quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. BLTTHS cũng không giới hạn số người bào chữa cho một người bị buộc tội, theo đó, một người bị buộc tội có thể nhờ nhiều người bào chữa cho mình./.
|
Người bào chữa
|
Người bào chữa hay bào chữa viên là thuật ngữ chỉ về những người có kiến thức pháp luật và kinh nghiệm hoạt động tố tụng thay mặt thân chủ tham gia tố tụng trong một vụ án hình sự để biện hộ, bảo vệ cho thân chủ của mình để chống lại sự buộc tội, truy tố hoặc một sự tố cáo, giúp làm giảm trách nhiệm hình sự cho thân chủ của họ đồng thời cũng có thể giúp cơ quan có chức năng làm sáng tỏ các tình tiết vụ án, họ có quyền tranh tụng với các chủ thể khác trong quá trình xử lý vụ án hình sự. Việc bào chữa thông qua sự trợ giúp của người bào chữa là hình thức phổ biến và chủ đạo. Thông thường người bào chữa trước khi ra tố tụng có thể được cơ quan công quyền cho gặp thân chủ là để tư vấn, hướng dẫn cho họ, chuẩn bị cho họ kiến thức pháp luật, điều kiện tâm lý để tham gia tố tụng. Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn.
|
Vậy hãy để Pokémon The Movie 20: Tớ chọn cậu làm điều đó với phiên bản điện ảnh của tập phim đầu tiên của cột mốc Pokémon - seri hoạt hình được các thế hệ 8X 9X một thời mê mẩn. Chúng ta không thật sự gọi tên được các cảm xúc khi mới bắt đầu đến với Pokémon. Nhưng sau 20 năm, trong khi chúng ta trưởng thành và thay đổi, thừa nhận rằng cuộc sống thực tế không hề dễ dàng, thì thế giới Pokémon vẫn vẹn nguyên như lúc đầu – không ngừng nhắc bạn về tiềm năng vô hạn. Hãy cùng quay lại với cảm xúc nguyên sơ nhiệt thành cháy bỏng. Bạn có còn nhớ một mảnh đất huyền bí mà ở đó, loài người và các Pokémon sống hòa thuận, luôn kề vai sát cánh, chiến đấu cùng nhau. Một cậu bé Ash luôn mang trong mình ước mơ chinh phục thế giới Pokémon, một cô nhỏ Togepi thông minh tài trí, một anh chàng đội trưởng dữ dội Takeshi – ba nhân vật gắn liền với quãng thời gian đẹp nhất của đời người đã truyền tải chính xác điều chúng ta cảm thấy khi hòa vào thế giới giả tưởng tuyệt vời này: mọi điều đều có thể. Với những “cạ cứng” của phim, chắc hẳn ai cũng còn nhớ khoảng thời gian đầu tiên khi Satoshi luôn phải nhẫn nhịn với một Pikachu “khó chiều, khó chịu, khó ưa”. Và câu nói “Tớ thật sự rất quý cậu” như một sợi dây thắt chặt tình bạn của họ cho tới tận 20 năm sau. Ngày qua ngày, trải qua bao ngàn thử thách, Satoshi và Pikachu đã khám phá ra vô vàn những điều mới mẻ từ thế giới Pokémon, những sinh vật huyền bí, những khả năng tiềm tàng độc nhất vô nhị của mỗi loài. Trailer khép lại với cuộc gặp gỡ định mệnh với Houou– “thần hộ mệnh bầu trời”, “Pokémon huyền thoại”. Không quá khi nói rằng Pokémon là một phần không thể thiếu trong tuổi thơ của nhiều “đứa trẻ” 8x, 9x. Bộ phim không được lên sóng quá lâu, nhưng nó là sự bắt đầu cho một hiện tượng đến nay vẫn chưa kết thúc. Pokémon sẽ luôn nhắc ta nhìn thế giới bằng con mắt của một đứa trẻ 10 tuổi: Bất kể bạn là ai, một khi đã bắt đầu cuộc hành trình của mình, cuộc sống của bạn trở nên có ý nghĩa, và không một mục tiêu nào nằm ngoài khả năng của bạn. Kịch bản của phim điện ảnh Pokémon The Movie 20: Tớ chọn cậu do Shouji Yunemura – biên kịch của loạt phim Fairy Tail, Lupin III, Kamen Rider và hai mùa phim truyền hình Pokémon đảm nhận. Còn đạo diễn của phiên bản điện ảnh lần này không ai khác chính là Kunihiko Yuyama, người đã tạo nên cơn sốt của seri Pokémon trong vòng 15 năm trở lại. Tại Việt Nam, Pokémon The Movie 20: Tớ chọn cậu sẽ được phát hành dưới hai phiên bản - Lồng tiếng và phụ đề. Ở bản phim lồng tiếng, Jun Phạm và Hoàng Yến Chibi sẽ lồng tiếng cho Kurosu và Makoto - hai nhân vật với cùng khát khao chinh phục thế giới Pokémon. Chia sẻ về dự án mới này, Jun Phạm cho biết, nam ca sĩ rất mê văn hóa Nhật, thường xuyên tìm hiểu và học tiếng Nhật nên rất hứng thú khi được lồng tiếng cho một bộ phim hoạt hình Nhật Bản. Thêm nữa, Pokémon là một bộ phim ý nghĩa, giúp anh nhìn. nhận thế giới qua lăng kính của đứa trẻ 10 tuổi khi luôn háo hức đón nhận các cuộc hành trình và không một mục tiêu nào nằm ngoài khả năng. Ở Pokémon, Jun như thể tìm lại “cậu bé Jun 10 tuổi” khi mọi mơ mộng, giấc mơ đều có thể xảy ra. Riêng với Hoàng Yến Chibi, Pokémon The Movie 20: Tớ chọn cậu là lần thứ hai cô gắn bó với seri phim ăn khách này, kể từ sau thành công của Pokémon The Movie XY&Z: Volkemon và Magiana siêu máy móc. Nữ ca sỹ cho biết, Pokémon gần như đã gắn bó hơn nửa đời người của cô, từ những ngày tiểu học, hình ảnh Pikachu đã ăn sâu trong tâm trí Yến mỗi sáng trên sóng truyền hình. Đối với cô, Pokémon là món ăn tinh thần mang nhiều hương vị về tình bạn, tinh thần chiến đấu và sức bền bỉ của những đứa trẻ - điều mà nhiều người lớn bây giờ vẫn chưa làm được. Hoàng Yến trải lòng, cô cảm thấy một chút chạnh lòng khi rất nhiều người trẻ hiện nay chỉ biết đến Pokémon qua những game điện thoại chứ không phải là những tập phim vọn vẹn 20 phút hay những quyển truyện tranh tích góp từ tiền ăn sáng. Pokémon The Movie 20: Tớ chọn cậu dự kiến khởi chiếu ở các rạp trên toàn quốc từ ngày 10/11.
|
Pokémon the Movie
|
Pokémon the Movie: Tớ chọn cậu là một bộ phim phiêu lưu hoạt hình Nhật Bản năm 2017 và là bộ phim thứ 20 trong loạt phim hoạt hình Pokémon do Satoshi Tajiri tạo ra và được sản xuất bởi OLM. Được chuyển thể lỏng lẻo từ tập phim đầu tiên cùng tên của loạt anime truyền hình, phim được đạo diễn bởi Kunihiko Yuyama và được viết kịch bản bởi Shoji Yonemura. Bộ phim có sự tham gia lồng tiếng bởi Rica Matsumoto, Ikue Ōtani, Unshō Ishizuka, Megumi Hayashibara, Shin-ichiro Miki, Inuko Inuyama, Kanata Hongō, Shiori Sato, và Ryōta Ōsaka. Lấy bối cảnh là một dòng thời gian thay thế, bộ phim kể về hành trình của Nhà Huấn luyện Pokémon Satoshi và bạn bè của anh, Pikachu, Makoto và Souji, khi họ tìm cách gặp Pokémon huyền thoại Ho-Oh tại đỉnh núi Tensei. Pokémon the Movie: Tớ chọn cậu được công chiếu tại Japan Expo ở Pháp vào ngày 6 tháng 7 năm 2017 và sau đó được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 15 tháng 7 và Việt Nam từ 10 tháng 11 năm 2017. Việc phát hành trùng với thời điểm kỷ niệm 20 năm của bộ anime.
|
Ngày Chiến thắng Phát xít được ấn định vào 22h43, ngày 8/5/1945 theo giờ Berlin, và được tính vào ngày 9/5/1945theo giờ Moscow. Sự kiện diễn ra tại một trường quân sự cũ ở Karlshorst gần Berlin, trước sự chứng kiến của đại diện các cường quốc đồng minh,các đại diện toàn quyền được uỷ nhiệm của nước Đức Quốc xã ký vào biên bản xác nhận họ đầu hàng không điều kiện. Các nước đồng minh chống phát xít ở phương Tây kỷ niệm Ngày chiến thắng trước đó một ngày, tức là 7/5/1945, khi tại Reims (Pháp), các đại diện quân đội Đức Quốc xã đã ký biên bản xác nhận sự đầu hàng sơ bộ của quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía Tây và Bắc Ý. Kể từ năm 1946 trở đi, Liên Xô (cũ), các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ, các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng như Liên Bang Nga và các nước trong Cộng đồng SNG hiện nay đều lấy ngày 9/5 làm ngày chiến thắng phát xít. Trong khi các nước Tây Âu và Hoa Kỳ lấy ngày 8/5 theo sự công bố chính thức của văn bản Reims. Tại Liên Xô (cũ) cũng nhưLiên Bang Nga và các nước trong cộng đồng SNG hiện nay, Ngày Chiến thắng được coi là ngày quốc lễ và là ngày nghỉ. Trong ngày này, các lễ hội kỷ niệm được tổ chức tại Moscow, thủ đô các nước cộng hoà liên bang và nhiều thành phố lớn. Tại những năm kỷ niệm tròn 5 và tròn 10 (so với năm 1945), các lễ hội được tổ chức với quy mô lớn hơn, bao gồm các cuộc duyệt binh, diễu binh của quân đội và các cuộc diễu hành của quần chúng nhân dân. Theo truyền thống có từ ngày 9/5/1947 và cho đến hiện nay, các lễ duyệt binh tại Moscow luôn được tổ chức tại Quảng trường Đỏ, lấy Lăng Lenin làm lễ đài và lấy Điện Kremli, biểu tượng quyền lực chính trị của Liên Xô (trước đây) và nước Nga (hiện nay) làm hậu cảnh chính. Tại các nước Tây Âu, Anh và Hoa Kỳ, trong ngày 8/5 (cũng là ngày 9/5 theo múi giờ Moscow và một số nước Đông Âu), chính quyền, các hiệp hội cựu chiến binh, các tổ chức đấu tranh vì hoà bình và nhiều tổ chức chính trị, xã hội khác cũng tổ chức lễ kỷ niệm này nhưng với tính chất của một ngày hội nhiều hơn là lễ nghi. Đối với Hoa Kỳ, quân đội và nhân dân Hoa Kỳ cũng có một ngày chiến thắng khác của riêng mình với quy mô và mức độ không thua kém ngày ngày 9/5; đó là ngày 2 tháng 9 năm 1945, trên Chiến hạm Missuri neo đậu trong vịnh Tokyo, các đại diện có thẩm quyền của Đế quốc Nhật Bản ký biên bản xác nhận sự đầu hàng vô điều kiện của họ trước đại diện toàn quyền các nước đồng minh chống phát xít. Trong một nghị quyết cuối năm 2004, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã gọi ngày này là Ngày Tưởng niệm và Hòa giải. Không chỉ với ý nghĩa là Ngày Chiến thắng, các ngày 8 và 9/5 còn được coi là Ngày Tưởng niệm và Ngày Hoà giải để tưởng nhớ các nạn nhân đã chết trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai và để thực hiện sự hoà giải giữa các dân tộc. Nội dung bức thư mà trùm khủng bố Al-Qaeda bin Laden gửi cho cấp dưới có đề cập đến những dự đoán về tình hình nước Mỹ dưới sự lãnh đạo của ông Biden. Tổng thống Mỹ Biden đổ lỗi cho chính phủ Afghanistan đã không mạnh mẽ chống lại Taiban và để phe phiến quân giành quyền kiểm soát đất nước. Cụ ông 79 tuổi nhận án 16 tháng tù sau khi đâm con trai trọng thương trong lúc tranh cãi chuyện dùng nhà vệ sinh. Tài trợ hàng tỉ USD thiết bị quân sự cho quân đội Afghanistan, nhưng số lượng lớn vũ khí của Mỹ đã nhanh chóng rơi vào tay phiến quân Taliban. Việc Đức từ chối Nord Stream 2 (Dòng chảy phương Bắc 2) sẽ là một thất bại chính trị lớn đối với giới lãnh đạo Nga và cho thấy rằng nước này không có khả năng tạo ra các dự án có lợi cho đất nước. Hành động tỉa cây tự trồng trước cửa nhà của người đàn ông ở Trung Quốc khiến ông này phải nhận mức phạt hơn 21.000 USD. Các công ty Nga bắt đầu có những biện pháp cứng rắn đối với những nhân viên từ chối tiêm vắc-xin Covid-19. Quân đội Mỹ buộc phải bắn chỉ thiên để giải tán đám đông ùa vào sân bay Kabul và đã có ít nhất 3 người thiệt mạng. Tổng thống Afghanistan phải rời khỏi đất nước sau khi Taliban chiếm thủ đô là người học cao nhưng không được lòng Mỹ và các nước phương Tây. Đại sứ quán Nga và Trung Quốc tuyên bố vẫn hoạt động bình thường và không sơ tán công dân khỏi Afghanistan, dù Taliban đã chiếm quyền kiểm soát thủ đô Kabul.
|
Ngày chiến thắng (9 tháng 5)
|
Ngày Chiến thắng (tiếng Nga: День Победы, chuyển tự La Tinh: Den Pobedy) được coi ngày kỷ niệm chiến thắng hoàn toàn của các nước Đồng Minh chống phát xít (trong đó có Liên Xô) đối với Đức Quốc Xã. 22 giờ 43 phút ngày 8 tháng 5 năm 1945 theo giờ Berlin (tức 0 giờ 43 phút ngày 9 tháng 5 theo giờ Moskva), tại một trường quân sự cũ ở Karlshorst gần Berlin trước sự chứng kiến của đại diện các cường quốc đồng minh, các đại diện toàn quyền được uỷ nhiệm của nước Đức Quốc Xã ký vào biên bản xác nhận họ đầu hàng không điều kiện. - Các nước đồng minh chống phát xít ở phương Tây cũng kỷ niệm trước đó một ngày. 2 giờ 41 phút ngày 7 tháng 5, (giờ GMT, tức 5 giờ 41 sáng ngày 7 tháng 5 theo giờ Moskva) tại Reims (Pháp), các đại diện quân đội Đức Quốc Xã đã ký biên bản xác nhận sự đầu hàng sơ bộ của quân đội Đức Quốc Xã tại mặt trận phía Tây và Bắc Ý. Kể từ năm 1946 trở đi, Liên Xô (cũ), các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (cũ), các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng như Liên Bang Nga và các nước trong Cộng đồng SNG hiện nay đều lấy ngày 9 tháng 5 làm ngày chiến thắng Phát xít Đức trong khi các nước Tây Âu và Hoa Kỳ lấy ngày 8 tháng 5 theo sự công bố chính thức của văn bản Reims.
|
Xã hôi loài người từ thuở khai sinh cho đến lúc hình thành nhà nước đã trải qua nhiều hình thái kinh tế khác nhau. Ở mỗi hình thái kinh tế, đều có những đặc điểm riêng, không thể hòa lẫn với nền chính thể nào. Theo Mác thì ở Phương Tây đã tồn tại hình thái gọi là “Chiếm hữu nô lệ” và đặc trưng của hình thái này không thể không nhắc đến tầng lớp “nô lệ”; vốn được xem là nguồn thúc đẩy phát triển của hình thái kinh tế ấy. Vì vậy, đề tài này mong muốn có thể tìm hiểu được phần nào vai trò của tầng lớp nô lệ trong xã hội phương Tây; mà đặc biệt ở đây là vai trò của nô lệ trong xã hội Hy Lạp- La Mã cổ đại. Bài viết mong muốn cung cấp một phần nhỏ những kiến thức cơ bản về vai trò của nô lệ trong xã hội Hy Lạp- La Mã cổ đại; giúp người đọc có thể hình dung về một thời kỳ của lịch sử phương Tây cổ đại mà tiêu biểu là quốc gia Hy Lạp- La Mã cổ đại. Từ đó, cho chúng ta nhiều suy nghĩ và kết luận về vai trò của nô lệ cũng như thiết chế chiếm hữu nô lệ ở hai quốc gia này. Từ đó, có thể rút ra cho mình những vấn đề của nô lệ, hình dung một cách khái quát nhất vai trò của tầng lớp này đối với sự phát triển và suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp- La Mã cổ đại. Vận dụng trong bài viết là hai phương pháp chủ đạo trong nghiên cứu sử học gồm phương pháp sử học và phương pháp logic. Thu góp những kiến thức từ nguồn sử liệu thành văn và những bài viết có liên quan đến đề tài để xây dựng nên bài viết, từ những nguồn đã có sẵn, phương pháp logic dùng để nêu lên quan điểm và vị trí đứng của người viết đối với vấn đề được nghiên cứu. Đóng góp phần nhỏ tri thức của người viêt về vai trò của nô lệ dưới xã hội Hy-La cổ đại; rõ ràng, nô lệ đã đóng một vai trò rất lớn trong sự tồn vong của chế độ chiếm hữu nô lệ nơi này. Nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ trước hết là những người thuộc sở hữu và chịu quản lý trực tiếp của người khác gọi là chủ nô. Và dường như nô lệ không có bất cứ một quyền hạn gì trong xã hội; họ không có sự tự do hoạt động theo bản năng, và cũng hầu như không được trả lương hay phí để sinh hoạt, ngoài những nhu cầu thiết yếu không thể thiếu như thức ăn, quần áo và chỗ ở. Nhưng đôi khi những nhu cầu thiết yếu ấy lại còn không được đáp ứng đúng như một con người bình thường. Trong xã hội của Hy-La cổ đại chính là như vậy. Khi trong chính quốc gia ấy hình thành nên thể chế chiếm hữu nô lệ thì rõ ràng, trong xã hội ta nhìn thấy khá nét hai tầng lớp chủ đạo: chủ nô- nô lệ. Và người nô lệ dẫu bị đạp đổ đến tận cùng của xã hội nhưng họ lại đóng một vai trò vô cùng quan trọng và dường như đây chính là nguồn thúc đẩy hay động lực để kinh tế, xã hội chiếm hữu nô lệ của Hy-La cổ đại phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Người Crete trong quá trình xây dựng nền văn minh ở khu vực biển Aegean đã dựng nên ở nơi đây một quốc gia chiếm hữu nô lệ, lấy thành Cnosso làm thủ đô, và xây dựng các thành thị khác như Mallia, Phaisto, Gounia…Có thể nói, nô lệ đã mầm mống xuất hiện ngay từ thời gian này. Thời kỳ Homer, hầu như nô lệ ở thời điểm này chưa bị chủ nô, quý tộc đối xử tàn nhẫn nhưng bắt đầu từ đây, xã hội đang dần hình thành trong lòng nó tầng lớp nô lệ và sau này tầng lớp ấy trở thành tầng lớp bị bóc lột trong xã hội chiếm hữu nô lệ sau này. Từ thế kỷ VIII đến thế kỷ V TCN, quý tộc theo thời gian cũng tích lũy nhiều cho mình tư liệu sản xuất và sống dựa vào sự lao động của dân nghèo và nô lệ đang dần hiện hữu. Nô lệ cũng dần xuất hiện nhiều hơn khi những thành viên của xã hội thị tộc cũ bị phân hóa, một số bị tước ruộng đất phải làm nô lệ vì nợ; số lượng chủ yếu là từ nô lệ chiến tù, nô lệ mua bán từ những chợ nô lệ. Ở thế kỷ VI TCN, đảo Kyosk đã xuất hiện những chợ nô lệ và nô lệ vì nợ. Thời nhà nước Sparta: Người Sparta tức người Dorian với sự chiến thắng đã là giai cấp cầm quyền, họ bắt đầu sự nô dịch, bóc lột sức lao động của người Perioikoi và nô lệ Hilotes là cơ bản nhất. Không nói đến người Perioikoi, nô lệ người Hilotes chiếm số lượng đông đảo (khoảng 200.000 người). Hilotes được coi là nô lệ chung của nhà nước. Nô lệ này được gắn chặt vào ruộng đất, phải lao động sản xuất và hưởng một phần thu hoạch. Nô lệ Hilotes không có quyền lợi về chính trị, thân thể, tư pháp nhưng vẫn được có gia đình riêng, có thu nhập riêng, lệ thuộc vào chủ nô nhưng lại là sở hữu chung của nhà nước . Thời kỳ thành bang Athens: Với sự phát triển mau lẹ, quan hệ hàng hóa và tiền tệ ở đây đã phát triển từ lâu và nhanh chóng. Xã hội có giai cấp dần xuất hiện, trong lúc đó, dân tự do và nông dân dần dần bị tầng lớp quý tộc đặt ách nô dịch và cùng thời điểm ấy, vì nợ nần mà họ bị biến thành nô lệ. Nông dân vùng Attique bị đặt ách nô dịch nợ nần, để trả nợ họ phải nộp 5/6 hu hoạch của mình cho giai cấp chiếm hữu ruộng đất lớn. Ai không làm đúng hẹn sẽ bị đem bán làm nô lệ. Khi mâu thuẫn dần hình thành rõ nét thì hai cuộc cải cách mang tính bước ngoặt của Solon (đầu thế kỷ VI TCN) và Cleisthennes (cuối thế kỷ VI TCN) là hai cuộc cách tân quan trọng trong lịch sử cũng như đối với tầng lớp nô lệ. Chiến tranh Hy Lạp- Ba Tư (499-448 TCN): Là một trong hai cuộc chiến tranh lớn của lịch sử Hy Lạp, vì vậy lực lượng quân đội sẽ trở nên rất thiết yếu cho lúc bấy giờ. Người Athens thời kỳ này đã sử dụng toàn bộ sức lực để chiến đấu và đã tuyên bố những nô lệ tham gia chiến đấu sẽ được thả tự do. Sau, người Athens đã đuổi người Ba Tư ra khỏi Tharce; một số tác giả cổ đại nói rằng sau một chiến dịch nào đó, người Athens đã đem bán 20.000 tù binh làm nô lệ. Cuộc chiến thành công không thể không nhắc đến sự huy động lực lượng từ các tầng lớp, trong đó nô lệ không thể thiếu. Athens từ thế kỷ V đến IV TCN: Nô lệ thời kỳ này trở thành một loại “hàng hóa” được người Athens quan tâm. Lực lượng này trở thành động lực sản xuất cơ bản của chế độ chiếm nô khu vực Địa Trung Hải. Cảng Piraues cũng là trung tâm nhập và xuất hàng đoàn nô lệ. Piraeus, Delos,… trở thành những trại mua bán nô lệ vào loại bậc nhất thế giới cổ đại. Với nền kinh tế chiếm hữu nô lệ, thì vai trò của tầng lớp này cũng giữ trọng yếu trong sản xuất ra của cải cho xã hội. Nô lệ xuất hiện ở khắp nơi và ở mọi ngành nghề trong xã hội; là lực lượng chèo thuyền chủ yếu và là những người lao động nặng nhọc ở các hầm mỏ; số lượng nô lệ thời kỳ này ước tính khoảng 365.000 trong khi dân tự do chỉ có 90.000 người. Nô lệ thời kỳ này bị xem như “của cải di động” và là một thứ “công cụ biết nói” phục vụ cho giới cầm quyền. Chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp phát triển đến mức nó đạt đến sự hoàn hảo khi đã phân công lao động khá rõ ràng trong xã hội, tạo nên lao động chân tay- lao động trí óc và nhờ vậy tầng lớp trí thức có thêm thời gian để nghiên cứu khoa học, triết học,… Đến thế ky IV TCN, số nô lệ do tư nhân quản lý vẫn còn hàng chục hoặc hàng trăm. Nô lệ trở thành lực lượng lao động chính cho xã hội đương thời. Sang thế kỷ III TCN, chế độ nô lệ dần không phát triển được nữa, những cuộc thí nghiệm chia đất cho nô lệ và nông dân phá sản đã diễn ra. Đây có thể là tiền đề đầu tiên để xã hội Hi Lạp chuyển sang phương thức sản xuất phong kiến. Khi phương thức sản xuất mới đang dần hình thành thì sự chinh phục của La Mã vào cuối thế kỷ III TCN – đầu thế kỷ II TCN đã cắt đứt con đường hình thành mầm móng ấy. La Mã thời cộng hòa: Với nhiều chiến thắng liên tiếp, La Mã đã dành về cho mình nhiều phần lợi khác nhau trong đó có nguồn lợi về nô lệ. Đánh thắng Tarent, La Mã bán 30.000 tù binh làm nô lệ, cuộc chiến Cartage đã cung cấp cho La Mã 95.000 tù binh làm nô lệ (lần thứ nhất: 25.000 nô lệ; lần thứ hai: 20.000 nô lệ; lần thứ ba: 50.000 nô lệ), hay với chiến thắng ở Sardinia, La Mã đã nắm trong tay 80.000 tù binh biến thành nô lệ…Những chợ buôn nô lệ mọc lên mỗi một nhiều, trong đó ở vùng Địa Trung Hải có thể nhắc đến chợ buôn nô lệ Delos (biển Aegean), Active (Italia),… Nô lệ từ vùng đông của Địa Trung Hải đều được đưa đến Delos, có khi một ngày có thể bán được 10.000 nô lệ. Chính những điều kiện này đã thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và chế độ chiếm hữu nô lệ của thời kỳ cộng hòa. Với sự hình thành và phát triển loại hình kinh tế nông nghiệp Latifundia, sức lao động của nô lệ cũng được tập trung với phương thức sản xuất độc canh. Số nô lệ phục vụ cho loại hình kinh tế này có thể đến hàng ngàn nô lệ. Nông dân tự do bị đẩy lùi xuống vị trí thứ yếu và lực lượng chủ yếu cho loại hình kinh tế này là lực lượng nô lệ; thúc đẩy sự phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ cùng với sự phát triển của loại hình kinh tế nông nghiệp Latifundia. Về mặt công nghiệp và thương mại: Các xưởng thủ công phát triển và mỗi lúc có xu hướng chuyên môn hóa trong mỗi xưởng, các vùng ở La Mã. Cùng với đó, giới quý tộc chủ nô La Mã thừa cơ hội ấy đã lập nên nhiều công xưởng tư cho mình. Những công trường chế biến dầu oliu, đóng thuyền, khai thác hầm mỏ hay như công trường khai thác mỏ bạc ở Tây Ban Nha đã sử dụng rất nhiều nô lệ (ước tính lên đến 40.000 nô lệ). Từ những vấn đề trên, có thể thấy nguồn gốc nô lệ ở La Mã cũng từ rất nhiều nơi khác nhau: nô lệ quan trọng nhất là tù binh, nô lệ vì nợ, người dân bị cướp biển bắt cóc làm nô lệ, nô lệ do nữ nô sinh ra, còn có một số lượng nhỏ nô lệ có nguồn gốc từ đám trẻ lang thang, mồ côi vô thừa nhận được gia chủ đem về nuôi và biến thành nô lệ. Nguồn nô lệ ở La Mã được cung cấp từ những nguồn không giống nhau, tính bất ổn cao và không có sự đồng đều. Trong số lượng ấy nô lệ là tù binh vẫn là nguồn cung cấp thiết yếu nô lệ cho chế độ chiếm nô La Mã. Với nền kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh đặc biệt là với mô hình Latifundia đã giúp thúc đẩy kinh tế La Mã đi lên. Vì vậy mà vai trò của nô lệ càng ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp ấy. Ở thời kỳ này công cụ lao động vẫn còn thô sơ, lạc hậu, nên nô lệ hầu như làm việc cả ngày và đảm nhận toàn bộ công việc mà công cụ không thể làm được. Mọi công việc từ canh tác, làm đất, gieo trồng đến chăm sóc thu hoạch mùa màng thì nô lệ vẫn giữ vai trò quản lý. Nô lệ cũng được trực tiếp sử dụng trong các hầm mỏ của chủ nô; nô lệ được sử dụng làm sức lao động khuân vác trong các thương thuyền ở Địa Trung Hải; ở gia đình của các trưởng nô nô lệ được dùng từ những công việc đơn giản nhất như quét dọn nhà cử, giữ ngựa, nấu bếp đến những công việc phức tạp như nhạc công, vũ nữ, giáo viên, thu ký, … . Nô lệ cũng được sử dụng như một trò mua vui cho giới chủ nô khi họ bị biến thành những đấu sĩ đấu với nhau hoặc phải đấu với thú dữ. Nô lệ được coi là thứ “công cụ biết nói”, là “công cụ di động” của giới chủ nô trong thể chế chiếm hữu nô lệ La Mã và được pháp luật quốc gia này thừa nhận, qui định. Đời sống nô lệ vô cùng cực khổ khi họ phải vác trên mình phương châm “sử dụng nhiều nhất nhưng chi phí ít nhất” của bọn chủ nô. Họ phải làm việc quanh năm và số lượng ngày nghỉ chỉ đếm trên đầu ngón tay; họ làm việc cật lực trong các hầm mỏ, xưởng thủ công, các bến cảng, các thuyền buôn, thuyền chiến và đặc biệt là trong các Latifundia. Họ bắt lao động khổ sai, đói khát, bệnh tật luôn hiện hữu với những người làm nô lệ hoặc như chiến tù Cartage phải bị bắt lao động trong khi chân vẫn phải đeo xiềng xích. Chính sức lao động của nô lệ đã tạo nên những nguồn lợi kinh tế dồi dào; thiết lập nên cuộc sống vươn giả cho giới chủ nô. Có lẽ vì vậy mà nền kinh tế của xã hội La Mã luôn trong tình trạng phồn thịnh nhưng mặt khác lại làm cho chế độ chiếm hữu nô lệ mỗi lúc một suy yếu. Trong thời kỳ cực thịnh của chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã (thế kỷ I và II): Nền kinh tế thời này đã có những bước phát triển mới trong lĩnh vực thủ công nghiệp, thương nghiệp, … . nô lệ vẫn được sử dụng là lực lượng lao động chính ở các xưởng thủ công của nhà nước hay tư nhân. Từ những năm cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III đã xuất hiện một hiện tượng mới trong nền kinh tế nông nghiệp La Mã khi một số ít Latifundia dã bắt đầu sang cây lương thực hoặc một số chủ nô đã chủ động chia nhỏ các ruộng đất của mình thành các ruộng nhỏ hơn cùng với một số công cụ lao động và giao cho nô lệ quyền tự do sản xuất. La Mã thời kỳ khủng hoảng và suy vong (thế kỷ III – IV): Chế độ chiếm hữu nô lệ đã dần bộc lộ những dấu hiệu suy thoái khủng hoảng nghiêm trọng khi số lượng nô lệ ngày càng giảm sút; nô lệ tù binh cũng giảm vì không còn nhiều cuộc chiến tranh như trước; sự giảm sút ấy đã dẫn đến một hiện trạng tất yếu của thời cuộc khi lực lượng sản xuất chính của xã hội đã không còn dồi dào như trước. Sự bóc lột nặng nề cùng với khối lượng công việc lớn đã làm giảm sút chất lượng cũng như sức lao động của nô lệ; năng suất lao động ngày càng giảm sút khi nô lệ đang dần tìm mọi cách để phá hoại kinh tế của chủ nô. Sự khủng hoảng và dần đi đến sự suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ đã đặt ra cho giới chủ nô La Mã một yêu cầu trước mắt là cần phải thay đổi cách đối xử cũng như phương thức sử dụng nô lệ. Trong khi nhà nước đang cố gắng cứu vãn cho chế độ ấy khỏi sự sụp đổ thì giới quý tộc chủ nô ruộng đất đã có những bước đi mới khi dần hình thành nên chế độ mới gọi là lệ nông – tiền thân của giai tần nông nô dưới chế độ phong kiến. Rõ ràng, hình thái chiếm hữu nô lệ với vai trò của nô lệ trong xã hội Hy Lạp- La Mã cổ đại có một tầm quan trọng mà không ai có thể phủ nhận.
|
Chế độ nô lệ ở châu Phi
|
Bài viết này thảo luận về các hệ thống, lịch sử và ảnh hưởng của chế độ nô lệ trong Châu Phi. Xem buôn bán nô lệ Ả Rập, buôn bán nô lệ Đại Tây Dương, Maafa và nô lệ ở Châu Phi đương đại để biết các cuộc thảo luận khác. Chế độ nô lệ trong lịch sử đã lan rộng ở Châu Phi, và vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay ở một số quốc gia. Các hệ thống nô lệ và nô lệ là phổ biến ở các vùng của Châu Phi, vì chúng ở phần lớn thế giới cổ đại. Trong nhiều xã hội châu Phi nơi chế độ nô lệ thịnh hành, những người nô lệ không được coi là nô lệ và được trao một số quyền nhất định trong một hệ thống tương tự như lao động có khế ước ở nơi khác trên thế giới. Khi buôn bán nô lệ Ả Rập và buôn bán nô lệ Đại Tây Dương bắt đầu, nhiều hệ thống nô lệ địa phương bắt đầu cung cấp tù nhân cho các thị trường nô lệ bên ngoài châu Phi. Chế độ nô lệ ở châu Phi lịch sử được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: Nô lệ nợ, nô lệ tù binh chiến tranh, nô lệ quân sự, nô lệ cho mại dâm và nô lệ hình sự đều được thực hiện ở nhiều vùng khác nhau ở châu Phi.
|
Miễn phí giao hàng cho đơn hàng từ 150.000đ ở TP.HCM và 300.000đ ở Tỉnh/Thành khácXem chi tiết. Clair Brown là một Giáo sư Kinh tế học và là chủ nhiệm của Trung tâm Việc làm, Kĩ thuật và Xã hội ở trường Đại học California, Berkeley. Là một nhà Kinh tế học tập trung vào sự công bằng trong công việc và kinh tế, bà nguyên là Viện trưởng Viện Quan hệ Công nghiệp (Institute of Industrial Relations) ở Berkeley, và là Chủ tịch Hội đồng Chính sách Giáo dục (Committee on Education Policy), thành viên Ban giám hiệu của trường Đại học California, Berkeley. Chúng ta sống như thế nào và hạnh phúc như thế nào đều do kinh tế tác động. Thế nhưng, hầu hết mọi người đều phớt lờ việc tìm hiểu kinh tế học, mặc dù nó có một sức mạnh đầy uy lực trong đời sống và tương lai của chúng ta. Có hai thách thức mang tính toàn cầu lớn nhất của chúng ta, đó là: Trái Đất nóng lên và thu nhập không đồng đều. Những nhà khoa học nghiên cứu về khí hậu của Liên Hiệp Quốc cảnh báo rằng chúng ta cần phải tránh việc hủy diệt hành tinh này và thay đổi cách sống của chúng ta, nếu không sẽ không còn kịp nữa. Thu nhập không đồng đều giống ở thời đại Kim tiền (Gilded Age), những nhà kinh tế học cảnh báo rằng chính trị biến động sẽ làm gia tăng tình trạng thu nhập không đồng đều. Cả hai thách thức này đều bị tác động sâu bởi kinh tế. Để vượt qua điều này đòi hỏi chúng ta phải xem xét lại toàn bộ hệ thống kinh tế, đời sống và những vấn đề liên quan đối với chúng ta. Chúng ta phải học cách để sống hài hòa với thiên nhiên và với mọi người. . Điều gì làm cho con người hạnh phúc? Câu hỏi này đưa chúng ta đến tâm điểm của sự khác biệt giữa kinh tế thị trường tự do và kinh tế học Phật giáo, đó là: bản chất con người. Theo kinh tế học Phật giáo, bản chất con người là hiền thiện và rộng lượng, căn bản nhất là biết chăm sóc bản thân. Đức Phật đã dạy rằng tất cả mọi người khổ đau là do trạng thái tâm lí của chính họ, cảm giác không thỏa mãn đối với những tham vọng từ cái này sang cái khác. Đức Dalai Lama bảo với chúng ta rằng cảm giác của sự không biết đủ và mong muốn nhiều hơn không tách khỏi sự thèm khát sẵn có về các đối tượng mà chúng ta đang tìm kiếm từ những ảo tưởng trong tâm của chính chúng ta. Đức Phật đã dạy chúng ta phương pháp làm thế nào để diệt trừ khổ đau bằng cách chuyển hóa những trạng thái tâm lí của chúng ta, tức tìm kiếm hạnh phúc qua cách sống có ý nghĩa. Kinh tế thị trường tự do chứa đựng bản chất tự nhiên cho mình là trung tâm và con người chỉ quan tâm chính mình, vì thế họ chỉ biết chìm đắm trong thu nhập tối đa và lối sống ảo tưởng. Theo con đường này, việc mua bán và tiêu thụ-sắm giày mới hoặc chơi trò chơi mới trên điện thoại thông minh-sẽ làm cho bạn cảm thấy hạnh phúc mà không biết rằng chỉ trong một thời gian ngắn bạn sẽ cảm thấy không thích đôi giày và chán nản trò chơi đó, đồng thời từ bỏ không mua sắm chúng nữa. Để dừng lại vòng đam mê này, chúng ta phải liên tục từ bỏ tham muốn chứ không tìm kiếm sự thỏa mãn cuối cùng. Kinh tế thị trường tự do không hướng chúng ta đến đời sống ý nghĩa trong một thế giới lành mạnh, cũng không cung cấp giải pháp đối với những sự liên quan của chúng ta về chiến tranh thế giới, thu nhập không cân đối và phá hoại môi trường. Ngược lại, kinh tế học Phật giáo cung cấp giải pháp hướng đến việc xây dựng lại đời sống cá nhân và cả kinh tế của chúng ta để tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn. “Sự tốt đẹp của con người được gắn kết” thay thế cho “Nỗ lực tối đa cho địa vị của bạn”. “Lợi ích của nhân loại và thiên nhiên là mối nhân duyên qua lại” thay thế cho “Ô nhiễm là cái giá phải trả của xã hội mà cá nhân có thể bỏ quên”. Tác phẩm này sẽ làm lay chuyển quan điểm thế giới của ta và giúp tâm hồn xung động của ta an tịnh. Đây là một sự cảnh tỉnh rằng “Kinh tế học” hoàn toàn thú vị hơn cả hình thức tối giản mà chúng ta học được ở những trường đại học, đồng thời “tôn giáo” cống hiến cho đời sống hằng ngày của chúng ta nhiều hơn so với điều mà chúng ta thỉnh thoảng tưởng tượng đến” (Bill McKibben, tác giả cuốn EAARTH, người sáng lập 350.org)
|
Kinh tế học Phật giáo
|
Kinh tế học Phật giáo (tiếng Anh: Buddhist economics) là một cách tiếp cận của Phật giáo đối với kinh tế học. Kinh tế học Phật giáo khảo sát đặc điểm tâm lý của trí óc con người, và những ưu tư, khát vọng, và cảm xúc vốn thúc đẩy hoạt động kinh tế. Cách hiểu về kinh tế học của Phật giáo nhắm đến việc làm rõ những gì là có hại và những gì là có ích trong những hoạt động của con người liên quan đến sản xuất và tiêu thụ, và nhất là cố gắng làm cho con người trưởng thành về mặt đạo đức. Kinh tế học Phật giáo cho rằng những quyết định duy lý thực sự chỉ có thể có được khi chúng ta hiểu điều gì đã tạo nên sự bất duy lý. Khi hiểu điều gì tạo ra ham muốn, con người nhận ra rằng tất cả của cải trên thế gian này cũng không thể thỏa mãn được ham muốn đó. Khi con người hiểu được tính phổ quát của sợ hãi, họ trở nên có lòng trắc ẩn hơn với mọi sinh linh. Như vậy cách tiếp cận đối với kinh tế học này không dựa trên lý thuyết và mô hình mà dựa trên sức mạnh của sự cảm quan, sự thấu hiểu, và sự kiềm chế.
|
Sản phẩm của quá trình nhận thức mà trước hết là nhận thức khoa học là tri thức. Còn mục đích trước mắt mà khoa học phải đạt được là chân lý. Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh, đồng thời được thực tiễn kiểm nghiệm. Do bản thân khách thể nhận thức luôn tồn tại một cách cụ thể và không ngừng vận động, phát triển nên chân lý – hình ảnh chủ quan phù hợp với khách thể khách quan cũng phải mang tính khách quan, tính cụ thể và tính quá trình (tính tương đối và tính tuyệt đối). + Tính khách quan là tính chất cơ bản của chân lý, vì vậy mọi chân lý còn được gọi là chân lý khách quan. Tính khách quan của chân lý thể hiện ở chỗ nội dung của nó không phụ thuộc vào con người và loài người, mà chỉ phụ thuộc vào khách thể mà nó phản ánh. Thừa nhận chân lý khách quan cũng có nghĩa là thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và sự phản ánh thế giới vào trong bộ óc con người, nghĩa là thừa nhận chủ nghĩa duy vật, cho dù hình thức tồn tại của chân lý là chủ quan. + Tính cụ thể cũng là tính chất cơ bản của chân lý, vì vậy mọi chân lý còn được gọi là chân lý cụ thể. Tính cụ thể của chân lý thể hiện ở chỗ khách thể mà chân lý phản ánh bao giờ cũng thuộc về một lĩnh vực cụ thể, đang tồn tại trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, vì vậy chân lý phải phản ánh những điều kiện, quan hệ cụ thể đó của khách thể vào trong nội dung của chính mình. Vượt qua điều kiện lịch sử – cụ thể, chân lý sẽ không còn là chân lý nữa. Tính cụ thể của chân lý và quan điểm lịch sử – cụ thể có liên hệ mật thiết lẫn nhau. Đó là “linh hồn sống động” của triết học Mác. + Tính quá trình (tính tương đối và tính tuyệt đối) cũng là tính chất cơ bản của chân lý, vì vậy mọi chân lý đều là những quá trình. Tính quá trình của chân lý thể hiện ở mối liên hệ biện chứng giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối; nó phản ánh tính vô tận của quá trình nhận thức của con người. Chân lý tương đối là tri thức phản ánh đúng hiện thực khách quan (khách thể) nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, cần phải điều chỉnh, bổ sung trong quá trình phát triển tiếp theo. Chân lý tuyệt đối là tri thức hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh về thế giới khách quan. Thừa nhận chân lý cụ thể, chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối cũng có nghĩa là thừa nhận sự tồn tại khách thể trong mối liên hệ với mọi khách thể khác và trong sự vận động, phát triển của bản thân khách thể, cũng như của sự phản ánh nó vào trong bộ óc con người, nghĩa là thừa nhận phép biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, “tư duy con người có thể cung cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số những chân lý tương đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem thêm những hạt mới vào cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối” . Do bản tính khách quan mà trong mỗi chân lý tương đối vẫn chứa một yếu tố nào đó của chân lý tuyệt đối. Sở dĩ như vậy là vì thế giới khách quan là vô cùng tận, nó biến đổi, phát triển không ngừng, không có giới hạn tận cùng, trong khi đó, nhận thức của từng con người, của từng thế hệ lại luôn bị hạn chế bởi điều kiện khách quan và năng lực chủ quan. Dù các hình thức nhận thức khác nhau có thể có tiêu chuẩn riêng, nhưng không có tiêu chuẩn nào thay thế tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, chúng cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn. Vì vậy, C.Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý…” . Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý phải được hiểu một cách biện chứng, bởi vì nó vừa mang tính tương đối vừa mang tính tuyệt đối. Tính tuyệt đối nói lên tính khách quan của tiêu chuẩn thực tiễn trong việc xác định chân lý, khi thực tiễn được xác định ở một giai đoạn phát triển nhất định. Tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn thể hiện ở chỗ thực tiễn không chỉ mang yếu tố khách quan mà còn bao hàm cả yếu tố chủ quan, và bản thân nó là một quá trình luôn vận động, biến đổi và phát triển. Những yếu tố chủ quan sẽ được khắc phục, tính xác định của thực tiễn ở giai đoạn phát triển tiếp theo sẽ khác đi. Vì vậy, tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức mà con người nhận thức được ở một giai đoạn hoạt động thực tiễn nhất định thành chân lý tuyệt đích bất di bất dịch, mà là đòi hỏi phải tiếp tục kiểm nghiệm chúng ở mọi giai đoạn nhận thức tiếp theo của con người. Quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn chân lý – thực tiễn sẽ giúp chúng ta xây dựng quan điểm thực tiễn. Quan điểm này đòi hỏi:. Việc nhận thức của chúng ta dù ở bất cứ giai đoạn, trình độ nào đều phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng việc tổng kết thực tiễn; Học đi đôi với hành; Lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Xa rời quan điểm thực tiễn sẽ dẫn đến chủ nghĩa giáo điều, quan liêu, bảo thủ, sẽ sa vào chủ nghĩa tương đối, quan điểm chủ quan, duy ý chí. Vấn đề cơ bản của triết học. Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học?. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù này?. Trình bày khái quát về hệ thống triết học duy tâm biện chứng của Ph. Hegel. Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận dụng quy luật này trong công cuộc đổi mới ở nước ta?. Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội là gì. Phân tích điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội?. Phân tích vai trò và tác dụng của ý thức. Trình bày tóm tắt nội dung nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới và nguyên tắc khách quan mácxít?. Nơi chia sẻ, cung cấp các tài liệu học tập, sách cho mọi người, các tài liệu trên Blog được chia sẻ miễn phí. Blog Taisachmoi.com được thành lập, với mong muốn cung cấp những thông tin hữu ích cho mọi người.
|
Chân lý
|
Chân lý là khái niệm để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn. Nói cách khác chân lý là thực tại được nhận thức một cách đúng đắn. Tóm lại chân lý là một sự thật của loài người luôn luôn đúng và tồn tại mãi mãi theo thời gian. Tuy nhiên tri thức của con người ở một thời điểm chỉ tiệm cận chân lý chứ không phải là chân lý. Quá trình phát triển của tri thức là một quá trình tiến đến gần chân lý hơn. Sự tồn tại của chân lý và khả năng nhận thức của con người đạt đến chân lý là những vấn đề cơ bản của nhận thức luận. Theo Platon và Aristoteles, những ý kiến được coi là "đúng" khi nào ý kiến đó khẳng định điều gì "có" thì thực sự "có", khẳng định "không có" thì thực sự là "không có". Còn ý kiến sẽ "sai" khi mà nêu ra "có" nhưng thực sự "không có" hoặc nêu "không có" trong khi thực sự là "có". Khi ý kiến "đúng" thì nó phải phù hợp với phương cách của sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên hay thực tại.
|
Nicôla V (Latinh: Nicolaus V) là vị Giáo hoàng thứ 207 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1447 và ở ngôi Giáo hoàng trong 13 năm 19 ngày. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ông đắc cử Giáo hoàng ngày 6 tháng 3 năm 1447, ngày khai mạc chức vụ mục tử đoàn chiên chúa là ngày 19 tháng 3 và ngày kết thúc triều đại của ngài là ngày 24 tháng 3 năm 1455. Giáo hoàng Nicolaus V sinh tại Sarzana ngày 15 tháng 11 năm 1397 với tên là Tommaso Parentucelli. Ông là nhà nhân bản học thứ nhất lên ngôi Giáo hoàng. Ông mở đầu cho một thời đại chính trị văn hóa mới trong giáo triều, trong đó ngôi Giáo hoàng đỡ đầu cho phong trào phục hưng văn nghệ kéo dài đến thời đức Giáo hoàng Lêô X. Nicolaus V tái lập hoà bình cho Pháp và Anh và giúp người Tây Ban Nha tiêu diệt quân Saracens. Ông cho phép vua Bồ Đào Nha khai chiến với các dân tộc Phi châu để cướp tài sản của họ và bắt họ làm tôi mọi. Ngày 19.3.1452,ông đặt vương miện cho hoàng đế Friedrich III (1440-1493), đó là vị Giáo hoàng cuối cùng được Roma phong vương. Ngày 17.2.1448, Nicolaus V đã ký thỏa hiệp với hoàng đế Friedrich II (1439-1493). Sau thỏa hiệp này, công đồng ly khai ở Bâle mà nay đã di chuyển sang thành Lausanne, nơi Felix V lập “Giáo triều”. Nhưng Felix V từ chức ngày 7.4.1449. Ít ngày sau, các hồng y “bầu” đức hồng y Tommaso Parentucelli “hiệu Nicolaus V” làm Giáo hoàng và sau đó giản tán. Ông đã cho Felix V làm hồng y. Từ đó chấm dứt khủng hoảng nội bộ của Giáo hội kéo dài một thế kỷ rưỡi. Sau việc chấm dứt công đồng ly khai thành Paris (1449), đức Nicolaus V hầu như chỉ quan tâm đến việc sửa sang thành Roma, trùng tu các thánh đường và xây cất thêm. Ông bắt đầu xây dựng Đền thờ Thánh Phêrô hiện giờ. Là ngườ ham say sưu tầm các cáo bản đồng thời đưa 2 thư viện Lateran về Vatican, và trở thành người sáng lập thư viện Vatican. Nicolaus V cử hành Năm Thánh thứ 6 (1450). Nếu theo quy định của Urbanô VI, năm Thánh mới phải được tổ chức vào năm 1433 (cứ mỗi 33 năm để tưởng nhớ việc Chúa Giêsu sống trên trần gian trong 33 năm), nhưng điều này đã không thực hiện. Ðược mở ra dưới triều Nicôla V. Năm Thánh 1450 được ghi nhận là một trong những Năm Thánh có nhiều người tham dự nhất trong lịch sử. Do số khách hành hương quá đông, đã xảy ra những vụ rối loạn trật tự công cộng và thiếu thốn vấn đề vệ sinh. Năm Thánh này còn được gọi là “Năm Thánh của những vị thánh” bởi vì trong số khách hành hương đến Rôma có những vị thánh tương lai như Thánh nữ Rita Cascia và Thánh Antôn thành Florence. Thánh Antôn thành Florence mô tả Năm Thánh 1450 như là “năm hoàng kim”, ý chỉ sự hiệp nhất mới được tái lập sau cuộc phân ly trong Giáo hội Lamã (1378-1417). Trong suốt triều đại của ông Đế quốc La mã Phương Tây suy tàn khi Mehmed II chiếm Constantinopolis. Chỉ một tháng sau khi sắc lệnh hiệp nhất được ký giữa Giáo hội Hy lạp và Roma phần đông tín đồ Hy lạp cùng với hàng giáo sĩ và tu sĩ đứng lên chống đối và đả kích chính trị của Hoàng đế Ioannes VIII Palaiologos. Phái đoàn từ công đồng Florencia trở về Constantinopoli bị họ la lối, chế nhạo: “Quân ăn bánh không men, quân phản đạo, quân Roma, bọn tà giáo”. Thế là không một ai giám tuyên bố sắc lệnh. Việc hiệp nhất ở Nga cũng thất bại. Tân hoàng đế Konstantinos XI Palaiologos (1448-1453), tháng 12 năm 1452, lập lại bang giao với Roma và truyền công bố sắc lệnh hiệp nhất. Nhưng ngày hôm sau, hàng giáo sĩ được dân chúng hậu thuẫn đã tuyên bố: “thà thấy khăn trắng của quân Thổ Nhĩ Kỳ thống trị thành Constantinopoli này, chẳng thà thấy mũ giáo chủ của bọn Roma”. Ngày 29.5.1453, Mahomet II tiến vào Constantinopoli chấm dứt đế quốc Đông phương. Nicolaus lên tiếng kêu gọi Tây phương tổ chức binh thánh già nhưng không được ai hưởng ứng. 265 Đức Giáo hoàng, Thiên Hựu Nguyễn Thành Thống, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, xuất bản tháng 5 năm 2009. Bộ sách giới thiệu những kiến thức thời đại: Que sais-je? Người dịch: Trần Chí Đạo, Nhà xuất bản Thế giới tháng 4/2004.
|
Giáo hoàng Lêô V
|
Lêô V (Latinh: Leo V) là vị giáo hoàng thứ 118 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 903 và ở ngôi Giáo hoàng trong 1 tháng 9 ngày. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định triều đại của ông kéo dài từ tháng 7 năm 903 cho tới tháng 9 năm 903. Leo V sinh tại Ardea, nằm gần Rôma, Ý. Nhiệm kỳ Giáo hoàng ngắn ngủi của vị tu sĩ Bênêđictô này xuất phát từ các đảng viên chính trị của ngụy Giáo hoàng Chistoforus, người Roma, 7 hay 9-903 − 1-904. Một thời kỳ suy đồi và thối nát về luân lý kinh khủng đến độ mà Đức Leo, một con người yếu đuối và bất quyết, hoàn toàn không phù hợp với chức vị cao của ông. Người giúp đỡ tinh thần cho Giáo hoàng Leo V, Hồng y Christopher đã truất phế ông bằng vũ lực và giam ông trong một tu viện. Trong thời cuộc hỗn loạn, ông bị cầm tù và ám sát. Thi hài ông bị hoả thiêu và tro cốt bị ném xuống sông Tiber.
|
Thời kỳ vương triều Minh đứng trước nguy cơ suy vong, hoạn quan chuyên quyền đạt tới đỉnh cao, xuất hiện một nguời xưng là Cửu thiên cửu bách cửu thập tuế, chỉ kém Hoàng đế có 10 tuổi (vạn tuế), đó là Thái giám Ngụy Trung Hiền chuyên diễn trò hề sùng bái nhà vua. Ngụy Trung Hiền không “trung” mà cũng chẳng “hiền”. Hắn là nguời Túc Ninh, Hà Gian (nay là Túc Ninh, Hà Bắc), từ nhỏ đã là một kẻ vô lại chuyên thói cờ bạc đĩ điếm. Năm 20 tuổi, vì đánh bạc thiếu nợ, Ngụy Trung Hiền phải trốn chui trốn lủi để tránh đòn thù của chủ nợ, sống cầu bơ cầu bất, cuối cùng không còn kế sinh nhai, phải tự thiến để vào cung, làm một tiểu hoạn quan. Vào những năm Vạn Lịch, Nụy Trung Hiền làm môn đệ cho Thái giám họ Ngụy. Chu Do Hiệu khi chưa là Hoàng đế là bạn cờ bạc với Ngụy Trung Hiền, hắn đã gửi gắm tương lai cho nhà vua sau này. Thấy nguời vú nuôi của Chu Do Hiệu là Khách thị có thể nhờ vả, hắn đã dùng trăm phương nghìn kế để tỏ ra ân cần, tạo mối quan hệ ngày càng thân thiết. Khách thị khi ở trước mặt Chu Do Hiệu không ngớt nói điều hay cho hắn. Khi Minh Quang Tông mất, Chu Do Hiệu lên ngôi, đã đem Đông xưởng (1), một cơ quan mang tính chất đặc vụ giao cho Ngụy Trung Hiền cai quản. Ngụy Trung Hiền bỗng nhiên một bước nhảy lên làm Thái giám có quyền lớn nhất trong cung, bắt đầu thao túng triều chính, dùng mọi thủ đoạn hại dân hại nước. Sau khi giành được chức quyền, Ngụy Trung Hiền một mặt ra sức tranh thủ sự quan tâm của tiểu Hoàng đế, bày đủ mọi thú ăn chơi, đưa Hoàng thượng tham gia chọi gà đua chó không thiếu thứ gì, một mặt trong cung chọn những nguời thân tín, hãm hại nguời không ăn cánh. Đầu tiên, hắn sử dụng những kẻ mặt dày mày dạn, một lòng trung thành giao cho những công việc quan trọng trong triều, đưa họ lên những chức vụ cao trong guồng máy, trong đó gian ác nhất là “ngũ hổ” và “ngũ báo”. “Ngũ hổ” do Thôi Trình Tú, một quan văn đứng đầu, “ngũ báo” do Điền Nhĩ Canh, một quan võ đứng đầu. Mười nguời này đều vô sỉ, coi Ngụy Trung Hiền như cha mẹ, ra sức thị uy, hoành hành cả trong lẫn ngoài triều đình. Các đại thần chính trực vô cùng khổ sở vì bọn chúng. Tả phúc Đô ngự sử Dương Liên nhìn những cảnh ấy vô cùng phẫn nộ, ông đập bàn mà than, dâng sớ đàn hặc Ngụy Trung Hiền hai mươi bốn tội. Tấu sớ vừa tới Tư lễ giám, Ngụy Trung Hiền nghe nói có tấu đàn hặc mình vội tìm hai nguời Thôi Trình Tú và Điền Nhĩ Canh, bảo Thôi Trình Tú đọc cho hắn nghe. Dương Liên đã đưa ra nhiều chứng cứ, kể tội hại dân hại nước, những sự thực bất tuân luật pháp của hắn. Nghe xong, Ngụy Trung Hiền ngồi không yên chỗ, rồi mặt mũi xanh xám như thấy mình đang bị trừng trị, hắn đổ mồ hôi, nguời ướt đẫm. – Ta biết trong triều có bọn nguời muốn chống lại ta, không giết bọn này đi thì không thể làm gì nổi. Nhưng rồi hắn cũng chột dạ lo cho mọi sự chu toàn, bèn tới trước mặt Tiểu Hoàng đế than khóc, Khách thị đứng bên cũng họa theo, các Thái giám khác cũng nói thêm vào, tất cả đều muốn hãm hại Dương Liên. Tiểu Hoàng đế cho rằng chính các đại thần không đúng, bèn hạ Thánh chỉ khiển trách Dương Liên. Việc này khiến cho các đại thần đều phẫn nộ, có tới hơn bảy mươi triều thần dâng tấu thư đàn hặc những hành vi ngang ngược của Ngụy Trung Hiền. Ngụy Trung Hiền tức giận, kết bè kết đảng, không nói gì tới việc triều chính, coi các quan phản đối mình đều là nguời thuộc Đông lâm đảng, rồi dựa vào đó tiến hành thanh lọc. Nhiều quan bị bức hại, tội nhẹ thì mất chức, tội nặng thì mất mạng, sau đó, hắn thay vào đó bằng những nguời thân tín của mình gồm toàn bọn tiểu nhân xu thời giữ những vị trí trọng yếu của triều đình. Ngụy Trung Hiền vẫn không quên mối hận cũ, cho bắt những nguời hắn vốn căm ghét như Dương Liên, Tả Quang Đẩu, Ngụy Đại Trung, v.v… Một thời gian dài, Đề kỵ (3) của Đông Tây Xưởng tung đi khắp nơi, hoành hành toàn quốc khiến nguời nguời gặp nguy. Có một viên quan tên gọi Ngô Hoài Hiền, ở nhà ngẫu nhiên đọc được tấu chương của Dương Liên, nói thành lời, thế là bị giết và tịch thu gia sản. Nguời nói phải vội xin xỏ rồi đưa lễ mới không xảy ra sự gì. Ở Nam Xương, Giang Tây, có một sinh viên vào hiệu sách, lật giở cuốn sách nói về hoạn quan, thốt ra một lời bình phẩm bị nguời ta nghe được đưa tới nha môn trị tội. Mọi người vội khuyên giải, anh sinh viên kia phải tốn khá nhiều tiền bạc mới thoát nạn. Nhiều việc cứ như số mệnh, nhiều nguời có khi chỉ nói ra một câu khiến Ngụy Trung Hiền giận dữ là có thể bị lột da, cắt lưỡi. Ngụy Trung Hiền dùng thủ đoạn đàn áp bạo ngược để tạo nên sự thống trị độc tài, khiến cho quan dân trong thiên hạ ai cũng căm giận nhưng chẳng dám nói ra. Một thời, nguời xấu tràn lan, kẻ xu nịnh a dua càng ngày càng nhiều, Ngụy Trung Hiền được gọi là Cửu thiên tuế hoặc Cửu thiên cửu bách cửu thập tuế. Minh Hy Tông còn phong cho hắn và đứa em trai, cháu trai của hắn là công tước, hầu tước và bá tước. Khách thị cũng được phong là “Phụng thánh phu nhân”, được gọi là “Lão tổ thái thái thiên tuế”. Khi ra vào cung, kiệu và nghi trượng cùng tùy tùng của bà ta nguời ta nói rằng còn sang trọng hơn cả Hoàng đế. Ngụy Trung Hiền một tay che cả bầu trời, tạo cơ hội cho một số kẻ đầu cơ. Có một số đông Thái học sinh còn dâng thư ca ngợi Ngụy Trung Hiền là “công đức”, nói hắn đã phù trợ cho Hoàng thượng khiến cho thiên hạ “đại trị”, yêu cầu dựng tượng lập đền thờ cho hắn để dân chúng cả nước quỳ lạy khấn vái, nhưng nhà vua nói đến bản thân mình cũng chưa thể được sự kính trọng như thế. Thiên hạ cứ đua nhau, nguời làm quan thì muốn thăng quan phát tài, bảo nhau xây sinh từ cho Ngụy Trung Hiền, riêng Bắc Kinh cũng đã xây dựng không ít đến mức số lượng không kém văn miếu nơi tế lễ Khổng Tử; Nam Kinh còn xây sinh từ của hắn ngay bên cạnh lăng mộ của Chu Nguyên Chương. Đang trong lúc được sùng bái, ngưỡng mộ như vậy, trái núi mà Ngụy Trung Hiền dựa vào bỗng đổ sụp, vua Minh Hy Tông mất sau khi lên ngôi được bảy năm, khi mới 23 tuổi. Em của ông là Tín Vương Chu Do Kiểm nối ngôi, đó chính là Sùng Trinh Hoàng đế. Sùng Trinh Hoàng đế đã sớm căm phẫn bè lũ Ngụy Trung Hiền, lên ngôi chưa lâu, ông hạ lệnh bắt Ngụy Trung Hiền và xử tử đồng bọn, đưa hắn ra khỏi kinh. Biết hậu quả không tốt đẹp nên giữa đường, Ngụy Trung Hiền tự sát. Kẻ bất nghĩa cuối cùng cũng phải đền tội. 29/08/2020 vào lúc 16:08trong CHÙA Ông giáo làng viết bài này rất hay. Khi tôi còn nhỏ ( khoảng 55-60 năm trước) cha tôi thỉnh. TRẬN CHIẾN Ở THIỂM BẮC Đảng cộng sản Việt Nam là phiên bản của Đảng cộng sản Trung Quốc. Ta thấy CSTQ hành sử thế. TRẬN CHIẾN Ở THIỂM BẮC Bác ca ngợi Trung Quốc chẳng khác gì người Do Thái , người Ba Lan ca ngợi phát xít Đức?. ĐẠI QUÂN VŨ BÃO VƯỢT TRƯỜNG GIANG Bác học tiếng Việt bao giờ mà giỏi thế?
|
Ngụy Trung Hiền
|
Ngụy Trung Hiền (chữ Hán: 魏忠賢; 1568 - 16 tháng 10 năm 1627) là một trong những đại hoạn quan nổi tiếng nhất và nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người cầm đầu "Đảng hoạn quan" dưới thời Minh Hy Tông trong việc lũng đoạn triều chính, thâu tóm mọi quyền lực trong tay, đồng thời tiêu diệt tất cả những người không cùng phe cánh với mình một cách không khoan nhượng. Triều Minh dưới thời Hy Tông suy tàn một cách trầm trọng một phần lớn là do Ngụy Trung Hiền. Ngụy Trung Hiền là người Túc Ninh tỉnh Hà Bắc, lúc đầu tên là Ngụy Tiến Trung. Lúc trẻ ông đã máu mê cờ bạc, ăn chơi trác táng, có vợ và một con trai. Vì thua hết tiền, nợ nần chồng chất, ông bèn trốn vào tiệm rượu, bị bọn đòi nợ chửi mắng, đánh đập, thấy hổ thẹn, phẫn uất cùng cực mà quyết định tự thiến rồi thay tên đổi họ là Lý Tiến Trung, trốn đến Bắc Kinh và được tuyển vào cung năm 1589, đổi lại tên cũ là Ngụy Tiến Trung. Tiến Trung nương dựa vào làm thủ hạ của vú nuôi vua Hy Tông là Khách thị (客氏), lời nói nịnh nọt nên rất được Khách thị thương yêu.
|
Mẹ Thanh Hà là người Việt Nam còn cha là một người lính Mỹ tên là Bill Williams đã chết ở Chu Lai khi cô mới hai tuổi. Thuở nhỏ, cô sinh sống và học tập ở Đà Nẵng và đã từng hát trên đài phát thanh của Đà Nẵng. Sau khi học hết lớp 12, cô chuyển vào Sài Gòn sinh sống. Hiện tại, Thanh Hà đang định cư ở Hoa Kỳ. Cô đã trải hai lần hôn nhân đổ vỡ và hiện đang sống cùng con gái. Cô cũng thường xuyên tham gia các show diễn tại Việt Nam. Từ nhỏ, khi sống ở Đà Nẵng, Thanh Hà đã tham gia một cách nhiệt tình vào các hoạt động văn nghệ ở học đường, từ lớp mẫu giáo, bậc tiểu học cho đến hết bậc trung học. Không những thế, Thanh Hà đã có dịp lên hát trên Đài Phát thanh Đà Nẵng cũng như được trường cử làm đại diện tham dự những cuộc thi đua về văn nghệ. Sau khi học hết lớp 12, Thanh Hà vào Sài Gòn năm 1988 trước khi đi Mỹ năm 1991. Sang tới Mỹ, ca sĩ này đã từng làm nhiều công việc để kiếm sống như làm việc tại các tiệm Mac Donalds, hãng "contact lenses" sản xuất hộp quẹt và đi hát. Chị cho rằng việc kiếm tiền là nhu cầu của mình. Bởi lẽ, nó là lúc chị lấy lại được thời gian đã mất, thời gian nghèo đói và khổ sở. Nữ ca sĩ này cũng đã từng cộng tác với nhiều trung tâm âm nhạc tại hải ngoại và không ai phủ nhận Thanh Hà là một giọng ca đầy quyến rũ và nổi bật ở cộng đồng người Việt trên khắp thế giới. Đi lưu diễn ở bất cứ đâu chị cũng để lại nhiều kỷ niệm đẹp nơi những người yêu nhạc với một tính cách thật bình dị, lối nói chuyện thẳng thắn và không màu mè. Thanh Hà có rất nhiều ca khúc để lại cảm xúc mãnh liệt cho người nghe trong đời ca sĩ của mình như: Tàn tro, các ca khúc nhạc trẻ, nhạc tiền chiến và cả nhạc Trịnh Công Sơn. Thanh Hà lần đầu tiên xuất hiện trên sân khấu hải ngoại là trung tâm Thúy Nga cuốn Paris By Night 31 và đã được sự đón nhận của nhiều khán giả. Trải qua hơn 20 năm ca hát, cô đã xuất hiện trên nhiều chương trình của nhiều trung tâm băng nhạc khác nhau, phát hành nhiều sản phẩm có giá trị. Hiện tại, Thanh Hà vẫn đang là ca sĩ độc quyền cho Trung tâm Thúy Nga. Trương Minh Hà thường được biết đến với nghệ danh Thanh Hà (sinh 18 tháng 03 năm 1969 tại Đà Nẵng) là một nữ ca sĩ hải ngoại người Mỹ gốc Việt. Hiện tại, Thanh Hà đang định cư ở Hoa Kỳ. Cô đã trải hai lần hôn nhân đổ vỡ và hiện đang sống cùng con gái. Cô cũng thường xuyên tham gia các show diễn tại Việt Nam. Từ nhỏ, khi sống ở Đà Nẵng, Thanh Hà đã tham gia một cách nhiệt tình vào các hoạt động văn nghệ ở học đường, từ lớp mẫu giáo, bậc tiểu học cho đến hết bậc trung học. Không những thế, Thanh Hà đã có dịp lên hát trên Đài Phát thanh Đà Nẵng cũng như được trường cử làm đại diện tham dự những cuộc thi đua về văn nghệ. Sau khi học hết lớp 12, Thanh Hà vào Sài Gòn năm 1988 trước khi đi Mỹ năm 1991. Sang tới Mỹ, ca sĩ này đã từng làm nhiều công việc để kiếm sống như làm việc tại các tiệm Mac Donalds, hãng "contact lenses" sản xuất hộp quẹt và đi hát. Chị cho rằng việc kiếm tiền là nhu cầu của mình. Bởi lẽ, nó là lúc chị lấy lại được thời gian đã mất, thời gian nghèo đói và khổ sở. Nữ ca sĩ này cũng đã từng cộng tác với nhiều trung tâm âm nhạc tại hải ngoại và không ai phủ nhận Thanh Hà là một giọng ca đầy quyến rũ và nổi bật ở cộng đồng người Việt trên khắp thế giới. Đi lưu diễn ở bất cứ đâu chị cũng để lại nhiều kỷ niệm đẹp nơi những người yêu nhạc với một tính cách thật bình dị, lối nói chuyện thẳng thắn và không màu mè. Thanh Hà có rất nhiều ca khúc để lại cảm xúc mãnh liệt cho người nghe trong đời ca sĩ của mình như: Tàn tro, các ca khúc nhạc trẻ, nhạc tiền chiến và cả nhạc Trịnh Công Sơn. Thanh Hà lần đầu tiên xuất hiện trên sân khấu hải ngoại là trung tâm Thúy Nga cuốn Paris By Night 31 và đã được sự đón nhận của nhiều khán giả. Trải qua hơn 20 năm ca hát, cô đã xuất hiện trên nhiều chương trình của nhiều trung tâm băng nhạc khác nhau, phát hành nhiều sản phẩm có giá trị. Hiện tại, Thanh Hà vẫn đang là ca sĩ độc quyền cho Trung tâm Thúy Nga. Trương Minh Hà thường được biết đến với nghệ danh Thanh Hà (sinh 18 tháng 03 năm 1969 tại Đà Nẵng) là một nữ ca sĩ hải ngoại người Mỹ gốc Việt. Mang danh mỹ nhân showbiz nhưng Hà Tăng, Tú Anh, Đan Lê, Lê Phương. vẫn bị "dìm hàng" khi đứng cạnh những người phụ nữ này
|
Thanh Hà (ca sĩ)
|
Trương Minh Hà thường được biết đến với nghệ danh Thanh Hà (sinh 18 tháng 03 năm 1969 tại Đà Nẵng) là một nữ ca sĩ hải ngoại người Mỹ gốc Việt. Thanh Hà tên thật là Trương Minh Hà. Mẹ Thanh Hà có tên là Nguyễn Thị Mười (một người Mỹ gốc Việt), còn cha của nữ ca sĩ là một người Mỹ gốc Đức tên là Bill Williams; ông mất ở Chu Lai khi cô mới hai tuổi. Thuở nhỏ, cô sinh sống và học tập ở Đà Nẵng và đã từng hát trên đài phát thanh của Đà Nẵng. Sau khi học hết lớp 12, cô chuyển vào Sài Gòn sinh sống. Năm 1991, cô vượt biển di cư mà đến một trại tị nạn ở Philippines, sau đó cô được di cư sang Hoa Kỳ. Hiện tại, Thanh Hà đang định cư ở Hoa Kỳ. Cô đã trải hai lần hôn nhân đổ vỡ và hiện đang sống hạnh phúc cùng người chồng kém tuổi Roland, cô sinh được cậu con trai sau cô con gái riêng Bella. Cô cũng thường xuyên tham gia các show diễn tại Việt Nam. Sở hữu ngoại hình xinh đẹp cùng giọng hát sâu lắng, tình cảm, suốt hơn 20 năm qua, Thanh Hà vẫn là một tên tuổi được đông đảo khán giả yêu mến.
|
Khoa học, văn hóa, giáo dục, tâm lý, thể thao và một lối sống lành mạnh. Julian Kepler (1571-1630) là một nhà thiên văn học người Đức với đóng góp chính là các định luật cơ bản của sự chuyển động của các hành tinh. Bản thân ông không coi chúng là luật, mà là một phần của sự hòa hợp thiên thể phản ánh ảnh hưởng của Thiên Chúa trong vũ trụ. Những khám phá của Kepler đã biến nó thành mô hình của Nicolas Copernicus - với Mặt trời là trung tâm của Vũ trụ - đến một Vũ trụ năng động, với các hành tinh xoay quanh Mặt trời theo quỹ đạo không tròn. Ngoài ra, ông đã phát triển một lời giải thích về hành vi của ánh sáng, phát hiện ra khối đa diện bán nguyệt mới và đề xuất các nguyên tắc mới cho chiêm tinh học. Johannes Kepler sinh ra ở Weil der Stadt, Wurtemburg, Đức, vào ngày 27 tháng 12 năm 1571 và qua đời tại Regensburg (Regensburg ở Đức), thành phố nằm ở Bavaria của Đức, vào ngày 15 tháng 11 năm 1630. Ông lớn lên trong một gia đình Tin lành Lutheran, người từng có tiếng tăm, nhưng đã suy sụp khi Kepler chào đời. Cha của ông, Heinrich Kepler, là một lính đánh thuê phục vụ Công tước xứ Alba. Mẹ của anh, bà Katharina Guldenmann, là con gái của một chủ quán trọ và làm nghề chữa bệnh. Kepler là một đứa trẻ ốm yếu và lúc 3 tuổi, anh suýt chết vì bệnh đậu mùa, khiến anh bị suy giảm thị lực trong suốt cuộc đời. Tuy nhiên, anh đã vượt qua hậu quả của một tuổi thơ bất hạnh nhờ sự ngoan cường và thông minh của mình. Được thúc đẩy bởi cha mẹ, ngay từ khi còn nhỏ, anh đã đắm mình trong nghiên cứu và quan sát các ngôi sao và vũ trụ. Do hoàn cảnh kinh tế khó khăn của gia đình, anh phải nghỉ học để đi làm công nhân ban ngày, nhưng anh luôn là một học giả. Năm 1584, ông vào chủng viện Tin Lành Adelberg. Trí thông minh và niềm đam mê với Vũ trụ của anh ấy lớn đến mức anh ấy đã giành được học bổng để học tại Đại học Tübingen. Ở đó, ông nghiên cứu triết học, toán học, đạo đức, thiên văn học và vật lý, trong số những người khác. Sau đó, ông nghiên cứu khoa học và thần học của con người. Năm 1591, giáo sư của ông, nhà thiên văn học Michael Maestlin, đã dạy cho ông hệ thống nhật tâm của Nicolaus Copernicus, mâu thuẫn với hệ thống của Ptolemy. Năm 1594, ông đã ngừng các nghiên cứu thần học và đi du lịch đến Graz (Áo), nơi ông làm giáo sư toán học tại trường Tin lành. Trong thời gian làm giáo viên ở Graz, ông đã xuất bản một cuốn lịch với những dự đoán chiêm tinh. Vào tháng 7 năm 1595, Kepler đã có một tiết lộ quan trọng và đưa ra một giả thuyết hình học phức tạp để giải thích khoảng cách giữa các quỹ đạo hành tinh, kết luận rằng quỹ đạo của anh ta là hình elip. Ông tuyên bố rằng Mặt trời đã tạo ra một lực thúc đẩy các hành tinh di chuyển xung quanh quỹ đạo của chúng. Năm 1596, ông công bố một chuyên luận mang tên Bí ẩn vũ trụ, bảo vệ hệ thống Copernican. Trong đó, ông giải thích tất cả các học thuyết liên quan của mình về vũ trụ học với tầm nhìn của ông về sự tồn tại và trí tuệ của Thiên Chúa trong mô hình vũ trụ. Vào ngày 27 tháng 4 năm 1597, ông kết hôn với Barbara Müller. Ngay sau đó, một sắc lệnh của Archduke Ferdinand chống lại người Tin lành đã buộc ông rời khỏi Áo, và vào tháng 10 năm 1600, ông chuyển đến Prague do nhà thiên văn học người Đan Mạch Tycho Brahe tổ chức. Tycho Brahe là một nhà xây dựng toán học của đài thiên văn ở Prague, nơi các quan sát tốt nhất về Hệ mặt trời đã được thực hiện. Khi Kepler đến Prague, Tycho Brahe đưa cho anh ta nghiên cứu về quỹ đạo của Sao Hỏa. Brahe và Kepler đã đạt được một mối quan hệ hợp tác hoàn hảo mà không may bị gián đoạn bởi cái chết bất ngờ của Brahe. Khi Brahe qua đời vào năm 1602, Kepler đã thay thế ông trở thành một nhà toán học đế quốc của Rodolfo II và là một cố vấn chiêm tinh, một nghề nghiệp mà ông thường xuyên kêu gọi để sống sót. Một trong những công việc quan trọng nhất của ông trong giai đoạn này là Thiên văn học Nova, xuất bản tại Prague năm 1609, nơi ông giải thích kết quả nghiên cứu của mình trong suốt 5 năm để tính toán quỹ đạo của Sao Hỏa và sự chuyển động của hành tinh. Trong cuốn sách này, hai định luật Kepler đầu tiên được trình bày. Sau khi thực hiện một số nghiên cứu từ hai định luật đầu tiên của mình, ông đã liên hệ quỹ đạo của các hành tinh với nhau, còn được gọi là định luật về chuyển động hành tinh và xây dựng định luật thứ ba của mình. Năm 1612, người Luther bị trục xuất khỏi Prague, vì vậy Kepler chuyển đến Linz sau cái chết gần đây của vợ và hai con. Sau này anh tái hôn nhưng gặp nhiều vấn đề về cá nhân và tài chính. Năm 1617, mẹ của anh, bà Katharina bị buộc tội là phù thủy. Một phần nhờ vào sự bảo vệ pháp lý rộng rãi mà Kepler đã chuẩn bị cho cô, cô đã được thả ra vào tháng 10 năm 1621. Năm 1621, Kepler hoàn thành bảy tập sách giáo khoa về thiên văn học cuối cùng, tập hợp và mở rộng công việc của mình trên hệ thống Copernican. Khi vua Rudolph II qua đời và anh trai Matthias của Hapsburg lên ngôi, Kepler được bổ nhiệm làm giáo sư toán học ở Linz, nơi ông sống đến năm 1626. Năm 1627, ông đã hoàn thành các Bảng Rudolphine cung cấp các tính toán chính xác về vị trí tương lai của các hành tinh và cho phép dự đoán các sự kiện thiên văn hiếm gặp. Bị quấy rối bởi các khoản nợ, năm 1628, ông đã đến phục vụ một quý tộc quân đội Séc, Albrecht von Wallenstein, ở Sagan, Silesia, người hứa sẽ giúp ông trả các khoản nợ. Vài ngày trước khi chết, anh đã rời Silesia để tìm kiếm một công việc mới (Tiểu sử và cuộc sống, 2017). Ngôi mộ của ông đã bị phá hủy - hai năm sau khi ông qua đời - bởi quân đội Thụy Điển trong Chiến tranh ba mươi năm. Kepler mất gần tám năm để hiểu được sự chuyển động ngược của hành tinh sao Hỏa. Sử dụng các quan sát chi tiết của Brahe, anh nhận ra rằng các hành tinh di chuyển theo vòng tròn "kéo dài" được gọi là hình elip. Mặt trời không nằm chính xác ở trung tâm quỹ đạo của nó, mà di chuyển sang một bên, ở một trong hai điểm được gọi là trọng tâm. Một số hành tinh, như Trái đất, có quỹ đạo rất giống với một vòng tròn, nhưng quỹ đạo của Sao Hỏa là một trong những hình elip nhất. Việc các hành tinh di chuyển trên các đường elip được gọi là Định luật đầu tiên của Kepler. Kepler cũng nhận ra rằng một hành tinh di chuyển chậm hơn khi nó ở xa Mặt trời hơn khi nó ở gần. Khi nhận ra rằng các hành tinh di chuyển theo hình elip, anh ta xác định rằng một đường vô hình nối Mặt trời với một hành tinh có diện tích bằng nhau trong cùng một khoảng thời gian, đây là Định luật thứ hai của Kepler. Định luật thứ ba của Kepler đã được xuất bản một thập kỷ sau đó và ông nhận ra rằng mối quan hệ giữa thời kỳ của hai hành tinh - thời gian chúng quay quanh Mặt trời - tương ứng với khoảng cách của chúng với Mặt trời. Trong khi hai định luật đầu tiên của Kepler tập trung vào các chi tiết về sự chuyển động của một hành tinh, thì định luật thứ ba là so sánh giữa quỹ đạo của hai hành tinh. -Ông xác định rằng khúc xạ điều khiển tầm nhìn trong mắt và việc sử dụng hai mắt cho phép nhận thức sâu sắc. -Ông tuyên bố rằng trọng lực phụ thuộc vào hai cơ thể thay vì một, cho rằng Mặt trăng là nguyên nhân gây ra sự di chuyển của thủy triều trên Trái đất. -Ông đã đề cập đến sự quay của Mặt trời và tạo ra từ "vệ tinh". -Anh cố gắng sử dụng kiến thức của mình để đo khoảng cách đến các vì sao. -Ông đã có nhiều đóng góp cho toán học, bao gồm cả việc tạo ra các phương pháp tính toán nhanh hơn. -Ông là người đầu tiên giải thích các nguyên tắc hoạt động của kính viễn vọng. Ngoài việc giảng dạy toán học ở Graz, Kepler trở thành một nhà toán học quận. Ở vị trí này, ông đã xây dựng các lịch trong thời gian của mình nên bao gồm thông tin hữu ích cho cuộc sống hàng ngày của người dân. Thông tin bao gồm lời khuyên cho nông dân về thời điểm trồng cây, lời khuyên cho các nhà lãnh đạo về các chiến dịch quân sự, lời khuyên về các vấn đề lãng mạn, v.v. Vào thời của Kepler, có sự nhầm lẫn đáng kể cả trong cộng đồng nói chung và trong các trường đại học liên quan đến sự phân biệt giữa thiên văn học và chiêm tinh học. Là một phần của quá trình này, Kepler đã xuất bản một cuốn sách vào năm 1601 rằng "bác bỏ quan điểm mê tín dị đoan rằng các ngôi sao dẫn đường cho cuộc sống của con người" và dần dần bác bỏ các khía cạnh khác của chiêm tinh học. Để ghi nhận những đóng góp của Johannes Kepler đối với sự hiểu biết về sự chuyển động của các hành tinh, NASA đã đặt tên cho kính viễn vọng tìm kiếm hành tinh của mình để vinh danh nhà thiên văn học người Đức. Nhiều tác phẩm của Kepler phản ánh mong muốn sâu sắc của ông là làm chứng cho vinh quang của Thiên Chúa. Vào một dịp nọ, anh viết:. "Tôi chỉ đơn giản nghĩ về những suy nghĩ của Thiên Chúa sau Ngài. Vì chúng ta, các nhà thiên văn học là linh mục của Thiên Chúa tối cao đối với cuốn sách tự nhiên, điều đó có lợi cho chúng ta là chu đáo, chứ không phải là vinh quang của tâm trí chúng ta, hơn hết, vinh quang của Chúa ". "Tôi có thể tìm thấy Thiên Chúa, rằng trong sự suy ngẫm của toàn bộ vũ trụ, tôi gần như có thể cảm thấy trong tay, cũng là trong chính mình?. DeVore E. Kepler và Sao Hỏa - Hiểu cách các hành tinh di chuyển. Lấy từ không gian.com.
|
Các định luật Kepler về chuyển động thiên thể
|
Trong thiên văn học, những định luật của Kepler về chuyển động thiên thể là ba định luật khoa học miêu tả chuyển động trên quỹ đạo của các vật thể, ban đầu dùng để miêu tả chuyển động của các hành tinh trên quỹ đạo quay quanh Mặt Trời. Các hành tinh chuyển động quanh Mặt trời theo các quỹ đạo hình elíp với Mặt trời nằm ở một tiêu điểm. Đường nối một hành tinh với Mặt trời quét qua những diện tích bằng nhau trong những khoảng thời gian bằng nhau. Bình phương chu kỳ quỹ đạo của một hành tinh tỷ lệ với lập phương bán trục lớn của quỹ đạo elip của hành tinh đó. Johannes Kepler công bố hai định luật đầu tiên của ông vào năm 1609, sau khi phân tích các dữ liệu từ những quan sát lâu năm của Tycho Brahe. Một vài năm sau Kepler mới phát hiện ra định luật thứ ba và công bố nó vào năm 1619. Các định luật Kepler là những khám phá căn bản ở thời của ông, vì từ lâu các nhà thiên văn vẫn tin rằng quỹ đạo của các hành tinh có hình tròn hoàn hảo.
|
Tác phẩm được đăng trên Shōsetsuka ni Narō từ năm 2016 và được xếp hạng cao nhất vào ngày hôm đó, đồng thời nó cũng là cuốn Light Novel bán chạy nhất trong lịch sử của GA Novel. Sau đó, Light Novel đã được xuất bản tập 1 vào năm 2017 bởi nhà xuất bản SB Creative. Tác phẩm này cũng đã được chuyển nhượng bản quyền cho Yen Press tại Bắc Mĩ và Tsuki Lightnovel tại Việt Nam. Bộ Light Novel được chuyển thể thành manga và đăng trên GA Gan Gan bởi nhà xuất bản Square Enix. Azusa là một kẻ “cuồng công việc”, không yêu đương, không bạn bè, không niềm vui và sở thích, cô cống hiến cuộc đời mình cho công việc. Và kết quả là, Azusa chết vì làm việc quá sức. Nhờ phép màu, cô được tái sinh trong dáng hình của một phù thủy 17 tuổi trường sinh bất lão. Quyết tâm sống thật khác kiếp trước, Azusa nhàn nhã diệt slime suốt 300 năm và đã vô tình đạt level max. Sức mạnh đi đôi với những phiêu lưu mạo hiểm mới mà Azusa chưa từng đối mặt trong đời. Nhưng cũng giờ đó cô có được niềm vui, có bạn vè và gia đình mới…. Một anime truyền hình đã được thông báo trong buổi phát trực tiếp của sự kiện “GA Fes 2019” được tổ chức vào 19 Tháng 10, 2019. Series được thực hiện bởi studio Revoroot và đạo diễn bởi Nobukage Kimura, với sự tham gia của Tatsuya Takahashi, Keisuke Goto thiết kế các nhân vật và Keiji Inai sáng tác nhạc cho bộ phim. Bộ phim được công chiếu vào ngày 10 tháng 4 năm 2021 trên AT-X, Tokyo MX, và BS11. Crunchyroll cấp phép cho bộ truyện bên ngoài châu Á. Ở Đông Nam Á và Nam Á, Muse Communication đã cấp phép cho loạt phim này và sẽ phát trực tuyến trên iQIYI, Bilibili, CATCHPLAY+, và các nền tảng khác. Công ty cũng đã cấp phép anime cho Animax Asia để phát sóng trên TV.
|
Diệt Slime suốt 300 năm, tôi level MAX lúc nào chẳng hay
|
Diệt Slime suốt 300 năm, tôi level MAX lúc nào chẳng hay (Nhật: スライム倒して300年、知らないうちにレベルMAXになってました, Hepburn: Suraimu taoshite sanbyaku nen, shiranai uchi ni Reberu Makkusu ni nattemashita) là một bộ light novel Nhật Bản do Morita Kisetsu sáng tác và Benio vẽ tranh minh họa. Tác phẩm được đăng trên Shōsetsuka ni Narō từ năm 2016 và được xếp hạng cao nhất vào ngày hôm đó, đồng thời nó cũng là cuốn light novel bán chạy nhất trong lịch sử của GA Novel. Sau đó, light novel đã được xuất bản tập 1 vào năm 2017 bởi nhà xuất bản SB Creative. Tác phẩm này cũng đã được chuyển nhượng bản quyền cho Yen Press tại Bắc Mĩ và Tsuki Lightnovel tại Việt Nam. Bộ light novel được chuyển thể thành manga và đăng trên GA Gan Gan bởi nhà xuất bản Square Enix. Azusa là một kẻ "cuồng công việc", không yêu đương, không bạn bè, không niềm vui và sở thích, cô cống hiến cuộc đời mình cho công việc. Và kết quả là, Azusa chết vì làm việc quá sức. Nhờ phép màu, cô được tái sinh trong dáng hình của một phù thủy 17 tuổi trường sinh bất lão.
|
Trên thế giới từ trước đến hết thế kỉ XX hễ nói tới văn học sử thế giới, hầu hết đều lấy văn học cổ đại Hy Lạp làm khởi điểm. Ở Việt Nam, cho đến nay, trong các bộ giáo trình lí luận văn học ở đại học, cũng như SGK phổ thông, môi khi nói đến thể loại sử thi, người ta đều nhắc đến các tác phẩm vĩ đại như Iliade, Odysee của Hy Lạp, Ramayana, Mahabharata của Ấn Độ, mà ít khi nhắc đến Gilgamesh, sử thi thời kì Sumer, vùng Lưỡng Hà. Đây là tác phẩm sử thi anh hùng cổ xưa nhất thế giới của Babylon, thuộc văn hóa Lưỡng Hà. Nội dung kể truyền thuyết về vị vua Uruc, sống vào khoảng 2700 đến 2500 năm trước Công nguyên, văn bản có sớm hơn văn bản được coi là sớm nhất trước nay khoảng 400 năm. Văn bản sử thi được ghi bằng bốn thứ tiếng, được khắc trên những tấm đất sét. Nó xuất hiện vào thời vương triều Uruc thứ ba, ghi bằng văn tự hình nêm. Vào khoảng 2150 đến 2000 năm trước công nguyên, sau đó lưu truyền đến thời Babylon cổ đại. Năm 1849 nhà khảo cổ Anh Austen Henry Layard cùng trợ thủ người Arập là Hormuzd Rassam phát hiện thấy thư viện cổ của vua Yasu đã đổ nát. Sau khi khai quật phát hiện có nhiều tấm đất sét, ghi bằng văn tự hình nêm, trong đó có Sử thi Gilgamesh. Các bản đất sét được đem về lưu trữ ở Thư viện hoàng gia Anh, chờ người giải mã. Năm 1872, George Smith phát hiện trong đó có nhiều phiến đoạn kể về trận đại hồng thủy cổ đại, từ đó mới được mọi người chú ý. Smith cho biết sử thi Gilgamesh do pháp sư Sin-liqe-unninni biên soạn, theo ngôn ngữ Acat gồm 11 tấm đất sét, có trên 3600 dòng, vào khoảng 1300 đến 1000 năm trước công nguyên. Về sau tìm thấy văn bản 12 tấm và coi đó là bản chuẩn. Đến đầu thế kỉ XX văn tự hình nêm được giải mã. Đến năm 1920 văn bản được giải mã và phiên dịch toàn bộ, từ đó, tác phẩm tham gia vào kho tàng văn học thế giới, được dịch thành nhiều thứ tiếng. Do phát hiện muộn, cho nên các học giả lớn như Hegel, K. Marx, Engels trong các công trình nửa đầu thế kỉ XIX đều không biết đến sử thi này. Giá trị của Gilgamesh không chỉ là tác phẩm sử thi cổ xưa nhất của nhân loại, góp phần khẳng định vai trò văn hóa châu Á dối với loài người. Trong nội dung, các chi tiết về chiếc thuyền vuông, trận đại hồng thủy, sự tích sáng thế, chuyện cây cỏ tiên, gợi lại nhiều chi tiết như thuyền vuông Nôe trong Kinh Thánh, có thể nói nó là một cội nguồn của Kinh Thánh. Về văn hoá, sử thi này thể hiện tập trung hàng loạt mẫu gốc của thần thoại Sumer. Về thể loại tác phẩm này tiêu biểu cho loại sử thi anh hùng, anh hùng là kẻ chiến thắng cái chết. Các chủ đề về quan hệ giữa con người và thần linh, vua hiền và bạo chúa, tình bạn và tình yêu, con người và thế giới đều được thể hiện sớm nhất và rất đặc sắc. Có thể do dung lượng không lớn, 3600 dòng, chỉ nhỉnh hơn Truyện Kiều, cho nên nhiều nhà khoa học không coi trọng đầy đủ về nó. Lịch sử văn học thế giới của Liên Xô tập I trước đây chỉ nêu nó trong văn học Lưỡng Hà nói chung. Nhiều bộ lịch sử văn học thế giới gần đây đã xếp đúng vị trí của nó trong văn hóa nhân loại. Do ở Việt Nam chưa có bản dịch chúng tôi xin tóm tắt để giới thiệu với bạn đọc. Nhân vật chính của sử thi là vua Gilgamesh, người cai trị thành phố cổ Uruk vào khoảng hai ngàn bảy trăm năm trước Công nguyên. Ông là vị vua thứ năm của Uruk. Sử thi này viết:. Có bản dịch nói, nhà vua hùng mạnh khi mới lên ngôi đã tỏ ra là một bạo chúa thập thành. Chàng bắt bớ đàn ông, độc chiếm phụ nữ, bắt dân lao dịch để xây dựng thành quách, lâu đài, khiên người dân vô cùng cực khổ. Người dân cầu nguyện các vị thần trên trời xuống cứu mình. Người giám hộ xứ Uruk là nữ thần Ishtar nghe lời kêu than của người dân, đã tạo ra một anh hùng bằng đất bùn là Engidu để đối phó với chàng ta. Engidu có sức mạnh heo rừng, dũng cảm như sư tử, nhanh nhẹn như chim cắt. Suốt ngày anh bạn bè với cầm thú, đùa vui với tôm cá dưới biển. Gilgamesh nghe nói có một nhân vật như vậy, chàng muốn gặp mặt xem sao, nhưng dù dùng lưới hay dùng bẫy đều không bắt được Engidu. Sau đó Gilgamesh chọn một mụ phù thủy đẹp nhất đem đến nói với người thợ săn: Hãy đi tìm một nơi có nước, có cỏ, khi thấy Engidu thì khêu gợi hắn, thế nào hắn cũng mê. Khi đã mê rồi thì bạn bè sẽ rời bỏ hắn. Người thợ săn đem phù thuỷ đi và gặp Engidu. Engidu ở với phù thuỷ sáu ngày bảy đêm, quả nhiên bạn bè của anh bỏ đi hết. Engidu bắt đầu cảm thấy cô đơn. Sau đó, phù thủy nói với anh: “Anh là con của Thần, là lá ngọc cành vàng, thế mà lại làm bạn với thú vật, khiến mọi người xấu hổ. Hãy về với tôi, tôi sẽ đưa anh đến Uruk, vua gọi là Gilgamesh, người có sức mạnh vô biên. Người dân thành phố Uruk, tưởng rằng người anh hùng sẽ tiêu diệt tên bạo chúa, không ngờ sau khi Gilgamesh và Engidu chiến đấu, dùng hết tất cả tài nghệ mà không ai thắng ai. Hai người khâm phục nhau, kết bạn với nhau, cùng phấn đấu vì lợi ích của người dân, và trở thành những anh hùng được dân yêu mến. Điều làm cho người dân Uruk cảm thấy hài lòng là vua Gilgamesh và Engidu cùng thề nguyện phụng sự người dân Uruk, vì họ trừ hại. Từ đó Gilgamesh trở thành một quốc vương thân dân. Để đảm bảo an toàn cho quê hương, hai người tiến đánh Elam. Sau khi thắng lợi trở về, Gilgamesh tự tay cởi áo bào cho Engidu, đội vòng nguyết quế cho bạn, tuyên bố Engidu sẽ là kế vương của mình. Ngay sau đó, Gilgamesh đề xuất chuyến thám hiểm đến vùng đất rừng sâu tuyết tùng, để đem vật liệu về xây dựng Uruk. Nhưng Engidu biết ở đó có con quái vật Humbaba bảo vệ, việc này rất nguy hiểm, nên từ chối Gilgamesh. Engidu nghe những lời của người bạn, quyết định đi với chàng đến sống ở vùng núi Humbaba. Sau một cuộc chiến đấu gian khổ, cuối cùng hai anh hùng đã tiêu diệt được quái vật, sở hữu rừng tuyết tùng quý hiếm. Nhân vật Gilgamesh đã thay đổi hoàn toàn về phẩm chất, và hoàn thành các sự nghiệp anh hùng vĩ đại, khiến cho nữ thần Ishtar đem lòng yêu anh. Nhưng Gilgamesh đã từ chối nữ thần. Ishtar tức giận, thần đã thuyết phục thần Anu, gửi một trong những con bò thần hung dữ nhất xuống tiêu diệt Gilgamesh. Bò thần phun ngọn lửa nóng, một hơi thiêu chết cả nghìn người. Thật bất ngờ, có Engidu hỗ trợ Gilgamesh, hai người hợp sức giết chết con bò thần. Nữ thần thấy Gilgamesh không hề hấn gì, lại càng tức giận. Lúc đó Engidu đột nhiên ném một chân con thú vào mặt nữ thần. Mọi người không thể nhịn cười được. Nhưng xúc phạm thần là tội không thể tha thứ. các vị thần không thể chịu được. Ishtar ném ra một loại bệnh, Engidu lập tức ngã bệnh chết liền. Gilgamesh thấy Engidu chết, ôm xác bạn mà khóc. Chàng yêu bạn hơn bất cứ ai trên thế gian. Sau khi chôn cất bạn long trọng, Gilgamesh ra một lời nguyền sẽ làm cho bạn sống lại. Ông bắt đầu suy nghĩ: Chết nghĩa là gì ? Con người có thể bất tử được không? Có ai biết được bí quyết để sống mãi? Cuối cùng, ông nghĩ rằng để có câu trả lời, cần đi tìm tổ tiên Shamash-Napishtim của mình, bởi vì ông là người duy nhất thoát chết sau cơn đại hồng thuỷ. Gilgamesh quyết định đi khắp chân trời gọc bể để tìm cho được ông tổ của mình. Chàng được biết ông tổ Shamashi Napíhtim sống ở phía bên kia núi. Nhưng muốn đến đó, chàng phải đi qua một trạm kiểm soát của hai người khổng lồ. Hai gã khổng lồ, người đứng đầu chạm trời, chân dẫm đất, không thể nào vượt qua được. Gilgamesh gặp người khổng lồ, chàng đem việc cứu bạn của mình nói cho khổng lồ biết. Không ngờ hai ông khổng lồ đồng cảm với chàng, để cho chàng qua. Nhưng chàng phải chui qua một cái đường hầm dài hun hút, tối như mực dưới biển. Nhưng Gilgamesh không quản ngại. Khi chàng mò mẫm trong bóng tối, ra khỏi đường hầm, thì trước mắt là một biển rộng vô biên. Phụ trách biển ấy là nữ thần Sabitu, bà cho biết Shamashi Napíshtim sống trong thiên đường ở phía bên kia của biển. Gilgamesh yêu cầu Lapitu Hãy chở tôi đến đó, bởi nếu bạn của tôi không thể hồi sinh, thì tôi chỉ có một cái chết nữa thôi. Nữ thần xúc động, đem một chiếc thuyền giúp chàng vượt biển. Sau bốn mươi ngày vượt biển, cuối cùng chàng đến vườn thượng uyển, gặp Shamashi Napishtim. Gilgamesh nói: “Ông tổ của tôi ơi, xin người vui lòng cho tôi biết bí mật của cái chết, tôi muốn cứu bạn của tôi Engidu.” Shamashi Napishtim trả lời:. Trong thời cổ xưa, thế giới còn hỗn độn, tên của nó gọi là Tiamat. Lúc đó, Enlil xuất hiện. Khi Tiamat mở miệng lớn định nuốt sống Enlil, Enlil liền ném một viên thuốc vào miệng của nó, làm cho bụng nó phình to. Enlil cầm cây lao ném vào bụng nó, gây nên một tiếng nổ lớn. Sau đó, Tiamat tách ra làm hai nửa, một nửa trên đầu là trời, nửa dưới là đất. Enlil trở thành người chinh phục sự hỗn độn và là vị chúa tể tạo ra trời và đất. Enlil trộn đất với máu của mình tạo ra người đàn ông và đàn bà, từ đó loài người phụ trách cúng tế các vị thần. Sau đó, con người làm các thần tức giận, do đó Thần sai nước lũ dâng lên để tiêu diệt tất cả mọi người và mọi thứ của con người làm nên. Tuy nhiên, nữ thần của trí tuệ Ea không thể chấp nhận được việc tiêu diệt hoàn toàn loài người, bà ra lệnh Shamashi Napishtim làm một chiếc thuyền vuông, khi nước lụt tràn đến thì ông và vợ cùng gia súc đã lên thuyền. Khi đại hồng thủy đến, mọi sự sống trên mạt đất bị diệt hết, các vị thần bắt đầu hối tiếc: “Không có con người, làm sao chúng ta có được đồ cúng lễ như trước?”. Sau mười ngày, cơn lũ rút hết, thuyền vuông của Shamashi Napisshtim đỗ trên đỉnh núi Sini. Ông mở cửa thuyền, thả chim bồ câu ra, đem gia súc làm lễ cũng thần, cảm tạ thần linh duy trì sự sống của mình với vợ. Các thần ngửi thấy mùi đồ cúng, rất lấy làm ngạc nhiên và cảm kích. Họ đã đến hưởng dụng và quyết định để cho Shamashi Napishtim được bất tử. Shamashi Napishtim kể xong câu chuyện nạn Hồng Thủy, Gilgamesh hỏi: “Vị thần nào đã làm cho người những việc tốt đó?”, nhưng ông không trả lời và khuyên Gilgamesh hãy từ bỏ những ước mơ bất tử hão huyền, ngoan ngoãn trở về quê hương. Nhưng Gilgamesh vẫn tiếp tục làm phiền cụ tổ, chàng cầu xin ông chỉ cho cách khác. Cuối cùng, Shamashi Napishtim nói với Gilgamesh, dưới biển sâu có một loài cỏ tiên, tuy không phải là bất tử, nhưng cũng làm cho người ta cải lão hoàn đồng, trẻ mã không già. Gilgamesh rời hòn đảo của cụ tổ, vượt qua muôn trùng khó khăn, cuối cùng tìm thấy tiên thảo. Chàng vui sướng lên đường về quê, nghĩ bụng sẽ cùng hưởng với người dân trong nước. Vì đường còn dài, khi đi qua một con sông chàng xuống tắm để xua tan mệt mỏi, quần áo hành lí để cả trên bờ. Không ngờ một con rắn xảo quyệt bò đến ăn mất toàn bộ cỏ tiên. Kể từ đó, mỗi năm con rắn lột xác một lần trẻ lại. Nhưng con người thi không thể, cam chịu cái chết già. Chàng vào đền thờ cầu xin các vị thần để cho người bạn sống lại một thời gian, bởi vì chàng có rất nhiều điều muốn nói. Vị thần hiểu lòng Gilgamesh, nên để Engidu sống lại. Hai được gặp lại, vui mừng không sao nói hết. Đang vui chuyện, Gilgamesh hỏi: Cái chết như thế nào? Engidu trả lời: “Điều đó không thể nói được. Nếu tôi nói, bạn nghe sẽ ngã xuống chết liền. Engidu đã kể câu chuyện cái chết nơi địa ngục cho chàng nghe. Phần này không liên quan với mạch truyện, có thể do người sau gán vào.
|
Sử thi Gilgamesh
|
Sử thi Gilgamesh là một thiên anh hùng ca Lưỡng Hà, thường được xem là tác phẩm văn học cổ nhất còn tồn tại và là thư tịch tôn giáo lâu đời thứ hai, chỉ sau Văn tự Kim tự tháp. Sử thi Gilgamesh khởi nguồn từ năm bài thơ Sumer về Bilgamesh (Tiếng Sumer của "Gilgamesh"), vua của Uruk, có niên đại từ Triều đại thứ ba của Ur (k. 2100 BC). Người Akkad sau này đã sử dụng chất liệu từ các câu chuyện độc lập này để soạn thành Sử thi Gilgamesh. Phiên bản đầu tiên còn sót lại của thiên sử thi hợp nhất này, được gọi là phiên bản "Cổ Babylon" có từ thế kỷ 18 trước Công nguyên và được đặt tên theo incipit (lời mở đầu) của nó, Shūtur eli sharrī ("Vượt qua tất cả các vị vua khác"), chỉ còn lại một vài phiến đất sét. Các phiên bản "chuẩn" sau này được biên soạn bởi Sin-lēqi-unninni, trong khoảng từ thế kỉ 13 đến thế kỷ 10 trước Công nguyên và có incipit Sha naqba īmuru ("Người đã Nhìn thấy Vực thẳm", trong thuật ngữ hiện đại: "Người Thấy Những điều chưa biết").
|
Tham Quan Cung Điện Mandalay – Chiêm Ngưỡng Kiến Trúc Độc Đáo Của Cung Điện Hoàng Gia 3.1 Dạo quanh tham quan cung điện3.2 Tham quan các tòa nhà3.3 Pháo đài trong cung điện3.4 Chùa gỗ Shweinbin3.5 Tham quan chùa Mahamuni. Kinh Nghiệm Tham Quan Mandalay Palace – Cung Điện Hoàng Gia Mandalay Myanmar4.1 Đến cung điện Mandalay như thế nào?4.2 Tham quan cung điện Mandalay trong thời gian nào?4.3 Tham quan cung điện Mandalay trong bao lâu?. Cách Yangon khoảng 700 km về phía bắc, Mandalay là vùng kết nối giao thông giữa Ấn Độ, Trung Quốc với phía nam của Myanmar. Mandalay từng là nơi được vị vua Midon chọn để xây dựng cung điện, thành lập thủ đô mới của đất nước. Hãy cùng dichoimyanmar.com tìm hiểu xem cung điện Mandalay Myanmar có điểm nào thú vị nhé!. Lớn thứ hai sau Yangon, Mandalay là trung tâm thương mại nhộn nhịp và một kho lưu trữ văn hóa Myanmar cổ đại. Được đánh giá là một phòng trưng bày nghệ thuật và kiến trúc Myanmar. Mandalay nổi tiếng với nghệ thuật chạm khắc đá, gỗ, bạc, đúc đồng, làm vàng lá, thảm trang trí, vải lụa, nghệ thuật và thủ công truyền thống khác. Cung điện Hoàng gia Mandalay nằm trong một khuôn viên vuông vức rộng 413 ha. Cung điện này nổi tiếng ở hệ thống tường thành được xây dựng kiên cố, tinh xảo và hào nước đẹp bao quanh. Cung điện bằng gỗ được xây dựng năm 1857-1859, khi vua Mindon đưa thủ đô từ Amarapura về Mandalay. Được xây dựng dựa trên những tính toán thiên văn và điềm tốt lành ngay dưới chân đồi Mandalay. Là nơi ở của hai vị vua cuối cùng: Mindon và Thibaw. Cung điện kiêm chức năng pháo đài này có hệ thống tường thành dài 2 km, cao 8 m, dày 3 m, với 48 bệ phóng pháo. Thành có 12 cửa đại diện cho 12 dấu hiệu hoàng đạo. Mỗi mặt tường có 3 cửa được chia với khoảng cách đều giữa cửa và các góc. Phía ngoài có một hào nước rộng 64 m, sâu 4,5 m bao quanh. Người ta tin rằng, phía dưới hào nước trước đây còn có hệ thống chông, gai. Nhằm bẫy kẻ thù trong trường hợp bị tấn công. Thiết kế tỉ mỉ như vậy đã tạo nên bức tường thành bảo vệ bên trong hoàng cung khỏi sự xâm chiếm của kẻ thù. Dù toàn bộ cung điện phía trong bị thiêu rụi vì bom trong thế chiến 2. Nhưng hệ thống tường và hào nước bên ngoài vẫn tồn tại đến ngày nay. Năm 1989, chính phủ Myanmar đã cho phục dựng lại nội thất hoàng cung. Và đến nay, sau khi được hoàn thành. Cung điện Madalay trở thành điểm đến du lịch Myanmar hấp dẫn du khách. Để chiêm ngưỡng và hiểu được nét độc đáo của kiến trúc cung điện. Ta hãy cùng xem qua những điểm tham quan nổi bật trong cung điện Mandalay Myanmar này:. Cung điện Mandalay đã có từ rất lâu đời nhưng vẫn giữ được nét uy nghi trang trọng. Chiêm ngưỡng những tòa nhà có cùng chiều cao nằm ở trong khuôn viên cung điện. Với lối kiến trúc đặc trưng của cung điện Hoàng gia Mandalay. Nằm phía bên ngoài gần khu vực cung điện Mandalay là ngôi chùa được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ tếch. Ngôi chùa nằm phía ngoài khu vực lân cận cung điện – Nơi có bức tượng Phật dát vàng uy nghiêm. Không hổ danh là kho tàng lưu giữ văn hóa Miến Điện cổ đại, Madalay không chỉ có cây cầu gỗ lâu đời nhất thế giới. Những ngôi chùa, bảo tàng lưu trữ bảo vật quốc gia hàng ngàn năm. Nơi đây còn là nơi lưu lại văn hóa kiến trúc cố đô xưa rất đáng tự hào mà cung điện Hoàng gia Mandalay chính là một điểm đến như thế. Để đến được đây, bạn có thể sử dụng phương tiện taxi hoặc xe bus, xích lô hoặc những chuyến xe Madza pick – up. Thời tiết ở Mandalay có cả mùa mưa, mùa nắng và mùa khô. Vì vậy thời điểm thích hợp nhất để tham quan cung điện Mandalay là vào những ngày khô ráo. Khoảng giữa tháng 11 đến tháng 2 năm sau. Bạn nên dành ít nhất từ 1-3 giờ hoặc nửa ngày để tham quan cung điện Mandalay. Và kết hợp tham quan những địa điểm du lịch nổi tiếng ở khu vực lân cận. Có lẽ những thông tin trên đã cung cấp cho bạn đủ vốn kiến thức để tự mình tham quan cung điện Mandalay Myanmar rồi nhỉ. Nếu có dịp đến Myanmar bạn hãy đến thăm cung điện này một lần nhé! dichoimyanmar.com chúc bạn có một chuyến du lịch Myanmar vui vẻ và có những trải nghiệm tuyệt vời.
|
Cung điện Mandalay
|
Cung điện Mandalay (tiếng Miến Điện: မန္တလေး နန်းတော်, phát âm ), tọa lạc tại Mandalay, Myanmar, là cung điện hoàng gia của chế độ quân chủ Miến Điện cuối cùng. Cung điện được xây dựng từ năm 1857 đến năm 1859 như một phần trong quá trình vua Mindon thành lập kinh đô hoàng gia Mandalay mới. Sơ đồ cung điện Mandalay phần lớn tuân theo thiết kế cung điện truyền thống của Miến Điện, bên trong một vòng tường phòng thủ bao quanh bởi một con hào. Cung điện nằm ở trung tâm kinh đô và quay mặt về hướng đông. Tất cả các tòa kiến trúc của cung điện đều có chiều cao một tầng. Số lượng các ngọn tháp phía trên một tòa kiến trúc phản ánh tầm quan trọng của khu vực bên dưới. Cung điện Mandalay là dinh thự hoàng gia chính của vua Mindon và vua Thibaw, hai vị vua cuối cùng của đất nước. Khu phức hợp không còn là nơi ở của hoàng gia và trụ sở chính phủ vào ngày 28 tháng 11 năm 1885 khi, xuyên suốt Chiến tranh Anh-Miến Điện lần thứ ba, quân của Lực lượng Thực địa Miến Điện tiến vào cung điện và bắt giữ hoàng tộc.
|
Hàng tồn kho là một tài khoản tài sản ngắn hạn được tìm thấy trên bảng cân đối kế toán, bao gồm tất cả các nguyên vật liệu thô, sản phẩm dở dang và thành phẩm mà một công ty đã tích lũy được. Nó thường được coi là có tính thanh khoản kém nhất trong tất cả các tài sản lưu động và do đó, nó bị loại ra khỏi tử số trong phép tính hệ số thanh toán nhanh. Số dư cuối kỳ của hàng tồn kho trong một kỳ phụ thuộc vào khối lượng hàng bán mà công ty thực hiện trong mỗi kỳ. Doanh thu cao hơn (và do đó giá vốn hàng bán cao hơn) dẫn đến việc tiêu hao tài khoản hàng tồn kho. Giải thích khái niệm cho điều này là nguyên vật liệu thô, sản phẩm dở dang và thành phẩm (tài sản lưu động) được chuyển thành doanh thu. Giá vốn hàng hóa được chuyển đến báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh thông qua tài khoản Giá vốn hàng bán (COGS). Hàng tồn kho cuối kỳ cũng được xác định theo phương pháp kế toán Giá vốn hàng bán. Có bốn phương pháp tính toán hàng tồn kho chính: Đó là FIFO ( "Nhập trước, Xuất trước"), LIFO ( "Nhập sau cùng, Xuất trước"), Trung bình có Gia quyền và Phương pháp Nhận dạng Cụ thể. Tất cả những điều này đều có những tiêu chí nhất định được áp dụng và một số phương pháp có thể bị cấm ở một số quốc gia nhất định theo các chuẩn mực kế toán nhất định. Trong thời kỳ lạm phát, LIFO sẽ tạo ra Giá vốn hàng bán cao hơn so với phương pháp FIFO. Do đó, sử dụng phương pháp LIFO sẽ tạo ra số dư hàng tồn kho thấp hơn so với phương pháp FIFO. Điều này phải được ghi nhớ khi một nhà phân tích đang phân tích tài khoản hàng tồn kho. Loại hệ thống kế toán được sử dụng ảnh hưởng đến giá trị của tài khoản trên bảng cân đối kế toán. Hệ thống kiểm kê định kỳ xác định giá trị LIFO, FIFO hoặc Bình quân gia quyền vào cuối mỗi kỳ, trong khi hệ thống vĩnh viễn xác định giá trị sau mỗi giao dịch. Do khoảng thời gian khác nhau và khả năng chi phí khác nhau, việc sử dụng một hệ thống khác sẽ dẫn đến một giá trị khác. Các nhà phân tích phải tính đến sự khác biệt này khi phân tích các công ty sử dụng các hệ thống kiểm kê khác nhau. Số dư hàng tồn kho trung bình giữa hai thời kỳ là cần thiết để tìm tỷ lệ vòng quay, cũng như để xác định số ngày trung bình cần thiết cho vòng quay hàng tồn kho. Trong các tính toán này, doanh thu thuần hoặc giá vốn hàng bán có thể được sử dụng làm tử số, mặc dù tử số thường được ưu tiên hơn, vì đây là cách thể hiện trực tiếp hơn giá trị của nguyên vật liệu thô, sản phẩm dở dang và hàng hóa sẵn sàng. Doanh thu các khoản phải trả yêu cầu giá trị mua hàng là tử số. Điều này được liên kết gián tiếp với tài khoản hàng tồn kho, vì việc mua nguyên vật liệu thô và sản phẩm dở dang có thể được thực hiện theo hình thức tín dụng - do đó, tài khoản phải trả sẽ bị ảnh hưởng. Ghi giảm hàng tồn kho là một quy trình kế toán được sử dụng để ghi giảm giá trị hàng tồn kho và được yêu cầu khi giá trị thị trường của hàng tồn kho giảm xuống dưới giá trị ghi sổ trên bảng cân đối kế toán. Một doanh nghiệp không thể tránh được việc dự trữ hàng tồn kho trừ khi công ty sử dụng chiến lược hàng tồn kho "Đúng lúc". Tuổi thọ của khoảng không quảng cáo phụ thuộc phần lớn vào nó là gì. Hàng tồn kho dư thừa, được lưu trữ tại một thời điểm nào đó sẽ gần hết tuổi thọ và do đó, dẫn đến hàng hóa hết hạn sử dụng hoặc không bán được. Trong trường hợp này, một khoản ghi giảm được ghi lại bằng cách giảm giá trị của khoảng không quảng cáo hoặc loại bỏ hoàn toàn. Hàng hóa bị hư hỏng trong quá trình sản xuất hoặc khi vận chuyển cũng góp phần vào việc ghi giảm hàng tồn kho. Các nguyên nhân phổ biến khác của việc ghi giảm hàng tồn kho là do hàng hóa bị mất cắp và hàng tồn kho được sử dụng làm hàng trưng bày trong cửa hàng (hàng hóa trưng bày không phù hợp để tiêu thụ). Việc ghi giảm hàng tồn kho được coi là một khoản chi phí, làm giảm thu nhập ròng. Việc ghi giảm cũng làm giảm vốn chủ sở hữu. Điều này cũng ảnh hưởng đến vòng quay hàng tồn kho cho các kỳ tiếp theo. Đầu tiên, kế toán cần xác định quy mô giảm của hàng tồn kho. Nếu nó tương đối nhỏ, kế toán có thể tính giảm giá vốn hàng bán của công ty. Việc này được thực hiện bằng cách ghi có vào tài khoản hàng tồn kho và ghi nợ vào giá vốn hàng bán. Nếu mức giảm lớn hơn thì kế toán giảm giá trị hàng tồn kho bằng cách ghi có vào tài khoản hàng tồn kho và ghi nợ vào tài khoản như "ghi giảm hàng hóa bị hư hỏng".
|
Xác định cụ thể (hàng tồn kho)
|
Xác định cụ thể là một phương pháp xác định chi phí hàng tồn kho cuối kỳ. Nó đòi hỏi một số lượng vật lý chi tiết, để công ty biết chính xác có bao nhiêu hàng hóa được mang vào những ngày cụ thể vẫn còn tồn kho vào cuối năm. Khi tìm thấy thông tin này, số lượng hàng hóa được nhân với chi phí mua hàng của họ vào ngày mua hàng của họ, để lấy số cho chi phí hàng tồn kho cuối kỳ. Về lý thuyết, phương pháp này là phương pháp tốt nhất, vì nó liên quan đến hàng tồn kho cuối kỳ trực tiếp với giá cụ thể mà chúng được mua. Tuy nhiên, phương pháp này cho phép quản lý dễ dàng thao tác chi phí hàng tồn kho cuối kỳ, vì họ có thể chọn báo cáo rằng hàng hóa rẻ hơn đã được bán trước, do đó tăng chi phí hàng tồn kho cuối kỳ và giảm giá vốn hàng bán. Điều này sẽ làm tăng thu nhập. Ngoài ra, quản lý có thể chọn để báo cáo thu nhập thấp hơn, để giảm thuế mà họ cần phải trả. Phương pháp này cũng rất khó sử dụng trên hàng hóa có thể hoán đổi cho nhau.
|
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đang là xu thế của thời đại. Nhất là hiện nay khi Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập toàn phần với thế giới. Thực tế đó đã khẳng định rằng bất kỳ ngành công nghiệp nào cũng cần đến tự động hóa nếu muốn hội nhập và phát triển vào thị trường toàn cầu. Tự động hóa là việc tạo ra và ứng dụng các công nghệ để sản xuất, cung cấp hàng hóa và dịch vụ với sự can thiệp tối thiểu của con người. Việc thực hiện các công nghệ, kỹ thuật và quy trình tự động hóa nâng cao hiệu quả, độ tin cậy và / hoặc tốc độ của nhiều tác vụ mà trước đây con người thực hiện. Khái niệm “Tự động hóa” (Automation) có lẽ sẽ quen thuộc với những ai làm về kỹ thuật. Bắt nguồn từ “Tự động” (Automatic) và dần trở nên phổ biến từ năm 1947, khi tập đoàn General Motors của Mỹ thành lập Bộ phận Tự động hóa. Tự động hóa (automation) là ứng dụng công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất công nghiệp nhằm chuyển hầu hết hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất của con người cho máy móc. (Nguồn: Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân). Nói tóm lại, bản chất của tự động hóa là ứng dụng công nghệ vào sản xuất nhằm tối ưu hóa chi phí mà mang lại hiệu quả cao. Hiện nay, tự động hóa được ứng dụng trong đa lĩnh vực như sản xuất, vận tải, tiện ích, quốc phòng, cơ sở vật chất, hoạt động và gần đây là công nghệ thông tin. Tự động hóa mang con người đến với nền văn minh công nghiệp. Công nghệ tự động hóa công nghiệp giúp các doanh nghiệp tăng cường an toàn, tiết kiệm thời gian, thúc đẩy sản xuất chất lượng, giảm giám sát và hạ giá thành. Tất cả những lợi ích này đưa các công ty đến năng suất cao hơn, hiệu quả cao hơn và lợi nhuận nhiều hơn. An toàn tại nơi làm việc là một vấn đề quan trọng để bảo vệ nhân viên, nhà cung cấp và khách hàng của doanh nghiệp. Tự động hóa có thể giúp tăng cường các quy trình an toàn bằng cách trang bị thêm các thiết bị cũ hơn. Điều này cho phép máy móc tự động thực hiện các tác vụ mà không cần nhiều sự can thiệp của con người. Thông thường, công nghệ tự động hóa công nghiệp cho phép các dây chuyền sản xuất và các quy trình khác của cơ sở hoạt động hiệu quả và đáng tin cậy hơn. Điều này có nghĩa là công ty có thể sản xuất các sản phẩm và dịch vụ nhanh hơn, đáp ứng hoặc vượt quá mong đợi của khách hàng. Sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp nhanh hơn chẳng có nghĩa lý gì nếu doanh nghiệp đưa lỗi hoặc các vấn đề chất lượng vào quy trình của mình. Vẻ đẹp của nó là nó không chỉ đẩy nhanh quá trình sản xuất mà còn giảm thiểu các vấn đề về dây chuyền. Nhờ đó, chất lượng sản phẩm của sẽ cao, hạn chế tối đa sai sót trong quá trình sản xuất. Đây là tất cả những gì tiên tiến mà tự động hóa công nghiệp mang lại. Tự động hóa công nghiệp là một cách hiệu quả hơn nhiều để giám sát tài sản và thiết bị. Trong nhiều trường hợp, công nghệ có thể cung cấp khả năng giám sát suốt ngày đêm, cũng như ghi lại dữ liệu theo các khoảng thời gian được lập trình mà không cần sự tương tác của con người. Điều đó có nghĩa là các kỹ thuật viên bảo trì có thể được triển khai trên các nhiệm vụ cấp cao hơn, trong khi chất lượng giám sát được cải thiện. Khi tự động hóa công nghiệp làm giảm các yêu cầu bảo trì khẩn cấp và thời gian ngừng hoạt động, nó sẽ giảm chi phí cho tổ chức của bạn. Ngoài ra, nó thường thúc đẩy sản xuất và hiệu quả. Như vậy, doanh nghiệp có thể sản xuất được nhiều hơn mà mức tài chính chi trả lại được tiết kiệm một cách đáng kể. Tự động hóa công nghiệp (Automation Industry) là sự nâng cao công nghệ của các hệ thống và máy móc được sử dụng cho các ngành như sản xuất và chế tạo. Mục đích là để hạn chế các thủ tục do con người thực hiện. Tự động hóa công nghiệp được sử dụng bởi nhiều công ty và ngành công nghiệp để tạo ra các quy trình hiệu quả hơn thông qua việc áp dụng các công nghệ khác nhau. Các khía cạnh của ứng dụng công nghiệp đang thay thế các nhiệm vụ do các cá nhân hoàn thành trước đây. Điều này cho phép các nhiệm vụ lặp đi lặp lại và chính xác được hoàn thành với ít lỗi hơn và giải phóng sức lao động của con người. Các hình thức tự động hóa đã và đang được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp sản xuất và gia công cơ khí, dây chuyền lắp ráp tự động cũng như các ứng dụng đo, kiểm tra, QC. Camera chụp tự động, các cơ cấu chấp hành như động cơ, van, xylanh thủy lực khí nén, thiết bị đóng cắt., các thiết bị chỉ báo như bảng LED, LCD…. Nhiều ngành công nghiệp có thể được hưởng lợi từ các quy trình tự động hóa công nghiệp. Một số trong những công ty lớn nhất bao gồm sản xuất, dầu khí, nhà máy giấy và nhà máy thép. Dưới đây là một số ví dụ về cách các doanh nghiệp áp dụng công nghệ này:. Sản xuất: Các công ty sản xuất nói chung sử dụng tự động hóa công nghiệp theo nhiều cách khác nhau để lắp ráp hoặc tạo ra sản phẩm, giám sát các nhiệm vụ bảo trì hoặc quản lý mức tồn kho. Khoan dầu khí thường liên quan đến các trạm ngoài khơi và các vị trí xa, nên tự động hóa công nghiệp cực kỳ hữu ích trong ngành này. Cảm biến và các thiết bị giám sát sẽ giảm thiểu các nguy cơ tiềm ẩn. Sử dụng trong các nhà máy giấy để quản lý sản xuất hàng loạt, cũng như kiểm soát thiết bị đo đạc, thiết bị nhà máy và thiết bị. Điều này cho phép người vận hành có tầm nhìn tuyệt vời vào toàn bộ hệ thống sản xuất. Nhà máy thép: Tự động hóa công nghiệp điều khiển phân cấp trong các nhà máy thép. Công nghệ này cung cấp một hệ thống tích hợp quản lý và kiểm soát toàn bộ nhà máy thép. Vận chuyển: Tự động hóa công nghiệp từ lâu đã có một vị trí trong ngành hàng không với các điều khiển lái tự động trên máy bay phản lực thương mại. Hiện tại, phong trào hướng tới các phương tiện tự vận hành, được sử dụng ở cấp độ thương mại và cá nhân, sẽ kết hợp với sự phát triển tự động hóa công nghiệp. Phân phối: Một khi sản phẩm được sản xuất và sẵn sàng xuất xưởng, ngành phân phối sẽ tiếp quản. Kỳ vọng về việc giao hàng nhanh hơn tiếp tục tăng tốc trong tất cả các lĩnh vực. Do đó, nó sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp trong lĩnh vực phân phối để quản lý việc vận chuyển và phân phối sản phẩm với tốc độ nhanh hơn nữa. Mindsphere là một giải pháp được đưa ra, mang lại hiệu quả cao trong phân tích, quản. Ứng dụng của bộ lập trình PLC trong công nghiệp, sản xuất nhà máy. Khi PLC gặp lỗi, sẽ. Ngôn ngữ lập trình PLC được ứng dụng phổ biến, quen thuộc trong đời sống, sản xuất. Đặt chất lượng và uy tín lên hàng đầu, Công ty Bảo Tín cung cấp đến người tiêu dùng Việt các thiết bị điện tự động chính hãng, được sản xuất dựa trên các dây chuyền công nghệ hàng đầu giúp nâng cao hiệu suất làm việc tối đa.
|
Tự động hóa
|
Tự động hóa hay Điều khiển tự động mô tả một loạt các công nghệ làm giảm sự can thiệp của con người vào các quy trình. Sự can thiệp của con người được giảm thiểu bằng cách xác định trước các tiêu chí quyết định, các mối quan hệ của quy trình phụ và các hành động liên quan - và thể hiện những xác định trước đó trong máy móc. Tự động hóa, bao gồm việc sử dụng các hệ thống điều khiển khác nhau để vận hành thiết bị như máy móc, quy trình trong nhà máy, nồi hơi và lò xử lý nhiệt, chuyển đổi trên mạng điện thoại, lái và ổn định tàu thủy, máy bay, và các ứng dụng và phương tiện khác với sức người sự can thiệp. Tự động hóa bao gồm các ứng dụng khác nhau, từ bộ điều nhiệt gia dụng điều khiển lò hơi, đến hệ thống điều khiển công nghiệp lớn với hàng chục nghìn phép đo đầu vào và tín hiệu điều khiển đầu ra. Về độ phức tạp của điều khiển, nó có thể bao gồm từ điều khiển bật-tắt đơn giản đến các thuật toán cấp cao đa biến.
|
Đại học Công nghệ Nanyang của Singapore là đại học trẻ (dưới 50 tuổi) tốt nhất thế giới, theo xếp hạng của Times Higher Education (THE). Không chỉ là trường dưới 50 tuổi tốt nhất thế giới, Đại học Công nghệ Nanyang còn là một trong những đại học châu Á được xếp hạng cao nhất trong bảng xếp hạng đại học thế giới. Trường hiện có 25.000 sinh viên đến từ hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thành lập năm 1991, NTU hiện có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều đại học, viện nghiên cứu trên toàn cầu, bao gồm Đại học Hoàng gia London (Anh), Stanford (Mỹ), Bắc Kinh (Trung Quốc). PSL được thành lập từ năm 2010 với mục đích trở thành một trong những trường đại học nghiên cứu hàng đầu thế giới. Ban đầu, trường chỉ gồm 5 viện nhưng sau đó phát triển thành 25 tổ chức nghiên cứu và học thuật tự quản, đặt mục tiêu thúc đẩy việc nghiên cứu ở Pháp và đang tích cực làm việc để trở thành tổ chức mạnh hơn trong lĩnh vực giáo dục đại học. Đây là một trong những đại học tốt và nổi tiếng nhất ở Hong Kong, được thành lập năm 1991, tập trung cung cấp cho sinh viên nền giáo dục chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, đúng như tên gọi của trường. Từ khi thành lập, trường đạt được nhiều giải thưởng khoa học và công nghệ cùng nhiều thành tích để vươn lên hạng 56 trong khoảng 1.500 đại học toàn cầu tham gia bảng xếp hạng của THE. Hiện, trường có gần 10.000 sinh viên, 30% trong số đó là sinh viên quốc tế. Viện được thành lập năm 1971, gồm hai cơ sở chính đặt tại Daejeon và thủ đô Seoul của Hàn Quốc. Các khóa học đại học và sau đại học được cung cấp ở 8 trường thành viên với hơn 33 phân hiệu. KAIST đã phát triển quan hệ đối tác với nhiều đại học, học viện ở Mỹ, Anh, Đan Mạch và Đức. Ngôi trường được thành lập năm 1994, có 9 trường chính, cung cấp các khóa học về kinh doanh, khoa học, kỹ thuật, giáo dục khai phóng, khoa học xã hội, luật và thú y. Với hơn 18.000 sinh viên, trong đó 43% là sinh viên quốc tế, trường tổ chức hơn 80 câu lạc bộ và hiệp hội sinh viên cũng như một số đội thể thao, tạo môi trường học tập và rèn luyện tốt cho tất cả sinh viên. Bảng xếp hạng các đại học trẻ tốt nhất thế giới 2021 của THE có 475 cơ sở giáo dục đến từ 68 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 61 trường so với năm ngoái. Các trường được đánh giá dựa trên bộ tiêu chí gồm 13 chỉ số, chia thành 5 nhóm: Giảng dạy (chiếm 30% tổng điểm), nghiên cứu (30%), trích dẫn khoa học (30%), triển vọng quốc tế (7,5%), thu nhập nhờ chuyển giao tri thức (2,5%). Năm nay, Việt Nam có hai đại diện góp mặt trong danh sách này, gồm Đại học Quốc gia Hà Nội (hạng 251-300) và Đại học Quốc gia TP HCM (hạng 400+). Đây là lần đầu tiên Đại học Quốc gia Hà Nội được xếp hạng, còn Đại học Quốc gia TP HCM đã góp mặt trong bảng xếp hạng năm ngoái với vị trí 351-400.
|
Xếp hạng đại học thế giới Times Higher Education
|
Xếp hạng đại học thế giới Times Higher Education (tiếng Anh: Times Higher Education World Universities Ranking hoặc THE World University Rankings) là cuộc bình chọn xếp hạng các trường cao đẳng và đại học trên toàn thế giới bởi tạp chí Times Higher Education (THE) của Liên hiệp Anh. Bảng xếp hạng của THE được đánh giá là một trong những bảng xếp hạng giáo dục có uy tín và ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới. THE bắt đầu xuất bản Xếp hạng các đại học thế giới của THE-QS vào năm 2004 với sự hợp tác với dữ liệu được cung cho bảng xếp hạng bởi Quacquarelli Symonds (QS). Từ năm 2010, THE chấm dứt hợp tác với QS và tạo ra một bảng xếp hạng các đại học mới, hợp tác với Thomson Reuters, người chuyên cung cấp dữ liệu thông tin có cơ sở. Bảng xếp hạng các đại học thế giới của THE có ảnh hưởng rộng rãi tới những sinh viên muốn theo học tại các trường đại học tốt, cùng với các bản báo cáo khác là Xếp hạng các đại học thế giới của QS và Xếp hạng các đại học thế giới của Viện hàn lâm (hay vắn tắt là Xếp hạng các đại học của Thượng Hải - ARWU).
|
Thép cán nóng là thép được cuộn cán nóng ở nhiệt độ cao trên 1,700 độ F, đây là nhiệt độ cao hơn nhiệt độ kết tinh của nhiều loại thép khác. Quá trình cán thép ở nhiệt độ cao sẽ giúp cho thành phẩm của thép dễ sử dụng hơn. Để làm ra thép cán nóng là cần phải bắt đầu từ phôi thép. Phôi thép sẽ được nung nóng sau đó ép dẹp thành cuộn lớn. Tiếp đến chúng sẽ được giữ ở nhiệt độ cao và chạy qua các con lăn để đạt tới kích thước thành phẩm. Sau đó thép sẽ được cắt dựa theo nhu cầu và đóng gói. Các cạnh và góc tròn của thép sẽ được làm tròn các thanh và sản phẩm dạng tấm. Thép thành phẩm có sự bóp méo nhẹ, nơi làm mát có thể tạo thành hình thang hơi ngược so với góc vuông hoàn hảo. Quá trình sản xuất thép cán nóng ít đòi hỏi hơn hơn thép cán nguội. Nên nó thường có giá thành rẻ hơn và được sử dụng phổ biến hơn. Thép có độ bền cao nên hay được sử dụng trong các công trình quan trọng như đường sắt hay các công trình xây dựng. Thép cán nguội là loại thép cán đã thông qua chế biến. Thép cán nóng sau khi để nguội sẽ được cán lại ở nhiệt độ phòng để cho ra các kích thước và chất lượng thép tốt hơn. Quy trình sản xuất thép cán nguội sẽ bao gồm quay, mài, đánh bóng. Mỗi khâu sẽ giúp sữa đổi các mẫu thép cán nóng để có thể đạt được những sản phẩm chất lượng nhất. Thép cán nguội được sử dụng trong các công trình có tính kỹ thuật, độ thẩm mỹ và chính xác cao. Thép cán nguội có độ cứng và bền hơn so với thép cán nóng. Dễ thi công hơn tuy nhiên. Phương pháp gia công mạ kẽm điện phân và mạ kẽm nhúng nóng sắt thép, đang là 2 phương pháp được sử dụng rộng rãi để bảo vệ bề mặt các kim loại. Việc sử dụng phương pháp mạ kẽm có thể giúp bảo vệ tốt nhất bề mặt sản phẩm kim loại và tăng cường tuổi thọ cho công trình được bền lâu. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực mạ kẽm. Công ty TNHH TM DV SX KT CƠ KHÍ ANPHA cam kết mang đến quý khách hàng những sản phẩm chất lượng cao trong từng chi tiết, tiến độ giao nhận hàng được đẩy nhanh, giá thành hợp lý nhằm đáp ứng những yêu cầu và nhu cầu khác nhau của khách hàng. Đặc biệt, Xi mạ An Pha luôn có chính sách giá cả tốt nhất cho quý khách hàng. Vì vậy, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được nhận được báo giá chính xác nhất.
|
Thép
|
Thép là hợp kim với thành phần chính là sắt (Fe), với carbon (C), từ 0,02% đến 2,14% theo trọng lượng, và một số nguyên tố hóa học khác. Chúng làm tăng độ cứng, hạn chế sự di chuyển của nguyên tử sắt trong cấu trúc tinh thể dưới tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau. Số lượng khác nhau của các nguyên tố và tỷ lệ của chúng trong thép nhằm mục đích kiểm soát các mục tiêu chất lượng như độ cứng, độ đàn hồi, tính dễ uốn, và sức bền kéo đứt. Thép với tỷ lệ carbon cao có thể tăng cường độ cứng và cường lực kéo đứt so với sắt, nhưng lại giòn và dễ gãy hơn. Tỷ lệ hòa tan tối đa của carbon trong sắt là 2,14% theo trọng lượng (ở trạng thái Austenit) xảy ra ở 1.147 độ C; nếu lượng carbon cao hơn hay nhiệt độ hòa tan thấp hơn trong quá trình sản xuất, sản phẩm sẽ là xementit có cường lực kém hơn. Pha trộn với carbon cao hơn 2,06% sẽ được gang. Thép cũng được phân biệt với sắt rèn, vì sắt rèn có rất ít hay không có carbon, thường là ít hơn 0,035%.
|
Đạo diễn tài năng Wes Anderson tiếp tục đem đến cho khán giả trải nghiệm điện ảnh đầy khác biệt, đậm chất giải trí nhưng không kém phần ý nghĩa, với “Isle of Dogs”. Bộ phim hoạt hình Isle of Dogs lấy bối cảnh tương lai gần ở một thế giới giả tưởng. Tại thành phố Megasaki của Nhật Bản, số lượng chó phát triển quá nhiều, dẫn đến dịch bệnh cúm chó ngày một bùng phát trên diện rộng và có nguy cơ lây lan sang con người. Nhằm giảm thiểu khả năng dịch bệnh, thị trưởng Kobayashi (Kunichi Nomura) quyết định ký sắc lệnh trục xuất toàn bộ loài chó trong thành phố ra đảo Rác - một hoang đảo chứa rác thải ngoài biển khơi. Chú chó kém may mắn đầu tiên bị “đưa ra làm gương” là Spots - người bạn thân kiêm vệ sĩ đắc lực của cậu bé Atari Kobayashi (Koyu Rankin). Atari vốn là cô nhi, mất cha mẹ sau vụ tai nạn tàu hỏa thương tâm, rồi được ngài thị trưởng nhận nuôi nấng và bảo trợ. 6 tháng sau, cậu thiếu niên bèn ăn trộm một chiếc máy bay để bay tới đảo Rác. Nhờ sự tương trợ của bầy chó mà đứng đầu là Chief (Bryan Cranston), Atari bắt đầu chuyến hành trình vòng quanh hòn đảo để tìm kiếm người bạn thân bốn chân. Cùng lúc đó, tại thành phố Megasaki, một nhóm học sinh và những người ủng hộ loài chó vẫn đang lên tiếng gay gắt về sắc lệnh của thị trưởng, cũng như khám phá ra âm mưu đáng sợ mới. Isle of Dogs là bộ phim hoạt hình thứ hai trong sự nghiệp của đạo diễn Wes Anderson sau Fantastic Mr. Fox (2009), và cả hai đều có phương pháp sản xuất stop-motion - tức dùng máy quay bắt thủ công từng chuyển động của các nhân vật búp bê trên nền mô hình bối cảnh thực ở trường quay. Bên cạnh đó, bộ phim cũng được kể theo từng chương hồi cụ thể, giống với cách mà Anderson áp dụng cho The Grand Budapest Hotel (2014). Câu chuyện mới có tổng thể đơn giản, dễ nắm bắt, với mạch truyện chính mang đậm tính phiêu lưu khi xoay quanh hành tình đi tìm chú chó Spots của Atari. Cậu bé hoàn toàn không đơn độc trong chuyến đi ấy. Dưới sự hỗ trợ của bầy năm chú chó cũng bị trục xuất như Spots, Atari lần lượt khám phá từng khu vực của đảo Rác, gặp gỡ những “cư dân chó” tiêu biểu, cũng như phát hiện ra sự thật về cả Spots lẫn nơi loài chó bị trục xuất tới. Dù là nhân vật con người duy nhất tại đảo Rác, Atari thực tế không phải là nhân vật chính. Cậu thậm chí còn có rất ít lời thoại, và phải nhường “sân khấu chính” cho các chú chó. Ngay đầu phim, đạo diễn Wes Anderson không ngần ngại giới thiệu rằng: “Tiếng sủa của các chú chó sẽ được thể hiện bằng tiếng Anh”. Nhờ đó, khán giả không chỉ có cơ hội theo dõi những chú chó hành động, chạy nhảy trên màn ảnh, mà còn được thấy chúng tương tác, nói chuyện như con người. Điều đó giúp cho việc xây dựng cá tính, tâm lý các nhân vật bốn chân, cũng như hành trình khám phá đảo Rác và cuộc sống nơi đây trở nên hấp dẫn, đa dạng. Mỗi chú chó đều có tạo hình, tâm lý và cá tính riêng, cũng như mang trong mình không ít tâm tư, tình cảm cụ thể. Cũng nhờ các chú chó mà chuyến hành trình của cậu bé Atari trở nên thú vị, có chiều sâu hơn. Thông qua việc miêu tả thế giới của loài chó, bộ phim muốn mang đến bài học về tình bạn, lòng trung thành, niềm tin và sự đoàn kết một cách nhẹ nhàng, không lên gân. Đó cũng là những điều mà nhóm con người trong phim gần như không thể hiện được. Bên cạnh mạch truyện tại đảo Rác, Isle of Dogs còn xây dựng một tuyến truyện song song, nói về những sự kiện diễn ra tại thành phố Megasaki. Nếu cuộc hành trình của Atari và những chú chó mang hơi hướm phiêu lưu nhẹ nhàng, thì những gì xảy ra trong đất liền lại hết sức u ám. Ở Megasaki, các nhân vật chia ra làm hai phe đối lập rõ ràng. Một bên là những người yêu quý động vật như giáo sư Watanabe (Akira Ito) hay cô bé du học sinh Tracy Walker (Greta Gerwig). Họ tìm mọi cách để cứu giúp những chú chó bị bệnh, sắp bị trục xuất. Bên đối lập là thị tưởng Kobayashi với sự kỳ thị, căm ghét loài chó từ thời xa xưa. Lão thực tế không chỉ muốn trục xuất, mà còn đang mang âm mưu tiêu diệt hoàn toàn loài chó ở Megasaki. Sự đối đầu giữa hai phe thể hiện tính hiện thực xã hội rất cao, gây liên tưởng mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh giữa chính quyền và nhân dân. Trên thực tế, câu chuyện trong phim đã được đơn giản hóa đi rất nhiều để phù hợp với tinh thần phim hoạt hình. Song, màu sắc đen tối vẫn hiện hữu khi chính quyền của thị trưởng Kobayashi tìm đủ mọi cách để triệt hạ phe đối lập. Cùng lúc, tiếng nói của truyền thông và xã hội yếu ớt. Còn số ít dám lên tiếng mau chóng rơi vào thế lạc lõng, nguy hiểm. Dẫu vậy, câu chuyện tại thành phố Megasaki không hề nặng nề, và vẫn đem tới cho khán giả nhiều khoảnh khắc sảng khoái. Bởi nhiều chi tiết u ám được cường điệu hóa với mục đích châm biếm. Xã hội u ám là vậy, nhưng không hiện lên quá thực tế hay trần trụi. Nhìn chung, mạch truyện ở đất liền giúp Isle of Dogs trở nên có chiều sâu hơn hẳn so với dòng phim hoạt hình vốn hay phải mang định kiến là chỉ dành cho thiếu nhi. Nhưng nó cũng không bị quá lệch tông so với tuyến truyện chính ở đảo Rác. Có thể thấy rằng Isle of Dogs thể hiện rõ ràng góc nhìn thông thường của người phương Tây đối với xứ sở mặt trời mọc. Wes Anderson không ngần ngại đưa vào trong phim hầu như tất cả nét văn hóa lừng danh của Nhật Bản: nghệ thuật trình diễn trống taiko, anime, tranh Hokusai, thi đấu sumo, kịch kabuki, thơ haiku, hoa anh đào, hay thậm chí cả “cột khói hình nấm” của những quả bọm nguyên tử đã trút xuống Hiroshima và Nagasaki…. Anderson cũng miêu tả con người Nhật Bản theo như góc nhìn của người phương Tây: lừng danh về công nghệ - kỹ thuật, nhưng khép kín, hướng nội, hầu như không có tiếng nói dân chủ, phản kháng chống lại bất công do chính quyền gây ra. Chi tiết thể hiện qua việc nhóm người Nhật yêu động vật trong phim chỉ có những hành động yếu ớt, dè dặt. Và họ vùng dậy sau khi một cô bé người Mỹ đang du học tại Nhật Bản như Tracy đứng lên kêu gọi và thức tỉnh mình. Bên cạnh văn hóa Nhật Bản, đạo diễn Wes Anderson còn thể hiện sự tri ân cụ thể tới nền điện ảnh nơi đây nói chung, và riêng bậc thầy Akira Kurosawa nói riêng. Theo dõi Isle of Dogs, những ai tinh ý có thể phát hiện ra hàng loạt chi tiết gợi nhắc tới Stray Dogs, Throne of Blood, High and Low, Ran, Seven Samurai… cài cắm trong phim. So với các tác phẩm cùng thể loại hoạt hình được xây dựng bằng kỹ thuật vi tính 3D, bộ phim có thể không rực rỡ, bóng bẩy, mượt mà bằng. Nhưng dự án của Wes Anderson vẫn sở hữu ưu thế riêng, thông qua việc sử dụng các khung hình tĩnh, góc máy cận, nhằm nhấn mạnh biểu cảm của gương mặt và đôi mắt, qua đó đặc tả cảm xúc nhân vật. Tạo hình các nhân vật, đặc biệt là những chú chó, có nét đặc trưng và mang tính biểu tượng cao. Bên cạnh đó, với sự hỗ trợ của dàn diễn viên lồng tiếng hùng hậu gồm Bryan Cranston, Edward Norton, Bill Murray, Jeff Goldblum, Liev Schreiber, Scarlett Johansson, Tilda Swinton, Yoko Ono…, các nhân vật trở nên sinh động hơn hẳn trên màn ảnh. Là một tác phẩm độc đáo và hấp dẫn, nhưng Isle of Dogs thực tế vẫn tồn tại một số điểm yếu đáng tiếc. Có phần mở màn khá sáng tạo, nhưng càng về sau, bộ phim càng trở nên khuôn mẫu và dễ đoán, đặc biệt là với những ai yêu thích phim của Wes Anderson. Các nút thắt trong phim cũng được tháo gỡ hơi vội vàng theo đúng chất phim hoạt hình gia đình. Bên cạnh đó, vai trò của các nhân vật trong phim không duy trì sự ổn định cần thiết. Chẳng hạn như bầy chó đi theo Chief ở đầu phim đóng vai trò hết sức quan trọng. Nhưng đến nửa cuối, bốn nhân vật gần như biến mất để nhường chỗ cho các gương mặt mới. Việc xây dựng nhân vật ban đầu bỗng trở nên lãng phí, còn khán giả thì chưa kịp đồng cảm với những nhân vật xuất hiện muộn. Dù sao, Isle of Dogs vẫn xứng đáng nằm trong danh sách những bộ phim điện ảnh ấn tượng nhất của nửa đầu 2018. Đây rõ ràng là tác phẩm đầy quyến rũ nữa của Wes Anderson, cho thấy rõ tài năng của anh trong việc xây dựng thế giới quan thông qua cách kể chuyện độc đáo, sáng tạo. Phim đang được trình chiếu trên toàn quốc dưới tựa Đảo của những chú chó.
|
Đảo của những chú chó
|
Đảo của những chú chó (tên gốc tiếng Anh: Isle of Dogs) là phim hoạt hình tĩnh vật chính kịch-hài hước khoa học viễn tưởng năm 2018 do Wes Anderson đạo diễn, sản xuất kiêm biên kịch. Lấy bối cảnh đất nước Nhật Bản hậu tận thế, bộ phim kể lại câu chuyện về một cậu thiếu niên lên đường tìm kiếm chú chó của mình sau khi loài chó bị trục xuất tới một hòn đảo biệt lập do đại dịch cúm chó bùng phát. Phim có sự tham gia lồng tiếng của Bryan Cranston, Edward Norton, Bill Murray, Jeff Goldblum, Bob Balaban, Greta Gerwig, Frances McDormand, Courtney B. Vance, Fisher Stevens, Harvey Keitel, Liev Schreiber, Scarlett Johansson, Tilda Swinton, F. Murray Abraham, Frank Wood, Nomura Kunichi và Ono Yōko. Là một sản phẩm do Mỹ và Đức phối hợp thực hiện, Đảo của những chú chó do Indian Paintbrush cùng công ty sản xuất riêng của Anderson là American Empirical Pictures, hợp tác với Studio Babelsberg chịu trách nhiệm sản xuất. Đảo của những chú chó cũng là tác phẩm chiếu khai mạc Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 68, và tại đây Anderson cũng được vinh danh giải Gấu bạc cho Đạo diễn xuất sắc nhất.
|
Một câu chuyện trinh thám kiểu cổ điển, được xây dựng trên bối cảnh thời hiện đại, đó chính là Knives Out – tác phẩm hình sự điều tra xuất sắc nhất vài năm trở lại đây. Sở hữu một kịch bản cuốn hút, gây tò mò ngay từ những giây đầu tiên, thêm vào đó là sự tham gia của một dàn sao hùng hậu từ chính đến phụ như Daniel Craig, Chris Evans, Ana de Armas, Toni Collette,…bạn chắc chắn không có lý do gì để từ chối bộ phim này cả. Đó là một buổi sáng bình thường như bao ngày, tại một căn nhà nguy nga lộng lẫy. Cô hầu chuẩn bị mang bữa sáng lên cho ông chủ của mình là tiểu thuyết gia lừng danh Harlan Thrombey. Những gì đập vào mắt người phụ nữ sau đó thật sự là một nỗi kinh hoàng: ông lão nằm chết trên sofa, máu chảy lênh láng, bị kết liễu bởi một nhát dao. Báo đài đưa tin rầm rộ về sự ra đi của thi hào, và nó đã đến tai của Marta Cabrera – nữ ý tá phục vụ riêng cho ngài Harlan. Cô mau chóng di chuyển tới hiện trường vụ án, nơi mà các cảnh sát đang lấy lời khai. Được biết, nạn nhân là người đứng đầu của một gia tộc đông con nhiều cháu. Nhìn bề ngoài thì nhà cửa êm ấm, thế nhưng chỉ sau một hồi tra hỏi, những uẩn khúc trong gia đình dần được hé lộ. Điều trớ trêu là ở chỗ, hầu hết các thành viên đều có động cơ hợp lý để gây án, nhất là khi gia chủ lại nắm một khối tài sản khổng lồ trong tay. Rốt cục thì ai mới là kẻ đâm lén?. Nhân tố gây bất ngờ nhất trong danh sách này hẳn là Chris Evans rồi. Có vẻ như sau khi giải nghệ siêu anh hùng thì anh cũng bắt đầu tìm kiếm một điều gì đó mới mẻ hơn để tô điểm thêm cho sự nghiệp của mình. Một phiên bản không khiên, không búa, không cả liêm sỉ luôn, và phải công nhận Chris hoàn thành rất tốt vai diễn của mình. Thêm vào đó, một nhân vật đáng chú ý khác chính là Daniel Craig. Vẫn là phong thái lịch lãm, đĩnh đạc quen thuộc, chỉ có điều vui vẻ và hoạt ngôn hơn một chút. Hình tượng này khá giống với chính anh trong một tác phẩm trinh thám trước đó là The Girl with the Dragon Tattoo. Phong cách trinh thám cổ điển: lão gia qua đời, con cháu bị nghi ngờ, thám tử đến tra hỏi, tìm manh mối, suy luận đủ kiểu… Những thứ tưởng chừng như đã cổ lỗ sĩ nay lại được vận dụng cực kỳ thông minh trong Knives Out để tạo nên một cốt truyện hấp dẫn. Việc đạo diễn cài cắm thêm việc nữ chính sẽ bị nôn khi nói dối là một điểm thú vị đáng lưu ý. Chỉ trong vòng nửa tiếng đầu tiên, phim đã gây phấn khích lớn cho khán giả bởi sự móc nối chặt chẽ giữa lời khai của các nhân vật. Bằng đầu óc của một nhà văn bậc thầy, chỉ trong phút chốc Harlan đã có thể vạch ra một kế hoạch tuyệt vời nhằm giúp Marta thoát tội ngộ sát, hoặc cũng có thể là mưu sát. Kể từ đây, câu hỏi được đặt ra là: ai đã đánh tráo lọ thuốc? Mà không chỉ có vậy, ai là người đã thuê ông thám tử điều tra vụ này? Những gì diễn ra sau đó thực sự rất khó lường, dẫn lối tới một cái kết mà ai nấy đều không khỏi ngỡ ngàng. Ban đầu mình còn tưởng vụ này lại giống kiểu Tàu Tốc Hành Phương Đông cơ, bởi gia đình này cũng tốt phúc quá. Mà khổ nỗi nếu giống như thế thì chẳng bao giờ có chuyện được đánh giá cao, thêm vào đó thì gia đình này rõ ràng là không đủ trí lực để có thể vẽ vời ra một kế hoạch quá phức tạp như vậy cả. Và cuối cùng thì Knives Out đã không làm mình thất vọng. Hóa ra, kẻ đâm lén cũng chính là kẻ thông minh nhất, và cũng là gần gũi nhất. Những tình tiết bất ngờ cứ thế tới tấp vào mặt ở phút chót khiến mình không kìm nén nổi sự phấn khích. Từ chỗ lọ thuốc thật bị đổi nhãn, Harlan tự kết liễu đời mình, Ransom là chủ mưu cho đến việc hắn bị Marta gài để thú nhận tất cả, và rồi cuối cùng là con dao vui tính. Phim kết thúc bằng một cảnh tượng hết sức thú vị: người làm trở thành chủ nhà, chủ nhà phải ở nhờ người làm. Thêm vào đó, cái cốc trên tay cô gái với dòng chữ “my house, my rules, my coffee”, cũng chính là cái cốc ở đầu phim càng khiến cho mọi thứ thêm phần hoàn hảo. Knive Out thành công không chỉ nhờ một kịch bản chặt chẽ, mà còn là một cái kết hợp tình hợp lý dành cho tất cả. Việc Marta từ chỗ nghèo túng đến một bà chủ giàu có không hề tạo cảm giác như “cô hầu gái may mắn” mà thay vào đó, cô chứng minh được mình hoàn toàn xứng đáng với phần thưởng này, bằng trí tuệ thông minh cùng một trái tim nhân hậu, trái ngược với thằng cháu tốt bụng. Về phần Ransom, khả năng là anh sẽ đi xa đấy, hai mạng cơ mà. Vậy còn phần còn lại của gia đình? Mọi thứ được để ngỏ nhằm tạo cho khán giả những suy ngẫm riêng, nhưng theo mình thì với tính cách của Marta, cô vẫn sẽ cho đám người đó một ít của cải mà làm lại cuộc đời. Tựu chung lại, Knives Out mang đến một trải nghiệm trinh thám mà cũng đã lâu rồi mình mới lại được thưởng thức, với một kịch bản ly kỳ nhưng không tạo cảm giác căng hết cả não, dàn diễn viên khủng, phục trang lại còn đẹp nữa. Đáng tiếc rằng phim đã không thể chiến thắng Kịch bản gốc xuất sắc nhất tại Oscar (cũng là hạng mục duy nhất được đề cử), mà lại để nó rơi vào tay của một bộ phim xxx khác. Và đó là đôi dòng cảm nhận của mình về Knives Out. Đừng quên quay trở lại Viết Gì Đây thường xuyên để tìm hiểu thêm nhiều tựa phim thú vị khác nhé.
|
Kẻ đâm lén
|
Kẻ đâm lén (tựa gốc tiếng Anh: Knives Out) là một bộ phim bí ẩn Mỹ năm 2019, đạo diễn kiêm biên kịch bởi Rian Johnson và do ông cùng Ram Bergman sản xuất. Bộ phim theo chân một vị thám tử tài ba điều tra về cái chết đột ngột của nhà văn trinh thám nổi tiếng trong chính bữa tiệc sinh nhật lần thứ 85 của ông, vốn tụ họp đông đủ các thành viên trong gia đình. Tác phẩm có sự tham gia của dàn diễn viên bao gồm Daniel Craig, Chris Evans, Ana de Armas, Jamie Lee Curtis, Michael Shannon, Don Johnson, Toni Collette, Lakeith Stanfield, Katherine Langford, Jaeden Martell và Christopher Plummer. Kẻ đâm lén công chiếu lần đầu tiên trên toàn thế giới vào ngày 7 tháng 9 năm 2019 tại Liên hoan phim quốc tế Toronto và được Lionsgate phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 11 cùng năm. Giới chuyên môn đánh giá cao bộ phim, đặc biệt là về kịch bản, khâu đạo diễn và diễn xuất. Tác phẩm cũng thành công ở rạp chiếu khi thu về 309,2 triệu USD trên toàn thế giới so với ngân sách 40 triệu USD.
|
Giày da là một món phụ kiện quen thuộc với các quý ông yêu thích sự kiêu sa lịch lãm. Để sản xuất dép giày chất lượng phải trải qua một quá trình nghiệm ngặt, cũng như quá trình sản xuất tỉ mỉ. Trên thực tế không phải ai cũng biết quy trình bao gồm những bước nào, nguyên tắc cụ thể. Ngày nay giày da thủ công đang tìm lại vị thế của mình, so với những chiếc giày sản xuất thông thường. Bài viết dưới đây sẽ phổ biến mô tả được các công đoạn dây chuyền sản xuất hàng da một cách cụ thể và rõ ràng nhất!. Tùy theo kiểu dáng và nhu cầu mỗi chiếc giày giày se có một quy trình công nghệ và từng công đoạn khác nhau có những thành phẩm tốn đến hàng trăm công đoạn gia công, quản lý sản xuất. Để sản xuất một đôi giày người thợ phải có tay nghề cực kì cao vì bởi họ chịu trách nhiệm về quy trình đóng giày từ đầu đến cuối. Mặc dù hiện nay do nhu cầu ngày một tăng cao, xu hướng thay đổi liên tục, quy trình sản xuất đã được đan xen giữa tay nghề và máy móc. Đừng để những con số này làm bạn choáng ngộp. Bài biết dưới đây có thể tóm tắt quy trình này bằng những công đoạn cơ bản sau:. Công đoạn của dây chuyền sản xuất da giày có rất nhiều bộ phân mỗi bộ phận chịu trách nhiệm một vai trò khác nhau trong quy trình sản xuất. Nhưng đầu tiên và quan trọng nhất đó là bộ phận thiết kế. Đây điều là những người có tầm nhìn xa sự sáng tạo, cho những thiết kế tiện dụng và đẹp mắt. Thiết kế các sản phẩm giầy chưa bao giờ là dễ . Đối với những hàng đặt, khách hàng sẽ cung cấp các bản phác thảo ban đầu và trình bày được các kiến nghị của mình các nhà thiết kế sẽ tinh chỉnh chúng để đảm bảo chúng đúng kỹ thuật và hoàn thiện nhất về sự thoải mái kiểu dáng cho khách hàng và quy trình đóng máy. Tùy vào sở thích và ý đồ của nhà thiết kế và bản vẽ sẽ vẽ bằng tay, hoặc sử dụng máy tính. Nhưng chắc chắn những thiết kế sẽ được hoàn thiện nhất từ nhiều góc độ khác nhau, chi tiết đến từng đường kim, mũi chỉ. Theo sau bản thảo chính là quá trình chuẩn bị , gia công cũng như pha cắt nguyên liệu sau đ1o sẽ được đưa đến xưởng để sản xuất. Tùy vào yêu cầu của khách hàng và sẽ có nguyên liệu da bò, da dê, đôi giày da cá sấu, da đà điểu……nguyên liệu dùng làm đế sẽ được xử lý sơ bằng máy móc và cho ra nguyên liệu thô. Sau đó da giầy sẽ được cắt theo đúng kích cỡ chỉ tiêu về kỹ thuật từ bản thảo. Đây là giai đoạn rất quan trọng quyết định trực tiếp đến chất lượng sản phẩm ấy sau này. Tiếp theo trong quy trình sản xuất giày dép. Trước khi một chiếc giày được đưa vào sản xuất, nó cần có phần khuôn. Khuôn giày mô phỏng sát thực tế nhất với bàn chân để tạo hình cho giày. Theo truyền thống, khuôn giày được làm từ gỗ nhưng hiện nay, các xưởng giày chuộng nhựa và kim loại hơn bởi chúng bền và có chi phí rẻ hơn. Mọi chiếc giày đều cần khuôn để xác định hình dạng và kích thước. Cân đo gót chân để cho ra khuôn giày thoải mái, hướng di chuyển sát thực tế nhất vì được đưa vào sản xuất. Khuôn giày sẽ được nằm bên trong bao phủ bởi các lớp da khâu xung quanh tạo ra from giày ôm chân sát thực tế nhất. Và được sử dụng xuyên suốt từ đầu đến giai đoạn hoàn thiện. Không chỉ sát với thực tế mà còn phải thoải mái tinh tế nhất. Đây là giai đoạn sản xuất gia công giày đòi hỏi sự tỉ mỉ rất cao. Ngành da giày quả là một ngành đòi hỏi tính tỉ mỉ. Dù ngày nay đã được máy móc giúp đỡ rất nhiều nhưng với những bước quan trọng vẫn phải cần đến tay ngề cao của những người thợ . Đóng giày là một nghề cần sự tỉ mỉ kiên nhẫn tinh tế cao. Sau công đoạn thuộc da cho ra những miếng da phù hợp, người thợ sẽ tiến hành khâu dập may da. Các miếng da sẽ được đánh dấu để tránh nhầm lẫn khi chúng được khâu lại với nhau. Các phần da cần khâu được làm mỏng trước khi được gửi đến bộ phận may để tiến hành khâu hoặc may lại với nhau. Đây là giai đoạn tiên quyết trong quy trình tạo ra giày , vô cùng quan trọng quyết định đến mẫu mã, chất lượng giày sau này. Chiếc giày có hoàn hảo, mang vừa chân thoải mái hay phụ thuộc vào quá trình tạo nên mũi giày có hoàn chỉnh, đúng mẫu hay không. Giai đoạn đi theo sau có bị gián đoạn hay không cũng phụ thuộc vào giai đoạn này. Công đoạn này đòi hỏi sự tỉ mỉ rất cao từ người thợ sản xuất của ngành, thực hiện theo đúng chính xác số liệu được đưa ra trong bản thiết kế. Phải chính xác từng đường mũi khâu. Vừa tiết kiệm được da đảm bảo đúng kích thước, từng đường kim mũi chỉ chắc chắn nhất nhất, đảm bảo chất lượng. Để giải quyết vấn đề lớp đế trong thô sơ và kém phong cách, gây mất tự tin khó chịu khi sử dụng. Lớp đế trong đã được thêm vào trong phần đế, tạo sự êm ái dễ chịu và linh hoạt khi chuyển động chân. Mỗi giai đoạn đều phải đòi hỏi sử dụng thành thạo các loại máy móc cũng như kết hợp tay ngề của người thợ, nhất là giai đoạn lót đế này cho ra những sản phẩm giày dép da thời trang nam. Phương pháp thiết kế các sản phẩm trong ngành công nghệ nghệ da giày đều không giống nhau tùy vào từng yêu cầu. Miếng lót trong sẽ được dán và khâu một cách chắc chắn vào đế giày. Sau đó, những chiếc đinh ghim ở gót giày sẽ được tháo bỏ, Các lỗ do những chiếc đinh để lại sẽ được những người thợ bịt kín. Sau khi sản phẩm được hoàn thiện, nếu người thợ phát hiện còn các lỗ đường may trên bề mặt da, họ sẽ xử lý cẩn thận bằng quy trình là ủi, nhuộm và đánh bóng đôi giày da nam. Tiếp theo, cạnh của gót và đế ngoài sẽ được mài mòn. Cuối cùng là dập logo thương hiệu lên đế giày, lót trong và làm sạch toàn bộ thành phẩm. Cơ bản chúng ta đã đi hết các bước hoạt động nhà máy sản xuất giày tiêu chuẩn. Và công đoạn cuối chắc chắn là kiểm tra và hoàn thiện .Bất kì sản phẩm nào cũng vậy xưởng hoạt động sản xuất đều sẽ có bộ phận kiểm hàng trước khi chúng tới tay khách hàng. Ngoài việc kiểm tra xem giày có lỗi nào không thì đây cũng là bộ phận hoàn thiện, nơi những hàng đặt làm riêng được hoàn thiện những chi tiết cuối lau sạch kết thúc các giai đoạn ngành sản xuất mặt hàng giày. Tất cả những giày sẽ được đánh bóng và xếp vào hộp, đóng gói và chuyển đến nhà bán lẻ, shop giày dép trên toàn quốc, bán buôn giày dép thời trang nam, mang đi xuất khẩu sẵn sàng để phục vụ khách hàng. Tất cả các công đoạn trong dây chuyền sản xuất giày tại công ty đều được giám sát nghiêm ngặt, chất lượng giày được đảm bảo với công nghệ hiện đại bởi nhà máy sản xuất giầy. Nhìn sơ thì có vẻ đơn giản nhưng nếu bạn muốn mở cho mình một công ty làm giày sẽ gặp khá nhiều vấn đề như. Thủ tục thành lập công ty sản xuất công nghệ da giày, xử lý nước thải sản xuất trong quá trình da thuộc của công nghiệp giày, nghiên cứu giữ vững toàn bộ quy trình công nghệ…
|
Thợ đánh giày
|
Thợ đánh giày hoặc nghề đánh giày là một công việc của một người chịu trách nhiệm làm sạch và đánh bóng giày dép bằng sáp và xi đánh giày, thường là phục vụ cho khách qua đường. Nghề đánh giày thường được biết đến bởi những cậu bé lao động vì công việc này theo truyền thống do trẻ em nam và thanh niên làm. Quá trình vệ sinh hầu như luôn được thực hiện ngoài trời và sử dụng giá đỡ chân đặc biệt. Trong khi vai trò của nó bị phủ nhận trong phần lớn nền Văn hóa Tây phương, những đôi giày đánh bóng là nguồn thu nhập chính của nhiều trẻ em và gia đình trên khắp thế giới. Một số thợ đánh giày cũng phục vụ chẳng hạn như vá giày dép. Đánh giày không được phổ biến như một nghề phục vụ cho đến đầu thế kỷ 20. Trong suốt những năm cuối thế kỷ 19, những cậu bé đánh giày đã phục vụ trên đường phố của Úc, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Họ thiết lập các trạm di động bên ngoài các con đường dành cho người đi bộ đông đúc như sân ga và khu thương mại của các thành phố lớn, để cung cấp dịch vụ đánh giày bằng mọi thứ từ mỡ động vật, đến sáp ong và mật ong.
|
Cùng tham gia cộng đồng vì sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc hơn! Hãy điểm qua những nội dung mới của Hello Bacsi. Đờm (hay đàm) là chất nhầy được tiết ra từ các tế bào ở đường hô hấp dưới. Nó có thể chứa cả chất lạ được hít vào phổi, tế bào miễn dịch hay các tế bào bạch cầu. Chất nhầy này có tác dụng bẫy vật lạ để lông mao ở trong đường thở làm sạch và tống ra khỏi phổi. Bên cạnh đó, đờm cũng chứa các tế bào miễn dịch nhằm tiêu diệt vi khuẩn để chúng không thể tồn tại trong phổi và gây nhiễm trùng. Trường hợp nhiễm trùng, trong đờm sẽ xuất hiện vi khuẩn. Khi bị ung thư phổi, chấn thương đường hô hấp, tổn thương đường thở hoặc phù phổi, người bệnh còn có máu trong đờm. Cấy đờm là phương pháp phân tích đờm được thực hiện trong phòng thí nghiệm nhằm đánh giá tình trạng nhiễm trùng hoặc tìm kiếm dấu hiệu của ung thư. Một chất thúc đẩy sự phát triển của vi khuẩn sẽ được thêm vào mẫu đờm. Nếu không có vi khuẩn, kết quả nuôi cấy là âm tính, ngược lại là dương tính. Loại vi khuẩn có thể được xác định bằng kính hiển vi hoặc xét nghiệm hóa học. Khi xác định được nguyên nhân gây ra những triệu chứng (xem phần tiếp theo) của người bệnh, bác sĩ sẽ có hướng điều trị tốt nhất. Cấy đờm có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định lựa chọn loại kháng sinh phù hợp. Cấy đờm được chỉ định trong các trường hợp viêm nhiễm đường hô hấp dưới như viêm phổi, viêm phế quản cấp, các cơn cấp của viêm phế quản mạn tính, bệnh lao, áp xe phổi. Cần thực hiện cấy đờm ở giai đoạn sớm của bệnh càng tốt (ngay sau khi có chẩn đoán lâm sàng) và trước khi người bệnh dùng kháng sinh. Để thực hiện cấy đờm, bác sĩ sẽ cần thu thập mẫu đờm. Do đó, cổ họng có thể cảm thấy đau sau khi ho khạc, nội soi phế quản hoặc lấy mẫu đờm bằng ống thông mũi họng. Nếu bị hen suyễn nặng hoặc viêm phế quản, người bệnh có thể thấy khó thở trong quá trình lấy mẫu. Trong trường hợp được dùng thuốc tê, người bệnh có thể cảm thấy như lưỡi và cổ họng bị sưng, khó nuốt. Nếu người bệnh vừa phẫu thuật ở ổ bụng, bác sĩ có thể hướng dẫn giảm thiểu sự khó chịu bằng cách đặt một chiếc gối lên trên bụng và giữ chặt. Nhìn chung, không có rủi ro đặc biệt nguy hiểm nào khi thực hiện cấy đờm. Người bệnh chỉ cần thư giãn, thả lỏng và hít thở đều. Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ. Hầu hết trường hợp, mẫu đờm được thu thập vào sáng sớm. Người bệnh có thể được yêu cầu không ăn uống hay sử dụng bất kỳ loại kháng sinh nào. Người bệnh cần uống nhiều nước nhằm làm loãng dịch tiết, giúp ho ra đờm dễ dàng hơn. Nếu có đeo răng giả, người bệnh cần phải tháo ra. Bác sĩ có thể yêu cầu súc miệng bằng nước sạch để loại bỏ các vi khuẩn cũng như nước bọt. Tùy trường hợp (chẳng hạn như bệnh lao), người bệnh có thể cần lấy ít nhất là 3 mẫu đờm trong 3 ngày liên tục. Sau khi thực hiện các bước chuẩn bị như trên, người bệnh cần hít một hơi thật sâu và ho mạnh để lấy được mẫu đờm. Người bệnh sẽ được yêu cầu nhổ đờm vào lọ vô trùng có nắp, tránh lẫn nước bọt. Phải cẩn thận trong quy trình lấy mẫu để đảm bảo mẫu được lấy từ đường hô hấp dưới, không phải đường hô hấp trên. Một lần thực hiện cấy đờm sẽ cần ít nhất 2ml đờm để xét nghiệm. Nếu gặp khó khăn trong việc ho, bác sĩ có thể hỗ trợ bằng cách vỗ vào lưng người bệnh hoặc cho hít khí dung vô trùng, glycerin aerosol trong vài phút để làm lỏng đờm trong phổi. Nội soi phế quản. Ống nội soi phế quản được đưa qua miệng hoặc mũi vào đường dẫn khí đến phổi. Người bệnh thường được dùng thuốc gây tê để họng và mũi không cảm thấy đau. Một số trường hợp có thể dùng thuốc gây mê. Ống thông mũi họng được đưa qua mũi và xuống cổ họng. Quá trình này được tiến hành trong tối đa 15 giây để thu thập mẫu. Phương pháp này thường được sử dụng cho những người không thể khạc được đờm như trẻ em, người bị bệnh nặng hoặc đang bất tỉnh. Mẫu đờm được đậy nắp chặt và gửi ngay đến phòng thí nghiệm. Nếu vì một lý do gì đó chưa thể thực hiện xét nghiệm được, mẫu đờm có thể giữ trong tủ lạnh nhưng không quá 2 giờ. Tất cả các mẫu đờm sau khi đánh giá đủ độ tin cậy thì tiến hành nuôi cấy ngay. Các mẫu không đạt tiêu chuẩn thì người bệnh cần phải lấy mẫu lại. Riêng các mẫu lẫn nước bọt hoặc có độ tin cậy vừa phải, nhân viên y tế vẫn có thể yêu cầu lấy mẫu lại hoặc tiếp tục tiến hành nuôi cấy nhưng phải cố lấy mầm cấy là vùng đờm mủ, tránh lấy nhớt hay nước bọt. Mẫu đờm đạt yêu cầu sẽ được đặt trong một đĩa chứa có môi trường nuôi cấy vi khuẩn, giúp vi khuẩn hoặc nấm phát triển. Thời gian để vi khuẩn phát triển là trong 2–3 ngày. Nấm thường mất 1 tuần hoặc lâu hơn. Các sinh vật gây bệnh lao có thể cần đến 6 tuần để phát triển. Bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy vi khuẩn hoặc nấm phát triển sẽ được quan sát dưới kính hiển vi hoặc bằng các xét nghiệm hóa học. Phân tích độ nhạy của kháng sinh cũng được tiến hành nhằm tìm ra loại kháng sinh tốt nhất và thường mất thêm 1–2 ngày nữa. Với nhiễm trùng đường hô hấp do vi khuẩn, đờm có thể có độ đặc sệt (nhớt), bị đổi màu, có thể có máu và mùi khó chịu. Màu trắng nhạt, vàng hoặc xanh lá cây: Mẫu đờm bao gồm một số lượng lớn các tế bào bạch cầu chống nhiễm trùng – một dấu hiệu của bệnh về đường hô hấp như viêm phổi hoặc viêm phế quản. Màu đỏ hoặc sậm màu: Nếu người bệnh đang gặp tình trạng chảy máu, mẫu đờm có thể có những vệt hoặc đốm đỏ. Màu sắc này có thể là dấu hiệu bệnh đang ở mức độ nghiêm trọng. Màu xám hoặc đen: Nếu người bệnh có hút thuốc hoặc làm việc ở những nơi ô nhiễm như mỏ than, mẫu đờm có thể có màu xám hoặc đen. Kết quả dương tính: phát hiện vi khuẩn gây bệnh, có khả năng nguyên nhân là do nhiễm vi khuẩn. Kết quả âm tính: không phát hiện vi khuẩn gây bệnh, khi đó thủ phạm có thể là virus hoặc nấm. Tuy nhiên, kết quả này không loại trừ trường hợp không đủ mầm bệnh trong mẫu đờm thu thập được. Ngoài ra, một số vi sinh vật gây bệnh không thể phát hiện được trong môi trường nuôi cấy vi khuẩn thông thường. Nhiễm ký sinh trùng cũng có thể gây ra các triệu chứng nhiễm trùng đường hô hấp dưới, nhưng những trường hợp này khá hiếm. Cần lưu ý rằng một số vi khuẩn phát triển tự nhiên trong đường thở mà không gây bệnh. Kết quả cấy đờm sẽ giúp phân biệt chúng với loại vi khuẩn gây bệnh, từ đó chọn được loại kháng sinh tốt nhất cho người bệnh. Hello Bacsi không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay các phương pháp điều trị y khoa. Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Hello Bacsi mong muốn trở thành nền tảng thông tin y khoa hàng đầu tại Việt Nam, giúp bạn đưa ra những quyết định đúng đắn liên quan về chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ bạn cải thiện chất lượng cuộc sống.
|
Cấy đờm
|
Cấy đờm là xét nghiệm phát hiện và định danh vi khuẩn hoặc nấm nhiễm trong phổi hoặc đường dẫn khí. Đờm là dịch nhầy được sản xuất ở phổi và đường dẫn khí. Mẫu đờm thường được lấy vào buổi sáng để xét nghiệm vi khuẩn. Bệnh phẩn đờm được đựng trong một lọ nhựa sạch, miệng rộng, khô, kín và được đưa đến phòng xét nghiệm để kiểm tra. Mẫu bệnh phẩm có thể được lấy bằng cách khạc đờm, khí dung (xịt nước muối ưu trương vào đường hô hấp để đẩy đờm ra), hoặc hút dịch nội khí quản (thường dùng ở những bệnh nhân ở máy) ở đơn vị hồi sức. Với những chủng sinh vật nhất định như Cytomegalovirus hoặc "Pneumocystis jiroveci" ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch cần có bác sĩ chuyên khoa hô hấp thực hiện nội soi phế quản. Nếu vi khuẩn và nấm không mọc, xét nghiệm nuôi cấy được kết luận là âm tính. Nếu sinh vật có thể gây nhiễm trùng (mầm bênh) mọc,kết quả nuôi cấy là dương tính. Loại vi khuẩn hay nấm được xác định bằng kính hiển vi, hình thái và các xét nghiệm hóa sinh, sinh học phân tử.
|
Túi có thể phân hủy giá 10 xu (khoảng gần 3.000 VNĐ) sẽ thay thế “túi nhựa tái sử dụng” của Co-op trước khi mức phí tối thiểu cho những chiếc túi nylon dùng một lần tại tất cả các siêu thị ở Anh tăng gấp đôi lên 10 xu vào tháng 5. Co-op dự định loại bỏ ‘túi nhựa tái sử dụng” trong buôn bán tại tất cả 2600 cửa hàng của họ và thay thế bằng túi có thể phân hủy 10 xu. Những chiếc túi này sẽ bị loại bỏ từ ngày 30 tháng 4 và tất cả hàng tồn dự kiến được bán cho đến cuối mùa hè này. Nhà bán lẻ này đang thay thế các loại túi sử dụng một lần bằng các loại có thể phân hủy để đảm bảo rằng khách hàng có thể mua một loại túi thay thế có giá thành thấp, ít tác động với môi trường và bền vững. Phí tối thiểu cho túi mua sắm bằng nhựa dùng một lần tại tất cả các siêu thị ở Anh sẽ tăng gấp đôi từ 5 xu lên 10 xu vào tháng 5. Co-op vô cùng hoan nghênh sự tăng giá này, nhưng họ đang kêu gọi một chính sách yêu cầu các nhà bán lẻ lớn phải báo cáo về tất cả các loại túi tái sử dụng cũng như các túi sử dụng một lần để theo dõi tác động thực sự của mức thuế áp dụng cho túi này. Các khuyến nghị khác của Co-op bao gồm yêu cầu tất cả các túi sử dụng một lần phải được chứng nhận là có thể phân hủy được và đưa ra mức giá tối thiểu 50 xu cho các loại túi tái sử dụng để khuyến khích khách hàng sử dụng lại chúng thay vì coi chúng là túi sử dụng một lần. Dữ liệu của Greenpeace cho thấy các siêu thị đã phân phối hơn 1,5 tỷ túi tái sử dụng vào năm 2019, với tổng trọng lượng 44.913 tấn – tăng 56% so với năm trước. Các loại túi này sử dụng nhiều nhựa hơn so với các loại túi sử dụng một lần thông thường, do đó đã làm tăng lượng nhựa trong lưu thông. Co-op cho biết sáng kiến mới của họ sẽ giúp loại bỏ 29,5 triệu túi tái sử dụng với trọng lượng khoảng 870 tấn nhựa từ hoạt động bán hàng mỗi năm. “Với hơn 1,5 tỷ túi được bán ra mỗi năm bởi các nhà bán lẻ, đây vẫn là một vấn đề lớn đối với ngành công nghiệp của chúng tôi vì nhiều người mua sắm thường xuyên mua cái gọi là túi tái sử dụng nhưng chỉ dùng một lần và điều đó dẫn đến sự gia tăng đáng kể số lượng nhựa được sản xuất. “Để giúp giải quyết ô nhiễm nhựa và việc sử dụng nhựa không cần thiết, chúng tôi sẽ ngừng bán túi tái sử dụng khi hết số túi đang tồn kho. “Chúng tôi cũng đảm bảo tất cả các thành viên và khách hàng của chúng tôi có quyền tiếp cận với những giải pháp giá rẻ mà thân thiện hơn với môi trường, cùng với những chiếc túi bền hơn với mức giá cao hơn.”. “Điều quan trọng nhất để giảm tác động này là tái sử dụng. Cũng giống như tất cả chúng ta hiện đều chủ động đeo khẩu trang cho bản thân, chúng ta cũng nên làm như vậy với túi mua sắm. “Các siêu thị có trách nhiệm khuyến khích hoạt động này và chúng tôi muốn thấy báo cáo minh bạch về tất cả các loại túi mua sắm – cho dù chúng được làm bằng nhựa truyền thống, nhựa có thể phân hủy hay giấy. “Sẽ có lúc chúng ta quên mang theo túi và trong những trường hợp này chúng ta vẫn có thể sử dụng lại những chiếc túi đó, và khi chúng hết khả năng sử dụng, chúng ta sẽ tái chế chúng tại các điểm thu gom ở siêu thị. “Đối với khách hàng mua sắm tại Co-op, điều này có nghĩa là họ có thể tái sử dụng những chiếc túi này để lót thùng rác đựng rác thải thực phẩm . Đầu tháng này, Morrisons đã trở thành siêu thị đầu tiên của Anh loại bỏ hoàn toàn túi đựng bằng nhựa ra khỏi các điểm bán. Siêu thị này đã thay thế những chiếc túi nhựa bằng một chiếc túi giấy 30 xu (khoảng 9.000 đồng) với sức chứa tới 16 kg, có khả năng tái chế và chống nước.
|
Túi mua sắm có thể tái sử dụng
|
Túi mua sắm có thể tái sử dụng, đôi khi được gọi là túi dùng cả đời ở Anh, là một loại túi mua sắm có thể được tái sử dụng nhiều lần. Nó là một thay thế cho túi giấy hoặc nhựa sử dụng một lần. Nó thường là túi tote làm từ vải như canvas, sợi tự nhiên như đay, sợi tổng hợp dệt, hoặc nhựa dày bền hơn túi nhựa dùng một lần, cho phép sử dụng nhiều lần. Túi mua hàng có thể tái sử dụng là một loại túi vận chuyển, được bày bán trong các siêu thị và cửa hàng may mặc. Trong một nghiên cứu năm 2011 về các chuỗi bán lẻ của Hoa Kỳ (được tài trợ bởi một nhóm ủng hộ doanh nghiệp phản đối lệnh cấm túi nhựa), 23% túi tái sử dụng được phát hiện có mức độ chì cao hơn tiêu chuẩn 100 ppm được coi là an toàn cho bao bì sản phẩm. không có nguy cơ làm ô nhiễm thực phẩm, dẫn đến việc một số chuỗi thay đổi nhà cung cấp. Túi tái sử dụng đòi hỏi nhiều năng lượng hơn để sản xuất so với túi mua sắm bằng nhựa thông thường.
|
Vừa qua, thông tin nhiều học sinh của điểm trường Nà Bản (xã Xuân Lạc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn) thường xuyên có biểu hiện lạ, liên tục bị ngất, trở lên hung dữ bất thường, suy kiệt sức khỏe… khiến cho giáo viên, các bậc phụ huynh và chính quyền địa phương lo lắng, dư luận cũng rất quan tâm. Sau khi trực tiếp đi thăm khám, các bác sĩ bệnh viện Nhi Trung ương bước đầu xác định, các cháu bé trên mắc chứng rối loạn phân ly tập thể. Vậy rối loạn phân ly là gì và nguyên nhân nào khiến các cháu mắc chứng bệnh nêu trên?. Theo Ths.Bs Nguyễn Mai Hương – Phó trưởng khoa Tâm thần, bệnh viện Nhi Trung ương, rối loạn phân ly là một nhóm các bệnh lý tâm thần thường gặp với tỷ lệ 0,3 – 0,5% dân số. Một trong những điều kiện thuận lợi khiến trẻ mắc chứng bệnh trên chính là do trẻ sống trong môi trường giáo dục không thích hợp, cha mẹ quá nuông chiều hoặc quá khắt khe với con…. Để hiểu rõ hơn về khái niệm, triệu chứng, nguyên nhân cũng như cách điều trị chứng bệnh này, Ths.Bs Nguyễn Mai Hương sẽ chia sẻ với độc giả những thông tin cụ thể dưới đây:. – Rối loạn phân ly (trước kia gọi là Hysteria) là một nhóm các bệnh lý tâm thần thường gặp, tỷ lệ: 0,3-0,5% dân số. Theo Phân loại bệnh của Tổ chức Y tế thế giới (ICD 10), rối loạn phân ly là hiện tượng mất một phần hoặc hoàn toàn sự hợp nhất giữ trí nhớ quá khứ, ý thức, đặc tính cá nhân với những cảm giác trực tiếp và sự kiểm soát vận động. Đặc trưng của phân ly là những triệu chứng gợi ý bệnh lý của một cơ quan, bộ phận nào đó trong cơ thể nhưng người ta không tìm thấy được nguyên nhân bằng các phương pháp thăm khám lâm sàng và xét nghiệm. Rối loạn này gặp nhiều hơn ở trẻ em gái và phụ nữ trẻ. Bệnh thường xuất hiện sau những sang chấn tâm lý, các vấn đề khó khăn trong học tập, công việc, mối quan hệ mà người bệnh không thể giải quyết được. Những sang chấn này thường gây những cảm xúc mạnh như lo sợ cao độ, tức giận quá mức, thất vọng nặng nề…. – Rối loạn phân ly tập thể là khi xảy ra đồng loạt các trường hợp rối loạn phân ly trong một nhóm hoặc một tập thể như trường học, đám đông. Khi một người trong nhóm có biểu hiện của rối loạn phân ly, những người còn lại có xu hướng “bị lan truyền”. Sự lan truyền triệu chứng xảy ra trong nhóm người có mối quan hệ nào đó về môi trường hoặc sang chấn, tạo ra hàng loạt ca bệnh. Do có nhiều người cùng xuất hiện những biểu hiện bất thường nên bệnh lý này thường gây ra những lo lắng, hoang mang, thậm chí hiểu nhầm trong dư luận và xã hội. Các triệu chứng của rối loạn phân ly rất đa dạng, xuất hiện và kết thúc đều đột ngột thành từng cơn. Rối loạn phân ly có khuynh hướng thuyên giảm sau vài tuần, vài tháng, nhưng có thể tái phát trong trường hợp vẫn còn các sự kiện gây sang chấn. Đặc điểm của triệu chứng phân ly là tính “chịu ám thị”. Có nghĩa là khi có một tác nhân khác gây kích thích mạnh vào niềm tin hoặc đánh lạc hướng chú ý của người bệnh, các biểu hiện phân ly có thể giảm hoặc mất đi ngay. Ví dụ, tiêm nước cất có thể làm mất cơn co giật. – Các rối loạn lên đồng và bị xâm nhập: bệnh nhân cư xử, nói năng như thể một người khác, hoặc như bị một lực lượng siêu nhiên nào đó điều khiển. Trong trường hợp phân ly tập thể, các triệu chứng thường gặp là ngất, rối loạn vận động, co giật, cơn kích động cảm xúc. Hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa xác định rõ những tổn thương não bộ gây ra rối loạn phân ly và rối loạn phân ly tập thể, vì vậy bệnh lý này còn được gọi là bệnh lý chức năng. Các biểu hiện của bệnh thường phát sinh trong khoảng thời gian ngắn sau các sự kiện gây sang chấn, những vấn đề không giải quyết được gây căng thẳng. Đôi khi, các sang chấn nhỏ nhưng xảy ra thường xuyên cũng có thể là yếu tố thuận lợi cho phân ly, ví dụ như áp lực học tập, mối quan hệ bạn bè không tốt… Trong những trường hợp như vây, rối loạn phân ly xuất hiện như một cơ chế tự phòng vệ để bảo vệ cho những cá nhân, nhằm giảm bớt những cảm xúc tiêu cực như lo âu, bất lực, đồng thời tạo ra những lợi ích thứ phát như được quan tâm, được chăm sóc. – Nhân cách: nhân cách yếu, thiếu kiềm chế, thiếu tự chủ, tính dễ xúc động, thích được chú ý, nhân cách “nghệ sỹ”. – Môi trường: sự giáo dục không thích hợp, gia đình quá bao bọc hoặc quá khắt khe, môi trường không bền vững, thay đổi liên tục. Rối loạn phân ly chủ yếu được điều trị bằng các liệu pháp tâm lý, kết hợp với nâng cao thể trạng và bồi dưỡng nhân cách, thiết lập môi trường phù hợp. Quá trình điều trị thường cần nhiều thời gian, đòi hỏi sự kiên trì của cán bộ y tế, gia đình và người bệnh. – Tránh thái độ coi đây là bệnh giả vờ, hoặc ngược lại thái độ trầm trọng hóa, quan trọng hóa vấn đề. Nếu theo dõi quá chặt chẽ, quá quan tâm, lo lắng thì các triệu chứng bệnh có thể nặng lên. – Hướng dẫn những bài tập thư giãn, các kỹ năng xã hội, kỹ năng giải quyết vấn đề để nâng đỡ nhân cách người bệnh. – Có thể dùng một số loại thuốc, thực phẩm nhằm nâng cao thể trạng. Trong trường hợp có lo âu cần dùng những loại thuốc giải lo âu. – Giải thích hợp lý với gia đình, động viên gia đình tham gia tích cực trong quá trình trị liệu. – Có các hoạt động tham vấn tâm lý học đường. Phát hiện sớm những cá nhân có sang chấn tâm lý nhằm hỗ trợ, trị liệu kịp thời. – Rèn luyện tính cách trẻ em ngay từ khi còn nhỏ, hướng dẫn trẻ biết thương yêu, chia sẻ, đương đầu với khó khăn. – Gia đình, nhà trường và xã hội tăng cường giáo dục, quản lý con em mình, bồi dưỡng nhân cách, lối sống tốt đẹp, lành mạnh, tính đoàn kết, thân ái, tính tập thể, biết khắc phục khó khăn tránh các stress tâm lí trong sinh hoạt, học tập và công tác. – Đảm bảo chế độ dinh dưỡng đầy đủ và nghỉ ngơi hợp lý, giảm sức ép từ việc học tập.
|
Rối loạn phân ly ở trẻ em
|
Rối loạn phân ly ở trẻ em / rối loạn phân ly thời thơ ấu (childhood disintegrative disorder - CDD), còn được gọi là hội chứng Heller và rối loạn tâm thần phân ly, là một tình trạng hiếm gặp đặc trưng bởi sự chậm phát triển hoặc sự đảo ngược nghiêm trọng và đột ngột về ngôn ngữ, chức năng xã hội và kỹ năng vận động. Các nhà nghiên cứu đã không thành công trong việc tìm ra nguyên nhân gây ra rối loạn này. CDD có một số điểm tương tự như tự kỷ và đôi khi được coi là một dạng chức năng thấp của nó. Vào tháng 5 năm 2013, thuật ngữ CDD, cùng với các loại tự kỷ khác, đã được hợp nhất thành một thuật ngữ chẩn đoán duy nhất gọi là "rối loạn phổ tự kỷ " theo hướng dẫn DSM-5 mới. Do đó, CDD hiện còn được gọi là " tự kỷ hồi quy ", vì thuật ngữ này hiện có thể đề cập đến bất kỳ loại rối loạn phổ tự kỷ nào liên quan đến hồi quy, bao gồm CDD.CDD ban đầu được mô tả bởi nhà giáo dục Áo Theodor Heller (1869 – 1938) vào năm 1908, 35 năm trước khi Leo Kanner và Hans Asperger được mô tả bệnh tự kỷ.
|
Theo khái niệm Quân khu là vùng mà được bảo vệ bởi quân đội quốc gia đó. (quân khu tức là khu vực quân sự quản lý). Quân khu 1 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, nằm ở vị trí địa – chính trị chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh và đối ngoại trong thế bố trí chung của cả nước, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy lực lượng vũ trang 3 thứ quân; thường xuyên nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chú trọng nâng cao chất lượng huấn luyện, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc; tích cực tham gia công tác cứu hộ, cứu nạn, giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tư lệnh kiêm Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 1 là đồng chí Đàm Quang Trung. Hiện nay, Quân khu 1 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 1 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc qua các thời kỳ, Lực lượng vũ trang Quân khu 1 đã được Đảng, Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao vàng, 02 Huân chương Hồ Chí Minh, 03 Huân chương Độc lập, 10 Huân chương Quân công, hàng nghìn lượt tập thể đơn vị, hàng vạn cá nhân được thưởng Huân chương Chiến công các hạng; 346 đơn vị và 206 cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến, 06 đơn vị được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ đổi mới (lực lượng vũ trang huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên; lực lượng vũ trang và nhân dân xã Thị Hoa, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng; Trung đoàn Xe tăng 409; Lữ đoàn Công binh 575; Lữ đoàn Pháo binh 382; Tiểu đoàn Hoá học 23/ Bộ Tham mưu); 916 Mẹ Việt Nam Anh hùng và nhiều phần thưởng cao quý khác của bạn bè quốc tế. Quân khu 2 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy các cơ quan, đơn vị trực thuộc; các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn quân khu. Tư lệnh và Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 2 là các đồng chí Bằng Giang, Bùi Quang Tạo. Hiện nay, Quân khu 2 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 2 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu. Quân khu 3 trực thuộc Bộ Quốc phòng, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy các cơ quan, đơn vị trực thuộc; các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn quân khu. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 3 là các đồng chí Hoàng Sâm, Trần Độ. Hiện nay, Quân khu 3 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 3 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu. Quân khu 4 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, nằm trên một địa bàn chiến lược trong thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam, có nhiệm vụ chỉ huy, quản lý và tổ chức lực lượng vũ trang quân khu chiến đấu bảo vệ vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 4 là các đồng chí Nguyễn Đôn, Chu Huy Mân. Hiện nay, Quân khu 4 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 4 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu. Quân khu 5 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, hiện nay có chức năng nhiệm vụ cơ bản là tổ chức, xây dựng, quản lí và chỉ huy lực lượng vũ trang thuộc Quân khu chiến đấu bảo vệ vùng Nam Trung Bộ, xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân ở địa phương trên địa bàn. Tổ chức hiện nay có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh; Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và 35 năm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã có 162.768 liệt sỹ hy sinh vì sự nghiệp độc lập, tự do của dân tộc, hơn 100 nghìn thương, bệnh binh, 13.772 Mẹ Việt Nam Anh hùng. Với những đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý:. Trong thời kỳ đổi mới, lực lượng vũ trang Quân khu 5 có 5 tập thể vinh dự được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (lực lượng vũ trang và nhân dân huyện Đại Lộc/Quảng Nam, Lữ đoàn công binh 270, Viện Quân y 13, Trung đoàn Pháo binh 368 và Binh đoàn 15), 1 cá nhân được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lao động; 25 tập thể được tặng Cờ Thủ tướng Chính phủ; 85 tập thể và 35 cá nhân được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 68 tập thể được tặng Cờ Thi đua Bộ Quốc phòng; 542 tập thể và cá nhân được Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen và các hình thức khen thưởng khác. Quân khu 7 là tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ, được thành lập ngày 10/12/1945, bao gồm thành phố Sài Gòn và các tỉnh Gia Đinh, Chợ Lớn, Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Tây Ninh. Nay gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh: Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Đồng Nai, Lâm Đồng, Long An và Tây Ninh. Trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng vũ trang Quân khu 7 vừa xây dựng vừa chiến đấu, từ trong muôn vàn thiếu thốn, gian khổ hy sinh, đã sáng tạo ra những cách đánh hết sức độc đáo, có hiệu quả, lập nên nhiều chiến công xuất sắc ở cả ba vùng đô thị, đồng bằng và rừng núi, góp phần làm chuyển đổi cục diện chiến trường, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của địch, cùng quân và dân cả nước làm nên trận Điện Biên Phủ và cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975. Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến tranh giải phóng dân tộc, lực lượng vũ trang Quân khu 7 thực hành quân quản, sắp xếp lại lực lượng, khắc phục hậu quả chiến tranh, tham gia xây dựng chế độ xã hội mới: Vừa đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại của địch, xây dựng tiềm lực quân sự – quốc phòng, vừa kiên cường chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, làm nhiệm vụ Quốc tế xây dựng và bảo vệ đất nước Campuchia, góp phần đập tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Trong bối cảnh lịch sử mới, lực lượng vũ tranh Quân khu 7 tập trung xây dựng đơn vị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, ra sức huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trải qua hơn 60 năm, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng vũ trang Quân khu 7 được tặng thưởng: 02 Huân chương Sao vàng, 02 Huân chương Hồ Chí Minh, 01 Huân chương Quân công hạng nhất và 340 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Thành phố Hồ Chí Minh và hầu hết các tỉnh của Quân khu 7 đều được tặng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Lực lượng vũ trang Quân khu 7 luôn chú trọng việc quán triệt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy quân sự Trung ương, Bộ quốc phòng, vận dụng linh hoạt sáng tạo đường lối quân sự, đường lối ngoại giao, thống nhất ý chí và hành động, khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Kế thừa và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng mà ông, cha đã dày công vun đắp, phấp đấu xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu 7 ngày càng lớn mạnh, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang: “Trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng” lực lượng vũ trang Quân khu 7 mãi mãi xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Quân khu 9 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt nam có nhiệm vụ quản lý, tổ chức, xây dựng và chỉ huy quân đội chiến đấu bảo vệ vùng Đồng bằng Sông Cửu long Việt Nam. Tư lệnh và Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 9 là các đồng chí Nguyễn Thành Thơ, Nguyễn Văn Bé. Hiện nay, Quân khu 9 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 9 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu. Ra đời từ phong trào cách mạng của quần chúng, lực lượng vũ trang (LLVT) Thủ đô Hà Nội là một bộ phận quan trọng của LLVT nhân dân Việt Nam đã kế thừa, phát huy truyền thống anh hùng bất khuất chống ngoại xâm của Thủ đô Hà Nội, truyền thống “Ngàn năm văn hiến Thăng Long – Hà Nội” cùng các tầng lớp nhân dân Thủ đô viết nên trang sử hào hùng, góp phần làm rạng danh non sông đất nước. Trước và trong cách mạng tháng Tám, các đội tiền thân của LLVT Thủ đô xung kích đi đầu, làm nòng cốt cho các tầng lớp nhân dân Hà Nội đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, tích cực chuẩn bị mọi điều kiện khi thời cơ đến vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, góp phần quyết định thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, giành độc lập tự do cho dân tộc, mang lại quyền làm chủ cho nhân dân Việt Nam. LLVT Thủ đô Hà Nội đã cùng các tầng lớp nhân dân kiên quyết đấu tranh đập tan hoạt động chống phá của kẻ thù, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam thoát ra khỏi tình thế ngàn cân treo sợi tóc.
|
Quân khu 7, Quân đội nhân dân Việt Nam
|
Quân khu 7 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong 7 quân khu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy quân đội chiến đấu bảo vệ vùng Đông Nam Bộ mở rộng. Ngày 10 tháng 12 năm 1945, thành lập Quân khu 7 bao gồm thành phố Sài Gòn và các tỉnh Gia Đinh, Chợ Lớn, Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Tây Ninh. Năm 1999 Quân khu 7 tiếp nhận tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng từ Quân khu 5 chuyển sang. Ngày nay Quân khu 7 gồm các tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Lâm Đồng, Bình Thuận và thành phố Hồ Chí Minh.
|
Mác bê tông là thuật ngữ quen thuộc trong xây dựng. Vậy nhưng không phải ai cũng hiểu cụ thể mác bê tông là gì?. Để bạn có cái nhìn chi tiết hơn về nội dung này. Bài viết dưới đây của cosevco.vn sẽ cùng bạn tìm hiểu cụ thể về mác bê tông, cách xác định mác bê tông cũng như bảng tra cứu nó nhé. Mác bê tông là ký hiệu bê tông theo tiêu chuẩn Việt Nam được dịch lại từ tiêu chuẩn Liên Xô. Hiểu đơn giản thì mác bê tông là cường độ chịu nén của mẫu bê tông hình lập phương kích thước 15x15x15cm được bảo dưỡng trong điều kiện tiểu chuẩn trong 28 ngày. Sau khi đổ bê tông, quá trình đông cứng bắt đầu, cũng bắt đầu phát triển cường độ bê tông. Lực nén càng lớn lên khối lượng bê tông thì biểu thị được mác bê tông có khả năng chịu được lực cao. Thì ngoài việc chịu được lực nén chúng còn phải chịu được các lực khác như lực uốn, kéo và trượt. Mác bê tông được ký hiệu bằng chữ: M. Đây là ký hiệu theo tiêu chuẩn cũ. Hiện nay đôi khi trong các bản vẽ xây dựng bạn sẽ thấy có kỹ hiệu chữ B. Điều này cũng gây ra nhiều lẫn lộn cho người đọc bản vẽ xây dựng. M100: Mác bê tông 100 là loại bê tông có cấp độ bền là B7.5 và có cường độ chịu nén là 9.63 Mpa. M150: Mác bê tông 150 là loại bê tông có cấp độ bền là B12.5 và có cường độ chịu nén là 16.05 Mpa. M200: Mác bê tông 200 là loại bê tông có cấp độ bền là B15 và có cường độ chịu nén là 19.27 Mpa. M250: Bê tông mác 250 là loại bê tông có cấp độ bền là B20 và có cường độ chịu nén là 25.69 Mpa. M300: Mác bê tông 300 là loại bê tông có cấp độ bền là B22.5 và có cường độ chịu nén là 28.90 Mpa. M400: Mác bê tông 400 là loại bê tông có cấp độ bền là B30 và có cường độ chịu nén là 38.53 Mpa. M500: Mác bê tông 500 là loại bê tông có cấp độ bền là B40 và có cường độ chịu nén là 51.37 Mp. M600: Mác bê tông 600 là loại bê tông có cấp độ bền là B45 và có cường độ chịu nén là 57.80 Mpa. Ngày nay với các phụ gia người ta có thể sản xuất ra bê tông đạt M1000 – M1500. Trong các dự án xây dựng thông thường như là nhà ở, bệnh viện, trường học… thì ta hay sử dụng bê tông Mác 250. Còn đối với các bê tông mác cao hơn dùng cho các dự án nhà cao tầng có nhịp và tải trọng lớn hơn. Theo tiêu chuẩn mới của Việt Nam hiện nay thì không dùng ký hiệu mác bê tông – M. Thay thế cho ký hiệu M là ký hiệu chữ B – cấp độ bền của bê tông. Cấp độ bền B này được xác định từ kết quả nén mẫu hình trụ. Nghĩa là thay vì lấy mẫu lập phương thì người ta lấy mẫu hình trụ. Cường độ chịu nén của bê tông chính là ứng suất nén phá hủy của bê tông. Nó được tính bằng lực trên 1 đơn vị diện tích, như là kG/cm2, hay N/mm2. Thông thường trong xây dựng, ta chỉ chú ý tới cường độ chịu nén của bê tông, còn lại cường độ chịu kéo của bê tông thường rất thấp. Vậy nên nó thường bị bỏ qua. Vậy nhưng các kết cấu bê tông có thể chịu được uốn tốt là bởi nó được sử dụng cốt thép. Chúng ta sử dụng khả năng chịu kéo cao của thép để bù đắp cho khả năng chịu kéo thấp của bê tông. Chúng ta đặt thép vào trong vùng bê tông chịu kéo để tối ưu khả năng chịu lực. Từ đó chúng ta có thuật ngữ bê tông cốt thép. Để xác định mỗi mác bê tông thực tế thì tối thiểu cần phải có một tổ mẫu lấy tại hiện trường. Nó sẽ bao gồm 3 mẫu bê tông đồng nhất về vị trí và cách thức lấy mẫu và điều kiện dưỡng hộ. Đối với các kết cấu lớn, các tổ mẫu trên cùng một kết cấu phải ở những vị trí khác nhau. Đồng thời số lượng của chúng đủ lớn để mang tính đại diện được cho toàn bộ kết cấu đó. Giá trị trung bình của ứng suất nén tại thời điểm phá hủy (do nén mẫu) của cả 3 mẫu trong tổ mẫu, được lấy để xác định mác của bê tông (tuổi 28 ngày). Nếu thời điểm nén tổ mẫu không phải là 28 ngày sau khi bê tông ninh kết (thường là 3 hay 7 ngày sau). Vậy thì mác bê tông được xác định gián tiếp qua biểu đồ phát triển cường độ bê tông chuẩn tương ứng. Đồng thời các kết quả nén mẫu ở tuổi 3 hay 7 ngày là các kết quả kiểm tra nhanh và chưa chính thức. Kết quả nén mẫu ở tuổi 28 ngày mới được coi là mác của bê tông thực tế. Kết cấu bê tông tại chỗ được coi là đạt yêu cầu về mác thiết kế khi giá trị trung bình của từng tổ mẫu không được nhỏ hơn mác thiết kế. Vậy nhưng đồng thời phải không có mẫu nào trong các tổ mẫu có kết quả thí nghiệm dưới 85 % mác thiết kế. Các thể phân Mác bê tông thành 3 loại chính là: Mác thấp, mác trung bình và mác cao. Bê tông mác cao thường được thiết kế cấp phối và trộn tại nhà máy. Bê tông phát triển cường độ theo thời gian. 28 ngày là thời gian bê tông đạt cường độ đến 99%. Độ sụt của bê tông thể hiện độ dẻo và tính dễ chảy của bê tông. Giá trị này được quan tâm trong quá trình thi công ngoài công trường. Độ sụt của bê tông được thí nghiệm ngay tại hiện trường. Thông thường công tác thí nghiệm độ sụt gồm các bước sau:. Cho hỗn hợp bê tông vào phễu, đầm cho bê tông đều bằng que đầm và gạt bỏ phần bê tông thừa trên phễu. Từ từ rút phễu lên trong thời gian ~ 5s sao cho bê tông trong phễu không di chuyển. Lấy thước đo khoảng cách từ đỉnh của bê tông và chiều cao của phễu. Thông thường độ sụt của bê tông được quy định rõ ràng trong ghi chú chung trong bản vẽ thiết kế kết cấu. Đối với những công trình được thiết kế bài bản ngay từ đầu thì mác bê tông được các kỹ sư kết cấu quyết định. Đồng thời hồ sơ bản vẽ khi phát hành ra công trình thì có ghi rõ sử dụng mác bê tông là bao nhiêu. Kỹ sư công trình theo mác bê tông trong bản vẽ mà trộn tỷ lệ cấp phối bê tông cho phù hợp. Đối với những công trình nhỏ, không có hồ sơ thiết kế bài bản: Vậy thì nhà thầu quyết định lựa chọn mác bê tông, thông thường thì dựa trên kinh nghiệm của họ. Đối với các công trình nhỏ, kết cấu không yêu cầu khả năng chịu lực cao: Vậy thì thường dùng các loại bê tông mác thấp như M15, M20, M25. Đối với những công trình lớn hơn, kết cấu phải chịu lực lớn hơn: Vậy thì các kỹ sư thiết kế thường chọn bê tông mác cao hơn, thông thường là M300 trở lên. Loại này thường là sử dụng bê tông thương phẩm. Có 2 loại bê tông thường được sử dụng hiện nay là: Bê tông trộn tay và bê tông thương phẩm. Loại này thường được sử dụng cho xây dựng các công trình quy mô nhỏ. Thích hợp cho các tòa nhà dân dụng nhỏ và sử dụng khối lượng bê tông không lớn. Bê tông trộn tay thường khó kiểm soát chất lượng. Trong quá trình đổ bê tông sẽ có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng bê tông, đặc biệt là yếu tố con người. Bê tông thương phẩm hay còn gọi là bê tông tươ. Đây là loại bê tông được tính toán thiết kế cấp phối dựa trên những thí nghiệm ở phòng thí nghiệm. Các nhà cung cấp bê tông thương phẩm thường chịu trách nhiệm về mác bê tông, cũng như chất lượng bê tông. Vậy nên họ sẽ kiểm soát tốt các khâu: Lựa chọn vật liệu, tính toán tỷ lệ pha trộn-cấp phối bê tông, liều lượng sử dụng phụ gia bê tông. Khi họ nhận được đơn đặt hàng thì thường đi kèm các thông số: Mác bê tông, độ sụt và khối lượng. Bê tông được trộn ở nhà máy. Sau đó vận chuyển đến nhà máy. Trong quá trính vận chuyển, bê tông sẽ được đảo đều để đảm bảo không đông cứng trước khi đến công trường. Bê tông thương phẩm thường được sử dụng trong các công trình quy mô lớn, yêu cầu khối lượng lớn.
|
Mác bê tông
|
Khi nói đến mác bê tông là nói đến khả năng chịu nén của mẫu bê tông. Theo tiêu chuẩn xây dựng cũ của Việt Nam (TCVN 3105:1993, TCVN 4453:1995), mẫu dùng để đo cường độ là một mẫu bê tông hình lập phương có kích thước 150 mm × 150 mm × 150 mm, được dưỡng hộ trong điều kiện tiêu chuẩn quy định trong TCVN 3105:1993, trong thời gian 28 ngày sau khi bê tông ninh kết. Sau đó được đưa vào máy nén để đo ứng suất nén phá hủy mẫu (qua đó xác định được cường độ chịu nén của bê tông), đơn vị tính bằng MPa (N/mm²) hoặc daN/cm² (kG/cm²). Trong kết cấu xây dựng, bê tông chịu nhiều tác động khác nhau: chịu nén, uốn, kéo, trượt, trong đó chịu nén là ưu thế lớn nhất của bê tông. Do đó, người ta thường lấy cường độ chịu nén là chỉ tiêu đặc trưng để đánh giá chất lượng bê tông, gọi là mác bê tông. Mác bê tông được phân loại từ 100, 150, 200, 250, 300, 400, 500 và 600. Khi nói rằng mác bê tông 200 chính là nói tới ứng suất nén phá hủy của mẫu bê tông kích thước tiêu chuẩn, được dưỡng hộ trong điều kiện tiêu chuẩn, được nén ở tuổi 28 ngày, đạt 200 kG/cm².
|
Bệnh Hirschsprung là một bệnh khá phổ biến ở trẻ em. Hàng năm ở Mỹ có khoảng 700 trẻ sơ sinh mắc bệnh này. Ở châu Âu tỷ lệ bệnh là 1/5000 trẻ mới sinh. Bệnh Hirschsprung có thể có biểu hiện lâm sàng rất sớm ở trẻ sơ sinh bằng bệnh cảnh tắc ruột cấp tính dễ đưa đến tử vong nếu không can thiệp kịp thời hoặc có biểu hiện bán cấp tính và mạn tính ở trẻ nhũ nhi và trẻ lớn với bệnh cảnh táo bón và tiêu chảy kéo dài trường diễn đưa đến tình trạng suy dinh dưỡng, trướng bụng, chậm phát triển về thể chất cũng như tinh thần. Cơ chế của sự tháo phân là một quá trình sinh lý phức tạp, nó được chi phối bởi nhu động của đại tràng phối hợp với hoạt động của cơ thắt hậu môn, khi những kích thích phó giao cảm đi từ các nhánh hạch của S2 S3 S4 thuộc đám rối thần kinh hạ vị dưới. Các nhánh này truyền kích thích tới các vùng thần kinh có ruột Anerbach và Meissner làm tăng cường sự co bóp cơ ruột, nhất là sự co cơvòng và tạo thành nhu động độc lập của đại tràng. Trong bệnh Hirschsprung, do bệnh nhân thiếu các hạch phó giao cảm nên luồng thần kinh kích thích của phó giao cảm bị cắt đứt và đưa đến hậu quả là đoạn đại tràng bệnh lý (đoạn vô hạch) bị mất nhu động và ngày càng teo nhỏ lại (vì không hoạt động) còn đại tràng bên trên do hậu quả tắc ở bên dưới sẽ cố gắng co bóp và ngày càng giãn to ra, những trường hợp bệnh nhi đến muộn đại tràng sẽ giãn gần như toàn bộ tạo thành bệnh lý mégacolon thường gặp ở trên lâm sàng. Đại tràng sigma giãn rất to, đường kính gấp 4-5 lần bình thường, thành đại tràng dày có sự phì đại các lớp cơ, đại tràng thường dài hơn thường lệ, trong lòng có u phân, niêm mạc phù nề do viêm loét mạn tính. Đại tràng bên trên cũng giãn to, chủ yếu do trướng hơi, thành ruột không dày vì càng lên cao dần thì kích thước trở lại bình thường. Đại tràng bên dưới càng đi xuống càng teo nhỏ giống như hình cái phễu. Đoạn đại tràng hẹp là đoạn vô hạch, chiều dài trung bình của đoạn vô hạch là 6-10cm. Chiều dài này có liên quan đến các biểu hiện lâm sàng của bệnh. Niệu quản và bàng quang: Khoảng 2-3% bệnh Hirschsprung có giãn niệu quản và bàng quang kèm theo. Tế bào hạch vắng mặt hoàn toàn ở đoạn ruột hẹp. Đám rối thần kinh. Meissner-Auerbach chỉ còn là các sợi thần kinh. 90% bệnh Hirschsprung có đoạn vô hạch tập trung ở vùng sigma-trực tràng, 10% còn lại vô hạch có thể rải rác hoặc chiếm toàn bộ đại tràng. Gặp ở giai đoạn tuổi sơ sinh tương ứng với giải phẫu bệnh là đoạn vô hạch dài 15-20cm. Các dấu hiệu để chẩn đoán bao gồm:. Thăm trực tràng bằng sonde Nélaton (hoặc bằng ngón tay út), khi rút sonde ra có “hội chứng tháo cống” nghĩa là phân, dịch và hơi đùn ra nhiều ở hậu môn và bụng xẹp hẳn đi. Với các dấu hiệu này cho phép chẩn đoán lâm sàng và cần xác định thêm bằng chụp đại tràng hoặc sinh thiết trực tràng. Xảy ra ở độ tuổi bú mẹ tương ứng với chiều dài của đoạn vô hạch trung bình (6-10cm). Bệnh nhi vào viện chủ yếu vì táo bón và tiêu chảy xen kẽ với nhau từng đợt và kéo dài dai dẳng. Xảy ra ở trẻ lớn tương ứng với chiều dài đoạn vô hạch ngắn (< 6cm). Trên phim không chuẩn bị có hình ảnh tắc ruột thấp, đại tràng giãn nhiều hơi, ở trẻ lớn có hình ảnh u phân lấm tấm ở hố chậu. Chụp đại tràng có cản quang bằng baryt cho hình ảnh đại tràng sigma giãn to, trực tràng teo nhỏ, giữa là đại tràng trung gian giống như hình cái phễu hoặc hình đuôi lợn. Ngoài ra còn có các hình ảnh phụ khác như đại tràng dài ra, thuốc ngấm không đều ở đoạn vô hạch, thuốc lưu lại trong đại tràng trên 24 giờ. Chụp đại tràng có cản quang là xét nghiệm cơ bản giúp chẩn đoán xác định bệnh Hirschsprung với tỷ lệ chính xác là 85%. Xét nghiệm này không có giá trị chẩn đoán trong trường hợp vô hạch toàn bộ đại tràng, vô hạch cực ngắn hoặc trên những bệnh nhi đã được làm hậu môn nhân tạo. Sinh thiết trực tràng qua đường hậu môn, hút sinh thiết cho kết quả vắng mặt các tế bào hạch phó giao cảm ở đám rối thần kinh Meissner Auerbach. Xét nghiệm giải phẫu bệnh cho tỷ lệ chính xác 95-100%. Cho kết quả không thấy có hiện tượng chun giãn của cơ thắt trong, xét nghiệm này thường chỉ áp dụng được ở trẻ sơ sinh từ ngày thứ 12 trở đi. Độ chính xác của phương pháp này khá cao từ 85-100%. Điều trị triệt để bệnh Hirschsprung chủ yếu là phẫu thuật cắt bỏ đoạn vô hạch và tái lập lưu thông tiêu hoá trên cơ sở tôn trọng cấu trúc giải phẫu để bảo đảm chức năng đại tiện, tiểu tiện và chức năng sinh dục về sau. Đối với những trường hợp tắc ruột cấp tính ở trẻ sơ sinh và nhũ nhi. Đối với những trường hợp bệnh nhi có biến chứng viêm ruột cấp tính với kháng sinh, bù dịch - điện giải, hồi sức chống choáng. Để làm giảm áp và chống ứ đọng trong lòng đại tràng. Thụt tháo có thể tạm thời đối với những thể cấp tính hoặc thụt tháo kéo dài trong nhiều tháng đối với những bệnh nhi có đọan vô hạch ngắn và trung bình để chờ đợi phẫu thuật triệt để khi điều kiện cho phép. Nuôi dưỡng, chế độ ăn, chống táo bón, chống suy dinh dưỡng, chống bội nhiễm ở đường tiêu hoá và đường hô hấp. Mở thông đại tràng với mục đích giảm áp, giải quyết tình tạng tắc ruột và ứ đọng đã được thực hiện thường quy trong phần lớn các trường hợp Hirschsprung. Vị trí yêu cầu là phải thiết lập chỗ mở thông đại tràng ngay trên đoạn đại tràng lành và phải thoát phân triệt để. Vị trí lý tưởng theo Swenson là ở đoạn đại tràng lành ngay trên đoạn vô hạch với sự hướng dẫn của sinh thiết hạch. Vị trí này rất thích hợp để tiến hành phẫu thuật 2 thì (thì 1mở thông đại tràng và thì 2 phẫu thuật Swenson). Nếu không có điều kiện sinh thiết hạch các phẫu thuật viên sẽ chọn vị trí đại tràng ngang và áp dụng phẫu thuật 3 thì (thì 1 mở thông đại tràng, thì 2 phẫu thuật cắt đoạn vô hạch, thì 3 đóng chỗ mở thông đại tràng). Trường hợp đoạn vô hạch dài hoặc chiếm toàn bộ đại tràng thì vị trí mở thông sẽ ở hồi tràng hoặc manh tràng. Kinh điển các tác giả chọn độ tuổi trên 1 tuổi hoặc cân nặng từ 10kg trở lên. Với sự tiến bộ trong lĩnh vực gây mê hồi sức và phẫu thuật nhi, tuổi mổ đã hạ thấp dưới 6 tháng hay sớm hơn. Phương pháp Swenson: Cắt bỏ toàn bộ đoạn vô hạch. Nối đại tràng lành với ống hậu môn ở vị trí cách rìa hậu môn từ 0,5-2cm. Phương pháp Duhamel: Chừa lại bóng trực tràng vô hạch. Nối đại tràng lành với ống hậu môn ở thành sau trên đường lược. Phương pháp Soave: Chừa lại một phần bóng trực tràng vô hạch, bóc toàn bộ niêm mạc chỉ chừa lại ống thanh cơ trực tràng. Hạ đại tràng lành luồn qua ống thanh cơ và nối với ống hậu môn trên vị trí đường lược. Phương pháp Rehbein và State: Áp dụng như trong các phẫu thuật cắt thành trước (Resection anterieure) miệng nối đại tràng lành và trực tràng cách rìa hậu môn khoảng 5cm. Gần đây cùng với sự phát triển của phẫu thuật nội soi, phần lớn các bệnh viện đã triển khai và áp dụng trong điều trị bệnh Hirschsprung với kết quả rất tốt. Rò miệng nối Swenson: Tạo áp xe ở hố ngồi trực tràng hoặc áp xe quanh trực tràng. Thường chỉ cần rạch tháo mủ theo đường trực tràng, tuy nhiên hậu quả rò miệng nối sẽ đưa đến xơ hẹp miệng nối về sau. Rối loạn tiết niệu và sinh dục: Biến chứng này chủ yếu gặp trong phẫu thuật Swenson do bóc tách thái quá làm thương tổn thần kinh bàng quang và sinh dục. Sót đoạn vô hạch: Gặp từ 9-14%. Sót đoạn vô hạch có thể gặp ở đoạn đại tràng bên trên do không đánh giá được trong khi mổ hoặc hoặc xảy ra ở phần dưới do chừa lại mỏm trực tràng quá dài. Sót đoạn vô hạch sẽ biểu hiện trên lâm sàng bằng hội chứng táo bón kéo dài sau mổ. Tùy theo mức độ để có thái độ xử lý thích hợp. Đối với thể nhẹ: Chỉ cần nong hậu môn và theo dõi nếu tình trạng không đỡ thì cắt cơ tròn trong. Đối với thể trung bình và nặng: Cần xác minh lại bằng sinh thiết hoặc chụp đại tràng và có kế hoạch mổ lại. Biến chứng hẹp miệng nối: Thường do hậu quả của bục, rò hoặc sau mổ không được nong hậu môn đều đặn. Tuỳ mức độ để có thái độ xử trí nong hậu môn, cắt vòng xơ hẹp hoặc phẫu thuật làm lại miệng nối. Biến chứng són phân: Biến chứng này thường xảy ra sau mổ nhưng thường cải thiện dần từ 6 tháng đến 3 năm, nguyên nhân có thể do sự giãn rộng quá mức của hậu môn, do căng đầy đại tràng, do phân lỏng hoặc do kích thích và thương tổn thần kinh vùng chậu. Tùy theo mức độ són phân bệnh nhi sẽ được điều trị nội khoa, tập luyện dần phản xạ hoặc tạo hình lại cơ vòng hậu môn. Sự tuân thủ các nguyên tắc về kỹ thuật mổ sẽ giúp tránh và giảm được biến chứng này.
|
Bệnh Hirschsprung
|
Bệnh Hirschsprung còn gọi là bệnh phì đại tràng bẩm sinh hay bệnh vô hạch đại tràng bẩm sinh Nguyên nhân gây bệnh là sự không có các tế bào hạch thần kinh ở đám rối của lớp cơ ruột tại một đoạn ruột, thường là ở trực tràng và đại tràng, có thể tới đại tràng trái,toàn bộ đại tràng và cả ruột non. Bệnh được mô tả bởi Harold – Hirschsprung vào năm 1886. Trong quá trình phát triển bình thường trước khi sinh, các tế bào từ mào thần kinh di chuyển vào ruột già để hình thành các mạng lưới thần kinh gọi là dây thần kinh trung ương (Auerbach plexus) (giữa các lớp cơ trơn của đường tiêu hóa) và niêm mạc dưới niêm mạc (Meissner Plexus) (trong niêm mạc của đường tiêu hóa). Trong bệnh Hirschsprung, sự di chuyển không hoàn chỉnh và một phần của đại tràng không có các cơ quan thần kinh điều chỉnh hoạt động của đại tràng. Các phân đoạn bị ảnh hưởng của đại tràng không thể thư giãn và đi phân qua đại tràng, tạo ra một tắc nghẽn. Ở hầu hết những người bị ảnh hưởng, rối loạn ảnh hưởng đến phần ruột già ở gần hậu môn.
|
Trường Trung học tập Phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa (tên giờ đồng hồ Anh là: Tran Dai Nghia High school for the Gifted) là một trong ngôi trường trung học công lập chăm ngơi nghỉ TP.Hồ Chí Minh, vận động theo hiệ tượng bán trú. Trường đào tạo và giảng dạy cả 2 khối hận THCS cùng THPT. Được thành lập từ thời điểm năm 2000 (tiền thân là trường Trung học La San Taberd), đến thời điểm này trường chuyên Trần Đại Nghĩa là 1 trong ba ngôi trường trung học tập nhiều chuyên tốt nhất TP.HCM. Với học viên ở chỗ này, được học tập trên ngôi trường là 1 trong những vinc dự cùng buộc phải nỗ lực rất là bản thân. Bởi kỳ thi tuyển sinc thường niên của ngôi trường phần nhiều hà khắc. Đề thi được đánh giá khó với điểm chuẩn chỉnh cao hơn nhiều so với những trường thông thường. Trường chuyên Trần Đại Nghĩa gồm quality đào tạo và huấn luyện cao cùng đồng rất nhiều sinh sống những môn. Tuy nhiên nổi bật tốt nhất là môn Ngoại ngữ. Theo kia, ngôi trường áp dụng lịch trình học tập tăng cường giờ đồng hồ Anh theo giáo trình Solutions của Đại học Oxford. Hàng năm, con số học viên được những tổ chức triển khai giáo dục trao tặng ngay học bổng luôn đi đầu thị thành (tiếp nối là Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong và Trường Phổ thông Năng Khiếu). Theo thông tin được biết, những học sinh lớp thôn hội của ngôi trường (chuyên Anh, siêng Văn, lớp D) bắt buộc phải học thêm một trong nhị ngoại ngữ: Pháp và Đức. Việc lựa chọn ngôn ngữ đến từng lớp sẽ tùy ở trong vào trong nhà ngôi trường. Ngoài ra, công ty trường còn thực hiện các chuyển động liên kết đào tạo và huấn luyện thế giới cho cán bộ, cô giáo cùng học viên bằng gần như học bổng ngắn hạn, dài hạn làm việc những nước Anh, Mỹ, Canada, nước Nhật, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga,. Vềđại lý thứ hóa học, ngôi trường sản phẩm vừa đủ những thiết bịquan trọng mang lại lớp học cùng chophần đa phòng chuyên sử dụng nhỏng chống thí nghiệm Lý-Hóa-Sinc, phòng nghe chú ý, phòng lab, phòng vi tính. Thư viện trường gồm lượng sách khá phong phú và đa dạng với trên 4.000 đầu sách. Ngoài việc học, học viên của trường chăm Trần Đại Nghĩa còn được tmê man gia nhiều câu lạc cỗ (CLB), chuyển động nước ngoài khoá hữu ích (trơn rổ, nhẵn chuyền, bóng đá,.) để bớt căng thẳng sau tiếng học, đôi khi gắn kết rộng với bè đảng. Trường hiện tại bao gồm cho hàng trăm CLB với vô vàn cuộc thi âm thanh, thể dục hàng năm. Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa là ngôi trường trung học tập công lập tốt nhất ngơi nghỉ Thành Phố Hồ Chí Minh được tổ chức triển khai kỳ điều tra nguồn vào lớp 6, tất cả các ngôi trường trung học cơ sở công lập còn sót lại bên trên địa bàn số đông tuyển sinch lớp 6 bằng phương pháp xét tuyển chọn. Thí sinch đang thực hiện bài điều tra năng lượng bằng giờ đồng hồ Anh trong thời gian 90 phút. Bài điều tra bao hàm các kỹ năng trong tiếp thu kiến thức nhỏng Vnạp năng lượng, Toán thù, Anh, các kiến thức cuộc sống cùng làng mạc hội,. Những năm vừa mới đây, tỉ lệ "chọi" vào lớp 6 Trường Trần Đại Nghĩa là một "chọi" 8. Năm nay, điểm chuẩn trúng tuyển chọn vào lớp 6 của ngôi trường là từ bỏ 57,6 điểm.
|
Trường Trung học phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa (Thành phố Hồ Chí Minh)
|
Trường Trung học Phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa (tên tiếng Anh là: Tran Dai Nghia High school for the Gifted), hay gọi tắt là Trần Chuyên, là một trường Trung học công lập chuyên ở Thành phố Hồ Chí Minh (dành cho học sinh từ lớp 10 đến lớp 12 có năng khiếu), hoạt động theo hình thức bán trú. Hiện nay, trường là một trong ba trường Trung học phổ thông chuyên tốt nhất Thành phố Hồ Chí Minh. Hai trường còn lại là Trường Phổ thông Năng khiếu (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) và Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong. Năm 1874, Cha Henri De Kerlan – Cha Sở coi Thánh đường Sài Gòn, đã sử dụng số tiền riêng mà mình dành dụm, sáng lập nên trường Trung học La San Taberd (tiền thân của trường sau này). Trường được đặt tại dinh của Tri phủ Tân Bình đời Tự Đức và bắt đầu khởi công vào năm 1875. Cuối cùng, sau 12 năm kéo dài, vào năm 1887, nhà trường chính thức đã hoàn thành việc xây dựng. Ban đầu, trường được xây dựng với mục đích nuôi trẻ mồ côi lai Âu và lai Pháp bị bỏ rơi, về sau thu nạp thêm học sinh không phân biệt lương - giáo.
|
Văn miếu Mao Điền nay thuộc xã Cẩm Điền, Cẩm Giàng, Hải Dương. Lịch sử của nó bắt đầu từ hơn 500 năm trước. Dưới triều vua Lê Thánh Tông, triều đình cho mở thêm một số trường học nữa ngoài trường Quốc Tử Giám ở kinh thành để đẩy mạnh phát triển Nho giáo. Ở xứ Đông (gồm toàn bộ tỉnh Hải Dương, thành phố Hải Phòng, huyện Đông Triều của Quảng Ninh) văn miếu Mao Điền được xây dựng vừa làm nơi thờ các bậc tiên hiền Nho học vừa làm trường thi của vùng. Từ giữa thế kỷ 15 cho đến khoa thi cuối cùng của nhà Nguyễn, nơi đây trở thành nơi thi hương của vùng trấn Hải Dương. Đặc biệt trong thời Mạc (1527-1593) đã bốn lần tổ chức thi đại khoa ở Mao Điền. Đi trên quốc lộ 5 theo hướng từ Hải Dương lên Hà Nội, từ xa ta có thể nhìn thấy văn miếu Mao Điền với tam quan đồ sộ nằm giữa cánh đồng trống. Qua cổng tam quan thấy ngay lầu chuông, lầu trống nằm về phía đầu hồi của hai dãy nhà giải vũ. Trước sân có một cây gạo cổ thụ hơn 200 tuổi. Đây là cây lưu niệm được trồng trong đợt kiến thiết lại văn miếu năm 1801, dưới thời Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn. Dãy nhà chính của văn miếu gồm hai lớp quay mặt về hướng tây. Nhà ngoài đặt bàn thờ và bát nhang công đồng. Hai bên vách treo bảng danh sách 637 vị tiến sĩ quê ở trấn Hải Dương trong thời đại khoa cử Việt Nam. Nhìn vào bảng danh sách đồ sộ ấy ta không khỏi cảm phục tinh thần hiếu học của người dân xứ Đông. Từ khoa thi đầu tiên dưới triều Lý đến khoa thi cuối cùng của nhà Nguyễn, trấn Hải Dương đều có người đỗ đạt. Thời nào cũng có những nhân vật xuất chúng của trấn Hải Dương đỗ đạt ra giúp đời, giúp nước. Điển hình như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với tài tiên đoán sự việc trước 500 năm, hay lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, hoặc Vũ Hữu - nhà toán học lỗi lạc trong lịch sử trung cổ…. Hai di vật cổ nhất của văn miếu Mao Điền được đặt ở dãy nhà ngoài là chiếc lư hương bằng đá trên bàn thờ công đồng và khánh đá từ thời Tây Sơn. Chiếc khánh đá có âm thanh trong trẻo thể hiện trình độ rất cao của người thợ chế tác đá Việt Nam đầu thế kỷ 19, với một bên tai đã vỡ. Năm 1948 giặc Pháp chiếm văn miếu lập đồn và đã phá hủy nhiều công trình, hiện vật văn miếu. Chiếc khánh đá cũng bị đem bắc cầu ao. Ngày nay, sau khu văn miếu vẫn còn một di tích lôcốt giặc Pháp xây dựng để giữ đồn. Phía trong hậu cung của văn miếu thờ cả thảy chín bài vị. Chính giữa thờ Khổng Tử, ông tổ của đạo Nho. Trong cách bài trí thờ tự cũng có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Khổng Tử là ông tổ đạo nên được thờ ở chính giữa, bên trái là Chu Văn An, một người thầy mẫu mực trong truyền thống đạo Nho nước ta. Những người còn lại đều là những người con xuất chúng của trấn Hải Dương. Đặc biệt là trạng nguyên Nguyễn Thị Duệ, nữ trạng nguyên duy nhất của nước Việt. Chuyện kể rằng sau khi nhà Mạc thua chạy lên Cao Bằng, cha con bà Nguyễn Thị Duệ cũng theo lên. Năm 1593, bà giả trai đi thi và đỗ trạng nguyên của triều Mạc. Nhưng khi vào dự yến tiệc thì vua Mạc phát hiện bà là gái giả trai. Lẽ ra tội khi quân phải chém đầu, nhưng vì cảm phục tài năng bà, vua đã giữ bà lại trong cung dạy học cho cung tần. Sau lại lấy làm vợ, phong làm Tinh phi. Trấn Hải Dương - xứ Đông của nước Việt với sông Bạch Đằng mấy lần vùi xác quân thù lập nên võ công hiển hách, lại có văn miếu Mao Điền thờ hơn 600 vị tiến sĩ xuất thân từ đây thật là mảnh đất địa linh nhân kiệt. TTO - Thay vì tạm dừng, TP.HCM sẽ được tổ chức cho tài xế giao hàng sử dụng công nghệ (shipper) hoạt động tại TP Thủ Đức và 7 quận huyện vùng đỏ nhưng phải xét nghiệm COVID-19 vào mỗi buổi sáng. TTO - Trong ngày thứ 6 TP.HCM thực hiện tăng cường giãn cách xã hội, tỉ lệ F0 trong cộng đồng chiếm hơn 90% tổng số F0 mới. Nhưng chính quyền khuyến cáo người dân bình tĩnh vì điều này nằm trong kịch bản ứng phó của ngành y tế. TTO - Mỗi người lái xe ôm truyền thống được nhận 3 triệu đồng, người lao động thất nghiệp được nhận 1,2 triệu đồng từ gói hỗ trợ của TP.HCM, số tiền không quá lớn nhưng cũng đủ để người dân co kéo qua giai đoạn khó khăn. TTO - Tính từ 18h chiều 27-8 đến 18h chiều 28-8, trên Hệ thống quốc gia quản lý ca bệnh COVID-19 ghi nhận 12.103 ca nhiễm mới, trong đó 6 ca nhập cảnh và 12.097 ca ghi nhận trong nước. TTO - Tại họp báo chiều 28-8, ông Kajiwara Junichi, tổng giám đốc Công ty Acecook Việt Nam, đã có mặt phản hồi thông tin liên quan sản phẩm mì Hảo Hảo và miến Good được cho là phát hiện có chất cấm tại Ireland.
|
Văn miếu Mao Điền
|
Văn miếu Mao Điền thuộc làng Mậu Tài, xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng là một trong số ít văn miếu còn tồn tại ở Việt Nam. Nguyên được lập ra để tổ chức các kỳ thi Hương của trấn Hải Dương xưa nhưng vào thời nhà Mạc đã bốn lần tổ chức khoa thi Hội. Văn miếu Mao Điền nằm tại làng Mậu Tài, xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương; ngay cạnh đường quốc lộ số 5 từ Hà Nội đi Hải Phòng, cách thành phố Hải Dương 15 km về phía tây. Tại miền Bắc Việt Nam, Văn miếu Mao Điền có quy mô và lịch sử lâu đời đứng thứ 2, chỉ sau Văn miếu Quốc Tử Giám. Văn miếu Mao Điền được lập ra để thờ Khổng Tử và các bậc đại nho theo truyền thống của Việt Nam, Trung Quốc và một số nước Đông Á khác. Từ giữa thế kỷ 15, với chủ trương mở mang việc học hành và đào tạo nho sĩ, nhà Lê sơ đã cho xây dựng một loạt những trường học (trường quốc lập) trong đó có trường thi hương Mao Điền (huyện Cẩm Giàng). Đến khoảng năm 1740, sau khi dời trấn lỵ của Hải Dương từ Dinh Lệ (ở Mặc Động - Chí Linh) về Dinh Dậu (Mao Điền) thì cho lập Văn miếu Vĩnh Lại (huyện Đường An), (nay thuộc xã Vĩnh Tuy huyện Bình Giang).
|
Rối loạn tăng động giảm chú ý ở người lớn (ADHD) là một căn bệnh bao gồm các vấn đề về chú ý, tăng động và hành vi bốc đồng. Căn bệnh này có thể dẫn đến nhiều hệ lụy như giảm hiệu suất công việc, học hành kém, tự ti. Tăng động giảm chú ý / rối loạn tăng động Rối loạn tăng động ở người lớn (ADHD) là một rối loạn sức khỏe tâm thần bao gồm sự kết hợp của các vấn đề về chú ý, tăng động và hành vi bốc đồng. ADHD có thể gây ra các mối quan hệ không ổn định, hiệu suất kém ở nơi làm việc hoặc trường học, lòng tự trọng thấp và các vấn đề khác. Mặc dù nó được gọi là ADHD, các triệu chứng của nó bắt đầu từ thời thơ ấu và tiếp tục đến tuổi trưởng thành. Trong một số trường hợp, ADHD không được chẩn đoán cho đến khi trưởng thành.Các triệu chứng ADHD ở người lớn có thể không rõ ràng bằng các triệu chứng Trẻ bị rối loạn tăng động giảm chú ýỞ người lớn, chứng tăng động giảm chú ý nhưng người đó vẫn đối mặt với tính cách bốc đồng, cáu gắt, thiếu chú ý. Việc điều trị ADHD ở người lớn cũng tương tự như điều trị ADHD ở trẻ em. Việc điều trị ADHD ở người lớn bao gồm thuốc, tư vấn tâm lý (liệu pháp tâm lý) và điều trị bất kỳ tình trạng sức khỏe tâm thần nào cùng xảy ra với ADHD. Các triệu chứng của một số người Tăng động giảm chú ý Khi lớn lên, những người khác tiếp tục mang các triệu chứng chính của bệnh và cản trở các hoạt động hàng ngày. Ở người lớn, các triệu chứng chính của ADHD có thể bao gồm không chú ý, bốc đồng và bồn chồn. Các triệu chứng có thể từ nhẹ đến nặng. Nhiều người lớn mắc chứng ADHD không biết mình mắc bệnh, họ chỉ biết rằng công việc hàng ngày là một thử thách đối với những người như họ.Người lớn và Tăng động giảm chú ý Có thể khó tập trung và ưu tiên công việc, gây chậm trễ thời hạn và quên các cuộc họp hoặc kế hoạch. Trong một số trường hợp, sự thiếu kiểm soát của bệnh nhân là điều hiển nhiên, chẳng hạn như nóng nảy khi đang xếp hàng hoặc lái xe, dẫn đến cơn tức giận bộc phát. Các triệu chứng của ADHD và lo lắng hoặc Bệnh tâm thần. Nhiều người bị ADHD cũng có các bệnh đi kèm, chẳng hạn như Bực bộiLo lắng khiến bệnh khó chẩn đoán hơn. ADHD chỉ được chẩn đoán khi các triệu chứng đủ nghiêm trọng để gây ra các vấn đề ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Nếu bất kỳ triệu chứng nào được liệt kê ở trên tiếp tục cản trở chất lượng cuộc sống của bạn, vui lòng đến gặp bác sĩ để chẩn đoán ADHD. Lý do chính xác Tăng động giảm chú ý Nó vẫn chưa được làm rõ, và công việc nghiên cứu vẫn đang được tiếp tục. Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc ADHD bao gồm:. Di truyền học: ADHD xảy ra trong nhiều gia đình, và các nghiên cứu đã chỉ ra rằng gen là một yếu tố góp phần. Môi trường sống: Các yếu tố môi trường nhất định cũng làm tăng nguy cơ, chẳng hạn như phơi nhiễm chì thời thơ ấu. Các vấn đề gặp phải trong quá trình phát triển: Các vấn đề về hệ thần kinh trung ương vào những thời điểm quan trọng cũng là một yếu tố nguy cơ. Có họ hàng gần, chẳng hạn như cha mẹ hoặc anh chị em bị ADHD hoặc các bệnh tâm thần khác. Khi bạn còn trẻ, bạn sống trong một môi trường độc hại, chẳng hạn như tiếp xúc với chì, chất chủ yếu có trong sơn và đường ống trong các tòa nhà cũ. Mặc du Tăng động giảm chú ý Nó không trực tiếp gây ra các vấn đề tâm lý và các vấn đề khác, và các bệnh khác thường cùng tồn tại với ADHD khiến việc điều trị trở nên khó khăn hơn. Bệnh tâm thần: Nhiều người lớn bị ADHD cũng có Bực bội, Rối loạn lưỡng cực Hoặc các rối loạn tâm thần khác. Mặc dù các vấn đề về tinh thần không phải do ADHD gây ra, nhưng những thất bại và thất vọng lặp đi lặp lại do ADHD gây ra có thể làm trầm trọng thêm chứng trầm cảm. sự lo ngại: Rối loạn lo âu thường xảy ra ở người lớn mắc chứng ADHD. Căn bệnh này có thể gây ra lo lắng quá mức, căng thẳng và các triệu chứng khác. Các triệu chứng do ADHD gây ra có thể làm cho tình trạng lo lắng trở nên tồi tệ hơn. Các rối loạn tâm thần khác: Người lớn bị ADHD có nhiều nguy cơ mắc các rối loạn tâm thần khác, chẳng hạn như rối loạn nhân cách, động kinh từng cơn và rối loạn sử dụng chất kích thích. Mất khả năng học tập: Người lớn bị ADHD có thể đạt điểm thấp hơn trong các bài kiểm tra học tập về độ tuổi, trí thông minh và trình độ học vấn của họ. Các vấn đề liên quan đến học tập có thể bao gồm các vấn đề về học tập và giao tiếp. Các dấu hiệu và triệu chứng Tăng động giảm chú ý Nó có thể khó phát hiện ở người lớn. Tuy nhiên, các triệu chứng đầu tiên thường xuất hiện trước 12 tuổi và tiếp tục đến tuổi trưởng thành. Không có xét nghiệm đơn lẻ nào để xác định chẩn đoán. Chẩn đoán bao gồm:. Kiểm tra thể chất: Khám sức khỏe có thể giúp loại trừ các nguyên nhân khác có thể gây ra các triệu chứng tương tự. thu thập thông tin: Bạn sẽ được hỏi về mọi vấn đề sức khỏe hiện tại, tiền sử bệnh tật, gia đình và tiền sử triệu chứng của bạn. Một số điều kiện hoặc phương pháp điều trị y tế có thể gây ra các dấu hiệu và triệu chứng tương tự như ADHD. Những ví dụ bao gồm:. Vấn đề y tế Có thể ảnh hưởng đến suy nghĩ hoặc hành vi: rối loạn phát triển, động kinh, các vấn đề về tuyến giáp, v.v., rối loạn giấc ngủ, Tổn thương não hoặc lượng đường trong máu thấp (hạ đường huyết). Điều trị tiêu chuẩn cho ADHD ở người lớn thường bao gồm thuốc, giáo dục, đào tạo kỹ năng và tư vấn tâm lý. Sự kết hợp của các phương pháp điều trị này thường rất hiệu quả, đặc biệt là trong việc kiểm soát nhiều triệu chứng của ADHD. Doping: Các sản phẩm bao gồm methylphenidate hoặc amphetamine, thường là những loại thuốc được sử dụng phổ biến nhất để điều trị ADHD. Các chất kích thích dường như làm tăng và cân bằng mức độ của các chất hóa học trong não được gọi là chất dẫn truyền thần kinh. Các loại thuốc khác: Các loại thuốc khác được sử dụng để điều trị ADHD bao gồm chất chống oxy hóa không gây kích ứng và một số loại thuốc chống trầm cảm, chẳng hạn như bupropion. Tomoxetine và thuốc chống trầm cảm hoạt động chậm hơn chất kích thích, nhưng nếu bạn không thể dùng chất kích thích vì vấn đề sức khỏe hoặc chất kích thích có thể gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng thì chúng có thể là một lựa chọn tốt. Loại thuốc và liều lượng chính xác khác nhau ở mỗi người, vì vậy có thể mất thời gian để tìm đúng loại thuốc cho bạn. Nói với bác sĩ của bạn về bất kỳ tác dụng phụ nào. Tư vấn cho bệnh nhân Tăng động giảm chú ý Nó thường bao gồm tư vấn tâm lý (tâm lý trị liệu), giáo dục liên quan đến bệnh tật và các kỹ năng học tập. Liệu pháp nhận thức hành vi: Loại hình tư vấn có cấu trúc này dạy các hành vi quản lý và các kỹ năng cụ thể giúp chuyển đổi các mô hình tư duy tiêu cực thành các mô hình tư duy tích cực. Nó có thể giúp bạn đối phó với những thách thức trong cuộc sống, chẳng hạn như trường học, công việc hoặc các vấn đề giữa các cá nhân và nó có thể giúp giảm bớt các tình trạng sức khỏe tâm thần khác, chẳng hạn như trầm cảm hoặc lo lắng. Lạm dụng ma tuý. Tư vấn hôn nhân và liệu pháp gia đình: Phương pháp điều trị này có thể giúp những người thân yêu đối phó với căng thẳng khi sống chung với người ADHD và hiểu họ có thể làm gì để giúp đỡ. Hình thức tham vấn này có thể cải thiện kỹ năng giao tiếp và giải quyết vấn đề. Bạn cũng bị bệnh như bao người Tăng động giảm chú ý Những người khác có thể không thể đoán trước, quên các cuộc hẹn, bỏ lỡ thời hạn và đưa ra các quyết định bốc đồng hoặc phi lý trí. Những hành động này sẽ làm xói mòn lòng tin của đồng nghiệp, bạn bè hoặc đối tác. Điều trị tập trung vào những vấn đề này và các phương pháp để theo dõi hành vi của bạn. Do đó, lớp học có thể cải thiện giao tiếp và phát triển các kỹ năng giải quyết vấn đề và xung đột. Các thành viên trong gia đình tìm hiểu thêm về các liệu pháp và khóa học cho các cặp đôi ADHD có thể cải thiện đáng kể mối quan hệ của bạn. Phòng khám tâm lý – Bệnh viện đa khoa quốc tế Times City của chúng tôi có chức năng khám, tư vấn và điều trị ngoại trú các vấn đề về sức khỏe tâm thần và tâm thần. Phòng khám tâm lý – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Times City của chúng tôi có trang thiết bị hiện đại và đội ngũ bác sĩ chuyên môn cao, có khả năng triển khai các xét nghiệm tâm lý và điều trị tâm lý củng cố để phục vụ công tác khám chữa bệnh của người bệnh. Phòng khám Tâm lý hiện đang hợp tác với các giáo sư, chuyên gia đầu ngành của trường Đại học Y Hà Nội và các bệnh viện tuyến đầu trong và ngoài nước để chẩn đoán và điều trị, nhằm đạt được hiệu quả điều trị và bệnh tốt nhất.
|
Rối loạn tăng động giảm chú ý
|
Rối loạn tăng động giảm chú ý (tiếng Anh: attention deficit hyperactivity disorder, viết tắt là ADHD) là một bệnh lý rối loạn phát triển thần kinh có đặc trưng là sự không tập trung chú ý, hoặc sự hiếu động và bốc đồng quá mức so với độ tuổi của người bệnh. Một số người mắc ADHD cũng gặp khó khăn trong việc kiểm soát cảm xúc hoặc chức năng điều hành. Để một người được chẩn đoán là mắc ADHD, các triệu chứng phải khởi phát trước năm 12 tuổi, tiếp diễn trong vòng ít nhất 6 tháng, và gây ra vấn đề trong ít nhất hai bối cảnh (chẳng hạn như ở trường, ở nhà hay trong các hoạt động giải trí). Ở trẻ em, việc khó tập trung có thể dẫn đến kết quả học tập kém. Bên cạnh đó, ADHD cũng có liên hệ với các rối loạn tâm lý khác, cũng như rối loạn sử dụng chất gây nghiện. Mặc dù ADHD gây suy giảm chú ý, đặc biệt là trong xã hội hiện đại, nhiều người mắc bệnh vẫn có thể tập trung vào những việc mà họ thấy thú vị hoặc đáng làm (một trạng thái được gọi là siêu tập trung).Mặc dù ADHD là rối loạn tâm lý ở trẻ em và trẻ vị thành niên được chẩn đoán và nghiên cứu nhiều nhất, nguyên nhân chính xác gây ra bệnh vẫn chưa được tìm ra ở đại đa số các trường hợp.
|
Đây là một bộ anime cực hay, cực ý nghĩa. Tôi xem hết season 1 của bộ anime này trong vòng 1 ngày thôi đó, hoàn toàn không thể dứt ra được. Một season hoàn toàn không đủ thỏa mãn tôi. Tôi muốn có thêm thật nhiều, thật nhiều OVA và season mới. Mọi thứ trong season 1 vốn chưa kết thúc hẳn mà. Akatsuki no Yona mang nét cổ trang của Trung Quốc, đan xen sự ngọt ngào của Hàn và phong cách nghiêm túc chỉn chu của Nhật. Nó là một tổ hợp rất thú vị và tự nhiên. Nét vẽ đẹp, trau chuốt. Âm nhạc phù hợp. Diễn biến tâm lý nhân vật và tính cách đều xây dựng ổn định. Nhóm 6 người của Yona không muốn khen cũng không được. Ban đầu tôi không thích Yona lắm, vì cô tỏ ra khá “bánh bèo”. Tôi nhớ từng đọc một confession trên facebook về sự “bánh bèo” của Yona, chủ yếu là tình cảm dây dưa với Soo-won và “sự vô dụng” và hay khóc của cô. Tôi không ghét tính cách đó, chỉ là không thích lắm. Song về sau, càng ngày tôi càng yêu Yona. Mấy tập đầu quả là Yona có như miêu tả thật. Song đó là điều đương nhiên khi Yona mới 16 và là một công chúa được nuông chiều yêu thương hết mực. Yona chưa trải qua gian khổ, chưa đối mặt khó khăn, nên khi vấp ngã, bật khóc vì lo sợ hay yếu thế, vướng tay chân người khác là chuyện bình thường. Chẳng có ai tự dưng rơi vào thảm cảnh mà lại thích nghi được ngay cả. Nhưng Yona tự biết nhược điểm để khắc phục bản thân. Cô cố gắng không trở thành gánh nặng của Hak dù Hak khẳng định có thể bảo hộ cô chu toàn. Kể cả có tứ long, Yona vẫn luyện tập chăm chỉ. Không ai bắt cô phải làm thế, là cô tự đặt áp lực cho mình. Yona quyết tâm trở nên mạnh mẽ hơn. Cả season 1 là quá trình Yona từ cô bé ngây thơ cao quý trong cung cấm biến thành cô gái kiên cường sẵn sàng bảo vệ người mình yêu quý. Trong quá trình đó, Yona chưa hoàn toàn trưởng thành. Có lúc cô khóc vì bất lực, có lúc cô khóc vì đau thương… tất cả đều xuất phát từ trái tim và lòng thương người của cô. Dù có mạnh mẽ đến đâu, Yona vẫn là một cô gái, và trái tim cô không bằng sắt. Vì vậy, đừng trách cô nức nở do sợ hãi khi cố hái sensujo trên vực đá, cũng đừng sỉ vả khi cô mềm lòng hay cứng đờ người trước nguy hiểm. Không phải dĩ nhiên khi Hak, Yun, tứ long nguyện đi theo bảo vệ cô; mọi người yêu quý cô. Tất cả bắt nguồn từ chính bản thân Yona. Ở Yona có khí chất khiến kẻ thù sợ hãi, khiến người người nể phục. Yona đáng yêu, xinh xắn, dễ được lòng mọi người. Mái tóc đỏ rực làm cô nổi bật. Ánh mắt lấp lánh đầy lửa như xuyên thấu người đối diện. Yona luôn thân thiện, tốt bụng. Cô nhạy cảm biết được ai đau, ai buồn. Cô không cưỡng ép bất kỳ ai làm gì, mà tôn trọng quyết định của họ. Cô biết hoàn thiện bản thân. Cô biết gì là đúng, gì là sai, chưa bao giờ để hận thù che lấp lý trí. Yona có sự kiên cường, mạnh mẽ, chưa bao giờ từ bỏ. Yona là người ai cũng yêu, ai cũng quý. Đến nỗi mọi người đều nguyện ở bên cô. Như tứ long vốn bị ràng buộc bởi long huyết, song sau khi tiếp xúc thì vì chính bản thân Yona mà ở lại. Nếu nói về khuyết điểm, thì chỉ có đúng một điều: cô quá ngây thơ, tổn thương Hak không biết bao nhiêu lần. Hak bày tỏ rõ ràng như thế, nhiều lần Yona cứ hiểu sai. Yun, Jaeha hay Kija đều nhìn ra tình cảm đó, có mỗi Yona là không. Do quen biết từ nhỏ, lại đinh ninh chỉ là công chúa-hộ vệ bình thường, Yona đôi lúc coi sự tiếp xúc là điều đương nhiên. Cô còn nói nhiều câu dễ khiến Hak thêm hy vọng. Về sau cô có đỏ mặt khi đối diện với Hak. Mong rằng Yona sớm nhận ra và chấp thuận trái tim của Hak, tránh cho anh thêm đau khổ. Còn Soo-won là biểu ca, là người cô vừa ngưỡng mộ, vừa yêu thương, có tình thân gia đình, lại có tình yêu nam nữ. Soo-won hại chết phụ thân, cô giận dữ, đau đớn. Tuy nhiên, trên hành trình tìm kiếm tứ long, Yona phát hiện cách cai trị của phụ thân không hề mang lại hiểu quả cao. Nhân dân lầm than đói khổ. Trong khi đó, Soo-won quyết đoán hơn, có khả năng mang lại cuộc sống tốt hơn cho người dân. Nếu đánh thành, cướp ngôi, Yona có khi không làm tốt được như Soo-won, không gánh được trách nhiệm nặng nề đó. Nên Yona lựa chọn đi ngao du giết kẻ gian, giúp dân lành. Tôi hoàn toàn ủng hộ quyết định này của Yona. Soo-won với Yona gần như chỉ còn lại chấp niệm quá khứ. Giữa họ có cái chết của phụ thân Yona nên chắc chắn không thể quay lại được nữa. Việc Yona giữ lại cái trâm của Soo-won tặng, tuy có khiến Hak đau lòng, tôi buồn phiền, nhưng là hành động hợp với tính cách Yona nên không thể làm khác được… Tôi cực ghét cái trâm đó luôn. Tôi thích ngoại hình của Yona, xinh xắn, dễ thương và mái tóc đỏ rực cực kỳ tỏa sáng. Tôi thích tính cách của cô, tuy chưa đến mức là nữ cường nhưng lại có sự kiên định và ý chí bền bỉ. Đặc biệt đôi mắt của cô khiến người đối diện rung động. Từng lời Yona nói, từng cử chỉ hành động, đều thể hiện sự thuần khiết của cô gái đó. Không phải dạng thánh nữ, mà là dạng làm người ta nguyện đi theo, bảo vệ, mà không có đòi hỏi nào. Một Yona tóc dài, yếu đuối, kém cỏi…Một Yona tóc ngắn biết tự bảo vệ mình, biết được lòng người, biết được gian khổ…Yona đã trưởng thành như thế, dần trở thành thiếu nữ của bình minh. Yona sẽ không thể thay đổi, thậm chí không thể tiếp tục sống sót và đi tìm tứ long, nếu không có Hak. Hak là nhân vật tôi thích nhất trong anime, là nhân vật tôi ấn tượng sâu sắc nhất. Hak đẹp trai, theo tôi thì đẹp nhất dàn nam, đẹp theo kiểu nam tính, quyến rũ. Hak có sức mạnh phi thường, mang theo một cây thương dài bên người, sẵn sàng đối mặt với bất kỳ kẻ nào dám hãm hại công chúa. Hak có sức bền và sự kiên trì. Bị thương nặng hay trúng vài mũi tên vẫn không cản được anh hoàn thành sứ mệnh bảo vệ công chúa. Đương nhiên chủ yếu là Yona phải sống. Tình cảm với Yona rất sâu sắc. Hồi đầu tôi còn tưởng Hak là một trong những người kế thừa long huyết chứ. Ở Hak, tôi luôn cảm nhận được sự cô đơn muộn phiền. Anh là hộ vệ, ở bên Yona, bảo đảm an toàn cho cô. Và anh thích cô. Chịu đựng mối tình đơn phương dày vò, không phải ai cũng có khả năng. Hak thì không muốn nói ra, kể cả sau này Hak cũng không nói rõ. Anh sợ, sợ Yona vẫn còn tình cảm với Soo-won, sợ Yona biết sự thật mà đến cả tình bạn cũng không giữ nổi, sợ hai người không thể thân thiết đụng chạm như trước, sợ Yona ngại ngùng, thiếu tự nhiên… Hak sợ, sợ nhiều thứ lắm, nhưng chủ yếu là Yona. Vì thế anh ôm tất cả vào người. Cô độc lạc lõng theo dõi Yona từ xa… Có thể bắt gặp ánh mắt ấm áp nhìn Yona vui đùa; ánh mắt đau thương dõi theo hình bóng Yona bị quá khứ chèn ép; ánh mắt tán thưởng khi Yona dần thay đổi theo hướng tích cực; ánh mắt lo lắng khi Yona định làm điều gì dễ nguy hiểm; ánh mắt rung động khi Yona nói những câu đầy cảm xúc, dù không phải dạng tình yêu nam nữ; ánh mắt giận dữ khi có kẻ tổn thương Yona; ánh mắt bất chấp tất cả lúc Yona đối mặt hiểm nguy…. Tình cảm của Hak được bộc lộ gián tiếp, chỉ là Yona không chịu nhìn theo khía cạnh khác. Yona là duy nhất, là mãi mãi, là mục đích sống của Hak. Hak có thể đánh đổi tất cả để Yona được sống. Một phần do trách nhiệm và lời dặn dò của vua Il, một phần khác, lớn hơn, là trái tim anh muốn thế. Nhiều lần Hak không khống chế được tình cảm mà bộc lộ ra, chính anh còn tự trách mình. Vì anh khiến Yona bối rối, khiến cô bỏ chạy. Ở điểm này thì tôi trách Yona. Cô không muốn đối mặt với tình cảm của Hak. Cô và Hak, nhìn thế nào cũng không ra mối quan hệ công chúa – hộ vệ bình thường. Một người thì dựa dẫm thành quen, kể cả trong cuộc sống hàng ngày. Còn một người chăm sóc thành quen, không ở bên không được. Hak che đi tình cảm của mình. Yona không dám nhìn thẳng vào sự thật. Cô làm như không biết trái tim Hak. Vậy trái tim cô thì sao? Đã bao giờ Yona tự hỏi bản thân lý do cho mọi việc Hak làm, và lý do cô đỏ mặt khi Hak đến gần?. Season 1 thực sự chưa giải quyết được gì trong mối tình này. Nó còn tạo cảm giác buồn bã hơn khi để lại bóng dáng Hak một mình giữa đêm, và Yona trốn tránh Hak. Tôi thích Hak ngay từ những tập đầu. Vì thế, tôi hy vọng season 2 sẽ là một HE cho hai người. Hak xứng đáng có được hạnh phúc anh luôn tìm kiếm, bù đắp cho cái giá phải trả. May là Yona với Hak khá đẹp đôi, không thì tôi sẽ đá Yona sang một bên mà chú tâm mỗi Hak mất…. Bên cạnh đó, tôi muốn nói vài điều về Soo-won. Tôi không ghét Soo-won. Anh ta giết cha Yona, tự mình lên ngôi vua, đều có lý do hợp lý cả. Đơn giản chỉ vì Soo-won có khả năng chăm lo cho đất nước hơn vua Il rất nhiều. Soo-won vừa cứng rắn quyết liệt, vừa mềm mỏng. Trong nhu có cương và trong cương có nhu là như vậy đó. Còn nguyên nhân là để báo thù cho cha tôi nghĩ chỉ là phụ. Anh ta là một vị vua tốt. Tuy phản bội những người yếu thương nhất, song nỗi đau anh ta trải qua không ít chút nào. Nhưng do tạo hình đúng kiểu ‘không được mạnh mẽ cho lắm’ trong mắt tôi, cùng với sự xuất hiện của Hak, tôi không thích Soo-won mấy. Vì Soo-won, Yona không biết bao nhiêu lần gián tiếp tổn thương Hak. Vì Soo-won, Yona đau khổ khóc lóc, không dám đối diện với quá khứ nữa. Dù vậy, tôi vẫn muốn cảm ơn anh ta. Biến cố lớn cuộc đời này đã thay đổi rất nhiều thứ theo chiều hướng tốt đẹp. Cảm ơn bài viết của bạn, mình đã theo dõi bộ này lâu rồi, từ lúc nó mới ra kia, rồi chờ mãi để ra season 2, nhưng đợi mãi chả thấy. Hóng quá phải đọc Manga, chả là không còn xem khoảng 1,2 năm rồi, đột nhiên gần đây thấy được bản dịch chap mới của nhóm dịch Endless Night Group trên fb mà kỷ niệm, kí ức ùa về, Trong một đêm đọc từ chap 140 đến 183. Thật là hoài niệm, chắc bộ này sẽ ko có chuyển thể thành anime nữa, tiếc thật. Giờ chỉ mong tác giẩ viết nhanh nhanh, nhóm dịch sub mau mau để đọc truyện thôi.
|
Yona – Công chúa bình minh
|
Yona - Công chúa bình minh (Nhật: 暁のヨナ, Hepburn: Akatsuki no Yona) là một manga Nhật Bản dài kỳ do Mizuho Kusanagi sáng tác, đăng dài kỳ trên tạp chí shōjo manga của Hakusensha là Hana to Yume từ tháng 8 năm 2009. Manga đã được tổng hợp thành 37 tập tankōbon. Manga đã được Pierrot chuyển thể thành anime truyền hình, phát sóng từ ngày 7 tháng 10 năm 2014 tới ngày 24 tháng 3 năm 2015, gồm các diễn viên lồng tiếng lấy từ bản chuyển thể kịch nói, cùng với dàn diễn viên mới. Tại Việt Nam, ấn bản manga đã được cấp phép bản quyền cho nhà xuất bản Kim Đồng với tựa đề tiếng Việt chính thức là "Yona - Công chúa bình minh" vào ngày 25 tháng 4 năm 2017. Câu chuyện xảy ra ở một vương quốc có tên là Kouka (Cao Hoa). Yona, nàng công chúa độc nhất của vương quốc, Yona sống một cuộc sống vô tư ở lâu đài Hiryuu, có một người cha rất mực cưng chiều nàng, vua IL. Và Soo-won, người anh họ mà Yona đem lòng yêu thầm từ lâu. Thế nhưng, trong chính ngày sinh nhật thứ 16 của nàng, Soo-won đã âm thầm ám sát hoàng thượng, và đẩy nàng cùng Hak bước chân vào một cuộc chạy trốn hiểm trở.
|
Phát biểu trong buổi lễ ra mắt ứng cử viên tổ chức tại Việt Nam học xá ngày 5- 1- 1946 Người nói: “Làm việc nước bây giờ là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không bầu. Ngày mai, không ai ép, không ai mua, toàn dân sẽ thực hiện cái quyền dân chủ ấy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ từ nhân dân, của nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Khi đất nước còn đắm chìm trong đêm dài nô lệ, Người quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, không sợ hy sinh, không ngại khó khăn, gian khổ với mục đích cao nhất là giải phóng đồng bào. Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn, khoa học, cách mạng và nhân văn, Người đã tổ chức và lãnh đạo toàn dân đứng lên xóa bỏ chính quyền bóc lột của thực dân - phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Chỉ một ngày sau khi giành được chính quyền ở Hà Nội, Hồ Chí Minh đã nhắc lại ý kiến của Lênin với các học trò của mình, rằng “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Người tiên tri, tiên lượng cái khó của chính quyền mới trên nhiều phương diện. Đó là thù trong giặc ngoài, nạn đói, nạn dốt. Dưới chế độ quân chủ cai trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, người dân bị đầu độc nhiều thói xấu như lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác; nước ta không có Hiến pháp, nhân dân không được hưởng quyền tự do dân chủ. Đặc biệt là những khó khăn của đội ngũ cán bộ, công chức do hạn chế về tài năng, sự hiểu biết và điều hành, quản lý một xã hội mới - xã hội do dân làm chủ. Chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, khi trình bày những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Sau tám mươi năm bị áp bức, bị bóc lột, và dưới chính sách ngu dân của thực dân Pháp, các bạn và tôi, chúng ta đều chưa quen với kỹ thuật hành chính. Nhưng điều đó không làm cho chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa làm vừa học. Chắc rằng chúng ta sẽ phạm khuyết điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta có can đảm sữa chữa khuyết điểm”(1). Người thấy rõ và hình dung những khó khăn của việc kiến thiết đất nước: “Công việc phá hoại xong rồi. Nay bước đầu công việc dọn dẹp, sắp đặt, giữ gìn, kiến thiết. Việc này mới khó chứ. Trong việc phá hoại chống kẻ thù đòi độc lập, thì dễ dàng kéo cả toàn dân. Trong việc kiến thiết thì khó kéo hơn, vì nó đụng chạm đến quyền lợi riêng của một đôi giai từng trong nước. Vả lại, chúng ta phải thật thà thừa nhận rằng kinh nghiệm chúng ta còn ít, tài năng chúng ta còn kém, mà công việc thì nhiều: nào quân sự, nào ngoại giao, nào tài chính…, trăm đầu nghìn mối, đều những việc mới lạ cho chúng ta. Lại thêm nguy hiểm ngoại xâm và tình hình nội trị”(2). Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất là một bộ phận cán bộ bắt đầu có biểu hiện thoái hóa biến chất, lên mặt làm quan cách mạng, hủ hóa, không quan tâm gì đến đời sống của nhân dân. Trăn trở, chăm lo xây dựng chính quyền vững mạnh, thật sự của dân, do dân, vì dân, Chính phủ là công bộc của dân, chính quyền “sao cho được lòng dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm cảnh báo những căn bệnh của cán bộ và sự quan liêu hóa của bộ máy nhà nước. Đúng nửa tháng sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), ngày 17- 9- 1945, trong Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà, Hồ Chí Minh đã nói tới việc “đề phòng hủ hóa”. Người chỉ rõ “cán bộ ta nhiều người “cung cúc tận tụy”, hết sức trung thành với nhiệm vụ, với Chính phủ, với quốc dân. Nhưng cũng có người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng pháp công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và Đoàn thể”(3). Người nhấn mạnh “những khuyết điểm trên, nhỏ thì làm cho dân chúng hoang mang, lớn thì làm cho nền đoàn kết lay động”. Vì vậy, “chúng ta phải lập tức sửa đổi ngay. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, chúng ta chỉ sợ không có quyết tâm sửa đổi. Chúng ta phải lấy lòng chí công vô tư”. Hồ Chí Minh nghĩ tới những kế sách xây dựng một nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, được lòng dân. Để khắc phục những khó khăn và hạn chế đó, Hồ Chí Minh đã đặt lên hàng đầu việc củng cố sự đoàn kết toàn dân, mà một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài là chính sách dùng người, “đem những người có danh vọng hoặc có tài cán ở địa phương vào giúp việc”, tìm người tài đức, chiêu hiền đãi sĩ, cầu người hiền tài. Theo Người, “việc dùng nhân tài, ta không nên căn cứ vào những điều kiện quá khắt khe. Miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc là có thể dùng được. Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy”(5). Ngày 19 - 9 - 1945, với bút danh Chiến Thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Chính phủ là công bộc của dân, đăng báo Cứu quốc số 45 phân tích rõ sự đảo lộn cách mạng giữa Chính phủ trước và sau cuộc khởi nghĩa 19-8-1945. Trước, nói tới hai chữ Chính phủ, người ta nghĩ ngay tới một bọn đầu đảng cướp nguy hiểm, xảo quyệt. Sau, nói tới Chính phủ, ai ai cũng đều có một cảm tình thân mật xen lẫn với một tôn kính sâu xa: Chính phủ đối với ta như người “anh cả” trong gia đình, một đồng chí phụ trách trong một địa phương, một người đứng mũi chịu sào ta có thể vững lòng trông cậy và gửi số mệnh vào. Với quan điểm xuyên suốt “Chính phủ là công bộc của dân”, Hồ Chí Minh chỉ rõ “các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”. Người khẳng định: “Các Ủy ban nhân dân làng, phủ là hình thức Chính phủ địa phương phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo nhân dân tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui lọt vào các Ủy ban đó”(6). Ngày 17-10-1945, Hồ Chí Minh viết bài “Bỏ cách làm tiền ấy đi” đăng trên báo Cứu quốc, số 69. Nội dung bài báo là đề cao Ủy ban nhân dân tổ chức theo một tinh thần dân chủ mới, khoa học, rất cấp tiến nên không thể “đè đầu bóp cổ”, hay dùng những thủ đoạn không chính đáng như làm tiền bằng cách bán ngôi thứ. Người viết: “Làm tiền bằng cách bán ngôi thứ tức là gây cho dân chúng có óc hiếu danh, trong khi cần phải trừ tiệt óc đó để gây cho mọi người có óc thiết thực, góp sức vào công cuộc giữ gìn và xây dựng đất nước… Bán ngôi thứ làm cho óc người ta đen tối thêm! Tiền lấy như vậy cũng là một thứ tiền phi nghĩa. Cách làm tiền đó có hại cho sự tiến hóa của dân, cần phải bỏ ngay đi, cũng như cần phải phủi đi hết những hủ tục khác như làm rượu ăn mừng được bầu vào Ủy ban”(7). Cùng với việc phê phán việc mua chức bán quyền, đồng thời Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những lỗi lầm khác rất nặng nề như “cậy mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu ra mình là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân. Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên, cho đến các cô các cậu ủy viên, cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những phao phí đó ai phải chịu?”(8). Với một nhãn quan văn hóa chính trị sáng suốt, Hồ Chí Minh thấu suốt sự nghiệp kiến thiết cần phải có nhân tài. Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà. Chính phủ mới cần phải có những người có đức có tài để quản lý đất nước. Chế độ dân chủ cộng hòa phải khác hẳn về chất so với chế độ vua quan, thực dân đế quốc. Một trong những cái khác căn bản là quyền làm chủ, quyền dân chủ và quyền bầu cử của nhân dân để nhân dân lựa chọn ra những người thật sự có đức có tài để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Một ngày trước khi tổ chức Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh có lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu. Người nói: “Ngày mai, là một ngày sẽ đưa quốc dân ta lên con đường mới mẻ… Ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình… Ngày mai, dân ta sẽ tự do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng thay mặt cho mình, và gánh vác việc nước. Ngày mai, mỗi người nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một người dân độc lập, tự do”(9). Phát biểu trong buổi lễ ra mắt ứng cử viên tổ chức tại Việt Nam học xá ngày 5- 1- 1946 Người nói: “Làm việc nước bây giờ là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không bầu. Ngày mai, không ai ép, không ai mua, toàn dân sẽ thực hiện cái quyền dân chủ ấy”(10). Sau khi nước nhà được độc lập, nỗi quan tâm lớn nhất của Hồ Chí Minh là dân được hưởng tự do, hạnh phúc. Hạt nhân trong di sản của Người là chữ “DÂN”: “Đối với dân, ta đừng làm gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”(11). Dân muốn có những cán bộ, đảng viên quyết tâm, suốt đời hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Dân muốn cán bộ phải đủ phẩm chất đạo đức, năng lực trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phong cách công tác quần chúng, có như vậy thì mới làm tròn bổn phận là công bộc của dân. Dân muốn những cán bộ khi đạo đức và năng lực trí tuệ không tương thích với chức vụ, quyền hạn, không còn được dân tín nhiệm thì phải sẵn sàng, vui vẻ từ chức. Dân không muốn có những cán bộ “chỉ biết lên mà không biết xuống. Chỉ chịu được sướng mà không chịu được khổ. Chỉ ham làm chủ tịch này, ủy viên nọ, chớ không ham công tác thiết thực”(12). Hồ Chí Minh luôn luôn nói đi đôi với làm. Người là tấm gương sáng về người lãnh đạo, người đứng đầu ở vị trí cao nhất nhưng không tham quyền cố vị, luôn luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. Người tâm sự khi phải giữ trọng trách Chủ tịch nước: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa. Sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”(13). Tư tưởng và tấm gương “tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào” một lần nữa lại được Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (31-10-1946): “Lần này là lần thứ hai Quốc hội giao phó cho tôi phụ trách Chính phủ một lần nữa. Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất thì bất kỳ Quốc hội ủy cho tôi hay cho ai cũng phải gắng mà làm. Giờ tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới rằng: Hồ Chí Minh không phải là kẻ tham quyền cố vị, mong được thăng quan phát tài”(14). Trong lời tuyên bố của Hồ Chí Minh, chúng ta chú ý rằng Người nhấn mạnh việc đảm nhận chức vụ trong một hoàn cảnh đất nước khó khăn, đầy gian khổ, hy sinh khi “Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất”. Chức vụ đó là do Quốc hội (nhân dân) ủy thác thì phải gắng sức làm. Còn khi đồng bào đã cho lui thì lại vui vẻ trở về cuộc sống của một người dân bình thường, vui thú trong một “căn nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, câu cá trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”. Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về việc không tham quyền cố vị. Người thấy trước công việc xây dựng, tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi là cả một cuộc chiến đấu khổng lồ; thắng bần cùng lạc hậu khó hơn nhiều so với thắng đế quốc phong kiến. Vì vậy, cần phải có lớp trẻ. Người nói: “Thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt. Các cháu không hơn là bệt. Bệt là không tốt. Người ta thường nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”(15). Tất nhiên phải là lớp trẻ có đức có tài. Người phê phán quan điểm đưa lớp trẻ vào nhưng lại mong muốn là con cháu của mình. Người nói: “Con cháu mình là ai? Con cháu mình là tất cả, là thanh niên Việt Nam. Chứ không phải như thời phong kiến: Cha làm quan, con là cậu ấm. Con mình xấu thì đề bạt sao được”(16). Nói chuyện với những đảng viên hoạt động lâu năm ở Nghệ An trong lần về thăm quê năm 1961, Người tâm sự: “Còn vấn đề lo cho con cháu các đồng chí.
|
Công bộc của dân
|
Công bộc của dân hay đầy tớ của dân là cụm từ chỉ một trong các quan niệm khác nhau về trách nhiệm và nghĩa vụ của người lãnh đạo, hoặc mở rộng là của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Theo từ điển Hán Việt Thiều Chửu, công (公) có nghĩa của chung, bộc (僕) có nghĩa đầy tớ. Cụm từ "công bộc của dân" có thể được hiểu là "người đầy tớ chung của dân". Trên thế giới, khái niệm viên chức nhà nước là công bộc của dân (trong tiếng Anh là "servant of the people" có nguồn gốc từ tiếng Latinh "servus" có nghĩa là nô lệ) đã có từ rất lâu, trong quan niệm của người Mỹ, đạo Hồi. Khái niệm này có lẽ đã được bắt nguồn từ nền dân chủ đầu tiên - dân chủ Athena - tại Hy Lạp thời cổ đại. Vua chúa (người lãnh đạo) là một đầy tớ được trả lương và chia sẻ tài nguyên quốc gia chung với mọi người" .Ở phương Đông, cách nay hơn hai ngàn năm, Khổng Tử đã viết trong Thiên "Thái Thệ" của "Kinh Thư":"Trời không có mắt có tai, dân nhìn tức là trời nhìn, dân nghe tức là trời nghe".
|
Louis XIII (27 tháng 9 1601—14 tháng 5 1643) là một vị vua thuộc vương triều Bourbon với tước hiệu là Vua của Pháp từ 1610 đến 1643 và Vua của Navarre (với danh xưng Louis II) từ 1610 đến 1620, khi ngai vàng Navarre hợp nhất với ngai vàng Pháp. Ngay trước ngày sinh nhật lần thứ 9, Louis trở thành vua của Pháp và Navarre sau khi phụ thân là Henri IV bị ám sát. Mẫu thân ông, Marie de’ Medici, cai trị như nhiếp chính vì ông còn thơ ấu. Sự cai trị tồi tệ đối với vương quốc và những mưu đồ chính trị xấu xa của Marie cùng tình nhân người Ý của bà ta khiến vị vua trẻ cảm thấy bất bình, ông giành lại quyền lực năm 1617, trục xuất thái hậu khỏi triều đình và xử tử những người thân tín của bà ta, bao gồm Concino Concini, là người Ý có ảnh hưởng lớn nhất trong triều đình Pháp lúc đó. Louis XIII, lầm lì và đa nghi, đã phải cai trị dựa vào các đại thần đầu triều, ban đầu là Charles d’Albert, Công tước Luynes rồi Hồng y Richelieu, để có thể cai trị vương quốc Pháp. Nhà vua và Hồng y được tưởng nhớ đến vì đã thành lập Viện Hàn lâm Pháp, và chấm dứt được khởi nghĩa của các quý tộc Pháp. Triều đại của Louis “người Công bằng” cũng được ghi nhận với những cuộc chiến tranh chống người Huguenots và Harsburg Tây Ban Nha. Chiến thắng vĩ đại nhất của người Pháp trong cuộc chiến với Hoàng gia Habsburg trong giai đoạn 1635-59 đã đến ở Trận Rocroi (1643), năm ngày trước khi nhà vua băng hà vì biến chứng của bệnh lao trong ruột. Trận chiến này đặt dấu chấm dứt cho sự thống trị quân sự của người Tây Ban Nha ở châu Âu và khởi đầu cho một thời đại huy hoàng của Pháp quốc dưới triều con trai và người thừa kế của ông, Louis XIV. Chào đời tại Château de Fontainebleau, Louis XIII là hoàng trưởng tử của Vua Henry IV của Pháp với người vợ thứ hai của ông ta, Marie de’ Medici. Là con trai của nhà vua, ông được tấn phong Fils de France (“người con của nước Pháp”), và với thân phận trưởng tử, ông được phong Dauphin of France (tương đương Thái tử nước Pháp). Cha ông Henry IV là vị vua Pháp đầu tiên thuộc hoàng triều Bourbon, kế vị người anh họ 9 đời, Henry III của Pháp (1574–1589), theo quy định của Đạo luật Salic. Eleonora de’ Medici, bà dì của Louis, là người mẹ đỡ đầu của ông. Louis XIII lên ngôi vua vào năm 1610 sau khi phụ thân bị ám sát. Mẫu thân ông Marie de’ Medici làm nhiếp chính Regent cho đến năm 1617. Mặc dù Louis XIII đã được coi như trưởng thành (theo quan niệm thời đó) vào năm 13 tuổi (1614), nhưng Thái hậu không chịu từ chức Nhiếp chính cho đến năm 1617. Marie giữ lại hầu hết bộ máy quan lại trong chính phủ thời người chồng quá cố, với ngoại lệ là Maximilien de Béthune, Công tước Sully, người không được lòng thần dân trong nước. Thái hậu chủ yếu dựa vào Nicolas de Neufville, Lãnh chúa Villeroy, Noël Brûlart de Sillery, và Pierre Jeannin, là những người tư vấn chính trị chủ yếu. Marie theo đuổi chính sách ôn hòa, ban hành Chỉ dụ Nantes. Tuy nhiên bà ta không đủ khả năng để ngăn chặn cuộc nổi loạn của các quý tộc, ví dụ như Henri, Hoàng thân Condé (1588–1646), người đứng ở dòng thứ hai trong danh sách thừa kế sau người con trai còn sống sót thứ hai của Mary là Gaston, Công tước Orléans. Condé tranh cãi với Marie năm 1614, và sau một thời gian ngắn đã khởi binh, nhưng ông không tìm được sự ủng hộ trong nước, và Marie có thể triệu tập quân đội của bà để đối phó. Tuy nhiên, thái hậu lại đồng ý triệu tập Hội nghị Ba đẳng cấp để giải quyết những bất bình của Condé’. Hội nghị Tam đẳng bị hoãn lại cho đến khi Louis XIII chính thức bước sang tuổi 13. Mặc Louis đã đến tuổi có thể đích thân chấp chính, nhưng trên thực tế, quyền hành trong tay thái hậu. Hội nghị Tam đẳng diễn ra nhanh chóng, phần nhiều thời gian Hội nghị được dùng để bàn về quan hệ của Pháp với Giáo hoàng và việc mua quan bán tước, nhưng không có nghị quyết nào được đưa ra. Từ năm 1615, Marie ngày càng phụ thuộc vào đại thần người Ý Concino Concini, sủng thần của bà ta. Concini không được lòng người dân bởi ông ta là người ngoại quốc. Điều này làm Condé tức giận, ông phát động một cuộc nổi dậy khác vào năm 1616. Những người Huguenot ủng hộ cuộc nổi dậy của Condé, điều này khiến cho nhà vua Louis nhận định rằng người Huguenot sẽ không trung thành với mình. Cuối cùng, Condé và Thái hậu Marie làm hòa với nhau bằng Hiệp ước Loudun, theo đó Condé nắm quyền lực lớn trong chính phủ, nhưng không loại bỏ Concini. Với việc Concini ngày càng không được lòng giới quý tộc, Thái hậu Marie, với sự giúp sức của Louis, tống giam Condé để bảo vệ Concini, dẫn đến một cuộc nổi dậy mới chống lại bà ta và Concini. Trong khi đó, Charles d’Albert, Grand Falconer của Pháp, thuyết phục Louis XIII rằng ông nên loại bỏ mẹ mình và giúp đỡ phe nổi dậy. Kết quả là, Concino Concini bị ám sát ngày 24 tháng 4 năm 1617. Góa phụ của ông ta, Leonora Dori Galigaï, bị kết tội là phù thủy, bị kết án và bị chém đầu, và hỏa thiêu ngày 8 tháng 7 năm 1617, và Marie bị đày tới Blois. Các quý tộc khác bực bội vì ông ta khống chế nhà vua. Luynes bị xem là kém trình độ hơn so với các đại thần thời Henry IV, phần nhiều trong số họ đã già cả hoặc đã chết, hoặc là theo phe của Marie de’ Medici. Chiến tranh Ba mươi năm nổ ra năm 1618. Triều đình Pháp bước đầu phải đứng về một trong hai phe. Một mặc, truyền thống đối đầu giữa nước Pháp và Nhà Habsburg có thể khiến Pháp đứng về phe Tin Lành (và phụ thân của Louis là Henri IV của Pháp từng là lãnh tụ phe Huguenot). Nhưng mặc khác, Louis XIII được giáo dưỡng nghiêm ngặt trong đức tin Công giáo, và vì thế ông có khuynh hướng ủng hộ Hoàng đế La Mã Thần thánh, gia tộc Habsburg là Ferdinand II. Các quý tộc Pháp đã nổi dậy nhằm buộc Luynes phải thủ tiêu thuế tax vào năm 1618 và việc bán quan tước năm 1620. Từ nơi bị lưu đày ở Blois, thái hậu Marie de’ Medici trở thành người mà bọn người bất mãn hướng tới, và Giám mục Luçon (được phong Hồng y Richelieu năm 1622) được bà ta cử làm người cố vấn hàng đầu, đảm nhận việc trao đổi thư từ giữa Marie và nhà vua. Các quý tộc đã nổi dậy vào năm 1620, nhưng lực lượng của họ dễ dàng bị quân hoàng gia đánh tan ở trận Les Ponts-de-Cé vào tháng 8 năm 1620. Louis sau đó tổ chức một cuộc viễn chinh chống lại phe Huguenots của Béarn, những người phủ nhận các chính sách của hoàng gia. Cuộc viễn chinh này có mục đích là tái lập lại Công giáo như là tôn giáo chính thức ở Béarn. Tuy nhiên, đoàn quân viễn chinh Béarn lại chuyển hướng tấn công sang những người Huguenots ở các tỉnh khác hiện đang nổ ra một cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Henri, Công tước Rohan. Luynes được bổ nhiệm làm Nguyên soái của Pháp, sau đó ông và Louis lập kế hoạch dập tắt cuộc nổi dậy của phe Huguenot. Cuộc bao vây thành trì của người Huguenot, Montauban đã phải bị hủy bỏ ba tháng sau đó do quân đội hoàng gia bị thương vong do sốt rét trong quân ngũ. Một trong những nạn nhân của dịch bệnh đó là Luynes, ông qua đời tháng 12 năm 1621. Sau cái chết của Luynes, Louis quyết định rằng ông sẽ cai trị thông qua hội đồng. Thái hậu trở về từ nơi bị lưu đày, và trong năm 1622 bà tham gia vào Hội đồng, lúc đó Condé đang muốn dùng bạo lực đàn áp phe Huguenots. Tuy nhiên chiến dịch năm 1622, diễn ra theo đúng kịch bản của những cuộc chiến trước: quân hoàng gia giành một số thắng lợi ban đầu, nhưng bị chặn đứng trong một cuộc bao vây, lần này là thất bại ở Montpellier. Cuộc nổi dậy chấm dứt bằng Hiệp ước Montpellier, được ký giữa Louis XIII và Công tước Rohan tháng 10 năm 1622. Hiệp ước xác nhận những quy định của Chỉ dụ Nantes: nhiều pháo đài của phe Huguenot bị san bằng, nhưng người Huguenots giữ được quyền kiểm soát Montauban và La Rochelle. Louis đã cách chức Noël Brûlart de Sillery và Pierre Brûlart năm 1624 vì ông không đồng tình với cách họ hành xử ngoại giao về vấn đề Valtellina với Tây Ban Nha. Valtellina là khu vực mà người Công giáo nằm dưới sự kiểm soát của phe Tin Lành Ba đồng minh. Nó là một tuyết đường quan trọng tới Ý cho người Pháp và cũng là một tuyết đường thông thương giữ Tây Ban Nha với Thánh chế La Mã, đặc biệt là việc hỗ trợ quân sự lẫn nhau nếu cần thiết. Tây Ban Nha không ngừng can thiệp vào Valtellina, làm chọc tức Louis, vì ông cũng muốn có được vùng đất chiến lược này. (Trong những năm đó, Vương quốc Pháp theo nghĩa đen đã bị bao bọc giữa hai vương quốc của nhà Habsburgs là Vương quốc Tây Ban Nha cũng như Đế chế La Mã Thần thánh. Thêm vào đó, nhà Habsburg và Đế quốc còn kiểm soát luôn những vùng đất ngày nay thuộc lãnh thổ Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Đức, Áo, Hungary, và miền bắc Ý…) Ông tìm ra được một lời khuyên tốt hơn từ Giám đốc Tài chính Charles de La Vieuville, người có cái nhìn về chuyện Tây Ban Nha giống như nhà vua, và khuyên Louis đứng về phe Hà Lan với hiệp ước Compiègne. Tuy nhiên, La Vieuville bị sa thải vào giữa năm 1624, nguyên nhân là do cách hành xử của mình (trong thời kì tại chức ông ta kiêu ngạo và thiếu năng lực) và vì sự chống đối của đối thủ chính của ông ta, Hồng y Richelieu. Louis cần một Chấp chính quan mới; và đó là Hồng y Richelieu. Hồng y Richelieu là người lãnh đạo triều đình của Louis XIII từ 1624, quyết định số phận của nước Pháp trong 18 năm tiếp theo. Kết quả của những chính sách của Richelieu, Louis XIII trở thành một trong những vị vua chuyên chế đầu tiên. Dưới thời Louis và Richelieu, triều đình đã can thiệp thành công vào Chiến tranh Ba mươi năm chống lại triều đình Habsburgs, kiềm chế các quý tộc Pháp gần gũi với hoàng gia, và rút lại những ưu đãi về chính trị, quân sự ban cho người Huguenots dưới thời Henry IV (trong khi vẫn cho họ có quyền tự do tôn giáo). Louis XIII đã có chiến thắng quan trọng trong chiến dịch Bao vây La Rochelle. Thêm vào đó, Louis đã cho hiện đại hóa Le Havre, và xây dựng một lực lượng hải quân hùng hậu. Louis cũng hành động để đảo ngược xu thế của các nghệ sĩ triển vọng người Pháp, cho phép họ đến Italy làm việc bà nghiên cứu. Về vấn đề đối ngoại, Louis đã có công phát triển và quản lý New France, mở rộng các thuộc địa về phía tây dọc theo sông Saint Lawrence từ Quebec City đến Montreal. Cuộc hôn nhân này dựa theo truyền thống liên minh chính trị thông qua hôn nhân giữa hai hoàng gia Công giáo là Pháp và Tây Ban Nha. Truyền thống này bắt đầu từ cuộc hôn nhân giữa Felipe II của Tây Ban Nha với Công chúa nước Pháp là Elisabeth của Valois. Nhưng hai vợ chồng chỉ hạnh phúc được một thời gian ngắn, và những đại sự của nhà vua khiến họ chẳng mấy khi gặp nhau. Sau 23 năm kết hôn với 4 đứa con không được chào đời, Anne cuối cùng cũng đã hạ sinh một hoàng nam vào ngày 5 tháng 9 năm 1638, về sau chính là Louis XIV của Pháp. Nhiều người coi sự chào đời của thái tử là một phép lạ, và trong một bữa tiệc tạ ơn Chúa vì sự ra đời được mong mỏi mấy mươi năm của người thừa kế, nhà vua và hoàng hậu đặt tên cho cậu bé là Louis-Dieudonné (“Chúa ban cho”). Để bày tỏ lòng biết ơn, vào khoảng khoảng 7 tháng trước khi hoàng tử chào đời, Louis XIII đã cầu khẩn Đức Mẹ Maria, nhiều người tin rằng, các phép lạ đã đến từ đó Tuy nhiên, các văn bản không đề cập đến việc mang thai của hoàng gia và sinh là một trong những lý do của nó.
|
Louis-Philippe I của Pháp
|
Louis Philippe I (Ngày 06/10/1773 – 26/08/1850) là vua của Pháp từ năm ngày 06/11/1830 đến ngày 24/02/1848, với tước hiệu chính thức “Vua của người Pháp”. Ông là vị vua cuối cùng của Pháp có gốc tích từ Nhà Bourbon và cũng là vị vua áp chót của Pháp – vị vua cuối cùng là Napoleon III của Pháp. Với tư cách là Công tước của Chartres, ông trở thành một trong những chỉ huy quân đội trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp, nhưng không đồng quan điểm với phe Công hoà về quyết định xử tử Vua Louis XVI. Vì bị cho là có liên quan đến một âm mưu khôi phụ chế độ quân chủ Pháp, nên ông phải chạy trốn đến Thuỵ Sĩ vào năm 1793. Cha của ông là Louis Philippe II, Công tước xứ Orleans, vốn là người ủng hộ Cách mạng Pháp đã bị xử tử vì bị phe cộng hoà nghi ngờ phản quốc. Bản thân Louis Philippe đã sống lưu vong trong 21 năm cho đến khi Nhà Bourbon được phục vị thì mới trở về Pháp. Louis Philippe được tôn lên làm vua vào năm 1830, sau khi người anh họ của ông là vua Charles X của Pháp bị Cách mạng Tháng Bảy buộc phải thoái vị.
|
Hậu chấn tâm lý hay rối loạn căng thẳng sau sang chấn/chấn thương (tiếng Anh: Post traumatic Stress Disorder- PTSD) là một rối loạn tâm thần có thể xảy ra ở những người đã trải qua hoặc chứng kiến một sự kiện đau buồn như thiên tai, tai nạn nghiêm trọng, hành động khủng bố, chiến tranh, hiếp dâm v.v. Những người bị PTSD có những suy nghĩ và cảm xúc dữ dội, rối loạn kéo dài rất lâu sau khi sự kiện đau buồn kết thúc. Họ có thể hồi tưởng lại sự kiện thông qua hồi tưởng hoặc gặp ác mộng; họ có thể cảm thấy buồn bã, sợ hãi hoặc tức giận; cảm thấy tách biệt hoặc xa lánh những người khác. Những người bị PTSD có thể tránh những tình huống gợi nhắc về sự kiện đau buồn và họ có thể có những phản ứng tiêu cực mạnh đối với những hiện tượng bình thường, ví dụ như một tiếng động lớn. Các triệu chứng của PTSD được chia thành bốn loại. Những triệu chứng cụ thể có thể khác nhau về mức độ nghiêm trọng. Xâm nhập: Những ý nghĩ xâm nhập (Intrusive thoughts) chẳng hạn như ký ức lặp đi lặp lại và không tự chủ; những giấc mơ đau buồn; hoặc hồi tưởng về sự kiện đau buồn. Hồi tưởng có thể khiến mọi người cảm thấy họ đang sống lại trải nghiệm đau thương hoặc nhìn thấy nó trước mắt họ. Tránh: Tránh nhắc nhở về sự kiện đau buồn, có thể bao gồm tránh những người, địa điểm, hoạt động, đồ vật và tình huống có thể gợi nên ký ức đau buồn. Họ có thể tránh nói về những gì đã xảy ra hoặc họ cảm thấy thế nào về điều đó. Những thay đổi trong nhận thức và tâm trạng: Không có khả năng nhớ những khía cạnh quan trọng của sự kiện diễn ra nỗi đau, những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực dẫn đến niềm tin về bản thân hoặc người khác bị bóp méo (ví dụ: “Tôi tồi tệ”, “Không ai có thể tin tưởng được”); suy nghĩ lệch lạc dẫn đến đổ lỗi sai cho bản thân hoặc người khác; liên tục sợ hãi, kinh hoàng, tức giận, tội lỗi hoặc xấu hổ; ít quan tâm hơn đến các hoạt động từng cảm thấy thích thú; cảm thấy bị tách biệt hoặc xa lánh với những người khác; hoặc không thể tận hưởng những cảm xúc tích cực. Các thay đổi về kích thích và phản ứng: Các triệu chứng kích thích và phản ứng có thể bao gồm cáu kỉnh và bộc phát tức giận; hành xử một cách thiếu thận trọng hoặc theo cách tự hủy hoại bản thân; quan sát quá mức xung quanh một cách đáng ngờ; dễ bị giật mình; có vấn đề về tập trung hoặc giấc ngủ. Đối với một người được chẩn đoán mắc PTSD, các triệu chứng cần phải kéo dài hơn một tháng và gây ra tình trạng đau khổ hoặc vấn đề nghiêm trọng đối với hoạt động hàng ngày của cá nhân. Nhiều người phát triển các triệu chứng trong vòng ba tháng sau sang chấn, các triệu chứng cũng có thể xuất hiện muộn hơn và thường kéo dài trong nhiều tháng và đôi khi nhiều năm. PTSD thường xảy ra với các tình trạng chẳng hạn như trầm cảm, sử dụng chất kích thích, các vấn đề về trí nhớ, các vấn đề sức khỏe thể chất và tinh thần khác. Không phải tất cả mọi người trải qua sang chấn đều phát triển thành PTSD và không phải ai phát triển PTSD đều cần điều trị tâm thần. Đối với một số người, các triệu chứng của PTSD giảm dần hoặc biến mất theo thời gian. Tuy nhiên nhiều người bị PTSD cần được điều trị chuyên nghiệp để hồi phục. Điều trị càng sớm thì cơ hội hồi phục càng cao. Các bác sĩ tâm thần và các chuyên gia sức khỏe tâm thần sử dụng các phương pháp khác nhau để giúp một người phục hồi sau PTSD, chẳng hạn liệu pháp trò chuyện (liệu pháp tâm lý) và thuốc. Liệu pháp tâm lý có thể kể đến liệu pháp hành vi nhận thức (CBT), liệu pháp xử lý nhận thức, liệu pháp tiếp xúc kéo dài và liệu pháp tiêm căng thẳng v.v. Liệu pháp Xử lý Nhận thức (Cognitive processing therapy) tập trung vào việc điều chỉnh những cảm xúc tiêu cực đau đớn (chẳng hạn như xấu hổ, tội lỗi, v.v.) và niềm tin (chẳng hạn như “Tôi đã thất bại”; “thế giới thật nguy hiểm”) do sang chấn. Các nhà trị liệu giúp người đó đối mặt với những ký ức và cảm xúc đau buồn như vậy. Liệu pháp tiếp xúc (Prolonged Exposure Therapy) là phương pháp tưởng tượng lặp đi lặp lại chi tiết về sang chấn hoặc tiếp xúc dần dần với “tác nhân kích hoạt” triệu chứng bằng những cách an toàn, có kiểm soát để giúp một người đối mặt và kiểm soát nỗi sợ hãi, đau khổ và học cách đối phó. Liệu pháp tiêm căng thẳng (Stress Inoculation Therapy) nhằm mục đích trang bị cho cá nhân các kỹ năng cần thiết để bảo vệ và chống lại các tác nhân gây căng thẳng thông qua việc dùng “stess”, giống như một loại vắc-xin được tiêm để ngăn ngừa nhiễm trùng sau khi tiếp xúc với bệnh. Liệu pháp nhóm khuyến khích những người trải qua những sự kiện đau buồn tương tự chia sẻ kinh nghiệm và phản ứng của họ trong một không gian thoải mái và không phán xét. Thuốc có thể giúp kiểm soát các triệu chứng của PTSD. Một số thuốc chống trầm cảm như SSRIs và SNRIs (chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc và chất ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine), thường được sử dụng để điều trị các triệu chứng cốt lõi của PTSD. Chúng có thể được sử dụng một mình hoặc kết hợp với liệu pháp tâm lý hoặc các phương pháp điều trị khác. Các phương pháp điều trị khác bao gồm các liệu pháp bổ sung và thay thế cũng đang ngày càng được sử dụng để giúp những người bị PTSD, bao gồm châm cứu và trị liệu bằng thú cưng. SHARE được thành lập từ năm 2008 – là một trong những trung tâm điều trị tâm lý đầu tiên tại Hà Nội. Chuyên gia Trần Anh Vũ đã có 9 năm kinh nghiệm trong việc tham vấn và điều trị tâm lý. Chuyên gia tâm lý Đoàn Thị Hương là một trong những Thạc sỹ tâm lý lâm sàng đầu tiên trong chương trình hợp tác đào tạo thạc sỹ lâm sàng giữa Trường Đại học giáo dục Hà Nội và Trường Đại học Vanderbilt Hoa Kỳ. Việc điều trị hậu chấn tâm lý – PTSD cần được thực hiện càng sớm càng tốt. Các triệu chứng có thể trở nên tồi tệ hơn khi thời gian kéo dài, gây ra nhiều khó khăn trong cuộc sống người bệnh. Bài viết được tham khảo từ Chuyên gia tâm lý Trần Anh Vũ và các nguồn tư liệu đáng tin cậy trong và ngoài nước. Tuy nhiên, Docosan Team khuyến khích bệnh nhân hãy tìm và đặt lịch hẹn với bác sĩ có chuyên môn để điều trị trên Docosan.com
|
Hậu chấn tâm lý
|
Hậu chấn tâm lý hay rối loạn căng thẳng sau sang chấn/chấn thương (tiếng Anh: Post traumatic Stress Disorder- PTSD) là một rối loạn tâm thần có thể phát triển sau khi một người tiếp xúc với một sự kiện đau buồn, chẳng hạn như tấn công tình dục, chiến tranh (trường hợp này còn được gọi là sốc chiến trường, tức shell shock), va chạm giao thông nghiêm trọng, lạm dụng trẻ em hoặc các mối đe dọa khác đối với cuộc sống. Các triệu chứng có thể bao gồm xuất hiện những hồi ức, suy nghĩ, cảm xúc hoặc giấc mơ rối loạn liên quan đến các sự kiện, đau khổ về tinh thần hoặc thể chất trước các dấu hiệu liên quan đến chấn thương, cố gắng tránh các tín hiệu liên quan đến chấn thương, thay đổi cách một người suy nghĩ và cảm thấy, và gia tăng phản ứng chiến-hay-chạy. Các triệu chứng này kéo dài hơn một tháng sau sự kiện. Trẻ nhỏ ít thể hiện sự đau khổ mà thay vào đó có thể bộc lộ những ký ức của chúng thông qua việc chơi đùa. Một người bị PTSD có nguy cơ tự tử và cố ý làm hại bản thân cao hơn.
|
Ðây là một thời đoạn co dãn - Tôi muốn nói về mầu sắc các thời đại. Từ tứ phía, người ta yêu sách chúng ta phải chấm dứt cuộc thí nghiệm trong lãnh vực nghệ thuật và trong bất cứ lãnh vực nào khác. Tôi từng đọc một sử gia về nghệ thuật, ông ca ngợi thuyết duy thực và là tín đồ tin vào sự phát sinh của một chủ thể tính mới. Tôi từng đọc một nhà phê bình nghệ thuật, ông này đóng hộp lý thuyết "vượt tiền vệ" (transavantgardisme), gói lại và đi bán rong nơi chợ bán tranh. Tôi từng đọc rằng nhân danh chủ thuyết Hậu hiện đại, các kiến trúc gia đã vứt bỏ đồ án Bauhaus, bằng cách vất bỏ cậu bé thực nghiệm với nước tắm của thuyết công năng (functionalisme). Tôi từng đọc rằng có một triết gia mới đương phát hiện ra cái mà ông hài hước gọi là chủ thuyết Do Thái-Kitô (Judaeo-Christianisme). Và ông cố ý dựa vào lý thuyết này để chấm dứt sự bất kính mà chúng ta đang làm lan tràn ra. Tôi từng đọc nơi một tuần báo Pháp (viết) rằng một số người bất mãn với tác phẩm Mille Plateaux (Ngàn Ðồi) (của Deleuze và Guattari) bởi lẽ họ mong đợi, đặc biệt khi đọc một tác phẩm triết học, có thể thâu nhận được một ý nghĩa nhỏ bé chi nơi đó. Tôi từng đọc từ ngòi bút của một sử gia nổi danh. Ông tố cáo nhóm văn sĩ và tư tưởng gia vào những thập niên 1960 và 1970 của nhóm tiền vệ (avant-gardes) tội quảng bá một triều đại khủng bố trong cách dùng ngôn ngữ. Ông nghĩ rằng, để làm cuộc trao đổi có đầy hiệu quả ta phải khôi phục lại những điều kiện, bằng cách áp đặt một lối nói chung trên người trí thức. Lối nói chung này chính là kiểu nói của sử gia. Tôi từng đọc một triết gia trẻ về ngôn ngữ, ông phàn nàn cho rằng, vì bị những bộ máy nói thách đố lối mà tư duy Âu lục đã đầu hàng, bỏ không quan tâm về thực thể các bộ máy này. Ông kêu ca rằng các điển phạm tiếp ngữ tính (paradigma dadlinguisticité) - tức khi ta nói về ngôn từ, viết về văn tự, về tính chất văn bản tương quan - đương thay thế các điển phạm tham chiếu (paradigma de référence). Và rồi ông rêu rao việc ai cũng nghĩ (như ông ta), cho là thời gian hẳn đã chín mùi để khôi phục lại một trụ điểm vững chắc của ngôn ngữ trong việc tham chiếu. Tôi từng đọc một nhà dựng kịch tài ba. Ðối với ông thì Hậu Hiện Ðại, với lối chơi và sự hoàn tưởng của nó, cũng chẳng có ảnh hưởng chi mấy trước mặt cái uy thế chính trị, đặc biệt khi mà quần chúng đương rối bời vì phải đối diện với sự đe doạ của một cuộc chiến hạt nhân. (Uy thế chính trị, sự đe dọa chiến tranh hạt nhân này) ép buộc họ phải chọn lựa một nền chính trị dựa vào lối kiểm soát độc tài. Tôi từng đọc một tư tưởng gia danh tiếng đương ra sức bảo vệ hiện đại tính chống lại những người mà ông cáo tội là tân bảo thủ. Ông ta tin rằng, dưới ngọn cờ Hậu Hiện Ðại, nhóm tân bảo thủ này rất có thể sẽ phá bỏ cái chương trình hiện đại vẫn chưa được hoàn tất, tức dự án thời Ánh Sáng. Theo ông, ngay cả những người cuối cùng từng chủ trương cái thời Ánh Sáng như Popper và Adorno, cũng chỉ có thể bảo vệ dự án (này) trong một lãnh vực cá biệt nhân sinh nào đó mà thôi - thí dụ lãnh vực chính trị đối với tác giả The Open Society and Its Enemies (Xã hội khai phóng và những kẻ thù của nó) và lãnh vực nghệ thuật đối với tác giả của Aesthetische Theorie (Lý luận thẩm mỹ). Juergen Habermas (mà ai cũng biết) nghĩ rằng, nếu hiện đại tính đổ ngã, thì cái toàn thể tính của cuộc sống sẽ dễ bị phân tán thành những phần cá biệt cô lập, chỉ dành cho cái khả năng hạn hẹp của chuyên gia mà thôi. Trong khi đó thì kinh nghiệm cụ thể cá nhân "vất bỏ sự cao vời của ngữ ý" (desublimated meaning) và "hủy bỏ cái dạng" (destructured), không phải để giải thoát (con người), nhưng theo cái mốt buồn bực muôn thủa mà Beaudelaire từng giải nghĩa cả trên một thế kỷ trước. Theo cái "toa thuốc" của Albrecht Wellmer, Habermas cho rằng, phương thuốc chữa căn bệnh phân tán văn hoá và sự ly thoát khỏi cuộc sống chỉ có thể có được nhờ vào "sự thay đổi cái tình huống của kinh nghiệm thẩm mỹ khi mà nó không còn được diễn tả một cách ưu tiên trong sự phán đoán về mỹ vị nữa," (và) chỉ khi mà nó được "dùng để phát hiện một tình huống lịch sử sống động." Ðó có nghĩa là, khi "nó được đặt trong sự tương quan với những vấn nạn của hiện sinh." Bởi lẽ kinh nghiệm như thế "đã biến thành một phần của trò chơi ngôn ngữ, không thuộc về sự phê bình thẩm mỹ nữa"; nó tham dự vào "trong quá trình tri thức và sự mong đợi quy phạm"; nên "nó thay đổi cách này cách nọ mà những giai đoạn khác nhau chỉ về chính giai đoạn này hay giai đoạn khác." Nói tóm lại, điều Habermas đòi hỏi từ nghệ thuật và những kinh nghiệm chúng cung cấp là, ta phải phá bỏ ngăn cách giữa ngôn thoại (discours) tri thức, đạo đức và chính trị. Và chỉ như vậy, con đường dẫn tới một sự thống nhất kinh nghiệm mới được mở rộng. Câu hỏi của tôi là Habermas nghĩ thế nào để xác định một loại thống nhất nào đó. Phải chăng mục đích của dự án hiện đại là sự kiến cấu một nền thống nhất xã hội văn hoá, trong đó tất cả mọi yếu tính của cuộc sống thường nhật và của tư tưởng có thể có chỗ của mình trong một cái toàn thể cơ thể này? Hay là cái thông lộ được vạch ra giữa trò chơi ngôn ngữ đa tính - những trò chơi về tri thức, đạo đức, chính trị - thuộc về một trật tự khác với sự đồng nhất? Và nếu quả như thế, thì một thống nhất như vậy có thể ảnh hưởng tới một tổng hợp thực tiễn giữa các trò chơi ngôn ngữ hay không?. Cái giả thuyết thứ nhất, tức một cảm hứng theo kiểu Hegel, không có thách đố ý niệm về cái kinh nghiệm tổng hợp, tức loại kinh nghiệm đương toàn thể hóa một cách biện chứng; giả thuyết thứ hai gần với tinh thần phê phán về năng lực phán đoán của Kant hơn; tuy thế, nó (giống như tập Phê Phán) phải được khảo sát lại một cách nghiêm nhặt, một khảo sát mà hậu hiện đại tính đòi hỏi ngay từ lối suy tư thời Ánh Sáng, từ quan niệm về một sự chung kết đồng nhất của lịch sử và của chủ thể. Ðó chính là loại phê phán mà không chỉ Wittgenstein và Adorno từng bắt đầu, mà còn có một số nhỏ các tư tưởng gia (người Pháp và nước khác) nhắc tới, những người không có cái danh dự được Giáo sư Habermas đọc - nhưng cũng vì vậy mà họ không bị rớt điểm vì cái chủ trương tân bảo thủ của họ. Những điều đòi hỏi tôi từng nêu ra không hẳn quân bằng. Chúng rất có thể mâu thuẫn. Một số nhân danh Hậu hiện đại, một số khác với mục đích để đấu tố nó. Thế nên cùng một sự (vật, việc) đương biểu tả một đòi hỏi, không nhất thiết riêng cho một ai (điều nào) muốn nói đến (và một thực thể khách quan). Nó cũng không nhất thiết biểu tả một ý nào đó (và tính chất tiên nghiệm đáng tin). Nó cũng không chỉ riêng một ai (điều) từng được nói đến (và thính giả), hay cho chính người (việc, vật) đương nói (chỉ) (và một sự biểu tả chủ thể). Và nó không nhất thiết dẫn đến một sự đồng ý tương thông (communicational consensus) (và một mật mã phổ quát để tương thông, thí dụ như một lọại tranh luận trên ngôn từ về lịch sử). Thế nhưng, ở bất cứ lời kêu gọi nào yêu cầu ngưng lại cuộc thí nghiệm nghệ thuật, ta cũng luôn thấy một sự đòi hỏi trật tự, một sự ao ước thống nhất (unité), đồng nhất (identité), an ninh, ý dân (popularité) (theo nghĩa của công cộng tính, Oeffentlichkeit, của sự việc "đi tìm một công chúng" (finding a public). Nghệ sĩ và văn sĩ phải được đánh giá lại như là nền tảng của cộng đồng. Hoặc ít ra nữa, nếu cộng đồng đau yếu, thì họ phải có nhiệm vụ chữa lành nó. Ta thấy một dấu hiệu rõ rệt về thái độ chung này: đối với giới văn sĩ, thì không có chi quan trọng hơn là việc phải đoạn tuyệt với di sản của phong trào tiền vệ. Ðặc biệt ta thấy trường hợp của chủ trương tự gọi là vượt tiền vệ (transavantgardism). Câu trả lời của Achille Bonito Oliva cho câu hỏi Bernard Lamarche-Vadel và Michel Enric (đặt ra) không còn chỗ cho (ta) nghi ngờ nữa. Khi xếp nhóm tiền vệ vào trong một qúa trình hỗn tạp, giới nghệ sĩ và phê bình tự tin rằng họ có thể hay hơn là nên đè nén nhóm này, hơn là mở một trận chiến đánh thẳng vào mặt chúng. Bởi vì họ có thể bỏ qua cái chủ trương chiết trung quá độ (eclecticisme cynique), coi nó như là một lối vượt khỏi tính chất phân tán của các cuộc thực nghiệm trước. Ðàng khác, nếu họ công khai quay lưng chống lại thực nghiệm, họ có thể vấp vào cái nguy cơ làm mình ngố nghế giống như những anh chàng mới tập tễnh vào nghề. Vào cái thời khi mà giới trưởng giả tự cho mình một thế đứng trong lịch sử, các nhóm đối thoại (nơi phòng khách, salons) và các học hội (académies) đã có thể sinh hoạt nhân danh chủ thuyết duy thực. Họ tự cho mình cái trách nhiệm thanh tẩy (nghệ thuật), và ban giải thưởng cho nghệ thuật tạo hình và sinh hoạt văn nghệ xuất sắc. Thế nhưng, cũng từ đó mà chủ thuyết tư bản đã tạo ra một uy lực để chối bỏ tính chất chân thực của những đối tượng quen thuộc, những vai trò xã hội, và những tổ chức. Tư bản đi quá độ tới nỗi mà họ chối bỏ cái mà ta coi như những sự biểu tượng hiện thực, coi chúng không có thể nói lên được hiện thực nữa. Lẽ dĩ nhiên là khi chủ trương như vậy, họ chỉ còn sự hoài niệm (quá khứ) như là sự tự châm biếm, như là một dịp để đau khổ hơn là để mãn nguyện. Chủ thuyết cổ điển gần như bị gạt ra bên lề trong một thế giới mà trong đó sự hiện thực đã bị phá bỏ cho đến nỗi mà nó không thể làm phát sinh kinh nghiệm, nhưng chỉ cho một phương thế để định giá và thí nghiệm. Ðề tài này quả qúa quen thuộc cho độc giả của Walter Benjamin. Tuy nhiên ta cần phải đánh giá cái vòng ảnh hưởng chính xác của nó. Từ phía ngoài nhìn vào, nghệ thuật chụp ảnh không xuất hiện như là một thách đố cho hội họa, y hệt như kỹ nghệ điện ảnh không có chống lại văn truyện (littérature narrative). Nghệ thuật chụp ảnh chỉ phác ra cái nét hoạ cuối cùng của cái đồ án đi xếp đặt lại cái mà ta có thể nhìn ra. Ðó là một đồ án từng được thời (Phục Hưng) thế kỷ thứ 14 hoạch định. Trong khi đó, nghệ thuật điện ảnh là bước cuối cùng (của đồ án). Nó tổng hợp lưỡng tính (diachronics, tức những cái phân tán) thành một cái toàn bộ như cơ thể (organic whole). Hai lối nghệ thuật trên từng là lý tưởng cho nền đào tạo viết văn lỗi lạc thấy từ thế kỷ thứ 18. Như vậy, ta thấy rằng, nền cơ khí và kỹ nghệ có lẽ xuất hiện như những sự tiếp nối thay thế thủ công nghệ. Sự kiện này, tự nó, chưa phải là một tai hoạ - trừ khi nếu người ta tin rằng nghệ thuật, tự bản chất của nó, phải là sự biểu tả tính cách cá biệt của thiên tài được một nền thủ công nghệ tinh hoa hỗ trợ. Sự thách đố căn bản cho thấy rằng quá trình chụp ảnh và điện ảnh có thể hoàn tất - hay hơn, nhanh hơn, và phát hành cả hàng trăm ngàn lần nhiều hơn là chủ thuyết duy thực văn truyện và họa hình có thể làm. Ðó là cái nhiệm vụ mà chủ thuyết hàn lâm (academicisme) đã giao cho chủ thuyết duy thực: để bảo tồn các ý thức khác biệt khỏi bị nghi hoặc. Kỹ nghệ chụp ảnh và điện ảnh sẽ vượt khỏi hội hoạ và văn truyện, khi mà mục tiêu bao gồm: an định đối tượng (người hay điều nói đến); xếp đặt đối tượng tùy theo quan điểm, hoặc muốn chấp nhận gán cho nó một ý nghĩa khả tri, hoặc tái dựng ngữ pháp và tự vựng giúp người (vật) được chỉ định (addresses) có thể mở mật mã và tiếp tục công việc một cách nhanh chóng. Như vậy, những người này ý thức được về chính cái đồng tính của mình một cách dễ dàng; (và) họ chấp nhận là mình (người nhận) cũng được người (vật) khác chấp nhận - bởi lẽ kết cấu về hình ảnh và hậu quả như vậy cấu tạo một mật mã tương thông nơi tất cả mọi người (sự). Ðây chính là một lối mà những hiệu quả của hiện thực, hoặc nếu người ta thích hơn, những hoàn tưởng của chủ thuyết duy thực, đương sinh sôi nảy nở. Nhưng nếu giới hoạ sĩ và văn sĩ cũng không muốn biến thành những kẻ hỗ trợ (với một tầm quan trọng thứ yếu) cho cái gì đương hiện diện, thì họ phải từ chối không được làm công cụ, áp dụng lối chẩn đoán như vậy. Họ phải đặt lại câu hỏi về quy luật của nghệ thuật hội hoạ và của nghệ thuật kể truyện mà họ đã từng học và tiếp thu từ các bậc tiền bối. Trước sau gì thì những quy luật này sẽ xuất hiện với họ như là một cách thế để bịp bợm, quyến rũ, và để tái đảm bảo, những điều làm chính những quy luật không thể "chân thật" được. Dưới cái danh chung của hội hoạ và văn chương, (ta thấy) đương xảy ra một sự nứt rạn chưa hề thấy trước đây. Những ai từ chối không tái xét lại những quy luật của nghệ thuật, họ lại dễ thành công trong nghề với chủ thuyết mị dân (mass conformism). Họ dựa vào "những quy luật chính xác" đi truyền thông cái ước muốn bịnh hoạn về sự chân thật, đem ra những đối tượng và hoàn cảnh, đủ để hoàn thành ý muốn của họ. Văn chương dâm ô chỉ là sự sử dụng nhiếp ảnh và phim ảnh cho một mục đích dâm dục. Nó đương biến thành một mẫu mực chung cho nghệ thuật kiến thị và nghệ thuật truyền khẩu, những nghệ thuật (mà hiện nay) vẫn chưa từng bị truyền thông xã hội thách đố. Riêng đối với các nhà nghệ sĩ và văn sĩ từng đặt những câu hỏi về những quy luật tạo hình và nghệ thuật truyền khẩu, và rất có thể là họ cũng nghi hoặc chính họ ngay khi đương phát hành tác phẩm, thì những người như vậy bị coi như là thiếu tín giá nơi con mắt của những kẻ chỉ quan tâm với sự "chân thực" và "đồng tính". Giới văn nghệ sĩ này không thể bảo đảm là có người nghe họ. Chính vì vậy, ta có thể nói, nhóm tiền vệ dùng biện chứng vì họ bị chủ thuyết duy thực của kỹ nghệ thách đố, và họ chấp nhận truyền thông xã hội bởi vì hội hoạ và nghệ thuật kể truyện đòi buộc.
|
Triết học hậu hiện đại
|
Triết học hậu hiện đại là một trào lưu triết học phát sinh vào nửa sau của thế kỷ 20 như là một phản ứng phê phán đối với các giả định được cho là hiện diện trong các ý tưởng triết học hiện đại liên quan đến văn hóa, bản sắc, lịch sử hoặc ngôn ngữ được phát triển trong thời kỳ Khai sáng của thế kỷ 18. Các nhà tư tưởng hậu hiện đại đã phát triển các khái niệm như sự khác biệt, sự lặp lại, dấu vết và siêu thực tế để lật đổ " những câu chuyện lớn ", sự bất ổn của sự tồn tại và sự chắc chắn nhận thức. Triết học hậu hiện đại đặt câu hỏi về tầm quan trọng của các mối quan hệ quyền lực, cá nhân hóa và diễn ngôn trong việc "xây dựng" sự thật và quan điểm thế giới. Nhiều nhà hậu hiện đại dường như phủ nhận rằng một thực tại khách quan tồn tại, và dường như phủ nhận rằng có những giá trị đạo đức khách quan. Jean-François Lyotard định nghĩa hậu hiện đại triết học trong The Postmodern Condition, viết "Đơn giản hóa đến cùng cực, tôi xác định hậu hiện đại như sự ngờ vực về phía siêu tường thuật."
|
Chủ nghĩa cấu trúc (tiếng Pháp : structuralisme) là một khuynh hướng trong nghiên cứu văn học, một phương pháp nghiên cứu trong khoa học xã hội nhằm khám phá, mô tả các cấu trúc của tư duy vốn là cơ sở, là cốt lõi của các nền văn học quá khứ và hiện tại. Chủ nghĩa cấu trúc ra đời vào khoảng nửa sau những năm 40 và nửa đầu những năm 50 của thế kỷ này. Cơ sở của nó là học thuyết ngôn ngữ học của Ph. Xốt-xuya (Thụy Sĩ) và các công trình nghiên cứu của nhà dân tộc học người Pháp Cơ-lốt Lê-vi – Xtơ-rox. Trong khi nghiên cứu thần thoại của các bộ tộc ở Nam và Trung Mĩ, nhà dân tộc học này đã để ý đến cấu trúc bề mặt dễ thay đổi và cấu trúc chiều sâu không thay đổi của thần thoại. Ông cho rằng cái không thay đổi của thần thoại là chủ đề, còn sự thể hiện trong sáng tác dân gian, lễ nghi là những biến dạng của nó. Từ đó ông đi tìm và giải mã các mối quan hệ giữa những yếu tố cấu trúc của thần thoại, giữa những biến dạng phức tạp kia với chủ đề, và giữa chúng với nhau để từ đó tìm ra cơ sở xuất hiện của các văn bản. Bằng việc làm đó, ông đã trực tiếp đặt nền móng cho sự ra đời của chủ nghĩa cấu trúc như một phương pháp nghiên cứu văn học nói riêng và khoa học xã hội nói chung. Nhìn chung chủ nghĩa cấu trúc đặc biệt quan tâm đến các quan hệ giữa những yếu tố của cấu trúc hơn là đến bản thân các yếu tố đó. Nhà nghiên cứu Lốt-man đã nhấn mạnh : “Sự phân tích cấu trúc xuất phát từ chỗ coi thủ pháp nghệ thuật không phải là yếu tố vật chất của văn bản mà là quan hệ” (Lốt-man, Sự phân tích văn bản thơ ca, 1972). Có thể nói tất cả những biện pháp mà chủ nghĩa cấu trúc thường dùng, từ việc đi tìm các mối liên hệ bên trong của văn bản, việc xác định mức độ cấu trúc của tác phẩm đến việc mô hình hoá một văn bản riêng biệt hay cấu trúc nghệ thuật của một nhóm tác phẩm, thậm chí của cả một trào lưu, một thời đại văn hoá đều nhằm mục tiêu: phân tích hệ thống những quan hệ của các yếu tố tạo thành chỉnh thể nghệ thuật. Trong phương pháp phân tích cấu trúc, cấu trúc thường được phân thành những cặp đối lập. Trong thần thoại, đó là sự sống và cái chết, cái của mình và cái của người khác, nam và nữ, cái tươi sống và cái được nấu chín,… cho đến cái quan trọng nhất: tự nhiên và văn hóa. Chủ nghĩa cấu trúc đã đem lại cho các cặp đối lập một ý nghĩa phổ biến. Xung quanh vấn đề chủ nghĩa cấu trúc trong văn học đã và sẽ còn có nhiều cuộc tranh luận để đánh giá nó. Thực tế cho thấy rằng chủ nghĩa cấu trúc với tư cách là một phương pháp đã góp phần làm cho phương pháp nghiên cứu văn học có hiệu quả hơn, song không thể coi đó là phương pháp duy nhất có thể thay thế phương pháp nghiên cứu truyền thống. Ý đồ tốt đẹp của các nhà cấu trúc luận là muốn làm cho công việc nghiên cứu văn học trở thành một khoa học chính xác như trong khoa học tự nhiên, nhưng trong thực tế, họ gặp phải một số trở ngại không nhỏ mà nhiều nhà khoa học đã nêu lên như khám phá tính độc đáo riêng biệt, tính nghệ thuật của tác phẩm văn học. Hiện nay ở một số nước trên thế giới, chủ nghĩa cấu trúc còn được quan niệm như một khuynh hướng xã hội – triết học.
|
Chủ nghĩa cấu trúc
|
Trong xã hội học, nhân loại học và ngôn ngữ học, chủ nghĩa cấu trúc (tiếng Anh: structuralism) là phương pháp luận cho rằng muốn hiểu các yếu tố của văn hóa loài người thì phải nghiên cứu theo hướng xem chúng có mối quan hệ trong cùng một hệ thống hoặc cấu trúc bao quát hơn. Phương pháp này làm sáng tỏ cấu trúc đóng vai trò nền tảng cho tất cả những gì con người làm, suy nghĩ, nhận thức và cảm nhận. Mặt khác, theo triết gia Simon Blackburn, chủ nghĩa cấu trúc là "niềm tin rằng sẽ không thể hiểu được các hiện tượng trong đời sống con người từ phi thông qua các mối quan hệ của chúng. Chủ nghĩa cấu trúc ở Âu châu phát triển vào đầu thập niên 1900, chủ yếu là ở Pháp và Nga, biểu hiện trong ngôn ngữ học cấu trúc của Ferdinand de Saussure và sau này là của các trường phái ngôn ngữ học ở Praha, Moskva và Copenhagen. Vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, khi ngôn ngữ học cấu trúc phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng từ những người ủng hộ Noam Chomsky và do đó lu mờ dần tầm quan trọng thì một loạt các học giả nhân văn học đã mượn các khái niệm của Saussure để sử dụng trong các lĩnh vực nghiên cứu tương ứng của họ.
|
Thép là loại vật liệu có thể sử dụng trong hầu hết mọi lĩnh vực trong đời sống từ xây dựng đến chế tạo những sản phẩm gần gũi xung quanh chúng ta, đặc biệt là thép không gỉ. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu thép không gỉ là gì? Vậy nên, để hiểu rõ hơn về loại thép này, các bạn bạn hãy theo dõi bài viết sau đây của Kết Cấu THép MTG ngay nhé!. Thép không gỉ hay còn được gọi với cái tên quen thuộc là inox, là một dạng hợp kim của sắt có ít nhất 10,5% Crom. Ngoài ra, sản phẩm còn chứ một số thành phần khác như đồng, niken, molyplen, lưu huỳnh, nito… Vật liệu này có khả năng chống oxy hóa đáng kinh ngạc, ít bị trầy xước hơn hẳn sắt thép thông thường. Theo đó, lớp Crom càng dày thì sản phẩm chống han gỉ, mài mòn càng tốt. Chính vì sở hữu khả năng chống oxy hóa và mài mòn tốt nên giá thành của inox trên thị trường cũng cao hơn rất nhiều so với các loại thép khác. Người tiêu dùng cũng cần cân nhắc kỹ càng khi lựa chọn chủng loại thép không gỉ phù hợp với mục đích sử dụng. Đây là loại thép không gỉ thông dụng nhất tại Việt Nam với thành phần chỉ 7% niken, 16% crôm và tối đa carbon 0.08%. Vì thế, sản phẩm có khả năng chống ăn mòn, không bị nhiễm từ, mềm dẻo, dễ uốn, dễ hàn. Do đó, thép Austenitic được sử dụng rất nhiều trong quá trình là đồ gia dụng, bình chứa, tàu thuyền công nghiệp, vỏ kiến trúc…. Thép Ferritic có đặc tính cơ lý giống như thép mềm nhưng hàm lượng cacbon thấp nên có thể chịu ăn mồn cao hơn thép mềm. Loại 12% Crom sẽ được dùng trong kiến trúc. Loại 17% Crom sử dụng để làm đồ gia dụng, máy giặt, nồi hơi…. Loại thép này mang đặc tính của cả hai loại thép Ferritic và Austenitic được gọi là thép Duplex. Hàm lượng của Ni trong thép Duplex ít hơn so với thép Austenitic. Thế nên, vật liệu có thể chịu lực cao, bền vững và mềm dẻo. Loại thép này được sửu dụng rất nhiều trong ngành công nghiệp như hóa dầu, sản xuất giấy, bột giấy, chế tạo tàu biển…. Thép Martensitic chứa khoảng 11% đến 13% Crom nên có độ bền chịu lực cao và độ cứng tốt, độ chống ăn mòn chỉ ở mức độ tương đối. Loại thép này được dùng để chế tạo cánh tuabin, lưỡi dao…. Ngày nay, các thiết bị làm từ sắt dần được thay thế bởi inox đặc biệt trong lĩnh vực y tế, thiết bị gia dụng, chế tạo dược phẩm, công nghiệp… Sở dĩ như vậy là do thép không gỉ sở hữu rất nhiều tính năng ưu việt hơn hẳn so với sản phẩm làm từ sắt và thép thông thường. Inox chống ăn mòn và chống oxy hóa cao giúp tăng tuổi thọ và chất lượng của các sản phẩm làm từ vật liệu này. Các sản phẩm được chế tạo từ inox không chứa chất gây độc hại cho sức khỏe của con người. Khi sử dụng trong thời gian dài cũng không bị gỉ sét. Inox có tính chịu lực và chịu nhiệt cao, đồng thời độ cứng và độ dẻo ở mức tiêu chuẩn nên có thể sử dụng ở những môi trường khắc nghiệt nên vật liệu được dùng nhiều trong chế tạo thiết bị bếp công nghiệp, thiết bị máy móc. Giá thành của inox cao hơn nhiều so với các loại thép khác trên thị trường. Trên thị trường có rất nhiều cửa hàng bày bán sản phẩm làm từ inox dẫn đến trường hợp người tiêu dùng mua phải hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Do đó, khi mua sản phẩm từ inox, các bạn nên chú ý một số điều sau:. Sử dụng nam châm để thử, nếu sản phẩm nào có lực hút càng mạnh tức là pha sát nhiều, kém chất lượng và nhanh han gỉ. Nên mua sản phẩm có tem, nhãn của nhà sản xuất uy tín và có phiếu bảo hành sản phẩm đi kèm. Khi mua phải yêu cầu người bàn hàng giới thiệu các chủng loại thép không gỉ để đưa ra lựa chọn phù hợp. Loại inox 2 – 3 lớn rất dày, khi búng tay sẽ không có âm vang, còn loại mỏng một đáy thường có âm vang lớn. Để tăng độ dàu của inox, một số nhà sản xuất tạo ra một lớn xi mạ ở đáy nhằm giảm thanh. Tuy nhiên, chúng ta có thể phát hiện dễ dàng bởi sản phẩm cầm trên tay sẽ nhẹ hơn so với loại thường. Hãy hoàn toàn yên tâm khi trao cơ hội cho chúng tôi, với phương châm “Tận tâm làm nên giá trị”, quý khách sẽ cảm nhận được điều đó từ trong những chi tiết nhỏ nhất khi đặt quan hệ hợp tác với MTG.
|
Thép không gỉ
|
Trong lĩnh vực luyện kim, thép không rỉ còn gọi là thép inox hay inox (phát âm tiếng Việt như là i-nốc) bắt nguồn trong tiếng Pháp inoxydable (inoxidizable) là một hợp kim thép, có hàm lượng crom tối thiểu 10,5% theo khối lượng và tối đa 1,2% carbon theo khối lượng. Thép không gỉ nổi bật nhất là khả năng chống ăn mòn, tăng lên khi tăng hàm lượng crôm. Bổ sung molypden làm tăng khả năng chống ăn mòn trong việc giảm acid và chống lại sự tấn công rỗ trong dung dịch chloride. Do đó, có rất nhiều loại thép không gỉ với hàm lượng crôm và molypden khác nhau để phù hợp với môi trường mà hợp kim phải chịu đựng. Khả năng chống ăn mòn và nhuộm màu của thép không gỉ, bảo trì thấp và độ bóng quen thuộc làm cho nó trở thành vật liệu lý tưởng cho nhiều ứng dụng đòi hỏi cả cường độ của thép và chống ăn mòn. Thép không gỉ được cuộn thành tấm, tấm, thanh, dây và ống được sử dụng trong: dụng cụ nấu ăn, dao kéo, dụng cụ phẫu thuật, dụng cụ chính; vật liệu xây dựng trong các tòa nhà lớn, như Tòa nhà Chrysler; thiết bị công nghiệp (ví dụ, trong các nhà máy giấy, nhà máy hóa chất, xử lý nước); và bể chứa và tàu chở dầu cho hóa chất và thực phẩm (ví dụ, tàu chở hóa chất và tàu chở dầu).
|
Triết học được xem là một lĩnh vực khá mơ hồ và trừu tượng với nhiều người. Vậy triết học là gì? 5 vấn đề của triết học là gì? Cùng GiaiNgo khám phá nhé!. Nhắc đến triết học người ta sẽ nhớ đến một ngành học đầy sâu sắc, ý nghĩa và vô cùng thú vị. Tuy nhiên đến nay triết học vẫn là một lĩnh vực khó đối với các bạn sinh viên và nhiều người nói chung. Triết học là gì? Bài viết dưới đây của GiaiNgo sẽ giải đáp xoay quanh chủ đề này. Cùng tìm hiểu nhé!. Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiên cứu về các câu hỏi chung và cơ bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và ngôn ngữ. Triết học có tên gọi tiếng Anh là Philosophy, từ này được xuất phát trong tiếng Hy Lạp cổ đại, nghĩa dịch ra “tình yêu đối với sự thông thái”. Các thuật ngữ như là “triết học” hay “triết gia” ra đời là gắn với nhà tư tưởng người Hy Lạp Pythagoras. Ngành triết học là một bộ môn nghiên cứu về các vấn đề chung, cơ bản về con người – thế giới quan cũng như vị trí của con người ở trong thế giới quan. Những vấn đề đó có kết nối lại với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ngôn ngữ. Dựa vào cách mà triết học giải quyết các vấn đề, người ta sẽ phân biệt được nó với những môn khoa học khác. Trong đó, nó đặc biệt thể hiện rõ tính phê phán, các phương pháp tiếp cận vào hệ thống chung nhất, sự phụ thuộc của nó sẽ dựa vào tính duy lý ở việc lập luận. Ngành triết học cũng là ngành học duy nhất thách thức mọi thứ, ngay cả chính nó. Chính vì thế, triết học được tách riêng khỏi khoa học, lịch sử, văn học và nghệ thuật. Hiện nay, triết học cũng là một ngành khoa học được đào tạo riêng biệt dành cho sinh viên. Triết học cũng là môn học bắt buộc đối với tất cả các sinh viên trong trường Đại học – Cao đẳng. Triết học Mác – Lenin là triết học duy vật biện chứng triệt để. Nó là khoa học về những quy luật phổ biến chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Trong Triết học Mác – Lenin, các quan điểm duy vật về tự nhiên và về xã hội, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau thành một hệ thống lý luận thống nhất. Theo ghi chép của lịch sử, triết học ra đời từ khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN. Triết học xuất hiện ở cả phương Đông và phương Tây, tại các quốc gia văn minh cổ đại như Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc. Ở phương Tây, khái niệm triết học lần đầu tiên xuất hiện tại Hy Lạp với tên gọi φιλοσοφία (philosophia), mang nghĩa là “love of wisdom” (tình yêu đối với sự thông thái) bởi nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại mang tên Pythagoras. Với người Hy Lạp, triết học mang tính định hướng đồng thời cũng nhấn mạnh khát vọng tìm kiếm chân lý của con người. Ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học bắt nguồn từ chữ triết và được hiểu là sự truy tìm bản chất của đối tượng; là trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc của con người. Còn tại Ấn Độ, triết học Ấn độ cổ đại có tên gọi là “darshanas”, có nghĩa là “chiêm ngưỡng”. Nó mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Sự đối lập trong tư duy giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm là vấn đề cơ bản của triết học. Gọi là vấn đề cơ bản bởi vì dựa trên việc giải quyết các vấn đề này sẽ làm cơ sở để giải quyết các vấn đề còn lại của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học bao gồm các vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy; giữa vật chất và ý thức. Cụ thể là hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn:. Đối với triết học, bản chất của nó là đưa ra những câu hỏi về bản thể, nhận thức, chân lý, đạo đức, thẩm mỹ. Những vấn đề đấy bao gồm:. Trong thời kỳ của triết học Hy Lạp cổ đại, 5 vấn đề trên tương ứng với lại 5 nhánh của triết học là Siêu hình học – logic – nhận thức luận – luân lý học – mỹ học. Nhưng đối tượng của triết học thì được mở rộng hơn đến vấn đề của chính trị học – vật lý học – địa chất học – sinh học – khí tượng học – thiên văn học. Từ thời Socrates, tư tưởng của các nhà triết học Hy Lạp bắt đầu phát triển theo hướng phân tích. Có nghĩa là đã có sự phân chia về vật thể thành những thành phần nhỏ để nghiên cứu. Với tư tưởng của triết học cổ Hy Lạp, hiện vẫn được xem là cơ sở của triết học phương Tây. Chủ nghĩa duy vật là một hình thức của chủ nghĩa duy vật lý (physicalism) với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất. Về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất. Với vai trò một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên. Như vậy, nó khác với các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết đa nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng, chủ nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tâm thức và thuộc về tâm thức. Là một cách tiếp cập tới hiểu biết về sự tồn tại, chủ nghĩa duy tâm thường được đặt đối lập với chủ nghĩa duy vật. Cả hai đều thuộc lớp bản thể học nhất nguyên chứ không phải nhị nguyên hay đa nguyên. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan và coi nó là một cái gì đó hoàn toàn do tính tích cực của chủ thể quy định. Chủ nghĩa hiện thực đôi khi dùng để chỉ quan điểm trái ngược với chủ nghĩa lý tưởng của thế kỷ 18, cho rằng một số sự vật thực sự tồn tại bên ngoài đầu óc con người. Tuy nhiên, theo nghĩa cổ điển, chủ nghĩa hiện thực là học thuyết cho rằng những khái niệm trừu trượng gắn với những danh từ chung toàn cầu như “con người” thực sự tồn tại. Trái ngược với chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa duy danh cho rằng những danh từ trừu tượng hoặc toàn cầu chỉ là từ ngữ. Chúng biểu thị cho những trạng thái của trí não như ý tưởng, niềm tin hoặc dự định,…. Chủ nghĩa duy lý nhấn mạnh vai trò của lý trí con người. Chủ nghĩa duy lý cực đoan tìm mọi cách để gán tất cả kiến thức con người lên nền tảng độc nhất là lý trí. Kiểu lý luận điển hình của chủ nghĩa duy lý bắt đầu bằng những tiên đề không thể chối cãi rành rọt được, để từ đó, bằng các bước logic, diễn dịch ra mọi đối tượng kiến thức có thể có. Chủ nghĩa kinh nghiệm là một học thuyết dựa trên cơ sở kiến thức về năm giác quan của con người chúng ta. John Locke, một triết gia theo chủ nghĩa kinh nghiệm đầu tiên của Anh quốc, đưa ra quan điểm chủ nghĩa kinh nghiệm cổ điển trong tác phẩm An Essay Concerning Human Understanding vào năm 1689, phát triển một dạng tự nhiên chủ nghĩa và kinh nghiệm chủ nghĩa trên cơ sở các nguyên tắc gần như khoa học. Chủ nghĩa hoài nghi là một quan điểm triết học nghi vấn khả năng đạt được “bất kì” một loại kiến thức nào. Nó được phổ biến bởi Pyrrho, người tin rằng tất cả mọi thứ đều có thể bị nghi ngờ ngoại trừ “vẻ bề ngoài”. Chủ nghĩa hoài nghi hiểu theo cách như vậy không chỉ đơn thuần là việc sử dụng sự hoài nghi, mà là việc sử dụng tính hoài nghi cho một mục đích đặc biệt, là sự bình an của tâm hồn, hay là ataraxia. Chủ nghĩa hoài nghi là một thách thức cho chủ nghĩa giáo điều, hay là cho những người nghĩ rằng họ đã tìm ra sự thật. Chủ nghĩa lý tưởng là một học thuyết cho rằng hiện thực là hoàn toàn giới hạn bởi đầu óc của chúng ta. Các dạng của chủ nghĩa lý tưởng khá phổ biến trong triết học từ thế kỉ 18 đến những năm đầu của thế kỉ 20. Chủ nghĩa lý tưởng siêu việt (Transcendental Idealism); Chủ nghĩa lý tưởng Đức; Chủ nghĩa hiện tượng lục địa (Continental phenomenology). Vào cuối thế kỷ 19, hai triết gia Mỹ, Charles Peirce và William James, đã đồng sáng lập ra học thuyết “chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism). Những người theo chủ nghĩa thực dụng cho rằng chân lý của đức tin không nằm trong sự tương hợp của họ với thực tại mà nằm ở sự hữu ích và hiệu quả. Trong phần thứ hai của tác phẩm hai tập của Edmund Husserl, cuốn Logical Investigations (Nghiên cứu về lý luận), ông phát triển một kĩ thuật về mô tả hiện tượng học. Với mục đích chứng minh rằng các đánh giá khách quan thật sự là dựa trên kinh nghiệm nhận thức. Tuy không dựa trên kinh nghiệm ban đầu của mỗi cá nhân, nhưng dựa vào các bản chất quan trọng đối với bất kì kinh nghiệm cùng loại đang được xét đến. Những triết gia của thế kỉ 19 như là Soren Kierkegaard và Friedrich Nietzsche được xem là cha đẻ của thuyết hiện sinh. Kierkegaard cho rằng “sự thật là chủ quan”; biện luận rằng điều quan trọng nhất đối với một người thực sự là những câu hỏi liên quan đến những mối quan hệ cá nhân bên trong người đó với sự tồn tại. Vào năm 1921, Ludwig Wittgenstein xuất bản cuốn sách Tractatus Logico-Philosophicus, đưa ra một hệ thống logic vững chắc về các vấn đề của ngôn ngữ và triết học. Vào thời gian đó, ông đã hiểu rằng đa số các vấn đề của triết học chỉ là những bài toán đố của ngôn ngữ, mà có thể giải thích được dễ dàng bởi các suy nghĩ rõ ràng. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội được thể hiện qua chức năng của triết học. Triết học có nhiều chức năng, nhưng quan trọng nhất chính là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận. Thế giới quan: Thế giới quan có vai trò quan trọng đối với đời sống mỗi con người, mỗi giai cấp, mỗi cộng đồng. Nó giúp con người nhận thức đúng được sự vật, sự việc. Hoạt động của con người luôn bị chi phối bởi một thế giới quan nhất định. Thế giới quan đóng vai trò là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người. Từ thế giới quan đúng đắn, con người sẽ có khả năng nhận thức, quan sát, nhìn nhận mọi vấn đề trong thế giới xung quanh. Từ đó giúp con người định hướng thái độ và cách thức hoạt động sinh sống của mình. Phương pháp luận: Phương pháp luận là hệ thống những quy tắc được rút ra từ quy luật thế giới khách quan. Phương pháp luận chính là cơ sở vô cùng quan trọng cho phương pháp nghiên cứu khoa học. Việc hoàn thiện phương pháp luận sẽ giúp cho các nhà khoa học nghiên cứu tìm ra những cách tiếp cận mới trong những lĩnh vực mới. Từ đó xác định được hướng đi đúng đắn, giúp nâng cấp và cải cách thế giới. Phương pháp luận ngành: được sử dụng cho những ngành khoa học cụ thể (sinh học, vật lý, hóa học,…). Phương pháp luận chung: được sử dụng để xác định phương pháp hay phương pháp luận của nhóm ngành có chung đối tượng nghiên cứu. Phương pháp luận chung nhất: dùng để khái quát các nguyên tắc, quan điểm chung nhất. Phương pháp luận này chính là cơ sở để xác định các phương pháp luận ngành, chung và các hoạt động thực tiễn. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, bên cạnh giải quyết những vấn đề muôn thuở, triết học còn giúp cho con người tìm ra lời giải đối với những vấn đề hoàn toàn mới, phát sinh trong quá trình toàn cầu hóa. Triết học giúp con người nhìn nhận đúng đắn về thế giới quan. Nhờ vào triết học, con người còn có khả năng đánh giá những biến động đang diễn ra, gợi mở hướng giải quyết cho vấn đề đang gặp phải trong bối cảnh toàn cầu hóa. Dù là trong quá khứ hay ở kỷ nguyên toàn cầu hóa, triết học vẫn giữ nguyên vị thế của mình ở phạm vi một dân tộc và cả nhân loại. Bài viết trên của GiaiNgo đã giải đáp những thông tin liên quan đến chủ đề Triết học là gì. Hy vọng sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về triết học và học tập tốt bộ môn này. Chúc bạn thành công!. GiaiNgo là trang blog chuyên chia sẻ các thông tin liên quan đến Là ai? ở mọi góc cạnh khác nhau trong cuộc sống.
|
Triết học
|
Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận. Trong tiếng Anh, từ "philosophy" (triết học) xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại φιλοσοφία (philosophia), có nghĩa là "tình yêu đối với sự thông thái". Sự ra đời của các thuật ngữ "triết học" và "triết gia" được gắn với nhà tư tưởng Hy Lạp Pythagoras. Một "nhà triết học" được hiểu theo nghĩa tương phản với một "kẻ ngụy biện" (σοφιστής). Những "kẻ ngụy biện" hay "những người nghĩ mình thông thái" có một vị trí quan trọng trong Hy Lạp cổ điển, được coi như những nhà giáo, thường đi khắp nơi thuyết giảng về triết lý, nghệ thuật hùng biện và các bộ môn khác cho những người có tiền, trong khi các "triết gia" là "những người yêu thích sự thông thái" và do đó không sử dụng sự thông thái của mình với mục đích chính là kiếm tiền.
|
Có nhiều cách để sản xuất năng lượng tùy thuộc vào loại nhiên liệu chúng ta sử dụng và địa điểm hoặc phương pháp sử dụng. Các nhà máy nhiệt điện thông thường còn được gọi là nhà máy nhiệt điện và sử dụng nhiên liệu hóa thạch để tạo ra điện. Nhiều người không biết rõ nhà máy nhiệt điện là gì. Vì vậy, chúng tôi sẽ dành bài viết này để cho bạn biết nhà máy nhiệt điện là gì, đặc điểm của nó là gì và chúng tạo ra năng lượng điện như thế nào. Nhà máy nhiệt điện thông thường, còn được gọi là nhà máy nhiệt điện thông thường, sử dụng nhiên liệu hóa thạch (khí đốt tự nhiên, than đá hoặc dầu nhiên liệu) để tạo ra điện thông qua chu trình hơi nước nhiệt. Thuật ngữ "thông thường" được sử dụng để phân biệt chúng với các nhà máy nhiệt điện khác, chẳng hạn như nhà máy chu trình hỗn hợp hoặc nhà máy điện hạt nhân. Các nhà máy nhiệt điện truyền thống được tạo thành từ nhiều yếu tố có thể chuyển đổi nhiên liệu hóa thạch thành điện năng. Các thành phần chính của nó là:. Nồi hơi: Không gian chuyển đổi nước thành hơi nước thông qua quá trình đốt cháy nhiên liệu. Trong quá trình này, năng lượng hóa học được chuyển đổi thành nhiệt năng. Cuộn dây: qua đó nước lưu thông và biến thành hơi nước. Giữa chúng xảy ra sự trao đổi nhiệt giữa khói lò và nước. Tua bin hơi: Máy thu thập hơi nước, do một hệ thống phức tạp về áp suất và nhiệt độ, trục đi qua nó sẽ chuyển động. Loại tuabin này thường có nhiều thân, áp suất cao, áp suất trung bình và áp suất thấp để tận dụng tối đa hơi nước. Máy phát điện: Máy thu năng lượng cơ học được tạo ra qua trục của tuabin và chuyển nó thành năng lượng điện thông qua cảm ứng điện từ. Nhà máy điện biến đổi cơ năng của trục thành dòng điện xoay chiều ba pha. Máy phát điện được kết nối với các trục đi qua các cơ quan khác nhau. Trong nhà máy nhiệt điện truyền thống, nhiên liệu được đốt cháy trong lò hơi để tạo ra nhiệt năng đốt nóng nước, được chuyển hóa thành hơi nước ở áp suất rất cao. Hơi nước này sau đó làm quay một tuabin lớn, chuyển đổi nhiệt năng thành cơ năng, Sau đó, nó được chuyển đổi thành năng lượng điện trong một máy phát điện. Điện đi qua một máy biến áp làm tăng điện áp của nó và cho phép nó được truyền đi, do đó làm giảm tổn thất do hiệu ứng Joule. Hơi nước rời tuabin được đưa đến bình ngưng, tại đây nó được chuyển hóa thành nước và quay trở lại lò hơi để bắt đầu một chu trình sản xuất hơi nước mới. Bất kể loại nhiên liệu bạn sử dụng, hoạt động của một nhà máy nhiệt điện truyền thống cũng giống như vậy. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa tiền xử lý nhiên liệu và thiết kế đầu đốt lò hơi. Vì vậy, nếu nhà máy điện chạy bằng than thì nhiên liệu phải được nghiền trước. Trong nhà máy dầu, nhiên liệu được đốt nóng, trong khi ở nhà máy khí đốt tự nhiên, nhiên liệu đến trực tiếp qua đường ống dẫn khí, do đó không cần dự trữ trước. Trong trường hợp thiết bị trộn, một cách xử lý tương ứng được áp dụng cho mỗi nhiên liệu. Các nhà máy nhiệt điện truyền thống ảnh hưởng đến môi trường theo hai cách chính: thải chất thải vào khí quyển và thông qua truyền nhiệt. Trong trường hợp đầu tiên, việc đốt cháy nhiên liệu hóa thạch sẽ tạo ra các hạt cuối cùng đi vào khí quyển, có thể phá hủy môi trường Trái đất. Vì lý do này, những loại cây này có ống khói cao có thể phân tán các hạt này và làm giảm cục bộ tác động tiêu cực của chúng đối với không khí. Ngoài ra, các nhà máy nhiệt điện truyền thống cũng có bộ lọc hạt, có thể bẫy hầu hết chúng và ngăn chúng chạy ra bên ngoài. Trong trường hợp truyền nhiệt, các nhà máy điện chu trình hở có thể khiến các sông và đại dương nóng lên. May mắn thay, hiệu ứng này có thể được giải quyết bằng cách sử dụng hệ thống làm lạnh để làm mát nước đến nhiệt độ phù hợp với môi trường. Các nhà máy nhiệt điện tạo ra nhiều loại chất ô nhiễm vật lý và hóa học rất nguy hiểm, có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Những tác động xấu đến cơ thể con người được thể hiện trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, tăng cường và giải phóng ảnh hưởng của các chất ô nhiễm tồn tại từ trước. Tác động tiêu cực đến sức khỏe con người có thể bao gồm một loạt các bệnh, từ nhẹ đến nghiêm trọng và đe dọa tính mạng. Đây là những chất ô nhiễm chính:. Chất gây ô nhiễm vật lý: Các chất ô nhiễm âm thanh do tiếng ồn tạo ra từ các hoạt động có thể gây ra những thay đổi trong cơ thể con người, nguyên nhân là do sự gián đoạn nhịp sinh học khi ngủ - thức. Các chất ô nhiễm điện từ, tức là bức xạ điện từ được tạo ra bằng cách thu nhận và phân phối điện, chủ yếu tạo ra những thay đổi trong hệ thần kinh và tim mạch. Chất gây ô nhiễm hóa học: CO2, CO, SO2, các hạt, ôzôn đối lưu, làm tăng số lượng các bệnh về đường hô hấp và tim mạch, đồng thời làm giảm khả năng bảo vệ miễn dịch của chúng ta, các hóa chất nguy hiểm (từ asen, cadmium, crom, coban, chì, mangan, thủy ngân, niken, phốt pho, benzen , formaldehyde, naphthalene, toluene và pyrene. Mặc dù có ở dạng vi lượng nhưng chúng là những chất rất nguy hiểm vì chúng có thể gây ra các bệnh cấp tính và mãn tính nghiêm trọng ở những người tiếp xúc. Rối loạn sinh sản và tăng nguy cơ ung thư) và các chất phóng xạ. Các nhà máy điện hơi nước có đặc điểm là sử dụng nước hoặc một chất lỏng khác, ở hai giai đoạn khác nhau trong chu trình làm việc, thường ở dạng hơi nước và chất lỏng. Trong những năm gần đây, công nghệ siêu tới hạn cũng trở nên phổ biến, điều này không dẫn đến cái gọi là lệch pha, vốn là đặc điểm của những cách lắp đặt này trong quá khứ. Các nhà máy nhiệt điện này có thể được chia thành nhiều bộ phận: đường dây điện, máy phát hơi nước, tua bin hơi nước và thiết bị ngưng tụ. Mặc dù định nghĩa về nhà máy nhiệt điện rất nghiêm ngặt, Các loại chu trình nhiệt khác nhau có thể được quan sát đáp ứng các yêu cầu nàys, đặc biệt phổ biến nhất là chu trình Rankine và chu trình Hirn. Trước khi vào lò hơi, nước cấp qua giai đoạn đốt nóng sơ bộ và nén. Trong thực tế, khi đi vào lò hơi, có một số bộ tích nhiệt, đó là bộ trao đổi nhiệt, trong đó hơi nở ra làm nóng trước một phần hoặc toàn bộ chất lỏng làm việc. Điều này cho phép nhiệt độ cao hơn đi vào bộ tạo hơi nước, do đó làm tăng hiệu quả của nhà máy. Mong rằng với những thông tin này bạn có thể hiểu thêm về nhà máy nhiệt điện là gì và đặc điểm của nó. địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu bằng *. Truyền thông dữ liệu: Dữ liệu sẽ không được thông báo cho các bên thứ ba trừ khi có nghĩa vụ pháp lý. Quyền: Bất cứ lúc nào bạn có thể giới hạn, khôi phục và xóa thông tin của mình.
|
Nhà máy nhiệt điện
|
Nhà máy điện nhiệt là một nhà máy điện, trong đó hóa năng của nhiên liệu biến thành nhiệt năng cấp nhiệt cho nước để biến thành hơi. Nước được đun nóng, chuyển thành hơi nước và quay một tua bin hơi nước và tuabin này làm chạy một máy phát điện. Sau khi đi qua tuabin, hơi nước được ngưng tụ trong bình ngưng và tuần hoàn lại đến nơi mà nó đã được làm nóng, quá trình này được gọi là chu trình Rankine. Khác biệt lớn nhất trong thiết kế của nhà máy nhiệt điện là do các nguồn nhiên liệu khác nhau. Một số thiết kế thích sử dụng thuật ngữ trung tâm năng lượng hạn bởi vì các cơ sở đó chuyển đổi hình thức của năng lượng từ nhiệt năng thành điện năng. Một số nhà máy nhiệt điện cũng cung cấp năng lượng nhiệt cho mục đích công nghiệp, để sưởi ấm, hoặc để khử muối trong nước cũng như cung cấp năng lượng điện. Một tỷ lệ lớn khí CO2 được tạo ra từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch ở các nhà máy nhiệt điện gây ảnh huởng rất lớn đến bầu không khí sống của con người.
|
Xã hội phát triển và ngày càng nhiều thiết bị, máy móc được sáng tạo để thay thế con người thực hiện những công việc nhà. Trong đó, máy rửa bát là thiết bị sẽ giúp bạn rửa chén mỗi ngày. Vậy có nên sử dụng loại thiết bị này không và đâu là những sản phẩm tốt nhất dành cho bạn?. Hãy xem bài viết bên dưới để có cái nhìn chi tiết nhất về thiết bị rửa chén hiện đại này bạn nhé. Máy rửa bát hay còn gọi là máy rửa chén có tên tiếng Anh là: Dishwater. Đây là thiết bị có khả năng làm sạch các loại chén bát một cách tự động, giúp cho việc rửa chén của bạn trở nên đơn giản và dễ dàng hơn bao giờ hết. Với thiết bị máy rửa chén này, bạn chỉ cần cho chén bát bẩn vào máy, thêm 1 ít chất tẩy rửa, chọn chu trình rửa phù hợp và nhấn nút khởi động máy. Toàn bộ quá trình làm sạch chén, bát tiếp theo đều được máy hoàn thành một cách tự động mà bạn không phải làm gì thêm. Máy rửa chén được cấu tạo từ 2 bộ phận chính bao gồm bộ phận điều khiển và van bơm – nạp, mỗi bộ phận sẽ có những chức năng riêng biệt. Hệ thống điều khiển: được đặt bên ngoài cửa dùng để điều khiển mọi hoạt động của máy như cài đặt thời gian, lựa chọn chu trình rửa, và nhiều chức năng khác. Van bơm – nạp: Phần 2 gồm 2 van khác nhau là van bơm và van nạp. Trong đó, van nạp phụ trách việc đưa nguồn nước từ bên ngoài vào máy và van bơm là nơi có nhiệm vụ xả nước trực tiếp vào ống thoát nước máy. Ngoài ra, một số thiết bị rửa bát cao cấp ngày nay còn được tích hợp thêm bảng điều khiển máy tính giúp việc quản lý quá trình rửa của máy trở nên đơn giản hơn. Ngoài ra còn hỗ trợ những tính năng an toàn cho trẻ em. Thật ra, nguyên lý hoạt động của máy rửa chén bát cũng khá đơn giản. Chén bát bẩn sẽ được làm sạch dưới áp suất cao của nước. Sau khi bạn khởi động máy, nước sẽ được phun trực tiếp vào chén bát bẩn qua các vòi phun. Lúc này, dưới tác dụng từ áp suất cao của nước, các chất bẩn sẽ bị đánh bay ngay lập tức. Hiện nay, máy rửa bát khá đa dạng về kiểu dáng và các tính năng. Tuy nhiên, bạn có thể chia máy rửa bát làm 3 loại gồm: máy để bàn, máy rửa chén âm tủ, và thiết bị rửa bát độc lập. Mỗi loại sẽ có một số đặc điểm riêng biệt như:. Máy rửa bát để bàn: là sản phẩm có thiết kế nhỏ gọn nhất, chỉ có thể sử dụng để rửa một số chén, đĩa có kích thước nhỏ. Đây là loại máy rửa chén khá phổ biến tại các gia đình nhỏ, ít người. Máy rửa chén âm tủ: là dòng sản phẩm cao cấp, được lắp đặt sẵn khi thiết kế căn bếp. Máy không chiếm diện tích bếp và có giá cả khá cao. Máy rửa bát độc lập: là loại máy rửa chén không được tích hợp sẵn vào tủ, kệ bếp. Bạn có thể di chuyển máy đi nhiều vị trí khác nhau. Loại máy này có kích thước to hơn và khả năng làm sạch tốt hơn máy để bàn. Tiết kiệm nước: bạn sẽ ít tốn nước hơn so với việc rửa bằng tay theo cách truyền thống. Bởi vì, máy đã được các nhà sản xuất tính toán và thiết lập sẵn lượng nước phù hợp với từng khối lượng chén, bát khác nhau. Tiết kiệm thời gian: đây có lẽ là ưu điểm dễ nhận thấy nhất. Việc rửa một lượng lớn chén bát bằng tay thường sẽ làm mất khá nhiều thời gian của chị em. Thay vào đó, khi sử dụng máy bạn thời gian hoàn thành việc rửa bát của bạn sẽ giảm bớt được một nửa so với rửa bằng tay. Khoảng thời gian này có thể dùng để nghỉ ngơi, thư giãn cùng người thân. An toàn với da tay: Việc rửa chén bằng tay sẽ làm da tay bạn tiếp xúc thường xuyên với chất tẩy rửa. Thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến phần da mu bàn tay. Nhưng với việc sử dụng máy, tay bạn sẽ không còn phải tiếp xúc với bất kỳ chất tẩy rửa nào nữa. Tránh làm vỡ chén bát: Rửa chén bát bằng tay và dung dịch tẩy rửa thường sẽ xảy ra việc bạn bị trợt tay, làm bể vỡ chén bát. Nhưng với việc sử dụng máy rửa bát, bạn sẽ có thể hoàn toàn tránh được rủi ro này. Dễ hình thành thói quen phụ thuộc vào máy móc, dẫn đến lười vận động tay chân. Để lựa chọn được sản phẩm máy rửa bát tốt nhất và phù hợp với nhu cầu sử dụng của bản thân. Bạn cần biết một số tiêu chí quan trong sau đây:. Đây là tiêu chí hàng để để bạn lựa chọn được thiết bị phù hợp đối với không gian bếp của gia đình. Hãy chọn một vị trí trống trong căn bếp của gia đình và đo đạc thật kỹ bạn nhé. Điều này sẽ giúp bạn chọn đúng chiếc máy có kích thước phù hợp, để không gian bếp trển nên gọn gàng và bắt mắt hơn. Thông thường, khi hoạt động máy rửa chén sẽ phát ra tiếng ồn khá cao và gây ảnh hưởng đến người thân xung quanh. Các loại máy hiện đại ngày nay đã được khắc phục nhược điểm này khá rõ và bạn nên lựa chọn những máy có chế độ giảm xóc, và có mức độ ồn dưới 50dB để không gây khó chịu cho tai. Bên cạnh chức năng chính là làm sạch chén bát. Một số máy hiện đại còn được trang bị nhiều tiện ích khác như: chế độ rửa nhanh, tiết kiệm nước, sấy khô,…. Tất nhiên máy càng hiện đại, có nhiều tính năng thì giá cả thường sẽ cao hơn. Do đó, bạn hãy xem xét nhu cầu sử dụng và điều kiện kinh tể của bản thân để lựa chọn thiết bị phù hợp nhất. Máy rửa bát được sản xuất từ những thương hiệu uy tín sẽ đem đến cho bạn sự an tâm khi sử dụng. Những máy rửa chén chất lượng cao sẽ đem đến hiệu quả tốt hơn, an toàn cho sức khỏe. Không những thế, các thương hiệu uy tín luôn trang bị cho những sản phẩm của họ các chế độ bảo hành dài hạn và chăm sóc khách hàng cực tốt. Giá máy rửa bát khá cao và tùy thuộc vào loại máy và chức năng đi kèm mà có những mức giá cả khác nhau. Máy rửa chén âm tủ: có giá khá cao vào khoảng từ 20 triệu trở lên. Với những tiêu chí bên trên, mình đã giúp bạn chọn ra 9 thương hiệu uy tín nhất trong lĩnh vực kinh doanh máy rửa bát. Mỗi thương hiệu sẽ có những ưu và nhược điểm khác nhau, cụ thể:. Bosch là thương hiệu đồ gia dùng nổi tiếng đến từ Đức. Thương hiệu này được thành lập từ năm 1886 và được biết đến thông qua những thiết bị như: máy hút bụi, máy ép chậm, máy đánh trứng,. Các sản phẩm của thương hiệu này luôn được người tiêu dùng đánh giá về chất lượng và đồ bền cao. Bên cạnh đó, Bosch luôn đem đến những thiết kế sang trọng, và sự đa dạng chủng loại cho những thiết bị của họ. Máy rửa bát Bosch cũng là 1 trong những sản phẩm bán chạy nhất của thương hiệu này. Máy được trang bị những công nghệ hiện đại nhất từ hãng và mức giá cũng khá phải chăng, phù hợp với nhiều đối tượng sử dụng. Kocher là một thương hiệu Việt Nam chuyên cung cấp và phân phối thiết bị nhà bếp hiện đại. Đây cũng là 1 trong những thương hiệu đầu tiên có sự hợp tác chiến lược với các tập đoàn lớn trên thế giới như EGO hay Eurokera,…. Nhờ đó, các thiết bị đến từ Kocher đều có chất lượng cao, đạt những tiêu chuẩn hàng đầu của châu Âu. Máy rửa chén Kocher được bày bán tại thị trường Việt Nam đều sử dụng các linh kiện cao cấp, chính hãng và an toàn với sức khỏa người sử dụng. Điểm mạnh khác của dòng máy rửa chén đến từ thương hiệu này đó là công nghệ tiết kiệm điện năng, độ ốn thấp chỉ 42dB và có đa dạng chương trình rửa thông minh, phù hợp với mọi nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng. Không những thế, máy rửa chén Kocher còn được trang bị tính năng Hygiene Plus giúp diệt khuẩn tối đa, với khả năng tẩy sạch vi khuẩn gây hại bám trên bát đĩa lên đến 99%. Fujishan là một thương hiệu thiết bị rửa bát đến từ Nhật Bản. Tuy chỉ mới du nhập vào thị trường Việt Nam những năm gần đây, nhưng các sản phẩm của Fujishan được đánh giá khá cao về chất lượng dịch vụ khi các sản phẩm đều được miễn phí giao hàng và lắp đặt trên toàn quốc. Được thiết kế dành riêng cho người châu Á, do đó máy rửa chén Fujishan rất phù hợp với phong cách sinh hoạt của các gia đình Việt. Bạn có thể thoải mái sử dụng máy để làm sạch hầu hết các vật dụng hàng ngày trong bữa ăn gia đình như: bát cơm, chén, thì, đũa, đĩa,…. Galanz là một trong những thương hiệu máy rửa chén đến từ Trung Quốc. Các dòng máy của thương hiệu này đều đạt những chứng nhận của những tổ chức uy tin trên thế giới như: CE – Châu Âu, GS – Đức, UL – Hoa Kỳ,…. Ngoài ra, máy cũng được tích hợp sẵn 8 chương trình rửa tiện ích, đem đến sự hỗ trợ tối đa cho người tiêu dùng. Một ưu điểm nổi bật khác của dòng máy rửa bát Galanz đó là giá cả khá rẻ so với mặt bằng chung. Bạn chỉ tốn chưa tới 10 triệu là đã có thể sắm được 1 chiếc máy rửa chén của hãng này rồi. Hãng này được thành lập từ những năm 1919 và đến nay các sản phẩm của Electrolux luôn có lượng fan hùng hậu trên toàn thế giới. Thiết bị rửa bát của Electrolux có kiểu dáng sang trọng chuẩn châu Âu, thiết kế bắt mắt với màu sắc là sự kết hợp giữa 2 tông màu xám, trắng. Phần vỏ ngoài của máy thường làm từ những chất liệu inox, hợp kim cao cấp được phun lớp sơn tĩnh điện. Ngoài ra, là sản phẩm đến từ 1 trong những thương hiệu hàng đầu trong lĩnh vực, máy rửa chén của Electrolux được trang bị nhiều công nghệ hiện đại, đem đến sự tối ưu trong quá trình vận hành, giúp bạn tiết kiệm được tối đa thời gian. Tuy nhiên, vì thường có giá khá cao khoảng trên 15 triệu đồng, nên máy rửa chén Electrolux thường chỉ được ưa chuộng sử dụng ở những gia đình có kinh tế khá giả. Panasonic là một thương hiệu đồ gia dụng nổi tiếng khác đến từ Nhật Bản. Không giống như Fujishan, Panasonic đã phát triển tại thị trường Việt Nam từ khá lâu, và được biết đến với nhiều dòng sản phẩm cao cấp như: tủ lạnh, máy giặt, máy lọc không khí,…. Tuy nhiên, riêng với dòng sản phẩm máy rửa bát thì Panasonic vẫn chưa đem đến nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Hãng chỉ có từ 2 đến 3 model cho bạn lựa chọn với tầm giá vào khoảng 16 – 20 triệu đồng. Grasso là một trong những đại diện đến từ Ý chuyên sản xuất và phân phối các thiết bị nhà bếp cao cấp. Với tiêu chí luôn luôn nghiên cứu và cải tiến các sản phẩm về chất lượng và mẫu mã, Grasso luôn đem đến cho người tiêu dùng những sản phẩm chất lượng giúp nâng cao tiêu chuẩn sống cho mỗi gia đình. Riêng về máy rửa chén, các sản phẩm của thương hiệu Grasso được người tiêu dùng ưa chuộng nhờ vào chất lượng tốt, sự bền bỉ, nhưng lại có mức giá phải chăng. Hầu hết các dòng máy rửa chén Grasso đều có giá khoảng từ 10 đến 16 triệu đồng. Thương hiệu này hình thành và phát triển đến nay đã được hơn 60 năm, và được nhiều người tiêu dùng biết đến với những thiết bị nhà bếp cao cấp. Các sản phẩm của Candy đều đạt các tiêu chuẩn châu Âu khắc khe, và là một trong những thương hiệu được ưa chuộng nhất tại Việt Nam trong lĩnh vực đồ gia dụng nhà bếp. Thiết bị rửa bát Candy có khá nhiều model với kích thước, kiểu dáng khác nhau. Giá thành sản phẩm cũng thuộc phân khúc trung bình khi có giá bán chính hãng từ khoảng 8 – 15 triệu VNĐ. Máy rửa bát Daiwa được bán tại thị trường Việt Nam đa số đều đến từ Hàn Quốc với 2 mẫu máy khác nhau là máy rửa bát 6 bộ và máy rửa bát 12 bộ với công suất hoạt động khác nhau. Hiện nay, các sản phẩm của Daiwa cũng khá đa dạng, tuy nhiên Daiwa DWA-1620S có thể xem là chiếc máy rửa bát được ưa chuộng hàng đầu tại Việt Nam của thương hiệu này. Máy rửa chén Bosch SMS25AW00E có thiết kế thông minh, kiểu dáng vuông vắc với phần vỏ được làm bằng thép không gỉ. Máy có phần khoảng rửa rộng rãi giúp bạn có thể rửa được hầu hết các loại chén, dĩa, chảo, xoong khác nhau. Bosch SMS25AW00E được trang bị hệ thống thủy lực ActiveWater, cùng với nhiều tính năng hiện đại như hẹn giờ, khóa an toàn,… hỗ trợ tối đa cho người sử dụng. Máy rửa bát Electrolux ESF5202LOX là model mới nhất của thương hiệu Electrolux, được ra mắt vào năm 2016. Máy có khả năng rửa 13 bộ bát đĩa trong 1 lần rửa với thiết kế đẹp, sang trọng cùng 5 chương trình rửa tiện lợi cho bạn lựa chọn tùy theo nhu cầu sử dụng.
|
Máy rửa bát
|
Máy rửa bát (tiếng Anh: dishwasher) hay máy rửa chén là một chiếc máy dùng làm sạch bát đĩa và dao, muỗng, nĩa tự động. Không giống như rửa chén bát bằng tay thường dùng miếng mút xốp bọt biển chả rửa vật lý để loại bỏ chất bẩn, máy rửa chén cơ học làm sạch bằng cách phun các tia nước được đun nóng vào chén bát, thường là từ 45 và 75 °C (110 và 170 °F), các vật dụng mỏng nhẹ sẽ áp dụng chế độ nhiệt thấp hơn. Hỗn hợp gồm nước và chất tẩy rửa dành riêng cho máy rửa chén được bơm vào một hoặc nhiều cánh quạt phun xoay, phun vào chén đĩa bằng hỗn hợp làm sạch. Sau khi rửa xong, nước được rút hết, nhiều nước nóng hơn vào bồn bằng phương pháp cơ điện van điện từ, và chu trình súc rửa bắt đầu. Sau khi chu trình rửa kết thúc và nước được rút hết, chén đĩa được sấy khô bằng một trong số các phương pháp sấy. Điển hình là nước làm bóng chén đĩa (rinse-aid), một hóa chất để giảm áp lực bề mặt của nước, hạn chế các vệt nước từ nước cứng hoặc các nguyên do khác.
|
Nhà Vật lý Thiên văn Nguyễn Quang Riệu là một trong những chuyên gia trên thế giới về lĩnh vực Thiên văn vô tuyến (Radioastronomy). Ông đã công bố nhiều bài báo khoa học về vật lý thiên văn trên các tạp chí quốc tế, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực này. Năm 1972 đã xảy ra một vụ nổ từ hướng thiên thể Cygnus X3 trong chòm sao Thiên Nga. Thiên thể Cygnus X3 thường xuyên phát ra bức xạ X. Cygnus X3 bỗng bùng nổ và phát ra bức xạ vô tuyến rất mạnh. Vụ nổ được xác định trên bầu trời, nhưng chưa rõ là diễn ra ở trong hay ở ngoài dải Ngân Hà. Các nhà thiên văn toàn cầu khi đó được huy động để theo dõi hiện tượng hiếm có này. Ông là một trong những nhà thiên văn đầu tiên trên thế gới theo sát diễn biến để kiểm chứng vụ nổ. Ông sử dụng chiếc kính thiên văn vô tuyến khổng lồ cuả Đài Thiên văn Paris để xác định khoảng cách cuả thiên thể đang bùng nổ. Kết quả quan sát xác nhận được là vụ nổ này xảy ra trong một thiên thể ở rìa dải Ngân Hà. Việc xác định khoảng cách là điều vô cùng cần thiết để tìm hiểu bản chất của vụ nổ. Để công nhận toàn bộ công trình nghiên cứu cuả nhà thiên văn Nguyễn Quang Riệu, Viện Hàn lâm Khoa học Pháp đã trao tặng ông giải thưởng Janssen trong lĩnh vực vật lý thiên văn. Ông đã từng trải qua nhiều cương vị như: Giám đốc Nghiên cứu Danh dự (Emeritus) của Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS) và Đài thiên văn Paris, hội viên Hội Thiên văn Quốc tế (IAU), thành viên của Ủy ban Quốc tế thực hiện đề án của Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) nhằm phóng vệ tinh hồng ngoại (Infrared Space Observatory - ISO). Bên cạnh những hoạt động nghiên cứu khoa học hàn lâm, ông còn đặt nhiều tâm huyết vào việc phổ biến kiến thức và niềm say mê thiên văn học tại Việt Nam. Ông từng viết và xuất bản nhiều tựa sách khoa học thường thức bằng tiếng Việt, song ngữ Việt – Pháp, và Việt – Anh. Ông cũng đã vận động để một số sinh viên Việt Nam sang học và thực tập tại đài Thiên văn Paris và cũng đã hướng dẫn họ để có bằng tiến sĩ và phó tiến sĩ. Trong những ngày cuối năm 2016, tạp chí Vietnam Journal of Science gửi đến quý độc giả những chia sẻ của nhà thiên văn Nguyễn Quang Riệu về những trải nghiệm khoa học của mình. VJS: Chào thầy Riệu, chúng em rất vui vì có cơ hội được giao lưu với một nhà khoa học nổi tiếng trong lĩnh vực thiên văn và được nghe thầy chia sẻ về cuộc đời làm khoa học. Trước tiên, Thầy có thể kể lại một chút về tuổi thơ và gia đình cũng như cơ duyên nào đã đưa thầy tới đam mê này?. Tôi sinh ra và lớn lên ở Hái Phòng, một thành phố cảng lâu đời của Việt Nam. Mỗi khi hè về, hoa phượng vĩ nở đỏ rực cả thành phố nhắc nhở chúng tôi rằng mùa thi cử đang đến. Qua mùa thi đến những ngày hè, gia đình chúng tôi hay có những chuyến dạo chơi ở ngoại thành. Hồi đó tôi còn nhỏ, bố mẹ hay dẫn anh em chúng tôi leo lên đồi Phủ Liễn ở Kiến An. Ở đó có một đài thiên văn, có lẽ là một trong những đài thiên văn đầu tiên được xây tại Việt Nam. Rất tò mò, tôi mới hỏi cái đài đó để làm gì? Bố mẹ tôi giải thích rằng trong đó có những thiết bị để nhìn lên trời. Là một đứa trẻ, tôi cũng không biết ngay được con người nhìn lên trời để làm gì. Nhưng từ những chuyến đi dã ngoại ấy, tôi cảm thấy “nhìn lên trời” có vẻ là một điều lý thú. Sau này, nhiều lúc hình ảnh đài thiên văn Phủ Liễn vẫn hiện ra trong trí óc tôi. Đó chắc hẳn là một trong những cơ duyên dẫn tôi đến với công việc khám phá bầu trời. VJS: Thời điểm thập niên 1950 có lẽ ở Việt Nam chưa có nhiều người quan tâm đến ngành vật lý thiên văn. Vậy tại sao thầy vẫn quyết định theo đuổi ngành này? Thầy có thể kể qua các thách thức mà ngành thiên văn học đã gặp phải hồi đó?. Tôi theo học vật lý tại Đại học Sorbonne, Paris. Đúng là thiên văn học ở Việt Nam hồi đó chưa được quan tâm và phát triển. Ví dụ như ở đài thiên văn Phủ Liễn, chúng ta cũng chỉ có những thiết bị rất khiêm tốn, được dùng để quan sát những thiên thể gần gũi như Mặt Trời, Mặt Trăng và những hành tinh lân cận. Thế nhưng Pháp và cả thế giới đã đi xa hơn thế. Tôi bắt đầu học vật lý plasma. Đa phần vật chất trong vũ trụ đều ở trạng thái plasma, loại khí bị ion hoá bằng những tia tử ngoại (ultraviolet) phát ra từ những ngôi sao. Chúng ta quan sát plasma để tìm hiểu những sự kiện vật lý đang diễn ra trong vũ trụ, một phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại như tôi đã đặt tên cho một cuốn sách tôi viết. Khi nhìn lại Việt Nam ở thời điểm đó và cho đến cả những thập niên sau này, những thiết bị hiện đại cần thiết trong công việc nghiên cứu vật lý thiên văn vẫn còn thiếu thốn. Cuối thập niên 80 của thế kỷ trước là thời điểm mà phong trào phát triển các ngành khoa học trong nước, kể cả những ngành khoa học cơ bản như vật lý thiên văn, mới bắt đầu được quan tâm. Khi đó, tôi đang công tác tại Đài Thiên văn Paris và rất muốn tham gia tích cực vào công việc phát triển ngành khoa học này tại Việt Nam. Một trong những hướng nghiên cứu đang thịnh hành là tìm hiểu nguồn gốc và sự tiến hoá cuả toàn thể vũ trụ. Một đề tài khác không kém quan trọng là nghiên cứu quá trình sinh tử của những thiên hà và những ngôi sao. Những ngôi sao khi đang hấp hối phun vật chất ra môi trường liên sao. Những vật chất ấy lại được tái tạo và dùng để tạo ra những ngôi sao thế hệ sau và những hành tinh. Công việc tìm kiếm dấu vết của sự sống trong Ngân hà cũng là một đề tài hấp dẫn. Các nhà thiên văn học sử dụng kính viễn vọng vô tuyến để phát hiện và phân tích vật chất trong vũ trụ, chủ yếu là những chất hoá học dưới dạng những phân tử hữu cơ, đặt biệt là acid amin, có khả năng tạo ra tế bào sinh vật. Sự tìm kiếm tín hiệu vô tuyến phát ra từ những nền văn minh (nếu có) trong vũ trụ cũng đang được thịnh hành. Những vấn đề thú vị này đều là những đề tài nghiên cứu của tôi. Các thiên hà và mặt trời, mặt trăng v.v… không chỉ phát ra ánh sáng nhìn thấy mà cả những sóng vô tuyến. Bức xạ vô tuyến phát ra từ vũ trụ có thể xuyên qua tương đối dễ dàng những đám bụi và hơi nước trong Ngân Hà. Trái lại, ánh sáng lại bị hấp thụ thành ra không truyền xa được. Đó là lí do chúng ta không thể nhìn thấy những thiên hà rất xa trong vũ trụ. Nhưng nếu nghe trên bước sóng vô tuyến chúng ta có thể phát hiện được những thiên hà xa xôi. Đây chính là lợi thế của ngành thiên văn vô tuyến. Làm việc trong lĩnh vực này, tôi cảm thấy mình như đang lắng nghe được những tiếng thì thầm của vũ trụ. Muốn thực hiện những đề tài nghiên cứu, tôi phải phiêu lưu đến nhiều nơi trên thế giới. Tôi đã ghé thăm và làm việc tại những đài quan sát có kính viễn vọng lớn có đủ điều kiện kỹ thuật để thu ánh sáng và tín hiệu vô tuyến yếu ớt phát ra từ những thiên hà và ngôi sao xa xôi. Mỗi chuyến đi là những kỷ niệm đáng nhớ. Sự cộng tác giữa những nhà thiên văn trên toàn cầu là điều cần thiết và đáng trân trọng. Ảnh 1: Hình minh họa Cygnus X3, một thiên thể siêu đặc loại lỗ đen hoặc sao neutron, có trường hấp dẫn cực mạnh. Thiên thể hút vật chất cuả ngôi sao đồng hành và phun ra những tia khí (Hình NASA). Về vụ nổ thiên thể Cygnus X3 trong chòm Thiên Nga quả thực là một sự kiện bất ngờ và đặc biệt. Cygnus X3 là một nguồn xạ phát ra những tia X, tương tự như máy soi tia X dùng trong ngành y để kiểm tra nội tạng. Ngày 2 tháng 9 năm 1972, các nhà thiên văn người Canada quan sát thấy bức xạ vô tuyến của Cygnus X3 đột nhiên tăng lên gấp bội so với bình thường. Tin tức này được loan báo trong cộng đồng các nhà thiên văn trên thế giới, kêu gọi cùng nhau quan sát để kiểm chứng và tìm hiểu. Được tin từ một đồng nghiệp người Thụy Điển, tôi đã nhận lời quan sát sự kiện ấy. Tín hiệu từ vụ nổ ngày càng yếu dần. Nhận thấy thời gian là gấp rút, tôi bèn liên lạc với anh kỹ sư cũng công tác trong cơ quan để đến Đài quan sát vô tuyến Nançay ở vùng Sologne cách Paris 180 km về phía nam. Đài Nançay được xây ở vùng nông thôn hẻo lánh để tránh những tín hiệu nhân tạo phát ra từ những đài truyền hình và radar có khả năng làm ô nhiễm tín hiệu vũ trụ. Hồi đó, kính viễn vọng vô tuyến Nançay của Đài Thiên văn Paris là một trong những kính lớn nhất thế giới. Đài có một hệ gồm hai ăngten khổng lồ dài 300 met, cao 40 met. Tôi đề nghị anh kỹ sư điều chỉnh để bắt được đúng bước sóng. Đợi đến buổi tối, thiên thể Cygnus X3 đi vào tầm ngắm của ăngten. Mỗi ngày chỉ có thể đo được một tiếng rưỡi, sau đó thiên thể sẽ đi ra ngoài tầm nhìn. Ảnh 2: Kính viễn vọng vô tuyến Nançay (cuả Đài Thiên văn Paris) gồm hai ăngten dài 300 m, cao 40m hoạt động trong phạm vi sóng vô tuyến. Ngay ngày đầu tiên, tôi đã xác định được vụ nổ xảy ra ở đâu. Nhưng phải mất 3 tới 4 ngày nữa để tôi lặp lại và xác nhận kết quả. Chúng tôi phát hiện được vụ nổ này đang xảy ra ở rià Ngân hà và cách trái đất ít nhất 30 nghìn năm ánh sáng. Tất cả các kết quả quan sát bởi các nhà thiên văn toàn cầu đều được công bố trong một số đặc biệt của tạp chí khoa học Nature cuối năm 1972, để cộng đồng thiên văn làm rõ được bản chất của thiên thể. Cygnus X3 có thể là một thiên thể siêu đặc như lỗ đen đang phun vật chất ra ngoài. Quan sát vụ nổ Cygnus X3 chỉ là một trong những hoạt động khoa học của tôi. Đây cũng là dịp để tôi được tham gia quan sát một vụ bùng nổ hiếm có trong vũ trụ cùng các nhà thiên văn trên thế giới. VJS: Kỷ niệm một thầy và một kỹ sư rời Paris tức thì để đi tới đài thiên văn vô tuyến cách xa 180 km, nhằm quan sát kịp một vụ nổ phù du là quả thực rất đẹp và đáng nhớ. Về quá trình nghiên cứu khoa học sau này, thầy có nhận hướng dẫn thêm nhiều sinh viên không? Ngoài ra, Thầy có thể chia sẻ với độc giả những khó khăn trong nghiên cứu khoa học?. Về vấn đề nghiên cứu khoa học, tôi tin rằng hai yếu tố quan trọng nhất là cần phải có sự đam mê và tính nhẫn nại. Nghiên cứu khoa học có vô vàn khó khăn nhưng niềm đam mê và tính nhẫn nại giúp chúng ta tìm ra giải pháp. Ví dụ, muốn nghiên cứu những thiên thể xa xôi, các nhà thiên văn không những phải quan sát trong vùng ánh sáng khả kiến mà còn sử dụng những kính thiên văn hoạt động trên nhiều miền sóng trong phổ điện từ, sóng tử ngoại, hồng ngoại, vô tuyến v.v. Quan sát thiên văn cần phải có những điều kiện thời tiết tối ưu, bầu trời thật quang đãng. Các đài thiên văn được đặt trên những đỉnh núi cao và ở những nơi hẻo lánh để tránh ánh sáng và tín hiệu vô tuyến nhân tạo không làm nhiễu những bức xạ yếu ớt phát ra từ vũ trụ. Đôi khi các nhà thiên văn phải kiên nhẫn đợi nhiều ngày trên trạm quan sát đến khi điều kiện thời tiết trở lại bình thường. VJS : Nhà vật lý thiên văn Mario Livo cho rằng hẳn phải có “Ai” đó (có thể hiểu như nguồn năng lượng/ thể lực /nguyên lý /đấng siêu hình) sắp xếp thì vũ trụ mới thống nhất và hài hoà như vậy. Thầy nghĩ sao về ý kiến này?. Theo những lý thuyết hịên đại, vũ trụ được tạo ra từ vụ nổ Big Bang. Nếu những hằng số cơ bản vật lý ban đầu chỉ được thay đổi đôi chút thì quá trình tiến hoá của vũ trụ đã dẫn đến một thế giới khác hẳn thế giới có sự sống như hiện nay. Do đó có một số nhà khoa học nêu lên vấn đề: “Ai” đã thiết kế một vũ trụ tinh tế như thế, nếu không phải là một “Đấng Sáng tạo”. Tuy nhiên, Đấng Sáng tạo ở đây phải được hiểu như là một hiện tượng thiên nhiên. VJS: Được biết thầy có nhiều đầu sách khoa học phổ thông như “Sông Ngân khi tỏ khi mờ”, “Lang thang trên dải Ngân hà”, “Vũ trụ huyền diệu”, “Bầu trời tuổi thơ”… Viết sách khoa học phổ biến cho độc giả hẳn mất nhiều thời gian và công sức. Động lực nào khiến thầy muốn truyền tải kiến thức của một ngành nổi tiếng là “khó nhằn” ?. Thiên văn học thường được coi là môn khoa học cao siêu, nếu không nói là viễn vông, nhất là ở những nước đang phát triển như Việt Nam. Theo tôi, thiên văn học cũng như các môn khoa học cơ bản khác phải được giảng dạy và phổ biến song song với những ngành khoa học ứng dụng. Phổ biến khoa học để độc giả tiếp cận được với những khái niệm cơ bản là công việc không dễ dàng. Sau khi hoà bình được lập lại tại Việt Nam, tôi thường xuyên về nước thuyết trình và phổ biến ngành vật lý thiên văn. Tôi cũng đã viết một số sách khoa học phổ thông và giáo trình vật lý thiên văn bằng tiếng Việt và song ngữ (Việt-Pháp và Việt-Anh) xuất bản trong nước để độc giả tiếp cận với những khái niệm cuả ngành thiên văn hiện đại. Cùng với những đồng nghiệp nước ngoài, chúng tôi đã tổ chức những khoá học về vật lý thiên văn để bổ sung kiến thức cho cán bộ giảng dạy và sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội. Thính giả rất chăm chú theo dõi những bài thuyết trình về những thành tựu thiên văn mới nhất. Chúng tôi cũng đã vận động để sinh viên Việt Nam sang Paris thực tập tại Đài Thiên văn Paris. Các nhà vật lý thiên văn trẻ Việt Nam đang có chương trình cộng tác với những nhà thiên văn nước ngoài để sử dụng những kính viễn vọng lớn. Ngành vật lý thiên văn trong nước đã có những tiến bộ. Tuy nhiên, muốn theo kịp độ phát triển của ngành thiên văn trên thế giới, chúng ta còn cần phải đầu tư thêm về nhân lực. VJS: Dù ngành thiên văn học của Việt Nam có phát triển chậm và muộn màng hơn so với thế giới, rất nhiều bạn trẻ ngày nay vẫn muốn dấn thân vào con đường chông gai này.
|
Nguyễn Quang Riệu
|
Nguyễn Quang Riệu (sinh 15 tháng 6 năm 1932, tại Hải Phòng - mất 5 tháng 1 năm 2021, tại Paris, Pháp), là nhà vật lý thiên văn Việt kiều tại Pháp. Ông là người con đầu trong một gia đình có ba anh em trai sau này đều trở thành những nhà khoa học tên tuổi. Là giáo sư-tiến sĩ tại Đại học Sorbonne (Paris), giám đốc nghiên cứu tại Đài thiên văn Paris, ông đã công bố trên 150 công trình khoa học về vật lý thiên văn (đặc biệt trong lĩnh vực thiên văn vô tuyến, tên gọi tiếng Anh là Radioastronomy) trên các tạp chí khoa học quốc tế, viết nhiều sách (cả sách chuyên ngành và sách phổ biến khoa học) bằng tiếng nước ngoài và tiếng Việt. Ông cũng là Giám đốc Nghiên cứu Danh dự (Emeritus) của Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS). Năm 1973, ông đã được nhận giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp sau khi đã phát hiện và xác định chính xác vị trí xảy ra vụ nổ trong chòm sao Thiên Nga (Cygnus X3). Cùng với Giáo sư Trịnh Xuân Thuận, Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Quang Riệu được coi là một trong số rất ít nhà khoa học gốc Việt trên thế giới không ngại dấn thân và đạt được những thành công trong ngành thiên văn học, một ngành khoa học đến giờ vẫn được coi là non trẻ và ít có điều kiện phát triển tại Việt Nam.
|
Tác dụng của thuốc ngủ như thế nào? Khi nào cần sử dụng thuốc ngủ?. Uống bao nhiêu thuốc ngủ thì chết?Uống thuốc ngủ quá liều có chết không?. Nhiều người sử dụng thuốc ngủ mà không chú ý tới liều lượng khi sử dụng thuốc vô cùng nguy hiểm. Đặc biệt, việc uống bao nhiêu thuốc ngủ thì chết có thể khiến nhiều người quan tâm. Thuốc ngủ là gì, uống bao nhiêu thuốc ngủ thì chết là những quan tâm mà người sử dụng thuốc ngủ nhất định cần phải biết. Thuốc ngủ hay còn gọi là thuốc an thần, đây là một nhóm thuốc có thể làm chậm hoạt động của bộ não và tạo ra cảm giác thư giãn nên thường được sử dụng để điều trị lo âu và sử dụng điều trị đối với những người bị rối loạn giấc ngủ. Tuy nhiên, nhóm thuốc ngủ được mọi người sử dụng có thể khiến nhiều người dễ lạm dụng. Sử dụng thuốc ngủ quá liều có thể khiến người bệnh gặp nhiều biến chứng nguy hiểm, nghiêm trọng như bị lệ thuộc vào thuốc hoặc nghiện thuốc. Thậm chí còn có thể khiến người sử dụng tử vong. Vậy uống bao nhiêu thuốc ngủ thì chết sẽ được giải đáp qua những thông tin trong bài viết này. Các loại thuốc ngủ nói chung có tính chất an thần. Thuốc an thần là loại thuốc gây ngủ và thường có tác động lên não thông qua một số chất dẫn truyền thần kinh có tên gọi là GABA (acid gamma – aminobutyric). GABA có tác dụng làm giảm hoạt động của thần kinh trung ương. Dù các loại thuốc an thần là thuốc có cách thức hoạt động khác nhau nhưng đích đến cuối cùng của thuốc đều chung mục đích làm tăng hoạt tính của acid gamma – aminobutyric, điều này tạo ra cảm giác thư giãn. Do đó, ở mức liều sử dụng phù hợp, các loại thuốc này có lợi ích trên những người gặp vấn đề như bị lo âu, căng thẳng hoặc bị rối loạn giấc ngủ. Ngoài ra, nhóm thuốc này trong một vài trường hợp còn có tác dụng gây mê, chống co giật, giảm đau và thư giãn cơ hiệu quả. Thuốc ngủ có tác dụng gì đối với con người và được sử dụng như thế nào? Dựa vào những gì nhìn thấy, có thể thấy rõ rằng thuốc ngủ đúng như tên gọi của chúng, giúp cho người sử dụng thuốc có thể duy trì được giấc ngủ tương tự như giấc ngủ sinh lý bình thường hoặc giúp họ có thể kéo dài thời gian ngủ. Trong khi đó, thuốc ngủ là loại thuốc có tác động đến hệ thần kinh trung ương, chúng giúp bạn nhanh chóng tìm đến giấc ngủ khi bạn bị căng thẳng hoặc xảy ra do bất kỳ nguyên nhân nào khiến bạn luôn trong trạng thái tỉnh táo. Phụ thuộc vào sức khỏe của người sử dụng để sử dụng liều khác nhau. Cũng tùy thuộc vào liều lượng sử dụng thuốc ngủ mà sẽ gây ra những tác dụng phụ khác nhau. - Uống thuốc ngủ với liều lượng thấp sẽ có tác dụng an thần cho người bị mất ngủ. - Uống thuốc ngủ quá liều có thể khiến người bệnh dẫn tới trạng thái hôn mê và tử vong. Vậy giải đáp uống thuốc ngủ quá liều có chết không? thì câu trả lời là có. Lưu ý, thuốc ngủ được hiểu một cách đơn giản là một loại thuốc chữa bệnh mất ngủ ở con người. Đối với các loại thuốc ngủ muốn được sử dụng cần phải được chỉ định của bác sĩ, không tự ý mua thuốc về sử dụng. Thực tế, thuốc ngủ chỉ là biện pháp tức thời mang tính cưỡng ép giấc ngủ mà thôi. Chúng không giúp con người có giấc ngủ ngon theo đúng sinh lý của cơ thể và cơ chế tự nhiên của giấc ngủ. Đối với giấc ngủ tự nhiên và đúng nhịp sinh học sẽ khiến bạn có cảm giác thoải mái khi thức dậy. Khi phải sử dụng thuốc ngủ cưỡng ép giấc ngủ thì người ngủ thường có giấc ngủ bị mê mệt, thức dậy cả cơ thể mệt mỏi, có cảm giác bị buồn nôn và rối loạn hành vi như hay quên, làm việc không tập trung. Uống thuốc ngủ quá liều gây ngủ hoặc sử dụng trong một thời gian dài sẽ gây hại cho sức khỏe. Thuốc an thần còn có tác dụng phụ làm tăng nguy cơ mắc chứng trầm cảm, hoang tưởng, đặc biệt nguy hiểm đối với những người mắc các bệnh như tâm thần, hô hấp hoặc tim mạch vì có thể khiến tình trạng ức chế trung tâm hô hấp gây ngừng thở khi ngủ. Có thể bạn chưa biết đến Hiểm họa từ thuốc an thần: Tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer lên hơn 50%. Đối với việc sử dụng thuốc ngủ, đây chỉ là giải pháp tạm thời dành cho những người bị mất ngủ mà thôi. Bản thân thuốc ngủ không thể giúp điều trị tận gốc chứng mất ngủ của con người. Thuốc ngủ còn có thể gây nghiện, khiến cho người sử dụng khó có thể kiểm soát được hành vi của mình. Thậm chí một số trường hợp còn xảy ra tình trạng không kiểm soát được cơ thể khi sử dụng chung với các loại khác. Tình trạng sử dụng thuốc ngủ nếu bị lạm dụng sẽ gây hại. Thuốc ngủ có thể khiến bạn mệt mỏi, thậm chí còn xuất hiện cảm giác buồn ngủ hơn vào ngày hôm sau. Ngoài ra, tác dụng phụ của thuốc ngủ gây ảnh hưởng đối với phụ nữ nhiều hơn so với nam giới dù sử dụng chung loại thuốc ngủ. Các nguy hiểm gây ra chính là tác động của thuốc ở phụ nữ mạnh hơn trên nam giới. Do phụ nữ có xu hướng chuyển hóa giấc ngủ chậm hơn nam giới nhưng nhiều người không biết điều này. Vì vậy đơn thuốc ngủ kê cho nam giới cao hơn, khiến họ sử dụng quá liều, để lại hậu quả lớn. - Không nên uống rượu khi đang sử dụng thuốc ngủ vì rượu có thể làm tăng tác dụng của thuốc dẫn đến ngộ độc. Không chỉ sử dụng rượu và thuốc ngủ còn có thể gây ngộ độc, chỉ riêng sử dụng rượu cũng có thể gây ra tình trạng Ngộ độc cồn công nghiệp methanol do uống phải loại rượu giả: 7 người nhập viện, 1 người tử vong. - Không ăn quá no đối với người bị mất ngủ và đang sử dụng thuốc. Đối với người ăn quá no khi bị mất ngủ và sử dụng thuốc có thể gây ra nhiều ảnh hưởng nguy hiểm đến sức khoẻ người sử dụng. - Để cải thiện giấc ngủ và sử dụng thuốc ngủ không gây hại cho sức khỏe thì không nên làm tăng cảm giác stress. - Cần hiểu rõ về tác dụng của thuốc ngủ để sử dụng đúng liều lượng, thức dậy đúng giờ. - Tìm không gian ngủ thoải mái, yên tĩnh điều này sẽ giúp bạn ngủ ngon hơn. Thực sự, thuốc ngủ có thể hỗ trợ một phần đối với người bệnh bị mất ngủ thường xuyên. Tuy nhiên, thuốc ngủ cũng là con dao hai lưỡi. Nếu uống thuốc an thần quá liều cũng sẽ gây hại cho sức khỏe. Thậm chí, uống thuốc ngủ có chết không, thực tế uống thuốc ngủ quá liều có thể khiến người bệnh rơi vào trạng thái hôn mê và tử vong,. Do đó, hãy chăm sóc giấc ngủ đúng cách, quan tâm tới sức khỏe của cơ thể đặc biệt là não bộ. Con người cần duy trì thói quen sinh hoạt điều độ, chế độ ăn uống lành mạnh để tạo ra cuộc sống thoải mái, giấc ngủ sẽ đến nhanh và đem lại chất lượng như mong đợi.
|
Thuốc ngủ
|
Thuốc ngủ là một loại thuốc thần kinh có chức năng chính là gây ngủ và được sử dụng trong điều trị chứng mất ngủ (mất ngủ) hoặc gây mê phẫu thuật. Nhóm này có liên quan đến thuốc an thần. Trong khi thuật ngữ thuốc an thần mô tả các loại thuốc phục vụ để làm dịu hoặc giảm bớt lo lắng, thì thuật ngữ thôi miên thường mô tả các loại thuốc có mục đích chính là bắt đầu, duy trì hoặc kéo dài giấc ngủ. Bởi vì hai chức năng này thường xuyên trùng lặp và bởi vì các loại thuốc trong nhóm này thường tạo ra các tác dụng phụ thuộc vào liều (từ giải phẫu đến mất ý thức) nên chúng thường được gọi chung là thuốc an thần - thuốc ngủ. Thuốc ngủ thường được kê đơn cho chứng mất ngủ và các rối loạn giấc ngủ khác, với hơn 95% bệnh nhân mất ngủ được kê đơn thuốc ngủ ở một số quốc gia. Nhiều loại thuốc thôi miên hình thành thói quen và do nhiều yếu tố gây rối loạn giấc ngủ của con người, bác sĩ có thể đề nghị thay đổi môi trường trước và trong khi ngủ, vệ sinh giấc ngủ tốt hơn, tránh dùng caffeine hoặc các chất kích thích khác hoặc hành vi các biện pháp can thiệp như liệu pháp hành vi nhận thức đối với chứng mất ngủ (CBT-I) trước khi kê đơn thuốc cho giấc ngủ.
|
Sàn chứng khoán là gì, tìm hiểu khái niệm Sàn giao dịch Chứng khoán Stock Exchange và cách thức vận hành, hoạt động của sàn. Chúng ta đã biết chứng khoán là gì, nó giống như một thứ hàng hóa đặc biệt, nên cần một nơi để giao dịch. Vì thế, khái niệm Sàn giao dịch chứng khoán được sinh ra để làm nơi cho người bán, người mua chứng khoán. yeutrithuc.com cũng sẽ giải thích để bạn hiểu cách hoạt động của sàn giao dịch chứng khoán là như thế nào. Nếu bạn hiểu nghĩa sàn chứng khoán tiếng Anh là gì thì sẽ phần nào mường tượng ra khái niệm Sàn chứng khoán là gì. Trong tiếng Anh, sàn giao dịch chứng khoán được gọi là Stock Exchange, tức là trao đổi, giao dịch cổ phiếu. Vì thế mà người ta còn gọi sàn này là sàn giao dịch cổ phiếu. Sàn chứng khoán là sàn giao dịch có các dịch vụ cho phép người bán và người mua cổ phiếu có thể trao đổi cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác với nhau. Tại sàn chứng khoán cũng gồm những dịch vụ phát hành, thu hồi chứng khoán, trở thành phương tiện tài chính và thực hiện các sự kiện như chi trả lợi tức, cổ tức cho cổ đông. Hiện nay các sàn chứng khoán đều thực hiện các giao dịch dựa trên mạng lưới thông tin điện tử nên cho tốc độ nhanh, giảm chi phí. Chỉ những thành viên của sàn chứng khoán mới được phép giao dịch trên đó, và cổ phiếu phải được niêm yết trên đó thì mới có thể giao dịch. Nói nôm na, Sàn chứng khoán giống như một cái chợ chuyên về chứng khoán, nơi mà các công ty sẽ niêm yết cổ phiếu mình trên đó, để các nhà đầu tư mua vào, bán ra tùy thuộc vào nhu cầu. Vai trò của Sàn giao dịch chứng khoán là rất lớn. Đây là kênh huy động vốn đầu tư hàng đầu của các công ty, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, mở rộng quy mô. Sàn chứng khoán trở thành công cụ tái phân phối của cải, giúp mọi người hợp tác cùng có lợi. Đặc biệt ngày nay, sàn chứng khoán đã trở thành thước đo của nền kinh tế mỗi quốc gia, vì giá cổ phần lên xuống dựa phần lớn vào thị trường. Mỗi sàn chứng khoán đều có những quy định và tiêu chuẩn riêng, nên các công ty cần phải đáp ứng những yêu cầu này mới được niêm yết trên đó. Ví dụ sàn New York thì công ty phải phát hành ít nhất 1 triệu cổ phần trị giá tương đương 100 triệu USD. Hy vọng qua bài viết này của yeutrithuc.com, mọi người đã phần nào hiểu khái niệm Sàn chứng khoán là gì. Những kiến thức ở trên còn ở mức cơ bản nên bạn cần tìm hiểu sâu thêm, đặc biệt phải tham gia hoạt động trên một sàn chứng khoán nhất định thì mới nắm bắt hết. Vụ án Thiên Linh Cái: Thầy bùa ở Đồng Tháp với tội ác kinh hoàng. Đỗ Thị Thiên Lý với khả năng thôi miên, tra tấn tâm lý người xem. Bí mật Kuman Thong bùa ngải Thái Lan cậu bé vàng luyện từ thai nhi
|
Sàn giao dịch chứng khoán
|
Sàn giao dịch chứng khoán (tiếng Anh: stock exchange, securities exchange hoặc bourse) là một hình thức sàn giao dịch cung cấp cho những người môi giới cổ phiếu và người mua bán cổ phiếu một nền tảng và phương tiện để trao đổi và mua bán các cổ phiếu, trái phiếu cũng như các loại chứng khoán khác. Sàn giao dịch cổ phiếu cũng cung cấp các dịch vụ cho việc phát hành và thu hồi chứng khoán cũng như các phương tiện tài chính và các sự kiện như việc chi trả lợi tức và cổ tức. Chứng khoán được giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán gồm: các cổ phiếu do các công ty phát hành, các chứng chỉ quỹ, các sản phẩm phái sinh, các sản phẩm hợp tác đầu tư và trái phiếu. Các sàn giao dịch chứng khoán hoạt động như một "sàn đấu giá liên tục" – nơi mà người mua lẫn người bán có thể đến gặp nhau và thực hiện giao dịch thông qua việc hô giá công khai (open outcry) tại một sàn giao dịch truyền thống hoặc thông qua sàn giao dịch điện tử. Để có thể giao dịch trên một sàn giao dịch cổ phiếu, cổ phiếu phải được niêm yết ở đó.
|
Sách đã tạo nên một hiện tượng văn học ở Mỹ trong lần đầu tiên xuất hiện, vừa phát hành đã đứng thứ 6 trong top các sách bán chạy nhất trên New York Times, sau đó là 39 tuần liên tục ở vị trí đầu bảng Best Seller 2012. DIVERGENT là một trong những cái tên hot nhất nửa đầu 2013 trên các bảng xếp hạng, được Hollywood chọn làm phim với sự tham gia của những diễn viên tên tuổi như Kate Winslet, Maggie Q…. Câu chuyện xảy ra tại một thành phố thuộc bang Chicago của Mỹ, tại đây tồn tại 5 môn phái, mỗi phái có tôn chỉ và lý tưởng riêng, bắt buộc các thành viên phải sống và làm việc theo mục đích, nhiệm vụ đặc thù của phái mình: Abnegation – những người vị tha, xả thân vì người khác, Candor – những người chân thật, Dauntless - những người dũng cảm, liều lĩnh và mạnh mẽ, giữ nhiệm vụ bảo vệ thành phố, Erudite – môn phái của học thức và sự uyên bác, Amity – những người sống và đấu tranh vì hòa bình và công bằng. Beatrice là một nhân vật đặc biệt, cô bé Abnegation bẩm sinh 16 tuổi này có bản chất và khả năng thiên bẩm không thuộc về một phái cố định nào. Trong buổi lễ chọn dành cho thành viên các môn phái, Beatrice đã quyết định từ bỏ gia đình, gia nhập vào tập thể Dauntless để được là chính mình. Sau kỳ nhập môn đầy chông gai, cô bé phát hiện ra nhiều bí mật không tưởng về chiến tranh đang ngấm ngầm lan tỏa trong thành phố. Và Beatrice phải giải cứu gia đình mình, tiếp tục cuộc chiến với các thế lực đen tối muốn lật đổ chính quyền. Sách đã tạo nên một hiện tượng văn học ở Mỹ trong lần đầu tiên xuất hiện, vừa phát hành đã đứng thứ 6 trong top các sách bán chạy nhất trên New York Times, sau đó là 39 tuần liên tục ở vị trí đầu bảng Best Seller 2012. DIVERGENT là một trong những cái tên hot nhất nửa đầu 2013 trên các bảng xếp hạng, được Hollywood chọn làm phim với sự tham gia của những diễn viên tên tuổi như Kate Winslet, Maggie Q…. Câu chuyện xảy ra tại một thành phố thuộc bang Chicago của Mỹ, tại đây tồn tại 5 môn phái, mỗi phái có tôn chỉ và lý tưởng riêng, bắt buộc các thành viên phải sống và làm việc theo mục đích, nhiệm vụ đặc thù của phái mình: Abnegation – những người vị tha, xả thân vì người khác, Candor – những người chân thật, Dauntless - những người dũng cảm, liều lĩnh và mạnh mẽ, giữ nhiệm vụ bảo vệ thành phố, Erudite – môn phái của học thức và sự uyên bác, Amity – những người sống và đấu tranh vì hòa bình và công bằng. Beatrice là một nhân vật đặc biệt, cô bé Abnegation bẩm sinh 16 tuổi này có bản chất và khả năng thiên bẩm không thuộc về một phái cố định nào. Trong buổi lễ chọn dành cho thành viên các môn phái, Beatrice đã quyết định từ bỏ gia đình, gia nhập vào tập thể Dauntless để được là chính mình. Sau kỳ nhập môn đầy chông gai, cô bé phát hiện ra nhiều bí mật không tưởng về chiến tranh đang ngấm ngầm lan tỏa trong thành phố. Và Beatrice phải giải cứu gia đình mình, tiếp tục cuộc chiến với các thế lực đen tối muốn lật đổ chính quyền. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4104003288, ngày 23/01/2008 của Phòng Đăng ký kinh doanh, Sở kế hoạch đầu tư thành phố Hồ Chí Minh.
|
Divergent – Những kẻ bất khả trị
|
Divergent (tiếng Việt: Những kẻ bất khả trị) là cuốn tiểu thuyết đầu tay của nữ tiểu thuyết gia người Mỹ Veronica Roth, được xuất bản tại Mỹ bởi HarperCollins Children s Books năm 2011 và tại Việt Nam vào tháng 10 năm 2013 bởi Nhà xuất bản Trẻ. Đây là cuốn sách đầu tiên nằm trong bộ truyện ba cuốn Divergent, lấy bối cảnh trong một phiên bản Chicago hậu khải huyền, và theo chân nhân vật chính là Beatrice "Tris" Prior khám phá danh tính của mình trong một xã hội phân chia công dân của mình thành năm môn phái dựa trên tính cách cá nhân và xã hội của họ nhằm mục đích loại trừ những thứ có thể gây tổn hại đến sự an toàn của người dân. Ẩn sâu trong cốt truyện đậm tính hành động là mối tình lãng mạn giữa Tris và một trong những người hướng dẫn của cô tại phái Dauntless, Four. Tiểu thuyết này đã được so sánh với nhiều tiểu thuyết dành cho thanh thiếu niên khác như The Hunger Games và The Maze Runner bởi sự tương đồng về đề tài và đối tượng khán giả giữa chúng.
|
IRR - Một trong những khái niệm thuật ngữ mà dân tài chính ngân hàng phải nằm lòng. Nó được hiểu là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ, có những công dụng nhất định trong việc đo lường tính hiệu quả của hoạt động đầu tư. Chính xác nhất khái niệm IRR là gì? IRR được tính theo công thức nào?Và những hạn chế còn tồn tại ở nó là gì? Để hiểu rõ thêm, hãy tham khảo những thông tin ở bài viết sau đây!. IRR là từ viết tắt của cụm từ đầy đủ Internal rate of return, dịch theo chuyên ngành tài chính là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ. Đó được xem là giá trị tính bằng tỷ lệ chiết khấu và biến NPV (giá trị ròng hiện tại, net present value) về zero (bằng không) của dự án. Nói cách khác, đó là tỷ lệ lợi nhuận gộp hàng năm dự kiến sẽ kiếm được từ một dự án hay một khoản đầu tư. Tương đương, đó là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại ròng của dòng tiền trong tương lai bằng với khoản đầu tư ban đầu và nó cũng là tỷ lệ chiết khấu mà tổng giá trị hiện tại của chi phí (dòng tiền âm) bằng tổng giá trị hiện tại của những lợi ích (dòng tiền dương). Nói theo trực giác, IRR được thiết kế để tính đến ưu tiên thời gian của tiền và đầu tư. Lợi tức đầu tư nhất định nhận được tại một thời điểm nhất định có giá trị cao hơn lợi tức tương tự nhận được sau đó. Do đó, lợi tức đầu tư sẽ mang lại IRR thấp hơn trước đây, nếu tất cả các yếu tố khác đều bằng nhau. Một đầu tư thu nhập cố định, trong đó tiền gửi một lần, lãi suất đối với tiền gửi này được trả cho chủ đầu tư tại một quy định lãi suất mỗi khoảng thời gian và tiền đặt cọc ban đầu không tăng cũng không giảm đi, sẽ có một IRR bằng lãi suất quy định. Một khoản đầu tư có tổng lợi nhuận tương đương với khoản đầu tư trước đó, nhưng trì hoãn lợi nhuận trong một hoặc nhiều khoảng thời gian, sẽ có IRR thấp hơn. Hiểu một cách cơ bản nhất, đó là một giá trị số liệu được dùng trong ngân sách vốn, nhằm làm cơ sở để căn cứ xác định khả năng sinh lời khi một chủ thể đứng trước các khoản đầu tư tiềm năng. Như đã nói ngay từ đầu, nó là một giá tỷ tính theo tỷ lệ chiết khấu và làm cho NPV (giá trị ròng hiện tại) cũng như mọi giá trị dòng tiền khác của một khoản đầu tư hay một dự án bằng không. Vì vậy, công thức tính giá trị này xuất phát từ công thức tính NPV:. Để tính toán IRR bằng công thức, người ta sẽ đặt NPV bằng 0 và giải quyết tỷ lệ chiết khấu (r), đó là IRR. Nhưng, xuất phát từ bản chất của công thức, tỷ lệ hoàn vốn nội bộ phải được tính thông và thử và sai hoặc sử dụng các phần mềm có sẵn để tính thay vì tính trực tiếp. Tóm lại, giá trị của IRR càng cao thì khả năng thực hiện dự án càng lớn. Nó là một sự thống nhất cho các khoản đầu tư không giống nhau, chính vì thế, trên cơ sở tương đối đồng đều, IRR có thể được sử dụng để xếp hàng cho đa số dự án. Chẳng hạn như, các dự án khác nhau nhưng có chi phí đầu tư bằng nhau, IRR cao nhất thuộc về dự án nào thì sẽ ưu tiên dự án đó được thực hiện trước. “Tỷ suất lợi nhuận kinh tế” hay “tỉ số hoàn vốn dòng tiền chiết khấu” đều là một số cách gọi khác của IRR. “Nội bộ” trong tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của IRR nói đến việc bỏ qua các yếu tố bên ngoài, có thể là yếu tố lạm phát, chi phí vốn hay từ tính toán. Tóm lại, tính tỷ lệ hoàn vốn nội bộ có thể được thực hiện theo ba cách:. Sử dụng hàm IRR hoặc XIRR trong Excel hoặc các chương trình bảng tính khác. Sử dụng quy trình lặp trong đó nhà phân tích thử các mức chiết khấu khác nhau cho đến khi NPV bằng 0 (Mục tiêu tìm kiếm trong Excel có thể được sử dụng để làm điều này). Tỷ lệ hoàn vốn được sử dụng để làm gì là điều bạn nên tìm hiểu sau khi đã biết IRR là gì? Các công ty đảm nhận các dự án khác nhau để tăng doanh thu hoặc cắt giảm chi phí. Một ý tưởng kinh doanh mới tuyệt vời có thể yêu cầu. Ví dụ, đầu tư vào việc phát triển một sản phẩm mới. Trong ngân sách vốn, các nhà lãnh đạo cấp cao muốn biết lợi nhuận dự kiến hợp lý cho các khoản đầu tư như vậy. Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR là một phương pháp cho phép họ so sánh và xếp hạng các dự án dựa trên năng suất dự kiến của họ. Đầu tư với tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR cao nhất thường được ưu tiên. Bạn có thể nghĩ về giá trị IRR khi dự án sắp được tạo ra có tốc độ tăng trưởng. Mặc dù IRR trên thực tế của một dự án kết thúc sinh ra sẽ không giống với giá trị IRR của dự án ban đầu đã được tính toán trước đó. So với các tùy chọn sẵn có khác mà giá trị IRR của một dự án vẫn cao hơn đáng kể thì nó vẫn sinh ra nhiều cơ hội để tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ được sử dụng rộng rãi trong việc phân tích các khoản đầu tư cho vốn cổ phần tư nhân và đầu tư mạo hiểm, bao gồm nhiều khoản đầu tư tiền mặt trong suốt vòng đời của một doanh nghiệp và dòng tiền vào cuối thông qua IPO (lần đầu tiên lên sàn chứng khoán và phát hành cổ phiếu ra công chúng) hoặc bán doanh nghiệp. So sánh lợi nhuận của việc mở rộng các hoạt động hiện có cũng như việc thiết lập các hoạt động mới cũng là một công dụng phổ biến của tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR. Chẳng hạn như: một doanh nghiệp có thể dựa trên giá trị IRR trong quá trình quyết định sản xuất một sản phẩm mới hay nâng cấp thiết bị mới cho xưởng sản xuất sản phẩm. Trên thực tế, cả hai khoản đầu tư này đều có thể sinh lợi cho doanh nghiệp, mặc dù vậy, nhưng chỉ có một khoản đầu tư sẽ được chọn dựa trên cơ sở tiêu chuẩn thuộc về giá trị IRR. Bên cạnh đó, chỉ số ICOR (hiệu suất sử dụng vốn) cũng là một chỉ báo được sử dụng trong việc xem xét ra quyết định có mở rộng quy mô sản xuất hay không. Phân tích đầu tư kỹ lưỡng đòi hỏi nhà phân tích kiểm tra cả giá trị ròng hiện tại (NPV) và tỷ suất hoàn vốn nội bộ, cùng với các chỉ số khác, như thời gian hoàn vốn, hệ số car, đường MA. để chọn khoản đầu tư phù hợp. Vì một khoản đầu tư rất nhỏ có tỷ lệ hoàn vốn rất cao, đôi khi các nhà đầu tư (investor) và nhà quản lý chọn tỷ lệ hoàn vốn thấp hơn nhưng cơ hội giá trị đồng đô la tuyệt đối cao hơn. Ngoài ra, điều quan trọng là phải hiểu rõ về khả năng chấp nhận rủi ro của bạn hoặc nhu cầu đầu tư của công ty, không thích rủi ro và các tùy chọn có sẵn khác. Cuối cùng, IRR cũng được nhiều tập đoàn ứng dụng trong vấn đề đánh giá các kế hoạch, chương trình mua lại cổ phiếu. Điều này là đương nhiên, nếu doanh nghiệp sử dụng một khoản đáng kể để mua lại cổ phiếu, thì các phân tích phải chứng minh rằng IRR cao hơn ở khoản đầu tư này so sánh với mọi dự án cũng có nhu cầu đầu tư khác, hơn nữa có thể cao hơn bất kỳ ứng cử viên giao dịch mua lại nào so với giá thị trường. Khi nói đến công dụng của IRR, tóm lại có thể nói rằng: nó được sử dụng trong ngân sách vốn, trên cơ sở của nó, sẽ cho ra quyết định khoản đầu tư nào, dự án nào sẽ được chấp thuận, và khoản đầu tư nào, dự án nào nên phải từ bỏ. Mặc dù IRR phổ biến trong các nhà quản lý doanh nghiệp, nó có xu hướng phóng đại lợi nhuận của dự án và có thể dẫn đến sai lầm về ngân sách vốn dựa trên ước tính quá lạc quan. Việc sửa đổi IRR hoàn toàn có thể vá được lỗ hổng rủi ro này, nó cũng giúp cho việc quản lý hiệu quả hơn tỷ lệ tái đầu tư giả định xuất phát từ các dòng tiền (cash flow) trong tương lai. Tốc độ tăng trưởng gộp ngược được ví như là một tính toán IRR. Theo đó, bên cạnh dòng tiền tái đầu tư, nó cần được chiết khấu sự tăng trưởng từ các khoản đầu tư. Nhưng, tỷ lệ hoàn vốn nội bộ hoàn toàn không nói lên một cách thực tế nhất các phương thức mà dòng tiền được bơm ngược trở lại trong tương lai ở các dự án. Với chi phí vốn, dòng tiền thường được tái đầu tư, khác với tốc độ mà chúng đã được tạo ra ban đầu. IRR đã đưa ra giả định rằng từ dự án này sang dự án khác, tốc độ tăng trưởng vẫn sẽ không đổi. Với các số liệu IRR cơ bản, rất dễ dàng để phóng đại các giá trị tiềm năng trong tương lai. Khi một dự án bao gồm các giai đoạn dòng tiền dương và âm khác nhau, thì một vấn đề khác với IRR lại xảy ra. Vì vậy, IRR thông thường sẽ gây ra một sự nhầm lẫn, hoặc không chắc chắn trong các trường hợp này nếu nó thực sự xảy ra. CAGR (tỷ lệ tăng trưởng hàng năm) được sử dụng trong việc đo lường doanh thu ở một thời gian nhất định trên vốn đầu tư. Trong đó, điều này IRR cũng hoàn toàn làm được, nhưng linh hoạt hơn so với CAGR. Mặc dù giá trị cuối cũng như giá trị đầu đều là cách mà CAGR sử dụng. IRR phản ánh khá thực tế về các dòng tiền thông qua việc xem xét nhiều giai đoạn cũng như nhiều dòng tiền khác nhau. Sự khác biệt lớn nhất giữa CAGR với IRR là gì? Nó có thể đủ đơn giản để bạn tính toán bằng tay. Khi tính toán hiệu suất của các khoản đầu tư được thực hiện, có rất ít số liệu được sử dụng nhiều hơn Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR) và lợi tức đầu tư (ROI). Điều đó có nghĩa là không có công thức định trước nào có thể được sử dụng để tìm ra IRR. ROI là một số liệu tính toán phần trăm tăng hoặc giảm tỷ lệ hoàn vốn cho một khoản đầu tư cụ thể trong khung thời gian đã đặt. ROI có thể được tính cho bất kỳ loại hoạt động nào khi có một khoản đầu tư và có kết quả từ khoản đầu tư có thể đo lường được. Nhưng ROI có thể chính xác hơn trong một khoảng thời gian ngắn hơn. Nếu ROI phải được tính toán trong vài năm tới, thì việc tính toán chính xác một kết quả trong tương lai còn rất xa. ROI đơn giản hơn nhiều để tính toán và do đó chủ yếu được sử dụng trước IRR. Nhưng, sự cải tiến trong công nghệ đã khiến cho việc tính toán IRR được thực hiện bằng cách sử dụng phần mềm. Do đó IRR cũng được sử dụng thường xuyên hiện nay. Vậy tóm lại sự khác biệt giữa ROI và IRR là gì?. Một trong những khác biệt chính giữa ROI so với IRR là khoảng thời gian mà chúng được sử dụng để tính toán hiệu quả đầu tư. IRR được sử dụng để tính tốc độ tăng trưởng hàng năm của khoản đầu tư được thực hiện. Trong khi đó, ROI đưa ra bức tranh tổng thể về khoản đầu tư và lợi nhuận của nó từ đầu đến cuối. IRR tính đến giá trị tương lai của tiền và do đó, đây là một số liệu rất quan trọng để tính toán. Trong khi đó, ROI không lấy giá trị tương lai của tiền trong khi thực hiện các phép tính. IRR cần ước tính chính xác hơn để việc tính toán hiệu quả đầu tư có thể được thực hiện chính xác. IRR cũng là một số liệu phức tạp mà nhiều người không dễ hiểu. Mặt khác, ROI khá đơn giản và một khi tất cả các thông tin cần thiết có sẵn, việc tính toán ROI có thể được thực hiện dễ dàng. Hai trong số các số liệu được sử dụng nhiều nhất để tính toán hiệu suất của các khoản đầu tư là ROI so với IRR. Vì vậy, về cơ bản, số liệu sẽ được sử dụng để tính lợi nhuận đầu tư phụ thuộc vào chi phí bổ sung cần được xem xét. ROI vs IRR có những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Vì vậy, nhiều công ty sử dụng cả ROI so với IRR để tính toán ngân sách của họ cho số vốn cần thiết. Hai số liệu này được sử dụng quan trọng nhất trong việc ra quyết định khi chấp nhận một dự án mới hay không. Điều này cho thấy tầm quan trọng của hai số liệu này. Sự khác biệt giữa NPV và IRR là gì? NPV và IRR đều được sử dụng trong quá trình đánh giá chi tiêu vốn. Giá trị ròng hiện tại (NPV) chiết khấu dòng tiền dự kiến liên quan đến một dự án được đề xuất với giá trị hiện tại của chúng, điều này thể hiện thặng dư tiền mặt hoặc mất mát cho dự án. Các tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR) tính toán tỷ lệ phần trăm lợi nhuận mà tại đó những lưu chuyển tiền tệ cùng sẽ dẫn đến một NPV zero. Hai phương pháp ngân sách vốn có những khác biệt sau:. Kết quả: Phương pháp NPV mang lại giá trị đồng đô la mà dự án sẽ tạo ra, trong khi IRR tạo ra tỷ lệ hoàn vốn mà dự án sẽ tạo ra. Mục đích: Phương pháp NPV tập trung vào thặng dư dự án, trong khi IRR tập trung vào mức dòng tiền hòa vốn của một dự án. Tỷ lệ tái đầu tư: Tỷ lệ hoàn vốn giả định cho tái đầu tư dòng tiền trung gian là chi phí vốn của công ty khi NPV được sử dụng, trong khi đó là tỷ suất hoàn vốn nội bộ theo phương pháp IRR. Vấn đề tỷ lệ chiết khấu: Phương pháp NPV yêu cầu sử dụng tỷ lệ chiết khấu , có thể khó lấy được, vì ban quản lý có thể muốn điều chỉnh nó dựa trên mức độ rủi ro nhận thấy. Phương pháp IRR không gặp khó khăn này, vì tỷ lệ hoàn vốn chỉ đơn giản xuất phát từ dòng tiền cơ bản. Nói chung, NPV là phương pháp được sử dụng nhiều hơn. IRR có xu hướng được tính như một phần của quy trình lập ngân sách vốn (vốn chủ sở hữu, vốn vay.) và được cung cấp dưới dạng thông tin bổ sung. Một trong những hạn chế thường được trích dẫn nhất của IRR là giả định tỷ lệ tái đầu tư của Google. Nói tóm lại, giả định tỷ lệ tái đầu tư nói rằng IRR giả định dòng tiền tạm thời được tái đầu tư tại IRR, điều này tất nhiên không phải lúc nào cũng khả thi. Ý tưởng rằng IRR giả định dòng tiền tạm thời được tái đầu tư là một quan niệm sai lầm lớn mà đáng tiếc vẫn còn được dạy bởi nhiều giáo sư trường kinh doanh ngày nay. Như thể hiện trong cách tiếp cận từng bước ở trên, IRR không đưa ra giả định nào như vậy. Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ là một tính toán chiết khấu và không đưa ra giả định nào về việc phải làm gì với dòng tiền định kỳ nhận được trên đường đi. Không thể vì đây là chức năng GIẢM GIÁ, giúp chuyển tiền ngược thời gian chứ không chuyển tiếp. Điều này không có nghĩa là IRR không có một số hạn chế, như thể hiện trong các ví dụ trên.
|
Tỷ lệ hoàn vốn kế toán
|
Tỷ lệ hoàn vốn kế toán, còn được gọi là tỷ lệ hoàn vốn trung bình hoặc ARR là một tỷ lệ tài chính được sử dụng trong lập ngân sách vốn. Tỷ lệ này không đưa vào tài khoản các khái niệm về giá trị thời gian của tiền. ARR tính toán hoàn vốn, được tạo ra từ thu nhập ròng của vốn đầu tư đề xuất. ARR là một tỷ lệ phần trăm hoàn vốn. Như vậy, nếu ARR = 7%, thì nó có nghĩa là dự án được dự kiến sẽ kiếm được bảy xu của mỗi đô la đầu tư. Nếu ARR là bằng hoặc lớn hơn mức hoàn vốn yêu cầu, dự án có thể chấp nhận được. Nếu nó ít hơn mức mong muốn, nó sẽ bị từ chối. Khi so sánh đầu tư, ARR cao hơn, hấp dẫn đầu tư hơn Quá nửa các công ty lớn tính toàn ARR khi thẩm định các dự án.
|
Trong khi đa dạng di truyền được cho là sự khác biệt của các đặc tính di truyền giữa các xuất xứ, quần thể và giữa các cá thể trong một loài hay một quần thể thì đa dạng loài chỉ mức độ phong phú về số lượng loài hoặc loài phụ trên quả đất, ở một vùng địa lý, trong một quốc gia hay trong một sinh cảnh nào đó. Về đa dạng hệ sinh thái, hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa và phân loại thống nhất nào ở mức toàn cầu. Đa dạng hệ sinh thái thường được đánh giá thông qua tính đa dạng của các loài thành viên; nó có thể bao gồm việc đánh giá độ phong phú tương đối của các loài khác nhau cũng như các kiểu dạng của loài. Giá trị của đa dạng sinh học là vô cùng to lớn và có thể chia thành hai loại giá trị: giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp. Giá trị kinh tế trực tiếp của tính đa dạng sinh học là những giá trị của các sản phẩm sinh vật mà được con người trực tiếp khai thác và sử dụng cho nhu cầu cuộc sống của mình; còn giá trị gián tiếp bao gồm những cái mà con người không thể bán, những lợi ích đó bao gồm số lượng và chất lượng nước, bảo vệ đất, tái tạo, giáo dục, nghiên cứu khoa học, điều hòa khí hậu và cung cấp những phương tiện cho tương lai của xã hội loài người. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau, đa dạng sinh học nguồn tài nguyên quí giá nhất, đóng vai trò rất lớn đối với tự nhiên và đời sống con người đang bị suy thoái nghiêm trọng. Hậu quả tất yếu dẫn đến là sẽ làm giảm/mất các chức năng của hệ sinh thái như điều hoà nước, chống xói mòn, đồng hóa chất thải, làm sạch môi trường, đảm bảo vòng tuần hoàn vật chất và năng lượng trong tự nhiên, giảm thiểu thiên tai/các hậu quả cực đoan về khí hậu. Cuối cùng, hệ thống kinh tế sẽ bị suy giảm do mất đi các giá trị về tài nguyên thiên nhiên, môi trường. Có 2 nhóm nguyên nhân chính gây ra sự suy thoái đa dạng sinh học, đó là do các tác động bất lợi của tự nhiên và của con người, trong đó các ảnh hưởng do con người gây nên đặc biệt nghiêm trọng từ giữa thế kỷ 19 đến nay và chủ yếu là làm thay đổi và suy thoái cảnh quan trên diện rộng và điều đó đã đẩy các loài và các quần xã sinh vật vào nạn diệt chủng. Con người phá hủy, chia cắt làm suy thoái sinh cảnh, khai thác quá mức các loài cho nhu cầu của mình, du nhập các loài ngoại lai và gia tăng dịch bệnh cũng là các nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tính đa dạng sinh học. Bảo tồn đa dạng sinh học là quá trình quản lý mối tác động qua lại giữa con người với các gen, các loài và các hệ sinh thái nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho thế hệ hiện tại và vẫn duy trì tiềm năng của chúng để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các thế hệ tương lai. Để có thể tiến hành các hoạt động quản lý nhằm bảo tồn đa dạng sinh học, điều cần thiết là phải tìm hiểu những tác động tiêu cực, các nguy cơ mà loài hiện đang đối mặt và từ đó xây dựng các phương pháp quản lý phù hợp nhằm giảm đi các tác động tiêu cực của các nguy cơ đó và đảm bảo sự phát triển của loài và hệ sinh thái đó trong tương lai. Hiện nay có các phương thức bảo tồn chủ yếu là bảo tồn tại chỗ (In-situ) và bảo tồn chuyển vị (Ex-situ).Trong khi phương thức bảo tồn tại chỗ là nhằm bảo tồn các hệ sinh thái và các sinh cảnh tự nhiên để duy trì và khôi phục quần thể các loài trong môi trường tự nhiên của chúng, phương thức bảo tồn chuyển vị bao gồm các hoạt động nhằm bảo tồn các loài mục tiêu bên ngoài nơi phân bố hay môi trường tự nhiên của chúng. Hai phương thức bảo tồn này có tính chất bổ sung cho nhau. Những cá thể từ các quần thể dược bảo tồn Ex-situ có thể được đưa vào thiên nhiên nơi có phân bố tự nhiên của chúng để tăng cường cho các quần thể đang được bảo tồn In-situ và việc nghiên cứu các quần thể được bảo tồn Ex-situ có thể cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về các đặc tính sinh học của loài và từ đó hỗ trợ cho việc hình thành các chiến lược bảo tồn hiệu quả hơn cho các quần thể được bảo tồn In-situ. Tuy nhiên, dưới áp lực ngày càng tăng của sự thay đổi khá nhanh các điều kiện môi trường, đặc biệt do sự nóng lên toàn cầu, mục tiêu của một chiến lược bảo tồn nguồn gen thực vật là không chỉ bảo tồn các khác biệt di truyền hiện có mà còn tạo ra các điều kiện phù hợp cho việc tăng sự thích nghi và sự tiến hóa tương lai của loài. Vì vậy, các nhà khoa học bảo tồn đã đề xuất khái niệm bảo tồn nguồn gen động cho thực vật. Điều cốt lỏi của khái niệm này là khuyến khích tính thích nghi của loài bằng cách đặt các quần thể bảo tồn trong quá trình chọn lọc tự nhiên và rồi trong quá trình tiến hóa theo các hướng khác biệt để đa dạng hóa nguồn gien của loài, chuẩn bị cho việc thích nghi rộng hơn của loài đối với các điều kiện môi trường khác nhau. Theo cách thức bảo tồn này, nguồn gen của các loài thực vật sẽ được bảo tồn trong một quá trình động thay vì chỉ được duy trì như đúng tình trạng di truyền mà chúng vốn có. Việc thành lập hệ thống các khu bảo tồn là bước đi rất quan trọng trong việc bảo tồn các loài, quần xã sinh vật và hệ sinh thái. Khu bảo tồn được định nghĩa là một vùng đất và/hoặc biển được xác định để bảo vệ và duy trì đa dạng sinh học và nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa được kết hợp và được quản lý thông qua các phương tiện pháp lý và các phương tiện có hiệu quả khác. Cho đến hiện nay vẫn chưa có một hướng dẫn chung nào cho việc thiết kế một khu bảo tồn trên toàn thế giới. Thay vào đó, hầu hết các khu bảo tồn đều được thiết kế tùy thuộc vào sự sẵn có của đất đai, nguồn kinh phí, sự phân bố dân cư ở trong và quanh khu bảo tồn, nhận thức của cộng đồng cũng như các tình huống bảo tồn cần được quan tâm. Tuy vậy, đã có một sự thừa nhận rộng rãi rằng các khu bảo tồn lớn sẽ có khả năng bảo tồn loài, quần xã sinh vật cũng như các hệ sinh thái đích tốt hơn vì nó có thể duy trì các quá trình sinh thái diễn ra trong khu bảo tồn một cách toàn vẹn hơn các khu bảo tồn nhỏ. Về quan điểm quản lý các khu bảo tồn, quan điểm được cho là phù hợp với việc quản lý hiệu quả một khu bảo tồn hiện nay là rằng việc áp dụng bất cứ một phương thức quản lý nào cũng phải dựa vào các đối tượng quản lý ở một địa điểm cụ thề. Chỉ khi đã xác định được các đối tượng quản lý thì các kết quả quản lý khoa học mới được áp dụng. Hơn nữa một chiến lược bảo tồn đa dạng sinh học hiệu quả cần chú trọng không chỉ thực hiện công tác bảo tồn trong phạm vi ranh giới của các khu bảo tồn mà cần mở rộng phạm vi của các hoạt động nhằm bảo tồn loài, quần xã hay hệ sinh thái đích bên ngoài phạm vi cơ giới của các khu bảo tồn (off-reserve conservation). Điều này là bởi vì nếu chúng ta không thể bảo vệ thiên nhiên bên ngoài các khu bảo tồn thì thiên nhiên cũng chẳng tồn tại bao nhiêu trong các khu bảo tồn đó. Thêm vào đó, một chiến lược bảo tồn đa dạng sinh học hiệu quả cần thiết phải tính đến các hoạt động giáo dục nhằm nâng cao nhận thức và khuyến khích các thành phần có liên quan tham gia vào công tác bảo vệ các loài, quần xã hay hệ sinh thái đích cần được bảo tồn. Tuy nhiên, hiệu quả quản lý của một khu bảo tồn phụ thuộc phần lớn vào mức độ ủng hộ hay thù địch của người dân địa phương sống quanh khu bảo tồn. Do vậy tìm kiếm các nguồn thu nhập khác thay thế cho các thu nhập từ tài nguyên thiên nhiên trực tiếp của khu bảo tồn đã bị ngăn cấm khai thác nhằm đảm bảo và nâng cao sinh kế cho cộng đồng sống xung quanh có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc xây dựng các chiến lược dài hạn cũng như các kế hoạch hành động ngắn hạn cho quản lý khu bảo tồn hiệu quả. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, một khu bảo tồn sẽ rất khó khăn, thậm chí không thể nào bảo vệ được các giá trị đa dạng sinh học của mình nếu quá trình hoạch định chiến lược cho việc bảo tồn và phát triển của nó không tính đến sự phát triển kinh tế xã hội của người dân địa phương. Khu bảo tồn không thể nào tồn tại như một “ốc đảo” trong tiến trình vận động và phát triển chung của xã hội và con người sống xung quanh nó. Do vậy, ngay từ bước đầu của việc hoạch định các chiến lược bảo tồn, cần thiết phải tiến hành bàn bạc và thỏa thuận với người dân địa phương sống xung quanh các khu bảo tồn về cách thức bảo tồn có sự tham gia và các giải pháp nhằm tìm nguồn sinh kế thay thế và cải thiện thu nhập, nâng cao đời sống kinh tế xã hội cho cộng đồng dân cư địa phương. Tính bền vững của công tác bảo tồn đa dạng sinh học của một khu bảo tồn được đảm bảo chỉ khi nào người dân địa phương thực sự tham gia vào các hoạt động bảo tồn và ngược lại các hoạt động bảo tồn thực sự mang lại các lợi ích kinh tế cho cộng đồng xung quanh. Trong khi đa dạng di truyền được cho là sự khác biệt của các đặc tính di truyền giữa các xuất xứ, quần thể và giữa các cá thể trong một loài hay một quần thể thì đa dạng loài chỉ mức độ phong phú về số lượng loài hoặc loài phụ trên quả đất, ở một vùng địa lý, trong một quốc gia hay trong một sinh cảnh nào đó. Về đa dạng hệ sinh thái, hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa và phân loại thống nhất nào ở mức toàn cầu. Đa dạng hệ sinh thái thường được đánh giá thông qua tính đa dạng của các loài thành viên; nó có thể bao gồm việc đánh giá độ phong phú tương đối của các loài khác nhau cũng như các kiểu dạng của loài. Giá trị của đa dạng sinh học là vô cùng to lớn và có thể chia thành hai loại giá trị: giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp. Giá trị kinh tế trực tiếp của tính đa dạng sinh học là những giá trị của các sản phẩm sinh vật mà được con người trực tiếp khai thác và sử dụng cho nhu cầu cuộc sống của mình; còn giá trị gián tiếp bao gồm những cái mà con người không thể bán, những lợi ích đó bao gồm số lượng và chất lượng nước, bảo vệ đất, tái tạo, giáo dục, nghiên cứu khoa học, điều hòa khí hậu và cung cấp những phương tiện cho tương lai của xã hội loài người. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau, đa dạng sinh học nguồn tài nguyên quí giá nhất, đóng vai trò rất lớn đối với tự nhiên và đời sống con người đang bị suy thoái nghiêm trọng. Hậu quả tất yếu dẫn đến là sẽ làm giảm/mất các chức năng của hệ sinh thái như điều hoà nước, chống xói mòn, đồng hóa chất thải, làm sạch môi trường, đảm bảo vòng tuần hoàn vật chất và năng lượng trong tự nhiên, giảm thiểu thiên tai/các hậu quả cực đoan về khí hậu. Cuối cùng, hệ thống kinh tế sẽ bị suy giảm do mất đi các giá trị về tài nguyên thiên nhiên, môi trường. Có 2 nhóm nguyên nhân chính gây ra sự suy thoái đa dạng sinh học, đó là do các tác động bất lợi của tự nhiên và của con người, trong đó các ảnh hưởng do con người gây nên đặc biệt nghiêm trọng từ giữa thế kỷ 19 đến nay và chủ yếu là làm thay đổi và suy thoái cảnh quan trên diện rộng và điều đó đã đẩy các loài và các quần xã sinh vật vào nạn diệt chủng. Con người phá hủy, chia cắt làm suy thoái sinh cảnh, khai thác quá mức các loài cho nhu cầu của mình, du nhập các loài ngoại lai và gia tăng dịch bệnh cũng là các nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tính đa dạng sinh học. Bảo tồn đa dạng sinh học là quá trình quản lý mối tác động qua lại giữa con người với các gen, các loài và các hệ sinh thái nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho thế hệ hiện tại và vẫn duy trì tiềm năng của chúng để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các thế hệ tương lai. Để có thể tiến hành các hoạt động quản lý nhằm bảo tồn đa dạng sinh học, điều cần thiết là phải tìm hiểu những tác động tiêu cực, các nguy cơ mà loài hiện đang đối mặt và từ đó xây dựng các phương pháp quản lý phù hợp nhằm giảm đi các tác động tiêu cực của các nguy cơ đó và đảm bảo sự phát triển của loài và hệ sinh thái đó trong tương lai. Hiện nay có các phương thức bảo tồn chủ yếu là bảo tồn tại chỗ (In-situ) và bảo tồn chuyển vị (Ex-situ).Trong khi phương thức bảo tồn tại chỗ là nhằm bảo tồn các hệ sinh thái và các sinh cảnh tự nhiên để duy trì và khôi phục quần thể các loài trong môi trường tự nhiên của chúng, phương thức bảo tồn chuyển vị bao gồm các hoạt động nhằm bảo tồn các loài mục tiêu bên ngoài nơi phân bố hay môi trường tự nhiên của chúng. Hai phương thức bảo tồn này có tính chất bổ sung cho nhau. Những cá thể từ các quần thể dược bảo tồn Ex-situ có thể được đưa vào thiên nhiên nơi có phân bố tự nhiên của chúng để tăng cường cho các quần thể đang được bảo tồn In-situ và việc nghiên cứu các quần thể được bảo tồn Ex-situ có thể cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về các đặc tính sinh học của loài và từ đó hỗ trợ cho việc hình thành các chiến lược bảo tồn hiệu quả hơn cho các quần thể được bảo tồn In-situ. Tuy nhiên, dưới áp lực ngày càng tăng của sự thay đổi khá nhanh các điều kiện môi trường, đặc biệt do sự nóng lên toàn cầu, mục tiêu của một chiến lược bảo tồn nguồn gen thực vật là không chỉ bảo tồn các khác biệt di truyền hiện có mà còn tạo ra các điều kiện phù hợp cho việc tăng sự thích nghi và sự tiến hóa tương lai của loài. Vì vậy, các nhà khoa học bảo tồn đã đề xuất khái niệm bảo tồn nguồn gen động cho thực vật. Điều cốt lỏi của khái niệm này là khuyến khích tính thích nghi của loài bằng cách đặt các quần thể bảo tồn trong quá trình chọn lọc tự nhiên và rồi trong quá trình tiến hóa theo các hướng khác biệt để đa dạng hóa nguồn gien của loài, chuẩn bị cho việc thích nghi rộng hơn của loài đối với các điều kiện môi trường khác nhau. Theo cách thức bảo tồn này, nguồn gen của các loài thực vật sẽ được bảo tồn trong một quá trình động thay vì chỉ được duy trì như đúng tình trạng di truyền mà chúng vốn có. Việc thành lập hệ thống các khu bảo tồn là bước đi rất quan trọng trong việc bảo tồn các loài, quần xã sinh vật và hệ sinh thái. Khu bảo tồn được định nghĩa là một vùng đất và/hoặc biển được xác định để bảo vệ và duy trì đa dạng sinh học và nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa được kết hợp và được quản lý thông qua các phương tiện pháp lý và các phương tiện có hiệu quả khác. Cho đến hiện nay vẫn chưa có một hướng dẫn chung nào cho việc thiết kế một khu bảo tồn trên toàn thế giới.
|
Sinh học bảo tồn
|
Sinh học bảo tồn (Conservation biology) là việc nghiên cứu khoa học về bản chất và đa dạng sinh học của Trái Đất với mục đích bảo vệ các loài, môi trường sống của chúng và cả hệ sinh thái khỏi việc bị xóa bỏ hoặc xâm phạm quá mức về tương tác sinh học. Đây là vấn đề có liên quan mật thiết giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, cũng như việc thực hiện quản lý tài nguyên thiên nhiên. Sinh học bảo tồn đi liền với hệ sinh thái trong nghiên cứu sự phát tán, di cư, ảnh hưởng quy mô dân số, suy thoái trong giao phối cận huyết, và số lượng tối thiểu của các loài quý hiếm hoặc đang bị đe dọa. Để hiểu rõ hơn về sự khôi phục sinh thái của các loài động thực vật bản địa, các nhà sinh học bảo tồn nghiên cứu cả môi trường sống trong cùng loài và khác loài, đây là những yếu tố ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới sự tồn tại của một loài. Sinh học bảo tồn có vai trò quan trọng trong việc duy trì, biến mất hoặc phục hồi đa dạng sinh học và khoa học trong việc duy trì quá trình tiến hóa gây ra sự di truyền, dân số, các loài, và đa dạng hệ sinh thái.
|
Sáng tạo bao gồm việc nhìn thẳng vào vấn đề từ nhiều góc nhìn khác nhau. TRIZ đơn giản chỉ là chuổi những thủ thuật sáng tạo giúp bạn nhìn thấy vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau, giúp bạn hiểu thấu đáo vấn đề thực sự là gì, và nhìn ra các giải pháp có thể. TRIZ có nhiều cấp bậc thực hiện, từ việc sử dụng các công cụ của nó một cách riêng lẻ để có được những lời giải tốt, đến việc làm việc một cách hệ thống nhờ chuổi các kỹ thuật sáng tạo và tìm ra đáp án tốt nhất cho vấn đề. TRIZ được phát triển bởi một đội ngũ do Genrich Altshuller dẫn dắt, là người đã vén màng bí mật của những bài tóan sáng tạo hệ thống, những cuộc đổi mới và thiết kế thành công. Sự phát triển của TRIZ nhờ đóng góp của hàng ngàn kỹ sư, mất 50 năm và bao gồm việc phân tích gần 2.5 triệu bằng sáng chế trên khắp thế giới. Các công cụ này đơn giản và mạnh mẽ được rút ra từ việc nghiên cứu TRIZ vốn phân loại các cách giải quyết vấn đề của Ma Trận Các Mâu Thuẩn, 40 Nguyên Tắc Sáng Tạo, Quy Luật Tiến Hoá Của Hệ Thống, Các Giải Pháp Chuẩn, và 2500 Hiệu Ứng cùng kho tư liệu TRIZ. Hầu hết các thiết kế đều chứa mâu thuẩn mà đã được giải quyết (theo kiểu TRIZ) hoặc tương nhượng (theo lối thông thường). TRIZ chỉ ra cho ta cách làm lộ ra mâu thuẩn hay xung đột trong một thiết kế, và rồi áp dụng 40 Nguyên Tắc Sáng Tạo. Đây là những thủ thuật sáng tạo rất mạnh. Triết lý của TRIZ là không chấp nhận sự tương nhượng, loại bỏ các giải pháp kiểu châm chướt để giải quyết mâu thuẩn. TRIZ cho thấy rằng tất cả các ngành công nghệ và các sản phẩm đều đi theo một mô hình đường cong chữ S (S-Curve). TRIZ chỉ ra cách vẽ một đường cong chữ S cho một sản phẩm, xác định đâu là vị trí của nó trên đường cong đó và dự báo những hệ quả của đường cong này. Vì vậy TRIZ cung cấp một phương pháp dự báo công nghệ với độ chính xác cao – Thí dụ, với một công năng bất kỳ, nó có thể dự báo chi tiết toàn bộ dãy các thế hệ thiết kế tiếp theo để thoả mãn công năng đó. TRIZ giúp ta tiếp cận vấn đề bằng cách nghĩ về giải pháp chứ không phải nghĩ về vấn đề. Điều này thực hiện được nhờ ta tự hỏi Giải Pháp Lý Tưởng của Ta là gì hay được gọi là Kết Quả Lý Tưởng Sau Cùng. Tính lý tưởng sẽ đạt được bằng cách gia tăng các lợi ích của hệ thống đồng thời giảm cả các điểm bất lợi và giá thành. Một phần của việc đạt được tính lý tưởng do sử dụng những nguồn lực có sẳn đối với người giải, sử dụng những nguồn lực không đắt tiền, và chuyển những cái có hại thành có lợi. Điều này nghe có vẽ kỳ cục và không thực tế nhưng lại mang đến những giải pháp c1o thật, giá thành rẻ và rất mạnh. TRIZ giúp ta tiếp cận vấn đề theo cách mới, sử dụng những kiến thức trước đây ta chưa biết, và giúp ta trở nên sáng tạo hơn trong việc giải quyết vấn đề. Để làmđược điều này bạn phải để đầu óc mình cởi mở hơn. Triz đã xác định các phương pháp và cách tiếp cận thường được những người sáng tạo sử dụng và chỉ ta cách áp dụng một cách hiệu quả. Điều này bao gồm việc hiểu và sử dụng hiệu quả ngôn ngữ giải quyết vấn đề, đặt mọi thứ vào đúng ngữ cảnh của nó- học cách tư duy theo Thời Gian và Không Gian, sử dụng “Những người Tí Hon Thông Minh” và toán tử Kích Thước – Thời Gian –Giá Thành. Tất cả các công cụ này đều được sử dụng (trong tiềm thức) trong hầu hết những khoảnh khắc sáng tạo khoa học nổi tiếng mà con người biết được cho tới nay. TRIZ tạo ra nền tảng cho rằng mọi bài toán đều đã được giải trước đây. Phải có một cách tiếp cận nghiêm ngặt để làm thế nào đưa bài toán của bạn khớp vào một trong những mô hình bài toán tổng quát nhằm tìm ra lời giải đã có sẳn. Một trong những cách như thế là Phương Pháp Phân Tích Chức Năng. Phương pháp này mô hình hoá các tương tác (giữa Cái Lợi Và Cái Hại) giữa các thành phần của hệ, từ đó xác định khu vực có vấn đề trong hệ thống. Một khi vấn đề đã được xác định, ta có thể áp dụng trực tiếp các Giải Pháp Chuẩn TRIZ, một tập hợp tất cả các cách sử lý những mối tương tác có hại, thừa hay thiếu đã biết. Đây là những thủ thuật giúp ta tìm ra các giải pháp tốt nhưng đơn giản. TRIZ dẫn bạn đến những lý thuyết khoa học và công nghệ (TRIZ gọi là những Hiệu Ứng) thường được sử dụng trong việc giải quyết vấn đề trong các sáng chế. TRIZ phân loại những Hiệu Ứng này theo chức năng thiết kế kèm theo những thí dụ tương ứng. TRIZ là một quá trình chuyển giao và giúp các kỹ sư và các nhà khoa học tìm ra những giải pháp cho các vấn đề theo cách nhanh hơn, thông minh hơn và tiết kiệm hơn so với các phương pháp truyền thống của phương Tây. Bằng cách thấu hiểu chức năng cốt lõi của các giải pháp, ta có thể nhận ra những giải pháp thiết kế truyền thống quanh ta.
|
TRIZ
|
Lý thuyết giải các bài toán sáng chế (theo tiếng Nga là Теория решения изобретательских задач, chuyển tự Teoriya Resheniya Izobreatatelskikh Zadatch, viết tắt TRIZ) là phương pháp luận tìm kiếm những giải pháp kỹ thuật mới, cho những kết quả khả quan, ổn định khi giải những bài toán khác nhau, thích hợp cho việc dạy và học với đông đảo quần chúng. Altshuller, bắt đầu nghiên cứu, xây dựng lý thuyết từ 1946. Tiền đề cơ bản của TRIZ là: các hệ kỹ thuật phát triển tuân theo các quy luật khách quan, nhận thức được. Chúng được phát hiện và sử dụng để giải một cách có ý thức những bài toán sáng chế. TRIZ được xây dựng như là một khoa học chính xác, có lĩnh vực nghiên cứu riêng, các phương pháp riêng, ngôn ngữ riêng, các công cụ riêng. Hạt nhân của TRIZ là thuật toán giải các bài toán sáng chế (viết tắt theo tiếng Nga là ARIZ). ARIZ là một chương trình các hành động tư duy có định hướng, được kế hoạch hóa. Nó có mục đích tổ chức hợp lý và làm tích cực hóa tư duy sáng tạo, bước đầu tạo cơ sở cho lý thuyết chung về tư duy định hướng.
|
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (gọi ngắn gọn là: Đội) là một tổ chức thiếu niên nhi đồng hoạt động tại Việt Nam, do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập ngày 15 tháng 5 năm 1941, ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng và được Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phụ trách hướng dẫn. Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh được dựa trên nền tảng hoạt động của Phong trào Thiếu niên Tiền phong tại các quốc gia cộng sản. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào 3/2/1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng của nước ta phát triển mạnh mẽ. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn chú ý đến lực lượng thanh thiếu nhi để tập hợp vào tổ chức, hoà vào làn sóng cách mạng của cả dân tộc để đấu tranh giành độc lập tự do và xây dựng Tổ quốc. Tháng 10/1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất (khóa I) đã đề cập đến tổ chức thiếu nhi và thiếu niên cách mạng Hồng nhi Đoàn và giao cho Đoàn Thanh niên phụ trách. Huy hiệu Đội hình tròn, có hình búp măng trên nền cờ Việt Nam và khẩu hiệu "Sẵn sàng". Khăn quàng đỏ là một đặc trưng của đồng phục đội viên, là một mảnh vải hình tam giác cân, màu đỏ. Đội ca là bài hát Cùng nhau ta đi lên, do nhạc sĩ Phong Nhã sáng tác mang nội dung kêu gọi đội viên theo bước Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, kêu gọi yêu nước, yêu lao động, chăm học. Dùng làm mục tiêu: "phấn đấu rèn luyện cho đội viên, giúp đỡ đội viên phát triển mọi khả năng trong học tập, hoạt động, vui chơi, thực hiện quyền và bổn phận theo luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em. Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh đoàn kết, hợp tác với các tổ chức, phong trào thiếu nhi ở khu vực và thế giới vì những quyền của trẻ em, vì hòa bình, hạnh phúc của các dân tộc. Đội ca là bài hát: Cùng nhau ta đi lên của nhạc sĩ Phong Nhã. Lời của bài hát là: cùng nhau ta đi lên theo bước đoàn thanh niên đi lên,cố gắng xứng đáng cháu ngoan Bác Hồ.Lời thề ta ghi sâu mãi mãi trong tim không phai quyết xứng danh thiếu niên anh dũng nước nhà. Tiến quyết tiến Quốc kì thắm tươi anh em ta yêu tổ quuốc suốt đời cùng yêu nhân dân yêu chuộng lao động tăng gia thi đua học hành ngày một tiến xa. Khăn quàng đỏ là biểu tượng và đồng phục của đội viên (thành viên của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh). Nó là một miếng vải màu đỏ, hình tam giác, thường từ vải bông, lụa hoặc valise và được xem là một phần của cờ Việt Nam. Khăn quàng đỏ được thắt lên cổ áo của đội viên theo một quy tắc nhất định. Khăn quàng đỏ còn là biểu tượng của Chủ Nghĩa Cộng Sản. Khăn Quàng đỏ được sử dụng cho cấp bậc Tiểu học đến đại học.
|
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
|
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (gọi ngắn gọn là Đội) là một tổ chức cộng sản dành cho thiếu niên nhi đồng hoạt động tại Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập ngày 15 tháng 5 năm 1941, ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng và được Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phụ trách hướng dẫn. Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh được dựa trên nền tảng hoạt động của Phong trào Thiếu niên Tiền phong tại các quốc gia cộng sản. Mục đích của Đội: "Đánh Tây, đuổi Nhật, giành độc lập cho nước ta".Giữa năm 1950, hai tổ chức Đội TNTP và Đội Nhi đồng cứu Quốc sáp nhập lại làm một và lấy tên chung là Đội Thiếu nhi cứu quốc. Tháng 11 năm 1956, Đội Thiếu nhi Tháng Tám được đổi tên thành Đội Thiếu niên Tiền phong Việt Nam. Năm 1954: các phong trào của Đội phát triển mạnh mẽ với các phong trào "Vì miền Nam ruột thịt", "Đi thăm miền Nam". Ngày 30 tháng 1 năm 1970, Đội một lần nữa đổi tên thành Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và được duy trì đến ngày nay.
|
Ở nước ta vốn có nhiều sông suối kênh ngòi chằng chịt nên vô cùng thuận lợi để câu cá đặc biệt vào mùa mưa, mùa nước nổi sẽ tốt hơn cho việc đi câu. Khi câu cá sông cần chú ý đến những đặc điểm như vị trí cá cư trú, thời điểm câu, mồi câu, lưỡi câu…. Cá sông có đặc tính sinh sống khác hẳn với cá ở hồ nên đừng nghĩ rằng ở vị trí nào cũng có thể thả mồi câu được. Cá sông thường thích trú ẩn ở những nơi có chỗ nấp như rễ cây, bèo, tảng đá, hòn sỏi hoặc những vật có thể che chắn cho chúng và tránh được sự tấn công của kẻ thù. Bên cạnh đó những nơi có dòng nước chảy nhẹ cũng là nơi chúng trú ẩn cho mình, khi câu cá sông nên tránh những vùng nước chảy mạnh, có sóng lớn. Chính vì vậy để câu được cá sông người đi câu cần chọn đúng chỗ trú ẩn của cá mới có hiệu quả cao. Thời điểm câu cá sông được coi là lý tưởng từ tháng 6 đến tháng 12 bởi giai doạn này có sinh trưởng mạnh phát triển nhanh. Bởi vì mùa hè thường có những cơn mưa lớn nên đem lại cho chúng nguồn thức ăn dồi dào giúp chúng gia tăng việc kiếm ăn hơn. Bên cạn đó người đi câu cũng phải canh con nước, chú ý vùng nước ươn để câu sẽ tốt hơn vì nơi này có nhiều thức ăn, là vị trí cư ngụ lí tưởng cho cá. Chúng có thể dễ dàng che lấp mình hơn các vùng nước trong. Để câu được cá sông bạn cần chú trọng đến cần câu chúng đóng vai trò quan trọng nhất trong mỗi chuyến đi câu. Bởi vậy cần đảm bảo rằng cần câu có chất lượng tốt nhất, bền chắc, phù hợp để câu cá sông. Với những tay câu cá không chuyên nên chọn cần câu có chiều dài từ 1,6-3m. Với những tay câu chuyên nghiệp nên chọn cần câu dài khoảng 4m05. Từ đó dựa vào địa hình, vị trí câu cá ở những bãi sông để chọn loại cần phù hợp nhất, nếu chuyên câu cá to thì cần câu phải đảm bảo chắc chắn nhất. Loài cá sông thích các loại mồi tự nhiên như cá nhỏ, tôm, giun,… vì vậy người đi câu cần xác định mục đích câu cá của mình thuộc loại nào để lựa chọn mồi câu phù hợp nhất. Ngoài ra người đi câu có thể tự làm mồi nhân tạo giống như mồi tự nhiên như cá ngựa dẻo, tôm giả, nhái giả… để câu cá sông. Bên cạnh đó bạn cũng nên tìm hiểu thêm về đặc tính của từng loài cá để xác định thả câu. Đối với những loài cá thích ăn nổi như cá chẽm, cá ồng thì nên thả mồi cùng phao nổi, với loài cá ăn chìm nên sử dụng phao chìm có gắn chì để biết chính xác thời điểm cá cắn câu. Mỗi loài cá có tập tính khác nhau ăn mồi khác nhau nên người đi câu cũng cần chuẩn bị mồi khác nhau. Ví dụ để câu cá chép sông cần chuẩn bị mồi câu như sau: Bột bắp, bột ớ, lạc rang nghiền nhỏ, vụn bánh mì, phô mai cũ, nước men chua, gan động vật, bột lúa mạch. Tất cả những nguyên liệu này trộn đều với nhau sao cho không quá dẻo để khi thả xuống nước khoảng 10 phút là mỗi rã ra hết. Kiểu mồi này không nên câu ở dòng nước chảy xiết. Với cách làm mồi câu cá trắm cỏ nên chuẩn bị các nguyên liệu như sau: bột ngô dội nước sôi chín khoảng 50%, thóc mầm, thính thơm, cám gạo, khoai lang luộc, mẻ chua, mùi vị nhử cá. Đem các nguyên liệu trộn đều vời nhau, rồi vò tơi sao cho không quá ướt cũng không quá rắn. Sau đó chỉ cần thả bên đánh đầu cành, mỗi tiếng thả một lần và chỉ cần ngồi đợi cá cắn câu. Câu cá sông là thú vui giúp con người giải tỏa căng thẳng, stress rất hiệu quả cũng như có được những món ăn ngon miệng tự nhiên đảm bảo an toàn. Bởi vậy người đi câu cần trang bị cho mình những kinh nghiệm câu cá sông từ khâu chuẩn bị mồi, lưỡi câu, cần câu… để có hiệu quả câu cao nhất.
|
Câu cá sông
|
Câu cá sông hay câu cá bờ sông là hoạt động câu cá diễn ra trên vùng sông nước, thông thường là người câu đứng trên bờ sông và quăng câu, xả mồi. Câu cá sông được nhiều người yêu thích bởi sự thoải mái, tao nhã của bộ môn câu cá giải trí này. Nhất là đối với những khu vực sông nước như miền Tây Nam Bộ Việt Nam, nơi phong phú các loài cá nước ngọt, câu cá sông trở thành thói quen của nhiều người ở đây, vừa là mưu sinh và giải trí. Cá sông là các loài cá nước ngọt. Theo quan niệm của người miền Tây ở Việt Nam thì cá vùng nước ngọt có hai loài cá sông và cá đồng. Cá sông còn được hiểu là cá trắng và cá đồng còn được gọi là cá đen. Loài cá sông là loài cá sống trong các sông rạch, còn loài cá đồng là các loài cá sống trên các lung vũng, đìa bàu, nói chung là sống trên đồng. Việc phân biệt như vậy cũng chỉ là cách phân biệt tương đối vì sông nước Miền Tây và đồng ruộng nơi này có mùa nước lên và nước giựt, nên khi nước lên thì cá đen, cá trắng cũng tràn lên đồng; đến khi nước giựt thì cá trắng về sông nhưng cá đen cũng theo nước giựt rút xuống các kinh rạch giống như cá trắng; chỉ còn một số thì kẹt lại các lung vũng, đìa bàu hoặc các ngọn mương, ngọn rạch còn chút ít nước.
|
Nhân vật trong game thường là : đàn ông, phụ nữ, trẻ em,… Thể loại này thường có cốt truyện hay, đồ họa 3D phong phú. Game sẽ đưa bạn vào đấu trường mạng khốc liệt, với vô vàn chế độ chơi quen thuộc của thể loại FPS,… chi tiết hơn. Bạn sẽ hóa thân vào nhân vật tên là Joe và nhận nhiệm vụ tiêu diệt zombie cùng với team mình. Trò chơi được coi là sự kế thừa cho Dead Trigger 2… Chi tiết hơn. Là một tựa game súng online nhiều người chơi, thuộc thể loại MMOFPS . Tiến hành đội 9 người chơi, có thể mời bạn bè rồi thi triển kỹ năng chống lại kẻ thù ở khắp nơi trên thế giới… Chi tiết hơn. Warframe là một tựa game thuộc thể loại ” bắn súng góc nhìn người thứ ba ” có sự hợp tác với nhau. Game được phát triển và phát hành bởi Digital Extreme vào ngày 25/3/2013. Tương tự như Team Fortress 2 là trò chơi bắn bắn súng góc nhìn người thứ nhất, được sản xuất bởi : Valve, Electronic Arts, Buka Entertainment. Là tựa game bắn súng theo thể loại MoBa góc nhiều thứ nhất đa người chơi, được phát triển và phát hành bởi Blizzard Entertainment. Là trò chơi chiến tranh viễn tướng trong tương lai, do Pixel Toys xuất bảng vào ngày 19/11/2015. Phía trên là 15 game nổi bật nhất thể loại Multiplayer được yêu thích và chơi nhiều hiện nay. Bạn cũng có thể tham khảo các tựa game khác ở dưới đây mà tôi đã tổng hợp. Blog Game Zathong chia sẻ thông tin game và cách chơi game hiệu quả cho nhiều thể loại như : liên quân mobile, liên quân huyền thoại, pubg, và nhiều tựa game hấp dẫn khác. Blog sẽ cập nhật thông tin các giải đấu Esport chuyên nghiệp trong nước và quốc tế cho các bạn đam mê game có thể theo dõi kịp thời.
|
Trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất trực tuyến nhiều người chơi
|
Trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất trực tuyến nhiều người chơi (MMOFPS) pha trộn giữa thể loại bắn súng góc nhìn thứ nhất và game trực tuyến nhiều người chơi, có thể còn nằm dưới dạng game trên nền web, nơi có một số lượng rất lớn người chơi tương tác với nhau trong một thế giới ảo. MMOFPS là một thể loại game trực tuyến với số lượng lớn người chơi cùng lúc theo kiểu game bắn súng góc nhìn thứ nhất. Những game dạng này thường có quy mô lớn đôi lúc còn chiến đấu theo nhóm. Ngoài việc bổ sung tính lâu dài trong thế giới game có nghĩa là những game này còn thêm thắt các yếu tố đặc trưng của thể loại game nhập vai. Tuy vậy, các game MMOFPS lại nhấn mạnh đến kỹ năng của người chơi nhiều hơn chỉ số nhân vật của họ, vì chẳng có phần thưởng trong game nào có thể bù đắp cho một người chơi không có khả năng nhắm bắn và suy nghĩ mang tầm chiến lược. Neocron đôi khi còn được coi là MMOFPS đầu tiên, hầu hết đều xem nó như là một dạng lai giữa thể loại MMORPG và bắn súng góc nhìn thứ nhất, với PlanetSide về sau cho phép 399 người chơi đều chiến đấu với nhau trên cùng một bản đồ.
|
Để có được một sản phẩm mới, doanh nghiệp cần lên kế hoạch cho một chuỗi các giai đoạn liên quan. Từ mẫu thiết kế phác thảo, lên nội dung ý tưởng đến sản xuất yêu cầu các doanh nghiệp lưu trữ một lượng thông tin lớn và cần thống nhất thông tin dữ liệu trong quá trình chuyển giao giữa các bộ phận. Quản lý vòng đời sản phẩm là một giải pháp cần thiết cho mỗi doanh nghiệp để quản lý tất cả các yếu tố liên quan đến sản phẩm từ sơ bộ đến khi hết vòng đời sản phẩm. Vòng đời sản phẩm hay gọi tắt là PLM (Product Lifecycle Management) là một quá trình phát triển của một sản phẩm từ công đoạn lên ý tưởng, thiết sản phẩm, gia công khuôn mẫu đến sản xuất và xây dựng dịch vụ liên quan. Vòng đời sản phẩm trong hoạt động kỹ thuật công nghệ là quá trình từ những thông tin sản phẩm ban đầu là các bản vẽ 2D, mô hình 3D được xây dựng trên các phần mềm CAD. Từ những thông tin về bản vẽ, tiến hành sản xuất, sử dụng mô hình 3D để phân tích bằng các phần mềm CAE, bộ phận quản lý sẽ tiến hành kiểm tra chất lượng, các bộ phận marketing và bán hàng sẽ dùng dữ liệu hình ảnh và các chỉ số sản phẩm để lên kế hoạch tung sản phẩm ra thị trường. Để các bộ phận trong một công ty thống nhất hoạt động từ sản xuất đến bàn hàng, tung sản phẩm cần có sự nhất quán về các thông tin sản phẩm để quá trình công việc diễn ra thuận lợi mà không có bất kỳ sai sót nào. Vì vậy, các phần mềm PLM được ra đời để thống nhất và quản lý các thông tin của sản phẩm một các chặt chẽ trong quá trình chuyển giao hoạt động trong vòng đời sản phẩm của các bộ phận trong một doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng giải pháp quản lý vòng đời sản phẩm sẽ giúp quá trình sản xuất và tung sản phẩm xảy ra nhanh chóng và mang lại hiệu quả cao. Việc các thông tin sản phẩm được lưu trữ và quản lý rõ ràng sẽ giúp ích cho quá trình nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện tính an toàn, tránh các sai sót và lãng phí. Product Lifecycle Management tự động hóa quy trình sản xuất kinh doanh, thu thập các thông tin dữ liệu, con người và các quy trình liên quan đến vòng đời sản phẩm. Giải pháp PLM tích hợp thông tin cá nhân, dữ liệu và cung cấp cấu trúc sản phẩm cho doanh nghiệp. Thông tin được tổng hợp kiểm tra thường xuyên hạn chế được các lỗi sản xuất phát sinh. Giải pháp Windchill thuộc hãng PTC là một phần mềm vô cùng mạnh mẽ chạy trên nền tảng các hệ điều hành như: Windows, Unix, Linux. Kiến trúc mở của Windchill cho phép tích hợp dễ dàng với các hệ thống doanh nghiệp khác, bao gồm cả IoT, cung cấp nền tảng vững chắc cho chuỗi kỹ thuật số hướng sản phẩm. Hệ thống PLM của PTC cung cấp chức năng toàn diện và các ứng dụng dựa trên nhiệm vụ và vai trò có thể cấu hình cao. Mở rộng quyền truy cập tự phục vụ dữ liệu sản phẩm có thể theo dõi cho những người không phải là chuyên gia thường không sử dụng PLM, đồng thời tránh tùy chỉnh quá mức và phức tạp. Giải pháp SmartTeam là phần mềm quản lý vòng đời sản phẩm thuộc công ty Dassault Systemes chạy trên hệ điều hành Window. SmartTeam xây dựng với chức năng chính là quản lý dữ liệu của các phần mềm CAD, tuy nhiên được tích hợp nhiều module mở rộng để tự động trong chu trình làm việc, quản lý BOM hay quản lý dự án. TeamCenter có rất nhiều các tính năng khác nhau giúp quản lý và liên kết các thông tin trong một vòng đời sản phẩm. Một số tính năng nổi bật có thể kể đến như:. Quản lý vòng đời sản phẩm là một giải pháp cần thiết cho doanh nghiệp để thức đẩy quá trình sản xuất và kinh doanh diễn ra nhanh chóng và hiệu quả, từ đó nâng cao năng suất và tăng doanh thu lợi nhuận cho doanh nghiệp. IoT là một công nghệ kết nối các thiết bị tạo ra một hệ thống.
|
Quản lý vòng đời sản phẩm
|
Quản lý vòng đời sản phẩm là các chiến lược được sử dụng để quản lý sản phẩm trong các giai đoạn (thể hiện xuyên suốt quá trình từ khi sản phẩm ra đời đến lúc bị vứt bỏ), bao gồm nhiều quy tắc chuyên nghiệp, và yêu cầu nhiều kĩ năng, công cụ và tiến trình. Chi phí rất thấp vì đã có chỗ đứng tốt trên thị trường và không cần quảng bá nữa. Giá bán, lợi nhuận giảmMột sản phẩm không nhất thiết phải trải qua tất cả các giai đoạn nêu trên. Một số sản phẩm có vẻ cứ mãi mãi ở trong giai đoạn mature (ví dụ như sữa). Những nhà Marketing có nhiều cách giữ cho tiến trình của sản phẩm không đi tới giai đoạn thoái trào. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, người ta có thể tính được tuổi thọ dự kiến của một nhóm sản phẩm nào đó. Các chiến lược marketing mix của những nhà Marketing thay đổi theo tiến trình mà sản phẩm của họ trải qua vòng đời của chúng.
|
Không phải đến khi đứng lên kiện gia đình vì bị tra tấn, ngược đãi suốt 13 năm, Britney Spears mới được người ta nhắc đến. Từ thời điểm ra mắt bản siêu hit mọi thời Baby One More Time đến nay, nữ ca sĩ vẫn luôn được xem là một biểu tượng văn hóa bất hủ. Không chỉ được mệnh danh là "công chúa nhạc Pop" nhờ có công trong việc vực dậy dòng nhạc teen pop vào cuối thập niên 1990, Britney Spears còn có rất nhiều đóng góp cho ngành công nghiệp thời trang. Nhắc đến Britney, là nhắc đến một biểu tượng với nhiều trang phục được xem như kinh điển. Có thời gian, Britney xuất hiện ở đâu là gây xôn xao đến đó, Britney mặc gì, là bộ cánh đó lập tức tạo trend. Đến nay, nhiều outfit của mỹ nhân sinh năm 1981 vẫn là nguồn cảm hứng cho các ngôi sao và giới trẻ thế hệ mới. Đĩa đơn đầu tiên cũng chính là bài hát chủ đề cùng tên, ngay lập tức tạo thành cơn sốt toàn cầu khi ra mắt. Ban đầu, Jive Records muốn thực hiện một MV dưới hình thức hoạt hình, tuy nhiên chính Britney đã chọn cho mình phong cách nữ sinh sexy và nổi loạn. Có lẽ chính cô thời điểm đó cũng không thể ngờ outfit của mình lại truyền cảm hứng mạnh mẽ tới vậy. Nữ ca sĩ diện sơ mi trắng bung cúc lộ nội y lấp ló, buộc nơ cao khoe rốn, kết hợp cùng cardigan và chân váy xếp ly. Từ những items bình thường của mọi teen girl, Britney biến thành một bộ cánh được bao người bắt chước theo. Nếu nói về phong cách nữ sinh Mỹ năm 2000, "công chúa nhạc Pop" chính là một trong những người có công đầu tiên trong việc quảng bá đến giới trẻ toàn thế giới. Cũng trong năm đó, Britney phát hành đĩa đơn Sometimes, tiếp tục là một bản hit bất hủ của giọng ca người Mỹ. Bối cảnh MV diễn ra ở một bãi biển, nơi Britney khoe vũ đạo cuốn hút, làn da nâu nóng bỏng, thân hình săn chắc với outfit tuyền tông trắng. Set đồ gồm croptop cùng quần tụt hiphop cô diện năm nào đến nay vẫn không lỗi mốt, vẫn được nhiều ngôi sao trẻ học hỏi cách phối theo. Một thời gian dài, Britney Spears cứ phát hành album nào là sản phẩm đó lập tức phá vỡ mọi kỷ lục. Một năm sau đó, cô ra mắt album phòng thu thứ hai Oops!. I Did It Again, với bài hát chủ đề cùng tên, ngay lập tức chiếm sóng trên mọi bảng xếp hạng. Hẳn các fan của US-UK chẳng thể quên được hình ảnh của Britney trong MV đó, một cô gái ngoài hành tinh với bộ đồ bodysuit da đỏ ôm sát body từ đầu đến chân. Ngoài Britney với thân hình bốc lửa hoàn hảo cùng thần thái ngút ngàn, hẳn bất cứ ai diện trang phục này cũng sẽ thành "thảm họa". Nhắc đến thời trang của Britney Spears trong các MV, không thể quên hình ảnh của cô tiếp viên hàng không bốc lửa ở sản phẩm Toxic, phát hành trong album In The Zone (2003). Đây là thời kỳ nữ ca sĩ bắt đầu rũ mác "công chúa nhạc Pop" ngọt ngào để chứng minh "tôi đã lớn" bằng những trang phục đầy khiêu khích và nổi loạn. Cũng trong MV này, Britney gây sốc khi mặc bộ bodysuit xuyên thấu đính đá, lộ gần như 100% cơ thể. Hình ảnh nữ ca sĩ uốn éo với thiết kế "mặc như không" từng khiến cô bị chỉ trích thời gian dài, thậm chí cô còn bị các bậc phụ huynh phản đối vì sợ tạo nên ảnh hưởng xấu đến con trẻ, tuy nhiên không thể phủ nhận đây là outfit "nhìn một lần là nhớ". Hàng loạt bộ ảnh tạp chí thời trang sau này, vẫn lấy bộ cánh này để làm cảm hứng concept. Trong thời kỳ hoàng kim của những năm đầu sự nghiệp, Britney Spears được xem là biểu tượng của phong cách Y2K. Đây là từ viết tắt của "Year 2000", là thuật ngữ nói về sự cố công nghệ phát sinh vào cuối 1999, khi máy tính thế hệ cũ gặp khó khăn trong việc lưu trữ dữ liệu trong thiên niên kỷ mới. Phong cách thời trang Y2K chịu ảnh hưởng của những thay đổi đến từ bước tiến công nghệ, hướng đến vẻ hiện đại và gợi cảm, đại diện cho hy vọng về một thời đại thịnh vượng và phát triển hơn. Trên sân khấu concert đầu tiên trong sự nghiệp năm 1999, Britney từng diện áo quây metallic kết hợp quần thụng, thắt lưng dây dù. Đây được xem là một trang phục đặc trưng phong cách Y2K với vẻ sexy pha trộn sự hiện đại của công nghệ. Tại lễ trao giải MTV Video Music Awards 2000, Britney gây bàn tán xôn xao với trang phục màu nude hở bạo "rất dễ gây hiểu nhầm". Không khó để nhận ra những gì cô khoác lên người ngày hôm đó: áo nhỏ như nội y, quần tụt kèm dây mô phỏng quần chip, sau 20 năm lại xuất hiện nhan nhản cùng các fashion icon hiện đại. Với trang phục này, Britney Spears không chỉ xứng danh là "công chúa nhạc Pop" mà còn được xem như một "cỗ máy nhảy" của làng nhạc US-UK. Cũng trong năm 2000, Britney Spears lên thảm đỏ Grammy với trang phục chứng minh "tôi là một ngôi sao". Nữ ca sĩ quen với sự nổi tiếng, hào nhoáng rất nhanh chóng. Mới ở những năm đầu sự nghiệp, Britney đã chẳng hề thua kém bất cứ đàn chị nào với chiếc váy trắng dài quét đất, kết hợp cùng áo khoác lông và trang sức kim cương sang chảnh. Không phải bỗng dưng mà Britney còn được mệnh danh là "Human Denim". Một trong những khoảnh khắc thời trang kinh điển nhất của cô là khi sóng đôi cùng bạn trai Justin Timberlake đến tham dự American Music Awards 2001 với trang phục denim từ đầu đến chân. Phong cách vừa sexy vừa phóng khoáng này ngay lập tức giúp chất liệu denim cứng cáp trở thành hot trend. Đây đồng thời cũng là khoảnh khắc khiến người ta nhớ mãi về một Britney đầy sức sống, khi đang ở đỉnh cao của cả danh vọng và tình yêu. Dù xuất thân từ "lò" Disney, Britney cho thấy cô chẳng phải là một "búp bê trong tủ kính" ngoan hiền. Năm 2001, nữ ca sĩ gây náo loạn VMAs khi lên sân khấu biểu diễn Im A Slave 4 U với outfit không thể ấn tượng hơn. Áo ngực bó sát đi kèm quần cạp trễ hot pants giúp "công chúa nhạc Pop" khoe cơ bụng săn chắc, nhan sắc đỉnh cao. Màn trình diễn với trăn của siêu sao âm nhạc được nhiều tạp chí bình chọn là khoảnh khắc mang tính biểu tượng của nền văn hóa đại chúng. Trên con đường chứng minh sự trưởng thành, Britney từng khiến cả thế giới náo loạn với sự xuất hiện ở MTV Video Music Awards 2003. Trên thảm đỏ, cô diện outfit ren trắng cùng trang sức ngọc trai, làm tôn lên mái tóc vàng ngọt ngào cùng nhan sắc ở độ chín. Bộ cánh này thể hiện rất rõ con người của Britney, một cô công chúa xinh đẹp nhưng cũng ẩn chứa đầy sự sexy, nổi loạn. Trên sân khấu lễ trao giải, Britney gây sốc khi công khai khóa môi Madonna. Một người diện đồ trắng, một người đối lập với tông đen, một người được mệnh danh là "công chúa nhạc Pop" còn một người được xem là "nữ hoàng nhạc Pop". Nụ hôn đồng giới này tạo nên sự tranh cãi chưa từng có, trong đó Britney phải hứng chịu không ít chỉ trích vì làm sụp đổ hoàn toàn hình ảnh một thần tượng ngọt ngào, trong sáng. Cũng từ đây, nữ ca sĩ ngày càng có những hành động gây sốc hơn, dần dần dẫn đến nhiều vết trượt dài trong sự nghiệp.
|
Oops!... I Did It Again (bài hát)
|
I Did It Again" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Britney Spears nằm trong album phòng thu thứ hai năm 2000 cùng tên của cô. Nó được phát hành vào ngày 27 tháng 3 năm 2000 bởi hãng Jive Records, như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album. Bài hát được viết lời và sản xuất bởi Max Martin và Rami Yacoub, những cộng tác viên quen thuộc trong album trước của Spears. Đây là một bản teen pop và dance-pop, với nội dung đề cập đến một cô gái nghĩ rằng tình yêu là một trò chơi và đùa giỡn với những cảm xúc của người yêu của mình, trong đó bao gồm một cuộc đối thoại ở gần cuối bài hát được trích dẫn từ bộ phim của James Cameron, Titanic (1997). I Did It Again" đa phần nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ nhận thấy nhiều điểm tương đồng giữa nó và đĩa đơn đầu tay năm 1999 của Spears ".Baby One More Time". Nó còn giúp nữ ca sĩ nhận được một đề cử giải Grammy cho Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 43.
|
OTT hay ứng dụng OTT (Over The Top) là thuật ngữ để chỉ giải pháp cung cấp các nội dung cho người dùng như các nội dung về âm thanh (Audio), hình ảnh (video) trên nền tảng Internet. OTT loại bỏ các nền tảng truyền thống như truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh, các bộ chuyển đổi giải mã., chỉ sử dụng hạ tầng internet để phân phối nội dung tới người dùng. Gần đây dịch vụ OTT được nhắc đến nhiều trên các phương tiện truyền thông .Tuy nhiên khái niệm OTT dường như vẫn còn khá xa lạ và khó hiểu đối với đa số người dùng. Một phần vì bản thân cái tên OTT đã là một khái niệm khá mơ hồ và chung chung chứ không tường minh như nhiều tên gọi dịch vụ khác. Song ngoài vỏ bọc chung chung đó, dịch vụ OTT thực ra khá dễ hiểu. Về cơ bản, có thể hiểu các dịch vụ OTT là những dịch vụ gia tăng trên nền Internet như: phát thanh, truyền hình, nhắn tin, VOIP., do các nhà cung cấp dịch vụ nội dung thực hiện mà không phải do các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) trực tiếp đưa đến. Nhiều năm trước để xem truyền hình cáp cần có một bộ giải mã truyền hình. Ngày nay chúng ta có thể xem nội dung OTT từ rất nhiều các thiết bị. Bất kỳ chủ tài khoản nào cũng có thể tận hưởng trải nghiệm nội dung có giá trị qua ứng dụng OTT tương tự mà nhiều khi không phải mất phí hoặc chỉ phải trả phí rất thấp. Các thiết bị có thể sử dụng những ứng dụng OTT như máy tính để bàn, máy tính xách tay, điện thoại thông minh, tivi thông minh, máy tính bảng, máy chơi game, một số OTT Player thông dụng (Roku, Dune, Apple TV,.). Các nội dung của OTT chủ yếu tập trung trong lĩnh vực truyền hình được phát triển từ bên thứ ba như Hulu, Netflix, HBO, MyTV, HDO, HayhayTv, Zing TV (xem phim trực tuyến), Facebook, Twitter (mạng xã hội), Zalo, Viber, Skype. Các nội dung này được chuyển tải đến một thiết bị người dùng cuối và các nhà cung cấp dịch vụ internet chỉ chịu trách nhiệm vận chuyển các gói tín hiệu. Cơ sở hạ tầng mạng của các nhà cung cấp dịch vụ internet là yếu tố chủ chốt để cung cấp các dịch vụ OTT. Mạng internet ban đầu được thiết lập chủ yếu dành cho các ứng dụng thoại và tin nhắn SMS, Tuy nhiên, với sự xuất hiện của dữ liệu và các giao diện truyền thông mở, hạ tầng mạng đã trở thành một nền tảng hỗ trợ đối với các ứng dụng cụ thể. Điều duy nhất khách hàng cần là đường kết nối mạng internet và các thiết bị tương thích với loại hình OTT cung cấp. Thiết bị di động: Điện thoại thông minh và máy tính bảng có thể tải xuống ứng dụng OTT từ các kho ứng dụng. Máy tính cá nhân: Hầu hết các máy tính đều hỗ trợ xem nội dung OTT thông qua các ứng dụng hoặc trình duyệt web trên máy tính để bàn. Các mẫu TV mới nhất: Các ứng dụng OTT được cài đặt sẵn hoặc cung cấp cho người dùng tùy chọn tải xuống. Các phương tiện kỹ thuật số: Các thiết bị của bên thứ ba như Apple TV, máy chơi game hiện đại như Xbox cũng hỗ trợ một loạt các giải pháp và khả năng tải xuống và chạy các ứng dụng OTT. Được tích hợp trên hầu hết thiết bị như máy tính, máy tính bảng TV, Smart TV., và ứng dụng trên đa nền tảng.
|
Ứng dụng OTT
|
Ứng dụng OTT (tiếng Anh: Over-the-top app) là thuật ngữ để chỉ các ứng dụng và các nội dung như âm thanh, video được cung cấp trên nền tảng Internet và không một nhà cung cấp hoặc bất kỳ cơ quan nào có thể can thiệp vào. Các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) có thể nhận biết được sự tồn tại của những nội dung OTT này thông qua các gói dữ liệu nhưng không thể kiểm soát được nội dung bên trong và không chịu trách nhiệm về chúng (chi phí, bản quyền,.). Điều này trái ngược với các dịch vụ tính phí trước đây, chẳng hạn xem truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh phải trả tiền cho nhà cung cấp tín hiệu truyền hình hoặc xem IPTV (như MyTV) phải thanh toán cho nhà cung cấp dịch vụ Internet, gọi điện thoại, nhắn tin phải trả cước cho nhà mạng. Do đó, các nội dung OTT đặc biệt đều xuất phát từ bên thứ ba như Hulu, Netflix, HBO Go (xem tín hiệu truyền hình), VieON, HDO, HayhayTv, Zing TV (xem phim trực tuyến), Facebook, Twitter, Gapo (mạng xã hội), Zalo, Line, Viber, Skype (ứng dụng liên lạc),.
|
Vận động hành lang trong tiếng Anh là Lobby. Vận động hành lang là việc gây ảnh hưởng, áp lực tới một số người hoặc một nhóm người của một tổ chức liên quan đến việc thông qua một quyết định cần thiết của Chính phủ. Nói cách khác, vận động hành lang là những hoạt động của tổ chức có ảnh hưởng đến quá trình ra những quyết định của giới công quyền. Những quyết định này có ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức và công ty. - Vận động hành lang là một kĩ thuật PR rất quan trọng và trở thành hoạt động nghề nghiệp ở nhiều quốc gia trên thế giới. - Đối với các hiệp hội ngành hàng hoặc hiệp hội nghề nghiệp lớn đều tiến hành Lobby thông qua các chuyên gia Lobby của mình hoặc thuê ngoài. - Hoạt động Lobby thường hướng tới các nhà lập pháp và thực thi pháp luật. Mục tiêu của Lobby là gây ảnh hưởng đến sự ban hành các đạo luật và quyết định của Chính phủ theo những mức độ khác nhau. - Cải thiện mối quan hệ truyền thông với các cá nhân hoặc các cơ quan Chính phủ. - Đảm bảo quyền lợi của tổ chức, công ty có trong tất cả các lĩnh vực quản lí của Nhà nước. - Tác động, gây ảnh hưởng tới luật pháp có liên quan đến lĩnh vực hoạt động của tổ chức, công ty. - Vận dụng các khả năng để các nhà làm luật hiểu được hoạt động và các vấn đề liên quan tới tổ chức. - Các công việc theo hệ thống: Chuyên gia Lobby sử dụng mối quan hệ quen biết của mình liên lạc với các chính trị gia, các nhà chức trách của Chính phủ để đưa được những thông tin cần thiết và có lợi cho khách hàng của họ đến những người có trách nhiệm thông qua các quyết định. - Các công việc gây áp lực: Chuyên gia Lobby sử dụng các phương tiện truyền thông Lobby cấp cơ sở. Mục tiêu là thông tin cho dân chúng biết đến một vấn đề cụ thể nào đó, hướng dư luận vào phía có lợi cho hoạt động lobby, làm sôi động các hoạt động xã hội và truyền thông đại chúng. + Tham gia vào hoạt động của các nhóm soạn thảo và đánh giá các đề án của Chính phủ và nghị viện.
|
Vận động hành lang
|
Trong chính trị, vận động hành lang (tiếng Anh: lobby) là hành động cố gắng gây ảnh hưởng hợp pháp đến các hoạt động, chính sách hoặc quyết định của các quan chức chính phủ, thường là các nhà lập pháp hoặc thành viên của các cơ quan quản lý nhà nước. Ở một khía cạnh nào đó, những kiểu "chạy" giấy phép, "chạy" dự án của các doanh nghiệp Việt Nam có thể xem là một phần của hoạt động lobby. Ở Việt Nam hoạt động này bị xem là bất hợp pháp và bị coi là tham nhũng, nhưng tại một số nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh. lobby là một hoạt động được luật pháp công nhận, có cả những công ty lớn chuyên hoạt động lobby theo đặt hàng. Tham nhũng ở nhiều nước phát triển được thực hiện một cách tinh vi dưới những vỏ bọc hợp pháp với danh nghĩa lobby. Đó là việc gián tiếp đưa hối lộ bằng nhiều hình thức hợp pháp như thông qua việc quyên góp, ủng hộ quỹ cho các chiến dịch của các chính trị gia, các nghị sĩ… Tổ chức minh bạch đã lên tiếng cảnh báo về thực trạng vận động hành lang đã thao túng các quyết sách của giới lãnh đạo châu Âu, dẫn đến tình trạng tham nhũng nghiêm trọng trong giới lãnh đạo.
|
Năm 1947: Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, thường gọi là Y khoa Đại học đường Sài Gòn, được thành lập, như một phân hiệu của trường Y khoa Hà Nội. C.Massias được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng phân hiệu này. Pierre Daléas, Phó Khoa trưởng của Trường Y Dược Hà Nội phụ trách; GS. Pierre Daléas được xem là vị “Khoa trưởng” đầu tiên của trường.). Năm 1954: Trường chính thức mang tên Trường đại học Y Dược Sài Gòn, hay thường được gọi ngắn gọn là Trường y khoa Sài Gòn hoặc gọi một cách trang trọng là Y dược đại học đường Sài Gòn (do Chính phủ Việt Nam Cộng hòa quản lý). Ngày 31.12.1961: Y Dược Đại học đường Sài Gòn được phân chia thành Y khoa Đại học đường Sài Gòn và Dược khoa Đại học đường Sài Gòn. Ngày 12.08.1962: Ban Nha khoa thuộc Y khoa Đại học đường Sài Gòn trở thành Nha khoa Đại học đường Sài Gòn. Cả 3 trường hoạt động độc lập trong Viện Đại học Sài Gòn. Ngày 27.10.1976: Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 426/TTg ngày 27/10/1976 về một số vấn đề cấp bách trong mạng lưới các trường đại học ở miền Nam, theo đó trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập trên cơ sở hợp nhất ba trường: Y khoa Đại học đường Sài Gòn, Dược khoa Đại học đường Sài Gòn, Nha khoa Đại học đường Sài Gòn. Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh có 3 khoa trực thuộc gồm Khoa Y, Khoa Răng Hàm Mặt và Khoa Dược, 10 phòng chức năng và 57 bộ môn tại 3 Khoa. Đơn vị chủ quản của trường là Bộ Y Tế. Năm 1990: Trường xây dựng định hướng chiến lược phát triển Trường Đại Học Y Dược Thành phố Hồ chí Minh thành trường đa ngành trong lĩnh vực khoa học sức khỏe, mục tiêu là phát triển thêm 4 khoa mới và một bệnh viện thuộc trường. Năm 1994: Xây dựng Khoa Khoa học cơ bản trên cơ sở sáp nhập và tổ chức lại các bộ môn Khoa học Xã hội Nhân văn và các Bộ môn Khoa học cơ bản của các khoa. Khoa Khoa học cơ bản đảm trách giảng dạy các môn chung, các môn Khoa học Xã hội Nhân văn và các môn khoa học cơ bản cho tất cả các chương trình đào tạo. Năm 1998: Xây dựng Khoa Y học cổ truyền trên cơ sở sáp nhập trường Trung học Y tế Tuệ Tĩnh và Bộ môn Đông Y của Khoa Y đảm trách các chương trình đào tạo về Y học Cổ truyền và học phần y học cổ truyền cho các chương trình khác. Năm 1998: Xây dựng Khoa Điều dưỡng - Kỹ thuật y học trên cơ sở sáp nhập và nâng cấp Trường Kỹ thuật Y tế Trung ương III. Khoa đảm trách đào tạo các chương trình về điều dưỡng và kỹ thuật y học. Năm 1999: Xây dựng Khoa Y tế Công cộng trên cơ sở sáp nhập Bộ môn Y tế công cộng của Khoa Y và Khoa Tổ chức-Quản lý của Viện Vệ sinh Y tế Công cộng. Khoa đảm trách đào tạo các chương trình về y tế công cộng, y học dự phòng và các môn học có liên quan. Ngày 18.10.2000: Bệnh viện Đại học Y Dược được thành lập theo Quyết định số 3639/2000/QĐ-BYT ngày 18/10/2000, trên cơ sở sáp nhập 3 phòng khám Đa Khoa thuộc Khoa Y, Khoa Điều dưỡng-Kỹ thuật Y học và Khoa Y học Cổ truyền. Hiện nay Bệnh viện ĐHYD TP.HCM trở thành bệnh viện hạng nhất hiện đại với gần 1.000 giường bệnh, đáp ứng yêu cầu thực hành khám chữa bệnh. Bệnh viện là đơn vị đào tạo, đơn vị nghiên cứu lâm sàng, nơi ứng dụng và chuyển giao các kỹ thuật tiên tiến trong khám chữa bệnh có uy tín cả nước và có vai trò quan trọng trong hợp tác quốc tế. Ngày 18.06.2003: Trường Đại Học Y Dược Thành phố Hồ chí Minh được đổi tên thành Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHYD TP.HCM) theo Quyết định số 2223/QĐ-BYT ngày 18/6/2003 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
|
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
|
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh là một trường đại học chuyên ngành y khoa tại Việt Nam. Có sứ mạng đào tạo bác sĩ, dược sĩ có trình độ đại học, sau đại học, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ y dược, hỗ trợ phát triển hệ thống y tế nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân khu vực vùng Đông Nam Bộ. Được xếp vào nhóm trường đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam, trực thuộc Bộ Y tế Việt Nam. Tiền thân của cơ sở giáo dục này là Trường Đại học Y khoa Sài Gòn. Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, thường gọi là Y khoa Đại học đường Sài Gòn, được thành lập năm 1947, như một phân hiệu của trường Y khoa Hà Nội. C.Massias được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng phân hiệu này. Ngày 31 tháng 8 năm 1961, Y Dược Đại học đường Sài Gòn được phân chia thành Y khoa Đại học đường Sài Gòn và Dược khoa Đại học đường Sài Gòn. Ngày 12 tháng 8 năm 1962, Ban Nha khoa thuộc Y khoa Đại học đường Sài Gòn trở thành Nha khoa Đại học đường Sài Gòn.
|
Mô hình TRA cho thấy xu hướng tiêu dùng là yếu tố dự đoán tốt nhất về hành vi tiêu dùng. Để quan tâm hơn về các yếu tố góp phần đến xu hướng mua thì xem xét hai yếu tố là thái độ và chuẩn chủ quan của khách hàng. Trong mô hình TRA, thái độ được đo lường bằng nhận thức về các thuộc tính của sản phẩm. Người tiêu dùng sẽ chú ý đến những thuộc tính mang lại các ích lợi cần thiết và có mức độ quan trọng khác nhau. Nếu biết trọng số của các thuộc tính đó thì có thể dự đoán gần kết quả lựa chọn của người tiêu dùng. Yếu tố chuẩn chủ quan có thể được đo lường thông qua những người có liên quan đến người tiêu dùng (như gia đình, bạn bè, đồng nghiệp,…); những người này thích hay không thích họ mua. Mức độ tác động của yếu tố chuẩn chủ quan đến xu hướng mua của người tiêu dùng phụ thuộc: (1) mức độ ủng hộ/phản đối đối với việc mua của người tiêu dùng và (2) động cơ của người tiêu dùng làm theo mong muốn của những người có ảnh hưởng. Mức độ ảnh hưởng của những người có liên quan đến xu hướng hành vi của người tiêu dùng và động cơ thúc đẩy người tiêu dùng làm theo những người có liên quan là hai yếu tố cơ bản để đánh giá chuẩn chủ quan. Mức độ thân thiết của những người có liên quan càng mạnh đối với người tiêu dùng thì sự ảnh hưởng càng lớn tới quyết định chọn mua của họ. Niềm tin của người tiêu dùng vào những người có liên quan càng lớn thì xu hướng chọn mua của họ cũng bị ảnh hưởng càng lớn. Ý định mua của người tiêu dùng sẽ bị tác động bởi những người này với những mức độ ảnh hưởng mạnh yếu khác nhau. Trong mô hình thuyết hành động hợp lý thì niềm tin của mỗi cá nhân người tiêu dùng về sản phẩm hay thương hiệu sẽ ảnh hưởng đến thái độ hướng tới hành vi, và thái độ hướng tới hành vi sẽ ảnh hưởng đến xu hướng mua chứ không trực tiếp ảnh hưởng đến hành vi mua. Do đó thái độ sẽ giải thích được lý do dẫn đến xu hướng mua sắm của người tiêu dùng, còn xu hướng là yếu tố tốt nhất để giải thích xu hướng hành vi của người tiêu dùng. Ưu điểm : Mô hình TRA giống như mô hình thái độ ba thành phần nhưng mô hình này phối hợp 3 thành phần : nhận thức, cảm xúc và thành phần xu hướng được sắp xếp theo thứ tự khác với mô hình thái độ ba thành phần. Phương cách đo lường thái độ trong mô hình TRA cũng giống như mô hình thái độ đa thuộc tính. Tuy nhiên mô hình TRA giải thích chi tiết hơn mô hình đa thuộc tính vì thêm thành phần chuẩn chủ quan. Nhược điểm : Thuyết hành động hợp lý TRA bị giới hạn khi dự đoán việc thực hiện các hành vi của người tiêu dùng mà họ không thể kiểm soát được bởi vì mô hình này bỏ qua tầm quan trọng của yếu tố xã hội mà trong mà trong thực tế có thể là một yếu tố quyết định đối với hành vi cá nhân (Grandon & Peter P. Mykytyn 2004; Werner 2004). Yếu tố xã hội có nghĩa là tất cả những ảnh hưởng của môi trường xung quanh các cá nhân mà có thể ảnh hưởng đến hành vi cá nhân (Ajzen 1991); yếu tố về thái độ đối với hành vi và chuẩn chủ quan không đủ để giải thích cho hành động của người tiêu dùng. Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. Mình đang nghiên cứu về hành vi của hộ gia đình. Ban co thể share cho mình bài luận văn của bạn được ko?. Trước hết bạn cần xác định “hành vi” bạn nghiên cứu. Nếu bạn nghiên cứu hành vi thanh toán điện tử thì cần xác định mục tiêu là nghiên cứu “hành vi thanh toán điện tử loại nào, mua loại hàng gì, trong giới hạn thời gian nào,…. Hai yếu tố giải thích cho “thái độ” là “niềm tin rằng hành vi thanh toán điện tử sẽ mang lại kết quả nào đó” và “đánh giá về kết quả tương ứng đó”. Bạn ghi là niềm tin và đo lường niềm tin về thuộc tính sản phẩm thì có lẽ chưa phù hợp với hành vi “thanh toán điện tử”. Hai yếu tố giải thích cho “chuẩn chủ quan” là “niềm tin rằng những nhóm người tham khảo nào đó nghĩ rằng họ (người được nghiên cứu) nên/không nên thực hiện hành vi thanh toán điện tử” và “động cơ của họ (người được nghiên cứu)tuân theo nhóm người tham khảo” (Schiffman LG. Các yếu tố giải thích trong mục 2 va 3 ở trên được xem là đo gián tiếp (dùng phép tính nhân để tính điểm cho mỗi niềm tin…). Ajzen mỡ rộng thuyết TRA bằng cách thêm vào thành phần “kiểm soát hành vi cảm nhận” cho ra đời Thuyết Hành vi Hoạch định (Theory of Planned Behavior) (Ajzen, 1991). Nếu có thể nên áp dụng TPB cho nghiên cứu các hành vi. Trước hết bạn cần xác định “hành vi” bạn nghiên cứu. Nếu bạn nghiên cứu hành vi thanh toán điện tử thì cần xác định mục tiêu là nghiên cứu “hành vi thanh toán điện tử loại nào, mua loại hàng gì, trong giới hạn thời gian nào,…. Hai yếu tố giải thích cho “thái độ” là “niềm tin rằng hành vi thanh toán điện tử sẽ mang lại kết quả nào đó” và “đánh giá về kết quả tương ứng đó”. Bạn ghi là niềm tin và đo lường niềm tin về thuộc tính sản phẩm thì có lẽ chưa phù hợp với hành vi “thanh toán điện tử”. Hai yếu tố giải thích cho “chuẩn chủ quan” là “niềm tin rằng những nhóm người tham khảo nào đó nghĩ rằng họ (người được nghiên cứu) nên/không nên thực hiện hành vi thanh toán điện tử” và “động cơ của họ (người được nghiên cứu)tuân theo nhóm người tham khảo” (Schiffman LG. Các yếu tố giải thích trong mục 2 va 3 ở trên được xem là đo gián tiếp (dùng phép tính nhân để tính điểm cho mỗi niềm tin…). Ajzen mỡ rộng thuyết TRA bằng cách thêm vào thành phần “kiểm soát hành vi cảm nhận” cho ra đời Thuyết Hành vi Hoạch định (Theory of Planned Behavior) (Ajzen, 1991). Nếu có thể nên áp dụng TPB cho nghiên cứu các hành vi. Trước hết bạn cần xác định “hành vi” bạn nghiên cứu. Nếu bạn nghiên cứu hành vi thanh toán điện tử thì cần xác định mục tiêu là nghiên cứu “hành vi thanh toán điện tử loại nào, mua loại hàng gì, trong giới hạn thời gian nào,…. Hai yếu tố giải thích cho “thái độ” là “niềm tin rằng hành vi thanh toán điện tử sẽ mang lại kết quả nào đó” và “đánh giá về kết quả tương ứng đó”. Bạn ghi là niềm tin và đo lường niềm tin về thuộc tính sản phẩm thì có lẽ chưa phù hợp với hành vi “thanh toán điện tử”. Hai yếu tố giải thích cho “chuẩn chủ quan” là “niềm tin rằng những nhóm người tham khảo nào đó nghĩ rằng họ (người được nghiên cứu) nên/không nên thực hiện hành vi thanh toán điện tử” và “động cơ của họ (người được nghiên cứu)tuân theo nhóm người tham khảo” (Schiffman LG. Các yếu tố giải thích trong mục 2 va 3 ở trên được xem là đo gián tiếp (dùng phép tính nhân để tính điểm cho mỗi niềm tin…). Ajzen mỡ rộng thuyết TRA bằng cách thêm vào thành phần “kiểm soát hành vi cảm nhận” cho ra đời Thuyết Hành vi Hoạch định (Theory of Planned Behavior) (Ajzen, 1991). Nếu có thể nên áp dụng TPB cho nghiên cứu các hành vi. Chào các anh chị. e là sv ngành Marketing. e đang có bài tập về việc áp dụng các mô hình nghiên cứu vào đề tài là nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng thực phẩm chay. hiện tại nhóm e đang rất rối vì k biết sử dụng mô hình nào và làm như thế nào. anh chị nào biết có thể giúp tụi e k ạ. e xin cảm ơn ạ. email nguyenphuonghoangoanh26.8@gmail.com. Chào Ad, mình đag làm đề tài PHÂN TÍCH HÀNH VI LỰA CHỌN XE KHÁCH THUẬN THẢO CỦA HÀNH KHÁCH TUYẾN TUY HOÀ-HCM. Ad có tài liệu hay mô hình tham khảo ko ạ?. Mình đang rất rối vì không biết sử dụng mô hình nào và search google cũng ra nhiều cái không có liên quan. Admiin có thể tư vấn giúp hay có 1 cái bài thực nghiệm nào trên thế giới có thể gửi giúp mình với. Mình đang nghiên cứu về “ảnh hưởng của chính sách đổi trả đến hành vi mua của khách hàng trong thương mại điện tử”.
|
Lý thuyết hành vi có kế hoạch
|
Lý thuyết hành vi có kế hoạch hay lý thuyết hành vi hoạch định (Tiếng Anh: The Theory of Planning Behaviour) là một lý thuyết thể hiện mối quan hệ giữa niềm tin và hành vi của một người nào đó, trong đó niềm tin được chia làm ba loại: niềm tin về hành vi, niềm tin theo chuẩn mực chung và niềm tin về sự tự chủ. Khái niệm này được khởi xướng bởi Icek Ajzen năm 1991, nhằm mục đích cải thiện khả năng dự đoán của Lý thuyết về hành động hợp lý (Tiếng Anh: Theory of reasoned action) bằng cách bổ sung thêm vào mô hình nhân tố nhận thức về kiểm soát hành vi, mang lại nhiều ưu điểm trong việc dự đoán và giải thích hành vi của một cá nhân trong một bối cảnh nhất định. Nó được xem là một trong những lý thuyết được áp dụng và trích dẫn rộng rãi nhất về lý thuyết hành vi (Cooke & Sheeran, 2004). Lý thuyết đã được áp dụng cho các nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau như quảng cáo, quan hệ công chúng, chiến dịch quảng cáo, y tế, thể thao,. Thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) được phát triển từ lý thuyết hành vi hợp lý (Ajzen và Fishbein, 1975), lý thuyết này được tạo ra để khắc phục sự hạn chế của lí thuyết trước về việc cho rằng hành vi của con người là hoàn toàn do kiểm soát lý trí.
|
Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2021 (tiếng Anh: 2021 FIFA U-20 World Cup) sẽ là lần thứ 23 của Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới, giải vô địch bóng đá trẻ nam quốc tế hai năm một lần được tranh tài bởi các đội tuyển U-20 quốc gia của các hiệp hội thành viên FIFA, kể từ khi thành lập vào năm 1977 như Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới. Giải sẽ được tổ chức bởi Indonesia trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 6 năm 2021, đây sẽ là lần đầu tiên Indonesia tổ chức một giải đấu FIFA. Indonesia đã được công bố là chủ nhà sau cuộc họp của Hội đồng FIFA vào ngày 24 tháng 10 năm 2019 ở Thượng Hải, Trung Quốc. Hai quốc gia đã xếp hàng để tổ chức giải đấu. Peru đã tổ chức một giải đấu FIFA: Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2005. Ban đầu, họ đã giành được quyền đăng cai Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2019 nhưng sau đó đã bị FIFA rút lui. Cuộc đấu thầu chung giữa Myanmar và Thái Lan đã rút khỏi sự ủng hộ của cuộc đấu thầu Malaysia vào ngày 27 tháng 8 năm 2019. Thái Lan đã tổ chức Giải vô địch bóng đá nữ U-19 thế giới 2004 và Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới 2012 trong khi Myanmar chưa bao giờ tổ chức bất kỳ giải đấu FIFA nào. Cuộc đấu thầu chung của Bahrain, Ả Rập Xê Út và UAE đã bị loại khỏi danh sách các nhà thầu Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới vào ngày 4 tháng 9 năm 2019. Ả Rập Xê Út đã tổ chức bốn giải đấu FIFA, ba giải đấu cuối cùng là ba kỳ giải đầu tiên của Cúp Liên đoàn các châu lục, ban đầu là Cúp nhà vua Fahd, được đặt theo tên của vị vua thời bấy giờ là Xê Út. Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã tổ chức bảy giải đấu FIFA, cụ thể là Giải vô địch bóng đá bãi biển thế giới 2009, Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2013 và gần đây nhất là Giải vô địch bóng đá các câu lạc bộ thế giới 2018, Cúp câu lạc bộ thế giới thứ tư mà họ đã tổ chức. Ả Rập Xê Út và UAE cũng là những quốc gia duy nhất trong quá trình đấu thầu đã tổ chức Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới trước đó, trong năm 1989 và năm 2003 tương ứng. Brasil đã tổ chức bốn giải đấu bóng đá nam FIFA: các giải vô địch bóng đá thế giới 1950 và năm 2014, Giải vô địch bóng đá các câu lạc bộ thế giới 2000 và sẽ tổ chức Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2019. Nó cũng đã tổ chức Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới 2008 và nhiều kỳ của Giải vô địch bóng đá bãi biển thế giới, gần đây nhất là vào năm 2007. Brasil đã rút lui vào ngày 23 tháng 10 năm 2019 do cơ hội thấp hơn theo mạng Rede Globo của Brasil. Hiệp hội bóng đá Indonesia (PSSI) đã đề xuất 10 sân vận động trên khắp 10 thành phố ở 7 tỉnh và hai múi giờ. Tám địa điểm được nằm vị trí ở đảo Java (bốn địa điểm trong số đó được xây dựng bên trong vùng đô thị Jakarta), một địa điểm ở Sumatra, và một địa điểm ở Bali. Tây Java có nhiều địa điểm được đề xuất nhất với bốn địa điểm; ở Cikarang, Cibinong, Soreang, và thành phố Bekasi (sân vận động Patriot). Trong số những địa điểm này, sáu địa điểm sẽ được chọn để cuối cùng tổ chức giải đấu. Thông báo này đã được tổ chức vào tháng 3 năm 2020, nhưng do đại dịch COVID-19 nên đã bị hoãn lại đến cuối năm đó. Vào ngày 26 tháng 6 năm 2020, PSSI đã công bố 6 địa điểm được chọn. Tất cả các địa điểm ở Tây Java nhưng Soreang đã không được chọn, cùng với sân vận động Mandala Krida ở Yogyakarta. Việc lựa chọn được cho là sẽ được FIFA phê duyệt vào cuối năm đó. Chính phủ Indonesia đã thành lập ban tổ chức giải đấu với tên gọi Ban tổ chức Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới Indonesia (INAFOC). Trong cuộc họp nội các vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, tổng thống Indonesia Joko Widodo đã bổ nhiệm Bộ trưởng Thanh niên và Thể thao (id) Zainudin Amali (id) làm chủ tịch ủy ban.
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 1950
|
Giải bóng đá vô địch thế giới 1950 (tên chính thức là 1950 Football World Cup - Brazil / IV Campeonato Mundial de Futebol) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ bốn. Giải đấu được tổ chức từ ngày 24 tháng 6 đến 16 tháng 7 năm 1950 tại Brasil. 2 mùa giải World Cup 1942 và 1946 không tổ chức do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới thứ hai. Sau 23 ngày và 22 trận đấu, Uruguay đã trở thành vô địch thế giới lần thứ hai. Còn Ý trở thành đội đương kim vô địch đầu tiên bị loại ngay từ vòng bảng.
|
Mệnh đề quan hệ là mệnh đề phụ được nối với mệnh đề chính bởi các đại từ quan hệ (who, whom, whose, which, that) hay các trạng từ quan hệ như (where, when, why). Mệnh đề quan hệ đứng ngay đằng sau danh từ, đại từ trong mệnh đề chính để bổ sung ý nghĩa cho danh từ, đại từ ấy, phân biệt danh từ, đại từ ấy với các danh từ, đại từ khác. Chức năng của nó giống như một tính từ, do vậy nó còn được gọi là mệnh đề tính ngữ. Là đại từ quan hệ chỉ người, đứng sau danh từ chỉ người để làm chủ ngữ (subject) hoặc tân ngữ (object) cho động từ đứng sau nó.Theo sau who là chủ ngữ hoặc là động từ. Là đại từ quan hệ chỉ người, đứng sau danh từ chỉ người để làm tân ngữ (object) cho động từ đứng sau nó.Theo sau whom là chủ ngữ. Cả who và whom đều là đại từ quan hệ chỉ người, đứng sau danh từ chỉ người.Nhưng who làm cả chủ ngữ và tân ngữ cho động từ đứng sau nó còn whom chỉ làm tân ngữ cho động từ sau nó màthôi. Là đại từ quan hệ chỉ vật, sự vật, sự việc làm chủ ngữ hoặc tân ngữ cho động từ sau nó. Là đại từ quan hệ chỉ sở hữu.Whose đứng sau danh từ chỉ người hoặc vật và thay cho tính từ sở hữu trước. Là trạng từ quan hệ chỉ thời gian, đứng sau danh từ chỉ thời gian, dùng thay cho on/at/in + which, then. Là trạng từ quan hệ chỉ nơi chốn, đứng sau danh từ chỉ nơi chốn, thay cho at/on/in + which, there. Là trạng từ quan hệ chỉ lí do, đứng sau tiền ngữ "the reason", dùng thay cho "for which”. Mệnh đề quan hệ xác định dùng để bổ nghĩa cho danh từ đứng trước, là bộ phận quan trọng của câu, nếu bỏ đi thì mệnh đề chính không có nghĩa rõ ràng. Mệnh đề quan hệ không xác định dùng để bổ nghĩa cho danh từ đứng trước, là phần giải thích thêm, nếu bỏ đi thì mệnh đề chính vẫn còn nghĩa rõràng. Mệnh đề quan hệ không xác định thường được ngăn với mệnh đề chính bởi các dấu phẩy. Mệnh đề quan hệ nối tiếp dùng để giải thích cả một câu, trường hợp này chỉ dùng đại từ quan hệ which và dùng dấu phẩy để tách hai mệnh đề.Mệnh đề này luôn đứng ở cuối câu. Dùng khi đại từ quan hệ đóng vai trò làm chủ ngữ và động từ trong mệnh đề quan hệ ở thể chủđộng. Dùng khi đại từ quan hệ đóng vai trò làm chủ ngữ và động từ trong mệnh đề quan hệ ở thể bịđộng. Ta dùng past participle phrase thay cho mệnh đề đó (bỏ đại từ quan hệ, trợ động từ và bắt đầu cụm từ bằng pastparticiple). Mệnh đề quan hệ không xách định có thể được rút gọn bằng cách dùng cụm danh từ. Khi đại từ quan hệ đóng vai trò làm tân ngữ của mệnh đề, ta có thể bỏ đại từ quan hệ đó. Trong văn phong trang trọng, giới từ có thể được đặt trước đại từ quan hệ.Tuy nhiên, ta chỉ đặt giới từ trước hai đại từ quan hệ là whom (cho người) và which (cho vật). Khi giới từ đứng cuối mệnh đề quan hệ thì ta có thể bỏ đại từ quan hệ và có thể dùng that thay cho whom và which trong mệnh đề quan hệ xácđịnh. Khi giới từ đứng trước đại từ quan hệ thì ta không thể bỏ đại từ quan hệ và không thể dùng that thay cho whom vàwhich. Bước 3: Đại từ quan hệ thay thế cho từ gì ở mệnh đề thứ hai thì bỏ từ ấy đi. Ta thấy thành phần giống nhau giữa hai mệnh đề này là “the man” và “him”. đó ta viết mệnh đề thứ hai (bỏ him) xong quay lại viết phần còn lại của mệnh đề thứ nhất. Ta thấy thành phàn giống nhau giữa hai mệnh đề này là “the man” và “he”. ta viết phần còn lại của mệnh đề thứ nhất rồi viết sang mệnh đề thứ hai (bỏ he). Vì theo thứ tự của hành động thì hành động bị thương phải xảy ra trước hành động vào viện.
|
Mệnh đề quan hệ
|
Mệnh đề quan hệ (Relative clause) là một mệnh đề phụ được dùng để bổ nghĩa cho danh từ (noun) hoặc cụm danh từ (noun phrase) đứng trước nó. Ví dụ như câu "the man who wasn t there" (Người đàn ông đã không có mặt ở đó), the man ở đây là danh từ và nó được bổ nghĩa bởi mệnh đề quan hệ who wasn t there. Mệnh đề quan hệ còn có thể bổ nghĩa cho đại từ như trong câu "he to whom I have written" (Anh ta là người mà tôi viết thư đến), hoặc một cụm danh từ mà nó bao gồm từ bổ nghĩa, như câu "the black panther in the tree" (Con báo đen trong cái cây đó nó sắp vồ). Mệnh đề quan hệ thường được nối với mệnh đề chính bằng các đại từ quan hệ (relative pronouns) who, whom, which, whose, that. Trong phần lớn ngôn ngữ châu Âu, mệnh đề quan hệ được cấu tạo bởi lớp nghĩa đặc biệt của đại từ gọi là đại từ quan hệ (relative pronouns); ở các ví dụ trên từ who, which, whom là một đại từ quan hệ. Trong một số ngôn ngữ khác, mệnh đề quan hệ có thể khác nhau rõ rệt: họ gọi các liên từ với lớp nghĩa đặc biệt này là relativizers.
|
Tết Nguyên đán (hay thường được gọi là Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền) là dịp lễ quan trọng nhất trong một năm của người Việt Nam và một số các dân tộc sử dụng lịch mặt trăng (âm lịch). Theo các nhà nghiên cứu dân tộc học, từ "Tết" được xuất phát từ chữ Hán và được đọc theo âm Hán Việt là "Tiết" (nghĩa là đốt tre đốt trúc, mở rộng nghĩa là một phiến đoạn thời gian trong năm). Ngày xưa, người dân sinh sống dựa trên nền nông nghiệp trồng lúa nước và thường chia thời gian trong một năm thành hai phần chính: thời vụ và nông nhàn. Vào thời điểm "thời vụ" thì người dân phải lao động vất vả, hiếm có dịp sum họp, gặp gỡ. Chính vì thế, vào lúc nông nhàn, người dân sử dụng quỹ thời gian đó để cúng bái gia tiên, sum họp gia đình. Hói một cách khái quát, đơn giản hơn, Tết là những đan xen giữa các khoảng trống thời vụ. Trong một năm có nhiều ngày, nhiều dịp Tết và trong những dịp Tết đó thì Tết Nguyên đán là quan trọng nhất. "Nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" là buổi sáng sớm. Nguyên đán có nghĩa là ngày đầu tiên/buổi sáng đầu tiên trong một năm. Ngoài ra, nhiều người cũng lí giải từ "nguyên" còn thể hiện cho sự đầy đủ, tròn trịa, trọn vẹn và cũng vì thế, Tết Nguyên đán còn có một ý nghĩa khác biểu trưng cho ước muốn cuộc sống luôn được ấm no, đầy đủ của người dân. Nhiều người đã lầm tưởng Tết Nguyên đán có nguồn gốc xuất phát từ Trung Quốc, thông qua quá trình đô hộ 1000 năm Bắc thuộc. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nguồn gốc Tết Nguyên đán xuất phát từ chính đất Việt. Thạc sĩ Lương Đức Hiển đã có sự lí giải khá thuyết phục trên báo Giáo dục Việt Nam về sự xuất hiện của Tết Âm lịch. Theo đó, tác giả có viết:. "Thông qua câu chuyện sự tích “Bánh chưng bánh dày” biểu trưng cho quan niệm Trời tròn – Đất vuông của cư dân người Việt làm nông nghiệp; đã chứng minh Tết Nguyên Đán có nguồn gốc từ Việt Nam chúng ta, trước cả thời Tam Hoàng Ngũ Đế bên Trung Hoa. Khổng Tử – Nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà giáo dục, nhà chính trị nổi tiếng người Trung Hoa, trong sách Kinh Lễ có viết: Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó. Sách Giao Chỉ Chí cũng có đoạn viết Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới,không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa động cũng đều tham gia lễ hội này. Điều đó càng khẳng định, Tết Nguyên đán có nguồn gốc từ Việt Nam, sau đó được người Hoa du nhập và phát triển như ngày nay.". Tết Nguyên đán 2019 là dịp các thành viên trong gia đình quây quần bên nhau để cùng đón năm mới Kỷ Hợi. Vào đầu xuân năm mới, người dân thường đi chùa hái một cành lộc nhỏ với ý nghĩa tượng trưng là mang sự sinh sôi . "Có thờ có thiêng, có kiêng có lành". Dưới đây là những điều kiêng kị không nên làm trong ngày mùng 1 Tết Âm lịch. Quét nhà vào mùng 1 những điều kiêng kị dịp Tết mà ai cũng phải nhớ. Vậy, nguồn gốc của việc kiêng kị đó là . Vietnammoi.vn tổng hợp nguyên văn thông tin từ một số cơ quan thông tấn, báo chí trong nước theo quy định. Chúng tôi sẽ cập nhật thông tin ngay sau khi nhận thấy các thông tin gốc có thay đổi; đồng thời tuân thủ các quy định hiện hành về trách nhiệm phản hồi, đính chính, cải chính. Đề nghị người dùng tham khảo thông tin gốc đồng thời dẫn nguồn chính xác theo cơ quan báo chí phát hành thông tin trong trường hợp trích dẫn một phần hoặc nguyên bản các thông tin do Vietnammoi.vn tổng hợp. Người dùng tự chịu trách nhiệm, bao gồm nhưng không giới hạn trách nhiệm về bản quyền, trong trường hợp này.
|
Tết Nguyên Đán
|
Tết Nguyên Đán (còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay đơn giản là Tết) là dịp lễ đầu năm mới theo âm lịch của các dân tộc thuộc Vùng văn hóa Đông Á, gồm có Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Theo biến động lịch sử, người Nhật Bản bỏ Tết Nguyên Đán, còn người Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam vẫn giữ truyền thống đón Tết này cho dù định cư tại nước khác. Tại Việt Nam trước ngày Tết còn có phong tục như "cúng Táo Quân" (23 tháng Chạp Âm lịch) và "cúng Tất Niên" (29 hoặc 30 tháng Chạp Âm lịch). Vì Tết tính theo Âm lịch nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (hay Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà rơi vào giữa những ngày này. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 (hay mùng 1) tháng Giêng âm lịch trên toàn nước Việt Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống.
|
Theo Salesforce, 80% các chuyên viên marketing cấp cao đều đồng ý rằng một hành trình khách hàng gắn kết là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp thành công. Họ cho rằng bản đồ hành trình của khách hàng có thể làm quy trình mua sắm thông suốt và đem lại cho khách hàng trải nghiệm nhất quán với thương hiệu. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu định nghĩa của hành trình khách hàng và tại sao doanh nghiệp lại cần chú trọng đến hành trình khách hàng khi xây dựng chiến lược Digital Marketing. Hành trình khách hàng là câu chuyện về người dùng, cách doanh nghiệp vẽ ra các kịch bản hành vi của khách hàng dựa trên dữ liệu sẵn có. Người dùng có thể sẽ tương tác với thương hiệu trên nhiều nền tảng, theo nhiều cách khác nhau. Từ bản đồ hành trình khách hàng, doanh nghiệp có thể hình dung được cách người dùng tương tác với website, từ đó cải thiện từng trải nghiệm trên hành trình, để giữ khách hàng tiếp tục con đường đến với thương hiệu của mình. Nói cách khác, bản đồ hành trình khách hàng (customer journey) cho phép doanh nghiệp nhìn nhận thương hiệu từ góc độ của khách hàng. Nó là một chỉ dẫn để hiểu thêm về khách hàng bằng cách biết những kỳ vọng của họ về thương hiệu, sản phẩm, dịch vụ hoặc về chính doanh nghiệp. Với bản đồ hành trình khách hàng, doanh nghiệp có thể có được cái nhìn tổng quan về độ hiệu quả của các kênh truyền thông – kênh nào giúp nhận được nhiều câu hỏi nhất và kênh nào có lượng tương tác thấp. Chẳng hạn, nếu doanh nghiệp đang chạy một chiến dịch “tăng traffic cho website” trên mạng xã hội, doanh nghiệp có thể đo lường thành công của chiến dịch bằng cách theo dõi hành trình của khách hàng từ các trang mạng xã hội của doanh nghiệp đến website bán hàng. Khi có những thông số về tương tác khách hàng qua các kênh trên hành trình, marketer có thể xác định được chiến lược digital marketing nào cần cải thiện hoặc thay thế. Ngoài việc giúp nhận biết tỉ lệ chuyển đổi bán hàng, hành trình khách hàng còn giúp các doanh nghiệp hiểu cách thức mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ của người dùng. Nhưng quan trọng nhất, nó còn chỉ rõ được nơi người dùng dừng lại trên hành trình mua hàng. Nhận định được những điểm này, doanh nghiệp có thể tái thiết kế lại chiến lược digital marketing của mình. Có những trường hợp khi các kênh truyền thông cho số liệu báo cáo khả quan, nhưng tình hình kinh doanh lại không tốt như vậy. Đây là tình trạng mâu thuẫn thường gặp, khiến doanh nghiệp phải đặt câu hỏi liệu Call to Action (CTA) hoặc nội dung quảng cáo của mình có đủ hấp dẫn để thu hút người dùng? Hay do chăm sóc khách hàng chưa tốt, không trả lời được những thắc mắc của khách hàng, không giải quyết được vấn đề mà họ cần?. Điểm thiết sót trong quá trình cung cấp sản phẩm và dịch vụ là vô kể. Tuy không trực tiếp giải quyết các vấn đề này, bản đồ hành trình khách hàng cho phép doanh nghiệp phát hiện ra những lỗ hổng nằm ở đâu để khắc phục và cải thiện. Vì bản đồ hành trình khách hàng giúp xác định chiến lược nào hiệu quả hơn trong việc chuyển đổi doanh số, nó cũng có thể giúp doanh nghiệp đầu tư tiền bạc và thời gian hợp lý. Giả dụ, nếu marketer xác định được rằng đầu tư vào quảng cáo trên Facebook không đem lại kết quả tốt, thì ngừng chiến dịch và phân bổ lại ngân sách cho các công cụ khác là điều nên làm. Chúng ta đều biết dùng content marketing và SEO để đạt được thứ hạng tốt trên các công cụ tìm kiếm và hướng lưu lượng truy cập đến trang web của doanh nghiệp. Nhưng khi công nghệ và cách thức mua sắm của người tiêu dùng thay đổi, trải nghiệm của khách hàng chính là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Khi hình dung được cách người truy cập tương tác với thương hiệu và xác định lý do vì sao họ ở lại hoặc rời đi, doanh nghiệp có thể phát triển để đạt được trải nghiệm tốt hơn cho khách hàng hiện tại và tương lai. Với tầm nhìn rõ ràng về thành công của khách hàng, Magenest xây dựng các hệ thống giải pháp toàn vẹn (One-stop solution) giúp các khách hàng doanh nghiệp phát triển. Chúng tôi cung cấp hệ sinh thái quy mô đầy đủ, bao gồm nền tảng Thương mại điện tử, Phần mềm ERP, Giải pháp tuyến đầu (Frontline Solution) của khách hàng và Cơ sở hạ tầng đám mây. Tất cả đều hoạt động hài hòa nhằm tận dụng dữ liệu để giúp doanh nghiệp cá nhân hóa các điểm chạm khách hàng (Customer Touchpoints) và tối ưu hóa các hoạt động nội bộ. Hãy liên hệ với Magenest ngay hôm nay để được hỗ trợ tư vấn và tìm hiểu sâu hơn về các giải pháp mà chúng tôi cung cấp cho doanh nghiệp. Lưu ý: Bằng việc cung cấp thông tin liên hệ cho chúng tôi, quý vị đã đồng ý nhận tin tức và các thông tin ưu đãi từ Magenest.
|
Bản đồ hành trình khách hàng
|
Bản đồ hành trình khách hàng (Customer Journey Mapping) hay Bản đồ hành trình trải nghiệm của khách hàng là một công cụ trực quan để hiểu những gì thúc đẩy khách hàng tương tác với mỗi doanh nghiệp - nhu cầu của họ là gì, sự do dự và mối quan tâm của họ. Mặc dù hầu hết các tổ chức rất giỏi trong việc thu thập dữ liệu về khách hàng của họ, nhưng một mình dữ liệu không thể truyền đạt được sự thất vọng và trải nghiệm khách hàng. Một câu chuyện có thể làm điều đó, và một trong những công cụ kể chuyện tốt nhất trong kinh doanh là bản đồ hành trình của khách hàng. Bản đồ hành trình của khách hàng sử dụng cách kể chuyện và hình ảnh để minh họa mối quan hệ của khách hàng với doanh nghiệp trong một khoảng thời gian. Câu chuyện đang được kể từ góc độ của khách hàng, cung cấp cái nhìn sâu sắc về tổng số trải nghiệm của khách hàng. Nó giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn và giải quyết các nhu cầu của khách hàng và các điểm tiếp xúc khi họ trải nghiệm sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp.
|
Cây mọng nước là những thực vật sống ở vùng khô hạn hoặc bán khô hạn. Chúng bao gồm nhiều họ thực vật khác nhau, trong đó có họ xương rồng (Cactaceae). Đây là một loài thực vật lớn,nó có khoảng 2000 loài. Các loại thực vật mọng nước sống nơi khô cằn sỏi đá nhưng vẫn tươi tốt là nhờ có thể dự trữ được nhiều nước bên cạnh sức hút nước rất nhanh của chúng. Bài viết này sẽ giới thiệu rõ hơn về nhóm thực vật này. Nhiều nhóm trong cây mọng nước là thực vật CAM. Dựa vào hoạt động quang hợp, thực vật được chia làm 3 nhóm: cây C3, cây C4 và CAM. Những cây CAM có đặc điểm hấp thu khí CO2 do cây hô hấp ra và khí CO2 có trong không khí cả ban ngày lẫn ban đêm (khác với C3, C4) cho nên chúng ta trồng được trong nhà (kể cả phòng ngủ), nơi làm việc,.Nhiều cây còn có hút cả khí độc. Vào ban đêm, cây xương rồng (catus) hút khí cacbonic làm trong sạch phòng ngủ giúp cho chúng ta một giấc ngủ an lành đảm bảo một ngày hôm sau tốt đẹp. Một khả năng khác của nhóm cây này là tiết kiệm nước. Đa số các cây trong nhóm này đều có những đặc điểm hình thái tiêu giảm để thích nghi với điều kiện sống. Các đặc điểm hình thái phổ biến như: lá rất nhỏ, dày hoặc có hình như chiếc ghe hứng nước và cho nước chảy vào thân, hoặc không có lá, lá biến thành gai, thân chỉ có lông…Số khí khổng ở xương rồng cũng rất ít so với các loại thực vật khác để hạn chế bốc hơi nước. Ngoài ra xương rồng vào ban ngày khí khổng đóng lại nên cây mất ít nước. Phần lớn xương rồng được tìm thấy ở châu Mỹ, châu Phi và Australia. Chúng có nguồn gốc ở các nước: Mỹ, Mexico, Cuba, Honduras, Chile,…Họ xương rồng có đến trên 130 giống (genus) với trên 2000 loài và được chia làm 3 họ phụ:. Pereskioideae: Xương rồng thuộc họ này, thân có lá có gai. Thân cây nhỏ giống như những cây hai lá mầm khác. Opuntioideae: thân cành non vẫn có lá nhưng lá nhỏ và mau rụng. Núm có gai và có lông móc (glochid). Hoa có hình đĩa, họ gồm có 5 giống, Opuntia là giống chính. Cactoideae: Họ phụ này chiếm đa số giống và loài xương rồng. Thân cây đa dạng, không có lá và thường có gai ở núm. Ở rất nhiều giống, thân có nhiều cạnh, hoa có hình ống hoặc hình chuông. Bao gồm nhiều cây mọng nước lá và thân. Cây đẹp nhờ có bộ lá hoặc hoa của chúng. Tiêu biểu có sống đời và Liên đài. Đây là một họ lớn có đến 2000 loài, trong số đó có một số loại mọng nước có hoa đẹp như cây bát tiên, và một số loài rất giống xương rồng cho nên chúng ta gọi là xương rồng ông, xương rồng bà. Thật ra là những cây giả xương rồng. Đây là sản phẩm được Namix phối trộn dành riêng cho cây mọng nước. Ngoài xương rồng, sen đá, bạn có thể trồng thêm được nhiều loại cây khác như: phỉ thúy (cây ngọc bích), nha đam, sống đời, lan cẩm cù,…. Đất Namix: đất được xử lý ủ vi sinh cung cấp dinh dưỡng, kết hợp với các loại đá khoáng tạo môi trường thích hợp nhất cho cây phát triển. Với sự kết hợp của các loại đá khoáng sẽ giúp cho đất thoát nước tốt nhưng vẫn giữ ẩm, tạo môi trường thuận lợi cho cây mọng nước phát triển. Đất Namix cung cấp dinh dưỡng, phân chậm tan với tỷ lệ NPK thích hợp cho xương rồng, sen đá cung cấp dinh dưỡng dài lâu. Sản phẩm được phối trộn sẵn giúp cho người trồng dễ dàng sử dụng, giảm thời gian,ít tốn công chăm sóc. Với chính sách đại lí hấp dẫn, chiết khấu cao, cùng với đó là các chiến dịch marketing hỗ trợ đại lí. Các đại lí của Namix sẽ được hỗ trợ tối đa các dịch vụ kinh doanh, tư vẫn và hỗ trợ khách hàng. Ngoài ra, khách hàng có nhu cầu mua đất sạch Namix với số lượng lớn hãy để lại thông tin. Chúng tôi sẽ chủ động liên hệ trực tiếp để tư vấn cho bạn.
|
Họ Xương rồng
|
Họ Xương rồng (danh pháp khoa học: Cactaceae) thường là các loài cây mọng nước hai lá mầm và có hoa. Họ Cactaceae có từ 25 đến 220 chi, tùy theo nguồn (90 chi phổ biến nhất), trong đó có từ 1.500 đến 1.800 loài. Những cây xương rồng được biết đến như là có nguồn gốc từ châu Mỹ, nhất là ở những vùng sa mạc. Cũng có một số loại biểu sinh trong rừng nhiệt đới, những loại đó mọc trên những cành cây, vì ở đó mưa rơi xuống đất nhanh, cho nên ở đó thường xuyên bị khô. Cây xương rồng có gai và thân để chứa nước dự trữ. Xương rồng gần như là loại thực vật ở châu Mỹ, ngoại trừ duy nhất là Rhipsalis baccifera, sinh trưởng chủ yếu ở vùng nhiệt đới, chủ yếu ở châu Phi, Madagascar và Sri Lanka cũng như ở vùng nhiệt đới châu Mỹ. Loài này được cho là mới định cư gần đây ở các lục địa ngoài châu Mỹ (trong vài nghìn năm gần đây), có thể là do các loài chim di cư mang theo dưới dạng hạt không tiêu hóa được. Nhiều loài xương rồng khác đã thích hợp với môi trường sống mới trên các phần khác nhau của thế giới do sự đem theo của con người.
|
Hồng trà, đơn thuần chỉ là cách gọi của người Trung Quốc, vì màu sắc của trà có màu hồng ngọc hoặc nâu đỏ sau khi hãm và pha trà. Ngoài ra, hồng trà cũng được gọi là trà đen (black tea) xuất phát từ tên gọi của người phương Tây khi dựa vào màu sắc của lá trà sau khi được sấy khô. Hồng trà được sản xuất từ quá trình lên men toàn phần, oxy hóa 100% lá và búp non của cây chè xanh, có vị thơm nhẹ, ít chát và hầu như phù hợp với khẩu vị đa số của người Việt. Hồng trà có nguồn gốc từ Đài Loan, Trung Quốc, xuất hiện vào năm 1980 và đã trở thành một trong những loại trà quan trọng lúc bấy giờ. Trong một số công thức đồ uống hiện nay, hồng trà cũng thường xuyên xuất hiện rất nhiều, như trà sữa, sữa lắc (milkshaker), các món đồ uống đá xay (ice blend) và kể cả tráng miệng tại một số nhà hàng Âu. Lên men: người phương Tây dựa vào yếu tố này để chia thành 3 loại: trà xanh (trà không lên men), trà ô long (trà bán lên men) và hồng trà (trà lên men toàn phần). Màu sắc và mùi vị: người Trung Hoa dựa vào 2 yếu tố này để chia thành 6 loại: bạch trà, lục trà, ô long trà, hòng trà, hắc trà và hồng trà. Hồng trà gồm có rất nhiều loại, từ chất lượng cao cấp đến chất lượng bình dân, và được sản xuất chủ yếu ở một số quốc gia như Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Sri Lanka và Kenya. Nếu theo phương Tây, thì hồng trà được phân loại theo phương thức sản xuất, nên gồm có 2 dòng trà chính: hồng trà truyền thống (Orthdox) và hồng trà công nghệ (CTC). Hai dòng trà này tiếp tục phân thành nhiều loại nhỏ hồng trà như: hồng trà Pekoe (P), hồng trà Orange Pekoe (OP), hồng trà Fanning Pekoe (FB), hồng trà Broken Pekoe (BP), hồng trà Broken Fanning (BF),…. Tiểu Chủng Hồng Trà: là gốc của các loại hồng trà, gồm 2 loại – Chính Sơn Tiểu Chủng (được sản xuất ở Vũ Di) và Ngoại Sơn Tiểu Chủng (loại trà được biến tấu từ Chính Sơn Tiểu Chủng và được sản xuất tại khu vực như Cổ Điền, Phúc Kiến, Sa Huyền,…). Công Phu Hồng Trà: được sản xuất từ búp trà non, nên có hình dáng nguyên vẹn của búp trà, chúng được cuộn tròn chặt và có màu đen bóng. Nước trà sau khi hãm có màu đỏ sáng, vị dịu và mùi nồng. Hồng Toái Trà (hay gọi là trà phiến, trà vụn và mạt trà): được nghiền nát nên có hình dạng mảnh vụn, thường được gia công trong túi lọc. Tốc Dung Hồng Trà: được nghiền nát trà thành bột mịn bởi công nghệ hiện đại, rồi được phun sương để vò thành từng viên trà nhỏ trước khi đem đóng gói. Giai đoạn làm héo, vò và lên men sẽ góp phần tạo nên hương vị, màu sắc đặc trưng cho hồng trà. Giai đoạn này sẽ giúp lá trà giảm đi một lượng nước nhất định bên trong, khiến cho trà trở nên khô và dẻo hơn trước khi trải qua quá trình vò, để hạn chế tình trạng bị dập nát. Đồng thời, cũng tạo điều kiện cho các phản ứng hóa học diễn ra. Mục tiêu của giai đoạn này là để tách ra tầng lớp biểu bì và giải phóng các hợp chất bên trong lá trà, giúp cho quá trình oxy hóa diễn ra thuận lợi và lên men được tốt hơn. Đồng thời, nhờ có quy trình vò này sẽ còn giúp cho hợp chất bên trong lá trà nhanh chóng hòa tan vào nước và góp phần tạo ra màu sắc cho hồng trà. Sau khi được vò, lá trà sẽ được lên men. Lúc này, nhờ có quá trình oxy hóa diễn ra sẽ làm cho các thành phần hóa học bên trong lá trà bị biến đổi, tạo ra hình dạng đặc trưng, màu sắc và mùi vị của lá trà. Thiết bị lên men lá trà, cần được duy trì nhiệt độ 24 – 26 độ C và độ ẩm không khí là 95 – 98%, để đảm bảo chất lượng hồng trà. Ngăn ngừa bệnh ung thư và bệnh tim mạch do lượng chất Flavonoid (tác dụng kháng axit, tiêu diệt các gốc tự do) có nhiều trong hồng trà. Kích thích đại não, tăng sự tập trung/ trí nhớ, tạo sự hưng phấn và chống lại buồn ngủ do hàm lượng caffeine cao. Ức chế, tiêu viêm và tiêu diệt các vi khuẩn gây bệnh do hợp chất tổng hợp polyphenol có trong hồng trà. Làm chậm quá trình lão hóa, đẹp da do hồng trà có chứa nhiều chất chống oxy hóa. Nên uống hồng trà sau khi ăn khoảng 1 tiếng, vì tránh làm cho một số hợp chất trong trà gây ra phản ứng hóa học, làm cản trở quá trình tiêu hóa thức ăn. Tránh uống trà khi đói, vì trong trà có chứa nhiều acid tannic dễ làm tổn thương đến hệ tiêu hóa, đồng thời chất caffeine có bên trong trà sẽ gây buồn nôn và chóng mặt. Tránh uống hồng trà 3 tiếng trước khi đi ngủ, vì chất caffeine sẽ gây khó ngủ. Không sử dụng hồng trà cho các đối tượng đang bị sỏi thận, đau dạ dày, ợ nóng, u bướu, trong thời kì kinh nguyệt và những ai đang dùng thuốc, nhất là phụ nữ mang thai và sau khi sinh. Cách làm bánh su kem trà sữa trân châu cho các tín đồ yêu trà sữa. Từ nay bạn sẽ không sợ các công việc nấu nướng nữa. Vì đã có các mẹo vặt nhà bếp, mẹo vặt vào bếp, giúp đỡ bạn thực hiện món ăn thành công kèm hướng dẫn chi tiết có hình và video. Một trong những món bingsu khiến nhiều người mê mẩn mỗi khi mùa hè đến chính là bingsu xoài. Với vị ngọt của xoài kết. Bánh bèo là một trong rất nhiều loại bánh đặc sản của cố đô Huế, sau này phổ biến hơn cả là loại bánh bèo. Mì xào trứng là món ăn quen thuộc, dễ thực hiện chỉ với những nguyên liệu đơn giản có sẵn trong nhà bếp nhưng vẫn. Nguyên liệu Cách làm phở cuốn 1Chuẩn bị thịt bò Đầu tiên, thịt bò các bạn thái lát mỏng vừa ăn. Bí quyết lựa thịt. Nguyên liệu Cách làm rau câu phô mai 1Nấu si rô Cho 1 lít nước vào nồi, pha với 1 ít si rô, khuấy cho. Nguyên liệu 1,8lít nước cốt dừa 50ml nước cốt lá dứa hoặc siro trái cây 250g đường 1 gói bột rau câu con cá dẻo Dụng.
|
Mạt trà
|
Matcha (抹茶 (Mạt trà), Matcha tiếng Nhật: , hoặc ) là phần bột nghiền mịn của lá trà xanh được trồng và chế biến đặc biệt, được tiêu thụ theo truyền thống tại Đông Á. Điều đặc biệt từ khía cạnh canh tác và chế biến: những cây trà xanh được sử dụng cho matcha được trồng trong bóng râm trong ba đến bốn tuần trước khi thu hoạch, và phần thân và gân lá được loại bỏ trong quá trình chế biến. Trong quá trình sinh trưởng dưới bóng râm, cây Camellia sinensis sản sinh ra nhiều theanine và caffeine. Dạng bột của matcha được tiêu thụ khác với lá trà hoặc trà túi lọc, vì nó lơ lửng trong chất lỏng, điển hình là nước hoặc sữa. Nguồn gốc của matcha đến từ Trung Quốc, nhưng nó đã được biết đến trên toàn thế giới từ Nhật Bản và thường được gọi là "Matcha", phiên âm của tiếng Nhật tại Châu Âu và Hoa Kỳ. Các nghi thức trà truyền thống của Nhật Bản tập trung vào các công đoạn chuẩn bị, phục vụ và thưởng thức matcha dưới dạng trà nóng, biểu hiện một sự tĩnh tại trong tinh thần.
|
Sức lao động là một khái niệm trọng yếu trong kinh tế chính trị Mác-xít. Mác định nghĩa sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất, trí tuệ và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Nhưng sức lao động mới chỉ là khả năng lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực. Người lao động hoàn toàn tự do về thân thể, có khả năng chi phối sức lao động của mình. Người chủ sức lao động không có đủ tư liệu sản xuất cần thiết để có thể bán những hàng hoá trong đó lao động của anh ta kết tinh. Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cho gia đình người lao động. Giá trị hàng hóa sức lao động khác hàng hóa thông thường ở chỗ: giá trị hàng hóa sức lao động mang yếu tố tinh thần và lịch sử. Giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu của người mua – tiêu dùng nó trong quá trình lao động tạo ra hàng hoá; chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân làm thuê; giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là một giá trị sử dụng đặt biệt. Người lao động chỉ bán quyền sử dụng, không bán quyền sở hữu; chỉ được bán có thời hạn, không bán vĩnh viễn. Giá trị của hàng hóa sức lao động bao gồm yếu tố tinh thần và lịch sử. Càng sử dụng thì người lao động càng tích lũy được kinh nghiệm, nâng cao tay nghề, năng suất lao động cao hơn. Trong quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động có khả năng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó.
|
Sức lao động
|
Sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất, trí tuệ và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Nhưng sức lao động mới chỉ là khả năng lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực. Khi sức lao động biến thành lao động thì nó trở thành hàng hóa được mua bán giữa người lao động và doanh nghiệp.
|
Quan điểm toàn diện là quan điểm mà khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật hay sự việc chúng ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố kể cả khâu gián tiếp hay trung gian có liên quan đến sự vật. Quan điểm toàn diện là một quan điểm mang tính phương pháp luận khoa học trong nhận thức thế giới. Vậy Quan điểm toàn diện là gì? Để giải đáp thắc mắc trên, mời các bạn hãy cùng chúng tôi tìm hiểu trong nội dung bài viết dưới đây. Quan điểm toàn diện là quan điểm mà khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật hay sự việc chúng ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố kể cả khâu gián tiếp hay trung gian có liên quan đến sự vật. Điều này xuất phát từ mối liên hệ nằm trong nguyên lý phổ biến của các hiện tượng, sự vật trên thế giới. Bởi phải có quan điểm toàn diện vì bất cứ mối quan hệ nào cũng tồn tại sự vật, sự việc; không có bất cứ sự vật nào tồn tại một cách riêng biệt, cô lập, độc lập với các sự vật khác. Trong hoạt động nhận thức, thực tiễn chúng ta cần phải xem xét sự vật trên nhiều mặt và mối quan hệ của nó. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được hoặc có thể hạn chế được sự phiến diện, siêu hình, máy móc, một chiều trong nhận thức cũng như trong việc giải quyết các tình huống trong thực tiễn, nhờ đó tạo ra được khả năng nhận thức đúng được sự vật như nó vốn có trong thực tế và xử lý một cách chính xác, có hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn. Khi phân tích bất cứ một đối tượng nào, chúng ta cũng cần vận dụng vào lý thuyết hệ thống, nghĩa là xem xét nó được cấu thành nên từ các yếu tố, bộ phận nào với mối quan hệ ràng buộc và tương tác nào, từ đó có thể phát hiện ra thuộc tính chung của hệ thống vốn không có ở mỗi yếu tố (thuộc tính “trời”). Mặt khác, cũng cần xem xét sự vật ấy trong tính mở của nó, nghĩa là phải xem xét nó trong mối quan hệ với các hệ thống khác, với các yếu tố tạo thành môi trường vận động và phát triển của nó. Quan điểm toàn diện với quan điểm phát triển và lịch sử cụ thể đều là những quan điểm cơ bản thuộc về phương pháp luận của phép biện chứng duy vật. Chúng đều được xây dựng trên cơ sở lý giải theo quan điểm duy vật biện chứng về tính khách quan, tính phổ biến và tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ và sự phát triển của tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Ví dụ, khi chúng ta phân tích bất cứ một đối tượng nào, chúng ta cũng cần vận dụng lý thuyết một cách hệ thống, tức là: xem xét nó được cấu thành nên từ những yếu tố, những bộ phận nào với những mối quan hệ ràng buộc và tương tác nào, từ đó có thể phát hiện ra thuộc tính chung của hệ thống vốn không có ở mỗi yếu tố (thuộc tính “trời”). Như vậy, trong hoạt động nhận thức, thực tiễn chúng ta cần phải xem xét sự vật trên nhiều mặt và mối quan hệ của nó. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được hoặc có thể hạn chế được sự phiến diện, siêu hình, máy móc, một chiều trong nhận thức cũng như trong việc giải quyết các tình huống trong thực tiễn, nhờ đó tạo ra được khả năng nhận thức đúng được sự vật như nó vốn có trong thực tế và xử lý một cách chính xác, có hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn. Trong nhận thức Quan điểm toàn diện là gì? cũng như thực tiễn cần phải xem xét sự vật theo một quá trình không ngừng thay đổi về chất ở trình độ cao hơn qua sự biểu hiện của nó ở các giai đoạn, các hình thái xác định, nhờ đó giúp cho chúng ta nhận thức được sự vật theo một quá trình không ngừng phát triển của nó. Cũng từ đó có thể dự báo được giai đoạn, hình thái phát triển trong tương lai của nó. Ví dụ, C. Mác đã đứng trên quan điểm phát triển đế phân tích sự phát triển của xã hội loài người qua các hình thái tổ chức kinh tế – xã hội hoặc ông đã đứng trên quan điểm đó để phân tích lịch sử phát triển của các hình thái giá trị: từ hình thái trao đổi ngẫu nhiên đến hình thái cao nhất của nó là hình thái tiền tệ,…. Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong các mối quan hệ và tình huống xác định, các giai đoạn vận động, phát triển xác định; cũng tức là: khi nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải tránh quan niệm chung chung trừu tượng, thiếu tính xác định lịch sử cụ thể; tránh chiết trung, nguỵ biện. Như vậy, khi thực hiện quan điểm toàn diện và phát triển cần phải luôn luôn gắn với quan điểm lịch sử cụ thể thì mới có thể thực sự nhận thức chính xác được sự vật và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn.
|
Quan điểm toàn diện
|
Quan điểm toàn diện là một quan điểm mang tính phương pháp luận khoa học trong nhận thức thế giới. Khi nghiên cứu và xem xét sự vật phải quan tâm đến tất cả các yếu tố, các mặt, bao gồm cả măt gián tiếp, trung gian có liên quan đến sự vật. Quan điểm này xuất phát từ mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng và các hình thái tri thức.
|
Một trong những biểu tượng tinh thần và văn hóa giá trị nhất của thành phố Sofia là nhà thờ St. Trong nhiều năm đây là nhà thờ Chính thống giáo phương Tây lớn nhất Thế giới, đồng thời cũng nằm trong tốp 50 toà nhà thờ Thiên chúa giáo lớn nhất Thế giới. Đây từng là nhà thờ lớn nhất trên bán đảo Balkan, hiện giờ lớn hơn nhà thờ này chỉ có nhà thờ “St. Công trình được xây dựng nhằm tưởng niệm những người lính Nga, Ukraine, Belarus và Bulgaria đã hy sinh trong cuộc chiến tranh Nga-Thổ giải phóng Bulgaria năm 1877-1878. Nhà thờ mang tên Sa hoàng Alexander II – “Sa hoàng Liberator”, người đã giải phóng Bulgaria sau 5 thế kỷ bị Đế quốc Ottman chiếm đóng. Tên thật của ông là ALESANDER YAROSLAVICH sinh ngày 13/5/1221 mất ngày 14/11/1263. Năm 1240 ông là tướng cầm quân đánh thắng quân xâm lược Thụy Điển trên bờ sông Neva lẫy lừng nên được phong tước “NEVSKY”, có nghĩa là “người anh hùng trên sông Neva”. Ông là anh hùng dân tộc của nước Nga và là 1 trong 12 danh nhân vĩ Đại nhất của nước Nga. Được bắt đầu xây dựng vào năm 1882 nhưng mãi đến năm 1912 công trình mới được hoàn thành. Nhà thờ được thiết kế bởi kiến trúc sư Nga Alexander Pomerantsev theo phong cách La Mã mới điển hình, tiêu biểu ở nước Nga trong thế kỷ 19. Nhà thờ đại diện cho phong cách đối xứng kiểu tân Byzantine, đặc biệt Đại giáo đường với mái vòm giao nhau và điểm nhấn hình cầu trung tâm theo phong cách từ Etruscan, Roma. Đây là một trong những nhà thờ Chính thống Đông phương lớn nhất trên thế giới. Nhà thờ có kích thước ấn tượng dài 73,50 m, rộng: 52,20 m, cao: 53,02 m, với diện tích 3.170 mét vuông nhà thờ có thể chứa 5.000 người. Đã phải dùng tới 8,35 kg vàng để cán mỏng dát phía bên ngoài các mái vòm nhà thờ. Mái vòm lớn mạ vàng ở trung tâm cao tới 45 m và tháp chuông cao 50,52 m. Tháp chuông nhà thờ có 12 quả chuông với tổng trọng lượng trên 23 tấn. Chuông lớn nhất nặng 12 tấn, chuông nhỏ nhất nặng 10 kg. Các chuông được đúc ở Moscow, Chuông lớn nhất và cao nhất là 52 mét, cao nhất vùng Balkan. Tiếng vang của chuông đôi khi cách Sofia 30 km vẫn nghe thấy. Thánh đường Alexander Nevsky được tiến hành xây dựng với sự kết hợp kiến trúc của nhiều nước. Hệ thống ánh sáng và đá cẩm thạch trang trí tại thánh đường được làm ở Munich, những cánh cổng được sản xuất tại nhà máy ở Viên hay những bức tranh khảm tinh xảo được mang từ Venice sang. Những nghệ sĩ và thợ thủ công đến từ nhiều nước đã lao động miệt mài suốt 30 năm để xây dựng ngôi giáo đường này. Lối vào được làm bằng đá cẩm thạch đen Italia. Bên trong nhà thờ gồm năm gian giữa có trần nối với nhau bởi những mái vòm cao với những chiếc đèn chùm lung linh. Phía trên các ngai vàng sáng lấp lánh mã não Brazil, kính cửa sổ được chấm bằng thạch cao tuyết hoa. Mái vòm chính cao 45 mét, quanh vòng tròn của mái vòm có hàng chữ dát vàng mỏng ghi lời cầu nguyện “Lạy Đức Cha”. Bộ sưu tập tranh tường điểm tô thêm vẻ lộng lẫy cho bức tường nhà thờ, rất nhiều bức khắc họa lại cảnh sinh hoạt của các vị thánh của Bulgaria và Nga. Bên trong nhà thờ có hơn 300 bức tranh sơn tường được vẽ rất cầu kỳ tinh xảo do các danh họa đến từ Nga, Italia, Pháp, Đức và Bungari thực hiện. Những trang trí bằng đá hoa cương, đá cẩm thạch nhiều màu, thạch cao, vàng và những hình Chúa sưu tập được từ khắp đất nước Bulgaria. Trong hậu cung có 3 bàn thờ, ở chính giữa nhô ra theo hình bán nguyệt là bàn thờ Sa hoàng Alexander Nevsky, phía nam là Vua Boris I và phía bắc là của anh em Thánh Kiril và Metody. Dưới hầm mộ trong nhà thờ trưng bày một trong những bộ sưu tập các biểu tượng tôn giáo lớn nhất của châu Âu, có những biểu tượng có niên đại từ giữa thế kỷ 15 và 20, một vài trong số đó bắt nguồn từ các tu viện trên khắp Bulgaria. Tổng số tiền đã chi lúc đó : 5,5 triệu leva, trong đó 1,9 triệu leva là tiền cung tiến tự nguyện. Phía sau Nhà thờ là tòa nhà Nghị viện, bên cạnh là trụ sở của Viện Hàn lâm Khoa học Bulgaria (BAS). Ở phía bên trái nhà thờ là Hội Đồng Tòa Thánh. Phía sau là Quảng trường Độc lập với toà nhà Quốc hội, tượng đài Sa hoàng Liberator và trường Đại học Tổng hợp Sofia. Thánh đường Alexander Nevsky luôn là niềm tự hào của nhân dân Bulgaria. Nhà thờ là điểm đến hấp dẫn và mong đợi của bất kỳ ai mỗi khi có dịp đến Sofia và là một điểm nhấn quan trọng của ngành du lịch Bulgaria và các tour du lịch nước ngoài đến Bungaria. Quần thể đền thờ được công nhận là di tích văn hóa vào năm 1924. Các tác phẩm khổng lồ hút khách của Christo, nghệ sĩ sắp đặt nổi tiếng thế giới người Bulgaria.
|
Nhà thờ chính tòa Alexander Nevsky, Tallinn
|
Nhà thờ chính tòa Alexander Nevsky là một nhà thờ Chính Thống giáo ở phố cổ Tallinn, Estonia. Nhà thờ này được xây dựng theo một thiết kế của Mikhail Preobrazhensky theo một phong cách điển hình của phong cách kiến trúc hồi sinh Nga giữa năm 1894 và 1900, trong khoảng thời gian khi đất nước là một phần của Đế quốc Nga. Đây là nhà thờ chính tòa và nhà thờ có mái vòm Chính Thống giáo lớn nhất của Tallinn. Nhà thờ dành cho Thánh Alexander Nevsky người giành chiến thắng năm 1242 trong Trận hồ Chudskoe trên hồ Peipus, trong vùng lãnh hải nay thuộc Estonia. Khi Liên Xô theo đuổi chính sách phi tôn giáo, nhiều nhà thờ trong đó có nhà thờ này bị bỏ phế. Nhà thờ đã được phục hồi một cách tỉ mỉ từ khi Estonia giành được độc lập từ Liên Xô vào năm 1991.
|
Tình dục với động vật hay chứng luyến thú hay ái thú (tiếng Anh: zoophilia) là một dạng lệch lạc tình dục, chỉ hành vi con người quan hệ tình dục với động vật mà không phải với người khác. Một vài nhà nghiên cứu cũng phân biệt giữa zoophilia (bị hấp dẫn tình dục) và bestiality (có quan hệ tình dục, hay còn gọi là thú tính). Bên cạnh một số nước không cấm tình dục với động vật, nhiều nước khác coi hành vi này là bất hợp pháp và quy vào tội ngược đãi động vật hoặc chống lại tự nhiên. Gusti Ngurah Alit, một thanh niên Indonesia 18 tuổi đã bị trưởng làng buộc phải kết hôn với một cô bò cái sau khi bị bắt quả tang đang quan hệ tình dục với bò. Anh nói: “Cô ấy gọi tên tôi và quyến rũ tôi. Vì thế tôi “quan hệ” với cô ấy”. Sau buổi lễ kết hôn, Ngurah được tắm rửa sạch sẽ còn cô bò cái bị dìm xuống biển trong một nghi thức “thanh tẩy”. Tháng Năm 1998 – The Jerry Springer Show đã có một tập phim có tiêu đề “Tôi lấy một con ngựa!”. Chương trình cuối cùng không được phát sóng vào ngày dự kiến, rõ ràng là do những lo ngại về sự chấp nhận phát sóng một tập phim, trong đó một người đàn ông thừa nhận mối quan hệ tình cảm và tình dục dài hạn với ngựa của mình. Người đàn ông và con ngựa của ông sau đó tham gia vào một tài liệu của Anh về chủ đề này. Tháng hai năm 2006, người đàn ông Xu Đăng tên là Charles Tombe bị bắt gặp đang làm tình với dê cái của hàng xóm (sau này được gọi với tên Rose). Anh bị buộc phải cưới Rose và bồi thường cho người hàng xóm món tiền 15000 đi na Xu Đăng làm sính lễ. Ở Việt Nam, câu chuyện cổ tích “lấy vợ cóc” kể về một chàng thư sinh lấy một con cóc, sau đó con cóc này hóa thân thành một cô gái xinh đẹp, đảm đang. Năm 2013, Lê Tuấn Anh (sinh năm 1995, trú tại xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa) đã bị kết án 18 năm tù giam về tội “hiếp dâm” và “giết người”. Lê Tuấn Anh đã từng giao cấu với cả động vật như lợn và trâu, trộm đồ lót phụ nữ ngửi và nhai, nhiều người còn tố rằng bị y đục lỗ ở nhà tắm để nhìn trộm khi đang tắm. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
|
Tình dục với động vật
|
Tình dục với động vật hay chứng luyến thú hay ái thú (tiếng Anh: zoophilia) là một dạng lệch lạc tình dục, chỉ hành vi con người quan hệ tình dục với động vật mà không phải với người khác. Một vài nhà nghiên cứu cũng phân biệt giữa zoophilia (bị hấp dẫn tình dục) và bestiality (có quan hệ tình dục, hay còn gọi là thú tính). Bên cạnh một số nước không cấm tình dục với động vật, nhiều nước khác coi hành vi này là bất hợp pháp và quy vào tội ngược đãi động vật hoặc chống lại tự nhiên.
|
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước, đặc biệt là ở Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là gì? Quy định doanh nghiệp vừa và nhỏ. Luật Hùng Sơn xin giới thiệu ở bài viết dưới đây:. Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ2.1. Cách xác định lĩnh vực hoạt động2.2. Cách xác định số lao động tham gia BHXH2.3. Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ là gì?2.4. Tổng doanh thu của doanh nghiệp vừa và nhỏ là gì?2.5. Xác định kê khai quy mô doanh nghiệp. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế3.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp hiện nay3.2. Nơi tạo ra việc làm chủ yếu ở Việt Nam3.3. Hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động3.4. Khai thác và phát huy tốt các nguồn lực tại chỗ. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp hiện nay. Tư vấn thành lập doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về nguồn vốn đầu tư, số lượng lao động hay doanh thu. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể chia thành ba loại dựa vào quy mô. Trên thế giới, loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với việc điều hòa và phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia. Mặt khác việc lượng hóa các tiêu chuẩn để phân loại quy mô doanh nghiệp còn tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước khác nhau; các quy định cụ thể phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn; trong ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu độ lớn của các tiêu thức cũng khác nhau. Theo cách phân loại trên ở Việt Nam chiếm khoảng trên 93% trong tổng số doanh nghiệp hiện có là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể là khoảng 80% các doanh nghiệp nhà nước thuộc về nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong nền khu vực kinh tế tư nhân doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng là 97% xét về vốn và 99% xét về số lượng lao động so với tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Trong trường hợp doanh nghiệp hoạt động nhiều lĩnh vực khác nhau, doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ được xác định căn cứ vào lĩnh vực có tổng doanh thu cao nhất. Trường hợp không được xác định được lĩnh vực có doanh thu cao nhất thì doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ được xác định căn cứ vào lĩnh vực được sử dụng nhiều số lượng lao động nhất. Và sẽ được xác định trên chứng từ nộp bảo hiểm xã hội doanh nghiệp của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội quản lý. – Tổng số người lao động tham gia BHXH là tổng toàn bộ số lao động do doanh nghiệp quản lý hoặc sử dụng và trả lương, trả công tham gia vào BHXH trong năm. – Số tháng trong một năm là 12 tháng, đối với doanh nghiệp đã hoạt động trọn năm. Trong trường hợp, doanh nghiệp hoạt động trong thời gian dưới 01 năm, số lượng người lao động tham gia BHXH bình quân sẽ được tính bằng tổng số người lao động tham gia BHXH của các tháng hoạt động chia cho số tháng doanh nghiệp hoạt động. Tổng số vốn sẽ được xác định trong bảng cân đối kế toán và được thể hiện trên Báo cáo tài chính của năm trước liền kề mà doanh nghiệp phải thực hiện nộp cho cơ quan thuế quản lý. Trong trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới thời gian là 01 năm thì tổng nguồn vốn sẽ được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cuối quý liền kề thời điểm mà doanh nghiệp đăng ký hưởng nội dung hỗ trợ. Tổng doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp và được xác định tại Báo cáo tài chính của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan thuế quản lý. Trong trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới thời gian là 01 năm hoặc trên thời gian 01 năm nhưng chưa phát sinh doanh thu thì lúc này doanh nghiệp sẽ căn cứ vào tiêu chí tổng nguồn vốn để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa. Doanh nghiệp tự xác định và kê khai về quy mô doanh nghiệp của mình là doanh nghiệp siêu nhỏ hay doanh nghiệp nhỏ hay doanh nghiệp vừa để được hưởng những ưu đãi và những hỗ trợ mà pháp luật dành cho các loại hình doanh nghiệp này. Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước, kể cả các nước có trình độ phát triển cao. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay thì việc các nước đều chú ý đến hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm huy động đến mức tối đa các nguồn lực và hỗ trợ cho Doanh nghiệp lớn, tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm. Trong các loại hình sản xuất kinh doanh ở Việt Nam hiện nay doanh nghiệp vừa và nhỏ có sức lan tỏa trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội chính trị. Theo tiêu chí mới thì doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỉ lệ trên 93% tổng số các doanh nghiệp thuộc các hình thức sau đây: doanh nghiệp vốn Nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể nhận định rằng hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Việt Nam đều là những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tế trong những gần đây, đã cho thấy toàn bộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh là nguồn chủ yếu tạo ra các công ăn việc làm cho người lao động ở tất cả các lĩnh vực. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ tuyển dụng gần 1 triệu số lượng lao động chiếm đến 49% lực lượng lao động trên phạm vi của cả nước. Ở các tỉnh duyên hải miền Trung số lượng người lao động làm việc tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ so với số người lao động trong tất cả các lĩnh vực chiếm cao nhất trong cả nước (mức 67%); ở Đông Nam Bộ có tỷ lệ thấp nhất (mức 44%) so với mức trung bình của cả nước. Qua đó cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra phần lớn các công việc ở Việt Nam, đáp ứng nhu cầu việc làm cho người dân, góp phần tạo ra thu nhập và nâng cao đời sống vật chất cải thiện cuộc sống cho người dân. Sự xuất hiện và khả năng phát triển của mỗi doanh nghiệp sẽ phụ thuộc rất nhiều vào những nhà sáng lập ra chúng. Do đặc thù với số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn và thường xuyên phải thực hiện thay đổi hoạt động kinh doanh để thích nghi với môi trường xung quanh, phản ứng với những tác động bất lợi gây ra do sự phát triển, xu hướng tích tụ và tập trung hóa sản xuất. Sự sáp nhập hay giải thể và xuất hiện các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường xuyên diễn ra trong mọi giai đoạn nhất định. Đó cũng là một sức ép lớn buộc những người quản lý và người sáng lập ra chúng phải có tính linh hoạt cao trong việc thực hiện quản lý và điều hành, dám nghĩ, dám làm và dám chấp nhận sự rủi ro mạo hiểm. Chính sự có mặt của đội ngũ những người quản lý này cùng với khả năng, trình độ, và nhận thức của họ về tình hình trên thị trường và khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh sẽ có tác động lớn đến hoạt động của từng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Họ luôn là những người đi đầu trong việc đổi mới, cải cách tìm kiếm phương thức mới, đặt ra nhiệm vụ chuyển đổi sao cho phù hợp với môi trường kinh doanh. Đối với một quốc gia thì sự phát triển của nền kinh tế sẽ phụ thuộc rất lớn vào sự có mặt của đội ngũ này và chính họ sẽ tạo ra một cơ cấu kinh tế năng động, linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu thị trường. Từ các đặc trưng của hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo ra cho doanh nghiệp những lợi thế về địa điểm hoạt động sản xuất kinh doanh.
|
Doanh nghiệp nhỏ
|
Doanh nghiệp nhỏ hay doanh nghiệp nhỏ lẽ/cá thể cũng được gọi doanh nghiệp con hay công ty con (rong quan hệ công ty mẹ con) là một doanh nghiệp, thường là doanh nghiệp tư nhân có quy mô hoạt động với một số lượng nhỏ các nhân viên và khối lượng tương đối thấp về doanh số bán hàng. Một số các doanh nghiệp nhỏ thường thuộc sở hữu tập đoàn, công ty hợp danh, hoặc doanh nghiệp tư nhân. Định nghĩa pháp lý của khái niệm "nhỏ" thay đổi tùy theo quốc gia và ngành công nghiệp khác nhau, ví dụ như doanh nghiệp nhỏ là từ ít hơn 15 nhân viên trở xuống ở Australia vào 2009, hay với 50 nhân viên theo quy chuẩn của Liên minh châu Âu (EU), và ít hơn 500 nhân viên theo quy chuẩn tại Mỹ. Các doanh nghiệp nhỏ cũng có thể được phân loại theo các phương pháp khác như việc bán hàng, khối lượng tài sản có, vốn điều lệ, hoặc lợi nhuận ròng. Các doanh nghiệp nhỏ là phổ biến ở nhiều quốc gia, tùy thuộc vào hệ thống kinh tế và cơ cấu kinh tế.
|
Chiều ngày 23/5 (theo giờ địa phương), tại trụ sở Bộ Ngoại giao Tây Ban Nha, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã hội đàm với Bộ trưởng Ngoại giao và Hợp tác Alfonso Dastis. Trao đổi về quan hệ song phương, hai Bộ trưởng Ngoại giao vui mừng nhận thấy quan hệ hợp tác giữa hai nước, trên nền tảng của quan hệ "Đối tác Chiến lược hướng tới tương lai" thiết lập năm 2009, thời gian qua phát triển tốt đẹp, thể hiện qua tiếp xúc thường xuyên giữa các cấp, các bộ, ngành hai nước, qua sự phối hợp chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế, qua tăng cường trao đổi văn hóa, giao lưu nhân dân và đặc biệt qua sự tăng trưởng nhanh về trao đổi thương mại, đạt gần 3 tỷ Euro năm 2016. Để duy trì và làm sâu sắc hơn nữa hợp tác song phương, hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường trao đổi đoàn ở các cấp, nhất là cấp cao, triển khai cơ chế Đối thoại ngoại giao, an ninh quốc phòng và Tham vấn chính trị cấp Thứ trưởng, triển khai hiệu quả Hiệp định tài chính lần thứ 5 được ký kết nhân chuyến thăm, thống nhất sớm tổ chức phiên họp lần thứ nhất của Ủy ban hỗn hợp về kinh tế, thương mại và đầu tư, nhất trí đưa kim ngạch thương mại giữa hai nước lên 5 tỷ Euro vào năm 2020. Hai Bộ trưởng đánh giá cao sự phối hợp của các bộ, ngành hai nước tổ chức các sự kiện quan trọng kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Tây Ban Nha (1977-2017) và đặc biệt là việc tổ chức Ngày Việt Nam tại Tây Ban Nha nhân dịp này. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cảm ơn sự hỗ trợ của Chính phủ Tây Ban Nha dành cho Việt Nam thông qua các chương trình tài chính; khẳng định mong muốn và quyết tâm cùng Tây Ban Nha cụ thể hóa Đối tác chiến lược trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế, trong những lĩnh vực ưu tiên như hạ tầng giao thông, năng lượng tái tạo, nông nghiệp công nghệ cao, môi trường. Phó Thủ tướng khẳng định Việt Nam sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có doanh nghiệp Tây Ban Nha, kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam trong lĩnh vực mà Tây Ban Nha có thế mạnh. Bộ trưởng Alfonso Dastis khẳng định, Chính phủ Tây Ban Nha luôn coi trọng ưu tiên phát triển quan hệ với Việt Nam; đánh giá cao những thành tựu quan trọng về mọi mặt mà Việt Nam đã đạt được trong công cuộc Đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; khẳng định sự quan tâm ngày càng lớn của người dân và doanh nghiệp Tây Ban Nha dành cho Việt Nam thể hiện qua số lượng trên 58 000 khách Tây Ban Nha đến thăm Việt Nam năm 2016 và các sự kiện xúc tiến đầu tư, thương mại với Việt Nam trong 2 năm qua. Trên tinh thần hiểu biết, thẳng thắn và tin cậy lẫn nhau, hai bên đã trao đổi về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm; khẳng định sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ tại các diễn đàn khu vực và quốc tế. Tây Ban Nha khẳng định ủng hộ Việt Nam phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với EU, ủng hộ việc sớm ký và phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và ủng hộ Việt Nam tiếp cận các nguồn tài chính thuận lợi của IDA sau năm 2017. Về vấn đề Biển Đông, phía Tây Ban Nha bày tỏ quan tâm, chia sẻ quan điểm và cách tiếp cận của Việt Nam và ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), hướng tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Chiều ngày 22/1, tại thủ đô Madrid, Đại sứ quán Việt Nam tại Tây Ban Nha tưng bừng tổ chức đón Tết nguyên đán Đinh . Sáng 19/1, tại Cung điện Hoàng gia Tây Ban Nha ở thủ đô Madrid, Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Tây Ban Nha Ngô . Chiều ngày 10/01, tại Trụ sở Bộ Ngoại giao, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã tiếp Quốc vụ khanh Bộ .
|
Quan hệ Tây Ban Nha – Việt Nam
|
Quan hệ Tây Ban Nha – Việt Nam (tiếng Tây Ban Nha: Relaciones España y Vietnam) là mối quan hệ hợp tác giữa 2 quốc gia là Vương quốc Tây Ban Nha và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mối quan hệ được thiết lập ngày 23/5/1977. Trên thực tế mối quan hệ Việt Nam Tây Ban Nha đã có thời gian gắn bó lâu dài trong lịch sử. Trong chuyến thăm Vương quốc Tây Ban Nha của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 12/2009, Quốc vương Juan Carlos và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ra tuyên bố chung nâng cấp mối quan hệ trở thành đối tác chiến lược giữa 2 nước. Sau khi Việt Nam thống nhất, các quốc gia trên thế giới từng bước thiết lập mối quan hệ ngoại giao với Việt Nam trong đó có Tây Ban Nha. Khi chiến tranh biên giới phía Tây Nam nổ ra, Tây Ban Nha là quốc gia kêu gọi 2 bên kiếm chế và rút quân, tới khi Việt Nam giải phóng Phnom Penh thì mối quan hệ trở lên lạnh nhạt do sự đối đầu tiếp tục căng thằng trở lại giữa 2 bên Tư bản và Cộng sản trong Chiến tranh Lạnh.
|
Kiểu dữ liệu trong javascript là gì ? Sau khi đọc bài viết này các bạn sẽ biết và hiểu rõ về nó. Đơn giản như đan rổ ấy mà. Kiểu dữ liệu là một cách phân loại dữ liệu cho trình biên dịch hoặc thông dịch hiểu các lập trình viên muốn sử dụng dữ liệu. Hầu hết các ngôn ngữ hỗ trợ nhiều kiểu dữ liệu khác nhau, như só thực, nguyên hay Boolean. Một kiểu dữ liệu cung cấp một bộ các giá trị mà từ đó một biểu thức (ví dụ như biến, hàm…) có thể lấy giá trị của nó. Kiểu định nghĩa các toán tử có thể được thực hiện trên dữ liệu của nó, ý nghĩa của dữ liệu, và cách mà giá trị của kiểu có thể được lưu trữ. Mông lung quá :v, ôi may quá, kiểu dữ liệu trong javascript không phức tạp như vậy. Ví dụ là kiểu số (Number) thì nó không phân biệt kiểu nguyên hay không nguyên gì cả. Javascript có 6 kiểu dữ liệu cơ bản:. Chuỗi có thể có một hoặc nhiều ký tự, không có loại ký tự đơn riêng biệt. null : các giá trị không xác định – một loại độc lập có một giá trị duy nhất null. undefined : các giá trị chưa được gán – một kiểu độc lập có một giá trị duy nhất undefined. Dữ liệu sẽ được đặt trong dấu ” ” or ‘ ‘ , sử dụng phép + để nối các chuỗi lại với nhau. Trong một số ngôn ngữ, có một loại “ký tự” đặc biệt cho một ký tự đơn. Ví dụ, trong ngôn ngữ C và trong Java nó được char. Trong JavaScript, không có loại như vậy. Chỉ có một loại: string. Một chuỗi có thể chỉ bao gồm một ký tự hoặc nhiều ký tự. nullGiá trị đặc biệt không thuộc bất kỳ loại nào được mô tả ở trên. Nó chỉ là một giá trị đặc biệt có ý nghĩa “không có gì”, “trống rỗng” hoặc “giá trị không rõ”. object là kiểu dữ liệu đối tượng, một đối tượng ở đây là chỉ một đối tượng thật trong cuộc sống. Ví dụ một chiếc xe tăng, một con mèo, một lá cờ Đảng … Đối tượng được chia làm 2 phần là: thuộc tính và phương thức. Mình sẽ có riêng một bài viết về kiểu dữ liệu này để các bạn có thể nắm chắc được nó. Lập Trình Không Khó là một cộng đồng chia sẻ và đào tạo lập trình phi lợi nhuận hàng đầu tại Việt Nam.
|
Kiểu dữ liệu
|
Trong khoa học máy tính và lập trình máy tính, một kiểu dữ liệu (tiếng Anh: data type) hay đơn giản type là một cách phân loại dữ liệu cho trình biên dịch hoặc thông dịch hiểu các lập trình viên muốn sử dụng dữ liệu. Hầu hết các ngôn ngữ hỗ trợ nhiều kiểu dữ liệu khác nhau, như số thực, số nguyên hay Boolean. Một kiểu dữ liệu cung cấp một bộ các giá trị mà từ đó một biểu thức (ví dụ như biến, hàm.) có thể lấy giá trị của nó. Kiểu định nghĩa các toán tử có thể được thực hiện trên dữ liệu của nó, ý nghĩa của dữ liệu, và cách mà giá trị của kiểu có thể được lưu trữ.
|
Nhiều khi chúng ta vẫn thường nghe nói nhiều đến vi cá mập như một vị thuốc quý đối với sức khỏe con người, có tác dụng bồi bổ cơ thể cũng như phòng ngừa và điều trị một sô chứng bệnh thường gặp. Vậy thực chât vi cá mập là gì, và công dụng của nó như thế nào?. Cá mập vốn là một loại cá sống phổ biến ở các vùng biển trên khắp thế giới. Con người đánh bắt cá mập để lấy thịt chỉ là một phần, mà quan trọng là để lấy vi cá mập – bộ phận quý giá nhất trên cơ thể của cá mập. Mỹ và Trung Quốc là hai nước đánh bắt và tiêu thụ vi cá mập nhiều nhất thế giới. Tại Việt Nam, một số vùng biển như Phú Yên, Nha Trang, Bình Định cũng có nhiều người làm nghề đánh bắt cá mập. Vi cá mập là phần sụn của vây cá mập. Vây cá sau khi cắt lấy được lọc bỏ kỹ phần da, để lại phần sụn vi cá phía trong, có màu trắng. Vi cá mập có hình tam giác, kích thước to nhỏ khác nhau, có loại rất lớn ( > 40cm), có loại rát bé (< 4cm). Trung bình mỗi vi cá nặng 1,5kg. Vi cá mập hoàn toàn là sụn, thành phần dinh dưỡng có đến 89% là đạm, 0.1% bột đường, 0.22% chất béo, 384 calo và một ít chất khoáng khác. Vì vậy, vi cá mập ngoài là một món ăn thơm ngon, bổ dưỡng, thì còn được coi là thần dược để chữa nhiều chứng bệnh khác nhau, như xương khớp, ung thư, mắt…. Hoạt chất Chondroitin có trong vi cá mập có tác dụng ức chế các men phá hủy sụn trong khớp, kích hoạt quá trình tổng hợp axit hyaluroni, giúp xương khớp hoạt động trơn tru hơn, chống hư và thoái hóa khớp. Kích thích tế bào sụn sản xuất Proteoglycans, Collagen, là những hoạt chất chủ yếu có trong sụn. Ức chế men phá hủy sụn, hạn chế sự hình thành gốc oxy tự do. chondroitin trongvi cá mâp sẽ ức chế angiogenesis, vốn là một hoạt chất kích thích quá trình tạo tân sinh mạch, làm phát triển các khôi u ung thư), nhờ đso mà các khối u ưng thư sẽ được khống chế, ngăn chặn tình trạng ung thư phát triển. Chondroitin tạo độ ẩm thích họp giúp mắt luôn được điều tiết, đồng thời nuôi dưỡngtế bào giác mạc, tái tạo lớp phim trước giác mạc. Nhờ đó hạn chế sự khô mắt, mỏi mắt khi phải làm việc lâu. Vi cá mập được sử dụng để sản xuất các loại viên bổ tổng hợp, cung cấp các chất như như calci, photpho, kẽm…giúp xương và răng cứng cáp, tăng cường hoạt động của các enzym tiêu hóa, thận và tuyến tiền liệt. Vi cá mập khô sau khi mua về, bạn nên ngâm trong nước 1 ngày, sau đó trụng lại với nước có thêm rượu, gừng thái nhỏ để làm mềm và khử mùi tanh của vi cá, sau đó tác bỏ da, thịt và xương vi. Phần còn lai là vi cá. Qua bài viết này hi vọng sẽ giúp nhiều người hiểu hơn về vi cá mập là gì ? công dụng chữa bệnh của vi cá mập ra sao để có cách sử dụng phù hợp, mang lại hiệu cao nhất.
|
Cắt vi cá mập
|
Cắt vi cá mập chỉ việc săn bắt cá mập để thu hoạch vi cá, thường khi cá mập còn sống. Cá mập đôi khi bị bỏ lại đại dương, vẫn còn sống nhưng không còn vi. Do không còn bơi hiệu quả, chúng sẽ bị chìm xuống đáy đại dương và chết vì ngạt thở hoặc bị loài khác ăn thịt. Cắt vi cá mập ngay trên biển làm tăng lợi nhuận của tàu đánh bắt do tăng số lượng vi cá mập thu hoạch được mà không tốn công lưu trữ toàn bộ phần thịt cá mập. Một số quốc gia đã cấm lối đánh cá kiểu này và bắt buộc các ngư phủ phải mang toàn bộ cá mập về cảng trước khi cắt vây. Cắt vi cá mập tăng mạnh từ năm 1997 do nhu cầu tiêu thụ vi cá mập tăng lên để làm món súp vi cá hoặc dùng cho các phương pháp chữa bệnh cổ truyền, đặc biệt ở Trung Quốc và các vùng lãnh thổ có người Trung Quốc sinh sống. Sự cải tiến trong công nghệ đánh bắt cũng là một nguyên nhân khiến hành vi này tăng lên. Nhóm chuyên gia về cá mập của Hiệp hội quốc tế về bảo tồn thiên nhiên nói rằng việc cắt vi cá mập đang diễn ra rộng rãi và "việc chưa có quy định để điều chỉnh việc buôn bán vi cá mập chính là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với quần thể cá mập trên toàn thế giới" .
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.